text
stringlengths 82
354k
|
---|
Quyền tác giả hay tác quyền là bản quyền hoặc độc quyền của một tác giả cho tác phẩm của người này. Quyền tác giả được dùng để bảo vệ các sáng tạo tinh thần có tính chất văn hóa (cũng còn được gọi là tác phẩm) không, ví dụ như các bài viết về khoa học hay văn học, sáng tác nhạc, ghi âm, tranh vẽ, hình chụp, phim và các chương trình truyền thanh. Quyền này bảo vệ các quyền lợi cá nhân và lợi ích kinh tế của tác giả trong mối liên quan với tác phẩm này. Một phần người ta cũng nói đó là
("intellectual property") và vì thế là đặt việc bảo vệ sở hữu vật chất và sở hữu trí tuệ song đôi với nhau, thế nhưng khái niệm này đang được tranh cãi gay gắt. Quyền tác giả không cần phải đăng ký và thuộc về tác giả khi một tác phẩm được ghi giữ lại ít nhất là một lần trên một phương tiện lưu trữ. Quyền tác giả thông thường chỉ được công nhận khi sáng tạo này mới, có một phần công lao của tác giả và có thể chỉ ra được là có tính chất duy nhất.
cho phép tác giả được hưởng tác quyền suốt đời cộng thêm tối thiểu 50 năm sau khi qua đời. Tuy nhiên các quốc gia tuân thủ công ước được phép nâng thời hạn hưởng tác quyền dài hơn.
Lịch sử phát triển của quyền tác giả.
Trong Thời kỳ Cổ đại và Thời kỳ Trung Cổ người ta chưa biết đến quyền cho một tác phẩm trí tuệ. Các quy định luật pháp chỉ có cho những vật mang tác phẩm trí tuệ, đặc biệt là về sở hữu. Ví dụ như là không được phép trộm cắp một quyển sách nhưng lại được phép chép lại từ quyển sách đó. Việc nhiều nghệ sĩ và tác giả cùng làm việc trong một đề tài là một trường hợp bình thường, cũng như việc các nhạc sĩ khác lấy hay thay đổi các bài hát và tác phẩm âm nhạc. Khi không muốn bài viết bị thay đổi tác giả chỉ còn có cách gắn một lời nguyền rủa vào quyển sách của mình như Eike von Repgow, tác giả của Sachsenspiegel, một quyển sách ghi chép lại các luật lệ đương thời, đã nguyền rủa những người giả mạo tác phẩm của ông sẽ bị chết.
Cùng với phát minh in (khoảng 1440), các bản sao chép lại của một tác phẩm bắt đầu có thể được sản xuất ở số lượng lớn một cách dễ dàng hơn. Nhưng tác giả vẫn chưa có được "quyền tác giả" ở bên cạnh và còn phải vui mừng là chẳng những tác phẩm được in mà nhà in hay nhà xuất bản còn trả cho một số tiền cho bản viết tay. Thế rồi đi đến trường hợp là bản in đầu tiên bị các nhà in khác in lại. Việc này làm cho việc kinh doanh của nhà in đầu tiên khó khăn đi vì người này đã đầu tư lao động nhiều hơn và có thể cũng đã trả tiền cho tác giả, những người in lại tự nhiên là có thể mời chào sản phẩm của họ rẻ tiền hơn. Tác giả cũng có thể không bằng lòng với các bản in lại vì những bản in lại này thường được sản xuất ít kỹ lưỡng hơn: có lỗi hay thậm chí bài viết còn bị cố ý sửa đổi.
Vì thế, để chống lại tệ in lại, các nhà in đã xin các quyền lợi đặc biệt từ phía chính quyền, cấm in lại một tác phẩm ít nhất là trong một thời gian nhất định. Lợi ích của nhà in trùng với lợi ích của nhà cầm quyền vì những người này muốn có ảnh hưởng đến những tác phẩm được phát hành trong lãnh địa của họ. Đặc biệt là nước Pháp do có chế độ chuyên chế sớm nên đã thực hiện được điều này, ít thành công hơn là ở Đức. Tại Đức một số hầu tước còn cố tình không quan tâm đến việc các nhà xuất bản vi phạm các đặc quyền từ hoàng đế nhằm để giúp đỡ các nhà xuất bản này về kinh tế và để mang vào lãnh thổ văn học đang được ưa chuộng một cách rẻ tiền. Những ý tưởng của Phong trào Khai sáng phần lớn là đã được truyền bá bằng các bản in lậu.
Khi Thời kỳ Phục hưng bắt đầu, cá nhân con người trở nên quan trọng hơn và đặc quyền tác giả cũng được ban phát để thưởng cho những người sáng tạo ra tác phẩm của họ. Tại nước Đức ví dụ như là Albrecht Dürer (1511) đã được công nhận một đặc quyền như vậy. Nhưng việc bảo vệ này chỉ dành cho người sáng tạo như là một cá nhân ("quyền cá nhân") và chưa mang lại cho tác giả một thu nhập nào. Giữa thế kỷ 16 các đặc quyền lãnh thổ được đưa ra, cấm in lại trong một vùng nhất định trong một thời gian nhất định.
Khi các nhà xuất bản bắt đầu trả tiền nhuận bút cho tác giả thì họ tin rằng cùng với việc này họ có được một độc quyền kinh doanh (thuyết về sở hữu của nhà xuất bản), ngay cả khi họ không có đặc quyền cho tác phẩm này. Vì thế mà việc in lại bị cấm khi các quyền từ tác giả được mua lại.
Mãi đến thế kỷ 18, lần đầu tiên mới có các lý thuyết về các quyền giống như sở hữu cho các lao động trí óc (và hiện tượng của "sở hữu phi vật chất"). Trong một bộ luật của nước Anh năm 1710, "Statue of Anne", lần đầu tiên một độc quyền sao chép của tác giả được công nhận. Tác giả sau đó nhượng quyền này lại cho nhà xuất bản. Sau một thời gian được thỏa thuận trước tất cả các quyền lại thuộc về tác giả. Tác phẩm phải được ghi vào trong danh mục của nghiệp hội các nhà xuất bản và phải có thêm ghi chú "copyright" để được bảo vệ. Phương pháp này được đưa vào ứng dụng tại Mỹ vào năm 1795 (yêu cầu phải ghi vào danh mục được bãi bỏ tại Anh vào năm 1956 và tại Hoa Kỳ vào năm 1978). Ý tưởng về sở hữu trí tuệ phần lớn được giải thích bằng thuyết về quyền tự nhiên (tiếng Anh: "natural law"). Tại Pháp một "Propriété littéraire et artistique" (Sở hữu văn học và nghệ thuật) được đưa ra trong hai bộ luật vào năm 1791 và 1793. Tại nước Phổ một bảo vệ tương tự cũng được đưa ra vào năm 1837. Cũng vào năm 1837 Hội đồng liên bang của Liên minh Đức quyết định thời hạn bảo vệ từ khi tác phẩm ra đời là 10 năm, thời hạn này được kéo dài thành 30 năm sau khi tác giả qua đời ("post mortem auctoris") vào năm 1845. Trong Liên minh Bắc Đức việc bảo vệ quyền tác giả được đưa ra vào năm 1857 và được Đế chế Đức thu nhập và tiếp tục mở rộng sau đó. Trong Đệ tam Đế chế các tác giả chỉ là "người được ủy thác trông nom tác phẩm" cho cộng đồng nhân dân.
Phát triển hiện tại của quyền tác giả.
Những lý lẽ được đưa ra trong các cuộc thảo luận về việc quyền tác giả phải phản ứng như thế nào trước các phát triển kỹ thuật hiện tại đều tương tự như nhau trên toàn thế giới. Một vài quốc gia chỉ còn có một phạm vi tự do hạn hẹp trong việc định hình cho quyền tác giả vì những quy định khác thường có thể được coi là lợi thế không công bằng, không được các đối tác thương mại thế giới chấp nhận mà không có phản ứng chống lại. Trong tương quan về thế mạnh hiện tại Mỹ là quốc gia có phạm vi tự do rộng lớn nhất và với Digital Millennium Copyright Act (DMCA) là quốc gia đã định sẵn chiều hướng chung của quyền tác giả, đi đến việc bảo vệ quyền tác giả một cách nghiêm ngặt hơn. Định luật tương tự ở châu Âu là European Union Copyright Directive (EUCD- Chỉ thị Copyright Liên minh châu Âu).
Việc hoàn toàn hủy bỏ quyền được phép có bản sao dùng cho mục đích cá nhân đang được Hiệp hội Công nghiệp ghi âm quốc tế (IFPI) yêu cầu và sau đó là việc truy tìm cứng rắn hơn các vi phạm về quyền tác giả. Ngoài những nguyên nhân khác đây cũng là một phản ứng chống lại việc sử dụng ngày càng phổ biến các nơi trao đổi trong Internet và các công nghệ khác của "thời đại số". Ngày nay chương trình phát thanh hay truyền hình có thể nghe hay xem được qua Internet, sách điện tử (e-book) được coi như là một cạnh tranh của sách in. Những thay đổi này là lý lẽ của những người kinh doanh trong giới truyền thông nhằm để thông qua luật lệ mà trở về lại thời kỳ trước khi các máy quay video, máy thâu băng và máy thu thanh được phổ biến rộng rãi: Vào năm 1900, khi muốn nghe nhạc (không phải là live) thì tất cả mọi người đều phải mua một đĩa hát.
Mỗi một phát minh mới, ví dụ như máy thu thanh, đều được coi như là sẽ làm suy tàn công nghiệp âm nhạc, nhưng thật ra điều trái ngược lại đã xảy ra.
Bản quyền (tiếng Anh: "copyright") là thuật ngữ được các quốc gia theo hệ thống pháp luật Anh-Mỹ (án lệ) dùng chỉ cho quyền phi vật thể đối với các tác phẩm trí tuệ. Quyền này tương tự như quyền tác giả (tiếng Pháp: "droit d'auteur"; tiếng Đức: "Urheberrecht") ở Việt Nam nói riêng và các quốc gia theo hệ thống luật lục địa châu Âu như Đức hoặc một số quốc gia châu Âu khác nhưng khác nhau ở nhiều điểm cơ bản.
Chủ thể được bảo hộ là tương đối khác nhau. Trong khi quyền tác giả đặt tác giả như là người sáng tạo và các quan hệ tinh thần của tác giả đối với tác phẩm làm trung tâm thì copyright lại bảo vệ quyền lợi kinh tế của người sở hữu quyền tác giả ("copyright owner") hơn là chính tác giả. Copyright trước nhất là dùng để bảo vệ các đầu tư về kinh tế. Chính từ nền tảng này mà luật của các vùng nói tiếng Anh và luật của châu Âu lục địa đã đi đến kết quả khác nhau cho nhiều vấn đề về luật pháp.
Trong copyright của hệ thống luật Anh-Mỹ, trái ngược với luật về quyền tác giả của hệ thống luật châu Âu lục địa, các quyền sử dụng và quyền định đoạt về một tác phẩm thường không dành cho tác giả (Ví dụ cho một nghệ sĩ) mà lại dành cho những người khai thác các quyền này về mặt kinh tế (Ví dụ như nhà xuất bản). Tác giả chỉ giữ lại các quyền phủ quyết có giới hạn nhằm để ngăn cản việc lạm dụng của copyright từ phía những người khác thác các quyền này.
Một điểm khác biệt cơ bản nữa giữa Bản quyền và quyền tác giả là luật về quyền tác giả bảo vệ cả những quyền nhân thân của tác giả ("moral rights") trong khi các quốc gia như Anh, Úc, Mỹ hầu như không hề có những quy định này cho đến thời gian gần đây. Cụ thể như pháp luật về quyền tác giả Việt Nam từ lâu đã bảo vệ những quyền nhân thân của tác giả như Quyền bảo đảm được trích dẫn khi tác được sử dụng hoặc quyền bảo dẳm tác phẩm không bị sửa đổi, bổ sung, thay đổi, chuyển thể dưới mọi hình thức mà không được sự đồng ý của (các) tác giả.
Cho đến những năm gần đây copyright tại Mỹ vẫn phải đăng ký một cách rõ ràng và chấm dứt 75 năm sau khi được ghi vào trong danh mục copyright trung tâm. Hiện nay các tác phẩm mới tại Mỹ được bảo vệ cho đến 70 năm sau khi tác giả qua đời hay 95 năm dành cho các doanh nghiệp. Việc đăng ký copyright tại Thư viện Quốc hội Mỹ ("Library of Congress") không còn là cần thiết bắt buộc nữa nhưng vẫn được khuyên nhủ.
Ghi chú copyright – ký hiệu © hay (c), sau đó thường là người sở hữu quyền và năm – hay cũng được gọi là thông báo quyền tác giả có nguồn gốc từ luật Mỹ. Lý do là theo các luật lệ cũ của Mỹ thì có thể mất các quyền về một tác phẩm nếu như không có ghi chú copyright. Sau khi Mỹ gia nhập Công ước Bern về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật vào năm 1989 thì ghi chú copyright không cần thiết nữa nhưng vẫn có thể được đính kèm tùy theo ý muốn. Trong hệ thống pháp luật châu Âu lục địa thì ngược lại, quyền tác giả phát sinh tại thời điểm tác giả tạo ra tác phẩm.
Quyền tác giả trong Liên minh châu Âu.
Liên minh châu Âu đã đưa ra nhiều chỉ thị để thống nhất quyền tác giả trong toàn Liên minh châu Âu. Theo "Chỉ thị phần mềm" (91/259/EWG) ra đời vào năm 1991 thì các chương trình máy tính được bảo vệ như là các tác phẩm văn học theo ý nghĩa về quyền tác giả. Trong năm 1993, thông qua "Chỉ thị về hòa hợp thời gian bảo vệ quyền tác giả và một số quyền bảo vệ có liên quan" (còn gọi là "Chỉ thị về thời gian bảo vệ"), thời gian bảo vệ của các tác phẩm văn học và nghệ thuật được ấn định thống nhất là cho đến 70 năm sau khi tác giả qua đời. Các quyền lợi của những nhà nghệ thuật biểu diễn chấm dứt 50 năm sau buổi công diễn đầu tiên.
Với "Chỉ thị quyền tác giả của Liên minh châu Âu" (Chỉ thị 2001/29/EG) các quy định luật pháp châu Âu về quyền tác giả được nâng lên cùng với thời đại số và các định ước quốc tế được thực hiện thông qua các hiệp định của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO).
Quyền tác giả trong các nước nói tiếng Đức.
Đọc bài chính về:
Quyền tác giả tại Việt Nam.
Quyền tác giả tại Việt Nam đã được quy định chi tiết trong Bộ Luật Dân sự 2005 (nay được thay thế tại Bộ Luật Dân Sự 2015), Luật Sở hữu trí tuệ và Nghị Định 22/2018/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan. Theo đó, Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo hoặc sở hữu, bao gồm các quyền sau đây:
1. Quyền Nhân thân
2. Quyền tài sản
Tác phẩm được bảo hộ theo cơ chế quyền tác giả là các tác phẩm trong lĩnh vực văn học, khoa học và nghệ thuật.
Thời hạn bảo hộ quyền tác giả :
"Thời hạn bảo hộ trên sẽ chấm dứt vào thời điểm 24 giờ ngày 31 tháng 12 của năm chấm dứt thời hạn bảo hộ quyền tác giả."
Phong trào chống đối.
Bên cạnh những người tiêu dùng vì đã quen thuộc với các vi phạm về quyền tác giả trong các nơi trao đổi âm nhạc trong Internet nên đang tự nhận thấy bị hạn chế các quyền tự do bởi luật pháp ngày càng nghiêm ngặt hơn cũng có những tác giả mong muốn đưa các tác phẩm của họ cho cộng đồng sử dụng tự do.
Để thực hiện điều này đơn giản nhất là từ bỏ quyền tác giả. Nhưng điều này không phải là trong bất cứ một hệ thống luật pháp nào cũng có thể được và vẫn tiếp tục dẫn đến tình trạng là các phiên bản được cải biến không phải là tự động được tự do sử dụng vì tác giả của những sửa đổi này không bắt buộc phải từ bỏ quyền tác giả của họ. Một khả năng để tránh tình trạng này là không từ bỏ quyền tác giả mà thông qua một hợp đồng bản quyền công nhận các quyền sử dụng đơn giản cho tất cả mọi người. Trong đó, các cái gọi là bản quyền copyleft yêu cầu các phiên bản được biến đổi chỉ được phép phổ biến theo cùng các điều kiện tự do.
Đặc biệt đáng được nêu ra trong phạm vi phần mềm tự do là các bản quyền của dự án GNU, ví dụ như các bản quyền GPL cho các chương trình máy tính và GFDL cho sách giáo khoa và các quyển hướng dẫn. Dự án Creative Commons đưa ra những bản quyền khác được cho là phù hợp tốt hơn với các nhu cầu đặc biệt của nghệ sĩ, đặc biệt là những bản quyền này không bị giới hạn trong một loại tác phẩm nhất định nào. Một mặt đó là những bản quyền nội dung mở ("open-content") bảo đảm các quyền tự do tương tự như các bản quyền của phần mềm tự do và về mặt khác là những bản quyền có nhiều hạn chế hơn.
|
Trường Trung học phổ thông chuyên Khoa học Tự nhiên
Trường Trung học Phổ thông chuyên Khoa học Tự nhiên ("HUS High School for Gifted Students", đôi khi còn được gọi là "Trường chuyên Tổng hợp") là hệ đào tạo trung học phổ thông của Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQG Hà Nội. Đây là một trong số bốn trường trung học phổ thông chuyên trên địa bàn thành phố Hà Nội, Việt Nam không trực thuộc của Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội (Ba trường còn lại là Trường THPT Chuyên Đại học Sư phạm Hà Nội, Trường THPT Chuyên Khoa học Xã hội và Nhân văn, và Trường THPT Chuyên Ngoại ngữ ).
Khối được thành lập đầu tiên là chuyên Toán năm 1965 thuộc Đại học Tổng hợp Hà Nội; sau đó là chuyên Vật lý; chuyên Tin học (Thành lập thêm lớp chuyên Tin thuộc cùng khối chuyên Toán); Chuyên Hóa học và Chuyên Sinh học là trẻ nhất, được thành lập năm 1998)
Các khối chuyên của Trường Trung học phổ thông chuyên Khoa học Tự nhiên Hà Nội đóng góp nhiều thành viên cho đội tuyển học sinh giỏi quốc gia và học sinh giỏi quốc tế. Trường cũng đồng thời được công nhận là ngôi trường giàu thành tích nhất Việt Nam về số lượng huy chương cũng như giải thưởng đạt được trong các kỳ thi học sinh giỏi quốc gia (Toán, Tin, Lý, Hóa, Sinh), Olympic Quốc tế (IMO, IOI, IPhO, IChO, IBO) và các kỳ thi Olympic trong khu vực.. Các khối chuyên của trường cũng luôn nằm trong top dẫn đầu 200 trường có điểm trung bình thi đại học cao nhất Việt Nam từ lúc có bảng xếp hạng này (Năm 2008 , Năm 2009 , Năm 2010 )
Cơ cấu tổ chức.
Trường Trung học Phổ thông chuyên hiện nay bao gồm năm Bộ môn chuyên:
Mỗi khối chuyên cũ nay là một/hai bộ môn, trực thuộc một khoa tương ứng của trường Đại học Khoa học Tự nhiên.
Mỗi Bộ môn do Chủ nhiệm Bộ môn đứng đầu. Giúp đỡ chủ nhiệm khối Bộ môn có Phó Chủ nhiệm và Văn phòng Bộ môn. Chủ nhiệm Bộ môn có quyền quyết định hầu hết mọi việc tại Bộ môn.
Trường Trung học phổ thông chuyên cũng được tổ chức như một trường trung học phổ thông độc lập.
Mỗi năm, trong kỳ học sinh giỏi quốc gia, mỗi Bộ môn chuyên chọn 10 học sinh tham gia với tư cách là đại diện cho Đại học Quốc gia Hà Nội
Thành lập trường THPT chuyên KHTN.
Vào ngày 14 tháng 6 năm 2010, UBND TP Hà Nội đã ban hành quyết định thành lập trường Trung học phổ thông chuyên Khoa học Tự nhiên (High School for Gifted Students), chịu sự quản lý trực tiếp toàn diện của ban giám hiệu trường Đại học Khoa học Tự nhiên- Đại học Quốc gia Hà Nội và chịu sự quản lý về chuyên môn của Sở GD-ĐT Hà Nội.
|
Giấy dó là loại giấy được sản xuất từ vỏ những cây dó (như dó giấy, dó liệ), theo quy trình thủ công được truyền lại qua nhiều thế hệ ở một số làng nghề ở Việt Nam. Giấy được dùng cho vẽ tranh trong mỹ thuật dân gian Việt Nam, đặc biệt là để làm giấy điệp cho tranh Đông Hồ, hay lưu giữ các tài liệu, nhờ vào nhiều ưu điểm, nổi bật nhất là độ bền theo thời gian.
Sản xuất giấy dó.
Từ các làng nghề truyền thống sản xuất giấy dó ở Kinh thành Thăng Long xưa cho thấy: về cơ bản, giấy dó sản xuất thủ công, nên không có tác động của hoá chất trong tờ giấy. Vỏ cây dó được ngâm trong nước vôi với thời gian ba tháng, sau đó được nấu cách thủy khoảng 3 ngày 2 đêm cho đến khi ngửi thấy mùi thơm của vỏ cây được nấu chín nhừ hoặc thấy phần thịt của vỏ cây dó trong lại. Dùng dao nhỏ bóc bỏ lần vỏ đen đi, giã bằng cối và chày cho đến khi thành một dạng bột nhuyễn rồi cho bột dó vào một cái rá to có đường kính hơn một mét được đan bằng tre để đãi sạch nước vôi, gọi là "đãi bìa". Dùng chất nhầy từ cây mò (chi "Clerodendrum") tạo hỗn hợp kết dính. Hỗn hợp này gọi là "nhớt gỗ" mà người thợ sẽ pha với nước, lỏng hay đặc tùy theo loại giấy. Khi xeo giấy, người thợ dùng "liềm xeo" - liềm là một mành nứa hoặc giang chẻ nhỏ như sợi tăm rồi dùng sợi tơ xe lại mua ở làng Triều Khúc về đan lại - công đoạn đan liềm này do các thợ thủ công ở làng Cáo Đỉnh đảm nhận. Thợ xeo chao đi chao lại trong bể bột dó. Lớp bột dó trên liềm chính là tờ giấy dó sau khi kết thúc công đoạn xeo, ép, bóc, can, phơi (sấy), lột giấy. Tơ dó kết lại với nhau, như cái mạng nhện nhiều lớp, tạo nên tờ giấy dó. Sự kết mạng như vậy đã làm cho tờ giấy dó có độ xốp. Vì xốp nên giấy dó rất nhẹ và hút mực. Các công cụ sản xuất giấy dó hầu như bằng tre, gỗ và dùng ánh sáng tự nhiên để làm khô giấy. Giấy dó được sản xuất theo quy trình này không có độ axít nên tờ giấy dó có tuổi thọ rất cao. Từ việc ngày nay chúng ta còn lưu giữ được các bản sắc phong cổ trong một số di tích đình, đền, miếu thờ đã cho thấy: giấy dó có độ tuổi thọ tới hơn 500 năm. Tiếng chày giã dó đã đi vào ca dao: "Gió đưa cành trúc la đà, tiếng chuông Trấn Vũ canh gà Thọ Xương. Mịt mù khói tỏa ngàn sương, Nhịp chày Yên Thái mặt gương Tây Hồ". Phường Yên Thái ở bờ tây nam hồ Tây, tục gọi là kẻ Bưởi, từ thế kỷ 12 đã là nơi chính làm giấy dó dùng để viết hoặc in, gồm ba làng: Hồ Khẩu, Đông Xã, An Thái Thọ (do sáp nhập hai làng An Thái và Thọ An vào). Hai làng Hồ Khẩu và Đông Xã thì làm giấy dó khổ lớn hơn mà mịn mặt hơn dùng để làm tranh dân gian. Đến cuối thế kỷ 20, năm 1986 thì nghề thủ công làm giấy gần như bỏ hẳn.
Đặc tính lý hóa của giấy dó.
Giấy dó xốp, nhẹ do nguyên liệu, cách chế biến, xử lý nguyên liệu và công nghệ sản xuất giấy dó quy định. Giấy dó có cấu trúc dạng sợi, các xơ sợi li ti cố kết với nhau tựa mạng nhện, nhiều lớp, không theo thứ tự sợi ngang, dọc như tấm lụa dệt, mà theo dạng chuyển động brown, đa chiều. Giấy dó có trọng lượng riêng bằng khoảng một nửa các loại giấy sản xuất công nghiệp.
Giấy dó Yên Thái đã được xuất khẩu sang nhiều quốc gia trên thế giới và được bạn hàng ưa chuộng. Các họa sĩ người Pháp đã sử dụng giấy dó Yên Thái (khổ lớn) để vẽ tranh bằng mực tàu theo phương pháp tranh cổ điển phương Đông. Một vài bảo tàng ở châu Âu cũng đã dùng giấy dó để lót bồi phía sau tranh vẽ. Với đặc tính chống ẩm rất cao, giấy dó giúp cho các tác phẩm nghệ thuật không bị ẩm mốc.
Tại các Trung tâm Lưu trữ Quốc gia, trong số những tài liệu giấy, thì tài liệu giấy dó có tuổi thọ cao nhất. Các tài liệu giấy dó (điển hình là các sắc phong tại các đình, đền) là những loại tài liệu được sản sinh lâu đời nhất, từ khi các phương tiện bảo quản chưa được phát triển.
Nguyên liệu chủ yếu của giấy dó vùng Kinh Bắc và Hà Nội là cây dó giấy. Một số nơi khác còn dùng cây dướng, cây dó liệt.
Cây dó giấy, "Rhamnoneuron balansae", thuộc họ Trầm "Thymelaeaceae", là một loại cây nhỏ trong nhóm cây gỗ lớn, cao 8-12m, đường kính thân ≤ 30cm, cành non phủ đầy lông. Lá mọc cách, phiến hình trứng thuôn, dài 10–20 cm, rộng 3-3,5 cm, tròn, thót nhọn ở đầu, mỏng, nhẵn ở mặt trên có lông ngắn và nằm ở mặt dưới, có 20 - 25 đôi gân, bậc hai gần như song song; cuống lá dài 3 - 4mm, có lông và có cánh.
Cụm hoa ở đầu cành là chùy thưa dài hơn lá, có lông. Cụm hoa đơn vị là tán, gồm 4 hoa không cuống, khi non được bao bởi hai lá bắc tổng bao dài 6 - 7mm, có lông len. Hoa màu trắng, lưỡng tính, thơm. ống đài dài 1 cm, hơi loe ở giữa, phủ đầy lông ở ngoài, nhẵn, ở trong mang 4 lá đài trên đầu. Lá đài hình trứng, to nhỏ không bằng nhau, dài 2mm, có lông ở mặt ngoài. Nhị 8, xếp thành hai vòng không dài bằng nhau.
Đĩa tuyến mật cao 1,5 - 2mm, hình chén mỏng, mép lượn sóng. Bầu hơi có cuống, phủ đầy lông; vòi ngắn; núm to, gần hình bán cầu. Quả khô không tự nở, hình trứng, dài 7mm; vỏ quả ngoài mỏng, phủ đầy lông màu vàng nhạt. Hạt hình thoi, dài 6mm, rộng 1,7mm. Cây dó giấy thường mọc ở vùng Hòa Bình, Phú Thọ, Yên Bái, Tuyên Quang, Sơn La, Lai Châu.
Các loại giấy dó.
Giấy dó sản xuất tại làng An Cốc (Hà Tây) có bảy loại:
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
|
Pascal (ngôn ngữ lập trình)
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Pascal (phiên âm tiếng Việt: "Pát-can") là một ngôn ngữ lập trình cho máy tính thuộc dạng mệnh lệnh và thủ tục, được Niklaus Wirth phát triển vào năm 1970. Pascal là ngôn ngữ lập trình đặc biệt thích hợp với kiểu lập trình cấu trúc và cấu trúc dữ liệu, ngôn ngữ lập trình này được đặt theo tên của nhà toán học, triết học và nhà vật lí người Pháp Blaise Pascal.
Dựa trên cuốn sách của Wirth, "Thuật toán + Cấu trúc dữ liệu = Chương trình", Pascal được phát triển trên khuôn mẫu của ngôn ngữ ALGOL 60. Wirth đã tham gia vào quá trình cải thiện ngôn ngữ như một phần của nỗ lực ALGOL X và đề xuất một phiên bản được gọi là ALGOL W. Điều này không được chấp nhận và quá trình ALGOL X đã bị sa lầy. Năm 1968, Wirth quyết định từ bỏ quy trình ALGOL X và cải tiến hơn nữa ALGOL W, phát hành quy trình này với tên Pascal vào năm 1970.
Ngoài các mảng và biến của ALGOL, Pascal cho phép xác định các kiểu dữ liệu phức tạp và xây dựng các cấu trúc dữ liệu động và đệ quy như danh sách, cây và đồ thị. Pascal có khả năng xếp kiểu mạnh trên tất cả các đối tượng, có nghĩa là một loại dữ liệu không thể được chuyển đổi hoặc hiểu như một loại dữ liệu khác nếu không có các chuyển đổi rõ ràng. Không giống như C (và hầu hết các ngôn ngữ trong họ C), Pascal cho phép các định nghĩa thủ tục lồng nhau ở bất kỳ độ sâu nào, và cũng cho phép hầu hết các loại định nghĩa và khai báo bên trong chương trình con (thủ tục và hàm). Do đó, về mặt cú pháp, một chương trình tương tự như một thủ tục hoặc một hàm. Điều này tương tự như cấu trúc khối của ALGOL 60, nhưng bị hạn chế từ các câu lệnh khối tùy ý chỉ với các thủ tục và hàm.
Pascal trở nên rất thành công trong những năm 1970, đặc biệt là trên thị trường máy tính mini đang phát triển mạnh. Các trình biên dịch cho ngôn ngữ này cũng có sẵn cho nhiều máy vi tính khi lĩnh vực này xuất hiện vào cuối những năm 1970. Nó đã được sử dụng rộng rãi như một ngôn ngữ giảng dạy trong các khóa học lập trình cấp đại học vào những năm 1980, và cũng được sử dụng trong cài đặt sản xuất để viết phần mềm thương mại trong cùng thời kỳ. Nó bị ngôn ngữ lập trình C thay thế vào cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990 khi các hệ thống dựa trên UNIX trở nên phổ biến, và đặc biệt là với sự ra đời của C++.
Một ngôn ngữ dẫn xuất được gọi là Object Pascal được thiết kế cho lập trình hướng đối tượng được phát triển vào năm 1985; điều này đã được Apple Computer và Borland sử dụng vào cuối những năm 1980 và sau đó được phát triển thành Delphi trên nền tảng Microsoft Windows. Việc
Những nỗ lực ban đầu.
Phần lớn lịch sử của thiết kế ngôn ngữ máy tính trong những năm 1960 là ngôn ngữ ALGOL 60. ALGOL được phát triển trong những năm 1950 với mục tiêu rõ ràng để có thể mô tả rõ ràng các thuật toán. Nó bao gồm một số tính năng cho lập trình có cấu trúc vẫn còn phổ biến trong các ngôn ngữ cho đến ngày nay.
Ngay sau khi được giới thiệu, vào năm 1962, Wirth bắt đầu nghiên cứu luận án của mình với Helmut Weber về ngôn ngữ lập trình Euler. Euler được dựa trên cú pháp của ALGOL. Mục tiêu chính của nó là thêm các danh sách và kiểu động, cho phép nó được sử dụng trong các vai trò tương tự như Lisp. Ngôn ngữ được xuất bản vào năm 1965.
Vào thời gian này, một số vấn đề của ALGOL đã được xác định, đặc biệt là thiếu một hệ thống chuỗi tiêu chuẩn hóa. Nhóm được giao nhiệm vụ duy trì ngôn ngữ đã bắt đầu thực hiện ALGOL X để xác định các cải tiến, kêu gọi đệ trình. Wirth và Tony Hoare đã thêm chuỗi và làm mới một số cú pháp. Các nỗ lực của ALGOL X làm cho ngôn ngữ ngày càng phức tạp hơn ALGOL 68. Sự phức tạp của ngôn ngữ này dẫn đến khó khăn đáng kể trong việc tạo ra các trình biên dịch hiệu suất cao, và nó không được sử dụng rộng rãi trong ngành. Do đó, Wirth đã viết một trình biên dịch cho ngôn ngữ máy tính, được gọi là ALGOL W.
Pascal là thành quả bởi những nỗ lực về ALGOL W, với mục tiêu rõ ràng là tạo ra một ngôn ngữ có hiệu quả cả trong trình biên dịch và thời gian chạy, cho phép phát triển các chương trình có cấu trúc tốt và hữu ích cho việc dạy học sinh lập trình có cấu trúc. Một thế hệ sinh viên đã sử dụng Pascal như một ngôn ngữ vỡ lòng trong các chương trình học đại cương.
Một trong những thành công ban đầu cho ngôn ngữ là việc giới thiệu UCSD Pascal, một phiên bản chạy trên một hệ điều hành tùy chỉnh có thể được chuyển sang các nền tảng khác nhau. Một nền tảng quan trọng đó là Apple II, nơi mà nó được sử dụng rộng rãi. Điều này dẫn đến việc sử dụng Pascal trở thành ngôn ngữ cấp cao chính được sử dụng để phát triển trong Apple Lisa, và sau đó, Macintosh. Các bộ phận của hệ điều hành Macintosh ban đầu được dịch sang ngôn ngữ lắp ráp Motorola 68000 từ các nguồn Pascal.
Hệ thống sắp xếp chữ TeX của Donald E. Knuth được viết bằng WEB, hệ thống lập trình biết chữ gốc, dựa trên DEC PDP-10 Pascal, trong khi các ứng dụng như Total Commander, Skype và Macromedia Captivate được viết bằng Delphi (Object Pascal). Apollo Computer đã sử dụng Pascal làm ngôn ngữ lập trình hệ thống cho các hệ điều hành của nó bắt đầu từ năm 1980.
Các biến thể của Pascal cũng thường được sử dụng cho mọi thứ từ các dự án nghiên cứu tới các trò chơi máy tính cá nhân và các hệ thống nhúng. Các trình biên dịch Pascal mới tồn tại được sử dụng rộng rãi.
Trong quá trình làm việc tại Lisa, Larry Tesler bắt đầu thảo luận với Wirth về ý tưởng thêm các phần mở rộng hướng đối tượng vào ngôn ngữ. Điều này dẫn đến việc Clascal được giới thiệu vào năm 1983. Khi chương trình Lisa đã bị mất dần chỗ đứng và được thay thế bởi Mac, một phiên bản tiếp theo được gọi là Object Pascal đã được tạo ra. Điều này đã được giới thiệu trên Macintosh vào năm 1985 như một phần của khung ứng dụng MacApp, và trở thành ngôn ngữ phát triển chính của Apple vào đầu những năm 1990.
Các phần mở rộng Object Pascal sau đó được bổ sung vào Turbo Pascal, và qua nhiều năm đã trở thành hệ thống Delphi cho Microsoft Windows. Delphi vẫn được sử dụng để phát triển các ứng dụng Windows, nhưng cũng có khả năng biên dịch cùng mã với Mac, iOS, Android và Linux. Một phiên bản đa nền tảng khác được gọi là Free Pascal, với Lazarus IDE, là phổ biến với người dùng Linux vì nó cũng cung cấp viết một lần, biên dịch bất cứ nơi nào. CodeTyphon là một bản phân phối Lazarus với nhiều gói được cài đặt sẵn và các trình biên dịch đa nền tảng.
Mô tả ngắn gọn.
Ý định của Wirth là tạo ra một ngôn ngữ hiệu quả (liên quan đến cả tốc độ biên dịch và mã được tạo ra) dựa trên lập trình có cấu trúc, một khái niệm được phổ biến gần đây mà ông đã quảng bá trong cuốn sách của mình Thuật toán + Cấu trúc dữ liệu = Chương trình ("Algorithms + Data Structures = Programs)". Pascal có nguồn gốc từ ngôn ngữ ALGOL 60 cho phép các lập trình viên xác định các kiểu dữ liệu phức tạp và cũng dễ dàng hơn trong việc xây dựng cấu trúc dữ liệu động và đệ quy. Chẳng hạn như danh sách, cây cối và đồ thị. Các tính năng quan trọng được đưa vào đây là các bản ghi, liệt kê, phân nhóm, các biến phân bổ động với con trỏ liên quan và tập hợp. Để làm cho điều này có thể và có ý nghĩa, Pascal có cách kiểu mạnh vào tất cả các đối tượng, có nghĩa là một loại dữ liệu không thể được chuyển đổi hoặc được hiểu là một loại dữ liệu khác mà không thể chuyển đổi rõ ràng. Các cơ chế tương tự là tiêu chuẩn trong nhiều ngôn ngữ lập trình ngày nay. Các ngôn ngữ khác ảnh hưởng đến sự phát triển của Pascal là Simula 67 và ALGOL W của Wirth.
Pascal, giống như nhiều ngôn ngữ lập trình ngày nay (nhưng không giống như hầu hết các ngôn ngữ trong họ C), cho phép định nghĩa quy trình lồng nhau ở bất kỳ mức độ sâu nào. Điều này cho phép tạo một cú pháp rất đơn giản và mạch lạc trong đó một chương trình hoàn chỉnh là gần như giống hệt với một thủ tục hoặc hàm duy nhất
Trình biên dịch Pascal ban đầu.
Trình biên dịch Pascal đầu tiên được thiết kế trong Zürich cho dòng máy tính lớn CDC 6000, được viết và xây dựng tại Đại học Illinois dưới sự chỉ đạo của Donald B. Gillies cho loại máy tính PDP-11 và ngay từ lúc này đã có thể sinh ra mã máy trực tiếp. Niklaus Wirth báo cáo rằng một nỗ lực đầu tiên để thực hiện nó ở Fortran năm 1969 đã không thành công do Fortran không đủ khả năng thể hiện cấu trúc dữ liệu phức tạp. Nỗ lực thứ hai được thực hiện bằng ngôn ngữ giống ngôn ngữ C (Scallop của Max Engeli) và sau đó được dịch bằng tay (bởi R. Schild) thành Pascal để khởi động. Nó hoạt động vào giữa năm 1970. Nhiều trình biên dịch Pascal vì đã tự lưu trữ, có nghĩa là trình biên dịch được viết bằng Pascal và trình biên dịch thường có khả năng biên dịch lại khi các tính năng mới được thêm vào ngôn ngữ, hoặc khi trình biên dịch được chuyển đến môi trường mới. Trình biên dịch GNU Pascal là một ngoại lệ đáng chú ý, được viết bằng ngôn ngữ C.
Thành công đầu tiên của trình biên dịch CDC Pascal đến từ một máy tính lớn khác được hoàn thành bởi Welsh và Quinn tại Đại học Queen's Belfast (QUB) vào năm 1972. Trình biên dịch này, lần lượt, là cha mẹ của trình biên dịch Pascal cho máy tính mini đa hệ thống thông tin (ICS). Cổng Multum được phát triển - với mục đích sử dụng Pascal như một ngôn ngữ lập trình hệ thống - bởi Findlay, Cupples, Cavouras và Davis, làm việc tại Khoa Khoa học Máy tính tại Đại học Glasgow. Người ta nghĩ rằng Multum Pascal, được hoàn thành vào mùa hè năm 1973, có thể đã được thực hiện 16-bit đầu tiên.
Một trình biên dịch hoàn toàn mới được hoàn thành bởi Welsh et al. tại QUB năm 1977. Nó cung cấp một tính năng chẩn đoán ngôn ngữ nguồn (kết hợp các lược đồ định hình, truy tìm và nhận dạng được định dạng kiểu) được triển khai bởi Findlay và Watt tại Đại học Glasgow. Việc triển khai này được chuyển vào năm 1980 cho dòng ICL 2900 của một nhóm có trụ sở tại Đại học Southampton và Đại học Glasgow.
Đầu thập niên 1980, UCSD Pascal đã có phiên bản dành cho các máy Apple II và Apple III để có các phiên bản tương ứng thay thế trình thông dịch BASIC đi kèm với các loại máy này trong thời gian trước đó.
Việc thực hiện mô hình chuẩn Pascal cũng dựa trên trình biên dịch này, đã được điều chỉnh bởi Welsh và Hay tại Đại học Manchester vào năm 1984, để kiểm tra nghiêm ngặt sự phù hợp với tiêu chuẩn BSI 6192 / ISO 7185 và tạo mã cho một máy trừu tượng di động.
Trình biên dịch giá rẻ của Borland đã gây ra ảnh hưởng lớn đến cộng đồng lập trình viên Pascal, họ hầu như tập trung hết vào lập trình cho máy IBM-PC trong những năm cuối thập niên 1980. Rất nhiều người cũng đã sử dụng sản phẩm này thay cho BASIC.
Để nhanh chóng phổ biến rộng rãi ngôn ngữ này, một bộ công cụ chuyển mã được viết tại Zurich bao gồm một trình biên dịch sang "mã máy ảo" (hay dễ hiểu hơn, mã trung gian giữa mã máy và mã nguồn), và bộ giả lập cho loại mã này. Bộ công cụ này sau đó trở thành "hệ thống giả" (P-system). Mặc dù hệ thống này được phát triển nhằm tạo ra các trình biên dịch sinh mã máy trên ít nhất một hệ thống, nhưng kết quả đáng kể nhất chỉ là trình thông dịch cho "hệ thống giả" UCSD. Các trình biên dịch hệ thống P được gọi là Pascal-P1, Pascal-P2, Pascal-P3 và Pascal-P4. Pascal-P1 là phiên bản đầu tiên, và Pascal-P4 là người trình biên dịch cuối cùng của nhóm tại Zurich. Phiên bản được gọi là Pascal-P1 được đặt ra sau để nhiều nguồn khác nhau cho Pascal-P tồn tại. Trình biên dịch được thiết kế lại để nâng cao tính di động và được phát hành dưới dạng Pascal-P2. Mã này sau đó được cải tiến để trở thành Pascal-P3, với một mã trung gian tương thích ngược với Pascal-P2 và Pascal-P4.
Trình biên dịch Pascal-P4 vẫn có thể chạy và biên dịch trên các hệ thống tương thích với Pascal gốc. Tuy nhiên, nó chỉ chấp nhận một tập con của ngôn ngữ Pascal.
Pascal-P5, được tạo ra bên ngoài nhóm Zurich, sử dụng ngôn ngữ Pascal đầy đủ và bao gồm khả năng tương thích ISO 7185.
UCSD Pascal phân nhánh Pascal-P2, nơi Kenneth Bowles sử dụng nó để tạo ra hệ thống p UCSD giải thích. Hệ thống p UCSD là một trong ba hệ điều hành có sẵn khi ra mắt Máy tính cá nhân IBM gốc. UCSD Pascal đã sử dụng một mã trung gian dựa trên các giá trị byte, và do đó là một trong những trình biên dịch mã byte đầu tiên. Pascal-P1 không thông qua Pascal-P4, mà là dựa trên chiều dài từ CDC 6600 60 bit.
Trình biên dịch dựa trên trình biên dịch Pascal-P4, đã tạo ra các tệp nhị phân gốc, được phát hành cho máy tính lớn IBM System / 370 của Ủy ban Năng lượng Nguyên tử Úc (Australian Atomic Energy Commission); nó được gọi là "AAEC Pascal Compiler".
Vào đầu những năm 1980, Watcom Pascal đã được phát triển, cũng cho hệ thống IBM 370.
Vào những năm 1990, Pascal vẫn đang chạy trên các thiết bị VAX tại Đại học George Mason để dạy lập trình máy tính.
Apple Computer đã tạo ra Lisa Pascal của riêng mình cho Lisa Workshop vào năm 1982 và chuyển trình biên dịch sang Apple Macintosh và MPW năm 1985. Năm 1985, Larry Tesler, tham vấn với Niklaus Wirth, đã định nghĩa Object Pascal và các phần mở rộng này được tích hợp trong cả trình biên dịch Lisa Pascal và Mac Pascal.
Borland quyết định cần phải có nhiều tính năng hướng đối tượng tinh vi và phức tạp hơn, và đã bắt đầu sản phẩm "Delphi", sử dụng sơ đồ thiết kế của "Object Pascal" do Apple đưa ra làm cơ sở. (Sơ đồ của Apple vẫn chưa phải là chuẩn.) Borland cũng gọi đây là "Object Pascal" trong phiên bản Delphi đầu tiên nhưng đổi tên thành Delphi trong các phiên bản sau đó. Các bổ sung chính so với các phần mở rộng lập trình hướng đối tượng trước là mô hình đối tượng, các hàm dựng và hàm hủy ảo, các thuộc tính đều mang tính tham chiếu. Có một vài trình biên dịch khác cũng hỗ trợ các tính năng này.
Turbo Pascal và các sản phẩm tương tự, bằng các khái niệm đơn vị ("unit") hay mô-đun ("module") hình thành nên các ngôn ngữ lập trình cấu trúc. Turbo Pascal lấy các khái niệm này từ chuẩn của Extended Pascal hay từ người kế vị Modula-2. Mặc dù vậy nó vẫn không cung cấp khái niệm các mô-đun lồng nhau hay các ký hiệu rõ ràng về hàm nhập và hàm xuất.
Trong thập niên 1980, Anders Hejlsberg đã viết trình biên dịch Blue Label Pascal dành cho dòng máy tính Nascom-2. Sau đó ông chuyển sang làm việc cho hãng Borland và viết lại hoàn toàn trình biên dịch này để rồi trở thành "Turbo Pascal" cho máy tính IBM-PC. Trình biên dịch mới này bán với giá chỉ có $49.95, rẻ hơn nhiều so với giá Hejlsberg trước đây rao bán sản phẩm Blue Label Pascal. Nó được viết và tối ưu hóa hoàn toàn bằng hợp ngữ, làm cho nó nhỏ hơn và nhanh hơn.
Năm 1986, Anders chuyển Turbo Pascal sang Macintosh và kết hợp các phần mở rộng Object Pascal của Apple vào Turbo Pascal. Những phần mở rộng này sau đó được thêm trở lại vào phiên bản PC của Turbo Pascal cho phiên bản 5.5. Đồng thời Microsoft cũng đã triển khai trình biên dịch Object Pascal. Turbo Pascal 5.5 có ảnh hưởng lớn đến cộng đồng Pascal, bắt đầu tập trung chủ yếu vào máy tính IBM vào cuối những năm 1980. Nhiều người yêu thích PC trong việc tìm kiếm một sự thay thế có cấu trúc cho BASIC đã sử dụng sản phẩm này. Nó cũng bắt đầu được chấp nhận bởi các nhà phát triển chuyên nghiệp. Khoảng thời gian đó, một số khái niệm được nhập ngôn ngữ C để cho phép các lập trình viên Pascal sử dụng API dựa trên C của Microsoft Windows trực tiếp. Các phần mở rộng này bao gồm các chuỗi, con trỏ số học, con trỏ hàm, một toán tử địa chỉ và các kiểu gõ không an toàn.
Turbo Pascal, và các dẫn xuất khác với các đơn vị hoặc các khái niệm mô-đun là các ngôn ngữ mô-đun. Tuy nhiên, nó không cung cấp khái niệm mô-đun lồng nhau hoặc nhập và xuất đủ điều kiện các ký hiệu cụ thể.
Các phiên bản của Turbo Pascal
Các biến thể khác.
Super Pascal là một biến thể của Pascal, bổ sung nhãn không có số, trả lại biểu thức hay mệnh đề là tên của kiểu dữ liệu.
Các trường đại học Wisconsin-Madison, Zürich, Karlsruhe và Wuppertal đã phát triển các trình biên dịch Pascal-SC và Pascal-XSC, nhằm lập trình tính toán số.
TMT Pascal trình biên dịch tương thích Borland đầu tiên cho chế độ bảo vệ DOS 32-bit, hệ điều hành OS/2 và Win32. Ngoài ra ngôn ngữ TMT Pascal là ngôn ngữ đầu tiên cho phép quá tải hàm và toán tử. Pascal-SC ban đầu nhắm vào bộ vi xử lý Z80, nhưng sau này được viết lại cho DOS (x86) và 68000. Pascal-XSC có lúc được chuyển sang Unix (Linux, SunOS, HP-UX, AIX) và Microsoft / IBM (DOS với Hệ điều hành EMX, OS/2, Windows). Nó hoạt động bằng cách tạo mã nguồn trung gian C, sau đó được biên dịch thành một tệp thực thi nguyên gốc. Một số phần mở rộng ngôn ngữ Pascal-SC đã được chấp nhận bởi GNU Pascal.
Pascal Sol được thiết kế vào khoảng năm 1983 bởi một nhóm người Pháp để thực hiện một hệ thống giống Unix có tên Sol. Đó là tiêu chuẩn Pascal level-1 (với giới hạn mảng tham số) nhưng định nghĩa cho phép từ khóa thay thế và định danh được xác định trước bằng tiếng Pháp và ngôn ngữ bao gồm một vài phần mở rộng để giảm bớt lập trình hệ thống. Nhóm Sol sau này đã chuyển sang dự án ChorusOS để thiết kế một hệ điều hành phân tán.
IP Pascal là một triển khai thực hiện ngôn ngữ lập trình Pascal bằng cách sử dụng Micropolis DOS, nhưng đã được chuyển nhanh sang CP/M-80 chạy trên Z80. Nó đã được chuyển sang các kiểu máy 80386 vào năm 1994, và tồn tại ngày nay như các triển khai Windows/XP và Linux. Trong năm 2008, hệ thống đã được đưa lên một cấp độ mới và ngôn ngữ kết quả được gọi là "Pascaline" (sau khi máy tính của Pascal). Nó bao gồm các đối tượng, các điều khiển vùng tên, mảng động, cùng với nhiều phần mở rộng khác, và thường có tính năng bảo vệ và chức năng giống như C #. Nó là chỉ thực hiện như vậy cũng tương thích với việc thực hiện Pascal ban đầu, được chuẩn hóa theo tiêu chuẩn ISO 7185.
Và như chúng ta biết ngôn ngữ lập trình đứng đầu là Python với lượng người áp đảo C++.
ISO/IEC 7185: 1990 Pascal.
Năm 1983, ngôn ngữ được chuẩn hoá, theo tiêu chuẩn quốc tế IEC/ISO 7185 và một số tiêu chuẩn cụ thể của quốc gia khác bao gồm ANSI/IEEE770X3.97-1983 và ISO 7185:1983 đều của Mỹ. Hai tiêu chuẩn này chỉ khác nhau ở chỗ tiêu chuẩn ISO bao gồm phần mở rộng "cấp 1" trong đó ANSI không cho phép phần mở rộng này vào bản gốc (Wirth). Năm 1989, ISO 7185 được sửa đổi.
Chuẩn ISO 7185 được phát triển với mục đích là sự chọn lọc của ngôn ngữ 1974 của Writh, được đề cập chi tiết trong cuốn "Hướng dẫn sử dụng và Báo cáo của Jensen và Wirth", bổ sung đáng kể nhất là "Các tham số mảng phù hợp" được coi là mức 1 của tiêu chuẩn, mức 0 là Pascal không có mảng phù hợp.
Trên các máy tính lớn mà Pascal xuất phát (mainframe và minicomputer), các tiêu chuẩn này thường được tuân theo. Tuy vậy trên IBM-PC thì ngược lại. Trên các máy tính IBM-PC, chuẩn của Turbo Pascal và Delphi của Borland có lượnng người dùng nhiều nhất. Do vậy, biết liệu một phiên bản riêng biệt tương ứng với ngôn gữ Pascal ban đầu, hay ngôn ngữ riêng của Borland là khá quan trọng.
ISO/IEC 10206: Mở rộng Pascal 1990.
Năm 1990, một chuẩn Pascal mở rộng được tạo ra dựa theo tiêu chuẩn ISO/IEC 10206, giống hệt về nội dung kỹ thuật cho IEEE/ANSI 770X3.160-1989.
Phiên bản Pascal của Niklaus Wirth ở Zurich được phát hành dưới hai dạng cơ bản, nguồn trình biên dịch CDC 6000 và một bộ chuyển mạch gọi là hệ thống Pascal-P.
UCSD Pascal của Giáo sư Kenneth Bowles dựa trên bộ Pascal-P2 chia sẻ một số hạn chế ngôn ngữ Pascal-P. UCSD Pascal sau đó được gọi là Apple Pascal. Mặc dù UCSD Pascal thực sự mở rộng tập hợp con Pascal trong bộ Pascal-P bằng cách thêm lại các cấu trúc Pascal chuẩn, song nó vẫn không phải là một bản cài đặt chuẩn hoàn chỉnh của Pascal.
Đầu thập niên 1990, Alan Burns và Geoff Davies đã phát triển Pascal-FC, một phần mở rộng cho Pl/0 (từ cuốn sách của Niklaus 'Thuật toán + Cấu trúc dữ liệu = Chương trình'). Một số cấu trúc đã được thêm vào để sử dụng Pascal-FC như một công cụ giảng dạy cho lập trình đồng thời. Để có thể chứng minh sự tương tranh, đầu ra của trình biên dịch (một loại mã P) có thể được thực hiện trên một máy ảo. Máy ảo này không chỉ mô phỏng một môi trường bình thường, mà còn có thể mô phỏng các điều kiện khắc nghiệt.
Các trình biên dịch Pascal giống như Borland.
Turbo Pascal của Borland, được viết bởi Anders Hejlsberg, được viết bằng hợp ngữ độc lập với UCSD.
Turbo Pascal phiên bản 3 và các phiên bản sau này, bao gồm Object Pascal và Delphi của Borland và các phần tử tương thích không phải Borland trở nên phổ biến với các lập trình viên bao gồm các tác giả chia sẻ và thư viện SWAG của mã Pascal.
Các sản phẩm phần mềm bao gồm:
Danh sách các tiêu chuẩn liên quan.
ISO 8651-2: 1988 "Hệ thống xử lý thông tin - Đồ họa máy tính - Các ràng buộc ngôn ngữ hệ thống đồ họa (GKS) - Phần 2: Pascal"
Pascal ở dạng nguyên thủy của nó là một ngôn ngữ thuần túy và bao gồm các cấu trúc điều khiển giống như ALGOL truyền thống với các từ dành riêng như if, then, else, while, for và case khác nhau trên một câu lệnh khối lệnh. Pascal cũng có cấu trúc dữ liệu cấu trúc của ngôn ngữ lập trình ALGOL 60 như bản ghi, biến thể, con trỏ, liệt kê và bộ. Những cấu trúc như vậy được lấy cảm hứng từ Simula 67, ALGOL 68, ALGOL W của Niklaus Wirth và được đề xuất bởi C. A. R. Hoare.
Phần chính của mọi chương trình Pascal là khối lệnh (main). Một khối lệnh bắt đầu bằng từ khoá Begin và kết thúc bằng End. Trước chương trình chính sẽ là các khai báo thư viện, biến, thủ tục, hà(";"). Câu lệnh cuối cùng của một khối lệnh có thể giản lược đi một dấu chấm phẩy. Cuối chương trình luôn có một dấu chấm sau end (end.).
Pascal, nguyên thể đơn thuần là ngôn ngữ lập trình thủ tục với một loạt các từ khóa chuẩn codice_1, codice_2, codice_3, và các thành phần khác. Pascal là một ngôn ngữ hỗ trợ cả lập trình có cấu trúc lẫn lập trình hướng đối tượng. Hướng đối tượng bắt đầu được đưa vào Turbo Pascal ở phiên bản 5.5. Free Pascal cũng đưa hướng đối tượng vào từ rất sớm.
while a b do WriteLn('Chao Ban');
if a b then
writeln('Thoa man dieu kien')
writeln('Khong thoa man dieu kien');
for i:= 1 to 10 do writeln('Lap: ', i:1);
repeat a:= a + 1 until a = 10;
Pascal cấu trúc các chương trình thành các thủ tục và hàm.
procedure print(var i: integer);
function next(i: integer): integer;
next:= i + 1
writeln('Tong la: ', i);
while i = 10 do print(i)
Các thủ tục và hàm có thể lồng vào nhau theo nhiều cấp, và từ codice_4 là khối cấu trúc ngoài cùng nhất. Trước mỗi khối là phần khai báo. Ta có thể khai báo các hằng, các biến, các kiểu, hoặc các nhãn. Các từ khoá var (biến), type (kiểu), const (hằng), label (nhãn) được đặt trước các khai báo có cùng thể loại. Chú thích của Pascal được đặt trong ngoặc nhọn, ví dụ: { comment }, hoặc là ngoặc đơn với sao, ví dụ: (* comment *), trong Free Pascal, ký hiệu // chỉ ra rằng các ký tự sau đó (ở cùng dòng với nó) là chú thích, ví dụ: // comment. Chú thích không ảnh hưởng đến các lệnh của chương trình. Mọi chú thích sẽ tự động bỏ qua trong tiến trình dịch.
Tất cả các kiểu chữ đều có thể lưu được các ký tự trong bảng mã ASCII
Phương pháp khai báo biến.
Đây là một số khai báo kiểu của Pascal:
type (* Khai báo kiểu*)
MangSoNguyen = array[1..239] of KieuSoNguyen;
xa, huyen, tinh: string;
SoDem = (mot, hai, ba, bon, nam);
SoDemNho = mot.. ba;
Từ đó, ta có thể khai báo các biến và sử dụng chúng:
x: integer; y: KieuSonguyenduong;
Các kiểu phức có thể được xây dựng từ các kiểu đơn:
a = array [1..10] of integer;
c = file of a;
Kiểu chuỗi ký tự (string) là kiểu dữ liệu rất mạnh.
Pascal cũng hỗ trợ dùng con trỏ:
Ở đây biến codice_5 là một con trỏ đến kiểu dữ liệu codice_6, là một codice_7. Để tạo record mới và gán các giá trị codice_8 và codice_9 vào các trường codice_10 và codice_6 trong record, có thể dùng các câu lệnh sau:
Danh sách liên kết cũng có thể được tạo ra bằng cách cho một trường "kiểu con trỏ" (codice_12) vào trong record.
Các trình biên dịch phổ biến.
Có vài trình biên dịch Pascal được đưa ra cho sử dụng công khai:
Bạn có thể tìm thấy một danh sách lớn nữa tại Pascaland. Trang web này viết bằng tiếng Pháp, nhưng về cơ bản chỉ là một danh sách gồm các địa chỉ mạng (URL) tới các trình biên dịch, do vậy không ảnh hưởng nhiều. Bạn cũng có thể ghé thăm Pascal Central , một trang web chính về thông tin và hỗ trợ cho Pascal dành cho máy Mac, với rất nhiều bộ sưu tập về các bài báo, cộng với liên kết tới rất nhiều trình biên dịch và hướng dẫn khác.
WOL Libraries để tạo các ứng dụng GUI với trình biên dịch Free Pascal.
Những phê phán trước đây.
Mặc dù rất phổ biến (những năm 1980 và 1990 còn phổ biến hơn cả thời điểm bài viết này được thực hiện), các phiên bản Pascal trước đây đã bị phê phán rộng rãi vì không phù hợp cho việc sử dụng trong thực tế, ngoài việc dạy học. Brian Kernighan, người truyền bá C, đã đưa ra những phê phán lớn nhất về Pascal trong đầu những năm 1980, bằng bài viết "Why Pascal Is Not My Favorite Programming Language" (Tại sao Pascal không phải là ngôn ngữ lập trình tôi ưa thích). Mặt khác, rất nhiều nỗ lực phát triển lớn trong những năm 1980 (như chuyển sang cho Apple Lisa và Macintosh) lại phụ thuộc rất nhiều vào Pascal (tới mức mà giao tiếp C dành cho Mac OS phải giải quyết cả các kiểu dữ liệu của Pascal). Trong những thập niên sau đó, Pascal tiếp tục phát triển, và những vấn đề mà Kernighan đã đưa ra không còn phù hợp cho các phiên bản hiện tại nữa. Thật đáng tiếc là, như những điều mà Kernighan dự đoán trong bài viết, hầu hết các sự mở rộng để giải quyết các vấn đề trên làm các trình biên dịch không tương thích với nhau. Mặc dù vậy, trong thập niên vừa qua các biến thể dường như đã tập trung lại thành hai loại, theo chuẩn ISO hay theo chuẩn Borland, đều đã dần dần đi ra ngoài dự đoán của Kernighan.
Dựa trên kinh nghiệm với Pascal, Niklaus Wirth đã phát triển thêm hai ngôn ngữ lập trình nữa, Modula-2 và Oberon. Hai ngôn ngữ này mặc dù đã có nhiều cải tiến nhưng không thể theo kịp thành công thương mại của Pascal.
có thông tin Anh ngữ về:
|
Phục Hưng (tiếng Pháp: "Renaissance", ], , từ "ri-" "lần nữa" và "nascere" "được sinh ra") là một phong trào văn hóa thường được xem là bao gồm giai đoạn từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVII, khởi đầu tại Firenze (Ý) vào Hậu kỳ Trung Đại, sau đó lan rộng ra phần còn lại của châu Âu trên những quy mô và mức độ khác nhau. Người ta cũng dùng từ Phục Hưng để chỉ, một cách không nhất quán, thời kỳ lịch sử diễn ra phong trào văn hóa nói trên.
Là một phong trào văn hóa, Phục Hưng bao hàm sự nở rộ các nền văn học tiếng Latinh cũng như các tiếng dân tộc, bắt đầu từ sự phục hồi việc nghiên cứu các tư liệu cổ điển, sự phát triển của phép phối cảnh tuyến tính và các kỹ thuật nhằm biểu diễn hiện thực tự nhiên hơn trong mỹ thuật, và một cuộc cải cách giáo dục tiệm tiến nhưng phổ cập. Các học giả và nghệ sĩ thời Phục hưng cũng được gọi là những người theo chủ nghĩa nhân văn.
Trong chính trị, Phục Hưng đã đóng góp vào sự phát triển những hiệp ước ngoại giao, và trong khoa học là một sự quan tâm lớn hơn tới quan sát thực nghiệm. Các sử gia thường lập luận những biến đổi về trí tuệ này là một cầu nối giữa Trung Cổ và thời hiện đại. Mặc dù Phục Hưng chứng kiến những cuộc cách mạng trong nhiều lĩnh vực, cũng như những thay đổi chính trị-xã hội, nó vẫn được biết đến nhiều nhất bởi những thành tựu lớn lao về mỹ thuật và những cống hiến của những vĩ nhân đa tài như Leonardo da Vinci hay Michelangelo đã làm xuất hiện thuật ngữ "Vĩ nhân Phục Hưng" ("Renaissance Great Man"). Có một cuộc tranh luận kéo dài trong giới sử học về quy mô, phân kì văn hóa thời đại Phục Hưng, cũng như giá trị và ý nghĩa của nó. Bản thân thuật ngữ "Renaissance", do nhà sử học Pháp Jules Michelet đặt ra năm 1855 cũng là đối tượng của những chỉ trích, rằng nó ngụ ý một sự mô tả thái quá về giá trị tích cực của thời kỳ này.
Có một sự đồng thuận rằng thời kỳ Phục hưng bắt đầu ở Firenze, Italia, trong thế kỷ XIV. Có nhiều giả thuyết khác nhau được đề xuất để giải thích cho nguồn gốc và đặc điểm của nó, tập trung vào một loạt các yếu tố bao gồm đặc thù xã hội và công dân của Firenze tại thời điểm đó, cấu trúc chính trị của nó, sự bảo trợ của dòng họ thống trị, nhà Medici, và sự di cư của các học giả và các bản văn Hy Lạp sang Ý sau sự thất thủ của Constantinopolis dưới tay người Thổ Ottoman.
Phục Hưng là một phong trào văn hóa đã tác động sâu sắc tới đời sống trí thức châu Âu trong thời sơ kỳ hiện đại. Bắt đầu ở Ý, lan ra khắp châu Âu vào thế kỷ XVI, ảnh hưởng của nó hiện diện trong văn học, triết học, mĩ thuật, âm nhạc, chính trị, khoa học, tôn giáo, và các khía cạnh khác của đời sống tinh thần. Các học giả Phục Hưng sử dụng phương pháp nhân văn trong nghiên cứu, và khai thác hiện thực đời sống và cảm xúc con người trong nghệ thuật.
Các nhà nhân văn Phục Hưng như Poggio Bracciolini đã lục tìm những tác phẩm văn học, lịch sử và hùng biện thời Cổ đại viết bằng tiếng Latin trong tàng thư ở các tu viện châu Âu, trong khi sự thất thủ của thành Constantinopolis (1453) tạo nên một làn sóng tỵ nạn của các học giả Hy Lạp mang lại nhiều bản thảo giá trị về Hy Lạp cổ đại, mà phần nhiều đã rơi vào quên lãng trước đó ở phương Tây. Chính trong trọng tâm nghiên cứu mới về tài liệu văn học và lịch sử mà các học giả Phục Hưng khác biệt với các học giả Trung cổ của thời kỳ Phục Hưng thế kỷ XII, những người tập trung vào nghiên cứu các công trình Hy Lạp và Ả Rập về khoa học tự nhiên, triết học và toán học. Trong sự hồi sinh của trường phái triết học tân Plato, các nhà nhân văn Phục Hưng không chối bỏ Cơ đốc giáo, trái lại, nhiều công trình Phục Hưng vĩ đại nhất đã phục vụ nó, và Giáo hội bảo trợ nhiều tác phẩm nghệ thuật Phục Hưng. Tuy nhiên, một sự dịch chuyển tinh tế xảy ra trong cách mà các trí thức tiếp cận tôn giáo phản ánh trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống văn hóa. Hơn nữa, nhiều công trình Cơ đốc bằng tiếng Hy Lạp, bao gồm kinh Tân Ước tiếng Hy Lạp, được mang về từ Byzantium lần đầu tiên cho phép các học giả phương Tây tiếp cận chúng. Ảnh hưởng mới của những tác phẩm Cơ đốc bằng tiếng Hy Lạp này, và đặc biệt là sự trở lại Tân Ước nguyên gốc bằng tiếng Hy Lạp được những nhà nhân văn Lorenzo Valla và Erasmus khuyến khích, dọn đường cho Cải cách Kháng nghị về sau.
Sau khi những bước đi quay về với chủ nghĩa cổ điển trong nghệ thuật được Nicola Pisano thí nghiệm, các họa sĩ Florence, đứng đầu là Masaccio đã nỗ lực minh họa hình dạng con người một cách hiện thực nhất, phát triển các kĩ thuật áp dụng phối cảnh và ánh sáng một cách tự nhiên hơn. Các triết gia chính trị, nổi tiếng nhất là Niccolò Machiavelli tìm cách mô tả đời sống chính trị theo cách lý tính, thay vì lý tưởng hóa như trước kia. Một đóng góp chủ chốt cho chủ nghĩa nhân văn Phục Hưng Ý là tác phẩm nổi tiếng của Pico della Mirandola, "De hominis dignitate" ("Về Phẩm cách Con người", 1486), bao gồm một loạt bài tiểu luận về triết học, tư tưởng tự nhiên, niềm tin và ma thuật chống lại bất kì kẻ thù nào trong địa hạt lý trí. Thêm vào việc nghiên cứu tiếng Latinh cổ điển và tiếng Hy Lạp, các tác giả Phục Hưng cũng ngày càng sử dụng rộng rãi các ngôn ngữ dân tộc: kết hợp với sự xuất hiện của in ấn, điều này cho phép ngày càng nhiều người tiếp cận được với sách, đặc biệt là Kinh Thánh.
Nhìn chung, Phục Hưng có thể được xem như một nỗ lực của các trí thức, nghệ sĩ nhằm nghiên cứu và tăng cường khuynh hướng thế tục trong đời sống tinh thần châu Âu thông qua sự tái sinh những tư tưởng cổ đại cũng như những cách tiếp cận tư tưởng mới. Một số học giả, như Rodney Stark muốn hạ bớt tầm quan trọng mà họ cho là bị đánh giá thái quá của Phục Hưng, thay vào đó nhấn mạnh những tiến bộ trước đó của các thị quốc Ý trong thời Trung kỳ Trung Đại, tổng hòa của chính phủ chịu trách nhiệm, Thiên Chúa giáo và chủ nghĩa tư bản non trẻ. Phân tích này lập luận rằng, trong khi những quốc gia châu Âu lớn nhất (Pháp và Tây Ban Nha) là các nền quân chủ chuyên chế, và các quốc gia khác thì chịu sự kiểm soát trực tiếp của Giáo hội, những nhà nước cộng hòa độc lập của Ý đã nắm lấy những nguyên lý của chủ nghĩa tư bản và quản lý các điền sản thuộc tu viện, làm nên một cuộc cách mạng thương mại rộng lớn chưa từng có, báo trước và nuôi dưỡng Phục Hưng.
Nhiều học giả cho rằng tư tưởng đặc trưng cho Phục hưng bắt nguồn từ thành phố Firenze (tức Florence) vào cuối thế kỷ XIII, với văn chương của Dante Alighieri (1265-1321) và Francesco Petrarca (1304-1374), cũng như các họa phẩm của Giotto di Bondone (1267-1337).
Một số nhà văn xác định cụ thể điểm bắt đầu là năm 1401, khi hai tài năng đối địch nhau là Lorenzo Ghiberti và Filippo Brunelleschi tranh đua để giành hợp đồng xây dựng Nhà thờ Firenze. Những nhà sử gia nhận định sự cạnh tranh rộng rãi giữa các nghệ sĩ, bác học như Brunelleschi, Ghiberti, Donatello, và Masaccio về phận sự của nghệ thuật như một sự khuấy động sức sáng tạo của Phục Hưng. Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều tranh luận về lý do tại sao thời kỳ Phục hưng lại bắt đầu tại Ý, và tại sao nó lại bắt đầu vào một thời điểm như thế. Bởi vậy, một số giả thuyết đã được đưa ra để giải thích nguồn gốc của Thời kỳ Phục Hưng.
Phục hồi di sản La Mã và Hy Lạp.
Đối lập hoàn toàn với thời Trung kỳ Trung Đại, khi các học giả Latin tập trung chủ yếu vào nghiên cứu các công trình tiếng Hy Lạp và Ả Rập về khoa học tự nhiên, triết học và khoa học, các học giả Phục Hưng quan tâm chủ yếu đến việc khôi phục và nghiên cứu các tác phẩm văn học, lịch sử và hùng biện tiếng Latin và Hy Lạp. Nói một cách khái quát, điều này bắt đầu từ thế kỷ XIV với một giai đoạn Latin, khi các học giả Phục Hưng như Petrarca, Coluccio Salutati (1331-1406), Niccolò de' Niccoli (1364-1437) và Poggio Bracciolini (1380-1459) lùng sục các thư viện châu Âu để tìm kiếm các công trình của Cicero, Livius và Seneca. Tới đầu thế kỷ XV, một khối lượng lớn tư liệu Latin được khôi phục, và các học giả phương Tây bắt đầu chuyển sự chú ý sang các tác phẩm thần học, hùng biện, văn học, lịch sử Hy Lạp.
Khác với tư liệu Latin, những tư liệu Hy Lạp nhận được sự quan tâm rất hạn chế những thế kỷ đầu thời Trung Đại, trừ Byzantine vẫn tiếp tục nghiên cứu chúng như là di sản văn hóa chính thống của họ. Sự kiện thường được cho là đánh dấu sự trở lại của ngôn ngữ Hy Lạp trong nền học thuật châu Âu là vào cuối thế kỷ XIV khi Coluccio Salutati mời nhà ngoại giao và học giả Byzantine Manuel Chrysoloras tới Florence để dạy tiếng Hy Lạp. Đặc biệt các cuộc Thập tự chinh và sau đó là sự sụp đổ của thành Constantinopolis năm 1453 đã dẫn đến làn sóng tỵ nạn của các học giả Byzantine sang châu Âu định cư, mang theo một khối tư liệu Hy Lạp vô cùng quý giá.
Nước Ý cuối thời Trung Cổ.
Trong suốt giai đoạn cuối thời kỳ Trung cổ, tiền bạc và nghệ thuật đã luôn đi liền với nhau. Nghệ sĩ phụ thuộc hoàn toàn vào những nhà bảo trợ trong khi những nhà bảo trợ cần tiền để chu cấp cho các tài năng. Sự thịnh vượng đến với Ý trong các thế kỷ XIV, XV và XVI với sự mở rộng giao thương giữa châu Á và châu Âu. Nguồn bạc từ các mỏ ở Tyrol cũng giúp tăng cường dòng chảy của tiền bạc. Thành Genova và Venezia còn nhận được các chiến lợi phẩm và hàng hóa xa xỉ ở Phương Đông sau các cuộc Thập tự chinh.
Những thể chế chính trị độc đáo của Italia hậu kỳ Trung Đại khiến cho một số người lập luận rằng điều kiện xã hội khác thường của nó cho phép sự nảy nở văn hóa hiếm có. Italia không tồn tại một thực thể chính trị thống nhất ở thời kỳ này. Thay vào đó, nó chia thành nhiều lãnh địa, thị quốc lớn nhỏ: Vương quốc Napoli thống trị phương Nam, Cộng hòa Firenze và Lãnh địa Giáo hoàng ở trung tâm, Milan và Genova lần lượt ở phía bắc và phía tây, Venezia ở phía đông. Mặt khác, Italia thế kỷ XV là một trong những khu vực đô thị hóa nhất châu Âu đương thời. Ở các thành phố này nhiều phế tích và dấu ấn La Mã vẫn còn duy trì, dường như bản chất cổ điển của Phục Hưng gắn với cội nguồn của nó tại nơi từng là trái tim của Đế quốc La Mã cổ xưa.
Quentin Skinner chỉ ra rằng Otto của Freising người Đức thăm Italia thế kỷ XII đã ghi nhận một dạng thức tổ chức xã hội và chính trị mới lan rộng khắp Italia, khiến cho Italia ít nhiều đã thoát ra khỏi chế độ phong kiến thông thường để tiến tới một xã hội dựa trên thương nhân và thương mại. Đi cùng với điều này là một tư tưởng chống quân chủ, như thể hiện trong nhóm tranh tường nổi tiếng ở Siena của Ambrogio Lorenzetti, "Ngụ ngôn về Chính phủ Tốt và Xấu", với thông điệp mạnh mẽ về những đức tính bình đẳng, công bằng, chủ nghĩa cộng hòa và một nền cai trị công minh. Tự tách biệt mình khỏi cả Giáo hội và Đế quốc, các cộng hòa thành thị này tin tưởng vào lý tưởng tự do. Tuy rằng các thị quốc mang danh "cộng hòa" này về thực chất là các chính thể đầu sỏ, chúng là các chính quyền chịu trách nhiệm trước dư luận và ít nhiều mang các đặc điểm của một nền dân chủ; chính nền chính trị tương đối tự do này tạo điều kiện thuận lợi cho những tiến bộ về nghệ thuật và học thuật. Ngoài ra, vị trí của các thị quốc Italia, nhất là Venezia, như những trung tâm giao thương lớn của khu vực cho phép sự tiếp thu (cũng như truyền bá) tiến bộ. Những thương nhân mang lại nhiều ý tưởng mới từ khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là miền Levant. Sự giàu có khổng lồ của các thương nhân và quý tộc Italia đem lại một công chúng rộng rãi cũng như các nhà bảo trợ hào phóng, cho phép các dự án nghệ thuật cá nhân nảy nở và nhiều người có nhiều thời gian thư nhàn cho nghiên cứu.
Một số người lập luận rằng sự tàn phá của Cái chết Đen ở Firenze, đổ bộ vào châu Âu vào những năm 1348-1350, dẫn đến một sự thay đổi thế giới quan của người Italia thế kỷ XIV. Italia là nơi chịu ảnh hưởng đặc biệt nặng nề của trận dịch hạch này, và người ta phỏng đoán rằng sự quen thuộc với chết chóc và sự bất lực của đức tin đã khiến cho nhiều nhà tư tưởng nhìn vào hiện thực trên trần gian hơn là tính tinh thần và thế giới bên kia. Có người suy luận hoàn toàn khác, cho rằng Cái chết Đen đã làm gia tăng lòng mộ đạo thể hiện trong sự bảo trợ các tác phẩm nghệ thuật tôn giáo. Nhưng dù sao thì dịch hạch chỉ là một yếu tố phụ trợ, kết hợp với các yếu tố nêu trên để giải thích sự xuất hiện Phục Hưng ở Ý.
Mầm mống bệnh dịch đến từ những chiếc thuyền buồm trở về từ các cảng châu Á mang theo bọ chét và người nhiễm dịch hạch, và nhanh chóng lan rộng do sự thiếu vệ sinh và y tế đương thời. Dân số của thành phố Florence đã giảm gần một nửa chỉ trong năm 1347, kéo theo đó là một sự thiếu hụt nhân công lao động. Lương của người lao động tăng đáng kể, và người bình dân nhờ đó mà có nhiều tự do hơn, thậm chí còn du hành đi tìm những nơi có điều kiện làm việc thuận lợi nhất.
Sự suy giảm nhân khẩu đột ngột gây ra nhiều hậu quả kinh tế khác: giá thực phẩm và giá đất đai tụt mạnh từ 30% tới 40% ở nhiều miền ở châu Âu trong một nửa thế kỷ ở giai đoạn 1350-1400. Những người sống sót trận dịch hạch hưởng quyền thừa kế những tài sản của những người quá cố, cũng như giá nhu yếu phẩm dễ chịu. Ở Firenze, đã có lúc thành phố rơi vào hỗn loạn tới mức hội đồng thành phố không thể nhóm họp, nhưng nhìn chung chính quyền vẫn duy trì hoạt động trong thời kì này.
Truyền thống bảo trợ nghệ thuật ở Firenze.
Từ lâu người ta đã tranh cãi tại sao Phục Hưng là bắt đầu từ Firenze mà không phải nơi nào khác. Một số người nhấn mạnh vai trò của dòng họ Medici, một gia đình nhiều đời là chủ ngân hàng lớn nhất và sau là công tước của Firenze, đóng vai trò quan trọng trong nền chính trị thành phố cũng như khuyến khích nghệ thuật. Đặc biệt, Lorenzo de' Medici (1449–1492) tức "Lorenzo Vĩ đại" không chỉ là một nhà bảo trợ nghệ thuật lớn mà còn là người tích cực khuyến khích các gia đình trưởng giả ở Firenze quan tâm tới nghệ thuật và bảo trợ nghệ sĩ. Dưới thời của ông nhiều nghệ sĩ vĩ đại Leonardo da Vinci, Sandro Botticelli, và Michelangelo Buonarroti có cơ hội thể hiện tài năng. Các cơ sở tôn giáo cũng đặt hàng hàng loạt tác phẩm, như tu viện di San Donato agli Scopeti.
Tuy nhiên, sự thật là không phải tới thời Lorenzo nắm quyền Phục Hưng mới ra đời, mà bản thân gia đình Medici cũng chỉ thừa hưởng truyền thống trọng nghệ thuật của Firenze và phát huy nó. Một số người cho rằng Firenze trở thành nơi khởi đầu Phục Hưng là do may mắn, nghĩa là đơn thuần bởi vì những vĩ nhân ngẫu nhiên sinh ra ở đây: cả da Vinci, Botticelli và Michelangelo đều là người xứ Toscana (mà Firenze là thủ phủ). Tuy nhiên các nhà sử học khác phản đối ý kiến cho rằng đây là sự ngẫu nhiên và quy cho truyền thống trọng nghệ thuật của Firenze.
Triết học thời Phục Hưng cấu thành từ ba trường phái lớn: chủ nghĩa kinh viện, chủ nghĩa nhân văn, và những phái triết học "mới". Trong đó, chủ nghĩa nhân văn tiêu biểu cho tư tưởng Phục Hưng. Ở một vài góc độ, chủ nghĩa nhân văn Phục Hưng không hẳn là một triết học mà là một phương pháp nghiên cứu. Mặc dù các sử gia đôi khi bất đồng trong việc xác định ý nghĩa chính xác chủ nghĩa nhân văn, hầu hết chọn "một lối định nghĩa trung , giải thích, và đồng hóa ngôn ngữ, văn học, học tập và các giá trị của Hy Lạp và La Mã cổ đại".. Những nhà nhân văn chủ nghĩa chối bỏ truyền thống kinh viện đương thời vốn dựa trên hai cột trụ chính là triết học Aristotle và thần học Thiên Chúa giáo. Người được cho là nhà nhân văn Ý đầu tiên là Francesco Petrarca, người cổ vũ cho việc hướng nghiên cứu tư liệu cổ đại vào việc làm sống lại đạo đức xã hội Ý, quan tâm tới tất cả các tác giả cổ đại (kể cả những truyền thống phương Đông) chứ không chỉ Aristotle, đề cập tới các vấn đề thế tục liên quan tới con người, xã hội, và giáo dục hướng tới quần chúng. Những ý tưởng của Petrarca đã đi dần đi vào hiện thực Ý thế kỷ XV và sau đó nở rộ, lan ra khắp châu Âu với nhiều nhà tư tưởng lớn: Thomas More (Anh), Michel de Montaigne (Pháp), Niccolò Machiavelli (Ý), Juan Luis Vives (Tây Ban Nha).
Những triết gia chính trị như Machiavelli và Thomas More đã làm sống lại ý tưởng của các nhà tư tưởng Hy Lạp và La Mã cổ đại, áp dụng chúng trong những bài phê bình chính phủ đương thời, đồng thời vạch ra theo những đường lối khác nhau cách thức một nền chính trị lý tưởng vận hành; các cuốn "Utopia" và "Quân vương" có ảnh hưởng lâu dài tới cả triết học chính trị đương đại. Matteo Palmieri (1406-1475), một nhà nhân văn khác, trong "Della vita Civile" ("Về đời sống Công dân"; năm 1528) đã trình bày những ý tưởng về cách thức phát triển tinh thần và thể chất của trẻ em, làm thế nào người dân có thể tiến hành tu dưỡng đạo đức, làm thế nào người dân và xã hội có thể đảm bảo tính trung thực trong đời sống cộng đồng, và sự khác biệt giữa cái thực dụng hữu ích và sự thành thật. Leon Battista Alberti tóm tắt tinh thần nhân văn chủ nghĩa trong câu nói: "Con người có thể làm tất cả mọi thứ nếu họ muốn".
Tuy nhiên, sự thành công của chủ nghĩa nhân văn không có nghĩa là chủ nghĩa kinh viện lụi tàn. Trái lại, chủ nghĩa kinh viện vẫn có thành lũy vững chắc như ở Đại học Padua hay Đại học Pologna. Những triết gia kinh viện như Francisco Suárez đáp trả những chỉ trích của các nhà nhân văn chủ nghĩa bằng cách tìm kiếm tư liệu và bản dịch chính xác hơn, gồm những bình luận tiếng Hy Lạp về Aristotle. Đây là thời mà học thuyết của Thomas Aquinas lên ngôi trong thần học Cơ đốc giáo. Bên cạnh đó, khi đề ra những lập trường siêu hình và đạo đức mới đáp ứng thế giới quan thay đổi khi người Tây Ban chinh phục Tân Thế giới, các học giả này đã góp phần định hình những luật lệ quốc tế mới liên quan tới vấn đề chủ nghĩa đế quốc và chế độ nô lệ.
Ngoài hai trường phái chính trên, còn có một nhóm các nhà triết học tự gọi mình là "mới", những người cảm thấy những đề tài trong triết học kinh viện là quá hạn hẹp, và đi ra ngoài con đường chiết trung của chủ nghĩa nhân văn, bao gồm những nhà tư tưởng như Nicholas Cusanus, Ficino, Tommasso Campanella hay Giordano B, chủ yếu dựa trên Plato nhưng tự thân cũng đề xuất một loạt thuật ngữ cũng như chủ đề mới trong vũ trụ học, tâm lý học, chính trị học. Đây là nhóm bị Giáo hội cảm thấy bị thách thức nhất, và nhiều người trong số đó bị điều tra, bắt giam và thậm chí Bruno bị xử hỏa hình.
Một trong những đặc điểm phân biệt của mỹ thuật thời kỳ Phục Hưng là sự phát triển phép phối cảnh tuyến tính có tính hiện thực cao. Giotto di Bondone (1267-1337), được coi là người đầu tiên thực hiện một tác phẩm bích họa như là một cánh cửa sổ để bước vào không gian, nhưng tác phẩm của ông đã không gây được nhiều ảnh hưởng cho đến tận thời của Filippo Brunelleschi (1377–1446) và những tác phẩm tiếp theo của Leon Battista Alberti (1404-1472), quan điểm này được chính thức hóa thành một kỹ xảo nghệ thuật. Sự phát triển của quan điểm này là một phần của một xu hướng rộng lớn hơn đối với chủ nghĩa hiện thực trong nghệ thuật, đạt đến độ trưởng thành kể từ tranh tường của Masaccio (1401-1428). Để đạt được điều đó, các họa sĩ đã phải phát triển các kỹ thuật khác nhau, nghiên cứu mảng sáng-tối, nổi tiếng nhất trong số đó là trường hợp giải phẫu người của Leonardo da Vinci. Đằng sau những thay đổi trong phương pháp nghệ thuật, là một khao khát được làm mới lại muốn miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên, và làm sáng tỏ các tiên đề thẩm mỹ, với các tác phẩm đi đầu của Leonardo, Michelangelo và Raffaello đã đại diện cho đỉnh cao của thuật và đã được nhiều nhiều họa sĩ khác học hỏi. Những nhân vật đáng chú ý khác bao gồm Sandro Botticelli, làm việc cho gia tộc Medici ở Firenze, một người Firenze khác là Donatello và Tiziano Vecelli ở Venezia, cùng nhiều người khác.
Đồng thời, tại Hà Lan, khi mà văn hóa nghệ thuật đang phát triển, những tác phẩm tiêu biểu của Hugo van der Goes và Jan van Eyck đã gây nhiều ảnh hưởng đến sự phát triển của hội họa tại Ý, cả về kỹ thuật với sự ra đời của sơn dầu trên vải lẫn phong cách trong sự diễn đạt về chủ nghĩa tự nhiên. (xem "Thời kỳ Phục Hưng tại Hà Lan") Sau này, những tác phẩm của Pieter Bruegel il Vecchio đã truyền cảm hứng cho các họa sĩ về chủ đề miêu tả cuộc sống hàng ngày. Sự giao thoa văn hóa bắc-nam châu Âu khiến cho từ thế kỷ XVI, có thể nói toàn châu Âu đã chuyển mình sang một nền mỹ thuật mới.
Kiến trúc Phục Hưng thường được chia làm ba giai đoạn chính: Phục Hưng hay Sơ kỳ Phục Hưng (thế kỷ XV), Trung kỳ Phục Hưng (1500-1525), Trường phái kiểu cách (1525-1600). Kiến trúc sư Filippo Brunelleschi được coi là người tiên phong khuynh hướng nghiên cứu các tòa nhà thời cổ điển và tư liệu cổ đại (như tác phẩm của Vitruvius) cũng như hình học để tạo nên một phong cách mới, nhấn mạnh vào tính đối xứng, tỉ lệ, tính đều đặn của các yếu tố. Một trong những công trình tiêu biểu nhất về kỹ thuật xây dựng mái vòm của Brunelleschi là Nhà thờ chính tòa Firenze.. Trong khi đó, công trình kiến trúc nổi bật nhất trong thời kỳ Trung kỳ Phục Hưng là Vương cung thánh đường Thánh Phêrô, kết hợp tài năng của các thiên tài thời bấy giờ là Bramante, Michelangelo, Raffaello, Sangallo và Maderno .
Những kiểu thức cột thời La Mã được lựa chọn là: Toscan, Doric, Ionic, Corinth và kiểu hỗn hợp. Những thức cột này có thể được cấu trúc nhằm hỗ trợ những dãy cuốn hay khuôn cửa, hoặc được dùng để trang trí hoàn toàn, hay còn được dùng để làm trụ bổ tường. Một trong những công trình đầu tiên sử dụng trụ bổ tường là tòa nhà Sagrestia Vecchia (1421–1440) được xây dựng bởi Filippo Brunelleschi.
Những vòm thường có dạng hình phân (theo Trường phái kiểu cách) hay phân đoạn, thường được sử dụng với các dãy cuốn nhằm nối đầu cột này với đầu cột kia. Nó có thể là một phần nối đầu cột với đế vòm. Alberti là một trong những người đầu tiên sử dụng kiến trúc mái vòm trên một đài kỷ niệm. Những mái vòm thời Phục Hưng thường không có thanh chống. Chúng thường là những phân đoạn hay là hình phân được trụ bởi một mặt phẳng hình vuông, trong khi những mái vòm trong những tòa được xây dựng theo phong cách Gothic thường vuông góc.
Từ khoảng thế kỷ XVI, kiến trúc Phục Hưng Ý bắt đầu lan ra các miền khác của châu Âu, thay thế dần cho phong cách Gothic đang thống trị đương thời. Nhiều nghệ sĩ Ý được các triều đình, lãnh chúa đón rước và trả công hậu hĩnh cho việc xây cất, tuy nhiên cũng xuất hiện một số kiến trúc sư không phải người Ý có tiếng tăm, như Philibert de l'Orme (Pháp), de Toledo (Tây Ban Nha) và Inigo Jones(Anh).
Điêu khắc Phục Hưng được cho là có một điểm khởi đầu tương đối rõ ràng, với cuộc tranh đua giành hợp đồng xây dựng Nhà thờ Florence. Ghiberti, người chiến thắng, đã giới thiệu một phong cách cách tân rõ rệt so với nghệ thuật Gothic, với những chạm khắc bằng trên cánh cửa đồng của tu viện mang đậm nét cổ điển với nhiều tầng lớp có chiều sâu và hậu cảnh phong phú . Chất liệu được ưa chuộng thời kỳ đầu Phục Hưng là tượng đồng sử dụng phương pháp đúc mẫu chảy , sau đó chuyển dần sang tượng đá hoa cương, cẩm thạch.
Phong cách của Ghiberti được tiếp nối bởi người từng là phụ tá của ông, Donatello, sau đó là Andrea del Verrocchio và học trò của ông là Leonardo da Vinci. Thời kỳ cũng chứng kiến xu hướng các tượng trong nhà thờ được trang trí bên trong thay vì các vườn tượng bên ngoài, trong khi các tượng đặt nơi công cộng như quảng trường, nhất là tượng bán thân, trở nên phổ biển, mô tả không chỉ những người đàn ông tiếng tăm mà đôi khi cả phụ nữ, trẻ em. Điêu khắc Phục Hưng đạt đến đỉnh cao với Michelangelo, với khoảng 20 năm đầu thế kỷ XVI ông dành cho nghệ thuật đã để lại các kiệt tác về mô tả cơ thể và cảm xúc con người như David, Pietà, Moses, cụm tượng mộ Giáo hoàng Julius II.
Nghệ thuật phi tạo hình.
Văn học Phục Hưng được hưởng lợi nhiều từ việc khôi phục, dịch lại các tác phẩm văn học Hy Lạp, La Mã, trình độ học vấn trung bình nâng cao và nhất là phát minh in ấn cho phép lưu hành tác phẩm rộng rãi. Trong khi có một sự chuyển dịch sang các đề tài thế tục trong thơ ca và văn xuôi thời kỳ đầu (đặc biệt với Boccacio và Pierre de Ronsard), nhiều kiệt tác vẫn mang ảnh hưởng tôn giáo đậm nét như Thần khúc của Dante . Các thể loại mới cũng ra đời: Petrarca phổ biến sonnette vào thơ và văn xuôi, Michel de Montaigne sáng tạo nên tiểu luận (essay), còn Don Quichotte của Miguel de Cervantes thường được xem là mở đầu cho tiểu thuyết hiện đại. Trong thế kỷ XVI, trung tâm văn học Phục Hưng chuyển nên phía bắc với tiểu thuyết, thi ca Pháp (François Rabelais, Pierre de Ronsard) và kịch nghệ Anh (William Shakespeare, Christopher Marlowe).
Các nhà văn Phục Hưng là những người truyền bá mạnh mẽ nhất cho chủ nghĩa nhân đạo, ca ngợi lý trí, từ chối tính tầm thường và chủ nghĩa duy vật, phản ánh tinh thần thời đại bấy giờ; tuy nhiên có tác giả cho rằng có một dòng chảy chính trong nền văn chương thời đại đó phản ánh một quan niệm trần thế, vô luân và ít nhiều phản lý trí.
Vào thời kỳ Phục Hưng, sự lớn mạnh của tầng lớp trung lưu và gia tăng dân số ở các thành thị gia tăng tạo nên một tầng lớp công chúng mới cho kịch nghệ và âm nhạc. Việc truyền bá, giáo dục âm nhạc được mở rộng hơn: với máy in mới xuất hiện, những bản nhạc được in ấn hàng loạt và phổ biến rộng rãi đến mọi người. Cho đến năm 1600, những bản nhạc nổi tiếng đã được lưu truyền khắp châu Âu. Tầng lớp trung lưu đã có thể tự học chơi nhạc cụ, thông qua những quyển sách giáo khoa âm nhạc dạy thổi tiêu, đánh đàn lute và guitar. Các nhạc sĩ nổi tiếng như Josquin des Prez và Giovanni Pierluigi da Palestrina đi đầu trong công cuộc cách tân âm nhạc. Nhạc thế tục áp dụng nhiều kỹ thuật từ nhạc thánh, và ngược lại. Các nhạc sĩ chuyển hướng sáng tác về phía công chúng. Kỹ thuật hòa âm đã làm thay đổi diện mạo nền âm nhạc.
Trong giai đoạn này, âm nhạc bắt đầu trở nên hoa mỹ hơn. Những bản lễ ca và motet trở nên tinh vi, phức tạp hơn. Nhiều loại giọng được đưa vào, các chương nhạc trở nên dài hơn và cầu kỳ hơn. Các nhạc sĩ bắt đầu thích thể hiện phong cách hơn là truyền tải các thông điệp tôn giáo. Những vị lãnh đạo nhà thờ bắt đầu lo ngại thính giả sẽ không hiểu được tầm quan trọng của lời ca, và tại Hội đồng tôn giáo, họ đề nghị âm nhạc nhà thờ phải dùng để minh họa cho lời ca. Điều này đánh dấu cho sự khởi đầu của cấu trúc hài hòa giữa lời ca và giai điệu.
Các nhạc sĩ bắt đầu viết phức điệu cho nhạc cụ trình diễn. Những bài phức điệu này thường dành cho các vũ hội trong dinh cơ của tầng lớp quý tộc. Ống tiêu và đàn luýt là 2 nhạc cụ thông dụng nhất. Ống tiêu và đàn violin đủ kích cỡ diễn tấu thành từng nhóm gọi là consort. Những nhạc cụ khác của thời Phục hưng là kiểu kèn cổ, sáo, kèn Trumpet và Trombon loại nhỏ. Ngoài ra, nhạc cụ thường dùng để đệm cho người hát.
Việc tái khám phá các tài liệu cổ đại cũng như phát minh in ấn ở châu Âu đã bình dân hóa việc học hành và phát triển trao đổi ý tưởng. Tuy nhiên trong thời kỳ đầu Phục Hưng, các nhà tư tưởng chính chủ yếu quan tâm tới các khoa học nhân văn hơn là triết học tự nhiên hay là toán học ứng dụng. Và sự hâm mộ các tư liệu cổ điển lại củng cố hơn nữa quan điểm của Aristotle và Ptolemaeus về vũ trụ.
Bất chấp điều đó, khoảng năm 1450, các bài viết của Nicholas Cusanus báo trước thế giới quan nhật tâm của Copernicus theo cách diễn giải triết học. Nhà bác học lớn nhất của thế kỷ XV là Leonardo da Vinci, mặc dù thường được biết đến như một nhà phát minh, ông đã tiến hành các nghiên cứu khoa học một cách nghiêm túc, có hệ thống. Da Vinci đã tiến hành giải phẫu, quan sát và vẽ lại cơ thể người và động vật, thực hiện các thí nghiệm có kiểm soát về động học, khí động học và thủy động học, nhất là đã trình bày các nguyên tắc cơ bản của phương pháp khoa học. Fritjof Capra, người đã chỉ ra tầm quan trọng từng ít được chú ý của những nghiên cứu này, đã gọi ông là "cha đẻ của khoa học hiện đại" (thay vì Galilei hay Bacon).
Phát kiến Tân Thế giới của Christopher Columbus đã mở ra một thế giới quan mới rộng rãi hơn nhiều, đồng thời các quan sát thực tiễn bắt đầu thách thức các quan niệm tưởng chừng vững chắc cổ xưa. Khi cuộc Cải cách Kháng nghị và sự phản ứng của Giáo hội đụng độ, Phục Hưng phương Bắc chứng kiến một sự chuyển dịch trọng tâm có tính quyết định từ triết học tự nhiên Aristotle sang hóa học và các khoa sinh vật học (thực vật học, giải phẫu học và y học). Những tiến bộ quan trọng cũng đạt được trong thiên văn học, vật lý, toán học, sinh học.
Một vài người xem đây là một cuộc "cách mạng khoa học, báo hiệu sự bắt đầu của kỷ nguyên hiện đại, những người khác thì chỉ coi nó là một sự tăng tốc của một tiến trình liên tục bắt đầu từ thời cổ đại tới ngày nay. Tuy nhiên, nhìn chúng có sự nhất trí rằng thời Phục Hưng đã xảy ra những thay đổi đáng kể trong vũ trụ quan và phương pháp giải thích các hiện tượng tự nhiên của con người. Dấu mốc đáng nhớ nhất là năm 1543, năm mà cả hai cuốn "De humani corporis fabrica" ("Về sự hoạt động của cơ thể người") của Andreas Vesalius cung cấp một sự tự tin mới về vai trò của phân tích, quan sát và cái nhìn cơ giới luận về giải phẫu học cũng như "De Revolutionibus Orbium Coelestium" ("Về Chuyển động quay của các Thiên thể") của Copernicus cùng được xuất bản. Thuyết nhật tâm của Copernicus, một biểu tượng chói ngời về lý tính chống lại định kiến truyền thống, sau đó được Galileo Galilei, Tycho Brahe và Johannes Kepler củng cố và phát triển. Quan trọng không kém là các tác giả như Copernicus, Galileo và Francis Bacon đã trình bày những đặc điểm quan trọng mà một nền khoa học mới nên có để đạt được tiến bộ, tức phương pháp khoa học. Chúng bao gồm tầm quan trọng của bằng chứng thực nghiệm, vai trò của toán học, và từ bỏ đường lối thuần túy dựa vào luận lý của Aristotle.
Những lý tưởng mới của chủ nghĩa nhân văn, mặc dù trong một vài khía cạnh mang tính thế tục nhiều hơn, đã phát triển dựa trên một nền tảng Cơ đốc giáo, đặc biệt ở phong trào Phục Hưng phương Bắc. Phần nhiều, nếu không nói là hầu hết, các tác phẩm nghệ thuật mới được đặt hàng hoặc hiến tặng cho Giáo hội. Tuy nhiên, Phục Hưng đã có một ảnh hưởng sâu sắc lên nền thần học đương thời, đặc biệt là trong cách mà người ta nhận thức mối quan hệ giữa con người và Chúa Trời. Nhiều nhà thần học lỗi lạc của giai đoạn này là những nhà nhân văn hoặc đi theo phương pháp nhân văn chủ nghĩa, như Erasmus, Zwingli, Thomas More, Luther và Calvin.
Phục Hưng xuất hiện trong một thời đại của những nhiễu nhương tôn giáo. Thời Hậu kỳ Trung Đại chứng kiến một thời kỳ những mưu đồ chính trị bao quanh chế độ giáo hoàng, mà đỉnh điểm là cuộc Ly giáo Tây phương, trong đó ba người đồng thời tuyên bố mình là giám mục chân chính của giáo phận Rôma (tức Giáo hoàng). Mặc dù cuộc ly giáo cuối cùng cũng được giải quyết bằng Công đồng Constance (1414), nó đánh dấu sự sa sút nghiêm trọng danh dự của Giáo hội và thế kỷ XV chứng kiến một phong trào cải cách mang tên Thuyết công đồng (tiếng Anh: "conciliarism") tìm cách hạn chế quyền lực cá nhân của Giáo hoàng. Mặc dù Giáo hoàng một lần nữa nắm quyền tối thượng trong sự vụ giáo hội kể từ Công đồng Lateran V (1511), chức vị này liên tục đi kèm với những cáo buộc tham nhũng, thối nát, nổi tiếng nhất là Giáo hoàng Alexanđê VI, người bị buộc các tội mại thánh, gia đình trị, và có bốn người con khi còn làm Hồng y (với ý định sẽ gả chúng cho các quý tộc để thâu tóm quyền lực).
Những giáo sĩ như Erasmus và Luther đề xuất cải cách Giáo hội, thường dựa trên việc bình chú Tân Ước theo khuynh hướng nhân văn chủ nghĩa. Tháng 10 năm 1517, Luther công bố "95 Luận văn", thách thức quyền lực Giáo hoàng và chỉ trích sự mục nát của giáo hội, đặc biệt là việc buôn bán phép xá tội. Những luận văn này dẫn đến một cuộc đại cải cách, tức Cải cách Kháng nghị, một sự cắt đứt với Giáo hội Công giáo La mã từng tuyên bố quyền thống trị ở Tây Âu. Do đó, chủ nghĩa nhân văn nói riêng và Phục Hưng nói chung đóng một vai trò trực tiếp trong sự bùng nổ Kháng Cách, cũng như nhiều cuộc tranh cãi và tranh chấp tôn giáo đương thời.
Một đặc trưng quan trọng của thời Phục Hưng là các nhân vật của thời đại này ý thức được về bản sắc phong trào văn hóa mà mình đại diện. Đến thế kỷ XV, nhiều nhà văn, nghệ sĩ, kiến trúc sư ở Italia đã dùng những cụm từ như "modi antichi" (phong cách cổ đại) hay "alle romna et alla antica" (phong cách La Mã và cổ đại) để mô tả tác phẩm của mình. Trước đó, những năm 1330 Petrarca đã gọi thời đại trước Cơ đốc giáo là "antiqua" (cổ đại) và thời đại Cơ đốc giáo là "nova" (mới), chứng kiến sự lu mờ của quốc gia dân tộc. Leonardo Bruni là người sử dụng cách phân kỳ 3 giai đoạn trong cuốn "Lịch sử dân tộc Firenze" (1442). Hai giai đoạn đầu của Bruni lấy lại từ Petrarca, nhưng ông thêm vào một thời đại thứ ba bởi tin rằng Italia đương thời không còn trong trạng thái suy tàn. Flavio Biondo sử dụng một nền tảng tương tự trong "Những thập kỷ Lịch sử từ sự Suy tàn của Đế chế La Mã" (1439-1453 ).
Các nhà sử học nhân văn chủ nghĩa biện luận rằng giới học giả đương thời đã khôi phục những liên hệ trực tiếp với thời cổ điển, do đó bỏ qua thời kỳ trung gian, mà họ lần đầu tiên gọi là thời Trung Đại, mà bấy giờ trong các tài liệu tiếng Ý là "media tempestas". Thuật ngữ "la rinascita" (sự tái sinh, phục hưng) cũng xuất hiện, tuy nhiên, trong nghĩa rộng mà Giorgio Vasari gán cho trong cuốn "Vite de' più eccellenti architetti, pittori, et scultori Italiani" ("Cuộc đời của các nhà kiến trúc, họa sĩ và nhà điêu khắc Ý tài ba", 1550). Vasari chia thời đại này làm ba giai đoạn: giai đoạn đầu bao gồm Cimabue, Giotto, và Arnolfo di Cambio; giai đoạn hai gồm Masaccio, Brunelleschi, và Donatello; giai đoạn ba tập trung vào Leonardo da Vinci và Michelangelo. Theo Vasari, không chỉ là sự nhận thức đang lớn lên về thời cổ đại cổ điển thúc đẩy sự phát triển này, mà còn có vai trò của ham muốn nghiên cứu và bắt chước tự nhiên ngày càng tăng.
Lan rộng khắp châu Âu.
Trong thế kỷ XV, Phục Hưng lan ra với tốc độ mạnh mẽ từ nơi khởi nguồn của nó là Florence, ban đầu là tới các miền khác của nước Ý, tiếp đó là phần còn lại của châu Âu. Sự phát minh của in ấn cho phép sự truyền bá nhanh chóng những ý tưởng mới. Khi lan rộng, các tư tưởng bắt đầu đa dạng hóa và biến đổi, thích nghi với văn hóa địa phương. Điều này khiến cho từ thế kỷ XX, các học giả bắt đầu chia Phục Hưng thành các phong trào vùng miền và quốc gia.
Phía bắc châu Âu.
Phục Hưng xảy ra ở miền châu Âu phía Bắc nước Ý (chủ yếu ở Pháp, Đức, Anh, Hà Lan) được gọi là "Phục Hưng phương Bắc". Trong khi những tư tưởng Phục Hưng tiến từ Ý lên phía bắc, đồng thời lại có sự lan truyền đổi mới về phía nam trong một số lĩnh vực, đặc biệt là âm nhạc. Âm nhạc thế kỷ XV của trường phái Burgundy xác định sự bắt đầu Phục Hưng trong ngành nghệ thuật này và tính phức điệu của trường phái Hà Lan, khi nó cùng các nhạc công xuống tới Ý, tạo nên cốt lõi của cái có thể xem là phong cách quốc tế thực sự đầu tiên trong âm nhạc kể từ sự tiêu chuẩn hóa Bình ca Gregoriano vào thế kỷ IX. Đỉnh cao của trường phái Hà Lan cuối cùng lại hiện thực trong âm nhạc của một nhà soạn nhạc người Ý, Palestrina. Vào cuối thế kỷ XVI Ý một lần nữa lại trở thành trung tâm cách tân âm nhạc, với sự phát triển của phong cách phức điệu của trường phái Venezia, lan truyền lên phía bắc tới Đức vào khoảng 1600.
Tranh Phục Hưng Ý khác với tranh Phục Hưng phương Bắc. Các nghệ sĩ Ý là những người đầu tiên vẽ các khung cảnh thế tục, bứt khỏi nghệ thuật thuần túy tôn giáo của thời Trung Cổ. Ban đầu, các nghệ sĩ Bắc Âu vẫn tập trung vào các đề tài tôn giáo, như những bất ổn tôn giáo đương thời mô tả bởi Albrecht Dürer. Nhưng từ Pieter Bruegel họ bắt đầu chuyển sang các chủ đề của đời sống thường nhật, đi xa hơn về mảng này so với các tiền bối Ý. Chính trong Phục Hưng phương Bắc mà anh em người Hà Lan Hubert và Jan van Eyck đã hoàn thiện kĩ thuật vẽ tranh sơn dầu, cho phép các nghệ sĩ tạo ra những gam màu mạnh trên một bề mặt cứng có thể tồn tại nhiều thế kỷ. Một đặc điểm của Phục Hưng phương Bắc là nó sử dụng ngôn ngữ dân tộc thay vì tiếng Latin hay Hy Lạp, cho phép nhiều tự do biểu đạt hơn. Phong trào này với bắt đầu với Dante Alighieri ở Ý, tuy rằng chính việc chú trọng quá vào tiếng Ý đã làm hạn chế nguồn tư tưởng Firenze quan trọng vốn viết bằng tiếng Latin.
Ở Anh, Phục Hưng bắt đầu xuất hiện với thời kỳ hoàng kim dưới triều đại Elizabeth (thế kỷ XVI). Trong khi nghệ thuật tạo hình Anh thời kỳ này không có gì đặc sắc, văn học và nền sân khấu Phục Hưng Anh lại phát triển mạnh với một loạt những nhà văn, nhà thơ, nhà soạn kịch lớn như William Shakespeare, Christopher Marlowe, Edmund Spenser, Thomas More, John Milton, Francis Bacon. Trong hội họa, các họa sĩ Anh nổi bật với bức tranh tiểu họa chân dung; trong âm nhạc, ảnh hưởng đậm nét của âm nhạc Ý thể hiện trong các tác phẩm Thomas Tallis, Thomas Morley hay William Byrd.
Theo Michelet, Phục Hưng lan sang Pháp sau cuộc xâm lược Ý của vua Charles VIII (1494-1495). Một nhân tố khuyến khích chủ nghĩa thế tục ở đây là sự bất lực của Giáo hội trong việc hỗ trợ đối phó lại Cái chết Đen. Tiếp đó, François I đã du nhập nghệ thuật cũng như các nghệ sĩ Ý, trong đó có Leonardo da Vinci, và cho xây dựng những cung điện lộng lẫy rất xa xỉ. Năm 1533, thiếu nữ 14 tuổi Caterina de' Medici, công nương Firenze cưới Henri con thứ của François. Mặc dù người phụ nữ này mang tiếng xấu để đời trong chiến tranh tôn giáo, Caterina đã đóng vai trò quan trọng trong việc giới thiệu nghệ thuật, khoa học và âm nhạc (gồm cả ba lê) từ Florence tới cung đình Pháp . Kết quả là các nhà văn lớn của Pháp thời kỳ này như François Rabelais, Pierre de Ronsard, Joachim du Bellay và Michel de Montaigne, các họa sĩ như Jean Clouet và các nhạc sĩ như Jean Mouton đã vay mượn nhiều tinh thần Phục Hưng Ý cho các kiệt tác của họ. Thế kỷ XVI và thế kỷ XVII, sự nở rộ văn hóa ở Pháp cùng trong thời kì nước này vươn lên thành cường quốc hàng đầu châu lục đã khiến cho sử gia Michelet quy cho Phục Hưng là một phong trào văn hóa Pháp
Vào nửa sau thế kỷ XV, tinh thần thời đại lan tới Đức, nơi phát triển kỹ nghệ in (khoảng 1450) và các nghệ sĩ Phục Hưng thời kỳ đầu như các họa sĩ Jan van Eyck (1395–1441) và Hieronymus Bosch (1450–1516) và các nhà soạn nhạc Johannes Ockeghem (1410–1497), Jacob Obrecht (1457–1505) và Josquin des Prez (1455–1521) hưởng ứng ảnh hưởng Ý. Trong các miền theo Kháng Cách ban đầu của đất nước, chủ nghĩa nhân đạo trở nên liên hệ chặt chẽ với sự hỗn loạn của Cải cách Kháng nghị, và nghệ thuật cùng văn chương của Phục Hưng Đức thường phản ánh tranh cãi này.
Tuy nhiên, phong cách gothic và triết học kinh viện Trung đại vẫn duy trì đáng kể cho đến đầu thế kỷ XVI, với Albrecht Dürer (1471-1528) thường được xem là đại diện lớn cuối cùng của phong cách Gothic nhưng đồng thời cũng là họa sĩ lớn nhất của nghệ thuật Phục Hưng Đức
Xứ Flander (Bỉ, Hà Lan và một phần Đan Mạch ngày nay) ở thời Trung Đại là tập hợp những tỉnh tự trị dưới quyền Công quốc Bourgogne hoặc Tây Ban Nha. Đây là một trong những vùng giàu có nhất Bắc Âu thế kỷ XV với công nghiệp dệt và thương mại. Sự thịnh vượng và giao thương với nước Ý giúp tạo nên một tầng lớp họa sĩ, nhà soạn nhạc xuất sắc sang Ý lưu diễn; ngược lại nhiều nghệ sĩ Ý cũng sang miền này hoạt động. Tuy nhiên, ảnh hưởng tôn giáo trong nghệ thuật Hà Lan sâu đậm và kéo dài. Chỉ từ nửa sau thế kỷ XVI, hội họa Hà Lan với phong cách Baroque thiên về mô tả các cảnh sinh hoạt đời thường mà đại diện tiêu biểu là Pieter Bruegel Già. Âm nhạc Bỉ trong trường phái Pháp-Bỉ trở nên thống trị nền âm nhạc châu Âu với các nhạc sĩ xuất sắc như Josquin des Prez, Guillaume Dufay, Johannes Ockeghem. Văn học không phải là một đặc sắc của Phục Hưng ở Flander, nhưng đây là quê hương của Erasmus "hoàng tử của chủ nghĩa nhân văn", nổi tiếng với các luận văn đả kích sâu cay tăng lữ và chủ nghĩa kinh viện.
Iberia (chưa có dữ kiện).
Phục Hưng đến bán đảo Iberia thông qua những dính líu của miền Đông bán đảo nằm trong Vương vị Aragon (một liên bang Địa Trung Hải bao gồm Nam Ý, một phần Tây Ban Nha, các đảo Sicilia, Corse, Malta) và thành phố hải cảng Valencia. Mặt khác, nhiều nhà văn Phục Hưng Tây Ban Nha sớm nhất đến từ Vương quốc Aragon, như Ausiàs March và Joanot Martorell. Ở Vương quốc Castile, thời kỳ đầu Phục Hưng đã chịu ảnh hưởng sâu đậm của chủ nghĩa nhân văn Ý. Íñigo López de Mendoza đã giới thiệu thơ ca Ý vào Tây Ban Nha đầu thế kỷ XV, tác động tới một thế hệ nhà văn kế tiếp đó, tiêu biểu là Miguel de Cervantes và nhà thơ, nhà viết kịch Lope de Vega. Chủ nghĩa nhân văn nở rộ ở đây đầu thế kỷ XVI, với những đại diện như triết gia Juan Luis Vives, nhà ngữ pháp Antonio de Nebrija hay nhà lịch sử tự nhiên Pedro de Mexía.
Giai đoạn sau của Phục Hưng Tây Ban Nha chứng kiến sự chuyển trọng tâm sang thuyết huyền bí và các chủ đề tôn giáo, với các nhà thơ fray Luis de León, Têrêsa thành Ávila và Gioan Thánh Giá, và đề cập tới cuộc khám phá Tân Thế giới, với những nhà biên niên sử và nhà văn như Inca Garcilaso de la Vega hay Bartolomé de las Casas, hợp thành nền văn học Tây Ban Nha Phục Hưng. Cũng giai đoạn này nghệ thuật Tây Ban Nha có những tiến bộ, với các tác phẩm của họa sĩ El Greco và các nhà soạn nhạc như Tomás Luis de Victoria và Antonio de Cabezón.
Trái lại, trong khi Phục Hưng Ý có ảnh hưởng khiêm tốn đối với nghệ thuật Bồ Đào Nha, chính quốc gia này lại có tầm quan trọng trong việc mở rộng thế giới quan châu Âu, khuyến khích tinh thần nhân đạo. Như một căn cứ tiên phong của Thời đại khám phá, Lisboa trở nên thịnh vượng vào cuối thế kỷ XV, thu hút các chuyên gia đã tạo nên những đột phá trong toán học, thiên văn học và kỹ thuật hàng hải như Pedro Nunes, João de Castro, Abraham Zacuto và Martin Behaim. Các nhà bản đồ học Pedro Reinel, Lopo Homem, Esteban Gómez và Diogo Ribeiro làm nên những tiến bộ quan trọng trong việc vẽ bản đồ thế giới. Dược sĩ Tomé Pires cùng các bác sĩ Garcia de Orta và Cristóbal Acosta sưu tầm và xuất bản những cuốn sách về thực vật và dược liệu .
Trong kiến trúc, lợi nhuận khổng lồ từ việc buôn bán hồ tiêu cung cấp tài chính cho một phong cách tổng hợp đầy xa xỉ trong những thập niên đầu của thế kỷ XVI, Manueline, gắn với các yếu tố hàng hải
Đông và Nam Âu.
Hungary là nước châu Âu đầu tiên tiếp nhận sự lan truyền của phong trào văn hóa Phục Hưng từ Ý. Phục Hưng ở Hungary diễn ra sớm do sự gần gũi về văn hóa và thương mại với miền Nam Ý, bắt đầu từ thời hoàng đế Sigismund nhưng trở nên nổi bật dưới thời vua Mátyás Corvin (1458-1490), người cưới công chúa Beatrice của Naples và là một nhà bảo trợ nghệ thuật nổi tiếng, xây dựng lại Buda theo phong cách Phục Hưng. Buda trở thành một trong những trung tâm nghệ thuật chính phía nam Alps bấy giờ, nơi có thư viện thế tục Bibliotheca Corviniana lớn nhất châu Âu. Đây cũng là nơi quy tụ nhiều nghệ sĩ, học giả nổi tiếng như nhà thơ Junus Pannonius, nhà sử học Antonio Bonfini, nhà soạn nhạc Bálint Bakfark.
Ở Đông Âu, Ba Lan khi đó đang được hưởng một nền hòa bình và thịnh vượng tương đối dài. Nhiều nghệ sĩ Ý đã đến đây cùng với Bona Sforza, tiểu thư nhà Sforza kết hôn với vua Zygmunt I năm 1518, cũng như dưới sự đặt hàng của giới quý tộc và trưởng giả nơi đây. Nhiều thành phố được xây lại theo phong cách kiến trúc Gothic, đáng chú ý là Kraków và Gdańsk.. Hàng loạt trường học, đại học được xây dựng, trong đó Học viện Kraków là đại học có quy mô lớn nhất châu Âu đương thời. Đây chính là thời kỳ được xem là thời hoàng kim của văn hóa Ba Lan, với các nhà học giả lớn như Copernicus, nhà địa lý học Maciej of Miechów, nhà triết học chính trị Andrzej Frycz Modrzewski, các nhà thơ như Miklaj Rej, Jan Kochanowski hay Szymon Szymonowic, nhạc sĩ Wacław z Szamotuł. Ba Lan trở thành trung tâm văn hóa của Đông Âu, góp phần truyền bá tới các nước khác trong khu vực, chẳng hạn như Nga. Nga tiếp nhận Phục Hưng tương đối muộn và chậm chạp do vị thế của Chính thống giáo, nhưng có những nét riêng đặc sắc như kiến trúc Gothic Nga với những mái đa giác
Về các vấn đề khác.
Quan niệm Phục Hưng.
Thuật ngữ Phục Hưng lần đầu tiên được sử dụng có tính hồi chỉ bởi nhà phê bình, nghệ sĩ Giorgio Vasari (1511-1574) trong cuốn sách "Đời sống của Nghệ sĩ" (1550). Trong cuốn sách này Vasari đã nỗ lực định nghĩa cái mà ông mô tả là sự đoạn tuyệt với tính man rợ của nghệ thuật Gothic: Nghệ thuật đã suy tàn với sự sụp đổ của Đế quốc La Mã, và chỉ các nghệ sĩ Tuscana, khởi đầu từ Cimabue (1240-1301) và Giotto (1267-1337) tiến trình suy tàn mới đảo ngược. Theo Vasari, nghệ thuật cổ đại là trung tâm của sự tái sinh nghệ thuật Ý.
Tuy nhiên, chỉ tới thế kỷ XIX từ tiếng Pháp "Renaissance" mới phổ biến rộng rãi để mô tả phong trào văn hóa tự ý thức dựa trên việc làm sống lại những hình mẫu La Mã bắt đầu từ cuối thế kỷ XIII. Phục Hưng lần đầu tiên được định nghĩa bởi nhà sử học Pháp Jules Michelet (1798-1874) trong công trình "Histoire de France" (Lịch sử nước Pháp) của ông. Đối với Michelet, Phục Hưng là một sự phát triển về khoa học hơn là văn hóa nghệ thuật. Ông khẳng định rằng nó bao trùm thời kỳ từ Columbus tới Copernicus rồi Galileo; nghĩa là, từ cuối thế kỷ XV tới giữa thế kỷ XVII. Hơn nữa, Michelet phân biệt giữa cái mà ông gọi giữa tính chất "kỳ quái và gớm ghiếc" của thời Trung Cổ và các giá trị dân chủ mà ông, một người theo chủ nghĩa cộng hòa nhiệt thành, chọn như một đặc trưng của nó. Một người dân tộc chủ nghĩa Pháp, Michelet cũng tìm cách tuyên bố Phục Hưng là một phong trào của Pháp.
Trái lại, nhà sử học người Thụy Sĩ Jacob Burckhardt (1818–1897) trong cuốn "Die Cultur der Renaissance in Italien" (Về Văn hóa Phục Hưng ở Ý, 1860) mô tả Phục Hưng là giai đoạn giữa Giotto và Michelangelo ở Ý, tức là từ thế kỷ XIV tới giữa thế kỷ XVI. Ông nhìn thấy trong Phục Hưng sự xuất hiện của tinh thần hiện đại về cá nhân tính, thứ đã bị đè nén ở thời Trung Đại. Cuốn sách của ông có một ảnh hưởng đậm nét lên sự hình thành lối diễn giải ngày nay về Phục Hưng ở Ý. Tuy nhiên, nhiều người cáo buộc Buckhardt là đã áp đặt một cái nhìn tuyến tính đơn giản khi xem Phục Hưng là nguồn gốc của thế giới hiện đại.
Gần đây hơn, các nhà sử học ít còn theo đuổi chuyện định nghĩa Phục Hưng như một thời đại lịch sử, hay thậm chí một phong trào văn hóa mạch lạc. Randolph Starn, giáo sư sử học của Đại học California tại Berkeley, khẳng định: "Thay vì một giai đoạn với những điểm khởi đầu và kết thúc rõ ràng và nội dung nhất quán giữa chúng, Phục Hưng có thể (và trước kia đôi khi đã) được xem như một phong trào của các hành động và ý tưởng hướng tới những nhóm cụ thể và những con người có thể nhận diện được đáp ứng một cách đa dạng theo những thời điểm và không gian khác nhau. Theo nghĩa này nó sẽ là một mạng lưới những văn hóa đa dạng, đôi khi hội tụ, đôi khi mâu thuẫn, chứ không phải một nền văn hóa đơn nhất, gắn chặt về thời gian".
Các tranh cãi về tiến bộ.
Có một cuộc tranh cãi kéo dài từ lâu về mức độ tiến bộ mà Phục Hưng đã tạo nên đối với văn hóa Trung Đại. Cả Michelet và Burckhardt đều nhiệt liệt mô tả tiến bộ của thời Phục Hưng hướng tới hiện đại. Burckhardt ví sự thay đổi như việc gỡ một tấm mạng, dệt từ tín ngưỡng, ảo tưởng, thiên kiến, khỏi mắt con người để nhìn sự vật rõ hơn.
Trái lại, nhiều sử gia hiện nay chỉ ra rằng hầu hết những nhân tố xã hội tiêu cực gắn với thời Trung Đại - chẳng hạn đói nghèo, chiến tranh, khủng bố chính trị và tôn giáo - dường như đã tồi tệ hơn trong chính giai đoạn này. Rõ ràng Phục Hưng là thời đại của nền chính trị Machiavelli đầy thủ đoạn, các cuộc chiến tranh tôn giáo đẫm máu, các Giáo hoàng hủ bại nhà Borgia, và các cuộc săn phù thủy quy mô lớn thế kỷ XVI. Nhiều người sống trong thời Phục Hưng dường như không xem nó là "thời đại hoàng kim" như cách các nhà nghiên cứu thế kỷ XIX tưởng tượng, mà thay vào đó họ tỏ ra lo ngại về các vấn đề xã hội trên. Điều đáng ngạc nhiên là, bất chấp như vậy, các nghệ sĩ, nhà văn, và các nhà bảo trợ tham gia vào các phong trào văn hóa liên quan tin rằng họ đang sống trong một kỷ nguyên mới-một sự cắt đứt rõ ràng với đêm trường Trung Cổ. Một số nhà sử học Marxist có xu hướng mô tả thời Phục Hưng bằng ngôn ngữ duy vật, giữ quan điểm rằng những thay đổi trong nghệ thuật, văn học, và triết học là một phần của khuynh hướng kinh tế chung từ chế độ phong kiến hướng tới chủ nghĩa tư bản, hình thành một giai cấp tư sản với thời gian ư nhàn dành cho nghệ thuật.
Johan Huizinga (1872-1945) ghi nhận sự tồn tại của Phục Hưng nhưng đặt vấn đề liệu nó có là một thay đổi tích cực. Trong cuốn ""The Waning of the Middle Ages" (tạm dịch "Sự tàn tạ của thời Trung Cổ""), ông lập luận rằng Phục Hưng là một thời đại suy tàn từ thời đỉnh cao Trung Đại, phá hủy nhiều thành tựu quan trọng. Ví dụ, tiếng Latinh đã tiến hóa mạnh mẽ từ thời cổ điển và vốn là một sinh ngữ sử dụng trong và ngoài nhà thờ. Sự ám ảnh Phục Hưng với tính thanh khiết cổ điển của nó đã chấm dứt những tiến hóa tiếp theo và tiếng Latin quay trở về dạng thức cổ điển của nó. Robert S. Lopez quả quyết rằng đó là một thời kỳ suy thoái kinh tế nặng nề., còn George Sarton và Lynn Thorndike lập luận rằng những tiến bộ khoa học có lẽ ít độc đáo hơn là như trước nay vẫn quan niệm. Cuối cùng, Joan Kelly chỉ ra rằng Phục Hưng dẫn tới sự bất bình đẳng giới gia tăng.
Một số nhà sử học gần đây xem từ "Renaissance" đã bị nhồi nhét nội hàm không cần thiết, ngụ ý sẵn một sự tái sinh tích cực không tranh cãi từ một thời được gán cho là "nguyên thủy" hơn, đêm trường Trung Cổ. Nhiều chuyên gia hiện nay ưa dùng thuật ngữ "Sơ kỳ Hiện đại" thay cho Phục Hưng, một sự gọi tên trung hòa hơn ngụ ý về vai trò của giai đoạn này như một sự chuyển tiếp giữa thời trung đại và hiện đại. Những người khác như Roger Osborne đi tới chỗ xem xét nền Phục Hưng Ý như một kho huyền thoại và lý tưởng của lịch sử Tây phương nói chung, và thay vào một sự tái sinh của các ý tưởng cổ đại là một thời đại của những tiến bộ lớn lao.
Các cuộc Phục hưng văn hóa khác.
Từ Phục Hưng châu Âu, thuật ngữ "Phục Hưng" được sử dụng cho các thời đại khác. Chẳng hạn, Charles H. Haskins đặt ra khái niệm Phục Hưng thế kỷ XII (thời Trung kỳ Trung Đại), trong khi một số người khác biện luận về sự tồn tại của Phục Hưng Karolinger (ở vương quốc Frank), hoặc sau đó là Phục Hưng Otto (ở Đế quốc La Mã Thần thánh). Tên này cũng dùng cho những phong trào văn hóa gần thời hiện đại hơn như Phục Hưng Bengal, Phục Hưng Nepal Bhasa, Phục Hưng Harlem. Trong cuốn "Renaissances: The One or the Many?", tác giả Jack Goody biện luận rằng có Phục Hưng châu Âu nằm trong một sự phục hưng văn hóa rộng khắp trên thế giới ở các miền Hồi giáo và Trung Quốc đương thời và giữa chúng có giao thoa với nhau.
|
Donald Ervin Knuth (sinh ngày 10 tháng 1, năm 1938) là một nhà khoa học máy tính nổi tiếng hiện đang là giáo sư danh dự tại Đại học Stanford.
Knuth được biết đến nhiều nhất là tác giả của bộ sách "Nghệ thuật lập trình máy tính" ("The Art of Computer Programming", TAOCP), một trong những sách tham khảo được coi trọng nhất trong ngành khoa học máy tính. Ông được trao giải Turing năm 1974 cho bộ sách này. Ông đã tạo ra ngành phân tích thuật toán và đã đem lại nhiều cống hiến nền tảng cho ngành khoa học máy tính lý thuyết. Ông đã tạo ra hệ thống sắp chữ TEX và hệ thống phát họa phông chữ METAFONT, và cũng là người khởi xướng khái niệm lập trình học thức ("literate programming").
Nền tảng giáo dục và hoạt động học thuật.
Sinh ra tại Milwaukee, Wisconsin, ông nhận bằng cử nhân và thạc sĩ ngành Toán học năm 1960 tại Học viện Kỹ thuật Case (nay là một phần của trường Đại học Bách khoa Case Western). Năm 1963, ông lấy bằng tiến sĩ Toán tại Học viện Kỹ thuật California, nơi ông trở thành giáo sư và bắt đầu viết cuốn "Nghệ thuật lập trình máy tinh", thoạt tiên được dự tính là một bộ bảy tập. Năm 1968, ông xuất bản tập thứ nhất. Cùng năm đó, ông vào dạy tại trường Stanford.
Năm 1971, ông là người đầu tiên nhận giải Grace Murray Hopper do Hiệp hội Máy tính (ACM) trao tặng. Ông đã nhận được nhiều giải khác, trong đó có giải Turing, Huy chương Khoa học Quốc gia, Huy chương John von Neumann, và giải Kyoto. Sau khi xuất bản tập thứ ba của bộ sách mình, ông tỏ vẻ bực tức với các dụng cụ xuất bản cổ lỗ sĩ của thời đó và tự tay tạo ra các dụng cụ TEX và METAFONT.
Vì các đóng góp của ông vào lĩnh vực khoa học máy tính, trong năm 1990 ông được tặng chức vị đặc biệt "Giáo sư Nghệ thuật lập trình máy tính" và sau này được đổi thành "Giáo sư danh dự Nghệ thuật lập trình máy tính".
Năm 1992 ông trở thành một thành viên trong Viện Hàn lâm Khoa học Pháp. Trong năm đó ông ngừng giảng dạy và nghiên cứu tại Đại học Stanford để hoàn tất bộ "Nghệ thuật Lập trình Máy tính". Năm 2003 ông được bầu vào Học hội Hoàng gia Anh (Royal Society). Đến năm 2004, ba quyển đầu của bộ sách của ông đã được tái bản, và ông đang viết cuốn thứ tư, bản thảo được thường xuyên cập nhật trên trang web của ông. Trong thời gian này, mỗi năm ông có những buổi diễn giảng không chính thức tại Đại học Stanford. Ông cũng là giáo sư thỉnh giảng tại Phòng thực nghiệm tính toán của Đại học Oxford, vương quốc Anh.
Ngoài những tác phẩm về Khoa học máy tính, Knuth cũng là tác giả của cuốn "3:16 Bible Texts Illuminated (1991)", ISBN 0-89579-252-4, trong đó ông cố gắng nghiên cứu Kinh Thánh bằng phương pháp lấy mẫu phân tầng ngẫu nhiên, tức là phân tích dòng 16, chương 3 trong mỗi quyển kinh. Mỗi dòng này được đi kèm với một minh họa bằng nghệ thuật viết chữ do nhóm các nhà thư pháp đứng đầu là Hermann Zapf đóng góp.
Tính hài hước của Knuth.
Knuth là người lập trình nổi tiếng và được biết đến cả trong tính hài hước.
Một trong các sở thích riêng của Knuth là chơi nhạc, đặc biệt là chơi đàn ống. Trong nhà ông có một cái đàn ống. Knuth phủ nhận việc mình có tài năng trong nhạc cụ.
Ông không dùng thư điện tử và nói rằng ông sử dụng nó từ khoảng năm 1975 đến tận tháng 1 năm 1990 và như thế là đã quá đủ cho một cuộc đời. Ông cảm thấy việc trả lời thư theo "chế độ lô" hiệu quả hơn, ví dụ chọn ra một ngày trong ba tháng để gửi thư theo đường bưu điện.
Vợ ông là Jill Knuth viết một cuốn sách nghi thức tế lễ với tiêu đề "Biểu ngữ không lời" được xuất bản bởi Resource Publications vào năm 1986. Họ có hai con.
Ông là thành viên hội bằng hữu Theta Chi.
Knuth sử dụng chương trình soạn thảo Emacs.
Ông có một tên Trung Quốc 高德納 (âm Hán Việt: Cao Đức Nạp; bính âm: Gāo Dénà), do Frances Yao đặt năm 1977 ngay trước chuyến thăm đầu tiên của ông tới Trung Quốc.
Danh sách ngắn các tác phẩm của ông:
|
ISBN (viết tắt của "International Standard Book Number", Mã số tiêu chuẩn quốc tế cho sách) là mã số tiêu chuẩn quốc tế có tính chất thương mại duy nhất để xác định một quyển sách. Hệ thống ISBN được tạo ở Anh năm 1966 bởi các nhà phân phối sách và văn phòng phẩm W H Smith cùng bạn bè, ban đầu được gọi là "Standard Book Numbering" (mã số tiêu chuẩn cho sách) hay SBN. Sau đó được công nhận quốc tế theo tiêu chuẩn ISO 2108 năm 1970. Một dạng định dạng tương tự, "International Standard Serial Number" (mã số tiêu chuẩn quốc tế cho tạp chí) hay ISSN, được dùng cho các ấn phẩm định kỳ như tạp chí.
Mỗi bản sao và mỗi thay đổi (trừ khi in lại) của một quyển sách sẽ có số ISBN riêng. Số đó có thể có 10 số tự (kiểu cũ) hoặc 13 số tự (kiểu mới, áp dụng với mã vạch), gồm 4 hay 5 phần.
Các phần khác nhau có độ dài khác nhau và thường nối với nhau bằng các gạch ngang. Gạch ngang không nhất thiết phải có, tuy nhiên, vì mã đầu cần dùng để chắc chắn không có 2 số bắt đầu bằng cùng một kiểu. Nếu hiện diện, gạch ngang phải đặt đúng (quy tắc có ở đây . Tuy nhiên chúng không đủ vì các cơ quan có thẩm quyền khác nhau chịu trách nhiệm cấp và thực hiện các khoảng số ISBN khác nhau. Ngay tại trang của
Mã nước (hay mã ngôn ngữ) 0 và 1 được dùng cho các nước dùng tiếng Anh; 2 cho các nước dùng tiếng Pháp; 3 cho tiếng Đức (Số SBN ban đầu thiếu mã nước, nhưng tiền tố 0 đến 9 tạo nên số ISBN hoàn chỉnh). Mã nước có thể tới 5 chữ số, ví dụ 99936 cho Bhutan. Xem danh sách hoàn chỉnh .
Số của nhà xuất bản được đặt theo cơ quan ISBN của nước đó và số thứ tự được chọn bởi nhà phát hành sách. Không nhất thiết là các sản phẩm của nhà xuất bản phải có số ISBN, nhưng có ngoại lệ đối với Trung Quốc. Tuy nhiên có nhiều nhà sách chỉ phân phối các sản phẩm mang số ISBN.
Nhà phát hành nhận một cụm số ISBN cho các sản phẩm nhưng khi dùng hết thì được nhận thêm các số ISBN khác, vì thế một nhà phát hành có thể có nhiều số ISBN.
Tổ chức ISBN quốc tế trong hướng dẫn chính thức của mình thông báo rằng số tự thứ 10 của chuỗi số ISBN là số kiểm tra, nó là số tự cuối cùng của chuỗi số ISBN với 10 số tự, được tính toán theo phép chia cho 11 với các trọng số từ 10 đến 2, sử dụng X thay cho 10 trong trường hợp 10 là số kiểm tra. Điều này có nghĩa là mỗi số trong 9 số đầu tiên của chuỗi ISBN với 10 số tự – ngoại trừ số kiểm tra – được nhân lên theo các số theo trật tự từ 10 đến 2 và lấy tổng của các phép nhân này, cộng thêm với số kiểm tra, phải chia hết cho 11.
Ví dụ, tính số kiểm tra cho chuỗi số ISBN 10 số mà 9 chữ số đầu tiên là 0-306-40615 được thực hiện như sau:
10×0 + 9×3 + 8×0 + 7×6 + 6×4 + 5×0 + 4×6 + 3×1 + 2×5
= 0 + 27 + 0 + 42 + 24 + 0 + 24 + 3 + 10
Số nhỏ nhất cần thêm vào để có thể chia hết cho 11 là 2, do 132/11 = 12 và không có dư.
Vì thế số kiểm tra là 2, và chuối số hoàn chỉnh là ISBN 0-306-40615-2.
Phương pháp thứ hai để tìm số kiểm tra được thực hiện như sau, lấy mỗi số trong 9 số đầu nhân với số chỉ vị trí của nó (từ 1 đến 9). Lấy tổng của các phép nhân và tính số dư trong phép chia cho 11, nếu là "10" thì thay bằng ký tự "X". Ví dụ, để tìm số kiểm tra cho số ISBN 10 số có 9 chữ số đầu tiên là 0-306-40615:
1×0 + 2×3 + 3×0 + 4×6 + 5×4 + 6×0 + 7×6 + 8×1 + 9×5
= 0 + 6 + 0 + 24 + 20 + 0 + 42 + 8 + 45
= 13×11 + 2
Vì thế số kiểm tra bằng 2, và chuỗi số hoàn chỉnh là ISBN 0-306-40615-2.
Do 11 là số nguyên tố, mô hình này đảm bảo là các sai sót duy nhất (trong dạng của số bị biến đổi hay các số bị đảo chỗ) có thể được phát hiện ra.
Sử dụng định dạng EAN trong các mã vạch và kế hoạch nâng cấp.
Hiện nay, các mã vạch được tìm thấy trên bìa sau của sách (hoặc bên trong trên trang bìa đầu tiên của các ấn phẩm khác) là EAN-13; chúng cũng có thể là "Bookland"— điều đó có nghĩa là, với mã vạch riêng biệt thì người ta mã hóa 5 số cho loại hình tiền tệ và giá bán lẻ được đề nghị. Mô tả chi tiết về định dạng EAN-13 có ở đây hoặc xem EAN-13. "978", mã sử dụng cho các loại sách, được dành cho ISBN trong các dữ liệu về mã vạch, và số kiểm tra được tính toán lại theo công thức của EAN-13 (chia cho 10, các trọng số là 1 và 3 cho các số khác nhau).
Vì sự thiếu hụt trong các thể loại ISBN nào đó, ISO đã yêu cầu chuyển đổi sang hệ thống ISBN với 13 số tự, bắt đầu từ ngày 1 tháng 1 năm 2005 và công việc này cần kết thúc vào ngày 1 tháng 1 năm 2007. Việc dịch chuyển này cũng làm cho hệ thống ISBN phù hợp với hệ thống mã vạch UPC. Ở đây là tài liệu về các câu hỏi thường gặp về thay đổi này. Hệ thống ISBN đang có sẽ được gắn tiền tố "978" (và số kiểm tra phải tính lại); khi các ISBN với "978" bị hết thì sử dụng tiền tố "979". Điều này hiện đang diễn ra nhanh chóng ngoài nước Mỹ. Lưu ý rằng các mã xác định nhà xuất bản là không chắc chắn sẽ giống như là các mã trong các ISBN 978 và 979.
Cho đến khi các ISBN với 13 số tự mới sẽ được đồng nhất theo định dạng mã vạch của EAN cho bất kỳ một ISBN với 10 số tự nào thì quá trình này sẽ không phá vỡ tính tương thích với bất kỳ một hệ thống mã vạch nào hiện đang tồn tại. Điều này có nghĩa là nó sẽ cho phép các nhà bán sách sử dụng một hệ thống đánh số duy nhất cho cả sách lẫn các sản phẩm không phải là sách mà không phá hỏng sự tương thích với các thông tin dựa trên ISBN cũ, với một chi phí tối thiểu cho các hệ thống công nghệ thông tin của họ. Vì lý do này, nhiều nhà bán sách, như Barnes Noble, đã chọn lựa việc bắt đầu loại bỏ việc sử dụng ISBN cũ để chuyển sang sử dụng các mã EAN từ tháng 3 năm 2005.
ISBN và kiểm duyệt sách tại Trung Quốc.
ISBN được sử dụng như là phương tiện kiểm duyệt sách tại Trung Quốc. Để có thể in ấn hợp pháp sách thì chúng phải có số ISBN, nó được trao theo từng khối các số cho các nhà in quốc doanh. Tuy nhiên, kể từ những năm 1990, phương thức kiểm duyệt này trở nên ít hiệu quả hơn do các nhà in quốc doanh, giống như các xí nghiệp quốc doanh khác, đã không còn nhận được sự trợ cấp của nhà nước, sẽ bán các số ISBN cho những người trả giá cao nhất mà không cần quan tâm đến nội dung của sách được in ra.
|
Xã hội học là khoa học về các quy luật và tính quy luật xã hội chung, và đặc thù của sự phát triển và vận hành của hệ thống xã hội xác định về mặt lịch sử; là khoa học về các cơ chế tác động và các hình thức biểu hiện của các quy luật đó trong các hoạt động của cá nhân, các nhóm xã hội, các giai cấp và các dân tộc.
Xã hội học là môn khoa học xã hội còn rất non trẻ, mặc dù vậy nó cũng có một lịch sử phát triển riêng biệt. Trước thế kỷ XIX, xã hội học chưa tồn tại như một môn khoa học độc lập mà bị hòa tan vào trong các khoa học khác như nhân chủng học, dân tộc học, nhân học, tâm lý học, tâm lý học xã hội và đặc biệt là triết học - môn khoa học của mọi khoa học.
Xã hội học xuất hiện ở châu Âu thế kỷ XIX với tư cách là một tất yếu lịch sử xã hội. Tính tất yếu đó thể hiện ở nhu cầu và sự phát triển chín muồi các điều kiện và tiền đề biến đổi và nhận thức đời sống xã hội. Các biến động to lớn trong đời sống kinh tế, chính trị và xã hội châu Âu vào thế kỷ XVIII và nhất là thế kỷ XIX đã đặt ra những nhu cầu thực tiễn mới đối với nhận thức xã hội.
Bắt đầu từ thế kỷ XVIII, đời sống xã hội ở các nước châu Âu trở nên hết sức phức tạp. Cuộc cách mạng công nghiệp 1750 đã đưa đến những đảo lộn ghê gớm. Chủ nghĩa tư bản đã tạo ra những đô thị công nghiệp khổng lồ gây nên những làn sóng chuyển dịch dân cư lớn, kèm theo đó là những mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn dân tộc, mâu thuẫn tôn giáo căng thẳng, các quan hệ xã hội ngày càng thêm đa dạng và phức tạp. Xã hội rơi vào trạng thái biến động không ngừng: chiến tranh, khủng hoảng kinh tế, xung đột chính trị, suy thoái đạo đức, phân hoá giàu nghèo, bùng nổ dân số, các thiết chế cổ truyền tan rã hàng loạ, xã hội ở châu Âu đã đặt ra câu hỏi lý luận cơ bản của xã hội học. Đó là vấn đề làm thế nào phát hiện và sử dụng các quy luật tổ chức xã hội để góp phần tạo ra trật tự và tiến bộ xã hội. Các nhà triết học, các nhà khoa học xã hội thế kỷ XVIII và thế kỷ XIX khát khao nghiên cứu các hiện tượng, quá trình xã hội để phát hiện ra các quy luật tự nhiên của tổ chức xã hội, đặc biệt là "các quy luật của sự phát triển, tiến bộ xã hội". Trước tình hình như thế, xã hội nảy sinh một yêu cầu cấp thiết là cần phải có một ngành khoa học nào đó đóng vai trò tương tự như một bác sĩ luôn luôn theo dõi cơ thể sống - xã hội tiến tới giải phẫu các mặt, các lĩnh vực khác nhau trên bề mặt cắt của nó từ tầm vĩ mô đến vi mô, kể cả khi xã hội đó thăng bằng cũng như khi mất thăng bằng để chỉ ra trạng thái thật của xã hội đó, phát hiện ra những vấn đề xã hội ("social problems"), dự báo khuynh hướng phát triển của xã hội, và chỉ ra những giải pháp có tính khả thi.
Tại Châu Âu xuất hiện các cuộc cách mạng chính trị làm thay đổi sâu sắc xã hội và có ảnh hưởng lên toàn thế giới. Cuộc đại cách mạng Pháp năm 1789, làm biến đổi chính trị, xã hội quan trọng góp phần làm thay đổi căn bản thể chế chính trị, trật tự xã hội và các thiết chế xã hội châu Âu thế kỷ XVIII. Cuộc cách mạng này đã không chỉ mở đầu cho thời kỳ tan rã chế độ phong kiến, nhà nước quân chủ mà còn thay thế trật tự cũ đó bằng một trật tự chính trị xã hội mới là "nhà nước tư sản". Công xã Paris năm 1871 - mâu thuẫn sâu sắc về lợi ích giữa các tầng lớp xã hội và nhất là giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản đã lên đến đỉnh điểm làm bùng nổ cuộc cách mạng vô sản đầu tiên trên thế giới vào cuối thế kỷ XIX; và sau này là cuộc cách mạng tháng Mười Nga năm 1917.
Tiền đề lý luận và phương pháp luận làm nảy sinh xã hội học bắt nguồn từ những tư tưởng khoa học và văn hóa thời đại Phục Hưng thế kỷ XVIII (thời kỳ Khai sáng). Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và đặc biệt là phương pháp luận nghiên cứu khoa học cũng là nhân tố quan trọng cho sự ra đời "xã hội học". Các cuộc cách mạng khoa học diễn ra ở thế kỷ XVI, XVII và đặc biệt là thế kỷ XVIII đã làm thay đổi căn bản thế giới quan và phương pháp luận khoa học. Các cuộc cách mạng thương mại và công nghệ cuối thế kỷ XVIII đã làm lay chuyển tận gốc trật tự kinh tế cũ tồn tại và phát triển hàng trăm năm trước đó. Hình thái kinh tế xã hội phong kiến bị sụp đổ từng mảng lớn trước sự bành trướng của thương mại và công nghiệp. Sự tác động của tự do hóa thương mại, tự do hóa sản xuất và đặc biệt là tự do hóa lao động; hệ thống tổ chức quản lý kinh tế theo kiểu truyền thống đã bị thay thế bằng cách tổ chức xã hội hiện đại. Do vậy, thị trường đã được mở rộng, hàng loạt nhà máy, xưởng và tập đoàn kinh tế đã ra đời thu hút nhiều lao động từ nông thôn ra thành thị làm thuê. Của cải, đất đai, tư bản không còn tập trung trong tay tầng lớp phong kiến mà rơi vào tay giai cấp tư sản. Sự xuất hiện và phát triển hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa đã phá vỡ trật tự xã hội phong kiến gây những xáo trộn và biến đổi trong đời sống kinh tế xã hội của các tầng lớp, giai cấp và các nhóm xã hội. Từ đó nảy sinh nhu cầu thực tiễn phải lập lại trật tự, ổn định xã hội và nhu cầu nhận thức để giải quyết những vấn đề mới mẻ nảy sinh từ cuộc sống đang biến động đó. Trong bối cảnh đó, "Xã hội học" đã ra đời để đáp ứng nhu cầu nhận thức các biến đổi xã hội và lập lại trật tự xã hội.
Sau khi ra đời, xã hội học đã phát triển rực rỡ và có được những bước tiến dài trong việc xây dựng nền tảng cũng như các phân ngành xã hội học ở các nước công nghiệp phát triển. Có thể nói những thành tựu to lớn mà các nước công nghiệp phát triển đạt được là có sự đóng góp đáng kể của ngành khoa học xã hội học. Ngày nay, xã hội học đã có mặt ở hầu khắp các nước trên thế giới và chiếm một vị trí xứng đáng trong hệ thống lý thuyết cũng như ứng dụng. Nó được coi là môn khoa học phát triển. Rất nhiều trường phái xã hội học hiện đai nổi tiếng có ảnh hưởng lớn trên thế giới. Chẳng hạn như trường phái lý thuyết hệ thống của Talcott Parsons (Đại học Harvard), trường phái xã hội học đô thị (Đại học Chicago), trường phái xã hội học tội phạm (Đại học Michigan), trường phái lý thuyết tương tác biểu tượng (Đại học Chicago)...
Những người sáng lập.
Thuật ngữ "Xã hội học" ("sociology") bắt nguồn từ gốc chữ latin: Societas (xã hội) và chữ Hy Lạp: Lógos (ngôn từ, học thuyết). Khái niệm này được chính A. Comte xây dựng và đưa vào hệ thống tri thức khoa học lần đầu tiên vào năm 1838. Ông là nhà vật lý học, toán học, thiên văn học và triết học người Pháp. Ông nổi tiếng về "quy luật ba trạng thái" nhằm giải thích sự vận động và phát triển của xã hội. Ông chia xã hội ra thành hai phần "tĩnh học xã hội" ("statical society") và "động học xã hội" ("dynamic society"). Ông cũng đúc kết ra lý thuyết "nhận thức thực chứng" khởi đầu cho xã hội học thực nghiệm. Ông được coi không chỉ là người đặt tên mà còn thực sự đặt những viên gạch lý thuyết đầu tiên cho ngành khoa học này.
Các tác phẩm chính của ông là: "Giáo khoa về triết học thực chứng" (1830-1842), "Hệ thống xã hội thực chứng" (1851-1858)
Nhà triết học, kinh tế học người Đức. Lúc sinh thời Karl Marx không coi mình là nhà xã hội học, nhưng những tư tưởng trong di sản đồ sộ của ông đã ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành và phát triển của xã hội học. Dường như tất cả các nhà xã hội học hiện đại khi giải thích xã hội đều tiếp cận bằng lý thuyết mâu thuẫn và xung đột của K. Marx. Các nhà xã hội học ""đều vay mượn của Marx các lý giải về giai cấp, ngay cho dù nhà xã hội học đó kết thúc bằng cách bài bác Marx như là sai lầm và bị lịch sử vượt qua". Marx viết "Lịch sử tất cả các xã hội tồn tại từ trước đến ngày nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấ, hoặc bằng sự diệt vong của hai giai cấp đấu tranh với nhau"". K.Marx chủ yếu sử dụng lý thuyết mâu thuẫn để làm sáng tỏ biến chuyển xã hội. Đó là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa các giai cấp cơ bản kiến tạo nên xã hội. Các vấn đề như: phân tầng xã hội, tội phạm, biến chuyển xã hộ
Các tác phẩm chính: "Gia đình thần thánh" (1845), "Hệ tư tưởng Đức" (1846), "Sự khốn cùng của triết học" (1847), "Tư bản" (1875).
Nhà triết học và xã hội học người Anh. Ông được coi là cha đẻ của triết học tiến hóa. Herbert Spencer đã dùng lý thuyết này để giải thích sự biến đổi xã hội. Mặc dù một vài quan điểm của ông bị phê phán nhưng vai trò của ông vẫn có những ảnh hưởng lớn tới các nhà xã hội học hậu thế.
Các tác phẩm chính: "Thống kê xã hội" (1950), "Nghiên cứu xã hội học" (1837), "Các nguyên tắc của xã hội học" (1876), "Xã hội học mô tả" (1873-1881).
Nhà xã hội học nổi tiếng được coi là cha đẻ của xã hội học Pháp. Ông là người lập ra chuyên ngành xã hội học ở trường Đại học Bordeaux và ở Đại học Sorbonne của Paris. Các nhà xã hội học trên thế giới ngày nay đều ảnh hưởng rất nhiều lối tiếp cận cấu trúc-chức năng của ông. E. Durkheim đã cố gắng tách các sự kiện, hiện tượng xã hội ra khỏi sự chi phối của con người và yêu cầu xem xét chúng như các "vật thể" để không áp đặt vào chúng những định kiến đã có sẵn. Ông cũng là người sáng lập ra "Niên giám xã hội học" nhằm tập hợp các công trình khoa học của các nhà xã hội học đương thời. Ông là người có công lao rất lớn trong việc hình thành và phát triển ngành xã hội học hiện đại.
Các tác phẩm chính: "Phân công lao động xã hội" (1893), "Các quy tắc của phương pháp xã hội học" (1897), "Tự tử" (1897), "Các hình thức cơ bản của đời sống tôn giáo" (1912).
Emile Durkheim đã phát biểu rằng: cuối cùng thì nhà xã hội học phải chẩn đoán xem xã hội ở trong tình trạng "khỏe mạnh" hay "bệnh tật" và sau đó nhà xã hội học phải kê đơn những loại thuốc cần cho sức khỏe của xã hội. Và mãi cho đến nửa sau của thế kỷ XIX, xã hội học mới xuất hiện với tư cách là một môn khoa học độc lập có đối tượng, chức năng và phương pháp riêng biệt.
Nhà xã hội học Đức, được coi là một trong những nhà xã hội học lớn nhất đầu thế kỷ XX. Lĩnh vực được ông chú ý nhiều là hành động xã hội. Ngoài ra, Max Weber còn dành khá nhiều thì giờ nghiên cứu về đạo Tin lành, về tổ chức quan liêu, về sự phát triển của chủ nghĩa tư bả
Các tác phẩm chính: "Những tiểu luận phương pháp luận" (1902), "Nền đạo đức Tin lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản" (1904 - 1905), "Kinh tế và xã hội" (1910-1914), "Xã hội học tôn giáo" (1916).
Đối tượng và chức năng.
Đối tượng nghiên cứu.
Xã hội học là gì? Một câu hỏi không dễ trả lời trong một định nghĩa ngắn gọn. Các cuộc tranh luận dữ dội về vấn đề này đã tạm lắng dịu. Các nhà xã hội hội học đều cảm thấy có lý rằng "đơn giản là không có một xã hội học được duy nhất thừa nhận và cung cấp được tất cả các câu trả lời" vì "do không có kiểu phát triển duy nhất của xã hội cho nên không thể có quan điểm xã hội học duy nhất". Các nhà xã hội học đương đại đi tìm câu trả lời cho các câu hỏi như: xã hội học nghiên cứu cái gì?, nghiên cứu những lĩnh vực nào của đời sống xã hội?, và nghiên cứu nó như thế nào?
Trước hết xã hội học nghiên cứu mặt xã hội của xã hội. Nhưng mặt xã hội đó lại là đối tượng nghiên cứu chung của nhiều ngành khoa học khác nhau. Chẳng hạn nó là đối tượng của khoa học kinh tế khi nghiên cứu về sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng vật chất, hoặc nó trở thành đối tượng của khoa học chính trị khi nghiên cứu về quyền lực, nó là đối tượng của khảo cổ học khi nghiên cứu những gì còn lại của những nền văn minh đã mấ"xã hội học là khoa học nghiên cứu chủ yếu về các khuôn mẫu của các tương tác con người trong xã hội (social interactions)". Các tương tác đó diễn ra trong trường quan hệ xã hội giữa các chủ thể xã hội (cá nhân, nhóm, cộng đồng, xã hội tổng thể) diễn ra trong các hoạt động xã hội (sản xuất, văn hóa, tái sản sinh xã hội, quản lý, giao tiếp). Để nghiên cứu được những điều đó, xã hội học phải bắt đầu từ các sự kiện, hiện tượng và quá trình xã hội. Trên cơ sở đó nhằm nắm bắt cho được trạng thái chất lượng của xã hội ở tầm vĩ mô hay vi mô, ở bề mặt cắt hay tầng sâu tiềm ẩn, ở một thời gian cụ thể và trong một không gian xác định với mục đích là thay đổi trạng thái đó theo chiều hướng có lợi hơn và tiến bộ hơn. Như thế nếu xã hội học sử dụng kết quả của khảo cổ học hay dân tộc học khi nghiên cứu quá khứ, thì cũng là để phục vụ cho việc nắm bắt trạng thái xã hội đương đại. Tương tự như thế, xã hội học có thể liên kết chặt chẽ với tâm lý xã hội, nhân chủng học, kinh tế học hay luật học thì mục tiêu cuối cùng hướng đến cũng là đi tìm về một trang thái xã hội hiện thực nào đó.
Mỗi một môn khoa học đều có một số chức năng nhất định. Chức năng của mỗi môn khoa học được phản ánh ở mối quan hệ và sự tác động qua lại của chính môn khoa học đó với thực tiễn xã hội. Xã hội học có sáu chức năng cơ bản sau đây:
A. Chức năng nhận thức. Xã hội học cũng giống như các môn khoa học khác là trang bị cho người nghiên cứu môn học những tri thức khoa học mới, nhờ đó mà chúng ta có được nhãn quan mới mẻ hơn khi tiếp cận tới các hiện tượng xã hội, sự kiện xã hội và quá trình xã hội vốn rất gần gũi rất quen thuộc quanh chúng ta, và như thế xã hội hiện ra dưới mắt chúng ta sáng rõ hơn mà trước đó chúng ta chưa bao giờ được biết đến hoăc biết đến rất ít.
B. Chức năng tư tưởng. Xã hội học giúp chúng ta nhận thức đầy đủ sức mạnh và vị trí của con người trong hệ thống xã hội, góp phần nâng cao tính tích cực xã hội của cá nhân và hình thành nên tư duy khoa học trong khi xem xét, phân tích, nhận định, dự báo về các sự kiện, hiện tượng và quá trình xã hội.
C. Chức năng dự báo. Trên cơ sở nhận diện được hiện trạng xã hội thực tại và sử dụng các lý thuyết dự báo, các nhà xã hội học sẽ mô tả được triển vọng vận động của xã hội trong tương lai gần cũng như tương lai xa hơn. Dự báo xã hội là một thế mạnh của xã hội học. Có thể nói trong tất cả các môn khoa học xã hội thì xã hội học có chức năng dự báo mạnh nhất và hiệu quả nhất.
F. Chức năng thực tiễn. Xã hội học thực sự góp một phần hết sức quan trọng vào việc cải biến hiện thực. Auguste Comte cha đẻ của ngành khoa học này ngay từ lúc sơ khai đã nhấn mạnh chức năng cải tạo xã hội của nó mà ông tóm tắt trong mệnh đề rất nổi tiếng ""Biết dự đoán, biết kiểm soát". Còn các nhà xã hội học Anh cũng đã khẳng định "Xã hội học không chỉ đơn thuần là một ngành khoa học lý giải và phân tích đời sống xã hội, mà còn là phương tiện thay đổi xã hội". Marx thì cho rằng "Các nhà triết học cho tới nay mới chỉ giải thích thế giới. Vấn đề là biến đổi thế giới". Các nhà xã hội học cho rằng nếu như họ kém cỏi đến mức không làm được cái gì cả thì chí ít "những dữ liệu của họ cũng thường được sử dụng để xây dựng các chính sách". Xã hội học không phải là khoa học nghiên cứu hoạt động quản lý, nhưng các hoạt động quản lý kể cả quản lý kinh tế, hành chính hay nhân sự chỉ trở nên tối ưu khi mà biết sử dụng tốt các kết luận, nhận định và dự báo của xã hội học. Các phương pháp, các kỹ thuật thao tác, các cách thức tiếp cận xã hội của xã hội học được các ngành khoa học khác nhau cũng như các lĩnh vực khác nhau của kinh tế, chính trị, văn hó, hay các phương pháp điều tra của xã hội học được ứng dụng vào việc thăm dò nhu cầu, thị hiếu khách hàng trong marketing. Do vậy "xã hội học sẽ làm một công cụ hữu hiệu để cho con người có thể xây dựng cho mình một xã hội tốt đẹp hơn".
Xã hội học ở Việt Nam.
Việt Nam ban đầu xây dựng nền khoa học xã hội mà chủ yếu theo mô hình của Liên Xô, không coi trọng ngành xã hội học. GS Phạm Đức Dương cho biết nguyên nhân: "Đối với phe xã hội chủ nghĩa, ngành Xã hội học không được mấy quan tâm bởi nhẽ người ta coi đó là một ngành khoa học theo quan điểm và phương pháp tiếp cận tư bản chủ nghĩa, đối lập với chủ nghĩa duy vật lịch sử Marxist. Thật ra bộ máy tập trung quan liêu của mô hình xã hội chủ nghĩa trước đây không ưa gì Xã hội học"". Cho nên đến những năm đầu thập niên 1970, Xã hội học vẫn còn là một ngành khoa học khá xa lạ trong nền khoa học xã hội Việt Nam. Sau đó do nhận thức được sự quan trọng của ngành Xã hội học, nên vào năm 1977, Ban Xã hội học thuộc Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam được thành lập do ông Vũ Khiêu làm Trưởng ban. Đây là cơ quan chuyên môn xã hội học đầu tiên được xây dựng trong Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam.
|
Mùa là sự phân chia của năm, dựa trên sự thay đổi chung nhất theo chu kỳ của thời tiết, sinh thái và số giờ ánh sáng ban ngày trong một khu vực nhất định. Trên Trái đất, các mùa là kết quả của quỹ đạo Trái đất xung quanh Mặt trời và độ nghiêng trục của Trái đất so với mặt phẳng ecliptic. Trong các khu vực ôn đới và vùng cực nói chung có bốn mùa rõ rệt: "xuân", "hạ" (hè), "thu" và "đông". Trong một số khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới thì có thể người ta chỉ chia thành hai mùa là mùa mưa và mùa khô, dựa trên lượng mưa có sự thay đổi đáng kể hơn so với sự thay đổi của nhiệt độ. Trong một số khu vực khác của vùng nhiệt đới thì lại có sự phân chia thành ba mùa: mùa nóng, mùa mưa và mùa lạnh. Người Ai Cập cổ đại còn chia một năm thành ba mùa, Aklet, là mùa ngập lụt, mùa cày cấy và gieo hạt, và Stem là mùa thu hoạch mùa màng.
Một số dân tộc bản xứ ở Lãnh thổ Bắc của Úc sử dụng sáu mùa, trong khi người Sami (thổ dân) của vùng Scandinavia thừa nhận không ít hơn 8 mùa.
Ở khu vực Melbourne của miền đông nam nước Úc, tiến sĩ Beth Goth từ "Monash School of Biological sciences" (Trường Sinh học Monash) đã biên soạn các tài liệu của một số các đồng nghiệp, là những người đang quảng cáo cho mô hình 6 mùa đối với khu vực này.
Trên đảo Vancouver ngoài bờ biển phía tây của Canada, John Neville - một nhà nghiên cứu thiên nhiên và một nhà văn nổi tiếng - tin rằng phần phía đông của đảo này có mùa trước mùa xuân trên thực tế ("de facto") trong khoảng thời gian giữa mùa đông và mùa xuân. Mùa xuân đang đến dần trong tháng 2 thỉnh thoảng bị ngắt quãng bởi những trận tuyết rơi ngắn ngày làm cho thời kỳ tháng 2-3 có đặc trưng của một mùa lai tạp, nó không phải mùa đông mà cũng chẳng phải mùa xuân.
Trong một số khu vực của thế giới, các "mùa" đặc biệt được định nghĩa một cách khá lỏng lẻo dựa theo các sự kiện tự nhiên như mùa bão, mùa lốc xoáy, hay mùa cháy rừng.
Trên một số hành tinh trong Hệ Mặt Trời, cũng có hiện tượng thời tiết thay đổi tuần hoàn theo chu kỳ quay quanh Mặt Trời, cũng gọi là mùa; cùng nguyên nhân là độ nghiêng trục quay so với mặt phẳng quỹ đạo.
Nguyên nhân chủ yếu của các mùa là trục tự quay của Trái Đất hay hành tinh nói chung là không vuông góc (nghiêng) với mặt phẳng quỹ đạo của nó quanh Mặt Trời. Với trục Trái Đất, hiện nay (kỷ nguyên J2000) nó nghiêng một góc khoảng 23.439 độ. Vì thế, tại bất kỳ thời điểm nào trong năm, một phần của bề mặt hành tinh là xoay trực tiếp hơn về phía các tia nắng từ Mặt Trời (xem "Hình. 1").
Sự xoay này sẽ lần lượt thay đổi khi Trái Đất hay hành tinh chuyển động trên quỹ đạo của nó xung quanh Mặt Trời. Tại thời điểm bất kỳ, không phụ thuộc vào mùa, các bán cầu bắc và nam sẽ luôn luôn có các mùa ngược nhau (xem "Hình. 3"). Các mùa ở các khu vực vùng cực và ôn đới của một bán cầu là ngược lại với các mùa ở bán cầu kia. Khi mùa hè đang diễn ra ở bắc bán cầu thì ở nam bán cầu là mùa đông và ngược lại, cũng như khi có mùa xuân ở bắc bán cầu thì đó lại là mùa thu ở nam bán cầu (và ngược lại).
Trên Trái Đất, ngoài việc mật độ tia tới cao hay thấp thì sự tán xạ ánh sáng trong khí quyển là lớn hơn khi nó chiếu tới với một góc nhỏ. (Xem thêm mùa đông Bắc cực và đêm trắng.) Sự dao động về thời tiết theo mùa còn phụ thuộc vào các yếu tố như sự gần với các đại dương hay các khu vực có chứa nhiều nước, các dòng hải lưu trong các đại dương này, các hiện tượng như El Niño/ENSO và các hiện tượng có chu kỳ khác nữa của đại dương, cũng như là hướng gió chủ đạo.
Hiệu ứng khí hậu Trái Đất.
Trong các khu vực ôn đới và vùng cực thì các mùa được ghi nhận bởi sự thay đổi trong lượng ánh nắng, thông thường nó tạo ra các chu kỳ trạng thái rụng lá của thực vật và ngủ đông của động vật. Các hiệu ứng này dao động theo vĩ độ và sự kề cận với các khu vực nhiều nước. Ví dụ, cực nam nằm gần như ở giữa của lục địa là châu Nam Cực, và vì thế khoảng cách từ đó tới những khu vực chịu ảnh hưởng vừa phải của các đại dương là khá lớn. Cực bắc nằm ở Bắc Băng Dương, vì thế các giới hạn nhiệt độ của nó được giảm đi nhờ các khối nước xung quanh. Kết quả là mùa đông ở cực nam lạnh hơn đáng kể so với mùa đông ở cực bắc.
Trong khu vực nhiệt đới, không có nhiều sự thay đổi đáng kể trong lượng ánh sáng chiếu tới. Tuy nhiên, nhiều khu vực (chủ yếu là miền bắc Ấn Độ Dương) là có hiện tượng mưa theo gió mùa và các chu kỳ gió.
Một điều lạ kỳ là việc nghiên cứu các ghi chép về nhiệt độ trong vòng 300 năm qua (David Thompson, tạp chí "Science", 4/1995) chỉ ra rằng các mùa thời tiết, và vì thế năm thời tiết là bị chi phối bởi năm điểm cận nhật nhiều hơn là năm chí tuyến.
Vùng cực Trái Đất.
Một sai lầm phổ biến là suy nghĩ cho rằng trong phạm vi vòng Bắc cực và vòng Nam cực thì Mặt Trời mọc một lần về mùa xuân và lặn một lần vào mùa thu; vì thế ngày và đêm bị suy diễn một cách sai lầm là chỉ bị ngắt quãng sau khoảng 183 ngày trên lịch. Điều này chỉ có thể coi là đúng trong các vùng rất gần với các cực.
Một điều đúng đắn là bất kỳ điểm nào của phần phía bắc của vòng Bắc cực (hay phía nam của vòng Nam cực) sẽ có một khoảng thời gian trong mùa hè khi Mặt Trời không lặn, và một khoảng thời gian trong mùa đông khi Mặt Trời không mọc. Khi vĩ độ quan sát càng cao thì chu kỳ của "mặt trời giữa đêm" (hoặc "bóng tối giữa ban ngày" cho nửa kia của địa cầu) càng kéo dài hơn.
Ví dụ, tại trạm quân sự và thời tiết Alert ở đỉnh phía bắc của đảo Ellesmere, Canada (khoảng 450 hải lý hay 830 km từ Bắc cực), Mặt Trời bắt đầu xuất hiện trên đường chân trời vào khoảng giữa tháng 2 và cứ mỗi ngày nó lại lên cao hơn một chút và ngày kéo dài hơn; cho đến khoảng ngày 21 tháng 3 thì thời gian có Mặt Trời kéo dài 12 giờ. Tuy nhiên, giữa tháng 2 không phải là thời điểm đầu tiên có nắng. Bầu trời (được nhìn từ trạm Alert) rất lờ mờ, hoặc ít nhất có thể coi là sự chiếu sáng trước rạng đông trên đường chân trời, trước khi những hình ảnh đầu tiên của Mặt Trời xuất hiện vào khoảng hơn một tháng sau. Trong các tuần quanh ngày 21 tháng 6, Mặt Trời lên tới điểm cao nhất của nó về phía bắc, và nó xuất hiện trên bầu trời không hề thấp hơn đường chân trời. Sau đó cứ mỗi ngày qua đi thì nó lại xuất hiện trên bầu trời thấp hơn về phía nam. Vào giữa tháng 10, nó lại biến mất. Trong vài tháng kế tiếp, "ngày" được đánh dấu bởi một khoảng thời gian ngày càng ngắn hơn của sự lờ mờ. Cuối cùng, trong các tuần xung quanh ngày 21 tháng 12 thì không có gì có thể phá vỡ bóng tối. Trong giai đoạn cuối của mùa đông, những tia sáng mờ nhạt đầu tiên chỉ xuất hiện ở đường chân trời trong vài phút mỗi ngày, và sau đó thời gian này lại tăng dần trong dạng ánh sáng lờ mờ trước rạng đông mỗi ngày cho đến khi nhìn thấy Mặt Trời mọc ở đường chân trời trong tháng 2.
Ngày mà mỗi mùa bắt đầu phụ thuộc vào việc định nghĩa nó. Tại Mỹ, các mùa được coi là bắt đầu tại các điểm phân (xuân phân, thu phân) và điểm chí (hạ chí, đông chí) thiên văn: các mùa như thế đôi khi gọi là "mùa thiên văn". Theo sự ước lượng này thì mùa hè bắt đầu từ thời điểm hạ chí, mùa đông bắt đầu từ thời điểm đông chí, mùa xuân bắt đầu từ thời điểm xuân phân và mùa thu bắt đầu ở thời điểm thu phân. Trong lịch tập quán của Mỹ, các ngày sau đây được coi là giữa các mùa:
Tại Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, các mùa thông thường được tính là bắt đầu sớm hơn khoảng 7 tuần: mùa xuân bắt đầu vào ngày "Candlemas", mùa hè vào ngày "May Day", mùa thu vào ngày "Lammas" và mùa đông vào ngày "All Hallows".
Lịch Ireland sử dụng gần giống như cách ước lượng trên; mùa xuân bắt đầu ngày 1 tháng 2 ("Imbolc"), mùa hè bắt đầu vào ngày 1 tháng 5 ("Beltane"), mùa thu bắt đầu vào ngày 1 tháng 8 ("Lughnasadh") và mùa đông bắt đầu vào ngày 1 tháng 11 ("Samhain").
Liên Xô và Đan Mạch.
Trong khí tượng học đối với bắc bán cầu, mùa xuân bắt đầu vào ngày 1 tháng 3, mùa hè bắt đầu vào ngày 1 tháng 6, mùa thu bắt đầu vào ngày 1 tháng 9 và mùa đông bắt đầu vào ngày 1 tháng 12. Định nghĩa này được Đan Mạch và Liên Xô cũ tuân theo.
Ngược lại, đối với nam bán cầu, mùa hè khí tượng học bắt đầu vào ngày 1 tháng 12, mùa thu bắt đầu vào ngày 1 tháng 3, mùa đông bắt đầu vào ngày 1 tháng 6 và mùa xuân bắt đầu vào ngày 1 tháng 9. Định nghĩa này được Úc tuân theo.
Lịch của người Triều Tiên, Trung Quốc, Nhật Bản và Việt Nam dựa trên cơ sở của âm dương lịch, trong đó các điểm xuân phân, hạ chí, thu phân và đông chí được coi là thời điểm giữa các mùa. Loại lịch này rất gần với định nghĩa khí tượng học của các mùa.
Hình ảnh về các mùa.
Những hình ảnh dưới đây là đặc trưng cho các mùa tại khu vực ôn đới và hàn đới:
Bảng tính thời điểm chí.
Hành tinh nói chung.
Trên các hành tinh nói chung trong Hệ Mặt Trời, mùa được định nghĩa theo kinh độ Mặt Trời ("L""s"):
[[Thể loại:Khí tượng học]]
[[Thể loại:Đơn vị đo thời gian]]
[[Thể loại:Khí hậu học]]
[[Thể loại:Đơn vị thời gian]]
|
Chấn tâm hay tâm chấn là điểm trên bề mặt hành tinh ngay phía trên nơi xảy ra chấn động mạnh, như động đất, trong lòng hành tinh. Tiêu điểm phát sinh ra chấn động trong lòng hành tinh gọi là chấn tiêu ("hypocenter"). Sóng địa chấn lan truyền trong lòng hành tinh theo mặt cầu từ chấn tiêu ra ngoài.
Chấn tâm là một từ Hán-Việt trong đó "chấn" có nghĩa là chuyển động, còn "tâm" có nghĩa là một điểm ở giữa.
|
Năm thiên văn, hay năm sao hay năm theo sao là khoảng thời gian trung bình để Mặt Trời trở lại cùng một vị trí khi so sánh với các ngôi sao của bầu trời. Năm thiên văn thực chất là chu kỳ quỹ đạo của Trái Đất. Năm thiên văn tương đương với 365,2564 ngày mặt trời trung bình. Năm thiên văn dài hơn năm chí tuyến 20 phút và 24 giây.
Do Mặt Trời và các ngôi sao không thể quan sát cùng một lúc nên điều này cần phải được giải thích một chút. Nếu như một người quan sát bầu trời phía đông vào lúc bình minh thì các ngôi sao cuối cùng nhìn thấy không phải ngày nào cũng vậy. Trong khoảng 1 tuần hay dài hơn một chút người đó có thể thấy chúng dịch chuyển về phía trước (sang phía tây hơn nữa). Ví dụ, trong tháng Bảy ở bắc bán cầu người ta không thể thấy chòm sao Lạp Hộ (Orion) vào lúc bình minh, nhưng trong tháng Tám thì nó bắt đầu xuất hiện. Trong một năm, tất cả các chòm sao "quay" ngang qua bầu trời.
Nếu người quan sát có thói quen quan sát bầu trời trước lúc rạng đông trong nhiều ngày thì chuyển động này càng dễ nhận ra và dễ dàng đo đạc hơn là sự di chuyển bắc-nam của điểm Mặt Trời mọc ở đường chân trời, và đây là định nghĩa của năm chí tuyến mà lịch Gregory dựa vào. Điều này cũng giải thích tại sao nhiều nền văn minh bắt đầu năm của họ vào ngày đầu tiên xuất hiện của một ngôi sao đặc biệt nào đó (ví dụ sao Thiên Lang (Sirius)) có thể quan sát được từ Trái Đất vào lúc rạng đông. Trong "Works and Days" của Hesiod, thời gian trong năm để gieo hạt, thu hoạch mùa màng v.v được tính theo tham chiếu tới lần xuất hiện đầu tiên của các ngôi sao nhất định.
Cho đến thời kỳ của Hipparchus, các năm được đo theo các ngôi sao đã được coi là chính xác như năm chí tuyến. Trên thực tế, năm thiên văn dài hơn một chút so với năm chí tuyến. Sự khác biệt này sinh ra bởi hiện tượng tuế sai của trục Trái Đất. Một năm thiên văn là tương đương với 1 + 1/26000 hay 1,000039 năm chí tuyến.
|
Năm điểm cận nhật
Năm điểm cận nhật, hay năm cận điểm, ("anomalistic year") là khoảng thời gian để Trái Đất thực hiện xong một vòng chuyển động của nó đối với các điểm tận cùng quỹ đạo của nó. Quỹ đạo của Trái Đất có dạng hình elip; các điểm tận cùng quỹ đạo của nó là: điểm cận nhật khi Trái Đất ở gần Mặt Trời nhất (năm 2000 diễn ra vào ngày 2 tháng 1) và điểm viễn nhật khi Trái Đất ở xa Mặt Trời nhất (năm 2000 diễn ra vào ngày 2 tháng 7). Do các nhiễu loạn về lực hấp dẫn gây ra bởi các hành tinh khác, hình dạng và định hướng quỹ đạo là không cố định, và các điểm tận cùng quỹ đạo chuyển động chậm đối với hệ quy chiếu cố định. Vì thế năm điểm cận nhật là dài hơn một chút so với năm thiên văn. Nó cũng dài hơn năm chí tuyến trung bình (nền tảng của lịch Gregory) và vì thế thời điểm diễn ra khi Trái Đất đi vào điểm cận nhật tiến dần dần lên mỗi năm. Nó mất 21.000 năm chí tuyến trung bình để quỹ đạo elip chuyển động một vòng tương đối với các ngôi sao cố định, hay để cho một trong hai điểm tận cùng quỹ đạo thực hiện việc đi qua các ngày của năm Julius (hoặc năm Gregory).
Như vậy, 21.000 năm chí tuyến trung bình = 20.999 năm điểm cận nhật. Hay 1 năm điểm cận nhật = 1,000047621 năm chí tuyến trung bình (khoảng 365,2596 ngày)
Thời gian trung bình của năm điểm cận nhật là: 365,259635864 ngày (365 ngày 6 giờ 13 phút 52 giây) (tại kỷ nguyên J2000).
|
Virus cúm loại A phân tuýp H5N1 (), viết tắt là A(H5N1) hoặc H5N1, phổ thông gọi là virus cúm H5N1 hoặc virus H5N1, là một phân tuýp gây bệnh cao của virus cúm gia cầm loại A, có sẵn hemagglutinin tuýp 5 ("H5") và neuraminidase tuýp 1 ("N1"). Virus cúm A(H5N1) có nguồn gốc từ gia cầm và chim hoang dã, có thể gây tử vong ở người và một số động vật khác. Tuy nhiên, virus này có khác biệt với virus cúm ở người, không dễ dàng lây truyền rộng khắp giữa người với người.
Có một chủng virus H5N1 lây truyền giữa chim với gia cầm gọi là H5N1 subtype (HPAI A(H5N1), chủng virus này chính là nguồn gây bệnh cúm H5N1. Tính truyền nhiễm của virus này trong quần thể chim rất mạnh, phát bệnh đột ngột, triệu chứng nghiêm trọng, tử vong cấp tốc, do đó thuộc về cúm gia cầm có tính gây bệnh cao (HPAI, highly pathogenic avian influenza). Đây là một loại bệnh lưu hành động vật (không lây truyền giữa người với người) và bệnh lây truyền từ động vật sang người (zoonosis), có thể lây lan giữa nhiều loài.
Thông thường, những virus cúm này lan truyền trên thế giới bằng cách kí sinh ở tế bào ruột non của các loài chim di cư, khi đó chúng là những chủng H5N1 không gây chết. Tuy nhiên, những chủng virus này có thể bị đột biến và trở thành chủng cúm gia cầm có độc tính cao nhất từ trước đến giờ. Điều này cũng tương tự như cơ chế của chủng virus H1N1 đã gây ra đại dịch cúm Tây Ban Nha vào năm 1918.
Virus H5N1 lần đầu tiên được phát hiện chính xác trong ngỗng nhà ở tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc vào năm 1996. Virus H5N1 chủ yếu truyền nhiễm cho chim và gây ra cúm gia cầm. Khi lây lan ở Hồng Kông vào năm 1997, rất nhiều gà ở nông trường sau khi bị truyền nhiễm lập tức chết ngay, đồng thời đánh dấu virus H5N1 lần đầu tiên truyền nhiễm sang người, khiến cho một em học sinh trường mẫu giáo tử vong. Tính đến ngày 28 tháng 2 năm 2008, trên thế giới đã có 369 trường hợp người nhiễm virus H5N1 và trong đó 234 người đã tử vong. Quốc gia chịu tổn thất về người nặng nề nhất là Indonesia và Việt Nam (xem chi tiết). Từ năm 2003 đến năm 2015, toàn thế giới báo cáo 630 bệnh nhân lên Tổ chức Y tế Thế giới, trong đó 375 người tử vong, tỉ lệ tử vong khoảng 60%; những ca bệnh báo cáo được chẩn đoán chính xác này toàn bộ phát sinh ở khu vực Đông Nam Á (Việt Nam, Indonesia, Thái Lan, Campuchia) và Trung Quốc. Ngày 9 tháng 3 năm 2006, Tổ chức Y tế Thế giới báo cáo "Bản đồ toàn cầu và quốc gia cúm H5N1", bản đồ này gây tranh cãi giữa Trung Quốc và Đài Loan, WHO căn cứ nguyên tắc Một Trung Quốc mà coi Đài Loan là vùng truyền nhiễm. Ngày 10 tháng 3 năm 2006, Tổ chức Y tế Thế giới tuyên bố công khai, Đài Loan không có bất kì ca bệnh cúm gia cầm H5N1 truyền nhiễm ở người hoặc gia cầm, không phải là vùng truyền nhiễm.
Ngày 2 tháng 5 năm 2013, các nhà khoa học Trung Quốc nói trong bài báo cáo đăng trên tạp chí "Science" bản online của Mĩ rằng, họ đã "giải mã" cơ chế phân tử truyền nhiễm sang người của virus cúm gia cầm H5N1, phát hiện này có ý nghĩa trọng yếu đối với việc ngăn chặn virus cúm gia cầm khuếch tán.
Ngày 2 tháng 2 năm 2020, Bộ Nông nghiệp và Nông thôn Trung Quốc thông báo tình trạng bùng phát chủng cúm gia cầm H5N1 tại một trang trại ở thành phố Thiệu Dương, tỉnh Hồ Nam. Đã có 4.500 trên tổng số 7.850 con gà của trang trại này chết vì nhiễm H5N1. Giới chức Thiệu Dương đã tiến hành các biện pháp cần thiết để kiểm soát dịch, trong đó có tiêu huỷ 17.828 gia cầm.
Ngày 8 tháng 11 năm 2021, Bộ Nông nghiệp Anh Quốc chứng thực, một trang trại chăn nuôi gia cầm quy mô nhỏ ở Warwickshire, miền trung xứ Anh, đã bùng phát dịch bệnh cúm gia cầm H5N1 có tính gây bệnh cao.
Hiểu rõ virus cúm.
Virus cúm có 3 loại hình: loại A, B và C. Virus cúm loại A truyền nhiễm cho người và nhiều loài động vật khác. Virus cúm loại B chỉ lây truyền giữa người với người, đồng thời gây ra bệnh lưu hành theo mùa - tiết khí. Virus cúm loại C không những truyền nhiễm cho người mà còn truyền nhiễm cho lợn, nhưng bệnh tình thường khá là ôn hoà, hơn nữa rất ít tiến hành báo cáo.
Màng bên ngoài của virus cúm do hai loại glycoprotein bề mặt che phủ, một loại là phytohaemagglutinin (tức là H), một loại là neuraminidase (tức là N), căn cứ vào tình huống kết hợp protein bề mặt giữa hemagglutinin (H) và neuraminidase (N) của nhiều chủng virus khác nhau, virus cúm loại A lại phân loại thành phân tuýp (subtype). Có 18 phân tuýp hemagglutinin khác nhau và 11 phân tuýp neuraminidase khác nhau.
Căn cứ vào nguồn vật chủ, virus cúm loại A có thể phân loại thành virus cúm gia cầm, virus cúm lợn hoặc virus cúm của các loài động vật khác. Ví dụ, virus cúm A(H5N1), virus cúm A(H9N2), virus cúm A(H1N1) và virus cúm A(H3N2). Virus cúm động vật loại A có khác biệt với virus cúm ở người, hơn nữa không dễ dàng lây truyền giữa với người.
Virus gây bệnh nghiêm trọng ở loài chim, gia cầm, đồng thời hình thành tỉ lệ tử vong rất cao được gọi là cúm gia cầm có tính gây bệnh cao. Virus gây bùng phát bệnh tật ở loài chim, gia cầm nhưng thường không dính líu đến bệnh tật nghiêm trọng được gọi là cúm gia cầm có tính gây bệnh thấp. Tất cả virus cúm ở người đều có thể gây cúm ở loài gia cầm, nhưng không phải tất cả virus cúm gia cầm đều có thể gây cúm ở người.
Các chủng của virus cúm gà có thể xâm nhiễm vào nhiều loại động vật khác nhau như chim, lợn, ngựa, hải cẩu, cá voi và con người. Bệnh cúm gà lây truyền qua không khí và phân bón, nhưng cũng có thể gây nhiễm trên thức ăn, nước, dụng cụ và quần áo. Tuy nhiên, hiện giờ chưa có bằng chứng thực nghiệm nào cho thấy virus cúm gà có thể sống sót trong thức ăn đã được nấu chín.
Thời kỳ ủ bệnh từ 3 đến 5 ngày. Triệu chứng mắc bệnh ở các động vật là khác nhau, nhưng một số biến thể virus có thể dẫn đến tử vong chỉ trong vòng vài ngày.
tự như của các loại cúm khác. Đó là sốt, ho, đau họng, đau nhức cơ bắp, viêm màng kết và;ở những trường hợp nghiêm trọng, có thể gây suy giảm hô hấp và viêm phổi, có thể dẫn đến tử vong. Mức độ nghiêm trọng của bệnh phụ thuộc phần lớn vào thể trạng sức khoẻ, khả năng miễn dịch, tiền sử tiếp xúc virus của người bị nhiễm.
Phòng chống và điều trị.
Cúm gà ở người có thể được phát hiện qua những xét nghiệm cúm thường. Tuy nhiên, những xét nghiệm này không phải luôn đáng tin cậy. Vào tháng 3 năm 2005, Tổ chức Y tế Thế giới thông báo rằng có vài người Việt Nam có xét nghiệm âm tính đối với cúm gà lúc ban đầu nay đã có phát hiện có nhiễm virus. Những người đó sau này đều đã bình phục.
Hiện nay, các xét nghiệm chẩn đoán nhiễm H5N1 đáng tin cậy đều phải yêu cầu sử dụng virus sống để tương tác với những kháng thể có trong máu của bệnh nhân. Vì lý do an toàn sinh học, các xét nghiệm đều phải được tiến hành trong các phòng thí nghiệm độ an toàn cấp 3.
Thuốc chống virus đôi khi hữu hiệu trong cả ngăn ngừa và trị bệnh, nhưng chưa có một loại virus nào thực sự được chữa lành trong lịch sử y học. Vắc xin, tuy nhiên, mất tối thiểu 4 tháng để sản xuất và phải được chuẩn bị riêng cho mỗi loài biến thể.
Phòng ngừa đại dịch.
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã đưa ra cảnh báo rằng đại dịch cúm đang đến gần, và nhiều khả năng là do một biến chủng của virus cúm gia cầm H5N1. Để chuẩn bị đối phó, các quốc gia phải bắt đầu vạch kế hoạch chi tiết khi tình huống đại dịch diễn ra. Các biện pháp khẩn cấp có thể tiến hành là phân vùng, giới hạn sự lan truyền, tiêu huỷ và tiêm vaccin đối với gia cầm. Ngoài ra, các kế hoạch dài hạn cần phải thực thi là thay đổi dần lối sống, phương pháp chăn nuôi gia cầm của các vùng dân cư có nguy cơ cao.
WHO đã chia dịch cúm thành 6 giai đoan, từ mức độ chỉ là nguy cơ nhỏ cho đến khi đại dịch bùng phát và lan tràn. Hầu hết các tổ chức y tế của các quốc gia đều cho tự đánh giá hiện nay (năm 2005) đang năm ở giai đoạn 3 của dịch, điều đó thừa nhận sự gây nhiễm trên người của một chủng virus mới này đã xây ra nhưng có rất ít bằng chứng về sự lan truyền virus từ người sang người.
Chim bị nhiễm virus phóng thích H5N1 trong nước bọt, dịch mũi và phân. Những con khác có thể bị lây nhiễm qua tiếp xúc trực tiếp với các chất tiết trên hoặc khi gián tiếp qua các bề mặt bị ô nhiễm bởi các chất trên.
Các loài chim di trú là một trong những nguồn phát tán H5N1, nên virus này có nguy cơ lan rộng trên thế giới. Những đợt bùng phát cúm gia cầm thường xuất phát từ những khu vực đông đúc ở Đông Á và Đông Nam Á, nơi mà người, lợn, gia cầm sống rất gần gũi. Trong những điều kiện như vậy, virus có thể đột biến thành một dạng khả dĩ lây sang người.
Đa số các ca nhiễm H5N1 được báo cáo đều xảy ra ở Đông Á và Đông Nam Á. Khi một đợt bùng phát được phát hiện, các chính quyền địa phương thường ra lệnh hủy diệt hàng loạt các loại chim và thú bị dịch. Nếu thực hiện kịp thời biện pháp này, người ta có thể phòng được một đợt bùng phát của dịch cúm gia cầm. Tuy nhiên Tổ chức Sức khỏe Thế giới (TCSKTG) cũng bày tỏ lo ngại rằng các nước đã báo dịch đã không báo cáo đầy đủ như yêu cầu. Trung Quốc chẳng hạn, nổi tiếng qua vụ che giấu các đợt bùng phát của SARS và HIV cách đây ít lâu.
Biện pháp phòng ngừa hiện hành đối với động vật là tiêu hủy những vật bị nhiễm bệnh hoặc nghi ngờ nhiễm bệnh. Hàng triệu gia cầm ở Đông Nam Á đã bị hủy diệt.
Các Trung tâm Dự phòng và Kiểm soát bệnh đã khuyến cáo du khách đến các vùng có dịch tại châu Á cần tránh tiếp xúc với các gia súc, gia cầm ở các nhà nông cũng như ngoài chợ [#endnote_]. Du khách cũng nên tránh các bề mặt bị ô nhiễm bởi phân của bất cứ động vật nào, nhất là gia cầm.
Hiện nay chưa có vắc-xin chuyên biệt cho cúm influenza H5N1, dù Tổ chức Y tế Thế giới thông báo rằng các nỗ lực phát triển loại vắc-xin này đang được tiến hành. Theo dõi tại liên kết sau Phát triển vắc-xin. Tuy không có vắc-xin, nhưng Tamiflu, một thuốc diệt virus, có thể ngăn ngừa sự phát triển của virus trên cơ thể người. (Xem thêm bài cúm gia cầm.)
Ở người, triệu chứng cúm H5N1 lúc mới phát bệnh cũng giống cúm thông thường, gồm sốt, ho, đau họng, đau nhức cơ. Tuy nhiên, bệnh cúm H5N1 có thể diễn tiến nặng lên với viêm phổi và các triệu chứng hô hấp nguy hiểm, có thể dẫn đến tử vong. Hiếm gặp hơn, bệnh nhân cúm H5N1 có thể có triệu chứng viêm kết mạc[#endnote_], vốn không có ở những trường hợp cúm do virus H7.
Các chất ức chế neuraminidase là loại thuốc tác động lên protein bảo tồn của tất cả các loại virus influenza A. Các thuốc loại này bao gồm zanamivir và oseltamivir, loại sau vừa được cấp chứng chỉ để dùng làm thuốc điều trị dự phòng ở Anh. Oseltamivir được hãng Roche thương mại hóa dưới tên gọi "Tamiflu", và dòng thuốc này đã trở thành loại thuốc chọn lựa của các chính phủ và tổ chức để chuẩn bị cho khả năng đại dịch H5N1 xảy ra. Tháng 8/2005, Roche đã tặng 3 triệu viên Tamiflu cho Tổ chức Sức khỏe Thế giới, để tổ chức này đối phó với sự bùng phát dịch ngay tại các ổ dịch.
Các chất ức chế hemagglutinin là một nhóm thuốc khác, gồm amantadine và rimantadine. Không như zanamivir và oseltamivir, các thuốc này rẻ hơn và có sẵn rộng rãi, TCSKTG cũng đã bước đầu lập kế hoạch sử dụng chúng trong các nỗ lực chống chọi với đại dịch H5N1. Tuy nhiên, tiềm năng của các thuốc này suy giảm đáng kể khi người ta phát hiện ra rằng chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã khuyến khích và hỗ trợ việc sử dụng amantadine cho gia cầm từ đầu những năm 1990, đi ngược lại các quy ước quốc tế về vật nuôi; hậu quả nhãn tiền là chủng virus hiện lưu hành tại Đông Nam Á đã kháng thuốc và làm tăng đáng kể mức độ nguy hiểm cho con người.[#endnote_] Tuy vậy, chủng H5N1 lan truyền bởi các loài chim hoang dại ở miền bắc Trung Quốc, Mông Cổ, Kazakhstan và Nga trong hè năm 2005 không kháng amantadine.
|
Nguyên lý chồng chập
Trong vật lý học, nguyên lý chồng chập (Tiếng Anh: Superposition principle) hay nguyên lý chồng chất, là một tính chất áp dụng đúng cho một số đại lượng vật lý, được phát biểu là: "tác động của hai hay nhiều hiện tượng lên cùng một vị trí tại một thời điểm bằng tổng tác động của từng hiện tượng riêng rẽ". Nguyên lý này cho phép phân tích hoạt động của một hệ thống vật lý ra thành hoạt động của các hệ thống "cơ bản" riêng rẽ.
