id
stringlengths
1
8
url
stringlengths
31
389
title
stringlengths
1
250
text
stringlengths
5
274k
28384
https://vi.wikipedia.org/wiki/Aldo%20Rossi
Aldo Rossi
Aldo Rossi (3 tháng 3 năm 1931 - 4 tháng 9 năm 1997 tại Milano) là một kiến trúc sư người Ý nổi tiếng. Ông đã tạo dựng được một danh tiếng quốc tế trong cả ba lĩnh vực: lý thuyết kiến trúc, đồ họa và kiến trúc. Các tác phẩm thời kì đầu của ông chủ yếu là lý thuyết kiến trúc, thể hiện ảnh hưởng đồng thời các ảnh hưởng của kiến trúc Ý vào thập niên 1920 như Giuseppe Terragni, chủ nghĩa cổ điển của Adolf Loos và ảnh hưởng của họa sĩ Giorgio De Chirico. Ông trở nên đặc biệt có ảnh hưởng vào giai đoạn cuối của thập niên 1970 đến thập niên 1980 khi các công trình của ông trở nên phổ biến và với sự xuất hiện các tác phẩm lý thuyết của ông như "Kiến trúc của thành phố" (The Architecture of the City) xuất bản năm 1966 và "Một tự truyện khoa học" (A Scientific Autobiography) xuất bản năm 1981. Ông được nhận giải thưởng Pritzker năm 1990. Tham khảo Liên kết ngoài Trang giải Pritzker về Rossi. Tiểu sử Kiến trúc sư Ý Người đoạt giải Pritzker Lý thuyết kiến trúc Sinh năm 1931 Mất năm 1997 Người Milano
28385
https://vi.wikipedia.org/wiki/Rem%20Koolhaas
Rem Koolhaas
Rem Koolhaas (sinh 17 tháng 11 năm 1944) sinh ra ở Rotterdam, Hà Lan, nguyên là một phóng viên và nhà biên kịch, đã từng theo học kiến trúc tại Trường Kiến trúc London. Ông là một thành viên chính của hãng thiết kế kiến trúc Office for Metropolitan Architecture, hay OMA, và bộ phận nghiên cứu AMO của hãng. Ông cũng là giáo sư hướng dẫn thực hành về kiến trúc và thiết kế đô thị tại Đại học Harvard. Ông đã được nhận giải thưởng Pritzker năm 2000. Tham khảo Liên kết ngoài Tranh chính của Office for Metropolitan Architecture Thông tin về Koolhaas tại Đại học Harvard hình ảnh về Casa da Musica tại KultureFlash Kiến trúc sư Hà Lan Người đoạt giải Pritzker Nghệ sĩ Hà Lan Nhà văn Hà Lan viết phi hư cấu Người Rotterdam Kiến trúc Hậu Hiện đại Quy hoạch đô thị
28387
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thom%20Mayne
Thom Mayne
Thom Mayne (sinh 19 tháng 1 năm 1944 ở Waterbury, Connecticut, Hoa Kỳ) là một kiến trúc sư nổi tiếng thế giới. Ông theo học kiến trúc tại Đại học Nam California (USC) và Đại học Harvard. Ông là một trong số những người lập nên Học viện Kiến trúc Nam California (SCI-ARC) năm 1972. Từ đó đến nay, ông giảng dạy tại hai nơi: Học viện Kiến trúc Nam California (SCI-ARC) và Đại học Califorina tại Los Angeles (UCLA). Hãng kiến trúc Morphosis của ông có trụ sở đặt tại Santa Monica, California. Ông nhận được giải thưởng Pritzker năm 2005. Sự nghiệp Thom Mayne cùng với Michael Rotondi lập ra hãng thiết kế Morphosis năm 1972 với tham vọng phát triển một trường phái kiến trúc vượt ra khỏi giới hạn của hình khối truyền thống. Khởi đầu như một sự cộng tác đơn giản, họ theo đuổi các đồ án tạo hình không kiến trúc, hợp đồng đầu tiên một trường học ở Pasadena, (nơi mà con trai Mayne lúc đó đang theo học). Danh tiếng từ công trình này đã đem lại cho học một số hợp đồng nhà ở bao gồm khu ở Lawrence. Từ đó Morphosis phát triển trở thành một trong những hãng thiết kế có tiềm năng nhất ở Mỹ với các đồ án trên toàn thế giới. Các đồ án gần đây có Trụ sở Sinh viên Cao học tại Đại học Toronto, tòa nhà chính phủ ở San Francisco, trung tâm đón tiếp sinh viên tại Đại học Cincinnati, trung tâm khoa học tại Los Angeles, Trường trung học Diamond Ranch ở Pomona, California và tòa án Wayne L. Morse ở Eugene, Oregon. Năm 1991, Michaek Rotondi rời Morphosis, lập hãng kiến trúc RoTo Architects. Triết lý thiết kế Quan điểm thiết kế của Morphosis bắt nguồn từ sự lưu tâm tới ý nghĩa của các đồ án mà có thể cảm nhận được bằng các hấp thụ nền văn hóa nơi mà đồ án được sản sinh và phục vụ. Điều đó trái ngược lại nhiều triết lý kiến trúc mà xác lập một ngữ nghĩa toàn thể, không bị ảnh hưởng bởi các tác động bên ngoài. Tên của hãng Morphosis xuất phát từ chữ Metamorphosis (siêu biến hình) với ý nghĩa sự thay đổi trong hình thức hoặc sự chuyển đổi. Với Morphosis, điều đó phản ảnh một quá trình thiết kế ghi dấu bằng trực giác trong một xã hội phát triển không có nền tảng. Điển hình là sự biến đổi cảnh quan của thành phố Los Angeles. Phương pháp làm việc của Morphosis là đánh giá các sự đối lập, các mâu thuẫn và sự biến đổi và thấu hiểu mỗi đồ án như một thực thể động (dynamic entity). Các công trình của Morphosis chứa đựng với sự đối nghịch lẫn nhau trong một hệ thống tổ chức đa tầng. Người ta tìm thấy trong đo một sự biểu cảm thống nhất trong khi đóng góp một mối quan hệ nội tại tổng thể. Về phương diện thị giác, kiến trúc của Morphosis mang hình dáng điêu khắc, thường xuất hiện mọc lên mạnh mẽ từ cảnh quan thiên nhiên. Trong những năm gần đây, dựa trên sự phát triển của các phương pháp Trợ giúp thiết kế bằng máy tính (CAD), các công trình được đơn giản hóa cấu trúc trong các tổ hợp hình dáng. Giải thưởng Giải thưởng Pritzker, 2005 Giải thưởng thiết kế Chrysler, 2001 Huy chương vàng Los Angeles, Hiệp hội Kiến trúc sư Mỹ AIA, 2000 Cựu sinh viên nổi bật của năm, Đại học Nam California, 1995 Giải thưởng kiến trúc Brunner, Viện Hàn lâm về Nghệ thuật và Văn chương Mỹ, 1992 Thành viên nổi bật, Viện Hàn lâm Thiết kế Mỹ, 1992 Thành viên hội đồng Eliel Saarinen, Đại học Yale, 1991 Thành viên hội đồng Elliot Noyes, Đại học Harvard, 1988 Giải thưởng hữu nghị Roma, Viện Hàn lâm Mỹ tại Roma, Ý, 1987 Một số công trình Đang xây dựng Khu nhà học viện mới, Hiệp hội Cooper về Khoa học và Nghệ thuật, New York, New York, 2008 Trung tâm tiếp đón sinh viên Đại học Cincinnati, Cincinnati, Ohio, 2006 Tòa nhà quản lý khí quyển đại dương quốc gia, Trung tâm Điều hành Vệ tinh, Suitland, MD, 2007 Tòa nhà chính phủ, San Francisco, California, 2006 Tòa án Wayne L. Morse, Eugene, Oregon, 2006 Đã xây dựng Trung tâm khoa học Los Angeles, California, 2004 Trụ sở Caltrans, quận 7, Los Angeles, California, 2004 Trung tâm Hypo Alpe-Adria, Klagenfurt, Áo, 2002 Trường trung học Diamond Ranch, Pomona, California, 1999 Tháp Mặt Trời, Seoul, Hàn Quốc, 1997 Khu ở Blades, Santa Barbara, California, 1995 Nhà làm việc khu chăm sóc sức khỏe Salick, Los Angeles, CA, 1991 Khu ở Crawford, Montecito, CA, 1990 Trung tâm Chẩn đoán Ung thư Cedar Sinai, Los Angeles, CA, 1988 Khu ở đường số 6, Santa Monica, CA, 1988 Kate Mantilini, Beverly Hills, CA, 1986 Tham khảo Liên kết ngoài Bài về Mayne trên Metropolis Thom Mayne, người đoạt giải Prizker Trang chính của Morphosis Mayne, Thom Mayne, Thom Mayne, Thom Mayne, Thom Nhân vật còn sống Cựu sinh viên Đại học Harvard Cựu sinh viên Đại học Nam California
28389
https://vi.wikipedia.org/wiki/Norman%20Foster
Norman Foster
Norman Robert Foster (sinh 1 tháng 6 năm 1935) là một kiến trúc sư người Anh. Ông được phong tặng tước hiệu Nam tước của bờ sông Thames, tước Hiệp sĩ và được tặng thưởng Huân chương danh dự (Anh). Phong cách kiến trúc của ông nguyên gốc đặc sắc và thời trang, ảnh hưởng máy móc của phong cách High-tech, nhưng dần dần ông đã chuyển sang một phong cách tinh tế và hiện đại, sắc nét hơn. Norman Foster sinh tại ngoại ô Manchester và theo học kiến trúc tại Đại học Manchester và Đại học Yale. Ông đã làm việc với kiến trúc sư nổi tiếng Buckminster Fuller, năm 1967 ông lập Nhóm 4 cùng với Richard Roger và thành lập hãng kiến trúc riêng Foster và cộng sự năm 1967. Norman Foster bắt đầu thu hút sự chú ý của công chúng từ năm 1971 khi thiết kế công trình nhà làm việc của hãng IBM tại Cosham. Vào năm 1975, kiến trúc hiện đại của Foster nổi tiếng toàn thế giới với công trình trụ sở làm việc của Willis Faber & Dumas tại Ipswish. Công trình 3 tầng, hoàn toàn bọc kính này nằm trên một khu phố có cấu hình không chuẩn tắc, là một tấm gương phản ánh toàn bộ các hoạt động của khu vực vào ban ngày nhưng lại hoàn toàn trong suốt vào ban đêm, bộc lộ không gian nội thất gồm hai tầng trên làm văn phòng và một bể bơi ở tầng dưới. Đồ án này được xem như một hình mẫu cho sự đáp ứng xã hội cũng như hiệu quả về mặt môi sinh. Trong vòng hai năm, Foster chứng minh tài năng của mình bằng những giải pháp sáng tạo cả về thiết kế không gian lẫn sử dụng vật liệu tại Trung tâm Nghệ thuật Thị giác Sainsbury tại Đại học Đông Anglia, Norwich. Năm 1979, ông thắng cuộc thi thiết kế quốc tế cho trụ sở Ngân hàng Hồng Kông Thượng Hải ở Hồng Kông, cao 180 mét, gồm 47 tầng lầu và 4 tầng ngầm. Toàn bộ các tầng lầu được treo trên các hệ kết cấu vượt một khoảng không là 38,4 m, dựa trên 8 nhóm cột thép cao thấp khác nhau. Công trình này hoàn thành năm 1985. Tòa nhà này là một ví dụ tiêu biểu của kiến trúc High-Tech trong những năm 1980-1990. Ông nhận giải thưởng Pritzker năm 1999. Ông là người Anh thứ hai đoạt giải thưởng Stirling hai lần. Một lần cho công trình Nhà chứa máy bay Mỹ (American Hangar) ở Viện Bảo tàng Chiến tranh Đế quốc (Imperial War Museum Duxford) ở Duxford năm 1998, và lần thứ hai cho toà nhà Swiss Re số 30 đường Mary Axe năm 2004. Công trình này bị một số người gọi là chỉ trích vì giống một biểu tượng gợi dục. Gần đây, một trong những trợ thủ chính của Norman Foster là kiến trúc sư Ken Shuttleworth, người đã vạch những nét phác thảo đầu tiên của tòa nhà "Quả dưa chuột" ở số 30 đường Mary Axe đã rời hãng Foster và cộng sự, thành lập hãng thiết kế kiến trúc MAKE. Có người cho rằng Ken Shuttleworth sẽ là đối thủ tiềm tàng của Foster trong tương lai. Ông cũng bị báo chí Anh đặt cho biệt hiệu "Nam tước lắc lư" sau sự cố trục trặc của Cầu Thiên niên kỷ ở London. Ngoài ra, toà nhà của hãng thiết kế và nhà riêng của Foster cũng bị chỉ trích vì có tác động xấu lên Bộ Sưu tập Nghệ thuật Từ thiện Couper (Couper Collection), tuy nhiên Foster từ chối điều này. Norman Foster đã có 3 đời vợ. Người vợ đầu của ông là đối tác làm việc lâu năm, qua đời năm 1989 vì bị ung thư. Người vợ thứ hai gốc Ấn Độ chỉ sống với Foster một thời gian ngắn và ly dị năm 1998. Vợ hiện nay của ông là Elena Foster, từng là phóng viên và đã giảng dạy tại ĐH Cambridge. Ông có tổng cộng 6 người con (5 trai và 1 gái). Công trình thiết kế IBM Pilot Head Office, Portsmouth, Anh (1970 – 1971) Trụ sở Willis Faber & Dumas, Ipswich (1970 – 1974) Trung tâm Nghệ thuật Thị giác Sainsbury, Đại học Đông Anglia, Norwich Tháp ngân hàng Commerzbank, Frankfurt am Main HSBC headquarters building và sân bay quốc tế Hong Kong, Hong Kong Nhà ga hành khách tại sân bay quốc tế Stansted London Metro của Bilbao, Tây Ban Nha Cải tạo thư viện Lionel Robbins, Trường Kinh tế London, Anh Tháp Collserola, Barcelona, Tây Ban Nha, (1992) Carré d'Art, Nîmes, Pháp (1993) Redevelopment of the Great Court of the British Museum (1999) Cầu thiên niên kỷ, London (1999) Cải tạo mái vòm nhà Quốc hội Đức, Berlin (1999) Trụ sở Electronic Arts châu Âu, Thụy Sĩ, 2000 Tòa Thị chính London (2000) Ga Expo MRT, Singapore (2001) Ga tàu điện ngầm La Poterie metro, Rennes, Pháp (2001) Trụ sở J Sainsbury, Holborn Circus, London (2001) 30 St Mary Axe — Trụ sở Swiss Re (2003) Cổng Sage Gateshead (2004) Cầu Millau — Pháp (2004) Đài Tưởng niệm Cảnh sát Quốc gia — The Mall, London (2005) Thư viện khoa triết, Đại học Tự do Berlin, Đức (2005) Khoa dược, Đại học Toronto, Canada Tháp Hearst, New York, New York (2006) Sân bay quốc tế thủ đô Bắc Kinh, Trung Quốc (2007) Quảng trường Spinningfield, Manchester (2005 - 2010) 40 căn hộ cao cấp, Saint Moritz, Thụy Sĩ (2005) Trung tâm Nghệ thuật Trình diễn Dallas, Dallas, Texas Tham khảo Liên kết ngoài Foster và cộng sự Ken Shuttleworth Structurae: Lord Norman Foster Toà Thị chính London Kiến trúc sư Anh Kiến trúc sư nhận giải thưởng AIA Người đoạt giải Pritzker Nhân vật còn sống Nhà thiết kế người Anh
28390
https://vi.wikipedia.org/wiki/Herzog%20%26%20de%20Meuron
Herzog & de Meuron
Herzog & de Meuron là một hãng kiến trúc được thành lập vào năm 1978 bởi hai kiến trúc sư người Thụy Sĩ là Jacques Herzog (sinh 19 tháng 4 năm 1950 tại Basel) và Pierre de Meuron (sinh 8 tháng 5 năm 1950). Hai ông cùng được chung giải thưởng Pritzker năm 2001. Các công trình kiến trúc Sân vận động Quốc gia Bắc Kinh cho Thế vận hội Mùa hè 2008 Bảo tàng Kỷ niệm M. H. de Young, San Francisco, 2005 Mở rộng Trung tâm Nghệ thuật Walker, Minneapolis, 2005 Forum Building, Barcelona, 2004 Trung tâm Khiêu vũ Laban, London, 2003 Vận động trường St. Jakob, Basel, Thụy Sĩ, 2001 Bảo tàng nghệ thuật Tate Modern, London, 1995–2000 Main railway switchtower, Basel, 1994–1997 Allianz Arena, München, 2005 Trung tâm sản xuất rượu Dominus, Napa Valley, California, 1999 Tham khảo Kiến trúc sư Thụy Sĩ Người đoạt giải Pritzker Hãng kiến trúc
28412
https://vi.wikipedia.org/wiki/D%E1%BB%8Bch%20h%E1%BA%A1ch%20%28ti%E1%BB%83u%20thuy%E1%BA%BFt%29
Dịch hạch (tiểu thuyết)
Dịch hạch (tiếng Pháp: La peste) là một cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của Albert Camus xuất bản năm 1947. Một vài nhân vật của Dịch hạch đã xuất hiện trong cuốn sổ tay của Camus viết ở Alger năm 1938. Nhưng hơn cả là ở Oran, Algérie từ cuối năm 1940 đến mùa xuân năm 1942, rồi ở Pháp, Camus đã soạn thảo lại cuốn tiểu thuyết của mình. Nhân vật Nhân vật chính Bác sĩ Bernard Rieux: nhân vật trung tâm của Dịch hạch. Ông cùng với bạn bè và đồng nghiệp lao vào cuộc chiến đấu với bệnh dịch để cứu thành phố Oran. Rieux có suy nghĩ đơn giản, rõ ràng nhưng quyết liệt: "nếu không điên thì cũng mù, không mù thì cũng hèn nhát mới cam chịu buông tay trước dịch hạch", "sức lực tôi đến đâu thì tôi bảo vệ họ đến đó...". Những lời nói và hành động của Rieux đã thuyết phục được nhiều người, như nhà báo Rambert hay linh mục Paneloux. Bản thân Rieux, chính trong thời gian dịch hạch vợ ông ốm đau phải đi điều dưỡng và khi bà chết Rieux cũng không được gặp. Jean Tarrou: anh là một trí thức xuất thân danh giá, nhưng chán ghét cuộc sống của chính mình. Tarrou giã từ cuộc đời nhung lụa sau một lần chứng kiến cha mình - một chưởng lý - buộc tội hành hình một bị cáo. Anh lưu lạc qua nhiều nước, tham gia vào nhiều cuộc chiến đấu. Tarrou xuất hiện ở Oran một cách bí ẩn, luôn ghi chép những sự kiện của thành phố vào cuốn sổ tay của mình. Là người đáng lẽ đứng ngoài cuộc, nhưng anh đã tình nguyện cùng Rieux chống lại bệnh dịch. Raymond Rambert: phóng viên của một tờ báo ở Paris đến Oran điều tra về cuộc sống ở đây. Dịch hạch làm anh kẹt lại thành phố, không thể trở về với người yêu. Ban đầu Rambert luôn cho mình là kẻ ngoài cuộc, anh tìm mọi cách để thoát khỏi Oran. Nhưng chính khi có cơ hội thì anh quyết định ở lại. Những hành động của Rieux và Tarrou đã thuyết phục Rambert. Cha Paneloux: ban đầu ông coi bệnh dịch là sự trừng phạt của Chúa, và những con chiên phải yên lòng đón nhận. Nhưng cuối cùng ông đã bị thuyết phục bởi Rieux, và nhất là sau khi chứng kiến cái chết của con trai ngài dự thẩm Othon. Trong buổi cầu kinh thứ hai, cha Paneloux đã kêu gọi: "Hỡi những người anh em, chúng ta phải là những người ở lại." Bản thân ông cũng tự nguyện tham gia vào đội cứu chữa. Joseph Grand: một nhân viên ở tòa thị chính. Anh ta có mơ ước trở thành nhà văn, thường sửa đi sửa lại một câu văn của mình. Grand cũng tham gia vào đội tình nguyện. Cottard: Một kẻ cơ hội, tìm cách kiếm lợi nhờ dịch hạch. Những nhân vật khác Brakeley Castel Bà Rieux Ngài dự thẩm Othon và gia đình Ông già chuyên nhổ nước bọt xuống lũ mèo Asthma Gonzalas Richard Prefect Marcel và Louis Cốt truyện Oran là thành phố biển xấu xí của Pháp nằm ở phía Bắc Algerie. Sáng ngày 16 tháng 4 của một năm trong thập niên 1940, bác sĩ Rieux từ trong phòng ra ngoài cầu thang thì đá phải một xác con chuột chết; ngay chiều hôm đó đi về thì gặp một con chuột khác cũng đang giãy chết. Lúc đầu người ta tưởng đó là trò nghịch ngợm của bọn trẻ, nhưng số lượng chuột chết mỗi ngày cứ tăng dần, dân cư thành phố lo sợ. Các bệnh nhân đầu tiên được đưa vào bệnh viện rồi xuất hiện những người chết đầu tiên. Bệnh dịch hạch bắt đầu lan tràn Qua nhiều cuộc tranh cãi, cuối cùng chính quyền công nhận thành phố bị dịch hạch và quyết định đóng cửa thành phố để bệnh khỏi lây lan, gây nên nhiều xáo trộn cuộc sống với nhiều gia đình ly tán. Song dân chúng Oran cũng dần quen với thảm họa sau những hốt hoảng đầu tiên. Nhịp sống dần trở lại bình thường mặc những cảnh chết chóc, đốt xác chết, chôn người chết diễn ra hết sức phổ biến và ghê rợn. Nổi lên trong tác phẩm là một số nhân vật không nề hà nguy hiểm giúp đỡ bệnh nhân hoặc nghiên cứu điều chế vắc xin trị bệnh. Đó là Grand, một viên chức bình thường ở tòa thị chính; là nhà báo Rambert có người yêu ở Pari nhưng không nỡ rời thành phố chết chóc này để tìm hạnh phúc riêng tư; là cha Panelou, vị linh mục vừa tin bệnh dịch hạch là sự trừng phạt của chúa, vừa mong muốn làm giảm nỗi đau cho con người; là nhà trí thức Tarrou; đặc biệt là bác sĩ Rieux, người làm việc ngày đêm không mệt mỏi để cố tìm cách đẩy lùi bệnh dịch. Sau nhiều ngày tháng Oran lâm vào cảnh chết chóc tang thương, bệnh dịch hạch dần chững lại và đến 25 tháng giêng bệnh coi như chấm dứt sau khi đã giết chết không biết bao nhiêu sinh mạng. Đặc điểm Tác phẩm được kể ở ngôi thứ ba tuy thi thoảng lóe lên những nội dung cho biết người kể chuyện hoàn toàn không phải đứng ngoài cuộc vì chắc chắn cũng là dân của thành phố Oran. Gần cuối tác phẩm xuất hiện câu: "Chuyện đến đây là kết thúc, đã đến lúc Bernard Rieux thú nhận chính ông là tác giả. Nhưng trước khi thuật lại những sự kiện cuối cùng, ít ra ông cũng muốn biện bạch cho sự can thiệp của mình và để cho mọi người hiểu rằng ông cố ý lấy giọng của một người chứng kiến khách quan". Tác phẩm bỗng như mang một dáng vẻ mới: cùng với nhân vật người kể chuyện đóng hai vai, nghe rõ hai giọng phân biệt hòa vào nhau là giọng của người kể chuyện không tên ít nhiều đồng nhất với nhà văn và giọng của bác sĩ Rieux. Dịch hạch là cuốn tiểu thuyết nhưng mang dáng dấp ký sự. Bản thân ý nghĩa của khái niệm "dịch hạch" cũng cho thấy tính chất biểu tượng của nó. Tác phẩm ra đời ngay sau đại chiến thế giới thứ 2, nên thảm họa miêu tả trong đó có thể khiến người ta liên tưởng đến chủ nghĩa phát xít, nhưng cũng có thể nó ám chỉ bất cứ hình thức bạo lực nào đang đe dọa cuộc sống loài người và có thể còn đè nặng lên nhân loại trong tương lai. Dù có những con người cố gắng nhập cuộc với tất cả sức lực, con tim và trí óc nhưng cũng không đi đến đâu vì bệnh tự đến và tự lui chưa biết bao giờ lại xuất hiện, điều đó phần nào toát lên tư tưởng bi quan của tác giả. Bản dịch tiếng Việt Dịch hạch, Hoàng Văn Đức dịch, Nhà xuất bản Thời Mới, 1966. Dịch hạch, Võ Văn Dung dịch, Nhà xuất bản Dịch Giả, 1971 (Nhà xuất bản Dân trí, 2020). Dịch hạch, Nguyễn Trọng Định dịch, Nhà xuất bản Văn học, 1989 Tham khảo Liên kết ngoài Giới thiệu Dịch hạch trên trang alalettre.com Tiểu thuyết của Albert Camus Tiểu thuyết năm 1947 Hiện sinh
28414
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C6%B0%E1%BB%9Dng%20ph%C6%B0%E1%BB%A3ng%20bay
Đường phượng bay
Ở Huế có hai con đường được gọi là đường Phượng bay: Đoạn từ cầu Trường Tiền đến Bạch Hổ, người cao niên ở Huế vẫn quen gọi là đường Phượng Bay. Nhà thơ Anh Phan đã minh chứng cho điều này từ năm 1966, qua bài thơ Con đường Phượng Bay, có đoạn: "Con đường Phượng Bay nằm dọc bờ bắc sông Hương, Từ cầu Trường Tiền lên cầu Bạch Hổ. Đi trên con đường Phượng Bay nắng hoa vàng rơi lỗ chỗ..." "Đường Đoàn Thị Điểm, là đoạn nối dài từ đường Hai Ba Tháng Tám đến đường Tịnh Tâm Đường được hình thành từ đầu thế kỷ 19, cùng thời với việc xây dựng Kinh Thành. Là con đường quan trọng của Hoàng Thành và có tên rất sớm. Từ 1945 trở về trước là đường Hiển Nhơn. Sau 1956 đổi tên là đường Đoàn Thị Điểm cho đến ngày nay. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn gọi là đường Phượng Bay, hiện người Huế vẫn hay gọi như thế..." Đường Phượng bay là tên gọi khác của đường Lê Duẩn, chạy ngang qua Phu Văn Lâu, điều này đã được chính NS. Trịnh Công Sơn xác nhận. Link:http://baothuathienhue.vn/?gd=5&cn=136&newsid=18-0-8089 Nằm bên cạnh khu vực hoàng thành, sự trầm mặc của dấu tích, nét thâm trầm đặc trưng của cố đô khiến cho con đường trở nên vô cùng thơ mộng. Con đường ngắn, ít dân cư sinh sống nhưng màu xanh mướt cây cối rất phù hợp với lối sống nhàn tản, thích đi bộ, tư lự, trầm ngâm của người dân xứ Huế. Mùa đông ấm áp, mùa hè rực rỡ không chỉ riêng có màu đỏ của sắc phượng bay mà còn vàng dịu nhẹ của hoa điệp, màu tím thanh tao của những bông hoa bằng lăng... Đường Phượng bay là một trong những con đường đẹp ở Huế, gợi nhiều cảm hứng cho thi ca, âm nhạc, hội họa... Liên kết ngoài Đường phố Huế đổi tên Danh lam thắng cảnh tại Huế P
28419
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ester
Ester
Trong hóa học, ester là một hợp chất hóa học được sinh ra từ một acid (hữu cơ hoặc vô cơ), trong đó, ít nhất một nhóm LIPOH (hydroxyl) được thay bằng nhóm alkyl (kiềm). Thông thường, ester được cấu tạo từ acid carboxylic và alcohol. Glyceride, ester acid béo của glycerol, là loại ester rất quan trọng trong sinh học. Glyceride cũng là một loại lipid phổ biến và có mặt trong chất béo động vật và dầu thực vật. Ester có trọng lượng phân tử thấp và thường được sử dụng làm nước hoa. Ngoài ra, ester cũng được tìm thấy trong các loại tinh dầu và pheromone. Phosphoester tạo nên mạch khung của phân tử DNA. Các ester nitrat, chẳng hạn như nitroglycerin, là thành phần của thuốc nổ. Polyester lại là những chất dẻo quan trọng; trong polyester, các đơn phân được liên kết bởi các gốc ester. Ester thường có mùi thơm và được coi là dung môi tốt cho rất nhiều các chất dẻo, chất hóa dẻo, nhựa cây và sơn mài. Đây cũng đồng thời là một trong chất bôi trơn tổng hợp lớn nhất trên thị trường. Tên gọi Tên gốc hydrocarbon của alcohol (yl) + Tên gốc acid (at) Nếu rượu có tên riêng thì không cần biến đổi đuôi. Phân loại Có bốn loại ester: Ester của acid đơn chức và alcohol đơn chức. Ester của acid đa chức và alcohol đơn chức. Loại này lại có thể chia thành các nhóm là ester trung hòa và ester acid. Ester của acid đơn chức và alcohol đa chức. Ester của acid đa chức và alcohol đa chức (ít gặp). Tính chất vật lý Ester của các loại rượu đơn chức và acid đơn chức (với số nguyên tử carbon không lớn lắm) thường là các chất lỏng, dễ bay hơi, có mùi thơm dễ chịu của các loại hoa quả khác nhau. Nhiệt độ sôi của ester so với acid có cùng công thức phân tử thấp hơn rất nhiều vì không có sự tạo thành liên kết hydro. Tính tan của ester: tan ít trong nước. Tính chất hoá học Các ester có một số tính chất chung như: Thủy phân trong môi trường acid (phản ứng thuận nghịch): RCOOR′ + H2O (H+) ↔ RCOOH + R′OH Thủy phân trong môi trường kiềm hay còn gọi là phản ứng xà phòng hóa. RCOOR’ + NaOH → RCOONa + R’OH Một số tính chất riêng: Ester của acid formic: HCOOR có tính chất của một aldehyde. Ester của phenol bị thủy phân trong môi trường kiềm không tạo ra rượu. Ví dụ: CH3COOC6H5 + 2 NaOH → CH3COONa + C6H5ONa + H2O Ester của các rượu có liên kết pi khi thủy phân có thể tạo ra aldehyde hoặc keton. Ví dụ: CH3COOCH=CH2 + H2O → CH3COOH + CH3CHO Ester không no có phản ứng cộng và trùng hợp như hydrocarbon không no. Ví dụ phản ứng điều chế thủy tinh hữu cơ: nCH2=C(CH3)–COOCH3 → (CH2=C(CH3)–COOCH3) (plexiglass) Đây là phản ứng trùng hợp với điều kiện về nhiệt độ, xúc tác thích hợp cùng áp suất cao. Ester có thể bị khử bằng hydro: RCOOR’ + H2 -> R’-H + R-H + CO/CO2/H2O (Mo-Ni/Co-Mo trên nền alumina, to,p) Đây là bản chất của quá trình tái chế dầu ăn/mỡ động vật thành nhiên liệu. Phương pháp điều chế Có thể điều chế ester bằng phản ứng giữa rượu đơn chức hoặc đa chức với acid hữu cơ đơn chức hoặc đa chức. Phản ứng này được gọi là phản ứng ester hóa. Ngoài ra còn có thể dùng acid tác dụng với alkyn hoặc cũng có thể cho phenol cộng với anhydrit acid. Công thức tổng quát phản ứng ester hoá giữa rượu và acid carboxylic (Phản ứng thuận nghịch, điều kiện: H2SO4 đặc, to) R(COOH)x + xR'OH <=> R(COOR')x + xH2O yR(COOH)x + xR'(OH)y <=> Ry(COO)xyR'x + xyH2O xRCOOH + R'(OH)x <=> R'(OOCR)x + xH2O Ví dụ: C2H5OH + CH3COOH <=> CH3COOC2H5 + H2O Mùi của một số ester thông dụng Isoamyl acetat có mùi chuối chín. Amyl format có mùi mận. Methyl salicylat có mùi dầu gió. Ethyl isovalerat có mùi táo. Ethyl butyrat và ethyl propionat có mùi dứa. Geranyl acetat có mùi hoa hồng. Methyl 2-aminobenzoat có mùi hoa cam. Benzyl acetat có mùi thơm hoa nhài. Tham khảo Ester Nhóm chức Thuật ngữ từ tiếng Đức []
28424
https://vi.wikipedia.org/wiki/Acid%20v%C3%B4%20c%C6%A1
Acid vô cơ
Acid vô cơ là những hợp chất vô cơ có tính acid. Phân loại Các axit vô cơ được phân thành: Axit chứa oxi (axit oxo) và axit không chứa oxi (hydroxaxit). Axit đơn (chỉ có khả năng cho 1 proton) và axit đa (có khả năng cho nhiều proton). Axit mạnh, yếu, trung bình. Tên Đối với axit không chứa oxi thì tên axit luôn có đuôi hiđric, trước đó là tên phi kim tương ứng. Đối với axit chứa oxi có hai loại đuôi: Đuôi ơ ứng với axit trong đó phi kim có số oxy hóa thấp hơn, đuôi ic ứng với số oxy hóa cao hơn (đối với các phi kim có nhiều số oxy hóa). Nếu số oxy hóa của phi kim trong hai axit như nhau thì axit nào ít oxi hơn thì thêm tiền tố meta, còn nhiều oxi hơn thì dùng tiền tố octo. Tính chất hóa học Làm quỳ tím hóa đỏ Phản ứng với kim loại tạo ra muối và giải phóng khí hydro (chú ý: ở điều kiện thường, chỉ duy nhất HNO3 phản ứng với đồng, bạc tạo ra muối nitrat, khí NO2 và hơi nước hoặc H2SO4 đặc nóng tạo ra muối sunfat, khí SO2 và hơi nước). Ví dụ: 2HCl + Zn → ZnCl2 + H2 Phản ứng với base tạo thành muối và nước Ví dụ: Ca(OH)2 + H2SO4 → CaSO4 + 2H2O Phản ứng với muối tạo thành muối mới axit mới Ví dụ: H2SO4 + 2NaCl → Na2SO4 + 2HCl Phản ứng với oxit base tạo thành muối và nước Ví dụ: H2SO4 + CuO → CuSO4 + 2H2O Phương pháp điều chế Tham khảo
28440
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BA%A1t%20h%E1%BA%A1%20nguy%C3%AAn%20t%E1%BB%AD%20X1835
Hạt hạ nguyên tử X1835
Hạt hạ nguyên tử X1835 là hạt hạ nguyên tử mới được các nhà khoa học tại Viện Vật lý năng lượng cao (IHEP), Hàn lâm viện khoa học Trung Quốc và Đại học Hawaii phát hiện ra, trong một thí nghiệm tại máy bắn Positron Electron ở Bắc Kinh. Tuổi thọ X1835: 10−23 giây Theo VnExpress thì khối lượng của X1385 (1835 MeV) nặng gần gấp 2 lần proton, còn tại trang Tuổi trẻ thì lại khẳng định nhẹ gần gấp hai lần proton. Xem thêm Hạt hạ nguyên tử Chú thích Hạt hạ nguyên tử Khoa học năm 2006
28443
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sudoku
Sudoku
, ban đầu có tên gọi là Number Place là một trò chơi câu đố sắp xếp chữ số dựa trên logic theo tổ hợp. Mục tiêu của trò chơi là điền các chữ số vào một lưới 9×9 sao cho mỗi cột, mỗi hàng, và mỗi phần trong số chín lưới con 3×3 cấu tạo nên lưới chính (cũng gọi là "hộp", "khối", hoặc "vùng") đều chứa tất cả các chữ số từ 1 tới 9. Câu đố đã được hoàn thành một phần, người chơi phải giải tiếp bằng việc điền số. Mỗi câu đố được thiết lập tốt có một cách làm duy nhất. Những bảng trò chơi đã được hoàn chỉnh luôn tạo thành một loại ma trận hình vuông Latinh với một điều kiện hạn chế được bổ sung về nội dung của từng khu vực lưới con. Ví dụ, mỗi số nguyên duy nhất sẽ có thể không xuất hiện hai lần trong cùng một hàng, cột hoặc bất kỳ một trong chín tiểu khu/lưới con 3×3 nào của bảng trò chơi 9x9. Các tờ báo của Pháp đã mô tả các biến thể của những câu đố này trong thế kỷ 19, và loại câu đố này đã xuất hiện từ năm 1979 trong sách câu đố dưới cái tên Number Place. Tuy nhiên, Sudoku hiện đại chỉ bắt đầu trở thành xu hướng chủ đạo vào năm 1986 bởi công ty phát hành trò chơi câu đố Nikoli, dưới cái tên Sudoku, nghĩa là "con số độc nhất". Trò chơi này xuất hiện lần đầu tiên trên một tờ báo của Hoa Kỳ, sau đó xuất hiện trên tờ The Times (Vương quốc Anh) vào năm 2004, từ những nỗ lực của Wayne Gould, người đã lập ra một chương trình máy tính để có thể nhanh chóng tạo ra những câu đố khác nhau. Lịch sử Khởi đầu Sudoku (Số Độc) là một danh từ tiếng Nhật, có nghĩa là "con số độc nhất". Mặc dù trò chơi đã có ở Mỹ từ trước với tên Number Place, nghĩa là "đặt con số vào vị trí đúng", cái tên Sudoku do Kaji Maki (鍜治 真起) đặt và trở thành tên phổ biến toàn cầu. ở Anh, trong vòng có vài tháng, từ chỗ không mấy người biết đến, nó đã tạo nên một cơn lốc, khiến cho khách đi tàu phải lỡ ga còn học sinh thì quên làm bài tập. Người mang trò chơi này đến Anh là một vị thẩm phán về hưu từng làm việc ở Hong Kong tên là Wayne Gould. Ông tìm thấy một tạp chí Sudoku trong chuyến nghỉ hè ở Nhật. Mặc dù không biết tiếng Nhật, song ông rất tò mò về trò chơi. Gould mày mò ra cách chơi khi so sánh câu đố với lời giải được in ở cuối quyển tạp chí. Sau đó, ông say mê nó đến mức dùng khả năng lập trình máy tính để viết chương trình và tạo ra vô số các câu đố khác nhau. "Tôi có hai mục tiêu. Một là làm cho người ta biết nhiều hơn đến trò chơi này. Thật là đáng kinh ngạc khi Sudoku là loại hình giải trí phổ thông ở Nhật đến thế, trong khi những nước trên thế giới hình như không biết gì đến nó. Hai là tôi muốn chứng minh một ông thẩm phán cũng có khả năng lập nên một chương trình phần mềm và kiếm ra tiền từ việc đó." Mục tiêu đầu tiên mà Gould nhằm tới là tờ báo nổi tiếng Times của Anh, nhưng ông biết việc này không dễ dàng gì: "Nếu bạn gọi điện cho một ai đó ở tờ Times và nói, này tôi có câu đố cho các anh xem, hẳn bạn sẽ nghe từ bên kia những tiếng thở dài não nuột", ông tâm sự. Nhưng tôi chuẩn bị rất kỹ về chuyện trông câu đố sẽ như thế nào trên mặt báo. Vì vậy vị biên tập viên khi nghe tôi phát biểu hiểu ngay tôi muốn nói gì. Trào lưu Tờ Times bắt đầu đăng tải trò chơi trên số báo ngày 12/11/2002. Và cuộc chạy đua bắt đầu. Ba ngày sau, tờ Mail tung ra bản Sudoku của riêng mình, và chả bao lâu sau tất cả các nhật báo phát hành trên toàn nước Anh đã kịp ăn theo, ngoại trừ tờ chuyên về tài chính Financial Times. Ai nấy đều khẳng định câu đố của họ mới là hay nhất. Chẳng hạn, tờ Guardian có lần chạy một câu đố Sudoku trên mỗi trang của phần phụ san và tuyên bố họ là tờ báo duy nhất có các câu đố được viết tay trên núi Phú Sĩ. Sukodu có sẵn trên Internet và có thể download xuống điện thoại di động. Một số tờ báo còn mở các cuộc thi trên toàn quốc, và mốt chơi Sudoku đang lan từ Anh tới Australia, Nam Phi và Mỹ. Một số báo dùng chương trình của Gould, số khác tự tạo ra các câu đố của riêng mình, thuê các công ty hay mua lại chúng từ các nhà xuất bản Nhật. Nguồn gốc Tim Preston, giám đốc Puzzler Media - nhà xuất bản các tạp chí và sách câu đố lớn nhất của Anh, cho rằng Sudoku thực ra là phát minh của nhà toán học thế kỷ 18 Leonhard Euler. Là người gốc Basel (Thuỵ Sĩ), nhưng phần lớn cuộc đời mình, ông phục vụ hoàng gia Nga ở Sankt-Peterburg. Euler có thú vui là đưa ra các câu đố. Trong số các trò chơi ông nghĩ ra có Hình vuông Latinh. Đó là sự sắp xếp các con số sao cho chúng không trùng lặp theo chiều ngang lẫn chiều dọc. Euler thông minh đến mức ông có thể thực hiện những phép tính phức tạp và xây dựng các công thức hoàn toàn bằng trí nhớ, sau khi ông đã bị mù. Trong nhiều năm, chỉ có giới toán học biết đến Hình vuông Latinh. Đến thập kỷ 1970, nhà xuất bản Dell của Mỹ đưa nó vào những tập sách đố, và đặt tên cho nó là Vị trí con số. Với một cái tên chán ngắt như thế, chả mấy chốc nó đã rơi vào lãng quên, Preston bình luận. Nhưng may mắn là trò chơi được đưa tới Nhật và một nhà xuất bản có tên là Nikoli đổi tên nó thành Sudoku. Ở Nhật, tất cả các câu đố Sudoku đều được viết tay. Preston cho đó là một điều lạ lùng: Họ có rất nhiều tác giả. Ai mà có câu đố được đăng trên một trong các tạp chí của Nikoli coi đó một vinh dự lớn. Bạn có thể nghĩ rằng một nước công nghệ cao như Nhật phải nghĩ ra những chương trình máy tính để làm những câu đố này... Nhưng họ khẳng định các câu đố viết tay hay hơn nhiều. Puzzler Media trước đây từng mua các Sudoku của Nikoli và in chúng trong các quyển sách đố, nhưng chỉ đến khi Gould tung nó lên trên mặt báo, Sudoku mới trở thành trào lưu. Các biến thể Kích thước Ngoài khuôn dạng chuẩn có kích thước 9x9 ô, chia làm 3x3 vùng, còn có rất nhiều biến thể khác. Một số biến thể phổ biến như: Kích thước 4x4 ô chia làm 2x2 vùng. Kích thước 6x6 ô chia làm 2x3 vùng. Kích thước 5x5 ô chia vùng theo Pentomino (được phát hành với tên gọi Logi-5). Kích thước 7x7 ô chia vùng theo Heptomino. Kích thước 8x8 ô chia vùng theo quy tắc (4x2):(4x2). Đây là cách chia thành 4 vùng chính, mỗi vùng 16 ô. Trong mỗi vùng chính lại chia thành 2 vùng 8x8 dựa vào màu nền của từng ô. Tuy theo cách bố trí các ô khác màu này, sẽ phát sinh thêm một biến thể con khác. Cách bố trí đơn giản nhất là các ô khác màu nằm xen kẽ nhau – trông rất giống bàn cờ quốc tế. Biến thể với kích thước lớn cũng khá phổ biến: Kích thước 16x16 ô (Monster SuDoku). Kích thước 12x12 ô chia làm 4x3 vùng (Dodeka Sudoku). Kích thước 25x25 ô (Giant Sudoku). Biến thể có kích thước lớn nhất được phổ biến là 100x100 ô. Quy mô Ngoài dạng bình thường ra, còn có Sudoku với quy mô 5 bảng gọi là Samurai Sudoku. Nó gồm 5 bảng, góc của 4 bảng ngoài cũng là một góc của bảng trung tâm. Luật chơi của phiên bản này cũng áp dụng quy tắc chơi Sudoku như bình thường nhưng đòi hỏi phải nhanh nhạy hơn vì sai từ ngoài sẽ sai hết. Người đạt thành tích giải Sudoku nhanh nhất Thomas Snyder người Hoa Kỳ đạt thành tích giải Sudoku nhanh nhất năm 2006, trong vòng 2 phút 8 giây. Nhưng năm 2008 em Lucus Yeo, 11 tuổi ở Castle Hill (NSW) Úc qua mặt, giải bài trong vòng 1 phút 38 giây. Liên kết ngoài Eurosudoku - Free Sudoku Project (en) SuDoku-Puzzles.mobi - Play Daily SuDoku Puzzles | Mobile SuDoku (en) Sudoku (en) 4th World Sudoku Championship (en, svk) Sudoku ball Detective (en, fr, nl, de) Sudoku.zettahost.bg (en, bg) Chú thích Trò chơi logic Toán học giải trí Bài toán NP-đủ Trò chơi chiến thuật trừu tượng Lý thuyết trò chơi Trò chơi đố
28445
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BA%A3o%20t%C3%A0ng%20D%C3%A2n%20t%E1%BB%99c%20h%E1%BB%8Dc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam
Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam
Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam () là tổ chức sự nghiệp trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, có chức năng nghiên cứu khoa học, sưu tầm, kiểm kê, bảo quản, phục chế hiện vật và tư liệu về các dân tộc; tổ chức trưng bày, trình diễn và những hình thức hoạt động khác nhằm giới thiệu, phổ biến và giáo dục về các giá trị lịch sử, văn hoá của các dân tộc trong và ngoài nước; cung cấp tư liệu nghiên cứu về các dân tộc cho các ngành; đào tạo cán bộ nghiên cứu, nghiệp vụ, quản lý về nhân học bảo tàng. Bảo tàng tọa lạc tại đường Nguyễn Văn Huyên, phường Quan Hoa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội, cạnh đường Nguyễn Khánh Toàn và đối diện công viên Nghĩa Đô. Kiến trúc Công trình Viện Bảo tàng Dân tộc học do kiến trúc sư Hà Đức Lịnh, người Tày thiết kế. Nội thất được thiết kế bởi nữ kiến trúc sư Véronique Dollfus (người Pháp). Bảo tàng gồm ba khu trưng bày chính: Khu trưng bày trong tòa Trống Đồng: không gian trưng bày thường xuyên giới thiệu 54 dân tộc ở Việt Nam trải rộng trên 2 tầng của toàn nhà với sự bố trí nội dung tham quan rất logic. Ví dụ: Tầng 01: Khách tham quan sẽ được tìm hiểu về 54 dân tộc ở Việt Nam thông qua hình ảnh, vùng cư trú của họ. Sau đó, họ sẽ tiếp tục được đi vào chi tiết các dân tộc như: người Việt, người Mường,...; 2 không gian dành cho các trưng bày nhất thời, luôn luôn được đổi mới tuỳ theo chủ đề trưng bày. Ví dụ: Năm 2006, trưng bày "Cuộc sống ở Hà Nội thời bao cấp (1975-1986). Năm 2013, trưng bày một góc cuộc sống của sinh viên sống xa nhà học tập ở các thành phố lớn. Năm 2014 và 2015, trưng bày các tác phẩm ảnh về đời sống và con người dân tộc Tây Nguyên trong những năm 50 của nhiếp ảnh người Pháp tên Jean-Marie Duchage. Ngoài ra, tại tầng hai của toà nhà Trống Đồng, du khách còn được tham quan tìm hiểu về các dân tộc thiểu số khác ở Việt Nam như: Tày, Thái, Hmông, Dao,...dưới sự bố trí rất khoa học theo kiểu xuyên dọc theo đất nước. Ví dụ: Miền Bắc (ngay từ lối lên), miền Trung và Tây Nguyên (nằm ở giữa tầng hai về phía lối ra) và miền Nam (trước khi xuống tầng một). Khu trưng bày ngoài trời: là một vườn cây xanh trong đó có 10 công trình dân gian với các loại hình kiến trúc khác nhau. Khu trưng bày Đông Nam Á (do Kiến trúc sư Nguyễn Mạnh Thu và Doãn Thế Trung thiết kế): Khởi công xây dựng vào năm 2008 và khánh thành vào ngày 30/11/2013 sau 6 năm xây dựng với diện tích khoảng 500 ha. Đây là nơi giúp khách tham quan hiểu hơn về các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á thông qua các hiện vật trưng bày. Tháng 12 năm 2014, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam khai trương phòng trưng bày về Tranh kính của Indonesia. Ngày 24 tháng 10 năm 2015, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam khai trương hai phòng trưng bày thường xuyên về "Một thoáng châu Á" và "Vòng quanh thế giới" ở tầng 2 tòa nhà Đông Nam Á. Với việc khai trương những trưng bày mới này, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam tiếp tục thu hút khách tham quan mong muốn tìm hiểu về các nền văn mình trong khu vực và trên thế giới. Ngoài ra là khu vực cơ quan: cơ sở nghiên cứu, thư viện, hệ thống kho bảo quản hiện vật... Nội dung Bảo tàng lưu giữ và trưng bày nhiều hiện vật văn hoá của cả 54 dân tộc Việt Nam gồm 15.000 hiện vật, 42.000 phim (kèm ảnh màu), 2190 phim dương bản, 273 băng ghi âm các cuộc phỏng vấn, âm nhạc, 373 băng video và 25 đĩa CD-Rom (tính đến năm 2000). Các hiện vật này được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau như: dân tộc, công dụng, y phục, trang sức, nông cụ, ngư cụ, vũ khí, đồ gia dụng, nhạc cụ, tôn giáo-tín ngưỡng, cưới xin, ma chay và nhiều hoạt động tinh thần, xã hội khác. Khu trưng bày thường xuyên trong toà Trống Đồng giới thiệu tất cả 54 dân tộc ở Việt Nam. Ở đây có nhiều hiện vật thông dụng trong đời sống sinh hoạt hàng ngày của người dân. Đặc biệt phong phú là đồ vải của các dân tộc, như khố, váy, khăn... được trang trí bằng các kỹ thuật truyền thống khác nhau; đồ đan, nhất là các loại gùi, giỏ, mâm; những nhạc cụ bằng tre, vỏ bầu khô; các hiện vật nghi lễ... Cùng với hiện vật, trong các phòng trưng bày còn có ảnh và phim tư liệu, phản ánh mọi khía cạnh văn hoá vật thể, phi vật thể, những nét tiêu biểu trong đời sống và sự sáng tạo của các tộc người. Để phục vụ đầy đủ khách tham quan, tất cả các thông tin trong trưng bày, các bài viết cũng như các chú thích, đều được thực hiện bằng 3 thứ tiếng: tiếng Việt, tiếng Anh và tiếng Pháp. Bảo tàng còn soạn thảo nhiều tờ gập giới thiệu những nội dung chính, bằng tiếng Việt, Anh, Pháp, Trung Quốc, Đức, Nhật..., phát miễn phí cho du khách. Trong khu ngoài trời, có 10 công trình kiến trúc dân gian như: nhà rông của người Ba Na, nhà sàn dài của người Êđê, nhà sàn của người Tày, nhà nửa sàn nửa đất của người Dao, nhà trệt lợp ván pơmu của người Hmông, nhà ngói của người Việt, nhà sàn thấp của người Chăm, nhà trình tường của người Hà Nhì, nhà mồ tập thể của người Giarai và nhà mồ cá nhân của người Cơtu. Trong khu vườn đầy cây xanh này còn có ghe ngo của người Khơme và cối giã gạo bằng sức nước của người Dao. Trước nhà Việt, vào các thứ Bảy và Chủ nhật có biểu diễn rối nước của các phường rối dân gian đến từ các làng khác nhau. Lãnh đạo Giám đốc đầu tiên (từ năm 1995 đến tháng 12 năm 2006): PGS.TS Nguyễn Văn Huy, con trai út của cố học giả, cố Bộ trưởng Giáo dục Nguyễn Văn Huyên. Giám đốc từ tháng 12/2006 đến tháng 1/2019: PGS.TS. Võ Quang Trọng Giám đốc từ 1/2019 đến 11/2019: PGS.TS. Bùi Nhật Quang, Ủy viên Dự khuyết BCH Trung ương Đảng Khoá XII, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam kiêm Giám đốc Bảo tàng Giám đốc từ 11/2019 đến nay: TS. Đặng Xuân Thanh, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam kiêm Giám đốc Bảo tàng Các Phó Giám đốc: - TS. Bùi Ngọc Quang - PGS.TS. Trần Hồng Hạnh Giải thưởng Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam vinh dự được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba (năm 2000), Huân chương Lao động hạng Nhì (năm 2006). Chính phủ tặng Bằng khen (năm 2010), tặng Cờ thi đua năm 2011 và năm 2013, Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam tặng Cờ thi đua, Bằng khen nhiều năm liền. Năm 2015, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Nhất ghi nhận sự lao động bền bỉ, năng động, sáng tạo và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao của tập thể cán bộ, nhân viên Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam. Chú thích Liên kết ngoài Trang chủ Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam Bảo tàng tại Hà Nội Các dân tộc Việt Nam Tọa độ không có sẵn trên Wikidata
28449
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20v%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20ch%C3%A2u%20%C3%82u
Giải vô địch bóng đá châu Âu
Giải vô địch bóng đá châu Âu (UEFA European Football Championship), thường được biết đến với tên gọi UEFA Euro hay Euro, là giải bóng đá quốc tế dành cho các đội tuyển quốc gia nam của các thành viên Liên đoàn bóng đá châu Âu (UEFA), nhằm xác định nhà vô địch châu lục của châu Âu. Giải đấu thường được tổ chức bốn năm một lần kể từ năm 1960, ngoại trừ giải năm 2020 được tổ chức vào năm 2021 do đại dịch COVID-19 đang diễn ra ở châu Âu. Được lên lịch vào các năm chẵn giữa các giải đấu World Cup, ban đầu nó được gọi là Cúp các quốc gia châu Âu, và được đổi thành tên hiện tại vào năm 1968. Bắt đầu từ giải đấu năm 1996, các chức vô địch cụ thể thường được gọi là " UEFA Euro"; thể thức này kể từ đó đã được áp dụng trở lại cho các giải đấu trước 1996. Trước khi tham gia giải đấu, tất cả các đội không phải quốc gia đăng cai (tự động đủ điều kiện) sẽ thi đấu trong giai đoạn vòng loại. Cho đến năm 2016, những đội giành chức vô địch có thể thi đấu ở Cúp Liên đoàn các châu lục. Sau 16 lần tổ chức, giải vô địch châu Âu đã có 10 đội vô địch: Đức và Tây Ban Nha mỗi đội vô địch 3 lần, Pháp và Ý có 2 lần vô địch, và các đội Liên Xô, Tiệp Khắc, Hà Lan, Đan Mạch, Hy Lạp và Bồ Đào Nha mỗi đội đều 1 lần lên ngôi. Cho đến nay, Tây Ban Nha là đội duy nhất trong lịch sử đã vô địch 2 lần liên tiếp, vào các năm 2008 và 2012. Đây là giải đấu bóng đá được theo dõi nhiều thứ hai trên thế giới sau FIFA World Cup. Trận chung kết Euro 2012 đã được khoảng 300 triệu khán giả toàn cầu theo dõi. Đương kim vô địch của giải đấu là đội tuyển Ý sau khi vượt qua đội tuyển Anh bằng loạt đá luân lưu tại UEFA Euro 2020. Lịch sử Ý tưởng tổ chức giải vô địch bóng đá châu Âu được tổng thư ký Liên đoàn bóng đá Pháp Henri Delaunay đề xuất từ năm 1927 nhưng mãi đến năm 1958 (3 năm sau khi Henri Delaunay qua đời) giải đấu mới được tổ chức. Chiếc cúp vô địch được đặt tên Henri Delaunay để tưởng nhớ đến công lao khai sinh giải đấu của ông. Euro 1960 tại Pháp là giải vô địch bóng đá châu Âu đầu tiên được UEFA tổ chức. Đội vô địch là Liên Xô, sau khi đánh bại Nam Tư 2–1 trong trận chung kết tại Paris. Giải đấu được tổ chức theo hình thức loại trực tiếp với 17 đội tham dự. Có nhiều sự vắng mặt đáng chú ý khi các đội mạnh như Tây Đức, Ý hay Anh từ chối tham dự giải. Các đội đá hai lượt đi và về theo thể thức sân nhà – sân khách cho tới vòng bán kết. 4 đội mạnh nhất sẽ tham dự vòng chung kết được tổ chức ở 1 trong 4 nước giành quyền vào bán kết. Ở tứ kết, Tây Ban Nha từ chối đến Liên Xô và rút khỏi giải đấu, vì vậy lọt vào bán kết có 3 đại diện Đông Âu: Liên Xô, Nam Tư và Tiệp Khắc, cùng đội chủ nhà Pháp. Ở bán kết, Liên Xô dễ dàng vượt qua Tiệp Khắc tại Marseille với tỉ số 3–0. Trận bán kết còn lại có tới 9 bàn thắng và kết thúc với tỉ số 5–4 nghiêng về Nam Tư. Nam Tư đã hai lần bị đối phương dẫn trước với khoảng cách hai bàn, nhưng đã lật ngược tình thế thành công. Tiệp Khắc đánh bại Pháp 2–0 để giành vị trí thứ 3. Trong trận chung kết, Nam Tư ghi bàn trước, nhưng Liên Xô, có trong đội hình thủ môn huyền thoại Lev Yashin, gỡ hòa ở phút 49. Sau 90 phút, tỷ số là 1–1 và Viktor Ponedelnik ghi bàn khi hiệp phụ thứ hai còn 7 phút nữa là kết thúc, để mang chiếc cúp vô địch châu Âu đầu tiên về cho Liên Xô. Euro 1964 là giải vô địch bóng đá châu Âu lần thứ hai do UEFA tổ chức theo chu kỳ 4 năm 1 lần. Vòng chung kết diễn ra tại Tây Ban Nha và chức vô địch sau đó đã thuộc về nước chủ nhà sau khi họ vượt qua đương kim vô địch Liên Xô 2–1 trong trận chung kết. Giải đấu lần này vẫn theo thể thức loại trực tiếp như giải lần đầu tiên với 29 đội bóng tham dự. Chỉ có Hy Lạp bỏ cuộc sau trận hòa với Albania. Do số đội lẻ nên đương kim vô địch Liên Xô cùng hai đội Áo và Luxembourg qua bốc thăm không phải tham dự vòng loại đầu tiên. Các cặp đấu tiến hành đấu loại trực tiếp theo thể thức sân nhà – sân khách cho tới bán kết. Bốn đội cuối cùng sẽ thi đấu vòng chung kết được tổ chức tại một trong bốn nước có đội bóng tham dự. Ở giải này, Luxembourg trở thành khắc tinh của các đội bóng lớn khi hạ Hà Lan 3-2 sau hai lượt, và thủ hòa với Đan Mạch 3–3 và 2–2, trước khi thất bại 0–1 ở trận tái đấu. Đan Mạch gây bất ngờ nhất khi lọt vào tới vòng chung kết, cùng với Liên Xô, Tây Ban Nha và Hungary. Tại bán kết, Liên Xô đánh bại Đan Mạch 3–0 tại Barcelona và Tây Ban Nha hạ Hungary 2–1 sau hai hiệp phụ ở Madrid với bàn thắng quyết định của Amancio. Tây Ban Nha đã bỏ cuộc khỏi giải đấu trước năm 1960 khi từ chối thi đấu với Liên Xô, nhưng lần này nhà độc tài Franco đã cho phép đội nhà thi đấu với những người Xô viết. Trước hơn 79.000 khán giả tại sân Santiago Bernabéu ở Madrid, chủ nhà thắng 2–1 nhờ bàn thắng muộn của Marcelino. Euro 1968 là giải vô địch bóng đá châu Âu lần thứ 3 diễn ra tại Ý từ ngày 5 cho đến 10 tháng 6 năm 1968. So với các giải đấu trước, vòng loại kỳ Euro lần này có thay đổi khi lần đầu tiên áp dụng thể thức các đội được chia bảng, đấu vòng tròn tính điểm. Đây cũng là kỳ Euro duy nhất có hai trận chung kết. Đội tuyển chủ nhà Ý phải đợi đến trận đấu lại mới vượt qua được Nam Tư để giành chức vô địch châu Âu đầu tiên trong lịch sử của mình. Đây cũng là lần thứ hai đội bóng vùng Balkan thất bại trong trận đấu cuối cùng của giải, sau chức á quân giành được vào năm 1960. Đây cũng là lần đầu tiên trận chung kết giũa Ý và Nam Tư phải đá lại để phân định thắng thua. Euro 1972 là giải vô địch bóng đá châu Âu lần thứ 4 diễn ra tại Bỉ từ ngày 14 cho đến ngày 18 tháng 6 năm 1972. Tại giải, đội tuyển Tây Đức giành chức vô địch châu Âu đầu tiên của mình. Với việc giành thêm chức vô địch thế giới hai năm sau đó tại World Cup 1974, đội Tây Đức trở thành tuyển quốc gia đầu tiên đồng thời giữ hai danh hiệu Đương kim vô địch châu Âu và vô địch thế giới. Euro 1976 là giải vô địch bóng đá châu Âu lần thứ 5 diễn ra tại Nam Tư, từ ngày 16 cho đến ngày 20 tháng 6 năm 1976. Tại giải, đội tuyển Tiệp Khắc giành chức vô địch châu Âu đầu tiên của mình. Đây là giải đấu cuối cùng, vòng chung kết chỉ quy tụ bốn đội bóng và nước chủ nhà đăng cai vòng chung kết phải thi đấu vòng loại. Kể từ giải lần sau, vòng chung kết sẽ được mở rộng cho 8 đội tham gia, bao gồm 7 đội vượt qua vòng loại và quốc gia được chọn đăng cai vòng chung kết. Một điều đáng lưu ý nữa ở giải là tất cả các trận đấu đều buộc phải thi đấu hiệp phụ để phân định thắng thua. Trận chung kết giữa Tiệp Khắc và Tây Đức là trận đấu đầu tiên có áp dụng hình thức sút luân lưu sau hai hiệp phụ để phân thắng bại. Euro 1980 là giải vô địch bóng đá châu Âu lần thứ 6 diễn ra tại Ý từ ngày 11 cho đến ngày 22 tháng 6 năm 1980. Tại giải, đội tuyển Tây Đức giành chức vô địch châu Âu thứ hai của mình, và trở thành đội đầu tiên hai lần vô địch giải. Đây cũng là kỳ Euro cuối cùng kết thúc trận đấu tranh hạng 3. Euro 1984 là Giải vô địch quốc gia châu Âu lần thứ 7 diễn ra từ ngày 12 đến 27/6 năm 1984 tại Pháp. Đây là kỳ Euro lần thứ 2 Pháp đăng cái giải đấu này (lần trước là kỳ Euro vào năm 1960). Vào thời điểm này, chỉ có 8 đội tham dự VCK, bao gồm 7 đội phải vượt qua vòng loại và nước chủ nhà. Dưới sự dẫn dắt của Michel Platini, Pháp đã xuất sắc giành chức vô địch trên sân nhà và đây cũng là danh hiệu lớn đầu tiên của họ. Đây cũng là kỳ Euro đầu tiên không có tranh hạng 3, thay vào đó xác định đội bóng vào trận chung kết. Euro 1988 là giải vô địch bóng đá châu Âu lần thứ tám diễn ra tại Tây Đức từ ngày mùng 10 cho đến ngày 25 tháng 6 năm 1988. Tại giải, đội tuyển Hà Lan dưới sự dẫn dắt của bộ ba người "Hà Lan bay" (Marco van Basten, Ruud Gullit và Frank Rijkaard) giành chức vô địch châu Âu đầu tiên của mình. Euro 1992 được tổ chức ở Thụy Điển từ ngày 10 đến 26 tháng 6 năm 1992. Đây là giải vô địch bóng đá châu Âu lần thứ 9, được tổ chức bởi UEFA. Đan Mạch, đội đến Thụy Điển để thay thế cho Nam Tư (đã vượt qua vòng loại nhưng không tham gia được do có nội chiến xảy ra), đã tạo ra bất ngờ lớn khi giành chức vô địch châu Âu đầu tiên của mình. Một đội tuyển khác "chính thức" không thi đấu vòng loại mà vẫn có mặt tại vòng chung kết Euro 1992 là đội tuyển SNG (tên tắt của Cộng đồng các Quốc gia Độc lập mới được tách ra từ Liên Xô). Năm 1991 Liên Xô tan vỡ và bị tách thành 15 nước độc lập, SNG được thành lập từ 12 nước trong 15 nước đó gồm Nga, Ukraina, Belarus, Azerbaijan, Gruzia, Kazakhstan, Uzbekistan, Turkmenistan, Kyrgyzstan, Armenia, Moldova và Tajikistan. Liên Xô đã vượt qua vòng loại được thay thế bằng đội tuyển SNG. Tại Euro 1992 có một điều đáng chú ý nữa là lần đầu tiên tại một vòng chung kết một giải đấu bóng đá lớn, tên riêng của mỗi cầu thủ được in sau lưng áo đấu của mình. Euro 1996 được tổ chức ở Anh từ ngày mùng 8 đến ngày 30 tháng 6 năm 1996. Đây là giải vô địch bóng đá châu Âu lần thứ 10, được tổ chức bởi UEFA. Đức trở thành đội đầu tiên ba lần đoạt chức vô địch châu Âu khi giành ngôi quán quân của giải. Đây là kỳ Euro đầu tiên có 16 đội tham dự vòng chung kết. UEFA đưa ra quyết định này khi ở trong thập kỷ 1980 và đầu thập kỷ 1990, đối với các đội bóng châu Âu, vượt qua vòng loại World Cup còn dễ hơn vượt qua vòng loại của giải vô địch châu lục mình; 14 trên tổng số 24 đội tham dự World Cup 1982, 1986 và 1990 là các đội bóng thuộc Cựu lục địa, trong khi vòng chung kết Euro vẫn giữ nguyên thể thức 8 đội. Bắt đầu từ giải đấu này sẽ có thêm vòng tứ kết. Euro 2000 là giải vô địch bóng đá châu Âu thứ 11 được đồng tổ chức bởi Bỉ và Hà Lan (lần đầu tiên trong lịch sử Euro) từ 10 tháng 6 đến hai tháng 7 năm 2000. Giải đấu có sự tham gia của 16 đội tuyển quốc gia. Trong đó trừ hai nước chủ nhà Bỉ và Hà Lan, 14 đội còn lại phải vượt qua được vòng loại để tới vòng chung kết. Pháp là đội vô địch giải đấu này, sau chiến thắng 2-1 trước Italia trong trận chung kết, bằng bàn thắng vàng. Đây là lần thứ 3 trận chung kết giũa đội tuyển Pháp và đội tuyển Italia phải bước vào hiệp phụ vì hai đội hoà nhau với tỉ số 1-1 sau hai hiệp thi đấu chính thức 90 phút. Euro 2004 được tổ chức ở Bồ Đào Nha từ ngày 12 tháng 6 cho đến ngày mùng 4 tháng 7 năm 2004. Đây là giải vô địch bóng đá châu Âu lần thứ 12, được tổ chức bởi UEFA. Đội tuyển Hy Lạp gây bất ngờ lớn khi đoạt chức vô địch châu Âu đầu tiên của mình, dù không được đánh giá cao trước khi giải diễn ra. Euro 2008 là giải vô địch bóng đá châu Âu lần thứ 13 do Liên đoàn bóng đá châu Âu (UEFA) tổ chức. Giải đấu được diễn ra trên các sân vận động của Áo và Thụy Sĩ từ ngày mùng 7 và kết thúc với trận chung kết trên sân vận động Ernst Happel Stadion vào ngày 29 tháng 6 năm 2008. Đây là kỳ Euro lần thứ 2 trong lịch sử có hai quốc gia đồng tổ chức giải vô địch bóng đá châu Âu. Lần trước vào kỳ Euro 2000 do Bỉ và Hà Lan cùng đăng cai. Ở giải đấu này, Tây Ban Nha đã lần thứ hai vô địch Euro sau khi đánh bại Đức 1-0 ở trận chung kết nhờ pha lập công duy nhất của Fernando Torres. Euro 2012 là giải vô địch bóng đá châu Âu thứ 14 được đăng cai tại hai quốc gia là Ba Lan và Ukraina. Đây là kỳ Euro lần thứ 3 trong lịch sử và cũng là lần thứ 2 liên tiếp có 2 quốc gia đồng tổ chức kỳ Euro (lần trước là kỳ Euro 2008 do Áo và Thụy Sỹ cùng đăng cai). Giải bắt đầu từ ngày mùng 8 tháng 6 đến ngày mùng 2 tháng 7 năm 2012. Có tổng cộng 16 đội bóng tham dự chia thành 4 bảng A, B, C và D. Đây là giải đấu khẳng định sự thống trị của bóng đá Tây Ban Nha khi họ là đội bóng đầu tiên bảo vệ thành công chức vô địch Euro lần thứ 3 trong lịch sử và cũng là lần thứ 2 liên tiếp sau khi đánh bại Ý với tỷ số đậm 4–0 ở trận chung kết (đây là tỷ số đậm nhất trong một trận chung kết Euro). Qua đó kéo dài kỷ nguyên vinh quang khi họ có trong tay 3 chức vô địch của 3 giải đấu lớn liên tiếp là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 (trong quá khứ đội tuyển Tây Đức không bảo vệ được chức vô địch Euro 1976 dù đã vào tới trận chung kết). Đây cũng là kỳ Euro cuối cùng có 16 đội tham dự. Euro 2016 là giải vô địch bóng đá châu Âu lần thứ 15 và là lần thứ 3 tổ chức tại Pháp. Giải đấu được bắt đầu tổ chức vào ngày 10 tháng 6 đến ngày 10 tháng 7 năm 2016. Đây là kỳ Euro lần thứ 3, Pháp đăng cai giải đấu này (Lần trước là vào các năm 1960 và 1984). Đây là giải đấu đầu tiên có sự góp mặt của 24 đội bóng tham dự. Bắt đầu từ giải đấu này có thêm vòng 16 đội cùng với 4 đội xếp thứ 3 có thành tích tốt nhất. Ở giải đấu này, đội tuyển Bồ Đào Nha đã giành chức vô địch Euro lần đầu tiên sau khi đánh bại chủ nhà Pháp 1-0 ở trận chung kết nhờ pha lập công duy nhất của Éder. Đây cũng là lần đầu tiên đội tuyển Pháp nhận ngôi á quân của giải sau toàn thắng 2 lần trong 2 lần lọt vào trận chung kết của EURO năm đó. Đây là lần thứ 4 trận chung kết giũa đội tuyển Pháp và đội tuyển Bồ Đào Nha phải bước vào hiệp phụ vì hai đội hoà nhau với tỉ số 0-0 ở hai hiệp thi đấu chính thức 90 phút. Euro 2020 là giải vô địch bóng đá châu Âu lần thứ 16 và được tổ chức ở 11 thành phố trên khắp châu Âu (ban đầu diễn ra tại 13 thành phố nhưng đến gần khai mạc thì thủ đô Brussels của Bỉ bị loại khỏi danh sách vì việc xây dựng sân bóng mới bị trì hoãn và thủ đô Dublin của Cộng hòa Ireland cũng bị loại khỏi danh sách vì không đáp ứng được yêu cầu số lượng khán giả vào sân). Đây cũng là sự kiện kỉ niệm 60 năm ngày giải đấu đầu tiên được tổ chức. Đây cũng là kỳ Euro phải lùi lại 1 năm vì do ảnh hưởng của dịch bệnh COVID-19, nên ban tổ chức giải đấu quyết định giữ nguyên tên cũ: UEFA EURO 2020. Sân vận động Wembley sẽ là sân ưu tiên diễn ra 2 trận bán kết và 1 trận chung kết. Ở giải đấu này, đội tuyển Ý đã giành chức vô địch lần thứ hai sau khi đánh bại đội tuyển Anh trên chấm 11m sau khi hai đội hòa nhau 1–1 sau 120 phút thi đấu chính thức. Đây là trận chung kết lần thứ 3 trong lịch sử 2 đội bước vào loạt sút luân lưu để phân định thắng thua. Còn đội tuyển Bồ Đào Nha trở thành cựu vô địch sau khi thất bại trước đội tuyển Bỉ với tỉ số 0–1 ở vòng 1/8. Euro 2024 là giải vô địch bóng đá châu Âu lần thứ 17 và là lần thứ 2 tổ chức tại Đức. Euro 2028 là giải vô địch bóng đá châu Âu lần thứ 18 được tổ chức tại Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland và Cộng hòa Ireland. Đây là lần thứ tư giải được tổ chức ở hai quốc gia. Euro 2032 là giải vô địch bóng đá châu Âu lần thứ 19 được tổ chức tại Ý và Thổ Nhĩ Kỳ. Đây là lần thứ năm giải được tổ chức ở hai quốc gia. Chiếc cúp Chiếc cúp hiện tại cao 60 cm và nặng 8 kg làm từ bạc, được thiết kế lại kể từ mùa giải 2008 để không bị lu mờ trước những chiếc cúp khác của UEFA. Nó cao hơn 18 cm và nặng hơn 0.5 kg so với phiên bản cũ. Đồng thời, đế cúp cũng được thiết kế mở rộng hơn để đứng vững. Tên các đội vô địch thay vì được khắc trên chiếc cột đá cẩm thạch thì nay sẽ được khắc trên mặt sau của chiếc cúp. Các trận chung kết và tranh hạng ba Bắt đầu từ kỳ Euro 1984, không có trận tranh hạng 3. Do đó, không có vị trí thứ 3 và vị trí thứ 4 được trao giải thưởng. Thay vào đó, vòng bán kết được liệt kê theo thứ tự chữ cái. (1) Trận đấu kết thúc sau hai hiệp phụ. (2) Trận đấu kết thúc theo luật bàn thắng vàng hay "luân lưu". Đội vô địch và á quân *: đội chủ nhà 1: với tư cách là Tây Đức 2: với tư cách là Liên Xô 3: với tư cách là Tiệp Khắc 4: với tư cách là Nam Tư Kết quả của các nước chủ nhà Kết quả của đương kim vô địch Giải thưởng Cầu thủ xuất sắc nhất Vua phá lưới Các đội tham dự giải Ghi chú H1 – Vô địch H2 – Á quân H3 – Hạng ba (từ năm 1960 đến năm 1980) H4 – Hạng tư (từ năm 1960 đến năm 1980) BK – Bán kết (kể từ năm 1984) TK – Tứ kết (kể từ năm 1996) V16 – Vòng 16 đội (kể từ năm 2016) VB – Vòng bảng (kể từ năm 1980) Q — Đã vượt qua vòng loại của giải đấu sắp tới • — Không vượt qua vòng loại × — Không tham dự / Bị cấm tham dự </span> — Đội chủ nhà Số đội tham dự vòng chung kết của mỗi giải đấu được viết trong ngoặc. 1: Tính cả các lần tham dự với tư cách là Tây Đức 2: Tính cả các lần tham dự với tư cách là Liên Xô và một lần với tư cách là Cộng đồng các Quốc gia Độc lập 3: Tính cả các lần tham dự với tư cách là Tiệp Khắc 4: Tính cả các lần tham dự với tư cách là Nam Tư *: Lùi lại 1 năm do đại dịch COVID-19 Các đội chưa từng tham dự vòng chung kết Euro , , , , , , , , , , , , , , , , , , , . Lần đầu tham dự Dưới đây là thống kê giải đầu tiên mà các đội tuyển giành quyền vào chơi một vòng chung kết Euro. Xếp hạng theo số trận thắng (tính đến giải đấu năm 2020) Cập nhật lần cuối: 12/7/2020. Các huấn luyện viên vô địch Xem thêm Giải vô địch bóng đá nữ châu Âu Tham khảo Liên kết ngoài Giải đấu của UEFA Bóng đá Sự kiện thể thao bốn năm một lần
28453
https://vi.wikipedia.org/wiki/Song%20Hye-kyo
Song Hye-kyo
