id
int64
0
23k
passage
stringlengths
27
4.61k
metadata
dict
22,700
Title: Wren Evans Ngày 28 tháng 7 năm 2022, Wren Evans là nghệ sĩ mở màn cho "Live Session" mùa 3 của M.A.D Production. Video âm nhạc phiên bản này được quay và thu âm trực tiếp khi nam ca sĩ trình bày ca khúc "Cơn đau" trên một chiếc xe tải. Nói về kết quả này, anh cho rằng mình bất ngờ về khả thể đoạt giải; trong khi đó cũng xác nhận rằng lượng khán giả nước ngoài của mình là điều đã được dự đoán từ trước. Trả lời phỏng vấn với Vietcetera với nội dung được công bố vào tháng 8 năm 2022, nam ca sĩ cho biết anh sẽ ra mắt nhiều sản phẩm nhạc trong thời gian sắp đến và các bản nhạc dạng collab cũng được phát hành. Evans công bố anh sẽ hoàn thành đĩa mở rộng (EP; extended play) của mình trong năm 2022. Nói về album cá nhân, anh cho biết đã hoàn thành 90% phần nhạc khí, trong khi phần lời chưa hoàn tất. Đời tư. Wren Evans từng chơi các bộ môn thể thao bóng đá, bóng bầu dục, bơi lội và từng là thành viên đội tuyển trường anh theo học. Anh thông thạo tiếng Pháp, tiếng Anh và đang học tiếng Tây Ban Nha, tính đến thời điểm tháng 5 năm 2020. Anh dùng tiếng Anh là ngôn ngữ giao tiếp chính. Wren Evans du học ở ngoại quốc nhiều năm, do đó thông thạo các ngoại ngữ này và thừa nhận khả năng sử dụng tiếng Việt không tốt bằng các ngoại ngữ này. Anh từng được định hướng du học ngành dược sĩ tại Pháp nhưng quyết định rời bỏ lựa chọn này để theo lĩnh vực âm nhạc. Wren Evans từng có bạn gái là ca sĩ Mỹ Anh (bạn học chung thời cấp 1) và đã từng tham gia một tiết mục thi đấu trong chương trình "Thần tượng đối thần tượng" cùng bạn gái. Mỹ Anh đã công khai bạn trai mới vào tháng 3 năm 2022 và tính đến thời điểm này, cô tuyên bố đã chia tay Wren Evans từ lâu. Quản lý của nam ca sĩ là Kendall Nguyễn và Amy Trần.
{ "split": 4, "title": "Wren Evans", "token_count": 436 }
22,701
Title: Wushu Wushu (, Hán Việt: Võ thuật) là môn võ thuật hiện đại của Trung Quốc với chương trình luyện tập, các bài quyền tổng hợp từ các võ phái cổ truyền nổi tiếng như Thiếu Lâm, Võ Đang, Nga Mi, Không Động, Vịnh Xuân Quyền, Thái cực quyền… Được thống nhất giảng dạy trên các võ đường Trung Quốc cũng như tại nhiều quốc gia trên thế giới như một môn phái võ thuật hiện đại thiên về tính chất thể thao, Wushu được hiểu là môn quốc võ tiêu biểu nhất đại diện cho tinh hoa nền võ thuật của Trung Quốc. Lịch sử. Tiến trình phát triển của Wushu. Wushu được biết đến ngày nay với tư cách một môn võ thuật hiện đại do chính phủ Trung Quốc thành lập vào những năm 1950. Tuy nhiên ở Trung Quốc Wushu đã có lịch sử lâu đời. Ngược dòng thời gian vào thời nhà Thương, khi võ thuật dần được hệ thống hóa và được dạy chính thức để bắt đầu chiếm vị trí quan trọng trong nền văn hóa Trung Hoa. Sang thời nhà Chu, kể cả thời Xuân Thu - Chiến Quốc, tập luyện võ nghệ được tuyên dương và các cuộc thí võ tranh tài chọn tướng chính thức được giới thiệu trong quân đội. Những cuộc trường chinh liên tục thời nhà Tần và nhà Hán dẫn đến sự cải tiến võ thuật như là một vũ khí và kỹ thuật được chú trọng nhằm áp dụng vào thực tế chiến trường một cách hữu hiệu. Tuy nhiên, sự kết hợp giữa một Trung Hoa mới thống nhất hơn và sự gắn liền văn hóa với võ thuật đã làm cho Wushu ngày càng thiên về khía cạnh thể thao, cường thân tráng thể và hướng đến ý nghĩa là một môn giải trí hơn. Đặc biệt, khi kỹ thuật quân sự càng ngày tiên tiến hơn thì võ thuật cũng thay đổi. Vào thời nhà Tống, thuốc súng bắt đầu chiếm vị trí quan trọng trong quân đội thì võ thuật cũng dần suy tàn. Quân đội thời đó cần những áp dụng thực tiễn cho chiến trường và loại bỏ bất cứ những gì không hỗ trợ cho chiến thắng. Nhưng văn hóa lại không chấp nhận võ thuật bị bỏ rơi một cách dễ dàng như vậy và kết quả là có rất nhiều võ hội khác nhau ra đời để bảo tồn và phát huy tinh hoa võ thuật truyền thống. Chính điều này đã giúp võ thuật ngày càng phổ thông và được luyện tập khắp nơi từ chùa chiền, rừng núi đến các khu phố tại các đô thị Trung Hoa.
{ "split": 0, "title": "Wushu", "token_count": 506 }
22,702
Title: Wushu Khi súng ống trở nên thông dụng hơn thì nhu cầu của vũ khí thô sơ và chiến đấu tay chân cũng bị cắt giảm đáng kể. Năm 1901 nhà Thanh đưa ra đạo dụ loại bỏ võ thuật ra khỏi quân đội. Vào thời điểm này nơi khai sinh võ thuật hiện đại là Tinh Võ thể dục học hội do Hoắc Nguyên Giáp thành lập. Năm 1911, bác sĩ Tôn Dật Tiên khởi sự cuộc cách mạng lật đổ chính thể nhà Thanh và bắt đầu cổ vũ phát triển võ thuật như một phương pháp luyện tập thể dục. Năm 1928 Viện nghiên cứu quốc võ được thành lập tại Nam Kinh và tên gọi Wushu được sử dụng chính thức như một môn quốc võ tổng hợp tiêu biểu nhất, đại diện cho toàn thể võ thuật Trung Hoa. Chính quyền quyết định rằng, tất cả các ban ngành của chính phủ phải thiết lập các học viện Wushu của riêng mình và tổ chức các cuộc thi đấu tranh tài cả địa phương lẩn quốc gia. Đội Wushu Trung hoa đã tổ chức một chuyến đi tham dự Thế vận hội 1936 tại Berlin, Đức quốc. Đội đã biểu diễn tại Thế vận hội lần thứ 11 và thế giới lần đầu tiên được thưởng thức những kỹ pháp kỳ tuyệt của Wushu Trung Hoa. Sự thành lập Wushu đương thời. Năm 1949 Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra đời và Wushu được trọng dụng như một môn thể dục được chấp nhận rộng rãi và cũng được xem như một môn nghệ thuật thừa kế của quốc gia. Dưới chính quyền mới, tâm điểm của Wushu được chỉ đạo theo hướng rèn luyện thân thể và sức khỏe hơn là dùng trong thực chiến, nghĩa là nhấn mạnh tính chất thể thao của bộ môn. Dựa vào nhiều môn phái truyền thống, nhiều ủy ban các bậc danh sư như Zhang Wenguang, Wang Ziping, Sha Guozeng và Chai Longyun, phát triển những phương thức luyện tập thành một hệ thống mà ngày nay gọi là Wushu Trung Hoa đương đại. Võ phục và nghi thức. Võ phục. Võ phục của Wushu được quy định tùy theo các nội dung tập luyện, thi đấu và biểu diễn khác nhau sử dụng các phục trang khác nhau. Lễ nghi.
{ "split": 1, "title": "Wushu", "token_count": 455 }
22,703
Title: Wushu Lễ nghi biểu hiện các phương thức hành lễ (chào, tiếp nhận binh khí v.v.) của Wushu, bao gồm Đồ thủ lễ (chào tay không), Trì khí giới lễ (chào với binh khí), Đệ khí giới lễ (nghi thức trao nhận binh khí): Đồ thủ lễ. Là cách chào tay không bao gồm Bao quyền lễ và Chú mục lễ: Trì khí giới lễ. Là phương thức được thực hiện khi luyện tập hoặc khi thi đấu, biểu diễn khí giới. Ý nghĩa tương tự như Bao quyền lễ đã nói ở trên. Bao gồm: Đệ giới lễ. Là nghi thức trao khí giới cho đồng môn, bao gồm: Tiếp giới lễ. Là nghi thức nhận khí giới từ phía đồng môn, bao gồm: Ngoài ra, những khí giới khác khi thực hiện cũng phải tuân thủ những quy phạm tương tự. Cơ bản công, cơ bản kỹ thuật. Cơ bản công nhằm chỉ những bản chất cần thiết của năng lực thể chất (thể năng), năng lực kỹ thuật (kỹ năng), hoặc là sự chuẩn bị cần thiết của thể năng, kỹ năng và tâm lý trong luyện tập Wushu. Cơ bản công có một hệ thống mang tính tổng hợp những phương pháp luyện công năng các bộ phận bên trong và bên ngoài thân thể. Những phương pháp này là nền tảng cơ bản đối với mỗi người bắt đầu vào luyện tập võ thuật nói chung và Wushu nói riêng. Cơ bản công của Wushu bao gồm Thoái công chuyên luyện về chân, Yêu công luyện hông và eo, Kiên công luyện vai và Trang công chuyên luyện sức mạnh. Thoái công. Là những bài tập nhằm phát triển sự mềm dẻo, linh hoạt và sức mạnh của chân. Phương pháp luyện tập có áp thoái (ép chân), ban thoái (mang, vác chân), phách thoái (xoạc), dịch thoái (hất), khống thoái (ghìm, khống chế): Áp thoái. Là các động tác đè, ép chân, bao gồm: Ban thoái. Là các động tác mang, vác chân, gồm: Phách thoái. Là các động tác xoạc chân, rất phổ biến trong các võ phái, gồm: Dịch thoái. Là các động tác đá hất chân nhằm làm cho chân dẻo dai, linh hoạt, bao gồm: Khống thoái. Là các động tác khống chế, ghìm chân, bao gồm:
{ "split": 2, "title": "Wushu", "token_count": 512 }
22,704
Title: Wushu Yêu công. Là kỹ thuật luyện hông. Hông là mối liên lạc giữa thượng chi và hạ chi của cơ thể đồng thời cũng tập trung phản ánh mấu chốt tạo thành kỹ xảo của thân pháp. Bởi vậy, yêu công được chú trọng đặc biệt đối với sự tiến bộ của môn sinh Wushu. Phương pháp luyện tập gồm có: Kiên công. Luyện tập tay vai nhằm tăng cường tính mềm dẻo của dây chằng, mở rộng phạm vi hoạt động của khớp xương vai, phát triển sức mạnh cánh tay, nâng cao những năng lực hoạt động của chi trên như sự nhanh nhẹn, vươn dài, xoay chuyển v.v. Phương pháp luyện tập gồm: Trang công. Là hình thức luyện tập đặc biệt nhất trong cơ bản công của Wushu. Phương cách này dùng cách đứng yên để bồi dưỡng hơi thở, tăng cường sức mạnh, hình thành và củng cố những động lực. Có rất nhiều phương pháp luyện Trang công, dưới đây chỉ trình bày các nguyên lý "tĩnh trung cầu động" (chuyển động trong sự tĩnh lặng) với "khai hợp trang" (mở đóng) và "thăng giáng trang" (lên xuống); "động trung cầu tĩnh" (tĩnh lặng trong cái động) với "mã bộ trang" (thế chân cưỡi ngựa) và "cung bộ trang" (thế chân dương cung): Mã bộ trang. Luyện tập chân đứng như khi cưỡi ngựa, lực đều trên hai chân, còn gọi là Trung bình tấn, mục đích tập thăng bằng, trụ vững, và luyện gân, khớp, bắp thịt của chân. Cung bộ trang. Luyện chân giống tư thế dương cung với chân trước nặng sau nhẹ, còn gọi là Đinh tấn. Hỗn nguyên trang. Luyện các chuyển động lên xuống, đóng mở), gồm: Hệ thống chương trình. Hệ thống chương trình tập luyện, thi đấu và biểu diễn của Wushu, ngoài những phần cơ bản công và nghi lễ kể trên, bao gồm hai nội dung chính là "Sáo lộ" và "Giao đấu", cụ thể như sau: Sáo lộ.
{ "split": 3, "title": "Wushu", "token_count": 468 }
22,705
Title: Wushu Sáo lộ được thực hiện bằng những động tác như Dịch (đá), Suất (ném), Nã (bắt giữ), Kích (đánh), Thích (đâm), Tiêu (hóa giải), Trảm (chém) v.v. Từ đó theo quy luật biến hóa mâu thuẫn của động tác như công thủ tiến thoái, động tĩnh nhanh chậm, cương nhu hư thực mà biên tập thành các bài sáo lộ để luyện tập. Sáo lộ thường bao gồm Quyền thuật, Khí giới, Đối luyện và Biểu diễn tập thể. Bài Quyền. Là các bài sáo lộ tay không, bao gồm Trường Quyền, Thái cực quyền, Nam Quyền, Hình Ý Quyền, Bát Cực Quyền, Thông Bối Quyền, Phách Quải Quyền, Bát Quái chưởng, Phiên tử Quyền, Trốc Cước, Thiếu Lâm quyền, Địa Đàng Quyền, Tượng hình quyền v.v. Khí giới. Khí giới có bốn loại được đưa vào chương trình Wushu là đoản khí giới (vũ khí ngắn), trường khí giới (vũ khí dài), song khí giới (vũ khí đánh đôi), Nhuyễn khí giới (vũ khí mềm). Đoản khí giới bao gồm Đao thuật, Kiếm thuật, Trủy thủ (dao găm) v.v. Trường khí giới bao gồm Côn thuật, Thương thuật, Đại đao v.v. Song khí giới có Song đao, Song kiếm, Song câu, Song thương, Song tiên (roi) v.v. Nhuyễn khí giới có Tam tiết côn (côn ba khúc), Cửu tiết côn (Côn chín khúc), Thằng tiêu (dây có đầu nhọn), Lưu tinh trùy v.v. Đối luyện. Đối luyện là hình thức giao đấu theo bài bản đã được quy ước, còn gọi là các bài đối quyền, dành cho hai người hoặc trên hai người. Hình thức này có: Biểu diễn tập thể. Là hình thức tập luyện của một nhóm 6 người hoặc trên 6 người với các bài tay không hoặc có khí giới. Giao đấu.
{ "split": 4, "title": "Wushu", "token_count": 458 }
22,706
Title: Wushu Giao đấu là hình thức thi đấu giữa hai người theo luật lệ quy định, bao gồm ba loại là Tán đả (Tán thủ, đối kháng), Thôi thủ (đẩy tay, khá giống Niêm thủ của Vịnh Xuân Quyền), và Đoản binh. Tán đả. Các tuyển thủ thi đấu bằng các phương pháp kỹ kích (tấn công) như Dịch, Đả, Suất v.v. để chế ngự đối phương. Thôi thủ. Sử dụng các phương pháp kỹ kích của môn Thái cực quyền như Bằng (nâng), Lý (vuốt), tê (chen, lách), Án (đè), Thái (bẻ, ngắt), Liệt (xoay), Trửu (khuỷu tay), Kháo (nương tựa), phán đoán cách sử dụng kình lực của đối phương để đẩy ngã hắn. Hình thức này cũng dựa theo luật lệ quy định để phân thắng bại. Đoản binh. Hai người cầm gậy ngắn (bằng song mây, da, bông vải) làm khí giới thi đấu trong sàn đấu có hình tròn đường kính là 533 cm. Cũng theo luật lệ để phân thắng bại. Các phương pháp sử dụng là Phách, Thích, Khảm, Băng, Điểm, Trảm v.v. Wushu tại Việt Nam.
{ "split": 5, "title": "Wushu", "token_count": 292 }
22,707
Title: Wushu Wushu đến Việt Nam vào năm 1989, do công của ông Hoàng Vĩnh Giang khi tiếp thu tài liệu giáo khoa từ Nga gồm 7 bài ghi trong băng video mang về phổ biến trong nước. Đầu năm 1990 Hoàng Vĩnh Giang thành lập ban nghiên cứu Wushu, gồm một vài nhân vật tâm huyết ở miền Bắc. Trong năm 1990 đội tuyển Wushu Việt Nam gồm 5 vận động viên lần đầu tiên ra quân trong kỳ ASIAD 11 tổ chức ở Bắc Kinh. Thua trận này, nhưng lúc đó cố võ sư Đỗ Hóa huấn luyện viên đội tuyển quốc gia đã khẳng định với Đài phát thanh Bắc Kinh: "Chúng tôi sẽ tiến sát Wushu Trung Quốc và chỉ 4 năm nữa, các võ sĩ tán thủ Việt Nam sẽ ngang ngửa với các võ sĩ hàng đầu thế giới". Đến tháng 6 năm 1992, Sở Thể dục Thể thao Hà Nội bắt đầu mời chuyên gia Wushu của Trung Quốc (hai chuyên gia đầu tiên là Phan Hán Quang và Trần Húc Hồng) sang tập huấn về môn Wushu cho các vận động viên Việt Nam. Sau kỳ huấn luyện các võ sĩ Wushu Việt Nam đã tung hoành ở Thượng Hải và cả ở Thiếu Lâm tự, mang về 23 huy chương bạc và đồng. Từ 1993 đến nay, bắt đầu những thế hệ vàng các tuyển thủ Wushu Việt Nam liên tục đạt huy chương tại các kỳ thi đấu quốc tế, như:
{ "split": 6, "title": "Wushu", "token_count": 289 }
22,708
Title: Wuzetka Wuzetka là một chiếc bánh kem sô cô la Ba Lan. Tên của nó bắt nguồn từ Warsaw WZ Route, nơi cửa hàng bánh đầu tiên bắt đầu bán món tráng miệng vào đầu những năm 1940 tọa lạc. Ban đầu món tráng miệng được phục vụ bởi các quán cà phê và nhà hàng, nhưng chẳng mấy chốc, nó đã trở thành món ăn làm tại nhà được yêu thích ở Ba Lan. "Wuzetka" được làm bằng hai lớp bọt xốp sô cô la xếp lớp với mứt Ba Lan (gần như không bao giờ được làm từ trái cây họ cam quýt) hoặc mứt và kem đánh bông, phủ kem sô cô la và chấm kem. Lịch Sử. Món tráng miệng rất có thể bắt nguồn từ đầu những năm 1940 và 1950 tại một trong những cửa hàng đồ ngọt mới thành lập ở Warsaw. Tuy nhiên, nguồn gốc chính xác của cái tên còn gây tranh cãi; các nhà sử học và một số nguồn nhất định đồng ý rằng chiếc bánh có lẽ được đặt tên theo Đường Warsaw W-Z (Đường Đông Tây), chạy cạnh cửa hàng. Các nguồn khác nói rằng cái tên này xuất phát từ từ viết tắt "WZC", viết tắt của các Nhà máy bánh kẹo Warsaw (Warszawskie Zakłady Cukiernicze) hoặc cho thuật ngữ tiếng Ba Lan "bánh ngọt với sô cô la" (wypiek z czekoladą). Chữ viết tắt "WZK" của "bánh ngọt với kem" (wypiek z kremem) cũng là một khả năng. Cửa hàng bánh kẹo rất có thể nằm ở đâu đó gần hoặc trong tòa nhà rạp chiếu phim "Kino Muranów" trên đường 5 Andersa, thuộc quận Muranów của Warsaw. Cách Làm. Hai lớp sô cô la hình vuông của bánh được làm từ bột mì, trứng, đường và ca cao. Hỗn hợp này được nướng trong lò ở 180 độ C (356 độ F) trong 20–30 phút. Các lớp nướng sau đó được nhúng và ngâm trong rượu Punch. Lớp trên cùng được phủ mỏng trong mứt cam, bột hoặc mứt, tiếp theo là lớp phủ socola dày. Nhân kem được làm từ 36% kem tươi, đường bột và gelatin. Theo truyền thống, chiếc bánh được phủ một lớp kem tươi.
{ "split": 0, "title": "Wuzetka", "token_count": 512 }
22,709
Title: Xà hình quyền Rắn là một trong những loài động vật tiêu biểu được con người quan sát để học tập, hình thành các bí quyết võ công và vận dụng vào việc di chuyển, né tránh, chống đỡ, truy kích… khi gặp đối phương là con Rắn (trong thuật ngữ Võ học gọi “Xà quyền”). Xà hình quyền là một bài võ tiêu biểu của võ học Trung Hoa. Vì bắt chước hình, thần, ý, kình của rắn mà có tên là Xà hình quyền. Nguồn gốc. Thời nhà Minh, Thiếu Lâm quyền và Nam quyền, trong đó đã có xà quyền. Thời nhà Thanh trong Hình ý quyền, Bát quái chưởng đã có xà hình thủ bộ, gần đây đã dần hoàn chỉnh. Các nơi như Triết Giang, Quảng Tây, Phúc Kiến, Quảng Đông, Giang Tô, Hồ Nam, Giang Tây, cho đến Hồng Kông, Đài Loan cũng đều truyền tập. Có giá trị thực dụng tương đối cao, trong chiến đấu thực sự thì yêu cầu: “Thân phải lắc lư, bộ hình phải di chuyển không ngừng, hai tay chợt né vươn mà đánh, bước vòng vèo bước (bộ) hợp thân, ...; dùng chỉ pháp (ngón tay) thọc vào yết hầu (cổ họng) nhanh và chính xác, hai rồng vờn ngọc chưởng phục nhắm vào hai bên sườn và hông của địch, tay hạc chợt mổ vào chợt đánh đỉnh; chân khi nhóm điểm lúc hạ thấp lờn vờn xung quanh tìm chỗ sơ hở mà tiến vào, vuốt hổ tiến, tiến nhanh ứng chậm, khéo mền vờn. Phát kình hét lên tiếng trợ thế, lấy khí thúc kình, lấy mắt chuyển thần”, uy phong ngời ngời, thần thái sung mãn. Tại Việt Nam. Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu võ học tiền bối cũng đã sớm chuyển hóa, phổ quát các tính năng đặc biệt tinh diệu của loài rắn vào nhiều bài quyền thuật, binh khí lẫn các biệt chiêu, đòn thế hóc hiểm và một số tuyệt kỹ võ chiến đấu của dân tộc.
{ "split": 0, "title": "Xà hình quyền", "token_count": 467 }
22,710
Title: Xà hình quyền Những tính năng tinh diệu của rắn chính là khả năng phóng xa, trườn nhanh, quất mạnh, uốn lượn, cuốn, siết, cắn, mổ, chuyển hóa linh diệu (thoắt ẩn, thoắt hiện, khi mềm dẻo, khi cứng rắn, cường mãnh…), ứng biến mau lẹ, rình mồi, săn mồi, vồ mồi cực kỳ chính xác, hiệu nghiệm, thích nghi ở mọi lúc, mọi nơi (dưới đất, trên cây, trong hang động). Đặc biệt, “vũ khí” độc hiểm nhất của rắn chính là ở miệng, ở nọc. Cùng với các biệt chiêu thần diệu, biến hóa khôn lường và các bí thuật cực kỳ độc hiểm của môn “Võ rồng” (Long quyền), “Võ Hổ” (Hổ quyền), “Võ Khỉ” (Hầu quyền), “Võ Hạc” (Hạc quyền), “Võ gà” (Kê quyền)… thì môn “Võ Rắn” (Xà quyền) còn mang cả những bí quyết độc đáo được phổ quát trong các đồ hình “Bát Quái pháp”, đồ hình “Tấn pháp” (bộ chân, trong võ thuật còn gọi “bộ ngựa”) và nhiều bộ pháp quan yếu khác. Trong đó các tính năng đặc dị của môn “Xà quyền” được tổ tiên chúng ta nâng lên thành những quyền năng tuyệt thế để áp dụng một cách hiệu nghiệm trong chiến đấu. Từ các bộ pháp linh ứng và tuyệt kỹ võ công này đã giúp Võ Việt có điều kiện khai mở, hình thành nhiều thế võ, bài võ liên hoàn, chiến đấu sắc bén, mang tầm sát thương cao, phù hợp với từng đối phương, từng trận chiến, góp phần bổ sung vào kho tàng Võ cổ truyền dân tộc và sau này là nền Võ học Việt Nam ngày thêm đồ sộ.