Trong trường véc-tơ, giá trị một sóng tổng hợp từ nhiều sóng riêng lẻ tại một vị trí và tại một thời điểm bằng tổng véc-tơ của các sóng riêng lẻ. Đây chính là nguyên lý cơ bản của hiện tượng giao thoa. Tổng véc-tơ
của các sóng có thể có trị lớn hơn các sóng riêng lẻ (cộng hưởng) hay nhỏ hơn các sóng riêng lẻ (triệt tiêu).
Nguyên lý chồng chập là một trong những tiên đề của thuyết lượng tử. Nguyên lý có thể được phát biểu một cách ngắn gọn, nếu một hệ lượng tử có thể được phát hiện ở một trong 2 trạng thái, "A" và "B" với các tính chất khác nhau, nó cũng có thể được phát hiện ở trạng thái tổ hợp của chúng, "aA" + "bB", ở đó "a" và "b" là các số bất kỳ. Mỗi tổ hợp này là một chồng chập và có các tính chất vật lý khác nhau. Nguyên lý chồng chập trong thuyết lượng tử được gọi là chồng chập lượng tử.
Nguyên lý chồng chất điện trường cho rằng vectơ cường độ điện trường gây bởi một hệ điện tích điểm bằng tổng các vectơ cường độ điện trường gây ra bởi từng điện tích điểm của hệ.
|
Phân tử là 1 nhóm trung hòa điện tích có nhiều hơn 2 nguyên tử liên kết với nhau bằng các liên kết hóa học. Các phân tử được phân biệt với các ion do thiếu điện tích. Tuy nhiên, trong vật lý lượng tử, hóa học hữu cơ và hóa sinh, thuật ngữ "phân tử" thường được sử dụng ít nghiêm ngặt hơn, cũng được áp dụng cho các ion đa nguyên tử.
Trong lý thuyết động học của chất khí, thuật ngữ "phân tử" thường được sử dụng cho bất kỳ hạt khí nào bất kể thành phần của nó. Theo định nghĩa này, các nguyên tử khí trơ được coi là các phân tử vì chúng là các phân tử đơn phân tử.
Một phân tử có thể là hạt nhân, nghĩa là, nó bao gồm các nguyên tử của một nguyên tố hóa học, như với oxy (O2); hoặc nó có thể là hạt nhân, một hợp chất hóa học bao gồm nhiều hơn một nguyên tố, như với nước (H2O). Các nguyên tử và phức chất được kết nối bởi các tương tác không cộng hóa trị, như liên kết hydro hoặc liên kết ion, thường không được coi là các phân tử đơn lẻ.
Các phân tử như là thành phần của vật chất là phổ biến trong các chất hữu cơ (và do đó sinh hóa). Họ cũng chiếm hầu hết các đại dương và bầu khí quyển. Tuy nhiên, phần lớn các chất rắn quen thuộc trên Trái Đất, bao gồm hầu hết các khoáng chất tạo nên lớp vỏ, lớp phủ và lõi Trái Đất, chứa nhiều liên kết hóa học, nhưng "không" được tạo thành từ các phân tử có thể nhận dạng được. Ngoài ra, không có phân tử điển hình nào có thể được định nghĩa cho tinh thể ion (muối) và tinh thể cộng hóa trị (chất rắn mạng), mặc dù chúng thường bao gồm các tế bào đơn vị lặp lại kéo dài trong một mặt phẳng (như trong graphene) hoặc ba chiều (như trong kim cương, thạch anh, hoặc natri chloride). Chủ đề của cấu trúc đơn vị tế bào lặp đi lặp lại cũng giữ cho hầu hết các pha cô đặc có liên kết kim loại, có nghĩa là kim loại rắn cũng không được tạo ra từ các phân tử. Trong kính (chất rắn tồn tại ở trạng thái rối loạn thủy tinh thể), các nguyên tử cũng có thể được giữ với nhau bằng liên kết hóa học không có sự hiện diện của bất kỳ phân tử có thể xác định nào, cũng không có bất kỳ sự đều đặn nào của các đơn vị lặp lại đặc trưng cho tinh thể.
Khái niệm phân tử lần đầu được giới thiệu vào năm 1811 bởi Avogadro, sự tồn tại của các phân tử vẫn là một đề tài tranh cãi sôi nổi trong cộng đồng hoá học, cho tới khi năm 1911, khi Perrin công khai các kết quả nghiên cứu của mình. Thuyết phân tử hiện đại đã mang đến nhiều ứng dụng trong tính toán, là cơ sở để hình thành nên ngành hóa học tính toán đương thời.
Khoa học phân tử.
Khoa học về phân tử được gọi là "hóa học phân tử" hoặc "vật lý phân tử", tùy thuộc vào việc tập trung vào hóa học hay vật lý. Hóa học phân tử liên quan đến các định luật chi phối sự tương tác giữa các phân tử dẫn đến sự hình thành và phá vỡ các liên kết hóa học, trong khi vật lý phân tử liên quan đến các định luật chi phối cấu trúc và tính chất của chúng. Trong thực tế, tuy nhiên, sự phân biệt này là mơ hồ. Trong khoa học phân tử, một phân tử bao gồm một hệ thống ổn định (trạng thái ràng buộc) gồm hai hoặc nhiều nguyên tử. Các ion polyatomic đôi khi có thể được coi là hữu ích như các phân tử tích điện. Thuật ngữ "phân tử không ổn định" được sử dụng cho các loài rất dễ phản ứng, tức là các tổ hợp tồn tại ngắn (cộng hưởng) của các electron và hạt nhân, chẳng hạn như các gốc, ion phân tử, phân tử Rydberg, trạng thái chuyển tiếp, phức hợp van der Waals hoặc hệ thống các nguyên tử va chạm như trong Bose mật Einstein ngưng tụ.
Các phân tử được giữ với nhau bằng liên kết cộng hóa trị hoặc liên kết ion. Một số loại nguyên tố phi kim chỉ tồn tại dưới dạng phân tử trong môi trường. Ví dụ, hydro chỉ tồn tại dưới dạng phân tử hydro. Một phân tử của một hợp chất được tạo thành từ hai hoặc nhiều yếu tố.
Liên kết cộng hóa trị là liên kết hóa học liên quan đến việc chia sẻ các cặp electron giữa các nguyên tử. Các cặp electron này được gọi là "cặp chia sẻ" hoặc "cặp" "liên kết" và sự cân bằng ổn định của lực hấp dẫn và lực đẩy giữa các nguyên tử, khi chúng chia sẻ electron, được gọi là "liên kết cộng hóa trị".
Liên kết ion là một loại liên kết hóa học liên quan đến lực hút tĩnh điện giữa các ion tích điện trái dấu và là tương tác chính xảy ra trong các hợp chất ion. Các ion là các nguyên tử đã mất một hoặc nhiều electron (gọi là cation) và các nguyên tử đã thu được một hoặc nhiều electron (gọi là anion). Sự chuyển điện tử này được gọi là "điện" hóa trái ngược với cộng hóa trị. Trong trường hợp đơn giản nhất, cation là nguyên tử kim loại và anion là nguyên tử phi kim, nhưng các ion này có thể có bản chất phức tạp hơn, ví dụ các ion phân tử như NH4+ hoặc SO42−.
Kích thước của phân tử.
Hầu hết các phân tử quá nhỏ để có thể nhìn thấy bằng mắt thường, mặc dù các phân tử của nhiều polyme có thể đạt kích thước vĩ mô, bao gồm cả các phân tử sinh học như DNA. Các phân tử thường được sử dụng làm các khối xây dựng để tổng hợp hữu cơ có kích thước từ một vài angstroms (Å) đến vài chục, hoặc khoảng một phần tỷ mét. Các phân tử đơn lẻ thường không thể được quan sát bằng ánh sáng (như đã lưu ý ở trên), nhưng các phân tử nhỏ và thậm chí các đường viền của các nguyên tử riêng lẻ có thể được truy tìm trong một số trường hợp bằng cách sử dụng kính hiển vi lực nguyên tử. Một số phân tử lớn nhất là đại phân tử hoặc siêu phân tử.
Phân tử nhỏ nhất là hydro (H2), với độ dài liên kết là 0,74.
Bán kính phân tử hiệu quả là kích thước mà một phân tử hiển thị trong dung dịch. Bảng tính thấm cho các chất khác nhau chứa các ví dụ.
Công thức phân tử.
Các loại công thức hóa học.
-Các công thức hóa học cho một phân tử sử dụng một dòng hóa yếu tố ký hiệu, số, và đôi khi cũng biểu tượng khác, chẳng hạn như dấu ngoặc đơn, dấu gạch ngang, dấu ngoặc, và "cộng" (+) và "trừ" (-) dấu hiệu. Chúng được giới hạn trong một dòng ký hiệu chính tả, có thể bao gồm các chỉ số và siêu ký tự.
Công thức thực nghiệm của một hợp chất là một loại công thức hóa học rất đơn giản. Đây là tỷ lệ nguyên đơn giản nhất của các nguyên tố hóa học cấu thành nó. Ví dụ, nước luôn bao gồm tỷ lệ 2: 1 của hydro với các nguyên tử oxy và ethanol (rượu ethyl) luôn bao gồm carbon, hydro và oxy theo tỷ lệ 2: 6: 1. Tuy nhiên, điều này không xác định loại phân tử duy nhất - ví dụ dimethyl ether có cùng tỷ lệ với ethanol. Các phân tử có cùng các nguyên tử trong các sắp xếp khác nhau được gọi là các đồng phân. Ngoài ra, carbohydrate, ví dụ, có cùng tỷ lệ (carbon: hydro: oxy = 1: 2: 1) (và do đó có cùng công thức thực nghiệm) nhưng tổng số nguyên tử khác nhau trong phân tử.
Công thức hóa học phản ánh số lượng chính xác các nguyên tử cấu thành phân tử và do đó đặc trưng cho các phân tử khác nhau. Tuy nhiên, các đồng phân khác nhau có thể có cùng thành phần nguyên tử trong khi là các phân tử khác nhau.
Công thức thực nghiệm thường giống như công thức phân tử nhưng không phải lúc nào cũng vậy. Ví dụ, acetylen phân tử có công thức phân tử C2H2, nhưng tỷ lệ nguyên đơn giản nhất của các nguyên tố là CH.
Các khối lượng phân tử có thể được tính từ công thức hóa học và được thể hiện trong truyền thống đơn vị khối lượng nguyên tử bằng 1/12 khối lượng của một không các-bon-12 (12C đồng vị) nguyên tử. Đối với chất rắn mạng, đơn vị công thức hạn được sử dụng trong tính toán cân bằng hóa học.
Công thức cấu trúc.
Đối với các phân tử có cấu trúc 3 chiều phức tạp, đặc biệt là liên quan đến các nguyên tử liên kết với bốn nhóm thế khác nhau, một công thức phân tử đơn giản hoặc thậm chí công thức hóa học bán cấu trúc có thể không đủ để xác định hoàn toàn phân tử. Trong trường hợp này, một loại công thức đồ họa được gọi là công thức cấu trúc có thể cần thiết. Các công thức cấu trúc có thể lần lượt được biểu diễn bằng tên hóa học một chiều, nhưng danh pháp hóa học như vậy đòi hỏi nhiều từ và thuật ngữ không phải là một phần của công thức hóa học.
Hình học phân tử.
Các phân tử có hình học cân bằng cố định Độ dài liên kết và góc độ của mối quan hệ mà chúng liên tục dao động thông qua các chuyển động dao động và quay. Một chất tinh khiết bao gồm các phân tử có cùng cấu trúc hình học trung bình. Công thức hóa học và cấu trúc của một phân tử là hai yếu tố quan trọng quyết định tính chất của nó, đặc biệt là khả năng phản ứng của nó. Các chất đồng phân có chung một công thức hóa học nhưng thông thường có các tính chất rất khác nhau do cấu trúc khác nhau của chúng. Các đồng phân lập thể, một loại đồng phân đặc biệt, có thể có các tính chất hóa lý rất giống nhau và đồng thời các hoạt động sinh hóa khác nhau.
Quang phổ phân tử.
Quang phổ phân tử liên quan đến phản ứng (phổ) của các phân tử tương tác với các tín hiệu thăm dò của năng lượng đã biết (hoặc tần số, theo công thức của Planck). Các phân tử có mức năng lượng được lượng tử hóa có thể được phân tích bằng cách phát hiện sự trao đổi năng lượng của phân tử thông qua sự hấp thụ hoặc phát xạ. Quang phổ thường không đề cập đến các nghiên cứu nhiễu xạ trong đó các hạt như neutron, electron hoặc tia X năng lượng cao tương tác với sự sắp xếp thường xuyên của các phân tử (như trong tinh thể).
Quang phổ vi sóng thường đo các thay đổi trong quá trình quay của các phân tử và có thể được sử dụng để xác định các phân tử ngoài không gian. Quang phổ hồng ngoại đo sự rung động của các phân tử, bao gồm các chuyển động kéo dài, uốn cong hoặc xoắn. Nó thường được sử dụng để xác định các loại liên kết hoặc nhóm chức trong các phân tử. Những thay đổi trong cách sắp xếp các vạch hấp thụ hoặc phát xạ của electron trong tia cực tím, ánh sáng nhìn thấy hoặc gần tia hồng ngoại và dẫn đến màu sắc. Quang phổ cộng hưởng hạt nhân đo môi trường của các hạt nhân cụ thể trong phân tử và có thể được sử dụng để mô tả số lượng nguyên tử ở các vị trí khác nhau trong một phân tử.
Các khía cạnh lý thuyết.
Nghiên cứu về các phân tử bằng vật lý phân tử và hóa học lý thuyết phần lớn dựa trên cơ học lượng tử và rất cần thiết cho sự hiểu biết về liên kết hóa học. Đơn giản nhất trong số các phân tử là phân tử hydro-ion, H2+ và đơn giản nhất trong tất cả các liên kết hóa học là liên kết một electron. H2+ bao gồm hai proton tích điện dương và một electron tích điện âm, có nghĩa là phương trình Schrödinger cho hệ thống có thể được giải quyết dễ dàng hơn do thiếu lực đẩy electron electron. Với sự phát triển của máy tính kỹ thuật số nhanh, các giải pháp gần đúng cho các phân tử phức tạp hơn đã trở thành có thể và là một trong những khía cạnh chính của hóa học tính toán.
Khi cố gắng xác định chặt chẽ liệu một sự sắp xếp các nguyên tử có "đủ ổn định" để được coi là một phân tử hay không, IUPAC gợi ý rằng nó "phải tương ứng với một chỗ lõm trên bề mặt năng lượng đủ sâu để giam giữ ít nhất một trạng thái rung động". Định nghĩa này không phụ thuộc vào bản chất của sự tương tác giữa các nguyên tử, mà chỉ phụ thuộc vào độ mạnh của sự tương tác. Trên thực tế, nó bao gồm các loài bị ràng buộc yếu mà theo truyền thống không được coi là các phân tử, chẳng hạn như helium dimer, He2, có một trạng thái ràng buộc rung động và bị ràng buộc lỏng lẻo đến mức nó chỉ có thể được quan sát ở mức rất thấp nhiệt độ.
Việc sắp xếp các nguyên tử có "đủ ổn định hay không" để được coi là một phân tử vốn là một định nghĩa hoạt động. Về mặt triết học, do đó, một phân tử không phải là một thực thể cơ bản (ví dụ, ngược lại, với một hạt cơ bản); đúng hơn, khái niệm về một phân tử là cách nhà hóa học đưa ra tuyên bố hữu ích về sức mạnh của các tương tác quy mô nguyên tử trong thế giới mà chúng ta quan sát.
|
Nuôi tôm là một ngành nông nghiệp thiết kế để gầy dựng và phát triển các loại tôm cho nhu cầu tiêu thụ của con người. Việc nuôi tôm thương mại đầu tiên bắt đầu những năm 1970, sản lượng sản xuất tôm phát triển nhanh chóng để theo kịp đòi hỏi của thị trường, đặc biệt là Mỹ, Nhật, Tây Âu. Tổng sản lượng tôm của thế giới là 1.6 triệu tấn năm 2003 và có giá trị tương đượng 9000 triệu đôla. Khoảng 75% là từ các nước châu Á, như Trung Quốc, Thái Lan, Ấn Độ..., 25% còn lại là từ nước Nam Mỹ. Trung Quốc hiện là nhà xuất khẩu lớn nhất. Ngày nuôi tôm cũng đóng vai trò quan trọng trong nông nghiệp Việt Nam nhất là nuôi tôm để xuất khẩu.
Kĩ thuật nuôi trồng.
Khi ngành nuôi trồng tôm phát triển năm 1970 như là ngành thương mại, tiềm năng thay thế thỏa mãn cho nhu cầu thị trường đang tăng cao, vượt xa khả năng đánh bắt tôm hoang dã, phương pháp nông nghiệp cũ đã nhanh chóng bị thay đổi để tiến tới phương pháp sản xuất để xuất khẩu. Ngành công nghiệp nuôi tôm bắt đầu bằng phương pháp cũ kĩ, tốn kém, sử dụng đất rộng nhưng năng suất thấp. Vào thời điểm, mà nhu cầu tôm tăng cao, thì các vùng ven biển được cải tạo nuôi tôm. Nhưng với kĩ thuật tiên tiến làm cho mật độ nuôi tôm tăng cao. Có khi áp dụng phương pháp nuôi ao phụ để cho ăn.
Đến giữa những năm 1980, các nông trường nuôi phần lớn là tôm non được đánh bắt do ngư dân. Do đó việc nuôi tôm giống trở thành quan trọng trong một số nước. Để đảm bảo có sự cung cấp đều đặn, ngành công nghiệp này bắt đầu việc nuôi tôm từ trong trứng và đảm bảo lượng tôm non.
Vòng đời của tôm.
Tôm trưởng thành và sinh sản trong môi trường nước. Con cái đẻ 50000 cho đến 1 triệu trứng, được ấp 24 giờ trứng thành các ấu trùng. Ấu trùng ăn các noãn hoàng và biến thái. Sau 3 lần biến thái, thì có hình dạng gần giống tôm. Sau 3-4 ngày thì biến thái hoàn toàn thành tôm non, tôm non có đầy đủ các tính chất của tôm. Toàn quá trình kéo dài 12 ngày từ khi đẻ trứng. Trong tự nhiên, tôm non di cư ra cửa sông, vốn giàu dinh dưỡng và độ mặn. Chúng phát triển và chuyển vào vùng nước lớn nơi mà chúng trưởng thành. Tôm trưởng thành là sinh vật đáy.
Trong việc nuôi tôm, vòng đời này xảy ra dưới điều kiện có kiểm soát. Lý do để làm cho mật độ tăng cao kết quả là có cùng kích cỡ tôm, và cho tôm ăn có điểu khiển, hơn nữa có khả năng đẩy nhanh vòng phát triển bằng cách điều khiển khí hậu (sử dụng trong nhà kính). Có 3 giai đoạn khác nhau:
Hầu hết các nông trường thu hoạch 1 đến 2 lần trong một năm, ở vùng nhiệt đới nông trường tôm có thể thu hoạch tới 3 lần. Vì sự cần thiết nước mặn, nông trường nuôi tôm gần với biển. Nuôi tôm trong cạn đã được thử nhưng việc vận chuyển nước muối và sự thích nghi của cây cối dẫn đến vấn đề. Thái Lan ban hành lệnh cấm nuôi tôm trong cạn từ năm 1999.
|
Cấu trúc hệ thống laser
Cấu trúc hệ thống laser phần lớn gồm 3 phần:
Nguồn bơm là phần cung cấp năng lượng cho hệ thống laser. Ví dụ bao gồm cực phóng điện, đèn nháy, đèn hồ quang, ánh sáng từ laser khác. Việc lựa chọn loại nguồn bơm nào để sử dụng chủ yếu dựa vào môi trường kích thích là loại gì, và điều này là yếu tố chủ chốt quyết định cách mà năng lượng truyền vào trong môi trường. Laser He-Ne dùng cực phóng điện trong hỗn hợp khí heli Neon. dùng ánh sáng hội tụ từ đèn nháy Xenon. Laser từ đôi nguyên tử có Heli dùng phản ứng hóa học để nạp năng lượng.
Môi trường kích thích là yếu tố chính quyết định bước sóng và các tính chất khác của tia laser. Có hàng trăm môi trường kích thích có thể làm được. Môi trường kích thích bị kích thích bằng nguồn bơm tạo ra sự kích thích đồng đều giữa các electron, điều cần thiết cho sự phát xạ kích thích các hạt photon, dẫn đến hiện tượng khuếch đại ánh sáng.
Ví dụ về các loại laser:
Các máy khuếch tán ánh sáng có 2 gương song song đặt ở hai đầu, một bên mạ bạc phản xạ toàn phần, bên kia là mặt bán mạ cho phép khoảng 50% ánh sáng phản xạ, 50% ánh sáng truyền qua. Ánh sáng từ trong môi trường, tạo ra từ sự kích thích, phản xạ qua lại bởi các gương trong môi trường, vì thế các photon tích tụ lên nhiều lần trước khi lấy ra từ mặt gương bán mạ. Trong các laser phức tạp, có từ 4 gương trở lên được sử dụng. Sự thiết kế và sắp xếp các mặt gương quyết định bước sóng và các yếu tố khác ảnh hưởng đến hệ thống laser.
|
Tia hồng ngoại là bức xạ điện từ có bước sóng dài hơn ánh sáng nhìn thấy (mắt người có thể cảm nhận được màu sắc) nhưng ngắn hơn tia bức xạ vi ba.
Vùng ánh sáng mà mắt người thông thường nhìn thấy, còn được gọi là "ánh sáng khả kiến", có bước sóng từ 380 nm đến 760 nm hay tần số 430-790 THz. Bức xạ hồng ngoại được định nghĩa có bước sóng từ 760 nm (tần số 430 THz) đến 1 mm (300 GHz). Một số sinh vật có thể nhìn thấy tia hồng ngoại ở vùng gần kề với ánh sáng thường, cũng như trong một số thí nghiệm thì có người nhìn thấy đến vùng hồng ngoại 1050 nm.
Tên "hồng ngoại" có nghĩa là "ngoài mức đỏ", màu đỏ là màu sắc có bước sóng dài nhất trong ánh sáng nhìn thấy.
Tia hồng ngoại được phân chia theo bước sóng thành ba vùng chính, tuy nhiên phân loại Mỹ thì phân chia ra 5 vùng.
Nguồn phát tia hồng ngoại.
Mọi vật có nhiệt độ lớn hơn 0° K đều phát ra tia hồng ngoại.
Ví dụ: Đèn LED màu đỏ, đèn của ổ cắm điện [5], remote, camera IR (Hồng ngoại), Máy thu phát sóng hồng ngoại [6].
Tia hồng ngoại có tính chất cơ bản sau:
Việc thu nhận và đo đạc tia hồng ngoại có thể giúp xác định nhiệt độ của vật từ xa, nếu chúng là nguồn phát ra các tia thu được. Hình chụp trong phổ hồng ngoại gọi là hình ảnh nhiệt, hay trong trường hợp vật rất nóng trong NIR hay có thể thấy được gọi là phép đo nhiệt.
Kỹ thuật đo nhiệt độ bằng hồng ngoại được dùng chủ yếu trong quân sự, và ứng dụng công nghiệp. Kỹ thuật này hiện cũng đang được ứng dụng và dần quen thuộc với thị trường dân sự như: máy ảnh trên xe hơi; tùy thuộc vào giá thành của các sản phẩm có được giảm mạnh hay không.
Tia hồng ngoại được dùng trong đèn hồng ngoại sưởi trực tiếp lên cơ thể, và bố trí ở một số phòng tắm hơi. Tuy nhiên cần lưu ý không nhìn vào các đèn này vì mắt không điều tiết được độ mở sáng theo tia hồng ngoại, chúng có thể gây mù mắt. Tia hồng ngoại có thể được dùng làm tan tuyết trên cánh máy bay.
Một lượng lớn năng lượng mặt trời là nằm trong vùng hồng ngoại. Các vật nóng cỡ vài trăm độ C như lò sưởi, bếp cũng phát ra bức xạ vật đen có cực đại ở vùng hồng ngoại. Do vậy tia hồng ngoại còn được gọi là tia nhiệt.
Kỹ thuật hồng ngoại trong quân sự.
Kỹ thuật hồng ngoại rất quan trọng với ngành quốc phòng. Những tên lửa không đối không cự ly gần mà máy bay chiến đấu sử dụng đều có dùng tia hồng ngoại dẫn đường, thường gọi là "tên lửa tầm nhiệt" hay tên lửa dẫn hướng hồng ngoại. Đầu tên lửa lắp thiết bị đầu dò hồng ngoại, tên lửa tự động bám sát luồng hơi nóng từ động cơ máy bay để tìm đến đích.
Để chống lại tên lửa tầm nhiệt thì máy bay bố trí các quả pháo nóng sáng, tung ra khi phát hiện có tên lửa. Nó dẫn đến cuộc đua, một mặt là tăng khả năng nhận dạng bằng ảnh hồng ngoại cho tên lửa, mặt khác là sử dụng cùng với các dạng dẫn hướng khác.
Trong chiến tranh vùng Vịnh 1991, để đối phó với tên lửa Scud của Iraq, Mỹ dùng đến vệ tinh do thám. Trên vệ tinh có lắp kính viễn vọng và 6000 phần tử dò hồng ngoại. Khi bắt đầu phóng tên lửa Scud, luồng hơi nóng ở đuôi tên lửa bị vệ tinh phát hiện, truyền số liệu về trung tâm ở mặt đất, tính toán mục tiêu để phóng tên lửa Patriot phá huỷ tên lửa Scud ở trên không.
Điện tử điều khiển.
Các điều khiển xa (remote control).
Các điều khiển xa, thường gọi là "remote control", phần lớn dùng tia hồng ngoại để điều khiển ti vi, dàn âm thanh/hình ảnh, quạ
Một biến thể dân dụng ăn theo là "Đèn chiếu sáng LED điều khiển từ xa hồng ngoại", bật tắt bằng bất kỳ "remote control" nào trong các loại trên.
Tự động bật tắt thiết bị.
Tại các nơi công cộng như sân bay, nhà ga, cửa hàng, bệnh viện, nhà riê, bật tắt đèn, vòi nướ(mắt thần) nhận biết người hoặc vật chuyển động thông qua nhiệt độ cao hơn xung quanh. Tuy nhiên nếu chỉ dùng cảm biến hồng ngoại thì hoạt động cảm biến dễ lỗi khi nhiệt độ môi trường cao hơn 35 °C.
Các mắt thần này dùng diode quang loại tiếp nhận hồng ngoại để cảm biến. Mắt dùng 1 diode thì cảm nhận gần và hẹp, mắt dùng nhiều diode thì mỗi diode giám sát một góc đặc nhất định, và nâng khoảng cách cảm nhận đến 3-5m.
Phụ kiện thiết bị vi tính.
Một số chuột quang cũng dùng tia hồng ngoại, tuy nhiên chuột này cần có thêm LED báo "có cấp nguồn".
Tia hồng ngoại cũng được dùng để truyền tải thông tin trong mạng nhỏ, ví dụ như từ máy tính sang máy tính, máy tính sang điện thoại, điện thoại với điện thoạ
Tia hồng ngoại gần và trung được dùng trong viễn thông cáp quang, do có tổn hao nhỏ, cũng như do công nghệ chế tạo linh kiện phát và thu tín hiệu quy định.
Thiết bị nhìn đêm.
"Thiết bị nhìn đêm" là thiết bị quang học-điện tử thực hiện quan sát được môi trường quan tâm trong điều kiện đêm tối hay có ánh sáng cực yếu. Thiết bị thu nhận tia hồng ngoại bằng các ống kính quang học và hiện hình ảnh trên màn hình điện tử. Chúng được chia ra ba loại chính:
Trong hoạt động thực tế có thể dùng đến đèn pha hồng ngoại chiếu sáng vùng quan sát để thu nhận hình ảnh rõ hơn, như trong hoạt động bảo vệ biên giới ở Mỹ chống lại người di cư lậu.
Nghiên cứu thiên văn.
Trong thiên văn học quan sát hồng ngoại đặc biệt có ý nghĩa trong phát hiện và nghiên cứu các đối tượng "lạnh" có nhiệt đô dưới 1.000° K, và khó có thể nhìn thấy trong vùng quang phổ khác, hoặc các đối tượng ở trong hoặc phía sau một đám mây liên sao.
Ngoài ra, quan sát phổ hồng ngoại được dùng trong phân tích đặc điểm của các đối tượng bất kỳ. Một số vật chất ở các sao được phát hiện nhờ vào quang phổ hồng ngoại, ví dụ, phát hiện khí metan trên hành tinh của hệ ngôi sao cố định HD 189733.
Bảo mật tiền và tài liệu quý.
Bảo mật tài liệu dùng tia hồng ngoại thực hiện cho tài liệu quan trọng như hộ chiếu, tiền hay chứng chỉ ngân hà
Bảo mật này đang được áp dụng cho đồng euro. Hộ chiếu Anh thì dùng huỳnh quang hồng ngoại của methylene xanh. Tuy nhiên việc dùng tia hồng ngoại dễ gặp lỗi quan sát hơn so với việc dùng tia tử ngoại
Sự khám phá ra tia hồng ngoại thường được cho là công lao của William Herschel, nhà thiên văn học đầu thế kỷ XIX. Herschel dùng lăng kính để tán xạ ánh sáng từ Mặt Trời và khám phá ra tia hồng ngoại, nằm ngoài vùng ánh sáng khả kiến gần phần ánh sáng đỏ, thông qua sự ghi chép trên một nhiệt kế.
|
Chiến tranh thế giới thứ nhất
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Chiến tranh thế giới thứ nhất, còn được gọi là Đại chiến thế giới lần thứ nhất, Đệ nhất Thế chiến hay Thế chiến I, là một cuộc chiến tranh thế giới bắt nguồn tại châu Âu từ ngày 28 tháng 7 năm 1914 đến ngày 11 tháng 11 năm 1918.
Cuộc chiến tranh này là một trong những sự kiện có ảnh hưởng nhất trong lịch sử thế giới. Đây là cuộc chiến tranh có chiến trường chính bao trùm khắp châu Âu và ảnh hưởng ra toàn thế giới, lôi kéo tất cả các cường quốc châu Âu và Bắc Mỹ vào cuộc chiến với số lượng người chết trên 19 triệu người, đồng thời có sức tàn phá và ảnh hưởng về vật chất lẫn tinh thần của nhân loại rất sâu sắc và lâu dài. Khác với các cuộc chiến tranh trước đó, người Âu châu phải chiến đấu cả trên chiến trường lẫn ở hậu phương. Phụ nữ phải làm việc thay nam giới, đồng thời sự phát triển của công nghệ cũng có ảnh hưởng đến tính chất chiến tranh; có thể thấy sự hiệu quả của không quân và xe tăng trong chiến đấu kể từ cuộc Đại chiến này. "Chiến tranh chiến hào" gắn liền với cuộc Đại chiến thế giới lần thứ nhất trong thời gian đầu của nó.
Đây là cuộc chiến giữa phe "Hiệp Ước" (chủ yếu là Anh, Pháp, Nga và sau đó là Hoa Kỳ, Brasil) với phe "Liên minh Trung tâm" (chủ yếu là Đức, Áo-Hung, Bulgaria và Ottoman). Cuộc chiến bắt đầu với Vụ ám sát thái tử Áo-Hung (được coi là "ngòi nổ" của cuộc chiến tranh), dẫn đến việc Áo - Hung tuyên chiến với Serbia. Sự kiện này được nối tiếp bởi việc Hoàng đế Đức là Wilhelm II truyền lệnh cho các tướng lĩnh đưa quân tấn công Bỉ, Luxembourg và Pháp, theo kế hoạch Schlieffen. Hơn 70 triệu quân nhân được huy động ra trận chiến, trong số đó có 60 triệu người Âu châu, trong 1 trong những cuộc chiến tranh lớn nhất trong lịch sử. Trong cuộc chiến tranh kinh hoàng này, Pháp là nước chịu tổn thất nặng nề hơn cả và hoàn toàn bị kiệt quệ, dẫn tới sự đại bại của họ trong các cuộc chiến tranh về sau. Những trận đánh khốc liệt nhất trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất cũng diễn ra trên đất Pháp. một trận đánh đáng nhớ của cuộc Đại chiến là tại Verdun cùng năm đó, khi quân Đức tấn công thành cổ Verdun của Pháp, nhưng không thành công. Tuy nhiên, trận chiến đẫm máu nhất là tại sông Somme (1916), khi liên quân Anh - Pháp đánh bất phân thắng bại với quân Đức, trong khi chiến dịch quân sự lớn nhất là Cuộc tổng tấn công của Brusilov, khi quân Nga đánh bại liên quân Áo-Hung và Đức.
Tất cả những đế quốc quân chủ (trừ Đế quốc Anh) đều sụp đổ trong cuộc chiến tranh này. Đảng Bolshevik lên nắm quyền tại nước Nga sau cuộc Cách mạng Tháng Mười lật đổ Chính phủ Lâm thời Nga, trong khi việc Đức bại trận lại tạo điều kiện cho Đức Quốc Xã lên nắm quyền nhờ biết khai thác tâm lý bất mãn của người dân. Tuy nước Đức thua cuộc nhưng về thương mại và công nghiệp họ không bị tổn hại gì lớn, vì thế về những mặt này họ đã chiến thắng cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất.
Không một nước châu Âu nào thật sự chiến thắng cuộc chiến tranh này, tất cả đều chịu tổn hại nặng nề về người và của. Sau chiến tranh, châu Âu lâm vào tình trạng khủng hoảng và những cao trào chủ nghĩa dân tộc trỗi dậy ở các nước bại trận. Điển hình là tại Thổ Nhĩ Kỳ, bão táp phong trào cách mạng giải phóng dân tộc rầm rộ, đưa dân tộc này dần dần hồi phục, và buộc phe Hiệp Ước phải xóa bỏ những điều khoản khắc nghiệt sau khi cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất chấm dứt. Nước duy nhất không bị tàn phá mà còn thu được lợi nhuận lớn từ cuộc chiến này là Hoa Kỳ, nó đã tạo điều kiện cho nước này vượt trên các nước châu Âu về kinh tế kể từ sau cuộc chiến.
Trước đây ở các nước nói tiếng Anh dùng từ "Đại chiến" (Great War). Vài thập kỷ sau, tên gọi Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (World War I) mới được áp dụng để phân biệt với cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Đương thời, nó còn được gọi với cái tên "Cuộc chiến tranh chấm dứt mọi cuộc chiến tranh" (The war to end all wars) bởi quy mô và sự tàn phá khủng khiếp nó gây ra. Chính những vấn đề liên quan tới Hoà ước Versailles 1919 đã khiến cho cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ.
Đây là một cuộc chiến để lập lại trật tự thế giới mới, nó làm sụp đổ 4 đế chế hùng mạnh của châu Âu và thế giới lúc đó là Đế quốc Nga, Đế chế Đức, Đế quốc Áo-Hung và Đế quốc Ottoman, làm thay đổi sâu sắc bộ mặt của châu Âu và thế giới. Tuy nhiên mặc dù là cuộc chiến đẫm máu và khốc liệt như vậy nhưng cuộc chiến này đã không giải quyết được các mâu thuẫn gốc rễ và "thế giới mới" mà nó tạo ra còn đặt châu Âu và thế giới trước các vấn đề và mâu thuẫn khác còn trầm trọng hơn như phát sinh nhà nước theo Chủ nghĩa Cộng sản tại Nga, Chủ nghĩa quân phiệt và Chủ nghĩa phát xít tại Ý, Đức và Nhật, sự chia cắt, xâm phạm quyền tự quyết của các dân tộ
Chiến tranh thế giới thứ nhất xảy ra giữa 2 khối liên minh quân sự được hình thành sau thế kỷ XIX: 1 bên là liên minh 3 đế quốc Anh - Pháp - Nga, hay được gọi là khối Hiệp ước Entente ba bên (trong tiếng Pháp "entente" có nghĩa là sự đồng thuận, hiệp ước) sau này còn thêm Hoa Kỳ và một số nước khác tham gia; bên kia là phe Liên minh Trung tâm ("Central Powers", hay còn gọi là Liên minh 3 nước) gồm Đức, Áo – Hung và Ottoman.
Tuy nhiên sau đó Ý chiến đấu bên phía Entente 3 bên nhưng Liên minh Trung tâm lại có thêm đồng minh là Đế quốc Ottoman và Bulgaria. Trong khi vai trò của các đồng minh chính trong Entente 3 bên khá đồng đều trong việc gánh vác sức nặng chiến tranh thì ở bên phía Liên minh Trung tâm vai trò của các đồng minh mờ nhạt hơn, chỉ Đức có vai trò trụ cột vì thực tế mâu thuẫn chủ yếu gây nên chiến tranh là gắn liền với tham vọng chính trị kinh tế của đế quốc Đức lúc đó. Lúc bấy giờ, 2 cường quốc quân sự hùng mạnh nhất của châu Âu là Đức và Anh.
Quy mô, tính chất.
Về khía cạnh chính trị – quân sự đây là lần đầu tiên thế giới biết đến 1 kiểu chiến tranh tổng lực, chiến tranh toàn diện. Chiến tranh diễn ra không những ác liệt trên bộ, trên không, trên biển mà các bên thực hiện bao vây bóp nghẹt kinh tế của nhau, đánh vào ý chí và bản lĩnh chịu đựng của dân tộc, thử thách tiềm lực kinh tế và sức mạnh tinh thần của đối phương. Các cường quốc như Đế quốc Nga, Đế quốc Áo-Hung và Đế quốc Đức đã thất bại và sụp đổ dù quân đội của họ vẫn còn hiện hữu (đặc biệt quân đội Đức vẫn còn đang trên đất đối phương, và quân địch còn chưa xâm phạm tới lãnh thổ của họ). Các nước này đã thua trận vì xã hội kiệt sức, không thể kham nổi chiến tranh – 1 kiểu chiến tranh tiêu hao với cường độ cực cao, khiến chính phủ của họ bị các lực lượng trong nước lật đổ.
Chiến tranh thế giới thứ nhất diễn ra theo 1 kiểu chiến lược chiến tranh hiện đại. Trước đây châu Âu đã từng có các cuộc chiến theo liên minh nhiều nước như Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha, Chiến tranh Kế vị Áo, Chiến tranh Bảy năm, Chiến tranh Napoléon, , các hoạt động chiến sự xen kẽ với hoà bình. Kết cục chiến tranh không triệt để: thua trận thì ký hoà ước nhượng bộ, chờ vài năm hồi phục tiềm lực rồi lại tham chiến tiếp (điển hình như các cuộc chiến thời Napoléon I). Các cuộc chiến đó phụ thuộc rất nhiều, nếu không nói là phần lớn, vào tài thao lược của nhà cầm quân. Còn từ nay, kể từ Thế chiến I, lần đầu tiên nhân loại chứng kiến một kiểu chiến tranh lâu dài, quy mô, huỷ diệt. Chiến sự dàn trải trên khắp chiến trường, khắp cả châu lục. Vai trò cá nhân của thống soái trong chiến tranh bị hạn chế mà tiềm lực kinh tế và ý chí, sức mạnh tinh thần của quốc gia nổi lên là yếu tố quyết định.
Trên chiến trường về khía cạnh thuần tuý quân sự đây là một cuộc chiến tranh đã có các đặc trưng hiện đại: quân đội là quân đội đông đảo. Lần đầu tiên trên thế giới chiến tranh theo chiến thuật đội hình tản mác không còn các khối quân lực xếp hàng tấn công và phòng thủ theo đội hình ô vuông dày đặc rất đặc trưng của mọi cuộc chiến tranh trước đây. Cuộc chiến tranh này đặc trưng áp đảo bởi hình thức chiến tranh trận địa mà điển hình nhất là hệ thống chiến hào trở thành phương tiện phòng thủ chính yếu, thành quách pháo đài đã không còn vai trò phòng ngự quan trọng nữa. Các bên phòng thủ trong chiến hào với hệ thống ụ súng máy, dây thép gai, bãi mìn và trận địa pháo dày đặc với chiến tuyến ngăn đôi giữa 2 phía đối địch. Chiến tranh trận địa hay chiến tranh chiến hào ở thời kỳ đó thường có tính chất là rất khó tấn công và rất dễ phòng thủ nên chiến tranh có diễn biến chậm chạp ít năng động, ít có các chiến thắng quân sự dứt khoát. Kết cục chiến tranh phụ thuộc vào sự chịu đựng dẻo dai của các bên đối kháng đối với gánh nặng chiến tranh tiêu hao tổng lực.
"Xem bài chính": Vụ ám sát thái tử Áo-Hung.
Nguyên nhân, bản chất chiến tranh.
Sự việc Đại công tước Franz Ferdinand của Áo - Hung bị một phần tử dân tộc chủ nghĩa người Serbia tên là Gavrilo Princip ám sát tại Sarajevo vào ngày 28 tháng 6 năm 1914 được coi là khởi nguồn của cuộc thế chiến này, nhưng thực ra đó chỉ là "giọt nước tràn ly". Vụ ám sát thái tử Áo-Hung chỉ là cái cớ để các bên chính thức khai chiến sau một thời gian dài chạy đua vũ trang nhằm chuẩn bị chiến tranh. Chiến tranh là "phải nổ ra" do mâu thuẫn giữa các quốc gia ở châu Âu đã chín muồi, các bên tham chiến từ trước đó khá lâu đã có các mâu thuẫn đối kháng với nhau, và muốn triệt hạ nhau bằng quân sự để phân chia lại thế giới.
Nguyên nhân và bản chất của chiến tranh này là rất phức tạp, đa diện, nhưng có thể được tổng kết như sau:
Chủ nghĩa đế quốc và sự tranh giành thuộc địa.
Lenin và những người Bolshevik, cùng một phần lớn những người xã hội chủ nghĩa của châu Âu phân tích có cơ sở rằng chiến tranh là mâu thuẫn của sự phát triển của các nước chủ nghĩa đế quốc cầm đầu ở châu Âu và chiến tranh có tính chất chiến tranh đế quốc: đó là cuộc chiến nhằm tranh giành, phân chia lại thuộc địa giữa các nước đế quốc, là cuộc chiến tranh phi nghĩa đối với tất cả các phe tham chiến.
Theo phân tích của Lenin, nguyên nhân chiến tranh bắt nguồn ngay từ giữa thế kỷ XVI: ở thời điểm này, các nước châu Âu bắt đầu hình thành Chủ nghĩa tư bản. Để tìm kiếm tài nguyên và lợi nhuận, các nước thực dân châu Âu bắt đầu bành trướng lãnh thổ, đem quân xâm chiếm các nước châu Á, châu Phi để biến các nước này thành thuộc địa. Đến cuối thế kỷ XIX, về cơ bản thì tất cả châu Á, châu Phi đã bị biến thành thuộc địa. Nhưng sự phân chia thuộc địa giữa các nước châu Âu là rất không đồng đều. Anh-Pháp là 2 nước đã xâm chiếm thuộc địa từ khá sớm nên chiếm được rất nhiều thuộc địa, trong khi các nước châu Âu khác thì chiếm được ít hơn nhiều.
Đến cuối thế kỷ XIX, sự lớn mạnh của Đế quốc Đức sau Chiến tranh Pháp-Phổ đã đẩy mạnh những tham vọng chiếm lĩnh thuộc địa và chia lại thị trường thế giới của nước này. Đến đầu thế kỷ XX, Đế quốc Đức đã vượt qua Anh, Pháp để trở thành cường quốc công nghiệp đứng đầu châu Âu và đứng thứ 2 trên thế giới (sau Mỹ). Nhưng trong cuộc chạy đua giành giật thuộc địa, Đức lại là nước chậm chân, bởi đến cuối thế kỷ XIX, hầu hết châu Á và châu Phi đã bị Anh, Pháp chiếm làm thuộc địa. Năm 1913, tổng diện tích các thuộc địa của Đức chỉ là 2,9 triệu km², trong khi nước Anh có tới 34 triệu km², Pháp có gần 13 triệu km². Do quy mô thuộc địa không tương xứng với tiềm lực công nghiệp (ít thuộc địa thì tức là có ít tài nguyên và thị trường tiêu thụ), Đức là nước hiếu chiến nhất trong thời kỳ này. Ngoài ra, nước Đức chịu ảnh hưởng sâu sắc của truyền thống quân phiệt Phổ: đề cao chủng tộc Đức, tích cực truyền bá tinh thần kỷ luật quân đội, chạy đua vũ trang. Lenin đã tổng kết đặc trưng của nước Đức thời kỳ này là "Chủ nghĩa đế quốc quân phiệt, hiếu chiến".
Nhưng tham vọng của Đức gặp phải sự phản kháng của các nước "đế quốc già" là nước Anh, Pháp và Nga. Các "đế quốc già" này về cơ bản đã chiếm lĩnh gần hết những thuộc địa bao la khắp thế giới và muốn duy trì quyền thống trị của mình, không muốn "chia phần" cho những thế lực mới nổi như Đức. Đế quốc Áo–Hung và Đế quốc Ottoman từ lâu đã suy yếu, nhưng vẫn muốn có đủ "tư cách" và vai trò để tranh giành ảnh hưởng trong khu vực Trung Âu, Balkan và Kavkaz. Các cường quốc khác can thiệp vào khu vực đó để tranh giành ảnh hưởng với
Do có cùng mục tiêu tranh giành thuộc địa với Anh-Pháp, nước Đức đã cùng Áo - Hung, Italia thành lập "phe Liên Minh" vào năm 1882 để chuẩn bị chiến tranh chia lại thế giới. Để đối phó, Anh đã ký với Nga và Pháp những Hiệp ước tay đôi hình thành phe Hiệp ước (đầu thế kỷ XX). Từ đó, ở châu Âu đã hình thành 2 khối quân sự đối đầu nhau. 2 bên ra sức chạy đua vũ trang, chuẩn bị cho chiến tranh. Một cuộc chiến tranh đế quốc nhằm phân chia thuộc địa trên thế giới không thể tránh khỏi.
Sự mâu thuẫn mang tính chất đế quốc chủ nghĩa đòi hỏi một cuộc "chém giết lớn" để phân định lại ngôi thứ và lập lại trật tự thế giới, theo đó các thế lực mới nổi (đứng đầu là Đế quốc Đức) mong muốn đánh bại các thế lực cũ (Anh, Pháp, Nga) để chiếm lấy thuộc địa của kẻ thua.
Mặt khác, việc phát động chiến tranh của các nước đế quốc còn nhằm đối phó với những bất ổn trong nội bộ quốc gia. Đầu thế kỷ XX, phần lớn giai cấp lao động ở các nước bị bóc lột nặng nề, đời sống rất khốn khó (công nhân thường xuyên phải làm việc 12 giờ/ngày, đồng lương lại thấp, việc sa thải diễn ra bừa bãi, trẻ em 12 tuổi đã phải đi làm công nhân phụ giúp cha mẹ...). Sự áp bức đó tạo ra mâu thuẫn gay gắt giữa người lao động với chủ tư bản, nhiều quốc gia đã tiềm ẩn phong trào cách mạng (đặc biệt là ở Nga, Đức và Áo-Hung). Việc phát động chiến tranh sẽ kích thích tinh thần ái quốc của người dân, làm họ quên đi các vấn đề trong nước và xoa dịu mâu thuẫn trong lòng các nước đế quốc.
Liên minh quân sự, chạy đua vũ trang, quân phiệt.
Từ nguyên nhân mâu thuẫn lợi ích, sự thèm muốn tranh giành thuộc địa đã dẫn tới một nhóm nguyên nhân khác cũng được các nhà nghiên cứu chỉ ra, là hệ thống các liên minh quân sự, sự chạy đua vũ trang và Chủ nghĩa quân phiệt của các đế chế:
Chủ nghĩa dân tộc.
Sau thế kỷ XIX tại châu Âu khi những giá trị tự do cá nhân và quyền tự quyết của cá nhân được nhận thức thì hiển nhiên nhận thức về quyền dân tộc tự quyết của các dân tộc đang bị điều khiển bởi các dân tộc cường quốc sẽ trỗi dậy và gặp phải sự ngăn trở của các dân tộc khác. Sự thức tỉnh tình cảm dân tộc thường đi kèm với Chủ nghĩa Sôvanh và trên con đường tìm vị thế của mình các dân tộc nhỏ thường tìm sự bảo trợ của các đồng minh lớn để chống lại các kẻ thù cận kề. Điều đó dẫn đến các xung đột được tích luỹ và chiến tranh là cách giải toả cuối cùng.
Chủ nghĩa dân tộc là nguyên nhân chính của vụ ám sát thái tử Áo-Hung tại Bosnia. Sau cuộc chiến Nga-Thổ 1878, Nga có ảnh hưởng lớn ở Balkan. Áo-Hung lại điều khiển chính phủ ở Bosnia và năm 1908 thì gạt Thổ Nhĩ Kỳ ra khỏi đây, nắm toàn bộ ảnh hưởng ở Bosnia. Nga vận động các nước còn lại trên bán đảo Balkan lập ra Liên minh Balkan hi vọng khối này sẽ đẩy lùi Áo-Hung. Nhưng do những mâu thuẫn trước kia đối với Đế chế Ottoman, khối này đã không chống lại Áo-Hung mà gây Chiến tranh Balkan lần thứ nhất 1912-1913 với Thổ Nhĩ Kỳ. Song do sự phân chia quyền lợi không đều, Chiến tranh Balkan lần thứ hai 1913 lại bùng phát, và Bulgaria là nước bại trận. Đến năm 1914, Thổ Nhĩ Kỳ gần như chỉ có 1 ít ảnh hưởng ở bán đảo này, chủ yếu ở Albania. Áo-Hung lại trở thành kẻ thù lớn của Liên minh Balkan. Serbia, nước theo chủ nghĩa dân tộc mạnh mẽ nhất tại Balkan lúc này đã vận động Chủ nghĩa dân tộc Bosnia là nước có chung đường biên giới với Serbia để đánh đuổi Áo-Hung ra khỏi Balkan. Một phần tử được trợ giúp bởi tổ chức dân tộc Bàn tay đen của Serbia đã ám sát hoàng tử Áo-Hung vào 28 tháng 6 năm 1914. Sau đó, Áo-Hung đe dọa Serbia và 1 tháng sau, Áo-Hung tuyên bố chiến tranh với Serbia vào ngày 28 tháng 7 năm 1914.
Chiến tranh là tất yếu?
Trong các học giả thế giới khi đề cập nguyên nhân chiến tranh có xuất hiện câu hỏi: Liệu có thể tránh được cuộc chiến tranh này không? Với những nguyên nhân khách quan và chủ quan như vậy thì ở tầm quốc tế và lịch sử nhân loại có thể nói: với trình độ giác ngộ chính trị của nhân loại vào đầu thế kỷ XX, khi tư duy chính trị vẫn là tư duy nước lớn, tư duy đế quốc Chủ nghĩa, khi cách tiếp cận các vấn đề quốc tế luôn theo nguyên tắc "tối đa quyền lợi cho mình, tối thiểu cho đối phương" thì Chiến tranh thế giới thứ nhất là "phải xảy ra và không thể tránh được". Cuộc chiến này sẽ cùng với Chiến tranh thế giới thứ hai sẽ tập cho nhân loại phải suy nghĩ theo kiểu tư duy mới là "cùng tồn tại hoà bình, các bên cùng có lợi". Để nhận thức được như vậy nhân loại phải trả giá gần cả trăm triệu mạng người trong 2 cuộc đại chiến và các cuộc chiến khác trong thế kỷ XX. Đó là bài học chính trị quý giá nhất của đại chiến mà nhiều khi nơi này hay nơi khác bài học đó vẫn còn bị "lãng quên".
Các quan tâm quyền lợi.
Các nước tham chiến.
Ngoài ra các đế quốc quân chủ Nga, Đức, Ottoman, Áo-Hung, Nhật Bản muốn dùng chiến thắng trong chiến tranh với tinh thần yêu nước dâng cao để trì hoãn cải cách dân chủ, xã hội trong nước.
Chiến tranh thế giới thứ nhất diễn ra chủ yếu trên 3 chiến trường chính: Mặt trận phía Tây, Mặt trận phía Đông và Mặt trận phía Nam. Trong đó mặt trận phía Tây giữa liên quân Pháp – Anh chống lại quân Đức có vai trò chính yếu quyết định số phận chiến tranh vì ở đây tập trung binh lực lớn nhất có chất lượng cao nhất của cả hai phía. Mặt trận phía Đông là chiến trường giữa quân Nga chống Đức và Áo – Hung, mặt trận này có quy mô và tầm quan trọng không bằng mặt trận phía Tây và quân Nga thường thất bại trước quân Đức nhưng luôn làm quân đội Đức, Áo - Hung phải chiến đấu trên hai mặt trận không thể huy động tổng lực lực lượng khả dĩ cho 1 chiến thắng quyết định trong chiến tranh. Mặt trận phía Nam có tầm quan trọng thấp chủ yếu với 1 lực lượng quân đội nhỏ bé và chỉ có ý nghĩa khu vực. Mặt trận phía Nam lại phân nhỏ thành các chiến trường:
1914: Đức phải chiến đấu trên 2 mặt trận.
Ngày 1 tháng 8 năm 1914, Đức tuyên chiến với Nga, ngày 3 tháng 8 với Pháp; ngày 4 tháng 8 Anh tuyên chiến với Đức và đổ bộ vào lục địa. Chiến tranh lớn đã nổ ra.
Mặt trận phía Tây.
Ngày 2 tháng 8 năm 1914, quân Đức chiếm Luxembourg và 2 ngày sau tràn vào Bỉ, vi phạm tình trạng trung lập của nước này để lấy đường tiến vào miền Bắc nước Pháp. Kế hoạch Schlieffen của bộ tổng chỉ huy Đức tính toán rằng: cuộc tấn công bất ngờ qua Bỉ đánh thẳng vào Bắc nước Pháp, là khu vực ít bố phòng, sẽ nhanh chóng loại nước này ra khỏi chiến tranh trong vòng 40 ngày, trước khi quân đội Nga kịp tổng động viên và tập hợp; sau khi đánh tan quân Pháp thì Đức sẽ điều quân quay sang mặt trận phía Đông giải quyết quân Nga và kết thúc chiến tranh.
Khi quân Đức xâm chiếm Bỉ, vì lo ngại sự kháng cự của người Bỉ, đặc biệt là từ các tay súng bắn tỉa (franc-tireurs), quân Đức ngay từ ngày đầu tiên ở Bỉ đã mạnh mẽ chống lại người dân bản địa. Ngay từ ngày 05/08, người Đức không chỉ bắt đầu bắn giết thường dân mà còn hành quyết có chủ ý các linh mục người Bỉ, những người mà Bộ Tuyên truyền Đức khẳng định là đã khuyến khích hoạt động bắn tỉa. Tư lệnh Đức Helmuth von Moltke viết cho người đồng cấp ở Áo của ông, Conrad von Hotzendorff, vào ngày 5 tháng 8: "“Quá trình tiến quân của chúng ta ở Bỉ chắc chắn là rất tàn bạo. Nhưng chúng ta đang chiến đấu cho sinh mạng của mình và tất cả những ai cản đường phải chịu hậu quả.”" Tổng cộng trong gia đoạn tiến công đầu tiên, quân Đức đã giết 5.521 thường dân ở Bỉ và 896 người ở Pháp, cũng vì thế quân Đức bị người Bỉ thù hận và còn làm hại hình ảnh nước Đức trong con mắt của nhiều nhà quan sát nước ngoài.
Kế hoạch Schlieffen là quá sức với Đức: ban đầu quân Đức giành được lợi thế trong các trận đánh biên giới và tiến nhanh về phía Paris hòng đánh chiếm thủ đô nước Pháp, và người Đức sắp sửa giành được chiến thắng lớn nhằm quyết định kết cục chiến tranh. Nhưng khi đi sâu vào đất Pháp, lực lượng Đức dần bị dàn mỏng khiến các chỉ huy quân Đức bắt đầu mắc sai lầm. Ở phía đông, quân Nga cũng bắt đầu tấn công lãnh thổ Đức vào ngày 17 tháng 8, sớm hơn nhiều so với dự kiến của Đức là 40 ngày. Điều này khiến Đức phải rút bớt quân từ mặt trận Pháp để chuyển sang phía đông chặn đánh quân Nga, làm yếu đi lực lượng xung kích đang tấn công vào Pháp.
Thế rồi, trong trận sông Marne lần thứ nhất vào tháng 9 năm 1914 quân Đức đánh bất phân thắng bại với liên quân Pháp - Anh. Quân Đức phải lui binh về cố thủ, quân Pháp quá kiệt quệ nên không thể truy kích, nên cả hai đoàn quân không bên nào có thể giành thế thượng phong. Chiến tranh trên mặt trận phía Tây dần đi vào hình thức chiến tranh chiến hào ("Stellungskrieg"), và tình hình cứ thế trong suốt 4 năm chiến tranh. Trận đánh kế tiếp tại Aisne còn khốc liệt hơn cả trận sông Marne, diễn ra từ 13-28 tháng 9 năm 1914. Cả hai bên đều mất hàng chục ngàn binh sĩ, nhưng rồi đây vẫn là 1 trận chiến bất phân thắng bại.
Kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của Đức như vậy là đã bị phá vỡ.
Mặt trận phía Đông.
Để giúp đồng minh đang khó khăn tại mặt trận Pháp – Bỉ, đầu tháng 9 năm 1914 quân đội Nga tổng tấn công trên 2 hướng: Galicia đối đầu với Áo-Hung và đặc biệt là tấn công rất nhanh, mạnh vào Đông Phổ thuộc Đức. Vào ngày 17 tháng 8 năm 1914, quân đội Đức đánh thắng quân Nga trong trận đánh mở đầu tại Stallupönen - 1 chiến thắng nhỏ nhưng có tầm quan trọng về chiến lược. Các cuộc tấn công sau đó của quân Nga đã thắng lợi nhưng thiệt hại nặng về nhân mạng: đánh lui quân đội Đức trong trận Gumbinnen và quân đội Áo – Hung tại Galicia. Đông Phổ có nguy cơ mất vào tay Nga.
Để cứu nguy cho tập đoàn quân số 8 của mình đang phòng thủ Đông Phổ, Đức phải điều bớt những lực lượng xung kích từ phía Tây sang Đông Phổ và kết quả là trong nửa cuối tháng 8, quân Đức do vị tướng Paul von Hindenburg chỉ huy đã đánh tan quân Nga ở trận Tannenberg, Nga mất 30.000 lính và bị bắt 95.000 tù binh, phía Đức chỉ mất 3.436 người chết và 6.800 bị thương. Trận thắng này đã chặn đứng tập đoàn quân số 1 và bao vây tiêu diệt hoàn toàn tập đoàn quân số 2 của phương diện quân Tây Bắc của Nga, tư lệnh tập đoàn quân số 2 là tướng Aleksandr Samsonov buộc phải tự sát, quân Nga bị đuổi khỏi Đông Phổ. Đây là 1 chiến thắng lớn của quân lực Đức trong suốt Đại chiến thứ nhất, có ảnh hưởng lớn đến tinh thần của dân tộc Đức, là trận đánh đáng ghi nhớ trong lòng toàn dân Đức thời đó. Quân Đức cũng đánh bại quân Nga trong trận Lyck vài ngày sau đó. Tuy nhiên, về mặt chiến lược thì cuộc tấn công của Nga đã diễn ra sớm hơn nhiều so với dự tính của Đức, khiến Đức phải rút bớt những lực lượng xung kích từ mặt trận Pháp, qua đó góp phần phá vỡ chiến lược "đánh nhanh thắng nhanh" của Đức và giảm bớt gánh nặng cho quân Anh-Pháp đang bị Đức áp đảo.
Ở phía đông nam thì quân Áo – Hung lại để quân Nga đánh tan nát ở Trận Lemberg (1914). Quân đội Áo - Hung thất bại nặng nề với 450.000 thương vong (100.000 chết, 220.000 bị thương và 130.000 bị bắt làm tù binh), trong khi Nga bị tổn thất khoảng 240.000 người (bao gồm 40.000 bị bắt làm tù binh). Một số người Tiệp Khắc và người Slav không chịu chiến đấu cho quân đội Áo-Hung nên đã ra đầu hàng hàng loạt. Kết thúc năm 1914 tại chiến trường Đông Âu, quân Nga chiếm lĩnh toàn bộ vùng phía đông của Galicia chạy dài tới chân núi Carpathian. Người Nga suýt nữa đã tiến được đến bình nguyên Hungary vào cuối tháng 9 nhưng họ đã dừng tiến quân vì hậu cần gặp khó khăn và bị tổn thất nặng.
Quân Nga rõ ràng chưa chuẩn bị tốt cho chiến tranh, trình độ sĩ quan và binh lính lạc hậu nên không thể chống lại các cuộc tấn công có tổ chức tốt của Đức, nhưng Đức lại phải chống chân cho Đế quốc Áo-Hung bị coi là "bất tài". Quân đội Nga phải chuyển sang phòng ngự. Quân Đức cũng không tấn công thêm, mặt trận phía Đông đi vào ổn định. Chỉ trong 1 năm 1915, hơn 1 triệu quân Nga bị liên quân Đức - Áo bắt giữ, nhưng hơn 1 triệu lính Áo-Hung và Đức cũng đã bị Nga bắt giữ làm tù binh.
Như vậy Quân đội Đức đã phải bị động đánh nhau trên 2 mặt trận và kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của nước này đã thất bại. Các bên tham chiến đi vào chiến tranh chiến hào. Thực chất, đây không phải là lần đầu tiên người Đức phải chiến đấu trên 2 mặt trận: trong cuộc Chiến tranh Bảy năm (1756 - 1763), Vương quốc Phổ dưới sự lãnh đạo tài tình của vua Friedrich II Đại Đế (1712 - 1786) cũng đã lâm vào tình trạng "lưỡng nan thọ địch" (người Phổ đã chiến thắng cuộc chiến tranh này do nữ hoàng Nga qua đời đột ngột khiến liên quân Nga-Áo-Pháp bị mâu thuẫn nội bộ).
Diễn biến ở các chiến trường khác trong năm 1914.
Đế quốc Nhật Bản lợi dụng việc các cường quốc đang tham gia cuộc chiến tranh ở Châu Âu đã quyết định thực hiện kế hoạch bành trướng ở Viễn Đông. Ngày 15 tháng 8 năm 1914, Nhật Bản gửi tối hậu thư cho Đức đòi nước này chuyển cho Nhật Bản vùng Giao Châu (Trung Quốc) và hạn cho Đức phải trả lời trong 8 ngày. Đức không trả lời tối hậu thư của Nhật Bản nên ngày 23 tháng 8 năm 1914, Nhật Bản tuyên chiến với Đức và nhanh chóng chiếm Giao Châu và tuyến đường sắt Thanh Đảo-Tế Nam (Trung Quốc) và 1 loạt hòn đảo là thuộc địa của Đế chế Đức tại Thái Bình Dương. Ngày 11 tháng 11 năm 1914, Thanh Đảo, thuộc địa của Đức ở Trung Quốc, đã đầu hàng Nhật Bản sau 43 ngày bị bao vây. Sau những hoạt động quân sự này, Nhật Bản không có hoạt động nào khác tham gia Chiến tranh thế giới lần thứ nhất.
Ngày 21 tháng 9 năm 1914, quân Úc chiếm New Guinea là thuộc địa của Đế chế Đức ở Thái Bình Dương. Ngày 5 tháng 11 năm 1914, quân Đức chiến thắng quân Anh ở Đông Phi thuộc Đức (nay là Tanzania). Năm ấy,Sultan Ottoman là Mehmed V phản đối liên minh Đức - Ottoman. Nhưng rồi, theo lời khuyên của Bộ trưởng Chiến tranh Ismail Enver, Mehmed V với tư cách là Sultan kiêm Khalip phát động Thánh chiến ("Jihad") chống phe Hiệp ước.
1915 – 1916: Đức chủ động tấn công.
Sau thất bại của kế hoạch năm 1914 nhằm loại Pháp ra khỏi vòng chiến, nước Đức đã rơi vào thế bị động: tiềm năng kinh tế quân sự không bằng liên minh Anh – Pháp – Nga mà lại thực tế phải một mình đối đầu trên 2 mặt trận. Tình trạng này càng kéo dài thì càng bất lợi cho Đức. Để thoát thế kẹt trên 2 mặt trận, năm 1915 Đức tấn công quy mô lớn ở phía Đông để loại Nga ra khỏi chiến tranh và năm 1916 tổng tấn công để loại Pháp nhưng đều không thành. Trong 2 năm này đánh nhau rất to, thương vong của 2 bên là cực lớn, nhất là năm 1916 tại mặt trận phía Tây.
Mặt trận phía Đông 1915 – 1916.
Năm 1915, nước Đức quyết định tập trung lực lượng tấn công để loại Nga ra khỏi vòng chiến, xoá bỏ mặt trận phía Đông. Quân Đức trên mặt trận phía Tây chủ động chuyển sang phòng ngự trước liên quân Anh, Pháp và từ tháng 4 đến tháng 8 năm 1915 để dồn binh lực sang mặt trận phía Đông, đánh đòn tiêu diệt đối với quân đội Nga.
Sau hơn nửa năm chiến tranh, điểm yếu của Nga lộ rõ: Quân Nga không chuẩn bị đầy đủ cho một cuộc chiến tiêu hao lâu dài. Nền công nghiệp Nga khi đó có quy mô nhỏ hơn so với Anh, Pháp và Đức, do vậy sản xuất vũ khí đạn dược không theo kịp nhu cầu của chiến tranh. Quân Nga lâm vào cảnh thiếu súng đạn (Tháng 12 năm 1914, quân đội Nga có 6.553.000 quân nhưng chỉ có 4.652.000 khẩu súng trường, đến cuối cuộc chiến thì quân Nga phải sử dụng tạp nham 10 loại súng trường nhập khẩu khác nhau, mỗi thứ bắn một loại đạn, trong khi đạn pháo thì liên tục thiếu hụt). Năm 1914. cả quân đội Nga chỉ có không hơn 679 ô tô vận tải và hai xe ô-tô cứu thương. Hệ thống liên lạc thì lạc hậu: Quân đoàn 2 của Samsonov có 130.000 quân mà chỉ có 25 điện thoại, một vài máy mã hóa thường trục trặc giữa chừng, và kết quả là chỉ huy Nga thường phải cưỡi ngựa đi thị sát tình hình giống như hồi đầu thế kỷ 19. Mặt khác, tình trạng lạc hậu của nước Nga thời đó ảnh hưởng xấu đến chất lượng quân đội: 60% các hạ sỹ quan xuất thân từ nông dân, rất ít người có trên 4 năm học vấn và gần như chưa ai trải qua đào tạo quân sự bài bản, phần lớn lính Nga thì bị mù chữ, nhiều người thậm chí không biết lắp đạn súng trường, do vậy khó có thể đào tạo họ sử dụng hiệu quả các loại vũ khí phức tạp trong chiến tranh hiện đại. Đội ngũ sĩ quan cao cấp Nga thì phần lớn được bổ nhiệm theo kiểu cách quý tộc giống như thế kỷ XIX, nghĩa là dựa vào xuất thân quý tộc và lòng trung thành với Sa hoàng hơn là thành tích chiến trường (ví dụ như Đại Công tước Nikolai được bổ nhiệm làm tổng tư lệnh quân đội Nga bởi vì là chú ruột Nga hoàng, dù thực tế ông ta chưa bao giờ chỉ huy 1 tiểu đoàn và cũng chưa từng tham gia một cuộc chiến nào). Nhiều sĩ quan quý tộc này chẳng những bất tài mà còn đố kỵ, không chịu hợp tác với những chỉ huy có năng lực cao hơn họ.
Vì các nguyên nhân trên, cuộc tấn công của Đức diễn ra thuận lợi và thành công lớn: trong Chiến dịch Gorlice-Tarnów phía nam Ba Lan, liên quân Đức - Áo-Hung tấn công như vũ bão, quân Nga thua lớn, mất khoảng 350.000 binh sĩ và phải rút lui trên toàn chiến tuyến Họ thực hiện cuộc đại rút lui: bỏ Galicia, bỏ Ba Lan và sau đó phải bỏ cả một phần vùng Baltic. Thượng tướng August von Mackensen của Đức, với sự giúp đỡ tài tình của Đại tá Hans von Seeckt, đã làm nên chiến thắng lớn, khiến ông được thăng hàm Thống chế. Chiến dịch Gorlice–Tarnów là một trong những chiến thắng lớn nhất của lực lượng Quân đội Đức trong suốt cuộc Đại chiến thứ nhất này. Tuy thắng lợi to lớn, chiếm được một vùng rộng lớn đất đai của Đế quốc Nga nhưng Đức cũng bị tổn thất nhiều (mất 87.000 quân, chưa kể quân Áo-Hung) và vẫn không thể đạt mục tiêu cuối cùng là buộc Nga ra khỏi chiến tranh. Nga hoàng Nikolai II vẫn quyết tâm theo đuổi chiến đấu đến thắng lợi cuối cùng. Và đến cuối năm 1915 thì binh lực của nước Đức ở phía Đông cũng đã cạn, không thể tấn công thêm nữa. Mặt trận phía Đông đến cuối năm 1915 lại đi vào ổn định của chiến tranh chiến hào.
Tuy thất bại trong mục tiêu loại Nga ra khỏi chiến tranh, quân Đức vẫn chiếm được nhiều vùng lãnh thổ với 23 triệu dân, trong đó có các vùng kinh tế quan trọng của Nga, khiến sản lượng kinh tế của Nga sụt giảm nghiêm trọng. Đây là một nhân tố sẽ góp phần tạo ra cách mạng lật đổ Nga hoàng sau này.
Từ tháng 6 đến cuối tháng 8 năm 1916, quân đội Nga (phương diện quân Tây Nam, tư lệnh Aleksei Alekseevich Brusilov lại một lần nữa lợi dụng quân Đức đang mải bận đánh trận Verdun bên Pháp tiến hành tấn công thắng lợi lớn tại Galicia, đánh tan tác liên quân Đức và Áo - Hung, bắt được hàng trăm ngàn binh sĩ đối phương. Trong vòng 48 giờ, quân Nga đã xuyên thủng hàng phòng ngự của Áo - Hung dọc theo chiến tuyến dài 80 km, bắt sống hơn 40.000 tù binh. Sau 2 tháng, hơn phân nửa lực lượng Áo- Hung Mặt trận phía Đông bị đánh tan tác, và tướng Conrad, Thạm mưu Trưởng Áo, bắt đầu nghĩ đến việc nghị hòa. Tổn thất nặng nề trong chiến dịch này đã thực sự làm quân đội Áo - Hung mất khả năng tiến hành các chiến dịch lớn chống lại khối Hiệp ước. Chiến dịch Brusilov được xem là chiến thắng vẻ vang nhất của quân Nga và phe Hiệp ước trong cuộc chiến. Hơn 1,3 triệu quân Đức, Áo - Hung đã bị tiêu diệt trong chiến dịch này (trong đó hơn 500.000 bị bắt), quân Nga chiếm lại một phần Ukraina và Belarus, khiến Brusilov trở thành người anh hùng của phe Entente trên Mặt trận phía Đông. Tham mưu trưởng Đức, tướng Ludendorff đã gọi đây là "‘cuộc khủng hoảng phía Đông’".
Tuy thắng lớn nhưng quân Nga lại không thể thừa thắng xông lên tiêu diệt hoàn toàn quân đội Áo - Hung. Điều này bởi nhiều nguyên nhân: quân Nga đã cạn nguồn lương thực và đạn dược, lại phải điều bớt quân sang giúp đồng minh Rumani, ngoài ra còn có thái độ ganh ghét của các tướng Nga khác với thành công của Brusilov khiến đội quân của ông không nhận được sự hỗ trợ cần thiết. Đầu tháng 7, Tổng chỉ huy Nga chuyển Đội Vệ binh Hoàng gia ưu tú đến hỗ trợ Brusilov. Nhưng chỉ huy của Đội Vệ binh là Tướng Bezobrazov, một quý tộc kiêu ngạo, ông ta không tuân lệnh Brusilov mà cứ ra lệnh cho Đội Vệ binh tấn công qua một đầm lầy lộ thiên, để rồi bị thiệt hại nặng bởi máy bay Đức không kích. Chỉ trong một mệnh lệnh ngu ngốc, Đội Vệ binh tinh nhuệ nhất của nước Nga đã bị tiêu diệt. Trong khi đó, nếu 2 tướng Nga là Evert và Kuropatkin giữ lời hứa tiến quân đồng bộ với Brusilov, mở cuộc tấn công ở phía Tây và Tây-Bắc, thì tiến trình chiến tranh đã đổi chiều hoàn toàn và quân Nga có thể đi đến thắng lợi cuối cùng. Hindenburg sau đó thú nhận rằng nếu Nga mở cuộc tấn công thứ hai thì "‘Chúng tôi ắt hẳn đã đối diện với một sự sụp đổ hoàn toàn’". Một lần nữa, quân đội Nga lại lãng phí thời cơ quý giá vì những điểm yếu gây ra bởi những chỉ huy quý tộc. Tướng Brusilov sau này rằng có nhận xét cay đắng là "‘Nước Nga không thể thắng cuộc chiến với thể chế chính quyền hiện thời.’"
Để cứu vãn tình hình mặt trận phía đông, nước Đức lại phải kéo quân từ mặt trận phía Tây về can thiệp và chặn đứng quân Nga. Quân Nga lại phải rút lui nhưng sau đó Đức phải chuyển quân sang phía Tây, hai bên lại đi vào cầm cự trong chiến hào cho đến khi Nga ra khỏi chiến tranh cuối năm 1917 vì sụp đổ trong phong trào cách mạng.
Mặt trận phía Tây 1915 - 1916.
Trong các năm 1915, 1916 mặt trận phía Tây đánh nhau cực kỳ quyết liệt nhưng không có nhiều đột biến: các chiến dịch tại Ypres (bắc Bỉ), Champagne và Artois (bắc Pháp) quân hai bên nhiều lần cố gắng chọc thủng phòng tuyến của nhau nhưng đều thất bại. Tại đây đầu tiên là quân Đức đã sử dụng vũ khí hoá học sau đó quân Entente đáp trả gây chết ngạt rất nhiều cho quân sĩ hai bên. Năm 1916, diễn ra trận Verdun nổi tiếng nhất trong thế chiến này, diễn ra trên đất Pháp (từ 21 tháng 2 đến 18 tháng 12 năm 1916) đây là nỗ lực của Đức tấn công đánh bại quân Pháp chiếm Paris loại Pháp ra khỏi chiến tranh: quân Đức tấn công rất mãnh liệt thành cổ Verdun để hướng về Paris và quân Pháp cố thủ đến cùng, hai bên tranh chấp chiến tuyến vô cùng ác liệt, chết vô số nhưng chiến tuyến chỉ dịch chuyển lên xuống được dưới 10 km. Sau này Verdun vì số lượng thương vong quá lớn được gọi là "cối xay thịt". Quân Pháp kiệt quệ và cả hai phe đều không thể thắng được trận đại chiến Verdun này.
Để phản công giải nguy cho Verdun, tháng 9 năm 1916, quân Anh đã tấn công tại trận sông Somme nhưng cũng không có kết quả rõ rệt. Trận này lần đầu tiên trong lịch sử quân sự thế giới quân Anh đã sử dụng xe tăng tấn công và đã đạt hiệu quả chiến thuật rất cao. Nhưng nỗ lực của liên quân Anh - Pháp coi như thất bại, thương vong của 2 bên trong chiến dịch này còn cao hơn cả trận Verdun
Tại các mặt trận phía Nam 1915 – 1916.
Ngày 23 tháng 5 năm 1915, Ý gia nhập khối Đồng minh ba bên (Anh- Pháp- Nga) để chống Áo. 14 tháng 10 năm 1915 Bulgaria tham gia vào phe liên minh Đức - Áo để chống Serbia. Mặt trận phía Nam tuy quy mô nhỏ nhưng sôi động hẳn lên.
1917: Năm bản lề.
Năm này là năm bản lề của chiến tranh: Tại mặt trận phía tây, liên quân chuyển sang tấn công. Chiến tranh tàu ngầm không hạn chế trên biển, Hoa Kỳ tham chiến chống Đức. Cách mạng tại Nga làm nước này rời bỏ chiến tranh.
Quân Anh-Pháp-Nga chuyển sang tấn công.
Trong năm 1917 lợi thế đã nghiêng sang phía Anh-Pháp-Nga ba bên, vòng vây trên biển siết chặt kinh tế Đức của Hải quân Hoàng gia Anh đã cho thấy các kết quả. Liên quân Pháp-Anh liên tục mở các cuộc tấn công lớn trên tất cả các mặt trận.
Chiến tranh tàu ngầm không hạn chế.
Sau này nhiều nhà nghiên cứu Anh đã công nhận Anh thực tế đã trên nguy cơ thua trận nếu chiến tranh tàu ngầm của Đức hiệu quả hơn nữa. Ban đầu Đức trông cậy vào hạm đội tàu nổi của mình nhưng hạm đội Đức không thể đua tranh được với hạm đội hùng hậu của Hải quân Hoàng gia Anh nên nhiệm vụ bóp nghẹt kinh tế Anh được giao cho hạm đội tàu ngầm rất nổi tiếng của Đức. Đức chạy đua với thời gian xây dựng lực lượng tàu ngầm và sử dụng chúng hiệu quả để đánh phá tuyến vận tải biển quan trọng sống còn đối với Anh.
Tàu hàng Andex của Anh trúng ngư lôi của tàu ngầm Đức. Để tăng hiệu quả áp lực lên Anh tháng 2 năm 1917 Tổng tham mưu trưởng Đức Erich Ludendorff thuyết phục được Thủ tướng Đức ("Chancellor") tuyên bố chiến tranh tàu ngầm không hạn chế chống mọi tàu của mọi quốc tịch chuyên chở tiếp tế cho Anh. Lượng trọng tải tàu bị đánh chìm tăng lên nhanh chóng đạt mức trung bình 500.000 tấn/tháng và đạt đỉnh trong tháng 4 năm 1917 là 860.000 tấn. Nước Anh trước nguy cơ bại trận: tình hình rất nghiêm trọng, đã có nạn đói trong nước. Từ tháng 8 năm 1917 Anh áp dụng chiến thuật vận tải mới là hạm đội áp tải để vô hiệu hoá đòn đánh của tàu ngầm và chiến thuật này là cực kỳ hiệu quả và nước Anh đã thoát hiểm hoạ chết đói. Nhưng để đối phó lại, tàu ngầm Đức áp dụng chiến thuật "nổi lên đánh đêm": hạm đội Anh chỉ hiệu quả chống tàu ngầm khi chúng bị phát hiện dưới mặt nước hoặc bị nổi lên ban ngày. Khi vào ban đêm tàu ngầm Đức nổi lên bơi lẫn vào đoàn tàu vận tải thì Hải quân Anh không biết cách làm thế nào. Đây là chiến thuật rất hiệu quả của Đức và nếu chiến tranh kéo dài chưa biết kết quả sẽ thế nào: Các tàu ngầm Đức luôn theo sát các đoàn convoy của Anh nhưng thay vì tấn công, chúng chờ đến đêm nổi lên bơi lẫn vào đoàn tàu vận tải, áp mạn ở cự ly gần và dùng pháo lần lượt tiêu diệt từng chiếc một. Một thảm hoạ cho hình thức convoy của Anh.
Hoa Kỳ tham chiến.
Hoa Kỳ từ đầu thế kỷ XX theo đuổi "chính sách không can thiệp" và giữ trung lập trong chiến tranh. Nhưng do phần lớn người Mỹ là con cháu của những người Anh di cư sang nên tâm lý nhân dân và chính giới Hoa Kỳ luôn giành tình cảm cho người Anh nên dù vẫn giữ quan hệ với Đức, Hoa Kỳ luôn dành cho Anh những thuận lợi để duy trì chiến tranh.
Ban đầu, Hoa Kỳ không muốn tham gia chiến tranh, họ chỉ muốn đứng ngoài thu lợi từ các hợp đồng xuất khẩu hàng hóa cho các nước tham chiến. Các khoản chi phí quân sự cực lớn của các nước châu Âu đã đem lại lợi nhuận cực kỳ lớn cho các công ty Mỹ (bằng việc bán lương thực, đồ dùng và cho vay nặng lãi đối với các nước tham chiến). Đến năm 1917, xuất khẩu của Mỹ đã tăng 2,5 lần so với mức trước chiến tranh (từ 825 triệu USD lên 2,25 tỷ USD), chủ yếu là nhờ xuất khẩu hàng hóa sang châu Âu. Giữa năm 1914 và 1917, sản xuất công nghiệp Mỹ tăng 32% và GNP tăng gần 20%, trái ngược hẳn với tình trạng suy thoái trước chiến tranh. Riêng hãng thép Bethlehem Steel đã xuất khẩu 500.000 tấn vỏ thép và 20,1 triệu viên đạn pháo cho Anh và Pháp trong giai đoạn 1914-1917.
Các khoản cho vay từ các tổ chức tài chính Mỹ đến các nước châu Âu cũng gia tăng mạnh trong thời chiến tranh. The House of Morgan cung cấp kinh phí cần thiết cho chiến phí của Anh và Pháp. Từ năm 1914 trở đi, các ngân hàng Morgan ở New York, được chỉ định là đại diện tài chính cho chính phủ Anh, và sau đó đóng một vai trò tương tự đối với Pháp.
Trong khi thế giới tập trung chú ý vào chiến trường châu Âu, Hoa Kỳ ngày càng lo ngại rằng Đức có thể giành chiến thắng. Vào đầu thế kỷ XX, với tham vọng đánh chiếm thuộc địa ngày càng tăng, sự hiện diện của Đức ở Haiti gia tăng. Năm 1915, tổng thống Woodrow Wilson từng phải gửi Thủy quân lục chiến Mỹ tới Haiti, nhằm bảo vệ các tài sản của Mỹ trong khu vực và ngăn chặn một cuộc xâm lược của Đức và lãnh thổ này. Đầu năm 1917, Đế quốc Nga sụp đổ còn Đế quốc Anh thì đang tổn thất nặng do tàu ngầm Đức, chiến sự đảo chiều có lợi cho phe Đức. Nếu Đức chiến thắng trong thế chiến, nước này sẽ là bá chủ châu Âu, và mục tiêu tiếp theo của Đế quốc Đức chắc chắn sẽ là các thuộc địa ở Nam Mỹ, vùng mà Hoa Kỳ vẫn luôn coi là khu vực ảnh hưởng quan trọng nhất của mình. Ngoài ra, 3 tỷ USD (tương đương 50 tỷ USD thời giá 2015) mà Mỹ đã cho Anh, Pháp vay để làm chiến phí sẽ mất trắng. Do đó, Mỹ ngày càng muốn tham gia vào chiến tranh để hỗ trợ cho Anh và Pháp.
Với việc Đức tuyên bố chiến tranh tàu ngầm không hạn chế đánh cả vào tàu Mỹ, lại cộng thêm sự kiện bức điện Zimmermann đã làm dư luận Hoa Kỳ hết kiên nhẫn, họ đòi chính phủ tham chiến chống Đức. Ngày 6 tháng 4 năm 1917, Hoa Kỳ cắt mọi quan hệ và tuyên bố chiến tranh với Đức. Vào cuối năm 1918 khi Đức đầu hàng, lực lượng viễn chinh Hoa Kỳ tại châu Âu chưa thật lớn và Quân đội Hoa Kỳ không đóng vai trò chủ đạo trong việc đánh thắng quân Đức trên chiến trường, nhưng rõ ràng với tiềm lực kinh tế rất lớn của mình giúp cho Entente và các mối ràng buộc chính trị, kinh tế nhất là các khoản cho vay với Đức bị dứt bỏ thì sự tham chiến của Hoa Kỳ là một yếu tố cực mạnh có lợi cho Đồng Minh.
Sau chiến tranh, Hoa Kỳ là nước thu lợi lớn trong khi các nước châu Âu thì tổn hại nghiêm trọng. Hoa Kỳ tổn thất gần 50.000 lính tử trận, con số này rất nhỏ so với tổn thất của các nước Anh, Pháp, Đức, Nga. Các nước châu Âu đều bị tàn phá nặng, trong khi lãnh thổ Hoa Kỳ không bị tổn hại gì, lại còn thu được lợi nhuận khổng lồ từ các hợp đồng xuất khẩu hàng hóa cũng như các khoản bồi thường chiến phí từ các nước bại trận. Ngoài ra, Hoa Kỳ còn chiếm thêm được một số thuộc địa từ tay Đế quốc Đức ở khu vực Thái Bình Dương.
Những nguyên nhân nói trên đã giúp kinh tế Hoa Kỳ vượt qua các nước châu Âu kể từ sau thế chiến 1. Trước chiến tranh, Đế quốc Anh sở hữu hơn một nửa trọng tải tàu biển trên thế giới, trong khi Hoa Kỳ chỉ chiếm 5%, nhưng vào cuối Thế chiến, vị thế đó đã được thay đổi. Nước Anh chỉ còn chiếm không quá 35% trong khi Hoa Kỳ sở hữu 30% trọng tải vận chuyển đường biển trên thế giới. Tương tự như vậy, Hoa Kỳ đã đạt được sự thống trị với thị trường than, điều mà Anh đã đánh mất. Vào cuối cuộc chiến tranh, kinh tế các nước châu Âu tham chiến đều bị "hút máu" đến cạn kiệt và lâm vào nợ nần với chủ nợ là Hoa Kỳ. Gần một nửa số vàng dự trữ của thế giới đã chuyển sang nằm trong tay của Hoa Kỳ, các khoản nợ tích lũy của châu Âu với Mỹ đã lên tới trên 18 tỷ USD (tương đương hơn 300 tỷ USD thời giá 2015).
Cách mạng tại Nga, Nga ra khỏi chiến tranh.
Nền kinh tế Nga không chịu nổi sức nặng chiến tranh, dân chúng khốn cùng, thất nghiệp, chết đó, tất cả những cái đó gây bất mãn cao độ trong nhân dân và quân đội. Quân lính đã quá khổ vì chiến tranh lại căm thù tầng lớp sĩ quan quý tộc, không còn lòng ái quốc ban đầu khi mới chiến đấu. Mâu thuẫn nội bộ của quân đội Nga cũng là quá lớn: thậm chí chiến dịch tấn công của tướng Brusilov tháng 6 năm 1916 chống quân Áo – Hung tại Galicia cũng bị các sĩ quan cao cấp khác ghen ghét, không chịu hợp tác.
Nền kinh tế Đế quốc Nga vốn yếu hơn Đức, Anh, Pháp nên không chịu được cường độ cao của cuộc chiến tranh. Lệnh tổng động viên 10 triệu người tham gia nhập ngũ đã làm cho sản xuất nông nghiệp thiếu nhân lực nghiêm trọng nên ngày càng suy thoái. Từ năm 1916 đến 1917, sản lượng lương thực giảm 20%. Nạn mất mùa, đói kém xảy ra khắp nơi. Sản xuất công nghiệp cũng đình đốn trong chiến tranh nên nạn thất nghiệp tăng nhanh. Nền tài chính nước Nga lâm vào tình trạng khủng hoảng. Từ tháng 8 năm 1914 đến tháng 3 năm 1917, triều đình Nga hoàng đã chi vào cuộc chiến 29,6 tỷ Rupee, cao gấp 3 lần tổng thu quốc khố. Để có tiền chi dùng cho cuộc chiến, triều đình liên tục trưng thu những loại thuế mới và tổ chức bán quốc trái trong nhân dân. Tổng số quốc trái tính từ đầu 1914 là 8,8 tỷ Rupee đã tăng lên 36,6 tỷ Rupee vào năm 1917.
Mặt hàng quan trọng nhất là ngũ cốc, các phú nông và thương buôn đã đầu cơ, tích trữ lương thực: giá lương thực tăng cao hơn so với bất kỳ loại hàng hóa khác trong chiến tranh. Năm 1916, giá lương thực tăng cao hơn so với mức lương 3 lần, mặc dù vụ mùa bội thu trong cả hai năm 1915 và 1916. Giá ngũ cốc từ 2,5 rúp được dự đoán sẽ tăng lên đến 25 rúp. Với giá lương thực đắt đỏ, trong suốt năm 1916, người lao động ở đô thị Nga chỉ ăn trung bình khoảng từ 200 đến 300 gram lương thực cho mỗi ngày. Năm 1917, dân cư ở các đô thị của Nga được phép mua chỉ 450 gram bánh mỳ cho mỗi người lớn mỗi ngày. Tới mùa thu năm 1917, nước Nga đã lâm vào một cuộc khủng hoảng kinh tế và chính trị hết sức trầm trọng. Sản xuất công nghiệp chỉ bằng 36,4% so với năm trước. Giao thông vận tải hầu như bị tê liệt. Nạn đói đã xảy ra ở nhiều vùng trong nước, nhất là ở các thành phố. Các mâu thuẫn xã hội càng thêm gay gắt.
Đến năm 1917, người dân Nga đã quá căm giận nhà cầm quyền và không thể chịu nổi gánh nặng chiến tranh, nhất là khi quân Đức chỉ còn cách Thủ đô hơn 100 km. Mặt khác những người Cộng sản Nga (Bolshevik) đã kêu gọi người dân chống chiến tranh đế quốc, "Biến chiến tranh đế quốc thành nội chiến cách mạng". Nhân dân và binh sĩ đã không thể chịu nổi và muốn theo Đảng Bolshevik của Lenin tiến hành cách mạng. Đến tháng 3 năm 1917, Cách mạng tháng 2 đã nổ ra, Sa hoàng thoái vị. Đây là bước chuyển để những người Bolshevik thắng lợi hoàn toàn trong Cách mạng tháng Mười Nga. Tuy giữa hai cuộc cách mạng, nước Nga vẫn còn trong khối Đồng minh ba bên nhưng thực tế sau cách mạng tháng 2, quân đội Nga đã tan rã, không còn kỷ luật, quân sĩ tự bỏ ngũ, tự rút lui, có nơi họ còn truy lùng các sĩ quan mà trước đây họ căm thù để xử lý. Mặt trận phía Đông nhanh chóng biến mất, quân Đức nhân đà tan rã của quân Nga nhanh chóng theo chân kéo sâu vào lãnh thổ Nga để ra yêu sách.
Sau cách mạng tháng 10, Lenin đề nghị các nước tham chiến ngừng chiến tranh ngay lập tức, không đánh chiếm lãnh thổ của nhau, không bắt nhau phải bồi thường chiến phí. "“Sắc lệnh về hòa bình”" của Nhà nước Xô-viết lên án mọi chính sách đế quốc Chủ nghĩa, phản đối chiến tranh xâm lược, bảo vệ hòa bình và quyền bình đẳng, quyền tự quyết định vận mệnh của các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Lênin nêu rõ: "“Chiến tranh là một tội ác lớn nhất đối với nhân loạ, trên lời nói thì tất cả đều nói về hòa bình, về công lý, nhưng trong việc làm lại tiến hành những cuộc chiến tranh xâm lược và cướp bó”". Lần đầu tiên chiến tranh xâm lược của Chủ nghĩa đế quốc bị lên án, bị coi là tội ác lớn nhất chống lại nhân loại.
Với việc ký kết hoà ước Brest-litovsk riêng rẽ với Đức vào ngày 3 tháng 3 năm 1918, nước Nga Xô Viết ra khỏi chiến tranh với những nhân nhượng rất lớn: trao cho Đức vùng Ba Lan, Tây Belarus, Ukraina, các tỉnh Baltic, trả bồi thường 6 tỷ mark vàng cho Đức, ngoài ra nước Nga Xô viết không thể đủ lực lượng để ngăn cản phong trào đòi độc lập của Phần Lan nên đã dễ dàng trao trả độc lập cho nước này. Cuối cùng, Nga đã mất khoảng 842.000 km2 (chiếm 15,4% tổng diện tích trước chiến tranh), nơi sinh sống của 31,5 triệu người (23,3% dân số trước chiến tranh của Đế quốc Nga). Việc nhân nhượng Đức nằm trong dự tính của Lenin rằng nước Đức sẽ sớm thất bại trong thế chiến 1. Kế hoạch của Lenin thực chất là một biện pháp "câu giờ": ký hòa ước để nước Nga thoát khỏi được chiến tranh và tiết kiệm được xương máu của nhân dân. Đến khi Đế quốc Đức sụp đổ thì hòa ước cũng vô hiệu, nước Nga khi đó cũng chẳng còn phải bồi thường chiến phí nữa.
Nhận định này là chính xác khi chỉ 8 tháng sau, nước Đức bại trận và hoà ước Brest-litovsk trở nên vô hiệu. Sau đó, nước Nga Xô viết đã tiến quân thu hồi lại phía đông Ukraina và Belarus. Nhưng phần tây Ukraina, Tây Belarus đã bị kẻ thù mới là Ba Lan chiếm mất, vùng Berbassia thì bị Romania chiếm mất. Phải đến trước Thế chiến II, Liên Xô mới nhân lúc Đức đang tấn công mặt trận phía Tây, tranh thủ giành lại các vùng Tây Belarus, Tây Ukraina, Berbassia, Baltic và nhập các vùng này vào lãnh thổ Liên Bang Xô viết.
1918:Phe Trung tâm thua trận.
Trong năm 1918, Đế chế Đức huy động những nỗ lực tấn công cuối cùng nhưng đều thất bại. Khi Đức đã kiệt quệ các nguồn lực, Đồng minh tấn công tổng lực và giành thắng lợi lớn. Nước Đức đã quá suy kiệt và cách mạng đã nổ ra, lật đổ hoàng đế Đức. Trong khi đó, quân Áo - Hung đại bại tại Ý, ngọn lửa phong trào dân tộc Chủ nghĩa đã bùng cháy ở nhiều miền đất trên khắp Đế quốc Áo - Hung. Vào tháng 10 năm 1918, Đế quốc Áo - Hung sụp đổ. Phe Trung tâm đầu hàng.
Cuộc tấn công mùa xuân của Đức.
Việc Nga rút khỏi chiến tranh khiến cho mặt trận phía Đông đã kết thúc hoàn toàn, điều này cho phép Đức có thể rảnh tay rút về một lực lượng quân đội lớn để chi viện cho mặt trận phía Tây. Với gần 1 triệu quân Đức đã được chuyển từ phía Đông để tăng viện cho mặt trận phía Tây, Bộ Tổng tham mưu Đức trù tính một trận tổng tấn công thắng lợi trước khi quân đội Hoa Kỳ có thể kịp triển khai.
Kế hoạch của Đức là đánh vào tuyến phân chia của quân Anh và Pháp tại đầu mối đường sắt Amiens (chiến dịch Michael) chiến dịch bắt đầu 21 tháng 3 năm 1918. Khác với mọi chiến dịch tấn công trước đây, lần này quân Đức áp dụng chiến thuật bộ binh xung kích và thành công lớn, tiến nhanh mạnh về phía trước 60 km. Thủ đô Paris bị uy hiếp, quân Anh-Pháp đã kiệt quệ, thậm chí vua Wilhelm II công bố ngày 24 tháng 3 là ngày hội quốc gia, nhiều người Đức đã thấy thắng lợi đã đến gần. Tuy nhiên sau những trận đánh ác liệt và với việc 1 triệu quân Mỹ đã chính thức tham chiến, quân Đức đã bị chặn đứng với thương vong trong khoảng tháng ba và tháng tư là gần 30 vạn người.
Tiếp theo chiến dịch Michael quân Đức tuyệt vọng ném thêm quân liên tiếp vào các chiến dịch tiếp theo nhưng đó đã là những nỗ lực ngày càng bất lực (cho dù họ đạt được chiến thắng vang dội trong trận sông Aisne lần thứ ba), và cuối cùng là cố gắng bao vây Reims vào ngày 15 tháng 7 năm 1918 đó là trận sông Marne lần thứ hai, tại đây liên quân Anh-Pháp phản công thắng lợi. Đến cuối tháng 7, tại nhiều nơi quân Đức phải ngừng tấn công hoặc bị đẩy lại trở về vị trí ban đầu. Nỗ lực tấn công cuối cùng của Đức đã tiêu tan.
Chiến dịch mùa xuân 1918 là một thành công về mặt tác chiến của Đức khi họ chiếm được thêm lãnh thổ, tiêu diệt được hơn 1 triệu quân Anh-Pháp-Mỹ. Tuy vậy, quân Đức cũng tổn thất gần 69 vạn quân, đây là tổn thất mà Đức không thể bù đắp được do nước Đức đã huy động gần hết nam giới của họ ra trận. Trong khi đó, do có dân số đông hơn, liên quân Anh-Pháp-Mỹ có thể tiếp tục huy động tân binh để bù đắp tổn thất. Trong sáu tháng, sức mạnh của quân đội Đức đã giảm từ 5,1 triệu quân xuống còn 4,2 triệu, đến tháng 6/1918 thì quân số Đức đã tụt xuống ít hơn quân số của Anh-Pháp-Mỹ. Binh lực của Đức đã kiệt quệ và họ không còn khả năng ngăn chặn đòn phản công sắp tới của liên quân Anh-Pháp-Mỹ.
Đồng minh tấn công tổng lực thắng lợi.
Khi Quân Đức đã rã rời suy kiệt, không còn dự bị để phát triển tiến công, liên quân Entente liền huy động tổng phản công trên toàn mặt trận. Quân Đức đã cạn kiệt về quân số và đạn dược nên không còn khả năng chống trả mạnh mẽ như trước đây nữa. Cuộc tấn công của liên quân đã phát triển thắng lợi và được gọi là 100 ngày tấn công: bắt đầu từ 8 tháng 8 bằng trận Amiens, liên quân đồng loạt phối hợp tấn công: với tập đoàn quân của Pháp bên phải, quân Anh bên trái, các quân đoàn Canada và Úc làm mũi nhọn tấn công chính diện với hàng trăm xe tăng và 12 vạn quân đã đánh lui quân Đức hàng chục km. Chiến thắng lớn tại Amiens trở thành chiến tích lớn nhất của Quân đội Anh trong cuộc Đại chiến thứ nhất, và cũng là thắng lợi lớn nhất của phe Entente trên Mặt trận phía Tây kể từ sau trận sông Marne lần thứ nhất.
Sau mấy tuần tiến công thắng lợi, ngày 21 tháng 8 quân Anh tổ chức trận Sông Somme lần thứ hai đánh lui tập đoàn quân số 2 của Đức về vị trí của phòng tuyến Hindenburg là phòng tuyến bắt đầu chiến tranh. Đến cuối tháng 9, sau các cố gắng bất thành, liên quân dừng lại ở tuyến Hindenburg và tại đây sau cách mạng tại Đức, quân Đức đã đầu hàng.
Cách mạng tại Đức.
Đức đã hoàn toàn suy kiệt trong chiến tranh. Trong tháng 10 trong nước rối loạn chẳng còn ai còn tin vào ảo tưởng chiến thắng nữa chỉ trừ Tổng chỉ huy Erich Ludendorff và một số tướng lĩnh quân phiệt. Ludendorff cùng Đô đốc Reinhard Scheer trù tính dùng toàn lực hạm đội Đức tổ chức một trận hải chiến mang tính phiêu lưu xông thẳng vào hạm đội đối phương để tỏ rõ vinh quang của hạm đội Đức. Các tướng lĩnh quân phiệt Đức âm mưu không thông báo cho Thủ tướng vì biết rằng hành động này sẽ không được chấp nhận. Tuy nhiên tin tức về cuộc tấn công đã được các thủy binh tại hải cảng Kiel biết, họ nổi loạn vì không muốn làm một việc tự sát. Náo loạn và cách mạng bắt đầu từ đây, Hoàng đế Wilhelm II phải cách chức Ludendorff. Chính quyền được trao từ tay giới quân nhân sang cho các chính Đảng tại Quốc hội Đức ("Reichstag"). Ludendorff tuyên bố chính quyền dân sự sẽ làm đất nước thua trận và là "nhát dao đâm vào sau lưng quân đội". Đây là luận điểm của các lực lượng phục thù muốn bào chữa cho thất bại của Đức trong đó có Đảng Nazi (Đảng Công nhân Đức quốc gia Xã hội Chủ nghĩa hay Đảng Quốc xã) sau này của Adolf Hitler.
Công tước Max von Baden được chỉ định làm thủ tướng và ngay lập tức bắt đầu đàm phán hoà bình. Ngày 9 tháng 11 năm 1918 von Baden tuyên bố nhà vua phải thoái vị, đế quốc Đức sụp đổ, vua Wilhelm II được Hà Lan cho tị nạn chính trị và Cộng hoà Weimar ra đời.
Phe Trung tâm đầu hàng.
Bắt đầu từ cuối tháng 9 năm 1918, phe Trung tâm nhanh chóng đầu hàng: đầu tiên là Bulgaria (29 tháng 9), Đế quốc Ottoman (30 tháng 10), 2 nước Áo, Hungary (4 tháng 11) đầu hàng riêng biệt do Đế quốc Áo - Hung của Vương triều Habsburg đã sụp đổ.
Vào ngày 8 tháng 11 năm 1918, phái đoàn Đức đến toa tàu hoả riêng của Thống chế Ferdinand Foch tại cánh rừng Compiegne (Pháp). Khi Foch hỏi họ đến để làm gì, họ nói với ông ta rằng họ muốn nghe những lời thỉnh cầu ngừng bắn của phe Entente. Foch trả lời rằng ông ta không hề có yêu cầu ngừng bắn gì cả. Nhưng rồi, Matthias Erzberger đã buộc Foch phải đọc các điều khoản của thỏa thuận ngừng bắn. Vào ngày 11 tháng 11 năm 1918, cũng chính tại toa tàu hỏa cá nhân của Foch, ngừng bắn được ký kết giữa hai bên.
Ngày 28 tháng 6 năm 1919 các nước thắng trận đã ký hiệp định hoà bình với Đức là Hiệp định Versailles với các hạn chế ngặt nghèo cho sự phát triển sau chiến tranh của Đức (phải đến tháng 10 năm 2010 nước Đức mới hoàn thành xong khoản chiến phí nặng nề cho cuộc chiến này). Và các hiệp định hoà bình cũng được ký kết giữa phe thắng trận với từng quốc gia thua trận là Áo, Hungary và Bulgaria. Đến năm 1920, phe Entente ký kết Hòa ước Sèvres với Sultan Mehmed VI theo đó Đế quốc Ottoman phải chịu vô cùng thiệt thòi. Đây là một đòn giáng nặng nề vào Đế quốc Ottoman. Chiến tranh thế giới thứ nhất đã kết thúc.
Đặc điểm chiến tranh trong thế chiến thứ nhất.
Chiến tranh thế giới thứ nhất lần đầu tiên trong lịch sử thế giới là một cuộc chiến tranh hiện đại, tổng lực, toàn diện và có sử dụng vũ khí hủy diệt hàng loạt, là cuộc chiến tranh với đầy đủ chiến tranh trên bộ, trên không và trên biển. Các nhà nghiên cứu quân sự đánh giá cuộc chiến trên bộ của chiến tranh này là chiến tranh với công nghệ của thế kỷ XX và với tư duy chiến thuật của thế kỷ XIX với phương thức tiến hành chiến tranh lạc hậu đánh nhau thương vong cực kỳ to lớn mà hiệu quả chiến đấu rất thấp. Ngược lại chiến tranh trên biển và trên không mang tính chất rất cách mạng với hình thức chiến tranh khác rất xa với các cuộc chiến tranh trước đây, và sau này được Chiến tranh thế giới thứ hai phát triển lên mức cao hơn.
Chiến tranh trên bộ.
Nhìn một cách tổng thể chiến tranh trên bộ của thế chiến thứ nhất là cuộc chiến tranh chiến hào với các tư duy phòng thủ trận địa với chiến thuật tấn công lạc hậu. Với hình thức phòng thủ trong chiến hào có chiều sâu với hệ thống dây thép gai, bãi mìn và các hỏa điểm súng máy cố thủ, phía sau có pháo binh yểm trợ, thì chiến tranh có "sự mất cân đối" rất lớn giữa "tấn công" và "phòng ngự". Quân phòng ngự có thể dễ dàng bẻ gãy các cuộc tấn công của đối phương: các súng máy trong công sự, lô cốt, pháo binh và bãi mìn dây thép gai, gây chết chóc rất lớn cho các cuộc tấn công của kỵ binh và chiến thuật biển người của bộ binh đối phương, và nếu mất tuyến phòng ngự thì cũng có đủ thời gian để có thể nhanh chóng kéo quân dự bị tới lập tuyến mới phía sau. Ngược lại, quân tấn công thường phải chịu hy sinh rất lớn mới có thể đánh chiếm được các tuyến phòng thủ của địch và cũng không có phương tiện và phương cách để phát triển tấn công. Trong năm 1915, quân Đức đã chọc thủng phòng tuyến Nga và tấn công thắng lợi nhưng đó là do sự kém cỏi về xã hội, kinh tế và sự thiếu thốn trang bị của Nga so với Đức. Với các quân đội có trình độ phát triển tương đương như Anh, Pháp, Đức thì sự mất cân đối tấn công – phòng thủ này dẫn đến tình trạng chiến tranh chiến hào lâu dài ổn định không ai dứt điểm nổi ai mà chỉ ép dần đối phương từng tí một (một cuộc tấn công tiến lên được 10 – 20 km đã được coi là thắng lợi). Kết quả chiến tranh phụ thuộc vào sức chịu đựng dẻo dai của các bên đối với sức nặng lâu dài của chiến tranh.
Cũng trong chiến tranh này đã xuất hiện các hình thức chiến thuật để đánh chiếm chiến tuyến địch và phát triển tấn công trên cơ sở vũ khí hiện có và thể hiện sáng chói nhất là chiến thắng vang dội của phương diện quân Tây Nam của Nga dưới sự chỉ huy của tướng Aleksey Alekseyevich Brusilov tại Galicia tháng 6 năm 1916 chống quân Áo – Hung: với một quân đội Nga yếu kém, lạc hậu, mất tinh thần sau trận thảm bại năm 1915, nhưng với sự chuẩn bị kỹ lưỡng, quân Nga đã chọc thủng chiến tuyến Áo – Hung và tấn công ồ ạt trên diện rộng đánh bại quân đội Áo – Hung. Tuy nhiên sau khi rút kinh nghiệm, quân phòng thủ cũng đã khắc chế được các chiến thuật mới này và hình thức chiến tranh chiến hào vẫn là chủ đạo và bất biến.
Chỉ đến khi xe tăng xuất hiện vào cuối năm 1916 và phát triển thì hình thức chiến tranh chiến hào này mới bắt đầu lỏng lẻo, nhưng sự hạn chế về tính năng của những cỗ xe tăng trong thời kỳ này khiến nó vẫn chưa đủ sức bẻ gãy hệ thống chiến hào. Phải đến Chiến tranh thế giới thứ hai, hệ thống chiến hào mới tỏ rõ sự bất lực trước sức tấn công cơ động của xe thiết giáp, và cuộc chiến tranh chiến hào cuối cùng trên thế giới là cuộc Chiến tranh Triều Tiên.
Chiến tranh trên biển, trên không.
Chiến tranh trên biển của thế chiến thứ nhất diễn ra rất quyết liệt và được gọi là trận chiến Đại Tây Dương lần thứ nhất nó mang tính chất hoàn toàn mới so với các cuộc chiến tranh trên biển trước đây: Cuộc chiến này báo hiệu chấm dứt thời đại các trận hải chiến lớn của các "armada" cổ điển (hạm đội mặt nước). Việc bao vây kinh tế đánh phá giao thông trên biển được thực hiện một cách hiệu quả hơn bằng phương tiện chiến tranh rất mới là tàu ngầm. Và trong cuộc chiến này tuy lực lượng Hải quân Đức còn thua xa Hải quân Hoàng gia Anh nhưng lực lượng tàu ngầm Đức khi đó với kỹ thuật hiện đại đã làm rất tốt công việc đánh phá vận tải biển của Anh, đã có lúc làm phát sinh nạn đói ở nước này.
Thời gian đầu chiến tranh các tàu vận tải của Anh đi tự do không có bảo vệ nên bị tàu ngầm Đức đánh đắm rất nhiều dưới hình thức "săn mồi tự do". Để hạn chế thiệt hại do tàu ngầm, Anh đã áp dụng biện pháp "convoy" (đoàn hộ tống): các tàu vận tải đi theo đoàn lớn dưới sự bảo vệ bên ngoài của tàu chiến. Biện pháp này ban đầu rất hiệu quả vì khi đó tàu ngầm còn rất thô sơ mang được ít ngư lôi và ngư lôi chất lượng không cao hay bắn trượt, nên tàu ngầm thường chỉ bắn ngư lôi vào tàu chiến đối phương, còn để tiêu diệt tàu vận tải thì bằng cách nổi lên dùng pháo bắn. Với sự bảo vệ của đoàn tàu chiến trong convoy thì việc này không thực hiện được nữa. Sau đó tàu ngầm Đức đổi chiến thuật: các tàu ngầm đi thành bầy lớn khi phát hiện đoàn convoy thì thay vì tấn công chúng bám theo chờ trời tối thì nổi lên bơi lẫn vào đoàn convoy và lần lượt hạ thủ các tàu vận tải, chiến thuật này về sau vẫn áp dụng cho cả Thế chiến II... Việc đánh vận tải và đảm bảo vận tải diễn ra quyết liệt và rất năng động từ hai phía. Để tăng cường sức ép lên nước Anh, Đức đã hai lần tuyên bố chiến tranh tàu ngầm không hạn chế không chấp nhận trung lập của bất kỳ tàu của quốc gia nào, tàu ngầm Đức bắn cả vào tàu Mỹ chở hàng cho Anh là nguyên nhân để Hoa Kỳ tham gia chiến tranh chống Đức.
Trong Thế chiến I lần đầu tiên xuất hiện một loại binh chủng mới là không quân tác chiến trên trời. Vì là loại hình mới trang bị còn rất thô sơ nên chiến tranh trên không chưa có ý nghĩa lớn và chưa thể gây được tác động lớn đến kết quả chiến tranh. Tuy nhiên nó cũng đã có các hình thức chiến đấu mà ngay sau chiến tranh được các bên tích cực phát triển đó là không chiến của các máy bay cánh cố định đánh nhau; tấn công mặt đất của máy bay đối với lực lượng mặt đất; ném bom tầm xa với các zapperlin, trinh sát bởi máy bay hoặc khinh khí cầu.
Các vũ khí mới.
Chiến tranh thế giới thứ nhất đã cho thấy các thứ vũ khí mới với hiệu quả huỷ diệt rất mạnh.
Hậu quả của chiến tranh.
Ảnh hưởng tâm lý - xã hội.
Chiến tranh đồng thời gây ra các xu hướng tâm lý - xã hội đối nghịch:
Những bài học chính trị của Chiến tranh thế giới thứ nhất.
Hiện nay, tuy đã có rất nhiều cuộc chiến tranh khu vực nổ ra và đã có lúc thế giới bên bờ vực chiến tranh, nhưng về cơ bản hoà bình thế giới vẫn được giữ vững và chưa thấy có triệu chứng của một đại chiến mới. Điều đó cho thấy ít nhiều thì nhân loại cũng đã rút được các bài học chính trị của hai cuộc đại chiến, đã biết hoá giải các mâu thuẫn bằng hòa bình, và chí ít thì đó cũng là một đóng góp của Chiến tranh thế giới thứ nhất (và thứ hai) vào tri thức nhân loại.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
|
Dương Văn Dương (còn gọi là Ba Dương; 1900 – 20 tháng 2 năm 1946) là thủ lĩnh của lực lượng quân sự Bộ đội Bình Xuyên trong kháng chiến chống Pháp giai đoạn 1945–1946. Ông sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo ở tỉnh Bến Tre. Trong những năm 1920, Ba Dương trở thành thủ lĩnh Lực lượng Bình Xuyên, sau đó biến thành một tổ chức gồm những toán cướp trên sông chuyên moi tiền bảo vệ từ những du khách đi thuyền tam bản qua kênh rạch đến bến tàu Chợ Lớn. Chuyên trộm cướp từ người giàu và đem về chia cho dân nghèo, Lực lượng Bình Xuyên trở thành những người hùng trong con mắt người dân bản xứ cư trú trong rừng.
Năm 1936, Dương bắt đầu hoạt động phạm pháp khi nhận bảo kê cho các bến xe Tây Ninh – Phnôm Pênh, Sài Gòn. Đến năm 1940, ông trở thành một trong những thủ lĩnh của giới lục lâm thảo khấu Nam Kỳ thời bấy giờ. Khi Đế quốc Nhật Bản xâm chiếm Việt Nam năm 1940, Ba Dương đứng ra chỉ huy nhóm Thanh niên cảm tử đoàn tổ chức kháng chiến chống quân Nhật cùng em trai Năm Hà và một số đàn em Bảy Viễn, Mười Trí. Sau khi quân Nhật đầu hàng quân Đồng Minh năm 1945, ông hợp tác với Việt Minh chống lại sự cai trị của quân Anh–Pháp.
Dương Văn Dương sinh năm 1900, là người gốc làng Lý Nhơn, Cần Giờ. Cha ông là Dương Văn Thân (Hai Thân), ông nội là phó tướng Dương Văn Hạnh thuộc nghĩa quân Trương Công Định bị giặc pháp xử chém ở Lý Nhơn. Sau khi nghĩa quân Dương Văn Hạnh tan rả gia đình phải chịu cảnh tá điền cực khổ làm công cho điền chủ tai sai của Pháp, Dương Văn Thân không chịu cảnh nô dịch chống lại điền chủ nên bị bắt đánh thừa sống thiếu chết, anh em trong cuộc nổi dậy chống điền chủ( trong đó có Năm Điền) đã giúp ông trốn thoát và đưa về gia đình, thấy cảnh không thể sống tiếp tám hộ gia đình (trong đó có gia đình Hai Thân) bỏ xứ xuôi dòng Xẻo Rô trốn về Bến Tre, trên đường đi Hai Thân qua đời do thương tích đòn roi của bọ điền chủ, từ đó ông cùng gia đình lập nghiệp ở Bến Tre, ông sớm lên Sài Gòn làm ăn từ nhỏ. Ông còn có các tên gọi Ba Lê, Sáu Phận, Ông Sáu Nam Vang. Có nguồn cho rằng ông sinh ra trong một gia đình lưu dân vùng Ngũ Quảng (miền Trung Việt Nam), nhưng cũng có nguồn nói ông xuất thân trong một gia đình nghèo ở Cù lao Minh. Ông là con của ông Ngô Văn Mà và bà Lưu Thị Biểu. Cha ông là người có tinh thần chống Pháp nên trở thành đối tượng bị theo dõi của chính quyền Pháp thuộc. Dương sớm mồ côi cha khi mới 3 tháng tuổi và từ đó ông mang họ mẹ, theo mẹ đi tha phương cầu thực. Mẹ ông sau đó lấy chồng mới, và người cha kế rất yêu thương Dương như con ruột, đùm bọc Dương Văn Dương thời niên thiếu ở cầu Rạch Đỉa, làng Tân Quy, huyện Nhà Bè (Quận 7 ngày nay).
Dương Văn Dương có tính tự lập cao và thích ngao du. Lúc trẻ, ông chăn vịt chạy đồng khắp miền đồng ruộng Nhà Bè, Cần Giuộc, Cần Đước, Gò Công, nhờ đó học võ ở nhiều thầy. Năm 1936, cha kế mất. Năm 1939, ông quay trở lại cầu Rạch Đỉa, làng Tân Quỳ, Nhà Bè dạy võ và trở thành một võ hiệp giang hồ. Ông cũng kiêm nghề bảo hiểm bình dân cho các chủ ghe thương hồ trên kinh Cây Khô, ngay cửa ngõ Sài Gòn. Ông được miêu tả là người nghiêm nghị, ít nói, nhưng hòa nhã, thân thiện, lạc quan và kiên trì, tài đức song toàn.
Ông xưng "anh chị" trong giới giang hồ ở Chánh Hưng, Chợ Lớn; trong đám "em út" có Bảy Viễn (Lê Văn Viễn), Mười Trí (Huỳnh Văn Trí), Hai Vĩnh (Mai Văn Vĩnh), Bảy Môn (Võ Văn Môn), Năm Hà (Dương Văn Hà) , mỗi khi thu phục một băng nhóm nào, ông không truy đuổi đến cùng mà mở cho họ con đường được lựa chọn. Cách cư xử này đã dần liên kết giang hồ khắp nơi, tôn ông là thủ lĩnh giới giang hồ Bình Xuyên. Do uy tín trong giới anh chị giang hồ, ông được mời làm bảo kê bến xe Tây Ninh – Phnôm Pênh một thời gian. Ông được xem là một trong những thủ lĩnh của giới lục lâm thảo khấu Nam Kỳ bấy giờ.
Năm 1940, cùng với em ruột (có tài liệu là em cùng cha khác mẹ) là Năm Hà, ông vào làm công nhân cho hãng đóng tàu Nichinan của Nhật (có khuynh hướng thân Nhật). Sau đó Ba Dương lập ra Thanh niên cảm tử đoàn (còn gọi là hải quân Bình Xuyên) toàn là dân thuộc giới giang hồ, em út ông, trụ sở đặt tại chợ Tân Quy (thuộc Nhà Bè). Ông sau đó liên hệ với một số cán bộ của Đảng Cộng sản Đông Dương như Ba Của, Hai Lân, Tư Huệ, , ông bỏ làm việc ở hãng đóng tàu Nichinan về Tân Quy sau khi cướp được một số súng của quân đội Nhật để võ trang cho lực lượng mình gọi là Bộ đội Ba Dương.
Cách mạng tháng Tám nổ ra, ông dạy võ cho Thanh niên Tiền phong Cần Giuộc, tham gia cướp chính quyền. Sau khi quân Anh – Pháp gây hấn, Dương Văn Dương thống nhất Bộ đội Ba Dương và một số các lực lượng quân sự tự phát lại thành bộ đội Bình Xuyên. Ngày 10 tháng 10 năm 1945, Hội nghị Xứ ủy Nam Bộ thành lập khu 7 gồm thành phố Sài Gòn và các tỉnh Gia Định, Chợ Lớn, Biên Hòa, Bà Rịa (gồm Vũng Tàu), Thủ Dầu Một và Tây Ninh. Tháng 11 năm 1945, ông được cử làm chỉ huy trưởng các lực lượng Nhà Bè, Tân Thuận, Bình Đông ở Mặt trận số 4, bao vây mặt nam Sài Gòn.
Sau khi Nguyễn Bình, đặc phái viên Trung ương Chính phủ Liên hiệp Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, vào Nam Bộ, các lực lượng vũ trang chống Pháp được tổ chức lại. Lực lượng do Dương Văn Dương lãnh đạo, là lực lượng quân sự mạnh nhất ở Đông Nam Bộ, được tổ chức thành các chi đội, hợp thành Liên khu Bình Xuyên. Tháng 12 năm 1945, Dương Văn Dương được Khu bộ trưởng Nguyễn Bình chỉ định chức vụ làm Khu bộ phó Khu 7. Quyết định bổ nhiệm Khu bộ phó được Khu bộ trưởng Nguyễn Bình đích thân mang đến trao tận tay ông để tỏ lòng mến trọng. Lúc 9 giờ sáng ngày 1 tháng 1 năm 1946, Dương Văn Dương chỉ huy trận tập kích ở thị xã Biên Hoà và trận này được đánh giá là chiến thắng vang dội theo chỉ đạo của Khu bộ trưởng Nguyễn Bình và Ba Dương trực tiếp cầm quân.
Đầu năm 1946, quân Pháp đã chiếm hầu hết các tỉnh miền trung Nam Bộ, trừ tỉnh Bến Tre. Dương Văn Dương được lệnh chỉ huy một bộ phận quân Bình Xuyên vượt sông Soài Rạp từ Rừng Sác về Bến Tre cứu nguy cho mặt trận An Hóa – Giao Hòa. Không may, ông bị máy bay Spitfire của Pháp bắn chết tại ấp Hồ Sen, xã Bình Thành, huyện Giồng Trôm. Ngày mất của ông có nhiều nguồn ghi khác nhau như 7 tháng 2 năm 1946 (mùng 6 Tết Bính Tuất); hoặc 16 tháng 2 năm 1946; hay 17 tháng 2 năm 1946 (16 tháng Giêng năm Bính Tuất); 20 tháng 2 năm 1946 (19 tháng Giêng năm Bính Tuất); 22 tháng 2 năm 1946.
Lực lượng Bình Xuyên sau đó được tổ chức chính quy và được đặt tên là Trung đoàn Dương Văn Dương.
Ngay sau khi ông tử trận, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi mật điện chia buồn với gia đình. Ngày 5 tháng 8 năm 1948, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã truy phong ông là liệt sĩ, Thiếu tướng Quân đội Quốc gia Việt Nam, là vị tướng được truy phong đầu tiên của miền Nam Việt Nam.
Năm 1947, tên ông còn được đặt cho một con kênh ở Mộc Hóa, Tân An (tên cũ là Lagrange). Tên này còn được giữ lại cho đến ngày nay.
Ngày 7 tháng 4 năm 2000 Thành phố Hồ Chí Minh đã đặt tên đường Dương Văn Dương cho một đường hẻm mới được mở rộng từ năm 1996, dài khoảng 450 mét, nằm trên địa bàn phường 16 quận Tân Bình, nay thuộc quận Tân Phú từ Siêu thị Nhật Bản AEON đến đường Đỗ Thừa Luông.
Ngày 23 tháng 6 năm 2014, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố ban hành Quyết định số 3078/QĐ-UBND về thành lập trường Trung học phổ thông Dương Văn Dương đặt tại Ấp 2, xã Phú Xuân, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
|
Bộ đội Bình Xuyên
Bộ đội Bình Xuyên () là tên gọi của một tổ chức chính trị - quân sự tồn tại ở khu vực Nam Bộ trong khoảng 1945 đến 1960.
"Bình Xuyên" vốn là tên một ấp thuộc làng Chính Hưng, Sài Gòn (nay tương ứng với khu vực Rạch Ông thuộc địa bàn Phường 1 và Phường 2, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh). Kể từ năm 1945, danh xưng "Bình Xuyên" được dùng để mô tả Bộ đội Bình Xuyên với nòng cốt là giới du đãng ven Sài Gòn, hoạt động trong 10 năm (1945 - 1955).
Chiến tranh Đông Dương.
Sau khi quân Anh-Pháp gây hấn ở Sài Gòn (23 tháng 9 năm 1945), nhiều lực lượng quân sự chống Pháp tự phát được thành lập. Người lập bộ đội thường lấy tên của mình đặt cho lực lượng trong vùng, như bộ đội Tân Quy cũng được gọi là bộ đội Dương Văn Dương, hay gọn hơn là bộ đội Ba Dương. Bộ đội Nhà Bè mang tên bộ đội Hai Nhị, Hai Soá, thủ lĩnh các nhóm giang hồ Nam Bộ, thống nhất các lực lượng quân sự chống Pháp ở Tân Quy, Tân Thuận, Nhà Bè, Thủ Thiêm, ông đã chọn cái tên "Bình Xuyên" để đặt cho lực lượng thống nhất này. Đây là tên chữ trên bản đồ Sài Gòn - Chợ Lớn để chỉ vùng Hố Bần, còn gọi là Xóm Cỏ, địa bàn hoạt động của lực lượng này. Cái tên "Bình Xuyên" còn hàm chỉ: "Bình" gợi chiến công đánh chiếm và bình định, còn chữ "Xuyên" để chỉ vùng chi chít sông rạch.
Bộ đội Bình Xuyên là lực lượng quân sự mạnh nhất ở vùng Đông Nam Bộ thời bấy giờ. Địa bàn hoạt động được tổ chức thành Liên khu Bình Xuyên (gồm các chi đội số 2, 3, 4, 7, 9, 21, 25), đảm trách nhiệm vụ bao vây quân Anh-Pháp ở mạn Nam Sài Gòn. Sau khi đặc phái viên trung ương Nguyễn Bình vào tổ chức quân đội, Dương Văn Dương được chỉ định làm Khu bộ phó Khu 7. Sau khi Dương Văn Dương tử trận vào năm 1946, lực lượng Bình Xuyên bị phân hóa. Một bộ phận chống Pháp do Dương Văn Hà (tức Năm Hà, em cùng cha khác mẹ của Dương Văn Dương) chỉ huy, được tổ chức lại và phiên chế chính quy thành Vệ quốc đoàn. Một bộ phận khác do Lê Văn Viễn chỉ huy, li khai năm 1948 và tham gia thành lập chính quyền Quốc gia Việt Nam. Thành phần này là lực lượng Bình Xuyên được biết đến nhiều nhất vào thập niên 1950.
Từ năm 1948, nhóm Bình Xuyên li khai là một lực lượng quân sự bổ sung nằm trong khối Liên hiệp Pháp dưới danh xưng "Công an Xung phong", địa bàn hoạt động ở xung quanh Sài Gòn. Dưới sự đồng thuận của Pháp, Bình Xuyên kiểm soát nhiều sòng bài, nhà thổ, cùng những thương cuộc lớn nhỏ khắp vùng Sài Gòn - Chợ Lớn trong đó phải kể Casino Grande Monde (Đại Thế giới), Casino Cloche d'Or (Kim Chung), Bách hóa Noveautes Catinat. Sau Hiệp định Genève, Bình Xuyên phải sáp nhập vào Quân đội Quốc gia Việt Nam nhưng ngầm không phục tùng.
Đệ nhất Cộng hòa.
Tháng 7 năm 1954, Thủ tướng Ngô Đình Diệm chấp chính thành lập chính phủ trung ương và nộp danh sách nội các. Lê Văn Viễn, vị chỉ huy Bình Xuyên đòi được tham chính và đưa ra yêu sách lập chính phủ mới. Lực lượng Bình Xuyên cùng với quân đội Cao Đài và Hòa Hảo còn lập Mặt trận Thống nhất Toàn lực Quốc gia và gửi tối hậu thư buộc chính phủ phải có danh sách mới trước ngày 26 tháng 3 năm 1955. Nội các Ngô Đình Diệm không chịu nhượng bộ nên Bình Xuyên mở cuộc tấn công Bộ Tổng tham mưu rồi pháo kích vào Dinh Độc Lập. Sang tháng 4 năm 1955 thì quân Bình Xuyên tấn công thành Cộng Hòa. Quân đội Quốc gia phản công, phá được căn cứ chính của Bình Xuyên ở khu vực cầu Chữ Y khiến lực lượng Bình Xuyên phải triệt thoái khỏi Sài Gòn - Chợ Lớn và rút về Rừng Sác.
Tháng 9 năm 1955, Tổng thống Ngô Đình Diệm phái Đại tá Dương Văn Minh mở Chiến dịch Hoàng Diệu để truy nã Bình Xuyên tại khu vực Rừng Sác. Quân Bình Xuyên bị hoàn toàn tiêu diệt. Lê Văn Viễn đào tẩu sang Campuchia rồi lưu vong sang Pháp, chấm dứt thực lực của Bình Xuyên. Một lực lượng Bình Xuyên li khai khác do Võ Văn Môn (tức Bảy Môn) chỉ huy đào thoát về miền Đông Nam Bộ, lập căn cứ tồn tại độc lập mãi đến năm 1960 thì tham gia vào Mặt trận Dân tộc Giải phóng.
Đệ nhị Cộng hòa.
Kể từ ngày 15 tháng 4 năm năm 1966 cho tới khi Việt Nam hoàn toàn thống nhất, nhóm cựu Bình Xuyên quân trong Mặt trận Giải phóng được gọi là Đặc công Rừng Sác hay Đoàn 10 Đặc công Rừng Sác do đã thông thạo địa hình rừng Sác và đa số sinh ra ở miền sông nước nên có khả năng bơi lặn nhiều giờ đồng hồ, tuy nhiên phía Mặt Trận vẫn phải cử cán bộ từ miền Bắc vào huấn luyện thêm. Khu cứ địa Nhà Bè, Nhơn Trạch, Cần Giờ được gọi chung là "Đặc khu Quân sự Rừng Sác". Đương thời Vũng Rô và Rừng Sác là hai điểm đón tàu không số trọng yếu nhất của Hải quân Nhân dân Việt Nam (mệnh danh "tử huyệt" hay "tọa độ chết"), nên cũng là hai vùng biển có nhiều thuyền bị đắm nhất (do bị phục kích hoặc tự hủy vì lí do an ninh). Ngoài ra, nơi đây cũng thường đón các đợt tù nhân chính trị ở Phú Quốc và Côn Đảo vượt ngục hoặc phóng thích trở về, cho nên hình thành lực lượng được coi là chiến đấu hữu hiệu nhất trong quân giải phóng miền Nam.
Từ năm 1966 đến 30-4-1975, đặc công Rừng Sác đã đánh gần 400 trận lớn nhỏ, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 6.000 lính Mỹ và chư hầu; đánh chìm và cháy 356 tàu, thuyền chiến đấu, đánh đắm 13 tàu vận tải, bắn cháy 145 giang thuyền; bắn rơi 29 máy bay trực thăng. Trong tổng số hơn 1.000 chiến sĩ thì có đến 860 đã hy sinh (trong đó 767 người hy sinh từ năm 1966 tới 1975), trong đó có 542 chiến sĩ đến nay vẫn chưa tìm thi hài. Ngày 23/9/1973, Đoàn 10 - Trung đoàn 10 đặc công Rừng Sác được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân
Về sau (không rõ năm) Đoàn 10 được nâng lên bộ đội chính quy với danh xưng Trung đoàn 10, Bộ Tư lệnh TPHCM. Vì vấn đề bảo mật quân sự, nên mãi tới đầu thập niên 1980, toàn bộ lịch sử Trung đoàn 10 với tư cách cựu Bộ đội Bình Xuyên mới được tiết lộ qua một số báo chí. Ngày nay, chiến khu rừng Sác được coi là di tích lịch sử cấp quốc gia.
Lực lượng Bình Xuyên là một phần chủ đề của tiểu thuyết "Người Bình Xuyên của tác giả Nguyên Hùng ; sau đó được dựng thành phim "Dưới cờ đại nghĩa" bởi hãng phim TFS và được trình chiếu vào năm 2006.
Năm 1995, còn có phim "Bông hoa rừng Sác" do NSND Trần Phương và NSND Hoàng Tích Chỉ đạo diễn, kể về cuộc sống nổi trôi của bộ đội ở chiến khu rừng Sác. Phim làm nên tên tuổi của Yến Vy và Thanh Tâm. Ngoài ra, hình tượng Bảy Viễn trùm du đãng Bình Xuyên cũng xuất hiện trong các phim "Ván bài lật ngửa", "Ông cố vấn", "Ngọn nến Hoàng cung", "Vị tướng tình báo và hai bà vợ", "Độc nhãn tướng quân Nguyễn Bình" và "Con đường sáng".
|
Gương bán mạ là một loại gương cho phép tia sáng đi tới được phản xạ lại một phần và truyền qua một phần. Gương bán mạ có thể được chế tạo bằng cách phủ lên bề mặt tấm thủy tinh một lớp kim loại như nhôm rất mỏng.
Gương bán mạ là một dụng cụ quang học được sử dụng trong nhiều thí nghiệm quang học. Gương bán mạ có độ phản xạ bằng độ truyền qua (gần bằng 50%) được dùng để phân chùm tia sáng thành hai phần giống nhau, như trong thí nghiệm Michelson-Morley. Gương bán mạ có độ phản xạ khoảng 99% và truyền qua khoảng 1% được sử dụng ở một đầu trong môi trường khuếch đại laser cho phép tia laser lọt ra ngoài.
|
Nguyễn Bình (1908 - 1951) là Trung tướng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam, lãnh đạo quân dân miền Nam Việt Nam kháng chiến chống Pháp.
Ông tên thật là Nguyễn Phương Thảo, quê ở thôn Yên Phú, xã Tinh Tiến (nay là xã Giai Phạm), huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên. Thời trẻ, ông lên Hải Phòng làm thủy thủ trên tàu viễn dương chạy tuyến Việt Nam - Pháp. Được Trần Huy Liệu vận động, ông tham gia cách mạng, gia nhập Việt Nam Quốc dân đảng, phụ trách quân sự. Sau thất bại của khởi nghĩa Yên Bái, lực lượng Việt Nam Quốc dân đảng bị phân hóa, ông và Trần Huy Liệu đều bị thực dân Pháp bắt giam và đày đi Côn Đảo. Do tư tưởng thiên tả, 2 người bị nhóm cực hữu trong đảng kết án tử hình nhưng đều may mắn thoát nạn, riêng ông bị đâm mù một mắt.
Năm 1936, ông được trả tự do, về Hải Phòng hoạt động cách mạng và xây dựng căn cứ riêng. Cũng trong thời gian này, ông đổi tên thành Nguyễn Bình, với ý nghĩa "Bình thiên hạ", chính thức ly khai Việt Nam Quốc dân đảng. Tháng 6 năm 1945, Nguyễn Bình cùng với Hải Thanh, Nguyễn Hiền, Trần Cung thành lập chiến khu Đông Triều và đảm nhận nhiệm vụ tư lệnh. Khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 nổ ra, ông chỉ huy du kích đánh chiếm tỉnh lỵ Quảng Yên và cướp vũ khí ở một số huyện.
Khi thực dân Pháp đánh chiếm rộng ra toàn Nam Bộ, Nguyễn Bình được Chủ tịch nước Hồ Chí Minh cử vào Nam lo việc chỉnh đốn phong trào kháng chiến và thống nhất các lực lượng vũ trang tại Nam Bộ. Tháng 12 năm 1945 ông được cử làm Khu trưởng Khu 7 Nam Bộ, lập tổng hành dinh ở Lạc An (Biên Hòa), sau bị địch truy quét nên chuyển về xã An Phú (Gia Định) rồi xã An Thành, phía nam Bến Cát. Dưới sự chỉ huy của Nguyễn Bình, tình trạng cát cứ dần giảm bớt, các quân phiệt cát cứ gia nhập vào lực lượng Vệ quốc đoàn, các đơn vị bộ đội được phiên chế thống nhất thành các chi đội Vệ quốc đoàn. Ông còn lập ban Công tác thành làm nhiệm vụ phá hoại và ám sát tại Sài Gòn.
Ngày 20 tháng 1 năm 1948, ông được Chính phủ phong quân hàm Trung tướng và cử làm tổng chỉ huy chiến trường Nam Bộ. Cùng đợt có Võ Nguyên Giáp được phong Đại tướng; Nguyễn Sơn, Lê Thiết Hùng, Chu Văn Tấn, Hoàng Sâm, Hoàng Văn Thái, Lê Hiến Mai, Văn Tiến Dũng, Trần Đại Nghĩa, Trần Tử Bình được phong Thiếu tướng. Lễ thụ phong Trung tướng được tổ chức tháng 7 năm 1948 tại làng Nhơn Hòa Lập trên con kênh Dương Văn Dương, Đồng Tháp.
Tháng 6 năm 1948, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gửi điện vào công nhận Ban Quân sự Nam Bộ và cử Trung tướng Nguyễn Bình giữ chức Ủy viên quân sự. Tháng 10 năm 1948, Bộ tư lệnh Nam Bộ được thành lập thay cho Ban Quân sự Nam Bộ, ông được bầu làm tư lệnh.
Ngày 29 tháng 9 năm 1951, theo yêu cầu của Trung ương, ông lên đường ra Bắc nhận nhiệm vụ mới. Trên đường đi, ông bị địch Pháp phục kích vây bắn và hy sinh tại xã Srê Dốc, huyện Sê San, tỉnh Xtung Treng, trên đất Campuchia. Người chỉ huy lực lượng bảo vệ ông khi ấy là cán bộ cấp tiểu đoàn Nguyễn Văn Sĩ, nay là Thiếu tướng nghỉ hưu tại Thành phố Hồ Chí Minh. Bộ Tổng Tư lệnh thông báo tin ông hi sinh ngày 31 tháng 12 năm 1951 (theo bản tin ông sinh năm 1906 tại Bần Yên Nhân, Hưng Yên). Tháng 2 năm 1952, Hồ Chủ tịch ký sắc lệnh 84/SL truy tặng ông Huân chương Quân công hạng nhất. Ông cũng là người đầu tiên trong quân đội được nhận Huân chương cao quý này.
Ngày 29 tháng 2 năm 2000, Bộ Tư lệnh Quân khu 7 đã di chuyển hài cốt của ông về an táng tại Nghĩa trang liệt sĩ Thành phố Hồ Chí Minh. Tang lễ được cử hành theo nghi thức long trọng. Ông còn được Nhà nước truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Trung tướng Nguyễn Bình là người chỉ huy mưu lược, quyết đoán và dũng cảm, giữ kỷ luật nghiêm minh, lập nhiều chiến công xuất sắc ở những nơi nguy hiểm vào những thời điểm khó khăn nhất. Ông có công trong việc thống nhất lực lượng kháng chiến ở Nam Bộ và xây dựng Ban công tác thành tại Sài Gòn. Sau khi ông qua đời, nhiều sách báo đã viết về ông như một hiện tượng đặc biệt về tài năng quân sự những ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp.
Tuy nhiên ở đây cũng phải nói đến mỗi quan hệ giữa tài năng của Nguyễn Bình và sự tinh tế, mạnh dạn trong cách dùng người của Hồ Chí Minh. Một vị chỉ huy như Nguyễn Bình, sau cách mạng xứng đáng được đứng vào hàng ngũ những người cộng sản, nhưng ông phải đợi đến năm 1946 mới chính thức được vào Đảng. Trên thực tế, ông là người được Hồ Chủ tịch hết sức tin tưởng khi giao phó những trọng trách của thời điểm buổi đầu Nam Bộ kháng chiến: ‘’Bác giao Nam Bộ cho chú!’’. Tất nhiên có rất nhiều lý do, nhưng ta có thể kể đến những lý do có tính chiến lược như: với tình trạng của Nam Bộ thời kì đầu của Nam Bộ kháng chiến, thì việc một người ngoài đảng cộng sản sẽ có tiếng nói mạnh mẽ hơn đối với đông đảo đồng bào Nam Bộ vốn thời kì đó trong tình trạng ‘’cát cứ phân tranh’’ với nhiều màu sắc chính trị, đảng phái, tôn giáo… Mặc khác, vì là người ngoài Đảng cho nên ông sẽ ít bị mật thám Pháp để ý hơn. Thực tế lúc bấy giờ, quân Pháp không biết gì nhiều về ông. Quân Pháp tập trung vào việc tìm hiểu, điều tra các ông Trần Văn Giàu – Trưởng ban kháng chiến Nam Bộ, rồi ông Phạm Ngọc Thạch,… mà ít chú ý đến tướng Nguyễn Bình, trong khi chính ông mặc dù chỉ là Ủy viên quân sự nhưng thực tế là người thiết kế, tổ chức kháng chiến. Tuy nhiên dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Bình lực lượng kháng chiến miền Nam cuối cùng cũng chỉ còn Việt Minh. Các lực lượng vũ trang khác của Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyê
Nhà sử học Trần Huy Liệu nhận xét "Thảo có can đảm, vũ dũng hơn người và trung hậu với bạn, trung thành với đoàn thể. Trước Cách mạng Tháng Tám, Thảo lập chiến khu Đông Triều một cách tự độ"
Tên ông được đặt cho nhiều đường phố như tại: thị xã Quảng Yên (từ đường Trần Khánh Dư đến cầu Kim Lăng), Hà Nội (nối từ đường Nguyễn Đức Thuận đến địa phận Hưng Yên)...
Nhà tưởng niệm ông được xây dựng ở quê của ông ở thôn Yên Phú, xã Giai Phạm, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên gần khu nhà tưởng niệm cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh.
|
Trung tâm Nghiên cứu Vũ trụ Quốc gia Pháp
Trung tâm Nghiên cứu Vũ trụ Quốc gia Pháp viết tắt là CNES ("Centre National d'Études Spatiales"), một cơ quan vũ trụ được điều hành bởi chính phủ Pháp (trực thuộc Bộ Nghiên cứu Pháp và Bộ Quốc phòng Pháp) nhưng có những đặc điểm công nghiệp và kinh doanh đặc thù. Trụ sở của cơ quan này tại Paris, nhưng cơ sở lớn nhất đặt tại Toulouse. Cơ quan vũ trụ này điều hành Trung tâm Vũ trụ Guyana, một trạm phóng vệ tinh nhân tạo và tàu vũ trụ. Nhiều vệ tinh hay chương trình vũ trụ của CNES cũng được phóng từ các trạm phóng điều hành bởi các quốc gia khác.
CNES được thành lập năm 1961, có nhiệm vụ đề xuất cho chính phủ Pháp các kế hoạch chính trị cho các chương trình vũ trụ của Pháp trong mối liên hệ với Liên minh châu Âu và thực hiện các kế hoạch này. CNES đảm bảo cho Pháp có thể tự lực thực hiện các chương trình vũ trụ, và nằm ở vị trí tiên phong trong Châu Âu và trên thế giới trong lĩnh vực này, bằng các nắm chắc các công nghệ vũ trụ và hoạch định chương trình vũ trụ tương lai.
CNES thực hiện các kế hoạch bằng việc tổ chức liên hệ giữa các nhóm công nghiệp và các phòng thí nghiệm khoa học trong Pháp, đồng thời tham gia các hợp tác quốc tế. CNES hợp tác thường xuyên nhất với Arianespace, ESA và NASA, nhưng cũng có nhiều dự án hợp tác với Nga, Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ và các nước khác.
CNES hiện có 2.400 nhân lực, trong đó có 1.800 kỹ sư và quản lý. Trong số này có 35% phụ nữ.
Các lĩnh vực hoạt động:
|
Diode laser một loại laser có cấu tạo tương tự như một diode. Nó có môi trường kích thích là chất bán dẫn dạng p-n nối tiếp của diode. Diode laser hoạt động gần giống với diode phát quang. Nó cũng được gọi là đèn diode nội xạ và được viết tắt là LD hay ILD.
Nguyên lý hoạt động.
Khi ống diode được kích ứng, ví dụ như được đặt dưới hiệu điện thế, các lỗ trống trong phần bán dẫn loại p chuyển qua phần bán dẫn loại n và các electron trong phần bán dẫn loại n sang phần bán dẫn loại p. Khi các electron gặp các lỗ trống, chúng rơi xuống mức năng lượng thấp hơn và bền hơn, giải phóng năng lượng dư thừa qua photon với năng lượng bằng với chênh lệch năng lượng trong và ngoài lỗ trống.
Trong điều kiện thích hợp, các electron và các lỗ trống có thể cùng tồn tại trong cùng một diện tích trong một khoảng thời gian (tính trên phần triệu giây) trước khi chúng sáp nhập. Nếu photon có cùng tần số được phát ra trong khoảng thời gian trên, nó sẽ kích thích sự phát xạ của photon khác, cùng một hướng, cùng độ phân cực và đồng pha với photon đầu tiên.
|
Chí Linh là một thành phố nằm ở phía bắc tỉnh Hải Dương, Việt Nam.
Vị trí địa lý.
Thành phố Chí Linh nằm ở phía bắc của tỉnh Hải Dương, nằm cách thành phố Hải Dương khoảng 40 km về phía bắc, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 70 km về phía đông bắc, có vị trí địa lý:
Chí Linh nằm trong vùng tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, có đường giao thông thuận lợi. Đường bộ có quốc lộ 18 chạy dọc theo hướng đông - tây qua trung tâm thành nối liền Hà Nội - Quảng Ninh, đường Quốc lộ 183 nối Quốc lộ 5 và đường 18, đường 37 là đường vành đai chiến lược quốc gia từ trung tâm thành phố đi tỉnh Bắc Giang. Đường thủy có chiều dài 40 km đường sông bao bọc phía đông, tây, nam của thành phố thông thương với Hải Phòng, Bắc Giang, Bắc Ninh.
Điều kiện tự nhiên.
Phía bắc và đông bắc của thành phố là vùng đồi núi thuộc cánh cung Đông Triều, ba mặt còn lại được bao bọc bởi sông Kinh Thầy, sông Thái Bình và sông Đông Mai.
Thành phố có diện tích tự nhiên 282,91 km², là đơn vị hành chính cấp huyện có diện tích lớn nhất tỉnh. Trong đó, 13 xã, phường là miền núi, chiếm 76% diện tích và 56% dân số của toàn thành phố.
Dân số: Năm 2002, huyện Chí Linh có 146.752 người, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 9,48%, cơ cấu dân số:
Số lao động làm việc trong các ngành: 71.925 người, trong đó:
Lao động do cấp huyện là 65.558 người, trong đó:
Địa hình: Thành phố Chí Linh đa dạng phong phú, có diện tích đồi núi, đồng bằng xen kẽ, địa hình dốc bậc thang từ phía bắc xuống phía nam, nhìn chung địa hình chia làm 3 tiểu vùng chính:
Do đặc điểm của địa hình, địa mạo nên khí hậu Chí Linh được chia làm 2 vùng:
Thủy văn: Chí Linh là nơi:
Thành phố Chí Linh có nguồn nước phong phú bởi có sông Kinh Thầy, Thái Bình, Đông Mai bao bọc, có kênh mương trung thủy nông từ Phao Tân đến An Bài dài 15,5 km chạy qua những cánh đồng canh tác chính của huyện, có nguồn nước của nhà máy điện Phả Lại cung cấp quanh năm. Ngoài ra còn có 33 hồ đập với tổng diện tích tự thủy 409 ha, đặc biệt có nguồn nước ngầm sạch trữ lượng lớn.
Đất đai: Tổng diện tích của thành phố Chí Linh là 29.618 ha, chia ra:
Đất Chí Linh được hình thành từ 2 nhóm chính, nhóm đất đồi núi được hình thành tại chỗ, phát triển trên các đá sa thạch; nhóm đất thủy thành do phù sa sông Kinh Thầy và Thái Bình bồi tụ. Theo tài liệu của Viện nông hoá thổ nhưỡng Việt Nam, đất nông nghiệp được phân loại như sau:
Rừng: Thành phố Chí Linh có 14.470 ha đất đồi rừng, trong đó rừng trồng 1.208 ha, rừng tự nhiên 2.390 ha. Rừng tự nhiên có nhiều loại gỗ quý, ước khoảng 140.000 m³, có nhiều loại động thực vật đặc trưng cung cấp nguồn dược liệu cho y học. Rừng trồng chủ yếu là keo tai tượng, bạch đàn và rừng thông thuộc khu di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc.
Khoáng sản: Thành phố Chí Linh tuy không nhiều về chủng loại, nhưng có loại có trữ lượng lớn và giá trị kinh tế như: đất Cao lanh trữ lượng 40 vạn tấn, sét chịu lửa 8 triệu tấn, đá, cát vàng xây dựng, mỏ than nâu trữ lượng hàng tỉ tấn.
Địa danh Chí Linh gắn với nhiều nhân vật lịch sử và anh hùng dân tộc như Dương Huy, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Thị Duệ, Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Thái Học, Mạc Đĩnh Chi, Mạc Hiển Tích, Trần Khánh Dư, Trần Quốc Chẩn, Trần Ích Phát, 5 đức Thánh họ Vương, Pháp Loa, Huyền Q
Chí Linh được hình thành từ lâu đời, đến thời Hậu Ngô Vương vùng núi Côn Sơn với lợi thế về vị trí địa lý đã trở thành căn cứ quân sự lớn của Dương Huy mà đích thân vua Ngô Xương Văn phải đem quân đánh dẹp. Thu phục được Dương Huy, Ngô Xương Văn vẫn cho ông giữ chức thứ sử cũ và cai quản vùng đất châu Vũ Ninh. Năm 965, vua Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn mất, các tướng ở khắp nơi nổi lên để cùng tranh giành ngôi Vua. Lịch sử gọi đó là loạn 12 sứ quân. Tuy nhiên, cánh quân của Dương Huy không nằm trong danh sách 12 sứ quân. Vì cánh quân của ông và địa bàn của ông bị cánh quân của Nguyễn Thủ Tiệp đánh bại, vùng đất của ông bị Nguyễn Thủ Tiệp chiếm và tự xưng Vũ Ninh Vương. Thời điểm xảy ra loạn 12 sứ quân, vùng đất Chí Linh nằm trong địa phận quản lý của sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp.
Năm 981 vua Lê Đại Hành đã chọn An Lạc, Tân Dân là cơ sở chỉ huy chống quân xâm lược Tống tại đất Doanh Vạn (Ải Vạn), Vua Lê Hoàn dựng đại bản doanh tại Đồng Dinh, đặt Nội Xưởng làm nơi rèn vũ khí, khí giới, đặt Bàn Cung trên núi Bàn Cung để làm nơi bàn bạc việc quân cơ với các tướng lĩnh, núi Doanh Vạn được chọn để cắm cờ hiệu, núi Sơn Đụn là nơi tích trữ, cất giấu lương thực nuôi quân…Từ đại bản doanh này, cuối tháng 4 năm 981, Vua Lê Hoàn đã chỉ huy quân Đại Cồ Việt đánh thắng trận Bạch Đằng, giết chủ tướng giặc Hầu Nhân Bảo cùng hàng vạn quân giặc vùi xác dưới đáy Bạch Đằng giang và giành chiến thắng trong cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược cuối mùa xuân năm 981.
Đến thế kỷ XIII, vùng đất Chí Linh lại một lần nữa được lựa chọn trở thành đại bản doanh chống quân Nguyên Mông và là chiến trường nơi diễn ra trận đánh Vạn Kiếp nổi tiếng trong lịch sử thời nhà Trần, dưới sự chỉ huy Trần Quốc Tuấn. Đại bản doanh và chiến trường Vạn Kiếp năm xưa, nay thuộc xã Hưng Đạo, nằm phía tây bắc của thành phố. Trong 3 cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông, Vạn Kiếp có vai trò lớn trong 2 cuộc kháng chiến lần 2 năm 1285 và lần 3 cuối năm 1287 đầu năm 1288. Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần 2 năm 1285, Vạn Kiếp diễn ra một trận đánh lớn khi quân Nguyên theo đường bộ từ Lạng Sơn kéo về Thăng Long, làm tiêu hao sinh lực địch. Tổng cộng quân số của Vua tôi nhà Trần do Vua Trần Nhân Tông và Trần Hưng Đạo chỉ huy ở chiến trận Vạn Kiếp lên tới gần 30 vạn quân, còn quân của Thoát Hoan lên tới gần 50 vạn quân. Tại Vạn Kiếp, Trần Hưng Đạo đã bài binh bố trận sẵn để đợi địch. Trần Hưng Đạo lựa chọn các tướng dũng mãnh Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Khoái giao chỉ huy đạo quân này. Vùng Vạn Kiếp có địa thế đồi núi giáp đường giáp sông, quân ta chiếm địa thế đánh cắt ngang vào đội hình địch khiến đầu cuối không cứu được nhau. Tiền quân của địch bị đánh ở Vạn Kiếp còn trung quân của địch cũng vẫn chưa qua được sông Lục Đầu cũng bị quân ta đánh mạnh khiến địch hoảng loạn dẫm đạp lên nhau khiến cầu phao bị đứt khiến rất nhiều quân lính bị chết dưới sông.
Trải qua các thời kỳ phong kiến Chí Linh đã được nhiều triều đại chọn là nơi xây dựng cung thành, tỉnh lỵ như thành Phao (Phả Lại) – đời nhà Mạc, thành Vạn (Tân Dân) trong vòng ba thế kỷ từng là trung tâm hành chính của thừa tuyên Hải Dương. Theo lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú dưới triều Lê Thánh Tông, “Quang thuận thứ 10 (1469) Lỵ sở Hải Dương đặt tại Mạc Động, tục gọi Dịnh Vạn (tức cánh đồng Dinh bên bến Vạn). Lỵ sở Mạc Động có thành Vạn, trong thành có chợ, trên bến dưới thuyền, dân chúng khắp nơi họp chợ buôn bán tấp nập,đông vui, ở đây còn có đò ngang qua sông”.
Chí Linh còn có tên gọi là Bằng Châu hay Bằng Hà sau đó đổi tên là Phượng Hoàng và sau này là Chí Linh. Đến thơi Đồng Khánh Chí Linh Có 7 tổng 65 thôn.
Tháng 6 năm 1886, thực dân Pháp thành lập Nha Chí Linh thuộc phủ Nam Sách. Sau Cách mạng tháng 8, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đặt thành huyện Chí Linh. Tháng 4 năm 1947, huyện Chí Linh thuộc tỉnh Quảng Hồng; tháng 11 năm 1948, Chí Linh thuộc tỉnh Quảng Yên; từ tháng 2 năm 1955, Chí Linh thuộc tỉnh Hải Dương, ban đầu gồm thị trấn Phả Lại, thị trấn nông trường Chí Linh và 20 xã: An Lạc, Bắc An, Cẩm Lý, Chí Minh, Cổ Thành, Cộng Hòa, Đan Hội, Đồng Lạc, Hoàng Hoa Thám, Hoàng Tân, Hoàng Tiến, Hưng Đạo, Kênh Giang, Lê Lợi, Nhân Huệ, Tân Dân, Thái Học, Văn An, Văn Đức, Vũ Xá.
Ngày 21 tháng 1 năm 1957, chuyển 3 xã: Vũ Xá, Cẩm Lý, Đan Hội về huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang quản lý.
Ngày 27 tháng 3 năm 1978, thành lập thị trấn Sao Đỏ, thị trấn huyện lỵ huyện Chí Linh.
Ngày 16 tháng 1 năm 1981, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định 19-CP. Theo đó, sáp nhập 3 thôn Phao Sơn, Thạch Thủy và Bình Giang của xã Cổ Thành vào thị trấn Phả Lại.
Ngày 14 tháng 1 năm 2002, giải thể thị trấn nông trường Chí Linh và thành lập thị trấn Bến Tắm trên cơ sở 412,88 ha diện tích tự nhiên và 5.703 nhân khẩu của xã Bắc An.
Ngày 24 tháng 9 năm 2009, thị trấn Sao Đỏ được công nhận là đô thị loại IV.
Cuối năm 2009, huyện Chí Linh có 20 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 3 thị trấn: Sao Đỏ (huyện lị), Phả Lại, Bến Tắm và 17 xã: An Lạc, Bắc An, Chí Minh, Cổ Thành, Cộng Hòa, Đồng Lạc, Hoàng Hoa Thám, Hoàng Tân, Hoàng Tiến, Hưng Đạo, Kênh Giang, Lê Lợi, Nhân Huệ, Tân Dân, Thái Học, Văn An, Văn Đức.
Ngày 12 tháng 2 năm 2010, Chính phủ ban hành Nghị quyết 09/NQ-CP. Theo đó:
Sau khi thành lập, thị xã Chí Linh có 28.202,78 ha diện tích tự nhiên và 164.837 người với 20 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 8 phường: Bến Tắm, Chí Minh, Cộng Hòa, Hoàng Tân, Phả Lại, Sao Đỏ, Thái Học, Văn An và 12 xã: An Lạc, Bắc An, Cổ Thành, Đồng Lạc, Hoàng Hoa Thám, Hoàng Tiến, Hưng Đạo, Kênh Giang, Lê Lợi, Nhân Huệ, Tân Dân, Văn Đức.
Ngày 25 tháng 6 năm 2015, thị xã Chí Linh được công nhận là đô thị loại III.
Ngày 10 tháng 1 năm 2019, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết 623/NQ-UBTVQH14 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 3 năm 2019). Theo đó:
Sau khi thành lập, thành phố Chí Linh có 282,91 km² diện tích tự nhiên và 220.421 người với 19 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 14 phường và 5 xã.
Thành phố Chí Linh có 19 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 14 phường: An Lạc, Bến Tắm, Chí Minh, Cổ Thành, Cộng Hòa, Đồng Lạc, Hoàng Tân, Hoàng Tiến, Phả Lại, Sao Đỏ, Tân Dân, Thái Học, Văn An, Văn Đức và 5 xã: Bắc An, Hoàng Hoa Thám, Hưng Đạo, Lê Lợi, Nhân Huệ.
Ngoài ra còn có Trường Đại học Sao Đỏ, trên 120 cơ quan đơn vị, nhà máy, xí nghiệp, doanh nghiệp đóng trên địa bàn.
Thành phố Chí Linh có phong cảnh đẹp và nhiều di tích lịch sử từ cấp địa phương đến cấp quốc gia. Trong đó có thể kể đến:
Các di tích, danh thắng và cảnh trí thiên nhiên tuyệt vời như núi Nam Tào, Bắc Đẩu, Lục Đầu G, bên cạnh các di tích lịch sử và thắng cảnh thiên nhiên còn có sân golf Ngôi Sao Chí Linh.
Có quốc lộ 18, quốc lộ 37 chạy qua. Ngoài ra còn có dự án đường cao tốc Nội Bài – Bắc Ninh – Hạ Long, đường sắt Yên Viên - Cái Lân hiện đang được đầu tư xây dựng.
Để đến Chí Linh, bạn có thể đi bằng nhiều phương tiện khác nhau như xe máy, ô tô, xe buý
Có 3 tuyến xe buýt đi qua Chí Linh.
Bến xe Bắc Ninh - Sao Đỏ (xe buýt Bắc Ninh)
TP. Hải Dương - TP. Uông Bí (xe buýt Hải Dương)
TP. Hải Dương - Bắc Giang (xe buýt Hải Dương)
Địa danh Chí Linh gắn với tên tuổi của các nhân vật lịch sử và anh hùng dân tộc sau:
Các làng nghề, ngành nghề ở Chí Linh chủ yếu phát triển ở nhóm sản xuất vật liệu xây dựng như:
|
Phạm Tuân (sinh ngày 14 tháng 2 năm 1947) là phi công, phi hành gia người Việt, tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông là người đầu tiên của Việt Nam và châu Á bay lên vũ trụ vào năm 1980 trong chương trình Interkosmos của Liên Xô.
Phạm Tuân sinh ngày 14 tháng 2 năm 1947 tại xã Quốc Tuấn, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Ông đi bộ đội, được tuyển vào binh chủng Không quân Nhân dân Việt Nam năm 1965, tốt nghiệp Trường phi công quân sự ở Liên Xô năm 1967 và trở thành sĩ quan lái máy bay chiến đấu của Trung đoàn 921 Sao Đỏ, tham gia chiến đấu bảo vệ vùng trời Miền Bắc Việt Nam trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam. Ông là đảng viên của Đảng Lao động Việt Nam trong năm này và chính thức là vào năm 1968. Giữa năm 1972, ông là một trong 12 phi công được chọn để đào tạo lái tiêm kích bay đêm, chuẩn bị cho việc bắn hạ máy bay B-52 (tiêm kích bay đêm yêu cầu kỹ thuật cao hơn nhiều so với lái tiêm kích ban ngày).
Vào đêm ngày 27 tháng 12 năm 1972, theo tài liệu lịch sử không chính thức của Quân đội nhân dân Việt Nam, ông bắn rơi một máy bay B-52 của Mỹ, trở thành người đầu tiên bắn hạ được loại máy bay này từ trên không và trở về an toàn, nếu không kể một phi công khác tên là Vũ Đình Rạng đã bắn trúng máy bay B-52 của không quân Mỹ vào ngày 20 tháng 11 năm 1971 (tuy nhiên Vũ Đình Rạng chỉ phóng 1 tên lửa nên chiếc B-52 không rơi ngay tại chỗ mà chỉ bị hỏng nặng và vẫn cố hạ cánh được xuống sân bay), nhưng vì hỏng quá nặng nên không sửa được và đã bị tháo dỡ.
Tài liệu này nói rằng, chiếc MiG-21FM của Phạm Tuân cất cánh hồi 22 giờ 16 phút đêm ngày 27 tháng 12 năm 1972 từ sân bay dã chiến Yên Bái, theo chiến thuật "đi thấp kéo cao" nhằm tránh radar của máy bay địch. Sau khi dẫn đường mặt đất thông báo cách phi đội địch 8–9 km, Phạm Tuân kéo cao rồi tăng tốc máy bay, dùng tốc độ cao để bất ngờ bay vọt qua hai tốp F-4 hộ tống, khiến những chiếc F-4 không kịp phản ứng. Sau khi vọt qua đội F-4 hộ tống, ông tiếp cận hai chiếc B-52, khi còn cách B-52 khoảng 4 km, dẫn đường mặt đất ra lệnh bắn, nhưng Phạm Tuân chờ thêm mấy giây để tiếp cận gần hơn rồi mới bắn. Chiếc MiG-21 cũng tắt radar và các thiết bị liên lạc để B-52 không phát hiện ra là đang bị áp sát. Ông bắn rơi một chiếc trên vùng trời phía tây Hà Nội bằng 2 quả tên lửa không đối không NHK-8-9-1-2, rồi trở về hạ cánh xuống sân bay Yên Bái..
Phạm Tuân kể rằng: Do B-52 trang bị nhiều mồi nhiệt làm nhiễu đầu dò tên lửa nên ông đã cố gắng áp sát B-52 ở cự ly 2–3 km rồi mới phóng tên lửa (dù tầm bắn của tên lửa là 8 km), ở cự ly này tên lửa chỉ mất 2-3 giây để tới mục tiêu nên chiếc B-52 sẽ không kịp thả mồi nhiễu. Rút kinh nghiệm từ vụ của Vũ Đình Rạng (chỉ phóng 1 quả tên lửa thì không đủ để hạ tại chỗ B-52) nên ông đã phóng liền cả hai tên lửa vào mục tiêu, không giữ lại tên lửa dự phòng. Sau khi bắn, Phạm Tuân giảm tốc, kéo máy bay lên cao và lật ngửa máy bay để thoát ly thì nhìn thấy chiếc B-52 nổ, sau đó máy bay bay lao vượt qua phía trên điểm nổ. Tuy nhiên do động tác kéo cao-thoát ly cấp tốc này nên máy ảnh phía mũi chiếc MiG-21 đã không thể chụp lại khoảnh khắc đó làm tư liệu.
Một số nguồn tài liệu Hoa Kỳ cho rằng tên lửa của ông đã bắn trượt, chiếc B-52 đã trúng tên lửa SAM-2 rồi nổ trên không trung, khiến Phạm Tuân nghĩ rằng tên lửa của ông đã phá hủy mục tiêu. Nhưng nếu dưới góc độ kỹ thuật phân tích, điều này là rất khó xảy ra. Thời gian từ khi phóng tên lửa tới khi thoát ly của Phạm Tuân chỉ kéo dài 4-5 giây. Trong khoảng thời gian chỉ tích tắc đó, rất khó có chuyện trùng hợp tới mức chiếc B-52 vừa thoát khỏi tên lửa từ MiG lại bị trúng ngay SAM-2 từ mặt đất phóng lên.
Với chiến công này, ngay sáng hôm sau (ngày 28 tháng 12) ông đã được đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi điện khen. Ông được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam ngày 3 tháng 9 (1973), khi đó ông mang quân hàm Thượng úy, biên đội trưởng thuộc Đại đội 5, trung đoàn 921, Sư đoàn Không quân 371. Phạm Tuân chia sẻ, chiến công của ông có "80% là may mắn", nhưng may mắn ở đây là có thời cơ, và phải biết chớp được thời cơ đó thì mới làm nên chuyện. Ông cho biết: ""Trận ấy không thực sự phức tạp. Nhưng thành quả đó có được là do chúng ta đã từng đổ xương máu, đổ mồ hôi cho những trận chiến đấu trước"."
Bay vào vũ trụ.
Năm 1977, Phạm Tuân được cử đi học tại Học viện Không quân Gagarin (Liên Xô), 1 năm sau ông chuyển loại sang bay vũ trụ. Phạm Tuân được chọn vào đội bay quốc tế thứ 6 trong chương trình Intercosmos của Liên Xô ngày 1 tháng 4 năm 1979. Vị trí của ông ban đầu thuộc về phi công Nguyễn Văn Cốc, nhưng ông Cốc về sau bị loại vì không vượt qua bài kiểm tra thể lực. Cùng được chọn với Phạm Tuân còn có phi công dự bị Bùi Thanh Liêm, người sẽ thế chỗ Phạm Tuân nếu có sự cố bất ngờ.
Phạm Tuân, cùng với nhà du hành vũ trụ Xô viết Viktor Vasilyevich Gorbatko được phóng vào không gian từ sân bay vũ trụ Baikonur trên con tàu Soyuz 37 vào ngày 23 tháng 7 năm 1980, tức ngày 12 tháng 6 âm lịch năm Canh Thân, và trở về Trái Đất ngày 31 tháng 7 trên tàu Soyuz 36. Họ thực hiện nhiệm vụ trên trạm không gian Salyut 6 cùng với hai nhà du hành vũ trụ Xô viết khác.
Trong toàn bộ thời gian trên quỹ đạo, Phạm Tuân đã tiến hành các thí nghiệm khoa học về hòa tan các mẫu khoáng chất trong tình trạng không trọng lực. Ông cũng tiến hành các thí nghiệm khoa học trồng cây bèo hoa dâu trên không gian. Phạm Tuân cũng chụp ảnh Việt Nam từ quỹ đạo Trái Đất. Phạm Tuân ở trong không gian trong vòng 7 ngày, 20 giờ và 42 phút. Ông đã thực hiện tổng cộng 142 vòng quỹ đạo quanh Trái Đất.
Phạm Tuân kể, nhiều người đồn thổi ông chỉ "đi ké" nhà du hành vũ trụ Gorbatko chứ không có vai trò gì. Phạm Tuân khẳng định lại: "Tôi cho rằng những người đó không hiểu gì về chuyến bay vũ trụ. Con tàu vũ trụ đòi hỏi phải có hai người điều khiển. Gorbatko là người lái chính, điều khiển con tàu. Còn tôi là lái phụ, phụ trách các thông số kỹ thuật, bảng điều khiển. Việc phối hợp lái chính-lái phụ phải ăn khớp, không thể có chuyện người này điều khiển còn người kia chỉ ngồi nhìn". Ông cũng bị đàm tiếu về việc mang bèo hoa dâu lên vũ trụ, cho rằng ông "thiên vị" quê nhà Thái Bình chuyên "băm bèo cho lợn ăn". Phạm Tuân cho biết: Chuyện mang bèo đi là do đội ngũ các nhà khoa học của ta và bạn quyết định, chứ ông không thể thích mang gì thì mang. Bèo hoa dâu dễ sinh sôi nảy nở, hút khí cacbonic, sản sinh ra oxy. Trên vũ trụ lại có rất nhiều tia nhiễm xạ có tác động lên con người, lên sinh vật tạo nên sự đột biến sinh học, và mang bèo hoa dâu lên là để phục vụ mục đích nghiên cứu này.
Ông có vợ là thượng tá bác sĩ quân y (đã nghỉ hưu) Trần Thị Phương Tiến và hai con Phạm Hằng Thu, Phạm Anh Tuấn,con nuôi là Võ Thị Công My
Ngày 1 tháng 1 năm 2008, ông nghỉ hưu theo quyết định của Chính phủ. Ông hiện sống ở Hà Nội.
|
Venkman là tên mã của một tiện ích dùng để tìm diệt lỗi JavaScript của những trình duyệt dựa trên trình duyệt Mozilla (tuy nhiên không hoạt động trong những trình duyệt chỉ dựa trên Gecko như Galeon), hiện tại, Venkman đi kèm theo trình duyệt Mozilla và có thể cài làm phần mở rộng bằng gói XPI cho Mozilla Firefox, Venkman cũng có thể hoạt động trên trình duyệt Netscape phiên bản 7.0 trở lên, riêng Venkman phiên bản 0.6.2 có thể chạy trên Netscape 6.2x. Tên của tiện ích được đặt theo tên nhân vật tiến sĩ Peter Venkman (do Bill Murray đóng vai) trong bộ phim "Những người bắt ma" phần 1 và 2 ("Ghostbusters", "Ghostbusters 2"). Tên chính thức của tiện ích này là JavaScript Debugger, tuy nhiên hầu hết người dùng đều gọi tiện ích này theo tên mã là Venkman vì cái tên JavaScript Debugger quá chung chung.
Năm 1998, John Bandhauer phụ trách việc phát triển tiện ích tìm diệt lỗi cho trình duyệt Netscape 4, anh bắt đầu bằng việc viết js/jsd - API tìm diệt lỗi cho JavaScript. Tháng 4 năm 2001, Robert Ginda bắt đầu phát triển Venkman dựa trên js/jsd. Venkman là một thành phần XPCOM, cho phép giao diện người dùng đồ họa (GUI) được viết bằng JavaScript và XUL, do đó Venkman có thể chạy trên nhiều nền khác nhau.
Venkman có thể được khởi động bằng cách vào Tools, chọn Web Development sau đó chọn JavaScript Debugger hoặc có thể khởi động trình duyệt với đối số -venkman.
Nhiều người lầm tưởng Venkman là tiện ích tìm diệt lỗi đầu tiên cho JavaScript vì sự nổi tiếng và phổ biến của nó. Tuy nhiên, trước khi Venkman ra đời, một số tiện ích tìm diệt lỗi cho JavaScript đã được phát triển, trong đó đáng kể nhất là Microsoft Script Debugger, một tiện ích tìm diệt lỗi JavaScript được nhúng vào Internet Explorer. Ngoài ra còn có The JavaScript Verifier (thường được biết đến dưới tên jslint), một tiện ích tìm diệt lỗi JavaScript được viết bởi Douglas Crockford. Khác với các tiện ích cùng loại khác, jslint được viết bằng chính JavaScript.
|
Chất bán dẫn (tiếng Anh: Semiconductor) là chất có "độ dẫn điện" ở mức trung gian giữa chất dẫn điện và chất cách điện. Chất bán dẫn hoạt động như một chất cách điện ở nhiệt độ thấp và có tính dẫn điện ở nhiệt độ phòng. Gọi là "bán dẫn" (chữ "bán" theo nghĩa Hán Việt có nghĩa là một nửa), vì chất này có thể dẫn điện ở một điều kiện nào đó, hoặc ở một điều kiện khác sẽ không dẫn điện. Tính bán dẫn có thể thay đổi khi có tạp chất, những tạp chất khác nhau có thể tạo tính bán dẫn khác nhau. Trường hợp hai chất bán dẫn khác nhau được gắn với nhau, nó tạo ra một lớp tiếp xúc. Các tính chất của các hạt mang điện như electron, các ion và lỗ trống điện tử trong lớp tiếp xúc này là cơ sở để tạo nên diode, bóng bán dẫn và các thiết bị điện tử hiện đại ngày nay..
Các thiết bị bán dẫn mang lại một loạt các tính chất hữu ích như có thể điều chỉnh chiều và đường đi của dòng điện theo một hướng khác, thay đổi điện trở nhờ ánh sáng hoặc nhiệt. Vì các thiết bị bán dẫn có thể thay đổi tính chất thông qua tạp chất hay ánh sáng hoặc nhiệt, nên chúng thường được dùng để mở rộng, đóng ngắn mạch điện hay chuyển đổi năng lượng.
Quan điểm hiện đại người ta dùng vật lý lượng tử để giải thích các tính chất bán dẫn thông qua sự chuyển động của các hạt mang điện tích trong cấu trúc tinh thể. Tạp chất làm thay đổi đáng kể tính chất này của chất bán dẫn. Nếu người ta pha tạp chất và tạo ra nhiều lỗ trống hơn trong chất bán dẫn người ta gọi là chất bán dẫn loại p, ngược lại nếu tạo ra nhiều electron chuyển động tự do hơn trong chất bán dẫn người ta gọi là chất bán dẫn loại n. Việc pha tỷ lệ chính xác các tạp chất đồng thời kết hợp các loại chất bán dẫn p-n với nhau ta có thể tạo ra các linh kiện điện tử với tỷ lệ hoạt động chính xác cực cao.
Nguyên tố silicon, germani và các hợp chất của gallium được sử dụng rộng rãi nhất làm chất bán dẫn trong các linh kiện điện tử.
Ứng dụng thực tế đầu tiên của chất bán dẫn là vào năm 1904 với máy Cat's-whisker detector (tạm dịch là "máy dò râu mèo") với một diode bán dẫn tinh khiết. Sau đó nhờ việc phát triển của thuyết vật lý lượng tử người ta đã tạo ra bóng bán dẫn năm 1947 và mạch tích hợp đầu tiên năm 1958.
Khoa học vật liệu hiện đại đã phát hiện ra "chất bán dẫn hữu cơ" và nó đang có được những ứng dụng bước đầu, đó là "diode phát quang hữu cơ" (OLED), "pin mặt trời hữu cơ" (Organic solar cell) và "transistor trường hữu cơ" (OFET).
Độ dẫn điện biến đổi.
Chất bán dẫn ở trạng thái tự nhiên của chúng là chất dẫn điện kém vì dòng điện yêu cầu dòng điện tử và chất bán dẫn có dải hóa trị của chúng được lấp đầy, ngăn chặn dòng vào của electron mới. Có một số kỹ thuật được phát triển cho phép các vật liệu bán dẫn hoạt động giống như vật liệu dẫn điện. Những sửa đổi này có hai kết quả: loại n và loại p. Chúng lần lượt đề cập đến sự thừa hoặc thiếu điện tử. Một số lượng điện tử không cân bằng sẽ khiến một dòng điện chạy qua vật liệu.
Các dị thể xảy ra khi hai vật liệu bán dẫn pha tạp khác nhau được nối với nhau. Ví dụ, một cấu hình có thể bao gồm p-pha tạp và n-pha tạp germanium. Điều này dẫn đến sự trao đổi điện tử và lỗ trống giữa các vật liệu bán dẫn pha tạp khác nhau. Germanium pha tạp n sẽ có thừa electron và Germanium pha tạp p sẽ có quá nhiều lỗ trống. Sự chuyển đổi xảy ra cho đến khi đạt được trạng thái cân bằng bởi một quá trình gọi là tái hợp, khiến các electron di chuyển từ loại n tiếp xúc với các lỗ di chuyển từ loại p. Một sản phẩm của quá trình này là các ion tích điện, dẫn đến hiệu ứng điện trường.
Sự khác biệt về điện thế trên vật liệu bán dẫn sẽ khiến nó rời khỏi trạng thái cân bằng nhiệt và tạo ra tình trạng không cân bằng. Điều này giới thiệu các electron và lỗ trống cho hệ thống, tương tác thông qua một quá trình gọi là khuếch tán xung quanh. Bất cứ khi nào cân bằng nhiệt bị xáo trộn trong vật liệu bán dẫn, số lượng lỗ trống và điện tử sẽ thay đổi. Sự gián đoạn như vậy có thể xảy ra do sự chênh lệch nhiệt độ hoặc photon, có thể xâm nhập vào hệ thống và tạo ra các electron và lỗ trống. Quá trình tạo ra và tự hủy electron và lỗ trống được gọi là thế hệ và tái tổ hợp.
Trong một số chất bán dẫn nhất định, các electron bị kích thích có thể thư giãn bằng cách phát ra ánh sáng thay vì tạo ra nhiệt. Những chất bán dẫn này được sử dụng trong việc chế tạo các diode phát sáng và các chấm lượng tử huỳnh quang.
Độ dẫn nhiệt cao.
Chất bán dẫn có tính dẫn nhiệt cao có thể được sử dụng để tản nhiệt và cải thiện quản lý nhiệt của thiết bị điện tử.
Chuyển đổi năng lượng nhiệt.
Chất bán dẫn có các yếu tố năng lượng nhiệt điện lớn làm cho chúng hữu ích trong các máy phát nhiệt điện, cũng như các số liệu nhiệt điện cao làm cho chúng hữu ích trong các bộ làm mát nhiệt điện.
Hiệu ứng trường (bán dẫn).
Khi kết hợp hai lớp p-n với nhau điều này dẫn đến việc trao đổi điện tích tại lớp tiếp xúc p-n. Các điện tử từ n sẽ chuyển sang lớp p và ngược lại các lỗ trống lớp p chuyển sang lớp n do quá trình trung hòa về điện. Một sản phẩm của quá trình này là làm ion tích điện, tạo ra một điện trường.
Vùng năng lượng trong chất bán dẫn.
Tính chất dẫn điện của các vật liệu rắn được giải thích nhờ lý thuyết vùng năng lượng. Như ta biết, điện tử tồn tại trong nguyên tử trên những mức năng lượng gián đoạn (các trạng thái dừng). Nhưng trong chất rắn, khi mà các nguyên tử kết hợp lại với nhau thành các khối, thì các mức năng lượng này bị phủ lên nhau, và trở thành các vùng năng lượng và sẽ có ba vùng chính, đó là:
Như vậy, tính dẫn điện của các chất rắn và tính chất của chất bán dẫn có thể lý giải một cách đơn giản nhờ lý thuyết vùng năng lượng như sau:
với: formula_4 là hằng số, formula_5 là độ rộng vùng cấm. Ngoài ra, tính dẫn của chất bán dẫn có thể thay đổi nhờ các kích thích năng lượng khác, ví dụ như ánh sáng. Khi chiếu sáng, các điện tử sẽ hấp thu năng lượng từ photon, và có thể nhảy lên vùng dẫn nếu năng lượng đủ lớn. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi về tính chất của chất bán dẫn dưới tác dụng của ánh sáng (quang-bán dẫn).
Bán dẫn pha tạp.
Chất bán dẫn loại p (bán dẫn dương) có tạp chất là các nguyên tố thuộc nhóm III, dẫn điện chủ yếu bằng các lỗ trống (viết tắt cho chữ tiếng Anh "positive, nghĩa là dương"). Khi đó, lỗ trống là hạt tải điện cơ bản (hay đa số), electron là hạt tải điện không cơ bản hay thiểu số).
Chất bán dẫn loại n (bán dẫn âm - negative) có tạp chất là các nguyên tố thuộc nhóm V, các nguyên tử này dùng 4 electron tạo liên kết và một electron lớp ngoài liên kết lỏng lẻo với nhân, đấy chính là các electron dẫn chính. Khi đó, electron là hạt tải điện cơ bản (hay đa số), lỗ trống là hạt tải điện không cơ bản (hay thiểu số).
Chất bán dẫn không suy biến là chất có nồng độ hạt dẫn không cao, chất bán dẫn có nồng độ tạp chất lớn hơn 1020 nguyên tử/cm³ được gọi là bán dẫn suy biến và có tính chất giống như kim loại vì vậy nó dẫn điện tốt, năng lượng của hạt dẫn tự do trong chất bán dẫn suy biến không phụ thuộc vào nhiệt độ.
Có thể giải thích một cách đơn giản về bán dẫn pha tạp nhờ vào lý thuyết vùng năng lượng như sau: Khi pha tạp, sẽ xuất hiện các mức pha tạp nằm trong vùng cấm, chính các mức này khiến cho electron dễ dàng chuyển lên vùng dẫn hoặc lỗ trống dễ dàng di chuyển xuống vùng hóa trị để tạo nên tính dẫn của vật liệu. Vì thế, chỉ cần pha tạp với hàm lượng rất nhỏ cũng làm thay đổi lớn tính chất dẫn điện của chất bán dẫn.
|
SQL (, hoặc ; viết tắt của Structured Query Language), dịch là "Ngôn ngữ truy vấn mang tính cấu trúc", là một loại ngôn ngữ máy tính phổ biến để tạo, sửa, và lấy dữ liệu từ một hệ quản trị cơ sở dữ liệu quan hệ. Ngôn ngữ này phát triển vượt xa so với mục đích ban đầu là để phục vụ các hệ quản trị cơ sở dữ liệu đối tượng-quan hệ. Nó là một tiêu chuẩn ANSI/ISO.
Từ một bài báo tham dự hội thảo khoa học "A Relational Model of Data for Large Share Data Banks" (tạm dịch là "Mô hình quan hệ cho dữ liệu dùng trong ngân hàng dữ liệu chia sẻ có khối lượng lớn") của tiến sĩ Edgar F. Codd xuất bản tháng 6 năm 1970 trong tạp chí Communications of the ACM của Hiệp hội ACM, một mô hình đã được chấp nhận rộng rãi là mô hình tiêu chuẩn dùng cho hệ thống quản lý cơ sở dữ liệu quan hệ.
Giữa những năm 1970, một nhóm các nhà phát triển tại trung tâm nghiên cứu của IBM tại San Jose phát triển hệ thống cơ sở dữ liệu "Hệ thống R" dựa trên mô hình của Codd. Structured English Query Language, viết tắt là "SEQUEL" (tạm dịch là "Ngôn ngữ truy vấn tiếng Anh có cấu trúc"), được thiết kế để quản lý và truy lục dữ liệu được lưu trữ trong Hệ thống R. Sau này, tên viết tắt SEQUEL được rút gọn thành SQL để tránh việc tranh chấp nhãn hiệu (từ SEQUEL đã được một công ty máy bay của UK là Hawker-Siddeley đăng ký). Mặc dù SQL bị ảnh hưởng bởi công trình của tiến sĩ Codd nhưng nó không do tiến sĩ Codd thiết kế ra. Ngôn ngữ SEQUEL được thiết kế bởi Donald D. Chamberlin và Raymond F. Boyce tại IBM, và khái niệm của họ được phổ biến để tăng sự chú ý về SQL.
Phiên bản cơ sở dữ liệu quan hệ phi thương mại, không hỗ trợ SQL đầu tiên được phát triển năm 1974.(Ingres from U.C. Berkeley.)
Năm 1978, việc thử nghiệm phương pháp được khởi đầu tại một cơ sở thử nghiệm của khách hàng. Cuộc thử nghiệm đã chứng minh được sự có ích và tính thực tiễn của hệ thống và đã chứng tỏ sự thành công của IBM. Dựa vào kết quả đó, IBM bắt đầu phát triển các sản phẩm thương mại bổ sung thêm SQL dựa trên nguyên mẫu Hệ thống R bao gồm System/38 (Hệ thống/38) (được công bố năm 1978 và được thương mại hóa tháng 8 năm 1979, SQL/DS (được giới thiệu vào năm 1981) và DB2 (năm 1983).
Cùng thời điểm đó Relational Software, Inc. (bây giờ là Oracle Corporation) đã nhận thấy tiềm năng của những khái niệm được Chamberlin and Boyce đưa ra và đã phát triển phiên bản Hệ quản trị cơ sở dự liệu quan hệ riêng của họ cho Navy, CIA và các tổ chức khác. Vào mùa hè năm 1979, Relational Software, Inc. giới thiệu Oracle V2 (Phiên bản 2), phiên bản thương mại đầu tiên hỗ trợ SQL cho máy tính VAX. Oracle thường xuyên được nhắc tới một cách không nghiêm túc vì đã tấn công thị trường của IBM trong 2 năm, nhưng việc táo bạo nhất trong quan hệ công chúng của họ là tấn công một phiên bản của IBM System/38 chỉ trong có vài tuần. Tương lai của Oracle đã được đảm bảo vì có sự quan tâm đáng kể của công chúng sau đó mới phát triển, trong khi đã có nhiều phiên bản của các nhà cung cấp khác.
IBM đã quá chậm trong việc phát triển SQL và các sản phẩm quan hệ, có lẽ vì ban đầu nó không dùng được trong môi trường Unix và máy tính lớn (Mainframe), và họ sợ nó sẽ làm giảm lợi nhuận thu được từ việc bán các sản phẩm cơ sở dữ liệu IMS (những sản phẩm dựa trên mô hình cơ sở dữ liệu định hướng chứ không phải cơ sở dữ liệu quan hệ) của mình. Trong lúc đó, Oracle vẫn đang phát triển, IBM đang phát triển System/38, được mong đợi là hệ cơ sở dữ liệu quan hệ đầu tiên của họ. Với năng lực và thiết kế tiên tiến của nó, người ta cho rằng nó có thể sẽ thay thế cho hệ thống Unix và máy tính lớn.
SQL được thừa nhận là tiêu chuẩn của ANSI (American National Standards Institute) vào năm 1986 và ISO (International Organization for Standardization) năm 1987. ANSI đã công bố cách phát âm chính thức của SQL là "ess kyoo ell", nhưng rất nhiều các chuyên gia cơ sở dữ liệu nói tiếng Anh vẫn gọi nó là sequel. Một quan niệm sai khác cũng được phổ biến rộng rãi đó là "SQL" là chữ viết tắt của "Structured Query Language" (Ngôn ngữ truy vấn có cấu trúc). Thực tế không phải như vậy!
Tiêu chuẩn SQL đã trải qua một số phiên bản:
Các từ khóa SQL.
Từ khóa SQL chia thành nhiều nhóm:
Thao tác sử dụng nhiều nhất trong một cơ sở dữ liệu dựa trên giao dịch là thao tác lấy dữ liệu.
Ví dụ sau về việc sử dụng câu lệnh codice_1 để lấy danh sách những cuốn sách có giá trị. Câu truy vấn này sẽ truy lục tất cả các bản ghi trong bảng "books" với giá trị của cột "price" lớn hơn 100.00. Kết quả sẽ được sắp xếp theo thứ tự tăng dần của các giá trị trong cột "title". Dấu (*) trong phần "select list" cho biết tất cả các cột của bảng "books" sẽ được lấy ra và thể hiện ở kết quả.
Ví dụ sau giải thích cách liên kết nhiều bảng, tập hợp các bản ghi trong câu truy vấn SQL, nó sẽ trả về danh sách các cuốn sách và số tác giả của từng cuốn sách.
SELECT , count(*) AS Authors
Kết quả của ví dụ trên giống như sau:
SQL Examples and Guide 3
The Joy of SQL 1
How to use Wikipedia 2
Pitfalls of SQL 1
How SQL Saved my Dog 1
Với điều kiện cột "isbn" là cột chung duy nhất của hai bảng và cột "title" chỉ tồn tại trong bảng "books" thì câu truy vấn trên có thể được viết lại theo mẫu sau:
SELECT title, count(*) AS Authors
Tuy nhiên nhiều nhà cung cấp không hỗ trợ các thức này, hoặc nó yêu cầu một số quy ước về tên cột nào đó. Như vậy, câu truy vấn trên không được phổ biến.
Sửa đổi dữ liệu.
Ngôn ngữ sửa đổi dữ liệu (Data Manipulation Language - DML), là một phần nhỏ của ngôn ngữ, có những thành phần tiêu chuẩn dùng để thêm, cập nhật và xóa dữ liệu delete data.
Giao dịch, nếu có, dùng để bao bọc các thao tác sửa đổi dữ liệu.
Giao dịch (transaction) là một tập các thao tác đi cùng với nhau. Trên môi trường khách/chủ (client/server) hay môi trường cơ sở dữ liệu phân tán việc đảm bảo tính đúng đắn của dữ liệu rất quan trọng. Ví dụ: Một người rút tiền khỏi tài khoản tại ngân hàng, thì tại thời điểm rút tiền, thao tác rút tiền khác phải bị từ chối. Các thao tác trên tài khoản đó có thể hình dung như sau:
Thao tác 1: Mở khóa tài khoản
Thao tác 2: Thực hiện thao tác rút tiền
Thao tác 3: Khóa tài khoản
Để đảm bảo các thao tác 1-3 phải đi liền với nhau thì phải đưa vào trong một transaction
Thao tác 1: Mở khóa tài khoản
Thao tác 2: Thực hiện thao tác rút tiền
Thao tác 3: Khóa tài khoản
Các lệnh liên quan đến giao dịch:
Là một cách chèn đoạn lệnh SQL vào để thực hiện việc vượt qua sự kiểm tra của mệnh đề WHERE. Ví dụ một câu truy vấn lấy tài khoản người dùng:
Câu trên chỉ có thể đúng nếu cặp USERNAME và PASSWORD tồn tại trong cơ sở dữ liệu. Câu trên có thể viết injection như sau:
thay cụm từ codice_22 thành: codice_23 (lưu ý ký tự nháy đơn ') khi đó câu SQL sẽ trở thành:
SELECT ID, NAME FROM USERS WHERE USERNAME=" OR 1=1 or"=" AND PASSWORD='1234'
đoạn mã này hoạt động với bất cứ password nào. Việc phòng chống SQL Injection cũng không khó, chỉ cần chú ý khi viết là có thể chống lại được.
Định nghĩa dữ liệu.
Ngôn ngữ định nghĩa dữ liệu ("Data Definition Language", viết tắt là DDL) là một trong những phần chính của ngôn ngữ truy vấn. Các câu lệnh này dùng để định nghĩa cấu trúc của cơ sở dữ liệu, bao gồm định nghĩa các hàng, các cột, các bảng dữ liệu, các chỉ số và một số thuộc tính khác liên quan đến cơ sở dữ liệu như vị trí của file. Các câu lệnh ngôn ngữ định nghĩa dữ liệu là thành phần chính trong các hệ quản lý dữ liệu và có sự khác biệt rất nhiều giữa các ngôn ngữ truy vấn trên các hệ khác nhau.
|
Tiệp Khắc (, #đổi "," trước năm 1990: "Československo", #đổi ), trong khẩu ngữ còn gọi tắt là Tiệp, là một cựu nhà nước có chủ quyền tại Trung Âu tồn tại từ tháng 10 năm 1918, khi nó tuyên bố độc lập khỏi Đế quốc Áo-Hung, cho tới năm 1992. Từ năm 1939 tới năm 1945 quốc gia này "trên thực tế" không tồn tại, vì bị bắt buộc giải tán và sáp nhập một phần vào nước Đức Phát xít, nhưng Chính phủ Séc lưu vong quả thực có tồn tại trong giai đoạn này trong khi Slovakia độc lập khỏi Séc. Ngày 1 tháng 1 năm 1993 Tiệp Khắc phân chia trong hòa bình thành Cộng hòa Séc và Slovakia. Cộng hòa Séc hiện nay kế thừa Tiệp Khắc về mặt pháp lý.
Danh xưng "Tiệp Khắc" trong tiếng Việt là giản xưng của "Tiệp Khắc Tư Lạc Phạt Khắc" (Trung văn: 捷克斯洛伐克, bính âm: Jiékè Sīluòfákè), dùng tiếng Trung Quốc phiên âm từ "Czechoslovakia". Trong đó, "Tiệp Khắc" (Jiékè) là chỉ Séc, "Tư Lạc Phạt Khắc" (Sīluòfákè) là chỉ Slovakia. Hiện nay cũng có một số người Việt Nam gọi Séc là "Tiệp Khắc" hoặc "Tiệp".
Các tính chất căn bản.
Hình thức nhà nước:
Nước láng giềng: Đức (1945–1990: Cộng hòa Liên bang Đức và Cộng hòa Dân chủ Đức), Ba Lan, từ 1945 Liên bang Xô viết (1992: Ukraina), România (cho tới năm 1939), Hungary, Áo
Địa hình: Nói chung bằng phẳng. Vùng phía tây là một phần của dải đất cao bắc trung Âu. Vùng phía đông gồm phần phía bắc của lòng chảo Núi Carpathian và Sông Danube.
Khí hậu: Chủ yếu lục địa nhưng thay đổi từ nhiệt độ ôn hòa của Trung Âu ở phía tây tới các hệ thống thời tiết khắc nghiệt hơn có ảnh hưởng Đông Âu và vùng phía tây Liên Xô tại phía đông.
Tiệp Khắc được thành lập tháng 10 năm 1918 như một trong những quốc gia kế tục của Áo-Hung ở cuối Thế chiến I. Nó gồm các lãnh thổ hiện nay của Cộng hòa Séc, Slovakia và Ruthenia Karpat. Lãnh thổ của nó gồm một số vùng rất công nghiệp hoá của Áo-Hung cũ. Đây là một quốc gia đa sắc tộc. Thành phần sắc tộc nguyên thủy của nhà nước mới gồm 51% người Séc, 16% người Slovak, 22% người Đức, 5% người Hung và 4% người Rusyn hay Ruthenia. Nhiều người Đức, Hungary, Ruthenia và người Ba Lan và một số người Slovak, cảm thấy bất lợi tại Tiệp Khắc, bởi giới lãnh đạo chính trị đất nước đưa ra một nhà nước trung ương tập quyền và đa số thời gian không cho phép tự trị chính trị cho các nhóm sắc tộc. Chính sách này, cộng với sự tuyên truyền Phát xít ngày càng tăng đặc biệt ở vùng công nghiệp hoá nói tiếng Đức Sudetenland, đã dẫn tới tình trạng căng thẳng leo thang trong sắc dân không phải Séc.