Song Hye-kyo (sinh ngày 22 tháng 11 năm 1981) là nữ diễn viên người Hàn Quốc. Cô nổi tiếng thông qua những vai chính Trái tim mùa thu (2000), Một cho tất cả (2003), Ngôi nhà hạnh phúc (2004), Gió đông năm ấy (2013), Hậu duệ mặt trời (2016), Gặp gỡ (2018) và The Glory (Vinh quang trong thù hận) (2022). Năm 2017, cô đứng thứ 7 trong danh sách những người nổi tiếng quyền lực nhất Hàn Quốc do tạp chí Forbes bình chọn và đứng thứ 6 năm 2018. Cô được gọi là một trong "The Troika" cùng với Kim Tae-hee và Jun Ji-hyun, được gọi chung bằng từ viết tắt "Tae-Hye-Ji". Thành công của các bộ phim truyền hình của Song Hye-kyo trên quốc tế đã đưa cô trở thành một ngôi sao Hallyu hàng đầu. Tiểu sử Khi mới sinh ra, cô bị bệnh nặng đến mức bố mẹ và bác sĩ nghĩ rằng cô sẽ không qua khỏi. Sau khi hồi phục, bố mẹ của Song Hye-kyo đã đăng ký khai sinh cho cô vào ngày 26 tháng 2 năm 1982 (thay vì ngày sinh thực của cô là ngày 22 tháng 11 năm 1981). Bố mẹ của Song Hye-kyo đã ly hôn khi cô còn nhỏ, sau đó cô được mẹ nuôi dưỡng. Họ chuyển từ nơi sinh của cô ở Daegu đến quận Gangnam ở Seoul, nơi cô được đào tạo như một vận động viên trượt băng nghệ thuật ở trường tiểu học nhưng bỏ dở khi cô học lớp 8. Song Hye-kyo tự nhận mình là người nhút nhát và sống nội tâm, nhưng khi theo học tại Trường Trung học Nữ sinh Ewha, cô được giáo viên trung học mô tả là có "tính cách vui vẻ, hòa đồng với bạn bè và luôn có tâm trạng vui vẻ." Song Hye-kyo theo học Đại học Sejong, nơi cô theo học chuyên ngành Nghệ thuật Điện ảnh, cho đến học kỳ I năm 1 và xin bảo lưu kết quả. Sau đó, cô không thể sắp xếp thời gian và chính thức thôi học năm 2002. Sự nghiệp 1996–2004: Ra mắt, đột phá và danh tiếng quốc tế Năm 1996, 14 tuổi, Song Hye-kyo đang là học sinh trung học cơ sở năm thứ ba, cô đã giành chiến thắng trong Cuộc thi SunKyung Smart Model, và cô đã xuất hiện trong ngành giải trí với vai trò người mẫu cho công ty đồng phục trường học. Điều này đã dẫn đến việc cô được đóng một vai nhỏ trong bộ phim truyền hình đầu tiên, Mối tình đầu. Cô tiếp tục xuất hiện trong một loạt các bộ phim truyền hình và sitcom, đặc biệt là bộ phim Soonpoong Clinic. Nhưng đến bộ phim truyền hình Trái tim mùa thu vào năm 2000 với Song Seung-heon và Won Bin, cô mới bắt đầu nổi tiếng ở Hàn Quốc và khắp châu Á. Bộ phim đạt được thành công nhất định, là tiên phong trong xu hướng âm nhạc Hàn Quốc cũng như làn sóng Hàn Quốc và đưa Song Hye-kyo trở thành ngôi sao Hallyu. Năm 2003, mức độ nổi tiếng của cô tiếp tục được gia tăng. Cô đóng vai chính cùng với Lee Byung-hun trong bộ phim truyền hình Một cho tất cả, thu hút một lượng người xem lớn trên toàn quốc. Bộ phim đạt được tỷ lệ người xem cao nhất lúc bấy giờ là 47,7%. Năm tiếp theo, cô đã tham gia cùng với nam ca sĩ Rain trong bộ phim hài Ngôi nhà hạnh phúc. Bộ phim đã đạt được thành công nhanh chóng và giúp Song Hye-kyo trở thành một trong những nữ diễn viên Hàn Quốc nổi tiếng nhất ở châu Á. 2005–2012: Phim điện ảnh đầu tay và các dự án ở nước ngoài Đầu năm 2005, Song Hye-kyo đến San Francisco để học tiếng Anh, sau đó đến Seattle. Cô dành thời gian cho bản thân lại sau khi hoàn thành bộ phim Ngôi nhà hạnh phúc. "Tôi đã có một khoảng thời gian nghỉ ngơi tốt, đó là cơ hội để tôi suy nghĩ về bản thân mình", Song Hye-kyo chia sẻ. Cô trở lại Hàn Quốc vào ngày 5 tháng 3 năm 2005. Cùng năm, cô đã lần đầu xuất hiện trên màn ảnh rộng trong tác phẩm My Girl and I (làm lại từ bộ phim Crying Out Love) cùng với nam diễn viên Cha Tae-hyun. Cô chứng minh được bản thân khi đảm nhận nhiều vai trò khác nhau. Cô trở lại màn ảnh rộng vào năm 2007, với bộ phim chuyển thể Hoàng Chân Y. Mặc dù Jun Ji-hyun và Soo Ae là những lựa chọn ban đầu cho vai diễn này. Một năm sau, cô xuất hiện lần đầu ở Mỹ trong bộ phim Make Yourself at Home (tên cũ là Fetish), một bộ phim kinh dị tâm lý về cô gái được sinh ra từ một bà mẹ là người của giáo phái Saman, cô trốn tránh sức mạnh của một pháp sư trong mình bằng cách trở thành một cô dâu nhập cư ở Mỹ. Cô tái xuất màn ảnh nhỏ vào cuối năm 2008 với Thế giới họ đang sống, một bộ phim được lấy bối cảnh tại một đài truyền hình, trong đó cô và Hyun Bin đóng vai những nhà sản xuất làm việc cùng nhau và yêu nhau. Trong năm 2010, cô đóng vai chính trong Camellia, phim bao gồm ba bộ phim ngắn do các đạo diễn châu Á đạo diễn. Mỗi tập được đặt trong bối cảnh quá khứ, hiện tại và tương lai của thành phố Busan. Trong đoạn cuối cùng của bộ phim Love for Sale, Song Hye-kyo và Kang Dong-won là hai diễn viên chính. Song Hye-kyo được coi là một trong những phụ nữ đẹp nhất Hàn Quốc Vào đầu năm 2011, Song Hye-kyo đã phát hành sách ảnh Moment, Song Hye-kyo được chụp bởi những nhiếp ảnh gia hàng đầu ở nhiều quốc gia trên thế giới: Atlanta, New York, Buenos Aires, Patagonia, Paris, Hà Lan và Brazil. Lợi nhuận thu được từ việc bán sách ảnh đã được quyên góp cho các trẻ em đang gặp khó khăn. Cùng năm, Song Hye-kyo đóng vai một nhà làm phim tài liệu trong Lẽ sống. Cô là một fan hâm mộ lớn của đạo diễn Lee Jeong-hyang, muốn tham gia diễn xuất trong bộ phim mặc dù cô đã gặp khó khăn để trở thành nhân vật mong muốn, Song Hye-kyo nói rằng cô yêu thích kịch bản và cảm thấy diễn xuất của mình đã trưởng thành. Cô coi bộ phim là "bước ngoặt" trong cuộc đời cô. Năm 2011, cô trở thành nữ diễn viên châu Á đầu tiên ký hợp đồng với hãng Effigies của Pháp, mở đường cho việc cô có thể thâm nhập vào thị trường châu Âu. Cô đã phát hành một quyển tự truyện ảnh mang tên It's Time for Hye-kyo vào năm 2012. Tác phẩm nhanh chóng lọt Top 10 cuốn sách bán chạy nhất Hàn Quốc sau ngày ra mắt chỉ hơn một tuần. Song Hye-kyo đóng một vai phụ trong Nhất đại tông sư, bộ phim của đạo diễn Vương Gia Vệ về Lý Tiểu Long, lúc đó cô đã học được tiếng Quảng Đông. 2013–nay: Tiếp tục phát triển sự nghiệp Song Hye-kyo hợp tác với nhà biên kịch và đạo diễn của Thế giới ta đang sống trong tác phẩm Gió đông năm ấy (dựa theo bộ phim Ai Nante Irane Yo, Natsu vào năm 2003). Cô là một cô gái mắc phải chứng suy giảm thị lực, mắt cô gần như không thể thấy gì, trong phim cô diễn xuất cùng với Jo In-sung. Bộ phim lan tỏa sức hút lớn ra toàn châu Á. Song Hye-kyo đã đoạt giải Daesang tại lễ trao giải APAN lần thứ 2 nhờ vai diễn Oh Young. Năm 2014, Song Hye-kyo tái hợp với Kang Dong-won trong Những tháng năm rực rỡ, một bộ phim chuyển thể của E J-yong từ cuốn tiểu thuyết bán chạy nhất của Aerial: My Palpitating Life. Năm 2013, The crossing là bộ phim Trung Quốc thứ hai của cô được phát hành và được đạo diễn bởi John Woo. Cô tiếp tục tham gia một bộ phim Trung Quốc khác vào năm 2015, Tôi là nữ vương, một bộ phim hài lãng mạn hiện đại về ba phụ nữ. Cùng tham gia với cô là Trần Kiều Ân và Y Năng Tịnh, dưới sự chỉ đạo của nữ diễn viên Y Năng Tịnh. Năm 2016, Song Hye-kyo đóng vai chính trong bộ phim Hậu duệ mặt trời, bộ phim về chuyện tình giữa một Đại úy quân đội (do Song Joong-ki đóng) và một bác sĩ phẫu thuật (do Song Hye-kyo đóng) yêu nhau sau khi trải qua nhiều lần xông pha vào chốn hiểm nguy. Bộ phim cực kỳ thành công với tập cuối cùng đã thu được rating trên 38,8%, gây sốt trên đất nước Hàn Quốc, nhiều nước ở châu Á và trên thế giới. Bộ phim đã giúp Hàn Quốc quảng bá nền văn hóa ra thế giới, Song Hye-kyo một lần nữa khẳng định vị trí ngôi sao Hallyu và thường xuyên đứng đầu các cuộc thăm dò dư luận ở châu Á trong năm 2016. Cuối năm, Song Hye-kyo đã đoạt giải Daesang, giải thưởng cao nhất tại KBS Drama Awards cùng với nam diễn viên Song Joong-ki. Sau hai năm gián đoạn, cô trở lại màn ảnh nhỏ với bộ phim tình cảm lãng mạn Gặp gỡ của tvN cùng với Park Bo-gum. Đời tư Kết hôn Vào ngày 5 tháng 7 năm 2017, Song Hye-kyo và bạn diễn Song Joong-ki trong bộ phim truyền hình Hậu duệ mặt trời tuyên bố thông qua công ty quản lý của cả hai rằng họ đã đính hôn. Họ kết hôn trong một buổi hôn lễ riêng tư vào ngày 31 tháng 10 năm 2017 tại Youngbingwan, khách sạn Shilla ở Seoul, thu hút sự quan tâm của giới truyền thông trên khắp châu Á. Hôn lễ có sự tham gia của gia đình và bạn bè thân thiết nhất của cặp đôi, bao gồm diễn viên Lee Kwang-soo, Yoo Ah-in và Park Bo-gum, người đã chơi piano trong tiệc cưới. Vào ngày 27 tháng 6 năm 2019, Song Joong-ki tiết lộ rằng anh đã đệ đơn ly hôn với Song Hye-kyo vào ngày hôm trước. Thủ tục ly hôn được hoàn tất vào ngày 22 tháng 7 năm 2019. Vào ngày 25 tháng 7 năm 2019, Song Hye-kyo đã đệ đơn kiện 15 cư dân mạng trực tuyến về tội "lan truyền thông tin sai lệch, bôi nhọ và xúc phạm danh dự". Mặc dù lý do ly hôn đã được công ty quản lý nói rõ là do sự khác biệt về tính cách, nhưng những tin đồn thất thiệt xung quanh vụ ly hôn vẫn tiếp tục được lan truyền, bao gồm lời tuyên bố rằng Song Hye-kyo đã thực hiện một cuộc hôn nhân giả nhằm mục đích nâng cao hình ảnh nổi tiếng của cô. Cáo buộc này đã tạo được độ tin cậy nhất định, vì có thông tin cho rằng nữ diễn viên hiếm khi tham dự các sự kiện của gia đình chồng, và cặp đôi đã mua một ngôi nhà trị giá 12 triệu USD ở Seoul mà chưa bao giờ sống tại đây. Tháng 8 năm 2014, đại diện của Song Hye-kyo đã đưa ra lời xin lỗi chính thức tới công chúng đối với nghi án trốn thuế, bằng lập luận rằng các kế toán đã hiểu sai công việc giấy tờ mà cô không hay biết về số tiền thuế thu nhập nộp thiếu từ năm 2009 đến năm 2011 tổng cộng là 2,56 tỷ KRW. Nữ diễn viên cho biết sau khi nhận được thông báo từ Cơ quan thuế Quốc gia, cô đã nộp đầy đủ số tiền phạt bổ sung lên tới 3,8 tỷ KRW (3,7 triệu USD) vào tháng 10 năm 2012. Hoạt động khác Song Hye-kyo đã dành thời gian để giúp động vật từ năm 2007. Trong năm 2012, hình ảnh cô bí mật tham gia vào hoạt động tình nguyện xuất hiện trên mạng. Những hình ảnh cho thấy Song Hye-kyo làm hoạt động tình nguyện vào một ngày mưa ở nơi trú ẩn động vật hoang dã ở Cheonan. Vào năm 2013, Kara đã đăng ảnh của cô và người bạn diễn Im Se-mi của Gió đông năm ấy làm việc tại một nhà lưu trú chó ở Yeoju. Cho đến nay, Song Hye-kyo vẫn tham gia vào các hoạt động liên quan. Cộng tác với Giáo sư Seo Kyung-duk Một đại diện từ công ty quản lý của Song Hye-kyo cho biết, "Vì Song Hye-kyo đã đi công tác nhiều, cô ấy đã nhận thức được tầm quan trọng của việc khách du lịch có thể đọc được thông tin bằng ngôn ngữ của họ." Song Hye-kyo hợp tác với giáo sư Seo Kyung-duk của Đại học nữ sinh Sungshin, đã quyết định tặng tài liệu hoặc thông tin bằng tiếng Hàn cho nhiều địa điểm lịch sử, phòng trưng bày nghệ thuật và các viện bảo tàng khác nhau trên thế giới. Giáo sư Seo ca ngợi Song Hye-kyo, người đã ủng hộ đất nước của cô một cách lặng lẽ. Vào tháng 1 năm 2012, tài trợ xuất bản cuốn sách hướng dẫn MoMA tại thành phố New York. Tháng 4 năm 2012, Song Hye-kyo cũng chi cho việc sản xuất cuốn sách mới của Hàn Quốc cho Tượng đài Yun Bong Gil tại Thượng Hải, Trung Quốc. Vào tháng 11 năm 2012, đặt một hộp video quảng cáo về Hàn Quốc tại Bảo tàng Mỹ thuật ở Boston. Song Hye-kyo nhận thức sâu sắc về những khó khăn mà những người khiếm thị gặp phải khi đóng trong Gió Mùa Đông Năm Ấy. Vì vậy, Tháng 3 năm 2013, Song Hye-kyo quyết định tài trợ cho việc xuất bản sách hướng dẫn cho người khiếm thị tại Hội trường Độc lập Hàn Quốc ở Cheonan. Vào tháng 8 năm 2013, Song Hye-kyo và Seo Kyung-duk tài trợ cho việc khắc tranh trên đồng để đóng góp cho bảo tàng Yi Jun Peace ở Hague, Hà Lan. Vào tháng 10 năm 2013, tặng sách hướng dẫn về Hàn Quốc tại Nhà Tưởng niệm An Jung-geun ở Harbin, Trung Quốc. Vào tháng 11 năm 2013, fan hâm mộ của Song Hye-kyo đã thông báo rằng họ đã tặng sách hướng dẫn Hàn Quốc cho Bảo tàng Lịch sử Quốc gia ở Uzbekistan Tháng 4 năm 2014, tặng 10.000 tờ thông tin Hàn Quốc cho tòa nhà Chính phủ Hàn Quốc ở Hangzhou, Trung Quốc. Vào tháng 4 năm 2015, Song Hye-kyo tặng tiền để in các tài liệu quảng cáo tại nhà thờ ở thành phố New York. Tháng 4 năm 2016, cô đã tặng tài liệu quảng cáo tiếng Hàn cho Tượng Nữ thần Tự do ở thành phố New York. Vào tháng 8 năm 2016, để kỷ niệm Ngày Giải phóng Dân tộc Hàn Quốc vào ngày 15 tháng 8, Song Hye-kyo đã hợp tác với giáo sư Seo đã tặng 10.000 tờ bướm cho làng Utoro ở Nhật Bản. Vào tháng 12 năm 2016, cô và giáo sư Seo đã tặng 10.000 bản sao cuốn sách hướng dẫn của Hàn Quốc tới Nhà Tưởng niệm Yun Bong Gil tại Thượng Hải để tưởng niệm ngày mất của ông. Tháng 3 năm 2017, Song Hye-kyo tổ chức hiến tặng 10.000 bản sao cuốn sách hướng dẫn của Hàn Quốc tới các địa điểm lịch sử của Hàn Quốc ở Tokyo. Vào tháng 5 năm 2017, cô và giáo sư Seo đã cung cấp sách hướng dẫn tiếng Hàn cho Bảo tàng Hoàng gia Ontario ở Toronto. Vào tháng 8 năm 2017, cô và giáo sư Seo đã tặng sách hướng dẫn về các di tích lịch sử của Hàn Quốc nằm ở Kyoto. Danh sách phim Phim truyền hình Phim điện ảnh Radio và chương trình giải trí Âm nhạc Video âm nhạc Đĩa đơn Sách Giải thưởng và đề cử Tham khảo Liên kết ngoài Nữ diễn viên truyền hình Hàn Quốc Nữ diễn viên điện ảnh Hàn Quốc Nữ diễn viên Hàn Quốc thế kỷ 21 Nhân vật còn sống Nữ diễn viên Hàn Quốc Người Seoul Sinh năm 1982 Tín hữu Công giáo Hàn Quốc Nghệ sĩ SidusHQ
28459
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ti%E1%BA%BFng%20T%C3%A2y%20Ban%20Nha
Tiếng Tây Ban Nha
Tiếng Tây Ban Nha (), cũng được gọi là tiếng Castilla () hay tiếng Y Pha Nho theo lối nói cũ, là một ngôn ngữ thuộc nhóm Iberia-Rôman của nhóm ngôn ngữ Rôman, và là ngôn ngữ phổ biến thứ 4 trên thế giới theo một số nguồn, trong khi có nguồn khác liệt kê nó là ngôn ngữ phổ biến thứ 2 hay thứ 3. Nó là tiếng mẹ đẻ của khoảng 352 triệu người, và được dùng bởi 417 triệu người khi tính thêm các người dùng nó như ngôn ngữ thứ hai (theo ước lượng năm 1999). Có người khẳng định rằng có thể nghĩ đến tiếng Tây Ban Nha là tiếng quan trọng thứ 2 trên thế giới, sau tiếng Anh và tiếng Pháp, do càng ngày nó càng được sử dụng phổ biến ở Hoa Kỳ, do tỷ suất sinh cao ở những nước dùng tiếng Tây Ban Nha như ngôn ngữ chính thức, do sự mở mang của các kinh tế trong giới nói tiếng Tây Ban Nha, do sự ảnh hưởng của tiếng Tây Ban Nha trong thị trường âm nhạc toàn cầu, do tầm quan trọng của văn học Tây Ban Nha và do nó được sử dụng ở rất nhiều nơi trên thế giới. Tiếng Tây Ban Nha được sử dụng phần lớn ở Tây Ban Nha, Bắc Mỹ, Nam Mỹ và Guinea Xích Đạo. Nhóm ngôn ngữ và các ngôn ngữ liên hệ Tiếng Tây Ban Nha có quan hệ rất gần gũi với các ngôn ngữ ở Đông Iberia như: tiếng Asturias (asturianu), tiếng Ladino (Djudeo-espanyol, sefardí), tiếng Catalunya (català) và tiếng Bồ Đào Nha (português). Tiếng Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha có ngữ pháp và từ vựng rất giống nhau; số lượng từ vựng tương tự nhau của hai ngôn ngữ này lên đến 89%. So sánh các từ vựng Hệ chữ viết Tiếng Tây Ban Nha được viết sử dụng ký tự Latin, với một chữ cái được thêm vào là "ñ" (eñe), được đọc là /ɲ/ ("nh" trong tiếng Việt) và được xem là xuất phát từ chữ "n", cho dù là được viết là một chữ "n" với một dấu ngã (~) bên trên. Những chữ ghép "ch" (che) và "ll" (elle) được xem như là những chữ cái đơn, có tên riêng và là một chữ cái trên bảng chữ cái, vì mỗi chữ đại diện cho một âm tiết khác nhau (/tʃ/ and /ʎ/) tương ứng. Tuy nhiên, chữ ghép "rr" (erre doble, chữ "r" đúp, hoặc chỉ là "erre" thay vì "ere"), cũng đại diện cho một âm đơn /r/, không được xem là một chữ đơn. Vì thế bảng chữ cái tiếng Tây Ban Nha có 28 chữ (sẽ là 29 nếu tính chữ "w", nhưng nó chỉ được sử dụng trong tên tiếng nước ngoài và từ mượn): a, b, c, ch, d, e, f, g, h, i, j, k, l, ll, m, n, ñ, o, p, q, r, s, t, u, v, (w), x, y, z. ó Từ năm 1994, hai chữ ghép trên bị tách ra thành hai chữ cái riêng biệt để sắp xếp. Những từ có chữ "ch" bây giờ được sắp xếp theo thứ tự bảng chữ cái giữa "ce" và "ci", thay vì ở giữa "cz" như trước đây, và chữ "ll" cũng thế. Tuy nhiên, những chữ "che" (ch), và "elle" (ll) vẫn còn được sử dụng như thông tục. Trừ những từ địa phương như ở México, việc phát âm có thể được định rõ khi đánh vần. Một từ tiếng Tây Ban Nha tiêu biểu được nhấn giọng ở âm áp chót nếu như nó tận cùng bằng một nguyên âm (không phải "y") hoặc nếu như tận cùng bằng phụ âm "n" và "s"; trong các trường hợp khác thì nhấn giọng ở âm cuối cùng. Những trường hợp ngoại lệ được biểu thị bằng một dấu sắc trên nguyên âm. Khi đó thì nguyên âm có dấu sắc sẽ được nhấn giọng. Dấu sắc còn được sử dụng để phân biệt những từ đồng âm, nhất là khi một trong số chúng là những từ có nhấn giọng và cái còn lại thì không. So sánh "el" (mạo từ xác định giống đực số ít) với "él" (đại từ "anh ấy" hoặc "nó"); hoặc "te" ("bạn", bổ ngữ đại từ), de (giới từ "của" hoặc "từ") và "se" (đại từ phản thân) với "té" ("trà"), dé ("cho") và sé ("Tôi biết", hoặc mệnh lệnh cách của động từ "ser"), ta thấy được sự khác nhau. Những đại từ nghi vấn (qué, cuál, dónde, quién, v.v.) cũng có dấu sắc ở những câu hỏi gián tiếp hay trực tiếp, và một số đại từ chỉ định (ése, éste, aquél, v.v.) có thể có dấu khi được sử dụng như những đại từ. Liên từ "o" ("hoặc") được thêm vào một dấu huyền khi được viết ở giữa các số với nhau để không bị lẫn với số 0 (zero): Ví dụ, "10 ò 20" phải được đọc là diez o veinte ("mười hay hai mươi") thay vì diez mil veinte ("10 020 - mười ngàn không trăm hai mươi"). Những dấu này thường được bỏ đi khi viết hoa (thói quen trước đây khi khi sử dụng máy tính vì chỉ có những chữ viết thường mới có dấu được), cho dù Học viện Hoàng gia Tây Ban Nha phản đối. Trong trường hợp hiếm, "u" được viết với một dấu tách âm ("ü") khi nó được viết giữa chữ "g" và một nguyên âm lưỡi trước ("e" hoặc "i"), để báo hiệu là nó phải được đọc thay vì câm như thường lệ. Ví dụ, cigüeña (con cò), được đọc là /θ̟iˈɰweɲa/; nếu như nó được viết là cigueña, nó sẽ được đọc là /θ̟iˈɰeɲa/. Những mệnh đề nghi vấn và cảm thán được bắt đầu bằng dấu chấm hỏi ngược (¿) và dấu chấm than ngược (¡). Phân phối địa lý của tiếng Tây Ban Nha Tiếng Tây Ban Nha là ngôn ngữ cơ bản của 20 quốc gia trên thế giới. Người ta ước tính tổng số người nói tiếng Tây Ban Nha là khoảng 470 đến 500 triệu, làm nó trở thành ngôn ngữ được sử dụng rộng rãi thứ hai trên thế giới theo số lượng người bản ngữ. Tiếng Tây ban Nha là tiếng được sử dụng nhiều thứ ba trên thế giới (sau tiếng Trung Quốc và tiếng Anh). Thống kê ngôn ngữ sử dụng trên Internet năm 2007 tiếng Tây Ban Nha cũng là ngôn ngữ được sử dụng nhiều thứ ba trên Internet, sau tiếng Anh và tiếng Trung Quốc. Số người nói tiếng Tây Ban Nha theo quốc gia Bảng sau thể hiện số lượng người nói tiếng Tây Ban Nha ở 79 quốc gia. Ngữ pháp Tiếng Tây Ban Nha là một ngôn ngữ có nhiều biến tố, có hai giống cho danh từ (giống đực và giống cái) và khoảng 50 hình thái chia động từ cho một động từ, nhưng ít biến tố hơn cho danh từ, tính từ và từ hạn định. Tiếng Tây Ban Nha có sử dụng giới từ, và thông thường (nhưng không phải luôn luôn) thì tính từ đứng sau danh từ. Cấu trúc câu là SVO (Subject Verb Object), tức là Chủ ngữ - Động từ - Bổ ngữ, cho dù những sự biến đổi thì cũng khá phổ biến. Có thể lược bỏ chủ ngữ đi khi ngữ cảnh trong câu đã rõ ràng. Động từ diễn tả hướng đi mà không cần phải có giới từ. Tham khảo Liên kết ngoài Trang chính của RAE (tiếng Tây Ban Nha) Bản tóm tắt về tiếng Tây Ban Nha của Ethnologue (Anh) DRAE, Từ điển RAE (Tây Ban Nha ↔ Tây Ban Nha) Diccionarios.com (nhiều thứ tiếng) Bài cơ bản dài trung bình Ngôn ngữ tại Belize Ngôn ngữ tại Colombia Ngôn ngữ tại Costa Rica Ngôn ngữ tại Ecuador Ngôn ngữ tại El Salvador Ngôn ngữ tại Guatemala Ngôn ngữ tại Honduras Ngôn ngữ tại México Ngôn ngữ tại Nicaragua Ngôn ngữ tại Panama Ngôn ngữ tại Paraguay Ngôn ngữ tại Uruguay Ngôn ngữ tại Venezuela Ngôn ngữ tại Tây Ban Nha Ngôn ngữ tại vùng Caribe Ngôn ngữ tại Argentina Ngôn ngữ tại Bolivia Ngôn ngữ tại Chile Ngôn ngữ tại Peru Ngôn ngữ tại Philippines Ngôn ngữ hòa kết Ngôn ngữ tại Cuba Ngôn ngữ tại Guinea Xích Đạo Ngôn ngữ tại Puerto Rico Ngôn ngữ tại Nam Mỹ Ngôn ngữ tại Hoa Kỳ Ngôn ngữ chủ-động-tân
28462
https://vi.wikipedia.org/wiki/George%20Hellmuth
George Hellmuth
George Hellmuth (1907–1999) là kiến trúc sư người Mỹ. Ông sinh ra tại St. Louis, Missouri và tốt nghiệp Đại học Washington. Ông làm việc tại thành phố St. Louis từ năm 1932 chuyên thiết kế các sở cứu hỏa và chỗ chứa xe bus. Năm 1949, ông mở hãng thiết kế riêng mình và thành lập hãng Hellmuth, Yamasaki và Leinweber, nhưng giải thể vào năm 1954. Sau đó ông cùng với Gyo Obata và George Kassabaum thành lập nên Hellmuth, Obata & Kassabaum (HOK). Tham khảo Hellmuth, George Hellmuth, George
28463
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%85%20Gi%C3%A1ng%20Sinh
Lễ Giáng Sinh
Lễ Giáng Sinh (còn được gọi là Noel, Christmas) là lễ hội kỷ niệm sự ra đời của Chúa Giê-su, được tổ chức chủ yếu vào ngày 25 tháng 12 hằng năm, là một dịp lễ tôn giáo và văn hóa của hàng tỷ người trên thế giới. Là một đại lễ mừng trọng tâm của năm phụng vụ Kitô giáo, nó kết thúc mùa Mùa Vọng và bắt đầu mùa Giáng Sinh, theo lịch sử ở phương Tây kéo dài mười hai ngày cho tới Đêm thứ mười hai (đêm trước Lễ Hiển Linh). Ngày Giáng sinh là một ngày nghỉ lễ ở nhiều quốc gia trên thế giới, được tổ chức tôn giáo theo đa số Kitô hữu, và cũng được tổ chức như lễ hội văn hóa của nhiều người ngoài Kitô giáo, và tạo thành một phần không thể thiếu của kỳ nghỉ lễ tập trung xung quanh ngày này. Câu chuyện truyền thống về Giáng sinh, sự giáng sinh của Giêsu, được mô tả trong Tân Ước nói rằng Giê-su được sinh ra ở Bethlehem, phù hợp với những lời tiên tri về đấng thiên sai. Khi Giuse và Maria đến thành phố, nhà trọ không còn chỗ trống và vì vậy họ phải ngủ cạnh máng cỏ nuôi gia súc, nơi Chúa Hài Đồng được sinh ra sau đó, với các thiên thần loan báo tin này cho những người chăn cừu, sau đó họ đã lan rộng thông tin này. Mặc dù không rõ tháng và ngày sinh của Giêsu, nhưng giáo hội vào đầu thế kỷ thứ tư đã ấn định ngày sinh của Người là 25 tháng 12. Điều này tương ứng với ngày Đông chí trên lịch La Mã. Hầu hết các tín đồ Kitô giáo ăn mừng vào ngày 25 tháng 12 theo lịch Gregory, lịch này đã được áp dụng gần như phổ biến trong lịch dân sự ở các nước trên thế giới. Tuy nhiên, một số giáo hội Kitô giáo Đông phương tổ chức lễ Giáng sinh vào ngày 25 tháng 12 của lịch Julius cũ hơn, hiện tương ứng với ngày 7 tháng 1 trong lịch Gregorius. Đối với Kitô hữu, niềm tin rằng Thiên Chúa đến thế gian trong hình hài của con người để cứu chuộc cho tội lỗi của nhân loại, chứ không cần phải biết ngày tháng năm sinh chính xác của Giêsu, được coi là mục đích chính trong kỷ niệm ngày Giáng sinh. Các phong tục ăn mừng liên quan đến lễ Giáng sinh ở các quốc gia khác nhau có sự pha trộn giữa các chủ đề và nguồn gốc tiền Kitô giáo, Kitô giáo và thế tục. Phong tục hiện đại phổ biến của ngày lễ bao gồm tặng quà; hoàn thành lịch Mùa Vọng hoặc vòng hoa Mùa Vọng; Nhạc Giáng sinh và hát mừng; xem vở kịch Chúa giáng sinh; trao đổi thiệp Giáng sinh; lễ thờ phượng; một bữa ăn đặc biệt; và trưng bày các đồ trang trí Giáng sinh khác nhau, bao gồm cây Giáng Sinh, đèn Giáng sinh, Hoạt cảnh giáng sinh, vòng hoa, vòng hoa, cây tầm gửi và nhựa ruồi. Ngoài ra, một số nhân vật có liên quan chặt chẽ và thường thay thế cho nhau, được gọi là Ông già Noel, Cha Giáng sinh, Thánh Nicôla và Christkind, có liên quan đến việc mang quà cho trẻ em trong mùa Giáng sinh và có truyền thống và truyền thuyết riêng của họ. Bởi vì việc tặng quà và nhiều khía cạnh khác của lễ hội Giáng sinh liên quan đến hoạt động kinh tế gia tăng, nên ngày lễ đã trở thành một sự kiện quan trọng và là thời điểm bán hàng quan trọng cho các nhà bán lẻ và doanh nghiệp. Tác động kinh tế của Giáng sinh đã phát triển đều đặn trong vài thế kỷ qua ở nhiều khu vực trên thế giới. Tên gọi Noel (phiên âm tiếng Việt: Nô-en hoặc No-en), từ tiếng Pháp Noël, dạng cổ hơn là Naël, có gốc từ tiếng Latinh nātālis (diēs) có nghĩa là "(ngày) sinh". Cũng có ý kiến cho rằng tên gọi Noel xuất phát từ danh hiệu Emmanuel, tiếng Hebrew nghĩa là "Thiên Chúa ở cùng chúng ta", được chép trong sách Phúc âm Matthêu. Trong tiếng Anh, ngày lễ này được gọi phổ biến là Christmas, theo nghĩa chiết tự là "(ngày) lễ của Đức Kitô". Chữ Mass nghĩa là thánh lễ. Chữ Christ là tước hiệu của Giêsu, được viết trong tiếng Hy Lạp là (Khristós, phiên âm Việt là "Ki-tô" hoặc "Cơ-đốc", có nghĩa là Đấng được xức dầu), mở đầu bằng chữ cái "Χ" (Chi) nên Christmas còn được viết tắt là Xmas. Sự giáng sinh của Chúa Giê-su Theo Phúc âm của Luca (Luke) và Mát-thêu (Matthew) thì Giê-su được Maria, một phụ nữ đồng trinh và là vợ bác thợ mộc Giuse, sinh ra ở Bethlehem xứ Judea. Theo Luke, thì Giê-su được sinh ra và đặt nằm trong một máng cỏ vì bà Maria và ông Giuse không tìm được chỗ trọ qua đêm khi đang cùng đoàn người du hành đến Bethlehem. Các thiên sứ loan tin rằng người này sẽ là Đấng cứu thế, và các mục đồng đến chiêm bái. Theo Phúc âm Matthew thì các nhà thông thái đã theo hướng một ngôi sao để đến Bethlehem và dâng tặng những phẩm vật lên Chúa hài đồng, vì họ tin rằng người sinh ra để làm vua của người Do Thái. Herod Đại đế biết được liền tàn sát tất cả các trẻ em trai mới sinh ở Bethlehem để giết Giêsu, nhưng gia đình Giêsu đã kịp chạy trốn đến Ai Cập và sau đó định cư tại Nazareth. Lịch sử Ngày tháng Ngay từ thời kỳ Kitô giáo sơ khởi, dù ban đầu Giáo hội chưa cử hành lễ mừng kính sự giáng sinh của Đức Giêsu nhưng ngày 25 tháng 12 đã được coi là sinh nhật Đức Giêsu bởi Irenaeus, Hippolytus thành Roma và Sextus Julius Africanus. Bên cạnh đó có các suy đoán khác, Clemens thành Alexandria đề cập đến một số ngày được người ta đưa ra như 20 tháng 5. Trong nhiều thế kỷ, những sử gia Kitô giáo chấp nhận ngày 25 tháng 12 này. Tuy nhiên, đến đầu thế kỷ XVIII, các học giả bắt đầu đề xuất các cách giải thích khác. Isaac Newton cho rằng lễ Giáng sinh được chọn vào ngày Đông chí - mà theo lịch thời đó rơi vào ngày 25 tháng 12 - bởi vì với các Kitô hữu, Đức Giêsu chính là "Mặt trời công chính" đã được tiên tri trong Malachi 4:2. Năm 1743, một người Đức theo Kháng Cách, Paul Ernst Jablonski cho rằng lễ Giáng sinh được chọn vào ngày 25 tháng 12 là để tương ứng với lễ hội tôn vinh mặt trời Dies Natalis Solis Invicti của người La Mã, ông xem việc này là một sự "ngoại giáo" hóa đã làm tha hóa Giáo hội đích thực. Tuy nhiên có quan điểm ngược lại cho rằng chính lễ hội Dies Natalis Solis Invicti được Hoàng đế Aurelianus thiết lập vào năm 274 hầu như là một nỗ lực nhằm tạo ra một ngày lễ ngoại giáo thay thế cho một ngày vốn đã có ý nghĩa với các Kitô hữu ở Rôma. Năm 1889, học giả Pháp Louis Duchesne cho rằng thời điểm được chọn là ngày Giáng sinh được tính bằng 9 tháng sau sự kiện Truyền tin, ngày Đức Giêsu được hoài thai; truyền thống có từ rất sớm trong Giáo hội liên kết sự chết và sự nhập thể của Đức Giêsu với nhau, theo đó hai sự kiện này rơi vào cùng một ngày trong niên lịch: 25 tháng 3 theo cách tính của Tây phương hoặc 6 tháng 4 theo cách tính của Đông phương. Do vậy, việc ấn định 25 tháng 12 là ngày Giáng sinh không chịu ảnh hưởng từ ngoại giáo, đến khi Hoàng đế Aurelianus muốn biến ngày này thành ngoại giáo thì tới lượt các Kitô hữu tái thích ứng ngày này thành ngày lễ cử hành mừng sinh nhật Đấng Kitô. Biểu tượng Giáng sinh và ý nghĩa Vòng lá mùa Vọng Vòng lá mùa Vọng là vòng tròn kết bằng cành lá xanh thường được đặt trên bàn hay treo lên cao để mọi người trông thấy, trong 4 tuần Mùa Vọng. Cây xanh thường được trang hoàng trong các bữa tiệc của dịp Đông chí - dấu hiệu của mùa đông sắp kết thúc. Trên vòng lá đặt 4 cây nến. 4 cây nến bao gồm ba cây màu tím - màu của Mùa Vọng, cây thứ 4 là màu hồng, là màu của Chúa Nhật thứ Ba mùa Vọng, hay còn gọi là Chúa Nhật Vui mừng (Gaudete Sunday). Hoặc 4 cây nến đỏ, cứ mỗi tuần mùa Vọng đốt 1 cây nến. Tục lệ này khởi xướng bởi các tín hữu Lutheran ở Đức vào năm 1839 với 24 cây nến gồm 20 nến đỏ và 4 nến trắng, cứ mỗi ngày gần Giáng sinh được đốt thêm một cây nến. Vòng lá có hình tròn nói lên tính cách sự sống vĩnh hằng và tình yêu thương vô tận của Thiên Chúa. Màu xanh lá nói lên hy vọng rằng Đấng Cứu Thế sẽ đến cứu con người. Lịch mùa Vọng Ngoài ra, tại phương Tây, thường có một lịch mùa Vọng là một lịch đặc biệt được sử dụng để đếm hoặc kỷ niệm những ngày chờ đợi đến lễ Giáng Sinh. Hang đá và máng cỏ Vào mùa Giáng sinh, một máng cỏ được đặt trong hang đá (có thể làm bằng gỗ, giấy), được dựng lên trong nhà hay ngoài trời, với các hình tượng Giê-su, Maria, Thánh Giu-se, xung quanh là các thiên sứ, mục đồng cùng các gia súc như bò, lừa để kể lại sự tích Chúa ra đời trong máng cỏ. Bên trên thường có gắn một ngôi sao, biểu trưng cho ngôi sao đã dẫn đường cho các nhà chiêm tinh đến diện kiến Chúa Giáng sinh. Cây Giáng sinh Cây Giáng Sinh là cây xanh thường là cây thông được trang hoàng để trình bày trong dịp lễ Giáng Sinh theo phong tục của người Kitô giáo. Thiệp Giáng sinh Bắt nguồn từ năm 1843 khi ông Henry Cole (1808 - 1882), một thương gia giàu có nước Anh, đã nhờ John Callcott Horsley (1817 - 1903), một họa sĩ ở Luân Đôn, thiết kế một tấm thiệp thật đẹp để tặng bạn bè. Vào Noel năm đó, Horsley trình làng tấm thiệp đầu tiên trên thế giới và sau đó nó đã in ra 1000 bản. Thiệp Giáng sinh nhanh chóng bùng phát và trở thành mốt thịnh hành ở Anh trong suốt 10 năm kể từ khi Chính phủ Anh thông qua đạo luật năm 1846 cho phép bất kỳ người dân nào gửi thư đến bất kỳ nơi nào với giá rẻ. Không lâu sau, trào lưu này du nhập sang Đức và tới 30 năm sau người Mỹ mới chấp nhận nó. Quà Giáng sinh Những món quà biểu lộ tình yêu của mọi người với gia đình và bè bạn. Đối với một số người, những món quà Giáng Sinh còn có một ý nghĩa tín ngưỡng sâu sắc. Đó là lễ kỷ niệm ngày sinh của Giê-su, món quà mà Thiên Chúa đã ban tặng cho con người. Khi Giê-su cất tiếng khóc chào đời tại Bethlehem trong một cái máng cỏ, ba nhà thông thái (hay nhà chiêm tinh, theo truyền thống cũng là ba vị vua) từ phương Đông đã đến để bày tỏ sự thành kính của mình. Họ mang đến ba món quà quý giá, đó là vàng, nhũ hương và mộc dược. Vàng có ý nói Giêsu là vua, nhũ hương để tuyên xưng Giêsu là Thiên Chúa và mộc dược tiên báo cuộc khổ nạn và sự chết của Giêsu để cứu chuộc nhân loại. Ba vị vua rất giàu có nhưng những người dân nghèo hầu như chẳng có tài sản cũng mang đến bất cứ những gì họ có thể để tỏ lòng thành kính với Chúa Hài đồng. Những người chăn cừu tặng Giêsu hoa quả và những món đồ chơi nhỏ do chính họ tạo ra. Theo truyền thuyết xưa, Ông già Noel thường cưỡi xe tuần lộc trên trời, đến nhà có cây thông Giáng sinh và leo qua ống khói để đem đến những món quà cho các em nhỏ đang ngủ và thường để quà trong những chiếc bít tất (vớ). Ngoài ra, ngày nay ở Việt Nam thì Giáng sinh cũng là dịp để các bạn trẻ có cơ hội gửi cho nhau những món quà, những bó hoa tươi và lời chúc tốt đẹp đến người thân và bạn bè. Chợ Giáng sinh Chợ Giáng sinh là một chợ đường phố kiểu truyền thống được tổ chức vào dịp Giáng sinh (thường bắt đầu khoảng 1 tháng trước Lễ Giáng sinh) có nguồn gốc tại vùng đất ngày nay là nước Đức và Đông Bắc nước Pháp. Bắt đầu xuất hiện từ cuối thời Thời kỳ Trung Cổ (khoảng thế kỷ XIV), cho đến nay chợ Giáng sinh vẫn là nét văn hóa truyền thống đặc sắc của Đức, Áo và Đông bắc Pháp trong dịp Giáng sinh cũng như được phổ biến đến nhiều quốc gia khác trên thế giới. Lễ Giáng Sinh ở các nước Châu Âu Ở hầu hết các quốc gia châu Âu, ngày lễ Giáng Sinh vào hai ngày 25 và 26 tháng 12 là ngày nghỉ lễ chính thức có trả lương cho tất cả người lao động. Đối với người châu Âu, theo truyền thống Giáng sinh trước hết là một dịp đoàn tụ gia đình, để mỗi người nói lên tình yêu và tỏ sự quan tâm tới những người thân trong gia đình, họ hàng và với bạn bè, hàng xóm, khi những người con đi làm xa về thăm lại gia đình. Sau buổi thánh lễ vào chiều ngày 24 tháng 12, thường được nối tiếp là một bữa ăn tối chung trong gia đình và trao quà vào lúc nửa đêm; từ buổi chiều là ngoài đường gần như không còn người qua lại. Sáng ngày 25 tháng 12, thường là cả gia đình cùng đi nhà thờ dự thánh lễ. Tại Đức, các chiều ngày 24 (nửa ngày), ngày 25 và 26 tháng 12 là ngày nghỉ quốc gia có trả lương và không được phép mở cửa tiệm buôn bán (ngoại trừ tại nhà ga xe lửa hoặc sân bay). Chiều tối và đêm 24 tháng 12 là nằm trong danh sách luật "những ngày lễ yên lặng" (Stille Tage), có những luật cấm tùy theo các bang như cấm tổ chức khiêu vũ, cấm làm ồn, cấm tổ chức tất cả các sự kiện giải trí bên ngoài nhà.... Tại Anh và các quốc gia Thịnh vượng chung Anh có truyền thống trao quà vào Ngày tặng quà 26 tháng 12. Hà Lan Cũng như các quốc gia Tây Âu khác, tại Hà Lan không khí lễ hội bắt đầu từ mùa Vọng, đặc biệt là từ đêm 6 tháng 12, đêm thánh Nicolas. Món quà của thánh Nicolas tặng cho ba chị em nghèo khổ qua chiếc ống khói và phong tục treo tất ở ống khói có thể được bắt nguồn từ câu chuyện này. Theo truyền thuyết, mỗi năm vị Thánh bổn mạng ở Amsterdam này đi thuyền tới thành phố với người cộng sự của mình là Black Peter ăn mặc như một người Moor. Họ được đón chào nồng nhiệt. Mọi người trao đổi quà với nhau và họ náo nức chuẩn bị cho mùa Giáng sinh. Hoa Kỳ Giáng Sinh là ngày lễ lớn nhất ở Hoa Kỳ, tương tự với Tết Nguyên Đán ở Việt Nam, đều nhấn mạnh đến ý nghĩa sum họp gia đình. Sau lễ Tạ ơn vào Thứ Năm thứ tư của tháng 11, dân chúng lẫn những nơi buôn bán bắt đầu chuẩn bị cho lễ Giáng Sinh. Hungary Theo truyền thống, các gia đình Hungary vẫn ăn chay cho đến hết ngày 24 tháng 12 và bữa chay tối chung ngày 24 tháng 12 của cả gia đình được chuẩn bị chu đáo với các món táo, hạnh nhân, mật ong và tỏi, các loại ngũ cốc, kèm xúp đậu nấu với bơ, sau này khi tục lệ ăn chay được nới lỏng, họ có thể thêm món súp cá hoặc bắp cải nhồi thịt. Cũng theo phong tục, bà chủ nhà không được rời bàn tiệc trong suốt buổi ăn và mọi người đứng ăn, và rơm được đặt dưới bàn để tưởng nhớ sự tích Chúa Giêsu ra đời trong máng cỏ. Nga Với Chính thống giáo Nga, cũng như Chính thống giáo tại các nước Đông Âu và Đất thánh Jerusalem, Giáng sinh rơi vào ngày 7 tháng 1 bởi họ dùng lịch Julius chứ không dùng lịch Gregorius có từ thế kỷ XVI. Ông già Tuyết trong ngày Giáng sinh theo Chính thống giáo Nga có vẻ ngoài tương tự như "đồng nghiệp" ở phương Tây nhưng mặc áo màu xanh và có một người cháu đi theo trợ giúp là Công chúa Tuyết. Công chúa là người trao quà cho trẻ em. Với nhiều người Nga, lý do chính để ăn mừng Giáng sinh không phải bản thân ngày lễ này, mà đây là dịp để nghỉ ngơi. Nhật Bản Nhật Bản không có ngày nghỉ lễ Giáng Sinh chính thức. Giáng Sinh ở Nhật Bản không mang nhiều màu sắc tôn giáo. Từ đầu tháng 12, phố xá đã bắt đầu treo đèn trang trí. Các trung tâm lớn ở Tokyo như ga Tokyo, Ikebukuro, Shinjuk, Shibuya, Rokpongi, Ginza v.v. đều treo đèn rất đẹp. Đặc biệt nổi tiếng có lẽ là hành lang đèn có tên "Tokyo Millenario" do đạo diễn mỹ thuật người Ý tên là Valerio Festi thiết kế chạy dài 800 m tại Marunouchi gần ga Tokyo. Người Nhật thường gọi Ông già Noel là Santa-san (サンタさん) nhằm tăng thêm sự dễ thương và kính mến cho ông vốn đã là một phần văn hóa của họ. Gần đến ngày Giáng Sinh tại các quảng trường đều có đặt cây thông. Các siêu thị bán nhiều mặt hàng cho lễ Giáng Sinh như giày ủng đỏ đựng đầy bánh kẹo bên trong, các vòng lá thông gắn băng lụa đỏ và chuông mạ vàng, có cả bánh ngọt mùa Giáng Sinh của châu Âu như panettone có xuất xứ từ Italia. Một số nhân viên bán hàng hóa trang thành ông già Noel khi phục vụ khách hàng. Các cửa hàng bách hóa lớn mở cửa đến 11 giờ đêm, làm việc cả 31 tháng 12 và 1 tháng 1. Trai gái thường lấy mùa Giáng Sinh để tỏ tình, tặng quà nhau mang ý nghĩa đặc biệt nhưng các chủ yếu toàn yêu cho có rồi mai lại như "người dưng nước lã" không còn quan tâm đến nhau nữa. Vào đêm Giáng Sinh các gia đình Nhật thường ăn bánh ngọt mùa Giáng Sinh do họ tự làm hoặc mua ở hiệu, nhưng chủ yếu vẫn là rủ đi ăn KFC và gọi Colonel Sanders là "Santa-san thời hiện đại". Việt Nam Giống như Nhật Bản, dù không phải là ngày nghỉ chính thức tại Việt Nam nhưng Giáng sinh vẫn được coi như một ngày lễ chung, được tổ chức vào tối 24 và kéo sang ngày 25 tháng 12. Một số công ty, tổ chức tư nhân có thể cho nhân viên nghỉ trong ngày Giáng sinh. Trong những ngày này, cây thông Nô-en được trang trí ở nhiều nơi, có thể là cây nhân tạo làm bằng nhựa, hoặc cây thật thường là thông ba lá hoặc thông đuôi ngựa, trong khi ở các nước phương tây dùng đa dạng các loài thông, vân sam, lãnh sam. Trên cây, người ta thường treo các đồ trang trí nhiều loại nhưng thường có những cặp chuông, dây giả tuyết, những chiếc ủng, các gói quà tượng trưng và đèn trang trí giống như các nước phương Tây. Lễ Giáng sinh ở Việt Nam là một dịp sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Và cũng giống như Nhật Bản, trong đêm Giáng Sinh là dịp để, những đôi "tình nhân" âu yếm tặng quà cho nhau, trẻ em háo hức chờ sự xuất hiện của ông già Noel, gia đình bè bạn cùng nhau mở tiệc vui lễ (ở Mỹ khi cặp đôi đứng cạnh nhau sẽ trao cho nhau một nụ hôn) Đặc biệt là những người Công giáo thì chuẩn bị tham dự thánh lễ tại thánh đường giáo xứ hoặc giáo họ của mình. Hoạt cảnh giáng sinh Bài chi tiết: Hoạt cảnh giáng sinh Theo truyền thống Cơ đốc giáo, cảnh Chúa giáng sinh (còn được gọi là cảnh máng cỏ, cũi, crèche (/ krɛʃ / hoặc / kreɪʃ /), hoặc trong tiếng Ý presepio hoặc presepe, hoặc Bethlehem) là một loại triển lãm đặc biệt trong mùa Giáng sinh, sự trang trí này nhằm đại diện cho sự ra đời của Chúa Giê-su. Mặc dù thuật ngữ "cảnh giáng sinh" có thể được sử dụng cho bất kỳ hình ảnh đại diện nào về chủ đề rất phổ biến là Lễ giáng sinh của Chúa Giê-su trong nghệ thuật, nó có ý nghĩa chuyên biệt hơn đề cập đến các màn trình diễn theo mùa, hoặc sử dụng các nhân vật mô hình trong bối cảnh hoặc tái hiện được gọi là "sự giáng sinh sống động cảnh "(hoạt cảnh) trong đó con người và động vật thực tham gia. Các cảnh giáng sinh trưng bày các nhân vật đại diện cho sự giáng sinh của Chúa Giêsu, Đức Mẹ Maria và Thánh Giuse. Đối kháng Việc tổ chức lễ Giáng sinh từng bị chống đối trong một số trường hợp. Người Thanh giáo khi lên nắm quyền tại Anh và Bắc Mỹ vào giữa thế kỷ 17 đã cấm mừng lễ Giáng sinh, cũng như Nghị viện Scotland do người Trưởng lão phái nắm giữ đã ra luật cấm lễ Giáng sinh từ 1637 tới 1690. Gerry Bowler trong cuốn sách năm 2016 Christmas in the Crosshairs: Two Thousand Years of Denouncing and Defending the World's Most Celebrated Holiday (Giáng Sinh trong tầm ngắm: Hai nghìn năm bài trừ và bảo vệ dịp lễ trọng thể nhất thế giới) viết rằng từng có những 'cuộc chiến' chống lễ Giáng Sinh qua nhiều thế kỷ, và các chế độ toàn trị đều bài xích hoặc cố biến lễ Giáng Sinh thành một thứ lễ hội phục vụ chính trị: Cụ thể là Gerry Bowler cho hay khi những người Bolshevik lên nắm quyền tại Nga, Lenin đã ra lệnh cho công an mật bắn chết ai dám bỏ ngày đi làm để ở nhà mừng lễ Giáng Sinh. Sau đó, hình ảnh Stalin được xây dựng tương tự ông già Giáng Sinh: một cụ già đôn hậu, đem quà cho trẻ con. Chế độ phát-xít Đức tuy không cấm hẳn Giáng Sinh nhưng thay đổi lời bài hát về lễ này để ca ngợi Hitler. Các nhà nước vô thần như Liên Xô, Trung Quốc, và một số nước đa số theo Hồi giáo như Somalia, Tajikistan và Brunei cũng cấm lễ Giáng sinh. Xem thêm Mùa Vọng và Mùa Giáng sinh :Thể loại:Nhạc Giáng sinh :Thể loại:Phim Giáng sinh Chợ Giáng sinh Bánh khúc cây Món quà Giáng sinh, truyện ngắn của O. Henry Hưu chiến lễ Giáng Sinh Nhà thờ Giáng sinh Bữa tối Giáng sinh Lễ Phục Sinh: một lễ quan trọng khác của người Kitô giáo Chú thích Ghi chú Nguồn Liên kết ngoài "O Holy Night", sung by the Choir of King's College, Đại học Cambridge {100 Years of Nine Lessons & Carols} Ngày lễ mùa đông Ngày lễ Ngày lễ và Ngày Hành động trong tháng Mười Hai Lễ Kitô giáo Văn hóa phương Tây
28466
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C6%B0%E1%BB%9Dng%20Trung%20h%E1%BB%8Dc%20ph%E1%BB%95%20th%C3%B4ng%20Chu%20V%C4%83n%20An%2C%20H%C3%A0%20N%E1%BB%99i
Trường Trung học phổ thông Chu Văn An, Hà Nội
Trường Trung học phổ thông Quốc gia Chu Văn An (còn được gọi là Trường Chu Văn An, Trường Bưởi, Trường Chu hay trước đây là Trường PTTH Chuyên ban Chu Văn An) là một trường trung học phổ thông công lập ở Hà Nội. Được thành lập từ năm 1908, cho đến nay Chu Văn An là một trong những trường phổ thông được cho là lâu đời và giàu truyền thống nhất của nền giáo dục Việt Nam. Được người Pháp thành lập với tên chính thức Lycée du Protectorat (Trường Trung học Bảo hộ) thường được gọi với tên tiếng Việt là Trường Bưởi. Năm 1945, trường được đổi tên thành Quốc lập Trung học hiệu Chu Văn An dưới thời Chính phủ Trần Trọng Kim (tháng 4 năm 1945) và giữ cái tên này từ đó cho tới nay. Cơ sở của trường ban đầu được đặt tại làng Thụy Khuê (nay là phường Thụy Khuê) bên cạnh hồ Tây, sau một thời gian phải sơ tán đi nhiều nơi do hoàn cảnh chiến tranh, trường chuyển về địa điểm cũ từ năm 1955 và cố định ở đó đến hiện tại. Lịch sử Giai đoạn 1908 - 1945 Ngày 9 tháng 12 năm 1908, Toàn quyền Đông Dương Klobukowski ra quyết định thành lập Collège du Protectorat (Trường Thành chung Bảo hộ - tương đương trường cấp II hiện nay) trên cơ sở sáp nhập Trường Thông ngôn Bờ sông, Trường trung học Jules Ferry Nam Định và lớp Sư phạm (Cours normal) phố Pottier (nay là phố Bảo Khánh). Năm 1931, trường được nâng cấp thành một lycée (tương đương cấp trung học phổ thông hiện nay) - Lycée du Protectorat (Trường Trung học Bảo hộ). Tuy nhiên do trường được xây dựng trên đất làng Thụy Khuê (thời Hậu Lê là nơi đặt điện Thụy Chương) ở vùng Kẻ Bưởi, ven hồ Tây nên người dân vẫn gọi là trường Bưởi. Trường Bưởi được cho là cái tên mà các học sinh có tinh thần phản kháng lại người Pháp dùng khi đề cập đến trường nhằm không gọi cái tên chính thức người Pháp đặt. Cuối năm 1943 do Chiến tranh thế giới thứ hai lan rộng, trường phải sơ tán một phần về Tu chủng viện Phúc Nhạc (Ninh Bình) và phần còn lại vào Thanh Hóa, mãi đến giữa năm 1945 mới quay lại Hà Nội. Tuy vậy số lượng học sinh của trường vẫn tăng đều trong khoảng thời gian từ 1937 (190 học sinh) đến 1944 (424 học sinh). Sau khi Nhật đảo chính Pháp, ngày 12 tháng 6 năm 1945, Khâm sai Bắc Bộ Phan Kế Toại ra quyết định đổi tên trường thành Quốc lập Trung học hiệu Chu Văn An - lấy theo tên vị danh sư Chu Văn An dưới thời nhà Trần và cử giáo sư Nguyễn Gia Tường làm hiệu trưởng, đây là hiệu trưởng người Việt đầu tiên của trường Bưởi - Chu Văn An. Tên Trường Chu Văn An được giữ từ ngày đó đến nay, dù có lúc phải sơ tán, phải chia đôi trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất. Sau khi ra lệnh đóng cửa trường Đông Kinh Nghĩa Thục năm 1907, người Pháp mở trường Trung học Bảo hộ theo mô hình giáo dục Pháp với mục đích đào tạo công chức trung-cao cấp người Việt cho bộ máy cai trị, nhưng cả Bắc Kỳ khi đó chỉ có trường Bưởi là lycée dành cho học sinh người Việt vì lycée Albert Sarraut là của học sinh Pháp, họ lấy rất ít học sinh Việt (đây cũng là đối thủ chính của trường Bưởi trong thời gian này cả về thành tích học tập lẫn thể thao,) và mãi sau mới thêm mấy trường trung học nữa ở Hải Phòng, Nam Định,... Vì vậy nơi đây đã là cái nôi của lớp trí thức trẻ người Việt, một năm trường tuyển ở cả Bắc Kỳ đúng 120 chỉ tiêu (và tỉ lệ học sinh của toàn Bắc Kỳ khi đó cũng thấp nhất nước, khoảng 1 học sinh/10.000 người dân,) đậu vào trường Bưởi trong thời gian này được gọi là cả một tự hào lớn lao, học trò ra trường đi vào khắp các ngành kinh tế - văn hóa, những người đại diện phần đông là xuất sắc. Không chỉ có học sinh người Việt, trường Bưởi còn là nơi học tập của một số học sinh Lào và Campuchia trong đó phải kể tới Souphanouvong và Kaysone Phomvihane. Học phí thời gian này chừng 4 đồng Đông Dương một tháng, nên vấn đề giành học bổng để học tập là một vấn đề rất quan trọng. Tuy nhà cầm quyền Pháp lúc bấy giờ không đề ra mục tiêu giáo dục tinh thần dân tộc, các học sinh trong trường đã thông qua những hành động cụ thể đi ngược lại chủ trương ban đầu đó. Họ tổ chức bãi khóa đòi ân xá nhà yêu nước Phan Bội Châu hay để tang Phan Chu Trinh, hưởng ứng phong trào Việt Minh, tham gia vào các nhóm luyện võ cổ truyền và truyền nhau các lời chào hỏi yêu nước học được từ thầy dạy võ của mình, cũng như xung đột với các cộng tác viên trường Albert Sarraut vốn học dành cho tầng lớp thượng lưu... Một số học sinh đã sớm tham gia các phong trào độc lập dân tộc như Ngô Gia Tự, Nguyễn Văn Cừ, Phạm Văn Đồng. Giai đoạn 1945 - 1954 Sau Cách mạng tháng Tám trường phải học tạm ở thị xã Hà Đông vì trường phải dùng làm nơi đóng quân của quân đội Tưởng Giới Thạch. Đến đầu năm 1946, trường chuyển về Việt Nam Học xá (tức Đông Dương Học xá trước đó, nay là Đại học Bách khoa Hà Nội). Sau kỳ nghỉ hè 1946, trường lại chuyển về một trường trung học nữ Pháp (bây giờ là Tòa nhà Bộ Tư pháp). Khi Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất bùng nổ, trường Chu Văn An được chia làm hai phân hiệu, một phân hiệu chuyển về vùng kháng chiến Đào Giã - Phú Thọ do thầy giáo Trần Văn Khang làm hiệu trưởng, phân hiệu thứ hai ở lại Hà Nội. Trong những năm Hà Nội bị tạm chiến, nhà trường bị binh đoàn xe tăng Pháp chiếm đóng, nên thầy và trò phải tạm trú tại trường nữ sinh Đồng Khánh (nay là trường Trưng Vương) ở phố Hàng Bài, sau lên Cửa Bắc chung với trường Sư phạm Đỗ Hữu Vị cũ (nay là trường Phan Đình Phùng). Sau ngày giải phóng Thủ đô tháng 10 năm 1954, trường Chu Văn An mới lại trở về địa điểm ban đầu cạnh hồ Tây. Trong 9 năm chiến tranh, rất nhiều học sinh Chu Văn An đã gia nhập tự vệ và bộ đội Việt Minh. Nhiều người sau đó trở thành cán bộ cao cấp của chính quyền như Nguyễn Xiển, Phan Anh,... Một số sau này trở thành tướng lĩnh như Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp, Thiếu tướng Nguyễn Đôn Tự... Giai đoạn 1954 - 1986 Vào thập niên 1950 vì thiếu giảng viên, do sau Hiệp định Genève 1954, một số các giáo viên học sinh di cư vào miền Nam Việt Nam, chính phủ có yêu cầu Pháp cung cấp một số giáo sư như ông bà Gérard Tongas sang thỉnh giáo ở trường Chu Văn An. Trong giai đoạn chiến tranh Việt Nam, vì Không quân Mỹ đánh phá Hà Nội, trường lại phải sơ tán đi nơi khác một lần nữa, lần này là về Khoái Châu (Hưng Yên). Rất nhiều con em cán bộ tập kết miền Nam cũng đã học tập tại trường. Nhiều học sinh Chu Văn An sau đó đã cầm súng chiến đấu ở chiến trường miền Nam, nhiều người đã trở thành liệt sĩ và được phong Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân như liệt sĩ - bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm, liệt sĩ Nguyễn Văn Chư (học sinh miền Nam, được truy tặng danh hiệu Anh hùng). Nhiều học sinh và cả giáo viên của trường đã tham gia chiến đấu trong các binh chủng không quân, phòng không chống lại các cuộc không kích của Không quân Hoa Kỳ, trong đó có những người được phong anh hùng như Nguyễn Tiến Sâm, Vũ Xuân Thiều. Cho đến trước năm 1986, trường Chu Văn An là trường có lớp chuyên Toán duy nhất của Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội, nơi đã đào tạo nhiều thế hệ học sinh chuyên Toán giành thành tích cao trong các cuộc thi Học sinh giỏi Quốc gia, các kì thi Olympic Toán Quốc tế và sau đó đã thành công trên nhiều lĩnh vực, tiêu biểu như GS-TSKH Nguyễn Hữu Việt Hưng, chủ nhiệm bộ môn Đại số tuyến tính trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội, PGS-TS Trương Gia Bình, tổng giám đốc công ty FPT, PGS-TS Đào Tiến Khoa, giám đốc Trung tâm tính toán cơ bản, Viện Khoa học và Kỹ thuật hạt nhân. Từ năm 1986 đến nay Từ năm 1986, các giáo viên và học sinh nòng cốt của trường được Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội cử sang xây dựng trường chuyên mới của Hà Nội, trường Trung học phổ thông chuyên Hà Nội - Amsterdam. Do đó, Chu Văn An mất vị trí dẫn đầu về chất lượng giáo dục ở Hà Nội. Từ năm 1970 đến năm 1993, trường cấp III Chu Văn An chia sẻ cơ sở vật chất với trường cấp III Ba Đình theo hình thức một trường buổi sáng, một trường buổi chiều, hai trường hợp nhất làm một từ tháng 1 năm 1993. Ngày 17 tháng 2 năm 1995, Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã ra quyết định xây dựng trường Chu Văn An trở thành một trong 3 trường trung học phổ thông trọng điểm quốc gia của Việt Nam. Cùng với trường Quốc học Huế và trường chuyên Lê Hồng Phong Thành phố Hồ Chí Minh, trường Chu Văn An bước sang một giai đoạn mới, giai đoạn đầu tư cơ sở mạnh mẽ cơ sở vật chất và đội ngũ giáo viên, tiến tới kỉ niệm 100 năm ngày thành lập. Ngày 6 tháng 11 năm 2004, trường Chu Văn An đã được nhận bằng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia Việt Nam. Lễ kỉ niệm 100 thành lập trường được tổ chức vào hai ngày 16 và 17 tháng 5 năm 2008. Danh sách hiệu trưởng Đào tạo Cơ cấu tổ chức Trường được tổ chức với mô hình ban giám hiệu điều hành và quản lý chung với hiệu trưởng là Nguyễn Thị Nhiếp và 2 hiệu phó là cô Trần Thị Tuyến và thầy Lê Đại Hải (được bổ nhiệm từ năm học 2020-2021). Công tác giáo dục được phân chia thành 15 bộ môn riêng biệt: Công nghệ, Giáo dục công dân, Giáo dục quốc phòng, Hóa học, Lịch sử, Văn học, Sinh học, Thể dục, Tiếng Anh, Tiếng Nhật, Tiếng Pháp, Tin học, Toán học, Vật lí, Địa lí và khối Song bằng. Ngoài ra còn các phòng ban thực hiện công tác phục vụ vận hành trường gồm: Văn thư, Thí nghiệm, Thư viện, Bảo vệ, Quản trị, Lao công và Y tế. Hệ thống lớp học Tính cho đến niên khóa 2007 - 2010 Chu Văn An có khoảng trên 2.000 học sinh thuộc 3 khối 10, 11 và 12. Hệ thống lớp học của trường Chu Văn An bao gồm có 11 lớp chuyên: Toán, Lý, Hóa, Tin, Văn, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nhật, Địa, Sử và Sinh. Đây là các lớp được dạy tăng cường (số tiết, khối lượng kiến thức nhiều hơn so với các lớp còn lại) các môn chuyên tương ứng. Học sinh của các lớp chuyên hàng năm có thể tham gia các kì thi học sinh giỏi cấp trường và thành phố. Ngoài ra, trường còn có 1 lớp song ngữ tiếng Pháp (F): đây là lớp thuộc hệ thống lớp song ngữ do Tổ chức Đại học Pháp ngữ (AUF) tài trợ và đào tạo, học sinh sẽ được dạy các môn chính khóa song song tiếng Pháp và tiếng Việt. Đôi khi lớp này được chia đôi sĩ số thành hai lớp F1 và F2. Ngoài các lớp chuyên trên, trường Chu Văn An còn có 7 lớp đào tạo chất lượng cao (từ A1 đến A7). Các lớp hệ B đã được bãi bỏ. Từ niên khóa 2007 - 2010 Chu Văn An là trường trung học phổ thông đầu tiên tại Hà Nội mở lớp tiếng Nhật, đây là đề án hợp tác của Bộ Giáo dục Việt Nam và Đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam. Trong thời gian Bộ Giáo dục còn sử dụng hệ thống giáo dục phân ban (ban Tự nhiên - ban Xã hội) thì hệ thống lớp không chuyên của Chu Văn An được chia thành các lớp A (ban Tự nhiên - ban A) và các lớp C (ban Xã hội - ban C). Trong niên khóa 2009 - 2012, nhà trường bắt đầu triển khai hệ thống lớp học mới, chia các lớp thành hai nhóm lớp chuyên và không chuyên. Nhóm lớp chuyên có các lớp: Toán, Tin, Nhật, Anh, Văn, Sử, Địa, Pháp 1, Pháp 2 (tăng cường), Lý (từ khóa 2011 - 2014), Hóa (từ khóa 2011 - 2014), Sinh (từ khóa 2011 - 2014). Nhóm lớp không chuyên có các lớp: A1, A2 theo định hướng khối A và D1, D2, D3 theo định hướng khối D. Từ niên khóa 2017 - 2018, trường THPT Chu Văn An là trường công lập đầu tiên thí điểm đào tạo chương trình song bằng tú tài. Kết quả đào tạo Với tỷ lệ đỗ tốt nghiệp của học sinh thường xấp xỉ 100%, tỷ lệ đỗ đại học trên 70%, trường Chu Văn An được coi là cơ sở đào tạo cấp phổ thông trung học có chất lượng cao ở Hà Nội và Việt Nam. Cụ thể niên khóa 2006 - 2007 học sinh Chu Văn An có tỷ lệ đỗ tốt nghiệp đạt 99,1% (40,59% đỗ loại khá giỏi), tỷ lệ đỗ đại học đạt 78% với điểm thi trung bình 18,77 (xếp thứ 24 toàn quốc). Trước năm 1986 do là trường duy nhất có lớp chuyên Toán của thành phố Hà Nội nên học sinh Chu Văn An luôn có thành tích tốt trong các kì thi học sinh giỏi quốc gia và quốc tế. Trong các kì thi Olympic Toán Quốc tế, học sinh Chu Văn An đã đạt được 6 huy chương, trong đó có 2 huy chương bạc và 4 huy chương đồng. Từ năm 1986, với việc Sở Giáo dục Hà Nội rút đội ngũ giáo viên và học sinh nòng cốt để thành lập trường chuyên mới Hà Nội - Amsterdam, trường Chu Văn An không còn là trường dẫn đầu về thành tích đào tạo ở Hà Nội. Vinh danh Do thành tích dạy và học, trường đã được Nhà nước Việt Nam trao tặng: Huân chương Lao động hạng ba (năm 1964) Huân chương Lao động hạng nhì (năm 1992) Huân chương Độc lập hạng nhất (năm 1998) Danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới (năm 2013) Cơ sở vật chất Chu Văn An có cơ sở vật chất pha trộn giữa phong cách kiến trúc của các nhà học kiểu Pháp đã gần 100 năm tuổi với các công trình mới được xây dựng trong thời gian gần đây nằm trong dự án xây dựng trường điểm quốc gia của chính phủ. Hệ thống nhà học gồm 3 dãy nhà 3 tầng là nhà A, B và E, 2 dãy nhà 1 tầng là nhà C và D đã được xây dựng từ thời Pháp và liên tục được cải tạo trên cơ sở giữ nguyên những nét kiến trúc cổ và tạo điều kiện học tập tốt nhất cho học sinh. Phục vụ cho công tác thực hành thực nghiệm, trường có một nhà học thực nghiệm (nhà T) gồm phòng đa phương tiện (multimedia), phòng đựng giáo cụ trực quan và đồ thí nghiệm, phòng thí nghiệm, một nhà Hội đồng sư phạm (nhà S) gồm phòng Hội đồng các phòng học tiếng và tin học. Về mảng tự học và ngoại khóa của học sinh, trường có một thư viện , phòng truyền thống, một hội trường hiện đại với 200 chỗ ngồi tên là Hội trường Thăng Long, khu nhà thi đấu và các khu luyện tập thể chất ngoài trời, một sân bóng đá, một sân bóng rổ, và vườn trường. Ngoài ra trường còn có ký túc xá dành cho các học sinh ở xa và 3 căng tin: hai căng tin mới ở nhà K (ký túc xá) và căng tin cũ cạnh nhà I (nhà tập). Sân vận động của trường từ 3 sân đất đã được tu sửa trở thành 3 sân cỏ nhân tạo và 1 sân quần vợt, 1 sân bóng rổ. Sân cỏ sau nhà A cũng được xây thành sân bê tông dành cho môn bóng rổ. Toà nhà cổ kính và đẹp nhất của trường là khu thư viện hay được gọi với cái tên Nhà Bát Giác, được xây dựng từ năm 1898. Ban đầu tòa nhà có tên Biệt thự Schneider (La villa Schneider) lấy theo tên người chủ căn biệt thự, một ông chủ xưởng giấy người Pháp tên là Henri Schneider. Sau đó tòa nhà được dùng làm nơi ở của Hiệu trưởng người Pháp của trường Trung học Bảo hộ. Năm 1999, với sự giúp đỡ tài chính của vùng Île-de-France (Pháp), tòa nhà đã được tu sửa và hiện được dùng làm thư viện của trường. Ngày nay phòng đọc đã được di chuyển xuống tầng hầm, các tầng còn lại được sử dụng làm phòng hiệu trưởng, phòng học đàn và phòng vi tính. Phòng truyền thống của trường vốn ở nhà Bát Giác đã được chuyển tới tòa nhà nằm sau khu Hội trường Thăng Long. Đây nguyên là nơi ở của ông hiệu phó trường trung học bảo hộ mới được xây dựng lại năm 2006. Ngày 19 tháng 1 năm 2007, trường đã khánh thành bức tượng Danh sư Chu Văn An, một trong các công trình chuẩn bị cho lễ kỉ niệm 100 năm trường Bưởi - Chu Văn An. Ngày 5 tháng 9 năm 2019, trong khuôn khổ lễ khai giảng năm học 2019-2020, trường đã khánh thành bức tượng liệt sĩ Đặng Thùy Trâm. Trong văn hóa đại chúng Với khung cảnh cổ kính nên thơ, trường Chu Văn An đã được chọn làm bối cảnh cho bộ phim 12A và 4H của đạo diễn Bùi Thạc Chuyên. Nguyên một lớp học đã được chọn làm diễn viên phụ cho bộ phim. Ngôi trường cũng là bối cảnh cho mối tình tuổi học trò của hai nhân vật chính Kiên và Phương trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh. Giáo viên và cựu học sinh nổi tiếng Với truyền thống lâu đời của mình, trường Bưởi – Chu Văn An đã là nơi học tập và giảng dạy của rất nhiều danh nhân trên mọi lĩnh vực của Việt Nam. Dưới đây là một số giáo viên và cựu học sinh nổi tiếng của trường Bưởi – Chu Văn An. Giáo viên Nguyễn Lân, nhà nghiên cứu, nhà giáo nhân dân, Giải thưởng nhà nước đợt I. Nguyễn Phan Chánh, họa sĩ tranh lụa, Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I. Dương Quảng Hàm (1920 - 1946), giáo sư, liệt sĩ, nhà nghiên cứu văn học, nhà giáo dục. Hoàng Xuân Hãn (học sinh khóa 1926, giảng dạy từ năm 1936 đến năm 1939), học giả, người soạn thảo Chương trình giáo dục phổ thông đầu tiên của nước Việt Nam dưới thời chính phủ Trần Trọng Kim, Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt II. Nguyễn Văn Huyên (1935 – 1938), nhà nghiên cứu văn hóa, Bộ trưởng Bộ Giáo dục nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt II. Nguỵ Như Kon Tum, (1941 – 1945) nhà vật lý, hiệu trưởng đầu tiên của Đại học Tổng hợp Hà Nội, nhà giáo nhân dân. Nguyễn Mạnh Tường, luật sư, tiến sĩ, nhà nghiên cứu. Nguyễn Xiển, (học sinh khóa 1925, giảng dạy từ năm 1935 đến năm 1937) nhà khí tượng học, Tổng Thư ký Đảng Xã hội Việt Nam. Học sinh Nhân vật cách mạng, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Việt Nam Phan Anh, luật sư, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nguyễn Văn Cừ (khóa 1928), Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương. Trịnh Đình Cửu, một trong những người tham gia thành lập chi bộ cộng sản đầu tiên ở Việt Nam. Nguyễn Khoa Điềm, nhà thơ, bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin Việt Nam, Trưởng ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương, Giải thưởng Nhà nước. Phạm Văn Đồng, (khóa 1924), Thủ tướng Việt Nam. Dương Đức Hiền, tổng bí thư đầu tiên của Đảng Dân chủ Việt Nam. Đặng Vũ Hiệp (khóa 1941), thượng tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Kaysone Phomvihane, Tổng Bí thư Đảng Nhân dân Cách mạng Lào. Souphanouvong, hoàng thân, Chủ tịch nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Lê Trọng Tấn, đại tướng, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Nguyễn Cơ Thạch, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Vũ Xuân Thiều, liệt sĩ – phi công Không quân Nhân dân Việt Nam, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Nguyễn Tiến Sâm, phi công Không quân Nhân dân Việt Nam, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Thứ trưởng Bộ Giao thông – Vận tải. Ngô Gia Tự (khóa 1922), bí thư lâm thời của Xứ ủy Nam Kỳ. Lê Văn Luơng, trưởng ban tổ chức trung uơng, bí thư thành ủy Hà Nội. Tạ Quang Bửu (khóa 1926), nhà toán học, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nguyễn Văn Chiển (khóa 1934), giáo sư, nhà giáo nhân dân, nhà địa chất học, tổng biên tập Tập bản đồ (Atlas) Việt Nam, Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt III. Bùi Huy Đáp (khóa 1931), giáo sư, nhà nông học, Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I. Đỗ Xuân Hợp, nhà giải phẫu học, Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I. Nguyễn Đình Ngọc, thiếu tướng Công an Nhân dân Việt Nam, nhà tình báo, Phó Chủ tịch Hội Vô tuyến Điện tử Việt Nam. Dương Trung Quốc, nhà sử học, Tổng Thư ký Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, đại biểu Quốc hội. Trần Đức Thảo, nhà triết học, Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt II. Lê Văn Lan, giáo sư Sử học, đồng sáng lập Viện Lịch sử Việt Nam. Lê Văn Thiêm (khóa 1936), nhà toán học, viện trưởng đầu tiên của Viện Toán học, Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I. Tôn Thất Tùng, nhà giải phẫu học, giám đốc Bệnh viện Phủ Doãn, Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I. Nguyễn Khắc Viện (khóa 1932), bác sĩ, nhà văn hóa, Giải thưởng Nhà nước đợt I. Ngô Xuân Diệu (Xuân Diệu) (khóa 1933), nhà thơ, Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I. Phạm Đình Chương (Hoài Bắc), nhạc sĩ tiêu biểu của nền Tân nhạc Việt Nam. Hồ Trọng Hiếu (Tú Mỡ) (khóa 1915), nhà thơ, Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt II. Nguyễn Công Hoan (khóa 1920), nhà văn, Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I. Nam Trân (khóa 1924), nhà thơ, dịch giả, nhà văn, nhà cách mạng. Vũ Khắc Khoan, nhà văn, nhà viết kịch Nguyễn Hiến Lê (khóa 1926), soạn giả, dịch giả. Dương Bích Liên, họa sĩ, một trong bộ tứ Sáng - Nghiêm - Liên - Phái. Vũ Đình Liên (khóa 1930), nhà thơ, tác giả bài thơ Ông đồ, nhà giáo nhân dân. Vương Trí Nhàn (khóa 1958), nhà phê bình văn học, soạn giả. Võ An Ninh, nhiếp ảnh gia, Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I. Hoàng Ngọc Phách (khóa 1914), nhà văn, tác giả tiểu thuyết Tố tâm. Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh), nhà văn, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao trong Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nguyễn Đình Thi (khóa 1941), nhà thơ, nhà văn, nhạc sĩ, Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam, Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I. Trần Tiến, diễn viên kịch nói, nghệ sĩ nhân dân. Thanh Tùng, nhạc sĩ nhạc trẻ. Tô Ngọc Vân, họa sĩ, một trong bộ tứ Trí – Vân – Lân – Cẩn. Hoài Thanh, nhà phê bình văn học, tác giả của Thi nhân Việt Nam. Trương Gia Bình (khóa 1971), sáng lập viên, chủ tịch hội đồng quản trị công ty FPT. Bùi Quang Ngọc (khóa 1970), sáng lập viên, Tổng Giám đốc công ty FPT. Hoàng Đạo Thuý, nhà cách mạng, lãnh tụ phong trào Hướng đạo Việt Nam. Đặng Thuỳ Trâm (khóa 1958), bác sĩ, liệt sĩ, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, tác giả Nhật ký Đặng Thùy Trâm. Nhân vật Việt Nam Cộng hòa Bùi Văn Bảo (khóa 1940), nhà giáo, soạn giả. Nguyễn Cao Kỳ (khóa 1949 – 1950), Thủ tướng và Phó Tổng thống của Việt Nam Cộng hòa Vương Văn Bắc, luật sư, Tổng trưởng Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa Chú thích Tham khảo Liên kết ngoài Trang web chính thức của trường Chu Văn An Chu Văn An Công trình kiến trúc Pháp tại Hà Nội Trường trung học tại Hà Nội Khởi đầu năm 1908 ở Việt Nam
28470
https://vi.wikipedia.org/wiki/Helmut%20Jahn
Helmut Jahn