{ "split": 1, "title": "Xà hình quyền", "token_count": 429 }
22,711
Title: Xà hình quyền Vào những năm 1965, 1966, người hâm mộ võ thuật Việt Nam không thể quên hình ảnh võ sư Cao Thành Sơn (con trai cố võ sư Cao Thành Sạn) luôn sử dụng xà quyền trong chiến đấu. Võ sư Đinh Chí Dũng dùng bài xà quyền đoạt huy chương vàng tại Hội diễn Võ cổ truyền toàn quốc năm 1987, những chuyến lưu diễn tại Ý, Nhật Bản, Liên Xô. Năm Tỵ, đôi điều về vũ điệu võ thuật Việt Nam trong xà quyền, là món quà xuân tặng bạn đọc đầu năm để hiểu biết thêm về tinh hoa của võ thuật dân tộc và thế giới. Kỹ thuật. Những thế võ uyển chuyển, bàn tay gập lại hình đầu rắn tạo ra những thế võ rắn, nhằm giúp con người mang lại lợi ích về sức khỏe, kỹ thuật tự vệ chiến đấu, rèn luyện những tính năng cần thiết: bình tĩnh, dũng cảm, kiên trì, thân pháp nhẹ nhàng, linh hoạt, ứng phó lanh và thích nghi với môi trường. Những võ sư tiền bối đã dựa vào những hành động, cử chỉ, cách săn mồi… của loài rắn, chọn lọc tinh vi đặt ra những chiêu thức, thế võ, đòn quyền mang tính chiến đấu cao trong sự cạnh tranh sinh tồn. Những miếng võ này được mô phỏng những hành động tự vệ, hoặc kiếm ăn bằng cách tấn công con mồi rồi sáng tạo ra. Môn võ mô phỏng động tác của loài rắn, gọi là xà quyền. Người tập môn võ này đòi hỏi là người am hiểu nội công ngoại lực, võ thuật tinh thông, kỹ thuật cao và phải biết biến hóa linh hoạt, nhanh nhẹn, tập luyện công phu, lâu dài, cương nhu biến hóa.
{ "split": 2, "title": "Xà hình quyền", "token_count": 374 }
22,712
Title: Xà hình quyền Rắn là loài bò sát không chân nhưng di chuyển rất nhanh là nhờ hệ cơ, các vảy rất khỏe. Nó di chuyển về phía trước dưới dạng vặn uốn thân hình qua lại thành nhiều đường cong gợn sóng. Những đòn đánh của rắn thường là đầu mổ, lưỡi quấn, răng cắn, thân vặn, đuôi móc… Rắn thường nằm cuộn mình, khi gặp địch thủ nó vươn thẳng đầu phóng tới với tốc độ cực kỳ mau lẹ khác thường. Trong giao đấu, người luyện xà quyền phải bình thản, trầm tĩnh, triển khai giác quan để cảm nhận các thế đánh của đối thủ, chỉ chờ cơ hội là xuất kích. Khí lực sẽ lưu thông từ sống lưng qua cánh tay tới tận đầu ngón tay. Khi va chạm, sức mạnh của khí lực nội tại tạo nên một uy lực rất lớn làm cho đối phương đau đớn dữ dội, có khi tử vong. Đòn đánh này y như tác hại nọc độc của rắn. Rắn là loài vật không có tay chân nên xà quyền không tận dụng đòn đấm mà sử dụng ức bàn tay và đầu ngón tay. Xà quyền chú trọng nội lực để tung đòn hạ thủ vào yếu huyệt của đối phương. Kỹ thuật xà quyền hoàn hảo, công thủ toàn diện, đòn công cũng là đòn thủ và ngược lại. Xà quyền có nhiều chiêu đánh bằng ngón tay: – Xà vương xuất động: ngón trỏ và ngón giữa thành hình lưỡi rắn chĩa ra phía trước, các ngón kia khép lại. Đòn này nhắm vào các điểm nhược của cơ thể như mắt, cổ họng. – Thanh xà tọa thủ: xếp các ngón tay lại như đầu một con rắn hổ đang uốn khúc vươn lên. Cùi chỏ uốn cong cho cánh tay vươn thẳng ra phía trước như một con rắn sẵn sàng lao tới, nhắm vào mắt, cuống họng. – Thủy xà thượng điêu: kích 5 đầu ngón tay vào cổ họng, nách đối phương…
{ "split": 3, "title": "Xà hình quyền", "token_count": 467 }
22,713
Title: Xà hình quyền Cử động loài rắn thật uyển chuyển nên người luyện xà quyền phải giữ thân hình linh hoạt, cánh tay nhuần nhuyễn, ước tính đúng thời điểm chạm đòn để chỉ gồng cứng tập trung cương lực nơi ức bàn tay hay các đầu ngón tay thôi. Xà quyền là những đòn tay mổ chọc vào đối phương bằng các ngón tay, giống như động tác mổ của loài rắn. Các thế võ, thủ pháp mang hình dáng con rắn, tính mỹ thuật cao. Tóm lại, đặc điểm kỹ thuật của xà quyền là trong nhu có cương, trong tĩnh có động, thân pháp linh hoạt, nhanh nhẹn, biến hóa, mắt sắc tay nhanh, công thủ nhất loạt. Hiện nay trên thế giới có những bài quyền nổi tiếng: Xà quyền luyện nguyệt (rắn thần luyện trăng), Kim xà lục khởi (rắn vàng dưới đất nhô lên), Xà phiên thiên chân (rắn quật động trời), Bạch xà phẫn mạt (rắn trắng phun bọt), Xà đằng tẩu lộ (rắn lăng lướt sương), Giác xà ứng vĩ (rắn sừng vẫy đuôi), Bạch xà thổ tín (rắn trắng lè nọc), Xà vương xuất động (vua rắn rời động)… Về khí giới thì có Xà hành đao, Xà hành kiếm, Cung đạn bát thảo tầm xà….
{ "split": 4, "title": "Xà hình quyền", "token_count": 333 }
22,714
Title: Xá lị Xá-lị hay xá-lợi (tiếng Phạn: शरीर "sarira"; chữ Hán: 舍利) là những hạt nhỏ có dạng viên tròn trông giống ngọc trai hay pha lê hình thành sau khi thi thể được hỏa táng hoặc thân cốt sau khi viên tịch của các vị cao tăng Phật giáo. Trong kinh Đại Bát Niết Bàn thì xá-lị của Đức Phật còn được gọi là "dhātu." Xá-lị được lưu giữ với mục đích để tỏa ra 'phước lành' hoặc 'ân sủng' (tiếng Phạn: "adhiṣṭhāna") trong tâm trí và kinh nghiệm của những người có liên hệ với nó. Xá lị cũng được tin có khả năng xua đuổi tà ác trong truyền thống Phật giáo Himalaya. Tên gọi. Danh từ Xá Lợi do âm tiếng Phạn là Sàrìrikadhàtu. Trước đó nói đến Xá Lợi, người ta nghĩ đến Xá Lợi của Đức Phật. Sau này có những vị tăng và sư đắc đạo, sau khi làm lễ trà tỳ, đệ tử cũng thu được nhiều xá lị. Tất cả những đồ dùng là di tích của Phật và các vị tăng như y, bình bát, tích trượng, v.v. đều gọi là xá lị. Hiện nay ở Miến Điện, người ta còn thờ tóc và móng tay của Đức Phật khi ngài còn sống đã cắt cho hai vị đệ tử tại gia đầu tiên. Trong kinh tạng Pali thường đề cập đến Xá Lợi Xương, Xá Lợi Răng và Ngọc Xá Lợi. Các sách của Phật giáo có ghi rõ: sau khi đức Phật tạ thế, thi thể ông được hoả táng, sau đó trong tro cốt người ta thu được nhiều viên cứng, có những viên trong suốt, long lanh như ngọc, đựng đầy trong 8 hộc 4 đấu. Người ta gọi đó là xá lợi.
{ "split": 0, "title": "Xá lị", "token_count": 426 }
22,715
Title: Xá lị Trong các lịch đại cũng đều có hiện tượng "xá lợi" của các chư tăng: pháp sư Quang Âm viên tịch tại Đài Loan năm 1975, di thể ngài để lại hơn 1.000 viên xá lợi màu nâu lấp lánh, viên to nhất có đường kính tới 4 cm, hơn 30 viên có đường kính 3 cm. Pháp sư Hồng Thuyên ở Singapore, viên tịch tháng 12/1990, tro cốt có tới 450 viên giống như thủy tinh các màu: hồng, trắng, bạc, vàng, nâu, đen... có viên còn lấp lánh như đá hoa cương. Nguyên nhân hình thành. Hiện nay, khoa học chưa lý giải được nguyên nhân hình thành xá lợi. Có nhiều giả thuyết giải thích sự hình thành của xá lị như: Những mẫu vật. Theo kinh sách của đạo Phật, khi đức Phật Thích Ca Mâu Ni nhập Niết bàn, thi thể Phật Thích Ca được các đệ tử hỏa táng. Sau khi lửa tàn, người ta tìm thấy trong tro có rất nhiều tinh thể trong suốt, hình dạng và kích thước khác nhau, cứng như thép, lóng lánh và tỏa ra những tia sáng muôn màu, giống như những viên ngọc quý, tất cả được 84.000 viên, đựng đầy trong 8 hộc và 4 đấu.
{ "split": 1, "title": "Xá lị", "token_count": 276 }
22,716
Title: Xá lị Trước đây nhiều người không theo Phật giáo không tin là có xá-lợi Phật, họ cho rằng đó chỉ là truyền thuyết. Mãi đến năm 1898, ông William Claxton Peppé, người Pháp, tiến hành khảo cổ tại vùng Pīprāvā (huyện Siddharth Nagar, bang Uttar Pradesh, Ấn Độ), gần Lumbini ở phía nam Nepal, đã tìm thấy một cái hộp bằng đá khá lớn, trong đó có chứa hai chiếc bình bằng đá và vài dụng cụ bằng đá khác như tách trà. Hai bình đá một lớn một nhỏ đều có chứa những viên xá-lợi. Bình đá nhỏ dạng hình cầu, chia thành hai phần thượng hạ. Nửa phần trên có hình tay cầm, khắc niên đại của vua Asoka và nội dung của nó như sau: "Đây là xá-lợi của Đức Phật. Phần xá-lợi này do bộ tộc Śākya, nước Śrāvastī phụng thờ". Chiếc bình đã chứng minh nội dung trong kinh Trường A-hàm và rải rác ở những bộ kinh khác về việc phân chia xá-lợi của Phật Thích Ca thành 8 phần cho 8 quốc gia cổ đại Ấn Độ sau khi Phật nhập Niết-bàn hoàn toàn là sự thật. Các hạt xá lị thường được đặt trong chén thủy tinh trên bàn thờ trong các chùa, đặt trong tượng Phật, hoặc đặt trên đỉnh tháp trong chùa. Theo như truyền thuyết thì tượng Phật vàng ở thủ đô Bangkok của Thái Lan có đến 7 hạt xá lị. Tại Việt Nam, ngọc xá lợi của Phật Thích Ca được Đại đức Narada Mahathera, tọa chủ chùa Vajirarama ở Sri Lanka tặng năm 1953 và được thờ tại Chùa Xá Lợi. Trong vườn tháp Huệ Quang trên núi Yên Tử, Việt Nam, có ngọn tháp tổ 9 tầng bằng đá là nơi thờ xá lị vua Trần Nhân Tông - vị tổ thứ nhất của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Ngoài ra, tại khu du lịch Đại Nam ở tỉnh Bình Dương, Việt Nam cũng có 2 hạt xá lợi được thờ ở khu chánh điện. Trong lịch sử Việt Nam.
{ "split": 2, "title": "Xá lị", "token_count": 470 }
22,717
Title: Xá lị Xá lợi cũng được ghi chép trong lịch sử Việt Nam. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, sau khi Phật hoàng Trần Nhân Tông viên tịch, đệ tử là Pháp Loa "thiêu được hơn ba ngàn hạt xá lỵ mang về chùa Tư Phúc ở kinh sư." Theo "Thánh đăng ngữ lục" và "Tam tổ thực lục," xá lợi của Điều ngự được Trần Anh Tông chia làm ba phần, tôn trí vào ba nơi: lăng Quy Đức (phủ Long Hưng), bảo tháp Huệ Quang tại chùa Hoa Yên (Yên Tử) và chùa Phổ Minh (Thiên Trường). Quan điểm xá lị đã được Ngô Sĩ Liên giải thích trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư - Bản Kỷ - Quyển II thời Lý Thái Tông như sau: "Thuyết nhà Phật gọi xá lỵ là tinh túy do tinh khí tụ lại, khi đốt xác, lửa không đốt cháy được cho nên gọi là bảo. Tương truyền người nào học Phật thành thì thân hóa như thế. Có lẽ vì sự đoạn tuyệt tình dục thì tinh khí kết lại thành ra như thế ấy. Người đời không thường thấy, cho là lạ, có biết đâu là tinh khí dương tụ lại mà thành thôi." Tóm lại, Ngô Sĩ Liên cho rằng xá lợi là do việc kiêng tình dục ở các vị sư tạo nên, cách giải thích này ngày nay được cho là không hợp lý (vì nếu đúng thì lẽ ra các thái giám cũng phải có xá lợi vì họ không có quan hệ tình dục). Hiện nay nhiều nơi còn lưu giữ toàn thân xá lợi (nhục thân không bị hủy hoại) của các vị cao tăng, như chùa Đậu có toàn thân xá lợi của 2 thiền sư Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường, chùa Tiêu có toàn thân xá lợi của thiền sư Như Trí...
{ "split": 3, "title": "Xá lị", "token_count": 406 }
22,718
Title: Xá lị Năm 1963, để chống lại chính sách đàn áp Phật giáo của chế độ Mỹ Diệm, hòa thượng Thích Quảng Đức đã tự thiêu. Thi hài ông được hỏa táng sau đó, nhưng trái tim của ông không hề bị thiêu cháy mà vẫn còn mềm, nóng, rồi mới nguội dần và cứng lại, biến thành một viên Xá lợi lớn, màu nâu thẫm. Khoảng 100 đệ tử có mặt trong lễ hỏa táng đã tận mắt chứng kiến hiện tượng lạ lùng đó. Đây cũng là một hiện tượng chưa ai giải thích được. "Trái tim xá lợi" được thỉnh về chùa Xá Lợi rồi mang sang chùa Việt Nam Quốc Tự để bảo vệ, vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.
{ "split": 4, "title": "Xá lị", "token_count": 161 }
22,719
Title: Xã Main, Quận Columbia, Pennsylvania Xã Main () là một xã thuộc quận Columbia, tiểu bang Pennsylvania, Hoa Kỳ. Năm 2010, dân số của xã này là 1.236 người. Khu vực này có dân định cư vào năm 1772 và thành lập vào năm 1844. Ngành công nghiệp sắt đã từng thịnh hành ở thị trấn. Xã Main nằm ngay phía nam của trung tâm quận Columbia và giáp với phía bắc của sông Susquehanna, được bao bọc bởi những con sông cao 500 foot (150 m). Cộng đồng chưa hợp nhất Mainville nằm ở trung tâm xã. Các rặng núi Nescopeck và núi Catawissa băng qua thị trấn ngay phía nam Mainville, ngăn cách bởi một khe nước do rạch Catawissa tạo thành.
{ "split": 0, "title": "Xã Main, Quận Columbia, Pennsylvania", "token_count": 161 }
22,720
Title: Xã hội học Xã hội học là khoa học về các quy luật và tính quy luật xã hội chung, và đặc thù của sự phát triển và vận hành của hệ thống xã hội xác định về mặt lịch sử; là khoa học về các cơ chế tác động và các hình thức biểu hiện của các quy luật đó trong các hoạt động của cá nhân, các nhóm xã hội, các giai cấp và các dân tộc. Xã hội học là môn khoa học xã hội còn rất non trẻ, mặc dù vậy nó cũng có một lịch sử phát triển riêng biệt. Trước thế kỷ XIX, xã hội học chưa tồn tại như một môn khoa học độc lập mà bị hòa tan vào trong các khoa học khác như nhân chủng học, dân tộc học, nhân học, tâm lý học, tâm lý học xã hội và đặc biệt là triết học - môn khoa học của mọi khoa học. Xã hội học xuất hiện ở châu Âu thế kỷ XIX với tư cách là một tất yếu lịch sử xã hội. Tính tất yếu đó thể hiện ở nhu cầu và sự phát triển chín muồi các điều kiện và tiền đề biến đổi và nhận thức đời sống xã hội. Các biến động to lớn trong đời sống kinh tế, chính trị và xã hội châu Âu vào thế kỷ XVIII và nhất là thế kỷ XIX đã đặt ra những nhu cầu thực tiễn mới đối với nhận thức xã hội. Lịch sử.
{ "split": 0, "title": "Xã hội học", "token_count": 283 }
22,721
Title: Xã hội học Bắt đầu từ thế kỷ XVIII, đời sống xã hội ở các nước châu Âu trở nên hết sức phức tạp. Cuộc cách mạng công nghiệp 1750 đã đưa đến những đảo lộn ghê gớm. Chủ nghĩa tư bản đã tạo ra những đô thị công nghiệp khổng lồ gây nên những làn sóng chuyển dịch dân cư lớn, kèm theo đó là những mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn dân tộc, mâu thuẫn tôn giáo căng thẳng, các quan hệ xã hội ngày càng thêm đa dạng và phức tạp. Xã hội rơi vào trạng thái biến động không ngừng: chiến tranh, khủng hoảng kinh tế, xung đột chính trị, suy thoái đạo đức, phân hoá giàu nghèo, bùng nổ dân số, các thiết chế cổ truyền tan rã hàng loạt... Những biến đổi chính trị, xã hội ở châu Âu đã đặt ra câu hỏi lý luận cơ bản của xã hội học. Đó là vấn đề làm thế nào phát hiện và sử dụng các quy luật tổ chức xã hội để góp phần tạo ra trật tự và tiến bộ xã hội. Các nhà triết học, các nhà khoa học xã hội thế kỷ XVIII và thế kỷ XIX khát khao nghiên cứu các hiện tượng, quá trình xã hội để phát hiện ra các quy luật tự nhiên của tổ chức xã hội, đặc biệt là "các quy luật của sự phát triển, tiến bộ xã hội". Trước tình hình như thế, xã hội nảy sinh một yêu cầu cấp thiết là cần phải có một ngành khoa học nào đó đóng vai trò tương tự như một bác sĩ luôn luôn theo dõi cơ thể sống - xã hội tiến tới giải phẫu các mặt, các lĩnh vực khác nhau trên bề mặt cắt của nó từ tầm vĩ mô đến vi mô, kể cả khi xã hội đó thăng bằng cũng như khi mất thăng bằng để chỉ ra trạng thái thật của xã hội đó, phát hiện ra những vấn đề xã hội ("social problems"), dự báo khuynh hướng phát triển của xã hội, và chỉ ra những giải pháp có tính khả thi.
{ "split": 1, "title": "Xã hội học", "token_count": 425 }
22,722
Title: Xã hội học Tại Châu Âu xuất hiện các cuộc cách mạng chính trị làm thay đổi sâu sắc xã hội và có ảnh hưởng lên toàn thế giới. Cuộc đại cách mạng Pháp năm 1789, làm biến đổi chính trị, xã hội quan trọng góp phần làm thay đổi căn bản thể chế chính trị, trật tự xã hội và các thiết chế xã hội châu Âu thế kỷ XVIII. Cuộc cách mạng này đã không chỉ mở đầu cho thời kỳ tan rã chế độ phong kiến, nhà nước quân chủ mà còn thay thế trật tự cũ đó bằng một trật tự chính trị xã hội mới là "nhà nước tư sản". Công xã Paris năm 1871 - mâu thuẫn sâu sắc về lợi ích giữa các tầng lớp xã hội và nhất là giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản đã lên đến đỉnh điểm làm bùng nổ cuộc cách mạng vô sản đầu tiên trên thế giới vào cuối thế kỷ XIX; và sau này là cuộc cách mạng tháng Mười Nga năm 1917.
{ "split": 2, "title": "Xã hội học", "token_count": 200 }
22,723
Title: Xã hội học Tiền đề lý luận và phương pháp luận làm nảy sinh xã hội học bắt nguồn từ những tư tưởng khoa học và văn hóa thời đại Phục Hưng thế kỷ XVIII (thời kỳ Khai sáng). Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và đặc biệt là phương pháp luận nghiên cứu khoa học cũng là nhân tố quan trọng cho sự ra đời "xã hội học". Các cuộc cách mạng khoa học diễn ra ở thế kỷ XVI, XVII và đặc biệt là thế kỷ XVIII đã làm thay đổi căn bản thế giới quan và phương pháp luận khoa học. Các cuộc cách mạng thương mại và công nghệ cuối thế kỷ XVIII đã làm lay chuyển tận gốc trật tự kinh tế cũ tồn tại và phát triển hàng trăm năm trước đó. Hình thái kinh tế xã hội phong kiến bị sụp đổ từng mảng lớn trước sự bành trướng của thương mại và công nghiệp. Sự tác động của tự do hóa thương mại, tự do hóa sản xuất và đặc biệt là tự do hóa lao động; hệ thống tổ chức quản lý kinh tế theo kiểu truyền thống đã bị thay thế bằng cách tổ chức xã hội hiện đại. Do vậy, thị trường đã được mở rộng, hàng loạt nhà máy, xưởng và tập đoàn kinh tế đã ra đời thu hút nhiều lao động từ nông thôn ra thành thị làm thuê. Của cải, đất đai, tư bản không còn tập trung trong tay tầng lớp phong kiến mà rơi vào tay giai cấp tư sản. Sự xuất hiện và phát triển hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa đã phá vỡ trật tự xã hội phong kiến gây những xáo trộn và biến đổi trong đời sống kinh tế xã hội của các tầng lớp, giai cấp và các nhóm xã hội. Từ đó nảy sinh nhu cầu thực tiễn phải lập lại trật tự, ổn định xã hội và nhu cầu nhận thức để giải quyết những vấn đề mới mẻ nảy sinh từ cuộc sống đang biến động đó. Trong bối cảnh đó, "Xã hội học" đã ra đời để đáp ứng nhu cầu nhận thức các biến đổi xã hội và lập lại trật tự xã hội.
{ "split": 3, "title": "Xã hội học", "token_count": 431 }
22,724
Title: Xã hội học Sau khi ra đời, xã hội học đã phát triển rực rỡ và có được những bước tiến dài trong việc xây dựng nền tảng cũng như các phân ngành xã hội học ở các nước công nghiệp phát triển. Có thể nói những thành tựu to lớn mà các nước công nghiệp phát triển đạt được là có sự đóng góp đáng kể của ngành khoa học xã hội học. Ngày nay, xã hội học đã có mặt ở hầu khắp các nước trên thế giới và chiếm một vị trí xứng đáng trong hệ thống lý thuyết cũng như ứng dụng. Nó được coi là môn khoa học phát triển. Rất nhiều trường phái xã hội học hiện đai nổi tiếng có ảnh hưởng lớn trên thế giới. Chẳng hạn như trường phái lý thuyết hệ thống của Talcott Parsons (Đại học Harvard), trường phái xã hội học đô thị (Đại học Chicago), trường phái xã hội học tội phạm (Đại học Michigan), trường phái lý thuyết tương tác biểu tượng (Đại học Chicago)... Những người sáng lập. Auguste Comte (1798-1857). Thuật ngữ "Xã hội học" ("sociology") bắt nguồn từ gốc chữ latin: Societas (xã hội) và chữ Hy Lạp: Lógos (ngôn từ, học thuyết). Khái niệm này được chính A. Comte xây dựng và đưa vào hệ thống tri thức khoa học lần đầu tiên vào năm 1838. Ông là nhà vật lý học, toán học, thiên văn học và triết học người Pháp. Ông nổi tiếng về "quy luật ba trạng thái" nhằm giải thích sự vận động và phát triển của xã hội. Ông chia xã hội ra thành hai phần "tĩnh học xã hội" ("statical society") và "động học xã hội" ("dynamic society"). Ông cũng đúc kết ra lý thuyết "nhận thức thực chứng" khởi đầu cho xã hội học thực nghiệm. Ông được coi không chỉ là người đặt tên mà còn thực sự đặt những viên gạch lý thuyết đầu tiên cho ngành khoa học này. Các tác phẩm chính của ông là: "Giáo khoa về triết học thực chứng" (1830-1842), "Hệ thống xã hội thực chứng" (1851-1858) Karl Marx (1818-1883).
{ "split": 4, "title": "Xã hội học", "token_count": 474 }
22,725
Title: Xã hội học Nhà triết học, kinh tế học người Đức. Lúc sinh thời Karl Marx không coi mình là nhà xã hội học, nhưng những tư tưởng trong di sản đồ sộ của ông đã ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành và phát triển của xã hội học. Dường như tất cả các nhà xã hội học hiện đại khi giải thích xã hội đều tiếp cận bằng lý thuyết mâu thuẫn và xung đột của K. Marx. Các nhà xã hội học ""đều vay mượn của Marx các lý giải về giai cấp, ngay cho dù nhà xã hội học đó kết thúc bằng cách bài bác Marx như là sai lầm và bị lịch sử vượt qua". Marx viết "Lịch sử tất cả các xã hội tồn tại từ trước đến ngày nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp... một cuộc đấu tranh bao giờ cũng kết thúc hoặc bằng một cuộc cải tạo cách mạng toàn bộ xã hội, hoặc bằng sự diệt vong của hai giai cấp đấu tranh với nhau"". K.Marx chủ yếu sử dụng lý thuyết mâu thuẫn để làm sáng tỏ biến chuyển xã hội. Đó là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa các giai cấp cơ bản kiến tạo nên xã hội. Các vấn đề như: phân tầng xã hội, tội phạm, biến chuyển xã hội... đều được các nhà xã hội học đương đại xem xét dưới ánh sáng lý thuyết mâu thuẫn của Marx. Các tác phẩm chính: "Gia đình thần thánh" (1845), "Hệ tư tưởng Đức" (1846), "Sự khốn cùng của triết học" (1847), "Tư bản" (1875). Herbert Spencer (1820-1903). Nhà triết học và xã hội học người Anh. Ông được coi là cha đẻ của triết học tiến hóa. Herbert Spencer đã dùng lý thuyết này để giải thích sự biến đổi xã hội. Mặc dù một vài quan điểm của ông bị phê phán nhưng vai trò của ông vẫn có những ảnh hưởng lớn tới các nhà xã hội học hậu thế. Các tác phẩm chính: "Thống kê xã hội" (1950), "Nghiên cứu xã hội học" (1837), "Các nguyên tắc của xã hội học" (1876), "Xã hội học mô tả" (1873-1881). Emile Durkheim (1858-1917).
