id
stringlengths
1
8
url
stringlengths
31
389
title
stringlengths
1
250
text
stringlengths
5
274k
27736
https://vi.wikipedia.org/wiki/New%20Zealand
New Zealand
New Zealand (, phiên âm: "Niu Di-Lân"; ) là một đảo quốc nằm tại khu vực phía tây nam của Thái Bình Dương. Trên phương diện địa lý, New Zealand bao gồm hai vùng lãnh thổ chính là đảo Bắc và đảo Nam, cùng khoảng hơn 600 đảo nhỏ. New Zealand nằm cách khoảng 2.000 km về phía đông của Úc qua biển Tasman và cách khoảng 1.000 km về phía nam của các đảo Nouvelle-Calédonie, Fiji, và Tonga. Vì vị trí cách biệt, New Zealand nằm trong số những vùng đất cuối cùng có con người đến định cư trên Trái Đất. Trong thời gian cô lập kéo dài này, New Zealand duy trì một hệ sinh thái đa dạng với nhiều loài đặc hữu của các nhóm động vật, nấm và thực vật. Địa hình của New Zealand đa dạng với các đỉnh núi cao như dãy núi Nam Alps ở phía nam được hình thành từ quá trình kiến tạo núi tự nhiên và các vụ phun trào núi lửa. Thủ đô của New Zealand là Wellington, còn thành phố đông cư dân nhất là Auckland. Người Polynesia bắt đầu định cư tại New Zealand vào khoảng năm 1250 tới 1300 và hình thành, phát triển nên nền văn hóa Māori đặc trưng. Năm 1642, nhà thám hiểm Abel Tasman là người châu Âu đầu tiên tìm thấy New Zealand. Đến năm 1840, ông đại diện cho Vương thất Anh và người Māori ký kết Hiệp ước Waitangi, tuyên bố chủ quyền của Đế quốc Anh đối với toàn bộ hòn đảo. New Zealand trở thành một thuộc địa của Anh vào năm 1841 và sau này tiếp tục trở thành cộng đồng tự trị trong Đế quốc Anh vào năm 1907. New Zealand tuyên bố độc lập vào năm 1947, nhưng nguyên thủ quốc gia vẫn là quân chủ Anh. Ngày nay, phần lớn dân số 4,8 triệu người của New Zealand có huyết thống châu Âu, người Maori bản địa là dân tộc thiểu số đông dân cư nhất, tiếp đến là người nhập cư gốc Á và thổ dân trên các đảo thuộc Thái Bình Dương. Các ngôn ngữ chính thức là tiếng Anh, tiếng Māori và ngôn ngữ ký hiệu New Zealand, trong đó tiếng Anh là ngôn ngữ quốc gia. Là một quốc gia công nghiệp phát triển với mức thu nhập cao, New Zealand duy trì xếp hạng cao trên thế giới về nhiều phương diện như chất lượng cuộc sống, y tế, giáo dục, các quyền tự do dân sự và tự do kinh tế. GDP bình quân đầu người của New Zealand năm 2019 vượt qua Anh, Pháp và Nhật Bản. New Zealand là quốc gia ít tham nhũng nhất trên thế giới trong năm 2019 (báo cáo của Tổ chức Minh Bạch Quốc tế), được tổ chức The Legatum Institute gọi là một trong những quốc gia thịnh vượng nhất trên toàn cầu trong nhiều năm liền, xếp thứ 2 trong số những quốc gia bình yên và an toàn nhất, chỉ số phát triển con người (HDI) đạt mức rất cao, xếp hạng 13 trên toàn cầu năm 2019. Ngoài ra, chỉ số phát triển xã hội (SPI) của quốc gia này cũng xếp thứ 7 trên toàn cầu (2019) và đây là quốc gia thuận lợi nhất trên thế giới để kinh doanh năm 2020 (theo báo cáo của Doing Business 2020). Ngành xuất khẩu len từng chi phối nền kinh tế của New Zealand trong một khoảng thời gian dài, song hiện nay, việc xuất khẩu các sản phẩm chủ lực mới như bơ sữa, thịt, rượu vang, cùng với du lịch đã dần gia tăng tầm quan trọng. New Zealand là thành viên của hầu hết các tổ chức quốc tế lớn, trong số đó nổi bật như Liên Hợp Quốc, Khối Thịnh vượng chung Anh, Khối Đồng minh không thuộc NATO của Hoa Kỳ, ANZUS, OECD, Diễn đàn Quần đảo Thái Bình Dương và APEC. Tài nguyên Tên tiếng Anh Nhà thám hiểm người Hà Lan Abel Tasman trông thấy New Zealand vào năm 1642 và gọi nơi đây là Staten Landt, cho rằng nó liên thông với một đại lục cùng tên tại mũi phía nam của Nam Mỹ. Năm 1645, một nhà vẽ bản đồ người Hà Lan đổi tên lãnh thổ là Nova Zeelandia theo tên tỉnh Zeeland của Hà Lan. Nhà thám hiểm người Anh Quốc James Cook sau đó Anh hóa danh xưng thành New Zealand. Tên tiếng Maori Aotearoa (thường được dịch thành "miền đất của đám mây trắng dài") hiện là danh xưng của New Zealand trong tiếng Maori. Không rõ người Maori có một danh xưng cho toàn bộ quốc gia trước khi người châu Âu đến hay không, do Aotearoa nguyên bản chỉ ám chỉ đảo Bắc. người Maori có một số tên truyền thống cho hai đảo chính, trong đó có Te Ika-a-Māui (con cá của Māui) cho đảo Bắc và Te Waipounamu (nguồn nước của Pounamu) hoặc Te Waka o Aoraki (xuồng của Aoraki) cho đảo Nam. Những bản đồ ban đầu của người châu Âu thể hiện các đảo Bắc (đảo Bắc), Trung (đảo Nam) và Nam (Stewart). Năm 1830, các bản đồ bắt đầu sử dụng Bắc và Nam nhằm phân biệt hai đảo lớn nhất và đến năm 1907 thì điều này trở thành tiêu chuẩn được công nhận. Năm 2009, Ủy ban Địa lý New Zealand phát hiện rằng các danh xưng đảo Bắc và đảo Nam chưa từng được chính thức hóa, và các danh xưng cùng danh xưng thay thế được chính thức hóa vào năm 2013, chúng lần lượt được định danh là North Island hoặc Te Ika-a-Māui, và South Island hoặc Te Waipounamu. Tên tiếng Việt Một cái tên tiếng Việt cũ của New Zealand là Tân Tây Lan, bắt nguồn từ tiếng Trung, đọc là "Xīn Xī Lán" trong bính âm (chữ Hán: 新西蘭) với Tân ("mới") là dịch nghĩa của từ new trong tiếng Anh, còn Tây Lan là âm Hán Việt của xī lán, tiếng Trung phiên âm cách đọc từ "zealand", tên này được sử dụng phổ biến vào giữa thế kỷ 20 và không còn được sử dụng hay sử dụng rất ít ở hiện nay. Chỉ còn một số người Việt hải ngoại ở Mỹ và Úc vẫn còn sử dụng từ này để gọi New Zealand. Lịch sử New Zealand là một trong các đại lục cuối cùng có người đến định cư. Theo phương pháp carbon phóng xạ, bằng chứng về phá rừng và DNA ti thể biến thiên trong cư dân Maori cho thấy nhóm người đầu tiên định cư tại New Zealand là người Đông Polynesia trong khoảng 1250-1300, kết thúc một loạt hành trình kéo dài qua các đảo tại Nam Thái Bình Dương. Trong các thế kỷ sau, những người định cư này phát triển một nền văn hóa riêng biệt mà nay gọi là Maori. Cư dân được chia thành iwi (bộ tộc) và hapū (thị tộc), các bộ tộc và thị tộc đôi khi hợp tác, đôi khi lại cạnh tranh hoặc chiến đấu với nhau. Trong một thời điểm, một nhóm người Maori di cư đến quần đảo Chatham rồi phát triển một văn hóa Moriori riêng biệt tại đó. Người châu Âu đầu tiên được ghi nhận đã tiếp cận New Zealand là nhà thám hiểm người Hà Lan Abel Tasman cùng thủy thủ đoàn của ông vào năm 1642. Trong một đối đầu thù địch, bốn thành viên trong thủy thủ đoàn bị hạ sát và có ít nhất một người Maori bị trúng đạn. Người châu Âu không đến lại New Zealand cho đến năm 1769, khi nhà thám hiểm người Anh Quốc James Cook lập bản đồ hầu như toàn bộ đường bờ biển. Sau James Cook, một số tàu săn cá voi, săn hải cẩu, và giao dịch của người châu Âu và Bắc Mỹ đến New Zealand. Họ giao dịch thực phẩm, công cụ bằng kim loại, vũ khí và các hàng hóa khác để đổi lấy gỗ, thực phẩm, đồ tạo tác và nước. Việc du nhập khoai tây và súng hỏa mai đã cải biến nông nghiệp và chiến tranh của người Maori. Khoai tây giúp đảm bảo dư thừa lương thực, tạo điều kiện cho các chiến dịch quân sự kéo dài và liên tục hơn. Kết quả là các cuộc chiến tranh bằng súng hỏa mai giữa các bộ tộc, với trên 600 trận chiến từ năm 1801 đến 1840, làm thiệt mạng 30.000-40.000 người Maori. Kể từ đầu thế kỷ XIX, các nhà truyền giáo Cơ Đốc bắt đầu hoạt động tại New Zealand, cuối cùng cải biến tôn giáo của hầu hết cư dân Maori. Trong thế kỷ XIX, cư dân Maori suy giảm đến khoảng 40% so với mức trước khi có tiếp xúc với người châu Âu; các dịch bệnh đến cùng với người châu Âu là yếu tố chủ yếu. Năm 1788, Arthur Phillip đảm nhiệm chức vụ Thống đốc New South Wales của Anh và yêu sách New Zealand là bộ phận của New South Wales. Năm 1832, Chính phủ Anh Quốc bổ nhiệm James Busby là Công sứ Anh Quốc đầu tiên tại New Zealand và đến năm 1835, sau một tuyên bố của Charles de Thierry về dự kiến người Pháp định cư, Liên hiệp các bộ tộc New Zealand gửi một Tuyên ngôn độc lập đến Quốc vương William IV của Anh Quốc để yêu cầu bảo hộ. Náo động không ngừng và tình trạng pháp lý mơ hồ của Tuyên ngôn độc lập thúc đẩy Bộ Thuộc địa Anh Quốc phái William Hobson đi tuyên bố chủ quyền của Anh Quốc và đàm phán một hiệp định với người Maori. Hiệp định Waitangi được ký kết lần đầu tiên tại Bay of Islands vào ngày 6 tháng 2 năm 1840. Nhằm phản ứng trước cuộc đua thương mại khi Công ty New Zealand nỗ lực thiết lập một khu định cư độc lập tại Wellington và những người Pháp định cư "mua" lãnh thổ tại Akaroa, Hobson tuyên bố chủ quyền của Anh Quốc đối với toàn bộ New Zealand vào ngày 21 tháng 5 năm 1840. Với việc ký kết Hiệp định Waitangi và tuyên bố chủ quyền, số người nhập cư bắt đầu gia tăng, đặc biệt là từ Anh Quốc. New Zealand nguyên là bộ phận của thuộc địa New South Wales, song trở thành một thuộc địa riêng vào ngày 1 tháng 7 năm 1841. Thuộc địa có chính phủ đại diện vào năm 1852 và Nghị viện New Zealand khóa 1 họp vào năm 1854. Năm 1856, thuộc địa được tự quản một cách hữu hiệu, được chịu trách nhiệm đối với toàn bộ các vấn đề nội bộ trừ chính sách thổ dân. (Quyền kiểm soát chính sách thổ dân được cấp vào giữa thập niên 1860.) Sau những lo ngại rằng đảo Nam có thể tạo thành một thuộc địa riêng biệt, Thủ tướng Alfred Domett đề nghị một giải pháp là dời đô từ Auckland đến một địa phương nằm gần eo biển Cook. Wellington được lựa chọn do nơi này có cảng và vị trí trung tâm, nghị viện chính thức họp lần đầu tại đây vào năm 1865. Do số lượng người nhập cư gia tăng, xung đột về lãnh địa dẫn đến các cuộc chiến tranh New Zealand trong thập niên 1860 và 1870, kết quả là người Maori bị tổn thất và sung công nhiều vùng đất. Năm 1893, New Zealand trở thành quốc gia đầu tiên trên thế giới trao quyền bầu cử cho toàn bộ nữ giới. Năm 1907, theo thỉnh cầu của Nghị viện New Zealand, Quốc vương Edward VII tuyên bố New Zealand là một quốc gia tự trị trong Đế quốc Anh, phản ánh tình trạng tự quản tại đây. Năm 1947, New Zealand phê chuẩn Đạo luật Westminster, xác nhận rằng Quốc hội Anh Quốc không còn có thể ban hành luật cho New Zealand nếu không được New Zealand tán thành. New Zealand tham dự các vấn đề quốc tế, chiến đấu cho Đế quốc Anh trong Thế Chiến thứ nhất và thứ hai và chịu tổn thất trong Đại khủng hoảng. Sự đình trệ khiến cử tri bầu ra một chính phủ Lao động đầu tiên, và thiết lập một quốc gia phúc lợi toàn diện và một nền kinh tế bảo hộ. New Zealand trải qua phát triển thịnh vượng sau Chiến tranh thế giới thứ hai và người Maori bắt đầu rời bỏ sinh hoạt nông thôn truyền thống của họ để chuyển đến các thành thị nhằm tìm công việc. Hình thành một phong trào phản kháng của người Maori, trong đó chỉ trích chủ nghĩa châu Âu trung tâm và hoạt động nhằm giành công nhận lớn hơn cho văn hóa Maori và Hiệp định Waitangi. Năm 1975, một Tòa án Waitangi được thiết lập nhằm điều tra những cáo buộc về việc vi phạm Hiệp định, và tòa án này được cho phép điều tra các bất bình trong lịch sử. Chính trị Chính phủ New Zealand là một quốc gia quân chủ lập hiến dân chủ đại nghị, song hiến pháp đảo quốc là bất thành văn. Charles III là quốc vương của New Zealand và là nguyên thủ quốc gia. Đại diện cho Quốc vương là Toàn quyền, ông bổ nhiệm toàn quyền theo khuyến nghị của thủ tướng. Toàn quyền có thể thi hành các quyền lực đặc quyền của quân chủ, như tái xét các vụ tố tụng bất công và tiến hành bộ nhiệm các bộ trưởng, đại sứ và các công chức quan trọng khác, và trong những tình huống hiếm hoi là quyền dự bị (như quyền giải tán Nghị viện hay từ chối ngự chuẩn một đạo luật thành luật). Quyền lực của Quốc vương và Toàn quyền bị hạn chế theo những ràng buộc hiến pháp và họ không thể thi hành một cách thông thường khi không có khuyến nghị của Nội các. Nghị viện New Zealand nắm quyền lập pháp và gồm Quốc vương và Chúng nghị viện. Nghị viện từng có một thượng viện mang tên là Hội đồng Lập pháp, song cơ cấu này bị bãi bỏ vào năm 1950. Quyền lực tối cao của Nghị viện đối với Vương quốc và các cơ quan chính phủ khác được thiết lập tại Anh theo Đạo luật Quyền lợi 1689 và được phê chuẩn thành luật tại New Zealand. Chúng nghị viện được tuyển cử theo hình thức dân chủ và một chính phủ được tạo thành từ đảng hoặc liên minh chiếm đa số ghế. Nếu không thể thành lập chính phủ đa số, một chính phủ thiểu số có thể được lập nên nếu nhận được đủ số phiếu ủng hộ. Toàn quyền bổ nhiệm các bộ trưởng theo khuyến nghị của thủ tướng, thủ tướng theo tục lệ là thủ lĩnh nghị viện của đảng hoặc liên minh nắm quyền. Nội các gồm các bộ trưởng và do thủ tướng lãnh đạo, đây là cơ quan quyết định chính sách cao nhất trong chính phủ và chịu trách nhiệm quyết định các hành động quan trọng của chính phủ. Theo quy ước, các thành viên trong nội các bị ràng buộc với trách nhiệm tập thể đối với các quyết định của nội các. Các thẩm phán và quan chức tư pháp được bổ nhiệm một cách phi chính trị và theo các quy định nghiêm ngặt về nhiệm kỳ nhằm giúp duy trì độc lập hiến pháp với chính phủ. Về mặt lý thuyết, điều này cho phép bộ máy tư pháp giải thích luật chỉ dựa theo pháp luật do Nghị viện ban hành mà không có các ảnh hưởng khác đối với quyết định của họ. Xu mật viện tại Luân Đôn là tòa thượng tố tối cao của quốc gia cho đến năm 2004, kể từ đó nó bị thay thế bằng Tòa Tối cao New Zealand được lập mới. Bộ máy tư pháp do Chánh án đứng đầu, gồm tòa án thượng tố, tòa cao đẳng, và các tòa cấp dưới. Hầu như toàn bộ các tổng tuyển cử nghị viện tại New Zealand từ năm 1853 đến 1993 được tổ chức theo hệ thống đa số chế. Các cuộc bầu cử từ năm 1930 bị chi phối bởi hai chính đảng là Quốc gia và Công đảng. Kể từ tổng tuyển cử năm 1996, một hình thức đại diện tỷ lệ gọi là tỷ lệ thành viên hỗn hợp (MMP) được sử dụng. Theo hệ thống MMP, mỗi cử tri bỏ hai phiếu; một phiếu cho ghế tại khu tuyển cử (gồm một số khu dành cho người Maori), và phiếu còn lại bầu cho một đảng. Kể từ tổng tuyển cử năm 2014, có 71 khu vực bầu cử (gồm 8 khu vực bầu cử cho người Maori), và 49 ghế còn lại còn lại được phân dựa theo tỷ lệ phiếu của các đảng, song một đảng giành được một ghế khu tuyển cử hoặc 5% tổng số phiếu cho đảng mới có tư cách có những ghế này. Từ tháng 3 năm 2005 đến tháng 8 năm 2006, New Zealand trở thành quốc gia duy nhất trên thế giới có nữ giới nắm giữ toàn bộ các chức vụ cao nhất (nguyên thủ quốc gia, toàn quyền, thủ tướng, chủ tịch nghị viện, và chánh án). Quan hệ đối ngoại và quân sự Thời kỳ đầu thuộc địa, New Zealand cho phép Chính phủ Anh Quốc quyết định về ngoại thương và chịu trách nhiệm về chính sách đối ngoại. Các hội nghị đế quốc năm 1923 và 1926 quyết định rằng New Zealand nên được phép đàm phán các hiệp ước chính trị của mình, và hiệp định thương mại đầu tiên được phê chuẩn vào năm 1928 với Nhật Bản. Ngày 3 tháng 9 năm 1939, New Zealand liên minh với Anh Quốc và tuyên chiến với Đức, Thủ tướng Michael Savage tuyên bố rằng: "Nơi nào họ đi, chúng ta đi; Nơi nào họ dừng chân, chúng ta dừng chân." Năm 1951, Anh Quốc bắt đầu gia tăng tập trung vào các lợi ích của họ tại châu Âu, trong khi New Zealand cùng với Úc và Hoa Kỳ tham gia hiệp định an ninh ANZUS. Ảnh hưởng của Hoa Kỳ đối với New Zealand bị suy yếu sau các kháng nghị về Chiến tranh Việt Nam, việc Hoa Kỳ từ chối cảnh cáo Pháp sau vụ chìm tàu Rainbow Warrior, và bất đồng về các vấn đề môi trường và giao dịch nông nghiệp cùng chính sách phi hạt nhân của New Zealand. Mặc dù Hoa Kỳ đình chỉ các bổn phận ANZUS song hiệp định vẫn có hiệu lực giữa New Zealand và Úc- là quốc gia có xu hướng chính sách đối ngoại tương đồng trong lịch sử. Hai quốc gia có tiếp xúc chính trị mật thiết, với các hiệp định mậu dịch tự do và hiệp định vãng lai tự do, theo đó cho phép các công dân đến, sinh sống, và làm việc tại hai quốc gia mà không bị hạn chế. Năm 2013, có khoảng 650.000 công dân New Zealand sống tại Úc, tức tương đương khoảng 15% dân số của New Zealand. New Zealand hiện diện mạnh mẽ tại các đảo quốc Thái Bình Dương. Một phần lớn viện trợ của New Zealand đến với các quốc gia này và nhiều người các đảo quốc Thái Bình Dương nhập cư đến New Zealand để tìm công việc. Di cư thường trú được quy định theo Kế hoạch hạn ngạch Samoa 1970 và Hạng mục Tiếp nhận Thái Bình Dương 2002, theo đó cho phép 1.100 công dân Samoa và 750 công dân các đảo quốc Thái Bình Dương khác trở thành thường trú nhân tại New Zealand mỗi năm. Một kế hoạch lao động thời vụ dành cho di cư tạm thời được thi hành vào năm 2007, và trong năm 2009 có khoảng 8.000 công dân các đảo quốc Thái Bình Dương được thuê theo kế hoạch này. New Zealand tham gia Diễn đàn Quần đảo Thái Bình Dương, APEC và Diễn đàn khu vực ASEAN (gồm cả Hội nghị cấp cao Đông Á). New Zealand cũng là một thành viên của Liên Hợp Quốc, Thịnh vượng chung các Quốc gia, OECD Lực lượng Phòng vệ New Zealand có ba nhánh: Hải quân Hoàng gia New Zealand, Lục quân New Zealand và Không quân Hoàng gia New Zealand. Nhu cầu quốc phòng của New Zealand ở mức khiêm tốn do ít có khả năng chịu tấn công trực tiếp,. New Zealand tham gia chiến đấu trong hai Thế Chiến, với các chiến dịch nổi bật là Gallipoli, Crete, El Alamein và Cassino. Chiến dịch Gallipoli đóng một phần quan trọng trong việc bồi dưỡng bản sắc quốc gia của New Zealand và củng cố truyền thống ANZAC với Úc. Ngoài Chiến tranh Việt Nam và hai Thế Chiến, New Zealand còn tham gia chiến đấu trong Chiến tranh Triều Tiên, Chiến tranh Boer thứ hai, Tình trạng khẩn cấp Malaya, Chiến tranh Vùng Vịnh và Chiến tranh Afghanistan. Đảo quốc đóng góp quân cho một số sứ mệnh duy trì hòa bình khu vực và toàn cầu, như tại Síp, Somalia, Bosnia và Herzegovina, Sinai, Angola, Campuchia, biên giới Iran–Iraq, Bougainville, Đông Timor, và Quần đảo Solomon. Chính phủ địa phương và lãnh thổ ngoại vi Những người châu Âu định cư ban đầu phân chia New Zealand thành các tỉnh với mức độ tự trị nhất định. Do áp lực tài chính và mong muốn hợp nhất đường sắt, giáo dục, bán đất và các chính sách khác, chính phủ thi hành tập trung hóa và các tỉnh bị bãi bỏ vào năm 1876. Các tỉnh được ghi nhớ trong các ngày lễ công cộng cấp khu vực và thi đấu thể thao. Kể từ năm 1876, các hội đồng khác nhau quản lý các khu vực địa phương theo luật định của chính phủ trung ương. Năm 1989, chính phủ tái tổ chức chính quyền địa phương thành cấu trúc hai tầng hiện tại với các hội đồng khu vực và cơ quan lãnh thổ. 249 khu tự quản tồn tại vào năm 1975 nay được hợp nhất thành 67 cơ quan lãnh thổ và 11 hội đồng khu vực. Vai trò của các hội đồng khu vực là nhằm chỉnh đốn "môi trường tự nhiên với tầm quan trọng đặc biệt là quản lý tài nguyên", trong khi các cơ quan lãnh thổ chịu trách nhiệm về xử lý nước thải, cung cấp nước, đường sắt địa phương, cấp phép xây dựng và các sự vụ địa phương khác. Năm trong số các hội đồng lãnh thổ là cơ quan nhất thể và cũng đóng vai trò hội đồng khu vực. Các cơ quan lãnh thổ gồm 13 hội đồng thành phố, 53 hội đồng huyện, và hội đồng Quần đảo Chatham. Về mặt chính thức, hội đồng Quần đảo Chatham không phải là một cơ quan nhất thể, song nó thực hiện nhiều chức năng của một hội đồng khu vực. New Zealand là một trong 16 vương quốc trong Thịnh vượng chung. Vương quốc New Zealand là lãnh thổ bao gồm các khu vực mà Quốc vương New Zealand có chủ quyền và gồm có New Zealand, Tokelau, Lãnh thổ phụ thuộc Ross, Quần đảo Cook và Niue. Quần đảo Cook và Niue là những quốc gia tự quản có liên kết tự do với New Zealand. Nghị viện New Zealand không thể thông qua pháp luật cho các quốc gia này, mà chỉ có thể hành động nhân danh họ trong các vấn đề đối ngoại và quốc phòng với sự tán thành của họ. Tokelau là một lãnh thổ phi tự quản, sử dụng quốc kỳ và quốc huy của New Zealand, song được quản lý bởi một hội đồng gồm ba nguyên lão (đến từ mỗi rạn san hô vòng). Lãnh thổ phụ thuộc Ross là lãnh thổ mà New Zealand tuyên bố yêu sách tại châu Nam Cực, New Zealand vận hành trạm nghiên cứu Căn cứ Scott tại đây. Luật Công dân New Zealand đối đãi bình đẳng với toàn bộ vương quốc, do đó hầu hết người sinh tại New Zealand, Quần đảo Cook, Niue, Tokelau và Lãnh thổ phụ thuộc Ross trước năm 2006 là các công dân New Zealand. Có thêm các điều kiện áp dụng cho những người sinh từ năm 2006 trở đi. Nhân khẩu Tính đến tháng 6 năm 2016, dân số New Zealand ước tính đạt 4,69 triệu và gia tăng với tốc độ 2,1% mỗi năm. New Zealand là một quốc gia chủ yếu mang tính đô thị, với 72% cư dân sống tại 16 khu vực đô thị chính và 53% cư dân sống tại bốn thành phố lớn nhất: Auckland, Christchurch, Wellington, và Hamilton. Các thành phố của New Zealand thường được xếp hạng cao trong các đánh giá đáng sống quốc tế. Tuổi thọ dự tính của người New Zealand vào năm 2012 là 84 năm đối với nữ giới, và 80,2 năm đối với nam giới. Tuổi thọ dự tính khi sinh được dự báo tăng từ 80 năm đến 85 năm vào 2050 và tỷ suất tử vong trẻ sơ sinh được dự kiến giảm. Tỷ suất sinh của New Zealand là 2,1, tương đối cao so với một quốc gia phát triển, và sinh sản tự nhiên đóng góp một phần đáng kể vào tăng trưởng dân số. Do đó, New Zealand có cơ cấu dân số trẻ so với hầu hết các quốc gia công nghiệp hóa, với 20% cư dân New Zealand 14 tuổi hoặc trẻ hơn. Đến năm 2050, dân số được dự báo tăng đến 5,3 triệu, tuổi trung bình tăng từ 36 lên 43 và tỷ lệ người từ 60 tuổi trở lên tăng từ 18% lên 29%. Trong điều tra nhân khẩu năm 2013, 74,0% cư dân New Zealand được xác định là dân tộc Âu, và 14,9% là người Maori. Các dân tộc chính khác gồm người châu Á (11,8%) và người Thái Bình Dương (7,4%). Cư dân trở nên đa dạng hơn trong các thập niên gần đây: Điều tra nhân khẩu năm 1961 cho thấy rằng dân cư New Zealand gồm 92% là người châu Âu và 7% là người Maori, còn các dân tộc thiểu số châu Á và Thái Bình Dương chia sẻ 1% còn lại. Công dân New Zealand thường được gọi không chính thức là "Kiwi" trong cả tầm quốc tế và địa phương. Từ mượn Pākehā từ tiếng Maori được sử dụng để chỉ những người New Zealand có huyết thống châu Âu, song những người khác bác bỏ tên gọi này. Ngày nay, từ Pākehā ngày càng được sử dụng nhiều để chỉ toàn bộ người New Zealand không có huyết thống Polynesia. Người Maori là dân tộc đầu tiên đến New Zealand, tiếp theo họ là những người châu Âu định cư ban đầu. Sau khi thuộc địa hóa, những người nhập cư chủ yếu đến từ Anh Quốc, Ireland và Úc do các chính sách hạn chế tương tự như chính sách Úc da trắng. Cũng có một lượng đáng kể người Hà Lan, Dalmatia, Ý và Đức, cùng với những người châu Âu nhập cư gián tiếp từ Úc, Bắc Mỹ, Nam Mỹ, và Nam Phi. Sau Đại khủng hoảng, các chính sách được nới lỏng và người nhập cư tăng tính đa dạng. Năm 2009–10, Cơ quan nhập cư New Zealand phê chuẩn mục tiêu chấp thuận hàng năm 45.000–50.000 thường trú nhân, tức mỗi năm có một người nhập cư mới trên 100 người New Zealand. Trên 25% cư dân New Zealand sinh tại hải ngoại, với đa số (52%) sống tại khu vực Auckland. Vào cuối thập niên 2000, châu Á vượt qua Anh Quốc và Ireland trong tiêu chí nguồn nhập cư hải ngoại lớn nhất; theo điều tra nhân khẩu năm 2013, 31,6% cư dân New Zealand sinh tại hải ngoại là được sinh tại châu Á (chủ yếu là tại Trung Quốc, Ấn Độ, Philippines và Hàn Quốc), trong khi 26,5% được sinh tại Anh Quốc và Ireland. Úc, các đảo Thái Bình Dương, và Nam Phi cũng là những nguồn nhập cư đáng kể. Tiếng Anh là ngôn ngữ chiếm ưu thế tại New Zealand, được 96,1% cư dân nói. Tiếng Anh New Zealand tương đồng với tiếng Anh Úc và nhiều người Anh ngữ đến từ Bắc Bán cầu gặp khó khăn với trọng âm. Khác biệt nổi bật nhất giữa tiếng Anh New Zealand và các phương ngôn tiếng Anh khác là các biến đổi trong tiền nguyên âm ngắn: âm "i"- ngắn (như trong "kit") tập trung hướng về âm schwa ("a" trong "comma" và "about"); âm "e" ngắn (như trong "dress") biến đổi hướng đến âm "i"- ngắn; và âm "a"- ngắn (như trong "trap") biến đổi thành âm "e"- ngắn. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, người Maori gặp trở ngại trong việc nói ngôn ngữ của họ trong các trường học và công sở, và ngôn ngữ này chỉ còn là một ngôn ngữ cộng đồng tại vài khu vực hẻo lánh. Tiến Maori gần đây trải qua một quá trình phục hồi, và được tuyên bố là một ngôn ngữ chính thức của New Zealand vào năm 1987, và được khoảng 3,7% cư dân nói vào năm 2013. Cũng theo số liệu điều tra nhân khẩu vào năm 2013, tiếng Samoa là ngôn ngữ phi chính thức được nói nhiều nhất (2,2%), tiếp đến là tiếng Hindi (1,7%), "Bắc Trung Quốc" (bao gồm Quan thoại, 1,3%) và tiếng Pháp (1,2%). 20.235 người (0,5%) cho biết họ có khả năng sử dụng ngôn ngữ ký hiệu New Zealand, nó được công nhận là một trong các ngôn ngữ chính thức của quốc gia vào năm 2006.. Cơ Đốc giáo là tôn giáo chiếm ưu thế tại New Zealand, song xã hội đảo quốc này thuộc hàng thế tục nhất trên thế giới. Theo điều tra nhân khẩu năm 2013, 55,0% cư dân xác định tin theo một hoặc nhiều tôn giáo, trong đó có 49,0% tự xác định là tín đồ Cơ Đốc giáo. 41,9% cho biết họ không theo tôn giáo nào (người dân có thể chọn nhiều tôn giáo hoặc không trả lời) Các giáo phái Cơ Đốc chính theo số lượng tín đồ là Công giáo La Mã (12,6%), Anh giáo (11,8%), Trưởng Lão (8,5%) và "tín đồ Cơ Đốc không được phân loại tiếp" (5,5%). Các tôn giáo Ringatū và Rātana (1,4%) có cơ sở trong cộng đồng Maori song có nguồn gốc Cơ Đốc. Thay đổi về nhập cư và nhân khẩu trong các thập niên gần đây góp phần vào phát triển của các tôn giáo thiểu số, như Ấn Độ giáo (2,1%), Phật giáo (1,5%), Hồi giáo (1,2%) và Sikh giáo (0,5%). Vùng Auckland thể hiện tính đa dạng tôn giáo lớn nhất trong nước. Giáo dục Giáo dục tiểu học và trung học là bắt buộc đối với thiếu niên từ 6 đến 16 tuổi, và đa số nhập học từ 5 tuổi. Có 13 năm học phổ thông và theo học tại trường công được miễn phí đối với các công dân và thường trú nhân New Zealand từ sinh nhật thứ 5 đến khi kết thúc năm sau sinh nhật thứ 19. New Zealand có tỷ lệ người lớn biết chữ đạt 99%, và trên một nửa dân số từ 15 đến 29 tuổi có một trình độ đại học-cao đẳng. Có năm loại học viện bậc đại học-cao đẳng thuộc sở hữu chính phủ: đại học, đại học giáo dục, trường bách nghệ, đại học chuyên nghiệp, và wānanga, cùng với hệ thống giáo dục tư. Trong dân số thành niên, có 14,2% có bằng cử nhân hoặc cao hơn, 30,4% có trình độ cao nhất là một dạng bằng cấp trung học, và 22,4% không có bằng cấp chính thức. Chương trình đánh giá học sinh quốc tế (PISA) của OECD vào năm 2010 xếp hạng hệ thống giáo dục của New Zealand tốt thứ 7 trên thế giới, trong đó học sinh thể hiện đặc biệt tốt năng lực đọc, toán học, và khoa học. Môi trường Địa lý New Zealand tọa lạc lân cận trung tâm của thủy bán cầu, gồm hai đảo chính và một số đảo nhỏ hơn. Hai đảo chính là đảo Bắc và đảo Nam tách biệt nhau qua eo biển Cook rộng 22 km tại điểm hẹp nhất. Trong số các đảo nhỏ, năm đảo lớn nhất có cư dân là đảo Stewart, Chatham, Great Barrier, d'Urville và Waiheke. Các đảo của New Zealand nằm giữa các vĩ độ 29° và 53°Nam, và các kinh độ 165° và 176°Đông. New Zealand nằm dọc theo trục bắc-đông bắc dài trên 1600 km, với chiều rộng tối đa là 400 km, với đường bờ biển dài khoảng và tổng diện tích đất là 268.000 km² Do có các đảo nằm ở khu vực xa xôi và đường bờ biển dài, New Zealand có tài nguyên hải dương phong phú. Vùng đặc quyền kinh tế của đảo quốc đứng hàng đầu thế giới về diện tích, gấp hơn 15 lần diện tích đất. Đảo Nam là đại lục lớn nhất của New Zealand và là đảo lớn thứ 12 trên thế giới. Dãy núi Nam Alps chạy dọc chiều dài của đảo. Có 18 đỉnh cao trên 3.000 m, cao nhất trong số này là Aoraki / núi Cook với độ cao 3.754 m. Các núi dốc và vịnh hẹp sâu tại Fiordland là dấu tích của thời kỳ bằng hà kéo dài tại góc tây nam của đảo. Đảo Bắc có diện tích lớn thứ 14 thế giới và có ít núi hơn song có dấu ấn là hiện tượng núi lửa. Vùng núi lửa Taupo hoạt động cao độ đã hình thành một cao nguyên núi lửa lớn, với dấu ấn là đỉnh cao nhất đảo Bắc mang tên núi Ruapehu (2.797 m). Cao nguyên cũng có hồ lớn nhất toàn quốc là hồ Taupo, trên miệng núi lửa của một trong các siêu núi lửa hoạt động nhất trên thế giới. New Zealand có địa hình đa dạng, nằm trên ranh giới giữa mảng Thái Bình Dương và mảng Ấn-Úc. New Zealand là một bộ phận của Zealandia, một vi lục địa có kích thướng gần bằng một nửa Úc, và dần bị chìm sau khi tách khỏi siêu lục địa Gondwana. Khoảng 25 triệu năm trước, một sự trượt nghiêng của các chuyển động kiến tạo mảng bắt đầu vặn xoắn và bóp khu vực. Sự kiện này này hiện có bằng chứng rõ rệt nhất trên dãy Nam Alps, được hình thành từ ép nén vỏ Trái Đất bên cạnh đứt gãy Alpine. Ở nơi khác, ranh giới mảng liên quan đến hút chìm của một mảng dưới mảng khác, tạo ra rãnh Puysegur về phía nam, rãnh Hikurangi về phía đông của đảo Bắc, và các rãnh Kermadec và Tonga xe về phía bắc. New Zealand là bộ phận của Australasia, và cũng tạo thành cực tây nam của Polynesia. Thuật ngữ châu Đại Dương thường được sử dụng để chỉ khu vực bao gồm lục địa Úc, New Zealand và các đảo trên Thái Bình Dương, song không nằm trong mô hình bảy lục địa. Khí hậu New Zealand có khí hậu hải dương ôn hòa và ôn đới (Köppen: Cfb), với nhiệt độ trung bình năm dao động từ 10 °C ở phía nam đến 16 °C ở phía bắc. Nhiệt độ cao nhất trong lịch sử là 42,4 °C tại Rangiora, Canterbury và thấp nhất trong lịch sử là -25,6 °C tại Ranfurly, Otago. Điều kiện khác biệt rõ rệt, từ mưa rất nhiều tại West Coast của đảo Nam đến gần như bán khô hạn tại Trung Otago và bồn địa Mackenzie của nội lục Canterbury và bán nhiệt đới tại Northland. Trong số bảy thành thị lớn nhất, Christchurch là nơi khô hạn nhất, trung bình chỉ nhận được 640 mm mưa mỗi năm, còn Auckland là nơi mưa nhiều nhất với lượng mưa gần gấp đôi. Auckland, Wellington và Christchurch mỗi năm đều nhận được trung bình trên 2.000 giờ nắng. Các bộ phận miền nam và tây nam của đảo Nam có khí hậu mát hơn và nhiều mây hơn, với khoảng 1.400-1.600 giờ nắng; các bộ phận miền bắc và đông bắc của đảo Nam là khu vực có nắng nhiều nhất nước với 2.400-2.500 giờ. Mùa tuyết rơi nhìn chung là từ đàu tháng 6 đến đầu tháng 10, song các đợt rét đột ngột có thể xuất hiện ngoài mùa này. Tuyết rơi là điều phổ biến tại phần miền đông và miền nam của đảo Nam và trên các vùng núi khắp đất nước. Đa dạng sinh học Sự biệt lập về địa lý của New Zealand trong 80 triệu năm và yếu tố địa sinh học của đảo đã góp phần hình thành các loài động vật, thực vật và nấm đặc trưng của quốc gia này. Chúng hoặc là đã tiến hóa từ sự sống trong thời kỳ Gondwana hoặc một số ít sinh vật đã đến các bờ biển theo bằng cách bay đến, trôi dạt hoặc được mang đi qua biển. Có khoảng 82% thực vật có mạch bản địa của New Zealand là loài đặc hữu, với khoảng 1.944 loài, thuộc 65 chi và bao gồm một họ đặc hữu. Theo một ước tính có khoảng 2300 loài nấm gốc địa y ở New Zealand và 40% trong số đó là loài đặc hữu. Hai loại rừng chính gồm rừng chủ yếu là các cây lá rộng nổi bật bởi podocarp, hoặc rừng có đặc trưng là sồi miền nam thuộc khí hậu lạnh hơn. Các loại thực phủ còn lại bao gồm đồng cỏ, phần lớn là bụi. Trước khi con người đến định cư, ước tính rừng che phủ 80% mặt đất, riêng chỉ có vùng núi cao, ẩm ướt, khu vực cằn cỗi và núi lửa là không có cây. Chặt phá rừng diễn ra mạnh mẽ sau khi con người đến định cư, với khoảng phân nửa lớp phủ thực vật bị mất đi do bị đốt sau khi người Polynesia định cư. Hầu hết rừng còn lại mất đi sau khi người châu Âu đến định cư, chúng bị chặt để làm nơi chăn nuôi gia súc, làm cho độ che phủ rừng chỉ còn 23%. Trong các khu rừng lúc đó chủ yếu là chim, và thiếu các loài thú săn mồi khiến cho một số loài như kiwi, kakapo và takahē tiến hóa thành không thể bay được. Khi con người đến, các thay đổi liên quan đến môi trường sống, và viẹc du nhập các loài chuột, chồn và các loài động vật có vú khác khiến cho nhiều loài chim bị tuyệt chủng, như moa và đại bàng Haast. Các loài động vật bản địa khác có mặt ở đây như bò sát (tuatara, thằn lằn bóng và tắc kè), ếch, nhện (katipo), côn trùng (weta) và ốc sên. Một số loài như wren và tuatara chỉ có mặt ở đây vì thế chúng được gọi là hóa thạch sống. Ba loài dơi (một đã tuyệt chủng) từng là dấu tích duy nhất về các loài thú trên cạn bản địa của New Zealand cho đến năm 2006 khi phát hiện bộ xương của một loài thú cạn độc nhất có kích thước như chuột với niên đại ít nhất 16 triệu năm. Tuy vậy, các loài thú biển cũng khá phong phú, chiếm gần phân nủa các loài cá voi trên thế giới (cá voi, cá heo, và porpoise) và một lượng lớn các loài hải cẩu được ghi nhận trong các vùng biển của New Zealand. Nhiều loài chim biển sinh sản ở New Zealand, 1/3 trong chúng là đặc trưng của quốc gia này. Chim cánh cụt được tìm thấy ở New Zealand nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác. Kể từ khi con người đến định cư, gần phân nửa các loài động vật có xương sống đã tuyệt chủng, bao gồm ít nhất 51 loài chim, 3 loài ếch, 3 loài kỳ đà, 1 loài cá nước ngọt, và một loài dơi. Các loài khác đang bị đe dọa tuyệt chủng hoặc diện tích phân bố giảm mạnh. Tuy nhiên, các nhà bảo tồn New Zealand đã đi tiên phong khi áp dụng nhiều biện pháp để giúp các loài bị đe dọa tuyệt chủng này hồi phục, bao gồm các khu bảo tồn trên đảo, khống chế loài gây hại, chuyển khu vực sinh sống hoang dã, nuôi dưỡng, và phục hồi hệ sinh thái trên đảo và các khu vực được chọn bảo tồn khác. Theo chỉ số hoạt động môi trường năm 2012, New Zealand được xem là có những động thái mạnh mẽ trong việc bảo vệ môi trường, xếp hạng thứ 14 trên tổng số 132 quốc gia được đánh giá. Kinh tế New Zealand có một kinh tế thị trường phát triển hiện đại và thịnh vượng. Đơn vị tiền tệ là dollar New Zealand, được gọi phi chính thức là "dollar Kiwi"; nó cũng được lưu thông tại quần đảo Cook, Niue, Tokelau, và quần đảo Pitcairn. New Zealand xếp hạng 6 theo Chỉ số phát triển con người 2013, xếp thứ tư theo Chỉ số tự do kinh tế 2012 của Quỹ Di sản, và xếp thứ 13 theo Chỉ số sáng tạo toàn cầu 2012 của INSEAD. Trong lịch sử, các ngành công nghiệp khai thác tài nguyên đóng góp quan trọng cho kinh tế New Zealand, tùy từng thời điểm khác nhau mà tập trung vào đánh bắt hải cẩu, đánh bắt cá voi, lanh, vàng, gôm kauri, và gỗ bản địa. Cùng với sự phát triển của tàu đông lạnh trong thập niên 1880, các sản phẩm thịt và bơ sữa được xuất khẩu đến Anh Quốc, ngành này đặt cơ sở cho tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ tại New Zealand. Nhu cầu cao về nông sản từ Anh Quốc và Hoa Kỳ giúp người New Zealand đạt được tiêu chuẩn sinh hoạt cao hơn cả Úc và Tây Âu trong các thập niên 1950 và 1960. Năm 1973, thị trường xuất khẩu của New Zealand suy giảm khi Anh Quốc gia nhập Cộng đồng châu Âu và các yếu tố phức hợp khác như khủng hoảng dầu mỏ 1973 và khủng hoảng năng lượng 1979 dẫn đến một cuộc suy thoái kinh tế nghiêm trọng. Tiêu chuẩn sinh hoạt tại New Zealand xuống thấp hơn tại Úc và Tây Âu, và đến năm 1982 thì New Zealand có thu nhập bình quân đầu người thấp nhất trong toàn bộ các quốc gia phát triển theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới. Từ năm 1984, các chính phủ nối tiếp nhau tiến hành tái cấu trúc kinh tế vĩ mô với quy mô lớn, chuyển biến nhanh chóng New Zealand từ một kinh tế bảo hộ cao độ sang một kinh tế mậu dịch tự do. Tỷ lệ thất nghiệp đạt đỉnh là trên 10% vào năm 1991 và 1992, sau Thứ Hai Đen 1987, song giảm xuống mức 3,4% vào năm 2007. Tuy nhiên, Khủng hoảng tài chính 2007–08 có tác động nghiêm trọng đến New Zealand, GDP giảm trong 5 quý liên tiếp, sự giảm sút kéo dài nhất trong hơn 30 năm, và tỷ lệ thất nghiệp tăng lên 7% vào cuối năm 2009. New Zealand trải qua một loạt "chảy máu chất xám" từ thập niên 1970 và hiện tượng này vẫn tiếp diễn cho đến nay. Gần một phần tư số người lao động có kỹ năng cao chuyển tới sống tại hải ngoại, hầu hết là tại Úc và Anh Quốc, đây là tỷ lệ cao nhất trong các quốc gia phát triển. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, "chảy máu chất xám" lại đưa đến New Zealand những người chuyên nghiệp có giáo dục từ châu Âu và các quốc gia kém phát triển hơn. New Zealand phụ thuộc cao độ vào mậu dịch quốc tế, đặc biệt là nông sản. Xuất khẩu chiếm đến 24% sản xuất, khiến New Zealand dễ bị thiệt hại do giá hàng hóa quốc tế và suy thoái kinh tế toàn cầu. Ngành xuất khẩu chính của đảo quốc là nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp, và khai mỏ, chúng chiếm khoảng một nửa kim ngạch xuất khẩu. Các đối tác xuất khẩu chính của New Zealand là Úc, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc, và Anh Quốc. Dịch vụ là lĩnh vực lớn nhất trong kinh tế New Zealand, tiếp theo là chế tạo và xây dựng, rồi đến trang trại và khai thác nguyên liệu thô. Du lịch đóng một vai trò quan trọng trong kinh tế New Zealand, đóng góp 15,0 tỷ $ cho tổng GDP quốc gia và đóng góp 9,6% tổng lực lượng lao động trong năm 2010. Lông cừu là nông sản xuất khẩu chính của New Zealand vào cuối thế kỷ XIX. Thậm chí cho đến tận thập niên 1960, loại hàng hóa này vẫn chiếm hơn 1/3 thu nhập từ xuất khẩu, song kể từ đó giá trị của nó giảm tương đối so với các hàng hóa khác và lông cừu không còn sinh lợi đối với nhiều nông dân. Ngược lại, chăn nuôi bò sữa gia tăng, với số lượng bò sữa tăng gấp đôi từ năm 1990 đến năm 2007, trở thành nguồn xuất khẩu lớn nhất của New Zealand. Từ đầu năm đến tháng 6 năm 2009, các sản phẩm bơ sữa chiếm 21% (9,1 tỷ $) tổng kim ngạch xuất khẩu, và công ty lớn nhất toàn quốc là Fonterra kiểm soát gần 1/3 giao dịch bơ sữa quốc tế. Các nông sản xuất khẩu chính khác trong năm 2009 là thịt, lông cừu, quả và cá. Ngành công nghiệp rượu vang của New Zealand đi theo xu hướng tương tự như bơ sữa, số ruộng nho tăng gấp đôi trong cùng thời kỳ, lần đầu tiên vượt qua xuất khẩu lông cừu vào năm 2007. Năm 2015, năng lượng tái tạo chiếm 40,1% tổng cung cấp năng lượng của New Zealand, chủ yếu là địa nhiệt và thủy điện. Riêng năng lượng địa nhiệt đóng góp 22% cung cấp năng lượng của New Zealand vào năm này. Mạng lưới giao thông tại New Zealand gồm có 94.000 km đường bộ, với 199 km đường cao tốc theo số liệu năm 2017, và 4.128 km đường sắt. Các thành thị chính được liên kết bằng dịch vụ xe buýt, song ô tô cá nhân là phương thức giao thông chủ yếu. Hệ thống đường sắt được tư hữu hóa vào năm 1993, song chính phủ tái quốc hữu hóa chúng theo giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2008. Doanh nghiệp quốc doanh KiwiRail hiện vận hành hệ thống đường sắt, ngoại trừ dịch vụ đường sắt đô thị Auckland do Transdev vận hành. Hệ thống đường sắt chạy dọc chiều dài quốc gia, song hầu hết các tuyến nay chuyên chở hàng thay vì chở khách. Hầu hết du khách quốc tế đến bằng đường hàng không và New Zealand có sáu cảng hàng không quốc tế, song chỉ có các sân bay Auckland và Christchurch có liên kết trực tiếp với các quốc gia ngoài Úc hay Fiji. Bưu điện New Zealand được độc quyền trong lĩnh vực viễn thông cho đến năm 1989, tức khi Telecom New Zealand được thành lập, công ty này ban đầu là doanh nghiệp quốc doanh song được tư hữu hóa vào năm 1990. Telecom đổi tên thành Spark New Zealand vào năm 2014, Spark NZ vẫn sở hữu phần lớn hạ tầng viễn thông, song có gia tăng cạnh tranh từ các nhà cung cấp khác. Liên minh Viễn thông Quốc tế xếp hạng New Zealand đứng thứ 18 trong phát triển hạ tầng thông tin và truyền thông vào năm 2016. Văn hóa Người Maori ban đầu phỏng theo văn hóa Đông Polynesia nhiệt đới, phù hợp với các thách thức liên quan đến môi trường lớn hơn và đa dạng hơn, cuối cùng phát triển văn hóa đặc trưng của mình. Tổ chức xã hội phần lớn là cộng đồng cùng gia đình (whanau), thị tộc (hapu) và bộ tộc (iwi) do một tù trưởng (rangatira) cai trị và địa vị của nhân vật này do cộng đồng tán thành. Những người nhập cư Anh Quốc và Ireland đem các khía cạnh trong văn hóa của họ đến New Zealand và cũng ảnh hưởng đến văn hóa Maori, đặc biệt là du nhập Cơ Đốc giáo. Tuy nhiên, người Maori vẫn nhìn nhận lòng trung thành với các nhóm bộ tộc là một bộ phận quan trọng trong bản sắc của mình, và vai trò của quan hệ họ hàng đối với người Maori cũng tương tự như các dân tộc Polynesia khác. Gần đây, văn hóa Mỹ, Úc, châu Á và các văn hóa châu Âu khác cũng gây ảnh hưởng đến New Zealand. Văn hóa Polynesia phi Maori cũng hiện diện, lễ hội Polynesia lớn nhất thế giới là Pasifika nay là một sự kiện thường niên tại Auckland. Sinh hoạt tại New Zealand chủ yếu mang tính nông thôn trong thời kỳ đầu, khiến người New Zealand bị hình dung là thô kệch, siêng năng. Sự khiêm tốn được mong đợi và được thúc đẩy thông qua hội chứng ghen tị. Từng có thời New Zealand không được nhìn nhận là một quốc gia tri thức. Từ đầu thế kỷ XX cho đến cuối thập niên 1960, văn hóa Maori bị đàn áp do nỗ lực đồng hóa người Maori với người New Zealand gốc Anh Quốc. Trong thập niên 1960, khi trình độ giáo dục được nâng lên và các thành thị được khoách trương văn hóa đô thị bắt đầu chiếm ưu thế. Thậm chí ngay cả khi đa số cư dân hiện sống trong các thành thị, phần lớn tác phẩm mỹ thuật, văn học, phim, hài kịch của New Zealand vẫn có chủ đề nông thôn. Là một phần trong quá trình hồi sinh văn hóa Maori, các nghề thủ công truyền thống là khắc và dệt nay được tiến hành phổ biến hơn và các nghệ sĩ người Maori gia tăng về số lượng và ảnh hưởng. Hầu hết tác phẩm khắc của người Maori mô tả nhân vật, thường là với ba ngón tay với một cái đầu chi tiết giống với tự nhiên hoặc một cái đầu kỳ cục. Kiến trúc Maori trước khi tiếp xúc với người da trắng gồm các nhà hội họp được chạm khắc (wharenui), những nhà này ban đầu được thiết kế nhằm có thể xây dựng, cải biến lại liên tục nhằm đáp ứng các ý tưởng hoặc nhu cầu khác nhau. Vị trí cô lập của đảo quốc trì hoãn ảnh hưởng của các xu hướng nghệ thuật châu Âu, cho phép các nghệ sĩ bản địa phát triển phong cách đặc trưng riêng theo chủ nghĩa khu vực. Trong các thập niên 1960 và 1970, nhiều nghệ sĩ kết hợp các kỹ thuật Maori và phương Tây, tạo nên các hình thức nghệ thuật độc nhất. Áo choàng của người Maori được làm từ sợi lông mịn và được trang trí bằng hoa văn hình tam giác, hình thoi và các dạng hình học khác màu đen, đỏ, và trắng. Người châu Âu đưa nghi thức thời trang Anh đến New Zealand, và cho đến thập niên 1950 thì hầu hết mọi người mặc đồ chỉnh tề trong các dịp lễ hội. Tiêu chuẩn thời trang từ đó được nới lỏng và thời trang New Zealand có tiếng là tự nhiên, thực dụng và mờ nhạt. Tuy nhiên, công nghiệp thời trang địa phương phát triển đáng kể từ năm 2000, một số nhãn hiệu được công nhận ở tầm quốc tế. Người Maori nhanh chóng tiếp nhận chữ viết làm phương tiện chia sẻ ý tưởng, và nhiều câu chuyện và bài thơ truyền khẩu của họ được chuyển sang hình thức văn bản. Hầu hết văn học tiếng Anh ban đầu nhập từ Anh Quốc và phải đến thập niên 1950, khi mà thị trường phát hành địa phương gia tăng thì văn học New Zealand mới bắt đầu được biết đến phổ biến. Mặc dù phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng từ các xu hướng và sự kiện toàn cầu, song các nhà văn trong thập niên 1930 bắt đầu phát triển các câu chuyện ngày càng tập trung vào trải nghiệm của họ tại New Zealand. Trong giai đoạn này, văn học biến hóa từ một hoạt động mang tính báo chí sang theo đuổi tính học thuật hơn. Sự kiện tham gia các Thế Chiến khiến một số nhà văn New Zealand có một nhãn quan mới về văn hóa New Zealand và văn học địa phương phát triển mạnh mẽ thời hậu chiến cùng với quá trìnhự mở rộng các đại học. Truyền thông và giải trí Âm nhạc New Zealand chịu ảnh hưởng từ các thể loại blues, jazz, country, rock and roll và hip hop, nhiều thể loại được hiểu một cách độc đáo tại New Zealand. người Maori phát triển các thánh ca và ca khúc truyền thống từ nguồn gốc Đông Nam Á cổ đại của họ, và sau nhiều thế kỷ cô lập đã tạo nên một âm điệu "đơn điệu" và "hiu quạnh" độc đáo. Sáo và kèn được sử dụng làm nhạc cụ hoặc làm công cụ báo hiệu trong chiến tranh hoặc những dịp đặc biệt. Những người định cư ban đầu đem đến âm nhạc dân tộc của họ, với các đội kèn đồng và hợp xướng trở nên phổ biến, các nhạc sĩ bắt đầu lưu diễn tại New Zealand trong thập niên 1860. Các đội kèn trống trở nên phổ biến trong đầu thế kỷ XX. Ngành công nghiệp thu âm New Zealand bắt đầu phát triển từ 1940 trở đi và nhiều nhạc sĩ New Zealand thu được thành công tại Anh Quốc và Hoa Kỳ. Một số nghệ sĩ người Maori phát hành các bài hát bằng tiếng Maori và hình thức nghệ thuật dựa trên truyền thống Maori mang tên kapa haka (ca vũ) được hồi sinh. Giải thưởng âm nhạc New Zealand được Recorded Music NZ tổ chức thường niên; giải thưởng được tổ chức lần đầu vào năm 1965. Phát thanh lần đầu xuất hiện tại New Zealand vào năm 1922 và đối với truyền hình là năm 1960. Số lượng phim New Zealand gia tăng đáng kể trong thập niên 1970. Năm 1978, Ủy ban Điện ảnh New Zealand bắt đầu hỗ trợ các nhà làm phim địa phương và nhiều phim tiếp cận được với khán giả thế giới, một số nhận được công nhận quốc tế. Các phim New Zealand đoạt doanh thu cao nhất gồm: Boy, The World's Fastest Indian, Once Were Warriors, và Whale Rider. Việc bãi bỏ các quy định trong thập niên 1980 khiến số lượng đài phát thanh và truyền hình gia tăng đột biến. Truyền hình New Zealand chủ yếu phát sóng các chương trình của Hoa Kỳ và Anh Quốc, cùng với một số lượng lớn các chương trình của Úc và địa phương. Cảnh quan đa dạng và kích thước nhỏ của đảo quốc, cộng thêm khích lệ của chính phủ, giúp khuyến khích các nhà sản xuất quay các bộ phim có ngân sách lớn tại New Zealand. Ngành công nghiệp truyền thông New Zealand do một số công ty chi phối, hầu hết thuộc sở hữu ngoại quốc, song nhà nước duy trì quyền sở hữu đối với một số đài truyền hình và phát thanh. Từ năm 2003 đến 2008, Phóng viên không biên giới luôn xếp hạng tự do báo chí của New Zealand trong 20 vị trí đầu tiên. Năm 2011, New Zealand xếp hạng 13 toàn cầu về tự do báo chí theo đánh giá của Freedom House, đứng thứ hai tại châu Á-Thái Bình Dương. Thể thao Hầu hết các môn thể thao chủ yếu được chơi tại New Zealand có nguồn gốc Anh Quốc. Bóng bầu dục liên hiệp được nhìn nhận là môn thể thao quốc gia và thu hút hầu hết khán giả. Golf, bóng lưới, quần vợt và cricket đạt tỷ lệ người thành niên tham gia cao nhất, trong khi bóng đá là môn thể thao hàng đầu trong giới trẻ. Các trận du đấu bóng bầu dục thắng lợi đến Úc và Anh Quốc vào cuối thập niên 1880 và đầu thập niên 1900 đóng một vai trò ban đầu trong việc thấm nhuần một bản sắc dân tộc. Đua ngựa cũng là một môn thể thao đại chúng và trở thành bộ phận của văn hóa "bầu dục, đua và bia" trong thập niên 1960. Sự tham gia của người Maori trong các môn thể thao châu Âu đặc biệt rõ rệt trong bóng bầu dục và đội tuyển quốc gia trình diễn một hiệu lệnh truyền thống Maori mang tên haka trước các trận dấu quốc tế. New Zealand có các đội tuyển thi đấu quốc tế trong các môn bóng bầu dục liên hiệp, bóng lưới, cricket, bóng bầu dục liên minh, và bóng mềm, và có truyền thống thi đấu tốt trong ba môn phối hợp, rowing, yachting và đua xe đạp. New Zealand tham dự Thế vận hội Mùa hè vào năm 1908 và 1912 trong một đội tuyển chung với Úc, và lần đầu tham dự độc lập vào năm 1920. Quốc gia này xếp hạng cao theo tỷ lệ huy chương trên dân số trong các kỳ Thế vận hội gần đây. Đội tuyển bóng bầu dục liên hiệp nam quốc gia New Zealand có thành tích tốt nhất trong lịch sử bóng bầu dục quốc tế New Zealand nổi tiếng với các môn thể thao mạo hiểm, du lịch mạo hiểm và truyền thống leo núi mạnh mẽ. Các môn thể thao ngoài trời khác như đua xe đạp, câu cá, bơi, chạy, đi bộ, chèo xuồng, săn, thể thao trên tuyết, và lướt sóng cũng phổ biến. Môn thể thao truyền thống Polynesia là đua chèo xuồng waka ama ngày càng phổ biến và hiện là một môn thể thao quốc tế với các đội tuyển từ khắp Thái Bình Dương. Ẩm thực Ẩm thực New Zealand kết hợp ẩm thực Maori bản địa và các truyền thống nấu nướng đa dạng do những người định cư và nhập cư đưa tới từ châu Âu, Polynesia và châu Á. Sản xuất nông nghiệp sinh lợi từ đất liền đến biển dần được những người định cư châu Âu thời đầu du nhập, hầu hết là trồng trọt và chăn nuôi như ngô, khoai tây và lợn. Các thành phần hoặc món ăn đặc biệt gồm có thịt cừu non, cá hồi, kōura (tôm hùm đất), các loài hàu vét, cá mồi trắng, pāua (bào ngư), trai, điệp, pipis và tuatua (đều là các loài sò ốc của New Zealand), khoai lang (kūmara), quả kiwi, tamarillo và pavlova (được cho là một món ăn quốc gia). Hāngi là một phương pháp nấu ăn của người Māori, sử dụng đá được nung nóng được chôn trong một lò ngầm. Sau khi người châu Âu thuộc địa hoá, người Maori bắt đầu nấu ăn với nồi và lò, khiến hāngi được sử dụng ít thường xuyên hơn, song nó vẫn được sử dụng trong các dịp nghi lễ như tangihanga. Chú thích Tham khảo Thư mục Allan, H.H. (1982) Indigenous Tracheophyta – Psilopsida, Lycopsida, Filicopsida, Gymnospermae, Dicotyledons, Flora of New Zealand Volume I. Botany Division, Department of Scientific and Industrial Research. Clark, R. (1994) Moriori and Māori: The Linguistic Evidence. In Sutton, Douglas G. (Ed.) (1994), The Origins of the First New Zealanders. Auckland: Auckland University Press. Davenport, Sally. "Panic and panacea: brain drain and science and technology human capital policy" Research Policy 33 (2004) 617–630. Truy cập 2007-04-24. Mackay, D. (1986) The Search For The Southern Land. In Fraser, B. (Ed.) (1986), The New Zealand Book Of Events. Auckland: Reed Methuen. Đọc thêm David Bateman, ed. Bateman New Zealand Encyclopedia (2005) Keith Sinclair and Raewyn Dalziel. A History of New Zealand (2000) A. H. McLintock, ed. Encyclopedia of New Zealand 3 vols (1966) New Zealand Official Yearbook (annual) Liên kết ngoài Te Ara, từ điển bách khoa về New Zealand Trang chính của chính phủ New Zealand Statistics New Zealand - Thống kê chính thức www.zoomin.co.nz Bản đồ New Zealand Quốc gia thành viên Khối Thịnh vượng chung Anh Quốc gia Polynesia Quần đảo Thái Bình Dương Quốc gia và vùng lãnh thổ nói tiếng Anh Đảo quốc Quốc gia thành viên của Liên Hợp Quốc Quốc gia Australasia Zealandia Quốc gia Châu Đại Dương