Helmut Jahn (sinh 4 tháng 1 năm 1940, tại Nürnberg, Đức) là một kiến trúc sư theo trường phái Kiến trúc-Công nghệ (Archi-neering). Ông tác giả của hàng chục công trình lớn trên thế giới. Trong số các tác phẩm nổi tiếng của ông có thể kể đến như Trung tâm Sony ở Berlin, Trung tâm James R. Thompson ở Chicago, Illinois. Ông theo học kiến trúc tại Đại học Kỹ thuật München từ năm 1960 đến 1965, sau đó ông làm việc với Peter C. von Seidlein trong thời gian 1 năm. Năm 1966 ông di cư tới Chicago để tiếp tục theo học cao hơn tại Học viện Kỹ thuật Illinois. Tại đây, ông là học trò của Ludwig Mies van der Rohe qua đó ông đã học được ngôn ngữ và thủ pháp của Kiến trúc Hiện đại. Năm 1967, ông gia nhập hãng thiết kế Murphy và cộng sự. Năm 1973 ông trở thành Phó giám đốc và Kiến trúc sư trưởng phụ trách thiết kế và quy hoạch của hãng. Năm 1981, hãng được đổi tên thành Murphy/Jahn mặc dù Charles Murphy mất năm 1985. Hiện nay Jahn điều hành hãng thiết kế Murphy/Jahn và cộng sự. Các công trình Đấu trường Kemper - 1974 Khu điền kinh trường trung học Saint Mary - 1977 (hình ảnh) State of Illinois Center - Xây dựng từ 1979 đến 1985; tổng trị giá 173 triệu đô la, (hình ảnh ) Trung tâm First Source (hình ảnh) Sân ga số 1, phòng chờ B và C tại Sân bay quốc tê O'Hare - xây dựng từ năm 1985 đến 1988 (có nguồn tin nói rằng công trình được hoàn thành năm 1992), tổng trị giá 200 đô la Mỹ Trung tâm Sony, Berlin - 2000. Gồm 7 tòa nhà, sử dụng phức hợp, trị giá 800 triệu đô la Mỹ Làng State Street tại Học viện Kỹ thuật Illinois (IIT), Chicago - 2003. Ký túc xá cho sinh viên tại Học viện Kỹ thuật Illinois, dựa trên bản quy hoạch tổng thể nổi tiếng của Ludwig Mies van der Rohe Bayer-Headquarters Leverkusen, Germany 2000 - 2002 Giải thưởng 1991 - "Một trong mười kiến trúc sư còn sống ảnh hưởng nhất của nước Mỹ" của Hiệp hội kiến trúc sư Mỹ 1993 - "Thành tựu nổi bật" giải thưởng cho kiến trúc của Học viện Nghệ thuật Illinois 1994 - "Bundesverdienstkreuz Erster Klasse" của chính phủ Đức 2002 - Giải thưởng danh dự của Hiệp hội kiến trúc sư Mỹ cho Trung tâm Sony ở thủ đô Berlin Tham khảo Liên kết ngoài Murphy/Jahn Trang chính thức The New Modernism of Helmut Jahn Credits - Các công trình kiến trúc của Helmut Jahn Tiểu sử từ IIT Jahn, Helmut Jahn, Helmut Jahn, Helmut Jahn, Helmut Người Mỹ gốc Đức Sinh năm 1940 Nhân vật còn sống
28471
https://vi.wikipedia.org/wiki/Santiago%20Calatrava
Santiago Calatrava
Santiago Calatrava (sinh ngày 28 tháng 7 năm 1951) là một kiến trúc sư người Tây Ban Nha nổi tiếng trên toàn thế giới vì chất thơ, vẻ đẹp hữu cơ giàu tính điêu khắc của kết cấu kiến trúc. Ông đã nhận được Huy chương vàng AIA. Tham khảo Kiến trúc sư Tây Ban Nha Kỹ sư Tây Ban Nha Người Valencia Nhân vật còn sống Sinh năm 1951
28515
https://vi.wikipedia.org/wiki/William%20Herschel
William Herschel
Frederick William Herschel, KH, FRS, (tiếng Đức: Friedrich Wilhelm Herschel; 15 tháng 11 năm 1738 – 25 tháng 8 năm 1822) là nhà thiên văn học người Anh gốc Đức, chuyên gia về kỹ thuật, và nhà soạn nhạc. Sinh ở Hanover, Wilhelm theo cha gia nhập vào quân đội của Hannover, nhưng sau đó nhập cư vào Anh ở tuổi 19. Herschel nổi tiếng nhờ phát hiện ra hành tinh Thiên Vương Tinh cùng hai vệ tinh lớn của nó, Titania và Oberon. Ông cũng phát hiện ra hai vệ tinh của Sao Thổ và bức xạ hồng ngoại. Ngoài sở thích thiên văn học, Herschel cũng thích âm nhạc với khoảng 24 bản giao hưởng do ông sáng tác nhưng ít được biết đến. Cuộc đời W.Herschel sinh tại Hannover, nước Đức. Bố ông là Issak Herschel (1707 - 1767) là nhạc sĩ của trung đoàn Lính Cận vệ phục vụ Tuyển hầu tước xứ Hannover, mẹ ông là Anna Ilse. W. Herchel từng là nhạc công trong bạn nhạc của bố, ông thích chơi kèn Ô-boa. Cuối năm 1759, ông đến Anh. Sau một thời gian học nhạc ở đây, ông trở thành nhạc công chơi đàn Halifax vào năm 1769 và trở thành người chỉ huy một dàn nhạc ở Bath vào năm 1766. Vào năm 1772, W.Herschel đã đưa gia đình mình đến sóng tại Bath. Vào tháng 5 năm 1773, ông mua được cuốn sách Astronomy của Ferguson. Nhờ cuốn sách này ông cảm thấy hứng thú với khoa học và đặc biệt là thiên văn. Từ năm 1774, ông đã có đầy đủ kỹ năng để chế tạo các loại kính thiên văn với các thấu kích xạ tuyệt hảo hơn bất kì cái nào được sản xuất trước đó. Cũng kể từ đây ông bắt đầu quan sát các thiên thể trên bầu trời. Sự nghiệp Phát hiện Thiên Vương Tinh Ngày 13 tháng 3 năm 1781, trên kính viễn vọng nhỏ của mình W.Herschel phát hiện một thiên thế lạ chuyển động ngược chiều với các vật thể khác, ban đầu ông nghĩ nó là sao chổi, nhưng sau khi tính toán và xem xét kĩ ông mới xác định đó là một hành tinh mới - Thiên Vương tinh. Kể từ đây hành tinh ngoài cùng hệ Mặt Trời không còn là Thổ Tinh nữa mà là Thiên Vương tinh. Nhờ đó ông được bầu là thành viên của Hội Hoàng Gia Anh và được nhận giải thưởng hằng năm của Vua nước Anh và ông còn được vua George III phong là nhà Thiên văn của triều đình. Quan sát các tinh vân và quần sao Từ tháng 8 năm 1782, ông bắt đầu quan sát các tinh vân và vì sao trên kính viễn vọng phản xạ có độ dài tiêu cự là 20 phút của mình. Ngày 28 tháng 10 năm 1783, ông phát hiện một thiên hà nhỏ dễ phân biệt trong chòm sao Bảo Bình (Aquarius) có cấp sao là 11,2 và được ký hiệu là NGC 7184. Năm 1802, W.Herschel lập xong một danh mục sao với hơn 2500 tinh vân và các quần sao mới. Cuối năm 1783, ông công bố các kết quả nghiên cứu của mình về sự chuyển động riêng của hệ Mặt Trời. Theo ông hệ Mặt Trời đang di chuyển giữa bầu trời sao về phía ngôi sao Lambda của chòm sao Vũ Tiên (Herculis), ông gọi hướng đó là điểm Apex. Tham khảo Liên kết ngoài William Herschel's Deep Sky Catalog The Story of the Herschels (1886) của Dự án Gutenberg Biography: JRASC 74 (1980) 134 Hình ảnh William Herschel tại National Portrait Gallery (United Kingdom) Bảo tàng William Herschel tại quê Bath của ông William Herschel Society Herschel, William Nhà thiên văn Anh Mất năm 1822 Nhà soạn nhạc Đức Sinh năm 1738 Hội viên Hội Hoàng gia Sao Thiên Vương Người Hannover Nghệ sĩ organ Đức Người Vương quốc Liên hiệp Anh thế kỷ 19 Người Đức thế kỷ 18 Người Đức thế kỷ 19 Nhà thiên văn Vương quốc Liên hiệp Anh Thành viên Học viện Mỹ thuật và Khoa học Mỹ Tướng Đức trong chiến tranh Bảy năm
28516
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BB%9D%20v%C3%A2y
Cờ vây
Cờ vây là một trò chơi dạng chiến lược trừu tượng cho hai người chơi, trong đó mục tiêu là bao vây nhiều lãnh thổ hơn đối thủ. Trò chơi được phát minh ở Trung Hoa thời cổ đại vào hơn 2.500 năm trước, và được coi là trò chơi bảng lâu đời nhất còn được tiếp tục chơi cho đến ngày hôm nay. Tính đến giữa năm 2008, có khoảng trên 40 triệu người chơi cờ vây trên toàn thế giới, một phần rất lớn người chơi sống tại khu vực Đông Á. , Liên đoàn cờ vây quốc tế đã có tổng cộng 75 quốc gia thành viên và bốn tổ chức hiệp hội thành viên ở các quốc gia khác nhau. Mặc dù các quy tắc chơi tương đối đơn giản, nhưng về mặt chiến thuật, cờ vây lại thiên biến vạn hóa vô cùng phức tạp, thậm chí độ phức tạp còn cao hơn cả cờ vua. Theo tính toán của các nhà khoa học, số ván cờ có thể có của cờ vua là nhiều hơn so với số nguyên tử trong phần vũ trụ quan sát được, và ở cờ vây thì nó thậm chí còn nhiều hơn. Cờ vây có cả một bàn cờ lớn hơn với nhiều phạm vi để chơi hơn và các ván đấu kéo dài hơn, và, tính trung bình, có rất nhiều lựa chọn thay thế để xem xét trong mỗi nước đi. Giới hạn dưới về số lượng vị trí nước đi hợp lệ trên bàn cờ trong cờ vây được ước tính là 2 x 10170. Cờ vây được coi là một trong tứ nghệ - bốn loại hình nghệ thuật thiết yếu của giai cấp quý tộc tri thức Trung Hoa được nuôi dạy trong thời cổ đại. Tài liệu ghi chép sớm nhất có nhắc đến trò chơi được công nhận nói chung là biên niên sử Tả truyện (khoảng thế kỷ IV TCN). Luật đơn giản Các quân cờ trong cờ vây có tên gọi khác là "quân cờ đá" (stone). Một kì thủ - người chơi cờ - cầm quân cờ trắng và người còn lại cầm quân cờ đen. Các kì thủ lần lượt đặt các quân cờ trên các nút giao còn trống ("nút" hay "điểm nút" - point) của một bàn cờ với một lưới các dòng kẻ kích thước 19×19 (mỗi bề là 18 ô vuông và 19 giao điểm - nút). Người mới chơi thường chơi với các bàn cờ kích thước nhỏ hơn như 9×9 và 13×13, và các bằng chứng khảo cổ học cho thấy trò chơi đã được chơi trong những thế kỷ trước trên bàn cờ có lưới 17×17. Tuy nhiên, bàn cờ lưới 19×19 đã trở thành tiêu chuẩn vào thời gian nó du nhập vào Triều Tiên vào thế kỷ V sau Công nguyên và sau đó là Nhật Bản vào thế kỷ VII của Công Nguyên. Mục tiêu của cờ vây—như nghĩa tên gọi của nó—là bao vây một tổng diện tích lớn hơn so với đối thủ. Sau khi được đặt trên bàn, quân cờ không thể di chuyển, nhưng một quân cờ sẽ được loại bỏ khỏi bàn cờ khi "bị bắt". Việc bắt quân xảy ra khi một hoặc một nhóm quân cờ bị bao vây bởi những quân cờ của đối thủ ở tất cả các điểm lân cận gần kề. Trò chơi sẽ diễn tiến cho đến khi cả hai người chơi đều không muốn thực hiện tiếp nước đi nào nữa; trò chơi không có điều kiện kết thúc nào khác ngoài điều này. Khi một ván đấu kết thúc, lãnh thổ được tính cùng với những quân cờ bị bắt và komi (số điểm thêm vào tổng điểm của người chơi cầm quân trắng để tạo một lợi thế bù đắp cho việc bắt đầu ván cờ sau người còn lại - cầm quân đen) để xác định người chiến thắng. Ván đấu cũng có thể được kết thúc ngay lập tức khi một bên chịu nhận thua. Từ nguyên Tên gọi "cờ vây" trong tiếng Việt, cũng như tên tiếng Nhật có nguồn gốc từ tên Trung Quốc vi kỳ (), được phỏng dịch là "trò chơi bàn cờ bao vây". Trong tiếng Anh, từ để chỉ "cờ vây" là "go", được mượn trực tiếp từ tên tiếng Nhật "igo", và để phân biệt từ chỉ trò chơi này với động từ to go - một động từ phổ biến trong tiếng Anh, tên trò chơi thường được viết hoa, hoặc, trong các sự kiện được tài trợ bởi Ing Foundation, được đọc là "goe". Từ 'baduk' () trong tiếng Hàn Quốc có nguồn gốc từ từ tiếng Triều Tiên Trung thế 'Badok', nguồn gốc của nó còn gây tranh cãi; những từ nguyên có tính hợp lý hơn bao gồm hậu tố '-ok' thêm vào 'Bad' tạo nên nghĩa 'bàn cờ phẳng và rộng', hoặc là ghép cụm 'Bad', nghĩa là 'vùng đất', và 'Dok', nghĩa là 'quân cờ bằng đá'. Những từ nguyên ít mang tính hợp lý hơn bao gồm từ gốc 'Badukdok', ám chỉ đến những quân cờ trong ván cờ, hoặc một từ gốc có nguồn gốc Trung Quốc là (bài tử), nghĩa là 'sắp xếp các quân cờ'. Tổng quan Cờ vây là một trò chơi đối đầu với mục tiêu bao vây một khu vực tổng quát lớn hơn trên bàn của một đấu thủ bằng các quân cờ so với đối phương. Khi trò chơi diễn tiến, các đấu thủ đặt các quần cờ trên bàn để định hình thế cờ và các lãnh thổ tiềm năng. Các giao tranh giữa các thế cờ đối địch thường cực kì phức tạp và có thể dẫn đến việc mở rộng, thu gọn hoặc bắt quân hàng loạt và tổn thất các quân cờ trong thế cờ. Một nguyên tắc cơ bản của cờ vây là một nhóm quân cờ phải có ít nhất một "điểm tự do" để được ở lại trên bàn cờ. Một "điểm tự do" (hay còn gọi là "khí") là một "điểm" (giao lộ) mang tính mở (không có quân cờ được đặt ở đó), nằm giáp với nhóm quân. Một (hoặc nhiều) điểm tự do được bao quanh bởi các quân cờ được gọi là một "điểm mắt", và một nhóm quân cờ có hai hoặc nhiều điểm mắt được quy ước một cách vô điều kiện là "sống" (không bị bắt quân). Những nhóm quân như vậy không thể bị bắt, ngay cả khi bị bao vây. Một nhóm quân chỉ có một điểm mắt hoặc không có điểm mắt nào được gọi là đã "chết" và không thể chống lại việc bắt quân cuối cùng. Chiến lược tổng quát của trò chơi là mở rộng lãnh thổ của một đấu thủ, tấn công các nhóm quân yếu của đối phương (các nhóm có thể bị giết), và luôn lưu tâm đến "trạng thái sống" của các nhóm quân của bản thân mình. Các điểm tự do của các nhóm đều có thể đếm được. Các tình huống mà các nhóm quân đối địch phải bắt lẫn nhau hoặc phải chết được gọi là các cuộc "đua khí", hoặc semeai. Trong một cuộc đua khí, nhóm có nhiều điểm tự do hơn (và/hoặc có "hình cờ tốt hơn") cuối cùng sẽ có thể bắt được các quân cờ của đối phương. Những cuộc đua khí và các yếu tố sống và chết là những thách thức chính của cờ vây. Một người chơi có thể bỏ lượt dựa trên việc xác định rằng ván cờ này không còn có cơ hội đi được nước cờ nào để giành lợi thế về bản thân. Ván cờ kết thúc khi cả hai người chơi đều bỏ lượt, và sau đó được tính điểm. Đối với mỗi người chơi, số lượng quân cờ bị bắt được trừ vào số điểm kiểm soát (bao quanh) được trong các "điểm tự do" hoặc "điểm mắt" và người chơi có điểm số cao hơn sẽ thắng trận đấu. Các ván cờ cũng có thể thắng bằng việc một đấu thủ nhận thua. Những nét nổi bật Trong giai đoạn bố cục (bắt đầu ván đấu), người chơi thường thiết lập các vị trí (hoặc "điểm cơ sở") ở các góc và xung quanh các cạnh của bàn cờ. Những điểm cơ sở này giúp phát triển nhanh chóng các hình cờ mạnh mẽ, có nhiều lựa chọn cho khả năng sống (khả năng tự tồn tại của một nhóm quân cờ nhằm ngăn chặn việc bắt giữ) và hình thành thế trận cho các lãnh thổ tiềm năng. Người chơi thường bắt đầu ở các góc, vì việc thiết lập lãnh thổ ở đó dễ dàng hơn, với sự trợ giúp của hai cạnh của bàn cờ. Các trình tự khai cuộc được tạo lập ở góc được gọi là "joseki" và thường được nghiên cứu một cách độc lập. "Dame" là các điểm nằm giữa phần cờ ranh giới giữa quân đen và quân trắng, và như vậy được coi là không có giá trị cho cả hai bên. "Seki" là các cặp nhóm quân cờ đen và trắng còn sống mà không có hai điểm mắt. Một điểm "ko" ("kiếp", tiếng Trung và tiếng Nhật: ) là vị trí hình cờ bị lặp lại có thể gây tranh chấp bằng cách buộc phải đi nước ở vị trí khác. Sau khi nước đi bắt buộc được thực hiện, điểm "ko" có thể được "lặp lại" và trở về vị trí ban đầu của nó. Một số cuộc "đấu kiếp" ("đấu ko") có thể rất quan trọng và quyết định trạng thái sống của một nhóm quân lớn, trong khi những nhóm khác có thể chỉ có giá trị bằng một hoặc hai điểm. Một số cuộc đấu kiếp được gọi là "đấu kiếp dã ngoại" ("picnic ko") khi chỉ một trong hai bên chịu thiệt hại nặng hơn hẳn người còn lại. Người Nhật gọi nó là một "hanami ko" ("hanami" là "ngắm hoa"). Việc đấu với những người khác thường đòi hỏi một lượng kiến ​​thức về sức mạnh của mỗi người chơi, được chỉ định bởi thứ hạng của người chơi (tăng từ 30 kyu lên 1 kyu, sau đó 1 dan đến 6 dan, sau đó là 1 dan chuyên nghiệp lên 9 dan chuyên nghiệp). Khác biệt về thứ hạng có thể được đền bù bởi điểm chấp - quân đen được phép đặt hai hoặc nhiều quân cờ lên bàn cờ để bù đắp cho sức mạnh lớn hơn của quân trắng. Có các quy tắc khác nhau (của Nhật Bản, Trung Quốc, AGA, vân vân), gần như hoàn toàn tương đương, ngoại trừ một số trường hợp đặc biệt nhất định. Bên cạnh thứ tự đi quân (các nước đi xen kẽ nhau, quân đen đi trước hoặc đặt quân được chấp) và các luật tính điểm, về cơ bản chỉ có hai quy tắc trong cờ vây: Luật thứ nhất (luật về điểm tự do) nói rằng mọi quân cờ còn tồn tại trên bàn cờ phải có ít nhất một "điểm" (một giao điểm, được gọi là "điểm tự do") ở trạng thái mở nằm giao cắt trực tiếp liền kề (trên, dưới, trái, hoặc phải), hoặc phải là một phần của một nhóm quân liên kết với nhau có ít nhất một điểm mở ("điểm tự do") như vậy nằm bên cạnh chúng. Quân cờ hoặc nhóm quân cờ bị mất điểm tự do cuối cùng còn lại thì bị loại bỏ khỏi bàn cờ. Luật thứ hai ("luật đấu kiếp") nói rằng các quân cờ trên bàn không bao giờ được lặp lại một vị trí của quân cờ đã có ngay trước đó. Các nước đi tạo ra kết quả như vậy bị cấm, và do đó chỉ các nước đi ở vị trí khác trên bàn cờ được cho phép trong lượt đi đó. Hầu như tất cả các thông tin khác về cách mà ván cờ diễn ra là điều được chiêm nghiệm ra, có nghĩa là nó được suy ra từ việc nghiên cứu những thông tin về cách mà ván cờ diễn ra, chứ không phải là một quy tắc hay luật. Các quy tắc khác là đặc thù, khi chúng xuất hiện thông qua các bộ quy tắc khác nhau, nhưng hai quy tắc trên bao quát gần như trong tất cả các ván cờ đã được chơi. Mặc dù có một số khác biệt nhỏ giữa các bộ quy tắc được sử dụng ở các quốc gia khác nhau, đáng chú ý nhất là trong quy tắc chấm điểm Trung Quốc và Nhật Bản, những khác biệt này không ảnh hưởng lớn đến các chiến thuật và chiến lược của ván cờ. Trừ khi được lưu ý, các quy tắc cơ bản được trình bày ở đây là hợp lệ độc lập với các quy tắc chấm điểm được sử dụng. Các quy tắc chấm điểm được giải thích riêng biệt. Các thuật ngữ trong cờ vây mà không có từ tương đương sẵn có trong tiếng Anh thường được gọi bằng tên tiếng Nhật của chúng. Lịch sử Cờ vây là loại cờ cổ, được chơi cách đây khoảng hơn 4000 năm. Khởi thủy của môn cờ bắt đầu từ giấc mơ của vua Nghiêu về việc xem chơi cờ giữa Hoàng Đế (người mở đầu thời Ngũ Đế) với vị tiên Dung Thành. Nhà vua đang thấy tiên Dung Thành chơi một loại cờ gồm một bàn cờ và các quân trắng đen bèn thỉnh cầu tiên dạy cờ cho mình. Đang chơi cờ hay bỗng vua Nghiêu tỉnh lại. Nhà vua ngẫm ra thấy hay quá bèn tìm cách nhớ lại và bổ khuyết thêm các quy tắc, luật lệ và sáng tạo ra môn cờ vây, vì mục đích của nó là vây chiếm lãnh thổ, đất đai. Sau đó, cờ vây được thái tử Đan Chu, con của vua Nghiêu truyền bá khắp thiên hạ. Trong truyện Tam Quốc Diễn Nghĩa của La Quán Trung, Quan Công đã chơi cờ vây với thuộc hạ trong khi để cho Hoa Đà nạo xương cánh tay chữa vết thương. Vây kỳ ngày xưa gọi là "dịch" (弈), được viết với bộ "củng". Trong những sách cổ của Trung Hoa như Tả Truyện, Luận Ngữ, Mạnh Tử đã nhắc nhiều đến "dịch" nhưng từ đời nhà Hán trở đi, thì cái tên vây kỳ ngày càng thông dụng. Hứa Thuận trong Thuyết Văn Giải Tự có chép "dịch, vây kỳ dã". Cờ vây hiện nay rất phổ biến ở vùng Đông Á. Nhật Bản hiện nay là nước có số người chơi cờ rất cao. Cờ vây đã tới Nhật vào thế kỷ VII và tới đầu thế kỷ XIII, nó đã được chơi rộng rãi khắp mọi nơi trên đất nước này. Sự phát triển của Internet cũng đã làm cho nó phổ biến hơn trên khắp thế giới và đến nay đã có 36 triệu người yêu thích môn cờ này (thống kê của Hiệp hội cờ Vây nghiệp dư thế giới năm 1999). Môn cờ vây cũng đã được người Việt Nam biết tới từ lâu, nhưng qua thời gian, chiến tranh nên đã hầu như không còn ai biết cách chơi. Nó được phổ biến lại tại Việt Nam vào năm 1993 nhân dịp có một giảng viên không chuyên từ Trung Quốc sang giảng dạy giúp cho ngành Thể dục thể thao Hà Nội. Cờ vây có từ xa xưa, nhưng luật của nó lại không hề bị biến đổi theo thời gian như những trò chơi cổ khác. Lý do là luật chơi của cờ vây hết sức đơn giản, người nào cũng có thể chơi được, không cần đến trí thông minh ưu việt. Trong cờ vây, quân nào cũng như quân nào, giá trị y hệt nhau, không quân nào có tên tuổi, không có vua, có tướng. Tướng, vua được biết như chính người chơi cờ vậy. Cờ vây, như đã biết, muốn biết chơi thì quá dễ, nhưng để chơi tới được thành "cao cờ" thì rất khó. Khi chơi cờ vây cũng giống như khi ra trận đánh giặc. Bàn cờ là chiến trường và mục đích là chiếm lấy lãnh thổ. Một kỳ thủ cờ vây thực sự biết quý trọng từng quân cờ và luôn đặt hết tâm quyết vào mỗi nước đi. Nguyên tắc chơi Luật chơi cờ vây rất đơn giản, điều chủ chốt chỉ cần nắm vững là ai chiếm được nhiều đất thì người đó thắng. Khí Khí: Các giao điểm trống nằm ngay cạnh quân cờ gọi là "khí" của quân cờ đó. Quân cờ đứng ở giữa bàn có 4 "khí", đứng ở biên có 3 "khí" và đứng ở góc có 2 "khí". Nếu một quân hoặc một nhóm quân không còn "khí", quân đó hoặc nhóm quân đó sẽ bị bắt và đưa ra khỏi bàn cờ. Nếu quân đó hoặc nhóm quân đó chỉ còn một "khí", điều đó có nghĩa là nó đang bị đe dọa, đang bị "đả cật" và sẽ bị đối phương bắt ngay sau nước đi tiếp theo. Những chấm trắng và đen ở hình bên là "khí" của quân trắng và quân đen. "Khí" có thể cùng được chia sẻ giữa hai loại quân. Nếu quân trắng được đặt vào nơi có "khí" chung của hai nhóm quân, hai nhóm quân trắng sẽ được nối với nhau thành một. Quân của đối phương sẽ bị bắt khi nó không còn "khí". Nếu một người chơi đoạt nốt "khí" cuối cùng của một quân hay nhóm quân của đối phương, anh ta sẽ nhấc quân đó ra khỏi bàn cờ và những quân cờ đó dùng để trao đổi tù binh khi tính điểm. Hình bên chỉ ra một đám quân đen và đám quân trắng. Nếu đang ở trong tình huống này, mà quân trắng được đặt vào điểm A, toàn bộ quân đen sẽ bị bắt và bị đưa ra khỏi bàn cờ. Phần đất có được lúc này thuộc về quân trắng. Tự tử: Trong luật chơi cũng không cho phép việc chiếm nốt "khí" cuối cùng của chính quân hay nhóm quân của bạn, trừ phi việc này dùng để bắt một vài quân bao vây của đối phương. Những quân chắc chắn đã chết, chạy đến đâu cũng không thoát gọi là quân "chết kỹ thuật" và được bỏ ra lúc hết ván. Quy tắc Kiếp: Nếu bạn bắt một quân, sẽ có thể xảy ra một trường hợp: bên đen có thể chơi ở điểm b và bắt bên trắng điểm a. Tiếp theo, đến lượt đi của bên trắng. Lúc này, bên trắng lại có thể đặt quân tại điểm a và bắt bên đen, điều này có thể dẫn đến việc quay trở lại như tình huống ban đầu. Trường hợp này được gọi là "kiếp" (劫, コウ, kō). Để tránh việc này xảy ra lặp đi lặp lại, người ta đã đặt ra một quy tắc là "kiếp". Quy tắc này nói rằng, không được phép lặp lại một trạng thái(vị trí quân và lượt đi) đã có trước đây ở bàn cờ, trừ trường hợp 2 người cùng nhường lượt đi. Nếu bên đen bắt bên trắng ở a, bên trắng không được phép bắt lại bên đen ngay lập tức mà cần phải đặt quân ở nơi nào đó khác. Điều này sẽ dẫn tới khả năng là bên đen sẽ đặt tiếp quân tại b để tránh bị bên trắng bắt. Nếu bên đen không đi nước nào khác, bên trắng có thể bắt lại quân đen, bởi vì bây giờ, vị trí trên bàn cờ đã thay đổi, không giống như trước. Đe dọa kiếp: Đây là một phương thức hay khi bị "kiếp" trong những tình thế quan trọng, liên quan đến sự sống chết của một đám quân lớn. Nếu bị "kiếp" như vậy, hãy đặt quân của bạn vào những ô có thể "đả cật" (chẹt) các đám quân lớn quân đối phương mà thực tế quân của bạn sẽ chết. Đối phương sẽ phải chọn một trong hai trường hợp: Hoặc ăn đám lớn của bạn và bạn ăn đám lớn mà bạn vừa chẹt, hoặc ăn quân mà bạn vừa chẹt để cứu đám quân của mình. Tạo mắt: Khi một đám quân trong vùng của đối phương và không có đường thoát, để có thể sống, đám quân đó cần tạo ít nhất hai mắt nhỏ. Một mắt nhỏ là có 1 đến 2 khí trống. Một mắt lớn là có nhiều hơn 2 khí và có thể coi là 1 vùng đất. Thông thường, muốn chỉ cần tạo 1 mắt lớn cần tạo trên 5 khí ở góc và biên và trên 6 khí ở trung tâm thì sẽ có nhiêu khả năng sống vì khi bị xâm nhập sẽ dễ dàng tạo mắt nhỏ. Chấp quân: Các đấu thủ chơi cờ vây có thể đa dạng về trình độ. Người chơi giỏi hơn có thể chơi handicap (chấp quân) với người chơi kém hơn, từ đó có thể khiến cuộc chơi thú vị hơn cho cả hai người chơi, người chơi kém hơn sẽ học được rất nhiều từ cách đi của người chơi giỏi hơn và sẽ giúp họ nâng cao trình độ chơi cờ của mình. Thông thường, số quân chấp nhiều nhất là 9 quân và người chơi kém hơn sẽ chơi quân màu đen. Những quân được chấp thường có một số vị trí xác định trên bàn cờ. Sau khi những quân cờ này được đặt lên bàn cờ, quân trắng bắt đầu nước đi đầu tiên. Phân hạng người chơi Đẳng cấp của cờ vây phân biệt trên 2 hệ thống riêng biệt. Đó là hệ thống đẳng cấp nghiệp dư và đẳng cấp chuyên nghiệp: Nghiệp dư Cấp (級, kyu): Từ người mới bắt đầu chơi đến người chơi trung bình được chia thành nhiều cấp. Cấp mạnh nhất thường là cấp 1, càng yếu, số cấp càng cao. Chữ "cấp" thường được viết tắt là k. Ví dụ: Nếu thang nghiệp dư có 30 cấp từ 1 đến 30 thì cấp yếu nhất là 30k, cấp mạnh nhất là 1k. Đoạn (段, dan): Ký hiệu là d; chỉ những người có sức cờ mạnh, phát triển các kĩ năng ở mức độ cao, sử dụng các thao tác nhuần nhuyễn. Trái với kyu, khi càng mạnh số đẳng càng cao. Ví dụ: 2d thì mạnh hơn 1d và 4d mạnh hơn 2d. Để phân biệt với đoạn chuyên nghiệp, ta gọi đây là đoạn nghiệp dư. Thực chất sự ra đời của dan không chuyên nhằm phân hóa rõ ràng hơn khoảng cách chênh lệch giữa các trình độ. Không phải nước nào cũng công nhận kì thủ cờ vây chuyên nghiệp nên việc ra đời hệ thống không chuyên trên đáp ứng thực tế là có những kì thủ không chuyên rất mạnh thắng được những tay chuyên nghiệp. Chênh lệch trình độ của mỗi bậc trong đoạn nghiệp dư là 1 quân chấp, hay còn gọi là Handicap, chênh lệch càng nhiều thì số quân chấp càng nhiều, tuy nhiên tối đa số quân chấp của một trận đấu là 9. Trong cờ vây người cầm quân đen được đánh trước vì vậy để công bằng người cầm quân trắng được cộng tầm 5,5 đến 6,5 điểm tùy theo cách tính theo luật Trung Quốc hay Nhật Bản. Điểm cộng đó gọi là komi. Chuyên nghiệp Cấp: từ 1p đến 9p (9p là cao nhất). Hệ thống cấp của chuyên nghiệp nhằm chỉ đến những người đã bước vào thế giới chuyên nghiệp của cờ vây, có thể họ đang rèn luỵện, học tập trong các trường dạy cờ nổi tiếng. Đoạn: Để phân biệt với đoạn không chuyên, người ta thường ký hiệu là p. Kì thủ được gọi là chuyên nghiệp khi được hiệp hội cờ vây của nước sở tại cấp chứng chỉ khẳng định trình độ chuyên môn. So sánh Ở trình độ không chuyên, sức cờ thể hiện rõ ràng qua con số. Đối với chuyên nghiệp, thứ hạng lại không thể hiện điều đó. Tuy nhiên không có nghĩa là tay cờ vây không chuyên hạng 30k không thể thắng các tay cờ vây 5p. Các kì thủ không chuyên giỏi nhất có thể thắng các kì thủ chuyên nghiệp có cấp hạng cao. Điều này là bình thường, đơn giản: cờ vây cũng là một môn thể thao. Và trong thể thao, không thể nói trước điều gì. Các giai đoạn của một ván cờ Sự mềm dẻo, khôn ngoan, nhẫn nại, biết bỏ cái nhỏ để giành cái lớn, biết hy sinh tiểu tiết để giành đại cục nhằm dẫn tới thắng lợi, được đối phương "tâm phục khẩu phục" được xem là cốt lõi của cờ vây. Ván cờ vây được chia thành 3 giai đoạn, gọi là: Bố cục, Trung bàn (còn gọi là Trung bàn chiến - vì ở giai đoạn này thường xảy ra chiến đấu kịch liệt), và Quan tử. Bố cục (布局) Đây là giai đoạn ra quân trong cờ vây. Đây là giai đoạn quyết định cả bộ mặt của ván cờ sau này. Phần lớn trong khai cuộc, người ta tìm cách "án ngữ" chỉ vùng đất lớn trên bàn cờ bằng 1 đến hai con; sau đó sẽ phát triển dần. Thông thường, các kì thủ bắt đầu bằng việc chiếm góc mà phần lớn là vào sao. Khai cuộc cực kì khó, đơn giản vì bàn cờ vây có rất nhiều điểm để đặt quân. Để hỗ trợ cho các kì thủ nghiệp dư, nhiều cao thủ chuyên nghiệp đã nghiên cứu, sáng tác ra các thế khai cuộc gọi là định cục. Định cục liên tục phát triển và đổi mới. Trung bàn chiến Ở phần này, chủ yếu hai bên tập trung vào việc tranh giành đất đai, bắt đầu tính tới các vùng tranh chấp, tìm cách đặt quân như thế nào để hạn chế sự bành trướng của đối phương, chuẩn bị vây bắt quân đối phương. Những quân bị đối phương vây sẽ bị tiêu diệt nếu không tạo được hai mắt. Nếu quân đã bị bao vây, cần phải tìm cách dàn quân bên trong để tạo ra các "mắt". Trung bàn là nơi thể hiện rõ nhất tinh hoa của trí sáng tạo, trí khôn ngoan và sức cờ dẻo dai. Có những người thậm chí có thể dự đoán được sự quan trọng của quân đến 60 nước cờ. Do kết quả cờ vây được quyết định bởi điểm số mục nên các kì thủ sử dụng nhiều cách thức: hoặc nhảy phá đất đối phương, tiêu diệt quân, hoặc vây chắc đất... để giành phần thắng. Ở trung bàn, nhiều cuộc đuổi bắt lớn tới mức chỉ cần thất bại, người chơi tự chịu thua mà không cần đến giai đoạn Quan tử. Hầu hết các ván cờ nổi tiếng đều nhờ kĩ năng điêu luyện của các kì thủ thể hiện trong giai đoạn Trung bàn này Thu quan (Quan tử) Sau khi qua trung cuộc, các vùng lãnh thổ của cả hai đấu thủ tạm thời xác định, ít có khả năng tạo ra những thay đổi lớn về tương quan thế lực của 2 bên, việc hoàn chỉnh lãnh thổ chỉ còn là những việc nhỏ chi tiết, đó chính là giai đoạn tàn cuộc gọi là thâu quan. Các quân cờ thường được sắp xếp lại để tạo thành những hình đơn giản, thuận tiện cho việc xác định lãnh thổ và tính điểm. Note (Lý do phải thêm chữ Quan tử ở phần tiêu đề "Thu quan"): Có thể gọi giai đoạn này bằng 3 tên là Thu quan, quan tử hoặc thâu quan theo cách gọi chính thức. Sở dĩ phải chỉnh sửa như vậy vì sợ người đọc nhầm lẫn giữa các khái niệm nhiều tên (cùng một khái niệm nhưng có nhiều tên gọi), và các khái niệm tương đương (hai khái niệm khác nhau nhưng với người chưa am hiểu thì gần giống nhau, trong một số trường hợp thì không thể phân biệt) Máy tính với cờ vây Do cờ vây có nhiều quân hơn và nhiều ô đi hơn, độ phức tạp của cờ vây vượt xa cờ vua/cờ tướng và chương trình máy tính rất khó để chơi tốt. Sau khi Deep Blue đánh bại nhà vô địch thế giới cờ vua Garry Kasparov, đích tiếp theo của trí tuệ nhân tạo là chương trình cờ vây có thể thắng nhà vô địch. Tháng 10 năm 2015, chương trình cờ vây DeepMind của Google đã đánh bại Phiền Huy, người từng 3 lần vô địch môn cờ vây khu vực châu Âu. Ngày 9/3/2016  hệ thống trí tuệ nhân tạo AlphaGo của Google đã thách thức kỳ thủ cờ vây người Hàn Quốc Lee Sedol trong một trận đấu 5 ván. Kết quả bất ngờ, trí tuệ nhân tạo đã giành chiến thắng sau khi thắng cả ba ván đầu tiên. Kì thủ đã vô cùng sốc vì trước đó đã rất tự tin rằng có thể giành chiến thắng mang về giải thưởng 1 triệu USD. Lee gỡ lại ván thứ 4, ván đấu AlphaGo cầm quân đen. Bước sang ván thứ 5, Lee Sedol lại tiếp tục tạo ra bất ngờ khi quyết định cầm quân đen, do anh nhận thấy AlphaGo chơi không tốt khi phải cầm quân đen ở ván thứ 4. Tuy có chiếm được đôi chút lợi thế ở khu phía Nam bàn cờ, nhưng cuối cùng Lee Sedol vẫn phải chịu thất bại chung cuộc 4-1, khi AlphaGo hoàn toàn làm chủ thế trận. Có đôi luồng thông tin về việc AlphaGo thua ở ván thứ 4 do mắc phải lỗi giống con người - Quá tự tin - nhưng thông tin này chưa được kiểm chứng và chưa có nguồn tin chính thức từ đội ngũ thiết kế. Một số loại cờ khác gần giống cờ vây Cờ Othello: cờ này có hình dáng quân cờ cũng tương tự như cờ vây, các quân cờ hình tròn dẹt giống hệt nhau, mỗi quân có màu đen và trắng ở mỗi mặt. Các quân cờ được đặt vào những ô cờ, chứ không phải đặt vào những điểm giao nhau như trong cờ vây. Tuy nhiên, cờ này có luật chơi đơn giản hơn và mục đích là biến các quân cờ đối thủ thành quân cờ của mình, càng nhiều càng tốt. Khi bắt được quân cờ của bên kia, quân cờ đó sẽ được lật mặt và trở thành quân cờ bên này. Gomoku, Pente và Renju (Renju còn gọi là 連珠五子棋, Liên Châu Ngũ Tử Kỳ, Five in a Row...): Những cờ này có hình dáng quân cờ cũng tương tự như cờ vây, có các quân cờ màu trắng và quân cờ màu đen, bàn cờ chia lưới 19x19 hoặc 15x15. Trong những trò chơi này, mục đích là tạo thành một dãy có 5 quân cờ cùng màu, đứng liên tiếp cạnh nhau (tương tự cờ Caro của Việt Nam). Những trò chơi này không có nhiều chiến thuật bằng cờ vây. Connect6: giống ba trò chơi vừa nêu ở trên, nhưng mục đích có khác, thay vì tạo 5 quân sẽ là tạo được 6 quân liên tục trên cùng một hàng. Thành ngữ trong cờ vây Góc vàng, biên bạc, giữa cỏ khô Vi kì dị học nan tinh (cờ vây dễ học mà khó giỏi) Các danh thủ cờ vây Quốc tế Lee Sedol, Hàn Quốc. Anh từng bị AlphaGo đánh bại với tỷ số 4 - 1. Lee Changho Kitani Minoru, Nhật Bản Takemiya Masaki Ngô Thanh Nguyên (Go Seigen ), Nhật Bản Ki Young Kim, Hàn Quốc. Ông Kim chỉ là kỳ thủ nghiệp dư bình thường ở Hàn Quốc, nhưng đã đến Việt Nam mở 1 hội quán cờ vây từ năm 1995-1998, địa chỉ 16 Lê Thị Riêng, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. Xem danh sách các danh thủ cờ vây. Việt Nam Nam kỳ thủ Trần Quang Tuệ, Thành phố Hồ Chí Minh, quán quân giải Vô địch Quốc gia năm 2019. Lê Mai Duy, Thành phố Hồ Chí Minh, quán quân giải Vô địch Quốc gia năm 2002, 2004, 2006, 2011. Đỗ Khánh Bình, quán quân giải Vô địch Quốc gia năm 2010, 2012, 2018. Phạm Đức Anh, Hà Nội, quán quân giải Vô địch Quốc gia năm 2013. Bùi Lê Khánh Lâm, quán quân giải Vô địch Quốc gia năm 2009, 2015. Nguyễn Mạnh Linh, quán quân giải Vô địch Quốc gia năm 2016, 2017. Phạm Nguyễn Hữu Lộc, quán quân giải Vô địch Quốc gia năm 2014. Trần Trung Tín, Thành phố Hồ Chí Minh, huy chương đồng, giải Vô địch Quốc gia năm 1999, 2003. Đoàn Vũ Chung, Hà Nội, nhận được chứng chỉ 2d từ Nihon Kiin năm 1998 Vũ Thiện Bảo, Hà Nội, nhận được chứng chỉ 1d từ Nihon Kiin năm 1998 Nữ kỳ thủ Ngô Thị Thanh Thủy, Tp Hồ Chí Minh, vô địch giải Vô địch Quốc gia năm 2001. Nguyễn Thị Hương, Hà Nội, á quân giải Vô địch Quốc gia năm 2001. Nguyễn Thị Hương, Hà Nội, quán quân giải Vô địch Quốc gia năm 2002 Nguyễn Thị Hồng Anh, Kiên Giang, á quân giải Vô địch Quốc gia năm 2002, 2006. Nguyễn Thị Hồng Anh, Kiên Giang, quán quân giải Vô địch Quốc gia năm 2003, 2004, 2005. Ngô Thị Thanh Thủy, Tp Hồ Chí Minh, á quân giải Vô địch Quốc gia năm 2003. Trần Thanh Mai, Hà Nội, quán quân giải vô địch quốc gia năm 2006 Triết lý và giai thoại trong cờ vây Âu Dương Tu đời nhà Tống có viết trong Tân Ngũ Đại Sử: Việc trị nước cũng không khác gì đánh cờ vây, biết cách dùng, biết cách đặt cho đúng chỗ thì thắng, không biết cách dùng, cách đặt thì thua. Lục Cửu Uyên, một lý học gia người Trung Hoa, treo bàn cờ trên tường và trầm tư suy nghĩ, sau hai ngày có thốt ra một câu: Cờ vây so với hà đồ cũng chẳng có khác gì nhau. Vào đời nhà Tấn, ở núi Tín An, quận Thạch Thất, có một tiều phu tên là Vương Chất. Khi đi vào rừng đốn củi như mọi hôm, ông thấy có hai đứa bé ngồi đánh cờ. Ông được đưa cho một vật nhỏ như hạt táo, ăn vào để không cảm thấy đói. Hai đứa bé thì đánh cờ, còn Vương Chất ngồi chống búa xem. Sau thời gian khá lâu, một đứa bé chỉ vào ông và nói rằng, cán búa của ngươi mục rồi kìa. Sau khi hết ván cờ, Vương Chất trở về quê cũ thì mọi thứ đã thay đổi khác, do lúc này ông đã 100 tuổi. (Lạn Kha tiên khách) Cờ vây trong lĩnh vực khác Trong thơ ...Khi hương sớm lúc trà trưa Bàn Vây điểm nước, đường tơ họa đàn Khi chén rượu, khi cuộc cờ Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên.... Trích Truyện Kiều của Nguyễn Du ...Tìm nơi tịch mịch, chốn vườn thơm Xem cuộc cờ vây nơi ngõ ẩn... Trích thơ của Ngô Thì Nhậm Vi kỳ nhàn đắc địa, Đối tửu tuý vi hương. (Chơi cờ vây, nhàn là nơi đắc địa, Uống rượu với bạn, say là quê nhà.) Trích thơ "Thôn quê" - Nguyễn Xưởng - thời nhà Trần Trong ca dao, tục ngữ Nỗi về nỗi ở chưa xong Bối rối trong lòng như đánh cờ vây. Trong văn xuôi Danh thủ cờ vây của Kawabata Yasunari Thiếu nữ đánh cờ vây của Sơn Táp (Shan Sa), một nữ nhà văn người Pháp gốc Trung Quốc. Thiên Long bát bộ, truyện của Kim Dung. Tam Quốc Diễn Nghĩa của La Quán Trung. Trong điện ảnh Tể tướng Lưu gù, phim truyền hình Trung Quốc nhiều tập Anh hùng (Hero), đạo diễn Trương Nghệ Mưu, Trung Quốc. A Beautiful Mind, đạo diễn Ron Howard. Hikaru no Go, phim hoạt hình của Nhật Bản. Mikan no taikyoku, (1982) của Trung Quốc hợp tác với Nhật Bản. The Go Master, (2006) của Trung Quốc - về cuộc đời của Go Seigen. Hồi đáp 1988 (2015), phim truyền hình Hàn Quốc về nhân vật kỳ thủ cờ vây Choi Teak. Kỳ hồn (2020) phim truyền hình Trung Quốc chuyển thể từ phim hoạt hình Hikaru no Go của Nhật Bản. [Thiếu niên cờ vây_ Giang Liêu Nhi]...phim hoạt hình Trung Quốc Xem thêm Cờ thế Cờ tam quốc Cờ tướng Cờ úp Cờ vua Shogi Janggi Saturanga Cờ ca-rô Cờ Hùm Tôm Cờ toán Việt Nam Cờ tư lệnh Tic-tac-toe Cờ đam Cờ Othello Cờ cá ngựa Chú thích Tham khảo Sách đọc thêm Nguyễn Duy Chính, Cờ vây . Trong tài liệu này có hai bản kỳ phổ hiếm có, Lạn Kha Phổ và Ẩu Huyết Phổ. in Bozulich 2001—pp. 142–155 Đọc thêm Sách giới thiệu: Bradley, Milton N. Go for Kids, Yutopian Enterprises, Santa Monica, 2001 ISBN 978-1-889554-74-7. Cho, Chikun. Go: A Complete Introduction to the Game, Kiseido Publishers, Tokyo, 1997, ISBN 978-4-906574-50-6. Cobb, William. The Book of Go, Sterling Publishers, 2002, ISBN 978-0-8069-2729-9. Iwamoto, Kaoru. Go for Beginners, Pantheon, New York, 1977, ISBN 978-0-394-73331-9. Kim, Janice, and Jeong Soo-hyun. Learn to Play Go series, five volumes: Good Move Press, Sheboygan, Wisconsin, second edition, 1997. ISBN 0-9644796-1-3. Matthews, Charles. Teach Yourself Go, McGraw-Hill, 2004, ISBN 978-0-07-142977-1. Shotwell, Peter. Go! More than a Game, Tuttle Publishing, Boston, 2003. ISBN 0-8048-3475-X. Lịch sử: Liên kết ngoài Sách nhập môn cờ vây tiếng Việt - trình độ dưới 2d có thể tham khảo Lịch sử Cờ vây ở Trung Quốc, Triều Tiên và Nhật Cờ thế cờ vây Thư viện cờ vây tiếng Anh Môn thể thao cá nhân Trò chơi chiến thuật trừu tượng Biến thể cờ Cờ (trò chơi) Phát minh của Trung Quốc Trò chơi Việt Nam Trò chơi trên bàn cổ điển
28517
https://vi.wikipedia.org/wiki/G%E1%BB%91m%20s%E1%BB%A9%20th%E1%BB%9Di%20Minh
Gốm sứ thời Minh
Gốm sứ thời Minh là bài viết về những sản phẩm gốm sứ làm ra tại thời nhà Minh, Trung Quốc, trong khoảng từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 18 tại trấn Cảnh Đức. Đây là những sản phẩm gốm nổi tiếng trên thế giới. Sơ lược về việc sản xuất gốm sứ thời Minh Về lịch sử nhà Minh xem bài chi tiết hơn trong bài Lịch sử Trung Quốc. Năm 1368 Chu Nguyên Chương nổi dậy lật đổ đế chế ngoại tộc Nguyên, lên ngôi Hoàng đế, đặt niên hiệu là Hồng Vũ, đổi quốc hiệu là Minh, đóng đô ở Nam Kinh. Sau khi nhà Minh đóng đô ở Nam Kinh thì lò Ngự (lò chế đồ cho nhà vua) cùng được xây dựng ở trấn Cảnh Đức. So với các tỉnh Phúc Kiến, Quảng Đông vẫn tiếp tục sản xuất đồ gốm như trước thì trấn Cảnh Đức là trung tâm sản xuất đồ gốm lớn nhất Trung Hoa thời bấy giờ với những kỹ thuật tinh xảo. Đồ gốm thời Minh phát triển trên cơ sở kế thừa kỹ thuật sản xuất Tống - Nguyên và đổi mới rất nhanh trên nhiều phương diện. So với giai đoạn Tống - Nguyên, đồ gốm sứ Trung Quốc thời Minh phong phú, đa dạng hơn nhiều cả về loại hình, các loại men và đề tài trang trí. Đây là thời kỳ đăng quang của gốm sứ hoa lam vì người Trung Quốc đã mua được nguyên liệu côban từ Ả Rập để vẽ lên gốm sứ tạo ra những sản phẩm gốm hoa lam (thanh hoa) tuyệt đẹp cung cấp cho thị trường trong nước và xuất khẩu và được nhiều nước trên thế giới ưa chuộng. Dưới thời Minh, người làm gốm cũng chế ra men nhiều màu (tam thái, ngũ thái) với kỹ thuật và nghệ thuật tô, vẽ màu phong phú đầy sáng tạo. Thời kỳ này đồ sứ hoa lam và đồ sứ vẽ nhiều màu trên men chiếm số lượng lớn nhất. Các sản phẩm gốm sứ không chỉ mang tính chất sử dụng mà còn là những tác phẩm nghệ thuật sống động. Loại hình, hoa văn So với những giai đoạn trước, xương gốm thời Minh mỏng đều hơn, độ kết tinh của xương mịn, chắc, men trắng và dày. Loại hình Dựa vào kết quả các cuộc khai quật và một số sản phẩm hiện còn trong các viện bảo tàng, các nhà nghiên cứu thống kê có ít nhất 14 loại hình được sản xuất trong thời kỳ này. Đó là: âu, bát, bình, chậu, chén, choé, chum, đĩa, hộp, hũ, kendy, lọ, nậm, tượng trong đó chiếm số lượng lớn nhất là bát và đĩa. Âu có nắp và chia ra 2 kiểu: kiểu miệng rộng hơi cúp, thành cong khum, đế thấp, lõm; và kiểu miệng đứng, thành hơi cong, đế thấp, lõm. Bát có 5 kiểu. 1- Bát có miệng loe, thành cong, lòng sâu, đế thấp, lõm chiếm đa số; 2- Bát có miệng loe rộng, gờ miệng cắt khấc, thành vát, đế nhỏ, thấp lõm; 3- Miệng loe bẻ, thành cong, đế thấp và lõm; 4- Miệng loe, thành hơi cong, lòng cạn, đế thấp; 5- Miệng đứng, thành cong, lòng sâu, đế hơi cao, lõm. Bình có 3 chiếc chia 3 kiểu. 1- Miệng nhỏ và đứng, cổ hình trụ, vai gù, thân trên phình to, thuôn dần xuống đế, đế lõm; 2- Miệng nhỏ và loe, gờ miệng vê tròn, cổ eo, vai phình rộng, thân dáng chóe, đế loe, lõm; 3- Miệng đứng, cổ cao hình trụ, thân hình cầu, đế thấp, lõm. Chậu miệng loe xiên, thành cong, lòng sâu, giữa hơi lồi, đế lõm không chân. Chén có 3 kiểu. 1- miệng loe, thành cong ưỡn, đế thấp, lõm; 2- Miệng đứng, thành hơi cong, đế thấp, nắp hình chỏm cầu, núp nắp cao có tán tròn dẹt; 3- Miệng loe, thành đứng, đế cao, loe và rỗng. Chóe có miệng rộng và đứng, cổ ngắn, vai phình, thân thuôn, đế bằng, có nắp. Chum có miệng rộng và đứng, cổ ngắn, vai phình, thân trên to, thu nhỏ vè đế, đế lõm. Đĩa có 6 kiểu. 1- Miệng loe, thành cong, đế thấp, lõm; 2- Miệng loe xiên, thành cong gãy, lòng nông, đế thấp, lõm; 3- Miệng loe rộng, thành vát, đế rộng, thấp, lõm; 4- Dáng chậu, miệng hoe xiên, thành cong ưỡn, lòng sâu, đế thấp, lõm; 5- Đĩa nhỏ hình vuông uốn góc, thành vát, bòng nông, đế thấp, lõm; 6- Bộ đĩa gồm 1 đĩa bát giác ở giữa và 8 đĩa ngũ giác xung quanh. Hộp có 7 kiểu. 1- Hình chữ nhật uốn góc gồm 2 phần ghép lại; 2- Hình tròn dẹt gồm 2 phần ghép lại. Thân hộp hình đĩa, đế thấp, lõm, nắp cong khum; 3- Hình tròn dẹt gờm 2 phần ghép lại, tạo hình quả bí đỏ hoặc thân và nắp trang trí in nổi hoa lá, con vật; 4- Hộp tròn, nắp hình chỏm càu, mặt nắp in nổi rùa, rắn, tôm, cua; 5- Hộp tròn, nắp hình bán cau gồm 2 tầng, tầng trên hình chỏm cầu in nổi băng cánh cúc, đỉnh có núm đi động được; 6- Hộp hình bát giác. Mặt nắp chia 8 ô hình thang, trong mời ô in nổi một bông hoa. Núm nắp tròn hoặc tạo hình con cóc; 7- Hộp tạo hình con thú nằm gồm 2 phần: thân hộp là phần chân và bụng thú, nắp 1à phần đầu và lưng thú. Hũ có 2 kiểu. 1- Miệng rộng, gờ miệng vê tròn, cổ ngắn, vai xuôi có 4 tai nam ngang, thân hình trũng thuôn dần về hai đầu, đế hơi lõm giữa, không phủ men. Quanh thân trang trí nổi bằng răng cưa hoặc khắc chìm 3 đường chỉ và 4 khóm địa lan; 2- Miệng nhỏ, gờ miệng vê tròn, cồ ngắn, vai xuôi, thân trên phình rất to, thu nhỏ về đế, đế hơi lòm giữa và để mộc. Kendy (bình rượu có vòi hình bầu vú) có miệng đứng, cổ cao hình trụ, đoạn gần miệng có gờ rộng, vai xuôi, bụng phình tròn đều, vòi hình bầu vú, đế thấp, lõm. Lọ có 6 kiểu. 1- Miệng nhỏ và loe, cổ thắt, thân hình cầu (hoặc cầu dẹt), đế lõm (hoặc bằng); 2- Miệng đứng hoặc hơi 1oe, vai phình, thân dáng chuông, đế bằng (hoặc lõm) để mộc; 3- Miệng khoét tròn (rộng hoặc hẹp), thân hình cầu dẹt, đế lõm không chân; 4- Miệng khoét tròn, thân tròn dẹt chia nhiều múi nổi tạo hình quả bí đỏ, nắp hình bông hoa 6 cánh hoặc hình tròn dẹt trang trí in nổi; 5- Miệng 1oe xiên, cổ hơi cao, thân tạo hình quả bí đỏ, đế lõm không chân; 6- Miệng 1oe, cổ cao hình trụ, vai hơi ngang, thân dáng chuông thấp, đế rộng, thấp lõm không phủ men. Nậm có 2 kiểu dáng khác nhau. 1- Nậm hoa lam có miệng loe, cổ cao, vai phình trang, bụng hình cầu, đế thấp lõm; 2- Nậm chiều màu có dáng củ tỏi, miệng đứng, cổ cao. Phần cổ gần miệng hơi phình, vai xuôi, bụng dưới phình to, đế thấp bằng, đế mộc. Tượng. Nhóm tượng có nhiều loại, trong đó đặc sắc là tượng gốm men nhiều màu tạo hình em bé ôm bình hoa sen đứng trên bệ hình vuông, trên đầu kết nơ, miệng nở nụ cười tươi, mình mặc quần áo và yếm yếm hoa. Hoa văn Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, nghệ thuật đồ họa Trung Quốc đã để lại hệ thống đồ án hoa văn trang trí trên gốm sứ vô cùng phong phú. Kế thừa và phát huy, đồ gốm sứ thời Minh có hoa văn trang trí bao gồm từ những băng hoa văn hình học làm đường diềm cho đến những bức tranh phong cảnh sơn thủy, lâu đài, nhân vật, phản ánh nhũng điển tích và sinh hoạt; từ động vật sống trên cạn, các loài côn trùng đến nhưng loài thủy sinh... tất cả đều được diễn tả sinh động qua đề tài, bố cục, đường nét, hình trang trí có ngụ ý, biểu tượng, mang nội dung cụ thể. Hoa văn nhân vật: Theo các học giả nghiên cứu về gốm sứ Trung Quốc thì từ thời nhà Tống đề tài người mới được trang trí trên đồ gốm sứ. Những hình người được vẽ trong các tư thế sinh hoạt với lối y phục đời thường như hình người trong tư thế đứng, mình mặc áo choàng dài, người bắn cung và thiếu nữ, người chơi đàn và một người cầm quạt đứng trước lư hương đang tỏa khói. Thời Minh đạo Lão thịnh hành và đề tài này cũng được thể hiện cả trên đồ gốm sứ, đó là bộ 8 đĩa, mỗi đĩa vẽ một vị tiên trong Bát tiên đạo Lão hoặc một vị thần trong truyền thuyết của Trung Quốc: Hán Chung Ly, Trương Quả Lão, Hàn Tương Tử, Hà Trên Cô, Tào Quốc Cựu, Lam Thái Hòa... Hoa văn động vật: Gốm thời Minh vẽ nhiều loại cầm, thú, thủy sinh, côn trùng, bò sát. Nhóm thú: Rồng là linh thú được vẽ nhiều nhất. Hai rồng có cánh đuổi nhau được vẽ trên bát hoa lam, rồng năm móng vờn ngọc giữa sóng biển và mây trên bình, rồng năm móng được vẽ trong ô tròn thành ngoài chum sứ men trắng vẽ nhiều màu cùng với sóng nước. Thành ngoài bát hoa lam thường vẽ đôi rồng và phượng đuổi nhau. Kỳ lân cũng là linh thú hay được vẽ trên gốm. Theo quan niệm của người Trung Quốc, lân biểu hiện cho điềm lành vì nó chỉ xuất hiện vào thời thái bình. Sư tử được coi là đồng loại của kỳ lân. Sư tử được vẽ giữa hoa lá trên thành ngoài choé nhiều màu hoặc vẽ trong tư thế đang đùa với quả cầu (sư tử hí cầu). Nai được vẽ trên lọ hoa lam với tư thế đứng trong ô hoặc kết hợp với cây tùng trong đồ án tùng - lộc trên các đĩa hoa lam. Nai còn đứng trong đồ án tam hữu trên thành ngoài bát hoa lam cùng khỉ và vẹt. Ngoài ra, còn có 2 hoặc ba con ngựa được vẽ trong tư thế phi nước đại trên thành lọ hoa lam, đàn sóc giữa những chùm nho trên choé hoa lam và nhiều màu... Nhóm lông vũ: Gồm có phượng, hạc, cò, vịt, công, vẹt, gà, thiên nga. Phượng là giống chim thiêng đem bại điềm lành, báo hiệu thời thái bình thịnh trị và biểu trưng cho phú quý. Hình tượng con cò được vẽ cùng hoa sen. Vịt được vẽ cùng hoa sen trong đồ án liên - áp ở thành ngoài bát hoa lam và có đĩa hoa lam vẽ bốn con thiên nga trong hồ sen. Gà được vẽ trên nắp hộp sứ trắng vé nhiều màu bên hoa mẫu đơn thường là vẽ đôi gà giữa đám cỏ cây, hoa lá. Ngoài ra còn có chim công được vẽ trên bát hoa lam, vẹt ở thành ngoài bát, hạc ở thành trong đĩa hoa lam... Nhóm côn trùng: thành ngoài mai bình sứ trắng cùng hoa cúc trong đề tài cúc - điệp thì chuồn chuồn được vẽ ở thành ngoài đĩa hoa lam. Nhóm thủy sinh và lưỡng cư: Đề tài cá nhảy trên sóng nước được vè ở giữa lòng bát, cá ngoi đầu trên mặt nước ở đĩa. Cá còn được in nổi trên nắp hộp men nâu đen cùng sóng nước, mặt nắp hộp men nâu in nổi rùa, rắn, tôm, cua... và tạo hình con cóc trên núm nắp hộp gốm men xanh... Hoa văn thực vật: Những đồ án trang trí lấy trong thiên nhiên như hoa quả, cây cỏ được sử dụng nhiều nhất. Hoa sen được vẽ thành nhiều khóm trong hồ nước, hoa sen được vẽ cùng các chùm quả đào, cựu, nho, sen còn được dùng kết hợp trong đề tài trang trí sen - vịt ở bát hoa lam, sen còn được trang trí cùng chữ Phạn ở thành ngoài bát hoặc in nổi trên nắp hộp gốm men xanh lục. Hoa cúc được vẽ trên bình sứ nhiều màu cùng hoa mẫu đơn cùng tùng và trúc. Hoa cúc còn được in nổi trên mai bình sứ trắng cùng con bướm. Hoa mai kết hợp với cành tùng trong đồ án "triền chi" quanh thành ngoài bát hoa lam, hoa mai còn được in nổi trên nắp hộp gốm men xanh lục trong đồ án mai - điểu. Hoa mẫu đơn ngoài trang trí cùng các loài hoa khác trên choé sứ nhiều màu, ngoài ra còn được vẽ cùng các loài cầm thú như sư tử trên chóe. Ngoài ra còn có các loại hoa dây, địa oan... được vẽ trên bát, đĩa, bình... Bên cạnh các loài hoa còn có nhiều loài quả được sử dụng làm đồ án trang trí như chùm nho, chùm lựu trong bòng bát hoa 1am. Có chiếc đĩa men vàng vẽ có mặt cả ba chùm lựu (phúc), nho (lộc), đào (thọ) trong đề tài tam đa. Nho còn được vẽ trên thành ngoài chóe cùng với bầy sóc. Đề tài tứ quý còn có mặt tùng, trúc, sen, đào kết hợp với nhau... Hoa văn đường diềm thường chia băng, chia ô quanh phần miệng, vai hay phần chân đồ gốm. Băng cánh hoa sen là một trong những hoa văn được sử dụng 1àm đường diềm nhiều nhất. Loại này bao gồm cánh sen đầu vuông trên bát hoa lam, cánh sen đầu nhọn trên vai các lọ hoa lam, cánh sen nghiêng trên bát hoa lam. Băng hoa bốn cánh trong hình thoi được vẽ trên miệng bát hoa lam hay trên miệng bình men trắng vê nhiều màu. Trên các thành miệng trong và ngoài bát men trắng vẽ nhiều màu (N 86, 87) hoặc quanh cổ các bình vẽ nhiều màu thường thể hiện các dải hoa lá hoặc các cành hoa. Các loại 1á cây cũng được sử dụng thành băng trang trí. Băng tàu lá chuối được vẽ trên vai và giáp đế chum sứ men trắng, băng hoa văn sóng nước được vẽ khâu nhiều quanh chân đế chum nhiều màu... Ngoài ra còn có các kiểu trang trí đường diềm khác như băng chữ T ở thành miệng trong bát hoa lam, băng dải xoan ở thành ngoài miệng bát, băng vạch chéo trong tam giác ở gờ nắp chóe, chữ S gấp khúc trên gờ miệng bát, băng liên hoàn sơn thủy, đình, liễu trên bát hoa lam... Các loại men và minh văn Các loại men Men lam: Gốm thời Minh sử dụng vẽ lam dưới men trắng khá điển hình như bát, đĩa, lọ, nậm, chén, kendi. Men lam được dùng vẽ hoa lá dưới nền men vàng. Men lam vẽ dưới men trắng trong lấn nung thứ nhất kết hợp vẽ nhiều màu qua lần nung thứ hai ở nậm nhiều màu. Men lam được dùng viết minh văn trên miệng bình nhiều màu, dưới đế đĩa đỏ nâu hay trên chén sứ men trắng. Men nhiều màu: Ngoài men lam nặng lửa ở bần nung thứ nhất, gồm thời Minh còn dùng men nhiều màu ở lần nung thứ hai, gồm màu xanh xám, đỏ, vàng thường vẽ ở choé và nậm. Men vàng: được sử dụng với sắc độ đậm ở mảnh đế lọ, đĩa, chum. Với sắc độ nhạt hơn ở choé có nắp, tượng,... Men đỏ: Men đỏ được vẽ trên bát, choé và nậm. Men đỏ nâu sận được phu trên đĩa, sắc nhạt hơn được vẽ trên bình nhiều màu. Việc sử dụng men đỏ là một sự chứng tỏ kỹ thuật men sứ đã đạt đến đỉnh cao trong lịch sử gốm sứ Trung Hoa. Men xanh lục: Men xanh lục sần vẽ trên chum hay phủ ngoài 1ọ, hộp. Men xanh lục còn được vẽ trên bát và choé. Men ngọc: thường phủ cả thành trong và ngoài đĩa. Men trắng: phủ trên chén, lọ, mai bình, bát, đĩa và chậu. Men xám: được phủ trên đĩa vè nhiều màu Men nâu: được phủ ngoài hộp có nắp... Minh văn Đặc biệt thời Minh đã bắt đầu phổ biến việc dùng minh văn, thể hiện dấu niên hiệu trên đồ gốm sứ và được thể hiện bằng cách viết hoặc khắc chìm. Có bát hoa 1am trong lòng viết chữ Hỷ, thành ngoài viết 4 chữ Phương truyền vạn cổ (芳傳萬古) hoặc Vạn cổ trường xuân (萬古長春). Niên hiệu vua thường được dùng 4 chữ như Tuyên Đức niên tạo (宣德年造), Thành Hóa niên chế (成化年製) hoặc 6 chữ Đại Minh Gia Tĩnh niên chế (大明嘉靖年製), Đại Minh Vạn Lịch niên chế (大明萬曆年製). Nhưng cá biệt có sản phẩm chỉ viết 2 chữ Đại Minh. Minh văn thể hiện bằng khắc chìm chỉ có dòng chữ Đại Minh Thành Hóa niên chế (大明成化年製) thường khắc dưới đế theo kiêu chữ chân và chưa thấy trường hợp nào viết chữ triện. Chùm ảnh sản phẩm Tham khảo Gốm sứ thời Minh. Lê Thị Thanh Hà chủ biên-Viện Bảo tàng lịch sử Việt Nam xuất bản năm 2004. Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam. Địa chỉ: Số 1, phố Tràng Tiền, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội: hiện là nơi lưu giữ và trưng bày một số hiện vật gốm sứ thời Minh. Cẩm nang cho người sưu tầm đồ cổ Sách về nhận biết đồ thanh hoa dân diêu đời Minh: Choé: 古玩與收藏丛书 (Cổ ngoạn dữ thâu tàng tùng thư)- Tác giả: Tào Tân Ngô. Nhà xuất bản Hồ Bắc. Trung Quốc. Đĩa: 古玩與收藏丛书 (Cổ ngoạn dữ thâu tàng tùng thư)- Tác giả: Nhất Dật. Nhà xuất bản Hồ Bắc. Trung Quốc. Bát: 古玩與收藏丛书 (Cổ ngoạn dữ thâu tàng tùng thư)- Tác giả: Nhất Dật. Nhà xuất bản Hồ Bắc. Trung Quốc. Tư liệu đấu giá đồ sứ cổ Trung Quốc năm 2002 (tập 1 và 2): 拍賣年鑒 (Phách mại niên giám)- Nhà xuất bản Hồ Nam. Trung Quốc. Gốm Trung Quốc
28529
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thanh%20Hi%C3%AAn%20thi%20t%E1%BA%ADp
Thanh Hiên thi tập
Thanh Hiên thi tập (清軒詩集, Tập thơ Thanh Hiên) là tập thơ chữ Hán đầu tiên của Nguyễn Du (阮攸; 1765–1820, tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên). Theo Văn học 11 tập I thì thi tập này được ông viết vào những năm trước 1802, để nói lên tình cảnh, tâm sự của mình trong hoàn cảnh lênh đênh, lưu lạc hoặc trong thời gian ẩn náu ở quê nhà, lúc gia đình đã sa sút theo đà sụp đổ của chế độ Lê - Trịnh. Tiểu dẫn Thơ chữ Hán Nguyễn Du cho biết tập thơ hiện chỉ còn 78 bài và các bài được chép không theo một thứ tự nào. Do đó, nhóm biên soạn do GS. Lê Thước & GS. Trương Chính chủ biên đã phải dựa vào đời sống & tâm sự của nhà thơ để sắp xếp, phân chia chúng vào ba giai đoạn: Mười năm gió bụi: (1786 - khoảng cuối 1795 đầu năm 1796): tức năm Tây Sơn bắt đầu đưa quân ra Bắc Hà, cho đến năm Nguyễn Du trở về quê nhà ở Hồng Lĩnh, Dưới chân núi Hồng (1796-1802): quãng thời gian ông về ẩn tại quê nhà (Hà Tĩnh). Làm quan ở Bắc Hà (1802-1804): quãng thời gian ông bắt đầu ra làm quan cho nhà Nguyễn. Vài ý chính Trích trong các sách: Thơ chữ Hán Nguyễn Du: Năm 1789, Nguyễn Huệ đánh tan hai mươi vạn quân Thanh, đã làm nhiều người có tư tưởng chống Tây Sơn phải chùng bước, trong số đó có Nguyễn Du. Cho nên, trong bấy nhiêu bài thơ làm Thanh Hiên thi tập, toàn là một điệu cảm thương của người tuyệt vọng... Văn học 11 tập I: Thanh Hiên thi tập chứa đựng tình cảm quê hương thân thuộc, có khi ốm đau mà chẳng thuốc thang gì, có lúc đói rét phải nhờ cậy vào lòng thương của người khác. Tâm sự của tác giả trong thời kỳ này là một tâm sự buồn rầu, có khi chán nản, uất ức… Từ điển Văn học (bộ mới): Thanh Hiên thi tập chính là tâm tình của Nguyễn Du trong những năm tháng sống long đong vất vả ở Thái Bình (quê vợ), cũng như ở Tiên Điền (quê nhà). Những bài thơ làm ở Thái Bình hay than thở về cuộc sống, nay đây mai đó, hết ở nhờ nhà người này lại ở nhờ nhà người khác, "thân thế trăm năm phó mặc cho gió bụi" (Mạn hứng), "mới rét mà đã thấy khổ vì thiếu áo" (Thu Dạ) và lúc nào cũng "ở đất khách, giả vụn để phòng thói tục, gặp thời loạn vì muốn giữ toàn mạng nên luôn sợ người ta" (U cư)... Trong những bài làm trong thời gian về Tiên Điền (Hà Tĩnh), nhà thơ cũng có một tâm lý chán chường như thế. Có lúc, Nguyễn Du muốn đi ở ẩn, muốn trốn vào tôn giáo, rồi có lúc ông lại muốn hành lạc (Hành lạc từ). Nói vậy, nhưng không thể làm vậy, cho nên ông lại tiếp tục với nỗi buồn của mình và than thở cho cuộc đời nghèo túng.Những bài thơ Nguyễn Du viết khi ra làm quan cũng chẳng vui gì hơn. Mới ra làm, ông đã than thở mình "sinh ra vốn không mang sẵn tướng công hầu, chưa chết thì có ngày sẽ làm bạn với hươu nai" (Ký hữu)... Nhìn chung, tất cả những điều ông viết dường như chỉ là một lớp váng nổi trên bề mặt, còn thực chất tâm sự của nhà thơ là gì, ông không nói ra cụ thể và hình như ông cũng chưa nhận thức cụ thể. Sau này, trong Nam trung tạp ngâm, vẫn là tiếng thở dài của nhà thơ trước một thực trạng mà ông không thấy có gì gắn bó; và ở đó ông cũng vẫn chưa nói rõ cái tâm sự thật của mình. Mấy vẻ mặt thi ca Việt Nam:Nhà thơ đau khổ, dằn vặt mình rất nhiều, thậm chí suốt đời mang một tâm hồn u ám. Tuy nhiên, cần hiểu rằng, nếu những mặt bế tắc trong tư tưởng Nguyễn Du muốn dắt ông đến buông xuôi theo định mệnh, thì những mặt lành mạnh trong tình cảm của nhà nghệ sĩ lại kéo ông về với cuộc sống, giúp ông phát hiện ra cái đẹp của tạo vật và con người, cũng như làm cho ông thao thức không nguôi trước mọi nỗi thống khổ của quần chúng.... Bảng lược đồ Văn học Việt Nam, xuất bản ở Sài Gòn trước 1975, cũng đã nêu hơn mười khía cạnh phức tạp của nhà thơ, trích một đoạn:Bởi bị chìm đắm, bao bọc trong cõi cô liêu vô biên, cho nên Nguyễn Du luôn triền miên mang tâm thức cô đơn và hoảng sợ...Muốn san sẻ, nhưng không có lối thoát. Cho nên trong bài "My trung mạn hứng", ông nói ông có mang "một tâm sự mà chẳng biết tỏ cùng ai...và ông đã tự khóc cho thân thế của mình (Độc Tiểu Thanh ký)... Sau khi phân tích, người soạn kết luận: Dựa vào mảng thơ chữ Hán của Nguyễn Du, ta thấy ông được dựng nên bằng sự nhào nặn thuần nhất bởi những chất liệu: già, tóc bạc, bệnh hoạn, điêu tàn, dang dở, hốt hoảng, xao xuyến, băn khoăn... . Trích thi tập Chú thích Liên kết ngoài Tác phẩm của Nguyễn Du Tập thơ Việt Nam
28530
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BA%AFc%20h%C3%A0nh%20t%E1%BA%A1p%20l%E1%BB%A5c
Bắc hành tạp lục
Bắc hành tạp lục (北行雜錄, Ghi chép tản mạn trên đường đi sứ phương Bắc) bao gồm 131 bài thơ. Có nguồn ghi 132 bài, do tách thi phẩm Thăng Long thành hai bài riêng do [Nguyễn Du] sáng tác trong khoảng thời gian ông dẫn đầu đoàn sứ bộ [nhà Nguyễn] sang [Trung Quốc] từ đầu năm [Quý Dậu] [1813] đến đầu năm [Giáp Tuất] [1814]. bài thơ chữ Hán do Nguyễn Du sáng tác trong khoảng thời gian ông dẫn đầu đoàn sứ bộ nhà Nguyễn sang Trung Quốc từ đầu năm Quý Dậu 1813 đến đầu năm Giáp Tuất 1814 <ref>Chép theo Từ điển văn học]] (bộ mới, tr. 103). Website Thi viện cho biết chi tiết: "Nguyễn Du cùng phái đoàn đi sứ rời ải Nam Quan ngày 6 tháng 4 năm Quý Dậu (1813), lên tới Bắc Kinh, lưu du phần lớn bằng thuyền, rồi trở về nước tới ải Nam Quan ngày 29 tháng 3 năm Giáp Tuất (1814).</ref>. Đây là một tập thơ nói lên lòng thương cảm sâu xa những người trung nghĩa bị hãm hại, những người tài hoa bị vùi dập, những người lao động cùng khổ bị đói rét cùng nỗi khinh ghét giới thống trị kiêu căng & tàn bạo, được Nguyễn Du nói lên bằng những vần thơ hết sức sâu sắc . Giới thiệu Theo mục lục in trong Thơ chữ hán Nguyễn Du, thì bài thơ mở đầu tác phẩm Bắc hành tạp lục là bài Long thành cầm giả ca (龍城琴者歌, Bài ca về người gảy đàn ở Thăng Long) được viết khi ông trở ra Thăng Long để lên đường sang Trung Quốc, và bài cuối là Chu phát (舟發, Thuyền ra đi) được làm khi đoàn sứ bộ về đến Vũ Xương (Hồ Bắc, Trung Quốc). Kể từ đó không thấy Nguyễn Du sáng tác hay ghi chép gì thêm. Đa phần thơ trong Bắc hành thi tập là thơ luật, gồm 76 bài thất ngôn bát cú, 11 bài ngũ ngôn bát cú, 18 bài thất ngôn tứ tuyệt; chỉ có 8 bài thất ngôn cổ phong, ngũ ngôn cổ phong (thuộc thể thơ cổ phong) và 18 bài trường thiên (thất ngôn, ngũ ngôn hoặc trường đoản cú) theo thể ca và hành. Phần đầu tập thơ là 9 bài mô tả cảnh vật từ Thăng Long đến ải Nam Quan, theo đánh giá của Từ điển văn học (bộ mới) thì trong số đó có 4 bài viết về cố đô Thăng Long đều là những kiệt tác, nhất là bài Long Thành cầm giả ca. Số còn lại (122 bài) sáng tác trên đất Trung Quốc và lấy đề tài trên đất nước này, có thể chia làm hai nhóm: Đề tài "lộ trình" gồm khoảng 70 bài, ghi lại những cảm hứng nảy sinh, những điều tai nghe mắt thấy trên từng chặng đường đi, rồi qua đó nhà thơ giãi bày tâm trạng, như Minh Giang chu phát (Đi thuyền trên sông Minh Giang), Thái Bình thành hạ văn xuy địch (Bên thành Thái Bình nghe tiếng sáo thổi), Sơn Đường dạ bạc (Đêm đậu thuyền ở sông Sơn Đường), v.v...Trong số ấy có bài Trở binh hành (Bài hành về việc binh đao làm nghẽn đường), Thái Bình mại ca giả (Người hát rong ở thành Thái Bình), Sở kiến hành (Những điều trông thấy) đều rất xuất sắc và sâu sắc. Đề tài "vịnh sử" gồm khoảng 50 tác phẩm, trình bày cảm xúc và suy nghĩ về một loạt nhân vật lịch sử Trung Quốc, nhân đi qua các di tích của họ, như Tương Đàm điếu Tam Lư đại phu (Qua Tương Đàm điếu Tam Lư đại phu), Dự Nhượng chùy thủ hành (Bài hành về cái dao găm của Dự Nhượng), Sở Bá vương mộ (Mộ Sở Bá vương), Độ Hoài hữu cảm Hoài Âm hầu tác (Qua sông Hoài, cảm nhớ Hoài Âm hầu) v.v...Ở nhóm thơ này có khá nhiều bài hay và nổi trội hơn cả là bài thơ Phản chiêu hồn. Theo Từ điển văn học (bộ mới) thì cũng chính từ các nhân vật lịch sử này, mà Nguyễn Du có cớ để bày tỏ "thái độ dứt khoát về lập trường dân tộc đối với các nhân vật đã trở thành điểm đen trong giai thoại & sử sách Việt Nam, như Triệu Đà, Mã Viện, Minh Thành Tổ...đồng thời nhà thơ có cái nhìn đồng cảm, liên tài đối với những nhân vật biểu trưng cho nền văn hóa Trung Quốc, ở các bài nói về Khuất Nguyên, Đỗ Phủ, Kinh Kha, Kê Khang, Lưu Linh, Dương Quý Phi v.v"... Điều đặc biệt là mặc dù làm Chánh sứ với biết bao nhiêu công việc ngoại giao phiền toái, Nguyễn Du vẫn viết rất khỏe. Bởi khối lượng tác phẩm trong Bắc hành tạp lục được viết trong khoảng hai năm đi sứ, đã trội hơn toàn bộ sáng tác thơ chữ Hán của ông trong suốt mười mấy năm trước cộng lại. Giải thích điều này, Từ điển văn học (bộ mới) có đoạn: Sáng tác được nhiều, một phần vì những vấn đề xã hội trước đây Nguyễn Du mới cảm biết một cách lờ mờ, thỉ bây giờ cuộc sống giúp nhà thơ nhận thấy rõ nét. Phần nữa, nhờ đi ra nước ngoài, nhà thơ có thể mượn nhiều đề tài lấy từ lịch sử và hiện tại của nước người để nói những điều Nguyễn Du muốn nói về nước mình, tránh được sự công kích của các thế lực phong kiến lúc ấy. Điều đặc biệt khác, Bắc hành tạp lục là một tập thơ sứ trình, vậy mà thơ "thù phụng" (thơ đối đáp, ca ngợi) tuyệt đối không có. Chỉ có, theo GS. Nguyễn Huệ Chi, "con người chủ thể đối thoại với lịch sử. Và lịch sử cũng chỉ được mượn tên để ký thác những hình ảnh, tâm sự, vấn đề thời đại của Nguyễn Du. Tính chất vịnh sử vì thế rất mờ nhạt, trái lại, cá tính sáng tạo của tác giả biểu hiện rất rõ và sâu. Có thể nói Nguyễn Du đã sử dụng vốn sống nhiều mặt, tích lũy được trong thời đại bão táp của mình, để tái hiện diện mạo của lịch sử và văn hóa Á Đông truyền thống, thông qua cảm hứng của cái "tôi" trí tuệ và trữ tình". Nhận xétBắc hành tạp lục là một tập thơ có trên trăm bài, cho nên chỉ có thể trích lại một số nhận xét có tính cách khái quát như sau: Nói về mảng thơ chữ Hán, trong đó có Bắc hành tạp lục, sách Ngữ văn 10 (Tập 2) có đoạn: "Thơ chữ Hán của Nguyễn Du thể hiện tư tưởng, nhân cách của ông. Các bài thơ trong Thanh Hiên thi tập và Nam trung tạp ngâm tuy biểu hiện một tâm trạng buồn đau, day dứt nhưng đã cho thấy rõ khuynh hướng quan sát, suy ngẫm về cuộc đời, về xã hội của tác giả. Trong Bắc hành tạp lục, những điểm đặc sắc tư tưởng, tình cảm của Nguyễn Du được thể hiện rõ ràng hơn. Có ba nhóm đáng chú ý: Một là ca ngợi, đồng cảm với các nhân cách cao thượng và phê phán những nhân vật phản diện. Hai là phê phán xã hội phong kiến chà đạp quyền sống con người. Ba là cảm thông với những thân phận nhỏ bé dưới đáy xã hội, bị đọa đày hắt hủi"... Nhà thơ Xuân Diệu nêu cảm nghĩ:Bắc hành tạp lục là một tập bút ký ghi cảm tưởng dọc đường. Nhân nhìn thấy được một di tích lịch sử nào đó ở Trung Quốc, gợi nhớ đến việc trong nước, nhớ đến những người ông tiếp xúc trong chốn quan trường, thì ông hết lời xỉ mắng, là phường xu danh trục lợi chỉ "cốt cầu phú quý để vênh vang với vợ con" (Tô Tần đình), là giới quan lại "ra ngoài ngựa ngựa, xe xe". "bàn bàn tán tán, như ông Cao, ông Quỳ" cốt che đậy "nanh vuốt, nọc độc" để "nhai xé thịt người ngọt xớt như đường", trong khi đó thì nhân dân "chỉ là những gầy gò, không ai béo tốt" (Phản chiêu hồn)... Tuy vậy, nhìn chung thơ trong Bắc hành tạp lục, đa phần để lại cảm giác chung của một buổi chiều thu tê tái. Buổi chiều đó là xã hội phong kiến ở Việt Nam, ở Trung Quốc, phản ảnh trong tâm hồn Nguyễn Du. Trên con đường đi sứ, nhà thơ được thấy nhiều cảnh xưa nổi danh và đây là những dịp tức cảnh, đề vịnh, cảm hoài. Trong thơ đi sứ, phần nhiều là điếu cổ, mượn cái cổ mà nói cái kim, một cách như rút những quy luật của lịch sử làm kinh nghiệm, làm bài học. Do trên đường dài thay đổi, do ôn lại một khoảng lịch sử Trung Quốc dài mấy nghìn năm, những thơ khi đi sứ bớt cái vẻ đơn điệu của thơ ở trong nước, tuy vậy, vẫn còn một không khí trầm trầm. Nhưng Nguyễn Du là một tâm hồn nghệ sĩ lớn, nên có những cái vượt bậc đột ngột, có những cái lượng biến thành chất kỳ diệu, nghĩa là trong cái buổi chiều thu tê tái trên bỗng nhiên có sấm chớp mưa gió bão bùng, có bài Phản Chiêu hồn, căm giận trên đầu tóc dựng... Và ở bài viết của GS. Nguyễn Huệ Chi về tập thơ này, có đôi điều đáng chú ý sau: Mọi ba động đầy kịch tính của lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ 18 và nửa đầu thế kỷ 19 đã ập vào Nguyễn Du một cách khá đồn dập. làm cho ông choáng váng về tư tưởng, và không phải đã dễ dàng tìm ngay được một lẽ sống, một chỗ đứng nào vững vàng ổn định. Có hiểu như thế thì mới hiểu nổi vì sao trên đường đi sứ, nhà thơ mới đề cao Dự Nhượng hết lòng với chủ, vừa mới bài bác Giả Nghị không hiểu được tấm lòng cô trung "liệt nữ không thờ hai chồng" của Khuất Nguyên, thì liền sau đó ông lại đã chê trách cái thái độ thiếu sáng suốt của Phạm tăng, chỉ biết giữ lòng trung với nước Sở mà không chịu hiểu rằng " mệnh trời" đã thuộc về nhà Hán. Không nên lấy gì làm lạ khi thấy trong những bài thơ nói về quần chúng, sau khi đặt cái "tôi" trữ tình ra ngoài cuộc để dễ miêu tả, Nguyễn Du thường nhập chúng trở lại rồi liên hệ với bản thân mình. Như trong Thái Bình mại ca giả, dù ở cương vị một ông Chánh sứ, Nguyễn Du vẫn không ngại vạch đôi chỗ trái ngược giữa cuộc sống của ông già mù với những kẻ như mình, được tiếp đãi long trọng. Như trong bài Sở Kiến hành, trước "nỗi cực nhọc ngồi chờ chết" của mấy mẹ con người nông dân nọ, Nguyễn Du lại vẽ ra cái hình ảnh "no nê thừa mứa" của đoàn sứ bộ... Các hình tượng nhân vật đối lập cứ xuất hiện theo thế song song tương phản, thành từng cặp không rời. Như hình ảnh Khuất Nguyên ôm "tấm lòng cô trung" chìm xuống đáy sông đi liền với hình ảnh một bọn người "ngựa xe vênh váo"; như cái chết oan uổng của ba nhân vật hào hiệp là Kinh Kha, Điền Quang, Phàn Ô Kỳ được đặt bên khung ảnh "vua Tần vẫn ngồi cao vòi vọi" nơi kinh đô Hàm Dương; như bên cạnh tượng Nhạc Phi có tượng Tần Cối; và nỗi oan không được cởi của nàng Dương Quý Phi bên cái hình ảnh "phỗng đứng" của cả một triều đình nhà Đường. Đúng như nhà thơ Xuân Diệu đã nói, bài thơ Phản Chiêu hồn trong Bắc hành tạp ngâm'', là một tiếng kêu của Nguyễn Du đột ngột bật lên giữa cả một chuỗi suy nghĩ trầm trầm trong thơ chữ Hán. Đây quả là cao độ của một tiếng nấc, của một bế tắc, của một bi kịch và chưa ở đâu sự bi phẫn và đau thương dồn lên cao vút như ở bài Phản chiêu hồn. Chú thích Liên kết ngoài Nguyễn Du: Nhà thơ yêu nước Tác phẩm của Nguyễn Du Tập thơ Việt Nam