{ "split": 5, "title": "Xã hội học", "token_count": 492 }
22,726
Title: Xã hội học Nhà xã hội học nổi tiếng được coi là cha đẻ của xã hội học Pháp. Ông là người lập ra chuyên ngành xã hội học ở trường Đại học Bordeaux và ở Đại học Sorbonne của Paris. Các nhà xã hội học trên thế giới ngày nay đều ảnh hưởng rất nhiều lối tiếp cận cấu trúc-chức năng của ông. E. Durkheim đã cố gắng tách các sự kiện, hiện tượng xã hội ra khỏi sự chi phối của con người và yêu cầu xem xét chúng như các "vật thể" để không áp đặt vào chúng những định kiến đã có sẵn. Ông cũng là người sáng lập ra "Niên giám xã hội học" nhằm tập hợp các công trình khoa học của các nhà xã hội học đương thời. Ông là người có công lao rất lớn trong việc hình thành và phát triển ngành xã hội học hiện đại. Các tác phẩm chính: "Phân công lao động xã hội" (1893), "Các quy tắc của phương pháp xã hội học" (1897), "Tự tử" (1897), "Các hình thức cơ bản của đời sống tôn giáo" (1912). Emile Durkheim đã phát biểu rằng: cuối cùng thì nhà xã hội học phải chẩn đoán xem xã hội ở trong tình trạng "khỏe mạnh" hay "bệnh tật" và sau đó nhà xã hội học phải kê đơn những loại thuốc cần cho sức khỏe của xã hội. Và mãi cho đến nửa sau của thế kỷ XIX, xã hội học mới xuất hiện với tư cách là một môn khoa học độc lập có đối tượng, chức năng và phương pháp riêng biệt. Max Weber (1864-1920). Nhà xã hội học Đức, được coi là một trong những nhà xã hội học lớn nhất đầu thế kỷ XX. Lĩnh vực được ông chú ý nhiều là hành động xã hội. Ngoài ra, Max Weber còn dành khá nhiều thì giờ nghiên cứu về đạo Tin lành, về tổ chức quan liêu, về sự phát triển của chủ nghĩa tư bản... Những tư tưởng của ông đã để lại khá đậm nét cho các thế hệ xã hội học sau này không chỉ về lý thuyết mà còn các phương pháp tiếp cận xã hội.
{ "split": 6, "title": "Xã hội học", "token_count": 456 }
22,727
Title: Xã hội học Các tác phẩm chính: "Những tiểu luận phương pháp luận" (1902), "Đạo đức Tin lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản" (1904), "Kinh tế và xã hội" (1910-1914), "Xã hội học tôn giáo" (1916). Đối tượng và chức năng. Đối tượng nghiên cứu. Xã hội học là gì? Một câu hỏi không dễ trả lời trong một định nghĩa ngắn gọn. Các cuộc tranh luận dữ dội về vấn đề này đã tạm lắng dịu. Các nhà xã hội hội học đều cảm thấy có lý rằng "đơn giản là không có một xã hội học được duy nhất thừa nhận và cung cấp được tất cả các câu trả lời" vì "do không có kiểu phát triển duy nhất của xã hội cho nên không thể có quan điểm xã hội học duy nhất". Các nhà xã hội học đương đại đi tìm câu trả lời cho các câu hỏi như: xã hội học nghiên cứu cái gì?, nghiên cứu những lĩnh vực nào của đời sống xã hội?, và nghiên cứu nó như thế nào?
{ "split": 7, "title": "Xã hội học", "token_count": 224 }
22,728
Title: Xã hội học Trước hết xã hội học nghiên cứu mặt xã hội của xã hội. Nhưng mặt xã hội đó lại là đối tượng nghiên cứu chung của nhiều ngành khoa học khác nhau. Chẳng hạn nó là đối tượng của khoa học kinh tế khi nghiên cứu về sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng vật chất, hoặc nó trở thành đối tượng của khoa học chính trị khi nghiên cứu về quyền lực, nó là đối tượng của khảo cổ học khi nghiên cứu những gì còn lại của những nền văn minh đã mất... Còn "xã hội học là khoa học nghiên cứu chủ yếu về các khuôn mẫu của các tương tác con người trong xã hội ("social interactions")". Các tương tác đó diễn ra trong trường quan hệ xã hội giữa các chủ thể xã hội (cá nhân, nhóm, cộng đồng, xã hội tổng thể) diễn ra trong các hoạt động xã hội (sản xuất, văn hóa, tái sản sinh xã hội, quản lý, giao tiếp). Để nghiên cứu được những điều đó, xã hội học phải bắt đầu từ các sự kiện, hiện tượng và quá trình xã hội. Trên cơ sở đó nhằm nắm bắt cho được trạng thái chất lượng của xã hội ở tầm vĩ mô hay vi mô, ở bề mặt cắt hay tầng sâu tiềm ẩn, ở một thời gian cụ thể và trong một không gian xác định với mục đích là thay đổi trạng thái đó theo chiều hướng có lợi hơn và tiến bộ hơn. Như thế nếu xã hội học sử dụng kết quả của khảo cổ học hay dân tộc học khi nghiên cứu quá khứ, thì cũng là để phục vụ cho việc nắm bắt trạng thái xã hội đương đại. Tương tự như thế, xã hội học có thể liên kết chặt chẽ với tâm lý xã hội, nhân chủng học, kinh tế học hay luật học thì mục tiêu cuối cùng hướng đến cũng là đi tìm về một trang thái xã hội hiện thực nào đó. Chức năng. Mỗi một môn khoa học đều có một số chức năng nhất định. Chức năng của mỗi môn khoa học được phản ánh ở mối quan hệ và sự tác động qua lại của chính môn khoa học đó với thực tiễn xã hội. Xã hội học có sáu chức năng cơ bản sau đây:
{ "split": 8, "title": "Xã hội học", "token_count": 457 }
22,729
Title: Xã hội học A. Chức năng nhận thức. Xã hội học cũng giống như các môn khoa học khác là trang bị cho người nghiên cứu môn học những tri thức khoa học mới, nhờ đó mà chúng ta có được nhãn quan mới mẻ hơn khi tiếp cận tới các hiện tượng xã hội, sự kiện xã hội và quá trình xã hội vốn rất gần gũi rất quen thuộc quanh chúng ta, và như thế xã hội hiện ra dưới mắt chúng ta sáng rõ hơn mà trước đó chúng ta chưa bao giờ được biết đến hoăc biết đến rất ít. B. Chức năng tư tưởng. Xã hội học giúp chúng ta nhận thức đầy đủ sức mạnh và vị trí của con người trong hệ thống xã hội, góp phần nâng cao tính tích cực xã hội của cá nhân và hình thành nên tư duy khoa học trong khi xem xét, phân tích, nhận định, dự báo về các sự kiện, hiện tượng và quá trình xã hội. C. Chức năng dự báo. Trên cơ sở nhận diện được hiện trạng xã hội thực tại và sử dụng các lý thuyết dự báo, các nhà xã hội học sẽ mô tả được triển vọng vận động của xã hội trong tương lai gần cũng như tương lai xa hơn. Dự báo xã hội là một thế mạnh của xã hội học. Có thể nói trong tất cả các môn khoa học xã hội thì xã hội học có chức năng dự báo mạnh nhất và hiệu quả nhất.
{ "split": 9, "title": "Xã hội học", "token_count": 288 }
22,730
Title: Xã hội học F. Chức năng thực tiễn. Xã hội học thực sự góp một phần hết sức quan trọng vào việc cải biến hiện thực. Auguste Comte cha đẻ của ngành khoa học này ngay từ lúc sơ khai đã nhấn mạnh chức năng cải tạo xã hội của nó mà ông tóm tắt trong mệnh đề rất nổi tiếng ""Biết dự đoán, biết kiểm soát". Còn các nhà xã hội học Anh cũng đã khẳng định "Xã hội học không chỉ đơn thuần là một ngành khoa học lý giải và phân tích đời sống xã hội, mà còn là phương tiện thay đổi xã hội". Marx thì cho rằng "Các nhà triết học cho tới nay mới chỉ giải thích thế giới. Vấn đề là biến đổi thế giới". Các nhà xã hội học cho rằng nếu như họ kém cỏi đến mức không làm được cái gì cả thì chí ít "những dữ liệu của họ cũng thường được sử dụng để xây dựng các chính sách". Xã hội học không phải là khoa học nghiên cứu hoạt động quản lý, nhưng các hoạt động quản lý kể cả quản lý kinh tế, hành chính hay nhân sự chỉ trở nên tối ưu khi mà biết sử dụng tốt các kết luận, nhận định và dự báo của xã hội học. Các phương pháp, các kỹ thuật thao tác, các cách thức tiếp cận xã hội của xã hội học được các ngành khoa học khác nhau cũng như các lĩnh vực khác nhau của kinh tế, chính trị, văn hóa... sử dụng như một công cụ hữu ích và hết sức cần thiết trong quá trình hoạt động. Chúng ta có thể thấy rõ điều đó qua các cuộc thăm dò dư luận xã hội trước các cuộc tranh cử, hay các phương pháp điều tra của xã hội học được ứng dụng vào việc thăm dò nhu cầu, thị hiếu khách hàng trong marketing. Do vậy "xã hội học sẽ làm một công cụ hữu hiệu để cho con người có thể xây dựng cho mình một xã hội tốt đẹp hơn". Xã hội học ở Việt Nam.
{ "split": 10, "title": "Xã hội học", "token_count": 411 }
22,731
Title: Xã hội học Việt Nam ban đầu xây dựng nền khoa học xã hội mà chủ yếu theo mô hình của Liên Xô, không coi trọng ngành xã hội học. GS Phạm Đức Dương cho biết nguyên nhân: "Đối với phe xã hội chủ nghĩa, ngành Xã hội học không được mấy quan tâm bởi nhẽ người ta coi đó là một ngành khoa học theo quan điểm và phương pháp tiếp cận tư bản chủ nghĩa, đối lập với chủ nghĩa duy vật lịch sử Marxist. Thật ra bộ máy tập trung quan liêu của mô hình xã hội chủ nghĩa trước đây không ưa gì Xã hội học"". Cho nên đến những năm đầu thập niên 1970, Xã hội học vẫn còn là một ngành khoa học khá xa lạ trong nền khoa học xã hội Việt Nam. Sau đó do nhận thức được sự quan trọng của ngành Xã hội học, nên vào năm 1977, Ban Xã hội học thuộc Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam được thành lập do ông Vũ Khiêu làm Trưởng ban. Đây là cơ quan chuyên môn xã hội học đầu tiên được xây dựng trong Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam.
{ "split": 11, "title": "Xã hội học", "token_count": 228 }
22,732
Title: Xã hội nguyên thủy Xã hội nguyên thủy (hay còn gọi là công xã thị tộc) là giai đoạn đầu tiên và dài nhất trong lịch sử phát triển của loài người, từ khi có con người xuất hiện trên Trái Đất đến khi xã hội nguyên thủy chuyển đổi thành xã hội giai cấp và xuất hiện chế độ nhà nước. Việc mô tả xã hội nguyên thủy được nêu trong khái niệm về "Chủ nghĩa cộng sản nguyên thủy" do Karl Marx và Friedrich Engels đưa ra. Các nước trong Hệ thống xã hội chủ nghĩa trước đây đã biên tập trong sách giáo khoa phổ thông từ những năm 1950, và hiện còn dùng tại Việt Nam. Xã hội nguyên thủy phát triển kế thừa lối sống xã hội bầy đàn của linh trưởng tổ tiên, và thể hiện gần gũi nhất hiện có hai loài là tinh tinh và bonobo ở châu Phi . Xã hội nguyên thủy cũng kết thúc khác nhau ở các vùng và dân tộc khác nhau. Nhiều dân tộc ở châu Phi, châu Á và Nam Mỹ đã có lối sống không thay đổi trong chục nghìn năm qua, và họ được coi là bảo tàng sống của loài người về thời nguyên thủy, như người Hadza , San (Châu Phi), Sentinel (Châu Á), Vanuatu (Châu Đại Dương)... Thị tộc và bộ lạc. Người tinh khôn với số lượng nhất định, kế thừa lối sống linh trưởng tổ tiên, đã tổ chức thành thị tộc là những nhóm người gồm vài chục gia đình, có quan hệ gần gũi với nhau, thậm chí do cùng một bà mẹ đẻ ra (hay gọi là có quan hệ huyết thống với nhau), sống quây quần cùng làm chung ăn chung . Người tinh khôn có khả năng ăn tạp, ban đầu sống dựa theo hái lượm cây trái và săn bắt các con thú. Bên cạnh kỹ năng tự kiếm ăn, họ đã biết hợp sức nhau săn đuổi, tức là dùng số đông người bao vây lấy bầy động vật, dồn cho chúng lao xuống vực, sau đó mới ném đá, phóng lao xuống cho chúng chết hẳn. Vì vậy, những công việc như thế, luôn đòi hỏi sự phối hợp ăn ý với nhau.
{ "split": 0, "title": "Xã hội nguyên thủy", "token_count": 459 }
22,733
Title: Xã hội nguyên thủy Theo mô tả trong sách giáo khoa tại Việt Nam thì trong nội bộ thị tộc, người ta không phân biệt "đâu là của anh và đâu là của tôi". Nói cách khác, trong thị tộc không có sở hữu tư nhân, nhưng có sở hữu của thị tộc. Tuy nhiên, là một động vật xã hội thì trong thị tộc có sự "phân chia đẳng cấp" nhất định. Sự phân chia này xác định nhiệm vụ của cá thể trong các hoạt động có tổ chức khi săn bắt hoặc tranh chấp lãnh thổ. Tại các thị tộc khác nhau thì quan hệ quyền lực của đẳng cấp với nhau là khác nhau, giống như các dân tộc hiện đại đang có những tập quán khác nhau. Mỗi thị tộc chiếm cứ một khu vực xác định, tức lãnh thổ của thị tộc. Sự phát triển không đều của các thị tộc, gồm có hoặc phát triển lên và phân chia ra các thị tộc mới, hoặc tàn lụi do bệnh tật hay tai biến, cùng với xâm lấn lãnh thổ của thị tộc khác, dẫn đến lãnh thổ có thể thay đổi. Áp lực dân số từ các thị tộc phát triển hơn, dẫn đến các biên giới lãnh thổ thay đổi theo định hướng nhất định, tạo ra hiện tượng gọi là "Các dòng di cư sớm thời tiền sử". Buổi đầu của thời đại kim khí. Việc phát hiện ra kim loại để làm công cụ lao động có ý nghĩa hết sức to lớn. Trước kia con người chỉ biết sử dụng đá để làm công cụ. Cho tới khoảng 4000 năm TCN, con người đã phát hiện ra "đồng kim loại". Đồng kim loại rất mềm, nên chủ yếu dùng làm đồ trang sức. Sau đó họ biết pha đồng với thiếc và chì cho đồng cứng hơn, gọi là "đồng thau". Từ đó, người ta đã đúc ra được các loại rìu, cuốc, thương giáo, lao, mũi tên, trống đồng,v.v... Khoảng 3000 năm trước đây, cư dân ở Tây Á và Nam Âu là những người đầu tiên biết đúc và dùng đồ sắt để làm lưỡi cày, cuốc, liềm, kiếm, dao găm, v.v... Nhờ có công cụ kim khí, con người có thể khai phá thêm đất hoang, tăng năng suất lao động, sản phẩm làm ra ngày càng nhiều, không chỉ đủ ăn mà còn có của dư thừa... Xã hội nguyên thủy kết thúc.
{ "split": 1, "title": "Xã hội nguyên thủy", "token_count": 511 }
22,734
Title: Xã hội nguyên thủy Do có công cụ lao động mới, tức sự xuất hiện các công cụ kim loại, một số người có khả năng lao động giỏi hơn, tạo ra nhiều của cải hơn đến nỗi dư thừa, hoặc lợi dụng vị trí hay uy tín của mình để chiếm đoạt một phần của cải dư thừa của người khác và trở nên giàu có, còn một số người khác lại khổ cực thiếu thốn. Chế độ "làm chung, ăn chung, hưởng chung" ở thời kì công xã thị tộc bị phá vỡ. Xã hội nguyên thủy dẫn tan rã, nhường chỗ cho xã hội có giai cấp. Tham khảo. 2. Lương Ninh, "Lịch sử thế giới cổ đại", Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 2002
{ "split": 2, "title": "Xã hội nguyên thủy", "token_count": 157 }
22,735
Title: Xã trưởng thời Hậu Lê Xã trưởng thời Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam là chức quan được giao nhiệm vụ quản lý xã – đơn vị hành chính cấp trên thôn và dưới hương. Chức này không phải do triều đình nhà Hậu Lê cắt cử mà do nhân dân địa phương tự thống nhất đề cử lên, được các cấp trên của triều đình xét duyệt. Quy mô và số lượng. Từ thời thuộc Đường, do dân cư Việt Nam còn ít, tiểu xã chỉ gồm 10-30 hộ, đại xã từ 40-60 hộ. Sang thời Hậu Lê, dân cư đông đúc lên nhiều, năm 1483 Lê Thánh Tông quy định đại xã từ 500 hộ trở lên, trung xã từ 300 hộ trở lên và tiểu xã 100 hộ. Trong "đại xã" được cử 5 xã trưởng, "trung xã" được cử 4 xã trưởng, "tiểu xã" cử 2 xã trưởng. Với tiểu xã chỉ có không đầy 60 hộ được cử 1 xã trưởng. Sử sách không chép rõ việc phân công trách nhiệm giữa các xã trưởng trong cùng xã ra sao, họ chia nhau quản lý theo mỗi người một số hộ hay theo từng lĩnh vực chuyên trách... Tiêu chuẩn. Tiêu chuẩn với người được bầu làm xã trưởng là những người thuộc các thành phần: Sử sách không chép rõ cách thức bầu xã trưởng. Việc bầu xã trưởng xong phải báo lên quan trên huyện, châu. Các quan trên sẽ kiểm tra lại, nếu ở đâu bầu sai người thì sẽ bị bãi miễn. Việc bầu xã trưởng thể hiện tính dân chủ đẳng cấp thời Hậu Lê. Chức năng, nhiệm vụ. Thu thuế. Chế độ ruộng đất thời Hậu Lê phức tạp, có nhiều loại thuộc quyền sử dụng khác nhau. Hằng năm xã trưởng có nhiệm vụ thu đủ số thóc thuế ở ruộng công thuộc phạm vi xã quản lý nộp vào kho của triều đình. Nếu xã trưởng không thu đủ theo kỳ hạn hoặc biển thủ sẽ bị xử tội lưu đày. Những năm hạn hán, mất mùa, xã trưởng phải trình báo lên trên huyện, phủ để xin miễn giảm thuế cho dân. Nếu xã trưởng để thiếu số thu trong xã thì theo quy định, cả xã trưởng và người dân thiếu thuế phải truy thu: cứ mỗi suất người dân thiếu phải nộp 7 phần, xã trưởng nộp 3 phần. Các xã trưởng cố ý thu cao hơn quy định để tư túi mà bị phát hiện sẽ bị phạt và phải trả lại cho dân. Giữ an ninh trật tự.
{ "split": 0, "title": "Xã trưởng thời Hậu Lê", "token_count": 506 }
22,736
Title: Xã trưởng thời Hậu Lê Xã trưởng có trách nhiệm về an ninh trong xã. Xung quanh làng cho trồng che gai để phòng trộm cướp. Các trai đinh trong làng được tổ chức thành từng đội với vũ trang thô sơ để thay nhau đi tuần phòng, dưới sự chỉ huy của Xã sử hoặc xã tư. Dân làng xã hoặc xã bên cạnh nghe hiệu lệnh có trôm cướp phải đến hợp lực đánh cướp. Nếu dân làng hoặc xã bên cạnh trốn tránh không đến cứu thì phạt theo luật lệ. Với xã trưởng thiếu trách nhiệm cũng bị trị tội theo luật, chỉ trường hợp cướp quá mạnh thì không truy cứu. Người có công đánh cướp được thưởng theo lệ làng, người bị thương được dân làng trích tiền chạy chữa; người bị chết được chôn cất chu đáo. Tại các chùa, quán và nhà dân có sư, đạo sĩ hay người lạ đến trú ngụ trên 5 ngày phải khai báo với xã trưởng; nếu không khai báo sẽ bị biếm 1 tư; người trú ngụ quá 3 tháng mà xã trưởng che giấu thì bị tội biếm chức hoặc tội đồ. Đầy tớ nhà quyền thế cậy thế ăn hiếp dân lành mà xã trưởng bỏ qua không báo quan trên sẽ bị biếm 1 tư. Tại đường làng ngõ xóm, đầu đường xó chợ có người đau ốm không ai thăm nuôi thì xã trưởng phải dựng lều cho họ ở và chăm sóc; chẳng may người óm bị chết thì phải chôn cất và trình báo lên trên. Nếu làm trái lệnh, xã trưởng sẽ bị bãi chức. Chọn lính. Xã trưởng phải chọn người đủ tiêu chuẩn sức khoẻ đăng lính và không thuộc diện các gia đình quá nghèo khó. Nếu thiên vị bỏ người hạng nhất, hạng nhì mà đưa người kém vào quân đội thì bị xử tội: đưa sai 1 người vào lính bị tội đồ làm khao đinh; đưa sai từ 2-5 người bị tội lưu đày, đưa sai 6-9 người thì bị thắt cổ. Với người đào ngũ về làng, xã trưởng có trách nhiệm bắt lại đưa trở lại quân ngũ phục vụ cho hết kỳ hạn hoặc bắt người khác thế chỗ. Nếu xã trưởng làm hết chức phận mà tráng đinh vẫn không tuân thủ thì báo quan trên lấy pháp luật trị tội. Xã trưởng thấy có lính trốn mà không bắt thì bị biếm hoặc đi đày. Chọn thí sinh.
{ "split": 1, "title": "Xã trưởng thời Hậu Lê", "token_count": 492 }
22,737
Title: Xã trưởng thời Hậu Lê Để đảm bảo đúng nhân tài có thực học tham gia kỳ thi Hương (kỳ đầu tiên trong 3 kỳ thi Hương, Hội và Đình), triều đình giao cho Xã trưởng có trách nhiệm làm giấy bảo lãnh cho số học trò trong xã đi thi. Sự bảo lãnh này gồm những mặt: đức hạnh, có học vấn. Những người bất hiếu, bất kính, cãi lộn với xóm làng, loạn luân, điêu toa… tuy có học vấn cũng không được đi thi. Ngoài ra còn có lệnh cấm nhà phường chèo, hát xướng, ngụy quan, phản nghịch thì bản thân và con cháu không được đi thi. Triều đình quy định số thi sinh tối đa cho mỗi xã: đại xã cử 20 người, trung xã cử 15 người, tiểu xã cử 10 người. Nếu thí sinh khai man hoặc nhờ người thi hộ, Xã trưởng biết không khai báo thì cả hai cùng bị trị tội. Thời Lê trung hưng. Sang thời Lê trung hưng, sau nhiều năm loạn lạc, các chúa Trịnh có quan tâm củng cố chút ít bộ máy cấp xã, nhưng thực chất vẫn lỏng lẻo không quản lý được sát sao như thời Lê Sơ. Sang niên hiệu Cảnh Trị thời Lê Huyền Tông (1663-1672), chúa Trịnh Tạc đề ra quy định khảo xét Xã trưởng 3 năm 1 lần; những ai có thành tích được thăng làm quan huyện. Theo sách "Lịch triều Hiến chương loại chí", sau khi Trịnh Cương mất (1729), chính sự thời Trịnh Giang suy đồi, phép khảo xét định kỳ đối với Xã trưởng cũng không thực hiện. Bộ máy cấp xã dần dần thêm lỏng lẻo, chức Xã trưởng cũng không được coi trọng nữa. Sang thời Lê Thuần Tông (1732 – 1735), Trịnh Giang để cho nhân dân địa phương hoàn toàn tự quyết việc lập Xã trưởng. Chính quyền càng ngày càng không quản lý nổi địa bàn cấp xã, thôn. Không lâu sau đó (1739), các cuộc khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài bùng nổ và lan rộng
{ "split": 2, "title": "Xã trưởng thời Hậu Lê", "token_count": 433 }
22,738
Title: Xét nghiệm nước tiểu Xét nghiệm nước tiểu lâm sàng là các xét nghiệm khác nhau của nước tiểu cho mục đích chẩn đoán. Phổ biến nhất là phân tích nước tiểu (UA), một trong những phương pháp chẩn đoán y khoa phổ biến nhất. Từ này là một từ ghép trong các từ "nước tiểu" và "phân tích." Các xét nghiệm khác là nuôi cấy nước tiểu (nuôi cấy vi sinh nước tiểu) và nồng độ điện giải nước tiểu. Các thông số mục tiêu có thể được đo hoặc định lượng trong phân tích nước tiểu bao gồm kiểm tra bằng mắt thường (tổng) để phân tích màu sắc và mùi cộng với nhiều chất và tế bào, cũng như các tính chất khác, chẳng hạn như trọng lượng riêng. Một phần của phân tích nước tiểu có thể được thực hiện bằng cách sử dụng que thử nước tiểu, trong đó kết quả xét nghiệm có thể được đọc khi thay đổi màu sắc. Một phương pháp khác là chụp hiển vi ánh sáng của mẫu nước tiểu. Thông số mục tiêu. Kết quả xét nghiệm nước tiểu phải luôn được diễn giải bằng cách sử dụng phạm vi tham chiếu được cung cấp bởi phòng thí nghiệm thực hiện xét nghiệm hoặc sử dụng thông tin được cung cấp bởi nhà sản xuất thiết bị / dải thử nghiệm. Ngoài các chất được đề cập trong bảng dưới đây, các thử nghiệm khác bao gồm mô tả về màu sắc và hình thức.. Màu. Sau đây là các ví dụ về nguyên nhân thay đổi màu sắc (không phải là một danh sách đầy đủ). Mùi. Mùi của nước tiểu thường có thể thay đổi từ không mùi (khi rất nhạt và loãng) đến mùi mạnh hơn nhiều khi người bị mất nước và nước tiểu cô đặc. Những thay đổi ngắn gọn về mùi thường chỉ đơn thuần là thú vị và không có ý nghĩa về mặt y tế. (Ví dụ: mùi bất thường nhiều người có thể phát hiện sau khi ăn măng tây.) Nước tiểu của bệnh nhân tiểu đường trải qua nhiễm toan keto (nước tiểu chứa hàm lượng ketone cao) cũng có thể có mùi bất thường.