27737
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ghana
Ghana
Ghana (tiếng Việt: Ga-na), tên chính thức là Cộng hòa Ghana (Republic of Ghana) là một quốc gia tại Tây Phi. Ghana có biên giới với Bờ Biển Ngà về phía tây, Burkina Faso về phía bắc, Togo về phía đông, còn về phía nam là vịnh Guinea. Thủ đô và cũng là thành phố lớn nhất của Ghana là Accra. Người dân Ghana cho rằng lịch sử của họ bắt nguồn từ Vương quốc Ghana cổ xưa tồn tại từ thế kỷ VIII đến thế kỷ XIII tại phía tây châu Phi, nhưng đến khi vương quốc này sụp đổ thì cư dân của nó đã di cư xuống phía nam và lập nên những tiểu quốc Fante và đặc biệt là Vương quốc Ashante hùng mạnh. Những mối liên hệ về thương mại với người Bồ Đào Nha được thiết lập từ thế kỷ XV và đến năm 1874, Ghana trở thành một thuộc địa của Liên Hiệp Anh với tên gọi Bờ Biển Vàng (Gold Coast). Năm 1957, Ghana trở thành thuộc địa đầu tiên ở vùng Châu Phi hạ Sahara giành được độc lập. Bờ Biển Vàng giành độc lập từ tay Vương quốc Anh vào năm 1957 và trở thành quốc gia độc lập đầu tiên ở khu vực hạ Sahara. Ghana được chọn làm tên mới cho quốc gia này để ghi nhớ Đế chế Ghana, đã từng trải dài khắp cả khu vực Tây Phi. Ghana là thành viên của Khu vực hòa bình và hợp tác Nam Đại Tây Dương, Khối thịnh vượng chung, Cộng đồng Kinh tế Tây Phi, Liên minh châu Phi và là thành viên liên kết của Cộng đồng Pháp ngữ. Ghana là nước có sản lượng cacao đứng thứ 2 thế giới. Hồ nhân tạo lớn nhất thế giới về diện tích bề mặt Volta nằm ở quốc gia này. Từ nguyên học Ghana có nghĩa là "chiến binh của nhà vua" (ngự lâm quân) gắn liền với những vị vua thời trung đại của đế chế Ghana Tây Phi. Trước khi quốc gia Bờ Biển Vàng (Gold Coast) sáp nhập với Togoland thuộc Anh (British Togoland) vào ngày 6 tháng 3 năm 1957, Ghana trở thành tên pháp lý của quốc gia này. Tuy nhiên, sau khi tuyên bố hoàn toàn độc lập với vương quốc Anh, Ghana đã đổi tên thành Cộng hòa Ghana (Republic of Ghana). Lịch sử Ghana là một nước có lịch sử lâu đời. Từ thế kỷ IV, đã ra đời Vương quốc Sarakolle rộng lớn, chạy dài từ bờ biển Đại Tây Dương đến sông Niger. Thế kỷ XI, Vương quốc Ghana trở nên cực thịnh với nền nông nghiệp, thủ công, buôn bán phát triển. Từ năm 1471, người Bồ Đào Nha thám hiểm và khám phá ra vùng bờ biển mà sau này có tên gọi là Gold Coast (Côte de l'Or, Bờ biển Vàng). Họ xây dựng pháo đài Elmina và giữ độc quyền buôn bán vàng trong khoảng một thế kỉ rưỡi. Sau khi loại trừ người Bồ Đào Nha, người Hà Lan, người Anh và một số thương gia châu Âu phân chia quyền kiểm soát và biến vùng này thành trung tâm mua bán nô lệ. Từ năm 1826, người Anh thực hiện một loạt các chiến dịch chống lại người bản xứ Ashanti ở sâu bên trong nội địa. Vùng duyên hải trở thành thuộc địa Anh (1874). Năm 1901, người Ashanti đầu hàng người Anh và lãnh thổ phía bắc trở thành xứ bảo hộ. Vùng Togoland lân cận, thuộc địa cũ của Đức, thuộc quyền ủy trị của Anh từ năm 1922. Năm 1957, Gold Coast là thuộc địa đầu tiên ở châu Phi giành được độc lập và đổi tên thành Ghana. Nền cộng hòa ra đời sau khi hiến pháp được thông qua (năm 1960). Chủ nghĩa chuyên quyền của Tổng thống Kwame Nkrumah và sự suy thoái kinh tế trong nước dẫn đến cuộc đảo chính quân sự năm 1966. Từ đó, đất nước rơi vào tình trạng bất ổn chính trị cho đến khi Jerry J. Rawlings lên nắm quyền năm 1981. Rawlings tiến hành khôi phục kinh tế và dân chủ. Được bầu làm Tổng thống năm 1992, Rawlings công bố hiến pháp mới và chấm dứt chế độ quân sự. Ứng cử viên đối lập John Kufuor lên cầm quyền sau khi giành thắng lợi trong cuộc tuyển cử chiếc ghế Tổng thống năm 2000. Chính trị Theo Bảng xếp hạng Chỉ số thất bại của nhà nước năm 2009, Ghana đứng ở vị trí thứ 124 trên thế giới và đứng áp chót trong số các nước châu Phi, trước Mauritius, dựa theo các số liệu từ năm 2006. Ghana cũng xếp thứ 7 trong số 48 nước vùng hạ Sahara vào năm 2008 theo chỉ số Ibrahim, phản ánh sự thành công của các chính sách chính phủ đối với dân chúng. Chính phủ Nền dân chủ nghị viện của Ghana được xác lập vào năm 1957, xen kẽ bởi các chính phủ quân sự và dân sự. Tháng 1 năm 1993, chính quyền quân đội đã dọn đường cho sự ra đời của nền cộng hòa thứ 4 sau cuộc bầu cử nghị viện và tổng thống vào cuối năm 1992. Hiến pháp năm 1992 thiết lập cơ cấu quyền lực bao gồm tổng thống, nghị viện, nội các, hội đồng nhà nước và một hệ thống toà án độc lập. Chính phủ được bầu thông qua phổ thông đầu phiếu, tuy nhiên cơ quan lập pháp của Ghana được cơ cấu không theo tỉ lệ, một số tỉnh có dân số ít lại có số đại biểu nhiều hơn các tỉnh có dân số đồng hơn.<ref name=cs>"Government and Politics". A Country Study: Ghana (La Verle Berry, editor). Library of Congress Federal Research Division (tháng 11 năm 1994). This article incorporates text from this source, which is in the public domain. Lcweb2.loc.gov</ref> Hệ thống tòa án Hệ thống pháp luật dựa trên thông luật của Anh, tiền lệ án, và hiến pháp năm 1992. Hệ thống cấp bậc toà án bao gồm Toà án tối cao Ghana, Toà án cấp phúc thẩm, và Tòa án tư pháp. Các thiết chế tư pháp ngoài toà án là các Toà án công cộng. Từ khi giành độc lập cho đến nền cộng hòa thứ 4, các Toà án đã và đang duy trì được tính độc lập tương đối. Chính trị Các đảng phái chính trị được hoạt động hợp pháp từ giữa năm 1992 sau 10 năm bị gián đoạn. Nền cộng hòa thứ 4 xuất hiện rất nhiều đảng phái khác nhau, bao gồm Đảng Đại hội quốc gia dân chủ (đã giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống và nghị viện vào các năm 1992, 1996 và 2008) và Đảng Những người ái quốc mới, đảng đối lập đã giành chiến thắng trong các năm 2000 và 2004; Đảng Hội nghị quốc gia nhân dân và Đảng Hội nghị nhân dân, do Kwame Nkrumah sáng lập. Ngoại giao Từ khi giành độc lập, Ghana luôn ủng hộ xu hướng không liên kết và chủ nghĩa Pan-Africanism gắn liền với tên tuổi của vị tổng thống đầu tiên, TS. Kwame Nkrumah. Ghana ưu tiên các quan hệ hợp tác quốc tế và khu vực về chính trị cũng như kinh tế, đồng thời cũng là một thành viên tích cực của Liên hợp quốc và Liên minh châu Phi. Ghana thực hiện đường lối đối ngoại đa dạng hoá, đa phương hoá, coi trọng quan hệ với Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản để tranh thủ vốn, kỹ thuật. Ghana nhận được sự trợ giúp của Mỹ trong khuôn khổ chương trình "đào tạo các chuyên gia quân sự nước ngoài" (IMET), chương trình "trợ giúp trong việc huấn luyện tiến hành các hoạt động chống khủng bố tại châu Phi" (ACOTA). Nhiều chính trị gia và nhà ngoại giao Ghana đang làm việc tại các tổ chức quốc tế, trong số đó phải kể đến cựu Tổng thư ký Liên hợp quốc Kofi Annan, thẩm phán Tòa án hình sự quốc tế Akua Kuenyehia và cựu tổng thống Jerry Rawlings, đang là chủ tịch của Cộng đồng kinh tế Tây Phi. Ghana hiện là thành viên tích cực của nhiều tổ chức khu vực và quốc tế như: WTO, Phong trào không liên kết (NAM), Liên minh châu Phi (AU), Cộng đồng Kinh tế Tây Phi (ECOWAS). Kinh tế Được thiên nhiên ưu đãi, Ghana có thu nhập đầu người cao gấp hai lần các quốc gia khác ở Tây Phi. Mặc dù vậy, Ghana vẫn có những lợi tức khác từ thương mại và hỗ trợ quốc tế như các hoạt động đầu tư của những người có gốc gác Ghana ở nước ngoài. Khoảng 28% dân số sống dưới mức nghèo với $1.25 đô la Mĩ/ngày. Phần lớn trong số đó là những phụ nữ Ghana bị ảnh hưởng bởi những lý do chính trị ở các khu vực nghèo đói phía bắc của Ghana. và theo Ngân hàng Thế giới, thu nhập bình quân theo đầu người hầu như đã không tăng gấp đôi trong 45 năm qua. Từ thời thuộc địa đến hiện tại, Ghana được biết đến là một trong những nước sản xuất vàng nhiều nhất thế giới. Những mặt hàng xuất khẩu khác như cacao, gỗ, điện, kim cương, bauxite, và mangan là những nguồn thu ngoại tệ chính của Ghana, được trực tiếp điều khiển và chỉ đạo bởi Bộ Nông nghiệp thuộc tổng thống, đứng đầu là bà Antoinette Efua-Addo (xem thêm thông tin tại www.Ghana-agricexport.com). Một mỏ dầu được cho là có khoảng dầu nhẹ đã được phát hiện vào năm 2007. Việc khai thác dầu mỏ vẫn đang diễn ra và số lượng dầu mỏ khai thác liên tục tăng lên. Điều này được kì vọng sẽ là một nguồn thu khổng lồ cho kinh tế Ghana kể từ quý IV năm 2010 khi nước này chính thức tăng sản lượng dầu mỏkinh doanh dầu mỏ. Đập thủy điện Akosombo được xây dựng vào năm 1965 trên sông Volta cung cấp điện năng cho cả Ghana và các nước láng giềng. Năm 2008, lực lượng lao động của Ghana có khoảng 11,5 triệu người. Kinh tế của Ghana chủ yếu vẫn dựa vào nông nghiệp, chiếm tới 37,3% GDP và cung cấp việc làm cho 56% số người lao động, phần lớn trong số đó là những người sản xuất nhỏ. Tỉ trọng công nghiệp của Ghana vào năm 2007 chiếm 7,9% GDP. Những chính sách không mấy hiệu quả của chính quyền quân sự cũ và các cam kết giữ gìn hòa bình khu vực đã dẫn đến tình trạng lạm phát thâm hụt tài chính, sự sụt giá của đồng Cedi cũng như sự không hài lòng của công chúng với những biện pháp kém cỏi của chính phủ Ghana. Mặc dầu vậy, Ghana vẫn là một trong những quốc gia ổn định về kinh tế nhất châu lục Đen. Tháng 7 năm 2007, Ngân hàng nhà nước Ghana quyết định thay đổi đồng tiền đang sử dụng Cedi (¢) sang đồng Ghana Cedi (GH¢) để tái kiểm soát tiền tệ trong nước. Tỷ giá của thu đổi là 1 Ghana Cedi cho 10,000 Cedi (cũ). Ngân hàng nhà nước Ghana đã tiến hành các chiến dịch truyền thông mạnh mẽ nhằm thông báo cho người dân Ghana về chính sách này. Đồng tiền mới, Ghana Cedi, đã dần đi vào ổn định và đến năm 2009 trung bình $1 USD =Gh¢ 1.4 . Thuế giá trị gia tăng (VAT) cũng được áp dụng ở Ghana bắt đầu từ năm 1989 với một mức tỉ lệ áp dụng chung cho tất cả (các loại hàng hóa hoặc cá nhân). Bắt đầu từ tháng 9 năm 2007, chế độ thuế được chia thành nhiều mức tỉ lệ khác nhau. Năm 1998, mức thuế VAT ở Ghana là 10% và được điều chỉnh thành 12.5% vào năm 2000. Tuy nhiên với việc thông qua luật 734 năm 2007, mô hình VAT 3% đối với khu vực bán lẻ bắt đầu được triển khai. Mô hình này chỉ cho phép người bán lẻ các mặt hàng chịu thuế (được quy định theo luật 546) tính thêm tối đa 3% giá trị của mặt hàng được bán so với kê khai. Mục đích của luật này nhằm đơn giản hóa hệ thống thuế và gia tăng sự ủng hộ của người dân. Từ giữa tháng 12 năm 2010, ngành sản xuất dầu khí tại Ghana đã bắt đầu hoạt động và được kỳ vọng sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế (mỏ dầu ngoài khơi Jubilee có trữ lượng lên tới 3 tỷ thùng). Vùng và khu hành chính Ghana được phân chia thành 10 khu vực hành chính và 138 quận, huyện, mỗi huyện hội đồng riêng của mình. Dưới huyện là các loại hình hội đồng, bao gồm 58 thị xã, khu vực hội đồng, hội đồng khu, 108, và 626 hội đồng khu vực. Các khu vực hành chính bao gồm: Dân số của các thành phố lớn Địa lý Ghana nằm trong khu vực Vịnh Ghana, rất gần với đường xích đạo nên có một khí hậu ấm áp. Diện tích của Ghana trải dài trên một khu vực rộng 238500 km2. phía đông giáp Togo, phía tây giáp Bờ Biển Ngà, phía bắc giáp Burkina Faso và còn phía nam giáp Vịnh Ghana (Đại Tây Dương). Kinh tuyến Greenwich chạy dọc theo quốc gia này, chính xác là ở thành phố công nghiệp Tema. Về mặt địa lý, Ghana là quốc gia gần với "trung tâm" của thế giới nhất. Mặc dù trên thực tế, điểm trung tâm thật sự (0°, 0°) nằm trên Vịnh Ghana (Đại Tây Dương), cách Accra của Ghana khoảng 614 km về phía nam. Ghana được bao phủ bởi những đồng bằng, đồi núi thấp và một số sông ngòi. Ghana có thể được chia thành 5 khu vực địa hình khác nhau. Đường bờ biển thấp với các bãi cát xoay lưng về phía đồng bằng và những rừng cây nhỏ, đồng thời bị chia cắt bởi các sông và suối. Trong khi đó, phía bắc của Ghana nổi bật bởi các cao nguyên. Tây Nam và Nam Ghana có được núi rừng che phủ, trong đó có vùng núi Ashanti, cao nguyên Kwahu và Akuapim-Togo chạy dọc sườn đông của đất nước. Lưu vực sông Volta chiếm một diện tích lớn khu vực trung tâm của Ghana. Điểm cao nhất của Ghana là đỉnh núi Afadjato. Ghana có khí hậu nhiệt đới. Dải bờ biển phía đông ấm và khô; khu vực tây nam nóng và ẩm ướt, trong khi phía bắc lại nóng và khô. Hồ Volta, hồ nhân tạo lớn nhất thế giới, bao phủ một tỉ lệ không nhỏ phần đất phía đông của Ghana, là nguồn nước chính cho nhiều con sông khác như Oti hoặc Afram. Khí hậu ở Ghana chia thành 2 mùa chính: mùa mưa và mùa khô. phía bắc Ghana mùa mưa bắt đầu từ tháng 3 cho đến tháng 11, trong khi ở phía nam, bao gồm cả thủ đô Accra, mùa mưa thường bắt đầu từ tháng 4 cho đến trung tuần tháng 11. phía nam của Ghana bao gồm những rừng cây nhiệt đới và rụng lá lớn. Ngoài ra khu vực này còn có những rừng cọ dầu và ngập mặn khác. Dân cư Dân số Ghana vào khoảng 24 triệu người bao gồm hơn 100 nhóm dân tộc khác nhau. Tuy vậy, ở Ghana không có những xung đột dân tộc gay gắt có thể dẫn đến nội chiến như ở nhiều nước châu Phi khác. Ngôn ngữ chính thức ở Ghana là tiếng Anh tuy nhiên hầu hết người dân Ghana đều biết ít nhất một thổ ngữ. Nhóm dân tộc chính ở Ghana là người Akan, trong đó có người Fante, Akyem, Ashanti, Kwahu, Akuapem, Nzema, Bono, Akwamu, Ahanta and others) 49.3%, Mole-Dagbon 15.2%, Ewe 11.7%, Ga-Dangme (comprising of the Ga, Adangbe, Ada, Krobo and others) 7.3%, Guan 4%, Gurma 3.6%, Gurunsi 2.6%, Mande-Busanga 1%, other tribes 1.4%, other (Hausa, Zabarema, Fulani) 1.8% (2000 census). Theo CIA World Factbook, các nhóm tôn giáo ở Ghana bao gồm: Thiên chúa giáo 68.8%, Hồi giáo 15.9%, tín ngưỡng truyền thống của người Phi 8.5%. Ngôn ngữ Ở Ghana có 47 thổ ngữ. Tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức của Ghana trong thương mại cũng như hành chính. Tiếng Anh cũng là ngôn ngữ tiêu chuẩn để giảng dạy ở các cấp giáo dục. Ngôn ngữ bản địa của Ghana được chia thành hai nhóm nhỏ thuộc nhóm ngôn ngữ Niger-Congo. Văn hóa và con người Ghana là một quốc gia đa dạng về thành phần dân tộc. Do đó, văn hóa của Ghana là sự pha trộn của tất cả các nền văn hóa của mọi nhóm dân tộc của quốc gia này: người Ashanti, người Fante, người Kwahu, người Ga, người Ewe, người Mamprusi, người Dagomba và các nhóm dân tộc thiểu số khác. Sự đa dạng văn hóa này thể hiện rất rõ trong cách ăn, cách mặc và nghệ thuật của người dân Ghana. Một số nghi lễ đặc trưng của văn hóa Ghana cho đến hiện tại vẫn còn rất phổ biến ở quốc gia này như lễ sinh con, lễ trưởng thành, kết hôn và ma chay. Thể thao Ở Ghana, bóng đá là môn thể thao phổ biến và được yêu thích nhất. Đội tuyển bóng đá quốc gia Ghana thường được gọi là "Những ngôi sao đen". Ngày 16 tháng 10 năm 2009, đội tuyển bóng đá U-20 Ghana đã trở thành đội tuyển quốc gia đầu tiên của châu Phi đoạt ngôi vô địch U-20 thế giới sau chiến thắng ở loạt sút luân lưu 11m với Brasil. Ghana cũng là quốc gia đầu tiên của châu Phi giành chiến thắng ở vòng chung kết World Cup 2010 diễn ra tại chính châu lục này sau khi đánh bại Serbia với tỉ số 1-0. Ghana cũng chính là đội tuyển quốc gia châu Phi duy nhất lọt vòng vòng knock-out của giải đấu này và đội bóng thứ 3 châu Phi góp mặt tại vòng tứ kết World Cup (sau Cameroon 1990 và Senegal 2002). Tôn giáo Kitô giáo là tôn giáo lớn nhất của đất nước, và chiếm ưu thế ở phía nam Ghana và các bộ phận của miền Bắc Ghana, trong khi Hồi giáo phổ biến rộng rãi hơn trong các bộ phận của khu vực phía Bắc. Kitô giáo được theo bởi 71.2% dân số, theo điều tra dân số năm 2010. Kitô giáo đã được giới thiệu bởi người châu Âu trên bờ biển của Ghana trong thế kỷ XIV, và dần dần người dân nước này đã tin theo tôn giáo mới. Hồi giáo là đức tin của 17.6% dân số. Nó được truyền bá đến phía Bắc Ghana trong thế kỷ XV. Kitô giáo và Hồi giáo ở Ghana chung sống hòa bình với nhau. Điều tra dân số năm 2010 cho biết 5.3% dân số Ghana tuyên bố không có tôn giáo, tôn giáo truyền thống được thực hiện bởi 5.2% dân số, theo điều tra dân số năm 2010. Ấn Độ giáo cũng có mặt ở quốc gia này với một Tu viện do giáo sĩ Swami Ghananand Saraswati điều hành. Đạo giáo và Phật giáo cũng đã xuất hiện ở Ghana do người Trung Quốc mang đến. Giáo dục Xếp hạng quốc tế Ghi chú Tham khảo Liên kết ngoài Business Anti-Corruption Portal Ghana country profile Chính phủ Ghana official website The Parliament of Ghana official site National Commission on Culture official site Chief of State and Cabinet Members Thông tin chung Country Profile from BBC News Ghana from Encyclopaedia Britannica Ghana from UCB Libraries GovPubs'' The African Activist Archive Project website has photographs of the All Africa People's Conference held in Accra, Ghana, 5–ngày 13 tháng 12 năm 1958 including Kwame Nkrumah, Prime Minister of Ghana, addressing the conference, the American Committee on Africa delegation meeting with Nkrumah, and of Patrick Duncan and Alfred Hutchinson of South Africa at the conference. Key Development Forecasts for Ghana from International Futures Thể thao 1st Online Ghana Sports Portal Quốc gia thành viên Khối Thịnh vượng chung Anh Quốc gia và vùng lãnh thổ nói tiếng Anh Quốc gia châu Phi Quốc gia thành viên của Liên Hợp Quốc Khởi đầu năm 1957 ở Ghana Cộng hòa Thịnh vượng chung Quốc gia thành viên Liên minh châu Phi Cộng đồng Kinh tế Tây Phi Quốc gia Tây Phi
27738
https://vi.wikipedia.org/wiki/Peru
Peru
Peru (, ), tên chính thức là Cộng hòa Peru (, ), là một quốc gia nằm ở phía Tây Nam Mỹ. Về phía bắc, Peru có biên giới với Ecuador và Colombia, về phía đông là Brasil, về phía đông nam là Bolivia, ở phía nam là Chile, phía tây Peru là Thái Bình Dương. Lãnh thổ Peru là quê hương của nhiều nền văn hóa cổ đại, trải dài từ văn minh Norte Chico – một trong các nền văn minh cổ xưa nhất trên thế giới, đến Đế quốc Inca – quốc gia lớn nhất châu Mỹ thời kỳ tiền Colombo. Đế quốc Tây Ban Nha chinh phục khu vực vào thế kỷ XVI và thiết lập một phó vương quốc với thủ đô tại Lima. Sau khi giành được độc lập vào năm 1821, Peru trải qua các giai đoạn bất ổn định chính trị và khủng hoảng ngân sách, cũng như các giai đoạn ổn định và kinh tế tiến bộ. Peru là một nước cộng hòa dân chủ đại nghị, được chia thành 25 vùng. Địa lý Peru biến đổi từ các đồng bằng khô hạn ở vùng duyên hải Thái Bình Dương đến các đỉnh của dãy Andes và các khu rừng nhiệt đới ở bồn địa Amazon. Peru là một quốc gia đang phát triển, có chỉ số phát triển con người ở mức cao và mức nghèo là khoảng 25,8%. Các hoạt động kinh tế chính của quốc gia gồm có khai mỏ, chế tạo, nông nghiệp và ngư nghiệp. Peru là quốc gia đa sắc tộc, với dân số ước tính là 30,4 triệu, thành phần dân tộc bao gồm người da đỏ, người gốc Âu, người gốc Phi và người gốc Á. Ngôn ngữ chính được nói là tiếng Tây Ban Nha, song một lượng đáng kể người Peru nói tiếng Quechua hay các ngôn ngữ bản địa khác. Sự kết hợp của các truyền thống văn hóa khiến cho Peru có sự đa dạng lớn trên các lĩnh vực như nghệ thuật, ẩm thực, văn chương và âm nhạc. Từ nguyên Từ Peru có khởi nguyên trong các ngôn ngữ khác nhau ở nam bộ Pháp và tây bắc bộ Tây Ban Nha và cũng tìm thấy tại xứ Corse, tuy nhiên đối với người châu Âu, từ Peru là phù hợp nhất để thay thế tên gọi nguyên bản Birú, là tên của một quân chủ bản địa sống vào đầu thế kỷ XVI gần vịnh San Miguel thuộc Panama ngày nay. Khi các nhà thám hiểm Tây Ban Nha đến thăm lãnh thổ của ông vào năm 1522, đó là phần cực nam của Tân Thế giới mà người châu Âu biết đến. Do đó, khi Francisco Pizarro khám phá khu vực ở xa hơn về phía nam, chúng được đặt tên là Birú hay Peru. Vương quốc Tây Ban Nha trao cho tên gọi này địa vị pháp lý trong Capitulación de Toledo năm 1529, theo đó gọi tên Đế quốc Inca là tỉnh Peru. Dưới sự cai trị của Tây Ban Nha, quốc gia nhận tên gọi Phó vương quốc Peru, và trở thành nước Cộng hòa Peru sau chiến tranh giành độc lập. Địa lý Peru là một quốc gia trên bờ biển phía tây trung tâm của Nam Mỹ đối diện với Thái Bình Dương. Nó nằm hoàn toàn ở Nam bán cầu, cực bắc của nó đạt tới 1,8 phút vĩ độ hoặc khoảng 3,3 km (2,1 mi) về phía nam của đường xích đạo. Peru có chung biên giới đất liền với Ecuador, Colombia, Brasil, Bolivia và Chile, với biên giới đất liền dài nhất được chia sẻ với Brasil. Peru có diện tích , nằm ở tây bộ Nam Mỹ. Quốc gia này có biên giới với Ecuador và Colombia ở phía bắc, Brasil ở phía đông, Bolivia ở phía đông nam, Chile ở phía nam, và phía tây là Thái Bính Dương. Dãy núi Andes chạy song song với Thái Bình Dương; dãy núi này phân quốc gia thành ba khu vực về mặt địa lý. costa (duyên hải) ở phía tây là một đồng bằng hẹp, phần lớn là khô hạn ngoại trừ các thung lũng hình thành từ các sông theo mùa. sierra (đất cao) là khu vực Andes; gồm có cao nguyên Altiplano và đỉnh cao nhất quốc gia là Huascarán với cao độ . Vùng thứ ba là selva (rừng rậm) với địa hình bằng phẳng trải rộng với các rừng mưa Amazon mở rộng về phía đông. Khoảng 60% diện tích quốc gia thuộc vùng thứ ba này. Hầu hết sông tại Peru bắt nguồn từ các đỉnh của dãy Andes và chảy vào một trong ba lưu vực. Những sông đổ về Thái Bình Dương có đặc điểm là dốc và ngắn, dòng chảy không liên tục. Các chi lưu của sông Amazon có chiều dài lớn hơn, có dòng chảy lớn hơn nhiều, và có độ dốc nhỏ hơn khi ra khỏi khu vực sierra. Các sông đổ vào hồ Titicaca thường có chiều dài ngắn và có dòng chảy lớn. Các sông dài nhất chảy qua lãnh thổ Peru là Ucayali, Marañón, Putumayo, Yavarí, Huallaga, Urubamba, Mantaro, và Amazon. Ảnh hưởng của dãy Andes và hải lưu Humboldt khiến quốc gia này có sự đa dạng rất lớn về khí hậu. Khu vực costa có nhiệt độ ôn hòa, lượng mưa thấp, độ ẩm cao, trừ phần phía bắc ấm hơn và có lượng mưa lớn hơn. Khu vực sierra có mưa thường xuyên vào mùa hạ, nhiệt độ và ẩm độ giảm theo cao độ cho đến các đỉnh núi đóng băng của dãy Andes. Khu vực selva có đặc trưng là lượng mưa lớn và nhiệt độ cao, ngoại trừ phần cực nam- là nơi có mùa đông lạnh và có mưa theo mùa. Do địa hình và khí hậu đa dạng, Peru có đa dạng sinh học cao với 21.462 loài thực vật và động vật ghi nhận được tính đến năm 2003; 5.855 trong số đó là loài đặc hữu. Lịch sử Các bằng chứng sớm nhất về sự hiện diện của con người tại lãnh thổ Peru có niên đại khoảng 9.000 năm TCN. Xã hội phức tạp cổ nhất được biết đến tại Peru là văn minh Norte Chico, nền văn minh này hưng thịnh dọc theo bờ biển Thái Bình Dương trong khoảng từ 3.000 đến 1.800 TCN. Theo sau những phát triển ban đầu này là các nền văn hóa khảo cổ học như Cupisnique, Chavin, Paracas, Mochica, Nazca, Wari, và Chimú. Vào thế kỷ XV, người Inca nổi lên thành một quốc gia hùng mạnh, tạo thành đế quốc lớn nhất châu Mỹ thời kỳ tiền Colombo, Đế quốc Inca tồn tại gần một thế kỷ. Các xã hội Andes dựa vào nông nghiệp, sử dụng các kỹ thuật như thủy lợi và ruộng bậc thang; chăn nuôi lạc đà và ngư nghiệp cũng là hoạt động quan trọng. Tổ chức xã hội dựa trên sự hỗ thù và tái phân phối do các xã hội này không có khái niệm về thị trường hay tiền tệ. Vào tháng 12 năm 1532, một toán conquistador dưới quyền chỉ huy của Francisco Pizarro đánh bại và bắt giữ Hoàng đế Inca Atahualpa. Mười năm sau, Vương quốc Tây Ban Nha thiết lập Phó vương quốc Peru để quản lý hầu hết các thuộc địa tại Nam Mỹ của họ. Phó vương Francisco de Toledo tái tổ chức quốc gia trong thập niên 1570, hoạt động kinh tế chính là khai mỏ bạc và nguồn lao động chính là những lao động cưỡng bức người da đỏ. Các thoi bạc của Peru cung cấp thu nhập cho Vương quốc Tây Ban Nha và thúc đẩy một mạng lưới mậu dịch phức tạp trải rộng đến tận châu Âu và Philippines. Tuy nhiên, vào thế kỷ XVIII, sản lượng bạc suy giảm và kinh tế đa dạng hóa khiến cho thu nhập của vương thất Tây Ban Nha giảm mạnh. Nhằm phản ứng, triều đình ban hành các cải cách Bourbon, với một loạt các chiếu chỉ nhằm tăng thuế và phân chia Phó vương quốc. Các luật mới kích động các cuộc nổi dậy như của Túpac Amaru II, song tất cả đều bị đàn áp. Vào đầu thế kỷ XIX, trong khi hầu hết Nam Mỹ bị cuốn vào các cuộc chiến giành độc lập, thì Peru vẫn là một thành trì của những người bảo hoàng. Do giới tinh hoa dao động giữa giải phóng và trung thành với chế độ quân chủ Tây Ban Nha, Peru chỉ giành được độc lập sau khi bị chiếm đóng do chiến dịch quân sự của José de San Martín và Simón Bolívar. Trong những năm đầu cộng hòa, đấu tranh cục bộ nhằm giành quyền lực giữa các lãnh đạo quân sự khiến cho chính trị bất ổn định. Đặc tính dân tộc Peru được rèn luyện trong giai đoạn này, khi mà các kế hoạch của Simón Bolívar nhằm thành lập một Liên minh Mỹ Latinh gặp khó khăn và một liên minh với Bolivia sớm tàn. Từ thập niên 1840 đến thập niên 1860, Peru trải qua một giai đoạn ổn định trong nhiệm kỳ tổng thống của Ramón Castilla nhờ thu nhập quốc gia tăng lên từ xuất khẩu phân chim. Tuy nhiên, đến thập niên 1870, tài nguyên này bị cạn kiệt, quốc gia lâm vào tình trạng nợ nần nghiêm trọng, và đấu tranh chính trị lại nổi lên. Peru chiến bại trước Chile trong Chiến tranh Thái Bình Dương 1879–1883, phải nhượng hai tỉnh Arica và Tarapacá theo các hiệp ước Ancón và Lima. Tiếp sau đấu tranh nội bộ hậu chiến là một giai đoạn ổn định dưới sự lãnh đạo của Đảng Bình dân, giai đoạn này kéo dài đến khi bắt đầu chế độ độc tài của Augusto B. Leguía. Đại khủng hoảng khiến Leguía bị hạ bệ, hồi phục rối loạn chính trị, và Đảng Nhân dân Cách mạng châu Mỹ (APRA) nổi lên. Trong ba thập niên sau đó, chính trị Peru có đặc điểm là tình trạng kình địch giữa tổ chức này và một liên minh của giới tinh hoa và quân sự. Năm 1968, Lực lượng vũ trang Peru dưới sự chỉ huy của Tướng General Juan Velasco Alvarado tiến hành đảo chính chống Tổng thống Fernando Belaunde. Chế độ mới cam kết cải cách triệt để nhằm thúc đẩy phát triển, song không nhận được ủng hộ rộng rãi. Năm 1975, Tướng Francisco Morales Bermúdez thay thế Velasco, làm tệ liệt các cải cách, và giám thị việc tái lập chế độ dân chủ. Trong thập niên 1980, Peru phải đối mặt với nợ nước ngoài lớn, lạm phát ngày càng tăng, buôn bán ma túy nổi lên, và bạo lực chính trị quy mô lớn. Trong nhiệm kỳ tổng thống của Alberto Fujimori (1990–2000), quốc gia bắt đầu phục hồi; tuy nhiên, các cáo buộc độc đoán, tham nhũng, và vi phạm nhân quyền buộc Fujimori phải từ nhiệm sau cuộc bầu cử năm 2000 gây tranh cãi. Từ khi chế độ của Fujimori kết thúc, Peru cố gắng chống tham nhũng trong khi duy trì tăng trưởng kinh tế. Chính trị Peru là một nước cộng hòa dân chủ đại nghị tổng thống với một hệ thống đa đảng. Theo hiến pháp hiện nay, Tổng thống là nguyên thủ quốc gia và chính phủ; người này được bầu cho một nhiệm kỳ 5 năm. Tổng thống chỉ định Thủ tướng, và cố vấn trong việc bổ nhiệm các thành viên khác của Hội đồng Bộ trưởng. Nghị viện theo nhất viện chế với 130 thành viên được bầu cho một nhiệm kỳ 5 năm. Các dự luật có thể được nhánh hành pháp hoặc lập pháp đệ trình, chúng sẽ thành luật sau khi được Nghị viện thông qua và được Tổng thống ban hành. Bộ máy tư pháp độc lập trên danh nghĩa, song sự can thiệp của chính quyền đối với các vấn đề pháp luật đã phổ biến trong suốt lịch sử và được cho là vẫn tiếp tục đến nay. Chính phủ Peru được bầu cử trực tiếp, và bầu cử là bắt buộc đối với tất cả công dân từ 18 đến 70 tuổi. Cuộc bầu cử tổ chức vào năm 2011 kết thúc với chiến thắng của ứng cử viên tổng thống Ollanta Humala thuộc liên minh Gana Perú trước Keiko Fujimori thuộc Fuerza 2011. Nghị viện hiện gồm có Gana Perú (47 ghế), Fuerza 2011 (37 ghế), Alianza Parlamentaria (20 ghế), Alianza por el Gran Cambio (12 ghế), Solidaridad Nacional (8 ghế) và Concertación Parlamentaria (6 ghế). Các xung đột biên giới với các quốc gia láng giềng chi phối quan hệ đối ngoại của Peru, hầu hết chúng đều được giải quyết xong trong thế kỷ XX. Hiện nay, Peru có tranh chấp giới hạn hàng hải với Chile trên Thái Bình Dương. Peru là một thành viên tích cực của một số tổ chức khu vực và là một trong số các quốc gia sáng lập Cộng đồng các quốc gia Andes. Quốc gia này cũng tham gia các tổ chức quốc tế như Tổ chức các quốc gia châu Mỹ và Liên Hợp Quốc. Quân đội Peru gồm có lực lượng lục quân, hải quân và không quân; nhiệm vụ chính của quân đội Peru là bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia. Các lực lượng vũ trang trực thuộc Bộ Quốc phòng và Tổng thống với vai trò là Tổng tư lệnh. Chế độ cưỡng bách tòng quân bị bãi bỏ vào năm 1999, thay thế là phục vụ quân sự tự nguyện. Phân cấp hành chính Peru được chia thành 25 vùng và tỉnh Lima. Mỗi vùng có một chính phủ được bầu gồm có Thống đốc và hội đồng, họ phục vụ theo các nhiệm kỳ 4 năm. Các chính phủ này đặt kế hoạch phát triển vùng, thực hiện các dự án đầu tư công, xúc tiến hoạt động kinh tế, và quản lý tài sản công. Tỉnh Lima được quản lý bởi một hội đồng thành phố. Mục tiêu của việc ủy thác quyền cho các chính phủ địa phương và thành phố, cùng với các hành động khác, là nhằm cải thiện sự tham gia của quần chúng. Các tổ chức phi chính phủ đóng một vai trò quan trọng trong quá trình phân tán quyền lực và vẫn có ảnh hưởng đến chính trị địa phương. Vùng Tỉnh Lima Kinh tế Kinh tế Peru được Ngân hàng Thế giới phân loại là thu nhập trung bình cao và lớn thứ 52 thế giới và lớn thứ 7 khu vực Mỹ Latin. Năm 2011, Peru là một trong các nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất thế giới nhờ bùng nổ kinh tế trong thập niên 2000. Peru có chỉ số phát triển con người 0,752 theo số liệu năm 2011. Về mặt lịch sử, kinh tế quốc gia gắn liền với xuất khẩu, thu về ngoại tệ mạnh để chi cho nhập khẩu và thanh toán nợ nước ngoài. Mặc dù chúng đem đến thu nhập đáng kể, song tăng trưởng độc lập và phân bổ thu nhập công bằng hơn tỏ ra khó đạt được. Theo dữ liệu năm 2010, 31,3% tổng dân số Peru là người nghèo. Chính sách kinh tế của Peru thay đổi nhiều trong những thập niên qua. Chính phủ của Juan Velasco Alvarado (1968–1975) tiến hành các cải cách triệt để, trong đó có cải cách ruộng đất, quốc hữu hóa các công ty ngoại quốc, mở đầu hệ thống kinh tế kế hoạch, và thiết lập một khu vực quốc doanh lớn. Mục tiêu của các chính sách này là tái phân phối thu nhập và chấm dứt sự phụ thuộc kinh tế vào các quốc gia phát triển song kết quả là thất bại. Bất chấp kết quả này, hầu hết các cải cách vẫn được thực hiện cho đến thập niên 1990, khi chính phủ tự do hóa của Alberto Fujimori chấm dứt việc kiểm soát giá, bảo hộ mậu dịch, hạn chế đầu tư trực tiếp nước ngoài, và hầu hết quyền sở hữu nhà nước trong các công ty. Các cải cách dẫn đến tăng trưởng kinh tế liên tục từ 1993, ngoại trừ một sự sụt giảm sau Khủng hoảng tài chính châu Á 1997. Các ngành dịch vụ chiếm 53% tổng sản phẩm quốc nội của Peru, kế tiếp là ngành chế tạo (22,3%), công nghiệp khai khoáng (15%), và các loại thuế (9,7%). Tăng trưởng kinh tế gần đây được thúc đẩy thông qua ổn định kinh tế vĩ mô, cải thiện các điều kiện thương mại, tăng đầu tư và tiêu dùng. Mậu dịch dự kiến sẽ tăng hơn nữa sau khi thực hiện một thỏa thuận mậu dịch tự do với Hoa Kỳ được ký vào năm 2006. Các mặt hàng xuất khẩu chính của Peru là đồng, vàng, thiếc, hàng dệt may, và bột cá; Các đối tác mậu dịch chính của Peru là Hoa Kỳ, Trung Quốc, Brasil và Chile. Nhân khẩu Peru là một quốc gia đa dân tộc, hình thành từ các nhóm dân tộc khác nhau trong năm thế kỷ. Người da đỏ sống ở lãnh thổ Peru ngày nay từ hàng thiên niên kỷ trước khi người Tây Ban Nha chinh phục khu vực vào thế kỷ XVI; theo sử gia Noble David Cook thì dân số của họ giảm từ khoảng 5–9 triệu vào thập niên 1520 xuống khoảng 600.000 vào năm 1620 với nguyên nhân chủ yếu là các bệnh truyền nhiễm. Người Tây Ban Nha và người da đen châu Phi đến với số lượng lớn trong thời thuộc địa, họ hỗn chủng trên quy mô lớn với nhau và với người bản địa. Những người Âu đến từ Ý, Tây Ban Nha, Pháp, Anh Quốc, và Đức dần nhập cư đến Peru sau khi quốc gia này độc lập. Peru giải phóng nô lệ da đen vào năm 1854. Người Hoa đến vào thập niên 1850, họ thay thế các công nhân nô lệ, và từ đó có ảnh hưởng rất lớn đối với xã hội Peru. Cuộc điều tra dân số năm 1940 là cuộc điều tra dân số cuối cùng tại Peru nỗ lực phân loại các cá nhân theo dân tộc, khi đó 53% dân số nhận là người da trắng hoặc mestizo (lai da trắng và da đỏ) và 46% nhận là người da đỏ. Theo CIA World Factbook, phần lớn dân cư Peru là người da đỏ, hầu hết là Quechua và Aymara, sau đó là người mestizo. Trong một cuộc nghiên cứu vào năm 2006 của Cơ quan quốc gia về Thống kê và Tin học (INEI), dân cư Peru phần lớn nhận là mestizo (59,5%), sau đó là Quechua (22,7%), Aymara (2,7%), Amazon (1,8%), đen/Mulatto (1,6%), trắng (4,9%), và "khác" (6,7%). Với khoảng 29,5 triệu cư dân, Peru là quốc gia đông dân thứ 5 tại Nam Mỹ. Mức tăng trưởng dân số giảm từ 2,6% xuống 1,6% trong giai đoạn 1950 đến 2000; dân số Peru dự kiến đạt khoảng 42 triệu vào năm 2050. Năm 2007, 75,9% dân cư Peru sống tại các khu vực đô thị và 24,1% tại các khu vực nông thôn. Các thành phố chính là Lima, Arequipa, Trujillo, Chiclayo, Piura, Iquitos, Cusco, Chimbote, và Huancayo; các thành phố này đều có trên 250.000 cư dân theo điều tra dân số năm 2007. Có 15 bộ lạc da đỏ chưa tiếp xúc tại Peru. Tiếng Tây Ban Nha là ngôn ngữ thứ nhất của 83,9% người Peru 5 tuổi hoặc lớn hơn theo số liệu năm 2007. Tiếng Tây Ban Nha cùng tồn tại với một số ngôn ngữ bản địa, thông dụng nhất là tiếng Quechua được 12% dân số nói. Các ngôn ngữ bản địa và ngoại quốc khác được nói nhiều vào thời điểm đó lần lượt chiếm 2,7% và 0,1% dân số Peru. Theo điều tra dân số năm 2007, 81,3% dân số trên 12 tuổi mô tả bản thân là tín hữu Công giáo, 12,5% là tín hữu Tin Lành, 3,3% theo các giáo phái khác, và 2,9% không tôn giáo. Tỷ lệ biết chữ ước tính là 92,9% trong năm 2007; mức này tại các khu vực nông thôn (80,3%) thấp hơn các khu vực thành thị (96,3%). Giáo dục tiểu học và trung học là bắt buộc và các trường công miễn học phí. Văn hóa Văn hóa Peru chủ yếu bắt nguồn từ truyền thống của người da đỏ và người Tây Ban Nha, tuy nhiên nó cũng chịu ảnh hưởng từ các dân tộc Á, Phi, và Âu khác. Truyền thống nghệ thuật của Peru có truy nguyên từ những đồ gốm, đồ dệt may, trang sức, và công trình điêu khắc của văn hóa tiền Inca. Người Inca duy trì các nghề thủ công này và đạt được những thành tựu về kiến trúc như xây dựng Machu Picchu. Baroque chi phối nghệ thuật Peru thuộc địa, song cũng có cải biến theo truyền thống bản địa. Trong giai đoạn thuộc địa, nghệ thuật hầu hết tập trung vào chủ đề tôn giáo; biểu hiện là số lượng nhà thờ đông đảo trong thời kỳ này và các bức họa của trường phái Cuzco. Nghệ thuật đình đốn sau khi độc lập, kéo dài cho đến khi ý thức hệ Indigenismo nổi lên vào đầu thế kỷ XX. Từ thập niên 1950, nghệ thuật Peru được chiết trung hóa và định hình bởi cả dòng chảy nghệ thuật ngoại quốc và địa phương. Văn chương Peru bắt nguồn từ truyền thống truyền khẩu của các nền văn minh thời kỳ tiền Colombo. Người Tây Ban Nha đem đến chữ viết vào thế kỷ XVI; văn chương thuộc địa bao gồm các biên niên sử và văn chương tôn giáo. Sau khi độc lập, chủ nghĩa phong tục và chủ nghĩa lãng mạn trở thành những thể loại văn học phổ biến nhất, minh chứng qua các tác phẩm của Ricardo Palma. Phong trào Indigenismo vào đầu thế kỷ XX do các nhà văn như Ciro Alegría và José María Arguedas lãnh đạo. Văn chương Peru hiện đại được thừa nhận là nhờ vào các tác gia như Mario Vargas Llosa, ông là một thành viên quan trọng của phong trào Mỹ Latinh bùng nổ. Ẩm thực Peru pha trộn giữa các món ăn da đỏ và Tây Ban Nha, với ảnh hưởng mạnh của cách nấu ăn kiểu Trung Hoa, châu Phi, Ả Rập, Ý, và Nhật Bản. Các món ăn phổ biến là anticuchos, ceviche, và pachamanca. Khí hậu đa dạng của Peru tạo diều kiện cho sự phát triển của các loại thực vật và động vật khác nhau, là một điều tốt cho ẩm thực. Âm nhạc Peru có nguồn gốc Andes, Tây Ban Nha và châu Phi. Vào thời kỳ tiền Tây Ban Nha, biểu hiện âm nhạc có sự khác biệt lớn giữa các vùng; quena và tinya là hai nhạc cụ phổ biến. Người Tây Ban Nha đưa đến nhiều nhạc cụ mới, chẳng hạt như ghi-ta và hạc, kéo theo sự phát triển của các nhạc cụ tạp giao như charango. Đóng góp của người gốc Phi cho âm nhạc Peru gồm các nhịp điệu của họ và cajón, một nhạc cụ gõ. Vũ đạo dân gian Peru gồm có marinera, tondero, zamacueca, diablada và huayno. Xem thêm Lịch sử Peru Văn hóa Peru Ẩm thực Peru Ghi chú Chú thích Tham khảo Bailey, Gauvin Alexander. Art of colonial Latin America. Luân Đôn: Phaidon, 2005, ISBN 0714841579. Constitución Política del Perú . 29 tháng 12 năm 1993. Custer, Tony. The Art of Peruvian Cuisine. Lima: Ediciones Ganesha, 2003, ISBN 9972920305. Garland, Gonzalo. "Perú Siglo XXI", series of 11 working papers describing sectorial long-term forecasts, Grade, Lima, Peru, 1986-1987. Garland, Gonzalo. Peru in the 21st Century: Challenges and Possibilities in Futures: the Journal of Forecasting, Planning and Policy, Volume 22, Nº 4, Butterworth-Heinemann, Luân Đôn, England, May 1990. Gootenberg, Paul. (1991) Between silver and guano: commercial policy and the state in postindependence Peru. Princeton: Princeton University Press ISBN 0691023425. Gootenberg, Paul. (1993) Imagining development: economic ideas in Peru's "fictitious prosperity" of Guano, 1840–1880. Berkeley: University of California Press, 1993, 0520082907. Instituto de Estudios Histórico–Marítimos del Perú. El Perú y sus recursos: Atlas geográfico y económico. Lima: Auge, 1996. Instituto Nacional de Estadística e Informática. . Lima: INEI, 2005. Instituto Nacional de Estadística e Informática. Perfil sociodemográfico del Perú. Lima: INEI, 2008. Instituto Nacional de Estadística e Informática. Perú: Estimaciones y Proyecciones de Población, 1950–2050. Lima: INEI, 2001. Klarén, Peter. Peru: society and nationhood in the Andes. New York: Oxford University Press, 2000, ISBN 0195069285. . ngày 28 tháng 9 năm 1999. Ley N° 27867, Ley Ley Orgánica de Gobiernos Regionales. ngày 16 tháng 11 năm 2002. Martin, Gerald. "Literature, music and the visual arts, c. 1820–1870". In: Leslie Bethell (ed.), A cultural history of Latin America. Cambridge: University of Cambridge, 1998, các trang 3–45. Martin, Gerald. "Narrative since c. 1920". In: Leslie Bethell (ed.), A cultural history of Latin America. Cambridge: University of Cambridge, 1998, pp. 133–225. Porras Barrenechea, Raúl. El nombre del Perú. Lima: Talleres Gráficos P.L. Villanueva, 1968. Romero, Raúl. "La música tradicional y popular". In: Patronato Popular y Porvenir, La música en el Perú. Lima: Industrial Gráfica, 1985, pp. 215–283. Romero, Raúl. "Andean Peru". In: John Schechter (ed.), Music in Latin American culture: regional tradition. New York: Schirmer Books, 1999, pp. 383–423. Thorp, Rosemary and Geoffrey Bertram. Peru 1890–1977: growth and policy in an open economy. New York: Columbia University Press, 1978, ISBN 0231034334 Đọc thêm Kinh tế Banco Central de Reserva. Cuadros Anuales Históricos. Instituto Nacional de Estadística e Informática. Perú: Perfil de la pobreza por departamentos, 2004–2008. Lima: INEI, 2009. Concha, Jaime. "Poetry, c. 1920–1950". In: Leslie Bethell (ed.), A cultural history of Latin America. Cambridge: University of Cambridge, 1998, pp. 227–260. Liên kết ngoài Hồ sơ quốc gia từ BBC News Peru từ Encyclopædia Britannica Peru trên UCB Libraries GovPubs Cổng thông tin điện tử của Chính phủ Peru Cộng hòa Quốc gia và vùng lãnh thổ nói tiếng Tây Ban Nha Quốc gia Nam Mỹ Quốc gia thành viên của Liên Hợp Quốc Cộng đồng Andes Quốc gia thành viên Liên minh các Quốc gia Nam Mỹ Cựu thuộc địa Tây Ban Nha
27743
https://vi.wikipedia.org/wiki/EMS
EMS
EMS (express mail service) là loại dịch vụ nhận gửi, vận chuyển và phát các loại thư, tài liệu, vật phẩm hàng hoá (bưu gửi) theo chỉ tiêu thời gian được Tổng Công ty Bưu điện Việt Nam công bố trước. Lịch sử hình thành Tổng công ty Chuyển phát nhanh Bưu điện - CTCP đã được thành lập vào ngày 24/01/2005 theo Quyết định phê duyệt Đề án số 29/QĐ-ĐABC-HĐQT của Hội đồng quản trị Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam, nay là Tập đoàn Bưu chính viễn thông Việt Nam (VNPT) với 3 chi nhánh tại Hà Nội, Đà Nẵng và TP. Hồ Chí Minh. Chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/01/2006, là đơn vị duy nhất được Tổng công ty Bưu điện Việt Nam cho phép quản lý, khai thác và kinh doanh dịch vụ chuyển phát nhanh EMS trong nước và quốc tế. EMS cũng là thương hiệu dịch vụ chuyển phát toàn cầu của liên minh bưu chính thế giới UPU, hiện đang được khai thác bởi bưu chính của gần 200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới. Nhân sự Với gần 2.300 CBCNV tại Hà Nội, Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh và các nhân viên kinh doanh tại một số thị trường trọng điểm trên toàn mạng lưới, Tổng công ty đã xây dựng được nguồn nhân lực chất lượng cao, tinh thông nghiệp vụ, giàu kinh nghiệm và nhiệt huyết với nghề. Tổng công ty luôn xây dựng các cơ chế, chính sách thu hút lực lượng lao động chất lượng cao với các chính sách đãi ngộ phù hợp để khuyến khích và phát huy tối đa năng lực, tạo điều kiện để các cá nhân phát triển và yên tâm cống hiến. Mạng vận chuyển Mạng đường thư cấp 1 hiện có 62 đường thư chuyên ngành và phụ trợ, hàng ngày tổ chức 120 chuyến thư với tổng số gần 41.000 km xe lăn bánh/ngày và 3 đường thư xã hội thực hiện vận chuyển giữa các trung tâm khai thác vùng với các trung tâm khai thác tỉnh; 47 đường thư máy bay vận chuyển bưu gửi, 32 đường thư máy bay vận chuyển bưu gửi EMS, giao nhận với 14 sân bay trong nước. Mạng đường thư cấp 2 thực hiện vận chuyển giữa các trung tâm khai thác tỉnh và các huyện với 380 tuyến đường thư, tổng chiều dài 28.000 km, giao nhận với gần 1.600 bưu cục. Mạng đường thư cấp 3: gần 3.600 tuyến đường thư, tổng chiều dài 72.000 km. Mạng đường thư quốc tế gồm 122 đường bay trực tiếp trao đổi chuyến thu với 102 bưu chính các quốc gia và vùng lãnh thổ. Hệ thống khai thác Ngoài các Trung tâm phát hàng tại Hà Nội, Đà Nẵng và TP. Hồ Chí Minh, các bưu gửi EMS được phát tới người nhận thông qua hệ thống phát 63 Bưu điện tỉnh, thành phố trực thuộc Tổng Công ty Bưu điện Việt Nam. Tại các Bưu điện trung tâm tỉnh, huyện, khu vực đã thành lập 655 Bưu cục phát và giao nhiệm vụ quản lý tuyến phát cho 817 Bưu cục giao dịch cấp 3 để tổ chức đi phát, thu gom tại địa chỉ khách hàng và quản lý khâu sau phát. Tại các địa bàn trung tâm tỉnh lỵ, huyện lỵ và các xã có gần 11.800 bưu tá thực hiện phát, thu gom bưu gửi và chuyển phát bưu phẩm, bưu kiện từ trung tâm huyện xuống các bưu cục 3, điểm BĐ-VHX với tổng số tuyến phát là 11.900 tuyến. Chất lượng Chỉ tiêu thời gian toàn trình của Bưu gửi EMS trong nước từ 24 – 48 giờ. Chỉ tiêu thời gian toàn trình của bưu gửi EMS từ Việt Nam đi các nước từ 2 đến 10 ngày (Châu Á: Từ 2 đến 5 ngày, châu Âu: 4 đến 7 ngày, Châu Úc: 4 đến 7 ngày, Châu Mỹ: 7 đến 10 ngày, Châu Phi: 7 đến 10 ngày). Chỉ tiêu thời gian trên không kể ngày nghỉ tết Nguyên đán (Đối với địa chỉ người nhận tại nhà riêng), không kể ngày nghỉ cuối tuần, ngày lễ, tết (đối với địa chỉ người nhận là cơ quan). Đối với bưu gửi EMS quốc tế thời gian toàn trình không kể ngày nghỉ cuối tuần, ngày lễ, tết. Nếu bưu gửi EMS quốc tế có nội dung là hàng hoá thời gian toàn trình phải cộng thêm thời gian kiểm hoá hải quan tại Bưu chính nước đến. Phạm vi hoạt động Hiện nay dịch vụ EMS đã được mở rộng phạm vi phục vụ đến bưu điện trung tâm của 63 tỉnh thành trong cả nước và 51 nước trên thế giới. Tham khảo Thông tin liên lạc zh:特快专递