Tư tưởng chính thống về nhà nước lập hiến của quốc gia mới thời điểm đó là không có người Séc và người Slovak, chỉ một dân tộc: Tiệp Khắc (xem Chủ nghĩa Tiệp Khắc). Nhưng không phải mọi sắc tộc đều đồng ý với tư tưởng này (đặc biệt là người Slovak) và một khi một nhà nước Tiệp Khắc thống nhất được tái lập sau Thế chiến II (sau sự giải tán của quốc gia trong Thế chiến II) ý tưởng này bị bỏ lại và Tiệp Khắc là một đất nước hai dân tộc - người Séc và người Slovak.
Theo Thoả thuận Munich năm 1938, Anh Quốc và Pháp buộc Tiệp Khắc nhượng các vùng biên giới nói tiếng Đức cho Phát xít Đức dù đã tồn tại những hiệp ước, trong cái thường được gọi là một phần của Sự phản bội phương Tây. Năm 1939 phần còn lại ("rump") của Tiệp Khắc bị Phát xít Đức xâm lược và phân chia thành vùng Bảo hộ Bohemia và Moravia và Cộng Hòa Slovak con rối. Đa phần Slovakia và toàn bộ Ruthenia Hạ Karpat bị Hungary sáp nhập.
Tiệp Khắc thời kỳ xã hội chủ nghĩa.
Sau Thế chiến II, nước Tiệp Khắc trước chiến tranh được tái lập, ngoại trừ Ruthenia Hạ Karpat đã sáp nhập vào Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraina. Nghị định Beneš được công bố liên quan tới sắc tộc Đức (xem Thoả thuận Potsdam) và sắc tộc Hungary. Theo các nghị định này, quyền công dân bị bãi bỏ với người có nguồn gốc sắc tộc Đức và Hungary, những người từng nhận quyền công dân Đức hoặc Hungary trong thời chiếm đóng. (Năm 1948 điều khoản này bị xoá bỏ cho người Hungary, nhưng chỉ một phần cho người Đức). Sau đó thực hiện trục xuất khoảng 90% dân số sắc tộc Đức tại Tiệp Khắc, hơn 2 triệu người. Những người còn lại bị buộc tội chung là đã ủng hộ Phát xít (sau Thoả thuận Munich, và 97.32% người Đức Sudeten thành niên bỏ phiếu cho NSDAP trong cuộc bầu cử tháng 12 năm 1938). Hầu như mọi nghị định đều nói dứt khoát rằng sự trừng phạt không áp dụng cho những người chống phát xít, dù thuật ngữ "chống phát xít" không được định nghĩa rõ ràng. Khoảng 250,000 người Đức, nhiều người lấy người Séc, một số người chống phát xít, và cả những người yêu cầu tái lập đất nước thời hậu chiến, vẫn ở lại Tiệp Khắc. Nghị định Beneš vẫn gây ra tranh cãi lớn giữa các nhóm quốc gia tại Cộng hòa Séc, Đức, Áo và Hungary.
Ruthenia Karpat bị chiếm đóng bởi (vào tháng 6 năm 1945 chính thức nhượng lại) Liên Xô. Năm 1946 trong cuộc bầu cử nghị viện Đảng Cộng sản Tiệp Khắc chiến thắng tại vùng đất Séc (Đảng dân chủ chiến thắng tại Slovakia). Tháng 2 năm 1948 những người Cộng sản lên nắm quyền lực. Dù họ tiếp tục duy trì sự đa nguyên chính trị với sự tồn tại của Mặt trận Quốc gia, ngoại trừ một thời gian ngắn cuối thập niên 1960 (Mùa xuân Prague) đất nước này có đặc trưng ở sự thiếu vắng chính trị đa đảng. Nền kinh tế của Tiệp Khắc nhìn chung là tiên tiến hơn nền kinh tế các nước láng giềng ở Đông Âu và được coi là một nước phát triển trên thế giới, dù vẫn thấp hơn nếu so với các nước phát triển cao tại Tây Âu.
Năm 1968, sau một cuộc bạo động, năm nước Khối Đông Âu kéo quân vào Tiệp Khắc. Liên Xô cho xe tăng tiến vào Prague ngày 21 tháng 8 năm 1968. Người đứng đầu chính phủ Xô viết Leonid Brezhnev coi sự can thiệp này là tối cần thiết cho sự tồn tại của Xô viết, hệ thống xã hội chủ nghĩa và cam kết tiến hành can thiệp vào bất kỳ nước nào tìm cách thay thế chủ nghĩa xã hội bằng chủ nghĩa tư bản. Năm 1969, Tiệp Khắc chuyển thành một liên bang gồm Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Séc và Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Slovak. Theo hình thức liên bang, những sự không công bằng giữa Séc và Slovak gây ảnh hưởng tới nhà nước bị hạn chế. Một số bộ, như bộ giáo dục, chính thức được chuyển cho hai nước cộng hòa. Tuy nhiên, sự quản lý chính trị tập trung bởi Đảng Cộng sản hạn chế khá nhiều hiệu quả của sự liên bang hoá.
Thập niên 1970 chứng kiến sự trỗi dậy của phong trào phản đối tại Tiệp Khắc, đại diện bởi (trong số những người khác) Václav Havel. Phong trào tìm cách tham gia mạnh hơn vào chính trị và thể hiện dưới hình thức phản đối chính thức, diễn ra trong những giới hạn của các hoạt động công việc (đi xa tới mức một lệnh cấm nghiệp đoàn chuyên nghiệp và từ chối giáo dục cao cho con em những nhân vật chống chính phủ được ban ra, cảnh sát thẩm vấn và đôi khi là án tù).
Năm 1989 đất nước này lại quay trở lại hệ thống đa đảng sau Cách mạng Nhung. Điều này xảy ra cùng khoảng thời gian với sự sụp đổ của khối xã hội chủ nghĩa tại România, Bulgaria, Hungary và Ba Lan. Trong vòng ba năm những người cộng sản đã bị mất quyền lãnh đạo ở các nước Đông Âu.
Không giống Nam Tư và Liên bang Xô viết, sự chấm dứt của Chủ nghĩa cộng sản ở nước này không tự động có nghĩa sự chấm dứt của cái tên mang tính cộng sản chủ nghĩa: từ "xã hội chủ nghĩa" bị bỏ đi ngày 29 tháng 3 năm 1990, và được thay bằng "liên bang".
Năm 1992, vì những căng thẳng leo thang của chủ nghĩa quốc gia, Tiệp Khắc giải tán trong hòa bình theo các quá trình trong nghị viện. Lãnh thổ của nó trở thành Cộng hòa Séc và Slovakia, được chính thức lập ra ngày 1 tháng 1 năm 1993.
Chính sách đối ngoại.
Thoả thuận và thành viên tổ chức quốc tế.
Sau Thế chiến II, thành viên tích cực trong Hội đồng Tương trợ Kinh tế (Comecon), Khối hiệp ước Warszawa, Liên hiệp quốc và các cơ quan khác của tổ chức này, tham gia ký kết Hội nghị An ninh và Hợp tác châu Âu
Nhóm dân và sắc tộc.
Tại thời điểm trước khi phân chia, năm 1991, Tiệp Khắc có 15,6 triệu dân, trong đó người Séc chiếm 62,8%, người Slovakia chiếm 31%, người gốc Hungary chiếm 3,8%, người gốc Romania 0,7%, người gốc Silesi 0,3%. Ngoài ra, tại Tiệp Khắc còn một số ít người gốc Ruthe, Ukraina, Đức, Ba Lan và Do Thái. Người Séc, Slovakia, Silesi và Ba Lan cùng là các dân tộc Tây Slav. Người Ruthe và Ukraina cùng là các dân tộc Đông Slav.
Sau Thế chiến II, một sự độc quyền chính trị do Đảng Cộng sản Tiệp Khắc (KSC) nắm giữ xuất hiện. Gustáv Husák được bầu làm thư ký thứ nhất của KSC năm 1969 (chuyển thành tổng thư ký năm 1971) và chủ tịch Tiệp Khắc năm 1975. Các đảng và tổ chức khác có tồn tại nhưng chỉ đóng vai trò phụ thuộc cho KSC. Tất cả các đảng chính trị cũng như nhiều tổ chức quần chúng bị gộp lại dưới bóng của Mặt trận Quốc gia. Những nhà hoạt động về quyền con người và tôn giáo bị đàn áp mạnh mẽ.
Phát triển hiến pháp.
Tiệp Khắc có các hiến pháp sau trong lịch sử của mình (1918–1992):
Sau Thế chiến II, kinh tế là tập trung kế hoạch hoá, với các liên kết chỉ huy từ đảng cộng sản, tương tự như Liên bang Xô viết. Ngành công nghiệp luyện kim lớn phụ thuộc vào nhập khẩu quặng sắt và phi sắt.
Sau Thế chiến II, nước này thiếu năng lượng, phụ thuộc vào nhập khẩu dầu thô và khí tự nhiên từ Liên Xô, than xám trong nước, và năng lượng hạt nhân hay thủy điện. Năng lượng là một vấn đề lớn trong thập niên 1980.
Giáo dục là miễn phí ở mọi cấp độ và phổ cập từ tuổi lên sáu tới mười lăm. Đại đa số người dân biết chữ. Hệ thống dạy nghề phát triển cao và các trường nghề hỗ trợ các trường trung học và các viện giáo dục cao học.
Năm 1991: Cơ đốc giáo La Mã 46,4%, Đạo Luther 5,3%, Vô thần 29,5%, không rõ 16,7%, nhưng có những sự khác biệt lớn giữa hai nước cộng hoà lập hiến – xem Cộng hoà Séc và Slovakia
Sức khỏe, an sinh xã hội và nhà ở.
Sau Thế chiến II, chăm sóc sức khoẻ miễn phí được áp dụng cho mọi công dân. Kế hoạch chăm sóc sức khoẻ quốc gia nhấn mạnh tới phòng ngừa; các trung tâm y tế tại các nhà máy và các địa phương hỗ trợ cho các bệnh viện và các cơ sở y tế. Đã có những cải thiện lớn trong chăm sóc sức khoẻ tại nông thôn trong thập niên 1960 và 1970.
Truyền thông tại Tiệp Khắc bị kiểm soát bởi Đảng Cộng sản Tiệp Khắc (KSČ). Việc sở hữu cá nhân với mọi cơ quan xuất bản hay truyền thông bị cấm, dù các nhà thờ và các tổ chức khác có xuất bản các tạp chí định kỳ và các tờ báo. Thậm chí với sự độc quyền báo chí trong tay các tổ chức dưới sự kiểm soát của KSČ, mọi sách báo xuất bản đều bị "Văn phòng Báo chí và Thông tin" của chính phủ kiểm duyệt.
Đội tuyển bóng đá quốc gia Tiệp Khắc khá nổi tiếng trên thế giới, với 8 lần góp mặt tại các vòng chung kết FIFA World Cup, đứng hạng 2 tại World Cup 1934 và 1962. Đội bóng cũng giành chức vô địch châu Âu năm 1976 và đứng hạng 3 năm 1980.
Đội tuyển hockey trên băng Tiệp Khắc đã giành nhiều huy chương tại các giải đấu thế giới và Olympics.
Emil Zátopek, người giành bốn huy chương vàng điền kinh Olympic được coi là một trong những vận động viên điền kinh hàng đầu trong lịch sử.
Vera Časlavska là vận động viên thể dục đoạt nhiều huy chương, với tám huy chương vàng và bốn huy chương bạc, và đã đại diện cho Tiệp Khắc ở ba kỳ Olympics liên tiếp.
|
Trong lý thuyết thông tin, một chuyên ngành của toán học ứng dụng và kỹ thuật điện/điện tử, tín hiệu là một đại lượng vật lý chứa đựng thông tin hay dữ liệu có thể truyền đi xa và tách thông tin ra được. Hầu hết các tín hiệu đáng quan tâm đều ở dạng các hàm số, các phân bố hay các quá trình thay đổi ngẫu nhiên của thời gian hoặc vị trí.
Phân loại tín hiệu.
Có nhiều cách để phân loại tín hiệu, dưới đây là cách phân chia theo cặp thuộc tính:
Thời gian rời rạc - Thời gian liên tục.
Tín hiệu rời rạc (về mặt thời gian) là tín hiệu chỉ xác định trên một tập rời rạc của thời gian (một tập những thời điểm rời rạc). Dưới dạng toán học, tín hiệu rời rạc mang giá trị thực (hoặc phức) có thể được xem là một hàm liên kết tương ứng từ tập số tự nhiên đến tập số thực (hoặc phức).
Tín hiệu liên tục (về mặt thời gian) là tín hiệu mang giá trị thực (hoặc phức) xác định với mọi thời điểm trong một khoảng thời gian, trường hợp phổ biến nhất là một khoảng thời gian vô hạn. Chú ý: Một hàm không liên tục về mặt toán học, ví dụ như hàm sóng vuông (square-wave) hay sóng răng cưa (sawtooth-wave), vẫn có thể là hàm liên tục về mặt thời gian.
Tương tự - Số.
Tín hiệu tương tự là tín hiệu có giá trị thay đổi liên tục theo thời gian. Tín hiệu số là tín hiệu đã được lấy mẫu và lượng tử hóa.
Lấy mẫu là quá trình biến một tín hiệu tương tự thành một tín hiệu rời rạc theo thang thời gian. Định lý lấy mẫu (Shannon-Nyquist) nói rằng muốn khôi phục một tín hiệu băng tần gốc liên tục theo thời gian thì băng thông của tín hiệu ban đầu phải có giới hạn và tần số lấy mẫu phải lớn hơn hai lần băng thông của tín hiệu ban đầu.
Lượng tử hóa là quá trình biến một tín hiệu có giá trị liên tục thành tín hiệu có giá trị rời rạc.
Điện tử tương tự là các hệ thống điện tử xử lý các tín hiệu có giá trị biến đổi liên tục theo thời gian, hay tín hiệu tương tự.
Xác định - Ngẫu nhiên.
- Xác định: quá trình biến thiên được biểu diễn bằng 1 hàm thời gian hoàn toàn xác định
- Ngẫu nhiên: quá trình biến thiên của nó không biết trước được, ...
Năng lượng - Công suất.
Tín hiệu năng lượng là tín hiệu có năng lượng xác định. Ví dụ tín hiệu xung tam giác đơn.
Tín hiệu công suất là tín hiệu có công suất trung bình xác định. Ví dụ tín hiệu hình sin.
Phân tích tín hiệu trong miền tần số.
Tín hiệu thường được phân tích trong miền tần số. Phương pháp này áp dụng cho các loại tín hiệu, cả tín hiệu liên tục hay rời rạc theo thời gian. Nghĩa là khi cho một tín hiệu đi qua một hệ thống tuyến tính, không đổi theo thời gian, thì phổ tần số của tín hiệu đầu ra sẽ bằng tích của phổ tần số của tín hiệu đầu vào và đáp ứng xung của hệ thống
Một số phương pháp chuyển đổi tín hiệu giữa miền thời gian và miền tần số là:
Một đặc tính quan trọng của tín hiệu là entropy hay còn gọi là lượng tin
|
Biến đổi tuyến tính
Trong toán học, một phép biến đổi tuyến tính (còn được gọi là toán tử tuyến tính hoặc là ánh xạ tuyến tính, Tiếng Anh: "linear transformation", "linear mapping") là một ánh xạ formula_1 formula_2 formula_3 giữa hai mô đun (cụ thể, hai không gian vectơ) mà bảo toàn được các thao tác cộng và nhân vô hướng vectơ. Nói một cách khác, nó bảo toàn tổ hợp tuyến tính. Nếu ánh xạ tuyến tính là một song ánh thì nó được gọi là đẳng cấu tuyến tính.
Một trường hợp quan trọng là khi formula_4, khi đó ánh xạ tuyến tính được gọi là một tự đồng cấu (tuyến tính) trong formula_1. Đôi khi thuật ngữ toán tử tuyến tính chỉ ánh xạ trong trường hợp này, nhưng nó có thể mang ý nghĩa khác tùy theo các quy ước: ví dụ, thuật ngữ này có thể được dùng để nhấn mạnh rằng formula_1 và formula_3 là các không gian vectơ thực (không nhất thiết là formula_4),#đổi hay để nhấn mạnh rằng formula_1 là một không gian hàm (đây là một quy ước thông thường trong giải tích hàm). Đôi khi thuật ngữ "hàm tuyến tính" cũng mang nghĩa là "ánh xạ tuyến tính", nhưng không phải trong hình học giải tích.
Một biến đổi tuyến tính từ "V" vào "W" luôn ánh xạ gốc tọa độ của "V" tới gốc tọa độ của "W". Hơn nữa, nó luôn là ánh xạ từ một không gian con (tuyến tính) vào một không gian con (có thể với số chiều khác nhau); ví dụ, ánh xạ từ một mặt phẳng qua gốc tọa độ trong "V" vào một mặt phẳng qua gốc tọa độ trong "W", hoặc tới một đường thẳng đi qua gốc tọa độ trong "W," hoặc chỉ tới điểm gốc tọa độ của "W". Ánh xạ tuyến tính có thể được biểu diễn bởi các ma trận, các ví dụ đơn giản là các ma trận của các phép biến đổi tuyến tính quay và phản xạ.
Trong ngôn ngữ của đại số trừu tượng, một phép biến đổi tuyến tính là một đồng cấu giữa các mô đun. Trong ngôn ngữ của lý thuyết phạm trù, nó là một cấu xạ trong phạm trù các mô đun trên một vành đã cho.
Định nghĩa và các hệ quả đầu tiên.
Một cách chính thức, nếu "formula_1" và "formula_3" là các không gian vectơ trên cùng một trường "formula_12", chúng ta nói rằng ánh xạ formula_13 là một (phép) biến đổi tuyến tính nếu cho bất kỳ hai vectơ formula_14 và bất kỳ vô hướng formula_15, chúng ta có
Điều này có ý nghĩa tương đương với khẳng định formula_16 "bảo toàn tổ hợp tuyến tính", có nghĩa là không quan trọng là ánh xạ được áp dụng trước (vế phải ở các đẳng thức trên) hay sau (vế trái) khi thực hiện các phép toán cộng và nhân vô hướng.
Cho bất kỳ các vectơ formula_17 và các vô hướng formula_18 bởi tính kết hợp của phép cộng chúng ta có
Ký hiệu các phần tử không của các không gian vectơ formula_1 và formula_3 tương ứng là formula_22 và formula_23, ta suy ra formula_24
Cho formula_25 và formula_26 trong phương trình của tính thuần nhất bậc 1:
Thông thường, formula_1 và formula_3 có thể xem như là các không gian vectơ trên các trường khác nhau, và khi đó điều quan trọng là xác định trường nào được dùng cho định nghĩa "tuyến tính". Nếu formula_1 và formula_3 là các không gian trên trường formula_12 như xác định ở trên, chúng ta nói về formula_12-ánh xạ tuyến tính. Ví dụ, phép lấy liên hợp của một số phức là một formula_34-ánh xạ tuyến tính formula_35, nhưng nó không phải là formula_36-tuyến tính, trong đó các trường formula_34 và formula_36 tương ứng là các trường số thực và số phức.
Một ánh xạ tuyến tính formula_39 với trường formula_12 được xem như là một không gian vectơ 1 chiều trên chính nó được gọi là một phiếm hàm tuyến tính.
Các mệnh đề trên đây có thể được tổng quát hóa đối với một mô đun trái bất kỳ formula_41 trên một vành formula_42 mà không cần sửa lại, và đối với một mô đun phải bất kỳ nhưng phải đổi thứ tự của phép nhân vô hướng.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
trong lý thuyết nhóm sẽ cho thấy phép lấy nguyên hàm ánh xạ vào không gian thương của các hàm khả vi trên quan hệ tương đương "sai khác một hằng số", trong đó lớp tương đương đồng nhất gồm các hàm có giá trị hằng số formula_64.
Nếu "formula_1" và "formula_3" là các không gian vectơ hữu hạn chiều và một cơ sở được xác định cho mỗi không gian vectơ, thì mọi ánh xạ tuyến tính từ "formula_1" vào "formula_3" có thể được biểu diễn bởi một ma trận. Điều này hữu ích vì nó cho phép tính toán các ánh xạ một cách cụ thể. Các ma trận chính là các ví dụ của ánh xạ tuyến tính: Nếu "formula_50" là ma trận thực formula_51, thì formula_81 mô tả một ánh xạ tuyến tính formula_82 (xem không gian Euclid).
Cho "formula_83" là một cơ sở của V. Vậy thì mỗi vectơ "formula_84" được xác định duy nhất bởi các hệ số (tọa độ) "formula_85"trong trường formula_53:
Nếu formula_57 là một ánh xạ tuyến tính thì ta có
từ điều này suy ra rằng hàm "formula_59" hoàn toàn được xác định bởi các vectơ "formula_91". Ta có "formula_92" là một cơ sở của "formula_3". Vậy thì ta có thể biểu diễn từng vectơ "formula_94" dưới dạng
Vì vậy, biến đổi "formula_59" hoàn toàn được xác định bởi các giá trị "formula_97". Nếu ta đặt các giá trị này vào một ma trận "formula_98" với kích thước formula_51, thì ta có thể sử dụng để tính toán một cách thuận tiện vectơ đầu ra của "formula_59" cho một vectơ bất kỳ trong "formula_1". Để xây dựng "formula_98", mỗi cột "formula_103" của "formula_98" là một vectơ
tương ứng với "formula_94" được định nghĩa như trên. Để định nghĩa một cách rõ ràng hơn, đối với một cột "formula_103" tương ứng với ánh xạ "formula_94"thì
trong đó formula_98 là ma trận của biến đổi "formula_59". Nói cách khác, ở mỗi cột "formula_112" có một vectơ tương ứng "formula_94"với tọa độ formula_114 là các phần tử của cột "formula_103". Một ánh xạ tuyến tính có thể được biểu diễn bởi nhiều ma trận. Điều này là bởi các giá trị của các phần tử trong một ma trận phụ thuộc vào cơ sở được chọn.
Ví dụ của ma trận biến đổi tuyến tính.
Trong không gian hai chiều R2 các ánh xạ tuyến tính được biểu diễn bởi các ma trận thực 2 × 2. Dưới đây là một số ví dụ:
Không gian các ánh xạ tuyến tính.
Ánh xạ hợp của các ánh xạ tuyến tính cũng là ánh xạ tuyến tính: nếu các ánh xạ "f": "V" → "W" và "g": "W" → "Z" là tuyến tính, thì ánh xạ hợp formula_125 cũng vậy. Từ đây suy ra rằng lớp các không gian vectơ trên một trường cho trước "K", cùng với các "K"-ánh xạ tuyến tính là các cấu xạ, tạo thành một phạm trù.
Ánh xạ ngược của một ánh xạ tuyến tính nếu tồn tại cũng là tuyến tính.
Nếu formula_126 và formula_127 là tuyến tính, thì hàm tổng của chúng formula_128 cũng tuyến tính, được định nghĩa là formula_129.
Nếu formula_57 là tuyến tính và "formula_131" là một phần tử của trường bên dưới "formula_132", thì ánh xạ "formula_133", định nghĩa bởi "formula_134" cũng là tuyến tính.
Vì thế tập hợp "formula_135" gồm các ánh xạ tuyến tính từ "formula_136" vào "formula_137" cũng là một không gian vectơ trên trường "formula_132", đôi khi ký hiệu là "formula_139". Hơn nữa, trong trường hợp "formula_140" thì không gian này, ký hiệu "formula_141", là một đại số kết hợp dưới phép hợp ánh xạ, vì hợp của hai ánh xạ tuyến tính cũng là một ánh xạ tuyến tính, và phép hợp ánh xạ có tính kết hợp. Trường hợp này được nói cụ thể hơn ở dưới.
Trong trường hợp hữu hạn chiều, nếu các cơ sở đã được chọn trước thì phép hợp các ánh xạ tuyến tính tương ứng với phép nhân ma trận, phép cộng các ánh xạ tuyến tính tương ứng với phép cộng ma trận, và phép nhân vô hướng các ánh xạ tuyến tính tương ứng với phép nhân ma trận với vô hướng.
Tự đồng cấu, tự đẳng cấu.
Một biến đổi tuyến tính formula_142 là một tự đồng cấu trên "formula_136"; tập hợp các tự đồng cấu "formula_141" cùng với phép cộng, phép hợp và phép nhân vô hướng được định nghĩa như trên tạo thành một đại số kết hợp có đơn vị trên trường "formula_132" (và cụ thể hơn là một vành). Phần tử đơn vị phép nhân của đại số này là ánh xạ đồng nhất formula_146.
Một tự đồng cấu trên "formula_136" mà đồng thời cũng là một đẳng cấu được gọi là một tự đẳng cấu trên "formula_136". Hợp của hai tự đẳng cấu cũng là một tự đẳng cấu, và tập hợp các tự đẳng cấu trên "formula_136" tạo thành một nhóm gọi là nhóm các tự đẳng cấu trên "formula_136" và được ký hiệu là "formula_151" hay "formula_152". Vì các tự đẳng cấu cũng chính là các tự đồng cấu có ánh xạ ngược dưới phép hợp ánh xạ nên "formula_151" là nhóm các đơn vị trên vành "formula_141".
Nếu "formula_136" có số chiều hữu hạn "formula_156", thì "formula_141" đẳng cấu với đại số kết hợp gồm các ma trận vuông "formula_158" với các phần tử trong "formula_132". Nhóm các tự đẳng cấu trên "formula_136" đẳng cấu với nhóm tuyến tính tổng quát "formula_161" gồm các ma trận khả nghịch "formula_158" với các phần tử trong "formula_132".
Hạt nhân, ảnh và định lý về hạng.
Nếu biến đổi formula_164 là tuyến tính, ta định nghĩa hạt nhân của "formula_59" ký hiệu formula_166, ảnh của "formula_59" và hạng của "formula_59" như sau:
formula_166 là một không gian con của formula_1 và formula_173 là không gian con của formula_3. Công thức sau đây được xem là định lý về số chiều:
Số formula_176 cũng được gọi là "hạng của "formula_59 ký hiệu là formula_178, hoặc formula_179; còn số formula_180 được gọi là "số vô hiệu (nullity) của "formula_59 và ký hiệu là formula_182 hay formula_183. Nếu formula_1 và formula_3 là hữu hạn chiều, và "formula_59" được biểu diễn bởi ma trận formula_50, thì hạng và số vô hiệu của "formula_59" tương ứng bằng hạng và số vô hiệu của ma trận formula_50.
Phân loại đại số của các biến đổi tuyến tính.
Không có cách phân loại các biến đổi tuyến tính nào là triệt để. Sau đây là một số phân loại đặc biệt mà không xét bất kỳ cấu trúc bổ sung nào trên không gian vectơ.
Cho formula_1 và formula_3 là các không gian vectơ trên một trường formula_192 và cho formula_193 là một ánh xạ tuyến tính.
Định nghĩa: formula_194 được gọi là "biến đổi đơn ánh" hay là một "đơn cấu" không gian vectơ nếu một trong số các điều kiện tương đương sau đây được thỏa mãn:
Định nghĩa: formula_194 được gọi là "biến đổi toàn ánh" hay một "toàn cấu" không gian vectơ nếu một trong các điều kiện tương đương sau đây được thỏa mãn:
Định nghĩa: formula_194 được gọi là một "đẳng cấu" nếu nó đồng thời là khả nghịch trái và là khả nghịch phải. Điều này là tương đương với formula_194 đồng thời là đơn ánh và là toàn ánh (tức là một song ánh) hay formula_194 đồng thời là một đơn cấu và là một toàn cấu.
Cho formula_224 gọi là một tự đồng cấu, ta có:
Cho một ánh xạ tuyến tính và là một tự đồng cấu có biểu diễn ma trận là "A", đối với cùng một cơ sở "B" của không gian, "A" biến đổi tọa độ vectơ [u] thành [v] = "A"[u]. Khi chuyển từ một cơ sở khác sang "B" ta thực hiện biến đổi [v] = "B"[v'].
Thay vào biểu thức thứ nhất ta được
Vì vậy, ma trận của biến đổi ấy trong cơ sở kia là "A′" = "B"−1"AB", trong đó "B" là ma trận của cơ sở đã cho. Hai ma trận "A" và "A"' được gọi là hai ma trận đồng dạng.
Một ứng dụng cụ thể của ánh xạ tuyến tính là cho các biến đổi hình học, ví dụ như trong đồ họa máy tính, khi các phép di chuyển tịnh tiến, quay và phóng tỉ lệ một đối tượng 2D hoặc 3D được thực hiện nhờ sử dụng một ma trận biến đổi. Các ánh xạ tuyến tính cũng được sử dụng như một cơ chế để mô tả sự thay đổi: như trong giải tích ứng với đạo hàm; hay trong thuyết tương đối, được dùng như một phương tiện để theo dõi các biến đổi cục bộ trong các hệ quy chiếu.
Một ứng dụng khác của các biến đổi tuyến tính là trong việc tối ưu hóa trình biên dịch đối với các đoạn mã lồng nhau, và trong việc song song hóa kỹ thuật biên dịch.
|
Trong toán học, lượng giác (tiếng Anh: "trigonometry", lấy nguyên gốc từ tiếng Hy Lạp cổ đại của hai từ τρίγωνον nghĩa là "tam giác" và μέτρον nghĩa là "đo lường") là một phân nhánh nghiên cứu về mối quan hệ về độ dài các cạnh với số đo các góc của một tam giác. Mảng nghiên cứu này bắt đầu từ thế kỉ thứ 3 trước Công nguyên với thời kỳ Hy Lạp hóa như là một ứng dụng của ngành hình học cho các nghiên cứu thiên văn học khi đó. Những người Hy Lạp khi đó tập trung vào việc tính toán độ dài các dây cung, trong khi các nhà toán học Ấn Độ đã tạo ra phiên bản sớm nhất của một bảng giá trị lượng giác.
Xuyên suốt lịch sử, lượng giác được ứng dụng trong nhiều phân ngành khác nhau như trắc địa, khảo sát xây dựng, cơ học thiên thể và định hướng.
Lượng giác cũng được biết tới bởi rất nhiều đẳng thức lượng giác, thường được sử dụng để có thể viết lại các biểu thức lượng giác thường được cho trước nhằm hoặc đơn giản hóa, hoặc đưa về dạng cần thiết hoặc để giải phương trình.
Nguồn gốc của lượng giác được tìm thấy trong các nền văn minh của người Ai Cập, Babylon và nền văn minh lưu vực sông Ấn cổ đại từ trên 3000 năm trước. Các nhà toán học Ấn Độ cổ đại là những người tiên phong trong việc sử dụng tính toán các ẩn số đại số để sử dụng trong các tính toán thiên văn bằng lượng giác. Lagadha là nhà toán học duy nhất mà ngày nay người ta biết đã sử dụng hình học và lượng giác trong tính toán thiên văn học trong cuốn sách của ông "Vedanga Jyotisha", phần lớn các công trình của ông đã bị tiêu hủy khi Ấn Độ bị người nước ngoài xâm lược.
Nhà toán học Hy Lạp Hipparchus vào khoảng năm 150 TCN đã biên soạn bảng lượng giác để giải các tam giác.
Một nhà toán học Hy Lạp khác, Ptolemy vào khoảng năm 100 đã phát triển các tính toán lượng giác xa hơn nữa.
Nhà toán học người Silesia là Bartholemaeus Pitiscus đã xuất bản công trình có ảnh hưởng tới lượng giác năm 1595 cũng như giới thiệu thuật ngữ này sang tiếng Anh và tiếng Pháp.
Một số nhà toán học cho rằng lượng giác nguyên thủy được nghĩ ra để tính toán các đồng hồ mặt trời, là một bài tập truyền thống trong các cuốn sách cổ về toán học. Nó cũng rất quan trọng trong đo đạc.
Lượng giác ngày nay.
Có nhiều ứng dụng của lượng giác. Cụ thể có thể nói đến như là kỹ thuật của phép đo đạc tam giác được sử dụng trong thiên văn để đo khoảng cách tới các ngôi sao gần, trong địa lý để đo khoảng cách giữa các mốc giới hay trong các hệ thống hoa tiêu vệ tinh. Các lĩnh vực khác có sử dụng lượng giác còn có thiên văn (và vì thế là cả hoa tiêu trên đại dương, trong ngành hàng không và trong vũ trụ), lý thuyết âm nhạc, âm học, quang học, phân tích thị trường tài chính, điện tử học, lý thuyết xác suất, thống kê, sinh học, chiếu chụp y học (các loại chụp cắt lớp và siêu âm), dược khoa, hóa học, lý thuyết số (và vì thế là mật mã học), địa chấn học, khí tượng học, hải dương học và nhiều lĩnh vực của vật lý, đo đạc đất đai và địa hình, kiến trúc, ngữ âm học, kinh tế học, khoa công trình về điện, cơ khí, xây dựng, đồ họa máy tính, bản đồ học, tinh thể học
Mô hình hiện đại trừu tượng hóa của lượng giác- lượng giác hữu tỷ, bao gồm các khái niệm "bình phương sin của góc" và "bình phương khoảng cách" thay vì góc và độ dài - đã được tiến sĩ Norman Wildberger ở trường đại học tổng hợp New South Wales nghĩ ra.
Hai tam giác được coi là đồng dạng nếu một trong hai tam giác có thể thu được nhờ việc mở rộng (hay thu hẹp) cùng lúc tất cả các cạnh tam giác kia theo cùng tỷ lệ. Điều này chỉ có thể xảy ra khi và chỉ khi các góc tương ứng của chúng bằng nhau, ví dụ hai tam giác khi xếp lên nhau thì có một góc bằng nhau và cạnh đối của góc đã cho song song với nhau. Yếu tố quyết định về sự đồng dạng của tam giác là độ dài các cạnh của chúng tỷ lệ thuận hoặc các góc tương ứng của chúng phải bằng nhau. Điều đó có nghĩa là khi hai tam giác là đồng dạng và cạnh dài nhất của một tam giác lớn gấp 2 lần cạnh dài nhất của tam giác kia thì cạnh ngắn nhất của tam giác thứ nhất cũng lớn gấp 2 lần so với cạnh ngắn nhất của tam giác thứ hai và tương tự như vậy cho cặp cạnh còn lại. Ngoài ra, các tỷ lệ độ dài các cặp cạnh của một tam giác sẽ bằng các tỷ lệ độ dài của các cặp cạnh tương ứng của tam giác còn lại. Cạnh dài nhất của bất kỳ tam giác nào sẽ là cạnh đối của góc lớn nhất.
Sử dụng các yếu tố đã nói trên đây, người ta định nghĩa các hàm lượng giác, dựa vào tam giác vuông, là tam giác có một góc bằng 90 độ hay π/2 (radian), tức tam giác có góc vuông.
Do tổng các góc trong một tam giác là 180 ° hay π radian, nên góc lớn nhất của tam giác vuông là góc vuông. Cạnh dài nhất của tam giác như thế sẽ là cạnh đối của góc vuông và người ta gọi nó là cạnh huyền.
Lấy 2 "tam giác vuông" có chung nhau một góc thứ hai "A". Các tam giác này là đồng dạng, vì thế tỷ lệ của cạnh đối, "a", của góc "A" so với cạnh huyền, h, là như nhau cho cả hai tam giác. Nó sẽ là một số nằm trong khoảng từ 0 tới 1 và nó chỉ phụ thuộc vào chính góc "A"; người ta gọi nó là sin của góc A và viết nó là sin ("A") hay sin "A". Tương tự, người ta cũng định nghĩa cosin của góc "A" như là tỷ lệ của cạnh kề, b, của góc "A" so với cạnh huyền, "h", và viết nó là cos ("A") hay cos "A".
Đây là những hàm số quan trọng nhất trong lượng giác; các hàm số khác có thể được định nghĩa theo cách lấy tỷ lệ của các cạnh còn lại của tam giác vuông nhưng chúng có thể biểu diễn được theo sin và cosin. Đó là các hàm số như tang, sec, cotang và cosec.
Các hàm lượng giác như trên đã nói đã được định nghĩa cho các góc nằm trong khoảng từ 0 tới 90 ° (0 tới π/2 radian). Sử dụng khái niệm vectơ cho đường tròn đơn vị, người ta có thể mở rộng chúng để có các đối số âm và dương (xem thêm hàm lượng giác).
Khi các hàm sin và cosin đã được lập thành bảng (hoặc tính toán bằng máy tính hay máy tính tay) thì người ta có thể trả lời gần như mọi câu hỏi về các tam giác bất kỳ, sử dụng các quy tắc sin hay quy tắc cosin. Các quy tắc này có thể được sử dụng để tính toán các góc và cạnh còn lại của tam giác bất kỳ khi biết một trong ba yếu tố sau:
Các định lý thường gặp.
Trong các công thức dưới đây, "A", "B", "C" là các góc của tam giác và "a", "b", "c" là chiều dài các cạnh đối diện với các góc tương ứng (xem hình vẽ).
Định lý sin đối với một tam giác bất kỳ:
với "R" là bán kính đường tròn ngoại tiếp tam giác:
Một định lý khác liên quan đến hàm sin có thể dùng để tính toán diện tích tam giác. Cho chiều dài hai cạnh "a" và "b" và góc giữa hai cạnh là "C", diện tích của tam giác được tính như sau:
Định lý cos hay định lý cosin là một dạng mở rộng của định lý Pytago cho một tam giác bất kỳ:
Định lý cosin có thể được dùng để chứng minh công thức tính diện tích của Heron. Một tam giác bất kỳ có chiều dài các cạnh là "a", "b", và "c", và nếu nửa chu vi là
thì diện tích của tam giác được tính như sau:
Định lý tang được viết dưới dạng công thức như sau:
Công thức Euler, formula_12, có thể được biểu diễn theo các hàm sin, cos, và tang theo số e và đơn vị ảo "i" như sau:
có thông tin Anh ngữ về:
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
|
Yahoo! Messenger (đôi khi được viết tắt là Y!M) là một ứng dụng nhắn tin tức thời có hỗ trợ quảng cáo và giao thức liên quan được cung cấp bởi Yahoo!. Yahoo! Messenger được cung cấp miễn phí và có thể tải xuống để sử dụng với một ID Yahoo chung, cho phép truy cập vào các dịch vụ khác của Yahoo!, như là Yahoo! Mail. Dịch vụ này cũng cung cấp VoIP, chức năng truyền tải tập tin, lưu trữ webcam, dịch vụ gửi tin nhắn văn bản và phòng chat theo nhiều chủ đề khác nhau.
Yahoo! Messenger bắt nguồn từ dịch vụ phòng chat công cộng Yahoo! Chat. Ứng dụng này, ban đầu được gọi là Yahoo! Pager, ra mắt vào ngày 9 tháng 3 năm 1998 và được đổi tên thành Yahoo! Messenger vào năm 1999. Dịch vụ phòng chat chính thức ngừng hoạt động vào năm 2012.
Ngoài các tính năng nhắn tin tức thời tương tự như ICQ, Yahoo! Messenger cũng cung cấp (trên Microsoft Windows) nhiều tính năng độc đáo như: IMVironments (tùy chỉnh giao diện cửa sổ tin nhắn tức thời, một số trong đó bao gồm những chủ đề được ủy quyền liên quan đến các bộ phim hoạt hình như "Garfield" hay "Dilbert"), tích hợp sổ địa chỉ và Custom Status Messages. Đây cũng là ứng dụng IM lớn đầu tiên mang đến tính năng BUZZing và trạng thái âm nhạc.
Một phiên bản Yahoo! Messenger mới đã được phát hành vào năm 2015, thay thế phiên bản cũ hơn. Yahoo! Messenger đã chính thức ngừng hoạt động vào ngày 17 tháng 7 năm 2018, được thay thế bằng dịch vụ mới có tên Yahoo! Together, chỉ để sau đó cũng bị đóng cửa vào năm 2019.
Tính năng và tiện lợi của Yahoo!
Yahoo! Voice is là dịch vụ gọi PC-PC, PC-Điện thoại và Điện thoại-PC thông qua giao thức VoIP, được cung cấp bởi Yahoo! thông qua ứng dụng nhắn tin nhanh Yahoo! Messenger.
Thư thoại và chia sẻ tập tin.
Yahoo! đã thêm tính năng thư thoại và chia sẻ tập tin cho người dùng. Kích thước tập tin lớn nhất là 2GB.
Từ phiên bản 8.0, Yahoo! Messenger đã thêm khả năng tạo plug-in cho người dùng (thông qua việc sử dụng Yahoo! Messenger Plug-in SDK miễn phí có sẵn), sau đó sẽ được sử dụng và hiển thị trong triển lãm Yahoo! Plug-in .
Tích hợp Yahoo! Mail.
Vào ngày 9 tháng 11 năm 2007, Yahoo! đã có kế hoạch tích hợp Yahoo! Mail Beta vào Yahoo! Messenger. Những cuộc đối thoại sẽ được đóng gói và lưu trữ giống như email. Điều này cho phép người dùng tìm nội dung chat được lưu lại một cách dễ dàng, và lưu tập trung vào một chỗ bất kể họ dùng máy tính nào để nói chuyện.
Tin nhắn offline, một tính năng đã có từ lâu của Yahoo!, cho phép người dùng trực truyến gửi tin nhắn đến bạn bè, ngay cả người đó không đăng nhập vào lúc đó. Liên hệ offline sẽ nhận được tin nhắn offline đó vào lần online sau của họ.
Hoạt động chung với Windows Live Messenger.
Vào ngày 13 tháng 10 năm 2005, Yahoo! và Microsoft đã thông báo kế hoạch giới thiệu sự liên kết giữa hai trình tin nhắn, tạo nên lượng người dùng tin nhắn nhanh lớn thứ nhì thế giới: 40 phần trăm lượng người dùng (AIM hiện đang giữ 56 phần trăm). Thông báo này sau nhiều năm trời các hãng thứ ba đã thành công trong việc tích hợp (đáng chú ý nhất là Trillian, Pidgin) và những chỉ trích rằng những chương trình tin nhắn nhanh lớn đang "bế quan tỏa cảng". Microsoft cũng đã nói chuyện với AOL để nỗ lực giới thiệu tích hợp mạnh hơn, nhưng đến nay, AOL có vẻ không mặn mà trong việc gia nhập.
Bản liên kết giữa Yahoo! và Windows Live Messenger đã phát hành vào 12 tháng 7 năm 2006. Nó cho phép người dùng Yahoo! và Windows Live Messenger chat với nhau mà không cần phải tạo tài khoản trên dịch vụ bên kia, với điều kiện hai bên phải sử dụng phiên bản mới nhất. Đến nay, người dùng đã có thể nói chuyện bằng âm thanh với nhau.
Có nhiều trò chơi và ứng dụng có sẵn dùng trên cửa sổ chat.
Status (hiện trạng) cho phép người dùng có thể nêu hiện trạng của mình (busy, stepped ) hoặc lời nhắn gửi. Có thể dùng chúng để dẫn liên kết link. Status hiện ngay gần ID của người chủ sau dấu gạch ngang (-). Các status không viết được Tiếng Việt (hoặc viết sẽ bị mã hoá). Khi muốn, phải có một phần mềm riêng.
|
Chì là một nguyên tố hóa học trong bảng tuần hoàn hóa học viết tắt là Pb (Latin: "Plumbum") và có số nguyên tử là 82. Chì có hóa trị phổ biến là II, có khi là IV. Chì là một kim loại mềm, nặng, độc hại và có thể tạo hình. Chì có màu trắng xanh khi mới cắt nhưng bắt đầu xỉn màu thành xám khi tiếp xúc với không khí. Chì dùng trong xây dựng, pin sạc, đạn, và là một phần của nhiều hợp kim. Chì có số nguyên tố cao nhất trong các nguyên tố bền.
Khi tiếp xúc ở một mức độ nhất định, chì là chất độc đối với động vật cũng như con người. Nó gây tổn thương cho hệ thần kinh và gây ra rối loạn não. Tiếp xúc ở mức cao cũng gây ra rối loạn máu ở động vật. Giống với thủy ngân, chì là chất độc thần kinh tích tụ trong mô mềm và trong xương. Nhiễm độc chì đã được ghi nhận từ thời La Mã cổ đại, Hy Lạp cổ đại, và Trung Quốc cổ đại.
Chì từng được sử dụng phổ biến hàng ngàn năm trước do sự phân bố rộng rãi của nó, dễ chiết tách và dễ gia công. Nó dễ dát mỏng và dễ uốn cũng như dễ nung chảy. Các hạt chì kim loại có tuổi 6400 TCN đã được tìm thấy ở Çatalhöyük, Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay. Vào đầu thời kỳ đồ đồng, chì được sử dụng cùng với antimon và asen.
Nhà sản xuất chì lớn nhất trước thời kỳ công nghiệp là nền kinh tế La Mã, với sản lượng hàng năm 80.000 tấn, đặc biệt chúng là phụ phẩm của quá trình nung chảy bạc. Hoạt động khai thác mỏ của La Mã diễn ra ở Trung Âu, Anh thuộc La Mã, Balkans, Hy Lạp, Tiểu Á; riêng ở Hispania chiếm 40% sản lượng toàn cầu.
Các ống chì La Mã thường khảm lên phù hiệu của các hoàng đế La Mã. Đường ống dẫn nước bằng chì ở Tây Latin có thể đã được duy trì vượt qua thời kỳ Theodoric Đại đế tới tận thời Trung Cổ. Một số thỏi chì La Mã tượng trưng cho lịch sử khai thác chì Derbyshire và trong lịch sử công nghiệp của các trung tâm kinh tế ở Anh khác. Người La Mã cũng sử dụng chì nóng chảy để giữ các chân trụ sắt gắn kết với các khối đá vôi lớn ở các nhà thờ nhất định. Trong giả kim thuật, chì từng được cho là kim loại cổ nhất và liên quan đến Sao Thổ. Các nhà giả kim thuật sử dụng biểu tượng của Sao Thổ (♄) để ám chỉ chì.
Ký hiệu của chì Pb là chữ viết tắt từ tên tiếng Latin "plumbum" nghĩa là kim loại mềm; có nguồn gốc từ "plumbum nigrum" (""plumbum" màu đen"), trong khi "plumbum candidum" (nghĩa là ""plumbum" sáng màu") là thiếc.
Tính chất vật lý.
Chì có màu trắng bạc và sáng, bề mặt cắt còn tươi của nó xỉ nhanh trong không khí tạo ra màu tối. Nó là kim loại màu trắng xanh, rất mềm, dễ uốn và nặng, và có tính dẫn điện kém so với các kim loại khác. Chì có tính chống ăn mòn cao, và do thuộc tính này, nó được sử dụng để chứa các chất ăn mòn (như acid sulfuric). Do tính dễ dát mỏng và chống ăn mòn, nó được sử dụng trong các công trình xây dựng như trong các tấm phủ bên ngoài các khới lợp. Chì kim loại có thể làm cứng bằng cách thêm vào một lượng nhỏ antimon, hoặc một lượng nhỏ các kim loại khác như calci.
Chì dạng bột cháy cho ngọn lửa màu trắng xanh. Giống như nhiều kim loại, bộ chì rất mịn có khả năng tự cháy trong không khí. Khói độc phát ra khi chì cháy.
Tính chất hóa học.
Các dạng oxy hóa khác nhau của chì dễ dàng bị khử thành kim loại. Ví dụ như khi nung PbO với các chất khử hữu cơ như glucose. Một hỗn hợp oxide và sulfide chì nung cùng nhau cũng tạo thành kim loại.
2 PbO + PbS → 3 Pb + SO2
Chì kim loại chỉ bị oxy hóa ở bề ngoài trong không khí tạo thành một lớp chì oxide mỏng, chính lớp oxide này lại là lớp bảo vệ chì không bị oxy hóa tiếp. Chì kim loại không phản ứng với các acid sulfuric hoặc clohydric. Nó hòa tan trong acid nitric giải phóng khí nitơ oxide và tạo thành dung dịch chứa Pb(NO3)2.
3 Pb + 8 H+ + 8 NO3- → 3 Pb2+ + 6 NO3- + 2 NO + 4 H2O
Khi nung với các nitrat của kim loại kiềm, chì bị oxy hóa thành PbO, và kim loại kiềm nitrat. PbO đặc trưng cho mức oxy hóa +2 của chì. Nó hòa tan trong acid nitric và acetic tạo thành các dung dịch có khả năng kết tủa các muối của chì sulfat, Chromiat, cacbonat (PbCO3), và Pb3(OH)2(CO3)2. Chì sulfide cũng có thể được kết tủa từ các dung dịch acetat. Các muối này đều rất kém hòa tan trong nước. Trong số các muối halide, iodide là ít hòa tan hơn bromide, và bromide ít hòa tan hơn chloride.
Chì(II) oxide cũng hòa tan trong các dung dịch hydroxide kim loại kiềm để tạo thành muối plumbit tương ứng.
PbO + 2 OH− + H2O → Pb(OH)42-
Clo hóa các dung dịch muối trên sẽ tạo ra chì có trạng thái oxy hóa +4.
Pb(OH)42- + Cl2 → PbO2 + 2 Cl− + 2 H2O
Chì dioxide là một chất oxy hóa mạnh. Muối clo ở trạng thái oxy hóa này khó được tạo ra và dễ bị phân hủy thành chì(II) chloride và khí clo. Muối iodide và bromide của chì(IV) không tồn tại. Chì dioxide hòa tan trong các dung dịch hydroxide kim loại kiềm để tạo ra các muối plumbat tương ứng.
PbO2 + 2 OH− + 2 H2O → Pb(OH)62-
Chì cũng có trạng thái oxy hóa trộn lẫn giữa +2 và +4, đó là chì đỏ (Pb3O4).
Chì dễ dàng tạo thành hợp kim đồng mol với kim loại natri, hợp kim này phản ứng với các alkyl halide tạo thành các hợp chất hữu cơ kim loại của chì như tetraethyl chì.
Các phức chất với clo.
Các hợp chất chì(II) tạo một loạt các phức chất với ion chloride, với sự hình thành của chúng làm thay đổi sự ăn mòn hóa học của chì. Quá trình này sẽ hạn chế khả năng hòa tan của chì trong môi trường mặn.
Các biểu đồ pha hòa tan của chì.
Chì(II) sulfat có khả năng hòa tan kém, như thể hiện trên biểu đồ pha khi thêm SO42− vào dung dịch 0,1 M Pb2+. pH của dung dịch là 4,5, và khi lớn hơn giá trị đó, nồng độ Pb2+ có thể không bao giờ đạt đến 0,1 M do sự tạo thành Pb(OH)2. Quan sát sự hòa tan của Pb2+ giảm 10.000 lần khi SO42− đạt đến 0,1 M.
Khi thêm chloride vào có thể làm giảm khả năng hòa tan của chì, mặc dù trong dung dịch giàu chloride (như aqua regia) thì chì có thể hòa tan trở lại ở dạng anion phức-clo.
Một đồng vị phân rã từ phóng xạ phổ biến là 202Pb, có chu kỳ bán rã là 53.000 năm.
Tất cả các đồng vị của chì, trừ chì 204, có thể được tìm thấy ở dạng các sản phẩm cuối của quá trình phân rã phóng xạ của các nguyên tố nặng hơn như urani và thori.
Chì kim loại có tồn tại trong tự nhiên nhưng ít gặp. Chì thường được tìm thấy ở dạng quặng cùng với kẽm, bạc, và (phổ biến nhất) đồng, và được thu hồi cùng với các kim loại này. Khoáng chì chủ yếu là galena (PbS), trong đó chì chiếm 86,6% khối lượng. Các dạng khoáng chứa chì khác như cerussite (PbCO3) và anglesite (PbSO4).
Hầu hết quặng chì chứa ít hơn 10% chì, và các quặng chứa ít nhất 3% chì có thể khai thác có hiệu quả kinh tế. Quặng được nghiền và cô đặc bằng tuyển nổi bọt thông thường đạt đến 70% hoặc hơn. Các quặng sulfide được thiêu kết chủ yếu tạo ra chì oxide và một hỗn hợp sulfat và silicat của chì và các kim loại khác có trong quặng.
Chì oxide từ quá trình thiêu kết được khử trong lò cao bằng than cốc. Quá trình này chuyển hầu hết chì thành dạng kim loại. Ba lớp khác tách biệt nhau trong quá trình này và nổi lên đỉnh của chì kim loại. Chúng là xỉ (silicat chứa 1,5% chì), matte (sulfide chứa 15% chì), và speiss (asenua của sắt và đồng). Các chất thải này chứa chì, kẽm, cadmi, và bismuth ở các mức hàm lượng có thể được thu hồi một cách có kinh tế.
Chì kim loại tạo ra từ các quá trình thiêu kết và lò cao vẫn chứa một hàm lượng đáng kể các tạp chất asen, antimon, bismuth, kẽm, đồng, bạc và vàng. Dung dịch nóng chảy được xử lý trong lò lửa quặt với không khí, hơi nước và lưu huỳnh để oxy hóa các tạp chất, trừ bạc, vàng và bismuth. Các tạp chất đã bị oxy hóa sẽ bị loại bỏ khi chúng nổi lên đỉnh.
Hầu hết các quặng chì chứa một lượng đáng kể bạc, và kim loại nóng chảy cũng chứa bạc ở dạng tạp chất. Bạc kim loại cũng như vàng bị loại ra và được thu hồi bằng phương pháp Parkes.
Chì sau khi được tách bạc ra sẽ tiếp tục loại bỏ bismuth bằng phương pháp Betterton-Kroll bằng cách xử lý hỗn hợp chì với calci và magnesi kim loại để loại bỏ bismuth.
Chì rất tinh khiết có thể được thu hồi bằng quá trình điện phân chì nóng chảy theo phương pháp Betts. Phương pháp điện phân này sử dụng anốt là chì không tinh khiết và catốt là chì tinh khiết trong một bể điện phân với chất điện li là chì fluorosilicat (PbSiF6) và acid hexafluorosilicic (H2SiF6).
Sản xuất và tái chế.
Sản xuất và tiêu thụ chì đang tăng trên toàn thế giới. Tổng sản lượng hàng năm vào khoảng 8 triệu tấn; khoảng phân nửa được sản xuất từ tái chế. Đến năm 2008, các nước sản xuất chì dẫn đầu là Úc, Trung Quốc, Việt Nam, Vương Quốc Anh, Na Uy, Hoa Kỳ, Peru, Canada, Mexico, Thụy Điển, Morocco, Ai Cập, Nam Phi, Hi Lạp, Iceland, Đức, Hàn Quốc, Nga, Áo, Phần Lan, Đan Mạch, Israel, Ấn Độ, Ireland, Nhật Bản, Guatemala, Bỉ, Ý, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Brazil. Trung Quốc và Hoa Kỳ chiếm hơn phân nửa sản lượng nguyên thủy (không tính tái chế).
Đến năm 2010, 9,6 triệu tấn chì đã được sản xuất, trong đó 4,1 triệu tấn từ khai thác mỏ.
Với tốc độ sử dụng hiện tại, nguồn cung ứng chì ước tính sẽ cạn kiệt trong vòng 42 năm nữa. Theo phân tích của Lester Brown thì ông cho rằng chì có thể cạn kiệt trong vòng 18 năm nữa nếu tốc độ sử dụng gia tăng 2% mỗi năm. Điều này có thể cần được xem xét lại khi tính tới sự quan tâm mới được phục hồi trong việc tái chế, và tiến bộ nhanh trong công nghệ tế bào nhiên liệu.
Ảnh hưởng đến sức khỏe.
Chì là một kim loại độc có thể gây tổn hại cho hệ thần kinh, đặc biệt là ở trẻ em và có thể gây ra các chứng rối loạn não và máu. Ngộ độc chì chủ yếu từ đường thức ăn hoặc nước uống có nhiễm chì; nhưng cũng có thể xảy ra sau khi vô tình nuốt phải các loại đất hoặc bụi nhiễm chì hoặc sơn gốc chì. Tiếp xúc lâu ngày với chì hoặc các muối của nó hoặc các chất oxy hóa mạnh như PbO2) có thể gây bệnh thận, và các cơn đau bất thường giống như đau bụng. Đối với phụ nữ mang thai, khi tiếp xúc với chì ở mức cao có thể bị sẩy thai. Tiếp xúc lâu dài và liên tục với chì làm giảm khả năng sinh sản và sinh dục ở nam giới. Thuốc giải hoặc điều trị nhiễm độc chì là dimercaprol và succimer.
Sự quan tâm đến vai trò của chì trong việc giảm nhận thức ở trẻ em đã phổ biến rộng rãi việc giảm sử dụng nó (tiếp xúc với chì liên quan đến giảm khả năng học). Hầu hết các trường hợp hàm lượng chì trong máu cao ở người lớn liên quan đến nơi làm việc. Hàm lượng chì trong máu cao liên quan với tuổi dậy thì ở bé gái. Ảnh hưởng của chì cũng làm giảm vĩnh viễn khả năng nhận thức của trẻ em khi tiếp xúc ở mức cực kỳ thấp.
Trong suốt thế kỷ XX, việc sử dụng chì làm chất tạo màu trong sơn đã giảm mạnh do những mối nguy hiểm từ ngộ độc chì, đặc biệt là ở trẻ em. Vào giữa thập niên 1980, có sự thay đổi đáng kể trong cách thức chấm dứt sử dụng chì. Hầu hết sự thay đổi này là kết quả của sự tuân thủ của người tiêu dùng Mỹ với cách quy tắc môi trường đã làm giảm đáng kể hoặc loại hẳn việc sử dụng chì trong các sản phẩm khác pin như xăng, sơn, chì hàn, và hệ thống nước. Sử dụng chì đang được Liên minh châu Âu cắt giảm theo chỉ thị RoHS. Chì vẫn có thể được tìm thấy với lượng có thể gây hại trong gốm làm từ cát, vinyl (sử dụng làm ống và phần cách điện của dây điện), và đồng được sản xuất tại Trung Quốc. Giữa năm 2006 và 2007, các đồ chơi trẻ em sản xuất tại Trung Quốc đã bị thu hồi, nguyên nhân cơ bản là sơn chứa chì được sử dụng để tạo màu cho sản phẩm.
Các muối chì được sử dụng trong men gốm đôi khi gây ngộ độc, khi các nước uống có tính acid như nước ép trái cây, đã làm rò rỉ các ion chì ra khỏi men. Chì(II) axetat đã từng được đế quốc La Mã sử dụng để làm cho rượu ngọt hơn, và một số người xem đây là nguyên nhân của chứng mất trí của một số hoàng đế La Mã.
Chì làm ô nhiễm đất cũng là một vấn đề cần quan tâm, vì chì có mặt trong các mỏ tự nhiên và cũng có thể đi vào đất thông qua sự rò rỉ từ gasoline của các bồn chứa dưới mặt đất hoặc các dòng thảy của sơn chứa chì hoặc từ các nguồn của các ngành công nghiệp sử dụng chì.
Chì trong không khí có thể bị hít vào hoặc ăn sau khi nó lắng đọng. Nó bị hấp thụ nhanh chóng vào máu và được tin là có ảnh hưởng đến hệ thần kinh trung ương, tim mạch, thận, và hệ miễn dịch.
Đặc điểm sinh hóa của ngộ độc chì.
Trong cơ thể người, chì ức chế tổng hợp porphobilinogen synthase và ferrochelatase, chống lại sự hình thành cả hai chất porphobilinogen và kết hợp với sắt tạo thành protoporphyrin IX, giai đoạn cuối cùng trong sự tổng hợp heme. Quá trình này làm cho sự tổng hợp heme không hiệu quả và sau đó làm microcytic anemia. Ở các mức thấp hơn, nó có vai trò tương tự như calci, can thiệp vào các kênh ion trong quá trình truyền dẫn thần kinh. Đây là một trong những cơ chế mà theo đó nó can thiệp vào nhận thức. Nhiễm độc chì cấp tính được chữa trị bằng cách sử dụng dinatri calci edetat: là calci chelat của muối dinatri của acid ethylene-diamine-tetracetic (EDTA). Chất này có ái lực lớn với chì hơn là calci và do đó tạo ra chì chelat bằng các trao đổi ion. Chất này sau đó được bài tiết qua đường tiểu, trong khi calci còn lại là vô hại.
Rò rỉ chì từ các bề mặt kim loại.
Biểu đồ Pourbaix bên dưới cho thấy chì dễ ăn mòn trong môi trường citrat hơn trong môi trường không tạo phức. Phần trung tâm của biểu đồ cho thấy rằng kim loại chì bị oxy hóa dễ dàng trong môi trường citrat hơn là trong nước thông thường.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
|
Dẫn điện là khả năng của một môi trường cho phép sự di chuyển của các hạt điện tích qua nó, khi có lực tác động vào các hạt, ví dụ như lực tĩnh điện của điện trường. Sự di chuyển có thể tạo thành dòng điện. Cơ chế của chuyển động này tùy thuộc vào vật chất.
Sự dẫn điện có thể diễn tả bằng định luật Ohm, rằng dòng điện tỷ lệ với điện trường tương ứng, và tham số tỷ lệ chính là độ dẫn điện:
Độ dẫn điện cũng là nghịch đảo của điện trở suất "ρ":"σ" = 1/"ρ", "σ" và "ρ" là những giá trị vô hướng.
Trong hệ SI "σ" có đơn vị chuẩn là S/m (Siemens trên mét), các đơn vị biến đổi khác như S/cm, m/Ω·mm² và S·m/mm² cũng thường được dùng, với 1 S/cm = 100 S/m và 1 m/Ω·mm² = S·m/mm² = 106 S/m. Riêng ở Hoa Kỳ "σ" còn có đơn vị % IACS (International Annealed Copper Standard), phần trăm độ dẫn điện của đồng nóng chảy, 100 % IACS = 58 MS/m. Giá trị độ dẫn điện của dây trần trong các đường dây điện cao thế thường được đưa ra bằng % IACS.
|
Bàn Canh (chữ Hán: 盘庚, trị vì: 1401 TCN – 1374 TCN, tên thật Tử Tuần (子旬), là vua thứ 19 nhà Thương trong lịch sử Trung Quốc.
Hạ Thương Chu đoạn đại công trình - dự án nghiên cứu của các sử gia hiện đại Trung Quốc - xác định thời điểm bắt đầu trị vì của ông là khoảng năm 1300 TCN, muộn hơn số liệu đã dẫn khoảng 100 năm.
Bàn Canh là con thứ của Tổ Đinh (祖丁) - vua thứ 16 nhà Thương và là em của Dương Giáp (阳甲) - vua thứ 18 nhà Thương. Khoảng năm 1402 TCN, Dương Giáp qua đời, Bàn Canh lên nối ngôi và trong năm thứ 7 sau khi lên ngôi, chư hầu ở Ứng Hầu (应侯) đến kinh đô là Yểm (奄) để tỏ lòng tôn kính với ông.
Nhà Thương đang đóng đô ở Hà Bắc, Bàn Canh đã thực hiện thiên đô nhiều lần để chọn nơi đất tốt, tránh lũ lụt ảnh hưởng đến đời sống. Do phải di chuyển nhiều lần, nhân dân tỏ ý oán thán. Bàn Canh triệu tập các chư hầu đến nêu rõ lý do của việc thiên đô, vì muốn noi theo sự nghiệp của Thành Thang.
Sau 5 lần di chuyển, vào năm thứ 14 sau khi lên ngôi, ông dời qua sông Hoàng Hà đến Bắc Mông (北蒙) và đổi tên thành Ân Khư (殷墟). Từ khi chuyển đến nơi đây, tình hình dân cư dần dần ổn định, nhà Ân lại cường thịnh, được các chư hầu thần phục như đời Thành Thang. Do việc dời đô này mà nhà Thương còn được gọi là nhà Ân.
Trong những năm 15, ông xem xét lại quân đội của ông tại thủ đô mới và trong năm 19, ông chỉ định Mân Hầu (邠侯) đến Á Ngữ (亚圉).
Khoảng năm 1374 TCN, ông qua đời, ở ngôi tất cả 28 năm theo cả Sử ký Tư Mã Thiên và Trúc thư kỉ niên. Em ông là Tiểu Tân (小辛) lên nối ngôi .
Giáp cốt văn khai quật tại Ân Khư ghi ông là vua thứ 18 của nhà Thương .
Trong Kinh Thư có tồn tại một chương mang tên "Bàn Canh", mà theo truyền thống là do vị vua này phát biểu, tuy nhiên, ngôn ngữ trong đó lại khác với thời Bàn Canh nên có khả năng đây không phải là một sản phẩm từ thời đại của ông .
Ví dụ của Bàn Canh được ghi nhớ bởi Vương An Thạch trong phản ứng của ông đối với thư buộc tội của Tư Mã Quang.
|
Trung thể là một trung tâm tổ chức các ống vi thể ("microtubule organizing center"-MTOC) chính cũng như là bào quan điều hòa tiến trình phân bào. Nó được tìm thấy vào năm 1888 bởi Theodor Boveri và được miêu tả như là một "cơ quan đặc biệt của phân bào". Mặc dù trung tử giữ vai trò chủ chốt khi phân chia, nhưng theo những nghiên cứu gần đây thì có vẻ như nó không còn cần thiết.
Trung thể là sự kết hợp của hai trung tử nằm vuông góc nhưng không chạm nhau và xung quanh có các chất vô định hình (PMC). Mỗi trung tử gồm 9 mặt, mỗi mặt có 3 ống vi thể chạy dọc giống như cấu trúc của guồng quay khung cửi.
Tế bào có nhân chuẩn cao cấp sở hữu một trung thể. Vi khuẩn men bia có một thể hình thoi, được xem như là trung thể. Tế bào thực vật hạt kín điển hình không có trung thể nhưng có một số các trung tâm tổ chức các ống vi thể.
Trung thể thường kết hợp với nhân trong suốt gian kỳ của phân bào. Khi đó, màng nhân tan đi và các ống vi thể của trung thể có thể tương tác với nhiễm sắc thể để tạo thoi phân bào
Trung thể sẽ nhân đôi một lần duy nhất ở mỗi lần phân bào nên mỗi trung thể con nhận một trung tử từ trung thể mẹ, một chiếc mới. Trung thể tái tạo lại ở pha S của phân bào. Trong suốt pha trước của phân bào, mỗi trung thể di chuyển tới 2 cực khác nhau của tế bào. Sau đó, thoi vô sắc được hình thành giữa 2 trung thể. Số lượng trung thể khác thường cũng có mối liên hệ đến bệnh ung thư.
|
Đom đóm hay bọ phát sáng là những loài côn trùng cánh cứng nhỏ được gọi chung là họ Đom đóm ("Lampyridae") có khả năng phát quang. Đom đóm là động vật tiêu biểu cho vùng ôn đới mặc dù phần lớn các loài sống ở vùng nhiệt và cận nhiệt đới (khoảng 2000 loài).Chúng là loài động vật ăn thịt nên ăn sâu bọ hoặc các loại ốc. Chúng là những sinh vật có tập tính hoạt động về ban đêm, con đực thường có cánh và bay vào những đêm đầu mùa hạ. Nhiều loài, con cái không có cánh. Con đực, con cái và ấu trùng phát ra ánh sáng lạnh và thường có màu đỏ cam hay vàng xanh (bước sóng 510 - 670 nm); một số loài thậm chí trứng cũng phát quang. Người ta cho rằng, ánh sáng giữ vai trò quan trọng trong tập tính sinh sản của chúng với mục đích hấp dẫn con khác giới. Tuy nhiên, ở ấu trùng thì sự phát sáng nhằm mục đích cảnh báo các động vật ăn thịt là chủ yếu, do ấu trùng đom đóm chứa các hóa chất có mùi vị khó chịu và có thể là độc hại đối với các động vật ăn thịt khác.
Đom đóm có màu nâu và thân mềm, thường có cánh cứng dai hơn các loài bọ cánh cứng khác. Dù những con cái ở một số cá thể trông tương tự các con đực, những con cái giống ấu trùng đã được tìm thấy trong nhiều loại đom đóm khác. Những con cái này có thể được phân biệt với ấu trùng vì chúng có các mắt kép. Các loại đom đóm phổ biến nhất sống về đêm, mặc dù có những loại sống vào ban ngày. Hầu hết những loại sống vào ban ngày đều ở trong vùng tối để có thể phát sáng.
Ít ngày sau giao phối, con cái đẻ trứng lên trên hoặc ngay dưới bề mặt mặt đất. Trứng nở sau 3 - 4 tuần và ấu trùng kiếm ăn đến hết mùa hè. Ấu trùng thường được gọi là sâu sáng (glowworm), không nên nhầm lẫn với gia đình bọ cánh cứng Phengodidae hoặc loài ruồi Arachnocampa. Ấu trùng đom đóm có đôi mắt đơn giản. Cụm từ sâu sáng cũng được dùng cho cả những con trưởng thành và ấu trùng của các loài như "Lampyris noctiluca", sâu sáng phổ biến ở châu Âu, chỉ những con cái trưởng thành không bay được phát sáng và những con đực bay được phát sáng chỉ khoảng 1 tuần và ngắt quãng.
Đom đóm ngủ đông qua mùa đông trong suốt giai đoạn ấu trùng, một số loài kéo dài mấy năm liền. Một số thực hiện việc này bằng cách đào hang xuống dưới đất, trong khi nhóm khác tìm những nơi cao ráo hay trốn dưới vỏ cây. Chúng phá kén vào mùa xuân. Sau vài tuần kiếm ăn, chúng hóa nhộng trong khoảng từ 1 đến 2 tuần rưỡi và trưởng thành. Ấu trùng của hầu hết các loài bị các loài ăn thịt ăn hoặc ăn ấu trùng khác, sên đất, hay sên trần. Một số chuyên biệt hóa, có khe rãnh hàm trên (ngàm) bắn dịch tiêu hóa vào con mồi của chúng. Con trưởng thành thay đổi loại thức ăn. Một số ăn thịt, trong khi những loại khác ăn phấn hay mật hoa thực vật.
Hầu hết đom đóm là khá khó chịu và có khi là độc hại với những loài ăn thịt có xương sống. Điều này ít nhất một phần là do nhóm các pyron steroit được biết đến như lucibufagin (LBG), tương tự như các bufadienolit kích thích tim mạch được tìm thấy ở một số loài cóc độc.
Sản sinh ánh sáng và yếu tố hóa học.
Sự phát sáng ở đom đóm là nhờ một loại phản ứng hóa học gọi là phát quang sinh học (phát sáng sinh học). Tiến trình này xảy ra trong cơ quan phát sáng chuyên biệt, thường nằm ở dưới bụng đom đóm. Enzym luciferase tác động vào luceferin, với sự có mặt của các ion magie, ATP và oxi để tạo ra ánh sáng. Các gen mã hóa cho những chất này được chèn vào trong nhiều cơ quan khác nhau (xem Luciferase - Các ứng dụng). Luciferase đom đóm được sử dụng trong khoa học pháp y và enzym có những ứng dụng y học - cụ thể là phát hiện sự có mặt của ATP hay magnesi. Những họa sĩ thời kỳ Phục Hưng đã dùng một loại bột của đom đóm đã sấy khô để tạo ra một hỗn hợp cảm quang. Caravaggio có thể đã dùng bột này trong cách tạo sáng độc nhất của ông.
Tất cả các loài đom đóm đều phát sáng từ thời kỳ ấu trùng. Nhưng phát sáng sinh học ở ấu trùng đom đóm có chức năng khác biệt với chức năng của đom đóm trưởng thành. Nó dường như là tín hiệu cảnh báo tới những loài ăn thịt, do nhiều ấu trùng đom đóm chứa các chất hóa học khó chịu hay độc hại.
Ban đầu người ta cho rằng phát sáng ở đom đóm trưởng thành cũng xuất phát từ mục đích cảnh báo, nhưng các nghiên cứu sau này cho thấy phát sáng được dùng cho việc lựa chọn bạn tình. Người ta chứng minh rằng phát sáng sinh học ấu trùng ban đầu cũng có ở đom đóm trưởng thành và nó thu được hoặc mất đi lặp đi lặp lại cho tới khi trở thành cố định và kết quả thu được là một cơ chế liên lạc sinh dục ở nhiều loài. Đom đóm trưởng thành có một loạt các cách liên lạc với bạn tình trong quá trình ve vãn. Từ sự phát sáng đều đặn, lập lòe đến sử dụng các tín hiệu hóa học không liên quan đến các hệ thống phát sáng.
Một số loài, đặc biệt là đom đóm thuộc các chi "Photinus", "Photuris" và "Pyractomena", được phân biệt bởi những kiểu lập lòe tán tỉnh duy nhất được phát ra từ những con đực đang bay trong cuộc tìm kiếm các con cái. Những con cái của chi "Photinus" không bay được, nhưng có thể phát sáng lập lòe để thu hút những con đực cùng loài.
Đom đóm nhiệt đới, cụ thể ở Đông Nam Á, thông thường nhấp nháy đồng thời thành các nhóm lớn, một ví dụ trong sinh học về sự đồng bộ. Ở một số vùng, hiện tượng này được giải thích như là sự đồng bộ pha và trật tự tự phát. Ban đêm dọc các bờ sông trong rừng rậm nhiệt đới Malaysia (hầu hết tìm thấy gần Kuala Selangor), đom đóm ("kelip-kelip" trong ngôn ngữ Malay hay Bahasa Malaysia) đồng bộ chính xác những đợt phát sáng của chúng. Giả thiết hiện tại về những nguyên do của hành vi này gồm cả chế độ ăn, sự tương tác xã hội, và độ cao. Ở Philippin, hàng ngàn con đom đóm có thể được ngắm mọi lúc trong năm ở thị trấn Donsol (được gọi là aninipot hay totonbalagon trong tiếng Bicol). Ở Hoa Kỳ, một trong số những quan sát nổi tiếng nhất về sự lập lòe đồng thời của đom đóm diễn ra hàng năm gần Elkmont, Tennessee trong dãy núi Great Smoky trong suốt những tuần đầu tháng 6. Vườn quốc gia Congaree ở Nam Carolina là địa danh khác có hiện tượng này.
Đom đóm cái của chi "Photuris" nổi tiếng vì sự bắt chước kiểu phát sáng lập lòe của những loài đom đóm khác nhằm mục đích duy nhất là săn mồi; chúng thường săn những con đom đóm "Photinus" nhỏ hơn. Những con đực mục tiêu bị cuốn hút với những gì tưởng như là bạn tình thích hợp để sau đó bị ăn thịt. Vì lý do này mà các loài "Photuris" đôi khi được gọi là "đom đóm mụ bà bùa mê".
Nhiều loài đom đóm không sản sinh ra ánh sáng. Thường thì những loài này hoạt động ban ngày, hay bay ngày, như chi "Ellychnia". Có rất ít loài đom đóm hoạt động ban ngày và sinh sống ở những nơi râm mát như dưới tán cây, là phát sáng. Một chi như vậy là "Lucidota". Những loài đom đóm không phát sáng sinh học này dùng pheromon làm tín hiệu hẹn hò. Điều này được hỗ trợ bởi một thực tế là các nhóm cơ sở không biểu thị phát sáng sinh học và thay vì thế sử dụng tín hiệu hóa học. Xem pheromon trong "Phosphaenus hemipterus". "P. hemipterus" có những cơ quan phát sáng, nhưng lại là đom đóm ngày có râu lớn cùng mắt nhỏ. Những đặc điểm này cho thấy việc sử dụng pheromon cho chọn lọc sinh dục, trong khi những cơ quan phát sáng được dùng làm tín hiệu cảnh báo. Trong thử nghiệm được kiểm soát, những con đực từ cuối gió bay ngược chiều gió vẫn sà xuống những con cái trước tiên.
Cơ quan này cấu tạo từ vài lớp tế bào nhỏ phản xạ ánh sáng và một lớp tế bào phát sáng. Tế bào phát sáng được điều khiển bởi thần kinh và các ống khí; oxy được cung cấp bởi các ống khí chuyển hóa luciferin của tế bào phát sáng thành oxyluciferin. Quá trình oxy hóa này được xúc tác bởi enzym luciferase đã giải phóng năng lượng dưới dạng ánh sáng. Côn trùng kiểm soát việc phát sáng bằng cách điều hòa lượng không khí cung cấp cho tế bào. Cường độ và tần số phát sáng rất đa dạng phụ thuộc vào loài và đặc biệt là để phân biệt con đực với con cái. Sự nhấp nháy đồng bộ là đặc trưng của một số loài nhiệt đới. Có người cho rằng mục đích của việc nhấp nháy của đom đóm là để tìm bạn tình và không cho chim đi ăn đêm tấn công.
Một số loài thì cả những ấu trùng của nó cũng phát quang. Tuy nhiên có một số loài, con trưởng thành không phát quang nhưng ấu trùng của chúng lại phát quang.
Đom đóm trưởng thành của nhiều loài thường không đi kiếm ăn, mục tiêu duy nhất là thực hiện hành vi sinh sản. Thông thường, đom đóm trưởng thành chọn các vùng đất ẩm ướt, rồi đẻ trứng lên mình các loại ốc và giun đất bằng cách tiêm lên con mồi dung dịch thủy phân. Ấu trùng nở từ trứng sẽ sử dụng trên dinh dưỡng trực tiếp từ các cơ thể con mồi sống. Ấu trùng hóa nhộng sau khoảng 1 - 2 năm. Cả ấu trùng và con cái không cánh đều được gọi là giun phát sáng ("glowworms"). Loài giun phát sáng phổ biến ở châu Âu là "Lampyris noctiluca". Những loài này được coi là có lợi vì chúng tiêu diệt những tác nhân phá hoại mùa màng như ốc và ốc. Trong bộ cánh cứng, ngoài đom đóm còn có nhiều loài côn trùng có khả năng phát sáng khác.
Ở thời xưa, hoặc một số vùng nông thôn ở Việt Nam hay Trung Quốc ngày nay, người dân (đặc biệt là trẻ em) thường bắt đóm đóm bỏ vào những vật dụng trong suốt (ví dụ vỏ trứng) để làm trò chơi hoặc vật dụng chiếu sáng như đèn lồng (sử dụng ngắn hạn).
Phát sinh chủng loài.
Dựa theo Martin "et al." (2019)
|
" Bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh " (zh. 般若波羅蜜多經, sa. "prajñāpāramitāsūtra"), cũng được gọi là " Ma-ha-bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh", " Huệ đáo bỉ ngạn kinh ", "Kinh với trí huệ đưa người qua bờ bên kia", là một bộ kinh bao gồm khoảng 40 bài kinh Đại thừa được gọi chung dưới tên này với nội dung, mục đích hướng dẫn hành giả đạt được trí Bát-nhã (sa. "prajñā"), thành tựu Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Bộ kinh này là một phần quan trọng của bộ kinh Phương đẳng (sa. "vaipulya-sūtra"), được ghi có lẽ từ thế kỉ thứ nhất TCN nguyên đến khoảng thế kỉ thứ 5. Ngày nay, phần lớn kinh này chỉ còn trong dạng chữ Hán hoặc chữ Tây Tạng, không mấy còn trong dạng Phạn ngữ.
Trong bộ kinh này thì hai bài "Kim cương bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh" (sa. "vajracchedikāprajñāpāramitā-sūtra") và "Bát-nhã-ba-la-mật-đa tâm kinh" (sa. "prajñāpāramitā-hṛdaya-sūtra") là nổi tiếng nhất, đã được dịch ra nhiều thứ tiếng, kể cả Anh, Pháp và Đức ngữ. Luận sư quan trọng nhất của kinh Bát-nhã là Long Thụ.
Bộ kinh này có tính giáo khoa rất cao, tương tự như các bộ kinh văn hệ Pali. Phần lớn các bài kinh là những lời khai thị cho Tu-bồ-đề, được Phật thuyết giảng trên đỉnh Linh Thứu (sa. "gṛdhrakūṭa").
Phần cổ nhất của kinh này là "Bát-nhã bát thiên tụng" ("Bát thiên tụng bát-nhã") (sa. "aṣṭasāhasrikā") – cũng được gọi là "Tiểu phẩm bát-nhã" – một bộ kinh gồm 8000 câu văn Phật giảng cho nhiều đệ tử cùng nghe. Đây cũng là cơ sở cho tất cả bộ kinh Bát-nhã khác, mỗi bộ gồm từ 300-100.000 câu kệ với vô số bài luận và phiên dịch. Bản dịch chữ Hán đầu tiên ra đời khoảng năm 179.
Các bộ kinh hệ Bát-nhã hàm dung hai điểm mới trong lịch sử Phật giáo, đó là hình tượng lý tưởng của một vị Bồ Tát và trí huệ được dạy là trí huệ tính Không và sự nhận thức là chư pháp bất sinh. Edward Conze, nhà nghiên cứu kinh Bát-nhã đã tóm tắt nội dung của bộ kinh này như sau:
Hàng nghìn câu của những bài kinh Bát-nhã có thể được tóm tắt trong hai câu:
#Hành giả nên tu tập trở thành một Bồ Tát (hoặc một vị Phật tương lai), như vậy là một người không hài lòng với những gì khác hơn là Trí huệ toàn vẹn (nhất thiết trí), đạt được bằng Bát-nhã vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
#Không có một pháp như một Bồ Tát, hoặc một Nhất thiết trí, hoặc một sự "tồn tại", hoặc một Bát-nhã hoặc sự chứng đắc nào cả. Chấp nhận hai sự thật đối nghịch nhau như thế có nghĩa là toàn hảo (sa. "pāramitā").
Những bước phát triển quan trọng khác của bộ kinh này là khái niệm Phương tiện thiện xảo (sa. "upāyakauśalya", sự khôn khéo trong lúc áp dụng phương pháp) và sự hồi hướng công đức (sa. "pariṇāmanā").
Những bộ kinh Bát-nhã còn nguyên văn Phạn ngữ:
|
Cơ học vật rắn
Cơ học vật rắn là một phân ngành của cơ học nghiên cứu các ứng xử của vật rắn dưới tác dụng của các lực từ bên ngoài (ngoại lực). Nó còn là một phần của một chuyên ngành nghiên cứu rộng hơn là cơ học môi trường liên tục.
Dưới tác động của ngoại lực, vật rắn (ở trạng thái cân bằng cơ học hay chuyển động) có xu hướng thay đổi hình dáng so với trước khi chịu tác dụng của lực và được gọi là biến dạng, khi đó trong vật xuất hiện ứng suất để chống lại sự biến dạng. Có một vài các mô hình vật liệu tiêu chuẩn để mô tả vật rắn ứng xử như thế nào khi chịu tác dụng của các lực:
Một trong những ứng dụng phổ biến nhất của cơ học vật rắn biến dạng là phương trình dầm Euler-Bernoulli.
Cơ học vật rắn sử dụng rộng rãi khái niệm ten xơ để mô tả ứng suất, biến dạng và quan hệ giữa chúng.
Một cách điển hình, cơ học vật rắn dùng mô hình tuyến tính để biểu diễn quan hệ giữa ứng suất và biến dạng.
Để hiểu thêm các định nghĩa cụ thể hơn của ứng suất, biến dạng và quan hệ giữa chúng, xem thêm sức bền vật liệu.
|
Ngô Viết Thụ (17 tháng 9, 1926 - 9 tháng 3, 2000) là một kiến trúc sư nổi tiếng người Việt Nam. Ông là tác giả nhiều công trình kiến trúc hiện đại có thể kể đến như Nhà thờ Phủ Cam, Dinh Độc Lập, Chợ Đà Lạt, Trường Đại học Nông nghiệp Sài Gòn, Trường Đại học Sư phạm Huế, Trường Đại học Y khoa Sài Gòn.
Ông sinh ngày 17 tháng 9 năm 1926, tại làng Lang Xá, xã Thủy Thanh, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông đoạt giải Khôi nguyên La Mã năm 1955.
Ông lập gia đình với bà Võ Thị Cơ từ năm 1948, trong khi theo học dự bị kiến trúc tại trường Cao đẳng Kiến trúc tại Đà Lạt (tên cũ của Trường Đại học Kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh cơ sở tại Thành phố Đà Lạt). Ông bà có tám người con, trong đó có một người con, tiến sĩ Ngô Viết Nam Sơn, cũng là một kiến trúc sư và đô thị gia và hiện đang làm công tác tư vấn thiết kế và giảng dạy tại Việt Nam, Á Châu, và Bắc Mỹ.
Hoạt động ở Âu châu.
Trong giai đoạn 1950–1955, ông là sinh viên ngành kiến trúc tại trường Viện Kiến trúc Hoa Kỳ. Năm 1955, ông nhận giải nhất Giải thưởng lớn Rôma (hay giải thưởng Khôi Nguyên La Mã) về kiến trúc, thường được gọi là khôi nguyên La mã, và tốt nghiệp kiến trúc sư D.P.L.G.. Trong thời gian 1955–1958, ông lưu trú tại Biệt thự Medicis của viện hàn lâm Pháp tại Roma để làm nghiên cứu về quy hoạch và kiến trúc. Các triển lãm kiến trúc, quy hoạch, và hội họa hàng năm của ông và các bạn khôi nguyên La mã trong suốt ba năm, đều được vinh dự có tổng thống Pháp và Ý đến cắt băng khánh thành.
Hoạt động thời Việt Nam Cộng hòa.
Từ năm 1960, kiến trúc sư Ngô Viết Thụ về Việt Nam Cộng Hòa làm việc theo lời mời của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Ông đã tổ chức triển lãm các dự án nghiên cứu của ông ở châu Âu tại Tòa Đô Chính Sài Gòn. Chính quyền và dư luận lúc ấy rất quan tâm đến dự án nối kết Sài Gòn với Chợ Lớn của ông bằng một khu trung tâm hành chính quốc gia mới. Rất tiếc là vì lý do thời điểm và ngân sách, dự án này không được thực hiện.
Ông mở văn phòng tư vấn kiến trúc và chỉnh trang lãnh thổ tại 104 Nguyễn Du và số 8 Nguyễn Huệ, Sài Gòn. Ông thiết kế nhiều đồ án quy hoạch có giá trị khác như Quy hoạch Làng Đại học Thủ Đức (1962), Quy hoạch cảnh quan Công trường Mê Linh năm 1961 cùng với nhà điêu khắc Nguyễn Văn Thế, Quy hoạch Hội chợ Quốc tế và thiết kế kiến trúc khu nhà triển lãm chính của Việt Nam tại Thủ Đức (hoàn tất thiết kế nhưng không xây dựng do thời cuộc, 1963), đồ án quy hoạch cho khoảng chừng 30 đô thị, tỉnh lỵ, và thị xã mới tại miền Nam Việt Nam (trong đó có Quảng Tín, Vị Thanh, Cheo Reo).
Ông là thành viên Hội Kiến trúc Sư Pháp SADG (Société des Architectes Diplômés par le Gouvernement) từ 1955 và thành viên Kiến trúc sư Đoàn Việt Nam từ năm 1958. Năm 1962, ông là người châu Á đầu tiên trở thành Viện sĩ Danh dự của Viện Kiến trúc Hoa Kỳ (H.F. A.I.A.) đồng lúc với một số kiến trúc sư danh tiếng cùng thời như J.H. Van den Broek, Arne Jacobsen, Steen Eiler Rasmussen, Hector Mestre, Amancio Williams, Hernan Larrain-Errazuriz, Emilio Duhart H., Jerzy Hryniewiecki và John B. Parkin. Sau năm 1975, Ông là cố vấn Ban Chấp hành Hội Kiến trúc sư Việt Nam, và cũng là cố vấn Ban Chấp hành Hội Kiến trúc sư Thành phố Hồ Chí Minh các nhiệm kỳ I, II, III, và IV. Ông là thành viên tổ chuyên gia tư vấn kiến trúc cho Thủ tướng Võ Văn Kiệt trong thời gian đương nhiệm của ông Kiệt.
Ông đã thiết kế nhiều công trình xây dựng lưu dấu ấn đầy giá trị về kỹ thuật lẫn mỹ thuật. Nổi bật là Dinh Độc Lập (1961–1966), Viện Đại học Huế (1961–1963), Viện Nguyên tử Đà Lạt (nay thuộc Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam) (1962–1965), Khu công nghiệp An Hòa Nông Sơn, Nhà máy dệt Phong Phú, Khách sạn Hương Giang 1 tại Huế (1962), Nhà thờ chính tòa Phủ Cam (1963), Xây dựng mở rộng Khu Hội nghị Quốc tế tầng trên cùng của Khách sạn Majestic, Thương xá Tam Đa (Crystal Palace), trường Đại học Nông nghiệp Thủ Đức (1975).
Ngoài ra ông còn là tác giả của các công trình Tòa Đại sứ của Việt Nam tại Anh (1959), Biệt thự góc Nguyễn Thị Minh Khai và Phạm Ngọc Thạch (trước là tư gia của ông bà Ưng Thi, nay là Tòa Lãnh Sự Trung Quốc), Chung cư Pháp góc đường Điện Biên Phủ và Trần Quốc Thảo, Tháp Tiêu Năng Khu cửa ngõ vào Trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh từ đường Điện Biên Phủ, Trung tâm Innotech (1975), Quần thể Việt Nam Quốc Tự (chỉ xây dựng được khoảng 1/8 vì lý do thời cuộc), Quy hoạch Kiến trúc Khu Thánh địa La Vang (với điêu khắc của điêu khắc sư Nguyễn Văn Thế), và Câu lạc bộ Thủy Thủ Quảng Ninh.
Đáng tiếc là một số công trình quan trọng của ông đã bị thay đổi thiết kế nguyên bản vì lý do kinh phí hay lý do khác, do đó chỉ giữ được phần nào quy mô chứ không còn thể hiện đúng phong cách thiết kế của ông, như Nhà thờ chính tòa Vĩnh Long (1963), Trụ sở Hàng không Việt Nam (1972), Nhà thờ Bảo Lộc (1995).
Ông cộng tác với nhiều kiến trúc sư khác trong các công trình trường Đại học Y khoa Sài Gòn (trưởng nhóm kiến trúc sư Việt Nam, cộng tác với nhóm kiến trúc sư Mỹ Smith Hinchman Grylls từ Michigan), Cung Nghệ thuật Quốc tế tại Paris (cộng tác với các kiến trúc sư Oliver Clément Cacoub và Paul Tournon), và Chợ Đà Lạt (chỉnh sửa lại mặt tiền và tổng thể thiết kế trước đó của kiến trúc sư Nguyễn Duy Đức, bổ sung thêm thiết kế cầu nổi, khách sạn, và các khu phố lầu bao quanh chợ, quy hoạch mới tổng thể chợ với công viên và đại lộ chính đi vào chợ, 1958–1962).
Hoạt động sau năm 1975.
Sau năm 1975 Ngô Viết Thụ ở lại Việt Nam và thiết kế Ty Thủy lợi Đắc Lắc (1976), Bệnh viện Sông Bé 500 Giường (1985), Khách sạn Century Huế (1990), phác thảo chùa Trúc Lâm Đà Lạt (sau này do một nhóm kiến trúc sư Lâm Đồng tiếp tục thực hiện phần khai triển chi tiết và thi công). Trên quy mô rộng hơn, ông cộng tác trong Quy hoạch Tổng Mặt Bằng của Hà Nội (đến năm 2000), và Quy hoạch Hải Phòng. Ông là thành viên ban giám khảo quốc tế trong cuộc thi thiết kế quy hoạch Nam Sài Gòn (1993).
Ông đột ngột qua đời ngày 9 tháng 3 năm 2000 tại nhà riêng số 22 Trương Định, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh do đột quỵ.
Đóng góp nghệ thuật.
Ngoài ra, ông còn chứng tỏ năng lực xuất sắc của mình trong lĩnh vực hội họa với các bức tranh nổi tiếng "Thần tốc", "Hội chợ", "Bến Thuyền", và bộ tranh "Sơn hà cẩm tú". Bộ tranh này và được treo trong Dinh Độc Lập, gồm có 7 bức, mỗi bức dài 2 m và rộng 1 m. Ông tổ chức nhiều triển lãm cá nhân về quy hoạch, kiến trúc, điêu khắc, và hội họa, trong đó có triển lãm tại Tòa Đô chính (1960), tại Nhà Triển lãm Công viên Tao Đàn (1963) và tại Viện Kiến trúc Philippines ở Manila (1963), triển lãm lưu động tại Viện Smithsonian và một số thành phố khác tại châu Âu (hàn lâm viện Pháp tại Rome và Paris 1956, 1957, 1958) và tại Mỹ (1963).
Ông cũng là một nghệ sĩ điêu khắc (tác phẩm điêu khắc kim loại đặt trước toà đô chánh, nay không còn), và thành thạo các loại nhạc cụ dân tộc như đàn nguyệt, đàn tranh, đàn kìm và sáo, và là một nhà thơ có tài, để lại hàng trăm bài thơ và bài viết.
|
Acid sulfuric (H2SO4), còn được gọi là vitriol (thông thường được dùng để gọi muối sulfat, đôi khi được dùng để gọi loại acid này), là một acid vô cơ gồm các nguyên tố lưu huỳnh, oxy và hydro, có công thức hóa học H2SO4. Nó là một chất lỏng không màu, không mùi và sánh, hòa tan trong nước, trong một phản ứng tỏa nhiệt cao.
Tính ăn mòn của nó có thể được quy định chủ yếu là có tính acid mạnh và nếu ở nồng độ cao, có tính chất khử nước và oxy hóa. Nó cũng hút ẩm, dễ dàng hấp thụ hơi nước từ không khí. Khi tiếp xúc, acid sulfuric có thể gây bỏng hóa chất nghiêm trọng và thậm chí bỏng nhiệt thứ cấp; nó rất nguy hiểm ngay cả ở nồng độ vừa phải.
Acid sulfuric là một hóa chất công nghiệp rất quan trọng, và sản lượng acid sulfuric của một quốc gia là một chỉ số tốt về sức mạnh công nghiệp của quốc gia đó. Nó được sản xuất rộng rãi với các phương pháp khác nhau, như quy trình tiếp xúc
, quy trình acid sulfuric ướt, quy trình buồng chì và một số phương pháp khác.
Ứng dụng phổ biến nhất của acid sulfuric là sản xuất phân bón. Nó cũng là một chất trung tâm trong công nghiệp hóa chất. Ứng dụng chính bao gồm sản xuất phân bón (và chế biến khoáng sản khác), lọc dầu, xử lý nước thải, hóa muối các kim loại mạnh hơn Cu và tổng hợp hóa học. Nó có một loạt các ứng dụng cuối cùng bao gồm cả chất tẩy rửa có tính acid trong nước, và làm chất điện phân trong pin acid-chì và trong các chất tẩy rửa khác nhau.
|
Cảnh sát hay công an là một trong những lực lượng vũ trang của một nhà nước và là công cụ chuyên chế của chính quyền đang điều hành nhà nước đó.
Hoạt động trong khuôn khổ pháp luật với những quyền hạn thông thường rất lớn, cảnh sát có nhiệm vụ đảm bảo ổn định cho xã hội, trật tự kỉ cương, bảo vệ lợi ích của nhà nước trong xã hội, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Cảnh sát được sử dụng các biện pháp theo luật định và những biện pháp riêng có để thực thi công vụ đó.
Trên thế giới thì nhiệm vụ cụ thể phổ biến của cảnh sát thường là phòng chống tội phạm trong phạm vi toàn Quốc và xử lý các vi phạm pháp luật khác như: vi phạm luật giao thông, luật kinh doanh, luật hình sự...
Lịch sử ra đời.
Lịch sử ra đời của cảnh sát từ rất xa xưa, ngay từ những ngày đầu khi các nhà nước cổ đại đầu tiên như Ai Cập cổ đại, Lưỡng Hà, Ấn Độ Trung Hoa, Hy Lạp cổ đại, La Mã ra đời thì cùng với đó là sự ra đời của những lực cảnh sát sơ khai đầu tiên.
Các chiến binh bảo vệ ngôi đền Hathheppsut ở Ai Cập cổ đại có thể coi là một trong những lực lượng cảnh sát đầu tiên trên thế giới thời kỳ cổ đại.
Trong Đế chế La Mã, một bộ phận quân đội cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc bảo đảm an ninh. Sẽ có một bộ phận lính La Mã tách khỏi quân đoàn của họ và được bố trí hoạt động với dân thường để thực hiện các nhiệm vụ thực thi pháp luật. Các thành phố La Mã cũng thường thuê những người canh gác địa phương để cung cấp thêm một số dịch vụ an ninh.
Trong thời kỳ Trung Đại thì có những lực lượng chuyên bảo vệ trật tự trị an là các chiến binh, hiệp sĩ, nông dân và thương nhân có vũ trang hoặc các đơn vị quân đội cũng có vai trò như một lực lượng cảnh sát.
Thời nhà Minh của Trung Quốc có lực lượng cảnh sát mật hoàng gia khét tiếng tên là Cẩm Y Vệ. Khởi nguồn của lực lượng Cẩm Y Vệ là vào đầu những năm 1360, khi đó thành viên Cẩm Y Vệ là những vệ sĩ riêng của Minh Thái Tổ để bảo vệ ông trong trận chiến với thủ lĩnh phiến quân Trần Hữu Lượng.
Ở Tây Ban Nha thời trung đại, lực lượng Santas Hermandades hay 'tình anh em thánh thiện' là một hiệp hội gìn giữ hòa bình của các cá nhân có vũ trang hoạt động chủ yếu ở các thành phố. Vì các vị vua Tây Ban Nha thời trung đại thường không thể có được sự bảo vệ đầy đủ nên các liên đoàn bảo vệ bắt đầu xuất hiện vào thế kỷ XII để giúp đỡ hoàng đế chống lại các băng cướp và chống lại những người thuộc giới quý tộc làm loạn. Tổ chức "Santas Hermandades" chỉ tồn tại tạm thời nhưng đã trở tiền đề cho việc phát triển các lực lượng giữ gìn an ninh chuyên nghiệp hơn sau này ở Tây Ban Nha và ở nơi khác.
Các nền văn minh Tây Bán Cầu.
Các nền văn minh ở phía Tây Bán Cầu thời kỳ Thời kỳ tiền Colombo như Aztec, Maya, Inca cũng có những lực lượng bảo vệ an ninh bên trong lãnh thổ giống như cảnh sát.
Lực lượng cảnh sát thống nhất và hoạt động có tổ chức đầu tiên trên thế giới đã ra đời vào năm 1667 tại thành phố Paris, Pháp dưới sự cai quản của nhà vua Louis XIV. Ngày 12 tháng 3 năm 1829, một lực lượng cảnh sát mặc đồng phục đầu tiên trên thế giới đã được thành lập ở Pháp theo sắc lệnh của quốc gia này, lực lượng này được gọi là "sergents de ville" có nghĩa là "trung sĩ thành phố" do Gabriel-Nicolas de la Reynie thành lập. Cũng vào năm 1829 ở Vương quốc Anh, đạo luật cảnh sát đô thị đã chính thức được thông qua ở Luân Đôn, đánh dấu sự ra đời của một lực lượng cảnh sát kết hợp với tòa án đầu tiên trên thế giới khi đạo luật này nghiêm cấm các cảnh sát không được tùy tiện trừng trị, tra tấn tội phạm trực tiếp mà phải đưa tội phạm về nơi giam giữ và thông qua xét xử ở tòa án để luận tội (trừ trường hợp tội phạm chống trả quyết liệt khi bị bắt).
Cảnh sát mang đậm bản chất của nhà nước và giai cấp thống trị, là công cụ bạo lực giúp giai cấp thống trị bảo vệ quyền lợi của mình từ bên trong, khác với quân đội là bảo vệ từ bên ngoài.
Ngoài ra xuất phát từ bản chất của nhà nước không chỉ có tính giai cấp mà còn có tính xã hội, nên các lực lượng cảnh sát ngoài chủ yếu bảo vệ quyền lợi cho giai cấp thống trị và nhà nước cầm quyền còn có nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi cho các giai cấp xã hội khác.
Cảnh sát của các nước trên Thế giới.
Tại Úc có hai cấp cảnh sát khác nhau là cảnh sát bang và cảnh sát liên bang.
Tại Việt Nam lực lượng này có tên là Cảnh sát Nhân dân Việt Nam, là một bộ phận của Công an Nhân dân Việt Nam, đặt dưới sự quản lý của Bộ Công an.
Ngày truyền thống là ngày 20 tháng 7 năm 1962, lấy theo ngày công bố Pháp lệnh Cảnh sát nhân dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Ngành an ninh ở Việt Nam.
Tại Việt Nam, ngành công an là ngôi nhà chung của rất nhiều ngành nghề lĩnh vực trong xã hội. Do đặc thù, hàng năm ngành công an cũng thi tuyển thêm các chuyên gia khác mà trong hệ thống đào tạo của ngành chưa có như: kế toán, kỹ thuật viên, công nghệ thông tin, bác sĩ, nhà báo
Để đảm bảo an ninh và sự bình yên về mọi mặt cho Tổ quốc, ngành công an được chia thành hai lực lượng chính:
Một số nghề nghiệp trong lực lượng an ninh:
Nhiệm vụ: phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn mọi âm mưu, hoạt động xâm hại an ninh, trật tự trong lĩnh vực văn hoá tư tưởng do các thế lực thù địch và tội phạm tiến hành, bảo tồn và phát huy văn hoá dân tộc.
Nhiệm vụ: phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn mọi âm mưu và hoạt động thâm nhập, phá hoại của các thế lực bên ngoài. Họ thường xuyên phải hoạt động trong điều kiện nguy hiểm và căng thẳng. Giữ bí mật tuyệt đối là một yêu cầu bắt buộc của hoạt động tình báo. Để được chọn vào đội ngũ này phải vượt qua những điều kiện hết sức khắt khe, phải là những người có trình độ rất giỏi, đặc biệt mưu trí, dũng cảm với thần kinh thép và bản lĩnh tuyệt vời.
Nhiệm vụ: đấu tranh chống lại các âm mưu hoạt động phá hoại về kinh tế do các thế lực thù địch và các loại tội phạm kinh tế gây ra, bảo vệ bí mật nhà nước trong lĩnh vực kinh tế, bảo đảm sự an toàn của các cơ sở vật chất, kỹ thuật, tài sản quốc gia, các mục tiêu kinh tế trọng điểm, đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật, các cán bộ quản lý kinh tế
Nhiệm vụ: đấu tranh với các loại tội phạm sử dụng công nghệ cao, bảo mật an toàn dữ liệu mạng của bộ Công an.
Một số nghề nghiệp trong lực lượng cảnh sát
Nhiệm vụ: Quản lý trật tự nơi công cộng, đăng ký, quản lý nhân khẩu, hộ khẩu, quản lý chứng minh nhân dân, quản lý kho vũ khí, vật liệu nổ, quản lý con dấu, quản lý những người trực thuộc diện quản chế, cải tạo tại chỗ, cải tạo không giam giữ, án treo, hướng dẫn nghiệp vụ cho lực lượng cảnh sát khu vực, công an xã, bảo vệ dân phố, dân phòng
Nhiệm vụ: Tiến hành triển khai các biện pháp trinh sát và hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật để điều tra, khám phá tội phạm về trật tự xã hội (trừ tội phạm về ma túy, tội phạm trật tự quản lý kinh tế và chức vụ), góp phần bảo vệ tài sản cũng như tính mạng, quyền lợi hợp pháp của công dân, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.
Nhiệm vụ: Nghiên cứu, nắm bắt tình hình hoạt động của các loại tội phạm ma tuý, từ đó phát hiện nguyên nhân, điều kiện phát sinh của tội phạm về ma tuý để đề xuất, hướng dẫn các biện pháp đấu tranh phòng ngừa. Bên cạnh đó, nghiên cứu phương thức, thủ đoạn và quy trình hoạt động của tội phạm ma tuý, tiến hành điều tra tội phạm về ma tuý theo quy định của Bộ luật Hình sự. Một nhiệm vụ khác không kém phần quan trọng là phối hợp với các đơn vị trong và ngoài ngành để tổ chức công tác tuyên truyền, phòng chống tội phạm ma tuý.
Nhiệm vụ: Tiến hành các biện pháp đấu tranh, phòng ngừa và ngăn chặn các đối tượng có hành vi xâm phạm trái phép đối với tài sản của Nhà nước, các tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội có hành vi trục lợi bất chính dưới các hình thức như: tham nhũng, hối lộ, biển thủ công quỹ Nhà nước, lừa đảo, các tội phạm về chức vụ và tội phạm kinh tế khác được quy định trong Bộ luật Hình sự.
Nhiệm vụ: Bảo vệ người dân khỏi hỏa hoạn, quản lý, tổ chức, chỉ đạo và thực hiện nghiêm nhiệm vụ phòng cháy và chữa cháy trên toàn quốc, góp phần giữ gìn trật tự an toàn xã hội.
Nhiệm vụ: Canh gác, bảo vệ những mục tiêu quan trọng như: Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phủ Chủ tịch, các Đại sứ quán, tổ chức tuần tra, cơ động chiến đấu kịp thời, trấn áp mọi hoạt động phá rối an ninh trật tự; bảo vệ các phiên toà, bắt giữ, áp tải bị can, dẫn giải người làm chứng, quản lý kho vật tư và hỗ trợ công tác thi hành án
Nhiệm vụ: Tổ chức, chỉ đạo và tiến hành công tác đảm bảo an toàn trật tự giao thông, giáo dục và tuyên truyền cho người dân về Luật giao thông.
Nhiệm vụ: Trấn áp tội phạm, hỗ trợ công tác giải cứu con tin, chống khủng bố góp phần bảo vệ an ninh, giữ gìn trật tự công cộng.
Do luôn phải thực hiện những nhiệm vụ đặc biệt nguy hiểm và có thể bỏ mạng bất cứ lúc nào như truy bắt tội phạm, chống khủng bố nên các lực lượng cảnh sát luôn được trang bị nhiều công cụ đặc biệt. Phổ biến là các vũ khí như súng, dùi cui, áo chống đạn, mũ sắt, lá chắ, lựu đạn hơi
|
Majulah Singapura ("Tiến lên, Singapore!") là quốc ca của Singapore. Bản nhạc do Zubir Said soạn vào năm 1958 để làm một nhạc hiệu cho những sự kiện chính thức của Hội đồng thành phố Singapore, nó được chọn làm quốc ca của Singapore vào năm 1959 khi lãnh thổ được tự quản. Đến khi Singapore hoàn toàn độc lập vào năm 1965, "Majulah Singapura" được chính thức chấp thuận làm quốc ca Singapore. Theo pháp luật, chỉ được hát quốc ca bằng lời tiếng Mã Lai nguyên bản, song tồn tại các bản dịch được ủy quyền phần lời bằng ba ngôn ngữ chính thức khác: tiếng Anh, Quan thoại và Tamil. Bài ca ban đầu được soạn theo điệu Sol trưởng, đến năm 2001 quốc ca được chính thức tái ban bố trong điệu Fa trưởng thấp hơn.
Quốc ca được biểu diễn hoặc hát thường xuyên trong các trường học và doanh trại tại các lễ được tổ chức vào lúc bắt đầu và/hoặc kết thúc mỗi ngày, khi đó quốc kỳ cũng được kéo lên và hạ xuống, và tuyên đọc lời cam kết quốc gia. Người Singapore được đặc biệt khuyến khích hát quốc ca vào những dịp quốc lễ như Khánh điển quốc khánh, và trong các sự kiện thể thao mà đội tuyển Singapore tham dự.
Tác phẩm "Majulah Singapura" xuất hiện trong một nỗ lực giành độc lập từ Anh Quốc. Trong khi Singapore là một thuộc địa của Anh Quốc, quốc ca của lãnh thổ là "God Save the King (hoặc Queen)". Năm 1951, Quốc vương George VI ban cho thuộc địa vị thế thành phố. Năm 1958, phó thị trưởng của Hội đồng thành phố là Vương Bang Văn đã tiếp cận nhạc sĩ Zubir Said để soạn nhạc hiệu cho những sự kiện chính thức của Hội đồng với tiêu đề "Majulah Singapura" (nghĩa là "Singapore tiến lên" theo tiếng Mã Lai). Cụm từ này được lựa chọn do nó là một khẩu hiệu được trưng tại Kịch viện Victoria sau khi nó được hồi phục vào năm 1958.
Zubir Said mất một năm để hoàn thành soạn nhạc và lời cho bài ca. Trong một cuộc phỏng vấn vào năm 1984, ông nhớ lại quá trình này: "Khó khăn là trong một giai điệu ngắn như vậy, tôi phải đặt vào tất cả các từ... Nó cần phải rất giản đơn, dễ hiểu đối với mọi chủng tộc tại S["sic"] một tác giả về tiếng Mã Lai để tôi có thể sáng tác bằng thứ tiếng Mã Lai chính xác song không quá sâu và không quá khó." Tổng hợp triết lý của ông khi sáng tác quốc ca, Zubir Said trích dẫn tục ngữ Mã Lai "Di mana bumi dipijak, di situ langit dijunjung" ("Bạn nên đỡ lấy bầu trời vùng đất mà bạn sống").
Tác phẩm hoàn thiện được trình diễn lần đầu tiên vào ngày 6 tháng 9 năm 1958 bởi Nhạc đoàn thính phòng Singapore vào cuối buổi hòa nhạc tại Kịch viện Victoria nhằm kỷ niệm sự kiện kịch viện được chính thức mở cửa lại.
Năm 1959, Singapore được trao quyền tự quản và Hội đồng thành phố bị giải thể. Chính phủ nhận thấy rằng cần có một quốc ca để đoàn kết các chủng tộc khác nhau tại Singapore. Phó Thủ tướng Đỗ Tiến Tài chọn bài ca của Hội đồng thành phố do nó đã phổ biến. Theo yêu cầu của Đỗ Tiến Tài, Zubir Said sửa đổi lời và giai điệu, và Quốc hội thông qua bài ca sửa đổi này vào ngày 11 tháng 11 năm 1959. Ngày 30 tháng 11, Sắc lệnh Quốc ca và Quốc kỳ và Quốc huy Singapore 1959 được thông qua nhằm điều chỉnh việc sử dụng và trình bày những biểu trưng quốc gia này.
"Majulah Singapura" chính thức được giới thiệu với quốc dân vào ngày 3 tháng 12 năm khi Yusof bin Ishak được phong làm "Yang di-Pertuan Negara", tức nguyên thủ quốc gia của Singapore. Cùng trong dịp này, quốc kỳ và quốc huy được giới thiệu. Sau khi Singapore hoàn toàn độc lập từ Malaysia vào ngày 9 tháng 8 năm 1965, "Majulah Singapura" được chính thông qua làm quốc ca của nước Cộng hòa Singapore.
Trong các trường tiểu học của Singapore, có những bài học liên quan đến quốc ca và hát quốc ca, chúng nằm trong chương trình giáo dục công dân và đạo đức. Quốc ca được hát tại toàn bộ các trường học phổ thông và các doanh trại trong những lễ được tổ chức vào lúc bắt đầu và/hoặc kết thúc mỗi ngày, trong khi quốc kỳ được thượng và hạ, và tuyên đọc lời cam kết quốc gia.
Người Singapore được đặc biệt khuyến khích hát quốc kỳ trong những dịp quốc lễ hoặc sự kiện quan trọng của quốc gia, như Khánh điển quốc khánh, tại các lễ kỉ niệm quốc khánh do các cơ sở giáo dục và cơ quan chính phủ tiến hành, và trong các sự kiện thể thao có đội tuyển Singapore tham dự.
Theo quy ước, các cá nhân ở tư thế chào khi quốc ca được trình diễn, bằng cách đưa tay lên sát mặt. Khi quốc kỳ được thượng hoặc hạ và quốc ca cất lên, các cá nhân trong trang phục quân sự hoặc bán quân sự đội mũ và đối diện với quốc kỳ. Nếu họ ở trong đội hình theo lệnh của một chỉ huy thì chỉ người chỉ huy chào; còn nếu không thì toàn bộ nhân viên phục vụ phải chào. Chào là không cần thiết nếu nhân viên phục vụ ở bên ngoài nơi một quốc kỳ được thượng hoặc hạ. Trong những trường hợp như vậy, các cá nhân chỉ cần dừng việc đang làm và đứng ở tư thế nghiêm.
Sử dụng quốc ca được chi phối bởi Phần IV của các quy tắc Quốc huy và Quốc kỳ và Quốc ca Singapore theo Đạo luật Quốc huy và Quốc kỳ và Quốc ca Singapore. Các quy định như sau:
Ngoài ra, hướng dẫn do Bộ Thông tin, Truyền thông và Nghệ thuật ban hành ghi rằng các bản nhạc khí và thanh âm đều có thể được trình diễn, và rằng tôn nghiêm và lễ nghi cần phải được nhận thấy mỗi khi quốc ca được chơi hoặc hát.
Trong một phỏng vấn năm 1989, Đỗ Tiến Tài nói rằng sẽ thích hợp nếu quốc ca có phần lời bằng tiếng Mã Lai, "ngôn ngữ bản địa của khu vực, do tiếng Anh không phải là bẩm sinh ở bộ phận này của thế giới." Ông nhận thấy rằng "phiên bản tiếng Mã Lai của quốc ca có thể kêu gọi mọi chủng tộ, vào thẳng vấn đề;... và có thể hát".
Ngày 22 tháng 7 năm 1991, nhật báo Anh ngữ "The Straits Times" tường trình rằng trong một cuộc họp giữa thủ tướng đương thời là Ngô Tác Đống và các lãnh đạo cộng đồng, một nhóm gồm các lãnh đạo cơ sở và luật sư đề xuất "điều chỉnh" quốc ca với lý do nhiều người Singapore không thể hát quốc ca bằng tiếng Mã Lai và do đó không có cảm xúc mạnh khi họ hát quốc ca. Một số lãnh đạo cơ sở lập luận rằng do người Hoa chiếm đa số trong dân cư, một phiên bản Quan thoại của quốc gia nên được sử dụng. Thủ tướng phản ứng rằng ông sẽ giữ nguyên quốc ca trong khi đảm bảo rằng các bản dịch trong những ngôn ngữ mẹ đẻ khác dễ khả dụng hơn. Đề xuất cải biến lời cũng bị cựu Phó thủ tướng S. Rajaratnam chỉ trích, ông cho rằng phần lời tiếng Mã Lai của quốc ca đã là quá đơn giản để có thể hát. Ông cũng lưu ý rằng quốc ca đã được dịch sang ba ngôn ngữ chính thức khác của Singapore (Anh, Quan thoại và Tamil) cho những người không hiểu tiếng Mã Lai.
Một cuộc thăm dò do "The Straits Times" tiến hành cho thấy nhiều người Singapore biết ý nghĩa tổng thể của quốc ca, song chỉ 7/35 người được phỏng vấn biết ý nghĩa của mỗi từ, song tất cả đều có cảm giác tự hào khi nghe quốc ca.
Cải biên và ghi âm.
Một phiên bản rút gọn của "Majulah Singapura" được các cơ cấu chính thức sử dụng từ năm 1965, tồn tại một phiên bản mở rộng chỉ sử dụng trong các sự kiện lễ nghi lớn. Những biên bản này được một người Anh tên là Michael Hurd cải biên. Sự cải biên này được ghi nhận lần đầu tiên khi Dàn nhạc giao hưởng Singapore trình diễn dưới sự chỉ huy của Lâm Diệu vào năm 1989.
Phiên bản gốc của quốc ca có điệu Sol trưởng, song đến năm 1983 các trường học phát hành một băng ghi âm giáo dục gây nhầm lẫn phổ biến do hát bằng điệu Fa trưởng. Năm 1993, phiên bản "Majulah Singapura" ngắn hơn được tuyên bố là phiên bản chính thức.
Ngày 19 tháng 1 năm 2001, "Majulah Singapura" được chính thức tái ban bố theo điệu Fa trưởng, và điều này được cho là một "cải biên uy nghi hơn và gây cảm hứng hơn"
Dịch nghĩa tiếng Việt.
Hỡi người dân Singapore
Hãy cùng nhau tiến bước lên hạnh phúc
Chúng ta có cùng chung một lý tưởng
Là mong muốn Singapore thành công.
Hãy cùng nhau đoàn kết như một
Trong một tinh thần mới
Chúng ta cùng đồng thanh hô vang!
Tiến lên nào, Singapore!
Tiến lên nào, Singapore!
Hãy cùng nhau đoàn kết như một
Trong một tinh thần mới
Chúng ta cùng đồng thanh hô vang!
Tiến lên nào, Singapore!
Tiến lên nào, Singapore!
|
Hydro peroxide, hoặc hydrogen peroxide (thường gọi là nước oxy già có công thức hóa học là H2O2), là một chất oxy hóa dạng lỏng trong suốt, đặc tính nhớt, có các thuộc tính oxy hóa mạnh, là chất tẩy trắng mạnh được sử dụng như là chất tẩy uế, cũng như làm chất oxy hóa, và (đặc biệt ở nồng độ cao như HTP) làm tác nhân đẩy trong các tên lửa.
Khi ở nồng độ thấp (dưới 5%) nó được sử dụng phổ biến để tẩy rửa lông hay vết thương trên người ở một mức độ nhất định. Với nồng độ cao hơn nó có thể làm cháy da khi tiếp xúc. Ở nồng độ rất thấp (3%), nó được sử dụng trong y học để rửa vết thương và loại bỏ các mô chết. Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ đã cho phép sử dụng nước oxy già 3% ("Cấp thực phẩm", hay không có sự bổ sung các hóa chất ổn định) như là nước rửa miệng. Các dung dịch peroxide thương mại (chủ yếu là H2O2 mua từ các hiệu thuốc) là không thích hợp cho việc uống nó do chúng chứa các hóa chất bổ sung có tính độc hại.
Một số người làm vườn và những người trồng cây thủy sinh đã nói đến giá trị của hydro peroxide trong các dung dịch nước của họ. Họ cho rằng sự phân hủy tự nhiên của nó giải phóng oxy cho cây trồng mà nó có thể làm tăng sự phát triển của rễ cũng như giúp xử lý các rễ đã thối rữa, là các tế bào chết do thiếu oxy.
Peroxide thương mại, như các dung dịch 3% mua tại hiệu thuốc, có thể sử dụng để tẩy các vết máu khỏi quần áo và thảm.
Do hydro peroxide phân hủy khi có ánh sáng nên nó cần phải bảo quản trong điều kiện mát và tránh chiếu nắng trực tiếp. Nó cũng cần được bảo quản trong chai lọ có dán nhãn rõ ràng, xa tầm với của trẻ em do nếu uống nhầm một lượng lớn thì nó có thể sinh ra các vấn đề với hệ tiêu hóa như bỏng, tổn thương và nôn mửa.
Các dung dịch đậm đặc hơn, chẳng hạn 35% sẽ gây ra chết người khi uống.
Ứng dụng công nghiệp.
Khoảng 50% sản lượng hydro peroxide của thế giới năm 1994 được sử dụng để tẩy trắng giấy và bột giấy. Các ứng dụng tẩy trắng khác ngày càng trở nên quan trọng hơn do hydro peroxide được coi là chất thay thế tốt hơn về mặt môi trường so với các chất tẩy gốc clo.
Các ứng dụng chủ yếu khác trong công nghiệp của nó còn bao gồm cả việc sản xuất natri percacbonat và natri perborat, được sử dụng như là các chất tẩy rửa nhẹ trong các loại bột giặt để giặt là (ủi). Nó còn được sử dụng trong sản xuất các hợp chất peroxide hữu cơ nào đó như dibenzoyl peroxide, được sử dụng như là chất mồi gốc tự do trong các phản ứng trùng hợp và các phản ứng hóa học khác. Nó cũng được sử dụng để sản xuất các epoxit chẳng hạn như propylen oxit. Phản ứng với các axit cacboxylic tạo ra các "acid per-" tương ứng; ví dụ acid peacetic sử dụng công nghiệp được điều chế theo cách này từ axit acetic. Tương tự, axit metacloropeoxybenzoic (MCPBA), được sử dụng nhiều trong các phòng thí nghiệm, cũng được điều chế từ axit "meta"clorobenzoic.
Sử dụng H2O2 như là tác nhân đẩy có một số ưu thế như sự phân hủy của nó tạo ra nước và oxy. Nhiên liệu được bơm vào trong khoang phản ứng, ở đó thông thường các chất xúc tác kim loại (đặc biệt là bạc hay bạch kim) kích thích sự phân hủy, luồng hơi nước-oxy được tạo ra hoặc là được sử dụng trực tiếp hoặc được trộn với nhiên liệu để đốt cháy. Khi là tác nhân đẩy đơn (không trộn với nhiên liệu) nó sinh ra xung lực riêng tối đa là ("I"sp) 161 s (1,6 kN·s/kg) làm cho nó là tác nhân đẩy hiệu suất thấp. Tên lửa đai lưng nổi tiếng của Bell sử dụng hydro peroxide làm tác nhân đẩy đơn. Khi phân hủy như là chất oxy hóa để đốt nhiên liệu thì xung lực riêng của nó cao hơn, có thể đạt tới 350 s (3,5 kN·s/kg), phụ thuộc vào loại nhiên liệu. Peroxide đã được sử dụng rất thành công như là chất oxy hóa cho tên lửa đẩy giá thành thấp của Anh, tên lửa "Black Knight" (Hiệp sĩ đen) cho các lần phóng vệ tinh của dự án "Black Arrow" (Mũi tên đen).
So sánh với hydrazin, peroxide ít độc hại hơn nhưng nó cũng không mạnh bằng. Peroxide cung cấp "I"sp thấp hơn một chút so với oxy lỏng, nhưng là một chất dễ bảo quản, không cần làm lạnh và đậm đặc hơn và nó có thể sử dụng để chạy các tuốc bin khí nhằm tạo ra áp suất cao. Nó cũng có thể sử dụng để làm mát tái sinh các động cơ tên lửa.
Trong những năm thập niên 1940- 1950 tuốc bin của Walter sử dụng hydro peroxide để chạy các tàu ngầm khi chúng lặn; chúng là quá ồn và có yêu cầu bảo dưỡng cao hơn khi so với hệ thống cung cấp năng lượng kiểu điêzen-điện chuyển đổi. Một số ngư lôi sử dụng hydro peroxide như là chất oxy hóa hay tác nhân đẩy, nhưng việc sử dụng này đã bị hải quân nhiều nước dừng lại vì các lý do an toàn. Sự rò rỉ hydro peroxide đã bị coi là nguyên nhân gây ra chìm các tàu HMS "Sidon" 2 và Kursk. Ví dụ, hải quân Nhật Bản phát hiện ra trong các lần thử nghiệm ngư lôi là nồng độ cao của H2O2 trong các chỗ uốn vuông góc của các ống dẫn HTP có thể dẫn tới các vụ nổ của các tàu ngầm hay ngư lôi.
Trong khi ứng dụng của nó như là tác nhân đẩy đơn cho các động cơ lớn đã bị suy giảm thì các thiết bị đẩy nhỏ (để kiểm soát tư thế) sử dụng hydro peroxide vẫn còn được sử dụng trong một số vệ tinh và đem lại ích lợi cho tàu vũ trụ, làm cho nó dễ dàng hơn trong việc điều chỉnh và an toàn hơn trong khi nạp và chứa nhiên liệu trước khi hạ cánh (khi so sánh với tác nhân đẩy đơn hidrazin). Tuy nhiên hydrazin là tác nhân đẩy đơn phổ biến hơn trong các tàu vũ trụ vì nó có xung lực riêng cao hơn và tỷ lệ phân hủy thấp hơn.
Sử dụng trong y tế.
Nước oxy già được sử dụng như là chất khử trùng và chất khử khuẩn trong nhiều năm. Trong khi việc sử dụng nó đã bị suy giảm trong những năm gần đây do sự phổ biến của các sản phẩm OTC có mùi vị dễ chịu hơn và có sẵn hơn thì nó vẫn được nhiều bệnh viện, bác sĩ và nha sĩ sử dụng trong việc vô trùng, làm sạch và xử lý mọi thứ từ sàn nhà đến các phẫu thuật chân răng.
Hydro peroxide 35% cấp thực phẩm được gọi là "nước oxy già", với các giá trị y học hay trị liệu được coi như là liệu pháp hydro peroxide. Những người chủ trương sử dụng sản phẩm này cho rằng nó có thể hòa loãng và sử dụng trong "liệu pháp siêu oxy hóa" để điều trị AIDS, ung thư và nhiều bệnh khác; một số cũng kêu ca rằng thông tin về các sử dụng có lợi của peroxide bị cấm bởi cộng đồng khoa học.
Gần đây, các nhà thực hành y học khác cũng sử dụng các liều hydro peroxide tiêm tĩnh mạch trong nồng độ cực thấp (nhỏ hơn 1%) trong "liệu pháp hydro peroxide" - một hướng điều trị y học gây tranh cãi đối với ung thư. Tuy nhiên, theo Hiệp hội Ung thư Mỹ, "đã không có các chứng cứ khoa học cho thấy hydro peroxide là an toàn, có hiệu quả hay có ích trong điều trị ung thư". Họ cũng khuyến cáo các bệnh nhân ung thư cần "duy trì việc chăm sóc của các bác sĩ chuyên khoa, là những người sử dụng các phương pháp điều trị đã được thử thách và các thử nghiệm điều trị đã được phê chuẩn của các điều trị mới có triển vọng".
Các thuộc tính vật lý.
Hydro peroxide có hình dạng "xiên lệch", do lực đẩy giữa các cặp đơn trên các nguyên tử oxy. Mặc dù trên thực tế liên kết O-O là một liên kết đơn, phân tử có rào cản cao đáng kể để thực hiện vòng quay hoàn hảo là 29,45 kJ/mol; nó có nguyên nhân là do lực đẩy của cặp đơn.
Các góc liên kết bị ảnh hưởng chủ yếu bởi liên kết hydro, nó giải thích sự khác biệt giữa các dạng hơi và tinh thể; thực vậy người ta đã quan sát được một khoảng rộng giá trị trong các tinh thể chứa phân tử H2O2.
Các thuộc tính hóa học.
Hydro peroxide có thể phân hủy tự nhiên thành nước và oxy. Thông thường nó phản ứng như là một chất oxy hóa, nhưng có nhiều phản ứng trong đó nó phản ứng như là chất khử, giải phóng ra oxy như là phụ phẩm. Nó cũng rất nhanh chóng tạo ra các peroxide vô cơ và hữu cơ.
Hydro peroxide thông thường phân hủy theo phản ứng tỏa nhiệt thành nước và khí oxy một cách tự nhiên:
2H2O2 → 2H2O + O2 + Nhiệt lượng
Phản ứng này là thuận; nó có ΔH° -98,2 kJ/mol và ΔG° -119,2 kJ/mol. Tỷ lệ phân hủy phụ thuộc vào nhiệt độ, nồng độ của peroxide, cũng như là độ pH và sự có mặt của các chất ổn định hay tạp chất. Hydro peroxide kỵ với nhiều chất gây ra sự xúc tác quá trình phân hủy nó, bao gồm phần lớn các kim loại chuyển tiếp và hợp chất của chúng. Các chất xúc tác phổ biến nhất là mangan dioxide, kali pemanganat và bạc. Phản ứng y như vậy cũng được xúc tác bằng enzym "catalase", tìm thấy trong gan, mà chức năng chính của nó trong cơ thể là thải loại các sản phẩm phụ độc hại trong quá trình trao đổi chất và khử oxidative stress. Sự phân hủy diễn ra nhanh hơn trong chất kiềm, vì thế acid thường được thêm vào như là chất ổn định.
Việc đổ hydro peroxide nồng độ cao vào các chất dễ cháy có thể sinh ra sự cháy tức thì do oxy được giải phóng từ sự phân hủy hydro peroxide. Hydro peroxide nồng độ cao (viết tắt tiếng Anh: HTP "high-test peroxide") cần phải lưu trữ trong các thùng chứa thông thoáng khí để ngăn ngừa việc tích lũy khí oxy nếu không sẽ dẫn tới sự phá hỏng thùng chứa. Thùng chứa phải được làm từ các vật liệu tương thích như PTFE, polyetylen hay nhôm (không sử dụng thép không gỉ tức inox) và phải trải qua quá trình làm sạch (thụ động hóa) để loại bỏ tất cả các chất ô nhiễm trước khi đưa peroxide vào. (Lưu ý rằng polyetylen là tương thích ở nhiệt độ phòng nhưng có thể nổ cùng với peroxide khi bị cháy.)
Khi có mặt một chất xúc tác nào đó, như Fe2+ hay Ti3+, sự phân hủy có thể diễn ra theo cách khác, với các gốc tự do như HO· (hydroxyl) và HOO· được tạo ra. Tổ hợp của H2O2 và Fe2+ được biết đến như là thuốc thử Fenton.
Phản ứng oxy hóa-khử.
Trong dung dịch nước, hydro peroxide có thể oxy hóa hay khử nhiều loại ion vô cơ. Khi nó như là một chất khử thì khí oxy được tạo ra. Trong dung dịch axit ion sắt(II) Fe2+ bị oxy hóa thành ion sắt Fe3+,
2Fe2+ (dung dịch) + H2O2 + 2H+ (dung dịch) → 2Fe3+ (dung dịch) + 2H2O (lỏng)
và sunfit (SO32−) bị oxy hóa thành sunfat (SO42−). Tuy nhiên kali pemanganat bị khử thành mangan(II) Mn2+ bởi tính axit của H2O2. Thú vị là dưới các điều kiện môi trường kiềm thì một số trong các phản ứng này là ngược lại; Mn2+ bị oxy hóa thành Mn4+ (trong dạng MnO2), và Fe3+ bị khử thành Fe2+.
2Fe3+ + H2O2 + 2OH− → 2Fe2+ + 2H2O + O2↑
Hydro peroxide thường xuyên được sử dụng làm chất khử trong hóa hữu cơ. Một ứng dụng là để oxy hóa các thioete thành các sunfoxit. Ví dụ metyl phenyl sunfit bị oxy hóa thành metyl phenyl sunfoxit với hiệu suất 99% trong metanol, thời gian 18 giờ (hay 20 phút với xúc tác TiCl3):
Ph-S-CH3 + H2O2 → Ph-S(O)-CH3 + H2O
Hydro peroxide kiềm hóa được sử dụng để epoxit hóa các alken thiếu hụt điện tử như axit acrylic, cũng như để oxy hóa các alkylboran thành rượu, bước thứ hai của quá trình hydroborua hóa-oxy hóa.
Tạo thành các hợp chất peroxide.
Hydro peroxide là một axit yếu (pH = 4,5), và nó có thể tạo ra các muối hydro peroxide hay peroxide hay các dẫn xuất của nhiều kim loại. Ví dụ, với dung dịch axit cromic (CrO3) nó có thể tạo ra peroxide màu xanh lam không ổn định CrO(O2)2. Nó cũng có thể tạo ra các peoxoanion theo phản ứng với các anion; ví dụ phản ứng với borax tạo ra natri peborat, là một chất tẩy sử dụng trong các bột giặt:
Na2B4O7 + 4H2O2 + 2NaOH → 2Na2B2O4(OH)4 + H2O
H2O2 chuyển hóa các axit cacboxylic (RCOOH) thành các axit peroxy (RCOOOH), mà tự chúng lại được sử dụng như là các chất oxy hóa. Hydro peroxide phản ứng với aceton để tạo ra aceton peroxide và nó tương tác với ozon để tạo ra đihydro trioxit. Phản ứng với urê tạo ra cacbamua peroxide, được sử dụng để làm trắng răng. Cân bằng axit-base với triphenylphotphin oxit là "người vận chuyển" hữu ích của H2O2 trong một số phản ứng.
Hydro peroxide là một base yếu hơn cả nước, nhưng nó có thể tạo ra một số sản phẩm với các axit rất mạnh. Siêu axit HF/SbF5 tạo ra các hợp chất không ổn định chứa ion (H3O2)+.
Ngày nay hydro peroxide được sản xuất gần như duy nhất chỉ bằng sự tự oxy hóa của 2-etyl-9,10-đihydroxyanthracen thành 2-etylanthraquinon và hydro peroxide sử dụng oxy từ không khí. Dẫn xuất anthraquinon sau đó được chiết ra khỏi hỗn hợp và được khử ngược trở lại thành hợp chất đihydroxy bằng khí hydro với chất xúc tác kim loại. Phương trình tổng quan của quá trình này được đơn giản hóa như sau (dễ nhầm lẫn):
H2 + O2 → H2O2
Tuy nhiên tính kinh tế của công nghệ này phụ thuộc vào tính hiệu quả của quá trình tái chế quinon cũng như quá trình chiết dung dịch và của chất xúc tác cho quá trình hydro hóa.
Trước đây các công nghệ vô cơ đã được sử dụng, bằng cách điện phân dung dịch axit sunfuric hay amoni bisunfat (NH4HSO4), tiếp theo là sự thủy phân của peoxyđisunfat ((SO4)2)2− được tạo ra sau khi điện phân.
Năm 1994, sản lượng toàn thế giới của H2O2 là khoảng 1,9 triệu tấn, phần lớn trong chúng có nồng độ 70% hoặc thấp hơn. Trong năm này giá bán buôn H2O2 30% là khoảng US$0,54 một kg, tương đương với US$1,50/kg (US$0,68/lb) trên "cơ sở 100%".
Hydro peroxide làm việc tốt nhất như là tác nhân đẩy khi ở nồng độ cực cao. Tuy nhiên, có rất ít nhà cung cấp hydro peroxide có độ tinh khiết cao, và họ cũng không thể bán với lượng lớn cho bất kỳ ai. Kết quả là những người nghiệp dư mong muốn sử dụng nó như là nhiên liệu cho tên lửa thông thường phải mua nó với nồng độ 70% hoặc thấp hơn (phần lớn trong số 30% còn lại là nước, và đôi khi còn có dấu vết của các chất ổn định, như thiếc), và sau đó tự làm tăng nồng độ của nó lên. Nhiều người thử chưng cất, nhưng điều này là cực kỳ nguy hiểm do hơi peroxide có thể kích nổ ở nhiệt độ khoảng 70 ℃. Hướng tiếp cận an toàn hơn là thổi khí (trơ về mặt hóa học với các chất có trong dung dịch) qua dung dịch, tiếp theo là đóng băng phân đoạn, nhưng thậm chí khi sử dụng phương pháp này thì các tạp chất thường vẫn có thể gây nổ.
Trong những năm thập niên 1950 HTP đã từng có sẵn hơn, nhưng do sự e ngại về an toàn nên các nhà sản xuất hàng loạt kể từ đó đã chuyển sang sản xuất H2O2 có nồng độ thấp khi có thể. Một số nhóm nghiệp dư đã biểu thị sự quan tâm của họ trong việc tự sản xuất peroxide để sử dụng cho chính họ và bán lại với một lượng nhỏ cho những người khác.
Hơi hydro peroxide có thể kích nổ trên 70 ℃, vì thế việc bảo quản dung dịch và hơi ở điều kiện mát là then chốt. Việc chưng cất hydro peroxide ở áp suất thường cũng rất nguy hiểm. Hơi hydro peroxide có thể tạo ra các chất nhạy nổ do tiếp xúc với các hydrocarbon như dầu mỡ. Các phản ứng nguy hiểm dao động từ bắt cháy tới nổ đã được thông báo là xuất hiện cùng với rượu, các keton, axit cacboxylic (cụ thể là axit acetic), các amin và phosphor.
Hydro peroxide, nếu đổ vào vải (hay các chất dễ cháy khác) sẽ làm bay hơi nước cho đến khi nồng độ đạt đến mức đủ lớn thì vật liệu sẽ tự động bắt cháy. Sản phẩm da nói chung chứa sắt kim loại từ quá trình thuộc da và thông thường bắt lửa rất nhanh.
Hydro peroxide đặc ( 50%) là một chất ăn mòn, và thậm chí các dung dịch mạnh để sử dụng trong gia đình cũng có thể kích thích mắt, các màng nhầy và da. Việc uống dung dịch hydro peroxide là nguy hiểm, do sự phân hủy trong dạ dày giải phóng ra một lượng khí lớn (10 lần thể tích của dung dịch 3%) dẫn tới sự chảy máu trong.
IARC liệt kê hydro peroxide trong Nhóm 3: "được phân loại như là có tính gây ung thư đối với con người". Nghiên cứu trên chuột phát hiện ra sự tăng nguy cơ ung thư hệ tiêu hóa sau việc hấp thụ hydro peroxide, nhưng các nghiên cứu khác trên động vật đã chứng tỏ nó không thuyết phục. Hydro peroxide được sản xuất như là phụ phẩm trong việc trao đổi oxy trong cơ thể, và gần như mọi cơ thể đều có enzym có tên gọi là "peroxidase" để xúc tác sự phân hủy nó thành nước và oxy ("xem Phân hủy trên đây").
Sự rò rỉ của HTP (85–98% hydro peroxide) từ các ngư lôi là nguyên nhân làm nổ tàu ngầm Kursk của Nga năm 2000.
Hydro peroxide có một đồng phân khác là "nước oxy", H2O+O−.
|
C++ (C Plus Plus, CPP, IPA: /siː pləs pləs/) là một ngôn ngữ lập trình bậc cao (high-level). Đây là ngôn ngữ lập trình đa năng được tạo ra bởi Bjarne Stroustrup như một phần mở rộng của ngôn ngữ lập trình C, hoặc "C với các Class", Ngôn ngữ đã được mở rộng đáng kể theo thời gian và C ++ hiện đại có các tính năng: lập trình tổng quát, lập trình hướng đối tượng, lập trình thủ tục, ngôn ngữ đa mẫu hình tự do có kiểu tĩnh, dữ liệu trừu tượng, và lập trình đa hình, ngoài ra còn có thêm các tính năng, công cụ để thao tác với bộ nhớ cấp thấp. Từ thập niên 1990, C++ đã trở thành một trong những ngôn ngữ thương mại ưa thích và phổ biến của lập trình viên.
C++ được thiết kế hướng tới lập trình hệ thống máy tính và phần mềm nhúng trên các mạch vi xử lý, bao gồm cả hệ thống có tài nguyên hạn chế và tài nguyên khổng lồ, với ưu điểm vượt trội về hiệu suất, hiệu quả và tính linh hoạt cao. C++ có thể tìm thấy ở mọi nơi, với những điểm mạnh là cơ sở hạ tầng phần mềm và các ứng dụng bị hạn chế tài nguyên. bao gồm: phần mềm ứng dụng máy tính cá nhân, trò chơi điện tử, các hệ thống máy chủ (ví dụ: phần mềm thương mại điện tử, cỗ máy tìm kiếm trên web hoặc máy chủ SQL) và các ứng dụng ưu tiên về hiệu suất (ví dụ: tổng đài thông tin liên lạc hoặc thiết bị thăm dò không gian). C++ hầu hết được thực thi dưới dạng là một ngôn ngữ biên dịch, có thể chạy trên nhiều nền tảng khác nhau như Windows, Mac OS, Linux, các phiên bản Unix. Nhiều nhà cung cấp cung cấp các trình biên dịch C++, bao gồm Tổ chức Phần mềm Tự do, Microsoft, Intel và IBM.
C++ được Tổ chức Tiêu chuẩn hóa Quốc tế (ISO) chuẩn hóa, với phiên bản tiêu chuẩn mới nhất được ISO phê chuẩn và công bố vào tháng 12 năm 2017 là ISO / IEC 14882: 2017 (được gọi một cách không chính thức là C++ 17). Ngôn ngữ lập trình C++ ban đầu được chuẩn hóa vào năm 1998 là ISO / IEC 14882: 1998, sau đó được sửa đổi theo tiêu chuẩn C++ 03, C++ 11 và C++ 14. Tiêu chuẩn C++ 17 hiện tại thay thế các tính năng mới này và một thư viện tiêu chuẩn mở rộng. Trước khi tiêu chuẩn hóa ban đầu vào năm 1998, C++ được phát triển bởi Bjarne Stroustrup tại Bell Labs từ năm 1979, như một phần mở rộng của ngôn ngữ C khi ông muốn một ngôn ngữ hiệu quả và linh hoạt tương tự như C, cũng cung cấp các tính năng cấp cao cho tổ chức chương trình. C++ 20 là tiêu chuẩn được lên kế hoạch tiếp theo sau đó, phù hợp với chuỗi hiện tại của một phiên bản mới cứ sau ba năm.
Nhiều ngôn ngữ lập trình khác được phát triển dựa trên nền tảng C++, bao gồm C#, D, Java và các phiên bản mới hơn của C.
Chương trình Hello World đầu tiên.
Chương trình Hello World là một chương trình đơn giản nhất của mọi ngôn ngữ lập trình
cout « "Hello, World!" « endl;
Tổng quan về kỹ thuật.
Trong tiêu chuẩn 1998 của C++ có hai phần chính: phần ngôn ngữ cốt lõi và phần Thư viện chuẩn C++ (STL - Standard Template Library). Phần thư viện này lại bao gồm hầu hết thư viện tiêu bản chuẩn và phiên bản có điều chỉnh chút ít của thư viện chuẩn C. Nhiều thư viện C++ hiện hữu không thuộc về tiêu chuẩn như là thư viện Boost. Thêm vào đó, nhiều thư viện không theo tiêu chuẩn được viết trong C một cách tổng quát đều có thể sử dụng trong các chương trình C++.
Chức năng dẫn nhập trong C++.
So với C, C++ tăng cường thêm nhiều tính năng, bao gồm: khai báo như mệnh đề, chuyển kiểu giống như hàm, codice_1/codice_2, codice_3, các kiểu tham chiếu, codice_4, các hàm nội tuyến (codice_5), các đối số mặc định, nạp chồng hàm, không gian tên (codice_6), các lớp (bao gồm tất cả các chức năng liên quan tới lớp như kế thừa, hàm thành viên (phương pháp), hàm ảo, lớp trừu tượng, và cấu tử), nạp chồng toán tử, tiêu bản, toán tử phạm vi codice_7, xử lý ngoại lệ, và sự nhận dạng kiểu trong thời gian thi hành.
C++ còn tiến hành nhiều phép kiểm tra kiểu hơn C trong nhiều trường hợp.
Câu lệnh chú giải bắt đầu với codice_8 nguyên là một phần của BCPL được tái sử dụng trong C++.
Một số thành phần của C++ sau này đã được thêm vào C, bao gồm codice_4, codice_5, khai báo biến trong vòng lặp codice_11 và chú giải kiểu C++ (sử dụng ký hiệu codice_8). Tuy nhiên, C99 cũng bổ sung thêm một số tính năng không có trong C++, ví dụ như macro với số đối số động.
Vì được phát triển từ C, trong C++, thuật ngữ đối tượng có nghĩa là "vùng nhớ" như được dùng trong C, chứ không phải là một phiên bản của lớp như được hiểu trong phần lớn ngôn ngữ lập trình hướng đối tượng khác. Ví dụ như:
Dòng trên sẽ định nghĩa một đối tượng kiểu codice_13 (số nguyên), tức là một vùng nhớ sẽ được sử dụng để lưu giữ biến codice_14.
Thư viện chuẩn C++ dùng lại thư viện chuẩn C với một số điều chỉnh nhỏ để giúp nó hoạt động tốt hơn với ngôn ngữ C++. Một bộ phận lớn khác của thư viện C++ dựa trên Thư viện tiêu bản chuẩn (hay còn gọi là STL - viết tắt từ chữ "Standard Template Library"). Thư viện này có nhiều công cụ hữu dụng như là các thùng chứa (ví dụ như vector, danh sách liên kết và biến lặp (tổng quát hóa từ khái niệm con trỏ) để cung cấp những thùng chứa này sự truy cập giống như là truy cập mảng. Xa hơn nữa, bảng (đa) ánh xạ (mảng kết hợp) và (đa) tập, tất cả được cung cấp để có thể xuất ra các giao diện tương thích. Do đó, có thể dùng tiêu bản để viết các thuật toán tổng quát mà chúng làm việc được với bất kì thùng chứa nào hay với bất kì dãy nào được định nghĩa bởi biến lặp. Giống như C, các tính năng của thư viện này thì được truy cập bởi việc sử dụng lệnh dẫn hướng codice_15 để bao gồm một tập tin tiêu đề chuẩn. C++ cung ứng 69 tiêu đề chuẩn, trong đó có 19 tiêu đề không còn hiệu lực nữa.
Vì thư viện chuẩn được thiết kế bởi những chuyện gia hàng đầu và đã được chứng minh trong toàn bộ lịch sử kĩ nghệ, các thành phần của thư viện này được khuyến cáo sử dụng thay vì dùng những phần viết tay bên ngoài hay những phương tiện cấp thấp khác. Ví dụ, dùng codice_16 hay codice_17 thay vì dùng kiểu mảng đơn thuần sẽ không những là cho "đời sống dễ thở hơn", mà còn là một cách hữu hiệu để viết phần mềm được an toàn và linh hoạt hơn.
STL nguyên là một thư viện của hãng HP và sau đó là của SGI, trước khi nó được nhận vào thành chuẩn C++. Tiêu chuẩn thì không tham chiếu nó bằng cái tên "STL", khi đa phần nó chỉ là bộ phận tiêu chuẩn. Tuy vậy, nhiều người vẩn dùng khái niệm "STL" này để phân biệt nó với phần còn lại của thư viện C++ như là codice_18, quốc tế hóa (ký tự và ngôn ngữ trình bày), chẩn đoán, thư viện C...
Một đề án mang tên STLPort, dựa cơ sở trên SGI STL, bảo trì các thiết lập mới của codice_19, codice_20 và codice_21. Các đề án khác cũng có những xây dựng đặc thù riêng của thư viện chuẩn với các mục tiêu thiết kế khác nhau. Mỗi nơi sản xuất hay phổ biến nhà trình dịch C++ đều bao gồm một sự thiết lập của thư viện, vì đây là phần quan trọng của tiêu chuẩn và lại là kỳ vọng của người lập trình.
C++ Các chức năng hướng đối tượng.
C++ dẫn nhập thêm một số chức năng hướng đối tượng (OO) lên C. Nó cung cấp các lớp mà có 4 chức năng thông dụng trong các ngôn ngữ OO: tính trừu tượng, tính đóng gói, tính đa hình, và tính kế thừa.
Lưu ý: trong phần này các từ "hàm nội tại", "phương pháp", hay "hàm" đều có cùng một nghĩa là "phương thức thuộc về một lớp".
C++ xây dựng tính đóng bằng cách cho phép mọi thành viên của một lớp có thể được khai báo bằng các từ khoá codice_22, codice_23 hay codice_24. (xem thêm các khái niệm cơ bản trong ngôn ngữ OOP). Một thành viên codice_23 chỉ có thể được truy cập từ các phương pháp (hàm nội tại) là thành viên của chính lớp đó hay được truy cập từ các hàm và các lớp được đặc biệt cho phép sử dụng bằng cách dùng từ khóa codice_26. Một thành viên codice_24 của một lớp sẽ có thể truy cập được từ các thành viên (nào đó) của các lớp có tính kế thừa của nó hay cũng có thể truy cập được từ các thành viện của chính lớp đó và của mọi thành viên codice_26.
Nguyên lý của OOP là mọi và chỉ có các hàm là có thể truy cập được đến các giá trị nội tại của cùng lớp thì nên có tính đóng. C++ có hỗ trợ đặc tính này (qua các hàm thành viên và các hàm codice_26), nhưng C++ lại không là yêu cầu bắt buộc: người lập trình có thể khai báo các phần hay tất cả các giá trị nội tại là công cộng ("public"), và cũng cho phép làm cho toàn bộ lớp trở thành công cộng. Lý do là vì C++ hỗ trợ không chỉ lập trình hướng đối tượng mà còn hỗ trợ các mẫu hình yếu hơn như là lập trình module.
Một thói quen tốt cần có trong thực hành là khai báo mọi dữ liệu đều là riêng tư ("private"), hay ít nhất ở dạng bảo tồn, và sau đó, tạo ra một giao diện nhỏ (thông qua các phương pháp) cho người dùng của lớp này giấu đi các chi tiết thiết lập bên trong.
Khái niệm đa hình được dùng khá rộng rãi và là khái niệm bị lạm dụng cũng như không được định nghĩa rõ ràng.
Nói chung tính đa hình trong lập trình hướng muốn nói đến 1 đoạn code nhưng trong 2 trường hợp khác nhau có thể xuất ra 2 kết quả khác nhau. Vì tính chất ra nhiều kết quả khác nhau này nên nó được gọi là đa hình.
Trong trường hợp của C++, khái niệm này thường được nối kết với các tên của các hàm thành viên. Các hàm thành viên này có cùng tên, sự khác nhau chỉ có thể được dựa vào một hay cả hai yếu tố sau:
Khi được gọi thì chương trình sẽ tùy theo hai yếu tố trên để xác định chính xác hàm nào phải được thực thi trong số các hàm cùng tên.
Ví dụ sau đây mô tả tính đa hình:
/* Static polymorphism */
extern int SendJobToDevice(PrintJobText *, DeviceLaser *);
extern void SendJobToDevice(PrintJobText *, DeviceJet *);
extern void SendJobToDevice(PrintJobHTML *, DeviceLaser *);
extern void SendJobToDevice(PrintJobHTML *, DeviceJet *);...
/* Dynamic polymorphism */
// Note that since C++ does not have multiple dispatch, the above
// function call is polymorphic based only on the device's type.
Ví dụ thứ hai về tính đa hình động:
virtual void Chao() // Hàm ảo
cout « "Toi chua biet chao";
class NguoiViet: public Nguoi
cout « "Xin chao.";
class NguoiAnh: public Nguoi
cout«"Toi la Nguyen Huy Hoang
Nguoi *n; NguoiViet nv; NguoiAnh na;
n-Chao(); // cùng dòng code voi (*) nhưng lại cho kết quả khác
Trong C, thì đa hình (động) có thể đạt tới bằng cách dùng từ khóa codice_31 hay dùng con trỏ hàm.
C++ còn cung cấp hai tính năng độc đáo cho đa hình là:
Ví dụ, ta có thể định nghĩa hai hàm trùng tên như sau: codice_32 và codice_33
Ta cũng có thể tải bội phép cộng cho lớp MATRIX để có thể viết được codice_34 khi A, B và C có kiểu MATRIX.
Hai tính năng trên cho phép chương trình định ra nhiều sự thiết lập khác nhau của một hàm để sử dụng ứng với các kiểu (khác nhau) của các đối tượng.
Việc "quá tải hàm" cho phép các chương trình khai báo nhiều hàm có chung một tên (ngay cả việc các hàm này thuộc cùng một lớp). Các hàm này phân biệt được bởi số lượng và kiểu của các tham số. Ví dụ, một chương trình có thể có khai báo 3 hàm sau:
void pageUser(int userid, string message);
Sau, đó, khi trình dịch đọc phải câu lệnh có gọi tới hàm codice_35, thì nó sẽ xác định xem đó là hàm nào tùy dựa trên số lượng và kiểu của các đối số đã được đưa vào (tức là dựa vào sự khác nhau của các nguyên mẫu của những hàm này). Lý do ta gọi kiểu quá tải hàm này là đa hình tĩnh vì nó được phân lập trong thời gian dịch mã.
Chú ý: trình dịch sẽ không phân biệt khác nhau về kiểu trả về, do đó không thể quá tải hai hàm hoàn toàn giống nhau trong cùng một lớp mà lại chỉ khác nhau về kiểu trả về.
Quá tải toán tử (operation overloading) là một dạng của quá tải hàm. Nó là một trong những đặc tích của C++ bị nhiều tranh cãi nhất. Nhiều người cho rằng việc quá tải toán tử đã bị lạm dụng quá đáng, nhưng nhiều người khác nghĩ rằng đây là công cụ rất mạnh để tăng cường sự biểu thị (qua ký các hiệu toán tử).
Toán tử là một trong những ký hiệu đã được định nghĩa trong ngôn ngữ C++ đóng vai trò của các toán tử để thực hiện các phép toán trên các kiểu dữ liệu. Quá tải toán tử được hiểu là quá trình hay phương thức để tái sử dụng một toán tử sẵn có để định nghĩa và dùng cho một phép toán khác.
Danh sách các toán tử có thể thực hiện quá tải
+ - * / = += -= *= /= « » «= »= ==!= = = ++ -- % ^ ! | ~ = ^= |= || %= [] () new delete
Việc quá tải hàm cho phép người lập trình định nghĩa nhiều phiên bản khác nhau của một hàm để dùng với các kiểu đối số khác nhau trong khi việc quá tải toán tử lại cho phép người lập trình định nghĩa nhiều phiên bản khác nhau của một toán tử để dùng với các kiểu phép toán khác nhau.
thì chương trình này có thể dùng toán tử ++ với các đối tượng của kiểu codice_36. Ví dụ như:
Integer a = 2;
sẽ ứng xử tương đương với:
Integer a = 2;
Trong phần lớn trường hợp, đoạn mã nguồn trên sẽ làm tăng giá trị của biến codice_37 lên 3. Tuy nhiên, lập trình viên viết lớp codice_36 có thể định nghĩa toán tử codice_39 làm bất cứ gì lập trình viên muốn. Vì toán tử thường được dùng ngầm, lập trình viên không nên khai báo toán tử trừ trường hợp ý nghĩa của toán tử là rõ ràng và không gây nhầm lẫn. Tuy nhiên, có nhiều ý kiến cho rằng thư viện chuẩn C++ không tuân theo quy ước này. Ví dụ, đối tượng codice_40, được sử dụng để xuất ký tự ra màn hình có toán tử quá tải «, nhiều người cho rằng toán tử « là không rõ ràng và vô nghĩa trong trường hợp muốn xuất ký tự ra màn hình do toán tử này cũng là toán tử được dùng trong phép tính dịch bit. Tuy nhiên, phần lớn lập trình viên cho rằng cách sử dụng toán tử « trong trường hợp codice_40 là có thể chấp nhận được.
Tiêu bản C++ sử dụng rất nhiều tính đa hình tĩnh, trong đó bao gồm cả các toán tử được quá tải.
"Hàm ảo" cung cấp một kiểu đa hình khác. Trong trường hợp này, các đối tượng có cùng một lớp cơ sở có thể sử dụng một hàm một cách khác nhau. Ví dụ, lớp cơ sở codice_42 bao gồm hàm thành viên:
virtual int getPageCount(double pageWidth, double pageHeight)
Mỗi cách khác nhau của công việc in như là codice_43, có thể trở thành phương pháp ưu tiên với một hàm mà có thể tính được gần đúng số trang của công việc in theo cách đó. Ngược lại, với việc quá tải hàm, các tham số của một hàm thành phần cho trước thì luôn luôn xác định và không đổi về số lượng và kiểu. Chỉ có kiểu của đối tượng (mà theo đó tên của phương pháp này được gọi) là có thay đổi.
Khi một hàm thành viên ảo của một đối tượng được gọi thì trình dịch đôi khi không được kiểu của đối tượng này ở thời gian dịch và do đó không thể xác định hàm (quá tải) nào để gọi. Quyết định gọi này bởi vậy phải để vào thời gian thực thi. Trình dịch sẽ tạo ra các mã để kiểm tra lại kiểu của đối tượng ở thời gian thi hành và từ đó xác định hàm nào để gọi. Bởi vì việc xác định hàm chỉ xảy ra lúc chạy chương trình nên phương pháp quá tải hàm này được gọi là đa hình động.
Sự xác định và thi hành của một hàm trong thời gian thực thi gọi là điều phối động. Trong C++, việc này thường hoàn tất bằng cách dùng các bảng ảo.
Kế thừa từ một lớp cơ sở có thể được khai báo thông qua các đặc tính công cộng, bảo tồn, hay riêng tư. Những đặc tính này cho phép xác định khi nào các lớp dẫn xuất hay không liên quan có thể sử dụng các thành viên công cộng, bảo tồn, hay riêng tư của lớp cơ sở. Tuy nhiên, chỉ có sự kế thừa dạng công cộng là hoàn toàn theo đúng ý nghĩa của việc "kế thừa". Hai dạng khác thì ít được dùng hơn. Nếu các đặc tả này không được khai báo thì việc kế thừa được gán mặc định là dạng riêng tư cho lớp cơ sở và dạng công cộng cho một cấu trúc cơ sở.
Các lớp cơ sở có thể được khai báo là ảo (thông qua từ khóa codice_30). Kế thừa ảo bảo đảm rằng chỉ có một thực thể của lớp cơ sở tồn tại trong đồ thị kế thừa, tránh được một số vấn đề mơ hồ của việc đa kế thừa.
Đa kế thừa cũng là một tính năng có nhiều tranh cãi trong C++. Tính đa kế thừa cho phép một lớp được dẫn xuất từ nhiều hơn một lớp cơ sở; điều này có thể dẫn tới một đồ thị phức tạp của các quan hệ kế thừa. Ví dụ, lớp "Buổi học" có thể kế thừa từ hai lớp "thời gian" và "bộ môn". Một số ngôn ngữ khác như Java, tiến hành cách thức tương tự bằng cách cho phép kế thừa của nhiều codice_45 trong khi giới hạn số lượng của các lớp cơ sở (kế thừa) chỉ còn là một lớp. (codice_45, không như lớp, không cho phép thiết lập nội dung của các thành viên và do đó không thể có thực thể)
Thiết kế của C++.
Trong tác phẩm "The Design and Evolution of C++" ISBN 0-201-54330-3, Bjarne Stroustrup miêu tả các quy tắc mà ông ta dùng cho việc thiết kế C++. Biết rõ các quy tắc này sẽ giúp hiểu được tại sao C++ lại đi theo cách riêng của nó. Sau đây là một tổng kết sơ lược của các quy tắc. Các chi tiết của chúng có thể được tìm thấy trong cuốn "The Design and Evolution of C++".
Stroustrup đã bắt đầu làm việc với khái niệm lớp trong 1979. Ý tưởng tạo ra một ngôn ngữ mới bắt nguồn từ kinh nghiệm lập trình khi mà ông viết luận án tiến sĩ. Stroustrup nhận ra rằng Simula có nhiều tính năng hữu dụng cho việc phát triển một phần mềm lớn nhưng nó đã quá chậm trong ứng dụng thực tế, trong khi đó, BCPL lại nhanh nhưng ở cấp quá thấp và không tiện cho việc phát triển phần mềm lớn. Đến khi làm việc ở Bell Labs, thì ông gặp phải vấn đề trong việc phân tích nhân Unix với việc tính toán phân tán. Dùng lại kinh nghiệm lúc làm luận án tiến sĩ, Stroustrup cài thêm các tính năng giống như Simula vào trong C để nâng cao. C được chọn là vì đó là ngôn ngữ tổng quát, nhanh và năng động. Lần đầu tiên, các chức năng như là lớp, lớp dẫn xuất, kiểm tra kiểu mạnh, nội tuyến (codice_5), và đối số mặc định đã được thêm vào trong C. Lần xuất bản đầu tiên vào thị trường xảy ra trong tháng 11/1985.
Năm 1983, thì tên "C với các lớp" được đổi thành C++. các chức năng mới được thêm vào bao gồm hàm ảo, quá tải hàm và toán tử, tham chiếu, hằng, khả năng kiểm soát bộ nhớ của lưu trữ tự do, nâng cao việc kiểm soát kiểu, và lệnh chú giải kiểu (codice_8).
Năm 1985, tác phẩm "The C++ Programming Language" được xuất bản lần đầu tiên, cung cấp một tài liệu tham khảo quan trọng cho ngôn ngữ nhưng đó chưa là một tiêu chuẩn chính thức.
Năm 1989 phiên bản C++ 2.0 phát hành. Các tính năng mới bao gồm đa kế thừa, lớp trừu tượng, hàm tĩnh, hàm thành viên hằng, và thành viên bảo tồn.
Năm 1990, cuốn "The Annotated C++ Reference Manual" được xuất bản cung cấp nền tảng cho tiêu chuẩn tương lai.
Phiên bản xuất bản sau đó có thêm các chức năng tiêu bản, ngoại lệ, không gian tên, chuyển kiểu cho toán tử codice_1, và kiểu codice_50.
Khi C++ hình thành, thì thư viện chuẩn hoàn thiện với nó. Thư viện C++ đầu tiên thêm vào là codice_51 cung cấp cơ sở để thay thế các hàm C truyền thống như là codice_52 và codice_53. Sàu này, trong những thư viện chuẩn quan trọng nhất được thêm vào là Thư viện Tiêu bản Chuẩn.
Sau nhiều năm làm việc, có sự cộng tác giữa ANSI và hội đồng tiêu chuẩn hoá C++ của ISO để soạn thảo tiêu chuẩn "ISO/IEC 14882:1998". Phiên bản tiêu chuẩn này được phát hành năm 1989, hội đồng tiếp tục xử lý các báo cáo trục trặc, và ấn hành một phiên bản sửa sai của chuẩn C++ trong năm 2003.
Không ai là chủ nhân của ngôn ngữ C++, nó hoàn toàn miễn phí khi dùng. Mặc dù vậy, các văn bản tiêu chuẩn thì không miễn phí.
Sự phát triển trong tương lai.
C++ tiếp tục phát triển để thỏa mãn các nhu cầu tương lai. Đặc biệt nhóm B, làm việc trên hầu hết các dạng và các khuyến cáo trong C++ cho Hội đồng Tiêu chuẩn C++ về các chức năng hoạt động tốt và các chức năng cần được cải thiện. Công việc hiện tại cho thấy bản năng đa mẫu hình của C++ sẽ ngày càng nhiều. Ví dụ: Công việc của B++ và khả năng siêu lập trình ("metaprogramming") của nó. Chuẩn C++ không đề cập về sự thiết lập của mã hóa tên ("name decoration"), xử lý ngoại lệ và sự thiết lập các tính năng đặc biệt khác, tạo mã đối tượng mà nó được làm ra từ những trình biên dịch không tương thích khác. Dù vậy, vẫn có những tiêu chuẩn khác từ các nhà sản xuất dùng cho những máy hay OS riêng biệt nhằm tiêu chuẩn hóa các trình biên dịch trên các nền tảng đó, Ví dụ .
Các trình biên dịch cho đến gần đây (2004) vẫn lưỡng lự khi hỗ trợ toàn bộ chuẩn C++, đặc biệt là trong những lãnh vực của tiêu bản (đây là phần ngôn ngữ đã được công nhận hoàn toàn từ hội đồng tiêu chuẩn. Một điểm các biệt đáng nói nữa là từ khóa codice_54, nhằm cho phép các định nghĩa của các tiêu bản được tách rời khỏi các khai báo của chúng. Trình biên dịch đầu tiên thiết kế kiểu này là Comeau C++, đầu năm 2003 (5 năm sau khi tiêu chuẩn đã được phát hành!); trong năm 2004, phiên bản beta trình biên dịch của Borland C++ Builder X cũng hỗ trợ dùng codice_54. Cả hai trình biên dịch đó dựa trên phần tương tác ngoại vi (front-end) của EDG C++. Cũng cần lưu ý rằng nhiều sách cung cấp mã Ví dụ cho việc thiết lập từ khóa codice_54 (Ivor Horton's Beginning ANSI C++, pg. 827) mà lại không dịch được, nhưng lại cũng không có tham khảo vấn dề này với việc (khó khăn) đã nêu trên. Những trình biên dịch khác như là Microsoft Visual C++ và GCC thì hoàn toàn không hỗ trợ nó. Herb Sutter, thư ký hội đồng tiêu chuẩn C++, có khuyến cáo rằng codice_54 sẽ được hủy bỏ trong các phiên bản tương lai của chuẩn C++ . Nhưng quyết định tối hậu đã được đưa ra là giữ nguyên nó trong chuẩn C++.
Nhiều vấn đề về tiêu bản bao gồm các xây dựng như đặc biệt hóa tiêu bản từng phần, mà đã được hỗ trợ một cách nghèo nàn trong nhiều năm sau khi chuẩn C++ đã ra đời.
Lịch sử của tên "C++".
Tên C++ được đặt ra bởi Rick Mascitti (giữa 1983) và lần đầu tiên được dùng trong tháng 12 1983. Trước đó, trong suốt thời kì nghiên cứu, khi ngôn ngữ phát triển đã được đề cập như là "C với các lớp". Toán tử codice_58 được nối vào với tên "C" (có nghĩa là tăng giá trị của C lên 1 đơn vị) được dùng theo cách đặt tên thông thường của việc dùng dấu + với ý nghĩa "nâng cao". Ví dụ: "codice_59". Sau này phiên bản ngôn ngữ lập trình cao hơn dựa trên nền tảng của C và C++ được gọi là C#, tương ứng với 4 dấu +. Theo Stroustrup thì:
"Cái tên C++ nhấn mạnh sự tiến hóa tự nhiên của các thay đổi từ C. C+ là tên của một ngôn ngữ lập trình cũ và không liên quan gì đến C hay C++."
C++ không phải là C mở rộng.
Trong khi nhiều mã nguồn viết trong C sẽ được dịch như là ngôn ngữ C++ mà không gặp trở ngại gì thì cũng có một số khác nhau giữa hai ngôn ngữ đã ngăn không cho C++ trở thành (ngôn ngữ) mở rộng của C. Chẳng hạn như C++ cấm gọi hàm codice_60 bên trong một chương trình, trong khi điều này hợp lệ trong C. Thêm vào đó C++ có nhiều giới hạn trong một số tính năng như là nó thiếu sự chuyển kiểu mặc định giữa các kiểu con trỏ không liên hệ nhau và cũng không cho phép một hàm được sử dụng nếu chưa khai báo.
Một vấn đè thường xảy ra khi chuyển dịch từ C sang C++ là nhiều từ khoá được thêm vào trong C++. Điều này có thể làm cho một số tên trong C trở thành bất hợp lệ trong C++. Ví dụ:
hợp lệ trong C nhưng không dùng được trong C++ vì các từ khoá codice_61, codice_1 và codice_63.
Sự khác nhau còn xảy ra trong kiểu trình bày. Ví dụ như trong một cách cũ và truyền thống của việc khai báo trong C sau đây sẽ không được chấp thuận trong C++:
return minuend - subtrahend;
Theo yêu cầu mới trong C++ nên viết thành:
int subtract(int minuend, int subtrahend)
return minuend - subtrahend;
Xem thêm chi tiết trong phần quan hệ với C++ của bài ngôn ngữ C.
Các ví dụ trong C++.
Các ví dụ đơn giản.
Hai chương trình đơn giản sau đây có thể chạy trong C++ dù không thực hiện điều gì có ý nghĩa:
Nhiều khi việc đưa vào các tham số cho hàm main (để dùng lúc khởi động chương trình) là cần thiết:
int main(int argc, char *argv[])
Trong đó, codice_64 là số lượng tham số và codice_65 là mảng các dãy ký tự chứa các tham số.
Đây là ví dụ Hello World (Chào thế giới) dùng hàm codice_40 trong thư viện chuẩn C++ để hiển thị một chuỗi ký tự và kết thúc chương trình.
#include iostream // Required for std::cout
using namespace std; // For std library
cout « "Hello World!" « endl;
Đọc bàn phím và hiển thị ra màn hình chuẩn.
if (response == 1) {
std::cout « "I am glad that you are fine.
std::cout « "Oh, I am so sorry.
// kết quả thì hên xui nha
Ví dụ này hiển thị câu hỏi; người dùng đưa vào thông báo trả lời và máy sẽ đọc vào biến codice_70. Sau đó, khối mã của câu lệnh codice_71 sẽ phân nhánh quyết định hiển thị trả lời.
Viết theo mẫu hình tiêu bản.
C++ hỗ trợ nhiều mẫu hình lập trình, người lập trình có thể tùy nghi lựa chọn cho mình mẫu hình nào thích hợp hoặc lựa chọn ngay cả việc lập trình dùng đa mẫu hình. Ví dụ sau đây dùng mẫu hình Lập trình tiêu bản:
C++ hiện đại có thể hoàn tất các thao tác khó trong một phương cách đơn giản. Ví dụ sau đây dùng Thư viện bản Tiêu Chuẩn. Đó là thùng chứa codice_72 và codice_73:
#include iostream // std::cout
#include ostream // operator «
#include vector // std::vector
#include map // std::map and std::pair
#include algorithm // std::for_each()
#include string // std::string
void display_item_count(pair string const, vectorstring const person)
// person is a pair of two objects: 's name,
// 's items (vector of strings)
cout « « " is carrying "
« () « " items" « endl;
map string, vectorstring items;
// Add some people to the map and let them carry some items
// Iterate over all the items in the container
Viết theo mẫu hình hướng đối tượng.
|
Tượng bà đầm xòe
Bức tượng bà đầm xòe là tên người dân Hà Nội thường gọi một bản sao của tượng Nữ thần Tự do được đặt tại Hà Nội từ năm 1887 cho đến khi bị giật đổ ngày 1 tháng 8 năm 1945. Bản chính của tượng Nữ thần Tự do tại Thành phố New York của Hoa Kỳ có chiều cao là 46 m; bản sao tại Hà Nội có kích cỡ khoảng 2,85 mét; một bản sao khác có kích cỡ 11 mét được đặt tại đảo Thiên Nga trên sông Seine, thành phố Paris.
Tên gọi dân gian.
Khi làm pho tượng Nữ thần Tự do tặng cho nước Mỹ, Frédéric Auguste Bartholdi đã khéo léo giải quyết vấn đề giãn nở của kim loại qua tấm váy lòe xòe của pho tượng. Tượng được làm bằng đồng, màu xám, rỗng. Người Hà Nội thời bấy giờ gọi nó là tượng "Bà đầm xòe" ("Bà đầm" là Tây, còn "xòe" là vì bộ váy của bà ta lòe xòe).
Tượng được đem triển lãm ở hội chợ Đấu Xảo tại Hà Nội (nay là Cung văn hóa hữu nghị Việt-Xô) vào năm 1887. Kết thúc triển lãm, tượng được tặng cho Hà Nội và được dựng ở vườn hoa trước Ngân hàng Đông Dương, tức vườn hoa Chí Linh, nơi đặt tượng đài Lý Thái Tổ bây giờ.
Vào ngày 14 tháng 7 năm 1890, ngày Quốc khánh Pháp, chính quyền Pháp tại Đông Dương quyết định dựng tượng Paul Bert thế chỗ tượng bà đầm xòe; tượng bà đầm xòe do đó được chuyển lên đặt trên đỉnh tháp rùa theo lời đề nghị của kỹ sư Pháp Daurelle, mặt hướng về phía tượng Paul Bert.
Trong khi đợi lấy đá từ núi Vossges, quê hương của Paul Bert để làm bệ, tượng bà đầm xòe đã bị vội vã vật đổ nằm ngửa ra nền cỏ, nằm chình ình bên cạnh tượng Paul Bert cũng được đưa đến sớm. Chính vì thế, thời đó trẻ con Hà Nội có câu vè châm biếm:
"Ông Pôn Be lấy bà đầm xòe
Trước nhà kèn ò e ý ".
Khoảng năm 1896, tượng được mang về đặt tại vườn hoa Cửa Nam, lúc đó gọi là Quảng Văn đình hay vườn hoa Neyret. Quảng Văn đình vốn là nơi nhà Nguyễn cho tụ họp mọi người đến nghe giảng về các chủ trương, thông báo của triều đình. Khi người Pháp chuyển tượng bà đầm xòe về đây đã làm biến đổi kiến trúc nơi này, khiến cho các nhà nho phản ứng:
"Nhớ Quảng Văn Đình tớ đến nghe
Câu Kê chẳng thấy, thấy Đầm xòe
Thập điều bặt tiếng ê a giảng
Choáng óc kèn tây rúc tí "
Chấm dứt tồn tại.
Ngày 31 tháng 7 năm 1945, thị trưởng Hà Nội trong chính phủ Trần Trọng Kim, lúc đó là ông Trần Văn Lai, ký lệnh giật đổ tượng bà đầm xòe vì cho rằng đó là tàn tích của chế độ thực dân Pháp. Lúc 9 giờ 40 phút sáng ngày hôm sau, mùng 1 tháng 8 năm 1945 tượng bà đầm xòe và tượng Paul Bert, tượng Thống chế Ferdinand Foch, tượng Jean Duquis cùng bị giật đổ. Sau đó, các bức tượng trên đều được đem cất vào kho. Sự tồn tại của bức tượng bà đầm xòe chấm dứt vào năm 1952 khi bức tượng bị đem đi nung chảy để góp đồng đúc thành pho tượng phật A-di-đà nặng khoảng 10 tấn được đặt trong chánh điện chùa Ngũ Xã hiện nay.
|
Axit selenic là một hợp chất hóa học với công thức H2SeO4. Đây là một oxit axit của selen, cấu trúc chính xác hơn của nó được mô tả bằng công thức (HO)2SeO2. Nó là một hợp chất không màu. Mặc dù nó có ít ứng dụng, nhưng một trong những muối của nó, natri selenate được sử dụng trong sản xuất thủy tinh và thức ăn gia súc.
Dạng monohydrat nóng chảy ở 26 °C, còn dạng dihydrat nóng chảy ở −51,7 °C.
=Cấu trúc và liên kết=
Theo dự đoán của lý thuyết VSEPR, trung tâm của axit là selen và có dạng tứ diện, với độ dài liên kết Se-O là 161 pm. Trong trạng thái rắn, nó kết tinh ở dạng cấu trúc trực thoi.
Tính chất hóa học.
Axit selenic loãng có các tính chất như các axit thường khác:
H2SeO4 + Ca → CaSeO4 + H2↑
H2SeO4 + 2RbOH → Rb2SeO4 + 2H2O
H2SeO4 + CuO → CuSeO4 + H2O
H2SeO4 + K2SO4 → K2SeO4 + H2SO4
Axít selenic đậm đặc có những tính chất hóa học riêng:
Cu + 2H2SeO4 → CuSeO4 + 2H2O + SeO2
Giống như axit sulfuric, axit selenic là một axit mạnh háo nước và cực kỳ dễ hòa tan trong nước. Các dung dịch đậm đặc thì có tính nhớt. Các dạng mono và dihydrat đã được biết đến.
Axit selenic là chất oxy hóa mạnh hơn axit sunfuric, có khả năng giải phóng chlor khỏi ion clorua , bị khử thành axit selenơ :
Nó phân hủy ở nhiệt độ trên 200 °C, tạo thành axit selenơ va giải phóng khí oxy:
Axit selenic phản ứng với muối bari để kết tủa tương tự như .
Nói chung, muối selenat rất giống muối sunfat, nhưng dễ tan hơn. Nhiều muối selenat có cấu trúc tinh thể giống như muối sunfat tương ứng.
Axit selenic đặc nóng phản ứng với vàng, tạo thành dung dịch vàng(III) selenat có màu vàng đỏ:
Vì selen trioxit không bền nên không thể sản xuất axit selenic bằng cách hòa selen trioxit vào nước như cách sản xuất axit sulfuric mà phải oxy hóa các hợp chất selen ở trạng thái oxy hóa thấp hơn.
Phương pháp thường được sử dụng để sản xuất axit selenic hiện nay là oxy hóa selen dioxide trong dung dịch H2O2:
Để có được axít selenic khan ở dạng chất rắn kết tinh, người ta làm bốc hơi dung dịch axít selenic ở nhiệt độ dưới 140 °C (413 K; 284 °F) trong chân không.
Axít selenic cũng có thể tạo ra bởi các quá trình oxy hóa H2SeO3 với halogen, ví dụ như clo hoặc brom, hoặc với kali pemanganat. Tuy nhiên, bằng cách sử dụng clo hoặc brom làm tác nhân oxy hóa cũng đồng thời sản xuất ra axit clohydric hoặc axit bromhydric là các phụ phẩm cần loại bỏ, do chúng có thể khử axit selenic thành axit selenơ.
Ngoài các cách trên còn có một phương pháp nữa, đó là oxy hóa selen nguyên tố bằng dung dịch clo:
Axít selenic mạnh hơn axit sulfuric nên khi rơi vào da sẽ làm bỏng, thậm chí đi sâu vào tác dụng với xương, tủy, gây hậu quả nghiêm trọng.
Giống như các hợp chất của selen, axit selenic có độc tính cao, vì vậy cần phải hết sức cẩn thận khi làm việc với hóa chất này.
Do có tính háo nước nên tuyệt đối không pha loãng bằng cách đổ nước vào axit, nếu làm vậy nước sẽ sôi lên và mang theo axit bắn ra xung quanh.
|
Tượng Nữ thần Tự do
Tượng Nữ thần Tự do (; tên đầy đủ là Nữ thần Tự do Soi sáng Thế giới; ; ) là một tác phẩm điêu khắc bằng đồng theo phong cách tân cổ điển với kích thước lớn, đặt trên Đảo Liberty tại cảng New York thuộc Thành phố New York, Hoa Kỳ. Tác phẩm này do kiến trúc sư người Pháp Frédéric Auguste Bartholdi thiết kế, khung kim loại của nó được chế tạo bởi Gustave Eiffel và được khánh thành vào ngày 28 tháng 10 năm 1886. Đây là tặng vật của nhân dân Pháp gửi nước Mỹ.
Tượng Nữ thần Tự do có hình dáng một người phụ nữ mặc áo choàng, tiêu biểu cho Libertas, nữ thần tự do của La Mã, tay phải cầm ngọn đuốc còn tay kia cầm một tấm đá phiến có khắc ngày tháng độc lập của Hoa Kỳ. Bức tượng này là biểu tượng mẫu mực của lý tưởng tự do cũng như của chính Hoa Kỳ.
Kiến trúc sư Bartholdi lấy cảm hứng từ một lời nói của chính trị gia kiêm giáo sư luật học người Pháp, Édouard René de Laboulaye vào năm 1865 rằng bất cứ tượng đài nào dựng lên để đánh dấu ngày độc lập của Hoa Kỳ thì cũng đáng là một dự án chung của cả hai dân tộc Pháp và Mỹ. Vì tình hình chính trị xáo trộn tại Pháp, công trình bị hoãn cho đến đầu thập niên 1870. Năm 1875, Laboulaye đề nghị rằng Pháp sẽ tài trợ việc đúc tượng còn Mỹ sẽ xây phần bệ và tìm vị trí đặt tượng. Bartholdi hoàn thành phần đầu tượng và cánh tay cầm đuốc trước khi bức tượng được thiết kế toàn bộ. Các bộ phận của tượng được trưng bày triển lãm cho công chúng xem trong nhiều đợt triển lãm quốc tế. Riêng cánh tay phải cầm ngọn đuốc được trưng bày tại Công viên Quảng trường Madison của Thành phố New York từ năm 1876 đến năm 1882. Công việc xúc tiến gây quỹ gặp nhiều khó khăn, đặc biệt về phía người Mỹ. Năm 1885 công việc xây dựng bệ tượng bị đe dọa đình chỉ vì thiếu ngân sách. Joseph Pulitzer, chủ bút của nhật báo "New York World", phải khởi động cuộc vận động quyên góp để hoàn thành dự án. Chiến dịch vận động của ông đã thu hút trên 120.000 người ủng hộ. Trong số người góp tiền, đa số góp dưới một đô la mỗi người.
Bức tượng được xây dựng tại Pháp, xếp trong các thùng lớn và vận chuyển bằng tàu biển, rồi sau đó được ráp vào bệ tượng nằm trên hòn đảo vốn xưa kia có tên là Đảo Bedloe (nay là Đảo Liberty). Để đánh dấu việc hoàn thành bức tượng, một cuộc diễn hành lớn diễn ra tại Thành phố New York. Đó cũng là lần đầu tiên công chúng chứng kiến hoa giấy tung xuống đường phố như tuyết rơi. Buổi lễ khánh thành do Tổng thống Grover Cleveland làm chủ tọa.
Tượng Nữ thần Tự do được công nhận là Tượng đài Quốc gia và ghi trong Sổ bộ Địa danh Lịch sử Quốc gia Hoa Kỳ là Tượng Nữ thần Tự do, Đảo Ellis và Đảo Liberty, lúc đầu do Ban đặc trách Hải đăng Hoa Kỳ quản lý cho đến năm 1901 và rồi sau đó là Bộ Chiến tranh Hoa Kỳ; kể từ năm 1933 thì do Cục Công viên Quốc gia Hoa Kỳ quản lý.
Bức tượng phải đóng cửa để tu sửa lớn vào năm 1938. Vào đầu thập niên 1980, vì có dấu hiệu hư hại, tượng lại trải qua một đợt đại trùng tu nữa. Trong thời gian tu sửa từ năm 1984 đến 1986, ngọn đuốc và phần lớn cấu trúc bên trong cũng được thay thế. Sau vụ tấn công ngày 11 tháng 9 năm 2001, Tượng Nữ thần Tự do bị đóng cửa vì lý do an ninh; bệ tượng mở cửa lại vào năm 2004 và toàn phần tượng lại đón khách vào xem kể từ năm 2009 nhưng với số lượng hạn chế được phép đi lên đến phần mũ miện. Nhà chức trách dự trù đóng cửa khoảng một năm, bắt đầu từ cuối năm 2011 để trang bị thêm một cầu thang phụ. Lối vào ban công bao quanh ngọn đuốc bị ngăn lại vì lý do an toàn kể từ năm 1916.
Thiết kế và xây dựng.
Dự án Tượng Nữ thần Tự do là do chính trị gia kiêm giáo sư luật học người Pháp, Édouard René de Laboulaye gợi ý vào giữa năm 1865. Trong một buổi nói chuyện sau giờ ăn tối ở tư gia gần Versailles, Laboulaye, một người nhất mực ủng hộ phe liên bang trong Nội chiến Hoa Kỳ, đã phát biểu rằng "nếu một tượng đài cần được dựng lên tại Hoa Kỳ để làm đài kỷ niệm đánh dấu nền độc lập của họ, tôi thiết nghĩ lẽ tự nhiên duy nhất là nếu nó được xây dựng bằng sự hợp lực - một việc làm chung của cả hai quốc gia chúng ta."
Lời phát biểu của Laboulaye không có dụng ý khởi xướng dự án nhưng đã gây nguồn cảm hứng cho một điêu khắc gia trẻ, Frédéric Bartholdi, người có mặt trong buổi ăn tối hôm đó. Vì chế độ độc tài chuyên chế của Napoleon III lúc bấy giờ, Bartholdi không thể thực hiện ý tưởng đó ngoài việc bàn luận với Laboulaye. Trái lại, Bartholdi tiếp xúc với Ismail Pasha và Khedive (quốc vương) của Ai Cập để đệ trình dự án xây một ngọn hải đăng khổng lồ có hình dạng một nữ nông dân cổ Ai Cập, vận áo choàng và tay cầm một ngọn đuốc đưa lên cao. Tượng sẽ đặt ở Cảng Said ngay lối vào phía Bắc Kênh đào Suez. Hình vẽ phác thảo và hình mẫu được thực hiện như dự định, nhưng ngọn hải đăng này không được thực hiện.
Trong lịch sử thì trước kia có một bức tượng cổ điển dựng lên bên bờ Kênh đào Suez; đó là Tượng thần Mặt Trời ở Rhodes, một pho tượng đồng tạc hình thần mặt trời Hy Lạp, Helios. Bức tượng này tương truyền cao trên 30 mét (100 ft), dáng đứng ngay lối vào cửa biển, tay cầm một ngọn đèn để hướng dẫn tàu thuyền.
Chiến tranh Pháp-Phổ sau đó tiếp tục trì hoãn dự án xây bức tượng cho nước Mỹ. Bartholdi phải nhập ngũ, phục vụ với cấp bậc thiếu tá địa phương quân. Trong cuộc chiến tranh này, Hoàng đế Napoleon III bị bắt và truất ngôi. Tỉnh Alsace, quê hương của Bartholdi bị nhượng cho Phổ còn ở Pháp, một nền cộng hòa mới, cấp tiến hơn hình thành.
Từ lâu Bartholdi từng ấp ủ ý định viếng thăm Hoa Kỳ. Sau khi bàn bạc với Laboulaye, ông cho là thời điểm đã đến nên hỏi ý chính giới Mỹ. Tháng 6 năm 1871, Bartholdi vượt Đại Tây Dương với lá thư giới thiệu do Laboulaye ký. Khi đến Thành phố New York, Bartholdi chọn đảo Bedloe làm nơi đặt tượng vì nhận thấy đây là địa điểm lý tưởng khi tàu thuyền ra vào hải cảng New York đều sẽ đi ngang qua hòn đảo này. Ông càng hứng khởi khi biết rằng hòn đảo này thuộc chính phủ liên bang Hoa Kỳ vì trước kia Nghị viện Tiểu bang New York đã nhượng đảo cho chính phủ Hoa Kỳ từ năm 1800 để phòng thủ bến cảng. Bartholdi kết luận trong lá thư gởi cho Laboulaye, "đất này là đất chung của tất cả các tiểu bang." Ngoài các cuộc gặp mặt với nhiều thân hào New York, Bartholdi còn đến thăm Tổng thống Ulysses Simpson Grant nhưng Grant cho rằng trưng dụng đảo Bedloe làm nơi dựng tượng là chuyện rất khó.
Bartholdi đi khắp từ đông sang tây Hoa Kỳ hai lần bằng xe lửa, gặp mặt nhiều người Mỹ ủng hộ dự án. Tuy nhiên, Bartholdi cho rằng công luận ở cả Pháp lẫn Mỹ vẫn chưa đón nhận dự án một cách nồng nhiệt bèn cùng Laboulaye hoãn chờ một thời gian, đợi ngày mở cuộc vận động công chúng.
Bartholdi làm mô hình đầu tiên theo phác thảo của năm 1870. Theo người con của họa sĩ Mỹ John La Farge (bạn với Bartholdi) thì nhà điêu khắc Bartholdi cho ra đời phác họa đầu tiên nhân chuyến viếng thăm phòng tranh của La Farge ở Rhode Island, Hoa Kỳ. Bartholdi tiếp tục phát triển phác thảo này sau khi quay về Pháp. Khi về Pháp ông thực hiện một số tác phẩm điêu khắc làm khơi dậy lòng yêu nước của người Pháp dù bại trận sau chiến tranh Pháp-Phổ. Một trong số những bức tượng của thời kỳ đó là "Sư tử Belfort", một tác phẩm điêu khắc tạc bằng sa thạch đặt ở chân pháo đài Belfort. Nơi này trong cuộc chiến đã cầm cự suốt hơn ba tháng cuộc vây hãm của quân Phổ. Con sư tử bất khuất này có chiều dài 22 mét (73 ft) và cao hơn 10 mét, biểu hiện thật hùng hồn đường nét lãng mạn mà sau này Bartholdi cũng đã lồng vào Tượng Nữ thần Tự do.
Thiết kế, kiểu mẫu và biểu tượng.
Bartholdi và Laboulaye cùng nhau cân nhắc, tìm cách diễn tả ý niệm lý tưởng tự do của Mỹ. Họ có hai mô típ để dùng. Từ thuở khai quốc, hai nhân vật phụ nữ thường dùng làm biểu tượng văn hóa của đất nước Hoa Kỳ là Columbia và Libertas. Columbia được xem như hiện thân của Hoa Kỳ cũng giống như Britannia là biểu tượng của Vương quốc Anh và Marianne đại diện cho nước Pháp. Trước đó công chúa da đỏ đã được dùng là biểu tượng của Mỹ nhưng vì công luận cho đó hàm ý mọi rợ, kém văn minh, thật không xứng đáng với nước Mỹ nên Columbia đã thay thế công chúa da đỏ. Còn Libertas, vị nữ thần tự do được thờ phụng rộng rãi vào thời cổ đại La Mã, nhất là trong giới nô lệ được phóng thích thì hình tượng này đã được dùng trên nhiều đồng tiền kim loại của Mỹ vào thời đó. Đồng thời Libertas cũng phổ biến trong mỹ thuật công cộng và văn hóa bình dân. Tiêu biểu là Tượng Tự do (1863) của Thomas Crawford nằm trên mái vòm của Tòa Quốc hội Hoa Kỳ. Hình tượng Nữ thần Tự do cũng có mặt trên Quốc ấn của Pháp.
Mỹ thuật thế kỷ XVIII và thế kỷ XIX thường dùng Nữ thần Tự do là biểu tượng lý tưởng công chính của nền cộng hòa. Tuy nhiên Bartholdi và Laboulaye không muốn dùng hình nữ thần tự do để đề cao tinh thần cách mạng như trong bức tranh nổi tiếng "Nữ thần Tự do dẫn dắt Nhân dân" (tiếng Pháp: "La Liberté guidant le peuple") (1830) của họa sĩ Eugène Delacroix. Bức tranh này kỷ niệm cuộc cách mạng Pháp năm 1830 với Nữ thần Tự một tay phất cờ, tay kia cầm súng hô hào toán người vũ trang tiến lên, đạp lên cả xác người đã gục. Laboulaye không có cảm tình với phe cách mạng nên hình ảnh Bartholdi chọn làm mẫu là thần tự do vận áo choàng dài. Thay vì đặt bạo động là trọng tâm như tác phẩm của Delacroix, Bartholdi muốn tạo cho tượng vẻ thanh thản, tay trương ngọn đuốc tượng trưng cho tiến bộ.
Về phần pho tượng của Crawford trên mái vòm của Tòa Quốc hội Hoa Kỳ thì tượng được thiết kế vào đầu thập niên 1850. Ban đầu, theo dự định thì đầu tượng đội mũ hình nấm ("pileus"), một kiểu mũ của người nô lệ sau khi phóng thích có từ thời cổ La Mã. Tuy nhiên Bộ trưởng Chiến tranh Hoa Kỳ là Jefferson Davis, vốn là người miền Nam (sau làm tổng thống của Liên minh miền Nam Hoa Kỳ) thì ngần ngại cho rằng mũ "hình nấm" là biểu tượng của chủ nghĩa bãi nô nên không chấp thuận. Davis mới ra lệnh thay thế mũ hình nấm bằng mũ giáp ("helmet").
Tranh của Delacroix thì vẽ thần Tự do đội mũ hình nấm, và Bartholdi có ý định dùng cùng một kiểu mũ nhưng sau chọn kiểu mũ miện ("diadem" hay như vương miện "crown") cho pho tượng. Kiểu mũ miện tránh sự ngộ nhận thần Tự do với Marianne, biểu tượng nước Pháp vì Marianne luôn mũ hình nấm.
Mũ miện của Bartholdi có bảy tia như vầng hào quang mặt Trời, tương ứng với bảy đại dương, và bảy đại lục địa. Ngoài ra tia sáng của mũ miện cùng ngọn đuốc thể hiện ánh sáng của Tự do rạng soi khắp thế giới.
Tất cả những mẫu hình đầu tiên của Bartholdi đều có chung một nét: một người phụ nữ theo thể tân cổ điển tượng trưng cho tự do. Thân tượng khoác áo choàng dài (kiểu áo thường được dùng để cho các nữ thần La Mã); tay tượng cầm ngọn đuốc giương cao. Khuôn mặt tượng tạc theo chân dung của Charlotte Beysser Bartholdi, mẹ của chính điêu khắc gia. Ông thiết kế tượng với bố cục khỏe khoắn, không quá rườm rà để hòa vào biển trời bao la của hải cảng New York. Khách trên thuyền vào cửa bể có thể ngắm nhìn pho tượng từng khía cạnh một khi thuyền chậm tiến vào Manhattan. Tượng mang đậm nét cổ điển, điêu khắc gọn ghẽ, giản lược để tăng phần quy mô và vẻ uy nghi của toàn bố cục. Bartholdi tự thuật như sau:
Vỏ ngoài của tượng nên khái quát và đơn giản; thiết kế thì cần xác định rõ ràng và đậm nét, nhấn mạnh ở vài trọng điểm. Tránh khuếch đại hay lặp lại những chi tiết thêm chi ly. Nếu phóng đại đường nét để dễ thấy hơn hay tăng cường những tiểu tiết thì ắt làm hỏng tỷ lệ toàn tác phẩm. Cuối cùng, mẫu hình như trong thiết kế cần có đặc tính tổng thể ví như ta phác thảo thật nhanh. Điều cần thiết là nét đặc trưng phải do chủ ý và nghiên cứu; nghệ nhân khi tập trung kiến thức sẽ tìm thấy hình thể và đường nét trong cái thật là đơn giản.
Ngoài việc thay đổi kiểu mũ trên đầu tượng, bản mẫu cũng thay đổi những chi tiết khác trong lúc dự án đang tiến hành. Bartholdi định thêm sợi dây xích đứt trong tay Nữ thần Tự do nhưng sau đó lại thôi vì cho rằng hình ảnh đó chỉ gây chia rẽ giữa hai miền Nam Bắc Hoa Kỳ khi vừa mới xong chiến cuộc. Thay vì cầm xích, ông cho tượng đứng giẫm lên trên một đoạn xích gãy, một phần có gấu áo che khuất nên khó thấy từ chân bệ tượng nhìn lên. Ban đầu Bartholdi còn phân vân không biết tay trái của Nữ thần sẽ cầm gì; sau ông mới quyết định dùng tấm "tabula ansata", một mảnh đá phiến như dạng đá đỉnh vòm (keystone), tượng trưng cho ý tưởng luật pháp. Một mặt Bartholdi rất khâm phục Hiến pháp Hoa Kỳ nhưng ông chọn khắc dòng chữ "JULY IV MDCCLXXVI" trên tấm "tabula ansata", nối liền ngày Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ với ý niệm tự do.