{ "split": 0, "title": "Xét nghiệm nước tiểu", "token_count": 447 }
22,739
Title: Xét xử động vật Xét xử động vật ("Animal trial") hay phiên tòa xét xử động vật là hoạt động xét xử bằng hình thức phiên tòa hình sự có đối tượng bị cáo buộc, quy kết và bị xét xử là những động vật không phải con người. Trong lịch sử luật pháp, những phiên tòa kiểu như vậy được ghi nhận là đã diễn ra ở Châu Âu từ thế kỷ XIII cho đến thế kỷ XVIII. Tại châu Âu thời Trung cổ, động vật nuôi hoặc sâu bọ phá hoại mùa màng có thể bị đưa ra xét xử theo thủ tục tố tụng như con người. Các loài động vật, bao gồm cả côn trùng, phải đối mặt với khả năng bị buộc tội trong vài thế kỷ trên nhiều vùng của châu Âu. Trong thời hiện đại ngày nay, trong hầu hết các hệ thống tư pháp hình sự, người ta coi những sinh vật không phải là con người thì bị thiếu quyền tự quyết về mặt đạo đức và do đó không thể bị quy tội cho một hành vi của nó. Luận thuyết. Theo Giáo hội thời kỳ Trung Cổ thì thú vật dễ bị cái xấu và cái ác (quỹ Satan, ác quỹ, hung thần) tiêm nhiễm, xúi giục thực hiện hành vi độc ác và hắc ám, nếu không được xử lý sẽ thu hút quỷ dữ và làm tổn hại tới cộng đoàn. Việc đưa con vật ra xét xử là nhằm mục đích ngăn chặn tà ác nên cần được thực hiện nghiêm túc, đúng thủ tục tố tụng như con người. Các bị cáo là động vật vẫn phải xuất hiện trước cả tòa án giáo hội và thế tục dù chúng chẵng hiểu chuyện gì, và các tội danh chống lại nhà thờ và thế tục sẽ có mức hình phạt dao động từ khung tội giết người đến những không tội gây thiệt hại cấu thành tội hình sự (phá hoại). Các nhân chứng là con người thường được dự khán và phát biểu tại các tòa án giáo hội (điều này không diễn ra ở các tòa án thế tục).
{ "split": 0, "title": "Xét xử động vật", "token_count": 427 }
22,740
Title: Xét xử động vật Về phương diện pháp lý, đối với các động vật, chúng chỉ làm theo bản năng, tập tính, hoặc theo thói quen, theo mệnh lệnh mà không có ý thức rõ ràng cho nên sẽ thiếu yếu tố cấu thành tội phạm, do đó việc xét xử cũng không mang ý nghĩa. Kỷ lục sớm nhất còn tồn tại về một phiên tòa xét xử động vật là vụ hành quyết một con lợn vào năm 1266 tại Fontenay-aux-Roses, những phiên tòa như vậy vẫn là một phần của một số hệ thống pháp luật châu Âu cho đến thế kỷ XVIII, một số phiên tòa xét xử động vật diễn ra như lợn giết người, gà trống đẻ trứng và có con vật bị xử tử vì tội ác gây ra. Nhiều trường hợp trong số này được EP Evans viết trong cuốn sách có tựa đề "The Criminal Prosecution and Capital Punishment of Animals". Tới thời kỳ Khai sáng, triết gia René Descartes lập luận rằng loài vật chỉ biết phản ứng theo bản năng sinh học, không có khả năng tự quyết đạo đức nên việc đưa chúng ra xét xử là vô nghĩa. Các phiên tòa xét xử con vật dần đi vào quên lãng. Vào năm 1871, Charles Darwin phát hiện ra loài vật có bản năng xã hội rõ rệt, chắc chắn chúng sẽ hình thành ý thức đạo đức hoặc lương tâm. Dù đối lập với René Descartes, tư tưởng này không được coi là căn cứ giúp các phiên tòa xét xử loài vật tái xuất hiện. Người dân thời kỳ này không còn sợ hãi cái xấu mơ hồ như trước, họ càng ý thức được cần phải đối xử nhân đạo với loài vật và từ đó, nhiều đạo luật chống lại hành vi ngược đãi động vật dần được ban hành. Trình tự.
{ "split": 1, "title": "Xét xử động vật", "token_count": 376 }
22,741
Title: Xét xử động vật Xuất hiện từ năm 824 tới giữa thế kỷ XVIII, những phiên tòa xét xử loài vật như trên không phải cảnh tượng hiếm gặp tại châu Âu với ít nhất 85 phiên tòa xét xử động vật diễn ra trong thời Trung cổ. Những phiên tòa xét xử động vật được tổ chức công khai và có cả hội đồng xét xử. Thẩm quyền xét xử của tòa án tùy vào bị cáo. Các động vật được đưa ra xét xử hầu như là những con vật đã được thuần hóa (thường là lợn, nhưng cũng có thể là bò đực, ngựa và bò cái) hoặc động vật gây hại như chuột và sâu mọt. Thống kê cho thấy, loài động vật phạm tội và bị đưa ra xét xử nhiều nhất là lợn, những con lợn thường bị buộc tội vì tấn công người, thậm chí là ăn thịt trẻ em hay một số bộ phận cơ thể người, điển hình là sự việc diễn ra năm 1386 khi một con lợn ở Pháp bị xử tử vì tội giết người. Tội phạm do vật nuôi (như chó, lợn, bò) gây ra sẽ được xét xử tại tòa án phi tôn giáo vì chúng phục dịch con người, có thể bị bắt giữ, xét xử, kết án, và xử tử (thường bằng cách treo cổ hoặc thiêu sống). Tội phạm do loài gặm nhấm (như chuột) hoặc sâu bọ (như châu chấu, mọt ngũ cốc) sẽ do tòa án Giáo hội truy cứu vì chúng không thuộc quyền kiểm soát của con người, chỉ có quyền năng của giáo hội mới có thể can thiệp và ngăn chặn chúng gây hại cho mùa màng. Nếu một con vật nuôi bị nghi ngờ phạm tội nghiêm trọng thì đều sẽ bị đưa ra xét xử. Nếu bị kết tội, giới tăng lữ sẽ áp lệnh rút phép thông công hoặc lời nguyền, được cho là khiến con vật bị đẩy lùi hoặc chết. Nếu bị kết án, thông thường một con vật sẽ bị hành quyết hoặc bị đày ải. Đa số những con lợn phạm tội nghiêm trọng như trên đều đối mặt với bản án nghiêm khắc là tử hình, chúng thường bị treo cổ đến chết hoặc buộc chặt vào cọc rồi thiêu sống.
{ "split": 2, "title": "Xét xử động vật", "token_count": 478 }
22,742
Title: Xét xử động vật Bên cạnh tử hình hoặc nguyền rủa, các tòa án cũng có những hình thức xử lý nhẹ hơn, ví dụ như chuột có thể được gửi thư nhắc nhở nhẹ nhàng, lợn bị tuyên treo cổ nhưng được giảm án xuống chỉ còn bị gõ vào đầu. Bản án của tòa cấp dưới đôi khi được kháng cáo lên tòa cấp trên hoặc xin ân giảm từ Công tước (người đứng đầu một phương, chỉ dưới vua). Nếu thành công, hình phạt có thể được bãi bỏ hoặc giảm nhẹ. Dù đa số các con vật bị đưa ra xét xử đều bị kết tội, số phiên tòa mà bị cáo được tuyên vô tội cũng không phải hiếm gặp như năm 1587, bầy mọt ngũ cốc bị cáo buộc phá hoại vườn nho ở xã St. Julien của Pháp song đã thoát tội vì được cho là chỉ đang thực hiện quyền ăn uống hợp với lẽ tự nhiên. Vào năm 1750, một con lừa cái đã được tha bổng vì tội thú tính do những người chứng kiến biện hộ rằng nó có đức tính tốt và hành vi tốt trong khi người đồng phạm của nó bị kết án tử hình. Các vụ án. Xét xử chuột. Một vụ án xét xử chuột được diễn ra vào năm 1508, cánh đồng lúa mạch của dân làng Atun (Pháp) bị đàn chuột phá hoại. Người làng khởi kiện đàn chuột ra tòa án giáo hội vì hành vi phá hủy vô cớ mùa màng. Giám mục phụ trách phiên tòa giao nghĩa vụ bảo vệ lợi ích của đàn chuột cho luật sư trẻ tuổi Bartholomew Chassenée. Trước phiên xét xử, dân làng dựng biển trên đường với nội dung triệu tập đàn chuột tới trước tòa án giáo hội để nghe hạch tội. Vào ngày xét xử, đàn chuột không xuất hiện khiến bên buộc tội đề nghị xét xử vắng mặt. Bartholomew phản đối vì bị đơn không phải chỉ là một con chuột mà cả đàn sống rải rác khắp khu vực nên lệnh triệu tập đầu tiên không thể tiếp cận tới mọi con chuột.
{ "split": 3, "title": "Xét xử động vật", "token_count": 443 }
22,743
Title: Xét xử động vật Giám mục đồng ý với lập luận của Bartholomew và cho tạm hoãn phiên tòa cho tới khi giấy triệu tập phù hợp được tống đạt xong. Theo yêu cầu của giám mục, giấy triệu tập sẽ được dán trong mọi nhà thờ của các làng bên cạnh để đảm bảo cả đàn chuột biết nghĩa vụ hầu tòa. Ngày xét xử tiếp theo, đàn chuột lại tiếp tục vắng mặt. Luật sư chỉ ra rằng để tới được địa điểm xét xử, đàn chuột sẽ phải ra ngoài không gian mở, nơi chó và mèo sẵn sàng tấn công. Như vậy, thân chủ mình không có nghĩa vụ phải tuân theo trát hầu tòa nếu việc ấy gây nguy hiểm tới tính mạng. Việc đổi địa điểm xét xử không có tác dụng vì dù ở đâu cũng sẽ rình rập những hiểm nguy như vậy. Một lần nữa, giám mục đồng ý với lập luận của luật sư và ra lệnh hoãn xét xử vô thời hạn và luật sư đã thành công bảo vệ thân chủ là đàn chuột. Xét xử gà. Một trong những phiên tòa còn được lưu truyền là khi người dân làng Basel ở Thụy Sĩ đưa một con gà trống ra xét xử vì nghi nó đẻ trứng vào năm 1474, đây là một trường hợp hi hữu diễn ra vào năm 1474. Tòa án kết án một con gà trống phạm tội đẻ trứng đi ngược lại quy luật của tự nhiên. Theo tín ngưỡng thời ấy, trứng gà trống là thành phần trong tà thuật của phù thủy và có thể sinh ra một con Cockatrice nên thời đó, trứng gà trống được cho là thành phần trong tà thuật của phù thủy. Luật sư bào chữa lập luận thân chủ không cố ý đẻ trứng, hơn nữa quả trứng chưa được sử dụng vào việc ác, con gà vì thế không phải chịu trách nhiệm vì chưa có hậu quả. Phía buộc tội phản bác rằng vấn đề vô ý hay cố ý không quan trọng vì quỷ dữ hoàn toàn có thể xâm nhập vào cơ thể bị cáo và đẻ trứng hộ con vật, việc gà trống đẻ trứng trong bất cứ trường hợp nào cũng là điều ác, có thể gây hại tới toàn cộng đồng. Cuối cùng, con gà trống này vẫn bị kết tội và thiêu sống. Xét xử khỉ.
{ "split": 4, "title": "Xét xử động vật", "token_count": 471 }
22,744
Title: Xét xử động vật Theo văn hóa dân gian địa phương, thuật ngữ "Monkey hanger" (tạm dịch: "Khỉ treo cổ") bắt nguồn từ một vụ án về một con khỉ bị treo cổ tại Hartlepool ở Anh. Trong chiến tranh Napoléon, một chiến hạm của hải quân Pháp là "Chasse-marée" bị đắm ở bờ biển Hartlepool. Chỉ còn đúng một con khỉ sống sót, nó mặc trên mình quân phục Pháp để mua vui cho thủy thủ đoàn. Khi tìm thấy con khỉ, một vài người dân địa phương đã tổ chức một cuộc xét xử ngay trên bãi biển; khi mà con khỉ không thể trả lời được bất kỳ câu xét hỏi nào của họ và vì họ chưa từng thấy một con khỉ hay một người Pháp trước đây, họ kết tội con khỉ thực chất là một gián điệp của quân Pháp. Bị phán quyết là có tội, chú khỉ tội nghiệp bị kết án tử hình bằng việc treo cổ trên bãi biển.
{ "split": 5, "title": "Xét xử động vật", "token_count": 223 }
22,745
Title: Xì Trum Xì Trum (tiếng Pháp: "Les Schtroumpfs", tiếng Anh: "The Smurfs") là tên một chủng tộc tí hon màu xanh hư cấu bởi họa sĩ Peyo xuất hiện lần đầu trong truyện Johan et Pirlouit và trở thành tên loạt truyện tranh độc lập bắt đầu phát hành vào năm 1958 và sau đó có hoạt hình, phim ảnh và các sản phẩm thương mại ăn theo. Quá trình hình thành. Năm 1952, Peyo đã vẽ một bộ truyện tranh đăng trên "Le Journal de Spirou" mang tên Johan et Pirlouit (tạm dịch: "Johan và Pirlouit", ở miền Nam Việt Nam trước năm 1975, trẻ em được xem bộ truyện tranh này với tên nhân vật là Lữ Hân và Phi Lục) với bối cảnh là Châu Âu thời Trung cổ. Johan là người hầu cho vua, và Pirlouit là người bạn nhỏ đồng hành trung thành, mặc dù hay khoác lác và gian xảo. Mỗi tập là một chuyến phiêu lưu của hai người bạn đến những vùng đất mới và gặp gỡ những con người mới. Ngày 23 tháng 10 năm 1958, trong truyện "La flûte à six trous" ("Cây sáo 6 lỗ") của bộ truyện nói trên, Peyo lần đầu đã cho nhóm người Xì Trum xuất hiện. Đó là khi bộ đôi Johan và Pirlouit có nhiệm vụ khôi phục lại cây sáo thần bằng phép thuật của phù thủy Homnibus. Trên đường đi, bộ đôi gặp những sinh vật nhỏ màu xanh giống người, đuôi thỏ, mặc đồ trắng mang tên "Xì Trum" (tên gốc. "Schtroumpf") với vị thủ lĩnh già nhất được gọi là "Tí Vua" (tên gốc "Grand Schtroumpf"). Tiếp nối sự thành công lớn của Xì Trum, Xì Trum được cho xuất hiện nhiều hơn với Johan và Perlouit trong các chuyến phiêu lưu, có riêng một bộ truyện độc lập đầu tiên xuất hiện trên "Spirou" năm 1959 cùng với những sản phẩm thương mại ăn theo. Thậm chí, câu chuyện ban đầu đã được đổi tên lại là "La Flûte à six Schtroumpfs". Nguồn gốc.
{ "split": 0, "title": "Xì Trum", "token_count": 475 }
22,746
Title: Xì Trum Cái tên Xì Trum và tiếng nói "xì trum" của chủng tộc tí hon ban đầu được nghĩ ra khi họa sĩ Peyo đi ăn cùng bạn ông, cũng là đồng nghiệp, André Franquin tại bờ biển nước Bỉ. Đột nhiên quên khuấy mất từ "salière" (muối), Peyo đã kêu bạn chuyền ông cái "xì trum" (tiếng Pháp: "schtroumpf"). Franquin đùa lại: "Cái "Xì Trum" này - lúc nào xì trum xong thì xì trum lại nhé..." và cả hai dành cả cuối tuần nói chuyện bằng tiếng "xì trum". Trong tiếng Hà Lan và sau đó là tiếng Anh, "Schtroumpf" được dịch là "Smurf". Trong tiếng Việt, từ ấy được phiên âm thành "xì trum" theo bản in đầu của Nhà xuất bản Thanh Niên. Làng Xì Trum. Lần đầu xuất hiện năm 1958, các Xì Trum sống ở một nơi gọi là ""Vùng Đất Ám" (tiếng Pháp: "Le Pays Maudit""). Muốn đến đó phải có phép thuật hay phải đi qua sương mù dày đặc, đầm lầy, sa mạc và rặng núi cao . Các Xì Trum còn sử dụng con cò để đi đường xa (như đi đến nơi Johan và Pirlouit sống) hay cập nhật thông tin thế giới bên ngoài. Nhà ở. Trong bộ "Johan et Pirlouit", các Xì Trum sống trong những ngôi nhà hình nấm khác nhau cả kích thước và hình dạng tại một vùng đất sỏi đá, tách biệt và rất ít cây cối. Tuy nhiên, trong bộ truyện, họ sống những ngôi nhà hình nấm giống nhau hơn giữa một khu rừng. Con người sống gần đấy (ví dụ phù thủy Garamel) nhưng họ hầu như không thể tìm ra làng Xì Trum trừ phi được dẫn đến bởi một Xì Trum. Thần dân Xì Trum.
{ "split": 1, "title": "Xì Trum", "token_count": 436 }
22,747
Title: Xì Trum Thần dân Xì Trum có bề ngoài gần như là giống nhau: nhỏ bé cao khoảng bằng ba trái táo chồng nhau, da xanh, hay có đuôi như thỏ sau lưng. Hầu hết các Xì Trum đều mặc đồ trắng ngoại trừ Tí Vua mặc đồ đỏ do là người đứng đầu. Ngoài ra để phân biệt các Xì Trum với nhau, họ còn mang các phụ kiện khác nhau. Phần lớn thần dân Xì Trum đều đã 100 năm tuổi, ngoại trừ Tí Vua 543 tuổi, Tí Cô Nương và một số Xì Trum khác. Ban đầu, làng Xì Trum toàn là nam. Sau đó, mới có hai Xì Trum nữ được thêm, đều không phải do tự nhiên sinh ra. Thức ăn yêu thích của họ là lá thổ phục linh. Ngôn ngữ. Thần dân Xì Trum nói tiếng "Xì Trum". Theo đó, chữ "xì trum" thay thế cho nhiều động từ (Tí Cận nói "Cậu phải nghe tất cả những gì Tí Vua xì trum" nghĩa là "Cậu phải nghe tất cả những gì Tí Vua dặn dò), cho nhiều tính từ, thán từ (Tí Vua than thở "Thật xì trum!" tức "Thật khó khăn!"), thậm chí cả danh từ (Tí Vua nói "Là xì trum cuối cùng của chúng ta rồi" nghĩa là "Là giải pháp cuối cùng của chúng ta rồi"). Trong tập "Schtroumpf vert et vert Schtroumpf", truyện tiết lộ xứ sở Xì Trum được chia làm hai miền: miền Xì Trum (miền Bắc) và miền Trum Xì (miền Nam). Họ có cách sử dụng từ "xì trum" khác nhau. Kinh tế. Cộng đồng Xì Trum sống theo hình thức gần như công xã nguyên thủy. Theo đó, mỗi cá nhân tự nguyện đóng góp và chia sẻ cộng đồng những gì mình làm được và nhận lại những gì mình chưa có từ người khác. Mỗi Xì Trum đều được trang bị đủ phương tiện sống hằng ngày. Nhân vật. Chính diện.
{ "split": 2, "title": "Xì Trum", "token_count": 466 }
22,748
Title: Xì Trum Tí Vua là người đứng đầu làng. Các Xì Trum khác được đặt tên dựa theo tính cách như Tí Cận, Tí Cô Nương, Tí Thông Thái, Tí Lười, Tí Phá Phách, Tí Khéo Tay, Tí Vụng Về, Tí Thợ May, Tí Nông Dân, Tí Nhạc Sĩ, Tí Hoạ Sĩ, Tí Lực Sĩ, Tí Điệu, Tí Thi Sĩ, Tí Quạu, Tí Tham Ăn, Tí Thiên Nhiên, Tí Lờ Đờ, Tí Xấc Xược, Tí Nóng Nảy, Tí Ngân Nga, Tí Hoa, Tí Cõn Bé Tí xì trum Và còn 100 xì trum khác. Trong bản tiếng Việt, chữ "Schtroumpf" trong tên nhân vật được bản địa hoá thành chữ Tí. Ngoài các Xì Trum còn có Johan, Pirlouit và phù thủy Homnibus. Phản diện. Ngoài các Xì Trum, bên phía phản diện có thể kể đến phù thủy Gargamel, con mèo Azrael của hắn và cha nuôi của hắn là Balthazar, mụ phù thủy Hogatha Các sản phẩm thương mại. Truyện tranh. Bộ kinh điển của Xì Trum gồm có 37 tập tính đến năm 2019. 16 tập đầu được thực hiện bởi họa sĩ Peyo, còn lại được thực hiện bởi Studio Peyo với sự hỗ trợ của con trai ông. Phim ảnh. Phim truyền hình. Kênh NBC phát sóng series phim hoạt hình The Smurfs sản xuất bởi "Hanna-Barbera Productions" và "SEPP International S.A" từ 1981 đến 1990 trong chương trình hoạt hình sáng thứ Bảy hàng tuần. Sau đó, phim vẫn tiếp tục được chiếu sau đó trên các kênh truyền hình khác như Boomerang hay Cartoon Network. Series này được nhiều đề cử cho giải thưởng Daytime Emmy và dành giải "Chương trình truyền hình giải trí xuất sắc dành cho trẻ em". Series phim "The Smurfs" đứng thứ 97 trong những bộ phim hoạt hình hay nhất của IGN, đến mức còn được gọi là "chất gây nghiện con nít" ("kiddie cocaine") dành cho người lớn trong những năm 80 thế kỉ XX. Tại Việt Nam, phim được chiếu lúc 17:00 từ thứ 2 đến thứ 6 hàng tuần trên kênh HTV3. UNICEF.
{ "split": 3, "title": "Xì Trum", "token_count": 505 }
22,749
Title: Xì Trum Năm 2005, Xì Trum xuất hiện trong quảng cáo của UNICEF cho chiến dịch gây quỹ giúp đỡ những trẻ em ở Burundi và Cộng hoà Congo (hai thuộc địa trước của Bỉ) bị bắt đi lính trong chiến tranh. Trong mẩu quảng cáo đó, làng Xì Trum bị máy bay chiến đấu tiêu diệt. Nhân kỉ niệm 50 năm Xì Trum ra đời, những tượng trắng của Xì Trum được trưng bày công cộng tại 15 nước Châu Âu để được người dân tô màu và đem đi thi. Những bức tượng xuất sắc của cuộc thi được đem đấu giá gây quỹ 124.700 euro cho UNICEF. Đồng xu. Kỉ niệm 50 năm sinh nhật Xì Trum và 80 năm sinh nhật họa sĩ Peyo vào năm 2008, Bỉ đã cho sản xuất một bộ sưu tập đồng xu 5 euro Bỉ bằng bạc có hình Xì Trum.