27749
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%E1%BB%A5%20s%C3%A1t%20h%E1%BA%A1i%20du%20h%E1%BB%8Dc%20sinh%20V%C5%A9%20Anh%20Tu%E1%BA%A5n
Vụ sát hại du học sinh Vũ Anh Tuấn
Vụ sát hại du học sinh Vũ Anh Tuấn (1984-2004), tai Nga là một vụ giết người này gây căm phẫn trong dư luận xã hội Nga và các nước có sinh viên theo học tại Nga. Vụ án Vào khoảng 11 giờ đêm ngày 13 tháng 10 năm 2004, Vũ Anh Tuấn trên đường trở về nhà sau khi dự sinh nhật bạn mình, đến bến tàu điện ngầm gần Quảng trường Lev Tolstoi thì bất ngờ bị một đám người từ 16 đến 18 tên, mặc quần áo đen, đuổi đánh và dùng dao đâm nhiều nhát làm Tuấn chết ngay tại chỗ. Vụ giết người này đã gây căm phẫn trong dư luận xã hội Nga và các nước có sinh viên theo học tại Nga. Viện kiểm sát thành phố St. Peterburg đã khởi tố 17 bị can liên quan đến vụ án mạng. 14 tên trong số đó bị khởi tối với tội cố ý giết người vì kỳ thị chủng tộc. Xử án Ngày 17 tháng 10 năm 2006, tòa án thành phố St. Petersburg tuyên bố vô tội cho toàn bộ 17 nghi phạm trong vụ giết hại Vũ Anh Tuấn. Trong đó, 8 bị cáo được tuyên trắng án hoàn toàn và 9 người còn lại bị buộc tội liên quan đến các vụ tấn công khác nhằm vào người nước ngoài, trong đó có công dân Ghana, Azerbaijan, Palestine và Trung Quốc. Trong số 9 bị cáo kể trên, chỉ có hai người bị buộc tội hằn thù dân tộc, những tên còn lại bị buộc tội côn đồ và cướp của. Theo báo Tuổi trẻ , phán quyết này ngược với kết luận điều tra của cảnh sát St. Petersburg và bản cáo trạng của công tố nhà nước của Nga. Phản ứng Tối ngày 17-10, Viện Dumar quốc gia Nga đánh giá phán quyết của Hội đồng bồi thẩm là "quá nhẹ, đến mức không thể biện luận được". Ngày 19-10, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại LB Nga, ông Nguyễn Văn Ngạnh, đã gặp đại diện Bộ Ngoại giao Nga để bày tỏ quan điểm của phía Việt Nam. Cùng ngày, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Dũng ra tuyên bố: "Chúng tôi rất lấy làm tiếc khi thủ phạm sát hại sinh viên VN Vũ Anh Tuấn vẫn chưa được kết luận và trừng trị đích đáng. Việc sát hại dã man sinh viên Vũ Anh Tuấn ngày 13-10-2004 ở Saint Petersburg là một vụ án rất nghiêm trọng, gây xúc động trong dư luận VN và Liên bang Nga và đi ngược lại quan hệ truyền thống tốt đẹp giữa nhân dân VN và nhân dân Liên bang Nga." Ông đề nghị các cơ quan bảo vệ pháp luật thành phố Saint Petersburg nói riêng và của Liên bang Nga nói chung nhanh chóng điều tra, tìm ra thủ phạm đã sát hại sinh viên Vũ Anh Tuấn. Bên cạnh đó, Việt Nam yêu cầu các cơ quan chức năng của Liên bang Nga cần có những biện pháp cấp bách, hữu hiệu nhằm bảo đảm an ninh cho cộng đồng người Việt Nam nói chung và sinh viên Việt Nam đang theo học tại Liên bang Nga nói riêng. Ngày 25-10, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã gửi Công hàm tới Đại sứ quán Liên bang Nga tại Hà Nội yêu cầu phía Nga thực hiện các biện pháp cần thiết, nhanh chóng điều tra tìm ra thủ phạm đã sát hại sinh viên Vũ Anh Tuấn, xét xử nghiêm minh và trừng trị thích đáng theo quy định của pháp luật. Công hàm còn nói rằng phán quyết của Tòa án thành phố Saint Petersburg có thể làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình cảm sâu đậm giữa nhân dân hai nước Việt Nam và Nga. Các sinh viên tại Nga kêu gọi tổ chức các cuộc biểu tình vào ngày 23-10-2006. Chú thích Liên kết ngoài Tin về vụ giết Vũ Anh Tuấn đăng trên báo Vietnam Net Ngày 24-4: xét xử vụ giết hại Vũ Anh Tuấn Nga xử trắng án cho nghi phạm giết Vũ Anh Tuấn Vụ án Quan hệ Nga - Việt
27750
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFc%20n%C3%B3n%20k%E1%BB%B3%20di%E1%BB%87u
Chiếc nón kỳ diệu
Chiếc nón kỳ diệu là một trò chơi truyền hình do Đài Truyền hình Việt Nam phối hợp cùng Vietba Media thực hiện, dựa trên trò chơi Wheel of Fortune (tạm dịch: Vòng quay may mắn) phát sóng từ ngày 6/1/1975 tại Mỹ. Chương trình được lên sóng vào các ngày thứ 7 hàng tuần trên kênh VTV3 từ ngày 12/5/2001 đến hết ngày 24/12/2016, với tổng cộng 811 tập trong vòng 16 năm đã được lên sóng. Thể lệ Thể lệ chung Ba người chơi lần lượt quay trên một mặt phẳng hình tròn (chiếc nón) được chia làm các ô để giành quyền đoán chữ cái trong một cụm từ cho trước và ghi điểm, điểm số của từng người chơi sẽ quyết định phần thưởng bằng tiền mặt. Ở mỗi vòng, mỗi người chơi sẽ đoán chữ cái sau khi quay nón, quay vào ô bao nhiêu điểm thì số điểm đó sẽ được nhân với số chữ cái đoán đúng, nếu đoán sai chữ cái hoặc sau 5 giây không trả lời thì bị mất lượt và bị tính 1 lỗi. Nếu người chơi bị tính 3 lỗi liên tục thì sẽ bị loại khỏi vòng chơi và mất hết số điểm của vòng chơi đó. Nếu đoán đúng chữ cái thì số lỗi sẽ được xóa hết và trở về 0. Người chơi sau khi đoán đúng chữ cái có quyền quay tiếp hoặc giải luôn toàn bộ ô chữ (nếu tất cả các chữ cái đã được lật thì phải trả lời). Nếu giải sai ô chữ, người chơi sẽ bị loại. Nếu 1 người chơi bị loại thì người tiếp theo phải quay và đoán, cứ như vậy cho đến khi tất cả 3 người đều bị loại. Khi đó, một khán giả bất kỳ tại trường quay sẽ được MC lựa chọn để giải ô chữ. Một phần quà sẽ được dành cho khán giả đó nếu giải đúng ô chữ; trong trường hợp trả lời sai ô chữ hoặc khán giả không có câu trả lời, MC sẽ mời người mẫu lật mở ô chữ. Đặc biệt, theo luật của chương trình, trong trường hợp một người chơi nào đó giải được ô chữ khi chưa ghi được điểm nào thì người chơi đó sẽ được một số điểm nhất định từ chương trình: 200 điểm (12/5/2001 - 16/05/2009), 300 điểm (23/5/2009 - 02/02/2013), 500 điểm (9/2/2013 - 24/12/2016). Ở mỗi vòng, chỉ duy nhất người giải được ô chữ của vòng đó mới được nhận số tiền thưởng từ số điểm giành được của vòng chơi đó. Thể lệ khác biệt từng giai đoạn 12/5/2001 - 10/2/2007: Người chơi đứng cạnh MC sẽ quay đầu tiên trong vòng 1 và không có vòng đoán nhanh. 17/2/2007 - 16/5/2009: Mỗi vòng có 3 chủ đề, người chơi đứng cạnh MC sẽ chọn chủ đề cho vòng 1. Ở các vòng sau, người kế tiếp sẽ được chọn chủ đề. 23/5/2009 - 31/12/2011, 5/5/2012 - 24/12/2016: Trò chơi bắt đầu với hai vòng đoán nhanh, với mỗi vòng đoán nhanh, người chiến thắng sẽ được số điểm tích luỹ và đặc quyền như sau: Trong 3 giai đoạn trên, có 3 vòng chơi. Sau 3 vòng chơi chính và 2 vòng đoán nhanh (nếu có), mỗi người chơi sẽ mang về số tiền được quy đổi từ tổng số điểm tích lũy được (1.000 đồng nhân với tổng số điểm) cùng các phần quà hiện vật (nếu có) và người có số điểm cao nhất sẽ lọt vào vòng đặc biệt. Trong trường hợp nếu có hai hoặc cả ba người chơi có số điểm bằng nhau, họ sẽ phải đoán ô chữ phụ (không tính điểm). Người đoán đúng ô chữ phụ sẽ được vào vòng đặc biệt. 7/1/2012 - 28/4/2012: Có 3 vòng loại, mỗi vòng có 3 người chơi. MC sẽ giới thiệu nhanh từng người chơi một. Sau đó, người chơi đứng cạnh MC sẽ quay đầu tiên. 3 người chơi chiến thắng trong 3 vòng loại sẽ lọt vào vòng chung kết của chương trình (tuy nhiên, nếu có một vòng loại mà không có người chơi nào chiến thắng thì vòng chung kết sẽ chỉ có hai người chơi). Người chiến thắng vòng chung kết sẽ lọt vào vòng đặc biệt. Nếu trong 3 vòng loại chỉ có một người chiến thắng thì người chơi đó được vào thẳng vòng đặc biệt. Nếu không có người chơi nào chiến thắng ở vòng loại hoặc vòng chung kết thì chương trình sẽ kết thúc sớm. Cuối chương trình, người chơi sẽ nhận được số tiền là tổng số điểm ghi được của vòng loại và vòng chung kết nhân với 1.000 đồng. Vòng đặc biệt 12/5/2001 - 17/5/2003: Người chơi có số điểm cao nhất được quyền quyết định có vào vòng đặc biệt hay không. Nếu tham gia vòng đặc biệt, người chơi sẽ có 30 giây để suy nghĩ, hết thời gian thì người chơi phải trả lời một đáp án duy nhất. Trước đó, người chơi được quyền đoán trước một số lượng chữ tùy vào số chữ cái trong ô chữ (cứ 5 chữ có trong ô chữ gốc sẽ nhận 1 chữ được chọn). Nếu đoán đúng ô chữ thì người chơi sẽ có được giải thưởng đã quay được trước đó, nếu không thì số điểm của người chơi sẽ bị chia đôi. Nếu không chơi vòng đặc biệt thì quyền quyết định sẽ qua người điểm cao tiếp theo. Nếu cả 3 người chơi đều không tham dự vòng đặc biệt thì chương trình sẽ kết thúc. 24/5/2003 - 15/5/2004: Người chơi có số điểm cao nhất được vào vòng đặc biệt luôn và luật chơi tương tự như vậy, tuy nhiên người chơi vẫn được giữ toàn bộ số điểm của mình nếu không đoán đúng ô chữ. 22/5/2004 - 10/2/2007: Người chơi sẽ có 30 giây suy nghĩ, sau đó có thêm 30 giây để trả lời và có thể thay đổi đáp án liên tục cho đến khi tìm được đáp án đúng hoặc hết giờ. Đúng ở phương án nào thì đồng hồ sẽ dừng lại và người chơi sẽ chiến thắng ngay lập tức. 17/2/2007 - 31/12/2011: Người chơi sẽ có 10 giây suy nghĩ, sau đó có thêm 10 giây để trả lời các đáp án. Chương trình sẽ ghi nhận tất cả các đáp án mà người chơi đưa ra, nếu trong các đáp án có đáp án đúng thì thắng cuộc. Trước đó, người chơi sẽ quay nón để tìm mức tiền thưởng nhận được nếu đoán đúng ô chữ. Phần thưởng được tính ở bên phải kim. Trước đây sẽ có các phong bì có chứa phần thưởng là sản phẩm điện máy (17/2/2007 - 29/12/2007) và phần thưởng bằng tiền mặt gồm: 10 triệu, 15 triệu, 20 triệu, 30 triệu, 40 triệu (5/1/2008 - 16/5/2009). 7/1/2012 - 28/4/2012: Luật chơi vẫn như trước đó, chỉ khác là người chơi sẽ có 30 giây suy nghĩ và 10 giây trả lời. Nếu đúng thì sẽ được mức tiền thưởng mà người chơi đã quay trước trong 4 mức tiền thưởng gồm: 5.000.000 đồng, 10.000.000 đồng, 20.000.000 đồng & 30.000.000 đồng. Mức tiền thưởng mà người chơi quay được sẽ được tính ở bên trái kim. 5/5/2012 - 24/12/2016: Luật chơi giống như trước, chỉ khác là người chơi có thể đoán ô chữ trước khi quay chiếc nón để tìm mức tiền thưởng mà người chơi có thể đạt được nếu đoán đúng ô chữ. Có 8 ô tiền thưởng gồm: 2 ô 5.000.000 đồng, 2 ô 10.000.000 đồng, 2 ô 20.000.000 đồng & 2 ô 30.000.000 đồng. Nếu chọn giải ô chữ trước và không giải đúng ô chữ, người chơi sẽ không được quyền quay nón. Vòng chơi dành cho khán giả Một khán giả trong trường quay sẽ được MC lựa chọn để giải một ô chữ cho sẵn. Nếu đoán đúng, khán giả đó sẽ nhận được quà của chương trình và kèm theo một phần quà gia dụng. Vòng chơi này diễn ra trước vòng đặc biệt. Từ ngày 7/1/2012 - 28/4/2012, vòng khán giả diễn ra trước vòng chung kết (nếu có 2 hoặc 3 người) hoặc vòng đặc biệt (có 1 người) hoặc cuối chương trình (nếu không ai chiến thắng ở vòng loại). Những thay đổi Từ ngày 3/1/2004, chiếc nón của Chiếc nón kỳ diệu có nhận diện mới thay cho nhận diện cũ (áp dụng từ 12/5/2001 đến 27/12/2003), với các ô 100, 300 - 900 điểm, các ô đặc biệt trên sườn nón màu đỏ được giữ nguyên. Tuy nhiên, màu của tên các ô trên thay đổi, chúng được áp dụng cho đến 27/5/2006 và cho cả format 3/6/2006 - 10/2/2007. Từ 17/2/2007, ô 200 điểm đã được thêm vào, đồng thời áp dụng thiết kế hoàn toàn mới của chiếc nón và nhạc khi quay nón, áp dụng cho đến 16 tháng 5 năm 2009. Sau đó, đến giai đoạn 23/5/2009 - cuối năm 2011, phần chiếc nón tiếp tục được làm mới. Từ đầu năm 2012 cho đến khi chương trình kết thúc, ngoài phiên bản mới, Chiếc nón kỳ diệu còn có sân khấu mới, các nhạc hiệu của chương trình (bao gồm nhạc hiệu mở đầu, nhạc hiệu kết thúc, nhạc tính giờ, nhạc nền quay nón, âm thanh lật ô chữ,...) cũng được làm mới hoàn toàn (được sáng tác và biên soạn bởi nhạc sĩ Lưu Hà An) và được áp dụng cho đến khi chương trình kết thúc. Đồng thời, ô Gấp đôi đổi tên thành ô Nhân đôi, các ô 1000 và 2000 điểm được thêm vào để tạo cơ hội cho người chơi bứt phá số điểm hiện có, nhận diện tên các ô đặc biệt thay đổi hoàn toàn, đồng nhất với nhận diện tên các ô số điểm, các ô kéo dài vào trong cả tâm chiếc nón, đổi mới hoàn toàn chiếc nón (áp dụng cho đến hết năm 2014). Kể từ tháng 5 năm 2014, dấu cách đã được thêm vào ô chữ. Trước đó thì ô chữ được viết liền (ngoại trừ trường hợp ô chữ xuống dòng). Những ô chính trên chiếc nón 12/5/2001 - 12/10/2002 Có 17 ô số điểm gồm: 1 ô 100 điểm, 5 ô 300 điểm, 2 ô 400 điểm, 2 ô 500 điểm, 3 ô 600 điểm, 1 ô 700 điểm, 2 ô 800 điểm & 1 ô 900 điểm, cùng các ô đặc biệt như: Ô Thêm lượt: Người chơi quay vào ô này sẽ được thêm 1 lượt nữa nếu đoán đúng một chữ cái. Lượt này chỉ có giá trị trong vòng chơi, và chỉ được sử dụng trong trường hợp đoán sai ô chữ. Ở phiên bản 2012, nếu 2 người chơi trước bị loại thì người chơi còn lại khi quay vào ô này sẽ không có tác dụng, tuy nhiên người chơi vẫn phải đoán đúng chữ cái để tránh bị tính 1 lỗi. Ô Mất lượt: Người chơi quay vào ô này sẽ bị mất lượt chơi và chuyển sang người kế tiếp (nếu trước đó đã đoán đúng chữ cái khi quay vào ô Thêm lượt thì người chơi được quay tiếp). Ở phiên bản 2012, nếu 2 người chơi trước bị loại thì người chơi còn lại khi quay vào ô này sẽ không có tác dụng và vẫn được quay tiếp. Ô Mất điểm: Người chơi quay vào ô này sẽ mất hết số điểm hiện có và mất lượt chơi. Nếu trước đó người chơi đoán đúng chữ cái khi quay vào ô Thêm lượt thì bị mất điểm nhưng được quay tiếp. Trong trường hợp quay vào ô này khi không có điểm, ô này có chức năng như ô Mất lượt. Ở phiên bản 2012, nếu 2 người chơi trước bị loại thì người chơi còn lại khi quay vào ô này sẽ mất hết số điểm hiện có và được quay tiếp. Ô Gấp đôi: Số điểm hiện có sẽ được gấp đôi nếu như đoán đúng chữ cái. Ví dụ: Người chơi đang có số điểm là 500 điểm và đoán đúng chữ cái M thì người chơi sẽ được gấp đôi số điểm thành 1000 điểm. Nếu người chơi chưa có điểm thì ô này không có tác dụng, tuy nhiên người chơi vẫn phải đoán đúng chữ cái nếu không muốn bị mất lượt quay và bị tính 1 lỗi. Ô Chia đôi: Người chơi bị chia đôi điểm số hiện có nhưng vẫn được đoán chữ cái. Nếu đoán đúng, người chơi sẽ được quay tiếp nhưng không được cộng thêm điểm. Ngược lại, nếu đoán sai, người chơi vẫn bị mất lượt quay và bị tính 1 lỗi như bình thường. Ví dụ: Người chơi đang có 800 điểm thì người chơi sẽ bị chia đôi điểm số thành 400 điểm và đoán đúng chữ cái N thì được quay tiếp. Nếu người chơi chưa có điểm thì ô này không có tác dụng. Ô Phần thưởng: Sẽ có 1 phần thưởng duy nhất. Người chơi chọn 1 trong 2 chiếc hộp bất kì (trong đó có 1 hộp rỗng) mà người chơi nghĩ là có phần thưởng. Ô này sẽ tồn tại cho đến khi có người chọn đúng hộp có phần thưởng. Tuy nhiên, trong một số chương trình đặc biệt, ô này sẽ tồn tại trong suốt cả 3 vòng chơi, phần thưởng đã chọn sẽ được tráo để cả 3 người chơi có thể chọn. Ô May mắn: Người chơi được quyền chọn ngẫu nhiên một trong số các ô chưa được lật. Ví dụ: |T|_| _|_|Ê|_|H_|_|H|V| I |Ê|T |_|A|M|. Người chơi chọn ô thứ 9 từ trái sang phải sẽ có: |T|_| _|_|Ê|_|H_|N|H|V| I |Ê|T |_|A|M|. Số điểm của người chơi sẽ không thay đổi. Khi đoán đúng chữ cái thì được điểm tương ứng, bất kể số chữ cái xuất hiện. 19/10/2002 - 15/5/2004 Như giai đoạn từ 12 tháng 5 năm 2001 đến 12 tháng 10 năm 2002, chỉ khác là ô Phần thưởng sẽ tồn tại cho đến khi có người quay vào ô đó, sẽ có 7 phần thưởng ngẫu nhiên, tương ứng với 7 lá thăm để người chơi lựa chọn. 22/5/2004 - 27/5/2006 Như giai đoạn từ 19 tháng 10 năm 2002 đến 15 tháng 5 năm 2004, chỉ khác là số điểm người chơi quay được sẽ được nhân với số chữ cái tương đương, nếu chữ cái đó xuất hiện trên 2 lần. Số lượng món quà trong ô Phần thưởng giảm xuống còn 5. 3/6/2006 - 10/2/2007 Như giai đoạn từ 22 tháng 5 năm 2004 đến 27 tháng 5 năm 2006, chỉ khác là ô Phần thưởng sẽ tồn tại trong suốt cả ba vòng chơi cho đến khi các phần thưởng được lấy hết (luật này đã được thử nghiệm ở số phát sóng có chủ đề về người cao tuổi vào năm 2001). 17/2/2007 - 16/5/2009 Ở format này, ô Thêm lượt đã được loại bỏ. Thay vào đó là ô 200 điểm, ô Gấp đôi 500 điểm, trong đó có hai game phụ "Xúc xắc 1000 điểm", "Đường trượt 1000 điểm". Ô Phần thưởng sẽ tồn tại cho đến khi có người quay vào ô đó (trừ các số đặc biệt), sẽ có 3 phần thưởng ngẫu nhiên, tương ứng với 3 lá thăm để người chơi lựa chọn. 23/5/2009 - 31/12/2011 Như format trước đó, ô Thêm lượt đã được đưa trở lại chương trình, các trò chơi phụ được loại bỏ. 7/1/2012 - 24/12/2016 Có 18 ô số điểm gồm: 1 ô 100 điểm, 2 ô 200 điểm, 3 ô 300 điểm, 2 ô 400 điểm, 1 ô 500 điểm, 1 ô 600 điểm, 2 ô 700 điểm, 1 ô 800 điểm, 2 ô 900 điểm, 2 ô 1000 điểm & 1 ô 2000 điểm. Quay đúng ô số điểm nào và đoán đúng chữ cái, người chơi sẽ ghi được số điểm đó nhân với số chữ cái đoán được. Ví dụ: Người chơi quay chiếc nón vào ô 800 điểm và đoán đúng được 4 chữ cái C thì người chơi sẽ ghi được 3200 điểm, hoặc quay vào ô 2000 điểm và đoán đúng được 6 chữ cái N thì người chơi sẽ làm một cú bứt phá điểm số với 12000 điểm. Ngoài ra còn có thêm 7 ô đặc biệt: Ô Nhân đôi Ô Chia đôi Ô Thêm lượt Ô Mất lượt Ô Mất điểm Ô May mắn Ô Phần thưởng: Khi quay vào ô này, người chơi sẽ được bốc thăm một trong ba phần thưởng ngẫu nhiên, tương ứng với 3 lá thăm. Từ 7 tháng 1 đến 28 tháng 4 năm 2012, ô này tồn tại ở vòng loại 1 cho đến khi có người quay vào ô đó. Từ 5 tháng 5 năm 2012 đến 24 tháng 12 năm 2016, ô này tồn tại trong suốt vòng 1. Các vòng phụ Ô Bí mật Ô này đã được thêm vào chương trình kể từ ngày 5 tháng 5 năm 2012 đến khi chương trình kết thúc. Ô này sẽ được đặt đè lên các ô bất kỳ trên chiếc nón, trừ các ô 100, 500, 800, 2000 và các ô đặc biệt. Từ 5 tháng 5, 2012 đến 24 tháng 1, 2015, ô Bí mật sẽ được đặt lên chiếc nón trước giờ ghi hình vòng 2. Từ 31 tháng 1, 2015, người dẫn chương trình sẽ trực tiếp đặt các ô Bí mật lên chiếc nón trước sự chứng kiến của 3 người chơi và khán giả. Ô Bí mật này gồm 2 ô, một ô Mất điểm và một ô 3.000.000 đồng. Giống như ô Thêm lượt, thí sinh sẽ chỉ được thực hành khi đoán đúng chữ cái, tuy nhiên người chơi chỉ được biết có bao nhiêu chữ cái đó trong ô chữ gốc sau khi quyết định có lật mở ô Bí mật hay không. Nếu không mở ô Bí mật, người chơi sẽ biết được số chữ cái đã đoán trước đó trong ô chữ gốc và số chữ cái đoán được nhân với 1000 điểm. Trong một số trường hợp, MC có thể cho người chơi đổi ô Bí mật đã chọn để lấy ô Bí mật còn lại. Nếu ô Bí mật mà người chơi chọn là ô Mất điểm, người chơi sẽ bị mất toàn bộ số điểm hiện tại và mất lượt chơi, nếu trước đó đã quay vào ô Thêm lượt thì bị mất toàn bộ số điểm nhưng vẫn được quay tiếp. Nếu ô Bí mật là 3.000.000 đồng, người chơi sẽ lập tức nhận được số tiền đó và được quay tiếp (số tiền này là cố định và được đảm bảo ngay cả khi người chơi quay vào ô Mất điểm hoặc ô Chia đôi ở những lượt quay tiếp theo). Trong trường hợp còn 1 chữ cái mà quay vào ô Bí mật, nếu đoán đúng chữ cái đó và mở ô này, sẽ xảy ra 2 tình huống: Ô Mất điểm, người chơi sẽ mất hết số điểm và chỉ được đọc ô chữ sau khi 2 người chơi còn lại đoán sai ô chữ đó hoặc tính 3 lỗi liên tục, khi đó nếu đoán đúng thì được cộng số điểm cụ thể theo thể lệ chung, nếu cũng đoán sai thì khán giả sẽ đoán ô chữ. Nếu trước đó đã quay vào ô Thêm lượt thì người chơi bị mất toàn bộ số điểm nhưng vẫn được đọc ô chữ. Ô 3.000.000 đồng, người chơi sẽ được nhận thưởng 3.000.000 đồng (số tiền này được đảm bảo ngay cả khi người chơi đoán sai ô chữ ở vòng 2 và được nhận cùng tất cả số tiền quy đổi từ điểm số sau 3 vòng) và được đọc ô chữ. Nếu người chơi không mở ô Bí mật, người chơi được cộng thêm 1000 điểm và được đọc ô chữ. Nhưng ô Bí mật sẽ không còn tồn tại nữa (vì các ô chữ đã được mở hết). Ô Bí mật chỉ dành cho 1 người và chỉ tồn tại đến hết vòng 2 hoặc đến khi có người chơi quyết định mở ô Bí mật. Sau khi ô Bí mật được lật mở, ô này sẽ được lấy ra khỏi chiếc nón và không còn tồn tại trong vòng 2 nữa. Đổi hay không đổi Trò chơi này xuất hiện trong suốt vòng 3 và được thêm vào chương trình kể từ ngày 5 tháng 5 năm 2012. Ở lượt quay đầu tiên, nếu người chơi đoán đúng chữ cái trong ô chữ hoặc quay vào ô May mắn, người chơi có quyền dừng cuộc chơi để lấy phần quà hoặc quay tiếp. Nếu người chơi chọn không tham gia sau khi đoán đúng chữ cái ở lượt đầu tiên thì phải quay và mở hết ô chữ để đoán, nếu không sẽ bị xử thua. Nếu ngay lượt đầu tiên mà đoán sai chữ cái hoặc quay vào ô Mất điểm hay ô Mất lượt, người chơi sẽ không được tham gia vào phần chơi này nữa. Có 4 phần quà, trong đó 2 phần quà là tiền mặt (tổng số tiền trong 2 phần quà này lên đến 10.000.000 đồng) và hai phần quà là lưu vật kỷ niệm của chương trình (trong giai đoạn đầu thì chỉ có 1 phần quà tiền mặt). Trong một số chương trình, sẽ có một phần quà vô giá trị, đó là "1 tràng pháo tay của khán giả". Các phần quà người chơi đã chọn sẽ được đem về cùng tất cả số tiền quy đổi từ điểm số sau 3 vòng. Nếu cả 3 người chơi đều đổi lượt quay để lấy các phần quà thì khán giả sẽ đoán ô chữ. Các trò chơi phụ trước đây Gấp đôi 500 điểm (17/2/2007 - 16/5/2009) Khi quay vào ô này và đoán đúng chữ cái, người chơi sẽ được 500 điểm nhân với số chữ cái đoán đúng. Sau đó người chơi sẽ trả lời câu hỏi phụ của chương trình. Nếu trả lời đúng câu hỏi phụ, người chơi được nhân đôi số điểm mình đang có. Ngoài ra còn có các trò chơi phụ, nếu vượt qua sẽ được cộng 1000 điểm: Xúc xắc 1000 điểm (17/2/2007 - 14/7/2007) Có một hộp chứa 2 viên xí ngầu và 1 bàn. Người chơi sẽ lắc hộp (theo chiều ngang) sau đó mở nắp. Nếu 2 viên xúc xắc khác số thì phải cất vào hộp và lắc lại, ngược lại thì 1 chữ cái sẽ dừng lại từ bộ phận máy tính. Người chơi có tối thiểu 15 giây để tham gia trò chơi này. Tuy nhiên, người chơi có thể kéo dài thời gian chơi bằng cách trả lời các câu hỏi phụ. Mỗi câu trả lời đúng sẽ cộng thêm 15 giây vào tổng thời gian chơi. Có 3 câu hỏi phụ, nên thời gian tối đa để tham gia trò chơi là 1 phút. Trò chơi kết thúc khi hệ thống chọn ra đủ 3 chữ cái (3 lần ra 2 số giống nhau) hoặc khi hết giờ. Sau khi trò chơi kết thúc, người chơi cần cho biết có sử dụng các chữ cái đó trong ô chữ gốc hay không. Nếu không sử dụng các chữ cái thu được hoặc hết giờ mà không thu được chữ cái nào, người chơi sẽ đoán chữ cái mới và nhận 500 điểm nhân với số chữ cái nếu đoán đúng. Nếu đoán sai, người chơi sẽ mất lượt chơi. Nếu sử dụng các chữ cái thu được trong ô chữ gốc: Nếu có ít nhất 1 chữ cái xuất hiện ô chữ gốc thì điểm thưởng bằng tổng số các chữ cái đó nhân với 1000 điểm. Nếu như không có chữ cái nào thì người chơi bị mất lượt chơi. Ô này sẽ tồn tại cho tới khi có người quay vào và tham gia trò chơi đó. Trong trường hợp còn 1 chữ cái mà quay vào ô này, người chơi vẫn có quyền tham gia trò chơi. Nếu 1 trong số những chữ cái thu được xuất hiện trong ô chữ gốc, người tham gia trò chơi này phải đoán đúng ô chữ gốc, nếu như đoán sai thì người tiếp theo sẽ phải đoán ô chữ gốc, nếu vẫn đoán sai thì người cuối cùng phải đoán ô chữ gốc. Nếu cả ba người chơi đều đoán sai thì khán giả đoán đúng ô chữ gốc sẽ nhận được một phần quà của chương trình. Nếu không tham gia trò chơi này, người chơi phải đoán chữ cái, nếu đoán đúng sẽ được 1000 điểm nhân với số chữ cái đoán đúng. Đường trượt 1000 điểm (21/7/2007 - 29/12/2007) Có 2 quả bóng và 1 bàn xoay. MC sẽ quay bàn xoay, còn người chơi sẽ thả 2 quả bóng từ đường ống xuống bàn xoay. Nếu rơi đúng vào lỗ thì 1 chữ cái sẽ dừng lại từ bộ phận máy tính. Người chơi có tối thiểu 15 giây để tham gia trò chơi này. Tuy nhiên, người chơi có thể kéo dài thời gian chơi bằng cách trả lời các câu hỏi phụ. Mỗi câu trả lời đúng sẽ cộng thêm 15 giây vào tổng thời gian chơi. Có 3 câu hỏi phụ, nên thời gian tối đa để tham gia trò chơi là 1 phút. Trò chơi kết thúc khi hệ thống chọn ra đủ 3 chữ cái (bóng được thả rơi đúng vào lỗ 3 lần) hoặc khi hết giờ. Sau khi trò chơi kết thúc, người chơi cần cho biết có sử dụng các chữ cái đó trong ô chữ gốc hay không. Nếu không sử dụng các chữ cái thu được hoặc hết giờ mà không thu được chữ cái nào, người chơi sẽ đoán chữ cái mới và nhận 500 điểm nhân với số chữ cái nếu đoán đúng. Nếu đoán sai, người chơi sẽ mất lượt chơi. Nếu sử dụng các chữ cái thu được trong ô chữ gốc: Nếu có ít nhất 1 chữ cái xuất hiện ô chữ gốc thì được 1000 điểm nhân với số chữ cái tương đương. Nếu như không có chữ cái nào thì người chơi bị mất lượt chơi. Ô này sẽ tồn tại cho tới khi có người quay vào và tham gia trò chơi đó. Trong trường hợp còn 1 chữ cái mà quay vào ô này, người chơi vẫn có quyền tham gia trò chơi. Nếu 1 trong số những chữ cái thu được xuất hiện trong ô chữ gốc, người tham gia trò chơi này phải đoán đúng ô chữ gốc, nếu như đoán sai thì người tiếp theo sẽ phải đoán ô chữ gốc, nếu vẫn đoán sai thì người cuối cùng phải đoán ô chữ gốc. Nếu cả ba người chơi đều đoán sai thì khán giả đoán đúng ô chữ gốc sẽ nhận được một phần quà của chương trình. Nếu không tham gia trò chơi này, người chơi phải đoán chữ cái, nếu đoán đúng sẽ được 1000 điểm nhân với số chữ cái đoán đúng. Phát sóng Phát chính 12:00 trưa thứ 7 (12/5/2001 - 25/10/2014), trong khoảng thời gian nhà báo Lại Văn Sâm dẫn dắt chương trình 10:00 sáng thứ 7 (1/11/2014 - 24/12/2016), trong khoảng thời gian MC Danh Tùng dẫn dắt chương trình cho đến khi kết thúc phát sóng Phát lại Trên VTV3: 22:00 thứ 2 (14/5/2001 - 31/12/2001) 21:20 thứ 3 (15/5/2001 - 30/12/2003) 23:00 thứ 4 (16/5/2001 - 30/8/2006) 08:00 thứ 2 (7/1/2002 - 29 /12/2008) 09:00 thứ 6 (9/1/2009 - 30/12/2011) 04:30 chủ nhật (4/6/2006 - 26/12/2010) 16:00 thứ 3 (3/1/2012 - 27/12/2016) Trên VTV4 và 1 số đài địa phương khác: CVTV1,... Trên các nền tảng số của VTV. Ngoài ra kênh THBT (Bến Tre) còn tiếp sóng VTV3 vào thời điểm chương trình phát sóng. Tạm ngừng phát sóng Trong suốt thời gian lên sóng, Chiếc nón kỳ diệu đã có một số lần phải tạm ngừng phát sóng theo kế hoạch do trùng với thời điểm diễn ra các sự kiện đặc biệt và đã phát sóng trở lại vào 7 ngày sau đó. Cụ thể: Từ 26/5/2001 đến 9/6/2001, chỉ sau khi phát sóng được 2 số đầu tiên. 14/6/2008, do trùng với lễ Quốc tang Nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt. 12/10/2013, do trùng với lễ Quốc tang Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Người dẫn chương trình và phụ trách ô chữ Người dẫn chương trình Lại Văn Sâm (12/5/2001 - 14/7/2001, 14/5/2011) Long Vũ (21/7/2001 - 27/5/2006) Tuấn Tú (3/6/2006 - 7/5/2011, 21/5/2011 - 2/2/2013, 2/3/2013 - 25/1/2014) Lưu Minh Vũ (9/2/2013 - 23/2/2013) Danh Tùng (1/2/2014 - 26/12/2015) Đức Bảo (2/1/2016 - 24/12/2016) Phụ trách ô chữ Phạm Thu Hằng (12/5/2001 - 12/10/2002) Mai Hương (19/10/2002 - 17/5/2003) Hương Giang (24/5/2003 - 18/12/2004, 1/1/2005 - 17/12/2005, 31/12/2005 - 10/2/2007) Ông già Noel (25/12/2004, 24/12/2005) Người máy Maika (17/2/2007 - 16/5/2009) Siêu mẫu Hồng Nhung (23/5/2009 - 2/10/2010, 27/11/2010 - 19/1/2013, 2/2/2013 - 24/12/2016) Phương Thảo (9/10/2010 - 20/11/2010) Trang Nhung (26/1/2013) Nhà tài trợ 12/5/2001 - 29/7/2006: Unilever 5/8/2006 - 24/12/2016: Không có nhà tài trợ Kết thúc sứ mệnh Chương trình đã lên sóng số lần cuối cùng vào ngày 24/12/2016, qua đó chính thức nói lời chia tay khán giả sau 15 năm lên sóng. Những người chơi cuối cùng của chương trình gồm: ca sĩ Hoàng Tôn, diễn viên - người mẫu Sella Trương và nghệ sĩ hài Anh Vũ. Thay thế cho khung giờ 10:00 thứ 7 là chương trình Bản thiết kế cuộc sống, từ ngày 7/1/2017. Tham khảo Liên kết ngoài Chiếc nón kỳ diệu Danh sách các chương trình phát sóng của Đài Truyền hình Việt Nam Trò chơi truyền hình Việt Nam Chương trình trò chơi truyền hình trên VTV Trò chơi truyền hình Hoa Kỳ Trò chơi truyền hình Mỹ Chương trình mạng CBS Phim truyền hình Mỹ thập niên 2000 Phim truyền hình Mỹ thập niên 2010 Phim truyền hình Mỹ thập niên 1990 Chương trình truyền hình tiếng Anh Chương trình mạng NBC Chương trình truyền hình của CBS Television Studios
27757
https://vi.wikipedia.org/wiki/Acid%20acetic
Acid acetic
Acid acetic, hay acid ethanoic là một chất lỏng không màu và là acid hợp chất hữu cơ với công thức hóa học CH3COOH (cũng viết là CH3CO2H, C2H4O2, hoặc HC2H3O2). Giấm có tối thiểu 4% acid acetic theo thể tích. Điều đó khiến acid acetic là thành phần chính trong giấm ngoài nước. Acid acetic là acid carboxylic đơn giản thứ hai (sau acid fomic). Nó là một hóa chất công nghiệp và thuốc thử quan trọng, được sử dụng chủ yếu trong sản xuất cellulose acetat cho phim ảnh, polyvinyl acetat làm keo dán gỗ, sợi tổng hợp và vải. Trong các hộ gia đình, acid acetic pha loãng thường được sử dụng trong chất tẩy cặn. Trong ngành công nghiệp thực phẩm, acid acetic được kiểm soát bởi mã phụ gia thực phẩm E260 như một chất điều chỉnh độ acid và như một loại gia vị. Trong hóa sinh, nhóm acethyl, có nguồn gốc từ acid acetic, là cơ bản của mọi dạng sống. Khi liên kết với coenzymer A, nó là trung tâm của quá trình chuyển hóa carbohydrate và chất béo. Nhu cầu toàn thế giới về acid acetic là khoảng 6,5 triệu tấn mỗi năm, trong đó khoảng 1,5 triệu tấn được đáp ứng bằng cách tái chế; phần còn lại được sản xuất từ methanol. Giấm chủ yếu là acid acetic loãng, thường được tạo ra bằng quá trình lên men và quá trình oxy hóa ethanol sau đó. Lịch sử Acid acetic được biết đến từ giấm khi cho bia và rượu vang tiếp xúc với không khí, phương pháp sản xuất acid acetic từ vi khuẩn này vẫn được sử dụng trên toàn cầu cho đến ngày nay. Việc sử dụng acid acetic trong thuật giả kim kéo dài cho đến thế kỷ III TCN, khi nhà triết học Hy Lạp Theophrastus miêu tả cách mà giấm phản ứng với các kim loại tạo ra các chất nhuộm được sử dụng trong nghệ thuật, như chì trắng (chì carbonat) và verdigris (xanh gỉ đồng), một hỗn hợp của các muối đồng màu xanh gồm đồng(II) acetat. Người La Mã cổ đại đun rượu chua trong các chậu chì tạo ra một loại xi-rô rất ngọt gọi là sapa. Sapa chứa nhiều chì acetat, một chất ngọt cũng gọi là đường chì (sugar of lead) hoặc đường của Saturn, đã làm nhiễm độc chì trong giới quý tộc La Mã. Trong thế kỷ thứ VIII, Jabir Ibn Hayyan (Geber) là người đầu tiên cô đọng acid acetic từ giấm bằng cách chưng cất. Trong thời Phục Hưng, acid acetic băng được điều chế bằng cách chưng cất khô các acetat kim loại nhất định (loại phổ biến nhất là đồng(II) acetat). Nhà giả kim thuật Đức thế kỷ thứ XVI Andreas Libavius đã miêu tả cách chưng cất như thế, và ông đã so sánh acid acetic tạo ra bằng phương pháp này với từ giấm. Sự có mặt của nước trong giấm đã làm ảnh hưởng đến tính chất của acid acetic mà đối với các nhà hóa học trong vài thế kỷ đã cho rằng acid acetic băng và acid acetic trong giấm là hai chất khác nhau. Nhà hóa học Pháp Pierre Adet đã chứng minh rằng chúng là một. Năm 1847, nhà hóa học Đức Hermann Kolbe lần đầu tiên đã tổng hợp acid acetic từ các vật liệu vô cơ. Chuỗi phản ứng này gồm quá trình chlor hóa carbon disulfide thành carbon tetrachloride, sau đó là quá trình nhiệt phân thành tetrachloroethylen và chlor hóa trong nước tạo thành acid trichloracetic, và cuối cùng là phản ứng oxy hóa khử vô cơ bằng cách điện phân tạo thành acid acetic. Năm 1910, hầu hết các acid acetic được sản xuất từ việc chưng cất gỗ từ sản phẩm trung gian là rượu chưng cất từ gỗ. Loại rượu này cho tác dụng với calci hydroxide tạo ra calci acetat, sau đó cho calci acetat tác dụng với acid sulfuric thu được acid acetic. Lúc này, Đức sản xuất khoảng 10.000 tấn acid acetic băng, khoảng 30% số này được sản xuất thuốc nhuộm indigo. Tính chất hóa học Nguyên tử hydro (H) trong nhóm carboxyl (−COOH) trong các acid carboxylic như acid acetic có thể cung cấp một ion H+ (proton), làm cho chúng có tính chất acid. Acid acetic là một acid yếu, thuộc nhóm acid monoprotic, có Ka bằng 4,75. Nó tạo ra gốc liên kết là acetat (CH3COO−). Dung dịch 1,0 M (tương đương nồng độ giấm gia đình) có pH là 2,4, cho thấy chỉ 0,44% các phân tử acid acetic bị phân ly. Cấu trúc tinh thể của acid acetic cho thấy các phân tử nhị trùng liên kết bởi các liên kết hydro. Các chất nhị trùng cũng có thể được phát hiện ở dạng hơi ở 120 °C. Chúng cũng có mặt trong pha lỏng trong các dung dịch loãng trong các dung môi không có liên kết hydro, và một mức độ nhất định trong acid acetic tinh khiết, nhưng bị phá vỡ trong các dung môi có liên kết hydro. Enthalpy phân ly của các chất này ước tính khoảng 65,0–66,0 kJ/mol, và entropy phân ly khoảng 154–157 J mol−1 K−1. Cách thức nhị trùng này cũng có thể hiện ở các acid carboxylyc thấp hơn khác. Acid acetic lỏng là dung môi protic dính ướt (phân tử phân cực), tương tự như ethanol và nước. Với hằng số điện môi trung bình khoảng 6,2, nó có thể hoà tan không chỉ trong các hợp chất phân cực như các muối vô cơ và các loại đường mà nó còn có khả năng hòa tan trong các hợp chất không phân cực như dầu, và các nguyên tố như lưu huỳnh và iod. Nó cũng có thể hòa trộn với các dung môi phân cực và không phân cực khác như nước, chloroform, và hexan. Đối với các ankan cao phân tử (từ octan trở lên) acid acetic không có khả năng trộn lẫn một cách hoàn toàn, và khả năng trộn lẫn tiếp tục giảm khi số n-ankan càng lớn. Tính chất hòa tan và độ trộn lẫn của acid acetic làm cho nó được ứng dụng rộng rãi trong công nghiệp. Các phản ứng hóa học Acid acetic có thể ăn mòn các kim loại như sắt, mangan và kẽm sinh ra khí hydro và các muối kim loại tương ứng gọi là các acetat. Nhôm khi tiếp xúc với oxy sẽ tạo thành một màng mỏng nhôm oxide trên bề mặt làm cho nó có khả năng chống lại một cách tương đối sự ăn mòn của acid, điều này cho phép các bình chứa bằng nhôm có thể dùng để vận chuyển acid acetic. Các acetat kim loại cũng có thể được điều chế từ acid acetic và một base tương ứng, như phản ứng phổ biến là "natri bicarbonat + giấm". Chỉ trừ chromi(II) acetat, thì hầu hết các acetat còn lại đều có thể hòa tan trong nước. Mg(r) + 2 CH3COOH(l) → (CH3COO)2Mg(dd) + H2(k) NaHCO3(r) + CH3COOH(dd) → CH3COONa(dd) + CO2(k) + H2O(l) Acid acetic có thể tạo các phản ứng hóa học đặc trưng của nhóm acid carboxylic như tạo ra nước và ethanoat kim loại khi phản ứng với kiềm; tạo ra ethanoat kim loại khi phản ứng với kim loại; và tạo ra ethanoat kim loại, nước và carbon dioxide khi phản ứng với các carbonat và bicarbonat. Phản ứng đặc trưng nhất là tạo thành ethanol, và tạo thành các dẫn xuất như acethyl chloride bằng cách thay thế nhóm -OH bởi -Cl. Các dẫn xuất thay thế khác như anhydride acetic; anhydride này được tạo ra theo phản ứng trùng ngưng tách phân tử nước từ hai phân tử của acid acetic. Các ester của acid acetic tương tự có thể được tạo ra bởi ester hóa, và các amit. Khi nung trên 440 °C, acid acetic phân hủy tạo ra carbon dioxide và methan, hoặc tạo ra ethenon và nước. Acid acetic có thể được nhận biết bởi mùi đặc trưng của nó. Phản ứng biến đổi màu đối với các muối của acid acetic là cho tác dụng với dung dịch sắt(III) chloride, phản ứng này tạo ra màu đỏ đậm sau khi acid hóa. Khi nung nóng các acetat với arsen trioxide tạo ra cacodyl oxide, chất này có thể được nhận biết bởi các hơi có mùi hôi. Hóa sinh Nhóm acethyl có gốc từ acid acetic, là thành phần cơ bản đối với sinh hóa học của tất cả các dạng sống. Khi nằm trong coenzymer A, nó là trung tâm của sự trao đổi chất của các carbohydrat và mỡ. Tuy nhiên, nồng độ của các acid acetic tự do trong các tế bào ở mức thấp nhằm tránh phá vỡ pH của các tế bào. Không giống với các acid carboxylic mạch dài, (các acid béo), acid acetic không có mặt trong các triglyceride tự nhiên. Tuy nhiên, các triglyceride nhân tạo như triacetin (glycerin triacetat) là một phụ gia thực phẩm phổ biến, và được tìm thấy trong các loại mỹ phẩm và thuốc đắp. Acid acetic được sản xuất và chiết tách bằng vi khuẩn acid acetic, các vi khuẩn phổ biến là chi Acetobacter và Clostridium acetobutylicum. Các vi khuẩn này được tìm thấy trên khắp thế giới trong thức ăn, nước và đất, và do đó acid acetic thường được sản xuất từ trái cây và các thực phẩm hư khác. Acid acetic cũng là một thành phần của chất nhờn âm đạo của người và các linh trưởng khác, các chất này có tác dụng kháng khuẩn nhẹ. Sản xuất Acid acetic được sản xuất theo cả hai phương pháp sinh học và tổng hợp. Ngày nay, lượng acid sản xuất theo phương pháp sinh học chỉ chiếm khoảng 10% sản lượng thế giới, nhưng nó vẫn là một phương pháp quan trọng dùng để sản xuất giấm, theo các luật về độ tinh khiết thực phẩm ở một số quốc gia quy định rằng giấm sử dụng trong thực phẩm phải có nguồn gốc từ sinh học. Khoảng 75% acid acetic được sản xuất công nghiệp được dùng để sản xuất theo phương pháp carbonyl hóa methanol. Khoảng 15% còn lại được sản xuất từ các phương pháp thay thế khác. Tổng sản lượng acid acetic giấm ước tính khoảng 5 triệu tấn/năm, khoảng nửa trong số đó được sản xuất ở Hoa Kỳ. Sản lượng ở châu Âu khoảng 1 triệu tấn/năm và đang giảm, trong khi đó Nhật Bản sản xuất khoảng 0,7 triệu tấn/năm. Khoảng 1,5 triệu tấn được tái chế hàng năm, nâng tổng sản lượng trên thị trướng thế giới lên 6,5 triệu tấn/năm. Hai nhà sản xuất acid acetic giấm lớn nhất là Celanese và Công ty hóa BP. Các nhà sản xuất lớn khác như Millennium Chemicals, Sterling Chemicals, Samsung, Eastman, và Svensk Ethanolkemi. Carbonyl hóa methanol Hầu hết acid acetic giấm được sản xuất bằng phương pháp carbonyl hóa methanol. Trong quy trình này, methanol và carbon monoxide phản ứng với nhau tạo ra acid aextic theo phương trình: CH3OH + CO → CH3COOH Quá trình này liên quan đến chất trung gian iodomethan, và diễn ra theo 3 bước. Chất xúc tác, thường là phức chất kim loại, được dùng trong bước 2. CH3OH + HI → CH3I + H2O CH3I + CO → CH3COI CH3COI + H2O → CH3COOH + HI Bằng cách theo thế các điều kiện phản ứng, anhydride acetic cũng có thể được tạo ra trong từ các vật liệu này. Bởi vì cả methanol và carbon monoxide đều là các hàng hóa nguyên liệu, carbonyl hóa methanol trong một thời gian dài là phương pháp sản xuất acid acetic được ưa chuộng. Henry Drefyus ở British Celanese đã xây dựng một nhà máy sản xuất theo phương pháp này vào năm 1925. Tuy nhiên do thiếu các vật liệu có thể chứa các hợp chất gây ăn mòn ở áp suất cao (khoảng 200 atm hoặc hơn) đã không được khuyến khích thương mại hóa phương pháp này. Phương pháp carbonyl hóa methanol thương mại đầu tiên, sử dụng chất xúc tác cobalt, đã được công ty hóa chất Đức BASF phát triển năm 1963. Năm 1968, chất xúc tác gốc rhodi (cis−[Rh(CO)2I2]−) được phát hiện có thể vận hành một cách hiệu phả ở áp suất thấp mà hầu như không có sản phẩm phụ. Nhà máy đầu tiên cử dụng chất xúc tác này được công ty hóa chất Hoa Kỳ Monsanto xây dựng năm 1970, và carbonyl hóa methanol với xúc tác rhodi trở thành một phương pháp phổ biến dùng để sản xuất (xem công nghệ Monsanto). Vào cuối thập niên 1990, Công ty hóa chất BP thương mại hóa chất xúc tác Cativa ([Ir(CO)2I2]−), được chết từ rutheni. Công nghệ Cativa dùng chất xúc tác iridi này sạch hơn và hiệu quả hơn và đã thay thế phần lớn công nghệ Monsanto, thường dùng trong cùng một nhà máy sản xuất. oxy hóa acetaldehyde Trước khi thương mại hóa công nghệ Monsanto, hầu hết acid acetic được sản xuất bằng cách oxy hóa acetaldehyde. Phương pháp này là phương pháp quan trọng thứ hai vẫn còn được sử dụng mặc dù nó không thể cạnh tranh với phương pháp carbonyl hóa methanol. Acetaldehyde có thể được sản xuất bằng cách oxy hóa butan hoặc naphtha nhẹ, hoặc hydrat hóa ethylen. Khi butan hoặc naphtha nhẹ được nung nó trong không khí có mặt các ion kim loại khác nhau như mangan, cobalt, và chromi, peroxide và sau đó phân hủy tạo ra acid acetic theo phương trình phản ứng: 2 C4H10 + 5 O2 → 4 CH3COOH + 2 H2O Phản ứng đặc trưng là sự kết hợp của nhiệt độ và áp suất được đều chỉnh sau cho đủ nóng để có thể giữ butan ở dạng lỏng. Các điều kiện phản ứng đặc trưng là 150 °C và 55atm. Các sản phẩm phụ cũng có thể được tạo ra, như butanon, ethyl acetat, acid formic, và acid propionic. Các sản phẩm này cũng có giá trị thương mại, và các điều kiện phản ứng có thể được thay thế để tạo ra số lượng sản phẩm nhiều hơn. Tuy nhiên, việc phân tách acid acetic ra khỏi hỗn hợp này làm cho phương pháp này khá tốn kém. Cùng các điều kiện và sử dụng các chất xúc tác tương tự trong việc oxy hóa butan, acetaldehyde có thể bị oxy hóa bởi oxy trong không khí tạo ra acid acetic: 2 CH3CHO + O2 → 2 CH3COOH Sử dụng các chất xúc tác hiện đại, phản ứng này có thể tạo ra acid acetic hơn 95%. Các sản phẩm phụ là ethyl acetat, acid formic, và formaldehyde đều có điểm sôi thấp hơn acid acetic nên sẽ dễ tách chúng ra bằng cách chưng cất. oxy hóa ethylen Acetaldehyde có thể được điều chế từ ethylen theo phản ứng Wacker, và sau đó oxy hóa như nên bên dưới. Trong thời gian gần đây, việc chuyển đổi ethylen thành acid acetic qua theo một bước, chi phí rẻ hơn đã được công ty Showa Denko thương mại hóa, công ty này đã xây dựng một nhà máy oxy hóa ethylen ở Ōita, Nhật Bản năm 1997. Quá trình này sử dụng chất xúc tác là kim loại paladi với sự hỗ trợ của acid heteropoly như acid tungstosilicic. Nó được xem là một phương pháp có thể cạnh tranh với phương pháp carbonyl hóa methanol đối với các nhà máy nhỏ hơn (100–250 ngàn tấn/năm), tùy thuộc vào giá địa phương của ethylen. Lên men oxy hóa Trong lịch sử nhân loại, acid acetic, ở dạng giấm, đã được tạo ra từ các vi khuẩn acid acetic thuộc chi Acetobacter. Khi cung cấp đủ oxy, các vi khuẩn này có thể tạo ra giấm từ các thực phẩm sinh cồn khác nhau. Các loại được sử dụng như rượu táo, rượu vang, và các loại ngũ cốc, gạo, mạch nha hoặc khoai tây lên men. Phản ứng hóa học chung nhất do các vi khuẩn thực hiện là: C2H5OH + O2 → CH3COOH + H2O Dung dịch rượu loãng trộn với Acetobacter và giữ ở nơi thoáng khí, ấm sẽ tạo ra giấm trong vòng vài tháng. Các phương pháp sản xuất giấm công nghiệp, người ta tăng tốc độ phản ứng bằng cách cung cấp nhiều oxy cho vi khuẩn. Các lô giấm đầu tiên được sản xuất bằng phương pháp lên men có thể là lỗi trong quá trình làm rượu vang. Nếu hèm rượu nho được lên men ở nhiệt độ quá cao, acetobacter sẽ phát triển lấn án nấm men có mặt tự nhiên trong nho. Vì nhu cầu giấm cho mục đích ẩm thực, y tế, và vệ sinh gia tăng, những người bán rượu nho học nhanh chóng cách sử dụng các vật liệu vô cơ khác để sản xuất giấm trong các tháng hè nóng trước khi nho đã chính và sẵn sàng để sản xuất rượu vang. Phương pháp này chậm, tuy nhiên, không phải lúc nào cũng thành công, khi những người bán rượu không hiểu quá trình này. Một trong những công nghệ thương mại hiện đại đầu tiên là "phương pháp nhanh" hoặc "phương pháp Đức", đã được ứng dụng ở Đức năm 1823. Trong phương pháp này, quá trình lên men diễn ra trong một tháp bọc bằng gỗ bào hoặc than. Các chất cung cấp cồn được cung cấp từ trên đỉnh tháp, và không khí sạch được cung cấp từ dưới lên bằng thông khí tự nhiên hoặc bơn đối lưu. Việc cung cấp không khí được cải thiên trong quá trình này làm giảm bớt thời gian điều chế giấm từ vài tháng còn vài tuần. Ngày nay, hầu hết giấm được sản xuất trong các thùng để ngầm được Otto Hromatka và Heinrich Ebner sử dụng đầu tiên năm 1949. Trong phương pháp này, rượu được lên men thành giấm trong bồn được đảo liên tục, và oxy được cung cấp bằng cách thổi bọt khí qua dung dịch. Sử dụng các ứng dụng hiện đại của phương pháp này, giấm chứa 15% acid acetic có thể được đều chế trong vòng 24 giờ, thậm chí đạt được độ giấm 20% trong vòng 60 giờ. Lên men kỵ khí Các loài vi khuẩn kỵ khí bao gồm cả thuộc chi Clostridium, có thể chuyển đổi đường thành acid acetic một cách trực tiếp mà không cần phải qua bước trung gian là tạo thành ethanol. Phản ứng chung mà các vi khuẩn thực hiện có thể được biểu diễn: C6H12O6 → 3 CH3COOH Trên quan điểm của một nhà hóa học công nghiệp, một điểm đáng chú ý là các vi khuẩn acetogen có thể tạo ra acid acetic từ các hợp chất chứa 1 carbon như methanol, carbon monoxide, hay hỗn hợp của carbon dioxide và hydro: 2 CO2 + 4 H2 → CH3COOH + 2 H2O Khả năng Clostridium chuyển hóa trực tiếp các loại đường hoặc tạo ra acid acetic với chi phí đầu vào thấp, có nghĩa rằng các vi khuẩn này có thể có khả năng tạo ra acid acetic hiệu quả hơn phương pháp oxy hóa ethanol như Acetobacter. Tuy nhiên, vi khuẩn Clostridium íy chịu acid hơn Acetobacter. Ngay cả hầu hết các chủng Clostridium chịu acid nhất có thể tạo ra giấm chỉ đạt vài phần trăm acid acetic, so với các chủng Acetobacter có thể tạo ra giấm với nồng độ acid lên đến hơn 20%. Hiện tại, chi phí để sản xuất giấm bằng Acetobacter vẫn cao hơn dùng Clostridium'' và sau đó tách nó. Kết quả là, mặc dù vi khuẩn acetogenic đã được biết đến rộng rãi từ năm 1940, việc sử dụng ở quy mô công nghiệp của loại vi khuẩn này vẫn còn giới hạn trong một vài ứng dụng. Ứng dụng Acid acetic là một chất phản ứng được dùng để sản xuất các hợp chất hóa học. Lượng sử dụng riêng lẻ lớn nhất là để sản xuất monomer vinyl acetat, tiếp theo là sản xuất acetic anhydride và ester. Lượng acid acetic dùng để sản xuất giấm là rất nhỏ so với ở trên. Monomer vinyl acetat Ứng dụng chủ yếu của acid acetic là sản xuất monomer vinyl acetate. Ứng dụng này tiêu thụ khoảng 40% đến 45% sản lượng acid acetic trên thế giới. Phản ứng có sự tham gia của ethylen với oxy và chất xúc tác là paladi. 2 H3C-COOH + 2 C2H4 + O2 → 2 H3C-CO-O-CH=CH2 + 2 H2O Vinyl acetate có thể được polymer hóa tạo thành polyvinyl acetat hoặc thành các polymer khác ứng dụng trong sơn và chất kết dính. Sản xuất ester Các ester chính sản xuất từ acid acetic được sử dụng chủ yếu làm dung môi cho mực, sơn và chất phủ. Các ester như ethyl acetat, n-butyl acetat, isobutyl acetat, và propyl acetat, chúng được sản xuất một cách đặc biệt bằng phản ứng có xúc tác từ acid acetic và rượu tương ứng: H3C-COOH + HO-R → H3C-CO-O-R + H2O, (R = nhóm ankyl tổng quát]]) Tuy nhiên, hầu hết ester acetat được sản xuất từ acetaldehyde bằng phản ứng Tishchenko. Thêm vào đó, các ete acetat được sử dụng làm các dung môi để loại bỏ nitrocellulose, sơn acrylic, véc-ni, và chất tẩy gỗ. Đầu tiên, glycol monoete được tạo ra từ ethylene oxide hoặc propylen oxide với rượu, sau đó chúng được ester hóa với acid acetic. Ba sản phẩm chính là ethylen glycol monoethyl ete acetat (EEA), ethylen glycol mono-butyl ete acetat (EBA), và propylen glycol mono-methyl ete acetat (PMA). Ứng dụng này tiêu thụ khoảng 15% đến 20% sản lượng acid acetic thế giới. Các ete acetat, ví dụ như EEA, được cho là có hại đối với sức khỏe sinh sản con người. Acetic anhydride Sản phẩm tách phân tử nước từ hai phân tử acid acetic tạo thành một phân tử gọi là acetic anhydride. Sản xuất acetic anhydride trên thế giới là một ứng dụng chính chiếm khoảng 25% đến 30% sản lượng acid acetic toàn cầu. Acetic anhydride có thể được sản xuất trực tiếp bằng carbonyl hóa methanol từ acid, và các nhà máy sản xuất theo công nghệ Cativa có thể được điều chỉnh để sản xuất anhydride. Acetic anhydride là một chất acethyl hóa mạnh. Vì vậy, ứng dụng chính của nó là tạo cellulose acxtat, một chất dệt tổng hợp cũng được dùng trong phim chụp ảnh. Acetic anhydride cũng là một chất phản ứng dùng để sản xuất aspirin, heroin, và các hợp chất khác. Giấm Ở dạng giấm, các dung dịch acid acetic (nồng độ khối lượng của acid 4% đến 18%) được dùng trực tiếp làm gia vị, và cũng làm chất trộn rau và trong các thực phẩm khác. Giấm ăn (table vinegar) thì loãng hơn (4% đến 8%), trong khi loại giấm trộn thương mại thì nồng độ cao hơn. Lượng acid acetic dùng làm giấm không chiếm tỉ lệ lớn trên thế giới, nhưng là một ứng dụng nổi tiếng và được dùng từ rất lâu. Hiện nay ở Việt Nam, acid acetic được sử dụng chủ yếu làm giấm ăn. Chỉ tính riêng năm 2015, nhu cầu sử dụng acid acetic làm giấm đã là 5000 tấn /năm. Làm dung môi Acid acetic băng là một dung môi protic phân cực tốt như đề cập ở trên. Nó thường được dùng làm dung môi tái kết tinh cho các hợp chất hữu cơ tinh khiết. Acid acetic tinh khiết được dùng làm dung môi trong việc sản xuất acid terephthalic (TPA), một nguyên liệu thô để sản xuất polyethylen terephthalat (PET). Năm 2006, khoảng 20% acid acetic được dùng để sản xuất TPA. Acid acetic thường được dùng làm dung môi cho các phản ứng liên quan đến carbocation, như Friedel-Crafts alkylation. Ví dụ, một giai đoạn trong sản xuất long não tổng hợp thương mại liên quan đến sự tái sắp xếp Wagner-Meerwein của tạo amfen isobornyl acetat; ở đây acid acetic đóng vai trò vừa là dung môi, vừa là chất ái nhân để giữ carbocation tái sắp xếp. Acid acetic là dung môi tự chọn khi giảm một nhóm nitơ aryl tạo anilin bằng cách sử dụng carbon mang palladi. Acid acetic băng được sử dụng trong hóa phân tích để ước tính các chất có tính kiềm yếu như các amit hữu cơ. Acid acetic băng có tính base yếu hơn nước, vì vậy amit ứng xử như một base mạnh trong dung dịch acid trung bình này. Sau đó nó có thể được chuẩn độ bằng cách sử dụng một dung dịch acid acetic băng của một acid rất mạnh như acid perchloric. Các ứng dụng khác Các acid acetic loãng cũng được dùng tạo độ chua nhẹ. Ví dụ như trong quy mô gia đình, nó được dùng làm chất tẩy cặn vôi từ vòi nước và ấm đun nước. Các dung dịch acid acetic băng loãng có thể được dùng trong các phòng thí nghiệm lâm sàng để dung giải các hồng cầu cũng như đếm bạch cầu. Một ứng dụng lâm sàng khác là dung giải các hồng cầu, mà có thể làm mờ các thành phần quan trọng khác trong nước tiểu khi phân tích dưới kính hiển vi. Tham khảo Liên kết ngoài Acetic Dung môi Khoa rượu nho Chất tẩy trùng Hương liệu Hóa chất gia dụng Acetat Thuốc tác động lên tai Thuốc thiết yếu của WHO Hóa chất hàng hóa