Sau khi tham khảo xưởng đúc kim loại mỹ thuật Gaget, Gauthier Co., Bartholdi kết luận rằng vỏ tượng tốt nhất nên làm bằng những tấm đồng được nện thành hình như ý muốn qua phương pháp "repoussé". Theo cách tạo hình này thì tấm kim loại mỏng được trang trí hay tạo hình bằng cách nện uốn bên mặt trái. Lợi điểm của repoussé là toàn bức tượng khá nhẹ vì lớp vỏ đồng chỉ dày khoảng 0,094 inch (2,4 mm). Ông ấn định chiều cao của pho tượng là 151 ft (46 mét), tức là cao gấp đôi tượng Colosso di San Carlo Borromeo của Ý và tượng Arminius của Đức. Hai tác phẩm đó cũng làm theo phương pháp repoussé. Với dự án này, Bartholdi đã lôi cuốn được người thầy cũ là kiến trúc sư Eugène Viollet-le-Duc cùng hợp tác. Viollet-le-Duc đóng góp trong việc xây lõi gạch bên trong tượng để đính vỏ đồng ra bên ngoài.
Vận động khởi công.
Năm 1875, trong khi tình hình chính trị Pháp dần ổn định và kinh tế cũng hồi phục sau cuộc chiến tranh với Phổ thì dân chúng cũng náo nức mong đợi Hội chợ Thế giới năm 1876 sắp khai trương tại Philadelphia, Hoa Kỳ. Nhân cơ hội này Laboulaye mới vận động tìm hậu thuẫn để thực hiện dự án. Tháng 9 năm 1875, ông chính thức thông báo dự án và lập liên hội Mỹ-Pháp với vai trò gây quỹ cho kế hoạch "Nữ thần Tự đo Soi sáng Thế giới". Pháp nhận tài trợ việc đúc tượng còn Mỹ thì sẽ lãnh phần trang trải khoản phí xây bệ tượng. Thông báo dự án của Laboulaye gây nhiều phấn khởi ở Pháp cho dù công luận ở Pháp vẫn còn có người oán giận Hoa Kỳ đã không hỗ trợ Pháp trong cuộc chiến với Phổ vừa qua. Phe bảo hoàng ở Pháp thì phản đối bức tượng chỉ vì Laboulaye là người khởi xướng mà Laboulaye thì thuộc phe cấp tiến đối lập. Dù vậy Laboulaye lại đắc cử là một trong 75 nghị sĩ với nhiệm kỳ trọn đời (tiếng Pháp: "sénateur inamovible", nghị sĩ bất khả phế) nên tiếng tăm ông càng nổi. Laboulaye liền ra sức vận động chính giới Pháp cùng thân hào nhân sĩ bằng buổi trình diễn đặc biệt tại nhà hát nhạc kịch Paris. Vở kịch ngày 25 tháng 3 năm 1876 cũng là buổi ra mắt nhạc kịch "cantata" mới được Charles Gounod hoàn tất với tựa là "La Liberté éclairant le monde". Đó cũng chính là tên tiếng Pháp của bức tượng.
Tuy ban đầu họ tập trung vận động giới thượng lưu nhưng sau liên hội Mỹ-Pháp đã thành công huy động được mọi tầng lớp xã hội: thường dân và cả học sinh đều tham gia. Có 181 xã trải rộng khắp nước Pháp cũng góp tiền. Hưởng ứng lời kêu gọi nồng nhiệt là thân hữu của Laboulaye trong chính giới Pháp cùng hậu duệ quân nhân Pháp từng tham chiến trong cuộc Chiến tranh Cách mạng Mỹ. Ngoài ra còn có những thành phần tuy góp tiền nhưng có dụng ý muốn mua chuộc Hoa Kỳ để hậu thuẫn Pháp thực hiện kênh đào Panama. Công ty Japy Frères, chuyên buôn đồng hiến tặng toàn lượng đồng cần thiết để xây tượng, trị giá 64.000 franc (khoảng 16.000 đô la đương thời, tương đương với 323.000 đô la ngày nay). Có người cho rằng lượng đồng này xuất xứ từ Visnes, Na Uy, nhưng đến nay vẫn chưa rõ hư thực.
Dù kế hoạch xây dựng tượng chưa được hoàn toàn đúc kết, Bartholdi liền khởi công, bắt đầu với cánh tay phải cầm ngọn đuốc và phần đầu tượng. Công việc tiến hành ở xưởng đúc Gaget, Gauthier Co. Tháng 5 năm 1876, nhân danh là một thành viên trong phái đoàn Pháp tham dự Hội chợ Thế giới, Bartholdi vượt Đại Tây Dương sang Hoa Kỳ. Hội chợ ở Philadelpha năm đó cũng là năm kỷ niệm 100 năm nền độc lập Hoa Kỳ nên Bartholdi cũng thu xếp để triển lãm bức họa khổng lồ ở New York hầu công chúng hình dung được pho tượng vĩ đại ông muón thực hiện. Nếu đúng theo kế hoạch thì cánh tay cầm đuốc của pho tượng đồng cũng sẽ ra mắt dân chúng Mỹ khi Hội chợ khai mạc nhưng chuyến tàu hàng đến trễ nên rốt cuộc khi tàu cập bến Philadelphia vào tháng 8 thì đã trễ không kịp ghi danh. Vì thế mà danh mục triển lãm không ghi tên tác phẩm của Bartholdi khiến có nơi gọi lầm nó là "Cánh tay khổng lồ" hay "Ngọn đèn điện của Bartholdi". Khu trưng bày cũng có những tác phẩm quy mô khác, thu hút khách đến xem. Ngoài cánh tay đồng, Bartholdi cũng góp một đài phun nước rất lớn do ông thiết kế. Cánh tay được nhiều người chú ý, nhất là vào những ngày cuối cuộc triển lãm; khách được leo lên tận ban công của ngọn đuốc để ngắm nhìn toàn cảnh khu triển lãm. Sau khi bế mạc, tay tượng chuyển về New York, dựng ở Công viên Quảng trường Madison vài năm cho công chúng đến xem trước chuyển về Pháp "đoàn tụ" với thân tượng.
Trong chuyến đi lần thứ hai này đến Hoa Kỳ, Bartholdi đi diễn thuyết nhiều nơi, nói chuyện về dự án lớn của ông và kêu gọi bên phía Mỹ hãy mau lập ủy ban cùng hợp tác với liên hội Mỹ-Pháp để xây tượng. Lần lượt các ủy ban địa phương ra đời tại New York, Boston và Philadelphia, phụ trách việc quyên góp để tài trợ phần xây bệ. Riêng ủy ban New York đảm nhiệm phần lớn việc vận động tại Hoa Kỳ nên sau mang danh là "Ủy ban Hoa Kỳ". Một trong những ủy viên ở New York lúc bấy giờ là Theodore Roosevelt, một thanh niên mới 19 tuổi. Nhân vật này sau đắc cử thống đốc tiểu bang New York rồi lên làm tổng thống Hoa Kỳ. Ngày 3 tháng 3 năm 1877, vào ngày cuối cùng của nhiệm kỳ, Tổng thống Grant ký một nghị quyết chính thức nhận bức tượng là quà tặng của Pháp. Tổng thống Rutherford Birchard Hayes, người kế nhiệm ngày hôm sau, đã phê duyệt và chọn lấy đảo Bedloe y như Bartholdi đề nghị trước kia.
Xây tượng tại Pháp.
Khi về Pháp năm 1877, Bartholdi tập trung vào việc hoàn tất phần đầu của pho tượng. Công đoạn này sau được ra mắt tại Hội chợ Thế giới Paris năm 1878. Nhiều mô hình nhỏ hơn được đem bán để hỗ trợ việc gây quỹ. Dân chúng cũng có thể mua vé vào xem công đoạn xây tượng đang diễn ra tại xưởng Gaget, Gauthier Co. Ngoài ra chính phủ Pháp cho mở một cuộc xổ số; giải thưởng có một cái đĩa bằng bạc và một mô hình tượng bằng đất nung. Tính đến cuối năm 1879 thì đã quyên góp được khoảng 250.000 franc Pháp.
Viollet-le-Duc có công trong việc cấu tạo đầu và tay tượng nhưng ông ngã bệnh năm 1879 rồi mất. Là người then chốt trong giai đoạn này, Viollet-le-Duc lại không để văn bản nào về cách ráp phần da vỏ đồng bên ngoài vào lõi tượng bằng nề bên trong. Phải đến năm sau Bartholdi mới tìm được người tiếp sức với nhiều sáng kiến: nhà xây cất và thiết kế Gustave Eiffel. Eiffel cùng với kỹ sư xây cất Maurice Koechlin quyết định bỏ không dùng lõi gạch; thay vào đó sẽ dùng giàn tháp cao bằng sắt. Eiffel cũng không dùng giàn cứng chắc vì áp suất sẽ đè lên vỏ ngoài, dần gây ra rạn nứt. Chủ ý của Eiffel là muốn pho tượng di dịch ít nhiều vì vị trí ở cửa biển đôi khi sẽ có gió lớn. Ngoài ra vào những ngày hè oi bức, tượng cần co giãn. Ông giải quyết hai nhu cầu trên bằng cách nối vỏ tượng ngoài vào giàn tháp trong bằng một khung giáp ("armature"). Khung này dùng mảnh sắt tạo từ những khuyên sắt nhỏ nối vỏ ngoài với sườn trong một cách kiên cố. Trong tiến trình thi công, mỗi mảnh bằng khuyên sắt phải được gia công riêng. Để ngăn ngừa cơ nguy vỏ bằng đồng làm soi mòn giàn tháptrong, Eiffel cho bọc lớp vỏ đồng bằng chất amiăng có trộn sơn cánh kiến. Việc thay đổi cấu trúc từ lõi bằng nề sang giàn tháp sắt đã cho phép Bartholdi sử đổi cách ráp tượng. Trước kia ông có ý định ráp vỏ tượng tại nơi dựng tượng khi khung nề hoàn tất như Viollet-le-Duc thiết kế; tuy nhiên với giàn tháp sắt Bartholdi chọn cho ráp tượng tại Pháp, sau đó tháo ra rồi chuyển đến Hoa Kỳ để ráp lại tại đảo Bedloe.
Thiết kế của Eiffel đã làm cho bức tượng này trở thành một trong số những mẫu công trình xây dựng đầu tiên sử dụng kỹ thuật xây vách treo mà theo đó phần bên ngoài của công trình không phải là phần chịu tải, thay vào đó phần ngoài được một khung sườn phía bên trong nâng đỡ. Ông gắn thêm hai cầu thang hình xoáy ốc bên trong để khách tham quan dễ dàng di chuyển lên điểm quan sát nằm trên chiếc mũ miện hơn. Lối vào ban công quan sát nằm quanh ngọn đuốc cũng được thiết kế nhưng vì chỗ cánh tay hẹp nên chỉ có thể đặt được duy nhất một cái thang đơn độc dài 40 ft (12 mét). Khi sườn tháp được từ từ xây cao lên, Eiffel và Bartholdi cùng điều hợp công việc của họ một cách cẩn thận sao cho các đốt vỏ tượng ăn khớp hoàn toàn vào khung cấu trúc chống đỡ.
Trong một hành động mang tính chất biểu tượng, Đại sứ Mỹ tại Pháp là Levi P. Morton đã đóng cây đinh tán đầu tiên vào vỏ tượng để kìm giữ tấm đồng vào ngón chân to của bức tượng. Tuy nhiên, vỏ tượng không được thi công theo đúng chiều thứ tự từ thấp đến cao; công việc lắp ráp vỏ tượng được tiến hành cùng lúc trên nhiều đoạn tượng khác nhau theo cách thường hay làm cho khách tham quan lẫn lộn. Một số công đoạn được những nhà thầu thi công — một số những ngón tay được làm đúng theo chi tiết của Bartholdi là do hãng làm kim loại đồng ở thị trấn Montauban miền Nam nước Pháp phụ trách. Vào năm 1882, bức tượng đã được hoàn chỉnh lên đến phần ngực, đây là một sự kiện mà Barthodi ăn mừng bằng cách mời các phóng viên đến dự một buổi ăn trưa được tổ chức trên một bục nền xây bên trong bức tượng. Năm 1883, Laboulaye qua đời. Ferdinand de Lesseps, người xây kênh đào Suez lên kế nhiệm ông làm chủ tịch ủy ban Pháp. Bức tượng hoàn chỉnh được chính thức trao cho Đại sứ Morton trong một buổi lễ tại Paris ngày 4 tháng 7 năm 1884, và de Lesseps thông báo rằng chính phủ Pháp đồng ý trả tiền cho việc chuyên chở bức tượng tới Thành phố New York. Bức tượng vẫn được để nằm yên tại Paris, chờ đợi phần bệ tượng đang được hoàn thành; đến tháng 1 năm 1885, việc gì đến đã đến, bức tượng được tháo rời và đóng thùng sẵn sàng cho chuyến vượt đại dương.
Vận động quyên góp quỹ, sự chỉ trích và quá trình xây dựng tại Hoa Kỳ.
Ủy ban tại Hoa Kỳ đối mặt với những khó khăn to lớn trong việc tìm nguồn quỹ cho bức tượng. Nỗi lo sợ năm 1873 đã tạo ra cuộc khủng hoảng kinh tế kéo dài nhiều thập niên. Dự án tượng Nữ thần Tự do không phải là dự án duy nhất đối mặt với khó khăn khi tìm nguồn quỹ: công trình xây dựng đài tưởng niệm hình tháp mà sau đó được biết với tên tượng đài Washington đôi khi bị ngưng trệ trong nhiều năm trời; sau cùng mất đến trên 3 thập niên rưỡi mới hoàn thành xong. Từng có sự chỉ trích cả về bức tượng của Bartholdi và việc món quà tặng của người Pháp lại phải bắt người Mỹ bỏ tiền ra xây bệ tượng. Trong những năm sau Nội chiến Hoa Kỳ, đa số người Mỹ ưa chuộng các tác phẩm nghệ thuật hiện thực mô tả những vị anh hùng và các sự kiện xảy ra trong lịch sử quốc gia hơn là những tác phẩm có tính chất biểu tượng như tượng Nữ thần Tự do. Cũng có ý kiến rằng người Mỹ nên tự thiết kế những công trình công cộng của Mỹ - việc lựa chọn họa sĩ Constantino Brumidi sinh tại Ý để trang trí Tòa Quốc hội Hoa Kỳ đã gây ra cuộc chỉ trích dữ dội cho dù ông là một công dân Mỹ nhập tịch. Tạp chí "Harper's Weekly" tuyên bố ước gì "Ông Bartholdi và các anh em họ người Pháp của chúng ta đã 'chi trọn gói' khi xây tượng và trao cho chúng ta cả bức tượng và bệ tượng ngay cùng một lúc." Nhật báo "The New York Times" lên tiếng rằng "không có người yêu nước chân chính nào có thể cho phép bất cứ sự chi tiêu nào như thế cho những hình tượng nữ bằng đồng với tình trạng tài chính hiện tại của chúng ta." Vì phải đối mặt với những lời chỉ trích như thế nên ủy ban Mỹ chỉ có một ít động thái trong vài năm.
Nền móng cho bức tượng được đặt bên trong đồn Wood, một căn cứ lục quân bị bỏ hoang nằm trên Đảo Bedloe, được xây dựng giữa năm 1807 và 1811. Từ năm 1823, đồn này ít khi được sử dụng, tuy trong thời Nội chiến Hoa Kỳ, nó được dùng làm nơi tuyển mộ binh sĩ. Vành đai bảo vệ của căn cứ này có hình ngôi sao 11 cánh. Nền móng và bệ tượng được chỉnh sao cho bức tượng quay mặt về hướng Đông Nam để chào đón tàu thuyền từ Đại Tây Dương đi vào trong bến cảng. Năm 1881, ủy ban New York ủy nhiệm Richard Morris Hunt thiết kế bệ tượng. Trong mấy tháng, Hunt đệ trình một dự án chi tiết và cho biết rằng ông ước tính sẽ hoàn thành bệ tượng này trong 9 tháng. Ông đề nghị một bệ tượng cao 114 ft (35 mét); vì đối mặt với các vấn đề tài chính nên ủy ban quyết định giảm chiều cao bệ tượng xuống còn 89 ft (27 mét).
Bản thiết kế bệ tượng của Hunt gồm có những chi tiết kiến trúc cổ điển trong đó có các cổng dùng thức cột Doric, và phần khối to lớn của nó được chia thành từng mảng với các chi tiết kiến trúc tỉ mỉ để tập trung sự chú ý vào bức tượng. Về hình thể, bệ tượng là một kim tự tháp bị cắt đỉnh nhọn, có đáy rộng 19 m² (62 bộ vuông) và phần chóp rộng 12 m² (39,4 bộ vuông). Bốn phía có hình dạng giống nhau. Ngay trên cửa ở mỗi phía có mười đĩa tròn mà Bartholdi đề nghị đặt huy hiệu của các tiểu bang Hoa Kỳ (giữa năm 1876 và 1889, có 40 tiểu bang Hoa Kỳ) nhưng điều này không được thực hiện. Phía trên đó, một ban công đặt ở mỗi phía được các cột đỡ chia thành từng ô. Bartholdi đặt một đài quan sát gần đỉnh của bệ tượng, nơi bức tượng vươn lên ở phía trên. Theo tác giả Louis Auchincloss, bệ tượng "ít nhiều gợi lên uy quyền của một châu Âu cổ đại mà sức chi phối của hình ảnh Tượng Nữ thần Tự do vươn đến tầm cao hơn". Ủy ban thuê cựu tướng lãnh lục quân là Charles Pomeroy Stone giám sát việc thi công xây dựng. Công cuộc xây dựng bắt đầu bằng việc xây một nền móng sâu 4,6 mét (15 ft) vào năm 1883, và viên đá đặt nền của bệ được đặt xuống vào năm 1884. Theo khái niệm ban đầu của Hunt, bệ tượng phải được làm hoàn toàn bằng đá granit. Những vấn đề tài chính lần nữa bắt buộc ông phải thay đổi bản thảo; bản thiết kế cuối cùng gồm có việc xây những bức tường bằng bê tông dày 6,1 mét (20 ft), và trên bề mặt được trang trí bằng những khối đá granit. Khối lượng bê tông được dùng đến ở mức lớn nhất chưa từng có vào thời đó.
Cuộc vận động gây quỹ cho bức tượng bắt đầu từ năm 1882. Ủy ban Hoa Kỳ tổ chức một số lớn các sự kiện gây quỹ.Constance Cary Harrison, một nhà soạn kịch, phụ trách việc kêu gọi các nghệ sỹ tham gia buổi đấu giá, đã đề nghị Lazarus đóng góp một tác phẩm cho sự kiện này. Điều khiến Harrison bất ngờ là Lazarus thẳng thừng từ chối lời đề nghị và nói rằng bà không bao giờ viết theo "kiểu bị đặt hàng". Tuy nhiên, Harrison không bỏ cuộc, tìm cách thuyết phục nữ thi sỹ khi nhắm đến những hoạt động và tư tưởng vì xã hội của bà. Vào lúc đó, bà cũng đang tham gia vào công cuộc giúp đỡ người tị nạn đến Thành phố New York sau khi họ vượt thoát khỏi các cuộc náo loạn bài Do Thái tại Đông Âu. Những người tị nạn này buộc phải sống trong những điều kiện mà bà Lazarus giàu có chưa từng trải qua. Bà tìm thấy một cách để bày tỏ sự thông cảm của bà đối với những người tị nạn qua những từ ngữ diễn tả về bức tượng. Lazarus quay trở lại tìm Harrison hai ngày sau đó với một bài thơ hoàn chỉnh với cái tên "The New Colossus" (tạm dịch: "Bức tượng Khổng lồ mới") theo thể điệu "sonnet" ra đời, với nội dung ca ngợi bức tượng Nữ thần Tự do khổng lồ là biểu tượng cho sức mạnh của nữ quyền và bình đẳng. Bài thơ lần đầu tiên xuất hiện tại buổi triển lãm gây quỹ năm 1883 và nhanh chóng bị lãng quên sau sự kiện này, và thậm chí là cả khi tác giả của nó, nữ thi sỹ Emma Lazarus qua đời vì ốm bệnh vào tháng 11 năm 1887, khi mới 38 tuổi. Mãi đến năm 1901, khi một người bạn thân của Lazarus là Georgina Schuyler tìm thấy bài thơ, tác phẩm đầy ý nghĩa này mới thực sự sống lại. Để tưởng nhớ nữ thi sỹ Lazarus, Schuyler đã tổ chức các hoạt động quảng bá tác phẩm này và đưa nó đến gần hơn với người đọc. Năm 1903, "The New Colossus" được khắc trên một tấm bảng dưới chân tượng Nữ thần Tự do. Trên thực tế, Emma Lazarus chưa từng trực tiếp nhìn thấy Nữ thần Tự do khi bà viết "The New Colossus". Tuy nhiên, ý nghĩa của bài thơ cùng những gì mà hình ảnh Nữ thần Tự do mang lại về sự bảo vệ và công bằng, chắc chắn cũng đã là một phần không thể phủ nhận trong lịch sử của Hoa Kỳ.
Năm 1884, Grover Cleveland, thống đốc New York, phủ quyết một đạo luật cho phép tài trợ 50.000 đô la cho dự án. Một cố gắng vào năm sau đó để xin Quốc hội Hoa Kỳ cung cấp 100.000 đô la là đủ để hoàn thành dự án cũng thất bại khi các dân biểu thuộc đảng Dân chủ không đồng ý chi trả. Với vỏn vẹn 3.000 đô la trong ngân hàng, Ủy ban New York đã đình chỉ công việc xây bệ tượng. Đang lúc dự án gặp bế tắc thì các nhóm người từ những thành phố khác của Mỹ trong đó có Boston và Philadelphia đề nghị trả toàn bộ chi phí dựng tượng để đổi lấy việc dời vị trí dựng tượng sang thành phố của họ. Joseph Pulitzer, chủ bút nhật báo New York World của Thành phố New York, thông báo một chiến dịch gây quỹ 100.000 đô la (tương đương khoảng 2,3 triệu đô la ngày nay). Joseph Pulitzer tuyên bố là sẽ in tên của từng người đóng góp, không cần biết là họ đóng góp nhiều hay ít. Chiến dịch gây quỹ này đập vào mắt người New York, đặc biệt là khi Pulitzer bắt đầu cho in ra những dòng chữ mà ông nhận được từ những người đóng góp. "Một người con gái trẻ cô độc trên thế giới" quyên góp "60 xu, đây là kết quả của sự tự chối bỏ mình." Một người quyên tặng cho "năm xu như là một phần nhỏ đóng góp của một cậu bé tạp dịch nghèo dành cho Quỹ xây bệ tượng." Một nhóm trẻ em gởi tặng một đô la như là "số tiền mà chúng em tiết kiệm được để đi xem xiếc." Một đô la khác được quyên góp từ một "người phụ nữ rất già và cô độc." Những cư dân trong một ngôi nhà dành cho những người nghiện rượu trong thành phố đối thủ với Thành phố New York là thành phố Brooklyn (hai thành phố này vẫn chưa được sáp nhập mãi cho đến năm 1898) quyên tặng 15 đô la; những người nghiện rượu khác giúp đỡ tại các thùng quyên góp đặt trong quán bar và các nơi công cộng khác. Một lớp mẫu giáo tại Davenport, Iowa gởi đến tòa soạn nhật báo "World" một món quà là 1,35 đô la.
Khi các cuộc quyên góp rầm rộ lên thì ủy ban bắt tay vào công việc trở lại để xây bệ tượng. Tháng 6, người New York tỏ ra hăng say nhiệt tình đối với bức tượng khi chiếc tàu Pháp "Isère" đến, mang theo những thùng hàng có chứa những mảnh rời của bức tượng. Hai trăm ngàn người đứng dọc theo các bến tàu và hàng trăm tàu thuyền chạy ra cửa biển để chào mừng con tàu "Isère". Sau năm tháng kêu gọi hàng ngày để quyên góp quỹ cho bức tượng, ngày 11 tháng 8 năm 1885, nhật báo New York World thông báo rằng 102.000 đô la đã quyên góp được từ 120.000 người trong đó 80% tổng số tiền quyên góp được là từ những phần đóng góp riêng lẻ ít hơn 1 đô la cộng chung lại.
Cho dù cuộc vận động gây quỹ thành công nhưng bệ tượng vẫn chưa được hoàn thành cho đến tháng 4 năm 1886. Ngay sau đó, công việc lắp ráp tượng bắt đầu được tiến hành. Khung sườn sắt của Eiffel được mắc kết nối vào các thanh thép hình chữ I nằm bên trong bệ tượng bằng bê tông cốt thép và được lắp ráp lại. Ngay sau khi hoàn thành, các khúc đoạn của vỏ tượng được gắn vào một cách cẩn thận. Vì chiều rộng của bệ tượng nên không thể nào dựng các giàn giáo. Các công nhân phải đu đưa trên những sợi dây thừng được cột chặt vào khung giáp để gắn các phân đoạn của vỏ tượng. Tuy nhiên, không có ai thiệt mạng trong suốt những ngày lắp ráp tượng. Bartholdi trước đó có dự tính sẽ đặt những chiếc đèn pha trên ban công của ngọn đuốc để thắp sáng ngọn đuốc; một tuần trước lễ khánh thành, Công binh Lục quân Hoa Kỳ phủ quyết đề nghị này vì sợ rằng các hoa tiêu tàu bè đi qua bức tượng sẽ bị chói mắt. Thay vào đó, Bartholdi cắt những lỗ nhỏ trong ngọn đuốc (ngọn đuốc được bọc bằng vàng lá) và đặt những ngọn đèn bên trong. Một máy phát điện được gắn trên đảo để thắp sáng ngọn đuốc và cũng để dùng cho những nhu cầu khác về điện. Sau khi vỏ tượng được lắp ráp hoàn toàn, kiến trúc sư nổi tiếng về cảnh quan là Frederick Law Olmstead, người vẽ thiết kế cho Công viên Trung tâm của Thành phố New York và Công viên Prospect của thành phố Brooklyn, trông coi việc dọn dẹp Đảo Bedloe để chuẩn bị cho lễ khánh thành tượng.
Lễ khánh thành được tổ chức vào buổi trưa ngày 28 tháng 10 năm 1886. Tổng thống Grover Cleveland, cựu thống đốc tiểu bang New York đứng ra làm chủ tọa cho buổi lễ. Vào buổi sáng ngày khánh thành, một cuộc diễu hành được tổ chức trong Thành phố New York; ước tính về số người xem từ vài trăm ngàn đến 1 triệu người. Tổng thống Cleveland dẫn đầu buổi diễu hành, rồi đứng vào đài quan sát để xem các ban nhạc và đoàn người diễu hành đến từ khắp nước Mỹ. Tướng Stone là trưởng ban phụ trách nghi lễ cho buổi diễu hành. Đường diễu hành bắt đầu từ Quảng trường Madison và tiến về Công viên Battery ở mũi phía Nam của Manhattan, qua ngã đường số 5 và đường Broadway với một chút đổi hướng để cuộc diễu hành đi ngang trước mặt tiền tòa báo "World" nằm trên đường Park Row. Khi đoàn diễu hành đi ngang qua Sở giao dịch chứng khoán New York, những người mua bán chứng khoán quăng các cuộn hoa giấy từ các cửa sổ xuống, khởi đầu cho truyền thống diễu hành có quăng hoa giấy tại Thành phố New York.
Một cuộc diễu hành trên biển bắt đầu lúc 12:45 trưa. Tổng thống Cleveland lên một du thuyền đưa ông ngang bến cảng để tới Đảo Bedloe cho lễ khánh thành. De Lesseps thay mặt ủy ban Pháp đọc bài diễn văn đầu tiên, theo sau là diễn văn của chủ tịch ủy ban New York là Thượng nghị sĩ William M. Evarts. Một lá cờ Pháp quấn quanh mặt tượng sẽ được buông xuống như là nghi thức khánh thành bức tượng khi Evarts kết thúc bài diễn văn của mình. Nhưng vì Bartholdi lầm tưởng rằng bài diễn văn đã kết thúc khi Evarts ngưng giữa chừng bài diễn văn của mình và vì vậy lá cờ bị buông xuống trước khi bài diễn văn thật sự kết thúc. Những tiếng reo hò tiếp theo đó đã chấm dứt bài diễn văn của Evarts. Tiếp theo là Tổng thống Cleveland lên nói chuyện. Ông phát biểu rằng "luồng ánh sáng của bức tượng sẽ xuyên qua bóng tối của dốt nát và sự áp bức của con người cho đến khi Nữ thần Tự do soi sáng thế giới". Bartholdi, đứng quan sát gần bục lễ đài, được mời đến để nói chuyện nhưng ông từ chối. Sau đó Chauncey M. Depew kết thúc buổi lễ bằng một bài diễn văn dài.
Không có thành viên công chúng nào được phép đến đảo trong suốt buổi lễ khánh thành mà chỉ dành riêng hoàn toàn cho giới quyền cao chức trọng. Những phụ nữ duy nhất được phép dự lễ khánh thành là vợ Bartholdi và cháu gái của de Lesseps; các viên chức nói rằng họ sợ phụ nữ có thể bị thương trong đám đông chen lấn. Sự hạn chế này đã xúc phạm đến những người vận động mở rộng quyền đầu phiếu đến mọi công dân. Họ thuê một chiếc tàu và tiến gần sát đảo ở mức có thể được. Những người lãnh đạo nhóm đọc diễn văn hoan nghênh việc chọn người phụ nữ làm hiện thân của Thần Tự do và hô hào cổ vũ cho quyền đầu phiếu của phụ nữ. Một buổi bắn pháo hoa được dự trù trước đó đã bị dời lại cho đến ngày 1 tháng 11 vì thời tiết xấu.
Ngay sau khi kết thúc lễ khánh thành, tuần báo "The Cleveland Gazette" của người Mỹ gốc Phi đề nghị rằng ngọn đuốc của bức tượng không nên thắp sáng cho đến khi nào Hoa Kỳ trở thành một quốc gia tự do "thật sự":
"Nữ thần Tự do soi sáng thế giới", thật hay ho làm sao! Lời lẽ này làm cho chúng tôi phát bệnh. Chính phủ này là một kẻ giễu cợt trò hề đang kêu rống. Họ không thể hay đúng hơn là "không" hề bảo vệ công dân ngay trong "chính" biên cương của họ. Hãy xô bức tượng của Bartholdi, ngọn đuốc và tất cả xuống đại dương cho đến khi nào "tự do" của quốc gia này như thể biến thành sự thật cho một người da màu cần cù siêng năng và vô hại có thể kiếm được cuộc sống đàng hoàng cho chính mình và gia đình mà không bị "Ku Klux Klan" làm hại, có thể là bản thân anh ta bị mưu sát, vợ và con gái bị sỉ nhục và tài sản bị hủy hoại. Ý tưởng về "tự do" của quốc gia này "soi sáng thế giới" hay thậm chí soi sáng Patagonia thật quá sức khôi hài.
Lịch sử từ khi khánh thành.
Ban đặc trách Hải đăng và Bộ chiến tranh Hoa Kỳ (1886-1933).
Ngọn đuốc được thắp sáng vào đêm khánh thành tượng chỉ sinh ra một vệt sáng yếu ớt, khó nhìn thấy từ Manhattan. Nhật báo "World" diễn tả nó giống "như một con đom đóm hơn là một hải đăng." Bartholdi đề nghị mạ tượng để tăng khả năng phản chiếu ánh sáng nhưng điều này được chứng minh là quá tốn kém. Ban đặc trách Hải đăng Hoa Kỳ tiếp quản Tượng Nữ thần Tự do vào năm 1887 và cam kết gắn trang thiết bị để gia tăng hiệu quả của ngọn đuốc; mặc dù có nhiều cố gắng nhưng bức tượng vẫn gần như vô hình vào đêm. Khi Bartholdi trở lại Hoa Kỳ năm 1893, ông có thêm những đề nghị khác nhưng tất cả đều được chứng thực là không hiệu quả. Ông đã thành công trong việc vận động hành lang cho việc cải tiến hệ thống đèn bên trong bức tượng để cho du khách chiêm ngưỡng thiết kế bên trong bức tượng của Eiffel tốt hơn. Năm 1901, Tổng thống Theodore Roosevelt, trước đây từng là một thành viên của Ủy ban New York, ra lệnh thuyên chuyển tượng sang cho Bộ Chiến tranh Hoa Kỳ vì nó đã được chứng minh là vô dụng trong vai trò của một hải đăng. Một đơn vị của Quân đoàn Truyền tin Lục quân Hoa Kỳ đã đóng trại trên Đảo Bedloe cho đến năm 1923. Sau đó lực lượng quân cảnh thay thế và ở đó trong khi hòn đảo này còn nằm dưới thẩm quyền quân sự.
Bức tượng nhanh chóng trở thành một danh thắng của Thành phố New York. Nhiều di dân vào Hoa Kỳ đi qua Thành phố New York thấy bức tượng như một dấu hiệu chào mừng họ. Những câu chuyện kể của di dân đã ghi lại những cảm xúc phấn khởi của họ khi lần đầu tiên thấy Tượng Nữ thần Tự do. Một di dân đến từ Hy Lạp nhớ lại:
Tôi thấy Tượng Nữ thần Tự do. Và tôi tự nói với chính mình, "Chào bà, bà đẹp như thế đó! Bà đã mở rộng đôi tay và đón nhận tất cả người ngoại quốc đến đây. Hãy cho tôi cơ hội chứng minh rằng tôi đáng được như vậy để làm điều gì đó, để là người nào đó tại Mỹ." Và bức tượng ấy luôn ở trong tâm trí tôi.
Ban đầu, bức tượng có màu đồng sậm nhưng chẳng bao lâu sau năm 1900, một lớp rỉ xanh do vỏ đồng bị oxy hóa bắt đầu lan rộng. Đến đầu năm 1902, báo chí bắt đầu đề cập đến vấn đề này, cho đến năm 1906, lớp rỉ xanh bao phủ đã toàn bộ bức tượng. Vì người ta tin rằng lớp rỉ này là bằng chứng của sự ăn mòn kim loại nên Quốc hội Hoa Kỳ cho phép chi tiêu 62.800 đô la để sơn bức tượng cả từ trong ra ngoài. Công chúng đã phản đối việc sơn bên ngoài bức tượng như đã được đề nghị. Công binh Lục quân Hoa Kỳ đã nghiên cứu lớp rỉ xanh xem có bất cứ hiệu ứng hư hại nào đối với bức tượng không và đi đến kết luận rằng lớp rỉ xanh đó đã bảo vệ vỏ tượng. Bức tượng chỉ được sơn phần bên trong. Công binh Lục quân cũng gắn thêm một thang máy để đưa du khách từ tầng nền lên đến đỉnh của bệ tượng.
Ngày 30 tháng 7 năm 1916, trong thời Chiến tranh thế giới thứ nhất, những kẻ phá hoại người Đức đã gây một vụ nổ trên bán đảo Black Tom nằm bên Thành phố Jersey, tiểu bang New Jersey trong khu vực mà ngày nay là một phần của Công viên Tiểu bang Nữ thần Tự do gần Đảo Bedloe. Những toa xe chở đầy chất nổ và những vật liệu nổ khác đang được chuẩn bị gởi đến Anh và Pháp phục vụ chiến tranh bị kích nổ. Bảy người bị thiệt mạng trong vụ việc này. Bức tượng bị thiệt hại nhẹ, phần lớn là ở chỗ cánh tay phải cầm đuốc và phải đóng cửa khoảng 10 ngày. Tổn phí sửa chữa bức tượng và những tòa nhà trên đảo là khoảng 100.000 đô la. Lối hẹp đi lên ngọn đuốc bị chặn lại vì lý do an toàn cho công chúng và nó vẫn còn đóng cửa từ đó đến ngày nay.
Cùng năm đó, Ralph Pulitzer, thừa kế người cha làm chủ bút nhật báo "World", bắt đầu mở chiến dịch quyên góp 30.000 đô la cho một hệ thống chiếu sáng bên ngoài để thắp sáng bức tượng về đêm. Ông tuyên bố có trên 80.000 người đóng góp nhưng không đạt đến số tiền mong muốn. Phần chi phí còn thiếu được một người giàu có lặng lẽ đóng góp — đây là sự thật không được công bố mãi cho đến năm 1936. Một dây cáp ngầm được đặt dưới biển để truyền điện từ đất liền sang và đèn pha được đặt dọc theo những bức tường của Đồn Wood. Gutzon Borglum, người sau này tạc tượng Núi Rushmore, đã thiết kế lại ngọn đuốc. Ông thay thế phần lớn khối đồng ban đầu bằng thủy tinh màu. Ngày 2 tháng 12 năm 1916, Tổng thống Woodrow Wilson bấm nút máy điện tín để bật đèn lên thắp sáng bức tượng một cách thành công.
Sau khi Hoa Kỳ tham gia vào Chiến tranh thế giới thứ nhất năm 1917, những hình ảnh về bức tượng đã được sử dụng nhiều trong các tấm áp phích cổ động nhập ngũ và cổ động cho Trái phiếu Tự do, hối thúc công dân Hoa Kỳ ủng hộ tài chính cho chiến tranh. Việc này khiến công chúng cảm kích vì mục đích chiến tranh được cho là để đảm bảo sự tự do và được xem như một điều nhắc nhở rằng nước Pháp đang bị chiến tranh hoành hành đã từng trao tặng cho Hoa Kỳ bức tượng.
Năm 1924, Tổng thống Calvin Coolidge dùng quyền lực của mình theo Đạo luật Antiquities tuyên bố bức tượng là một tượng đài quốc gia. Vụ tự tử thành công duy nhất trong lịch sử của bức tượng xảy ra 5 năm sau đó khi một người đàn ông trèo ra ngoài một trong các cửa sổ ở phần mũ miện và nhảy xuống tìm cái chết. Người này trượt qua ngực tượng và rơi xuống cạnh bàn chân nữ thần.
Những năm đầu dưới Cục Công viên Quốc gia Hoa Kỳ (1933-1982).
Năm 1933, Tổng thống Franklin Roosevelt ra lệnh thuyên chuyển bức tượng sang Cục Công viên Quốc gia Hoa Kỳ (NPS). Năm 1937, Cục Công viên nhận được thẩm quyền quản lý những phần còn lại trên Đảo Bedloe. Với việc ra đi của Lục quân, Cục Công viên Quốc gia bắt đầu chuyển đổi hòn đảo thành một công viên. Cơ quan Quản trị Tiến triển Công chánh ("Works Progress Administration", viết tắt là WPA) san bằng phần lớn các tòa nhà cũ, phân định và sửa sang lại góc phía Đông hòn đảo, đồng thời xây một nền bậc thang bằng đá granit để làm một lối mới cho công chúng đến bức tượng từ phía sau lưng. WPA cũng tiến hành công việc trùng tu bên trong bức tượng, tạm thời tháo các tia khỏi vầng hào quang của tượng để thay thế phần nâng đỡ đã bị rỉ sét của chúng. Những bậc thang bằng gang rỉ sét trong bệ tượng được thay thế bằng những bậc thang mới làm bằng bê tông cốt thép; phần phía trên của những chiếc cầu thang bên trong tượng cũng được thay thế. Lớp bọc bằng đồng được gắn vào bệ tượng để chống nước mưa thấm vào gây thêm hư hại. Bức tượng bị đóng cửa từ tháng 5 cho đến tháng 12 năm 1938.
Trong thời Chiến tranh thế giới thứ hai, bức tượng vẫn mở cửa cho du khách nhưng không được thắp sáng về đêm vì lệnh tắt đèn ban đêm ở bên ngoài thời chiến (phi công đối phương có thể dễ dàng tìm thấy mục tiêu tấn công). Tượng được thắp sáng ngắn ngủi vào ngày 31 tháng 12 năm 1943 và vào ngày D-Day, 6 tháng 6 năm 1944, khi các ngọn đèn của tượng chớp "chấm-chấm-chấm-gạch", mã Morse biểu thị cho chữ V có nghĩa là "victory" (chiến thắng). Hệ thống đèn mới và cực mạnh được gắn năm 1944-1945, và bắt đầu vào Ngày chiến thắng bức tượng lần nữa được thắp sáng sau hoàng hôn. Đèn được thắp chỉ vài tiếng đồng hồ mỗi chiều tối mãi cho đến năm 1957 thì bức tượng được thắp sáng cả đêm mỗi buổi tối. Năm 1946, phần bên trong của tượng ở những nơi mà du khách có thể với tay tới được bọc loại chất dẻo đặc biệt để có thể lau xóa các hình vẽ hay chữ viết trên tường.
Năm 1956, một đạo luật của Quốc hội Hoa Kỳ chính thức đổi tên Đảo Bedloe thành Đảo Liberty (Đảo Tự do). Việc đổi tên đảo đã từng được những thế hệ của Bartholdi vận động trước đây. Đạo luật cũng có nhắc đến nỗ lực xây một Bảo tàng Di dân Mỹ trên hòn đảo mà những người hậu thuẫn cho nó đã tiến hành, vì mặc dù liên bang đã chấp thuận dự án nhưng chính phủ chậm chạp trong việc cấp ngân quỹ. Bằng tuyên cáo của Tổng thống Lyndon Johnson năm 1965, Đảo Ellis gần đó được biến thành một phần của Tượng đài Quốc gia Tượng Nữ thần Tự do. Năm 1972, bảo tàng di dân nằm trong nền tượng cuối cùng cũng được khánh thành bằng một buổi lễ do Tổng thống Richard Nixon chủ trì. Bảo tàng này đóng cửa năm 1991 sau khi bảo tàng di dân trên Đảo Ellis khánh thành.
Năm 1976, một hệ thống đèn chiếu sáng cực mạnh mới được lắp đặt trước lễ mừng Hoa Kỳ 200 năm. Ngày 4 tháng 7 năm 1976, bức tượng là điểm hội tụ của Chiến dịch Thuyền buồm, một cuộc đua thuyền buồm gồm có những chiếc thuyền buồm cao to đến từ khắp nơi trên thế giới vào bến cảng New York và chạy quanh Đảo Liberty. Cuộc đua kết thúc với màn bắn pháo hoa hoành tráng gần bức tượng.
Trùng tu đến nay (từ năm 1982).
Năm 1986, bức tượng được nhóm kỹ sư Hoa Kỳ và Pháp kiểm tra rất tỉ mỉ như là một phần của kế hoạch kỷ niệm sinh nhật lần thứ 100 của tượng. Năm 1982, có thông báo rằng bức tượng cần phải được trùng tu đáng kể. Cuộc nghiên cứu tỉ mỉ cho thấy cánh tay phải được gắn không chính xác vào cấu trúc chính của tượng. Cánh tay đung đưa nhiều hơn khi gặp gió mạnh và có nguy cơ đổ sập rất lớn. Ngoài ra, phần đầu tượng đã được gắn lệch khỏi trung tâm đến 0,61 mét (2 ft) và một trong số những tia trên mũ miện đã làm thủng một lỗ trên cánh tay phải khi bức tượng chuyển động theo gió. Cơ cấu khung giáp bị ăn mòn một cách tệ hại, và khoảng 2% các đĩa tròn bên ngoài cần được thay thế. Tuy những vấn đề của khung giáp đã được phát hiện từ sớm vào năm 1936, khi đó những phần thay thế bằng gang cho một số thanh trụ đã được gắn, nhưng phần nhiều những chỗ ăn mòn bị che lấp bởi nhiều lớp sơn phủ lên trong nhiều năm.
Tháng 5 năm 1982, Tổng thống Ronald Reagan thông báo thành lập Ủy ban Trăm năm Tượng Nữ thần Tự do - Đảo Ellis do chủ tịch của công ty Chrysler Corporation là Lee Iacocca lãnh đạo nhằm vận động quyên góp quỹ cần thiết để hoàn thành công việc trùng tu. Qua chi nhánh vận động quyên góp của mình là Quỹ Tượng Nữ thần Tự do - Đảo Ellis, ủy ban này đã quyên góp được trên 350 triệu đô la. Tượng Nữ thần Tự do là một trong số những công trình hưởng lợi đầu tiên nhất của một chiến dịch tiếp thị gồm có nỗ lực của cả các tổ chức bất vụ lợi và các công ty thương mãi hợp tác tham gia (tiếng Anh gọi là "cause marketing campaign"). Một cuộc vận động tiếp thị năm 1983 quảng cáo rằng cứ mỗi lần mua hàng sử dụng thẻ tín dụng của American Express thì công ty sẽ đóng góp 1 xu cho việc trùng tu bức tượng. Chiến dịch vận động tiếp thị này tạo ra một khoảng đóng góp lên đến 1,7 triệu cho dự án trùng tu tượng.
Năm 1984, bức tượng bị đóng cửa để trùng tu trong một khoảng thời gian dài. Các công nhân dựng giàn giáo làm che khuất bức tượng. Nitơ lỏng dùng để tẩy sạch các lớp sơn được quét lên phía bên trong vỏ tượng bằng đồng trong nhiều thập niên, để lại hai lớp nhựa than đá mà ban đầu được quét để bịt kín những chỗ xì và chống ăn mòn. Bột nổi được thổi vào để tẩy các lớp nhựa than đá mà không làm hư hại phần lõi đồng. Công việc trùng tu bị ngưng lại vì chất có chứa Amiăng mà Bartholdi đã sử dụng (không hiệu quả như các cuộc kiểm tra cho thấy) để chống ăn mòn đinh tán. Các công nhân trong khu vực bức tượng phải mặc quần áo bảo vệ, được gán tên là "bộ đồ lên cung trăng", cùng với hệ thống mặt nạ dưỡng khí. Những lỗ to hơn trên vỏ tượng được sửa chữa và thêm đồng vào chỗ cần thiết. Vỏ tượng thay thế được tháo từ phần trên cùng của một mái nhà của công ty Bell Labs (Phòng thí nghiệm Bell) vì lớp trên của mái nhà này có lớp đồng rỉ xanh tượng tự như của tượng nữ thần; đổi lại, phòng thí nghiệm được lấy vỏ đồng cũ để thí nghiệm. Ngọn đuốc được phát hiện bị nước rò rỉ vào sau nhiều lần thay đổi vào năm 1916 đã được thay thế bằng một mô hình y hệt như ngọn đuốc gốc bạn đầu của Bartholdi. Vấn đề thay thế cánh tay và bờ vai cũng được xem xét; Cục Công viên Quốc gia Hoa Kỳ luôn cho rằng nên sửa chữa chúng hơn là thay thế. Năm 1986, ngọn đuốc ban đầu được tháo dỡ và thay thế, và đó chính là ngọn đuốc hiện này. Ngọn lửa trên thân đuốc được phủ bằng vàng 24. Ban ngày, ngọn đuốc phản chiếu ánh mặt trời, còn buổi đêm, nó được ánh đèn pha chiếu rọi.
Toàn bộ khung giáp được thay thế. Những thanh sắt mà Eiffel sử dụng dần bị loại bỏ. Những thanh mới gắn vào tháp tượng được chế tạo từ thép không gỉ, có độ chống ăn mòn cao. Những thanh có đinh kẹp nằm cạnh bên vỏ tượng được làm bằng ferralium, một loại hợp kim dễ dàng uốn cong nhẹ nhàng và quay trở về hình thể ban đầu của nó khi bức tượng chuyển động. Để tránh các tia trên mũ miện và cánh tay va chạm vào nhau, các tia được điều chỉnh lại khoảng vài độ. Hệ thống chiếu sáng lại được thay thế - việc thắp sáng ban đêm hiện nay là do những ngọn đèn metal halide đảm trách. Chúng truyền từng chùm ánh sáng đến những phần đặc biệt trên bệ tượng hay bức tượng, soi rõ từng chi tiết khác nhau. Lối dẫn vào bệ tượng đi xuyên qua một chiếc cổng được xây trong thập niên 1960 được tân trang mở rộng và gắn thêm một bộ cửa đồng đồ sộ. Một thang máy hiện đại được lắp đặt giúp cho người tàn tật có thể dễ dàng lên đến khu vực quan sát của bệ tượng. Một thang máy khẩn cấp có thể đi lên đến bờ vai tượng được gắn bên trong bức tượng.
Ngày 3-6 tháng 7 năm 1986 được ấn định là "Những ngày cuối tuần Tự do", đánh dấu 100 năm bức tượng và ngày khánh thành của nó. Tổng thống Reagan chủ tọa buổi lễ tái khánh thành cùng với sự hiện diện của Tổng thống Pháp François Mitterrand. Ngày 4 tháng 7 là ngày trở lại của Chiến dịch Thuyền buồm (cuộc đua thuyền buồm, khởi sự lần đầu tiên tại bến cảng New York ngày 4 tháng 7 năm 1976). Bức tượng được mở cửa trở lại cho công chúng ngày 5 tháng 7. Trong bài diễn văn tái khánh thành của Tổng thống Reagan, ông nói rằng "Chúng ta là những người giữ ngọn lửa của tự do; chúng ta đưa cao ngọn lửa cho thế giới nhìn thấy."
Sau các vụ tấn công ngày 11 tháng 9, bức tượng và Đảo Liberty lập tức bị đóng cửa. Đảo được mở cửa trở lại vào cuối năm 2001 trong khi đó bệ tượng và bức tượng vẫn được đặt trong tình trạng đóng cửa đối với công chúng. Bệ tượng mở cửa lại vào tháng 8 năm 2004, nhưng Cục Công viên Quốc gia Hoa Kỳ thông báo rằng các du khách có thể không được an toàn khi vào bức tượng vì rất khó thoát ra khi có tình trạng khẩn cấp. Cục Công viên Quốc gia vẫn duy trì lập trường này cho đến hết thời gian còn lại của chính quyền George W. Bush. Anthony D. Weiner, một dân biểu Hoa Kỳ từ tiểu bang New York, đã tiến hành một cuộc vận động cá nhân để bức tượng được mở cửa trở lại. Ngày 17 tháng 5 năm 2009, Bộ trưởng Nội vụ của Tổng thống Barack Obama là Ken Salazar thông báo rằng vì là "một món quà tặng đặc biệt" cho nước Mỹ nên bức tượng sẽ được mở cửa trở lại cho công chúng vào ngày 4 tháng 7, nhưng mỗi ngày chỉ có một số người hạn chế được phép đi lên đến phần mũ miện. Bức tượng được dự trù đóng cửa vào cuối năm 2011 với thời hạn từ 9 tháng đến 1 năm để gắn vào một cầu thang mới nhằm trợ giúp cho tình trạng khẩn cấp phải di tản.
Du lịch và đặc điểm của tượng.
Vị trí và viếng thăm.
Bức tượng nằm trong Vịnh Thượng New York trên Đảo Liberty, phía Nam Đảo Ellis. Cả hai đảo này được tiểu bang New York nhượng lại cho chính phủ liên bang năm 1800. Như thỏa thuận được ký năm 1834 giữa tiểu bang New York và tiểu bang New Jersey trong việc ấn định đường ranh giới nằm ở khoảng giữa vịnh, các đảo gốc vẫn thuộc lãnh thổ New York mặc dù vị trí của chúng nằm bên phía ranh giới của New Jersey. Phần đất san lấp nhân tạo tại Đảo Ellis là lãnh thổ của New Jersey.
Lối vào Tượng đài Quốc gia Tượng Nữ thần Tự do thì miễn phí nhưng tất cả du khách phải trả tiền phí qua phà vì các tàu thuyền tư không thể đậu ở hòn đảo. Năm 2007, "Statue Cruises" được chuyển nhượng quyền điều hành giao thông và bán vé cho các cơ sở tham quan trên đảo, thay thế "Circle Line" là dịch vụ phà hoạt động từ năm 1953.
Các chuyến phà khởi hành từ Công viên Tiểu bang Liberty trong Thành phố Jersey và Battery Park trong Hạ Manhattan cũng dừng lại ở Đảo Ellis giúp thực hiện được một chuyến tham quan kết hợp. Cùng với vé qua phà, du khách có ý định vào tầng hầm của bức tượng và bệ tượng phải mua một vé "mời tham quan bảo tàng/bệ tượng". Những ai muốn dùng cầu thang nằm trong bức tượng để lên đến phần mũ miện thì phải mua vé đặc biệt. Vé này có thể phải đặt mua trước đến 1 năm. Tổng cộng chỉ có khoảng 240 người được phép đi lên đến phần mũ miện mỗi ngày: mỗi nhóm là 10 người, mỗi giờ có 3 nhóm. Những người lên đó có thể chỉ được phép mang theo thuốc uống và máy ảnh - có các hộp tủ khóa cung cấp sẵn để cất những thứ vật dụng còn lại - và phải được kiểm tra an ninh lần thứ hai.
Những bản khắc chữ và tri ân.
Có một vài bản khắc chữ ("plaque") và bản nhỏ ("tablet") tri ân được đặt trên hay gần Tượng Nữ thần Tự do. Một bản khắc nằm ngay phía dưới chân nữ thần tuyên bố rằng đây là một bức tượng khổng lồ đại diện cho Nữ thần Tự do, do Bartholdi thiết kế và phân xưởng Paris của công ty Gaget, Gauthier et Cie ("Cie" là chữ viết tắt tiếng Pháp có nghĩa là công ty) xây dựng. Một bản nhỏ giới thiệu cũng mang tên của Bartholdi, tuyên bố bức tượng là một món quà của nhân dân Pháp nhằm vinh danh "sự liên minh của hai quốc gia trong công cuộc giành độc lập cho Hoa Kỳ và chứng thực tình hữu nghị vĩnh cửu của hai quốc gia." Có một bản nhỏ do ủy ban New York dựng lên để kỷ niệm cuộc vận động gây quỹ để xây bệ tượng. Viên đá đặt nền xây bệ tượng cũng có mang một bản khắc do các thành viên của Hội Tam điểm dựng.
Năm 1903, những người bạn của nữ thi sĩ Emma Lazarus trao tặng bà một bản khắc chữ nhỏ bằng đồng có chứa lời bài thơ "The New Colossus" và cũng là để tưởng niệm nữ thi sĩ. Bản khắc được đặt bên trong bệ tượng cho đến lần trùng tu năm 1986; hiện nay vẫn nằm trong Bảo tàng Tượng Nữ thần Tự do ở tầng nền. Nó được đặt cùng với một tấm bảng nhỏ ca ngợi cuộc đời của nữ thi sĩ do Ủy ban Tưởng niệm Emma Lazarus trao tặng năm 1977.
Một nhóm gồm nhiều bức tượng được đặt ở góc cuối phía Tây của hòn đảo để vinh danh những người có liên quan mật thiết với Tượng Nữ thần Tự do. Hai người Mỹ là Pulitzer và Lazarus cùng ba người Pháp là Bartholdi, Laboulaye, và Eiffel được tạc tượng. Những bức tượng này là tác phẩm của điêu khắc gia từ tiểu bang Maryland là Phillip Ratner.
Năm 1984, Tượng Nữ thần Tự do được UNESCO công bố là di sản thế giới. Trong "Lời tuyên bố về tầm quan trọng", UNESCO miêu tả bức tượng như một "kiệt tác tinh thần của nhân loại" đang "đứng vững như một biểu tượng hùng tráng cao độ — truyền cảm hứng cho dự tính, tranh luận và đấu tranh - cho những lý tưởng như tự do, hòa bình, nhân quyền, bãi nô, dân chủ và cơ hội."
Mô hình, phim ảnh về bức tượng.
Hàng trăm mô hình Tượng Nữ thần Tự do được trưng bày khắp thế giới. Một mô hình nhỏ hơn, khoảng một phần 5 chiều cao bức tượng gốc, được cộng đồng người Mỹ tại Paris tặng cho thành phố. Hiện nay nó đứng trên Île aux Cygnes, quay mặt về hướng Tây nhìn về phía người chị em lớn hơn của mình (bức tượng gốc tại New York). Một mô hình của bức tượng cao 9,1 mét (30 ft) đặt trên nóc Liberty Warehouse ở Đường số 64 trong quận Manhattan đã đứng đó trong nhiều năm liền; hiện nay được đặt tại Bảo tàng Brooklyn. Trong cử chỉ bày tỏ lòng yêu nước như một phần của chiến dịch "Làm vững mạnh Cánh tay Tự do" năm 1949-1952, Nam Hướng đạo Mỹ đã tặng khoảng hàng trăm mô hình tượng Nữ thần Tự do làm bằng đồng, cao khoảng 2,5 mét (100 inch) cho các tiểu bang và khu tự quản khắp nơi ở Hoa Kỳ. Mặc dù không phải là mô hình thật nhưng bức tượng được biết với tên gọi là Nữ thần Dân chủ được dựng tạm thời trong suốt Cuộc biểu tình ở Quảng trường Thiên An Môn năm 1989 đã nhận cảm hứng tương tự từ những truyền thống dân chủ Pháp - những người tạc tượng này đã rất cẩn trọng để tránh mô phỏng trực tiếp Tượng Nữ thần Tự do. Trong các công trình giải trí ở Thành phố New York, bản sao của bức tượng là một phần cảnh quan dùng để trang trí bên ngoài tại Khách sạn và Sòng bài New York-New York ở Las Vegas, Nevada.
Là một hình tượng Mỹ, Tượng Nữ thần Tự do từ lâu đã được in trên những con tem thư và tiền kim loại của Hoa Kỳ, xuất hiện trên những đồng tiền kim loại tưởng niệm được phát hành để đánh dấu sinh nhật 100 năm của tượng và trên phiên bản tiền 25 xu của tiểu bang New York năm 2001 thuộc bộ phát hành tiền 25 xu kỷ niệm các tiểu bang Hoa Kỳ. Năm 1997, hình của bức tượng được chọn dùng cho loại tiền không lưu hành là đồng bạch kim đại bàng Mỹ ("American Eagle platinum bullion coins") và xuất hiện ở mặt trái hay còn gọi là "mặt chữ" của bộ tiền kim loại 1 đô la Tổng thống đang được lưu hành. Hai hình ngọn đuốc của bức tượng (một lớn và một nhỏ) xuất hiện trên tờ giấy bạc 10 đô la lưu hành hiện nay.
Nhiều cơ sở và cơ quan vùng cũng đã sử dụng mô hình hay hình tượng của bức tượng. Giữa năm 1986 và 2000, tiểu bang New York phát hành biển đăng ký số xe có hình bức tượng. Đội New York Liberty thuộc Hội Bóng rổ Nữ Quốc gia Hoa Kỳ sử dụng cả tên lẫn hình ảnh của tượng trên biểu trưng của mình trong đó ngọn lửa của tượng được cách điệu nhân đôi thành một quả bóng rổ. Đội New York Rangers thuộc Liên đoàn Khúc côn cầu Quốc gia Hoa Kỳ in hình đầu tượng trên áo thi đấu của mình bắt đầu từ năm 1997.
Bức tượng là một đề tài thường xuyên có mặt trong văn hóa đại chúng. Trong âm nhạc, nó được gợi lên để chỉ sự ủng hộ cho những chính sách của Mỹ, thí dụ như trong bài hát "Courtesy of the Red, White, Blue (The Angry American)" của Toby Keith. Trong chiều hướng đối ngược, bức tượng xuất hiện trong album phiên bản cover "Bedtime for Democracy" của ban nhạc The Dead Kennedys có nội dung phản đối những chính sách của chính phủ Reagan. Trong phim ảnh, ngọn đuốc là cảnh quay cao trào của bộ phim năm 1942 của đạo diễn Alfred Hitchcock với tựa đề "Saboteur". Một trong những lần xuất hiện trên màn bạc nổi tiếng nhất của bức tượng là trong bộ phim năm 1968 có tựa đề "Planet of the Apes", trong đó có cảnh bức tượng bị chôn vùi nửa phần dưới cát. Bức tượng cũng bị phá hủy trong những bộ phim khoa học viễn tưởng như "Independence Day", "The Day After Tomorrow" và "Cloverfield". Trong tiểu thuyết du hành thời gian của Jack Finney có tựa đề là "Time and Again", cánh tay phải của bức tượng đóng vai trò quan trọng và được trưng bày trong Công viên Quảng trường Madison vào đầu thập niên 1880. Robert Holdstock, người tham vấn biên tập của "Bách khoa Tự điển Khoa học Viễn tưởng", đã tự hỏi vào năm 1979:
[Khoa học viễn tưởng] sẽ về đâu nếu không có Tượng Nữ thần Tự do? Trong nhiều thập niên nó đã vụt đứng thẳng lên hay bị đổ nát trên những vùng đất ngập nước của Trái Đất hoang vắng — những người khổng lố lật đổ nó, những người hành tinh tò mò tìm hiểu nó... biểu tượng của Tự do, của lạc quan, đã trở thành một biểu tượng của cái nhìn bi quan về tương lai trong khoa học viễn tưởng."
|
Sự kiện Tết Mậu Thân
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Sự kiện Tết Mậu Thân (sách báo Việt Nam thường gọi là Tổng công kích và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968) là cuộc tổng tiến công và vận động quần chúng nổi dậy giành chính quyền vào dịp Tết Mậu Thân năm 1968 của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Chiến dịch diễn ra trên hầu hết các đô thị tại miền Nam, đánh vào những khu vực trọng yếu của quân đội Mỹ và chế độ Việt Nam Cộng hòa. Đây là một trong những chiến dịch quân sự lớn nhất, có một vai trò và hệ quả mang tính bước ngoặt trong Chiến tranh Việt Nam.
Ba năm sau khi tham chiến trực tiếp, quân đội Mỹ đã ngăn chặn việc quân lực Việt Nam Cộng hòa sụp đổ trong tay quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, nhưng quân Mỹ cũng không thể bình định được miền Nam. Điểm yếu của phía Mỹ là quân đội của họ đã bị sa lầy trong cuộc chiến tranh tiêu hao cực kỳ tốn kém, dư luận của cả nhân dân và giới chính khách Mỹ dần trở nên mất kiên nhẫn, phong trào phản chiến ở Mỹ ngày càng lan rộng do chiến tranh tiêu tốn quá nhiều ngân sách và sinh mạng lính Mỹ. Nắm được điểm yếu đó, quân Giải phóng đã hoạch định một trận đánh nhằm gây tiếng vang lớn, "Một cú đập lớn để tung toé ra các khả năng chính trị" (như lời của Tổng bí thư Lê Duẩn) để tạo bước đột phá chiến lược, nhằm buộc Hoa Kỳ từ bỏ chiến tranh, chấp nhận ngồi vào đàm phán.
Chiến dịch tuy được gọi là Tổng tiến công Tết Mậu Thân, nhưng thực chất các trận đánh dịp Tết chỉ là giai đoạn mở màn. Quân Giải phóng coi toàn bộ các hoạt động chiến đấu ở miền Nam từ đầu tháng 2 cho tới hết năm 1968 (kéo dài trên 300 ngày) đều thuộc phạm vi chiến dịch, trong đó có 3 đợt tấn công cao trào (Đợt 1: 30-1 đến 28-3, Đợt 2: 5-5 đến 15-6, Đợt 3: 17-8 đến 30-9), xen giữa các đợt cao trào là giai đoạn tái bổ sung lực lượng, lập kế hoạch mới, phòng ngự chống đối phương phản kích.
Xét về mặt chiến thuật, chiến dịch dẫn tới một kết quả mang tính bế tắc, kiềm chế lẫn nhau: Cả hai phía đều chịu thương vong nặng nề, quân Giải phóng bị đánh bật ra khỏi các đô thị lớn, nhưng quân Mỹ cũng không thể bình định được các vùng nông thôn miền Nam. Nhưng xét về mặt chiến lược, đây là một bước đột phá lớn trong chiến tranh. Quân Giải phóng đã hoàn thành mục tiêu quan trọng được đề ra là "Đè bẹp ý chí xâm lược của Mỹ, buộc Mỹ phải ngồi vào bàn thương lượng". Ngoài ra, Hàng rào điện tử McNamara của Mỹ nhằm khống chế đường Trường Sơn cũng đã bị phá hủy trong Chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh. Đây được coi là thắng lợi chiến lược mang tính bước ngoặt của quân Giải phóng miền Nam trong cuộc chiến.
Hoàn cảnh ra đời.
Năm 1965, với việc đưa quân chiến đấu Mỹ và quân các nước đồng minh vào trực tiếp tham chiến ở chiến trường Việt Nam và tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại ác liệt bằng không quân và hải quân chống Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Mỹ đã đẩy cuộc chiến tranh Việt Nam lên quy mô và cường độ chưa từng có. Với chiến lược Chiến tranh cục bộ, sử dụng hai gọng kìm "tìm - diệt" và "bình định nông thôn", Mỹ tuyên bố sẽ tiêu diệt quân Giải phóng miền Nam trong vòng 18 tháng.
Hầu hết các loại vũ khí trang bị cho quân Mỹ dùng trong chiến tranh đều là những loại mới, như súng trường M-16, đại bác M107 175mm, xe tăng kiểu mới M48 Patton đến máy bay trinh sát điện tử, máy bay F-111, B-52; từ quả mìn mỏng "cây nhiệt đới", máy dò điện tử đến máy phát nhiễu cực mạnh, bom vô tuyến, bom điều khiển bằng lazer, bom napalm và chất độc hoá học, v.v… Ở thời kỳ đỉnh cao 1968 -1969, Mỹ huy động đến miền Nam Việt Nam 24 tiểu đoàn thiết giáp (2.750 chiếc, trong đó có 950 xe tăng) và 83 tiểu đoàn pháo binh với 1412 khẩu pháo. Tướng William Westmoreland "tin tưởng rằng nước Mỹ chưa hề cho ra trận một lực lượng tinh nhuệ, thiện chiến hơn lực lượng ở Việt Nam trong những năm 1966-1969".
Nhưng với hàng ngàn cuộc hành quân lớn nhỏ trên khắp chiến trường miền Nam, mà đỉnh cao là hai cuộc phản công chiến lược quy mô lớn vào mùa khô 1965-1966 và 1966-1967, quân Mỹ vẫn không đạt mục tiêu đáng kể nào. Không thể tiêu diệt bộ chỉ huy cũng như các đơn vị lớn nào của quân Giải phóng, mục tiêu bình định sau 18 tháng cuối cùng vẫn dậm chân tại chỗ.
Cũng từ những thất bại về quân sự trên chiến trường, sự nghi ngờ về kết quả các cuộc ném bom miền Bắc và tăng quân Mỹ vào miền Nam trong nhân dân và Quốc hội Mỹ cũng tăng lên. Nhiều nghị sĩ ở Thượng nghị viện và Hạ nghị viện Mỹ đã nhận thấy "tương lai không thể lường được của một cuộc chiến tranh hiện đang có tác động làm rã rời ý chí nhân dân Mỹ"
Nước Mỹ ngày càng sa lầy vào cuộc chiến tranh không có đường ra, chưa biết bao giờ kết thúc. Chính phủ Mỹ không còn cách nào ngoài việc tiếp tục tăng quân, tăng chi phí quân sự. Đến cuối 1967, quân chiến đấu Mỹ có mặt ở miền Nam Việt Nam lên tới 480.000 quân và 68.800 quân của các nước đồng minh Mỹ. Nếu kể cả khoảng hơn 20 vạn quân đóng ở các căn cứ quân sự trên đất Thái Lan, Nhật Bản, Philippines, Hạm đội 7, một bộ phận Hạm đội 6, đã có tới 80 vạn quân Mỹ trực tiếp tham chiến. Tổng cộng Mỹ đã huy động 70% lục quân, 60% không quân, 40% hải quân, 60% lực lượng lính thủy đánh bộ toàn nước Mỹ. Số quân Mỹ huy động lúc cao nhất bằng tổng số lục quân của 4 nước: Anh, Úc, Canada và Tây Ban Nha cộng lại. Năm 1967, quân đội Việt Nam Cộng hòa có 552.000 quân, đến cuối năm 1968 cũng đã tăng lên 555.000 quân.
Nếu chi phí cho cuộc chiến tranh Việt Nam 1965-1966 là 4,7 tỉ đôla, thì năm 1967 đã tăng lên 30 tỉ, gấp 1,5 lần Mỹ đã chi cho cuộc chiến tranh Triều Tiên trong ba năm. Do chi phí lớn cho cuộc chiến tranh, nền kinh tế Mỹ bắt đầu suy thoái, thâm hụt ngân sách 4 tỉ đôla, giá cả tăng vọt, lạm phát không kiểm soát được. Ngày 15 tháng 4 năm 1967, tại Washington, khoảng 40.000 người, có cả những cựu chiến binh Mỹ ở Việt Nam, tham gia biểu tình phản đối cuộc chiến tranh của Chính phủ Mỹ. Tháng 10 năm 1967, nhiều cuộc biểu tình của nhân dân Mỹ chống chiến tranh lan rộng toàn nước Mỹ nhằm mục tiêu: đòi chăm lo tình cảnh cho người nghèo và chấm dứt chiến tranh Việt Nam. Chính phủ Mỹ phải lo đối phó với những khó khăn lớn về quân sự, chính trị và tài chính không chỉ ở Việt Nam mà ngay cả trong nước Mỹ.
Do lực lượng hai bên chênh lệch quá xa cả về quân số và trang bị, Bộ chính trị Đảng Lao động Việt Nam xác định rằng không thể giành thắng lợi quyết định bằng những cách đánh thông thường, mà phải tìm cách đánh khác "để đập tan ý chí tiếp tục chiến tranh của Mỹ, làm cho Mỹ hiểu rằng không thể thắng được dân tộc Việt Nam bằng vũ khí và bom đạn."
Kế hoạch của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.
Trên thực tế, sự chuẩn bị cho đòn tấn công này đã bắt đầu khởi động từ cuối giai đoạn chiến lược Chiến tranh đặc biệt. Theo PGS.TS.Đại tá Hồ Khang, Phó Viện trưởng Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam thì "Kế hoạch Xuân Mậu Thân có nguồn gốc từ những kế hoạch ban đầu chúng ta hình thành mà một số nhà nghiên cứu gọi là kế hoạch X. Kế hoạch này được khởi phát vào lúc mà cuộc chiến ở miền Nam đang tiến dần đến sự thay đổi, chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ tiến hành ở miền Nam đang sa lầy, thất bại". Đại tá Nguyễn Đức Hùng (Tư Chu) - nguyên Chỉ huy trưởng lực lượng biệt động Sài Gòn-Gia Định cho biết: "Tháng 5-1964, tôi được thuyên chuyển về phụ trách một đơn vị mà hồi đó gọi là F100 - biệt động của quân khu Sài Gòn-Gia Định. Sau này dần dần tôi mới biết rõ đơn vị này tổ chức ra để nhằm phục vụ cho ý đồ tập kích chiến lược. Hồi đó, tôi được lệnh là mọi thứ phải chuẩn bị xong trước tháng 12-1965". Nhưng việc Mỹ đổ quân vào bãi biển Đà Nẵng tháng 3-1965 đã làm trì hoãn việc thực hiện kế hoạch X. Quân Giải phóng tiếp tục chuẩn bị, khi nào có thời cơ sẽ đánh.
Tháng 6-1967, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, Trung ương Cục tính toán một chiến lược có ý nghĩa quyết định, tạo bước ngoặt cho chiến tranh. Theo đó, nếu không tranh thủ thời cơ, đi sớm một bước thì sang năm 1968, cách mạng miền Nam sẽ gặp bất lợi lớn khi quân đội Mỹ, dưới áp lực của dư luận nước Mỹ, buộc phải dốc toàn lực thực hiện một hành động quân sự lớn để phá vỡ thế bế tắc và kết thúc chiến tranh theo cách Mỹ muốn. Mặt khác, năm 1968 cũng lại là năm bản lề trước cuộc bầu cử tổng thống Mỹ, khi mà các mâu thuẫn chính trị tại Mỹ bị đẩy lên cao và dư luận Mỹ đặc biệt quan tâm tới tình hình thời sự chính trị. Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương chỉ thị là trong dự thảo kế hoạch, cần phải tính đến các "yếu tố chính trị" sẽ diễn ra vào năm 1968 tại Mỹ, nhằm khoét sâu vào mâu thuẫn chính trị tại Mỹ trong năm này. Theo nhận xét của sử gia Mỹ Merle L. Pribbenow, chỉ thị này đã được thực tế chứng minh là chính xác, việc dự đoán thành công và biết khai thác điểm yếu chính trị của phía Mỹ đã tạo nên chiến thắng của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong chiến dịch.
Do đó, Bộ Chính trị chủ trương: "Nhân lúc đế quốc Mỹ đang đứng trước thế tiến lui đều khó, lại phải tập trung vào cuộc vận động bầu cử Tổng thống Mỹ, ta cần chuẩn bị đánh một đòn quyết định tạo chuyển biến nhảy vọt cho cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam, buộc Mỹ phải thua." Theo Đại tá Vũ Ba, nguyên cán bộ tham mưu Miền, "... thời cơ lịch sử có thể xảy ra trước hoặc sau năm 1968. Nhưng chắc chắn nó phải rơi vào đúng thời điểm sức mạnh và quân số Mỹ có mặt ở miền Nam lên đến đỉnh điểm nhưng họ không thể giành được thắng lợi quyết định. Và thời điểm đó chính là Mậu Thân 1968. Lúc đó, tiềm lực kinh tế, quân sự, khoa học kỹ thuật của Mỹ gấp 800 lần Việt Nam. Các nhà bình luận phương Tây nhận định: Mỹ là một nước rất mạnh đem quân đánh một nước rất nhỏ, đã đem hết sức mình ra mà không đánh thắng nổi và phải bỏ cuộc, thì có nghĩa là Mỹ đã thua". Cố Trung tướng Nguyễn Đình Ước, Viện trưởng Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, bình luận: ""Nếu năm 1967 ta đã tiến công như Tết Mậu Thân thì không được. Westmoreland bảo: "Tôi chưa thực hiện xong kế hoạch ba năm tiêu diệt gãy xương sống Việt Cộng. Chiến tranh cục bộ chưa đến đỉnh cao. Các anh chưa cho tôi hết quân, phải đánh ít nhất một năm nữa". Nếu ta để năm 1969, quá đi một năm, qua bầu cử tổng thống Mỹ rồi thì chưa chắc áp lực đã mạnh đến mức Johnson phải từ chức như thế"".
Tháng 7 và tháng 8-1967, Cục Tác chiến Bộ Tổng Tham mưu bắt tay xây dựng kế hoạch tác chiến chiến lược cho năm 1968 theo tinh thần Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 6 và chỉ thị của Quân ủy Trung ương.
Tướng Văn Tiến Dũng, Tổng Tham mưu trưởng gợi ý cho "Tổ kế hoạch" do Cục trưởng Cục Tác chiến Lê Ngọc Hiền phụ trách là nên nghĩ đến kế hoạch và cách đánh khác cách đánh "truyền thống" mà lâu nay quân Giải phóng vẫn làm, thì mới có thể giành thắng lợi quyết định. Trong khi "Tổ kế hoạch" còn đang suy nghĩ tìm cách đánh mới, thì Tổng bí thư Lê Duẩn khi trao đổi với Quân uỷ Trung ương về kế hoạch chiến lược năm 1968 đã đề xuất giải pháp đánh thẳng vào sào huyệt địch trong các thành phố, thị xã. Ý kiến của Lê Duẩn được Quân uỷ Trung ương và Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng tán thành và trở thành ý định quyết tâm chiến lược năm 1968: "chuyển hướng tiến công chiến lược chủ yếu từ rừng núi, nông thôn vào đô thị - nhất là Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng." Tổng bí thư Lê Duẩn nói: "Mỹ không còn con đường nào khác là phát huy sức mạnh quân sự. Đối phó với âm mưu này của Mỹ, ta phải đưa hoạt động quân sự lên một bước mới, đến mức Mỹ không chịu nổi và phải chấp nhận thất bại về quân sự, cô lập về chính trị. Nếu ta thực hiện được, Mỹ sẽ phải rút khỏi miền Nam"
Trong khoảng thời gian này, sức khỏe của chủ tịch Hồ Chí Minh bị sa sút, nên phải gác lại công việc và đi Trung Quốc chữa bệnh. Tuy nhiên với bề dày kinh nghiệm, uy thế to lớn trong Đảng Lao động và nhân dân, mọi quyết sách lớn vẫn phải được phê duyệt bởi chủ tịch. Do vậy, cuối tháng 7/1967, chủ tịch Hồ Chí Minh đã có một chuyến về nước ngắn để nghe Quân ủy Trung ương trình bày kế hoạch. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lưu ý những điểm sau:br
1. Dự thảo báo cáo tốt, toàn diện, nhưng cần xem báo cáo của Quân ủy có chủ quan khô
2. Tranh thủ giành thắng lợi sớm, nhưng phải chú ý đánh lâu dà
3. Thuận lợi có nhiều nhưng phải thấy những khó khăn như mặt hậu cần bảo đả
4. Nói giành thắng lợi quân sự, nhưng phải chú ý đến việc giữ sức dâ
5. Phải chú ý mở rộng chiến tranh du kích, tăng cường trang bị cho du kí
6. Phải làm sao ta càng đánh càng mạnh, đánh liên tục, đánh được lâu dài (nghĩa là có khả năng thực hiện một cuộc chiến tranh lâu dài)
Tháng 10 năm 1967, trong các ngày từ 20 đến 24, Bộ Chính trị họp Bàn về kế hoạch chiến lược Đông - Xuân - Hè 1967 – 1968. Tham gia hội nghị này có Uỷ viên Bộ Chính trị Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Duy Trinh, Lê Thanh Nghị, Văn Tiến Dũng, Trần Quốc Hoàn, Lê Đức Thọ. Tuy nhiên cả ba nhân vật quan trọng nhất là Hồ Chí Minh, Lê Duẩn và Võ Nguyên Giáp đều vắng mặt do phải đi chữa bệnh ở nước ngoài.
Bộ Chính trị đề ra ba mức trường hợp:
Về sách lược: Bộ Chính trị đề ra tập trung mũi nhọn đấu tranh nhằm phân hoá, chia rẽ và cô lập Mỹ và chế độ Sài Gòn của Thiệu - Kỳ. Tiếp tục phổ biến thực hiện cương lĩnh Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Lập mặt trận thứ hai (chuẩn bị người cụ thể trước), tiến tới lập chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam. Kêu gọi các tầng lớp nhân dân, các tôn giáo, binh lính Sài Gòn đoàn kết với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, trung lập Mỹ, đánh đổ Thiệu - Kỳ, thương lượng với miền Bắc. Lập Chính phủ liên hiệp ba thành phần lấy Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam làm nòng cốt. Các sĩ quan cao cấp của Bộ Tổng Tham mưu chỉ thị: cần tính đến các "yếu tố chính trị" – cuộc bầu cử tổng thống Việt Nam Cộng hòa vào tháng 9 năm 1967 và cuộc bầu cử tổng thống Mỹ vào tháng 11 năm 1968.
Về ngoại giao: nhằm phục vụ cho công kích và khởi nghĩa, Bộ Chính trị nêu rõ là phải tranh thủ cao độ sự ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa. Trong tình hình Liên Xô - Trung Quốc đang có chia rẽ sâu sắc, Bộ Chính trị chủ trương giữ quan hệ tốt với cả hai nước, tránh việc quá nghiêng về 1 bên sẽ làm xấu quan hệ với nước còn lại.
Qua thực tế chiến trường, những ý đồ chiến lược đã dần dần hình thành, từng bước trở thành những quyết sách: Tổng tiến công và nổi dậy, đánh thẳng vào sào huyệt của địch trong các thành phố và thị xã. Từ Kế hoạch chiến lược năm 1968 do Bộ Tổng tham mưu chuẩn bị, hai cuộc họp Bộ Chính trị tháng 10 và tháng 12-1967 đã ra nghị quyết và trở thành Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III), quyết định "chuyển cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ giành thắng lợi quyết định."
Sau khi thảo luận kỹ khả năng đánh thành phố của lực lượng vũ trang và khả năng nổi dậy của quần chúng, Bộ Chính trị thông qua phương án tổng công kích, tổng khởi nghĩa do Bộ Tổng tham mưu soạn thảo đã được Quân uỷ Trung ương nhất trí. Phương án xác định chiến trường trọng điểm là Sài Gòn - Gia Định, Đà Nẵng, Huế, hướng phối hợp chiến lược quan trọng là Đường 9 - Khe Sanh. Cụ thể là:
"Cùng với đòn tiến công của bộ đội chủ lực ở hướng phối hợp chiến lược đặc biệt quan trọng là Đường 9 - Khe Sanh nhằm thu hút, giam chân lực lượng chiến lược của địch, một đòn tiến công chiến lược đánh vào thành phố, thị xã quy mô trên toàn miền Nam, kết hợp với nổi dậy của quần chúng các đô thị và nông thôn, mở đầu cho tổng công kích, tổng khởi nghĩa, lấy chiến trường chính là Sài Gòn - Gia Định, Đà Nẵng, Huế, trọng điểm là Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế và các thành phố lớn."
Theo đó, trước Tết Mậu Thân 10 ngày, quân Giải phóng sẽ nổ súng mở màn Chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh, tiến công vào tập đoàn cứ điểm Khe Sanh để buộc Mỹ phải chú ý tập trung điều lực lượng chủ lực ra phía bắc đối phó, tạo điều kiện để giữ bí mật hướng trọng điểm và tiếp tục chuẩn bị.
Lịch sử các cuộc chiến tranh trên thế giới cũng như ở Việt Nam, theo nghệ thuật "truyền thống" thì giai đoạn kết thúc chiến tranh, thông thường một trong các bên tham chiến thực hiện đòn đánh tiêu diệt chiến dịch lớn hoặc đánh tiêu diệt chiến lược lực lượng quân sự, chính trị đối phương, buộc chúng phải chịu thua. Tuy nhiên so sánh tương quan quân Giải phóng và quân Mỹ về quân số, vũ khí trang bị, sức cơ động và tính hiện đại đều thua kém nhiều lần, nên việc đánh tiêu diệt chiến dịch, chiến lược đối với quân viễn chinh Mỹ là điều gần như không thể thực hiện được. Do đó Bộ chính trị chủ trương: "Phải tìm cách đánh mới khác cách đánh truyền thống là đánh bại ý chí xâm lược của Mỹ bằng phương pháp tổng tiến công đồng loạt đánh vào các trung tâm đầu não chính trị, quân sự ở các thành phố, thị xã. Tiến công vào các thành phố, thị xã sẽ tạo ra bất ngờ lớn đối với địch, làm đảo lộn thế bố trí chiến lược của chúng, làm rung chuyển nước Mỹ. Qua đó, ta chứng minh cho Mỹ thấy chúng không thể thắng trong cuộc chiến tranh này, chúng đang đứng trước nguy cơ thất bại hoàn toàn, do đó phải tìm giải pháp chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược, rút ra khỏi cuộc chiến tranh Việt Nam."
Sự khác biệt giờ chuẩn và lịch âm.
Trước năm 1967, Việt Nam lấy giờ Bắc Kinh (GMT+8) làm chuẩn cho âm lịch. Ngày 8 tháng 8 năm 1967, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành quyết định số 121/CP về việc tính lịch và quản lý lịch của nhà nước, sử dụng múi giờ GMT +7 làm chuẩn nên âm lịch cũng thay đổi khi tháng chạp (tháng 12) chỉ có 29 ngày. Miền Nam vẫn theo âm lịch của múi giờ GMT+8 nên tháng chạp có 30 ngày giống như lịch Trung Quốc. Vì thế hai miền nam bắc Việt Nam đón Tết Mậu Thân hai ngày khác nhau (Nếu tính theo giờ miền Bắc, miền Nam sẽ đón giao thừa lúc 23h00 ngày 29 tháng 1 trong khi miền Bắc đón giao thừa lúc 00h00 ngày 29 tháng 1 hay 1h00 ngày 29 tháng 1-trước miền Nam 23h00 đồng hồ).
Tuyên bố ngừng bắn đơn phương của các bên.
Trước thời điểm Tết Mậu thân, các bên đã có một số tuyên bố chính thức thông qua các kênh chính thức về việc sẽ tạm ngừng bắn trong một số ngày Tết, cụ thể như sau:
Tuy nhiên, tuyên bố ngừng bắn của Việt Nam Cộng hòa đã sớm bị Hoa Kỳ ra lệnh hủy bỏ. Trước sức ép của Hoa Kỳ, chính quyền Sài Gòn đã rút ngắn thời gian đơn phương ngừng bắn xuống còn 36 giờ. Cụ thể, ngày 21/01/1968, cả Hoa Kỳ và VNCH cùng tuyên bố ngừng bắn đơn phương từ 18h00 ngày 29/1/1968 đến 06h00 ngày 30/1/1968. Đến ngày 25/01, Đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn Ellsworth Bunker cùng Đại tướng William Westmoreland yêu cầu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu dỡ bỏ ngừng bắn từ Vùng chiến thuật I đến phía nam thành phố Vinh - Nghệ An (bởi quân đội Hoa Kỳ không ăn Tết âm lịch, việc dỡ bỏ ngừng bắn là để quân đội Hoa Kỳ có thể tiếp tục ném bom và càn quét tại các khu vực này). Việc đưa ra tuyên bố giới hạn lệnh ngừng bắn dự kiến sẽ được thông báo vào trưa ngày 29/01/1968, trước khi lệnh ngừng bắn đơn phương của Hoa Kỳ và VNCH bắt đầu có hiệu lực.
Tuy nhiên, tới chiều muộn ngày 29/01/1968, Đại sứ quán Hoa Kỳ và Bộ Ngoại giao VNCH mới chính thức đưa ra thông cáo báo chí về việc hủy ngừng bắn tại Vùng I chiến thuật đến nam thành phố Vinh. Sau khi Hoa Kỳ và VNCH đã hủy bỏ ngừng bắn tại Vùng I chiến thuật, ngay đêm hôm đó, đúng 01h00 sáng ngày 30/01 giờ Sài Gòn (00h00 ngày 30/01 theo giờ Hà Nội), Quân Giải phóng phát lệnh tấn công tại Vùng I chiến thuật của Việt Nam Cộng hòa. Tới 10h00 (giờ Sài Gòn) ngày 30/01/1968, Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố hủy bỏ ngừng bắn trên toàn bộ miền Nam. Đêm 30, rạng sáng ngày 31/01, Quân Giải phóng phát lệnh tổng tấn công và nổi dậy toàn miền Nam.
Sự chuẩn bị của Quân Giải phóng Miền Nam.
Trong hai năm 1967, 1968, các chiến sĩ vận tải, thanh niên xung phong, hải quân ở miền Bắc đã vượt Trường Sơn và biển cả để chi viện cho chiến trường miền Nam 118.923 tấn vũ khí, lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh và 42.619.081 đôla, cộng với 122.885 tấn vật chất do Trung Quốc chi viện quá cảnh qua cảng Xihanúcvin (trong ba năm 1966, 1967, 1968).
Năm 1967, hơn 94.000 cán bộ, chiến sĩ ở miền Bắc biên chế thành từng trung đoàn, sư đoàn bộ binh và binh chủng kỹ thuật đã hành quân vào bổ sung cho mặt trận Trị-Thiên, Khu V, Tây Nguyên, Nam Bộ, nâng tổng số Quân giải phóng miền Nam lên 220.000 quân chủ lực và 57.000 quân địa phương (không kể dân quân, du kích, tự vệ)
Phát huy thế trận chiến tranh nhân dân, quân Giải phóng đã huy động được lực lượng lớn nhân dân trên địa bàn các tỉnh miền Đông tham gia phục vụ cho tổng tiến công và nổi dậy. Nhiệm vụ của lực lượng này là vận chuyển vũ khí, lương thực, thực phẩm vào nội đô cất giấu trước và cứu thương, tải thương khi chiến sự nổ ra, và xây dựng "hũ gạo nuôi quân". Lực lượng quần chúng kết hợp với các đơn vị vận tải đã chuyển được hàng trăm tấn hàng từ vùng Mỏ Vẹt xuống vùng tây nam Sài Gòn. Quân Giải phóng đã huy động hàng trăm xe bò chở hàng từ Mỏ Vẹt xuống Hóc Môn, Gò Vấp. Huyện Đức Hoà có phong trào xây dựng "hũ gạo nuôi quân". Trước Tết, mỗi gia đình để sẵn năm lon gạo đón chủ lực, sau đó, cứ mỗi tuần lại quyên góp một lần (do Hội phụ nữ phát động).
Các huyện đều thành lập đội cung cấp chuyên lo việc huy động lương thực, thực phẩm trong nhân dân phục vụ tổng tiến công và nổi dậy. Mỗi xã có ban quân lương, đội cứu thương, tải thương. Các nhà đều đào sẵn hầm để nuôi giấu thương binh hoặc chôn giấu vũ khí. Ở Trảng Bàng, gia đình bà Nguyên (Má Bảy) đào hầm chôn tới 45 tấn vũ khí tại một vị trí chỉ cách đồn của Mỹ 1 km.
Đến đầu 1968, trước khi cuộc tổng tiến công và nổi dậy nổ ra, quân Giải phóng đã xây dựng được 19 lõm chính trị với 325 gia đình, 12 kho vũ khí, 400 điểm ém quân, phần lớn ở gần các mục tiêu sẽ đánh chiếm. Mỗi lõm có nhiều cơ sở để cất giấu vũ khí, ém quân.
Lực lượng Biệt động Sài Gòn do Nguyễn Đức Hùng (bí danh Tư Chu) chỉ huy, có khoảng 300 người, trong đó có hơn 100 tay súng tinh nhuệ, đã lên kế hoạch đánh 7 cơ quan đầu não chính trị trọng yếu của Mỹ giữa lòng Sài Gòn như Dinh Độc Lập, Đài phát thanh, Tòa Đại sứ Mỹ, Bộ Tư lệnh hải quân, Bộ Tổng tham mư
Sáng 31/12/1967, ngày cuối cùng của năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Phủ Chủ tịch để thu thanh chúc mừng năm mới Mậu Thân. Bài thơ "Toàn thắng ắt về ta" được ghi tiếng vào băng để phát lúc Giao thừa, là hiệu lệnh của cuộc Tổng công kích. Đến chiều, Hồ Chủ tịch căn dặn Bộ Chính trị trước khi sang Trung Quốc chữa bệnh. Ngoài liên lạc hàng ngày qua điện thoại, các lãnh đạo Đảng vẫn thay nhau đến Bắc Kinh, trực tiếp báo cáo và xin ý kiến Hồ Chủ tịch. Chiều 20/1/1968, Lê Đức Thọ sang làm việc, sáng ngày 25/1/1968, Võ Nguyên Giáp đến trực tiếp báo cáo với Hồ Chủ tịch. Tối 26/1/1968, đã gần Tết Mậu thân, những binh đoàn chủ lực, theo kế hoạch đang bí mật áp sát các bàn đạp tiến công. Hồ Chủ tịch chỉ thị cho các chiến trường là: #đổi
Do trong tháng 1 năm 1968 ngày dương lịch sát ngày âm lịch: ngày 29 (tháng 1) dương lịch là ngày 30 (tháng chạp) âm lịch và có sự lệch nhau một ngày của Tết hai miền nên có sự hiểu không thống nhất trong các cấp chỉ huy chiến trường của quân Giải phóng về thời điểm tiến công (ngày N): là ngày theo âm lịch hay theo dương lịch, là theo lịch cũ hay mới. Sự thiếu nhất quán này đã làm cuộc tiến công ở các địa bàn Quân khu 5 Quân Giải phóng đã nổ ra sớm hơn một ngày so với các địa phương khác trên toàn miền Nam. Tính bất ngờ của cuộc tấn công Tết Mậu Thân do vậy đã bị giảm đi, nhưng về cơ bản vẫn được bảo đảm.
Trước đó nửa tháng, tướng Westmoreland lúng túng: "Như tôi đã báo cáo trước Hội đồng phái bộ Mỹ ngày 15/1/1968, tôi thấy khả năng là 60 đến 40% đối phương sẽ đánh trước Tết, có thể vào ngày 25/1. Ngược lại, tướng Davidson, sĩ quan tình báo của tôi, lại thấy khả năng là 40-60% đối phương sẽ đánh sau Tết". Nhưng cuộc tổng tiến công nổ ra không phải "trước" hoặc "sau" mà đúng vào ngày Tết, Westmoreland và Davidson đều đoán sai
Mặt khác, Quân đội Hoa Kỳ đã bị thu hút vào đòn nghi binh của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tại Khe Sanh, nơi được kỳ vọng là một thế trận "Điện Biên Phủ đảo ngược", theo đúng kịch bản chiến tranh quy ước kiểu Mỹ. Theo Đại tá Nguyễn Văn Tàu (Tư Cang), trong các báo cáo do điệp viên Phạm Xuân Ẩn chuyển về, từ cấp chỉ huy cho đến viên đại sứ Mỹ, tất cả đều tin rằng quân Giải phóng không đủ sức tấn công vào các thành phố, đô thị. Theo Mỹ, chiến trường chính nhất định sẽ diễn ra ở Khe Sanh. "Trung ương Cục miền Nam còn làm bộ để rơi những tài liệu vào tay Mỹ để họ tin rằng mình sẽ đánh mạnh trên vùng giới tuyến, nhất là Khe Sanh" - ông Tư Cang nói. Đại tá Hồ Khang cho biết: ""Cái từ Điện Biên Phủ xuất hiện trong tư duy của phía Mỹ mà Cục II (tình báo) báo cáo lại chính là một gợi ý để chúng ta tương kế tựu kế thực hiện một "Điện Biên Phủ giả vờ" để lừa đối phương, ghìm chặt Mỹ ở chiến trường rừng núi, tạo điều kiện cho đòn tấn công vào các đô thị. Vì vậy sau này phía Mỹ và phương Tây cho rằng Việt Nam là bậc thầy trong việc nghi binh"".
Mặc dù phía Mỹ cũng đã đưa ra một số dự đoán về cuộc tấn công này có thể diễn ra trước tết hoặc sau tết, và sẽ diễn ra ở phía bắc miền Nam Việt Nam (khu vực Quảng Trị), nên họ vẫn đặt hai tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên Huế trong tình trạng chiến đấu và các cuộc ném bom của Mỹ ở vùng sát với hai tỉnh trên sẽ vẫn tiếp tục trong những ngày Tết. Nhưng trên thực tế nó nổ ra ngay đúng trong dịp tết, và diễn ra đồng loạt ở khắp miền Nam. Vì vậy phía Mỹ lẫn Việt Nam Cộng hòa đều bị bất ngờ cả về thời gian lẫn quy mô của cuộc tiến công này. Đây là một thất bại lớn về mặt tình báo mà sẽ khiến chính phủ Mỹ nếm trái đắng trước dư luận trong trận đánh được coi là "bước ngoặt của cuộc chiến". Sách giáo khoa của Học viện Quân sự West Point (Mỹ) đã viết: "Điều đầu tiên cần nói về cuộc tổng tiến công là tình báo của đồng minh đã thất bại ngang với trận Trân Châu Cảng năm 1941 và trận tiến công Ardennes năm 1944. Việt Nam đã giành được sự bất ngờ hoàn toàn".
Nhà sử học Nguyễn Hiến Lê viết trong hồi ký: ""Khắp thế giới ngạc nhiên và phục "Việt cộng" tổ chức cách nào mà chính phủ Việt Nam Cộng hòa không hay biết gì cả. Họ đã lén chở khí giới, đưa cán bộ vào Sài gòn, Huế... từ hồi nào, chôn giấu, ẩn núp ở đâu? Chắc chắn dân chúng đã che chở họ, tiếp tay với họ, không ai tố cáo cho nhà cầm quyền biết. Trái lại mỗi cuộc hành quân lớn nhỏ nào của Việt Nam Cộng hòa họ đều biết trước ngày và giờ để kịp thời đối phó. Nội điểm đó thôi cũng đủ cho thế giới biết họ được lòng dân miền Nam ra sao và tại sao Mỹ thất bại hoài.""
Chiến sự Đợt 1.
Thực hiện chỉ đạo của Trung ương, để bảo đảm thống nhất lãnh đạo chỉ huy trong chiến dịch này ở miền Nam, Trung ương Cục miền Nam và Bộ chỉ huy Miền (B2) đã quyết định thành lập 2 Bộ Tư lệnh tiền phương:
Ở Quân khu 5, Trung ương cử Võ Chí Công làm Bí thư Quân khu ủy kiêm Chính ủy Quân khu, Chu Huy Mân làm Tư lệnh. Ở mặt trận Huế, Trung ương chỉ định Lê Minh làm Chỉ huy trưởng, Lê Chưởng làm Chính ủy (lúc này Phó Tổng tham mưu trưởng Trần Văn Quang là Tư lệnh Quân khu Trị - Thiên).
Ở mặt trận Đường 9 – Bắc Quảng Trị do Trần Quý Hai, Phó Tổng tham mưu trưởng làm Tư lệnh, Lê Quang Đạo – Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị làm Chính ủy.
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt nổ ra vào đêm 30 rạng 31 tháng 1 năm 1968 (đêm mồng một Tết Mậu Thân). Suốt từ vĩ tuyến 17 đến Cà Mau, các lực lượng vũ trang quân Giải phóng bất ngờ tiến công rộng khắp vào 6 thành phố lớn, 44 thị xã, hàng trăm quân lỵ, chiếm một số nơi, phát động quần chúng nổi dậy, đập tan bộ máy cơ sở của chế độ Sài Gòn ở nhiều vùng nông thôn. Hiệu lệnh mở màn là bài thơ chúc Tết của chủ tịch Hồ Chí Minh:
30-1-1968 (đêm 30 rạng ngày mồng 1 tết): Các lực lượng vũ trang ở khu 5 và Tây Nguyên tiến công bằng bộ binh, đặc công, pháo kích vào căn cứ quân sự của Mỹ ở các tỉnh lỵ, thị trấn: Bộ tư lệnh Quân đoàn 1 Việt Nam Cộng hòa ở Đà Nẵng, Hội An, sân bay đà Nẵng, sân bay Non Nước, Nha Trang, Đắk Lắk, Pleiku, Quy Nhơn (Bình Định)... Các trận pháo kích đã gây nhiều thiệt hại cho đối phương. Riêng trận pháo kích sân bay Đà Nẵng đã phá hủy 5 máy bay và làm hư hại nặng 25 chiếc khác).
31-1-1968 (Đêm mồng 1 rạng mồng 2 Tết): Tiến công bằng bộ binh, đặc công, pháo kích vào căn cứ Mỹ ở các tỉnh, thành phố Quảng Trị, Huế, Quảng Tín, Quảng Ngãi, Bình Thuận, Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định, Phong Định, Vĩnh Long, Cần Thơ...
1-2-1968 (Đêm mồng 2 rạng sáng ngày mồng 3 Tết): Các lực lượng vũ trang tiếp tục đánh vào các tỉnh lỵ khác: Kiến Hoà, Định Tường, Gò Công, Kiên Giang, Vĩnh Bình, Bình Dương, Tuy Hoà, Biên Hoà, Tuyên Đức, Châu Đốc, An Xuyên.
Để tăng tính bất ngờ, thời điểm cuộc tấn công diễn ra đúng vào giao thừa, thời điểm mà đối phương lơi lỏng phòng bị, nhiều sĩ quan Việt Nam Cộng hòa đang nghỉ ăn Tết. Sau này, có dư luận phía Mỹ và Việt Nam Cộng hòa công kích quân Giải phóng đã "vi phạm hiệp định đình chiến" khi nổ súng vào dịp Tết. Nhưng thực chất, không hề có văn bản nào là "hiệp định đình chiến" được 2 bên kí kết. Việc hưu chiến dịp Tết vào những năm trước chỉ là sự tự giác của binh sĩ 2 bên chứ không hề có quy định ràng buộc nào (tương tự như Hưu chiến đêm Giáng sinh trong Chiến tranh thế giới thứ nhất), dù bên nào không muốn thực hiện thì cũng không thể nói là bên đó vi phạm quy ước chiến tranh (thực tế dịp Tết âm lịch năm 1968, quân Mỹ vẫn duy trì tình trạng chiến đấu và liên tục ném bom vì binh lính của họ không ăn Tết âm lịch). Việc quân Mỹ và Việt Nam Cộng hòa lơi lỏng phòng bị không phải vì "hiệp định đình chiến" - thứ không hề tồn tại, mà là do thất bại tình báo của chính họ khi không phát hiện ra đối phương, vẫn cho rằng chiến sự lớn sẽ không nổ ra trong thời gian sắp tới.
Ngay đêm tiến công đầu tiên tại Sài Gòn các đội biệt động cảm tử của Giải phóng quân đã nhằm vào các mục tiêu khó tin nhất: Toà Đại sứ quán Mỹ, dinh Tổng thống, đài phát thanh, bộ Tổng tham mưu, sân bay Tân Sơn Nhấ(tất cả gồm 9 mục tiêu: 1/ Dinh Độc Lập; 2/ Đài Phát thanh; 3/ Bộ Tổng tham mưu Sài Gòn; 4/ Đại sứ quán Mỹ; 5/ Sân bay Tân Sơn Nhất; 6/ Tổng nha Cảnh sát; 7/ Biệt khu Thủ đô; 8/ Bộ Tư lệnh Hải quân; 9/ Khám Chí Hòa). Sau đó quân tiếp ứng thẩm thấu vào thành phố tiếp quản các mục tiêu và tham gia chiến đấu. Cuộc tiến công đã gây bất ngờ lớn cho phía Mỹ và Việt Nam Cộng hòa. Cuộc tiến công cho thấy sự bất lực của hệ thống tình báo của Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa đã không tiên liệu được khả năng, tính chất cũng như thời điểm, quy mô của sự kiện mặc dù có sự khập khiễng về ngày giờ tiến công của quân Giải phóng ở các địa phương.
Tại khu vực Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa và sân bay Tân Sơn Nhất, cụm biệt động 2 (gồm 27 người chia làm các đội 6, 7, 9) do Đỗ Tấn Phong, Ba Tâm và Đức chỉ huy đánh vào cổng 5 Bộ Tổng tham mưu và cổng Phi Long (sân bay Tân Sơn Nhất). Sau ít phút tiến công, đội chiếm được cả hai cổng. Song do lực lượng ít, Tiểu đoàn 267 (phân khu 2) và Trung đoàn 16 (Phân khu 1) bị lạc không đến kịp như dự kiến, quân Mỹ - Việt Nam Cộng hòa phản kích quyết liệt, cụm biệt động không lọt được vào bên trong. Sau gần một ngày, dựa vào các toà nhà dọc phố Trương Quốc Dung, cụm biệt động đánh trả quân Mỹ quyết liệt, loại khỏi vòng chiến đấu nhiều lính Mỹ và Việt Nam Cộng hòa, bắn cháy hai xe bọc thép. Đến 14 giờ ngày 30-1-1968, bị tổn thất và hết đạn, những người còn lại của cụm biệt động buộc phải rút lui.
Tại Đài phát thanh Sài Gòn, Đội biệt động số 4 (cụm 1) do Nguyễn Văn Tăng chỉ huy, sau ba phút chiến đấu đã chiếm được đài, loại khỏi vòng chiến đấu một trung đội cảnh sát dã chiến bảo vệ. Nhưng nhân viên kỹ thuật và bộ phận chính trị phụ trách phát thanh đã bị ngăn chặn ở Phú Thọ Hoà không đến kịp nên kế hoạch sử dụng Đài phát thanh làm công cụ tuyên truyền, gây tiếng vang dư luận không thực hiện được. Nhận rõ vị trí quan trọng của Đài phát thanh, ngay sau khi đài bị mất, quân Mỹ đã dùng cả trực thăng vũ trang, xe tăng yểm trợ nhanh chóng tổ chức lực lượng phản kích. Chỉ 15 phút sau khi biệt động nổ súng, quân Mỹ đã bao vây toàn khu vực. Tiểu đoàn 3 Dĩ An (Phân khu 5) không đến chi viện kịp như đã hiệp đồng. Sau ba ngày chiến đấu quyết liệt, những chiến sĩ biệt động còn sống sót quyết định dùng biện pháp cảm tử, dùng bộc phá phá hỏng một góc Đài phát thanh. Lực lượng biệt động thương vong gần hết (chỉ còn hai nữ phục vụ viên là bị bắt).
Ở Toà đại sứ Mỹ, lúc 2 giờ 30 phút ngày 31-1-1968, 17 chiến sĩ Đội biệt động số 11 do Ngô Thành Vân (Ba Đen) chỉ huy dùng xe du lịch có hoả lực B-40 yểm trợ đột nhập thẳng cổng Toà đại sứ. Sau khi diệt 4 quân cảnh Mỹ ở ngoài cổng, biệt động dùng thuốc nổ phá thủng tường, tiến đánh vào bên trong, chiếm gần hết tầng 1 phát triển lên tầng 2 và 3 Toà đại sứ. Một nhiệm vụ quan trọng đặt ra là phải bắt sống Đại sứ Bunker, nhưng các nhân viên an ninh sứ quán Mỹ đã lén đưa được Bunker rời khỏi biệt thự bằng một chiếc xe bọc thép sang ẩn nấp trong một hầm bí mật ở một địa điểm khác.
Chỉ 20 phút sau khi Đại sứ quán bị đánh, một toán quân cảnh Mỹ đến cứu viện, nhưng bị biệt động bắn chặn nên không vào được cổng chính. 7 giờ sáng ngày 31-1-1968, một trung đội quân cảnh Mỹ lọt được vào cổng chính. Cuộc chiến đấu trong sứ quán diễn ra quyết liệt.
7 giờ 20 phút, hãng tin Mỹ AP đưa tin nhanh do ký giả Peter Arnett từ Sài Gòn điện về New York: "Việt Cộng đã chiếm lĩnh bên trong tòa Đại sứ", gây choáng váng cho Lầu Năm Góc và dư luận Mỹ. Sau đó, tờ Tin hàng ngày Washington loan báo: ""Cảnh sát quân sự Mỹ đã phải đổ bộ bằng máy bay lên thẳng xuống nóc nhà sứ quán ở Sàỉ Gòn trong khói đạn để giành lại ngôi nhà được coi là "chống du kích" nhưng lại bị cộng sản chiếm trong hơn 6 giờ liền. Chỉ riêng cảnh tượng đó cũng đủ để buộc chính phủ Johnson dẹp bỏ những nhận định lạc quan của mì"".
9 giờ sáng ngày 31-1-1968, quân Mỹ đổ được một bộ phận lực lượng Sư đoàn dù 101 xuống sân thượng Toà đại sứ. Lực lượng tăng viện của quân Giải phóng không đến được như kế hoạch hiệp đồng. Các biệt động quân Đội 11 dũng cảm chiến đấu đến người cuối cùng. Trận đánh Toà đại sứ Mỹ kết thúc, trong 17 người của đội biệt động có 15 người tử trận, chỉ còn 1 chiến sỹ và đội trưởng Ngô Thành Vân (Ba Đen) bị thương nặng và bị bắt. Quân Mỹ cũng thiệt hại nặng: 5 lính chết tại chỗ, 17 chết tại quân y viện và 124 bị thương.
Việc quân Giải phóng đánh chiếm và trụ lại trong Toà đại sứ Mỹ tới hơn sáu giờ đồng hồ đã gây một tiếng vang lớn, làm chấn động nước Mỹ. Tất cả các cấp chỉ huy quân sự, ngoại giao ở Sài Gòn và cả nước Mỹ bàng hoàng, sửng sốt. 9 giờ 30 phút sáng ngày 31-1-1968, Westmoreland có mặt ở Đại sứ quán chứng kiến "khu sứ quán thật là hỗn độn, xác người Mỹ và người Việt Nam vẫn nằm ngổn ngang. Nhưng không giống như hầu hết các chiến trường, các nhà báo, các nhà quay phim vô tuyến truyền hình Mỹ hình như có mặt khắp mọi nơi. Nét mặt họ ánh lên nỗi buồn bực và tâm trạng không tin tưởng như thể sự tận cùng của thế giới đã đến nơi rồi". Nhà báo Dave Richard Palmer nhận xét: "Nhiệm vụ của họ là xông vào sứ quán Mỹ. Làm được gì ở bên trong sứ quán không quan trọng, mà mục đích là phải xông vào được nơi đó đánh một đòn tượng trưng cho toàn bộ cuộc tiến công… Họ đã thành công hết sức to lớn."
Vào thời điểm đó, Westmoreland muốn che giấu tâm trạng bối rối đã tuyên bố "không một Việt Cộng nào vào được trong sứ quán. Sứ quán chỉ hư hại nhẹ". Những lời đó thật vô ích, bị dư luận công kích, như Don Oberdorfer báo Washington Post viết: "Cuộc tấn công vào sứ quán hình như đã bác bỏ những lời dự đoán có tình chất tô hồng và những lời khoe khoang thắng lợi mà Westmoreland và những người khác đã tung ra". Westmoreland báo cáo với Johnson rằng, Mỹ đã làm chủ tình hình, nhưng tổng thống Mỹ đã nói chua chát: ""Việt cộng đã đi dạo mát trong sứ quán của ta rồi"."
Tại dinh Độc Lập, khoảng 1h30 mùng 2 Tết Mậu Thân 1968, đội biệt động số 5 do Tô Hoài Thanh (Ba Thanh) chỉ huy gồm 15 người trên ba xe tải nhỏ và hai chiếc Honda (trong đó có 1 nữ chiến sĩ 19 tuổi Vũ Minh Nghĩa) xuất phát từ hai hướng tiến thẳng vào. Xe tải đi đầu mang khối thuốc nổ gần 200 kg có nhiệm vụ phá cổng. Chiếc xe đi đầu đã tiêu diệt ụ gác đầu tiên rồi nhanh chóng phóng đến cổng sau dinh Độc Lập để một người lao vào đặt khối thuốc nổ phá cổng nhưng không nổ. 5 chiến sĩ trèo qua tường rào, tấn công vào trong dinh. Lính gác cổng bắn trả dữ dội, 5 người hy sinh tại chỗ. Bên ngoài, 3 xe của quân Mỹ chạy đến tiếp viện bị đội biệt động tiêu diệt. Gần sáng, không thấy quân chi viện, 8 người còn lại rút vào một cao ốc đang xây dở cạnh đó tiếp tục cố thủ, đẩy lùi nhiều đợt tiến công của quân đội Mỹ nhưng mất thêm một người. Gần sáng mùng 3 Tết, lợi dụng những lỗ hổng trên tường do đạn bắn, 7 người dìu nhau thoát ra đường Thủ Khoa Huân. Đến sáng tổ bị bao vây, còn quả lựu đạn cuối cùng rút chốt nhưng không nổ, 7 người bị bắt
Tại Bộ Tư lệnh Hải quân, 16 chiến sĩ Đội biệt động số 3 (Cụm 1) do Trần Văn Lém (Bảy Lốp) chỉ huy dùng hai xe du lịch đưa lực lượng đến trước mục tiêu lúc 2 giờ 50 phút ngày 31-1-1968. Sau khi diệt hai lính gác ở đầu cầu Cửu Long, biệt động đánh bộc phá mở cửa và đột nhập vào bên trong, nhưng bị hoả lực ngăn chặn mạnh, không phát triển được. Các chiến sĩ biệt động chiến đấu cho đến khi hy sinh gần hết, chỉ còn hai người về được căn cứ và Phân khu 4.
Như vậy ở nội thành Sài Gòn, lực lượng biệt động thuộc Phân khu 6 trong ngày mùng 1 Tết Mậu Thân 1968 (theo lịch miền Nam - tức 31-1-1968) đã tiến công 6/9 mục tiêu chủ yếu. Mặc dù chiến đấu rất dũng cảm, song do chiến đấu đơn độc, các lực lượng tăng cường không đến kịp theo kế hoạch, nên chỉ chiếm được Đài phát thanh và Toà đại sứ, giữ trong thời gian ngắn, các mục tiêu khác không vào được bên trong. Trong số 88 chiến sĩ biệt động tham gia tác chiến, đã có 56 người tử trận và 10 người bị bắt.
Trong lúc đó, những trận tiến công của các sư đoàn chủ lực miền Đông và lực lượng vũ trang các huyện ngoại thành không tăng viện được cho nội thành Sài Gòn - Gia Định. Bộ đội chủ lực không tiến được vào nội đô; đặc công, biệt động và các đơn vị mũi nhọn tác chiến bên trong trở thành đơn độc, lực lượng bị tiêu hao đến 80%, một số đơn vị chiến đấu hy sinh đến người cuối cùng, cơ sở nội thành bộc lộ và tổn thất nặng, lương thực cất giấu bí mật đã hết. Vì thế, các đơn vị chiến đấu trong nội thành được lệnh rút ra vùng ven củng cố. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy ở trọng điểm Sài Gòn - Gia Định cao điểm 1 giảm dần và kết thúc.
Đến ngày 17-2, thì tại Sài Gòn - Gia Định, cao điểm 2 của cuộc tổng tiến công bắt đầu. Chủ trương của quân Giải phóng trong cao điểm 2 là: dùng pháo kích là chính, kết hợp với tiến công một vài mục tiêu nhằm tiêu diệt và làm tan rã một bộ phận quan trọng quân Sài Gòn, làm cho địch mất sức phản kích và khả năng phòng giữ, tiêu diệt một bộ phận quân Mỹ. Thực hiện chủ trương này, đêm 17-2-1968, trung đoàn 96 và 208 ĐKB pháo kích sân bay Tân Sơn Nhất, Nha cảnh sát đô thành, căn cứ Sư đoàn bộ binh số 1 Mỹ ở Phú Lợi. Kết quả theo bình luận của Hãng tin Anh BBC sáng 18-2, ở căn cứ Phú Lợi, ""có ít nhất 400 người thương vong, nhiều kho tàng, máy bay bị phá huỷ"." Đài này còn bình luận: ""Đây là trận đánh khá trúng đích của Việt cộng"." Với sân bay Tân Sơn Nhất "hoả tiễn rơi đúng phòng chờ đợi đang chật ních khách. Trong số 88 quân nhân Mỹ thuộc lực lượng tuần giang Cửu Long chờ máy bay về Mỹ, số đông bị chết, sáu máy bay bị phá hủy."
Ngày 2 tháng 3, quân Giải phóng thực hiện một cuộc phục kích gần sân bay Tân Sơn Nhất, khiến 48 lính Mỹ chết và hơn 100 lính bị thương
Huế là một trong ba thành phố quan trọng ở Trung - Nam Bộ nên cũng là một trong ba trọng điểm của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Đây là thành phố lớn thứ ba của miền Nam (sau Sài Gòn và Đà Nẵng). Lực lượng Mỹ và Việt Nam Cộng hòa ở đây khá mạnh, toàn mặt trận Huế có khoảng 25.000 đến 30.000 quân (nòng cốt là Sư đoàn 1 bộ binh).
2 giờ 33 phút ngày 30-1-1968, pháo binh Quân giải phóng đồng loạt bắn phá các mục tiêu địch ở khu Tam giác, khu Phan Sào Nam, Phú Bài, Động Toàn, Đông Ba, mở đầu cho tổng tiến công vào Nội đô Huế. Sau loạt pháo mở màn, lực lượng quân Giải phóng trên hai hướng cùng lúc đánh vào 40 mục tiêu trong và ngoại thành Huế.
Đại đội 1 (Tiểu đoàn 12 đặc công) và Đại đội 2 (Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 6) đánh vào Mang Cá. Do không nắm chắc địa hình, các đơn vị phải dùng sức mạnh để đột phá vào cổng chính. Trận đánh ác liệt kéo dài, thương vong mỗi lúc một tăng. Đến 11 giờ trưa, toàn bộ lực lượng đặc công phải rút ra. Trận đánh vào Mang Cá chấm dứt.
Trong lúc đánh Mang Cá thì Đại đội 2 (Tiểu đoàn 12 đặc công) phối hợp với Đại đội 1 (Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 6) đánh chiếm sân bay Tây Lộc. Được cơ sở bên trong hỗ trợ, một bộ phận đánh sân bay bí mật đột nhập qua cổng Thủy Quan, nhanh chóng theo sông Ngự Hà vào chiếm góc tây nam sân bay (gồm khu nhà lính bảo vệ và một phần khu vực để máy bay), phá hủy 20 máy bay và một số xe quân sự.
Tại khu Đại Nội, Cột Cờ, 2 giờ 40 phút ngày 30-1-1968, Đại đội 4 đột phá cửa Hữu, dùng một mũi thọc sâu nhanh chóng chiếm khu Cột Cờ lúc 4 giờ 30 phút. Còn lại đại bộ phận của Đại đội 4 cùng Đại đội 3 theo đường Yết Kiêu, Lê Huân đánh vào khu Đại Nội. Đến 5 giờ sáng quân Giải phóng chiếm toàn bộ khu Đại Nội, diệt một đại đội thám báo và 130 cảnh sát. 8 giờ sáng, lá cờ của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được kéo lên trên cột cờ báo hiệu đã làm chủ trung tâm thành phố Huế. Đến ngày 1-2, phần lớn Huế với 90% dân chúng đã nằm trong tay lực lượng quân Giải phóng.
Nhìn chung, trong những ngày đầu tổng tiến công và nổi dậy ở thành phố Huế, quân Giải phóng đánh chiếm được một số mục tiêu chủ yếu, đồng thời phát động quần chúng nổi dậy giành được chính quyền ở nhiều nơi. Mặt trận Liên minh dân tộc, dân chủ và hoà bình thành phố ra đời, tiếp đó Uỷ ban nhân dân cách mạng Thừa Thiên Huế được thành lập. Đó là một thắng lợi chính trị to lớn. Hãng tin Pháp AFP ngày 7-2-1968 đã bình luận: ""Sau một đêm đánh nhau, Việt cộng đã kiểm soát 90% dân chúng thành phố Huế. Ngay sáng hôm sau, bộ máy hoạt động và cổ động chính trị của Mặt trận Dân tộc Giải phóng đã bắt tay vào làm việc. Rõ ràng họ có một tổ chức mạnh mẽ trong thành phố này vì họ có thể huy động rất nhiều người ra làm việc cho họ"." Còn Hãng tin Anh Roitơ (cũng ngày 7-2-l968) thì viết: ""Sau 5 ngày đánh nhau ác liệt giành giật từng ngôi nhà, Việt cộng vẫn chiếm hơn một nửa thành phố Huế và quân đồng minh tiến dần từng bước một cách vất vả. Các nhà quân sự ở đây cảm thấy rằng quân Việt cộng chứng tỏ là họ có thể vào và ra Huế bất cứ khi nào họ muốn. Cho đến nay không có dấu hiệu nào tỏ ra là họ có ý định rút lui"."
Sau những thất bại ban đầu, từ ngày 8-2-1968, quân Mỹ bắt đầu huy động lực lượng phản kích dữ dội. Mỹ huy động cả lực lượng tổng dự bị từ Sài Gòn ra (Chiến đoàn A thủy quân lục chiến Việt Nam Cộng hòa) và từ Vùng I chiến thuật tới. Ngày 11-2, Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 5) thủy quân lục chiến Mỹ cũng được tăng cường cho khu Tam giác, đưa quân số ở đây lên 16 tiểu đoàn, khoảng gần 15.000 quân cả Mỹ lẫn Việt Nam Cộng hòa.
Từ ngày 9-2 đến ngày 12-2, quân Giải phóng phải liên tục chống phản kích. Không còn khả năng tiến công, quân Giải phóng chuyển sang tổ chức phòng ngự, ngăn chặn phản kích quyết liệt đồng loạt trên bốn cổng thành (cửa Chánh Tây, cửa Hữu, cửa Thượng Tứ, cửa Đông Ba) và từ quốc lộ 1 vào An Hoà.
Ngày 16 và 17-2, quân Mỹ lại tổ chức phản kích dữ dội và chiếm được cả Đông Ba. Ngày 18-2, quân Mỹ chiếm cổng Thủy Quan, uy hiếp cửa Hữu, cửa An Hoà và cửa Thượng Tứ. Tình hình xấu đi rõ rệt. Mỹ đã tăng cường cho khu Mang Cá và Đông Ba một tiểu đoàn Thủy quân lục chiến để cùng lực lượng từ bên ngoài bao vây tiêu diệt quân Giải phóng đang giữ phần còn lại ở tả ngạn thành phố. Lực lượng quân Giải phóng bị đẩy lùi dần vào trong thành nội.
Chính vào thời điểm này, Mỹ ồ ạt tăng quân lên 23 tiểu đoàn (11 tiểu đoàn trong thành phố, 12 tiểu đoàn ở vòng ngoài), yểm trợ bởi hàng trăm xe tăng - thiết giáp nhằm đánh chiếm thành Huế. Sức ép của quân Mỹ ngày càng tăng. Trước tình hình đó, để bảo toàn lực lượng, tránh bị bao vây ngày 22-2-1968, Khu ủy Trị - Thiên và chỉ huy mặt trận Huế quyết định rút toàn bộ lực lượng ra ngoài thành phố.
Sau 25 ngày chiến đấu, quân Mỹ và Đồng minh có hơn 4.400 thương vong, quân Giải phóng cũng có hơn 4.000 thương vong. Tuy tổn thất lớn và phải rút lui, song với việc giữ được thành phố 25 ngày, quân Giải phóng tại Huế đã tạo thành công lớn nhất và giữ được thành phố lâu nhất so với các thành phố khác, góp phần quan trọng vào thắng lợi chung về chính trị của tổng tiến công và nổi dậy trên toàn Miền.
Bên cạnh tác động chính trị là tác động tâm lý. Để giúp tiêu diệt quân Giải phóng, quân Mỹ dùng pháo hạm và máy bay ném bom bắn phá suốt ngày đêm. Các loại vũ khí có sức sát thương hàng loạt như pháo không giật 107mm bắn đạn tổ ong (mỗi viên khi nổ sẽ văng ra gần 5 vạn mảnh đinh sát thương), bom napalm, đạn pháo tăng, súng phun lử, những vũ khí này cũng gây tác hại rất lớn cho dân thường. Theo thống kê, sau 25 ngày chiến sự, 80% nhà cửa ở Huế đã bị bom đạn phá hủy, hàng ngàn thường dân cũng chết trong các cuộc giao tranh.. Những hình ảnh tàn phá ghê gớm tại Huế được trình chiếu đã góp phần lớn nhất thúc đẩy tâm lý phản chiến của dân Mỹ.
Một số tài liệu Mỹ và phương Tây cho rằng trong lúc chiếm giữ Huế, quân Giải phóng đã xử tử nhiều nhân viên quân sự và dân sự thuộc chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Theo ông Mark Woodruff, một báo cáo của Mặt trận Dân tộc Giải phóng bắt được ngày 25 tháng 4 năm 1968 ghi rằng họ đã "diệt 1.892 nhân viên hành chánh, 38 cảnh sát, 790 tên ác ôn, sáu đại úy, 1 trung úy, 20 thiếu úy và nhiều sĩ quan trừ bị…" tại Huế. Ngược lại, phía quân Giải phóng và một số tài liệu Mỹ và phương Tây cho biết: Cái gọi là "cuộc thảm sát" chỉ là đòn tâm lý chiến mà Mỹ dựng lên, thực tế bom Mỹ đã làm nhiều thường dân chết lẫn lộn cùng binh lính hai bên. Quân Giải phóng đã tự chôn cất thường dân chết do hỏa lực của Mỹ, do vậy Hoa Kỳ mới phát hiện xác thường dân trong các ngôi mộ tập thể. Vào thời điểm đó, một số hãng thông tấn nước ngoài và các nhà báo độc lập đã đến kiểm chứng các hố chôn tập thể, nhưng bị phía Mỹ và Việt Nam Cộng hòa ngăn cản.
Tổn thất của các bên.
Theo thống kê của Mỹ và Việt Nam Cộng hòa, Quân Giải phóng đã có đến 97 tiểu đoàn và 18 đại đôi trực tiếp tham chiến, tổng cộng khoảng 323.500 người. Số tổn thất từ ngày 29/1 đến 29/2/1968 được Mỹ ước tính là khoảng 41.000 người, trong tháng 3 là 17.192 người, tuy nhiên họ cũng nhận định con số ước tính này bị trội hơn so với thực tế (căn cứ theo khảo sát của phái đoàn Bộ Tổng tham mưu) Theo số liệu Cục tác chiến của Quân Giải phóng, tổn thất của họ trong đợt 1 (từ 29/1 tới hết tháng 3) vào khoảng 17.000 binh sĩ tử trận và 20.000 bị thương, tức là bằng khoảng 2/3 so với ước tính của đối phương
Tổn thất của quân đội Hoa Kỳ và quân đội các nước khác (gồm (Hàn Quốc, Úc, New Zealand, Thái Lan) theo thống kê của họ là 4.124 chết, 19.295 bị thương, 604 mất tích. Quân lực Việt Nam Cộng hòa tổn thất 4.954 chết, 15.917 bị thương, 926 mất tích. Tổng cộng tổn thất của quân đội Hoa Kỳ và đồng minh của họ là 9.078 chết, 35.212 bị thương, 1.530 mất tích. Về trang bị, Hoa Kỳ bị tổn thất 552 máy bay các loại bị phá hủy hoặc bị hư hại nặng Nhiều kho đạn, kho xăng dầu tại các căn cứ quân sự cũng bị quân Giải phóng dùng đặc công hoặc pháo kích phá hủy.
Quân Giải phóng đã đạt được những thành công sau:
Tuy nhiên qua đợt 1, bên cạnh những thành công, quân Giải phóng đã có những dự đoán không đúng với tình hình: họ hy vọng cùng với tiến công quân sự đánh vào các đô thị, họ có thể phát động dân chúng nổi dậy tổng khởi nghĩa đánh sụp chính quyền Việt Nam Cộng hòa và đặt Mỹ trước tình thế phải đi đến quyết định ra đi khỏi chiến tranh. Kế hoạch trên dựa trên nhận định thấp về khả năng của đối phương và đánh giá quá cao khả năng của họ, nên trong thực tế quân Giải phóng đã bị thương vong lớn mà. Quá trình nổi dậy tổng khởi nghĩa không diễn ra đúng như kế hoạch mặc dù đã có hàng vạn người ở đô thị và ven đô tham gia.
Mặt khác, trong quá trình phổ biến chủ trương chiến dịch, nhiều sĩ quan chỉ huy chiến đấu của quân Giải phóng đã không nắm rõ chủ trương của cấp trên khi phát động chiến dịch (đánh lớn gây tiếng vang hướng tới dư luận và chính giới Mỹ để buộc đối phương xuống thang, đàm phán), do vậy họ lại cho rằng mục tiêu chủ yếu của chiến dịch là đánh dứt điểm đối phương. Theo Đại tá Vũ Ba, ngày 18-1-1968 (13 ngày trước giờ nổ súng), Bí thư Lê Duẩn có gửi điện báo cho Trung ương Cục miền Nam, ông kể "Bức điện đó đại ý nói kế hoạch này chỉ nhằm làm lung lay ý chí xâm lược của địch, buộc địch phải chuyển giai đoạn chiến lược chứ không khẳng định mục tiêu giành chính quyền về tay nhân dân". Nhưng khi triển khai chỉ đạo này xuống dưới thì các địa phương chỉ phổ biến khả năng thắng lợi dứt điểm chứ không phổ biến các khả năng khác để khỏi ảnh hưởng đến quyết tâm của chiến sĩ. Cũng vì sự lệch nhau trong chỉ đạo này mà các chỉ huy địa phương đã lập kế hoạch tác chiến và tiến hành đánh theo kiểu trận đánh cuối cùng, không lập sẵn kế hoạch phòng thủ và rút lui, dẫn tới việc tác chiến giai đoạn sau bị lâm vào bị động đối phó
Cuối cùng, quân Giải phóng đã không linh hoạt thay đổi tuỳ theo tình hình. Khi đợt tấn công đầu tiên kết thúc, họ đã phát động tiếp đợt 2 vào tháng 5, đợt 3 vào tháng 8 khi mà kế hoạch đã bị lộ và đối phương đã đề phòng và chuẩn bị đón đánh, làm cho thiệt hại của Giải phóng quân càng lớn.
Đánh giá về những hạn chế của quân Giải phóng trong cuộc tổng tấn công Mậu Thân, báo Quân đội Nhân dân đã liệt kê các điểm như: đánh giá sai về tương quan lực lượng giữa hai bên dẫn đến việc đề ra mục tiêu tổng tấn công giành chính quyền một cách chủ quan, không kịp thời chuyển hướng hoạt động quân sự khi tình hình đã thay đổi.
Chiến sự Đợt 2.
Do phía Hoa Kỳ trì hoãn đàm phán Hội nghị Paris, mặt trận ngoại giao năm 1968-1972 quá lâu, nên Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam buộc phải tiến hành đợt tấn công thứ 2.
Sau khi William Westmoreland bị cách chức, Nhà Trắng và Lầu Năm Góc giao cho Creighton Abrams làm Tư lệnh lực lượng đồng minh Mỹ ở Nam Việt Nam. Để thực hiện chiến lược "quét và giữ" có hiệu quả, giữa tháng 4-1968, Clípphớt, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ chỉ thị cho Bộ chỉ huy quân sự Mỹ ở Nam Việt Nam thực thi ba biện pháp cấp bách: một là, ra sức xây dựng tuyến phòng thủ vững chắc ở trong và xung quanh các thành phố, các căn cứ, các tiểu khu, chi khu quân sự các điểm chốt trên các trục đường giao thông. Hai là, lập những vành đai đủ sức ngăn chặn các cuộc tiến công mới của quân Giải phóng. Đẩy chiến tranh ra xa các thành phố, thị xã quan trọng có ý nghĩa chiến lược. Ba là, mở các cuộc hành quân càn quét (kể cả các cuộc hành quân cảnh sát) để giải toả các thành thị, căn cứ, đường giao thông, ngăn chặn triệt để Quân giải phóng tiến công.
Song song với đó, Tổng thống Mỹ Johnsơn, Đại sứ Bunker ra sức tuyên truyền cứu vớt hình ảnh chính trị trong dư luận Mỹ và thế giới đang lên án mạnh mẽ. Các phương tiện thông tin đại chúng Mỹ và Sài Gòn ngày đêm phát đi những tuyên bố của những nhà lãnh đạo Mỹ rằng: "Việt cộng và quân Bắc Việt Nam đã bị Mỹ và đồng minh truy kích; quân Mỹ và quân đội Sài Gòn đã nắm quyền chủ động chiến trường; Việt cộng đã đuối sức, hết hơi, v.v… để xoa dịu làn sóng đấu tranh của nhân dân Mỹ và những chất vấn của Quốc hội Hoa Kỳ, đồng thời trấn an tinh thần cho quân đội, chính quyền Sài Gòn.
Trước tình hình trên, ngày 24-4-1968, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương họp phân tích, đánh giá tình hình và kết quả cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, quyết định tổng tiến công và nổi dậy đợt 2.
Cuối tháng 3-1968, sau khi sơ bộ kiểm điểm đợt 1 tiến công vào Sài Gòn - Gia Định, Trung ương Cục và Quân uỷ Miền cử đại diện ra Hà Nội báo cáo về đề nghị cho chiến trường miền Đông Nam Bộ tiếp tục mở đợt 2 đánh vào Sài Gòn với lý do "yếu tố bất ngờ vẫn còn, mặc dù địch đã co về phòng giữ nội thành và vùng ven, nhưng chúng còn nhiều sơ hở, đợt 1 ta mới sử dụng bộ phận đặc công, một số đội biệt động, du kích mật và quần chúng. Các tiểu đoàn mũi nhọn, các trung đoàn khu vực, các sư đoàn chủ lực cơ động vẫn còn sung sức, quyết tâm lập công "
Cùng thời gian này, để mở rộng mặt trận dân tộc đoàn kết chống Mỹ trong các tầng lớp nhân dân ở khắp các đô thị, ngày 20 và 21-4-1968, Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam ra đời từ trong Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, tổ chức Đại hội bầu ra Uỷ ban Trung ương Liên minh do Luật sư Trịnh Đình Thảo làm Chủ tịch.
Ngày 4.5.68, một chất nổ được mang trên xe taxi gồm 60 ký TNT, nổ lúc 13 giờ trưa khiến 3 người chết chừng 30 người bị thương và làm sụp một căn nhà gần Đài Truyền hình Sài Gòn, cơ quan tuyên truyền chủ chốt của Mỹ và chính phủ Sài Gòn. Vụ nổ này được xem là một hiệu lệnh của quân Giải phóng phát động cho các lực lượng chủ lực mở cuộc tấn công vào Sài Gòn vào ngày hôm sau.
Đúng 0 giờ 30 phút ngày 5-5-1968, cuộc tổng tiến công và nổi dậy đợt 2 trên toàn Miền đã nổ ra. Trong tuần lễ đầu tổng tiến công và nổi dậy (từ ngày 5 đến 12-5), quân Giải phóng đánh trúng 89 thành phố, thị xã, thị trấn, quận lỵ căn cứ địch từ Trị - Thiên đến Cà Mau, từ đồng bằng ven biển đến Tây Nguyên.
Trên chiến trường trọng điểm Sài Gòn - Gia Định, từ hướng tiến công chủ yếu phía tây thành phố, Trung đoàn 2 gồm các tiểu đoàn 267, 269, Tiểu đoàn 6 Bình Tân do Trung đoàn trưởng Võ Văn Hoàng chỉ huy tiến công cụm rađa Phú Lâm, phát triển vào Cầu Tre, tập kích đánh thiệt hại một tiểu đoàn biệt động quân, phát triển đánh chiếm khu vực đường Minh Phụng và Bình Thới.
Trong hai ngày 7 và 8-5, đại bộ phận Trung đoàn 2 đã bám trụ chiếm lĩnh hai nhà cao tầng ở ngã tư đường Minh Phụng khống chế các điểm xuất phát tiến công của quân Mỹ từ Bình Thới xuống đến Duy Linh. Quân Mỹ - Việt Nam Cộng hòa cho hàng chục lần chiếc máy bay A-37 ném bom bắn phá hai nhà cao tầng gây nhiều đám cháy. Hai tiểu đoàn biệt động quân được hàng chục xe tăng M41 yểm trợ phản kích quyết liệt hòng đẩy quân Giải phóng ra khỏi ngã tư. Trận đánh trên đường Minh Phụng kéo dài gần một tuần (từ ngày 5 đến ngày 10-5), sau đó Trung đoàn 2 được lệnh chia thành hai hướng. Một tiểu đoàn cơ động về hướng bắc đánh địch ở khu vực nghĩa trang Phú Thọ. Hai tiểu đoàn còn lại tiến xuống phía nam Cầu Gỗ đánh chiếm khu vực Bình Tiên.
Cũng thời điểm trên, Trung đoàn 1 (Sư đoàn 9) lực lượng phối thuộc của Phân khu 2, sau khi đột phá qua một số tuyến ngăn chặn vòng ngoài đã tiến công khu vực ngã tư Bảy Hiền và một số mục tiêu xung quanh sân bay Tân Sơn Nhất. Tại khu nghĩa địa Pháp, quân dù (lực lượng dự bị chiến lược Việt Nam Cộng hòa) từ trong sân bay đánh tràn ra quyết ngăn chặn lực lượng quân Giải phóng đang phát triển. Một trận đánh ác liệt đã xảy ra ở khu mả Xây. Qua hai ngày chiến đấu (ngày 5 và 6-5) 2 bên đều thiệt hại đáng kể. Ngày 7-5, trung đoàn 1 được lệnh của Phân khu 2 lui về phía tây Bà Quẹo, tổ chức phòng ngự đánh phản kích.
Phân khu 1 đảm nhiệm hướng tây bắc, được Trung đoàn 16 chủ lực Miền hỗ trợ, tiến công sân bay Tân Sơn Nhất và một số mục tiêu xung quanh Bộ Tổng tham mưu Việt Nam Cộng hòa. Nhưng trong quá trình hành quân vào nội đô, Trung đoàn 16 và các tiểu đoàn độc lập của Phân khu 1 liên tục đụng đầu với các tiểu đoàn dù 1, 5, 7 Việt Nam Cộng hòa. Quân Giải phóng phải tổ chức phòng ngự ở An Phú Đông, Tân Thới Hiệp từ ngày 4 đến ngày 7-5. Ngày 8-5, để cải thiện vị trí đứng chân, các lực lượng Phân khu 1 và phối thuộc tập kích cụm xe cơ giới ở Tân Thới Đông và Tân Thới Trung, phá hỏng 50 xe các loại, diệt và làm bị thương 230 lính.
Cùng thời gian, hàng chục trận địa pháo hoả tiễn tiếp tục pháo kích căn cứ Đồng Dù, sân bay Tân Sơn Nhất, Tân Cảng, kho Long Bì
Giai đoạn 1 của cuộc tổng tiến công và nổi dậy đợt 2 trong nội đô đến ngày 12-5 tạm thời lắng xuống. Hầu hết các lực lượng chủ lực quân Giải phóng được lệnh rút ra vùng ven để củng cố tổ chức, vừa đánh địch càn quét vừa làm công tác chuẩn bị sẵn sàng bước vào giai đoạn 2. Những vấn đề nổi bật của giai đoạn 1 là, các phân khu thực hiện tương đối tốt nhiệm vụ trên giao, diệt được khá nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh đói phương. Tuy nhiên, qua giai đoạn 1 hoạt động tác chiến trong thành phố, nhìn chung các phân khu còn bộc lộ nhiều hạn chế về chỉ huy và điều hành lực lượng. Một số phân khu hoạt động ở hướng tây và nam vào được khu vực trên giao, nhưng lại không bám trụ được lâu dài do bị thương vong nhiều. Một số phân khu hoạt động ở hướng bắc và đông chỉ vào được cửa ngõ nội đô, chỉ tác chiến ở những mục tiêu thứ yếu.
Ngày 24-5-1968, quân Giải phóng thực hiện một loạt trận tiến công mới vào các mục tiêu quan trọng trong nội đô. Để mở rộng hoạt động quân sự, phân tán sự đối phó của đối phương ở hướng đông bắc, ngày 26-5, Bộ chỉ huy Miền chỉ thị cho các đơn vị đang hoạt động ở hướng tây và nam khẩn trương đưa lực lượng mở các đợt tiến công vào nội đô. Phối hợp với bộ binh chiến đấu ở nội đô, các đơn vị pháo binh từ vùng ven liên tiếp bắn phá sân bay Tân Sơn Nhất, bến cảng Sài Gòn, Bộ Tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng hòa, Toà đô chính, Sứ quán Mỹ, gây nhiều thiệt hại về vật chất và tinh thần.
Tại Chiến trường Khu V, Sư đoàn 3 bộ binh (thiếu một trung đoàn) của quân khu bám trụ ở Bình Định được lực lượng vũ trang tỉnh, huyện hỗ trợ, cùng một lúc tiến công tám mục tiêu trên đường số 1, đoạn từ cầu Ông Diệu đến huyện lỵ Phù Mỹ, nhằm kéo Lữ đoàn dù 178 Mỹ ra giải toả để tiêu diệ, phá huỷ 56 xe, diệt một đại đội Mỹ. Đồng thời pháo binh bắn phá sân bay Đà Nẵng, hai sân bay trực thăng Xuân Thiều, Nước Mặn, căn cứ hải quân Sơn Trà, tổng kho An Đồn.
Khoảng 23 giờ đêm ngày 6-5, một đoàn xe chạy từ Phù Mỹ ra, lọt vào trận địa phục kích của Sư đoàn 3, bị bắn cháy 32 chiếc, hơn 100 lính trên xe bị diệt. Cùng thời gian, Tiểu đoàn 53 tổ chức đánh quân Mỹ đổ bộ đường không xuống thôn Tường Lâm, Mỹ Trung (Hoài Ân), loại khỏi vòng chiến đấu 130 lính Mỹ, bắn rơi 2 máy bay trực thăng. Ngày 24-5, một đoàn xe 26 chiếc chở quân Mỹ, được một chi đoàn thiết giáp hỗ trợ tiến vào xã Mỹ Trinh, bị bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương chặn đánh diệt 16 chiếc.
Đầu tháng 6-1968, Tiểu đoàn 40 đặc công tỉnh tập kích diệt hai đại đội Mỹ ở gò Ông Thường, xã Hoài Thanh và cầu Ông Tú, xã Hoài Châu. Giữa tháng 7, Tiểu đoàn 53 phục kích trên quốc lộ 1 đoạn Tam Quan đi Chợ Cát, loại khỏi vòng chiến đấu gần 200 lính Mỹ - Việt Nam Cộng hòa, bắn cháy 15 xe (có 4 xe bọc thép), 2 máy bay, 2 pháo 105 mm. Đặc công Đ10 tập kích cứ điểm tháp Bánh Ít, diệt 30 lính, đánh sập 8 lô cốt, đốt cháy 2 kho xăng. Giữa tháng 6, Tiểu đoàn 50 được bộ đội địa phương huyện và du kích phối hợp, chặn đánh một tiểu đoàn Nam Triều Tiên càn quét xã Cát Thắng, loại khỏi vòng chiến đấu gần 100 lính.
Nổi bật nhất trong chiến sự đợt 2 ở Khu V là Trận Khâm Đức, 2 trung đoàn của Sư đoàn 2 sau 2 ngày tiến công liên tục từ 10 đến 12-5 đã tiêu diệt hoàn toàn trại quân sự Khâm Đức do gần 1.000 lính Mỹ và 500 lính Việt Nam Cộng hòa trấn giữ, diệt gần 500 lính, bắt sống 104 lính khác và bắn rơi 9 máy bay.
Ở mặt trận bắc Tây Nguyên đầu tháng 4-1968, Sư đoàn 1 từ hướng đường 18 - Plây Cần hành quân sang hướng tây Kon Tum đánh quân Mỹ nống ra các khu vực Chư Tang Kra, Chư Mo, Chư Tô Bla, Chư B, tỉnh lộ ba tỉnh. Sáng ngày 9-5, một đoàn xe cơ giới Mỹ chạy trên đường 14 (Plâycu - Kon Tum) bị lực lượng vũ trang Gia Lai phục kích diệt tám chiếc. Ngày 28-5, Trung đoàn 95 đánh đoàn xe quân sự Mỹ trên đường 19 (An Khê - Măng Giang) diệt 20 chiếc (có 5 xe tăng, xe bọc thép). Nửa tháng sau cũng trên đoạn đèo này, Trung đoàn 95 phục kích diệt 25 xe, loại khỏi vòng chiến đấu gần 100 lính. Tổng kết lại, Suốt trong hai tháng 5 và 6, với các hình thức tác chiến phục kích, tập kích, vận động tiến công kết hợp chốt, Sư đoàn 1 đã loại khỏi vòng chiến đấu 1.160 lính, bắn rơi 72 máy bay, phá huỷ 42 xe quân sự.
Cuộc tổng tiến công giai đoạn hai đợt 2 kéo dài đến ngày 13-6 kết thúc. Với tinh thần "đợt sau cao hơn đợt trước", các tiểu đoàn "cảm tử" của quân Giải phóng đã gây nhiều bất ngờ về chiến thuật và khả năng chiến đấu thọc sâu trong thành phố, tiếp tục gây nhiều thiệt hại cho quân Mỹ - Việt Nam Cộng hòa. Mặc dù vậy, các đơn vị bộ đội chủ lực, lực lượng vũ trang địa phương phải chiến đấu trong khi yếu tố bí mật không còn, đối phương tăng cường triển khai đối phó, hầu hết các cuộc hành quân tiếp cận đều bị ngăn chặn, nhiều đơn vị không đến được mục tiêu trên giao.
Chiến sự Đợt 3.
Sau 2 đợt của cuộc tổng tiến công, song song với việc tìm cách làm "yên lòng" dư luận thế giới và nhân dân Mỹ, tại miền Nam Việt Nam, Mỹ tìm mọi cách tăng cường sức mạnh quân sự hòng giành lại thế chủ động trên chiến trường. Một mặt, Mỹ ráo riết thực hiện kế hoạch "bình định cấp tốc" ở nhiều vùng nông thôn rộng lớn, ra sức bắt lính, đôn quân, tiếp tục chiến tranh. Chỉ tính từ ngày 19 tháng 6 năm 1968, khi Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh tổng động viên đến cuối năm 1968, chính quyền Sài Gòn chẳng những bù đắp đủ cho số quân đã mất, mà còn nâng tổng quân số từ 552.000 (11 sư đoàn, 11 trung đoàn) trong năm 1967 lên 555.000 (12 sư đoàn, 9 trung đoàn) vào cuối tháng 12 năm 1968.
Cùng với gia tăng quân Việt Nam Cộng hòa, Mỹ đã chuyên chở một khối lượng lớn vũ khí, đạn dược, phương tiện chiến tranh hiện đại vào Nam Việt Nam để bù đắp số mất mát, hư hỏng qua hai đợt tổng tiến công và nổi dậy, đồng thời thay thế một số chủng loại vũ khí cũ bằng vũ khí hiện đại hơn. Đến cuối năm 1968, tại Nam Việt Nam đã có 535.000 lính Mỹ và 65.791 lính thuộc quân đội các nước phụ thuộc Mỹ, được biên chế trong 9 sư đoàn, 5 lữ đoàn quân Mỹ, 2 sư đoàn và 3 trung đoàn quân các nước phụ thuộc.
Về phía quân Giải phóng miền Nam, qua hai đợt tổng tiến công liên tục Tết và tháng 5 lực lượng và vũ khí, đạn dược đã bị tổn thất lớn, chưa kịp bổ sung. Bên cạnh đó, lực lượng bí mật ém trong nội thành và phần lớn cơ sở - nơi cất giấu vũ khí, trang bị, chỗ đứng chân, nơi xuất phát tiến công cho các đợt tiến công tiếp sau đã bị lộ, bị đánh phá mất gần hết. Tại Sài Gòn, mặc dù thời cơ đã mất, nhưng "Không khí tổng công kích - tổng khởi nghĩa vẫn còn, nhưng có kèm theo tâm lý cay cú ở một số đồng chí muốn tấn công vào Sài Gòn như hai đợt trước". Ở mặt trận Quảng - Đà (Khu V) và một số mặt trận khác, do còn giữ được thế và lực còn mạnh, nên Bộ Tư lệnh Khu V đã đề nghị Trung ương cho mở tiếp đợt 3 tổng tiến công và nổi dậy. Ngược lại, cũng có nhiều nơi xin tạm dừng tiến công để xốc lại đội hình, bổ sung, củng cố lực lượng, vũ khí trang bị.
Sự kiện đáng chú ý trong giai đoạn này là việc chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh đã kết thúc với việc quân Mỹ tại Khe Sanh đã bị buộc phải phá hủy căn cứ và rút chạy khỏi đây do sức ép của quân Giải phóng. Cuộc rút quân được diễn ra bí mật, nhưng cuối cùng vẫn bị lộ ra và bị báo chí Mỹ đưa tin rầm rộ. Vụ việc này góp phần khuếch đại thành công chiến lược, đẩy mạnh phong trào phản chiến tại Mỹ và cũng làm tăng khí thế cho quân Giải phóng.
Nhằm thống nhất chủ trương hoạt động trên chiến trường, ngày 24 và 25-7-1968, Thường trực Quân uỷ Trung ương, gồm: Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng, Song Hào, Trần Quý Hai họp bàn kế hoạch hoạt động trong Đông - Xuân (1968 - 1969). Ngoài ra, Thường trực Quân uỷ Trung ương còn mời thêm Hoàng Anh, Lê Trọng Tấn, Trần Sâm, Đinh Đức Thiện, Nguyễn Đô
Bộ Chính trị xác định:" "Để tạo ra bước ngoặt cho cách mạng miền Nam trong năm 1968, cần phải cố gắng diệt cho được 70 - 80% lực lượng dự bị chiến lược của Mỹ - ngụy"." Đánh mạnh vào Sài Gòn, còn ở Đà Nẵng thì tuỳ theo khả năng mà đánh ở quy mô thích hợp. Song, dù thế nào cũng phải đẩy mạnh hoạt động ở nông thôn để tạo điều kiện cho đánh lâu dài. Đồng thời, đưa lực lượng dự bị chiến lược vào đứng chân ở Tây Nguyên chờ thời cơ. Để tránh bị bất ngờ, đại tướng Võ Nguyên Giáp đề nghị: phải có phương án dự kiến thời cơ đến trước trong kế hoạch hoạt động Đông - Xuân. Mục tiêu của đợt 3 Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 vẫn được Bộ Chính trị xác định: chiến trường Sài Gòn, Gia Định và miền Đông Nam Bộ, Khu V là hướng phối hợp, trọng điểm là Quảng Đà. Thời gian nổ súng được ấn định vào ngày 17-8, kết thúc vào ngày 28-9-1968.
Thực hiện quyết định của Bộ Chính trị và Trung ương Cục miền Nam, mặc dù yếu tố bí mật, bất ngờ không còn, song lực lượng pháo binh, đặc công, biệt động đã phối hợp đồng loạt tiến công trên 27 thành phố và thị xã, hơn 100 thị trấn, quận lỵ, chi khu quân sự, 47 sân bay các loại, 3 tổng kho hàng hoá quân sự 6 bộ tư lệnh cấp sư đoàn của Mỹ và Sài Gòn.
Trên địa bàn Sài Gòn, Chợ Lớn và các tỉnh miền Đông Nam Bộ, sau khi chống trả với đợt Tổng tiến công và nổi dậy tháng 5, Mỹ đã tập trung 38 tiểu đoàn Mỹ, 4 tiểu đoàn quân các nước phụ thuộc Mỹ và 61 tiểu đoàn chủ lực Việt Nam Cộng hòa, tổng cộng 90.000 quân cùng lực lượng địa phương tại chỗ tổ chức hệ thống phòng thủ bảo vệ Sài Gòn, với chiều sâu khoảng 100 km, chia làm ba tuyến. Đứng trước tình hình này, Bộ Chính trị chấp nhận: trong đợt 3, trọng tâm tiến công được chuyển ra vòng ngoài, hướng chủ yếu là địa bàn hai tỉnh Tây Ninh và Bình Long, các địa bàn còn lại là hướng phối hợp. Riêng với nội đô Sài Gòn - Gia Định và các thành phố, thị xã khác chủ yếu sử dụng lực lượng pháo binh và biệt động, đặc công bí mật luồn sâu tập kích vào các mục tiêu quan trọng, gây mất ổn định trong các cơ quan chỉ huy đầu não của địch; đồng thời, đưa cán bộ thâm nhập vào nội thành củng cố, ráp nối lại các cơ sở cũ, xây dựng thêm các cơ sở mới, từng bước củng cố lại phong trào.
Ngày 17-8-1968, chiến dịch chính thức mở màn. Tại hướng chủ yếu, các trận tiến công của quân Giải phóng diễn ra như ý định và phát triển tốt. Điển hình là ngay trong đêm 17, Trung đoàn 3 (thiếu một tiểu đoàn) thuộc Sư đoàn 9 bất ngờ tập kích cụm cứ điểm Trà Phí, loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 400 lính Mỹ, phá huỷ, phá hỏng 31 xe cơ giới các loại và 6 khẩu pháo. Trên trục đường số 22, Trung đoàn 33 (Sư đoàn 5) tổ chức phục kích đánh ba trận liên tục đạt kết quả tốt; trong đó nổi bật nhất là trận ngày 19-8, Trung đoàn diệt một tiểu đoàn bộ binh cơ giới và phá 57 xe bọc thép Mỹ.
Tiếp đó, đêm 21-8, cùng lúc Trung đoàn 3 (Sư đoàn 9) tập kích căn cứ Mỹ tại Trà Phí lần thứ hai, loại khỏi vòng chiến đấu một tiểu đoàn bộ binh cơ giới, phá huỷ, phá hỏng 96 xe quân sự các loại, 14 khẩu pháo và bắn rơi 4 máy bay lên thẳng của Mỹ; Trung đoàn 5 (Sư đoàn 5) tập kích cụm cứ điểm Chà Là lần thứ nhất, diệt hàng trăm Mỹ, bắn cháy, phá hỏng 140 xe quân sự các loại và 13 khẩu pháo, bắn rơi 1 máy bay.
Trên đà thắng lợi, đêm 22 rạng ngày 23-8, Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 33, Sư đoàn 5) tập kích cụm xe quân sự Mỹ ở suối Ông Hùng, phá huỷ 60 xe quân sự, bắn rơi 4 máy bay, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm lính. Ngày 2-8, Trung đoàn 88 (thiếu một tiểu đoàn) tổ chức phục kích trên đường 22 (đoạn từ Đá Hàng đến Vên Vên thuộc huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh) đánh thiệt hại nặng một đoàn xe cơ giới 147 chiếc (trong đó có 33 xe tăng và xe bọc thép, 15 xe Jeép), loại khỏi vòng chiến đấu 400 lính.
Cũng trong khoảng thời gian trên, trên hướng thứ yếu chiến dịch ở tỉnh Bình Long, các đơn vị của Sư đoàn bộ binh 7 đã tiến công Chi khu quân sự Lộc Ninh. Mỹ đưa Trung đoàn 11 thiết giáp và một bộ phận quân của Sư đoàn 1 bộ binh Mỹ đến ứng cứu, giải toả. Do vậy, Sư đoàn 7 phải cùng lúc vừa tổ chức tiến công chi khu, vừa đánh quân địch đến ứng cứu, giải toả, chưa tiêu diệt được mục tiêu đặt ra là Chi khu quân sự Lộc Ninh.
Sau một thời gian liên tục chiến đấu, đêm 31-8, quân Giải phóng quyết định kết thúc bước 1 chiến dịch trên cả hai hướng. Mỗi trung đoàn chỉ để lại một tiểu đoàn để tổ chức "đợt hoạt động đệm", đại bộ phận còn lại rút ra phía sau củng cố, chấn chỉnh, bổ sung quân số, trang bị, vũ khí đạn dược, chuẩn bị cho đợt 2 chiến dịch.
Ngày 12-9, Trung đoàn 2 (Sư đoàn 9) tập kích cụm quân Mỹ tại Lâm Vồ lần thứ hai, làm thiệt hại nặng một tiểu đoàn bộ binh cơ giới hỗn hợp, phá huỷ, phá hỏng 58 xe quân sự (trong đó có 39 xe bọc thép), 14 khẩu súng cối, bắn rơi 7 máy bay. Cùng ngày, trên mặt trận đường 22, Trung đoàn 88 (Sư đoàn 5) tổ chức phục kích và đánh phản kích, loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 350 lính, 46 xe quân sự các loại, bắn rơi 6 máy bay lên thẳng.
Tại thị xã Tây Ninh, ngay từ đêm 10-9, các đơn vị lực lượng vũ trang tỉnh, các đội biệt động, đặc công, trinh sát Miền và Tiểu đoàn 5 (Trung đoàn 2) đã đồng loạt nổ súng tiến công tiêu diệt một số mục tiêu quan trọng trong nội và ngoại thị, gây sự hoang mang dao động mạnh về tinh thần trong nội bộ quân Việt Nam Cộng hòa ở tỉnh Tây Ninh.
Sau gần 20 ngày liên tục giữ thế chủ động bằng các chiến thuật: phục kích, tập kích, đánh bồi, đánh nhồi vào các cụm quân, tiêu hao, tiêu diệt được một bộ phận quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ, hoàn thành cơ bản các mục tiêu chiến dịch đặt ra, ngày 28-9-1968, quân Giải phóng đã chủ động kết thúc đợt 2, cũng là kết thúc toàn bộ chiến dịch. Tổng kết thành quả giành được sau 43 ngày đêm chiến đấu liên tục của chiến dịch Tây Ninh - Bình Long (từ ngày 17-8 đến 28-9-1968), các sư đoàn 5, 7, 9 chủ lực Miền và du kích Tây Ninh, Bình Long đã đánh 315 trận (có 53 trận cấp tiểu đoàn, 16 trận cấp trung đoàn), loại khỏi vòng chiến đấu 13 tiểu đoàn, 55 đại đội, tiêu hao nặng 7 tiểu đoàn thuộc các sư đoàn 1 và 25 bộ binh cơ giới Mỹ, một số đơn vị thuộc lực lượng tổng trù bị chiến lược Việt Nam Cộng hòa và nhiều đơn vị biệt kích, bảo an tại chỗ; loại khỏi vòng chiến đấu 18.406 lính, phá huỷ 1.507 xe quân sự, 112 máy bay, 107 khẩu pháo, thu được 24 máy vô tuyến điện, 282 súng các loại.
Song những thắng lợi trong đợt 3 ở miền Đông cũng không làm thay đổi được tình hình nhiều, vì lực lượng quân Giải phóng bị tổn thất nặng. Cuối năm 1968, sau ba đợt tiến công liên tục quân số, vũ khí đạn dược đã cạn kiệt, những bộ phận còn lại của các đơn vị được lệnh rút lên các căn cứ để củng cố và bổ sung quân số. Nhưng để lên được căn cứ, cán bộ và chiến sĩ phải tiếp tục đột phá mở đường qua các tuyến phòng thủ bảo vệ Sài Gòn từ xa của Mỹ với chiều sâu hàng trăm km của quân Mỹ, nên lực lượng lại tiếp tục bị tiêu hao thêm.
Ở Khu 5, đúng ngày 17-8, tiểu đoàn công binh quân Giải phóng đánh sập 3 cầu trên đèo Hải Vân, các tiểu đoàn bộ binh và đặc công cùng lực lượng vũ trang Hoà Vang tấn công một loạt căn cứ, trong đó có bãi xe Cẩm Bình, bãi xe Kim Liên, chiếm khu phố Cẩm Lệ, uy hiếp quận lỵ Hoà Vang. 1 tiểu đoàn bộ binh tấn công căn cứ biệt kích Nùng ở chân núi Non Nước. Đêm 22-8, sư đoàn 2 chủ lực quân khu và các lực lượng đặc công, pháo cối đồng loạt tấn công thành phố Đà Nẵng, thị xã Hội An, Tam Kỳ và các thị trấn, quận lỵ Hoà Vang, Vĩnh Điện. Sân bay Đà Nẵng bị pháo kích dữ dội, nhiều máy bay bị phá hủy, nhiều lính Mỹ bị giết. Kho xăng ESSO bị pháo kích bốc cháy đến 10 giờ sáng, tiêu hủy 6 triệu lít xăng. Đêm 16-11, quân Giải phóng lại tấn công căn cứ hải quân, sân bay Đà Nẵng và nhiều vị trí khác trong thành phố.
Nhìn lại diễn biến và kết quả của đợt 2 và đợt 3 Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, Trung ương Đảng Lao động nhận định: ""Chúng ta đã mắc một số khuyết điểm, chủ quan trong việc đánh giá tình hình cho nên đã đề ra yêu cầu chưa thật sát với tình hình thực tế lúc đó nhất là không kịp thời kiểm điểm và rút kinh nghiệm ngay, nhằm đánh giá lại tình hình và có chủ trương chuyển hướng kịp thời", nên để mất đất, mất dân, lực lượng vũ trang, cơ sở cách mạng và vật chất chiến tranh bị tổn thất nghiêm trọng, gây những khó khăn rất lớn cho phong trào đấu tranh năm 1969; song, thắng lợi trong đợt 2 và 3 tổng tiến công và nổi dậy cũng rất lớn, ta không chỉ tiêu diệt được một lực lượng chiến lược của Mỹ - ngụy, mà điều quan trọng là ta đã đánh bồi liên tiếp, đập tan ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc Tổng thống Mỹ Giônxơn phải tuyên bố chấm dứt hoàn toàn cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, chấp nhận đoàn đại biểu của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam là một trong bốn thành viên chính thức tham gia hoà đàm tại Paris. Những thắng lợi này góp phần cho ta thế mạnh chủ động đấu tranh ở Hội nghị Paris.""
Cuộc tổng tiến công Mậu Thân 1968 đã dẫn đến các kết quả chính trị và quân sự cho cả thời kỳ 1969-1971, cũng như tạo nên bước ngoặt chiến lược cho toàn cuộc chiến ở Việt Nam.
Ngay trong đợt 1, Quân Giải phóng đã đánh vào 4/6 thành phố lớn, 37/44 thị xã và hàng trăm thị trấn, quận lỵ ở miền Nam. Hầu hết các cơ quan đầu não từ trung ương tới địa phương của Mỹ và chính phủ Sài Gòn bị tiến công. Quân giải phóng đã đánh vào trụ sở 4 bộ tư lệnh quân đoàn, 8/11 bộ tư lệnh sư đoàn, hai bộ tư lệnh biệt khu của quân lực VNCH, hai bộ tư lệnh dã chiến Mỹ cùng nhiều bộ tư lệnh lữ đoàn, trung đoàn, các tiểu khu, chi khu và hàng trăm căn cứ quân sự, kho tàng, sân bay, bến cảng, đường giao thông huyết mạch
Trong 3 đợt của cuộc tấn công, quân Giải phóng đã gây cho quân Mỹ và đồng minh những thiệt hại lớn. Theo các thông cáo chính thức của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam thì trong cả năm 1968 họ đã loại ra khỏi vòng chiến 630.000 quân đối phương cả Mỹ - Việt Nam Cộng hòa lẫn đồng minh, 13.000 xe cơ giới, 1.000 tàu chiến, 700 kho đạn, 15.000 đồn bót; trong đó riêng 2 tháng đợt 1 đã tiêu diệt được 147.000 quân đối phương.
Tài liệu Hoa Kỳ xác nhận chỉ riêng trong tháng 2 và tháng 3/1968, quân Mỹ và đồng minh đã có 44.990 người chết hoặc bị thương (quân đội Sài Gòn tổn thất 20.977 quân, trong đó 4.909 chết; quân Mỹ và một số nước đồng minh của Mỹ bị tổn thất 24.013 quân, trong đó 4.124 chết); ngoài ra còn có hơn 3.500 quân mất tích (bị bắt hoặc chết mất xác). Về trang bị, vài trăm xe tăng - xe thiết giáp, 552 máy bay bị phá hủy hoặc hư hại nặng. Năm 1968 trở thành năm đẫm máu nhất đối với quân viễn chinh Mỹ tại Việt Nam với 16.511 lính chết, 87.388 bị thương chưa kể vài trăm lính mất tích. Còn theo "Sổ tay sự kiện chiến tranh Việt Nam", năm 1968 "là năm gia tăng ghê gớm số thương vong của quân Mỹ ở miền nam, bằng một nửa tổng số thương vong của tất cả các năm trước gộp lại: 30.610 so với 16.201", tuần lễ từ ngày 10 đến ngày 17-2-1968 đã có 543 lính Mỹ thiệt mạng, là một trong những tuần thương vong cao nhất trong toàn bộ cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam Đối với quân lực Việt Nam Cộng hòa thì đây là năm đẫm máu thứ 2 (chỉ sau năm 1972) với 28.800 lính thiệt mạng và 172.512 bị thương chưa kể mất tích. Nhiều đơn vị tinh nhuệ của quân đội này phải mất 1 năm để tái huấn luyện bổ sung tổn thất. Như vậy tổng thương vong của quân đội Mỹ và đồng minh trong năm 1968 là khoảng 310.000 theo thống kê của chính họ, khiến năm 1968 trở thành năm có thương vong cao nhất cho Mỹ và đồng minh trong toàn cuộc chiến.
Giao tranh ác liệt khiến tỷ lệ thương vong hoặc đào ngũ của quân Việt Nam Cộng hòa trong năm 1968 đạt tới mức cao nhất cho đến trước năm 1975. Do thương vong hoặc đào ngũ, các tiểu đoàn bộ binh của Việt Nam cộng hòa trong hai tuần đầu của tháng 2 chỉ có một nửa số quân, các lực lượng biệt động lại còn thấp hơn. Bốn trong chín tiểu đoàn không vận không còn hiệu lực chiến đấu. Vào cuối năm 1968, các cố vấn Mỹ xếp hạng 2 sư đoàn Việt Nam Cộng hòa là "cực kỳ kém", 8 sư đoàn chỉ ở mức "khá lên" và chỉ một sư đoàn là "giỏi" Binh sĩ Mỹ trên chiến trường Việt Nam cũng bước vào thời kỳ "thoái chí", từ năm 1968 đã phổ biến tình trạng lính Mỹ sử dụng ma túy, chống lệnh, vô kỷ luật, kể cả việc tự phá hoại vũ khí hoặc tấn công sĩ quan chỉ huy bằng lựu đạn
Tuy nhiên, để đạt kết quả trên, quân Giải phóng cũng chịu thương vong 111.306 người, trong đó 44.824 người hy sinh và 4.511 mất tích. Số hy sinh chia theo địa bàn như sau: Đường 9 - 3.994, Trị Thiên - 4.862; Đồng bằng Khu 5 - 10.732; Tây Nguyên - 3.436; Khu 6 - 1.254; Khu 10 - 440; Đông Nam Bộ - 14.121; Khu 8 - 2.484; Khu 9 - 3.501 Tuy về số học thì quân Giải phóng bị thương vong ít hơn đối phương, nhưng vì quân Mỹ và đồng minh vượt trội 4 lần về quân số (1,2 triệu so với chưa đầy 300 ngàn), do đó tỷ lệ thương vong của quân Giải phóng là lớn hơn (tỷ lệ thương vong là 1/3 quân số so với 1/5 của đối phương). Về tổn thất vũ khí cũng tương tự, dù quân Mỹ có mất hàng trăm máy bay, xe tăng nhưng vẫn có thể được bổ sung nhanh chóng từ kho vũ khí khổng lồ của họ, trong khi đó thì quân Giải phóng rất thiếu thốn vũ khí và chỉ trông chờ vào những chuyến hàng tiếp tế khó khăn từ miền Bắc, dù họ chỉ mất một khẩu súng cối thì cũng đã khó bù đắp được.
Sau tổng tiến công Mậu Thân, vùng kiểm soát của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam bị thu hẹp. Quân Giải phóng bị đánh bật khỏi vùng đô thị và suy yếu trầm trọng: các đơn vị quân sự suy yếu, nhiều lực lượng chính trị bị lộ, thương vong cao hơn hẳn các năm trước, phải đến năm 1970 lực lượng của họ mới hồi phục lại được. Do các tổ chức chính trị ngầm chuyên vận động nhân dân đã bị lộ nên trong năm 1969, tại nhiều nơi trên chiến trường, quân Giải phóng bị mất nguồn tiếp tế từ nhân dân. Họ phải rút về miền nông thôn, rừng núi hoặc phải sang ẩn tránh tại các vùng bên kia biên giới Lào và Campuchia. Do khó khăn về tiếp tế, đã có ý kiến trong giới lãnh đạo của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và ở Hà Nội đề nghị giải tán các đơn vị cỡ sư đoàn, quay về lối đánh cấp trung đoàn trở xuống.
Chiến trường miền Nam trở nên yên tĩnh. Trong 2 năm sau Mậu Thân, từ 1969 đến đầu 1970, là thời gian quân đội Hoa Kỳ và Quân lực Việt Nam Cộng hòa chủ động tiến công tìm diệt quân Giải phóng, đồng thời thực hiện chiến dịch Phượng Hoàng, nhằm bình định và triệt phá phong trào chính trị của Mặt trận Dân tộc Giải phóng ở nông thôn và thành thị. Vai trò đấu tranh chính trị của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam từ nay suy giảm đi nhiều vì các hệ thống cơ sở chính trị của họ bị phá và với sự ác liệt của chiến tranh ở giai đoạn này không cho phép họ tụ tập dân chúng để đưa ra yêu sách chính trị..
40 năm sau sự kiện Tết Mậu Thân, tướng Lê Khả Phiêu lúc đó là chính uỷ kiêm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 9, đơn vị chủ lực đánh vào thành Huế và giữ Huế 25 ngày, hồi tưởng: "Sau chiến dịch Mậu Thân 1968, chúng tôi ở chiến trường lao đao mất 2 năm rưỡi, đến năm 1971 ta mới có được những chuyền biến tích cực. Vinh quang có thật, tinh thần chiến đấu thì anh dũng tuyệt vời, nhưng đúng là có khó khăn. Giữ được Huế 25 ngày như thế đã là "ghê" lắm rồi. Khi rút ra ngoài, cả trung đoàn chỉ còn đúng 5 cân gạo.".
Tuy nhiên, Trung tướng Nguyễn Trung Thu, Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam khẳng định quân Giải phóng đã đạt thành công chiến thuật khi đã đánh thiệt hại nặng quân đối phương:
"Muốn thắng về chính trị thì phải thắng về quân sự trước. Chỉ khi nào thắng về chiến thuật mới thắng được về chiến dịch và đi tới thắng lợi chiến lượ, nói ta thua về mặt chiến thuật là chẳng đúng chút nào. Tất cả các thành phố, đô thị, những nơi chính quyền và các vị trí trú quân của Mỹ - ngụy ở miền Nam Việt Nam đều bị đánh, có nơi quân Mỹ bị đánh thiệt hại rất nặng, việc đó làm cho tinh thần binh lính địch suy sụp, rệu rã. Thử hỏi, nếu không có những trận chiến đấu thành công thì làm sao có được kết quả thay đổi sau này. Việc cho rằng ta thua về chiến thuật trong Tết Mậu Thân 1968 là phi lý và mang tính chất bảo thủ, không dám thừa nhận thất bại mà thôi".
Về chiến lược, chính trị và ngoại giao.
Trong các đợt cao trào, lực lượng vũ trang tại chỗ Quân giải phóng miền Nam cũng đã phát động nổi dậy tại nhiều nơi, giáng một đòn nặng vào hệ thống chính quyền cơ sở Việt Nam Cộng hòa ở nông thôn. Trong đợt Tết, phối hợp với đòn tiến công quân sự đánh vào các đô thị, Quân giải phóng đã tổ chức nổi dậy và kiểm soát thêm 1.600.000 dân, 100 xã, hơn 600 ấp chiến lược, dinh điền. Chương trình "bình định" của Hoa Kỳ tan vỡ từng mảng. Văn phòng hệ thống phân tích tình hình thuộc Lầu Năm Góc thì đánh giá: ""Cuộc tiến công (Tết) hình như đã vĩnh viễn giết chết chương trình (bình định)"." Chiến lược chiến tranh cục bộ của Hoa Kỳ đã phá sản sau đợt tấn công Tết.
Thành công của Tết Mậu Thân đã giáng một đòn quyết liệt vào uy thế của quân đội Mỹ trên chiến trường Việt Nam, làm suy giảm vị trí và ảnh hưởng của chính quyền và quân đội Sài Gòn cả ở thành thị lẫn nông thôn, khiến cho giới lãnh đạo cao cấp Hoa Kỳ phải bàng hoàng, sửng sốt. Thượng nghị sĩ Robert Kennedy đã phải thốt lên rằng: "Tại sao nửa triệu lính Mỹ, có 70 vạn lính Nam Việt Nam cộng tác, có ưu thế hoàn toàn trên không và ngoài biển, được cung cấp quá đầy đủ và được trang bị những vũ khí hiện đại nhất lại không có khả năng bảo vệ được thành phố khỏi bị đối phương tấn công". Bộ Quốc phòng Mỹ khi tổng kết chiến tranh Việt Nam đã thừa nhận: "Nhờ nghiên cứu các phương pháp và thói quen có thể dự đoán được của Mỹ mà đối phương đã vạch ra kế hoạch nghi binh và phân tán chiến lược của họ. Trái lại sự hiểu biết của Mỹ về đường lối chiến lược của địch là nông cạn và chủ quan hơn"
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đúc kết: "Đường lối của chúng tôi không chỉ đơn thuần là quân sự, mà là một chính sách tổng thể, kết hợp toàn diện cả quân sự-chính trị-ngoại giao. Cuộc tiến công Mậu Thân có ý nghĩa cả về quân sự và chính trị"
Cuộc tổng tiến công đã làm dư luận Mỹ thấy rằng việc đưa quân tham chiến với nỗ lực cao đã gây căng thẳng trong xã hội Mỹ, phúc lợi giảm sút, gây nhiều hệ lụy xấu cho xã hộ, và trong tương lai chiến tranh không biết sẽ kéo dài đến bao giờ. Điều này đưa đến kết luận là Hoa Kỳ không thể thắng được trong cuộc chiến này. Sau này, trong hồi ký, Lyndon B. Johnson xác nhận: Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân là ""một sự choáng váng đối với tất cả người Mỹ"," ""cố gắng của đối phương đã gây ra một hậu quả tác động xấu đến một số người trong và ngoài Chính phủ", nhân dân Mỹ và một số nhân vật trong chính quyền bắt đầu nghĩ rằng chúng ta đã thất bại""
Quy mô của cuộc tiến công làm dư luận Hoa Kỳ mất kiên nhẫn và tin tưởng với giới quân sự, họ đòi chấm dứt chiến tranh mang quân về nước. Một mặt họ thiếu niềm tin vào hiệu quả của quân đội, mặt khác các hành động bạo lực mất nhân tính được trình chiếu trên TV đánh vào lương tâm công chúng ("Xem Thảm sát Mỹ Lai, Thảm sát do đơn vị Lực lượng Mãnh Hổ"). Người dân Mĩ đòi hỏi phải chấm dứt chiến tranh ngay lập tức bởi họ coi chiến tranh là bẩn thỉu. Sau này, ngoại trưởng Henry Kissinger thừa nhận: "Các thế hệ tương lai có thể khó hình dung được cơn biến động trong nước mà chiến tranh Việt Nam gây , con em của họ và con em bạn bè của họ đã tham gia các cuộc biểu tì, vây quanh là đám người phản đối, đến tầng dưới của Nhà Trắng để được ngủ đôi chút"
Các chính trị gia trong Quốc hội Hoa Kỳ gây sức ép lên chính phủ đòi xem xét lại cam kết chiến tranh, đòi hủy bỏ uỷ quyền cho chính phủ tiến hành chiến tranh không cần phê chuẩn, thúc ép giải quyết chiến tranh bằng thương lượng. Ngay các nhà lãnh đạo chính phủ Hoa Kỳ cũng chia rẽ trong quan điểm sẽ làm gì tiếp theo. Các cố vấn hàng đầu của tổng thống và ngay Tổng thống Lyndon B. Johnson thoái chí đi đến kết luận không thể tăng quân thêm nữa theo yêu cầu của giới quân sự mà phải xuống thang, đàm phán. Giới lãnh đạo Mỹ công nhận: Tết Mậu Thân 1968 đã đặt họ "trước một bước rẽ trên đường đi, và các giải pháp để lựa chọn đã phơi bày trong một thực tế tàn nhẫn".
Nhà sử học Larry Berman nhận xét: "Tháng 1-1968, có 515.000 lính Mỹ, 1 triệu lính VNCH mà Sài Gòn vẫn không được bảo vệ. Tất cả người dân Mỹ đều nhìn thấy hình ảnh tòa đại sứ nằm dưới tầm lửa đạn trên tivi tại phòng khách mọi gia đình. Họ tự hỏi tại sao điều này lại có thể xảy ra. Tổng thống của chúng ta đã tuyên bố chúng ta đang đi đến khúc ngoặt của cuộc chiến và đang chuẩn bị giành thắng lợi đến nơi rồi. Cuộc tấn công tết bộc lộ ra cho người dân Mỹ thấy rằng toàn bộ cuộc chiến này dựa trên cơ sở của một lời dối trá"
Trung tướng Bernard Trainor, từng phục vụ ở Việt Nam hai lần, nhận xét: "Tôi thấy cuộc kháng chiến của Việt Nam có nét tương đồng với chiến tranh giành độc lập Hoa Kỳ. Cũng như các nhà cách mạng Mỹ thời đó, người Việt quyết chiến đến cùng. Những người dân Mỹ hồi đó đã đi tới một quyết định rằng độc lập là thiết yếu. Họ đặt cược tính mạng và của cải của mình vào sự nghiệp giành độc lậ, nhưng hy vọng này đã bị tan tành bởi thất bại của chính quyền Sài Gòn trong việc giành tín nhiệm của dân và chiến lược Tìm và diệt của Westmoreland. Về cơ bản đây là chiến lược tiêu hao sinh lự, rồi bóp vụn quân địch. Đây cũng là cách mà Westmoreland xúc tiến ở Việt Nam. Một cách làm võ biền. Có thể nói, Quân Giải phóng đã xoay triết lý chiến tranh tiêu hao chống lại chính Westmoreland. Chiến lược của người Việt là nhằm làm sao xói mòn sinh lực của quân Mỹ, cho tới khi công luận Mỹ xoay chuyển, chống lại chiến tranh. Chiến lược này đã thành công…".
Với sức ép của Tết Mậu Thân, cùng với việc thay Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng thống Mỹ còn cách chức William Westmoreland, Tổng chỉ huy quân Mỹ ở Việt Nam, đưa Abram lên thay (9-3-1968). Đồng thời, Johnson tuyên bố không ra tranh cử tổng thống nhiệm kỳ tiếp theo. Cũng từ sau Mậu Thân trở đi, quyền lực tiến hành chiến tranh của Tổng thống Hoa Kỳ càng ngày càng bị hạn chế bởi Quốc hội và dư luận trong nước và quốc tế. Chiến tranh Việt Nam đi vào giai đoạn mới, theo đó quân lực Việt Nam Cộng hòa sẽ phải tự chiến đấu mà không còn quân đội Mỹ bên cạnh - bởi chính phủ Mỹ đã quyết định rút dần quân viễn chinh về nước, và Việt Nam hóa chiến tranh là không thể tránh khỏi.
Ngày 31 tháng 3 năm 1968, Tổng thống Johnson tuyên bố chấm dứt ném bom miền Bắc Việt Nam, sẵn sàng đàm phán để chấm dứt chiến tranh, không tăng thêm quân theo yêu cầu của Bộ chỉ huy chiến trường và từ chối tranh cử nhiệm kỳ tới. Tổng thống Richard M. Nixon, thắng cử vì hứa sẽ chấm dứt chiến tranh, tuyên bố sẽ dần rút quân về nước và đàm phán với phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Vấn đề của Hoa Kỳ bây giờ không còn là tìm cách chiến thắng cuộc chiến nữa mà là rút ra như thế nào.
Tất cả những điều trên đã tạo cơ sở cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam khẳng định: dù phải hy sinh to lớn, nhưng họ đã đạt được mục tiêu của cuộc tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968. Một chiến thắng như vậy không còn trong phạm trù chiến thuật, mà mang tầm vóc thắng lợi chiến lược, nó tác động toàn diện đến tình hình quân sự, chính trị, tâm lý xã hội nước Mỹ. Đây là thắng lợi mang tính chiến lược của họ: Hoa Kỳ buộc phải xuống thang và tìm cách rút khỏi Việt Nam. Các lực lượng của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam suy yếu thì sẽ hồi phục lại, còn Hoa Kỳ một khi đã rút đi thì khó mà trở lại được.
Về sự kiện Tết Mậu Thân, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 21, tháng 10-1973, đã kết luận: ""Mặc dù có những khuyết điểm, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968) vẫn giữ một vị trí to lớn và oanh liệt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Đánh với đối tượng là một siêu cường có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh nhất trên thế giới thì không dễ gì chiến thắng mà ít tổn thất. Đó là sự hy sinh, tổn thất cần thiết để dẫn đến hoà bình. Ta có khuyết điểm, sai lầm, nhưng cái chính và điều quan trọng là ta đã chiến thắng"." Bộ Chính trị kết luận:
"Tết Mậu Thân thắng rất lớn, không phải chỉ ở chiến thuật mà nhất là đã đánh bại được ý chí xâm lược của Mỹ, tạo nên bước ngoặt quyết định của chiến tranh.".
Theo cách nói của Dean Rusk và Mc Namara, Mỹ đã "ý thức được rằng họ chẳng những không thắng được Việt Nam mà còn có thể thua to. Do đó Mỹ không còn cách thoát thân nào tốt hơn xuống thang chiến tranh và đề nghị đàm phán". Trong hồi ký, thủ tướng Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Cao Kỳ nhận địnhh:
"Số thương vong đã lên rất cao: khoảng 4.000 quân Mỹ bị chết cùng 5.000 quân Nam Việt Nam. Mặc dù sự việc trên thê thảm thế nào đi nữa, những tổn thất lớn lao nhất vẫn là niềm tự hào và uy tín nước Mỹ bị sa sút. Đối với người Mỹ, vụ tấn công Tết đã gây nên tất cả những nỗi kinh hoàng của một vụ Trân Châu cảng khác và lần đầu tiên người Mỹ đã nhận ra rằng họ sẽ không thể nào thắng nổi cuộc chiến tranh này. Đã có một sự tan vỡ đến mất hết niềm tin".
Các nhà sử học phương Tây cũng đánh giá rất cao vai trò bước ngoặt của cuộc Tổng tấn công trong cuộc chiến tại Việt Nam. Nhà sử học Merle L. Pribbenow nhận định:
Đánh giá về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ:
"Đó là thắng lợi của đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng ta, thắng lợi của lòng yêu nước nồng nàn và sức mạnh của toàn dân đoàn kết quyết chiến, quyết thắng giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc"
Mặt trận ngoại giao, thành quả phối hợp với chính trị-quân sự trong năm 1968.
Ngày 31-3-1968, Tổng thống Johnson phải tuyên bố: Đơn phương ngừng đánh phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra và chấp nhận đàm phán với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đây là bước nhượng bộ rất lớn của Mỹ bởi trước đó, họ luôn duy trì quan điểm cứng rắn: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải ngừng chiến đấu, rút quân Giải phóng miền Nam khỏi miền Nam Việt Nam thì mới có đàm phán hòa bình.
Cuối cùng, 2 bên lấy Paris làm địa điểm họp chính thức. Phiên họp đầu tiên được hai bên ấn định vào ngày 10-5-1968, phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cử Bộ trưởng Xuân Thủy làm Trưởng đoàn, Hà Văn Lâu làm Phó trưởng đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Hoa Kỳ cử Hariman và C.Vasner làm Trưởng đoàn và Phó trưởng đoàn đại biểu Chính phủ Mỹ. Hình thức họp là 4 bên tham gia: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam - Hoa Kỳ - Việt Nam Cộng hòa. Đây lại là bước nhượng bộ nữa của Mỹ bởi trước đó họ từ chối công nhận Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam và coi Việt Nam Cộng hòa là "chính phủ duy nhất của miền Nam Việt Nam". Tuy vậy, dù có 4 bên nhưng thực tế các phiên họp kín chỉ có 2 đoàn vốn thực sự nắm quyền điều khiển cuộc chiến là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Hoa Kỳ được tham dự.
Ngày 3-6-1968, Nguyễn Duy Trinh - Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, chỉ thị cho đoàn ở Paris: "Tiếp tục làm tốt việc đấu tranh công khai và chuẩn bị lúc nào thuận lợi thì vừa nói chuyện công khai vừa nói chuyện hậu trường"
Trong quá trình diễn biến các cuộc nói chuyện ở Paris, phía Mỹ đã thường xuyên thông báo tình hình cho chính quyền Sài Gòn, và Nguyễn Văn Thiệu luôn tỏ ra chấp nhận lập trường của phía Mỹ. Nhưng khi đạt được sự dàn xếp giữa Washington và Hà Nội thì lại nảy sinh sự bất hoà giữa Mỹ và Sài Gòn. Ngày 29-10-1968, Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn báo cáo về Mỹ cho biết Nguyễn Văn Thiệu không chấp nhận tham gia vào các cuộc thương lượng tại Paris với lý do: Thiệu còn phải xin ý kiến Quốc hội; không muốn Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được coi là một bên; cần giải quyết xong mọi thủ tục rồi mới họp. Mặc cho Việt Nam Cộng hòa phản đối, nửa đêm ngày 30-10, Trưởng và Phó đoàn Mỹ đến nơi ở của đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Paris để thông báo sẽ công bố lệnh chấm dứt ném bom tối 31-10, vào 7 giờ hay 8 giờ, giờ Washington ngày 31-10-1968.
Trải qua 28 phiên họp chính thức, 21 cuộc gặp riêng, bí mật, kiên quyết giữ đúng nguyên tắc, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đạt được hai yêu cầu cơ bản:
Nhân dịp này, ngày 3-11-1968, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi: ""Chúng ta đã đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc. Song đó chỉ mới là thắng lợi bước đầu. Đế quốc Mỹ rất ngoan cố và xảo quyệt. Chúng nói "hoà bình", "thương lượng" nhưng vẫn chưa chịu từ bỏ dã tâm xâm lược của chú, quyết tâm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc"".
Hãng thông tấn Reuters của Anh ngày 3-2-1968 bình luận: "Quy mô và tính chất ác liệt của các trận tấn công phối hợp ở Sài Gòn và ở các trung tâm chủ chốt khác tại Nam Việt Nam làm cho Mỹ và các nước đồng minh rất đỗi ngạc nhiên". Kế đó, ngày 5-2-1968 hãng này thống kê: "Mỹ có đến nửa triệu quân ở Nam Việt Nam, đã mất 13 năm và đã tiêu mỗi ngày 60 triệu đô la mà vẫn không bảo vệ được một tấc vuông đất nào ở miền Nam Việt Nam cả". Trong khi đó, báo Người quan sát (Anh) tỏ ra ngạc nhiên khi than rằng: "Người ta không thể tin là một tình hình như thế lại có thể xảy ra".
Báo Pháp "Thế giới" (Le Monde) ngày 1-2-1968 mỉa mai: "Người Mỹ đã từng khẳng định dân chúng Nam Việt Nam chịu đựng hơn là ủng hộ Mặt trận Dân tộc giải phóng, giờ đây liệu họ còn có thể nêu lên những lý lẽ như thế nữa không sau khi đã xảy ra một cuộc biểu dương đáng khâm phục về sức mạnh và lòng dũng cảm của Việt Cộng như vậy". Báo Chiến đấu ngày 1-2-1968 khẳng định: "Điều hiển nhiên là người Mỹ đã thua đứt về mặt chính trị trong cuộc chiến tranh này rồi. Những gì xảy ra ở Sài Gòn cũng đủ cho thấy Mặt trận Dân tộc giải phóng đã nắm được các tầng lớp dân chúng ở miền Nam Việt Nam trong mức độ lớn biết nhường nào".
Tờ Le Figaro (Pháp) ngày 2-2-1968 bình luận: "Cuộc tiến công lừng danh của Việt Cộng cho ta thấy trước hết cái tài tình của những người chỉ huy trong việc hướng dẫn cuộc chiến tranh vừa quân sự, vừa chính trị này. Về mặt đối nội, họ vừa thu được một thắng lợi lớn; họ chứng tỏ cho nhân dân Việt Nam thấy rằng, họ có thể đánh nơi nào và lúc nào cũng được hết. Họ làm cho chính phủ Sài Gòn và quân đội của chính phủ này trở thành một trò cười. Họ tăng cường sự kiểm soát của họ, và do đó, làm giảm bớt sự kiểm soát của chế độ Sài Gòn đối với dân thường, những người dân thường này thì đầy lòng kính nể và khâm phục đối với Mặt trận Dân tộc giải phóng".
Sự kiện Tết Mậu thân trong truyền thông.
Hai bài hát "Bài Ca Viết Cho Những Xác Người," và "Hát Trên Những Xác Người" được sáng tác năm 1968, sau khi Trịnh Công Sơn từ Huế trở về Sài Gòn. Những ngày diễn ra trận đánh tại Huế, Trịnh Công Sơn có mặt tại cố đô, chính ông cũng suýt chút nữa bị cuốn vào những biến cố trong tết Mậu Thân. Theo nhà văn Phạm Xuân Đài, hai bài ca mô tả những thi thể và những hình ảnh khốc liệt của chiến sự, được nhạc sĩ ghi lại trong vai trò của một nhân chứng.
Nhạc sĩ Anh Bằng có bài "Chuyện một đêm" tả nỗi đau của người mẹ có đứa con nhỏ chết do bị trúng đạn pháo vào dịp Tết Mậu Thân. Nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng thì có "Chuyện một chiếc cầu đã gãy" nhắc việc cầu Trường Tiền bị đánh sập trong trận chiến Mậu Thân tại Huế và bài "Những con đường trắng" nói lên cảnh tàn phá sau trận đánh 1968.
Bài hát "Dáng đứng Việt Nam" do nhạc sĩ Lê Anh Xuân sáng tác khi ông tham gia trong đội hình của mũi tấn công vào Sân bay Tân Sơn Nhất. Các chiến sĩ băng qua hàng rào thép gai đánh chiếm lô cốt địch, tràn vào sân bay phá hủy máy bay. Nhiều chiến sĩ bị thương vẫn chống trả lại kiên cường. Bài hát ca ngợi hình ảnh người chiến sĩ hiện lên thật oai hùng: "Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất/ Nhưng Anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng/ Và Anh chết trong khi đang đứng bắn/Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồ". Sau này, người chiến sĩ trong bài hát được xác định tên là Nguyễn Văn Sáu, cán bộ chỉ huy mũi tấn công. Anh sinh năm 1937, quê ở thôn Liên Hưng, xã Thành Hưng, huyện Thạch Thành, một huyện vùng núi của Thanh Hóa..
Bài hát "Cô gái Sài Gòn đi tải đạn" do nhạc sĩ Lư Nhất Vũ kể lại đã sáng tác sáng mùng 1 rạng mùng 2 Tết Mậu Thân (1968), sau khi ông đọc bài báo nói về các cô gái Sài Gòn tình nguyện rời gia đình, tham gia dân công hỏa tuyến, làm mọi việc, trong đó có vác đạn cho bộ đội. Ông rất cảm kích và xúc động trước sự việc này nên đã sáng tác ra bài hát với giai điệu trẻ trung, tiết tấu hơi nhanh (allégretto), diễn tả vẻ hồn nhiên, nhí nhảnh, sôi nổi của những cô gái tuổi đời còn rất trẻ, đã hăm hở xung vào đội quân tiếp đạn cho chiến trường
"Giải khăn sô cho Huế" (1969) của Nhã Ca đoạt Giải Văn chương Quốc gia Việt Nam Cộng hòa năm 1970 tái bản ở Hoa Kỳ năm 2008) tường thuật lại những biến động với người dân Huế trong cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân, những điều tác giả tuyên bố đã thấy tận mắt hoặc thu thập từ lời kể của những người khác. Hồi ký này được tiến sĩ sử học đại học Texas AM, Olga Dror dịch sang tiếng Anh với tựa "Mourning Headband for Hue" (2014) Tính xác thực của cuốn sách này là vấn đề gây nhiều tranh luận cho tới nay. Sau này, theo Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc Xuân, Nhã Ca công nhận là cuốn sách đã hư cấu nên nhiều chuyện về các nhân vật có thật, vu oan cho rất nhiều nhân sĩ, trí thức ủng hộ quân Giải phóng khiến họ phải chịu oan nhiều tiếng xấu về sau
Bà Nguyễn Thị Thanh Sung sinh năm 1949 tại An Cựu (Huế), cựu học sinh Đồng Khánh, năm 1974 theo chồng sang Mỹ định cư. Đầu thập niên 1990, bà cho xuất bản một hồi ký mang tên "Không Biên Giới". Hồi ký có 26 tiểu truyện. Trong một số tiểu truyện (số 16, 19, 23…) tác giả viết về sự tàn bạo của quân đội Mỹ-VNCH, riêng tiểu truyện số 6 tác giả dành riêng kể chuyện trả thù của quân Việt Nam Cộng hòa sau Tết Mậu Thân 1968. Gia đình bà Sung từng suýt chết vì bị 1 trái bom Mỹ ném trúng nhà, sau khi tái chiếm Huế thì quân Việt Nam Cộng hòa cho lùng tìm những người có tên trong sổ quyên góp cho quân Giải phóng rồi xử bắn họ, cha bà Sung cũng bị bắt nhưng vì may mắn nên thoát được vụ xử bắn
Màn chơi "The Defector" trong trò chơi lấy bối cảnh sự kiện Tết Mậu Thân ở Huế.
|
" Kim cương bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh " (zh. 金剛般若波羅密多經, sa. "vajracchedikā-prajñāpāramitā-sūtra"), là một bộ kinh quan trọng thuộc hệ Bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh, được lưu truyền rộng rãi vùng Đông Á. Kinh còn mang những tên ngắn khác là Kim cương kinh, " Kim cương bát-nhã kinh "
Hiện có sáu bản dịch của kinh này trong Hán tạng.
Phạn bản của kinh này đã được Edward Conze dịch và chú giải. Trong tất cả các bản Hán dịch thì bản của Cưu-ma-la-thập là nổi danh nhất, được dịch sang tiếng Việt nhiều nhất.