{ "split": 4, "title": "Xì Trum", "token_count": 189 }
22,750
Title: Xì dách Bài xì dách (hay xì lác) là một kiểu chơi đánh bài với một bộ bài tây. Trông xì dách sì(sushi) là bà dĩnh. Người chơi. Bài xì dách được chơi từ hai người trở lên, nhưng thông thường và tốt nhất là không quá năm người. Trong đó, có một người đảm nhận vai trò "nhà cái". Ngoại trừ nhà cái, người chơi ("nhà con") phải đặt cược trước số tiền (tài sản) bao nhiêu tùy thích trước mỗi ván chơi (đặt công khai trên sòng bài). Nếu thắng, họ nhận được tiền (tài sản) có giá trị tương đương như đã đặt cược, còn thua thì họ mất số tiền, tài sản đã cược cho nhà cái. Nhà cái cũng phải công khai "khả năng chi trả" của mình có cho người chơi biết, để tránh trường hợp "quỵt" tiền. Tất cả nhà con đều chống lại nhà cái vì họ có quyền lợi như nhau; họ có thể tiết lộ bài cho nhau nhưng không được thông đồng, đổi bài cho nhau để tạo lợi thế. Mục tiêu. Trong mỗi ván, mục tiêu của người chơi xì dách là cố gắng đạt được tổng số điểm từ các lá bài trên tay càng gần hoặc bằng 21 điểm càng tốt, nhưng không được vượt quá 21 (quắc bài). Quy luật. Chia bài. Với một bộ bài tây 52 lá, nhà cái sẽ chia bài lần lượt cho các nhà con theo thứ tự từ phải sang trái, sau cùng mới là mình. Các lá bài còn dư thì nhà cái cầm nhưng không được xem. Thường thì nhà cái chia bài từ dưới lên trên (không phải từ trên xuống dưới như bài tiến lên). Tính điểm. Giai đoạn 1: Tính điểm 2 lá Sau khi chia, tất cả cùng xem bài, tùy vào điểm số của bài mà mỗi người lần lượt lựa chọn bốc thêm bài hay không (nhà cái bốc sau cùng). Cách tính điểm như sau (không quan tâm màu sắc lá bài): Điểm tổng là điểm của tất cả các con bài trên tay cộng lại. Với hai lá bài được chia đầu tiên, nếu người nào có những trường hợp sau đây thì trình diện ngay cho nhà cái để hưởng phần thắng cược của họ:
{ "split": 0, "title": "Xì dách", "token_count": 483 }
22,751
Title: Xì dách Nếu nhà cái có Xì bàn hoặc Xì dách) thì nhà cái thắng hết nhà con (ngoại trừ nhà con nào có bài bằng hoặc cao hơn nhà cái). Bài sẽ được thu lại để chuyển sang ván mới. Nếu nhà cái không có Xì bàn hoặc Xì dách, những người nào có sẽ thắng cược nhà cái và dừng ván bài ấy. Sau đó, nhà cái và những người chơi còn lại đi tiếp qua giai đoạn 2. Giai đoạn 2: Bốc thêm bài Sau khi tính điểm hai lá, người chơi có quyền bốc thêm bài ("bọt bài") từ những lá bài còn dư hoặc thôi ("dằn"), sao cho số điểm nằm trong khoảng 16 (có nơi là 14) đến 21. Việc bốc thêm bài được thực hiện theo vòng tròn từ phải sang trái, lần lượt người này xong mới đến người khác. Mọi nhà con phải có đạt ngưỡng ít nhất là 16 điểm (gọi là "đủ tuổi") trước khi quyết định không bốc thêm bài, bởi nếu chưa đủ mà bị nhà cái kiểm bài thì họ bị xử thua ngay ván đó. Trước hoặc trong giai đoạn bốc bài, bất kỳ lúc nào, nhà cái cũng có quyền kiểm bài nhà con nếu anh ta cũng đã "đủ tuổi", nhưng việc này được cho là không có lợi cho nhà cái. Sau khi tất cả nhà con đã bốc thêm bài, nhà cái có quyền kiểm bài bất kỳ nhà con nào, nếu nhà cái hơn điểm nhà con, anh ta thắng cược nhà con; ngược lại, anh ta thua cược nhà con; nếu hai bên bằng điểm nhau thì hòa ("chạy làng"). Khi kiểm bài một người cụ thể, nhà cái chỉ cần thông báo rằng anh ta thắng hoặc thua người bị kiểm, anh ta không nhất thiết phải tiết lộ số điểm của mình cho tất cả người chơi, ngoại trừ phải cho người đang bị kiểm bài biết nếu bị người này yêu cầu. Tuy nhiên, các người chơi chưa bị kiểm bài vẫn có thể suy đoán, ước lượng số điểm của nhà cái từ số điểm người đang bị kiểm. Các trường hợp đặc biệt của giai đoạn 2:
{ "split": 1, "title": "Xì dách", "token_count": 449 }
22,752
Title: Xì dách Có những hiểu lầm về luật chơi dẫn đến thắc mắc là giữa Ngũ Linh và Xì bàn, Xì dách thì cách so sánh ra sao. Xì bàn và Xì dách thuộc về giai đoạn 1, Ngũ Linh thuộc về giai đoạn 2. Giai đoạn 1 kết thúc rồi mới chuyển qua giai đoạn 2, nên không bao giờ có việc so sánh Xì bàn, Xì dách với Ngũ Linh được. Cái 15 điểm 3 lá thì cũng không đủ tẩy xem bài.
{ "split": 2, "title": "Xì dách", "token_count": 110 }
22,753
Title: Xí nghiệp Bản đồ Đà Lạt Xí nghiệp Bản đồ Đà Lạt là một đơn vị trực thuộc Cục Bản đồ Quân sự - Bộ Quốc phòng Việt Nam nằm tại số 14 đường Yersin, thành phố Đà Lạt. Cơ sở tiền thân của cơ quan này là Sở địa dư Đông Dương được thành lập ngày 5 tháng 7 năm 1894 tại Hà Nội với nhiệm vụ biên tập, vẽ và in ấn bản đồ cho Liên bang Đông Dương. Đến năm 1940, trụ sở của Sở địa dư Đông Dương được chuyền vào Gia Định. Dưới thời Việt Nam Cộng hòa, cơ quan này được chuyển thành Nha địa dư quốc gia ngày 1 tháng 4 năm 1955. Sau năm 1975, Nha địa dư quốc gia được đổi thành Xưởng in 2, trực thuộc Cục bản đồ, do Bộ tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam quản lý. Bên cạnh nhiệm vụ chính là thiết lập, biên tập, in các loại bản đồ... Xí nghiệp bản đồ Đà Lạt còn nhận in sách, báo chí, bao bì, nhãn hiệu hàng hóa. Tòa nhà trụ sở Xí nghiệp Bản đồ Đà Lạt trên đường Yersin là một công trình tương đối đồ sộ, nằm gần Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt và không xa nhà ga của thành phố. Công trình được xây dựng từ năm 1939 và hoàn thành năm 1943. Công trình bị hư hại nặng nề trong vụ cháy rạng sáng ngày 9 tháng 6 năm 2014. Gần một nửa tòa nhà gồm khu văn phòng, xưởng chế bản, hệ thống máy tính... đã bị lửa thiêu rụi.
{ "split": 0, "title": "Xí nghiệp Bản đồ Đà Lạt", "token_count": 320 }
22,754
Title: Xích Markov Trong toán học, chuỗi Markov là một quá trình ngẫu nhiên mô tả một dãy các biến cố khả dĩ trong đó xác suất của mỗi biến cố chỉ phụ thuộc vào trạng thái của biến cố trước đó. Một dãy vô hạn đếm được, trong đó xích thay đổi trạng thái theo từng khoảng thời gian rời rạc, cho ta một xích Markov thời gian rời rạc (DTMC). Một quá trình diễn ra trong thời gian liên tục được gọi là xích Markov thời gian liên tục (CTMC). Chúng được đặt tên theo nhà toán học người Nga Andrey Markov. Xích Markov có được ứng dụng rộng rãi làm mô hình thống kê của nhiều quá trình đời thực, như là nghiên cứu hệ thống điều khiển hành trình trong các xe motor, hàng đợi hay hàng người đến sân bay, tỉ giá hối đoái tiền tệ và sự biến đổi của dân số quần thể. Quá trình Markove là cơ sở cho phương pháp mô phỏng ngẫu nhiên xích Markov Monte Carlo, được dùng để mô phỏng việc lấy mẫu từ một phân bố xác suất phức tạp, và có ứng dụng trong thống kê Bayes, nhiệt động lực học, cơ học thống kê, vật lý, hóa học, kinh tế, tài chính, xử lý tín hiệu, lý thuyết thông tin và trí tuệ nhân tạo. Giới thiệu. Định nghĩa. Một quá trình Markov là một quá trình ngẫu nhiên thỏa mãn tính chất Markov (đôi khi được gọi là "tính không ghi nhớ"). Nói đơn giản, nó là một quá trình mà các kết quả ở tương lai có thể được dự đoán chỉ dựa trên trạng thái hiện tại và—quan trọng hơn—dự đoán ấy tốt bằng dự đoán dựa trên toàn bộ lịch sử của quá trình đó. Nói cách khác, dựa trên trạng thái hiện tại của hệ thống, những trạng thái quá khứ và tương lai là độc lập.
{ "split": 0, "title": "Xích Markov", "token_count": 402 }
22,755
Title: Xích Markov Một xích Markov là một loại quá trình Markov có không gian trạng thái rời rạc hoặc tập chỉ số rời rạc (thường biểu diễn thời gian), tuy nhiên không có định nghĩa chính xác thống nhất. Thông thường, một xích Markov còn được định nghĩa là một quá trình Markov trong thời gian liên tục hoặc rời rạc với không gian trạng thái đếm được (tức thời gian bất kỳ), nhưng cũng có định nghĩa khác coi xích Markov có thời gian rời rạc trong không gian trạng thái đếm được hoặc liên tục (tức không gian trạng thái bất kỳ). Các loại xích Markov. Không gian trạng thái và hệ số thời gian của hệ thống cần được xác định rõ ràng. Bảng sau đưa ra cái nhìn tổng quan về các loại quá trình Markov khác nhau dựa trên các mức độ không gian trạng thái và thời gian rời rạc hoặc liên tục: Để ý rằng không có sự thống nhất trong việc dùng các thuật ngữ để chỉ trường hợp đặc biệc của quá trình Markov. Thường cụm từ "xích Markov" dùng để chỉ xích Markov thời gian rời rạc (DTMC), nhưng một số tác giả dùng "quá trình Markov" để chỉ một xích Markov thời gian liên tục (CTMC) mà không nói cụ thể. Ngoài ra, có một số mở rộng của quá trình Markov nằm ngoài bốn loại trên nhưng không có tên gọi đặc biệt nào (xem mô hình Markov). Hơn nữa, chỉ số thời gian không nhất thiết phải là số thực; giống như không gian trạng thái, có những quá trình di chuyển qua tập chỉ số của những cấu trúc toán học khác. Trong khi tham số thời gian thường là rời rạc, không gian trạng thái của một chuỗi Markov không có quy tắc thống nhất chung nào. Tuy nhiên, nhiều ứng dụng của chuỗi Markov thường dùng không gian trạng thái hữu hạn hoặc vô hạn đếm được, cho phép phân tích thống kê đơn giản hơn. Ngoài số chỉ thời gian và không gian trạng thái, còn có nhiều biến thể, mở rộng và tổng quát khác. Để đơn giản, phần lớn bài viết tập trung vào trường hợp thời gian rời rạc, không gian trạng thái rời rạc, trừ khi được nói rõ. Chuyển đổi.
{ "split": 1, "title": "Xích Markov", "token_count": 483 }
22,756
Title: Xích Markov Sự biến đổi trạng thái của hệ thống được gọi là sự chuyển trạng thái hay chuyển đổi (). Xác suất của các khả năng chuyển trạng thái khác nhau được gọi là xác suất chuyển đổi. Một quá trình được xác định bởi một không gian trạng thái, một ma trận xác suất chuyển đổi mô tả xác suất của các chuyển đổi, và một trạng thái ban đầu (hay phân bố ban đầu) trên không gian trạng thái. Theo thông lệ, ta coi tất cả trạng thái và chuyển đổi khả dĩ được tính trong quá trình, nên luôn có một trạng thái tiếp theo, và quá trình không dừng lại. Một quá trình ngẫu nhiên thời gian rời rạc gồm một hệ thống ở một trạng thái nhất định vào một bước nào đó, và trạng thái của hệ thay đổi giữa các bước. Các bước này thường được coi là khoảnh khắc trong thời gian, nhưng cũng có thể là khoảng cách vật lý hay những đại lượng khác. Về mặt toán học, các bước này được biểu diễn bằng số nguyên hoặc số tự nhiên. Tính chất Markov nói rằng phân bố xác suất có điều kiện của hệ ở bước tiếp theo (và tất cả các bước trong tương lai) chỉ phụ thuộc vào trạng thái hiện tại của hệ, chứ không phụ thuộc vào trạng thái của hệ ở những bước trước. Do hệ thay đổi ngẫu nhiên, không thể đoán chính xác được trạng thái của xích Markov ở một thời điểm trong tương lai. Tuy nhiên, các tính chất thống kê của hệ có thể được dự đoán. Lịch sử.
{ "split": 2, "title": "Xích Markov", "token_count": 322 }
22,757
Title: Xích Markov Nhà toán học Nga Andrey Markov nghiên cứu quá trình Markov từ đầu thế kỷ 20, đăng tải bài báo đầu tiên về vấn đề này năm 1906. Quá trình Markov trong thời gian liên tục được phát hiện trước đó từ lâu dưới dạng quá trình Poisson. Markov bắt đầu quan tâm đến việc nghiên cứu một mở rộng của dãy ngẫu nhiên độc lập sau một bất đồng với Pavel Nekrasov, người khẳng định tính độc lập là cần thiết để luật số lớn yếu đúng. Trong bài báo đầu tiên về xích Markov xuất bản năm 1906, Markov chỉ ra rằng trong một số điều kiện nhất định, kết quả trung bình của một xích Markov sẽ hội tụ về một vectơ các giá trị cố định, chứng minh quy luật số lớn yếu mà không cần điều kiện độc lập, vốn thường được coi là điều kiện cần thiết để luật số lớn vẫn đúng. Markov sau đó dùng chuỗi Markov để nghiên cứu sự phân bố nguyên âm trong Yevgeny Onegin của nhà văn Aleksandr Pushkin, và chứng minh một định lý giới hạn trung tâm cho những chuỗi đó. Năm 1912 Henri Poincaré nghiên cứu chuỗi Markov trên nhóm hữu hạn nhằm hiểu rõ hơn việc xáo lá bài. Những ứng dụng ban đầu khác của chuỗi Markov bao gồm mô hình khuếch tán, giới thiệu bởi Paul và Tatyana Ehrenfest năm 1907, và một quá trình rẽ nhánh, đưa ra bởi Francis Galton và Henry William Watson năm 1873, trước nghiên cứu của Markov. Sau khi kết quả của Galton và Watson được công bố, người ta phát hiện rằng quá trình rẽ nhánh đã được nghiên cứu độc lập từ ba thập kỉ trước đó bởi Irénée-Jules Bienaymé. Từ năm 1928, Maurice Fréchet bắt đầu quan tâm đến chuỗi Markov, và đến năm 1938 ông xuất bản một bài báo nghiên cứu chi tiết về quá trình ngẫu nhiên này.
{ "split": 3, "title": "Xích Markov", "token_count": 412 }
22,758
Title: Xích Markov Andrei Kolmogorov viết một bài báo năm 1931 phát triển phần lớn lý thuyết về quá trình Markov thời gian liên tục. Kolmogorov một phần được truyền cảm hứng bởi nghiên cứu năm 1900 của Louis Bachelier về sự thay đổi của thị trường chứng khoán cũng như những kết quả của Norbert Wiener về mô hình chuyển động Brown của Einstein. Ông đưa ra và nghiên cứu một nhóm các quá trình Markov cụ thể được biết với tên gọi quá trình khuếch tán, và suy ra các phương trình vi phân mô tả những quá trình đó. Độc lập với những nghiên cứu của Kolmogorov, trong một bài viết năm 1928, nhà toán học Sydney Chapman đưa ra một phương trình, nay gọi là phương trình Chapman–Kolmogorov, trong lúc nghiên cứu chuyển động Brown. Những phương trình vi phân đó nay gọi là phương trình Kolmogorov hoặc phương trình Kolmogorov–Chapman. Những nhà toán học khác có đóng góp quan trọng cho cơ sở của quá trình Markov bao gồm William Feller từ những năm 1930, và Eugene Dynkin từ những năm 1950. Ví dụ. Bước đi ngẫu nhiên trên số nguyên và bài toán sai lầm của con bạc là những ví dụ của quá trình Markov. Một số biến thể của những quá trình này đã được nghiên cứu từ hàng trăm năm trước trong ngữ cảnh biến số độc lập. Hai ví dụ quan trọng của quá trình Markov là quá trình Wiener, còn gọi là quá trình chuyển động Brown, và quá trình Poisson, được coi là những quá trình quan trọng nhất trong lý thuyết quá trình ngẫu nhiên. Hai quá trình này là quá trình Markov trong thời gian liên tục, còn bước đi ngẫu nhiên trên số nguyên và bài toán sai lầm của con bạc là quá trình Markov trong thời gian rời rạc.
{ "split": 4, "title": "Xích Markov", "token_count": 392 }
22,759
Title: Xích Markov Một chuỗi Markov nổi tiếng là "bước đi của kẻ say", một bước đi ngẫu nhiên trên trục số mà ở mỗi bước, vị trí có thể thay đổi +1 hoặc −1 với xác suất ngang nhau. Từ mỗi vị trí có hai chuyển đổi khả dĩ: đến số nguyên liền trước hoặc liền sau. Xác suất chuyển đổi chỉ phụ thuộc vào vị trí hiện tại, không phụ thuộc vào cách ta đến vị trí đó. Ví dụ, xác suất chuyển đổi từ 5 về 4 và từ 5 lên 6 đều là 0,5, và tất cả những xác suất chuyển đổi khác từ 5 bằng 0. Những xác suất này độc lập với trạng thái trước đó của hệ, bất kể là 4 hay 6. Một ví dụ khác là thói quen ăn uống của một sinh vật chỉ ăn nho, táo, hoặc cam, và tuân theo các quy luật sau đây: Thói quen ăn của sinh vật này có thể được biểu diễn bằng một chuỗi Markov vì lựa chọn của nó vào ngày mai chỉ phụ thuộc vào thứ nó ăn hôm nay, mà không phải thứ nó ăn hôm qua hay bất kỳ thời điểm nào khác trong quá khứ. Một tính chất thống kê có thể tính được là tỉ lệ số ngày kỳ vọng, xét trên một khoảng thời gian dài, mà sinh vật đó ăn một món nhất định. Một chuỗi các biến cố độc lập (ví dụ như một chuỗi tung đồng xu) thỏa mãn định nghĩa của một chuỗi Markov. Tuy nhiên, mô hình xích Markov thường chỉ được áp dụng khi phân bố xác suất của bước tiếp theo phụ thuộc vào trạng thái hiện tại. Định nghĩa chính xác. Xích Markov thời gian rời rạc. Một xích Markov thời gian rời rạc là một dãy các biến ngẫu nhiên , , , ... với tính chất Markov, tức xác suất chuyển sang trạng thái tiếp theo chỉ phụ thuộc vào trạng thái hiện tại chứ không phụ thuộc vào những trạng thái trước đó: Những giá trị khả dĩ của tạo thành một tập đếm được gọi là không gian trạng thái của xích. Xích Markov thời gian liên tục.
{ "split": 5, "title": "Xích Markov", "token_count": 441 }
22,760
Title: Xích Markov Một xích Markov thời gian liên tục formula_7 được định nghĩa bởi một không gian trạng thái hữu hạn hoặc đếm được formula_8, một ma trận tốc độ chuyển đổi formula_9 với các chiều bằng với chiều của không gian trạng thái, và một phân bố xác suất ban đầu trên không gian trạng thái đó. Với formula_10, phần tử formula_11 không âm và diễn tả tốc độ của quá trình khi chuyển từ trạng thái formula_12 sang trạng thái formula_13. Các phần tử formula_14 được chọn sao cho mỗi hàng của ma trận tốc độ chuyển đổi có tổng bằng 0. Có ba định nghĩa tương đương nhau của quá trình này. Định nghĩa vô cùng bé. Gọi formula_15 là biến ngẫu nhiên mô tả trạng thái của quá trình tại thời gian , và giả sử quá trình ở trạng thái ở thời điểm . Khi ấy, với điều kiện formula_16 thì formula_17 độc lập với các giá trị formula_18 trước , và khi với mọi và thì trong đó formula_20 là hàm delta Kronecker, sử dụng ký hiệu o nhỏ. Các formula_11 có thể được coi là biểu diễn tốc độ chuyển đổi từ trạng thái sang trạng thái . Định nghĩa xác suất chuyển đổi. Với mọi và các thời điểm có chỉ số không quá : và tất cả trạng thái ở những thời điểm này , ta có trong đó là nghiệm của phương trình vi phân cấp một Với điều kiện ban đầu là ma trận đơn vị. Không gian trạng thái hữu hạn. Nếu không gian trạng thái là hữu hạn, phân bố xác suất chuyển đổi có thể được biểu diễn bằng một ma trận, gọi là ma trận chuyển đổi , sao cho các phần tử của bằng Khi ấy mỗi hàng của có tổng bằng 1 và tất cả phần tử đều không âm, tức là một ma trận ngẫu nhiên phải. Phân phối dừng. Một phân phối dừng là một vectơ hàng, có các phần tử không âm có tổng bằng 1, không bị thay đổi khi thực hiện phép toán ma trận chuyển đổi lên nó. Nói cách khác, nó thỏa mãn Định nghĩa này có liên quan đến vectơ riêng, và thực chất là vectơ riêng bên trái của với giá trị riêng bằng 1 được chuẩn hóa: Với một xích Markov ta thường quan tâm đến một trạng thái dừng là giới hạn của dãy phân bố xác suất đối với một phân bố ban đầu nhất định.
{ "split": 6, "title": "Xích Markov", "token_count": 509 }
22,761
Title: Xích Markov Các giá trị của vectơ phân phối dừng thỏa mãn formula_27, tức tích vô hướng của với vectơ đơn vị là một, do đó nằm trên một đơn hình. Các tính chất của xích Markov. Đặc điểm của một xích Markov được biểu diễn bởi phân bố điều kiện đó là xác suất chuyển dịch của quy trình. Nó đôi khi còn được gọi là xác suất chuyển dịch "một-bước". Xác suất của một chuyển dịch trong hai, ba, hoặc nhiều bước hơn được rút ra từ xác suất chuyển dịch một bước và thuộc tính Markov: Tương tự, Các công thức này tổng quát hóa tới các thời điểm "n" + "k" tùy ý trong tương lai bằng cách nhân các xác suất chuyển dịch và lấy tích phân "k" − 1 lần. Xác suất biên ("marginal distribution") "P"("X""n") là phân bố trên các trạng thái tại thời điểm "n". Phân bố ban đầu là "P"("X"0). Sự tiến hóa của quy trình qua một bước được mô tả bằng công thức Đây là một phiên bản của phương trình Frobenius-Perron. Có thể tồn tại một hoặc nhiều phân bố trạng thái π sao cho trong đó "Y" chỉ là một cái tên thuận tiện cho biến tích phân ("variable of integration"). Phân bố π như vậy được gọi là một phân bố ổn định ("stationary distribution") hoặc phân bố trạng thái ổn định. Một phân bố ổn định là một hàm riêng ("eigenfunction") của hàm phân bố điều kiện, gắn với giá trị riêng ("eigenvalue") là 1. Việc có phân bố ổn định hay không, và nó có là duy nhất hay không (nếu tồn tại), là phụ thuộc vào từng thuộc tính cụ thể của quá trình. "Bất khả quy" nghĩa là mọi trạng thái đều có thể truy xuất từ mỗi trạng thái khác. Một quá trình là tuần hoàn nếu tồn tại ít nhất một trạng thái mà quá trình sẽ trả về trạng thái đó sau một khoảng thời gian cố định (lớn hơn một). Phi tuần hoàn ("aperiodic") nghĩa là không tồn tại trạng thái nào như vậy cả. "Hồi qui dương" ("positive recurrent") nghĩa là thời gian được kì vọng trở lại trạng thái ban đầu là một giá trị dương cho mọi trạng thái.
{ "split": 7, "title": "Xích Markov", "token_count": 497 }
22,762
Title: Xích Markov Nếu chuỗi Markov là hồi qui dương, thì tồn tại một phân bố ổn định. Nếu chuỗi Markov là hồi qui dương và không thể tối giản được nữa, thì tồn tại một phân bố ổn định duy nhất. Xích Markov trong không gian trạng thái rời rạc. Nếu không gian trạng thái là hữu hạn, phân bố xác suất chuyển trạng thái có thể được biểu diễn dưới dạng một ma trận, gọi là "ma trận chuyển đổi" ("transition matrix"), với thành phần thứ ("i", "j") bằng với Với không gian trạng thái rời rạc, tích phân của xác suất chuyển đổi ở bước thứ "k" là phép tổng, và có thể được tính bằng lũy thừa bậc "k"' của ma trận chuyển đổi. Nghĩa là, nếu P là ma trận chuyển đổi 1-bước, thì P"k" là ma trận chuyển đổi "k"-bước. Phân bố ổn định là một vector thỏa mãn phương trình Như vậy, phân bố ổn định formula_35 là một vectơ riêng của ma trận chuyển đổi, được gắn với giá trị riêng 1. Nếu ma trận chuyển đổi P là không thể tối giản được, và phi tuần hoàn, thì P"k" hội tụ từng giá trị thành phần về một ma trận trong đó mỗi cột là phân bố ổn định duy nhất formula_35, với độc lập với phân bố ban đầu formula_38. Điều này được phát biểu trong Định lý Perron-Frobenius. Ma trận chuyển đổi mà dương (nghĩa là mọi thành phần của ma trận là dương) thì ma trận là không thể tối giản và phi tuần hoàn. Một ma trận là một ma trận ngẫu nhiên thống kê ("stochastic matrix") khi và chỉ khi nó là ma trận của các xác suất chuyển đổi của một chuỗi Markov nào đó. Trường hợp đặc biệt, nếu xác suất chuyển đổi là độc lập với quá khứ thì được gọi là một sắp xếp Bernoulli ("Bernoulli scheme"). Một Bernoulli scheme chỉ với 2 trạng thái thì gọi là một quá trình Bernoulli ("Bernoulli process"). Các ứng dụng khoa học.