27759
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A2n%20m%C3%A3
Nhân mã
Nhân mã hay Kentauros (, ) là một sinh vật trong thần thoại Hy Lạp có nửa thân trên của con người và toàn bộ phần dưới là của con ngựa. Trong thần thoại Hy Lạp, loài nhân mã cùng tồn tại với con người, các anh hùng và các thần nhưng sống tại vùng núi của Thessalía. Theo thần thoại Hy Lạp, một vị vua tên là Ixion dám tán tỉnh Hera, vợ thần Zeus. Thần Zeus tức giận bèn lừa Ixion bằng cách tạo ra một cụm mây giống hình dạng Hera mà đây là thần Nephele. Ixion lấy Nephele, sinh ra một quái vật tên là Kentauros (nửa trên là người, nửa dưới là ngựa). Kentauros cùng với những con ngựa trên vùng núi Thessalía sinh ra dòng giống nhân mã. Cũng có nguồn cho rằng Kentauros là con của thần Apollo và tiên nữ Stilbe. Đặc điểm Đa số nhân mã là những sinh vật cộc cằn, thô lỗ và có ác cảm với con người. Tuy nhiên, có một nhân mã tên là Cheiron có tính cách tử tế, đàng hoàng và có trí tuệ. Cheiron không phải là con cháu của Nephele như các nhân mã khác và là bạn của các anh hùng Peleus và Heracles. Peleus đã đưa con trai của mình là anh hùng Achilles cho Cheiron nuôi dưỡng. Cheiron chết vì mũi tên độc của Heracles do bị bắn lầm. Khi ông chết, được đặt cùng những chòm sao trên trời. Ngày nay, từ Nam Bán Cầu có thể nhìn thấy chòm sao Nhân Mã mang hình dáng một nhân mã cầm kiếm, cách Trái Đất 4,5 năm ánh sáng tức là khoảng 425.736.000 km (nếu lấy vận tốc ánh sáng là 300.000 km/s). Xem thêm Kim ngưu Minotaur Nhân ngư Nhân dương Nhân sư Quái vật Typhon Quái vật Chimera Chó ba đầu Cerberus Quái vật Lamia Tham khảo Liên kết ngoài John W. Philpus, "A Catalogue of Centaurs on Greek and Related Painted Pottery", 2000 Thần thoại Hy Lạp Thần thoại La Mã Sinh vật huyền thoại Hy Lạp
27760
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%A1n%20x%C3%A9t%20c%E1%BB%A7a%20Paris
Phán xét của Paris
Phán xét của Paris là phán xét nổi tiếng trong thần thoại Hy Lạp, về việc lựa chọn vị nữ thần đẹp nhất trên đỉnh Olympus, mà kết quả là đã gây ra Chiến tranh thành Troia. Theo sử thi Illiad, do bất mãn vì không được mời dự hôn lễ của nữ thần biển Thetis - con gái lão thần biển Nere và chàng Peleus - con trai thần Zeus, nữ thần Bất hoà Eris đã lấy một quả táo vàng trong vườn của các nàng Hesperite, ghi lên đó dòng chữ "Tặng vị nữ thần đẹp nhất" rồi ném nó vào bàn tiệc. Cuộc tranh cãi giữa 3 vị nữ thần, Hera - vợ thần Zeus, Athena - nữ thần trí tuệ và Aphrodite - nữ thần tình yêu, để giành quả táo diễn ra quyết liệt. Cuối cùng, họ phải nhờ đến người phân xử là hoàng tử Paris, con vua Priam của thành Troia|Troy. Ba vị nữ thần đưa ra điều kiện như sau: Athena sẽ giúp chàng trở thành chiến binh bất khả chiến bại, Hera sẽ giúp chàng có được quyền lực, còn Aphrodite sẽ giúp chàng có được một người vợ xinh đẹp nhất thế gian. Cuối cùng, Paris đã chọn Aphrodite. Thua cuộc, Hera và Athena thề sẽ tiêu diệt thành Troy, nơi cha của Paris đang trị vì. Aphrodite thực hiện lời hứa bằng cách đánh cắp Helen - vợ vua Menelaus xứ Sparta. Và Chiến tranh thành Troy bắt đầu từ đó. Tham khảo Chiến tranh thành Troia Cuộc thi sắc đẹp Thần thoại Hy Lạp
27761
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%B4ng%20%C4%90%C3%A0
Sông Đà
Sông Đà (còn gọi là sông Bờ hay Đà Giang) là phụ lưu lớn nhất của sông Hồng. Sông dài 927 km (có tài liệu ghi 983 km hoặc 910 km), diện tích lưu vực là 52.900 km². Dòng chính bắt nguồn từ núi Vô Lượng, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, chảy theo hướng tây bắc - đông nam để rồi nhập với sông Hồng ở Phú Thọ. Trong một số tiếng châu Âu, tên sông Đà được dịch là "sông Đen" (tiếng Pháp: rivière Noire; tiếng Anh: Black River). Tên này không có nguồn gốc tiếng Việt, mà là do hồi giữa thế kỷ 19 khi người Pháp vẽ bản đồ Bắc Kỳ, ví dụ "Bản đồ Bắc Kỳ năm 1879" của Jean Dupuis, khi thấy "sông Hồng" gọi là "fleuve Rouge" (sông Đỏ) thì đã dùng "rivière Noire" ghi cho sông Đà, "rivière Claire" (sông Sáng) cho sông Lô. Ở Trung Quốc Đoạn thượng nguồn sông Đà ở Trung Quốc, được gọi là Lý Tiên Giang (Lixian Jiang, 李仙江), do hai nhánh Bả Biên Giang và A Mặc Giang hợp thành. Đoạn này dài khoảng 400 km từ núi Nguy Bảo (巍寶山) ở huyện tự trị người Di người Hồi Nguy Sơn phía nam châu tự trị châu tự trị dân tộc Bạch Đại Lý chảy theo hướng tây bắc-đông nam qua Phổ Nhĩ. Các phụ lưu của Lý Tiên Giang gồm: Tiểu Hắc Giang (小黒江) bắt nguồn từ Trung Quốc, làm thành biên giới tự nhiên giữa Việt Nam và Trung Quốc rồi hợp lưu với Lý Tiên Giang ngay biên giới ở xã Mù Cả, Mường Tè, Lai Châu. Phụ lục này lại có hai phụ lưu nhỏ hợp lưu tại Lục Xuân là: Mãnh Mạn (Mengman) bắt nguồn từ Lục Xuân Tra Ma (渣嗎河) bắt nguồn từ Lục Xuân A Mặc Giang mà đoạn thượng lưu có nhiều tên gọi địa phương khác bắt nguồn từ Cảnh Đông Tứ Nam hợp lưu với A Mặc Giang ở huyện Mặc Giang Hoa Kiều hợp lưu với A Mặc Giang ở Tân Bình, Ngọc Khê Bả Biên Giang có đoạn thượng nguồn gọi là Xuyên Hà bắt nguồn từ huyện tự trị dân tộc Di Nam Giản Mengye bắt nguồn từ Giang Thành, Phổ Nhĩ chảy vòng vèo từ bắc xuống nam rồi từ đông sang tây rồi lại từ nam lên bắc, hợp lưu với Bả Biên Giang ngay trong Giang Thành Nanjian hợp lưu với Xuyên Hà ở huyện tự trị dân tộc Di Cảnh Đông. Đại Bá Hà (大壩河) mà phần thượng nguồn gọi là Wenbu cũng hợp lưu với Xuyên Hà ở Cảnh Đông. Ngõa Vĩ Hà (瓦偉河) hợp lưu với Xuyên Hà cũng ở Cảnh Đông Ở Việt Nam Đoạn ở Việt Nam dài 527 km (có tài liệu ghi 543 km). Điểm đầu là biên giới Việt Nam-Trung Quốc tại huyện Mường Tè (Lai Châu). Sông chảy qua các tỉnh Tây Bắc Việt Nam là Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình, Phú Thọ (phân chia huyện Thanh Thủy, Phú Thọ với Ba Vì, Hà Nội). Điểm cuối là ngã ba Hồng Đà, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ. Các phụ lưu trên lãnh thổ Việt Nam gồm Nậm Na (ở tả ngạn), Nậm Mức (ở hữu ngạn). Lê Quý Đôn viết về sông Đà như sau:"... Sông Đà ở về bên trái sông Mã, phát nguyên từ châu Ninh Viễn tỉnh Vân Nam Trung Quốc, chảy đến bên phải chỗ ngã ba thuộc huyện Kiến Thủy,... (Đoạn này Quý Đôn nói về sông Mê Kông và nhầm 2 sông thông với nhau) ..., về đường chính có một chi chảy xuống làm thành sông Hắc Thủy, chảy qua Tuy Phụ (Mường Tè), Hoàng Nham (Mường Tông), Khiêm Châu đến Mường Lễ thuộc Lai Châu nước ta. Về bên trái là sông Na, từ sông Kim Tử (Kim Thủy Hà (金水河)) châu Quảng Lăng (Mãnh Lạp (勐拉, Meng La)) chảy đến hội tụ, đấy là sông Đà, nước sông trong suốt, chảy xuống các động Phù Tây, Hảo Tế thuộc châu Quỳnh Nhai, về bên trái hợp lưu với Tề Giang chảy qua các xứ Vạn Mỏ thuộc châu Thuận, Vạn châu, Vạn Lộc thuộc châu Mai Sơn, Vạn Thụy, Vạn Giang, Hinh Miêng thuộc châu Mộc đều về bên phải. Đường sông thác ghềnh hiểm trở, gồm 83 thác có tiếng (tên), mà Vạn Bờ là thác nguy hiểm thứ nhất, bờ bên phải là Thượng Động, Hạ Động thuộc châu Mai, bờ bên trái là các động Tân An, Hào Tráng, Hiền Lương, Dĩ Lý thuộc châu Mộc. Hạ lưu, về bên trái chảy qua Vĩnh Điều, Thái Hòa, Vô Song, Sơn Bạn, Tu Vũ, Phượng Mao, Lăng Sương, Đồng Luận, Đoan Thượng, Đoan Hạ, Bảo Khang, Thượng Lạc, Đồng Lâm, La Phù, Hoa Thôn, Thạch Uyển, Quang Bị, Hạ Bì, La Thượng, La Hạ thuộc huyện Bất Bạt, đến Hoàng Cương, Hạ Nông và xứ Gót Nung thuộc huyện Tam Nông hợp lưu với sông Thao." Dòng chính sông Đà vào Việt Nam ở Mù Cả, Mường Tè. Đoạn đầu sông trên lãnh thổ Việt Nam, sông Đà còn được gọi là Nậm Tè chạy dọc theo biên giới gặp phụ lưu Tiểu Hắc ở Mù Cá, Mường Tè. Phụ lưu Tiểu Hắc vào Việt Nam ở xã Ka Lăng, Mường Tè, chảy dọc theo biên giới về phía tây và hợp lưu với dòng chính sông Đà ở Mù Cả. Sông chảy qua Mường Tè sang Nậm Nhùn và thị xã Mường Lay. Đoạn ở Mường Tè và Nậm Nhùn, sông Đà chảy trong thung lũng kẹp giữa hai dãy núi Pu Si Lung và Pu Đen Đinh. Đoạn qua thị xã Mường Lay, sông chảy trong thung lũng kẹp giữa hai dãy núi Hoàng Liên Sơn và Su Xung Chảo Chai. Sông chảy dọc theo ranh giới giữa Sìn Hồ (phía bắc, tả ngạn) và Tủa Chùa (phía nam, hữu ngạn). Sông chảy tiếp sang địa phận Sơn La ở Quỳnh Nhai, rồi chạy dọc theo ranh giới Quỳnh Nhai, Mường La (phía bắc, tả ngạn) và Thuận Châu (phía nam, hữu ngạn). Sông Đà chảy vào sâu Mường La, tại đây nhận thêm nước từ các phụ lưu Nâm Ma và Nậm Chang. Sông chạy dọc theo ranh giới Bắc Yên (phía bắc) và Mai Sơn (phía nam), vào sâu Mai Sơn rồi lại dọc theo ranh giới Phù Yên, Đà Bắc (phía bắc) và Mộc Châu (phía nam). Sông chảy sâu vào Đà Bắc (Hòa Bình) rồi lại dọc theo ranh giới Đà Bắc (phía bắc) với Mai Châu, Tân Lạc, Cao Phong (phía nam). Sông trở lại Đà Bắc rồi chuyển hướng nam lên bắc chảy qua giữa thành phố Hòa Bình, dọc theo ranh giới giữa thành phố Hòa Bình, Thanh Sơn, Thanh Thủy, Tam Nông (phía tây) và Kỳ Sơn, Ba Vì ở (phía đông). Sông Đà đổ vào sông Hồng ở ngã ba giữa Hồng Đà (Tam Nông), Vĩnh Lại (Lâm Thao) và Phong Vân (Ba Vì), cách chỗ sông Lô hợp lưu với sông Hồng khoảng 12 km. Sông có lưu lượng nước lớn, cung cấp 31% lượng nước cho sông Hồng và là một nguồn tài nguyên thủy điện lớn cho ngành công nghiệp điện Việt Nam. Năm 1994, khánh thành Nhà máy Thủy điện Hoà Bình có công suất 1.920 MW với 8 tổ máy. Năm 2005, khởi công công trình thủy điện Sơn La với công suất theo thiết kế là 2.400 MW. Đang xây dựng nhà máy thủy điện Lai Châu 1.200 M. Khởi công năm 2011, hoàn thành tháng 12 năm 2016 ở thượng nguồn con sông này. Lưu vực có tiềm năng tài nguyên to lớn với nhiều loại khoáng sản quý hiếm, các hệ sinh thái đặc trưng bao gồm các nguồn sinh vật với mức đa dạng sinh học cao. Các cây cầu bắc qua sông Đà Ở địa phận Việt Nam hiện có các cầu sau bắc qua dòng chính sông Đà: Cầu treo đầu nguồn sông Đà (cầu treo Kẻng Mỏ) Cầu Pắc Ma Cầu Nậm Khao Cầu công trình thủy điện Lai Châu Cầu Hang Tôm mới (nối huyện Nậm Nhùn của tỉnh Lai Châu và thị xã Mường Lay của Điện Biên) Cầu Pá Uôn (huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La) Cầu công trình thủy điện Sơn La Cầu Vạn Bú (Mường La), huyện Mường La, Sơn La Cầu Tạ Khoa (huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La) Cầu Hòa Bình (thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình) Cầu Hòa Bình 2 (thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình) Cầu Hòa Bình 3 (thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình) Cầu Đồng Quang nối huyện Thanh Thủy, Phú Thọ và huyện Ba Vì, Hà Nội Cầu Trung Hà nối huyện Tam Nông, Phú Thọ và huyện Ba Vì, Hà Nội Thủy điện Sông Đà chảy qua vùng núi cao, có tiềm năng thủy điện lớn. Trên địa phận Trung Quốc, Trung Quốc đã hoàn thành sáu công trình thủy điện và đang có kế hoạch xây một công trình nữa, tất cả đều trên dòng chính của sông Đà. Sáu công trình đã hoàn thành bao gồm Nhai Dương Sơn (Yayangshan), Thạch Môn Khảm (Shimenkan), Long Mã (Longma), Cư Phủ Độ (Jufudu), Qua Lan Than (Gelantan), và Thổ Ca Hà (Tukahe). Công trình đang trong kế hoạch là Tân Bình Trại (Xinpingzhai). Tổng công suất của sáu công trình đã hoàn thành là khoảng 1,300 megawatts. Đến năm 2019 trên dòng chính sông Đà thuộc địa phận Việt Nam có các nhà máy thủy điện nêu trong bảng dưới đây, trong đó PLM là công suất lắp máy, tọa độ và vị trí hành chính lấy đại diện ở đập chính. Nước sạch Sông Đà "Nước sạch Sông Đà" là dự án lấy nước sông Đà cấp về thành phố Hà Nội, nhằm khắc phục những khó khăn trong việc cấp nước sạch từ các nguồn nước ngầm có nguy cơ cạn kiệt ở vùng thành phố. Dự án do Tổng Công ty Vinaconex làm chủ đầu tư, xây dựng từ năm 2004, được nghiệm thu đưa vào sử dụng năm 2009. Dự án thực hiện nâng mức chứa của hồ Đồng Bãi (một số văn liệu viết thành hồ Đồng Bài) ở sườn phía nam núi Ba Vì trong vùng đất xã Phú Minh huyện Kỳ Sơn tỉnh Hòa Bình, đào kênh dẫn nước sông và bơm lên hồ, và dẫn nước từ hồ tới Nhà máy Nước sạch Sông Đà Viwasupco rồi chuyển nước theo "đường ống nước sạch sông Đà" về cung cấp khoảng 320.000 m³ mỗi ngày đêm cho khoảng 250.000 hộ dân khu vực tây nam Hà Nội, cỡ 28% nhu cầu nước của thành phố. Hồ Đồng Bãi là hồ thủy lợi nhỏ được xây dựng từ giữa thế kỷ 20, chặn dòng hợp lưu suối Cũn và các suối nhỏ, với lưu vực cỡ gần 20 km² . Nước sạch Sông Đà coi lưu vực này là "suối đầu nguồn sông Đà". Song nếu xem vị trí hồ Đồng Bãi trên Google Maps thì thấy hồ tiếp nhận nước và cả chất thải của cư dân và các cơ sở công nông nghiệp ở đó, trong số đó có trang trại lợn xây dựng bề thế trên đầu nguồn. Thông thường xả thải hữu cơ diễn ra kéo dài và được pha loãng, thì các quá trình sinh học tự nhiên trong nước hồ xử lý làm giảm bớt các chất thải này, còn trong hệ thống xử lý nước có tiến hành sục clo, đảm bảo an toàn sử dụng. Những người dùng mẫn cảm clo có thể nhận biết các đợt nhà máy tăng cường sục clo khi nước hồ ô nhiễm hơn bình thường. Tuy nhiên tối 8/10/2019 xảy ra vụ xả dầu thải vào suối đầu nguồn ở nhánh suối Trầm. Hệ thống xử lý đã để lại mùi clo và dầu cao và kéo dài, gây bức xúc trong dư luận . Những sự cố này cho thấy hệ thống hồ được thiết kế chưa đủ đảm bảo an toàn nước sạch cho người dùng. Mặt khác trong vụ nhiễm dầu thải thì việc khắc phục sự cố và trả lời công luận của công ty cấp nước thì được coi là "rất bị động, chậm trễ". Trong thực tế khi xảy ra sự cố thì Công ty Viwasupco đã huy động lực lượng và biện pháp xử lý, giữ được tạp chất trong nước ở mức thấp. Sự lúng túng là do hiện chưa có quy trình nào xác định cách thức xử lý những sự cố môi trường thuộc dạng như vậy, trong đó những công ty như Viwasupco chỉ có thể báo cáo mà không có quyền huy động lực lượng xã hội cho việc xử lý sự cố. Đến ngày 17/10 Công an Hòa Bình đã khởi tố vụ án hình sự về tội gây ô nhiễm môi trường theo quy định tại điều 235, Bộ luật hình sự. Những thông tin điều tra ban đầu cho thấy đây là hành vi phá hoại cố ý, với điều khác lạ là dầu thải là dầu thủy lực lấy từ Công ty gốm sứ Thanh Hà tại thị xã Phú Thọ và những người thực hiện là người ở tỉnh khác không có quan hệ gì tới nước sạch Sông Đà . Lãnh đạo tỉnh Hòa Bình thì cho rằng Công ty Viwasupco đã "lạm dụng hồ Đồng Bãi làm hồ chứa để sản xuất nước sạch cho người dân Hà Nội", mà "không có đóng góp cho kinh tế địa phương", nên đã yêu cầu "làm đường ống kín để lấy nước" và "quyết định thu hồi hồ Đồng Bài". Tình thế như vậy cho thấy lưu vực hồ Đồng Bãi được dành cho phát triển thả cá nuôi lợn đằm trâu, và để có hồ nước sạch thật sự thì Công ty Viwasupco nên chuyển về sử dụng hồ trên đất Hà Nội. Tham khảo Liên kết ngoài Trang web của Hội đập lớn và phát triển nguồn nước Việt Nam Trang web của Tổng công ty Sông Đà Quy hoạch và Quản lý tổng hợp tài nguyên nước lưu vực sông Đà Sông Đà và triển vọng thủy điện Bản đồ lưu vực Sông Đà và các nhánh Mực nước và lưu lượng một số sông chính năm 2003 Sông tại Lai Châu Sông tại Điện Biên Sông tại Hòa Bình Sông tại Phú Thọ Đà Biên giới Việt Nam Sông Vân Nam
27765
https://vi.wikipedia.org/wiki/Leone%20Battista%20Alberti
Leone Battista Alberti
Leone Battista Alberti (thường được viết là Leon Battista Alberti trong tiếng Ý; 14 tháng 2 năm 1404 tại Genova – 25 tháng 4 năm 1472 tại Roma) là con trai của một gia đình quý tộc tại Firenze bị trục xuất khỏi quê hương từ năm 1358. Alberti được coi là một trong những người tạo dựng nên thời kì Phục hưng nói chung và kiến trúc Phục hưng nói riêng. Ông được coi là con người toàn diện nhất của thời kì tiền Phục Hưng (The Universal Man of the Early Renaissance). Tiểu sử Battista Alberti thuộc con cháu của dòng họ Catenaia, là lãnh chúa phong kiến tại vùng Valdarno. Một trong số họ sau đó chuyển đến sinh sống tại Firenze, được bổ nhiệm làm thẩm phán (il Giudice) vào năm 1203. Sau đó, họ đổi tên và họ Alberti hình thành khoảng cuối thế kỉ 14. Dòng họ này đã nhanh chóng trở nên giàu có và có quyền lực bậc nhất tại thành Firenze. Trong số đó có thể kể tên như Niccolaio degli Alberti, cụ nội của Leone Battista Alberti, được xưng tụng như "người giàu có nhất trong vòng 200 năm" ở Firenze hoặc Bendetto Accolti Alberti, ông nội của Leone Battista Alberti, từng giữ các chức vụ quan trọng của thành Firenze như đại sứ khâm mệnh toàn quyền của công quốc Firenze tại Volterra, Bologne và Roma. Tuy nhiên, cùng với sự thăng tiến về quyền lực, dòng họ Alberti cũng tự tạo ra cho mình những kẻ thù không khoan nhượng. Một trong số đó là Maso degli Albizzi, thủ lĩnh một cánh đối lập tại Firenze. Năm 1379, dưới sự ủy nhiệm của Salvestro de' Medici, Bendetto Alberti, đã tuyên án tử hình Piero degli Albizzi, chú của Maso degli Albizzi, vì âm mưu lật đổ chính quyền. Từ năm 1382, ảnh hưởng về quyền lực chính trị của Maso không ngừng tăng lên và ông ta theo đuổi một kế hoạch báo thù. Năm 1387, dựa vào việc Benedetto Accolti Alberti đơn phương xin từ nhiệm, dưới ảnh hưởng của Maso, chính quyền đã ra lệnh cấm Benedetto tham dự vào các hoạt động chính trị cũng như bị lưu đày khỏi thành Firenze. Trong các năm tiếp theo 1393, 1399, 1401, lần lượt các thành viên của dòng họ Alberti kết tội có âm mưu lật đổ nền cộng hòa, ủng hộ những phái cách mạng Ciompi, bị tịch thu tài sản và trục xuất khỏi thành Fizenre. Cuộc sống lưu đày của dòng họ Alberti bắt đầu từ đây. Bị phân tán vì lệnh lưu đày, nhưng gia tộc Alberti vẫn biết cách bảo vệ tài sản của mình. Tại hầu hết các thành phố lớn của miền bắc nước Ý và thậm chí ở bên ngoài Ý, họ vẫn sở hữu những lượng tài sản lớn mà sắc lệnh tịch không không thể thực hiện được. Trong số đó có Lorenzo Alberti, con trai thứ của Benedetoo, cùng em trai của mình làm chủ hệ thống nhà băng cũng như cơ sở thương mại khác ở Bologne và Venezia, có chi nhánh ở nhiều nước châu Âu khác, thậm chí London. Năm 1428, lệnh ân xá cho gia tộc Alberti được công bố, tuy nhiên chỉ đến khi công tước Cosimo de Médici lên cầm quyền, gia tộc Alberti mới được hưởng đầy đủ các quyền lợi về mặt chính trị. Cậu bé Battista Alberti là con trai thứ của Lorenzo Alberti và một góa phụ thành Bolgone, sinh ra tại Gênes năm 1404, cho đến năm 4 tuổi cùng gia đình chuyển đến sinh sông tại thành Venezia. Từ năm 1414 đến 1419, Alberti theo học tại một trường học nổi tiếng của học phái Cicero, trường trung học Gasparino Barzizza. Tại đây, ông chịu ảnh hưởng nhiều các tư tưởng của Cicero, cũng như dần hình thành khuynh hướng nhân bản có ảnh hưởng lớn đến giai đoạn Phục hưng sau này. Cùng khóa với Alberti tại đây có Francesco Babaro, Francesco Filelfo, Panormita và Vittorino da Feltre, những người sau này trở trở thành những nhà tư tưởng và học thuật hàng đầu của thời kì Phục hưng Ý. Khi Alberti quay lại Bologne ông chuyển sang nghiên cứu luật tôn giáo và luật dân sự tại trường Đại học Bologne. Cùng thời điểm đó, ông bắt đầu tự nghiên cứu về triết học, toán học và hấp thụ các môn khoa học khác của thời đại. Ông thường xuyên trao đổi thư từ với nhà toán học vũ trụ Dal Pozzo Toscanelli (1397-1482), nhà toán học Luca Pacioli (1445–1514 hoặc 1517). Tuy nhiên vào năm 1421, gia đình Alberti đã gặp nhiều khó khăn về mặt tài chính khi Lorenzo Alberti qua đời ngay khí Alberti đang học năm thứ nhất. Chỉ vài tháng sau, người chú ruột của ông cũng qua đời. Tranh chấp tài sản đã nổ ra, và hai anh em Carlo Alberti và Battista Alberti bị tước quyền thừa kế vì họ là con ngoài giá thú của Lorenzo Alberti. Bị sốc về mặt tinh thần, khánh kiêt về vật chất, Alberti tiếp tục theo đuổi sự nghiệp học hành của mình tại Đại học Bologne. Ông tin tưởng vào quan điểm của Stoic rằng những hoàn cảnh khốn cùng không thể khuất phục được tinh thần của con người. Theo ông, "Chỉ có kẻ điên mới tin tưởng rằng sức mạnh của số phận có thể vượt qua được sức mạnh con người. Gông xiềng của số mệnh chỉ áp đặt lên những kẻ chấp nhận nó" (Bàn về gia đình - I primi tre libri della famiglia). Ông rèn luyện mình, làm quen với cuộc sống khổ hạnh để theo đuổi việc học hành. Sự kiên trì nhẫn nại đã mang lại cho ông danh tiếng. Những quan điểm của ông về cuộc sống và số mệnh con người trong thời gian này đã góp phần quan trọng trong việc hình thành tư tưởng nhân bản (humanitas). Ông hoàn thành luận án tiến sĩ luật học của mình tại Đại học Bologne vào năm 1428. Vào thời gian này, ông cũng cho ra đời các tác phẩm như Amator (khoảng năm 1429), Ecatonfilea (khoảng năm 1429) và Deiphira (viết khoảng năm 1429-1434), đề cập đến tình yêu, tình bạn, đạo đức của con người. Vào đầu những năm 1430, Alberti làm việc tại văn phòng quản trị của Giáo hoàng tại Roma. Ông bắt đầu sử dụng tài năng văn chương của mình cho công việc. Ông là người chấp bút, sơ thảo các chiếu chỉ của giáo hoàng và các nhân vật tầm cỡ khác trong hội đồng giáo sĩ, cũng như viết về cuộc đời của các vị thánh tử vì đạo bằng tiếng Latin. Nhờ vào bổng lộc của công việc cùng với hoa lợi của một bất động sản, Alberti bắt đầu tự chu cấp tài chính được cho bản thân. Sau khi lệnh lưu đày cho gia tộc Alberti được bãi bỏ, ông quay về Firenze cùng với giáo hoàng Eugenius IV, người vốn bị các cuộc biểu tình của quần chúng tại thành Roma lật đổ. Lập tức, ông được bổ nhiệm vào chức vụ luật tôn giáo của nhà thờ Firenze. Các tác phẩm nổi tiếng Alberti là tác giả của nhiều tác phẩm nổi tiếng về triết học, khoa học, văn học, luật học, ngôn ngữ học và nghệ thuật như De Familia (Bàn về gia đình), De pictura (Bàn về Nghệ thuật hội họa), De scupltura (Bàn về Nghệ thuật điêu khắc) và De re aedificatoria (Mười cuốn sách về nghệ thuật xây dựng)... được viết bằng tiếng Latinh. Ông là người phát minh là luật phối cảnh được sử dụng rộng rãi trong nghệ thuật và kiến trúc. Tác phẩm De re aedificatoria được xem như nền tảng cơ bản của lý thuyết kiến trúc thời kì Phục hưng. Đó là cuốn sách thứ hai trong lịch sử kiến trúc châu Âu viết về lý thuyết kiến trúc, sau cuốn De architectura (Mười cuốn sách về kiến trúc) của Vitruvius. Tác phẩm của Alberti Lý thuyết De re aedificatoria qua các bản dịch Alberti, On the arts of building in ten books, MIT Press, 1991 (Bản dịch của Rykwert, Tavernor and Leach) Alberti, L'art d'édifier, Édition du Seuil, 2004 (Bản dịch của Choay, Caye) Công trình xây dựng S. Andrea, Mantua, Ý Sta. Maria Novella, Firenze, Ý Tham khảo Grafton. A. (2000), Leon Battista Alberti: Master builder of the Italian Renaissance, Havard University Press. Michel, P. (1971), La pensée de L. B. Alberti, Slatkine Reprints Trường phái Vitruvius Lý thuyết kiến trúc Kiến trúc sư Ý Kiến trúc sư Phục Hưng Mất năm 1472 Nhà thơ Ý Nhà triết học Ý Nhà điêu khắc Ý Sinh năm 1404 Kiến trúc sư thời Phục Hưng Họa sĩ Phục hưng
27769
https://vi.wikipedia.org/wiki/Vitruvius
Vitruvius
Marcus Vitruvius Pollio (80-70 TCN - 15 TCN)(*) là một kiến trúc sư, kĩ sư công binh người La Mã, phục vụ trong quân đội La Mã tại Tây Ban Nha và xứ Gaule dưới thời của độc tài La Mã Julius Caesar. Ông cũng tham gia cuộc tiến công vào xứ Gaul.Trong chiến tranh ông phục vụ trong quân đoàn VI (Legio VI ferrata) (1). Lúc đầu ông làm việc dưới quyền kĩ sư trưởng Lucius Cornelius Balbus. Sau đó,chính ông là người thiết kế các cỗ máy bắn đá từ năm 52 đến năm 51(năm kết thúc cuộc chiến),trong đó có cỗ máy đã hạ gục đội quân của Vercingetorix (2). Người ta biết rất ít về cuộc đời của ông. Thậm chí hai tên của ông là Marcus và Pollio cũng không được khẳng định chắc chắn. Đó chỉ là phỏng đoán được nhắc đến bởi Cetius Faventinus. Ông là tác giả của cuốn sách nổi tiếng De architectura (Mười cuốn sách về kiến trúc). Hiện nay, tác phẩm này được coi là tác phẩm lý thuyết kiến trúc cổ nhất được biết của loài người. Trong đó ông đưa ra ba quan điểm nền tảng của kiến trúc là Firmitas-Ultilitas-Venustas (Bền vững-Thích dụng-Đẹp), còn được gọi là "tam giác Vitruvius". Lý thuyết kiến trúc của ông có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển của lịch sử kiến trúc sau này. Tham khảo McEwen, I, Vitruvius: Writing the Body of Architecture, MIT Press, 2004 Baldwin, B, The Date, Identity, and Career of Vitruvius, Latomus, Vol 49, 1990, p425-34 Joseph Gwift,Marcus Vitruvius Pollio in ten books translated from Latin Liên kết ngoài http://en.wikipedia.org/wiki/Vitruvius(2)Mười cuốn sách về kiến trúc, tiếng Latinh và tiếng Anh Mười cuốn sách viết về kiến trúc, Perseus Classics Collection. tiếng Latinh và tiếng Anh, hình ảnh Chú thích (*) Khi Vitruvius dâng sách cho hoàng đế Augustus năm 25 TCN ông cũng đã khá già rồi mà hoàng đế vẫn còn trẻ.DO vậy nói ông sinh năm 70TCN(hơn hoàng đế 7 tuổi) là điều không hợp lý,hơn nữa dựa theo năm Caesar thành lập quân đoàn VI(58TCN) thì ông ít ra phải sinh từ năm 75 TCN trở về trước(ở La Mã tuổi nhập ngũ từ 17-45 tuổi) Trường phái Vitruvius Lý thuyết kiến trúc Kiến trúc sư Ý Kiến trúc sư Phục Hưng Mất thế kỷ 1 Năm mất không rõ
27776
https://vi.wikipedia.org/wiki/Filarete
Filarete
Antonio Averlino (thường được biết dưới tên Filarete, có nghĩa là "Người yêu đạo đức" trong tiếng Hy Lạp; 1400–1469) là một kiến trúc sư, nhà điêu khắc và nhà lý thuyết kiến trúc người Ý của thời kì Phục hưng. Tiểu sử Ông sinh ra ở Firenze, phục vụ dưới trướng của Giáo hoàng Eugenius IV. Tác phẩm "Luận về kiến trúc" (tiếng Ý: Trattato di architettura) của ông gồm 25 cuốn nhỏ, được sắp xếp rời rạc dưới dạng văn kể chuyện. Ông là người đầu tiên sử dụng thổ ngữ để viết tác phẩm về lý thuyết kiến trúc thay vì tiếng Latinh. Tiếp nối Vitruvius và Leone Battista Alberti, Filarete cho rằng kiến trúc hình thành từ nhu cầu sử dụng và, do vậy, túp lều nguyên thủy chính là cội nguồn của kiến trúc. Ông lấy cơ thể con người làm hệ so sánh cơ bản trong kiến trúc. Theo ông, sự hình thành của thức cột cổ điển xuất phát từ túp lều nguyên thủy, mà tỉ lệ của nó chính là tỉ lệ của cơ thể con người. Ông đi sâu phân tích nhân trắc học cơ thể con người dựa trên đồ hình của Vitruvius. Từ đó, thành phố cũng chính là cơ thể con người, ông đưa ra một mô hình đô thị mới hình sao tám cạnh, chống lại mô hình bất hợp lý thời Trung cổ. Từ quan điểm nhân trắc học trong kiến trúc, Filarete đã có phần chuyển sang quan điểm về phỏng sinh học. Theo ông, kiến trúc là một sản phẩm xuất phát từ cơ thể con người, cũng bị bệnh và chết như con người. Thực tế quan điểm này của ông không vượt qua được quan điểm của Alberti trình bày trong cuốn mười của tác phẩm "Nghệ thuật xây dựng trong mười cuốn sách" (De re aedificatoria). Filarete là người đầu tiên nhận ra tầm quan trọng của bản vẽ trong diễn giải lý thuyết kiến trúc. Chính ông là người đầu tiên sử dụng bản vẽ để minh họa lý thuyết của mình. Tham khảo Mumford, Lewis. 1961. The City in History: Its Origins and Transformations, and its Prospects (New York: Harcourt, Brace & World) Filarete, (1965). Treatise on Architecture dịch bởi John R. Spencer (New Haven: Yale University Press) Tiểu sử Luận về các thuyết của Averlino và da Vinci Miêu tả về cửa chính Peter J. Murray, 1963. The Architecture of the Italian Renaissance (London:Batsford), pp 100ff Plan của Sforzinda Fred Luminoso, 2000. "The Ideal City: Then and Now" "Sforzinda: progetto di città ideale" (tiếng Ý) Cửa của Filarete tại stpetersbasilica.org Kiến trúc sư Ý Kiến trúc sư Phục Hưng Trường phái Vitruvius Lý thuyết kiến trúc Nhà điêu khắc Ý Kiến trúc sư thời Phục Hưng
27780
https://vi.wikipedia.org/wiki/Francesco%20di%20Giorgio%20Martini
Francesco di Giorgio Martini
Francesco Di Giorgio Martini (23 tháng 9 1439 - 29 tháng 11, 1501) tại Siena, là một họa sĩ, nhà điêu khắc, kiến trúc sư và nhà thiết kế người Ý trong thời kì tiền Phục hưng. Là con trai của một thủ thư, ông theo học điêu khắc với Lorenzo Di Pietro vào khoảng năm 1460. Cũng vào thời điểm này, Giorgio phục vụ dưới triều đại của Giáo hoàng Pius II Ông đã tham gia thiết kế cung Poccolomini nhưng bị loại khỏi cuộc thi. Ông là tác giả của hầu hết các bàn thờ của các nhà thờ xung quanh Bologna. Ông là tác giả của "Khảo luận về kiến trúc" (Trattato di architettura). Tác phẩm này gồm 7 cuốn sách Điều kiện ban đầu cho xây dựng Xây dựng nhà ở và lâu đài Pháo đài và quy hoạch đô thị Đền đài và các công trình tôn giáo Thành trì Cầu cảng Máy móc xây dựng Đặc điểm quan trọng nhất trong lý thuyết kiến trúc của Giorgio Martini là nghiên cứu về mối quan hệ giữa tỉ lệ con người và công trình kiến trúc. Dựa trên triết học của Platon, Aristotle và Vitruvius, ông coi ngôi nhà, con người và vũ trụ phải tương đồng với nhau và tỉ lệ của cơ thể con người chính là tỉ lệ chuẩn cho cấu trúc của đô thị. Tỉ lệ nhân trắc học được Martini nâng cao hơn các người tiền nhiệm bằng cách lấy đầu người làm đơn vị modul của hệ dầm. Tuy nhiên điểm khác biệt của Martini nằm ở chỗ ông xuất phát từ một hệ modul phù hợp với cơ thể con người chứ không phải lấy cơ thể con người làm hệ modul. Có thể nói, ông là người đi trước Le Corbusier hàng trăm năm ở ý tưởng về modul. Tham khảo Liên kết ngoài Tiểu sử Sinh năm 1439 Mất năm 1501 Kiến trúc sư Ý thế kỷ 15 Họa sĩ Ý thế kỷ 15 Nhà văn Ý thế kỷ 15 Họa sĩ Ý thế kỷ 16 Nhà văn Ý thế kỷ 16 Nhà văn kiến trúc Ý Kiến trúc sư Phục Hưng Ý Họa sĩ Phục Hưng Ý Nam họa sĩ Ý Nam nhà văn Ý Người Siena Họa sĩ Quattrocento Họa sĩ Siena
27783
https://vi.wikipedia.org/wiki/Alberti%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
Alberti (định hướng)
Alberti là họ của một gia đình nổi tiếng tại Firenze, tương đương với họ Medici và Albizzi. Alberto di Giovanni Alberti (1525-1599), kiến trúc sư Ý Antonio degli Alberti (khoảng 1360-1415), nhà thơ Ý Domenico Alberti (khoảng 1710-1740), nhà soạn nhạc và ca sĩ Ý Friedrich August von Alberti (1795-1878), nhà cổ sinh vật học Gasparo Alberti (khoảng 1480-1560), nhà soạn nhạc Ý Giuseppe Matteo Alberti (1685-1751), nhà soạn nhạc Ý Innocentio Alberti (khoảng 1535-1615), nhà soạn nhạc Ý Johann Friedrich Alberti (1642-1710), nhà soạn nhạc Đức Leone Battista Alberti (1404-1472), kiến trúc sư, nghệ sĩ, nổi tiếng trong nhiều lãnh vực P.A. Alberti (1851-1932), chính khách Đan Mạch Pietro Alberti (16??–17??); nhà soạn nhạc Ý, nghệ sĩ đàn ống và nghệ sĩ vĩ cầm sống ở Bắc Âu. Rafael Alberti (1902–1999); nhà thơ Tây Ban Nha. Willy Alberti nghệ sĩ Hà Lan thế kỷ 20. Cha của Willeke Alberti. Willeke Alberti ca sĩ Hà Lan. Con gái của Willy Alberti. Họ người Ý
27788
https://vi.wikipedia.org/wiki/Le%20Corbusier
Le Corbusier
Le Corbusier (6 tháng 10 năm 1887 – 27 tháng 8 năm 1965) là một kiến trúc sư người Thụy Sĩ và Pháp nổi tiếng thế giới. Ông là một trong những người đặt nền móng cho sự phát triển của trào lưu Kiến trúc hiện đại của thế kỉ 20, cùng với Ludwig Mies van der Rohe, Walter Gropius và Theo van Doesburg. Ông là tác giả của hệ thống Modulor nổi tiếng. Ông còn là nhà quy hoạch đô thị, họa sĩ, nhà văn và thiết kế đồ nội thất. Để kỷ niệm, hình ông in lên tờ 10 franc của Thụy Sĩ và tên ông được đặt tên đường ở nhiều quốc gia. Tiểu sử Le Corbusier có tên trên khai sinh là Charles-Edouard Jeanneret, sinh tại một thị trấn nhỏ tại Neuchâtel ở vùng phía bắc của Thụy Sĩ, giáp giới với nước Pháp. Thời trẻ, Le Corbusier theo học tại trường thủ công mỹ nghệ tại địa phương, dưới sự hướng dẫn của Charles L'Éplattenier người đã từng du học tại Budapest và Paris, các trung tâm nghệ thuật thời bấy giờ. Thời điểm đó, Le Corbusier đã bộc lộ rõ hứng thú nghiên cứu về cấu trúc hình học của các đối tượng cũng như việc ứng dụng kĩ thuật vào nghệ thuật. Công trình đầu tiên của ông là biệt thự Fallet, biệt thự Schowb, biệt thự Jeanneret ở vùng núi La Chaux de Fonds đã thể hiện những giải pháp sáng tạo ở việc xử lý các chi tiết kỹ thuật. Những công trình đã sử dụng tài tình những ngôn ngữ của kiến trúc bản địa vùng núi Alps. Các công trình này dần dần đã thể hiện bước tiến trong tư duy về không gian kiến trúc với việc đơn giản hóa hình khối của trong kiến trúc. Ham muốn khám phá đã thúc đẩy Le Corbusier rời quê nhà đi du lịch vòng quanh châu Âu. Năm 1907, Le Corbusier đến Paris và làm việc cho kiến trúc sư Auguste Perret, bậc thầy về sử dụng bê tông của kiến trúc Pháp giai đoạn đó. Từ tháng 10 năm 1910 đến tháng 3 năm 1911, Le Corbusier làm việc cho văn phòng của kiến trúc sư Peter Behrens, nhà tiên phong của kiến trúc hiện đại ở Đức ở Berlin. Tại đây ông đã gặp kiến trúc sư trẻ Ludwig Mies van der Rohe. Những sự kiện này đã có ảnh hưởng rõ rệt trong sự nghiệp của ông sau này. Vào cuối năm 1911, Le Corbusier đi du lịch các nước vùng Balkans, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ. Ông đã ký họa rất nhiều những gì ông nhìn thấy trong chuyến du lịch của mình, bao gồm những công trình nổi tiếng như đền Parthenon ở khu Acropolis (Athena, Hy Lạp). Những công trình mà sau này ông tán dương trong tác phẩm "Hướng về một nền kiến trúc" (Vers une architecture) viết năm 1923. Khởi đầu sự nghiệp Trong Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, Le Corbusier giảng dạy tại trường học cũ của ông tại La-Chaux-de-Fonds. Trong thời kì này, ông tiến hành các nghiên cứu về lý thuyết kiến trúc với kỹ thuật hiện đại. Một trong số đó là hệ thống nhà Dom-ino trong giai đoạn 1914-1915 với hy vọng đáp ứng cho việc xây dựng công nghiệp sau chiến tranh. Đồ án này đề xuất một hệ thống sàn bê tông lắp ghép với các cột xung quanh, với các nút giao thông đứng được bố trí bên cạnh. Đây là một hệ thống không gian mở và linh hoạt. Đồ án này trở thành nền tảng cho hầu hết các công trình của ông trong vòng 10 năm sau đó. Sau khi chiến tranh kết thúc, ông quay lại Paris, cộng tác với người em họ là Pierre Jeanneret (1896-1967) mở một hãng thiết kế hoạt động đến năm 1940. Một số công trình nổi tiếng 1905 - Biệt thự Fallet, La Chaux-de-Fonds, Thụy Sĩ 1912 - Biệt thự Jeanneret, La Chaux-de-Fonds, Thụy Sĩ 1916 - Biệt thự Schwob, La Chaux-de-Fonds, Thụy Sĩ 1923 - Biệt thự LaRoche/Biệt thự Jeanneret, Paris, Pháp 1924 - Gian triển lãm Tư tưởng mới (Pavillon de L'Esprit Nouveau) tại Triển lãm Thế giới, Paris, Pháp (đã bị phá hủy) 1924 - Quận Modernes Frugès, Pessac, Pháp 1926 - Biệt thự Cook, Boulogne-sur-Seine, Pháp 1927 - Biệt thự Weissenhof Siedlung, Stuttgart, Đức 1928 - Biệt thự Savoye, Poissy-sur-Seine, Pháp 1929 - Nhà chúa Cứu thế (Armée du Salut) khu tị nạn, Paris, Pháp 1930 - Tòa nhà Thụy Sĩ, Thành phố đại học, Paris, Pháp 1933 - Tòa nhà chính phủ Tsentrosoyuz, Moskva, Liên Xô 1938 - Nhà chọc trời "Cartesian" 1947 - 1952 - Đơn vị ở lớn Marseille (Unité d'Habitation), Marseille, Pháp 1949 - Nhà máy Claude và Duval, Saint-Dié-des-Vosges, Pháp 1950 - 1955 - Nhà thờ Notre Dame du Haut, Ronchamp, Pháp 1951 - Nhà nghỉ Le Corbusier, Roquebrune-Cap-Martin 1951 - Tòa nhà Jaoul, Neuilly-sur-Seine, Pháp 1952 - 1959 - Khu nhà chính phủ ở Chandigarh, Ấn Độ 1952 - Toà án tối cao 1952 - Bảo tàng nghệ thuật 1953 - Văn phòng tổng trưởng 1953 - Câu lạc bộ Hải dương 1955 - Quốc hội 1959 - Trường nghệ thuật 1953 - Toàn nhà Bresil, Thành phố Đại học, Paris, Pháp 1956 - Đơn vị ở lớn Briey và Forêt, Briey en Forêt, Pháp 1957 - 1960 - Sainte Marie de La Tourette, gần Lyon, Pháp 1957 - Đơn vị ở lớn ở Berlin-Charlottenburg, Heilsbergen Dreieck 143, Berlin, Đức 1958 - Pavillon Philips, Brussels, Bỉ (đã bị phá hủy) 1960 - Unité d'Habitation de Firminy, Firminy, Pháp 1961 - Trung tâm Nghệ thuật Thị giác, Đại học Harvard, Cambridge, Massachusetts, Mỹ Ý tưởng Năm nguyên tắc thiết kế Biệt thự Savoye đã tập hợp năm nguyên tắc thiết kế kiến trúc mà ông nêu ra trông tạp chí L'Esprit Nouveau và cuốn sách Vers une architecture: Nhà trên cột, giải phóng không gian tầng một Vườn trên mái Mặt bằng tự do Cửa sổ băng ngang Mặt đứng tự do Hệ Modulor Đây là một hệ tỉ lệ trong kiến trúc được Le Corbusier giới thiệu lần đầu vào năm 1948 và ứng dụng lần đầu tiên trong Đơn vị ở lớn Marseille. Hệ tỉ lệ này, được xây dựng trên tỉ lệ vàng truyền thống của kiến trúc châu Âu cổ đại được Le Corbusier kết hợp với các số đo của nhân trắc học con người nhằm mục đích phù hợp với các thiết kế kiến trúc cũng như đạt được vẻ đẹp hài hòa với tự nhiên. Theo Le Corbusier: "Tự nhiên là toán học, tất cả các tuyệt tác của nghệ thuật đều hài hòa với tự nhiên, những tác phẩm đó thể hiện những quy luật của tự nhiên và phục vụ những quy luật đó". Hệ Modulor có hai chỉ bậc là dãy xanh và dãy đỏ theo quy luật của Dãy Fibonacci dựa trên các số đo hình thể. Dãy đỏ bắt đầu với đơn vị chuẩn là 1,13 m bằng 1M và dãy xanh với đơn vị chuẩn là 2,26 m tức 2M. Quy hoạch đô thị Le Courbusier ngoài việc xây dựng một nền kiến trúc mới chống lại phái hàn lâm kinh viện, đã coi quy hoạch đô thị là một công việc có tầm quan trọng chiến lược, sống còn đối với văn minh nhân loại. Ông coi "quy hoạch đô thị là chìa khoá" để giải quyết mọi vấn đề kiến trúc xây dựng. Le Courbusier là tác giả của các phương án thành phố ba triệu dân, phương án cải tạo trung tâm Paris và nhiều phương án quy hoạch các đô thị nhiều nước trên thế giới. Mô hình thành phố ba triệu dân được Le Courbusier đưa ra vào năm 1922. Ông phê phán kiểu xây dựng hỗn loạn vô chính phủ hiện tại, muốn thực hiện một cách xây dựng có quy luật, có trật tự, chủ trương xây dựng hàng loạt, xây dựng công nghiệp hoá. Mô hình này được thử nghiệm tại Paris, áp dụng khái niệm về mối quạn hệ giữa công trình và môi trường. Mô hình chú trọng đến quan hệ hợp lý giữa giao thông với khu sản xuất, khu nhà ở. Mô hình Thành phố ba triệu dân có dạng một hình chữ nhật lớn, có những trục giao thông chính và phụ đan nhau 90° hoặc 45°. Ở giữa trung tâm thành phố rộng lớn 350 ha là khu vực làm việc, dịch vụ với 24 nhà chọc trời cao 66 tầng, mỗi nhà cho 3000 dân, đặt cách nhau 150 mét. Mật độ cư trú là 300 người/ha, mật độ xây dựng 5%. Bao quanh khu nhà này là khu ở đầy cây xanh dành cho 400-600 nghìn người với các nhà cao tầng kiểu. Ngoài cùng là khu ở kiểu sân vườn với hai triệu dân. Các khu công nghiệp, các thị trấn-vườn được đặt ở ngoại vi. Giao thông được phân cấp, tách rời giữa đường đi bộ và đường cho xe cơ giới., có bảy loại đường giao thông để giảm khoảng cách đi lại tối thiểu. Thành phố có hai trục giao thông chính thẳng góc với nhau tạo thành hai trục quy hoạch cắt nhau ở trung tâm đô thị, mỗi trục rộng 180 mét. Nhà ga chính đặt ở trung tâm với hệ thống giao thông cả trên và dưới mặt đất. Thiết kế đồ gia dụng Le Corbusier bắt đầu thiết kế đồ nội thất từ năm 1928 sau khi mời kiến trúc sư Charlotte Perriand tham dự vào xưởng thiết kế của ông. Người anh em họ của ông là Jeanneret cũng cộng tác trong nhiều thiết kế. Ảnh hưởng của Le Corbusier Tư tưởng về kiến trúc của Le Corbusier có ảnh hưởng đến nhiều kiến trúc sư Hiện đại sau này như Richard Meier, Ando Tadao, Mario Botta... Trích dẫn Kiến trúc là trò chơi thông minh và tuyệt diệu của tập hợp các hình khối trong ánh sáng (Le Corbusier, Hướng về một nền kiến trúc, 1927) Nghệ thuật là cách xếp đặt mọi thứ vào đúng trật tự, vị trí và kích thước của chúng Tham khảo Curtis, J, Le Corbusier, Ideas and Form, Rizzoli, 1986 Baker, G, Le Corbusier; An Analysis of Form, Spon Press, 2001 Jencks, C, Le Corbusier and the Continual Revolution in Architecture, Monacelli, 2000 Liên kết ngoài Fondation Le Corbusier - trang chính thức Bàn ghế theo thiết kế của Le Corbusier Tiểu sử của Le Corbusier Le Corbusier Design Nghệ thuật Art Deco Kiến trúc sư Hiện đại Kiến trúc sư Thụy Sĩ Kiến trúc sư Pháp Kiến trúc sư nhận giải thưởng AIA Bài cơ bản dài trung bình Sinh năm 1887 Mất năm 1965 Tử vong vì chết đuối
27789
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ludwig%20Mies%20van%20der%20Rohe
Ludwig Mies van der Rohe