Tên Phạn "Vajracchedikā Prajñāpāramitā" đã được tìm thấy và xác nhận ở nhiều bản dịch, thứ nhất là bản Hán của Đạt-ma-cấp-đa, sau là bản dịch tiếng Tây Tạng và trong tác phẩm "Tập Bồ Tát học luận" của Tịch Thiên. Nhà Ấn Độ học Max Müller gọi ngắn là "Diamond Sutra", ta cũng thường gặp tên ngắn là kinh Kim cương. Nguyên nghĩa của tên Phạn là "Bài kinh về một loại Bát-nhã-ba-la-mật-đa [sắc bén] có khả năng cắt đứt cả kim cương".
Bộ kinh này bao gồm một cuộc đàm luận giữa Phật và tôn giả Tu-bồ-đề, và như đã thấy trong các bộ kinh Bát-nhã khác, nhiều đoạn văn được dùng để nhấn mạnh công đức khi hành giả trì tụng kinh này. Có lẽ đây là điểm then chốt giải thích sự phổ biến và ảnh hưởng lớn của kinh này tại Đông, Đông Nam Á.
Kinh văn chỉ tập trung vào một vài điểm giáo lý quan trọng và chúng được giải thích triệt để. Những điểm này cụ thể như sau:
1. Hành giả không nên nhìn nhận một "tự ngã" (sa. "ātman"), một "chúng sinh" (sa. "sattva"), một "linh hồn" (sa. "jīva", thọ mệnh giả) hoặc một "cá nhân" (sa. "pudgala", bổ-đặc-già-la) nào cả.
Tu-bồ-đề, chừng nào còn chúng sinh trong cõi chúng sinh, được tóm lại bằng từ "chúng sinh", hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ chỗ ẩm thấp, hoặc sinh từ sự biến hoá, hoặc có thân sắc, hoặc không có thân sắc, hoặc có thụ tưởng hoặc không có thụ tưởng, hoặc không có thụ tưởng mà cũng không phải không có thụ tưởng, chừng nào còn một ai có thể được nhận thức trong cõi chúng sinh được nhận thức — tất cả chúng sinh ấy đều được Ta dẫn đến cõi vô dư y niết-bàn. Dù đã dẫn vô lượng chúng sinh đến niết-bàn như thế nhưng không một chúng sinh nào được dẫn đến niết-bàn cả.
Vì sao? Tu-bồ-đề, vì được nói rằng: Nếu Bồ Tát còn có thụ tưởng "chúng sinh" thì ông ta không phải là Bồ Tát. Vì sao? Người mang thụ tưởng "tự ngã" — Tu-bồ-đề —, mang thụ tưởng "chúng sinh" hoặc mang thụ tưởng "sĩ phu" hoặc một thụ tưởng "bổ-đặc-già-la", người ấy không được gọi là Bồ Tát.
2. Hành giả không nên nhìn nhận bất cứ một pháp, một thật thể bên ngoài nào vì hoàn toàn không có một pháp nào có thể được nhận thức cả. Và dĩ nhiên, điều này cũng có giá trị cho một phi pháp.
तत् कस्य हेतोः। असंस्कृतप्रभाविता ह्यार्यपुद्गलाः।
Và Thế Tôn lại nói tiếp với Tôn giả Tu-bồ-đề: Ông nghĩ như thế nào Tu-bồ-đề? Có một pháp nào được Như Lai chứng đắc gọi là "Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác" hoặc có một pháp nào đó được Như Lai thuyết hay không?
Sau khi nghe hỏi như vậy, Tôn giả Tu-bồ-đề ứng đáp Như Lai như sau: Bạch Thế Tôn, như Con hiểu ý nghĩa của những gì Thế Tôn dạy thì không có pháp nào được Như Lai chứng đắc gọi là "Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác", không có một pháp nào đó được Như Lai thuyết dạy cả.
Vì sao? Vì ngay pháp được Như Lai chứng ngộ và thuyết giảng không thể nắm bắt và không thể thuyết giảng. Nó không phải pháp, cũng không phải phi pháp.
Vì sao? Vì các thánh nhân xuất hiện trên cơ sở vô vi.
3. Hành giả không nên để tâm lưu trú ở bất cứ nơi nào.
Thế nên, Tu-bồ-đề, Bồ Tát Ma-ha-tát nên phát triển một tâm thức không nương tựa, nên phát triển một tâm thức không nương tựa bất cứ nơi nào, nên phát triển một tâm thức không nương tựa vào sắc, nên phát triển một tâm thức không nương tựa vào thanh, hương, vị, xúc, pháp.
Tương truyền là khi nghe câu "nên phát triển một tâm thức không nương tựa, nên phát triển một tâm thức không nương tựa bất cứ nơi nào" (Ưng vô sở trụ nhi sinh kì tâm 應無所住而生其心) thì Lục tổ Huệ Năng có ngộ nhập, sau đó đến Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn thụ giáo.
Điểm nổi bật của kinh này là cách dùng phương pháp nghịch lý để trình bày vấn đề: Mỗi khái niệm được nêu ra đều có phần đối đãi tương ưng:
Tu-bồ-đề, Ông nghĩ thế nào, Như Lai có thể được thấy qua sự toàn hảo của sắc thân? Tu-bồ-đề nói: Thưa Thế Tôn, không thể được như vậy. Như Lai không thể được thấy qua sự toàn hảo của sắc thân. Vì sao? Thế Tôn, sự toàn hảo của sắc thân được Như Lai dạy dưới danh "sự toàn hảo của sắc thân" chính là "phi toàn hảo", thế mới được gọi là "sự toàn hảo của sắc thân".
Câu kệ cuối bài kinh nguyên văn tiếng Phạn có khác bản dịch của Cưu-ma-la-thập đôi chút. Phạn bản cho 9 vi dụ, trong khi bản Hán chỉ có 6:
Như sao đêm, như mắt loạn, như ngọn đèn, như huyễn thuật, như sương mai, như bọt nước, như cơn mộng, như ánh chớp, như đám mây — những gì hữu vi nên được quán chiếu như vậy.
"Nhất thiết hữu vi pháp"
"Như mộng huyễn bào ảnh"
"Như lộ diệc như điện"
"Ưng tác như thị quán".
Tất cả pháp hữu vi
Như mộng ảo,bọt nước
Như sương sa, điện chớp
Nên quán sát như vậy.
|
Trung Quốc (khu vực)
Trung Quốc (giản thể: 中国; phồn thể: 中國; Hán Việt: "Trung Quốc"; bính âm: "Zhōngguó"; Wade-Giles: "Chung-kuo"; ) là tổng hợp của nhiều quốc gia và nền văn hóa đã từng tồn tại và nối tiếp nhau tại Đông Á lục địa, từ cách đây ít nhất 3.500 năm. Trung Quốc ngày nay, có thể được coi như có một hay nhiều nền văn minh khác nhau, nằm trên một hay nhiều quốc gia khác nhau, sử dụng một hay nhiều ngôn ngữ khác nhau.
Với một trong những giai đoạn văn minh liên tục dài nhất của thế giới và hệ thống chữ viết tiếp tục được dùng cho đến ngày nay, lịch sử Trung Quốc đặc trưng bởi những chia tách và thống nhất lặp đi lặp lại qua các thời kỳ hòa bình xen kẽ chiến tranh, trên một lãnh thổ đầy biến động. Lãnh thổ Trung Quốc bành trướng ra xung quanh từ một vùng đất chính tại Bình nguyên Hoa Bắc và lan ra tận các vùng phía Đông, Đông Bắc, và Trung Á. Trong hàng thế kỷ, Đế quốc Trung Hoa cũng là một trong những nền văn minh với kỹ thuật và khoa học tiên tiến nhất, và có ảnh hưởng văn hóa lớn trong khu vực Đông Á.
Tuy nhiên từ thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, ảnh hưởng kinh tế, chính trị, quân sự của Trung Quốc giảm sút nhiều do tác động của sức mạnh phương Tây cũng như sức mạnh khu vực của Nhật Bản. Cuối thế kỷ XIX nhiều khu vực tại Trung Quốc đã bị cắt hoặc nhường cho nước ngoài làm tô giới, nhượng địa, thuộc địa và phần lớn nước này bị Nhật xâm chiếm vào Chiến tranh thế giới thứ hai và người Nhật đã tách lãnh thổ Mãn châu ra khỏi Trung Quốc, dựng nên chính phủ Mãn Châu Quốc. Chế độ quân chủ tại Trung Quốc chấm dứt và Trung Hoa Dân Quốc (THDQ) ra đời năm 1912 dưới sự lãnh đạo của Tôn Dật Tiên; tuy nhiên Trung Quốc trong suốt bốn thập kỷ của THDQ đã hỗn loạn vì kiểu lãnh đạo quân phiệt, Chiến tranh Trung-Nhật lần II và nội chiến giữa Quốc Dân Đảng và Cộng sản Đảng.
Đảng Cộng sản Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Mao Trạch Đông sau khi giành chiến thắng đã thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào năm 1949, đẩy chính phủ Trung Hoa Dân Quốc ra đảo Đài Loan là hòn đảo vốn thuộc quyền quản lý của họ sau khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai.
"Xem chi tiết về tên gọi "Trung Quốc" và "Trung Hoa" trong bài Các tên gọi của Trung Quốc."
Trung Quốc, có nghĩa là "quốc gia Trung tâm" hay "vương quốc ở trung tâm". Tên gọi này không chỉ mang ý nghĩa Trung Quốc ở giữa các nước khác mà còn thể hiện Trung Quốc là ở trung tâm "thiên hạ", có văn hóa và sức mạnh nổi trội hơn các dân tộc và quốc gia xung quanh.
Tên gọi Trung Quốc đã không được dùng thống nhất trong suốt lịch sử Trung Quốc, và thể hiện sắc thái văn hóa và chính trị. Vào thời Xuân Thu, nó được dùng để mô tả về mặt chính trị các nước xuất phát từ nhà Tây Chu, nằm trong châu thổ Hoàng Hà, không tính các nước như Sở dọc theo Trường Giang và Tần ở phía tây. Tuy nhiên vào thời nhà Hán, Sở và Tần kết nối vào Trung Quốc và được coi là một bộ phận của "Trung Quốc mới". Và theo dòng lịch sử, tên gọi này dần ổn định và chỉ toàn bộ lãnh thổ dưới sự cai trị của chính quyền đế quốc trung ương.
Tên gọi "Trung Quốc" trong các ngôn ngữ Tây phương.
Tiếng Anh và nhiều thứ tiếng khác dùng tên "China" (và tiền tố "Sino-"), mà nhiều người coi là tên xuất phát từ tên "nhà Tần" ("Qin") là triều đại đầu tiên đã thống nhất Trung Quốc, mặc dù vẫn còn nhiều chi tiết cần làm rõ thậm chí nguồn gốc của nó còn nhiều tranh cãi. Mặc dù thực tế nhà Tần chỉ tồn tại rất ngắn và thường bị coi là cực kỳ tàn bạo, nhưng nó đã xác lập một kiểu chữ viết thống nhất tại Trung Quốc và gọi người nắm quyền tối cao của Trung Quốc là "Hoàng đế". Kể từ thời nhà Tần trở đi, những thương nhân trên Con đường tơ lụa đã sử dụng tên gọi "China". Ngoài ra còn nhiều thuyết khác về nguồn gốc của từ này.
Trong bất kể trường hợp nào, từ "China" đã đi vào nhiều ngôn ngữ theo Con đường tơ lụa trước khi nó truyền tới châu Âu và nước Anh. Từ "China" của phương Tây đã được người Nhật chuyển tự thành Chi Na và dùng từ thế kỷ XIX, và trở thành một từ có tính chất tiêu cực trong tiếng Nhật.
Tên gọi "China" theo nghĩa hẹp chỉ Trung Quốc bản thổ, hoặc Trung Quốc bản thổ cùng với Mãn Châu, Nội Mông, Tây Tạng và Tân Cương, một kết hợp đồng nghĩa với thực thể chính trị Trung Quốc vào thế kỷ XX và XXI; biên giới giữa các khu vực này không nhất thiết phải đúng theo ranh giới các tỉnh Trung Quốc. Trong nhiều văn cảnh khác nhau, "Trung Quốc" thường được dùng để chỉ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa hay Đại lục Trung Quốc, trong khi "Đài Loan" được dùng cho Trung Hoa Dân Quốc. Bình thường, trong văn cảnh kinh tế hay kinh doanh, "Đại Trung Hoa địa khu" dùng để chỉ Đại lục Trung Quốc, Hồng Kông, Ma Cao và Đài Loan.
Các nhà Trung Quốc học thường dùng "Chinese" theo một nghĩa hẹp gần với cách dùng kinh điển của "Trung Quốc", hoặc để chỉ sắc dân "Hán", là sắc dân chiếm đại đa số tại Đại lục Trung Quốc.
Trong một số trường hợp thì tên gọi "Trung Quốc đại lục" rất thích hợp để chỉ Trung Quốc, đặc biệt khi để phân biệt với các khu vực có thể chế chính trị khác biệt như Hồng Kông, Ma Cao và các lãnh thổ do Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) quản lý.
"Bài chính: Lịch sử Trung Quốc, Lịch sử Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949; 1949-nay tại Đài Loan), Lịch sử Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (1949-nay)."
Trung Quốc là một trong những cái nôi văn minh nhân loại sớm nhất. Văn minh Trung Quốc cũng là một trong số ít các nền văn minh, cùng với Lưỡng Hà cổ (người Sumer), Ấn Độ (Văn minh lưu vực sông Ấn Độ), Maya và Ai Cập Cổ đại, tự tạo ra chữ viết riêng.
Triều đại đầu tiên theo các thư tịch lịch sử Trung Quốc là nhà Hạ; tuy nhiên chưa có bằng chứng khảo cổ học kiểm chứng được sự tồn tại của triều đại này (khi Trung Quốc tăng trưởng kinh tế và cải cách chính trị đồng thời có đủ nhân lực và trí lực để theo đuổi mạnh mẽ hơn nhằm minh chứng về một lịch sử cổ đại, có một số di chỉ đá mới được đưa ra cũng như một vài bằng chứng được gom lại theo thời gian, thể hiện rõ bản sắc, sự thuần nhất và niềm tự hào dân tộc, hay nói cách khác là thể hiện chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa đại Hán tộc). Triều đại đầu tiên chắc chắn tồn tại là nhà Thương, định cư dọc theo lưu vực Hoàng Hà, vào khoảng thế kỷ XVIII đến thế kỷ XII TCN. Nhà Thương bị nhà Chu lật đổ (thế kỷ XII đến thế kỷ V TCN), đến lượt nhà Chu lại bị yếu dần do mất quyền cai quản các lãnh thổ nhỏ hơn cho các công hầu bá tước; cuối cùng, vào thời Xuân Thu, nhiều nước chư hầu đã trỗi dậy và liên tiếp giao chiến, và chỉ coi triều đình nhà Chu là trung tâm quyền lực trên danh nghĩa. Cuối cùng Tần Thủy Hoàng đã thâu tóm tất cả các quốc gia và tự xưng là hoàng đế vào năm 221 TCN, lập ra nhà Tần, quốc gia Trung Quốc thống nhất về thể chế chính trị, chữ viết và có một ngôn ngữ chính thống đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc.
Tuy nhiên, triều đại này không tồn tại lâu do nó quá độc đoán và tàn bạo và đã tiến hành "đốt sách chôn nho" trên cả nước (đốt hết sách vở và giết những người theo nho giáo) nhằm ngăn chặn những ý đồ tranh giành quyền lực của hoàng đế từ trứng nước, để giữ độc quyền tư tưởng, và để thống nhất chữ viết cho dễ quản lý. Sau khi nhà Tần sụp đổ vào năm 207 TCN thì đến thời nhà Hán kéo dài đến năm 220 CN. Sau đó lại đến thời kỳ phân tranh khi các lãnh tụ địa phương nổi lên, tự xưng "Thiên tử" và tuyên bố Thiên mệnh đã thay đổi. Vào năm 580, Trung Quốc tái thống nhất dưới thời nhà Tùy. Vào thời nhà Đường và nhà Tống, Trung Quốc đã đi vào thời hoàng kim của nó. Trong một thời gian dài, đặc biệt giữa thế kỷ thứ VII và XIV, Trung Quốc là một trong những nền văn minh tiên tiến nhất trên thế giới về kỹ thuật, văn chương, và nghệ thuật. Nhà Tống cuối cùng bị rơi vào tay quân xâm lược Mông Cổ năm 1279. Đại hãn Mông Cổ là Hốt Tất Liệt lập ra nhà Nguyên. Về sau một thủ lĩnh nông dân là Chu Nguyên Chương đánh đuổi chính quyền người Mông Cổ năm 1368 và lập ra nhà Minh, kéo dài tới năm 1644. Sau đó người Mãn Châu từ phía đông bắc kéo xuống thay thế nhà Minh, lập ra nhà Thanh, kéo dài đến vị hoàng đế cuối cùng là Phổ Nghi thoái vị vào năm 1912.
Đặc điểm của phong kiến Trung Quốc là các triều đại thường lật đổ nhau trong bể máu và giai cấp giành được quyền lãnh đạo thường phải áp dụng các biện pháp đặc biệt để duy trì quyền lực của họ và kiềm chế triều đại bị lật đổ. Chẳng hạn như nhà Thanh của người Mãn Châu sau khi chiếm được Trung Quốc thường áp dụng các chính sách hạn chế việc người Mãn Châu bị hòa lẫn vào biển người Hán vì dân họ ít. Tuy thế, những biện pháp đó đã tỏ ra không hiệu quả và người Mãn Châu cuối cùng vẫn bị văn hóa Trung Quốc đồng hóa.
Vào thế kỷ thứ XVIII, Trung Quốc đã đạt được những tiến bộ đáng kể về công nghệ so với các dân tộc ở Trung Á mà họ gây chiến hàng thế kỷ, tuy nhiên lại tụt hậu hẳn so với châu Âu. Điều này đã hình thành cục diện của thế kỷ XIX trong đó Trung Quốc đứng ở thế phòng thủ trước chủ nghĩa đế quốc châu Âu trong khi đó lại thể hiện sự bành trướng đế quốc trước Trung Á.
Tuy nhiên nguyên nhân chính của sự sụp đổ của đế quốc Trung Hoa không phải do tác động của châu Âu và Mỹ, như các nhà sử học theo chủ thuyết vị chủng phương Tây vẫn hằng tin tưởng, mà có thể là kết quả của một loạt các biến động nghiêm trọng bên trong, trong số đó phải kể đến cuộc nổi dậy mang tên Thái Bình Thiên Quốc kéo dài từ 1851 đến 1862. Mặc dù cuối cùng lực lượng này cũng bị lực lượng triều đình dập tắt, cuộc nội chiến này là một trong số những cuộc chiến đẫm máu nhất trong lịch sử loài người - ít nhất hai mươi triệu người bị chết (hơn tổng số người chết trong Chiến tranh thế giới thứ nhất). Trước khi xảy ra nội chiến này cũng có một số cuộc khởi nghĩa của những người theo Hồi giáo, đặc biệt là ở vùng Trung Á. Sau đó, một cuộc khởi nghĩa lớn cũng nổ ra mặc dù tương đối nhỏ so với nội chiến Thái Bình Thiên Quốc đẫm máu. Cuộc khởi nghĩa này được gọi là khởi nghĩa Nghĩa Hòa Đoàn với mục đích đuổi người phương Tây ra khỏi Trung Quốc. Tuy đồng tình thậm chí có ủng hộ quân khởi nghĩa,Từ Hi Thái hậu lại giúp các lực lượng nước ngoài dập tắt cuộc khởi nghĩa này.
Năm 1912, sau một thời gian dài suy sụp, chế độ phong kiến Trung Quốc cuối cùng sụp đổ hẳn và Tôn Trung Sơn thuộc Quốc Dân Đảng thành lập Trung Hoa Dân Quốc (THDQ). Ba thập kỷ sau đó là giai đoạn không thống nhất — thời kỳ Quân phiệt cát cứ, Chiến tranh Trung-Nhật, và Nội chiến Trung Quốc. Nội chiến Trung Quốc chấm dứt vào năm 1949 và Đảng Cộng sản Trung Quốc nắm được đại lục Trung Quốc. ĐCSTQ lập ra một nhà nước cộng sản—nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (CHNDTH)— tự xem là nhà nước kế tục của Trung Hoa Dân Quốc. Trong khi đó, chính quyền THDQ do Tưởng Giới Thạch lãnh đạo thì rút ra đảo Đài Loan, nơi mà họ tiếp tục được khối phương Tây và Liên Hợp Quốc công nhận là chính quyền hợp pháp của toàn Trung Quốc mãi tới thập niên 1970, sau đó hầu hết các nước và Liên Hợp Quốc chuyển sang công nhận CHNDTH.
Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland và Bồ Đào Nha đã lần lượt trao trả hai nhượng địa là Hồng Kông và Ma Cao ở bờ biển phía đông nam về cho Cộng hòa nhân dân Trung Hoa vào 1997 và 1999. "Trung Quốc" trong văn cảnh ngày nay thường chỉ lãnh thổ của CHNDTH, hay "Đại lục Trung Quốc", mà không tính Hồng Kông và Ma Cao.
CHNDTH và THDQ (từ năm 1949 đến nay) không công nhận ngoại giao lẫn nhau, vì hai bên đều tự cho là chính quyền kế tục hợp pháp của THDQ (thời Tôn Trung Sơn) bao gồm cả Đại lục và Đài Loan, CHNDTH liên tục phản đối những người theo phong trào đòi độc lập cho Đài Loan. Những tranh cãi chủ yếu xoay quanh bản chất và giới hạn của khái niệm "Trung Quốc", khả năng tái thống nhất Trung Quốc và vị thế chính trị Đài Loan.
"Các chủ đề liên quan: Niên đại lịch sử Trung Quốc, Các triều đại phong kiến Trung Quốc, Lịch sử Hồng Kông, Lịch sử Ma Cao, Lịch sử Đài Loan."
"Bài chính: Chính trị Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Chính trị Đài Loan, Vị thế chính trị Đài Loan
Lịch sử chính trị.
Trước khi nhà Tần thống nhất vào năm 221 TCN, "Trung Quốc" chưa hề tồn tại như một thực thể gắn kết. Văn minh Trung Quốc hình thành từ nhiều văn minh các nước khác nhau, các nước này do các vương, công tước, hầu tước, hay bá tước trị vì. Mặc dù vẫn có một ông vua nhà Chu nắm giữ quyền lực trung ương trên danh nghĩa, và chủ nghĩa bá quyền đôi lúc có ảnh hưởng nhất định, trên thực tế mỗi nước là một thực thể chính trị độc lập. Đây cũng là thời điểm mà triết lý Nho giáo cũng như tư tưởng của các triết gia khác có ảnh hưởng đáng kể đến tư tưởng chính trị-triết lý Trung Quốc.
Sau khi nhà Tần thống nhất Trung Quốc, khi đó người đứng đầu Trung Quốc được gọi là hoàng đế và một hệ thống hành chính trung ương tập quyền quan liêu được thiết lập. Sau khi nhà Tần sụp đổ, Trung Quốc lại có khoảng 13 triều đại khác nhau tiếp tục hệ thống các vương quốc, công quốc, hầu quốc, và bá quốc. Lãnh thổ Trung Quốc khi đó mở rộng hoặc thu hẹp theo sức mạnh của mỗi triều đại. Hoàng đế nắm quyền lực tối thượng, toàn năng và là người đứng đầu về chính trị và tôn giáo của Trung Quốc. Hoàng đế cũng thường tham khảo ý kiến các quan văn võ, đặc biệt là quan đại thần. Quyền lực chính trị đôi khi rơi vào tay các quan lại cao cấp, hoạn quan, hay họ hàng hoàng đế.
Quan hệ chính trị với các nước chư hầu xung quanh được củng cố thông qua các hình thức kết hôn với người hoàng tộc nước ngoài, hỗ trợ quân sự, điều ước, và ràng buộc về chính trị (trên danh nghĩa phải chịu thần phục và thụ phong vương nếu không sẽ bị cấm vận hoặc chịu họa chiến tranh).
Lạc Dương, Trường An, Nam Kinh, và Bắc Kinh từng là thủ đô của Trung Quốc trong lịch sử. Tiếng Trung Quốc khi đó là ngôn ngữ chính thức được sử dụng trong các văn bản của triều đình, còn vào thời người Mông Cổ và Mãn Châu vào Trung Quốc thì tiếng Mông Cổ và tiếng Mãn Châu cũng được coi là ngôn ngữ chính thức dùng trong văn thư của triều đình.
Vào 1 tháng 1 năm 1912, Trung Hoa Dân Quốc (THDQ) được thành lập, sự chấm dứt của Đế chế nhà Thanh. Tôn Trung Sơn và [nhóm] lãnh đạo Quốc Dân Đảng được công bố là tổng thống lâm thời của Nhà nước cộng hòa. Tuy nhiên, Viên Thế Khải, cựu đại thần nhà Thanh đào ngũ theo cách mạng, sau đó đã thương thuyết để Tôn Dật Tiên bước sang bên nhường quyền cho họ Viên. Viên Thế Khải lên làm đại tổng thống, sau đó xưng đế; tuy nhiên, ông ta chết sớm trước khi thực sự nắm trọn vẹn quyền lực trên khắp Trung Hoa.
Sau khi họ Viên sụp đổ, Trung Quốc lại phân rã về chính trị với một chính phủ đặt tại Bắc Kinh được quốc tế công nhận nhưng không có thực quyền. Các Thủ lĩnh quân sự địa phương ở các vùng khác nhau thực sự nắm quyền lực trong vùng đất cát cứ của họ.
Vào cuối thập niên 1920, Quốc dân Đảng do Tưởng Giới Thạch lãnh đạo đã tái thống nhất Trung Quốc và dời đô về Nam Kinh đồng thời thi hành kế hoạch cải tổ chính trị do Tôn Trung Sơn vạch ra nhằm đưa Trung Quốc thành một quốc gia hiện đại, dân chủ. Cả Quốc dân Đảng và Cộng sản Đảng đều chủ trương chế độ đơn đảng và chịu ảnh hưởng từ chủ nghĩa Lenin.
Năm 1945, Hồng quân Liên Xô đã đánh tan quân Nhật, giải phóng vùng Đông Bắc Trung Quốc, xóa bỏ Chính quyền Mãn châu quốc, bàn giao lại Vua Phổ Nghi cho phía Cộng sản Trung Quốc và qua đó xóa bỏ cố gắng cuối cùng của giới quý tộc nhà Mãn Thanh ly khai nhằm giành độc lập dân tộc cho người Mãn.
Năm 1947, hiến pháp THDQ ra đời nhưng do nội chiến giữa hai phe Quốc Dân Đảng và Cộng sản Đảng nên trên thực tế hiến pháp này không được đưa vào thực thi trên đại lục Trung Quốc.
Đầu năm 1950, ĐCSTQ đánh bại QDĐTQ và chính phủ THDQ phải dời ra đảo Đài Loan. Vào cuối thập niên 1970, Đài Loan mới bắt đầu thực hiện đầy đủ kiểu chính trị dân chủ đại diện đa đảng với sự tham gia tương đối tích cực của mọi thành phần xã hội. Tuy nhiên không như xu hướng của các nền dân chủ khác là phân chia chính trị theo hai thái cực bảo thủ-tự do, phân chia hiện tại ở THDQ chủ yếu là thống nhất với Trung Quốc về lâu dài hay là theo đuổi một nền độc lập thực sự.
Trong khi đó tại Đại lục, Mao Trạch Đông, lãnh tụ của ĐCSTQ tuyên bố thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (CHNDTH) vào ngày 1 tháng 10 năm 1949 tại Bắc Kinh. Chính quyền này kiểm soát chặt chẽ mọi mặt của đời sống. Tuy nhiên, kể từ sau 1978, những cải tổ đã được đề xướng và mang lại một sự cởi mở đáng kể đối với nhiều khía cạnh của đời sống xã hội, chủ yếu trên các lĩnh vực kinh tế, kỹ thuật, và văn hóa. Đặc biệt là sự thay đổi về chính sách đối ngoại, từ chỗ chủ trương dùng vũ lực giải quyết vấn đề, Trung Quốc đã chuyển sang chính sách đàm phán thương lượng, tạo sự tin cậy vào "sự trỗi dậy hòa bình của Trung Quốc" để hướng tới một nước lớn, tuân thủ pháp luật quốc tế và là nhân tố hòa bình ổn định an ninh khu vực.
Địa lý Trung Quốc.
Hầu như 67% diện tích Trung Quốc là cao nguyên và núi cao; ở phía tây, cao nguyên Thanh Hải - Tây Tạng chiếm hơn 25% diện tích đất nước. Tuy độ cao trung bình của cao nguyên này là 4000m, thế nhưng từ bề mặt có các hồ nằm rải rác đó đây các dãy núi vươn cao tới hơn 6000m. Trong số 12 đỉnh núi cao nhất thế giới, Trung Quốc có đến tám đỉnh. Dọc theo ven rìa phía bắc của cao nguyên Thanh Hải - Tây Tạng là dãy núi Côn Luân. Ven ría phía nam là dãy Himalaya (Hi Mã Lạp Sơn), tạo thành biên giới giữa Trung Quốc và Nepal. Các đỉnh núi cao có tuyết phủ quanh năm. Băng giá và nhiều loại băng tích đã khắc họa nên quang cảnh núi cao kì thú.
Các vùng đất thấp và sa mạc.
Chỉ gần 25% lãnh thổ Trung Quốc nằm ở độ cao dưới 500m. Bình nguyên Hoa Bắc, chủ yếu nằm thấp hơn dưới 100m, là khu vực đất thấp rộng nhất ở Trung Quốc. Đồng bằng này được tạo thành bởi phù sa lắng đọng của Hoàng Hà. Các đồng bằng thấp khác của Trung Quốc chỉ có ở dọc trung lưu, hạ lưu Trường Giang và ở một vùng châu thổ có diện tích nhỏ hơn nhiều là châu thổ Châu Giang.
Khu vực tây - bắc của Trung Quốc là miền đất của các vùng sa mạc, chiếm trên 20% tổng số diện tích đất bằng phẳng của đất nước. Sa mạc cát lớn nhất Trung Quốc là sa mạc Taklamakan. Con đường tơ lụa chạy ven rìa phía bắc sa mạc này. Một số thương gia đã bị lạc trong hành trình vì bão cát và cái đói khát làm cho họ hoang mang.
Trung Quốc có nhiều sông, nhưng cho đến nay Trường Giang và Hoàng Hà vẫn là những con sông quan trọng nhất. Chúng bắt nguồn từ cao nguyên Thanh Tạng và có dòng chảy nhìn chung đổ về phía đông.
Trường Giang là con sông dài nhất Trung Quốc với chiều dài 6380 km. Đoạn thượng nguồn trên cao nguyên, dốc đổ nên nước sông chảy siết. Sông phải len qua những hẻm núi sâu và hẹp nên có nhiều ghềnh đá. Sau khi chảy qua các dãy núi nằm ở phía đông của Đập Tam Hiệp nổi tiếng, con sông bắt đầu xuôi về miền đồng bằng. Lòng sông tỏa rộng, chảy quanh co, uốn khúc qua miền đồng bằng bằng phẳng. Vùng châu thổ bao la của Trường Giang trải rộng từ Nam Kinh đến biển Hoa Đông.
Hoàng Hà là sông dài thứ hai ở Trung Quốc, đo được 5464 km. Ở vùng thượng lưu, sông chảy qua những hẻm núi sâu trước khi lượn quanh thành một vòng cung khổng lồ ôm lấy cao nguyên Hoàng Thổ. Đoạn sông này cuốn theo lượng đất vàng dưới dạng phù sa trên hành trình ra biển. Với nguồn đất đó, Hoàng Hà là con sông nặng phù sa nhất thế giới; mỗi năm tải tới 1,6 tỷ tấn phù sa. Ở hạ lưu lòng sông bị bồi cao nên có đoạn lòng sông còn cao hơn vùng đồng bằng xung quanh đến 10m. Địa hình tiêu biểu của bình nguyên Hoa Bắc là hệ thống đê điều dài 700 km chạy dọc hai bên bờ Hoàng Hà.
Hoàng Hà đổ ra biển ở Bột Hải, tuy nhiên vì lũ lụt cửa sông không cố định mà đã thay đổi nhiều lần. Lụt lớn từng gây thiệt hại lớn đến sinh mạng và nông nghiệp; khi đã mất mùa thì nạn đói hoành hành. Vì lẽ đó mà Hoàng Hà còn được gọi là "Nỗi buồn của Trung Hoa."
"Xem bài chính: Phân cấp hành chính Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Phân cấp hành chính Trung Hoa Dân Quốc, Lịch sử phân chia hành chính Trung Quốc
Đại thể lịch sử.
Vào thời nhà Chu, lãnh thổ Trung Quốc chỉ là vùng đất quanh Hoàng Hà. Sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc, lãnh thổ đã mở rộng tối đa về xung quanh, nhất là vào thời nhà Đường, Nguyên, và Thanh. Nhà Thanh thì lấy luôn các vùng đất thuộc Viễn Đông Nga và Trung Á ngày nay (phía tây Tân Cương).
Người Trung Quốc thường coi hoàng đế Trung Quốc là bá chủ thiên hạ và các dân tộc "man, di, nhung, địch" xung quanh là chư hầu. Do vậy, một số quốc vương các nước xung quanh cùng với thái thú các địa phương thường phái sứ thần sang triều cống cho các Hoàng đế Trung Quốc để tỏ ý chịu sự ràng buộc của nước lớn, vua tiểu quốc chỉ có được tính chính danh khi được hoàng đế Trung Quốc phong vương. Kể từ cuối thế kỷ XIX, những quan hệ kiểu này đã không còn tồn tại nữa do Trung Quốc đã mất đi uy lực bá chủ của mình.
Nhà Thanh sau đó đã sáp nhập quê hương của họ (Mãn Châu) nằm ở phía bắc ngoài Vạn lý trường thành là ranh giới với Trung Quốc bản bộ vào Trung Quốc. Năm 1683 sau khi Vương quốc Đông Ninh do Trịnh Thành Công lập nên tuyên bố đầu hàng, Đài Loan và quần đảo Bành Hồ đã bị sáp nhập vào đế chế nhà Thanh. Ban đầu Đài Loan chỉ được coi như một châu, sau đó thành hai châu và sau nữa thành một tỉnh. Sau đó Đài Loan được nhường cho Nhật Bản sau chiến tranh Trung-Nhật lần thứ nhất năm 1895. Kết thúc chiến tranh Trung-Nhật lần hai năm 1945, Nhật Bản mất chủ quyền lãnh thổ hòn đảo này theo Hiệp ước San Francisco, và chủ quyền quần đảo này thuộc về Trung Hoa Dân Quốc. Sau này, chủ quyền Đài Loan luôn là vấn đề gây tranh cãi giữa CHNDTH và những người theo phong trào đòi độc lập cho Đài Loan.
"Các chủ đề liên quan: Đài Loan, Trung Hoa Dân Quốc Tây Tạng."
Các đơn vị hành chính trong lịch sử.
Các đơn vị hành chính cấp cao của Trung Quốc thay đổi tùy theo từng chế độ hành chính trong lịch sử. Đơn vị cấp cao gồm có đạo hay lộ và tỉnh. Dưới đó thì có các phủ, châu, sảnh, quận, khu và huyện. Cách phân chia hành chính hiện nay là địa cấp thị hay thành phố trực thuộc tỉnh (cấp địa khu), huyện cấp thị hay thành phố cấp huyện, trấn hay thị trấn và hương, tương đương cấp xã ở Việt Nam.
Trong lịch sử, các triều đại Trung Quốc đều đặt kinh đô tại vùng đất trung tâm lịch sử của Trung Quốc với tên gọi chính xác về mặt chính trị là Trung Quốc bản thổ (vì tên gọi này không tính đến các vùng đất mà nó không quản lý như Mông Cổ hay Đài Loan). Nhiều triều đại còn thể hiện tư tưởng bành trướng khi đánh chiếm các vùng đất xung quanh như như Nội Mông Cổ, Mãn Châu, Tân Cương, và Tây Tạng. Nhà Thanh do người Mãn Châu lập ra cũng như các chính thể sau đó là Trung Hoa Dân Quốc và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cũng củng cố việc sáp nhập các lãnh thổ này vào Trung Quốc. Biên giới chia cắt các lãnh thổ này trước đây tương đối mơ hồ và không gắn với cách phân chia hành chính hiện nay. Trung Quốc bản bộ thường được coi là bao bọc bởi Trường Thành và dọc theo viền cao nguyên Thanh Tạng; Mãn Châu và Nội Mông Cổ nằm ở phía bắc của Vạn Lý Trường Thành, và biên giới giữa hai vùng này có thể là biên giới hiện tại giữa Nội Mông Cổ và các tỉnh đông bắc Trung Quốc, hoặc biên giới lịch sử của Mãn Châu quốc vào Chiến tranh thế giới thứ hai; ranh giới của Tân Cương vẫn là Khu tự trị dân tộc Uyghur (Duy Ngô Nhĩ) Tân Cương ngày nay; còn Tây Tạng lịch sử thì coi như bao phủ gần như toàn bộ cao nguyên Thanh Tạng. Theo truyền thống, Trung Quốc được chia thành hai miền Bắc và Nam, với ranh giới địa lý là sông Hoài và dãy Tần Lĩnh.
"Bài chính: Các dân tộc trong lịch sử Trung Quốc, Các dân tộc Trung Quốc."
Tại Trung Quốc có 56 dân tộc, trong đó đông nhất là người Hán, là dân tộc với sắc thái ngôn ngữ và văn hóa có nhiều khác biệt vì thực ra là kết hợp của nhiều dân tộc khác nhau được coi là cùng chia sẻ một thứ ngôn ngữ và văn hóa. Trong lịch sử Trung Quốc, nhiều dân tộc bị các dân tộc xung quanh đồng hóa hoặc biến mất không để lại dấu tích. Một số dân tộc khác biệt lập lọt vào trong vùng sinh sống của dân tộc Hán đã bị Hán hóa và được coi là người Hán, khiến cho dân tộc này trở nên đông một cách đáng kể; và trong cộng đồng người Hán thực ra có nhiều người được coi là người Hán nhưng có truyền thống văn hóa và đặc điểm ngôn ngữ khác hẳn. Thêm vào đó trong lịch sử cũng có nhiều sắc dân vốn là người ngoại tộc đã làm thay đổi văn hóa và ngôn ngữ của sắc dân Hán như trường hợp người Mãn Châu bắt đàn ông người Hán phải để tóc đuôi sam. Đôi khi người ta dùng thuật ngữ dân tộc Trung Hoa để chỉ người Trung Quốc nói chung.
Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa hiện chính thức công nhận tổng cộng 56 dân tộc, trong đó người Hán chiếm đa số. Với số dân hiện nay là 1,43 tỉ người trên tổng số dân toàn thế giới là 7.45 tỉ, Trung Quốc là nơi có xấp xỉ 19% loài người đang sinh sống.
Vào thời Mao Trạch Đông, tình hình phát triển dân số không được kiểm soát tốt đã khiến cho số dân Trung Quốc bùng nổ nhanh chóng và đạt đến con số 1,43 tỉ người hiện nay. Để giải quyết vấn nạn này, chính phủ CHNDTH đã áp dụng một chính sách kế hoạch hóa gia đình dưới tên gọi chính sách một con.
Người Hán nói các thứ tiếng mà các nhà ngôn ngữ học hiện đại coi là những ngôn ngữ hoàn toàn khác biệt, tuy nhiên tại Trung Quốc nhiều người coi đấy là các phương ngôn của tiếng Trung Quốc. Tuy có nhiều ngôn ngữ nói khác nhau nhưng kể từ đầu thế kỷ XX, người Trung Quốc bắt đầu dùng chung một chuẩn viết là "Bạch thoại" được dựa chủ yếu trên văn phạm và từ vựng của Phổ thông thoại là ngôn ngữ nói được dùng làm chuẩn. Ngoài ra từ hàng ngàn năm nay giới trí thức Trung Quốc dùng một chuẩn viết chung là Văn ngôn. Ngày nay Văn ngôn không còn là cách viết thông dụng nữa, tuy nhiên trong chương trình học nó vẫn tiếp tục được dạy và như vậy người Trung Quốc bình thường ở một góc độ nào đó có thể đọc hiểu được. Không như Phổ thông thoại, các ngôn ngữ nói khác chỉ được nói mà không có cách viết.
Xem bài chính: Văn hóa Trung Quốc.
Xem bài chính: Tôn giáo Trung Quốc.
Tại Trung Quốc, tín đồ của các tôn giáo không được xác định rõ ràng. Nhưng trên thực tế từ nhiều nguồn nghiên cứu về văn hóa và tôn giáo Trung Hoa thì đại đa số người dân vẫn còn giữ phong tục thờ cúng tổ tiên do ảnh hưởng của Khổng giáo, cũng như kết hợp với Phật giáo và Đạo giáo trở thành "Tam giáo đồng nguyên" (hoặc "Tôn giáo cổ truyền Trung Hoa" mà Phật giáo Đại Thừa giữ vai trò chính), số còn lại theo những tôn giáo chính sau với tỉ lệ chỉ mang tính ước lượng có thể không chính xác:
Ngoài ra còn có Pháp Luân Công là một phương pháp tập luyện tinh thần rất phổ biến tại Trung Quốc trong thập niên 90. Theo thống kê của chính phủ có khoảng 70-100 triệu người.
Nghệ thuật, học thuật, và văn học.
Người Trung Quốc cũng chế ra nhiều nhạc cụ, như cổ tranh, sáo, và nhị hồ, và được phổ biến khắp Đông và Đông Nam Á, đặc biệt những vùng trong phạm vi ảnh hưởng của Trung Quốc. Sanh là một thành phần cơ bản trong các loại nhạc cụ có giăm kèm tự do ("free-reed instrument") phương Tây.
Chữ Trung Quốc có nhiều biến thể và cách viết trong suốt lịch sử Trung Quốc, và đến giữa thế kỷ XX được "giản thể hóa" tại đại lục Trung Quốc. Thư pháp là loại hình nghệ thuật chính tại Trung Quốc, được nhiều người xem là trên cả hội họa và âm nhạc. Vì thường gắn với chủ nhân là những quan lại-học giả ưu tú, nên những tác phẩm thư pháp sau đó đã được thương mại hóa, trong đó những tác phẩm của các nghệ sĩ nổi tiếng được đánh giá cao.
Trung Quốc có nhiều phong cảnh đẹp và là nguồn cảm hứng cho rất nhiều tác phẩm lớn của nghệ thuật Trung Quốc. Xem chi tiết trong bài Hội họa Trung Quốc.
Thư pháp và bồn tài đều là những loại hình nghệ thuật có độ tuổi hàng nghìn năm đã được phổ biến sang Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam.
Trong hàng thế kỷ, sự tiến bộ kinh tế và xã hội Trung Quốc có được là nhờ chất lượng cao của khoa cử phong kiến. Điều này dẫn tới chế độ lựa chọn nhân tài, mặc dù trên thực tế chỉ có đàn ông và những người có cuộc sống tương đối mới có thể tham dự các kỳ thi này, cũng như đòi hỏi một sự học hành chuyên cần. Đây là hệ thống khác hẳn so với hệ thống quý tộc theo huyết thống ở phương Tây. Các kỳ thi này đòi hỏi các thí sinh phải viết các bài luận cũng như chứng minh khả năng thông hiểu các sách vở kinh điển của Nho giáo. Những người vượt qua được kỳ thi cao nhất trở thành các quan lại-học giả ưu tú gọi các "tiến sĩ". Học vị tiến sĩ có vị trí kinh tế-chính trị rất được coi trọng tại Trung Quốc và các nước xung quanh.
Văn học Trung Quốc đã có một lịch sử phát triển lâu dài do kỹ thuật in ấn có từ thời nhà Tống. Trước đó, các cổ thư và sách về tôn giáo và y học chủ yếu được viết bằng bút lông (trước đó nữa thì viết trên giáp cốt hay trên giấy tre) rồi phát hành. Hàng chục nghìn văn thư cổ vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay, từ các văn bản bằng giáp cốt văn tới các chỉ dụ nhà Thanh, được phát hiện mỗi ngày.
Các triết gia, tác gia và thi sĩ Trung Quốc phần lớn rất được coi trọng và có vai trò quan trọng trong việc duy trì và phổ biến văn hóa của Trung Quốc. Một số học giả khác, cũng được ghi nhận vì dám xả thân cho quyền lợi quần chúng cho dù có trái với ý của chính quyền.
Khoa học và kỹ thuật.
Trong số những thành tựu về khoa học của Trung Quốc phải kể đến la bàn, thuốc súng, kỹ thuật làm giấy và kỹ thuật in ấn. Đây được coi là tứ đại phát minh. Ngoài ra cũng phải kể đến các phát minh như bàn tính, cung tên, bàn đạp ngựa, sơn mài, bánh lái, địa chấn ký, sành sứ, tiền giấy.
Những địa hạt nghiên cứu kỹ thuật khác:
|
Vệ tinh tự nhiên
Vệ tinh tự nhiên là vật quay quanh hành tinh hoặc hành tinh lùn mà không phải do con người chế tạo.
Trong hệ Mặt Trời, có khoảng 240 vệ tinh tự nhiên đã được biết tới bao gồm 155 quay quanh các hành tinh truyền thống (6 hành tinh, vì Sao Thủy và Sao Kim không có vệ tinh tự nhiên) và 80 quay quanh các hành tinh lùn, và có lẽ rất nhiều các vật thể khác quay xung quanh các hành tinh hay các ngôi sao khác.
Sao Thủy và Sao Kim hoàn toàn không có vệ tinh tự nhiên. Trái Đất có 1 vệ tinh tự nhiên lớn, là Mặt Trăng. Sao Hoả có 2 mặt trăng nhỏ là Phobos và Deimos. Các hành tinh khí khổng lồ có những hệ mặt trăng rộng, gồm nửa tá mặt trăng cỡ Mặt Trăng của Trái Đất chúng ta. Sao Diêm Vương có ít nhất 3 vệ tinh, gồm cả 1 vệ tinh đồng hành lớn được gọi là Charon. Hệ Sao Diêm Vương - Charon và một số hệ hành tinh lùn thỉnh thoảng được coi là những hành tinh đôi. Mặt Trăng của Trái Đất là vệ tinh đầu tiên con người đặt chân tới vào năm 1969.
Đa số các vệ tinh tự nhiên có lẽ đã được tạo nên từ cùng vùng sụp đổ của đĩa tiền hành tinh. Tuy nhiên, có nhiều ngoại lệ và khác biệt từng được biết tới hay từng được đưa ra trong các lý thuyết. Nhiều vệ tinh tự nhiên được cho là những tiểu hành tinh bị bắt giữ; những vệ tinh tự nhiên khác có thể là những mảnh của những vệ tinh tự nhiên lớn bị vỡ ra bởi va chạm, hay (trong trường hợp Mặt Trăng của Trái Đất) có thể là một phần của chính hành tinh bị bắn vào quỹ đạo bởi 1 vụ va chạm lớn. Bởi vì đa số các mặt trăng chỉ được biết tới qua một số quan sát bởi các tàu vũ trụ thăm dò không người lái hay các kính viễn vọng, nên đa số các lý thuyết về nguồn gốc của chúng hiện vẫn còn chưa chắc chắn.
Hầu hết các vệ tinh trong Hệ Mặt Trời đều có 1 mặt luôn hướng về phía hành tinh. Ngoại lệ là vệ tinh Hyperion của Sao Thổ và các vệ tinh ngoài cùng của các hành tinh chất khí. Hyperion không quay theo chu kỳ vì ảnh hưởng của các lực từ bên ngoài; các vệ tinh ngoài cùng thì quá xa để có thể bị ảnh hưởng này (ví dụ, vệ tinh Phoebe).
Các vệ tinh không thể có vệ tinh con: ảnh hưởng lực thủy triều của các vật chủ của vệ tinh làm cho hệ thống này mất ổn định. Tuy nhiên, vài vệ tinh có các vật đồng hành (như vệ tinh Tethys và Dione của Sao Thổ).
Phát hiện gần đây về vệ tinh Dactyl của thiên thể 243 Ida chứng minh rằng các tiểu hành tinh cũng có vệ tinh. Trong khi đó, Antiope 90 là 1 cặp tiểu hành tinh có kích cỡ tương đương nhau. Tiểu hành tinh 87 Sylvia có 2 vệ tinh.
Trong Hệ Mặt Trời.
Những vệ tinh tự nhiên lớn nhất trong Hệ Mặt Trời (những vệ tinh có đường kính lớn hơn 2000 km) là Mặt Trăng của Trái Đất, Io, Galileo, Europa, Ganymede và Callisto của Sao Mộc, và Titan của Sao Thổ cùng với vệ tinh tự nhiên mà Sao Hải Vương bắt được là Triton. Đối với các vệ tinh tự nhiên nhỏ hơn, xem các bài viết về các hành tinh thích hợp.
Dưới đây là một bảng so sánh về xếp hạng các vệ tinh tự nhiên của Hệ Mặt Trời xếp theo đường kính. Cột bên phải gồm một số hành tinh thường được biết, các hành tinh lùn và các vật thể thuộc vành đai Kuiper để so sánh.
¹ Cruithne không thực sự là một vệ tinh; nó chỉ được liệt kê ở đây cho mục đích so sánh.
² Các đường kính của các vệ tinh mới của Sao Diêm Vương vẫn chưa được khám phá nhiều, nhưng chúng được ước lượng là ở khoảng giữa 44 và 130 km.
Ngoài những vệ tinh của các hành tinh, còn có hơn 80 vệ tinh của các tiểu hành tinh và các hành tinh cỡ nhỏ đã được biết tới.
Sao Thủy không có vệ tinh, nhưng nó có thể có một đối tác. Sao Kim cũng có khả năng là có một vệ tinh tên là Neith (nếu không tính bán vệ tinh của nó). Frederic Petit từng có ý kiến cho rằng Trái Đất có 2 vệ tinh. Georg Waltemath thì cho rằng nó có thể có nhiều hơn. Trong quá khứ, từng có những vệ tinh được cho là thứ 9 và 10 của Sao Thổ, là Chiron và Themis. Tuy nhiên, chúng đều không tồn tại, và tên của chúng được đặt cho các tiểu hành tinh khác.
|
Gia tốc là một đại lượng vectơ đặc trưng cho sự thay đổi của vận tốc theo thời gian. Nó là một trong những đại lượng cơ bản dùng để mô tả chuyển động. Cũng như vận tốc, gia tốc là đại lượng có hướng (vector). Thứ nguyên của gia tốc là độ dài trên bình phương thời gian. Trong hệ đơn vị quốc tế SI, gia tốc có đơn vị là m/s² (mét trên giây bình phương, nghĩa là m/s mỗi giây).
Chuyển động tăng tốc khi vectơ gia tốc cùng chiều với chiều chuyển động; giảm tốc khi vectơ gia tốc ngược chiều với chiều chuyển động; đổi hướng khi véc tơ gia tốc có phương khác với phương chuyển động.
Gia tốc trung bình.
Gia tốc trung bình trong một khoảng thời gian cụ thể là tỉ số giữa sự thay đổi vận tốc (trong khoảng thời gian đang xét) và khoảng thời gian đó. Nói cách khác, gia tốc trung bình là biến thiên của vận tốc chia cho biến thiên của thời gian, là đạo hàm của vận tốc theo thời gian, và là đạo hàm bậc hai của vị trí chất điểm theo thời gian.
Gia tốc tức thời.
Gia tốc tức thời của một vật tại một thời điểm biểu diễn sự thay đổi về vận tốc trong một khoảng thời gian vô cùng nhỏ quanh thời điểm đó chia cho khoảng thời gian vô cùng nhỏ này. Nó có thể được tính theo công thức:
a là gia tốc
v là vận tốc đơn vị m/s
t là thời gian đơn vị s.
Gia tốc hướng tâm.
Gia tốc hướng tâm là gia tốc của chuyển động trên một quỹ đạo cong. Nếu xét trong hệ quy chiếu gắn với vật chuyển động (trong đó vật là đứng yên) gia tốc hướng tâm cần cân bằng với gia tốc ly tâm gây ra bởi lực quán tính trong hệ quy chiếu này. Như vậy gia tốc này hướng vào tâm cong của quỹ đạo (ngược hướng của gia tốc ly tâm) và có độ lớn bằng độ lớn của gia tốc ly tâm:
Nếu xét trường hợp đơn giản là chuyển động tròn đều (tốc độ không đổi) trên quỹ đạo là đường tròn thì cả "v" và "R" là không đổi và gia tốc hướng tâm là không đổi.
Trong chuyển động tròn, gia tốc hướng tâm luôn hướng vào tâm quay, có phụ thuộc vào độ lớn, bán kính và tốc độ quay.
Ví dụ: Chuyển động quay của đầu cánh quạt khi ổn định
Cũng trong chuyển động tròn, gia tốc vuông góc với chiều chuyển động và ngược với chiều mà ta cảm nhận.
|
Công nghệ y sinh học
Công nghệ Y sinh học ("Biomedical Technology") hay Kỹ thuật y sinh (Biomedical Engineering) là một lĩnh vực đa ngành, nó kết hợp những kiến thức khoa học về kỹ thuật, sinh học và y học.
Công nghệ Y Sinh học tích hợp các lĩnh vực khoa học kỹ thuật với khoa học về y sinh học và ứng dụng lâm sàng, nhằm phát triển và đưa ra các giải pháp công nghệ để cải thiện điều kiện sức khỏe của con người.
Công nghệ y sinh học bao hàm những nhánh nghiên cứu và ứng dụng cụ thể như sau:
1. Cập nhật các kiến thức mới và tìm hiểu các hệ thống cơ thể sống thông qua các nghiên cứu ứng dụng, thực nghiệm và các kỹ thuật phân tích, dựa trên cơ sở các lĩnh vực Khoa học kỹ thuật.
2. Sử dụng các kiến thức về kỹ thuật, y học và sinh học, để nghiên cứu phát triển những thiết bị, công cụ, thuật toán, quy trình và hệ thống mới, để cải tiến hoặc đưa ra các giải pháp phân tích, chẩn đoán và điều trị bệnh hiệu quả hơn, chính xác hơn và an toàn hơn.
|
Đơn thần giáo hay nhất thần giáo (tiếng Anh: "monotheism"), là niềm tin vào sự tồn tại của một Đấng tối cao duy nhất và có uy quyền phổ quát, hay là tin vào sự duy nhất của Thượng đế. "Oxford Dictionary of the Christian Church" còn đưa ra một định nghĩa chặt chẽ hơn là: "niềm tin vào một Thượng đế có vị cách và siêu việt", đối lập với đa thần giáo và phiếm thần giáo.
Độc thần giáo được phân biệt với đơn nhất thần giáo ("henotheism"), thờ một thần linh trong khi không phủ nhận rằng người khác có thể thờ các thần linh khác với hiệu lực ngang bằng, và bái nhất thần giáo ("monolatrism"), thờ nhất quán một thần linh duy nhất dù công nhận sự tồn tại của nhiều thần linh khác nhau.
Thông thường, tất cả các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham đều được xem là độc thần giáo. Theo nghĩa rộng, các tôn giáo độc thần còn bao gồm thần giáo tự nhiên, Hỏa giáo, Mandae giáo, Yazidi giáo, Thiên Đạo giáo, đạo Cao Đài và một số giáo phái thuộc Ấn Độ giáo.
Các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham: Độc thần giáo.
Ở phương Tây, Kinh Thánh Hebrew, tức Cựu Ước của Cơ Đốc giáo, là nguồn kiến thức chủ yếu về độc thần giáo, miêu tả trình tự và thời điểm độc thần giáo được giới thiệu vào vùng Trung Đông và phương tây. Theo các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham, ấy là khi Abraham nhận biết Thiên Chúa (Sáng thế ký 12:1-9; 13:14-18;15; 18; và 22), ông là tín hữu độc thần giáo đầu tiên trên thế giới. Trong lịch sử cổ đại, cho đến thời điểm ấy, mọi nền văn hoá đều đặt niềm tin vào nhiều thần linh, hoặc vào các sức mạnh thiên nhiên và các loài tạo vật, hoặc tin vào sự huyền nhiệm của môn chiêm tinh, nhưng không ai đặt niềm tin vào một Thiên Chúa duy nhất và chân thật.
Tuy vậy, có một số tranh luận về Thiên Chúa được miêu tả trong Sáng thế ký là duy nhất hay không:
Sáng thế ký 1.26; "Thiên Chúa (tiếng Hebrew: "Yahvee") phán rằng 'Chúng ta hãy làm nên loài người như hình ta và theo tượng ta, đặng quản trị loài cá biển, loài chim trời, loài súc vật, loài côn trùng bò trên mặt đất, và khắp cả đất'".
"Elohim" là Đức Chúa, người Do Thái Giáo dùng từ này để tránh gọi tên Đức Chúa (YHWH), theo 10 điều răn của Moses. Tuy nhiên, người theo Do Thái giáo cho rằng đây chỉ là một cách dụng ngữ nhằm bày tỏ sự tôn kính khi nhắc đến danh xưng của Thiên Chúa. Trong khi đó, theo cách giải thích của Cơ Đốc giáo, điều này củng cố những lập luận của giáo lý Ba Ngôi, dạy rằng Thiên Chúa là duy nhất, hiện hữu trong ba thân vị: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Linh, (xem Ba Ngôi).
Kinh Thánh Hebrew dạy rằng mặc dù khi sáng thế Adam và Eva (cùng với dòng dõi của họ) đã nhận biết Thiên Chúa, nhưng trải qua các thế hệ Thiên Chúa và danh của ngài đã bị lãng quên. Một nhà hiền triết Do Thái, Maimonides, miêu tả diễn tiến ấy như sau:
"Trong thời Enosh nhân loại đã phạm một lỗi lầm lớ, đặt trên bầu trời và ban cho chúng sự uy nghi vinh hiển, rồi chúng phụng sự Chúa, vì vậy cần phải chúc tụng các vì tinh tú, cần phải tin rằng ấy là ý chỉ của Chúa mà tôn vinh những gì Ngài đã dựng nê, chúc tụng và sấp mình thờ lạy chú("avoda zara")... Chỉ trong vài thế hệ, các tiên tri giả dấy lên mà nói cùng dân chúng rằng Chúa đã ra lệnh phải tôn thờ các vì , dưới tàng cây, trên đỉnh đồi, trong thung lũng, hội họp dân chúng lại, cùng nhau sấp mình thờ lạy hình tượng mà nói rằng: "Những hình tượng này đem lại phúc lành mà cũng mang đến tai hoạ... vậy thì hãy cung kính mà khiếp sợ"... cho đến khi nhiều thời đại đi qua, Danh Thiên Thượng đã hoàn toàn bị lãng quê(Abraham), bắt đầu tự hỏi mình rằng "Làm sao các tinh cầu trên bầu trời dịch chuyển nếu không có một Đấng di chuyển chúng? bởi vì chúng không thể tự mình mà chuyển động được", không ai dạy dỗ ông, cũng không ai kể cho ông biết, bởi vì ông đang sống tại xứ Ur của người Chaldee là những người thờ lạy hình tượ(Abraham) đứng dậy mà nói với dân chúng rằng trên thế gian này chỉ có một Chúa duy nhất, và chỉ nên thờ lạy một mình Ngài, nhóm hiệp dân chúng từ khắp các thành và vương quốc cho đến khi ông tiến vào xứ Canaan như đã chép: "(Abraham) trồng một cây me tại Beersheba, và ở đó người cầu khẩn danh Đức Giê-hô-va, là Thiên Chúa hằng hữu" (Sáng thế ký 21.33). (Maimonides, Mishneh Torah, Sefer Mada ("Sách của Sự hiểu biết"), Chương 1, Hilchos Avodah Zarah ("Luật cấm thờ hình tượng"). Nguyên bản tiếng Hebrew )
Do Thái giáo và Kinh Thánh Hebrew.
Đạo Do Thái giáo là một trong những tôn giáo độc thần cổ xưa nhất thế giới. Thiên Chúa trong Do Thái Giáo là hoàn toàn độc thần. Thiên Chúa của Do Thái giáo là đấng duy nhất, đấng vô hình, không ai sánh bằng và là nguyên nhân tối thượng của mọi sự tồn tại. Kinh Talmud của Babylon mô tả các "vị thần ngoại" khác là những thực thể không tồn tại mà con người nhầm lẫn gán cho các thực thể đó là thực tại và có quyền lực. Một trong những tuyên bố nổi tiếng nhất về đức tin Do thái của chủ nghĩa duy vật là nguyên lý đệ nhị 13 Nguyên tắc của đức tin của Maimonides:
Do Thái giáo ("Judaism") có một số đặc điểm nổi trội vì cớ lịch sử lâu dài, niềm xác tín, luật pháp, và quy tắc sống đạo được bảo tồn và huấn thị trong kinh Torah nói riêng và kinh Tanakh nói chung (Kinh Thánh Hebrew), cung cấp nguồn văn kiện xác minh sự khởi phát và tăng trưởng của nền luân lý độc thần giáo của Do Thái giáo:
(1)Chỉ có một Thiên Chúa, từ ngài mà có một nền đạo đức cho cả nhân loại.(2) Điều răn chính yếu của Thiên Chúa là đòi hỏi con người phải cư xử tử tế với người khá, có thể nhận thấy bốn đặc điểm chính:
Moses trở lại với dân chúng với Mười Điều Răn trên tay. Điều răn thứ nhất dạy rằng "Trước mặt ta, ngươi chớ có các thần khác" (Xuất Ai Cập ký 20.3). Hơn nữa, người Do Thái thường trích dẫn Shema Yisrael ("Hãy lắng nghe, hỡi Israel"), chép rằng "Hãy lắng nghe, hỡi Israel: Đức Giê-hô-va, Thiên Chúa của chúng ta, Thiên Chúa là duy nhất". Độc thần giáo là trọng tâm của dân tộc Do Thái và Do Thái giáo.
Xác tín vào một Thiên Chúa duy nhất, hầu hết tín hữu Cơ Đốc tin rằng Thiên Chúa hiện hữu trong ba thân vị: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần (giáo lý Ba Ngôi). Ba Ngôi có cùng một bản thể và một thần tính. Tuy nhiên, có một vài giáo phái nhỏ, tự nhận mình thuộc cộng đồng Cơ Đốc giáo như Chứng nhân Jehovah, bác bỏ giáo lý Ba Ngôi trong khi đạo Mormon chỉ thờ một Thiên Chúa nhưng không phủ nhận sự hiện hữu của các ngôi kia.
Hồi giáo trình bày xác tín của mình về độc thần giáo theo cung cách đơn giản hơn. Bản tín điều Shahadah (الشهادة) khẳng định niềm tin vào Đấng Allah duy nhất và tiên tri Muhamad. Câu kinh này được xem là một trong Năm Trụ cột của Hồi giáo theo hệ phái Sunni. Khi một người đọc to câu kinh này, người ấy được xem là đã chính thức theo đạo Hồi. Hồi giáo cho rằng tính duy nhất của Thiên Chúa là giáo lý căn cốt. Hơn nữa, Hồi giáo còn xem học thuyết Ba Ngôi của Cơ Đốc giáo l
|
Đạo giáo (tiếng Trung: 道教) ("Đạo" nghĩa là con đường, đường đi, "giáo" là sự dạy dỗ) hay gọi là "Tiên Đạo", là một nhánh triết học và tôn giáo của Trung Quốc, được xem là tôn giáo đặc hữu chính thống của đất nước này. Nguồn gốc lịch sử của Đạo giáo được xác nhận nằm ở thế kỉ thứ 4 trước CN, khi tác phẩm "Đạo Đức kinh" của Lão Tử xuất hiện. Các tên gọi khác là Lão giáo, Đạo Lão, Đạo Hoàng Lão, hay Đạo gia, Tiên Giáo.
Đạo giáo là một trong Tam giáo tồn tại từ thời Trung Quốc cổ đại, song song với Nho giáo và Phật giáo. Ba truyền thống tư tưởng nội sinh (Nho-Lão) và ngoại nhập (Phật) này đã ảnh hưởng rất lớn đến nền tảng văn hoá Trung Quốc. Mặc dù có rất nhiều quan điểm khác biệt nhưng cả ba giáo lý này đã hoà hợp thành một truyền thống. Ảnh hưởng của Tam giáo trong lĩnh vực tôn giáo và văn hoá vượt khỏi biên giới Trung Quốc, được truyền đến các nước lân cận như Việt Nam, Triều Tiên, Đài Loan và Nhật Bản.
Tại Trung Quốc, Đạo giáo đã ảnh hưởng đến các lĩnh vực chính trị, kinh tế, triết học, văn chương, nghệ thuật, âm nhạc, dưỡng sinh, y khoa, hoá học, vũ thuật và địa lý.
Vì xuất hiện dưới nhiều trạng thái khác biệt và sự khó phân ranh rõ ràng với những tôn giáo khác nên người ta không nắm được số người theo Đạo giáo. Đặc biệt có nhiều người theo Đạo giáo sinh sống tại Đài Loan, nơi nhiều trường phái Đạo gia đã lánh nạn Cách mạng văn hoá tại Trung Quốc lục địa. Hiện nay, Đạo giáo có khoảng hơn 400 triệu tín đồ, chủ yếu tập trung tại các nước như là Trung Quốc, Singapore, Malaysia, Đài Loan và cộng đồng người Hoa hải ngoại.
Trong tín ngưỡng Đạo Giáo cũng thường hay nhắc tới các vị Tiên và việc thờ cúng các vị Tiên là thể hiện sự kính trọng với họ. Tuy nhiên, ở trong lý luận triết học Đạo giáo thì lại không quan trọng về vấn đề này.
Sự hình thành Đạo giáo.
Người ta không biết rõ Đạo giáo khởi phát lúc nào, chỉ thấy được là tôn giáo này hình thành qua một quá trình dài, thâu nhập nhiều trào lưu thượng cổ khác. Đạo giáo thâu nhập nhiều tư tưởng đã phổ biến từ thời Nhà Chu (1040-256 trước CN). Thuộc về những tư tưởng này là vũ trụ luận về thiên địa, ngũ hành, bát quái, tứ tượng, thuyết về năng lượng, chân khí), thuyết âm dương và Kinh Dịch. Nhưng, ngoài chúng ra, những truyền thống tu luyện thân tâm như điều hoà hơi thở, Thái cực quyền, Khí công, Thiền định, thiết tưởng linh ảnh, thuật luyện kim và những huyền thuật cũng được hấp thụ với mục đích đạt trường sinh bất tử. Việc tu luyện đạt trường sinh có bắt nguồn có lẽ từ những khái niệm rất cổ xưa, bởi vì trong Nam Hoa chân kinh của Trang Tử, một tác phẩm trứ danh của Đạo giáo thế kỉ thứ 4 trước CN thì các vị tiên trường sinh bất tử đã được nhắc đến, và đại diện tiêu biểu cho họ chính là Hoàng Đế và Tây Vương Mẫu, những hình tượng đã có trong thời nhà Thương, thiên niên kỉ 2 trước CN.
Đạo trong sự trình bày của Lão Tử (609 trước CN) là một khái niệm trừu tượng chỉ cái tự nhiên, cái có sẵn một cách tự nhiên: "Người thuận Đất, Đất thuận Trời, Trời thuận Đạo, Đạo thuận Tự nhiên". Nó là nguồn gốc của vạn vật. Đức là biểu hiện cụ thể của Đạo trong từng sự vật. Đạo sinh ra vạn vật, nhưng làm cho vật nào hình thành ra vật ấy và tồn tại được trong vũ trụ là do Đức. Nếu Đạo là cái Tĩnh vô hình thì Đức là cái Động hữu hình của Đạo. Nếu Đạo là bản chất của vũ trụ thì Đức là sự cấu tạo và tồn tại của vũ trụ
Sự sinh hóa từ Đạo ra Đức, từ Đức trở về Đạo ở Lão Tử thấm nhuần sâu sắc tinh thần biện chứng âm dương. Được chi phối bởi luật quân bình âm dương, vạn vật tồn tại theo lẽ tự nhiên một cách rất hợp lý, công bằng, chu đáo, và do vậy mà mầu nhiệm. Hợp lý, vì theo Lão Tử, lẽ tự nhiên giống như việc giương cung, cao thì ghìm xuống, thấp thì nâng lên. Công bằng, vì nó luôn bớt chỗ thừa mà bù vào chỗ thiếu. Chu đáo, vì nó như cái lưới trời lồng lộng, tuy thưa mà khó lọt. Bởi vậy mà nó mầu nhiệm tới mức không cần tranh mà chiến thẳng, không cần nói mà ứng nghiệm. Mọi sự bất cập hay thái quá đều trái với lẽ tự nhiên, và do vậy sẽ tự điều chỉnh theo luật âm dương chuyển hóa: "vật hễ bớt thì nó thêm, thêm thì nó bớt".
Từ đây, Lão Tử suy ra triết lý sống tối ưu là muốn làm việc gì, phải đi từ điểm đối lập, phải vô vi (không làm). Vô vi không có nghĩa là hoàn toàn không làm gì, mà là hòa nhập với tự nhiên, đừng làm gì thái quá. Vì làm thái quá thì theo luật âm dương "vật cực tắc phản", kết quả thu được còn tệ hại hơn là hoàn toàn không làm gì. Triết lý vô vi áp dụng vào đời sống cá nhân là "chỉ vì không tranh nên thiên hạ không ai tranh nổi với mình". Áp dụng vào đời sống xã hội, Lão Tử không tán thành lối cai trị cưỡng chế, áp đặt đương thời, ông nói muốn dân yên ổn thì cai trị một nước phải "giống như kho một nồi cá nhỏ": cá nhỏ nên để yên, không cạo vẩy, không cắt bỏ ruột, khi kho không quấy đảo – cạo, cắt, khuấy đảo chỉ tổ làm cho cá nát. Đạo chẳng phải cái gì khác ngoài sự phạm trù hóa triết lý tôn trọng tự nhiên; còn Đức chính là sự phạm trù hóa luật âm dương biến đổi. Khổng thì "nhập thế", "hữu vi", còn Lão thì "xuất thế", "vô vi". Hegel từng nhận xét rằng tư tưởng của đạo Khổng thì nghèo nàn, còn Lão Tử mới xứng đáng là người đại diện cho tinh thần phương Đông cổ đại.
Trong khi đạo của Khổng Tử hết sức thực tế vẫn không được dùng thì dễ hiểu là triết lý của Lão Tử càng không thể được sử dụng. Lão Tử phàn nàn: "Lời nói của ta rất dễ hiểu, rất dễ làm, thế mà thiên hạ không ai hiểu, không ai làm".
Mãi đến Trang Tử (khoảng 369 – 286 tr.CN), học thuyết của Lão Tử mới lại được người đời chú ý.
Trong lĩnh vực nhận thức, phát triển tư tưởng biện chứng của Lão Tử, Trang Tử đã tuyệt đối hóa sự vận động, xóa nhòa mọi ranh giới giữa con người với thiên nhiên, giữa phải và trái, giữa tồn tại và hư vô, đẩy phép biện chứng tới mức cực đoan thành một thứ tương đối luận.
Trong lĩnh vực xã hội, nếu như Lão Tử chỉ dừng ở mức không tán thành cách cai trị hữu vi, thì Trang Tử căm ghét kẻ thống trị đến cực độ; ông không chỉ bất hợp tác với họ mà còn nguyền rủa, châm biếm họ là bọn đại đạo (kẻ trộm lớn).
Nhưng Trang Tử đẩy phép vô vi với chủ trương sống hòa mình với tự nhiên của Lão Tử tới mức cực đoan thành chủ yếm thoát thế tục, trở về xã hội nguyên thủy: "Núi không đường đi, đầm không cầu thuyền, muôn vật sống chung, làng xóm liên tiếp cùng ở với cầm thú".
Trong cảnh loạn li cuối thời Đông Hán (thế kỷ thứ 2), tư tưởng của Lão Tử cộng với chất duy tâm mà Trang Tử đưa vào đã trở thành cơ sở cho việc thần bí hóa đạo gia thành Đạo giáo. Chủ trương vô vi cùng với thái độ phản ứng của Lão – Trang đối với chính sách áp bức bóc lột của tầng lớp thống trị khiến cho Đạo giáo rất thích hợp để dùng vũ khí tinh thần tập hợp nông dân khởi nghĩa.
Đạo giáo thờ "Đạo" và tôn Lão Tử làm giáo chủ, gọi là "Thái Thượng Lão Quân", coi ông là hóa thân của "Đạo" giáng sinh xuống cõi trần. Nếu mục đích của việc tu theo Phật giáo là thoát khổ thì mục đích của việc tu theo Đạo giáo là sống lâu. Đạo giáo có hai phái: Đạo giáo phù thủy dùng các pháp thuật trừ tà trị bệnh, chủ yếu giúp cho dân thường khỏe mạnh; Đạo giáo thần tiên dạy tu luyện, luyện đan, dành cho các quý tộc cầu trường sinh bất tử. Kinh điển của Đạo giáo gọi là Đạo tạng kinh; ngoài sách về nghi lễ, giáo lý, Đạo tạng còn bao gồm cả các sách thuốc, dưỡng sinh bói toán, tướng số, coi đất, thơ văn, bút ký… tổng cộng lên đến trên 50 vạn quyển.
Đạo giáo thần tiên hướng tới việc tu luyện thành thần tiên trường sinh bất tử. Tu tiên có hai cách: nội tu và ngoại dưỡng. Ngoại dưỡng là dùng thuốc trường sinh, gọi là kim đan (hay linh đan, thu được trong lò bằng cách luyện từ một số khoáng chất như thần sa, hùng hoàng, từ thạch, vàng). Nội tu là rèn luyện thân thể, dùng các phép tịch cốc (nhịn ăn), dưỡng sinh, khí công… lấy thân mình làm lò luyện, luyện tinh thành khí, luyện khí thành thần, luyện thần trở về hư vô (Đạo). Con người cũng như vạn vật là từ "Đạo" mà sinh ra; cho nên tu luyện là trở về với "Đạo".
Lão Tử và Đạo Đức kinh.
Các nhà nghiên cứu vẫn chưa xác định được là đã thật có một triết gia tên Lão Tử hay không. Các Đạo gia cho rằng, chính ông là tác giả của bộ "Đạo Đức kinh". Tiểu sử của ông bị huyền thoại vây phủ và vì vậy gây nhiều tranh luận trong giới học thuật. Tương truyền ông sống thời Chiến Quốc, thế kỉ thứ 6 trước CN, một thời kì được đánh dấu bằng chiến tranh và loạn li. Nhưng thời này cũng được xem là thời vàng son của triết học Trung Quốc vì nhiều nhà tư tưởng đã tìm cách giải hoá vấn đề làm sao để an dân lập quốc. Do đó mà người sau cũng gọi thời kì này là thời của Bách gia chư tử—"hàng trăm trường phái". "Đạo Đức kinh" hàm dung những tư tưởng này, hướng đến những nhà cầm quyền và cách tạo hoà bình.
"Đạo Đức kinh" cũng được gọi dưới tên của tác giả, là Lão Tử. Trong dạng được truyền ngày nay thì nó bao gồm hai quyển với tổng cộng 81 chương. Phần thứ nhất nói về Đạo, phần hai nói về Đức. Tuy nhiên, "Đạo Đức kinh" không là một bộ kinh có một kết cấu lôgic của một thế giới quan, mà chỉ là một tập hợp của những ngạn ngữ huyền bí, tối nghĩa, dường như nó muốn người đọc phải tự lý giải một cách chủ quan. Chính vì vậy mà người ta tìm thấy hàng trăm bản chú giải, hàng trăm bản dịch của bộ "Đạo Đức kinh" này.
Trang Tử và Nam Hoa chân kinh.
Bộ "Nam Hoa chân kinh" thì được viết với một phong cách hoàn toàn khác. Tác phẩm này được biên soạn ở thế kỉ thứ 4 trước CN và tương truyền tác giả là Trang Tử (vì vậy mà tên ngắn của tác phẩm này cũng là Trang Tử, tên tác giả). Trong "Nam Hoa kinh", thể tính của Đạo được miêu hoạ qua những ngụ ngôn, những mẩu chuyện hàm dung những cuộc đàm thoại triết học. Trang Tử lấy nhiều điểm được nhắc đến trong "Đạo Đức kinh" làm chủ đề, nhưng lại bài bác những điểm khác một cách rõ ràng. Ví dụ như Trang Tử không hề nhắc đến việc nhắc nhở những nhà cầm quyền an quốc trị dân. Một chân nhân vô sự, lìa thế gian là người lý tưởng trong tác phẩm này. Như trường hợp "Đạo Đức kinh", việc xác nhận tác giả của tác phẩm này cũng là một điểm tranh luận lớn. Mặc dù Trang Tử được xem là một nhân vật lịch sử nhưng theo những nhà nghiên cứu sau này thì tác phẩm "Nam Hoa chân kinh" phần lớn có lẽ được các đệ tử sau này biên tập.
Trong thời Lão Trang, người ta không thấy dấu tích của một tổ chức hay cơ cấu triết học hoặc tôn giáo nào có thể được gọi là Đạo giáo. Chỉ còn một vài tác phẩm hàm dung tư tưởng Đạo giáo được lưu lại, tôn vinh là Thánh điển khi Đạo giáo dần dần hình thành. Tuy nhiên, tất cả các nhà nghiên cứu đều thống nhất với nhau là những tác phẩm này đã được phát triển trong mối quan hệ chặt chẽ với những phương pháp tu tập tôn giáo và tín ngưỡng.
Đạo giáo như một hệ thống triết học.
Sự phân biệt triết học Đạo giáo và tín ngưỡng Đạo giáo là một cách nhìn từ phương Tây và về mặt khái niệm thì nó cũng không đủ rõ ràng. Nó có vẻ như là một phương tiện của nền Hán học châu Âu, được áp dụng để có thể nắm bắt và miêu tả được những khía cạnh lịch sử Đạo giáo lâu dài một cách dễ dàng hơn. Nhìn kĩ thì người Trung Quốc cũng đã có sự phân biệt vi tế trong cách gọi tên trào lưu này. Khi dùng từ Lão Trang (老莊) hoặc Đạo gia (道家) người ta liên tưởng đến khía cạnh triết học và từ Đạo giáo (道教) hoặc Hoàng Lão (黃老) được dùng để chỉ đến khía cạnh tín ngưỡng tôn giáo. Tuy vậy, Đạo giáo cũng là một hiện tượng nhiều khía cạnh như những tôn giáo khác. Trong dòng thời gian hơn hai nghìn năm qua, nhiều hệ thống và chi phái rất khác nhau đã được hình thành. Do vậy mà sự phân biệt giữa triết học và tôn giáo ở đây là một sự giản hoá quá mức và trong giới học thuật người ta cũng không nhất trí có nên phân biệt như vậy nữa hay không, bởi vì nó không tương thích với sự phức tạp của đối tượng nghiên cứu.
Mặc dù vậy, hai khái niệm đối xứng bên trên cũng mang đến một ích lợi nhất định vì chúng hỗ trợ bước đầu phân tích Đạo giáo. Đạo giáo vốn là chỗ tu-hành, giáo dục và rèn luyện con người thành Tiên. Nhưng ta nên nhớ là sự việc phức tạp hơn là sự phân biệt đơn giản trên có thể lột toát được hết.
Tên Đạo giáo xuất phát từ chữ Đạo, một danh từ triết học Trung Hoa đã được dùng rất lâu trước khi bộ "Đạo Đức kinh" xuất hiện, nhưng chỉ đạt được tầm quan trọng đặc biệt, phổ cập trong văn bản này. Đạo ban đầu có nghĩa là "con đường", những ngay trong tiếng Hán cổ đã có nghĩa "phương tiện", "nguyên lý", "con đường chân chính". Nơi Lão Tử, danh từ này được hiểu như một nguyên lý cơ sở của thế gian, xuyên suốt vạn vật. Theo kinh văn, Đạo là hiện thật tối cao, là sự huyền bí tuyệt đỉnh (chương IV):
"Đạo xung, nhi dụng chi hoặc bất doanh. Uyên hề, tự vạn vật chi tông."
Đạo trống không, nhưng đổ vào mãi mà không đầy. Đạo sâu thẳm, dường như là tổ tông của vạn vật.
Đạo là đơn vị tối sơ, nguyên lý của vũ trụ và là cái tuyệt đối. Vạn vật xuất phát từ Đạo, nghĩa là cả vũ trụ và như vậy, trật tự vũ trụ cũng từ Đạo mà ra, tương tự như nguyên tắc tự nhiên, nhưng Đạo lại chẳng phải là một nhân vật toàn năng, mà là nguồn gốc và sự dung hoà tất cả những cặp đối đãi và như thế, không thể định nghĩa được. Đạo là Vô danh, như câu đầu của bộ kinh này cho thấy:
"Đạo khả đạo, phi thường Đạo. Danh khả danh, phi thường Danh."
"Vô danh thiên địa chi thỉ, hữu danh vạn vật chi mẫu."
Đạo mà ta không có thể nói đến được, mới gọi là Đạo phi thường. Danh mà ta không có thể hiểu được, mới chính là cái Danh phi thường.
Vô danh là gốc của thiên địa, hữu danh là mẹ của vạn vật.
Về mặt triết học thì Đạo có thể được xem là siêu việt mọi khái niệm vì nó là cơ sở của tồn tại, là nguyên nhân siêu việt và như vậy, là tất cả, bao gồm tồn tại và phi tồn tại. Trên cơ sở này thì ta không thể luận đàm, định nghĩa được Đạo vì mỗi định nghĩa đều có bản chất hạn chế. Nhưng Đạo lại là cả hai, là sự siêu việt mọi hạn lượng mà cũng là nguyên lý bên trong vũ trụ. Cái Dụng (用) của Đạo tạo ra âm dương, nhị nguyên, những cặp đối đãi và từ sự biến hoá, chuyển động của âm dương mà phát sinh thế giới thiên hình vạn trạng.
Quan niệm về vũ trụ và vạn vật.
Đối với Đức Lão Tử, nguyên thủy của vũ trụ và vạn vật là Đạo.
Đạo là thể vô hình vô tướng, không sinh không diệt, hằng hữu đời đời. Sở dĩ người ta không thấy được Đạo là vì nó là những nguyên tố rời rạc, chưa kết thành hình tượng. Đạo sinh một, một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh vạn vật. Một đó là Thái cực, Hai đó là Âm Dương, Ba đó là Tam Thiên Vị (Ba ngôi: Thái cực, Dương và Âm). Âm và Dương thu nhận Sinh từ ngôi Thái cực, rồi vừa xung đột vừa hòa hiệp, để tạo thành trời đất, vũ trụ và vạn vật. Cho nên theo ông, trong vạn vật đều có Âm Dương: Vạn vật đều cõng một Âm và bồng một Dương.
Vì vậy theo Đạo giáo, trước khi vũ trụ thành hình, trong khoảng không gian hư vô bao la, có một chất sinh rất huyền diệu, gọi là ĐẠO. Đạo biến hóa ra Âm Dương. Âm Dương xô đẩy và hòa hiệp tạo ra vũ trụ và vạn vật. Vạn vật được hóa sinh ra, tác động với nhau, phồn thịnh với nhau, rồi cuối cùng tan rã để trở về trạng thái không vật không hình, tức là trở về nguồn gốc của nó là Đạo.
Quan niệm về nhân sinh.
Đức Lão Tử quan niệm rằng: Đạo Trời không thân ai, không sợ ai. Trời Đất sinh ra muôn vật, cây cỏ, chim muông, nhân loại, không phải cốt để chúng ăn thịt nhau mà các sinh vật đều khắc chế lẫn nhau, nuôi dưỡng nhau, bổ trợ nhau để cùng tồn tại.
Đức Lão Tử không lấy cuộc đời làm lạc thú, xem việc sống như một nghĩa vụ, không yếm thế, không lạc quan, và xem cái chết là một việc phục tùng theo lẽ tự nhiên nhất định. Lão Tử ghét những người ham mê danh lợi, quá coi trọng cái xác thịt của mình. Cái xác thịt giả tạm này là một cái không đáng quý, vì nó thường là mối lo cho người ta; đáng quý nhất là khi người ta biết đem thân ra phụng sự thiên hạ. Đức Lão Tử khuyên người đời không nên quá tôn trọng và thiên về đời sống vật chất, phải tiết chế lòng ham muốn, nên chú trọng tinh thần, lấy cái tâm đè nén cái khí, thà bỏ cái thân này mà giữ được Đạo và Đức.
Lão Tử không bàn đến Thượng đế, Linh hồn, Thiên đàng, Địa ngục, mà chỉ nói một cách tổng quát về nguồn gốc của con người và vạn vật là từ Đạo mà ra, và cuối cùng thì trở về Đạo, hòa vào Đạo và tu Đạo.
Muốn hòa vào Đạo, Lão Tử nói về Lý Vô Vi. Vô Vi nghĩa là không làm, tức là không can thiệp vào môi trường tự nhiên, để con người sống theo tự nhiên và cùng với tự nhiên tiến hóa.
Lý Vô Vi gồm: Vô cầu, Vô tranh, Vô đoạt, Vô chấp.
Không làm tức là Đạo. Đạo thường không làm, mà không gì không làm được.
Từ chỗ là không làm mà làm được tất cả. Làm được tất cả mà như không làm gì cả. Đó là bí quyết của Đạo. Lý Vô Vi quá sức huyền diệu cao viễn, ít ai thấu triệt nổi, thành ra bị thất truyền hay bị hiểu sai lạc đi.
Đạo sĩ thực hiện theo lý Đạo bằng cách luyện Kim đơn, để gom Tam Bửu: Tinh, Khí, Thần, về một, tức là Tinh Khí Thần hiệp nhứt. Ta phải thanh luyện tiếp để xả hết, hòa vào hư không, tức là trở về hiệp nhứt với Đạo. Luyện Kim đơn là luyện cho thành Thánh thai (Anh nhi, Xá lợi), chớ không phải luyện thuốc Tiên, trường sanh bất tử. Luyện cho cái Tánh trở thành Kim cang bất hoại, gặp động không loạn, nhập trần không nhiễm, định mà không chết cứng, đi đứng nằm ngồi mà như không đi đứng nằm ngồi, thuyết giảng đạo pháp mà như không thuyết giảng tức như thế là nhập vào Lý Vô Vi vậy.
Đạo giáo với triết lý Vô Vi khi áp dụng vào chính trị có nhiều điểm tương đồng với chủ nghĩa vô chính phủ và chủ nghĩa tự do vì nó cho rằng xã hội sẽ tốt đẹp hơn nếu không bị tầng lớp cai trị áp đặt những ý muốn chủ quan của mình lên xã hội. Lý Vô vi ít nhiều có sự tương đồng với Tánh Không.
Đạo giáo như một tôn giáo.
Sự khác biệt giữa Đạo giáo triết học và Đạo giáo tôn giáo - được dùng ở đây vì những nguyên nhân thực tiễn - có thể được hiểu như sau: Đạo giáo triết học theo lý tưởng của một Thánh nhân, thực hiện Đạo bằng cách gìn giữ một tâm thức nhất định, trong khi Đạo giáo tôn giáo tìm cách đạt Đạo qua việc ứng dụng những phương pháp như Tĩnh toạ (Khí công, Thái cực quyền), sự tập trung cao độ, thiết tưởng hình dung, thuật luyện kim, nghi lễ và huyền học để tạo một thế giới vi quan từ thân tâm - một ánh tượng của đại vũ trụ - và qua đó đạt được sự "hợp nhất" với vũ trụ.
Thời điểm đầu tiên được xác nhận của Đạo giáo như một tôn giáo là năm 215, khi Tào Tháo chính thức công nhận trào lưu Thiên sư đạo như một tổ chức tôn giáo.
Nhiều trường phái Đạo giáo tìm cách tu tập đạt trường sinh bất tử. Chúng có lẽ xuất phát từ các phép tu thuộc Tát-mãn giáo và sự sùng bái trường sinh bất tử và được hoà nhập với nhánh Đạo giáo triết học sau này. Tất cả các trường phái Đạo giáo đều nỗ lực tu tập để trở về nguồn.
Tổ chức Đạo giáo đầu tiên xuất hiện trong thế kỉ thứ hai sau CN, khi Trương Đạo Lăng) khởi xướng phong trào Thiên sư đạo tại tỉnh Tứ Xuyên năm 142. Có lẽ Trương Đạo Lăng đã bắt chước theo Phật giáo và thâu nhiếp các thành phần của Toả-la-á-tư-đức giáo (zh. en. Zoroastrianism). Trong phái mang tên Ngũ Đẩu Mễ Đạo - gọi theo số gạo đồ đệ phải nộp để gia nhập - người ta tìm thấy những yếu tố, tư tưởng cứu thế chủ và cách mạng: Vương triều Hán nên bị lật đổ để Thiên sư Trương Đạo Lăng cai trị và thời đoạn cuối của thế giới bắt đầu.
Ngũ Đấu Mễ Đạo bắt đầu từ Trương thiên sư tên thật là họ Trương tên Lăng, người đất Phong (nay là huyện Phong, tỉnh Giang Tô), một hậu duệ của Trương Lương. Trương Lăng từ nhỏ đã nghiền Đạo Đức Kinh, thiên văn, địa lý, Hà Đồ, Lạc Thư, thông đạt Ngũ Kinh; khi trưởng thành từng làm quan huyện lệnh ở Giang Châu, thuộc Ba Quận (nay là Trùng Khánh, Tứ Xuyên), thời Hán Minh Đế. Về sau, ông từ quan, ẩn cư trong núi Bắc Mang Sơn học đạo trường sinh. Thời Hán Thuận Đế (khoảng 115 TCN - 20 SCN đến 144 SCN) Trương Lăng vào Ba Thục, tu đạo ở núi Hạc Minh Sơn (cũng gọi Cốc Minh Sơn), xưng là Tam Thiên Pháp Sư Chính Nhất Chân Nhân. Về sau khi truyền đạo trong dân gian, nói rằng mình được Thái Thượng Lão Quân truyền đạo Chính Nhất Minh Uy, phong làm Thiên Sư. Vì vậy, dân gian gọi đạo của ông là Thiên Sư Đạo.
Trước tiên ông trị bệnh để thu hút quần chúng và sau đó là truyền đạo. Khi quy tụ được đông đảo quần chúng, Trương Lăng (bấy giờ bắt đầu gọi là Trương Đạo Lăng hay Trương Thiên Sư) tổ chức 24 điểm truyền đạo gọi là 24 Trị, trong đó ba trung tâm lớn là Dương Bình Trị, Lộc Đường Trị, và Hạc Minh Trị. Do người nhập đạo phải nộp 5 đấu gạo, do đó đạo này gọi tên là Ngũ Đấu Mễ Đạo (đạo 5 đấu gạo), cũng gọi là "Mễ Vu" (米巫) bởi vì đạo này chịu ảnh hưởng nặng nề của Vu giáo (巫教) của dân tộc thiểu số tại Ba Thục. Một cách giải thích khác là "Ngũ Đấu Mễ" đọc gần âm với "Ngũ Đẩu Mẫu" (五斗姆), tức là Bắc Đẩu Mẫu trong Ngũ Phương Tinh Đẩu, đứng đầu trong các sao. Hai cách giải thích này đều thông hành; có thể lúc lập giáo, Trương Lăng đã có chủ ý như vậy. Và cho phù hợp với "Nhị Thập Bát Tú" (28 sao), sau này 24 Trị phát triển thành 28 Trị.
Khi Trương Lăng mất, con là Trương Hành kế thừa việc truyền đạo. Khi Trương Hành qua đời, con của Trương Hành là Trương Lỗ kế vị. Cả ba đời ông cháu được người đời gọi là Tam Trương, nhưng trong nội bộ phải gọi là Tam Sư: Trương Lăng là Thiên Sư, Trương Hành là Tự Sư, và Trương Lỗ là Hệ Sư.
Các tông phái chính.
Nhìn chung, Đạo giáo có 3 trường phái:
Đạo giáo có các tông phái:
Như vậy, Đạo giáo cũng giống như Nho giáo và Phật giáo, ngày càng đi xa chân truyền của vị Giáo Tổ khai sáng. Ngày nay tại Trung Quốc, Đài Loan và Hồng Kông, Đạo giáo vẫn còn rất thịnh hành. Riêng Đài Loan, có tất cả 86 giáo phái hoặc tổ chức Đạo giáo được chính quyền hỗ trợ, nhưng có 6 môn phái nổi bật:
- Phái Chính Nhất hay phái Thiên Sư thuộc Long Hổ Sơn.
- Phái Mao Sơn với hai loại pháp môn: nội công luyện theo kinh Huỳnh Đình và võ công theo Kỳ Môn Độn giáp để trừ tà ma.
- Phái Thái Cực (Võ Đang) với pháp môn tu luyện theo truyền thống Trương Tam Phong và pháp môn võ thuật.
- Phái Toàn Chân theo đường lối của Vương Trùng Dương.
- Phái Thần Tiên: chuyên về biểu diễn bán thuốc hoặc kiếm tiền.
- Phái Lư Sơn thiên về bí thuật.
Đạo gia khí công.
Trước thời Đông Hán (58) bộ môn khí công được chia làm hai loại và phương pháp luyện tập hầu như chưa nhuốm màu sắc tôn giáo như vào những thời đại sau này. Một loại được các môn đồ của Lão giáo và Khổng giáo thường xuyên luyện tập nhằm mục đích dưỡng sinh, bảo tồn sức khỏe; loại khác được sử dụng bởi Y-gia trong việc điều trị dưới những hình thức như châm, cứu, án, ma, kết hợp với nhiều động tác để điều chỉnh, quân bình khí huyết hoặc để chữa trị bệnh tật. Sau này khi Phật giáo được du nhập vào Trung Quốc, một số những kỹ thuật khí công từng được luyện tập bên Ấn Độ cũng bắt đầu được lưu truyền tại Trung Quốc. Đặc biệt vì vua chúa nhà Hán đa số là những Phật tử thuần thành, nên Phật giáo nghiễm nhiên trở thành một tôn giáo chính, nhờ thế nên các chư tăng đã có cơ hội học hỏi một số phương pháp luyện tâm, định thần. Tuy nhiên vì trở ngại về giao thông và truyền thống nên họ đã không thu thập được toàn bộ các phương pháp nói trên.
Hơn nữa, trong khoảng gần năm thế kỷ Phật giáo được phổ biến ở Trung Quốc, chỉ có hai vị cao tăng của Phật giáo Ấn Độ được mời sang thuyết giảng về Phật học. Theo sử sách, vị thứ nhất là Bạt-đà ("Buddhabhadra") và vị thứ nhì là Bồ-đề-đạt-ma ("Bodhidharma"). Tình trạng này đưa đến hậu quả là các tăng ni Trung Quốc hoàn toàn học hỏi, nghiên cứu triết học, giáo lý Phật giáo qua kinh điển, chứ không được trực tiếp truyền thụ bởi những bậc thầy uyên thâm về kiến thức cũng như về kinh nghiệm tu tập. Nên từ đó những cách thức tu luyện của các giáo sĩ Phật giáo Trung Quốc đã hoàn toàn khác biệt với giáo sĩ Phật giáo Ấn Độ. Họ quan niệm rằng phần tâm linh là chính, xác thân là phụ, nên chỉ chú trọng vào việc tôi luyện tinh thần, mà sao lãng phần thể xác. Thêm vào đó, vì chế độ dinh dưỡng thiếu quân bình nên đa số các sư sãi Trung Quốc thời bấy giờ nếu không bệnh hoạn thì cũng yếu kém về thể lực. Tình trạng bi đát này tiếp tục kéo dài mãi cho đến khi Đạt Ma đặt chân lên đất Trung-hoa vào năm 527 dưới triều nhà Lương.
Bồ Đề Đạt Ma ra đời vào khoảng năm 483, ông nguyên là hoàng tử của một tiểu quốc thuộc miền nam Ấn Độ, sau thoát tục trở thành tăng sĩ thuộc hệ phái Mahayana, thường được xem là một vị Bồ Tát chuyên cứu độ chúng sanh. Theo sự thỉnh cầu của Lương Vũ Đế năm 527, ông đến Trung Hoa để thuyết pháp. Về sau khi thấy nhà vua và triều đình không đồng ý với những tư tưởng ông truyền bá, ông đã lui về ẩn thân ở Thiếu Lâm tự. Tại đây, nhận thấy đa số chư tăng đều ốm yếu và bệnh hoạn, ông đã trao tặng họ hai bộ Dịch Cân kinh và Tẩy Tủy kinh, là những phương pháp tu luyện khả dĩ giúp họ thăng tiến trên đường tu tập. Dịch Cân kinh hướng dẫn các sư tăng làm cách nào để gia tăng thể lực, thay đổi bản chất từ yếu đuối suy nhược đến chỗ tráng kiện. Phương pháp này đã giúp học sau một thời gian luyện tập không những sức khỏe được hồi phục, còn tăng cường thể lực. Hơn nữa khi phối hợp những kỹ thuật của Dịch-Cân kinh với võ thuật, những chiêu thức cũ bỗng trở nên vô cùng dũng mãnh và lợi hại. Riêng môn Tẩy-Tủy công là một phương pháp "rửa" sạch chất tủy, gia tăng số lượng hồng huyết cầu, tăng cường sức đề kháng của cơ thể, đồng thời trì hoãn lại sự già nua của các tế bào, nhưng quan trọng nhất là những ảnh hưởng trực tiếp đến não bộ, giúp họ trong việc an định tinh thần, là phần tối quan trọng trong tiến trình tu tập để đạt đến sự giác ngộ. Vì những môn công phu này rất cao về phần lý thuyết và khó luyện tập, nên mỗi thế hệ sư tăng chỉ có một số ít cao đồ được bí mật truyền dạy và thành đạt.
Cũng vào thời gian này, một tôn giáo khác được khai sinh lấy danh xưng là Đạo giáo. Người khai sáng ra tôn giáo này là đạo sĩ Trương Đạo Lăng. Ông học được phép trường sinh bất lão, vào đất Thục ngụ ở núi Hạc Minh soạn ra bộ Đạo thư gồm 24 chương và chuyên làm bùa để trị bệnh. Ông đã kết hợp nền triết học cổ truyền của Lão giáo với giáo lý Phật giáo như những thuyết về kiếp số, những luật khai độ để lập thành Đạo giáo. Chúng ta cũng đừng quên rằng: trước khi Đạo-giáo ra đời, các đạo sĩ Lão giáo đã xuất hiện từ nhiều thế kỷ về trước, vì thế phương thuật thiền định khí công của họ đã đạt đến trình độ thượng thừa, nên dù sau này khi Phật-giáo đã được dung hòa với Đạo giáo, chỉ có một số ít những phương pháp tập luyện được biến cải. Còn về mặt thể lực, vì đồng quan điểm với Phật-gia, nên Đạo-gia cũng không mấy quan tâm và chú trọng.
Vào giai đoạn này, sự liên hệ giữa hai giáo phái trở nên rất mật thiết, nên sau khi Bồ-đề-đạt-ma qua đời, Đạo gia dần dà cũng nắm được những bí kiếp luyện khí công của Phật gia. Chỉ vài trăm năm sau, môn Dịch-Cân Kinh hầu như đã được truyền bá rất rộng rãi trong giới Đạo-gia. Đến đời nhà Tống (960), Thái Cực quyền, một môn nội đan khí công chú trọng đến việc luyện khí được sáng tác bởi Đạo-sĩ Trương-Tam-Phong trên núi Võ Đang, đã biến địa danh này trở thành trung tâm điểm của Đạo-giáo và phái Nội-Đan khí công. Trong khi đó Thiếu-Lâm tự thường được coi là nơi có nhiều thẩm quyền hơn về môn Ngoại-Đan khí công.
Riêng về môn Tẩy-Tủy công tưởng đã bị thất truyền, cơ may xảy ra dưới thời nhà Thanh (1636-1912). Để đàn áp và trả thù, rất nhiều đạo sĩ, tăng sĩ đã bị bắt bớ, tù đầy, giam cầm, khủng bố và sát hại; số lượng chùa chiền, đạo quán bị quan quân nhà Thanh đốt phá cũng không ít (điển hình là trường hợp chùa Thiếu Lâm, núi La Phù). Một số đạo sĩ, cao tăng may mắn đào thoát được, và để tiếp tục kháng chiến họ bắt đầu truyền dạy những tuyệt kỹ của môn Dịch-Cân kinh và Tẩy-Tủy công cho dân gian. Nhờ vậy cả hai bí kiếp này vẫn còn được lưu truyền cho đến ngày nay.
Đạo-gia tin rằng căn nguyên của những phiền não thế tục là do thất tình, lục dục mang đến. Muốn chế ngự được những cảm xúc này chúng ta phải tu tập và tôi luyện để thần khí đạt đến được trạng thái an định, độc lập. Từ đó không những giác ngộ, trường sinh bất lão còn có thể làm chủ được định mệnh của mình sau khi lìa thế. Tiến trình luyện tập của Đạo-gia được chia làm 3 giai đoạn:
Dịch-Cân kinh và Tẩy-Tủy công cũng được Đạo-gia coi là những phương pháp giúp chống lại sự già nua, kéo dài tuổi thọ. Trong khi Dịch-Cân kinh tôi luyện phần thân xác, thì Tẩy-Tủy công giúp khí lưu chuyển trong tủy sống, giúp tủy sạch sẽ tươi nhuận. Tủy sống là nơi sản xuất phần lớn số lượng hồng huyết cầu và bạch huyết cầu. Chúng có nhiệm vụ mang những dưỡng chất cần thiết cho việc nuôi dưỡng các tế bào cùng các cơ quan trong cơ thể của chúng ta, đồng thời tẩy trừ, thanh lọc các chất cặn bã và độc tố. Khi hồng huyết cầu tươi tốt hoạt động bình thường, cơ thể chúng ta khỏe mạnh hữu hiệu trong việc chống lại bệnh tật, đình trệ sự già nua. Vì thế đối với Đạo-gia trên 100 tuổi vẫn chưa được coi là thọ. Tục truyền Lão tử thọ đến 250 tuổi.
Nhằm mục đích tôi luyện Thân, Tâm. Đạo-gia đề ra 3 đường lối để luyện tập:
Qua những cách thức luyện tập kể trên, sau đời nhà Tống (960-1367) Đạo-gia lại chia làm hai phái rõ rệt:
Đạo giáo trên thế giới.
Đạo giáo tại Trung Quốc.
Đạo giáo là tôn giáo sinh trưởng tại địa phương Trung Quốc, bắt đầu từ thế kỷ thứ 6 TCN, đến nay đã có hơn 2500 năm lịch sử. Đạo giáo kế thừa sự sùng bái thiên nhiên và sùng bái tổ tiên của thời cổ Trung Quốc, trong lịch sử có rất nhiều giáo phái, sau này dần dần diễn biến thành hai giáo phái lớn Toàn Chân Đạo và Chính Nhất Đạo, có ảnh hưởng nhất định trong dân tộc Hán. Do Đạo giáo không có nghi thức và quy định nhập giáo nghiêm khắc, số người theo đạo rất khó thống kê. Trung Quốc hiện có hơn 1500 ngôi Đạo quán, hơn 25 nghìn đạo sĩ nam, nữ, với khoảng 360 triệu tín đồ.
Không chỉ là một tôn giáo, dạy con người trở về với gốc Đạo, huyền đồng cùng vũ trụ, Đạo giáo còn đóng góp rất nhiều cho nền văn minh Trung Quốc. Rất nhiều thành tựu văn hóa, khoa học, y học của người Trung Quốc chịu ảnh hưởng của Đạo giáo đã lan truyền khắp thế giới như:
- Khuynh hướng hội họa của dòng tranh "Thủy mặc" hay "tranh sơn thủy" thể hiện sự cân bằng tuyệt hảo giữa Âm - Dương.
- Thuật Phong thủy chỉ rõ cách chọn hướng, cách thiết kế môi trường xây dựng theo một hệ thống phối hợp các yếu tố quan trọng của không gian và thời gian nhằm mang lại sự hài hòa tối đa trong mọi tương tác giữa con người và thiên nhiên.
- Võ thuật với nguyên tắc "mềm như nước" nhưng hết sức hiệu quả, giúp cho con người giải tỏa những tắt nghẽn sinh lực, đưa thân thể trở về trạng thái cân bằng, vừa hài hòa thể lý lẫn tinh thần mà ngày nay rất phổ biến. Đó là môn Thái cực quyền.
- Về y học, phương pháp châm cứu và bấm huyệt được xem là cách trị bệnh rất hiệu quả.
- Về tư tưởng, Đạo giáo đã chủ trương bất tử, tức là quan niệm lúc chết, sự sống con người được thay đổi chứ không bị mất đi, cho nên con người có một thái độ tích cực đối với thân phận chính mình.
Đạo giáo tại Việt Nam.
Đạo giáo thâm nhập vào Việt Nam từ khoảng cuối thế kỷ thứ 2. Đạo giáo có hai phái tu là "nội tu" và "ngoại dưỡng", phái nội tu phổ biến ở Việt Nam hơn. Thời Bắc thuộc, Đạo giáo chỉ phổ biến trong dân gian, đến thời phong kiến độc lập, các nhà Đinh, Lê, Lý, Trần đều coi trong các đạo sỹ không kém các tăng sư, bên cạnh "Tăng quan" còn có cả "Đạo quan". Từ đời Lê Trung hưng Đạo giáo bắt đầu suy thoái, những đạo quán bị Phật giáo hóa, trở thành chùa. Bên cạnh tượng các thánh của Đạo giáo còn có thêm tượng Phật. Ngày nay, Đạo giáo Việt Nam với tư cách là một tôn giáo không còn tồn tại nữa, tuy nhiên những ảnh hưởng của nó đến tư duy và đời sống xã hội của người Việt thì vẫn còn. Thuật phong thủy, các phương pháp dưỡng sinh, các môn võ thuật, các hình thức bói toán, cúng bái, trừ tà của Đạo giáo vẫn phổ biến tại Việt Nam. Tại Hà Nội vẫn còn một số đạo quán của Đạo giáo như Thăng Long tứ quán bao gồm Trấn Vũ quán, nay gọi là đền Quán Thánh ở phố Quán Thánh; Huyền Thiên quán, nay là chùa Huyền Thiên ở phố Hàng Khoai; Đồng Thiên quán, nay là chùa Kim Cổ ở phố Đường Thành; Đế Thích quán, nay là chùa Vua ở phố Thịnh Yên.
Đạo giáo đi vào Việt Nam, đặc biệt là "Đạo giáo phù thủy", tìm thấy ngay rất nhiều điểm tương đồng với tín ngưỡng ma thuật của người Việt nên Đạo giáo ăn sâu vào người Việt rất dễ dàng. Trước đó người Việt đã từng sùng bái ma thuật, phù phép. Họ tin rằng những lá bùa, những câu thần chú có thể chữa được bệnh tật và trị được tà ma. Tương truyền Hùng Vương vì giỏi phù phép nên có uy tín thu thập được 15 bộ để lập nên nước Văn Lang. Dưới thời Bắc thuộc, Đạo giáo rất phát triển ở Việt Nam. Nhiều quan lại Trung Hoa sang Việt Nam cai trị đều thích phương thuật, ví dụ Cao Biền đời Đường từng "cưỡi diều tìm long mạch" để triệt nguồn nhân tài Việt Nam. Thế nên, nếu Nho giáo phải đến thời Lý mới được thừa nhận thì Đạo giáo hòa trộn với tín ngưỡng ma thuật đến mức không còn ranh giới. Từ Trung Quốc vào Việt Nam, Đạo giáo cũng vẫn giữ hai phái là Đạo giáo nhân gian thờ Đức Ngọc Hoàng Thượng đế, Thái Thượng Lão Quân, thần Trấn Vũ (Huyền Vũ), Quan Thánh Đế Quân. Bên cạnh đó, có sự kết hợp với tín ngưỡng dân gian, Đạo giáo còn thờ nhiều vị thần thánh khác của người Việt như Đức thánh Trần, Thánh mẫu Liễu Hạnh, cùng với Tam Phủ, Tứ Phủ, cho thấy sự hòa quyện giữa Đạo giáo và tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt. Ngoài ra, các pháp sư Việt Nam từ Bắc chí Nam còn thường hay thờ các thần Ngũ Hổ bằng bức tranh con hổ hay Quan Lớn Tuần Tranh là hai con rắn Thanh Xà và Bạch Xà quấn trên xà nhà trước bàn thờ. Đặc biệt, Đạo giáo đã đem sang Việt Nam phương pháp cầu Tiên.
Sách Đạo Tạng Kinh của Đạo giáo cho biết "Sau khi vua Hán Linh Đế (168 – 189) băng hà, xã hội Trung Hoa rối loạn, chỉ có đất Giao Châu là tạm yên ổn. Người phương Bắc sang lánh nạn rất đông, phần nhiều là các đạo sỹ luyện phép trường sinh theo cách nhịn ăn". Liệt Tiên truyện ghi rằng Thái thú quận Giao Chỉ Sĩ Nhiếp bệnh chết ba ngày thì được một đạo sĩ là Đổng Phụng cho viên thuốc hòa vào nước ngậm, nhờ thế mà hồi phục trở lại. Cũng sách này ghi rằng ở Yên Tử có Yên Kỳ Sinh là vị tiên nhân từ thời Tần Thủy Hoàng đến đây để tìm cây thạch xương bồ rồi ở lại để tu luyện. Thời Đường Minh Hoàng, Thứ sử Giao Châu là Lưu Hướng cho xây đền Quán La ở động Già La. Đền Quán La vốn là đền thờ Huyền Thiên Trấn Vũ, có tên thời bấy giờ là quán Khai Nguyên. Đến thời Trần Hiến Tông vẫn có đạo sĩ tu luyện tại đây. Thời Trần Dụ Tông có nhà sư trùng tu đạo quán thành chùa, lấy tên là An Dưỡng tự. Dưới thời vua Lê Thần Tông, thế kỷ 17, xuất hiện một trường phái Đạo giáo Việt Nam có quy mô rất lớn gọi là Nội đạo, do Trần Toàn là một vị quan triều Lê, không theo nhà Mạc, từ quan về tu Tiên, mở Đạo trường ở Hoằng Hóa (Thanh Hóa), có 10 vạn tín đồ, được tôn là Thượng Sư. Tương truyền vua Lê Thần Tông bị bệnh mọc lông cọp được Trần Toàn dùng bùa phép và thần chú chữa khỏi. Ông còn cứu sống cho con Chúa chết đã 2 ngày, nên được Vua và Chúa cho người cất nhà cho và tự tay vua ghi 3 chữ "Nội Đạo Tràng". Ba người con trai của ông được tôn là "Tam Thánh". Phái Đạo này phát triển vào Nghệ An và ra Bắc, đến tận thế kỷ 20 hãy còn tồn tại nhiều trung tâm của đạo này ở Thanh Hóa, Nghệ An, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nội. Cuối thời Lê và trong thời Quang Trung, nhiều công trình Đạo giáo được xây dựng quanh khu vực Hồ Tây. Đạo giáo được truyền vào Việt Nam khá sớm và tồn tại như một tôn giáo đến đầu thế kỷ XX nhưng sau đó biến mất do không có những phong trào chấn hưng nó như Phật giáo.
Thời Bắc thuộc, Đạo giáo chỉ phổ biến trong dân gian, đến thời phong kiến độc lập, các nhà Đinh, Lê, Lý, Trần đều coi trong các đạo sỹ không kém các tăng sư, bên cạnh "Tăng quan" còn có cả "Đạo quan". Khi Đinh Tiên Hoàng thống nhất 12 sứ quân, lập nước Đại Cồ Việt, định đô ở Hoa Lư, đã cho mời một tăng, một đạo làm cố vấn cho triều đình. Chế độ một tăng, một đạo cố vấn cho triều đình duy trì đến thời Lý. Dưới các triều Đinh, Lê, Lý, Trần đều có chọn các đạo sĩ làm cố vấn bên cạnh các nhà sư: nên có chức đạo quan và tăng quan. Tương truyền vua Đinh Tiên Hoàng từng lấy lễ thầy trò để tiếp đãi pháp sư Văn Du Tường, nhờ ông chém chết yêu quái quỷ Xương Cuồng vốn là Mộc tinh (con hổ thành tinh) ở cây chiên đàn lâu năm. Đời nhà Lý các đạo sĩ Trần Tuệ Long và Trịnh Trí Không giữ địa vị quan trọng trong triều. Đại Việt sử ký toàn thư ghi rằng trong thời Lý có Lý Giác ở Diễn Châu học được phép thuật biến cây cỏ thành người, khởi binh làm loạn chống lại triều đình. Vào thời Trần Phế Đế, năm 1379, ở Bắc Giang có Nguyễn Bổ cho là mình có nhiều phép thần, tự xưng vương, lấy hiệu Đường Lang Tử Y. Đến thời Lê, Nho giáo chiếm vị trí độc tôn trong chính quyền trung ương, vị thế của Phật giáo và Đạo giáo giảm sút nhưng ảnh hưởng của chúng lên xã hội vẫn còn. Dưới thời vua Lê Thần Tông, thế kỷ 17, xuất hiện một trường phái Đạo giáo Việt Nam có quy mô rất lớn gọi là Nội đạo, do Trần Toàn là một vị quan triều Lê, không theo nhà Mạc, từ quan về tu Tiên, mở Đạo trường ở Hoằng Hóa (Thanh Hóa), có 10 vạn tín đồ, được tôn là Thượng Sư. Tương truyền vua Lê Thần Tông bị bệnh mọc lông cọp được Trần Toàn dùng bùa phép và thần chú chữa khỏi. Ông còn cứu sống cho con Chúa chết đã 2 ngày, nên được Vua và Chúa cho người cất nhà cho và tự tay vua ghi 3 chữ "Nội Đạo Tràng". Ba người con trai của ông được tôn là "Tam Thánh". Phái Đạo này phát triển vào Nghệ An và ra Bắc, đến tận thế kỷ 20 hãy còn tồn tại nhiều trung tâm của đạo này ở Thanh Hóa, Nghệ An, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nội. Năm 1895, hậu duệ nhà Mạc là Mạc Đĩnh Phúc tuyên truyền mình có phép lạ điều khiển được đạn súng kêu gọi khởi nghĩa chống Pháp. Đầu thế kỷ 20, có khởi nghĩa của Phan Xích Long, người sáng lập Thất Sơn Thần Quyền năm 1912.
Kinh sách của Đạo giáo được truyền sang Việt Nam hiện vẫn còn truyền tụng, ngoài hai quyển đầu tiên là Đạo Đức Kinh của Đức Lão Tử và Nam Hoa Kinh của Trang Tử, còn có quyển Huỳnh Đình Kinh dạy cách luyện Đạo, Thanh Tịnh Kinh và Cảm Ứng Kinh dạy về lẽ lành dữ trả vay cho người tu giải thoát. Tất cả tương truyền là do Đức Thái Thượng Đạo Tổ giáng cơ dạy từ xưa bên Trung Quốc.
Đặc biệt, Đạo giáo khi vào Việt Nam, hòa quyện với văn hóa tín ngưỡng dân gian đã hình thành một khuynh hướng của những người thật sự không phải là tín đồ đạo Lão nhưng có tư tưởng gần với phái Tiên Đạo hay Đạo giáo Thần Tiên, tức ưa thích đời sống thanh tĩnh nhàn lạc. Đó là những bậc trí thức Nho giáo, sinh không gặp thời, gặp chuyện bất bình nơi chốn quan trường hay các bậc anh hùng đã làm xong phận sự nam nhi đến lúc công thành thân thối lui về ẩn dật, vui thú điền viên cùng với thiên nhiên thi phú, cuộc cờ chén rượu mà theo dòng lịch sử, chẳng hạn như Nguyễn Trãi, Chu Văn An, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Công Trứ... với cuộc sống "tri túc, tiện túc, đãi túc, hà thời túc; tri nhàn, tiện nhàn, đãi nhàn, hà thời nhàn" của học thuyết Lão Trang. Giới sĩ phu xưa thường cùng nhau tổ chức cầu Tiên để hỏi về vận nước, chuyện kiết hung đại sự… Nhiều đàn cầu Tiên nổi danh một thời như đền Ngọc Sơn (Hà Nội), đền Tản Viên (Sơn Tây), đền Đào Xá (Hưng Yên)… Đầu thế kỷ 20, các đàn cầu Tiên (gọi là thiện đàn) mọc lên khắp nơi. Ngày nay, Đạo giáo Việt Nam với tư cách là một tôn giáo không còn tồn tại nữa, tuy nhiên những ảnh hưởng của nó đến đời sống xã hội, nhất là tại các vùng kém phát triển thì vẫn còn rất mạnh mẽ.
|
Phù Mỹ là một huyện ven biển thuộc tỉnh Bình Định, Việt Nam.
Huyện Phù Mỹ nằm ở phía đông tỉnh Bình Định, có vị trí địa lý:
Theo thống kê năm 2019, huyện có diện tích 549 km², dân số là 161.563 người, mật độ dân số đạt 294 người/km².
Huyện được chia thành 3 khu vực địa lý là:
Ngoài ra, huyện Phù Mỹ còn có 5 đảo nhỏ không có người sinh sống đó là Hòn Lao (hay Hòn Trâu Nằm) nằm phía đông nam xã Mỹ Thành; cụm 3 đảo Hòn Tranh (hay Hòn Quy), Hòn Đụn (hay Đảo Đồn còn có tên nữa là Hòn Nước) và Hòn Nhàn nằm phía đông Thôn Tân Phụng xã Mỹ Thọ; một đảo nữa của huyện là Hòn Khô nằm phía đông xã Mỹ Đức từ Hà Ra nhìn theo hướng Đông Nam. Phù Mỹ có nhiều món ăn đặc sản như: bún tôm, bánh trá
Hiện nay, việc khai thác titan đã để lại những hậu quả đối với môi trường khu vực phía đông huyện Phù Mỹ mà đặc biệt là tại xã Mỹ Thành. Khai thác titan đã tàn phá những rừng dương gây nên tình trạng cát bay đồng thời tạo ra những khu vực nhiễm phóng xạ vượt mức cho phép nhiều lần cùng tình trạng nguồn nước ngầm bị ô nhiễm.
Một vài khu công nghiệp được hình thành nếu không quản lý tốt thì sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường và đời sống của nhân dân quanh vùng.
Phù Mỹ cũng như Bình Định trước đây thuộc nền văn hóa Sa Huỳnh, sau đó thuộc sứ Việt Thường Thị rồi sau này thuộc về vương quốc Champa.
Năm 1471, sau khi đánh phá Chiêm Thành và mở bờ cõi đến núi Thạch Bi (Phú Yên), vua Lê Thánh Tông đã đặt phủ Phù Ly để cai quản những cư dân Chiêm Thành còn ở lại và những tù nhân hay dân nghèo miền bắc được đưa vào. Sau này qua mấy lần nhập tách thì Phù Ly được chia làm đôi thành Phù Cát và Phù Mỹ lấy dòng sông La Tinh làm ranh giới.
Năm 1939, Phù Mỹ được nâng cấp lên thành cấp phủ, với 6 tổng: An Bình, Bình Thành, Hòa Lạc, Trung Bình, Trung Thành, Vạn Định.
Sau Cách mạng tháng 8-1945, phủ và các tổng ở Phù Mỹ được đặt lại tên theo tên các chiến sĩ yêu nước nổi tiếng ở địa phương. Năm 1946 bỏ cấp tổng, lấy lại tên huyện như cũ, Phù Mỹ lúc này có 37 xã.
Đến cuối năm 1947 đầu năm 1948 dồn lại còn 14 xã: Mỹ Cát, Mỹ Chánh, Mỹ Đức, Mỹ Hiệp, Mỹ Hòa, Mỹ Lộc, Mỹ Lợi, Mỹ Phong, Mỹ Quang, Mỹ Tài, Mỹ Thành, Mỹ Thọ, Mỹ Thắng, Mỹ Trinh.
Trước năm 1975, chính quyền Sài Gòn đổi huyện Phù Mỹ thành quận, đổi thôn thành ấp, điều chỉnh một số địa danh, địa giới hành chính, toàn Phù Mỹ khi ấy có 115 ấp.
Sau năm 1975, lấy lại đơn vị hành chính là huyện, thuộc tỉnh Nghĩa Bình, gồm 14 xã: Mỹ Cát, Mỹ Chánh, Mỹ Đức, Mỹ Hiệp, Mỹ Hòa, Mỹ Lộc, Mỹ Lợi, Mỹ Phong, Mỹ Quang, Mỹ Tài, Mỹ Thắng, Mỹ Thành, Mỹ Thọ và Mỹ Trinh.
Ngày 29 tháng 10 năm 1983, chia xã Mỹ Thắng thành 2 xã: Mỹ Thắng và Mỹ An.
Ngày 19 tháng 2 năm 1986, chia xã Mỹ Đức thành 2 xã: Mỹ Đức và Mỹ Châu.
Năm 1989, huyện Phù Mỹ thuộc tỉnh Bình Định vừa tái lập.
Ngày 14 tháng 12 năm 1991, thành lập thị trấn Phù Mỹ (thị trấn huyện lị huyện Phù Mỹ) trên cơ sở 303 ha diện tích tự nhiên và 4.286 nhân khẩu của xã Mỹ Quang, 317 ha diện tích tự nhiên và 2.176 nhân khẩu của xã Mỹ Trinh, 407 ha diện tích tự nhiên và 2.515 nhân khẩu của xã Mỹ Hòa.
Ngày 19 tháng 4 năm 2002:
Hiện nay, huyên Phù Mỹ có 2 thị trấn và 17 xã.
Huyện Phù Mỹ có 19 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 2 thị trấn: Phù Mỹ (huyện lỵ), Bình Dương và 17 xã: Mỹ Cát, Mỹ Chánh, Mỹ Chánh Tây, Mỹ Châu, Mỹ Đức, Mỹ Hiệp, Mỹ Hòa, Mỹ Lộc, Mỹ Lợi, Mỹ An, Mỹ Phong, Mỹ Quang, Mỹ Tài, Mỹ Thắng, Mỹ Thành, Mỹ Thọ và Mỹ Trinh.
Kinh tế của huyện chủ yếu là nông nghiệp. Nhều xã có thổ nhưỡng là đất cát pha thích hợp cây kiệu nên nông dân trồng nhiều kiệu.
Ngoài ra, các xã ven biển có nghề làm muối, nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản.
Công nghiệp chưa phát triển, các làng nghề tiểu thủ công nghiệp chỉ nổi tiếng trong địa phương ít tạo được thương hiệu lớn. Một số di tích lịch sử và tự nhiên tuyệt đẹp nhưng chưa được chú ý để phát triển du lịch. Nhà máy điện năng lượng mặt trời (Mỹ An, Mỹ Thắng) là nhà máy điện lớn nhất Nam Trung Bộ. Cảng Long Sơn (Mỹ An) Vĩnh Lợi (Mỹ Thành) là 2 trong 4 cảng lớn nhất của Bình Định.
Hiện nay, công nghiệp ở huyện Phù Mỹ đang hình thành và phát triển. Các cụm công nghiệp đã hình thành:
Văn hóa - du lịch.
Thắng cảnh và di tích.
Thắng cảnh của Phù Mỹ tuy hoang sơ nhưng đẹp như: Chùa Hang Mỹ Hoà, Giếng Tiên và di tích lịch sử Đèo Nhông, đặc biệt phía đông là một vùng biển đẹp kéo dài từ Vĩnh Lợi (Mỹ Thành) đến cửa tấn Hà Ra (Mỹ Đức). Trong đó bờ biển Mỹ Thọ với thắng cảnh Mũi Rồng, Bãi Bàng, Hải Đăng thuộc thôn Tân Phụng thu hút nhiều khách tham quan của các xã lân cận.
Huyện Phù Mỹ có 2 ga tàu hỏa (nhỏ) thuộc tuyến đường sắt Bắc-Nam gồm ga Vạn Phú (xã Mỹ Lộc) và ga Phù Mỹ (thị trấn Phù Mỹ).
Huyện Phù Mỹ có Quốc lộ 1 chạy qua. Ngoài ra còn các đường tỉnh lộ và huyện lộ, đặc biệt là tuyến đường ven biển tỉnh lộ.
Đây cũng là địa phương có dự án Đường cao tốc Hoài Nhơn – Quy Nhơn đi qua đang được xây dựng.
|
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Các vật liệu gốm đề cập tới trong bài này là các hóa chất chủ yếu ở dạng oxide, được sử dụng trong công nghiệp gốm sứ. Chúng có thể phân loại một cách tương đối thô thiển thành các phân nhóm sau:
Tuy nhiên, sự phân loại này không hoàn toàn chính xác, do vai trò của một hóa chất nhất định còn phụ thuộc vào môi trường lò nung (oxy hóa, khử hay trung tính), vào sự có mặt của các hóa chất khác cũng như nhiệt độ nung
Oxide beryli là một oxide đặc biệt, do nó tồn tại ở dạng hầu như nguyên chất trong tự nhiên. Chúng dùng để chế tạo vật liệu gốm có độ dẫn nhiệt cao, đặc biệt với môi trường nhiệt độ thấp.
Oxide bismuth được giải phóng từ sự đốt nóng của nitrat bismuth. Bismuth có thể thay thế hiệu quả cho chì, nó cũng tạo được độ bóng, độ chảy lỏng, hệ số khúc xạ, sức căng bề mặt, độ nhớt tương tự cho men. Bismuth nóng chảy thấp hơn chì do đó men còn có thể chảy lỏng hơn. Tuy nhiên, bismuth đắt hơn chì và trong một vài trường hợp men sẽ không có độ bóng như dùng chì oxide, ví dụ trường hợp in màu xanh côban hay màu đỏ sắt lên trên men. Bismuth cũng được sử dụng trong các men frit nung thấp và màu.
Oxide cadmi không hòa tan trong nước và dung dịch kiềm nhưng hòa tan trong môi trường acid và môi trường có muối amôni. Tự bản thân nó không tạo được màu cho men, tuy nhiên sử dụng cùng với oxide sêlen sẽ tạo ra màu đỏ; cùng với lưu huỳnh cho màu vàng.
K2O cùng với Na2O và Li2O tạo thành nhóm oxide kiềm. K2O thường đi chung với Na2O trong khâu chuẩn bị nguyên liệu, chúng có tính chất hầu như giống nhau. Khi đi cùng, người ta gọi là KNaO. Là một oxide rất bền, oxide kali là một chất trợ chảy bổ trợ quan trọng trong các loại men nung cao. Độ giãn nở nhiệt cao góp phần làm cho men rạn nhưng không tệ như oxide natri. Men kiềm hầu như là men rạn. Nếu màu mong muốn của men phụ thuộc vào hàm lượng kiềm, để tránh rạn men chỉ còn cách điều chỉnh thân gạch.
Natri oxide là một chất trợ chảy mạnh hơn kali một ít. Natri oxide thường được thêm vào qua sôđa. Độ giãn nở nhiệt cao dễ gây rạn men. Natri có thể bắt đầu hoá hơi ở nhiệt độ cao. Tạo màu mạnh với đồng, côban, sắt, tuy nhiên khả năng rạn men cao và men chảy quá loãng do sử dụng hàm lượng sôđa cao. Men kiềm cao và alumina thấp giúp cho màu đẹp nhất. Kiềm làm tăng khả năng hòa tan chì trong men.
Phân tử lượng và hệ số giãn nở là giá trị trung bình của hai oxide thành phần.
Li2O là oxide trợ chảy mạnh nhất. Cùng với oxide bo và oxide natri, nó đóng vai trò của chất gây chảy. Chỉ cần sử dụng 1% sẽ cải thiện đáng kể độ bóng mặt men, 3% làm giảm nhiều điểm nóng chảy của men và giảm sức căng bề mặt của men nung chảy. Độ giãn nở nhiệt của nó thấp hơn của natri và kali nhiều do đó nó được dùng cho men cần độ giãn nở rất thấp. Ảnh hưởng đến các hiệu ứng kết cấu của mặt men.
Li2O làm tăng độ mờ của men. Li2O với oxide đồng có thể cho màu xanh lam. Li2O với oxide côban có thể cho màu hồng.
Cùng với SrO, BaO và CaO tạo thành nhóm oxide kiềm thổ. Oxide ziricon và oxide magnesi là hai oxide có nhiệt độ nóng chảy cao nhất. Tuy nhiên, MgO dễ dàng tạo pha eutecti với các oxide khác và nóng chảy ở nhiệt độ rất thấp. Độ giãn nở nhiệt thấp và khả năng chống rạn men là hai đặc tính quan trọng của oxide magnesi. Trong men nung nhiệt độ cao, nó là một oxide trợ chảy (bắt đầu hoạt động từ 1.170 °C) tạo ra men chảy lỏng có độ sệt cao, sức căng bề mặt lớn, mờ đục và xỉn. Cũng như CaO, tác động làm chảy men của nó gia tăng rất nhanh khi nhiệt độ càng cao. MgO không nên dùng cho men có màu sáng. Nó cũng có thể tác hại đến một số màu của men lót. MgO dùng làm chất bổ trợ bề mặt để tạo mặt men xỉn.
Phản ứng dễ dàng với silica để tạo thành silicat chì nóng chảy ở nhiệt độ thấp, độ bóng cao. Oxide chì (II) có thể cho các đặc trưng bề mặt và màu sắc lạ thường. Men chì còn có khả năng chống mẻ cạnh cao. Cacbonat chì, nguồn cung cấp oxide chì tốt nhất, tồn tại hầu như ở dạng nguyên chất và độ hạt rất mịn. Nó giúp hình thành và duy trì tốt thể huyền phù ở men chưa nung cũng như giúp men nóng chảy ở nhiệt độ thấp. Độ giãn nở nhiệt thấp, dùng kết hợp với oxide bo để cải thiện hiện tượng rạn men và khả năng bị ăn mòn hóa học. Oxide chì (II) cũng làm loãng men nung chảy. Vấn đề của chì là tính độc hại, mất độ bóng khi nung ở nhiệt độ cao, mờ sau một thời gian dài sử dụng và độ chống mài mòn kém. Nếu cho nhiều chì quá mức cho phép thì người sử dụng lâu ngày sẽ bị ảnh hướng đến trí nã
ZnO bắt đầu chức năng trợ chảy ở khoảng 1.000 °C. Tuy nhiên, ZnO dễ dàng bị khử thành kẽm kim loại do khí CO và H2 trong môi trường nung khử của lò ga (hay lò điện có độ thông hơi kém). Kẽm kim loại nguyên chất lại nóng chảy ở 419 °C, sôi và hoá hơi ở 907 °C. ZnO có độ giãn nở nhiệt thấp có thể dùng thay cho các chất trợ chảy có độ giãn nở nhiệt cao để ngăn chặn rạn men. Hàm lượng sử dụng trung bình và cao, ZnO cho mặt men xỉn và bị kết tinh. Phản ứng của oxide kẽm trên các màu khá phức tạp. Nó có thể có các hiệu ứng có ích hoặc có hại với các màu xanh lam, nâu, xanh lục, hồng và được khuyên không nên dùng với đồng, sắt hay crôm. Với hàm lượng cao, ZnO có thể là chất làm mờ (trắng đục).
Trong môi trường khử, Fe2O3 dễ dàng bị khử thành FeO theo phản ứng sau ở 900 °C:
Fe2O3 + CO = 2FeO + CO2
Phản ứng trên xảy ra dễ dàng nếu đất sét chứa nhiều các tạp chất hữu cơ. Khi sắt ba đã bị khử thành sắt hai trong men thì rất khó oxy hóa trở lại.
FeO là một oxide trợ chảy mạnh, có thể thay thế cho oxide chì hay oxide calci. Hầu hết các loại men sẽ có độ hoà tan sắt hai khi nung chảy cao hơn khi ở trạng thái rắn, do đó sẽ có oxide sắt kết tinh trong men khi làm nguội, môi trường oxy hóa hay khử.
Chất tạo thủy tinh.
P2O5 là một chất tạo thủy tinh như oxide bo và silica. Thủy tinh phosphor có khuynh hướng tạo vệt xanh xám trong men, nó không tham gia vào chuỗi silica nhưng tồn tại như một thể keo tách biệt trong mạng silicat. P2O5 có thể dùng làm chất biến đổi bề mặt, nó có thể tạo các hiệu ứng đa dạng và lốm đốm cho men (đặc biệt với men nung thấp) khi được sử dụng với hàm lượng thấp (tối đa 2%). Tro xương là nguồn cung cấp.
Dùng cho thủy tinh quang học vì có tính chất bảo vệ khỏi tia cực tím. Kết hợp với titan cho màu vàng. Dùng làm chất làm mờ trong trường hợp cần một số hiệu quả đặc biệt trong ngành gạch men.
Môi trường nung khử sẽ chuyển CuO (màu đen) thành Cu2O màu đỏ sáng:
2CuO + CO = Cu2O + CO2
Muốn có màu đỏ sáng, người ta chỉ cần dùng một lượng rất nhỏ oxide đồng (I) (0,5%). Nếu hàm lượng đồng cao hơn, có thể dẫn đến xuất hiện các hạt đồng kim loại nhỏ li ti trong men chảy tạo thành màu đỏ sang de-boeuf. Nếu có bo trong men khử đồng đỏ người ta sẽ có màu tím. Trong men đồng đỏ sử dụng nhiều nguyên liệu fenspat, thêm oxide bari tạo ra màu từ xanh Thổ đến lam thẫm, tùy theo hàm lượng oxide đồng. Flo khi được sử dụng với oxide đồng cho màu lục ánh lam.
Trong môi trường oxy hóa bình thường, CuO không bị khử thành Cu2O và nó tạo màu xanh lục trong suốt cho men. Có thể tạo màu tím cho men nếu trong men có một ít oxide đồng tạo màu xanh lục (CuO) và một ít oxide đồng đỏ (Cu2O). Hiệu quả này thường có được nếu men có hàm lượng CaO (vôi sống) cao hay nếu quá trình nung trong giai đoạn đầu là môi trường oxy hóa và các giai đoạn sau đó là môi trường trung tính. Sắc màu xanh lục có thể thay đổi tùy theo tốc độ nung. Màu đẹp nhất khi nung nhanh. Sắc xanh còn tùy thuộc vào sự hiện diện của các oxide khác (ví dụ: chì hàm lượng cao sẽ cho màu lục sẫm hơn, các oxide kiềm thổ hay bo hàm lượng cao sẽ kéo về phía sắc xanh lam). Oxide đồng là một chất trợ chảy khá mạnh. Nó làm tăng độ chảy loãng của men nung và tăng khả năng tạo vân rạn do hệ số giãn nở nhiệt cao. Kết hợp với oxide titan có thể tạo ra các hiệu quả "tạo vết bẩn" và "lốm đốm" rất đẹp. CuO kết hợp với thiếc hay ziricon cho màu xanh Thổ hay lục-lam trong men kiềm thổ (hàm lượng KNaO cao) và alumina thấp. Nên sử dụng frit pha sẵn nếu muốn có màu này, tuy nhiên men loại này thường bị rạn. CuO trong men (bari/kẽm/natri) cho màu xanh lam. K2O có thể làm cho men có CuO ngả sắc vàng.
Các hợp chất sắt là các chất tạo màu phổ biến nhất trong ngành gốm. Sắt có thể biểu hiện khác biệt tùy thuộc môi trường lò, nhiệt độ nung, thời gian nung và tùy theo thành phần hóa học của men. Do đó có thể nói nó là một trong những nguyên liệu lý thú nhất. Về mặt hoá học, oxide sắt (III) cũng thuộc nhóm lưỡng tính như alumina. Fe2O3 không phải là một oxide trợ chảy, nó là một chất chống chảy. Trong môi trường nung khử, Fe2O3 dễ dàng bị khử (do cacbon hay các hợp chất lưu huỳnh trong nguyên liệu và môi trường lò) thành FeO và trở thành chất trợ chảy. Nếu muốn giữ được oxide sắt (III), từ 700 °C – 900 °C, môi trường nung phải là oxy hóa. Oxide sắt (III) là dạng phổ biến nhất của oxide sắt tự nhiên. Trong môi trường nung oxy hóa, nó vẫn là Fe2O3 và cho màu men từ hổ phách đến vàng nếu hàm lượng tối đa trong men là 4% (rõ rệt hơn nếu men có oxide chì (II) và vôi), cho men màu da rám nắng (nâu vàng) nếu hàm lượng khoảng 6% và cho màu nâu nếu hàm lượng oxide sắt (III) cao hơn. Màu đỏ của oxide sắt ba có thể biến đổi trên một khoảng rộng trong khoảng nhiệt độ nung thấp. Nếu nung thấp thì có màu cam sáng. Nhiệt độ tăng màu sẽ chuyển sang đỏ sáng rồi đỏ sậm và cuối cùng là nâu. Chuyển biến từ đỏ sang nâu xảy ra đột ngột trên một khoảng nhiệt độ hẹp, cần lưu ý.
Hầu hết các loại men sẽ có độ hòa tan sắt ba khi nung chảy cao hơn khi ở trạng thái rắn, do đó sẽ có oxide sắt kết tinh trong men khi làm nguội, môi trường oxy hóa hay khử. Men có hàm lượng chất trợ chảy cao, điểm nóng chảy thấp sẽ hoà tan được nhiều sắt hơn.
Oxide sắt từ: có thể là hỗn hợp của Fe2O3 và FeO. Kết quả của phản ứng chuyển đổi không hoàn toàn hay có thể là dạng khoáng vật kết tinh tự nhiên, cho màu nâu. Dạng sau dùng để tạo đốm nâu li ti trong men.
Thêm Fe2O3 vào men giúp giảm rạn men (nếu hàm lượng sử dụng dưới 2%).
Trên 1.080 °C, MnO2 chuyển thành MnO (MnO chỉ tồn tại ở nhiệt độ trên 1.080 °C) – MnO là một oxide trợ chảy dễ dàng kết hợp với silica cho màu tím nếu trong men không có alumina và cho màu nâu nếu có alumina. Màu nâu mangan khác và đẹp hơn màu nâu sắt.
Hàm lượng nhỏ MnO dễ dàng hoà tan trong hầu hết các loại men, tuy nhiên trên 5% thì MnO bắt đầu kết tủa (tốc độ nguội, độ chảy lỏng của men sẽ ảnh hưởng đến sự kết tủa). Nếu hàm lượng rất cao (20%), sẽ có bề mặt kim loại.
MnO không bị biến đổi trong môi trường khử, tuy nhiên tốt nhất vẫn nên dùng nó trong môi trường oxy hóa và men nung trên 1.200 °C.
Trong men nung dưới 1.080 °C, oxide mangan cho màu nâu cà phê khi có mặt thiếc, cho màu nâu xỉn khi có chì và hàm lượng thấp kiềm.
MnO2 có thể cho màu tím trong men kiềm cao (KNaO) và alumina thấp, có mặt oxide côban càng tốt (nên dùng loại frit có thành phần này).
Các vết màu với thành phần 8 sắt, 4 mangan và 0,5 côban cho màu đen tuyền.
Thường không dùng với men nung thấp do điểm nóng chảy của bột oxide niken (II) cao. Men đã xỉn sẽ bị khô nếu thêm oxide niken (II).
Oxide niken (II) thường dùng để cải thiện và "làm mềm" màu của các oxide kim loại khác do đó chỉ sử dụng với lượng nhỏ.
Oxide niken (II) với oxide thiếc cho màu xanh thép. Nếu hàm lượng thiếc cao thì có thể có màu xanh oải hương. Oxide niken (II) và oxide calci cho màu nâu vàng. Oxide niken (II) với oxide bari cho màu nâu.
Oxide niken (II) trong men chì cho màu xám. Oxide niken (II) có thể cho màu hồng trong men kali cao. Oxide niken (II) cho màu vàng trong men lithi. Oxide niken (II) với hàm lượng cao MgO cho màu xanh lục, tốt hơn nếu có mặt kẽm.
Được sử dụng cùng với ziricon trong các loại vết tạo màu vàng chanh. Màu vàng có thể thay đổi theo thành phần hóa học của men. Men PrO2 có thể dễ dàng bị sai màu khi bị nhiễm các oxide màu khác.
PrO2 có thể dùng trong môi trường nung khử, nhiệt độ cao. Cũng độc hại nhưng ít nguy hiểm hơn vanadi hay antimon.
Nguyên tố bán kim loại cùng nhóm lưu huỳnh. Dùng với côban sẽ là một chất khử màu tốt cho thủy tinh, do nó tạo màu hồng sẽ trung hoà màu xanh lục của sắt và thủy tinh sẽ trong suốt không màu. Dùng với cadmi cho men màu đỏ (nung thấp). Có mặt chì làm tăng màu.
Cho thủy tinh màu hoa hồng hay hồng ngọc (ruby). Dùng trong một vài loại vết màu đặc biệt.
Có thể coi là hỗn hợp của UO2x2UO3. Dùng làm chất tạo màu, hàm lượng sử dụng có thể đến 15%, có thể cho màu vàng, đỏ và cam. Ví dụ oxide urani cho màu đỏ trong men silicat chì với alumina thấp và không có oxide bo, có mặt kẽm càng tốt. Dù dạng oxide được xem là không nguy hiểm về mặt phóng xạ, việc sử dụng urani nói chung là nên hạn chế.
Vanadi là một oxide kim loại có tính acid, cho màu vàng nếu hàm lượng sử dụng khoảng đến 10%. Màu của nó yếu, tuy nhiên có thể cũng có khi dùng kết hợp với thiếc và oxide ziricon. Màu vàng vanadi bền hơn màu vàng antimon ở nhiệt độ cao. Màu vanadi rực rỡ và ấn tượng nhất trong men chì. Pentoxide vanadi cũng là một chất trợ chảy mạnh. Ngoài dạng V2O5 chúng ta còn có thể có V2O3.
Chất tạo độ mờ.
Oxide antimon (III) được dùng làm chất tạo độ mờ trong men nung thấp, tuy nhiên nó dễ bị mất tính năng làm mờ do là chất dễ bị khử, vì vậy trong men cần phải có một tác nhân oxy hóa như KNO3 để đảm bảo hiện tượng này không xảy ra. Không dùng được cho men nung trên cone 1 do bị hoá hơi. Có thể cho men ngả màu vàng Naples nếu có sự hiện diện của chì (tạo kết tủa antimonat chì màu vàng).
Dạng oxide cao nhất của thiếc kim loại. Oxide thiếc (IV) rất trắng, tỷ trọng thấp. Thiếc kim loại nóng chảy ở nhiệt độ rất thấp nhưng oxide thiếc (IV) chỉ nóng chảy ở 1.127 °C.
SnO2 chủ yếu được sử dụng làm chất làm mờ (hàm lượng sử dụng từ 5-15%) cho mọi loại men. Oxide thiếc là một chất làm mờ hữu hiệu để chuyển men trong thành trắng đục (trắng mềm sắc xanh nếu so sánh với các màu trắng tinh thô của ziricon). Lượng sử dụng tùy thuộc thành phần men và nhiệt độ nung. Tính năng làm mờ của oxide thiếc có được là do các hạt oxide thiếc nhỏ phân tán và nằm lơ lửng trong men nung. Ở nhiệt độ cao hơn, các hạt oxide thiếc bắt đầu bị chảy, hòa tan và sẽ mất khả năng làm mờ.
Cũng như oxide ziricon, lượng oxide thiếc cao trong men nung thấp sẽ làm cho men khó chảy, làm quánh men chảy và tăng khả năng bị lỗ châm kim và gai ốc. Sử dụng oxide thiếc sẽ có màu trắng mềm hơn sử dụng chất tạo mờ gốc ziricon (rất thông dụng và rẻ hơn oxide thiếc nhiều).
Một điều phải hết sức lưu ý là oxide thiếc dễ dàng phản ứng với crôm (chỉ cần lượng rất nhỏ) tạo ra màu hồng. Nếu trong lò chỉ có một ít hơi crôm từ các loại men khác, màu trắng của oxide thiếc sẽ không còn.
Các chất tạo mờ khác còn có oxide ziricon (cho màu trắng thủy tinh thô hơn), phôtphát calci (bị vấn đề ngả màu sang xám), oxide xeri (chỉ dùng ở nhiệt độ thấp), oxide antimon (có vấn đề nếu men có chì – men ngả vàng) và dioxide titan (mất màu nếu có oxide sắt).
Dioxide titan là một oxide đa dụng do có thể làm chất làm mờ, tạo đốm và kết tinh. Hàm lượng dưới 0,1% được dùng để biến đổi màu men có sẵn từ các oxide kim loại khác như Cr, Mn, Fe, Co, Ni, Cu. Dioxide titan có thể tự tạo thủy tinh nhưng nó lại không có độ hòa tan cao trong silica nóng chảy. Hàm lượng thấp hơn 1%, dioxide titan hòa tan hoàn toàn trong men chảy (chưa thể làm chất làm mờ). Hàm lượng hơi cao hơn một chút, nó sẽ cho một vệt màu trắng ánh lam trong men trong suốt (còn tùy thuộc hàm lượng alumina). Trên 2%, nó bắt đầu thay đổi mạnh bề mặt và độ đục của men do hình thành các hạt tinh thể phân tán lơ lửng trong men. Trong khoảng từ 2-6%, nó sẽ tạo các đốm trên mặt men. Từ 10-15%, nó cho bờ mặt men mờ đục và xỉn nếu men không bị quá lửa. Dioxide titan là một oxide "đói" oxy và dễ dàng bị oxy hóa từ dạng bị khử của nó khi có cơ hội.
Dioxide titan được dùng trong một số loại frit chì để giảm sự thẩm thấu. Men chứa dioxide titan có thể thay đổi màu nhẹ dưới tác động của ánh sáng và cũng có thể thay đổi màu do tác động của nhiệt.
TiO2 được xem là oxide trơ trong men. Tuy nhiên trên giản đồ Al2O3 - TiO2, dioxide titan và oxide nhôm tạo cùng pha eutecti ở 80% Al2O3 và 1705 °C cho thấy TiO2 có phản ứng với oxide nhôm, oxide quan trọng thứ nhì trong ngành gốm.
ZrO có thể tạo các mẫu gồm những vùng đậm nhạt xen kẽ trên mặt men (chất biến đổi bề mặt). Cần phải sử dụng hàm lượng cao (khoảng 15%).
ziricon được sử dụng trong các vết để ổn định độ màu.
Nó được dùng làm chất làm mờ trong men, tương tự như oxide thiếc. Tuy nhiên, oxide thiếc có thể nói là hiệu quả gấp đôi về mặt tạo độ mờ. Men bo hay kiềm cao, men alumina và silica thấp có thể không được làm mờ tốt lắm.
LOI (Chất mất đi khi cháy).
Viết tắt của từ tiếng Anh "Loss on Ignition"
CO2 tạo ra khi cacbon trong thành phần nguyên liệu cháy trong lúc nung. CO2 thường được tạo ra khi khí CO trong buồng đốt (tạo ra trong môi trường nung khử hay oxy hóa không hoàn toàn) gặp các hợp chất mà nó có thể dễ dàng lấy đi một nguyên tử oxy để tạo thành CO2.
Flo thoát ra khi nung một số nguyên liệu như đá Cornwall hay flospat, hơi của nó rất độc hại, do đó phải nêu riêng để lưu ý, không nên gộp chung vào LOI.
Các nguyên tố dấu vết (hay vi lượng).
Dùng nhóm các nguyên tố dấu vết trong bảng phân tích nhưng xem như trọng lượng bằng 0 trong tính toán công thức men.
Dùng trong chế tạo gốm sứ dẫn điện, vật liệu chịu lửa, ngành thủy tinh và trong các vết màu. Có thể cho men màu vàng.
Men phát màu "(colored glaze)" là loại men mà trong thành phần có các "oxide" hoặc muối kim loại màu khi nung nóng chảy tạo nên những hiệu ứng sắc màu vô cùng phong phú. Như vậy các oxide và muối kim loại màu là nhân tố chính làm nên màu men. Quy trình nung đốt cũng là một nhân tố rất quan trọng quyết định đến sắc màu và hiệu ứng của men. Với các dòng men quý thì chỉ một sự thay đổi nhỏ trong khâu nung đốt cũng có thể làm cho sắc màu men biến đổi hoàn toàn. Mỗi nghệ nhân gốm sứ thường tự tìm tòi cho mình công thức pha chế, phương pháp nung đốt riêng được xem như bí quyết nghề nghiệp để có được những sắc màu mong đợi ấy. Sắc màu càng độc đáo kết hợp với hiệu ứng càng thú vị thì men càng quý, sản phẩm càng giá trị và đẳng cấp của người nghệ nhân gốm sứ càng được ghi nhận. "Men ngọc Celadon, men đỏ máu bò, men kết " chính là ví dụ tiêu biểu về những dòng men phát màu quý giá.
|
Châu Á phần lớn nằm ở Bắc bán cầu, là châu lục có diện tích lớn nhất trên thế giới. Thiên nhiên của châu Á rất đa dạng. Diện tích châu lục này bao phủ 8,7% tổng diện tích Trái Đất (hoặc chiếm 29,4% tổng diện tích lục địa).
Đại bộ phận lãnh thổ châu Á nằm ở Bắc Bán cầu và Bán cầu Đông. Ranh giới giữa châu Á với châu Phi là kênh đào Suez, với châu Âu là Dãy núi Ural, sông Ural, Biển Caspi, mạch núi Kavkaz, eo biển Thổ Nhĩ Kỳ, biển Địa Trung Hải và Biển Đen. Bốn điểm cực đất liền lớn châu Á: điểm cực đông là mũi Dezhnev ở eo biển Bering (66°4′45″B, 169°39′7″T), điểm cực nam là mũi Tanjung Piai ở eo biển Malacca (1°16′B, 103°31′Đ), điểm cực tây là mũi Baba ở biển Aegea (39°27′B, 26°3′Đ), điểm cực bắc là mũi Chelyuskin ở eo biển Vilkitsky (77°44′B, 104°15′Đ).
Hang lớn nhất là hang Sơn Đoòng (hang động tự nhiên lớn nhất thế giới), Đỉnh núi cao nhất là đỉnh Everest (cao nhất thế giới), điểm thấp nhất là sụt lún Biển Chết (thấp nhất thế giới), cao nguyên cao nhất là cao nguyên Thanh Tạng (cao nhất thế giới), sông dài nhất là Trường Giang (dài thứ ba thế giới), hồ lớn nhất là biển Caspi (lớn nhất thế giới), hồ sâu nhất là hồ Baikal (sâu nhất thế giới), sa mạc lớn nhất là sa mạc Arabi (lớn thứ năm thế giới). Vượt qua kinh độ và vĩ độ rộng vô cùng, chênh lệch thời gian đông - tây đạt đến từ 11 đến 13 giờ đồng hồ. Vùng đất phía tây và châu Âu nối liền lẫn nhau, hình thành lục địa Âu – Á - lục địa lớn nhất trên Trái Đất. Trừ đất liền ra, diện tích đảo lớn và đảo cồn của châu Á chừng 2,7 triệu kilômét vuông, chỉ đứng sau Bắc Mỹ.
Châu Á là nơi bắt nguồn ba tôn giáo lớn của thế giới Phật giáo, Hồi giáo và Cơ Đốc giáo. Trong bốn nước xưa có nền văn minh lớn thì có ba nước xưa ở vào châu Á (Ấn Độ, Iraq (Lưỡng Hà) và Trung Quốc).
Trong số các quốc gia và vùng lãnh thổ thuộc châu Á, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, Israel, Hồng Kông và Ma Cao được công nhận là những quốc gia và vùng lãnh thổ có nền kinh tế công nghiệp phát triển, số còn lại là các nước đang phát triển, trong đó, Trung Quốc và Ấn Độ là 2 nước đang phát triển có diện tích và dân số lớn nhất trên thế giới. Mặc dù còn tồn tại khoảng cách, tuy nhiên kinh tế các nước châu Á nhìn chung đều có sự phát triển, tăng trưởng nhất định.
Châu Á trong chữ Hán 州亞, chữ Hi Lạp cổ đại gốc là Ασία, và chữ La-tinh là Asia.
Châu Á là một châu lục có dân số đông nhất thế giới, đồng thời cũng là châu lục có mật độ dân số lớn nhất. Tên chữ của nó cũng xưa cũ nhất. "Asia" mang ý nghĩa là "khu vực Mặt Trời mọc", tương truyền là do người Phoenicia cổ đại đưa ra. Hoạt động trên biển thường xuyên, yêu cầu người Phoenicia cần phải xác định nơi chốn và hướng đi. Vì vậy họ đem khu vực biển Aegea về phía đông gọi chung là "Asu", nghĩa là "chỗ Mặt Trời mọc"; nhưng mà đem khu vực biển Aegea về phía tây thì gọi chung là "Ereb", nghĩa là "chỗ Mặt Trời lặn". Asia từng chữ một là do chữ Asu tiếng Phoenica diễn hoá tới nay. Vùng đất mà nó chỉ về là không rõ ràng lắm, phạm vi là có hạn định. Đến thế kỉ thứ nhất TCN đã biến thành là một tên gọi tỉnh hành chính của đế quốc La Mã, về sau thì mới dần dần khuếch đại, bao gồm cả khu vực châu Á bây giờ, biến thành là một cái tên để gọi tên châu lục lớn nhất thế giới.
Phiên âm bằng tiếng Trung cho Asia là "Yàxìyà" (亞細亞 - Á-tế-á) được đặt tên cho châu lục này trước nhất là vào năm 1582. Sau khi giáo sĩ truyền giáo Hội Jesus Matteo Ricci đến Trung Quốc, dưới sự giúp đỡ của Vương Bạn - tri phủ Long Khánh (nay là huyện Kiếm Các, huyện Tử Đồng, huyện Giang Du - phía bắc tỉnh Tứ Xuyên), cùng nhau làm ra "Khôn dư vạn quốc toàn đồ" với các phiên dịch viên. Bởi vì người nước ngoài lúc đó đến Trung Quốc phần nhiều ở khu vực miền nam, các phiên dịch này đều có mang theo mình sắc thái tiếng Hán miền nam dày đặc. Chữ nước ngoài mở đầu phiên dịch là "á" đọc là "a", cuối đuôi phiên dịch là "á", chữ nước ngoài phần nhiều đọc là "ya", lúc phiên dịch thành Trung văn, phiên dịch viên tức khắc sẽ căn cứ vào phát âm chữ Hán trong ngôn ngữ nơi đó để chọn lựa chữ Hán tương ứng.
Lịch sử và văn hoá châu Á đều rất cổ xưa. Ấn Độ, Iraq (nước Babylon cũ) và Trung Quốc là ba trong bốn nước xưa là các nền văn minh lớn của thế giới đều ở châu Á. Trình độ kinh tế và văn hoá của châu Á đã từng chiếm giữ vị trí dẫn đầu vào khoảng thời gian dài trên thế giới, tứ đại phát minh của Trung Quốc hoặc người Ấn Độ phát minh chữ số Arabi và số 0, , cống hiến cực kì to lớn cho thế giới.
Thời đại viễn cổ.
Vào thời đại viễn cổ, rất nhiều dân tộc của châu Âu và Bắc Phi đều bắt nguồn ở khu vực thảo nguyên của Trung Á. Vào Giai đoạn di cư, một bộ phận ở về phía tây tiến vào châu Âu, một bộ phận ở về phía đông dời vào Ấn Độ, hình thành các dân tộc ngữ hệ Ấn - Âu với phạm vi rộng lớn; một bộ phận khác ở về phía nam dời đến Bắc Phi và Tây Á, tiến vào Ai Cập, hợp thành các dân tộc ngữ hệ Phi - Á (tức ngữ hệ Semito - Hamitic) với người ở ngay địa phương đó.
Thời đại thượng cổ.
Vào thời đại thượng cổ, Trung Quốc ở phương đông và đế quốc Ba Tư ở phương tây đều phát triển biến thành là đế quốc lớn mạnh, Ba Tư một mạch tranh hùng với Hi Lạp ở châu Âu, cuối cùng đều bị Alexander Đại đế của đế quốc Macedonia đánh bại, quân đội của Alexander tiến thẳng xâm nhập tiểu lục địa Ấn Độ, cuối cùng một phần quân đội còn lưu trú lại đã lập lên nhà nước Armenia. Trung Quốc lúc đó cũng đang đi đường lối hướng về bành trướng thống nhất, các dân tộc chung quanh mở đầu hiểu ra nhà nước Tần.
Lúc đế quốc La Mã ở phương tây trỗi lên, triều nhà Hán của Trung Quốc ở phương đông cũng là một nhà nước lớn mạnh, lãnh thổ của đế quốc La Mã bành trướng đến chỗ thung lũng sông Babylon cũ (bây giờ gọi là sông Euphrates) ở Trung Đông, phương đông và phương tây mở đầu có giao lưu kinh tế và văn hoá, con đường tơ lụa ban đầu từ đô thành Trường An, Trung Quốc đi qua Tây Vực (chính là Tân Cương và một phần khu vực Trung Á hiện nay) và Trung Đông, xa đến Rôma, Ý. Sau khi người Hung Nô ở phía bắc triều nhà Hán bị triều nhà Hán đánh bại, dần dần thiên cư hướng về phương tây, một ít bộ tộc mà trong mắt đế quốc Tây La Mã bị coi là "người chưa khai hoá", sau khi dời vào châu Âu, lập tức tăng tốc diệt vong đế quốc Tây La Mã.
Thời đại trung cổ.
Vào thời đại trung cổ, ở vùng đất phía tây nam châu Á nổi lên đế quốc Arabi lớn mạnh - bao quát Nam Âu, Tây Á, Trung Á và Bắc Phi. Cương vực của Trung Quốc vào lúc triều nhà Đường lớn mạnh ở phương đông cũng bành trướng đến Trung Á và Triều Tiên đã dần dần làm thành dân tộc thống nhất.
Sự trỗi dậy của dân tộc Mông Cổ hình thành ảnh hưởng không ít ở thế giới, đã chinh phục vùng đất Âu - Á rộng lớn. nhưng mà vì củng cố chính quyền của bản thân nên đã tàn sát rất nhiều người dân dị tộc, rất nhiều văn minh ưu tú bị phá bỏ trong vòng một ngày.
Từ năm 1453, sau khi đế quốc Byzantine bị diệt vong, đế quốc Ottoman của nhà nước Hồi giáo đã xưng hùng chiếm giữ khu vực Trung Đông, bán đảo Tiểu Á và Bắc Phi hơn 400 năm. Ở múc độ nào đó, đế quốc Ottoman đã gây trở ngại giao lưu đông - tây về phương diện văn hoá và kinh tế. Khu vực Đông Á từ thế kỉ XVI tới nay, sự phát triển văn hoá và khoa học dần dần lạc hậu, thường hay thấy tình huống các nước cấm chỉ người dân trong nước giao lưu với người nước ngoài. Thí dụ chính sách toả quốc được thực thi vào thời đại Edo ở Nhật Bản, hoặc chính sách toả quốc của vương triều Triều Tiên, hoặc chính sách cấm biển vào thời kì nhà Minh và nhà T
Từ sau cận đại.
Từ sau thế kỉ XVIII, cùng với sự nổi lên của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa thực dân ở châu Âu, người theo chủ nghĩa thực dân thông qua tuyến đường hàng hải, tiến hành khai thác tài nguyên ở đất liền châu Á, và sự suy yếu của chính quyền phong kiến trong thời gian dài của vùng đất châu Á đã trở thành miếng mồi mà các cường quốc châu Âu tranh giành, rất nhiều lãnh thổ bị chiếm đóng làm thành thuộc địa hoặc bán thuộc địa. Vùng đất hoang vu Siberia ở phía bắc châu Á, tan vỡ theo sau nỗ lực của đế quốc Mông Cổ, nước Nga Sa hoàng do dân tộc Nga ở châu Âu lập nên dần dần men theo đường bộ mà khai quật mở mang, rồi xưng hùng chiếm giữ một vùng rộng lớn ở phía bắc châu Á.
Cuối thế kỉ XIX, Nhật Bản theo sau sự thành công cải cách Duy tân Minh Trị, khiến cho thế nước hưng thịnh nhanh chóng, trở thành nước châu Á duy nhất có đầy đủ địa vị trên vũ đài cộng đồng quốc tế bằng tư cách "cường quốc". Từ lúc thắng lợi nhiều lần phát động chiến tranh chống lại các nước chung quanh như triều nhà Thanh, nước Nga Sa hoàng cùng với sau khi trải qua Đại chiến thế giới lần thứ nhất, Nhật Bản cai quản các thuộc địa của nước chiến bại Đức ở châu Á với tư cách nước chiến thắng, khiến cho phạm vi thế lực của Nhật Bản trải khắp cả Tây Thái Bình Dương. Lại thúc đẩy tham vọng chinh phục Trung Quốc và cả châu Á của nó ngày một lớn dần, Nhật Bản dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa quân phiệt vào thập kỉ 30 - 40 ở thế kỉ 20 đã phát động chiến tranh Trung – Nhật lần thứ hai và chiến tranh Thái Bình Dương, Đại chiến thế giới lần thứ hai cũng mở đầu từ quân Đức đánh chớp nhoáng Ba Lan vào ngày 1 tháng 9 năm 1939, sau đó mở rộng chiến tranh sang khu vực châu Á. Nhật Bản cuối cùng đầu hàng sau khi bị Hoa Kỳ ném xuống hai trái bom nguyên tử hướng về Hiroshima và Nagasaki. Sau khi Đệ nhị thế chiến đi qua, chủ nghĩa dân tộc ở châu Á ngóc đầu, các nước và dân tộc vừa mới bắt đầu sôi nổi tranh giành tìm lấy độc lập. Cùng lúc với đó, đối lập chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa cộng sản ở phương tây lan rộng đến đại lục địa châu Á. Năm 1949 Đảng Cộng sản Trung Quốc đánh bại Đảng Quốc dân Trung Quốc trong Nội chiến Quốc - Cộng, đã nắm giữ chính quyền của Trung Hoa dân quốc ở vùng đất Trung Quốc đại lục, thành lập nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa; Chính phủ Trung Hoa dân quốc dời đến Đài Bắc. Nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa do Đảng Cộng sản Trung Quốc thành lập và Liên minh nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô-viết do Đảng Cộng sản Liên Xô kiến lập cùng nhau thúc đẩy mở rộng chủ nghĩa cộng sản ở châu Á. Vùng đất Đông Á trước sau liên tục kiến lập nhiều chính quyền chủ nghĩa xã hội, như Triều Tiên, Việt Nam, Là, chiến tranh Triều Tiên và chiến tranh Việt Nam là tuyến đầu của cuộc chiến tranh giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản ở châu Á.
Các dân tộc ở Tây Á, Nam Á và Trung Đông cũng sôi nổi tranh giành độc lập từ sau Đại chiến thế giới lần thứ hai, nổi tiếng nhất chính là cuộc vận động cách mạng độc lập Ấn Độ do Mahatma Gandhi khởi xướng, cuối cùng dẫn đến Cuộc chia cắt Ấn Độ - Pakistan, Ấn Độ lấy tín đồ Ấn Độ giáo là chính và Pakistan lấy tín đồ Hồi giáo là chính cùng độc lập vào năm 1948. Tuy nhiên, vấn đề kiến lập nhà nước của Israel và Palestine ở Trung Đông, mang theo xung đột nghiêm trọng dính líu đến phương diện tôn giáo và dân tộc. Mặc dù Israel được hứa hẹn dựng nước ở vùng đất người Do Thái vào năm 1947, nhưng vì thánh địa Jerusalem được chia cho Israel, khiến các nước Hồi giáo chung quanh bất mãn, người Do Thái và tín đồ Hồi giáo bất hoà, dẫn đến Israel và các nước Hồi giáo chung quanh mỗi ngày gia tăng xung đột, trong chiến tranh Trung Đông lần thứ ba Israel kháng cự với Syria, Jordan và Ai Cập, Israel chiếm lĩnh một vùng đất đáng kể của Palestine, và thiết lập thuộc địa ở vùng đó. Mặt khác, vùng đất Trung Đông từ trước tới nay bị coi là "kho thuốc súng thế giới", vùng đất này chiến tranh liên miên không ngớt, bao gồm chiến tranh Iran - Iraq mà Iraq và Iran chĩa súng lẫn nhau, và chiến tranh giữa Hoa Kỳ và Iraq như chiến tranh vùng Vịnh vào ngày 17 tháng 1 năm 1991 và Chiến tranh Iraq vào ngày 20 tháng 3 năm 2003, và chiến tranh Afghanistan do lãnh đạo phần tử khủng bố số một Osama bin Laden nhắm vào tuyên bố của Hoa Kỳ cho nên năm 2002 phát động để lật đổ tập đoàn chính trị Taliban.
Liên Xô phát sinh chính biến vào cuối tháng 8 năm 1991, mặc dù Đảng Cộng sản Liên Xô giải quyết trong một tuần, nhưng mà vẫn khiến Liên Xô giải thể vào cuối năm 1991. Ở vùng đất Trung Á nhiều nước cộng hoà tách khỏi Liên Xô cũ thành nhà nước độc lập mới như Kazakhstan, Turkmenistan, Uzbekistan, v.v
Vùng đất châu Á bát ngát xa thẳm. Để cho thuận lợi, có thể chia châu Á làm 6 khu vực là Đông Á, Nam Á, Đông Nam Á, Trung Á, Tây Á và Bắc Á. Môi trường tự nhiên và hoạt động loài người của các vùng đất này mỗi nơi có đặc sắc riêng.
Đông Á bao gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Triều Tiên và Mông Cổ. Diện tích chừng 11,8 triệu km vuông. Dân số hơn 1,6 tỉ. Địa thế phía Tây cao phía Đông thấp, chia làm bốn bậc thang. Cao nguyên Thanh Tạng ở phía Tây Nam Trung Quốc gọi là "nóc nhà thế giới", chiều cao cách mặt nước biển trung bình trên 4.000 m. Phía nửa Đông Nam là miền gió mùa, thuộc về đới khí hậu rừng lá rộng ôn đới và đới khí hậu rừng rậm á nhiệt đới; phía Tây Bắc thuộc về đới khí hậu thảo nguyên hoặc sa mạc ôn đới tính lục địa; phía Tây Nam thuộc về đới khí hậu cao nguyên và núi. Từ tháng 5 đến tháng 10 vùng đất phía Đông sát bờ biển bị ảnh hưởng của bão nhiệt đới tây bắc Thái Bình Dương. Tài nguyên khoáng sản phong phú gồm là than đá, sắt, dầu thô, đồng, antimon, wolfram, molypden, vàng, magnesit, than chì. Đông Á là quê hương của nhiều cây trồng như lúa gié, củ mài, lúa tắc, lúa tám đen, đậu nành, cỏ gai, trà xanh, tung dầu, điều, quýt, long nhãn, cây vải, nhân sâm. Lúa thóc chiếm trên 40% tổng sản lượng của thế giới, lá trà chiếm trên 25% tổng sản lượng thế giới, đậu nành chiếm 20%. Sản lượng sợi bông, đậu phộng, bắp, mía, mè, cải dầu, tơ tằm chiếm địa vị trọng yếu trên thế giới.
Tây Á cũng gọi là Tây Nam Á, chỉ vùng đất phía tây của châu Á, bao gồm Thổ Nhĩ Kì, Israel, Iran, Iraq, Cộng hòa Síp, Syria, Liban, Jordan, Kuwait, Arabi Saudi, Yemen, Oman, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, Qatar, Bahrain, Gruzia, Armenia và Azerbaijan. Diện tích chừng 6 triệu kilômét vuông. Dân số hơn 300 triệu người. Cao nguyên trải rộng, phần phía bắc nhiều dãy núi. Đồng bằng Mesopotamia ở khoảng giữa cao nguyên núi phía bắc và bán đảo Ả Rập ở phía nam là do sông Euprates và sông Tigris hình thành nên. Khí hậu nóng và khô. Diện tích sa mạc ở phía nam rộng lớn. Vùng đất ven biển Địa Trung Hải và Biển Đen cùng với vùng núi phía tây trong khu vực này thuộc về khí hậu Địa Trung Hải, cao nguyên phía đông và nội lục thuộc về khí hậu thảo nguyên hoặc sa mạc á nhiệt đới, phần lớn vùng đất ở bán đảo Ả Rập thuộc về khí hậu sa mạc nhiệt đới. Trữ lượng và sản lượng dầu thô chiếm địa vị trọng yếu trên thế giới. Tây Á là nơi sản sinh bắt nguồn thực vật vun trồng như cà rốt, dưa lưới, hành tây, rau chân vịt, cỏ linh lăng, chà là cùng với các giống gia súc như lạc đà một bướu, ngựa Ả Rập, dê Angora, thỏ Angora.
Đông Nam Á chỉ vùng đất phía đông nam của châu Á, gồm các nước Singapore, Indonesia, Malaysia, Thái Lan, Việt Nam, Lào, Philippines, Campuchia, Myanmar, Brunei và Đông Timor. Diện tích khoảng 4,5 triệu kilômét vuông. Dân số hơn 650 triệu. Về địa lí, khu vực bao gồm hai phần: bán đảo Ấn - Trung và quần đảo Mã Lai. Là một trong các khu vực có nhiều núi lửa nhất trên thế giới. Phía nam vùng quần đảo và bán đảo thuộc về khí hậu rừng mưa nhiệt đới, vùng núi phía bắc bán đảo thuộc về khí hậu rừng rậm á nhiệt đới. Thiếc, dầu thô, khí thiên nhiên, than đá, nickel, quặng bô xít, wolfram, chromi, vàng, v.v là khoáng vật trọng yếu. Đông Nam Á là nơi bắt nguồn nhiều thực vật nhiệt đới như cây chanh vàng, cây đay vàng, cây đinh hương, đậu khấu, hồ tiêu, chuối rừng, cây cau, cây mít, cây chuối sợi đay. Các nước ở khu vực này sản xuất nhiều gạo, cao su, hương liệu, gỗ tếch, cây bông thân gỗ, thuốc quinin và trái cây nhiệt đới. Trong tất cả các nước, Indonesia là nước có núi lửa nhiều nhất trên thế giới và có danh hiệu "đất nước núi lửa".
Trung Á chỉ vùng đất trung tâm châu Á (về địa lí). Bao gồm Turkmenistan, Uzbekistan, Kyrgyzstan, Tajikistan, Kazakhstan. Diện tích khoảng 4 triệu kilômét vuông. Vùng đất phía đông nam trong khu vực này là vùng núi, động đất nhiều lần, thuộc về khí hậu núi; các vùng đất còn lại là đồng bằng, gò đồi, sa mạc trải rộng, khí hậu khô cạn, thuộc về khí hậu sa mạc hoặc thảo nguyên nhiệt đới và á nhiệt đới. Khí thiên nhiên, dầu thô, than đá, đồng, chì, kẽm, thủy ngân, lưu huỳnh, mirabilit (tức natri sulfat ngậm nước) là khoáng vật khá trọng yếu. Tài nguyên khoáng sản của Trung Á vô cùng phong phú, ngành công nghiệp quân sự phát đạt. Trung Á là chỗ sản sinh bắt nguồn thực vật vun trồng như đậu Hà Lan, đậu tằm, trái táo tây cùng với cừu Karakul. Sản xuất cây bông sợi, cây thuốc lá, tơ tằm, lông cừu, cây nho và cây táo tây.
Nam Á chỉ vùng đất phía nam của châu Á, gồm Ấn Độ, Afghanistan, Maldives, Bhutan, Sri Lanka, Pakistan, Bangladesh và Nepal. Diện tích khoảng 5,1 triệu kilômét vuông. Dân số 1,8 tỉ. Vùng đất phía bắc trong khu vực này là vùng núi của chân núi phía nam mạch núi Himalaya, bán đảo Ấn Độ ở phía nam là cao nguyên Deccan, giữa vùng núi phía bắc và cao nguyên Deccan là đồng bằng sông Ấn Độ - sông Hằng. Đồng bằng ở phía bắc và ở giữa về cơ bản thuộc về khí hậu rừng rậm bán nhiệt đới, cao nguyên Deccan và phía bắc Sri Lanka thuộc về khí hậu thảo nguyên nhiệt đới, đoạn tây nam của bán đảo Ấn Độ, phía nam Sri Lanka và toàn bộ Maldives thuộc về khí hậu rừng mưa nhiệt đới, đồng bằng sông Ấn Độ thuộc về khí hậu thảo nguyên hoặc sa mạc á nhiệt đới. Lấy sắt, mangan, than đá làm tài nguyên khoáng sản phong phú nhất. Nam Á là chỗ sản sinh bắt nguồn thực vật vun trồng như xoài, thầu dầu, cà tím, chuối rừng, cây mía và củ sen. Cây đay vàng (Corchorus capsularis L) và lá trà chiếm chừng 1/2 tổng sản lượng thế giới. Sản lượng của gạo, đậu phộng, mè, cải dầu, mía, bông sợi, cao su, lúa tẻ hột nhỏ, dừa sấy khô có vị trí trọng yếu trên thế giới.
Bắc Á chỉ vùng đất Siberia của nước Nga, diện tích khoảng 13,1 triệu kilômét vuông. Vùng đất phía tây là đồng bằng Tây Siberia, phía giữa là vùng núi và cao nguyên Trung Siberia, phía đông là vùng núi Viễn Đông. Vòng cực về phía bắc thuộc về khí hậu đồng rêu hàn đới, vùng đất còn lại thuộc về khí hậu rừng lá kim ôn đới. Khoảng thời gian dòng sông đông lại thành băng là từ 6 tháng trở lên. Dầu thô, than đá, đồng, vàng, đá kim cương là khoáng vật khá trọng yếu; sản xuất các loại lúa tẻ, khoai tây, cây lanh và vật liệu gỗ.
Địa hình châu Á lên xuống rất lớn, khoảng giữa cao, bốn phía xung quanh thấp. Vùng đất phía đông có một dãy quần đảo hình vòng cung nhiều kiểu khác nhau dài từ Nam đến Bắc. Chiều cao cách mực nước biển trung bình chừng 950 mét, là một châu lục có địa hình cao nhất trên thế giới sau châu Nam Cực. Núi và cao nguyên chiếm chừng 3/4 diện tích, trong đó có 1/3 khu vực có chiều cao cách mực nước biển trên 1000 mét. Đỉnh núi cao trên 8.000 mét so với mực nước biển trên thế giới, tất cả phân bố ở khu vực dãy núi Karakoram và dãy núi Himalaya. Đồng bằng chiếm 1/4 diện tích, ước tính hơn 10 triệu kilômét vuông. Cả châu Á về tổng quát có dãy Pamir ở trung tâm, một loạt các dãy núi cao lớn toả ra về phía tây và kéo dài đến cạnh ven đất liền. Chủ yếu có dãy núi Thiên Sơn, dãy núi Côn Luân, dãy núi Himalaya, dãy núi Altai, dãy núi Hindu Kush, dãy núi Alborz, mạch núi Taurus, mạch núi Zagros, v.v Giữa các dãy núi chủ yếu kể trên có cao nguyên Thanh Tạng, cao nguyên Mông Cổ, cao nguyên Iran, cao nguyên Anatolia (hoặc gọi cao nguyên Thổ Nhĩ Kì), cao nguyên Deccan, cao nguyên Ả Rập, cao nguyên Trung Siberia và bồn địa Tarim, bồn địa Junggar, bồn địa Qaidam, v.v
Ở bên ngoài của núi và cao nguyên phân bố đồng bằng diện tích rộng lớn, chủ yếu có đồng bằng Đông Bắc, đồng bằng Hoa Bắc, đồng bằng trung và hạ du Trường Giang, đồng bằng sông Ấn Độ - sông Hằng, đồng bằng Mesopotamia (hoặc gọi đồng bằng Lưỡng Hà), đồng bằng Tây Siberia.
Châu Á không những lên xuống hai đầu trên đất liền, lại còn quần đảo hình vòng cung ở rìa phía Đông đất liền và bộ phận đáy biển ở Thái Bình Dương cũng đồng dạng xuất hiện lên xuống hai đầu, mạch núi trên quần đảo tồn tại xen kẽ theo cùng với rãnh đại dương sâu nhất. Chênh lệch cao thấp của đỉnh núi cao nhất châu Á và rãnh đại dương sâu nhất ở vùng biển lân cận chừng 20 kilômét.
Trung tâm địa lí đất liền châu Á chính là chỉ một điểm ở bên trong phạm vi đất liền châu Á ở vào vị trí cân bằng, nó cách đường bờ biển vây chung quanh đất liền xa nhất, có tính đất liền mạnh nhất. Căn cứ vào cách nói của Trung Quốc, vị trí của nó ở vào thôn Vĩnh Tân, xã Vĩnh Phong, huyện Ô Lỗ Mộc Tề, thành phố Ô Lỗ Mộc Tề, khu tự trị Tân Cương, toạ độ địa lí là #đổi , bây giờ đã xây dựng thành khu danh thắng phong cảnh. Một mặt khác, trung tâm của châu Á mà Nga tuyên bố ở vào khu Tos-Bulak, thủ phủ Kyzyl, nước cộng hoà Tuva, Liên bang Nga, toạ độ địa lí là #đổi .
Môi trường tự nhiên.
Đường bờ biển đất liền của châu Á dài liên tục không đứt nhưng mà quanh co uốn khúc, đường bờ biển dài 62.800 kilômét (39.022 dặm Anh), là châu lục có đường bờ biển dài nhất trên thế giới. Loại hình bờ biển phức tạp. Có nhiều bán đảo và đảo cồn, là châu lục có diện tích bán đảo lớn nhất. Bán đảo Arabi là bán đảo lớn nhất thế giới (diện tích chừng 3 triệu kilômét vuông). Đặc điểm của tổng địa hình châu Á là mặt đất lên xuống rất lớn, núi cao đỉnh lớn tụ tập ở khoảng giữa, núi và cao nguyên chiếm chừng 3/4 diện tích châu Á. Cả châu Á cách mặt phẳng nước biển trung bình 950 mét, là châu lục có địa thế cao nhất trên thế giới trừ châu Nam Cực ra. Cả châu Á về tổng quát lấy cao nguyên Pamir làm trung tâm, một loạt mạch núi cao lớn duỗi ra hướng về phía tây, mạch núi cao lớn nhất chính là mạch núi Himalaya. Giữa các mạnh núi cao lớn có rất nhiều cao nguyên và bồn địa diện tích rộng lớn. Ở mặt bên ngoài của núi và cao nguyên vẫn phân bố đồng bằng rộng xa.
Châu Á có rất nhiều đỉnh núi cao nổi tiếng, trong đó có đỉnh núi Chomolungma cao nhất thế giới, chiều cao cách mặt phẳng nước biển 8.848 mét, sẽ theo xu thế dần dần lên cao từng bước một, dự tính một trăm năm sau, chiều cao của đỉnh núi Chomolungma sẽ sáng lập lại một di tích lịch sử mới. Châu Á có đất trũng, sụt lún và hồ chằm thấp nhất trên lục địa của thế giới, thí dụ sụt lún Biển Chết (mặt hồ thấp hơn mặt biển Địa Trung Hải 392 mét), vẫn có cao nguyên Thanh Tạng được gọi là "nóc nhà thế giới".
Châu Á là châu lục có núi lửa nhiều nhất trên thế giới. Quần đảo ở ven rìa phía đông là khu vực có núi lửa nhiều nhất trên thế giới. Đảo lớn và đảo cồn đi sát bờ biển phía đông hoặc vùng đất Trung Á và phía bắc Tây Á động đất dồn dập. Rất nhiều sông cả ở châu Á bắt nguồn từ núi ở khoảng giữa đất liền, lần lượt chia làm sông đổ vào Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương và Bắc Băng Dương. Bồn địa nội lưu chủ yếu phân bố ở vùng đất trung và tây châu Á. Sông dài nhất châu Á là Trường Giang, dài 6.397 kilômét; đứng sau nó là Hoàng Hà, dài 5.464 kilômét; ngoài ra, có sông Mê Kông dài 4.500 kilômét. Sông nội lục dài nhất là sông Amu dài 2.620 kilômét, đứng hạng sau nó là sông Tarim, dài 2.030 kilômét. Hồ Baikal là hồ nước ngọt lớn nhất châu Á và là hồ chằm sâu nhất thế giới.
Đảo và đảo cồn của châu Á chủ yếu tập trung ở mặt biển đông nam. Ước chừng có mấy chục ngàn đảo và đảo cồn lớn nhỏ, tổng diện tích là 3,2 triệu kilômét vuông, trong đó có 6 đảo diện tích trên 100.000 kilômét vuông (đảo Kalimantan, đảo Sumatra, đảo New Guinea, đảo Sulawesi, đảo Java và đảo Honshu).
Châu Á là châu lục mà sông cả tập hợp nhiều nhất trên thế giới, có hơn 58 dòng sông có chiều dài trên 1.000 km, trong đó có 4 dòng sông trên 4.000 kilômét Trường Giang, Hoàng Hà, Mê Kông, Irtysh. Các sông bắt nguồn từ núi và cao nguyên của phần giữa châu Á, rồi chảy hướng về biển và đại dương.
Đất liền châu Á vượt qua 3 miền khí hậu nhiệt đới, ôn đới, hàn đới. Đặc trưng chủ yếu của khí hậu là các loại hình khí hậu đa dạng phức tạp, có khí hậu gió mùa điển hình và tính lục địa rõ rệt. Phía nửa đông nam của Đông Á là miền gió mùa á nhiệt đới và ôn đới ẩm ướt, Đông Nam Á và Nam Á là miền gió mùa nhiệt đới ẩm ướt. Trung Á, Tây Á và Đông Á nội lục là vùng đất khô cạn. Khoảng giữa miền gió mùa ẩm ướt trở lên và miền khô hạn nội lục cùng với phần lớn Bắc Á là vùng đất nửa ẩm ướt nửa khô cạn.
Nhiệt độ không khí mùa đông của phần lớn vùng đất châu Á rất thấp, vùng đất có nhiệt độ không khí trung bình dưới 0℃ vào tháng lạnh nhất chiếm 2/3 diện tích toàn châu Á. Thị trấn Verkhoyansk và thị trấn Oymyakon, nhiệt độ không khí trung bình vào tháng 1 thấp đến dưới -50℃. Nhiệt độ không khí thấp đến kỷ lục tại thị trấn Oymyakon từng thấp đến -71℃, là địa phương có nhiệt độ thấp nhất ở Bắc Bán cầu, được gọi là vùng lạnh vô cùng ở Bắc Bán cầu. Mùa hè phổ biến gia tăng nhiệt độ, nhiệt độ không khí trung bình vào tháng nóng nhất trừ vùng đất đi sát bờ Bắc Băng Dương có nhiệt độ dưới 10℃ ra, vùng đất còn lại tất cả đều từ 10 đến 15℃. Vùng đất trên 20℃ chiếm chừng 50% diện tích cả châu Á.
Nhiệt độ không khí cao nhất của thành phố Basra, Iraq từng đến 58,8℃, là địa phương nóng nhất thế giới. Sự phân bố giáng thủy của các khu vực rất chênh lệch, xu thế chính là giảm dần từ phía đông nam ẩm ướt lên phía tây bắc khô khan. Chỗ sát gần xích đạo mưa nhiều cả năm, lượng giáng thủy hằng năm trên 2.000 milimét. Thị trấn Cherrapunji (đông bắc Ấn Độ) có lượng giáng thủy trung bình hằng năm đến 11.430 milimét, là một trong các khu vực có mưa nhiều nhất trên thế giới. Tây Nam Á và Trung Á là vùng mưa ít suốt năm, lượng giáng thủy hằng năm của vùng đất rộng lớn này là từ 150 đến 200 milimét trở xuống. Giữa tháng 9 và 10, trên bầu trời của cao nguyên Mông Cổ và Siberia thường hay có không khí lạnh mãnh liệt đi đến phía nam, phần lớn vùng đất Đông Á dễ bị xâm nhập bất ngờ. Bão đài phong (tức bão nhiệt đới Tây Bắc Thái Bình Dương) phát sinh ở phía tây Trung Thái Bình Dương cuốn đánh bất ngờ vùng đất đi sát bờ biển phía đông Đông Á và Đông Nam Á từ tháng 5 đến tháng 10; bão xoáy thuận (tức bão cyclone) phát sinh ở vịnh Bengal cuốn đánh bất ngờ vùng đất đi sát bờ biển vịnh Bengal. Thường hay hình thành tai họa nghiêm trọng.
Châu Á có rất nhiều sông cả, phần lớn bắt nguồn ở khu vực núi cao trung tâm, rồi tỏa lan về bốn phía. Sông chảy vào Thái Bình Dương có Amur (cửa sông ở vào eo biển Nevelskoy), Hoàng Hà, Trường Giang, Châu Giang, Mê Kông; sông chảy vào Ấn Độ Dương có sông Ấn Độ, sông Hằng, sông Thanlwin, sông Ayeyarwady, sông Tigris, sông Euphrates; sông chảy vào Bắc Băng Dương có sông Obi, sông Enisei, sông Lena. Sông nội lục chủ yếu phân bố ở khu vực khô cạn phía Trung và Tây Á, có sông Syr Darya, sông Amu Darya, sông Ili, sông Tarim, sông Jordan. Thác nước có chiều cao nước rơi cách mặt sông lớn nhất châu Á là thác nước Jog trên sông Sharavati ở ven biển phía tây nam Ấn Độ, chiều cao nước rơi cách mặt sông là 253 mét.
Hồ chằm ở châu Á không quá nhiều so với châu lục khác, nhưng mà không ít hồ chằm có sẵn đặc sắc, nổi tiếng thế giới. Thí dụ biển Caspi - hồ ngăn cách châu Á và châu Âu, là hồ lớn nhất thế giới đồng thời là hồ nước mặn lớn nhất thế giới; hồ Baikal là hồ sâu nhất thế giới và là hồ nước ngọt lớn nhất châu Á; biển Chết là chỗ trũng thấp nhất thế giới; hồ Balkhash là hồ nội lục tồn tại đồng thời nước ngọt và nước mặn. Hồ chằm ở châu Á phân bố khá rộng, về cơ bản có thể chia ra 5 nhóm hồ lớn ở Bắc Á, Trung Á, Tây Á, cao nguyên Thanh Tạng và đồng bằng trung và hạ du Trường Giang.
Sông ở châu Á phần lớn bắt nguồn từ vùng núi cao trung t m,đổ vào Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương và Bắc Băng Dương. Trong đó có 7 sông dài trên 4.000 kilômét, dông dài nhất là Trường Giang, sau nó là sông Obi mà lấy sông Irtysh làm nguồn. bBển Caspi là hồ chằm lớn nhất trế giới, hồ Baikal là hồ nước ngọt lớn nhất châu Á, cũng là hồ sâu nhất và xưa nhất thế giới, chỗ thấp nhất của hồ ở vào 1.295 mét dưới mực mặt biển. Sông A-mu dài 2400 kilômét, là sông nội lục dài nhất châu Á. Sông Tigris, sông Euphrates, Hoàng Hà và lưu vực sông Ấn Độ đều là chỗ bắt nguồn văn minh sớm nhất của loài người. Sông Hằng là sông thiêng liêng của Ấn Độ giáo và Phật giáo. Sông Mê Kông là một dòng sông mang tính quốc tế trọng yếu, các nước trong lưu vực sông Mê Kông bao gồm Trung Quốc, Myanmar, Lào, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam.
Tài nguyên thiên nhiên.
Tài nguyên khoáng sản: chủng loại khoáng sản ở châu Á nhiều, trữ lượng lớn, chủ yếu có dầu thô, than đá, sắt, thiếc, wolfram, antimon, đồng, chì, kẽm, mangan, nickel, molybden, magnesi, chromi, vàng, bạc, halit, lưu huỳnh, đá quý, v.v Trong đó trữ lượng của dầu thô, magnesi, sắt và thiếc cùng giữ vị trí đầu trong các châu lục.
Rừng rậm và thảo nguyên: tổng diện tích rừng ở châu Á chiếm chừng 13% tổng diện tích rừng thế giới. Hơn 2/3 gỗ rừng đã được khai phá và sử dụng. Rừng nhân tạo có sự phát triển nhất định. Phần Nga châu Á, phía đông bắc Trung Quốc và phía bắc Triều Tiên là vùng đất rừng lá kim phân bố rộng lớn trên thế giới, lượng tích tụ phong phú, sử dụng rất nhiều loại cây gỗ quý hiếm. Thực vật ở vùng Hoa Nam và phía tây nam Trung Quốc, sườn phía nam vùng núi Nhật Bản cùng với sườn phía nam của mạch núi Himalaya vô cùng phong phú, trừ cây lá rộng phổ biến ra, lại có cây kè, cọ xẻ, cây sam và cây thủy sam. Rừng rậm nhiệt đới ở Đông Nam Á chiếm địa vị trọng yếu trong rừng rậm thế giới, nổi tiếng với một dãy quần xã thực vật lâu đời và phong phú. Giống cây chủ yếu của nó có họ Dầu, lại có các "hoá thạch sống" như cây sa la, cây ngân hạnh và cây tô thiết. Tổng diện tích thảo nguyên châu Á chiếm chừng 15% tổng diện tích thảo nguyên thế giới.
Sức nước: tài nguyên năng lượng nước mà các nước châu Á khai phá được ước tính hằng năm có thể phát lượng điện đến 2,6 nghìn tỉ kilôoát giờ, chiếm 27% lượng tài nguyên năng lượng nước khai phá được của thế giới.
Ngư nghiệp hải dương: diện tích ngư trường duyên hải châu Á chiếm chừng 40% tổng diện tích ngư trường duyên hải thế giới. Sản xuất nhiều cá hồi Đại Tây Dương, cá hồi chấm Thổ Nhĩ Kì, cá tuyết, cá ngừ vằn, cá thinh bụng trắng, cá lù đù vàng nhỏ, cá lù đù vàng lớn, cá hố, mực nang, cá mòi cơm châu Âu, cá ngừ vây vàng, cá thu Nhật Bản và cá voi, ngư trường nổi tiếng có ở vùng biển sát gần các đảo như quần đảo Chu San, đảo Đài Loan, quần đảo Hoàng Sa, đảo Hokkaidō, đảo Kyushu cùng với biển Okhotsk.
"Bài chính: Kinh tế châu Á"
Châu Á là khu vực có GDP danh nghĩa lớn nhất trên thế giới, đồng thời cũng lớn nhất khi tính theo sức mua tương đương (PPP).
Những nền kinh tế lớn nhất ở khu vực châu Á là Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc và Nga.
Vào cuối những năm 1990 và đầu những năm 2000, nền kinh tế Trung Quốc và Ấn Độ đã phát triển vượt bậc, cả hai có tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm trên 8%. Các quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao các năm gần đây ở châu Á bao gồm: Israel, Malaysia, Indonesia, Bangladesh, Pakistan, Thái Lan, Việt Nam, Mông Cổ, Uzbekistan, Cyprus, Philippines, các nước giàu khoáng sản như Kazakhstan, Turkmenistan, Iran, Brunei, Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất, Qatar, Kuwait, Ả Rập Xê Út, Bahrain và Oman.
Vào cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990, GDP của Nhật Bản đã vươn lên đứng thứ 2 trên thế giới, chỉ sau Mỹ. Năm 1995, nền kinh tế Nhật Bản đã suýt đuổi kịp với Hoa Kỳ để trở thành nền kinh tế lớn nhất trong thế giới trong một ngày, sau khi đồng tiền Nhật Bản đạt mức cao kỷ lục 79 yên / USD. Trong khi đó từ thập niên 1980 Kinh tế Trung Quốc đã có sự lột xác ngoạn mục sau những cải cách của Đặng Tiểu Bình, và sang thế kỷ 21 GDP của Trung Quốc đã vượt qua Nhật Bản để trở thành nền kinh tế đứng thứ 2 thế giới. 4 quốc gia Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông và Singapore cũng đã đạt được mức tăng trưởng kinh tế nhanh chóng trong giai đoạn cuối thế kỷ 20, do đó những nền kinh tế này còn được mệnh danh là Bốn con hổ châu Á. Israel cũng là một quốc gia có nền kinh tế phát triển nhờ tinh thần kinh doanh dựa trên một nền công nghiệp đa dạng.