{ "split": 8, "title": "Xích Markov", "token_count": 453 }
22,763
Title: Xích Markov Các hệ thống Markovian xuất hiện nhiều trong vật lý, đặc biệt là cơ học thống kê ("statistical mechanics"), bất cứ khi nào xác suất được dùng để biểu diễn các chi tiết chưa được biết hay chưa được mô hình hóa của một hệ thống, nếu nó có thể giả định rằng thời gian là bất biến và không có mối liên hệ trong quá khứ cần nghĩ đến mà không bao gồm sự miêu tả trạng thái. Xích Markov có thể dùng để mô hình hóa nhiều quá trình trong lý thuyết hàng đợi và thống kê. Bài báo nổi tiếng của Claude Shannon năm 1948 "A mathematical theory of communication", là một bước trong việc tạo ra lãnh vực lý thuyết thông tin, mở ra bằng cách giới thiệu khái niệm của entropy thông qua mô hình hóa Markov của ngôn ngữ tiếng Anh. Mỗi mô hình đã lý tưởng hóa có thể nắm bắt được nhiều hệ thống được thống kê đều đặn. Thậm chí không cần miêu tả đầy đủ cấu trúc, giống như là những mô hình tín hiệu, hiệu quả trong việc giải mã dữ liệu thông qua kỹ thuật viết code entropy. Nó cũng hiệu quả trong việc ước lượng trạng thái và xác định mẫu. Hệ thống điện thoại di động trên thế giới dùng giải thuật Viterbi để sửa lỗi (error-correction), trong khi các mô hình Markov ẩn (với xác suất chuyển đổi Markov ban đầu là không được biết và phải được ước lượng từ dữ liệu) được dùng rất nhiều trong nhận dạng tiếng nói và trong tin sinh học, chẳng hạn để mã hóa vùng/dự đoán gene. PageRank của một trang web dùng bởi Google được định nghĩa bằng một xích Markov. Nó là xác suất để đến được trang "i" trong phân bố ổn định (stationary distribution) dựa vào xích Markov của mọi trạng (đã biết). Nếu "N" là số lượng trang web đã biết, và một trang "i" có "k""i" liên kết thì nó có xác suất chuyển tới là (1-"q")/"k""i" + "q"/"N" cho mọi trang mà có liên kết tới và "q"/"N" cho mọi trang mà không có liên kết tới. Tham số "q" thường được chọn là khoảng 0.15.
{ "split": 9, "title": "Xích Markov", "token_count": 490 }
22,764
Title: Xích Markov Phương pháp chuỗi Markov cũng trở nên rất quan trọng trong việc sinh ra những chuỗi số từ những số ngẫu nhiên để phản ánh một cách chính xác những phân bố xác suất phức tạp - tiến trình MCMC là 1 ví dụ. Trong những năm gần đây, phương pháp này đã cách mạng hóa tính khả thi của phương pháp Bayes. Chuỗi markov cũng có nhiều ứng dụng trong mô hình sinh học, đặc biệt là trong tiến trình dân số- một tiến trình tương tự như tiến trình sinh học. Một ứng dụng của chuỗi Markov gần đây là ở thống kê địa chất. Đó là: chuỗi Markov được sử dụng trong mô phỏng 3 chiều của giá trị có điều kiện riêng phần. Ứng dụng này được gọi là "chuỗi markov thống kê địa chất", cũng giống như ngành thống kê địa chất. Hiện nay phương pháp này vẫn còn đang phát triển. Chuỗi Markov cũng có thể ứng dụng trong nhiều trò chơi game. Nhiều loại game của trẻ em (Chutes and Ladders, Candy Land), là kết quả chính xác điển hình của chuỗi Markov. Ở mỗi vòng chơi, người chơi bắt đầu chơi từ trạng thái định sẵn, sau đó phải có lợi thế gì đó mới có thể vượt qua được bàn kế. Trong ngành quản lý đất đai: người ta còn ứng dụng GIS, RS và chuỗi Markov vào phân tích sự thay đổi sử dụng đất (land use change), từ đó dự báo được tình hình sử dụng đất trong giai đoạn kế tiếp.
{ "split": 10, "title": "Xích Markov", "token_count": 317 }
22,765
Title: Xúc xích Glamorgan Xúc xích Glamorgan (tiếng Wales: "Selsig Morgannwg") là một loại xúc xích ăn chay truyền thống của xứ Wales với thành phần chính là phô mai (thường là phô mai Caerphilly), tỏi tây cùng vụn bánh mì. Tên của món xúc xích này được đặt theo tên của quận Glamorgan giàu truyền thống ở xứ Wales. Những ghi chép được công bố sớm nhất về món ăn này xuất hiện từ những năm 1850 trong quyển "Wild Wales" của George Borrow. Tuy nhiên, các ghi chép trước đó trong kho lưu trữ của quận Glamorgan cho thấy một công thức có chứa thịt lợn. Phiên bản chay hiện đại trở nên phổ biến trong Chiến tranh thế giới thứ hai khi thịt trở nên hiếm hoi hơn. Hiện nay, xúc xích Glamorgan đang được hai công ty sản xuất hàng loạt. Món ăn cũng bao gồm nhiều biến thể, trong đó, vài công thức hoán đổi tỏi tây với hành tây, cũng như sử dụng đa dạng các loại thảo mộc, gia vị cùng phô mai khác nhau. Lịch sử. Nguồn gốc của xúc xích Glamorgan vẫn còn rất mơ hồ. Theo nghiên cứu được thực hiện tại văn khố hạt Glamorgan ở Leckwith phát hiện rằng có ít nhất một công thức truyền thống có sử dụng thịt. Trong một cuốn sổ tay có niên đại từ năm 1795 đến 1813 do John Perkins khởi thảo tại Ty-draw, Llantrithyd, công thức bao gồm thịt lợn nạc và mỡ cho mỗi phần xúc xích Glamorgan. Gia vị lúc bấy giờ cũng khác biệt hoàn toàn so với các phiên bản hiện đại, trong đó có nhiều thành phần như đinh hương, xô thơm và gừng.
{ "split": 0, "title": "Xúc xích Glamorgan", "token_count": 383 }
22,766
Title: Xúc xích Glamorgan Ấn phẩm đầu tiên đề cập đến loại xúc xích này là quyển sách "Wild Wales" của George Borrow viết vào thập niên 1850 và được xuất bản trong thập kỷ tiếp theo. Theo đó, ông mô tả loại xúc xích này "không thua kém gì so với loại xúc xích ở Epping". Quyển sách cũng nêu rõ xúc xích Epping là xúc xích không có thịt. Borrow đã đến thăm Y Gwter Fawr (nay là Brynamman) và ăn xúc xích tại một địa điểm có tên là Tregib Arms. Từ năm 1869 trở đi, nhiều quảng cáo bán xúc xích Glamorgan trên các tờ báo bắt đầu xuất hiện. Quảng cáo đầu tiên được người bán thịt lợn Henry S. Hammond ở số 288 phố Bute, thành phố Cardiff đặt in trên tờ "Western Mail" vào ngày 15 tháng 12. Hammond tiếp tục quảng cáo loại xúc xích này trong vài năm tiếp theo. Đến năm 1873, do nhu cầu gia tăng, đòi hỏi phải làm xúc xích theo giờ nên ông đã chào bán xúc xích của mình cho các nhà sản xuất trước ngày bán. Quảng cáo cũng cho thấy rõ rằng xúc xích được làm từ "thịt lợn cho ăn có chọn lựa". Nhiều người cho rằng ban đầu xúc xích Glamorgan được làm bằng phô mai lấy từ giống bò Glamorgan, nhưng do số lượng cá thể bò này đang gần như tuyệt chủng nên không còn được sản xuất nữa. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, do khẩu phần thịt hạn chế nên xúc xích Glamorgan dần trở nên phổ biến. Ủy ban Gas xứ Wales đã quảng bá xúc xích này trong một cuốn sách nấu ăn được xuất bản vào những năm 1950. Tuy nhiên, trong đó không nêu rõ nên sử dụng loại phô mai nào.
{ "split": 1, "title": "Xúc xích Glamorgan", "token_count": 393 }
22,767
Title: Xúc xích Glamorgan Năm 2005, một chiến dịch đưa thương hiệu xúc xích Glamorgan nằm trong chương trình bảo hộ chỉ dẫn địa lý và đặc sản truyền thống của Liên minh Châu Âu chính thức được khởi xướng. Điều này sẽ chỉ cho phép xúc xích Glamorgan làm ra tại khu vực này được dán nhãn như vậy. Động thái này do Greta Watts-Jones, người điều hành công ty Cwrt Newydd ở Cowbridge, nhà sản xuất lớn duy nhất trong khu vực dẫn dắt. Đối thủ cạnh tranh chính của công ty này là công ty thực phẩm Cauldron, có trụ sở tại Bristol, Anh. Việc bảo hộ địa lý này trước đây cũng từng áp dụng cho thịt cừu và thịt bò xứ Wales. Tuy nhiên, trong cuộc bỏ phiếu tổ chức vào tháng 3 năm 2006 nhằm đưa xúc xích Glamorgan cùng với phô mai Caerphilly vào chương trình bảo hộ, Nghị viện châu Âu đã không thông qua luật. Công thức. Trong các phiên bản hiện đại, người ta sử dụng loại phô mai Caerphilly, hậu duệ của công thức phô mai Glamorgan truyền thống, tuy nhiên vẫn cho kết cấu và hương vị chung giống nhau. Công thức cơ bản yêu cầu hỗn hợp phô mai, tỏi tây và vụn bánh mì, mặc dù một số phiên bản khác có thể thay tỏi tây bằng hành tây hoặc hành lá đồng thời bổ sung thêm các nguyên liệu thảo mộc như rau mùi tây hoặc hương liệu khác như mù tạt. Người chế biến sẽ cuộn hỗn hợp này thành hình xúc xích, sau đó đem chiên. Tuy về tên gọi là xúc xích, nhưng món ăn này không có vỏ xúc xích, thay vào đó, trứng sẽ được sử dụng để liên kết các thành phần lại với nhau, đảm bảo món ăn không bị vỡ ra trong quá trình chế biến. Biến thể.
{ "split": 2, "title": "Xúc xích Glamorgan", "token_count": 403 }
22,768
Title: Xúc xích Glamorgan Trong các công thức nấu ăn khác nhau, tùy trường hợp mà người chế biến có thể thay thế hoặc bổ sung các thành phần tùy theo mục đích của họ. Hai đầu bếp nổi tiếng trên truyền hình là Dave Myers và Si King thường sử dụng loại pho mát Welsh thay cho pho mát Caerphilly đồng thời đề xuất rằng món ăn nên được bài trí cùng một củ hành đỏ và một ít xốt ớt xay nhuyễn. Còn trong một công thức ở Úc, phô mai Lancashire là một thành phần thay thế. Về vụn bánh mì, đầu bếp Bobby Freeman đề nghị sử dụng vụn bánh mì nửa nâu nửa trắng, trong khi Canteen, chủ nhân cuốn sách nấu ăn cho nhà hàng có trụ sở ở London đề xuất sử dụng kết hợp khoai tây luộc và vụn bánh mì để tráng xúc xích. Tùy từng người mà sẽ có những kỹ thuật kết hợp tỏi tây khác nhau. Một số công thức đề xuất trộn sống chúng lại với nhau, trong khi những công thức khác cho rằng nên làm nâu chúng trước trong chảo rán. Trong trường hợp dùng tỏi sống, họ có thể cho thêm vào một ít phụ gia nhằm làm cho xúc xích giòn hơn. Trong khi đó, các đầu bếp Dave Myers, Si King lẫn Canteen đều chọn cách nấu tỏi tây trước. Với Canteen, vị đầu bếp này sử dụng một loạt các loại thảo mộc như cây xô thơm như trong công thức Perkins, đi kèm với hạt nhục đậu khấu. Công thức của Hội đồng Gas Welsh được gọi đơn giản là "hỗn hợp thảo mộc", trong khi Felicity Cloake trên tờ "The Guardian" đề nghị bổ sung thêm cỏ xạ hương. Khi chiên, đầu bếp Sophie Grigson cho biết nên sử dụng mỡ lợn, trong khi hai đầu bếp Dave Myers và Si King thống nhất dùng dầu thực vật. Còn Felicity Cloake và Nigel Godwin thì đề xuất nên chiên xúc xích Glamorgan trong bơ.
{ "split": 3, "title": "Xúc xích Glamorgan", "token_count": 438 }
22,769
Title: Xương quay Xương quay là xương thuộc về chi trên kéo dài từ mặt bên khớp khuỷu đến cạnh ngón cái của cổ tay. Xương quay nằm về mặt bên của xương trụ, vốn có kích thước và chiều dài nhỏ hơn xương trụ. Đây là một xương dài, hình lăng trụ và hơi cong theo chiều dài. Xương quay khớp với chỏm con của xương cánh tay, rãnh quay và đầu xương trụ. Định hướng: đầu to xuống dưới, mỏm trâm quay ra ngoài, mặt có nhiều rãnh của đầu này ra sau - Đầu trên xương quay nhỏ, tròn còn gọi là chỏm xương quay, mặt trên lõm xuống gọi là đài quay, xung quanh là vành khăn quay. - Đầu dưới to hơn đầu trên bè dẹt ra 2 bên, mặt ngoài dưới có mỏm trâm quay, mặt trong có hõm trụ xương quay khớp với chỏm xương trụ, mặt sau có rãnh cho gân duỗi đi qua.
{ "split": 0, "title": "Xương quay", "token_count": 215 }
22,770
Title: Xưởng mộc Xưởng mộc là nơi mà những người thợ mộc làm việc. Tại đó, những công nhân (thợ mộc) thực hiện các công việc như bào, đục, khoan, đánh giấy dáp, phu dầu, phun sơn... để làm lên những chiếc bàn, ghế, cánh cửa... Có rất nhiều những làng nghề truyền thống, chuyên sản xuất đồ gỗ ở như làng Đồng Kỵ (thuộc Bắc Ninh), làng Đông Dao (thuộc tỉnh Hải Dương) Ngoài các xưởng mộc gỗ tự nhiên như trước đây còn có rất nhiều các xưởng gỗ công nghiệp ra đời. Sử dụng các nguyên liệu cũng từ gỗ tự nhiên tuy nhiên là gỗ ngắn ngày và có sử dụng chất phụ gia tạo thành các tấm ván ép gỗ. Có rất nhiều các chứng chỉ cho một xưởng sản xuất đồ gỗ nội thất của nước ngoài như quy trình gỗ EU, chứng chỉ FSC, chứng chỉ PEFC...
{ "split": 0, "title": "Xưởng mộc", "token_count": 201 }
22,771
Title: Xạ thủ bắn tỉa Xạ thủ bắn tỉa (tiếng Anh: Sniper) là người sử dụng súng bắn tỉa từ vị trí ẩn nấp, bắn vào mục tiêu thường là từ khoảng cách xa hơn khoảng cách chiến đấu của bộ binh thông thường. Trong quân đội đó thường là nhóm lính bộ binh được huấn luyện đặc biệt về kỹ năng ẩn nấp và bắn. Từ "xạ thủ bắn tỉa" bắt nguồn từ năm 1824 giữa những người sử dụng súng trường. Từ tiếng Anh là "sniper" xuất hiện ở vùng Ấn Độ thuộc Anh có nghĩa là bắn từ vị trí được ẩn náu, có thể là từ hoạt động săn chim, chim dẽ giun (snipe) là một động vật rất khó phát hiện, tiếp cận hay bắn hạ chúng. Những người chuyên đi săn chim này sau đó được gọi là các "sniper" (xạ thủ bắn tỉa) bởi kỹ năng yêu cầu trong bắn súng, ngụy trang và di chuyển. Xạ thủ bắn tỉa trong chiến tranh. Mỗi quốc gia với có lý luận quân sự khác nhau trong việc sử dụng xạ thủ bắn tỉa, quy định đội hình và chiến thuật. Về cơ bản, mục đích của xạ thủ trên chiến trường là tiêu hao năng lực chiến đấu của đối phương bằng việc tiêu diệt những mục tiêu có giá trị, nhân vật quan trọng, thường là sĩ quan.
{ "split": 0, "title": "Xạ thủ bắn tỉa", "token_count": 312 }
22,772
Title: Xạ thủ bắn tỉa Hồng quân Liên Xô là đội quân tiên phong sử dụng bắn tỉa ở quy mô lớn và coi đây là một lực lượng chuyên biệt. Khi Thế chiến thứ 2 nổ ra, có tới 60.000 lính bắn tỉa đã đào tạo trong biên chế của Hồng quân Liên Xô, nhiều hơn số tay súng bắn tỉa của các nước tham chiến khác cộng lại, kết quả là Liên Xô cũng là nước có nhiều xạ thủ bắn tỉa có thành tích cao nhất lịch sử. Những học thuyết quân sự bắt nguồn từ đội quân này sử dụng các xạ thủ ở mức tập trung, gọi là các tiểu đội bắn tỉa. Các đơn vị này có nhiệm vụ yểm trợ các đơn vị bộ binh tiêu diệt các mục tiêu ở cự ly xa hoặc nguy hiểm (ví dụ như bắn hạ xạ thủ súng máy đối phương) bởi bộ binh thông thường khó có thể tấn công chính xác ở khoảng cách xa (trên 400 mét) với các loại súng thông thường. Trong Thế chiến thứ 2, Liên Xô đã đào tạo được 428.335 lính bắn tỉa, trong đó 9.534 người có trình độ cao trong nghệ thuật bắn tỉa. Có 261 xạ thủ bắn tỉa nam và nữ của Liên Xô đã tiêu diệt được từ 50 tên địch trở lên và được trao danh hiệu bắn tỉa xuất sắc. Cũng trong thế chiến 2, Hồng quân có 800.000 quân nhân là nữ, trong số đó có 2.484 là nữ xạ thủ bắn tỉa, và đã có 500 xạ thủ nữ sống sót qua chiến tranh.
{ "split": 1, "title": "Xạ thủ bắn tỉa", "token_count": 334 }
22,773
Title: Xạ thủ bắn tỉa Xạ thủ bắn tỉa trong quân đội thường hình thành nhóm hai người, một xạ thủ và một trợ thủ. Hai thành viên này có nhiệm vụ tùy theo kỹ năng, nhưng thông thường là sẽ đổi vị trí cho nhau thường xuyên để tránh mỏi mắt. Trợ thủ sử dụng ống nhòm để giúp xạ thủ đánh giá, phân biệt hoặc xác định mục tiêu. Nhiệm vụ chủ yếu của xạ thủ là trinh sát, giám sát, chống bắn tỉa, tiêu diệt chỉ huy đối phương, lựa chọn mục tiêu có giá trị và phá hoại khí tài của đối phương. Nhiệm vụ phá hoại đòi hỏi sử dụng loại đạn cỡ lớn, ví dụ 12,7 mm. Gần đây, quân đội Mỹ và Anh sử dụng xạ thủ bắn tỉa có hiệu quả trong chiến dịch tấn công Iraq, hỗ trợ hỏa lực cho bộ binh, đặc biệt là ở trong thành phố. Không chỉ cần học cách ngắm bắn cho chính xác, các xạ thủ bắn tỉa còn phải học các biện pháp ngụy trang hoặc ẩn nấp, bởi nếu bị phát hiện ra vị trí thì xạ thủ sẽ dễ bị tấn công bởi hỏa lực đối phương. Xét về vũ khí, khẩu Mosin Nagant của Nga đến nay vẫn giữ kỷ lục là khẩu súng bắn tỉa đã tiêu diệt nhiều địch nhất trong lịch sử (dễ hiểu vì nó được các xạ thủ Liên Xô sử dụng rộng rãi). Đồng thời, nó cũng là khẩu súng bắn tỉa có thời gian phục vụ lâu dài nhất: ra đời từ những năm 1890 và đã bị quân đội Liên Xô thay thế từ đầu thập niên 1960, song với uy lực mạnh và độ tin cậy cao, nó vẫn tiếp tục được sử dụng ở nhiều nước khác cho tới giữa thế kỷ 21. Trong Cuộc chiến Iraq năm 2003, việc bắn tỉa đã được quân đội Mỹ và đồng minh thực hiện ở khoảng cách rất gần, đa phần là 200–400 m. Đáng lưu ý, ngày 3 tháng 4 năm 2004, đội xạ thủ Matt và Sam Hughes của Hải quân Hoàng gia Anh sử dụng súng trường bắn tỉa L96 đã tiêu diệt mục tiêu ở khoảng cách 860 m bằng cách bắn lệch về trái mục tiêu 17 m để viên đạn bay vòng theo hướng gió. Xạ thủ bắn tỉa cảnh sát.
{ "split": 2, "title": "Xạ thủ bắn tỉa", "token_count": 494 }
22,774
Title: Xạ thủ bắn tỉa Các lực lượng cảnh sát thường sử dụng xạ thủ bắn tỉa trong các cuộc giải cứu con tin, khi không còn giải pháp nào khác và sinh mạng con tin bị đe dọa trực tiếp, khẩn cấp. Các xạ thủ loại này thường không cần bắn vô hiệu hóa mà bắn tiêu diệt, mặc dù xác suất thành công không phải là hoàn toàn. Khoảng cách tác chiến của xạ thủ bắn tỉa trong lực lượng cảnh sát thường ngắn hơn so với trong quân đội rất nhiều, dưới 200 m. Lưu ý rằng, một số lực lượng cảnh sát không tuân thủ Công ước Hague về cấm sử dụng đạn có sức công phá lớn trong chiến tranh, họ đôi khi sử dụng đầu đạn mềm hoặc đạn đầu có lỗ. Nhu cầu về đào tạo xạ thủ bắn tỉa trong lực lượng cảnh sát trở thành cấp thiết từ sau vụ khủng bố Munich năm 1972. Trong sự kiện đó, cảnh sát không có vũ khí bắn tỉa thích hợp để đối phó với khủng hoảng con tin, kết quả là tất cả con tin người Israel đã bị giết. Sử dụng xạ thủ bắn tỉa của quân đội Đức khi đó là không thể bởi hiến pháp không cho phép quân đội tham gia các sự vụ trong nước. Tình huống này đã đưa đến việc thành lập đơn vị chống khủng bố GSG-9 của cảnh sát Đức. Trong một vụ việc năm 2007, xạ thụ bắn tỉa đội SWAT Columbus, bang Ohio đã ngăn chặn vụ tự tử bằng cách bắn vào khẩu súng trên tay đối tượng, tước vũ khí mà không làm tổn thương đối tượng. Mặc dù xử lý tình huống thành công, đoạn băng video quay lại cho thấy người đàn ông ý định tự tử đã thoát được trong gang tấc những mảnh kim loại của viên đạn và của khẩu súng. Các xạ thủ từng thử nghiệm kỹ thuật này bằng cách bắn vào khẩu súng đã lên đạn không phải luôn thành công. Khẩu súng bị bắn có thể phát hỏa về bất kỳ hướng nào và thậm chí là khẩu súng đó bị bắn trúng cũng chưa chắc đã mất khả năng phát nổ. Hơn nữa việc bắn viên đạn vào đối tượng có thể gây chết người, và việc bắn đó kể cả để ngăn chặn tự tử cũng không hợp pháp ở một số nước.
{ "split": 3, "title": "Xạ thủ bắn tỉa", "token_count": 469 }
22,775
Title: Xạ thủ bắn tỉa Trong thời bình, xạ thủ bắn tỉa của lực lượng cảnh sát ví dụ nhóm phản ứng tình huống nguy hiểm của FBI (còn gọi là đội giải cứu con tin) phục vụ lâu hơn, được huấn luyện kỹ hơn và có nhiều kinh nghiệm tác chiến hơn là xạ thủ quân đội. Xạ thủ bắn tỉa kích động bạo lực. Có những trường hợp đặc biệt về sử dụng bắn tỉa là để kích động bạo lực của đám đông, như trường hợp lính bắn tỉa bắn vào cuộc biểu tình Euromaidan 2014 ở Kiev, Ukraina. Ban đầu sự việc được phát hiện ở cuộc trò chuyện qua điện thoại bị rò rỉ giữa Cao ủy đối ngoại Liên minh châu Âu Catherine Ashton và Ngoại trưởng Estonia Urmas Paet, tiết lộ là "các tay súng bắn tỉa không phải là người của Yanukovich mà là ai đó thuộc liên minh mới" . Các điều tra sau này xác định tay súng bắn tỉa người Gruzia, gồm Alexander Revazishvili và Koba Nergadze, được liên minh mới thuê để bắn vào cả hai phía người biểu tình và cảnh sát của chính quyền Yanukovych lúc đó . Tháng 2/2014 lính bắn tỉa đã làm hàng chục người chết, hoàn thành nhiệm vụ kích động bạo lực cho cuộc biểu tình lan rộng. Nó dẫn đến lật đổ chính quyền Yanukovych, và quy tội cho ông này trách nhiệm về những cái chết trong cuộc biểu tình . Những trang web ủng hộ Maidan thì cho rằng đó là "tin giả" (Fake Documentary). Huấn luyện. Huấn luyện giúp các xạ thủ bắn tỉa dần có được kỹ năng để hành động hiệu quả. Xạ thủ quân sự phát triển các kỹ năng ngụy trang, ẩn nấp, tiếp cận, quan sát và bắn súng trong các tình huống tác chiến khác nhau. Trong thời gian luyện tập các kỹ năng cơ bản, xạ thủ bắn đến hàng ngàn phát đạn trong vài tuần.