28572
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ti%E1%BA%BFng%20chim%20h%C3%B3t%20trong%20b%E1%BB%A5i%20m%E1%BA%ADn%20gai
Tiếng chim hót trong bụi mận gai
Tiếng chim hót trong bụi mận gai (nguyên bản: The Thorn Birds, còn được gọi theo bản dịch tiếng Pháp là Những con chim ẩn mình chờ chết/Les oiseaux se cachent pour mourir) là tiểu thuyết nổi tiếng nhất của nữ văn sĩ người Úc Colleen McCullough, được xuất bản năm 1977. Hoàn cảnh sáng tác Tiểu thuyết "Tiếng chim hót trong bụi mận gai" của nữ văn sĩ Colleen McCullough, ngay khi vừa xuất bản (1977) đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và được xếp ngang hàng với tác phẩm văn học kinh điển "Cuốn theo chiều gió". Nhưng ít ai biết được rằng, thời điểm tác phẩm ra đời, viết văn chỉ là nghề tay trái của Colleen McCollough, nhân viên y tế là nghề chính của bà. Colleen McCullough không phải là nhà văn chuyên nghiệp, trước đó hầu như không ai biết tiếng. Khi cuốn tiểu thuyết "Tiếng chim hót trong bụi mận gai" đem lại vinh quang cho tác giả thì Colleen McCullough chỉ là một nhân viên y tế bình thường. Bà sinh ra và lớn lên ở bang New South Wales (Úc) trong gia đình một công nhân xây dựng. Thuở nhỏ, Colleen mơ ước trở thành bác sĩ nhưng không có điều kiện để theo học trường đại học y. Bà đã thử làm một số nghề như thư viện, làm báo, công tác thư viện, dạy dỗ để tìm kiếm cơ hội trở lại nghề y. Năm 1974, bà viết tiểu thuyết đầu tay nhưng không có tiếng tăm. "Tiếng chim hót trong bụi mận gai" được thai nghén trong ngót 4 năm, rồi đầu mùa hè năm 1975, bà bắt tay vào viết một mạch trong 10 tháng. Suốt thời gian ấy, bà vẫn túi bụi công việc ở bệnh viện, chỉ viết tác phẩm vào ban đêm và ngày chủ nhật. Nội dung tóm tắt Ngày 8/12/1915 là ngày sinh nhật lần thứ tư của Meghann Cleary (Meggie), một cô bé mắt xám, tóc hung (không nâu không vàng). Mẹ của Meggie, Fiona, tặng cho cô bé con búp bê Agnès, nhưng rồi lại bị 2 anh trai Jack và Hughie làm hư. Anh cả là Frank cùng với bà Fiona phải sửa lại búp bê. Padraic Cleary (sinh 1867), tức Pađy, chuyên nghề chăn nuôi, cắt lông cừu và làm thời vụ. Ông là người Ireland (Ái Nhĩ Lan) di cư đến New Zealand (Tân Tây Lan). Pađy có vợ là Fiona (sinh 1880) và các con Frank (gần 16 tuổi), Bob (11 tuổi), Jack (10 tuổi), Hughie (9 tuổi), Stuart (5 tuổi) và Meggie. Sáng đầu tiên đi học cùng các anh, Meggie bị căng thẳng đến nỗi bị nôn mửa, làm cho tất cả bị trễ học và bị sơ Agatha đánh roi vào tay. Buổi chiều, do nói chuyện trong lớp nên Meggie lại bị đánh. Cô bé đã nôn lên chiếc áo dài của sơ Agatha và bị đuổi về nhà. Meggie thuận tay trái, sơ Agatha tập cô bé viết bằng tay phải bằng cách cột tay trái ra phía sau trong những giờ đến trường. Hai ngày trước Noel năm 1917, Frank đã 17 tuổi muốn ghi tên vào quân đội nhưng Pađy không cho. Frank trốn đi khỏi nhà, nhưng ba hôm sau, cảnh sát đã mang Frank trở về. Linh mục Ralph de Bricassart (sinh năm 1893), tóc đen, mắt xanh, sinh tại Cộng hòa Ireland, là cha xứ giáo khu Gillanbone (Gilly), Tây Bắc New South Wales, Úc từ tháng 6/1920. Ông được bà Mary Carson, 65 tuổi (sinh 1856), một góa phụ giàu có, chủ trang trại Drogheda, giúp đỡ về mặt tài chính. Bà Mary góa chồng đã 30 năm và đứa con duy nhất, con trai, đã chết lúc tuổi còn nhỏ. Bà có người em trai là Padraic Cleary và muốn gia đình Padraic sang Úc để quản lý trang trại cũng như tài sản của mình. Fiona sinh thêm một bé trai (tên Hal) đầu tháng 12/1920 sau 2 lần sẩy thai. Đại gia đình Cleary đến Gillanbone, Úc vào tháng 8/1921, được cha Ralph đón về Drogheda. Họ ở điền trang Drogheda trong một nhà sàn cách tòa nhà chính của Mary khoảng 1,5 km. Đầu tháng 2/1922, Meggie và Stuart được gởi đi học nội trú ở tu viện Saint Croix, Gillanbone. Tại ngày hội hàng năm của Gillanbone, Frank đánh ngã ba võ sĩ giỏi và đứng vững trước một nhà vô địch hạng nhẹ của đoàn võ sĩ Jimmy Sharman nên lãnh được 20 bảng. Tại nhà xứ, có mặt cha Ralph và Meggie, Frank và Pađy gây gổ với nhau. Pađy buộc miệng nói rằng Frank không phải là con của mình. Frank bỏ nhà ra đi theo đoàn võ sĩ Jimmy Sharman. Pađy kể lại với cha Ralph rằng Fiona là con gái duy nhất của một gia đình danh giá ở New Zealand. Cô kết hôn với ông khi đã có con trai 18 tháng là Frank. Meggie phải trở về nhà, rồi Stuart cũng vậy. Fiona sinh đôi hai bé trai là Jimes và Pasty năm 1923. Hal chết trẻ do sức khỏe yếu. Vài hôm trước sinh nhật lần thứ 15, Meggie lần đầu tiên có kinh nguyệt nhưng cô bé lại nghĩ rằng mình giặt đồ không sạch. Sau vài lần thì cô lại nghĩ mình bị ung thư. Một lần cô bé đã khóc trong nghĩa trang và được cha Ralph chỉ bảo. Cha Ralph cho Meggie tập cuỡi ngựa. Mary Carson tổ chức sinh nhật lần thứ 72 vào tháng 11/1928. Tại buổi lễ, Mary đã giao cho cha Ralph tờ di chúc của mình, trong đó toàn bộ tài sản của bà được tặng cho Tòa thánh La Mã, dưới quyền quản lý của cha Ralph. Mary Carson chết ngay sau ngày sinh nhật. Cha Ralph tạm biệt Meggie và trở thành thư ký riêng của Tổng giám mục Chiny Dark. Đại gia đình Cleary vào ở trong ngôi nhà lớn của Mary. Fiona đọc báo và biết được Frank bị kết án chung thân vì tội sát nhân năm 1925. Cha Ralph trở thành thư ký riêng của Tổng giám mục Di Contini Verchese, Khâm mạng Giáo hoàng tại Úc. Năm 1930, Drogheda trải qua cơn khủng hoảng, nạn thất nghiệp lan tràn khắp nước Úc. Tháng 8/1932, Pađy bị chết cháy trong một cơn giông, sét đánh làm cháy rừng. Lúc tìm được xác cha thì Stuart bị một con heo rừng húc và đè chết. Ralph có đến làm lễ cho 2 người, trước khi ra đi được Meggie tặng một bông hồng màu tro nhạt. Sau đó Ralph được lên chức Giám mục. Bob thuê một người chăn nuôi cừu là Luke O'Neill, 30 tuổi. Luke làm việc tích cực, giỏi và có ngoại hình hơi giống cha Ralph. Anh rất hà tiện, đang để dành tiền để mua một trang trại ở vùng tây Queensland, Úc. Sau vài tháng quen biết, Meggie kết hôn với Luke vào tháng 8/1934. Sau lễ cưới cả hai lên đường đi bắc Queensland. Tuần trăng mật không tốt đẹp, Meggie luôn vùng vẫy, la hét trong đêm tân hôn. Rồi Meggie trở thành người giúp việc cho gia đình Mueller tại Himmelhoch còn Luke đi chặt mía cho Arne Swenson ở một nơi khác. Nàng chỉ gặp được Luke tất cả 6 lần trong 18 tháng. Hằng tháng Meggie gửi thư về nhà và được Bob kể lại là cha Ralph rất tức giận về việc không ai cho ông biết chuyện Luke và Meggie. Cha Ralph trở thành Tổng giám mục và được bổ nhiệm làm Khâm mạng Tòa thánh tại Úc. Trong một dịp nghỉ hè, Luke chở Meggie đi chơi xa một thời gian. Meggie lừa Luke không đeo bao cao su lúc quan hệ để có thai. Khi hay tin Luke rất giận dữ. Đầu năm 1936, Meggie sinh ra bé gái tên là Justine. Cha Ralph thăm Meggie vào đúng lúc cô sinh nở. Đầu tháng giêng năm 1937, Meggie đi nghỉ mát một mình ở đảo Matlock trong 2 tháng. Hai ngày sau khi Meggie đi, Luke có ghé Himmelhoch thăm con gái. Hôm sau cha Ralph cũng đến tìm Meggie và được Anne Mueller cho biết địa chỉ. Cha Ralph sống cùng Meggie trong nhiều tuần tại đảo Matlock. Sau đó ông về Sydney rồi sang làm việc ở La Mã vào tháng 4. Còn Meggie có thai, về Himmelhoch rồi đi tìm Luke, ngủ với anh ta một đêm rồi trở về Drogheda cùng với con gái Justine. Ngày 1/10/1937, con trai của Meggie chào đời với tên Dane O'Neill. Trong Chiến tranh thế giới lần thứ 2, Jims và Patsy đăng lính năm 1940, được gởi đến chiến trường Ai Cập đầu năm 1941 trong sư đoàn 9 Úc. Cuối năm 1942, sư đoàn 9 được gọi về Úc, đến tháng 9/1943 đổ bộ lên đảo New Guinea để đối đầu với Nhật Bản. Patsy bị trọng thương, mất khả năng có con, phải đưa về Úc trị thương rồi về Drogheda. Năm 1945, chiến tranh kết thúc. Trong một lần tâm sự, Fiona nói với Meggie rằng bà đã biết Dane là con của Ralph chứ không phải của Luke. Meggie cũng nói là đã biết Frank là con riêng của Fiona. Năm Dane lên 10 và Justine 11, cả hai được gởi đi học nội trú ở Sydney, Úc. Tháng 8 năm 1952 Ralph de Bricassart, phụ tá Quốc vụ khanh đặc trách Ngoại giao Tòa thánh La Mã, được phong là Hồng y. Ông về thăm Drogheda vào tháng 12/1952 và thông báo Frank đã thi hành xong án tù 30 năm. Bà Fiona đón Frank về Drogheda, cho ở riêng 1 ngôi nhà nhỏ. Justine quyết định chọn nghề diễn viên kịch ở Sydney, còn Dane thì tốt nghiệp thủ khoa, 17 tuổi, cao 1m85. Sau đó Dane nói với mẹ là muốn trở thành linh mục, Meggie cho Dane qua sống ở Vatican với Hồng y Ralph năm 1956, 2 tháng sau Justine cũng đi Anh. Trong một lần sang Roma thăm em, Justine quen biết với Rainer Hartheim, người quen của cha Ralph, một thành viên của chính phủ Tây Đức, xấu trai. Hai người có tình cảm với nhau. Năm 1964 các ông cậu của hai chị em sang La Mã du lịch và chứng kiến lễ thụ phong linh mục cho Dane. Rainer, sau 7 năm quen nhau, đã tỏ tình với Justine nhưng vẫn bị Justine từ chối, vì cô nghĩ rằng tình yêu là sự tước đoạt và gia đình là sự chấm dứt tự do. Rainer về Bonn, Justine về Luân Đôn để gặp lại Rainer chứ không đi Hy Lạp du lịch với Dane. Dane đi nghỉ một mình tại đảo Crete, Hy Lạp. Tại đây, sau khi cứu 2 cô gái Đức khỏi chết đuối, Dane bị một cơn đau tim hành hạ và bị chết đuối. Justine nhận được tin rồi báo cho Meggie; Dane được chôn ở Crete. Meggie muốn đem con về chôn tại Drogheda nên đã qua La Mã nhờ cha Ralph. Tại đây Meggie tiết lộ với Ralph rằng Dane là con trai của ông. Ralph cùng Meggie và Justine đem Dane về Úc. Sau đám tang của Dane thì cha Ralph cũng qua đời, ông để tài sản lại cho Rainer. Justine quyết định chia tay Rainer, mặc cảm vì nghĩ cái chết của em trai là do mình không đi theo. Hai năm sau, 1966, Rainer ghé Drogheda thăm Meggie, mong Meggie nói với Justine rằng nên chọn sống với ông. Nửa năm sau, 1967, Rainer gặp Justine tại Luân Đôn, rồi Meggie cũng gởi thư cho con khuyên giải về cái chết của Dane, cũng như suy nghĩ về việc sinh sống ở Drogheda. Rồi Justine chấp nhận tình yêu của Rainer. Nhận xét Xuyên suốt tiểu thuyết là câu chuyện tình giữa Meggie và vị cha xứ Ralph. Meggie cố quên đi tình cảm của mình bằng cách kết hôn với Luke O'Neill - một công nhân trong trang trại, nhưng chẳng bao lâu sau cô và cha Ralph lại đoàn tụ, và cuộc tình của họ đã gây ra nhiều bi kịch. Chuyện tình của Meggie với cha Ralph chỉ có thể diễn tả trong bốn chữ "nỗi đau tuyệt vời" và để có được sự tuyệt vời đó, họ đã phải trả giá cả cuộc đời, như trong lời đề tựa của tiểu thuyết: "Có một truyền thuyết về con chim chỉ hót có một lần trong đời, nhưng hót hay nhất thế gian. Có lần nó rời tổ bay đi tìm bụi mận gai và tìm cho bằng được mới thôi. Giữa đám cành gai góc, nó cất tiếng hát bài ca của mình và lao ngực vào chiếc gai dài nhất, nhọn nhất. Vượt lên trên nỗi đau khổ khôn tả, nó vừa hót vừa lịm dần đi, và tiếng ca hân hoan ấy đáng cho cả sơn ca và họa mi phải ghen tị. Bài ca duy nhất, có một không hai, bài ca phải đổi bằng tính mạng mới có được. Nhưng cả thế gian lặng đi lắng nghe, và chính Thượng đế trên thiên đường cũng mỉm cười. Bởi vì tất cả những gì tốt đẹp nhất chỉ có thể có được khi ta chịu trả giá bằng nỗi đau khổ vĩ đại. Ít ra thì truyền thuyết nói như vậy". Cuốn tiểu thuyết xây dựng như truyện sử biên gia đình, tác giả tập trung vào những xung đột tâm lý - đạo đức nhiều hơn là những vấn đề giai cấp-xã hội. Các nhân vật tuy chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh nhưng chủ yếu là ứng xử theo tính cách riêng của mình nhiều hơn. Trong số nhiều nhân vật, nổi bật hơn cả là ba nhân vật: Fiona, Meggie và cha đạo Ralph. Meggie có thể coi là nhân vật trung tâm của tác phẩm. Trong tiểu thuyết có nhiều đề tài, nhiều mối tình, song tất cả đều phục vụ câu chuyện chính, mối tình lớn lao, trong sáng của Meggie và cha Ralph. Tính hiện thực và tính lãng mạn trong tác phẩm này hòa lẫn vào nhau tới mức nhuần nhị. Sự miêu tả tỉ mỉ bằng hình thức của bản thân đời sống, cả từ cách ăn mặc, lời ăn tiếng nói của nhân vật, cho đến nếp sống hàng ngày... Lối kể chuyện thong thả theo trình tự thời gian khiến cho tác phẩm gần với loại tiểu thuyết hiện thực thế kỉ 19. Nhưng những tính cách phi thường rực rỡ biểu hiện trong những biến cố đột ngột, đầy hấp dẫn, tạo nên màu sắc lãng mạn rất rõ nét. Bản dịch tiếng Việt Những con chim ẩn mình chờ chết, Trung Dũng (Lý Quí Chung) dịch từ bản tiếng Pháp Les oiseaux se cachent pour mourir, Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Trẻ, 1988. Tiếng chim hót trong bụi mận gai, Phạm Mạnh Hùng dịch từ bản tiếng Nga, Nhà xuất bản Phụ nữ. Phim The Thorn Birds, serie phim truyền hình 6 tập, sản xuất năm 1983 Nhà sản xuất David L. Wolper Đạo diễn Daryl Duke Richard Chamberlain, vai cha Ralph de Bricassart Rachel Ward, vai Meggie Barbara Stanwyck, vai Mary Carson Christopher Plumme Jean Simmons, vai Fiona Cleary Richard Kiley Ken Howard Piper Laurie Earl Holliman Mare Winningham Phim đoạt 3 giải Emmy. Năm 1988, phim đã được chiếu rạp ở Việt Nam (dùng băng video) với nhan đề Những con chim ẩn mình chờ chết. Tham khảo Liên kết ngoài Nghe trực tuyến sách nói Tiếng chim hót trong bụi mận gai với giọng đọc Ngô Hồng Tiểu thuyết Úc Tiểu thuyết năm 1977
28575
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A7n%20Kh%E1%BA%AFc%20Chung
Trần Khắc Chung
Trần Khắc Chung (, 1247 – 1330), biểu tự Văn Tiết (文節), là một nhân vật chính trị, quan viên cao cấp đời nhà Trần. Ông trải qua các triều Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông, thăng đến Thiếu bảo, hàm Đồng trung thư môn hạ bình chương sự, tức Tể tướng đương quyền. Trong lịch sử nhà Trần, ông bị đánh giá là kẻ tham tài, bị cha vợ của Anh Tông là Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng lớn tiếng chửi mắng. Trong sự việc Huyền Trân công chúa, ông là một trong hai người duy nhất ủng hộ việc gả công chúa cho Chiêm Thành, về sau lại dính tiếng cùng công chúa gian dâm, tiếng xấu không dứt. Cuộc đời Theo Đại Việt sử ký toàn thư thì Trần Khắc Chung tên thật là Đỗ Khắc Chung (杜克終), người ở Giáp Sơn (Kinh Môn, Hải Dương), cùng quê với mẹ của Trần Hiến Tông và Trần Nghệ Tông, tức Minh Từ hoàng thái phi Lê thị, là cô của Lê Quý Ly. Em trai Trần Khắc Chung là Đỗ Thiên Hư, cũng là một người nổi tiếng đương thời, từng được cử làm Sứ thần sang nhà Nguyên năm 1288. Sách Đại Việt sử ký toàn thư nhận xét Trần Khắc Chung là người hay tỏ vẻ, làm chuyện khác thường để gây sự chú ý từ các chị em công chúa, hoàng phi. Ông có vợ tên Ngọc Mỹ (寳環), có một con trai tên Trung Đế (公綽). Đi sứ sang Nguyên Trong cuộc chiến tranh Nguyên Mông-Đại Việt lần thứ hai (năm 1285), Trần Khắc Chung khi đó là Chi hậu cục thủ, khi Trần Thánh Tông hỏi ai có thể sang trại Nguyên làm sứ giả, ông bèn xin đi, sang thương thuyết với Ô Mã Nhi. Ô Mã Nhi hỏi:"Quốc Vương ngươi vô lễ, sai người thích chữ "Sát Thát", khinh nhờn thiên binh, lỗi ấy to lắm". Khắc Chung đáp:"Chó nhà cắn người lạ không phải tại chủ nó. Vì lòng trung phẫn mà họ tự thích chữ thôi, Quốc Vương tôi không biết việc đó. Tôi là cận thần, tại sao lại không có?". Nói rồi giơ cánh tay cho xem. Ô Mã Nhi nói:"Đại quân từ xa tới, nước ngươi sao không quay giáo đến hội kiến, lại còn chống lệnh. Càng bọ ngựa cản bánh xe liệu sẽ ra sao?". Khắc Chung nói:"Hiền tướng không theo cái phương sách Hàn Tín bình nước Yên, đóng quân ở đầu biên giới, đưa thư tin trước, nếu không thông hiếu thì mới là có lỗi. Nay lại bức nhau, người ta nói thú cùng thì chống lại, chim cùng thì mổ lại, huống chi là người". Ô Mã Nhi nói:"Đại quân mượn đường để đi đánh Chiêm Thành, Quốc Vương ngươi nếu đến hội kiến thì trong cõi yên ổn, không bị xâm phạm mảy may. Nếu cứ chấp nê thì trong khoảnh khắc núi sông sẽ thành đất bằng, vua tôi sẽ thành cỏ nát". Khắc Chung về rồi, Ô Mã Nhi bảo các tướng rằng:"Người này ở vào lúc bị uy hiếp mà lời lẽ tự nhiên, không hạ chủ nó xuống là Chích, không nịnh ta lên là Nghiêu, mà chỉ nói "Chó nhà cắn người"; giỏi ứng đối. Có thể nói là không nhục mệnh vua. Nước nó còn có người giỏi, chưa dễ mưu tính được". Ô Mã Nhi bèn sai người đuổi theo Khắc Chung nhưng không kịp. Nhờ công lớn trong cuộc kháng chiến đó, khi khao thưởng công thần vào năm Trùng Hưng thứ 5 (1289), ông được Nhân Tông ban quốc tính, nên đổi là Trần Khắc Chung, lại được nhận chức Đại hành khiển, sau thăng Ngự sử đại phu. Quan lộ Năm Hưng Long thứ 6 (1298), đời Trần Anh Tông, Trần Khắc Chung được phong làm Đại an phủ Kinh sư, kiêm hàm Thượng thư tả bộc xạ. Năm thứ 11 (1301), thăng làm Nhập nội đại hành khiển. Chức hành khiển mà có thêm 2 chữ "Nhập nội" là theo triều Lý, chuyên dùng hoạn quan làm chức ấy. Thời Thánh Tông, Thượng tướng Trần Quang Khải khi mới được phong làm Nhập nội Thái úy, kiêm làm Hành khiển còn có 2 chữ "Nhập nội", liền tâu rằng: "Thần từ bên ngoài vào, cho nên thêm hai chữ "nhập nội", còn các hành khiển khác đều là hoạn quan, sao lại thêm chữ "nhập nội", xin bỏ chữ "nhập nội", Thánh Tông nghe theo. Từ đó, hàm Hành khiển chỉ gọi là Nội hành khiển. Đến đây, Thượng hoàng Trần Nhân Tông mới lấy Khắc Chung làm Hành khiển, lại thêm 2 chữ "nhập nội" như xưa và dùng cả sĩ phu làm Hành khiển. Năm Hưng Long thứ 21 (1313), Tháng 12, tấn thăng làm Tả phụ, tước Quan Phục hầu. Năm Đại Khánh thứ 2 (1315), ban tước Á Quan nội hầu. Năm thứ 8 (1321), ban tước Quan nội hầu. Năm Khai Thái thứ 3 (1326), lấy làm Thiếu bảo, hành Thánh Từ cung Tả ty sự, ban tên tự là Văn Tiết, hàm Đồng trung thư môn hạ bình chương sự. Buổi quốc sơ, theo quy chế cũ của nhà Lý, hàm Hành khiển có thêm các chữ "Trung thư môn hạ bình chương sự". Từ khi thượng tướng Quang Khải ở ngôi Tể tướng, chê chức Hành khiển và chức Tể tướng ngang hàng nhau, mới tâu xin đổi thành "Trung thư môn hạ công sự" để cho có phân biệt. Đến đây, Trần Minh Tông cho Khắc Chung thăng chức Thiếu bảo, nhưng vẫn làm việc Hành khiển để ưu đãi, nên đặc cách thêm các chữ "Trung thư môn hạ bình chương sự", là theo quy chế cũ. Tư thông với Huyền Trân Năm 1305, Chiêm Thành sai Chế Bồ Đài và bộ đảng hơn trăm người dâng hiến vàng bạc, hương quý, vật lạ làm lễ vật cầu hôn. Trong triều không ai tán đồng, duy chỉ có ông cùng Văn Túc vương Trần Đạo Tái chủ chương tán thành. Thế là, Huyền Trân công chúa được định gả cho vua Chiêm Thành Chế Mân. Năm 1307, Chế Mân qua đời. Tháng 10 mùa đông, theo lệnh Trần Anh Tông, Trần Khắc Chung cùng An phủ Đặng Văn vào Chiêm Thành, cứu được Huyền Trân đưa về Thăng Long. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, trong khoảng thời gian đưa Huyền Trân công chúa về, Trần Khắc Chung đã tư thông với công chúa. Nguyên văn: Khắc Chung dùng thuyền nhẹ cướp lấy công chúa đem về, rồi tư thông với công chúa, đi đường biển loanh quanh chậm chạp, lâu ngày mới về đến kinh đô. Hưng Nhượng đại vương (Trần Quốc Tảng) ghét lắm, mỗi khi thấy Khắc Chung thì mắng phủ đầu: "Thằng này là điểm chẳng lành đối với nhà nước. Họ tên nó là Trần Khắc Chung thì nhà Trần rồi mất về nó chăng?". Khắc Chung thường sợ hãi né tránh. Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: "Thói gian tà của Trần Khắc Chung thực quá quắt lắm! Không những hắn giở trò chó lợn ở đây mà sau này còn vào hùa với Văn Hiến vu hãm Quốc phụ thượng tể (Trần Quốc Chẩn) vào tội phản nghịch, làm chết oan đến hơn trăm người. Thế mà hắn được trọn đời phú quý. Khổng tử nói: Kẻ gian tà được sống sót là may mà thoát tội chăng?". Xung khắc với quan ngự sử Vào năm Đại Khánh thứ 2 (1315), vào tháng 6, có hạn hán. Bấy giờ Trần Khắc Chung làm Hành khiển. Quan ngự sử dâng sớ nói:"Chức vụ tể tướng, trước hết phải điều hoà âm dương. Nay Khắc Chung ở ngôi Tể tướng, không biết phối hợp đất trời cho khí tiết điều hòa, để đến nỗi mưa nắng trái thời, thế là làm quan không được công trạng gì". Khắc Chung nói:"Tôi lạm giữ chức Tể tướng, chỉ biết có sức làm những việc mà chức vụ phải làm, còn như hạn hán thì hỏi ở Long Vương. Khắc Chung đâu phải là Long Vương mà đổ tội được?". Sau nước sông lên to, vua đích thân đi xem đắp đê. Quan ngự sử tâu:"Bệ hạ nên chăm sửa đức chính, xem làm gì việc đắp đê nhỏ nhặt". Khắc Chung nói:"Khi dân bị nạn lụt, người làm vua phải cứu giúp tai họa khẩn cấp đó, sửa đức chính không gì lớn hơn việc đó, cần gì phải ngồi thinh, tư lự rồi bảo là "sửa đức chính?". Có người bàn rằng: "Khắc Chung đổ lỗi cho Long Vương, đài quan chê đắp đê là việc nhỏ nhặt, [hai bên] đều sai cả". Hãm hại Quốc phụ Huệ Vũ đại vương Trần Quốc Chẩn là chú ruột của Trần Minh Tông, đồng thời là cha vợ chính thức của vua, tức Lệ Thánh hoàng hậu. Đương thời, ông được gọi là Thái tể Quốc thượng phụ, đứng vào hàng đầu bá quan, quyền uy rất lớn, vì Trần Anh Tông khi lâm chung từng kí thác Minh Tông cho ông. Khi Trần Minh Tông đã muốn lập con trai cả Trần Vượng làm Thái tử, Huệ Vũ đại vương Trần Quốc Chẩn phản đối vì đó là con trai của Minh Từ hoàng thái phi Lê thị, sủng phi của Minh Tông, còn Lệ Thánh hoàng hậu vẫn chưa có con. Ông chủ trương đợi Hoàng hậu sinh hoàng tử thì sẽ lập, vì từ trước đến nay dòng đích trưởng vẫn là người giữ ngôi. Tuy nhiên, Cương Đông Văn Hiến hầu muốn lật đổ Hoàng hậu, đã đút lót 100 lạng vàng mua chuộc Trần Phẫu là gia thần của Trần Quốc Chẩn, bảo Trần Phẫu vu cho Trần Quốc Chẩn có ý mưu phản. Trần Minh Tông tin là thực, giam Quốc Chẩn ở chùa Tư Phúc rồi đem việc ấy hỏi Thiếu bảo Trần Khắc Chung. Khắc Chung cùng cánh với Văn Hiến, lại cùng đồng hương với mẹ của Trần Vượng, đều là người Giáp Sơn và đã từng làm thầy dạy Vượng, liền trả lời: "Bắt hổ thì dễ, thả hổ thì khó". Nghe thế, Minh Tông mới cấm tuyệt không cho Quốc Chẩn ăn uống, bắt phải tự tử. Việc này Ngô Sĩ Liên đã mắng thẳng Khắc Chung rất dữ dội:"Còn như Trần Khắc Chung cũng là nhân vật của một thời, vua trao cho hắn chức vị Sư bảo, và đem việc nước hỏi hắn, đáng lẽ phải hết lòng trung khuyên can, để cho vua mình trở thành Nghiêu Thuấn mới phải. Thế mà lại vào hùa với kẻ quyền quý, làm hại người ngay thẳng, đi theo bọn gian tà, đẩy người lành tới nỗi oan khiên, hãm đức vua vào việc làm tội lỗi. Việc ấy mà nhẫn tâm làm được, thì còn việc gì mà không nhẫn tâm làm nữa? Sau lại xui vua cầu công đi đánh Chiêm Thành, thì cái thói nịnh hót lại lộ ra nữa. Cho nên, bậc làm vua khi dùng người hiền, phải xét kỹ họ, là bởi sợ rằng có đứa tiểu nhân như bọn Khắc Chung có thể lọt vào trong đó vậy". Nhìn nhận Khai Hựu năm thứ 2 (1330), Trần Khắc Chung qua đời, tặng làm Thiếu sư, đưa về chôn ở Giáp Sơn, bị gia nô của Thiệu Vũ (con của Trần Quốc Chẩn) đào lên mà băm xác. Đánh giá về ông, Toàn thư phê bình: Tham khảo Đại Việt sử ký toàn thư Quan lại nhà Trần Tể tướng Việt Nam Người Hải Dương
28576
https://vi.wikipedia.org/wiki/Robert%20Venturi
Robert Venturi
Robert Venturi (sinh năm 1925) là một kiến trúc sư Hậu Hiện đại, một trong những nhà lý thuyết kiến trúc có ảnh hưởng nhất của nửa cuối thế kỉ 20. Tiểu sử Robert Venturi sinh ngày 25 tháng 7 năm 1925 tại Philadelphia, Pennsylvania, Mỹ. Ông tốt nghiệp kiến trúc năm 1947, và lấy bằng thạc sĩ về nghệ thuật năm 1950 tại Đại học Princeton. Sau khi tốt nghiệp, ông làm việc cho một vài hãng kiến trúc, trong số đó có văn phòng của Oscar Stonorov, Eero Saarinen, và Louis Kahn. Từ năm 1954 đến 1956 ông giành được học bổng hữu nghị để theo học tại của Viện hàn lâm Mỹ tại Roma (American Academy in Rome). Từ năm 1964 ông cộng tác với John Rauch mở văn phòng kiến trúc riêng. Công trình đánh dấu mốc quan trọng đầu tiên của Venturi là biệt thự của bà Vanna Venturi, mẹ đẻ của ông, hoàn thành vào năm 1964 tại đồi Chestnut, Pennsylvania và nhà dưỡng lão Guild ở bắc Philadelphia. Đó là những công trình dí dỏm, gây nhiều tranh cãi, có hình thức kiến trúc đơn giản nhưng phức tạp trong mặt bằng và biểu thị sự đa dạng của ngôn ngữ kiến trúc. Công trình Nhà dưỡng lão Guild với vẻ ngoài không khác gì so với những nhà ở thông thường khác, nhưng những ý tưởng của Venturi lại được thể hiện rất tinh tế. Toàn bộ phần phía trên được tách ra khỏi mặt tường để nhấn mạnh vai trò của mặt đứng như một bộ mặt giao tiếp với công cộng. Biển báo "Guild" là một cách điệu hình tượng của nghệ thuật đại chúng (Pop-art), và cột ăngten giả mạ vàng trên đỉnh nhà là một sự giễu cợt hài ước về vai trò và vị trí của những người già trong xã hội công nghiệp. Đây là một sự tương phản với chú trọng vào công năng của kiến trúc Hiện đại đang thịnh hành thời bấy giờ. Venturi đã diễn giải quan điểm của mình trong cuốn sách "Sự đa dạng và mâu thuẫn trong Kiến trúc" (Complexity and contradiction in architecture) xuất bản năm 1966, được xem như tuyên ngôn đầu tiên của kiến trúc Hậu Hiện đại, mở đầu cho cuộc tranh luận về hình thức và ngữ nghĩa trong kiến trúc. Theo ông, kiến trúc phải là kết quả song song cùng tồn tại của các mâu thuẫn theo tiêu chí "Cũng-Như", đối ngược lại tiêu chí của Kiến trúc Hiện đại đương thời "Hoặc-Là" vốn chỉ chấp nhận sự tồn tại duy nhất, hoặc có hoặc không. Ông mỉa mai câu châm ngôn nổi tiếng của Ludwig Mies van der Rohe "Ít là nhiều" (Less is more) thành "Ít là buồn" (Less is bore). Năm 1967, trong khi giảng dạy tại Đại học Pennsylvania, Venturi gặp vợ ông Denise Scott Brown, một nhà thiết kế đô thị và kiến trúc sư. Họ cùng nhau cộng tác trong giảng dạy, nghiên cứu và thực hành kiến trúc và là đồng tác giả cuốn sách nổi tiếng "Học tập từ Las Vegas" (Learning From Las Vegas) với kiến trúc sư Steven Izenour vào năm 1972. Trong đó các tác giả cho rằng những dấu hiệu không chính thống của văn hóa bình dân (Pop culture), các biển quảng cáo mang tính địa phương, các kiến trúc nhỏ lẻ, dọc xa lộ là nguồn cho cảm hứng kiến trúc nghiêm chỉnh. Với những cống hiến của mình, Robert Venturi được tặng giải thưởng Pritzker năm 1991. Hiện ông điều hành hãng kiến trúc Venturi, Scott Brown và cộng sự có trụ sở đặt tại Philadelphia, Mỹ. Công trình điển hình Mở rộng Bảo tàng Allen Art, Oberlin, Ohio, từ năm 1973 đến năm 1976. Nhà Brant, Greenwich, Connecticut, 1973. Hội trường Gordon Wu, Đại học Princeton, New Jersey, 1983. Nhà ở thị trấn Tuckers, Bermuda, 1975. Nhà Trubek, đảo Nantucket, Massachusetts, 1972. Nhà Tucker, núi Kisco, New York, 1975. Nhà của bà Vanna Venturi, đồi Chestnut, Philadelphia, Pennsylvania, 1962. Trụ sở các cơ quan công quyền Haute-Garonne, Toulouse, Pháp, 2005. Tác phẩm Venturi, Complexity and Contradiction in Architecture, The Museum of Modern Art Press, New York 1966. Venturi, Brown và Izenour, Learning from Las Vegas, Cambridge MA, 1972, tái bản và sử đổi 1977. Venturi, Iconography and Electronics upon a Generic Architecture: A View from the Drafting Room, MIT Press, 1998. Venturi và Brown, Architecture as Signs and Systems, Harvard University Press, 2004. Tham khảo Liên kết ngoài Venturi, Scott Brown and Associates, Inc. Trang web chính thức của hãng Venturi, Scott Brown và cộng sự Tiểu sử Robert Venturi tại trang web của giải thưởng Pritzker Nhà ở của bà Vanna Venturi Philadelphia Venturi, Robert Venturi, Robert Venturi, Robert Venturi, Robert Venturi, Robert Nhân vật còn sống Cựu sinh viên Đại học Princeton Sinh năm 1925 Người Mỹ gốc Ý Người đoạt Huy chương Nghệ thuật Quốc gia
28577
https://vi.wikipedia.org/wiki/Louis%20Kahn
Louis Kahn
Louis Isadore Kahn (20 tháng 2 năm 1901 hoặc 1902–– 17 tháng 3 năm 1974) là một kiến trúc sư nổi tiếng thế giới, hành nghề tại Philadelphia, Pennsylvania, Mỹ. Ông còn là giáo sư giảng dạy kiến trúc tại Đại học Pennsylvania và Đại học Yale. Kahn là người Do Thái, sinh ra tại Kuressaare, thuộc quần đảo Saaremaa của Estonia. Vào năm 1905, gia đình ông di cư đến Mỹ do cha ông lo sợ sẽ bị tái ngũ trong cuộc Chiến tranh Nga-Nhật. Ông lớn lên ở Philadelphia và nhập quốc tịch Mỹ vào ngày 15 tháng 3 năm 1914. Thời trẻ, ông được đào tạo theo một truyền thống cổ điển chặt chẽ với sự nhấn mạnh học tập, sao chép vào các tác phẩm truyền thống tại Đại học Pennsylvania (Penn U.). Sau khi hoàn thành chương trình thạc sĩ năm 1924, Kahn làm một chuyến du lịch sang châu Âu, thay vì dừng lại ở trung tâm nghệ thuật cổ điển hoặc hiện đại nào, ông lại chọn thành cổ Carcassonne ở Pháp, được xây dựng từ thời Trung cổ. Từ 1925 đến 1926, Kahn làm việc như kiến trúc sư trưởng của Hội chợ triển lãm thế giới tại Philadelphia. Từ 1947 ông giảng dạy tại Đại học Yale và tạo được một ảnh hưởng lớn tại đây trước khi chuyển đến Đại học Pennsylvania. Trong số các học trò xuất chúng của ông sau này có Moshe Safdie và Robert Venturi. Kiến trúc của Louis Kahn đã truyền tải vào chủ nghĩa quốc tế một phong cách tinh tế, giàu chất thơ, ghi đậm dấu ấn cá nhân trong từng tác phẩm. Ông là bậc thầy về sử dụng ánh sáng trong kiến trúc. Theo nhà điêu khắc Isamu Noguchi, Louis Kahn là một nhà triết học trong số các kiến trúc sư. Sau một chuyến du lịch từ Ấn Độ trở về, Kahn mất đột ngột vì một cơn đau tim tại phòng tắm nhà ga Pennsylvania ở Thành phố New York, người ta chỉ có thể xác định được danh tính của ông sau 3 ngày vì ông đã xóa địa chỉ của bản thân trên hộ chiếu. Các công trình kiến trúc Tất cả các năm sau đây là năm bắt đầu xây dựng 1951 - University Art Center 1954 - Trenton Bath House 1957 - Richards Medical Center - Trung tâm nghiên cứu Y học Richards thuộc trường Đại học Tổng hợp Pensylvanie, Philadelphie, Mỹ. 1959 - Salk Institute 1959 - Esherick House 1959 - First Unitarian Church of Rochester 1960 - Erdman Hall Dormitories 1960 - Norman Fisher House 1963 - Institute of Public Administration 1962 - National Assembly Building, Dhaka, Bangladesh 1967 - Exeter Library 1967 - Kimbell Art Museum 1969 - Yale Center for British Art Tham khảo Liên kết ngoài Trang web về Kahn Kỉ niệm 100 năm ngày sinh của Kahn cùng với ảnh Bộ sưu tập về Louis Kahn, trường đại học Pennsylvania Space is the place , sưu tập cá nhân về các công trình của Kahn] Nhà trưng bày nghệ thuật trường đại học Yale University Kahn, Louis Kahn, Louis Kahn, Louis Kahn, Louis Kahn, Louis Kahn, Louis Kahn, Louis Giảng viên Đại học Yale Sinh năm 1901 Mất năm 1974
28581
https://vi.wikipedia.org/wiki/Joseph%20Paxton
Joseph Paxton
Joseph Paxton (3 tháng 8 năm 1803 – 8 tháng 6 năm 1865) sinh ra tại Milton Bryan, Anh, là con thứ 7 của một gia đình nông dân. Ông trở thành thợ làm vườn vào năm 17 tuổi ở Battlesden. Năm 1823, ông được bổ nhiệm một chức vụ tại Hội làm vườn Chiswick, dinh thực của Công tước Devonshire ở Chiswick. Trong một lần gặp gỡ, ngài công tước đã có ấn tượng mạnh với chàng thanh niên trẻ và chỉ định Paxton đứng đầu hội những người làm vườn tại Chatsworth. Vào năm 1832, Paxton được bổ nhiệm làm quản gia đất đai cho công tước Devonshire. Ông đã cho tạo ra các hồ nhân tạo, nhà vườn trên các vùng đất của công tước. Từ 1836 đến 1840, ông thiết kế và xây dựng một nhà kính khổng lồ tại Chatsworth. Đó là kính lớn nhất thế giới vào thời điểm đó. Tuy nhiên, do giá thành quá đắt về sưởi ấm, công trình đó đã bị phá hủy vào năm 1923. Vào năm 1844, ông xây dựng vòi phun nước Đế chế, cao nhất châu Âu thời đó với độ cao là 280 feet (khoảng 85 mét) Ông cũng xây dựng nhà kính lớn thứ nhì thế giới cho Nữ hoàng Victoria. Những công trình đó chính là những thử nghiệm đầu tiên cho các kĩ thuật về kết cấu kính và thép tiền chế mà Paxton là người tiên phong. Đây sẽ là những kĩ thuật mà ông sẽ sử dụng sau này ở Cung điện Thủy tinh (The Crystal Palace) tại triển lãm thế giới năm 1851. Những kĩ thuật đó được phát triển bằng những tiến bộ dựa trên việc sản xuất kính và thép cũng như tác dụng tích cực của việc giảm thuế kính. Năm 1850, Paxton được ủy quyền bởi Nam tước Mayer de Rothschild để thiết kế tháp Mentmore ở Buckinghamshire. Đó là một trong những công trình lớn nhất được xây dựng dưới triều đại Nữ hoàng Victoria. Sau khi công trình này hoàn thành, Paxton được một người anh em họ của Nam tước Rothschild ủy quyền xây dựng Lâu đài Ferrières (Château de Ferrières) tại Ferrières-en-Brie, gần Paris. Công trình này lớn gấp đôi kích cỡ của Mentmore, cả hai vẫn còn tồn tại đến thời điểm hiện nay, năm 2006. Paxton còn xây dựng một phiên thu nhỏ khác của Mentmore tại Battlesden, gần Woburn ở Bedfordshire. Trái lại với hai công trình trên, căn nhà này được Công tước của Bedford mua rồi phá đi vì ông ta không muốn thấy một ngôi nhà lớn khác gần nhà của mình. Thủy tinh cung Vào năm 1851, nước Anh dẫn đầu trong cuộc Cách mạng công nghiệp. Triển lãm thế giới năm 1851 được xem như một biểu tượng cho khả năng công nghiệp, quân sự và kinh tế của một siêu cường quốc. Qua đó, người Anh muốn chứng tỏ những kì công của mình với toàn thế giới. Xuất phát từ ý tưởng của Hoàng thân Albert, chồng của Nữ hoàng Victoria, triển lãm được tổ chức tại công viên Hyde ở London trong một công trình có kết cấu đặc biệt. Đó là Thủy tinh cung. Công trình này được thiết kế bởi Joseph Paxton trong vẻn vẹn có 10 ngày với một số lượng khổng lồ kính và thép. Công trình tạo ra các không gian triển lãm thoả mãn cho việc trưng bày các sản phẩm khổng lồ của cuộc Cách mạng công nghiệp. Chính từ công trình này, hình thành một vẻ đẹp mới của kiến trúc, một vẻ đẹp của thời kì công nghiệp với vật liệu mới, kết cấu mới và không gian mới. Tham khảo Colquhoun, K. A Thing in Disguise: The Visionary Life of Joseph Paxton, Fourth Estate, 2003, Chadwick, G. Works of Sir Joseph Paxton, Architectural Press, 1961 Kết nối ngoài BBC Hình ảnh lịch sử Hiệp hội Joseph Paxton Joseph Paxton - Tiểu sử Eddie Richardson's page Sir Joseph Paxton - cây gia phải Paxton, Joseph Paxton, Joseph Nhà thực vật học với tên viết tắt Sinh năm 1803 Mất năm 1865
28583
https://vi.wikipedia.org/wiki/.ac
.ac
.ac là tên miền quốc gia cấp cao nhất (ccTLD) dành cho đảo Ascension. Nó được quản lý bởi NIC.AC , công ty phụ của Cục Máy tính Internet ở Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland. Bất cứ ai có thể đăng ký với tên miền này. Cơ quan đăng ký chấp nhận đăng ký tên miền quốc tế hóa. .ac cũng là tên miền ở cấp 2 cho những học viện, như là trường đại học, ở nhiều nước, ví dụ ở Anh và Bắc Ireland (.ac.uk), Nhật Bản (.ac.jp), và Áo (.ac.at). Nhiều nước khác sử dụng .edu cùng mục đích, ví dụ .edu.au ở Úc và .edu.my ở Malaysia. Cũng có nhiều nước (Pháp, Thụy Sĩ, v.v.) mà không có tên miền ở cấp 2 dành riêng cho học viện. Thay vì đó, mọi học viện có tên miền riêng ở cấp 2, ví dụ sorbonne.fr của Sorbonne, hoặc tum.de của Đại học Kỹ thuật München. Tham khảo Liên kết ngoài Thông tin whois của.ac từ IANA (tiếng Anh) Sở đăng ký tên miền.AC (Anh) ac Đảo Ascension ac sv:Toppdomän#A
28584
https://vi.wikipedia.org/wiki/.ad
.ad
.ad là tên miền Internet quốc gia (ccTLD) dành cho Andorra. Nó được quản lý bởi Andorra Telcom Bởi vì .ad cũng là viết tắt của từ quảng cáo, .ad cũng đã được sử dụng theo cách độc đáo như một cuộc tấn công tên miền bởi một số phương tiện quảng cáo, cũng như trong cách sử dụng năm 20XX.ad. Tham khảo Liên kết ngoài Thông tin whois của.ad của IANA (tiếng Anh) Trang chủ STA (tiếng Catalan) ad Andorra ad Tên miền quốc gia cấp cao nhất Thành viên CENTR he:סיומת אינטרנט#טבלת סיומות המדינות sv:Toppdomän#A
28585
https://vi.wikipedia.org/wiki/.ae
.ae
.ae là tên miền Internet quốc gia (ccTLD) dành cho Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất. Nó được quản lý bởi Etisalat. Đăng ký tên miền cấp 2 và cấp 3 Có thể đăng ký trực tiếp tên miền cấp 2 hoặc cấp 3 dưới những tên khác nhau. Trước đây, .co.ae được dùng cho các đơn vị thương mại, nhưng nó đã không còn được dùng do việc ủng hộ đăng ký tên miền cấp 2; tuy nhiên, việc đăng ký .co.ae vẫn được phép nếu người đăng ký muốn. .ae — Công ty, tổ chức hoặc cá nhân .net.ae — Cung cấp dịch vụ mạng .gov.ae — Chính phủ .ac.ae — Trường đại học, cao đẳng hoặc viện nghiên cứu .sch.ae — Trường công lập hoặc tư nhân .org.ae — Tổ chức phi lợi nhuận .mil.ae — Tổ chức quân sự .pro.ae — Chuyên gia .name.ae — Cá nhân Tham khảo Liên kết ngoài Website để đăng ký tên miền dưới. ae (tiếng Anh, Ả Rập) Etisalat (Anh) Thông tin whois của. ae từ IANA (Anh) ae Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất Tên miền quốc gia cấp cao nhất sv:Toppdomän#A
28586
https://vi.wikipedia.org/wiki/.af
.af
.af là tên miền Internet quốc gia (ccTLD) dành cho Afghanistan. Nó được quản lý bởi AFGNIC, phục vụ của Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc và Chính phủ Hồi giáo Chuyển tiếp Afghanistan. Tính đến ngày 26 tháng 8 năm 2020, .af đã được 5960 miền sử dụng. Đăng ký được thực hiện trực tiếp nếu đăng ký tên miền cấp độ hai hoặc cấp thứ ba dưới các miền phụ được phân loại khác nhau ở cấp hai. Miền cấp ba có các hạn chế dựa trên miền cấp hai mà chúng được đăng ký. Đăng ký ở cấp hai là không hạn chế, nhưng đắt hơn. Tất cả các khoản phí đều cao hơn đối với người đăng ký quốc tế. Miền .af được giao cho Abdul Razeeq vào năm 1997, một năm sau khi các chiến binh Taliban chiếm được Kabul và thành lập Tiểu vương quốc Hồi giáo Afghanistan. NetNames of London ban đầu duy trì miền sau một thỏa thuận với IANA. Razeeq sau đó biến mất, tạm dừng một số dịch vụ. Miền được mở lại vào ngày 10 tháng 3 năm 2003 như một chương trình hợp tác giữa UNDP và Bộ Truyền thông Afghanistan. Tên miền cấp 2 .gov.af .com.af .org.af .net.af .edu.af .tv.af .media.af Tham khảo Liên kết ngoài Thông tin whois của.af từ IANA (tiếng Anh) Trang chính của AFGNIC (Anh) af Afghanistan af Tên miền quốc gia cấp cao nhất Thành viên CENTR sv:Toppdomän#A
28587
https://vi.wikipedia.org/wiki/.ag
.ag
.ag là tên miền quốc gia cấp cao nhất (ccTLD) dành cho Antigua và Barbuda. Nó được quản lý bởi Trường sở Y khoa của Đại học Khoa học Sức khỏe Antigua. Tham khảo Liên kết ngoài Thông tin whois của.ag từ IANA (tiếng Anh) ag Antigua và Barbuda Tên miền quốc gia cấp cao nhất sv:Toppdomän#A
28588
https://vi.wikipedia.org/wiki/.ai
.ai
.ai là tên miền Internet quốc gia (ccTLD) dành cho Anguilla. Nó được quản lý bởi chính phủ Anguilla. Tham khảo Liên kết ngoài Thông tin whois của.ai từ IANA (tiếng Anh) ai Anguilla Tên miền quốc gia cấp cao nhất sv:Toppdomän#A
28589
https://vi.wikipedia.org/wiki/.al
.al
.al là tên miền Internet quốc gia (ccTLD) dành cho Albania. Nó được quản lý bởi Ủy quyền Điều chỉnh Viễn thông Albania. Tham khảo Liên kết ngoài Thông tin whois của.al từ IANA (tiếng Anh) al Albania Tên miền quốc gia cấp cao nhất sv:Toppdomän#A
28590
https://vi.wikipedia.org/wiki/.am
.am
.am là tên miền Internet quốc gia (ccTLD) dành cho Armenia, cộng hòa thuộc Liên Xô ngày xưa. Trừ ra các tên miền dành riêng, như là.com.am,.net.am và.org.am, bất cứ ai có thể đăng ký tên miền dưới.am miễn là trả tiền. Luật Armenia cấm sử dụng tên miền dưới.am để hoạt động website sử dụng để spam, hay hoạt động khủng bố, hoặc với mục đích xấu... Sở quản lý tên miền.am là ISOC-AM, hội địa phương của Internet Society. Vào năm 2014,.am vượt qua.հայ trở thành tên miền được sử dụng phổ biến nhất tại Armenia. Tham khảo Wikipedia Enligh about.am domain name (tiếng Anh) Liên kết ngoài Thông tin whois của.am từ IANA (tiếng Anh) Trung tâm Thông tin Mạng lưới Armenia (Anh) am Armenia am Tên miền quốc gia cấp cao nhất Thành viên CENTR sv:Toppdomän#A
28591
https://vi.wikipedia.org/wiki/.an
.an
.an là tên miền Internet quốc gia (ccTLD) dành cho quần đảo Antilles Hà Lan. Nó được quản lý bởi Đại học Antilles Hà Lan. Tham khảo Liên kết ngoài Thông tin whois của.an từ IANA (tiếng Anh) an Antille thuộc Hà Lan Tên miền quốc gia cấp cao nhất sv:Toppdomän#A
28592
https://vi.wikipedia.org/wiki/.ao
.ao
.ao là tên miền Internet quốc gia (ccTLD) dành cho Angola. Nó được quản lý bởi Trường sở Kỹ sư của Đại học Agostinho Neto. Tham khảo Liên kết ngoài Thông tin whois của.ao từ IANA (tiếng Anh) ao Angola Tên miền quốc gia cấp cao nhất sv:Toppdomän#A
28595
https://vi.wikipedia.org/wiki/.ar
.ar
.ar là tên miền Internet quốc gia (ccTLD) dành cho Argentina. Nó được quản lý bởi Bộ Ngoại giao Argentina. Tham khảo Liên kết ngoài NIC Argentina (tiếng Tây Ban Nha) Thông tin whois của.ar từ IANA (tiếng Anh) Internet ở Argentina Tên miền quốc gia cấp cao nhất Internet tại Argentina
28596
https://vi.wikipedia.org/wiki/.as
.as
.as là tên miền Internet quốc gia (ccTLD) dành cho quần đảo Samoa thuộc Mỹ. Nó được quản lý bởi AS Domain Registry. Tham khảo Liên kết ngoài Thông tin whois của.as từ IANA (tiếng Anh) as Samoa thuộc Mỹ Tên miền quốc gia cấp cao nhất Kinh tế Samoa thuộc Mỹ sv:Toppdomän#A
28602
https://vi.wikipedia.org/wiki/.au
.au
Bài này nói về tên miền quốc gia. Để đọc về định dạng âm thanh, xem .au (định dạng tập tin). .au là tên miền Internet quốc gia (ccTLD) dành cho Úc. Nó được quản lý bởi Chính quyền Tên miền.au. Tham khảo Liên kết ngoài Thông tin whois của.au từ IANA (tiếng Anh) auDA (Anh) AusRegistry (Anh) Danh sách sổ đăng ký được tím nhiệm bởi AusRegistry (Anh) au Úc Tên miền quốc gia cấp cao nhất sv:Toppdomän#A
28603
https://vi.wikipedia.org/wiki/.aw
.aw
.aw là tên miền Internet quốc gia (ccTLD) dành cho Aruba. Nó được quản lý bởi SETAR. Có thể đăng ký tên miền dưới.aw ở cấp 2, và cũng có tiểu tên miền .com.aw dành cho những website thương mại. Tham khảo Liên kết ngoài Thông tin whois của.aw từ IANA (tiếng Anh) aw Aruba Tên miền quốc gia cấp cao nhất
28605
https://vi.wikipedia.org/wiki/.az
.az
.az là tên miền Internet quốc gia cao cấp (ccTLD) dành cho Azerbaijan. Nó được Azerbaijan Communications quản lý. Tham khảo Liên kết ngoài Thông tin whois của.az từ IANA (tiếng Anh) az Internet tại Azerbaijan Tên miền quốc gia cấp cao nhất Thành viên CENTR
28606
https://vi.wikipedia.org/wiki/.ba
.ba
.ba là tên miền Internet quốc gia (ccTLD) dành cho Bosna và Hercegovina. Nó được quản lý bởi Trung tâm Thông tin từ xa Đại học. Tham khảo Liên kết ngoài Thông tin whois của.ba từ IANA (tiếng Anh) NIC.BA BIHnet (.com.ba) Sayber (.co.ba) SARnet Centar (.rs.ba) ba Bosna và Hercegovina Tên miền quốc gia cấp cao nhất sv:Toppdomän#B
28607
https://vi.wikipedia.org/wiki/.bb
.bb
.bb là tên miền Internet quốc gia (ccTLD) dành cho Barbados. Nó được quản lý bởi Cable & Wireless (Barbados) Limited. Tham khảo Liên kết ngoài Thông tin whois của.bb từ IANA (tiếng Anh) bb Barbados Tên miền quốc gia cấp cao nhất sv:Toppdomän#B
28608
https://vi.wikipedia.org/wiki/.bd
.bd
.Bd là tên miền Internet quốc gia (ccTLD) dành cho Bangladesh. Nó được quản lý bởi Bộ Bưu điện & Viễn thông Bangladesh. Phải đăng ký ở cấp 3 dưới vài tên miền cấp 2 (.com.bd, .edu.bd, .net.bd, .gov.bd, .org.bd, và .mil.bd), theo các gTLD đầu tiên; có thể đăng ký dưới bất kỳ tên miền nào trừ.gov.bd và.mil.bd, hai tên miền đó dành cho các tổ chức trong chính phủ và quân đội Bangladesh. Tham khảo Liên kết ngoài Thông tin whois của.bd từ IANA (tiếng Anh) bd Bangladesh Tên miền quốc gia cấp cao nhất
28615
https://vi.wikipedia.org/wiki/.be
.be
.be là tên miền Internet Quốc gia (ccTLD) dành cho Bỉ. Tên miền này bắt đầu hoạt động vào năm 1989 và được quản lý bởi Pierre Verbaeten của Đại học Công giáo xứ Leuven (Katholieke Universiteit Leuven). Năm 2000, quyền hành của tên miền này được đổi tay cho DNS Belgium. Theo cuối năm 2005, hơn 480.000 tên miền đã được đăng ký dưới.be. Tham khảo Liên kết ngoài Thông tin whois của.be từ IANA (tiếng Anh) Danh sách sở đăng ký.be be Bỉ be Tên miền Quốc gia cấp cao nhất Thành viên CENTR
28617
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cincinnati
Cincinnati
Cincinnati (được phát âm như "Xin-xin-na-ti") là thành phố ở miền tây nam Ohio, Hoa Kỳ nằm bên cạnh sông Ohio và vùng Bắc Kentucky. Nó là quận lỵ của quận Hamilton. Theo Thống kê Dân số năm 2000, Cincinnati có dân số 331.285, có nghĩa Cincinnati là thành phố lớn thứ ba của Ohio. Cincinnati được coi là "boomtown" đầu tiên của Mỹ, từ đầu thế kỷ 19, khi nó mở mang rất nhanh ở trung tâm quốc gia để cạnh tranh các thành phô lớn ở vùng biển về dân số và giàu có. Là thành phố nội địa lớn đầu tiên trong nước, đôi khi nó được gọi là thành phố hoàn toàn Mỹ đầu tiên, không có ảnh hưởng châu Âu mạnh như ở vùng biển đông, nhưng vẫn giữ nhiều đặc tính của những thành phố cũ ở Âu Châu do các nhập cư, phần lớn là người gốc Đức. Tuy nhiên, vào cuối thế kỷ, Cincinnati đã hết mở mang nhanh chóng, và nó bị nhiều thành phố nội địa khác vượt qua theo dân số, nhất là Chicago. Tên gọi Thành phố này cũng được gọi tên hiệu "The Queen City" (Thành phố Nữ vương), "The Blue Chip City", "Cincinnata", "The Big Onion" (Củ hành Lớn), và "Zinzinnati" (chỉ đến gốc Đức của thành phố). Tên nó cũng được gọi tắt là "Cincy", "Cinci", "Cinti", hay "the 'Nati". Cincinnati cũng được gọi City of Seven Hills (Thành phố Bảy Đồi), nhưng tên này không còn miêu tả thành phố. Thật vậy, tại vì có nhiều hơn bảy đồi ở Cincinnati ngày nay. Ngày xưa, khi thành phố nhỏ hơn, số tháng 6 năm 1853 của West American Review miêu tả và liệt kê bảy đồi rõ ràng trong bài "Article III -- Cincinnati: Its Relations to the West and South". Các đồi này làm thành hình lưỡi liềm chung quanh thành phố: núi Adams, Walnut Hills, núi Auburn, đồi Đường Vine, Fairmont (nay là Fairmount), núi Harrison, và đồi College. Tên hiệu Porkopolis được đặt cho thành phố vào khoảng 1835, khi Cincinnati là vùng nuôi heo lớn của nước Mỹ. Được gọi Queen of the West (Nữ vương miền Tây) bởi Henry Wadsworth Longfellow (tuy tên này được sử dụng lần đầu tiên trong tờ báo địa phương năm 1819), Cincinnati là đoạn quan trọng trên trong hệ thống Đường Sắt Ngầm (Underground Railroad), hệ thống này giúp những người nô lệ trốn khỏi miền Nam vào thời trước Nội chiến Hoa Kỳ. Địa lý và khí hậu Cincinnati nằm thuộc miền tây nam Ohio, tại tọa độ (39,136160, −84,503088). Theo Cục Thống kê Dân số Hoa Kỳ, thành phố có tổng diện tích là 206,1 km² (79,6 dặm vuông). Trong đó, 201,9 km² (78,0 dặm vuông) là đất và 4,1 km² (1,6 dặm vuông hay 2,01%) là nước. Cincinnati toạ lạc tại bờ Bắc của Sông Ohio, gần đoạn sông này hợp lưu với các sông Miami, Miami nhỏ, và Licking. Trung tâm của thành phố được xây trên một lưu vực với các khu dân cư trải lên tận các ngọn đồi phía trên. Độ cao trung bình là 147 m (482 foot). Thành phố có khí hậu lục địa chịu ảnh hưởng bởi các luồn không khí lạnh từ phía Bắc và không khí ấm từ Vịnh Mexico, tạo ra thời tiết hay thay đổi. Nhiệt độ trung bình cao vào tháng Giêng là 3 °C (37 °F) và trung bình thấp là −7 °C (20 °F); trung bình cao vào tháng 7 là 30 °C (86 °F) và trung bình thấp là 18 °C (65 °F). Lượng mưa trung bình mỗi năm là 1.050 mm (41 inch) với lượng mưa từ tháng 3 đến tháng 7 nhiều hơn các tháng khác. Lịch sử Cincinnati được thành lập năm 1788 bởi John Cleves Symmes và Đại tá Robert Patterson. Thanh tra viên John Filson (cũng là tác giả của The Adventures of Colonel Daniel Boone) đặt tên thành phố là Losantiville bắt nguồn từ bốn từ, mỗi cái trong ngôn ngữ khác, có nghĩa là "Thành phố đối diện với cửa sông Licking". "Ville" là tiếng Pháp của "thành phố", "anti" là tiếng Hy Lạp của "đối diện", "os" là tiếng Latinh của "miệng" (tức là "cửa sông"), và chữ "L" là phần duy nhất của "sông Licking" được bao gồm. Vào năm 1790, Arthur St. Clair, thống đốc của Lãnh thổ Tây Bắc, đổi tên của vùng thành "Cincinnati" để kỷ niệm Hội Cincinnati, tổ chức có ông là tổng thống. Hội đó kỷ niệm Tướng George Washington, được coi như Cincinnatus ngày nay – Cincinnatus là tướng La Mã bảo vệ thành phố ông và sau đó bỏ chính trị và trở về nhà trại ông. Ngày nay, Cincinnati nói riêng, và Ohio nói chung, có rất nhiều con cháu của lính Cách mạng được chính phủ cho đất ở tiểu bang này. Vào năm 1802, Cincinnati được chính quyền tăng cấp thành làng dựa theo hiến chương, và thị trưởng đầu tiên là David Ziegler (1748–1811), một chiến sĩ Nội chiến sinh ở Heidelberg, Đức. Năm 1819, nó được trở thành thành phố. Do tàu hơi nước bắt đầu qua lại trên sông Ohio năm 1811 và Kênh Miami và Erie được xây xong giúp thành phố mở mang, có 115.000 dân cư vào năm 1850. Kênh Miami và Erie được bắt đầu xây ngày 21 tháng 7 năm 1825, và nước được trệch qua lòng kênh vào năm 1827. Mới đầu nó được gọi là Kênh Miami, chỉ đến nguồn ở sông Miami nhỏ. Kênh này mới đầu nối Cincinnati với Middleton năm 1827, và vào năm 1840 nó tới Toledo. Đường sắt cũng tới Cincinnati vào thời đó. Năm 1880, Cincinnati trở thành thành phố đầu tiên xây và làm chủ một đường sắt lớn, Đường sắt Cincinnati, New Orleans, và Texas Pacific. Năm 1836, Công ty Đường sắt Miami nhỏ được quyền mở cửa. Họ bắt đầu xây đường sát ngay sau đó, có mục đích nối Cincinnati với Đường sắt Sông Mad và Hồ Erie, để nối thành phố này với cảng ở vịnh Sandusky. Ngày 1 tháng 4 năm 1853, Sở cứu hỏa Cincinnati trở thành sở cứu hỏa đầu tiên thuê người chữa cháy cả ngày, và sở đầu tiên sử dụng xe hơi chữa cháy. Sau năm sau, vào năm 1859, Cincinnati xây sáu đường xe điện để cho dân thành phố có thể chạy đi chạy lại tiện hơn. Năm 1866, Cầu treo John A. Roebling được xây qua sông Ohio. Hồi đó nó là cầu treo dài nhất trên thế giới; John A. Roebling sử dụng thiết kê của nó để xây Cầu Brooklyn 17 năm sau. Vào năm 1872, người Cincinnati có thể chạy bằng xe điện ở trong thành phố rồi đi xe lửa tới những thị trấn trung quanh ở trên đồi. Công ty Mặt nghiêng Cincinnati (Cincinnati Inclined Plane Company) bắt đầu chở khách đến trên núi Auburn năm đó. Đội Cincinnati Red Stockings ("Vớ đỏ Cincinnati"), sau đó được gọi Cincinnati Reds, cũng bắt đầu vào thế kỷ 19. Năm 1868, có hội họp ở phòng luật sư Tilden, Sherman, và Moulton để làm đội bóng chày của Cincinnati trở thành đội chuyên nghiệp; nó trở thành đội chuyên nghiệp đầu tiên trong nước khi được tổ chức chính thức năm sau. Năm 1879, Procter & Gamble, một trong những hãng xà bông lớn nhất ở Cincinnati, bắt đầu bán xà bông Ivory Soap. Nhiều người thích nó vì nó nổi trên nước. Sau khi nhà máy đầu tiên bị cháy, Procter & Gamble qua nhà máy mới dọc nhánh sông Mill Creek và bắt đầu sản xuất xà bông lại; từ từ, vùng đó lấy tên Ivorydale. Năm 1902, nhà chọc trời bằng bê tông cốt thép đầu tiên trên thế giới, Tòa nhà Ingalls, được xây dựng ở Cincinnati. Năm 1905, "Các con trai của Daniel Boone" (The Sons of Daniel Boone) được thành lập ở Cincinnati; nó sẽ trở thành một phần đầu tiên của tổ chức hướng đạo sinh Boy Scouts of America. Procter & Gamble tạo ra loại chương trình "soap opera" (kịch xà bông) khi họ giúp sản xuất chương trình radio Ma Perkins (Bà Perkins) năm 1933. Cho đến 1939, đài radio AM của Cincinnati, WLW, thí nghiệm về phát thanh; trong thời đó, nó trở thành đài đầu tiên phát thanh với điện lực tới 500.000 watt. Năm 1943, hãng thâu King Records và công ty phụ Queen Records được thành lập và thâu những ca sĩ mà tương lai có ảnh hưởng đến nhạc country, R&B, và rock. WCET-TV là đài truyền hình công cộng đầu tiên được quyền truyền hình, sau khi nó được thành lập năm 1954. Vào tháng 5 năm 2001, Cincinnati bị náo loạn chủng tộc vài ngày sau khi cảnh sát người da trắng theo đuổi một người da đen 19 tuổi về những tội nhẹ và bắn anh chết. Thị trưởng Charlie Luken phải ra lệnh giới nghiêm toàn thành phố, lần đầu tiên sau những năm 1960. Tuy cuộc náo loạn chỉ kéo dài vài ngày, sau đó nhiều tổ chức tẩy chay các việc thương mại tại thành phố, làm Cincinnati mất hơn 10 triệu đô la. Dân số Theo Thống kê Dan số năm 2000, Cincinnati có dân số 331.285, có nghĩa Cincinnati là thành phố lớn thứ ba của Ohio, đằng sau Columbus và Cleveland. Tuy nhiên, nó có khu vực đô thị lớn hơn nhiều, bao gồm phần của Ohio, Kentucky, và Indiana. Khu vực thống kê tổng hợp Cincinnati-Middletown-Wilmington có dân số là 2.050.175 người và là khu vực thống kê tổng hợp lớn thứ 18 trong nước. Đại Cincinnati (Greater Cincinnati) là khu vực đô thị lớn thứ hai ở Ohio, chỉ thua Cleveland. Dân số miền Cincinnati đã lên 4,7% từ năm 2000, và sẽ vượt qua khu vực đô thị Cleveland vào năm 2007, theo Thống kê Dân số. Dân số lịch sử * Dân số ước lượng năm 2005. Nguồn: Cục Thống kê Dân số Hoa Kỳ Kinh tế Cincinnati có nhiều công ty nổi tiếng như là Procter & Gamble, Kroger, GE Infrastructure, Federated Department Stores (chủ Macy's, Bloomingdale's, và Lord & Taylor), Chiquita Brands International, Công ty Bảo hiểm Great American, Công ty E. W. Scripps, Công ty U.S. Playing Card, và Fifth Third Bank. Xã hội Chính phủ và chính trị Chính phủ được quản lý bởi hội đồng thành phố có chín hội viên được bầu toàn thành phố (at-large). Trước năm 1924, hội đồng được bầu theo hệ thống khu vực bầu cử (ward). Hệ thống này hay bị tham nhũng, và Cincinnati bị cai trị bởi bộ máy chính trị Cộng hòa của Ông trùm Cox (Boss Cox) từ thập kỷ 1880 cho đến thập kỷ 1920, chỉ có vài lúc nghỉ. Phong trào cải cách bắt đầu vào năm 1923, được hương dẫn bởi một người Cộng hòa khác, Murray Seasongood. Seasongood cuối cùng thành lập Ủy ban Hiến chương, nay là đảng Hiến chương, nó sử dụng cuộc trưng cầu dân ý vào năm 1924 để xóa bỏ hệ thống ward và thay nó bằng hệ thống bầu cử toàn thành phố hiện có; nó cũng bắt đầu mô hình chính phủ quản đốc (city manager). Từ 1924 đến 1957, hội đồng được chọn theo mô hình tiêu biểu cân đối. Bắt đầu từ năm 1957, mỗi ứng củ viên vận động cho một bầu cử và chín người được nhiều lá phiếu nhất được bầu ("hệ thống 9-X"). Thị trưởng được chọn bởi hội đồng. Năm 1977, Jerry Springer được làm thị trưởng một năm. (Sau đó, ông nổi tiếng vì dẫn chương trình thảo luận hay gây tranh luận.) Bắt đầu từ năm 1987, người được nhiều lá phiếu nhất tự động được làm thị trưởng. Từ năm 1999, thị trưởng được chọn trong cuộc bầu cử riêng và vai trò của quản đốc thành phố bị giảm; những cải cách này được gọi là hệ thống "thị trưởng mạnh". Chính trị ở Cincinnati bao gồm đảng Hiến chương, đảng có lịch sử thắng cử địa phương dài thứ ba trong nước. Quan hệ chủng tộc Ngày xưa, Cincinnati nằm trên biên giới giữa các tiêu bang nhận hệ thống nô lệ, như là Kentucky, và các tiểu bang "tự do" trước và trong Nội chiến. Vào những năm trước Nội chiến, Cincinnati và các vùng chung quanh có vai trò lớn trong Phong trào Bãi nô. Vùng này là một phần của Tuyến hỏa xa ngầm (Underground Railroad) và là nơi ở của nhà văn Harriet Beecher Stowe. Các nhân vật trong cuốn sách Túp lều bác Tôm phỏng theo những nô lệ trốn ở vùng này. Levi Coffin làm vùng Cincinnati là trung tâm của những vận động bãi nô vào năm 1847. Ngày nay, viện bảo tàng Trung tâm Tự do Tuyến hỏa xa ngầm Quốc gia (National Underground Railroad Freedom Center) kỷ niệm thời này. Cincinnati bị nhiều vụ bạo lực do chủng tộc, cả trước và sau Nội chiến; vụ lớn nhất là cuộc náo loạn năm 2001. Thể thao Thành phố này có vài đội thể thao thuộc liên đoàn quốc gia, bao gồm đội bóng chày Reds và đội bóng bầu dục Bengals, và cũng đăng cai cuộc đấu quần vợt quốc tế Cincinnati Masters & Women's Open. Thành phố thân hữu Cincinnati có 9 thành phố thân hữu. Chú thích Xem thêm Cincinnati Masters Dàn nhạc giao hưởng Cincinnati Dàn nhạc Cincinnati Pops Náo loạn chủng tộc Cincinnati, 2001 The Cincinnati Enquirer Sân bay quốc tế Cincinnati/Bắc Kentucky Vườn thú và bách thảo Cincinnati Liên kết ngoài Website chính thủc của chính phủ Cincinnati Cincinnati USA – Phòng Thương mại Miền Cincinnati Hình ảnh về Cincinnati Cảnh Thực tế ảo của Cincinnati Hội đòng Phim Cincinnati Thành phố của Ohio Quận lỵ Ohio Quận Hamilton, Ohio
28621
https://vi.wikipedia.org/wiki/Queen%20City
Queen City
Queen City là tên chính thức của hai thành phố Hoa Kỳ sau đây: Queen City, Missouri Queen City, Texas "Queen City" cũng còn được dùng để gọi các thành phố sau đây của Hoa Kỳ. Allentown, Pennsylvania Bangor, Maine Buffalo, New York Burlington, Vermont Charlotte, Bắc Carolina Cincinnati Helena, Montana Manchester, New Hampshire Seattle, Washington Theo thông tục của Khối Thịnh vượng chung Anh, "Queen City" (Thành phố của Nữ hoàng) thường được dùng để chỉ nhiều thủ phủ của các tỉnh bang hay các bang của các quốc gia có quốc trưởng là một nữ hoàng. Thủ phủ Regina của tỉnh bang Saskatchewan và thành phố Toronto của tỉnh bang Ontario thường được gọi một cách thân mật là "Queen City".