Một số quốc gia Trung Đông như Ả Rập Saudi, Qatar, Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất, Bahrain, Kuwait, và Oman hay Brunei ở Đông Nam Á dù chưa phải là những nền kinh tế phát triển, song vẫn là những quốc gia có mức sống cao nhờ nguồn tài nguyên dầu mỏ dồi dào.
Theo dự đoán của các chuyên gia thì GDP danh nghĩa của Ấn Độ sẽ vượt Nhật Bản vào năm 2025 để trở thành nền kinh tế thứ 3 thế giới. Đến năm 2030, nền kinh tế Trung Quốc tính theo GDP sẽ xấp xỉ với Mỹ, và đạt tới mức tương đương về tốc độ tăng trưởng của kinh tế Mỹ. Tuy vậy, thu nhập bình quân đầu người vẫn thấp hơn Mỹ.
Các khối thương mại:
Các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Châu Á theo ranh giới là lục địa lớn nhất thế giới và nó rất giàu các nguồn tài nguyên thiên nhiên, như dầu mỏ và sắt.
Với năng suất cao trong nông nghiệp, đặc biệt là trong sản xuất lúa gạo, đã cho phép mật độ dân số cao của các quốc gia trong các khu vực nóng ẩm. Các sản phẩm nông nghiệp chính còn có lúa mì và thịt gà.
Lâm nghiệp cũng phát triển trong phạm vi rộng của châu Á, ngoại trừ khu vực Trung và Tây Nam Á. Nghề cá là một nguồn chủ yếu cung cấp thực phẩm ở châu Á, cụ thể là ở Nhật Bản.
Sản xuất công nghiệp ở châu Á theo truyền thống là mạnh nhất ở khu vực Đông và Đông Nam Á, cụ thể là ở Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore. Các ngành nghề công nghiệp dao động từ sản xuất các mặt hàng rẻ tiền như đồ chơi tới các mặt hàng công nghệ cao như máy tính và ô tô. Nhiều công ty ở châu Âu, Bắc Mỹ và Nhật Bản có các sự hợp tác đáng kể ở châu Á đang phát triển để tận dụng các lợi thế so sánh về sức lao động rẻ tiền.
Một trong các lĩnh vực chính của sản xuất công nghiệp ở châu Á là công nghiệp may mặc. Phần lớn việc cung cấp quần áo và giày dép hiện nay của thế giới có nguồn gốc từ Trung Quốc và khu vực Đông Nam Á.
Tài chính và các dịch vụ khác.
Châu Á có 3 trung tâm tài chính lớn. Chúng nằm ở Hồng Kông, Singapore và Tokyo. Các trung tâm mới nổi ở Ấn Độ hay Trung Quốc là do sự kinh tế về sản xuất công nghiệp theo hình thức gia công ở các quốc gia này cũng như sự có được của nhiều người trẻ có học vấn cao và nói tiếng Anh
Các quốc gia và vùng lãnh thổ.
Dân số châu Á trong tương lai.
Nguồn: World Population Review
"Ghi chú": Một phần của Ai Cập (Bán đảo Sinai) thuộc về Tây Á về mặt địa lý.
Các vùng lãnh thổ khác.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Bởi vì vùng đất khu vực châu Á rộng lớn, nhiều dân tộc, tính đa dạng của văn hoá rất mạnh, độ sai biệt rất lớn, cho nên gần như không có "văn hoá châu Á" thống nhất. Tất cả tôn giáo lớn của thế giới đều sản sinh ở châu Á, như Cơ Đốc giáo, Phật giáo, Hồi giáo và Ấn Độ giáo. Trước Cách mạng công nghiệp vào thế kỉ XVIII, trung tâm kinh tế của thế giới nằm ở châu Á, cho nên phần lớn thành tựu kĩ thuật của loài người đều sản sinh ở châu Á. Đầu năm 3000 trước Công nguyên, người châu Á đã phát minh kĩ thuật đốt nung đồ gốm và đúc rèn quặng, người Sumer ở châu Á đã phát minh đầu tiên công trình tưới nước bằng văn tự và có hệ thống, dân tộc du mục ở Trung Á đã phát minh yên ngựa, dây cương ngựa và bánh xe, người Trung Quốc đã phát minh đồ sứ, bàn đạp ngựa, thuốc súng, la bàn, kĩ thuật làm giấy và kĩ thuật in ấn, đồng thời trồng trọt lúa gié sớm nhất. Người Ấn Độ và người Arabi đã phát minh kĩ thuật tính toán hệ thập phân. Các loại kĩ thuật y dược mang tính địa phương ở châu Á dù cho đến ngày nay cũng vô cùng hữu hiệu, vẫn sử dụng ở rất nhiều khu vực.
Rất nhiều nhạc cụ ở phương tây và phương đông là có cùng một nguồn gốc, cho nên giống nhau vô cùng, thí dụ như vĩ cầm và nhị hồ (đàn nhị), guitar và đàn tì bà, ô-boa và suona, sáo phương đông và phương tây gần giống nhau. Thực ra những nhạc cụ này đa số đều là bắt nguồn ở vùng đất Trung Đông. Văn hoá của các dân tộc châu Á như Trung Quốc, Arabi và Ấn Độ có ảnh hưởng cực kì to lớn đối với văn hoá thế giới.
Châu Á là chỗ khởi nguyên của các tôn giáo lớn.
Ngôn ngữ châu Á chia ra thuộc về ngữ hệ Hán - Tạng, ngữ hệ Nam Á, ngữ hệ Altai, ngữ hệ Nam Đảo, ngữ hệ Dravida, ngữ hệ Á - Phi và ngữ hệ Ấn - Âu.
Đại hội Thể thao châu Á, gọi tắt Á vận hội, là đại hội thể thao mang tính tổng hợp có quy mô lớn nhất và tiêu chuẩn cao nhất ở vùng đất châu Á, đại biểu tiêu chuẩn thể dục thể thao của cả châu Á, nó là đại hội thể thao tổng hợp quy mô to lớn mang tính khu vực được Uỷ ban Olympic Quốc tế thừa nhận. Do Hội đồng Olympic châu Á phụ trách công việc, mỗi bốn năm một kì. Tiền thân của nó là Đại hội Thể thao Viễn Đông và Đại hội Thể thao Tây Á. Đại hội Thể thao châu Á kì thứ nhất lúc đầu dự định cử hành ở New Delhi, Ấn Độ vào tháng 2 năm 1949, do các nguyên nhân trù bị của nước chủ nhà nên kéo dài đến năm 1951 cử hành.
|
Protein (phát âm theo tiếng Anh: , phát âm tiếng Việt: "prồ-tê-in hay" còn gọi là chất đạm) là phân tử sinh học, hay đại phân tử, gồm nhiều amino acid liên kết lại với nhau. Protein thực hiện rất nhiều chức năng bên trong tế bào, bao gồm các phản ứng trao đổi chất có xúc tác, sao chép DNA, đáp ứng lại kích thích, và vận chuyển phân tử từ một vị trí đến vị trí khác. Các protein khác nhau chủ yếu ở trình tự của các amino acid cấu thành (trình tự này lại được quy định bởi trình tự nucleotide của các gene quy định tương ứng) và ở kết quả của giai đoạn cuộn gập protein ("protein folding") thành những cấu trúc 3 chiều xác định lên chức năng của nó.
Một mạch thẳng các nhóm amino acid liên kết với nhau gọi là chuỗi polypeptide. Protein chứa ít nhất một chuỗi dài polypeptide. Các chuỗi polypeptide ngắn, chứa ít hơn 20-30 nhóm amin, hiếm khi được coi như là protein và thường được gọi là peptide, hoặc thỉnh thoảng là oligopeptide. Từng nhóm amino acid được liên kết với nhau bởi liên kết peptide. Trình tự của amino acid trong một protein được xác định bằng trình tự của một gene theo bảng mã di truyền. Trong tự nhiên, nhìn chung là có 20 amino acid tham gia tạo nên protein; tuy nhiên, ở một số sinh vật nhất định, mã di truyền của chúng có thể bao gồm selenocysteine và trong một số Cổ khuẩn là pyrrolysine. Ngay sau khi tổng hợp hoặc thậm chí trong quá trình tổng hợp, các nhóm amin trong một protein thường bị thay đổi tính chất hóa học bởi quá trình sửa đổi sau dịch mã ("post-translational modification"), làm biến đổi tính chất hóa học và vật lý, sự gập xoắn, tính ổn định, hoạt tính và cuối cùng là chức năng của protein. Một số protein còn có nhóm phi-peptide gắn thêm vào, gọi là nhóm ngoại lai ("prosthetic group") hay đồng yếu tố ("cofactor"). Protein cũng làm việc với nhau để có được một chức năng chuyên biệt, và chúng thường phối hợp để tạo thành dạng phức hệ protein ổn định.
Sau khi được sinh ra, các protein chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định trước khi bị phân giải và được tái sinh bởi bộ máy của tế bào thông qua quá trình quay vòng protein ("protein turnover"). Vòng đời của một protein được đo bằng chu kỳ bán rã và nằm trong một khoảng giá trị rất lớn. Thời gian tồn tại của protein có thể có giá trị từ vài phút cho đến hàng năm với thời gian sống trung bình khoảng 1–2 ngày trong tế bào động vật. Các protein không bình thường hoặc gập xoắn bị lỗi thường được phân giải nhanh hơn, có thể là do chúng bị đánh dấu để phá hủy hoặc trở nên không ổn định.
Giống như những đại phân tử sinh học khác như polysaccharide và acid nucleic, protein là thành phần thiết yếu của cơ thể sinh vật và tham gia vào mọi quá trình bên trong tế bào. Nhiều protein là những enzyme làm chất xúc tác cho các phản ứng hóa sinh và cần thiết cho trao đổi chất. Protein cũng có chức năng làm cấu trúc hoặc vận động, như actin và myosin ở cơ và protein trong bộ xương tế bào, tạo nên hệ thống các khung đỡ giúp duy trì hình dáng nhất định của tế bào. Các protein khác tham gia vào tín hiệu tế bào, đáp ứng miễn dịch, kết dính tế bào, và chu kỳ tế bào. Ở động vật, protein cần thiết phải có trong bữa ăn để cung cấp các amino acid thiết yếu mà không thể tổng hợp. Quá trình tiêu hóa "bẻ gãy" các protein để sử dụng trong trao đổi chất.
Protein có thể được tinh sạch từ các thành phần khác nhau của tế bào sử dụng nhiều kỹ thuật khác nhau như kỹ thuật siêu ly tâm ("ultracentrifugation"), kết tủa, điện di, và sắc ký; sự phát triển của kỹ thuật di truyền đã đem lại một số phương pháp để tinh sạch protein. Các phương pháp thường gặp để nghiên cứu cấu trúc và chức năng của protein bao gồm kỹ thuật hóa mô miễn dịch ("immunohistochemistry"), gây đột biến định hướng điểm ("site-directed mutagenesis"), tinh thể học tia X, cộng hưởng từ hạt nhân và khối phổ kế.
Hầu hết các protein đều chứa một hoặc nhiều chuỗi polyme mạch thẳng cấu thành từ tập hợp 20 -α-amino acid khác nhau. Các amino acid cấu tạo nên protein (amino acid sinh protein) có những đặc điểm cấu trúc giống nhau: đều có một α-carbon mà tại đó một nhóm amin, một nhóm carboxyl, và nhiều loại nhóm bên (side chain) khác nhau có thể liên kết vào. Chỉ có proline là khác với cấu trúc cơ bản này khi nó chứa một vòng tại điểm N-kết thúc của nhóm amin, khiến cho nửa nhóm CO–NH có hình dáng cố định là một mặt phẳng. Nhóm bên của các amino acid cơ sở có tính chất và cấu trúc hóa học rất đa dạng; chính sự kết hợp và tương tác giữa các nhóm bên amino acid trong protein đã xác định cấu trúc 3 chiều và đặc tính phản ứng hóa học của protein.
Amino acid trong một chuỗi polypeptide được liên kết với nhau bằng liên kết peptide. Khi được liên kết trong chuỗi protein, từng amino acid được gọi là phần thừa (hay phần dư, "residue"), và cấu trúc liên kết một loạt các nguyên tử carbon, nitro, và oxy được gọi là "mạch chính" hay "bộ khung protein."
Liên kết peptide có hai dạng cộng hưởng ("resonance", hay cấu trúc "mesome") góp phần tạo nên một số đặc trưng liên kết đôi và làm cản trở sự quay xung quanh trục của nó, vì vậy mà các nguyên tử carbon alpha hầu như là đồng phẳng với nhau. Hai góc nhị diện khác trong liên kết peptide xác định hình dạng cục bộ đảm nhiệm bởi khung xương protein. Điểm kết thúc của protein với một nhóm carboxyl tự do được gọi là điểm kết thúc-C hoặc đầu mút cacboxy, trong khi điểm kết thúc với một nhóm amin tự do được gọi là điểm kết thúc-N hoặc đầu mút amin. Các thuật ngữ "protein", "polypeptide," và "peptide" có một chút khó hiểu và có thể mang ý nghĩa chồng lặp. "Protein" nói chung được sử dụng để nhắc đến những phân tử sinh học hoàn thiện trong cấu hình ổn định, trong khi "peptide" thường chỉ một oligome amino acid ngắn mà không có cấu trúc ba chiều ổn định. Tuy vậy, ranh giới giữa hai định nghĩa này thường không xác định rõ ràng và thường là peptide dài khoảng 20–30 amino acid. "Polypeptide" thường muốn đề cập tới bất kỳ một mạch thẳng nào tạo nên từ amino acid, bất kể chiều dài, và thường hàm ý sự vắng mặt của một cấu hình xác định.
Sự xuất hiện trong tế bào.
Các nhà sinh học ước tính một vi khuẩn kích thước trung bình chứa khoảng 2 triệu protein trong tế bào của nó (ví dụ như "E. coli" và "Staphylococcus aureus"). Các vi khuẩn nhỏ hơn, như "Mycoplasma" hay "spirochetes" sẽ chứa ít phân tử hơn, vào cỡ 50.000 đến 1 triệu phân tử protein. Ngược lại, các tế bào nhân thực có kích thước lớn hơn và do vậy chứa nhiều protein hơn. Ví dụ, tế bào nấm men ước tính có khoảng 50 triệu protein và tế bào người có từ 1 đến 3 tỷ protein. Bộ gene của vi khuẩn mã hóa cho protein thấp hơn 10 lần so với của người (ví dụ vi khuẩn nhỏ ~1.000, E. coli: ~4.000, nấm men: ~6.000, loài người: ~20.000).
Nồng độ của các protein trong một tế bào có một phổ giá trị rất rộng, từ chỉ một vài phân tử cho đến hàng trăm nghìn phân tử trong một tế bào. Khoảng một phần ba tổng số protein không được sản sinh ra trong tế bào hay chỉ sinh ra trong những điều kiện nhất định. Ví dụ, trong số 20.000 protein được mã hóa bởi bộ gene ở loài người chỉ có 6.000 được phát hiện trong nguyên bào lympho. Hơn nữa, số lượng protein mà bộ gene mã hóa có mối tương quan với cấu trúc phức tạp của cơ thể vật chủ. Sinh vật nhân thật, vi khuẩn, vi khuẩn cổ và vi rút tương ứng có trung bình 15145, 3200, 2358 và 42 protein được mã hóa trong bộ gene của chúng.
Protein cấu tạo từ những amino acid lắp ghép lại sử dụng thông tin được mã hóa trong gene. Mỗi protein có trình tự amino acid duy nhất xác định bởi trình tự các nucleotide trong gene mã hóa cho protein này. Mã di truyền là một tập hợp chứa các tập hợp con của các bộ ba-nucleotide gọi là bộ ba mã hóa ("codon") và mỗi tổ hợp ba-nucleotide tương ứng cho một amino acid, ví dụ AUG (adenine-uracil-guanine) mã hóa cho methionine. Bởi vì DNA chứa bốn nucleotide, tổng số codon khả dĩ là 64; tuy nhiên chỉ có 20 amino acid nên một số amino acid được mã hóa bởi nhiều hơn một codon. Gen mã hóa trong DNA trước tiên được phiên mã thành phân tử tiền-mRNA ("pre-mRNA") bởi các protein như RNA polymerase. Hầu hết các sinh vật sau đó xử lý tiền-mRNA (hay "sản phẩm phiên mã sơ cấp" - "primary transcript") với nhiều dạng của sửa đổi sau phiên mã ("post-transcriptional modification") để tạo nên phân tử mRNA hoàn chỉnh ("mature mRNA"), làm khuôn mẫu cho sinh tổng hợp protein nhờ ribosome. Ở sinh vật nhân sơ, mRNA hoặc là được sử dụng ngay sau khi nó hình thành, hoăc được gắn với một ribosome sau khi rời khỏi vùng nhân. Ngược lại, ở sinh vật nhân thực, mRNA được sinh ra trong nhân tế bào rồi sau đó chuyển dịch qua màng nhân đến bào tương, nơi quá trình sinh tổng hợp protein diễn ra. Tốc độ tổng hợp protein ở sinh vật nhân sơ nhanh hơn so với sinh vật nhân thực và có thể đạt tới 20 amino acid trong một giây.
Giai đoạn tổng hợp protein từ khuôn mRNA gọi là dịch mã. mRNA được đưa vào ribosome và ribosome một lần đọc ba nucleotide bằng cách khớp theo nguyên tắc bổ sung mỗi bộ ba mã hóa ("codon") với một bộ ba đối mã ("anticodon") nằm trên phân tử RNA vận chuyển, nó mang theo amino acid tương ứng với codon mà nó nhận ra. Trước đó, enzyme aminoacyl tRNA synthetase "nạp" một amino acid đúng vào phân tử tRNA. Chuỗi polypeptide đang hình thành thường được gọi là "chuỗi mới sinh" ("nascent chain"). Protein luôn luôn sinh tổng hợp theo chiều từ đầu N ("N-terminus", đầu có nhóm NH2) đến đầu C ("C-terminus", đầu có nhóm COOH).
Kích thước của một protein sinh tổng hợp có thể đo bằng số lượng amino acid chứa trong nó hoặc bằng tổng khối lượng phân tử, mà thông thường tính bằng đơn vị "dalton" (đồng nghĩa với đơn vị khối lượng nguyên tử), hoặc đơn vị phái sinh kilodalton (kDa). Protein sinh tổng hợp từ nấm men trung bình dài 466 amino acid và có khối lượng 53 kDa. Protein lớn nhất từng được biết đến là titin, một thành phần của đơn vị cơ bản sợi cơ vân ("muscle sarcomere"), với khối lượng phân tử 3.000 kDa và chứa tới 27.000 amino acid.
Các protein ngắn có thể được tổng hợp hóa học bằng một số phương pháp gọi là tổng hợp peptide, mà dựa trên những kỹ thuật tổng hợp hữu cơ như kỹ thuật nối hóa học ("chemical ligation") để tạo ra các peptide với chiều dài lớn. Tổng hợp hóa học cho phép đưa những amino acid nhân tạo vào trong chuỗi polypeptide, như gắn các phân tử thăm dò huỳnh quang vào mạch bên của chuỗi amino acid. Những phương pháp này hữu hiệu trong phòng thí nghiệm hóa sinh và sinh học tế bào, mặc dù nói chung không thương mại hóa được. Tổng hợp hóa học sẽ trở nên không hiệu quả đối với chuỗi polypeptide dài hơn khoảng 300 amino acid, và các protein được tổng hợp có thể không gập về dạng cấu trúc bậc bốn như mong đợi. Hầu hết các phương pháp tổng hợp hóa học bắt đầu từ đầu C đến đầu N, trái ngược so với các phản ứng sinh học.
Hầu hết các protein cuộn gấp thành một cấu trúc ba chiều duy nhất. Hình dạng mà một protein khi để uốn gấp một cách tự nhiên được gọi là hình dạng nguyên sinh ("native conformation"). Mặc dù nhiều protein có thể uốn gấp mà không cần hỗ trợ, chỉ đơn giản nhờ vào các đặc tính hóa học của các amino acid thành phần, những protein khác đòi hỏi sự hỗ trợ của phân tử chaperone để uốn gấp thành hình dạng nguyên sinh của chúng. Các nhà hóa sinh phân ra bốn cấp đối với cấu trúc của protein:
Protein không phải là một phân tử "cứng chắc" hoàn toàn. Không chỉ cố định ở một bậc cấu trúc nhất định, protein có thể chuyển sang một vài cấu trúc liên quan khi chúng thực hiện các chức năng sinh học. Trong trường hợp của những sự sắp xếp các chức năng này, các cấu trúc bậc 3 và bậc 4 thường được gọi là "cấu dạng", và sự chuyển tiếp giữa chúng gọi là "sự thay đổi cấu dạng." Những thay đổi này thường do sự liên kết của một phân tử cơ chất ("substrate molecule") với một vị trí hoạt động của một enzyme, những vùng của protein tham gia vào xúc tác hóa học. Các protein trong dung dịch hòa tan cũng trải qua những biến đổi về cấu trúc tác động bởi các rung động nhiệt và sự va chạm với các phân tử khác.
Toàn bộ protein hoặc những đoạn protein được phân loại thành bốn lớp chính, mà tương quan với cấu trúc bậc 4 của nó: protein dạng cầu ("globular protein"), protein dạng sợi ("fibrous protein"), protein màng tích hợp ("integral membrane protein") và protein mất trật tự nội tại ("intrinsically disordered protein"). Phần lớn toàn bộ protein dạng cầu có thể tan được và đa phần là các enzyme. Protein dạng sợi thường có vai trò cấu trúc, như collagene, thành phần chính của các mô liên kết, hay keratin, thành phần protein của tóc và móng chân tay. Protein dạng màng thường phục vụ như là những thụ thể hoặc làm kênh dẫn cho các phân tử mang điện tích hay phân cực vượt qua màng tế bào. Protein mất trật tự nội tại khác biệt cơ bản về tính trật tự về cấu hình hình dạng với ba loại trên. Nhiều protein có hình dạng xác định rõ ràng khi ở dạng nguyên thể ("native"), nhưng protein mất trật tự nội tại thì không, chuỗi polypeptide của chúng rất linh động và không có một hình dáng nhất định. Tính chất này cho phép protein mất trật tự nội tại có thể tương tác với nhiều protein đối tác hoặc gập thành những hình dáng nhất định chỉ khi nó liên kết với những đối tác này. Protein mất trật tư nội tại thường là các phân tử truyền tín hiệu, điều hòa hoạt động cho những phân tử khác, hoặc làm bộ khung cho các protein khác bám vào.
Một trường hợp đặc biệt của liên kết hiđrô liên phân tử bên trong protein, chỉ che chắn yếu ớt từ ảnh hưởng của nước và do vậy tự chúng dễ bị khử nước, được gọi là dehydron.
Xác định cấu trúc.
Khám phá ra cấu trúc bậc ba của protein, hay cấu trúc bậc bốn của phức hợp protein, sẽ mang lại những chứng cứ quan trọng về chức năng của protein. Các phương pháp thực nghiệm phổ biến xác định cấu bao gồm tinh thể học tia X và kỹ thuật phổ NMR, cả hai đều cho thông tin ở mức phân giải cấp nguyên tử. Tuy nhiên, kỹ thuật NMR có thể cung cấp thông tin ước lượng về khoảng cách giữa từng cặp nguyên tử, và hình dạng khả dĩ cuối cùng đối với protein được xác định thông qua giải bài toán hình học khoảng cách. Kỹ thuật giao thoa phân cực hai sóng dẫn ("Dual polarisation interferometry") là một phương pháp giải tích định lượng cho phép đo hình dạng tổng thể của protein và những thay đổi hình dạng do tương tác giữa các nguyên tử hoặc bởi các tác động khác. Lưỡng hướng sắc phân cực tròn ("circular dichroism") là một kỹ thuật trong phòng thí nghiệm giúp xác định các thành phần cấu trúc bậc hai gấp nếp β / xoắn α của protein. Kính hiển vi điện tử truyền qua quan sát mẫu lạnh ("cryoelectron microscopy") được sử dụng để thu được thông tin về cấu trúc có độ phân giải thấp hơn của các phức hợp protein rất lớn, bao gồm tổ hợp các virus; một kỹ thuật biến thể khác gọi là "xác định cấu trúc tinh thể bằng kính hiển vi điện tử truyền qua" ("electron crystallography") có thể thu được độ phân giải lớn ở một số trường hợp, đặc biệt đối với những tinh thể hai chiều ở các protein dạng màng. Thông tin về những cấu trúc quan sát được thường lưu trữ ở Ngân hàng Dữ liệu Protein ("Protein Data Bank", PDB), một hệ thống nguồn truy cập tự do mà dữ liệu cấu trúc của hàng nghìn protein có thể nhận được dưới dạng tọa độ Descartes cho từng nguyên tử trong protein.
Có thêm nhiều trình tự gene được giải mã hơn so với số lượng protein có cấu trúc được làm rõ. Ngoài ra, tập hợp những cấu trúc được quan sát bị chệch khỏi hình dạng nguyên sinh của protein do tác động từ những điều kiện quan sát đòi hỏi trong kỹ thuật tinh thể học tia X, một trong những phương pháp chính nhằm xác định cấu trúc protein. Đặc biệt, những protein dạng cầu thường dễ dàng chuẩn bị làm mẫu tinh thể hóa trước khi tiến hành kỹ thuật chụp tinh thể học tia X. Ngược lại, các protein dạng màng, lại rất khó để đưa về dạng tinh thể và chưa có dữ liệu về chúng trong PDB. Hướng nghiên cứu "bộ gene mã hóa cấu trúc protein" ("structural geneomics") được khởi xướng gần đây đã cố gắng giảm bớt những lỗ hổng hiểu biết này bằng cách giải quyết một cách hệ thống cho cấu trúc của một số lớp protein thông qua cách chúng uốn gập. Phương pháp dự đoán cấu trúc protein có mục đích mang lại một bức tranh sơ bộ về cấu trúc của những protein mà chúng chưa được xác định cấu trúc bằng thực nghiệm.
Chức năng tế bào.
Protein là diễn viên chính bên trong tế bào, thực hiện các nhiệm vụ xác định bởi thông tin mã hóa trong gene. Ngoại trừ đối với một số loại RNA nhất định, hầu hết các phân tử sinh học khác là những phân tử tương đối trơ với tác dụng của protein. Protein chiếm một nửa trọng lượng khô của tế bào vi khuẩn "Escherichia coli", trong khi những đại phân tử khác như DNA và RNA chỉ chiếm tương ứng 3% và 20%. Tập hợp các protein biểu hiện trong một tế bào cụ thể hoặc một loại tế bào được gọi là hệ protein ("proteome") hay bộ protein hoàn chỉnh.
Đặc trưng chính của protein mà cũng làm lên các chức năng đa dạng đó là khả năng của chúng liên kết một cách đặc hiệu và chặt với các phân tử khác. Vùng protein có tính năng liên kết với các phân tử khác được gọi là vùng liên kết ("binding site") và thường là những khe rãnh ("depression") hoặc "túi" ("pocket") trên bề mặt phân từ. Khả năng liên kết này được thực hiện trung gian thông qua bởi cấu trúc bậc ba của protein, mà xác định vị trí túi liên kết, và bởi các tính chất hóa học của các chuỗi nhánh bên amino acid xung quanh. Liên kết protein có thể rất đặc hiệu và cực kỳ chặt; ví dụ, protein ức chế ribonuclease ("ribonuclease inhibitor protein") liên kết với protein angiogenein ở người với hằng số phân ly cỡ dưới femto mol (10−15 M) nhưng không liên kết với protein onconase tương đồng ở động vật lưỡng cư (1 M). Những sự thay đổi hóa học rất nhỏ như thêm vào một nhóm methyl ở phân tử liên kết đôi khi đủ làm gần như loại bỏ liên kết với protein; ví dụ, aminoacyl tRNA synthetase đặc hiệu với amino acid valine lại rất phân biệt với isoleucine mặc dù hai amino acid này có chuỗi bên rất tương đồng.
Protein có thể liên kết với các protein khác cũng như với các cơ chất tiểu phân tử ("small-molecule substrate"). Khi protein liên kết đặc hiệu với những bản sao khác của cùng phân tử, chúng có thể oligome hóa để tạo thành những sợi nhỏ; quá trình này thường xuất hiện ở những protein cấu trúc mà chứa những monome dạng cầu mà tự tổ chức thành những sợi vững chắc. Tương tác protein–protein cũng điều hòa các hoạt động do enzyme, điều khiển xúc tiến toàn bộ chu kỳ tế bào, và cho phép lắp ghép những phức hợp protein lớn mà chúng thực hiện những phản ứng liên quan mật thiết với nhau với một chức năng sinh học chung. Protein cũng có thể liên kết với, hay thậm chí tích hợp vào màng tế bào. Khả năng liên kết với các đối tác để cảm ứng sự thay đổi hình dáng trong các protein cho phép xây dựng lên một mạng lưới tín hiệu tế bào rộng lớn và phức tạp. Do tương tác giữa các protein là thuận nghịch, và phụ thuộc nhiều vào khả năng của các nhóm protein khác nhau để hình thành lên tổ hợp có khả năng thực hiện các chức năng riêng rẽ, lĩnh vực nghiên cứu tương tác giữa các protein đặc hiệu là chìa khóa nhằm hiểu biết những khía cạnh quan trọng của chức năng tế bào, và đi đến những tính chất giúp phân biệt giữa các loại tế bào đặc biệt.
Vai trò được biết đến nhiều nhất của protein trong tế bào như là các enzyme, khi chúng là yếu tố xúc tác cho các phản ứng sinh hóa. Enzyme có tính đặc hiệu cao và chỉ tham gia vào một hoặc một vài phản ứng hóa học. Enzyme tham gia nhiều nhất vào các phản ứng trong trao đổi chất, cũng như tác động vào DNA trong những quá trình như nhân đôi DNA, sửa chữa DNA, và phiên mã. Một số enzyme tác động lên những protein khác để gắn thêm vào hoặc loại bỏ nhóm chức hóa học trong quá trình gọi sửa đổi sau dịch mã ("post-translational modification"). Có khoảng 4.000 phản ứng sinh hóa đã biết được xúc tác bởi enzyme. Sự gia tăng tốc độ phản ứng nhờ xúc tác có enzyme thường là rất lớn—tăng tới 1017 lần trong phản ứng mà không có xúc tác như trong trường hợp của orotate decarboxylase (xảy ra trong 78 triệu năm mà không có enzyme, 18 milli giây với enzyme).
Các phân tử liên kết vào và bị tác động bởi enzyme được gọi là các cơ chất ("substrate"). Mặc dù enzyme có thể chứa hàng trăm amino acid, thường chỉ có một số nhỏ các nhóm dư ("residues") trên nó là tham gia tiếp xúc với cơ chất, và thậm chí một số nhỏ hơn—trung bình từ 3 đến 4 nhóm dư—là tham gia trực tiếp vào xúc tác. Vùng của enzyme liên kết với cơ chất và chứa nhóm dư xúc tác được gọi là vị trí hoạt động ("active site").
Dirigenet protein là những phần tử trong một lớp các protein chi phối hóa học lập thể ("stereochemistry") của một hợp chất được tổng hợp bởi những enzyme khác.
Tín hiệu tế bào và liên kết phối tử.
Nhiều protein tham gia vào các giai đoạn của quá trình truyền tín hiệu tế bào và tải nạp tín hiệu. Một số protein, như insulin, là những protein ngoại bào thực hiện truyền tín hiệu từ tế bào mà chúng được sinh tổng hợp đến những tế bào khác trong mô ở xa. Những protein khác là protein màng ("membrane protein") hoạt động như là những thụ thể mà chức năng chính là liên kết với một phân tử tín hiệu và cảm ứng một đáp ứng hóa sinh bên trong tế bào. Nhiều thụ thể có vị trí liên kết nằm bên trên bề mặt tế bào và miền tác dụng nằm bên trong tế bào, mà hoạt động chức năng enzyme có thể trải qua một sự thay đổi cấu dạng ("conformational change") được phát hiện bởi những protein khác bên trong tế bào.
Kháng thể là những thành phần protein của một hệ miễn dịch thu được ("adaptive immune system") có chức năng chính là liên kết với các kháng nguyên, hoặc những cơ chất lạ bên trong tế bào của cơ thể, và nhận diện đánh dấu chúng để tiêu hủy. Kháng thể có thể tiết vào môi trường ngoại bào hoặc bám vào màng của những tế bào B chuyên biệt ("B cell") gọi là tế bào plasma. Trong khi các enzyme bị giới hạn ở ái lực liên kết với các chất nền bởi tính cần thiết cho việc điều khiển phản ứng mà chúng tham gia, các kháng thể lại không bị giới hạn này. Ái lực liên kết của các kháng thể với mục tiêu của nó là cực kỳ cao.
Nhiều phối tử ("ligand") vận chuyển các protein gắn đặc hiệu cùng với các phân tử sinh học nhỏ và vận chuyển chúng đến những vị trí khác nhau trong cơ thể của một sinh vật đa bào. Những protein này phải có ái lực liên kết lớn khi các phối tử có mặt ở mức độ tập trung lớn, nhưng cũng giải phóng được phối tử khi sự có mặt của chúng ở mức độ thấp tại những mô đích đến. Ví dụ điển hình của protein liên kết phối tử là haemoglobin, giúp vận chuyển oxy từ phổi đến các mô và các cơ quan khác ở động vật có xương sống và có sự tương đồng gần gũi trong mọi giới sinh học. Lectin là những protein liên kết với đường có chức năng đặc hiệu cao với phân tử đường của nó. Lectin đóng vai trò điển hình trong hiệu ứng nhận dạng phân tử ở tế bào và các protein. Các thụ thể và hormone là những protein liên kết đặc hiệu cao.
Protein xuyên màng ("transmembrane protein") cũng được coi như những protein chuyên chở phối tử mà làm thay đổi tính thấm của màng tế bào đối với những phân tử nhỏ và ion. Riêng ở màng có một lõi kị nước mà các phân tử phân cực hay mang điện không thể khuếch tán qua nó. Protein màng chứa các kênh bên trong cho phép các phân tử như vậy đi vào và thoát ra khỏi tế bào. Nhiều protein kênh ion là chuyên biệt cho phép chỉ một ion đặc biệt đi qua; ví dụ, các kênh kali và natri chỉ cho một loại ion tương ứng đi qua.
Các protein cấu trúc đem lại tính vững trãi và sự cứng chắc cho các thành phần sinh học không ở trạng thái lỏng khác. Hầu hết các protein cấu trúc là những protein dạng sợi; ví dụ, collagen và elastin là những thành phần quan trọng của mô liên kết như sụn, và keratin được tìm thấy trong các cấu trúc cứng hoặc có dạng sợi như lông, móng, lông vũ, móng guốc, và vỏ giáp ngoài. Một số protein dạng cầu cũng đóng vai trò làm chức năng sinh học, ví dụ, sợi actin và tubulin có dạng cầu và hòa tan được khi là các monome, nhưng khi bị polyme hóa tạo thành dạng sợi dài, cứng giúp cấu thành lên bộ xương tế bào, cho phép tế bào duy trì hình dạng và kích thước của nó.
Những protein khác phục vụ chức năng cấu trúc là protein động cơ như myosin, kinesin, và dynein, mà chúng có khả năng sinh ra lực cơ học. Những protein này đặc biệt quan trọng cho sự di chuyển ("motility") của tế bào ở những sinh vật đơn bào và của tinh trùng ở phần lớn sinh vật đa bào cho hoạt động sinh sản. Chúng cũng sinh ra lực đẩy làm cơ co lại và đóng vai trò quan trọng ở quá trình vận chuyển bên trong tế bào.
Phương pháp nghiên cứu.
Các hoạt động và chức năng của protein có thể nghiên cứu trong "ống nghiệm" ("in vitro"), "in vivo, và in silico". Phương pháp in vitro nghiên cứu các protein được sàng lọc trong những môi trường có kiểm soát giúp tìm hiểu một protein thực hiện chức năng của nó như thế nào: ví dụ, lĩnh vực nghiên cứu động học enzyme ("enzyme kinetic") khám phá cơ chế phản ứng của sự hoạt động xúc tác của một enzyme và ái lực của nó đối với nhiều phân tử cơ chất khác nhau. Ngược lại, phương pháp thực nghiệm in vivo cung cấp thông tin về vai trò sinh lý của một protein bên trong tế bào hay thậm chí toàn bộ sinh vật. Phương pháp in silico sử dụng các phương pháp của tin sinh học để nghiên cứu protein.
Để thực hiện phân tích "in vitro", một protein cần nghiên cứu phải được tinh sạch và sàng lọc ("protein purification") khỏi những thành phần khác của tế bào. Quá trình này thường bắt đầu bằng cách phá tế bào (hay tiêu tế bào, "cytolysis"), khi ấy màng tế bào bị phá vỡ khi lượng nước thẩm thấu quá nhiều vào trong tế bào và các thành phần bên trong được giải phóng vào một dung môi gọi là dung dịch thủy phân tế bào ("crude lysate", hay "cytolysate"). Hỗn hợp thu được được tinh sạch bằng phương pháp siêu ly tâm ("ultracentrifugation"), mà phân tách nhiều thành phần tế bào thành các phần chứa các protein hòa tan khác nhau; như màng lipid và protein; bào quan tế bào, và acid nucleic. Hỗn hợp được kết tinh bằng phương pháp tách tinh thể muối ("salting out") cho phép tập trung protein từ dung dịch này. Sau đó sử dụng nhiều kỹ thuật sắc ký để cô lập một hoặc một vài protein cần nghiên cứu dựa trên những tính chất của chúng như trọng lượng phân tử, tổng điện tích và ái lực liên kết. Mức độ sàng lọc được giám sát nhờ sử dụng nhiều kỹ thuật điện di trên gel ("gel electrophoresis") nếu biết trọng lượng phân tử và điểm đẳng điện ("isoelectric point") của protein cần nghiên cứu, hoặc bằng phân tích phổ nếu protein có những đặc trưng phổ dễ phân biệt, hoặc bằng thí nghiệm thử enzyme ("enzyme assay") nếu protein có hoạt tính enzyme. Thêm vào đó, protein có thể được cô lập theo điện tích của chúng nhờ sử dụng phương pháp tập trung đẳng điện ("isoelectric focusing").
Đối với các protein tự nhiên, cần phải thực hiện một chuỗi các bước tinh sạch trước khi có thể thu được một lượng protein đủ thuần khiết cho mục đích sử dụng trong phòng thí nghiệm. Để làm đơn giản quá trình này, các nhà hóa sinh thường sử dụng kỹ thuật di truyền để thêm vào các đặc điểm cho protein giúp dễ dàng sàng lọc chúng hơn mà không làm ảnh hưởng đến cấu trúc hay hoạt động của chúng. Ở đây, một "chất đánh dấu" ("tag") chứa một trình tự amino acid đặc hiệu, thường là một chuỗi histidine (chất "His-tag"), được gắn vào một đầu của protein. Kết quả là, khi đưa dung dịch hòa tan protein vào các ống nghiệm của máy sắc ký chứa niken, histidine liên kết phối tử với niken và đọng lại trong cột trong khi những thành phần không được đánh dấu trong dung dịch sẽ chảy qua không bị cản trở. Nhiều phương pháp đánh dấu đã được phát triển để giúp các nhà nghiên cứu sàng lọc các protein đặc biệt từ những hợp chất phức tạp.
Khu trú tế bào.
Phương pháp nghiên cứu "in vivo" cho protein thường đề cập đến sự tổng hợp và sự định vị (khu trú, "localization") protein bên trong tế bào. Mặc dù nhiều protein nội bào được sinh tổng hợp bên trong tế bào chất và ở các vị trí liên kết với màng tế bào hoặc protein được tiết ra từ mạng lưới nội chất, chi tiết cụ thể bằng cách nào mà các protein được định hướng ("protein targeting") đến những bào quan cụ thể hoặc các cấu trúc của tế bào vẫn chưa được hiểu rõ. Một kỹ thuật hữu ích để đánh giá sự khu trú tế bào bằng cách sử dụng kỹ thuật di truyền nhằm biểu hiện bên trong một tế bào một protein dung hợp ("fusion protein", hay "chimera", một protein được tạo ra thông qua việc nối hai hoặc nhiều đoạn gene với nhau mà ban đầu mã hóa cho từng protein riêng biệt) chứa protein tự nhiên cần nghiên cứu mà nó liên kết với một "thành phần báo cáo" như protein huỳnh quang xanh ("GFP"). Vị trí của protein dung hợp bên trong tế bào có thể dễ dàng nhận ra và chụp ảnh dưới kính hiển vi, như minh họa ở hình bên cạnh.
Những phương pháp khác nhằm lý giải vị trí của protein trong tế bào đòi hỏi sử dụng các ngăn nội bào chỉ thị đã biết cho từng vùng chuyên biệt như lưới nội chất ER, bộ máy Golgi, thực bào, không bào, ty thể, lục lạp, màng sinh chất, vv. Bằng cách sử dụng các phân tử đánh dấu huỳnh quang xanh cho những vùng chỉ thị này hoặc của những kháng thể cho những phân tử chỉ thị đã biết, người ta có thể dễ dàng nhận ra vị trí của protein cần nghiên cứu trong tế bào. Ví dụ, kỹ thuật hiển vi huỳnh quang miễn dịch gián tiếp ("indirect immunofluorescence") sẽ cho phép huỳnh quang các vị trí và hiển thị chúng. Bột huỳnh quang được sử dụng để đánh dấu các ngăn của tế bào cho các mục đích tương tự.
Có những kỹ thuật khác, ví dụ như kỹ thuật hóa mô miễn dịch ("immunohistochemistry") thường lợi dụng một kháng thể của một hay nhiều protein cần nghiên cứu mà liên hợp với các enzyme để thu được hoặc là vị trí phát sáng hoặc là tín hiệu tạo sắc tố ("chromogeneic") mà các nhà nghiên cứu có thể so sánh giữa các mẫu, cho phép họ thu thập thông tin về vị trí của protein. Một kỹ thuật ứng dụng khác là đồng cất phân đoạn ("cofractionation") trong gradien sucrose (hoặc những vật liệu khác) sử dụng các bước lọc ly tâm phân đoạn ("differential centrifugation"). Trong khi kỹ thuật này không cho biết sự đồng khu trú của một khoang của tỷ trọng đã biết và protein quan tâm, nó tăng tỷ lệ tinh khiết, và tuân theo các nghiên cứu trên quy mô lớn.
Cuối cùng, phương pháp tiêu chuẩn vàng để xác định sự khu trú tế bào là bằng kỹ thuật hiển vi điện tử miễn dịch ("immunoelectron microscopy"). Kỹ thuật này cũng sử dụng một kháng thể với protein cần nghiên cứu, và kết hợp với các kỹ thuật hiển vi điện tử cổ điển khác. Mẫu được chuẩn bị như đối với kiểm tra qua kính hiển vi điện từ thông thường, và sau đó được xử lý bằng một kháng thể với protein quan tâm mà liên hợp với vật liệu có mật độ electron dày đặc, mà thường là vàng. Kỹ thuật này cho phép xác định được chi tiết siêu cấu trúc cũng những vị trí của protein đang cần nghiên cứu.
Thông qua các ứng dụng kỹ thuật di truyền khác được biết đến như gây đột biến định hướng điểm ("site-directed mutagenesis"), các nhà nghiên cứu có thể thay đổi được trình tự của protein và do đó đến cấu trúc của nó, sự khu trú tế bào, và tính nhạy cảm đối với sự điều hòa biểu hiện. Kỹ thuật này thậm chí cho phép đính những phân tử amino acid không có trong tự nhiên vào protein, bằng sử dụng các tRNA được sửa đổi, và có thể cho phép đánh giá sự hợp lý trong thiết kế protein mới với những tính chất nổi bật.
Tổng toàn bộ protein ở một thời điểm có trong một tế bào hoặc loại tế bào được gọi là bộ protein hay proteome, và ngành nghiên cứu tập hợp dữ liệu lớn như thế gọi là proteomic, được đặt tên tương tự như của ngành geneomic. Các kỹ thuật thực nghiệm quan trọng của proteomic bao gồm điện di trên keo hai chiều ("2D gel electrophoresis"), cho phép tách số lượng lớn các protein, phương pháp khối phổ, cho phép nhanh chóng nhận ra loại protein và trình tự các peptide (hầu hết sau khi tiêu hóa trên gel ("in-gel digestion")), protein microarray, cho phép xác định mức độ tương đối của một số lớn các protein có mặt trong một tế bào, và sàng lọc thể lai hai mảnh ("two-hybrid screening"), cho phép khám phá một cách có hệ thống tương tác protein-protein. Tổng toàn bộ các tương tác sinh học khả dĩ như những tương tác này gọi là interactome. Nỗ lực có hệ thống nhằm xác định cấu trúc của protein biểu diễn cho mỗi hình dạng gập khả dĩ gọi là ngành nghiên cứu bộ gene cấu trúc ("structural geneomics").
Rất nhiều phương pháp tính toán đã được phát triển để phân tích cấu trúc, chức năng, và sự tiến hóa của protein.
Nhờ sự phát triển của những công cụ này giúp đem lại lượng lớn dữ liệu thu thập được về bộ gene và bộ protein ("proteomic") ở nhiều sinh vật, bao gồm bộ gene người. Không thể đơn giản chỉ nghiên cứu bằng thực nghiệm mọi protein được, do vậy chỉ có một vài phân tử được nghiên cứu trong phòng thí nghiệm trong khi các công cụ tính toán được sử dụng để ngoại suy ra những protein tương tự. Những protein tương đồng này có thể nhận ra với độ chính xác cao ở những sinh vật có liên hệ xa bởi phương pháp bắt cặp trình tự ("sequence alignment"). Bộ gene và trình tự gene được tìm kiếm bằng nhiều công cụ khác nhau cho những tính chất nhất định. Các công cụ nhận diện trình tự ("sequence profiling tools") có khả năng tìm ra những vị trí enzyme giới hạn, khung đọc mở ("open reading frame") ở trình tự nucleotide, và dự đoán cấu trúc bậc 2. Cây phát sinh chủng loài có thể xây dựng và các giả thuyết tiến hóa được phát triển nhờ sử dụng các phần mềm chuyên dụng như ClustalW khi xem xét tổ tiên của những sinh vật hiện đại và các gene mà chúng biểu hiện. Lĩnh vực tin sinh học hiện nay trở thành công cụ quý giá cho phân tích gene và protein.
Dự đoán cấu trúc và mô phỏng.
Bổ sung cho ngành bộ gene cấu trúc ("structural geneomic"), lĩnh vực "dự đoán cấu trúc protein" phát triển các mô hình toán học hữu hiệu về protein để dự đoán lý thuyết dựa trên công cụ tính toán về cấu trúc của chúng, thay vì phát hiện cấu trúc protein trong phòng thí nghiệm. Phương pháp dự đoán cấu trúc thành công nhất, gọi là mô hình đồng đẳng ("homology modeling"), dựa trên sự tồn tại của một cấu trúc "khuôn mẫu" với trình tự giống với của protein đang được xây dựng mô hình; mục đích của bộ gene cấu trúc là cung cấp hình ảnh biểu diễn thỏa đáng trong các cấu trúc đã biết để mô hình hóa nhiều nhất có thể các cấu trúc còn chưa được biết. Mặc dù mục tiêu tạo ra những mô hình chính xác vẫn còn là thử thách khi chỉ những khuôn mẫu có liên hệ xa là mới có, người ta đã đề xuất rằng sự bắt cặp trình tự là nút thắt cổ chai trong quá trình này, khi có thể tạo ra những mô hình khá chính xác nếu đã biết một trình tự bắt cặp "hoàn hảo". Nhiều phương pháp dự đoán cấu trúc được ứng dụng trong lĩnh vực kỹ thuật protein, trong đó những protein gập lạ đã được thiết kế. Một vấn đề tính toán phức tạp hợp đó là dự đoán tương tác liên phân tử, như trong sự cập bến của phân tử ("molecular docking") và dự đoán tương tác protein–protein.
Những mô hình toán học để mô phỏng tiến trình động lực của sự gập protein và liên kết protein bao gồm cơ học phân tử, và đặc biệt là động lực học phân tử. Kỹ thuật Monte Carlo trang bị cho các tính toán, mà dựa trên điện toán phân tán và tính toán song song tiên tiến (ví dụ như dự án Folding@home thực hiện mô phỏng cấu trúc phân tử dựa trên GPU). Mô phỏng "in silico" khám phá ra sự gập của những miền nhỏ xoắn α trên protein như đầu của villin và protein phụ cho HIV. Các phương pháp lai kết hợp chuẩn động lực học phân tử với toán học của cơ học lượng tử để khám phá các trạng thái điện tử của rhodopsin.
Dự đoán protein mất trật tự và cấu trúc không cố định.
Nhiều protein (ở sinh vật nhân thực Eucaryota ~33%) chứa nhiều đoạn với cấu trúc không ổn định nhưng có chức năng sinh học và được phân loại thành protein mất trật tự nội tại ("intrinsically disordered proteins"). Dự đoán và phân tích protein mất trật tự do đó là một mảng quan trọng của nghiên cứu cấu trúc protein.
Hầu hết các vi sinh vật và thực vật có thể sinh tổng hợp tất cả 20 amino acid chính, trong khi động vật (bao gồm con người) phải lấy một số amino acid từ thức ăn. Các amino acid mà một sinh vật không thể tự tổng hợp được gọi là các amino acid thiết yếu. Những enzyme quan trọng mà tham gia tổng hợp một số amino acid không có ở động vật — như aspartokinase, tham gia xúc tác ở phản ứng đầu tiên của quá trình tổng hợp lysine, methionine, và threonine từ aspartate. Nếu các amino acid có mặt trong môi trường, vi sinh vật có thể bảo tồn được năng lượng bằng cách tiếp nhận amino acid từ môi trường xung quanh chúng và điều hòa giảm sinh tổng hợp các amino acid này trong chu trình sinh dưỡng của nó.
Ở động vật, amino acid nhận được thông qua tiêu thụ thức ăn chứa protein. Protein tiêu hóa sau đó bị phân tách thành các amino acid nhờ quá trình tiêu hóa, mà điển hình bao gồm sự biến tính của protein do tiếp xúc với acid và bị thủy phân bởi enzyme xúc tác protease. Một số amino acid tiêu thụ được sử dụng để sinh tổng hợp protein mới, trong khi những amino acid khác chuyển hóa thành glucose nhờ quá trình tân tạo glucose ("gluconeogenesis"), hoặc tham gia vào chu trình acid citric. Việc sử dụng protein như là nhiên liệu rất quan trọng trong điều kiện thiếu ăn khi nó cho phép chính protein trong cơ thể được sử dụng để hỗ trợ sự sống, đặc biệt như được tìm thấy ở cơ.
Lịch sử và từ nguyên.
Protein được công nhận là một lớp các phân tử sinh học chuyên biệt bởi Antoine Fourcroy và những người khác vào thế kỷ 18, phân biệt nhờ vào đặc tính của phân tử như đông đặc hoặc lên bông ("flocculate") khi xử lý qua nhiệt hoặc acid. Các mẫu được chú ý ở thời điểm đó bao gồm albumin từ lòng trắng trứng, serum albumin máu, fibrin, và gluten hạt lúa mì.
Nhà hóa học người Hà Lan Gerardus Johannes Mulder là người đầu tiên miêu tả về protein và tên gọi này được nhà hóa học người Thụy Điển Jöns Jacob Berzelius đặt vào năm 1838. Mulder thực hiện các phân tích sơ cấp về những protein phổ biến và ông tìm thấy gần như mọi protein có cùng một công thức thực nghiệm, C400H620N100O120P1S1. Ông đi đến kết luận sai lầm rằng chúng phải là hỗn hợp của một loại phân tử rất lớn. Thuật ngữ "protein" dùng cho những phân tử này do Berzelius, một đồng nghiệp của Mulder, đề xuất; protein bắt nguồn trong tiếng Hy Lạp πρώτειος ("proteios"), nghĩa là "sơ cấp", "dẫn đầu", hoặc "đứng phía trước", + "-in". Mulder nhận biết được các sản phẩm của sự thoái hóa protein như amino acid leucin mà ông tìm thấy (một cách gần đúng) trọng lượng phân tử bằng 131 Da.
Những nhà dinh dưỡng học thời đầu như Carl von Voit người Đức tin rằng protein là thành phần dinh dưỡng quan trọng nhất để duy trì cấu trúc của cơ thể, bởi vì niềm tin phổ biến thời đấy cho rằng "máu tươi tạo máu tươi" ("flesh makes flesh"). Karl Heinrich Ritthausen thêm vào các dạng protein đã biết bao gồm acid glutamic. Ở Trung tâm thí nghiệm nông nghiệp Connecticut ("Connecticut Agricultural Experiment Station"), nhà hóa học Thomas Burr Osborne đã thực hiện đánh giá chi tiết các loại protein có trong cây trồng. Nghiên cứu cùng Lafayette Mendel và áp dụng quy luật cực tiểu của Liebig khi nuôi chuột thí nghiệm, họ đã thiết lập lên danh mục các amino acid dinh dưỡng thiết yếu. Công trình này được tiếp tục nghiên cứu và trao đổi hợp tác với William Cumming Rose. Hiểu biết protein là các chuỗi polypeptide thông qua nghiên cứu của hai nhà hóa học người Đức Franz Hofmeister và Hermann Emil Fischer vào năm 1902. Vai trò trung tâm của protein làm enzyme xúc tác trong sinh vật sống không được đánh giá đầy đủ cho đến tận năm 1926, khi James B. Sumner chỉ ra enzyme urease thực chất là một protein.
Sự khó khăn trong quá trình tinh sạch protein thành lượng lớn khiến các nhà hóa sinh nghiên chúng rất khó khăn ở thời điểm đầu. Do vậy, những nghiên cứu ban đầu tập trung vào những protein được tinh lọc lượng lớn, ví dụ như của máu, lòng trứng trắng, nhiều độc tố khác nhau, và các enzyme tiêu hóa / trao đổi chất lấy từ các lò sát sinh. Trong thập niên 1950, công ty Armour Hot Dog Co. đã lọc được khoảng 1 kg thuần khiết ribonuclease A từ tuyến tụy của bò và cung cấp miễn phí cho các nhà khoa học; nhờ thế mà ribonuclease A trở thành mục tiêu nghiên cứu chính của hóa sinh trong hàng thập kỷ sau đó.
Linus Pauling được ghi nhận là đã đưa ra mô hình dự đoán thành công cấu trúc bậc 2 của các protein đối xứng đều dựa trên liên kết hiđrô, ý tưởng ông lấy từ William Astbury vào năm 1933. Công trình nghiên cứu sau đó của Walter Kauzmann về sự biến tính, dựa một phần trên nghiên cứu trước đây của Kaj Linderstrøm-Lang, đóng góp vào hiểu biết quá trình gập protein ("protein folding") và cấu trúc trung gian bởi tương tác kị nước.
Protein được giải trình tự đầu tiên là insulin, do Frederick Sanger thực hiện vào năm 1949. Sanger đã xác định đúng trình tự các amino acid của insulin, vì thế chứng minh một cách thuyết phục rằng các protein là những polymer mạch thẳng chứa các amino acid hơn là các mạch nhánh, hệ keo, hoặc cyclol. Ông giành giải Nobel Hóa học cho thành tựu này vào năm 1958.
Cấu trúc protein lần đầu tiên được quan sát là của hemoglobin và myoglobin, do Max Perutz và Sir John Cowdery Kendrew, thực hiện một cách độc lập vào năm 1958. ính đến năm 2017[ [cập nhật]], ngân hàng dữ liệu protein ("Protein Data Bank") chứa hơn 126.060 protein có cấu trúc được quan sát ở cấp độ nguyên tử. Trong thời gian gần đây, kỹ thuật hiển vi electron lạnh ("cryo-electron microscopy") đối với quá trình lắp ráp đại phân tử và tính toán dự đoán cấu trúc protein ("computational protein structure prediction") của các miền protein nhỏ ("small protein domain") là hai phương pháp tiếp cận chính trong nghiên cứu cấu trúc protein.
Các website giáo dục.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
|
GNOME (phát âm ) - là bộ phần mềm cung cấp môi trường màn hình nền dễ dùng cho hệ điều hành Linux cũng như cho các hệ điều hành khác. GNOME từng là tên viết tắt của "GNU Network Object Model Environment," nhưng tên đấy đã bị bỏ vì nó không còn đúng với định hướng của dự án GNOME hiện tại. Gói trong phần 'gnome' thuộc về môi trường GNOME hoặc hợp nhất chặt chẽ với nó. Nó là một dự án tin học có hai mục đích: xây dựng môi trường làm việc GNOME trực giác, hấp dẫn đối với người dùng và môi trường phát triển ứng dụng GNOME.
Dự án mở GNOME cung cấp 2 phần: Môi trường desktop GNOME, rất hấp dẫn và cuốn hút người dùng cuối ("end-user"), và môi trường phát triển GNOME, là môi trường tổng quan rộng lớn dùng cho phát triển các ứng dụng tích hợp vào môi trường desktop.
Môi trường làm việc GNOME cũng giống như KDE, là một dự án tin học mã nguồn mở, tự do, và dễ sử dụng. Hơn nữa, GNOME được nhiều công ty lớn như: HP, Mandriva, Novell, Red Hat và Sun Microsystems hỗ trợ.
GNOME được lập trình trong C. Trong phiên bản mới (2.28), GNOME ra mắt "GNOME bluetooth" giúp người dùng quản lý các thiết bị không dây này. Ngoài ra còn có nhiều cải tiến ở các trình ứng dụng: "Time tracker" (theo dõi thời gian hoạt động của các trình ứng dụng trên máy), "Empathy" (chat), "Media player", "Cheese" (ghi hình qua webcam). Trình duyệt web "Epiphany" đã chuyển bộ "render" từ Gecko sang WebKit.
Theo website của Gnome:
Dự án Gnome nhằm cung cấp cho người dùng 2 thứ: Một môi trường làm việc Gnome trực quan và hấp dẫn với nhiều người sử dụng, và nền tảng phát triển Gnome, một khuôn khổ rộng lớn cho việc xây dựng các ứng dụng để tích hợp vào các máy tính để bàn.
Dự án Gnome nhấn mạnh sự đơn giản, tiện dụng và nguyên tắc chỉ làm việc. Các mục đích khác của dự án:
Tự do: tạo ra một môi trường desktop có mã nguồn đầy đủ thích hợp cho việc sử dụng lại các mã nguồn đó theo giấy phép mã nguồn mở.
Thân thiện: Đảm bảo cho tất cả mọi người có khả năng sử dụng một môi trường làm việc thân thiện, hiệu quả, từ những kỹ thuật viên, lập trình viên chuyên nghiệp cho tới những người có khuyết tật về thể chất.
Quốc tế hóa và nội địa hóa: tích hợp vào trong desktop thật nhiều ngôn ngữ. Hiện tại Gnome đã chuyển ngữ sang được 161 ngôn ngữ.
Phát triển thân thiện: đảm bảo cho việc viết và phát triển các ứng dụng tích hợp với máy tính một cách dễ dàng, và chấp thuận cho các lập trình viên được tự do lựa chọn ngôn ngữ lập trình.
Tổ chức: Phát hành theo định kỳ và một cộng đồng có tính tổ chức và kỷ luật cao.
Hỗ trợ: đảm bảo được sự ủng hộ từ các tổ chức khác ngoài cộng đồng Gnome.
Dự án GNOME được bắt đầu vào 15 tháng 8 năm 1997 bởi Miguel de Icaza và Federico Mena như là một phần mềm miễn phí để xây dựng một môi trường desktop và ứng dụng cho nó. Nó được tạo ra vì một phần giao diện KDE đang có được sự chú ý, sử dụng Qt là một phần mềm nguồn đóng tới phiên bản 2.0 (Tháng 9 năm 1999). Thay thế Qt, bộ GTK được sử dụng như là lõi của GNOME. GTK sử dụng Giấy phép Công cộng GNU Hạn chế (LPGL), một giấy phép phần mềm miễn phí cho phép phần mềm sử dụng nó được sử dụng thêm một số giấy phép khác, bao gồm giấy phép cho phần mềm nguồn đóng. Bản thân GNOME sử dụng giấy phép LGPL cho các thư viện của nó, và giấy phép Công cộng GNU cho các ứng dụng của nó.
GNOME 1 và 2 đi theo cấu trúc màn hình chính truyền thống.GNOME 3, được ra mắt vào năm 2011, đã thay đổi điều này với GNOME Shell, nơi việc di chuyển qua các ứng dụng và màn hình ảo được thực hiện ở một nơi riêng gọi là "Overview". Vì Mutter đã thay thế Metacity thành trình điều khiển cửa sổ mặc định, nút phóng to và thu nhỏ không xuất hiện theo mặc định, và thanh tiêu đề, thanh menu và thanh dụng cụ được gộp vào thành một thanh ngang gọi là "thanh ngang". Nhiều ứng dụng mặc định của GNOME cũng được thay đổi giao diện để giúp người dùng có một trải nghiệm đồng nhất.
GNOME là viết tắt của cụm từ GNU Network Object Model Enviroment. Nó dùng để biểu thị ý định ban đầu của Gnome là tạo ra một bản phân phối tương tự như Microsoft OLE. Điều này không phản ánh ý định cốt lõi của dự án Gnome, và việc khai triển toàn bộ cái tên vào hiện nay bị xem là lỗi thời. Như vậy một số thành viên của dự án đã đổi tên lại, từ GNOME trở thành Gnome.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
|
Bo mạch đồ họa
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Bảng mạch đồ họa, Bộ chuyển đổi đồ hoạ ("graphics adapter"), thẻ đồ họa (graphics card), thẻ màn hình, card màn hình là một bảng mạch mở rộng (expansion card) dùng để xuất hình ảnh hiển thị ra màn hình máy tính. Bộ phận trọng tâm của card đồ họa là bộ xử lý đồ họa (GPU). Không nên nhầm lẫn GPU với bảng mạch đồ họa.
Thành phần cơ bản.
Bộ xử lý đồ họa (GPU).
Bộ xử lý đồ họa ("Graphic Processing Unit", viết tắt là GPU) là thành phần rất quan trọng quyết định đến sức mạnh đồ họa, nó có ý nghĩa như CPU trong máy tính.
Hiện nay các bo mạch đồ họa rời thường sử dụng GPU của hai hãng sản xuất:
Do phải xử lý một khối lượng công việc lớn khi chơi game hoặc thực hiện các tác vụ liên quan nên bộ xử lý đồ họa thường toả một lượng nhiệt lớn, cũng như CPU trong máy tính, các bo mạch đồ họa cũng cần tản nhiệt cho GPU.
Cách thức tản nhiệt với các GPU thường là:
Do bộ nhớ đồ họa cũng phát sinh nhiệt nên trong các cách tản nhiệt trên, tấm tản nhiệt thường bao trùm và tản nhiệt luôn cho bộ nhớ đồ họa tuy rằng một số bảng mạch đã không tản nhiệt cho bộ nhớ đồ họa hoặc thiết kế các phiến tản nhiệt riêng.
Bộ nhớ đồ họa.
Để xử lý các tác vụ đồ họa và lưu trữ kết quả tính toán tạm thời, bảng mạch đồ họa có các bộ nhớ riêng hoặc các phần bộ nhớ dành riêng cho chúng từ bộ nhớ chung của hệ thống, trong các trường hợp khác bộ nhớ cho xử lý đồ họa được cấp phát với dung lượng thay đổi từ bộ nhớ hệ thống.
Dung lượng của bộ nhớ đồ họa một phần quyết định đến: độ phân giải tối đa, độ sâu màu và tần số làm tươi mà bo mạch đồ họa có thể xuất ra màn hình máy tính. Do vậy dung lượng bộ nhớ đồ họa là một thông số cần quan tâm khi lựa chọn một bo mạch đồ họa. Dung lượng bộ nhớ đồ họa có thể có số lượng thấp (1 đến 32 Mb) trong các bo mạch đồ họa trước đây, 64 đến 128 Mb trong thời gian hai đến ba năm trước đây và đến nay đã thông dụng ở 256 Mb với mức độ cao hơn cho các bo mạch đồ họa cao cấp (512 đến 1Gb và thậm chí còn nhiều hơn nữa).
Tuy nhiên, dung lượng không phải là một yếu tố quyết định tất cả, khi mà việc tăng dung lượng bộ nhớ đã không trở thành hữu ích cho bảng mạch đồ họa, các nhà thiết kế đã chuyển hướng sử dụng các bộ nhớ có tốc độ cao hơn, do đó đến nay đã có rất nhiều chuẩn bộ nhớ đồ họa đã từng được sử dụng: FPM DRAM, VRAM, WRAM, EDO DRAM, SDRAM, MDRAM, SGRAM, DDR SDRAM, DDR-II SDRAM, và gần đây là GDDR-3 SDRAM, GDDR-4 SDRAM.
Có một điều rằng bảng mạch đồ họa khác nhau lại sử dụng các tốc độ đồ họa thay đổi tuỳ thuộc vào bảng mạch đó dùng GPU nào. Chúng không được sử dụng ở tốc độ tối đa theo như thiết kế. Một số hãng sản xuất có thể thiết kế và thiết đặt sẵn ("trong Video Bios - xem phần sau") để bảng mạch đồ họa làm việc với tốc độ bộ nhớ cao hơn so với mặc định (overclock).
Bảng mạch đồ họa thường sử dụng các đường truyền dữ liệu theo các chuẩn nhất định (bus) để truyền dữ liệu giữa bo mạch đồ họa với hệ thống máy tính, các bus có thể là PCI Express (hiện nay) hoặc AGP (trước kia), hoặc các bus cổ hơn nữa trong thời gian trước đây (ISA 8 bit, ISA 16 bit, VESA LocalBus, PCI, v.v). Đặc điểm của các bus được giới thiệu sơ lược như sau:
RAMDAC (random-access-memory digital-to-analog Converter): Có chức năng chuyển đổi các tín hiệu số sang tín hiệu tương tự để hiển thị trên màn hình máy tính cũ sử dụng công nghệ CRT. Tốc độ của RAMDAC có thể cao hơn tốc độ làm việc của bộ xử lý đồ họa.
Tốc độ RAMDAC trong thời điểm năm 2007 thường vào khoảng 300-500 Mhz. RAMDAC có thể là một bộ phận tách rời hoặc tích hợp sẵn vào các bộ xử lý đồ họa nếu là bo mạch rời.
Cũng giống như tính năng của BIOS ở bảng mạch chủ, video bios chứa toàn bộ thông tin thiết lập về phần cứng của bảng mạch đồ họa. Video Bios còn giúp cho bảng mạch đồ họa hoạt động ngay khi máy tính bắt đầu khởi động trong quá trình POST - trước khi trình điều khiển của hệ điều hành được nạp.
Video bios của bảng mạch đồ họa ở dạng một ROM, có thể được hàn định vị trực tiếp vào bảng mạch đồ họa, có thể ở dạng gắn trên đế cắm (đối với các bo mạch đồ họa trước đây).
Nhiều overclocker hoặc hacker thường thay đổi Video Bios của bo mạch đồ họa để ép xung chúng (overclock).
Các kiểu kết nối.
Kết nối đầu ra/vào của bảng mạch đồ họa đến các màn hình máy tính hoặc các thiết bị ngoại vi khác có thể gồm các loại sau đây:
Video Graphics Array (VGA) (DE-15).
VGA là tiêu chuẩn tương tự (analog) được đưa vào sử dụng từ cuối thập niên 1980, được thiết kế dành cho màn hình CRT. Nó có một số vấn đề về nhiễu và hình ảnh không rõ nét. Ngày nay tiêu chuẩn này còn được sử dụng cho tín hiệu HD (1080p và cao hơn). Mặc dù băng thông của VGA đủ cao để hỗ trợ độ phân giải cao hơn, chất lượng hình ảnh sẽ bị giảm đi theo độ dài và chất lượng dây. Điều này còn phụ thuộc vào mắt của mỗi người và màn hình hiển thị.
Digital Visual Interface (DVI).
DVI là kiểu kết nối tín hiệu kỹ thuật số, dành cho các màn hình phẳng (LCD, Plasma, HDTV) và máy chiếu. Đôi khi cũng bắt gặp DVI được sử dụng trong các màn hình CRT cao cấp. Nó tránh được nhiễu điện và xuất ra hình ảnh rõ nét hơn.
High-Definition Multimedia Interface (HDMI).
HDMI là giao diện âm thanh/hình ảnh cho phép truyền dữ liệu video chưa nén và dữ liệu âm thanh đã nén/chưa nén từ một thiết bị tuân thủ HDMI (thiết bị nguồn) tới một thiết bị âm thanh số, màn hình máy tính, máy chiếu hay TV số. HDMI là một giải pháp kỹ thuật số thay thế cho các tiêu chuẩn tương tự.
DisplayPort là một giao diện kỹ thuật số do Video Electronics Standards Association (VESA) phát triển. Giao diện này được sử dụng chủ yếu cho việc kết nối một nguồn video tới một thiết bị hiển thị, ví dụ như màn hình máy tính, mặc dù nó cũng có thể truyền tải âm thanh, USB hay một số hình thức dữ liệu khác. Tiêu chuẩn VESA được miễn phí tiền bản quyền. VESA thiết kế DisplayPort để thay thế cả VGA, DVI lẫn LVDS. Có thể sử dụng các thiết bị với DisplayPort của với các màn hình VGA hay DVI thông qua các adapter. Mặc dù các tính năng và khả năng hiển thị của DisplayPort tốt hơn HDMI, nó chỉ có mục đích bổ sung, không thay thế.
Các API đồ họa 3D.
Sự xuất hiện của nhiều bộ xử lý đồ họa với các công nghệ khác nhau không thống nhất theo chuẩn nhất định khiến cho các nhà phát triển phần mềm và trò chơi trên máy tính gặp khó khăn về vấn đề tương thích.
Để thuận tiện cho các nhà viết phần mềm đồ họa và trò chơi trên máy tính cần thống nhất các hàm API sử dụng chung mà các bảng mạch đồ họa cần phải tương thích với chúng.
Sự phát triển các phiên bản DirectX từ đó đến phiên bản DirectX 9c mang tính kế thừa, nhưng đến phiên bản gần đây nhất - DirectX 10 (chỉ sử dụng trong Windows Vista và các hệ điều hành khác nếu có của Microsoft sau này) có một sự thay đổi lớn được xem như viết trên một nền tảng mới hoàn toàn.
Đến cuối năm 2007, chỉ có một số bảng mạch đồ họa hỗ trợ DirectX 10 khi sử dụng các bộ xử lý đầu họa(có ký hiệu)đầu 8XXX (8800, ) của nVIDIA và 2XXX (2900, ) của ATI (Các bo mạch đồ họa sử dụng các GPU cũ hỗ trợ đến DirectX 9c vẫn có thể làm việc với Windows Vista)
Cung cấp nguồn trực tiếp từ nguồn máy tính.
Các bảng mạch đồ họa (rời) trước đây thường lấy điện trực tiếp từ bảng mạch chủ nhưng với nhu cầu xử lý ngày càng cao, ngày nay các bộ xử lý đồ họa cần tiêu tốn một lượng điện năng lớn (có thể trên 150 W) mà các mạch dẫn trên mạch in của bảng mạch chủ sẽ không thể đáp ứng nổi các dòng điện lớn như vậy.
Để cung cấp các công suất lớn cho bộ xử lý đồ họa, các bảng mạch đồ họa sử dụng cách thức cung cấp điện trực tiếp từ nguồn máy tính thông qua các đầu cắm thiết kế riêng. Đầu cắm thông dụng cung cấp điện cho bo mạch đồ họa hiện nay thường là 6 hoặc 8 chân.
Cùng một bảng mạch đồ họa có thể cho phép xuất ra nhiều màn hình đồng thời mà không nhất thiết chúng có hình ảnh giống hệt nhau. Với các vi xử lý đồ họa mạnh mẽ hiện nay có thể cho phép một bảng mạch đồ họa xuất ra hai màn hình để mở rộng desktop trong hệ điều hành. Trong trường hợp hệ thống có nhiều bảng mạch đồ họa cũng có thể mở rộng ra nhiều màn hình đồng thời (giả sử có hai bảng mạch đồ họa, mỗi chiếc xuất ra hai màn hình thì tổng số sẽ có thể có 4 màn hình cùng hiển thị).
Hai (hoặc nhiều hơn) màn hình có thể giúp người sử dụng mở đồng thời nhiều ứng dụng mà vẫn quan sát được các tiến trình đang diễn ra, nhiều cửa sổ để tham chiếm, duyệt
Không dừng lại ở các bộ xử lý đồ họa cao cấp, bộ nhớ đồ họa dung lượng lớn với tốc độ làm việc cao, các hãng sản xuất đã thiết kế các kiểu sử dụng nhiều bo mạch đồ họa trên cùng một máy tính.
Trong các thời gian trước đây, người ta cũng có thể sử dụng đồng thời nhiều bảng mạch đồ họa nhưng chỉ dừng lại ở công dụng phát ra nhiều màn hình đồng thời. Công nghệ đồ họa kép hiện nay cho phép nhiều bộ xử lý đồ họa cùng xử lý một vấn đề đồ họa do đó chất lượng và tốc độ xử lý tăng mạnh hơn (có thể hình dung nhiều bộ xử lý đồ họa tương tự việc bộ xử lý đa nhân hoặc nhiều bộ xử lý trên cùng một bo mạch chủ).
Hai hãng sản xuất chip đồ họa ATI và nVIDIA đã có các chuẩn riêng như sau
Công nghệ Crossfire của AMD.
Crossfire có thể là: Hai bộ xử lý đồ họa cùng có mặt trên một bảng mạch đồ họa hoặc hai bảng mạch đồ họa (trở lên) cùng có mặt trên một bảng mạch chủ.
Nếu thuộc loại hai bảng mạch đồ họa (trở lên) cắm vào bảng mạch chủ thì yêu cầu bảng mạch chủ phải có hai khe cắm kiểu PCI Express X16 (chúng có thể không đồng thời hỗ trợ X16) và bảng mạch chủ phải hỗ trợ.
Hai bảng mạch đồ họa ở đây phải liên kết với nhau, có thể qua dây kết nối đầu ra (dây cắm thiết kế riêng gồm 3 đầu, hai đầu cắm vào hai bo mạch đồ họa, đầu còn lại cắm vào màn hình máy tính), có thể sử dụng cầu nối giữa hai bảng mạch đồ họa hoặc có thể sử dụng bằng phần mềm thiết đặt trình điều khiển.
Công nghệ SLI của nVIDIA.
Gần tương tự như công nghệ Crossfire của ATI, nhưng công nghệ SLI của nVIDIA yêu cầu khắt khe hơn về bảng mạch chủ: Các bảng mạch chủ hỗ trợ công nghệ này phải sử dụng các chipset của chính hãng nVIDIA. Còn có thể sử dụng theo yêu cầu từ 2 card đồ họa giống nhau để đồng bộ (Dòng 8 với 8, dòng 9 với 9 ...)
|
Lý thuyết giải các bài toán sáng chế (theo tiếng Nga là "Теория решения изобретательских задач", chuyển tự "Teoriya Resheniya Izobreatatelskikh Zadatch", viết tắt TRIZ) là phương pháp luận tìm kiếm những giải pháp kỹ thuật mới, cho những kết quả khả quan, ổn định khi giải những bài toán khác nhau, thích hợp cho việc dạy và học với đông đảo quần chúng. Tác giả của TRIZ, G.S. Altshuller, bắt đầu nghiên cứu, xây dựng lý thuyết từ 1946. Tiền đề cơ bản của TRIZ là: các hệ kỹ thuật phát triển tuân theo các quy luật khách quan, nhận thức được. Chúng được phát hiện và sử dụng để giải một cách có ý thức những bài toán sáng chế. TRIZ được xây dựng như là một khoa học chính xác, có lĩnh vực nghiên cứu riêng, các phương pháp riêng, ngôn ngữ riêng, các công cụ riêng. Hạt nhân của TRIZ là thuật toán giải các bài toán sáng chế (viết tắt theo tiếng Nga là ARIZ).
ARIZ là một chương trình các hành động tư duy có định hướng, được kế hoạch hóa. Nó có mục đích tổ chức hợp lý và làm tích cực hóa tư duy sáng tạo, bước đầu tạo cơ sở cho lý thuyết chung về tư duy định hướng. ARIZ có tính logic và linh động. Về mặt logic, ARIZ có tác dụng phân nhỏ bài toán sáng chế thành từng phần, vừa sức với người giải bình thường. Về mặt linh động, nó khai thác tới mức lớn nhất mặt mạnh của từng người giải như kiến thức, kinh nghiệm, trí tưởng tượng, linh tí, sự phân tán trong suy nghĩ. Lợi ích của ARIZ nói chung là nâng cao hiệu suất tư duy sáng tạo giải quyết vấn đề và ra quyết định.
Ý nghĩa của TRIZ và ARIZ là ở chỗ xây dựng tư duy định hướng nhằm đi đến lời giải bằng con đương ngắn nhất dựa trên các quy luật phát triển các hệ kỹ thuật và sử dụng chương trình tuần tự các bước, có kết hợp một cách hợp lý 4 yếu tố: tâm lý, logic, kiến thức và trí tưởng tượng. TRIZ được dùng kết hợp với những phương pháp kinh tế-tổ chức (như phương pháp phân tích giá thành-chức năng, gọi tắt là FSA) tạo nên công cụ tổng hợp và có hiệu lực mạnh mẽ tác động tốt đến sự phát triển công nghệ.
Lý thuyết TRIZ các bạn cần tìm đọc và nghiên cứu, nó là môn khoa học sáng tạo có thể nói là biến những khả năng sáng tạo vô lý thành hiện thực thông qua các phương pháp luận và loại trừ.
|
Mỹ nghệ than đá
Mỹ nghệ trên than đá là các sản phẩm mỹ nghệ và cũng là nghề thủ công thực hiện trên than đá. Tại Việt Nam, nghề này được phát triển từ cuối thế kỷ 20 tại vùng mỏ than đá ở Quảng Ninh.
Các sản phẩm là các tác phẩm điêu khắc từ hình dạng con trâu, con nai, gạt tàn thuốc lá đến những hình mang tính nghệ thuật cao. Khách hàng ưa thích các sản phẩm ở sự độc đáo về chất liệu than đá và tính thẩm mỹ. Giá bán sản phẩm dao động từ vài chục ngàn đồng đến vài triệu đồng.
|
Lý Tòng Bá (1931 – 2015), nguyên là một tướng lĩnh gốc Kỵ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Chuẩn tướng. Ông xuất thân từ những khóa đầu ở trường Võ bị Quốc gia do Chính phủ Quốc gia Việt Nam mở ra tại nam Cao nguyên Trung phần. Sau khi tốt nghiệp ông được chọn vào đơn vị Thiết giáp và ông đã phục vụ ở Binh chủng này lên đến chức vụ Chỉ huy trưởng. Trong thời gian tại ngũ, ông cũng được chuyển nhiệm vụ sang lĩnh vực Hành chánh (Tỉnh trưởng) kiêm Quân sự (Tiểu khu trưởng). Ông là Tư lệnh sau cùng của Sư đoàn 25 Bộ binh, đơn vị cuối cùng chiến đấu bảo vệ mặt phía bắc Sài Gòn trước khi thất thủ.
Tiểu sử Binh nghiệp.
Ông sinh ngày 14 tháng 11 năm 1931 trong một gia đình khá giả ở quê ngoại tại làng Bình Đức, tỉnh Long Xuyên (nay thuộc tỉnh An Giang), miền Nam Việt Nam. Quê nội của ông ở quận Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng. Từ năm 1937, ông là học sinh trường Tiểu học Long Xuyên, rồi trường Trung học Collège Cần Thơ theo chương trình Pháp. Năm 1947, ông tốt nghiệp với văn bằng Thành chung. Tháng 8 năm 1948, ông trúng tuyển theo học trường Thiếu sinh quân Đông Dương ở Cap Saint Jacques, Vũng Tàu. Ngoài chương trình quân sự học đường, ông còn được học chương trình phổ thông Trung học Đệ nhị cấp. Năm 1950, ông tốt nghiệp với chứng chỉ tương đương văn bằng Tú tài bán phần (Part I).
Quân đội Quốc gia Việt Nam.
Tháng 11 năm 1951, ông nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia, mang số quân: 51/121.307. Theo học khóa 6 Đinh Bộ Lĩnh tại trường Võ bị Liên quân Đà Lạt, khai giảng ngày 1 tháng 12 năm 1951. Ngày 1 tháng 10 năm 1952 mãn khóa tốt nghiệp Thủ khoa với cấp bậc Thiếu úy hiện dịch. Ngay sau khi ra trường, ông được tuyển chọn vào Thiết giáp và theo học tiếp khóa căn bản Binh chủng tại Trung tâm Huấn luyện Thiết giáp Viễn Đông của Quân đội Pháp ở Vũng Tàu kể từ ngày 1 tháng 10 năm 1952 đến ngày 1 tháng 4 năm 1953. Sau khi mãn khóa căn bản Thiết giáp, ông được cử giữ chức Trung đội trưởng Trung đội Thám thính M.8 thuộc Tiểu đoàn 7 Thám thính ở Hà Đông, Bắc Việt. Đầu năm 1954, ông được chọn làm sĩ quan Tuỳ viên cho Trung tướng Nguyễn Văn Hinh, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Quốc gia. Tháng 12 cùng năm ông được thăng cấp Trung úy tại nhiệm.
Quân đội Việt Nam Cộng hòa.
Đầu năm 1955, ông trở lại Binh chủng và được cử làm Đại đội trưởng Đại đội Thám thính. Sau khi Quân đội Quốc gia được đổi tên thành Quân đội Việt Nam Cộng hòa, tháng 10 cùng năm ông được chọn đi du học khóa cao cấp Thiết giáp tại trường Kỵ binh Saumur ở Pháp, đến đầu tháng 1 năm 1956 mãn khóa.
Ngay sau khi mãn khóa cao cấp Thiết giáp trở về nước, ông được cử làm Chi đoàn trưởng Chi đoàn chiến xa M.8 (sau đổi thành Chi đoàn chiến xa M.24) thuộc Trung đoàn 1 Thiết giáp đồn trú ở Gò Vấp, Gia Định do Thiếu tá Hoàng Xuân Lãm làm Trung đoàn trưởng. Đầu năm 1958, ông được thăng cấp Đại úy tại nhiệm. Tháng 12 cùng năm nhận lệnh bàn giao Chi đoàn M.24 lại cho Đại úy Kha Vãng Huy, để đi du học khóa căn bản và cơ khí Thiết giáp tại trường Lục quân Fort Knox, Tiểu bang Kentucky, Hoa Kỳ. Tháng 5 năm 1959, mãn khóa học ông về nước phục vụ tại ban Tu thư, sau đó được giao chức vụ sĩ quan Phụ tá Tiếp vận của Bộ chỉ huy Thiết giáp tại trại Trần Hưng Đạo, Bộ Tổng tham mưu.
Đầu năm 1960, ông được cử giữ chức Chỉ huy phó trường Huấn luyện Thiết giáp ở Thủ Đức do Thiếu tá Vĩnh Lộc làm Chỉ huy trưởng. Tháng 6 cùng năm, ông được biệt phái sang lĩnh vực Hành chính giữ chức vụ Phó Tỉnh trưởng Nội an kiêm Tiểu khu trưởng tỉnh Phước Long. Cuối năm, Thiếu tá Đỗ Văn Diễn Tỉnh trưởng Phước Long trả ông trở lại Quân đội vì bị nghi ngờ ủng hộ cuộc đảo chánh ngày 11 tháng 11 năm 1960 do Đại tá Nguyễn Chánh Thi cầm đầu. Ngay sau đó ông được cử đi làm Chỉ huy phó Trung tâm Huấn luyện Cơ giới Bảo an ở Vũng Tàu do Thiếu tá Lê Đức Đạt làm Chỉ huy trưởng. Đến giữa năm 1961, ông được cử làm Đại đội trưởng Đại đội 7 Cơ giới M.113 tân lập thuộc Sư đoàn 7 Bộ binh ở Mỹ Tho (ngày 1 tháng 11 năm 1962, đơn vị này được đổi tên thành Chi đoàn 4 Thiết vận xa thuộc Trung đoàn 2 Thiết giáp đặt binh sở tại Mỹ Tho). Tháng 12 cùng năm, ông được thăng cấp Thiếu tá và được cử giữ chức Trung đoàn trưởng Trung đoàn 2 Thiết giáp thay thế Trung tá Lâm Quang Thơ.
Đầu tháng 12 năm 1963, một tháng sau cuộc đảo chính Tổng thống Ngô Đình Diệm, ông được cử giữ chức vụ Chỉ huy Chiến đoàn 6 Thiết vận xa tân lập tại Mỹ Tho. Trung tuần tháng 8 năm 1964, ông được thăng cấp Trung tá. Một tháng sau, ngày 13 tháng 9, ông tham gia cuộc biểu dương Lực lượng (thực ra là một vụ đảo chính) xuất phát từ Quân khu 4 do Trung tướng Dương Văn Đức Tư lệnh Quân đoàn IV cầm đầu. Đảo chính thất bại, ông bị bắt và giam giữ tại Quân lao Gò Vấp, sau đó chuyển sang Đề lao Chí Hòa. Tháng 10 cùng năm ông bị ra Tòa án binh và Hội đồng Kỷ luật Quân đội nhưng được tha bổng và phục hồi cấp bậc. Sau đó ông được cử làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 1 Thiết giáp thay thế Thiếu tá Huỳnh Ngọc Diệp. Tháng 10 năm 1965, ông nhận lệnh bàn giao Trung đoàn 1 Thiết giáp lại cho Trung tá Huỳnh Ngọc Diệp để đi nhận chức vụ Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Bình Dương. Ngày Quốc khánh Đệ Nhị Cộng hòa 1 tháng 11 cùng năm, ông được đặc cách thăng cấp Đại tá tại nhiệm.
Tháng 4 năm 1968, rời khỏi chức vụ Tỉnh trưởng tỉnh Bình Dương, ông được chuyển về Trung ương giữ chức vụ Chánh sở Thanh tra thuộc Tổng nha Thanh tra Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Đầu năm 1971, ông thuyên chuyển ra Quân khu 2 được cử vào chức vụ Tư lệnh phó Quân đoàn II kiêm Đặc trách Chương trình Bình định Phát triển của Quân khu 2 tại Nha Trang.
Hạ tuần tháng 1 năm 1972, ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh thay thế Chuẩn tướng Võ Văn Cảnh đi làm Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Quốc gia Lam Sơn kiêm Chỉ huy trưởng Huấn khu Dục Mỹ. Tháng 5 cùng năm, ông được đặc cách thăng cấp Chuẩn tướng tại nhiệm ở mặt trận do chiến tích của Sư đoàn 23 đã lập được tại chiến trường Kontum trong "Mùa hè Đỏ lửa". Tháng 10 cùng năm, ông được lệnh bàn giao Sư đoàn 23 lại cho Đại tá Trần Văn Cẩm (nguyên Tham mưu trưởng Quân đoàn II). Cùng ngày đi nhận chức vụ Chỉ huy trưởng Thiết giáp Trung ương tại Trại Phù Đổng, Gò Vấp thay thế Đại tá Phan Hòa Hiệp. Giữa năm 1973, ông được cử làm sĩ quan Tuỳ viên cho Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trong chuyến công du thăm viếng các Quốc gia Hoa Kỳ, Ý, Anh, Trung Hoa Quốc gia và Đại Hàn với thời gian 2 tuần lễ.
Ngày Quốc khánh 1 tháng 11 năm 1974, ông được lệnh bàn giao Bộ chỉ huy Thiết giáp lại cho Trung tướng Nguyễn Văn Toàn. Sau đó đi đảm nhận chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 25 Bộ binh (bản doanh đặt tại Căn cứ Đồng Dù, Củ Chi, Hậu Nghĩa), thay thế Đại tá Nguyễn Hữu Toán được cử đi làm Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Quốc gia Lam Sơn.
-Tư lệnh - Chuẩn tướng Lý Tòng Bábr-Tư lệnh phó - Đại tá Trương Thắng Chứcbr-Tham mưu trưởng - Đại tá Bùi Hữu Khiêmbr-Chỉ huy Pháo binh - Trung tá Phạm Hữu Nghĩa
Sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông bị quân Giải phóng bắt tại làng Tân Thạnh Đông, quận Củ Chi. Sau đó, bị tù lưu đày từ Nam ra Bắc qua các trại Quang Trung (Gia Định), Yên Bái (Hoàng Liên Sơn), Hà Nam (Hà Nam Ninh) cho đến ngày 13 tháng 2 năm 1988 mới được trả tự do.
Đầu năm 1990, ông xuất cảnh sang Mỹ theo chương trình "Ra đi có Trật tự" diện H.O do Chính phủ Hoa Kỳ bảo lãnh. Sau đó đoàn tụ với gia đình tại Las Vegas, Tiểu bang Nevada.
Ngày 22 tháng 3 năm 2015, ông từ trần tại nơi định cư. Hưởng thọ 84 tuổi.
-"Tướng Lý Tòng Bá là con trai thứ 3 và người con thứ 5 trong gia đình có 11 anh chị em."
|
Phú Quý là một huyện đảo thuộc tỉnh Bình Thuận, vùng Duyên hải Nam Trung Bộ, Việt Nam và là một quần đảo gồm 12 đảo lớn nhỏ, là hệ thống đảo ở cực Nam Trung Bộ.
Phú Quý ở tọa độ 108o55' đến 108o58' kinh Đông và từ 10o29' đến 10o33' vĩ Bắc, khoảng cách tới các vùng lân cận như sau:
Khí hậu, Thủy văn.
Chế độ khí hậu gió mùa với hai mùa rõ rệt: mùa gió Nam, bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 8 và mùa gió Bấc từ tháng 9 đến tháng 4 năm sau. Lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 1.000 đến 1.100mm. Nhiệt độ không khí trung bình 22oC đến 28oC. Độ ẩm không khí từ 72 đến 88%. Khí hậu tương đối ôn hòa, mát mẻ quanh năm. Tốc độ gió ở Phú Quý là khá lớn, trung bình năm là 6 m/giây (cấp 4). Vùng đảo ít có bão, tần suất là 0,66 lần/năm, nhưng thường xuyên chịu ảnh hưởng trực tiếp các đợt áp thấp nhiệt đới gây mưa to, gió lớn, biển động mạnh. Trên đảo chỉ có những dòng chảy tạm thời vào mùa mưa. Thủy triều ở vùng này thuộc thủy triều hỗn hợp, độ lớn triều trung bình 1,6 m, lớn nhất 2,2 m, nhỏ nhất 0,3 m. Độ mặn của nước biển 34 – 34,2%o.
Địa hình và Địa chất.
Địa hình trên đảo tương đối bằng phẳng, thuộc dạng gò đồi, độ phân cắt yếu, nhưng vẫn thể hiện tính phân bậc khá rõ ràng. Ngoài 3 ngọn núi cao 108m, 86 m và 46 m, ở trung tâm đảo có những dãy đồi cao 20 - 30 m, 15 - 20 m, còn ven đảo thường cao khoảng 5m, đến 7 - 8m, thấp nhất khoảng 2m. Thềm biển phổ biến có độ cao 4m và 2m, cũng phát triển nhiều bãi cát, doi cát, là các bãi tắm đẹp. Nhiều lạch, mũi đá nhô ra biển tạo nên đường bờ đảo đa dạng về hình thái.
Trên đảo và trong phạm vi khu vực xung quanh đảo, hiện nay còn nhìn thấy dấu tích của 4 miệng núi lửa dưới nước và 2 chóp núi lửa ở trên đảo là núi Cấm, núi Ông Đụn. Núi Cao Cát là phần sót lại của chùy núi lửa, còn được bảo tồn tốt, ở sườn phía Đông tạo thành vách dốc đứng tạo thế đứng hùng vĩ, còn trên đỉnh có những khối đá trầm tích-phun trào núi lửa với những hình dáng kỳ vĩ do thiên nhiên ngàn năm tạo lập mà ít nơi có được.
Huyện đảo Phú Quý có 3 đơn vị hành chính cấp xã: Ngũ Phụng (huyện lỵ), Tam Thanh và Long Hải.
Hiện nay, trung tâm huyện lỵ Phú Quý đạt chuẩn đô thị loại V.
Đã từ lâu đảo Phú Quý trở nên rất quen thuộc với nhiều người qua sử sách xưa dưới nhiều tên gọi: Cổ Long, Thuận Tịnh, Cù Lao Khoai Xứ, Cù Lao T
Từ năm Thiệu Trị thứ 4 (1844) vì tiềm năng kinh tế dồi dào và số lượng đặc sản đáng kể biệt nạp cho Triều đình Huế, đảo được đổi tên từ Tổng Hạ sang Tổng Phú Quý trực thuộc huyện Tuy Phong, phủ Ninh Thuận, tỉnh Bình Thuận.
Tuy là một hòn đảo nằm biệt lập giữa trùng dương nhưng dấu tích phát hiện được cho thấy đảo đã được khai phá tạo nên cuộc sống ở đảo từ rất sớm. Trong quá trình khai thác đá quánh, nhân dân đã tìm thấy những mộ vò lớn. Trong mộ có chôn theo một số công cụ lao động như rìu, bôn và cả những chiếc vòng đeo tay bằng đá với kỹ thuật chế tác rất tinh xảo. Điều này phù hợp với những giai thoại được lưu truyền rằng trước khi có sự khai phá thiên nhiên của những con người từ lục địa, ở đây đã có một giống người Thượng sinh sống bằng nghề hái lượm và bắt cá ven biển. Trải qua những biến thiên của lịch sử, Phú Quý là nơi hội tụ của nhiều luồng dân di cư từ lục địa ra với nhiều thành phần dân tộc khác nhau. Trong đó người Kinh đóng vai trò chủ thể.
Khi bắt đầu phát triển mạnh kỹ thuật đóng thuyền buồm với những chiếc thuyền ra được khơi xa thì cũng là lúc có nhiều người từ lục địa đặt chân lên đảo. Cùng với những phần mộ còn sót lại trên đảo, sự tích công chúa Bàn Tranh chứng tỏ người Chăm đã có mặt ở đảo này. Sự tích kể rằng: Bàn Tranh là một công chúa xinh đẹp vì chống lệnh vua cha nên bị kết tội phản nghịch và bị đày ra đảo.
Bên cạnh đó, do không chịu nổi sự hà khắc của chế độ nông nô, bất mãn với triều đình phong kiến, nhiều người đã tìm đường ra đây lập kế sinh nhai. Người Kinh có mặt ở đảo cũng từ rất sớm. Trong thời kỳ Trịnh-Nguyễn phân tranh (1627-1672), rất nhiều ngư dân thuộc các tỉnh duyên hải miền trung, hoặc chạy giặc lánh nạn, hoặc đi tìm nguồn cá, thuyền của họ vượt sóng trùng dương đã gặp phải những trận cuồng phong khốc liệt và "xiêu" lên đảo.
Cùng với người Kinh, một số người Hoa cũng hòa nhập vào cộng đồng cư dân ở Phú Quý. Vào thế kỷ 17, một số quan lại nhà Minh sau khi chống nhà Thanh thất bại, đã phải trốn ra nước ngoài. Từng đoàn thuyền vượt biển tiến về phía nam, trong số đó có hàng chục thuyền đã quyết định dừng chân lập nghiệp ở Phú Quý. Người Hoa đến đây sống dựa vào các ngành nghề như dệt tơ lụa, buôn bán. Quá trình phát triển về sau, một số người do làm ăn trở nên giàu có đã lần lượt tìm vào các thành phố lớn ở đất liền, chỉ một số ít còn lại trên đảo.
Khi dân cư ngày một đông hơn thì các hình thức tổ chức xã hội cũng dần dần được hình thành. Vào thời chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765), chính quyền Đàng Trong đã tổ chức trên đảo thành từng hộ bạch bố đến đội bạch bố rồi dần dần trở thành ấp và làng. Tuy số dân lúc bấy giờ chưa đông đúc nhưng Phú Quý có đến 14 làng và 1 ấp. Mỗi làng được lập trên cơ sở một nhóm nhỏ ngư dân, đôi lúc chỉ có từ 10 đến 12 tránh đinh và thường mang những tên cũ của địa phương trước khi đến đây lập nghiệp: Thoại Hải, Thế Hanh, Thế An, Hội Thiên, Hội Hưng, Hương Lăng, Mỹ Xuyên, Phú Ninh, An Hòa, Hải Châu, Thương Hải, Triều Dương, Hội An, Mỹ Khê và ấp Quý Thạnh. Từ niên hiệu Đồng Khánh - Đồng Khánh năm thứ 1 (1886), toàn đảo được tổ chức thành 11 làng và đến năm 1930 do sự sáp nhập ba làng Phú Ninh vào Phú Mỹ và Hương Lăng vào Quý Thạnh nên chỉ còn lại 9 làng: Long Hải, Phú Mỹ, An Hòa, Hải Châu, Thương Hải, Quý Thạnh, Triều Dương, Mỹ Khê và Hội An. Hiện nay, đảo được chia làm 3 xã: Long Hải, Ngũ Phụng, Tam Thanh.
Phú Quý trong một thời gian dài đã sống trong điều kiện khép kín tự cung tự cấp với những hoạt động kinh tế như trồng trọt, đánh bắt hải sản, một số ngành nghề thủ công như dệt vải, đan võng, ép dầ, ngư nghiệp đóng vai trò chủ đạo.
Ngày 27 tháng 4 năm 1977, huyện đảo Phú Quý chính thức được thành lập theo Quyết định số 329-CP của Hội đồng Chính phủ trên cơ sở đảo Phú Quý, khi đó thuộc tỉnh Thuận Hải, gồm 3 xã: Long Hải, Ngũ Phụng và Tam Thanh.
Ngày 26 tháng 12 năm 1991, tỉnh Thuận Hải được tách thành 2 tỉnh là Bình Thuận và Ninh Thuận, huyện đảo Phú Quý trực thuộc tỉnh Bình Thuận như hiện nay.
Các trường mầm non: Trước 2019: Mẫu giáo Tam Thanh, Mầm non Ban Mai (xã Tam Thanh); Mẫu giáo Ngũ Phụng, Mầm non Hoa Biển (xã Ngũ Phụng); Mẫu giáo Long Hải, Mầm non Hải Âu (xã Long Hải). Kể từ 01/01/2019: Sáp nhập lại thành 3 trường: Mầm non Tam Thanh, Mầm non Long Hải và Mầm non Ngũ Phụng.
Các trường tiểu học: Trước 2019: Phú An, Quý Thạnh (xã Ngũ Phung); Quý Hải, Đông Hải (xã Long Hải); Mỹ Khê, Triều Dương (xã Tam Thanh). Kể từ 01/01/2019: Sáp nhập lại thành 3 trường: Tiểu học Ngũ Phụng; Tiểu học Long Hải; Tiểu học Tam Thanh.
Các trường trung học cơ sở: Tam Thanh, Ngũ Phụng, Long Hải.
Các đảo lân cận.
Hòn Tranh: Cách cảng Phú Quý 600 m, nằm phía đông nam đảo Phú Quý. Hòn Tranh có chiều rộng nhất là 650 m về phía Bắc, nơi hẹp nhất 290 m, chiều dài 1.176 m, diện tích 55 ha. Trước đây là một hoang đảo chủ yếu là cỏ tranh, được nhân dân phá trồng hoa màu, hiện nay đang được trồng rừng phục hồi môi trường. Không có dân cư sinh sống. Hiện là nơi đặt trạm ra-đa quan sát biển của lực lượng Hải quân nhân dân Việt Nam. #đổi
Hòn Trứng: rộng 3.600 m². Nằm phía tây bắc, là cửa ngõ ra vào đảo, là điểm tựa của nhiều loại ghe thuyền. Mùa gió Nam thuyền có thể neo đậu ở phía bắc. Mùa gió Bắc có thể neo đậu ở phía nam.
Hòn Trứng nhỏ: rộng 2.000 m², cách Hòn Tranh 100 mét về phía đông nam.
Hòn Đen, Hòn Nghiên hay Hòn Mực, do đảo toàn đá đen. Nằm phía đông bắc Phú Quý, cách bờ 100 mét, diện tích 23.000 m². Vào những lúc nước ròng có thể lội bộ ra Hòn Đen.
Hòn Giữa: đây là một dãy gành đá bén nhọn nằm cạnh Hòn Đen, nằm vắt ngang như một nhịp cầu nối liền Hòn Đen và Hòn Đỏ thuộc xã Long Hải. Diện tích 2.900 m².
Hòn Đỏ, Hòn Bút, Hòn Son hay Hòn Bút Nghiên: Nằm phía đông bắc Phú Quý, cách bờ khoảng 200 - 300 mét. Có tên là Hòn Đỏ vì ở đây toàn là đá màu đỏ. Diện tích hơn 28.000 m².
Hòn Hải hay Hòn Khám, Hòn Hài: cách đảo Phú Quý gần 65 km về phía nam, là điểm A6 đường cơ sở lãnh hải Việt Nam. Có hình dạng là một khối đá vuông cạnh mọc thẳng đứng, có chiều dài khoảng 130 m, bề ngang chỗ rộng nhất khoảng 60 m, điểm cao nhất là 113 m tính từ mặt biển, rộng 46.000 m², là một trong các điểm cơ sở nằm trên đường cơ sở của Việt Nam. Hòn Hải và hai hòn đảo nhỏ lân cận tạo thành cụm đảo The Catwicks trong các bản đồ hàng hải phương Tây. Hòn Hải được gọi là Pulo Sapata, Poulo Sapate, hoặc Shoe Island. Hải đăng Hòn Hải được xây dựng năm 2004.
Hòn Đồ Lớn hay Hòn Bố: Nằm phía đông nam và cách Phú Quý gần 60 km, có thể một phần hòn đảo này hình thành năm 1923 do hoạt động phun trào dưới lòng biển Đông. Lúc đầu có dạng hình tròn với đường kính 40 m, trên mặt có cát trắng và xung quanh có cạnh bậc thang thoai thoải. Hiện nay hình thành một bãi đá ngầm dài 700 m và rộng gần 500 m. Hòn Đồ lớn còn được hàng hải phương Tây gọi là Round Island hoặc Great Catwick.
Hòn Đồ Nhỏ hay Hòn Trào: cách Hòn Bố 2 hải lý về phía đông, rộng chỉ có 50 m². Hòn Đồ nhỏ còn được gọi là Little Catwick hoặc Pyramid trong hàng hải phương Tây. Little Catwick cách Pulo Sapata (hòn Hải) 2 dặm về hướng tây bắc.
Hòn Đá Tý, Hòn Tý, Hòn Vung hay Hòn Tiền: cách đảo Phú Quý 80–100 m.
Di tích lịch sử.
Di tích Cấp quốc gia:
Di tích Cấp tỉnh:
Giao thông Phú Quý.
Giao thông nối liền Phú Quý và đất liền từ trước đến giờ còn hạn chế chủ yếu dựa vào đường thủy nội địa. Hiện nay có tàu trung tốc Hưng Phát, cao tốc SuperDong, Express Phú Quý. giảm thời gian từ 6h xuống còn 2h30 phút. Giao thông đường bộ trên đảo thuận lợi. Có dịch vụ cho thuê xe máy để di chuyển trên đảo.
Điện gió Phú Quý.
Điện gió Phú Quý #đổi đặt tại vùng đất xã Long Hải và Ngũ Phụng phía bắc đảo. Điện gió Phú Quý có công suất lắp máy 6 MW với 3 tua bin, cung cấp hàng năm khoảng 25,4 triệu kWh, hoạt động liên hợp với nhà máy điện diesel 3 MW. Dự án khởi công ngày 26/11/2010, dự kiến tháng 12/2011 nhưng thực tế khánh thành tháng 8/2012 .
|
Mono là một dự án tự do nguồn mở nhằm tạo ra một để tạo software framework tương thích .NET Framework tương thích tiêu chuẩn Ecma, bao gồm một trình biên dịch C# và Common Language Runtime. Ban đầu bởi Ximian, nó được Novell mua lại, và bây giờ được dẫn đầu bởi Xamarin, một công ty con của Microsoft và .NET Foundation. Mục đích đã nêu của Mono không chỉ là có thể chạy các ứng dụng đa nền tảng của Microsoft mà còn mang lại các công cụ phát triển tốt hơn cho các nhà phát triển Linux. Mono có thể chạy trên nhiều hệ thống phần mềm bao gồm Android, hầu hết các bản phân phối Linux, BSD, macOS, Windows, Solaris và thậm chí một số máy chơi game như [ PlayStation 3, Wii, và Xbox 360.
Dự án Mono đã gây tranh cãi trong cộng đồng nguồn mở, vì nó triển khai các phần của .NET Framework có thể được bảo vệ bởi các bằng sáng chế của Microsoft. Mặc dù các phần của .NET Framework được tiêu chuẩn hóa được trình bày trong Microsoft Open Specification Promise—một giao ước nói rằng Microsoft sẽ không khẳng định bằng sáng chế của mình chống lại việc triển khai các thông số kỹ thuật của mình trong các điều kiện nhất định, dự án có thể trở thành mục tiêu của các vụ kiện vi phạm bằng sáng chế. Sau khi Microsoft cung cấp nguồn mở cho một số công nghệ .NET cốt lõi kể từ năm 2014 và mua lại Xamarin vào đầu năm 2016, một cam kết bằng sáng chế đã được cấp cho dự án Mono.
Logo của Mono là khuôn mặt của một con khỉ cách điệu, "mono" trong tiếng Tây Ban Nha nghĩa là "khỉ".
Khi Microsoft lần đầu thông báo về .NET Framework vào tháng 6 năm 2000, nó được mô tả như là "một nền tảng mới dựa trên những tiêu chuẩn của Internet", và vào tháng 12 cùng năm, Common Language Infrastructure (cơ sở hạ tầng ngôn ngữ dùng chung) đã được xuất bản dưới dạng một tiêu chuẩn mở, "ECMA-335", mở ra triển vọng mới cho việc hiện thực hóa một cách độc lập. Lập trình viên Miguel de Icaza tại Ximian tin rằng .NET có những tiềm năng giúp tăng hiệu suất làm việc của các lập trình viên, và anh đã bắt đầu nghiên cứu xem liệu một phiên bản dành cho Linux có thể được thực hiện. Sau khi đội ngũ phát triển nhận ra với quy mô nhỏ hẹp sẽ không thể trông chờ vào việc xây dựng và hỗ trợ một sản phẩn hoàn chỉnh, vào ngày 19 tháng 07 năm 2001 tại hội nghị O'Reilly, dự án mã nguồn mở Mono đã chính thức được khởi động.
Sau ba năm xây dựng, phiên bản Mono 1.0 đã được phát hành vào ngày 30 tháng 06 năm 2004. Từ trọng tâm ban đầu là nền tảng dành cho các nhà phát triển ứng dụng máy tính chạy trên Linux, Mono đã mở rộng sang hỗ trợ một loạt các kiến trúc và hệ điều hành - bao gồm cả hệ thống nhúng.
Vào tháng 8 năm 2003, Novell đã mua lại Ximian. Sau khi chính Novell được The Attachmate Group mua lại vào năm 2011, Attachmate đã thông báo hàng trăm vụ sa thải trong thành phần lao động của Novell, và vì thế cũng đặt ra một dấu hỏi lớn về tương lai sau này của Mono.
Ngày 16 tháng 05 năm 2011, Miguel de Icaza đã thông báo trên blog của mình, rằng Mono sẽ tiếp tục được hỗ trợ bởi Xamarin, một công ty được chính Miguel de Icaza thành lập sau khi anh bị sa thải khỏi Novell. Đội ngũ phát triển gốc của Mono cũng đã chuyển đến công ty mới này. Xamarin dự kiến sẽ tiếp tục phát triển Mono, và bên cạnh đó công ty cũng đã lên kế hoạch viết lại từ đầu các stacks độc quyền của riêng .NET dành cho hệ điều hành iOS and Android, bởi vì Novell vẫn đang sở hữu MonoTouch và Mono for Android vào lúc đó. Sau thông báo này, tương lai của dự án vẫn còn bị đặt câu hỏi, khi MonoTouch và Mono for Android nằm trong thế cạnh tranh trực tiếp với những dịch vụ thương mại bấy giờ đã thuộc quyền sở hữu của Attachmate, và đội ngũ tại Xamarin có thể sẽ gặp khó khăn khi phải chứng minh rằng họ không sử dụng lại những công nghệ mà trước đây họ đã phát triển khi còn làm cho Novell. Tuy nhiên, vào tháng 07 năm 2011, Novell, giờ đây đã là công ty con của Attachmate, và Xamarin, thông báo rằng họ đã cấp một giấy phép vĩnh viễn cho Xamarin đối với Mono, MonoTouch và Mono for Android, từ đó Xamarin chính thức tiếp quản lại toàn bộ dự án.
|
Công ty công nghiệp Sony (ソニーグループ株式会社 (Sonī Gurūpu Chu Thức Hội Xã), Sonī Gurūpu kabushiki gaisha), cách điệu SONY, là một tập đoàn đa quốc gia của Nhật Bản, với trụ sở chính nằm tại Minato, Tokyo, Nhật Bản, và là tập đoàn điện tử đứng thứ 5 thế giới với 81,64 tỉ USD (2011). Sony là một trong những công ty hàng đầu thế giới về điện tử, sản xuất tivi, điện thoại, máy ảnh, máy tính xách tay và đồ dân dụng khác.
Được thành lập vào tháng 5/1946 tại Nihonbashi, Chūō, Tokyo, được mang tên là Tokyo Tsushin Kogyo K.K (東京通信工業株式会社, Đông Kinh Thông tin Công nghiệp Chu Thức Hội Xã) với số vốn ban đầu là 190.000 yên. Công ty này đổi tên thành Sony vào tháng 1/1958.
Từ "Sony" là kết hợp của từ "sonus" trong tiếng La-tinh (âm thanh) và từ "sonny" trong tiếng Anh (cậu bé nhanh nhẹn thông minh) theo cách gọi tên thân mật. Những nhà sáng lập hy vọng tên "Sony" thể hiện tinh thần nhiệt huyết và sáng tạo của giới trẻ.
Hai nhà sáng lập ra công ty Sony là Ibuka Masaru và Morita Akio.
Tháng 6-1957, một tấm bảng lớn mang tên Sony được dựng gần sân bay Haneda ở Tokyo. Tháng 1-1958, Công ty Totsuko chính thức trở thành Công ty Sony. Tháng 12 năm đó, tên Sony được niêm yết tại Sở Giao dịch chứng khoán Tokyo. Một trong những việc đầu tiên mà Morita và các đồng nghiệp nghĩ đến là lần lượt đăng ký thương hiệu Sony tại 170 nước, vùng lãnh thổ và đăng ký nhiều ngành sản xuất khác nhau ngoài ngành chính là điện tử. Điều đó cho thấy sự nhìn xa trông rộng của các nhà sáng lập và qua đó cũng bộc lộ khát vọng sẽ chinh phục thế giới của họ.
Hai nhà sáng lập Sony đều có "gốc gác" là dân kỹ thuật, rất giỏi với những sáng chế. Hơn ai hết, họ ý thức được tầm quan trọng của việc luôn phải tiên phong trong lĩnh vực sáng tạo ra những sản phẩm mới.
Con đường phát triển của Sony là luôn luôn tìm tòi, nghiên cứu để tạo ra những sản phẩm mới phục vụ đời sống. Nhờ đó mà các sản phẩm đồ điện tử trở nên hết sức phong phú và đa dạng, đáp ứng các nhu cầu của người tiêu dùng.
Khoảng 6%-10% doanh thu hàng năm của Sony được trích ra dành cho việc nghiên cứu. Các sản phẩm không chỉ nhắm vào các nhu cầu hiện tại mà còn dành cho cả các nhu cầu chưa nảy sinh.
Cần nhắc lại là sản phẩm đầu tiên được sản xuất dưới thương hiệu Totsuko là chiếc máy ghi âm dùng băng từ tính, ra đời năm 1950 và hai năm sau đã quen mặt với thị trường. Năm năm sau, sản phẩm thứ hai của Morita và các đồng nghiệp được đánh giá là một trong những bước đột phá ấn tượng nhất, đó là chiếc radio bán dẫn nhãn hiệu TR-55 chạy bằng transistor đầu tiên của nước Nhật, mở đầu kỷ nguyên bán dẫn phát triển rầm rộ vào thập niên 1960.
Tháng 5-1960, Sony cho ra đời chiếc máy truyền hình (TV) transistor đầu tiên lấy tên là TV8 -301. Thành quả trên được sự công nhận của cả thế giới, vinh dự không chỉ riêng của Sony, mà còn của cả nền công nghiệp điện tử của Nhật Bản. Đầu những năm 1960, Morita và các đồng nghiệp bắt đầu quan tâm đến một sản phẩm khác. Đó là máy sử dụng băng video VTR (Video Tape Recorder) do hãng Ampex của Mỹ chế tạo và cung cấp cho các đài phát thanh.
Vì sử dụng cho mục đích phát thanh nên máy rất cồng kềnh, mỗi máy chiếm diện tích cả một căn phòng, còn giá thành hơn 100.000 USD/chiếc thì chỉ những cơ quan có ngân sách dồi dào mới sắm nổi. Mục tiêu mà Ibuka và Morita nhắm đến là những chiếc máy VTR gọn nhẹ, giá cả phù hợp với túi tiền của đa số người tiêu dùng trong nước.
Tất cả chuyên viên, kỹ sư của Sony tập trung nỗ lực theo hướng này, thiết kế và sản xuất thử nhiều mẫu sản phẩm khác nhau, mẫu sau gọn nhẹ, tiện lợi hơn mẫu trước. Chiều ngang băng video rộng hơn 5 cm của hãng Ampex đã được thu nhỏ tới kích thước không đến 2 cm. Chiếc máy VTR nguyên mẫu được đặt tên là U - Matic, đã được sự đón nhận khá tích cực của người tiêu dùng, chỉ riêng hãng xe hơi Ford đã đặt mua một lần 5.000 chiếc để dùng trong công tác huấn luyện nhân viên.
Thành công này khuyến khích Morita và các chuyên viên tiến xa thêm bước nữa, đó là tiếp tục cải tiến máy VTR, hạ giảm giá thành bằng cách dùng băng video nhỏ hơn nữa, có chiều rộng mặt băng không đến 1,3 cm và sử dụng 100% linh kiện bán dẫn.
Năm 1964, một toán chuyên viên do Nobutoshi Kihara dẫn đầu đã chế tạo được chiếc CV-2000, máy thu phát băng video cassette (VCR) sử dụng trong gia đình đầu tiên của thế giới. Băng từ tính ghi phát hình không còn là hai cuộn băng nằm riêng rẽ bên ngoài máy ghi phát hình nữa, mà chúng đã được lắp đặt trong một hộp băng duy nhất đặt bên trong máy, gọn gàng và dễ sử dụng. Giá bán một chiếc CV-2000 chỉ còn bằng không tới 1% giá một chiếc máy VTR (máy ghi phát hình dùng băng video có cuộn băng bên ngoài máy: open reel) sử dụng trong các hệ thống phát thanh, truyền hình, và bằng không đến 10% giá một chiếc máy sử dụng trong ngành giáo dục.
Tháng 10-1968, Sony cho ra đời chiếc TV màu nhỏ gọn sử dụng đèn hình trinitron, một công nghệ mới mẻ giúp đèn có hiệu năng cao. Chính sáng kiến về trinitron này đã được Hàn Lâm viện quốc gia Mỹ về nghệ thuật truyền hình và khoa học tặng giải thưởng Emmy cho tập đoàn Sony vào năm 1972.
Những năm gần đây, để phát triển sản phẩm hàng điện tử gia dụng, Sony đặc biệt chú trọng đến việc vươn lên vị trí hàng đầu trong lĩnh vực liên quan.
Năm 1988, Sony tiếp nhận công ty CBS Records Inc để thành lập nên Sony Music Entertainment và năm 1989 tiếp tục mua lại Columbia Pictures thành lập nên Sony Picture Entertainment. Sony PlayStation khai trương vào năm 1995 đưa tập đoàn Sony trở thành tập đoàn chiếm vị trí hàng đầu trong lĩnh vực trò chơi điện tử.
Hiện nay Tập đoàn Sony có 168.000 nhân viên làm việc tại khắp các châu lục trên toàn cầu. Là nhà sản xuất điện tử hàng đầu thế giới, Sony đạt nhiều thành công trong lĩnh vực điện tử dân dụng như tivi màu, sản phẩm audio video, trò chơi điện tử, lĩnh vực điện tử chuyên dụng như thiết bị phát thanh truyền hình, y tế, giáo dục, nghiên cứu khoa học. Ngày nay, danh mục của Sony có trên 5.000 sản phẩm bao gồm đầu DVD, máy chụp ảnh, máy tính cá nhân, TV, các thiết bị âm thanh nổi, thiết bị bán dẫn và chúng được thiết lập thành những danh mục có thương hiệu như máy nghe nhạc cá nhân Walkman, TV Trinitron, dòng điện thoại di động Xperia, máy vi tính Vaio, TV màn ảnh rộng Wega, máy ghi hình HandyCam, máy chụp ảnh kỹ thuật số Cybershot và bộ trò chơi PlayStation.
Trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin, Sony là một trong những tên tuổi nổi bật của lĩnh vực chế tạo máy tính, viễn thông và dịch vụ Internet.
Sony còn là nhà sản xuất kinh doanh hàng đầu thế giới về âm nhạc và điện ảnh với hoạt động của công ty như Sony Picture Entertainment, Sony Music Entertainment, Sony BMG
Năm 2003, Công ty Samsung của Hàn Quốc hợp tác cùng Sony thành lập công ty S-LCD để sản xuất và cung cấp màn hình LCD cho 2 tập đoàn vào năm 2006. S-LCD nắm giữ bởi Samsung (50% + 1 cổ phiếu) và Sony (50% - 1 cổ phiếu), trụ sở và nhà máy nằm tại Tangjung, Hàn Quốc. Ngày 26/12/2011, Samsung thông báo tập đoàn đã mua lại cổ phần của Sony tại S-LCD.
|
Quốc lộ 1, còn được biết đến với các tên gọi khác như Quốc lộ 1A, đường 1, đường cái quan, đường thiên lý hay đường xuyên Việt là tuyến đường giao thông xuyên suốt Việt Nam. Quốc lộ bắt đầu (Km 0) tại cửa khẩu Hữu Nghị trên biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc, nằm tại thị trấn Đồng Đăng thuộc huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn, và kết thúc tại thị trấn Năm Căn thuộc huyện Năm Căn, tỉnh Cà Mau với tổng chiều dài 2.482 km. Đây là tuyến đường quan trọng hàng đầu Việt Nam, nó đi qua trung tâm của một nửa số tỉnh thành Việt Nam, nối liền 4 thành phố lớn: Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh và Cần Thơ. Nằm rất gần với quốc lộ 1 huyết mạch là đường cao tốc Bắc – Nam phía Đông và đường sắt Bắc – Nam, cũng nối thông suốt giữa 2 miền Nam và Bắc Việt Nam.
Quốc lộ 1 đi qua 31 tỉnh và thành phố với các điểm nút chính sau:
Thông số kỹ thuật.
Quốc lộ 1 trong suốt lịch sử của nó đã thúc đẩy sự phát triển của các địa phương mà nó đi qua nhưng bản thân nó lại không được phát triển. Vì vậy quốc lộ 1 đã không đáp ứng được nhu cầu lưu thông của thời hiện tại. Nay quốc lộ 1 đang được làm mới theo hướng nâng cấp các đoạn xa đô thị, làm đường tránh tại các đô thị, làm mới trên một số tuyến có nhiều đô thị liên tiếp. Hiện nay, khi chưa có quyết định thay đổi tên đường, các đoạn mới làm được gọi tạm là Quốc lộ 1 mới. Tuyến quốc lộ 1 mới không còn song song liên tục với đường sắt như quốc lộ 1 cũ (quốc lộ 1 cũ đoạn qua Hà Nội song song với đường sắt Bắc – Nam và đường sắt Hà Nội – Đồng Đăng; riêng đường sắt Hà Nội – Đồng Đăng thì có cả Bắc Ninh và Bắc Giang). Tuy nhiên, quốc lộ 1 mới có một số đoạn đi song song hoặc trùng với đường cao tốc như Hà Nội – Bắc Giang, vành đai 3 từ cầu Phù Đổng đến Pháp Vân, hầm Cù Mông hoặc hầm Đèo Cả (đa số đều là 1 phần của đường cao tốc Bắc – Nam phía Đông).
Quốc lộ 1 được hình thành từng đoạn qua từng thời kỳ, từ thời Việt Nam bị chia cắt thành Đàng Trong và Đàng Ngoài bên cạnh đường thủy thì con đường này cũng bắt đầu được hình thành. Tuy nhiên phải đến thời nhà Nguyễn sau khi thống nhất đất nước mới tu bổ và hoàn thiện con đường cái quan từ bắc đến nam này, ban đầu đường nhỏ chủ yếu dành cho việc vận chuyển người, hàng hóa bằng ngựa. Về sau cùng với sự cai trị của người Pháp con đường được mở rộng, nâng cấp. Trong thời kì chiến tranh, con đường bị chiếm đóng và phá hoại khiến việc lưu thông khó khăn.
Sau năm 2000 đến nay, con đường được mở rộng từng đoạn, làm tuyến tránh các đô thị chủ yếu đầu tư theo hình thức BOT, nay con đường nhiều đoạn đã được mở rộng cho 2 làn đường đi trở lên. Từ năm 2015 trở đi, phần lớn quốc lộ 1 là 4 làn xe (trừ một số đoạn từ Ngã Bảy đi Cà Mau và một số tuyến tránh)
AH1 là tuyến đường bộ dài nhất của hệ thống đường xuyên Á với tổng chiều dài 12.845 dặm (20.557 km) từ Tokyo qua Triều Tiên, Trung Quốc, Đông Nam Á và Ấn Độ đến biên giới giữa Iran, Thổ Nhĩ Kỳ và Bulgaria Tây Istanbul. Ở Việt Nam, đường Quốc lộ 1 hiện là tuyến đường chính, cùng với quốc lộ 22 làm nên tuyến đường AH1 này.
Tuyến AH1 qua Việt Nam gồm 2 quốc lộ và một số đoạn đường cao tốc:
Trong tương lai, khi #đổi (đoạn Hữu Nghị Quan – Lạng Sơn, Diễn Châu – Cam Lộ, Quảng Ngãi – Nha Trang, Cam Lâm – Vĩnh Hảo), #đổi (đoạn Long Trường – Tân Thạnh Đông và đoạn Long Thành - Bến Lức - Tân Thạnh Đông) và #đổi sẽ trở thành tuyến đường chính của đường AH1 khi hoàn thành, còn #đổi và #đổi sẽ chỉ được coi là tuyến nhánh phụ của đường này.
|
Bảo trì phần mềm
Bảo trì phần mềm (tiếng Anh "software maintenance") bao gồm điều chỉnh các lỗi mà chưa được phát hiện trong các giai đoạn trước của chu kỳ sống của một phần mềm, nâng cấp tính năng sử dụng và an toàn vận hành của phần mềm. Bảo trì phần mềm có thể chiếm đến 65%-75% công sức trong chu kỳ sống của một phần mềm.
Quá trình phát triển phần mềm bao gồm rất nhiều giai đoạn: thu thập yêu cầu, phân tích, thiết kế, xây dựng, kiểm tra, triển khai và bảo trì phần mềm. Nhiệm vụ của giai đoạn bảo trì phần mềm là giữ cho phần mềm được cập nhật khi môi trường thay đổi và yêu cầu người sử dụng thay đổi.
Theo IEEE (1993), thì bảo trì phần mềm được định nghĩa là việc sửa đổi một phần mềm sau khi đã bàn giao để chỉnh lại các lỗi phát sinh, cải thiện hiệu năng của phần mềm hoặc các thuộc tính khác, hoặc làm cho phần mềm thích ứng trong một môi trường đã bị thay đổi. Bảo trì phần mềm được chia thành bốn loại:
|
Viktor Vassilyevich Gorbatko (tiếng Nga: "Виктор Васильевич Горбатко"; sinh ngày 3 tháng 12 năm 1934 ở làng Ventsy-Zarya, khu Kavkaz, vùng Krasnodar; mất ngày 17 tháng 5 năm 2017 tại Moskva) là một nhà du hành vũ trụ của Liên Xô. Ông đã từng thực hiện các chuyến bay trên các tàu vũ trụ Soyuz 7, Soyuz 24 và Soyuz 37.
Trên chuyến bay thứ ba, thực hiện từ ngày 23 đến ngày 31 tháng 7 năm 1980, ông là trưởng đoàn Liên Xô – Việt Nam (trong đó có Phạm Tuân) trên tàu vũ trụ Soyuz-37.
Ông được trao tặng nhiều danh hiệu của Liên Xô và quốc tế như
Sau khi rời chương trình không gian vào năm 1982, ông giảng dạy tại Học viện Kỹ thuật Không quân tại Moskva. Năm 1992, ông nghỉ hưu với quân hàm Thiếu tướng. Từ năm 1993, ông là Tổng giám đốc tập đoàn AAAL, Nga.
Tham gia vào các hoạt động hữu nghị, Gorbatko đã nhiều lần đến Việt Nam. Tại Việt Nam, ông đã tham gia các hoạt động kỷ niệm 35 năm ngày thực hiện chuyến bay hợp tác hữu nghị Việt Nam - Liên Xô trên tàu Soyuz 37 kết nối với Trạm vũ trụ Salyut 6. Ông cũng là một nhà sưu tập tem. Hội hữu nghị Việt Nam - Liên bang Nga đã dựng tượng bán thân của ông trong một công viên ở Thành phố Phan Rang.. Ông là phi công vũ trụ thứ hai của Liên Xô được dựng tượng ở Việt Nam. Người được dựng tượng trước đó là Gherman Titov.
Ông qua đời ngày 17 tháng 5 năm 2017 tại Moskva, hưởng thọ 82 tuổi. Ngày 19-5-2017, Lễ truy điệu và an táng Thiếu tướng Viktor Vasilievich Gorbatko được tổ chức trọng thể tại Nghĩa trang Quân đội Nga ở Moskva. Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Trần Đại Quang đã gửi điện chia buồn tới Tổng thống liên bang Nga Vladimir Putin và gia quyến thiếu tướng Viktor Vasilievich Gorbatko.
|
Kwon Bo-ah (tiếng Hàn: ; Hanja: ; Hán-Việt: Quyền Bảo Nhã, , sinh ngày 5 tháng 11 năm 1986), được biết đến với nghệ danh BoA (Hangul: 보아, viết tắt của cụm từ Beat of Angel), là nữ ca sĩ, vũ công, nhạc sĩ kiêm nhà sản xuất âm nhạc người Hàn Quốc, hoạt động tại thị trường âm nhạc Hàn Quốc, Nhật Bản và Mỹ. Hiện nay BoA được mọi người coi là "Nữ hoàng nhạc Pop" của Hàn Quốc.
Năm 2022, BoA mới có nhóm nhạc đầu tiên trong sự nghiệp của cô khi cô là thành viên chính thức cho siêu nhóm nhạc nữ Got the Beat.
BoA sinh ra và lớn lên tại Guri, Gyeonggi, Hàn Quốc. Cô được bộ phận tìm kiếm tài năng của SM Entertainment phát hiện khi đi cùng với anh trai tham gia một cuộc thi tìm kiếm tài năng. Năm 2000, sau hai năm đào tạo tại công ty SM, BoA cho ra mắt album đầu tay: "ID; Peace B". Hai năm sau, BoA phát hành đĩa đơn tiếng Nhật đầu tiên: "Listen to My Heart", trở thành ngôi sao nhạc pop đầu tiên người Hàn Quốc thành công tại Nhật Bản, cùng với đó là việc gỡ bỏ hàng rào ngăn cách trong việc xuất khẩu văn hóa giữa các quốc gia kể từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai.
Vào ngày 14 tháng 10 năm 2008, BoA lần đầu tiên ra mắt tại thị trường Mỹ với đĩa đơn "Eat You Up" và cho ra album tiếng Anh đầu tiên của cô có tên "BoA" vào ngày 17 tháng 3 năm 2009.
Khả năng đa dạng của BoA (cô thành thạo tiếng Nhật và tiếng Anh cũng với ngôn ngữ mẹ đẻ là tiếng Hàn, cô cũng thể hiện các ca khúc tiếng Trung) đã giúp cô có được những thành công vượt bậc tại châu Á. Cô là nghệ sĩ nước ngoài duy nhất có 2 album bán được hơn 1 triệu bản tại Nhật và là một trong ba nghệ sĩ có 6 album phòng thu liên tiếp đứng vị trí thứ nhất trên bảng xếp hạng Oricon kể từ khi ra mắt, gồm có Ayumi Hamasaki và Koda Kumi. BoA đã bán được hơn 10 triệu bản tính cả album, đĩa đơn và DVD trong suốt sự nghiệp của mình.
Hình ảnh và hoạt động nghệ thuật.
Hip hop là dòng nhạc có ảnh hưởng nhiều nhất đối với BoA, dù cô cũng thích nghe RB. Thần tượng yêu thích của cô là Michael Jackson, Justin Timberlake, và Ne-Yo; vì vậy nhạc của cô mang hơi hướng của cả dance pop và RB. Ngoài ra vì còn thể hiện các ca khúc ballad nên cô hay bị so sánh với các ca sĩ Nhật Bản như Ayumi Hamasaki và Hikaru Utada. Album đầu tiên của BoA là "ID; Peace B" có cả các bài urban pop, ballad dài, và "những giai điệu nhạc dance vui vẻ". khi sự nghiệp đi lên, cô thử nghiệm với những phong cách khách: "Valenti" là hầu hết các bản bản ballad; "Love and Honesty" là một trải nghiệm khó hơn với RB và rock.
Công việc soạn nhạc và viết lời cho ca khúc đều được thực hiện bởi các nhân viên nên BoA luôn bị nhận xét là "sản phẩm của công nghệ chế tạo ngôi sao". Đáp lại những lời chỉ trích đó, BoA nói "nếu một người bị giới hạn mình về điều gì, sau đó mọi thứ đáng lẽ tốt có thể dễ dàng sụp đổ" và cô không vui khi có những ý kiến cho rằng cô ấy là sản phẩm của công nghệ chế tạo ngôi sao. Có lẽ, điều đó đúng. Vì SM Entertainment đã tạo ra một môi trường và mọi điều kiện tốt nhất đi kèm nên cô ấy có thể thành công như bây giờ." Hình tượng ban đầu của cô được chọn là phong cách dễ thương và tươi trẻ, BoA dần chuyển sang hình ảnh trưởng thành hơn kể từ album "My Name". Trong một cuộc phỏng vấn với "Talk Asia", Anjali Rao có nói, "My Name" đánh dấu bước khởi đầu về sự đi xuống cho sự nổi tiếng của cô và có phải khán giả luôn muốn thấy hình ảnh "cô ca sĩ BoA bé bỏng"; BoA nói, "Vậy thì tôi sẽ phải xin lỗi những người vẫn muốn một cô bé BoA, trong thực tế, tôi có thế làm gì được đây? Tôi vẫn đang tiếp tục lớn lên! Tôi không có cách nào ngăn được điều đó."
BoA từng hợp tác với rất nhiều nghệ sĩ tên tuổi. Cùng với các nghệ sĩ Nhật Bản, cô trình diễn với nhóm hip hop M-Flo (cho đĩa đơn "the Love Bug"), ca sĩ nhạc pop Kumi Koda, và nhóm DJ Mondo Grosso. Cô cũng biểu diễn với những nghệ sĩ châu Âu: ca khúc "Flying Without Wings" từ album "Next World" của cô là sự hợp tác với nhóm nhạc Ai-len Westlife hát lại ca khúc gốc Flying Without Wings; đĩa đơn the Bratz "Show Me What You Got" biểu diễn với Howie D của nhóm nhạc Mỹ là Backstreet Boys. Cô còn có dịp hợp tác với Akon, thể hiển ca khúc "Beautiful", nằm trong album thứ ba phát hành tại Nhật của anh, "Freedom". Những nghệ sĩ khác từng hợp tác gồm có Soul'd Out, Dabo, Verbal (of M-Flo), Rah-D, Seamo, TVXQ, Yutaka Furakawa (thành viên ban nhạc Doping Panda), và Crystal Kay (cho đĩa đơn "After Love: First Boyfriend/Girlfriend"). Ban nhạc rock Weezer của Mỹ đã thể hiện lại ca khúc "Meri Kuri" nằm trong albumon "Weezer (The Red Album)" phát hành tại Nhật của họ.
BoA là nghệ sĩ hàng đầu tại Hàn Quốc và Nhật Bản; sự nổi tiếng của cô về sau là nhờ khả năng ngoại ngữ của chính bản thân (cô thu âm các ca khúc ở ca 3 thứ tiếng Anh, Nhật, Hàn) và sự yêu thích của người Nhật đối với làn sóng Hàn kể từ đầu những năm 2000 khi hai nước bắt đầu có sự trao đổi quảng bá văn hóa lẫn nhau. Danh tiếng của BoA lan rộng tại khu vực Đông Á và có nhiều khán giả hâm mộ tại Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Malaysia, và Singapore. Cô cũng bày tỏ dự định chinh phục thị trường trên thế giới, vào tháng 6 năm 2006, music video của ca khúc "My Name" trở thành music video đầu tiên được phát trên kênh MTV K, thuộc kênh âm nhạc MTV mục đích hướng tới các khán giả người Hàn Quốc tại Mỹ.
Nhờ danh tiếng ngày càng lớn, BoA được mời làm đại diện quảng bá cho nhiều nhãn hàng. Trong số các thương hiệu được mời gồm có Tập đoàn Olympus, Lotte, thương hiệu Nike, L'Oréal, công ty mỹ phẩm Kosé của Nhật, Skechers, Audio-Technica, GM Daewoo và L'Occitane.
Bảy trong số các khúc của cô được sử dụng làm nhạc nền cho quảng cáo. "Every Heart: Minna no Kimochi" được chọn làm ca khúc chủ đề ở cuối phim hoạt hình, anime "InuYasha"; "Beside You: Boku o Yobu Koe" là ca khúc chủ đề mở đầu cho phim anime "Monkey Typhoon"; "Key of Heart" là ca khúc chủ đề cho việc phát hành của "Over the Hedge" tại Nhật; "Your Color" was the theme song of the video game "Ninety-Nine Nights"; "Mamoritai: White Wishes";à ca khúc chủ đề của trò chơi điện tử "Tales of Graces". và "Tail of Hope" là nhạc phim cho phim truyền hình Nhật Bản "Hakui no Namida". Năm 2014, ca khúc "Masayume Chasing".của cô được chọn làm bài hát mở đầu cho mùa thứ năm của anime Fairy Tail.
Sự nổi tiếng của BoA giúp cô trở thành "Đại sứ văn hóa"; cô là đại diện của Hàn Quốc trong các sự kiện ảnh hưởng của âm nhạc châu Á và xuất hiện trong một cuốn sách giáo khoa xuất bản bằng tiếng Anh của Đại học Báo chí Oxford University Press.
"Special Live 2013: Here I am" là đêm diễn riêng đầu tiên của tại Hàn Quốc được tổ chức vào các ngày 26 và 27 tháng 1 tại It was held on January 26 and 27 tại Hội trường Olympic ở công viên Olympic của Seoul Ban đầu dự định chỉ tổ chức biểu diễn trong 1 ngày nhưng do lượng vé bán ra hết nhanh trong ngày đầu tiên nên SM Entertainment quyết định tổ chức thêm lên 1 ngày. Ngày 11 tháng 4 năm 2013, 3 đã có thêm nhiều buổi trình diễn trong các chuyến lưu diễn ở Đài Loan và Hàn Quốc.
|
Yuri Alekseyevich Gagarin (; 1934–1968), có tên phiên âm tiếng Việt là I-u-ri Ga-ga-rin. Ông là một phi công và phi hành gia người Liên Xô. Ông được ghi nhận là người đầu tiên trong lịch sử nhân loại thực hiện chuyến bay vào vũ trụ, ngày 12 tháng 4 năm 1961 trên tàu vũ trụ Phương Đông 1 (Vostok 1).
Gagarin trở thành một người nổi tiếng trên toàn thế giới, và được trao tặng rất nhiều huân chương và các danh hiệu cao quý, đặc biệt là danh hiệu Anh hùng Liên bang Xô-viết. Vostok 1 là tàu vũ trụ duy nhất ông tham gia bay, nhưng ông cũng từng thuộc phi hành đoàn dự phòng cho sứ mệnh Soyuz 1 (đã kết thúc trong một vụ nổ kinh hoàng). Sau này sứ mệnh lịch sử Vostok 1, ông trở thành Giám đốc đào tạo của Trung tâm đào tạo Phi hành gia), nằm ở ngoại vi thủ đô Moskva. Về sau, trung tâm này được đặt theo tên ông. Gagarin mất năm 1968, khi chiếc máy bay MiG-15 ông đang lái gặp tai nạn. Huân chương Yuri Gagarin ra đời như một sự vinh danh ông.
Tóm tắt tiểu sử.
Yuri Alekseyevich Gagarin sinh ngày 9 tháng 3 năm 1934, tại làng Klushino, huyện Gzhatsk, tỉnh Smolensk, Liên Xô, không xa thị trấn Gzhatsk, hiện nay đã được đổi tên thành Gagarin.
Gagarin đã có cơ hội bay vào vũ trụ thêm một lần nữa — khi đó ông là dự bị cho V.M. Komarov khi chuẩn bị cho chuyến bay của tàu "Liên Hiệp" (ngày 23 tháng 4 năm 1967).
Những năm đầu đời và giáo dục.
Yuri Gagarin sinh ra ở làng Klushino, gần Gzhatsk (khi ông qua đời thành phố này được đổi tên là Gagarin), vào ngày 9 tháng 3 năm 1934. Cha mẹ ông đều làm việc trong các Nông trang tập thể. Bố ông, Alexey Ivanovich Gagarin là thợ mộc và thợ nề, còn mẹ ông, bà Anna Timofeyevna Gagarina làm nghề vắt sữa bò. Yuri là con thứ 3 trong gia đình 4 anh chị em: Anh cả Valentin, chị gái Zoya, và em trai Boris.
Giống như hàng triệu người dân Xô-viết khác, gia đình Gagarin phải chịu sự chiếm đóng của Phát xít Đức trong Chiến tranh thế giới II. Làng Klushino bị chiếm tháng 11/1941 khi quân Đức đang trên đường tiến tới Moskva. Một viên sĩ quan đã chiếm chỗ ở của gia đình Gagarin. Nhưng gia đình ông được phép làm một túp lều, kích thước 3m x 3m, ở đằng sau ngôi nhà cũ của họ. Họ đã sống 1 năm 9 tháng ở đây cho đến khi vùng này được giải phóng. Anh trai và chị gái của Yuri bị lính Đức đày tới Ba Lan làm lao động nô lệ và không thấy quay về cho đến hết chiến tranh vào năm 1945. Năm 1946, cả gia đình chuyển tới Gzhatsk, nơi Yuri tiếp tục học phổ thông.
Làm việc trong Không quân Liên Xô.
Sau khi Gagarin tốt nghiệp trường công nghệ năm 1955, quân đội Liên Xô đã gọi ông nhập ngũ.Theo một lời đề cử, Gagarin được gửi tới Trường Phi công không quân Chakov 1 ở Orenburg, và tự mình điều khiển chiếc máy bay MiG-15 vào năm 1957. Vào thời gian đó, ông gặp Valentina Ivanova Goryacheva, một kỹ thuật viên y khoa đã tốt nghiệp trường Y tế Orenburg. Họ kết hôn vào ngày 7, tháng 11 năm 1957, cùng ngày Gagarin tốt nghiệp trường ở Orenburg.
Trước khi ra trường, ông được bổ nhiệm làm việc ở Căn cứ không quân Luostari ở Murmansk Oblast, gần ranh giới Na Uy, nơi có thời tiết rất tồi tệ để bay. Ông trở thành trung úy trong Không quân Xô-viết vào ngày 5, tháng 11 năm 1957. Ngày 6, tháng 11 năm 1959 ông được nhận quân hàm Thượng úy.
Làm việc trong chương trình Không gian Xô-viết.
Được lựa chọn và đào tạo.
Năm 1950, sau nhiều quá trình tìm kiếm và chọn lựa, Yuri Gagarin được chọn cùng với 19 phi công khác tham gia vào chương trình Không gian Xô-viết (Soviet space program). Đặc biệt hơn, Yuri được chọn vào nhóm sáu người tài năng, được biết dưới tên gọi Sochi Six, được đào tạo trở thành những phi hành gia đầu tiên của chương trình Vostok. Gagarin và các phi hành gia tương lai khác phải trải qua những đợt thử nghiệm được thiết kế để kiểm tra thể lực cũng như tâm lý, ông cũng phải vượt qua đợt đào tạo cho các chuyến bay sắp tới. Cuối cùng trong số 20 người, chỉ có Gagarin và Gherman Titov được lựa chọn cho chuyến bay lên vũ trụ đầu tiên vì sự thể hiện xuất sắc của họ trong quá trình huấn luyện cũng như các đặc điểm thể chất phù hợp. Khoang tàu Vostok nhỏ nên yêu cầu những người được chọn phải có chiều cao khiêm tốn. Gagarin cao 1.57 mét.
Vào tháng 8/1960, khi Gagarin được chọn là một trong 20 ứng cử viên phi hành gia, một bác sĩ Không quân Xô-viết đánh giá về Gagarin như sau:"Khiêm tốn, lúng túng khi khiếu hài hước của anh ta trở nên hơi quá đặc biệt; mức độ phát triển cao về trí lực hiển hiện rõ ràng ở Yuri; trí nhớ tuyệt vờ"Gagarin cũng là một ứng cử viên xứng đáng trong con mắt của 19 người cùng được chọn với anh. Khi 20 người được yêu cầu để cử một ứng cử viên nào đó mà họ muốn thấy anh ta tham gia chuyến bay đầu tiên, tất cả ngoại trừ 3 người đã chọn Gagarin. Một trong những ứng cử viên, Yevgeny Khrukov, tin rằng Gagarin là tuyệt vời nhất, và sẽ nhận được sự ủng hộ từ ông ấy và những người khác khi cần thiết.
Gagarin giữ một thân hình cân đối trong suốt cuộc đời, và anh là một người say mê thể thao. Phi hành gia Valery Bykovsky viết:"Phục vụ trong Không quân khiến chúng tôi khỏe mạnh cả về thể lực lẫn trí lực. Tất cả chúng yêu thích thể thao và PT nghiêm khắc khi chúng tôi tham gia ở Không quân. Tôi biết Yuri Gagarin rất thích môn Khúc côn cầu băng. Anh ấy thích chơi ở vị trí thủ ngô"Ngoài Khúc côn cầu băng, Gagarin còn là một fan bóng rổ, và đã tham gia huấn luyện cho đội trường kỹ thuật công nghiệp Saratov, cũng như là một trọng tài.
Tàu vũ trụ Phương Đông với nhà du hành vũ trụ trên boong tàu xuất phát ngày 12 tháng 4 năm 1961 vào lúc 6 giờ 7 phút theo giờ quốc tế Greenwich (9 giờ 7 phút theo giờ Moskva). Yuri Gagarin đã hoàn thành một vòng bay trên tàu Phương Đông xung quanh Trái Đất.
Tín hiệu trong chuyến bay là "Кедр" ("Cây tuyết tùng"). Sau khi hoàn thành chuyến bay, từ độ cao vài kilômét thì Gagarin nhảy ra khỏi khoang và hạ cánh an toàn bằng dù không xa với thiết bị hạ cánh, trên cánh đồng của một nông trang ở tỉnh Saratov. Toàn bộ chuyến bay này kéo dài 1 giờ 48 phút. Khi hạ cánh ở một nông trang, Gagarin gặp một bà già, anh nói: "Bác đừng hoảng sợ. Con là một người Xô Viết!". Câu nói của Gagarin thể hiện niềm tự hào về đất nước Xô viết, song anh đã trở thành anh hùng - không chỉ ở Liên Xô mà trên toàn thế giới.
Nổi tiếng trên thế giới.
Sau chuyến bay trên tàu Phương Đông, Y.A. Gagarin trở thành người nổi tiếng trên thế giới. Gần như tất cả các tờ báo khi đó đã viết về ông. Ông được thưởng nhiều huân chương, huy chương, bằng khen cũng như được trao tặng danh hiệu công dân danh dự của các thành phố tại các quốc gia ở châu Âu, châu Á, châu Phi, Bắc Mỹ và Nam Mỹ.
Ông cũng đã tới thăm nhiều quốc gia trên thế giới với tư cách của sứ giả hòa bình và hữu nghị.
Huy chương và bằng khen.
Và nhiều huy chương khác.
Công dân danh dự.
Yuri Gagarin được trao tặng danh hiệu công dân danh dự của các thành phố sau:
Ông cũng được trao tặng các chìa khóa vàng để mở cổng vào các thành phố Cairo và Alexandria của Ai Cập.
Các ấn phẩm bằng tiếng Nga.
Các bài báo trên các báo và tạp chí:
Hy sinh khi bay huấn luyện.
Theo công bố của nhà nước Liên Xô, thì Đại tá Không quân, Phi công cấp 1, Anh hùng Liên Xô, Yuri Alekseyevich Gagarin hy sinh ngày 27 tháng 3 năm 1968. Trước đây, các thông tin về vụ tai nạn của Gagarin được giữ kín. Do vậy, có nhiều đồn đoán về các tình huống dẫn đến cái chết của Gagarin. Tồn tại một loạt các phiên bản mâu thuẫn nhau về cái chết của ông. Phiên bản chính thức trên báo chí là: Máy bay UTI MiG-15 với Gagarin và Serjogin bị nổ tung vào ngày 27 tháng 3 năm 1968 vào lúc 10 giờ 31 phút sáng trong khu vực làng Novosjolovo cách thị trấn Kirzhach, tỉnh Vladimir 18 km. Điều này xảy ra trong điều kiện tầm nhìn rất hạn chế — các lớp mây thấp chỉ cách mặt đất 300 mét. Máy bay bị rơi vào vùng xoáy, để có thể thoát ra được thì thời gian chỉ vài giây là không đủ đối với các phi công.
Nhưng theo như người chứng kiến sự cố này là người thợ nguội Valentin Surkov khẳng định thì ngày 27 tháng 3 năm đó là một ngày trời quang, và máy bay đã rơi dường như là nó không thể lấy được cân bằng. Ông này cũng khẳng định rằng trên thực tế khi đó thì máy bay đã được tìm thấy cạnh làng Rjazantsa và xóm Krutets.
Ngoài ra còn tồn tại các phiên bản khác:
Trong những năm cuối thập niên 1990 xuất hiện ý kiến cho rằng chuyến bay vũ trụ của Gagarin không thể công nhận là đã được tiến hành trọn vẹn, do ông đã rời bỏ chuyến bay trước khi (nó) tiếp đất. Nhưng phương pháp tiếp đất như thế đã được lập kế hoạch từ ban đầu với sự tính toán đến việc đảm bảo an toàn. Nói chung, nguyên nhân cơ bản của các giả thuyết loại này đều mang động cơ chính trị.
Ngày 30 tháng 3 năm 1968, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô tiến hành tổ chức lễ quốc tang cho ông. Thi hài của Gagarin được hỏa thiêu và hộp đựng tro cốt của ông được chôn cất trên Bức tường điện Kremlin.
Năm 2003, một giả thuyết mới của Đại tá nghỉ hưu người Nga Igor Kuznetsov cho rằng Yuri hy sinh vì khoang lái của chiếc máy bay MiG-15 không được hàn kỹ lưỡng, phản bác lại kết luận cũ xưa cho rằng ông chết do khí cầu đâm phải máy bay của ông. Thêm một giả thuyết nữa cho cái chết này, đó là do các phi công của MiG-15 không chuẩn bị kỹ trước khi bay.
Vào tháng 4 năm 2011, một tài liệu mật điều tra về vụ tai nạn được lập năm 1968 bởi Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô đã được giải mật, nguyên nhân chính thức đã được xác nhận là do tai nạn. Những tài liệu cho thấy kết luận rằng nguyên nhân tai nạn là một trong hai phi công Gagarin hoặc Seryogin đã thực hiện một động tác thao diễn mạnh, có khả năng là để tránh một quả khí cầu thời tiết, dẫn tới việc chiếc máy bay phản lực rơi vào tình trạng mất điều khiển khí động trong điều kiện khí tượng phức tạp. Báo cáo cũng đề cập một khả năng khác là chiếc phản lực có thể đã vận động mạnh để tránh rơi vào một đám mây che, nhưng thao tác quá gấp lại khiến nó mất điều khiển và đâm xuống đất, khiến phi công không kịp nhảy dù.
Huyền thoại và tưởng nhớ.
Ngoài tầm vóc thấp chỉ 1.57 m, một trong những nét nổi bật nhất ở Gagarin là nụ cười. Nhiêu người nhận xét nụ cười của ông đã giành được sự chú ý của đám đông trong các chuyến công du mà ông thực hiện ngay trong tháng sau khi sứ mệnh Vostok 1 thành công.
Gagarin cũng là nhân vật công chúng có được nhiều thiện cảm nhờ cách cư xử tuyệt vời. Trong khi đang thăm thành phố Manchester, Anh quốc thì trời đổ mưa như trút nước. Dù vậy, Gagarin khăng khăng không mở mui xe che mưa để đám đông đang rất hân hoan có thể nhìn thấy ông. Gagarin nói: "Nếu tất cả mọi người đang đón chào tôi dưới trời mưa thì tại sao tôi không thể?". Ông cũng từ chối được che ô và vẫn tiếp tục đứng trên chiếc xe Bentley mở mui để tất cả người dân có thể nhìn thấy ông.
Sergei Korolev, người xuất chúng đứng đằng sau trong những năm đầu tiên của Chương trình Chinh phục không gian Xô-viết, sau này từng nói rằng Gagarin sở hữu một nụ cười "có thể thắp sáng cả chiến tranh Lạnh".
Ngày Gagarin bay vào vũ trụ luôn được xem là một ngày đặc biệt. Từ năm 1962, Liên bang Xô-viết và sau này là Nga, cũng như ở các quốc gia hậu Xô-viết khác, ngày này được gọi là Ngày Vũ trụ (Cosmonautics Day). Năm 2011, Liên Hợp Quốc tuyên bố ngày 12/04 sẽ trở thành Ngày quốc tế các chuyến bay Vũ trụ của con người (International Day of Human Space Flight). Cũng từ năm 2011, "Đêm của Yuri" - một lễ kỉ niệm quy mô quốc tế được tổ chức vào ngày 12/04 hàng năm để tưởng nhớ cột mốc vĩ đại trong công cuộc chinh phục không gian của nhân loại.
Một số lượng lớn các công trình và địa danh trên Trái Đất được đặt theo tên của Gagarin. Trung tâm đào tạo Phi hành gia ở thành phố Star, Nga được mang tên ông vào năm 1969.
Tên của Yuri Gagarin đã được đặt cho thị trấn Gagarin (tên cũ Gzhatsk) và huyện này, miệng núi lửa trên mặt tối của Mặt Trăng, tiểu hành tinh số 1772, huy chương vàng của FAI (được trao tặng kể từ năm 1968), một quảng trường ở Moskva, ở đó người ta xây dựng đài tưởng niệm hùng vĩ để tưởng nhớ ông.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
|
Hiệp định Paris 1973
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Hiệp định Paris về Việt Nam (hay hiệp định Paris 1973, Hiệp định Ba Lê) là hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam do 4 bên tham chiến: Hoa Kỳ, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa ký kết tại Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973. Về mặt công khai thì đàm phán có 4 bên và nội dung chính thức của bản Hiệp định cơ bản dựa trên Tuyên bố 10 điểm ngày 8 tháng 5 năm 1969 của phái đoàn Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, nhưng việc đàm phán để đạt được nội dung hiệp định lại chủ yếu được quyết định bởi các phiên họp kín giữa 2 đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Hoa Kỳ.
Trong quá trình đàm phán, Hoa Kỳ gần như phớt lờ ý kiến của đoàn Việt Nam Cộng hòa và tự sắp đặt mọi chuyện trong các cuộc họp kín với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong khi phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Miền Nam Việt Nam lại luôn có sự phân công, phối hợp nhịp nhàng, ăn ý, liên tục thảo luận với nhau trước khi đưa ra quyết sách. Do vậy, sau khi điều khoản Hiệp định được thống nhất giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa-Cộng hòa Miền Nam Việt Nam và Hoa Kỳ thì đoàn Việt Nam Cộng hòa lại từ chối ký vì có những điều khoản bất lợi cho họ. Nhưng Việt Nam Cộng hòa chỉ phản đối được vài ngày, bởi sau đó Hoa Kỳ đã đe dọa và buộc đoàn này phải ký Hiệp định.
Lê Đức Thọ và Henry Kissinger, hai nhân vật chủ chốt trong cuộc đàm phán, đã được trao tặng giải Nobel Hòa Bình năm 1973, nhưng Lê Đức Thọ đã từ chối không nhận giải này với lý do hòa bình vẫn chưa lập lại tại Việt Nam. Còn ông Kissinger yêu cầu đại sứ Mỹ tại Na Uy thay mặt mình nhận giải. Ông Lê Đức Thọ cũng cho rằng việc nhận giải sẽ là một sự đánh đồng giữa kẻ xâm lược (Hoa Kỳ) với người bị xâm lược (nhân dân Việt Nam) và sẽ chỉ nhận giải khi giải đó chỉ được trao cho mình ông do giải Nobel hòa bình phải được trao cho đại diện của bên kiến tạo hòa bình (nhân dân Việt Nam).
Quá trình đàm phán.
Việc đàm phán giữa Hoa Kỳ và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là được Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đề xướng nhằm đạt được một nền hòa bình, thống nhất ở Việt Nam. Sau nhiều lần thỏa thuận, địa điểm tổ chức hội đàm được chọn là thành phố Paris, thủ đô nước Cộng hòa Pháp. Thời gian đàm phán kéo dài từ tháng 5 năm 1968 đến tháng 1 năm 1973. Các bên tham gia ban đầu chỉ có Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Hoa Kỳ; sau mở ra thành hội nghị bốn bên, có thêm Việt Nam Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam cũng đã đưa ra các giải pháp hòa bình, trong đó đề nghị 10 điểm ngày 8-5-1969 mà sau này đã trở thành xương sống cho bản Hiệp định năm 1973.
Khi một bên đang thắng thế trên chiến trường thì đàm phán thường bế tắc và điều đó đúng với Hội nghị Paris suốt thời kỳ từ 1968 đến 1972. Các bên dùng hội nghị như diễn đàn đấu tranh chính trị. Trong giai đoạn này, các phiên đàm phán thường rơi vào bế tắc do tình trạng giằng co trên chiến trường và do phía Hoa Kỳ không chịu đi vào đàm phán thực chất đối với việc rút quân Mỹ. Giai đoạn này cũng xảy ra các cuộc tiếp xúc bí mật của 2 cố vấn đặc biệt: Lê Đức Thọ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Tiến sĩ Henry Kissinger, cố vấn của Tổng thống Hoa Kỳ - Richard Nixon, là đi vào thảo luận thực chất, nhưng cũng không đi được đến thoả hiệp do lập trường các bên quá khác biệt và cục diện chiến trường chưa nghiêng hẳn về bên nào. Ngày 25 tháng 8 năm 1969, Hồ Chí Minh trả lời thư của Tổng thống Mỹ Nixon, yêu cầu phía Mỹ chấm dứt chiến tranh xâm lược và rút quân ra khỏi miền Nam Việt Nam.
Đến giữa năm 1972, khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có chủ trương chuyển hướng sang chiến lược hòa bình. Áp lực quốc tế và trong nước đối với Hoa Kỳ về việc ký kết thỏa thuận hòa bình ngày càng tăng, đặc biệt áp lực tăng tới đỉnh điểm khi Chiến dịch Lam Sơn 719 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa thất bại và được coi là minh chứng cho việc Chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh của Hoa Kỳ đã sụp đổ, thì đàm phán mới đi vào thực chất thoả hiệp.
Hiệp định Paris được ký kết vào ngày 27 tháng 1 năm 1973. Ngày 29 tháng 3 năm 1973, quân nhân Mỹ cuối cùng rời Việt Nam, chấm dứt mọi can thiệp quân sự trực tiếp của Hoa Kỳ đối với vấn đề Việt Nam, Hoa Kỳ sẽ chỉ còn duy trì viện trợ và cố vấn quân sự. Từ thời điểm này, tuy vẫn nhận viện trợ quân sự và kinh tế từ Hoa Kỳ nhưng Quân lực Việt Nam Cộng hòa phải đơn phương trực tiếp chiến đấu với Quân giải phóng miền Nam Việt Nam. Đầu năm 1974, Quân lực Việt Nam Cộng hòa tiếp tục có những đợt tấn công nhằm vào lực lượng đối phương tại các khu vực trọng điểm như tại Quân khu 5, Kon Tum, Pleiku, xung quanh Sài Gò, từ giữa năm 1974, cường độ tấn công của Quân lực Việt Nam Cộng hòa giảm dần và tương quan lực lượng thực sự nghiêng về Quân giải phóng miền Nam Việt Nam từ cuối năm 1974, thậm chí là thay đổi với tốc độ chóng mặt vì tinh thần của Quân lực Việt Nam Cộng hòa xuống chưa từng thấy khi mất nguồn viện trợ từ Hoa Kỳ cũng như các chiến dịch trước đó không đạt được yêu cầu đề ra.
Nội dung chính của hiệp định và lập trường các bên.
Nội dung hiệp định được chia thành chín chương, nói về các chủ đề về cơ bản giống như trong bản dự thảo 9 điểm mà Hoa Kỳ và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã thống nhất với nhau vào tháng 10 năm 1972 với xương sống là tuyên bố 10 điểm của Mặt trận Giải phóng miền Nam Việt Nam trước đó. Đó là :
Vi phạm Hiệp định.
Sau khi lực lượng quân sự Hoa Kỳ rút hết vào cuối tháng 3 năm 1973, phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Giải phóng miền Nam và phía Việt Nam Cộng hòa tố cáo nhau vi phạm Hiệp định, tuy nhiên hai bên không có hoạt động quân sự lớn nào trong năm 1973. Việt Nam Cộng hòa đã ráo riết thực hiện Chiến dịch Tràn ngập lãnh thổ từ đêm 24/01/1973 và hàng loạt kế hoạch quân sự trong toàn bộ năm 1973, đầu năm 1974. Đế đáp trả, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Giải phóng miền Nam chuẩn bị cho việc đánh dứt điểm chính quyền Việt Nam Cộng hòa nhưng quá trình chuẩn bị được bắt đầu từ cuối năm 1973 (sau Chiến dịch Tràn ngập lãnh thổ được thực thi). Bên cạnh đó, Việt Nam Cộng hòa cũng đã thực hiện Chiến dịch Lý Thường Kiệt từ năm 1973 để từng bước một loại bỏ các lực lượng của Quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam nhưng bất thành.
Chiến dịch Tràn ngập lãnh thổ thậm chí được Việt Nam cộng hòa lên kế hoạch từ năm 1972 để đề phòng khả năng Hiệp định không có lợi cho Việt Nam Cộng hòa. Các Kế hoạch như Hùng Vương, Lý Thường Kiệt (1973-1974) và kế hoạch toàn diện lâu dài (1973-1978) đã được Mỹ và Việt Nam Cộng hòa đưa ra nhằm nhanh chóng bình định miền Nam Việt Nam, nâng cao khả năng tác chiến của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Tới ngày 18-02-1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu triệu tập phiên họp các tướng lĩnh tại Dinh Độc lập để soát xét việc thực thi Kế hoạch quân sự Lý Thường Kiệt 1975. Theo đó, Quân khu II được nhận định là hướng trọng điểm trong đợt tấn công xuân-hè, trước khi Chiến dịch Tây Nguyên xảy ra.
Về nguyên tắc thì các bên ký kết phải thừa nhận miền Nam Việt Nam tạm thời có hai chính quyền (tuy nhiên không có định nghĩa về hai chính quyền đó), nhưng sẽ nhanh chóng được thay thế bằng một chính quyền mới. Số quân Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trên chiến trường lúc đó, số quân của họ trên đường mòn Hồ Chí Minh, số vũ khí họ mang vào và mang ra là những dữ liệu không thể kiểm chứng được nhưng theo số liệu cung cấp của Hoa Kỳ là 219.000 người (thấp hơn của Quân lực Việt Nam Cộng hòa với 920.000 người). Lượng viện trợ của Liên Xô, Trung Quốc và các nước Xã hội Chủ nghĩa khác viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn có thể kiểm soát tại các cửa khẩu trên bộ, cảng hàng không và cảng biển (Trong hiệp định không cấm nước ngoài viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mà chỉ cấm cung cấp vũ khí cho các bên ở miền Nam Việt Nam). Tương tự, vũ khí Mỹ vào Việt Nam qua các cảng và cầu hàng không cũng dễ dàng được quản lý. Tuy vậy việc Hoa Kỳ tiếp tục cung cấp vũ khí và 23.000 cố vấn quân sự cho Việt Nam Cộng hòa là một sự vi phạm các điều khoản liên quan tới việc cấm Hoa Kỳ can dự vào miền Nam Việt Nam trong Hiệp định Paris và khiến cho phía Việt Nam Cộng hòa có thêm động lực để tiến hành các hoạt động quân sự chống lại Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Bên cạnh đó, điều khoản về ngăn cấm các bên lập căn cứ quân sự trên đất Lào trung lập là nhượng bộ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhưng phía Vương quốc Lào lại vi phạm lệnh ngừng bắn trong Hiệp ước Viêng Chăn, tạo điều kiện để Pathet Lào tương trợ lẫn nhau với Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Tại Campuchia, điều tương tự cũng xảy ra khi quân đội của Lon Nol tấn công quân đội của Pol Pot, tuy nhiên, Pol Pot đã không nhận được sự hỗ trợ từ phía Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam.
Việt Nam Cộng hòa.
Phía Việt Nam Cộng hòa đã sử dụng bộ máy tuyên truyền của mình để bóp méo diễn biến Hội nghị Paris. Trong câu đầu của Hiệp định "Các bên tham gia Hội nghị Paris về Việt Nam" được họ giải thích là "chỉ có hai phe tham dự hòa hội Ba Lê (Paris). Một phe là Việt Nam cộng hòa và đồng minh Hoa Kỳ và phe kia là Cộng sản". Trên thực tế, đây là Hội nghị 04 bên bao gồm Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa và Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Ở Điều 2, câu "việc chấm dứt hoàn toàn chiến sự nói trong điều này là vững chắc và không thời hạn" bị chỉnh sửa như sau: "Bản tiếng Anh dùng chữ "durable and without limit of the time" trong khi đó bản văn tiếng Việt lại dịch là "vững chắc và không thời hạn". "Durable" không có nghĩa là vững chắc, mà chỉ có tính chất lâu dài. Lợi dụng điểm c, điều 3 không quy định cụ thể về lực lượng vũ trang của các bên, chính quyền Sài Gòn đặt "cảnh sát quốc gia" và "nhân dân tự vệ" nằm ngoài phạm vi của hiệp định. Tuy nhiên sau đó, hai lực lượng này trở thành nhân tố chủ yếu hỗ trợ của Quân lực Việt Nam Cộng hòa tiến hành cuộc chiến tranh "giành dân, lấn đất" với Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Nhằm tránh thực hiện Điều 6 của hiệp định "hủy bỏ tất cả các căn cứ quân sự ở miền Nam Việt Nam của Hoa Kỳ và các nước khác", quân đội Hoa Kỳ đã tiến hành bàn giao toàn bộ căn cứ, phương tiện chiến tranh cho Quân lực Việt Nam Cộng hòa trước khi hiệp định được ký kết.
Chính quyền Nguyễn Văn Thiệu đã ra "công điện mang tay" mật – thượng khẩn số 5458/TTM/P345 ra lệnh cho các đơn vị cấm "phổ biến các tin tức chiến sự trên báo chí, đài phát thanh hay vô tuyến truyền hình", trong đó nêu rõ: "Từ nay cấm không được nói rõ số lượng phi xuất, hải xuất, pháo binh yểm trợ… mà phải thay đổi hình thức giải thích đó là các hoạt động có tính cách phản ứng tự vệ". Điều 4 của Nghị định thư về ngừng bắn ở miền Nam Việt Nam và về các ban liên hợp quân sự, mặc dù Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam nhiều lần đề nghị nhưng chính quyền Sài Gòn vẫn cự tuyệt. Ngày 19/02/1973, Trần Thiện Khiêm, Thủ tướng chính quyền Sài Gòn, ban hành Công văn số 437/PThT/BĐPT/KH "Tuyệt đối không có việc tự động bắt tay giữa các chỉ huy trưởng đơn vị các cấp của ta (Quân lực Việt Nam Cộng hòa) với địch (Quân giải phóng) để chia khu vực và để cho địch tự do di chuyển"
Tại Hội nghị giữa hai bên miền Nam Việt Nam ở Sài Gòn, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu cũng luôn tìm cách né tránh giải quyết các vấn đề theo đúng tinh thần Hiệp định Paris. Mặc dù thừa nhận Điều 10 của Hiệp định "đặt ra một tiên quyết là phải ngừng bắn trước đã rồi mới thảo luận được vấn đề hòa bình. Chỉ sau ngừng bắn thực sự, hai bên mới có thể thương lượng với nhau về các giải pháp cho các vấn đề tranh chấp" nhưng tại Hội nghị của hai bên miền Nam, khi Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đưa ra Đề nghị 6 điểm, trong đó đầu tiên là tôn trọng ngừng bắn rồi mới giải quyết các vấn đề khác thì phía chính quyền Nguyễn Văn Thiệu lại đưa ra Đề nghị 5 điểm, trong đó đưa vấn đề tổng tuyển cử lên trước.
Chính Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố:
Bên cạnh đó, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu một mặt luôn tuyên truyền khẩu hiệu rằng "Cộng sản Bắc Việt xâm lược miền Nam", mặt khác lại luôn tuyên bố họ sẽ chủ động tấn công: "Đánh cái thằng Cộng sản phải đánh với thằng Cộng sản cho hữu hiệu, hữu hiệu hơn thằng Cộng sản vì hỏa lực chúng ta (VNCH) hơn thằng Cộng sản"..."Chúng ta (VNCH) phải có những hành động ngay từ đầu, phải ngăn ngừa cái hành động chuẩn bị tổng phản công của Cộng sản một cách thích đáng".
Mặc dù trong các ngày 22-1, 17-2, 3-3-1973, chính quyền Việt Nam Cộng hòa có ban hành các công điện, huấn thị về thực thi lệnh ngừng bắn nhưng chỉ trong đêm 27 rạng sáng 28.1, quân đội Sài Gòn đã thực hiện 15 cuộc hành quân từ cấp tiểu đoàn trở lên, 19 cuộc hành quân cấp tiểu khu và chi khu (theo bản tổng hợp tình hình của Bộ tổng tham mưu sáng 28.1). Trong số này có các cuộc hành quân quan trọng: Đại Bàng (tại vùng Quảng Trị - Thừa Thiên), Lam Sơn (Thừa Thiên), Quang Trung (Quảng Nam), Quyết Thắng 27A (Quảng Tín - Quảng Ngãi), Dakto 15 (Kon Tum)... Tổng kết hoạt động tháng 1, quân đội Sài Gòn đã thực hiện 694 cuộc hành quân cấp tiểu đoàn trở lên, tăng 34% so với tháng 12/1972. Hoạt động của Hải quân và Không quân Việt Nam Cộng hòa được tăng cường mạnh mẽ khi số lượng chuyến hải xuất tăng 9% so với tháng 12/1972. Cường độ hoạt động của không quân tăng 100%. Ngay trong tháng 1-1973, Không lực Việt Nam Cộng hòa đã thành lập thêm 1 phi đội mới với việc tuyển dụng 691 sĩ quan, 2426 Hạ sĩ quan, 1960 lính và nhận thêm 31 phi cơ của Hoa Kỳ. Năng lực tác chiến của lực lượng trọng pháo tăng 100%, của lực lượng tăng-thiết giáp tăng 85%
Để thực hiện Chiến dịch Tràn ngập lãnh thổ, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu giao Bộ Quốc phòng Việt Nam Cộng hòa gấp rút "gọi nhập ngũ hạng tuổi thuộc thành phần học sinh", Bộ Nội vụ gấp rút nhắc nhở, đôn đốc treo cờ tại những nơi khó gỡ.
Phiếu nghiên cứu của lực lượng an ninh diện địa của Bộ Quốc phòng Việt Nam Cộng hòa ghi rõ:
Chiến dịch Tràn ngập lãnh thổ được lên kế hoạch từ năm 1972, trong đó phải gây tổn thất tối đa cho phía Quân Giải phóng, lực lượng Cảnh sát Quốc gia Việt Nam Cộng hòa đóng vai trò then chốt trong việc tìm kiếm mục tiêu để Quân lực Việt Nam Cộng hòa tấn công. Ngay trong đêm ký Hiệp định, phía Việt Nam Cộng hòa đã tổ chức 74 cuộc hành quân, trong đó 44 ở Quân khu 1, 10 ở Quân khu 2 và 20 ở Quân khu 3
Đặc biệt, lúc 07h58' ngày 28/01/1973, 2 phút trước khi Hiệp định Paris có hiệu lực, Quân lực Việt Nam Cộng hòa sử dụng lực lượng biệt kích và xe tăng tấn công căn cứ Cửa Việt của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam Đây là cuộc tấn công "Tràn ngập lãnh thổ" lớn nhất của Việt Nam Cộng hòa, diễn ra ở phía bắc tỉnh Quảng Trị, nhằm đánh chiếm một vị trí quan trọng là cảng Cửa Việt. Ngày 21/1/1973, tướng Abrams, tướng Heige và tướng Ngô Quang Trưởng ra lệnh tiến hành Chiến dịch Tangocyti (tên gọi trận tấn công Cửa Việt của QLVNCH do các cố vấn Hoa Kỳ đặt). Đêm 25/1/1973, các tiểu đoàn 9 (lữ đoàn đặc nhiệm), 3 (lữ đoàn 258), lữ 147 và hơn 140 xe tăng nổ súng tấn công. Không lực Hoa Kỳ điều động 80 phi vụ B-52, pháo binh từ hạm đội 7 và 4 tiểu đoàn pháo ở thị xã Quảng Trị bắn hơn 60.000 viên đạn pháo yểm hộ cho quân Việt Nam Cộng hòa. 23 giờ ngày 27/1/1973, lữ đoàn đặc nhiệm đã tiếp cận cảng Cửa Việt. Đến 1 giờ ngày 28/1/1973, Bộ tư lệnh B5 quân Giải phóng biết tin và điều trung đoàn 101 và 5 xe tăng đánh vào sườn Lữ đoàn đặc nhiệm, bắn cháy 8 xe tăng đối phương nhưng không ngăn được đối phương tiến về cảng Cửa Việt. Rạng sáng ngày 28/1/1973, Bộ tư lệnh B5 tiếp tục điều 5 tiểu đoàn chi viện cho các lực lượng giữ Cửa Việt, đến trưa thì điều tiếp Trung đoàn 24 (sư đoàn 304) và 1 đại đội xe tăng (thuộc trung đoàn 203) tấn công phía sau cánh quân của đối phương. Rạng sáng 31/1/1973, quân Giải phóng tổ chức tổng công kích đồng loạt, ba cụm quân Việt Nam Cộng hòa ở cảng bị diệt, hai cụm quân còn lại chạy về Mỹ Thủy. Cuộc hành quân Tangocyti của Mỹ - Việt Nam Cộng hòa đã thất bại.
Ngày 12/10/1973, tướng Cao Văn Viên, Tổng tham mưu trưởng Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã đề nghị Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu yêu cầu Hoa Kỳ hỗ trợ về không quân trong các cuộc hành quân thuộc Chiến dịch Tràn ngập lãnh thổ.
Trong năm 1973, chính quyền Việt Nam Cộng hòa cũng đã đưa ra Kế hoạch Quốc phòng 4 năm (1974-1978), trong đó nêu rõ "Tiêu diệt hạ tầng cơ sở của địch (Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam) ở nông thôn", lực lượng lục quân có 14.000 người/sư đoàn gồm biệt động quân, nhảy dù, thủy quân lục chiến,
Đầu năm 1974, Quân lực Việt Nam Cộng hòa tiếp tục có những đợt tấn công nhằm vào lực lượng đối phương tại các khu vực trọng điểm như tại Quân khu 5, Kon Tum, Pleiku, xung quanh Sài Gò
Để tiếp tục giữ thế cân bằng chiến lược với Liên Xô, Mỹ vẫn tiếp tục can dự vào nội bộ miền Nam Việt Nam dưới nhiều hình thức khác nhau. Mỹ thực hiện 03 giải pháp gồm: 1. tiếp tục viện trợ quân sự, kinh tế và cố vấn cho Việt Nam Cộng hòa thực hiện kế hoạch 05 năm xây dựng và củng cố Quân lực Việt Nam Cộng hòa nhằm thực hiện bình định, phá thế "da báo", mở rộng vùng kiểm soát, trọng điểm là vùng Đồng bằng Sông Cửu Long; 2. Rút quân nhưng để lại vũ khí, khí tài và nhiều nhân viên quân sự trá hình; 3 Lôi kéo các quốc gia tại Châu Á chống Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa miền Nam Việt Nam, gây sức ép buộc Liên Xô, Trung Quốc và các nước Xã hội chủ nghĩa khác giảm viện trợ
Nền tảng để Mỹ tiếp tục can dự vào miền Nam Việt Nam bao gồm 4 trụ cột:
Mục đích của Mỹ tại Việt Nam là từng bước làm Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và chính quyền Cộng hòa miền Nam Việt Nam suy yếu từ đó xóa bỏ thực trạng 02 chính quyền, 02 quân đội, 03 lực lượng chính trị tại miền Nam Việt Nam và biến miền Nam Việt Nam thực sự trở thành 01 quốc gia tách biệt hoàn toàn với miền Bắc Việt Nam như thực trạng trên bán đảo Triều Tiên. Mỹ sử dụng lực lượng quân sự tại các căn cứ tại Châu Á để răn đe Quân Giải phóng cũng như lấy việc giảm quân số tại đây để tiến hành mặc cả, ép Liên Xô và Trung Quốc giảm viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Quân số của Mỹ tại Thái Lan ở mức 35.000 người, có 2 tướng, chủ yếu là không quân sẵn sàng can thiệp vào chiến trường Việt Nam bất cứ lúc nào
Tới đầu năm 1973, số lượng viện trợ của Mỹ cho Việt Nam Cộng hòa vẫn rất cao bao gồm 700 máy bay, 500 đại bác, 400 xe tăng và xe bọc thép, 2 triệu tấn vật chất phục vụ chiến tranh. Trong năm 1974, chính quyền Ford vẫn đề nghị Quốc hội Hoa Kỳ cung cấp 6 tỷ 200 triệu USD để viện trợ cho Việt Nam Cộng hòa. Từ sau khi Hiệp định được ký tới tháng 4/1974, Mỹ đã viện trợ cho Việt Nam Cộng hòa 27 triệu viên đạn cỡ 7,62x51mm, 112.000 tên lửa và rốc-két các loại (chủ yếu là không đối đất và chống tăng) và 80.000 quả bom các loại.
Tác động đối với các bên tham gia và kết quả.
Theo Đại sứ Dương Văn Quảng, giám đốc Học viện Ngoại giao, việc ký Hiệp định Paris chứng tỏ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa miền Nam Việt Nam đi đến thắng lợi từng bước và theo một cách đầy chiến lược. Đây là tiền đề để đi đến chiến thắng cuối cùng. Bên cạnh đó, đây cũng là một chiến thắng của ngoại giao nhân Việt Nam khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã huy động được sự ủng hộ của dư luận quốc tế. Tuy nhiên, việc Hoa Kỳ-Trung Quốc thông qua Thông cáo Thượng Hải 1972 đã gây ra nhiều cản trở đối với tiến trình hòa bình, thống nhất của Việt Nam.
Đối với Việt Nam Cộng hòa thì hiệp định này là một tai ương lớn đối với họ mặc dù họ tham gia ký kết và đặt sự tồn tại của Việt Nam Cộng hòa trước một nguy hiểm trong một tương lai gần. Hiệp định này đã buộc Hoa Kỳ phải rút toàn bộ lực lượng quân sự của mình khỏi Việt Nam và Đông Dương. Điều này đã khiến Việt Nam Cộng hòa mất đi chỗ dựa chính và lún sâu vào khủng hoảng nhanh hơn. Để trấn an Việt Nam Cộng hòa, Tổng thống Nixon đã hứa với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu là trong trường hợp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phát động chiến tranh tiêu diệt Việt Nam Cộng hòa thì Hoa Kỳ sẽ phản ứng bằng cách thích hợp để bảo đảm an ninh cho Việt Nam Cộng hòa. Lời hứa này sẽ không có giá trị thực tế vì sau đó Quốc hội Hoa Kỳ đã ra nghị quyết không cho phép đưa lực lượng vũ trang trở lại Đông Dương mà không được phép của Quốc hội và quy định khuôn khổ viện trợ cho Việt Nam Cộng hòa. Với các áp đặt như vậy thì dù không có sự kiện Watergate, dù Tổng thống Nixon có tại vị thì cũng không thể giữ lời hứa một cách hữu hiệu được.
Đối với người Mỹ họ thực sự muốn đóng lại cuộc chiến, quên nó đi và mở sang một trang sử mới. Bên cạnh đó, cam kết bí mật của Tổng thống Richard Nixon rằng sức mạnh không quân Mỹ sẽ trở lại cuộc chiến nếu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đưa quân trở lại miền Nam, cam kết mà Quốc hội Mỹ không hề hay biết và rất có thể sẽ phản đối nếu xảy ra. Đối với quân đội Hoa Kỳ, đây là cách họ ra khỏi cuộc chiến này một cách chính đáng.
Điều khoản uỷ ban kiểm soát và giám sát quốc tế cũng chỉ là hình thức vì quyền lực của uỷ ban này chỉ có cơ chế giám sát, khuyến nghị, báo cáo kết quả các cuộc điều tra là chủ yếu.
Nói chung hiệp định này chỉ được thi hành nghiêm chỉnh ở những điều khoản rút quân Mỹ (cùng các đồng minh khác) và trao trả tù binh Mỹ, thống nhất Việt Nam thông qua phương thức chính trị. Hoa Kỳ thực sự muốn rút quân đội khỏi cuộc chiến và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng tạo điều kiện cho việc đó.
Để hoàn thành nốt các điều khoản trong Hiệp định Paris liên quan đến Tổng tuyển cử, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa miền Nam Việt Nam tiến hành cuộc Tổng tuyển cử năm 1976 để thống nhất thành Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
|
Chiến dịch Tây Nguyên
Chiến dịch Tây Nguyên (từ 4 tháng 3 đến 3 tháng 4 năm 1975), mật danh Chiến dịch 275, là chiến dịch mở đầu cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 do Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam phát động tấn công. Với cuộc tiến công của phía Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam ngày 10 tháng 3 năm 1975 vào Buôn Ma Thuột, cánh Nam của Quân đoàn II, Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã bị sụp đổ. Những nỗ lực tái chiếm Buôn Ma Thuột của Quân lực Việt Nam Cộng hòa (QLVNCH) trong các trận phản công ngày 11 và 13 tháng 3 đều thất bại. Mất bình tĩnh sau các thất bại dồn dập, Ngày 14 tháng 3, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, kiêm luôn Tổng tư lệnh Quân lực Việt Nam Cộng hoà, đã có một bước đi hết sức sai lầm khi quyết định rút quân trên toàn địa bàn Tây Nguyên để về giữ miền duyên hải Trung Bộ. Việc rút quân tiến hành rất kém, nên chỉ ba ngày sau đó, hầu như toàn bộ Quân đoàn II Quân lực Việt Nam Cộng hoà với 60.000 quân đã bị tiêu diệt, đầu hàng hoặc tan rã trong cuộc rút quân hỗn loạn trên con đường số 7.
Chiến dịch này đã tạo nên một lỗ hổng rất lớn trong tuyến phòng thủ quân sự của Quân lực Việt Nam Cộng hòa tại địa bàn Quân khu II - Quân đoàn II QLVNCH. Chiến dịch này mở đầu cho những thất bại quân sự khó có thể cứu vãn nổi của Quân lực Việt Nam Cộng hoà. Cùng với những sai lầm có tính chiến lược trong phương án và cách thức điều quân, phối trí lại lực lượng của các cấp chỉ huy QLVNCH mà đứng đầu là tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, chiến dịch này đã tạo nên những đột biến lớn trên chiến trường mở đầu cho sự thất bại và tan rã toàn diện của QLVNCH tại miền Nam Việt Nam chỉ trong 55 ngày mùa xuân năm 1975, dẫn đến sự kết thúc Chiến tranh Việt Nam (1954-1975) và tái thống nhất Việt Nam sau 21 năm bị chia cắt.
Lực lượng quân sự của các bên.
Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam.
Lực lượng Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tham chiến tại Mặt trận Tây Nguyên tháng 3 năm 1975 ban đầu được đặt dưới sự chỉ huy của Bộ Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên (mật danh 275) trên cơ sở tổ chức lại Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên (B3) trước đây. Ngày 5 tháng 2 năm 1975, Bộ Tư lệnh được thành lập do Trung tướng Hoàng Minh Thảo làm Tư lệnh, Đại tá Đặng Vũ Hiệp làm chính uỷ, Thiếu tướng Vũ Lăng (nguyên Cục trưởng Cục tác chiến) và các đại tá Phan Hàm, Nguyễn Năng, Nguyễn Lang làm Phó tư lệnh. Đại tá Phí Triệu Hàm làm Phó chính uỷ, Đại tá Hồ Đệ làm Tham mưu trưởng Quân đoàn kiêm Sư trưởng sư 10, sau làm Phó Tư lệnh quân đoàn 3.
Trực tiếp chiến đấu
*Các sư đoàn 2 Quảng-Đà, 10 Đắktô, 316 Bông Lau, 320A Đồng Bằng, 968 Trường Sơn.
*Các trung đoàn độc lập: 25, 271, 95A, 95B.
Đặc công: Trung đoàn 198 và 2 tiểu đoàn độc lập 14, 27.
Xe tăng-thiết giáp: Trung đoàn 273.
Pháo binh: Các trung đoàn 40 và 675.
Phòng không: Các trung đoàn 232, 234, 593.
Bảo đảm chiến đấu
Công binh: Các trung đoàn 7 và 575.
Thông tin: Trung đoàn 29.
Vận tải: một trung đoàn ô tô.
Tổng quân số các đơn vị Quân Giải phóng thuộc Bộ Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên là 65.141 người, trong đó có 44.900 người trực tiếp tham gia chiến đấu (có khoảng hơn 1000 bộ đội địa phương, du kích và TNXP tham chiến). Khối chủ lực có quân số 43.020 người; các đơn vị này được trang bị 47 xe tăng (loại T-54 hoặc Type 59), 16 xe thiết giáp Type 63, 88 khẩu pháo lớn từ 105 mm đến 130 mm hàng trăm khẩu pháo 85 mm và cối 120, 160 mm, 6 bộ khí tài tên lửa chống tăng B-72, 1.561 súng chống tăng B-40, B-41, hàng vạn súng bộ binh RPD, RPK, AK-47, K-63 và CKC, 343 súng phòng không các cỡ, 679 ô tô các loại. Các kho dự trữ hậu cần của mặt trận Tây Nguyên bảo đảm cung cấp cho các đơn vị từ 2 đến 3 tháng trong điều kiện chiến đấu liên tục.
Đầu tháng 3 năm 1975, các lực lượng nói trên được bố trí như sau:
Chiến dịch Tây Nguyên tập trung một lực lượng lớn các binh chủng hợp thành, gồm 5 sư đoàn và 4 trung đoàn bộ binh, 1 trung đoàn và 2 tiểu đoàn đặc công cùng lực lượng vũ trang địa phương trên địa bàn. Chiến dịch huy động một khối lượng lớn vũ khí binh chủng gồm 47 xe tăng và 16 xe thiết giáp K63 của Trung đoàn Tăng - Thiết giáp 273; 478 khẩu pháo và cối của 5 trung đoàn và 2 tiểu đoàn pháo binh độc lập; 35 khẩu pháo mang vác cỡ trên 100mm và 349 khẩu pháo, súng cối trong biên chế của các đơn vị bộ binh
Ngoài ra, để thực hiện thành công kế hoạch nghi binh và tấn công của mình, Quân Giải phóng đã huy động được sự hỗ trợ từ những người đồng bào dân tộc thiểu số tại Tây Nguyên. Họ giúp đỡ làm đường, kéo pháo, đặc biệt là phao tin để kế hoạch nghi binh thành công. Phối hợp với hoạt động của quân chủ lực, các đơn vị vũ trang địa phương tỉnh, huyện và dân quân du kích các buôn làng đã tham gia chiến đấu, phục kích tiêu diệt binh lính VNCH trên đường rút chạy. Những vùng VNCH kiểm soát ở Bắc Tây Nguyên đã nổ ra gần 200 cuộc biểu tình thu hút hàng vạn người tham gia đấu tranh. Binh vận là một mũi giáp công quan trọng. Ở vùng dân tộc thiểu số, binh vận không chỉ đánh vào QLVNCH mà còn góp phần làm tan rã hệ thống chính quyền của VNCH. Bằng các hình thức rải truyền đơn, viết thư tay cho thân nhân trong binh lính VNCH và công chức, nhân viên VNCH, chỉ riêng đồng bào các dân tộc ở Đắc Lắc đã làm rã ngũ 1000 lính VNCH và 250 chính quyền cấp xã. Các địa phương khác như Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồ
Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Vùng duyên hải Trung-Nam Trung bộ
Bộ binh: Sư đoàn 22 (4 trung đoàn: 40, 41, 42, 47) và 45 tiểu đoàn bảo an.
Pháo binh: 5 tiểu đoàn với 146 khẩu các cỡ từ 105 đến 155 mm.
Xe tăng-Thiết giáp: 1 thiết đoàn và 8 chi đội tổng cộng 117 xe
Không quân: 12 phi đoàn gồm 102 máy bay chiến đấu phản lực và cánh quạt, 164 trực thăng, 69 máy bay vận tải, trinh sát và huấn luyện.
Hải quân: 2 hải đoàn tuần duyên, 2 giang đội trên sông
Chỉ huy cụm quân tại duyên hải miền Trung thuộc địa bàn Quân đoàn II - Quân khu II là Chuẩn tướng Lê Văn Thân, phó tư lệnh phụ trách về lãnh thổ. Lực lượng hải quân do Phó đề đốc Hoàng Cơ Minh tư lệnh vùng 2 hải quân chỉ huy.
Các sĩ quan chỉ huy cấp dưới và các lực lượng có Chuẩn tướng Phan Đình Niệm, tư lệnh sư đoàn 22; các tiểu khu quân sự cấp tỉnh do các đại tá tỉnh trưởng phụ trách gồm: đại tá Lý Bá Phẩm, tỉnh trưởng Khánh Hòa, đại tá Trần Đình Vi, tỉnh trưởng Bình Định, đại tá Vũ Quốc gia, tỉnh trưởng Phú Yên, đại tá Nguyễn Văn Tư, tỉnh trưởng Ninh Thuận, đại tá Ngô Tấn Nghĩa, tỉnh trưởng Bình Thuận.
Bộ binh: Sư đoàn 23 (3 trung đoàn: 44, 45, 53), 7 liên đoàn biệt động quân (4, 6, 21, 22, 23, 24, 25; các đơn vị này có quân số tương đương 10 trung đoàn), 36 tiểu đoàn bảo an.
Pháo binh: 8 tiểu đoàn với 230 khẩu các cỡ từ 105 đến 175 mm.
Xe tăng-thiết giáp: 4 thiết đoàn với 371 xe
Không quân: 1 phi đoàn chiến đấu (32 chiếc), 2 phi đoàn trực thăng (86 chiếc), 1 phi đoàn vận tải, trinh sát và huấn luyện (32 chiếc).
Bộ tư lệnh tiếp vận Quân khu II - Quân đoàn II QLVNCH có các kho dự trữ đủ khả năng cung cấp cho Quân đoàn chiến đấu ác liệt trong hai tháng.
Theo đại tá Phạm Bá Hoa, tham mưu trưởng Tổng cục tiếp vận QLVNCH, các lực lượng này được bố trí theo thế "nặng đầu nhẹ đuôi" trên địa bàn Cao nguyên trung phần. Trung đoàn 44 (sư đoàn 23) và 3 thiết đoàn xe tăng, 5 tiểu đoàn pháo, 5 liên đoàn biệt động quân (6, 22, 23, 24, 25) đóng quanh khu vực Kon Tum - Pleiku và chốt giữ đường 19 đi An Khê (Bình Định); toàn bộ 4 phi đoàn không quân đóng tại sân bay Cù Hanh; Trung đoàn 45 (sư đoàn 23) và 1 chi đoàn thiết giáp (thuộc thiết đoàn 8) giữ Quảng Đức, liên đoàn 4 biệt động quân và 1 tiểu đoàn pháo binh giữ Thanh An - Đồn Tằm. Tại Buôn Ma Thuột chỉ có trung đoàn 53, liên đoàn 21 biệt động quân, trung đoàn pháo binh 232, thiết đoàn 8 (thiếu) và một chi đội thiết giáp, 3 liên đoàn bảo an, hậu cứ trung đoàn 45 (khu B50), các đơn vị hậu cứ và Bộ chỉ huy nhẹ của sư đoàn 23. Tổng số quân 8.350 người, trong đó có 5.920 quân đóng tại các căn cứ trong thị xã, 2.430 quân đóng tại các cứ điểm ngoại vi thị xã. Lực lượng này được trang bị 19 pháo 105 mm, 4 pháo 155 mm, 16 xe tăng M-41 và M48, 50 xe bọc thép M-113, phi đội trinh sát có 6 máy bay trinh sát L-19 và trực thăng UH-1 tại sân bay Hòa Bình (Phụng Dực).
Thiếu tướng Phạm Văn Phú chỉ huy các lực lượng của Quân đoàn II-QLVNCH.
Các chỉ huy cấp tại cụm quân Cao nguyên có Chuẩn tướng Trần Văn Cẩm phó tư lệnh phụ trách hành quân; chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, tư lệnh sư đoàn 6 không quân, chuẩn tướng Lê Trung Tường, tư lệnh sư đoàn 23; Đại tá Lê Khắc Lý, tham mưu trưởng quân đoàn; Đại tá Phạm Duy Tất, chỉ huy biệt động quân, đại tá Vũ Thế Quang, Phó tư lệnh sư đoàn 23.
Các tiểu khu quân sự tỉnh do các đại tá tỉnh trưởng nắm giữ gồm: đại tá Phạm Văn Nghìn, tỉnh trưởng Quảng Đức, đại tá Nguyễn Trọng Luật, Tỉnh trưởng Đắc Lắc và tỉnh trưởng các tỉnh trưởng Kon Tum, Pleiku, Phú Bổn, Tuyên Đức.
Trên toàn mặt trận Tây Nguyên, so với lực lượng QLVNCH, lực lượng bộ binh Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam ít hơn một chút và kém hơn đáng kể về hỏa lực hạng nặng (xe tăng, xe thiết giáp, pháo cỡ lớn và máy bay). Nhưng do Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tập trung chủ lực tại cánh Nam trong khi phần lớn QLVNCH kéo về phòng thủ tại cánh Bắc (do bị mắc bẫy nghi binh của đối phương), nên tại điểm quyết chiến Buôn Ma Thuột vào giờ khai hỏa, ưu thế của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam so với QLVNCH tại đây có tỉ lệ áp đảo: bộ binh 5:1, thiết giáp 2:1, pháo lớn 2:1. Ưu thế này bảo đảm cho Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam khả năng thắng lợi nhanh chóng do đối phương khó có khả năng cầm cự lâu dài chờ quân phản kích ứng cứu.