{ "split": 4, "title": "Xạ thủ bắn tỉa", "token_count": 424 }
22,776
Title: Xạ thủ bắn tỉa Huấn luyện kỹ năng bắn súng chỉ là một phần của khóa huấn luyện. Một xạ thủ sử dụng các chiến thuật đặc biệt để tiến nhập, di chuyển mà không bị phát hiện trong khu vực hoạt động. Các xạ thủ bẳn tỉa còn đóng vai trò là người đi trước quan sát và được huấn luyện để cung cấp thông tin vị trí chính xác cho pháo binh và không quân. Các chức năng khác của xạ thủ bắn tỉa còn là do thám và thu thập tin tức. Một kỹ năng khác là phân biệt và lựa chọn mục tiêu, xác định khí tài hay cá nhân nào là mục tiêu cần tiêu diệt. Bắn súng. Các xạ thủ bắn tỉa được huấn luyện để bóp cò bằng đầu ngón tay nhằm hạn chế xê dịch khẩu súng, tư thế bắn chính xác nhất là nằm sấp với túi cát hoặc giá hai, ba chân đỡ súng, và áp má vào báng súng. Trên chiến trường, giá hai chân khá thông dụng. Đôi khi, một lớp lót được quấn quanh phần đặt tay không bóp cò để giảm xê dịch súng. Có nơi, xạ thủ được luyện hít thở sâu trước khi khi bắn, sau đó bắn khi phổi không còn không khí. Ở những trường huấn luyện tinh vi hơn, xạ thủ luyện bắn giữa hai lần tim đập để giảm thiểu rung súng. Thêm vào đó, còn phải nắm vững kỹ năng xác định khoảng cách, gió, chênh lệnh độ cao và những yếu tố có thể ảnh hưởng đường bay viên đạn. Các xạ thủ ấn định kính ngắm và súng trùng nhau ở một khoảng cách bắn nhất định, tức là ở khoảng cách đó viên đạn bay chính xác vào tâm điểm trên kính ngắm. Khi biết điểm viên đạn sẽ chạm ở khoảng cách biết trước, xạ thủ sẽ tính toán để điều chỉnh phù hợp với sức gió, khoảng cách dựa trên hiểu biết về đường bay của viên đạn. Mỗi xạ thủ điều chỉnh súng thường xuyên để thích nghi với điều kiện với áp suất và đảm bảo rằng đường đạn luôn ổn định. Thời gian huấn luyện là cần thiết để các kỹ năng được hấp thụ đầy đủ, xạ thủ khi đó có thể ước tính chính xác khoảng cách, các yếu tố không khí (gió, mưa, nhiệt độ, độ ẩm) và bắn trúng mục tiêu chỉ với một phát đạn.
{ "split": 5, "title": "Xạ thủ bắn tỉa", "token_count": 507 }
22,777
Title: Xạ thủ bắn tỉa Xác định mục tiêu. Khoảng cách tới mục tiêu nên được đo đạc và ước tính càng chính xác càng tốt. Tính toán khoảng cách trở nên tối cần thiết với những mục tiêu ở xa bởi viên đạn đi theo đường vòng cung và xạ thủ phải điều chỉnh súng cao hơn mục tiêu do viên đạn sẽ bay hạ xuống bởi trọng lực. Nếu khoảng cách không được xác định chính xác, viên đạn sẽ bay quá cao hoặc quá thấp. Ví dụ, loại đạn phổ biến cho xạ thủ là 7.62 × 51 mm NATO M118 Special Ball sẽ "rơi" thêm 200 mm khi khoảng cách tăng từ 700 m lên 800 m. Điều này có nghĩa, nếu khoảng cách thực là 800 m nhưng tính toán sai thành 700m, viên đạn sẽ đi xuống dưới điểm cần bắn 200 mm. Ống nhòm hay kính ngắm có thiết bị laser đo khoảng cách có thể được sử dụng nhưng thường là không được lựa chọn trên chiến trường bởi tia laser có thể bị đối phương phát hiện. Một phương pháp hữu dụng để xác định khoảng cách là so sánh chiều cao của mục tiêu (hoặc vật thể gần mục tiêu) với thước đo trên kính ngắm để suy ra khoảng cách. Trung bình đầu người có kích thước chiều ngang 150 mm, vai rộng 500 mm, và khoảng cách từ mông lên đỉnh đầu là 1 m. Có nhiều phương pháp tính khoảng cách khác nhau được sử dụng giúp xạ thủ xác định chính xác khoảng cách. Bắn tới mục tiêu cao hơn hay thấp hơn cũng cần tính toán đặc biệt bởi tác dụng của lực hấp dẫn lên đường đạn. Gió cũng ảnh hưởng đường đạn càng nhiều khi khoảng cách tăng lên. Bắn mục tiêu di động cần những kỹ năng tinh tế hơn, nhưng vẫn dựa trên những kỹ năng cơ bản khi bắn mục tiêu tĩnh. Các chiến thuật bắn tỉa. Đích bắn.
{ "split": 6, "title": "Xạ thủ bắn tỉa", "token_count": 396 }
22,778
Title: Xạ thủ bắn tỉa Lựa chọn đích bắn phụ thuộc vào xạ thủ. Xạ thủ bắn tỉa quân đội thường tác chiến ở khoảng cách trên 300 m sẽ bắn vào phần thân của đối phương chủ yếu là ngực, nơi có các cơ quan nội tạng quan trọng và là phần rộng nhất của cơ thể. Xạ thủ cảnh sát thường tác chiến ở khoảng cách gần hơn rất nhiều có thể lựa chọn bắn vào đầu để đảm bảo triệt hạ đối tượng. Trong những trường hợp phải bắn chết tức thì, xạ thủ sẽ nhằm vào vị trí tiểu não – vùng não trong hộp sọ điểu khiển cử động. Một số nhà nghiên cứu đường đạn và thần kinh học cho rằng làm tổn thương tủy sống ở đốt sống cổ thứ hai sẽ ngăn chặn có hiệu quả cử động có điều khiển, tuy vậy tranh luận này vẫn chưa ngã ngũ và vẫn ở giai đoạn học thuật. Lựa chọn vị trí. Để thực hiện nhiệm vụ vãn hồi trật tự, thu thập tin tức và gây áp lực đối phương, xạ thủ hoặc nhóm xạ thủ sẽ ẩn nấp tại các vị trí an toàn trên cao. Họ sử dụng ống nhòm để xác định mục tiêu và phương tiện liên lạc để chuyển thông tin. Xạ thủ sử dụng các biện pháp ngụy trang, các góc tiếp cận bất thường và di chuyển chậm, đều đặn để tránh bị tấn công trả lại. Nếu không bị nhìn trực tiếp, một số xạ thủ có thể bắn ở khoảng cách dưới 90 m mà không bị phát hiện trong khi đối phương vẫn đang tìm kiếm họ.
{ "split": 7, "title": "Xạ thủ bắn tỉa", "token_count": 338 }
22,779
Title: Xạ thủ bắn tỉa Xạ thủ quân sự sẽ ngụy trang tìm vị trí cho phép tầm nhìn rộng nhất đến mục tiêu. Thông thường khoảng cách là từ 300–1000 m, thích hợp nhất là 600 m. Trái với mọi người nghĩ, anh ta sẽ không chọn vị trí cao nhất. Lựa chọn này không phải vì càng cao thì đường đạn càng cong và khó tính toán mà vì đó là vị trí dễ bị để ý nhất. Do đó, xạ thủ phải phải chọn vị trí có tầm nhìn tốt nhất và bắn không bị phát hiện. Vị trí này nên ở sau một vật thể đặc hoặc bắn qua vật thể đó. Thử nghiệm của quân đội Anh cho thấy viên đạn bay qua một vật thể đặc sẽ tạo ra âm thanh như là nó được bắn từ ra đó. Sóng âm của viên đạn nẩy trở lại từ vật thể rắn và tạo ra tiếng súng, vật thể rắn ở đây có thể là một ngôi nhà hoặc một cái cây lớn. Xạ thủ của lực lượng cảnh sát có cách lựa chọn vị trí khác. Do không cần quan tâm đến ngụy trang và ẩn náu, xạ thủ này chọn những vị trí có tầm quan sát rõ nhất mục tiêu và hiện trường để bắn vô hiệu hóa đối tượng. Họ thường chọn vị trí gần hơn so với trong quân sự, vị trí bắn cách mục tiêu trung bình 83 m, đảm bảo viên đạn đi rất chính xác và liên lạc nhanh chóng với chỉ huy. Vì thế vị trí có góc quan sát rộng và ở trên cao là vị trí ưa thích. Vị trí của họ thậm chí có thể bị bắn trả tức thì. Lựa chọn mục tiêu. Xạ thủ có thể bắn mục tiêu sống hoặc thiết bị, nhưng đa phần, mục tiêu của họ là người như sĩ quan hoặc nhân viên kỹ thuật (điện đài viên...) để gây gián đoạn hoạt động của đối phương ở mức độ cao nhất. Những mục tiêu khác bao gồm những gì là mối đe dọa với họ như người điều khiển chó, đối tượng thường tìm kiếm xạ thủ. Tuy vậy, nguyên tắc hoạt động và công thức để sinh tồn đó là không bao giờ bắn nếu không cần thiết bởi phát bắn sẽ tiết lộ anh ta ở đâu và khiến đối phương đáp trả.
{ "split": 8, "title": "Xạ thủ bắn tỉa", "token_count": 475 }
22,780
Title: Xạ thủ bắn tỉa Xạ thủ bắn tỉa xác định mục tiêu là sĩ quan dựa trên bề ngoài và hành vi ví dụ quân phục, nói với nhân viên điện đàm, ngồi ở vị trí khách trên xe, có nhân viên trợ lý hoặc phục vụ, nói chuyện và di chuyển vị trí thường xuyên, v.v. Nếu có thể, xạ thủ sẽ bắn theo thứ tự cấp bậc, nếu không được, anh ta sẽ bắn sao cho gián đoạn việc liên lạc. Trong chiến tranh hiện đại, phần lớn sát thương và phá hủy do các vũ khí cần nhiều người vận hành như pháo, tên lửa, máy bay, xe tăng, v.v. trinh sát là phương cách sử dụng xạ thủ bắn tỉa hiệu quả nhất. Với các kỹ năng đột nhập, tiếp cận mục tiêu, sử dụng thiết bị quan sát từ xa, xác định khoảng cách, v.v. xạ thủ bắn tỉa là có thể tiếp cận các mục tiêu quan trọng. Với khẩu súng bắn đạn 12.7 mm, xạ thủ có thể phá hủy máy bay đang đỗ, bắn nổ đạn dược, thiết bị quang học đắt tiền, hoặc các thiết bị radar. Phương pháp tác chiến này đôi khi cần loại vũ khí chuyên dụng phá hủy thiết bị, chúng có hiệu quả như sử dụng thuốc nổ để phá hoại. Chiến tranh tâm lý. Nhằm vô hiệu hóa lực lượng đối phương, nhiều trường hợp xạ thủ hành động theo một công thức có chủ ý. Trong cuộc Cách mạng Cuba, lực lượng cách mạng của phong trào 26 tháng 7 luôn tiêu diệt kẻ đi đầu trong các nhóm quân của chính quyền Bastia. Nhận ra điều này, không ai dám đi đầu nữa bởi điều đó là tự sát. Cách làm này giảm tinh thần của quân đội khá hiệu quả khi họ truy tìm những người khởi nghĩa ở vùng núi. Một cách khác là luôn bắn vào người đi thứ hai, đưa đến hiệu ứng tâm lý là không ai muốn đi theo "người dẫn đầu" nữa. Khẩu hiệu "một viên, một mạng" ("one shot, one kill") đôi khi được hiểu không đúng và thần tượng hóa huyền thoại xạ thủ bắn tỉa. Khẩu hiệu này thể hiện chiến thuật và triết lý hiệu quả, bí mật của họ. Nghĩa chính xác của khẩu hiệu trên có thể hiểu như sau:
{ "split": 9, "title": "Xạ thủ bắn tỉa", "token_count": 490 }
22,781
Title: Xạ thủ bắn tỉa Dù khẩu hiệu trên phản ánh đúng thực tế hay không thì nó vẫn được sử dụng rộng rãi trong văn học, báo chí và phim ảnh. Các chiến thuật chống bắn tỉa. Trong chiến tranh hiện đại, có bắn tỉa thì có chống bắn tỉa với nhiều kỹ thuật được phát triển. Đương nhiên là không thể phòng chống và triệt tiêu hoàn toàn được các xạ thủ bắn tỉa, nhưng có các biện pháp để cản trở họ. Nguy cơ cho hệ thống chỉ huy sẽ giảm được bằng cách bỏ dấu hiệu chỉ huy. Ngày nay, việc chào cấp chỉ huy và mang quân hàm không được áp dụng trên chiến trường. Tuy vậy các sĩ quan vẫn có thể bị lộ thân phận qua các hành động như xem bản đồ và sử dụng điện đàm. Các xạ thủ cũng được sử dụng để chống xạ thủ đối phương. Bên cạnh việc quanh sát trực tiếp, lực lượng bảo vệ có thể sử dụng các kỹ thuật khác như tính toán đường đạn bằng phương pháp tam giác. Cách làm này có thể thực hiện bằng kỹ thuật tính toán bằng tay hoặc trợ giúp của radar. Một khi vị trí của xạ thủ bắn tỉa được xác định, bên bảo vệ có thể khống chế anh ta. Càng bắn nhiều, cơ hội bị phát hiện càng lớn. Thông thường thì bên bảo vệ sẽ dụ cho đối phương bắn. Đôi khi chỉ là để đối phương bắn vào cái mũ sắt. Trong Chiến tranh Liên Xô-Phần Lan (1940) giữa Phần Lan và Liên Xô, người Phần Lan khá thành công trong việc sử dụng chiến thuật "Kylma-Kalle" (Charlie Lạnh). Một người nộm được phủ quần áo là mục tiêu thu hút, ví dụ đóng giả một viên sĩ quan giấu mình một cách cẩu thả. Các xạ thủ Xô viết thiếu kinh nghiệm thường mắc bẫy này. Ngay khi biết được góc có viên đạn bắn tới, một khẩu súng cỡ nòng lớn, ví dụ súng chống tăng, sẽ bắn về phía đó để tiêu diệt xạ thủ. Các chiến thuật khác bao gồm sử dụng pháo hay súng cối, hỏa mù, hoặc đặt mìn, bẫy gần các vị trí thuận lợi cho xạ thủ bắn tỉa.
{ "split": 10, "title": "Xạ thủ bắn tỉa", "token_count": 474 }
22,782
Title: Xạ thủ bắn tỉa Một chiến thuật đối phó bắn tỉa cổ điển là buộc các giẻ rách (hoặc vật liệu tương tự) vào các cây và bụi cây ở khu vực nguy hiểm. Các giẻ này lay động một cách ngẫu nhiên, làm rối loạn chuyển động của trong tầm mắt của xạ thủ. Ưu điểm của chiến thuật này là ở sự đơn giản, nhưng nó có thể cản trở các xạ thủ ít kinh nghiệm và đôi khi ngăn chặn được xạ thủ chuyên nghiệp. Bắn tỉa và chống bắn tỉa là sự đấu trí không ngừng. Khi có sự cải tiến của phía này thì bên kia lại tìm cách hạn chế.
{ "split": 11, "title": "Xạ thủ bắn tỉa", "token_count": 145 }
22,783
Title: Xếp hạng các tổng thống Hoa Kỳ trong lịch sử Trong khoa học chính trị, việc xếp hạng các tổng thống Hoa Kỳ trong lịch sử Hoa Kỳ thường dựa theo ý kiến của các nhà sử học và khoa học chính trị. Vị trí của các tổng thống được đánh giá theo những đóng góp của họ cho nước Mỹ và thế giới, các phẩm chất lãnh đạo, những thất bại hoặc sai lầm của từng người trong thời gian làm tổng thống. Ý kiến chung. Theo đa số các cuộc thăm dò thì George Washington, Abraham Lincoln và Franklin D. Roosevelt thường được coi là các tổng thống xuất sắc nhất của Hoa Kỳ. Xếp tiếp theo là hai tổng thống Thomas Jefferson và Theodore Roosevelt. Top 10 tổng thống ngoài 5 người kể trên thường có thêm James Madison, Andrew Jackson, Woodrow Wilson, Harry S. Truman và Dwight D. Eisenhower. Ronald Reagan và John F. Kennedy tuy thường có thứ hạng rất cao trong các cuộc thăm dò xã hội Mỹ nhưng chỉ được đánh giá cao trong một vài bảng xếp hạng của giới học giả. Các tổng thống đứng cuối bảng xếp hạng thông thường gồm Franklin Pierce, Warren G. Harding và James Buchanan. Hai tổng thống William Henry Harrison và James A. Garfield, vốn qua đời không lâu sau khi nhậm chức, đôi khi không được xếp hạng. Xếp hạng của giới học giả. Xanh là nhóm đứng đầu.Đỏ là nhóm xếp cuối. Xếp hạng của công chúng. Vào năm 2000, đài truyền hình ABC đã tiến hành cuộc thăm dò với câu hỏi "Theo bạn tổng thống Hoa Kỳ nào là vĩ đại nhất?", kết quả từ 1012 người được hỏi như sau: Năm 2007, công ty thống kê đại chúng Rasmussen Reports tiến hành cuộc thăm dò ý kiến công chúng về việc họ ủng hộ và không ủng hộ tổng thống Hoa Kỳ nào. 6 tổng thống có ít nhất 80% ý kiến ủng hộ (favorable) là George Washington, Abraham Lincoln, Thomas Jefferson, Theodore Roosevelt, Franklin D. Roosevelt, and John F. Kennedy, 2 tổng thống duy nhất có ít nhất 50% ý kiến không ủng hộ (unfavorable) là Richard Nixon và George W. Bush. Năm 2005, Washington College tiến hành thăm dò 800 người trưởng thành với câu hỏi "Theo bạn tổng thống Hoa Kỳ nào là vĩ đại nhất trong lịch sử?", kết quả như sau:
{ "split": 0, "title": "Xếp hạng các tổng thống Hoa Kỳ trong lịch sử", "token_count": 494 }
22,784
Title: Xếp hạng các tổng thống Hoa Kỳ trong lịch sử Năm 2007, cuộc thăm dò Gallup về tổng thống Hoa Kỳ vĩ đại nhất cho kết quả: Với các tổng thống Hoa Kỳ nhậm chức trong thời gian gần đây, năm 2006, Đại học Quinnipiac thăm dò về tổng thống tồi nhất Hoa Kỳ trong 61 năm qua với kết quả: Năm 2006, một cuộc thăm dò của USA Today/Gallup về các tổng thống Hoa Kỳ từ cuối thập niên 1970 cho kết quả:
{ "split": 1, "title": "Xếp hạng các tổng thống Hoa Kỳ trong lịch sử", "token_count": 102 }
22,785
Title: Xổ số Xổ số là một dạng đánh bạc liên quan đến việc chọn các con số cho một giải thưởng. Trong quá khứ xổ số đã bị một số chính phủ coi là bất hợp pháp, trong khi những chính phủ khác ủng hộ nó đến mức họ tổ chức các giải xổ số cấp quốc gia hay cấp tiểu bang. Thường có một số quy định về xổ số của các chính phủ; các quy định phổ biến nhất là cấm bán vé số cho trẻ dưới 18 tuổi. Mặc dù xổ số đã phổ biến ở nhiều nước trong thế kỷ 19, vào đầu thế kỷ 20, hầu hết các hình thức cờ bạc, bao gồm xổ số và rút thăm trúng thưởng, được coi là bất hợp pháp ở Hoa Kỳ và hầu hết các nước châu Âu cũng như nhiều quốc gia khác. Điều này vẫn còn đúng cho đến sau chiến tranh thế giới thứ II. Vào thập niên 1960 sòng bạc và xổ số bắt đầu lại xuất hiện trên khắp thế giới như là một phương tiện để các chính phủ tăng ngân sách mà không phải tăng thuế. Xổ số có nhiều hình thức. Ví dụ, giải thưởng có thể là một số tiền mặt cố định hoặc hàng hoá. Trong hình thức này, có nguy cơ người tổ chức sẽ bị lỗ nếu không bán được đủ số vé. Một cách khác phổ biến hơn là quỹ giải thưởng sẽ là một tỷ lệ phần trăm cố định của tổng số tiền vé (phổ biến là 50% tiền vé). Nhiều loại xổ số gần đây cho phép người mua lựa chọn số trên vé số, dẫn đến việc có thể có nhiều người chiến thắng trong một kỳ quay số. Lịch sử cổ điển. Có những bằng chứng ghi nhận đầu tiên về một trò chơi xổ số là các phiếu keno từ triều đại Hán Quốc Trung Quốc giữa năm 205 và 187 TCN. Tin rằng những trò chơi xổ số này đã giúp tài trợ cho các dự án chính phủ quan trọng như Vạn Lý Trường Thành. Từ tác phẩm Sách Nhạc Trung Quốc (thế kỷ 2 TCN), có một đề cập đến một trò chơi về may mắn như "việc rút một mảnh gỗ", trong ngữ cảnh dường như mô tả việc rút thăm.
{ "split": 0, "title": "Xổ số", "token_count": 453 }
22,786
Title: Xổ số Những cuộc xổ số châu Âu đầu tiên được biết đến đã được tổ chức trong thời kỳ Đế chế La Mã, chủ yếu là một hình thức giải trí trong các bữa tiệc tối. Mỗi khách mời sẽ nhận được một vé và các giải thưởng thường là những món đồ tinh tế như bộ đồ ăn. Mỗi người giữ vé đều được đảm bảo có phần thưởng. Tuy nhiên, loại xổ số này chỉ đơn giản là việc phân phát quà tặng bởi những quý tộc giàu có trong các buổi tiệc vui mừng Saturnalia. Các hồ sơ sớm nhất về một cuộc xổ số bán vé là cuộc xổ số do Hoàng đế La Mã Augustus tổ chức. Tiền được sử dụng để sửa chữa Thành phố Rome và những người chiến thắng sẽ được trao giải thưởng dưới dạng các món đồ có giá trị không đồng đều. Lịch sử thời Trung Cổ. Các cuộc xổ số đầu tiên được ghi nhận để bán vé với giải thưởng dưới dạng tiền mặt đã được tổ chức ở vùng Vùng đất thấp vào thế kỷ 15. Các thị trấn khác nhau đã tổ chức các cuộc xổ số công cộng để gây quỹ cho các công trình phòng thủ thị trấn và giúp đỡ người nghèo. Hồ sơ của các thị trấn Ghent, Utrecht, và Bruges cho thấy rằng các cuộc xổ số có thể còn cổ hơn. Một bản ghi ngày 9 tháng 5 năm 1445 tại L'Ecluse đề cập đến việc gây quỹ để xây tường và công trình phòng thủ thị trấn, với một cuộc xổ số có 4.304 vé và tổng giải thưởng 1737 florin (tương đương khoảng 170.000 USD vào năm 2014). Trong thế kỷ 17, việc tổ chức xổ số ở Hà Lan để gây quỹ cho người nghèo hoặc để thu tiền cho mục đích công cộng rất phổ biến. Các cuộc xổ số rất được ưa chuộng và được ca ngợi như một hình thức thuế không đau đớn. "Staatsloterij", một công ty xổ số do nhà nước Hà Lan sở hữu, là công ty xổ số lâu đời nhất (năm 1726). Từ "lot" trong tiếng Hà Lan có nghĩa là "định mệnh", từ đó có từ tiếng Anh "lottery" để chỉ cuộc xổ số.
{ "split": 1, "title": "Xổ số", "token_count": 459 }
22,787
Title: Xổ số Cuộc xổ số Ý đầu tiên được ghi nhận đã được tổ chức vào ngày 9 tháng 1 năm 1449 tại Milan do Cộng hòa Ambrosian Vàng tổ chức để tài trợ cho cuộc chiến chống lại Cộng hòa Venice. Tuy nhiên, tại Genoa, "Lotto" trở nên rất phổ biến. Người ta đã đặt cược vào tên của các thành viên Hội đồng lớn, được rút thăm, năm trong số chín mươi ứng cử viên mỗi sáu tháng. Loại cờ bạc này được gọi là "Lotto" hoặc "Semenaiu". Khi người ta muốn đánh cược thường xuyên hơn hai lần một năm, họ bắt đầu thay thế tên ứng cử viên bằng các số và xổ số hiện đại ra đời, từ đó cả xổ số hợp pháp hiện đại và trò chơi số bất hợp pháp có thể được truy nguồn gốc từ đó. Lịch sử thời Hiện đại sớm. Pháp, 1539-1789. Vua Francis I của Pháp đã khám phá ra xổ số trong những cuộc chiến ở Italy và quyết định tổ chức một cuộc xổ số như vậy trong vương quốc của mình để giúp tài chính quốc gia. Cuộc xổ số Pháp đầu tiên, "Loterie Royale", được tổ chức vào năm 1539 và được ủy quyền bằng sắc lệnh Châteaurenard. Nỗ lực này đã thất bại, vì vé rất đắt đỏ và các tầng lớp xã hội có khả năng mua vé phản đối dự án này. Trong hai thế kỷ tiếp theo, xổ số ở Pháp bị cấm hoặc, trong một số trường hợp, được dung tha. Anh, 1566-1826.
{ "split": 2, "title": "Xổ số", "token_count": 331 }
22,788
Title: Xổ số Mặc dù người Anh có thể đã thử nghiệm với việc tổ chức raffles và các trò chơi tương tự dựa trên may rủi, cuộc xổ số chính thức đầu tiên được ghi nhận được công nhận bởi Nữ hoàng Elizabeth I, vào năm 1566 và được tổ chức vào năm 1569. 400.000 vé được phát hành với giá 10 xilling mỗi vé (khoảng ba tuần lương của công dân thông thường), với giải thưởng chính trị giá khoảng 5.000 bảng Anh. Cuộc xổ số này được thiết kế để gây quỹ cho "sửa chữa các cảng biển và củng cố vững chắc của Vương quốc, và các công trình tốt công cộng khác", bao gồm xây dựng các cảng và tàu mới cho hạm đội hoàng gia. Mỗi người nắm giữ vé đều được nhận giải thưởng, và tổng giá trị của các giải thưởng bằng với số tiền gây quỹ. Các giải thưởng có dạng "tiền mặt sẵn có" và hàng hóa có giá trị như bát bạc, thảm và vải lanh tốt. Ngoài ra, mỗi người tham gia còn được miễn truy nã một lần, "miễn là tội phạm không phải là cướp biển, giết người, tội ác nghiêm trọng hoặc phản quốc". Cuộc xổ số được quảng cáo bằng những cuộn giấy dán trên khắp đất nước với các bản phác thảo của các giải thưởng. Do đó, số tiền từ xổ số được nhận là một khoản vay không lãi suất cho chính phủ trong suốt ba năm mà các vé ('mà không có bất kỳ vé trống nào') được bán. Trong những năm sau đó, chính phủ đã bán quyền mua vé xổ số cho các nhà môi giới, người sau đó thuê đại lý và nhân viên bán vé. Những nhà môi giới này cuối cùng trở thành những nhà môi giới chứng khoán hiện đại cho các dự án thương mại khác nhau. Đa phần người dân không thể đủ khả năng chi trả toàn bộ giá vé xổ số, vì vậy các nhà môi giới sẽ bán cổ phần trong một vé; điều này dẫn đến việc phát hành các vé với chú thích như "Mười sáu phần" hoặc "Lớp ba".