Ludwig Mies van der Rohe (27 tháng 3 năm 1886 – 19 tháng 8 năm 1969) là một kiến trúc sư nổi tiếng thế giới người Đức. Ông là một trong những người đặt nền móng cho sự phát triển của trào lưu Kiến trúc hiện đại của thế kỉ 20 và được xem như cha đẻ của phong cách Kiến trúc tối thiểu (Minimalism). Thời gian tại Đức Ông sinh ra tại Aachen, Đức, với tên là Maria Ludwig Michael Mies, là con trai của một người thợ đá thủ công, điều này đã ảnh hưởng sâu sắc tới quan điểm thực hành trong kiến trúc của ông sau này. Sau đó ông chuyển tới Berlin làm việc ở văn phòng thiết kế của Brono Paul, và từ 1908 đến 1912 làm việc tại xưởng thiết kế của Peter Behrens, một trong những người tiên phong của kiến trúc Đức thời bấy giờ. Mies đã học được rất nhiều về lý thuyết thiết kế cũng như sự phát triển của văn hóa Đức thời bấy giờ. Cũng tại xưởng thiết kế của Behrens, Mies đã gặp gỡ và làm việc cùng với Le Corbusier và Walter Gropius. Với dáng vóc vạm vỡ, tính tình cẩn thận và là một con người trầm lặng, ít nói, người thanh niên tài năng Ludwig Mies tự đổi tên, lột xác từ con trai một người thợ tỉnh lẻ trở thành một kiến trúc sư làm việc với giới thượng lưu ở Berlin thời bấy giờ, bằng cách thêm ba chữ "van der Rohe" như một tên hiệu quý tộc. Ông bắt đầu sự nghiệp độc lập của mình bằng cách thiết kế một số công trình nhà ở theo phong cách kiến trúc truyền thống của Đức. Mies ưa thích những tỉ lệ lớn, những hình khối không gian của kiến trúc sư Tân Cổ điển nước Phổ thế kỉ 19 là Karl Friedrich Schinkel, trong khi bỏ qua những xu hướng cổ điển chiết trung và hỗn độn của buổi giao thời. Sau Thế chiến thứ nhất, Mies bắt đầu từ bỏ phong cách truyền thống và gia nhập hàng ngũ những người tiên phong trên con đường đi tìm một phong cách mới trong thời đại mới. Phong cách cổ điển từ lâu đã bị các nhà phê bình nghệ thuật chỉ trích từ giữa thế kỉ 19, chủ yếu do sự lạm dụng các chi tiết trang trí bề mặt, không tương xứng với sự phát triển của các kết cấu xây dựng bên trong công trình. Sự chỉ trích tấn công vào truyền thống cổ điển càng thắng thế, nhất là với sự sụp đổ của các đế chế vương quyền châu Âu, sau Thế chiến thứ nhất. Kiến trúc truyền thống giờ đây bị xem như tàn tích của quá khứ, của một chế độ chính trị không hợp thời. Mặt khác, dưới sự bùng nổ phát triển của nền sản xuất công nghiệp hóa châu Âu thời bấy giờ đòi hỏi một tư duy mới về kỹ thuật đã thúc đẩy quá trình tìm kiếm một phong cách mới cho nghệ thuật. Trong bối cảnh đó, Mies đã thực hiện một bước ngoặt ngoạn mục với đồ án nhà kính chọc trời ở Berlin năm 1921. Công trình này có mặt bằng không chuẩn tắc, được loại bỏ các chi tiết trang trí của công trình. Về mặt kết cấu, công trình sử dụng hệ kết cấu thép, được bọc kính hoàn toàn, chan hòa ánh sáng đến tất cả các không gian nội thất, đã thể hiện một quan điểm hiện đại về tổ chức không gian ở. Với tư duy về kết cấu và kiến trúc, đồ án này của Mies có thể sánh với những công trình sau này của ông trên đất Mỹ vào thập niên 1950. Năm 1929, Mies cho ra đời công trình nổi tiếng nhất mình, được xem như đỉnh cao của kiến trúc Đức thời bấy giờ, gian triển lãm của Đức tại triển lãm Barcelona, Tây Ban Nha năm 1929. (Công trình này hiện nay đã được phục chế lại.) Năm 1930, biệt thự Tugendhat ở Brno, Cộng hòa Séc, được xây dựng với dáng vẻ thanh nhã và hiện đại. Cả hai công trình đã thể hiện xuất sắc ý tưởng về "mặt bằng liên hoàn" của Mies. Tháng 7 năm 1923, Mies cộng tác với tạp chí cấp tiến G. Năm 1925, ông tham gia sang lập nhóm "Zehnerring" chống lại chủ nghĩa hình thức thuần túy. Ông nổi bật một cách xuất chúng như người lãnh đạo của phong trào Werkbund. Năm 1926, Mies được đề cử làm phó chủ tịch Werkbund, một phong trào cấp tiến thời bấy giờ do Hermann Muthesius sáng lập. Chính ông đã thiết kế quy hoạch chung cũng như thiết kế nhà ở tại dự án Weissenhof nổi tiếng của Werkbund, ở Stuttgart năm 1927. Về quan điểm thẩm mỹ, Mies bị ảnh hưởng mạnh của trường phái Kết cấu Nga và nhóm De Stijl của Hà Lan cũng như phong cách nhà ở thảo nguyên của kiến trúc sư người Mỹ Frank Lloyd Wright. Năm 1928, ông bắt đầu tham gia giảng dạy kiến trúc tại trường Bauhaus. Ông cũng thiết kế một số mẫu nội thất nổi tiếng, ví dụ như bàn ghế Barcelona và ghế Brno. Sau sự ra đi của Hannes Meyer, trước đề nghị của Walter Gropius, Mies chấp nhận lên làm hiệu trưởng đời thứ ba của trường Bauhaus, lúc này đang trong giai đoạn suy tàn. Ông đã tiếp tục một chương trình đầy tham vọng với trường Bauhaus, tuy nhiên do sự suy thoái kinh tế của cũng như áp lực của chính quyền phát xít thời đó đã không cho phép ông tiếp tục. Chính quyền phát xít đã ép Mies phải đóng cửa trường Bauhaus do có sự liên quan đến phong trào xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa cộng sản và các ý thức hệ khác. Trong giai đoạn này, Mies không xây dựng một công trình nổi bật nào, công trình lớn nhất của ông thời đó lại là căn hộ của Philip Johnson ở Thành phố New York. Mặt khác, phong cách kiến trúc của Mies bị nhà cầm quyền tẩy chay với lý do đi ngược lại truyền thống, không mang phong cách của Đức. Cuối cùng, khi cảm thấy mọi cơ hội phát triển cho tương lai của mình bị tiêu tan, Mies miễn cưỡng rời Đức vào năm 1937 sang Mỹ, nhận lời thiết kế một công trình nhà ở tại tiểu bang Wyoming. Thời gian tại Hoa Kỳ Rời Đức sau 30 năm hành nghề kiến trúc, Mies đã tạo được danh tiếng lẫy lừng, được xem như một trong những người tiên phong của Phong cách Quốc tế. Sau khi định cư ở Chicago, ông được đề nghị làm hiệu trưởng của trường Kiến trúc thuộc Học viện Kỹ thuật Thiết giáp (Armour Institute of Technology) ở Chicago, sau này đổi tên thành Học viện Kỹ thuật Illinois (Illinois Institute of Technology - IIT). Một trong những điều kiện mà Mies đặt ra với đề nghị này là phải để ông thiết kế một số tòa nhà mới của khu đại học. Một trong những tòa nhà đó còn tồn tại đến hiện nay, bao gồm giảng đường Crown, trụ sở trường Kiến trúc của IIT. Năm 1944, Mies nhập tịch Mỹ, hoàn toàn cắt đứt nguồn gốc Đức của mình. Trong suốt thời gian 30 năm hành nghề kiến trúc tại Mỹ, Mies luôn kiên trì khẳng định tư tưởng và đường lối của mình nhằm hoàn thiện một nền kiến trúc mới của thế kỷ 20. Ông tập trung các nỗ lực của mình cho ý tưởng của một không gian tổng thể lớn, với trật tự kết cấu rõ ràng, được làm nổi bật bằng các thanh thép hình tiền chế, "chèn" bằng gạch và kính. Những công trình đầu tiên của Mies ở đây là khu học xá của IIT và một số công trình cho Herb Greenwald đã thức tỉnh người Mỹ về một phong cách được xem như sự tiếp nối tự nhiên, một âm hưởng văn hóa của trường phái Chicago cuối thế kỉ 19. Góc tường với việc sử dụng thép hình của tòa nhà Hải quân (Naval Building) ở IIT được ca ngợi coi đó như hình thức kinh điển của chủ nghĩa hiện đại hay đó là "cây cột Ionic của kiến trúc thế kỉ 20". Do điều luật của sở cứu hỏa thành phố Chicago sau vụ đại hỏa hoạn năm 1871 yêu cầu phải bọc vật liệu chống cháy ra ngoài kết cấu chịu lực bằng kim loạt đối với công trình có hơn 1 tầng buộc Mies phải giấu dầm thép chữ I vào trong tường gạch. Mặt khác Mies muốn bộc lộ kết cấu của công trình, cuối cùng ông đã chọn giải pháp áp các dầm thép chữ I vào hai bên cạnh tường. Các dầm này không có giá trị về mặt chịu lực mà chỉ dùng để trưng bày kết cấu chịu lực chính. Ở phía đáy dưới là một bản thép phẳng, ở trên đầu là một viên gạch mỏng. Tất cả các chi tiết bằng kim loại được sơn đen tạo thành một đối tượng thống nhất với tỉ lệ hoàn hảo chuyển tiếp từ một cạnh tường này sang tường bên kia. Giải pháp này được xem như một biểu tượng của kiến trúc mới và bức ảnh về góc tường này xuất hiện trong tất cả các cuốn sách về lịch sử kiến trúc hiện đại. Từ năm 1946 đến năm 1951, Mies thiết kế và xây dựng công trình nổi tiếng: Nhà kính Farnsworth. Đây là một công trình nhà nghỉ cuối tuần ở ngoại vi của Chicago cho nữ giáo sư tiến sĩ Edith Farnsworth. Tuyệt tác kiến trúc này đã chứng minh cho mọi người thấy kết cấu thép và kính là những vật liệu có khả năng tạo nên một công trình kiến trúc hoàn hảo. Tòa nhà kính mọc lên từ địa hình phẳng, bên cạnh sông Fox. Công trình phô trương những dầm thép hình chữ H được đặt thành từng hàng song song. Treo giữa các cột là ba phiến thép mỏng: sàn, mái và hiên nhà. Toàn bộ kết cấu màu trắng tinh xác định một không gian giới hạn với bốn mặt kính chạy suốt chiều cao, cho phép ánh sáng tự nhiên thâm nhập vào không gian nội thất. Một "lõi" bằng gỗ chứa các bộ phận kỹ thuật của công trình, bếp, lò sửa và khu vệ sinh được đặt bên trong không gian mở xác định các không gian khách, làm việc, ăn, ngủ mà hoàn toàn không cần đến một sự phân chia vật lý nào. Cũng không hề có một dấu vết của sự phân chia không gian nội thất nào đụng chạm tới bề mặt ngoài của công trình. Các tấm rèm treo suốt chiều cao được chạy vòng quanh chu vi công trình cho sẽ che chắn ánh sáng cũng như tạo ra không gian riêng tư khi cần thiết. Toàn bộ công trình thể hiện một sự tinh tế về thẩm mỹ, tạo cảm nhận dường như tòa nhà nhẹ nhàng bay khỏi mặt đất, là một vần thơ và một tuyệt phẩm nghệ thuật. Công trình này đã biểu lộ quan điểm của Mies về trật tự, trong sáng và đơn giản của kiến trúc. Năm 2004, tòa nhà kính Farnsworth cùng với khu rừng 60 mẫu xung quanh được một nhóm bảo tồn mua lại với giá là 7,5 triệu đô la. Ngày nay, quần thể này nằm dưới sự quản lý của Hội đồng Bảo tồn các Di tích của Illionois như một bảo tàng. Công trình này ảnh hưởng xuống hàng chục các tòa nhà hiện đại khác, nổi bật nhất trong số đó là tòa nhà kính (Glass House) của Phillip Johnson, được xây dựng ở gần New Canaan. Từ năm 1951 đến năm 1952, Mies thiết kế nhà nghỉ mùa hè McCormich, nằm ở Elmhurst, Illinois, cho điền chủ Robert Hall McCormick Jr. Ý tưởng chính dựa trên mặt bằng điển hình của công trình nổi tiếng của ông: khu ở đường Lake Shore Drive. Sau đó công trình này trở thành mẫu thiết kế điển hình cho một loạt công trình nhà lô sẽ được xây dựng ở Melrose Park, Illinois, mặc dù cuối cùng không được xây dựng. Tòa nhà McCormich hiện nay là một phần của Viện Bảo tàng Nghệ thuật Elmhurst. Năm 1958, Mies thiết kế công trình được xem như đỉnh cao của nhà cao tầng trong kiến trúc hiện đại. Đó là tòa nhà Seagram ở thành phố New York. Mies được lựa chọn bởi bà Phyllis Bronfman Lambert, con gái của khách hàng, người sau này cũng sẽ trở thành một kiến trúc sư nổi tiếng. Tòa nhà Seagram trở thành một biểu tượng của một nền kiến trúc mới của thế kỉ 20. Ngược lại so với lệ thường, Mies quyết định đặt công trình phía sau một quảng trường lớn và vòi phun nước tạo ra một khoảng không gian mở lớn phía trước đại lộ Park (Park Avenue). Mies phải tranh cãi rất nhiều với những chủ đầu tư về khai thác hoàn toàn khả năng của địa điểm công trình. Một điểm không bình thường nữa là một loạt dầm thép chữ I được đưa ra phía ngoài mặt đứng, đính lên trên mặt kính công trình. Những dầm thép này hoàn toàn không có giá trị gì về mặt kết cấu, nhưng nhờ đó đã biểu hiện được đặc điểm kết cấu công trình. Qua đó đã dập tắt mọi cuộc tranh cãi xem liệu Mies có phải là người ủng hộ quan điểm "trang trí là tội ác" của kiến trúc hiện đại không. Phillip Johnson cũng có một vai trò quan trọng trong thiết kế quảng trường và nhà hàng Bốn mùa trong công trình. Tòa nhà Seagram cũng được xem là công trình đầu tiên thuộc thể loại công trình xây dựng "siêu tốc" khi mà thiết kế và thi công làm đồng thời. Về sau Mies cũng cho ra đời một bản sao của công trình Seagram đó là Westmount Plaza ở Montréal, Canada. Mies tiếp tục thiết kế và xây dựng rất nhiều nhà cao tầng ở trung tâm thành phố Chicago và lân cận. Một số công trình nổi tiếng của ông có khu ở đường Lake Shore Drive (1948 - 1952), tòa nhà Liên bang (1959), IBM plaza (1966). Công trình khu ở Lake Shore là công trình đầu tiên sử dụng hoàn toàn kính và tường treo trong kết cấu, một trong những dấu mốc của nhà chọc trời hiện đại. Tuy nhiên, bản thân Mies lại sống trong một ngôi nhà xây dựng từ trước Thế chiến thứ hai ở trung tâm Chicago. Hai đồ án nổi tiếng khác là Trung tâm Ngân hàng Toronto Dominion ở Toronto, Canada, đây là công trình nhà chọc trời đầu tiên của thành phố này, và Nhà trưng bày nghệ thuật quốc gia (Neue Nationalgalerie) ở thủ đô Berlin của Đức. Ông đã cống hiến rất nhiều thời gian và nỗ lực dẫn dắt trường Kiến trúc ở IIT, ông tin tưởng rằng các ý tưởng kiến trúc của ông có thể được truyền đạt qua giáo dục. Các đồ án thường liên quan đến các công trình thực tế của ông bên ngoài. Ông làm việc cật lực với các mẫu thiết kế, sau đó cho phép các sinh viên của mình tạo ra các biến thể cho các công trình đặc biệt dưới sự hướng dẫn của ông. Nhưng mỗi khi không sinh viên nào đạt được như ông mong muốn, Mies thường tự dày vò mình. Trong số các học trò của Mies có Gene Summers, David Haid, Myron Goldsmith, Jaques Brownsom, Helmut Jahn cũng như một loạt các kiến trúc sư khác của Murphy/Jahn và Skidmore, Owings & Merrill. Với câu châm ngôn nổi tiếng "Ít là nhiều" (Less is More) và "Chúa ngự trị ở chi tiết" (God is in the detail), ông tìm kiếm những không gian trong sạch, đơn giản và trật tự qua việc trình bày những đặc điểm nội tại của vật liệu và sự thể hiện của cấu trúc kết cấu. Trong vòng hai mươi năm cuối đời, Mies đã thành công trong việc hình thành tư tưởng "da và xương" của kiến trúc biểu tượng cho thời kì hiện đại. Mặc dù các công trình của Mies đã có một ảnh hưởng to lớn và một sự công nhận toàn cầu nhưng trường phái Kiến trúc Hiện đại mà ông tạo ra đã không duy trì được sức sáng tạo sao cái chết của ông và bị lu mờ bởi làn sóng Kiến trúc Hậu Hiện đại vào thập kỉ 1980. Mies từ mơ ước về một vẻ đẹp một phong cách kiến trúc có tính toàn cầu nhưng điều đó không thể hoàn thành được. Thay vào đó, những người kế tục của ông dần dần đi vào ngõ cụt với sự lặp lại và buồn tẻ của sáng tạo cũng như như khô cứng về hình thức. Mies từ trần ngày 19 tháng 8 tại Chicago, ông được chôn cất tại nghĩa trang Graceland. Năm 1983, quỹ Mies Van der Rohe quyết định lập ra giải thưởng kiến trúc Mies Van der Rohe của Cộng đồng chung châu Âu để trao tặng cho những kiến trúc sư có đóng góp quan trọng cho sự phát triển của kiến trúc đương đại châu Âu. Các công trình chính 1907 – Nhà Riehl, Berlin-Neubabelsberg, Đức 1911 – Nhà Perls, Berlin-Zehlendorf, Đức 1913 – Nhà trên đường Heer, Berlin, Đức 1914 – Nhà Urbin, Berlin-Neubabelsberg, Đức 1919 – Nhà tập thể, Berlin, Đức 1921 – Nhà Kempner, Berlin, Đức 1924 – Nhà Mosler, Berlin-Neubabelsberg, Đức 1925–1926 – Nhà Wolf, Guben, Đức 1926 – Đài tưởng niệm Karl Liebknecht và Rosa Luxemburg, Berlin, Đức 1926–1927 – Dự án phát triển nhà ở cho thành phố, Afrikanische, Berlin, Đức 1927 – Triển lãm Werkbund, Khu ở Weissenhof, Stuttgart, Đức 1927 – Căn hộ ở Weissenhof, Stuttgart, Đức 1927 – Triển lãm lụa, Triển lãm thời trang, Berlin, Đức 1928 – Mở rộng công trình Fuchs (Perls House), Berlin-Zehlendorf, Đức 1928 – Nhà Hermann Lange, Krefeld, Đức 1928 – Nhà Esters, Krefeld, Đức 1928–1929 – Gian triển lãm Đức, Triển lãm quốc tế Barcelona, Tây Ban Nha 1928 – Triển lãm điện Triển lãm quốc tế Barcelona, Tây Ban Nha (đã bị phá hủy) 1928–1929 – Triển lãm công nghiệp, Triển lãm quốc tế Barcelona, Tây Ban Nha 1928–1930 – Biệt thự Tugendhat, Brno, Cộng hòa Séc 1930 – Nội thất căn hộ, New York, New York, Mỹ 1931 – Nhà tại triển lãm nhà ở Berlin, Berlin, Đức 1931 – Khu căn hộ cho người độc thân, triển lãm nhà ở Berlin, Berlin, Đức (đã bị phá hủy) 1932 – Nhà Lemcke, Berlin, Đức 1933 – Khu nhà máy và khu năng lượng cho khu công nghiệp lụa, Vereinigte Seidenweberein AG, Krefeld, Đức 1939 – Phác thảo mặt bằng tổng thể, Học viện kỹ thuật Illinois, Chicago, Illinois, Mỹ 1940–1941 – Mặt bằng tổng thể, Học viện kỹ thuật Illinois, Chicago, Illinois, Mỹ 1942–1943 – Trung tâm nghiên cứu kim loại của quỹ nghiên cứu thiết giáp, Học viện kỹ thuật Illinois, Chicago, Illinois, Mỹ 1945–1946 – Alumni Memorial Hall, Học viện kỹ thuật Illinois, Chicago, Illinois, Mỹ 1945–1946 – Giảng đườnng Peristein (Khu kỹ sư kim loại và hóa học), Học viện kỹ thuật Illinois, Chicago, Illinois, Mỹ 1945–1946 – Giảng đường Wishnick, khoa Hóa, Học viện kỹ thuật Illinois, Chicago, Illinois, Mỹ 1945–1950 – Nhà kính Farnsworth, Plano, Illinois, Mỹ 1945–1950 – Boiler Plant, Học viện kỹ thuật Illinois, Chicago, Illinois, Mỹ 1946–1949 – Khu căn hộ Promontory Apartments, Chicago, Illinois, Mỹ 1947 – Central Vault, Học viện kỹ thuật Illinois, Chicago, Illinois, Mỹ 1947–1950 – Học viện kỹ thuật Gas, Học viện kỹ thuật Illinois, Chicago, Illinois, Mỹ 1948–1950 – Khu quản trị của hiệp hội đường sắt Mỹ, Học viện kỹ thuật Illinois, Illinois, Mỹ 1948–1951 – Khu căn hộ 860 và 880, đường Lake Shore Drive, Chicago, Illinois, Mỹ 1948–1953 – Khu nghiên cứu kim loại của hiệp hội đường sắt Mỹ, Học viện kỹ thuật Illinois, Chicago, Illinois, Mỹ 1949–1952 – Nhà nguyện, Học viện kỹ thuật Illinois, Chicago, Illinois, Mỹ 1950–1956 – Giảng đường Crown, khoa Kiến trúc và quy hoạch đô thị, Học viện kỹ thuật Illinois, Chicago, Illinois, Mỹ 1950–1952 – Tòa nhà nghiên cứu kỹ thuật kim loại số 1, Học viện kỹ thuật Illinois, Chicago, Illinois, Mỹ 1951–1952 – Nhà McCormick, Elmhurst, Illinois 1951–1953 – Tòa nhà Commons Building, Học viện kỹ thuật Illinois, Chicago, Illinois 1952–1955 – Tòa nhà Cunningham Hall, Học viện kỹ thuật Illinois, Chicago, Illinois 1953–1956 – Khu căn hộ Commonwealt Promenade, Chicago, Illinois 1954 – Quy hoạch chung cho bảo tàng nghệ thuật, Houston, Texas, Mỹ 1954–1958 – Tòa nhà Seagram, 375 Đại lộ Park, New York, Mỹ 1954–1958 – Tòa nhà Cullinam, bảo tàng nghệ thuật Houston, Texas, Mỹ 1955–1956 – Quy hoạch chung cho công viên Lafayette, dự án nhà ở, Detroit, Michigan, Mỹ 1955–1957 – Khu thí nghiệm của hiệp hội đường sắt Mỹ, Học viện kỹ thuật Illinois, Chicago, Illinois, Mỹ 1955–1957 – Khu nghiên cứu Vật lý điện tử, Học viện kỹ thuật Illinois, Chicago, Illinois, Mỹ 1956–1958 – Trung tâm nghiên cứu kim loại, Học viện kỹ thuật Illinois, Chicago, Illinois, Mỹ 1957–1961 – Nhà làm việc Bacardi, Thành phố Mexico, México 1958 – Khu căn hộ, Công viên Lafayette, Detroit, Michigan, Mỹ 1958 – Nhà Town, Công viên Lafayette, Detroit, Michigan, Mỹ 1958–1960 – Khu căn hộ, công viên Colonnade, Newark, New Jersey, Mỹ 1959–1964 – Trung tâm công quyền Chicago, Toà thượng thẩm và tòa nhà Liên bang, nhà làm việc của bưu điện Liên bang, Chicago, Illinois, Mỹ 1960–1963 – Quỹ tiết kiệm và vay nợ liên bang Des Moines, Des Moines, Iowa, Mỹ 1960–1963 – Nhà làm việc trung tâm One Charler, Baltimore, Maryland, Mỹ 1962–1965 – Khu quản lý dịch vụ xã hội, Đại học hicago, Chicago, Illinois, Mỹ 1962–1965 – Nhà tưởng niệm, Đại học Drake, Des Moines, Iowa, Mỹ 1962–1968 – Nhà trưng bày nghệ thuật quốc gia, Berlin, Đức 1963 – Tháp Lafayette Towers, Công viên Lafayette, Detroit, Michigan, Mỹ 1963–1965 – Khu căn hộ Highfield, Baltimore, Maryland, Mỹ 1963–1969 – Trung tâm Toronto-Dominion Toronto, Ontario, Canada 1965–1968 – Westmount Square, Montréal, Québec, Canada 1966 – Thư viện công cộng quận Columbia, Washington, D.C., Mỹ 1967–1969 – Khu căn hộ cao tầng số 1, Nun's Island, Montréal, Quebec, Canada 1967–1968 – Trung tâm phục vụ Esso, Nun's Island, Montréal, Quebec, Canada 1967–1970 – 111 đường East Wacher, Trung tâm phát triển không gian Illinois, Chicago, Illinois, Mỹ 1967 – Dự án nhà ở Mansion, Luân Đôn, Anh 1967 – Trụ sở làm việc IBM, Chicago, Illinois 1968–1969 – Khu căn hộ cao tầng số 2 và 3, Nun's Island, Montréal, Quebec, Canada Giải thưởng Huy chương vàng của Hiệp hội Kiến trúc sư Hoàng gia Anh RIBA, (1959) Huy chương Vàng của Hiệp hội Kiến trúc sư Mỹ AIA, (1960) Huy chương Văn hóa Berlin, (1961) Giải thưởng của Tổng thống Mỹ về Tự do, (1963) Huy chương Vàng của Cộng hòa Liên bang Đức, (1966) Tham khảo Sharp, D, The Illustrated Encyclopedia of Architects and Architecture, New York: Quatro Publishing, 1991. Schulze, F, Mies van der Rohe, a Critical Biography, The University of Chicago Press, Chicago and London, 1985 Curtis, W, Modern architecture since 1900, Phaidon, London, 1996 Liên kết ngoài Những công trình kiến trúc nổi tiếng Mies tại Berlin-Mies tại America [http://www.barcelonachairs.net/ Ghế theo kiểu Barcelona] Mies van der Rohe Foundation Mies van der Rohe, Ludwig Mies van der Rohe, Ludwig Mies van der Rohe, Ludwig Mies van der Rohe, Ludwig Người đoạt Huy chương Tự do Tổng thống Kiến trúc sư Mỹ Người Mỹ gốc Đức Mất năm 1969
27792
https://vi.wikipedia.org/wiki/Walter%20Gropius
Walter Gropius
Walter Adolph Gropius (18 tháng 5 năm 1883 tại Berlin – 5 tháng 7 năm 1969 tại Boston) là một kiến trúc sư người Đức và là người sáng lập ra trường phái Bauhaus nổi tiếng trong lịch sử. Thời gian tại Đức Walter Gropius sinh tại Berlin, là con thứ ba của một kiến trúc sư. Ông có cùng tên với cha, còn mẹ ông là Manon Auguste Pauline Scharnweber (1855–1933). Sau khi học tại các đại học kỹ thuật tại Berlin và München, năm 1907, Gropius đến làm việc cho kiến trúc sư Peter Behrens. Năm 1911, với tư cách là trợ thủ của Behrens, Gropius được nhận thiết kế công trình Nhà máy giày Fargus. Đây là một công trình đã có mặt bằng hoàn tất, Gropius chỉ thiết kế lại lớp vỏ bọc bên ngoài công trình. Chính từ lớp vỏ bọc này, một vẻ đẹp của kiến trúc công nghiệp hiện đại ra đời và đã có ảnh hưởng lên kiến trúc hiện đại hàng thập kỉ sau này. Năm 1913, Gropius viết bài "Sự phát triển của nền kiến trúc công nghiệp hiện đại" trên tờ Jahnrbuchs của Hiệp hội Công trình Đức (Deutsche Werkbund) báo hiệu sự ra đời của một xu hướng kiến trúc trong thời đại mới. Theo ông, những tính biểu tượng của các công trình to lớn như các silo công nghiệp ở Bắc Mỹ có thể sánh với các kim tự tháp của Ai Cập cổ đại. Ông nhấn mạnh việc kiến trúc châu Âu phải từ bỏ sự tán dương và trung thành với truyền thống cổ điển (nostalgia). Năm 1914, Gropius thiết gian công nghiệp tại triển lãm ý tưởng của Werkbund, Köln, Đức. Công trình đánh dấu một bước mới của thẩm mỹ kiến trúc công nghiệp của Gropius với hai khối kính trong suốt và cầu thang tròn mềm mại bên trong tương phản với một mặt đứng đặc chắc, cộng với phần sân thượng mái nhẹ phảng phất đường nét của Frank Lloyd Wright, đã đem lại một vẻ đẹp thanh lịch và khỏe mạnh cho công trình. Năm 1915, Gropius kết hôn với Alma Schindler sau khi người chồng trước của bà, nhà soạn nhạc Gustav Mahler, chết. Họ có một người con gái tên là Manon nhưng Manon chết trước 20 tuổi (1916-1935). Trong khi đó, cuộc hôn nhân giữa Walter và Almar đã chấm dứt khi họ ly dị vào năm 1920. Năm 1919, ông được Henry van de Veldes đề nghị nối tiếp chức vụ của mình tại trường Đại học Nghệ thuật tạo hình Đại công quốc Sachsen (Großherzoglich-Sächsischen Hochschule für Bildende Kunst) tại Weimar. Gropius đã kết hợp với Trường Mỹ thuật và Thủ công (Grossherzogliche Kunstgewerbeschule), vốn đóng cửa từ năm 1915, và đổi tên thành trường Bauhaus Quốc gia tại Weimar (Staatliches Bauhaus in Weimar). Cộng sự của ông có Bruno Taut, Johannes Itten, Wassily Kandinsky, Paul Klee... Trường được chính thức thành lập ngày 1 tháng 4 năm 1919 với một đường hướng và tôn chỉ đào tạo hoàn toàn mới. Một tháng sau đó Gropius công bố Tuyên ngôn Bauhaus với lời kêu gọi cải tổ quá trình đào tạo nghệ thuật, đúng hơn là một phong cách mới. Ông tuyên bố rằng nghệ thuật nên quay lại với cội nguồn của nó và điều kiện đầu tiên là người thợ thủ công, nơi mà người ta có khả năng học tập cách làm việc với các loại vật liệu. Năm 1923 trường chuyển về Dessau, tại đây Gropius đã thiết kế một ngôi trường mới: Trường Bauhaus ở Dessau. Đây là tác phẩm mang tính tuyên ngôn cho trường phái Bauhaus thể hiện nguyên tắc kiến trúc mà Walter Gropius và các đồng nghiệp đề xướng. Công trình có mặt bằng phi đối xứng với sự kết hợp linh hoạt của các khối xưởng thiết kế, nhà học khu hiệu bộ và ký túc xá sinh viên. Công trình thể hiện hoàn toàn 3 đặc điểm của Phong cách Quốc tế (International Style). Thời gian tại Hoa Kỳ Do có quan điểm chính trị khác với chính quyền phát xít thời đó, Gropius rời Đức để sang làm việc tại Anh vào năm 1934. Năm 1937 ông di cư sang Cambridge, Massachusetts (Hoa Kỳ), nơi ông làm việc trong Trường thiết kế (Graduate School of Design) thuộc Đại học Havard như là giáo sư về kiến trúc. Một trong những học trò của Gropius tại Harvard là Sigfried Giedion một lý thuyết gia nổi tiếng về kiến trúc. Năm 1946 Gropius thành lập hãng thiết kế The Architects Collaborative (TAC) là tập hợp của những kiến trúc sư trẻ tuổi, đối với ông đây cũng là một tuyên ngôn cho niềm tin của ông vào hợp tác tập thể (teamwork). Một công trình của hãng này là Trung tâm Cao học (Graduate Center) của Đại học Song sắt tại Cambridge (1949/1950). Những năm cuối đời Trong những năm cuối đời Gropius lại làm việc nhiều tại Berlin, nơi mà ngoài những công trình khác ông đã tạo dựng một khu nhà ở 9 tầng trong khu phố Berlin-Hansaviertel năm 1957 trong khuôn khổ của chương trình Interbau. Năm 1961 ông được trao Giải Goethe và năm 1963 ông được trường Đại học Tự do Berlin (Freie Universität Berlin) trao tặng học vị tiến sĩ danh dự (doctor honoris causa). Vài công trình kiến trúc nổi tiếng Nhà máy giày Fagus, 1910 - 1911, Alfeld, Đức Trường Bauhaus, 1919–1925, Dessau, Đức Khu nhà ở Siemenstadt (1929), Berlin, Đức Nhà Gropius, 1937, Lincoln, Massachusetts Khu chung cư Aluminum City Terrace, (1942-1944), New Kensington, Pennsylvania Trung tâm Cao học Harvard (1949–1950), Cambridge, Massachusetts Đại học Baghdad (1957–1960) Tòa nhà Liên bang John F. Kennedy (1963–1966) Trường Trung học Attleboro (1948) Pan Am Building (Metlife Building), (1958–1963), New York, New York, cùng với Pietro Belluschi và Emery Roth & các con Interbau Apartment blocks (1957), Hansaviertel Berlin, Đức, với TAC và Wils Ebert Trường Trung học Wayland (1961) Tham khảo Liên kết ngoài Nhà của Walter Gropius tại Lincoln, Massachusetts On the Interbau apartments ''Tiếng Đức: Fagus works Gropius, Walter Gropius, Walter Gropius, Walter Gropius, Walter Kiến trúc sư Mỹ Quân nhân Đức trong Thế chiến thứ nhất Người Mỹ gốc Đức Mất năm 1969
27796
https://vi.wikipedia.org/wiki/Peter%20Behrens
Peter Behrens
Peter Behrens (14 tháng 4 năm 1868 – 27 tháng 1 năm 1940) là một kiến trúc sư và nhà thiết kế đồ họa người Đức. Ông là người đã đặt những viên gạch đầu tiên cho sự phát triển của kiến trúc hiện đại Đức. Các kiến trúc sư hàng đầu của Kiến trúc Hiện đại của thế kỉ 20 như Le Corbusier, Ludwig Mies van der Rohe, Walter Gropius đều làm việc ở xưởng thiết kế của ông. Công trình nổi tiếng Nhà máy tua bin AEG Tham khảo Kiến trúc sư Đức Kiến trúc sư Hiện đại Kiến trúc công nghiệp Người Hamburg Mất năm 1940 Kiến trúc sư Tân nghệ thuật
27801
https://vi.wikipedia.org/wiki/Theo%20van%20Doesburg
Theo van Doesburg
Theo van Doesburg (30 tháng 8 năm 1883 – 7 tháng 3 năm 1931) là một người Hà Lan hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau của nghệ thuật như hội họa, văn học, thơ ca và kiến trúc. Ông là người sáng lập và thủ lĩnh của phong trào nghệ thuật De Stijl (Phong cách). Các tác phẩm của Theo có ảnh hưởng mạnh xuống trường phái Bauhaus cũng như trào lưu kiến trúc quốc tế sau này. Tiểu sử Tham khảo Baljeu, Joost: Theo van Doesburg (London: Studio Vista, 1974) Overy, Paul. De Stijl (London: Studio Vista, 1969) White, Michael: De Stijl and Dutch modernism (Manchester [etc]: Manchester University Press, 2003) Liên kết ngoài Scans of the De Stijl issue with Van Doesburg's Letterklankbeelden Kiến trúc sư Hà Lan Kiến trúc sư Hiện đại Nghệ thuật Hiện đại Họa sĩ Hà Lan Mất năm 1931
27803
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sigmund%20Freud
Sigmund Freud
Sigmund Freud (tên đầy đủ là Sigismund Schlomo Freud; 6 tháng 5 năm 1856 – 23 tháng 9 năm 1939) là một bác sĩ thần kinh và là nhà tâm lý học người Áo. Ông là người đặt nền móng và phát triển học thuyết phân tâm học. Cho đến ngày nay mặc dù lý thuyết phân tâm học của ông còn gây nhiều tranh cãi và người ta còn đang so sánh hiệu quả của các phương pháp phân tâm học của ông với các phương pháp điều trị khác, nhưng cũng phải thừa nhận rằng ông là một nhà tư tưởng có ảnh hưởng lớn trong thế kỷ 20. Thời niên thiếu Cách Praha, thủ đô nước Cộng hòa Séc khoảng 130 dặm về phía đông là thành phố Freiberg (sau đổi tên là Pribor), một thành phố nhỏ thuộc vùng Moravia nằm gần biên giới Ba Lan. Sigmund Freud sinh ngày 6 tháng 5 năm 1856 trong một gia đình Do Thái chính thống. Theo phong tục, cậu bé được đặt một tên Do Thái là Schlomo, theo tên vua Solomon và cũng là tên người ông của cậu. Mẹ ông, một phụ nữ người Viên, là vợ thứ ba của Jacob, cha ông, và khi sinh Sigmund bà chỉ mới 21 tuổi. Cha của Freud là một nhà buôn len bình thường, tính tình hòa nhã, hơn người vợ ba của mình đến 20 tuổi. Hai con trai với người vợ đầu của Jacob sống gần đó, tuổi gần bằng tuổi mẹ của cậu bé Sigmund, còn các con của những người cậu của Sigmund thì là những bạn chơi thời thơ ấu của Sigmund. Những năm tháng sống ở Freiberg là những năm tháng rất đẹp trong thời thơ ấu của cậu bé Freud. Nhưng tại đây, ông cũng có những kỷ niệm buồn khi người em trai ngay sau ông, người mà ông luôn ghen tị khi thấy em mình được dành nhiều sự quan tâm của bố mẹ hơn lúc mới ra đời, đã mất khi chỉ mới 7 tháng tuổi. Cái chết của em làm Freud có cảm giác tội lỗi sâu sắc. Chính những ký ức về thời gian tại nơi này đã là chủ đề của nhiều bài viết sau này của ông. Từ nhỏ, Freud đã sớm bộc lộ là một cậu bé thông minh, nhạy cảm. Ở trường, Freud là một học sinh giỏi, cậu được vào trung học sớm một năm, và liên tục đứng đầu lớp trong những năm trung học. Freud là một cậu bé đọc rộng, nắm vững tiếng Latinh, Hy Lạp, Pháp, Anh và Ý. Tài năng và thành công trong học tập của Freud được gia đình trân trọng. Tuy điều kiện gia đình khó khăn về tài chính nhưng cậu bé luôn được cha tạo điều kiện thuận lợi nhất cho việc học của mình. Vào nửa sau thế kỷ 19, với sự phát triển của tư sản Tiệp, đe dọa đến cuộc sống của các thương nhân Do Thái. Cha của Freud nhận thấy cuộc sống tại Freiberg không còn đảm bảo nữa, năm 1860, ông quyết định chuyển gia đình lên sinh sống tại Wien. Trong thời gian này, cậu bé lại có thêm những người em nữa. Đó là những năm khó khăn, gia đình đông người nhưng sống trong một căn nhà nhỏ. Tuy nhiên, cậu bé Freud vẫn được ưu ái dành riêng cho một căn phòng, có cửa sổ, giá sách, ghế và bàn viết, và được dùng đèn dầu, trong khi cả nhà phải dùng nến. Lúc còn nhỏ, Freud đối với em mình lại là một ông anh khó tính, hống hách. Cậu giúp các em học, nhưng kiểm tra sách các em đọc, cấm các em đọc Balzac và Dumas, lại hay thuyết giảng... Những năm thanh thiếu niên của ông, Wien, dù vẫn còn chủ nghĩa bài Do Thái, nhưng là một nơi của chủ nghĩa tự do chính trị. Nguyên tắc bình quyền giữa các tôn giáo được chính quyền tán thành. Thanh niên Do Thái lúc bấy giờ có đầy đủ các quyền công dân và quyền gia nhập các đoàn thể. Freud cũng không ngoại lệ. Ông mong muốn theo học ngành luật, nhưng mùa thu năm 1873, Freud lại vào khoa y trường Đại học Wien. Con đường đến với khoa học Trong thời gian học y khoa, ông tỏ rất rõ quan tâm của mình đến sinh lý y khoa và sớm có những công trình nghiên cứu về sinh lý rất quan trọng, mặc dù ông còn rất trẻ. Năm 1876, ông được nhận làm sinh viên nghiên cứu ở viện sinh lý nổi tiếng của Ernst Brücke, ở đó ông tiếp tục nghiên cứu các vấn đề về sinh lý thần kinh. Năm 1881, ông mới học xong đại học, và được công nhận là bác sĩ y khoa. Nhưng bản thân Freud, ông chưa bao giờ cho mình là thầy thuốc thực hành, và trong giai đoạn này, Freud luôn tìm kiếm cho mình một hướng đi sâu hơn về sinh lý học y khoa, và ông vẫn tiếp tục công việc của mình tại viện sinh lý cho đến khi ông đính hôn. Năm 1882, Freud gặp và yêu, rồi đính hôn với Martha Bernay, một cô gái nhỏ bé, thông minh, xuất thân từ một gia đình có truyền thống trí thức và văn hóa Do Thái. Điều kiện làm việc tại viện sinh lý không cho phép Freud có thể lo lắng cho cả một gia đình dù đó là một gia đình nhỏ. Nếu muốn cưới vợ, ông phải có thu nhập thêm, vì vậy ông quyết định bỏ việc tại viện sinh lý, và đến làm việc tại bệnh viện đa khoa Wien. Những thất bại Lúc này, Freud, một chàng trai trẻ tuổi, khát khao có được thành công trong khoa học, vì vậy, ông luôn muốn có được một khám phá mà ông hi vọng rằng có thể đem đến công danh cũng như tiền bạc. Điều đó ông đã lỡ mất chỉ trong gang tấc. Năm 1884, Freud đọc được một tài liệu viết về một bác sĩ quân y Đức sử dụng thành công cocain để tăng cường năng lực và sự chịu đựng cho binh sĩ. Ông đã quyết định dùng chính mình để thử, và nhận thấy mình trở nên khỏe khoắn, khả năng làm việc tăng lên. Lập tức ông khuyên một số đồng nghiệp của mình dùng thử, trong đó có Ernst von Fleischl-Marxow, một bác sĩ tài giỏi nhưng nghiện morphin. Freud cho rằng cocain có thể chữa được chứng nghiện morphin, vì thế Ernst von Fleischl-Marxow hăm hở dùng, và nhanh chóng đạt đến liều cao. Trong số đồng nghiệp của Freud được giới thiệu về cocain, có Carl Koller, một bác sĩ nhãn khoa. Koller đã nhận thấy cocain có thể làm thuốc gây tê tại chỗ trong phẫu thuật mắt, ông đã nhanh chóng nghiên cứu và đã thành công. Ông đã nhanh chóng công bố phát hiện của mình, và gây được tiếng vang, được giới khoa học công nhận. Thực ra Freud cũng biết đến tác dụng này của cocain, nhưng đáng tiếc là ông không lưu tâm đến điều này, không đi sâu tìm hiểu. Freud đã bỏ lỡ cơ hội. Không những thế, Fleischl-Marxow, người bạn của ông đã trở thành kẻ nghiện không chỉ morphin mà cả cocain. Fleischl-Marxow nhanh chóng suy sụp, lâm vào trạng thái thần kinh lẫn lộn, bị kích động, lo lắng và ảo giác, và chết sau đó vài năm. Trong khi đó trên thế giới bắt đầu có nhiều báo cáo về ngộ độc cocain, còn Freud bị chỉ trích nặng nề vì biện hộ cho cocain. Sự chỉ trích này có thể coi là vết nhơ trong cuộc đời ông, và nó cũng là một lý do khiến những ý tưởng sau này của ông không được quan tâm đánh giá đúng mức. Lúc thuyết Phân tâm học mới ra đời, thì cả nó lẫn tác giả của nó đều không được ủng hộ. Người ta không bán bánh mì cho Sigmund Freud nên ông phải che mặt nếu muốn mua được bánh mì. Và những khám phá trong phân tâm học Tuy câu chuyện buồn về Fleischl-Marxow là một thất bại ảnh hưởng đến uy tín của ông Freud lúc đó nhưng Brücke và một số giáo sư ở Đại học Wien tin tưởng. Cũng vì sự ủng hộ của những giáo sư này mà năm 1885, ông được đề bạt làm giảng viên danh dự tại đại học này, một vị trí rất được trọng nể. Lúc này, tâm bệnh học bắt đầu có những bước phát triển tại châu Âu, nhất là tại Pháp. Tại đây, hysteria và thuật thôi miên là những đề tài y học nghiêm túc, được nghiên cứu, chú ý và gây nhiều tranh cãi trong giới y khoa. Đi tiên phong trong lãnh vực này là Jean Martin Charcot - một nhà thần kinh học lớn. Bệnh viện Salpêtrière của Charcot đã trở thành thánh địa cho các nhà thần kinh học đến thăm. Tuy nhiên, tại Đức và Áo, hysteria bị khinh thị, giới y học ở đây cho rằng đó là chứng bệnh của đàn bà, với những triệu chứng không tìm được nguyên nhân. Những bệnh nhân bị bệnh tâm thần kinh thì bị coi thường, tại các bệnh viện, họ được điều trị bằng kích thích điện và những thứ thuốc không hiệu quả. Freud, cũng như những nhà thần kinh học khác, đã tìm đến bệnh viện của Charcot. Chính tài năng, tri thức cùng uy tín của Charcot đã mang lại nhiệt tình cho Freud. Trong một lá thư ông gửi cho Martha - người vợ chưa cưới của mình, ông viết: "Không có người nào từng tác động nhiều đến anh như vậy". Ông đã dịch các bài viết của Charcot sang tiếng Đức. Và chính Charcot đã làm Freud quan tâm đặc biệt đến bệnh học tâm lý. Ông cũng treo bức tranh khắc của André Brouillet "Bài học lâm sàng của bác sĩ Charcot" tại phòng khám của mình ở số 19 phố Berggasse, người con trai đầu lòng chào đời năm 1889 cũng được ông đặt tên là Jean Martin để tôn vinh người thầy của mình. Trong suốt cuộc đời làm việc về sau, Freud vẫn hay trích dẫn câu nói của Charcot: "Lý thuyết thì tốt, nhưng không ngăn được thực tiễn tồn tại", để chỉ trích thái độ chỉ biết chấp nhận những kiến thức thu được mà không hề phê phán. Freud đã được trao Giải Goethe năm 1930. Di sản Di sản của Freud, mặc dù gây tranh cãi, được Stephen Frosh mô tả là "một trong những ảnh hưởng mạnh nhất đến tư tưởng thế kỷ 20, tác động của nó chỉ có thể so sánh với Học thuyết Darwin và chủ nghĩa Marx." [185] Henri Ellenberger nói rằng phạm vi ảnh hưởng của nó thấm đẫm "tất cả các lĩnh vực văn hóa... đến mức làm thay đổi cách sống và quan niệm của chúng ta về con người." [186] Tâm lý trị liệu Mặc dù không phải là phương pháp đầu tiên trong thực hành trị liệu tâm lý bằng lời nói cá nhân, [187] Hệ thống phân tâm học của Freud đã thống trị lĩnh vực này từ đầu thế kỷ XX, tạo thành nền tảng cho nhiều biến thể sau này. Mặc dù các hệ thống này đã áp dụng các lý thuyết và kỹ thuật khác nhau, tất cả đã theo Freud bằng cách cố gắng đạt được sự thay đổi tâm lý và hành vi thông qua việc bệnh nhân nói về những khó khăn của họ. [4] Phân tâm học không có ảnh hưởng như trước đây ở Châu Âu và Hoa Kỳ, mặc dù ở một số nơi trên thế giới, đặc biệt là Châu Mỹ Latinh, ảnh hưởng của nó trong thế kỷ 20 sau đó đã mở rộng đáng kể. Phân tâm học cũng vẫn có ảnh hưởng trong nhiều trường trị liệu tâm lý đương đại và đã dẫn đến công việc trị liệu sáng tạo trong trường học và với các gia đình và các nhóm. [188] Có một nghiên cứu đáng kể chứng minh tính hiệu quả của các phương pháp phân tích lâm sàng và các liệu pháp quá trình tâm thần liên quan trong điều trị một loạt các rối loạn tâm lý. Những người theo thuyết Freud mới gồm có Alfred Adler, Otto Rank, Karen Horney, Harry Stack Sullivan và Erich Fromm đã bác bỏ lý thuyết về sự thúc đẩy bản năng của Freud, nhấn mạnh mối quan hệ giữa các cá nhân và sự tự quyết và sửa đổi thực tiễn trị liệu. Adler bắt nguồn từ cách tiếp cận, mặc dù ảnh hưởng của ông là gián tiếp do ông không thể xây dựng một cách có hệ thống các ý tưởng của mình. Phân tích theo thuyết Freud mới chú trọng nhiều hơn vào mối quan hệ của bệnh nhân với nhà phân tích và ít khám phá về vô thức. Carl Jung tin rằng vô thức tập thể mà vốn phản ánh trật tự vũ trụ và lịch sử của loài người là phần quan trọng nhất của tâm trí. Nó chứa các nguyên mẫu, được biểu hiện trong các biểu tượng xuất hiện trong giấc mơ, trạng thái tâm trí bị xáo trộn và các sản phẩm văn hóa khác nhau. Người theo trường phái Jung ít quan tâm đến sự phát triển của trẻ sơ sinh và xung đột tâm lý giữa mong muốn và các tác động khiến chúng nản lòng hơn là sự hòa nhập giữa các bộ phận khác nhau của con người. Đối tượng của liệu pháp trường phái Jung là sửa chữa những chia tách như vậy. Jung đặc biệt tập trung vào các vấn đề của cuộc sống giữa và sau này. Mục tiêu của ông là cho phép mọi người trải nghiệm các khía cạnh tách rời của bản thân, chẳng hạn như anima (bản thân phụ nữ bị đàn áp của đàn ông), animus (bản thân đàn ông bị đàn áp của phụ nữ), hoặc mặt tối (hình ảnh bản thân thấp kém) và nhờ đó đạt được trí tuệ. Jacques Lacan tiếp cận phân tâm học thông qua ngôn ngữ học và văn học. Lacan tin rằng công việc thiết yếu của Freud đã được thực hiện trước năm 1905 và liên quan đến việc giải thích giấc mơ, triệu chứng thần kinh và trượt chân, dựa trên cách hiểu ngôn ngữ mang tính cách mạng và mối quan hệ của nó với kinh nghiệm và tính chủ quan, và tâm lý học bản ngã và các học thuyết về quan hệ đối tượng dựa trên sự hiểu sai về công trình của Freud. Đối với Lacan, khía cạnh quyết định của trải nghiệm con người không phải là bản thân (như trong tâm lý học bản ngã) cũng không phải là quan hệ với người khác (như trong lý thuyết quan hệ đối tượng) mà là ngôn ngữ. Lacan thấy mong muốn quan trọng hơn nhu cầu và coi đó là điều không thể chấp nhận được. Wilhelm Reich đã phát triển những ý tưởng mà Freud đã phát triển khi bắt đầu cuộc điều tra phân tâm học của mình nhưng sau đó bị thay thế nhưng cuối cùng không bao giờ bị loại bỏ. Đây là những khái niệm về Actualneurosis và một lý thuyết về sự lo lắng dựa trên ý tưởng về ham muốn tình dục. Theo quan điểm ban đầu của Freud, những gì thực sự xảy ra với một người ("thực tế") đã xác định kết quả xử lý thần kinh. Freud áp dụng ý tưởng đó cho cả trẻ sơ sinh và người lớn. Trong trường hợp trước đây, sự quyến rũ đã được tìm kiếm là nguyên nhân của các chứng thần kinh sau này và trong sự giải phóng tình dục không hoàn chỉnh sau đó. Khác với Freud, Reich giữ lại ý tưởng rằng trải nghiệm thực tế, đặc biệt là trải nghiệm tình dục có ý nghĩa quan trọng. Đến thập niên 1920, Reich đã "đưa những ý tưởng ban đầu của Freud về việc giải phóng tình dục đến mức chỉ định cực khoái là tiêu chí của chức năng lành mạnh." Reich cũng "phát triển ý tưởng của mình về nhân vật thành một dạng mà sau này sẽ thành hình, đầu tiên là" áo giáp cơ ", và cuối cùng là một bộ chuyển đổi năng lượng sinh học phổ quát," cực khoái "." Fritz Perls, người đã giúp phát triển liệu pháp cấu trúc hình thức đã bị ảnh hưởng của Reich, Jung và Freud. Ý tưởng chính của trị liệu bằng cấu trúc hình thức là Freud đã bỏ qua cấu trúc của nhận thức, "một quá trình tích cực hướng tới việc xây dựng các toàn thể có ý nghĩa có tổ chức... giữa một sinh vật và môi trường của nó." Những toàn thể này, được gọi là cấu trúc hình thức, là "mô hình liên quan đến tất cả các lớp chức năng sinh vật - suy nghĩ, cảm giác và hoạt động." Chứng loạn thần kinh chức năng được coi là sự phân chia trong sự hình thành các cấu trúc hình thức và sự lo lắng khi sinh vật cảm nhận được "cuộc đấu tranh hướng tới sự thống nhất sáng tạo của nó." Liệu pháp cấu trúc hình thức cố gắng chữa bệnh cho bệnh nhân thông qua việc đặt họ tiếp xúc với "nhu cầu sinh vật tức thời". Perls từ chối cách tiếp cận bằng lời nói của phân tâm học cổ điển; nói chuyện trong liệu pháp cấu trúc hình thức phục vụ mục đích tự thể hiện hơn là đạt được sự hiểu biết về bản thân. Liệu pháp cấu trúc hình thức thường diễn ra theo nhóm và trong các "hội thảo" tập trung thay vì được trải ra trong một thời gian dài; nó đã được mở rộng thành các hình thức sinh hoạt chung mới. Liệu pháp cơ bản của Arthur Janov, vốn là một liệu pháp tâm lý hậu Freud có ảnh hưởng giống như trị liệu phân tâm học, nhấn mạnh vào trải nghiệm thời thơ ấu nhưng cũng có những khác biệt với nó. Mặc dù lý thuyết của Janov gần giống với ý tưởng ban đầu của Freud về Actualneurosis, anh ta không có tâm lý năng động mà là một tâm lý tự nhiên như Reich hoặc Perls, trong đó nhu cầu là chính yếu trong khi mong muốn là phái sinh và có thể phân tán khi cần. Mặc dù có bề ngoài tương tự như ý tưởng của Freud nhưng lý thuyết của Janov thiếu một báo cáo tâm lý chặt chẽ về vô thức và niềm tin vào tình dục trẻ sơ sinh. Mặc dù đối với Freud có một hệ thống các tình huống nguy hiểm nhưng đối với Janov, sự kiện quan trọng trong cuộc đời của trẻ là nhận thức rằng cha mẹ không yêu thích nó. [191] Janov viết trong The Primal Scream (1970) rằng liệu pháp nguyên thủy theo một số cách đã trở lại với những ý tưởng và kỹ thuật ban đầu của Freud. Janov writes in The Primal Scream (1970) that primal therapy has in some ways returned to Freud's early ideas and techniques. Ellen Bass và Laura Davis, đồng tác giả của The Courage to Heal (1988), được mô tả là "nhà vô địch của quyền kiêm hưởng" bởi Frederick Crews. Họ coi Freud là người có ảnh hưởng quan trọng đến họ. Mặc dù theo quan điểm của ông, họ không những mắc nợ phân tâm học cổ điển mà còn mắc nợ với "Freud của tiền phân tâm học... người được cho là thương hại cho những bệnh nhân cuồng loạn của mình, thấy rằng tất cả họ đều chứa chấp những ký ức về lạm dụng thời thơ ấu... và chữa khỏi cho họ bằng cách không biết đến sự đàn áp của họ." Crews thấy Freud đã dự đoán hoạt động ký ức ức chế bằng cách nhấn mạnh "mối quan hệ nhân quả cơ học giữa triệu chứng học và sự kích thích sớm của vùng cơ thể này hay vùng cơ thể khác" và với tiên phong là "kỹ thuật của nó phù hợp với triệu chứng của bệnh nhân với một "ký ức" đối xứng tình dục. "Crews tin rằng sự tự tin của Freud trong việc hồi tưởng chính xác những ký ức ban đầu dự đoán các lý thuyết về các nhà trị liệu ức chế ký ức như Lenore Terr, theo quan điểm của ông đã dẫn đến việc mọi người bị cầm tù hoặc tham gia kiện tụng. Khoa học Các dự án nghiên cứu được thiết kế để kiểm tra lý thuyết của Freud theo kinh nghiệm đã dẫn đến một tài liệu rộng lớn về chủ đề này. Các nhà tâm lý học người Mỹ bắt đầu cố gắng nghiên cứu sự đàn áp trong phòng thí nghiệm thực nghiệm vào khoảng năm 1930. Năm 1934, khi nhà tâm lý học Saul Rosenzweig gửi lại sách tái bản của Freud về nỗ lực nghiên cứu sự đàn áp của mình, Freud đã trả lời bằng một lá thư từ chối nói rằng "sự phong phú của những quan sát đáng tin cậy" vào các xác nhận phân tâm học được dựa trên việc thực hiện chúng mà "không phụ thuộc vào xác minh thực nghiệm". Seymour Fisher và Roger P. Greenberg kết luận vào năm 1977 rằng một số khái niệm của Freud được hỗ trợ bởi bằng chứng thực nghiệm. Phân tích tài liệu nghiên cứu của họ ủng hộ các khái niệm của Freud về các tập hợp tính cách miệng và hậu môn, một báo cáo của ông về vai trò của các yếu tố Oedipal trong các khía cạnh nhất định của hoạt động tính cách nam giới, các công thức của ông về mối quan tâm tương đối lớn hơn về mất tình yêu ở phụ nữ so với cơ cấu nhân cách nam giới và quan điểm của ông về tác động xúi giục của những lo lắng đồng tính luyến ái đối với sự hình thành ảo tưởng hoang tưởng. Họ cũng tìm thấy sự hỗ trợ hạn chế và không rõ ràng cho các lý thuyết của Freud về sự phát triển của đồng tính luyến ái. Họ phát hiện ra rằng một số lý thuyết khác của Freud bao gồm miêu tả giấc mơ của ông chủ yếu là những bí mật, những ước muốn vô thức, cũng như một số quan điểm của ông về tâm lý học phụ nữ, không được hỗ trợ hoặc mâu thuẫn bởi nghiên cứu. Xem xét lại các vấn đề một lần nữa vào năm 1996, họ kết luận rằng có nhiều dữ liệu thực nghiệm liên quan đến công trình nghiên cứu của Freud và hỗ trợ một số ý tưởng và lý thuyết chính của ông. Các quan điểm khác bao gồm những quan điểm của Hans Eysenck, tác giả của Decline and Fall of the Freudian Empire (1985) rằng Freud đã thiết lập lại nghiên cứu về tâm lý học và tâm thần học "bằng một thứ gì đó như năm mươi năm trở lên", và Malcolm Macmillan, người kết luận trong Freud Evaluated (1991) rằng "Phương pháp của Freud không có khả năng mang lại dữ liệu khách quan về các quá trình tinh thần". Morris Eagle tuyên bố rằng nó đã được "chứng minh khá thuyết phục rằng do tình trạng ô nhiễm nhận thức của dữ liệu lâm sàng xuất phát từ tình huống lâm sàng, những dữ liệu này có giá trị bằng chứng đáng ngờ trong việc kiểm tra các giả thuyết phân tâm học". Richard Webster, trong Why Freud Was Wrong (1995), đã mô tả phân tâm học có lẽ là giả khoa học phức tạp và thành công nhất trong lịch sử. Crews tin rằng phân tâm học không có giá trị khoa học hoặc trị liệu. I.B. Cohen coi Giải thích giấc mơ của Freud là một tác phẩm khoa học mang tính cách mạng, tác phẩm cuối cùng được xuất bản dưới dạng sách. Ngược lại, Allan Hobson tin rằng Freud, bằng cách hùng biện làm mất uy tín các nhà điều tra giấc mơ thế kỷ 19 như Alfred Maury và Hầu tước de Hervey de Saint-Denis tại thời điểm nghiên cứu về sinh lý học của não chỉ mới bắt đầu, làm gián đoạn sự phát triển của lý thuyết giấc mơ có tính khoa học trong nửa thế kỷ. Nhà nghiên cứu giấc mơ G. William Domhoff đã tranh luận về những tuyên bố về lý thuyết giấc mơ của Freud được xác nhận.. Nhà triết học Karl Popper, người lập luận rằng tất cả các lý thuyết khoa học thích hợp phải có khả năng sai, cho rằng các lý thuyết phân tâm học của Freud được trình bày dưới dạng không thể xác định được, có nghĩa là không có thí nghiệm nào có thể bác bỏ chúng. Nhà triết học Adolf Grünbaum lập luận trong The Foundations of Psychoanalysis (1984) rằng Popper đã nhầm lẫn và nhiều lý thuyết của Freud có thể kiểm chứng bằng thực nghiệm, một vị trí mà những người khác như Eysenck đồng ý. Nhà triết học Roger Scruton, viết trong Ham muốn tình dục (1986), cũng bác bỏ lập luận của Popper, chỉ ra lý thuyết đàn áp là một ví dụ về lý thuyết của Freud có những kết quả có thể kiểm chứng được. Tuy nhiên, Scruton kết luận rằng phân tâm học không thực sự khoa học, với lý do nó liên quan đến sự phụ thuộc không thể chấp nhận được vào phép ẩn dụ. Nhà triết học Donald Levy đồng ý với Grünbaum rằng các lý thuyết của Freud là sai lệch nhưng tranh chấp về sự tranh chấp của Grünbaum rằng thành công về mặt trị liệu chỉ là cơ sở dựa trên kinh nghiệm mà họ có thể chứng minh được bằng chứng lâm sàng được tính đến. Trong một nghiên cứu về phân tâm học tại Hoa Kỳ, Nathan Hale đã báo cáo về "sự suy tàn của phân tâm học trong tâm thần học" trong những năm 1965-1985. Sự tiếp diễn của xu hướng này đã được Alan Stone lưu ý: "Khi tâm lý học học thuật trở nên 'khoa học' hơn và tâm thần học trở nên sinh học hơn, phân tâm học đang bị gạt sang một bên." Paul Stepansky, trong khi lưu ý rằng phân tâm học vẫn có ảnh hưởng trong nhân văn, đã ghi nhận "một số lượng nhỏ sinh viên ngành tâm thần chọn theo đuổi đào tạo phân tâm học" và "nền tảng phi phân tâm học của các chủ tịch khoa tâm thần tại các trường đại học lớn" là một trong số các bằng chứng mà ông trích dẫn cho kết luận của mình rằng "Những xu hướng lịch sử như vậy chứng thực cho việc bị gạt ra của phân tâm học trong tâm thần học Mỹ". Tuy nhiên Freud được xếp hạng là nhà tâm lý học được trích dẫn nhiều thứ ba trong thế kỷ 20 theo một đánh giá về khảo sát Tâm lý học Đại cương của các nhà tâm lý học và tâm thần học Mỹ, xuất bản năm 2002. Người ta cũng tuyên bố rằng trong việc vượt ra khỏi "Một cách chính thống mà nói, trong quá khứ không xa... những ý tưởng mới và nghiên cứu mới đã dẫn đến một sự hứng khởi mãnh liệt trong phân tâm học từ các ngành liên quan, từ nhân văn đến khoa học thần kinh và bao gồm cả phương pháp trị liệu phân tâm học". Nghiên cứu trong lĩnh vực phân tâm học thần kinh gần đây, được thành lập bởi nhà thần kinh học và nhà phân tâm học Mark Solms, đã gây tranh cãi với một số nhà phân tâm học chỉ trích chính khái niệm này. Solms và các đồng nghiệp của ông đã lập luận rằng các phát hiện khoa học thần kinh là "nhất quán rộng rãi" với các lý thuyết của Freud chỉ ra các cấu trúc não liên quan đến các khái niệm của Freud như dục tình, ham muốn, vô thức và sự ức chế. Các nhà thần kinh học đã chứng thực công trình của Freud bao gồm David Eagleman, người tin rằng Freud "biến đổi tâm thần" bằng cách cung cấp "khám phá đầu tiên về cách mà các trạng thái ẩn của bộ não tham gia vào suy nghĩ và hành vi" và Eric Kandel, người đoạt giải Nobel rằng "phân tâm học vẫn đại diện cho quan điểm mạch lạc và trí tuệ nhất của tâm trí." Triết học Phân tâm học đã được giải thích là vừa cấp tiến vừa bảo thủ. Vào những năm 1940, nó đã được coi là bảo thủ bởi cộng đồng trí thức châu Âu và Mỹ. Các nhà phê bình bên ngoài phong trào phân tâm học, cho dù ở cánh tả hay cánh hữu đều coi Freud là một người bảo thủ. Fromm đã lập luận rằng một số khía cạnh của lý thuyết phân tâm học phục vụ lợi ích của phản ứng chính trị trong cuốn The Fear of Freedom (1942) của ông, một đánh giá được xác nhận bởi các nhà văn thông cảm ở cánh hữu. Trong Freud: The Mind of the Moralist (1959), Philip Rieff miêu tả Freud là một người thúc giục con người làm điều tốt nhất cho số phận bất hạnh không thể tránh khỏi và đáng được ngưỡng mộ vì lý do đó. Vào những năm 1950, Herbert Marcuse đã thách thức cách giải thích phổ biến lúc đó cho rằng Freud là một người bảo thủ trong Eros và Civilization (1955), cũng như Lionel Trilling trong Freud và Cuộc khủng hoảng văn hóa của chúng ta và Norman O. Brown trong Cuộc sống chống lại cái chết (1959). Eros và Civilization đã giúp đưa ra ý tưởng rằng Freud và Karl Marx đang giải quyết các câu hỏi tương tự từ các quan điểm khác nhau đáng tin cậy ở cánh tả. Marcuse chỉ trích chủ nghĩa xét lại tân Freud vì đã loại bỏ những lý thuyết có vẻ bi quan như bản năng chết, cho rằng chúng có thể bị biến thành một hướng không tưởng. Các lý thuyết của Freud cũng ảnh hưởng đến toàn bộ trường phái Frankfurt và lý thuyết phê phán. Freud đã được so sánh với Marx bởi Reich, người đã thấy tầm quan trọng của Freud đối với tâm thần học song song với Marx đối với kinh tế học, và bởi Paul Robinson, người coi Freud là một nhà cách mạng có những đóng góp cho tư tưởng thế kỷ XX có thể so sánh với Marx những đóng góp cho tư tưởng thế kỷ XIX. Fromm gọi Freud, Marx và Einstein là "kiến trúc sư của thời hiện đại", nhưng bác bỏ ý kiến cho rằng Marx và Freud đều có ý nghĩa như nhau, cho rằng Marx vừa quan trọng hơn về mặt lịch sử vừa là một nhà tư tưởng tốt hơn. Tuy nhiên Fromm tin rằng Freud thay đổi vĩnh viễn cách hiểu bản chất con người. Gilles Deleuze và Félix Guattari viết trong Anti-Oedipus (1972) rằng phân tâm học giống như Cách mạng Nga ở chỗ nó đã bị hỏng gần như ngay từ đầu. Họ tin rằng điều này bắt đầu với sự phát triển của Freud về lý thuyết về phức hợp Oedipus mà họ coi là người duy tâm. Jean-Paul Sartre phê bình lý thuyết của Freud về vô thức trong Bản thể và hư vô (1943), cho rằng ý thức về bản chất là tự ý thức. Sartre cũng cố gắng điều chỉnh một số ý tưởng của Freud vào tác phẩm của mình về cuộc sống con người, và do đó phát triển một "phân tâm học hiện sinh" trong đó các phạm trù nhân quả được thay thế bằng các phạm trù mục đích. Maurice Merleau-Ponty coi Freud là một trong những người dự đoán hiện tượng học, trong khi Theodor W. Adorno coi Edmund Husserl, người sáng lập hiện tượng học là đối nghịch triết học của Freud, viết rằng chính sách chống lại tâm lý học của Husserl có thể chống lại tâm lý học của Husserl. Paul Ricœur coi Freud là một trong ba "bậc thầy của sự nghi ngờ", cùng với Marx và Nietzsche, vì họ đã vạch trần 'sự dối trá và ảo tưởng của ý thức'. Ricœur và Jürgen Habermas đã giúp tạo ra một "phiên bản thông diễn của Freud", một trong đó "tuyên bố ông là người tiên phong quan trọng nhất của sự thay đổi từ một sự hiểu biết, chủ nghĩa kinh nghiệm của cõi người sang một chủ quan và giải thích căng thẳng." Louis Althusser đã rút ra khái niệm về sự xác định lại của Freud cho việc diễn giải lại tác phẩm Tư bản luận của Marx. Jean-François Lyotard đã phát triển một lý thuyết về vô thức đảo ngược tác phẩm của Freud về công trình mơ ước: đối với Lyotard, vô thức là một lực có cường độ được biểu hiện thông qua sự biến dạng chứ không phải ngưng tụ. Jacques Derrida nhận thấy Freud là một nhân vật quá cố trong lịch sử siêu hình học phương Tây và với Nietzsche và Heidegger, tiền thân của mặt cấp tiến của chính ông. Một số học giả coi Freud tương đồng với Plato, cho rằng họ nắm giữ gần như cùng một lý thuyết về giấc mơ và có những lý thuyết tương tự về cấu trúc ba bên của tâm hồn hay tính cách con người ngay cả khi thứ bậc giữa các phần của linh hồn gần như bị đảo ngược. Ernest Gellner cho rằng các lý thuyết của Freud là một sự đảo ngược của Plato. Trong khi Plato nhìn thấy một hệ thống phân cấp vốn có trong bản chất của thực tế và dựa vào đó để xác nhận các quy tắc, Freud là một nhà tự nhiên học không thể theo cách tiếp cận như vậy. Lý thuyết của cả hai đã tạo ra sự song song giữa cấu trúc của tâm trí con người và xã hội nhưng trong khi Plato muốn củng cố siêu ngã, tương ứng với tầng lớp quý tộc, Freud muốn củng cố bản ngã, tương ứng với tầng lớp trung lưu. Paul Vitz so sánh phân tâm học của Freud với Triết lý của Thánh Thomas, lưu ý đến niềm tin của Thánh Thomas về sự tồn tại của một "ý thức vô thức" và "việc sử dụng thường xuyên từ và khái niệm 'libido' - đôi khi theo nghĩa cụ thể hơn Freud, nhưng luôn theo một cách cụ thể hơn đồng ý với việc sử dụng Freud. " Vitz cho rằng Freud có thể đã không biết lý thuyết về vô thức của mình gợi nhớ đến Aquinas. Phê bình văn học và văn học Nữ quyền Tham khảo Liên kết ngoài Sigmund Freud birthplace PRIBOR www.SigmundFreud.net Bác sĩ Áo Nhà tâm lý học Áo Lịch sử tâm thần học Sinh năm 1856 Mất năm 1939 Nhà phê bình tôn giáo