Ý đồ chiến lược, chiến thuật quân sự của các bên.
Phía Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam.
Từ ngày 17 đến ngày 19 tháng 2, Bộ Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên họp mở rộng để bàn phương án tác chiến.
Đánh giá tình hình Quân lực Việt Nam Cộng hòa trên địa bàn, các tướng lĩnh và sĩ quan chỉ huy cao cấp của Bộ Tư lệnh chiến dịch thống nhất nhận định:
Căn cứ tình hình bố trí binh lực hai bên, hội nghị đã vạch ra 5 vấn đề lớn về tác chiến gồm có:
Bộ Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên đưa ra hai phương án tác chiến để lựa chọn:
Phương án thứ nhất: Tấn công khi đối phương chưa điều toàn bộ sư đoàn 23 và các đơn vị tăng cường khác về phòng thủ Buôn Ma Thuột. Đây là phương án lý tưởng nhất, đảm bảo tháng nhanh gọn và ít gây thiệt hại cho các mục tiêu dân sự trong thị xã. Điều này phụ thuộc vào hiệu quả thực hiện nghi binh chiến lược trên hướng Pleiku-Kon Tum bảo đảm giam chân 4 trung đoàn bộ binh, 3 thiết đoàn xe tăng-thiết giáp và 5 liên đoàn biệt động quân đang bố trí tại đây
Phương án thứ hai: Tấn công khi đối phương đã tăng cường phòng thủ thị xã Buôn Ma Thuột. Đây là phương án đánh chắc tiến chắc và cuộc chiến sẽ giằng co ác liệt gay go.
Bộ Tư lệnh chiến dịch yêu cầu các đơn vị dưới quyền tổ chức chuẩn bị tấn công theo phương án 2; trong khi thực hiện phải tạo thời cơ và nhanh chóng chuyển sang phương án 1 khi điều kiện thời cơ xuất hiện.
Quân Giải phóng đã phát hiện ra điểm yếu trong toàn bộ tuyến phòng thủ của Quân lực Việt Nam Cộng hòa do tập trung phần lớn lực lượng mạnh nhất của mình ở Quân khu I (phía Bắc đèo Hải Vân) và quân khu III (quanh Sài Gòn). Quân khu II, trong đó có địa bàn trọng điểm Tây Nguyên chính là địa đoạn yếu nhất trên toàn bộ tuyến phòng thủ do chỉ có một quân đoàn đóng giữ. Quân đoàn này lại phải bổ đôi lực lượng cho hai khu vực đồng bằng và cao nguyên, giao thông không thuận tiện, dễ bị chia cắt. Địa đoạn yếu này lại càng yếu hơn khi các lực lượng mạnh nhất tập trung ở cánh Bắc xung quanh Pleiku - Kon Tum và gần như để ngỏ cánh Nam với Buôn Ma Thuột là trọng điểm. Bộ tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên cho rằng khi mất Tây Nguyên QLVNCH sẽ khó tổ chức phản công tái chiếm vì sẽ phải điều từ 5 tới 6 sư đoàn đến chiến trường trong khi không có đủ lực lượng để bảo vệ Quân khu III, Biệt khu thủ đô và Quân khu I sát miền Bắc nếu các Quân khu này cũng đồng thời bị tấn công.
Phía Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Ngày 18 tháng 2 năm 1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu triệu tập phiên họp các tướng lĩnh tại Dinh Độc Lập để soát xét việc thực thi Kế hoạch quân sự Lý Thường Kiệt 1975 đã được Hội đồng An ninh quốc gia phê chuẩn hồi tháng 12 năm 1974. Trong báo cáo "Ước lượng tình báo" do Đại tá Hoàng Ngọc Lung, Trưởng phòng 2 Bộ Tổng tham mưu có một số điểm đáng chú ý:
Ngay sau Hội nghị, Thiếu tướng Phạm Văn Phú, tư lệnh Quân đoàn II trở về Pleiku và tức khắc triệu tập chỉ huy trưởng các đơn vị và các tiểu khu quân sự dưới quyền bàn cách đối phó. Thế bố trí "nặng đầu nhẹ đuôi" như hiện có theo tướng Phú là phù hợp vì Đại tá Trịnh Tiếu, Trưởng phòng 2 Bộ tham mưu Quân đoàn cho biết thám báo mặt đất, thám sát điện đài và trinh sát đường không đã phát hiện Sư đoàn 968 của đối phương mới từ Lào về nhưng chưa biết sẽ di chuyển đến đâu. Tại khu vực Pleiku - Kon tum, đối phương đã có hai sư đoàn 10 và 320, chỉ có hai trung đoàn 271, 201 bố trí sát Quảng Đức. Chỉ có trung đoàn 205 bố trí ở Tây Bắc Buôn Hồ (Bắc Buôn Ma Thuột). Đại tá Tiếu phán đoán: Nếu đánh lớn, đối phương sẽ lấy Pleiku - Kon tum làm "điểm", những vùng còn lại chỉ là "diện". Nếu đánh vừa họ có thể sẽ chiếm nốt Quảng Đức để nối liền với Phước Long và mở thông hành lang Đông Trường Sơn, chuẩn bị cho năm sau tổng công kích. Khi đó, điểm quyết định phải là Đông Nam Bộ.. Không có sĩ quan cao cấp nào của Quân đoàn II có ý kiến đánh giá khác. Chỉ có đại tá Phạm Văn Nghìn, tiểu khu trưởng đồng thời là tỉnh trưởng Quảng Đức xin thêm 1.000 quân tăng phái. Với các phân tích trên, Phạm Văn Phú kết luận:
Sáng ngày 2 tháng 3, trưởng chi nhánh CIA tại Quân khu II Howard Arche từ Nha Trang bay lên Buôn Ma Thuột và thông báo cho đại tá Nguyễn Trọng Luật tin tức tình báo về việc Quân Giải phóng chuẩn bị tấn công Buôn Ma Thuột nhưng không thể tìm hiểu rõ hơn về lực lượng của họ. Tướng Phú rút lại quyết định điều trung đoàn 53 lên Quảng Đức và gửi nó đến Buôn Hồ, đồng thời lệnh rút trung đoàn 45 từ Thuần Mẫn (Cẩm Ga) về giữ Thanh An-Đồn Tằm. Ngoài những cuộc điều quân có tính chất địa phương kể trên, binh lực Cộng hòa tại Tây Nguyên không có những thay đổi lớn trong thế bố trí chiến lược và vẫn giữ nguyên phương án "phòng thủ diện địa" và đây chính là điểm yếu khiến Quân lực Việt Nam Cộng hòa mất đi sức mạnh vốn có của họ là tính cơ động do các phương tiện chuyển quân hiện đại (cơ giới và trực thăng) mang lại. Do những phán đoán sai lầm từ cơ quan tình báo CIA tại Sài Gòn về việc "cộng sản có ý định bao vây và cắt đứt các đường giao thông" nên tại Buôn Ma Thuột, QLVNCH không có một phương án khả thi nào để phòng thủ Buôn Ma Thuột trong trường hợp thị xã trở thành chiến trường trọng điểm.
Diễn biến chiến dịch.
Nghi binh, tạo thế và cài thế.
Giữa tháng 2, trong dịp Tết Nguyên đán Ất Mão, một binh sĩ Quân Giải phóng đào ngũ đã khai với Phòng 2 (Bộ tham mưu Quân đoàn II) về việc Quân Giải phóng điều động sư đoàn 10 đánh Đức Lập (căn cứ Núi Lửa), sư đoàn 320 đã đến Ea H'leo chuẩn bị đánh Thuần Mẫn (Cẩm Ga), một lực lượng khác sẽ tấn công Buôn Ma Thuột. Nhưng đúng vào ngày diễn ra cuộc họp các sĩ quân chỉ huy thuộc Quân khu II, một cuộc pháo kích lớn của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam chụp xuống Pleiku nên tướng Phú lại cho rằng đây là kế trá hàng lừa địch của đối phương. Mặc dù có lúc ông ta đã định điều Sư đoàn 23 về Buôn Ma Thuột nhưng các chi nhánh CIA tại Quân khu II và phòng 2 Bộ Tổng Tham mưu QLVNCH đều khẳng định sư đoàn 10 (QGP) và sư đoàn 320 (QGP) của đối phương vẫn ở nguyên chỗ cũ. Trên bản đồ tình báo của Phủ đặc ủy tình báo VNCH, của Bộ Tổng tham mưu QLVNCH, của Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Sài Gòn và Sở chỉ huy Quân đoàn II đều cho thấy một cụm quân rất lớn gồm 2 đến 3 sư đoàn có trang bị mạnh của Quân Giải phóng đang chiếm lĩnh vị trí quanh Kon Tum và cả Pleiku cách đó hơn 20 km..
Thực ra, các hoạt động nghi binh của Quân Giải phóng đã bắt đầu từ tháng 12 năm 1974, khi trận Phước Long chuẩn bị mở màn. Trung đoàn 7 công binh 559 mở thông đường 220 nối đường 14 ở Bắc Võ Định với đường 19 gần đèo Mang Yang sau khi vòng qua Đông Bắc thị xã Kon Tum. Hai trận địa pháo binh 130 mm giả được triển khai phía Bắc Kon Tum (thực ra chỉ có súng cối 120 mm). Một số xe tăng (cũ), xe xích kéo pháo, xe vận tải được tổ chức cơ động liên tục suốt ngày đêm quanh phòng tuyến. Hai bến phà (gỗ) được triển khai tại cầu Diên Bình và sông Đakbla. Sư đoàn 10 để lại một lực lượng nhỏ liên tục dùng súng cối bắn phá thị xã Kon Tum và đào nhiều hầm hào trong tuyến phòng ngự. Sư đoàn 320 cũng để lại một bộ phận lực lượng hoạt động ở đường 19 phía Tây Pleiku, cùng súng cối bắn phá các căn cứ La Sơn, Thanh An, Đồn Tằm. Trung đoàn 95 hoạt động mạnh ở đường 19 Đông, chặn đánh các đoàn xe quân sự và tập kích một số chốt của QLVNCH. Trung đoàn đặc công 198 để lại 2 trung đội tập kích kho xăng Pleiku. Khi lực lượng chủ lực của các sư đoàn 10, 320 và các trung đoàn 40, 234, 273, 675 di chuyển về quanh Buôn Ma Thuột, hệ thống điện đài của các đơn vị này vẫn giữ nguyên vị trí và liên tục phát đi các bức điện giả, báo cáo giả, mệnh lệnh giả với tần suất ngày càng cao.
Trong khi các đơn vị này di chuyển vào Đắc Lắc thì Sư đoàn 968 (thiếu) từ Lào về lần lượt thay thế các đơn vị này và vẫn sử dụng hệ thống liên lạc vô tuyến điện đã có tại địa bàn. Sở chỉ huy mặt trận Tây Nguyên cũng để lại và duy trì hoạt động của các bộ máy điện đài 15W (loại dùng cho sở chỉ huy sư đoàn trở lên) tại K'Leng, bắc Võ Định, điểm cao 518 bên đường 19 đông. Lực lượng an ninh giải phóng Pleiku và Kon Tum còn cho người vào tìm người thân" trong khu vực do QLVNCH kiểm soát, phao tin Quân giải phóng sắp đánh lớn và Kon Tum và Pleiku. Dân chúng trong các vùng do Mặt trận kiểm soát ở các khu vực Đông, Bắc và Tây Pleiku - Kon Tum làm nhiều cờ, hoa, biểu ngữ với nội dung chào mừng Pleiku và Kon Tum được giải phóng.
Khi Trung đoàn 45 (sư đoàn 23) Quân lực Việt Nam Cộng hòa tổ chức các cuộc hành quân lùng sục xung quanh khu vực Buôn Ma Thuột, Thuần Mẫn và Đức Lập; Bộ tư lệnh mặt trận Tây Nguyên đã lệnh cho các đơn vị của Sư đoàn 320A tạm lùi về phía Tây, tránh giao chiến, không bộc lộ lực lượng. Hà Nội đã tung ra đơn vị dự trữ chiến thuật mạnh: Sư đoàn 316, bố trí phía sau Sư đoàn 320A được lệnh không tiến hành bất kỳ hoạt động quân sự nào.
Các hành động nghi binh trên đây của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã dẫn đến những thông tin trái ngược trong các báo cáo tình báo của CIA, Phủ đặc ủy tình báo, Bộ Tổng tham mưu QLVNCH và Bộ tham mưu và cơ quan tình báo Quân đoàn II QLVNCH. Và nó dẫn đến kết quả là ngày 18 tháng 2 năm 1975, Tư lệnh quân đoàn II, Thiếu tướng Phạm Văn Phú đã có một quyết định sai lầm: giữ sư đoàn 23 (thiếu) ở lại khu vực Pleiku - Kontum mặc dù chỉ trước đó một ngày, ông ta đã phê chuẩn kế hoạch chuyển sư đoàn này về Buôn Ma Thuột. Cho đến cuối tháng 2, CIA tại Sài Gòn vẫn chưa biết gì về việc tập trung quân của Quân Giải phóng tại đây và vẫn phán đoán rằng mục tiêu tấn công chủ yếu vẫn là Pleiku và Kon Tum . Mãi đến 4 giờ sáng ngày 10/3, khi xe tăng Quân Giải phóng đã tiến vào Buôn Ma Thuột, tướng Phú mới được cấp dưới đánh thức và biết Buôn Ma Thuột là mục tiêu chính, nhưng đã quá muộn.
Tạo thế và cài thế.
Chiến dịch Tây Nguyên chính thức bắt đầu đêm 3 rạng ngày 4 tháng 3 với trận đánh của Trung đoàn 95A diệt căn cứ Ayun do 1 tiểu đoàn bảo an chiếm hữu và một số điểm chốt giao thông nhỏ của QLVNCH trên 20 km đường 19 từ ngã ba Pleibon đến ấp Phú Yên (Tây An Khê) ở. Cùng thời gian này, trung đoàn 9, sư đoàn 320A cắt đường 14 ở Ea H'Leo (Bắc Cẩm Ga). Ngày 4 tháng 3, Sư đoàn 3 Sao Vàng (thiếu) của Quân khu 5 tấn công và tràn ngập 11 chốt do 2 đại đội bảo an đóng giữ (có 300 quân VNCH bị tiêu diệt , chiếm đoạn đường 19 từ đèo Thượng An đến cầu số 13 ở Đông An Khê. Đêm 4 rạng ngày 5 tháng 3 Trung đoàn 25 (QGP) tổ chức trận phục kích một đoàn xe vận tải của QLVNCH tại Chư Cúc, cắt đứt đường số 21 ở tây Khánh Dương, đông Buôn Ma Thuột. Tướng Phú một mặt xin viện binh để khôi phục tình hình trên đường 19 phía Đông Pleiku, mặt khác rút trung đoàn 45 từ Thuần Mẫn (căn cứ Cẩm Ga) lui về giữ đường 14 tại Thanh An, phía Nam Pleiku. Bộ Tổng tham mưu QLVNCH chấp nhận tăng viện liên đoàn 4 biệt động quân lên Pleiku bằng đường không.
Tướng Phú lập tức điều động tăng phái đơn vị này cho Thiết đoàn 2 do đại tá Nguyễn Văn Đồng chỉ huy đang trấn giữa phía Đông Pleiku tổ chức tấn công nhổ các chốt của Trung đoàn 95A (QGP) trên đường 19 nhưng không thành công. Trung đoàn 53 do đại tá Vũ Thế Quang (phó tư lệnh sư đoàn 23 chỉ huy) đang tăng phái cho Quảng Đức cũng được tướng Phú điều về Buôn Ma Thuột phòng thủ thị xã. Đến ngày 8 tháng 3, Tây Nguyên đã bị cô lập với đồng bằng ven biển miền Trung và Nam Trung bộ về đường bộ, trừ đường số 7 rất xấu đã lâu không sử dụng. Thế trận ở Tây Nguyên đã được thiết lập.
Ngày 5 tháng 3, đại tá Quang đích thân chỉ huy 1 tiểu đoàn của trung đoàn 53 cùng 14 xe hành quân vè Buôn Ma Thuột thì bị trung đoàn 9, sư đoàn 320 phục kích tại Thuần Mẫn. 8 xe bị bắn cháy, 2 pháo 105 mm bị đối phương chiếm được. 7 xe còn lại phải quay về Pleiku. Đại tá Quang phải trở về Buôn Ma Thuột bằng trực thăng. Ngày 7 và ngày 8 tháng 3, trung đoàn 48 (sư đoàn 320A QGP) với sự chi viện của 5 khẩu đội pháo binh (2 pháo 105 mm, 3 pháo 85 mm) tấn công đánh chiếm Chư Sê và Thuần Mẫn (căn cứ Cẩm Ga) loại khỏi vòng chiến đấu 1 tiểu đoàn bảo an QLVNCH (có 121 người bị bắt làm tù binh ), cô lập Buôn Ma Thuột với Bắc Tây Nguyên. Tướng Phú điều liên đoàn 21 biệt động quân từ Kon Tum đến Buôn Hồ bằng trực thăng vận và lệnh cho đơn vị này phối hợp với trung đoàn 53 mở cuộc hành quân lấy lại căn cứ Cẩm Ga trong ngày 9 tháng 3. Trong khi liên đoàn 21 và trung đoàn 53 không lấy lại được Cẩm Ga thì đêm ngày 8 rạng ngày 9 tháng 3, sư đoàn 10 QGP (thiếu) tấn công cụm cứ điểm Đức Lập (gồm căn cứ Núi Lửa và căn cứ liên đoàn 23 biệt động quân do 1 đại đội trinh sát, 1 chi đội xe tăng, 14 khẩu pháo, 1 tiểu đoàn và 2 đại đội bảo an, 18 trung đội dân vệ, 1 trung đội cảng sát có quân số tổng cộng là 2400 chiếm giữ), chiếm giữ hoàn toàn các cứ điểm này vào ngày 10 tháng 3.
11 giờ trưa ngày 9 tháng 3, thiếu tướng Phạm Văn Phú từ Nha Trang bay lên sân bay Buôn Ma Thuột và triệu tập cuộc họp với chuẩn tướng Lê Trung Tường, đại tá Vũ Thế Quang và đại tá Nguyễn Trọng Luật để đánh giá tình hình. Theo tướng Phú: tình hình Đức Lập quá xấu, không còn khả năng cứu vãn nên không tăng thêm viện binh, rút liên đoàn 21 biệt động quân từ Buôn Hồ về bảo vệ phía Bắc thị xã; tiểu đoàn 2, trung đoàn 53 phải cố giữ ngã ba Đắc Sắc, chờ thời cơ phản kích lấy lại Đức Lập; tăng viện một chi đoàn thiết giáp cho thị xã và rút 2 tiểu đoàn bảo an ở Bản Đôn về phòng thủ ngoại vi thị xã. Đại tá Vũ Thế Quang được bổ nhiệm làm tư lệnh các lực lượng phòng thủ Buôn Ma Thuột. Cho đến lúc đó, tướng Phú vẫn một mực cho rằng: Cộng sản đánh Quảng Đức, uy hiếp Buôn Ma Thuột là để nghi binh và vài ngày tới, họ sẽ tập trung tấn kích mạnh vào Pleiku - Kon Tum. 6 giờ chiều ngày 9 tháng 3, tướng Phú về đến Pleiku và ra lệnh cấm trại 100%.
Ngay cả đến khi Buôn Ma Thuột bị tấn công, tướng Phú và cả Bộ Tư lệnh Quân đoàn II cũng chưa biết rằng cuộc tấn công này được thực hiện chủ yếu bởi sư đoàn 316 đã bí mật hành quân xuống Nam Tây Nguyên theo sau sư đoàn 320A, dùng sư đoàn 320A làm bình phong che giấu sự có mặt của mình. Lợi dụng việc các đơn vị chủ lực của QLVNCH tại Buôn Ma Thuột tập trung giải tỏa đường 14 trên hướng Thuần Mẫn - Buôn Hồ, các trung đoàn công binh 7 và 575 (QGP) đã mở thông các con đường 50B, 50C, 50D, 51, 57B, 57C bảo đảm cho xe pháo các loại có thể kéo thẳng vào Buôn Ma Thuột. Riêng đường 20C ở Tây Nam Buôn Ma Thuột nằm trên hướng đột kích của trung đoàn xe tăng 273 được mở một cách độc đáo. Các cây lớn chỉ được cưa 3/4 gần gốc. Khi xe tăng xuất kích, có thể húc đổ cây tự mở đường trong hành tiến. Vì vậy, trinh sát đường không của QLVNCH không phát hiện được sự có mặt của trung đoàn xe tăng 273 tại đây. Việc chỉ huy tác chiến được thực hiện hoàn toàn bằng thông tin hữu tuyến đã vô hiệu hóa các hoạt động trinh sát điện đài của QLVNCH.. Các đơn vị chủ lực của QLVNCH tại Quân khu II đã bị căng kéo ra nhiều hướng và chôn chân tại các cứ điểm phòng thủ, giảm thiểu khả năng cơ động ứng cứu cho nhau. Thế trận xung quanh Buôn Ma Thuột đã được cài đặt.
Trận Buôn Ma Thuột.
Cuộc chiến trong thị xã.
Buôn Ma Thuột nằm ở giữa ngã ba của hai con đường chiến lược 14 và 21, là chốt giữ giao thông của Nam Tây Nguyên. Từ Buôn Ma Thuột dễ dàng đi lên các tỉnh phía Bắc và đi xuống Đông Nam Bộ-Sài Gòn bằng cả đường không và đường bộ. Chính về tầm quan trọng đó nên Buôn Ma Thuột có các căn cứ, sân bay, kho đạn hậu phương của các đơn vị chủ lực của Quân khu 2; Quân đoàn 2 VNCH, được bảo vệ bởi các đơn vị khá tinh nhuệ gồm 1 Trung đoàn bộ binh, Trung đoàn 232 pháo binh và 2 Tiểu đoàn pháo binh, Trung đoàn 8 thiết giáp, cùng với lực lượng bảo an, cảnh sát, mật vụ… với tổng quân số hơn 8.000 lính. Tuy nhiên, do QLVNCH chỉ lo bố trí lực lượng để đối phó ở phía Bắc, còn lực lượng bảo vệ Buôn Ma Thuột tuy đông nhưng khả năng chiến đấu khá thấp do lơi lỏng phòng bị.
2 giờ sáng 10 tháng 3 năm 1975, cuộc tiến công của Quân Giải phóng vào Buôn Ma Thuột bắt đầu với các trận đột kích sâu của trung đoàn 198 đặc công vào các mục tiêu: Sân bay Hòa Bình, khu kho Mai Hắc Đế, khu hậu cứ của trung đoàn 53 (QLVNCH) với sự yểm hộ của hỏa tiễn tầm ngắn ĐKB và H-12. Theo lời kể của thiếu tá Phạm Huấn, trợ lý báo chí của tướng Phạm Văn Phú, trận pháo kích gây kinh hoàng cho cả hai vị chỉ huy QLVNCH tại Buôn Ma Thuột là đại tá Nguyễn Trọng Luật, tỉnh trưởng Darlac và đại tá Vũ Thế Quang, Sư đoàn phó Sư đoàn 23. Tại thời điểm đó, đại tá Quang vẫn nhận định rằng: "Cộng quân chỉ dùng đặc công và pháo binh quấy rối rồi đến sáng, họ sẽ rút ra"
Đến 3 giờ 30 phút, tiểu đoàn 4 (trung đoàn 198) đã khai thông đường Phan Chu Trinh và chiếm được phần phía Nam sân bay Hòa Bình chốt giữ tại đó, chờ bộ binh và xe tăng chi viện. Tiểu đoàn 5 (trung đoàn 198) đánh vào khu kho Mai Hắc Đế và đoạn đường 429, tiếp tục pháo kích bằng hỏa lực ĐKB, H-12 (trong đó ĐKB là hỏa lực chủ công kiểm soát toàn bộ các mục tiêu trong thị xã. theo yêu cầu của bộ binh)vào Sở chỉ huy sư đoàn 23, Sở chỉ huy tiểu khu, trung tâm thông tin, doanh trại thiết giáp và khống chế trận địa pháo. Lúc 5 giờ sáng, cửa ngõ tiến quân bằng cơ giới của Quân Giải phóng từ hướng đông bắc, tây bắc, tây và tây nam vào Buôn Ma Thuột đã được khai thông. Sau khi pháo binh sư đoàn và pháo binh chiến dịch tiếp tục pháo kích vào thị xã, các đại đội xe tăng có bộ binh đi kèm bật đèn pha mở hết công suất, húc đổ các cây rừng đã cưa sẵn, vượt qua các tuyến phòng thủ vòng ngoài đánh thẳng vào trung tâm thị xã..
Hướng Tây Nam, trung đoàn 174 có 1 đại đội xe tăng yểm hộ vượt qua các chốt Chi Lăng, Chư Di và khu kho Mai Hắc Đế. Hướng Tây Bắc, trung đoàn 148 có 1 đại đội xe tăng mở đường đánh vào Sở chỉ huy tiểu khu Đắc Lắc và dùng 1 tiểu đoàn tấn công ấp Châu Sơn. Hướng Tây, có tiểu đoàn 4 (trung đoàn 24 sư đoàn 10) và 2 đại đội xe tăng đánh vào Sở chỉ huy sư đoàn 23 và mặc dù xe tăng bị sa lầy và bị máy bay QLVNCH bắn phá song họ vẫn tấn công vào khu quân y, khu truyền tin . Hướng Đông Bắc có trung đoàn 95B đánh vào khu vực ngã sáu, hướng Đông Nam, trung đoàn 149 (không có xe tăng đi kèm) dùng một tiểu đoàn tấn công cứ điểm Chư Blom và điểm cao 582, 1 tiểu đoàn còn lại đánh thốc qua cứ điểm Ba Lê và điểm cao 491 tiến thẳng vào trung tâm thị xã. Phía Đông thị xã, trung đoàn 3 (sư đoàn 10) có 1 đại đội xe tăng yểm hộ phối hợp với 1 tiểu đoàn của trung đoàn 149 (sư 316) tấn công đánh chiếm sân bay Hòa Bình từ hai hướng Đông Bắc và Tây Nam khép lại. Trung đoàn 2 (sư đoàn 10) đánh chiếm cứ điểm Phước An.
Từ hầm chỉ huy của sư đoàn 23, đại tá Nguyễn Trọng Luật điều 2 chi đội thiết giáp M-113 ra giữ Ngã Sáu nhưng đã bị các xe tăng của đại đội 5, tiểu đoàn 3, trung đoàn xe tăng 273 đẩy lùi. Tiểu đoàn biệt động quân đóng giữ Sở chỉ huy tiểu khu Đắc Lắc chống trả quyết liệt. Phải đến 17 giờ 30, sau đợt tấn công thứ sáu, trung đoàn 95B mới chiếm được sở chỉ huy tiểu khu. Ở hướng Đông Bắc thị xã, tiểu đoàn 9 liên đoàn 21 biệt động quân chỉ giữ được đến trưa thì bị đẩy lùi ra ngoại vi phía Đông thị xã, chịu mất các khu pháo binh, thiết giáp và hậu cứ của trung đoàn 45. Ở hướng Tây, Sư đoàn 6 không quân QLVNCH điều động 8 chiếc A-37 ném bom vào đội hình của trung đoàn 24 (sư đoàn 10 QGP) gây một số thương vong nhưng không làm chậm lại tốc độ tiến quân của đơn vị này. Ở hướng Tây Nam, đại tá Vũ Thế Quang liên tục tung các lực lượng dự bị có trong tay phản kích nhằm chiếm lại khu kho Mai Hắc Đế, đồng thời gọi không quân đánh phá ngăn chặn. Trung đoàn 174 (F316) phải để lại một tiểu đoàn bao vây khu vực này, điều 2 tiểu đoàn còn lại đánh vòng qua khu kho để tiếp cận Sở chỉ huy sư đoàn 23. Ở hướng Đông Nam, các tiểu đoàn 7 và 8 (trung đoàn 149) mặc dù bị nhiều tốp máy bay A-37 của không quân VNCH oanh tạc vào đội hình, gây nhiều thương vong nhưng họ vẫn đẩy lùi các lực lượng của trung đoàn 53, đánh chiếm khu cư xá sĩ quan, khu tiếp vận, Sở Thú y, Sở Ngân khố, nhà lao, đến 15 giờ thì gặp các đơn vị của trung đoàn 95B.
Đến 14 giờ 30, đại tá Trịnh Tiếu, trưởng phòng quân báo Quân đoàn II mới trình tướng Phú bản báo cáo trong đó kết luận: đã phát hiện sư đoàn 316 (QGP) từ Lào về đang di chuyển xuống phía Nam. Tướng Phú lập tức ra lệnh phá các cầu trên đường 14 để ngăn chặn đơn vị này nhưng đã quá muộn. Đến lúc đó thì toàn bộ sư đoàn 316 đã giao chiến với quân VNCH trong nội đô thị xã được hơn 10 tiếng đồng hồ. Lúc 17 giờ, tiểu đoàn 9 (trung đoàn 149) phối hợp với các đơn vị của trung đoàn 198 đặc công vây đánh nhưng không chiếm được sở chỉ huy sân bay Hòa Bình do một tiểu đoàn biệt động quân QLVNCH phòng giữ. Trong thị xã, tiểu đoàn 7 (trung đoàn 149) đánh chiếm khu tham mưu - truyền tin và nhầm lẫn rằng đó là Sở chỉ huy sư đoàn 23.
Đêm 10 tháng 3, chiến sự tạm lắng. Các đơn vị QLVNCH còn lại trong thị xã co cụm trong các cứ điểm còn giữ được như Sở chỉ huy sư đoàn 23, khu nhà ga sân bay Hòa Bình, đài phát thanh. Đại tá Vũ Thế Quang điện cho chuẩn tướng Lê Trung Tường xin tiếp ứng nhưng chỉ nhận được câu trả lời: "Bộ chỉ huy đang bận đối phó trên hướng Pleiku-Kon Tum. Đại tá ráng giữ vững. Cộng quân có đánh lớn thì cũng chỉ được vài ngày rồi rút như hồi Mậu Thân". Sáng 11 tháng 3, các đơn vị Quân Giải phóng tiếp tục tấn công trong làn mưa bom từ các máy bay A-37 của không quân VNCH trút xuống thị xã. Lúc 7 giờ 55, một tốp A-37 trong khi ném bom ngăn chặn 10 xe tăng của Quân Giải phóng đã đánh hai quả bom trúng hầm chỉ huy và truyền tin Sở chỉ huy sư đoàn 23. Bộ tư lệnh quân đoàn II QLVNCH mất liên lạc hoàn toàn với Bộ tư lệnh sư đoàn 23 kể từ giờ phút đó.
Mất sở chỉ huy, đồng thời bị vây đánh từ nhiều phía, các đơn vị còn sống sót của QLVNCH cố gắng chống cự chờ viện binh nhưng đến 11 giờ ngày 11 tháng 3, các đơn vị của sư đoàn 316 đã hoàn toàn làm chủ thị xã Buôn Ma Thuột. Chỉ còn liên đoàn 21 biệt động quân (thiếu) và một số đơn vị còn lại của trung đoàn 53 đang cố giữ chốt phòng ngự cuối cùng tại sân bay Hòa Bình (phi trường Phụng Dực) với hy vọng không quân sẽ đến đổ quân chi viện.
Phản kích và chống phản kích.
Đến ngày 12 tháng 3, khu vực hậu cứ trung đoàn 53 (sư đoàn 23) và sân bay Hòa Bình (Phụng Dực) trở thành nơi đồn trú của hầu hết các lực lượng QLVNCH còn lại sau hai ngày tác chiến đổ về đây. Tuy nhiên, trong số đó không có đại tá Vũ Thế Quang và đại tá Nguyễn Trọng Luật. Hai ông này đã bị bắt làm tù binh lúc 2 giờ sáng ngày 12 tháng 3 năm 1975. Trung tá Võ Ấn, trung đoàn tưởng trung đoàn 53 chỉ huy cánh quân này . Từ Sài Gòn, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lệnh cho tướng Phạm Văn Phú phải giữ bằng được các vị trí còn lại ở phía Đông thị xã làm bàn đạp và phải có ngay kế hoạch phản kích giải tỏa cho Buôn Ma Thuột. Rạng sáng ngày 12 tháng 3, kế hoạch tái chiếm Buôn Ma Thuột được Nguyễn Văn Thiệu chấp thuận gồm các hoạt động quân sự lớn sau đây:
Chiều ngày 12 tháng 3, sau trận oanh kích dọn bãi của 81 máy bay cường kích A-1, A-37, F-5; hai tiểu đoàn của trung đoàn 45 và một đại đội thám báo của sư đoàn 23 do trung tá Phùng Văn Quang (trung đoàn trưởng trung đoàn 45 chỉ huy) là những đơn vị đầu tiên đổ quân xuống Phước An. Hơn 100 máy bay trực thăng đủ loại, kể cả loại hạng nặng CH-47 Chinook được huy động cho cuộc chuyển quân. Lúc 13 giờ 10 phút chiều 12 tháng 3, đích thân thiếu tướng Phạm Văn Phú bay trên phi cơ hạng nhẹ U-17 lên vùng trời Buôn Ma Thuột chỉ huy cuộc phản kích. Từ trên máy bay, tướng Phú điện cho trung tá Võ Ấn đang chỉ huy các lực lượng giữ sân bay Hòa Bình biết cuộc đổ quân xuống Phước An - Nông Trại đã bắt đầu và động viên các đơn vị này cố gắng giữ vững. Sang ngày 13 tháng 3, 145 chiếc trực thăng đã đổ trung đoàn 44, pháo đội 232 và tiểu đoàn còn lại của trung đoàn 45 xuống khu vực điểm cao 581, Nông Trại, Phước An, Chư Cúc dọc đường 21. Chiều tối 12 tháng 3, sau khi đợt 1 của cuộc đổ quân hoàn tất, tướng Phú quay lại Pleiku gặp tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trên máy liên lạc cao tần để báo cáo cho tổng thống Thiệu tin tức mới nhất về sự xuất hiện của sư đoàn 316 QGP trên chiến trường Buôn Ma Thuột.
Trong khi đang thực hiện việc chuyển quân của sư đoàn 23 từ Pleiku về Buôn Ma Thuột, sân bay Cù Hanh tiếp tục bị các đơn vị của sư đoàn 968 Quân Giải phóng pháo kích. Bộ Tư lệnh Quân Giải phóng tại mặt trận Tây Nguyên đã dự liệu được phản ứng của QLVNCH và hành động theo phương châm: tranh thủ được một tiếng đồng hồ, lực lượng có thể tăng gấp đôi; tranh thủ được 24 tiếng đồng hồ, lực lượng có thể tăng gấp mười. Ngày 11 tháng 3 trong khi các trận đánh trong thị xã còn tiếp diễn, tiểu đoàn 6, trung đoàn 24 (sư đoàn 10) đã tấn công cứ điểm Chư Nga và căn cứ 45 phía Đông thị xã. Việc để mất căn cứ 45 và cứ điểm Chư Nga đã buộc các trung đoàn 44 và 45 QLVNCH phải thay đổi địa điểm đổ quân đến Nông Trại - Phước An. Từ chiều 13 tháng 3, các trung đoàn 24 và 28 (sư đoàn 10) được tăng cường hai đại đội xe tăng và một tiểu đoàn pháo binh đã hành quân suốt đêm và áp sát quận lỵ Phước An vào rạng sáng. 7 giờ 7 phút sáng 14 tháng 3, trong khi các đơn vị của hai trung đoàn 44 và 45 QLVNCH còn chưa triển khai đội hình, trung đoàn 24 (sư đoàn 10 QGP) có hai tiểu đoàn của trung đoàn xe tăng 273 yểm hộ đã từ hai phía nổ súng tấn công trung đoàn 45 tại điểm cao 581..
Đến 12 giờ trưa ngày 14 tháng 3, các tiểu đoàn 1 và 2 của trung đoàn 45 cùng tiểu đoàn bảo an tại điểm cao 581 hầu như bị đánh tan. Tiểu đoàn còn lại vừa đánh vừa lùi về khu vực Nông Trại. Bây giờ thì nhiệm vụ trước mắt của trung đoàn 44 (sư đoàn 23 QLVNCH) chưa phải là giải toả Buôn Ma Thuột mà là ứng viện cho trung đoàn 45 đang bị vây ép. Ngày 15 tháng 3, cánh quân còn lại của sư đoàn 23, trong đó có Sở chỉ huy nhẹ của sư đoàn đổ quân xuống Phước An. Ngày 16 tháng 3, cả hai cụm quân của sư đoàn 23 tại Phước An và Nông Trại cùng lúc bị tấn công. Đến 8 giờ 15 phút, tiểu đoàn 3, đơn vị cuối cùng của trung đoàn 45 (sư đoàn 23 QLVNCH) bị đánh tan, trung tá Phùng Văn Quang và toàn bộ ban chỉ huy trung đoàn bị bắt làm tù binh cùng với chiếc trực thăng đã nổ máy định bốc họ lên không.
Ngày 17 tháng 3, Bộ Tư lệnh mặt trận Tây Nguyên điều tiếp trung đoàn 28 (sư đoàn 10) và tiểu đoàn xe tăng còn lại của trung đoàn 273 tăng cường cho trung đoàn 24 tấn công Phước An. Cùng ngày, trung đoàn 66 (sư đoàn 10) và trung đoàn đặc công 198 mở đợt tổng công kích vào cụm quân còn lại của trung đoàn 53 và liên đoàn 21 biệt động quân tại sân bay Hòa Bình (Phụng Dực). 11 giờ 30 sáng 17 tháng 3, sân bay Hòa Bình bị chiếm. Trung đoàn 53 bị xóa sổ. Một nhóm nhỏ gần 20 binh sĩ của cụm quân này thoát vây chạy về được Phước An. Trong ngày 17 tháng 3, trung đoàn 44 bị tấn công liên tục tan rã tại Phước An. Đại tá Đức (tư lệnh mới của sư đoàn 23) đưa sở chỉ huy nhẹ sư đoàn và hơn 700 quân còn lại về Chư Cúc. Ngay lập tức, họ bị trung đoàn 28 (sư đoàn 10) và 1 tiểu đoàn của trung đoàn xe tăng 273 QGP truy kích, phải bỏ Chư Cúc chạy về Pleiku.. Trận phản kích của QLVNCH với ý định tái chiếm Buôn Ma Thuột thất bại.
Cuộc rút quân trên đường số 7.
Quyết định sai lầm chiến lược của Nguyễn Văn Thiệu.
Khi trận Buôn Ma Thuột và chiến sự ở Tây Nguyên đang diễn ra thì QLVNCH tại Quân khu I cũng đang phải đối phó với các hoạt động của các sư đoàn 324, 325 QGP tại Trị Thiên Huế. Nhiều đơn vị cấp tiểu đoàn của Quân Giải phóng đã xâm nhập xuống đồng bằng. Từ ngày 8 đến ngày 13 tháng 3, một số trận đánh đã nổ ra ở Truồi (phía Nam Huế), chi khu quân sự Mai Lĩnh, căn cứ Mỏ Tàu (Thừa Thiên), các chi khu quân sự Tiên Phước, Hậu Đức (Quảng Tín). Tại phía Nam Quân khu I, một loạt căn cứ ven sông Vệ ở Quảng Ngãi bị tiến công.. Nhưng áp lực của đối phương tăng mạnh ở Quân khu I đã khiến cho Bộ Tổng tham mưu QLVNCH không dám rút các sư đoàn thuộc lực lượng tổng trù bị chiến lược của mình (sư dù và sư thủy quân lục chiến) để ứng cứu cho Tây Nguyên Ngày 11 tháng 3, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã họp với các thủ tướng Trần Thiện Khiêm, đại tướng tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên và trung tướng Đặng Văn Quang để bàn về việc tái phối trí lại lực lượng. Tại cuộc họp này, Nguyễn Văn Thiệu thông báo quyết định của ông: "Với khả năng và lực lượng ta đang có, chắc chắn chúng ta không thể bảo vệ được tất cả lãnh thổ muốn bảo vệ. Như vậy chúng ta nên tái phối trí lực lượng và bảo vệ những vùng đông dân, trù phú, vì những vùng đất đó mới thực sự quan trọng".
11 giờ trưa 14 tháng 3, tại Cam Ranh diễn ra một cuộc họp mà sau này, nhiều nhà bình luận quân sự cho rằng nó là một trong những nguyên nhân gây ra một thảm họa quân sự lớn nhất trong chiến tranh Việt Nam
Tại cuộc họp, thiếu tướng Phạm Văn Phú báo cáo tổng quát diễn biến chiến sự tại Tây Nguyên; trong đó, tướng Phú thỉnh cầu xin thêm máy bay cho sư đoàn 6 không quân, bổ sung quân số bị tổn thất, tăng viện từ 1 đến 2 lữ đoàn dù để phòng giữ Kon Tum, Pleiku và sau đó dùng để phản kích chiếm lại các vùng đã mất. Nguyễn Văn Thiệu không chấp nhận đề nghị của tướng Phú với lý do "không còn quân tăng phái, Cộng sản có thể đánh mạnh hơn năm 1972" và lệnh cho ông này rút quân về đồng bằng, tái phối trí lại lực lượng. Về hướng rút quân, đại tướng Cao Văn Viên lưu ý về những nguy hiểm khó lường khi rút theo đường 19, ông nhắc lại thảm họa đã xảy ra đối với Binh đoàn cơ động số 100 của quân viễn chinh Pháp trên đường 19 năm 1954. Sau khi thảo luận nhiều lần về việc chọn đường rút quân, Nguyễn Văn Thiệu và các tướng lĩnh đã quyết định rút theo đường số 7 vì họ cho rằng, con đường đó tuy xấu nhưng gây được bất ngờ cho đối phương
Trở về Pleiku, thiếu tướng Phạm Văn Phú không biết rằng trước đó một ngày, Trung tướng Ngô Quang Trưởng, tư lệnh Quân khu I cũng được lệnh rút các lực lượng của mình khỏi địa bàn quân khu. 16 giờ ngày 14 tháng 3, tướng Phú triệu tập ngay chuẩn tướng Trần Văn Cẩm, chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, chuẩn tướng Phạm Duy Tất và đại tá Lê Khắc Lý bàn việc rút quân với mấy yêu cầu:
Thảm họa trên đường số 7.
Mặc dù Bộ tư lệnh Quân đoàn II QLVNCH cố gắng giữ bí mật tối đa cuộc rút quân nhưng những hoạt động nhộn nhịp bất thường của không quân tại Pleiku trong ngày 14 tháng 3 đã gây nên những nghi ngờ trong gia đình các sĩ quan cấp dưới, binh sĩ và cả dân chúng. Sáng sớm ngày 15 tháng 3, một đoàn xe quân sự lớn của các liên đoàn 6 và 23 biệt động quân từ Kon Tum di chuyển qua Pleiku xuống phía Nam càng làm cho tâm lý của cán, chính, dân, binh thêm xao xuyến. Đến trưa ngày 15 thì mọi mệnh lệnh để ổn định tình hình của chuẩn tướng Trần Văn Cẩm và đại tá Lê Khắc Lý đều trở nên vô hiệu. Một số sĩ quan, công chức, binh lính đã bỏ đơn vị và nhiệm sở để lo cho gia đình di tản. Nhiều vụ cướp bóc, tống tiền đã xảy ra. Ngay cả CIA cũng bắt đầu di tản người Mỹ khỏi Pleiku vì theo họ đánh giá, thị xã này đã giống như một thùng thuốc súng.
13 giờ chiều 15 tháng 3, cuộc di tản của Quân đoàn II chính thức bắt đầu trong sự cập rập, vội vã. Thiết đoàn 19 và liên đoàn 6 biệt động quân mở đường từ Pleiku đi Phú Túc. Tiếp đó là bộ phận còn lại của Bộ tư lệnh Quân đoàn II, bộ tư lệnh lữ đoàn 2 kỵ binh thiết giáp, các đơn vị bộ binh, hậu cần. Theo tính toán của tướng Phú, các đơn vị Quân Giải phóng tập trung vây đánh trung đoàn 53, căn cứ B50 ở Buôn Ma Thuột và lo đối phó với cuộc phản kích của sư đoàn 23 tại Phước An nên phải mất ba đến năm ngày mới có thể điều quân đến do đường sá rất xấu, cơ động khó khăn. Còn sư đoàn 968 nếu có đuổi theo cũng phải hành quân bộ, đánh vuốt đuôi và sẽ bị liên đoàn 25 biệt động quân cản hậu chặn đánh. Hai ngày đầu cuộc di tản diễn ra thuận lợi. Sáng 16 tháng 3, khi đội thiết giáp đi đầu trong đoàn xe quân sự dài đến hơn 2.000 chiếc kèm theo gần 2.000 phương tiện giao thông dân sự các loại đã đến Cheo Reo an toàn và bắt đầu di chuyển xuống Củng Sơn thì toán cuối của đoàn xe này mới ra khỏi thị xã Pleiku.
Kế hoạch rút quân của Quân đoàn II QLVNCH không quá bất ngờ đối với Quân Giải phóng. Bất ngờ duy nhất mà Tổng thống Thiệu và tướng Phú tạo ra được là cuộc di tản này được tiến hành quá nhanh. Đến chiều 15 tháng 3, khi cánh quân đi đầu của thiết đoàn 19 đã qua Cheo Reo, Bộ Tư lệnh mặt trận Tây nguyên mới được tin QLVNCH bắt đầu rút khỏi Pleiku và Kon Tum. 20 giờ tối 16 tháng 3, lệnh truy kích mới được ban bố. Tiểu đoàn 9, trung đoàn 64 (sư đoàn 320 QGP) là đơn vị đầu tiên được điều động đã hành quân cắt rừng suốt đêm để lập một chốt chặn ở phía Nam thị xã Cheo Reo. Theo sát họ là đội hình chính của trung đoàn 64 hành quân trên 110 xe ô tô các loại được huy động. Bộ Tư lệnh mặt trận Tây Nguyên đã có ngay một kế hoạch chặn đánh trên đường số 7, sử dụng toàn bộ sư đoàn 320, tiểu đoàn xe tăng 2 (trung đoàn 273), trung đoàn pháo binh 675, trung đoàn cao xạ 593 và hai tiểu đoàn quân địa phương ở Phú Yên..
Sáng 17 tháng 3, tốp xe tăng, thiết giáp đi đầu của thiết đoàn 19 và liên đoàn 6 biệt động quân QLVNCH đã chạm súng với tiểu đoàn 9, trung đoàn 64 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tại đèo Tuna, cách Cheo Reo 4 km về Đông đông Phú Bổn. Đoàn xe di tản khổng lồ ứ lại tại Cheo Reo. Từ chiều tối 17 đến sáng 18 tháng 3, chuẩn tướng Tất sử dụng liên đoàn 7 biệt động quân với sự yểm họ của không quân, pháo binh và thiết giáp liên tục công kích nhổ chốt, vu hồi bọc chốt để mở đường nhưng đều bị đẩy lùi. Sáng 18 tháng 3, toàn bộ trung đoàn 64 (sư đoàn 320A Quân Giải phóng) đã triển khai xong các chốt chặn tiếp theo phía hạ lưu đèo Tuna; trung đoàn 48 (thiếu) của sư đoàn này và trung đoàn 9 (sư đoàn 968) đã bao vây Cheo Reo từ ba mặt..
Trưa ngày 18, chuẩn tướng Phạm Văn Tất điều liên đoàn 25 biệt động quân đang làm nhiệm vụ cản hậu vượt lên trước cùng với lữ đoàn 2 thiết kỵ mở cuộc công kích cuối cùng để mở đường. Cũng thời điểm đó, các đơn vị pháo binh của trung đoàn 675 bắt đầu pháo kích các vị trí đóng quân tạm thời của QLVNCH trong thị xã Cheo Reo và 3 trung đoàn bộ binh Quân Giải phóng bắt đầu tấn công. Trong sự hỗn loạn, mọi cố gắng ổn định lại tình hình và tổ chức kháng cự của các vị chỉ huy QLVNCH trở nên vô vọng. 17 giờ chiều, chuẩn tướng Phạm Duy Tất nhận được lệnh phá bỏ tất cả các chiến cụ nặng. 17 giờ 30, một chiếc HU-1A vượt qua làn đạn phòng không của đối phương hạ cách xuống sân trường tiểu học Phú Bổn để đưa tướng Tất và đại tá Hoàng Thọ Nhu (tỉnh trưởng Pleiku) về Nha Trang.. Đến 9 giờ sáng ngày 19 tháng 3, các đơn vị QLVNCH bị vây tại Cheo Reo chấm dứt kháng cự. Chỉ có thiết đoàn 19 và liên đoàn 6 biệt động quân về được đến Củng Sơn với ít thiệt hại, thương vong nhất. Trên đường về Tuy Hoà, họ phải dừng lại tại sông Ba bốn ngày để chờ công binh thiết lập lại bến phà. Cuối cùng, các đơn vị này về đến Tuy Hòa ngày 25 tháng 3 năm 1975..
Kết quả và ý nghĩa.
Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam.
Thắng lợi của Chiến dịch Tây Nguyên đã làm rung chuyển, đảo lộn cả thế trận của QLVNCH khiến cho QLVNCH thực sự hoảng sợ và hỗn loạn. Phía Quân Giải phóng miền Nam đã tận dụng thế trận này chiếm hết toàn bộ vùng cao nguyên, cắt những quân khu miền trung của VNCH ra làm đôi.. Điều này khiến cho chiến thắng đến với QGP với tốc độ nhanh hơn rất nhiều. Theo báo Nhân dân: "Chiến dịch Tây Nguyên thực sự là đòn điểm huyệt quân đội Sài Gòn trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân "
Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp, nguyên Chính ủy Chiến dịch Tây Nguyên cũng tâm niệm và nhắc lại:
Ý nghĩa về phương diện học thuật quân sự.
Chiến thắng Tây Nguyên mang ý nghĩa lớn về học thuật. Tại đây, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã mục tiêu chủ yếu (Buôn Ma Thuật) vào đúng nơi hiểm nhưng yếu của QLVNCH và khiến cho nó "yếu" hơn bằng cách nghi binh điều QLVNCH lên hướng bắc, đồng thời bí mật cơ động lực lượng lớn về hướng nam, nhờ vậy Quân Giải phóng đã tập trung ưu thế áp đảo ở nơi cần thiết, tạo yếu tố bất ngờ. Quân Giải phóng đã bố trí thế trận hiểm, chia cắt chiến lược và chiến dịch địch, khiến các cụm quân của QLVNCH bị cô lập. Từ đó buộc QLVNCH phải chấp nhận các tình huống mà Quân Giải phóng đã dự kiến (thí dụ: do thế trận của Quân Giải phóng, QLVNCH chỉ còn một khả năng duy nhất là đổ bộ trực thăng xuống đường 21 sau khi mất Buôn Ma Thuật. Tại đây, Quân Giải phóng đã bố trí sẵn sàng Sư đoàn 10 và Trung đoàn 25. Có nghĩa là QLVNCH đã rơi vào đúng kế, đúng định của Quân Giải phóng). Nắm thời cơ có QLVNCH rút chạy, phía Quân Giải phóng đã kịp thời và kiên quyết truy kích tiêu diệt QLVNCH, đưa QLVNCH đến thất bại chưa từng có. Ngoại trừ một nguyên nhân khách quan rằng Quân đoàn II QLVNCH tự tan rã quá nhanh làm mất mát đến 1/4 lực lượng chính quy này.
Tổn thất quân sự và dân sự.
Đại tướng Cao Văn Viên nhận xét: "Cuộc triệt thoái khỏi cao nguyên là một thất bại chiến lược về phương diện quân sự. 75% lực lượng của Quân đoàn 2, gồm sư đoàn 23, biệt động quân, thiết kỵ, pháo binh, truyền tin và công binh bị hao tổn chỉ trong 10 ngày. Kế hoạch tái chiếm Ban Mê Thuột cũng bị thất bại vì Quân đoàn không còn quân. Cộng sản chiếm được Kon Tum và Pleiku không tốn một viên đạn".
Theo các nhà bình luận quân sự phương Tây, thất bại trong của cuộc rút lui của Quân đoàn II QLVNCH trên đường số 7 kèm theo những tổn thất rất nặng nề cả về quân sự và dân sự. Ít nhất 3/4 lực lượng của Quân đoàn II đã bị bắt sống hoặc đào ngũ Cơ quan CIA tại Sài Gòn nhận xét rằng chỉ cần một sư đoàn rút về được đến ven biển với tổn thất tối thiểu cũng đã là một sự may mắn. Số tài sản quân sự gồm xe tăng M48 Patton, xe bọc thép M-113, đại bác M-107 175 mm, đại bác HM-3 155 mm, đại bác HM-2 105 mm bị phá hủy hoặc rơi vào tay Quân Giải phóng lên đến con số hàng nghìn.
Phía Quân Giải phóng cho biết họ chỉ trong tám ngày cuối chiến dịch, họ đã loại khỏi vòng chiến 28.514 sĩ quan và binh sĩ QLVNCH, trong số đó có 4.502 chết hoặc bị thương, 16.822 người bị bắt làm tù binh, có 779 sĩ quan từ chuẩn úy đến chuẩn tướng; chỉ có 7.190 người được thả. Quân Giải phóng chỉ tổn thất 56 người chết và hơn 100 người bị thương khi đánh chặn ở Cheo Reo - Củng Sơn
Về trang bị, quân Giải phóng thu giữ và phá 17.183 súng và pháo các loại, trong đó có 79 khẩu pháo từ 105 mm trở lên, gồm 48 khẩu pháo 105mm, 14 khẩu 155mm và 12 khẩu M107 175mm (mệnh danh Vua Chiến trường); thu giữ 3.854 tấn đạn, 150 tấn vật tư thiết bị, 767 máy thông tin; phá hủy hoặc thu giữ hơn 2.000 xe quân sự (thu giữ 418 xe), bao gồm 207 xe tăng và xe bọc thép; bắn rơi 44 máy bay, thu giữ và phá hủy 110 chiếc khác của Không lực VNCH.
Trong cuộc di tản hỗn độn, các sĩ quan và binh sĩ QLVNCH đem theo cả gia đình họ, cùng với những nhân viên dân sự chen chúc nhau trên con đường ngập cỏ, bụi cây đã rơi vào tình thế cực kỳ náo loạn và thậm chí còn bị chính máy bay của họ bắn nhầm "trong một cuộc hành trình đầy nước mắt". Thậm chí khi các cây cầu bị phá hủy, đoàn xe dồn ứ lại, các xe quân sự vẫn lao đại qua sông rồi chìm nghỉm, thậm chí cán qua các xe khác. Những binh sĩ đào ngũ của VNCH lợi dụng cơ hội đã cướp bóc dã man nhiều gia đình sĩ quan và cả dân thường hoặc công chức chính quyền. Số binh sĩ bị chết do xe cán lên tới vài nghìn. Trong số gần 400.000 người di tản xuống đồng bằng thì chỉ có non một phần tư đến nơi, số còn lại tan rã, thất lạc tứ tán. Cuộc thoái lui của binh lính và viên chức VNCH đã trở thành một cuộc tháo chạy tán loạn, vô tổ chức, vô kỷ luật, thể hiện sự yếu kém và hèn nhát của QLVNCH. Chính sự hoảng loạn này đã đẩy quá trình sụp đổ của chính quyền Sài Gòn tới gần hơn
Theo tính toán của Hoa Kỳ, sự tổn thất vượt quá mọi sự đo lường. Trong số 60.000 quân rút chạy thì chỉ có 20.000 về đến đích và hầu như không còn sức chiến đấu. Trong số 7.000 lính biệt động quân chỉ còn 700 đến đích. Sau trận Buôn Ma Thuột và cuộc rút lui thảm họa trên đường số 7, Quân đoàn II không còn tồn tại như là một lực lượng chiến đấu tương xứng với quy mô của nó nữa.
Nguyên nhân thất bại của VNCH.
Nguyên nhân thất bại của VNCH xuất phát trước hết từ việc mất hết bình tĩnh khi đánh giá tình hình của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Nếu như trước đây, ông đã quá tin vào cơ quan tình báo quân đội nhưng đến khi bị gài thế về quân sự quá chặt, không kịp trở tay gỡ ra thì lại quay ra mất tin tưởng hoàn toàn vào tình báo quân đội. Từ khi Buôn Ma Thuột thất thủ, thái độ của Nguyễn Văn Thiệu đã làm cho cơ quan này mất sự tự tin và bản thân ông ta cũng coi cơ quan tình báo quân đội có cũng như không cho đến tận phút chót của cuộc chiến. Việc mất lòng tin vào cơ quan tình báo quân đội và kể cả vào CIA đã dẫn đến những sai lầm chiến lược quân sự của Nguyễn Văn Thiệu và ông ta đã bỏ ngoài tai những lời bàn thảo hợp lý của các tướng lĩnh, kể cả đại tướng Cao Văn Viên để rồi tự mình định đoạt mọi chuyện.. Khi thiếu tướng Phạm Văn Phú khăng khăng đòi tăng quân để bảo vệ Tây Nguyên thì ông Thiệu đã đặt ra cho tướng Phú hai lựa chọn: hoặc là thi hành lệnh, hoặc là bị thay thế và ngồi tù để người khác thi hành lệnh. Và đương nhiên, tướng Phú chọn giải pháp chấp hành.
Nguyên nhân thứ hai dẫn đến việc thất thủ ở Tây Nguyên là sự quá tin tưởng của Nguyễn Văn Thiệu vào sự chi viện trực tiếp bằng quân sự của Hoa Kỳ. Trong khi cả Quân đoàn II của tướng Phú đang phải vật lộn sống chết trên đường số 7 và mặc dù biết rằng "nội một vài ngày tới, tình hình sẽ trầm trọng hết sức mau lẹ" nhưng ông vẫn hy vọng vào việc ""đặt với Hoa Kỳ câu hỏi "yes or no" (có hay không) buộc họ phải dứt khoát có muốn giúp hay không"". Trong khi đó thì lời tuyên bố của Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Jame Schlesinger sau khi được tin Phước Long thất thủ và lời an ủi của Thứ trưởng William Clement đã chứng tỏ phần nào việc Hoa Kỳ không muốn dính líu trở lại về quân sự tại Việt Nam.
Nguyên nhân thứ ba làm cho việc thất thủ Tây Nguyên của QLVNCH là họ muốn một cuộc rút quân có tổ chức, có chỉ huy, có giữ bí mật nhưng chính sự yếu kém về tổ chức và tính linh hoạt khi xử lý các tình huống đã làm hại họ. Lực lượng đông, binh khí kỹ thuật nhiều nhưng lại kéo dài đội hình trên đường độc đạo nên khó tránh được ùn tắc. Đoàn quân này lại kéo theo cả hàng vạn thường dân, trong đó quá nửa là gia đình các sĩ quan, binh sĩ và công chức, rất khó tránh khỏi rối loạn khi gặp tình huống bất ngờ. Hy vọng duy nhất có thể trông cậy được là tính bất ngờ thì chỉ sau hai ngày cũng không còn. Khi bị đối phương chặn đánh quyết liệt thì sự tan rã không phải là điều khó hiểu. Báo cáo tường trình về cuộc rút quân của khỏi Tây Nguyên của Bộ tư lệnh Quân đoàn II trình tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ghi nhận: "Cuộc hành quân dự trù không có áp lực của đối phương; nhưng khi thực thi đã gặp áp lực nặng nề làm cho chỉ huy lúng túng không sao đối phó được".
Nguyên nhân cuối cùng dẫn đến thất bại ở Tây Nguyên năm 1975 của QLVNCH là yếu tố tinh thần. Cuộc chiến kéo dài dai dẳng nhiều năm làm cho tinh thần binh sĩ sa sút. Sự bi quan trong các sĩ quan chỉ huy còn tăng thêm khi ngoại trưởng Trần Văn Lắm từ Hoa Kỳ trở về thông báo khả năng Mỹ tăng thêm viện trợ gần như không còn và phái đoàn của Quốc hội Hoa Kỳ cũng không hứa hẹn gì trong cuộc đi thăm chính thức hồi tháng 2 năm 1975. Khi rút quân, phần lớn các sĩ quan và binh sĩ QLVNCH đem theo cả gia đình. Lúc lâm trận, không ít người đã bỏ đi tìm người nhà thay vì xông ra giao chiến; và lòng trung thành của họ với gia đình nhiều hơn là với cấp chỉ huy đã ảnh hưởng lớn đến tinh thần chiến đấu của họ.
Từ thời chiến tranh Đông Dương 1945-1954, người Pháp và Việt Minh đều coi Tây Nguyên là mái nhà và là cái chìa khóa của Đông Dương. Mất các căn cứ cơ bản trụ cột phòng thủ cao nguyên mà trong tay không còn lực lượng dự bị cơ động nào khả dĩ nào để có thể xoay chuyển tình thế, QLVNCH ở vào tình thế rất nguy hiểm. Những lực lượng của họ tuy còn khá đông nhưng lại chiếm giữ một cách không chắc chắn dải đất hẹp ven biển miền Trung và có nguy cơ bị tấn công chia cắt bất cứ lúc nào. Quyết định bỏ Tây Nguyên và rút các lực lượng còn lại về cố thủ dải đồng bằng ven biển miền Trung của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trong cuộc họp ngày 14 tháng 3 tại căn cứ quân sự Cam Ranh với các ông Cao Văn Viên, Trần Thiện Khiêm và Phạm Văn Phú mặc dù có một trong những nguyên nhân là tình trạng suy yếu lực lượng của Việt Nam Cộng hòa lúc đó nhưng đã trở thành một lỗi lầm chí tử. Kế hoạch này cùng với viện thực hiện rút quân thiếu tổ chức không những không cứu vãn được tình thế của Quân đoàn II mà còn đẩy họ đến chỗ bị tiêu diệt và tan rã, mở đầu cho sự sụp đổ không tránh khỏi của Việt Nam Cộng hoà.
|
Hệ thống nhúng () là một thuật ngữ để chỉ một hệ thống có khả năng tự trị được nhúng vào trong một môi trường hay hệ thống mẹ. Đó là các hệ thống tích hợp cả phần cứng và phần mềm phục vụ các bài toán chuyên dụng trong nhiều lĩnh vực công nghiệp, tự động hoá điều khiển, quan trắc và truyền tin. Đặc điểm của các hệ thống nhúng là hoạt động ổn định và có tính năng tự động hoá cao.
Hệ thống nhúng thường được thiết kế để thực hiện một chức năng chuyên biệt nào đó. Khác với các máy tính đa chức năng, chẳng hạn như máy tính cá nhân, một hệ thống nhúng chỉ thực hiện một hoặc một vài chức năng nhất định, thường đi kèm với những yêu cầu cụ thể và bao gồm một số thiết bị máy móc và phần cứng chuyên dụng mà ta không tìm thấy trong một máy tính đa năng nói chung. Vì hệ thống chỉ được xây dựng cho một số nhiệm vụ nhất định nên các nhà thiết kế có thể tối ưu hóa nó nhằm giảm thiểu kích thước và chi phí sản xuất. Các hệ thống nhúng thường được sản xuất hàng loạt với số lượng lớn.
Hệ thống nhúng rất đa dạng, phong phú về chủng loại. Đó có thể là những thiết bị cầm tay nhỏ gọn như đồng hồ kĩ thuật số và máy chơi nhạc MP3, hoặc những sản phẩm lớn như đèn giao thông, bộ kiểm soát trong nhà máy hoặc hệ thống kiểm soát các máy năng lượng hạt nhân. Xét về độ phức tạp, hệ thống nhúng có thể rất đơn giản với một vi điều khiển hoặc rất phức tạp với nhiều đơn vị, các thiết bị ngoại vi và mạng lưới được nằm gọn trong một lớp vỏ máy lớn.
Các thiết bị PDA hoặc máy tính cầm tay cũng có một số đặc điểm tương tự với hệ thống nhúng như các hệ điều hành hoặc vi xử lý điều khiển chúng nhưng các thiết bị này không phải là hệ thống nhúng thật sự bởi chúng là các thiết bị đa năng, cho phép sử dụng nhiều ứng dụng và kết nối đến nhiều thiết bị ngoại vi.
Hệ thống nhúng đầu tiên là Apollo Guidance Computer (Máy tính Dẫn đường Apollo) được phát triển bởi Charles Stark Draper tại phòng thí nghiệm của trường đại học MIT. Hệ thống nhúng được sản xuất hàng loạt đầu tiên là máy hướng dẫn cho tên lửa quân sự vào năm 1961. Nó là máy hướng dẫn Autonetics D-17, được xây dựng sử dụng những bóng bán dẫn và một đĩa cứng để duy trì bộ nhớ. Khi Minuteman II được đưa vào sản xuất năm 1996, D-17 đã được thay thế với một máy tính mới sử dụng mạch tích hợp. Tính năng thiết kế chủ yếu của máy tính Minuteman là nó đưa ra thuật toán có thể lập trình lại sau đó để làm cho tên lửa chính xác hơn, và máy tính có thể kiểm tra tên lửa, giảm trọng lượng của cáp điện và đầu nối điện.
Từ những ứng dụng đầu tiên vào những năm 1960, các hệ thống nhúng đã giảm giá và phát triển mạnh mẽ về khả năng xử lý. Bộ vi xử lý đầu tiên hướng đến người tiêu dùng là Intel 4004, được phát minh phục vụ máy tính điện tử và những hệ thống nhỏ khác. Tuy nhiên nó vẫn cần các chip nhớ ngoài và những hỗ trợ khác. Vào những năm cuối 1970, những bộ xử lý 8 bit đã được sản xuất, nhưng nhìn chung chúng vẫn cần đến những chip nhớ bên ngoài.
Vào giữa thập niên 80, kỹ thuật mạch tích hợp đã đạt trình độ cao dẫn đến nhiều thành phần có thể đưa vào một chip xử lý. Các bộ vi xử lý được gọi là các vi điều khiển và được chấp nhận rộng rãi. Với giá cả thấp, các vi điều khiển đã trở nên rất hấp dẫn để xây dựng các hệ thống chuyên dụng. Đã có một sự bùng nổ về số lượng các hệ thống nhúng trong tất cả các lĩnh vực thị trường và số các nhà đầu tư sản xuất theo hướng này. Ví dụ, rất nhiều chip xử lý đặc biệt xuất hiện với nhiều giao diện lập trình hơn là kiểu song song truyền thống để kết nối các vi xử lý. Vào cuối những năm 80, các hệ thống nhúng đã trở nên phổ biến trong hầu hết các thiết bị điện tử và khuynh hướng này vẫn còn tiếp tục cho đến nay.
Cho đến nay, khái niệm hệ thống nhúng được nhiều người chấp nhận nhất là: hệ thống thực hiện một số chức năng đặc biệt có sử dụng vi xử lý. Không có hệ thống nhúng nào chỉ có phần mềm.
Hệ thống nhúng thường có một số đặc điểm chung như sau:
• Các hệ thống nhúng được thiết kế để thực hiện một số nhiệm vụ chuyên dụng chứ không phải đóng vai trò là các hệ thống máy tính đa chức năng. Một số hệ thống đòi hỏi ràng buộc về tính hoạt động thời gian thực để đảm bảo độ an toàn và tính ứng dụng; một số hệ thống không đòi hỏi hoặc ràng buộc chặt chẽ, cho phép đơn giản hóa hệ thống phần cứng để giảm thiểu chi phí sản xuất.
• Một hệ thống nhúng thường không phải là một khối riêng biệt mà là một hệ thống phức tạp nằm trong thiết bị mà nó điều khiển.
• Phần mềm được viết cho các hệ thống nhúng được gọi là firmware và được lưu trữ trong các chip bộ nhớ ROM hoặc bộ nhớ flash chứ không phải là trong một ổ đĩa. Phần mềm thường chạy với số tài nguyên phần cứng hạn chế: không có bàn phím, màn hình hoặc có nhưng với kích thước nhỏ, dung lượng bộ nhớ thấp
Sau đây, ta sẽ đi sâu, xem xét cụ thể đặc điểm của các thành phần của hệ thống nhúng.
Các hệ thống nhúng có thể không có giao diện (đối với những hệ thống đơn nhiệm) hoặc có đầy đủ giao diện giao tiếp với người dùng tương tự như các hệ điều hành trong các thiết bị để bàn.
Đối với các hệ thống đơn giản, thiết bị nhúng sử dụng nút bấm, đèn LED và hiển thị chữ cỡ nhỏ hoặc chỉ hiển thị số, thường đi kèm với một hệ thống menu đơn giản.
Còn trong một hệ thống phức tạp hơn, một màn hình đồ họa, cảm ứng hoặc có các nút bấm ở lề màn hình cho phép thực hiện các thao tác phức tạp mà tối thiểu hóa được khoảng không gian cần sử dụng; ý nghĩa của các nút bấm có thể thay đổi theo màn hình và các lựa chọn. Các hệ thống nhúng thường có một màn hình với một nút bấm dạng cần điểu khiển (joystick button).
Sự phát triển mạnh mẽ của mạng toàn cầu đã mang đến cho những nhà thiết kế hệ nhúng một lựa chọn mới là sử dụng một giao diện web thông qua việc kết nối mạng. Điều này có thể giúp tránh được chi phí cho những màn hình phức tạp nhưng đồng thời vẫn cung cấp khả năng hiển thị và nhập liệu phức tạp khi cần đến, thông qua một máy tính khác. Điều này là hết sức hữu dụng đối với các thiết bị điều khiển từ xa, cài đặt vĩnh viễn. Ví dụ, các router là các thiết bị đã ứng dụng tiện ích này.
Các bộ xử lý trong hệ thống nhúng có thể được chia thành hai loại: vi xử lý và vi điều khiển. Các vi điều khiển thường có các thiết bị ngoại vi được tích hợp trên chip nhằm giảm kích thước của hệ thống.
Có rất nhiều loại kiến trúc CPU được sử dụng trong thiết kế hệ nhúng như ARM, MIPS, Coldfire/68k, PowerPC, x86, PIC, 8051, Atmel AVR, Renesas H8, SH, V850, FR-V, M32R, Z80, Z8 … Điều này trái ngược với các loại máy tính để bàn, thường bị hạn chế với một vài kiến trúc máy tính nhất định.
Các hệ thống nhúng có kích thước nhỏ và được thiết kế để hoạt động trong môi trường công nghiệp thường lựa chọn PC/104 và PC/104++ làm nền tảng. Những hệ thống này thường sử dụng DOS, Linux, NetBSD hoặc các hệ điều hành nhúng thời gian thực như QNX hay VxWorks.
Còn các hệ thống nhúng có kích thước rất lớn thường sử dụng một cấu hình thông dụng là hệ thống on chip (System on a chip – SoC), một bảng mạch tích hợp cho một ứng dụng cụ thể (an application-specific integrated circuit – ASIC). Sau đó nhân CPU được mua và thêm vào như một phần của thiết kế chip. Một chiến lược tương tự là sử dụng FPGA (field-programmable gate array) và lập trình cho nó với những thành phần nguyên lý thiết kế bao gồm cả CPU.
Thiết bị ngoại vi.
Hệ thống nhúng giao tiếp với bên ngoài thông qua các thiết bị ngoại vi, ví dụ như:
• Universal Serial Bus (USB)
• Networks: Controller Area Network, LonW
• Bộ định thời: PLL(s), Capture/Compare và Time Processing Units
• Discrete IO: General Purpose Input/Output (GPIO)
Công cụ phát triển.
Tương tự như các sản phẩm phần mềm khác, phần mềm hệ thống nhúng cũng được phát triển nhờ việc sử dụng các trình biên dịch (compilers), chương trình dịch hợp ngữ (assembler) hoặc các công cụ gỡ lỗi (debuggers). Tuy nhiên, các nhà thiết kế hệ thống nhúng có thể sử dụng một số công cụ chuyên dụng như:
• Bộ gỡ rối mạch hoặc các chương trình mô phỏng (emulator)
• Tiện ích để thêm các giá trị checksum hoặc CRC vào chương trình, giúp hệ thống nhúng có thể kiểm tra tính hợp lệ của chương
• Đối với các hệ thống xử lý tín hiệu số, người phát triển hệ thống có thể sử dụng phần mềm workbench như MathCad hoặc Mathematica để mô phỏng các phép toán.
• Các trình biên dịch và linker (trình liên kết) chuyên dụng được sử dụng để tối ưu hóa một thiết bị phần cứng.
• Một hệ thống nhúng có thể có ngôn ngữ lập trình và công cụ thiết kế riêng của nó hoặc sử dụng và cải tiến từ một ngôn ngữ đã có sẵn.
Các công cụ phần mềm có thể được tạo ra bởi các công ty phần mềm chuyên dụng về hệ thống nhúng hoặc chuyển đổi từ các công cụ phát triển phần mềm GNU. Đôi khi, các công cụ phát triển dành cho máy tính cá nhân cũng được sử dụng nếu bộ xử lý của hệ thống nhúng đó gần giống với bộ xử lý của một máy PC thông dụng.
Các hệ thống nhúng thường nằm trong các cỗ máy được kỳ vọng là sẽ chạy hàng năm trời liên tục mà không bị lỗi hoặc có thể khôi phục hệ thống khi gặp lỗi. Vì thế, các phần mềm hệ thống nhúng được phát triển và kiểm thử một cách cẩn thận hơn là phần mềm cho máy tính cá nhân. Ngoài ra, các thiết bị rời không đáng tin cậy như ổ đĩa, công tắc hoặc nút bấm thường bị hạn chế sử dụng. Việc khôi phục hệ thống khi gặp lỗi có thể được thực hiện bằng cách sử dụng các kỹ thuật như watchdog timer – nếu phần mềm không đều đặn nhận được các tín hiệu watchdog định kì thì hệ thống sẽ bị khởi động lại.
Một số vấn đề cụ thể về độ tin cậy như:
• Hệ thống không thể ngừng để sửa chữa một cách an toàn, ví dụ như ở các hệ thống không gian, hệ thống dây cáp dưới đáy biển, các đèn hiệu dẫn đường,… Giải pháp đưa ra là chuyển sang sử dụng các hệ thống con dự trữ hoặc các phần mềm cung cấp một phần chức năng.
• Hệ thống phải được chạy liên tục vì tính an toàn, ví dụ như các thiết bị dẫn đường máy bay, thiết bị kiểm soát độ an toàn trong các nhà máy hóa chất,… Giải pháp đưa ra là lựa chọn backup hệ thống.
• Nếu hệ thống ngừng hoạt động sẽ gây tổn thất rất nhiều tiền của ví dụ như các dịch vụ buôn bán tự động, hệ thống chuyển tiền, hệ thống kiểm soát trong các nhà máy …
Các kiến trúc phần mềm hệ thống nhúng.
Một số loại kiến trúc phần mềm thông dụng trong các hệ thống nhúng như sau:
Vòng lặp kiểm soát đơn giản.
Theo thiết kế này, phần mềm được tổ chức thành một vòng lặp đơn giản. Vòng lặp gọi đến các chương trình con, mỗi chương trình con quản lý một phần của hệ thống phần cứng hoặc phần mềm.
Hệ thống ngắt điều khiển.
Các hệ thống nhúng thường được điểu khiển bằng các ngắt. Có nghĩa là các tác vụ của hệ thống nhúng được kích hoạt bởi các loại sự kiện khác nhau. Ví dụ, một ngắt có thể được sinh ra bởi một bộ định thời sau một chu kỳ được định nghĩa trước, hoặc bởi sự kiện khi cổng nối tiếp nhận được một byte nào đó.
Loại kiến trúc này thường được sử dụng trong các hệ thống có bộ quản lý sự kiện đơn giản, ngắn gọn và cần độ trễ thấp. Hệ thống này thường thực hiện một tác vụ đơn giản trong một vòng lặp chính. Đôi khi, các tác vụ phức tạp hơn sẽ được thêm vào một cấu trúc hàng đợi trong bộ quản lý ngắt để được vòng lặp xử lý sau đó. Lúc này, hệ thống gần giống với kiểu nhân đa nhiệm với các tiến trình rời rạc.
Đa nhiệm tương tác.
Một hệ thống đa nhiệm không ưu tiên cũng gần giống với kỹ thuật vòng lặp kiểm soát đơn giản ngoại trừ việc vòng lặp này được ẩn giấu thông qua một giao diện lập trình API. Các nhà lập trình định nghĩa một loạt các nhiệm vụ, mỗi nhiệm vụ chạy trong một môi trường riêng của nó. Khi không cần thực hiện nhiệm vụ đó thì nó gọi đến các tiến trình con tạm nghỉ (bằng cách gọi "pause", "wait", "yield" …).
Ưu điểm và nhược điểm của loại kiến trúc này cũng giống với kiểm vòng lặp kiểm soát đơn giản. Tuy nhiên, việc thêm một phần mềm mới được thực hiện dễ dàng hơn bằng cách lập trình một tác vụ mới hoặc thêm vào hàng đợi thông dịch (queue-interpreter).
Đa nhiệm ưu tiên.
Ở loại kiến trúc này, hệ thống thường có một đoạn mã ở mức thấp thực hiện việc chuyển đổi giữa các tác vụ khác nhau thông qua một bộ định thời. Đoạn mã này thường nằm ở mức mà hệ thống được coi là có một hệ điều hành và vì thế cũng gặp phải tất cả những phức tạp trong việc quản lý đa nhiệm.
Bất kỳ tác vụ nào có thể phá hủy dữ liệu của một tác vụ khác đều cần phải được tách biệt một cách chính xác. Việc truy cập tới các dữ liệu chia sẻ có thể được quản lý bằng một số kỹ thuật đồng bộ hóa như hàng đợi thông điệp (message queues), các phương thức truyền tin thị giác (semaphores)…
Bởi những phức tạp nói trên, giải pháp thường được đưa ra đó là sử dụng một hệ điều hành thời gian thực. Lúc đó, các nhà lập trình có thể tập trung vào việc phát triển các chức năng của thiết bị chứ không cần quan tâm đến các dịch vụ của hệ điều hành nữa.
Vi nhân (Microkernel) và nhân ngoại (Exokernel).
Khái niệm vi nhân (microkernel) là một bước tiếp cận gần hơn tới khái niệm hệ điều hành thời gian thực. Lúc này, nhân hệ điều hành thực hiện việc cấp phát bộ nhớ và chuyển CPU cho các luồng thực thi. Còn các tiến trình người dùng sử dụng các chức năng chính như hệ thống file, giao diện mạng lưới,… Nói chung, kiến trúc này thường được áp dụng trong các hệ thống mà việc chuyển đổi và giao tiếp giữa các tác vụ là nhanh.
Còn nhân ngoại (exokernel) tiến hành giao tiếp hiệu quả bằng cách sử dụng các lời gọi chương trình con thông thường. Phần cứng và toàn bộ phần mềm trong hệ thống luôn đáp ứng và có thể được mở rộng bởi các ứng dụng.
Nhân khối (monolithic kernels).
Trong kiến trúc này, một nhân đầy đủ với các khả năng phức tạp được chuyển đổi để phù hợp với môi trường nhúng. Điều này giúp các nhà lập trình có được một môi trường giống với hệ điều hành trong các máy để bàn như Linux hay Microsoft Windows và vì thế rất thuận lợi cho việc phát triển. Tuy nhiên, nó lại đòi hỏi đáng kể các tài nguyên phần cứng làm tăng chi phí của hệ thống.
Một số loại nhân khối thông dụng là Embedded Linux và Windows CE. Mặc dù chi phí phần cứng tăng lên nhưng loại hệ thống nhúng này đang tăng trưởng rất mạnh, đặc biệt là trong các thiết bị nhúng mạnh như Wireless router hoặc hệ thống định vị GPS. Lý do của điều này là:
• Hệ thống này có cổng để kết nối đến các chip nhúng thông dụng
• Hệ thống cho phép sử dụng lại các đoạn mã sẵn có phổ biến như các trình điều khiển thiết bị, Web Servers, Firewalls, …
• Việc phát triển hệ thống có thể được tiến hành với một tập nhiều loại đặc tính, chức năng còn sau đó lúc phân phối sản phẩm, hệ thống có thể được cấu hình để loại bỏ một số chức năng không cần thiết. Điều này giúp tiết kiệm được những vùng nhớ mà các chức năng đó chiếm giữ.
• Hệ thống có chế độ người dùng để dễ dàng chạy các ứng dụng và gỡ rối. Nhờ đó, quy trình phát triển được thực hiện dễ dàng hơn và việc lập trình có tính linh động hơn.
• Có nhiều hệ thống nhúng thiếu các yêu cầu chặt chẽ về tính thời gian thực của hệ thống quản lý. Còn một hệ thống như Embedded Linux có tốc độ đủ nhanh để trả lời cho nhiều ứng dụng. Các chức năng cần đến sự phản ứng nhanh cũng có thể được đặt vào phần cứng.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
|
Chiến tranh Việt Nam (miền Nam, 1960–1965)
Tình hình Miền Nam Việt Nam giai đoạn 1960-1965 là một giai đoạn của Chiến tranh Việt Nam ở miền Nam Việt Nam.
Lực lượng cộng sản chuyển hướng đấu tranh.
Việc dùng bạo lực để loại trừ những người Việt Minh một cách vô tội vạ, đã khiến lực lượng Việt Minh còn lại ở miền nam bị suy yếu trầm trọng, nhưng đồng thời gây bất mãn và căm phẫn cho thành phần nhân dân thân Việt Minh. Việt Minh, sau khi rút phần lớn lực lượng quân sự đi tập kết, con số nằm vùng ở lại vào khoảng 10 vạn; nhưng khi thực thi đạo luật 10-59 tổng số người bị hành hình (xử bắn), tra tấn, cầm tù lại lên đến hàng chục vạn, nghĩa là có quá nhiều dân thường bị oan sai, trong khi thực tế các cơ sở Việt Minh vẫn chưa bị triệt hoàn toàn.
Năm 1959, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Đảng Lao động Việt Nam đã ra Nghị quyết 15 công khai cổ vũ đấu tranh vũ trang tại miền Nam. Năm 1960, Đại hội đảng thứ 3 tại Hà Nội đã bầu ông Lê Duẩn làm Bí thư thứ nhất (tương đương Tổng bí thư). Ông là người chủ trương đấu tranh bằng vũ trang với mọi hy sinh để "Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội". Ngay lập tức chiến trường miền Nam có sự đột biến. Phía Cộng sản phát động ngay một đợt tiến công quy mô kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang mà trong đó chính trị vẫn đóng vai trò chủ đạo.
Họ phát động nông dân ở nông thôn nổi dậy giành chính quyền, phá ấp chiến lược, lùng bắt và thủ tiêu các nhân viên chính quyền tại địa bàn. Các hoạt động nổi dậy này được phối hợp nhịp nhàng cùng lúc với việc thành lập lực lượng vũ trang. Họ đánh hoặc bao vây các vị trí quân sự để không cho quân chính phủ kéo về can thiệp và, đồng thời, họ phát động dân chúng biểu tình; nếu thấy đối phương yếu thế thì biểu tình phát triển thành nổi dậy cướp chính quyền, nếu chưa thể thì kéo dài đưa ra các yêu sách quấy rối làm tê liệt chính quyền. Nếu chính phủ điều quân tới thì những người biểu tình bao vây lấy quân đội bắt đầu binh vận ngay tại chỗ. Phương cách này được phía Cộng sản đúc kết thành phương châm "Ba mũi giáp công" (quân sự, chính trị, binh vận). Phong trào được có tên là Đồng khởi và bắt đầu được thí điểm tại tỉnh Bến Tre. Sau khi thấy chính phủ Ngô Đình Diệm lúng túng trong việc lập lại trật tự các vùng khác cũng theo nhau đồng khởi. Đến cuối năm 1960 một phần đáng kể của nông thôn miền Nam đã thành vùng do Cộng sản kiểm soát.
Để cho cuộc chiến có chính danh, ngày 20 tháng 12 năm 1960 phía Cộng sản thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam gồm nhiều đại diện các thành phần tôn giáo, tầng lớp xã hội, dân tộc khác nhau ở miền Nam Việt Nam do Đảng Lao động Việt Nam lãnh đạo. Ngày 15 tháng 2 năm 1961, họ thành lập Quân Giải phóng Miền Nam. Kể từ lúc này tại miền Nam đã chính thức tồn tại hai chính quyền, hai quân đội đối địch. Phía Cộng sản đã đủ mạnh để đánh được chỗ nào là họ thành lập "chính quyền cách mạng". Ước chừng ban đầu có khoảng 30 ngàn thanh thiếu niên đã gia nhập lực lượng Quân Giải phóng.
Chiến tranh đặc biệt của Hoa Kỳ.
Đứng trước tình hình trên Hoa Kỳ thấy cần hành động gấp giúp Việt Nam Cộng hoà đẩy lùi phía Cộng sản. Tướng Maxwell D. Taylor được phái sang Việt Nam đánh giá tình hình. Kế hoạch Staley-Taylor được soạn thảo và đem thi hành để chống lại chiến tranh du kích, bình định miền Nam trong vòng 18 tháng. Người Mỹ luôn suy nghĩ theo cách cân đong vật chất, đối với họ sự thắng thua trong chiến tranh được quyết định bằng súng đạn. Kế hoạch trên tuy có tính đến khía cạnh chính trị nhưng còn quá sơ sài, nó tập trung nhiều nhất đến khía cạnh quân sự: tăng quân số, tăng lương binh sĩ, tăng cường binh lực trang thiết bị...
Kế hoạch Staley-Taylor, hay còn gọi là kế hoạch chiến tranh đặc biệt, có công thức tổng quát là: Quân đội Việt Nam Cộng hoà + Cố vấn Mỹ + Vũ khí Mỹ + Viện trợ kinh tế Mỹ. Viện trợ Mỹ bao gồm các kế hoạch tăng cường sức mạnh cho quân đội Việt Nam Cộng hoà: gấp rút tăng quân số, cung cấp xe thiết giáp và máy bay, nhất là trực thăng, đưa cố vấn quân sự Mỹ xuống đến đơn vị chiến đấu để giúp các sĩ quan Việt Nam Cộng hoà vạch kế hoạch hành quân và chỉ huy chiến đấu. Chiến thuật của quân đội Việt Nam Cộng hoà là trực thăng vận và thiết xa vận: khi phát hiện các đơn vị của địch lập tức dùng trực thăng đổ quân bao vây chặt lấy, sau đó gọi thiết giáp đến đánh giải quyết chiến trường (chiến thuật "tung lưới-phóng lao").
Trong thời gian đầu chiến tranh đặc biệt đã phát huy tác dụng khá tốt, tình hình quân sự được ổn định, quân đội Giải Phóng bị chiến thuật cơ động nhanh "tung lưới-phóng lao" làm thương vong, họ phải chuyển hoạt động ra xa, hành quân và đánh đêm là chính. Để chống chiến thuật "Chính trị kết hợp với quân sự" của phía Cộng sản và cách ly họ ra khỏi dân chúng, chính phủ Việt Nam Cộng hoà quyết tâm tiến hành quyết liệt "Quốc sách Ấp chiến lược". Ở thời điểm đó thì các khu trù mật, Ấp chiến lược ở nông thôn miền Nam làm mọi người liên tưởng đến các trại tập trung có rào thép gai, dãy chông, tháp canh xung quanh, còn người dân bị giam trong các ấp chiến lược. Điều này đã làm méo mó hình ảnh dân chủ và Hoa Kỳ đã phải nhiều lần khuyến cáo Tổng thống Ngô Đình Diệm nhưng không được tiếp thu.
Miền Bắc tham chiến.
Đầu năm 1961 các lực lượng Việt Minh đã thành lập xong "Quân Giải phóng miền Nam" với quy mô cấp quân khu. Việc tổ chức quân sự vẫn theo khuôn mẫu của Quân đội Nhân Dân Việt Nam nhưng vẫn có sự tổ chức giống với Việt Minh lúc trước, cho phù hợp với tổ chức ở miền nam. Theo đó, lực lượng quân sự tập trung ở các huyện sẽ được chọn lọc, huấn luyện và trang bị thành các tiểu đoàn cấp tỉnh. Từ các tiểu đoàn này sẽ hình thành đơn vị cấp trung đoàn đóng ở quân khu. Tuy nhiên qua các trận đánh, những đơn vị chính quy có thương vong tăng cao và khó có thể tái huấn luyện bổ sung tổn thất một cách kịp thời. Việc tăng cường lực lượng cũng được điều động từ miền Tây Nam Bộ lên, vốn là những vùng đông nhân lực.
Cuối giai đoạn chiến tranh, việc huấn luyện bộ đội tại miền Nam không còn đủ số lượng để đáp ứng cho nhu cầu tác chiến mở rộng, họ đã dùng binh lính miền Bắc hành quân vào theo đường Trường Sơn. Lúc này, cho đến khi kết thúc chiến tranh, tại chiến trường miền Nam có hai quân đội chính quy của Cộng sản, không tính đến du kích quân. Thứ nhất là Quân đội Nhân dân Việt Nam, gồm các thanh niên miền Bắc lên đường Nam tiến, dưới chỉ huy trực tiếp của Bộ tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân tại Hà Nội (còn gọi là quân Bắc Việt). Thứ hai là Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam thuộc bộ chỉ huy quân Giải phóng tại rừng Tây Ninh
Đầu tiên, khi đường Trường Sơn còn hẹp, họ chỉ đưa được một số nhân lực hạn chế gồm toàn các bộ đội Việt Minh từng tập kết ra bắc tám năm về trước. Thành phần quân lính miền Bắc trong quân VNDCCH còn ít, chỉ chiếm 10-20% trên tổng quân số của toàn chiến trường, mà có khi họ là người gốc miền nam từng đi tập kết chứ chưa hẳn là người bắc. Sau này, khi đến 1965, khoảng 3 vạn quân đã từ miền bắc thâm nhập vào, và chiếm khoảng 50% vào năm 1968. Vẫn có các tiểu đoàn thâm nhập vào sâu để bổ sung quân số và trang bị cho những đơn vị bị tổn thất. Tuy nhiên trong thời kỳ 1960-1965 tại chiến trường miền Nam các hoạt động tác chiến chủ yếu là Quân Giải phóng còn các đơn vị quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chủ yếu đang đứng chân vòng ngoài tại tuyến đường Trường Sơn, Tây Nguyên họ đang xây dựng các căn cứ để đánh lớn sau này. Đoàn quân lớn nhất thâm nhập vào được sâu nhất là đơn vị chi viện U Minh của sĩ quan Phạm Văn Trà, vào năm 1964.
Năm 1964 khi Hoa Kỳ phát hiện ra các lực lượng Quân đội Nhân Dân Việt Nam từ miền bắc di chuyển vào Trường Sơn và thâm nhập, thì VNDCCH tuyên bố công khai vai trò chi viện của họ, nhưng không công khai sự lãnh đạo. Mặt trận Dân tộc Giải phóng vẫn nắm vau trò chủ chốt trên danh nghĩa. Mặc dù miền bắc đã chi viện rất lớn vũ khí, chuyên môn, thuốc men và nguồn cán bộ có trình độ vào miền nam.
Sau gần hai năm kinh nghiệm chiến đấu Quân Giải phóng đã biết cách xử lý các nhược điểm của chiến thuật trực thăng vận và thiết xa vận của quân đội Việt Nam Cộng hoà. Ngày 2 tháng 1 năm 1963 tại tỉnh Tiền Giang đã xảy ra trận Ấp Bắc và quân đội Việt Nam Cộng hoà đã thất bại nặng. Trận đánh này được báo chí thế giới miêu tả kỹ lưỡng và cho thấy QGP không còn là các nhóm quân nhỏ bất lực trước trực thăng vận, thiết xa vận nữa mà họ đã lớn mạnh đủ để đánh bại quân cơ động của đối phương.
Trong các năm 1963 và 1964 QGP thắng thế tiến công trên toàn chiến trường và đến tháng 12 năm 1964 họ tiến hành chiến dịch Bình Giã tại tỉnh Bà Rịa. Trong vòng một tháng họ điều động các đơn vị lên đến cấp sư đoàn liên tục làm thiệt hại các chiến đoàn thiết giáp cơ động và các đơn vị dự bị chiến lược của Quân lực Việt Nam Cộng hoà. Cùng với các trận đánh lớn khác họ ép quân đội Việt Nam Cộng hoà lui về thế thủ gần các thành phố lớn. Ở nông thôn chỗ nào QGP đến là họ cho phá dỡ ấp chiến lược. Cuối năm 1963, khi Tổng thống Diệm bị lật đổ, chỗ nào còn ấp chiến lược thì cũng bị dân chúng tự nổi lên phá hết.
Cuộc đảo chính năm 1963.
Ngày 8 tháng 5 năm 1963 xảy ra sự kiện Phật Đản tại Huế. Sự kiện này bắt nguồn từ một chỉ thị của chính phủ Ngô Đình Diệm siết chặt quy định cấm treo cờ tôn giáo tại nơi công cộng. Từ một vụ lộn xộn cảnh sát không cho treo cờ Phật giáo nhân ngày Phật Đản, lãnh đạo Phật giáo đã quyết định đấu tranh chống chính quyền đến cùng cho dù chính phủ Ngô Đình Diệm đã có nhiều cố gắng xoa dịu sự bất mãn của Phật giáo. Cho đến khi Hoà Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu tại Sài Gòn phản đối chính sách đàn áp Phật giáo của chính phủ, rồi một loạt các cuộc tự thiêu khác của Phật tử, đã làm chấn động tình hình trong nước và quốc tế ("Xem Sự kiện Phật Đản, 1963"). Tình thế đã vượt khỏi tầm kiểm soát của chính phủ Việt Nam Cộng hoà.
Ngày 1 tháng 11 năm 1963 Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, dưới sự chỉ huy của tướng Dương Văn Minh và sự im lặng không phản đối của Hoa Kỳ, đã làm đảo chính lật đổ và giết chết ba anh em Tổng thống Ngô Đình Diệm (ông Diệm và Nhu bị giết chết ngày 2 tháng 11 năm 1963; riêng ông Cẩn bị xử tử ngày 9 tháng 5 năm 1964). Sự kiện này được biết ở miền Nam với cái tên "Cách mạng 1/11".
Ngay sau đó Việt Nam Cộng hoà rơi vào khủng hoảng lãnh đạo trầm trọng trong một thời gian gần hai năm. Cho đến khi nhóm quân nhân của hai tướng Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ lên chấp chính thành lập Hội đồng lãnh đạo Quốc gia (tháng 6 năm 1965) thì tình hình mới tạm yên.
Lực lượng biệt động của Mặt trận Dân tộc Giải phóng liên tiếp tổ chức các cuộc tấn công, đánh bom tại Sài Gòn và trong các thành phố như vụ Đánh bom cư xá Brink 1964, đánh bom sứ quán Mỹ 1965.
Vào giữa năm 1965, với các thất bại liên tiếp trên chiến trường và tình hình chính trị rối loạn, chính phủ Hoa Kỳ quyết định hủy bỏ kế hoạch Staley-Taylor và đem quân chủ lực trực tiếp chiến đấu trên chiến trường miền Nam Việt Nam.
Tuyên bố Bắc tiến của một số giới chức Việt Nam Cộng hòa.
Mặc dù chính trị đang hỗn loạn sau vụ đảo chính Tổng thống Ngô Đình Diệm năm 1963, nhưng một số giới chức lãnh đạo Việt Nam Cộng hoà vẫn có những tuyên bố đòi tiến công lên miền bắc để thống nhất Việt Nam. Ngày 14 tháng 7/1964 người đứng đầu chính phủ Việt Nam Cộng hoà là tướng Nguyễn Khánh đã công khai tuyên bố Bắc tiến. Hai ngày sau, tướng Nguyễn Cao Kỳ cũng khẳng định Không lực Việt Nam Cộng hòa đã sẵn sàng.
Những tuyên bố này đã làm cả thế giới sửng sốt và gặp phải sự phản đối từ Washington. Tổng thống Mỹ và các cố vấn của ông ta biết rằng họ phải tháo ngay ngòi nổ. Những đề nghị hòa bình được U Thant, nhà lãnh đạo Liên Hợp Quốc gửi tới, yêu cầu Hà Nội, Sài Gòn và Washington cùng thương lượng. Sáng kiến của U Thant nhận được sự đồng tình của Tổng thống Pháp Charles De Gaul. Tướng De Gaul cũng yêu cầu các bên phải tuân thủ Hiệp định Genève năm 1954 để tránh cuộc chiến "mở rộng thành cơn ác mộng trên toàn châu Á".
Trong một diễn biến khác làm Washington bất ngờ, cả Liên Xô lẫn đồng minh Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đều tuyên bố đòi "hòa bình". Lãnh đạo Liên Xô đề nghị tổ chức 1 Hội nghị Genève mới để giải quyết cuộc chiến tại Việt Nam. Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cũng ủng hộ đề nghị này của Liên Xô. Hoa Kỳ đã bác bỏ tất cả đề nghị này.
Hoa Kỳ ngày càng can thiệp sâu vào cuộc chiến.
Chính phủ Hoa Kỳ lập tức can thiệp: từ chỗ đưa lính kỹ thuật không quân vào các sân bay ở miền Nam - đến việc đưa lục quân vào trực tiếp tham chiến với phe Cộng sản vào giữa năm 1965. Không có mốc thời gian chính xác về sự chuyển đổi này vì nó tùy tình hình khu vực, mà Hoa Kỳ có thể tham chiến đến đâu. Trận Vạn Tường lần đầu tiên TQLC Hoa Kỳ đụng độ với trung đoàn chính quy của Việt Cộng, chấm dứt chiến lược chiến tranh da vàng và khởi đầu cuộc chiến tranh cục bộ - chiến cuộc đẫm máu nhất của CTVN. Nhưng vẫn có một trận chiến lớn mang toàn bộ nhân lực da vàng (cũng là trận cuối cùng của giai đoạn trước) diễn ra ngay khi lục quân Hoa Kỳ đang can thiệp sâu vào chiến trường.
|
Chữ ký điện tử
Chữ ký điện tử (tiếng Anh: "electronic signature" hay "e-signature") là thông tin đi kèm theo dữ liệu (văn bản, hình ảnh, ) nhằm mục đích xác định người chủ của dữ liệu đó. Chữ ký điện tử có giá trị pháp lý tương đương như chữ ký viết tay, miễn là nó tuân theo các yêu cầu của quy chế cụ thể mà nó được tạo ra (ví dụ, eIDAS ở Liên minh châu Âu, NIST-DSS ở Hoa Kỳ hoặc ZertES ở Thụy Sĩ).
Chữ ký điện tử là một khái niệm pháp lý khác biệt với chữ ký số (digital signature), một cơ chế mã hóa thường được sử dụng để triển khai chữ ký điện tử. Trong khi chữ ký điện tử có thể đơn giản chỉ là tên được nhập vào tài liệu điện tử, chữ ký số ngày càng được sử dụng trong giao dịch điện tử và trong các tài liệu đăng ký để triển khai chữ ký điện tử một cách an toàn về mặt mã hóa. Các cơ quan tiêu chuẩn như NIST hay ETSI cung cấp các tiêu chuẩn để triển khai chúng (ví dụ: NIST-DSS, XAdES hoặc PAdES). Khái niệm này không phải là mới, với các quốc gia áp dụng thông luật đã công nhận chữ ký điện báo từ giữa thế kỷ 19 và chữ ký fax từ những năm 1980.
Con người đã sử dụng các hợp đồng dưới dạng điện tử từ hơn 100 năm nay với việc sử dụng mã Morse và điện tín. Vào năm 1889, tòa án tối cao bang New Hampshire (Hoa Kỳ) đã phê chuẩn tính hiệu lực của chữ ký điện tử. Tuy nhiên, chỉ với những phát triển của khoa học kỹ thuật gần đây thì chữ ký điện tử mới đi vào cuộc sống một cách rộng rãi.
Vào thập niên 1980, các công ty và một số cá nhân bắt đầu sử dụng máy fax để truyền đi các tài liệu quan trọng. Mặc dù chữ ký trên các tài liệu này vẫn thể hiện trên giấy nhưng quá trình truyền và nhận chúng hoàn toàn dựa trên tín hiệu điện tử.
Hiện nay, chữ ký điện tử có thể bao hàm các cam kết gửi bằng email, nhập các số định dạng cá nhân (PIN) vào các máy ATM, ký bằng bút điện tử với thiết bị màn hình cảm ứng tại các quầy tính tiền, chấp nhận các điều khoản người dùng (EULA) khi cài đặt phần mềm máy tính, ký các hợp đồng điện tử
Tính pháp lý của chữ ký điện tử.
Các định nghĩa pháp lý.
Nhiều luật được ban hành trên thế giới công nhận giá trị pháp lý của chữ ký điện tử nhằm thúc đẩy các giao dịch điện tử xuyên quốc gia.
(1)Chứng thư điện tử là thông điệp dữ liệu do tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký điện tử phát hành nhằm xác nhận cơ quan, tổ chức, cá nhân được chứng thực là người ký chữ ký điện tử.
(2)Chứng thực chữ ký điện tử là việc xác nhận cơ quan, tổ chức, cá nhân được chứng thực là người ký chữ ký điện tử.
(5)Dữ liệu là thông tin dưới dạng ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự.
(12)Thông điệp dữ liệu là thông tin được tạo ra, được gửi đi, được nhận và được lưu trữ bằng phương tiện điện tử.
(2)Điện tử ("electronic")- chỉ các công nghệ liên quan tới điện, số, từ, không dây, quang, điện từ hoặc các khả năng tương tự.
(4)Văn bản điện tử ("electronic record")- Các hợp đồng hoặc các văn bản khác được tạo ra, lưu trữ, trao đổi dưới dạng điện tử.
(5)Chữ ký điện tử ("electronic signature")- Các tín hiệu âm thanh, ký hiệu, quá trình gắn ("vật lý hoặc logic") với hợp đồng hay văn bản và được thực hiện bởi người muốn ký vào hợp đồng hay văn bản đó.
(1)Chữ ký điện tử ("electronic signature")- là cách thức ký các văn bản điện tử đảm bảo:
(A)Nhận dạng và xác thực cá nhân đã tạo ra văn bản;
(B)Chỉ ra sự chấp thuận của người ký đối với nội dung trong văn bản.
(5)Điện tử ("electronic'valeking132')- chỉ các công nghệ liên quan tới điện, số, từ, không dây, quang, điện từ hoặc các khả năng tương tự.
(6)Tác tử điện tử ("electronic agent")- là các chương trình máy tính hoặc các phương tiện tự động khác sử dụng độc lập để khởi đầu một hành động hoặc đáp lại các tín hiệu điện tử mà không cần sự giám sát của con người.
(7)Văn bản điện tử ("electronic record'valeking132')- Các văn bản được tạo ra, lưu trữ, trao đổi dưới dạng điện tử.
(8)Chữ ký điện tử ("electronic signature")- Các tín hiệu âm thanh, ký hiệu, quá trình gắn (vật lý hoặc logic) với hợp đồng hay văn bản và được thực hiện bởi người muốn ký vào hợp đồng hay văn bản đó.
(tt) Chữ ký điện tử là tín hiệu âm thanh, ký hiệu, quá trình gắn (vật lý hoặc logic) với hợp đồng hay văn bản và được thực hiện bởi người muốn ký vào hợp đồng hay văn bản đó.
(5) Chữ ký số là các chữ ký điện tử dựa trên các phương pháp mật mã để nhận thực người tạo văn bản dựa trên các quy tắc và tham số sao cho có thể kiểm tra được nhân dạng của người tạo và tính toàn vẹn của văn bản.
(7) Chữ ký điện tử là các số liệu (máy tính) được tạo ra, chấp nhận và cho phép bởi cá nhân có thẩm quyền (tương đương với người ký văn bản giấy truyền thống).
Kiểm tra pháp lý đối với chữ ký điện tử.
Khi một chữ ký điện tử trên hợp đồng hay văn bản bị nghi ngờ thì chữ ký đó phải vượt qua một số kiểm tra trước khi có thể xử tại tòa án. Các điều kiện này có thể thay đổi tùy theo quy định của pháp luật, thậm chí trong một số trường hợp văn bản không có chữ ký (telex, ).
Tại Hoa Kỳ, các bước yêu cầu cho chữ ký điện tử bao gồm:
Vấn đề quan trọng cần được xem xét là sự giả mạo (giả mạo chữ ký và giả mạo sự chấp nhận). Tòa án phải giả định rằng sự giả mạo là không thể thực hiện. Tuy nhiên, đối với chữ ký điện tử thì việc làm giả là không quá khó khăn.
Thông thường, các doanh nghiệp thường phải dựa trên các phương tiện khác để kiểm tra chữ ký điện tử chẳng hạn như gọi điện trực tiếp cho người ký trước khi giao dịch, dựa trên các quan hệ truyền thống hay không dựa hoàn toàn vào các văn bản dưới dạng điện tử. Đây là các thông lệ trong kinh doanh nên được áp dụng trong bất kỳ môi trường nào vì sự giả mạo cũng là một vấn đề thường xảy ra trong môi trường kinh doanh truyền thống. Chữ ký điện tử cũng như chữ ký truyền thống đều không đủ khả năng ngăn chặn hoàn toàn việc làm giả.
Các ví dụ về chữ ký điện tử nêu ở trên chưa phải là chữ ký số bởi vì chúng thiếu các đảm bảo mật mã học về nhận dạng người tạo ra và thiếu các kiểm tra tính toàn vẹn của dữ liệu. Các chữ ký này có tính chất pháp lý trên được gắn với văn bản trong một số trường hợp cụ thể.
Những sử dụng giả luật của chữ ký điện tử.
Một số trang web (đặc biệt là các trang khiêu dâm) và các điều khoản sử dụng phần mềm tuyên bố một số hành động gắn với chữ ký điện tử. Chẳng hạn, một trang web có thể tuyên bố rằng với việc truy cập vào trang web, bạn đã chấp nhận một số quy định. Một ví dụ khác là khi cài đặt phần mềm, trước khi cài sẽ xuất hiện một màn hình thông báo rằng với việc tiếp tục cài đặt thì bạn chấp nhận một số điều về bản quyền. Các điều khoản này có thể không được thông báo trước khi bán và không phải lúc nào cũng được hiển thị đầy đủ khi bạn cài đặt. Các điều kiện về bản quyền này thường bao gồm các điều cấm người sử dụng công bố các thông tin về sản phẩm nếu không được sự cho phép của nhà sản xuất, các điều hạn chế người sử dụng nghiên cứu sản phẩm ("reverse engineering") kể cả cho mục đích hợp pháp như để tạo ra các tệp theo định dạng của phần mềm. Trong một số trường hợp, các điều khoản này có thể trái với quy định của pháp luật. Một số người cho rằng các điều trên là hợp lý để bảo vệ các bí mật công nghệ. Tuy nhiên một khi sản phẩm đã được bán rộng rãi thì lý do này cũng không thực sự thuyết phục.
Tính pháp lý của các điều khoản đề cập ở trên không rõ ràng. Tại Hoa Kỳ, chỉ có 2 tiểu bang chấp thuận bản sửa đổi của Luật thương mại thống nhất ("Uniform Commercial Code") cho phép những hạn chế về bản quyền và thông báo sau bán hàng. Tại Anh, điều 9 của Quy chế thương mại điện tử năm 2002 (Electronic-Commerce (EC Directive) Regulations 2002 - SI 2002/2003) cho phép người mua có khả năng xác định trước các bước kỹ thuật khác nhau để kết thúc hợp đồng.
Chữ ký mật mã.
Một chữ ký điện tử sẽ là một chữ ký số nếu nó sử dụng một phương pháp mã hóa nào đó để đảm bảo tính toàn vẹn (thông tin) và tính xác thực. Ví dụ như một bản dự thảo hợp đồng soạn bởi bên bán hàng gửi bằng email tới người mua sau khi được ký (điện tử).
Một điều cần lưu ý là cơ chế của chữ ký điện tử khác hoàn toàn với các cơ chế sửa lỗi (như giá trị kiểm tra - ). Các cơ chế kiểm tra không đảm bảo rằng văn bản đã bị thay đổi hay chưa. Các cơ chế kiểm tra tính toàn vẹn thì không bao giờ bao gồm khả năng sửa lỗi.
Hiện nay, các tiêu chuẩn được sử dụng phổ biến cho chữ ký điện tử là OpenPGP, được hỗ trợ bởi PGP và GnuPG, và các tiêu chuẩn S/MIME (có trong Microsoft Outlook). Tất cả các mô hình về chữ ký điện tử đều giả định rằng người nhận có khả năng có được khóa công khai của chính người gửi và có khả năng kiểm tra tính toàn vẹn của văn bản nhận được. Ở đây không yêu cầu giữa 2 bên phải có một kênh thông tin an toàn.
Một văn bản được ký có thể được mã hóa khi gửi nhưng điều này không bắt buộc. Việc đảm bảo tính bí mật và tính toàn vẹn của dữ liệu có thể được tiến hành độc lập.
|
TCP ("Transmission Control Protocol" - "Giao thức điều khiển truyền vận") là một trong các giao thức cốt lõi của bộ giao thức TCP/IP. Sử dụng TCP, các ứng dụng trên các máy chủ được nối mạng có thể tạo các "kết nối" với nhau, mà qua đó chúng có thể trao đổi dữ liệu hoặc các gói tin. Giao thức này đảm bảo chuyển giao dữ liệu tới nơi nhận một cách đáng tin cậy và đúng thứ tự. TCP còn phân biệt giữa dữ liệu của nhiều ứng dụng (chẳng hạn, dịch vụ Web và dịch vụ thư điện tử) đồng thời chạy trên cùng một máy chủ.
TCP hỗ trợ nhiều giao thức ứng dụng phổ biến nhất trên Internet và các ứng dụng kết quả, trong đó có WWW, thư điện tử và Secure Shell.
Trong bộ giao thức TCP/IP, TCP là tầng trung gian giữa giao thức IP bên dưới và một ứng dụng bên trên. Các ứng dụng thường cần các kết nối đáng tin cậy kiểu đường ống để liên lạc với nhau, trong khi đó, giao thức IP không cung cấp những dòng kiểu đó, mà chỉ cung cấp dịch vụ chuyển gói tin không đáng tin cậy. TCP làm nhiệm vụ của tầng giao vận trong mô hình OSI đơn giản của các mạng máy tính.
Các ứng dụng gửi các dòng gồm các byte 8-bit tới TCP để chuyển qua mạng. TCP phân chia dòng byte này thành các đoạn ("segment") có kích thước thích hợp (thường được quyết định dựa theo kích thước của đơn vị truyền dẫn tối đa (MTU) của tầng liên kết dữ liệu của mạng mà máy tính đang nằm trong đó). Sau đó, TCP chuyển các gói tin thu được tới giao thức IP để gửi nó qua một liên mạng tới mô đun TCP tại máy tính đích. TCP kiểm tra để đảm bảo không có gói tin nào bị thất lạc bằng cách gán cho mỗi gói tin một "số thứ tự" ("sequence number"). Số thứ tự này còn được sử dụng để đảm bảo dữ liệu được trao cho ứng dụng đích theo đúng thứ tự. Mô đun TCP tại đầu kia gửi lại "tin báo nhận" ("acknowledgement") cho các gói tin đã nhận được thành công; một "đồng hồ" ("timer") tại nơi gửi sẽ báo "time-out" nếu không nhận được tin báo nhận trong khoảng thời gian bằng một round-trip time (RTT), và dữ liệu (được coi là bị thất lạc) sẽ được gửi lại. TCP sử dụng checksum ("giá trị kiểm tra") để xem có byte nào bị hỏng trong quá trình truyền hay không; giá trị này được tính toán cho mỗi khối dữ liệu tại nơi gửi trước khi nó được gửi, và được kiểm tra tại nơi nhận.
Hoạt động của giao thức.
Không như giao thức UDP - giao thức có thể lập tức gửi gói tin mà không cần thiết lập kết nối, TCP đòi hỏi thiết lập kết nối trước khi bắt đầu gửi dữ liệu và kết thúc kết nối khi việc gửi dữ liệu hoàn tất. Cụ thể, các kết nối TCP có ba pha:
Trước khi miêu tả các pha này, ta cần lưu ý các trạng thái khác nhau của một socket:
Thiết lập kết nối.
Để thiết lập một kết nối, TCP sử dụng một quy trình bắt tay 3 bước ("3-way handshake")
Trước khi client thử kết nối với một server, server phải đăng ký một cổng và mở cổng đó cho các kết nối: đây được gọi là mở bị động.
Một khi mở bị động đã được thiết lập thì một client có thể bắt đầu mở chủ động.
Để thiết lập một kết nối, quy trình bắt tay 3 bước xảy ra như sau:
Tại thời điểm này, cả client và server đều được xác nhận rằng, một kết nối đã được thiết lập.
Một số đặc điểm cơ bản của TCP để phân biệt với UDP:
Ở hai bước đầu tiên trong ba bước bắt tay, hai máy tính trao đổi một số thứ tự gói ban đầu ("Initial Sequence Number" -ISN). Số này có thể chọn một cách ngẫu nhiên. Số thứ tự này được dùng để đánh dấu các khối dữ liệu gửi từ mỗi máy tính. Sau mỗi byte được truyền đi, số này lại được tăng lên. Nhờ vậy ta có thể sắp xếp lại chúng khi tới máy tính kia bất kể các gói tới nơi theo thứ tự thế nào.
Trên lý thuyết, mỗi byte gửi đi đều có một số thứ tự và khi nhận được thì máy tính nhận gửi lại tin báo nhận (ACK). Trong thực tế thì chỉ có byte dữ liệu đầu tiên được gán số thứ tự trong trường số thứ tự của gói tin và bên nhận sẽ gửi tin báo nhận bằng cách gửi số thứ tự của byte đang chờ.
Ví dụ: Máy tính A gửi 4 byte với số thứ tự ban đầu là 100 (theo lý thuyết thì 4 byte sẽ có thứ tự là 100, 101, 102, 103) thì bên nhận sẽ gửi tin báo nhận có nội dung là 104 vì đó là thứ tự của byte tiếp theo nó cần. Bằng cách gửi tin báo nhận là 104, bên nhận đã ngầm thông báo rằng nó đã nhận được các byte 100, 101, 102 và 103. Trong trường hợp 2 byte cuối bị lỗi thì bên nhận sẽ gửi tin báo nhận với nội dung là 102 vì 2 byte 100 và 101 đã được nhận thành công.
Giả sử ta có 10.000 byte được gửi đi trong 10 gói tin 1.000 byte và có 1 gói tin bị mất trên đường truyền. Nếu gói bị mất là gói đầu tiên thì bên gửi sẽ phải gửi lại toàn bộ 10 gói vì không có cách nào để bên nhận thông báo nó đã nhận được 9 gói kia. Vấn đề này được giải quyết trong giao thức SCTP ("Stream Control Transmission Protocol" - "Giao thức điều khiển truyền vận dòng") với việc bổ sung báo nhận chọn lọc.
Số thứ tự và tin báo nhận giải quyết được các vấn đề về lặp gói tin, truyền lại những gói bị hỏng/mất và các gói tin đến sai thứ tự. Để phục vụ mục đích kiểm tra, các gói tin có trường giá trị tổng kiểm ("checksum" - Xem thêm phần #Cấu trúc gói).
Với trình độ hiện tại, kỹ thuật kiểm tra tổng trong TCP không đủ mạnh. Các tầng liên kết dữ liệu với xác suất lỗi bit cao có thể cần được bổ sung các khả năng phát hiện lỗi tốt hơn. Nếu như TCP được thiết kế vào thời điểm hiện tại, nhiều khả năng nó sẽ bao gồm trường kiểm tra độ dư tuần hoàn ("cyclic redundancy check" - CRC) với độ dài 32 bit. Điểm yếu này một phần được bù đắp bằng CRC hay những kỹ thuật khác tại tầng thứ 2 (trong mô hình 7 lớp OSI) ở bên dưới cả TCP và IP như trong các giao thức điểm-điểm (PPP) hoặc Ethernet. Tuy nhiên điều này cũng không có nghĩa là trường kiểm tra tổng của TCP là không cần thiết: thống kê cho thấy các sai sót do cả phần cứng và phần mềm gây ra giữa các điểm áp dụng kỹ thuật kiểm tra CRC là khá phổ biến và kỹ thuật kiểm tra tổng có khả năng phát hiện phần lớn các lỗi (đơn giản) này.
Điểm cuối cùng là khả năng hạn chế tắc nghẽn.
Tin báo nhận (hoặc không có tin báo nhận) là tín hiệu về tình trạng đường truyền giữa 2 máy tính. Từ đó, hai bên có thể thay đổi tốc độ truyền nhận dữ liệu phù hợp với điều kiện. Vấn đề này thường được đề cập là điều khiển lưu lượng, kiểm soát tắc nghẽn. TCP sử dụng một số cơ chế nhằm đạt được hiệu suất cao và ngăn ngừa khả năng nghẽn mạng. Các cơ chế này bao gồm: cửa sổ trượt ("sliding window"), thuật toán slow-start, thuật toán tránh nghẽn mạng ("congestion avoidance"), thuật toán truyền lại và phục hồi , vấn đề cải tiến TCP trong môi truyền truyền dẫn tốc độ cao đang là một hướng nghiên cứu được quan tâm.
Kích thước cửa sổ TCP.
Kích thước của cửa sổ là chiều dài (byte) của khối dữ liệu có thể lưu trong bộ đệm của bên nhận. Bên gửi chỉ có thể gửi tối đa lượng thông tin chứa trong cửa sổ này trước khi nhận được tin báo nhận.
Dãn kích thước cửa sổ.
Để tận dụng khả năng truyền dẫn của mạng thì cửa sổ dùng trong TCP cần được tăng lên. Trường điều khiển kích thước cửa sổ của gói TCP có độ dài là 2 byte và do đó kích thước tối đa của cửa sổ là 65.535 byte.
Do trường điều khiển không thể thay đổi nên người ta sử dụng một hệ số dãn nào đó. Hệ số này được định nghĩa trong tài liệu RFC 1323 có thể sử dụng để tăng kích thước tối đa của cửa sổ từ 65.535 byte lên tới 1 gigabyte. Tăng kích thước cửa sổ lớn hơn nữa cũng cần thiết trong TCP Tuning.
Việc tăng kích thước cửa sổ chỉ được dùng trong giao thức bắt tay 3 pha. Giá trị của trường co giãn cửa sổ thể hiện số bit cần được dịch trái đối với trường kích thước cửa sổ. Hệ số dãn có thể thay đổi từ 0 (không dãn) tới 14 (dãn tối đa).
Kết thúc kết nối.
Để kết thúc kết nối hai bên sử dụng quá trình bắt tay 4 bước và chiều của kết nối kết thúc độc lập với nhau. Khi một bên muốn kết thúc, nó gửi đi một gói tin FIN và bên kia gửi lại tin báo nhận ACK. Vì vậy, một quá trình kết thúc tiêu biểu sẽ có 2 cặp gói tin trao đổi.
Một kết nối có thể tồn tại ở dạng "nửa mở": một bên đã kết thúc gửi dữ liệu nên chỉ nhận thông tin, bên kia vẫn tiếp tục gửi.
TCP sử dụng khái niệm số hiệu cổng ("port number") để định danh các ứng dụng gửi và nhận dữ liệu. Mỗi đầu của một kết nối TCP có một số hiệu cổng (là số không dấu 16-bit) được gán cho ứng dụng đang nhận hoặc gửi dữ liệu. Các cổng được phân thành ba loại cơ bản: nổi tiếng, được đăng ký và động/cá nhân. Các cổng nổi tiếng đã được gán bởi tổ chức Internet Assigned Numbers Authority (IANA) và thường được sử dụng bởi các tiến trình mức hệ thống hoặc các tiến trình của root. Ví dụ: FTP (21), TELNET (23), SMTP (25) và HTTP (80). Các cổng được đăng ký thường được sử dụng bởi các ứng dụng người dùng đầu cuối ("end user application") với vai trò các cổng phát tạm thời (khi dùng xong thì hủy đăng ký) khi kết nối với server, nhưng chúng cũng có thể định danh các dịch vụ có tên đã được đăng ký bởi một bên thứ ba. Các cổng động/cá nhân cũng có thể được sử dụng bởi các ứng dụng người dùng đầu cuối, nhưng không thông dụng bằng. Các cổng động/cá nhân không có ý nghĩa gì nếu không đặt trong một kết nối TCP. Có 65535 cổng được chính thức thừa nhận.
Sự phát triển của TCP.
TCP là một giao thức phức tạp và vẫn còn tiếp tục được phát triển. Tuy nhiên, mặc dù có nhiều cải tiến đã được áp dụng và đề xuất nhưng các hoạt động cơ bản của giao thức vẫn giữ nguyên như mô tả ban đầu trong tài liệu RFC 793 ban hành năm 1981. Tài liệu RFC 1122 - Các yêu cầu của máy mạng Internet - đưa ra một số yêu cầu khi thực hiện TCP. RFC 2581 - Điều khiển tránh nghẽn mạng, một trong những tài liệu quan trọng trong bộ RFC trong những năm gần đây - mô tả thuật toán dùng để giảm khả năng tắc nghẽn mạng. Năm 2001, RFC 3168 mô tả một cơ chế báo hiệu chống nghẽn mạng có tên là Thông báo nghẽn mạng ("Explicit Congestion Notification"). Vào thời điểm đầu thế kỷ 21, khoảng 95% gói tin trên Internet là TCP. Các ứng dụng tiêu biểu sử dụng TCP là HTTP/HTTPS (World Wide Web), SMTP/POP3/IMAP (e-mail) và FTP (truyền file). Sự phổ biến của TCP chứng tỏ rằng nó đã được thiết kế rất tốt.
Cơ chế điều khiển tránh tắc nghẽn của TCP ban đầu là TCP Reno và gần đây đã có một số thuật toán khác được đề xuất:
Bên cạnh đó cũng có rất nhiều nghiên cứu so sánh sự công bằng và hiệu suất của TCP khi sử dụng các thuật toán tránh tắc nghẽn khác nhau.
TCP trên mạng không dây.
TCP cũng được sử dụng cho mạng không dây. Ở đây trường hợp mất gói tin cũng được xem là nghẽn mạng và kích thước cửa sổ do đó cũng sẽ được giảm xuống. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp đối với các mạng không dây thì việc mất các gói tin thường xảy ra một cách ngẫu nhiên do ảnh hưởng của fading, chuyển giao giữa các , việc giảm kích thước cửa sổ không đúng sẽ làm cho hiệu quả sử dụng đường truyền giảm một cách đáng kể. Nhiều nghiên cứu đã tập trung để giải quyết vấn đề này. Các giải pháp được đề ra có thể phân loại thành các nhóm: giải pháp đầu cuối (liên quan tới việc thay đổi tại client/server), giải pháp tại tầng liên kết dữ liệu (chẳng hạn giao thức RLP trong chuẩn CDMA2000) và giải pháp dựa trên proxy (thay đổi trong mạng mà không cần thay đổi các thiết bị đầu cuối).
Gỡ rối trong TCP.
Các phần mềm đọc gói ("packet sniffer") TCP có thể sử dụng để gỡ rối/theo dõi bằng cách đọc tất cả các gói TCP được truyền trong mạng. Ví dụ: Wireshark(trên Windows và Linux), tcpdump(trên Linux)...
Các lựa chọn khác ngoài TCP.
Đối với một số ứng dụng thì TCP không thích hợp. Vấn đề lớn nhất là phía nhận không thể tiếp nhận các gói tin đến sau một gói bị lỗi trước khi chính gói bị lỗi được truyền lại. Điều này khiến TCP không thích hợp cho các ứng dụng thời gian thực ("real-time") chẳng hạn như đa phương tiện trực tuyến, trò chơi trực tuyến và thoại trên nền IP (VoIP) bởi vì các ứng dụng này cần các gói tin kịp thời hơn là nhận đủ các gói tin theo đúng thứ tự.
Ngoài ra sự phức tạp của TCP cũng gây ra vấn đề với các hệ thống nhúng ("embedded system"). Ví dụ tiêu biểu là netbooting sử dụng giao thức TFTP. Cuối cùng, độ phức tạp của TCP cũng gây khó khăn cho một số vấn đề khác như truyền thông tin giữa 2 máy tính nằm sau hệ thống chuyển đổi địa chỉ (NAT).
Thông thường, khi TCP không thích hợp thì UDP được sử dụng. UDP cung cấp một số tính năng giống TCP như đa công và kiểm tra tổng nhưng nó không đảm bảo việc truyền lại gói tin lỗi hay thứ tự các gói tin. Vì thế, người phát triển ứng dụng có thể áp dụng các phương thức khác ở các tầng trên để giải quyết vấn đề tùy theo yêu cầu cụ thể.
Giao thức điều khiển truyền vận dòng ("Stream Control Transmission Protocol" - SCTP) cũng là một giao thức dựa trên nền IP không khác nhiều so với TCP. SCTP được phát triển sau và có cấu trúc phức tạp hơn TCP. SCTP được thiết kế để sử dụng trong điều kiện yêu cầu độ tin cậy và gần thời gian thực. Tuy nhiên SCTP chưa được sử dụng rộng rãi.
TCP cũng bộc lộ một số vấn đề khi dùng trong môi trường truyền dẫn tốc độ cao. Thuật toán tránh nghẽn mạng làm việc tốt trong môi trường không dự tính trước nhưng đối với môi trường xác định hơn chẳng hạn như ATM ("Asynchronous Transfer Mode") thì TCP không tận dụng được khả năng của hệ thống bên dưới.
Cấu trúc gói tin.
Một gói tin TCP bao gồm 2 phần
Phần header có 11 trường trong đó 10 trường bắt buộc. Trường thứ 11 là tùy chọn (trong bảng minh họa có màu nền đỏ) có tên là: options
; URG: Cờ cho trường Urgent pointer
; ACK: Cờ cho trường Acknowledgement
; PSH: Hàm Push
; RST: Thiết lập lại đường truyền
; SYN: Đồng bộ lại số thứ tự
; FIN: Không gửi thêm số liệu
"16 bít của trường kiểm tra là bổ sung của tổng tất cả các từ 16 bít trong gói tin. Trong trường hợp số octet (khối 8 bít) của header và dữ liệu là lẻ thì octet cuối được bổ sung với các bít 0. Các bít này không được truyền. Khi tính tổng, giá trị của trường kiểm tra được thay thế bằng 0,"
Nói một cách khác, tất cả các từ 16 bít được cộng với nhau. Kết quả thu được sau khi đảo giá trị từng bít được điền vào trường kiểm tra. Về mặt thuật toán, quá trình này giống với IPv4.
Điểm khác nhau chỉ ở chỗ dữ liệu dùng để tính tổng kiểm tra. Dưới đây là một header của IP:
Các địa chỉ nguồn và đích là các địa chỉ IPv4. Giá trị của trường protocol là 6 (giá trị dành cho TCP, xem thêm: Danh sách số hiệu giao thức IPv4). Giá trị của trường TCP length field là độ dài của toàn bộ phần header và dữ liệu của gói TCP.
Trường cuối cùng không thuộc về header. Giá trị của trường này là thông tin dành cho các tầng trên (trong mô hình 7 lớp OSI). Thông tin về giao thức của tầng trên không được chỉ rõ trong phần header mà phụ thuộc vào cổng được chọn.
|
Bắc Giang (thành phố)
Bắc Giang là thành phố tỉnh lỵ của tỉnh Bắc Giang, Việt Nam.
Thành phố Bắc Giang nằm ở phía tây của tỉnh Bắc Giang, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 50 km về phía đông bắc, có vị trí địa lý:
Thành phố Bắc Giang có diện tích 66,77 km², dân số năm 2019 là 174.229 người, mật độ dân số 2.609 người/km², là đơn vị hành chính cấp huyện có mật độ dân số cao nhất tỉnh Bắc Giang.
Đặc trưng khí hậu chịu ảnh hưởng của gió mùa, một năm có hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 4-10, mùa khô từ tháng 11- 3. Nhiệt độ trung bình năm dao động từ 23,2 độC - 23,8 độ C. Độ ẩm trung bình từ 83 - 84%. Tổng lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 1.400 - 1.730mm. Nhìn chung, các điều kiện tự nhiên của thành phố Bắc Giang thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội trước mắt cũng như lâu dài.
Thành phố Bắc Giang là địa danh lịch sử, xưa thuộc Bộ Vũ N, trong bốn kinh trấn và đứng đầu phên dậu phía Bắc của quốc gia Đại Việt, có vị trí quân sự trọng yếu gắn liền với chiến thắng Xương Giang vẻ vang, muôn thuở còn truyền do nghĩa quân Lam Sơn - Nguyễn Trãi chỉ huy, tiêu diệt hoàn toàn 10 vạn quân viện binh do Liễu Thăng chỉ huy đã kết thúc 20 năm đô hộ của triều đại phong kiến nhà Minh; bên cạnh đó còn là một trong những trung tâm kinh tế - văn hoá được hình thành và phát triển từ thời kỳ đầu Công Nguyên; từng là phủ lỵ Lạng Giang (thành Châu Xuyên, xã Dĩnh Uyên - Tân Tiến), Bảo Lộc (thành Thọ Xương), huyện lỵ Phượng Nhỡn (xã Dĩnh Uyên - nay là 6 thôn của xã Tân Tiến và thôn Lường của Dĩnh Kế).
Từ một căn cứ quân sự, Phủ Lạng Thương đã trở thành một đô thị với nhiều phố lớn, nhà ga, bến cảng, khách sạn, bưu điện, câu lạc bộ, trường học, công viên, sân vận độ
Dưới thời Pháp thuộc, ngày 11 tháng 7 năm 1888 đơn vị hành chính Phủ Lạng Thương ra đời.
Ngày 10 tháng 10 năm 1895, tỉnh Bắc Giang được thành lập, Phủ Lạng Thương trở thành tỉnh lỵ tỉnh Bắc Giang.
Ngày 28 tháng 10 năm 1902, Thống sứ Bắc Kỳ ra Quyết định:
Ngày 13 tháng 3 năm 1923, Thống sứ Bắc Kỳ ban hành Quyết định ba khu đã được dự kiến trong Nghị định ngày 27 tháng 12 năm 1899 được ấn định như sau đối với thành phố Phủ Lạng Thương:
Ngày 25 tháng 11 năm 1927, Thống sứ Bắc Kỳ ra Nghị định:
Ngày 21 tháng 12 năm 1927, Quyền thống sứ Bắc Kỳ ra quyết định các làng Thọ Xương và Châu Xuyên thuộc tổng Thọ Xương, phủ Lạng Giang được hợp lại thành làng Thọ Châu.
Ngày 11 tháng 2 năm 1939, Tổng sứ Bắc Kỳ ban hành Nghị định số 241 về việc thành lập tỉnh lỵ Bắc Giang trên cơ sở toàn bộ xã Thọ Châu.
Ngày 24 tháng 2 năm 1942, Tổng sứ Bắc Kỳ ban hành Nghị định số 5247A thành lập thị xã Phủ Lạng Thương trên cơ sở toàn bộ xã Thọ Châu.
Trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, Phủ Lạng Thương là một trong những địa phương sớm khởi nghĩa và giành chính quyền (ngày ngày 17 tháng 8 năm 1945).
Ngày 1 tháng 2 năm 1955, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 451-TTg về việc tái lập thị xã Phủ Lạng Thương trực thuộc tỉnh Bắc Giang.
Ngày 1 tháng 10 năm 1959, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 352-TTg về việc đổi tên thị xã Phủ Lạng Thương thành thị xã Bắc Giang trực thuộc Uỷ ban Hành chính tỉnh Bắc Giang.
Từ năm 1962, tỉnh Hà Bắc được thành lập trên cơ sở hợp nhất 2 tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh, thị xã Bắc Giang thuộc và là tỉnh lỵ của tỉnh Hà Bắc.
Ngày 14 tháng 3 năm 1963, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 25-CP về việc sáp nhập xã Thọ Xương thuộc huyện Lạng Giang và các xóm Đa Mai, Thanh Mai của xã Song Mai thuộc huyện Việt Yên vào thị xã Bắc Giang quản lý.
Ngày 22 tháng 4 năm 1964, thành lập xã Đa Mai trên cơ sở tách một phần đất xã Song Mai thuộc huyện Việt Yên.
Sau năm 1975, thị xã Bắc Giang bao gồm 5 phường: Lê Lợi, Minh Khai, Ngô Quyền, Nhà Máy Phân Đạm, Trần Phú và 2 xã: Đa Mai, Thọ Xương.
Ngày 3 tháng 5 năm 1985, chuyển xã Song Mai thuộc huyện Việt Yên và xã Dĩnh Kế thuộc huyện Lạng Giang về thị xã Bắc Giang.
Sau khi điều chỉnh địa giới, thị xã Bắc Giang có 5 phường Trần Phú, Lê Lợi, Ngô Quyền, Minh Khai, Nhà Máy Phân Đạm và 4 xã: Đa Mai, Thọ Xương, Song Mai, Dĩnh Kế.
Ngày 29 tháng 8 năm 1994, Chính phủ ban hành Nghị định số 103-CP về việc:
Từ năm 1997, sau khi chia tách tỉnh Hà Bắc thành 2 tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh, thị xã Bắc Giang trở lại là tỉnh lỵ của tỉnh Bắc Giang.
Ngày 11 tháng 5 năm 1999, chia xã Thọ Xương thành phường Thọ Xương và xã Xương Giang, thành lập phường Hoàng Văn Thụ trên cơ sở điều chỉnh một phần diện tích tự nhiên và dân số của phường Lê Lợi và xã Dĩnh Kế. Cùng với sự phát triển chung của tỉnh, thị xã Bắc Giang đã có những bước phát triển nhanh về mọi mặt xứng đáng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học, kỹ thuật của tỉnh và là một trong những trung tâm chuyên ngành cấp vùng.
Ngày 15 tháng 12 năm 2003, Bộ Xây dựng ban hành Quyết định số 1683/QĐ-BXD về việc công nhận thị xã Bắc Giang là đô thị loại III.
Thị xã Bắc Giang trở thành thành phố Bắc Giang theo Nghị định của Chính phủ số 75/2005/NĐ-CP ngày 7 tháng 6 năm 2005.
Khi thành lập, thành phố Bắc Giang có 32,21 km² diện tích tự nhiên, 126.810 nhân khẩu, và có 11 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm 7 phường: Hoàng Văn Thụ, Lê Lợi, Mỹ Độ, Ngô Quyền, Thọ Xương, Trần Nguyên Hãn, Trần Phú và 4 xã: Đa Mai, Dĩnh Kế, Song Mai, Xương Giang.
Ngày 27 tháng 9 năm 2010, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 36/NQ-CP, điều chỉnh địa giới hành chính các huyện Lạng Giang và Yên Dũng để mở rộng địa giới hành chính thành phố Bắc Giang. Theo đó, các xã được chuyển vào thành phố Bắc Giang bao gồm: xã Dĩnh Trì (huyện Lạng Giang), 4 xã Song Khê, Tân Mỹ, Tân Tiến, Đồng Sơn (huyện Yên Dũng).
Ngày 31 tháng 12 năm 2013, Nghị quyết số 140/NQ-CP của Chính phủ thành lập 3 phường Xương Giang, Dĩnh Kế, Đa Mai trên cơ sở các xã có tên tương ứng.
Ngày 3 tháng 12 năm 2014, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2168/QĐ-TTg công nhận thành phố Bắc Giang là đô thị loại II trực thuộc tỉnh Bắc Giang.
Trong chiến đấu và xây dựng đất nước, Thành phố Bắc Giang đã có hàng ngàn lượt tập thể, cá nhân được Đảng, Nhà nước phong tặng nhiều danh hiệu, phần thưởng cao quý. Trong đó Thành phố được tặng danh hiệu "Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân trong thời kỳ chống Mỹ", Huân chương lao động hạng Nhì trong thời kỳ đổi mới; 5 phường, xã được phong tặng danh hiệu "Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân trong thời kỳ chống Pháp, chống Mỹ"; phong tặng và truy tặng 26 danh hiệu Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng. Thành phố đã 4 lần vinh dự được đón Bác Hồ về thăm, làm việc với tỉnh và Thành phố (năm 1955, 1959, 1961 và 1963).
Thành phố Bắc Giang có 16 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 10 phường: Đa Mai, Dĩnh Kế, Hoàng Văn Thụ, Lê Lợi, Mỹ Độ, Ngô Quyền, Thọ Xương, Trần Nguyên Hãn, Trần Phú, Xương Giang và 6 xã: Dĩnh Trì, Đồng Sơn, Song Khê, Song Mai, Tân Mỹ, Tân Tiến.
Với vị trí rất thuận lợi về giao thông, cách thủ đô Hà Nội 50 km về phía Đông Bắc, ở vị trí trung lộ trên tuyến giao thông huyết mạch (đường bộ, đường sắt liên vận quốc tế) nối Thủ đô Hà Nội với thành phố Lạng Sơn và cửa khẩu quốc tế Đồng Đăng; ở vào vị trí đầu mối giao thông cấp liên vùng quan trọng: nằm cận kề vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, có hệ thống đường bộ gồm các Quốc lộ 1 cũ và mới, 31, 37, tỉnh lộ 398; các tuyến đường sắt: Hà Nội - Lạng Sơn, Hà Nội - Kép - Hạ Long, Hà Nội - Kép - Thái Nguyên chạy qua; có tuyến đường sông nối thành phố với các trung tâm công nghiệp, thương mại, du lịch lớn như Phả Lại, Côn Sơn - Kiếp Bạc, Yên Tử, Hải Phòng; tiếp cận thuận lợi với cảng hàng không quốc tế Nội Bài, cảng nội địa Gia Lâm, cảng nước sâu Cái Lân, cảng Hải Phòng và các cửa khẩu quốc tế trên biên giới Lạng Sơn.
Tiềm năng du lịch trên địa bàn thành phố gồm: 02 điểm du lịch tự nhiên và 42 di tích (14 di tích cấp quốc gia, 4 di tích cấp tỉnh) đều đã và đang được khai thác như: Hạ tầng 2 bờ đê Sông Thương; điểm du lịch Quảng Phúc; các di tích Chùa Kế, nghè Cả (xã Dĩnh Kế); khu lăng tướng công Lều Văn Minh, chùa Vẽ, đình Vẽ, chùa Thành, đình Thà(01 lễ hội cấp tỉnh) như: lễ hội kỷ niệm chiến thắng Xương Giang; hội chùa Vẽ (phường Thọ Xương), chùa Hồng Phúc(phường Trần Nguyên Hãn), chùa Dền (phường Lê Lợi)...Một số lễ hội và làng nghề truyền thống (bún Đa Mai, bánh đa Kế) được duy trì thường xuyên, có ý nghĩa dân gian và kinh tế đang từng bước hấp dẫn du khá
Thành phố Bắc Giang trước kia và nay được biết đến với vai trò là một trong những trung tâm lớn của vùng về công nghiệp đạm - hoá chất, công nghiệp may mặc, đồng thời là trung tâm phân phối, trung chuyển hàng hóa từ Trung Quốc cho miền Bắc, cũng như là nơi tập kết các sản phẩm nội địa xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc. Thành phố có 2 làng nghề truyền thống, một số cụm công nghiệp vừa và nhỏ gắn với hệ thống các khu, cụm công nghiệp lớn của tỉnh liền kề thành phố như: Quang Châu, Đình Trám, Vân Trung, Song Khê - Nội Hoà
Biểu trưng công nghiệp của thành phố Bắc Giang là công trình Nhà máy Phân đạm Hà Bắc, là nhà máy phân đạm đầu tiên của Việt Nam
Năm 2013, thành phố Bắc Giang có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững đạt 17,3%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực: Thương mại- dịch vụ chiếm 45,2%, Công nghiệp, Tiểu thủ công nghiệp - Xây dựng 51,3%, Nông nghiệp - thủy sản 3,5%. Tổng thu ngân sách năm 2013 đạt 695 tỷ đồng, bằng 117% dự toán, bằng 106% so với năm trước. thu nhập bình quân đầu người đạt 59,80 triệu đồng/người. Tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 1,55%; số hộ thu nhập 4 triệu đồng/tháng đạt 82%.
Một số cụm công nghiệp đã được hình thành gắn với hệ thống các khu, cụm công nghiệp lớn của tỉnh liền kề, tạo điều kiện thu hút đầu tư trong và ngoài nước, làm cơ sở để thúc đẩy công nghiệp của thành phố cũng như của tỉnh phát triển nhanh và vững chắc. Trên địa bàn thành phố đã hình thành nhiều ngành nghề công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đa dạng như chế biến nông lâm sản, cơ khí, hoá chất, dệt may, điện tử, sản xuất vật liệu xây dự, tổ sản xuất; 11 cơ sở kinh tế tập qthể; kinh tế hỗn hợp 105 cơ sở và 6 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Thành phố hiện có 5 làng được công nhận là làng nghề, với các ngành nghề như sản xuất bún, sản xuất mỳ gạo, làm bánh đa, nghề mộ
Thành phố Bắc Giang còn là địa danh nhiều người biết đến như là một trong những trung tâm phân phối, trung chuyển hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc và ngược lại. Năm 2013 tổng giá trị xuất, nhập khẩu ước đạt 310 triệu USD, tăng 10% so với năm trước (xuất khẩu đạt 186 triệu USD, nhập khẩu đạt 124 triệu USD).
Mạng lưới thương mại - dịch vụ cũng đã được phát triển, đặc biệt tại các tuyến phố chính trong thành phố. Trong thời gian gần đây nhiều dãy phố đã được chuyên môn hoá ngành hàng kinh doanh.
Trên địa bàn thành phố hiện nay đã và đang hình thành một số khu đô thị mới như: khu đô thị Kosy (phường Xương Giang), khu đô thị phía nam thành phố Bắc Giang, khu đô thị Tây Nam thành phố Bắc G
|
Thế giới bên kia
Thế giới bên kia, hay lai thế, thế giới sau khi chết (hay sự sống sau khi chết), là một khái niệm để chỉ sự tiếp tục tồn tại ở dạng tinh thần của con người sau khi đã chết ở thế giới vật lý.
Theo quan niệm của người Phương Đông.
Quan niệm Phật giáo.
Nhiều người tin vào thế giới sau khi chết, là một thế giới khác thế giới chúng ta đang sống vì trên đời này có nhân có quả, gieo nhân nào ắt hẳn gặp quả ấy. Có thể sống trên trần không phải chịu những lỗi lầm do mình gây ra, nhưng mà khi xuống dưới thế giới thứ hai sẽ phải gánh chịu những lỗi lầm mà mình đã gây ra cho người khác, bị dọa đày phải chịu cảnh ngạ quỷ (quỷ đói), súc sinh cho đến chịu hết quả của ác nghiệp mới có cơ hội tái sanh đến cõi người hoặc cõi trời. Nếu những kẻ tội phạm giết người không ghê tay, tuy họ không phải chịu cảnh tù tội, nhưng khi họ chết rồi thì hình phạt của họ sẽ vào vạc dầu, nấu họ cho đến khi hết tội lỗi thì mới được làm người. Vì vậy chúng ta hãy sống đúng để sau này sang thế giới bên kia không phải chịu tội lỗi.
Theo quan niệm của người Phương Tây.
Quan điểm Kitô Giáo.
Theo Kitô giáo thì ai sống đúng luật thì sẽ được lên thiên đường. Còn ai phạm tội nặng trước khi chết mà không ăn năn hối cải thì sẽ bị đày đọa xuống địa ngục. Còn ai mắc tội nhẹ hoặc tội nặng mà hối cải thì họ sẽ chịu tội ở luyện ngục rồi họ sẽ được lên thiên đường. Vào ngày cuối cùng của thế giới họ được phán xét lại một lần nữa.
|
Đan Mạch (tiếng Đan Mạch: "Danmark") là một quốc gia thuộc vùng Scandinavia ở Bắc Âu và là thành viên chính của Vương quốc Đan Mạch. Đan Mạch nằm ở vùng cực nam của các nước Nordic, nằm phía Tây Nam của Thụy Điển, phía Nam của Na Uy, và phía Bắc của Đức. Đan Mạch giáp cả biển Baltic và biển Bắc. Đan Mạch bao gồm một bán đảo lớn, Jutland (Jylland) và nhiều đảo, được biết đến nhiều nhất là Zealand (Sjælland), Funen (Fyn), Vendsyssel-Thy, Lolland, Falster, Bornholm, và hàng trăm đảo nhỏ thường được gọi là quần đảo Đan Mạch. Đan Mạch từ lâu đã kiểm soát cửa ngõ vào biển Baltic. Trước khi có kênh đào Kiel, nước chảy vào biển Baltic qua ba eo biển được gọi là những eo biển Đan Mạch.
Đan Mạch là một quốc gia quân chủ lập hiến với thể chế đại nghị. Đan Mạch có một chính phủ cấp quốc gia và chính quyền địa phương ở 98 khu tự quản. Đan Mạch là thành viên của Liên minh châu Âu từ năm 1973, mặc dù không thuộc khu vực đồng Euro. Đan Mạch là 1 trong những thành viên sáng lập của NATO và OECD.
Đan Mạch, với một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa hỗn hợp và hệ thống phúc lợi quốc gia lớn, xếp hạng nhất trên thế giới về bình đẳng thu nhập. Theo tạp chí kinh tế Hoa Kỳ Forbes, Đan Mạch có môi trường kinh doanh tốt nhất thế giới. Từ năm 2006 đến 2008, theo thăm dò, Đan Mạch được xếp hạng là nơi hạnh phúc nhất thế giới dựa trên các tiêu chí sức khỏe, phúc lợi xã hội và giáo dục. Thăm dò Chỉ số hòa bình toàn cầu năm 2009 xếp Đan Mạch là nước yên bình thứ nhì trên thế giới sau New Zealand. Đan Mạch được xếp là nước ít tham nhũng nhất trên thế giới theo Chỉ số nhận thức tham nhũng 2008, cùng hạng với Thụy Điển và New Zealand.
Tiếng Đan Mạch, ngôn ngữ quốc gia được coi là gần với tiếng Thụy Điển và tiếng Na Uy. Đan Mạch cũng có văn hóa và lịch sử tương đồng với hai nước này. 82,0% dân số Đan Mạch và 90,3% dân tộc Đan Mạch là thành viên của giáo hội Luther. Năm 2009, 526.000 người (9,5% dân số Đan Mạch) là người nhập cư hoặc thế hệ sau của những người nhập cư. Đa số (54%) trong số này có nguồn gốc từ Scandinavia.
Tên gọi của Đan Mạch trong tiếng Việt bắt nguồn từ tiếng Trung. Quốc hiệu của quốc gia này là "Danmark". Bằng tiếng Trung, "Dan-mark" được phiên âm là "丹麥" (pinyin: "Dān mài"). "丹麥" có âm Hán Việt là "Đan Mạch".
Đất nước thuộc vùng Scandinavia với diện tích 43.000 km², một phần ba trong số đó là diện tích của 443 hòn đảo lớn nhỏ. Hai hòn đảo lớn nhất là Zealand ("Sjælland") – rộng khoảng 7.000 km² và Funen ("Fyn") – khoảng 3.000 km². Đường bờ biển dài tới 7.314 km. Địa hình của Đan Mạch khá bằng phẳng, với điểm cao nhất cách 173 m so với mực nước biển.
Bán đảo Jutland ("Jylland") hình thành nên phần đất liền của Đan Mạch. Nó trải dài trên 300 km tính từ biên giới với Đức. Các cồn cát, vũng biển và bãi bồi bảo vệ bờ tây của bán đảo trước những cơn bão dữ dội từ ngoài Biển Bắc. 443 hòn đảo lớn nhỏ tập trung chủ yếu trên biển Baltic, ngay sát với bờ tây của Jutland. Chỉ 76 trong số này có người ở. Độ cao trung bình của Đan Mạch so với mực nước biển là 30 m..
Những khối băng lớn của thời kì băng hà đã hình thành nên Đan Mạch ngày nay. Một vành đai băng cổ đã chia cắt phần đông và tây của Jutland.
Vịnh hẹp khoét sâu vào đất liền lớn nhất có tên là Limfjorden, chạy xuyên ngang phần phía bắc bán đảo hướng tới mũi Skagen. Phía đông Jutland là Eo biển Lillebælt ngăn cách đảo Funen("Fyn") với lục địa. Đông nam Funen có hệ thống cầu nối với hòn đảo nhỏ Langeland. Chếch sang phía đông một chút là đảo Zealand ("Sjælland"), ngăn cách với Funen bởi Eo biển Storebælt. Trên bờ phía đông của đảo này ta sẽ tìm thấy thủ đô Copenhagen("København"). Xa xa về phía đông là hòn đảo granit có tên Bornholm.
Trên đảo Greenland ("Grønland")có khoảng hơn 55.000 dân cư sinh sống, 48.000 trong số họ là người thiểu số Inuit. Thủ phủ của Greenland là Nuuk. Từ năm 1380 hòn đảo này là thuộc địa của Đan Mạch, từ năm 1953 nó trở thành một lãnh thổ tự trị thuộc Đan Mạch.
Quần đảo Faroe ("Farøerne") (thủ phủ: Tórshavn, diện tích 1.399 km², 44.800 dân) là thuộc địa của Na Uy từ năm 1035 tới năm 1814. Quần đảo này có khí hậu ôn hoà, dễ chịu chủ yếu nhờ vào ảnh hưởng của dòng hải lưu Gulf.
Cũng chính dòng hải lưu này, cùng với vị trí phía bắc của Đan Mạch, ảnh hưởng phần lớn tới khí hậu của vương quốc: thường có một đợt gió từ ôn hoà tới mạnh thổi chủ yếu từ phía tây, mùa hè lạnh hơn so với các nước châu Âu khác, nhưng mùa đông lại ấm áp hơn, lượng mưa hàng năm vào loại trung bình. Cây trồng đa phần là cây chắn gió và chắn cát lấn vào đất liền.
Ngoại trừ loài hươu sừng nhiều nhánh ("Cervus elaphus") Đan Mạch hầu như không có thêm loài thú lớn nào khác. Ngược lại, nơi đây lại là thế giới của vô số các loài chim. Ô nhiễm môi trường chính là nguyên nhân chủ yếu đe dọa sự tồn tại của các loài động vật vùng hồ và bờ biển của Đan Mạch.
Các tài nguyên chính của quốc gia: dầu mỏ, khí đốt, cá, muối và đá vôi.
Đan Mạch có khí hậu ôn đới, đặc trưng bởi mùa đông ấm áp, với nhiệt độ trung bình tháng một , và mùa hè mát, với nhiệt độ trung bình tháng 8 . Đan Mạch có 179 ngày có giáng thủy với tổng lượng nước mỗi năm; mùa thu là mùa ẩm ướt nhất và mùa xuân khô nhất. Vị trí giữa lục địa và đại dương làm cho thời tiết thường thay đổi.
Do vị trí phía bắc của Đan Mạch nên có những dao động theo mùa về ánh sáng ban ngày. Ngày ngắn trong mùa đông khi mặt trời mọc khoảng 8:45 sáng và lặn lúc 3:45 pm (giờ chuẩn), và mùa hè kéo dài khi mặt trời mọc lúc 4:30 sáng va lặn lúc 10 tối (giờ mùa hè).
Đan Mạch thuộc về Giới Bắc Cực và có thể được chia làm hai vùng sinh thái: rừng hỗn hợp Đại Tây Dương và rừng hỗn hợp Baltic. Hầu hết tất cả rừng nguyên sinh của Đan Mạch đã bị phá hủy hoặc chia nhỏ, chủ yếu do mục đích nông nghiệp trong thiên niên kỷ trước. Sự phá rừng đã tạo ra những vùng cây thạch nam bị phá hủy lớn và cát trôi có thể gây nhiều thiệt hại. Mặc dù vậy, có vài rừng mọc lại trên quốc gia này và tổng cộng 12,9% diện tích đất bây giờ là rừng. Norway spruce là loại cây phổ biến nhất (2017), đóng vai trò quan trọng trong việc sản xuất cây Giáng sinh.
Hoẵng châu Âu có số lượng ngày càng tăng tại vùng quê, và hươu đỏ có sừng có thể được tìm thấy ở vùng rừng Jutland. Đan Mạch cũng có các loại động vật có vú nhỏ hơn, như là chồn hôi châu Âu, thỏ đồng và nhím gai. Khoảng 400 loài chim cư trú tại Đan Mạch và khoảng 160 loại phối giống tại quốc gia này. Các loài động vật có vú đại dương lớn bao gồm cá heo cảng, các loại động vật chân màng đôi khi có cá voi lớn ghé thăm, bao gồm cá voi xanh và cá voi sát thủ. Cá tuyết, cá trích và cá bơn sao là các loại cá có số lượng dồi dào tại Đan Mạch và la cơ sở của một ngành công nghiệp đánh cá lớn.
Phân chia hành chính.
Đan Mạch có tổng diện tích được phân thành 5 vùng hành chính (). Các vùng này lại được chia thành 98 đô thị (""). Vùng đất tận cùng phía đông ở Đan Mạch là quần đảo Ertholmene có diện tích 39 ha (0,16 m2), không phải là vùng đô thị cũng không phải một vùng nhưng trực thuộc Bộ Quốc phòng của nước này.
Các vùng được thành lập ngày 01/01/2007 để thay thế 16 hạt trước đây. Cùng lúc này, các đô thị nhỏ hơn được hợp nhất để tạo thành các đơn vị lớn hơn nên giảm xuống từ 270. Hầu hết các đô thị có dân số ít nhất 20.000 dân tạo ra sự bền vững về tài chính và quản lý tốt hơn, mặc dù có một vài ngoại lệ. Đứng đầu các đơn vị hành chính là hạt được bầu cử trực tiếp nhiệm kỳ 4 năm; lần bầu cử gần đây nhất được tổ chức vào ngày 19 tháng 11 năm 2013. Các cấu trúc vùng khác sử dụng các ranh giới đô thị, bao gồm các quận cảnh sát, quận tòa án và quận bầu cử.
Chính thể của các vùng là các hội đồng hạt khu vực gồm 41 người được bầu nhiệm kỳ 4 năm. Đứng đầu hội đồng là "" người được bầu ra từ hội đồng.
Hội đồng chịu trách nhiệm về chăm sóc sức khỏe quốc gia, dịch vụ xã hội, và phát triển vùng. Không giống các hạt đã được thay thế, các vùng không được phép thu thuế và dịch vụ y tế được chi trả chủ yếu từ đóng góp chăm sóc sức khỏe quốc gia khoảng 6% ("") cộng thêm các quỹ từ chính phủ và đô thị.
Diện tích và dân số của các vùng thay đổi nhiều; ví dụ vùng thủ đô Đan Mạch trải dài vùng đô thị Copenhagen và đảo Bornholm có dân số gấp 3 lần vùng phía bắc Bắc Đan Mạch, trong đó bao gồm các khu vực thưa thớt dân cư của bắc Jutland. Theo hệ thống hạt các vùng đông đúc dân cư như Copenhagen và Frederiksberg được trao quy chế tương tự như các hạt, làm nó trởi thành các đơn vĩ hành chính cấp một. Các đô thị "sui generis" không được sáp nhập vào các dùng mới theo cải cách năm 2007.
Ngôn ngữ chính của Đan Mạch là tiếng Đan Mạch, ở vùng Sønderjylland (giáp với Đức) tiếng Đức là ngôn ngữ chính thứ hai, trên đảo Greenland người ta còn nói tiếng Greenland (tiếng Đan Mạch: "Grønlandsk"), còn ở quần đảo Faroe thì tiếng Faroe cũng là ngôn ngữ chính thức. Phía nam Đan Mạch có khoảng 80.000 dân nói tiếng Đức. Tiếng Đan Mạch thuộc nhánh phía Bắc của nhóm ngôn ngữ German của ngữ hệ Ấn-Âu với rất nhiều từ vay mượn từ ngôn ngữ miền Bắc nước Đức. Ngày nay tiếng Anh là ngoại ngữ quan trọng nhất ở Đan Mạch, đa số học sinh chọn tiếng Anh là sinh ngữ chính. Tuy nhiên tiếng Đức và tiếng Pháp vẫn có một ảnh hưởng đáng kể.
Tôn giáo tại Đan Mạch (2015)
templatestyles src="Legend/" / Kháng Cách
(67.4%)templatestyles src="Legend/" / Chính thống giáo
(2.0%)templatestyles src="Legend/" / Công giáo Roma
(9.1%)templatestyles src="Legend/" / Vô thần
(10.6%)templatestyles src="Legend/" / Hồi giáo
(0.5%)templatestyles src="Legend/" / Phật giáo
(0.5%)templatestyles src="Legend/" / Khác (1.1%)
Thời tiền sử cho tới ít năm trước thời Trung cổ, Đan Mạch cũng như các nước vùng Scandinavia có niềm tin vào các vị thần trong Thần thoại Bắc Âu, gọi là "Asatroen" hay "Nordisk mytologi". Các tác phẩm quan trọng nhất về thần thoại Bắc Âu là 2 quyển Edda cổ ("ældre Edda") và Edda mới ("yngre Edda").
Quyển Edda cổ (hay Edda bằng thơ) là một tuyển tập thơ về các vị thần và anh hùng Bắc Âu, gồm 34 tập, trong đó có 2 tập quan trọng nhất là "Voluspá" và "Hávamál", được viết bằng chữ Iceland cổ, từ khoảng năm 800 tới năm 1200.
Quyển Edda mới (hay Edda bằng văn xuôi), còn được gọi là "Snorra Edda" vì được thi sĩ người Iceland là Snorri Sturluson (1179 - 1241) viết khoảng năm 1220, dạy cách làm thơ cổ Bắc Âu ("skjaldekvad") và có rất nhiều truyện thần thoại (khoảng 90.000 từ).
Các ngày trong tuần được gọi theo tên các vị thần:
Đan Mạch theo Kitô giáo từ khoảng năm 965. Tới thời Kháng Cách ("reformationen") năm 1536 thì phong trào Kháng Cách dòng Giáo hội Luther trở thành quốc giáo. Có một bộ trong chính phủ phụ trách về tôn giáo. Theo thống kê năm 2006 thì những người theo Giáo hội Luther Quốc giáo chiếm 95%, Công giáo Rôma 3%, Hồi giáo 2% (hầu như toàn người nhập cư), các đạo khác hoặc vô thần 13,1%.
Các phát hiện khảo cổ ở Đan Mạch có niên đại từ năm 130.000–110.000 trước Công nguyên trong thời kỳ gian băng Eem. Con người đã sống ở Đan Mạch từ khoảng năm 12.500 trước Công nguyên và có bằng chứng ngành nông nghiệp đã tồn tại từ khoảng năm 3900 trước Công nguyên. Thời kỳ đồ đồng Nordic (1.800–600 trước Công nguyên) ở Đan Mạch đã được đánh dấu bằng các gò mộ để lại nhiều phát hiện khảo cổ, bao gồm lur và Sun Chariot.
Trong Thời kỳ Đồ sắt tiền La Mã (500 trước Công nguyên – 1 Công nguyên), các nhóm dân bản địa bắt đầu di cư về phía nam, dù những người Đan Mạch đầu tiên đến Đan Mạch giữa thời kỳ tiền La Mã và Thời kỳ Đồ sắt German, trong Thời kỳ Đồ sắt La Mã (1–400 Công Nguyên).
Thời tiền sử ở Đan Mạch cách nay khoảng 15.000 năm, khi sông băng lục địa ("inland ice") trôi chệch về phía bắc do một sự thay đổi khí hậu. Những người săn bắt tuần lộc (loại hươu lớn có sừng nhiều nhánh, tên khoa học là "Rangifer tarandus") đã sống tại đây, sau đó tới những người sống bằng nghề săn bắt các muông thú khác và những người đánh cá trải qua hàng thiên niên kỷ.
Cách nay khoảng 6.000 năm thì bắt đầu thời đại đồ đá của người săn bắt, dần dần thay thế bằng thời đại đồ đá của nông dân, sau đó là thời đại đồ đồng, rồi thời đại đồ sắt.
Ngay cuối thời đại đồ sắt, tức khoảng thế kỷ thứ VIII, ở đây đã tồn tại một chính quyền trung ương mạnh, bằng chứng là đã có công trình Dannevirke gồm hệ thống bờ lũy cao, dài 14 km ở cách phía nam biên giới Đan Mạch - Đức hiện nay khoảng 40 km, gần bên thành phố viking "Hedeby" (tiếng Đức là "Haithabu"), vùng Slien gần Schleswig. Ngoài ra trong thời đại đồ sắt còn một hệ thống kênh đào ngang qua đảo Samsø dài khoảng 500 m, rộng 11 m để tàu thuyền lưu thông, thời đó dùng làm một khâu của căn cứ hải quân bảo vệ thành phố Aarhus, gọi là Kanhavekanalen.
Thời tiền sử kết thúc vào Thời đại Viking, khi những người Viking Đan Mạch bắt đầu đi buôn bán và cướp bóc ở phần lớn châu Âu.
Nhờ có 2 tấm bia đá khắc chữ rune ở Jelling (nam bán đảo Jylland, tấm nhỏ do Gorm già dựng khoảng năm 955, tấm lớn do Harald răng xanh dựng khoảng năm 965) mà ta biết vị vua đầu tiên của bán đảo Jylland là "Gorm già" Gorm den Gamle và là cha của Harald Blauzahn (Harald răng xanh), người sau này đã thống nhất Đan Mạch vào năm 980. Hai tấm bia kể trên được coi là "Giấy khai sinh của Đan Mạch".
Cho tới tận thế kỷ XI người Đan Mạch vẫn còn được coi là người Viking, dân tộc đã từng làm chủ nhiều thuộc địa và thâu tóm việc buôn bán khắp châu Âu. Người Viking cũng như thường xuyên cướp phá và gây chiến. Họ bắt đầu đòi cái gọi là Danegæld (món nợ người Đan Mạch) theo đó thì các vua Anh phải nộp thuế cho vua Đan Mạch, để không bị cướp bóc, vì họ có một hạm đội rất mạnh.
Rất nhiều lần trong lịch sử Đan Mạch đã giành được quyền kiểm soát Vương quốc Anh, Na Uy, Thuỵ Điển và một phần lớn bờ biển Baltic, cũng như phần phía bắc nước Đức. Vùng Skåne (phần đất phía nam Thuỵ Điển ngày nay) cũng đã từng thuộc về Đan Mạch trong một thời gian dài trước khi trao cho Thụy Điển sau Hòa ước Roskilde vào năm 1658. Liên hiệp Đan Mạch - Na Uy (1380-1814) kết thúc vào năm 1814 cùng với việc Na Uy bị sáp nhập vào Thuỵ Điển (tới năm 1905). Riêng Greenland, quần đảo Faroe, Iceland (cho tới năm 1944) và vùng Đan Mạch-Tây Ấn (cho tới năm 1917) vẫn thuộc quyền sở hữu của Đan Mạch.
Phong trào dân tộc và những người dân chủ ở Đan Mạch bắt đầu tạo được nhiều ảnh hưởng từ thập niên 1830. Sau cuộc cách mạng châu Âu 1848, nhà nước quân chủ lập hiến Đan Mạch được thành lập: hiến pháp đầu tiên được soạn thảo.
Sau khi thất bại trong cuộc Chiến tranh Phổ-Đan Mạch năm 1864, Đan Mạch buộc phải cắt vùng Schleswig-Holstein cho nước Phổ. Kể từ sau thất bại này Đan Mạch giữ một thái độ nhất quyết trung lập trong đối ngoại của quốc gia cho đến sau Chiến tranh thế giới thứ nhất.
Thế kỷ XX đến nay.
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất biên giới Đan Mạch - Đức được tái xác lập, lần này là lui về phía nam. Năm 1920 nó được xác định chính thức và tồn tại cho đến ngày nay: bắc Schleswig trở về với Đan Mạch. Việc thường xuyên thay đổi đường biên giới dẫn tới sự tồn tại của hai bộ phận dân cư thiểu số ở hai phía: người Đức ở nam Đan Mạch và người Đan Mạch ở miền bắc nước Đức.
Từ ngày 9 tháng 4 năm 1940 cho đến khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai Đan Mạch nằm dưới sự chiếm đóng của quân đội Đức. Cuộc nổi dậy của nhân dân Đan Mạch chống lại sự thảm sát người Do Thái đã trở nên tiêu biểu. Tháng 10 năm 1943 những người Do Thái ở Đan Mạch đã được nhân dân Đan Mạch cứu thoát.
Sau chiến tranh, Đan Mạch trở thành thành viên của khối NATO. Năm 1973 vương quốc này là quốc gia Bắc Âu đầu tiên trở thành thành viên của Cộng đồng châu Âu, nay là Liên minh châu Âu, sau cuộc trưng cầu dân ý.
Năm 1989, Đan Mạch trở thành nước đầu tiên trên thế giới thông qua luật cho phép người đồng tính luyến ái được phép chung sống với nhau.
Sau cuộc trưng cầu ý dân năm 1992, người Đan Mạch phản đối việc phê chuẩn hiệp ước Maastricht (Hiệp ước ngày 7 tháng 2 năm 1992, thành lập Liên minh châu Âu của 12 quốc gia thành viên của Cộng đồng Kinh tế châu Âu), nhưng lại chấp nhận vào năm 1993. Trong cuộc trưng cầu ý dân năm 2000, Đan Mạch đã từ chối lưu hành đồng euro, nước này vẫn sử dụng đồng krone Đan Mạch, tiền riêng của nước mình.
Luật căn bản - cũng gọi là luật hiến pháp - của Vương quốc Đan Mạch ("Danmarks Riges Grundlov") được vua Frederik VII ký ban hành ngày 5 tháng 6 năm 1849. Luật này chuyển quốc gia Đan Mạch từ một vương quốc do một người cai trị ("enevælde") sang một quốc gia theo chính thể quân chủ lập hiến với chế độ tam quyền phân lập. Quyền lập pháp ở trong tay quốc hội ("Folketinget"), quyền hành pháp do chính phủ đảm nhiệm và quyền tư pháp độc lập.
Người đứng đầu quốc gia (chỉ đóng vai trò tượng trưng) là vua hoặc nữ hoàng. Hiện nay đứng đầu vương quốc là Nữ hoàng Margrethe II.
Luật căn bản này đã trải qua 3 đợt tu chính: lần thứ nhất vào năm 1866, lần thứ hai vào năm 1915 (cho phép các phụ nữ được quyền ứng và bầu cử) và lần thứ ba vào năm 1953.
Chế độ quân chủ lập hiến.
Đan Mạch theo thể chế quân chủ lập hiến và hệ thống chính trị đa đảng, đứng đầu Nhà nước là Nữ hoàng. Nữ hoàng chỉ mang tính lễ nghi, không còn quyền lực chính trị. Quyền lực chính trị thuộc về cơ quan hành pháp (Chính phủ), đứng đầu là Thủ tướng.
Kể từ năm 1953, Quốc hội Đan Mạch bỏ việc phân chia Quốc hội thành Thượng viện và Hạ viện (do hai viện nay có quyền hạn như nhau nên rất khó để phân biệt) và theo chế độ một viện (unicameral) với 179 nghị sĩ (trong đó 2 ghế dành riêng cho đảo Greenland và 2 ghế dành cho quần đảo Faroe), được bầu trực tiếp với nhiệm kỳ 4 năm.
Đặc điểm nổi bật của hệ thống chính trị ở Đan Mạch là nền dân chủ liên hiệp (collaborative democracy). Từ năm 1909, không có một đảng nào giành đa số tuyệt đối trong bầu cử; phần lớn là chính phủ thiểu số của một đảng hoặc chính phủ liên minh 2-3 đảng. Kể từ thập kỷ 1980, trong quốc hội luôn có đại diện của ít nhất là 7 đảng.
Quốc hội Đan Mạch (Folketinget) nắm quyền lập pháp, gồm 179 đại biểu và được bầu 4 năm một lần. Trong số 179 đại biểu quốc hội có hai đại diện của đảo Greenland và hai đại diện của quần đảo Faroe. Hiện nay - sau cuộc bầu cử trước thời hạn, ngày 23 tháng 11 năm 2007 - có tất cả tám đảng phái đại diện trong quốc hội và số đại biểu được chia như sau:
Các đảng khác không đạt được tỷ lệ 2% phiếu bầu của tổng số cử tri thì bị loại.
Đứng đầu là Thủ tướng, do Nữ hoàng Đan Mạch chỉ định (thường là lãnh đạo đảng chiếm đa số hoặc lãnh đạo của liên minh cầm quyền). Thủ tướng có quyền thành lập nội các và trình lên Nữ hoàng để xem xét chấp thuận.
Chính phủ hiện nay là chính phủ của Thủ tướng Helle Thorning-Schmidt.
Chính phủ nắm quyền hành pháp, hiện nay nội các do phe đa số nắm giữ, gồm đảng Tả chủ trương tự do kinh tế, đảng Dân tộc Đan Mạch, Đảng Dân tộc Bảo thủ và Đảng Tân Liên Minh, do chủ tịch đảng Tả là Anders Fogh Rasmussen giữ chức thủ tướng (" statsminister").
Quyền tư pháp hoàn toàn độc lập, do hệ thống các tòa án nắm giữ, đứng đầu là tòa án tối cao ("højesteret"), 2 tòa án quốc gia ("landsret") miền đông và miền tây (tương đương tòa thượng thẩm) cùng các tòa án sơ thẩm cấp thành phố ("byret")
Các đảng phái chính trị.
- Đảng Tự do, thành lập năm 1870, do Thủ tướng Lars Løkke Rasmussen đứng đầu.
- Đảng Bảo thủ, do Bộ trưởng Tư pháp Lars Barfoed đứng đầu.
- Đảng Dân chủ xã hội, thành lập năm 1871, do bà Helle Thorning-Schmidt đứng đầu.
- Đảng Nhân dân Đan Mạch, thành lập năm 1995, do bà Pia Merete Kjærsgaard đứng đầu.
- Đảng Nhân dân Xã hội chủ nghĩa, thành lập năm 1916, do ông Villy Søvndal đứng đầu.
- Đảng Tự do xã hội, thành lập năm 1905, do bà Margrethe Vestager đứng đầu.
- Đảng Liên minh xanh – đỏ cánh tả, thành lập năm 1989, lãnh đạo tập thể.
- Đảng Liên minh Tự do cánh hữu, thành lập năm 2007, do ông Anders Samuelsen đứng đầu.
Các khu vực hành chính.
Trước đây Đan Mạch chia ra thành 13 amt (tương đương tỉnh hạt) và 270 kommune (tương đương thị trấn hay xã nông thôn). Theo cuộc cải cách cơ cấu hành chính 2007 (" strukturreformen 2007") thì kể từ 1 tháng 1 năm 2007, bãi bỏ các amt, thay vào đó là 5 vùng:
Số 270 kommune cũng được nhập chung lại còn 98 kommune.
Quan hệ ngoại giao.
Năm 2003, Đan Mạch được bầu làm thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc nhiệm kỳ 2004-2006.
Đan Mạch luôn theo đuổi chính sách đối ngoại rộng mở, tích cực và gắn bó với Tây Âu và Mỹ; ủng hộ việc xây dựng một châu Âu thống nhất, vững về kinh tế, mạnh về chính trị, an ninh và quốc phòng. Đan Mạch có cùng quan điểm với Anh, Ý trong việc thông qua Hiến pháp EU mới; tăng cường quan hệ xuyên Đại Tây Dương.
Đan Mạch có quan hệ ngoại giao với trên 100 nước, là thành viên của hầu hết các tổ chức chính trị, kinh tế, tài chính quốc tế và khu vực, tham gia Hiệp hội Mậu dịch tự do châu Âu (EFTA) năm 1959, Hội đồng Bắc Âu và Quỹ Dự án Bắc Âu (NOPEF)(1952), gia nhập Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) (1949), nhưng không cho phép NATO thiết lập căn cứ hạt nhân NATO trên lãnh thổ Đan Mạch trong thời bình. Ngoài ra, Đan Mạch là thành viên tích cực của Liên Hợp Quốc (UN), Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Mạng lưới giao thông.
Đan Mạch có mạng lưới giao thông đường bộ tổng cộng khoảng 71.600 km, trong đó 880 km là xa lộ. Có 35 cầu các loại, có chiều dài từ 200 m trở lên. Vào mùa hè năm 1998, đã khánh thành cầu nối từ đảo Fyn sang đảo Zealand, Cầu Storebælt (Storebæltsbroen), là một trong các cầu dài nhất châu Âu, với một phần đường hầm dưới lòng biển ("tunnel") dành cho xe lửa. Đan Mạch cũng xây dựng chung với Thụy Điển Cầu Oresund nối từ đảo Zealand (Đan Mạch) sang vùng Nam Thụy Điển ("Øresundsbroen").
Ngoài ra còn các tàu phà ("ferry") nối liền giao thông giữa đất liền với các đảo hoặc giữa các đảo với nhau.
Mạng lưới đường sắt Đan Mạch có tổng chiều dài 2.875 km (năm 2000), trong đó có 508 km đường sắt do công ty tư nhân khai thác, số còn lại do Công ty đường sắt quốc gia Đan Mạch (" Danske Statsbaner") quản lý. Từ ngày 19 tháng 10 năm 2002, Đan Mạch có thêm một số đường tàu điện ngầm ("Metro") tại thủ đô Copenhagen.
Đan Mạch có bốn sân bay quốc tế là: sân bay Copenhagen, sân bay Billund, sân bay Aalborg và sân bay Aarhus.
Đan Mạch có một nền kinh tế thị trường hiện đại và một nền công nghiệp chuyên môn hóa, năng động, đủ khả năng cạnh tranh với các nước khác.
Ngoài các xí nghiệp trung bình và nhỏ, Đan Mạch cũng có các công ty đa quốc gia như A.P. Møller-Mærsk (hãng vận tải hàng hải quốc tế), Lego (sản xuất đồ chơi trẻ em), Carlsberg (hãng bia), Vestas (sản xuất quạt gió), các hãng dược phẩm Lundbeck và Novo Nordisk.
Do thị trường nội địa nhỏ bé, kinh tế Đan Mạch chủ yếu dựa vào việc buôn bán với nước ngoài. Khoảng 70% là buôn bán với các nước trong Liên minh châu Âu, trong đó khoảng 17% là với Đức, đối tác lớn nhất.
Đan Mạch xuất cảng các dịch vụ, các máy móc công nghiệp, các dụng cụ chuyên ngành, sản phẩm hóa chất, thuốc chữa bệnh, hàng dệt may,
Nguồn dầu khí khai thác từ Bắc Hải được tiêu dùng trong nước, số thặng dư cũng được xuất cảng, mang lại một lợi tức đáng kể.
Ngành nông nghiệp sản xuất thực phẩm hàng năm đủ cung cấp cho 15 triệu người (dân số Đan Mạch là trên 5,4 triệu). Ngành chăn nuôi sản xuất thịt các loại và các sản phẩm chế biến từ sữa, riêng thịt heo năm 2005 là trên 2 triệu tấn. Các sản phẩm nông nghiệp nói chung, trị giá khoảng 90 tỷ kroner/năm (tỷ giá hối đoái đầu tháng 12/2007 khoảng 1 US$ = 5,1 krone).
Đan Mạch không có thủy điện, cũng không sử dụng năng lượng hạt nhân, nhưng sử dụng nhiệt điện và năng lượng sức gió từ các cánh quạt lớn. Nguồn năng lượng này đáp ứng được 10% nhu cầu trong nước. Số năng lượng thiếu hụt được nhập từ Thụy Điển.
Thặng dư tài chính quốc gia năm 2005 là 4,9% BNP, năm 2006 là 4,2% BNP. Cán cân thanh toán các năm gần đây là thặng dư và Nhà nước hầu như không có nợ nước ngoài.
Tỷ lệ thất nghiệp tháng 10 năm 2007 là 3% tức 81.700 người.
Năm 1999, là năm bùng nổ của ngành du lịch Đan Mạch với việc đón trên 2 triệu lượt khách quốc tế tới thăm, trong số đó có trên một triệu người Đức. Doanh thu từ du lịch ước đạt khoảng 3,31 tỉ USD.
Do nghèo tài nguyên và thiếu nguyên liệu buộc người Đan Mạch phải học cách sử dụng nguyên liệu một cách tiết kiệm và hiệu quả nhất như ứng dụng năng lượng gió và các năng lượng tái tạo. Bên cạnh đó, Đan Mạch cũng phụ thuộc lớn vào các hoạt động ngoại thương, đặc biệt trong lĩnh vực xuất khẩu lương thực và năng lượng. Năm 2010, kim ngạch xuất khẩu của Đan Mạch chiếm 31,8% GDP (tương đương 99,37 tỷ USD) và kim ngạch nhập khẩu đạt 29,1% GDP cả nước (tương đương 90,83 tỷ USD). Nền kinh tế Đan Mạch trong năm 2010 tuy chưa thực sự phục hồi sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 nhưng cũng đã có dấu hiệu tăng trưởng trở lại với mức tăng GDP 1% trong năm 2010 (so với mức suy thoái -5,2% vào năm 2009), tỷ lệ thất nghiệp giảm nhẹ còn 4,2% trong năm 2010, tuy nhiên tỷ lệ lạm phát tăng ở mức 2,6%.
Tính đến năm 2016, GDP của Đan Mạch đạt 302.571 USD, lớn thứ 39 trên thế giới và lớn thứ 16 châu Âu.
Đơn vị tiền của Đan Mạch là đồng krone Đan Mạch (ký hiệu quốc tế DKK). Ngày 28.9.2000, trong một cuộc trưng cầu ý dân (46,8% thuận, 53,2% chống), Đan Mạch đã từ chối không gia nhập đồng tiền chung của Liên minh châu Âu. Cùng với Anh, Đan Mạch đã ký với các nước trong Liên minh một điều khoản gọi là opting-out (sự chọn lựa không tham gia) cho phép Đan Mạch không gia nhập đồng tiền chung của Liên minh là đồng euro.
Tuy nhiên trên thực tế, đồng krone gắn bó chặt chẽ với đồng euro qua hệ thống Cơ chế tỷ suất hối đoái châu Âu II ("European Exchange Rate Mechanism II"), một phần của Hệ thống tiền tệ châu Âu ("European Monetary System"). Tỷ giá giữa đồng euro và đồng krone bao giờ cũng xấp xỉ: 1 euro = 7,45 krone.
Những di sản văn hoá thế giới ở Đan Mạch bao gồm các đồi mộ cổ ("gravhøj","kæmpehøj", tiếng Anh: "tumulus"), những bia đá Jelling (khắc chữ Rune) và nhà thờ vùng Jelling, cũng như nhà thờ chính tòa Roskilde và lâu đài Kronborg ở thành phố Helsingør.
Nhiều người Đan Mạch được giải Nobel:
Nhà văn lớn đầu tiên của Đan Mạch là Saxo Grammaticus (khoảng 1160 - sau 1208), người viết tác phẩm Gesta danorum (Các kỳ công của người Đan Mạch) bằng tiếng Latin.
Nhà văn nổi tiếng thế giới của Đan Mạch là Ludvig Holberg(1684 - 1574, gốc Na Uy), tác giả của 31 hài kịch, 4 tập thơ, 4 tiểu luận, 8 tiểu thuyết lịch sử và một tiểu thuyết trào phúng. Về khuynh hướng lãng mạn có Johannes Ewald (1743 - 1781) và Jens Baggesen (1764 - 1826). Georg Brandes (1842 - 1927) là nhà phê bình văn học nổi tiếng. Ngoài ra còn các nhà văn nổi tiếng khác như Gustav Wied (1858 - 1914), Martin A. Nexø (1869 - 1954), Tom Kristensen (1893 - 1974).
Những nhà văn Đan Mạch có nhiều đóng góp cho văn học thế giới có thể kể đến Hans Christian Andersen (1805 - 1875) - tác giả của nhiều câu truyện cổ tích nổi tiếng, nhà văn nữ Karen Blixen (1885 - 1962), cũng như nhà văn từng đoạt giải thưởng Nobel năm 1944 Johannes Vilhelm Jensen (1873 -1950), tiểu thuyết "Kongens Fald" của ông vừa được một số tờ báo chọn là tác phẩm thế kỷ của Đan Mạch.
Hai nhà văn Karl Gjellerup (1857 -1919) và Henrik Pontoppidan(1857 - 1943) cùng chia nhau giải Nobel năm 1917.
Nhà văn tiêu biểu cho trường phái ấn tượng của Đan Mạch là Herman Bang (1857 - 1912). Các tác phẩm nổi tiếng của ông là "Ved Vejen" (Bên đường, 1886) được Max von Sydow chuyển thể thành phim năm 1988, dưới tên Katinka, "Stuk" (1887) và "Tine" (1889), được Knud Leif Thomsen đưa lên màn ảnh năm 1964, "Mikael" (1904) cũng được Mauritz Stiller đưa lên màn ảnh năm 1916, sau đó Carl Theodor Dreyer cũng lại làm một bản phim mới (1924).
Mặc dù được biết đến nhiều hơn trong vai trò một nhà triết học, Søren Kierkegaard (1813 - 55) cũng là một tên tuổi lớn của nền văn học Đan Mạch.
Một tác giả nổi tiếng thế giới khác là Peter Høeg (1957 - ?), ông được biết đến với tác phẩm "Frøken Smillas fornemmelse for sne" (Cảm giác về tuyết của nàng Smillas).
Kiến trúc Đan Mạch có nguồn gốc từ thời đại Viking nhưng bắt đầu được biết đến từ thời Trung cổ khi bắt đầu là nhà thờ và nhà thờ lớn phong cách kiến trúc Roman, sau đó là phong cách kiến trúc Gothic xuất hiện trên khắp cả nước. Được tạo cảm hứng từ các lâu đài Pháp và với sự hỗ trợ của các nhà thiết kế người Đan Mạch, kiến trúc thời Phục Hưng phát triển với nhiều cung điện hoàng gia tráng lệ. Kiến trúc Tân cổ điển đến với Đan Mạch từ Pháp và vào thế kỷ XIX từ từ hòa vào với phong cách Roman Quốc gia khi các nhà thiết kế người Đan Mạch tự nghĩ ra. Tuy nhiên mãi đến thế kỷ XX các kiến trúc sư Đan Mạch mới bước đến tầm cỡ thế giới với thuyết chức năng rất thành công của họ. Vì vậy có nhiều nhà thiết kết tầm cỡ thế giới hơn như là Johann Otto von Spreckelsen người thiết kế Grande Arche ở Paris. Về mặt quốc tế, có lẽ kiến trúc sư được ca tụng nhiều nhất là người thiết kế ra Nhà hát Opera Sydney, Jørn Utzon, nhưng tại Đan Mạch, người đó là kiến trúc sư Arne Jacobsen người mà có lẽ tự hào nhất về phát triển 'phong cách hiện đại kiểu Đan Mạch', như là những chiếc ghế Thiên nga và Trứng nổi tiếng thế giới. Một làn sóng kiến trúc sư Đan Mạch trẻ đang giành được danh tiếng quốc tế, như Bjarke Ingels với các công trình như Danish National Pavilion ở Expo 2010 Thượng Hải Trung Quốc.
Thiết kế kiểu Đan Mạch là thuật ngữ thường được sử dụng để diễn tả phong cách thiết kế và kiến trúc chức năng, thứ được phát triển vào giữa thế kỷ XX, bắt nguồn từ Đan Mạch. Thiết kế kiểu Đan Mạch theo điển hình được áp dụng cho thiết kế công nghiệp và đồ dùng gia đình, chúng dành nhiều giải thưởng quốc tế.
Nhà máy Sứ Đan Mạch ("Royal Copenhagen"), bao gồm Bing Grøndahl, nổi tiếng với chất lượng của các sản phẩm gốm sứ và các sản phẩm xuất khẩu toàn thế giới. Thiết kế kiểu Đan Mạch cũng là một thương hiệu nổi tiếng, thường gắn liền với các nhà thiết kế và kiến trúc sư như Børge Mogensen (1914–1972), Finn Juhl (1912–1989), Hans Wegner (1914–2007), Arne Jacobsen (1902–1971), Poul Kjærholm (1929–1980), Poul Henningsen (1894–1967) và Verner Panton (1926–1998). Georg Jensen (1866–1935) nổi tiếng về thiết kế đồ đồng hiện đại.
Các nhà thiết kế khác bao gồm Kristian Solmer Vedel (1923–2003) trong lĩnh vực thiết kế công nghiệp, Jens Harald Quistgaard (1919–2008) cho các đồ dùng trong bếp và Ole Wanscher (1903–1985) người có phương pháp thiết kế đồ dùng gia đình cổ điển.
Bảo tàng Nghệ thuật và Thiết kế Đan Mạch tại Copenhagen trưng bày các thiết kể tốt nhất của Đan Mạch.
Trong thời kì phim câm Đan Mạch là nhà sản xuất phim lớn của thế giới sau Mỹ, Đức và Pháp. Dẫu cho địa vị này bị phá vỡ cùng với sự ra đời của phim có âm thanh, nhưng những tác phẩm điện ảnh của Đan Mạch vẫn giành được sự chú ý trên thế giới. Thập niên 1990 đánh dấu sự trở lại của Đan Mạch trên phim trường quốc tế cùng với phong trào tuyên ngôn Dogma 95.
Những đạo diễn nổi tiếng của Đan Mạch:
Phim nước ngoài ở Đan Mạch thường không được lồng tiếng mà chỉ được làm thêm phụ đề, ngoại trừ một số phim thiếu nhi.
Ẩm thực truyền thống của Đan Mạch giống như các quốc gia Bắc Âu khác và Bắc Đức, chủ yếu bao gồm thịt, cá và khoai tây. Các món Đan Mạch thường theo mùa, bắc nguồn từ ngành nông nghiệp trong quá khứ, vị trí địa lý của nó, và khí hậu có mùa đông dài và lạnh.
Bánh kẹp mở, được biết đến là "smørrebrød", dạng cơ bản của nó thường được dùng làm bữa trưa, nó có thể được xem là đặc sản quốc gia khi được chế biến và trang trí với nhiều nguyên liệu. Món nóng theo truyền thống bao gồm thịt xay, như là "frikadeller" (thịt lợn hoặc bê viên) và "hakkebøf" (bánh thịt viên), hoặc những món thịt hoặc cá lớn hơn như là "flæskesteg" (lợn quay) và "kogt torsk" (cá tuyết trần) với sốt mù tạt. Đan Mạch nổi tiếng với bia Carlsberg, Tuborg, akvavit và bitters.
Kể từ khoảng năm 1970, các đầu bếp và nhà hàng tại toàn bộ Đan Mạch đã giới thiệu cách nấu thượng hạng, có ảnh hưởng lớn từ ẩm thực Pháp. Các đầu bếp Đan Mạch gần đây đã phát triển một loại ẩm thực mới và một loạt các món thượng hạng từ các sản phẩm chất lượng cao tại địa phương được biết đến là ẩm thực Đan Mạch mới. Cũng là kết quả của những phát triển này, hiện nay Đan Mạch có một số lượng đáng kể các nhà hàng danh tiếng thế giới mà một số trong đó đã được trao tặng sao Michelin. Những nhà hàng này bao gồm nhà hàng Geranium và Noma ở Copenhagen.
Các môn thể thao phổ biến nhất ở Đan Mạch là bóng đá, đua thuyền các loại và bóng ném. Năm 1992 đội tuyển bóng đá quốc gia Đan Mạch đã giành chức Giải vô địch bóng đá châu Âu 1992. Đội tuyển bóng ném nữ cũng giành huy chương vàng trong các kì Thế vận hội 1996, 2000 và 2004. Đội tuyển bóng ném nam cũng giành 1 huy chương vàng trong giải vô địch bóng ném châu Âu tại Na Uy (tháng 1/2008) và 2 huy chương đồng trong giải vô địch bóng ném châu Âu tại Thụy Sĩ năm 2006 và giải vô địch bóng ném thế giới tại Đức năm 2007. Hiện nay (10.4.2008) đội tuyển bóng ném nam Đan Mạch đứng đầu trong bảng xếp hạng các đội bóng ném nam châu Âu với 416 điểm hơn đội Pháp thứ nhì 8 điểm. Trong môn cầu lông ("badminton") các vận động viên của Đan Mạch cũng là những nhà vô địch thế giới.
|
Câu lệnh SELECT (mang nghĩa lấy dữ liệu hay câu lệnh truy vấn) trong SQL trả về một tập kết quả các bản ghi từ một hoặc nhiều bảng.
Nó được sử dụng để lấy dữ liệu từ một hoặc nhiều bảng trong cơ sở dữ liệu, codice_1 là lệnh thường dùng nhất của ngôn ngữ sửa đổi dữ liệu (tiếng Anh: Data Manipulation Language - DML). Trong việc tạo ra câu truy vấn codice_1, người sử dụng phải đưa ra mô tả cho những dữ liệu mình muốn lấy ra chứ "không" chỉ ra những hành động vật lý nào bắt buộc phải thực hiện để lấy ra kết quả đó. Hệ thống cơ sở dữ liệu, hay chính xác hơn là bộ tối ưu hoá câu truy vấn (tiếng Anh: "query optimizer") sẽ dịch từ câu truy vấn sang kế hoạch truy vấn tối ưu.
Những từ khóa liên quan tới SELECT bao gồm:
Cho một bảng T, " câu truy vấn" codice_8 sẽ trả về kết quả là tất cả các phần tử của tất cả các bản ghi trong bảng T.
Với cùng bảng đó, câu truy vấn codice_9 sẽ trả về tất cả các phần tử của trường (cột) C1 của tất cả các bản ghi trong bảng T— Theo thuật ngữ Đại số quan hệ, một "projection" đã được thực hiện.
Cũng bản đó, câu truy vấn codice_10 sẽ trả về kết quả là tất cả các phần tử của tất cả các bản ghi có giá trị của trường (cột) C1 bằng '1' — Theo thuật ngữ Đại số quan hệ, một "selection" được thực hiện vì đã có từ khóa WHERE.
|
Khí động lực học
Khí động lực học là môn học nghiên cứu về dòng chảy của chất khí, được nghiên cứu đầu tiên bởi George Cayley vào thập niên 1800. Giải pháp cho các vấn đề khí động lực học dẫn đến các tính toán về tính chất khác nhau của dòng chảy, như vận tốc, áp suất, mật độ và nhiệt độ, như là các hàm của không gian và thời gian. Khi hiểu được các tính chất này của chất khí, người ta có thể tính toán chính xác hay xấp xỉ các lực và các mômen lực lên hệ thống dòng chảy.
Môn khí động lực học sử dụng các phân tích toán học và các kết quả thực nghiệm. Chuyên ngành này có nhiều ứng dụng. Ví dụ như nó là nền tảng cho việc thiết kế máy bay.
Các vấn đề về khí động lực học được chia ra làm nhiều loại. Có thể phân loại theo môi trường dòng chảy: khí động học ngoại biên và khí động học nội biên. Khí động học ngoại biên là ngành nghiên cứu dòng chảy xung quanh vật rắn. Môn này có các ứng dụng như tính toán lực nâng và lực kéo lên cánh máy bay, lực hãm tạo nên ở mũi tên lửa. Khí động học nội biên nghiên cứu về dòng khí qua các động cơ phản lực hay qua các ống của máy điều hòa.
Khí động lực học cũng có thể được phân loại theo tỉ số vận tốc của dòng chảy so với vận tốc âm thanh. Môn học được xem là dưới âm tốc nếu các vận tốc đều nhỏ hơn vận tốc âm thanh, siêu thanh nếu vận tốc hơn vận tốc âm thanh, và cực siêu thanh nếu vận tốc nhanh hơn vận tốc âm thanh nhiều lần.
Tác dụng của độ nhớt tạo nên cách phân loại thứ ba cho môn học này. Trong vài trường hợp, ảnh hưởng của độ nhớt được xem là không đáng kể, dòng chảy được coi là không có độ nhớt. Đối với dòng chảy mà độ nhớt không thể bỏ qua, dòng chảy có tính nhớt.
Người đầu tiên khởi xướng mô hình khí động học trên xe hơi là nhà thiết kế nổi tiếng Eduard Rumpler, cha đẻ của ngành hàng không Đức. Những kinh nghiệm quý báu thu lượm từ ngành công nghiệp ôtô trong chiến tranh thế giới thứ nhất giúp ông thuyết phục được toàn bộ giới công nghiệp ôtô tin vào những ưu điểm vượt bậc của khí động lực học. Năm 1921, chiếc xe đầu tiên do ông thiết kế mang hình giọt nước đang rơi đã làm toàn bộ triển lãm ôtô năm 1921 sửng sốt do hệ số cản gió của nó chỉ là 0,27 trong khi hệ số cản gió trung bình của các loại xe tới tận năm 1984 vẫn ở mức 0,4.