28637
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%C3%BAc%20Th%E1%BB%ABa%20D%E1%BB%A5
Khúc Thừa Dụ
Khúc Thừa Dụ (chữ Hán: 曲承裕; 830 – 907) được suy tôn là Khúc Tiên Chủ (曲先主), là tiết độ sứ người bản địa đầu tiên của Tĩnh Hải quân, đồng thời là người đặt cơ sở cho nền độc lập của dân tộc Việt sau hơn 1.000 năm thuộc Trung Quốc. Nguồn gốc Khúc Thừa Dụ quê ở Hồng Châu (thuộc địa hạt Bàng Giang, Ninh Giang cũ ở Hải Dương), mấy đời là hào tộc mạnh, tính khoan hòa, hay thương người, cho nên có nhiều người kính phục. Sự nghiệp Nước Việt thời bấy giờ bị chính quyền nhà Đường Trung Quốc đô hộ, năm Kỷ Mão (679) vua Đường Cao Tông nhà Đường chia đất Giao Châu ra làm 12 châu, 59 huyện và đặt An Nam đô hộ phủ. Năm 866, vua Đường Ý Tông thăng An Nam đô hộ phủ lên thành Tĩnh Hải quân. Năm Đinh Mão (907) nhà Đường mất ngôi, nhà Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu tranh nhau làm vua. Mỗi nhà được mấy năm, gồm tất cả là 52 năm, gọi là đời Ngũ Quý hay là Ngũ Đại. Trước khi nhà Đường sắp mất ngôi độ mấy năm, thì bên Trung Quốc loạn, giặc cướp nổi lên khắp cả mọi nơi. Uy quyền nhà vua không ra đến bên ngoài, thế lực ai mạnh thì người ấy xưng đế, xưng vương. Ở nước Việt, lúc bấy giờ có một người họ Khúc tên là Thừa Dụ, quê ở Hồng Châu (thuộc địa hạt Bàng Giang và Ninh Giang ở Hải Dương). Khúc Thừa Dụ vốn là một người hào phú trong xứ, mà tính lại khoan hòa, hay thương người, cho nên có nhiều người kính phục. Năm 905 Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ Độc Cô Tổn bị triệu về nhà Đường (đời vua Đường Ai Đế) để trị tội, đất Tĩnh Hải quân vô chủ. Khúc Thừa Dụ thừa dịp dẫn quân đánh chiếm thủ phủ Đại La của Tĩnh Hải quân. Năm Bính Dần (906) đời vua Đường Ai Đế, nhân khi trong châu có loạn, dân chúng đã cử ông làm Tiết độ sứ để cai trị Tĩnh Hải quân. Việt sử thông giám cương mục (Tiền biên, quyển 5) viết: "Họ Khúc là một họ lớn lâu đời ở Hồng Châu. Khúc Thừa Dụ tính khoan hòa, hay thương người, được dân chúng suy tôn. Gặp thời buổi loạn lạc, nhân danh là hào trưởng một xứ, Thừa Dụ tự xưng là Tiết độ sứ..." Nhà Đường lúc bấy giờ suy nhược, thế không ngăn cấm được, nên thuận cho ông làm Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ. Khúc Thừa Dụ dựng đô ở La Thành, làm cho dân yên, nước trị. Ông khéo léo dùng danh nghĩa "xin mệnh nhà Đường" buộc triều đình nhà Đường phải công nhận chính quyền của ông. Ngày 7 tháng 2 năm 906, vua Đường Ai Đế phong thêm cho Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ Khúc Thừa Dụ tước "Đồng bình chương sự". Sau đó, Khúc Thừa Dụ tự lấy quyền mình, phong cho con là Khúc Hạo chức vụ "Tĩnh Hải hành quân tư mã quyền tri lưu hậu", tức là chức vụ chỉ huy quân đội và sẽ kế vị quyền Tiết độ sứ. Năm sau nhà Đường mất ngôi (907), nhà Hậu Lương lên thay. Vua Hậu Lương Thái Tổ phong cho Lưu Ẩn làm Nam Bình Vương, kiêm chức Tiết độ sứ Quảng Châu và Tĩnh Hải quân, có ý để lấy lại Giao Châu. Ngày 23 tháng 7 năm 907, Khúc Thừa Dụ mất, Khúc Hạo lên kế vị. Dù ông không xưng vương xưng đế, nhưng sử gia Lê Tung viết trong sách Việt giám Thông khảo tổng luận gọi Khúc Thừa Dụ là Khúc Tiên chúa. Thờ phụng Ngày 11 tháng 9 năm 2009, đền thở Anh hùng dân tộc Khúc Thừa Dụ đã được khánh thành tại Hải Dương. Tham khảo Đại Việt Sử ký Toàn thư Nhà Xuất bản Khoa học xã hội, 1998, tập 1. Khâm định Việt sử Thông giám cương mục Việt Nam sử lược, Nhà Xuất bản Tân Việt, 1968. Lịch triều hiến chương loại chí, Nhà Xuất bản Giáo dục, 2006. An Nam chí lược, Viện Đại học Huế, Ủy ban Phiên dịch Sử liệu Việt Nam, 1961, bản điện tử. Xem thêm Tự chủ Họ Khúc Khúc Hạo Bắc thuộc Tiết độ sứ Chú thích Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ Lịch sử Việt Nam thời Tự chủ Họ Khúc Người Hải Dương Khởi nghĩa Việt Nam thời Bắc thuộc lần 3
28638
https://vi.wikipedia.org/wiki/Moshe%20Safdie
Moshe Safdie
Moshe Safdie (14 tháng 7 năm 1938 -) là một kiến trúc sư và nhà quy hoạch đô thị, tiến sĩ luật học. Ông sinh ra tại thị trấn Haifa, thuộc phần bảo trợ của Anh, nay là Israel. Ông cùng gia đình mình di cư tới Montréal khi còn nhỏ. Ông là một sinh viên xuất sắc tại Đại học McGill và là một học trò tài năng của Louis Kahn ở Đại học Philadelphia. Luận văn thạc sĩ của ông được lựa chọn để xây dựng một phần triển lãm quốc tế Expo '67. Công trình Habital 67, một khu chung cư gồm nhiều block nhà được chồng lên nhau tựa như một trò chơi xếp hình đã tạo cho ông một danh tiếng toàn cầu. Công trình này thể hiện xu hướng siêu cấu trúc (megastructure) của thời kì đó. Năm 1967, ông trở lại Israel, tham dự vào nhóm thiết kế khôi phục khu thành cổ Jerusalem. Từ năm 1976, Moshe Safdie trở thành giáo sư tại Đại học Harvard và thành lập hãng thiết kế Moshe Safdie và cộng sự tại Somerville, Massachusetts. Hãng cũng có trụ sở tại Toronto và Jerusalem. Năm 1986, ông được tặng thưởng Huân chương Canada (Order of Canada). Moshe Safdie tự nhận mình không thuộc bất cứ trường phái kiến trúc riêng biệt nào. Ông chỉ trích sự khô cứng của kiến trúc Hiện đại cũng như sự thừa thãi của kiến trúc Hậu Hiện đại. Công trình thiết kế Habitat 67 tại Triển lãm thế giới Expo '67, Montréal, Québec Coldspring New Town, Baltimore, Maryland Nhà Trưng bày Quốc gia, Ottawa, Ontario Quy hoạch chung thành phố Modi'in, Israel Tòa Thị chính cũ, Ottawa, Ontario Một số công trình, bao gồm nhà bảo tàng tại thành phố Yad Vashem, Jerusalem, Israel Thư viện Vancouver, Vancouver, British Columbia Nhánh chính của thư viện công cộng Thành phố Salt Lake Nhà chờ của ga số 3, sân bay quốc tế Ben Gurion, Israel Sân bay Changi Airport, Singapore Khách sạn Marina Bay, Singapore Tham khảo Liên kết ngoài Thư viện điện tử về Safdie tại Đại học McGill Moshe Safdie và cộng sự Kiến trúc sư Canada Kiến trúc sư Mỹ Kiến trúc sư Israel Nhân vật còn sống Kiến trúc hiện đại tại Canada
28648
https://vi.wikipedia.org/wiki/R%C6%B0%E1%BB%A3u%20vang
Rượu vang
Rượu vang (từ tiếng Pháp vin) là một loại thức uống có cồn được lên men từ nho. Sự cân bằng hóa học tự nhiên cho phép nho lên men không cần thêm các loại đường, axit, enzym, nước hoặc chất dinh dưỡng khác. Men tiêu thụ đường trong nho và chuyển đổi chúng thành rượu và carbon dioxide. Giống nho khác nhau và chủng nấm men khác nhau tạo thành các dạng khác nhau của rượu vang. Các dạng rượu vang nổi tiếng là kết quả của sự tương tác rất phức tạp giữa phát triển sinh hóa của nho, các phản ứng liên quan đến quá trình lên men, cùng với sự can thiệp của con người trong quá trình tổng thể. Rượu vang là một loại nước uống làm cho con người say, cũng giống như tất cả các loại đồ uống có cồn, thường được sử dụng vì các hiệu ứng say của nó trong suốt lịch sử cho đến ngày hôm nay. Mức độ ảnh hưởng đến thần kinh của rượu vang được thể hiện qua mức độ cồn trong máu. Rượu vang có một lịch sử phong phú hàng ngàn năm, với việc sản xuất rượu vang sớm nhất cho đến nay được phát hiện đã xảy ra khoảng 6000 TCN ở Georgia. Kỹ năng sản xuất rượu vang đã xuất hiện ở khu vực Balkan khoảng 4500 TCN. Rượu vang đã được uống để ăn mừng ở Hy Lạp cổ đại và La Mã cổ đại. Kể từ khi xuất hiện đầu tiên trong lịch sử, rượu vang cũng đã đóng một vai trò quan trọng trong tôn giáo. Rượu vang đỏ được người Ai Cập cổ đại coi là máu, Theo Plutarch, những người Ai Cập cổ đại đã tránh uống rượu vang thoải mái cho đến tận cuối thế kỷ thứ 7 TCN, triều đại Saite, "với suy nghĩ nó là máu của những người đã từng chiến đấu chống lại các vị thần". Văn hóa Hy Lạp và các bí ẩn của thần Dionysus, được những người La Mã trong Bacchanalia tiếp nối chính là nguồn gốc của sân khấu phương Tây. Do Thái giáo nhắc đến nó trong Kiddush và Kitô giáo trong Bí tích Thánh thể, trong khi đó Hồi giáo lại cấm uống rượu. Nguyên gốc của từ Từ tiếng Anh "wine" bắt nguồn từ từ *winam trong tiếng Tiền-Germanic, được mượn từ tiếng La Mã vinum, tiếng Gruzia ღვინო (ghvee-no), có nghĩa là "rượu vang", xuất phát từ nguồn gốc Tiền-Indo Âu win-o- (so sánh với , gini; Tiếng Hy Lạp cổ đại: oinos; Tiếng Aeolic: woinos; Tiếng Hit: wiyana; Tiếng Lycia: oino). Những thuật ngữ sớm nhất liên quan đến rượu vang được ghi nhận là từ me-tu-wo ne-wo (), có nghĩa là "trong (tháng)" hoặc "(lễ) của rượu vang mới", và wo-no-wa-ti-si, có nghĩa là "vườn nho", được viết bằng chữ viết Bảng chữ Linear B. Bảng chữ Linear B cũng bao gồm một biểu tượng ý niệm cho rượu vang, ký hiệu . Nguồn gốc Tiếng Indo-Âu cuối cùng của từ này đang được tranh cãi. Một số học giả đã nhận thấy sự tương đồng giữa các từ chỉ "rượu vang" trong các ngôn ngữ Indo-Âu (ví dụ: tiếng Armenia gini, tiếng Latinh vinum, tiếng Hy Lạp cổ đại οἶνος, tiếng Nga вино ), Kartvel (ví dụ: tiếng Gruzia ღვინო ), và Semit (*wayn; tiếng Do Thái יין ). Điều này nhấn mạnh khả năng có một nguồn gốc chung của từ chỉ "rượu vang" trong các họ ngôn ngữ này. Từ tiếng Gruzia có thể được truy vấn lại là *ɣwino-, có thể là một mượn từ Tiền-Indo Âu hoặc từ chủ đề đã được mượn cụ thể từ Tiền-Armenia *ɣʷeinyo-, từ đó tiếng Armenia gini. Tất cả các giả thuyết này đặt nguồn gốc của từ trong cùng một vị trí địa lý, Nam Kavkaz, nơi đã được xác định dựa trên nghiên cứu khảo cổ và sinh học phân tử là nguồn gốc của nghề trồng nho. Lịch sử Bằng chứng khảo cổ đã khẳng định việc sản xuất sớm nhất được biết đến của rượu vang từ nho lên men trong quá trình hậu thời kỳ đồ đá mới hoặc đầu thời kỳ đồ đồng ở vùng Kavkaz và rìa phía bắc của Trung Đông. Một dự án lập bản đồ gen mở rộng năm 2006 đã phân tích nòi giống của hơn 110 giống nho hiện đại, và thu hẹp nguồn gốc của chúng vào một khu vực của Gruzia. Điều này phù hợp với các di tích khảo cổ được phát hiện sớm nhất có chứa những mảnh gốm màu rượu vang khoảng 6000 năm TCN ở Gruzia, và khoảng 5000 TCN ở Iran. Các bình gốm tại khu vực tây bắc Iran đã cho thấy chúng được xử lý bằng nhựa thông, các hương liệu của retsina hiện đại. Khoảng 4500 TCN, việc sản xuất rượu vang đã được chuyển sang vùng Macedonia thuộc Hy Lạp cổ đại, các xưởng sản xuất rượu nho đầu tiên bao gồm các quá trình thu hồi và nghiền nát, và toàn bộ quá trình sản xuất rượu vang đã được phát hiện vào năm 2011 bên trong hang động Areni-1 ở Armenia, với niên đại khoảng 4100 TCN. Lịch sử rượu vang Pháp Rượu vang Pháp bắt nguồn từ miền Nam nước Pháp vào thế kỷ thứ 6 trước Công Nguyên – trước cả thời La Mã chiếm đóng. Nghề trồng nho bắt đầu phát triển ở thành phố Marseille – thuộc địa của người La Mã. Đế Chế La Mã đã cho phép những vùng ở phía Nam nước Pháp sản xuất rượu. Thánh Martin de Tours (316 – 397) đã tham gia tích cực truyền bá đạo Cơ Đốc Giáo và nghề trồng nho. Trong suốt thời Trung Cổ loạn lạc, những thầy tu đã có công giữ gìn các ruộng nho và kỹ thuật làm rượu. Các tu viện có sự bảo hộ cao, nguồn lực lao động dồi dào để sản xuất rượu vang cho những dịp lễ và nhờ nó tăng thêm thu nhập đáng kể. Trong thời kỳ đó, những ruộng nho lớn thường thuộc về các nhà thờ thiên chúa giáo và rượu của họ luôn được coi là rượu cao cấp. Sau này, giới quý tộc mở rộng thêm diện tích trồng nho. Tuy nhiên, cuộc cách mạng Pháp đã lãnh đạo phong trào tịch thu bớt ruộng đất của nhà thờ, giới quý tộc chia cho nhân dân. Chính vì lý do này, sản lượng nho cũng tăng lên. Mặc dù thời đó Bordeaux đã xuất khẩu rượu nhưng mãi đến năm 1850 hầu hết rượu của Pháp vẫn chỉ phục vụ cho nhu cầu nội địa. Do sự phát triển của ngành đường sắt và đường bộ, chi phí vận chuyển giảm nhờ đó mà lượng rượu xuất khẩu cũng tăng lên đáng kể. Các loại nho Rượu vang thường được làm từ một hoặc nhiều loại nho thuộc loài Vitis vinifera châu Âu, như Pinot noir, Chardonnay, Cabernet Sauvignon, Gamay và Merlot. Khi một trong những loại nho này được sử dụng làm chủ đạo (thường được quy định bởi pháp luật là tối thiểu từ 75% đến 85%), kết quả là một loại rượu vang đơn giống, ngược lại là rượu vang pha trộn. Rượu vang pha trộn không nhất thiết kém chất lượng so với rượu vang đơn giống, mà đơn giản là mang phong cách sản xuất khác nhau. Rượu vang cũng có thể được làm từ các loại nho khác hoặc từ sự lai tạo của hai loài nho. Ví dụ, nho Concord là một chủng thuộc loài Vitis labrusca, còn có Vitis aestivalis, Vitis rupestris, Vitis rotundifolia và Vitis riparia là các loại nho bản địa của Bắc Mỹ thường được dùng để ăn tươi hoặc làm nước nho, mứt hoặc nước mứt, và chỉ đôi khi được sử dụng để làm rượu. Quá trình lai tạo khác với ghép cây. Hầu hết các vườn nho trên thế giới được trồng bằng cây nho Vitis vinifera châu Âu đã được ghép vào gốc của các loài cây chủ ở Bắc Mỹ, một thực hành phổ biến để chống lại côn trùng phylloxera, một loài côn trùng gây hại hệ rễ cây nho. Vào cuối thế kỷ 19, hầu hết các vườn nho ở châu Âu (ngoại trừ một số khu vực khô cằn ở phía nam) đã bị tàn phá bởi sâu này, dẫn đến sự chết của cây nho và việc phải trồng lại. Thủ tục ghép cây được thực hiện ở tất cả các vùng sản xuất rượu vang trên thế giới, ngoại trừ Argentina và Quần đảo Canary - hai nơi chưa phải đối mặt với côn trùng này. Trong ngành sản xuất rượu vang, khái niệm terroir bao gồm các loại nho được sử dụng, độ cao và hình dạng của vườn nho, loại đất và hóa chất của đất, khí hậu và điều kiện mùa, và các vi khuẩn men địa phương. Sự kết hợp đa dạng của các yếu tố này có thể tạo ra sự khác biệt lớn giữa các loại rượu vang, ảnh hưởng đến quá trình lên men, hoàn thiện và lão hóa. Nhiều nhà sản xuất rượu vang sử dụng các phương pháp trồng trọt và sản xuất nhằm bảo tồn hoặc tăng cường ảnh hưởng về mùi và hương vị đặc trưng của terroir của họ. Tuy nhiên, sự khác biệt về hương vị ít được ưa chuộng đối với các nhà sản xuất rượu vang thông thường hoặc các loại rượu vang giá rẻ, nơi tính đồng đều là ưu tiên. Các nhà sản xuất này cố gắng giảm thiểu sự khác biệt về nguồn gốc của nho thông qua các kỹ thuật sản xuất như việc tiếp xúc oxy nhỏ, lọc chất tannin, lọc qua màng, bay hơi mỏng và ống quay. Khoảng 700 quả nho được sử dụng để tạo ra một chai rượu vang, tương đương khoảng 2,6 pound. Phân loại rượu vang Rượu vang đỏ thường được lên men từ nước ép và vỏ quả nho, còn rượu vang trắng được lên men chỉ từ nước nho. Nước từ các hoa quả khác có thể được lên men tạo thành rượu, nhưng theo luật nhiều nước, từ "rượu vang" (ở ngôn ngữ tương ứng) cho mục đích thương mại chỉ được sử dụng cho rượu lên men từ nho. Rượu vang châu Âu thường được phân loại theo xuất xứ (ví dụ như Bordeaux, Chianti). Rượu vang từ nơi khác thì thường được phân loại theo giống nho (ví dụ như Pinot Noir, Merlot). Một đặc điểm của rượu vang là lên men không qua chưng cất. Nồng độ rượu dao động từ 8-18 độ. Rượu vang đá (ice wine) được chế biến từ các loại nho trồng thu hoạch lúc thời tiết phải dưới 8 độ âm C và độ đường phải có ít nhất là 39 Brix theo trọng lượng người trồng nho dùng [số càng cao, độ ngọt càng nhiều]. Nho khi bị đông lạnh thì chất nước trong nho được kết tinh và nâng cao độ ngọt cũng như hương thơm của loại nho làm rượu vang đá. Phân loại rượu Pháp Nước Pháp sử dụng hệ thống appellation để chỉ định nơi xuất xứ, phân ra bốn cấp độ chất lượng như sau: Vin de Table (rượu vang thông thường): không chỉ định xuất xứ. Vin de Pays (rượu vang địa phương): được phép chỉ định xuất xứ. Vin Délimité de Qualité Superieure (rượu vang được xác định chất lượng cao), thường viết tắt là VDQS. Appellation d’Origine Contrôlée (nhãn hiệu xuất xứ được kiểm soát), thường viết tắt là AOC: rượu vang được sản xuất và kiểm định theo những tiêu chuẩn khắt khe nhất. Sản lượng * Có thể bao gồm dữ liệu chính thức, bán chính thức hoặc ước tính. Nho rượu mọc gần như độc quyền ở vùng địa lý nằm giữa 30 và 50 độ vĩ độ bắc và nam của xích đạo. Vườn nho ở cực nam của thế giới nằm trong vùng Central Otago của Đảo Nam của New Zealand gần vĩ độ 45 độ nam, và vườn nho cực bắc nhất nằm ở Flen, Thụy Điển, gần vĩ độ 59 độ bắc. Các nước xuất khẩu * Có thể bao gồm dữ liệu chính thức, bán chính thức hoặc ước tính. Vào năm 2007, Vương quốc Anh là quốc gia nhập khẩu rượu vang lớn nhất thế giới. Mức tiêu thụ Dữ liệu tiêu thụ rượu vang từ những quốc gia được liệt kê bởi mức tiêu thụ đồ uống có cồn theo đơn vị Lít bình quân trên đầu người mỗi năm. Theo số liệu gần đây của Tổ chức Y tế Thế giới (dữ liệu bao gồm những người từ 15 tuổi trở lên) Giả mạo và sửa đổi thông tin Trong ngành rượu vang, đã xảy ra các trường hợp lừa đảo và sửa đổi thông tin, trong đó nguồn gốc hoặc chất lượng của rượu bị thay đổi. Những "vụ scandal rượu vang" đã thu hút sự chú ý của truyền thông, bao gồm: Vụ scandal rượu glycol năm 1985, khi một số rượu Áo sử dụng dietylen glycol làm chất làm ngọt. Năm 1986, sử dụng methanol (loại cồn độc) để thay đổi một số loại rượu được sản xuất tại Ý. Năm 2008, phát hiện rằng một số rượu Ý chứa axit sulfuric và axit hydrochloric. Năm 2010, phát hiện rằng một số rượu đỏ Trung Quốc đã bị làm giả, dẫn đến đóng cửa gần 30 nhà máy sản xuất rượu ở tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc. Năm 2018, hàng triệu chai rượu Pháp đã bị bán sai thông tin là rượu Côtes-du-Rhône chất lượng cao. Chú thích V Bài cơ bản sơ khai Tạp chí Mỹ Nấu ăn
28651
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%93%20Xu%C3%A2n%20H%C6%B0%C6%A1ng
Hồ Xuân Hương
Hồ Xuân Hương (chữ Hán: 胡春香) là một thi sĩ người Việt Nam sống ở giai đoạn cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, mà hiện tại vẫn khiến nhiều học giả tranh cãi. Bà được nhà thơ hiện đại Xuân Diệu mệnh danh là Bà chúa thơ Nôm. Năm 2021, bà cùng Nguyễn Đình Chiểu là hai nhà thơ của Việt Nam được UNESCO vinh danh là "danh nhân văn hóa thế giới" cùng với kỷ niệm năm sinh/năm mất. Di tác của bà hoàn toàn là thơ và đa số đều được viết bằng chữ Nôm. Hầu hết thi ca Hồ Xuân Hương theo dòng chảy chung đã thoát được các quan niệm sáng tác cố hữu vốn đề cao niêm luật chặt chẽ để bộc lộ được tiếng nói của thời đại mình, có nhiều người cho rằng đặc sắc của thơ bà là "thanh thanh tục tục". Lịch sử Không có bất cứ tư liệu cổ điển nào chép về lai lịch và hành trạng của Hồ Xuân Hương, bà chỉ thực sự được hậu thế biết đến qua sách Giai nhân di mặc (佳人遺墨) của học giả Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, ấn hành tại Hà Nội năm 1916. Vì vậy, đã có nhiều tranh cãi liệu Hồ Xuân Hương có thật. Gia thế Học giới nhất quán rằng Hồ Xuân Hương sinh vào năm 1772, theo học giả John Balaban thì bà được sinh ra ở phường Khán Xuân (nay thuộc địa phận Bách Thảo viên Hà Nội). Theo Giai nhân di mặc, Hồ Xuân Hương là ái nữ của Sinh đồ Hồ Phi Diễn (胡丕演, 1704–1786), người hương Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, trấn Nghệ An. Còn theo học giả Trần Thanh Mại, thân phụ của Hồ Xuân Hương là ông Hồ Sĩ Danh (胡士名, 1706–1783) cũng người Quỳnh Đôi, Hồ Sĩ Danh là anh cùng cha khác mẹ của Kinh Dương hầu Hồ Sĩ Đống (胡士棟, 1739 – 1785). Thân mẫu của Hồ Xuân Hương là bà lẽ họ Hà (何氏, ? – 1814) người trấn Hải Dương. Học giả Phạm Trọng Chánh dựa vào tục xướng danh cổ điển và câu tựa Phi mai xuân sắc nhất kinh thành (丕梅春色一京成) của Tốn Phong Phan Huy Huân để khẳng định: Hồ Phi Mai (胡丕梅) là nguyên danh, Xuân Hương (春香) là biểu tự và Cổ Nguyệt Đường (古月堂) là bút hiệu. Trong thế cuộc xoay vần đầy nhiễu nhương cuối thế kỷ XVIII, Hồ Xuân Hương vẫn được hưởng những năm tháng ấu thơ êm đềm ở một dinh thự lớn tên Cổ Nguyệt đường ven hồ Tây, bấy giờ là chốn phồn hoa đô hội bậc nhất xứ Đàng Ngoài. Sau khi mãn tang cha, mẹ, bà tái hôn với người khác. Dù ít phải ràng buộc trong gia giáo nghiêm khắc như mọi nữ lưu cùng thời, Hồ Xuân Hương vẫn hội tụ được tư chất thông minh và hiếu học. Lưu lạc và qua đời Hồ Xuân Hương được cưới gả từ rất sớm, nhưng cả hai lần đò đều không viên mãn. Ban sơ, bà làm lẽ của một hào phú có biệt hiệu Tổng Cóc. Tuy chỉ là cai lính nhưng Tổng Cóc vốn thuộc dòng dõi văn nhân, ông rất chuộng ca ngâm và mến luôn cái tài làm thơ của người vợ lẽ. Để chiều lòng bà, Tổng Cóc đã cất một thủy tạ rất lớn cho Hồ Xuân Hương ở, vừa tránh phiền lụy với vợ cả vừa thỏa thưởng thi phú. Chung sống với Tổng Cóc được một thời gian khá lâu thì Hồ Xuân Hương dứt áo ra đi với một cái thai. Có thuyết cho rằng, bà bỏ đi sau khi Tổng Cóc đã đột ngột từ trần; nhưng cũng có thuyết cho rằng bà không chịu được điều tiếng dị nghị của vợ con Tổng Cóc và người làng; lại có thuyết nói bản tính phóng đãng khiến Hồ Xuân Hương khó ngồi yên một chỗ, bà trốn đi cùng tình quân là Phạm Viết Ngạn. Vào ngày Hồ Xuân Hương trở dạ, Tổng Cóc đến đòi đón con về, nhưng người nhà họ Phạm nói lại là đứa bé đã mất khi vừa lọt lòng. Trong hôn sự lần này, Hồ Xuân Hương làm lẽ của Tú tài Phạm Viết Ngạn, bấy giờ tại nhiệm tri phủ Vĩnh Tường. Nhưng duyên phận chỉ được 27 tháng thì ông phủ Vĩnh Tường tạ thế. Có nhiều thuyết về quãng đời sau đó của Hồ Xuân Hương, như việc bà cưới thêm vài người chồng nữa, việc bà hỏi mượn tiền thi hữu để mở hàng bán giấy bút mực, hoặc giai thoại về các mối tình trăng hoa và văn chương, nhưng mức độ khả tín chưa được xác định rõ ràng. Hồ Xuân Hương được cho là mất vào năm 1822. Trong cuốn sách Họ Hồ trong cộng đồng dân tộc Việt Nam của ông Hồ Sỹ Bằng (nguyên Viện trưởng Viện Quan hệ quốc tế, thuộc Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Marx–Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh) đã dày công nghiên cứu và khẳng định các nhà nghiên cứu thiên về thuyết mộ nữ sĩ Hồ Xuân Hương nằm ở nghĩa địa ven hồ Tây. Mộ bà trước đây được xây vuông, đặt ở ven nghĩa địa Đồng Táo. Trải qua dòng thời gian biến thiên đất bồi đắp lở, sông nước hồ Tây ngày càng rộng lớn, mỗi lần kết cấu địa tầng thay đổi do điều kiện tự nhiên và nghĩa địa Đồng Táo bị chìm xuống lòng hồ cùng một số nghĩa trang khác. Ngày 16 tháng 3 năm 2003, ông Vũ Hồ Luân (nhà nghiên cứu Hà Nội cũng là con cháu dòng họ Hồ) gặp ông Hồ Sỹ Bằng, kết hợp với nhà nghiên cứu sử dòng họ Hồ Việt Nam, Hồ Bá Hiền (Trưởng Ban Sử, Trưởng ban Liên lạc dòng họ Hồ tại Việt Nam) cùng với hậu duệ của tộc Hồ đang làm việc và sinh sống ở Hà Nội đã tập hợp ra một nhóm 8 người, trong đó có bốn người họ Hồ thuộc Trung chi II ở Quỳnh Đôi, là hậu duệ đời thứ sáu của Hồ Xuân Hương để đi tìm mộ bà ở hồ Tây nhưng không có kết quả. Tình duyên Tổng Cóc vốn là biệt hiệu mà người quen biết đặt cho Chánh tổng Nguyễn Bình Kình, tự Công Hòa. Nguyên quán của ông ở làng Gáp, xã Tứ (nay thuộc huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ). Ông là cháu của quan nghè Nguyễn Quang Thành, bản thân cũng một lần đi thi Hương nhưng không đỗ đạt. Sau Tổng Cóc đăng trình, lên đến chức cai cơ nên thường được gọi là Đội Kình. Kết quả của hôn sự này được cho là một đứa trẻ vắn số. Còn theo Phạm gia tộc phả và Triệu tông phả, ông phủ Vĩnh Tường tức là Tú tài Phạm Viết Ngạn (khi thăng chức Đồng tri phủ Phân phủ Vĩnh Tường thì cải thành Viết Lập), tên cúng cơm là Đại, tự Thành Phủ. Nguyên quán của ông ở hương Trà Lũ, xã Xuân Trung, phủ Xuân Trường, trấn Sơn Nam Hạ. Các tư liệu này cũng cho biết, Hồ Xuân Hương sinh cho ông một người con tên Phạm Viết Thiệu. Ngoài ra, có nhiều giai thoại truyền khẩu về lối sống phong lưu của nữ sĩ họ Hồ, như việc bà là một hoa nương thanh sắc vẹn toàn, và những mối tình bên thơ rượu với Phạm Đình Hổ, Phạm Thái, Nguyễn Du, Phạm Quý Thích, Nguyễn Hầu, Trần Ngọc Quán, Trần Quang Tĩnh, Phan Huy Huân, Mai Sơn Phủ, Thạch Đình, Cự Đình, Thanh Liên,... Tác phẩm Sơ lược Văn bản được nhận diện cổ nhất có chép thơ Hồ Xuân Hương là Quốc văn tùng ký (國文話記) do Hải Châu Tử Nguyễn Văn San (阮文珊, 1808–1883) soạn năm Minh Mệnh thứ 14 (1834), nhưng chỉ vài bài. Hầu hết di tác của nữ sĩ họ Hồ được gom trong cuốn Xuân Hương thi tập (春香詩集), Phúc Văn Đường tàng bản ấn hành tại Hà Nội năm 1930. Trong sách có khoảng 60 bài nhưng lẫn cả thơ của nhiều tác giả khác, nay chưa truy nguyên được tất cả. Tuy nhiên, văn bản đáng quý nhất là Lưu hương ký (琉香記) với bài tựa của Phan Huy Huân, được học giả Trần Thanh Mại phát kiến và công bố trên thi đàn vào năm 1964. Trước đó không lâu, năm 1962, đã có học giả Trần Văn Giáp đăng trên báo Văn Nghệ (Hà Nội) 5 thi phẩm chữ Hán được cho là của Hồ Xuân Hương. Nhưng mãi đến năm 1984, học giả Hoàng Xuân Hãn mới dịch nghĩa và đăng trên tập san Khoa Học Xã Hội (Paris), lại đặt nhan đề lần lượt là Độ hoa phong, Hải ốc trù, Nhãn phóng thanh, Trạo ca thanh, Thủy vân hương. Thơ Hồ Xuân Hương luôn được trình bày theo phong cách thất ngôn bát cú hoặc thất ngôn tứ tuyệt, bút pháp được nhận định là điêu luyện nhưng phần chữ Nôm nhiều phần đặc sắc hơn chữ Hán. Ý tưởng trong thơ cũng rất táo bạo, dù là điều cấm kị đối với lễ giáo đương thời. Cho nên, Hồ Xuân Hương được xem như hiện tượng kỳ thú của dòng thi ca cổ điển Việt Nam khi tích cực đưa ra cái nhìn đối lập với truyền thống đạo đức, nhưng không vì thế mà tự trở nên suy đồi. Tựu trung, các di tác phần nào cho phép hậu thế thấy thực trạng tang thương ở thời đại bà sống và cả quá trình mục rữa của nhiều lề lối cũ. Các tác phẩm Thơ chữ Hán Độ Hoa Phong Hải ốc trù Thơ chữ Nôm Bánh trôi nước Bỡn bà lang khóc chồng Cái kiếp tu hành Cái nợ chồng con Cái quạt Chùa Quán Sứ Chợ Trời Chùa Thầy Cảnh chùa ban đêm Cảnh thu Dệt cửu Dỗ người đàn bà khóc chồng Đá Ông Chồng Bà Chồng Đài Khán Xuân Đánh cờ Đánh đu Đèo Ba Dội Đền Sầm Đống Đồng tiền hoẻn Động Hương Tích Giếng thơi Hang Cắc Cớ Hang Thánh Hoá Hỏi trăng 1 Hỏi trăng 2 Khóc ông phủ Vĩnh Tường Khóc Tổng Cóc Không chồng mà chửa Kẽm Trống Làm lẽ Lũ ngẩn ngơ Mời trầu Nhớ người cũ Ốc nhồi Phường lòi tói Quán Khánh Quan thị Quả mít Sư bị ong châm Sư hổ mang Tát nước Thiếu nữ ngủ ngày Tranh tố nữ Trăng thu Trống thủng Tự tình I Tự tình II Tự tình III Vịnh cái quạt I Vịnh cái quạt II Cúc Mai Chùm thơ chữ Nôm xướng họa cùng Chiêu Hổ Cặp xướng họa I Cặp xướng họa II Cặp xướng họa III Tác phẩm nói đến bà Hồ Xuân Hương của Bích Khê Hồ Xuân Hương của Xuân Hoàng Ảnh hưởng Nghệ thuật Truyện ngắn Chút thoáng Xuân Hương (Nguyễn Huy Thiệp). Âm nhạc "Bánh Trôi Nước" (2017), phổ nhạc bởi nhạc sĩ Hồ Hoài Anh và Dương Đại Dương (Triple D), thể hiện bởi ca sĩ Hoàng Thùy Linh trong chương trình Hòa âm Ánh sáng (mùa 2). Chèo Hồ Xuân Hương (1988), Thùy Linh và Bùi Đức Hạnh soạn, Bùi Đắc Sừ đạo diễn. Loạt họa phẩm Minh họa thơ Hồ Xuân Hương (Bùi Xuân Phái), họa phẩm Thi sĩ Hồ Xuân Hương (Phùng Di Thuần). Tiểu thuyết Tình sử Hồ Xuân Hương (Bùi Bội Tỉnh). Giáo dục Trong giáo dục tại Việt Nam, hai bài Bánh trôi nước và Tự tình II được đưa vào sách giáo khoa lớp 7 tập 1, sách giáo khoa Cánh diều lớp 10 tập 1, và lớp 11 tập 1 thuộc bộ sách giáo khoa trước. Tại các trường đại học lớn tại Việt Nam, sinh viên chuyên ngành Văn học Việt Nam được học bộ môn Thơ Nôm Hồ Xuân Hương. Vinh danh Nhiều địa điểm của Việt Nam được đặt tên theo thi sĩ Hồ Xuân Hương: Phố Hồ Xuân Hương, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Đường Hồ Xuân Hương, quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh. Phố Hồ Xuân Hương, quận Hồng Bàng, Hải Phòng. Đường Hồ Xuân Hương, Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Đường Hồ Xuân Hương, Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Hồ Xuân Hương, Đà Lạt. Đường Hồ Xuân Hương, khu 1, phường Rạch Sỏi, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang. Ngày 23 tháng 11 năm 2021, tại Paris, Đại hội đồng UNESCO lần thứ 41 đã thông qua danh sách "Danh nhân văn hóa và sự kiện lịch sử niên khóa 2022–2023" để vinh danh và kỷ niệm năm sinh/năm mất của các nhân vật lịch sử được công nhận. Hồ sơ kỷ niệm 200 năm ngày sinh của danh nhân Nguyễn Đình Chiểu và kỷ niệm 250 năm ngày sinh, 200 năm ngày mất của nữ sĩ Hồ Xuân Hương được thông qua cùng với 58 hồ sơ khác. Xem thêm Phạm Đình Hổ Phạm Thái Nguyễn Du Phạm Quý Thích Đoàn Thị Điểm Nguyễn Thị Hinh Hoa nương Ghi chú Tham khảo Thư mục From Woodcuts to Bytes for a Vietnamese Poet; Preserving a Dying Ideographic Script Via Computer, for a Book, biên tập viên Sam Howe Verhovek của báo The New York Times (Hoa Kỳ) xuất bản ngày 15 tháng 3 năm 2001 bình thơ của Hồ Xuân Hương. Liên kết ngoài . John Balaban's translations of Hồ Xuân Hương's works into English. New York Times review of the translation, with background information. NPR Interview with John Balaban. Hồ Xuân Hương tại Nom Foundation. Sinh năm 1772 Mất năm 1822 Người Nghệ An Người Quỳnh Lưu Hoa nương Nhà thơ Việt Nam thời Lê trung hưng Nhà thơ Việt Nam thời Nguyễn Nhà thơ Việt Nam thế kỷ 18 Nhà thơ Việt Nam thế kỷ 19 Danh nhân văn hóa thế giới của Việt Nam Người Việt Nam thế kỷ 18 Nhà Nho Việt Nam
28658
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A0%20tri%E1%BA%BFt%20h%E1%BB%8Dc
Nhà triết học
Nhà triết học, hay triết gia, triết nhân là người nghiên cứu về triết học, có đóng góp cho sự phát triển của triết học. Theo lịch sử triết học và theo phân chia vùng, người ta phân chia thành các nhà triết học phương Đông và triết học phương Tây. Danh sách một số các triết gia nổi tiếng Phương Đông: Trung Hoa: Khổng Tử, Mạnh Tử, Lão Tử, Trang Tử Ấn Độ: Adi Shankara, Thích Ca Mâu Ni, Đại Anh Hùng Phương Tây: Hy Lạp: Aristotle, Platon, Pythagoras, Socrates Đức: Immanuel Kant, Karl Marx Nga: Vladimir Ilyich Lenin Tham khảo Liên kết ngoài Nghề nghiệp trong khoa học nhân văn
28667
https://vi.wikipedia.org/wiki/Carbide
Carbide
Trong hóa học, carbide (bắt nguồn từ từ tiếng Pháp carbure /kaʁbyʁ/),, tiếng Anh: carbide) còn được viết là cacbua, được dùng để nói một cách không rõ ràng tới một trong ba loại hợp chất sau: 1. Ion đa nguyên tử C22−, hay muối bất kỳ của nó. Trong các chất này tồn tại bộ ba liên kết cộng hóa trị giữa hai nguyên tử cacbon. 2. Ion đơn nguyên tử C4−, hay muối bất kỳ của nó. Ion này là một base mạnh và nó kết hợp với bốn proton để tạo ra mêtan: C4− + 4 H+ → CH4. 3. Hợp kim chứa cacbon hay chất thêm vào trong kim loại hay chất bán dẫn, chẳng hạn như thép. Ví dụ Carbide natri (Na2C2) Carbide calci (CaC2) Carbide silic (SiC) Carbide wolfram (thường chỉ gọi đơn giản là carbide) Cementit (carbide sắt; Fe3C) Xem :Thể loại:Carbide để có danh sách các carbide. Các loại carbide Mêtua Muối tương ứng với ion C4− có thể được gọi là mêtua. Các mêtua nói chung phản ứng với nước để tạo ra mêtan. Axêtylua Muối tương ứng với ion C22− có thể được gọi là axêtylua. Axêtylua nói chung phản ứng với nước để tạo ra axêtylen. Hợp chất không thích hợp với khái niệm thông thường về hóa trị hay hóa học lượng pháp Carbide kẽ Các carbide này được tạo ra với các kim loại; chúng thông thường có các tính chất của kim loại. Carbide cộng hóa trị Các nguyên tố có độ âm điện tương tự như cacbon chủ yếu tạo ra các hợp chất cộng hóa trị. Ví dụ, carbide silic chủ yếu chứa liên kết cộng hóa trị; nó có cấu trúc tương tự như kim cương. Thuộc tính Trong điều kiện nhiệt độ và áp suất tiêu chuẩn, các carbide kim loại phản ứng mạnh với nước để tạo ra các oxide hay hyđroxide kim loại và khí dễ cháy axêtylen, ví dụ: CaC2 + 2H2O → C2H2 + Ca(OH)2 Đèn carbide, thường dùng trong các công việc ngầm dưới đất như khai thác mỏ và thám hiểm hang động, ngày xưa có sử dụng trong các hải đăng, hoạt động theo nguyên lý sản xuất và đốt cháy axêtylen theo nhu cầu bổ sung nước vào carbide calci (đất đèn). Các nguồn chiếu sáng bằng khí, sử dụng khí axêtylen sinh ra từ carbide, đã được sử dụng trong một số ngôi nhà trước khi đèn dây tóc thắp sáng bằng điện được sử dụng rộng rãi. Nó cũng từng là nguồn thắp sáng chính cho xe đạp và các loại xe tải trước khi có khả năng sử dụng rộng rãi các loại đèn điện và pin. Carbide dùng ở đây còn gọi là đất đèn, là carbide calci- được điều chế trong công nghiệp bằng phản ứng của hỗn hợp than cốc và đá vôi được nung tới nhiệt độ cao trong lò hồ quang. Tại các khu vực miền bắc, miền đông và miền nam Hà Lan và tại Bỉ thì carbide còn dùng để làm pháo hoa. Để tạo ra tiếng nổ, carbide và nước được cho vào thùng đựng sữa có đậy nắp. Nguồn kích cháy là lửa từ các ngọn đuốc. Một số làng ở Hà Lan đốt một dãy các thùng sữa được xếp thành hàng theo truyền thống. Tham khảo Muối (hóa học) Hợp chất carbon Từ gốc Pháp
28677
https://vi.wikipedia.org/wiki/D%C3%A2u%20t%E1%BA%B1m%20tr%E1%BA%AFng
Dâu tằm trắng
Morus alba, hay dâu tằm trắng, dâu tằm thường, dâu trắng, dâu ta là loài thực vật có hoa trong chi Dâu tằm (Morus) họ Moraceae. Loài này được Carl Linnaeus mô tả khoa học đầu tiên năm 1753. Phân bố Có nguồn gốc ở khu vực phía đông châu Á. Dâu tằm được trồng phổ biến tại các khu vực có nhiệt độ thích hợp là 25-32 °C, như các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới của Bắc bán cầu, cũng như được tự nhiên hóa trong các khu vực dân cư của Hoa Kỳ, tại đây nó được lai giống với dâu tằm đỏ Morus rubra là loại cây có nguồn gốc ở Mỹ. Điều này dẫn đến việc một số người lo ngại về khả năng tồn tại về mặt di truyền dài hạn của cây dâu tằm đỏ do việc lai giống tích cực tràn lan trong một số khu vực Hoa Kỳ. Đặc điểm Nó là một loài cây gỗ từ nhỏ đến nhỡ, lớn nhanh, có thể cao tới 15–20 m. Thông thường nó sống từ 8-12 năm, nhưng nếu đất tốt và chăm sóc tốt thì tuổi thọ tới 50 năm. Thân cành nhiều nhựa không gai, trên thân cành có nhiều mầm, mầm đỉnh, mầm nách, khi cắt tỉa mầm có khả năng cho bật mầm. Lá hàng năm rụng vào mùa đông. Rễ ăn sâu và rộng 2–3 m, nhưng phân bố nhiều ở tầng đất 10–30 cm và rộng theo tán cây. Quả dâu tằm chín có vị ngọt thanh, hơi chua, không đậm đà bằng hương vị của các loại dâu khác như dâu đỏ và dâu đen. Quả của nó có màu từ trắng đến hồng đối với các loại cây được nuôi trồng, nhưng màu quả tự nhiên của loài này khi mọc hoang là màu tía sẫm. Trên các cây non và khỏe mạnh, lá dâu tằm có thể dài tới 20 cm, có dạng thùy sâu và phức tạp, với các thùy tròn. Trên các cây già, chiều dài trung bình của lá khoảng 8–15 cm, có hình tim ở gốc lá, nhọn ở chóp lá và có các khía răng cưa ở mép lá. Các nhị duỗi thẳng và các cánh đài phản xạ của Morus alba được thông báo là có chuyển động nhanh nhất trong số các loài thực vật đã biết, với tốc độ đạt tới một nửa tốc độ âm thanh (Taylor et al. 2006). Sử dụng Lá của cây dâu tằm là thức ăn ưa thích của tằm dâu (Bombyx mori). Đây là nguồn gốc của tên gọi cây dâu tằm. Nó cũng được sử dụng làm thức ăn cho gia súc (bò, dê v.v) trong các khu vực mà trong mùa khô bị hạn chế về các loại thức ăn như cỏ. Loại cây trồng có cành rủ xuống của loài dâu tằm Morus alba 'Pendula' là một loại cây cảnh thông thường. Cây cảnh này được nhân giống bằng cách ghép cành của loại cây có cành rủ xuống lên trên phần thân cây của loại không có cành rủ xuống. Cây dâu tằm có tác dụng bổ gan, thận, mát phổi, có thể được dùng làm thuốc. Cây dâu tằm về mặt khoa học nổi tiếng nhất nhờ chuyển động thực vật nhanh của nó. Hoa của nó gieo rắc phấn hoa vào không khí rất nhanh (25 μs) bằng cách giải phóng năng lượng lưu trữ tại nhị hoa. Tốc độ của chuyển động tạo ra đạt trên một nửa vận tốc âm thanh trong không khí, điều này làm cho nó là chuyển động nhanh nhất trong giới thực vật. Dâu trong văn hóa Việt Nam Gỗ cây dâu tương truyền có phép trừ ma quỷ nên các thầy pháp thường dùng cây roi bằng gỗ dâu trong các động tác phù chú theo tín ngưỡng dân gian. Văn học Áng văn Nôm Chinh phụ ngâm khúc với bản dịch của Đoàn Thị Điểm có câu: Ngàn dâu xanh ngắt một màu Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai? Thơ của Nguyễn Bính có câu: Em ơi! Em ở lại nhà Vườn dâu em đốn mẹ già em thương Bản nhạc "Trăng sáng vườn chè" của Văn Phụng thì nhắc đến: Vì tằm tôi phải chạy dâu Vì chồng tôi phải qua cầu đắng cay Xem thêm Dâu tằm tơ Tham khảo Liên kết ngoài Tốc độ giải phóng phấn hoa cao của cây dâu tằm, Morus alba L A Quả Thực vật Trung Quốc Thực vật Pakistan Thực vật Ukraina Dâu tằm tơ Thực vật xâm hại Thực vật được mô tả năm 1753
28678
https://vi.wikipedia.org/wiki/D%C3%A2u%20t%E1%BA%B1m%20%C4%91%E1%BB%8F
Dâu tằm đỏ
Dâu tằm đỏ (danh pháp khoa học: Morus rubra) là một loại dâu, có nguồn gốc ở miền đông Bắc Mỹ, từ phần phía nam nhất của Ontario và Vermont kéo dài về phía nam tới Florida và về phía tây tới đông nam Nam Dakota và miền trung Texas. Dâu đỏ được liệt kê như là loài đang nguy cấp ở Canada. Đặc điểm Nó là loài cây lá sớm rụng, có thể cao tới 10–15 m, đôi khi tới 20 m, với thân cây có thể tới 50 cm tính theo đường kính. Lá của nó mọc xen kẽ, dài 7–14 cm và rộng 6–12 cm, có dạng hình tim rộng bản, với vết khía hình chữ V nông ở gốc lá, không tạo dạng thùy trên các cây trưởng thành, nhưng thông thường có 2-3 thùy trên các cây non, mép lá có răng cưa rõ nét. Quả của nó là cụm quả hạch phức tạp, tương tự như ở cây dâu đen, dài 2–3 cm, màu đỏ khi chín có màu tía sẫm, ăn được và rất ngọt với hương vị thơm. Hình ảnh Chú thích Tham khảo Interactive Distribution Map of Morus rubra R Thực vật được mô tả năm 1753 Cây Bắc Mỹ Cây Đông Hoa Kỳ Nhóm loài do Carl Linnaeus đặt tên
28680
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%8D%20D%C3%A2u%20t%E1%BA%B1m
Họ Dâu tằm
Họ Dâu tằm (danh pháp khoa học: Moraceae) là một họ trong số các thực vật có hoa, trong hệ thống Cronquist được xếp vào bộ Gai (Urticales). Bộ này trong các hệ thống phát sinh loài khác được coi là phân bộ của bộ Hoa hồng (Rosales). Họ này là một họ lớn, chứa từ 40-60 chi và khoảng 1.000-1.500 loài thực vật phổ biến rộng rãi ở các khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới, nhưng ít phổ biến ở các vùng ôn đới. Trong họ này có một số loài được biết đến nhiều như đa, đề, dâu tằm, dâu đỏ hay mít. Đặc điểm Họ này có chứa các loài cây thân gỗ hay cây bụi, thường xanh hoặc rụng lá theo mùa. Cây thường có nhựa mủ màu trắng như sữa. Lá mọc cách, đơn lá kèm bọc lấy chồi, sớm rụng để lại vết sẹo. Trong họ này, nhiều loài có rễ mọc từ cành, cắm xuống đất (ví dụ: các loài trong chi Ficus). Một số loài Ficus bám lên các thân cây to khác, đâm nhiều rễ phụ bám trên thân cây chủ, gây nên hiện tượng thắt nghẹn làm cho cây chủ bị chết. Hoa đơn tính cùng cây hay khác cây, hợp thành cụm hoa xim, bông đuôi sóc, hay hình đầu nằm trên một trục chung lồi (như mít, dâu tằm) hay lõm bọc lấy hoa ở bên trong (như sung, ngái). Bao hoa có 2 - 4 mảnh, nhị bằng số mảnh bao hoa và mọc đối diện với bao hoa. Bộ nhụy gồm 2 lá noãn mà một thường sớm tiêu giảm, bầu 1 buồng chứa một noãn đảo hay cong, bầu noãn thượng, đôi khi là hạ. Quả phức do nhiều quả đơn dính lại với nhau. Hạt phần lớn có nội nhũ, đôi khi không có. Đặc điểm thừa hưởng từ tổ tiên chung gần nhất trong phạm vi họ Moraceae là sự hiện diện của các ống tiết sữa và nhựa cây màu trắng sữa trong tất cả các nhu mô, nhưng các đặc trưng hữu ích thực địa nói chung là 2 lá noãn đôi khi với một lá bị tiêu giảm, các hoa phức không dễ thấy và quả phức hợp Phân loại Trước đây được đặt trong bộ Gai (Urticales) (đã lỗi thời), các nghiên cứu di truyền học gần đây đã đặt lại họ này trong bộ Hoa hồng (Rosales) trong nhánh gọi là urticalean rosids, bao gồm các họ Ulmaceae, Celtidaceae, Cannabaceae và Urticaceae. Chi Cecropia, trước đây được đặt trong các họ như Moraceae, Urticaceae hay trong họ của chính nó, gọi là Cecropicaceae, cuối cùng đã được xác định là thuộc họ Urticaceae. Họ Moraceae bao gồm 5 tông: Artocarpeae, Moreae, Dorstenieae, Ficeae và Castilleae. Ngoại trừ tông Moreae với sự đa dạng lớn về hình thái và phân bổ rộng, các tông còn lại là đơn ngành. Dựa trên các phân tích phân tử về phát sinh loài của các tông này, Moraceae được cho là đã rẽ ra khoảng 73-110 triệu năm trước. Các kết quả từ phân tích phát sinh loài của họ Moraceae cũng gợi ý rằng ngược với nguyên lý thông thường rằng các dạng đơn tính khác gốc đã tiến hóa từ các dạng đơn tính cùng gốc thì trong họ này dạng đơn tính khác gốc là dạng nguyên thủy hơn trong họ và các dạng đơn tính cùng gốc đã tiến hóa từ trong đó tới 4 lần. Xem Clement và Weiblen (2009) về các tông và giới hạn của chúng (lưu ý vị trí có thể của Treculia); họ cũng thảo luận một hoặc hai vấn đề với các giới hạn của chi. Các chi Dưới đây liệt kê danh pháp khoa học của 41 chi có kèm theo các tên gọi đồng nghĩa, phân theo tông. Bleekrodea --> Streblus ? Craterogyne --> Dorstenia ? Metatrophis Olmedia --> Trophis ? Olmediopsis --> Pseudolmedia ? Tông Artocarpeae Artocarpus (bao gồm cả Sitodium) - Mít, xa kê Batocarpus (bao gồm cả Anonocarpus) Clarisia (bao gồm cả Acanthinophyllum, Aliteria, Sahagunia) Hullettia Parartocarpus (bao gồm cả Gymnartocarpus) Prainea Treculia (bao gồm cả Acanthotreculia) Tông Castilleae Antiaris (bao gồm cả Lepurandra)- Sui Antiaropsis Castilla (bao gồm cả Castilloa) - Cao su Castilloa Helicostylis Maquira (bao gồm cả Olmedioperebea, Olmediophaena) Mesogyne Naucleopsis (bao gồm cả Acanthosphaera, Ogcodeia, Palmolmedia, Uleodendron) Perebea (bao gồm cả Noyera) Poulsenia (bao gồm cả Inophloeum) Pseudolmedia (bao gồm cả Olmediopsis) Sparattosyce Tông Dorstenieae Bosqueiopsis Brosimum (bao gồm cả Alicastrum, Brosimopsis, Galactodendron, Piratinera) Dorstenia (bao gồm cả Craterogyne, Ctenocladium, Kosaria, Sychinium) Helianthostylis (bao gồm cả Androstylanthus) Scyphosyce (bao gồm cả Cyathanthus) Trilepisium (bao gồm cả Bosqueia, Pontya) Trymatococcus (bao gồm cả Lanessania) Utsetela Tông Ficeae Ficus (bao gồm cả Bosscheria, Caprificus, Covellia, Cystogyne, Dammaropsis, Erythrogyne, Galoglychia, Gonosuke, Macrophthalmia, Mastosuke, Necalistis, Oluntos, Pella, Perula, Pharmacosycea, Pogonotrophe, Rephesis, Stilpnophyllum, Sycodendron, Sycomorphe, Sycomorus, Synoecia, Tenorea, Tremotis, Urostigma, Varinga, Visiania) - đa, sung, sanh, si, đề Tông Moreae Bagassa (bao gồm cả Laurea) Broussonetia (bao gồm cả Allaeanthus, Papyrius, Smithiodendron, Stenochasma) - Dướng Fatoua (bao gồm cả Boehmeriopsis) Maclura (bao gồm cả Cardiogyne, Chlorophora, Cudrania, Fusticus, Ioxylon, Plecospermum, Vanieria) - Hoàng lồ (mỏ quạ), dâu gai Milicia Morus - Dâu tằm Sorocea (bao gồm cả Balanostreblus, Paraclarisia, Pseudosorocea, Trophisomia) Streblus (bao gồm cả Ampalis, Calius, Chevalierodendron, Dimerocarpus, Diplocos, Diplothorax, Epicarpurus, Neosloetiopsis, Pachytrophe, Paratrophis, Phyllochlamys, Pseudomorus, Pseudostreblus, Pseudostrophis, Pseudotrophis, Sloetia, Sloetiopsis, Taxotrophis, Teonongia, Uromorus) - Duối Trophis (bao gồm cả Bucephalon, Calpidochlamys, Cephalotrophis, Dumartroya, Maillardia, Malaisia, Olmedia, Skutchia) Tiến hóa Rẽ nhánh và phân bố Berg (2005) gợi ý rằng sự đa dạng hóa trong họ Moraceae đã diễn ra trên một siêu lục địa nằm ở vùng nhiệt đới khi đó vẫn còn gắt kết với nhau về mặt vật lý. Zerega et al. (2005) đưa ra một giả thuyết phức tạp hơn để giải thích sự phân bố và đa dạng hóa ở họ này. Trong phạm vi họ Moraceae, có những đề xuất về niên đại cho một số nhánh. Berg và Hijman (1999) gợi ý rằng sự phân bố của Dorstenia, được tìm thấy ở cả châu Phi và Nam Mỹ, có thể được giải thích bằng thuyết trôi dạt lục địa; tuy nhiên, Zerega et al. (2005) lại ước tính tuổi của nhóm chỏm cây của chi này chỉ khoảng 18,4-3,5 triệu năm trước (Ma). Tuy nhiên, trong một phân tích tổng thể hơn, Misiewicz và Zerega (2012) xác định tuổi của nhóm chỏm cây là (132.0-) 112.3 (-84.8) Ma, với tuổi của nhóm chỏm cây Tân thế giới là (44.8-) 30.3 (-16.5) Ma – và trên thực tế con số sau cũng là tuổi mà Zerega et al. (2005) đã ước tính theo mẫu phân tích của họ. Tuổi của nhóm chỏm cây chi Ficus được ước tính là (101-9-) 74.9 (-60.0) Ma, với nguồn gốc của nó thuộc về đại lục Á-Âu, trong khi phần lớn sự đa dạng thuộc kỷ đệ Tam, phát sinh loài bằng phát tán thay vì bằng cản trở địa lý giải thích tốt hơn các chi tiết về sự phân bố hiện tại của chi này (Cruaud et al. 2012b). Phân chi Pharmosycea chỉ hạn chế ở Tân thế giới, cũng như đoạn châu Mỹ của phân chi Urostigma, với đoạn này là chị em với đoạn châu Phi của Urostigma, trong khi Urostigma-Malvanthera là thuộc khu vực Australasia. Sinh thái và sinh lý học Moraceae, cụ thể là chi Ficus, bao gồm một số loài biểu sinh, bán biểu sinh, dây leo hoặc loại cây phát triển bằng kiểu bóp chết cây chủ. Họ này là đa dạng về loài đứng hàng từ thứ 2 tới thứ 8 trong các rừng mưa nhiệt đới vùng đất thấp ở cả châu Mỹ lẫn châu Phi, và trong các khu rừng Amazon chúng bao gồm một lượng lớn bất cân xứng số loài (11/227) tạo ra một nửa số cây có đường kính thân cây đo ở độ cao ngang ngực (dbh) từ 10 cm trở lên (Gentry 1988; Ter Steege et al. 2013). Quả sung (syconium) là nguồn thức ăn rất quan trọng và mang tính phụ thuộc đối với các động vật ăn quả, kể cả chim lẫn thú, tại nhiều nơi trong khu vực nhiệt đới (xem Kattan & Valenzuela 2013 cho các dẫn chứng ủng hộ và phản đối). Sự đa dạng về các hình thức phát triển của chúng làm cho chúng được tìm thấy trong khắp các khu rừng. Ở ít nhất là một vài cộng đồng chim thú thì quả sung có thể là nguồn thức ăn đặc biệt quan trọng khi các loài cây khác không ra quả; mặc cho quả trên các cây riêng lẻ có chín cùng lúc hay không, nhưng các loài riêng rẽ thì thường không ra quả cùng lúc, vì thế chúng có thể là nguồn thức ăn đáng tin cậy. Quả sung có lẽ là giàu chất dinh dưỡng (Herre et al. 2008), mặc dù có một số luận cứ chống lại điều này (Fleming 1986; Shanahan et al. 2001). Sung là quan trọng ở cả Tân thế giới (như Cocha Cashu, Peru) và Cựu thế giới (Borneo), mặc dù có lẽ là ít quan trọng hơn ở châu Phi và Ấn Độ, và chúng có sự đa dạng địa phương đáng kể - chẳng hạn, có khoảng 77 loài trong vườn quốc gia đồi Lambir ở Sarawak, Malaysia (Shanahan et al. 2001; Harrison & Shanahan 2005). Sự phong phú về loài của chi Ficus này có tương quan với sự đa dạng về các loài chim ăn quả của vườn quốc gia này, cụ thể là các loài chim ăn quả chuyên biệt hóa, và các loài ăn quả cũng lựa chọn các khía cạnh cụ thể của hình thái các loài sung (Shanahan et al. 2001; Kissling et al. 2007; Herre et al. 2008). Leighton và Leighton (1983) gọi mối quan hệ giữa Ficus và các loài ăn quả của nó là "hỗ sinh chủ chốt", do sự mất đi các loài sung, sanh, si, đa, đề có thể làm suy giảm mạnh quần thể động vật phát tán cả quả của các loài Ficus lẫn của các loài cây khác. Tương tự, Terborgh (1986: tr. 339) đã quan sát thấy, "loại trừ bớt các loài sung, sanh, si, đa, đề từ hệ sinh thái và người ta có thể dự kiến là thấy nó [hệ sinh thái] sụp đổ"; ở một số hệ sinh thái Tân thế giới thì các loài sung, dù chỉ chiếm dưới 1% tổng số loài (12 trong tổng số khoảng 2.000 loài), vẫn duy trì được gần như toàn bộ cộng đồng động vật ăn quả trong ba tháng mỗi năm (Kattan & Valenzuela 2013). Janzen (1979) đã tính toán rằng 7 loài sung trên đảo Barro Colorado tạo ra 200.000 ± 75.000 quả sung mỗi hecta mỗi năm – tương đương 195 kg quả khô. Mặc dù điều có thể gây tranh cãi là nhóm sung, si, đa, đề thực sự là các loài chủ chốt đến phạm vi nào, nhưng chắc chắn là chúng được rất nhiều loài động vật có xương sống dùng làm thức ăn (Shanahan et al. 2001). Sinh học thụ phấn và phát tán hạt Các chi tiết cơ bản về mối liên hệ giữa các loài sung, đa, đề với các động vật thụ phấn của chúng là ong sung (đa, đề) thuộc họ Agaonidae có thể được tổng quát hóa như sau. Ong cái được thụ tinh bởi ong đực không biết bay nằm bên trong quả sung, và nhiều con ong cái tích cực lấy phấn hoa từ các hoa đực – ít nhất là đôi khi nó được tập hợp xung quanh lỗ nhỏ ở đỉnh quả sung – trước khi rời quả sung qua lỗ thoát do ong đực tạo ra. Sau đó chúng chui vào quả sung cái nhận phấn hoa thông qua lỗ nhỏ, do có các hàm chuyên biệt hóa và đầu với hình dạng thích hợp để cho phép chúng chui qua các lá bắc bảo vệ lỗ nhỏ, mặc dù thường thì chúng sẽ mất đi cánh và râu trong quá trình này (van Noort & Compton 1996). Sau đó chúng đẻ trứng bên trong hoa cái, cùng lúc đó thụ phấn cho hoa. Chúng không thể đẻ trứng trong các bầu nhụy với vòi nhụy dài, do vòi đẻ trứng của chúng là quá ngắn, và vì thế các bông hoa cái này sẽ phát triển thành quả; nhưng chúng có thể đẻ trứng trong các hoa với vòi nhụy ngắn và các quả trứng này sẽ phát triển thành thế hệ ong con tiếp theo. Chu trình sống của các loài sung, si, đa, đề đơn tính khác gốc là phức tạp hơn một chút, nhưng vẫn tuân theo các nguyên tắc này (Janzen 1979). Các chi tiết về tiến hóa ban đầu của mối liên kết sung/ong sung này là chưa rõ ràng. Người ta không rõ là thụ phấn chủ động như miêu tả trên đây hay thụ phấn thụ động, trong đó ong cái đơn giản là bị phủ đầy phấn hoa trước khi rời quả sung, là tổ tiên đối với Ficus (Cruaud et al. 2012b). Chi Ficus có quan hệ chị em với tông Castilleae (bao gồm một số chi trước đây xếp sai chỗ trong tông Artocarpeae). Các cụm hoa cái của Castilleae, như ở chi Antiaropsis, có hình dạng như cái bình nhỏ. Các sinh vật thụ phấn (côn trùng cánh viền) sinh sản trong các cụm hoa đực, ăn phấn hoa v.v., và sự thụ phấn xảy ra khi côn trùng cánh viền chui vào thăm các cụm hoa cái (Datwyler et al. 2003; Datwyler & Weiblen 2004; Zerega et al. 2004; Clement & Weiblen 2009). Sự thụ phấn nhờ côn trùng ở đây là đảo ngược với thụ phấn nhờ gió. Mối liên kết sung/ong sung dường như là một ví dụ tốt về liên kết bắt buộc một ánh xạ một của thực vật và động vật thụ phấn (Herre 1996); ở đây có sự cùng tiến hóa chặt chẽ, với vật chủ và sinh vật thụ phấn/sinh vật ký sinh thay đổi gần như đồng bộ. Một số công trình gần đây gợi ý rằng đôi khi có những nét đặc biệt khá nhỏ trong mối liên kết giữa sung và ong sung (Machado et al. 2005; Jackson et al. 2008; Yang et al. 2012), vì thế người ta đặt câu hỏi về tần suất của sự cùng phát sinh loài chặt chẽ. Tuy nhiên, ít nhất ở đây có một liên kết tổng quát giữa các loài sung và ong sung, và trong các nhóm như đoạn Galoglychia của chi Ficus thì sự cùng phát sinh loài là rất có thể, ngay cả trong số các loài ong không thụ phấn nhưng vẫn là thành viên của hệ thống (Jousselin et al. 2008; Cruaud et al. 2012a). Sự chia sẻ động vật thụ phấn giữa các loài sung dường như là phổ biến ở các loài sung đơn tính cùng gốc Tân nhiệt đới hơn là ở các loài sung đơn tính khác gốc Cổ nhiệt đới (Moe et al. 2011); nó cũng xảy ra ở một số đơn vị phân loại thuộc châu Phi, nơi một loài côn trùng có thể sinh sản trong một loạt các loài sung, si có quan hệ họ hàng gần. Người ta cũng ghi nhận sự nhân bản dòng dõi hay phát sinh loài ong xảy ra trong phạm vi một loài sung (McLeish & van Noort 2012). Moe và Weiblen (2012) cũng gợi ý rằng trong một số tình huống là có sự tiến hóa của ong sung thụ phấn mà không có sự thay đổi tương ứng của vật chủ; nghĩa là ong sung đang thích nghi với thực vật cần thụ phấn chứ không phải ngược lại hoặc cả hai đang cùng nhau thay đổi. Xem bài trong J. Biogeog. 23(4). 1996, cũng như phần về Quan hệ động vật-thực vật dưới đây để có thêm chi tiết. Do sự phát triển của các loài sung thường là đồng bộ nhiều hay ít trong phạm vi cùng cây và không đồng bộ giữa các cây, nên giao phối xa được ưu ái hơn (Ahmed et al. 2009). Mặc dù phấn hoa sung được phát tán nhờ ong sung (Agaonidae), là các côn trùng nhỏ bé, nhưng điều này không có nghĩa là kích thước quần thể sung là nhỏ. Ong sung có thể được các luồng gió đưa đi xa tới 14 km ngay cả trong các rừng mưa rậm rạp, vì thế các đơn vị sinh sản của sung có thể ở quy mô lớn hơn – chúng che phủ tới 100 ki lô mét vuông hoặc hơn – so với các đơn vị sinh sản của các loài cây khác có tại đó (Herre 1996; Nason et al. 1998). Phấn hoa do ong cái mang đi tới những khoảng cách trên 160 km ở các quần thể ven sông suối của loài Ficus sycomorus trong sa mạc Namib ở miền nam châu Phi (Ahmed et al. 2009). Phát tán hạt ở họ Moraceae thường là nhờ động vật, nhưng bộ phận nào của cây đóng góp vào lượng cùi thịt thu hút các sinh vật phát tán lại không giống nhau. Quả của các loài Morus, là các quả bế, được bao quanh bằng bao hoa dày cùi thịt và được bao bọc chặt trên trục cụm hoa thẳng đứng. Các loài Artocarpus – bao gồm mít và chay – với quả có hình dáng thuôn dài nhiều hay ít có thể cân nặng tới 50 kg, và phần thịt quả đến từ cả các thành phần của bao hoa lẫn chính trục cụm hoa (Zerega et al. 2010). Broussonetia papyrifera (dướng) có các phì quả là các đầu quả hạch màu đỏ tươi và đu đưa, trong khi Dorstenia và một vài chi khác có quả hạch "nứt"; hạt được bắn ra ngoài lớp vỏ quả giữa cương cứng, sự chia tách diễn ra theo một đường yếu hơn trong mô. Trong cả hai trường hợp này thì quả đang phát triển dường như là bị đẩy ra bởi các thành phần bao hoa được bao bọc chặt. Ở chi Antiaropsis (tông Castilleae) trục cụm hoa ban đầu lõm, nhưng nở ra (nứt) khi chín, khi các quả hạch có màu tương phản với các lá bắc. (Zerega et al. 2004). Ở các loài Ficus thì quả mọc bên trong của trục bao bọc bên ngoài dày cùi thịt, và nói chung được các loài dơi ăn quả phát tán (Muscarella & Fleming 2007). Phụ thuộc vào việc đó là dơi Cựu hay dơi Tân thế giới mà chúng sẽ tìm kiếm thức ăn theo các cách thức khác nhau và tương ứng là các loài sung được chúng lựa chọn với chất lượng khác nhau; về tổng thể hình thái sung, si là khá đa dạng. Quả sung có thể xỉn về màu sắc và tỏa mùi thơm; ở Tân thế giới khoảng 21 loài dơi Artibeus (họ Phyllostomidae) chủ yếu là ăn quả sung. Dơi là động vật tiêu hóa chậm và sẽ thải ra các hạt lớn, sợi v.v., và nói chung chúng phát tán các quả bế nhỏ xíu. Giống như các loài phát tán nhờ dơi khác ở Tân thế giới, bao gồm cả chi Cecropia (họ Urticaceae), cụ thể ở Mexico (Lobova et al. 2009), các loài Ficus có thể được tìm thấy trong các cộng đồng kế tiếp sớm (Muscarella & Fleming 2007). Phạm vi cao độ sinh sống của dơi và sung, si là tương tự (Fleming 1986). Các loài sung, si là thức ăn của chim thường có quả nhỏ và màu đỏ. Các loại quả do dơi phát tán ở Tân thế giới có xu hướng có màu ánh xanh lục và có mùi thơm (Compton 1996; Korine et al. 2000; Shanahan et al. 2001; Harrison 2005). Quả các loài phát tán nhờ dơi Cựu thế giới thường có màu vàng, và đôi khi là khá to (Kalko et al. 1996; Harrison & Shanahan 2005; Lomáscolo et al. 2008, 2010); các loài sung phát tán nhờ dơi ở Malesia, cũng xỉn về màu sắc, và có thể không tỏa mùi, với Pteropodidae (dơi quạ) là động vật phát tán (Hodgkinson et al. 2003). Quan hệ động vật-thực vật Sự bắt đầu của liên kết/cùng phân tỏa rẽ nhánh của sung/ong sung có niên đại lên tới 100-60 Ma; Lopez-Vaamonde et al. (2009) thảo luận về niên đại và địa sinh học của ong sung, gợi ý rằng tổ tiên của ong sung đã sinh sống ở châu Á, và phát tán chứ không phải sự chia tách Gondwana mới là quan trọng cho sự phân bố sau này của chúng (Cruaud et al. 2012b. Xu et al. 2012 gợi ý về tổ tiên thuộc Gondwana, nhưng với nhiều sự phát tán sau đó). Các ước tính gần đây về niên đại nhóm chỏm cây chi Ficus, (101.9-) 74.9 (-60.0) Ma, và của ong sung, (94.9-) 75.1 (-56.2) Ma, là hoàn toàn tương tự (Cruaud et al. 2012b); đáng chú ý, khi so sánh niên đại của sung và ong sung ở 36 nút, trong 8/36 nút thì niên đại của sung là cổ hơn, trong số các nút còn lại thì niên đại của ong sung cổ hơn, và nói chung thì các con số thường là rất khác biệt. Các loài á ký sinh trên ong sung Agaonidae cũng như ong mụn cây cũng là một phần của hệ thống sung-ong sung (Lopez-Vaamonde et al. 2001; Jousselin et al. 2003; Jackson 2004a; Kjellberg et al. 2005; Rønsted et al. 2005b, 2008a). Các loài ong ký sinh trên ong sung có thể có tầm quan trọng đáng kể trong việc bảo toàn quan hệ giữa ong sung Agaonidae và sung (Dunn et al. 2008). Các loài ong mụn cây Chalcidoidea thuộc về 5 nhóm tách biệt và tạo mụn trên các hoa riêng rẽ; chúng có thể đã chuyển sang các loài sung vào khoảng 50-40 Ma, với sự phát tán sau đó sang các nhóm khác (Cruaud et al. 2011); nhiều tới 36 loài ong mụn cây Chalcidoidea có thể được tìm thấy trên chỉ 1 loài sung (Cruaud et al. 2011). Một phần của thế giới vi mô này là ruồi giấm Drosophilidae ở châu Phi, ít nhất có mối liên kết rất gần với sung và đẻ trứng hoặc là trên miệng bao phấn hoặc là trên lỗ thoát do ong sung đực tạo ra (Harry et al. 1996, 1998) Kjellberg et al. (2005), các bài báo trên Symbiosis 45, 1-3 (2008), Silvieus et al. (2008), Herre et al. (2008). Sâu bướm của loài Bombyx mori (tằm dâu) có thể ăn lá của nhiều loài trong họ Moraceae, nhưng không ăn lá của phần lớn các thành viên khác trong nhóm Ulmaceae – mặc dù chúng có ăn lá của các loài Ulmus (Fraenkel 1959). Sâu bướm của các loài bướm Danaini có ăn lá Moraceae là khá phổ biến; cả họ này lẫn họ làm nguồn thức ăn ưa thích của chúng là Apocynaceae đều chứa nhiều nhựa mủ, mặc dù Moraceae thường không có các cardenolid (Ackery & Vane-Wright 1984). Hóa học, hình thái học Các tế bào nhựa mủ thuôn dài, phân nhánh và xâm nhập giữa các tế bào khác, các nhân phân chia, nhưng vách tế bào không được hình thành. Một vài loài Dorstenia có các lá kèm nhỏ, mọc trên thân nhưng không chồng lấp lên cuống lá. Về phát triển của kiểu quả sung (syconium), xem Rauh và Reznik (1951). Số lượng nhiễm sắc thể ở Dorstenia là biến đổi, và cần có sự kiểm tra nghiên cứu hình thái học cùng phôi học noãn (Berg & Himan 1999). Một số thông tin lấy từ Rohwer (1993a); đối với phôi học, xem Johri và Konar (1956: Ficus), đối với hóa học, xem Hegnauer (1969, 1990); đối với phấn hoa, xem Burn và Mayle (2008); về nhiễm sắc thể, xem Oginuma và Tobe (1995). Phát sinh chủng loài Về phát sinh chủng loài của họ Moraceae, xem Datwyler et al. (2003), Datwyler và Weiblen (2004) và đặc biệt là Clement và Weiblen (2009). Một vài chi trước đây nằm trong tông Moreae cận ngành với các nhị cong vào trong của chúng hiện nay được xếp trong tông Maclureae (Maclura). Tông Castilleae là chị em với tông Ficeae, còn các mối quan hệ giữa các tông khác về tổng thể có sự hỗ trợ cao (Clement & Weiblen 2009). Các phân tích chỉ riêng mỗi đặc trưng hình thái cung cấp ít sự dung giải, chỉ mỗi Ficeae (một chi Ficus) là được hỗ trợ tốt, mặc dù phần lớn Castilleae tạo thành một nhánh, cho dù với độ hỗ trợ không cao (Clement & Weiblen 2009) . Zerega et al. (2010) đưa ra phát sinh chủng loài chi tiết cho tông Artocarpeae và trên cơ sở đó họ đã đưa ra định nghĩa lại cho tông này. Cruaud et al. (2012b) tìm thấy rằng các mối quan hệ dọc theo phần cột trụ của chi Ficus vẫn có độ hỗ trợ khá yếu, mặc dù đoạn Pharmacosycea có lẽ là chị em với phần còn lại của chị. Tại Việt Nam Ở Việt Nam hiện biết có trên 10 chi và khoảng gần 140 loài phân bố rộng rãi khắp nước, bao gồm cả cây trồng và cây mọc dại, nhiều loài có giá trị kinh tế cao. Liên kết ngoài Moraceae trong L. Watson và M.J. Dallwitz (1992 trở đi). Các họ thực vật có hoa. Moraceae trên website của APG Ghi chú