27804
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hendrik%20Petrus%20Berlage
Hendrik Petrus Berlage
Hendrik Petrus Berlage (12 tháng 1 năm 1856 – 12 tháng 8 năm 1934) là một kiến trúc sư người Hà Lan có đóng góp quan trọng trong sự phát triển của kiến trúc châu Âu đầu thế kỷ 20. Ông là học trò của Gottfried Semper ở Học viện Kỹ thuật Zurich, Thụy Sĩ. Trong thập niên 1870 Berlage du lịch khắp châu Âu. Trong khoảng thập niên 1880, ông lập ra một văn phòng thiết kế ở Hà Lan cùng với Theodore Sanders. Những đồ án của họ thường pha trộn giữa tính thực hành và tính viễn tưởng. Berlage có đóng góp quan trọng trong việc hình thành một tư duy mới về mối liên hệ giữa không gian kiến trúc, kỹ thuật và sự trang trí. Các công trình của ông thể hiện một mối liên hệ chặt chẽ về mặt hình học, đôi khi đến mức cực đoan. Điều này làm ông có những điểm tương đồng với Kiến trúc sư người Áo Adolf Loos. Công trình Sàn giao dịch chứng khoán Amsterdam là một minh chứng rõ ràng nhất cho tư duy không gian - kỹ thuật của ông. Với sự phát triển của đồ án qua 3 giai đoạn, từ 1886 đến 1905, Berlage nhấn mạnh xuống các khối kiến trúc tổng thể thô mộc, không gian nội thất đơn giản và việc giản lược các chi tiết trang trí mặt đứng và phụ trợ. Với ông, kỹ thuật sẽ định hình vẻ đẹp của kiến trúc. Sau khi đi du lịch Mỹ vào năm 1911, ông bị ảnh hưởng mạnh bởi ý tưởng về kiến trúc hữu cơ của Henry Hobson Richardson, Louis Sullivan, và Frank Lloyd Wright. Ông được xem như "Người cha của kiến trúc hiện đại" Hà Lan và là người bắc cầu giữa phong cách Truyền thống và phong cách Hiện đại. Là người sáng lập ra trường phái Amsterdam trong lịch sử kiến trúc, tư tưởng và lý thuyết của ông có ảnh hưởng mạnh xuống trường phái "De Stijl" ở Hà Lan và trường phái "Khách quan mới" (Neue Sachlichkeit). Ông đã nhận được Huy chương Vàng của Hoàng gia Anh năm 1932 và là thành viên của Hiệp hội Quốc tế Kiến trúc Hiện đại (Congrès International d'Architecture Moderne, CIAM). Ông mất ở Den Haag năm 1934. Tham khảo Liên kết ngoài Tiểu sử và công trình kiến trúc Kiến trúc sư Hà Lan Kiến trúc sư Hiện đại Nghệ thuật Mới Lý thuyết kiến trúc Mất năm 1934
27807
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ki%E1%BA%BFn%20tr%C3%BAc%20hi%E1%BB%87n%20%C4%91%E1%BA%A1i
Kiến trúc hiện đại
Trào lưu kiến trúc Hiện đại (Modernism) là một khái niệm rất rộng được sử dụng để miêu tả các công trình khác nhau có các đặc điểm tương đồng về sự đơn giản trong bố cục hình khối không gian, tổ chức mặt bằng tự do phi đối xứng, mặt đứng loại bỏ việc sử dụng các họa tiết trang trí của trường phái cổ điển cũng như việc sử dụng vật liệu mới như kính, thép, bê tông. Kiến trúc hiện đại là một sự đoạn tuyệt mạnh mẽ với kiến trúc cổ điển, thể hiện một lối tư duy mới của sự phát triển bùng nổ của các xã hội châu Âu cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20. Trường phái kiến trúc này, xuất phát ở châu Âu từ cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20 và đã nhanh chóng phổ biến, trở thành một trường phái chủ đạo ra trên toàn thế giới đến thập niên 1970. Hiện nay mặc dù một định nghĩa chuẩn xác về khái niệm kiến trúc hiện đại vẫn còn đang được tranh luận, nhưng người ta thống nhất rằng trào lưu kiến trúc Hiện đại của thế kỉ 20 đã được thay thế bằng trào lưu kiến trúc Hậu Hiện đại (Postmodernism). Trong số những phong trào quan trọng nhất trong lịch sử kiến ​​trúc, ít nhiều ảnh hưởng trực tiếp đến kiến ​​trúc và quy hoạch đô thị của thế kỷ 20, được nhớ đến như những bậc thầy của phong trào Le Corbusier , Ludwig Mies van der Rohe, Walter Gropius, Frank Lloyd Wright, Alvar Aalto, mà cả người Ý Giovanni Michelucci, Gio Ponti , Gualtiero Galmanini, Franco Albini. Lịch sử kiến trúc Hiện đại thế kỷ 20 Khởi nguồn Kiến trúc Hiện đại, bắt nguồn từ châu Âu, là một sự phản ứng lại ảnh hưởng của quá khứ kiến trúc từ cuối thế kỉ 19. Các kiến trúc sư cảm thấy trào lưu kiến trúc Cổ điển không còn đủ sức sống, vay mượn và lệ thuộc quá nhiều vào những gì có trong quá khứ, không phản ảnh trung thực lại bối cảnh của thời đại công nghiệp. Không những vậy, kiến trúc cổ điển còn trở thành vật cản, trói buộc con người với quá khứ hoặc đánh lừa thị hiếu kiến trúc bằng những yếu tố tranh trí diêm dúa và vô nghĩa. Vào nửa cuối của thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20, trong trào lưu phát triển của phương Tây, chủ nghĩa Hiện đại nói chung có nguồn gốc từ thời kì Khai sáng (Enlightenment) đã ảnh hưởng xuống suy nghĩ của các kiến trúc sư, họ tin rằng cần phải tạo ra một trào lưu kiến trúc mới, phản ảnh được tinh thần của thời đại mới và phải vượt qua, rũ bỏ được cái bóng của quá khứ. Đa số nhà nghiên cứu về lịch sử kiến trúc Hiện đại của thế kỉ 20 đều lấy mốc của khởi đầu từ sự ra đời của công trình Cung Thủy tinh (Crystal Palace) ở Hyde Park, (London, Anh) năm 1851 do Joseph Paxton thiết kế. Công trình đáng dấu một bước ngoặt về tư duy không gian kiến trúc, về phương pháp sử dụng vật liệu, biện pháp thi công cũng như báo hiệu một vẻ đẹp mới của thời kỳ công nghiệp hóa. Bên cạnh đó là các kiến trúc sư của "Phong trào Nghệ thuật Thủ công" (Arts and Crafts movement) ở Anh do William Morris khởi xướng đã thúc đẩy sự đa dạng của kiến trúc. Đó là việc sử dụng vật liệu đa dạng, tính địa phương của kiến trúc, quay về với các khối hình học cơ bản. Tiêu biểu cho thời kì này có Philip Webb với công trình Biệt thự Gạch đỏ (The Red House) hay Charles Rennie Mackintosh ở Scotland với trường Nghệ thuật Glasgow. Ấn tượng trước Phong trào Nghệ thuật Thủ công, tùy viên văn hóa Đức tại Anh lúc đó Herman Muthesius đã viết tác phẩm "Văn hóa trang trí" (Dekorative Kunst) ca ngợi những ngôi nhà của Morris, Webb và các cộng sự. Ở Áo có Otto Wagner và Adolf Loos. Về phần mình, Wagner tìm tòi vẻ đẹp tạo hình khối kiến trúc qua các yếu tố kỹ thuật và kết cấu. Tiêu biểu cho cách công trình của ông có Quỹ tiết kiệm bưu điện Wien và một loạt các ga tàu điện ở Viên. Các công trình và tư tưởng của Wagner đã có ảnh hưởng mạnh lên kiến trúc sư Antonio Sant'Elia. Sau này, trong số các học trò của Wagner có Joseph Maria Olbrich, một trong số những người sáng lập ra trường phái Ly khai Wien (Wiener Secession). Năm 1899, Olbrich tham dự Công xã Darmstadt (Darmstädter Künstlerkolonie) ở Đức cùng với Peter Behrens, Herman Muthesius. Công xã Darmstadt chính là tiền thân của Hiệp hội Công trình Đức (Deutscher Werkbund) sau này. Sự thống trị của kiến trúc Hiện đại Vào thập kỉ 20 của thế kỉ 20, những gương mặt chính của kiến trúc Hiện đại đã xác định được danh tiếng cũng như vị trí của họ. Ở châu Âu, ba khuôn mặt nổi tiếng nhất là Le Corbusier ở Pháp, Ludwig Mies van der Rohe và Walter Gropius ở Đức. Gropius là người sáng lập ra trường Bauhaus, và Mies là hiệu trưởng cuối cùng của trường Bauhaus trước khi bị giải thể. Đặc điểm Ưu điểm Dây chuyền công năng được đề cao, hợp lý. Tiết kiệm được không gian giao thông, tiết kiệm vật liệu. Không trang trí phù phiếm. Áp dụng các thành tựu của khoa học và kỹ thuật. Giao thoa cùng với thiên nhiên (ánh sáng, cây xanh, nước) Tính thẩm mỹ gắn liền với sự hài hòa, hợp lý trong ngôn ngữ kiến trúc Các kiến trúc sư tiêu biểu Le Corbusier Ludwig Mies van der Rohe Walter Gropius Tange Kenzo Richard Meier Maki Fumihiko Adolf Loos Liên kết ngoài Modern architecture & design news Tham khảo Lịch sử kiến trúc Thiết kế kiến trúc Kiến trúc Hậu Hiện đại
27812
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFn%20tranh%20Iraq
Chiến tranh Iraq
{{Thông tin chiến tranh |conflict=Chiến tranh Iraq |partof= Chiến tranh chống khủng bố |image= |caption=Theo chiều kim đồng hồ, bắt đầu từ ảnh phía trên bên trái: lính liên quân tuần phòng tại Samarra; kéo đổ tượng Saddam Hussein tại Quảng trường Firdos; một người lính quân đội Iraq nạp lại đạn trong một cuộc tấn công; một quả bom nổ tại Nam Baghdad. |date=20 tháng 3 năm 2003 – 18 tháng 12 năm 2011() |place=Iraq |casus=War justifications: Rationale for the Iraq invasion. Governments' pre-war positions War on Terrorism |result= Lực lượng Đa Quốc gia do Hoa Kỳ dẫn đầu chiến thắng. Chế độ độc tài Saddam Hussein bị lật đổ. Hoa Kỳ rút quân vào ngày 26 tháng 12 năm 2011. Phiên tòa xét xử tội ác chống lại loài người của chế độ Saddam Hussein được thành lập. Tiếp tục xung đột giữa các bè phái Iraq. |combatant1 = Giai đoạn đầu (2003) Peshmerga Hỗ trợ: |combatant2 = Giai đoạn đầu (2003) Ba'athist Iraq Ansar al-Islam |combatant1a = Giai đoạn sau(2003–11) Chính phủ mới của Iraq Quân đội Iraq Những người con của Iraq (Awakening Council)Hỗ trợ: Iran Peshmerga |combatant2a = Giai đoạn sau (2003–11) Trung thành quân Ba'athHỗ trợ:https://www.albawaba.com/news/report-former-vice-president-iraq-under-syrian-army-protection Quân phiến loạn dòng Sunni Al-Qaeda (2004–06) Nhà nước Hồi giáo Iraq và Levant (from 2006) Quân Hồi giáo Iraq Ansar al-Sunnah (2003–07)Hỗ trợ:https://www.theguardian.com/world/2005/jun/08/iraq-al-qaida Quân phiến loạn dòng Shia Quân Mahdi Special Groups Asa'ib Ahl al-HaqHỗ trợ: Quds Force |commander1= Jalal Talabani Ibrahim al-Jaafari Nouri al-Maliki Massoud Barzani Masrour Barzani Abdul Sattar Abu Risha Ahmad Abu Risha Barack Obama George W. Bush Ray Odierno David Petraeus George W. Casey, Jr. Ricardo Sanchez Tommy Franks |commander2= Saddam Hussein Qusay Hussein Uday Hussein Tariq Aziz Izzat Ibrahim ad-Douri Abu Omar al-Baghdadi Abu Musab al-Zarqawi Abu Ayyub al-Masri Muqtada al-Sadr Abu Deraa Ishmael Jubouri Abu Abdullah al-Shafi'i |strength1=Lực lượng Iraq650,000 (Quân đội: 273,000, Cảnh sát: 227,000, FPS: 150,000)USF-ILực lượng Hoa Kỳ50,000 (current) Peshmerga50,000 invasion~375,000 currentLực lượng Đa quốc gia - Iraq (2003-2004)~300,000Liên quân (2004-2010)176,000 at peak Awakening militias~103,000 (2008)Quân đội Thổ Nhĩ Kỳ: ~3,000–10,000 Tổng: ~365,000 (invasion)Tổng: 1.347.970–1.354.970+ (current)|strength2=Quân Iraq: 375,000 (thời Saddam Hussein)Phiến quân~70,000 (vào 9/07)Quân Mahdi~60,000 al-Qaeda/others1,300+ PKK: ~4,000–8,000. |casualties1=Iraqi Security Forces (post-Saddam): 11,900 killed94 MIA/POW Total: 375,000+ (invasion)Total: 135,300–139,300+ (current)Coalition ForcesKilled: 4,735 (4,417 U.S., 179 U.K., 139 other)Missing or captured (U.S.): 1Wounded: 31,716 U.S., 315 U.K."Casualties in Iraq"."Defence Internet Fact Sheets Operations in Iraq: British Casualties" . U.K. Ministry of Defense. Latest combined casualty and fatality tables .Injured/diseased/other medical:** 47,541 U.S., 3,598 U.K.ContractorsKilled: 1,323"Iraq Coalition Casualties: Contractor Deaths – A Partial List" . icasualties.org (U.S. 244)Missing or captured: 16 (U.S. 5)Wounded & injured: 10,569Awakening CouncilsKilled:760+ Turkish Armed Forces:27 killed Total killed: 18,795|casualties2=Iraqi combatant dead (invasion period): 13,500–45,000 Insurgents (post-Saddam): ~55,000 Detainees: 8,300 (U.S.-held)24,200 (Iraqi-held) PKK: 537 killed (Turkish claim), 9 killed (PKK claim), 230 (official army figures claim) |casualties3=Documented "unnecessary" violent civilian deaths, Iraq Body Count – tháng 1 năm 2009: 95,158–103,819 Total excess deaths, (Lancet) – tháng 12 năm 2009: 1.366.350***. By Gilbert Burnham, Shannon Doocy, Elizabeth Dzeng, Riyadh Lafta, and Les Roberts. A supplement to the second Lancet study. (highest estimate)For more information see: Casualties of the Iraq War |notes=*Contractors (U.S. government) perform "highly dangerous duties almost identical to those performed by many U.S. troops."** "injured, diseased, or other medical" – required medical air transport. U.K. number includes "aeromed evacuations"***Total deaths include all additional deaths due to increased lawlessness, degraded infrastructure, poorer healthcare, etc.}}Chiến tranh Iraq hay Chiến dịch Giải phóng Iraq theo cách gọi của Chính phủ Hoa Kỳ là một cuộc chiến tranh diễn ra tại Iraq từ ngày 20 tháng 3 năm 2003Kevin Baker "The Quietest War: We've Kept Fallujah, but Have We Lost Our Souls?" American Heritage, Oct. 2006. đến ngày 18 tháng 12 năm 2011, giữa một bên là Lực lượng Đa Quốc gia do Hoa Kỳ dẫn đầu với một bên là chính quyền Saddam Hussein (ban đầu) và các lực lượng nổi dậy (về sau). Lực lượng Đa Quốc gia đã lật đổ được chính quyền của Saddam Hussein. Tuy nhiên, các lực lượng nổi dậy vẫn chưa được trấn áp hoàn toàn, dẫn đến việc mặc dù Tổng thống Hoa Kỳ đã tuyên bố rút hết quân chính quân và kết thúc chiến tranh nhưng vẫn phải để lại gần 50 vạn nhân viên quân sự dưới tư cách cố vấn quân sự cho chính quyền Iraq mới.http://news.bbc.co.uk/2/shared/bsp/hi/pdfs/19_03_07_iraqpollnew.pdf Iraq Poll Chú thích và tham khảo Cuộc xung đột này cũng được gọi là Chiến tranh vùng Vịnh thứ 2''' để phân biệt nó với Chiến tranh vùng Vịnh năm 1991. Ngày nay, các thuật ngữ này được sử dụng ít hơn "Chiến tranh Iraq" hay "Chiến tranh của Bush năm 2003" (tên thứ hai được sử dụng nhất là bởi các nhà hoạt động chống chiến tranh. Thuật ngữ "đa quốc gia" trong Lực lượng đa quốc gia ở Iraq đã bị chỉ trích vì nhiều nước chỉ đóng góp vào lực lượng nhỏ, còn 98% của quân đội khi tấn công Iraq là lính của Hoa Kỳ và Vương quốc Anh. Tham khảo Liên kết ngoài Giải phóng Baghdad Quân Đồng minh tiến vào Baghdad năm 2003 Iraq thập niên 2000 Iraq thập niên 2010 Xung đột thập niên 2000 Xung đột thập niên 2010 Tranh cãi của chính quyền George W. Bush Quan hệ Hoa Kỳ-Iraq Lịch sử hiện đại Iraq Chiếm đóng Iraq Chính trị Iraq Chủ nghĩa đế quốc Kurdistan thuộc Iraq Nhà nước Hồi giáo Iraq và Levant ở Iraq Chiến tranh khủng bố Chiến tranh liên quan tới Iraq Chiến tranh liên quan tới Hoa Kỳ Chiến tranh liên quan tới Nhà nước Hồi giáo Iraq và Levant Chiến tranh liên quan tới Vương quốc Liên hiệp Anh Chiến tranh liên quan tới Ba Lan Chiến tranh liên quan tới Úc Chiến tranh liên quan tới România Chiến tranh liên quan tới El Salvador Chiến tranh liên quan tới Estonia Chiến tranh liên quan tới Albania Chiến tranh liên quan tới Moldova Chiến tranh liên quan tới Ukraina Chiến tranh liên quan tới Bulgaria Chiến tranh liên quan tới Đan Mạch Chiến tranh liên quan tới Armenia Chiến tranh liên quan tới Azerbaijan Chiến tranh liên quan tới Bosna và Hercegovina Chiến tranh liên quan tới Cộng hòa Séc Chiến tranh liên quan tới Latvia Chiến tranh liên quan tới Singapore Chiến tranh liên quan tới Hàn Quốc Chiến tranh liên quan tới Macedonia Chiến tranh liên quan tới Kazakhstan Chiến tranh liên quan tới Tonga Chiến tranh liên quan tới Gruzia Chiến tranh liên quan tới Mông Cổ Chiến tranh liên quan tới Slovakia Chiến tranh liên quan tới Na Uy Chiến tranh liên quan tới Litva Chiến tranh liên quan tới Ý Chiến tranh liên quan tới Hà Lan Chiến tranh liên quan tới Bồ Đào Nha Chiến tranh liên quan tới Nhật Bản Chiến tranh liên quan tới New Zealand Chiến tranh liên quan tới Iceland Chiến tranh liên quan tới Nicaragua Chiến tranh liên quan tới Cộng hòa Dominica Chiến tranh liên quan tới Tây Ban Nha Chiến tranh liên quan tới Philippines Chiến tranh liên quan tới Honduras Chiến tranh liên quan tới Thái Lan Chiến tranh ủy nhiệm
27827
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tony%20Blair
Tony Blair
Anthony Charles Lynton Blair (sinh ngày 6 tháng 5 năm 1953) là Thủ tướng Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland từ ngày 2 tháng 5 năm 1997 tới ngày 27 tháng 6 năm 2007 và là lãnh đạo Công Đảng Anh từ ngày 21 tháng 7 năm 1997 đến năm ngày 2 tháng 5 năm 2007. Ông cũng đã từng đảm nhiệm vị trí Bộ trưởng Ngân khố và Bộ trưởng Dân chính của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland. Tony Blair trở thành chủ tịch Đảng Lao động từ tháng 7 năm 1994 sau khi người tiền nhiệm John Smith qua đời vào tháng 5 năm đó. Ông trở thành thủ tướng Anh sau khi đảng Lao động thắng lớn trong cuộc tổng tuyển cử năm 1997, thay thủ tướng John Major và kết thúc giai đoạn 18 năm cầm quyền của đảng Bảo thủ. Cho đến nay ông là thủ tướng lâu năm nhất của đảng Lao động và là người duy nhất dẫn dắt đảng này chiến thắng ba cuộc tổng tuyển cử kề nhau. Ông từ chức vào ngày 27 tháng 6 năm 2007 và người kế nhiệm ông là Gordon Brown. Ông từng là bạn học chung với diễn viên nổi tiếng người Anh Rowan Atkinson. Tác phẩm Socialism (1994) What Price a Safe Society? (1994) Let Us Face the Future (1995) New Britain: My Vision of a Young Country (1997) Leading the Way: New Vision for Local Government (1998) The Third Way: New Politics for the New Century (1998) Superpower: Not Superstate? (2000) The Courage of Our Convictions (2002) A Journey (Hành trình chính trị của tôi, 2010), tự truyện Xem thêm Thủ tướng Anh Chính trị Anh Danh sách các Thủ tướng Anh Tham khảo "Whatever happened to Cool Britannia ? The UK after eight years of Blair" 30 học giả Anh, Mỹ, Canada nhận xét về Blair sau hai nhiệm kỳ, tháng 5 năm 2005 Beckett, F. & Hencke, D. (2004). The Blairs and Their Court, Aurum Press, ISBN 1-84513-024-3 Blair, T. (2004). "Blair, The Right Hon. A. C. L." from Who's Who, 156th ed., London: A & C Black. Her Majesty's Government (2004). "The Prime Minister: A Biography". Halsbury's Laws of England (2004), các việc bãi chức trong đạo luật về Hiến pháp và Nhân quyền của Anh "The September Dossier" "The Dodgy Dossier" Tuition Fee Time Table Liên kết ngoài Số 10 Đường Downing  – website chính thức của Thủ tướng Anh A Day in the Life  – phim tài liệu trên mạng bởi Tony Blair về cuộc sống Thủ tướng Thủ tướng Vương quốc Liên hiệp Anh Chủ tịch Công Đảng Anh Tín hữu Anh giáo Giảng viên Đại học Yale Người đoạt Huy chương Tự do Tổng thống Người viết tự truyện Anh
27836
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ki%E1%BA%BFn%20tr%C3%BAc%20h%E1%BA%ADu%20hi%E1%BB%87n%20%C4%91%E1%BA%A1i
Kiến trúc hậu hiện đại
Khái quát thiết kế Hậu hiện đại (Postmodernism) được xem như sự tiếp tục của lối thiết kế hiện đại trong kiến trúc. So với trường phái thiết kế Hiện đại chỉ gồm những đường thẳng, trường phái Hậu hiện đại xuất hiện thêm đường tròn và đường parabol, có thể hiểu trường phái Hậu hiện đại là sự kết hợp giữa lối thiết kế Cổ điển và Hiện đại nhưng lấy lối thiết kế Hiện đại làm trọng tâm. Xuất hiện lần đầu tiên từ cuối thập niên 1950, kéo dài đến thời điểm hiện tại. Mở đầu cuốn sách "Ngôn ngữ của kiến trúc Hậu hiện đại", tác giả Charles Jencks đã thông báo "Kiến trúc Hiện đại đã chết ở Saint Louis, Missouri ngày 15 tháng 7 năm 1972 vào hồi 15h32". Kèm theo đó là bức ảnh chụp một ngôi nhà nhiều tầng đang bị nổ tung. Đó là một trong những khối của quần thể lớn nhà ở do kiến trúc sư Mỹ gốc Nhật Minoru Yamasaki thiết kế. Cuốn sách này đã gây tiếng vang lớn trong giới kiến trúc và được tái bản nhiều lần, được dịch ra nhiều thứ tiếng. Nó báo hiệu một trào lưu kiến trúc mới ra đời: Kiến trúc Hậu hiện đại. Các nguyên lý của kiến trúc Hậu hiện đại Theo Robert Stern, một kiến trúc sư người Mỹ, kiến trúc Hậu hiện đại được chia thành ba dạng nguyên lý sau: Bối cảnh Các công trình kiến trúc Hậu hiện đại phải gắn với môi trường xung quanh, là một bộ phận của môi trường. Ở đây, vấn đề đã khác so với kiến trúc Hiện đại là không xem xét đến bối cảnh mà có thể đặt công trình ở bất kỳ môi trường nào, bất kỳ nước nào. Ẩn dụ Hình thức của công trình phải nói lên nhiều ý nghĩa, có nhiều chi tiết kiến trúc mang tính tượng trưng. Trang trí Tính chất trang trí cổ điển của các chi tiết kiến trúc được khôi phục lại, trái ngược lại với những gì mà kiến trúc Hiện đại cho là "trọng tội". Xu hướng kiến trúc Hậu hiện đại Xu hướng "Lịch sử" Xu hướng quay về với cổ điển được ưa chuộng ở kiến trúc Hậu hiện đại. Thiết kế công trình loại này sao cho tạo được cảm tưởng đây là một công trình cổ điển được thiết kế theo quan điểm thẩm mỹ của phong cách quốc tế. Hai khái niệm chủ đạo của kiến trúc Hậu hiện đại nhằm chế ngự được công chúng là xác định được tinh thần tưởng nhớ đến lịch sử (quá khứ) và xác định hình ảnh hiện tại của thành phố. Xu hướng "Hồi sinh nghiêm ngặt" Ở xu hướng này có hai cách sau: Sao chép nguyên xi các chi tiết kiến trúc cổ. Kết hợp lại các chi tiết kiến trúc của một số công trình cổ. Ví dụ cho xu hướng này là đền thờ ở Trung Đông do Quynlan Terry thiết kế vào năm 1975 với ngữ pháp cổ La Mã nhưng lại có các chòi tháp kiểu thực dân Anh ở Ấn Độ. Năm 1974, kiến trúc sư người Nhật Bản Mozuna Monta thiết kế ngôi nhà Okawa House với mặt ngoài là phong cách lâu đài Farnèse, ở bên trong thì phong cách nhà thờ Pazzi. Monta đã dùng phong cách nhại lại cổ điển để sáng tạo những tác phẩm nghiêm túc. Xu hướng "Tân bản xứ" Xu hướng này phát triển trong thập niên 1970, nó là một sự lai tạo của kiến trúc Hiện đại và công trình bằng gạch ở thế kỷ 19. Nó bao gồm các yếu tố: Mái dốc, Có chi tiết nào đó dạng vuông vức, Các khối phân chia rất ngoạn mục và bằng gạch. Công trình tiêu biểu cho xu hướng này là Trung tâm Hillingdon Civic, xây trong khoảng 1974-1977. Xu hướng "Thích hợp" Xu hướng thích hợp dựa trên sơ đồ nhị nguyên về tính dễ hiểu và dễ đọc của đô thị. Một công trình điển hình cho xu hướng này là quần thể công trình nhà ở Byker Wall do kiến trúc sư Pháp Ralf Erskine làm năm 1974. Xu hướng "Ẩn dụ và trừu tượng" Kiến trúc La Mã có xu hướng thể hiện lòng tin vào bộ máy của Hoàng đế, kiến trúc Phục Hưng thì biểu thị tính siêu hình nghiêm ngặt. Còn ở kiến trúc Hậu hiện đại, tính ẩn dụ xuất phát từ truyền thống hữu cơ có liên quan đến hình ảnh con người, động vật và thực vật. Sự đối xứng hình mặt người, cảm giác vận động từ trong ra ngoài, từ trên xuống dưới v.v... Ngôi nhà Daisy House xây dựng trong thời gian 1976-1977 ở bang Indiana, do kiến trúc sư người Mỹ Stanley Tigerman thiết kế, có mặt bằng và mặt đứng tương tự như hình ảnh một số bộ phận thân thể phụ nữ và nam giới. Kiến trúc sư người Nhật Bản Yamashita Kazumasa cũng đã thiết kế một ngôi nhà kiểu mặt người, công trình được làm năm 1974 ở Kyoto. Xu hướng "Không gian Hậu hiện đại" Xu hướng thiết kế này tạo ra một không gian vô hạn, không rõ ràng, nhập nhằng với nhau... Cửa hiệu đồ trang sức Schullin ở thủ đô Viên của Áo thuộc xu hướng này. Công trình này do kiến trúc sư Hans Hollein làm năm 1975. Xu hướng "Chiết trung triệt để" Chủ nghĩa chiết trung ở thế kỷ 19 là sự trốn tránh cái khó khi phải lựa chọn, đó là tính cơ hội và vị kỷ, đi tìm những thứ dễ dàng. Còn ở kiến trúc Hậu hiện đại, chủ nghĩa chiết trung mạnh mẽ và đa dạng một cách triệt để hơn. Những thủ pháp của kiến trúc Hậu hiện đại Sử dụng hệ thống kiến trúc cổ điển Hy Lạp-La Mã Các kiến trúc sư Hậu hiện đại có các tác phẩm rất đa dạng, phong phú, nhưng Chủ nghĩa Hậu hiện đại đã làm họ gần nhau hơn, các tác phẩm của họ luôn thể hiện sự trung thành với truyền thống. Robert Venturi đã bắt chước theo ngôi đền Dori ở trong thiết kế ngôi nhà Electic House, nhại lại thức cột Ionic trong Bảo tàng Nghệ thuật Pop Art ở bang Ohio. Lối vào quảng trường Italia, ở bang Missisipi, xây dựng khoảng 1978-1979, giống Khải hoàn môn La Mã nhưng hiện đại hơn. Trong công trình này cũng có các cột Ionic mà cuốn đầu cột là thép mạ vàng, thân cột bằng các ống đèn huỳnh quang. Thủ pháp bài trừ sự thiếu tính đồng nhất cho công trình Trong kiến trúc này, người ta khai thác tính chất đối xứng, tính "chính, phụ" và có "tâm" của công trình. Thủ pháp vận dụng ngược đời các chi tiết cổ Thủ pháp này vận dụng khi thiết kế công trình, người ta lắp các chi tiết cổ không đúng với vị trí thường thấy. Mô típ hình bán nguyệt có chuôi ở nhà thờ Santa Maria Della Pace ở Roma do Pretroda Cortona xây dựng năm 1656-1657 đã được kiến trúc sư Isozaki Arata vận dụng làm cửa sổ trong các ngôi nhà Kj House và H. House. Còn trong ngôi nhà Sun-Tumori, kiến trúc sư Watanabe Toykazu đã làm một mái nhà có sống mái dốc ngược lên tạo một phối cảnh kỳ dị. Kiến trúc sư Aida Takefumi năm 1979 cũng làm một ngôi nhà có hai cái mái hình tam giác cân. Cái mái này lại được đỡ bằng một cột ở giữa theo truyền thống nhà ở Nhật Bản. Thủ pháp đề cao tính trật tự Các kiến trúc sư vận dụng thủ pháp này đã tránh trang trí, không dùng trực tiếp các yếu tố kiến trúc Cổ điển nhưng sử dụng tính trật tự của bố cục, các trục chính, phụ. Họ thường sử dụng những hình hình học sơ cấp, là những hình đơn giản nhất. Trong ngôi nhà Matematician House của Reichlin và Rainhardt, người ta thấy nhiều quan niệm cổ điển như: "tâm nhà", hình chữ thập của Leone Battista Alberti và Palladio, v.v... Kiến trúc sư Isozaki Arata lại sử dụng chủ yếu hình vuông và khối lập phương để diễn đạt ý tưởng cho công trình. Năm 1972-1974 ông thiết kế bảo tàng Kitakyushu và toà nhà Shu Sha, cả hai công trình đều là những hình vuông và khối lập phương hết sức đơn giản. Nhà hát nổi Teatro del Mondo ở Venezia của Aldo Rossi làm năm 1979 cũng là một công trình hết sức độc đáo. Các kiến trúc sư Hậu hiện đại Robert Venturi Aldo Rossi Léon Krier Michael Graves Watanabe Toyokazu Isozaki Arata Hans Hollein Robert Stern Lý Tổ Nguyên Hình ảnh Tham khảo Liên kết ngoài Lịch sử kiến trúc Hậu Hiện đại Kiến trúc Hậu Hiện đại Kiến trúc Biểu hiện Chủ nghĩa hậu hiện đại Khởi đầu thế kỷ 20
27839
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n%20Cao%20Luy%E1%BB%87n
Nguyễn Cao Luyện
Nguyễn Cao Luyện (1907 – 1987) là kiến trúc sư, nhà báo, và cựu Đại biểu Quốc hội Việt Nam. Ông được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học – Nghệ thuật đợt I (1996). Tiểu sử Ông sinh năm 1907 tại Nam Định, trong một gia đình nhà nho nghèo. Lớn lên, khi đang học Trường Thành chung Nam Định, do hăng hái hoạt động trong tổ chức học sinh yêu nước và tham gia bãi khoá trong phong trào để tang cụ Phan Châu Trinh (24 tháng 3 năm 1926), nên ông bị đuổi học. Học ngành kiến trúc Năm 20 tuổi, ông thi đỗ vào khóa III Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Sau một năm học khoa mỹ thuật, ông chuyển sang học khoa kiến trúc, cùng học với Hoàng Như Tiếp. Năm 1933, ông đỗ đầu khóa và được gửi sang Pháp tu nghiệp một năm tại Xưởng thiết kế của Le Corbusier và Auguste Perret. Là một kiến trúc sư bậc thầy trong sử dụng bê tông, các công trình của Auguste Perret đã để lại dấu ấn sâu sắc trong quan điểm sáng tạo của Nguyễn Cao Luyện. Sau khi về nước, ông mở phòng kiến trúc tư ở 42 Tràng Thi – Hà Nội, đây là văn phòng kiến trúc đầu tiên của kiến trúc sư người Việt ở Việt Nam. Những công trình đầu tay của ông ở Hà Nội là như Bệnh viện 167 Phùng Hưng, Trường tư thục Thăng Long ở Ngõ Trạm, các biệt thự 77 Nguyễn Thái Học, 65 Lý Thường Kiệt (nay là Đại sứ quán Cộng hòa Cuba)... Kiến trúc sư Nguyễn Cao Luyện còn tham gia giảng dạy ở Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, một trong số các học trò của ông là kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát. Cuối năm 1935, cùng kiến trúc sư Hoàng Như Tiếp từ Huế ra, hai ông đã thực hiện kiểu "Nhà ánh sáng" khá giản dị, thiết kế toàn từ những vật liệu rẻ tiền, nhưng tạo nên nơi ăn chốn ở văn minh, hợp vệ sinh cho nhiều người dân nghèo ở bãi Phúc Xá, Hà Nội. Năm 1939, hai ông cùng với kiến trúc sư Nguyễn Gia Đức thành lập Văn phòng Kiến trúc Luyện - Tiếp - Đức. Bộ ba Luyện - Tiếp - Đức chính là những người tiên phong khởi xướng ra các ý tưởng về không gian và hình dáng của kiến trúc Việt Nam, tiếp thu ảnh hưởng của văn hóa và kiến trúc Pháp, đồng thời khai thác nét văn hóa truyền thống của dân tộc, đã để lại hàng chục công trình có giá trị thẩm mỹ cao, ghi dấu ấn trong nền kiến trúc Việt Nam trước Cách mạng tháng 8. Những công trình đáng chú ý như toà nhà tại đường Nguyễn Thái Học (nay là trụ sở Liên hiệp Hợp tác xã Việt Nam), biệt thự số 7 Thiền Quang (nay là trụ sở Cảnh sát Hình sự PC45 Hà Nội), 215 Đội Cấn và 38 Bà Triệu (Nhà in Tạp chí Cộng sản). Tham gia kháng chiến Ngày 22 tháng 7 năm 1946, ông được bầu làm Ủy viên Trung ương khóa I Đảng Xã hội Việt Nam mới thành lập. Kháng chiến bùng nổ, ông cùng Hoàng Như Tiếp đi kháng chiến ở Phúc Yên thuộc Liên khu 1, chiến khu Việt Bắc. Trong thời gian này, ông đã góp sức tập hợp các kiến trúc sư theo kháng chiến, tổ chức các phòng kiến trúc ở Liên khu 1, Liên khu 10, Liên khu 3, Liên khu 4. Ngày 27/4 năm 1948, ông được bầu vào Ban chấp hành Đoàn Kiến trúc sư Việt Nam tức Hội Kiến trúc sư Việt Nam sau này. Tháng 4 năm 1950, ông cùng Kiến trúc sư Nguyễn Văn Ninh được cử phụ trách Vụ Kiến trúc (ông Ninh làm Giám đốc, ông làm Phó Giám đốc) thuộc Bộ Giao thông Công chính đóng tại Đại Từ (Thái Nguyên), rồi chuyển sang Yên Bình (Tuyên Quang). Trong kháng chiến, Kiến trúc sư Nguyễn Cao Luyện đã hào hứng đi vào sáng tác các kiểu nhà có nội dung sử dụng mới, hình thức phù hợp với thời chiến như nhà triển lãm, chòi phát thanh, trụ sở Ủy ban Kháng chiến Hành chính. Nhiều mẫu nhà được vẽ bằng mực tím trên đất sét hoặc thạch in trên giấy giang để phổ biến trong chiến khu. Ngoài ra, ông còn nghiên cứu, tìm hiểu kiến trúc dân gian của các dân tộc miền núi. Hoạt động quản lý Sau năm 1954, ông Nguyễn Cao Luyện tiếp tục đảm nhiệm nhiều nhiệm vụ trong Chính phủ đương thời như đại biểu Quốc hội các khóa II, III, IV, ủy viên thường vụ Đoàn Kiến trúc sư Việt Nam và Viện trưởng Viện Kiến trúc, Bộ Kiến trúc - Thủy lợi, Thứ trưởng Bộ Kiến trúc (nay là Bộ Xây dựng), Ủy viên Thường vụ Ủy ban Trung ương Hội Văn học - Nghệ thuật Việt Nam trong nhiều khóa. Ông là Hiệu trưởng đầu tiên của trường Đại học Kiến trúc Hà Nội và tham gia giảng dạy ở các trường đại học khác. Ông là tác giả của các công trình Trụ sở Quốc hội ở 35 Ngô Quyền, Hội trường Ba Đình (đồng tác giả với kiến trúc sư Trần Hữu Tiềm), khu biệt thự Trung ương ở Hồ Tây và nhà triển lãm 25 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại Bạch Mai, trụ sở UBND tỉnh Nghĩa Lộ, Bảo tàng Cổ vật Nam Định (1975). Ông là tác giả của hai cuốn sách nổi tiếng viết về lịch sử kiến trúc Việt Nam, đó là Từ những mái nhà tranh cổ truyền (1977), và Chùa Tây Phương - một công trình kiến trúc cổ độc đáo (1987). Ông nghỉ hưu năm 65 tuổi. Ông mất ngày 10 tháng 10 năm 1987 ở Hà Nội, hưởng thọ 80 tuổi. Vinh danh Với những đóng góp cho nền kiến trúc, ông được Nhà nước trao tặng Huân chương Độc lập và Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I (1996). Tên của ông được Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội đặt cho một con đường tại phường Giang Biên, quận Long Biên. Đường Nguyễn Cao Luyện nối từ đường Ngô Gia Tự, chạy xuyên qua Khu đô thị Việt Hưng, là một trong những con đường thuận tiện để đi từ Cầu Đuống ra đường Nguyễn Văn Linh (quốc lộ 5). Tại quận Sơn Trà, Đà Nẵng cũng có đường Nguyễn Cao Luyện. Gia đình Con trai của ông là kiến trúc sư Nguyễn Trực Luyện từng giữ chức chủ tịch Hội Kiến trúc sư Việt Nam. Cháu nội của ông là kiến trúc sư Nguyễn Trí Thành Tham khảo Liên kết ngoài KTS Nguyễn Cao Luyện Thế hệ và thời đại ông sống - KTS Hoàng Đạo Kính 100 NĂM NGÀY SINH KIẾN TRÚC SƯ - NHÀ VĂN HÓA LÃO THÀNH NGUYỄN CAO LUYỆN (1907 – 2007) Kiến trúc sư Việt Nam Phong cách Kiến trúc Đông Dương Người nhận giải thưởng Hồ Chí Minh Cựu sinh viên Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương Nhà báo Việt Nam Nhà giáo Việt Nam Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa II Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa III Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa IV Thứ trưởng Bộ Xây dựng (Việt Nam) Đảng Xã hội Việt Nam Người họ Nguyễn tại Việt Nam
27841
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C3%B4%20Huy%20Qu%E1%BB%B3nh
Ngô Huy Quỳnh
Kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh (1920-2003) là một kiến trúc sư Việt Nam thời hiện đại. Ông chính là người chịu trách nhiệm thiết kết và giám sát thi công Lễ đài Độc Lập tại Quảng trường Ba Đình ngày 2 tháng 9 năm 1945. Ngoài ra, ông còn là một nhà giáo, được nhà nước Việt Nam phong hàm Giáo sư, chuyên giảng dạy về ngành xây dựng và kiến trúc. Xuất thân Ông sinh ngày 15 tháng 5 năm 1920, người phủ Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên (nay thuộc phường Phùng Chí Kiên, thị xã Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên). Năm 1938, tốt nghiệp trung học ông thi đỗ vào Khoa Kiến trúc, Trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, một trường nổi tiếng thời bấy giờ ở Hà Nội. Ngay từ khi còn là sinh viên năm thứ ba, ông đã thiết kế và hướng dẫn xây dựng nhiều công trình nhà ở, biệt thự tại các phố Nguyễn Du, Cao Đạt (Hà Nội), ở Nam Định, Đình Bảng (Bắc Ninh)... Các công trình của ông, cùng các cộng sự như Nguyễn Gia Đức đã thể hiện rõ phong cách kiến trúc Á Đông và văn hóa Việt. Hoạt động cách mạng Cũng trong thời gian theo học tại Trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, ông đã có những tiếp xúc với các nhà hoạt động cách mạng như Trường Chinh, Trần Huy Liệu, Trần Đình Long... và chịu ảnh hưởng của họ về đấu tranh giải phóng dân tộc. Năm 1941, ông tham gia viết bài trên báo Sinh viên, phê phán quan điểm nghệ thuật tư sản của một số văn nghệ sĩ đương thời và bày tỏ quan điểm nghệ thuật vị nhân sinh, vì nền văn hóa dân tộc, cổ động sinh viên trí thức trở về với bản sắc truyền thống. Năm 1943, sau khi tốt nghiệp, trở thành kiến trúc sư, ông chính thức tham gia Việt Minh và được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Hội Văn hóa cứu quốc. Cách mạng tháng Tám thành công, ông tham gia lập chính quyền cách mạng tại thành phố Nam Định. Ngày 1 tháng 9 năm 1945, ông trực tiếp thiết kế và chỉ đạo lắp đặt Lễ đài Độc lập tại Quảng trường Ba Đình. Công trình này được hoàn chỉnh trong vòng 1 ngày. Ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương cũng vào tháng 10 cùng năm. Cây đại thụ của ngành kiến trúc miền Bắc Sau khi Pháp nổ súng tái chiếm Đông Dương, ông cùng các cộng sự lên Chiến khu Việt Bắc, tham gia công tác xây dựng cơ bản để biến Việt Bắc trở thành thủ đô kháng chiến. Năm 1947, ông cùng với các kiến trúc sư Nguyễn Cao Luyện, Trần Hữu Tiềm, Hoàng Như Tiếp, tham gia thành lập Đoàn Kiến trúc sư Việt Nam, tiền thân của Hội Kiến trúc sư Việt Nam ngày nay. Năm 1951, ông được chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cử đi học tại Liên Xô. Năm 1955, ông về nước và làm việc tại Bộ Kiến trúc, trực tiếp chủ trì lập đồ án Quy hoạch Thủ đô Hà Nội với sự giúp đỡ của chuyên gia Liên Xô. Tiểu khu nhà ở Kim Liên do ông thiết kế, lần đầu được xây dựng tại thủ đô, có thể coi là cái mốc khởi đầu trong lĩnh vực thiết kế và xây dựng nhà ở của ngành xây dựng Việt Nam. Năm 1961, ông được cử làm Trưởng đoàn chuyên gia Việt Nam sang giúp Chính phủ Lào thiết kế, quy hoạch và chỉ đạo xây dựng thành phố Khăng Khay (nay thuộc tỉnh Xiêng Khoảng). Sau khi về nước, ông tiếp tục đảm nhiệm những chức vụ quan trọng của ngành kiến trúc và xây dựng như Ủy viên Ủy ban Kiến thiết cơ bản Nhà nước, Vụ trưởng Quy hoạch đô thị - nông thôn, Cố vấn Chủ nhiệm Ủy ban Xây dựng cơ bản Nhà nước. Ông còn là Ủy viên thường vụ, Bí thư Đảng đoàn Hội Kiến trúc sư Việt Nam, Tổng biên tập Tạp chí Kiến trúc và tham gia giảng dạy tại các trường ĐH Kiến trúc, ĐH Xây dựng. Ông cũng đã tham gia chỉ đạo thiết kế nhiều công trình lớn tiêu biểu như Quy hoạch Khu trung tâm Hà Nội, Trụ sở Quốc hội và có nhiều công trình nghiên cứu về lý luận kiến trúc như tính dân tộc trong kiến trúc, về thiết kế và quản lý đô thị nông thôn. Ông cũng tham gia giảng dạy tại các trường đại học. Năm 1984, ông được Nhà nước Việt Nam phong hàm Giáo sư. Là một trong số ít các tác giả đi sâu nghiên cứu về lịch sử kiến trúc Việt Nam, ông đã cho xuất bản nhiều tác phẩm về lý luận kiến trúc Việt Nam, đặc biệt là tác phẩm Lịch sử kiến trúc Việt Nam, được giới khoa học xã hội và kiến trúc đánh giá cao, là cuốn sách gối đầu giường của sinh viên các trường kiến trúc. Với tác phẩm này, ông đã được Nhà nước Việt Nam trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật. Ông mất vào ngày 6/6/2003 tại Hà Nội, không lâu sau sinh nhật 83 tuổi. Hiện nay, tên của ông được đặt cho một tuyến phố ở quận Long Biên, thành phố Hà Nội, nằm trong khu đô thị Việt Hưng. Gia đình Chú thích Liên kết ngoài Vĩnh biệt kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh Hồi ức người thiết kế Lễ đài Độc lập Kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh Kiến trúc sư Việt Nam Nhà báo Việt Nam Nhà giáo Việt Nam Giải thưởng Nhà nước
27844
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n%20M%E1%BA%A1nh%20T%C6%B0%E1%BB%9Dng%20%28lu%E1%BA%ADt%20s%C6%B0%29
Nguyễn Mạnh Tường (luật sư)