Một năm sau khi chiếc xe của Rumpler trình làng, Paul Jaray nhận được bằng sáng chế cho phát minh “xe của tương lai” lúc mới tròn 33 tuổi. Kỹ sư trẻ người Hungary đã bỏ phần lớn thời gian và sức lực cho công việc nghiên cứu sức cản không khí, tính toán các thành phần khí động lực học để thiết kế chiếc xe mà ông tin nó sẽ là hình mẫu thiết kế trong tương lai.
Đứng trên quan điểm vật lý, Jaray cho rằng kiểu thiết kế phần đuôi vuông vức như những chiếc xe ngựa hoàn toàn “phản khoa học”. Khi chiếc xe di chuyển, phần đuôi hình vuông sẽ tạo nên một vùng chân không do hình thành dòng không khí chuyển động hỗn loạn và xoáy. Áp suất lớn phía đầu, cộng với áp suất chân không phía đuôi xe sẽ tăng cường đáng kể lực cản không khí, làm chiếc xe phải sinh nhiều công hơn. Để khắc phục trở ngại đó, Paul Jaray “túm” phần đuôi lại bằng những nét vuốt thon theo quỹ đạo chuyển động, khiến dòng khí tuần tự thoát ra phía sau xe mà không hình thành bất cứ điểm xoáy cục bộ nào.
Ngành công nghiệp ôtô bỏ rơi bản phát minh của Paul Jaray suốt 10 năm sau đó, và nó sẽ mãi bị lãng quên nếu không có một sự kiện chưa từng xuất hiện trong tư tưởng của các kỹ sư ôtô. Những năm 1930-1940, đua ôtô bỗng nhiên trở thành “mốt”, là trào lưu và là thứ để khoe tài của các ông lớn sống sót sau đại khủng hoảng kinh tế thế giới năm 1929. Chịu sức ép thành tích từ phía các ông chủ nên các kỹ sư, vốn chỉ quen với những khái niệm kỹ thuật, cố gắng sản xuất những chiếc xe càng nhanh càng tốt. Tuy nhiên, tại đường đua Le Mans ở nước Pháp năm 1937, chiếc Adler Trumpf Rennsport Coupe dung tích 1,7 lít đã gây sốc với hai chiến thắng ngoạn mục trước những động cơ 2 lít. Bí quyết được Alder công bố: Trumpf Rennsport Coupe mang tính công nghệ và khí động học rất cao.
Từ đó đến nay ngành công nghiệp xe hơi đã tiến 1 bước rất dài. Tất cả các kiểu xe ngày nay điều chú trọng đến khí động lực học và điều đó đã khiến cho xe hao ít nhiên liệu hơn xưa.
Trên Trái Đất, trọng lực là lực tạo bởi lực hấp dẫn của hành tinh này, kéo mọi vật rơi xuống mặt đất. Để nâng vật thể, có thể tạo ra phản lực bởi động cơ, như trong máy bay phản lực, giúp máy bay tiến về phía trước nhanh trong không khí. Khi cánh máy bay chuyển động ngang trong không khí, nó sẽ nhận lực nâng và lực cản của không khí. Lực nâng định nghĩa theo khí động lực học là lực vuông góc với dòng khí, lực cản là lực thực hiện song song với dòng khí.
|
Linus Benedict Torvalds (sinh ngày 28 tháng 12 năm 1969) là một nhà khoa học máy tính người Mỹ gốc Phần Lan. Ông là người đã chế tạo và phát triển chính của nhân Linux, sau này đã trở thành nhân cho nhiều bảng phân phối và các hệ điều hành Android và Chrome OS. Ông cũng đồng thời tạo ra hệ thống điều khiển phân phối phiên bản Git, kỹ thuật đăng nhập lặn và phần mềm lập kế hoạch Subsurface. Linus Torvalds đã được vinh danh cùng với Shinya Yamanaka nhận Millenium Technology Prize (Giải thưởng Công nghệ Thiên niên kỷ) được trao bởi Technology Academy Finland (Học viện Công nghệ Phần Lan) "công nhận về sự sáng tạo của ông ấy cho một hệ điều hành mã nguồn mở mới dẫn đến việc những máy tính hàng đầu để sử dụng nhân Linux một cách rộng rãi. Ông cũng nhận IEEE Computer Society Computer Award (Giải thưởng Tiên Phong về Máy tính) 2014 và IEEE Ibuka Consumer Electronics Award (Giải thưởng Điện tử Tiêu dùng Masaru Ibuka) 2018.
Cuộc sống và sự nghiệp.
Torvalds sinh ra ở Helsinki, Phần Lan vào năm 1969. Ông là con trai của nhà báo Anna và Nils Torvalds, và là cháu trai của nhà thống kê Leo Törnquist và nhà thơ Ole Torvalds. Cả cha mẹ của ông đều từng học tại Đại học Helsinki vào những năm 1960. Gia đình của ông ấy thuộc cộng đồng nói tiếng Thụy Điển. Torvalds được đặt tên theo nhà hóa học người Mỹ giành giải Nobel, mặc dù trong cuốn sách "Rebel Code: Linux and the Operating System Revolution," Torvalds đã nói rằng: "Tôi nghĩ tôi được đặt tên giữa Linus và nhân vật hoạt hình Peanuts, điều này làm ông trở thành một lần nữa của "nhà hóa học giành giải Nobel" và "nhân vật hoạt hình chở chăn".
|
Unix (; được đăng ký nhãn hiệu là UNIX) là một họ hệ điều hành máy tính đa nhiệm, đa người dùng được viết vào những năm 1960 và 1970 do một số nhân viên của Bell Labs thuộc ATT bao gồm Ken Thompson, Dennis Ritchie và Douglas McIlroy và một số người khác.
Ban đầu dự định sử dụng bên trong Bell System, ATT đã cấp phép Unix cho các đơn vị bên ngoài vào cuối những năm 1970, dẫn đến một loạt các biến thể Unix (Unix variant) cho học thuật và thương mại từ các nhà cung cấp bao gồm University of California, Berkeley (BSD), Microsoft (Xenix), Sun Microsystems (SunOS/Solaris), HP/HPE (HP-UX), và IBM (AIX). Đầu những năm 90, ATT đã bán quyền với Unix cho Novell, sau đó bán hoạt động kinh doanh Unix cho Santa Cruz Operation (SCO) năm 1995. Thương hiệu UNIX được chuyển cho The Open Group, một tập đoàn công nghiệp trung lập được thành lập năm, cho phép việc sử dụng nhãn hiệu cho các hệ điều hành được chứng nhận tuân thủ Single UNIX Specification (SUS). Tuy nhiên, Novell tiếp tục sở hữu bản quyền Unix, mà phán quyết SCO Group, Inc. v. Novell, Inc. của toà án (2010) xác nhận.
Các hệ thống Unix được đặc trưng bởi một thiết kế mô-đun đôi khi được gọi là "Triết lý Unix", nghĩa là hệ điều hành cung cấp một tập hợp các công cụ đơn giản, và mỗi công cụ chỉ thực hiện những chức năng giới hạn và được định nghĩa rõ ràng. Một hệ thống file hợp nhất (Unix filesystem) và một cơ chế giao tiếp giữa các tiến trình được gọi là "pipes" đóng vai trò là phương tiện giao tiếp chính, và một shell (Unix shell) được sử dụng để kết hợp các công cụ để thực hiện các quy trình công việc phức tạp.
Unix tự phân biệt với các phiên bản trước là hệ điều hành di động đầu tiên: gần như toàn bộ hệ điều hành được viết bằng ngôn ngữ lập trình C, cho phép Unix hoạt động trên nhiều nền tảng.
Unix có thể chạy trên nhiều loại máy tính khác nhau, từ những máy tính cá nhân cho đến các máy chủ dịch vụ. Nó là một hệ điều hành đa nhiệm (có thể cùng lúc thực hiện nhiều nhiệm vụ) hỗ trợ một cách lý tưởng đối với các ứng dụng nhiều người dùng.
Vì Bell Laboratories bị cấm không cho phép tiếp thị Unix vì lệnh chống độc quyền đối với ATT nên Unix đã được cung cấp miễn phí cho các trường đại học trên toàn Bắc Mỹ từ năm 1976. Năm 1979 Đại học California tại Berkeley đã xây dựng một phiên bản của Unix dùng cho các máy tính VAX. Sau khi đã được ưa thích trong các lĩnh vực công nghệ, ATT đã giành được quyền tiếp thị đối với Unix và đã cho ra đời System V vào năm 1983. Cho đên nay Unix vẫn được sử dụng rất rộng rãi trong thị trường dành cho máy chủ. Đã có nhiều phiên bản phát triển khác nhau, trong đó có Linux.
Unix là một trong những hệ điều hành 64 bit đầu tiên. Hiện nay Unix được sử dụng bởi nhiều công ty tập đoàn lớn trên thế giới vì mức độ bảo mật của nó tương đối cao.
Unix ban đầu có nghĩa là một nền tảng thuận tiện cho các lập trình viên phát triển phần mềm chạy trên nó và trên các hệ thống khác, thay vì cho những người không lập trình. Hệ thống ngày càng lớn hơn khi hệ điều hành bắt đầu lan rộng trong giới học thuật và khi người dùng thêm các công cụ của riêng họ vào hệ thống và chia sẻ chúng với các đồng nghiệp.
Lúc đầu, Unix không được thiết kế để có thể di động hoặc đa tác vụ. Sau đó, Unix dần có được tính di động, khả năng đa tác vụ và đa người dùng trong cấu hình chia sẻ thời gian. Các hệ thống Unix được đặc trưng bởi các khái niệm khác nhau:việc sử dụng văn bản thuần túy để lưu trữ dữ liệu; một hệ thống file phân cấp; xử lý các thiết bị và một số loại giao tiếp giữa các tiến trình (IPC) dưới dạng tập tin; và việc sử dụng một số lượng lớn các công cụ phần mềm, các chương trình nhỏ có thể được kết hợp với nhau thông qua giao diện dòng lệnh sử dụng các pipes, trái ngược với việc sử dụng một chương trình nguyên khối duy nhất bao gồm tất cả các chức năng tương tự. Những khái niệm này được gọi chung là "triết lý Unix". Brian Kernighan và Rob Pike tóm tắt điều này trong "The Unix Programming Environment" là "ý tưởng rằng sức mạnh của một hệ thống đến từ các mối quan hệ giữa các chương trình hơn là từ chính các chương trình".
Đến đầu những năm 1980, người dùng bắt đầu thấy Unix là một hệ điều hành phổ quát tiềm năng, phù hợp với các máy tính thuộc mọi quy mô. Môi trường Unix và mô hình chương trình client–server là các yếu tố thiết yếu trong sự phát triển của Internet và định hình lại điện toán làm trung tâm trong các mạng thay vì trong các máy tính riêng lẻ.
Cả Unix và ngôn ngữ lập trình C đều được ATT phát triển và phân phối cho các tổ chức chính phủ và học thuật, dẫn đến cả hai được port đến nhiều họ máy hơn bất kỳ hệ điều hành nào khác.
Hệ điều hành Unix bao gồm nhiều thư viện và tiện ích cùng với chương trình điều khiển chính, kernel. Hạt nhân cung cấp các dịch vụ để khởi động và dừng chương trình, xử lý hệ thống tập tin và các tác vụ "cấp thấp" phổ biến khác mà hầu hết các chương trình chia sẻ và lên lịch truy cập để tránh xung đột khi các chương trình cố gắng truy cập cùng một tài nguyên hoặc thiết bị. Để làm trung gian truy cập như vậy, kernel có các quyền đặc biệt, được phản ánh trong sự phân biệt không gian kernel với không gian người dùng, sau này là một lĩnh vực ưu tiên nơi hầu hết các chương trình ứng dụng hoạt động.
Nguồn gốc của Unix bắt nguồn từ giữa những năm 1960 khi Massachusetts Institute of Technology, Bell Labs, và General Electric cùng phát triển Multics, một hệ điều hành chia sẻ thời gian cho mainframe GE-645. Multics có một số đổi mới, nhưng cũng có vấn đề nghiêm trọng. Thất vọng vì quy mô và sự phức tạp của Multics, nhưng không phải vì mục tiêu của nó, các nhà nghiên cứu cá nhân tại Bell Labs đã bắt đầu rút khỏi dự án. Những người cuối cùng rời đi là Ken Thompson, Dennis Ritchie, Douglas McIlroy, và Joe Ossanna, những người quyết định thực hiện lại trải nghiệm của họ trong một dự án mới với quy mô nhỏ hơn. Hệ điều hành mới này ban đầu không có sự hỗ trợ của tổ chức và cũng không có tên.
Hệ điều hành mới là một hệ thống đơn tác vụ. Năm 1970, nhóm đặt ra tên "Unics" viết tắt "của Uniplexed Information and Computing Service" (phát âm là "eunuchs"), như một cách chơi chữ của "Multics", viết tắt của "Multiplexed Information and Computer Services". Brian Kernighan lấy tín dụng cho ý tưởng này, nhưng nói thêm rằng "không ai có thể nhớ" nguồn gốc tên gọi của Unix. Dennis Ritchie, Doug McIlroy, và Peter G. Neumann also credit Kernighan.
Hệ điều hành ban đầu được viết bằng hợp ngữ, nhưng năm 1973, Version 4 Unix đã được viết lại bằng C. Tuy nhiên Version 4 Unix vẫn có nhiều mã phụ thuộc PDP-11 và không phù hợp để porting. Port đầu tiên cho nền tảng khác được thực hiện năm năm sau (1978) cho Interdata 8/32.
Bell Labs đã sản xuất một số phiên bản Unix được gọi chung là "Research Unix". Năm 1975, giấy phép mã nguồn đầu tiên của "UNIX" đã được bán cho Donald B. Gillies của khoa Khoa học máy tính thuộc trường University of Illinois at Urbana–Champaign (UIUC). Sinh viên tốt nghiệp UIUC Greg Chesson, người đã làm việc về hạt nhân UNIX tại Bell Labs, là đóng góp trong việc đàm phán các điều khoản của giấy phép.
Vào cuối những năm 1970 và đầu những năm 1980, ảnh hưởng của Unix trong giới học thuật đã dẫn đến việc áp dụng (BSD và System V) trên quy mô lớn bởi các công ty khởi nghiệp thương mại, bao gồm Sequent, HP-UX, SunOS/Solaris, AIX, và Xenix. Vào cuối những năm 1980, ATT Unix System Laboratories và Sun Microsystems đã phát triển System V Release 4 (SVR4), sau đó được nhiều nhà cung cấp Unix thương mại chấp nhận.
Vào những năm 1990, các hệ thống tương tự Unix và Unix đã trở nên phổ biến và trở thành hệ điều hành được lựa chọn cho hơn 90% trong số 500 siêu máy tính nhanh nhất thế giới, do các bản phân phối BSD và Linux được phát triển thông qua sự hợp tác của một mạng lưới lập trình viên trên toàn thế giới. Năm 2000, Apple đã phát hành Darwin, cũng là một hệ thống Unix, trở thành cốt lõi của hệ điều hành Mac OS X, sau này được đổi tên thành macOS.
Hệ điều hành Unix được sử dụng rộng rãi trong các servers, workstations, và thiết bị di động hiện đại..
Vào cuối những năm 1980, một nỗ lực tiêu chuẩn hóa hệ điều hành mở hiện được gọi là POSIX đã cung cấp một đường cơ sở chung cho tất cả các hệ điều hành; IEEE dựa trên POSIX xung quanh cấu trúc chung của các biến thể cạnh tranh chính của hệ thống Unix, xuất bản tiêu chuẩn POSIX đầu tiên vào năm 1988. Đầu những năm 1990, một nỗ lực riêng biệt nhưng rất giống nhau đã được bắt đầu bởi một tập đoàn công nghiệp, Common Open Software Environment (COSE) sáng kiến, cuối cùng đã trở thành Single UNIX Specification (SUS) quản lý bởi The Open Group. Bắt đầu từ năm 1998, Open Group và IEEE đã thành lập Austin Group, để cung cấp định nghĩa chung về POSIX và Single UNIX Specification, đến năm 2008, đã trở thành Open Group Base Specification.
Năm 1999, trong nỗ lực hướng tới khả năng tương thích, một số nhà cung cấp hệ thống Unix đã đồng ý về Executable and Linkable Format (ELF) trên SVR4 của SVR4 làm tiêu chuẩn cho các tập tin mã nhị phân và mã đối tượng. Định dạng chung cho phép khả năng tương thích nhị phân đáng kể giữa các hệ thống Unix khác nhau hoạt động trên cùng một kiến trúc CPU.
Filesystem Hierarchy Standard được tạo để cung cấp bố cục thư mục tham chiếu cho các hệ điều hành tương tự Unix; nó chủ yếu được sử dụng trong Linux.
Hệ thống Unix bao gồm một số thành phần ban đầu được đóng gói cùng nhau. Bằng cách bao gồm môi trường phát triển, thư viện, tài liệu và mã nguồn di động, có thể sửa đổi cho tất cả các thành phần này, ngoài hạt nhân của hệ điều hành, Unix là một hệ thống phần mềm độc lập. Đây là một trong những lý do chính khiến nó nổi lên như một công cụ dạy và học quan trọng và có ảnh hưởng rộng rãi như vậy.
Việc bao gồm các thành phần này không làm cho hệ thống trở nên lớn - bản phân phối V7 UNIX ban đầu, bao gồm các bản sao của tất cả các tập tin nhị phân đã biên dịch cộng với tất cả mã nguồn và tài liệu chỉ chiếm dưới 10 MB và lưu trữ trên một băng từ chín đoạn duy nhất. Tài liệu in, sắp chữ từ các nguồn trực tuyến, được chứa trong hai tập.
Tên và vị trí hệ thống tập tin của các thành phần Unix đã thay đổi đáng kể trong lịch sử của hệ thống. Tuy nhiên, việc triển khai V7 được nhiều người coi là#đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
để có cấu trúc ban đầu chính tắc:
Unix tự do và tương tự Unix.
Năm 1983, Richard Stallman giới thiệu dự án GNU (viết tắt của "GNU's Not Unix"), một nỗ lực đầy tham vọng để tạo ra một hệ thống tương tự Unix tự do; "tự do" theo nghĩa là mọi người nhận được một bản sao sẽ được sử dụng, nghiên cứu, sửa đổi và phân phối lại nó tự do. Dự án phát triển nhân riêng của dự án GNU, GNU Hurd, chưa tạo ra hạt nhân hoạt động, nhưng vào năm 1991, Linus Torvalds đã phát hành nhân Linux dưới dạng phần mềm tự do theo GNU General Public License. Ngoài việc sử dụng chúng trong hệ điều hành GNU, nhiều gói GNU - chẳng hạn như GNU Compiler Collection (và phần còn lại của GNU toolchain), GNU C library và GNU core utilities –cũng đã đóng vai trò trung tâm trong các hệ thống Unix miễn phí khác.
Các bản phân phối Linux, bao gồm nhân Linux và các bộ phần mềm tương thích lớn đã trở nên phổ biến cả với người dùng cá nhân và trong doanh nghiệp. Phân phối phổ biến bao gồm Red Hat Enterprise Linux, Fedora, SUSE Linux Enterprise, openSUSE, Debian GNU/Linux, Ubuntu, Linux Mint, Mandriva Linux, Slackware Linux, Arch Linux vàGentoo.
Một dẫn xuất tự do của BSD Unix, 386BSD, được phát hành năm 1992 và dẫn đến các dự án NetBSD và FreeBSD. Với việc giải quyết vụ kiện năm 1994 chốnngg lại University of California and Berkeley Software Design Inc. ("USL v. BSDi") của Unix System Laboratories, đã làm rõ rằng Berkeleycó quyền phân phối BSD Unix tự do nếu muốn. Từ đó, BSD Unix đã được phát triển trong một số nhánh sản phẩm khác nhau, bao gồm OpenBSD và DragonFly BSD.
Linux và BSD đang ngày càng đáp ứng nhu cầu thị trường theo truyền thống được phục vụ bởi các hệ điều hành Unix độc quyền, cũng như mở rộng sang các thị trường mới như máy tính để bàn và thiết bị di động và thiết bị nhúng. Do thiết kế mô-đun của mô hình Unix, việc chia sẻ các thành phần là tương đối phổ biến; do đó, hầu hết hoặc tất cả các hệ thống tương tự Unix và Unix bao gồm ít nhất một số mã BSD và một số hệ thống cũng bao gồm các tiện ích GNU trong bản phân phối của chúng.
Trong một cuộc phỏng vấn năm 1999, Dennis Ritchie đã nói lên ý kiến của mình rằng các hệ điều hành Linux và BSD là sự tiếp nối cơ sở của thiết kế Unix và là dẫn xuất của Unix:
Trong cùng một cuộc phỏng vấn, ông nói rằng ông coi cả Unix và Linux là "sự tiếp nối các ý tưởng đã được Ken và tôi cùng nhiều người khác bắt đầu từ nhiều năm trước".
OpenSolaris là đối tác nguồn mở với Solaris phát triển bởi Sun Microsystems, bao gồm một hạt nhân được cấp phép CDDL và không gian người dùng chủ yếu là GNU. Tuy nhiên, Oracle đã ngừng dự án sau khi họ mua lại Sun, điều này đã khiến một nhóm cựu nhân viên của Sun và các thành viên của cộng đồng OpenSolaris đã phân nhánh OpenSolaris vào hạt nhân illumos.Kể từ năm 2014, illumos vẫn là công cụ phái sinh System V nguồn mở duy nhất đang hoạt động.
Tháng 5 năm 1975, RFC 681 đã mô tả sự phát triển của "Network Unix" bởi Center for Advanced Computation tại University of Illinois at Urbana–Champaign. Hệ thống này được cho là "trình bày một số khả năng thú vị như một ARPANET mini-host". Vào thời điểm đó, Unix yêu cầu giấy phép từ Bell Laboratories với giá 20.000 USD rất đắt đối với người dùng không phải là sinh viên đại học, trong khi giấy phép giáo dục chỉ có giá 150 USD.Cần lưu ý rằng Bell đã "mở đề xuất" cho một giấy phép ARPANET-wide.
Các tính năng cụ thể có lợi là các phương tiện xử lý cục bộ, trình biên dịch, trình soạn thảo, hệ thống chuẩn bị tài liệu, hệ thống file hiệu quả và kiểm soát truy cập, dung lượng có thể gắn và không thể gắn được, xử lý thống nhất các thiết bị ngoại vi như các file đặc biệt, tích hợp chương trình điều khiển mạng (NCP) bên trong Unix file system, xử lý các kết nối mạng như các file đặc biệt có thể được truy cập thông qua các lời gọi I/O Unix tiêu chuẩn, đóng tất cả các file khi thoát khỏi chương trình và quyết định "mong muốn giảm thiểu lượng mã được thêm vào nhân Unix cơ bản ".
Tháng 10 năm 1993, Novell, công ty sở hữu quyền đối với mã nguồn Unix System V vào thời điểm đó, đã chuyển nhượng các nhãn hiệu của Unix cho X/Open Company (bây giờ là The Open Group), và vào năm 1995, đã bán các hoạt động kinh doanh liên quan cho Santa Cruz Operation (SCO). Liệu Novell có bán bản quyền cho phần mềm thực sự hay không là chủ đề của một vụ kiện liên bang vào năm 2006, "SCO kiện Novell", với kết quả Novell thắng. Bản án đã được kháng cáo, nhưng vào ngày 30 tháng 8 năm 2011, Tòa phúc thẩm Hoa Kỳ đối với Vòng thứ mười đã công nhận các quyết định xét xử, kết thúc vụ án. Nhà cung cấp Unix SCO Group Inc. đã cáo buộc Novell về slander of title.
Chủ sở hữu hiện tại của thương hiệu UNIX là The Open Group, một consortium công nghiệp. Chỉ những hệ thống hoàn toàn tuân thủ và được chứng nhận Single UNIX Specification mới đủ điều kiện là "UNIX" (những hệ thống khác được gọi là "tương tự Unix").
Theo quy định của The Open Group, thuật ngữ "UNIX" đề cập nhiều đến một loại hệ điều hành hơn là một triển khai cụ thể của một hệ điều hành; những hệ điều hành đáp ứng Single UNIX Specification của The Open Group sẽ có thể mang nhãn hiệu UNIX 98 hoặc UNIX 03 ngày nay, sau khi nhà cung cấp hệ điều hành trả một khoản phí chứng nhận đáng kể và tiền bản quyền thương hiệu hàng năm cho The Open Group. Các hệ thống đã được cấp phép sử dụng nhãn hiệu UNIX bao gồm AIX, EulerOS, HP-UX, Inspur K-UX, IRIX, macOS, Solaris, Tru64 UNIX (trước đây là "Digital UNIX", hay OSF/1), và z/OS. Đáng chú ý, EulerOS và Inspur K-UX là các bản phân phối Linux được chứng nhận tuân thủ UNIX 03.
Đôi khi một đại diện như "Un*x", "*NIX", hay "*N?X" được sử dụng để chỉ ra tất cả các hệ điều hành tương tự như Unix. Điều này xuất phát từ việc sử dụng dấu hoa thị (*) và các ký tự dấu hỏi làm chỉ báo ký tự đại diện trong nhiều tiện ích. Ký hiệu này cũng được sử dụng để mô tả các hệ thống tương tự Unix khác chưa đáp ứng các yêu cầu về nhãn hiệu UNIX từ Open Group.
The Open Group yêu cầu "UNIX" luôn được sử dụng như một tính từ theo sau bởi một thuật ngữ chung chung như hệ thống để giúp tránh việc tạo ra một nhãn hiệu chung chung.
"Unix" là định dạng ban đầu, nhưng việc sử dụng UNIX vẫn còn phổ biến vì nó đã từng được sắp chữ ở dạng chữ thường ("Unix"). Theo Dennis Ritchie, khi trình bày bản gốc Unix cho Operating Systems Symposium lần 3 của American Association for Computing Machinery (ACM), "we had a new typesetter and troff had just been invented and we were intoxicated by being able to produce small caps". Nhiều hệ điều hành tiền nhiệm và đương thời sử dụng toàn bộ chữ hoa, vì vậy nhiều người viết tên bằng chữ hoa do thói quen ép buộc. Nó không phải là một từ viết tắt.
Tên nhãn hiệu có thể được đăng ký bởi các chủ thể khác nhau ở các quốc gia khác nhau và luật nhãn hiệu ở một số quốc gia cho phép cùng một tên nhãn hiệu được kiểm soát bởi hai chủ thể khác nhau nếu mỗi chủ thể sử dụng nhãn hiệu trong các danh mục dễ phân biệt. Kết quả là Unix đã được sử dụng làm thương hiệu cho các sản phẩm khác nhau bao gồm giá sách, bút mực, keo đóng chai, tã giấy, máy sấy tóc và hộp đựng thực phẩm.
Một số dạng số nhiều của Unix được sử dụng một cách ngẫu nhiên để chỉ nhiều nhãn hiệu của các hệ thống Unix và tương tự Unix.Phổ biến nhất là "Unixes", nhưng "Unices", coi Unix như một danh từ Latinh của phân thức thứ ba, cũng phổ biến. Dạng số nhiều giả Anglo-Saxon "Unixen" không phổ biến, mặc dù thỉnh thoảng vẫn thấy. Sun Microsystems, nhà phát triển của biến thể Solaris, đã khẳng định rằng thuật ngữ Unix tự nó là số nhiều, tham chiếu đến nhiều cách triển khai của nó.
Từ năm 1977, Computer Systems Research Group (CSRG) của trường đại học California, Berkeley được quyền sử dụng code của UNIX để phát triển ra nhãn hiệu UNIX khác là BSD (Berkeley Software Distribution). BSD phát triển từ version 1 đến version cuối cùng 4.4 năm 1992.
Khi ATT bắt đầu khai thác UNIX như sản phẩm thương mại thì tiền bản quyền UNIX tăng lên nhanh chóng làm cho Berkeley phải đặt kế hoạch thay mã nguồn của ATT bằng mã riêng. Việc này tốn rất nhiều thời gian và không kịp hoàn thành khi Berkeley bị ngưng tài trợ nghiên cứu hệ điều hành, CSRG giải tán.
BSD UNIX và ATT UNIX là hai dòng chính của UNIX. BSD giúp cho UNIX trở nên phổ biến và có nhiều đóng góp về mặt kỹ thuật như: csh, termcap, curses, vi, TCP/IP socket, long file name, symbolic link.
Các hãng phát triển khác.
Các version khác nhau của UNIX làm cho UNIX trở nên không thống nhất. Do đó, các tiêu chuẩn được hình thành để phần nào chuẩn hoá UNIX. Các tiêu chuẩn đó thường là do một nhóm các hãng liên minh lại đặt ra, ví dụ OSF, X/Open. IEEE đưa ra POSIX (Portable Operating System Interface). Sau khi tham gia OSF, DEC ngừng phát triển Ultrix, chỉ làm ra UNIX theo tiêu chuẩn OSF/1 của OSF.
Năm 1992, ATT bán quyền khai thác UNIX cho Novell. Novell được quyền thu tiền bản quyền trên mỗi bản UNIX của các hãng khác bán ra. Novell phát hành sản phẩm UNIX tên là UnixWare. Cuối năm 1993, Novell nhường quyền khai thác nhãn hiệu UNIX lại cho X/Open. UnixWare được bán lại cho SCO.
Lịch sử phát triển gắn chặt với ngôn ngữ C. Ngôn ngữ C được thiết kế cho UNIX và được thực hiện đầu tiên trên UNIX. Hầu hết các chương trình ứng dụng trên UNIX được viết bằng C.
Đặc tính đa nền tảng có từ rất sớm, gần như từ đầu. Được thực hiện trên hầu hết các máy từ 16-bit đến 64-bit.
Mặc dù hầu hết các bộ xử lý mới ngày nay có hoặc sẽ có kiến trúc 64-bit, các hệ điều hành lại chậm chân hơn. Một trong những lý do là chưa có nhiều chương trình ứng dụng đòi hỏi khả năng 64-bit. Xu hướng hiện nay của các hệ điều hành nói chung, trong đó có UNIX là cung cấp khả nâng 64-bit để nâng cao thành tích của các chương trình ứng dụng.
Khả năng 64-bit gồm có:
Trong tương lai việc định địa chỉ 64-bit có thể dùng để tạo ra một mô hình bộ nhớ phẳng trải ra trên nhiều máy trong mạng (cluster), như vậy việc phát triển các ứng dụng phân tán sẽ đơn giản hơn.
Symmetrical multi processor và cluster.
Hầu hết các hãng làm UNIX đều cung cấp khả năng đa xử lý và những thread của cùng một ứng dụng có thể thực hiện đồng thời trên những bộ xử lý khác nhau. Những hệ điều hành UNIX có thể làm việc có hiệu quả đến vài chục processor.
Quản lý đĩa cứng.
Các khả năng dưới đây mới có trên một số UNIX:
UNIX cung cấp khả năng kết nối mạng rất mạnh, đặc biệt trong việc kết nối giữa các hệ thống từ nhiều nhà sản xuất khác nhau. Giao thức chuẩn là TCP/IP. Xu hướng hiện nay là:
Các hãng đã thực hiện các khả năng an toàn đến mức C2 theo tiêu chuẩn của National Computer Security Center (Mỹ). Xu hướng hiện nay là, song song với việc cung cấp thêm các công cụ trợ giúp. Một số hãng nâng mức an toàn lên mức B.
Công cụ quản lý hệ thống.
Trước đây UNIX nổi tiếng là kém về các công cụ quản lý hệ thống. Người quản trị hệ thống phải sửa rất nhiều các thông số khó nhớ, khó hiểu trong rất nhiều configuration file nằm rải rác trong máy.
Hiện nay nhiều công cụ quản lý theo kiểu GUI đã giúp người quản trị hệ thống rất nhiều. Xu hướng chung là tạo ra một bộ công cụ để quản lý hệ thống một cách tiện lợi dễ dàng.
UNIX còn cung cấp những công cụ quản lý hệ thống hữu hiệu dựa trên giao diện kiểu ký tự. Những công cụ như vậy cho phép quản lý hệ thống từ xa qua telnet một cách hiệu quả.
|
Một siêu máy tính là một máy tính vượt trội trong khả năng và tốc độ xử lý. Thuật ngữ Siêu Tính Toán được dùng lần đầu trong báo "New York World" vào năm 1920 để nói đến những bảng tính ("tabulators") lớn của IBM làm cho trường Đại học Columbia. Siêu máy tính hiện nay[] có tốc độ xử lý hàng nghìn teraflop (một teraflop tương đương với hiệu suất một nghìn tỷ phép tính/giây) hay bằng tổng hiệu suất của 6.000 chiếc máy tính hiện đại nhất hiện nay gộp lại (một máy có tốc độ khoảng từ 3-3,8 gigaflop).
Có thể hiểu siêu máy tính là hệ thống những máy tính làm việc song song.
Siêu máy tính mạnh nhất thế giới 2004.
Theo thống kê (6 tháng một lần) của Đại học Tổng hợp Mannheim, Phòng thí nghiệm Quốc gia Lawrence Berkeley và Đại học Tennessee thì 10 siêu máy tính mạnh nhất thế giới trong tháng 6 năm 2004 là:
Siêu máy tính nhanh nhất 2006.
29 tháng 6 năm 2006: Bảng xếp hạng được công bố trong Hội nghị siêu máy tính quốc tế diễn ra tại Đức, do Đại học Tổng hợp Mannheim (Đức), Đại học Tennessee và Trung tâm Nghiên cứu Năng lượng thuộc Phòng thí nghiệm Quốc gia Lawrence-Berkeley (Mỹ) thực hiện.
Hệ thống Blue Gene/L, được lắp đặt tại Phòng thí nghiệm Quốc gia Lawrence Livermore, lại tự phá kỷ lục giành ngôi vị quán quân với hệ thống gồm 65.536 thiết bị xử lý, tốc độ xử lý 280,6 nghìn tỷ phép tính mỗi giây (280,6 teraflop) theo chỉ số vận hành Linpack, gấp đôi kỷ lục 136,8 teraflop hiện được coi là nhanh nhất thế giới cũng do chính Blue Gene/L phá kỷ lục.
Hiện nay không một hệ thống siêu máy tính nào khác vượt qua ngưỡng 100 teraflop, cho nên Blue Gene/L sẽ còn giữ kỷ lục về lâu dài. Tuy nhiên, hãng IBM đang có kế hoạch xây dựng siêu máy tính tại trung tâm thí nghiệm quốc gia Los Alamos ở New Mexico (Mỹ), với tốc độ dự kiến lên tới 1.600 teraflop, gấp bốn lần Blue Gene/L hiện tại.
Đây là bảng tổng kết 1 siêu máy tính mạnh nhất thế giới
Bảng tổng kết từ
Siêu máy tính mang tên Thiên Hà 1A (Tianhe-1A) của Trường Đại học Công nghệ Quốc phòng Quốc gia Trung Quốc cũng sử dụng những bộ vi xử lý của Mỹ do hãng Intel và Nvidia sản xuất. Được biết, siêu máy tính này có thể giải quyết các phép toán nhanh hơn 29 triệu lần so với siêu máy tính của năm 1976.
Tìm ra các số nguyên tố Mersenne mới nhất
|
Kashmir (Tiếng Kashmir: کشیر / कॅशीर; Tiếng Hindi: कश्मीर; Tiếng Urdu: کشمیر; Tiếng Duy Ngô Nhĩ: كەشمىر; Tiếng Shina: کشمیر) là khu vực phía tây bắc của tiểu lục địa Ấn Độ. Cho đến giữa thế kỷ 19, thuật ngữ Kashmir dùng để chỉ thung lũng giữa dãy Himalaya lớn và dãy Pir Panjal. Ngày nay, địa danh này biểu thị một khu vực lớn hơn bao gồm các vùng được Ấn Độ quản lý như Jammu và Kashmir (trong đó bao gồm Jammu, Thung lũng Kashmir, và Khu vực Ladakh), các vùng lãnh thổ Pakistan quản lý: Azad Kashmir và Gilgit-Baltistan, và khu vực được Trung Quốc quản lý: Aksai Chin và Trans-Karakoram Tract.
Kashmir trở thành bang hoàng lớn thứ hai tại Ấn Độ thuộc Anh, được tạo ra sau sự thất bại của người Sikh ở cuộc chiến tranh Anh-Sikh lần thứ nhất. Hiệp ước Amritsar được ký kết năm 1846, người Anh chính thức hóa việc bán lại vùng Kashmir cho Gulab Singh với giá 7.500.000 rupee. Gulab Singh, đã trở thành nhà lãnh đạo mới của Kashmir. Sự cai trị của con cháu ông sau này, dưới sự giám hộ của Hoàng gia Anh, kéo dài cho đến năm 1947, sau đó Kashmir đã trở thành một lãnh thổ tranh chấp, nay do ba nước: Ấn Độ, Pakistan, và nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa kiểm soát và tuyên bố chủ quyền.
|
Xuân Trường là một huyện nằm ở phía bắc tỉnh Nam Định, Việt Nam.
Vị trí địa lý.
Huyện Xuân Trường nằm ở phía bắc của tỉnh Nam Định, nằm cách thành phố Nam Định khoảng 35 km về phía bắc, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 125 km, có vị trí địa lý:
Ranh giới phía Bắc với tỉnh Thái Bình là sông Hồng. Ranh giới phía Tây với huyện Trực Ninh là sông Ninh Cơ, ranh giới phía Đông Nam với huyện Giao Thủy là sông Sò.
Dân số năm 2010 là 190.000 người. 30% dân số theo đạo Thiên Chúa.
Huyện Xuân Trường có 20 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Xuân Trường (huyện lỵ) và 19 xã: Thọ Nghiệp, Xuân Bắc, Xuân Châu, Xuân Đài, Xuân Hòa, Xuân Hồng, Xuân Kiên, Xuân Ngọc, Xuân Ninh, Xuân Phong, Xuân Phú, Xuân Phương, Xuân Tân, Xuân Thành, Xuân Thượng, Xuân Thủy, Xuân Tiến, Xuân Trung, Xuân Vinh.
Lịch sử - tên gọi.
Xuân Trường 春長 là tên gọi có lịch sử lâu đời sau nhiều lần chia tách, sáp nhập nay là tên một huyện tỉnh Nam Định.
Vùng đất có huyện Xuân Trường vào thời Lý (1010 - 1225) được gọi là “Hải Thanh 海清“.
Đến đời Vua Trần Thái Tông (1225 - 1258) đổi là “Thiên Thanh 天清”.
Đời Vua Trần Thánh Tông (1258 - 1278) gọi là “Thiên Trường 天長”, (chữ “Thiên 天” với ý nghĩa chủ yếu là “TRỜI”, chữ “Trường 長” với ý nghĩa chủ yếu là: dài, lớn). Lúc đầu, lộ Thiên Trường bao gồm cả tỉnh Nam Định và một phần lớn tỉnh Thái Bình ngày nay. Dần dần, Thiên Trường chỉ còn là một phủ.
Thời thuộc Minh gọi là Phụng Hóa, sang triều Lê lấy lại tên Thiên Trường.
Cho đến thời vua Tự Đức, Phủ Thiên Trường bao gồm phần đất nay là các huyện Nam Trực, Trực Ninh, Xuân Trường, Giao Thủy, Hải Hậu của tỉnh Nam Định. Các huyện Vũ Tiên, Kiến Xương, Tiền Hải của tỉnh Thái Bình chuyển về Phủ Kiến Xương.
Năm 1862, vua Tự Đức cho đổi tên “Phủ Thiên Trường 天長府” thành “Phủ Xuần Trường 春長府”. Lúc này, Phủ Xuân Trường bao gồm 3 huyện: Nam Trực, Trực Ninh, Giao Thủy.
Huyện Giao Thủy bao gồm cả huyện Xuân Trường ngày nay. Lỵ sở Phủ Xuân Trường và huyện Giao Thủy đều nằm ở Tương Nam (Nhương Nam), khu vực trường THPT Lý Tự Trọng – Nam Thanh – Nam Trực – Nam Định.
"Cần phân biệt tên một vạn/làng/hương Giao Thủy có từ thời Lý gắn với lịch sử chùa Keo - Thần Quang tự và chùa Diên Phúc - Viên Quang tự, vị trí tương đối của hương Giao Thủy thời Lý bao gồm phần phía Đông Nam của huyện Nam Trực, từ phía Bắc xã Tân Thịnh, qua Thị trấn Cổ Lễ, sang tả ngạn sông Hồng thuộc huyện Vũ Thư - Thái Bình."
"Hương Giao Thủy sau khi lấn biển, mở rộng diện tích đổi thành huyện Giao Thủy cổ xưa rất rộng gồm cả huyện Trực Ninh, Xuân Trường, Giao Thủy, Hải Hậu hiện nay. Khác biệt với huyện Giao Thủy hiện tại nhỏ hẹp hơn (được tách ra từ huyện Xuân Thủy, phân định địa giới với huyện Xuân Trường sau năm 1945) là một phần nhỏ và đất mới bồi của huyện Giao Thủy cổ xưa."Năm 1888, lập huyện Hải Hậu gồm một số xã (tổng) cắt từ huyện Trực Ninh và một số xã (tổng) của huyện Giao Thủy. Khi đó, Phủ Xuân Trường quản hạt 4 huyện: Nam Trực, Trực Ninh, Giao Thủy, Hải Hậu.
Năm 1889, triều Vua Thành Thái bỏ cấp phủ, lấy tên “phủ” để gọi cho huyện lớn nhất trong phủ. “Phủ Xuân Trường” được gọi thay cho “Huyện Giao Thủy” (mặc dù trong các văn bản hành chính, sắc phong sau đó vẫn dùng chữ “Huyện Giao Thủy”). Dời lỵ sở về làng Ngọc Cục, nay là toàn bộ khuôn viên trường THPT Xuân Trường. lúc này chỉ còn phần đất hai huyện Xuân Trường và Giao Thủy hiện tại.
Đến năm 1934, triều Vua Bảo Đại, đã tách Phủ Xuân Trường thành 2 huyện: Xuân Trường và Giao Thủy, lấy sông Sò làm mốc giới ngăn cách.
Xuân Trường có 5 tổng: Cát Xuyên, Hành Cung, Kiên Lao, Trà Lũ và Thủy Nhai.+ Tổng Cát Xuyên có 11 xã, phường: Cát Xuyên, Liêu Phú, Chùy Khê, Hạ Miêu, Đông An, An Phú, Lãng Lăng, Liêu Đông, Liêu Thượng, An Đạo, phường thủy cơ An Phú. Đầu thế kỷ XX số xã của tổng Cát Xuyên là 14 xã với các thay đổi:
- Xã An Phú chia đổi thành hai xã An Phú Giáo và An Phú Lương.
- Xã Lãng Lăng chia đổi thành hai xã Lãng Lăng Giáo và Lãng Lăng Lương.
- Bỏ các xã Liêu Phú và phường thủy cơ An Phú. Các xã mới ra đời là Lạc Thành, Phong Miêu, Phú Ân, Thuận Thành, Văn Phú.
Tổng Cát Xuyên xưa nay là phần đất các xã Xuân Thành, Xuân Tân, Xuân Phú.
+ Tổng Hành Cung có 11 xã, ấp là: Hành Cung, Quy Phú, Dũng Nhuệ, Nhương Đông, Kênh Đào, Phan Xá, Chi Phong, Ngọc Cục, Hành Hà, La Xuyên, ấp Tứ Chiếng chợ Kênh Đào.
Thời Minh Mệnh đổi tổng Hành Cung thành tổng Hành Thiện. Năm Đồng Khánh 3 (1891) cắt một số làng, xóm của tổng Hành Thiện là: La Xuyên, Quy Phú, Thanh Hà, Nghĩa, Kênh Thao, Chi Phong, Phan Xá, Nhương Đông (Tương Đông) phụ sang cho huyện Vũ Tiên (Thái Bình). Đầu thế kỷ XX cắt một số ấp của các xã tổng Hành Thiện thành lập tổng Lạc Thiện. Tổng Hành Thiện thời này còn 8 xã, ấp: Dũng Trí, ấp An Hành, Hạc Châu, Hạc Lương, Hành Thiện, Ngọc Cục, Sa Cao, Thuận An. Hầu hết các xã đã đổi tên như Hành Cung thành Hành Thiện, Dũng Nhuệ thành Dũng Trí...
Tổng Hành Thiện bao gồm phần đất các xã Xuân Châu, Xuân Hồng một số phần thuộc huyện Vũ - Thư Thái Bình ngày nay.
+ Tổng Thủy Nhai có 13 xã, phường: Thủy Nhai, Trung Lễ, Hạ Linh, Trung Linh, An Cư, Phú Đường, Phú Nhai, Lục Thủy, Thượng Miêu, Nhật Hy, Bùi Chu, Hoành Quán, phường thủy cơ An Cư.
Đầu thế kỷ XX chia tách xã Phú Đường thành hai xã mới là Liên Thủy và Phú An; Tách xã Thủy Nhai thêm thôn Thủy Nhai Trung; Đổi tên xã Thượng Miêu thành xã Thượng Phúc; Chia xã Nhật Hy thành hai xã Nhật Hy Thượng và Xuân Bảng.
Tổng Thủy Nhai gồm các xã Xuân Ngọc, Xuân Thủy, Xuân Trượng và một phần Xuân Vinh, thị trấn Xuân Trường ngày nay
"+" Tổng Trà Lũ có 8 xã, phường là":" Trà Lũ, Lạc Nghiệp, Vạn Lộc, Trà Khê, Quần Cống, Hoành Vực, Chùy Trà, phường thủy cơ Trà Lũ.
Đầu thế kỷ XX đổi tên xã Hoành Vực thành xã Thọ Vực; xã Chùy Trà thành xã Thanh Trà (sau lại đổi Thanh Trà thành Thanh Khê); xã Quần Cống thành xã Thiên Thiện; Chia xã Trà Lũ làm Trà Lũ Đông, Trà Lũ Đoài, Trà Lũ Bắc, Trà Lũ Trung và lấy trại Nam Điền thuộc xã Trà Lũ Trung lập thành xã Nam Điền. Bỏ phường thủy cơ Trà Lũ.
Tổng Trà Lũ bao gồm phần đất các xã Xuân Trung, Xuân Bắc, Xuân Phương, Xuân Phong, Thọ Nghiệp ngày nay.
+ Tổng Kiên Lao có 8 xã là: Kiên Lao, Hội Khê, Hà Lạn, Quần Mông, Trà Hải, Cẩm Hà, Ngọc Tỉnh, Bắc Câu.
Năm 1888 thành lập huyện Hải Hậu thì năm Đồng Khánh 3(1891) cắt một nửa tổng Kiên Lao phụ vào huyện Hải Hậu. (Cụ thể là thôn Lạc Nam (do xã Quần Mông chia ra), xã Kiên Trung (tách từ xã Kiên Lao), xã Trà Trung và Trà Hạ (tách từ xã Trà Hải), xã Hội Khê (tách từ xã Hội Khê), xã Hà Quang (tách từ xã Cẩm Hà) và xã Hà Lạn).
Đầu thê kỷ XX tổng Kiên Lao có 10 xã: Kiên Lao, Bắc Câu, Hội Khê Bắc, Hội Khê Ngoại, Lạc Quần, Nghĩa Xá, Ngọc Tỉnh, Thanh Khê, Trà Thượng, Xuân Dục.
Tổng Kiên Lao nay thuộc phần đất các xã Xuân Ninh, Xuân Kiên, Xuân Tiến, Xuân Hòa, thị trấn Xuân Trường.Sau năm 1945
Ngày 9 – 10 – 1945, Hội đồng Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa quyết nghị các thành phố, tỉnh, phủ, huyện được gọi theo tên cũ từ thời phong kiến. Huyện Xuân Trường gọi lại là phủ Xuân Trường Từ năm 1945, huyện Xuân Trường có sự điều chỉnh sát nhập nhiều xã cũ thành xã mới, huyện Xuân Trường có 19 xã:
Năm 1948, theo Sắc lệnh số 148-SL ngày 25 tháng 3 năm 1948 của Chủ tịch Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, đổi gọi phủ Xuân Trường thành huyện Xuân Trường. Nghị định số 224-TTg của Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ngày 15 – 10 – 1952 đổi tên 19 xã của huyện Xuân Trường như sau:
Giai đoạn từ 1954 đến 1960, huyện Xuân Trường có sự điều chỉnh các xã như sau: + Sáp nhập xã Xuân Liên vào xã Xuân Ngọc.
+ Quyết nghị số 677 QN/UB của UBHC LK3 ngày 3 – 12 – 1957 chia xã Xuân Ngọc của huyện Xuân Trường thành 2 xã mới là Xuân Ngọc và Xuân Thiện.
Thời kỳ sau cải cách ruộng đất 1956, có sự điều chỉnh tách, nhập một số thôn, xã huyện Xuân Trường như sau:
Thời kỳ này huyện Xuân Trường có 26 xã: Xuân Khu, Xuân Tiên, Xuân Thiện, Xuân Châu, Xuân Thượng, Xuân Đài, Xuân Phú, Xuân Thành, Xuân Tân, Xuân Phong, Xuân Thủy, Xuân Bắc, Xuân Trung, Xuân Phương, Xuân Thọ, Xuân Nghiệp, Xuân An, Xuân Nam, Xuân Hải, Xuân Kiên, Xuân Hòa, Xuân Dương, Xuân Lạc, Xuân Nghĩa, Xuân Ngọc, Xuân Tiến. Ngày 22 tháng 12 năm 1967, theo quyết định số 174-CP ngày 11 – 12 – 1967 của Hội đồng Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thành lập huyện Xuân Thủy trên cơ sở hợp nhất hai huyện Xuân Trường và huyện Giao Thủy.Quyết định số 89-NV ngày 18 – 3 – 1968 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ thay đổi đơn vị hành chính cấp xã của huyện Xuân Thủy:- Sát nhập thôn Quần Lung của xã Xuân Dương vào xã Xuân Nam.
- Sát nhập hai xã Xuân Dương và Xuân Hòa thành xã Xuân Hòa. Hai xã này đều thuộc huyện Xuân Trường trước đó.
Quyết định số 164-NV ngày 28 – 3 – 1969 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ thay đổi địa giới địa danh một số xã của huyện Xuân Thủy, trong đó có một số đơn vị thuộc đất huyện Xuân Trường trước đó là:- Sát nhập xã Xuân Nghĩa với xã Xuân Lạc thành xã Xuân Ninh.
- Sát nhập xã Xuân Thọ với xã Xuân Nghiệp thành xã Thọ Nghiệp.
- Sát nhập xã Xuân Khu với xã Xuân Tiên và xã Xuân Thiện thành xã Xuân Hồng. Quyết định số 233-TTg ngày 21 – 8 – 1971 của Bộ trưởng Phủ Thủ tướng:- Sát nhập thôn Xuân Bảng của xã Xuân An vào xã Xuân Hải và đổi tên xã Xuân Hải thành xã Xuân Hùng.
- Sát nhập thôn An Cư của xã Xuân An vào xã Xuân Nam và đổi tên xã Xuân Nam thành xã Xuân Vinh.
Xã Xuân An đã bị giải thể.Năm 1975 hợp nhất tỉnh Nam Hà và tỉnh Ninh Bình thành tỉnh Hà Nam Ninh. Huyện Xuân Thủy thuộc tỉnh Hà Nam Ninh.
Năm 1991 chia tách tỉnh Hà Nam Ninh thành tỉnh Nam Hà và tỉnh Ninh Bình. Huyện Xuân Thủy thuộc tỉnh Nam Hà.
Năm 1996 chia tách tỉnh Nam Hà thành tỉnh Nam Định và tỉnh Hà Nam. Huyện Xuân Thủy thuộc tỉnh Nam Định.
Giai đoạn hiện nay
Nghị định số 19-CP ngày 16 – 2 – 1997 của Chính phủ chia tách huyện Xuân Thủy thành huyện Xuân Trường và huyện Giao Thủy. Huyện Xuân Trường có 20 xã. Địa danh địa giới các xã của huyện Xuân Trường từ đó đến năm 2002 không có gì thay đổi lớn. Danh sách các xã, xóm của huyện Xuân Trường như sau:1- Xã Thọ Nghiệp gồm các thôn Lạc Nghiệp, Thổ, Đoài Cựu, Đa Cốt, Tự Lạc, Nhân Thọ, Thiên Thiện, Trà Thủy (thuộc tổng Trà Lũ cũ).
2- Xã Xuân Bắc gồm các xóm gọi theo thứ tự từ 1 đến 12 thuộc làng cổ Trà Lũ Bắc (thuộc tổng Trà Lũ, Thủy Nhai cũ).
3- Xã Xuân Châu gồm các xóm Cộng Hòa, Đinh, Lê Lợi, Đoàn Kết, Tân Dân, Phan Bội Châu, Tuần, Đại Đồng (thuộc tổng Hành Thiện cũ).
4- Xã Xuân Đài gồm các thôn Trùy Khê, An Phú Nội, An Phú Ngoại, Lãng Lăng, Ngũ Khu (thuộc tổng Hành Thiện cũ).
5 – Xã Xuân Hòa gồm các xóm gọi theo thứ tự từ 1 đến 18 (thuộc tổng Kiên Lao cũ).
6- Xã Xuân Hồng gồm các thôn Hành Thiện, Phú Thủy, Hồng Thiện, xóm Chài (thuộc tổng Hành Thiện cũ).
7- Xã Xuân Hùng gồm các thôn Cấp Tứ, Xuân Bảng, Hội Khê, Ngọc Tỉnh, Bắc Câu, Trà Thượng (thuộc tổng Kiên Lao cũ).
8- Xã Xuân Kiên gồm các xóm 8. 9. 10A, 10B, 13, 14, 15, 16, 19A,19B, 19C (thuộc tổng Kiên Lao cũ).
9- Xã Xuân Ngọc gồm thôn Liêu Thượng, Bùi Chu, phố Bùi Chu, Trung Lễ, Liêu Hạ, Trung Linh, Hạ Linh, Phú An, Phố Mới (thuộc tổng Thủy Nhai cũ).
10- Xã Xuân Ninh gồm các thôn Nghĩa Xá, Hưng Nhân, Xuân Dục (thuộc tổng Kiên Lao cũ).
11- Xã Xuân Phong gồm các xóm gọi theo thứ tự từ 1 đến 18 (thuộc tổng Trà Lũ cũ).
12- Xã Xuân Phú gồm các xóm Trung Tiến, Cộng Hòa, Bình Minh, Quyết Thắng, Trưng Trắc, Trưng Nhị, Đoàn Kết, Hoàng Anh, Cố Gắng, La Văn Cầu, Hạnh Phúc, Đông Thượng, Tây Nam, Giải Phóng, Xuân Châu (thuộc tổng Cát Xuyên cũ).
13- Xã Xuân Phương gồm các xóm gọi theo thứ tự từ 1 đến 6 và hai xóm Nam, Bắc (các làng Trà Lũ Đông, trà Lũ Đoài thuộc tổng Trà Lũ, làng Phú Nhai thuộc tổng Thủy Nhai cũ).
14- Xã Xuân Tân gồm các thôn An Đạo Liêu Đông, Nam Phú (thuộc tổng Cát Xuyên cũ).
15- Xã Xuân Thành gồm các xóm gọi theo thứ tự từ 1 đến 12 (thuộc tổng Cát Xuyên cũ).
16- Xã Xuân Tiến gồm các xóm gọi theo thứ tự từ 1 đến 10 (thuộc tổng Kiên Lao cũ).
17- Xã Xuân Thủy gồm các xóm gọi theo thứ tự từ 1 đến 14 (thuộc tổng Thủy Nhai cũ).
18- Xã Xuân Thượng gồm các thôn Trung, Đoài, Bắc.
19- Xã Xuân Trung gồm các xóm gọi theo thứ tự từ 1 đến 11 (gồm một phần Trà Lũ Đoài, Trà Lũ Trung thuộc tổng Trà Lũ cũ).
20- Xã Xuân Vinh gồm các thôn An Cư, Quốc Khánh, Quang Trung, Nam Hải, Nam Hồng. Nghị định của Chính phủ số 137/2003 ngày 14 – 11 – 2003 thành lập thị trấn Xuân Trường gồm toàn bộ diện tích và dân cư của xã Xuân Hùng và một phần diện tích và dân cư của xã Xuân Ngọc. Xã Xuân Hùng được giải thể, trở thành đất của thị trấn huyện lỵ Xuân Trường. Từ đây huyện Xuân Trường có 19 xã và 1 thị trấn.
Xuân Trường là huyện đa dạng các nhóm nghề. Một số nghề duy trì tốt và ổn định như mộc, chế biến lâm sản, cơ khí, vận tải, chế biến thực phẩm và nông sản. Một số xã có nghề với thu nhập khá như Xuân Tiến, Xuân Trung, Xuân Ngọc, Xuân Phương, Xuân Ninh, Xuân Bắc. Các làng nghề truyền thống, làng nghề, nghề truyền thống, làng có nghề và nghề phụ tại các địa phương trong huyện:
|
Thanh Hà là một huyện thuộc tỉnh Hải Dương, Việt Nam. Huyện nổi tiếng với đặc sản vải thiều với thương hiệu vải thiều Thanh Hà.
Huyện Thanh Hà nằm ở phía đông nam của tỉnh Hải Dương, nằm cách thành phố Hải Dương khoảng 19 km về phía đông nam, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 92 km và cách trung tâm thành phố Hải Phòng khoảng 36 km, có vị trí địa lý:
Huyện Thanh Hà có diện tích tự nhiên là 140,70 km², dân số năm 2018 là 136.858 người, mật độ dân số đạt 973 người/km².
Huyện được chia làm 4 khu là Hà Nam, Hà Đông, Hà Tây và Hà Bắc.
Tính chất đất đai cũng như địa hình của huyện mang đặc tính địa hình của đất phù sa sông Thái Bình. Độ cao so với mực nước biển trung bình là 0,60 m. Khí hậu ở Thanh Hà mang rõ nét tính chất khí hậu nhiệt đới gió mùa, hội tụ đầy đủ điều kiện để phát triển một nền nông nghiệp toàn diện. Với vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển kinh tế-xã hội, lại nằm giữa vùng trọng điểm của đồng bằng Bắc Bộ, nên Thanh Hà có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế-xã hội và quân sự của tỉnh Hải Dương.
Thanh Hà được bao quanh bởi có các con sông lớn như Thái Bình (ở phía Tây Nam), sông Rạng, sông Văn Úc (ở phía Đông Bắc) bao bọc quanh tạo nên các tuyến giao thông đường thủy rất quan trọng với thành phố Hải Dương các tuyến bạn như Tứ Kỳ, Kim Thành và giữa Hải Dương với hải cảng Hải Phòng, Quảng Ninh. Ngoài các con sông lớn bao quanh, trong địa phận Thanh Hà còn có sông Gùa nối sông Thái Bình với sông Văn Úc, tách khu vực Hà Đông (gồm 4 xã) như một hòn đảo nằm giữa các con sông lớn; sông Hương (đầu công nguyên gọi là sông Cam Giang) chi lưu của sông Thái Bình vào Thanh Hà từ đầu phía Tây Bắc (hiện nay đã bị lấp) xuyên dọc giữa huyện nhập vào sông Văn Úc tại xã Thanh Xuân.
Từ các con sông lớn, có các sông, ngòi nhỏ chạy len lỏi vào tận các thôn, xã trong huyện, tạo thuận lợi cho việc tưới tiêu nước cho đồng ruộng và là hệ thống giao thông thủy quan trọng trong việc giao lưu kinh tế, văn hoá, quân sự giữa các vùng, giữa Thanh Hà với các huyện trong tỉnh và các tỉnh trong cả nước. Đồng thời cũng rất thuận lợi cho việc chăn nuôi đánh bắt thủy sản, chăn nuôi gia cầm có giá trị kinh tế cao.
Về điều kiện tự nhiên, đất đai do phù sa bồi tụ, sông ngòi nhiều nên rất màu mỡ, phì nhiêu, thuận lợi cho phát triển kinh tế nông nghiệp. Tuy nhiên, do phù sa bồi tụ không đều nên địa hình thổ nhưỡng của Thanh Hà không bằng phẳng và phần lớn vẫn ở dạng phù sa non. Khi chưa có hệ thống đê, hàng năm vào mùa mưa, nước lũ từ thượng nguồn đổ về mang phù sa tràn vào đồng ruộng, đầm bãi, ao hồ, có khi ngập nước đến ba bốn tháng (từ tháng 5 đến tháng 9 âm lịch). Sau khi nước rút đi đã để lại lớp phù sa dày 5–10 cm. Thanh Hà có2/ 3 diện tích là triều bãi, nhiều vùng trước đây là đầm hồ, bãi trũng, quanh năm chỉ có cỏ lau, lác sú, vẹt mọc um tùm, song đó lại là môi trường tốt cho các loài thủy sinh quý, có giá trị dinh dưỡng cao như: tôm, cá, cua, cáy, rươi, ruốc.
Riêng 4 xã khu Hà Đông trũng hơn, có nhiều đầm, hồ, ruộng bãi rất thấp, lại gần hạ lưu, chịu ảnh hưởng trực tiếp của thủy triều lên xuống hàng ngày, do đó đã tạo thành một vùng sinh thái nước lợ đặc biệt phong phú. Nhiều loại thủy sản được mệnh danh là đặc sản nổi tiếng: Tôm rảo, cà ra, rươi, rạ"Tháng mười cà ra, tháng ba tôm rảo"; đặc biệt con rươi là thủy sản quý chỉ có ở vùng nước lợ, sống chủ yếu trong lòng đất phù sa, xuất hiện nhiều vào tháng 9, tháng 10 (âm lịchTính chất đất đai cũng như địa hình của huyện mang đặc tính địa hình của đất phù sa sông Thái Bình. Độ cao so với mực nước biển trung bình là 0,60 m
Toàn huyện có 3 nguồn cấp điện cho huyện từ 3 trạm 110 kV. Toàn huyện có 64 trạm biến áp với 70 máy biến áp, tổng dung lượng 20.740 KVA. 100% xã có điện sinh hoạt với trên 99% hộ sử dụng điện sinh hoạt. Hơn 90% hộ nông dân toàn huyện được sử dụng nước hợp vệ sinh như: xã Hồng Lạc, Việt Hồng, Thanh An, Trường Thành, Thanh Hồng, Thanh Bính được dùng nước máy (nước phông tên). Rất nhiều hộ chưa được dùng nước hợp vệ sinh.Đặc biệt là Thị trấn Thanh Hà. Hiện nay, nhu cầu dùng nước sạch của Thị trấn Thanh Hà rất cấp thiết mà số hộ được dùng nước sạch thi rất ít, những hộ dân còn lại đa phần phải mua nước sạch chở từ nơi khác về để sử dụng với số tiền rất đắt so với thu nhập của người dân(35,000/1m3). Vì vậy, đề nghị UBND huyện Thanh Hà xem xét xây dựng gấp Nhà máy nước để phục vụ cho đời sống của nhân dân Thị trấn.
Giao thông bộ có đường 390A chạy từ Ngã Ba Hàng (đường 5 cũ) qua địa phận xã Tiền Tiến về huyện lỵ xuôi xuống bến Gùa, kéo dài đến phà Quang Thanh; đường 390B nối từ đường 5 (đầu cầu Lai Vu) qua các xã Hồng Lạc, Việt Hồng, Cẩm Chế về huyện lỵ. Hai con đường này là huyết mạch giao thông của huyện, ngoài ra trong nội hạt còn có các con đường nhỏ liên huyện, liên xã, liên thôn tạo thành hệ thống giao thông sinh hoạt, giao lưu kinh tế, văn hoá của nhân dân và có vai trò quan trọng đối với an ninh quốc phòng của địa phương.
Toàn huyện có 52 km đường nhựa, trong đó đường tỉnh quản lý 23,6 km (100%), đường huyện đạt 70%, 441 km đường đá cấp phối, 89 km đường bê tông, 42 km đường lát gạch. Các tuyến đường chính trong huyện đã được nhựa hoá, phong trào "Bê tông hoá đường giao thông nông thôn" phát triển mạnh. Đặc biệt Thanh Hà có hơn 72 km đê trung ương và đê địa phương bao quanh các con sông, điều kiện thuận lợi cho phát triển giao thông đường thủy. Đây cũng là địa phương có đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng đi qua. Về viễn thông: Hệ thống đài truyền thanh, thông tin liên lạc từ huyện đến xã được củng cố, nâng cấp và phát huy tác dụng. Đến nay toàn huyện có 3.482 máy điện thoại, bình quân 2,15 máy/100 dân, xây dựng 13 điểm bưu điện văn hoá xã.
Mảnh đất Thanh Hà có lịch sử phát triển lâu đời. Căn cứ vào tài liệu khảo cổ thì xa xưa nơi đây là biển cả mênh mông, trải qua hàng vạn năm - được phù sa sông Thái Bình và sông Kinh Thầy bồi đắp đã thành đồng bãi phù sa châu thổ. Những cư dân Thanh Hà đầu tiên đã đến đây khai phá vùng đầm lầy, bãi lau, bờ sú thành đồng ruộng tốt tươi. Trải qua quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước cùng dân tộc, nhân dân lao động và đã tạo dựng lên mảnh đất giàu đẹp như ngày nay và trở thành niềm tự hào của người Thanh Hà.
Từ lâu trong gian lưu truyền câu ca:: "Đã là con mẹ con cha"/"Sinh ra ở đất Thanh Hà xứ Đông". Cũng có nơi trong huyện truyền nhau câu ca: "Muốn làm con mẹ con cha"/"Thì sinh ở đất Thanh Hà xứ Đông" (tỉnh Hải Dương xưa có tên tỉnh Đông - xứ Đông).
Huyện Thanh Hà từ thời Trần trở về trước là đất Bàng Hà; thời thuộc Minh là huyện Bình Hà trong châu Nam Sách, phủ Lạng Giang. Đầu thời Hậu Lê là huyện Bình Hà phủ Nam Sách; đến thời Lê Thánh Tông chia làm hai huyện Bình Hà và Tân Minh (nay là huyện Tiên Lãng). Huyện Bình Hà mới giữ tên gọi này đến thời nhà Mạc. Khoảng đời Mạc Phúc Nguyên (1547-1561) vì kiêng huý Mạc Bình, ông nội Mạc Đăng Dung, nên đổi thành Thanh Hà. Tên gọi Thanh Hà giữ nguyên từ đó tới nay (trừ giai đoạn sáp nhập với huyện Nam Sách để thành huyện Nam Thanh).
Trải qua những biến động của lịch sử, đơn vị hành chính và địa giới Thanh Hà cũng thay đổi. Thời Hùng Vương, nước ta được chia thành 15 bộ, Hải Dương thuộc bộ Dương Tuyền; đến đầu Công nguyên nhà Hán đô hộ chia nước ta ra làm 3 quận, 10 huyện, Thanh Hà lúc đó có tên huyện là Câu Lậu (gồm Nam Thanh Hà, Tây An Lão và 1/3 huyện Tiên Lãng - Hải Phòng). Lúc này, cư dân đã khá đông đúc, sống tập trung ở các vùng thuộc khu Hà Bắc, Hà Tây và một phần Hà Nam ngày nay.
Đến đầu thế kỷ VI, Thanh Hà đã có nhiều cụm dân cư ở tập trung thành xóm trại; lớn hơn là các trang như: Cập Hiền Trang (Tiền Tiến); Hoàng Mô, Hoàng Mai Trang (Quyết Thắng); Hưu Cao Trang, Sơn Trại Trang (Thanh Bình); Hạ Hào Trang (Thanh Xá); Đìa La Trang (Cẩm Chế); Tảo Sơn Trang (Thanh An); Đại Lý, Hải Hộ Trang (Hồng Lạc).
Ngày 24 tháng 2 năm 1979, huyện Thanh Hà và huyện Nam Sách hợp nhất thành huyện Nam Thanh. Ngày 17 tháng 2 năm 1997, tái huyện Thanh Hà từ huyện Nam Thanh, giải thể xã Thanh Bình để thành lập thị trấn Thanh Hà, thị trấn huyện lỵ huyện Thanh Hà. Huyện Thanh Hà có thị trấn Thanh Hà và 24 xã: An Lương, Cẩm Chế, Hồng Lạc, Hợp Đức, Liên Mạc, Phượng Hoàng, Quyết Thắng, Tân An, Tân Việt, Thanh An, Thanh Bính, Thanh Cường, Thanh Hải, Thanh Hồng, Thanh Khê, Thanh Lang, Thanh Sơn, Thanh Thủy, Thanh Xá, Thanh Xuân, Tiền Tiến, Trường Thành, Việt Hồng, Vĩnh Lập.
Ngày 16 tháng 10 năm 2019, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 788/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã thuộc tỉnh Hải Dương (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 12 năm 2019). Theo đó:
Sau khi sắp xếp và điều chỉnh địa giới, huyện Thanh Hà có 1 thị trấn và 19 xã như hiện nay.
Huyện Thanh Hà có 20 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Thanh Hà (huyện lỵ) và 19 xã: An Phượng, Cẩm Chế, Hồng Lạc, Liên Mạc, Tân An, Tân Việt, Thanh An, Thanh Cường, Thanh Hải, Thanh Hồng, Thanh Khê, Thanh Lang, Thanh Quang, Thanh Sơn, Thanh Thủy, Thanh Xá, Thanh Xuân, Việt Hồng, Vĩnh Lập.
Toàn huyện có 85 di tích lịch sử đền, chùa, miếu, trong đó có 12 di tích được Nhà nước xếp hạng, mặt khác Thanh Hà là một miền quê trù phú như rừng cây ăn quả giữa đồng bằng châu thổ sông Hồng. Đó là những tiềm năng để huyện có thể phát triển du lịch sinh thái miệt vườn, văn hoá nhân văn, thu hút khách tham quan, tìm hiểu lịch sử văn hoá dân tộc.
Chùa Minh Khánh còn gọi chùa Hương Đại tại thị trấn Thanh Hà, thờ Phật và đức vua Trần Nhân Tông; được công nhận Di tích Lịch sử - Văn hóa Quốc gia năm 1990. Lễ hội chùa Minh Khánh kéo dài 3 ngày, chính hội tổ chức vào ngày 1/11 Âm lịch. Đây là một trong 4 ngôi chùa của tỉnh Hải Dương được xếp hạng di tích văn hóa - lịch sử - kiến trúc vào thời kỳ Pháp thuộc.
Xã Thanh Hải có 1 di tích; có nhà múa rối nước xây dựng giữa hồ trông cổ kính mới mẻ rất hợp với khu du lịch sinh thái bãi soi sông Thái Bình. Phường rối nước xã Thanh Hải với truyền thống lâu đời, giành nhiều giải lớn trong nước và ngoài nước, là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia.
Xã Thanh Xá có Chùa Bạch Hào là di tích lịch sử cấp quốc gia với nhiều bảo vật quý; có Lễ hội chùa Bạch Hào là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia. Xã Thanh Sơn có đình làng Thuý Lâm được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. Lễ hội Vải thiều Thanh Hà – Hải Dương lần đầu tiên tổ chức vào ngày 10 tháng 6 năm 2018 tại thị trấn Thanh Hà, huyện Thanh Hà.
Tại Thanh Hà có trồng nhiều vải thiều, hồng xiêm, ổi, chanh. Vài thiều Thanh Hà được nhà bác học Lê Quý Đôn miêu tả: "Mã ngoài như lụa hồng tơ tía, thịt vải như thủy tinh, như dáng tuyết, vị ngọt đậm, ăn thấy hương thơm tưởng như thứ rượu tiên trên đời". Chanh là một trong những cây trồng truyền thống, chủ lực, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho nông dân huyện; được trồng chuyên canh và xen canh với vài, sản phẩm chủ yếu là lá và quả. Đến nay, toàn huyện có trên 70 ha trồng chanh, tập trung chủ yếu ở các xã Thanh Xá, Thanh Xuâ
Thanh Hà có các chợ cụm, xã:
Làng nghề, ngành nghề tại các địa phương:
|
Đơn vị tốc độ truyền dữ liệu
Trong viễn thông, tốc độ truyền dữ liệu là số bit trung bình (bitrate), ký tự hoặc ký hiệu (baudrate) hoặc khối dữ liệu trên mỗi đơn vị thời gian đi qua một liên kết truyền thông trong hệ thống truyền dữ liệu. Đơn vị tốc độ dữ liệu phổ biến là bội số bit trên giây (bit / s) và byte mỗi giây (B/s). Ví dụ, tốc độ dữ liệu của các kết nối Internet tốc độ cao dân cư hiện đại thường được biểu thị bằng megabit trên giây (Mbit/s).
Megabit trên giây (tiếng Anh: megabit per second; viết tắt là Mbps), là đơn vị đo tốc độ truyền dẫn dữ liệu, tương đương 1.000 kilobit trên giây hay 1.000.000 bit trên giây.
Băng thông của dịch vụ Internet dân dụng thường được đo bằng Mbit/s.
Đa số các ứng dụng video được đo bằng Mbit/s:
Một đơn vị đo tốc độ truyền dẫn dữ liệu khác là megabyte trên giây (MBps hoặc MB/s), bằng:
Nhiều giao diện dữ liệu máy tính được đo bằng MB/s:
Không nên nhầm lẫn giữa một megabyte trên giây và một megabit trên giây:
Chắc hẳn các bạn thường tự hỏi vì sao mạng nhà mình là gói 10 "Mê" mà tốc độ hiển thị trên chương trình IDM chỉ 1,2-1,3 "Mê". Chỉ khác nhau giữa chữ B viết hoa và chữ b viết thường nhưng nó là 2 khái niệm hoàn toàn khác nhau và dễ khiến cho nhiều người nhầm lẫn. Các nhà mạng thường quy định tốc độ mạng là Mbps. Nhưng tốc độ Download của chương trình Internet Download Manager là MBps. Chắc các bạn cũng biết 1Byte = 8bit, vì vậy nên 1MBps = 8Mbps Đó là lý do vì sao trên chương trình IDM chỉ hiển thị tốc độ truyền dữ liệu chỉ khoảng 1.2 MBps
|
Trường Đại học An Giang, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Trường Đại học An Giang ( – AGU) là một trường đại học đa ngành, thành viên của Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh tại An Giang, được xếp vào nhóm trường đại học trọng điểm quốc gia Việt Nam, có vai trò nòng cốt trong hệ thống giáo dục tại Việt Nam.
Ngoài đào tạo, trường còn có nhiệm vụ nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp và Chính phủ.
Trường có xuất phát điểm là Trường Cao đẳng Sư phạm được Bộ Giáo dục thành lập năm 1976. Đến năm 1995, tỉnh quyết định sáp nhập hai trường Trung học Sư Phạm và Cao đẳng Sư Phạm thành một và lấy tên mới là Cao đẳng Sư Phạm An Giang chuyên đào tạo giáo viên. Ban đầu trường được đặt dưới sự quản lý của Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh An Giang; đến năm 2019, trường chính thức trực thuộc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
Năm 1970, Trường Văn khoa và Sư phạm (đôi lúc được gọi là trường Sư phạm hoặc phân khoa Sư phạm) thuộc Viện Đại học Hòa Hảo khai giảng khóa đầu tiên sau khi được chấp thuận từ người đứng đầu Việt Nam Cộng hòa nhân dịp đi dự lễ khánh thành trụ sở Trung ương Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo vào tháng 4 năm 1970, chính thức vào năm 1971 bằng Nghị định số 1674-GD/KHPC/NĐ của Việt Nam Cộng Hòa.
Sau năm 1975, Trường Cao đẳng Sư Phạm An Giang được thành lập trên cơ sở Trường Văn khoa và Sư phạm thuộc Viện Đại học Hòa Hảo do Bộ Giáo dục ban hành vào năm 1976, sau đó đến năm 1985 thì giao lại cho tỉnh An Giang quản lý rồi được sáp nhập thành Cao đẳng Sư Phạm An Giang chuyên đào tạo giáo viên vào năm 1995 trên cơ sở hai trường Trung học Sư Phạm và Cao đẳng Sư Phạm.
Trường Đại học An Giang được thành lập theo quyết định số 241/1999/QĐ-TTg ngày 30 tháng 12 năm 1999 của Thủ tướng chính phủ, là trường Đại học công lập thứ hai được thành lập ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long và khai giảng niên học đầu tiên ngày 9 tháng 9 năm 2000. Xây dựng trên cơ sở trường Cao đẳng Sư phạm An Giang, Trường Đại học An Giang là trường đại học công lập trong hệ thống các trường đại học Việt Nam, trực thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang. Ngoài đào tạo trường còn có nhiệm vụ nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao công nghệ trong vùng.
Từ 2000-2001, Đại học An Giang tuyển sinh khóa đầu tiên với 5 ngành đào tạo đại học. Đến năm 2005–2006, trường đã có 42 ngành đào tạo chính quy trong đó có 20 ngành hệ đại học.
Ngày 8 tháng 12 năm 2016, Thủ tướng có văn bản đồng ý chủ trương chuyển Trường Đại học An Giang từ trường Đại học chịu sự quản lý trực tiếp của UBND tỉnh An Giang thành trường Đại học thành viên của Đại học Quốc gia TP. HCM.
Ngày 13 tháng 8 năm 2019, Trường Đại học An Giang chính thức trực thuộc Đại học Quốc gia TP HCM, theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam.
Chất lượng đào tạo.
Kiểm định chất lượng đào tạo.
Trường đã được hệ thống Đại học Quốc gia kiểm định chất lượng đào tạo hiện tại của trường đạt 80% so với tiêu chuẩn về chất lượng giáo dục của hệ thống vào ngày 31 tháng 1 năm 2018.
Đội ngũ giảng viên.
Tính đến tháng 6 năm 2017, trường có 490 giảng viên. Trong đó có 3 phó giáo sư, 40 tiến sĩ, 367 thạc sĩ và 80 giảng viên có trình độ đại học.
Tiến trình sáp nhập vào Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày 31 tháng 1 năm 2018, trường đã được hệ thống Đại học Quốc gia kiểm định chất lượng đào tạo, hiện tại trường đã đạt 80% so với tiêu chuẩn về chất lượng giáo dục của hệ thống.
Ngày 13 tháng 8 năm 2019, Trường Đại học An Giang chuyển đơn vị chủ quản từ UBND tỉnh An Giang sang Đại học Quốc gia TPHCM, theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam.
Nghiên cứu khoa học.
Công tác nghiên cứu khoa học là một nhiêm vụ quan trọng được nhà trường quan tâm bên cạnh nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Ngay từ khi mới thành lập, nhà trường đã áp dụng hàng loạt chế độ chính sách ưu đãi cho cán bộ, giáo viên, công nhân viên và sinh viên như: khen thưởng hàng năm đối với những đề tài có chất lượng, ban hành các quy định nhằm tạo điều kiện tốt cho người tham gia nghiên cứu khoa học.
Tạp chí Khoa học trường Đại học An Giang giới thiệu và công bố kết quả nghiên cứu của trường ở nhiều lĩnh vực thuộc khoa học lý thuyết và ứng dụng, bao gồm: "(a)" Khoa học Tự nhiên, Công nghệ và Môi trường; "b)" Nông nghiệp, Thủy sản và Công nghệ Sinh học; "(c)" Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục và "(d)" Khoa học Chính trị, Kinh tế và Pháp luật. Nội dung được công bố và giới thiệu của Tạp chí là các kết quả nghiên cứu, công trình tổng quan lý thuyết và thực tiễn chưa được xuất bản trên bất kỳ tạp chí nào khác.
Từ năm 2017, Tạp chí Khoa học trường Đại học An Giang đã được Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà nước chấp nhận đưa vào danh mục tạp chí được tính điểm công trình khoa học ở 6 hội đồng chức danh chức danh Giáo sư ngành và liên ngành.
Quan hệ trong nước và quốc tế.
Nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, nâng cao uy tín của mình, Đại học An Giang đã ký kết hợp tác với nhiều viện, Đại học trong và ngoài nước để nghiên cứu và đào tạo, trong đó nghiên cứu chủ yếu ở các lĩnh vực nông nghiệp, kinh tế nông nghiệp và phát triển nông thôn. Gồm các trường Đại học và tổ chức liên kết sau:
|
Nguyễn Tế Công (1877 - 1959) hay Nguyễn Tề Công là một võ sư Vĩnh Xuân Quyền người Việt gốc Hoa và được xem là Sư tổ hệ phái Vĩnh Xuân quyền Việt Nam.
Nguyễn Tế Công (là tên chính thức được gia đình ghi trên bia mộ. Trong sách báo, ông còn có các tên là Nguyễn Tế Vân tức "Yuen Chai-Wan", "Tế Mặt rỗ" tức "Dao Pei Chai, Nguyễn Lão Tứ, Lương Vũ Tế"...) sinh năm 1877 tại Phật Sơn, Quảng Đông, Trung Hoa, là một võ sư môn phái Vĩnh Xuân. Khi còn nhỏ anh em ông Nguyễn Tế Công rất ham mê võ nghệ. Vì các võ sư Vĩnh Xuân lúc bấy giờ thu học phí rất cao, cha của họ, ông Nguyễn Long Minh (Yuen Chong-Minh), đã dành một khoản gia tài nhỏ để mời quyền sư nổi tiếng Hoắc Bảo Toàn và, sau này, đón Phùng Thiếu Thanh về nhà dạy Vĩnh Xuân cho hai con là ông cùng với người em Nguyễn Kỳ Sơn (Yuen Kay Shan), sau này ông còn học hỏi thêm Lương Bích. Ở Trung Quốc ông đã thu nhận học trò như Diêu Tài.
Trước đó, dù đã sang Việt Nam để dạy võ cho một nhóm người Hoa, nhưng phải tới năm 1939, ông Nguyễn Tế Công mới sang định cư ở Việt Nam và trở thành sư tổ môn phái Vịnh Xuân Việt Nam, ông dấn thân vào mục tiêu cao cả là bảo vệ những người lao động cô thế và phát triển Vịnh Xuân ở phương Nam. Từ năm 1939 đến 1954, sư tổ ở Hà Nội, thu nhận học trò và truyền dạy môn võ này. Những người theo học bao gồm cả người Hoa (Như Cam Thúc Cường) và người Việt, trong đó có một số được coi là những người kế vị. Hiện vẫn còn lưu được bức ảnh của ông chụp cùng với một số học trò ở Hà Nội. Trong số người này, trên thực tế chỉ có hai người mở lớp dạy môn Vĩnh Xuân là Trần Thúc Tiển và Trần Văn Phùng. Sau này ở miền Bắc còn có thêm nhánh của Ngô Sĩ Quý, và Vũ Bá Quý.
Cuối năm 1954, ông Nguyễn Tế Công cùng gia đình và một số học trò di cư vào Nam Bộ, hành nghề đông y và dạy võ ở Đồng Khánh, Chợ Lớn. Trong Nam ông có thu nhận thêm một số học trò như Lục Viễn Khai, BS Nguyễn Bá Khả - Bộ trưởng Bộ Y tế chính quyền Việt Nam Cộng hòa, Đỗ Bá Vinh - giáo sư kiến trú(tên thật là Nguyễn Duy Hải), Đỗ Bá Vinh, Lục Viễn K, Sư tổ Nguyễn Tế Công cùng gia đình sống ở ngõ Đồng Khánh, Chợ Lớn. Ông có để lại bộ ảnh chụp ông đánh bài 108 với mộc nhân, được coi là bài quyền cao cấp trong hệ thống quyền thuật Vĩnh Xuân Việt Nam.
Chiều ngày 23 tháng 6 năm 1959 (tức 18/5 Kỷ Hợi) ông Nguyễn Tế Công qua đời sau 2 ngày lâm bệnh và được an táng tại nghĩa trang Quảng Đông, Chợ Lớn. Sau này, thi hài ông đã được chuyển về nghĩa trang người Quảng Đông ở Lái Thiêu, Bình Dương. Ông có 2 người con, 1 trai 1 gái, đều không học võ. Hiện nay, cả hai người con của ông đều đã qua đời.
|
Châu Phi hay Phi châu ("l'Afrique", "Africa") là châu lục đứng thứ hai trên thế giới về dân số (sau Châu Á), thứ ba về diện tích (sau Châu Á và Châu Mỹ). Với diện tích khoảng 30.221.532 km² (bao gồm cả các đảo cận kề) chiếm 19% đất đai của Trái Đất. Với 1.422.047.502 người sinh sống ở 55 quốc gia tính đến 2022, châu Phi chiếm khoảng 17,80% dân số thế giới
Tên gọi trong tiếng Việt của châu Phi bắt nguồn từ tên gọi tiếng Trung "非洲" (âm Hán Việt: "Phi châu"). Chữ "Phi" 非 trong "Phi châu" 非洲 là gọi tắt của "Phi Lợi Gia" 阿非利加. "A Phi Lợi Gia" (阿非利加 - "Ā fēi lì jiā") là phiên âm tiếng Trung của danh xưng tiếng Bồ Đào Nha "África".
Từ "África" trong tiếng Bồ Đào Nha bắt nguồn từ tên gọi tiếng La-tinh "Africa".
Tên gọi "Africa" được người châu Âu sử dụng thông qua người La Mã cổ đại, là những người sử dụng tên gọi "Africa terra" - "vùng đất Afri" (số nhiều, hay "Afer" ở dạng số ít) - để chỉ phần miền bắc của châu lục này, như là tỉnh Africa với thủ đô của nó là Carthage, tương ứng với Tunisia ngày nay.
Nguồn gốc của "Afer" có thể có từ:
Nhà sử học Leo Africanus (1495-1554) cho là nguồn gốc của từ "phrike" có nghĩa là "lạnh và sự khiếp sợ" trong tiếng Hy Lạp khi tổ hợp với tiền tố phủ định a-, có nghĩa là vùng đất không có lạnh và sự khủng khiếp. Nhưng sự thay đổi của âm từ "ph" sang "f" trong tiếng Hy Lạp có thể chỉ có từ thế kỷ I, vì thế trên thực tế nó khó có thể là nguyên gốc của tên gọi.
Ai Cập đã từng được những người cổ đại coi như là một phần của châu Á, và lần đầu tiên nó được gắn với châu Phi nhờ công của nhà địa lý Ptolemy (85-165) là người đã chấp nhận Alexandria như là kinh tuyến gốc và coi kênh đào Suez và Hồng Hải như là ranh giới giữa châu Á và châu Phi. Khi người châu Âu có thể hiểu ra quy mô thực sự của châu lục này thì ý tưởng về "Africa" cũng đã được mở rộng cùng với hiểu biết của họ.
Châu Phi là phần lớn nhất trong số 3 phần nổi trên mặt nước ở phía nam của bề mặt Trái Đất. Nó bao gồm khu vực bao quanh một diện tích khoảng 30.221.532 km² (11.668.599 mi²) tính cả các đảo. Đại bộ phận diện tích nằm giữa chí tuyến Bắc và chí tuyến Nam nên có khí hậu nóng quanh năm.
Bị Địa Trung Hải ngăn cách với châu Âu, đại lục này nối liền với châu Á về phía tận cùng đông bắc bằng eo đất Suez (bị cắt ngang bởi kênh đào Suez) có bề rộng 130 km (80 dặm). Về mặt địa lý thì bán đảo Sinai của Ai Cập nằm về phía đông kênh đào Suez (thông thường cũng được coi như là thuộc châu Phi). Từ điểm xa nhất về phía bắc là Ras ben Sakka ở Tunisia, nằm về phía tây mũi Blanc, ở vĩ độ 37°21' bắc, tới điểm xa nhất về phía nam là mũi Agulhas ở Nam Phi, 34°51′15″ nam, có khoảng cách khoảng 8.000 km (5.000 dặm); từ Cabo Verde, 17°33′22″ tây, tức điểm xa nhất về phía tây tới Ras Hafun ở Somalia, 51°27′52″ đông, có khoảng cách xấp xỉ 7.400 km (4.600 dặm). Độ dài của bờ biển là 26.000 km (16.100 dặm). Sự thiếu vắng các chỗ lõm sâu dọc theo bờ biển được so sánh thể hiện theo thực tế bằng tầm cỡ châu Âu, nơi có diện tích chỉ 9.700.000 km² (3.760.000 mi²) nhưng lại có đường bờ biển tới 32.000 km (19.800 dặm).
Các đường cấu trúc chính của châu lục này được thể hiện theo cả hai hướng tây-đông (ít nhất là ở phần bán cầu bắc) của những phần nằm về phía bắc nhiều hơn và hướng bắc-nam ở các bán đảo miền nam. châu Phi vì thế có thể coi là tổ hợp của hai phần vuông góc với nhau, phần phía bắc chạy theo hướng từ đông sang tây, phần phía nam chạy theo hướng bắc-nam.
Địa hình châu Phi khá đơn giản. Có thể coi toàn bộ lục địa là một khối cao nguyên khổng lồ, cao trung bình 750m; trên đó chủ yếu là các sơn nguyên xen các bồn địa thấp. Phần đông của lục địa được nâng lên mạnh, nền đá bị nứt vỡ và đổ sụp, tạo thành nhiều thung lũng sâu, nhiều hồ hẹp và dài. Châu Phi có rất ít núi cao, ít đồng bằng thấp và mạng lưới sông ngòi kém phát triển.
Châu Phi có nguồn khoáng sản phong phú, là châu lục đang nắm giữ 90% lượng Cobalt, 90% Platin, 50% Vàng, 98% Crom, 70% Tantan, 64% Mangan và một phần ba lượng Urani của thế giới. Cộng hòa Dân chủ Congo có 70% lượng Cobalt của thế giới. Guinea là quốc gia xuất khẩu Bô xít lớn nhất thế giới. Ngoài ra, còn có dầu mỏ và khí đốt.
Châu Phi có Khí hậu khô nóng bậc nhất trên thế giới, nhiệt độ trung bình năm của Châu Phi trên 20°c.Châu Phi có các kiểu khí hậu như Khí hậu xích đạo, nhiệt đới ẩm ướt, Nhiệt đới gió mùa, khí hậu nửa khô hạn (bán hoang mạc và thảo nguyên), khí hậu hoang mạc (siêu khô hạn và khô hạn), và khí hậu cận nhiệt đới cao nguyên. Khí hậu ôn đới rất hiếm trên khắp lục địa ngoại trừ ở độ cao rất cao và dọc theo các vùng rìa. Lượng mưa ở Châu Phi tương đối ít và giảm dần từ xích đạo về hai chí tuyến, từ đó hình thành những hoang mạc lớn và lan ra sát biển. Nguyên nhân là do chịu tác động bởi vị trí địa lí , hình dạng lãnh thổ và địa hình và các dòng biển nóng, lạnh ven bờ. Cách hoang mạc ở châu Phi là nơi nắng nhất và khô hạn nhất của lục địa, do sự hiện diện phổ biến của sườn núi cận nhiệt đới với các khối khí khô, nóng, lún ví dụ điển hình như hoang mạc Xa-ha-ra .Châu Phi nắm giữ nhiều kỷ lục liên quan đến nhiệt: lục địa có khu vực mở rộng nóng nhất quanh năm, các khu vực có khí hậu mùa hè nóng nhất, thời gian nắng cao nhất.
Do châu Phi nằm trên các vĩ độ xích đạo và cận nhiệt đới ở cả hai bán cầu, nên có thể tìm thấy một số kiểu khí hậu khác nhau ở bên trong nó. Lục địa này chủ yếu nằm trong đới liên nhiệt đới giữa chí tuyến và chí tuyến , do đó có mật độ ẩm khá thú vị. Cường độ mưa luôn cao và là lục địa nóng. Khí hậu ấm và nóng phổ biến trên khắp châu Phi, nhưng phần lớn là phần phía bắc được đánh dấu bởi sự khô cằn và nhiệt độ cao. Chỉ có rìa cực bắc và cực nam của lục địa là có khí hậu Địa Trung Hải. Đường xích đạo chạy qua giữa châu Phi, cũng như chí tuyến bắc và chí tuyến nam, làm cho châu Phi trở thành lục địa nhiệt đới nhất. Khí hậu vốn đã khô nóng trải dài ở đường xích đạo khiến nó trở thành lục địa dễ bị tổn thương nhất do biến đổi khí hậu .
Châu Phi tiền thuộc địa.
Châu Phi được coi là cái nôi của loài người. Khoảng năm 3300 TCN, nhà nước Ai Cập cổ đại đã ra đời và phát triển, nó đã tồn tại với các mức độ ảnh hưởng khác nhau cho đến khoảng năm 343 TCN. Các nền văn minh khác bao gồm Ethiopia, vương quốc Nubia, các vương quốc Sahel Ghana, Mali và Songhai và Đại Zimbabwe.
Năm 1482, người Bồ Đào Nha đã thiết lập trạm thương mại đầu tiên (trong số nhiều trạm như thế) dọc theo bờ biển Guinée ở Elmina. Sự phát hiện ra châu Mỹ năm 1492 đã tạo ra sự phát triển mạnh mẽ trong buôn bán nô lệ.
Cùng vào thời điểm này thì chế độ nông nô đã đi vào giai đoạn kết thúc ở châu Âu và đến đầu thế kỷ XIX, các nước thực dân châu Âu đã tiến hành sự "tranh giành châu Phi" vô cùng khủng khiếp và đã chiếm đóng nhiều vùng đất của châu lục này làm thuộc địa, chỉ để sót lại 2 quốc gia độc lập là Liberia-quốc gia của cựu nô lệ da đen và Ethiopia. Sự chiếm đóng này còn tiếp diễn cho đến tận sau Chiến tranh thế giới thứ hai, khi các thuộc địa dần dần giành được độc lập.
Châu Phi thuộc địa.
Chủ nghĩa thực dân đã tạo ra những hậu quả gây mất ổn định trên tất cả những điều mà các bộ tộc châu Phi ngày nay còn cảm nhận được trong hệ thống chính trị của châu Phi. Trước khi có ảnh hưởng của người châu Âu thì các ranh giới quốc gia đã không phải là những điều đáng quan tâm nhất, trong đó người Phi châu nói chung theo các thực tiễn trong các vùng khác của thế giới, chẳng hạn như ở bán đảo Ả Rập, mà ở đó lãnh thổ của các nhóm dân cư là trùng khít với khu vực có ảnh hưởng về quân sự và thương mại của họ. Sự cố tình của người châu Âu trong việc vạch ra các ranh giới xung quanh các lãnh thổ để chia tách họ ra khỏi các quyền lực khác tại thuộc địa thông thường có ảnh hưởng tới việc chia cắt các nhóm dân cư hay chính trị liền kề hoặc bắt các kẻ thù truyền thống phải sống cạnh nhau mà không có khu vực đệm giữa họ. Ví dụ, sông Congo, mặc dù nó dường như là ranh giới địa lý tự nhiên, đã có các nhóm sắc tộc sống trên hai bờ sông chia sẻ cùng một ngôn ngữ và văn hóa hay các điều gì đó tương tự. Sự phân chia đất đai giữa Bỉ và Pháp dọc theo con sông này đã cô lập các nhóm sắc tộc này khỏi nhau. Những người sống ở khu vực Sahara hay Hạ Sahara là những người buôn bán xuyên châu lục này trong nhiều thế kỷ, thông thường hay vượt qua các "biên giới" mà thông thường chỉ tồn tại trên các bản đồ của người châu Âu.
Trong các quốc gia có dân cư là người châu Âu chính gốc như Rhodesia (Zambia và Zimbabwe ngày nay) và Cộng hòa Nam Phi, các hệ thống công dân hạng hai thông thường được lập ra để đảm bảo cho quyền lực chính trị của người gốc Âu vượt qua hạn chế về số lượng của họ (nếu tính theo phổ thông đầu phiếu). Tuy nhiên, các đường vạch ra thông thường không thể hiện chính xác các ranh giới về chủng tộc. Tại Liberia, những công dân là hậu duệ của nô lệ Mỹ đã thống trị các hệ thống chính trị trên 100 năm, làm cho các cựu nô lệ và người bản địa trong khu vực cân bằng tương đối về quyền lập pháp mặc dù thực tế là những cựu nô lệ này chỉ chiếm khoảng 10% dân số nói chung. Ý tưởng kỳ quặc cho hệ thống này là của Thượng viện Hoa Kỳ, nó làm cân bằng quyền lực của các khu vực dân tự do và nô lệ một cách buồn cười cho dù dân số của dân tự do bản địa là nhiều hơn.
Những người châu Âu thông thường thay đổi cán cân quyền lực, tạo ra các sự phân chia dân tộc mà trước đó đã không tồn tại, và tạo ra sự phân chia văn hóa gây hại cho những người dân sống trong khu vực họ kiểm soát được. Ví dụ, trong khu vực ngày nay là Rwanda và Burundi, hai sắc tộc Hutu và Tutsi đã bị trộn lẫn trong một nền văn hóa trong thời gian những kẻ thực dân người Bỉ kiểm soát khu vực này trong thế kỷ XIX. Không còn sự phân chia sắc tộc do sự hòa trộn, hôn nhân lai tạp và sự hòa trộn của các tục lệ văn hóa trong hàng thế kỷ đã xóa bỏ các dấu hiệu đáng kể để phân biệt về văn hóa, người Bỉ thực hiện chính sách phân loại theo sắc tộc trong thời gian kiểm soát khu vực này, do sự phân loại và các triết lý dựa theo sắc tộc đã là những điều không đổi trong văn hóa châu Âu trong thời gian đó. Thuật ngữ "Hutu" nguyên thủy nói tới các bộ tộc nói tiếng Bantu sinh sống bằng nông nghiệp đã di cư từ phía tây tới Rwandan và Burundi ngày nay, và thuật ngữ "Tutsi" là nói tới các bộ tộc sinh sống bằng chăn nuôi bò từ miền đông bắc tới khu vực này muộn hơn. Các thuật ngữ đối với người bản xứ cuối cùng đã được dùng để chỉ đẳng cấp kinh tế của một người. Các cá nhân sở hữu từ 10 con bò hoặc nhiều hơn được coi là người Tutsi, và những người sở hữu ít hơn thì bị coi là người Hutu, không phụ thuộc vào lịch sử tổ tiên. Điều này không phải là ranh giới chính xác nhưng nó là quy luật chung cho cách gọi, vì thế một người có thể chuyển từ người Hutu thành người Tutsi hay ngược lại.
Người Bỉ đã đưa vào hệ thống phân biệt chủng tộc. Những cá nhân nào có nhiều đặc trưng giống người châu Âu khi nhìn - da sáng màu, cao lớn, mũi hẹp , người Hamit theo đó là gần giống với người châu Âu và thuộc về nhóm người có quan hệ gần với người Tutsi theo trực hệ. Họ đã thực hiện chính sách làm thẻ căn cước dựa trên triết lý này. Những người gần giống với mô hình lý tưởng này được coi là người Tutsi còn những người còn lại là người Hutu.
Châu Phi là châu lục có người sinh sống nghèo khổ nhất thế giới, và sự nghèo khổ này về trung bình là tăng lên so với 25 năm trước.
Báo cáo phát triển con người của Liên hiệp quốc năm 2003 (về 175 quốc gia) đã cho thấy các vị trí từ 151 (Gambia) tới 175 (Sierra Leone) đã hoàn toàn thuộc về các nước châu Phi.
Tại châu Phi, tình trạng đã và đang trong giai đoạn chuyển tiếp không ổn định từ chủ nghĩa thực dân sang giai đoạn mới thuộc thời kỳ hậu Chiến tranh lạnh, sự gia tăng của tham nhũng và chế độ chuyên quyền là những yếu tố chính để lý giải nền kinh tế yếu kém. Việc Trung Quốc và hiện nay là cả Ấn Độ có sự tăng trưởng nhanh chóng, hay các nước Nam Mỹ có sự tăng trưởng vừa phải đã nâng mức sống của hàng triệu người thì châu Phi đã bị đình đốn, thậm chí thụt lùi trong thương mại, đầu tư và thu nhập trên đầu người. Sự nghèo đói này có ảnh hưởng rộng lớn, bao gồm tuổi thọ trung bình thấp, bạo lực và sự mất ổn định - các yếu tố bện vào nhau và có liên quan với sự nghèo đói của châu lục. Trong nhiều thập niên một loạt các giải pháp đã được đưa ra và nhiều trong số đó đã được thực hiện, nhưng chưa có giải pháp nào thu được sự thành công đáng kể.
Một phần của vấn đề là sự viện trợ của nước ngoài nói chung được sử dụng để khuyến khích trồng các loại cây công nghiệp như bông, cacao và cà phê trong các khu vực của nền nông nghiệp tự cung tự cấp. Tuy nhiên, cũng vào thời gian này thì các nước công nghiệp lại theo đuổi chính sách nhằm hạ giá các sản phẩm từ các loại cây này. Ví dụ, giá thành thực sự của bông trồng ở Tây Phi là nhỏ hơn khoảng một nửa giá thành của bông trồng tại Mỹ nhờ giá nhân công rẻ mạt. Tuy nhiên, bông của Mỹ được bán ra với giá thấp hơn bông châu Phi do việc trồng bông ở Mỹ được trợ cấp rất nhiều. Kết quả là giá cả của các mặt hàng này hiện nay chỉ xấp xỉ với giá của thập niên 1960.
Châu Phi cũng phải hứng chịu sự chảy vốn liên tục. Nói chung, thu nhập đến với các nước châu Phi lại nhanh chóng ra đi, hoặc là do các tài sản được bán ra đều là sở hữu của ngoại quốc (dầu mỏ là một ví dụ điển hình) và tiền thu về lại được chuyển cho các chủ nước ngoài, hoặc là các khoản tiền đó phải sử dụng để thanh toán các khoản vay của các nước công nghiệp hay Ngân hàng thế giới (WB). Người ta ước tính rằng châu Phi có thể giảm sự phụ thuộc vào viện trợ của nước ngoài một cách đáng kể nếu mọi lợi nhuận thu được tại các nước châu Phi được tái đầu tư vào khu vực trong ít nhất 12 tháng.
Botswana, trước đây là một trong những quốc gia nghèo của châu Phi mà không đi theo các sự kiểm soát do Ngân hàng thế giới (WB) hay Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đề xuất, là một trong những ngoại lệ đối với quy luật chung của sự đình đốn nền kinh tế châu Phi, và đã thu được sự phát triển vững chắc trong những năm gần đây cho dù họ không có cả đầu tư nước ngoài, tự do luân chuyển vốn hay tự do hóa thương mại.
Nước thành công kinh tế nhiều nhất là Cộng hòa Nam Phi, đây là một quốc gia phát triển về công nghiệp và kinh tế như bất kỳ nước công nghiệp châu Âu hay Bắc Mỹ nào, nước này còn có thị trường chứng khoán riêng rất hoàn thiện. Nam Phi đạt được điều này một phần là nhờ sự giàu có đáng ngạc nhiên về các nguồn tài nguyên thiên nhiên, nước này là nước dẫn đầu thế giới về sản xuất vàng và kim cương.
Nigeria nằm trên một trong những nguồn dầu mỏ lớn nhất đã được công nhận trên thế giới và cũng là nước có dân số lớn nhất trong số các quốc gia châu Phi, cũng là một quốc gia phát triển nhanh. Tuy nhiên, phần lớn ngành công nghiệp dầu mỏ thuộc sở hữu của nước ngoài, và trong ngành này thì sự tham nhũng là lan tràn, ngay ở cấp độ quốc gia, vì thế rất ít tiền thu được từ dầu mỏ còn lại trong nước, và số tiền đó chỉ đến với một phần trăm ít ỏi của dân số.
Dân cư châu Phi có thể nhóm một cách thuận tiện theo khu vực mà họ sinh sống ở phía bắc hay phía nam của sa mạc Sahara; các nhóm này được gọi là người Bắc Phi và người Phi hạ Sahara một cách tương ứng. Người Ả Rập-Berber nói tiếng Ả Rập chi phối khu vực Bắc Phi, trong khi khu vực châu Phi hạ Sahara được chi phối bởi một lượng lớn dân cư tạp nham, nói chung được nhóm cùng nhau như là 'người da đen' do nước da sẫm màu của họ. Ở đây có một sự đa dạng về các loại hình dáng cơ thể trong số những người Phi hạ Sahara—dao động từ người Masai và Tutsi, được biết đến nhờ vóc người cao lớn của họ, tới người Pygmy, là những người có tầm vóc nhỏ nhất thế giới.
Ngoài các nhóm người gốc sông Nin ở miền nam Sudan, một số nhóm người gốc sông Nil có ở Ethiopia, và các tộc người Phi thiểu số Bantu ở Somalia, người Phi từ các phần đông bắc của châu lục này nói chung có hình dáng bên ngoài khác với những người này ở các khu vực khác. Những người nói tiếng Bantu là đa số ở miền nam, trung tâm và đông châu Phi; nhưng cũng có vài nhóm người gốc sông Nil ở Đông Phi, và chỉ còn rất ít người Khoisan ('San' hay 'Busmmen') và Pygmy bản địa ở miền nam và trung châu Phi.
Người Phi nói tiếng Bantu cũng chiếm ưu thế ở Gabon và Guinea Xích đạo, cũng như có sinh sống ở miền nam của hai nước Cameroon và Somalia. Tại sa mạc Kalahari ở miền nam châu Phi, những người được gọi là Bushmen ("San", có quan hệ gần với người "Hottentot", nhưng khác biệt rõ) đã sống ở đó lâu đời. Người San về mặt bề ngoài là khác biệt với những người châu Phi khác và là dân bản địa ở miền nam châu Phi. "Pygmy" là người bản địa của miền trung châu Phi.
Người Phi ở Bắc Phi, chủ yếu là Ả Rập-Berber, là những người Ả Rập đã đến đây từ thế kỷ VII và đồng hóa với người Berber bản địa. Người Phoenicia (Semit), và người Hy Lạp và người La Mã cổ đại từ châu Âu cũng đã định cư ở Bắc Phi. Người Berber là thiểu số đáng kể ở Maroc và Algérie cũng như có mặt ở Tunisia và Libya. Người Tuareg và các dân tộc khác (thường là dân du mục) là những người sinh sống chủ yếu của phần bên trong Sahara ở Bắc Phi. Người Nubia da đen cũng đã từng phát triển nền văn minh của mình ở Bắc Phi thời cổ đại.
Một số nhóm người Ethiopia và Eritrea (tương tự như Amhara và Tigray, gọi chung là người "Habesha") có tổ tiên là người Semit (Sabaea). Người Somali là những người có nguồn gốc từ các cao nguyên ở Ethiopia, nhưng phần lớn các bộ tộc Somali cũng có tổ tiên là người gốc Ả Rập. Sudan và Mauritanie được phân chia giữa phần lớn người gốc Ả Rập ở phía bắc và người Phi da đen ở phía nam (mặc dù nhiều người gốc "Ả Rập" ở Sudan có tổ tiên rõ ràng là người châu Phi, và họ khác rất nhiều so với người gốc Ả Rập ở Iraq hay Algérie). Một số khu vực ở Đông Phi, cụ thể là ở đảo Zanzibar và đảo Lamu của Kenya, có những người dân và thương nhân gốc Ả Rập và Hồi giáo châu Á sinh sống từ thời Trung Cổ.
Bắt đầu từ thế kỷ XVI, người châu Âu như Bồ Đào Nha và Hà Lan bắt đầu thiết lập các điểm thương mại và pháo đài dọc theo bờ biển tây và nam châu Phi. Cuối cùng thì một lượng lớn người Hà Lan, cùng với người Pháp Huguenot và người Đức đã định cư lại tại khu vực gọi là Cộng hòa Nam Phi ngày nay. Hậu duệ của họ, người Phi da trắng ("Afrikaan"), là nhóm dân da trắng lớn nhất ở Nam Phi ngày nay. Trong thế kỷ XIX, giai đoạn thứ hai của quá trình thuộc địa hóa đã đem một lượng lớn người Pháp và người Anh tới định cư ở châu Phi. Người Pháp sống chủ yếu ở Algérie, còn một lượng nhỏ khác sống ở các khu vực khác thuộc Bắc và Tây Phi. Người Anh định cư ở Nam Phi cũng như ở Rhodesia thuộc địa và ở các vùng cao nguyên của Kenya ngày nay. Một lượng nhỏ binh lính, thương nhân và viên chức gốc Âu cũng sinh sống ở các trung tâm hành chính như Nairobi và Dakar. Sự tan rã của các thuộc địa trong thập niên 1960 thường tạo ra sự di cư hàng loạt các hậu duệ gốc Âu ra khỏi châu Phi—đặc biệt là ở Algérie, Kenya và Rhodesia (nay là Zimbabwe). Tuy nhiên, ở Nam Phi thì người da trắng thiểu số (10% dân số) vẫn ở lại rất nhiều tại nước này kể cả sau khi sự cai trị của người da trắng chấm dứt năm 1994. Nam Phi cũng có cộng đồng người hỗn hợp về chủng tộc (người da màu).
Sự thực dân hóa của người châu Âu cũng đem tới đây nhiều nhóm người châu Á, cụ thể là những người từ tiểu lục địa Ấn Độ tới các thuộc địa của Anh. Các cộng đồng lớn người Ấn Độ có ở Nam Phi và các nhóm nhỏ hơn có ở Kenya và Tanzania cũng như ở một vài nước thuộc nam và đông châu Phi. Một cộng đồng khá lớn người Ấn Độ ở Uganda đã bị nhà độc tài Idi Amin trục xuất năm 1972, mặc dù nhiều người kể từ đó đã quay trở lại.
"Bài chính: Các ngôn ngữ châu Phi"
Theo phần lớn các ước tính thì châu Phi có trên cả ngàn ngôn ngữ. Có 4 ngữ hệ chính có nguồn gốc bản địa ở châu Phi.
Các ngôn ngữ châu Âu cũng có một số ảnh hưởng đáng kể; tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Bồ Đào Nha và tiếng Tây Ban Nha là các ngôn ngữ chính thức tại một số nước do kết quả của quá trình thực dân hóa. Tại Cộng hòa Nam Phi, nơi có một lượng đáng kể người gốc châu Âu sinh sống, thì tiếng Anh và tiếng Afrikaan là ngôn ngữ bản địa của một bộ phận đáng kể dân chúng.
Thay vì có một nền văn hóa, châu Phi có một lượng lớn các nền văn hóa pha tạp lẫn nhau. Sự khác biệt thông thường rõ nhất là giữa châu Phi hạ Sahara và các nước còn lại ở phía bắc từ Ai Cập tới Maroc, những nước này thường tự gắn họ với văn hóa Ả Rập. Trong sự so sánh này thì các quốc gia về phía nam sa mạc Sahara được coi là có nhiều nền văn hóa, cụ thể là các nền văn hóa trong nhóm ngôn ngữ Bantu.
Sự phân chia còn có thể thực hiện bằng cách chia châu Phi nói tiếng Pháp với phần còn lại của châu Phi, cụ thể là các cựu thuộc địa của Anh ở miền nam và miền đông châu Phi. Một cách phân chia có khuyết điểm khác nữa là sự phân chia thành những người Phi theo lối sống truyền thống với những người có lối sống hoàn toàn hiện đại. Những "người truyền thống" đôi khi lại được chia ra thành những người nuôi gia súc và những người làm nông nghiệp.
Nghệ thuật châu Phi phản ánh tính đa dạng của nền văn hóa châu Phi. Nghệ thuật có tuổi cao nhất còn tồn tại ở châu Phi là những bức chạm khác 6000 năm tuổi tìm thấy ở Niger, trong khi Đại kim tự tháp Giza ở Ai Cập là tổ hợp kiến trúc cao nhất thế giới trong khoảng 4000 năm cho đến khi người ta xây dựng tháp Eiffel. Tổ hợp các nhà thờ xây bằng đá ở Lalibela, Ethiopia, trong đó Nhà thờ St. George là đại diện, được coi là một kỳ công khác của ngành công trình.
Âm nhạc châu Phi là một trong các dạng nghệ thuật năng động nhất. Ai Cập đã có một lịch sử lâu đời gắn liền với sự trung tâm văn hóa của thế giới Ả Rập, trong khi các giai điệu âm nhạc của châu Phi hạ Sahara, cụ thể là của Tây Phi, đã được truyền thông qua buôn bán nô lệ xuyên Đại Tây Dương thành các loại nhạc blues, jazz, reggae, rap và rock and roll hiện đại. Âm nhạc hiện đại của châu lục này bao gồm các bài hát hợp xướng tổ hợp cao của miền nam châu Phi và các điệu nhảy soukous, chi phối bởi âm nhạc của Cộng hòa Dân chủ Congo. Sự phát triển gần đây trong thế kỷ XXI là sự nổi lên của hip hop châu Phi, cụ thể là dạng ở Sénégal là pha trộn với mbalax truyền thống. Gần đây ở Nam Phi, một dạng âm nhạc liên quan tới nhạc house (thể loại nhạc sử dụng các thiết bị âm nhạc điện tử - là sự phối trộn của disco và pop, tên gọi có từ câu lạc bộ Warehouse ở Mỹ) được biết dưới tên gọi kwaito đã được phát triển, mặc dù nước này là quê hương của các dạng nhạc jazz Nam Phi, trong khi âm nhạc của người Afrikaan là hoàn toàn khác biệt và chủ yếu là âm nhạc Boere truyền thống và các dạng của âm nhạc dân tộc hay Rock.
Người Phi châu theo nhiều loại tôn giáo, với Kitô giáo và Hồi giáo là phổ biến nhất. Khoảng 40% dân số châu Phi là người theo Kitô giáo và 40% theo Hồi giáo. Khoảng 20% còn lại chủ yếu theo các tôn giáo châu Phi bản địa. Một lượng nhỏ người Phi cũng theo các tín ngưỡng của Do Thái giáo, chẳng hạn như các bộ lạc Beta Israel và Lemba.
Các tôn giáo châu Phi bản địa có xu hướng tiến hóa quanh thuyết vật linh và tục thờ cúng tổ tiên. Tư tưởng chung của các hệ thống tín ngưỡng truyền thống là sự phân chia thế giới tâm linh thành "có ích" và "có hại". Thế giới tâm linh có ích thông thường được cho là bao gồm linh hồn tổ tiên giúp đỡ cho con cháu của họ hay các thần linh có sức mạnh để bảo vệ toàn bộ cộng đồng tránh khỏi các thảm họa tự nhiên hoặc sự tấn công của kẻ thù; trong khi đó thế giới tâm linh có hại bao gồm linh hồn của các nạn nhân bị sát hại - là những người được chôn cất mà không có các nghi thức mai táng đúng cách và các loại ma quỷ mà các ông đồng, bà cốt sử dụng để tạo ra bệnh tật cho kẻ thù của họ. Trong khi tác động của các dạng nghi lễ thờ cúng nguyên thủy này vẫn còn tiếp diễn và có ảnh hưởng sâu sắc thì các hệ thống tín ngưỡng đó cũng tiến hóa nhờ sự tiếp xúc với các loại tôn giáo khác.
Sự hình thành của vương quốc cổ đại ở Ai Cập trong thiên niên kỷ 3 TCN đã đánh dấu tổ hợp tín ngưỡng tôn giáo đầu tiên được biết trên châu lục này. Vào khoảng thế kỷ IX TCN, Carthage (ngày nay là Tunisia) đã được người Phoenicia thành lập, và trở thành trung tâm vũ trụ lớn của thế giới cổ đại, trong đó các thần thánh từ Ai Cập, La Mã cổ đại và nhà nước-thành phố Etruscan đã được thờ cúng.
Nhà thờ của Chính thống giáo Ethiopia có niên biểu chính thức từ thế kỷ IV, và vì thế là một trong các nhà thờ đầu tiên của Kitô giáo đã được xây dựng ở một nơi nào đó. Ở giai đoạn đầu thì tính chất chính thống của Kitô giáo đã có ảnh hưởng tới các vùng là Sudan ngày nay và các khu vực lân cận khác; tuy nhiên sau sự phổ biến của Hồi giáo thì sự phát triển của Kitô giáo đã bị chậm lại và bị hạn chế chỉ ở những vùng cao nguyên.
Hồi giáo vào châu Phi khi người theo đạo này xâm chiếm Bắc Phi vào khoảng giữa các năm từ 640 tới 710, bắt đầu từ Ai Cập. Họ đã thành lập ra Mogadishu, Melinde, Mombasa, Kilwa và Sofala, tiếp theo là việc buôn bán theo đường biển dọc theo bờ biển Đông Phi và phổ biến xuyên qua sa mạc Sahara tới phần châu Phi nội địa - theo con đường thương mại của người Hồi giáo. Người Hồi giáo cũng là những người châu Á sau đó định cư ở các vùng châu Phi là thuộc địa của Anh.
Các quốc gia độc lập.
Đông Bắc Phi (sừng châu Phi)
Các quốc gia châu Phi quần đảo
Các nguồn nghiên cứu châu Phi
Ảnh và thông tin
|
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đường Trường Sơn hay đường mòn Hồ Chí Minh () là một tuyến Hậu cần chiến lược bao gồm mạng lưới giao thông quân sự, chạy từ lãnh thổ miền Bắc Việt Nam vào tới lãnh thổ miền Nam Việt Nam, phía đông Trường Sơn đi qua miền Trung Việt Nam và phía tây Trường Sơn, có đoạn đi qua hạ Lào, Campuchia. Đây là tuyến hậu cần chiến lược trọng yếu cung cấp binh lực và vật chất hậu cần, vũ khí trang bị để chi viện cho Quân Giải phóng miền Nam trên chiến trường miền Nam Việt Nam, liên tục trong suốt 16 năm (1959–1975) của thời kỳ Chiến tranh Việt Nam.
Binh đoàn Trường Sơn (đoàn 559) Quân đội nhân dân Việt Nam là đơn vị trực tiếp triển khai các đơn vị hậu cần đảm bảo giao liên chuyển quân, đảm bảo y tế, vận tải, xăng dầu, công binh, bộ binh và phòng không, tạo thành một tuyến hậu cần chiến lược để đảm bảo hoạt động cho cả hệ thống giao thông hoả tuyến này luôn được thông suốt. Tuyến đường Trường Sơn còn được những người lính trong cuộc chiến gọi là "Tuyến lửa".
Ở Việt Nam, hệ thống đường này đặt tên là Đường Trường Sơn, lấy tên của dãy Trường Sơn – dãy núi chạy dọc miền Trung Việt Nam, nơi hệ thống này đi qua (trên bản đồ là QL15). Sau này, nó còn có thêm tên gọi Đường mòn Hồ Chí Minh "(Ho Chi Minh trail)", tên gọi này có nguồn gốc từ Mỹ .
Trong chiến tranh Việt Nam, lực lượng quân sự Mỹ và quân đội Sài Gòn đã tập trung đánh phá hệ thống giao thông này bằng hàng loạt các chiến dịch bộ binh và không quân. Hàng triệu tấn bom đạn đã được Mỹ ném xuống. Một hệ thống máy móc trinh sát điện tử, được gọi là Hàng rào Điện tử McNamara, đã được tăng cường sử dụng để nhằm trinh sát việc vận chuyển và chỉ điểm hướng dẫn máy bay ném bom. Ngoài ra, quân đội Mỹ còn thường xuyên sử dụng chất độc màu da cam cùng một số loại chất độc diệt cỏ khác đã được rải xuống nhiều vùng rừng trên đường Trường Sơn làm trụi lá cây, các dự án tạo mưa và các chất hóa học tạo bùn cũng được Mỹ sử dụng để cản trở giao thông trên tuyến. Bất chấp tất cả những biện pháp tinh vi và đắt đỏ đó, đường Trường Sơn vẫn không bị cắt đứt mà ngày càng trở nên tinh vi và hoàn thiện hơn. Theo "Spartans in Darkness: American SIGINT and the Indochina War, 1945-1975", một văn bản lịch sử chính thức của Cơ quan An ninh Quốc gia Hoa Kỳ ("National Security Agency"), đường Trường Sơn được quân đội Hoa Kỳ coi là "một trong những thành tựu kiến trúc quân sự vĩ đại nhất của thế kỷ 20".
Ngày nay, tuyến tây Trường Sơn (địa phận Lào) nhiều nơi đã thành vùng bỏ hoang, một vài điểm được xây dựng trở thành di tích lịch sử.
Trong giai đoạn kháng chiến Chống Pháp, tiền thân của tuyến đường mòn Hồ Chí Minh sau này gồm bốn tuyến đường chính là:
Tuyến 1: Đường thượng (Tây Trường Sơn): Từ Chu Lễ (Hà Tĩnh) đi bộ vào ga Tân Ấp (Quảng Bình) rồi xuyên tây Quảng Bình vào Khe Sanh qua Quốc lộ 9A đến Ba Lòng là chiến khu của Quảng Trị.
Tuyến 2: Đường Đông Trường Sơn: cũng từ Chu Lễ nhưng có một đoạn đi xe goòng (toa xe lửa nhỏ, đặt trên ray vừa kéo vừa đẩy) vào tới Minh Cầm (nay là Minh Hóa, Quảng Bình) rồi đến vùng đông Quảng Trị, ngược lên Ba Lòng.
Tuyến 3: Từ chiến khu Ba Lòng vào khu 5, đi xuyên lên A Lưới, vào bến Hiên (nay là Đông Giang, Quảng Nam) rồi đi tiếp vào Bình Định.
Tuyến 4: Từ khu V vào Nam Bộ: Từ dốc Chanh (Phú Yên) đi đến hòn Dữ (Khánh Hòa) xuyên qua núi Ba Cụm, đến trạm Mã Đà và sau đó đến trạm Đội Lào (Tà Lu, huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam)
Một số phần của Đường Trường Sơn vốn đã tồn tại từ hàng thế kỷ dưới hình thức các con đường mòn sơ khai dành cho việc giao thông buôn bán trong vùng. Khu vực mà hệ thống đi qua đã là một trong những vùng đất có địa hình hiểm trở nhất Đông Nam Á: núi cao, ít dân, rừng rậm nhiệt đới. Trong những năm đầu của Chiến tranh Đông Dương, Việt Minh đã sử dụng hệ thống đường mòn này làm đường nối liền Bắc Nam, một trong các tuyến đường đưa cán bộ di chuyển giữa hai miền để tránh sự truy quét của quân Pháp. Tháng 5 năm 1958, các lực lượng thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) và Pathet Lào đã chiếm giữ các nút giao thông tại Sê Pôn ("Tchepone"), trên đường 9 thuộc địa phận Lào.
Sau khi chế độ Việt Nam Cộng hòa ra đời dưới sự hậu thuẫn của Mỹ, đã phủ nhận tổng tuyển cử toàn quốc theo Hiệp định Genève về Việt Nam năm 1954, đưa đến việc chia cắt Việt Nam. Để tiếp tục chi viện cho quân Giải phóng miền Nam, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã quyết định xây dựng những tuyến đường chiến lược chi viện cho miền Nam. Trên cơ sở đó đã có 2 tuyến đường được xem xét là tuyến đường bộ dọc theo dãy Trường Sơn và tuyến đường biển trên biển Đông.
Năm 1959, khi xung đột quân sự lên cao giữa Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và chính phủ Ngô Đình Diệm, chính phủ Hà Nội gửi Đoàn 559 (mới được thành lập vào tháng 5 năm 1959) vào Nam để xây dựng hệ thống đường Trường Sơn với lực lượng gồm một tiểu đoàn giao liên D301 với 440 người. Đoàn trưởng là Thượng tá (sau này là Thiếu tướng) Võ Bẩm (nguyên Cục phó Cục Nông binh thuộc Tổng cục Hậu cần). Đoàn có nhiệm vụ vừa vận chuyển vừa mở đường hành quân. Với phương châm "đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng" để đảm bảo bí mật tối đa, toàn bộ vũ khí và hàng mang theo đều là các loại cũ từ thời Pháp, thậm chí đoàn còn dùng ván gỗ để khi đi không để lại dấu vết trên đất rừng.
Trong những năm đầu của cuộc xung đột (1960-1964), đường Trường Sơn chủ yếu được dùng để chuyển quân, do hệ thống hạ tầng đường sá trên tuyến còn hạn chế, chưa phát huy được phương tiện cơ giới, nên khi đó việc vận chuyển tiếp viện hậu cần, súng đạn vào Nam chủ yếu là thông qua tuyến đường chi viện trên biển bằng những "con tàu không số" đã thực sự có hiệu quả cao hơn.
Tuyến đường mòn phiá Đông Trường sơn có địa hình hiểm trở dốc cao phức tạp, nên từ năm 1961, đoàn 559 tiến hành khảo sát và mở tuyến giao thông của mình sang sườn Tây của dãy Trường Sơn. Một năm sau, đoàn 559 được bổ sung quân số thêm 6.000 người, biên chế thành hai trung đoàn 70 và 71. Con số này không bao gồm các lực lượng chiến đấu với nhiệm vụ bảo vệ tuyến đường và lực lượng dân công Việt, Lào. Sau các cố gắng của hải quân Mỹ nhằm ngăn chặn hoạt động của miền Bắc trên vùng biển ven bờ bởi Chiến dịch Market Time, hoạt động đường Hồ Chí Minh trên biển bị chững lại một thời gian, thì lúc này đường Trường Sơn đã được hoàn chỉnh hơn, đủ năng lực thực hiện cả hai nhiệm vụ: vừa chuyển quân vừa chuyển Vật chất hậu cần từ miền Bắc vào Nam, đồng thời còn tổ chức được hệ thống kho tàng dọc theo biên giới mà sau được gọi là các "Khu căn cứ" (Base Area), nơi này đến lượt nó lại trở thành các thánh địa cho các lực lượng Quân giải phóng miền Nam dưỡng quân và tái trang bị sau khi thực hiện các hoạt động quân sự bên trong lãnh thổ do đối phương kiểm soát.
Có 5 khu căn cứ lớn trong vùng cán xoong của Lào (xem bản đồ). Căn cứ 604 là trung tâm hậu cần chính; từ đó, quân và quân nhu được điều phối vào Vùng 1 chiến thuật của Việt Nam Cộng hòa và các căn cứ khác xa hơn ở phía Nam. Căn cứ 611 hỗ trợ vận tải từ căn cứ 604 tới căn cứ 609; cung cấp xăng dầu và đạn dược cho căn cứ 607 và tới tận thung lũng A Sầu ở Thừa Thiên. Căn cứ 612 được dành để hỗ trợ Mặt trận B3 tại Tây Nguyên. Căn cứ 614 nằm giữa Chavane (Lào) và Khâm Đức (Nam Việt Nam) vận chuyển quân và hàng hóa vào Vùng 2 chiến thuật và Mặt trận B3. Căn cứ 609 giữ vai trò quan trọng, do mạng lưới đường ở đây có thể dùng để vận chuyển vật chất hậu cần trong mùa mưa. Ban đầu, hàng hóa được vận chuyển bằng xe đạp thồ, xe bò. Đến tháng 12 năm 1961, Đoàn vận tải số 3 của Tổng cục Hậu cần đã trở thành đơn vị vận tải sử dụng xe cơ giới đầu tiên của QĐNDVN phục vụ trên đường Trường Sơn. Từ đây, vận tải cơ giới tăng lên nhanh chóng.
Có hai loại đơn vị thuộc Đoàn 559 là: các binh trạm và các đơn vị giao liên. Một binh trạm tương đương với một trung tâm hậu cần cấp trung đoàn, có trách nhiệm bảo vệ một đoạn đường. Trong khi các đơn vị độc lập chịu trách nhiệm đảm bảo an ninh, công binh và các chức năng đánh tín hiệu thông tin, binh trạm cung cấp các nhu yếu phẩm, dịch vụ hậu cần. Giữa các binh trạm là các trạm giao liên thường đóng cách nhau một ngày đường đi bộ, có trách nhiệm cung cấp lương thực, chỗ trú, y tế, và dẫn đường tới binh trạm tiếp theo.
Đến tháng 4 năm 1965, chỉ huy Đoàn 559 là Tướng Phan Trọng Tuệ, quân số đã tăng lên tới 24.000 người, được biên chế trong 6 tiểu đoàn vận tải bằng xe ô tô tải, 2 tiểu đoàn vận tải xe đạp thồ, một tiểu đoàn vận tải đường thủy, 8 tiểu đoàn công binh, và 45 trạm giao liên. Khẩu hiệu của Đoàn 559 khi đó là ""Đánh địch mà tiến, mở đường mà đi
Từ năm 1961 - 1964, đoàn 559 đã xây dựng 751 km đường vận tải ô tô, 600 km đường gùi thồ, 300 km đường sông; vận chuyển 10.136 tấn hàng (trong đó giao cho chiến trường 2.912 tấn, chủ yếu là vũ khí đạn dược). Từ tháng 9/1962 - 2/1965, Đoàn 759 chuyển vào chiến trường 4.919 tấn vũ khí đạn dược. Trong đó, giao cho Hậu cần Miền (ở bến Lộc An, Bà Rịa) 170 tấn, kịp thời bổ sung cho trận Bình Giã. Từ 1962 - 1965, Đoàn K10 tiếp nhận hàng hóa từ Thạnh Phú, Bến Tre đưa lên, vận chuyển bảo đảm cho chiến dịch Bình Giã 1.000 tấn; cấp cho T4 chuyển vào nội thành Sài Gòn 200 tấn; dự trữ tại Rừng Sác 100 tấn. Từ 1961-1965, B2 được Miền Bắc chi viện 4.092 tấn vật chất, chủ yếu vũ khí đạn và trang bị kỹ thuật (chiếm 13,3% tổng số vật chất có tại B2) và 449 triệu đồng (tiền miền nam), 33 triệu Riel (tiền Campuchia)
Cho đến mùa khô 1964-1965, hệ thống đường Tây Trường Sơn được phát triển thành một mạng lưới của các con đường đất (một số đoạn được rải đá hoặc lót ván gỗ) rộng khoảng 5,5 m, đường cho người đi bộ và xe đạp thồ, bãi đỗ xe tải. Còn có kho chứa, bãi chứa hàng, doanh trại, bệnh viện, và các cơ sở vật chất khác. Tất cả được che giấu khỏi quan sát từ trên không bằng một hệ thống ngụy trang tự nhiên và nhân tạo được mở rộng và củng cố, góp phần tăng năng lực thông xe đáng kể cho toàn tuyến.
Thời tiết ở vùng Đông Nam Lào đóng vai trò quan trọng cả trong nỗ lực hậu cần và cả trong cố gắng của quân đội Mỹ và Việt Nam Cộng hòa nhằm phá đường. Mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 9, trong thời gian này, trời luôn nhiều mây, mưa nhiều, nhiệt độ cao. Mùa khô kéo dài từ tháng 10 đến tháng 3, khí hậu tương đối khô hơn và nhiệt độ thấp hơn. Do mạng lưới đường chủ yếu là đường đất, khối lượng vận chuyển chủ yếu (và các hoạt động quân sự mà nó hỗ trợ) được thực hiện vào mùa khô. Về sau, hệ thống đường được bổ sung bởi vận tải đường sông, kiểu vận tải này cho phép chuyển các khối lượng lớn quân nhu ngay cả trong mùa mưa.
Ngăn chặn và mở rộng (1965-1968).
Đầu năm 1965, Thiếu tướng Phan Trọng Tuệ được cử làm Tư lệnh kiêm Chính ủy Đoàn 559. Cuối năm 1965, Đại tá Hoàng Văn Thái (nguyên Phó chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần) được cử làm Tư lệnh và Đại tá Trần Ngọc Giao (Cục trưởng Cục Vận tải, Tổng cục Hậu cần) được cử kiêm nhiệm Phó Tư lệnh. Đại tá Vũ Xuân Chiêm (nguyên Phó chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần) được cử làm Chính ủy Đoàn 559. Đến cuối năm 1966, Đại tá Đồng Sĩ Nguyên (nguyên Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần) được cử làm Tư lệnh Đoàn 559 cho đến khi Đoàn 559 kết thúc nhiệm vụ lịch sử của mình (1976).
Theo ước lượng của tình báo Mỹ, số quân vào Nam theo đường Trường Sơn là trong năm 1961 là 5.843, năm 1962 là 12.675 (con số thực là 5.300); năm 1963 là 7.693 (thực là 4.700); và năm 1964 là 12.424 (thực là 9.000). Năm 1964, khả năng cung ứng của đường Trường Sơn đã đạt đến từ 20 đến 30 tấn mỗi ngày. Năm 1965, nhờ có các tuyến đường mới mở (trong đó có các tuyến đi qua Campuchia), lượng vật chất hậu cần được chuyển vào Nam trong năm này gần bằng tổng của 5 năm trước.
Đến năm 1965, việc đánh phá ngăn chặn tuyến đường Trường Sơn đã trở thành một trong những ưu tiên hàng đầu của Mỹ, nhưng các chiến dịch chống phá gặp khó khăn do thiếu lực lượng và bởi tính "trung lập" của Lào. Các vấn đề phức tạp của chính trị Lào cùng với sự can thiệp của Mỹ và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã dẫn tới một chính sách chung là hai bên cùng lờ nhau, và tiếp tục vi phạm tính trung lập của Lào: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa củng cố và mở rộng hệ thống hậu cần trên đất Lào và hỗ trợ lực lượng đồng minh Pathet Lào; còn Mỹ thì không ngừng ném bom đường Trường Sơn đồng thời bí mật xây dựng một lực lượng vũ trang chống lại hoạt động của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Tuy nhiên quân đội Mỹ được lệnh không ra khỏi biên giới Việt Nam Cộng hòa vì Tổng thống Mỹ không muốn mở rộng chiến tranh.
Ngày 14 tháng 12 năm 1964, Không lực Mỹ thực hiện Chiến dịch Barrel Roll lần đầu ném bom một cách có hệ thống phần đường trên đất Lào. Ngày 20 tháng 3 năm 1965, sau khi Chiến dịch Sấm Rền đánh phá miền Bắc và Bắc Trung Bộ mở màn, Tổng thống Mỹ Lyndon B. Johnson đã chấp thuận một cuộc leo thang quân sự nhằm phá đường Trường Sơn. Chiến dịch Barrel Roll tiếp diễn ở vùng Đông Bắc Lào, trong khi vùng cán xoong phía nam bị ném bom bởi Chiến dịch Steel Tiger. Đến giữa năm, số phi vụ đã tăng từ 20 lên 1.000 lượt mỗi tháng. Trong tháng 1 năm 1965, chỉ huy Mỹ tại Sài Gòn yêu cầu kiểm soát các chiến dịch ném bom tại các vùng Lào giáp ranh với 5 tỉnh phía Bắc Việt Nam Cộng hòa. Đến đây, vùng này thuộc về địa bàn của Chiến dịch Tiger Hound.
Mùa mưa hàng năm làm ảnh hưởng tới các hoạt động vận tải của đường Trường Sơn và cũng gây khó khăn cho các chiến dịch ném bom. Ngoài ra, sương mù buổi sớm và khói do tập tục đốt rẫy của dân cư thiểu số cũng cản trở việc ném bom. Trong năm 1968, Không quân Mỹ thực hiện hai thí nghiệm với hy vọng làm trầm trọng hơn nữa kiểu thời tiết xấu của mùa mưa. Dự án Popeye là một cố gắng nhằm kéo dài vô hạn mùa mưa trên đường Trường Sơn bằng cách tạo mây. Dự án bắt đầu thử nghiệm vào tháng 9 trên vùng lưu vực sông Se Kong - con sông chảy qua địa bàn của các chiến dịch Steel Tiger và Tiger Hound. Mây được tạo trong không trung bằng các đám khói Bạc iodide và sau đó được kích hoạt bằng một mồi nổ bắn ra từ súng bắn pháo sáng. Dự án thử nghiệm thành công và chương trình đã được thực hiện cho đến tháng 7 năm 1972.
Dự án Commando Lava được bắt đầu thử nghiệm vào tháng 5. Các nhà khoa học ở công ty Dow Chemical đã chế tạo một dung dịch hóa học mà khi trộn với nước mưa sẽ phá hủy tính ổn định của các thành phần của đất và tạo ra bùn. Những thành viên quân sự và dân sự của chương trình này đã rất hứng thú, họ cho rằng họ đang "tạo bùn chứ không gây chiến." Tuy nhiên, thử nghiệm không cho kết quả tốt, chất này chỉ có tác dụng ở một số vùng, tùy theo thành phần của đất.
Trên mặt đất, ban đầu, CIA và Quân đội Hoàng gia Lào có trách nhiệm ngăn chặn, làm chậm, hoặc ít nhất là theo dõi hoạt động của Quân đội nhân dân Việt Nam. Về sau, nhiệm vụ này do các đội thám báo Lào do CIA xây dựng thực hiện. Đến tháng 10 năm 1965, Tướng William Westmoreland, chỉ huy quân đội Mỹ ở Nam Việt Nam, nhận được thẩm quyền tung lực lượng biệt kích Mỹ vượt qua biên giới. Ngày 18 tháng 11, lực lượng bí mật SOG ("Military Assistance Command, Vietnam Studies and Observations Group") thực hiện đặc vụ "vượt hàng rào" đầu tiên vào đất Lào. Đây là khởi đầu của một nỗ lực thám báo không ngừng mở rộng của SOG cho đến khi tổ chức này được giải thể vào năm 1972. Ngày 10 tháng 12, một vũ khí khác của Mỹ đã được đưa vào sử dụng, đó là trận ném bom đầu tiên của pháo đài bay B-52 xuống đường Trường Sơn.
Tuy nhiên, các cố gắng trên không chặn hoặc giảm được nhịp độ vận chuyển vào Nam. Mặc dù vậy, các nhà sử học Mỹ vẫn đánh giá các chiến dịch đánh phá này không vô ích, do 10 ngàn quân của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã bị giữ lại để bảo vệ và duy trì đường Trường Sơn thay vì vào Nam chiến đấu.
Năm 1966, Mỹ ước tính tổng số quân vào Nam qua đường Trường Sơn là từ 58.000 đến 90.000 người, trong đó có ít nhất 5 trung đoàn hoàn chỉnh. Mùa khô năm 1966-1967 đánh dấu bước chuyển lớn về chiến thuật vận tải của đoàn 559 từ "phòng tránh tích cực" sang "tiến công" hợp đồng binh chủng. Các sở chỉ huy được chuyển ra gần đường, các lực lượng phòng không, công binh đóng sát đường để hỗ trợ kịp thời và hiệu quả hơn cho lực lượng vận tải chủ công. Nhiều tuyến đường phụ, đường vòng được mở thêm để đảm bảo thông đường cho xe chạy. Đến cuối năm 1967, mạng lưới đường đã lên 2.959 km đường ô tô, trong đó có 275 km đường chính, 576 km đường vòng, và 450 đường vào cùng các kho chứa.
Bộ đội Trường Sơn còn sử dụng sông Se Kong và sông Se Bangfai để chở lương thực, nhiên liệu, và đạn dược bằng cách cho hàng vào các thùng thép và thả trôi sông, các thùng này được thu lại ở đầu kia bởi các hệ thống lưới và rào gỗ. Người Mỹ đã không biết rằng trong năm 1967, để chuẩn bị cho cuộc tổng tấn công Mậu Thân 1968, hơn 81.000 tấn hàng đã được vận chuyển và cất giữ , 200.000 quân, trong đó có 7 trung đoàn bộ binh và 20 tiểu đoàn độc lập đã vào Nam.
Vật chất hậu cần được vận chuyển theo đoàn được hộ tống từ miền Bắc theo từng chặng, xe tải chỉ chạy đi về giữa hai trạm, dỡ hàng và lấy hàng mới tại mỗi trạm. Nếu một xe tải bị hỏng hoặc bị bom phá, nó sẽ được thay bằng một xe của trạm gần nhất phía Bắc, và cứ như vậy cho đến khi một xe tải mới được đưa vào tại trạm cuối ở miền Bắc. Cuối cùng, khi hàng tới trạm giao liên cuối cùng ở phía Nam, hàng được bốc dỡ, cất vào kho, đưa lên các phương tiện vận tải thủy, hoặc do người vác vào miền Nam Việt Nam.
Để tránh bom, các đơn vị vận tải thường chỉ chạy khi trời tối, cao điểm là lúc gần sáng. Khi máy bay Mỹ tới, giao thông sẽ dừng lại cho đến khi trời gần sáng, khi các máy bay ném bom và bắn phá ban đêm trở về căn cứ. Rồi xe lại chạy, cao điểm tiếp theo là khoảng 6 giờ sáng khi các lái xe cố gắng đưa xe về điểm tập kết trước khi mặt trời mọc và các đợt máy bay buổi sáng bắt đầu.
Từ năm 1965-1968, Đoàn 559 đã vận chuyển chi viện cho chiến trường 121.139 tấn vật chất, trong đó chi viện cho miền Nam 27.548 tấn, chiến trường Nam Lào 12.935 tấn và bảo đảm cho các lực lượng hành quân trên các tuyến 15.862 tấn; đưa 594.858 lượt người hành quân vào chiến trường, trong đó có 45 đơn vị kỹ thuật với 566 xe cơ giới, 380 khẩu pháo, vận chuyển 35.421 lượt thương bệnh binh
Năm 1970, Bộ tư lệnh 559 được nâng lên cấp quân đoàn. Chỉ huy thời kỳ này là Đại tá Đồng Sĩ Nguyên - Tư lệnh và Đại tá Vũ Xuân Chiêm – Chính ủy. Năm 1971, Đại tá Đặng Tính được cử làm Chính ủy (Chính ủy Đặng Tính gặp tai nạn và mất trên đường đi công tác năm 1973). Binh đoàn được tổ chức lại thành 5 bộ tư lệnh khu vực ngang cấp sư đoàn là: 470, 471, 472, 473, và 571. Lực lượng binh đoàn bao gồm 4 trung đoàn vận tải, 2 trung đoàn đường ống dẫn dầu, 3 trung đoàn pháo phòng không, 8 trung đoàn công binh, và Sư đoàn 968 Bộ binh. Đến cuối năm, đoàn 559 đã có 27 binh trạm, vận chuyển 40.000 tấn hàng với tỉ lệ mất mát của năm đó là 3.4%..
Từ năm 1960 đến 1970, gần 80% lượng hàng được chuyển bằng đường biển từ Bắc vào Nam qua Đường mòn Hồ Chí Minh trên biển chuyển hàng trực tiếp tới các cảng biển Trung bộ, Nam bộ Việt Nam (đến năm 1965) và quá cảnh qua cảng Sihanoukville ở Campuchia, rồi từ đó đưa vào miền Nam Việt Nam.
Từ sau vụ đảo chính năm 1970 của tướng Lon Nol tại Campuchia, và việc đóng cảng Sihanoukville đối với tàu chi viện của miền Bắc - Đường Trường Sơn phải làm thêm nhiệm vụ của đường Hồ Chí Minh trên biển.
Do dự báo trước khả năng mất đường hậu cần phía Nam nên từ năm 1969, Quân đội nhân dân Việt Nam đã bắt đầu nỗ lực mở rộng hành lang tuyến hậu cần lớn nhất trong cả cuộc chiến. Năm 1970, ta chiếm các thị xã Lào Attopeu và Saravane ở chân cao nguyên Boloven, kéo dài hệ thống vận tải trên sông Se Kong vào Campuchia. Quân đội nhân dân Việt Nam còn thành lập Đoàn Vận tải 470 để quản lý dòng người và hàng đi tới các chiến trường mới trong lãnh thổ Campuchia. "Con đường Giải Phóng" mới này rẽ sang Tây từ đường Trường Sơn tại Mường May ở Nam Lào, đi song song với Se Kong để vào Campuchia.
Cuối cùng, tuyến đường mới này kéo dài qua Siem Prang tới sông Mekong đoạn ở gần Stung Treng, Campuchia. Trong năm 1971 Quân đội nhân dân Việt Nam chiếm Paksong và tiến tới Pakse tại trung tâm cao nguyên Boloven. Năm sau, Quân đội nhân dân Việt Nam chiếm được Khong Sedone. Họ còn tiếp tục một chiến dịch được bắt đầu từ năm 1968 để dọn sườn phía đông của đường Trường Sơn. Trong năm đó, các cứ điểm của các Lực lượng Đặc biệt của Mỹ tại Khe Sanh và Khâm Đức (cả hai đều do SOG sử dụng làm các căn cứ tiền phương cho các hoạt động biệt kích chống phá đường Trường Sơn) đều bị bỏ hoặc đánh bại. Năm 1970, số phận tương tự đã xảy đến cho một căn cứ khác tại Dak Seang. Hành lang tuyến vận chuyển từng rộng chỉ 20 dặm nay đã trải rộng 90 dặm từ Đông sang Tây. Năm 1971, "đường kín" dưới tán rừng bắt đầu được xây đựng. Đến năm 1973, xe tải có thể chạy suốt dọc đường mà không ra khỏi mái ngụy trang, ngoại trừ khi đi qua suối cạn hay vượt suối qua các ngầm (loại đường được xây hoặc kè bằng đá ngay dưới mặt nước).
Từ năm 1969-1972, tuyến Đường 559 đã vận chuyển chi viện cho các chiến trường 277.611 tấn hàng (miền Nam 162.710 tấn, chiến trường Lào 114.901 tấn), bảo đảm cho 692.690 lượt người hành quân vào miền Nam và 256.871 người hành quân ra miền Bắc; thời gian hành quân vào B2 rút ngắn được 10-15 ngày, góp phần quan trọng để bảo đảm cho các chiến dịch lớn
Chiến dịch Commando Hunt và Igloo White.
Đến năm 1968, hệ thống đường giao thông, tuyến hậu cần từ miền Bắc đã mở rộng và hiện đại hóa. Ngoài ra, khoảng 43.000 người Việt và Lào đã tham gia điều khiển, nâng cấp, hoặc mở rộng hệ thống đường. Lượng bom ném xuống Trường Sơn đạt đỉnh năm 1969, với khoảng 433.000 tấn ném xuống Lào. Đây là thời điểm kết thúc của chiến dịch Rolling Thunder và mở đầu của chiến dịch Commando Hunt (tháng 11 năm 1968).
Việc nỗ lực ném bom liên tục này được chỉ dẫn bởi chiến dịch Igloo White hoạt động tại Nakhon Phanom, Thái Lan. Chiến dịch này gồm ba phần: các thiết bị cảm ứng địa chấn và âm thanh thu thập thông tin tình báo trên đường Trường Sơn (hàng rào điện tử MacNamara), các máy tính tại Trung tâm Giám sát Thâm nhập ("Infiltration Surveillance Center" – ICS) đặt tại Thái Lan thu thập thông tin và ước tính các đường vận tải và tốc độ xe; các kíp máy bay được ISC chỉ dẫn để đánh phá các mục tiêu. Nỗ lực này còn được hỗ trợ bởi các nhóm biệt kích SOG. Ngoài các nhiệm vụ do thám, đặt máy nghe trộm, và đánh giá thiệt hại do bom, các nhóm này còn tự tay lắp đặt các thiết bị cảm ứng cho chiến dịch Igloo White.
Đến giai đoạn cuối của chiến dịch Commando Hunt (tháng 10 năm 1970 – tháng 4 năm 1972) số phi vụ máy bay bắn phá mỗi ngày là 182 máy bay tiêm kích, 13 máy bay chiến đấu ("fixed wing gunship") và 21 B-52.
Không quân Mỹ tuyên bố chỉ riêng trong 7 chiến dịch Commando Hunt từ tháng 11/1968 đến tháng 3/1972, 46.000 xe tải đã bị phá hủy hay đánh hỏng trên đường Trường Sơn, và tỉ lệ đến đích của xe tải chỉ là 16%. Tuy nhiên, đến những năm 1990, các sử gia Mỹ đã bác bỏ số liệu này khi biết rằng trong giai đoạn đó, phía Việt Nam chỉ nhập về trung bình khoảng 6.000 xe tải/ năm. Sử gia Earl Tilford kể lại đã từng có báo cáo về "300 xe tải bị phá hủy hay đánh hỏng chỉ trong 1 đêm", khiến tướng Mỹ rất hài lòng, nhưng đêm sau thì đường lại tấp nập như cũ. Theo ông: "Không quân Mỹ đã thành công trong việc đánh lừa chính mình rằng chiến dịch Commando Hunt có tác dụng." Chuyên gia không quân John Corell thì cho rằng các phi công Mỹ đã báo cáo phóng đại thành tích ít nhất là 4 lần.
Quân đội nhân dân Việt Nam đáp trả máy bay Mỹ bằng lực lượng pháo phòng không ngày càng mạnh. Năm 1968, lực lượng này chỉ gồm các pháo phòng không cỡ 37-mm và 57-mm điều khiển thủ công. Năm sau đã xuất hiện súng pháo 85-mm và 100-mm do radar điều khiển. Đến năm 1972, Mỹ ước tính đường Trường Sơn đã được bảo vệ bởi hơn 1.500 khẩu pháo phòng không.
Ngày 20/7/1971, Sư đoàn Phòng không 377 được Bộ Quốc phòng điều động trực thuộc Bộ tư lệnh Trường Sơn. Bộ cũng bổ sung cho Bộ tư lệnh Trường Sơn thêm 728 khẩu pháo phòng không các loại, 20.000 bộ đội và 15.000 thanh niên xung phong. Chưa bao giờ lực lượng phòng không của Trường Sơn lại hùng hậu như thời kỳ này: Sư đoàn 377 (có 6 trung đoàn) và 12 Trung đoàn cao xạ và tên lửa độc lập. Đó là chưa kể 28 tiểu đoàn pháo cao xạ của 25 Binh trạm Trường Sơn.
Trong các loại vũ khí bắn phá Trường Sơn, máy bay chiến đấu AC-130 Spectre với kính ngắm hồng ngoại và súng 40 mm được phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đánh giá là hiệu quả nhất, kiểm soát và hạn chế phần nào hoạt động vận tải về đêm, phá hủy 2.432 xe tải trong tổng số 4.000 xe bị bom phá trong mùa khô 1970-71.
Để đối phó với máy bay AC-130, tháng 2 năm 1972, một tuyến "đường kín" dài 800 km hoàn thành và bắt đầu đưa vào sử dụng. Trên tuyến này, xe chạy dưới tán rừng già, chạy hoàn toàn vào ban ngày để tránh bị máy bay phát hiện. Xe chạy theo đội hình trung đoàn liền trên toàn tuyến chứ không chạy theo chặng nên thời gian giảm được từ 10 đến 15 ngày. Ban đêm, các đội xe vẫn tiếp tục chở hàng trên "đường hở", kết hợp với việc nghi binh bởi các xe hỏng chạy thật để bẫy AC-130 cho lực lượng phòng không tấn công.
Ngày 29 tháng 3 năm 1972, máy bay AC-130 đã bị bắn rơi trong một phi vụ ban đêm bởi tên lửa đất đối không SAM-2 ở gần Sê Pôn., 14 phi công Mỹ thiệt mạng. Hai ngày sau, một chiếc AC-130 lại bị quật ngã bởi pháo phòng không 57mm và rơi xuống rừng Trường Sơn, 15 thành viên phi hành đoàn nhảy dù và được giải cứu sau đó. Không quân Mỹ bị mất liên tiếp hai chiếc máy bay đắt đỏ và 14 phi công chỉ trong 2 ngày. Ngày 18/6/1972, bộ đội Việt Nam sử dụng tên lửa vác vai Strela 2 bắn rơi một chiếc AC-130. Sau các vụ này, AC-130 phải lui về hoạt động ở phía Nam đường 9. Tuyến "đường kín" này đã đem lại hai kết quả quan trọng:
Sau 2 năm, chiến dịch Igloo White nói riêng và "Chương trình ngăn chặn mới" nói chung đã không thể thu được kết quả như mong muốn. Đến năm 1970, các thông tin của cơ quan tình báo chiến trường Mỹ đã khiến người ta phải sửng sốt. Theo đó, từ năm 1969 cho đến năm 1970, mức thâm nhập qua Trường Sơn lên tới 348 đoàn, trong đó có 46 tiểu đoàn trang bị mạnh, 24.530 tấn vũ khí, có 335 chuyến bay các loại bí mật thả vũ khí xuống các hành lang ở Lào. John McConnell, Tham mưu trưởng Không quân Mỹ thừa nhận:
Sau khi Hàng rào McNamara bị chọc thủng, đến lượt kế hoạch "Igloo White" bị phá sản. Từ sau năm 1970, kỹ thuật quân sự Mỹ bế tắc, không tìm ra lời giải mới nào khả quan trong việc cắt đứt đường Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, kế hoạch này vẫn tiếp tục được kéo dài cho đến năm 1973, khi Hiệp định Paris được ký kết.
Chiến dịch Lam Sơn 719.
Đầu tháng 2 năm 1971, 30.000 quân Việt Nam Cộng hòa, 4.000 quân Hoàng gia Lào, được sự yểm trợ của 10.000 lính Mỹ và không quân Mỹ, đã vượt biên giới Lào, tiến theo Đường 9 về phía trung tâm hậu cần của Quân đội nhân dân Việt Nam tại Sê Pôn ("Tchepone"). Chiến dịch Lam Sơn 719, cuộc tấn công được dự tính đã lâu vào hệ thống đường Trường Sơn và cuộc thử nghiệm của chính sách Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ, đã bắt đầu. Quân đội Mỹ (ngoại trừ các đơn vị không quân, pháo binh, trực thăng) theo mệnh lệnh sẽ không tham gia trực tiếp cuộc xâm lược. Đầu tiên, chiến dịch tiến triển tốt, chỉ gặp phải ít kháng cự. Tuy nhiên, Quân đội nhân dân Việt Nam đã chuẩn bị cho trận chiến này từ lâu, họ nhanh chóng điều đến một lực lượng cuối cùng lên đến 60.000 quân, đợi khi thời cơ đến thì phản công cô lập và tiêu diệt từng cánh quân của QLVNCH.
Chiến trận nổ ra tại Nam Lào không giống với bất cứ trận chiến nào trước đó trong Chiến tranh Việt Nam, lần đầu tiên Quân đội nhân dân Việt Nam có sự hiệp đồng binh chủng: bộ binh tấn công với sự hỗ trợ của xe tăng và pháo hạng nặng đè bẹp các vị trí của Quân lực Việt Nam Cộng hòa tại các cánh và đội hình chính. Hỏa lực phòng không phối hợp đã làm cho sự hỗ trợ và vận tải bằng không quân trở nên khó khăn và thiệt hại lớn, 168 trực thăng bị bắn rơi và 618 chiếc khác bị bắn hỏng. Tuy đổ được quân vào một vài điểm cao phía Đông Sê Pôn và đưa được quân trinh sát vào trong thị trấn, nhưng đó là một chiến tích không mấy giá trị, vì Quân lực Việt Nam Cộng hòa sau đó đã phải nhanh chóng rút lui. Quân đội nhân dân Việt Nam khép chặt gọng kìm và chặn đánh trên suốt quá trình rút lui. Tuy được hỗ trợ bởi hỏa lực mạnh của Mỹ, nhưng Quân lực Việt Nam Cộng hòa vẫn chịu thiệt hại nặng nề. Đến ngày 25 tháng 3, chiến sự kết thúc, các đơn vị cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa rút chạy trở về với đối phương đuổi sát phía sau.
Trong suốt thời gian diễn ra Chiến dịch, Đoàn 559 đã thực hiện cơ động lực lượng, gồm bộ binh: 27.935 người; 2 tiểu đoàn xe tăng, 1 trung đoàn công binh, 2 trung đoàn pháo binh, cùng 8.271 tấn vật chất (đạn: 3.329 tấn; lương thực, thực phẩm: 4.196 tấn; xăng dầu: 600 tấn; hàng quân y: 56,6 tấn; hàng khác: 81,4 tấn). Lực lượng vận tải đã cung cấp khối lượng lớn vũ khí, trang bị, gồm: Súng bộ binh 23.312 khẩu; súng cối, pháo, ĐKZ: 770 khẩu; pháo cao xạ và súng máy phòng không: 670 khẩu; xe ô tô (không kể của các binh trạm chiến lược): 603 chiếc; xe xích: 98 chiếc; xe tăng: 88 chiếc. Lực lượng bảo đảm kỹ thuật gồm, trạm sửa chữa xe đơn vị: 11 trạm; trạm sửa chữa vũ khí đơn vị: 26 trạm. Đây là lần đầu tiên hậu cần chiến lược sử dụng phương tiện cơ giới để cơ động lực lượng dự bị chiến lược quy mô lớn vào vị trí tập kết chiến dịch. Tính đến ngày 31/3, số thương binh được chuyển bằng phương tiện cơ giới về hậu phương chiếm 37% tổng số thương binh
Phối hợp chặt chẽ với Đoàn 559, Hậu cần Binh đoàn 70 đảm nhiệm vận chuyển trên hướng chủ yếu của Chiến dịch (hướng Bắc). Binh đoàn 70 gồm 1 đại đội xe ô tô (32 xe) đảm nhiệm vận chuyển đột xuất, vận chuyển nhỏ trên các cung đường không thuộc tuyến chiến lược, cũng đã vận chuyển được 425 tấn hàng các loại. Ngoài ra, còn có 2 sư đoàn vận tải bộ làm nhiệm vụ vận tải từ kho chiến dịch và sư đoàn đến các đại đội, 1.500 dân công làm nhiệm vụ chuyển thương và phục vụ trên các tuyến điều trị. Mặt trận B5 ở hướng Đông, gồm 1 trung đội xe ô tô (18 xe), 5 đại đội vận tải bộ và 2.000 dân công, trong chiến dịch cũng chuyển được hơn 1.000 tấn. Trong tháng 2 và 3/1971, hậu cần chiến dịch đã cung cấp khối lượng lớn vật chất bằng cả 6 tháng cho Chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh (năm 1968)
Chiến dịch này được coi là một thất bại đẫm máu của liên quân Mỹ-Việt Nam Cộng hòa, cả với vai trò thử nghiệm của Việt Nam hóa chiến tranh (bên tấn công chịu thương vong hơn một nửa quân số) và với vai trò phá hệ thống hậu cần của Quân đội nhân dân Việt Nam (trong gần hai tháng diễn ra chiến dịch và tham gia chiến dịch, chẳng những xe vận tải không bị tắc, mà khối lượng hàng chuyển giao các chiến trường tăng gấp hai lần, thời gian đưa hàng đến đích cũng nhanh hơn, chỉ bằng nửa thời gian trước đó).
Tuyến xăng dầu vượt Trường Sơn (1968–1975).
Cuối năm 1968, tình báo Mỹ đã có một phát hiện gây sốc, đó là phát hiện về hệ thống đường ống dẫn xăng dầu chạy ở phía tây nam từ Vinh.
Thực sự đó là một tuyến đường ống dẫn xăng dầu đang được triển khai với điểm đầu là từ biên giới Việt - Trung chạy về hướng nam, sẽ vào đến miền Đông Nam Bộ. Nó được xây dựng bắt nguồn từ ý chí và quyết tâm cao độ của tướng Đinh Đức Thiện, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần và trí thông minh, lòng dũng cảm và sự hy sinh lớn lao của cán bộ chiến sĩ ngành xăng dầu Quân đội nhân dân Việt Nam và đặc biệt là của bộ đội xăng dầu Trường Sơn.
Tuyến đường ống xăng dầu chiến lược Bắc - Nam nhằm chi viện cho chiến trường miền Nam: được xuất phát bắt đầu từ hai trạm thuộc biên giới Việt - Trung là Lạng Sơn và Quảng Ninh, hai tuyến đường ống cùng dẫn về trạm Nhân Vực, thuộc huyện Thường Tín, Hà Nội. Từ đây, được hợp lại thành một đường ống chạy thẳng vào miền Trung qua Hà Nam, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh.
Đến đây tuyến ống được chia làm hai ngả (do bộ đội Trường Sơn đảm nhiệm xây dựng, bảo vệ và vận hành): một ngả theo đường Đông Trường Sơn đi qua Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, qua Tây Nguyên, vượt Kon Tum, xuống Đắc Nông. Ngả thứ hai lại vượt đèo Mụ Giạ, sang Lào vươn tới hạ Lào, rồi vượt qua biên giới Lào và Campuchia để vào tới Đắc Nông. Trên toàn bộ hệ thống (tuyến ống hai nhánh qua Đông và Tây Trường Sơn) có với chiều dài 1.450 km với tổng cộng 316 trạm bơm đẩy, 101 kho với sức chứa trên 300 nghìn m3. Bộ đội xăng dầu đã tập trung một lực lượng gồm: 9 trung đoàn đường ống, 2 trung đoàn công trình, 1 trung đoàn thông tin, 2 nhà máy cơ khí, 3 tiểu đoàn xe vận tải.
Đến đầu năm 1969, hệ thống này đã vượt qua biên giới với Lào, và đến năm 1970 đã vươn tới gần thung lũng A Sầu ở tỉnh Thừa Thiê, đường ống bằng thép đã có thể chuyển dầu diesel, xăng và dầu hỏa qua cùng một ống. Nhờ các nỗ lực của Trung đoàn đường ống 592 Quân đội nhân dân Việt Nam, đến năm 1970, chiều dài đường ống vào Lào đã tăng lên nhanh chóng. Ngày 20/1/1975, đường ống xăng dầu đã được Bộ đội Trường Sơn xây dựng vào tới Bu Prăng (nay thuộc huyện Tuy Đức, tỉnh Đắc Nông).
Đến tháng 3/1975, trước yêu cầu của chiến trường, bộ đội Trường Sơn đã quyết tâm hoàn chỉnh hệ thống đường ống xăng dầu, liên hoàn Đông và Tây Trường Sơn, khẩn trương kéo dài thêm được 596 km đường ống tới tận vùng giải phóng, mà điểm cuối của tuyến ống là Bù Gia Mập, bàn giao cho Cục hậu cần Quân giải phóng tại Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước (miền Đông Nam bộ) thuộc địa bàn chiến trường B2.
Trong suốt 7 năm (1968 - 1975), tuyến ống này được xây dựng vận hành, đã nhập vào tuyến hơn 317.000 tấn xăng dầu, đã cấp được 5,5 triệu m3 xăng dầu, cung ứng một nguồn vật chất hậu cần hết sức thiết yếu cho các chiến trường.
Đường mòn Hồ Chí Minh trên không.
Cuối tháng 2-1960, Đại tướng Võ Nguyên Giáp dùng trực thăng bay vào làm việc với các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, đặc khu Vĩnh Linh, Sư đoàn 325, Lữ đoàn 341. Sau chuyến khảo sát, Đại tướng gợi ý khả năng sử dụng máy bay để tạo các tuyến vận tải phục vụ chiến trường. Dựa trên gợi ý này, Không quân Nhân dân Việt Nam đã thành lập riêng một đoàn vận tải đặc biệt mang tên Đoàn 919, hoạt động từ năm 1960.
Điểm xuất phát của những máy bay Đoàn 919 là sân bay Cát Bi (Hải Phòng), sân bay Vinh, sân bay Đồng Hới và từ đó chuyển hàng vào khu Làng Ho, Vitthulu. Một thời gian sau, khi đã mở con đường Trường Sơn Tây, máy bay của Đoàn 919 bay thẳng sang Hạ Lào. Ban đầu do chưa có sân bay thích hợp nên phải dùng phương pháp thả dù hàng hóa xuống một số địa điểm quy định như Mường Phìn, Mường Phalan… Về sau, do đã có sân bay Tà Khống thuộc tỉnh Xê Pôn, Nam Lào nên các máy bay có thể hạ cánh để đưa hàng và quân tập kết ở đây. Từ sân bay này, bộ đội hành quân vào Nam, hàng hóa thì được vận tải tiếp vào các tuyến phía trong. Trong ba năm từ 1960 – 1962, các máy bay của Đoàn 919 phối hợp với phi công Liên Xô đã thực hiện 3.821 chuyến bay, vận chuyển 9.419 lượt bộ đội và 743 tấn hàng hóa, thả 3.227 dù hàng và kiện hàng.
Tuyến vận tải máy bay sang Lào chỉ tồn tại đến năm 1963 thì dừng do Chính phủ Liên hiệp ba phái ở Lào bị tan vỡ. Từ năm 1965, không quân Mỹ đánh phá miền Bắc nên không thể sử dụng máy bay chở hàng vào Quảng Bình hoặc vượt lên tây Trường Sơn được nữa. Đến đầu năm 1973, sau khi ký Hiệp định Paris, vận chuyển hàng không quân sự mới lại được sử dụng lại. Tính từ 1960 cho đến tháng 4-1975, Đoàn 919 đã vận chuyển vào miền Nam và đưa xuống Nam Lào 60.000 lượt bộ đội, 31.000 tấn vũ khí đạn dược, khí tài, lương thực, thuốc men và hàng hóa quân sự.
Đường tới chiến thắng (1973–1975).
Sau Hiệp định Paris năm 1973, Mỹ ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam và Lào. Tuyến chi viện chiến lược Trường Sơn được phát triển nhanh chóng, toàn diện, với quy mô lớn trên mọi mặt.
Năm 1973, hệ thống đường Trường Sơn bao gồm một con đường (rải sỏi và đá vôi) rộng hai làn xe, chạy từ các cửa khẩu ở Bắc Trung Bộ tới dãy Chu Pông ở miền Nam. Năm sau, đã được gia cố hoàn chỉnh từ Tây Nguyên đến tận tỉnh Bình Phước ở phía tây bắc Sài Gòn. Đường ống dẫn dầu duy nhất đã từng kết thúc tại thung lũng A Sầu nay bao gồm 4 đường (đường lớn nhất có đường kính 200 mm) kéo về phía Nam tới Lộc Ninh
Tháng 7 năm 1973 Bộ Tư lệnh Trường Sơn được tăng cường tổ chức biên chế, các bộ phận cấp trung đoàn được chuyển lên cấp sư đoàn, và các binh trạm được nâng lên cấp trung đoàn. Bộ tư lệnh Trường Sơn có tám đơn vị cấp sư đoàn gồm hai sư đoàn ô tô vận tải: 571, 471; bốn sư đoàn công binh: 470, 472, 473, 565; Sư đoàn phòng không 377, Sư đoàn bộ binh 968 và một số trung đoàn trực thuộc như: 2 trung đoàn đường ống xăng dầu, 2 trung đoàn cầu, 2 trung đoàn thông tin, 1 trung đoàn vận tải đường sông, 1 trung đoàn giao liên cơ giới, 1 trung đoàn kho, 1 trung đoàn huấn luyện, an dưỡ– tương đương trung đoàn, với gần 10 nghìn nam nữ thanh niên. Dưới sự chỉ huy thời kỳ này là Tư lệnh Đồng Sĩ Nguyên và Đại tá Hoàng Thế Thiện là Chính ủy, đầu năm 1975, Đại tá Lê Xy được cử thay Chính ủy.
Quân bổ sung cho các chiến trường đều được hành quân bằng cơ giới, chấm dứt hành quân bộ. Trong mùa khô 1973-1974, mỗi tháng chuyển được trên 30.000 đến 50.000 quân qua tuyến. Trước đây, bộ đội hành quân bộ từ miền Bắc vào chiến trường B2 mất hơn ba tháng, nay chỉ mất hơn chục ngày. Đây là một bước tiến nhảy vọt về chất trong tổ chức hành quân. Đối với hàng, đội hình vận chuyển chủ yếu là trung đoàn, chạy hoàn toàn ban ngày, đi thẳng từ nơi nhận hàng tới nơi giao hàng.
Đến mùa hè năm 1974, Đường tuyến phía Tây Trường Sơn được nâng cấp, mở thêm tuyến đường phía Đông Trường Sơn, hình thành một hệ thống liên hoàn, vững chắc, là cơ sở hạ tầng bảo đảm chi viện liên tục vật chất hậu cần kỹ thuật, cơ động lực lượng, bảo đảm cho đòn tiến công chiến lược khi thời cơ đến. Tuyến hành lang đông – tây Trường Sơn đã hình thành một tuyến hậu cần chiến lược, trải dài trên diện tích 130 nghìn cây số vuông, nối liền hậu phương lớn miền Bắc với các chiến trường Tây nguyên, Trung và Nam bộ, mà điểm cuối cùng tập kết mọi vật chất hậu cần kỹ thuật là tại Bù Gia Mập, Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước, bàn giao cho Hậu cần Quân giải phóng.
Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, tuyến đường đã bảo đảm cơ động nhanh chóng 3 quân đoàn, 5 sư đoàn và 2 trung đoàn binh chủng vào chiến dịch, phục vụ hành quân đi các chiến trường 411 nghìn người (cả dân sự).
Hệ thống đường Trường Sơn (bao gồm cả tuyến xăng dầu vươt Trường Sơn) là tuyến hậu cần chiến lược vững chắc, một trong những nhân tố quyết định thắng lợi nhiệm vụ chi viện của hậu phương chiến lược miền Bắc cho các chiến trường miền Nam, góp phần quan trọng cho trận chiến quyết định, giải phóng Sài Gòn, thống nhất đất nước.
Sau chiến tranh (1975 - nay).
Đường Trường Sơn của những năm chiến tranh mang một trọng trách mới: phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phò
Dọc bên đường, các thị trấn sầm uất, những khu dân cư đông đúc đã hiện hữu như để minh chứng cho sức sống mãnh liệt trên con đường lịch sử này. Điều đặc biệt là ở những làng nhỏ ven đường sẽ bắt gặp cuộc sống của những cựu Thanh niên xung phong. Họ ở khắp nơi về đây tham gia xây dựng con đường của thời bình để phát triển kinh tế, và khi con đường đã thông, họ lại chọn đây làm nơi lập nghiệp thay vì quay về bản xứ.
Theo Ban quản lý dự án đường Hồ Chí Minh, năm 1996 Chính phủ Việt Nam đã giao Bộ Giao thông Vận tải (Việt Nam) nghiên cứu quy hoạch đường để hình thành trục dọc đường bộ xuyên Việt thứ hai nằm ở phía Tây của đất nước với tên gọi ban đầu là công trình Xa lộ Bắc Nam. Tháng 8 năm 1998, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức đổi tên công trình Xa lộ Bắc Nam thành Đường Hồ Chí Minh.
Ngày 3 tháng 2 năm 2000, Chính phủ Việt Nam cho phép xây dựng đường Hồ Chí Minh (giai đoạn 1) từ Hòa Lạc (Hà Nội) đến Ngọc Hồi (Kon Tum) và nhánh Tây từ Khe Gát (Quảng Bình) đến Thạnh Mỹ (Quảng Nam). Ngày 5 tháng 4 năm 2000, dự án khởi công.
Tổng kết 20 năm chiến đấu.
Tính đến ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, đường Trường Sơn đã tồn tại gần 6000 ngày đêm. Các lực lượng công binh, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến Trường Sơn gồm khoảng 120.000 người đã làm nên mạng đường liên hoàn, vững chắc với 5 hệ thống đường trục dọc, 21 đường trục ngang, nối Đông với Tây Trường Sơn, vươn tới các chiến trường, với tổng chiều dài gần 2 vạn km đường ô tô, 1.400 km đường ống dẫn xǎng dầu, 3.140 km "đường kín" cho xe chạy ban ngày và hàng ngàn cầu, cống, ngầm.
Trong các chiến dịch đánh phá từ năm 1965 đến năm 1972, Mỹ đã huy động khoảng 733.000 chuyến máy bay (có 26.539 lần dùng B-52 rải thảm), đánh phá khoảng 152.000 trận; ném xuống các tuyến đường Trường Sơn gần 4 triệu tấn bom đạn và gần 1 triệu galông chất độc hoá học (1 galông = 4,4 lít hàng khô và 3,78 lít hàng lỏng). Hơn 20.000 bộ đội, thanh niên xung phong, công nhân giao thông đã hy sinh; hơn 30.000 người bị thương, khoảng 14.500 xe - máy các loại, hơn 700 khẩu pháo các loại bị phá hủy hoặc hư hại nặng; hơn 90.000 tấn hàng hóa bị đánh chá, hàng trăm máy bay các loại bị bắn rơi, hàng ngàn lính biệt kích, thám báo được tung vào đây bị thương vong hoặc bị bắt. Quân đội Mỹ đã tiêu tốn nhiều tỷ USD vào các kế hoạch nhằm cắt đứt tuyến đường song đều bị thất bại.
Tướng Merrill McPeak, Tham mưu trưởng Không quân Mỹ, từng là phi công chiến đấu ở Việt Nam. Ông kể lại: bằng phương tiện quan sát hiện đại gắn trên máy bay, ông ta có thể săn những chiếc xe vận tải Việt Nam như săn thỏ. Tuy đã bắn nhiều rocket, thả nhiều bom đến như vậy, nhưng không lực Mỹ vẫn không tài nào ngăn nổi sự vận chuyển trên đường Trường Sơn. Cho đến nay, Merrill McPeek nói rằng ông vẫn ức tới nghẹn cổ, và kết luận: Ông đã ủng hộ nhầm phe, nếu có thể được thì ngày ấy ông nên chiến đấu cùng đội ngũ với các chiến sỹ can trường, quả cảm ở bên phía Việt Nam
Trong 16 năm, tuyến hậu cần chiến lược đường Trường Sơn đã vận chuyển hơn 1 triệu tấn vật chất, vũ khí vào các chiến trường; đưa hơn 2 triệu lượt người hành quân; cơ động 10 lượt sư đoàn, hộ tống hơn 90 đơn vị kỹ thuật vào các chiến trường; cứu chữa gần 1 triệu lượt thương bệnh binh; đưa hơn 500.000 người từ tiền tuyến trở về hậu phương, trong đó có hơn 300.000 thương bệnh binh
Hành quân trên đường Trường Sơn.
Bộ đội hành quân trên đường Trường Sơn phải vượt qua chặng đường dài trên 1.500 km.
Khởi đầu của con đường, những người lính đầu tiên đã hành quân vào miền Nam theo phương thức thô sơ nhất: gùi cõng trên vai và đi bộ. Mỗi chuyến đi gồm 25-30 người với 25-30 cái gùi. Những quân tư trang, vật dụng sinh hoạt vô cùng đặc biệt: mặc bà ba đen, che mưa bằng tấm nilông, những chiếc đèn pin được đem gò lại, làm cho mất hai chữ Rạng Đông và dấu hiệu mặt trời mọc. Thuốc lá Điện Biên, Tam Đảo phải cắt bỏ đầu có in chữ trên điếu thuốc rồi bọc vào túi nilông. Những người lính ấy phải bỏ lại tất cả giấy tờ, thư từ, không được ghi chép bất cứ thứ gì để đảm bảo giữ bí mật hành quân.
Trong giai đoạn đầu tiên mở đường và vận tải với phương thức gùi cõng truyền thống, từ tháng 8 đến hết tháng 12 năm 1959 tiểu đoàn 301 - tiền thân đoàn 559 đã đi được 8 chuyến hàng trót lọt với tổng số hàng gồm 1.667 súng trường, 712 tiểu liên, 72 trung liên, 21 súng giảm thanh, 850 súng ngắn với 250.000 viên đạn các loại, 180 kg thuốc nổ TNT kèm ngòi nổ, 750 dao găm, 340 kìm cắt dây thép gai, 40 ống nhòm, 65 la bàn, 26 bản đồ khu V, Tây Nguyên, Lào và đông bắc Campuchia. Số hàng này được Khu ủy khu 5 tiếp nhận và vận chuyển vào Tây Nguyên, Tây nam bộ. Cũng trong năm 1959, có 542 cán bộ và chiến sĩ được đưa từ Bắc vào Nam nhận nhiệm vụ.
Thời gian đầu hoàn toàn hành quân bộ, mỗi ngày đi một đoạn đường từ trạm giao liên này tới trạm giao liên tiếp theo. Từ Khe Hó (Quảng Trị), hàng được trung chuyển qua 9 binh trạm: 2 trạm ở bắc sông Bến Hải và 7 trạm ở phía nam sông. Những trạm ở bắc sông là đất của Miền Bắc, có thể gùi hàng vào ban ngày, còn các trạm phía nam sông chỉ có thể gùi vào ban đêm, lấy khúc gỗ mục có lân quang phát sáng gắn lên gùi người đi trước. Người đi sau nhìn vệt sáng ấy mà bám theo. Khó khăn nhất là vượt qua tuyến quốc lộ 9. Xe địch đi lại liên tục trên đường. Đêm đêm khi vượt qua đường phải có tín hiệu cảnh giới. An toàn mới vượt. Người gùi hàng phải mang hai miếng gỗ mỏng lót dưới bàn chân để khi "lết" qua đường không để lại dấu chân. Trường hợp đoàn đi đông, giao liên sẽ trải tấm nilông ngang đường để khi người cuối cùng đi qua sẽ gấp tấm nilông lại, xóa dấu vết. Bộ đội hành quân bộ vào chiến trường B2 mất hơn ba tháng, nếu vào chiến trường Nam Bộ, đến Bù Gia Mập – điểm cuối cùng của con đường mòn thì hết khoảng 5 tháng.
Để chuẩn bị cho chặng đường dài gian khổ, bộ đội rèn luyện hành quân kèm mang đá, vác cây trên vùng đồi núi Kim Bôi – Hạ Bì, tỉnh Hòa Bình, rồi hành quân bộ trên quãng đường trên nửa ngàn cây số từ Hòa Bình vào Quảng Bình – cửa ngõ phía Bắc của đường Trường Sơn.
Năm 1965, mỗi người phải mang 30 kg quân trang, lương khô, súng đạn, thuốc quân y, đường, gạo, muố, lượng lương thực trữ tại các trạm giao liên ngày càng nhiều, nên khối lượng phải mang vác cũng giảm dần. Năm 1966 giảm xuống còn 25 kg, sau năm 1967 còn 20 kg.
Về chế độ ăn, ngoài gạo lĩnh tại các trạm giao liên, mỗi người lính được cấp một ống cóng ruốc thịt, trong đó pha trộn thuốc chống sốt rét, tê phù... Một kilôgam muối để dùng cho toàn bộ chặng đường. Đồ ăn cho mỗi ngày gồm có một nắm cơm khi hành quân ban ngày và một bữa cơm khi dừng chân ban đêm. Với chế độ ăn này và cuộc hành quân vất vả mỗi ngày, nhiều bộ đội thiếu dinh dưỡng trầm trọng. Do thế, khi gặp người dân sống bên đường, bộ đội thường đem quân trang, tư trang để đổi lấy rau, quả, lợn, gà...
Vào những năm mà mật độ bom đạn trút xuống đường Trường Sơn chưa phải là ác liệt, những đoàn quân qua đây phần lớn thương vong không phải vì bom đạn địch mà vì sốt rét, phù tim, phù phổi, tả lỵ, trụy tim mạch, suy kiệt thể lực do thiếu đói, đường sá gian truân. Trong đó, sốt rét rừng là nhân tố tiêu hao sinh lực mạnh nhất. Mặc dù bộ đội được trang bị thuốc cá nhân, mỗi đơn vị có y tá mang thùng thuốc dự trữ đi theo, đồng thời thực hiện chế độ uống thuốc phòng bệnh, nhưng sốt rét vẫn là căn bệnh phổ biến tại Trường Sơn, bất cứ ai cũng có thể bị nhiễm. Nhiều người tử vong vì sốt rét lâu ngày chuyển sang ác tính. Những người vượt qua được thì da dẻ xanh tái do thiếu máu, sức khỏe suy giảm.
Trên đường trèo đèo lội suối, chiếc gậy Trường Sơn là công cụ hỗ trợ đắc lực: giúp bước chân thêm vững, đường trơn đỡ ngã, và làm giá chống ba lô khi đứng nghỉ. Những chiếc gậy tre xuất xứ từ làng Hòa Xá (Hà Tây) này đã đi vào bài hát Chiếc gậy Trường Sơn của nhạc sĩ Phạm Tuyên. Đôi dép cao su (còn gọi là "đôi dép Bác Hồ") cũng là một hành trang rất phù hợp với đường rừng bùn lầy ẩm ướt do mưa nhiều, vì chân đi trong giày ủng lâu ngày sẽ bị úng nước và lở loét - một vấn đề mà lính Mỹ thường xuyên gặp phải khi đánh trận hay đóng quân ở vùng rừng.
Việc hành quân bằng cơ giới được bắt đầu từ năm 1968, tuy chỉ mới ở số lượng không nhiều. Trong tháng 1, có gần 6.000 quân được tổ chức hành quân bằng cơ giới. Trong tháng 4, hai tiểu đoàn pháo lớn, xe tăng, gần 124.000 quân được bảo đảm hành quân vào chiến trường. Tuy nhiên, do nguy cơ thương vong lớn (mỗi xe tải bị máy bay đánh cháy có thể làm thiệt mạng toàn bộ đơn vị trên xe), nên hình thức chuyển quân này chỉ được sử dụng hạn chế.
Năm 1973, kể từ sau khi có Hiệp định Paris, quân bổ sung cho các chiến trường đều được hành quân bằng cơ giới, chấm dứt hành quân bộ. Thời gian hành quân bằng xe chỉ mất hơn 10 ngày. Đây là một bước tiến nhảy vọt về chất trong tổ chức hành quân. Năm 1974, toàn bộ việc giao liên, hành quân, chuyển thương đều chuyển sang phương tiện cơ giới, mỗi tháng chuyển được trên 30.000 đến 50.000 quân qua tuyến. Những tổn thất do kiệt sức, suy dinh dưỡng, bệnh tậ
Tri ân và vinh danh.
Ngay từ trong những năm tháng chiến sự, tướng Đồng Sĩ Nguyên đã đề xuất nên quy tập các liệt sĩ nằm rải rác trên dọc tuyến đường Trường Sơn và đất bạn Lào, Campuchia lại một nơi để những đồng đội và nhất là thân nhân liệt sĩ tiện lui tới thăm viếng.
Ngay sau Hiệp định Paris 1973, tướng Đồng Sĩ Nguyên đã chỉ đạo việc quy tập mộ liệt sĩ Trường Sơn. Kết quả là trong số hơn 20.000 người đã ngã xuống trên chiến trường Trường Sơn, đến nay đã quy tập được hơn một vạn hài cốt về Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn.
Nghĩa trang được xây dựng từ ngày 24 tháng 10 năm 1975 và hoàn thành ngày 10 tháng 4 năm 1977, đây là nghĩa trang có quy mô lớn nhất Việt Nam, có kiến trúc, bố cục độc đáo, không giống đa phần nghĩa trang liệt sĩ khác ở Việt Nam..
Trong văn hóa đại chúng.
Trong những năm chiến tranh và cả trong thời kỳ hậu chiến, đường Trường Sơn đã là chủ đề cho rất nhiều tác phẩm âm nhạc và văn học. Nhiều nhà thơ, nhà văn cũng đã là những người lính Trường Sơn.
Một số bài thơ:
"Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước"
"Mà lòng phơi phới dậy tương lai"
"Gặp em trên cao lộng gió"
"Rừng Trường Sơn ào ào lá đỏ"
"Đông sang Tây không phải đường thư"
"Đường chuyển đạn và đường chuyển gạo"
"Đông Trường Sơn, cô gái "ba sẵn sàng" xanh áo"
"Tây Trường Sơn bộ đội áo màu xanh"
"Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng"
"Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim"
Một số bài hát về Trường Sơn:
"Ta vượt trên triền núi cao Trường Sơn. Đá mòn mà đôi gót không mò"
"...đêm nay ta đi Trường Sơn lộng gió. Trời vắng trăng sao nhưng tim ta rực lửa. Đi ta đi tung cánh đại bà"
"Trường sơn ơi, nơi núi mờ xa mà ta chưa qua, có suối reo, có gió ngàn cây, có dốc cao vực sâu mất lối, mây trắng quyện dưới chân bước bồi hồi, có nắng lửa đốt thiêu vách nú"
"Đường em ghi chiến công lẫy lừng, tràn niềm tin trong muôn gian lao Đường Trường Sơn xe anh thẳng tới.."
", như tình yêu nối lời vô tận. Đông Trường Sơn nối Tây Trường Sơ"
"Gặp em trên cao lộng gió. Rừng Trường Sơn ào ào lá đỏ. Em đứng đứng ở bên đường, như quê hương vai áo bạc quàng súng trường. Đoàn quân vẫn đi vội vã. Bụi Trường Sơn nhòa trong trời lử
"Ơi, đêm Trường Sơn, nghe tiếng suối trong như tiếng hát xa, mà ngỡ như từ Pác Bó suối về đây ngân "
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
|
Sức khỏe là trạng thái toàn diện về thể chất, tinh thần và xã hội và không phải chỉ bao gồm có tình trạng không có bệnh hay thương tật (theo Tổ chức Y tế Thế giới) Mặc dù định nghĩa này là chủ đề của nhiều cuộc tranh cãi, đặc biệt thiếu giá trị hoạt động và vì vấn đề được tạo ra bởi từ "toàn diện", nên đây vẫn là vấn đề còn kéo dài. Các định nghĩa khác cũng đã được đưa ra, trong số đó định nghĩa gần đây nhất là mối quan hệ giữa sức khỏe và sự thỏa mãn các nhu cầu cá nhân. Các hệ thống phân loại như Phân loại quốc tế về Gia đình của WHO, bao gồm Hệ thống phân loại quốc tế về Chức năng, Khuyết tật và Sức khỏe (ICF) và Phân loại quốc tế về Bệnh tật (ICD), thường được sử dụng để định nghĩa và để đo đạc các thành phần của sức khỏe.
Có một sức khỏe tốt nhất là một trong những quyền cơ bản con người dù thuộc bất kỳ chủng tộc, tôn giáo, chính kiến chính trị hay điều kiện kinh tế - xã hội nào.
Các yếu tố quyết định sức khỏe.
Nhìn chung, ngữ cảnh mà theo đó nhiều cá nhân xem trọng tình trạng sức khỏe và chất lượng của sống của họ. Người ta ngày càng nhận ra rằng sức khỏe được duy trì và cải thiện không chỉ qua những thành tựu và ứng dụng của khoa học y tế, mà còn qua những cố gắng và những lựa chọn cách sống thông thái của một cá nhân hay xã hội. Theo WHO, các yếu tố chính quyết định đến sức khỏe như môi trường kinh tế và xã hội, môi trường vật lý, và đặc điểm và ứng xử của mỗi cá nhân.
Cụ thể hơn, các yếu tố chính đã được phát hiện là có ảnh hưởng đến sức khỏe bao gồm:
Tập luyện là việc thực hành các động tác nhằm phát triển và duy trì sức khỏe thể chất và sức khỏe toàn diện. Điều này có được nhờ việc rèn luyện các động tác thể dục. Tập luyện thường xuyên là thành phần rất quan trọng giúp ngăn ngừa bệnh tật, ngăn ngừa các "bệnh người giàu" như ung thư, bệnh tim, bệnh mạch vành, tiểu đường loại 2, béo phì và đau lưng.
Nhìn chung, luyện tập thể dục có thể chia thành hai nhóm theo tác động nói chung lên cơ thể con người:
Tập luyện thể dục rất quan trọng trong việc giữ gìn sức khỏe thể chất gồm có trọng lượng, thể hình và xương, cơ, khớp, tăng cường hoạt động của hệ miễn dịch.
Tập luyện tinh thần làm vững chắc hệ thần kinh, làm hoạt hóa các hoạt động về khí huyết.
Chế độ Dinh dưỡng cũng quan trong tương đương với việc tập luyện thể dục. Khi tập luyện, dinh dưỡng sẽ trở nên thậm chí quan trọng hơn cả để có một chế độ ăn tốt nhằm đảm bảo cho cơ thể có một tỉ lệ đúng cả yếu tố thông thường lẫn yếu tố vi lượng, giúp cơ thể hồi phục sau khi vận động.
Dinh dưỡng là sự cung cấp các dưỡng chất cho cơ thể thông qua các thực phẩm ăn uống. Theo dinh dưỡng học, để có đầy đủ chất dinh dưỡng thì cơ thể phải được cung cấp đầy đủ các vitamin cần thiết. Nếu không đủ các vitamin cần thiết thì cơ thể sẽ bị suy yếu, gọi là suy dinh dưỡng.
Dinh dưỡng học là môn khoa học nghiên cứu mối quan hệ giữa chế độ ăn, các thành phần sức khỏe và bệnh tật. Các nhà dinh dưỡng là các chuyên gia y học đã được đào tạo chuyên môn cao. Họ cũng là những bác sĩ có thể cung cấp những lời khuyên an toàn, có cơ sở khoa học và chính xác về dinh dưỡng và cách can thiệp.
Dinh dưỡng học giúp tăng hiểu biết tại sao và như thế nào các vấn đề dinh dưỡng có ảnh hưởng tới sức khoẻ.
Sức khỏe tinh thần.
Sức khỏe tinh thần là một khái niệm ám chỉ tình trạng tâm thần và cảm xúc tốt của mỗi cá nhân. Theo tổ chức Y tế Thế giới, không có định nghĩa chính thức cho sức khỏe tinh thần. Các nền văn hóa khác nhau, các đánh giá chủ quan và các giả thuyết khoa học khác nhau đều có ảnh hưởng tới định nghĩa về khái niệm "sức khỏe tinh thần". Mặt khác, tình trạng thoải mái, không có rối loạn nào về tinh thần chưa chắc đã được coi là sức khỏe tinh thần.
Có một cách để nhận xét sức khỏe tinh thần là xem xem một người thể hiện chức năng của mình thành công tới mức nào. Cảm thấy có đủ khả năng tự tin, có thể đối mặt với những mức tình trạng căng thẳng ở bình thường, luôn giữ được các mỗi quan hệ một cách thoải mái, có một cuộc sống độc lập, và dễ hồi phục sau những tình huống khó khă
Duy trì sức khỏe tốt.
Vai trò của khoa học.
Khoa học chăm sóc sức khỏe hay còn được gọi là Khoa học Y học, là một tập hợp các ngành khoa học ứng dụng áp dụng một hay nhiều phần của khoa học tự nhiên hay khoa học hình thức (formal science) để xây dựng và phát triển kiến thức, phương pháp can thiệp hay công nghệ có ích trong việc chăm sóc sức khỏe lâm sàng và sức khỏe cộng đồng.
Vai trò của Y tế công cộng.
Y tế công cộng là khoa học và tìm ra phương pháp phòng bệnh, kéo dài tuổi thọ và tăng cường sức khỏe thông qua những cố gắng có tổ chức của xã hội. Y tế công cộng có nhiều lĩnh vực nhỏ nhưng có thể chia ra các phần: dịch tễ học, sinh thống kê và dịch vụ y tế. Những vấn đề liên quan đến môi trường, xã hội, nhân chủng học và sức khỏe nghề nghiệp cũng là lĩnh vực quan trọng trong y tế công cộng.
Trọng tâm can thiệp của y tế công cộng là phòng bệnh trước khi đến mức phải chữa bệnh thông qua việc theo dõi tình trạng và điều chỉnh hành động bảo vệ sức khỏe. Nói tóm lại, trong nhiều trường hợp thì chữa bệnh có thể gây nguy hiểm đến tính mạng hơn so với phòng bệnh từ trước, chẳng hạn như khi bùng phát bệnh lây nhiễm. Chương trình tiêm chủng vắc-xin và phân phát bao cao su là những ví dụ về các biện pháp dùng trong y tế công cộng.
|
Triển lãm Ô tô Quốc tế (Frankfurt)
Triển lãm Ô tô Quốc tế (tiếng Đức "Internationale Automobil-Ausstellung - IAA") là hội chợ triển lãm ô tô lớn nhất thế giới. Hội chợ này lần đầu tiên đã được tổ chức vào năm 1897 tại Berlin. Dưới đà phát triển mạnh mẽ trong giới ô tô vào những năm cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, các nhà sản xuất ô tô đã thấy được tầm quan trọng của sự quảng bá và giới thiệu những sản phẩm và kỹ thuật mới của mình.
Cho đến năm 1911, IAA đã được tổ chức hằng năm và chủ yếu tại Berlin. Trong và vài năm sau Thế chiến thứ nhất (1914–1918), các nhà sản xuất ô tô của Đức bị loại khỏi Hiệp hội các nhà sản xuất Ô tô thế giới và đó cũng là nguyên nhân Đức không được phép đăng cai IAA cho đến 1921. Từ năm 1951, IAA cũng được tổ chức tại Frankfurt am Main và từ đó, hội chợ triển lãm cho xe hơi cá nhân (Pkw) tại Frankfurt am Main được tổ chức hai năm một lần.
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.