28683
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BB%99%20Gai
Bộ Gai
Bộ Gai hay bộ Tầm ma, danh pháp khoa học: Urticales, là một bộ trong lớp thực vật hai lá mầm trong hệ thống Cronquist về phân loại nhóm thực vật có hoa, bao gồm các họ sau: Barbeyaceae Cannabaceae (Họ Gai dầu) Cecropiaceae (hiện nay được đưa vào trong họ Urticaceae) Moraceae (Họ Dâu tằm) Ulmaceae (Họ Du) Urticaceae (Họ Tầm ma) Các loài cây trong bộ này bao gồm nhiều loại cây, từ cây bụi đến các cây thân gỗ lớn, nở hoa từ cuối mùa xuân đến đầu mùa thu. Bộ Urticales được đặt trong phân lớp Hamamelididae, được coi là có quan hệ họ hàng gần với các bộ khác như Hamamelidales, Juglandales, Leitneriales, Fagales, Casuarinales, Myricales và Daphniphyllales. Trong hệ thống APG II năm 2003, các thành viên của bộ này được xếp trong bộ Hoa hồng (Rosales). Trong quá khứ, bộ Gai được coi là tách biệt với họ Hoa hồng (Rosaceae), chủ yếu là do các hoa bị suy giảm rất mạnh và thường thụ phấn nhờ gió của nhóm này, và các họ khác hiện nay đặt trong bộ Hoa hồng thì trước đây cũng được đặt ở các nơi khác. Các mối quan hệ trong phạm vi bộ này vẫn chưa được rõ ràng, mặc dù Rosaceae có thể là nhóm có quan hệ chị-em với phần còn lại của bộ (hỗ trợ mạnh trong Savolainen và ctv. 2000, Wang và ctv. 2009), còn Ulmaceae và các họ hàng của nó (bộ Urticales cũ) cùng Rhamnaceae và các họ hàng của nó có thể tạo thành hai nhánh khác nữa (Thulin và ctv. 1998; Savolainen và ctv. 2000; Richardson và ctv. 2000; Sytsma và ctv. 2002 [vị trí của Rosaceae v.v. chưa chắc chắn], Wang và ctv. 2009): xem cây phát sinh loài trong hình ở bên phải. Với cây phát sinh loài như thế này thì bộ Gai là nhóm cận ngành, do nó không có một số hậu duệ (các họ Dirachmaceae, Elaeagnaceae và Rhamnaceae) từ cùng một tổ tiên chung của cả nhóm này. Ghi chú Danh pháp thực vật học
28686
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C5%A9%20th%E1%BB%A7y
Vũ thủy
Vũ thủy là một trong 24 tiết khí của các lịch Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên. Ngày bắt đầu tiết Vũ thủy thường diễn ra vào khoảng ngày 18 hay 19 tháng 2 dương lịch, khi Mặt Trời ở xích kinh 330° (kinh độ Mặt Trời bằng 330°). Đây là một khái niệm trong công tác lập lịch của các nước Đông Á chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Quốc cổ đại. Ý nghĩa của tiết khí này, đối với vùng Trung Hoa cổ đại, là Mưa ẩm. Theo quy ước, tiết vũ thủy là khoảng thời gian bắt đầu từ khoảng ngày 18 hay 19 tháng 2 và kết thúc vào khoảng ngày 5 hay 6 tháng 3 trong lịch Gregory theo các múi giờ Đông Á khi tiết kinh trập bắt đầu. Lịch Trung Quốc, cũng như lịch ở các nước Đông Á cổ đại bao gồm Việt Nam, bị nhiều người lầm là âm lịch thuần túy, dẫn đến ngộ nhận về việc tiết khí nói chung và vũ thủy nói riêng được tính theo chu kỳ của Mặt Trăng quay xung quanh Trái Đất. Trên thực tế lịch Trung Quốc cổ đại là một loại âm dương lịch, trong đó tiết khí, từ thời Hán Vũ Đế, đã được tính theo vị trí của Trái Đất trong chu kỳ chuyển động trên quỹ đạo xung quanh Mặt Trời. Theo cách tính hiện đại, với điểm xuân phân là gốc có kinh độ Mặt Trời bằng 0°, thì thời điểm diễn ra hay bắt đầu tiết vũ thủy ứng với kinh độ Mặt Trời bằng 330°. Ngày vũ thủy do vậy được tính theo cách tính của dương lịch hiện đại và nó thông thường rơi vào ngày 18 hay 19 tháng 2 dương lịch tùy theo từng năm. Tiết khí đứng ngay trước vũ thủy là lập xuân và tiết khí kế tiếp sau là kinh trập. Từ nguyên Chữ Hán: 雨水. Xem thêm Lịch Trung Quốc Tiết khí Tham khảo Tiết khí Mùa xuân
28687
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kinh%20tr%E1%BA%ADp
Kinh trập
Kinh trập là một trong 24 tiết khí của các lịch Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên. Ngày bắt đầu tiết Kinh trập thường diễn ra vào khoảng ngày 5 hay 6 tháng 3 dương lịch, khi Mặt Trời ở xích kinh 345° (kinh độ Mặt Trời bằng 345°). Đây là một khái niệm trong công tác lập lịch của các nước Đông Á chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Quốc cổ đại. Ý nghĩa của tiết khí này, đối với vùng Trung Hoa cổ đại, là Sâu nở. Theo quy ước, tiết kinh trập là khoảng thời gian bắt đầu từ khoảng ngày 5 hay 6 tháng 3 và kết thúc vào khoảng ngày 20 hay 21 tháng 3 trong lịch Gregory theo các múi giờ Đông Á khi tiết xuân phân bắt đầu. Lịch Trung Quốc, cũng như lịch ở các nước Đông Á cổ đại bao gồm Việt Nam, bị nhiều người lầm là âm lịch thuần túy, dẫn đến ngộ nhận về việc tiết khí nói chung và kinh trập nói riêng được tính theo chu kỳ của Mặt Trăng quay xung quanh Trái Đất. Trên thực tế lịch Trung Quốc cổ đại là một loại âm dương lịch, trong đó tiết khí, từ thời Hán Vũ Đế, đã được tính theo vị trí của Trái Đất trong chu kỳ chuyển động trên quỹ đạo xung quanh Mặt Trời. Theo cách tính hiện đại, với điểm xuân phân là gốc có kinh độ Mặt Trời bằng 0°, thì điểm diễn ra hay bắt đầu tiết kinh trập ứng với kinh độ Mặt Trời bằng 345°. Ngày kinh trập do vậy được tính theo cách tính của dương lịch hiện đại và nó thông thường rơi vào ngày 5 hay 6 tháng 3 dương lịch tùy theo từng năm. Tiết khí đứng ngay trước kinh trập là vũ thủy và tiết khí kế tiếp sau là xuân phân. Từ nguyên Chữ Hán: 驚蟄/惊蛰. Xem thêm Lịch Trung Quốc Tiết khí Tham khảo Thuật ngữ tiếng Trung Quốc Mùa xuân Tiết khí
28688
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BB%91c%20v%C5%A9
Cốc vũ
Cốc vũ là một trong 24 tiết khí của các lịch Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên. Nó thường bắt đầu vào khoảng ngày 19 hay 20 tháng 4 dương lịch, khi Mặt Trời ở xích kinh 30° (kinh độ Mặt Trời bằng 30°). Đây là một khái niệm trong công tác lập lịch của các nước Đông Á chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Quốc cổ đại. Ý nghĩa của tiết khí này, đối với vùng Trung Hoa cổ đại, là Mưa rào. Theo quy ước, tiết cốc vũ là khoảng thời gian bắt đầu từ khoảng ngày 19 hay 20 tháng 4 khi kết thúc tiết thanh minh và kết thúc vào khoảng ngày 5 hay 6 tháng 5 trong lịch Gregory theo các múi giờ Đông Á khi tiết lập hạ bắt đầu. Lịch Trung Quốc, cũng như lịch ở các nước Đông Á cổ đại bao gồm Việt Nam, bị nhiều người lầm là âm lịch thuần túy, dẫn đến ngộ nhận về việc tiết khí nói chung và cốc vũ nói riêng được tính theo chu kỳ của Mặt Trăng quay xung quanh Trái Đất. Trên thực tế lịch Trung Quốc cổ đại là một loại âm dương lịch, trong đó tiết khí, từ thời Hán Vũ Đế, đã được tính theo vị trí của Trái Đất trong chu kỳ chuyển động trên quỹ đạo xung quanh Mặt Trời. Theo cách tính hiện đại, với điểm xuân phân là gốc có kinh độ Mặt Trời bằng 0°, thì điểm diễn ra hay bắt đầu tiết Cốc vũ ứng với kinh độ Mặt Trời bằng 30°. Ngày diễn ra hay bắt đầu tiết cốc vũ do vậy được tính theo cách tính của dương lịch hiện đại và nó thông thường rơi vào ngày 19 hay 20 tháng 4 dương lịch tùy theo từng năm. Tiết khí đứng ngay trước cốc vũ là thanh minh và tiết khí kế tiếp sau là lập hạ,. Từ nguyên Chữ Hán: 穀雨. Xem thêm Lịch Trung Quốc Tiết khí Tham khảo Mùa xuân Tiết khí
28689
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BA%ADp%20h%E1%BA%A1
Lập hạ
Lập hạ là một trong 24 tiết khí của các lịch Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên. Nó thường bắt đầu vào khoảng ngày 5 hay 6 tháng 5 dương lịch, khi Mặt Trời ở xích kinh 45° (kinh độ Mặt Trời bằng 45°). Đây là một khái niệm trong công tác lập lịch của các nước Đông Á chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Quốc cổ đại. Ý nghĩa của tiết khí này, đối với vùng Trung Hoa cổ đại, là Bắt đầu mùa hè. Theo quy ước, tiết lập hạ là khoảng thời gian bắt đầu từ khoảng ngày 5 hay 6 tháng 5 khi kết thúc tiết cốc vũ và kết thúc vào khoảng ngày 21 hay 22 tháng 5 trong lịch Gregory theo các múi giờ Đông Á khi tiết tiểu mãn bắt đầu. Lịch Trung Quốc, cũng như lịch ở các nước Đông Á cổ đại bao gồm Việt Nam, bị nhiều người lầm là âm lịch thuần túy, dẫn đến ngộ nhận về việc tiết khí nói chung và lập hạ nói riêng được tính theo chu kỳ của Mặt Trăng quay xung quanh Trái Đất. Trên thực tế lịch Trung Quốc cổ đại là một loại âm dương lịch, trong đó tiết khí, từ thời Hán Vũ Đế, đã được tính theo vị trí của Trái Đất trong chu kỳ chuyển động trên quỹ đạo xung quanh Mặt Trời. Theo cách tính hiện đại, với điểm xuân phân là gốc có kinh độ Mặt Trời bằng 0°, thì thời điểm diễn ra tiết lập hạ ứng với kinh độ Mặt Trời bằng 45°. Ngày diễn ra hay bắt đầu tiết lập hạ do vậy được tính theo cách tính của dương lịch hiện đại và nó thông thường rơi vào ngày 5 hay 6 tháng 5 dương lịch tùy theo từng năm. Tiết khí đứng ngay trước lập hạ là cốc vũ và tiết khí kế tiếp sau là tiểu mãn. Từ nguyên Chữ Hán: 立夏 Xem thêm Lịch Trung Hoa Tiết khí Tham khảo Mùa hạ Tiết khí
28690
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ti%E1%BB%83u%20m%C3%A3n
Tiểu mãn
Tiểu mãn (tiếng Hán: 小滿/小满) là một trong 24 tiết khí của các lịch Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên. Nó thường bắt đầu vào khoảng ngày 21 hay 22 tháng 5 dương lịch, khi Mặt Trời ở xích kinh 60° (kinh độ Mặt Trời bằng 60°). Đây là một khái niệm trong công tác lập lịch của các nước Đông Á chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Quốc cổ đại. Ý nghĩa của tiết khí này, đối với vùng Trung Hoa cổ đại, là Lũ nhỏ, duối vàng. Theo quy ước, tiết tiểu mãn là khoảng thời gian bắt đầu từ khoảng ngày 21 hay 22 tháng 5 khi kết thúc tiết lập hạ và kết thúc vào khoảng ngày 5 hay 6 tháng 6 trong lịch Gregory theo các múi giờ Đông Á khi tiết mang chủng bắt đầu. Lịch Trung Quốc, cũng như lịch ở các nước Đông Á cổ đại bao gồm Việt Nam, bị nhiều người lầm là âm lịch thuần túy, dẫn đến ngộ nhận về việc tiết khí nói chung và Tiểu mãn nói riêng được tính theo chu kỳ của Mặt Trăng quay xung quanh Trái Đất. Trên thực tế lịch Trung Quốc cổ đại là một loại âm dương lịch, trong đó tiết khí, từ thời Hán Vũ Đế, đã được tính theo vị trí của Trái Đất trong chu kỳ chuyển động trên quỹ đạo xung quanh Mặt Trời. Theo cách tính hiện đại, với điểm xuân phân là gốc có kinh độ Mặt Trời bằng 0°, thì điểm diễn ra hay bắt đầu tiết tiểu mãn ứng với kinh độ Mặt Trời bằng 60°. Ngày diễn ra hay bắt đầu tiết tiểu mãn do vậy được tính theo cách tính của dương lịch hiện đại và nó thông thường rơi vào ngày 21 hay 22 tháng 5 dương lịch tùy theo từng năm. Tiết khí đứng ngay trước tiểu mãn là lập hạ và tiết khí kế tiếp sau là mang chủng. Xem thêm Lịch Trung Quốc Tiết khí Tham khảo Tiết khí Mùa hạ
28691
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mang%20ch%E1%BB%A7ng
Mang chủng
Mang chủng hay Măng chủng (tiếng Hán: 芒種/芒种, bính âm: mángzhòng, 芒: mầm, 种: danh từ: giống, động từ: giồng) là một trong 24 tiết khí của các lịch Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên. Nó thường bắt đầu vào khoảng ngày 5 hay 6 tháng 6 dương lịch, khi Mặt Trời ở xích kinh 75° (kinh độ Mặt Trời bằng 75°). Đây là một khái niệm trong công tác lập lịch của các nước Đông Á chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Quốc cổ đại. Ý nghĩa của tiết khí này, đối với vùng Trung Hoa cổ đại, là Ngũ cốc trổ bông. Đối với người nông dân Việt Nam, nó còn là khi người ta nhìn thấy chòm sao Tua Rua(chòm sao Kim Ngưu) mọc. Theo quy ước, tiết mang chủng là khoảng thời gian bắt đầu từ khoảng ngày 5 hay 6 tháng 6 khi kết thúc tiết tiểu mãn và kết thúc vào khoảng ngày 21 hay 22 tháng 6 trong lịch Gregory theo các múi giờ Đông Á khi tiết hạ chí bắt đầu. Lịch Trung Quốc, cũng như lịch ở các nước Đông Á cổ đại bao gồm Việt Nam, bị nhiều người lầm là âm lịch thuần túy, dẫn đến ngộ nhận về việc tiết khí nói chung và Mang chủng nói riêng được tính theo chu kỳ của Mặt Trăng quay xung quanh Trái Đất. Trên thực tế lịch Trung Quốc cổ đại là một loại âm dương lịch, trong đó tiết khí, từ thời Hán Vũ Đế, đã được tính theo vị trí của Trái Đất trong chu kỳ chuyển động trên quỹ đạo xung quanh Mặt Trời. Theo cách tính hiện đại, với điểm xuân phân là gốc có kinh độ Mặt Trời bằng 0°, thì thời điểm bắt đầu hay diễn ra tiết mang chủng ứng với kinh độ Mặt Trời bằng 75°. Ngày diễn ra hay bắt đầu tiết mang chủng do vậy được tính theo cách tính của dương lịch hiện đại và nó thông thường rơi vào ngày 5 hay 6 tháng 6 dương lịch tùy theo từng năm. Tiết khí đứng ngay trước mang chủng là tiểu mãn và tiết khí kế tiếp sau là hạ chí. Xem thêm Lịch Trung Quốc Tiết khí Tham khảo Tiết khí Mùa hạ
28692
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ti%E1%BB%83u%20th%E1%BB%AD
Tiểu thử
Tiểu thử (tiếng Hán: 小暑) là một trong 24 tiết khí của các lịch Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên. Nó thường bắt đầu vào khoảng ngày 7 hay 8 tháng 7 dương lịch, khi Mặt Trời ở xích kinh 105° (kinh độ Mặt Trời bằng 105°). Đây là một khái niệm trong công tác lập lịch của các nước Đông Á chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Quốc cổ đại. Ý nghĩa của tiết khí này, đối với vùng Trung Hoa cổ đại, là Nóng nhẹ. Theo quy ước, tiết tiểu thử là khoảng thời gian bắt đầu từ khoảng ngày 7 hay 8 tháng 7 khi kết thúc tiết hạ chí và kết thúc vào khoảng ngày 22 hay 23 tháng 7 trong lịch Gregory theo các múi giờ Đông Á khi tiết đại thử bắt đầu. Lịch Trung Quốc, cũng như lịch ở các nước Đông Á cổ đại bao gồm Việt Nam, bị nhiều người lầm là âm lịch thuần túy, dẫn đến ngộ nhận về việc tiết khí nói chung và tiểu thử nói riêng được tính theo chu kỳ của Mặt Trăng quay xung quanh Trái Đất. Trên thực tế lịch Trung Quốc cổ đại là một loại âm dương lịch, trong đó tiết khí, từ thời Hán Vũ Đế, đã được tính theo vị trí của Trái Đất trong chu kỳ chuyển động trên quỹ đạo xung quanh Mặt Trời. Theo cách tính hiện đại, với điểm xuân phân là gốc có kinh độ Mặt Trời bằng 0°, thì điểm diễn ra hay bắt đầu tiết tiểu thử ứng với kinh độ Mặt Trời bằng 105°. Ngày bắt đầu tiết tiểu thử do vậy được tính theo cách tính của dương lịch hiện đại và nó thông thường rơi vào ngày 7 hay 8 tháng 7 dương lịch tùy theo từng năm. Tiết khí đứng ngay trước tiểu thử là hạ chí và tiết khí kế tiếp sau là đại thử. Xem thêm Lịch Trung Quốc Tiết khí Tham khảo Tiết khí Mùa hạ
28693
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1i%20th%E1%BB%AD
Đại thử
Đại thử (tiếng Hán: 大暑) là một trong 24 tiết khí của các lịch Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên. Nó thường bắt đầu vào khoảng ngày 22 hay 23 tháng 7 dương lịch, khi Mặt Trời ở xích kinh 120° (kinh độ Mặt Trời bằng 120°). Đây là một khái niệm trong công tác lập lịch của các nước Đông Á chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Quốc cổ đại. Ý nghĩa của tiết khí này, đối với vùng Trung Hoa cổ đại, là Nóng oi. Theo quy ước, tiết đại thử là khoảng thời gian bắt đầu từ khoảng ngày 22 hay 23 tháng 7 khi kết thúc tiết tiểu thử và kết thúc vào khoảng ngày 7 hay 8 tháng 8 trong lịch Gregory theo các múi giờ Đông Á khi tiết lập thu bắt đầu. Lịch Trung Quốc, cũng như lịch ở các nước Đông Á cổ đại bao gồm Việt Nam, bị nhiều người lầm là âm lịch thuần túy, dẫn đến ngộ nhận về việc tiết khí nói chung và Đại thử nói riêng được tính theo chu kỳ của Mặt Trăng quay xung quanh Trái Đất. Trên thực tế lịch Trung Quốc cổ đại là một loại âm dương lịch, trong đó tiết khí, từ thời Hán Vũ Đế, đã được tính theo vị trí của Trái Đất trong chu kỳ chuyển động trên quỹ đạo xung quanh Mặt Trời. Theo cách tính hiện đại, với điểm xuân phân là gốc có kinh độ Mặt Trời bằng 0°, thì điểm diễn ra hay bắt đầu tiết Đại thử ứng với kinh độ Mặt Trời bằng 120°. Ngày bắt đầu tiết Đại thử do vậy được tính theo cách tính của dương lịch hiện đại và nó thông thường rơi vào ngày 22 hay 23 tháng 7 dương lịch tùy theo từng năm. Tiết khí đứng ngay trước Đại thử là Tiểu thử và tiết khí kế tiếp sau là Lập thu. Xem thêm Lịch Trung Quốc Tiết khí Tham khảo Tiết khí Mùa hạ
28694
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BA%ADp%20thu
Lập thu
Lập thu (tiếng Hán: 立秋) là một trong 24 tiết khí của các lịch Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên. Nó thường bắt đầu vào khoảng ngày 7 hay 8 tháng 8 dương lịch, khi Mặt Trời ở xích kinh 135° (kinh độ Mặt Trời bằng 135°). Đây là một khái niệm trong công tác lập lịch của các nước Đông Á chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Quốc cổ đại. Ý nghĩa của tiết khí này, đối với vùng Trung Hoa cổ đại, là Bắt đầu mùa thu. Theo quy ước, tiết lập thu là khoảng thời gian bắt đầu từ khoảng ngày 7 hay 8 tháng 8 khi kết thúc tiết đại thử và kết thúc vào khoảng ngày 23 hay 24 tháng 8 trong lịch Gregory theo các múi giờ Đông Á khi tiết xử thử bắt đầu. Ở Nam bán cầu thì ngày này sẽ là lập xuân. Lịch Trung Quốc, cũng như lịch ở các nước Đông Á cổ đại bao gồm Việt Nam, bị nhiều người lầm là âm lịch thuần túy, dẫn đến ngộ nhận về việc tiết khí nói chung và Lập thu nói riêng được tính theo chu kỳ của Mặt Trăng quay xung quanh Trái Đất. Trên thực tế lịch Trung Quốc cổ đại là một loại âm dương lịch, trong đó tiết khí, từ thời Hán Vũ Đế, đã được tính theo vị trí của Trái Đất trong chu kỳ chuyển động trên quỹ đạo xung quanh Mặt Trời. Theo cách tính hiện đại, với điểm xuân phân là gốc có kinh độ Mặt Trời bằng 0°, thì điểm diễn ra hay bắt đầu tiết Lập thu ứng với kinh độ Mặt Trời bằng 135°. Ngày bắt đầu tiết Lập thu do vậy được tính theo cách tính của dương lịch hiện đại và nó thông thường rơi vào ngày 7 hay 8 tháng 8 dương lịch tùy theo từng năm. Tiết khí đứng ngay trước Lập thu là Đại thử và tiết khí kế tiếp sau là Xử thử. Xem thêm Lịch Trung Quốc Tiết khí Tham khảo Mùa thu Tiết khí
28697
https://vi.wikipedia.org/wiki/X%E1%BB%AD%20th%E1%BB%AD
Xử thử
Xử thử (tiếng Hán: 處暑(处暑)) là một trong 24 tiết khí của các lịch Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên. Nó thường bắt đầu vào khoảng ngày 23 hay 24 tháng 8 dương lịch, khi Mặt Trời ở xích kinh 150° (kinh độ Mặt Trời bằng 150°). Đây là một khái niệm trong công tác lập lịch của các nước Đông Á chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Quốc cổ đại. Ý nghĩa của tiết khí này, đối với vùng Trung Hoa cổ đại, là Hết nóng bức. Theo quy ước, tiết xử thử là khoảng thời gian bắt đầu từ khoảng ngày 23 hay 24 tháng 8 khi kết thúc tiết lập thu và kết thúc vào khoảng ngày 7 hay 8 tháng 9 trong lịch Gregory theo các múi giờ Đông Á khi tiết bạch lộ bắt đầu. Lịch Trung Quốc, cũng như lịch ở các nước Đông Á cổ đại bao gồm Việt Nam, bị nhiều người lầm là âm lịch thuần túy, dẫn đến ngộ nhận về việc tiết khí nói chung và Xử thử nói riêng được tính theo chu kỳ của Mặt Trăng quay xung quanh Trái Đất. Trên thực tế lịch Trung Quốc cổ đại là một loại âm dương lịch, trong đó tiết khí, từ thời Hán Vũ Đế, đã được tính theo vị trí của Trái Đất trong chu kỳ chuyển động trên quỹ đạo xung quanh Mặt Trời. Theo cách tính hiện đại, với điểm xuân phân là gốc có kinh độ Mặt Trời bằng 0°, thì điểm diễn ra hay bắt đầu tiết Xử thử ứng với kinh độ Mặt Trời bằng 150°. Ngày bắt đầu tiết Xử thử do vậy được tính theo cách tính của dương lịch hiện đại và nó thông thường rơi vào ngày 23 hay 24 tháng 8 dương lịch tùy theo từng năm. Tiết khí đứng ngay trước Xử thử là Lập thu và tiết khí kế tiếp sau là Bạch lộ. Xem thêm Lịch Trung Quốc Tiết khí Tham khảo Tiết khí Mùa thu
28698
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BA%A1ch%20l%E1%BB%99
Bạch lộ
Bạch lộ (tiếng Hán: 白露) là một trong 24 tiết khí của các lịch Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên. Nó thường bắt đầu vào khoảng ngày 7 hay 8 tháng 9 dương lịch, khi Mặt Trời ở xích kinh 165° (kinh độ Mặt Trời bằng 165°). Đây là một khái niệm trong công tác lập lịch của các nước Đông Á chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Quốc cổ đại. Ý nghĩa của tiết khí này, đối với vùng Trung Hoa cổ đại, là Nắng nhạt. Theo quy ước, tiết bạch lộ là khoảng thời gian bắt đầu từ khoảng ngày 7 hay 8 tháng 9 khi kết thúc tiết xử thử và kết thúc vào khoảng ngày 23 hay 24 tháng 9 trong lịch Gregory theo các múi giờ Đông Á khi tiết thu phân bắt đầu. Lịch Trung Quốc, cũng như lịch ở các nước Đông Á cổ đại bao gồm Việt Nam, bị nhiều người lầm là âm lịch thuần túy, dẫn đến ngộ nhận về việc tiết khí nói chung và Bạch lộ nói riêng được tính theo chu kỳ của Mặt Trăng quay xung quanh Trái Đất. Trên thực tế lịch Trung Quốc cổ đại là một loại âm dương lịch, trong đó tiết khí, từ thời Hán Vũ Đế, đã được tính theo vị trí của Trái Đất trong chu kỳ chuyển động trên quỹ đạo xung quanh Mặt Trời. Theo cách tính hiện đại, với điểm xuân phân là gốc có kinh độ Mặt Trời bằng 0°, thì điểm diễn ra hay bắt đầu tiết Bạch lộ ứng với kinh độ Mặt Trời bằng 165°. Ngày bắt đầu tiết Bạch lộ do vậy được tính theo cách tính của dương lịch hiện đại và nó thông thường rơi vào ngày 7 hay 8 tháng 9 dương lịch tùy theo từng năm. Tiết khí đứng ngay trước Bạch lộ là Xử thử và tiết khí kế tiếp sau là Thu phân. Xem thêm Lịch Trung Quốc Tiết khí Tham khảo Mùa thu Tiết khí
28699
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%A0n%20l%E1%BB%99
Hàn lộ
Hàn lộ (tiếng Hán: 寒露) là một trong 24 tiết khí của các lịch Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên. Nó thường bắt đầu vào khoảng ngày 8 hay 9 tháng 10 dương lịch, khi Mặt Trời ở xích kinh 195° (kinh độ Mặt Trời bằng 195°). Đây là một khái niệm trong công tác lập lịch của các nước Đông Á chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Quốc cổ đại. Ý nghĩa của tiết khí này, đối với vùng Trung Hoa cổ đại, là Mát mẻ. Theo quy ước, tiết hàn lộ là khoảng thời gian bắt đầu từ khoảng ngày 8 hay 9 tháng 10 khi kết thúc tiết thu phân và kết thúc vào khoảng ngày 23 hay 24 tháng 10 trong lịch Gregory theo các múi giờ Đông Á khi tiết sương giáng bắt đầu. Lịch Trung Quốc, cũng như lịch ở các nước Đông Á cổ đại bao gồm Việt Nam, bị nhiều người lầm là âm lịch thuần túy, dẫn đến ngộ nhận về việc tiết khí nói chung và Hàn lộ nói riêng được tính theo chu kỳ của Mặt Trăng quay xung quanh Trái Đất. Trên thực tế lịch Trung Quốc cổ đại là một loại âm dương lịch, trong đó tiết khí, từ thời Hán Vũ Đế, đã được tính theo vị trí của Trái Đất trong chu kỳ chuyển động trên quỹ đạo xung quanh Mặt Trời. Theo cách tính hiện đại, với điểm xuân phân là gốc có kinh độ Mặt Trời bằng 0°, thì điểm diễn ra hay bắt đầu tiết Hàn lộ ứng với kinh độ Mặt Trời bằng 195°. Ngày bắt đầu tiết Hàn lộ do vậy được tính theo cách tính của dương lịch hiện đại và nó thông thường rơi vào ngày 8 hay 9 tháng 10 dương lịch tùy theo từng năm. Tiết khí đứng ngay trước Hàn lộ là Thu phân và tiết khí kế tiếp sau là Sương giáng. Xem thêm Lịch Trung Quốc Tiết khí Tham khảo Mùa thu Tiết khí
28700
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%C6%B0%C6%A1ng%20gi%C3%A1ng
Sương giáng
Sương giáng (tiếng Hán: 霜降) là một trong 24 tiết khí của các lịch Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên. Nó thường bắt đầu vào khoảng ngày 23 hay 24 tháng 10 dương lịch, khi Mặt Trời ở xích kinh 210° (kinh độ Mặt Trời bằng 210°). Đây là một khái niệm trong công tác lập lịch của các nước Đông Á chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Quốc cổ đại. Ý nghĩa của tiết khí này, đối với vùng Trung Hoa cổ đại, là Sương mù xuất hiện. Theo quy ước, tiết sương giáng là khoảng thời gian bắt đầu từ khoảng ngày 23 hay 24 tháng 10 khi kết thúc tiết hàn lộ và kết thúc vào khoảng ngày 7 hay 8 tháng 11 trong lịch Gregory theo các múi giờ Đông Á khi tiết lập đông bắt đầu. Lịch Trung Quốc, cũng như lịch ở các nước Đông Á cổ đại bao gồm Việt Nam, bị nhiều người lầm là âm lịch thuần túy, dẫn đến ngộ nhận về việc tiết khí nói chung và Sương giáng nói riêng được tính theo chu kỳ của Mặt Trăng quay xung quanh Trái Đất. Trên thực tế lịch Trung Quốc cổ đại là một loại âm dương lịch, trong đó tiết khí, từ thời Hán Vũ Đế, đã được tính theo vị trí của Trái Đất trong chu kỳ chuyển động trên quỹ đạo xung quanh Mặt Trời. Theo cách tính hiện đại, với điểm xuân phân là gốc có kinh độ Mặt Trời bằng 0°, thì điểm diễn ra hay bắt đầu tiết Sương giáng ứng với kinh độ Mặt Trời bằng 210°. Ngày bắt đầu tiết Sương giáng do vậy được tính theo cách tính của dương lịch hiện đại và nó thông thường rơi vào ngày 23 hay 24 tháng 10 dương lịch tùy theo từng năm. Tiết khí đứng ngay trước Sương giáng là Hàn lộ và tiết khí kế tiếp sau là Lập đông. Xem thêm Lịch Trung Quốc Tiết khí Tham khảo
28701
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BA%ADp%20%C4%91%C3%B4ng
Lập đông
Lập đông (tiếng Hán: 立冬) là một trong 24 tiết khí của các lịch Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên. Nó thường bắt đầu vào khoảng ngày 7 hay 8 tháng 11 dương lịch (Bắc bán cầu) hoặc 5 hay 6 tháng 5 dương lịch (Nam bán cầu), khi Mặt Trời ở xích kinh 225° (kinh độ Mặt Trời bằng 225°). Đây là một khái niệm trong công tác lập lịch của các nước Đông Á chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Quốc cổ đại. Theo quy ước, tiết lập đông là khoảng thời gian bắt đầu từ khoảng ngày 7 hay 8 tháng 11 khi kết thúc tiết sương giáng và kết thúc vào khoảng ngày 22 hay 23 tháng 11 trong lịch Gregory theo các múi giờ Đông Á khi tiết tiểu tuyết bắt đầu. Ý nghĩa của tiết khí này, đối với vùng Trung Hoa cổ đại, là Bắt đầu mùa đông. Còn theo thuật ngữ thiên văn học phương Tây, ngày bắt đầu mùa đông tại Bắc bán cầu là vào ngày 21 - 22 tháng 12, tương ứng với tiết Đông chí theo lịch Trung Quốc. Lịch Trung Quốc, cũng như lịch ở các nước Đông Á cổ đại bao gồm Việt Nam, bị nhiều người lầm là âm lịch thuần túy, dẫn đến ngộ nhận về việc tiết khí nói chung và Lập đông nói riêng được tính theo chu kỳ của Mặt Trăng quay xung quanh Trái Đất. Trên thực tế lịch Trung Quốc cổ đại là một loại âm dương lịch, trong đó tiết khí, từ thời Hán Vũ Đế, đã được tính theo vị trí của Trái Đất trong chu kỳ chuyển động trên quỹ đạo xung quanh Mặt Trời. Theo cách tính hiện đại, với điểm xuân phân là gốc có kinh độ Mặt Trời bằng 0°, thì điểm diễn ra hay bắt đầu tiết Lập đông ứng với kinh độ Mặt Trời bằng 225°. Ngày bắt đầu tiết Lập đông do vậy được tính theo cách tính của dương lịch hiện đại và nó thông thường rơi vào ngày 7 hay 8 tháng 11 dương lịch tùy theo từng năm. Tiết khí đứng ngay trước Lập đông là Sương giáng và tiết khí kế tiếp sau là Tiểu tuyết. Xem thêm Lịch Trung Quốc Tham khảo Tiết khí Giờ mùa đông Mùa đông
28702
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ti%E1%BB%83u%20tuy%E1%BA%BFt
Tiểu tuyết
Tiểu tuyết (tiếng Hán: 小雪) là một trong 24 tiết khí của các lịch Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên. Nó thường bắt đầu vào khoảng ngày 22 hay 23 tháng 11 dương lịch, khi Mặt Trời ở xích kinh 240° (kinh độ Mặt Trời bằng 240°). Đây là một khái niệm trong công tác lập lịch của các nước Đông Á chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Quốc cổ đại. Ý nghĩa của tiết khí này, đối với vùng Trung Hoa cổ đại, là Tuyết xuất hiện. Theo quy ước, tiết tiểu tuyết là khoảng thời gian bắt đầu từ khoảng ngày 22 hay 23 tháng 11 khi kết thúc tiết lập đông và kết thúc vào khoảng ngày 7 hay 8 tháng 12 trong lịch Gregory theo các múi giờ Đông Á khi tiết đại tuyết bắt đầu. Lịch Trung Quốc, cũng như lịch ở các nước Đông Á cổ đại bao gồm Việt Nam, bị nhiều người lầm là âm lịch thuần túy, dẫn đến ngộ nhận về việc tiết khí nói chung và Tiểu tuyết nói riêng được tính theo chu kỳ của Mặt Trăng quay xung quanh Trái Đất. Trên thực tế lịch Trung Quốc cổ đại là một loại âm dương lịch, trong đó tiết khí, từ thời Hán Vũ Đế, đã được tính theo vị trí của Trái Đất trong chu kỳ chuyển động trên quỹ đạo xung quanh Mặt Trời. Theo cách tính hiện đại, với điểm xuân phân là gốc có kinh độ Mặt Trời bằng 0°, thì điểm diễn ra hay bắt đầu tiết Tiểu tuyết ứng với kinh độ Mặt Trời bằng 240°. Ngày bắt đầu tiết Tiểu tuyết do vậy được tính theo cách tính của dương lịch hiện đại và nó thông thường rơi vào ngày 22 hay 23 tháng 11 dương lịch tùy theo từng năm. Tiết khí đứng ngay trước Tiểu tuyết là Lập đông và tiết khí kế tiếp sau là Đại tuyết. Xem thêm Lịch Trung Quốc Tiết khí Tham khảo Giờ mùa đông Tiết khí Mùa đông
28703
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1i%20tuy%E1%BA%BFt
Đại tuyết
Đại tuyết (tiếng Hán: 大雪) là một trong 24 tiết khí của các lịch Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên. Nó thường bắt đầu vào khoảng ngày 7 hay 8 tháng 12 dương lịch, khi Mặt Trời ở xích kinh 255° (kinh độ Mặt Trời bằng 255°). Đây là một khái niệm trong công tác lập lịch của các nước Đông Á chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Quốc cổ đại. Ý nghĩa của tiết khí này, đối với vùng Trung Hoa cổ đại, là Tuyết dày. Theo quy ước, tiết đại tuyết là khoảng thời gian bắt đầu từ khoảng ngày 7 hay 8 tháng 12 khi kết thúc tiết tiểu tuyết và kết thúc vào khoảng ngày 21 hay 22 tháng 12 trong lịch Gregory theo các múi giờ Đông Á khi tiết đông chí bắt đầu. Lịch Trung Quốc, cũng như lịch ở các nước Đông Á cổ đại bao gồm Việt Nam, bị nhiều người lầm là âm lịch thuần túy, dẫn đến ngộ nhận về việc tiết khí nói chung và Đại tuyết nói riêng được tính theo chu kỳ của Mặt Trăng quay xung quanh Trái Đất. Trên thực tế lịch Trung Quốc cổ đại là một loại âm dương lịch, trong đó tiết khí, từ thời Hán Vũ Đế, đã được tính theo vị trí của Trái Đất trong chu kỳ chuyển động trên quỹ đạo xung quanh Mặt Trời. Theo cách tính hiện đại, với điểm xuân phân là gốc có kinh độ Mặt Trời bằng 0°, thì điểm diễn ra hay bắt đầu tiết Đại tuyết ứng với kinh độ Mặt Trời bằng 255°. Ngày bắt đầu tiết Đại tuyết do vậy được tính theo cách tính của dương lịch hiện đại và nó thông thường rơi vào ngày 7 hay 8 tháng 12 dương lịch tùy theo từng năm. Tiết khí đứng ngay trước Đại tuyết là Tiểu tuyết và tiết khí kế tiếp sau là Đông chí. Xem thêm Lịch Trung Quốc Tiết khí Tham khảo Giờ mùa đông Tiết khí
28704
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ti%E1%BB%83u%20h%C3%A0n
Tiểu hàn
Tiểu hàn (tiếng Hán: 小寒) là một trong 24 tiết khí của các lịch Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên. Nó thường bắt đầu vào khoảng ngày 5 hay 6 tháng 1 dương lịch, khi Mặt Trời ở xích kinh 285° (kinh độ Mặt Trời bằng 285°). Đây là một khái niệm trong công tác lập lịch của các nước Đông Á chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Quốc cổ đại. Ý nghĩa của tiết khí này, đối với vùng Trung Hoa cổ đại, là Rét nhẹ. Theo quy ước, tiết tiểu hàn là khoảng thời gian bắt đầu từ khoảng ngày 5 hay 6 tháng 1 khi kết thúc tiết đông chí và kết thúc vào khoảng ngày 20 hay 21 tháng một trong lịch Gregory theo các múi giờ Đông Á khi tiết đại hàn bắt đầu. Lịch Trung Quốc, cũng như lịch ở các nước Đông Á cổ đại bao gồm Việt Nam, bị nhiều người lầm là âm lịch thuần túy, dẫn đến ngộ nhận về việc tiết khí nói chung và Tiểu hàn nói riêng được tính theo chu kỳ của Mặt Trăng quay xung quanh Trái Đất. Trên thực tế lịch Trung Quốc cổ đại là một loại âm dương lịch, trong đó tiết khí, từ thời Hán Vũ Đế, đã được tính theo vị trí của Trái Đất trong chu kỳ chuyển động trên quỹ đạo xung quanh Mặt Trời. Theo cách tính hiện đại, với điểm xuân phân là gốc có kinh độ Mặt Trời bằng 0°, thì điểm diễn ra hay bắt đầu tiết Tiểu hàn ứng với kinh độ Mặt Trời bằng 285°. Ngày bắt đầu tiết Tiểu hàn do vậy được tính theo cách tính của dương lịch hiện đại và nó thông thường rơi vào ngày 5 hay 6 tháng 1 dương lịch tùy theo từng năm. Tiết khí đứng ngay trước Tiểu hàn là Đông chí và tiết khí kế tiếp sau là Đại hàn. Xem thêm Lịch Trung Quốc Tiết khí Tham khảo Giờ mùa đông Tiết khí Mùa đông
28712
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%95ng%20Th%C6%B0%20k%C3%BD%20Li%C3%AAn%20H%E1%BB%A3p%20Qu%E1%BB%91c
Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc
Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc là chức danh đứng đầu Ban Thư ký Liên Hợp Quốc. Trong thực tế, Tổng Thư ký cũng đồng thời là người phát ngôn của Liên Hợp Quốc. Theo Hiến chương Liên Hợp Quốc, chức danh Tổng Thư ký được bổ nhiệm bởi Đại Hội đồng căn cứ trên sự tiến cử của Hội đồng Bảo an. Tổng Thư ký có thể được tái bổ nhiệm. Tổng Thư ký đương nhiệm là António Guterres, người Bồ Đào Nha, nhậm chức vào ngày 1 tháng 1 năm 2017. Nhiệm kỳ đầu tiên của ông kết thúc vào ngày 31 tháng 12 năm 2021. Vai trò Chức danh Tổng Thư ký được quy định trong bản Hiến chương như là "viên chức quản lý và quản trị chính" của tổ chức này. Nhiệm kỳ và quy trình tuyển chọn Chức danh này được bổ nhiệm theo nhiệm kỳ năm năm. Các Tổng Thư ký thường phục vụ hai nhiệm kỳ liên tiếp, riêng Boutros Boutros-Ghali chỉ ngồi ở vị trí này trong một nhiệm kỳ. Tổng Thư ký được bổ nhiệm bởi Đại Hội đồng, dựa trên sự tiến cử của Hội đồng Bảo an. Do vậy, sự tuyển chọn phụ thuộc vào phiếu phủ quyết của các thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an. Chức danh này không được bầu chọn theo cách phổ thông đầu phiếu. Theo quy ước, chức vụ Tổng Thư ký được chọn tuần tự theo các khu vực địa lý, nhưng vì Boutros Boutros-Ghali từ Ai Cập chỉ phục vụ một nhiệm kỳ nên một người đến từ Phi châu, Kofi Annan, được chọn để kế nhiệm. Khi Annan hoàn tất nhiệm kỳ đầu tiên, các quốc gia thành viên, vì có ấn tượng tốt với thành tích của ông, đã quyết định dành cho ông nhiệm kỳ thứ hai mà không tính đến yếu tố nên chọn Tổng Thư ký kế nhiệm từ Á châu. Cho đến nay vẫn chưa có tổng thư ký nào đến từ Bắc Mỹ hoặc châu Đại Dương. Hầu hết các Tổng Thư ký là những ứng viên thoả hiệp xuất thân là viên chức trung cấp và ít có tiếng tăm. Những chính trị gia có thanh danh thường được giới thiệu cho chức vụ này, nhưng hầu như luôn luôn bị gạt bỏ. Chẳng hạn như các nhân vật tiếng tăm như Charles de Gaulle, Dwight Eisenhower và Anthony Eden được xem xét cho chức Tổng Thư ký đầu tiên của LHQ nhưng cuối cùng đều bị khước từ và một người đến từ Na Uy, Trygve Lie, giành được sự đồng thuận để được bổ nhiệm vào chức vụ này. Phụ thuộc vào nền chính trị quốc tế và cơ chế vận hành của nền chính trị thỏa hiệp, vì vậy dễ dàng tìm thấy nhiều điểm tương đồng trong quy trình và tiêu chuẩn tuyển chọn chức vụ Tổng Thư ký với các vị trí lãnh đạo thuộc các tổ chức quốc tế khác, trong đó nên kể đến quy trình bầu chọn giáo hoàng cho Giáo hội Công giáo Rôma. Xoay quanh việc bầu Tổng Thư ký năm 2006 Nhiệm kỳ của đương kim Tổng Thư ký Annan hết hạn vào cuối năm 2006. Đã có những đồn đại cho rằng cựu Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton và cựu Tổng thống Chile Ricardo Lagos đang tính trở thành Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc. Tuy nhiên, Clinton đến từ một quốc gia là thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an nên điều này được xem là phá vỡ truyền thống của LHQ. Các ứng viên khác là Ngoại trưởng Hàn Quốc Ban Ki-moon, Phụ tá Bộ trưởng Thông tin Ấn Độ Shashi Tharoor, Gro Harlem Brundtland, cựu Thủ tướng Na Uy và là cựu Tổng Giám đốc Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), Tarja Halonen, Tổng thống Phần Lan, và Vaira Vike Freiberga, Tổng thống Latvia. Dù vậy, nhiều người cho rằng chức vụ Tổng Thư ký LHQ nên dành cho châu Á. Cả Clinton lẫn Lagos cũng bác bỏ tin đồn họ có ý định ra tranh chức vụ này. Đằng sau hậu trường, Trung Quốc đang vận động ráo riết cho Phó Thủ tướng Thái Lan, Surkiart Sathirathai, ông này cũng nhận được sự ủng hộ từ Hoa Kỳ, Nga và ASEAN. Trong khi đó, Jayantha Dhanapala của Sri Lanka và Jose Ramos-Horta, cựu Ngoại trưởng Timor-Leste và là người được đề cử Giải Nobel Hòa bình cũng được xem là những ứng viên có nhiều triển vọng. Dhanapala là nhân vật có tiếng tăm trong nội bộ Liên Hợp Quốc nhờ vào những đóng góp của ông trong các vấn đề giải trừ quân bị. Có ý kiến được nhiều người đồng tình cho rằng đã đến lúc nên bổ nhiệm một phụ nữ vào chức vụ Tổng Thư ký. Trong suốt 60 năm qua, tất cả Tổng Thư ký đều là nam giới. Thủ tướng New Zealand, Helen Clark, và Toàn quyền nước này, Dame Silvia Cartwright, được xem là các ứng viên triển vọng sau khi được giới thiệu bởi tổ chức phụ nữ quốc tế Equality Now. Ngoại trưởng Hàn Quốc Ban Ki-moon đã được chính thức được bầu chọn để kế nhiệm Kofi Annan vào đầu năm 2007. Danh sách Tổng Thư ký Các nguyên Tổng thư ký còn sống Từ sau Tết 2020 đến nay, có duy nhất nguyên Tổng thư ký còn sống là Ban Ki-moon. Nguyên Tổng thư ký qua đời gần đây nhất là Javier Pérez de Cuéllar vào ngày 4 tháng 3 năm 2020 sau tuổi 100. Dưới đây là bảng tổng hợp các nguyên tổng thư ký còn sống được xếp theo thứ tự nhiệm kỳ: Xem thêm Đại hội đồng Liên Hợp Quốc Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc Tòa án Công lý Quốc tế Ban Thư ký Liên Hợp Quốc Hội đồng Kinh tế và Xã hội Liên Hợp Quốc Tham khảo Liên kết ngoài U.N. Secretary-General webpage Special and Personal Representatives and Envoys of the Secretary-General How is the Secretary-General appointed? Who will be the Next Secretary General? Ban Thư ký Liên Hợp Quốc
28713
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1i%20H%E1%BB%99i%20%C4%91%E1%BB%93ng%20Li%C3%AAn%20H%E1%BB%A3p%20Qu%E1%BB%91c
Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc
Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc (tiếng Anh: United Nations General Assembly, viết tắt UNGA/GA) là một trong 5 cơ quan chính của Liên Hợp Quốc. Được thành lập bởi các quốc gia thành viên, Đại Hội đồng triệu tập các kỳ họp thường niên dưới quyền của vị chủ tịch được bầu chọn trong vòng các đại biểu đến từ các quốc gia thành viên. Là cơ quan duy nhất của Liên Hợp Quốc có đại diện của tất cả thành viên, Đại Hội đồng có chức năng của một diễn đàn để các thành viên để diễn đạt sáng kiến trong những vấn đề về hòa bình, tiến bộ kinh tế và nhân quyền. Cũng có thể đề xuất các cuộc nghiên cứu, đưa ra những lời khuyên, cổ xúy cho nhân quyền, soạn thảo và phát triển công pháp quốc tế và xúc tiến những chương trình kinh tế, xã hội, văn hóa và giáo dục. Lịch Sử Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc được đề cập lần đầu trong Hiến chương Liên Hợp Quốc năm 1945. Kỳ họp đầu tiên của Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc được triệu tập ngày 10 tháng 1 năm 1946 tại Westminster Central Hall tại Luân Đôn với các đại biểu đến từ 51 quốc gia. Trong suốt giai đoạn từ 1946-1951, Đại Hội Đồng, Hội Đồng Bảo An, Hội Đồng Kinh Tế Xã Hội đã dẫn dắt các hoạt động tại các tổng bộ tạm thời ở Lake Success, New York. Vào 1952, Đại Hội Đồng đã di dời đến tổng bộ cố định của Liên Hợp Quốc ở Midtown, Manhattan, New York trước khi diễn ra phiên họp thường niên lần thứ 7. Sơ Lược Kỳ họp thường niên của Đại Hội đồng thường bắt đầu vào ngày thứ ba của tháng 9 và kết thúc vào giữa tháng 12 với chức danh Chủ tịch Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc được bầu vào lúc khởi đầu của mỗi kỳ họp. Đại Hội đồng biểu quyết bằng cách bỏ phiếu trong các vấn đề quan trọng - đề xuất hòa bình và an ninh; tuyển chọn thành viên cho các cơ quan; thu nhận, đình chỉ và trục xuất thành viên và các vấn đề ngân sách - cần được thông qua bởi đa số 2/3 số đại biểu có mặt và bỏ phiếu. Các vấn đề khác được quyết định bởi đa số quá bán. Mỗi quốc gia thành viên chỉ có một phiếu. Ngoại trừ việc thông qua các vấn đề về ngân sách bao gồm việc chấp nhận một thang bậc thẩm định, nghị quyết của Đại hội đồng không có giá trị ràng buộc đối với thành viên. Đại hội đồng có thể đề xuất về các sự việc trong khuôn khổ của Liên Hợp Quốc, ngoại trừ các vấn đề liên quan đến hòa bình và an ninh thuộc thẩm quyền xem xét của Hội đồng Bảo an. Trên lý thuyết, quy chế 1 quốc gia, 1 lá phiếu cho phép các nước nhỏ với dân số tổng cộng chiếm chỉ 8% dân số thế giới có khả năng thông qua nghị quyết với đa số 2/3 trên tổng số phiếu. Suốt thập niên 1980, Đại Hội đồng trở thành diễn đàn cho "đối thoại Bắc-Nam" - thảo luận về các vấn đề nảy sinh giữa các nước đã công nghiệp hoá và các nước đang phát triển. Những vấn đề này được đưa lên hàng đầu vì cớ sự phát triển thần kỳ và vì có diện mạo đang thay đổi của thành phần thành viên Liên Hợp Quốc. Năm 1945, Liên Hợp Quốc có 51 thành viên, nay con số này là 193, với hơn 2 phần 3 là các quốc gia đang phát triển. Chiếm phần đa số, các nước đang phát triển có khả năng ấn định nghị trình của Đại hội đồng (thông qua phương pháp phối hợp các nhóm quốc gia như G7), chiều hướng các cuộc tranh luận và thực chất của các quyết định. Đối với nhiều quốc gia đang phát triển, Liên Hợp Quốc là nguồn cung ứng cho họ ảnh hưởng ngoại giao và diễn đàn chính cho những sáng kiến ngoại giao. Các Nghị Quyết Ngân Sách Đại hội đồng cũng phê chuẩn ngân sách của Liên Hợp Quốc và quyết định mỗi quốc gia thành viên phải trả bao nhiêu tiền để điều hành tổ chức. Hiến chương Liên Hợp Quốc trao trách nhiệm phê duyệt ngân sách cho Đại hội đồng (Chương IV, Điều 17) và chuẩn bị ngân sách cho tổng thư ký, với tư cách là "giám đốc hành chính" (Chương XV, Điều 97). Điều lệ cũng đề cập đến việc không thanh toán các khoản đóng góp được đánh giá (Chương IV, Điều 19). Chu kỳ lập kế hoạch, lập trình, lập ngân sách, giám sát và đánh giá của Liên Hợp Quốc đã phát triển qua nhiều năm; các nghị quyết chính về quy trình này bao gồm các nghị quyết của Đại hội đồng: 41/213 ngày 19 tháng 12 năm 1986, 42/211 ngày 21 tháng 12 năm 1987 và 45/248 ngày 21 tháng 12 năm 1990. Ngân sách bao gồm chi phí của các chương trình Liên Hợp Quốc trong các lĩnh vực như các vấn đề chính trị, công lý và luật pháp quốc tế, hợp tác quốc tế để phát triển, thông tin công cộng, nhân quyền và các vấn đề nhân đạo. Nguồn vốn chính cho ngân sách thường xuyên là sự đóng góp của các quốc gia thành viên. Quy mô đánh giá dựa trên khả năng thanh toán của các quốc gia. Điều này được xác định bằng cách xem xét tỷ lệ tương đối của họ trong tổng sản phẩm quốc dân, được điều chỉnh để tính đến một số yếu tố, bao gồm cả thu nhập bình quân đầu người của họ. Ngoài ngân sách thường xuyên, các quốc gia thành viên được đánh giá về chi phí của các tòa án quốc tế và, theo phiên bản sửa đổi của thang đo cơ bản, cho các chi phí của các hoạt động gìn giữ hòa bình. Bầu Cử Đại hội đồng được giao phó trong Hiến chương Liên Hợp Quốc bầu các thành viên cho các cơ quan khác nhau trong hệ thống Liên Hợp Quốc. Thủ tục cho các cuộc bầu cử này có thể được tìm thấy trong Phần 15 của Quy tắc Thủ tục cho Đại hội đồng. Các cuộc bầu cử quan trọng nhất cho Đại hội đồng bao gồm những cuộc bầu cử cho sắp tới Chủ tịch Đại hội đồng,Hội đồng Bảo an, Hội đồng Kinh tế và Xã hội, Hội đồng Nhân quyền, Tòa án Công lý Quốc tế, các thẩm phán của Tòa án Tranh chấp Liên Hợp Quốc, và Tòa phúc thẩm Liên Hợp Quốc. Hầu hết các cuộc bầu cử được tổ chức hàng năm, ngoại trừ cuộc bầu cử thẩm phán vào ICJ, diễn ra hai năm một lần. Hội đồng hàng năm bầu năm thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an với nhiệm kỳ hai năm, 18 thành viên của Hội đồng Kinh tế và Xã hội với nhiệm kỳ ba năm và 14-18 thành viên của Hội đồng Nhân quyền với nhiệm kỳ ba năm. Nó cũng bầu ra lãnh đạo của phiên họp Đại hội đồng tiếp theo, tức là Chủ tịch tiếp theo của Đại hội đồng, 21 Phó Chủ tịch và văn phòng của sáu ủy ban chính. Các cuộc bầu cử vào Tòa án Công lý Quốc tế diễn ra ba năm một lần để đảm bảo tính liên tục trong tòa án. Trong các cuộc bầu cử này, năm thẩm phán được bầu với nhiệm kỳ chín năm. Các cuộc bầu cử này được tổ chức cùng với Hội đồng Bảo an, với các ứng cử viên cần nhận được đa số phiếu bầu tuyệt đối ở cả hai cơ quan. Hội đồng cũng vậy, kết hợp với Hội đồng Bảo an, chọn tổng thư ký tiếp theo của Liên Hợp Quốc. Phần chính của các cuộc bầu cử này được tổ chức tại Hội đồng Bảo an, với Đại hội đồng chỉ đơn giản là bổ nhiệm ứng cử viên nhận được đề cử của Hội đồng. Các Cơ Quan Con Các cơ quan phụ của Đại hội đồng được chia thành năm loại: 30 Ủy Ban (có 6 Ủy ban chính), 6 Ủy Ban Nhiệm Vụ, 7 Phòng Ban, 4 Hội Đồng và 1 Ban Hội Thẩm, các Nhóm Làm Việc và Khác Các Ủy Ban (Committees) Các ủy ban chính Các ủy ban chính được đánh số theo thứ tự, 1–6: Ủy ban đầu tiên: Giải trừ quân bị và An ninh Quốc tế liên quan đến giải trừ quân bị và các câu hỏi an ninh quốc tế liên quan Ủy ban thứ hai: Kinh tế và Tài chính quan tâm đến các câu hỏi kinh tế Ủy ban thứ ba: Các vấn đề xã hội, văn hóa và nhân đạo với các vấn đề xã hội và nhân đạo Ủy ban thứ tư: Chính trị đặc biệt và phi thực dân hóa liên quan đến nhiều chủ đề chính trị không được Ủy ban thứ nhất giải quyết, cũng như phi thực dân hóa Ủy ban thứ năm: Hành chính và Ngân sách liên quan đến quản lý và ngân sách của Liên Hợp Quốc Ủy ban thứ sáu: Các vấn đề pháp lý liên quan đến các vấn đề pháp lý Vai trò của nhiều ủy ban chính đã thay đổi theo thời gian. Cho đến cuối những năm 1970, Ủy ban thứ nhất là Ủy ban Chính trị và An ninh cũng có đủ số lượng các vấn đề "chính trị" bổ sung mà một ủy ban chính bổ sung, không đánh số, được gọi là Ủy ban Chính trị Đặc biệt, cũng họp. Ủy ban thứ tư trước đây đã xử lý các vấn đề Ủy thác và Phi thực dân hóa. Với số lượng ngày càng giảm của những vấn đề như vậy cần được giải quyết như các lãnh thổ tin tưởng đã đạt được độc lập và Phong trào phi thực dân hóa đã tiến triển, các chức năng của Ủy ban Chính trị Đặc biệt đã được sáp nhập vào Ủy ban thứ tư trong những năm 1990. Mỗi ủy ban chính bao gồm tất cả các thành viên của Đại hội đồng. Mỗi người bầu một chủ tịch, ba phó chủ tịch, và một báo cáo viên vào đầu mỗi phiên họp thường kỳ của Đại hội đồng. Các ủy ban khác Những thứ này không được đánh số. Theo trang web của Đại hội đồng, điều quan trọng nhất là: Ủy ban Chứng chỉ - Ủy ban này chịu trách nhiệm đảm bảo rằng thông tin ngoại giao của tất cả các đại diện của Liên Hợp Quốc đều theo thứ tự. Ủy ban Chứng chỉ bao gồm chín Quốc gia Thành viên được bầu sớm trong mỗi phiên họp Đại hội đồng thường kỳ. Ủy ban chung - Đây là một ủy ban giám sát được giao nhiệm vụ đảm bảo rằng toàn bộ cuộc họp của Hội đồng diễn ra suôn sẻ. Ủy ban chung bao gồm chủ tịch và phó chủ tịch của phiên họp Đại hội đồng hiện tại và chủ tịch của mỗi trong số sáu Ủy ban chính. Các ủy ban khác của Đại hội đồng được liệt kê. Các Ủy Ban Nhiệm Vụ (Commissions) Có sáu Ủy Ban Nhiệm Vụ: Ủy ban Giải trừ Quân bị Liên Hợp Quốc, được thành lập theo Nghị quyết GA 502 (VI) và S-10/2 Ủy ban Dịch vụ Dân sự Quốc tế, được thành lập theo Nghị quyết GA 3357 (XXIX) Ủy ban Luật Quốc tế, được thành lập bởi Nghị quyết GA 174 (II) Ủy ban Liên Hợp Quốc về Luật Thương mại Quốc tế (UNCITRAL), được thành lập theo Nghị quyết 2205 (XXI) của GA Ủy ban Hòa giải Liên Hợp Quốc về Palestine, được thành lập theo Nghị quyết GA 194 (III) Ủy ban Hòa bình Liên Hợp Quốc, được thành lập bởi Nghị quyết GA 60/180 và Hội đồng Bảo an Liên Hợp QuốcNghị quyết 1645 (2005) và 1646 (2005) Bất chấp cái tên của nó, Ủy ban Nhân quyền Liên Hợp Quốc (UNCHR) (đã bị thay thế từ năm 2006) thực sự là một cơ quan phụ của ECOSOC. Các Phòng Ban (Boards) Có 7 Phòng Ban được phân loại thành hai nhóm: a) Ban điều hành và b) Ban thường Ban điều hành Ban điều hành Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc, được thành lập theo Nghị quyết GA 57 (I) và 48/162 Ban điều hành của Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc và Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc, được thành lập theo Nghị quyết GA 2029 (XX) và 48/162 Ban điều hành của Chương trình Lương thực Thế giới, được thành lập theo Nghị quyết GA 50/8 Ban thường Ban Kiểm toán, được thành lập bởi Nghị quyết GA 74 (I) Ban Thương mại và Phát triển, được thành lập bởi Nghị quyết GA 1995 (XIX) Ban Hưu trí Nhân viên Liên Hợp Quốc, được thành lập theo Nghị quyết GA 248 (III) Ban cố vấn về các vấn đề giải trừ quân bị, được thành lập theo Nghị quyết GA 37/99 K Hội Đồng (Councils) và Ban Hội Thẩm (Panels) Hội đồng mới nhất là Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc, đã thay thế UNCHR đã nói ở trên vào tháng 3 năm 2006. Có tổng cộng 4 Hội đồng và 1 Ban Hội Thẩm. Các nhóm làm việc và những người khác Có một nhóm các nhóm làm việc đa dạng và các cơ quan phụ trợ khác. Những kỳ họp đặc biệt Những kỳ họp đặc biệt có thể được triệu tập theo yêu cầu của Hội đồng Bảo an, của đa số thành viên Liên Hợp Quốc, hoặc của một thành viên nếu được đa số tán đồng. Một phiên họp đặc biệt được triệu tập vào tháng 10 năm 1995 với sự tham dự của những người đứng đầu chính phủ để kỷ niệm 50 năm thành lập Liên Hợp Quốc. Một kỳ họp đặc biệt khác được tổ chức vào tháng 9 năm 2000 để chào mừng thiên niên kỷ mới và xúc tiến Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ. Thêm một kỳ họp đặc biệt nữa (Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới 2005) được triệu tập vào tháng 9 năm 2005 kỷ niệm lần thứ 60 ngày thành lập Liên Hợp Quốc và thẩm định sự tiến bộ của Mục tiêu Thiên niên kỷ, cũng như thảo luận đề án In Larger Freedom (Tự do hơn nữa) của Kofi Annan. Đại Hội đồng được phép hành động để duy trì hoà bình quốc tế nhằm hành xử trách nhiệm chính yếu của mình trong trường hợp Hội đồng Bảo an không có khả năng làm điều này, thường là do bất đồng giữa các thành viên thường trực. Nghị quyết "Đoàn kết cho hòa bình", được thông qua năm 1950, dành cho Đại Hội đồng quyền triệu tập kỳ họp đặc biệt trong trường hợp khẩn cấp nhằm đưa ra những biện pháp chung – kể cả quyền sử dụng lực lượng vũ trang – trong trường hợp hòa bình bị xâm phạm hoặc có tiến hành xâm lấn. Cần có 2/3 số thành viên ủng hộ đề xuất. Những kỳ họp đặc biệt trong trường hợp khẩn cấp theo quy trình này đã được triệu tập trong mười trường hợp. Hai kỳ họp gần đây nhất, lần trước vào năm 1982 và lần sau từ 1997 đến 2003, đã được triệu tập nhằm phản ứng lại những hành động của Israel. Kỳ họp thứ chín xem xét tình hình tại những lãnh thổ Ả Rập đang bị chiếm đóng sau khi Israel đơn phương gia hạn luật pháp, quyền tài phán và quyền cai trị tại Cao nguyên Golan. Kỳ họp thứ mười khởi phát bởi sự chiếm đóng Khu Đông Jerusalem và các vấn đề Palestine. Tại kỳ họp đặc biệt của Đại Hội đồng triệu tập năm 1947, Oswaldo Aranha, khi ấy là trưởng phái đoàn Brasil tại Liên Hợp Quốc, khởi đầu truyền thống vẫn còn duy trì đến ngày nay, theo đó diễn giả đầu tiên của diễn đàn quốc tế quan trọng này luôn luôn là người Brasil. Cải tổ Ngày 21 tháng 3 năm 2005, Tổng Thư ký Kofi Annan đệ trình một bản tường trình, In larger Freedom, phê phán Đại Hội đồng quá chú trọng đến sự đồng thuận đến nỗi đã thông qua những nghị quyết kém phẩm chất chỉ để phản ánh "mẫu số chung thấp nhất của các quan điểm dị biệt". Ông cũng chỉ trích Đại Hội đồng chỉ cố thiết lập một nghị trình quá bao quát thay vì tập trung vào "những vấn đề căn bản chủ chốt như tình trạng di dân quốc tế và một công ước toàn diện về khủng bố đã được bàn luận từ lâu". Annan đề nghị thu gọn nghị trình, cơ cấu các ủy ban và thủ tục của Đại Hội đồng; củng cố vai trò và thẩm quyền của chủ tịch Đại hội đồng; nâng cao vai trò của những định chế dân sự và thiết lập cơ chế tái thẩm định những quyết định của các ủy ban nhằm giảm thiểu những ủy thác không được cấp ngân sách và phương cách quản trị vi mô của Ban Thư ký Liên Hợp Quốc. Annan cũng nhắc nhở các thành viên Liên Hợp Quốc về trách nhiệm của họ phải thực thi cải tổ nếu họ muốn nhìn thấy Liên Hợp Quốc ngày càng hoạt động hiệu quả hơn. Đọc thêm Liên Hợp Quốc Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc Kofi Annan Tham khảo Liên kết ngoài Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phát biểu tại Đại hội đồng LHQ - VnExpress Annan, Kofi: Strengthening the United Nations, In Larger Freedom, 21 March 2005. United States Department of State – UN Division United Nations General Assembly Liên Hợp Quốc Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc
28749
https://vi.wikipedia.org/wiki/Vect%C6%A1%20Poynting
Vectơ Poynting
Vectơ Poynting là tích vectơ giữa cường độ điện trường và cường độ từ trường, được đặt tên theo người phát hiện John Henry Poynting. Oliver Heaviside cũng tìm ra vectơ này một cách độc lập. Vectơ Poynting, thường được ký hiệu là , hay , là vectơ mô tả sự truyền đi của năng lượng sóng điện từ trong môi trường. Chiều của vectơ Poynting là chiều truyền đi của năng lượng (có thể khác với chiều của vectơ truyền sóng ), còn độ lớn của nó là năng lượng sóng điện từ truyền qua một đơn vị diện tích trong một đơn vị thời gian. với là cường độ điện trường, là cường độ từ trường, là cảm ứng từ, là hằng số từ môi của môi trường, trong chân không hệ số này là . Trong trường hợp sóng phẳng, ta có thể viết trung bình của vectơ Poynting theo thời gian dưới dạng: với khoảng thời gian T lớn hơn một chu kì dao động sóng. Xem thêm Định luật Poynting Phương trình Maxwell Phương trình truyền sóng Tham khảo Sóng điện từ Quang học
28750
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%ACnh%20ca
Tình ca
Tình ca có thể chỉ: Tình khúc - các ca khúc viết về tình yêu. Nhạc phẩm Tình ca của nhạc sĩ Phạm Duy, sáng tác năm 1952 Nhạc phẩm Tình ca của nhạc sĩ Hoàng Việt, sáng tác năm 1957 Nhạc phẩm Tình ca của nhạc sĩ Quốc Bảo, thể hiện bởi Hà Trần trong album Hà Trần 98-03 (2004)
28755
https://vi.wikipedia.org/wiki/Philip%20Johnson
Philip Johnson
Philip Cortelyou Johnson (8 tháng 7 năm 1906 – 25 tháng 1 năm 2005) là một kiến trúc sư người Mỹ. Ông là giám đốc đầu tiên của bộ phận kiến trúc thuộc Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại New York (Museum of Modern Arts - MoMA) vào năm 1946 và sau này là người đại diện của MoMA. Ông được tặng Huy chương Vàng của Học viện kiến trúc sư Mỹ năm 1978 và là người đầu tiên đoạn giải thưởng Pritzker vào năm 1979. Ông từng là sinh viên tại Đại học Harvard. Ảnh hưởng Vào năm 1932, ông cộng tác với Henry-Russell Hitchcock viết tác phẩm "Phong cách quốc tế: Kiến trúc từ năm 1922" (The International Style: Architecture Since 1922). Tác phẩm này đã ghi nhận các đặc điểm cho sự phát triển giai đoạn đầu của Kiến trúc Hiện đại trên thế giới. Johnson được biết đến với kiến thức sâu, rộng về trường phái hiện đại châu Âu và giới thiệu Ludwig Mies van der Rohe ở Mỹ. Với tư cách là cố vấn của nhóm New york Five, một nhà môi giới quyền lực, một nhân vật nổi danh và một ủy viên quản trị của Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại (Museum of Modern Art - MoMA), Johnson đã có một ví trí lý tưởng để quảng bá quan điểm của mình về kiến trúc như một ngành nghệ thuật cân bằng với các loại nghệ thuật khác. Tuy rằng Johnson vẽ không được đẹp nhưng bù lại ông có một giác quan về đồ họa và thiết kế hoàn hảo. Như một nhân vật nổi danh của kiến trúc Mỹ trong nhiều thập kỷ, Johnson vừa là một biểu tượng lớn, nhà tiên tri, một nhà châm biếm, ông thực sự là một nguồn dữ liệu tin tưởng của trí tuệ và các nhận xét phê bình. Liên quan tới chủ nghĩa Phát xít Một trong số những điểm gây tranh cãi trong sự nghiệp của Johnson là sự tán dương chủ nghĩa Phát xít trong vòng tám năm, bắt đầu từ năm 1932. Sau khi tách mình ra khỏi thành công của ông với MoMa, Johnson đã nỗ lực gia nhập lực lượng của thống đốc bang Louisiana là Huey Long, một hành động mà báo chí đương thời cho là kì quái. Sau khi Huey Long bị ám sát năm 1935, Johnson viết một loạt các bài thẳng thừng Bài Do thái cho linh mục Charles Coughlin ở đài phát thanh Detroit, đồng thời chạy đua vào cơ quan công quyền ở Ohio và cố gắng lập một đảng Phát xít ở Mỹ. Johnson cũng đi du lịch tại Nürnberg trong cuộc mít tinh của Adolf Hitler năm 1938. Năm 1938, Johnson đến Ba Lan sau khi bị nước Đức xâm lược. Khi đó ông đã viết: Những bộ quân phục màu xanh của người Đức đã làm quan cảnh thật vui tưoi và hạnh phúc [...] Ở đó chẳng còn mấy người Do Thái. Chúng ta thấy Warszawa bốc cháy và Modlin bị dội bom. Thật là một quang cảnh hào hứng Sau một cuộc điều tra của FBI và trong quãng thời gian chờ đợi trước khi nước Mỹ tham chiến ở Thế Chiến thứ hai, Johnson từ bỏ sự ủng hộ của mình với chủ nghĩa Phát xít khoảng giữa năm 1940 và quay lại Đại học Harvard. Những năm sau đó, ông từ bỏ chủ nghĩa Phát xít và thiết kế một hội đường Do Thái giáo miễn phí như một lời xin lỗi. Trong triết lý của mình, Johnson chỉ tập trung vào thẩm mỹ mà bỏ đi tất cả các khía cạnh khác, trong một cuộc phỏng vấn vào năm 1973, ông đã nói: Điểm duy nhất tôi thực sự lấy làm tiếc về những chế độ độc tài không phải là về nền chuyên chính, bởi vì tôi hiểu rằng, vào thời của Julius, của Justinian và của Caesar phải có những nhà độc tài. Ý của tôi là tôi thực sự không quan tâm gì đến khía cạnh chính trị. Tôi không thấy bất cứ một ý nghĩa nào về nó. Về phần Hitler, nếu ông ta có thể là một kiến trúc sư tốt Một số công trình nổi tiếng Công trình nổi tiếng nhất của Johnson là nhà kính New Canaan tại Connecticut, một công trình có không gian mở và trong suốt, được ông thiết kế làm nhà riêng và cũng là luận văn tốt nghiệp thạc sĩ của ông tại Đại học Harvard năm 1949. Công trình này có rất nhiều điểm tương tự nhà kính Farnsworth của Mies. Công trình trụ sở AT&T của Johnson, hoàn thành năm 1984, lại mang một hình ảnh hoàn toàn khác. Với lớp vỏ màu hồng bằng đá cẩm thạch và một dáng vẻ cổ điển, công trình là một sự tương phản với thẩm mỹ kiến trúc Hiện đại của những nhà chọc trời trong khu Manhattan. Yếu tố đập vào mắt mọi người ở công trình đó là chi tiết trán tường có một cung tròn bị vỡ ra thành hình tròn kiểu Chippendade, một kiểu tủ cổ Ý. Cách xử lý này chính là một trong những thủ pháp của Kiến trúc Hậu Hiện đại. Theo một số nhà nghiên cứu, đây được xem như tuyên ngôn đầu tiên của Kiến trúc Hậu Hiện đại, khi mà thẩm mỹ của kiến trúc Hiện đại đã đi vào ngõ cụt. Một số công trình nổi tiếng khác của Johnson gồm có Nhà John de Menil, Houston, 1950 Nhà hàng Bốn mùa tại tòa nhà Seagram của Mies van der Rohe, thành phố New York, 1959 Nhà hát bang New York (trụ sở của dàn Opera thành phố New York và đoàn Ballet thành phố New York) tại Trung tâm Lincoln cộng tác với Richard Foster, 1964 Thư viện Elmer Holmes Bobst tại Đại học New York, 1967 - 1972 Tháp IDS ở Minneapolis, Minnesota, 1972 Bảo tàng Nghệ thuật Nam Texas ở Corpus Christi, Texas, 1972 Thư viện công cộng Boston, 1973 Nhà thờ chính tòa Pha Lê tại Garden Grove, California, 1980 Tháp Williams, Houston, 1983 Bảo tàng nghệ thuật Neuberger tại Đại học Tiểu bang New York, Purchase College, Quảng trường Tạ ơn, Dallas, Texas, Khu học xá chính của Đại học Saint Thomas, Houston, Texas Ngân hàng Cộng hòa, Houston, Texas Nhà hát Cleveland, Cleveland, Ohio Bảo tàng Nghệ thuật tại Học viện Nghệ thuật Munson-Williams-Proctor, Utica, New York. 190 South LaSalle , Chicago 191 Tháp Peachtree, Atlanta, Georgia Trung tâm One Atlantic, (còn được gọi là tháp IBM), Atlanta, Georgia Công trình Cánh cổng châu Âu, Madrid, Tây Ban Nha Fort Worth Water Gardens Quảng trường PPG, Pittsburgh, Pennsylvania, cộng tác với John Burgee, 1984 Bảo tàng Amon Carter, Fort Worth, Texas Trích dẫn "Kiến trúc là nghệ thuật làm sao để phí phạm không gian" "Nhiệm vụ của người kiến trúc sư ngày nay là tạo ra những công trình đẹp, vậy thôi" Tham khảo Tài liệu về Philip Johnson tại Great Buildings Online. Tiểu sử của Philip Johnson tại trang web của giải thưởng Pritzker Philip Johnson on NewsHour (1996). Truy cập Sep. 27, 2003. Mark Stevens, "Form Follows Fascism," New York Times (Jan. 31, 2005). Heyer, Paul, ed. (1966). Architects on Architecture: New Directions in America, p. 279. New York: Walker and Company. "Philip Johnson: Dean of American Architects," Academy of Achievement (Feb. 28, 1992). (Biography, interview, audio, and photographs.) Philip Johnson at Find-A-Grave Kiến trúc sư Mỹ Kiến trúc sư Hiện đại Lý thuyết kiến trúc Người đoạt giải Pritzker Người Ohio Người thành phố New York Cựu sinh viên Đại học Harvard Sinh năm 1906 Mất năm 2005 Người LGBT Hoa Kỳ
28759
https://vi.wikipedia.org/wiki/Richard%20Neutra
Richard Neutra
Richard Joseph Neutra (8 tháng 4 năm 1892 tại thủ đô Viên của Áo – 16 tháng 4 năm 1970) được xem như một trong số các kiến trúc sư quan trọng nhất của Kiến trúc hiện đại. Ông là học trò của Adolf Loos, chịu ảnh hưởng của Otto Wagner, hai kiến trúc sư lớn của Áo thời điểm đó và có làm việc một thời gian tại Đức. Năm 1923, Neutra di cư sang Mỹ và nhập quốc tịch năm 1929. Ông làm việc một thời gian ngắn cho Frank Lloyd Wright nhưng đã dừng chân tại California, làm việc với Rudolf Schindler, một người bạn thân của ông từ lúc học đại học tại Wien. Sau đó, ông mở văn phòng kiến trúc của riêng mình cùng với vợ, bà Dione. Neutra nổi tiếng vì sự quan tâm đặc biệt đến nhu cầu của khách hàng, bất kể là ông xây dựng một căn nhà nhỏ hay một dinh thự lớn. Điều này tương phản với một số kiến trúc sư nổi tiếng khác, những người thường hay áp đặt quan điểm thẩm mỹ của mình xuống khách hàng. Ông đôi khi sử dụng một bảng câu hỏi chi tiết để biết được chính xác nhu cầu của khách hàng, đến mức khiến họ kinh ngạc. Kiến trúc nhà ở của ông là một sự kết hợp giữa nghệ thuật, kiến trúc phong cảnh và sự thoải mái thuận tiện. Ông mất ở Wuppertal, Đức, hiện nay con trai của Neutra là Dion vẫn tiếp tục điều hành hãng kiến trúc Richard và Dion Neutra ở Los Angeles, Mỹ. Tham khảo Thomas, H. Richard Neutra and the Search for Modern Architecture, New York, Oxford University Press, 1982. Neutra,R, J. Life and Shape. New York, Appleton-Century-Crofts, 1962. Liên kết ngoài http://www.neutra.org/ http://www.socalhistory.org/Biographies/neutra.htm http://www.greatbuildings.com/architects/Richard_Neutra.html http://davidszondy.com/future/city/neutra.htm http://www.isdesignet.com/Magazine/J_F'01/cover.html Neutra, Richard Neutra, Richard Neutra, Richard Neutra, Richard Neutra, Richard Kiến trúc sư Đức Kiến trúc sư Áo Mất năm 1970
28768
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C3%81lvaro%20Siza%20Vieira
Álvaro Siza Vieira
Alvaro Siza (tên đầy đủ Alvaro Joaquim de Melo Siza Vieira; sinh vào năm 1933) là một kiến trúc sư Hậu Hiện đại. Ông sinh ra ngày 25 tháng 6 năm 1933 tại một thị trấn duyên hải nhỏ, Matosinhos, Bồ Đào Nha. Từ 1949 đến 1955, Alvaro Siza theo học kiến trúc tại trường kiến trúc, Đại học Porto. Năm 1954, ông đã hoàn thành tác phẩm đầu tiên của mình trước khi tốt nghiệp. Cùng năm đó, ông mở văn phòng thiết kế riêng ở thủ đô Porto. Các thể loại công trình của Siza rất đa dạng, từ bể bơi đến các công trình lớn, nhà ở, ngân hàng. Từ năm 1966, Siza bắt đầu dạy tại trường đại học, từ năm 1976 ông được bổ nhiệm làm giáo sư kiến trúc tại Đại học Porto. Ngoài ra, ông còn là giáo sư thỉnh giảng tại các trường đại học trên thế giới như Đại học Harvard, Đại học Pennsylvania, Đại học Bogota, Trường Bách khoa Lausanne và các đại học khác. Ông đã nhận được nhiều giải thưởng lớn về kiến trúc, như Huy chương Vàng của quỹ Mies van der Rohe, đây là giải thưởng cao quý nhất về kiến trúc ở châu Âu, Huy chương Vàng kiến trúc của Cộng đồng chung châu Âu, giải thưởng Pritzker năm 1992. Công trình 1958-1963: Nhà hàng Boa Nova ở Matosinhos Ảnh 1958-1965: Bể bơi Quinta de Conceição. 1966: Bể bơi Leça da Palmeira Ảnh. 1981-1985: Nhà ở Avelino Duarte Ouar. 1987-1993: Khoa kiến trúc Đại học Porto Ảnh 1,Ảnh 2 1995: Thư viện của Đại học Aveiro. 1997: Bảo tàng nghệ thuật đương đại Serralves, Ảnh. 1998: Xưởng thực hành kiến trúc tại, Porto (Photos). 2005: Gian triển lãm Serpentine 2005 (Ảnh ). Tham khảo Liên kết ngoài Alvaro Siza Furniture Trang web của giải thưởng Prizker về Siza Personal webpage Alvaro Siza sculptures Kiến trúc sư Bồ Đào Nha Kiến trúc sư Hậu Hiện đại Người đoạt giải Pritzker
28772
https://vi.wikipedia.org/wiki/Maki%20Fumihiko
Maki Fumihiko
(sinh ngày 6 tháng 9 năm 1928) sinh ra tại Tokyo, Nhật Bản. Ông là một kiến trúc sư Hiện đại nổi tiếng thế giới. Là học trò của Tange Kenzo tại Đại học Tokyo, Maki tốt nghiệp năm 1952. Sau đó ông chuyển đến học tại Học viện Hàn lâm Nghệ thuật Cranbrook tại Bloomfield Hills, Michigan, Mĩ. Sau đó ông lấy bằng thạc sĩ kiến trúc tại Đại học Harvard. Sau khi ra trường, ông làm việc cho các hãng Skidmore, Owings & Merrill ở New York và Sert Jackson và cộng sự ở Cambridge. Năm 1956, ông làm trợ lý giáo sư tại Đại học Washington và thiết kế công trình đầu tiên trên đất Mĩ là Trung tâm nghệ thuật Steinberg. Trong suốt thời gian làm việc trên đất Mĩ, Maki đã trải nghiệm được những kinh nghiệm thẩm mĩ về cả phương Đông và phương Tây và tạo dựng được cho mình một khiếu thẩm mĩ đa dạng để đáp ứng mọi loại khách hàng. Năm 1965, Maki quay lại Nhật Bản mở văn phòng thiết kế Maki và cộng sự tại Tokyo. Hầu hết những công trình của ông được xây dựng tại Nhật Bản. Vật liệu ưu thích của ông là các vật liệu truyền thống của kiến trúc Hiện đại như thép, bê tông, kính... nhưng được mở rộng ra các vật liệu mới như nhôm và thủ pháp mới như khảm, chạm... Ông rất quan tâm đến việc ứng dụng các kĩ thuật cao vào công trình của mình. Mặc dù tự nhận mình là người theo chủ nghĩa Hiện đại, nhưng kiến trúc của ông lại rất quan tâm đến truyền thống lịch sử Nhật. Ông được tặng giải thưởng Pritzker năm 1993. Công trình Nhà xoáy ốc, Tokyo, 1985 Makuhari Messe, Trung Quốc, 1989 Tòa nhà Tepia, Tokyo, Nhật Bản, 1989. Cung thể dục thể thao trung tâm Tokyo, Tokyo, Nhật Bản, 1990 TV Asahi, Tokyo, 2003 Trụ sở mới của Liên Hợp Quốc (đang xây dựng tại New York) Tham khảo Liên kết ngoài Pritzker Prize Official Site - Fumiho Maki Maki và cộng sự Kiến trúc sư Nhật Bản Người đoạt giải Pritzker Nhân vật còn sống Cựu sinh viên Đại học Harvard Thành viên Học viện Mỹ thuật và Khoa học Mỹ Cựu sinh viên Đại học Tokyo
28797
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%B9i%20Xu%C3%A2n%20Ph%C3%A1i
Bùi Xuân Phái
Bùi Xuân Phái (1 tháng 9 năm 1920 – 24 tháng 6 năm 1988) là một họa sĩ Việt Nam, nổi tiếng với các tác phẩm vẽ về Phố cổ Hà Nội. Tiểu sử Quê gốc của Bùi Xuân Phái là ở làng Kim Hoàng, xã Vân Canh, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây cũ. Ông tốt nghiệp khoa Hội họa trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương khóa 1941–1945. Bùi Xuân Phái tham gia kháng chiến, tham dự triển lãm nhiều nơi. Năm 1952 ông về Hà Nội, sống tại nhà số 87 Phố Thuốc Bắc cho đến khi mất. Năm 1956-1957 ông giảng dạy tại Trường Mỹ thuật Hà Nội. Năm đó Bùi Xuân Phái tham gia phong trào Nhân văn Giai phẩm, phải đi học tập lao động trong một xưởng mộc tại Nam Định và ban giám hiệu nhà trường đã đề nghị ông phải viết đơn xin thôi không giảng dạy tại trường Mỹ thuật. Sự nghiệp hội họa Bùi Xuân Phái là một trong những họa sĩ thuộc thế hệ cuối cùng của sinh viên trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, cùng thời với các danh họa Nguyễn Sáng, Nguyễn Tư Nghiêm, Dương Bích Liên - những tên tuổi ảnh hưởng lớn tới sự phát triển của mỹ thuật Việt Nam hiện đại. Ông chuyên về chất liệu sơn dầu, đam mê mảng đề tài phố cổ Hà Nội. Ngay từ lúc sinh thời, sáng tạo của ông đã được quần chúng mến mộ gọi dòng tranh này là Phố Phái. Tranh phố của Bùi Xuân Phái vừa cổ kính lại rất hiện thực, thể hiện rõ hồn cốt của phố cổ Hà Nội những thập niên 50, 60, 70. Các mảng màu trong tranh Phái thường có đường viền đậm nét, phố không những trở thành chính nó mà còn gần hơn với con người, từ bề mặt đến cảnh quan đều có chiều sâu bên trong. Ngắm tranh phố cổ của ông, người xem nhận thấy họa sĩ đã gửi gắm những kỉ niệm, những hoài cảm cùng nỗi buồn man mác, tiếc nuối bâng khuâng trên từng nét vẽ, như điềm báo về sự đổi thay và biến mất của từng mái nhà, từng con người mang hồn phách xưa cũ. Ngoài phố cổ, ông còn vẽ các mảng đề tài khác, như: chèo, chân dung, nông thôn, khỏa thân, tĩnh vật... rất thành công. Nhiều tranh của Bùi Xuân Phái đã được giải thưởng trong các cuộc triển lãm toàn quốc và thủ đô. Ông vẽ trên vải, giấy, bảng gỗ, thậm chí cả trên giấy báo khi không có đủ nguyên liệu. Ông dùng nhiều phương tiện hội họa khác nhau như sơn dầu, màu nước, phấn màu, chì than, bút chì... Các tác phẩm của ông biểu hiện sâu xa linh hồn người Việt, tính cách nhân bản và lòng yêu chuộng tự do, óc hài hước, đậm nét bi ai và khốn khổ. Ông đã góp phần rất lớn vào lĩnh vực minh họa báo chí và trình bày bìa sách, được trao tặng giải thưởng quốc tế (Leipzig) về trình bày cuốn sách "Hề chèo" (1982). Do tham gia phong trào Nhân văn Giai phẩm, từ năm 1957 trở đi, hoạt động của ông dần bị hạn chế. Để kiếm sống, ông phải vẽ tranh minh họa và tranh vui cho các báo, lấy bút hiệu là: PiHa, ViVu, Ly. Mãi đến năm 1984 ông mới có được cuộc triển lãm cá nhân (đầu tiên và cũng là duy nhất), nhận được sự đánh giá cao từ phía công chúng, đồng nghiệp. Với 24 bức tranh được khách hàng đặt mua ngay trong ngày khai mạc, có thể coi đây là triển lãm thành công nhất so với trước đó tại Việt Nam. Đó cũng là lần đầu tiên, Đài truyền hình Việt Nam dành thời lượng lớn phát sóng để giới thiệu về cuộc đời và tác phẩm của Bùi Xuân Phái trong chương trình Văn học Nghệ thuật. Mặc dù cuộc sống khó khăn nhưng với tình yêu nghệ thuật, khát khao tìm tòi và thể hiện cái đẹp dung dị đời thường bằng những nét vẽ cọ, Bùi Xuân Phái đã không ngừng vẽ, sáng tạo nghệ thuật ngay cả khi không mua được vật liệu và ông đã phải tận dụng mọi chất liệu như vỏ bao thuốc lá, giấy báo… Ông cũng là họa sĩ đã gạt bỏ mọi toan tính đời thường để cho ra đời các tác phẩm dung dị, đơn giản nhưng đầy tâm tư sâu lắng. Ông mất ngày 24 tháng 6 năm 1988 tại Hà Nội. Năm 1996, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh. Tác phẩm chính Phố cổ Hà Nội - Sơn dầu 1972 Hà Nội kháng chiến - Sơn dầu 1966 Xe bò trong phố cổ - Sơn dầu 1972 Phố vắng - Sơn dầu 1981 Hóa trang sân khấu chèo - Sơn dầu 1968 Sân khấu chèo - Sơn dầu 1968 Vợ chồng chèo - Sơn dầu 1967 Trước giờ biểu diễn - 1984 Giải thưởng mỹ thuật Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật năm 1996 Giải thưởng triển lãm Mỹ thuật toàn quốc năm 1946 Giải thưởng triển lãm Mỹ thuật toàn quốc năm 1980 Giải thưởng đồ họa Leipzig (Đức) Giải thưởng Mỹ thuật Thủ đô các năm 1969, 1981, 1983, 1984 Tặng thưởng Huy chương Vì sự nghiệp Mỹ thuật Việt Nam 1997 Giải thưởng Bùi Xuân Phái – Vì Tình yêu Hà Nội Tháng 8 năm 2008, nhân kỷ niệm 85 năm ngày sinh của danh họa, Giải thưởng Bùi Xuân Phái – Vì Tình yêu Hà Nội là sáng kiến của Báo Thể thao & Văn hóa (Thông tấn xã Việt Nam) và gia đình cố họa sĩ; nhằm tìm tòi, phát hiện và tôn vinh những tác giả, tác phẩm, việc làm, ý tưởng có hàm lượng nghệ thuật và khoa học cao, gắn bó với các mặt của đời sống Hà Nội và thấm đượm một tình yêu Hà Nội. Vinh danh Tên ông được đặt cho một con đường ở khu đô thị mới Mỹ Đình thuộc quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, phường Nam Lý, thành phố Đồng Hới, Quảng Bình và ở quận Hải Châu của thành phố Đà Nẵng. Ngày 1 tháng 9 năm 2019, trang chủ của công cụ tìm kiếm Google đã vinh danh ông nhân kỷ niệm 99 năm ngày sinh của ông bằng biểu tượng Google Doodle. Theo đại diện của Google, đây là sự vinh danh người họa sĩ đã góp phần ảnh hưởng lớn tới sự phát triển của mỹ thuật Việt Nam hiện đại và những thành tựu cống hiến cho quê hương, cho những người yêu Hà Nội. Đây là lần thứ 2 Google Doodle vinh danh một người Việt Nam. Trước đó là cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn nhân dịp sinh nhật lần thứ 80 của ông. Chú thích Xem thêm Huỳnh Văn Gấm Tạ Thúc Bình Hoàng Lập Ngôn Nguyễn Trọng Niết Nhân văn Giai phẩm Liên kết ngoài Art Gallery Of Bui Xuan Phai Bùi Xuân Phái - The Most Remarkable Vietnamese Artist Họa sỹ Bùi Xuân Phái Chân dung Bùi Xuân Phái trong sưu tập Nguyễn Đình Đăng ký hoạ các nghệ sĩ Việt Nam "Nhớ bác Phái" của Nguyễn Đình Đăng Họa sĩ đang vẽ tranh trong bộ phim Hà Nội trong mắt ai Người Hà Nội Người được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh Cựu sinh viên Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương Họa sĩ Việt Nam Nhà giáo Việt Nam Phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm Họa sĩ thế kỷ 20
28802
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gottfried%20Semper
Gottfried Semper
Gottfried Semper (29 tháng 11 năm 1803 – 15 tháng 3 năm 1879) là một kiến trúc sư và nhà lý thuyết kiến trúc, một nhà phê bình nghệ thuật và một giáo sư đại học người Đức. Ông là người đã xây dựng Semperoper (Nhà hát opera) ở thành phố Dresden vào khoảng những năm từ 1838 đến 1841. Vào năm 1849, ông tham dự vào cuộc Nổi dậy tháng 5 và bị chính phủ truy nã. Semper lánh sang Zurich một thời gian và sau đó là London. Sau cùng, ông quay về Đức vào năm 1862 sau một lệnh ân xá của chính phủ cho các nhà cách mạng. Về lý thuyết kiến trúc, Sempers đặc biệt quan tâm xuống nguồn gốc của kiến trúc. Ông viết tác phẩm "Bốn yếu tố của kiến trúc" (Die vier Elemente der Baukunst) năm 1851 và ông đóng một vai trò quan trọng trong cuộc tranh cãi về tính đa dạng của kiến trúc Hy Lạp cổ đại. Năm 1852, sau khi tham dự cuộc Triển lãm thế giới tại London, Sempers viết tác phẩm "Khoa học, công nghiệp và nghệ thuật" (Wissenschaft, Industrie und Kunst) báo hiệu sự thay đổi trong phương thức sản xuất sẽ ảnh hưởng đến thẩm mỹ kiến trúc giai đoạn đó. Tham khảo Semper, Gottfried Semper, Gottfried Cựu sinh viên Đại học Göttingen Richard Wagner Mất năm 1879 Nhà văn kiến trúc Đức
28808
https://vi.wikipedia.org/wiki/Adolf%20Loos
Adolf Loos
Adolf Loos (10 tháng 12 năm 1870 tại Brno, Morava – 23 tháng 8 năm 1933 tại Viên, Áo) là một trong những kiến trúc sư quan trọng nhất của kiến trúc Hiện đại của thế kỉ 20. Ông đã có liên quan với Phong cách Quốc tế. Tuy nhiên, ảnh hưởng của ông chủ yếu lại chỉ dựa trên một vài thiết kế nội thất và một số tiểu luận gây tranh cãi. Người ta thường biết đến ông nhiều hơn qua các bài bút chiến. Các công trình của Loos, từ những nhà ở nông thôn cho đến căn hộ và cửa hàng là những ví dụ mẫu mực về vẻ đẹp giản dị của kiến trúc. Vào thời kì đầu, những công trình xây dựng của ông chỉ được biết trong nước Áo. Tiểu sử Ông sinh ngày 10 tháng 12 năm 1870 tại Brno, Morava, nay là Cộng hòa Séc. Thuở nhỏ, Adolf Loos làm việc ở xưởng thợ nề của bố ông, ở đây ông được làm quen với nghề thủ công của kiến trúc. Năm 17 tuổi, Loos thi vào Trường nghệ thuật Hoàng gia và Đế chế bang tại Reichenberg ở Bohemia. Năm 1889, Loos được gọi vào lính dự bị của quân đội hoàng gia Áo. Loos đặc biệt quan tâm tới các tác phẩm của Friedrich Schinkel, một kiến trúc sư Tân Cổ điển người Đức, và hơn tất cả là tác phẩm của Vitruvius. Ông sang Mỹ năm 1893 và bị ấn tượng bởi sự phát triển và sáng tạo của công nghiệp xây dựng Mỹ. Thời gian tại Mỹ đã giúp ông hình thành nên khiếu thẩm mỹ kiến trúc của mình. Năm 1896, Loos trở lại Wien và bắt đầu làm việc cho hãng thiết kế kiến trúc của Carl Mayreder. Vào cuối thập niên 1890, Aloos bắt đầu khuấy động những cuộn tranh luận của mình. Những tác phẩm bút chiến của ông với trường phái Cải cách Wien được đăng tải rộng rãi, trong khi công trình cửa hàng bách hóa Goldmann và Salatsch của ông được hoàn thành năm 1911, đối diện nhà thờ Hofburg ở Wien đã gây ra một vụ tranh cãi với kiến trúc mặt đứng phẳng lì của nó. Năm 1908, Adolf Loos công bố tác phẩm nổi tiếng "Trang trí và tội ác". Ông khẳng định sự phát triển của máy móc sẽ thủ tiêu hoàn toàn các chi tiết trang trí trên tác phẩm nghệ nghệ thuật. Với ông, trang trí là vô dụng, là phí phạm tài nguyên và thời gian con người. Sự phát triển đó, theo ông, được xem như sự tiến hóa của văn hóa con người. Một trong những công trình hấp dẫn nhất của ông, biệt thự Muller ở Praha, được xây dựng năm 1930, phục chế lại năm 2003. Công trình này được xem như đỉnh điểm cho ý tưởng tiên phong của ông về "Không gian kiến trúc xây dựng trên mặt bằng" (Raumplan), với sự phát triển liên tục về không gian thay vì giới hạn không gian theo quy ước. Công trình chính Café Museum, Viên, Áo, 1898-1899 Nhà ở Leopold Langer, Wien, Áo, 1901 Biệt thự Karma, Clarens, ở Montreux, Thụy Sĩ, 1904-1906 Căn hộ Rudolf Kraus, Wien, Áo, 1907 Schmuckfedern-geschäft Sigmund Steiner, Wien, Áo, 1907 Quán bar Mỹ, Wien, Áo, 1907 Wohnung Bellak, Wien, Áo, 1907 Schneidersalon Knize, Wien, Áo, 1909-1913 Nhà trên quảng trường Michaelerplatz, Wien, Áo, 1910-1911 Biệt thự Steiner, Wien, Áo, 1910 Biệt thự Scheu, Wien, Áo, 1912-1913 Nhà Horner, Wien, Áo, 1921 Nhà Rufer, Wien, Áo, 1922 Biệt thự Stross, Wien, Áo, 1922 Landhaus Spanner, Gumpoldskirchen, Áo, 1923 Của hàng Big (đồ án) ở Alexandria, Ai Cập, 1924 Nhà Tristan Tzara, Paris, Pháp, 1926-1927 Nhà Moller, Wien, Áo, 1927-1928 Căn hộ Hans Brummel, Wien, Áo, 1929 Căn hộ Willy Hirsch, Pilsen, Cộng hòa Séc, 1929 Biệt thự Khuner, Kreuzberg, Payerback, Áo, 1930 Biệt thự Müller, Praha, Cộng hòa Séc, 1930 Căn hộ Leo Brummel, Wien, Áo, 1930 Biệt thự Müller, Praha, Cộng hòa Séc, 1930 Landhaus Khuner, Payerbach, Áo, 1930 Nhà Bojko, Wien, Áo, 1929-1930 Nhà ở Mitzi, Wien, Áo, 1931 Nhà Werbund, Wien, Áo, 1930-1932. Nhà Semler, ở Pilsen, Cộng hòa Séc, 1932 Tham khảo Loos, A, Spoken into the void: collected essays, 1897-1900, MIT Press, Cambridge, Mass., 1982. Gravagnuolo, B. Adolf Loos, Rizzoli, New York, 1982. Min, L, Adolf Loos, Praeger, New York, 1966. Liên kết ngoài Tiểu sử Loos, Adolf
28816
https://vi.wikipedia.org/wiki/Giuseppe%20Terragni
Giuseppe Terragni
Giuseppe Terragni (1904 tại Meda, Como – 1943) là một kiến trúc sư người Ý. làm việc dưới thời chính quyền phát xít của Benito Mussolini. Ông là người tiên phong của Kiến trúc Hiện đại Ý và thuộc trường phái Duy lý Ý. Bị ảnh hưởng bởi các Trường phái Duy lý, Chủ nghĩa Tương lai và Chủ nghĩa Cấu trúc, các công trình của Terragni là một sự kết hợp của đặc và rỗng với một vẻ đẹp thuần khiết. Một trong số những công trình nổi tiếng của ông là Trụ sở đảng Phát xít (Casa del Fascio) ở Como, một thị trấn ở miền bắc nước Ý. Công trình được xây dựng từ năm 1932 cho đến năm 1936. Công trình này gợi lại hình thức sân trong của các cung điện kiến trúc Phục Hưng, Ý, các cửa sổ được tính toán theo các tỉ lệ trong lý thuyết kiến trúc của Hy Lạp và La mã cổ đại. Theo Terragni, truyền thống là nguồn cung cấp những ý tưởng hoàn hảo cho kiến trúc Hiện đại mới, tuy nhiên, điều đó phải bộc lộ qua những vật liệu và công nghệ xây dựng của thời đại. Giuseppe Terragni chết vì bị thương ở Mặt trận phía Đông với quân đội Liên Xô trong Thế chiến thứ hai. Công trình quan trọng Novocomum tại Como (1929) Tượng đài kỉ niệm những người chết trong Thế chiến thứ nhất tại Erba (Como) (1930) Trụ sở đảng Phát xít tại Como (1932-1936) Biệt thự Rustici tại Milano (1933-1935) Trụ sở đảng Phát xít tại Lissone, nay là Cung điện Terragni (1938-40) Chung cư Giuliani-Frigerio tại Como (1939-1940) Vườn trẻ tại Como (1937) Liên kết ngoài Centro studi Giuseppe Terragni Sito del centenario di Terragni Sito del Comitato Danteum Tham khảo Peter Eisenman, Giuseppe Terragni: Transformations, Decompositions, Critiques, New York, The Monacelli Press 2003 Muriel Emmanuel, Contemporary Architects, New York: St. Martin's Press, 1980. ISBN 0-312-16635-4. NA680.C625. Dennis Sharp, The Illustrated Encyclopedia of Architects and Architecture, New York: Quatro Publishing, 1991. ISBN 0-8230-2539-X. NA40.I45. p152. Thomas Schumacher, The Danteum''. Terragni, Giuseppe Terragni, Giuseppe Terragni, Giuseppe Sinh năm 1904 Mất năm 1943
28819
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%A0%20%C4%90%C3%B4ng%20%28t%E1%BB%89nh%29
Hà Đông (tỉnh)
Bài này nói về một tỉnh cũ của Việt Nam. Xem các nghĩa khác tại Hà Đông (định hướng) Hà Đông là một tỉnh cũ của Việt Nam. Tên gọi Hà Đông thay thế cho tên gọi cũ là Cầu Đơ vào ngày 6 tháng 12 năm 1904. Địa bàn tỉnh Cầu Đơ nguyên là tỉnh Hà Nội, được đổi tên sau khi cắt phần thành Hà Nội cho Pháp làm nhượng địa và tỉnh lỵ chuyển về Cầu Đơ. Tỉnh Hà Đông còn được gọi là Xứ Sơn Nam Thượng thuộc trấn Sơn Nam Tỉnh Hà Đông là một phần của thành phố Hà Nội sau khi mở rộng năm 2008. Địa lý Hà Đông là một tỉnh đồng bằng thấp trũng, nếu không có đê thì sẽ thường ngập lụt, có vị trí địa lý: Phía tây bắc giáp tỉnh Sơn Tây Phía tây nam giáp tỉnh Hòa Bình Phía nam giáp tỉnh Hà Nam Phía đông nam giáp tỉnh Hưng Yên Phía đông bắc giáp tỉnh Bắc Ninh Phía bắc giáp tỉnh Phúc Yên. Phần phía tây nam nơi thuộc phủ Mỹ Đức là có đồi núi (bao gồm cả vùng Hương Sơn), đều bắt nguồn từ mạn Đà Giang chạy xuống. Sông ngòi phần nhiều làm giới hạn tỉnh như: sông Hồng (ranh giới phía Đông), sông Đáy tức Hát Giang (ranh giới phía Tây với Sơn Tây), phía Nam có sông Giè (tức sông Giẽ hay Màn Giang), giữa có sông Nhuệ (Nhuệ Giang) chảy qua tỉnh lỵ. Diện tích Hà Đông khoảng 1.250 km². Vào những năm 1920, dân số tỉnh Hà Đông khoảng 786 nghìn người, trong đó đa phần là người Kinh, cùng với khoảng 4.500 người Mường ở vùng Chợ Bến, phủ Mỹ Đức. Hành chính Tỉnh Hà Đông có 9 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm thị xã Hà Đông (tỉnh lỵ) và 8 huyện: Chương Mỹ, Đan Phượng, Hoài Đức, Mỹ Đức, Phú Xuyên, Thanh Oai, Thường Tín, Ứng Hòa. Lịch sử Công sứ Pháp đầu tiên của tỉnh Hà Đông là Duranton (1904 - 1906). Tỉnh Hà Đông gồm 4 phủ: Hoài Đức (có thêm huyện Đan Phượng của tỉnh Sơn Tây nhập vào), phủ Mỹ Đức, phủ Thường Tín và phủ Ứng Hòa. Tỉnh lỵ tỉnh Hà Đông là thị xã Hà Đông, mà tên gọi cũ là Cầu Đơ. Năm 1915, huyện Hoàn Long của thành phố Hà Nội (gồm một phần các huyện Thọ Xương, Vĩnh Thuận cũ và một số khu vực lân cận thuộc huyện Từ Liêm về sau) được sáp nhập vào tỉnh Hà Đông. Nhưng đến năm 1942, huyện Hoàn Long được sáp nhập trở lại vào thành phố Hà Nội, đồng thời được chuyển thành Đại lý đặc biệt Hoàn Long. Năm 1961, phần lớn huyện Thanh Trì và một phần xã Kiến Hưng được chuyển về thành phố Hà Nội; 5 xã thuộc huyện Đan Phượng là Tân Dân (Thượng Cát), Tân Tiến (Liên Mạc), Trần Phú (Phú Diễn), Trung Kiên (Tây Tựu), Minh Khai và 3 xã: Hữu Hưng (Tây Mỗ và Đại Mỗ), Kiên Cương (Trung Văn), Xuân Phương, một phần các xã Vân Canh, Di Trạch thuộc huyện Hoài Đức cùng với một phần xã Vạn Phúc thuộc thị xã Hà Đông, được cắt chuyển về huyện Từ Liêm mới được thành lập. Ngày 1 tháng 7 năm 1965, hai tỉnh Hà Đông và Sơn Tây sáp nhập thành tỉnh Hà Tây. Trước khi sáp nhập, tỉnh Hà Đông có tỉnh lỵ là thị xã Hà Đông và 8 huyện: Chương Mỹ, Đan Phượng, Hoài Đức, Mỹ Đức, Phú Xuyên, Thanh Oai, Thường Tín, Ứng Hòa. Kinh tế Thương mại Hà Đông là tỉnh nổi tiếng với nhiều sản vật nông nghiệp, lại nhiều làng nghề thủ công nghiệp (công nghệ phát đạt), nên thương mại cũng rất phát triển. Toàn tỉnh có hơn 150 chợ, to nhất là chợ Đơ (nay là chợ Hà Đông), thứ đến là các chợ: chợ Bằng ở phủ Thường Tín, chợ Canh (làng Vân Canh), chợ Mỗ (làng Đại Mỗ), chợ Chuông thuộc làng Chuông ở phía Nam làng Đôn Thư, chợ Đình làng Phương Đình, chợ Bến phủ Mỹ Đức (giáp Hòa Bình), chợ Gôi, chợ Mơ (làng Hoàng Mai), chợ Sét. Chợ Chuông (thuộc thôn Chung Chính, ở giữa làng Chuông) chợ Chuông họp mỗi tháng 6 phiên chính vào các ngày 4, 10, 14, 20, 24, 30 Âm lịch, nếu vào tháng thiếu thì họp vào mồng 1 tháng tiếp theo. Chợ Chuông thuộc xã Phương Trung, huyện Thanh Oai, có Bia lập thị từ thời cổ. Chú thích Tham khảo Địa dư các tỉnh Bắc Kỳ, Ngô Vi Liễn, năm 1924. Hoàn toàn không có nguồn tham khảo Hà Đông Hành chính Hà Nội
28824
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A1%20heo%20s%C3%B4ng
Cá heo sông
Cá heo sông là một nhóm động vật có vú thủy sinh chỉ sống ở vùng nước ngọt hay lợ. Đây là chỉ là một nhóm cá heo chia sẻ chung đặc điểm, chứ không phải một nhóm phân loại hợp lệ thuộc Cetacea. Các loài "cá heo sông" là thành viên của họ Platanistidae, Iniidae và Pontoporiidae. Có 5 loài cá heo sông còn sinh tồn. Cá heo sông khá nhỏ so với những cá heo khác, do đã thích ứng để sống trong vùng nước ấm, nông, có dòng chảy mạnh. Chúng biến thiên về kích cỡ, từ (cá heo Ấn-Hằng) tới (cá heo Amazon). Nhiều loài thể hiện dị hình giới tính ở chỗ là con đực to hơn con cái. Chúng có cơ thể thuôn và hai chi sau đã phát triển thành vây bơi. Cá heo sông dùng cái mỏ dài và những chiếc răng hình nón để bắt những con mồi nhanh lẹ trong nước đục. Chúng có hệ thống thính giác phát triển, thích ứng với cả trong không khí và dưới nước; chúng không phụ thuộc mấy vào tầm nhìn do nước nơi chúng sống thường rất đục. Những loài này phân bố không rộng lắm và thường chỉ có mặt ở những con sông và vùng châu thổ nhất định. Điều này làm chúng rất dễ bị sự tàn phá môi trường tác động. Thức ăn chính của cá heo sông là cá. Con đực có thể giao phối với nhiều con cái mỗi năm, những con cái chỉ giao phối mỗi hai hay ba năm. Con non ra đời vào những tháng mùa xuân và hè; con cái nuôi dưỡng chúng. Cá heo sông rất hiếm khi được nuôi giữ và con vật thường chết trong vòng vài tháng sau khi bắt; thành công trong nhân giống là rất ít. Phân loại Bốn họ cá heo sông (Iniidae, Pontoporiidae, Lipotidae và Platanistidae) hiện được công nhận. Trước đây, nhiều nhà phân loại học từng xếp tất cả các loài cá heo sông vào họ Platanistidae, cũng như xem cá heo sông Ấn và cá heo sông Hằng là hai loài riêng biệt. Tính đến tháng 10 năm 2006, một nghiên cứu không tìm ra cá thể Lipotes vexillifer (cá heo sông Dương Tử) nào và coi như loài này đã tuyệt chủng. Với sự biến mất của chúng, họ Lipotidae cũng tuyệt chủng theo. Phân loại hiện hành như sau: Liên họ Platanistoidea Họ Platanistidae Chi Platanista Cá heo sông Ấn và sông Hằng, Platanista gangetica, với hai phân loài Cá heo sông Hằng (susu), P. g. gangetica Cá heo sông Ấn (bhulan), P. g. minor Họ †Allodelphinidae (Oligocene tới Miocene) Họ †Squalodelphinidae (Oligocene tới Miocene) Họ †Squalodontidae (Oligocene tới Miocene) Họ †Waipatiidae (Oligocene tới Miocene) Siêu họ Inioidea Họ Iniidae Chi Inia Cá heo sông Amazon (boto), Inia geoffrensis Inia geoffrensis geoffrensis Inia geoffrensis humbotiana Cá heo sông Araguaia, Inia araguaiaensis Cá heo sông Bolivia, Inia boliviensis Chi †Meherrinia (cuối Miocene) Chi †Isthminia (Miocene) Họ Pontoporiidae Chi †Auroracetus †Auroracetus bakerae Chi Pontoporia Cá heo La Plata (Franciscana), Pontoporia blainvillei Siêu họ †Lipotoidea Họ †Lipotidae Chi †Lipotes †Cá heo sông Dương Tử, Lipotes vexillifer (tuyệt chủng về cơ bản, 2006) Tham khảo Tài liệu Reeves, Randall R. et al. (2002). National Audubon Society Guide to Marine Mammals of the World. Alfred A. Knopf. 527 pp. Tên phổ biến động vật
28836
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sao%20Gi%C3%A1c
Sao Giác
Sao Giác, Giác Tú (Chữ Hán: 角宿, bính âm: Jiǎo Xiù) hay Giác Mộc Giao (角木蛟) là tên gọi của một trong hai mươi tám chòm sao Trung Quốc cổ đại (nhị thập bát tú). Nghĩa đen của nó là sừng và con vật tượng trưng là giao long/thuồng luồng (Giác Mộc Giao). Nó là chòm sao thứ nhất trong 7 chòm sao thuộc về Thanh Long ở phương Đông, tượng trưng cho Mộc của Ngũ hành và mùa xuân. Vị trí Mảng sao Giác hay Thiên Quan (天关) là tên gọi 2 sao nằm bên Thái Vi Viên, cạnh nó còn có chòm sao Phòng, chòm sao Chẩn. Sao Giác nằm ngay dưới xích đạo thiên cầu và cũng nằm trên hoàng đạo, ở khoảng giữa góc giờ 14h và 15h. Ngày nay, người ta xác định được mảng sao Giác là hai ngôi sao của chòm sao Thất Nữ, có tên gọi là α Virginis (Spica, Giác Tú 1, Thiên Môn (天门), Tướng (將)) và ζ Virginis (Giác Tú 2, Thiên Điền (天田), Lý (李)). Các sao Sao Giác có 11 mảng sao với 41 sao như sau: Sao bổ sung Sách Khâm định nghi tượng khảo thành của khâm thiên giám nhà Thanh bổ sung 54 sao. Xem thêm Chòm sao Trung Quốc cổ đại Tham khảo Nhị thập bát tú Chòm sao Trung Quốc cổ đại
28837
https://vi.wikipedia.org/wiki/Khu%20di%20t%C3%ADch%20l%E1%BB%8Bch%20s%E1%BB%AD%20Kim%20Li%C3%AAn
Khu di tích lịch sử Kim Liên
Khu di tích lịch sử Kim Liên là khu di tích tưởng niệm chủ tịch Hồ Chí Minh tại xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An thuộc vùng duyên hải miền Trung Việt Nam, cách thành phố Vinh khoảng 15 km theo quốc lộ 46 . Hiện nay, nơi đây đã được thủ tướng chính phủ Việt Nam đưa vào danh sách xếp hạng 23 di tích quốc gia đặc biệt. Là địa danh gắn liền với nơi sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở quê ngoại là làng Hoàng Trù, xã Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An; nơi Hồ Chí Minh đã sống những năm 1901 - 1906 ở quê nội làng Kim Liên; khu mộ bà Hoàng Thị Loan (mẹ Chủ tịch Hồ Chí Minh); núi Chung và nhiều di tích khác đã gắn liền với tuổi thơ của Hồ Chí Minh. Khu di tích lịch sử văn hóa Kim Liên được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam công nhận là một trong những khu du lịch trọng điểm quốc gia và là một trong bốn khu di tích quan trọng bậc nhất về cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Lịch sử công nhận Di tích lịch sử văn hóa Kim Liên (gọi tắt là Khu di tích Kim Liên) được Nhà nước cho xây dựng từ thập niên sáu mươi của thế kỷ trước . Tới năm 1979, Khu di tích Kim Liên được Bộ Văn hóa - Thông tin Việt Nam (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử văn hoá quốc gia theo Quyết định số 54VH/QĐ ngày 29 tháng 4 năm 1979 . Đặc điểm Khu di tích Kim Liên là một trong bốn di tích quan trọng tại Việt Nam về Chủ tịch Hồ Chí Minh, lưu giữ những hiện vật, tài liệu, không gian văn hóa - lịch sử về thời niên thiếu của Hồ Chí Minh và những người thân trong gia đình của Người. Toàn bộ khu di tích bao gồm nhà tranh nhỏ của cha mẹ Hồ chủ tịch (hai cụ Nguyễn Sinh Sắc và Hoàng Thị Loan); ngôi nhà của ông bà ngoại của Người; nhà thờ chi họ Hoàng Xuân (thuộc cụm di tích Hoàng Trù); nhà cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc; giếng Cốc; lò rèn Cố Điền; nhà cụ cử Vương Thúc Quý - thầy học khai tâm của Người; nhà thờ họ Nguyễn Sinh; nhà cụ Nguyễn Sinh Nhâm - ông nội của chủ tịch Hồ Chí Minh; di tích cây đa, sân vận động Làng Sen; khu trưng bày các hiện vật, tài liệu và nhà tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh (thuộc cụm di tích Làng Sen); phần mộ cụ Hoàng Thị Loan ở Động Tranh trên dãy Đại Huệ và cụm di tích núi Chung. Toàn khu di tích rộng trên 205 ha, các điểm và cụm di tích cách nhau 2 – 10 km. Được đánh giá là một trong những di tích đặc biệt quan trọng của quốc gia, khu di tích Kim Liên được Nhà nước Việt Nam đặc biệt chú trọng đầu tư trong nhiều năm qua. Hằng năm, khu di tích đón tiếp hàng triệu khách tham quan trong và ngoài nước tới viếng thăm. Một số di tích tiêu biểu Làng Kim Liên Làng Kim Liên (tên Nôm là làng Sen), quê nội của chủ tịch Hồ Chí Minh, cách thành phố Vinh khoảng 12.5 km về phía Tây. Làng nằm ở gần núi Chung, cách núi Đại Huệ khoảng 3 km. Mộ cụ Hoàng Thị Loan Trên lưng núi Động Tranh thuộc dãy Đại Huệ là nơi mai táng cụ Hoàng Thị Loan - mẹ của Hồ Chí Minh. Mộ bà được đặt trên lưng chừng dãy núi Đại Huệ khu vực thuộc xã Nam Giang, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Tại vị trí có độ cao chừng 100m so với mực nước biển. Khu mộ là ngôi mộ của cụ Hoàng Thị Loan được xây dựng từ ngày 19 tháng 5 năm 1984 đến ngày 16 tháng 5 năm 1985. Nhìn tổng quát, ngôi mộ có hình một khung cửi khổng lồ (khi sinh thời, bà chuyên làm nghề dệt vải để nuôi các con). Xung quanh ngôi mộ được ốp bằng những phiến đá hoa cương và đá cẩm thạch. Nóc mộ được phủ lên bằng những hòn đá tự nhiên của núi Đại Huệ, phía trên có dàn bê tông che chắn có hình khung cửi được phủ đầy hoa giấy (được mang về trồng từ khu lăng mộ cụ Nguyễn Sinh Sắc tại Cao Lãnh - Đồng Tháp). Tại nền sân thượng hình bán nguyệt trước ngôi mộ, có dựng một tấm bia lớn tạc tiểu sử và công lao của cụ Hoàng Thị Loan bằng đá đen. Hai bên tả hữu là đường đi lên và đường đi xuống được làm thành nhiều bậc đá khác nhau giống như hai giải lụa đào xõa xuống từ khung cửi. Từ chỗ chỉ đơn thuần là một ngôi mộ thì khu vực này đã được đầu tư xây dựng thành một khu tưởng niệm rộng lớn, liên kết với Khu di tích Kim Liên, khu lăng mộ Mai Hắc Đế tạo thành một quần thể di tích lịch sử. Từ ngày khánh thành đến nay, đã có hàng chục triệu lượt du khách trong và ngoài nước về đây thăm viếng để tỏ lòng ngưỡng mộ và biết ơn cụ Hoàng Thị Loan. Cụm di tích làng Hoàng Trù Cụm di tích Hoàng Trù nằm trọn trong làng Hoàng Trù (thường goi là làng Chùa), quê ngoại của Hồ Chí Minh và cũng là nơi Bác Hồ ra đời. Diện tích của cụm di tích này khoảng 3.500 m². Ngôi nhà cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc Là ngôi nhà lá 5 gian được dân làng Sen quê nội Hồ Chí Minh dựng lên từ quỹ công của dân làng để mừng ông Nguyễn Sinh Sắc, cha của Hồ Chí Minh, khi ông đỗ phó bảng khoa thi Hội năm 1901. Cụ Nguyễn Sinh Sắc dành hai gian để đặt bàn thờ bà Hoàng Thị Loan và để tiếp khách. Bàn thờ được làm bằng liếp tre nứa trên trải chiếu nhỏ để bát hương, cây nến và bài vị bằng gỗ giản dị. Gian thứ tư là nơi nghỉ của Sắc với bộ phản gỗ kê bên cửa sổ chính, bên cạnh có chiếc án thư nơi để ông dạy các con học chữ và đây cũng là nơi vào các buổi tối ông thường mời bà con ngồi quây quần uống nước trà xanh. Các kỷ vật trong ngôi nhà hiện còn được giữ lại hầu như nguyên vẹn: hai bộ phản gỗ là nơi nghỉ của Phó bảng và hai con trai, chiếc giường là của bà Thanh (tên hiệu Bạch Liên) con gái cụ, chiếc rương đựng lương thực, chiếc tủ đứng hai ngăn đựng đồ dùng, chiếc mâm bằng gỗ sơn đen. Chú thích Xem thêm Lăng Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc Hồ Chí Minh Di tích tại Nghệ An Khu du lịch Việt Nam Bảo tàng tại Việt Nam
28841
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sao%20Khu%C3%AA
Sao Khuê
Sao Khuê hay Khuê Tú (tiếng Hán: 奎宿, bính âm: Kuí Xiù) hoặc Khuê Mộc Lang (奎木狼) là một trong hai mươi tám chòm sao Trung Quốc cổ đại. Nghĩa đen của nó là chân và con vật tượng trưng là chó sói (Khuê Mộc Lang). Nó là chòm sao thứ nhất trong số 7 chòm sao thuộc về Bạch Hổ ở phương Tây, tượng trưng cho Kim của Ngũ hành và mùa thu. Cùng với Sao Khôi là thần chủ quản văn chương, trí tuệ. Số sao Sao Khuê có 9 mảng sao như sau: Sao bổ sung Văn hóa truyền thống Khuê Văn theo quan niệm truyền thống của người phương đông lý giải về thiên thể: Khuê là tên một ngôi sao trong chòm 28 sao, là đầu Bạch Hổ phương tây, có 16 ngôi, sắp xếp khúc khuỷu giống hình chữ Văn 文. Trong sách Hiếu kinh có ghi: Khuê chủ văn chương. Về sau người ta coi sao Khuê biến hoá là người đứng đầu của quan văn. Trong văn hóa Đông Á và Việt Nam, sao Khuê là biểu tượng của văn chương, học thuật. Khuê Văn Các được xây dựng tại Quốc Tử Giám, trường Đại học đầu tiên của Việt Nam, mang biểu tượng này. Những bậc bác học lỗi lạc trong lịch sử được ví là sáng như sao Khuê; một trong số đó là Nguyễn Trãi, đã được Lê Thánh Tông cho tạc bia: Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo (tấm lòng ức Trai sáng tựa sao Khuê). Hoàng Bào đại vương là tên của sao Khuê khi hạ phàm làm yêu tinh trong Tây du ký Xem thêm Chòm sao Trung Quốc cổ đại Tham khảo Liên kết ngoài Nhị thập bát tú Chòm sao Trung Quốc cổ đại
28847
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BB%A5c%20%C4%90i%E1%BB%81u%20tra%20Li%C3%AAn%20bang
Cục Điều tra Liên bang