Nguyễn Mạnh Tường (1909 – 1997) là một luật sư, nhà giáo dục, nhà nghiên cứu văn học Việt Nam. Năm 23 tuổi (1932) ông đỗ liên tiếp hai bằng Tiến sĩ tại Pháp, được khen ngợi là một tài năng hiếm có. Thân thế và sự nghiệp Nguyễn Mạnh Tường sinh ngày 16 tháng 9 năm 1909 tại phố Hàng Đào, Hà Nội, nhưng quê quán ông lại là làng Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm, Hà nội. Cha ông là Nguyễn Căn Cát, công chức. Đi học, đỗ hai bằng Tiến sĩ ở Pháp Ông học tiếng Pháp từ nhỏ, trước học trường Paul Bert, sau học Trường Albert Sarraut, Hà Nội. Năm 1926, ông đỗ Tú tài triết học (16 tuổi), hạng ưu, được học bổng sang Pháp học Luật và Văn chương tại Trường đại học Tổng hợp Montpellier (1927). Năm 1929, ông đỗ Cử nhân văn chương, và năm sau đỗ Cử nhân Luật (1930). Tiếp theo, ông dự định thi tuyển Thạc sĩ (concours d'Agrégé) để dạy học, nhưng vì quốc tịch Việt Nam nên không được thi. Sau đó, ông sửa soạn làm luận án Tiến sĩ quốc gia (doctorat d'état). Trong thời gian làm luận án, ông thực tập luật sư tại toà Phúc thẩm Montpellier. Tháng 5 năm 1932, ông bảo vệ luận án Tiến sĩ Luật, với luận án chính: L'Individu dans la vieille cité annamite (Cá nhân trong xã hội Việt Nam cổ) và luận án bổ túc: Essai de synthèse sur le Code de Lê (Tổng luận về luật đời Lê). Tháng 6 năm 1932, ông bảo vệ luận án tiến sĩ văn chương với luận án chính: Essai sur la valeur dramatique du théâtre d'Alfred de Musset (Giá trị bi kịch trong tuồng của A. Musset) và luận án bổ túc: L'Annam dans la littérature française, Jules Boissières (Việt Nam trong các tác phẩm của Jules Boissières. Ca ngợi thành tựu kiệt xuất này, ngày 29 tháng 5 năm 1932, nhật báo Le petit Meridional xuất bản ở thành phố Montpellier đã đăng bài diễn văn của Chủ tịch Hội đồng giám khảo trường Đại học của thành phố, nhận xét về luận án của một nghiên cứu sinh Việt Nam, trong đó có câu mang tính ngoại lệ: "Luận văn của Ngài quả là một tác phẩm pháp lý, hơn nữa còn là một tác phẩm pháp lý và văn học. Nền tảng của tác phẩm thật là vững vàng và không hề có một lời chỉ trích nào. Cả hình thức cũng thật xán lạn... Công trình nghiên cứu của Ngài thực sự là một tác phẩm văn học hoàn chỉnh".... Sau này, trong Từ điển văn học (bộ mới), GS. Nguyễn Huệ Chi cũng đã viết rằng: "Việc ông đỗ hai bằng Tiến sĩ trong cùng một năm được báo chí Pháp lúc bấy giờ rất ca ngợi, vì ngay đến người Pháp kể từ khi có học vị này cũng chưa một ai mới ở tuổi 23 đã giật được "lưỡng khoa Tiến sĩ". Tháng 9 năm 1932, ông về nước nhưng không nhận một chức vụ gì của chính quyền thuộc địa, vì vậy nên họ tìm cách gây khó khăn cho ông. Ở nhà được khoảng ba tháng, ông trở lại Pháp. Mấy năm sau đó, ông đi du lịch và nghiên cứu các nước châu Âu: Tây Ban Nha, Ý, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Ai Cập,...Trong khoảng thời gian này ông viết được bốn cuốn sách bằng tiếng Pháp. Về nước, hoạt động Từ 1936 đến 1954 Năm 1936, về nước, Nguyễn Mạnh Tường dạy văn chương Pháp ở trường Bảo hộ (Lycée du Prétectorat, tức trường Bưởi, sau này là Chu Văn An) và trường Cao đẳng Công Chánh ((École Supérieure des Travaux Publics). Theo lời ông kể thì đây "là quãng một thời gian hạnh phúc của đời tôi". Ngoài ra, theo Thụy Khuê, trong khoảng thời gian này, ông học thêm chữ nho và văn chương cổ điển Việt, tham gia phác họa cuốn Việt Nam Văn Phạm (với nhóm Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim), hợp tác làm Việt Nam tự điển (với nhóm Khai Trí Tiến Đức), và còn làm phụ tá cho Thị trưởng Hà Nội. Sau Cách mạng tháng Tám (1945), Trường Đại học Văn Khoa được thành lập, ông được cử dạy Khoa Văn chương Phương Tây. Tháng 4 năm 1946, ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh cử vào phái đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa dự Hội nghị trù bị Đà Lạt. Kết thúc Hội nghị, trở lại Hà Nội, bỗng râm ran tin đồn là ông "phản bội". Luật sư Nguyễn Mạnh Tường kể: "Sau Hội nghị, D’Argenlieu có tổ chức tiệc trà tiễn đoàn. Một sĩ quan hầu cận Pháp đến nói: Thủy Sư Đô đốc muốn gặp riêng Ngài. Tôi nói: Tôi chưa hân hạnh được quen biết Ngài Thủy Sư Đô đốc. Có anh em nói: Nó mời thì anh cứ đi, tôi đi xuyên qua phòng họp, đông khoảng một trăm người, đến gặp nó, chỉ toàn nói chuyện xã giao vớ vẩn. Thế mà khi về Hà Nội, có dư luận nói: "Tường là tay trong của Pháp, Tường phản quốc". Hoàng Xuân Hãn tức, đến gặp Võ Nguyên Giáp, dư luận mới được dập tắt." Năm 1946, ông đang biện hộ cho thân chủ ở Hải Phòng thì toàn quốc kháng chiến bùng nổ. Sau đó, ông lên Việt khu Việt Bắc, rồi vào Liên khu III và IV, được cử làm Luật sư tại các Tòa án quân sự, Tòa án đại hình và là thành viên Ban Giám đốc Trường dự bị đại học. Năm 1951 ông tham gia Đảng Xã hội Việt Nam. Năm 1952, ông được cử đi dự Hội nghị bảo vệ Hòa Bình châu Á – Thái Bình Dương ở Bắc Kinh (Trung Quốc). Ba tháng sau đi dự Đại hội Hòa Bình Thế giới ở Vienne (Áo). Ngày 7 tháng 5 năm 1954, Chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi, ông về lại Hà Nội, tiếp quản trường Đại học Luật và Đại học Sư phạm, rồi được cử làm Giám đốc Đại học Luật, Phó Giám đốc Đại học Sư Phạm, và được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Luật sư Hà Nội. Cũng trong khoảng thời gian này, ông được phong Giáo sư, và tham gia giảng dạy tại các Trường đại học Văn khoa, Sư phạm, Tổng hợp Hà Nội.... Từ 1954 đến khi mất Vào những năm 1953-1956, miền Bắc Việt Nam tiến hành Cải cách ruộng đất. Theo ông, kể từ "1957 là thời kỳ đen tối của cuộc đời tôi". Luật sư Nguyễn Mạnh Tường kể: "Ở Hội nghị của Mặt trận Tổ Quốc, họp ở Hà Nội ngày 30 tháng 10 năm 1956, sau khi ông Trường Chinh, thay mặt Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam), tự phê bình về các sai lầm đã phạm trong Cải cách ruộng đất, tôi đọc bản tham luận Qua những sai lầm trong Cải cách ruộng đất, xây dựng quan điểm lãnh đạo. Từ góc độ một người hoạt động trong lĩnh vực luật pháp, tôi nói đến một chế độ pháp trị chân chính, một chế độ dân chủ thực sự."Đi Hội nghị về, Nguyễn Hữu Đang đến phỏng vấn, rồi viết bài đăng lên báo Nhân văn (của Phong trào Nhân Văn - Giai Phẩm). Tôi như thành một người "phạm pháp quả tang", bị sa thải khỏi Đại học và không được hành nghề Luật sư nữa. Từ 1957 là thời kỳ đen tối của cuộc đời tôi. Tuy vậy, tôi đã lợi dụng thời gian rảnh rỗi này để viết sách, trong đó có cuốn Lý luận giáo dục châu Âu từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, tôi cố ý viết bằng tiếng Việt để lãnh đạo có thể đọc được".... Sau vụ Nhân văn Giai phẩm, ông được chuyển sang làm chuyên viên nghiên cứu văn học nước ngoài tại Viện nghiên cứu phương pháp và chương trình giáo dục thuộc Bộ Giáo dục, và là cộng tác viên của nhà xuất bản Giáo dục. Năm 1989, ông được phép sang Pháp, và lưu lại ở đó 4 tháng. Tại đây, ông cho xuất bản cuốn hồi ký bằng tiếng Pháp Un Excommunié (Một người bị rút phép thông công) viết về những điều trải nghiệm trong những năm ông đã sống và viết kể từ sau 1945 . Ngày 13 tháng 6 năm 1997, Luật sư Nguyễn Mạnh Tường qua đời vì tuổi già tại nhà số 34 phố Tăng Bạt Hổ, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, thọ 88 tuổi. Quan điểm Trong hồi ký của mình “Kẻ bị mất phép thông công” xuất bản tại Pháp năm 1992, Nguyễn Mạnh Tường đã viết về giai đoạn ông tham gia chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của ông Hồ Chí Minh sau năm 1954: Tác phẩm Theo thống kê chưa đầy đủ, Luật sư Nguyễn Mạnh Tường đã để lại một số tác phẩm sau: Tiếng Pháp Trừ bản dịch Orestia'', số còn lại đều do ông soạn (4 tác phẩm đầu là Luận án Tiến sĩ): L'Individu dans la vieille cité annamite (Cá nhân trong xã hội Việt Nam thời cổ). Essai de synthèse sur le Code de Lê (Tổng luận về luật đời Lê). Essai sur la valeur dramatique du théâtre d'Alfred de Musset (Giá trị bi kịch trong tuồng của A. Musset). L'Annam dans la littérature française, Jules Boissières (Việt Nam trong văn chương Pháp, tác phẩm của Jules Boissières). Sourires et larmes d'une jeunesse (Nụ cười và nước mắt tuổi trẻ), Revue Indochinoise, Hà Nội, 1937. Construction de l'Orient-Pierres de France (Xây dựng Đông phương-Nền tảng Pháp), Revue Indochinoise, 1937. Construction de l'Orient - Apprentissage de la Méditerranée (Xây dựng Đông phương-Kinh nghiệm Địa Trung Hải), Collection Tendances, Hà Nội, 1939. Le voyage et le sentiment (Du hành và cảm xúc), kịch ba màn, Collection Tendances, Hà Nội, 1943. Một cuộc hành trình, Minh Đức, Hà Nội, 1954. Un princesse née dans une chaumière (Nàng công chúa sinh ra trong túp lều tranh), tiểu thuyết, 1978, chưa in. Larmes et sourires d'une vieillesse (Nụ cười và nước mắt tuổi già), tự truyện, ba cuốn, chưa in. Triptyque (Bức họa ba tấm), chưa in. Un excommunié (Kẻ bị khai trừ, hay là Một người bị rút phép thông công), Quê Mẹ, Paris, 1992. Malgré lui, malgré elle (Mặc hắn, mặc nàng), chưa in. Partir, est ce mourir? (Đi là chết?), chưa in. Une voix dans la nuit (Tiếng vọng trong đêm), tiểu thuyết về Việt Nam từ 1950 đến 1990, chưa in. Palinodies (Phủ nhận), chưa in. Lý luận giáo dục của châu Âu từ thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XVIII (Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà nội, 1994, Nhà xuất bản Giáo dục tái bản, 1995),... Tiếng Việt Lý luận giáo dục Âu châu thế kỷ XVI, XVII, XVIII, từ Erasme tới Rousseau (tên Pháp: Doctrines pédagogiques de l'Europe du XVI au XVIIIe siècle, d'Erasme à Rousseau), Nhà xuất bản Khoa Học Xã hội, Hà Nội, 1994. Eschyle và bi kịch cổ đại Hy Lạp (tên Pháp: Eschyle et la tragédie grecque), Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1996. Oresteia, bộ ba vở kịch cổ đại Hy Lạp (dịch, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1997). Virgile và anh hùng ca La tinh (tên Pháp: Virgile et l'épopée latine), Nhà xuất bản Khoa Học Xã hội, 1996... Gia đình Năm 1937, luật sư Nguyễn Mạnh Tường kết hôn với bà Tống Lệ Dung, và sau đó có ba con (một trai, hai gái): Nguyễn Tường Hưng, Nguyễn Dung Nghi và Nguyễn Dung Trang. Chú thích Liên kết ngoài Thầy tôi, GS. Nguyễn Mạnh Tường… Trò chuyện với Thụy Khuê, tác giả ‘Nhân văn Giai phẩm và Vấn đề Nguyễn Ái Quốc’ 26 tháng 5 năm 2012 Người Hà Nội Nhà giáo trường Bưởi Nhà giáo Việt Nam Tiến sĩ Luật Việt Nam Tiến sĩ Văn chương Việt Nam Luật sư Việt Nam Trung học phổ thông Chu Văn An (Hà Nội) Cựu giảng viên Đại học Quốc gia Hà Nội Cựu giảng viên Đại học Sư phạm Hà Nội Phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm Đảng Xã hội Việt Nam
27851
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C6%B0%E1%BB%9Dng%20ph%C3%A1i%20ki%E1%BA%BFn%20tr%C3%BAc
Trường phái kiến trúc
Trường phái kiến trúc được hình thành dựa trên sự phân loại về công trình kiến trúc bằng các đặc điểm hình thái học ở hình thức, kĩ thuật xây dựng, vật liệu sử dụng trong lịch sử kiến trúc. Các trường phái hoặc khuynh hướng kiến trúc trong lịch sử Tham khảo Thiết kế kiến trúc Lịch sử kiến trúc pl:Style architektoniczne
27853
https://vi.wikipedia.org/wiki/Archigram
Archigram
Archigram là một nhóm các kiến trúc sư tiên phong trong thập niên 1960, đóng trụ sở tại London và cũng là tên của tờ báo mà nhóm xuất bản. Chữ Archigram xuất phát từ 2 chữ Architecture (kiến trúc) và Telegram (điện báo) Đây là một nhóm các kiến trúc sư theo chủ nghĩa tương lai, và ủng hộ tiêu thụ, với các bản vẽ được gợi cảm hứng từ kĩ thuật và văn hóa đại chúng (Pop-culture) với tham vọng tạo ra một hình ảnh về xã hội mới. Tuy nhiên các đồ án của họ chỉ dừng lại ở mức các đề xuất lý thuyết. Phong cách kiến trúc của nhóm chịu ảnh hưởng của Antonio Sant'Elia; Buckminster Fuller cũng là người có dấu ấn quan trọng cho nhóm. Các thành viên trụ cột của nhóm gồm có Peter Cook, Warren Chalk, Ron Herron, Dennis Crompton, Michael Webb và David Greene. Tuyên ngôn của nhóm được David Greene chấp bút năm 1961 có đoạn: "Một thế hệ mới của kiến trúc phải khởi phát từ hình thức và không gian những yếu tố sẽ lật đổ những quy tắc giáo điều của chủ nghĩa Hiện đại, mặc dù vẫn lưu giữ những quy tắc đó. Chúng tôi đã chọn cách vượt qua những hình ảnh cũ nát của Bauhaus, một sự châm chọc của những người theo chủ nghĩa công năng. Bạn có thể dát mỏng thép, với bất kì chiều dài nào, bạn có thể thổi một quả bóng bay, với bất kì kích cỡ nào. Bạn có thể đúc tạo hình, bất kì hình dạng nào" và gọi đó là "thông điệp của sự giao tiếp trừu tượng" Xuất bản lần đầu năm 1961 trên báo khổ to với loại giấy rẻ tiền nhất, kín đặc các vần thơ của Greene, các bản vẽ về các đồ án của Cook, Michael ‘Spider’ Webb và bạn bè, các thành viên của nhóm thể hiện sự thất vọng của mình trước sự bảo thủ về tri thức của kiến trúc Anh lúc bấy giờ. Đó là một thời điểm sôi động trong lịch sử thế kỉ 20 với sự phát triển của khoa học kỹ thuật cũng như khoa học xã hội. Từ việc nhà du hành vũ trụ Liên Xô là Yuri Gagarin là người đầu tiên bay vào vũ trụ cho đến việc Mỹ phóng thành công vệ tinh dự báo thời tiết ở mũi Canaveral: từ việc phát minh ra máy photocopy, việc sử dụng tia laze trong kỹ thuật đến phát minh ra thuốc tránh thai hoặc ám ảnh về một cuộc đại chiến thế giới lần 3 giữa hai ý thức hệ chủ nghĩa Cộng sản và chủ nghĩa Tư bản trong chiến tranh lạnh... một giai đoạn đầy sôi động của xã hội loài người. Tuy nhiên, nền kiến trúc Anh, với phong cách ngạo nghễ và lạnh lùng vốn dĩ, lại đứng ngoài cuộc chơi. Các mốc thời gian 1961 - Peter Cooke, David Greene và Michael Webb ra mắt tờ Archigram coi đó như một phương tiện "giao tiếp tức thời" 1962 - Họ mời các kiến trúc sư có chung ý tưởng tham dự số báo thứ 2, trong số đó có Warren Chalk, Dennis Crompton và Ron Herron, cả ba cùng làm việc ở Hội đồng thành phố London. 1963 - Nhóm được mời tham dự tổ chức triển lãm "Thành phố Sống" (Living City) ở Học viện nghệ thuật đương đại (Institute of Contemporary Arts) London 1964 - Đồ án "Thành phố Sống" được xuất bản trên số thứ ba của tạp chí Archigram, đồ án Thành phố Cài cắm (Plug-in-City) của Peter Cook trong số thứ 4, và đồ án Thành phố Đi bộ (Walking City) của Ron Herron trong số thứ 5. 1965 - Peter Cook phát triển phương án Đại học Cài-cắm (Plugin University) như một phần mở rộng của Thành phố Cài cắm. Đồng thời nhóm thí nghiệm phương án "Vỏ nhộng cho quá trình sống" của Ron Herron và "Nhà đệm" của Warren Chalk. 1966 - David Greene thiết kế "Bầu sống" (the Living Pod) cho Vỏ nhộng và phương án "Nền tảng nhà bếp di cộng" (the Cushicle mobile environment) của Michael Webb. 1967 - Tờ Tin tức hàng ngày (The Daily Telegraph) mời Archigram tham dự cuộc thi "Nhà ở cho những năm 1990" sẽ được trưng bày ở Harrods. Đồ án bao gồm tường, sàn và trần di động, và các đồ gia dụng như bàn ghế giường bơm hơi. Michael Webb thiết kế bộ đồ án "Nhà có thể mặc"(the Suitaloon wearable ‘house’). 1968 - Đồ án "Thành phố trong Khoảnh khắc" (The Instant City) được quỹ Gaham, thành phố Chicago tài trợ, phát triển thành ý tưởng khí cầu "thành phố Du lịch" (travelling city airship) cho các nguồn giáo dục và giải trí của một đô thị lớn. 1969 - Archigram chiến thắng trong cuộc thi thiết kế trung tâm giải trí ở Monte-Carlo và mở một xưởng thực hành. 1972 - Dennis Crompton và Ron Herron thiết kế bể bơi cho ca sĩ Rod Stewart và một sân chơi cho trẻ em ở Milton Keynes. 1973 - Crompton and Herron thiết kế triển lãm "Malaysia trong khoảnh khắc" ở Học viện Cộng đồng thịnh vượng chung (Commonwealth Institute), London. 1974 - Văn phòng Archigram đóng cửa Các đồ án điển hình Thành phố Sống (Living City) Đồ án Thành phố Cài cắm (Plug-in-City) Đây là một đồ án siêu cấu trúc không bao gồm một công trình nào cả mà đó là một hệ khung để chèn các căn hộ hoặc các bộ phận được tiêu chuẩn hóa. Hệ giao thông hoàn toàn được xử lý bằng các thang máy nối giữa các nút. Đây được xem như một bộ máy mà con người là các "nguyên liệu thô" được xử lý. Đồ án Thành phố Đi bộ (Walking-City) Tham khảo Cook, P. Archigram, Princeton Architectural Press, 1999 Crompton, D. Concerning Archigram, Archigram Archives, 1999 Herron, R. và Crompton, D. Archigram: Architecture Now, St Martins Press, 1980 Richardson, S. Peter Cook: Beyond Archigram: A Bibiliography, Vance Bibiliographies, 1999 Liên kết ngoài Tranh chính thức của nhóm Kiến trúc Anh Trường phái Không tưởng
27859
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mikhail%20Nikolayevich%20Tukhachevsky
Mikhail Nikolayevich Tukhachevsky
Mikhail Nikolayevich Tukhachevsky (tiếng Nga: Михаи́л Никола́евич Тухаче́вский) (16 tháng 2, 1893 – 12 tháng 6, 1937) là một chỉ huy Hồng quân, Tổng Tham mưu trưởng Hồng quân giai đoạn 1925-1928, Nguyên soái Liên Xô từ năm 1935. Ông có công lớn trong việc chuyển đổi Hồng quân từ một đội quân bán chính quy sau cuộc Nội chiến Nga thành một quân đội hiện đại ở thời gian giữa thập kỷ 1930. Là một nhà lý luận quân sự, Tukhachevsky đã đưa ra lập luận biện chứng Vũ khí mới quyết định hình thức mới của chiến tranh làm cơ sở tiên đoán bức tranh chiến trường, từ đó khai sinh học thuyết quân sự "Tác chiến chiều sâu" và giới thiệu khái niệm nghệ thuật chiến dịch bắc cầu giữa hai cấp độ chiến lược và chiến thuật. Qua thực tiễn ứng dụng trong chiến tranh ở các quân đội lớn trên thế giới, khái niệm này đã được xem là một đóng góp quan trọng cho nền khoa học quân sự hiện đại. Trong cuộc Đại thanh trừng trong nội bộ Hồng quân do Stalin đứng đầu thời kỳ 1937-1941, ông là một trong những phạm nhân có chức vụ cao nhất. Năm 1957, sau cái chết của Stalin, vụ án của ông được lật lại điều tra và được kết luận là không đủ chứng cứ buộc tội. Tukhachevsky được phục hồi danh dự. Xuất thân và bắt đầu binh nghiệp Xuất thân và giáo dục Mikhail Nikolayevich Tukhachevsky sinh ngày 16 tháng 2 năm 1893 tại điền trang Alexandrovskoye nay thuộc tỉnh Smolensk trong một gia đình quý tộc gồm 9 chị em. Bà nội của ông vốn lớn lên trong nền giáo dục Pháp đảm nhận việc dạy dỗ các cháu, nên các chị em ông lớn lên đều nói hai thứ tiếng. Từ lúc nhỏ, ngoài năng khiếu văn học và âm nhạc, Tukhachevsky còn đam mê lịch sử quân sự và chịu ảnh hưởng của Napoléon Bonaparte. Do ảnh hưởng này, nên ở trường Tukhachevsky được nhận xét là "người thích tự do, dám coi thường Đức Chúa", mặc dù luôn xuất sắc trong các môn thể thao. Năm 1909, gia đình ông dời đến Moskva và hai năm sau Tukhachevsky đã tốt nghiệp trung học hạng ưu ở đây. Do gia đình không đủ tiền chu cấp cho việc học đại học, nên ông lựa chọn binh nghiệp ở Trường Thiếu sinh quân Moskva số 1. Năm 1912, với giấy chứng nhận Thiếu sinh quân, ông được nhận vào Trường Võ bị Aleksandrovskoye vốn dành cho con em quý tộc. Trong thời gian học ở đây, một thầy dạy gần gũi của ông, vốn là một cựu binh của chiến tranh Nga - Nhật, đã gieo vào ông tình cảm tổn thương của Quân đội Nga thất trận. Đây là một động lực quan trọng khiến ông đạt kết quả tốt nghiệp xuất sắc nhất trong lịch sử của trường 2 năm sau. Bắt đầu binh nghiệp Với kết quả đó, Tukhachevsky lựa chọn gia nhập Trung đoàn Cận vệ Semyenovsky, vốn là một đơn vị danh dự của Sa hoàng. Hai tuần sau, trung đoàn của ông được đưa đến mặt trận Đông Phổ. Chỉ trong thời gian vài tháng ở mặt trận, ông đã được thưởng huân chương 8 lần, trong đó có cả những huân chương danh giá như Huân chương Thánh Vladimir, Huân chương Thánh Anne và Huân chương Thánh Stanislaus. Ở một trận đánh vào tháng 2 năm 1915, ông bị thương và trở thành tù binh của Quân đội Đức. Sau 5 lần vượt ngục bất thành, ông bị coi là tù binh "ngoan cố", bị chuyển đến một trại giam ở pháo đài Ingolstadt. Ông kể lại với bạn bè về thời gian này rằng khi đọc được tin Cách mạng (dân chủ tư sản) đến và Quân đội sụp đổ qua báo Đức, tôi đã vào toilet, xé nhỏ tờ báo và khóc..... Một người bạn của ông cũng thuật lại suy nghĩ của ông lúc đó "nếu Lenin có thể cứu nước Nga... phá vỡ định kiến cũ, biến nước Nga thành một nước tự do, hùng mạnh, thì tôi chọn Lenin". Khoảng tháng 10 năm 1917, M. N. Tukhachevsky trở lại Nga. Tuy nhiên, lúc này thì không còn Quân đội Đế quốc Nga để ông phục vụ nữa. Nhà chỉ huy Hồng quân Giai đoạn Nội chiến Sau khoảng nửa năm ở nhà, ông tìm gặp Trotsky lúc này là Dân uỷ Quốc phòng và quyết định gia nhập Đảng Bolshevik. Ngay trong thời gian đầu tham gia Nội chiến, ông đã thể hiện năng lực tổ chức khi hoàn thành tốt nhiệm vụ xây dựng khu vực phòng thủ Moskva. Không lâu sau đó, khi được tín nhiệm cử đến Phương diện quân Đông đang thất bại trước quân Bạch vệ của Đô đốc Aleksandr Kolchak, ông đã gom các nhóm tàn quân lại thành Tập đoàn quân Cách mạng số 1 và ổn định mặt trận, từ đó, ông được cử nắm Tập đoàn quân số 5 - một đơn vị mạnh dưới quyền của Mikhail V. Frunze - một chỉ huy được kính trọng của Hồng quân. Trong thời gian chưa đầy 1 năm ở cấp Tư lệnh Tập đoàn quân, ông đã được gọi là "Bornapate Đỏ" khi các cuộc tấn công của ông luôn mang ý đồ đe doạ thọc sườn uy hiếp bao vây đối phương, được chỉ huy với phong cách "dứt khoát và nhanh nhạy trong hành động, chính xác trong lựa chọn hướng tấn công, khôn khéo trong điều chuyển và tập trung quân chiếm ưu thế ở hướng chính". Tháng 8 năm 1919, sau những chiến dịch thành công ở Siberia, ông được trao Huân chương Cờ đỏ - Huân chương cao nhất của Hồng quân lúc đó. Tháng 2 năm 1920, Tukhachevsky được bổ nhiệm Tư lệnh Phương diện quân Kavkaz chống lại quân đội của tướng Anton Denikin. Ở đây, ông phát triển chiến thuật sử dụng lực lượng xung kích mở cửa đột phá để tung kỵ binh qua cửa mở phát huy chiến quả. Với những chiến dịch táo bạo mà được biết đến nhiều nhất là Kuban-Novorossiisk, ông đã đánh bại đội quân tình nguyện của Denikin, giải phóng khu vực Bắc Kavkaz. Giai đoạn chiến tranh Nga - Ba Lan Nhờ thành tích ở cuộc Nội chiến, vào tháng 5 năm 1920 Tukhachevsky được tín nhiệm đề bạt làm Tư lệnh Phương diện quân Tây ở hướng chiến lược chống lại Quân đội Ba Lan. Lúc này, Quân đội Ba Lan dưới sự chỉ huy của Nguyên soái Józef Piłsudski đang nắm một phần lớn Byelorussia ở phía Bắc và đã chiếm được Kiev - thủ đô của Ukraina ở phía Nam. Cuối tháng 5, Phương diện quân Tây của Tukhachevsky và Phương diện quân Tây Nam phản công chặn đứng đà tiến của Quân đội Ba Lan và chuẩn bị cho một cuộc tổng tấn công. Đầu tháng 7, Tukhachevsky tung ra cuộc tấn công theo cách đặc trưng của mình: Một cánh quân kỵ binh vòng phía Bắc sát biên giới Latvia, qua Đông Phổ cắt vào sườn đối phương, còn các Tập đoàn quân bộ binh tập trung vào chính diện dọc trục Smolensk–Brest-Litov. Chiến dịch mở màn thành công khi Quân đội Ba Lan sụp đổ và bị bức rút trên toàn mặt trận. Với kết quả vượt mong đợi, Tukhachevsky thúc quân vượt sông Wisla phát huy chiến quả bất chấp lực lượng mỏi mệt và đường hậu cần đã bị kéo căng. Để thực hiện cuộc tấn công vào Warszawa, Tukhachevsky yêu cầu Phương diện quân Tây Nam tấn công Lublin để che sườn trái cho Phương diện quân Tây, rồi phát triển đến Nam Warszawa hợp vây với Phương diện quân Tây từ phía Bắc thành phố. Lev Kamenev, Chủ tịch Hội đồng Quân uỷ - chấp thuận, ra lệnh điều chuyển Tập đoàn quân Kỵ binh số 1 của Budyonny sang cho Phương diện quân Tây. Tuy nhiên, với sự đồng ý của Stalin - lúc này là Chính uỷ của Phương diện quân Tây Nam, Budyonny kháng lệnh, tiếp tục tiến đánh L'vov. Ngày 14 tháng 8, Józef Piłsudski tung ra cuộc phản công: cánh phía Bắc từ pháo đài Modlin, cánh chủ công phía Nam Warszawa đi vào kẽ hở giữa 2 PQD Hồng quân hướng lên phía Bắc thọc vào sườn trái của Phương diện quân Tây. Chỉ sau 3 ngày, Quân đội Ba Lan đã hợp vây thành công, tiêu diệt chủ lực của PQD Tây trước khi Tukhachevsky kịp lui quân. Chiến dịch thất bại này đã trở thành một cột mốc đặc biệt trong cuộc đời của Tukhachevky: nó vừa được rút tỉa để khởi đầu cho những tư tưởng mới về chiến tranh của ông, lại vừa là nguồn gốc của những mâu thuẫn có quan hệ đến cái chết của ông về sau. Trấn áp các cuộc nổi dậy Trong năm 1921, Phương diện quân Tây của Tukhachevsky tiếp tục được giao nhiệm vụ trấn áp các cuộc nổi dậy, mà trong đó nổi bật là cuộc nổi dậy Kronstadt vào tháng 3 và cuộc nổi dậy của nông dân Tambov vào tháng 5. Điểm chung trong cả hai cuộc trấn áp này là những biện pháp không khoan nhượng để chống lại các thủy thủ, công nhân và nông dân. Đặc biệt, ở cuộc trấn áp Tambov, Quân lệnh ngày 12 tháng 6 năm 1921 do Tukhachevsky và V. Antonov-Ovseenko ký có đoạn: Nhà lý luận quân sự và cải cách quân đội Cá tính và khả năng gây ảnh hưởng Tukhachevky là một người lịch lãm. Ông thích nhạc Beethoven, sành rượu vang, chơi đàn và biết làm đàn violin. Trong số các văn nghệ sĩ, ông giao du thân mật với nhạc sĩ Dmitri Shostakovich và nhà văn Boris L. Pasternak, người được đề nghị trao giải thưởng Nobel Văn học 1958. Tuy nhiên, con người nghệ sĩ của ông thường được coi là mâu thuẫn với con người nghề nghiệp, khi ông sử dụng hơi độc để trấn áp cuộc nổi dậy Tambov, hay khi ông tấn công lý luận của A. Svechin khi ông này đang ở trong trại cưỡng bức lao động. Tác giả Shimon Naveh viết rằng một số đồng nghiệp mô tả ông là "một trí thức có sức lôi cuốn, có khiếu thẩm mỹ và nhạy cảm, một người có một đầu óc thông tuệ và sáng tạo, đam mê văn minh phương Tây", trong khi vài người khác nói về ông như là "một hoàng tử bóng tối chịu ảnh hưởng của Bonaparte, chống Chúa, bài Do Thái, cảm tình Quốc xã, lạnh lùng, một người Cộng sản thực dụng, một chiến binh Mông Cổ lãng mạn hiện thân của Thành Cát Tư Hãn". Cách nhìn này cũng được tác giả Richard Simpkin khẳng định "có người coi ông là một người thông minh theo chủ nghĩa lý tưởng, đạo đức tới mức nguyên tắc, nhưng cũng có người coi ông là một kẻ cơ hội, nhiều tham vọng, biết cách khôn khéo khai thác ý tưởng, con người lẫn sự kiện". Nhưng dù ông có được nhìn nhận mâu thuẫn thế nào đi nữa, thì có một điều được thừa nhận: cả trên khía cạnh con người lẫn tư tưởng, sức hút của ông đã khơi dậy tinh thần sáng tạo của cả một thế hệ sĩ quan - tướng lĩnh Hồng quân cùng thời. Các tác phẩm lý luận quân sự Năm 1921, Tukhachevky được giao nhiệm vụ Giám đốc Học viện Quân sự Bộ Tổng tham mưu, ông đã tập hợp một số tài năng quân sự vào Học viện để gây dựng bộ môn khoa học quân sự Xô Viết. Từ thời gian này trở đi, đặc biệt là lúc kế nhiệm Frunze ở chức vụ Tổng tham mưu trưởng trong giai đoạn 1925-1928, ông đã có trên 120 bài viết, tham luận và bài giảng. Trong số đó, có 12 tác phẩm thường được khảo cứu, bao gồm Chiến lược quốc gia và giai cấp (1920),Trận đánh sông Bugs (1924), Các vấn đề về chỉ huy cấp cao (1924), Các vấn đề về chiến lược đương thời (1925), Chiến thuật và chiến lược (1926), Chiến tranh với hình thức đấu tranh vũ trang (1928), Tác chiến và chiến dịch (1929), Giới thiệu ý tưởng cải cách tác chiến của J.F.C. Fuller (1931), Sự phát triển của vũ khí và hình thức tác chiến (1931), Những vấn đề mới của chiến tranh (1931-32), Sự phát triển các hình thức kiểm soát và chỉ huy mới (1934) và Điều lệ tác chiến mới của Hồng quân (1936). Tư tưởng nhất quán, xuyên suốt trong các tác phẩm của ông là lập luận về quan hệ biện chứng giữa các cặp phạm trù: trình độ kinh tế - bản chất của chiến tranh, bản chất chiến tranh - hình thức chiến tranh, hình thức chiến tranh - trình độ kỹ thuật của vũ khí, trình độ kỹ thuật của vũ khí - chiến thuật tác chiến. Những phạm trù này bao phủ cả ba cấp độ của khoa học quân sự, từ chiến lược, nghệ thuật chiến dịch cho đến chiến thuật, đồng thời mối quan hệ biện chứng giữa chúng cho phép tiên đoán một cách thuyết phục bức tranh cụ thể của chiến trường tương lai. Dựa trên bức tranh đó, ông phát triển các ý tưởng về vai trò của công nghệ, cách tiến hành các chiến dịch bằng lực lượng hợp thành, vai trò của kiểm soát và chỉ huy và thậm chí đến kỹ năng và tinh thần của mỗi người lính. Khai sinh "Tác chiến chiều sâu" Với tư cách là một bức tranh chiến thuật cụ thể trong đó "sử dụng mọi hỏa lực công kích đồng thời suốt chiều sâu mặt trận để cô lập, chia cắt và làm tê liệt đối phương trước khi đột phá, thực hành vận động sâu để bao vây tiêu diệt", thì học thuyết "Tác chiến chiều sâu" xuất hiện với hình hài đầy đủ vào năm 1929 dưới ngòi bút của V. Triandafillov. Tuy nhiên, với tư cách là một hạt giống tư tưởng, thì ý tưởng "công kích từ tung thâm" thay cho "bóc vỏ từng lớp" xuất hiện lần đầu trong tác phẩm "Những vấn đề về chỉ huy cấp cao" của ông vào năm 1924. Vì thế, Tukhachevsky thường được một số tác giả gán theo cách đơn giản là tác giả chính của học thuyết, mặc dù thực tế xảy ra hơi khác. Trong số lượng lớn các tác phẩm của mình, "Tác chiến chiều sâu" chỉ là một phần nhỏ trong bức tranh lớn hơn nhiều - Hình thức chiến tranh mới - như là một hệ quả tất yếu của sự phát triển của quy mô kinh tế và trình độ khoa học kỹ thuật. Chính luận điểm này của ông là khởi nguồn của "nghệ thuật chiến dịch" cũng như các chiến thuật mới. Với sức gây ảnh hưởng của ông, thì đây chính là hạt giống gieo thành một học thuyết hoàn chỉnh qua cảm hứng sáng tạo của cả một thế hệ các sĩ quan Hồng quân tài năng đương thời. Công cuộc hiện đại hoá Hồng quân Trong thời gian đầu sau Nội chiến, quan điểm phổ biến khi đó xem Hồng quân là quân đội của giai cấp công nông và cần duy trì dưới hình thức dân quân. Cho nên trong khoảng thời gian từ 1925 đến 1928, ở vị trí Tổng tham mưu trưởng, một mặt Tukhachevsky phải đấu tranh cho chủ trương chính quy hóa Hồng quân, một mặt phải nỗ lực vượt bậc để thực hiện công cuộc đó. Từ góc độ một nhà lý luận, Tukhachevsky nhìn nhận rằng cùng với sự tiến bộ của kỹ thuật và vũ khí, cuộc chiến tranh tương lai sẽ có bản chất và hình thức khác trước. Với xu thế tất yếu lúc bấy giờ, ông cho rằng Hồng quân không thể chỉ dừng lại ở chính quy hóa, mà còn phải được cơ giới hóa. Ở thời kỳ trước năm 1930, quan điểm này của ông bị các tướng kỵ binh cũ như Voroshilov và Budyonny phản đối, phần nào là nguyên nhân khiến đề xuất tái vũ trang Hồng quân ở quy mô lớn của ông bị bác bỏ vào năm 1928, bản thân ông bị huyền chức Tổng tham mưu trưởng sau đó. Nhưng ông không bị thụ động hoá: Ở vị trí Tư lệnh Quân khu Leningrad, ông tiếp tục tổ chức các đơn vị nhảy dù, dành thời gian cho các buổi tập trận cơ giới ở trường Karzan để hoàn chỉnh chiến thuật tác chiến cho 2 binh chủng này. Năm 1931, khi mối đe dọa đối với Liên Xô trở nên rõ ràng hơn, Stalin chấp thuận đề xuất của ông và bổ nhiệm ông vào vị trí Phó Dân ủy Quốc phòng kiêm Cục trưởng Cục Vũ khí và Trang bị. Ở vị trí này, theo lời tác giả Shimon Naveh thì "trí tưởng tượng của ông có thể được cảm thấy trong mọi ý tưởng kỹ thuật, từ phát triển cho đến sản xuất và sử dụng". Trong khoảng thời gian 1934-1935, các đơn vị cơ giới hóa của Hồng quân được trang bị các loại vũ khí và xe chiến đấu hiện đại nhất, cả về số lượng lẫn chất lượng, Không quân có các loại máy bay tiêm kích và ném bom tốt nhất, còn bộ binh hợp thành có pháo tự hành đầu tiên trên thế giới. Những thành quả đó khiến cho ảnh hưởng của ông ngày càng lớn trong Hồng quân, còn đối với các nước Phương Tây, ông trở thành một tâm điểm chú ý đặc biệt. Uy tín đó được thừa nhận khi ông trở thành người trẻ nhất (42 tuổi) trong số 5 vị tướng đầu tiên của Hồng quân được phong hàm Nguyên soái Liên bang Xô viết vào ngày 20 tháng 11 năm 1935. Tuy nhiên, những điều đó không giúp ông trở thành người tin cậy đối với Stalin. Vụ án Tukhachevsky Quan hệ với Stalin và Voroshilov Chiến dịch Wisla 1920 luôn là đầu mối bất hoà giữa Tukhachevsky và các tướng lĩnh thuộc Phương diện quân Tây Nam. Được nhuộm màu chính trị, cho đến cuối thập kỷ 20, quan điểm quy lỗi cho Tukhachevsky dần trở thành chính thống kể cả trong giới nghiên cứu ở Học viện Frunze. Thế nhưng Tukhachevsky không chịu để uy tín cầm quân của mình bị tổn hại, khiến chủ đề Wisla lan rộng trong các cuộc tranh luận và bị diễn dịch thành nguy cơ cho uy tín cá nhân của Stalin. Quan hệ giữa Tukhachevsky và Voroshilov không hề êm đẹp. Do Voroshilov là Chính uỷ Tập đoàn quân Kỵ binh số một trong thời gian chiến dịch Wisla, lại thiếu kiến thức căn bản về quân sự nên Tukhachevsky không hề né tránh khi vạch ra những sai sót của Voroshilov mỗi khi liên quan đến công việc. Còn về phía Voroshilov, theo lời của Zhukov là "rất ghét Tukhachevsky". Đây là lý do mà Voroshilov "không hề nhúc nhích ngón tay" khi Tukhachevsky bị bắt. Vụ án Tukhachevsky Lễ duyệt binh ngày 1 tháng 5 năm 1937 là lần cuối cùng Tukhachevsky xuất hiện trước quân đội. Trong cùng ngày, Tukhachevsky được thông báo là ông bị thay thế trong vai trò đại diện cho Chính phủ Liên Xô tham dự lễ tấn phong của Vua Anh George VI. Không lâu sau đó, ông bị miễn nhiệm ở vị trí Phó Dân ủy Quốc phòng và được điều tới chỉ huy Quân khu Volga. Ngày 22 tháng 5 năm 1937, ông bị bắt ở Saratov và bí mật chuyển về Moskva bằng xe tù. Ngày 2 tháng 6, trong một cuộc họp của 116 tướng lĩnh cao cấp của Hồng quân, Stalin lên tiếng về vụ bắt giữ là "không nghi ngờ gì nữa, một âm mưu quân sự - chính trị do bè lũ phát - xít Đức kích động và tài trợ chống lại Nhà nước Liên Xô đã xảy ra". Trong 3 tuần bị giam, theo các tài liệu được công bố trên tờ Pravda năm 1988, ông đã bị tra tấn, buộc phải nhận tội làm gián điệp cho Đức Quốc xã. Bản nhận tội của ông - được đăng trên cùng số báo - còn dính lấm tấm những vết máu có hình dạng bất thường, được xác minh là rơi ra từ một thân thể đang chuyển động, tức là ông đang cố gượng dậy khi bị đánh vào đầu vào thời điểm "thú tội". Bằng bản cung ép buộc đó, Tukhachevsky bị kết án tử hình cùng với 7 nhà lãnh đạo khác của Hồng quân trong phiên xử kín được biết dưới tên "Vụ án bè lũ phản cách mạng Trotskyist trong Hồng quân" vào ngày 11 tháng 6. Ông bị xử bắn ngay sau khi án được tuyên. Sau khi ông bị tử hình, con gái ông - Svetlana, lúc đó mới 12 tuổi - bị bắt đưa về trại mồ côi dành cho con em "kẻ thù của nhân dân" và đến 17 tuổi thì bị đưa vào trại GuLag. Vợ ông lẫn người vợ đã ly hôn trước đó đều bị bắt, bị kết án đày ở Siberia và sau đó đều bị bắn. Mẹ ông và các anh chị em ông đều bị bắt đi đày rồi chết trong thời gian bị đày hoặc bị xử tử trong khoảng vài năm sau đó. Tuy nhiên, Tukhachevsky chỉ là sự khởi đầu, vì trong 4 năm sau đó, 3/5 Nguyên soái, 14/16 Tư lệnh Tập đoàn quân, 60/87 Quân đoàn trưởng, 136/199 Sư đoàn trưởng, tổng cộng 40.000 sĩ quan Hồng quân lần lượt trở thành "kẻ thù của nhân dân" trong cuộc đại thanh trừng. Nguyên nhân của vụ án Trong thời gian Chiến tranh lạnh, một số nhà sử học đặt nghi vấn rằng các điệp viên Đức, dưới sự chỉ đạo của Heinrich Himmler và Reinhard Heydrich đã phát tán các tài liệu giả về mối quan hệ giữa M. N. Tukhachevsky với Bộ Tổng tham mưu Quân đội Đức Quốc xã để gieo rắc nghi ngờ ở Stalin, qua đó làm Hồng quân suy yếu. Theo giả thiết này, các tài liệu giả được chuyển cho tổng thống Tiệp Khắc Edvard Beneš, ông này tin tưởng vào giá trị của chúng và đã trao nó cho Stalin. Tuy nhiên, các tài liệu lưu trữ được công bố sau khi Liên Xô sụp đổ cho thấy rằng chính NKVD (НКВД СССР) đã đứng đằng sau kế hoạch này khi thông qua một điệp viên của mình chuyển thông tin giả cho Reinhard Heydrich, còn Reinhard Heydrich thì chớp cơ hội bịa ra những tài liệu đáng tin cậy hơn và chuyển trở lại cho các nguồn trung gian. Cũng theo nguồn tài liệu lưu trữ này được phân tích bởi sử gia Mỹ J. Arch Getty, thì Tukhachevsky được Stalin nhận định là không thuộc nhóm "Đảng trước, Quân đội sau" như Voroshilov và Budenny, trong khi chính sách của Stalin trong nửa sau năm 1937, là "tiêu diệt bất kỳ ai nghi ngờ có biểu hiện hoặc có tiềm năng là không trung thành với nhóm Stalin". Thái độ này của Stalin cũng được sử gia Otto Preston Chaney xác nhận khi cho rằng "một số nhân chứng trong cuộc khẳng định rằng kế hoạch buộc tội Tukhachevsky do NKVD chuẩn bị và thực hiện không thể không được Stalin thông qua". Phục hồi danh dự 20 năm sau Trong bản hồi ký tái bản năm 1991, Zhukov viết về bản án của Tukhachevsky là "sự lãng phí to lớn nhất của quân đội chúng ta và của cả chính quyền Xô Viết". Vì thế, sau khi Stalin mất và Khrushchev lên kế nhiệm, mở đầu cho phong trào bài trừ ảnh hưởng của Stalin thì cũng là lúc Zhukov và nhiều tướng lĩnh lên tiếng đòi phục hồi cho Tukhachevsky và các nạn nhân khác. Năm 1956, Viện Kiểm sát Quân sự Tối cao Liên Xô và Ủy ban An ninh Nhà nước trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô đã điều tra lại vụ án Tukhachevsky và các chỉ huy khác. Trong bản kết luận điều tra, Tổng Kiểm sát trưởng Viện Kiểm sát Quân sự Tối cao Liên Xô đã xác định: các lời khai và các bút lục tại Tòa án Tối cao Liên Xô ngày 11 tháng 6 năm 1937 đối với Tukhachevsky và các bị cáo khác trong vụ án là hoàn toàn không có cơ sở xác định hành vi phạm tội. Thông báo của Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô "Về việc xác minh những vụ án oan sai năm 1937 bởi các cơ quan tư pháp đối với Nikolayevich Tukhachevsky và các nhà lãnh đạo quân sự khác bị buộc tội phản quốc, khủng bố và âm mưu đảo chính quân sự", nêu rõ: Căn cứ vào đề xuất của Viện, Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô đã ra quyết nghị bác bỏ tội chống Đảng, phục hồi Đảng tịch cũng như mọi quyền lợi khác cho tất cả các bị cáo. Trong thập kỷ 1960-1970, các tác phẩm của ông lần lượt được tái bản, tên ông được đưa vào Bách khoa Toàn thư Xô viết ấn bản 1973. Trên các phương tiện thông tin đại chúng, ông được nhắc đến như là một Anh hùng thời Nội chiến và nhà cải cách Hồng quân. Ở thời kỳ thập kỷ 1970 trở đi, ở mỗi thành phố lớn đều có một con đường mang tên Tukhachevsky. Ông dần được trả về một vị trí xứng đáng trong lịch sử Xô Viết. Tuy nhiên, vị trí của ông trong sách giáo khoa của các trường quân sự trên thế giới thì không cần đến quyết định phục hồi. Di sản và đóng góp Đóng góp cho Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại Sau khi ông bị xử tử, các tác phẩm của ông bị cấm, còn những ý tưởng tác chiến của ông và các tác giả khác trong "Tác chiến chiều sâu" bị rơi vào bóng tối. Cuộc xâm lược bất ngờ của Đức Quốc xã tháng 6/1941 đặt Hồng quân trước nguy cơ bị tiêu diệt hoàn toàn trong 6 tháng đầu tiên. Dưới áp lực sinh tồn, Hồng quân phải tự tổ chức lại, và con đường đó không có gì khác hơn là từng bước quay trở lại với ý tưởng trước đó, mặc dù ông không hề được nhắc tên trong một văn bản chính thức nào. Bắt đầu từ cuối năm 1942, với các lực lượng xung kích, xe tăng thiết giáp được tổ chức lại, được chỉ huy bởi lớp tướng lĩnh thấm nhuần tư tưởng của ông đã thực hiện những chiến dịch thành công, xoay chuyển tình thế chiến tranh. Bắt đầu từ trận Stalingrad, rồi trận Kursk, Bagration, Wisla-Oder, học thuyết đã đóng vai trò như một la bàn đưa Hồng quân đến chiến thắng cuối cùng ở Berlin.. Và như lời của một học giả Phương Tây, thì "vòng vây Stalingrad, đai phòng ngự Kursk hay trận mưa đạn pháo ở Berlin đều là những trang sách xé ra từ các tác phẩm của ông". Đóng góp cho khoa học quân sự hiện đại Suốt 200 năm, Quân đội Hoa Kỳ chiến đấu với các khái niệm "chiến thuật" và "chiến lược" đã định hình: chiến thuật để thắng một trận đánh, chiến lược để thắng cuộc chiến tranh. Thất bại trong chiến tranh Việt Nam là một cú sốc lớn với họ khi mà "Quân đội Hoa Kỳ thắng trong tất cả các trận đánh, nhưng thua cuộc chiến tranh". Với một khoảng trống lớn ở giữa "chiến thuật" và "chiến lược", sự công nhận đối với Nghệ thuật chiến dịch - với tư cách là một phương pháp gom nhóm mục tiêu của các trận đánh riêng lẻ thành từng chiến dịch và kết hợp mục tiêu của các chiến dịch vào trong mục tiêu cuối cùng - đến như là một sự tất yếu trong giai đoạn 1976-1982. Cùng với sự công nhận giá trị của nghệ thuật chiến dịch ở giới lãnh đạo Quân đội Hoa Kỳ, thì các tác phẩm của Tukhachevsky được đào sâu nghiên cứu ở các trường quân sự của mọi quân đội lớn khác trên thế giới. Và trong thời kỳ phát triển nhanh chóng của công nghệ vũ khí, thì lập luận của Tukhachevsky "vũ khí mới quyết định hình thức chiến tranh mới" trở thành một quy tắc nền tảng để phát triển các bài bản chiến thuật mới. Những đóng góp này của Tukhachevsky chính là nguyên do mà một số nhà lý luận quân sự Phương Tây coi ông là nhà lý luận quân sự nổi bật nhất của thế kỷ 20. Chú thích Ghi chú Nguồn dẫn Tham khảo Barmine, Alexander. One Who Survived. Malinowski Press (ngày 15 tháng 3 năm 2007). ISBN 978-1406742077 Chaney, Otto Preston. Zhukov - Revised Edition. University of Oklahoma Press; Rev Sub edition, September 1996. ISBN 978-0806128078 Treffer, Gerd. Die Tuchatschewski-Saga (Tiếng Đức: "Nhà thông thái Tukhachevsky"). Rolf Kaufmann Druck und Verlag GmbH, Eichstätt 1990 Getty, J. Arch & Naumov, Oleg V. (Author). The Road to Terror: Stalin and the Self-Destruction of the Bolsheviks, 1932-1939. Yale University Press 2002. ISBN 978-0300094039 Harrison, Richard W. Architect of Soviet Victory in World War II: The Life and Theories of G.S. Isserson. McFarland Publisher, 2010, ISBN 978-0786448975. Lukes, Igor Czechoslovakia Between Stalin and Hitler: The Diplomacy of Edvard Beneš in the 1930s. Oxford University Press (1996), ISBN 9780195102673 McPadden, Christopher P. Mikhail Nikolayevich Tukhachevsky (1893–1937): Practitioner and Theorist of War. The Land Warfare Papers No. 56W AUGUST 2006 , published by The Institute of Land Warfare, Association of the United States Army. McGranahan, William J. The Fall and Rise of Marshal Tukhachevsky . Parameter Journal, Vol VIII, December 1978, pp. 62–72. ARMY WAR COLL CARLISLE BARRACKS PA McKercher, B. J. C., Hennessy, M. A. (biên tập) The operational art: developments in the theories of war. Praeger Publishers 1996. ISBN 978-0275953058 Paret P., Craig G., Gilbert F. (biên tập). Makers of Modern Strategy from Machiavelli to the Nuclear Age. Princeton University Press 1986. ISBN 9780691027647 Simpkin, Richard E. Deep battle: The brainchild of Marshal Tuchachevskii, Brassey's Defence Publishers, London, 1987, ISBN 9780080311937 Simon, Naveh bt bởi Shukman, Harold. Chương "Mikhail Nikolayevich Tukhachevsky" trong quyển Stalin's Generals. Phoenix Press 2002, ISBN 978-1842125137 Sokolov, B. V. Михаил Тухачевский: жизнь и смерть «Красного маршала» (M. N. Tukhachevsky: Cuộc sống và cái chết của "Nguyên soái Đỏ"). Nhà xuất bản Rusich, 1999. ISBN 5-88590-956-3 Bản tiếng Nga trực tuyến Sennikov, B.V. Тамбовское восстание 1918-1921 гг. и раскрестьянивание России 1929-1933гг. (Cuộc nổi loạn Tambov 1918-1921 và sự tàn sát nông dân 1929-1933). Nhà xuất bản Posev 2004, ISBN 5858241522 Bản tiếng Nga trực tuyến Liên kết ngoài Battle Of Warsaw 1920 by Witold Lawrynowicz. Polish Militaria Collectors Association. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2010. Bonaparte Đỏ Tukhachevsky ở Leningrad Nhà lý luận quân sự Liên Xô Nạn nhân Đại thanh trừng Quân nhân Nga Thế chiến thứ nhất Đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô
27873
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BB%A3%20phi%C3%AAn%20C%E1%BB%91c%20Ly
Chợ phiên Cốc Ly
Cốc Ly là một chợ vùng cao ở xã Cốc Ly thuộc huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai. Chợ Cốc Ly được họp vào mỗi thứ 3 hàng tuần. Tuy không phải là một chợ lớn nhưng Cốc Ly rất quan trọng đối với đồng bào dân tộc ở phía tây Bắc Hà. Đây là nơi họp mặt, trao đổi, mua bán của người Mông Hoa, người Dao khuyển (Dao Đen) và người Nùng. Hàng hóa bày bán ở chợ là các sản vật địa phương và đồ dùng được mang từ miền xuôi lên hoặc nhập từ Trung Quốc về. Nằm ngay cạnh cầu treo bắc qua sông Chảy, Cốc Ly còn là một điểm du lịch hấp dẫn. Du khách tới Cốc Ly sau khi thăm chợ có thế đi thuyền dọc sông, ghé thăm các bản người dân tộc hai bên bờ sông. Hình ảnh Xem thêm Lào Cai Fansipan Sa Pa Chợ Bắc Hà Tham khảo Chợ tại Lào Cai
27874
https://vi.wikipedia.org/wiki/Lyndon%20B.%20Johnson
Lyndon B. Johnson