{ "split": 3, "title": "Xổ số", "token_count": 446 }
22,789
Title: Xổ số Nhiều xổ số tư nhân đã được tổ chức, bao gồm việc gây quỹ cho Tổng công ty Luân Đôn để hỗ trợ việc định cư tại Jamestown, Mỹ. Xổ số Nhà nước Anh đã diễn ra từ năm 1694 đến năm 1826. Do đó, xổ số Anh đã kéo dài hơn 250 năm, cho đến khi chính phủ, dưới áp lực không ngừng từ đối lập trong Quốc hội, tuyên bố một cuộc xổ số cuối cùng vào năm 1826. Cuộc xổ số này đã bị những nhà bình luận đương thời chế giễu là "cuộc đấu tranh cuối cùng của những nhà đầu tư trong lòng tin của công chúng để tạo sự phổ biến cho cuộc xổ số cuối cùng của họ". Bắc Mỹ thuộc Anh 1612–1783. Một cuộc xổ số Anh, được sự cho phép của Vua James I, được cấp cho Tổng công ty Luân Đôn vào năm 1612, cho phép họ gây quỹ để giúp định cư cho các dân cư trong thuộc địa Anh đầu tiên tại Jamestown, Virginia. Xổ số ở định cư thuộc địa Mỹ chủ yếu đã đóng vai trò quan trọng trong việc tài trợ cho cả dự án tư nhân và công cộng. Đã được ghi nhận rằng hơn 200 cuộc xổ số đã được phê chuẩn từ năm 1744 đến 1776, và chúng đã đóng vai trò quan trọng trong việc tài trợ cho đường sá, thư viện, nhà thờ, trường đại học, kênh đào, cầu cống, v.v. Vào những năm 1740, sự thành lập của Đại học Princeton và Đại học Columbia đã được tài trợ bởi các cuộc xổ số, cũng như Đại học Pennsylvania thông qua Cuộc xổ số Học viện vào năm 1755. Trong thời kỳ Chiến tranh Pháp - Ấn Độ, một số thuộc địa đã sử dụng xổ số để hỗ trợ tài chính cho các công trình phòng thủ và đội quân dân cư địa phương của họ. Vào tháng 5 năm 1758, Quận Massachusetts Bay đã gây quỹ bằng cuộc xổ số cho "Cuộc vận động chống lại Canada".
{ "split": 4, "title": "Xổ số", "token_count": 433 }
22,790
Title: Xổ số Benjamin Franklin đã tổ chức một cuộc xổ số để gây quỹ mua pháo để bảo vệ Philadelphia. Một số cuộc xổ số này đã cung cấp các giải thưởng dưới dạng "Pieces of Eight". Cuộc xổ số Mountain Road Lottery của George Washington vào năm 1768 không thành công, nhưng các vé xổ số hiếm có mang chữ ký của Washington đã trở thành đối tượng sưu tầm; một ví dụ đã được bán với giá khoảng 15.000 đô la vào năm 2007. Washington cũng là một người quản lý cho "Slave Lottery" của Đại tá Bernard Moore vào năm 1769, trong đó quảng cáo đất đai và nô lệ làm giải thưởng trên "The Virginia Gazette". Khi khởi đầu cuộc Cách mạng, Quốc hội Liên lục địa đã sử dụng xổ số để gây quỹ hỗ trợ Quân đội Thirteen Colonies. Alexander Hamilton đã viết rằng xổ số nên được giữ đơn giản và rằng "Mọi người... sẽ sẵn lòng mạo hiểm một khoản nhỏ vì cơ hội có thể thu được lợi nhuận đáng kể... và sẽ ưu tiên cơ hội nhỏ để có cơ hội chiến thắng lớn hơn là cơ hội lớn để có cơ hội chiến thắng ít". Thuế chưa bao giờ được chấp nhận là một phương thức gây quỹ công cộng cho các dự án, và điều này đã dẫn đến niềm tin phổ biến rằng xổ số là một hình thức thuế ẩn. Cuối cuộc Chiến tranh Cách mạng Mỹ, các tiểu bang phải sử dụng xổ số để gây quỹ cho nhiều dự án công cộng. Các quốc gia nói tiếng Đức. Cuộc xổ số lớn đầu tiên trên lãnh thổ Đức đã được tổ chức vào năm 1614 tại Hamburg. Ở Áo, cuộc xổ số đầu tiên được tổ chức vào năm 1751, trong thời kỳ của Nữ hoàng Maria Theresia, và được đặt tên là "Lotto di Genova" vì nó dựa trên 90 số. Tây Ban Nha, 1763. Tây Ban Nha có nhiều trò chơi xổ số phong phú, trong đó đa số được vận hành bởi Loterías y Apuestas del Estado, và các xổ số còn lại do ONCE và chính phủ Catalonia vận hành. Trò chơi xổ số Tây Ban Nha đầu tiên đã được chơi từ năm 1763 và, trong hai thế kỷ qua, việc chơi xổ số ở Tây Ban Nha đã trở thành một truyền thống.
{ "split": 5, "title": "Xổ số", "token_count": 492 }
22,791
Title: Xổ số Xổ số Giáng sinh Tây Ban Nha (chính thức là Sorteo Extraordinario de Navidad [soɾˈteo ekstɾaorðiˈnaɾjo ðe naβiˈðað] hoặc đơn giản là Lotería de Navidad [loteˈɾia ðe naβiˈðað]) là một cuộc xổ số quốc gia. Nó được tổ chức hàng năm kể từ năm 1812 bởi một chi nhánh của Bộ Công vụ Tây Ban Nha, hiện được gọi là Loterías y Apuestas del Estado. Tên Sorteo de Navidad được sử dụng lần đầu tiên vào năm 1892. Xổ số Giáng sinh Tây Ban Nha là cuộc xổ số có thời gian liên tục thứ hai dài nhất trên thế giới. Điều này bao gồm cả thời kỳ Chiến tranh Dân sự Tây Ban Nha khi cuộc quay xổ số được tổ chức tại Valencia sau khi phe Cộng hòa buộc phải di chuyển thủ đô từ Madrid. Sau khi chế độ Cộng hòa bị lật đổ, cuộc xổ số tiếp tục diễn ra liên tục dưới chế độ Franco. Kết quả cho những người thắng lớn. Một nghiên cứu của Cục Nghiên cứu Kinh tế Quốc gia (National Bureau of Economic Research) đã phát hiện ra rằng những người ở Thụy Điển giành được số tiền lớn từ xổ số thường giữ được tài sản của họ trong vòng 10 năm, thường tiếp tục giữ công việc nhưng có nhiều kỳ nghỉ hơn, và duy trì hoặc tăng cường sự hạnh phúc và sức khỏe tâm thần của họ. Cùng một nghiên cứu cũng cho biết rằng câu chuyện thông thường "70% người nhận một lượng tiền lớn sẽ mất hết nó trong vài năm" là sai, và câu chuyện này đã bị đặt sai nguồn từ Tổ chức Giáo dục Tài chính Quốc gia (National Endowment for Financial Education - NEFE). NEFE đã phát đi thông cáo tách biệt với tuyên bố đó. "Tạp chí Time" đề cập đến "lời nguyền của xổ số". Cố vấn tài chính Don McNay đã đưa ra những chuyện kể ủng hộ khẳng định này trong cuốn sách của ông, "Life Lessons from the Lottery" (Những bài học về cuộc sống từ xổ số). Thanh toán giải thưởng.
{ "split": 6, "title": "Xổ số", "token_count": 466 }
22,792
Title: Xổ số Số tiền thắng (ở Hoa Kỳ) không nhất thiết được trả theo hình thức trọn gói, trái ngược với mong đợi của nhiều người tham gia xổ số. Ở một số quốc gia, chủ yếu là Hoa Kỳ, người chiến thắng có quyền lựa chọn giữa việc nhận trả theo hình thức trả theo kỳ hạn và một lần trả. Số tiền trả một lần (theo hình thức tiền mặt hoặc trọn gói) ít hơn số tiền thưởng được quảng cáo (theo hình thức trả theo kỳ hạn), xem xét giá trị thời gian của tiền, ngay cả trước khi áp dụng bất kỳ thuế thu nhập nào mà giải thưởng phải chịu. Mặc dù số tiền bị giữ lại thay đổi theo quy định của từng khu vực và cách đầu tư số tiền thưởng, nhưng có nghiên cứu cho rằng người chiến thắng lựa chọn trả một lần mong đợi giành được của số tiền thưởng được quảng cáo vào cuối năm thuế. Do đó, một người chiến thắng giải thưởng trị giá 90 triệu đô la Hoa Kỳ lựa chọn nhận tiền mặt có thể mong đợi thu về 30 triệu đô la Hoa Kỳ sau khi nộp các tài liệu thuế thu nhập cho năm mà giải thưởng được giành được. Hợp đồng trả theo kỳ hạn của xổ số thường kéo dài từ 20 đến 30 năm. Một số trò chơi xổ số ở Hoa Kỳ, đặc biệt là những trò chơi cung cấp giải thưởng "trọn đời", không cung cấp tùy chọn trả một lần. Theo một số chuyên gia, lựa chọn trả theo kỳ hạn tốt hơn so với lựa chọn trả một lần, đặc biệt đối với những người thiếu kinh nghiệm đầu tư. Trong một số loại xổ số trực tuyến, số tiền trả theo kỳ hạn hàng năm chỉ là 25.000 đô la, với một khoản trả một lần lớn vào năm cuối. Hình thức trả góp này thường được thực hiện thông qua đầu tư vào các chứng khoán được bảo đảm bởi chính phủ. Các công ty xổ số trực tuyến trả giải thưởng cho người chiến thắng thông qua bảo hiểm. Tuy nhiên, nhiều người chiến thắng chọn lựa trả một lần, vì họ tin rằng mình có thể nhận được mức lợi suất đầu tư tốt hơn ở nơi khác.
{ "split": 7, "title": "Xổ số", "token_count": 441 }
22,793
Title: Xổ số Ở một số quốc gia, số tiền thưởng xổ số không chịu thuế thu nhập cá nhân, do đó không có hậu quả thuế phải xem xét khi chọn lựa phương thức thanh toán. Ở Pháp, Canada, Úc, Đức, Ireland, Ý, New Zealand, Phần Lan và Vương quốc Anh, tất cả các giải thưởng được trả một lần, không chịu thuế và miễn phí cho người chiến thắng. Ở Liechtenstein, tất cả các giải thưởng đều không chịu thuế và người chiến thắng có thể chọn nhận một lần trả hoặc theo hình thức trả theo kỳ hạn đối với các giải thưởng giải độc đắc. Ở Hoa Kỳ, tòa án liên bang đã liên tục xác định rằng các khoản thanh toán một lần nhận được từ bên thứ ba đổi lấy quyền sở hữu các hợp đồng trả theo kỳ hạn của xổ số không được coi là tài sản vốn theo mục đích thuế. Thay vào đó, số tiền trả một lần phải chịu xử lý thuế thu nhập thông thường. Một số người thuê một bên thứ ba để đổi phiếu xổ số cho họ. Điều này có thể được thực hiện để tránh trả thuế thu nhập, che giấu số tiền thắng được để tránh bị tịch thu để trả tiền trợ cấp nuôi con, hoặc để rửa tiền lợi nhuận từ hoạt động bất hợp pháp; một số khu vực điều tra những người "thắng lớn" quá thường xuyên và có thể đóng băng thanh toán để ngăn chặn những lạm dụng này. Ở các khu vực yêu cầu tiết lộ công khai cho người chiến thắng để nhận giải thưởng của họ, một số người chiến thắng có thể thuê một luật sư thành lập một quỹ tin tưởng mù để họ có thể nhận giải thưởng và duy trì quyền ẩn danh. Điều này được thực hiện để người chiến thắng có thể tránh lừa đảo, ghen tỵ và các bất lợi khác có thể xảy ra khi giành được giải thưởng xổ số. Xác suất chiến thắng. Cơ hội giành giải thưởng xổ số có thể thay đổi rất lớn tùy thuộc vào thiết kế của xổ số và được xác định bởi một số yếu tố, bao gồm số lượng số có thể chọn, số lượng số trúng được rút, xem liệu thứ tự có quan trọng hay không, và xem số đã rút có được trả lại cho khả năng rút thêm hay không.
{ "split": 8, "title": "Xổ số", "token_count": 474 }
22,794
Title: Xổ số Trong một trò xổ số đơn giản như "chọn 6 số từ 49 số" (không cho phép số trùng nhau), người chơi chọn sáu số từ 1 đến 49. Nếu tất cả sáu số trên vé của người chơi trùng khớp với các số được rút trong kết quả chính thức (bất kể thứ tự các số được rút), thì người chơi là người chiến thắng jackpot. Đối với loại xổ số như vậy, cơ hội giành giải thưởng jackpot là 1 trên 13.983.816. Trong các loại xổ số có số bóng thưởng bắt buộc, khả năng giành giải thưởng thường còn thấp hơn. Trong xổ số đa bang Mega Millions ở Hoa Kỳ, có 5 số được rút từ một nhóm 70 số và 1 số được rút từ một nhóm 25 số, và người chơi phải khớp tất cả 6 số để giành giải thưởng jackpot. Cơ hội giành giải thưởng jackpot là 1 trên 302.575.350. Khả năng giành giải cũng có thể được giảm bớt bằng cách tăng số lượng số từ đó rút. Trong trò xổ số SuperEnalotto của Ý, người chơi phải khớp 6 số từ 90 số. Cơ hội giành giải thưởng jackpot là 1 trên 622.614.630. Hầu hết các loại xổ số trao những giải thưởng nhỏ hơn cho việc khớp một phần của các số trúng, với giải thưởng nhỏ hơn cho việc khớp ít số hơn. Mặc dù những giải thưởng bổ sung này không ảnh hưởng đến cơ hội giành giải thưởng jackpot, chúng cải thiện khả năng giành được một số thứ gì đó và do đó gia tăng một chút giá trị của vé. Xổ số tại các nước. Việt Nam. Tại Việt Nam, có hai loại xổ số: xổ số thường, được tách theo quy mô cấp tỉnh và xổ số điện tử (tiêu biểu như Vietlott). Bộ Tài chính quản lý các công ty xổ số cấp tỉnh, và các công ty xổ số này thực hiện quay xổ số và trả thưởng cho người trúng. Ăn theo xổ số là lô đề - một dạng xổ số bất hợp pháp trong dân, lấy kết quả của giải độc đắc xổ số thường làm kết quả trả thưởng. Tại Hà Nội, hệ thống "đại lý" số đề đã phát triển bám vào các cửa hàng xổ số thường và các quán trà đá, hoạt động khá công khai. Ngoài ra, một số người chơi đã chuyển qua đánh lô đề qua mạng Internet.
{ "split": 9, "title": "Xổ số", "token_count": 509 }
22,795
Title: Xổ số Theo các công ty xổ số thường, doanh thu xổ số thường đang càng ngày càng giảm vì không cạnh tranh nổi với Vietlott và số đề. Xác suất chiến thắng. Xổ số được lấy ngẫu nhiên từ các quả bóng có in số, xác suất trúng từ 1 chữ số đến cả sáu chữ số trên cả sáu quả bóng. Xác suất trúng được viết trong bản dưới đây. Cơ hội giành giải thưởng xổ số có thể thay đổi rất lớn tùy thuộc vào thiết kế của xổ số và được xác định bởi một số yếu tố, bao gồm số lượng số có thể chọn, số lượng số trúng được rút, xem liệu thứ tự có quan trọng hay không, và xem số đã rút có được trả lại cho khả năng rút thêm hay không. Trong một trò xổ số đơn giản như "chọn 6 số từ 49 số" (không cho phép số trùng nhau), người chơi chọn sáu số từ 1 đến 49. Nếu tất cả sáu số trên vé của người chơi trùng khớp với các số được rút trong kết quả chính thức (bất kể thứ tự các số được rút), thì người chơi là người chiến thắng jackpot. Đối với loại xổ số như vậy, cơ hội giành giải thưởng jackpot là 1 trên 13.983.816. Trong các loại xổ số có số bóng thưởng bắt buộc, khả năng giành giải thưởng thường còn thấp hơn. Trong xổ số đa bang Mega Millions ở Hoa Kỳ, có 5 số được rút từ một nhóm 70 số và 1 số được rút từ một nhóm 25 số, và người chơi phải khớp tất cả 6 số để giành giải thưởng jackpot. Cơ hội giành giải thưởng jackpot là 1 trên 302.575.350. Khả năng giành giải cũng có thể được giảm bớt bằng cách tăng số lượng số từ đó rút. Trong trò xổ số SuperEnalotto của Ý, người chơi phải khớp 6 số từ 90 số. Cơ hội giành giải thưởng jackpot là 1 trên 622.614.630. Hầu hết các loại xổ số trao những giải thưởng nhỏ hơn cho việc khớp một phần của các số trúng, với giải thưởng nhỏ hơn cho việc khớp ít số hơn. Mặc dù những giải thưởng bổ sung này không ảnh hưởng đến cơ hội giành giải thưởng jackpot, chúng cải thiện khả năng giành được một số thứ gì đó và do đó gia tăng một chút giá trị của vé.
{ "split": 10, "title": "Xổ số", "token_count": 493 }
22,796
Title: Xứ bảo hộ Nam Ả Rập Xứ bảo hộ Nam Ả Rập bao gồm nhiều tiểu bang nằm ở cuối phía nam của Bán đảo Ả Rập theo các hiệp ước bảo hộ với Anh . Khu vực thuộc lãnh thổ bảo hộ trước đây đã trở thành một phần của Nam Yemen sau cuộc nổi dậy Radfan và hiện là một phần của Cộng hòa Yemen. Lịch sử. Xứ Bảo hộ Nam Ả Rập là một phần trong nỗ lực của Đế quốc Anh nhằm bảo vệ Tuyến đường Đông Ấn, tuyến đường biển giữa Địa Trung Hải và Ấn Độ, trong và qua các bờ biển phía Nam của Ả Rập. . Ngay từ trước khi mở Kênh đào Suez, Anh công nghiệp với nền kinh tế đang mở rộng nhanh chóng, cần cải thiện liên lạc với Ấn Độ thuộc Anh. Các vùng đồng bằng ven biển của bán đảo đã bị tàn phá trước đó vào thế kỷ 19 bởi Wahhabi người Hồi giáo thuần thành từ Trung Ả Rập, sau đó là cuộc xâm lược của Ai Cập . Từ hiệp ước thương mại đầu tiên với Vương quốc Hồi giáo Lahej năm 1802, nhiều nỗ lực khác nhau đã được thực hiện để tránh sự cướp bóc của các tàu Đông Ấn, dẫn đến sự sáp nhập Aden của Công ty Đông Ấn vào năm 1839. Chính quyền bảo hộ Aden được thành lập vào năm 1869, cùng năm khai trương kênh đào Suez, báo trước một kỷ nguyên thương mại và liên lạc mới. Thế kỷ 20. Chính quyền Bảo hộ Nam Ả Rập được chỉ định vào ngày 18 tháng 1 năm 1963 bao gồm những khu vực của Chính quyền Bảo hộ Aden không tham gia Liên bang Nam Ả Rập, và nói chung, nhưng không chính xác, tương ứng với sự phân chia của Chính quyền Bảo hộ Aden được gọi là Vùng bảo hộ Đông Aden.
{ "split": 0, "title": "Xứ bảo hộ Nam Ả Rập", "token_count": 401 }
22,797
Title: Xứ bảo hộ Nam Ả Rập Xứ bảo hộ bao gồm Hadhrami của Kathiri, Mahra, và Qu'aiti ngoại trừ ba Wahidi trong Vùng bảo hộ Đông Aden , với Thượng Yafa trong Vùng Bảo hộ Tây Aden. Xứ Bảo hộ Nam Ả Rập bị giải thể vào ngày 30 tháng 11 năm 1967 và các quốc gia thành viên của nó nhanh chóng sụp đổ, dẫn đến việc các chế độ quân chủ ở các bang bị bãi bỏ. Lãnh thổ này được sáp nhập vào Nam Yemen mới độc lập, trở thành một phần của Yemen vào năm 1990. Các bang. Các quốc gia cũ của Aden thuộc Anh đã được thống nhất vào những năm 1960 để thành lập Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Yemen, độc lập vào ngày 30 tháng 11 năm 1967. Nam Yemen sau đó thống nhất với Bắc Yemen để thành lập nhà nước Yemen hiện đại vào năm 1990 .
{ "split": 1, "title": "Xứ bảo hộ Nam Ả Rập", "token_count": 195 }
22,798
Title: Xử Nữ (chiêm tinh) Xử Nữ - Virgo (), hay còn gọi là Trinh Nữ, Thất Nữ trong cung chiêm tinh chí tuyến của phương Tây (23 tháng 8 - 22 tháng 9) khác với chòm sao thiên văn cũng như cung chiêm tinh thiên văn của người Hindu (16 tháng 9 - 30 tháng 10). Xử Nữ là cung chiêm tinh thứ sáu trong 12 cung Hoàng Đạo và nằm giữa độ thứ 150 và 180 của kinh độ thiên thể. Trong chiêm tinh học và một số thuyết vũ trụ, Xử Nữ được liên kết với nguyên tố cổ điển là Đất và vì thế được gọi là cung Đất (cùng với Kim Ngưu và Ma Kết). Nó là một trong các cung Biến đổi (cùng với Song Tử, Nhân Mã và Song Ngư), và có chính kiến, quyết đoán, thông minh nhất. Tỉ lệ người Xử Nữ sinh ra là để thành công, đặc biệt có nhiều tỉ phú và nhiều người nổi tiếng trong các lĩnh vực khác. Ví dụ: Trương Quốc Vinh, Phạm Băng Băng, Dương Mịch, Jack Ma, Warren Buffett, Alan Walker. Mỗi một cung chiêm tinh được gắn với một phần của cơ thể, được coi như là nơi thể hiện sức mạnh của nó. Xử Nữ cai quản ruột. Ký hiệu của Xử Nữ là một trinh nữ hay thiếu nữ. Các phẩm chất của Xử Nữ bao gồm khả năng tổ chức, ưa sạch sẽ, cực kỳ hiếu động, lòng vị tha và khả năng hoàn thành tốt công việc. Mặt chưa tốt: Xử Nữ có thể là rất thích phân tích, giúp đỡ người khác. Là chòm sao biết hoàn thiện bản thân nhất, mục tiêu sống trở nên hoàn hảo theo sự hạnh phúc riêng mà người cung này lựa chọn. Về mặt thân thể, những người sinh trong cung này có trán cao, vẻ mặt duyên dáng với đôi mắt đẹp và giọng nói khiêm tốn, nhã nhặn.
{ "split": 0, "title": "Xử Nữ (chiêm tinh)", "token_count": 418 }
22,799
Title: Xử Nữ (chiêm tinh) Và dường như Thiên Chúa đã ưu đãi cho Xử Nữ những đặc tính tuyệt vời nhất và tất cả các ưu điểm của các chòm sao khác cộng lại như: thông minh, xinh đẹp (đẹp trai, đẹp gái), siêng năng, chăm chỉ, có sự hùng biện tuyệt vời hơn cả, bộ não ghi nhớ sâu sắc, trái tim ấm áp nhất (nhưng vẻ ngoài lạnh lùng nhất), nụ cười đẹp nhất, thân thiện, kiến thức uyên bác. Là chòm sao luôn luôn chiến thắng và luôn chiến thắng trong tất cả mọi lĩnh vực: tình yêu, kinh tế, và người cung Xử Nữ luôn có được một cuộc sống viên mãn nhất khiến người khác ngưỡng mộ, lẫn ganh tị. Mặc dù cuộc sống trải qua nhiều điều, nhưng luôn thấy người này mạnh mẽ đúng lúc và yếu đuối đúng nơi. Được đánh giá là một chòm sao đứng đầu. Thần thoại Hy Lạp. Thần thoại Hy Lạp kể lại rằng: ”Vào thời đại hoàng kim, con người trên Trái Đất chỉ toàn đàn ông, lúc này các nam thần và nữ thần còn sống chung với con người. Mọi chuyện bắt đầu biến đổi khi Zeus - cháu của mẹ đất Gaia lên trị vì đỉnh Olympus, ông xem thường loài người, và bắt đầu cai trị khắc nghiệt kỷ nguyên này. Đồng thời vào lúc này, có một vị thần Titan đứng lên bảo vệ con người tên là Prometheus, ông đánh cắp ngọn lửa của Zeus đem xuống chiếu sáng cho con người. Zeus nổi trận lôi đình đem Prometheus trói xích lên núi Caucasus mỗi ngày sai quạ xuống mổ bụng ăn gan của ông”.
{ "split": 1, "title": "Xử Nữ (chiêm tinh)", "token_count": 373 }