Cục Điều tra Liên bang Mỹ (tên gốc viết tắt là FBI) là một cơ quan trực thuộc Bộ Tư pháp Hoa Kỳ, có nhiệm vụ thực hiện điều tra tội phạm ở cấp độ liên bang và tình báo nội địa. FBI có quyền hạn điều tra về các vi phạm trong hơn 200 danh mục về tội ác liên bang. Khẩu hiệu của Cục là Trung thành, Quả cảm, Liêm chính. Trụ sở của Cục là Tòa nhà J. Edgar Hoover tọa lạc tại thủ đô Washington, D.C. Còn 56 văn phòng đại diện nằm rải rác và hơn 400 cơ quan địa phương ở các thành phố nhỏ và thị trấn trên khắp các thành phố lớn của Hoa Kỳ. Ngoài ra, Cục còn có hơn 50 văn phòng được gọi là ‘’tùy viên pháp lý’’ bên trong các lãnh sự Hoa Kỳ trên khắp thế giới. Lịch sử Khởi điểm Năm 1886, Tòa án Tối cao nhận thấy rằng liên bang không hề có đủ thẩm quyền điều chỉnh một số vấn đề xảy ra ở cùng lúc nhiều tiểu bang, dẫn đến Đạo luật Thương mại Liên bang ra đời năm 1887 nhằm tạo ra một cơ quan thực thi pháp luật có đủ thẩm quyền trong việc giải quyết các vụ việc mang tính chất cấp Liên bang. Tuy nhiên Bộ Tư pháp lại tỏ ra chậm chạp trong việc phân phối nguồn nhân lực cho Cục, dẫn đến Tổng Chưởng lý Charles Joseph Bonaparte phải nhờ đến các cơ quan khác, có cả Cơ quan Mật vụ để hỗ trợ điều tra. Tuy nhiên, Quốc hội đã thông qua bộ luật nghiêm cấm Bộ Tư pháp sử dụng nhân lực từ Bộ Ngân khố, do đó Tổng Chưởng lý phải tổ chức và thành lập Cục Điều tra một cách hoàn chỉnh với nhân sự là các đặc vụ riêng của Cục. Cơ quan Mật vụ đã hỗ trợ Bộ Tư pháp 12 đặc vụ và những đặc vụ này đã trở thành những đặc vụ đầu tiên của Cục Điều tra mới thành lập. Những đặc vụ đầu tiên của FBI hóa ra lại là những đặc vụ của Cơ quan Mật vụ, từ đó Cục chính thức có đầy đủ thẩm quyền theo Đạo luật Thương mại Liên bang năm 1887. FBI phát triển rất mạnh với một lượng đặc vụ rất dày đặc vào tháng 7 năm 1908 trong thời kì của Tổng thống Theodore Roosevelt, nhiệm vụ chính thức đầu tiên của Cục là thâm nhập và khảo sát về các nhà chứa để chuẩn bị thực thi pháp luật theo Đạo luật ‘’Buôn bán nô lệ da trắng’’ hay còn gọi là ‘’Đạo luật Mann’’ được ban hành vào 25 tháng 6 năm 1910. Năm 1932, Cục đổi tên là Cục Điều tra Hoa Kỳ. Năm sau đó, Cục kết hợp với Cục Kiểm soát Rượu và chất có cồn và được đặt tên lại là Đơn vị Điều tra trước khi tách ra và trở thành một Cục hoàn chỉnh trực thuộc Bộ Tư pháp vào năm 1935. Trong cùng năm đó, Cục chính thức đổi tên Đơn vị Điều tra thành Cục Điều tra Liên bang và được sử dụng cho đến ngày nay, viết tắt là FBI. Thời kì của J. Edgar Hoover Giám đốc của Cục Điều tra J. Edgar Hoover trở thành giám đốc đầu tiên của Cục mới thành lập là Cục Điều tra Liên bang, nếu tính luôn thời gian lãnh đạo từ khi Cục là Cục Điều tra, rồi sang Đơn vị Điều tra và Cục Điều tra Liên bang, ông đã phục vụ 48 năm. Sau cái chết của Hoover, luật đã giới hạn lại thời gian nắm quyền của các giám đốc về sau chỉ tối đa 10 năm. Hoover có nhiều ảnh hưởng đáng kể trong hầu hết mọi kế hoạch và công việc của FBI trong nhiệm kì của mình, Phòng Thí nghiệm Khoa học Điều tra Tội phạm hay còn gọi là Phòng Thí nghiệm FBI ra đời năm 1932, ý tưởng chủ yếu là của Hoover. Trong thời kì ‘’Chiến tranh với tội phạm’’ trong thập niên 1930, các đặc vụ FBI đã bắt giữ hoặc giết chết rất nhiều tội phạm nguy hiểm mang trên mình các bản án về tội bắt cóc, trộm cướp và giết người trên toàn quốc, như John Dillinger, ‘’Baby Face’’ Nelson, Kate ‘’Ma’’ Baker, Alvin ‘’Creepy’’ Karpis và George ‘’Machine Gun’’ Kelly. Ngoài ra, Cục còn có nhiệm vụ quan trọng khác là làm giảm phạm vi và ảnh hưởng của nhóm Ku Klux Klan. Thêm vào đó, nhờ vào Edwin Atherton, FBI đã thành công trong việc bắt giữ được cả đội quân khởi nghĩa tân Mexico dọc biên giới California trong thập niên năm 1920. FBI và An ninh Quốc gia Bắt đầu vào thập niên năm 1940 và tiếp tục vào thập niên 1970, Cục tiến hành điều tra các hoạt động gián điệp chống lại nước Mỹ và đồng minh. Cục đã bắt được 8 điệp viên theo Phát xít đang lên kế hoạch phá hoại nước Mỹ và xử tử 6 trong số 8 tên. Trong thời gian này, một liên minh giữa Hoa Kỳ và Anh quốc nỗ lực phá mã ‘’Venona’’(mã liên lạc tình báo và ngoại giao của Liên Xô) – mà FBI là cơ quan chủ đạo – đã hỗ trợ nhà cầm quyền đọc được thông tin liên lạc của Liên Xô. Nhờ những nỗ lực trên mà họ có thể xác định được có những người Mỹ làm việc cho tình báo Liên Xô. Hoover là người chỉ đạo trực tiếp chiến dịch này nhưng đã không thông báo cho Cơ quan Tình báo Trung ương (CIA) mãi cho đến năm 1952. Điểm nổi bật trong sự việc này là vụ bắt giữ Rudolf Abel năm 1957. Việc phát hiện ra điệp viên Xô Viết tại Hoa Kỳ đã thôi thúc nỗi ám ảnh từ lâu của Hoover về mối hiểm họa tiềm tàng mà ông nhận thấy được từ những Người Mỹ cánh tả, xuất xứ từ công đoàn của Đảng Cộng sản Hoa Kỳ cho đến những người thuộc phe Tự do. FBI và hoạt động nhân quyền Trong suốt thập niên 1950 và 1960, các quan chức FBI bắt đầu quan tâm nhiều đến sự ảnh hưởng của các lãnh tụ dân quyền. Đơn cử, năm 1956, Hoover đã làm một việc rất hiếm khi làm là gửi một bức thư mở tố cáo Bác sĩ T.R.M Howard, một lãnh tụ dân quyền, bác sĩ và là một nhà buôn phát đạt ở Mississippi, người đã chỉ trích sự vô trách nhiệm của FBI trong vụ giải quyết án mạng của George W. Lee, Emmett Till và những người da đen khác tại miền Nam. FBI đã thực hiện một chương trình giám sát nội địa gây nhiều tranh luận mang tên ‘’COINTELPRO’’ nghĩa là Chương trình Phòng chống Tình báo. Chương trình tập trung điều tra các tổ chức chính trị bạo động bên trong nước Mỹ, bao gồm các tổ chức bất bạo động, tổ chức vũ trang và Liên đoàn Lãnh đạo Cơ đốc miền Nam. Martin Luther King, Jr. từng là một mục tiêu thường xuyên bị điều tra. Theo lời của Carl Rowan, phóng viên tờ The Washington Post quả quyết rằng FBI đã gửi ít nhất một lá thư nặc danh kêu gọi King nên tự sát. Tháng 3 năm 1971, một cơ quan địa phương của FBI tại Media, Pennsylvania bị trộm, kẻ trộm đã lấy đi nhiều tài liệu mật và gửi chúng cho một loạt các tuần báo trong đó có tờ Harvard Crimson. Trong số các tài liệu bị mất, có bản chi tiết chương trình ‘’COINTELPRO’’, với rất nhiều cuộc điều tra về những công dân bình thường – bao gồm một nhóm các sinh viên da đen tại trường đại học quân sự và con gái của Đại biểu Quốc hội Henry Reuss của Wisconsin. Cả đất nước ‘’choáng váng’’ với những sự thật được phơi bày, nhiều Đại biểu Quốc hội bao gồm cả lãnh đạo đa số ở Hạ viện Hale Boggs đã tố cáo các hành động này của FBI, khi họ chứng minh được điện thoại của Boggs và một số đại biểu khác bị ghi âm lén. FBI và vụ ám sát Kennedy Khi Tổng thống John F. Kennedy bị bắn chết, quyền điều tra được trao cho các phòng cảnh sát địa phương cho đến khi Tổng thống Lyndon B. Johnson chỉ định FBI trực tiếp vào việc. Việc làm này là để đảm bảo sự trật tự trong thứ bậc giải quyết án mạng ở cấp độ liên bang, Quốc hội đã tán thành khi thông qua dự luật giao quyền cho FBI tiếp quản điều tra về cái chết của các quan chức cấp liên bang. FBI và tội phạm có tổ chức Nhằm đối phó với tội phạm có tổ chức, vào tháng 8 năm 1953, FBI đã tạo ra chương trình ‘’Top Hoodlum’’, chương trình đòi hỏi các cơ quan đại diện thu thập thông tin về các băng Đảng và địa bàn hoạt động của chúng rồi báo cáo thường xuyên về cho Washington để tổng hợp thông tin tình báo. Sau khi Quốc hội thông qua đạo luật Tệ tham nhũng và ảnh hưởng của các băng Đảng, viết tắt là RICO, FBI bắt đầu điều tra các nhóm buôn lậu rượu có tổ chức vốn thực hiện nhiều tội ác ở các thành phố chính và cả những thị trấn nhỏ. Tất cả mọi việc đều được FBI thực hiện bí mật và sử dụng nội gián bên trong các tổ chức này để tiêu diệt chúng. Mặc dù Hoover phủ nhận sự tồn tại của Nghiệp đoàn Tội phạm Quốc gia ở nước Mỹ, nhưng Cục đã thực hiện nhiều chiến dịch để chống lại các nghiệp đoàn và gia đình tội phạm, như Sam Giancana và John Gotti. Đạo luật RICO vẫn còn hiệu lực cho đến ngày nay để kiếm soát tội phạm có tổ chức và các cá nhân liên quan. Tuy nhiên, vào năm 2003, một Ủy ban thuộc Quốc hội đã gọi chương trình nội gián chống tội phạm có tổ chức là một trong những sự thất bại nhất trong lịch sử của cơ quan thực thi pháp luật liên bang khi FBI kết án 4 người vô tội, 3 trong số đó bị kết án tử (sau đó giảm xuống chung thân). Bị can thứ tư bị kết án chung thân trong tù mà anh ta thi hành án ba thập kỷ. Vào tháng 7 năm 2007, thẩm phán quận Nancy Gertner đã cho thấy bằng chứng Cục đã cố tình kết tội 4 người trong vụ thanh toán xã hội đen giết chết Edward ‘’Teddy’’ Deegan tháng 3 năm 1965. Chính phủ Hoa Kỳ đã phải bồi thường cho 4 bị can số tiền là 100 triệu$. Những đợt tái cơ cấu nổi bật thời Hoover Đội đặc nhiệm FBI Năm 1984, FBI thành lập một đội đặc nhiệm để hỗ trợ các vấn đề mới phát sinh tại Thế vận hội mùa hè năm 1984, đặc biệt là tội phạm khủng bố và trọng án. Việc thành lập đội trở nên cấp thiết hơn sau vụ Thế vận hội mùa hè năm 1972 tại Munich, Đức khi những kẻ khủng bố giết chết các vận động viên Israel. Đội được đặt tên là ‘’Đội Giải cứu con tin’’ và thực hiện nhiệm vụ giống đội Cơ động Quốc gia nhằm giải quyết các vấn đề nghiêm trọng và vụ việc liên quan đến khủng bố. Song song, ‘"Đội Phân tích và Phản ứng Tội phạm Công nghệ cao’’ (CART) được thành lập năm 1984. Cuối thập niên năm 1980, đầu thập niêm 1990, Cục có nhiều sự thuyên chuyển công tác cho các đặc vụ với hơn 300 người có nhiệm vụ từ chống tình báo nước ngoài cho đến trọng tội đều chuyển về trọng tội vì nhiệm vụ này đã được nâng lên hàng thứ 6 trong bảng ưu tiên quốc gia. Cùng với việc cắt giảm ngân sách cho đến thiết lập nhiều phòng ban mới, chống khủng bố không còn là công việc cấp thiết nữa sau Chiến tranh Lạnh, FBI trở thành công cụ hỗ trợ cảnh sát địa phương truy bắt các phạm nhân bỏ trốn trên phạm vi liên bang. Phòng thí nghiệm FBI hỗ trợ phát triển công nghệ thử DNA, công việc này tiếp tục phát triển và hỗ trợ đắc lực cho việc nhận dạng thay thế cho hệ thống nhận dạng vân tay vốn có từ lâu đời (từ năm 1924). Những thành công đáng kể trong thập niên 1990 Giữa năm 1993 và 1996, FBI tập trung vào vai trò chống khủng bố khi làn sóng đánh bom đầu tiên bắt đầu sau sự kiện Trung tâm Thương mại Thế giới năm 1993 ở Thành phố New York và Thành phố Oklahoma năm 1995 và vụ bắt giữ Theodore Kaczynski năm 1996. Sự tiến bộ công nghệ và kỹ năng cao của các chuyên gia phân tích FBI đã giúp FBI đủ bằng chứng truy tố cả ba vụ việc, tuy nhiên FBI vẫn phải trải qua sự phản đối kịch liệt trong quần chúng, điều vẫn ám ảnh Cục cho đến ngày nay. Vào đầu và cuối thập niên năm 1990, FBI nhận trách nhiệm chính trong hai sự kiện Ruby Ridge và Waco Siege dẫn đến sự chết chóc gây náo động. Trong suốt Thế vận hội mùa hè năm 1996 tại Atlanta, Georgia, FBI bị chỉ trích trong việc điều tra vụ đánh bom Công viên Centennial Olympic. Vụ việc dấy lên một cuộc tranh luận giữa Richard Jewell, nhân viên an ninh tư nhân tại phòng xử án với một số tổ chức truyền thông, khi để lộ tên ông trong quá trình điều tra. FBI đã tiếp nhận và thiết lập việc nâng cấp công nghệ năm 1998 sau khi Quốc hội thông qua đạo luật ‘’Hỗ trợ Thông tin cho việc thực thi pháp luật’’ (CALEA, 1994), đạo luật ‘’Trách nhiệm giải trình và Bảo hiểm Sức khỏe linh động’’ (HIPAA, 1996) và đạo luật ‘’Gián điệp kinh tế’’ (EEA, 1996). Để đối phó với diễn biến phức tạp trong công nghệ thông tin như vi rút, sâu và những chương trình gây hại khác trên máy tính có thể gây sự tàn phá nghiêm trọng ở Hoa Kỳ, FBI đã thiết lập Trung tâm Đánh giá Mối đe dọa cho Cơ sở hạ tầng và Điều tra Công nghệ thông tin (CITAC) và Trung tâm Bảo vệ Cơ sở hạ tầng Quốc gia (NIPC). Với sự phát triển đi lên của hệ thống viễn thông cũng dấy lên nhiều vấn đề phát sinh, FBI tăng sự hiện diện điều tra của mình trong việc giám sát an ninh quốc gia và an toàn công cộng. Vụ khủng bố 11 tháng 9 Tân Giám đốc FBI Robert Mueller, người nhận nhiệm sở chỉ một tuần trước vụ khủng bố, đã kêu tái tổ hợp là cấu trúc và hoạt động của FBI. Ông đã đặt tất cả các tội liên bang lên hàng ưu tiên, bao gồm chống khủng bố, ngăn chặn tình báo nước ngoài, chú tâm vào các mối đe dọa an ninh mạng, tội phạm công nghệ cao khác, bảo vệ dân quyền, tuyên chiến với tham nhũng công, tội phạm có tổ chức, tội phạm ‘’cổ trắng’’ và các trọng tội liên quan đến bạo lực khác. 18.2.2001 Robert Hanssen bị bắt giữ khi đang bán tài liệu mật cho chính phủ Nga. Thông tin sau đó cho biết Hanssen là nhân viên cao cấp của FBI bán thông tin tình báo từ đầu 1979 cho đến nay. Ông bị kết tội phản bội và bị kết án tù chung thân vào năm 2002, vụ việc cho thấy vẫn còn nhiều kẽ hở bên trong nhân sự của FBI. Có tin đồn cho biết Hanssen đã cung cấp thông tin dẫn đến vụ khủng bố 11 tháng 9. Ủy ban 11 tháng 9 đã ra thông cáo vào ngày 22 tháng 7 năm 2004 tuyên bố rằng FBI và Cơ quan Tình báo Trung ương (CIA) đã không tham khảo thông tin tình báo về sự kiện có thể dẫn đến vụ khủng bố 11 tháng 9 năm 2001. Bản báo cáo cũng chỉ trích rất nhiều về Cục khi Cục đã không hoàn thành đúng nhiệm vụ được giao và yêu cầu phải có sự thay đổi bên trong FBI. Trong khi FBI đã tán thành với hầu hết các ý kiến đề nghị, bao gồm cả việc Giám đốc Tình báo Quốc gia sẽ giám sát Cục, thì một số thành viên của Ủy ban 11/9 vẫn công khai chỉ trích FBI vào tháng 10 năm 2005 khi Cục chỉ thay đổi cho có hình thức mà không có tính căn cơ. Tháng 7 năm 2007, tờ ‘’Washington Post’’ xuất bản đoạn trích từ sách của Giáo sư Amy Zegart thuộc Đại học Los Angeles-California mang tựa đề Spying Blind: The CIA, the FBI, and the Origins of 9/11. Tựa báo nêu tin rằng các tài liệu cho thấy CIA và FBI đã làm lỡ mất 23 cơ hội để phá vỡ âm mưu khủng bố 11 tháng 9. Lý do chủ yếu trong vụ việc này bao gồm: ý tưởng mới và văn hóa chống sự thay đổi trong Cục, việc đề bạt không thích hợp và sự tính thiếu hợp tác giữa hai cơ quan CIA và FBI với các cơ quan khác trong Cộng đồng Tình báo Hoa Kỳ. Bài báo cũng chỉ trích tính tập trung hóa của FBI dẫn đến sự thiếu hiệu quả trong liên lạc và hợp tác giữa các văn phòng FBI khác nhau. FBI đã không phát triển hiệu quả của các cơ quan chống khủng bố và gián điệp nước ngoài do sự cổ hữu trong việc cách tân FBI. Ví dụ như FBI luôn đối xử bất công giữa các đặc vụ với các nhân viên còn lại, phân biệt hóa giữa các chuyên viên phân tích với nhân viên thợ máy và lao công. Cơ cấu Tổ chức và Cấp bậc FBI được tổ chức thành năm nhánh dựa vào chức năng và Văn phòng Giám đốc bao gồm nhiều văn phòng hành chính đi kèm. Đứng đầu mỗi nhánh là Trợ lý Điều hành Giám đốc, mỗi phòng và đơn vị sẽ do Trợ lý Giám đốc điều hành. Văn phòng Giám đốc (Office of the Director) Phòng Quốc vụ (Office of Congressional Affairs) Phòng Tuyển dụng (Office of Equal Employment Opportunity Affairs) Phòng Pháp lý (Office of the General Counsel) Phòng các vấn đề Liêm chính và Tuân thủ quy định (Office of Integrity and Compliance) Phòng Thanh tra (Office of the Ombudsman) Phòng Trách nhiệm Nghề nghiệp (Office of Professional Responsibility) Phòng Công vụ (Office of Public Affairs) Đơn vị Thanh tra (Inspection Division) Đơn vị Hậu cần và Tiện nghi (Facilities and Logistics Services Division) Đơn vị Tài chính (Finance Division) Đơn vị Quản lý Dữ liệu (Records Management Division) Phòng Kế hoạch Nguồn lực (Resource Planning Office) Đơn vị An ninh (Security Division) Chi nhánh An ninh Quốc gia (National Security Branch) Đơn vị chống điệp báo (Counterintelligence Division) Đơn vị Chống Khủng bố (Counterterrorism Division) Ban giám sát Tình báo (Directorate of Intelligence) Ban giám sát Vũ khí hủy diệt hàng loạt (Weapons of Mass Destruction Directorate) Chi nhánh về Tội phạm, Công nghệ, Phản ứng nhanh và Dịch vụ (Criminal, Cyber, Response, and Services Branch) Đơn vị Điều tra Tội phạm (Criminal Investigative Division) Đơn vị Mạng máy tính (Cyber Division (Giám đốc: Gordon M Snow)) Đội Phản ứng các tình huống khẩn cấp (Critical Incident Response Group) Phòng Chiến dịch Quốc tế (Office of International Operations (Giám đốc: Joseph M. Demarest)) Phòng Hợp tác Nội địa (Office of Law Enforcement Coordination) Chí nhánh Nguồn nhân lực (Human Resources Branch) Đơn vị Huấn luyện (Training Division) Đơn vị Nguồn nhân lực (Human Resources Division) Chi nhánh Công nghệ và Khoa học (Science and Technology Branch) Đơn vị Thông tin tội phạm Tư pháp (Criminal Justice Information Services Division) Đơn vị Phòng thí nghiệm (Laboratory Division) Đơn vị Chiến dịch Công nghệ (Operational Technology Division) Phòng Ứng dụng và Công nghệ đặc biệt (Special Technologies and Applications Office) Chi nhánh Công nghệ Thông tin (Information and Technology Branch) Đơn vị Chiến dịch Công nghệ Thông tin (Information Technology Operations Division) Phòng Kế hoạch và Chính sách Công nghệ Thông tin (Office of IT Policy & Planning) Phòng Quản lý Chương trình Công nghệ Thông tin (Office of IT Program Management) Phòng Phát triển Công nghệ Thông tin (Office of IT Systems Development) Phòng Kiến thức (Office of the Chief Knowledge Officer) Danh sách cấu trúc cấp hàm trong FBI: Đặc vụ Tập sự Đặc vụ Đặc vụ Thâm niên Giám sát viên Phó Trợ lý Điều hành Trợ lý Điều hành Trợ lý Toàn quyền (ASAC) Đặc vụ Toàn quyền (SAC) Phó Trưởng Tham mưu Trưởng Tham mưu và Tư vấn Luật của Giám đốc Trợ lý Phó Giám đốc Trợ lý Giám đốc Phó Giám đốc Giám đốc Cục Điều tra Liên bang Hoa Kỳ Cơ sở hạ tầng Trụ sở chính của FBI là tòa nhà J. Edgar Hoover tại thủ đô Washington, D.C, cùng với 56 văn phòng đại diện tại các thành phố chính trên khắp lãnh thổ Mỹ. Bên cạnh đó, Cục cũng duy trì các cơ quan đại diện tại địa phương cùng với hơn 50 tùy viên pháp lý tại các tòa đại sứ và lãnh sự Hoa Kỳ trên thế giới. Nhiều cơ quan chuyên môn của FBI tọa lạc tại khu tiện nghi ở Quantico, Virginia, trung tâm dữ liệu với 96 triệu mẫu vân tay trên khắp Hoa Kỳ và của tù nhân được nhà chức trách Hoa Kỳ lấy mẫu ở Ả Rập Xê Út, Yemen, Iraq và Afghanistan tại trụ sở ở Clarksburg, West Virginia. Theo đạo luật ‘’Tự do Thông tin’’ yêu cầu thì FBI đang chuẩn bị chuyển Đơn vị Quản lý Dữ liệu về Winchester, Virginia. Theo tuần báo "Washington Post", FBI đang xây dựng kho chứa tuyệt mật tại tầng 4 tòa nhà J. Edgar Hoover ở Washington, D.C. Kho này chứa dữ liệu về hàng chục ngàn công dân Hoa Kỳ và người cư trú hợp pháp chưa từng bị truy tố bất kỳ tội gì. Bất cứ người nào cũng có thể bị nghi ngờ, cảnh sát trưởng thị trấn, cảnh sát giao thông cho đến người hàng xóm. Phòng Thí nghiệm FBI được thiết lập từ khi còn Cục chỉ mới là Cục Điều tra, và chuyển về tòa nhà J. Edgar Hoover khi nó hoàn thành vào năm 1974. Phòng thí nghiệm chủ yếu tập trung vào các công việc phân tích DNA, sinh vật học và hoa học tự nhiên. Các dịch vụ trong phòng thí nghiệm bao gồm "Hóa học", "Hệ thống Chỉ số Kết hợp AND"(CODIS), "Phân tích và Phản ứng Máy tính", "Phân tích DNA", "Phản ứng Vật chứng", "Chất nổ", "Súng đạn và nhận diện vũ khí", "Âm thanh Pháp lý", "Hình ảnh Pháp lý", "Phân tích Ảnh", "Nghiên cứu Khoa học Pháp lý’’, "Huấn luyện Khoa học Pháp lý", "Phản ứng Vật chất nguy hiểm", "Đồ họa Điều tra và Dự đoán", "In Chìm", "Phân tích Vật liệu", "Tài liệu Chất vấn", "Hồ sơ Băng Đảng", "Phân tích Ảnh Đặc biệt", "Đồ án Cấu trúc" và "Dấu vết Chứng cứ". Có rất nhiều cơ quan địa phương, liên bang và quốc tế sử dụng dịch vụ của Phòng Thí nghiệm FBI, Phòng còn có một phòng thí nghiệm khác ở Học viện FBI. Học viện FBI tọa lạc tại Quantico, Virginia, là FBI sử dụng phòng thí nghiệm máy tính và liên lạc. Đây cũng là nơi mà các đặc vụ mới được cử đi học trước khi nhận nhiệm sở., họ phải trải qua khóa huấn luyện 21 tuần cho từng người. Năm 1972, học viện chính thức được sử dụng, ngoài nhiệm vụ huấn luyện cho các đặc vụ của riêng mình, học viện còn mở lớp cho các nhân viên ở cơ quan thực thi pháp luật địa phương và cấp bang được mời dự tại trung tâm huấn luyện. Các đơn vị FBI ở Quantico gồm "Đơn vị Huấn luyện Cảnh sát và Cơ động", "Đơn vị Huấn luyện Bắn", "Trung tâm Huấn luyện và Nghiên cứu Khoa học Pháp lý", "Đơn vị Dịch vụ Công nghệ"(TSU), "Đơn vị Huấn luyện Điều tra", "Đơn vị Liên lạc Thực thi Pháp luật", "Đơn vị khoa Khoa học Quản lý và Lãnh đạo"(LSMU), "Đơn vị Huấn luyện Thể chất", "Đơn vị Huấn luyện Tân binh"(NATU), "Đơn vị khoa Áp dụng Thực tiễn"(PAU), "Đơn vị Huấn luyện Điều tra Máy tính" và "Đại học Nghiên cứu Phân tích". Năm 2000, FBI bắt đầu kế hoạch bộ ba để nâng cấp cơ sở hạ tầng Công nghệ Thông tin đã lỗi thời. Theo kế hoạch này, thì Cục sẽ phải mất 3 năm và chi ngân sách vào khoảng 380 triệu$, nhưng rồi Cục phải làm chậm tiến độ vì chi phí bội ngân. Cục nỗ lực để đưa máy tính và thiết bị mạng hiện đại vào áp dụng thành công, nhưng việc phát triển phần mềm điều tra, được giao cho Tập đoàn Công nghệ Ứng dụng Quốc tế làm, lại là một thảm họa. "Hồ sơ vụ việc Ảo"(VCF) lại trở nên vô tích sự vì không đạt được mong muốn và tạo nhiều thay đổi trong quản lý. Tháng 1 năm 2005, hơn hai năm sau đó, thời điểm mà phần mềm nguyên bản phải được hoàn thành đúng hẹn, FBI chính thức ngừng kế hoạch. Hơn 100 triệu$ được chi cho dự án xem như mất trắng. FBI lại tiếp tục sử dụng Hệ thống Hỗ trợ Vụ án Tự động vốn đã hơn cả thập kỷ, mà các chuyên gia Công nghệ Thông tin xem vô tích sự. Tháng 3 năm 2005, FBI thông báo một kế hoạch về phần mềm mới đầy tham vọng có tên mã là Sentinel dự kiến sẽ hoàn thành vào năm 2009. Phần mềm Carnivore được Cục dùng trong suốt nhiệm kỳ của Clinton để kiểm soát thư điện tử và các giao tiếp điện tử khác. Sau khi bị báo giới chỉ trích quá nhiều, FBI đã quyết định đổi tên của hệ thống từ "Carnivore" sang "DCS1000". DCS có nghĩa là hệ thống thu thập điện tử với chức năng không thay đổi. Tuần báo Associated Press đăng tin FBI sẽ dừng Carnivore vào năm 2001, để chuyển sang phần mềm khác là NarusInsight. Đơn vị Dịch vụ Thông tin Tội phạm Tư pháp (CJIS), ở Clarksburg, West Virginia là đơn vị trẻ nhất của FBI, thành lập vào năm 1991 và chính thức hoạt động vào năm 1995. Đơn vị là nơi cất giữ tài liệu quan trọng, và cũng là nơi của nhiều chương trình như "Trung tâm Thông tin Tội phạm"(NCIC), "Báo cáo Tội phạm"(UCR), "Nhận dạng Vân tay", "Hệ thống Nhận dạng Vân tay Tự động"(IAFIS), "NCIC 2000" và "Hệ thống Báo cáo Tình trạng Quốc gia"(NIBRS). Nhiều cơ quan địa phương và liên bang đã sử dụng hệ thống này để làm nguồn cho việc điều tra bằng phương thức mã hóa an toàn. FBI cung cấp nhiều công cụ nhận dạng đặc biệt và dịch vụ thông tin cho các cơ quan thực thi pháp luật địa phương, tiểu bang, liên bang và quốc tế. FBI chịu trách nhiệm quản lý "Trung tâm Dịch thuật Ảo Quốc gia" để cung cấp nguồn dịch chính xác và đúng giờ từ các thông tin tình báo nước ngoài của Cộng đồng Tình báo. Lỗi trong phân tích bằng chứng đầu đạn Trong hơn 40 năm, phòng thí nghiệm tội ác của FBI tại Quantico tin rằng mỗi đầu đạn có một đặc trưng hóa học duy nhất, do đó có thể đem tháo rời và phân tích, có thể xác định được viên đạn, không những xác định được viên đạn đến từ nhà máy nào mà còn biết được nó nằm ở hộp đạn nào. Học viện Khoa học Quốc gia đã bỏ ra 18 tháng để làm một cuộc khảo sát độc lập về kỹ thuật so sánh phân tích đầu đạn. Năm 2003, Hội đồng Nghiên cứu Quốc gia xuất bản báo cáo kêu gọi chất vấn về thử nghiệm 30 năm của FBI. Bản chất vấn cho thấy kết quả mà FBI dùng hoàn toàn không đầy đủ và kết luận rằng việc xác định được các mảnh đạn từ hộp đạn nào là hoàn toàn phóng đại, điều này cho thấy Cục đã sai lầm theo luật chứng cứ. Một năm sau, FBI quyết định dừng phân tích đầu đạn. Trong hơn 2,500 vụ án sử dụng biện pháp phân tích, có thể có hơn hàng trăm ngàn vụ mà phòng thí nghiệm FBI sử dụng biện pháp trên để cung cấp chứng cứ pháp lý trước tòa án. Mỗi trường hợp, bằng chứng có thể đã sai và làm chệch hướng điều tra. Chính phủ Hoa Kỳ đã phải ban bố nghĩa vụ pháp lý để thông báo cho các bị can biết bất kỳ thông tin nào mà họ có thể cung cấp về sự vô tội của mình ngay cả khi họ đã bị kết án. Chỉ duy nhất có FBI xác nhận được vụ án nào có sử dụng phân tích đầu đạn, nhưng Cục không công bố thông tin trên. Theo kết quả điều tra của chương trình "60 Phút/Washington Post" năm 2007, Cục đã lên tiếng sẽ xác nhận, xem xét và công bố các vụ án liên quan và thông báo cho bên công tố về các trường hợp bị sai kết quả chứng cứ. Nhiệm vụ và quyền ưu tiên Trong năm tài chính 2010, ngân quỹ tối thiểu của FBI xấp xỉ 7.9 tỉ$, bao gồm 618 triệu$ được sử dụng trong chương trình chống khủng bố, tội phạm máy tính, bạo loạn, vũ khí huỷ diệt hàng loạt, tội phạm "cổ trắng" và các chương trình huấn luyện. Nhiệm vụ chính của FBI là bảo vệ và phòng thủ nước Mỹ trước các mối đe dọa khủng bố và tình báo nước ngoài, phòng chống và thực thi pháp luật đối với tội phạm Hoa Kỳ và dịch vụ thông tin tội phạm tư pháp và nâng cao khả năng tự lập cho các cơ quan, đối tác liên bang, tiểu bang, thành phố và quốc tế. Hiện tại, FBI tập trung điều tra các vụ việc ưu tiên sau: Bảo vệ Hoa Kỳ khỏi các vụ khủng bố; Bảo vệ Hoa Kỳ chống lại các hoạt động tình báo và điệp báo của nước ngoài; Bảo vệ Hoa Kỳ chống lại các cuộc tấn công tin tặc và công nghệ cao; Đấu tranh với tham nhũng công ở mọi cấp độ; Bảo vệ dân quyền; Đấu tranh với các tổ chức, doanh nghiệp tội phạm trong nước và xuyên quốc gia; Đấu tranh với loại tội phạm trí thức cao; Đấu tranh với tội ác bạo loạn nghiêm trọng; Hỗ trợ các đối tác liên bang, tiểu bang và quốc tế; Nâng cấp Công nghệ để hoàn thành nhiệm vụ của FBI một cách thành công. Vào tháng 8 năm 2007, FBI sẽ điều tra các tội ác hàng đầu như: Cướp ngân hàng và tội nghiêm trọng (107 tội) Ma túy (104 tội) Nỗ lực và âm mưu tội ác (81 tội) Khai thác tình dục trẻ em (53 tội) Giả mạo thư tín và lừa đảo (51 tội) Giả mạo ngân hàng (31 tội) Tổ chức đánh bạc trái phép (22 tội) Giả mạo đường truyền, radio và ti vi (20 tội) Đạo luật Hobbs (Cướp của và tống tiền ảnh hưởng đến thương mại liên bang) (17 tội) Đạo luật chống tham nhũng tổ chức và ảnh hưởng của băng Đảng (RICO) (17 tội) Địa vị Pháp lý Nhiệm vụ của FBI được thành lập theo bộ luật số 28 của Hoa Kỳ, Phần 533, cho phép Tổng Chưởng lý Hoa Kỳ chỉ định quan chức để điều tra các tội ác chống lại Hoa Kỳ. Những đạo luật khác cho phép FBI quyền và trách nhiệm điều tra các tội ác riêng biệt. J. Edgar Hoover bắt đầu sử dụng ghi âm điện thoại vào thập niên năm 1920 trong thời kì Cấm Rượu ở Hoa Kỳ nhầm bắt những kẻ buôn lậu rượu. Một vụ án năm 1927, một tay buôn lậu rượu bị bắt khi đoạn ghi âm được đưa đến Tòa án Tối cao Hoa Kỳ, vốn đã cho phép FBI được phép sử dụng ghi âm phục vụ quá trình điều tra và không được vi phạm Điều 4 Sửa đổi của Hiến pháp Hoa Kỳ, quy định FBI không được xâm phạm gia trang bất hợp pháp của người khác để hoàn thành việc ghi âm. Sau khi Luật cấm Rượu bị bãi bỏ, Quốc hội Hoa Kỳ đã cấm việc ghi âm qua điện thoại, nhưng cho phép đặt máy nghe lén. Trong trường hợp khác tại Tòa án Tối cao, tòa án quy định năm 1939 chiếu theo điều luật 1934, các chứng cứ do FBI thu thập được bằng cách thu âm lén điện thoại sẽ không được chấp nhận tại tòa. Tòa án Tối cao năm 1967 đã thay đổi vụ án năm 1927, cho phép đặt máy nghe trộm, sau khi Quốc hội thông qua đạo luật "An toàn đường phố và kiểm soát tội ác trên xe buýt", cho phép các nhà chức trách thu âm qua điện thoại sau khi họ có trát bắt giữ. Nhờ vào đạo luật "Chống tham nhũng có tổ chức và Ảnh hưởng của băng Đảng" mà FBI có được công cụ để tiến hành các chiến dịch chống lại tội phạm có tổ chức. Theo đạo luật "Dân quyền" năm 1964, FBI đồng thời chịu trách nhiệm thực thi và điều tra các tội danh liên quan đến bạo lực sẽ bị truy tố bởi cơ quan chủ quản là Bộ Tư pháp. Ngoài ra FBI cũng hợp tác với Cơ quan Bài trừ Ma túy (DEA) theo đạo luật "Kiểm soát Chất gây nghiện" năm 1970. Đạo luật "Ái Quốc Hoa Kỳ" đã gia tăng rất nhiều quyền lực cho FBI, đặc biệt trong việc thu âm qua đường dây hữu tuyến và kiểm soát hoạt động của Internet. Một trong những điều khoản gây tranh cãi nhiều nhất đó là điều khoản "ẩn mình và nhìn trộm" cho phép FBI có quyền khám nhà khi người chủ nhà đi đâu xa và không cần phải thông báo ngay cho chủ nhà mà phải chờ đến vài tuần sau. Dưới nhiều điều khoản trong đạo luật "Ái Quốc Hoa Kỳ", FBI được phép lật lại hồ sơ thư viện của những nghi phạm khủng bố (điều mà Cục không được phép làm kể từ thập niên 1970). Đầu thập niên năm 1980, Thượng viện tổ chức kiểm tra các hoạt động ngầm của FBI sau vụ tranh cãi Abscam. Năm sau đó, nhiều lời đề nghị được đưa ra nhằm thắt chặt lại các hoạt động của FBI. Tháng 3 năm 2007, Tổng Thanh tra thuộc Bộ Tư pháp đã mô tả về FBI là "lạm dụng diễn ra khắp nơi và nghiêm trọng" trong việc gửi thư an ninh quốc gia, một loại trát hành chính được dùng để yêu cầu hồ sơ và dữ liệu liên quan đến một cá nhân nào đó. Bản báo cáo cho thấy giữa năm 2003 và năm 2005, FBI đã cấp phát hơn 140,000 thư an ninh quốc gia, rất nhiều trong số đó liên quan đến những người không hề có chút liên hệ nào đến khủng bố. Nguồn tin thu thập được để FBI dùng trong điều tra sẽ được trình bày cho Viên Chưởng lý hoặc viên chức thuộc Bộ Tư pháp phù hợp, người được phép quyết định nên đưa vụ việc ra tòa hoặc hành động khác. FBI thường hay hợp tác trong công việc với các cơ quan liên bang khác, như "Tuần tra Bờ biển Hoa Kỳ" (USCG) và "Bảo vệ Biên giới và Hải quan Hoa Kỳ"(CBP) trong lĩnh vực an ninh hải cảng hoặc sân bay, và "Ban An tòa Vận tải Quốc gia" trong điều tra máy bay rơi và các tai nạn nghiêm trọng khác. Cơ quan "Kiểm soát Nhập cư và Hải quan Hoa Kỳ"(ICE) là cơ quan duy nhất có đủ quyền lực gần với FBI để phối hợp điều tra. Sau vụ khủng bố ngày 11 tháng 9, FBI duy trì một vai trò đáng kể trong việc điều tra các tội liên bang. Nhân sự Theo số liệu tháng 12 năm 2009, FBI có tổng cộng 33,652 nhân viên. Trong đó bao gồm 13,412 đặc vụ và 20,420 chuyên viên hỗ trợ, như chuyên viên phân tích tình báo, chuyên gia ngôn ngữ, nhà khoa học, kỹ thuật viên công nghệ thông tin và các chuyên viên trong lĩnh vực khác. Trang Tưởng niệm các sĩ quan đã hi sinh cung cấp lý lịch của 57 sĩ quan FBI hi sinh trong lúc làm nhiệm vụ từ năm 1925 đến năm 2009. Quy trình Tuyển dụng Để nộp đơn cho vị trí nhân viên FBI, thí sinh phải ở độ tuổi 23 đến 37. Tuy nhiên, việc này phụ thuộc vào Phòng Quản lý Nhân sự, đối với các thí sinh là cựu quân nhân có giới thiệu sẽ được dự tuyển ngay cả khi hơn 37 tuổi. Năm 2009, Phòng Quản lý Nhân sự đã phát hành cuốn cẩm nang hướng dẫn:OPM Letter Ứng viên phải có bằng công dân Hoa Kỳ, lý lịch tốt và có bằng cử nhân hệ 4 năm. Tất cả các nhân viên FBI đều được yêu cầu kiểm tra an ninh tối mật. Để thành công trong kì kiểm tra an ninh tối mật, các ứng viên tiềm năng phải vượt qua một loạt các "cuộc điều tra lý lịch bản thân phạm vi đơn"(SSBI) do Phòng Quản lý Nhân sự đưa ra. Các ứng viên đặc vụ phải vượt qua bài "Kiểm tra Thể chất"(PFT) bao gồm 300 mét chạy, 1 phút duỗi thẳng, hít đất hết cỡ và chạy 2.4 km. Ngoài ra ứng viên phải vượt qua đợt kiểm tra tim mạch với các câu hỏi về tiền sử sử dụng ma túy. Sau khi các ứng viên tiềm năng vượt qua kì sát hạch kiểm tra tối mật và đồng ý ký vào đơn SF-312, họ sẽ tham dự trại huấn luyện FBI tại Căn cứ Thủy quân Lục chiến ở Quantico, Virginia. Các ứng viên trải qua 21 tuần tại Học viện FBI, tại đây họ tiếp tục 500 giờ học và 1000 giờ thực huấn. Sau khi tốt nghiệp, tân đặc vụ FBI sẽ được bố trí trên khắp Hoa Kỳ và thế giới, tùy vào khả năng riêng của từng người. Các chuyên viên hỗ trợ sẽ làm việc tại một trong các tòa nhà dành riêng mà FBI sở hữu. Tuy nhiên, bất kỳ đặc vụ hay nhân viên hỗ trợ nào cũng có thể bị chuyển công tác bất kỳ lúc nào nếu Cục cảm thấy cần họ hỗ trợ cho phòng đại diện hoặc một trong 400 cơ quan tại địa phương của FBI. Các Giám đốc FBI qua các thời kỳ Vũ khí Một đặc vụ FBI được trang bị khẩu Glock đời 22 với loại đạn.40 S&W, các khẩu Glock đời 17, 19 và 26 với đạn 9mm Luger, Mẫu 23, 27 và.40 S&W được phép mang như súng dự phòng. Các đặc vụ thuộc "Đội Giải cứu Con tin" và đội SWAT được sử dụng khẩu Springfield mẫu 1911A1 đạn.45 ACP và M4A1 cabine. Ấn bản Ấn phẩm "Bản tin FBI" được xuất bản hàng tháng do "Đơn vị Thông tin FBI" chủ quản, với nhiều bài viết hấp dẫn người đọc là nhân sự tại các cơ quan thực thi pháp luật địa phương và tiểu bang. Ấn bản đầu tiên được xuất bản năm 1932 với tựa đề "Nhân vật bị truy nã gắt gao nhất", "Bản tin FBI" bao gồm nhiều chủ đề công nghệ và giải pháp như bản đồ tội phạm và sử dụng vũ lực, nghiên cứu tội phạm tư pháp và hệ thống cảnh báo Vi-CAP, được dùng cho các vụ trọng án và tội phạm bị truy nã. Ngoài ra, FBI còn xuất bản nhiều bài báo cáo cho nhân sự bên ngành thực thi pháp luật và cả người dân bình thường về nhiều chủ đề như thực thi pháp luật, khủng bố, tội phạm mạng, tội phạm kinh tế, tội phạm bạo lực và thống kê. Tuy nhiên, đa số các bài viết của FBI đều được Phòng Chương trình Tư pháp trực thuộc Bộ Tư pháp xuất bản và phân phối bởi "Cơ quan Chứng nhận Tội phạm Tư pháp Quốc gia". Thống kê tội ác Thập niên năm 1920, FBI bắt đầu phát hành các bản báo cáo về tội ác từ số liệu của các phòng cảnh sát địa phương. Nhưng do sự hạn chế của hệ thống trong giai đoạn thập niên 1960 và 1970 – nạn nhân thường không trình báo với cảnh sát – Bộ Tư pháp đã phát triển phương pháp thay thế là kiểm tra tội ác và điều tra nạn nhân. Báo cáo tội ác của nhân viên công lực Báo cáo tội ác của nhân viên công lực (UCR) biên tập lại dữ liệu từ hơn 17,000 cơ quan thực thi pháp luật trên toàn Hoa Kỳ. Họ cung cấp thông tin liên quan đến tội ác bao gồm bắt bớ, kết thúc vụ án và thông tin sĩ quan thực thi pháp luật. UCR tập trung chủ yếu vào các dữ liệu liên quan đến tội ác liên quan đến bạo lực, tội ác hằn thù chủng tộc và tội ác trong tranh chấp tài sản. Hệ thống UCR phản ánh hầu hết các vụ án nghiêm trọng liên quan đến tội ác và rất ít đề cập đến "hãm hiếp". Bản báo cáo thường niên năm 2006 cho thấy tội ác liên quan đến bạo lực tăng 1.3% còn tội ác liên quan đến tài sản giảm 2.9% so với năm 2005. Hệ thống Báo cáo Tai nạn Quốc gia Hệ thống Báo cáo Tai nạn Quốc gia (NIBRS) là hệ thống thống kê tội ác nhằm mục đích bổ sung những hạn chế của hệ thống UCR. Cơ quan thực thi pháp luật dùng hệ thống này để thu thập và tổng hợp dữ liệu về tình hình tội ác. Các cơ quan địa phương, tiểu bang, liên bang cập nhật dữ liệu từ hệ thống quản lý hồ sơ của họ lên NIBRS. Năm 2004, 5,271 cơ quan thực thi pháp luật đã cập nhật thông tin lên dữ liệu NIBRS. Con số thu được đại diện cho 20% dân số Hoa Kỳ và 16% dữ liệu thống kê tội ác của FBI thu thập được. Trên phương tiện truyền thông FBI thường xuyên được đưa lên màn ảnh của nhiều bộ phim, FBI được lột tả dưới nhiều góc độ từ sự liên quan trực tiếp đến quá trình tự sáng tạo cho đến FBI đại diện cho cái tốt, chân lý tốt, tham khảo ý kiến và kết thúc vụ án. Các bộ phim mà cơ quan FBI được xướng tên: "Face/Off" của đạo diễn Ngô Vũ Sâm với sự tham gia của Nicolas Cage và John Travolta. "The Rock (phim)" đạo diễn Michael Bay nói về một nhân viên phòng thí nghiệm FBI (Nicolas Cage) hỗ trợ chính phủ Hoa Kỳ chống lại một cuộc nổi loạn của binh sĩ ở nhà tù Alcatraz. "Catch me if you can" đạo diễn Steven Spielberg nói về một nhân viên FBI (Tom) đang truy bắt tên tội phạm làm giả chứng thư ngân hàng (Leonardo DiCaprio). "Live Free or Die Hard" cuộc chiến trên mạng giữa FBI và các thế lực hacker khi chúng đang tìm cách gây hại cho nước Mỹ. Phim có sự góp mặt của Bruce Willis. "The Silence of the Lambs" là một bộ phim rùng rợn xoay quanh một tên tội phạm bệnh hoạn (Anthony Hopkins) và nữ nhân viên FBI (Jodie Foster). "Supernatural (phim truyền hình), phim đề cập tới nhiều tình tiết có liên quan đến FBI khi họ truy đuổi anh em nhà Winchester với một loạt các tội danh liên quan. "The X-Files nói về cuộc tìm kiếm sự sống ngoài hành tinh của hai nhân viên FBI Fox Mulder và Dana Scully. "Public Enemies" nói về tướng cướp nổi tiếng thập niên 1930 John Dillinger (Johnny Depp) và nỗ lực của FBI trong việc bắt giữ hắn. "Shooter" nói về một âm mưu tối mật nhằm ám sát một nhân vật cấp cao, dẫn đến sự dính líu của Trung sĩ Bob Lee Swagger(Mark Wahlberg) và quá trình tự chứng minh mình vô tội. Trong "Thám tử lừng danh Conan" (名探偵コナン), một số đặc vụ giả tưởng đã sang Nhật Bản để truy đuổi Tổ chức Áo Đen (Xem chi tiết trong danh sách nhân vật của phim). Xem thêm Cục Cảnh sát Hoa Kỳ (USMS) Cơ quan Mật vụ Hoa Kỳ (USSS) Tham khảo Kiến thức ngoài HSI BOOK Government HSI Files Liên kết ngoài Official FBI website Church Committee Report, Vol. 6, "Federal Bureau of Investigation." 1975 congressional inquiry into American intelligence operations. FBI Disclosures under Freedom of Information Act Official FBI Recruiting Federal Bureau of Investigation at FAS.org The FBI...Past, Present & Future Luật pháp Hoa Kỳ Cục Điều tra Liên bang Tư pháp Hoa Kỳ Tội phạm Mỹ Chính phủ Hoa Kỳ Hiến pháp Hoa Kỳ Lịch sử Hoa Kỳ Khởi đầu năm 1908 ở Hoa Kỳ Cơ quan thực thi pháp luật liên bang Hoa Kỳ Thực thi pháp luật ở Hoa Kỳ Cơ quan tình báo Hoa Kỳ
28851
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BB%99%20tr%C6%B0%E1%BB%9Fng%20B%E1%BB%99%20Qu%E1%BB%91c%20ph%C3%B2ng%20%28Vi%E1%BB%87t%20Nam%29
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (Việt Nam)
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thường gọi tắt là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng là thành viên của Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đứng đầu Bộ Quốc phòng Việt Nam. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng chịu trách nhiệm quản lý, xây dựng và tổ chức về quân sự. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thường là Ủy viên Hội đồng Quốc phòng và An ninh, Ủy viên Bộ Chính trị. Đây là một trong những chức danh cao cấp nhất trong hệ thống chính trị Việt Nam. Bổ nhiệm, miễn nhiệm và cách chức Tại Điều 88, Hiến pháp năm 2013 quy định thẩm quyền của Chủ tịch nước thì Quốc hội có quyền bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm chức danh Bộ trưởng Bộ Quốc phòng theo sự đề nghị của Chủ tịch nước. Quân hàm Theo Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam sửa đổi, bổ sung năm 2014 tại Điều 15 thì chức vụ Bộ trưởng Bộ Quốc phòng có cấp bậc quân hàm cao nhất là Đại tướng. Tiêu chuẩn ứng viên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng của Đảng Cộng sản Việt Nam Từ khi thành lập nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam vào năm 1976 đến nay, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng luôn là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Ủy viên Bộ Chính trị. Theo Quy định số 89-QĐ/TW ngày 19 tháng 12 năm 2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, tại Phụ lục 1, Mục II, Tiểu mục 3 và tại Điều 5, Điều 13 thì thời hạn giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Quốc phòng là 5 năm và thuộc diện thẩm quyền Bộ Chính trị quản lý, đánh giá, bố trí, giới thiệu ứng cử, chỉ định; quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng; điều động, luân chuyển, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cho thôi giữ chức, đình chỉ chức vụ; khen thưởng, kỷ luật. Theo Quy định số 89-QĐ/TW ngày 4 tháng 8 năm 2017 và Quy định số 90-QĐ/TW ngày 4 tháng 8 năm 2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng thì tiêu chuẩn chung của chức vụ Bộ trưởng Bộ Quốc phòng bao gồmː Về chính trị tư tưởngː Trung thành với Tổ quốc, Đảng, Nhà nước. Lập trường bản lĩnh chính trị vững vàng. Về đạo đức, lối sốngː Mẫu mực, trung thực, khiêm tốn, chân thành, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Về trình độː Tốt nghiệp đại học trở lên (chuyên về lĩnh vực quân sự). Về năng lực và uy tínː Có tư duy đổi mới, tầm nhìn chiến lược; phương pháp làm việc khoa học; nhạy bén chính trị; có năng lực cụ thể hóa và lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện có hiệu quả. Là hạt nhân quy tụ được cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân tin tưởng, tín nhiệm cao. Sức khỏe, độ tuổi và kinh nghiệmː Đủ sức khỏe, đã kinh qua và hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ của chức danh lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp dưới trực tiếp ở đây; có nhiều kinh nghiệm thực tiễn. Theo Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 tại phần III, mục 2 có quy định cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp trên phải kinh qua vị trí chủ chốt cấp dưới, trường hợp đặc biệt do cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định. Theo Quy định 214-QĐ/TW năm 2020  về khung tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý do Ban Chấp hành Trung ương ban hành, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng phải là người: ''Bảo đảm đầy đủ các tiêu chuẩn chung của Uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư hoặc Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương, đồng thời, cần có những phẩm chất, năng lực: Có trình độ cao và am hiểu sâu sắc về quản lý nhà nước, nắm chắc pháp luật Việt Nam, pháp luật và thông lệ quốc tế. Có năng lực cụ thể hoá đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước để hoạch định phương hướng, chính sách phát triển ngành, lĩnh vực được phân công và chỉ đạo thực hiện có hiệu quả. Có năng lực phối hợp giữa các bộ, ban, ngành và giữa Trung ương với địa phương, tạo sự đồng bộ trong thực hiện chính sách chung của Đảng, Nhà nước. Có kinh nghiệm lãnh đạo, điều hành và quyết đoán, quyết liệt, kịp thời quyết định những vấn đề khó, phức tạp thuộc ngành, lĩnh vực phụ trách. Không bị chi phối bởi lợi ích nhóm. Đã kinh qua và hoàn thành tốt nhiệm vụ ở chức vụ lãnh đạo, quản lý cấp thứ trưởng hoặc phó trưởng ban, ngành, đoàn thể Trung ương hoặc lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh.'' Tiêu chuẩn của Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư "Bảo đảm đầy đủ các tiêu chuẩn của Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương, đồng thời, cần có thêm các tiêu chuẩn: Thật sự tiêu biểu, mẫu mực của Ban Chấp hành Trung ương về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trí tuệ, ý chí chiến đấu, năng lực lãnh đạo, quản lý, ý thức tổ chức kỷ luật; không bị chi phối bởi sự can thiệp, sức ép bên ngoài và lợi ích nhóm. Hiểu biết sâu rộng tình hình đất nước, khu vực và thế giới; nhạy cảm về chính trị, nhạy bén về kinh tế, am hiểu sâu sắc về xã hội. Có ý thức, trách nhiệm cao, có khả năng đóng góp ý kiến trong việc hoạch định đường lối, chính sách và phát hiện, đề xuất những vấn đề thực tiễn đặt ra để Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư thảo luận, quyết định. Là Uỷ viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương trọn một nhiệm kỳ trở lên; đã kinh qua và hoàn thành tốt nhiệm vụ ở các chức vụ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh (bí thư tỉnh uỷ, thành uỷ; chủ tịch Hội đồng nhân dân, chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố) hoặc trưởng các ban, bộ, ngành, Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương. Trường hợp Uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư công tác trong quân đội thì phải kinh qua chức vụ chủ trì cấp quân khu." Tiêu chuẩn của Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương "Tiêu biểu của Đảng về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực công tác. Có ý thức, trách nhiệm cao, kiến thức toàn diện; tích cực tham gia thảo luận, đóng góp, hoạch định đường lối, chính sách và sự lãnh đạo tập thể của Ban Chấp hành Trung ương. Có năng lực tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách, nhiệm vụ của Đảng, chiến lược phát triển đất nước trong giai đoạn mới ở lĩnh vực, địa bàn công tác được phân công quản lý, phụ trách. Có năng lực dự báo, xử lý, ứng phó kịp thời, hiệu quả những tình huống đột xuất, bất ngờ; có khả năng làm việc độc lập. Có tố chất, năng lực lãnh đạo, quản lý cấp chiến lược; có hoài bão, khát vọng đổi mới vì dân, vì nước. Đã kinh qua và hoàn thành tốt nhiệm vụ ở các chức vụ lãnh đạo chủ chốt cấp dưới trực tiếp và tương đương. Uỷ viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương phải là những cán bộ trẻ; cơ bản đáp ứng được tiêu chuẩn của Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương; qua thực tiễn công tác thể hiện có năng lực, triển vọng phát triển về tố chất lãnh đạo, quản lý cấp chiến lược; được quy hoạch chức danh Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương và lãnh đạo chủ chốt tỉnh uỷ, thành uỷ trực thuộc Trung ương, ban, bộ, ngành, đoàn thể Trung ương nhiệm kỳ tới và các nhiệm kỳ tiếp theo". Tiêu chuẩn chung 1.1. Về chính trị, tư tưởng: Tuyệt đối trung thành với lợi ích của quốc gia - dân tộc, của Đảng và nhân dân; cố gắng hết khả năng của mình bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ; kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đường lối đổi mới của Đảng. Có lập trường, quan điểm, bản lĩnh chính trị vững vàng; kiên quyết bảo vệ nền tảng tư tưởng, Cương lĩnh, đường lối của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước; đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Có tinh thần yêu nước nồng nàn, sâu sắc; luôn đặt lợi ích của Đảng, quốc gia - dân tộc, nhân dân lên trên lợi ích của ngành, địa phương, cơ quan và cá nhân; sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp cách mạng của Đảng, vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Tuyệt đối chấp hành sự phân công của tổ chức, yên tâm công tác. Giữ nghiêm kỷ luật phát ngôn theo đúng nguyên tắc, quy định của Đảng. 1.2. Về đạo đức, lối sống: Mẫu mực về phẩm chất đạo đức; sống trung thực, khiêm tốn, chân thành, trong sáng, giản dị, bao dung; cần, kiệm, liêm chính, chí công, vô tư. Không tham vọng quyền lực, có nhiệt huyết và trách nhiệm cao với công việc; là trung tâm đoàn kết, gương mẫu về mọi mặt. Không tham nhũng, lãng phí, cơ hội, vụ lợi; kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ, tệ quan liêu, tham nhũng, tiêu cực, lãng phí, cửa quyền và lợi ích nhóm; tuyệt đối không trục lợi và cũng không để người thân, người quen lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để trục lợi. Thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức, kỷ luật của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình; thực hiện đúng, đầy đủ quyền hạn, trách nhiệm của mình và chỉ đạo thực hiện nghiêm nguyên tắc, quy định, quy chế, quy trình về công tác cán bộ; kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện, việc làm trái với các quy định của Đảng, Nhà nước trong công tác cán bộ. 1.3. Về trình độ: Tốt nghiệp đại học trở lên; lý luận chính trị cử nhân hoặc cao cấp; quản lý nhà nước ngạch chuyên viên cao cấp hoặc tương đương; trình độ ngoại ngữ cử nhân hoặc trình độ B trở lên, tin học phù hợp. 1.4. Về năng lực và uy tín: Có quan điểm khách quan, toàn diện, biện chứng, lịch sử cụ thể, có tư duy đổi mới, tầm nhìn chiến lược; phương pháp làm việc khoa học; nhạy bén chính trị; có năng lực cụ thể hoá và lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện có hiệu quả các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; có năng lực tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, phân tích và dự báo tốt. Nắm chắc tình hình chung và hiểu biết toàn diện về lĩnh vực, địa bàn, địa phương, cơ quan, đơn vị được phân công quản lý, phụ trách. Kịp thời nắm bắt những thời cơ, vận hội; phát hiện những mâu thuẫn, thách thức, vấn đề mới, vấn đề khó, hạn chế, yếu kém trong thực tiễn; chủ động đề xuất những nhiệm vụ, giải pháp có tính khả thi và hiệu quả. Năng động, sáng tạo, cần cù, chịu khó, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; có quyết tâm chính trị cao, hành động quyết liệt, dám đương đầu với khó khăn, thách thức; nói đi đôi với làm; có thành tích nổi trội, có kết quả và "sản phẩm" cụ thể góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển của ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị; gắn bó mật thiết với nhân dân và vì nhân dân phục vụ. Là hạt nhân quy tụ và phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị; được cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân tin tưởng, tín nhiệm cao. 1.5. Sức khoẻ, độ tuổi và kinh nghiệm: Đủ sức khoẻ để thực hiện nhiệm vụ; bảo đảm tuổi bổ nhiệm (theo quy định của Đảng, độ tuổi trước khi bổ nhiệm không quá 65 tuổi), giới thiệu ứng cử theo quy định của Đảng. Đã kinh qua và hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ của chức danh lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp dưới trực tiếp; có nhiều kinh nghiệm thực tiễn." Chức năng và nhiệm vụ Theo Thông tư số 52/2017/TT-BQP ngày 10 tháng 3 năm 2017 của Bộ Quốc phòng về Quy chế làm việc của Bộ Quốc phòng Bộ trưởng là người đứng đầu Bộ Quốc phòng, chịu trách nhiệm trước Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về toàn bộ hoạt động của Bộ Quốc phòng và có trách nhiệm: Tổ chức thực hiện những công việc thuộc thẩm quyền quy định trong Hiến pháp, Luật tổ chức Chính phủ Tổ chức thực hiện những công việc được Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao hoặc ủy quyền Tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước theo quy định Tổ chức thực hiện Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan Quyền hạn Quyết định về việc tổ chức bộ máy, biên chế, cán bộ, công chức, viên chức, theo quy định Trình Chính phủ về thành lập, hợp nhất, chấm dứt hoạt động, giải thể Tổng cục, Cục, Bộ Tư lệnh Quyết định thành lập, chấm dứt hoạt động, giải thể Cục và các vấn đề liên quan đến bộ máy, biên chế của Cơ quan thuộc Bộ và quyết định về danh sách bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ, công chức, viên chức đi công tác nhiệm kỳ tại Cơ quan thuộc Bộ theo quy định của pháp luật Bổ nhiệm, miễn nhiệm các chức vụ từ nhóm 4 cho đến nhóm 11 thuộc Bảng nhóm chức vụ Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam. Điều động Sĩ quan từ nhóm 2 đến nhóm 14 từ đơn vị này sang đơn vị khác thuộc Bộ Quốc phòng. Phong, thăng, giáng quân hàm từ cấp Thiếu úy đến cấp Đại tá. Chuyển chế độ phục vụ tại ngũ từ Công nhân viên Quốc phòng, Quân nhân chuyên nghiệp sang Sĩ quan Quy định thủ tục phong, thăng, giáng, tước cấp bậc hàm sĩ quan cấp tá, cấp úy và hạ sĩ quan, chiến sĩ trong Quân đội Phân công một Thứ trưởng làm Thứ trưởng Thường trực (thường là Tổng Tham mưu trưởng), giúp Bộ trưởng điều hành công việc chung của Bộ và phân công các Thứ trưởng phụ trách lĩnh vực công tác và điều chỉnh lĩnh vực công tác đã phân công; Trực tiếp giải quyết công việc có tính cấp bách và quan trọng mặc dù thuộc lĩnh vực đã được phân công của một Thứ trưởng, hay do Thứ trưởng đó đi vắng; quyết định những vấn đề còn có ý kiến khác nhau giữa các Thứ trưởng; Định kỳ chủ trì họp với các Thứ trưởng và nếu xét thấy cần thiết, với Trợ lý Bộ trưởng để thống nhất chủ trương, biện pháp chỉ đạo điều hành công việc của Bộ; Quyết định nội dung, thời gian, thành phần và chủ trì các cuộc họp quan trọng của Bộ; Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật. Chức vụ bỏ trống Trong trường hợp chức vụ Bộ trưởng Bộ Quốc phòng bị bỏ trống (cách chức, từ chức hay đột ngột qua đời) thì Thứ trưởng Thường trực Bộ Quốc phòng kiêm Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam giữ Bộ trưởng tạm quyền. Bộ trưởng tạm quyền có đầy đủ quyền hành như Bộ trưởng cho đến khi Quốc hội bầu ra Bộ trưởng mới. Khi Bộ trưởng không làm việc được trong thời gian dài hay bị đình chỉ chức vụ tạm thời thì Thứ trưởng Thường trực Bộ Quốc phòng kiêm Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam giữ chức Bộ trưởng tạm quyền cho đến khi Bộ trưởng trở lại làm việc. Bộ trưởng qua các thời kỳ Tham khảo Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam Chức vụ Quân đội nhân dân Việt Nam Bộ trưởng Việt Nam
28887
https://vi.wikipedia.org/wiki/Isozaki%20Arata
Isozaki Arata
(23 tháng 7 năm 1931 tại Oita, Nhật Bản – 28 tháng 12 năm 2022) là một trong số các kiến trúc sư người Nhật có danh tiếng trên toàn thế giới. Ông theo học khoa kiến trúc tại Đại học Tokyo và là học trò của Tange Kenzo. Năm 1963, Isozaki mở văn phòng kiến trúc riêng. Hình thức và màu sắc kiến trúc, sự chăm chút tỉ mỉ vào chi tiết là những thế mạnh trong kiến trúc của Isozaki. Ông qua đời ngày 28 tháng 12 năm 2022, hưởng thọ 91 tuổi. Các công trình kiến trúc Trung tâm Khoa học và Kỹ nghệ, Columbus, Ohio Nhà hòa nhạc Kyoto, Kyoto, Nhật Bản Thư viện Oita, Oita, Nhật Bản Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại (Museum of Contemporary Art, MOCA), Los Angeles, California Phòng lớn của Thế vận hội Mùa hè 1992, Barcelona, Tây Ban Nha Team Disney Orlando, Florida Trường Y khoa Weill Cornell tại Qatar, Education City Tháp nghệ thuật Mito, Mito, Nhật Bản, 1990 Diamond Island, Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam Metropolis Thảo Điền, Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam Tham khảo Liên kết ngoài Arata Isozaki & associates Arata Isozaki & associates España Kiến trúc sư Nhật Bản Kiến trúc sư Hiện đại
28888
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kurokawa%20Kisho
Kurokawa Kisho
là một kiến trúc sư nổi tiếng thế giới người Nhật và là người sáng lập phong trào Chuyển hóa luận (Metabolism Movement). Ông theo học tại khoa kiến trúc tại Đại học Kyoto, tốt nghiệp năm 1957. Ông tiếp tục theo học tại trường kiến trúc Đại học Tokyo dưới sự hướng dẫn của Tange Kenzo và hoàn thành thạc sĩ năm 1959, và tiến sĩ năm 1964. Cùng với vài người bạn, ông lập ra phong trào Chuyển hóa luận vào năm 1960. Đây là nhóm các kiến trúc sư theo trường phái Tiên phong Duy lý Nhật Bản, theo đuổi việc kết hợp và tuần hoàn của phong cách kiến trúc với triết lý phương Đông. Triển lãm thế giới Expo '70 tại Osaka được xem như đỉnh cao thành công của nhóm, tuy nhiên, nhóm đã tan với một thời gian sau đó. Ngày 8 tháng 4 năm 1962, Kisho thành lập hãng thiết kế Kurokawa Kisho và cộng sự. Hiện nay, hãng có trụ sở tại Tokyo, và các chi nhánh tại Osaka, Nagoya, Kazakhstan, Kuala Lumpur và Bắc Kinh. Hãng được xếp hạng Văn phòng kiến trúc hạng 1 theo tiêu chuẩn Nhật Bản. Công trình trong những năm 1970 Tháp Nakagin Capsule, Ginza, Tokyo, (1970-1972) Tháp Sony, Osaka, (1972-1976) Tateshina Planetarium, Hiroshima, (1976) Trụ sở Hội Chữ Thập Đỏ Nhật, Tokyo, (1975-1977) Bảo tàng Dân tộc học Osaka, Osaka, (1973-1977) Công trình trong những năm 1980 Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại Saitama, Saitama, (1978-1982) National Bunraku Theater, Osaka, (1979-1983) Wacoal Kojimachi Building, Tokyo, (1982-1984) Chokaso, Tokyo, (1985-1987) Bảo tàng Nghệ thuật Nagoya, Nagoya, (1983-1987) Trung tâm Nhật-Đức tại Berlin, Berlin, (1985-1988) Văn phòng chính phủ tại Osaka, Osaka, (1988) Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại Hiroshima, Hiroshima, (1988-1989) Công trình trong những năm 1990 Trung tâm Giới trẻ Trung-Nhật, (Bắc Kinh, (1987-1990) Trụ sở chính phủ Okinawa, Okinawa, (1988-1990) Câu lạc bộ thể thao tại Trung tâm Illinois, Chicago, (1987-1990) Melbourne Central, Melbourne, Úc, (1986-1991) Miki House New Office Building, Osaka, (1985-1991) Bảo tàng Nghệ thuật Nhiếp ảnh Nara, Nara, (1989-1991) Bảo tàng Louvain-La-Neuve, Bỉ, (1990-1992) Tháp Pacific, Paris, (1988-1992) Lane Crawford Place, Singapore, (1990-1993) Senkantei, Hyogo, (1992-1993) Bảo tàng Khoa học Ehime, Ehime, (1991-1994) Trung học Ishibashi, Tochigi, (1992-1994) Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại Wakayama/Bảo tàng Wakayama, Wakayama, (1990-1994) Khách sạn Kyocera, Kagoshima, (1991-1995) Tòa Thị chính Kibi-cho/Vòm Kibi, Wakayama, (1993-1995) Republic Plaza, Singapore, (1986-1995) Bảo tàng Nghệ thuật Fukui, Fukui, (1993-1996) Softopia Japan, Gifu, (1990-1996) Câu lạc bộ Golf Fujinomiya, Shizuoka, (1994-1997) Tòa Thị chính Kashima-machi, Kumamoto, (1995-1997) Bảo tàng Nghệ thuật Rôman Shiga Kogen, Yamanouchi, (1994-1997) Sân bay Quốc tế Kuala Lumpur, Kuala Lumpur, Malaysia, (1992-1998) New Wing of the Bảo tàng Van Gogh (Amsterdam, The Netherlands, 1990-1998) Amber Hall (Kuji, 1996-1999) O Residence (Tokyo, 1997-1999) Công trình kể từ năm 2000 Quận Fukui Bảo tàng khủng long, Katsuyama, (1996-2000) Trung tâm Hội nghị quốc tế Osaka, Osaka, (1994-2000) Sân vận động Oita Oita, (1996-2001), used for the Football World Cup 2002) Toyota City Stadium, Toyota, (1997-2001) Sân bay quốc tế Astana, Astana, Kazakhstan, (2000-2003) Thư viện Quốc gia Tokyo, Roppongi, Tokyo, (2000-2005) Singapore Flyer, Singapore, (2005-2008) Design and Master Plan of Kazakhstan's New Capital (Astana, Kazakhstan, delayed due to budget problems) Tham khảo Liên kết ngoài Trang web của hãng Kurokawa Kisho và cộng sự Kiến trúc sư Nhật Bản Kiến trúc sư Hậu Hiện đại Sinh năm 1934 Năm 2007 Người Aichi
28896
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ando%20Tadao
Ando Tadao
(sinh 13 tháng 9 năm 1941 ở Osaka, Nhật Bản) là một kiến trúc sư người Nhật. Ông là một người theo chủ nghĩa Phê bình khu vực. Ando chưa hề qua một trường lớp đào tạo về kiến trúc nào. Thời trẻ, ông đã một mình thực hiện một chuyến đi từ Đông sang Tây để tự quan sát và học hỏi. Ông đã từng là tài xế, một võ sĩ quyền Anh trước khi là một kiến trúc sư. Năm 1969, ông thành lập hãng kiến trúc Ando Tadao và cộng sự. Công trình nhà lô ở Sumiyoshi (Azuma House), một nhà nhỏ 2 tầng, hoàn thành năm 1972 là công trình đầu tiên bộc lộ những đặc điểm kiến trúc của ông. Nó bao gồm 3 khối không gian vuông cân bằng. Trong đó, hai khối đặc của không gian nội thất được chia cắt bằng một không gian mở của sân. Năm 1995, Ando được nhận giải thưởng Pritzker và 100.000 đô la Mỹ. Ông đã tặng số tiền đó cho những trẻ em mồ côi trong cuộc động đất Hanshin. Các công trình Đã hoàn thành Nhà lô (Azuma House), Sumiyoshi, tỉnh Osaka, Nhật Bản, 1976 Khu tập thể Rokko, giai đoạn 2, Rokko, tỉnh Hyogo, Nhật Bản, 1983 Festival, Naha, tỉnh Okinawa, Nhật Bản, 1984 Nhà thờ nước, Tomamu, tỉnh Hokkaido, Nhật Bản, 1988 GALLERIA akka, thành phố Osaka, Nhật Bản, 1988 Bảo tàng trẻ em, Himeji, tỉnh Hyogo, Nhật Bản, 1989 Nhà thờ ánh sáng, Ibaraki, tỉnh Osaka, Nhật Bản, 1989 Collezione, Tokyo, Nhật Bản, 1989 Nhà làm việc RAIKA HEADQUARTES BUILDING, Osaka, Nhật Bản, 1989. Đền thờ nước, đảo Awaji, tỉnh Hyogo, Nhật Bản, 1991 Bảo tàng Nghệ thuật đương đại Naoshima, Naoshima, tỉnh Kagawa, Nhật Bản, 1992 Gian triển lãm Nhật Bản tại Expo '92, Sevilla, Tây Ban Nha, 1992 Nhà tập thể Rokko, giai đoạn 2, Rokko, Kobe, Nhật Bản, 1993 Nhà bảo tàng Sunstory, thành phố Osaka, Nhật Bản, 1995 Nhà riêng, Chicago, Illinois, 1997 Quỹ nghệ thuật Pulitzer, Saint Louis, Missouri, 2001 Bảo tàng tưởng niệm Ryotaro Shiba, Higashiosaka, tỉnh Osaka, Nhật Bản, 2001 Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại Fort Worth, Fort Worth, Texas, 2002 Bảo tàng Nghệ thuật Chichu, Naoshima, tỉnh Kagawa, Nhật Bản, 2004 Nhà hàng Morimoto Manhattan, 2006 Đang trong quá trình xây dựng Dự án Jingumae 4-Chome, Tokyo, Japan (dự kiến hoàn thành tháng 1 năm 2006) Nhà, khu chuồng ngựa, lăng cho nhà thiết kế Tom Ford, gần Santa Fe, New Mexico, Mỹ Mở rộng Viện học Nghệ thuật Clark ở Williamstown, Massachusetts Giải thưởng Giải thưởng thường niên (Row, Sumiyoshi), Học viện Kiến trúc Nhật Bản, 1979 Giải thưởng Văn hóa (Khu nhà Rokko Housing 1 và 2), Nhật Bản, 1983 Huy chương Alvar Aalto của Hiệp hội kiến trúc sư Phần Lan, 1985 Huy chương vàng kiến trúc, Viện hàn lâm Kiến trúc Pháp, 1989 Giải thưởng kiến trúc Carlsberg, Đan Mạch, 1992 Giải thưởng Hàn lâm nghệ thuật Nhật Bản, Nhật Bản, 1993 Giải thưởng Pritzker, 1995 Hiệp sĩ Hiệp hội Văn học và Nghệ thuật Pháp, Pháp, 1995 Giải thưởng Hoàng gia "FRATE SOLE" về kiến trúc, Hiệp hội nghệ thuật Nhật Bản, 1996 Huân chương Hiệp hội Văn học và Nghệ thuật Pháp, Pháp, 1997 Huy chương vàng Hoàng gia, Hiệp hội kiến trúc sư Hoàng gia Anh (RIBA), 1997 Huy chương vàng AIA, Hiệp hội Kiến trúc sư Mỹ (AIA), 2002 Tham khảo Sách Francesco Dal Co. Tadao Ando: Complete Works. Phaidon Press, 1997 Frampton, K. Tadao Ando: Buildings, Projects, Writings. Rizzoli International Publications, 1984 Vynckt, R. International Dictionary of Architects and Architecture. St. James Press, 1993. Liên kết ngoài Tadao Ando unofficial website 01 (cyber-squatting) Tadao Ando unofficial website 02 (cyber-squatting) Giới thiệu về Ando Tadao ở Greatbuilding Kiến trúc sư Nhật Bản Kiến trúc sư nhận giải thưởng AIA Người đoạt giải Pritzker Người Osaka (thành phố)