Lyndon Baines Johnson hay còn gọi là LBJ (phát âm tiếng Anh: ; 27 tháng 8 năm 1908 – 22 tháng 1 năm 1973) là một chính trị gia người Mỹ. Ông là Tổng thống Hoa Kỳ thứ 36, tại vị trong giai đoạn 1963–1969. Trước đó, ông đảm nhiệm chức vụ Phó Tổng thống Hoa Kỳ thứ 37 trong giai đoạn 1961–1963. Ông là một trong bốn người duy nhất đắc cử bốn chức vụ liên bang: hạ nghị sĩ, thượng nghị sĩ, phó tổng thống, và tổng thống. Lyndon B. Johnson là một Đảng viên Đảng Dân chủ đến từ Texas, ông đảm nhiệm chức vụ Hạ nghị sĩ từ năm 1937 đến năm 1949, đảm nhiệm chức vụ Thượng nghị sĩ từ năm 1949 đến năm 1961, trong đó có sáu năm làm lãnh tụ phe đa số trong Thượng nghị viện, hai năm làm lãnh tụ phe thiểu số trong Thượng nghị viện và hai năm làm phó lãnh tụ phe đa số trong Thượng nghị viện. Sau khi thất bại trong chiến dịch giành quyền được Đảng Dân chủ đề cử tranh cử Tổng thống năm 1960, Lyndon B. Johnson được John F. Kennedy yêu cầu làm người đồng tranh cử trong bầu cử tổng thống 1960. Sau khi Tổng thống John F. Kennedy bị ám sát vào ngày 22 tháng 11 năm 1963, Phó Tổng thống Lyndon B. Johnson kế vị chức vụ tổng thống. Ông hoàn thành nhiệm kỳ của John F. Kennedy, và đại thắng trước Barry Goldwater trong bầu cử tổng thống năm 1964. Johnson được Đảng Dân chủ hết sức ủng hộ, và trên cương vị là tổng thống, ông chịu trách nhiệm về việc phác thảo pháp chế "Đại xã hội", trong đó có các luật ủng hộ dân quyền, truyền thông công cộng, Medicare, Medicaid, bảo vệ môi trường, tài trợ cho giáo dục, tài trợ cho nghệ thuật, phát triển đô thị và nông thông, và "Đấu tranh với bần cùng" của ông. Được hỗ trợ một phần nhờ tăng trưởng kinh tế, Đấu tranh với bần cùng giúp cho hàng triệu người Mỹ vượt lên trên ngưỡng nghèo trong nhiệm kỳ tổng thống của Johnson. Johnson ký các dự luật dân quyền mà theo đó cấm chỉ kỳ thị chủng tộc, và một đạo luật trao quyền đàu phiếu đầy đủ cho công dân thuộc mọi chủng tộc. Đạo luật Nhập cư và Quốc tịch năm 1965 cải cách hệ thống nhập cư quốc gia và bãi bỏ mọi hạn ngạch về nguồn gốc quốc gia. Trong khi đó, Johnson tăng cường can dự của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam. Năm 1964, Quốc hội Hoa Kỳ thông qua Nghị quyết vịnh Bắc Bộ, Johnson có quyền sử dụng vũ lực ở mức độ bất kỳ tại Đông Nam Á mà không cần phải yêu cầu về tuyên chiến chính thức. Số nhân viên quân sự Hoa Kỳ tại Việt Namtăng vọt, từ 16.000 cố vấn trong những vai trò phi chiến đấu vào năm 1963, lên đến 550.000 với nhiều người có vai trò chiến đấu vào đầu năm 1968. Bất chấp số quân nhân Hoa Kỳ ngày càng tăng và các chiến dịch ném bom được duy trì liên tục, chiến tranh không có dấu hiệu kết thúc và công chúng bắt đầu nghi ngờ các tuyên bố lạc quan của chính phủ rằng chiến thắng đang ở gần. Bất an càng càng lớn với chiến tranh kích thích một phong trào phản chiến có cơ sở đặc biệt là tại các khu trường sở đại học tại Hoa Kỳ và ngoại quốc. Các cuộc bạo động mùa hè bùng phát tại hầu hết các thành thị lớn tại Hoa Kỳ sau năm 1965, và tỷ lệ tội phạm tăng vọt, các đối thủ của ông gia tăng yêu cầu về những chính sách "pháp luật và trật tự". Mặc dù có được tán thành rộng khắp vào đầu nhiệm kỳ tổng thống, song sự ủng hộ cho Johnson suy giảm do công chúng phiền não với chiến tranh và bạo lực gia tăng tại Hoa Kỳ. Đảng Dân chủ bị phân thành nhiều phe phái tranh đấu, và sau khi Johnson giành được kết quả tồi trong bầu cử sơ bộ New Hampshire 1968, ông kết thúc việc ứng cử để tái tranh cử. Johnson từ trần bốn năm sau khi rời nhiệm sở. Các sử gia cho rằng nhiệm kỳ tổng thống của Johnson đánh dấu đỉnh cao của chủ nghĩa tự do hiện đại tại Hoa Kỳ sau thời kỳ Kinh tế mới. Thời thơ ấu Lyndon Baines Johnson sinh ngày 27 tháng 8 năm 1908 tại Stonewall, Texas, trong một trang trại nhỏ trên sông Pedernales. Ông là người con lớn nhất trong số năm người con được sinh ra bởi Samuel Ealy Johnson Jr. và Rebekah Baines. Johnson có một em trai, Sam Houston Johnson và ba em gái, Rebekah, Josefa và Lucia. Thị trấn nhỏ gần đó của thành phố Johnson, Texas, được đặt theo tên của anh em họ của cha Johnson, James Polk Johnson, có tổ tiên đã di chuyển về phía tây từ Georgia. Johnson có tổ tiên là người Anh, người Đức và người Ulster Scots. Ông là hậu duệ của dòng dõi giáo sĩ Baptist tiên phong George Washington Baines, người đã giám sát tám nhà thờ ở Texas, cũng như những người khác ở Arkansas và Louisiana. Baines, ông ngoại của Johnson, cũng là chủ tịch của Đại học Baylor trong cuộc Nội chiến Hoa Kỳ. Ông nội của Johnson, Samuel Ealy Johnson Sr., được nuôi dưỡng như một người Baptist và trong một thời gian là thành viên của Giáo hội Kitô giáo (Disciples of Christ). Trong những năm cuối đời, ông nội trở thành Kitô hữu; cha của Johnson cũng gia nhập Giáo hội Christadelphian đến cuối đời. Sau đó, với tư cách là một chính trị gia, Johnson bị ảnh hưởng trong thái độ tích cực của ông đối với người Do Thái bởi niềm tin tôn giáo mà gia đình ông, đặc biệt là ông của Johnson, đã chia sẻ với ông. Câu Kinh Thánh yêu thích của Johnson đến từ Phiên bản King James của Ê-sai 1:18. "Hãy đến ngay bây giờ và để chúng ta cùng nhau lý luận..." Ở trường, Johnson là một cậu học sinh vụng về, hay nói chuyện trong lớp và được bầu làm lớp trưởng khi còn học lớp 11. Ông tốt nghiệp năm 1924 tại trường trung học thành phố Johnson, nơi ông tham gia nói chuyện trước công chúng, tranh luận và chơi bóng chày. Ở tuổi 15, Johnson là thành viên trẻ nhất trong lớp. Bị áp lực bởi cha mẹ để theo học đại học, ông đăng ký vào một "trường con" của Đại học Sư phạm Tây Nam Texas (SWTSTC) vào mùa hè năm 1924, nơi học sinh từ các trường trung học không có bằng cấp có thể tham gia các khóa học lớp 12 cần thiết để được nhận vào đại học. ông rời trường chỉ vài tuần sau khi đến và quyết định chuyển đến miền nam California. Ông làm việc tại cơ sở hành nghề pháp lý của anh em họ và làm nhiều công việc lặt vặt trước khi trở về Texas, nơi ông làm việc như một người lao động ban ngày. Năm 1926, Johnson quản lý để ghi danh tại SWTSTC (nay là Đại học bang Texas). ông đã làm việc theo cách của mình thông qua trường học, tham gia vào cuộc tranh luận và chính trị trong khuôn viên trường, và chỉnh sửa tờ báo của trường, The College Star. Những năm đại học trau chuốt thêm kỹ năng thuyết phục và tổ chức chính trị của ông. Trong chín tháng từ 1928-1929, Johnson phải dừng lại việc học của mình để dạy trẻ em Mexico-Mỹ tại trường Welhausen, khoảng 90 dặm (140 km) về phía nam của San Antonio tại La Salle County. Công việc giúp ông tiết kiệm tiền để hoàn thành việc học của mình và ông tốt nghiệp vào năm 1930. Johnson đã giảng dạy trong thời gian ngắn tại trường trung học Pearsall trước khi đảm nhiệm vị trí giáo viên nói trước công chúng tại trường trung học Sam Houston ở Houston. Tham gia chính trị Sau khi Richard M. Kleberg giành chiến thắng trong cuộc bầu cử đặc biệt năm 1931 để đại diện cho Texas tại Hạ viện Hoa Kỳ, ông đã bổ nhiệm Johnson làm thư ký lập pháp của mình. Johnson có được vị trí theo lời giới thiệu của chính cha mình và của Thượng nghị sĩ bang Texas Welly Hopkins, người mà Johnson đã vận động vào năm 1930. Kleberg ít quan tâm đến việc thực hiện các nhiệm vụ hàng ngày của một Dân biểu, thay vào đó ủy thác chúng cho Johnson. Sau khi Franklin D. Roosevelt giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1932, Johnson trở thành người ủng hộ trung thành của Thỏa thuận mới của Roosevelt. Johnson được bầu làm diễn giả của "Đại hội nhỏ", một nhóm các trợ lý của Quốc hội, nơi ông đã đào tạo các nghị sĩ, nhà báo và nhà vận động. Bạn bè của Johnson bao gồm các trợ lý cho Tổng thống Roosevelt cũng như những người Texas như Phó Tổng thống John Nance Garner và Dân biểu Sam Rayburn. Johnson kết hôn với Claudia Alta Taylor, còn được gọi là "Lady Bird", ở Karnack, Texas vào ngày 17 tháng 11 năm 1934, sau khi ông theo học tại Trung tâm Luật của Đại học Georgetown trong vài tháng. Đám cưới được tổ chức bởi mục sư Arthur R. McKinstry tại Nhà thờ Tân giáo St. Mark ở San Antonio. Họ có hai cô con gái, Lynda Bird, sinh năm 1944 và Luci Baines, sinh năm 1947. Johnson đặt tên cho con của mình bằng tên viết tắt LBJ dựa trên tên chú chó nuôi của ông là Little Beagle Johnson. Trong cuộc hôn nhân của mình, Lyndon Johnson đã ngoại tình với nhiều phụ nữ, đặc biệt là Alice Marsh (nhũ danh Glass), người đã giúp đỡ ông về mặt chính trị. Năm 1935, ông được bổ nhiệm làm người đứng đầu Cơ quan Thanh niên Quốc gia Texas, cho phép ông sử dụng chính phủ để tạo ra cơ hội giáo dục và việc làm cho những người trẻ tuổi. Ông đã từ chức hai năm sau đó để tranh cử vào Quốc hội. Johnson, một ông chủ khét tiếng khét tiếng trong suốt sự nghiệp, thường đòi hỏi những ngày làm việc dài và làm việc vào cuối tuần. Ông được bạn bè, các chính trị gia và nhà sử học mô tả như được thúc đẩy bởi một ham muốn đặc biệt đối với quyền lực và sự kiểm soát. Như người viết tiểu sử của Johnson, Robert Caro nhận xét, "Tham vọng của Johnson là không phổ biến ở mức độ mà nó không bị ảnh hưởng bởi ngay cả những điều nhỏ nhất của ý thức hệ, về triết học, về nguyên tắc, niềm tin. Sự nghiệp tại Hạ viện Hoa Kỳ (1937-1949) Vào năm 1937, sau cái chết của Nghị sĩ James P. Buchanan, Johnson đã vận động thành công trong một cuộc bầu cử đặc biệt cho khu vực quốc hội thứ 10 của Texas, bao gồm Austin và các địa phương khác xung quanh. Ông phục vụ trong Hạ viện từ ngày 10 tháng 4 năm 1937 đến ngày 3 tháng 1 năm 1949. Tổng thống Franklin D. Roosevelt nhận thấy Johnson là một đồng minh đáng tin cậy, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến chính trị nội bộ ở Texas (Chiến dịch Texas) và mưu mô của Phó Tổng thống John Nance Garner và Chủ tịch Hạ viện Sam Rayburn. Johnson ngay lập tức được bổ nhiệm vào Ủy ban Hải quân. Ông đã làm việc cho điện khí hóa nông thôn và các cải tiến khác cho hạt của mình. Johnson đã chỉ đạo các dự án đối với các nhà thầu mà cá nhân ông biết, như Herman và George Brown, người sẽ tài trợ cho phần lớn sự nghiệp trong tương lai của Johnson. Năm 1941, ông chạy đua vào đảng Dân chủ đề cử tại thượng viện trong một cuộc bầu cử đặc biệt, ông thất bại trước Thống đốc bang Texas, doanh nhân và nhân vật truyền hình W. Lee O'Daniel. O'Daniel đã nhận được 175.590 phiếu bầu (30,49 phần trăm) so với 174,279 (30,26 phần trăm) của Johnson. Nghĩa vụ quân sự (1941-1942) Johnson được bổ nhiệm làm Trung úy tại Khu bảo tồn Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 21 tháng 6 năm 1940. Trong khi làm Đại diện Hoa Kỳ, ông được cử đi làm nhiệm vụ ba ngày sau cuộc tấn công của Nhật vào Trân Châu Cảng vào tháng 12 năm 1941. Lệnh của ông là báo cáo cho Chánh văn phòng hoạt động hải quân ở Washington, D.C. để được hướng dẫn và huấn luyện. Sau khi được huấn luyện, ông đã yêu cầu Hải quân James Forrestal giao nhiệm vụ chiến đấu. Thay vào đó, ông được cử đi kiểm tra các cơ sở đóng tàu ở Texas và Bờ Tây. Vào mùa xuân năm 1942, Tổng thống Roosevelt quyết định ông cần thông tin tốt hơn về các điều kiện ở Tây Nam Thái Bình Dương và gửi một đồng minh chính trị rất đáng tin cậy để có được nó. từ một gợi ý của Forrestal, Roosevelt đã giao Johnson cho một nhóm khảo sát gồm ba người ở Tây Nam Thái Bình Dương. Johnson đã báo cáo với Tướng Douglas MacArthur ở Úc. Johnson và hai sĩ quan quân đội khác đã đến căn cứ của Tập đoàn Bom 22, được giao nhiệm vụ có nguy cơ cao ném bom căn cứ không quân Nhật Bản tại Lae ở New Guinea. Vào ngày 9 tháng 6 năm 1942, Johnson tình nguyện làm người quan sát cho một cuộc không kích vào New Guinea của máy bay ném bom B-26. Báo cáo khác nhau về những gì đã xảy ra với máy bay chở Johnson trong nhiệm vụ đó. Người viết tiểu sử của Johnson, John Robert Caro chấp nhận tài khoản của Johnson và hỗ trợ nó với lời khai từ máy bay liên quan: máy bay đã bị tấn công, vô hiệu hóa một động cơ và nó quay trở lại trước khi tiếp cận mục tiêu, mặc dù vẫn bị hỏa hoạn. những người khác cho rằng nó quay trở lại vì sự cố máy phát điện trước khi tiếp cận mục tiêu và trước khi gặp máy bay địch và không bao giờ bị bắn cháy; điều này được hỗ trợ bởi hồ sơ chuyến bay chính thức. Các máy bay khác tiếp tục nhắm mục tiêu bị bắn gần mục tiêu vào cùng thời điểm máy bay của Johnson được ghi nhận là đã hạ cánh xuống căn cứ không quân ban đầu. MacArthur trao tặng cho Johnson Ngôi sao bạc hành động dũng cảm: thành viên duy nhất của phi hành đoàn nhận được huân chương này. Johnson, người đã sử dụng máy quay phim để ghi lại các dữ kiện, đã báo cáo lên Roosevelt, các nhà lãnh đạo Hải quân và trước Quốc hội rằng các điều kiện đó thật đáng trách và không thể chấp nhận được: một số nhà sử học cho rằng đây là để đổi lấy khuyến nghị của MacArthur để trao giải Ngôi Sao bạc. Ông cho rằng Tây Nam Thái Bình Dương rất cần một ưu tiên cao hơn và một phần lớn hơn các nguồn cung cấp chiến tranh. Các máy bay chiến đấu được gửi tới đó, chẳng hạn, "thua kém nhiều" so với máy bay Nhật Bản; và tinh thần là xấu. ông nói với Forrestal rằng Hạm đội Thái Bình Dương có nhu cầu "quan trọng" đối với 6.800 người đàn ông có kinh nghiệm bổ sung. Johnson đã chuẩn bị một chương trình mười hai điểm để nâng cấp nỗ lực trong khu vực, nhấn mạnh "sự hợp tác và phối hợp lớn hơn trong các mệnh lệnh khác nhau và giữa các hạm đội chiến tranh khác nhau". Đại hội đã phản ứng lại bằng cách ra lệnh cho Johnson một nhiệm vụ tương tự như của Ủy ban Truman tại Thượng viện. Ông đã thăm dò sự thiếu hiệu quả "kinh doanh như bình thường" trong thời bình đã thấm vào cuộc chiến hải quân và yêu cầu các đô đốc hoàn thành công việc. Johnson đã đi quá xa khi ông đề xuất một dự luật sẽ đàn áp dự thảo miễn trừ cho công nhân đóng tàu nếu họ vắng mặt quá thường xuyên; tổ chức lao động chặn hóa đơn và tố cáo ông. Người viết tiểu sử của Johnson, Robert Dallek kết luận: "Nhiệm vụ là một sự phơi bày tạm thời với nguy hiểm được tính toán để đáp ứng mong muốn chính trị và cá nhân của Johnson, nhưng nó cũng thể hiện nỗ lực thực sự của ông ta, tuy nhiên đã đặt nhầm chỗ, để cải thiện rất nhiều người lính chiến đấu của nước Mỹ." Ngoài Ngôi sao bạc, Johnson còn nhận được Huân chương Chiến dịch Hoa Kỳ, Huy chương Chiến dịch Châu Á - Thái Bình Dương và Huân chương Chiến thắng Thế chiến II. Ông được thả ra khỏi nhiệm vụ hoạt động vào ngày 17 tháng 7 năm 1942 và ở lại trong Khu bảo tồn Hải quân, sau đó được thăng chức Tư lệnh vào ngày 19 tháng 10 năm 1949 (có hiệu lực từ ngày 2 tháng 6 năm 1948). Ông đã từ chức tại Cục Dự trữ Hải quân và có hiệu lực từ ngày 18 tháng 1 năm 1964. Cuộc bầu cử năm 1948 Trong cuộc bầu cử năm 1948, Johnson một lần nữa tranh cử vào Thượng viện và giành chiến thắng trong một cuộc bầu cử sơ bộ của Đảng Dân chủ gây tranh cãi trước cựu thống đốc nổi tiếng Coke Stevenson. Johnson đã thu hút rất đông người đến các hội chợ với chiếc trực thăng thuê của ông có tên là "Cối xay gió thành phố Johnson". ông đã quyên góp tiền để quáng bá các thông tư chiến dịch và giành chiến thắng trước những người bảo thủ bằng cách đặt ra những nghi ngờ về sự ủng hộ của Stevenson đối với Đạo luật Taft-Hartley (kiềm chế quyền lực của liên minh). Stevenson đứng đầu trong chính nhưng thiếu đa số, vì vậy một cuộc bầu cử tranh cử đã được tổ chức; Johnson vận động mạnh mẽ hơn, trong khi những nỗ lực của Stevenson sụt giảm do thiếu vốn. Việc kiểm phiếu được xử lý bởi Ủy ban Trung ương Nhà nước Dân chủ, mất một tuần. Johnson đã được công bố người chiến thắng với 87 phiếu trong số 988.295, một tỷ lệ cực kỳ nhỏ của chiến thắng tuy nhiên, chiến thắng của Johnson dựa trên 200 "phiếu bầu gian lận một cách rõ ràng": 608 phiếu bầu được báo cáo sáu ngày sau cuộc bầu cử từ Hộp 13 tại Hạt Jim Wells, trong một khu vực do ông trùm chính trị George Parr thống trị. Các tên được thêm vào theo thứ tự bảng chữ cái và được viết bằng cùng một cây bút và chữ viết tay, ở cuối danh sách cử tri. Một số người trong phần này của danh sách khẳng định rằng họ đã không bỏ phiếu ngày hôm đó. Thẩm phán bầu cử Luis Salas nói vào năm 1977 rằng ông đã chứng nhận 202 phiếu bầu gian lận cho Johnson. Robert Caro đã đưa ra trường hợp trong cuốn sách năm 1990 của mình rằng Johnson đã gian lận ở cuộc bầu cử ở Hạt Jim Wells, và cũng có hàng ngàn phiếu bầu gian lận ở các quận khác, bao gồm 10.000 phiếu được chuyển từ San Antonio. Ủy ban Trung ương Nhà nước Dân chủ đã bỏ phiếu xác nhận đề cử của Johnson bởi đa số mọi người (29–28), với phiếu bầu cuối cùng được thay mặt cho Johnson bởi Temple, Texas. Các hội nghị dân chủ nhà nước duy trì Johnson. Stevenson đã ra tòa, cuối cùng đưa vụ kiện của mình ra trước Tòa án Tối cao Hoa Kỳ, nhưng với sự giúp đỡ kịp thời từ bạn của ông và Thẩm phán Tòa án Tối cao Hoa Kỳ tương lai Abe Fortas, Johnson đã thắng thế dựa trên cơ sở quyền tài phán về việc đề cử một ứng cử viên, không phải là chính quyền liên bang. Johnson đã đánh bại Nghị sĩ đảng Cộng hòa Jack Porter trong cuộc tổng tuyển cử vào tháng 11 và tới Washington, được mệnh danh là "Landslide Lyndon". Johnson bác bỏ những lời chỉ trích của mình, vui vẻ nhận lấy biệt danh này. Sự nghiệp tại Thượng viện Hoa Kỳ (1949-1961) Khi còn ở Thượng viện, Johnson được các đồng nghiệp biết đến nhờ "sự tán tỉnh" rất thành công của các thượng nghị sĩ lớn tuổi, đặc biệt là Thượng nghị sĩ Richard Russell của Đảng Dân chủ từ Georgia, lãnh đạo của liên minh Bảo thủ và được cho là người đàn ông quyền lực nhất tại Thượng viện. Johnson đã tiến hành để có được sự ủng hộ của Russell giống như cách mà ông đã "tán tỉnh" người phát ngôn Sam Rayburn và có được sự ủng hộ quan trọng của ông trong Nhà Trắng. Johnson được bổ nhiệm vào Ủy ban Dịch vụ Vũ trang Thượng viện và năm 1950, ông đã giúp tạo ra Tiểu ban Điều tra Chuẩn bị. Johnson trở thành chủ tịch của nó và tiến hành điều tra về chi phí và hiệu quả quốc phòng. Các cuộc điều tra này cho thấy các cuộc điều tra cũ và yêu cầu các hành động đã được Cơ quan Truman thực hiện một phần, mặc dù có thể nói rằng các cuộc điều tra của ủy ban đã củng cố nhu cầu thay đổi. Johnson đã đạt được các chỉ tiêu và sự chú ý của quốc gia thông qua việc ông xử lý thông tin báo chí, hiệu quả mà ủy ban của ông đưa ra các báo cáo mới và thực tế là ông đảm bảo rằng mọi báo cáo đều được ủy ban nhất trí thông qua. Johnson đã tận dụng ảnh hưởng chính trị của mình tại Thượng viện để nhận giấy phép phát sóng từ Ủy ban Truyền thông Liên bang dưới tên của vợ. Sau cuộc tổng tuyển cử năm 1950, Johnson được chọn làm Thượng nghị sĩ trong Thượng viện vào năm 1951 dưới quyền lãnh đạo mới, Ernest McFarland ở Arizona, và phục vụ từ năm 1951 đến 1953. Trong cuộc tổng tuyển cử năm 1952, đảng Cộng hòa đã giành được đa số ở cả Hạ viện và Thượng viện. Trong số những người Dân chủ bị đánh bại năm đó có McFarland, người đã thua cuộc trước Barry Goldwater. Vào tháng 1 năm 1953, Johnson được các nghị sĩ Dân chủ của mình chọn làm lãnh đạo thiểu số; ông trở thành Thượng nghị sĩ cơ sở nhất từng được bầu vào vị trí này. Một trong những hành động đầu tiên của ông là loại bỏ hệ thống thâm niên trong việc bổ nhiệm các ủy ban, trong khi vẫn giữ chức chủ tịch. Trong cuộc bầu cử năm 1954, Johnson đã được bầu lại vào Thượng viện và vì đảng Dân chủ chiếm đa số tại Thượng viện, sau đó trở thành lãnh đạo đa số. Cựu lãnh đạo đa số William Knowland trở thành lãnh đạo thiểu số. Nhiệm vụ của Johnson là lên lịch trình cho pháp luật và giúp thông qua các biện pháp được ủng hộ bởi đảng Dân chủ. Johnson, Rayburn và Tổng thống Dwight D. Eisenhower đã phối hợp tốt với nhau trong việc thông qua chương trình nghị sự trong và ngoài nước của Eisenhower. Trong cuộc khủng hoảng Suez, Johnson đã cố gắng ngăn chính phủ Hoa Kỳ chỉ trích cuộc xâm lược của Israel vào bán đảo Sinai. Cùng với phần còn lại của đất nước, Johnson đã kinh hoàng trước mối đe dọa trước sự thống trị của Liên Xô đối với chuyến bay vào vũ trụ ngụ ý khi phóng vệ tinh nhân tạo đầu tiên Sputnik 1 và sử dụng ảnh hưởng của mình để đảm bảo thông qua Đạo luật Hàng không và Vũ trụ Quốc gia năm 1958, mà thành lập cơ quan vũ trụ dân sự NASA. Các nhà sử học Caro và Dallek coi Lyndon Johnson là nhà lãnh đạo Thượng viện hiệu quả nhất trong lịch sử. Một người viết tiểu sử cho rằng ông là "người thu thập thông tin vĩ đại nhất mà Washington từng biết", khám phá chính xác nơi mọi Thượng nghị sĩ đứng trước các vấn đề, triết lý và định kiến ​​của ông, điểm mạnh và điểm yếu của ông và những gì cần có để bỏ phiếu. Robert Baker tuyên bố rằng thỉnh thoảng Johnson sẽ gửi một số thượng nghị sĩ trong các chuyến đi của NATO để tránh những phiếu bầu không đồng tình của họ. Là một người nghiện hút thuốc lá, Johnson bị một cơn đau tim suýt chết vào ngày 2 tháng 7 năm 1955. Ông đột ngột từ bỏ thuốc lá và chỉ có một vài ngoại lệ, đã không tiếp tục thói quen này cho đến khi ông rời khỏi Nhà Trắng vào ngày 20 tháng 1 năm 1969. Johnson tuyên bố ông sẽ vẫn là lãnh đạo đảng của ông tại Thượng viện vào đêm giao thừa năm 1955, các bác sĩ của ông báo cáo rằng ông đã "hồi phục rất nhanh chóng" kể từ khi bị đau tim năm tháng trước đó. Phó Tổng thống Hoa Kỳ (1961-1963) Tại hội nghị Dân chủ năm 1960, Johnson để thua trong cuộc chạy đua vào Nhà Trắng, John F. Kennedy, 809 phiếu bầu của Kennedy so với 409 phiếu bầu của Johnson. Sau đó, ông làm nhiều người ngạc nhiên cả trong và ngoài đảng khi ông chấp nhận lời mời của Kennedy làm Phó Tổng thống. Vượt qua nỗi thất vọng khi không đứng đầu cuộc bỏ phiếu, ông vận động mạnh mẽ và nhiều nhà quan sát cảm thấy rằng nếu không có sự hiện diện của ông, Kennedy không thể có phiếu đại cử tri ở các bang Texas, Louisiana và Carolina, điều cần thiết cho chiến thắng của ông trước ứng cử viên đảng Cộng hòa, Richard Nixon. Johnson thường không thoải mái trong vai trò Phó Tổng thống. Kiến thức chính trị về Quốc hội của ông hầu như không được sử dụng, mặc dù Kennedy không thể vượt qua chương trình lập pháp của riêng mình. Mặc dù ông phục vụ trong Hội đồng An ninh Quốc gia và được bổ nhiệm làm chủ tịch của một số ủy ban quan trọng như Hội đồng Hàng không và Vũ trụ Quốc gia, Hội đồng Tư vấn Quân đoàn Hòa bình và Ủy ban Cơ hội Việc làm Bình đẳng của Tổng thống, Johnson coi hầu hết các nhiệm vụ của mình là công việc bận rộn, và ông đã bị thuyết phục rằng tổng thống đã phớt lờ ông. Nỗi thất vọng của ông được thể hiện bởi sự khinh bỉ rõ ràng của một số thành viên nổi tiếng trong chính quyền Kennedy. Em trai của Tổng thống, Tổng Chưởng lý Robert F. Kennedy, người sau này đánh giá LBJ là một người bỉ ổi và thô thiển từ Texas. Tổng thống Hoa Kỳ (1963-1969) Vào ngày 22 tháng 11 năm 1963, trong một chuyến công du chính trị, Tổng thống Kennedy đã bị ám sát. Vào lúc 2:38 chiều ngày hôm đó, Johnson đã tuyên thệ nhậm chức trên máy bay của tổng thống, Air Force One, khi nó đứng trên đường băng tại Love Field, Dallas, chờ đợi đưa thi hài Kennedy trở về Washington, D.C.. Trong một buổi chiều, Johnson đã bị đẩy vào vai trò khó khăn nhất - và được đánh giá cao nhất - trong sự nghiệp chính trị lâu dài của mình. Một trong những hành động đầu tiên của tổng thống mới là chỉ định một Ủy ban điều tra vụ ám sát Kennedy và vụ bắn chết Lee Harvey Oswald, kẻ ám sát được cho là đã bị giết hai ngày sau đó. Được chủ trì bởi Earl Warren, chánh án của Hoa Kỳ, Ủy ban Warren đã kết luận vào tháng 9 năm 1964 rằng không có âm mưu nào trong cái chết của Kennedy và vụ giết Lee Harvey Oswald, kẻ ám sát được cho là hai ngày sau đó. Ngay sau đó, chánh án của Hoa Kỳ, Ủy ban Warren đã kết luận vào tháng 9 năm 1964 rằng không có âm mưu nào liên quan trong cái chết của Kennedy. Trong những ngày căng thẳng sau vụ ám sát, Johnson đã giúp làm dịu sự hiềm khích quốc gia và đảm bảo sự liên tục trong nhiệm kỳ tổng thống. Vào ngày 27 tháng 11, ông đã đề cập đến một phiên họp chung của Quốc hội và gợi lại ký ức về vị tổng thống tử vì đạo, thúc giục việc thông qua chương trình nghị sự lập pháp của Kennedy, đã bị đình trệ trong các ủy ban của Quốc hội. Ông đặt tầm quan trọng lớn nhất vào dự luật dân quyền của Kennedy, nơi trở thành tâm điểm của những nỗ lực của ông trong những tháng đầu tiên của nhiệm kỳ tổng thống. Càng không có tài liệu tưởng niệm hay điếu văn nào có thể tôn vinh một cách hùng hồn về Tổng thống Kennedy, ông nói về việc thông qua dự luật dân quyền sớm nhất có thể. Dự luật này hiệu lực hơn dự luật mà Kennedy đã đề xuất, và biện pháp cuối cùng đã được Thượng viện thông qua vào tháng 6, sau một cuộc "làm phim dài" 83 ngày của các đối thủ miền Nam. Đạo luật Dân quyền, mà Johnson đã ký ban thành luật vào ngày 2 tháng 7 năm 1964, là đạo luật toàn diện và sâu rộng nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Trong số các điều khoản của nó là cấm phân biệt chủng tộc và phân biệt đối xử ở những nơi ở công cộng, cấm phân biệt đối xử theo chủng tộc hoặc giới tính trong việc làm và tư cách thành viên công đoàn, và đảm bảo mới về quyền bầu cử bình đẳng. Luật cũng ủy quyền cho Bộ Tư pháp đưa vụ kiện chống lại hội đồng trường địa phương để chấm dứt các hành vi bị cho là phân biệt đối xử, do đó đẩy nhanh sự phân chia trường học. Tính hợp hiến của đạo luật này ngay lập tức bị thách thức nhưng được Tòa án tối cao duy trì vào năm 1964. Cơ quan việc làm cho người thất nghiệp và chương trình Head Start cho trẻ mẫu giáo; luật dân quyền mới, chẳng hạn như Đạo luật về quyền bỏ phiếu (năm 1965), ngoài vòng pháp luật về kiểm tra xóa mù chữ và các thiết bị khác được sử dụng để ngăn người Mỹ gốc Phi bỏ phiếu; và trợ cấp y tế, cung cấp các lợi ích sức khỏe cho người già và người nghèo. Những điều khác giải quyết các vấn đề trong giáo dục, phát triển nhà ở và đô thị, giao thông, bảo tồn môi trường và nhập cư. Johnson đã xem các biện pháp này khi xây dựng và hoàn thành tầm nhìn New Deal của Franklin D. Roosevelt; với sự chấp nhận của họ, Hoa Kỳ đã gia nhập hàng ngũ các quốc gia phúc lợi ở Tây Âu và Scandinavia. Tuy nhiên, hiệu quả của các chủ trương này đã sớm được tuyên bố bằng cách tăng cường sự tham gia của quân đội Mỹ vào cuộc chiến ở Việt Nam, bắt đầu từ thời chính quyền Eisenhower và được Tổng thống Kennedy đẩy nhanh tiến độ. Chiến tranh Việt Nam Tổng thống Johnson tăng cường tập trung vào cố gắng của quân đội Mỹ ở Việt Nam. Ông tin chắc chắn rằng chính sách Kiềm chế đòi hỏi Hoa Kỳ phải có một sự cố gắng đáng kể trong việc chặn đứng sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản. Vào lúc Kennedy qua đời, có khoảng 16.000 cố vấn Hoa Kỳ ở Việt Nam. Johnson đã tăng cường số lượng đó và mở rộng vai trò của họ sau sự kiện Vịnh Bắc Bộ (khoảng 3 tuần sau khi Hội nghị của Đảng Cộng hòa năm 1964 đề cử Barry Goldwater tranh cử Tổng thống). Ông đã gia tăng nỗ lực chiến tranh liên tục từ 1964 đến 1968. Số lượng tử trận của binh sĩ Hoa Kỳ cũng tăng lên. Trong hai tuần tháng 5 năm 1968, số lượng đó là 1.800 với tổng cộng thương vong là 18.000. Viện dẫn thuyết Domino ông nói: "Nếu chúng ta cho phép Việt Nam thất thủ, ngày mai chúng ta sẽ chiến đấu ở Hawaii, tuần tới ở San Francisco." Johnson sợ rằng quá nhiều tập trung vào Việt Nam sẽ làm ông mất chú ý các chính sách Xã hội Lớn (Great Society) của ông. Nhưng sau Sự kiện Tết Mậu Thân, nhiệm kì Tổng thống của ông đã bị chiếm hết bởi Chiến tranh Việt Nam hơn lúc nào hết. Vì có nhiều binh sĩ Hoa Kỳ tử trận, sự tín nhiệm của Johnson xuống dốc. Sinh viên đại học và những người khác tổ chức phản đối, đốt thẻ quân dịch và hô lên những khẩu hiệu như là, "Hey, hey, LBJ, bao nhiêu đứa trẻ đã bị ông giết trong ngày hôm nay?" Vào năm cuối của nhiệm kì, Johnson không thể đi đến bất cứ một nơi nào mà không bị phản đối. Sau đó trong một bài diễn văn cuối tháng 3, ông chấn động cả nước khi tuyên bố sẽ không tái tranh cử: "Tôi sẽ không tìm cách, và sẽ không chấp nhận sự đề cử của Đảng tôi cho nhiệm kì Tổng thống kế tiếp", chỉ vài ngày sau khi trưng cầu dân ý cho thấy chỉ có 29% dân Mỹ ủng hộ chiến tranh. Cũng trong cái gọi là sự ngạc nhiên tháng 10, Johnson tuyên bố với nước Mỹ rằng vào ngày 31 tháng 10 năm 1968 rằng ông đã ra lệnh hoàn toàn ngừng các cuộc oanh tạc trên không, trên biển và đại pháo vào Bắc Việt Nam, hiệu lực từ ngày 1 tháng 11 nếu chính quyền Hà Nội sẵn sàng thương lượng và dẫn chứng những tiến bộ trong quá trình đàm phán hòa bình ở Paris. Johnson đã không bị loại trừ cho việc tranh cử cho nhiệm kì thứ hai dưới điều khoản của Tu chính án 22 vì ông phục vụ ít hơn 24 tháng trong nhiệm kì của Kennedy. Nếu như ông ở lại tranh cử và thắng năm 1968, ông có lẽ đã là Tổng thống phục vụ lâu nhất kể từ sau Franklin D. Roosevelt. Qua đời Johnson đã ghi hình một cuộc phỏng vấn trên truyền hình dài gần một tiếng với phóng viên Walter Cronkite tại trang trại của ông vào ngày 12 tháng 1 năm 1973, trong đó ông đã nói về những di sản của mình, đặc biệt là liên quan đến phong trào dân quyền. Lúc đó ông vẫn hút thuốc rất nhiều và nói với Cronkite rằng thà rằng trái tim ông "hút thuốc còn hơn là lo lắng". Mười ngày sau, vào khoảng 3:39 chiều (giờ địa phương). Ngày 22 tháng 1 năm 1973, Johnson bị một cơn đau tim dữ dội trong phòng ngủ. Ông quản lý để gọi điện thoại cho các nhân viên Mật vụ tại trang trại, mọi người thấy ông vẫn cầm điện thoại, bất tỉnh và ngưng thở. Johnson được đưa lên một trong những chiếc máy bay riêng của mình tới San Antonio và được đưa đến Trung tâm y tế quân đội Brooke, nơi bác sĩ tim mạch và đại tá quân đội Tiến sĩ George McGranahan tuyên bố ông đã qua đời khi đến nơi, hưởng thọ 66 tuổi. Ngay sau cái chết của Johnson, thư ký báo chí Tom Johnson đã gọi điện cho Walter Cronkite tại CBS; Cronkite đang phát sóng trực tiếp với CBS News News vào thời điểm đó, và một báo cáo về Việt Nam đã bị cắt đột ngột trong khi Cronkite vẫn đang trên đường truyền, vì vậy ông có thể phá vỡ tin tức. Cái chết của Johnson xảy ra hai ngày sau lễ nhậm chức lần thứ hai của Richard Nixon, sau 1 năm chiến thắng của Nixon trong cuộc bầu cử năm 1972. Tham khảo Liên kết ngoài Thư viện Lyndon B. Johnson Tiểu sử bởi Tòa Bạch Ốc Mục từ trong Sổ tay Texas Âm thanh thu bí mật của LBJ trong Tòa Bạch Ốc  – Trung tâm công vụ Miller tại Đại học Virginia Bài diễn văn nhậm chức Tổng thống Hoa Kỳ Phó Tổng thống Hoa Kỳ Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ Hạ nghị sĩ Hoa Kỳ từ Texas Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ từ Texas Vụ ám sát John F. Kennedy Người đoạt Huy chương Tự do Tổng thống Người Mỹ gốc Anh Người viết hồi ký Mỹ Chính khách Mỹ thế kỷ 20 Người Mỹ gốc Đức Mất năm 1973 Quân nhân Hoa Kỳ trong Thế chiến thứ hai Lịch sử Hoa Kỳ (1964–80) Người Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam Người Mỹ gốc Scotland
27894
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nucleotide
Nucleotide
Nucleotide (nu-clê-ô-tit) là một hợp chất hóa học gồm có 3 phần chính: một nhóm heterocyclic, nhóm đường, và một hay nhiều nhóm phosphate. Các nucleotide phổ biến nhất là dẫn xuất của purine hoặc pyrimidine, và đường ở dạng pentose (đường chứa 5 cacbon) deoxyribose hay ribose. Các Nucleotide là monomers của nucleic acids, chúng liên kết với nhau để tạo thành nucleic acid. Các nucleotide là đơn vị cấu trúc của RNA, DNA, và nhiều yếu tố khác - CoA, flavin adenine dinucleotide, flavin mononucleotide, adenosine triphosphate và nicotinamide adenine dinucleotide phosphate. Trong tế bào, chúng đóng vai trò quan trọng trong trao đổi chất (metabolism) và phát tín hiệu. Nucleotide Deoxynucleotides Chú ý: Đối với ribose, có sự hiện hữu của đường deoxyribose thì tiền tố "deoxy" có thể được thêm vào trước tên của nucleoside trong mọi trường hợp ngoại trừ đối với thymidine. Tổng hợp Tổng hợp tái sử dụng'' là quá trình sử dụng lại các phần của nucleotide trong quá trình tổng hợp ra nucleotide mới. Trong tự nhiên Purine ribonucleotides Pyrimidine ribonucleotides Dùng hóa bảo trợ Tham khảo Xem thêm Gene Di truyền học Chromosome Nucleobase Nucleic acid analogues Các liên kết ngoài Ký hiệu và Biểu tượng của các Nucleic Acids, Polynucleotides và cấu trúc của các thành phần cấu thành chúng (IUPAC) Provisional Recommendations 2004 (IUPAC) Giải thích hóa học của cấu trúc nucleotide Nucleic acids Nucleotide Di truyền học DNA Sinh học phân tử
27896
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%8Dc%20thu%E1%BB%99c%20l%C3%B2ng
Học thuộc lòng
Học thuộc lòng hay học vẹt là cách ghi nhớ nội dung từng câu từng chữ qua đọc to, thuần thục tới mức có thể đọc lại diễn cảm trước đám đông mà không cần nhìn vào chữ. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc học thuộc lòng Yếu tố chủ quan Yếu tố tâm lý Ảnh hưởng tích cực Cảm giác vui vẻ: Cảm giác vui vẻ giúp gạt bỏ những vướng bận tâm lý ngoài xã hội, khiến bạn tập trung vào bài học. Thông tin thu thập được trong một quá trình học tập tập trung không những nhiều (tức là đảm bảo về số lượng) mà còn tồn tại lâu (tức là đảm bảo về chất lượng) Lòng đam mê học hỏi: Lòng đam mê học hỏi giúp người học thuộc lòng cảm thấy hứng thú với kiến thức, khiến quá trình học nhanh hơn. Việc xác định mục tiêu học tập rõ ràng: Xác định mục tiêu học tập rõ ràng giúp người học thuộc lòng nhận thức rõ ý nghĩa việc học của mình. Không chỉ riêng học thuộc lòng mà bất kì công việc gì cũng cần có mục tiêu rõ ràng. Ảnh hưởng tiêu cực Stress: Khi chịu áp lực lớn, việc học thuộc lòng hầu như không đạt hiệu quả. Không có mục đích học (không thấy được ý nghĩa của việc học): Hậu quả của hiện tượng này là kiến thức học được chỉ bằng hoặc ít hơn và không chính xác so với nguồn kiến thức. Kiến thức học được ấy cũng thường chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian ngắn. Yếu tố tư duy Ảnh hưởng tích cực: Những người có tư duy tốt có khả năng nhận ra những đặc điểm của thông tin cần học và mối liên hệ của thông tin với những thông tin khác, nên nhanh chóng ghi nhận được thông tin. Ảnh hưởng tiêu cực: Tư duy yếu khiến thông tin có thể không được đặt vào một chuỗi gắn kết chặt chẽ. Không tư duy khiến thông tin đứng cô lập và dễ lung lay, dễ đổ. Điển hình cho việc học thuộc lòng thiếu yếu tố tư duy là việc học vẹt (rote learning). Phương pháp học thuộc lòng Học thuộc lòng thực chất là một quá trình vận động trí não (diễn ra bên trong con người), gồm nhận dạng đặc điểm, tạo mối liên hệ và nhập thông tin vào não. Các phương pháp sau chỉ là quá trình hoạt động bên ngoài: Nhắc lại thông tin nhiều lần Viết lại thông tin nhiều lần Vừa viết vừa nhắc lại thông tin nhiều lần Tập trung vào việc học thuộc lòng, loại bỏ điện thoại, máy tính sang một bên Nếu siêng hơn thì hãy thức dậy vào 5h sáng và ngồi học, ta có thể nhanh thuộc hơn. Học vào những lúc cảm thấy tỉnh táo và dễ tập trung nhất Tuỳ vào từng dạng thông tin mà sử dụng phương pháp. Nếu thông tin khó nhớ thì nên dùng phương pháp cuối cùng. Kết thúc quá trình học thuộc lòng là quá trình vận dụng kiến thức. Nếu kiến thức không được vận dụng thường xuyên, theo thuyết đào thải, nó sẽ mất đi. Yếu tố khách quan Phương tiện học thuộc lòng đối với những kiến thức khó Các kiến thức khó như số liệu, từ vựng,... cần được áp dụng những phương tiện học tập sau: Sổ: Ghi chép lại những công thức của các môn quan trọng Thẻ nhớ: là những mẩu giấy có màu hoặc không có màu cỡ nhỏ Cách sử dụng: ghi chép kiến thức lên mặt giấy, luôn đem theo bên mình, xem lại bất cứ khi nào rảnh rỗi. Việc nhắc lại kiến thức một cách liên tục sẽ giúp bạn nhớ được lâu hơn một chút. Soạn ra 1 lịch học học nhất định với tất cả các môn, 1 môn có thời gian học là 45' Mua những sách nâng cao về làm theo đề bài trong sách, không được mua sách giải sẵn Những đối tượng thông tin Toán: công thức, định lý, chứng minh định lý Lý: công thức vật lý, ký hiệu, đơn vị Hoá: tính chất hoá học các nguyên tố, các phản ứng đặc biệt, điều kiện của phản ứng Văn: tiểu sử tác giả, thơ, từ Tiếng Việt, dàn ý tập làm văn Anh: từ vựng, ngữ pháp Sinh: Đặc điểm, chủng loài Sử: mốc thời gian, diễn biến Địa: số liệu, tài liệu Các môn khoa học khác Thí nghiệm, tìm hiểu Rút ra kết luận Tham khảo Nhà phát hành: Nhà sách Quang Minh Có thể viết đi viết lại trên giấy rồi đọc theo từng từ Liên kết ngoài Áp lực học tập trong văn hóa Á Đông Phương pháp giáo dục Trí nhớ
27907
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hans%20Christian%20Andersen
Hans Christian Andersen
Hans Christian Andersen (2 tháng 4 năm 1805 – 4 tháng 8 năm 1875; tiếng Việt thường viết là Han-xơ Crít-xtian An-đéc-xen) là nhà văn người Đan Mạch chuyên viết truyện cổ tích cho thiếu nhi. Trong tiếng Đan Mạch, tên ông thường được viết là H.C.Andersen. Cha của Andersen luôn tin rằng ông có thể có mối quan hệ với dòng dõi quý tộc và theo như một nhà thông thái ở Hans Christian Andersen Center, bà nội của ông từng nói rằng gia đình của họ từng là thuộc giai cấp trên trong xã hội Tuy nhiên, những cuộc nghiên cứu chứng tỏ rằng những câu chuyện trên là vô căn cứ. Gia đình ông có những mối liên hệ với quý tộc Đan Mạch, nhưng đó chỉ là quan hệ về công việc. Tuy nhiên, có thuyết cho rằng Andersen là một đứa con bất hợp pháp của người trong hoàng tộc còn lại ở Đan Mạch., một sự thật ủng hộ cho thuyết này là vua Đan Mạch đã ưu ái Andersen khi ông còn trẻ tuổi và đã trả các khoản tiền học phí cho ông. Nhà văn Rolf Dorset khẳng định rằng điều đó cũng không chứng minh được đó là khoản thừa kế của Andersen. Andersen đã biểu lộ trí thông minh và óc tưởng tượng tuyệt vời của mình khi còn là một cậu bé, tính cách đó được nuôi dưỡng bởi sự nuông chiều của cha mẹ và sự mê tín của mẹ ông. Ông thường tự làm cho mình các món đồ chơi, may áo cho các con rối và đọc tất cả các vở kịch, hầu hết là những vở kịch của William Shakespeare và của Ludvig Holberg. Trong suốt thời thơ ấu, ông có một tình yêu nồng nhiệt đối với văn học. Ông được biết đến vì thuộc làu các vở kịch của Shakespeare và tự trình diễn các vở kịch bằng những con rối gỗ. Ông cũng có hứng thú với nghệ thuật nói đùa, và hỗ trợ trong việc đề xướng ra hội những người thích đùa giữa những người bạn của ông. Năm 1816, cha ông qua đời và cậu bé phải tự đi kiếm sống. Ông làm thợ học dệt vải và cả thợ may, sau đó thì vào làm trong nhà máy thuốc lá. Năm 14 tuổi, Andersen chuyển tới Copenhagen (tiếng Đan Mạch: København) tìm việc làm diễn viên trong các nhà hát. Ông có chất giọng cao và đã được kết nạp vào Nhà hát Hoàng gia Đan Mạch. Sự nghiệp này kết thúc nhanh chóng khi ông vỡ giọng. Một người bạn đã khuyên ông làm thơ. Từ đó, Andersen chuyển hẳn sang viết văn. May mắn, ông đã vô tình gặp được vua Frederik VI của Đan Mạch. Nhà vua rất thích cậu bé kỳ lạ này và đã gửi ông vào một trường học La tinh ở Slagelse.. Trước khi được nhận vào trường học, Andersen đã thành công trong việc xuất bản câu chuyện đầu tiên của ông – The Ghost at Palnatoke's Grave (Bóng ma ở ngôi mộ Palnatoke) vào năm 1822. Mặc dù là một học sinh chậm tiến (có lẽ là không học được) và không thích thú với việc học, Andersen học ở cả Slagelse và ở một trường ở Helsingør cho tới năm 1827. Andersen sau này đã tả những năm tại Slagelse và Helsingør là những năm đen tối nhất trong cuộc đời vì bị hành hạ khi sống trọ tạị nhà người thầy và vì ở cùng các bạn cùng lớp lớn tuổi hơn. Sự nghiệp văn học Năm 1829, nhà hát kịch hoàng gia đã diễn vở nhạc kịch Kjærlighed paa Nicolai Taarn eller Hvad siger Parterret (Tình yêu ở tháp nhà thờ thánh Nicolas) của Andersen. Những năm tiếp theo, ông lại tiếp tục thành công với các vở diễn và câu chuyện của mình. Ông đã đi chu du khắp châu Âu, qua Đức, Thụy Sĩ, Pháp, Ý... nhưng vẫn giữ được niềm đam mê văn học trong suốt cuộc đời mình. Năm 1831, nhiều tác phẩm tiểu thuyết của ông đã được phát hành. Khi đi chu du, Andersen đã gặp được rất nhiều người nổi tiếng đương thời như Victor Hugo, Heinrich Heine, Honoré de Balzac, Alexandre Dumas cha và cả nhà văn Charles Dickens. Cảm giác khác biệt, thường kết thúc trong nỗi đau, là một chủ đề quán xuyến thường tái diễn trong công việc của ông. Chuyện này được cho là do cuộc sống nghèo khổ trước kia, tính giản dị và đặc biệt là trong sự thiếu thốn về đời sống tình yêu và sự lãng mạn. Giới tính của ông gây ít nhiều tranh cãi và được bao gồm trong phần sau. Tuy nhiên, sự hấp dẫn của Andersen lại nằm ở thể loại truyện cổ tích. Năm 1835, ông bắt đầu sáng tác truyện kể nhan đề Chuyện kể cho trẻ em tại Ý. Từ đó, hầu như mỗi năm Andersen cho ra đời một truyện. Ấn bản thứ ba của truyện cổ Andersen, được xuất bản năm 1837, đã mang đến nhiều tác phẩm cổ tích nổi tiếng nhất của ông như "Nàng tiên cá", "Bộ quần áo mới của hoàng đế", "Chú vịt con xấu xí"... Đời sống tình ái Trong nhật ký của mình, Andersen ghi lại là trong thời kỳ mới lớn, ông đã không có quan hệ tình dục với một phụ nữ nàoRecorded using "special Greek symbols".. Andersen thường rơi vào tình yêu đơn phương với một số phụ nữ mà không được đền đáp Tại một thời điểm, ông đã viết trong nhật ký của mình: "Lạy Thiên Chúa Toàn Năng, con chỉ có Chúa mà thôi; Chúa quyết định số phận của con, con phó thác thân con cho Chúa. Xin Chúa hãy ban cho con một sinh kế! Hãy cho con một cô dâu! Máu và trái tim con đều ước ao tình yêu." Một cô gái tên Riborg Voigt là đối tượng yêu đơn phương của Andersen thời trai trẻ. Khi Andersen qua đời, người ta đã tìm thấy một túi nhỏ chứa một lá thư dài của Riborg trên ngực của Andersen. Ngoài Riborg Voigt, Andersen cũng đã đơn phương yêu Sophie Ørsted, con gái của nhà vật lý Hans Christian Ørsted, và Louise Collin, con gái út của Jonas Collin, ân nhân của ông. Truyện Chim họa mi là một biểu hiện bằng văn viết về niềm đam mê của Andersen đối với nữ ca sĩ opera Jenny Lind của Thụy Điển, và đã trở thành nguồn cảm hứng cho biệt danh "Chim họa mi Thụy Điển" của cô. Andersen thường nhút nhát khi tiếp xúc với các phụ nữ nên đã khó ngỏ lời với Jenny Lind. Khi Jenny Lind lên một tàu hỏa để tới dự một buổi hòa nhạc opera, Andersen đã trao cho cô một lá thư tỏ tình; tuy nhiên cô không đáp lại tình yêu của Andersen, mà chỉ coi ông như một người anh kết nghĩa, và năm 1844 cô đã viết cho ông: "... Xin Chúa chúc lành và bảo vệ anh trai của em là mong muốn chân thành của người em gái thân yêu của anh. Jenny. " Do những quan hệ tình cảm của Andersen với vài người nam - như Edvard Collin và Harald Scharff - một vài nhà nghiên cứu về tiểu sử Andersen cho rằng ông là một người đồng tính luyến ái. Ông đã từng viết cho Edvard Collin: "Tôi héo hon vì anh y như một thiếu phụ người xứ Calabria... tình cảm của tôi dành cho anh là tình cảm của một phụ nữ. Nữ tính trong bản chất của tôi và tình bạn của chúng ta phải vẫn là một bí ẩn". Collin, người thích yêu phụ nữ, đã viết trong hồi ký của mình: "Tôi thấy mình không thể đáp lại tình yêu đó, và điều này đã mang lại cho anh ta nhiều đau khổ." Tương tự như vậy, niềm say mê của Andersen đối với nam vũ công Harald Scharff của Đan Mạch và Carl Alexander, công tước trẻ nối ngôi của vùng Saxe-Weimar-Eisenach, đã không mang lại mối quan hệ nào. Một số nhà nghiên cứu thì cho rằng không có bằng chứng nào về các quan hệ đồng giới như vậy của Andersen, và điều đó cũng hoàn toàn trái với ý tưởng đạo đức và tôn giáo của ông. Các mối quan hệ của ông với những người đàn ông khác chỉ là bạn bè, và những đoạn mùi mẫn trong các bức thư nói trên của Andersen có lẽ chỉ là lối nói so sánh ẩn dụ hoa mỹ vốn thường gặp ở các nhà văn đương thời. Từ trần Mùa xuân năm 1872, Andersen bị ngã té từ trên giường nằm và bị thương nặng, không thể hồi phục. Ngay sau đó ông bắt đầu tỏ ra có dấu hiệu của bệnh ung thư gan, và qua đời vào ngày 04.8. 1875, trong ngôi nhà mang tên "Rolighed" (Sự Yên Tĩnh) gần Copenhagen của vợ chồng người bạn thân Moritz Melchior, chủ một ngân hàng. Ngay trước khi qua đời, ông đã nhờ một nhà soạn nhạc viết bài hành khúc đưa tang cho đám tang của mình, và nói: "Phần lớn những người đi sau quan tài của tôi sẽ là những đứa trẻ, vì vậy hãy dùng nhịp điệu với những bước nhỏ". Andersen được mai táng trong Nghĩa trang Assistens ở quận "Nørrebro" của Copenhagen. Vào thời điểm từ trần, Andersen đã nổi tiếng ở trong nước và khắp thế giới. Ngay trước khi ông qua đời, đã tiến hành các bước đầu trong việc dựng một bức tượng lớn để vinh danh ông do nhà điêu khắc August Saabye thực hiện. Bức tượng này ngày nay được đặt trong "Vườn của Nhà Vua" (Kongens Have) ở Copenhagen. Di sản của tác giả Andersen để lại Giải Hans Christian Andersen do "Ban Quốc tế về Sách cho giới trẻ" thiết lập, được trao 2 năm một lần cho tác giả và họa sĩ minh họa của các tác phẩm văn học thiếu nhi xuất sắc. Giải Văn học Hans Christian Andersen, một giải thưởng dành cho các nhà văn quốc tế,được thành lập từ năm 2010 Những truyện của Andersen đã đặt nền tảng cho các truyện thiếu nhi kinh điển khác, chẳng hạn như Wind in the Willows của Kenneth Grahame và Winnie the Pooh của A.A. Milne. Kỹ thuật chế tạo vật bất động - chẳng hạn như đồ chơi - trở thành sống động (ví dụ các hoa của Little Ida) sau này đã được Lewis Carroll và Beatrix Potter sử dụng. Ngày 2 tháng 4 hàng năm - ngày sinh của Andersen - là Ngày Sách Thiếu nhi Quốc tế. Năm 2005 - kỷ niệm 200 năm ngày sinh của Andersen - được Đan Mạch gọi là "Năm Andersen" , và được nhiều nước trên thế giới tưởng niệm. Ở Đan Mạch, một show "Một lần trong cuộc đời" (Once in a lifetime) được tổ chức tại Sân vận động Parken của Copenhagen để tưởng niệm nhà văn Andersen và các tác phẩm của ông. Một công viên giải trí ở Thượng Hải (Trung Quốc) trị giá 13 triệu dollar Mỹ, có các trò chơi dựa trên các truyện của Andersen đã được khai trương vào cuối năm 2006. Các khách trẻ tới thăm công viên này có thể chơi và thi đấu các trò chơi liên quan tới các truyện thần kỳ của Andersen. Thành phố Funabashi của Nhật Bản cũng có một công viên giải trí dành cho thiếu nhi mang tên Andersen. Tại Hoa Kỳ có các tượng Andersen ở Công viên Trung tâm của thành phố New York, ở Công viên Lincoln của thành phố Chicago và ở Solvang, California - một thành phố do các người Đan Mạch lập nên. Phân ban sưu tập Sách hiếm của Thư viện Quốc hội Mỹ có bộ sưu tập các tác phẩm của Andersen do diễn viên người Mỹ gốc Đan Mạch Jean Hersholt hiến tặng, trong đó có một quyển scrapbook do Andersen và Adolf Ludvig Drewsen (1803-1885) làm cho chàng trai trẻ Jonas Drewsen. Phim Vai Andersen trong phim Chim họa mi Thụy Điển (1941) (Die schwedische Nachtigall) của Đức do nam diễn viên Joachim Gottschalk diễn xuất, mô tả mối quan hệ giữa Andersen với nữ ca sĩ opera Jenny Lind của Thụy Điển. Bộ phim Hans Christian Andersen (1952) của Mỹ, mặc dù lấy cảm hứng từ cuộc sống và di sản văn học của Andersen, được cho là không đúng với tiểu sử của Andersen cũng như bối cảnh lịch sử; bộ phim này bắt đầu bằng cách nói rằng "Đây không phải là câu chuyện về cuộc sống của Andersen, nhưng là một câu chuyện thần kỳ về người sáng tạo vĩ đại ra những chuyện thần kỳ". Phim Hans Christian Andersen: My Life as a Fairytale năm 2003 của đạo diễn người Anh Philip Saville tương đối sát với tiểu sử của Andersen hơn. Andersen là một nhân vật quan trọng trong tập "Metal Fish" ở loạt phim truyền hình hoạt họa The Little Mermaid (Nàng tiên cá) của Cty truyền hình "Walt Disney". Năm 1966, hãng Rankin/Bass Productions sản xuất một phim tưởng tượng gọi là The Daydreamer (Người mơ mộng hão huyền), mô tả chàng trai trẻ Hans Christian Andersen hình dung ra trong trí những chuyện mà chàng sẽ viết sau này. Tác phẩm H.C. Andersen xuất bản tác phẩm đầu tiên Ungdoms-Forsøg (Sự thử cố gắng của Tuổi trẻ) vào năm 1822 khi lên 17 tuổi. Sách này được xuất bản dưới bút danh William Christian Walter. Bút danh này được ghép từ chữ William theo tên văn hào William Shakespeare, Christian là tên của ông và Walter theo tên nhà văn Walter Scott. này được tái bản năm 1827 dưới tên "Gjenfærdet ved Palnatokes Grav" (Bóng ma ở ngôi mộ của Palnatoke). Kịch Mulatten (Người lai giữa da trắng và da đen), kịch lãng mạn gồm 5 hồi (1840) info Maurerpigen (Cô gái người maurer), Bi kịch 5 hồi (1840) info Truyện thần kỳ "ABC-Bogen" (Sách ABC) info "Alferne paa Heden" (Các nàng tiên trên vùng truông trảng) info "Alt paa sin rette Plads" (Mọi vật đều đúng chỗ của chúng) info "Anne Lisbeth" (Anne Lisbeth) info "Barnet i Graven" (Đứa bé trong nấm mộ) info "Bedstemoder" (Bà nội) info "Bispen paa Børglum og hans Frænde" (Giám mục ở Børglum và bà con của ông) info "Boghveden" (Lúa kiều mạch) info "Børnesnak" (Cuộc chuyện trò của các trẻ em) info "Dandse, dandse Dukke min!" (Hãy nhảy múa, búp bê của tôi!) info "Danske Folkesagn" (Truyện dân gian Đan Mạch) info "De blaae Bjerge" (Những ngọn núi xanh) info "De røde Skoe" (Đôi giầy màu đỏ) info "De smaa Grønne" (Những cây xanh nhỏ) info "De vilde Svaner" (Những con thiên nga hoang) info "De Vises Steen" (Niềm tin vào cái gì có thể tạo ra điều kỳ diệu) info "Deilig!" (Thật Tốt Đẹp!) info "Den fattige Kone og den lille Canariefugl" (Người phụ nữ nghèo và con chim hoàng yến) info "Den flyvende kuffert (Chiếc va-li bay) | info "Den gamle Gadeløgte" (Ngọn đèn đường phố cũ) info "Den gamle Gravsteen" (Tấm mộ bia cũ) info "Den gamle Gud lever endnu" (Chúa cũ vẫn sống) info "Den gamle Kirkeklokke" (Chuông nhà thờ cũ) info "Den grimme Ælling" (Chú vịt con xấu xí)info "Den lille Havfrue" (Nàng tiên cá) info "Den lille Idas Blomster" (Cây hoa của bé Ida) info "Den lille Pige med Svovlstikkerne" (Cô bé bán diêm) info "Den lykkelige Familie" (Gia đình hạnh phúc) info "Den onde Fyrste" (Ông hoàng độc ác) info "Den sidste Perle" (Viên ngọc cuối cùng) info "Den standhaftige Tinsoldat" (Chú lính chì dũng cảm) info "Den store Søslange" (Con thủy quái lớn) info "Den stumme Bog" (Quyển sách câm) info "Den uartige Dreng" (Cậu bé không ngoan ngoãn) info "Det er Dig, Fabelen sigter til!" (Chuyện ngụ ngôn này nhắm vào anh đấy!) info "Der er Forskjel!" (Có sự khác biệt!) info "Det er ganske vist!" (Rất đúng!) info "Det gamle Egetræes sidste Drøm" (Ước mơ cuối cùng của cây sồi già) info "Det gamle Huus" (Ngôi nhà cũ) info "Det nye Aarhundredes Musa" (Nữ thần nghệ thuật mới của thế kỷ) info "Det sjunkne Kloster (Tu viện bị chìm) info "Det Utroligste" (Điều khó tin nhất) info "Dryaden" (Nữ thần Dryad) info "Dykker-Klokken" (Chuông của thợ lặn) info "Dynd-Kongens Datter" (Con gái của Vua vùng đầm lầy) info "Dødningen" (Xác chết hiện về) info "Een og tredivte Aften (Buổi tối ngày 31) info "Elverhøi" (Gò đất có yêu quái) info "En Historie (Một câu chuyện) info "En Historie fra Klitterne" (Một câu chuyện từ những đụn cát) info "En Rose fra Homers Grav" (Một cây hồng từ mộ của Homer) info "Engelen (Thiên thần) info "Et Billede fra Castelsvolden" (Một hình ảnh từ bờ lũy của Lâu pháo đài) info "Et Blad fra Himlen" (Một lá cây rơi từ trên trời) info "Et Børneeventyr" (Một chuyện thần kỳ của trẻ em) info "Et godt Humeur" (Tâm trạng vui) info "Et Stykke Perlesnor" (Một xâu chuỗi ngọc) info "Fem fra en Ærtebælg" (Năm hạt đậu từ trái đậu) info "Flaskehalsen" (Cái cổ chai) info "Flipperne" (Cổ áo sơ-mi)info "Flyttedagen" (Ngày chuyển nơi cư ngụ) info "Folkesangens Fugl" (Chim dân ca) info "Fra et Vindue i Vartou" (Cảnh nhìn từ cửa sổ ở Vartou) info "Fugl Phønix" (Chim phượng hoàng) info "Fyrtøiet" (Cái đèn bật)info "Gaardhanen og Veirhanen" (Con gà trống ở nông trại và con gà trống trên chong chóng gió) info "Gartneren og Herskabet" (Người trồng vườn và gia chủ) info "Gjemt er ikke glemt" (Giấu đi là không quên) info "Grantræet" (Cây vân sam) info "Gudfaders Billedbog" (Quyển sách ảnh của cha đỡ đầu) info "Guldskat" (Kho vàng) info "Gaaseurten" (Cây cúc cam) info "Herrebladene" (Những lá bài K, Q, J) info "Historien om en Moder" (Chuyện về một người mẹ) info "Hjertesorg" (Sự đau lòng) info "Holger Danske" (Holger Danske) info "Hun duede ikke" (Cô ấy không đủ khả năng) info "Hurtigløberne" (Những kẻ chạy nhanh) info "Hvad Fatter gjør, det er altid det Rigtige" (Điều mà người cha và chủ gia đình làm thì luôn luôn đúng) info "Hvad gamle Johanne fortalte" (Điều mà bà già Johanne nói) info "Hvad hele Familien sagde" (Điều mà cả gia đình đều nói) info "Hvad man kan hitte paa" (Điều mà người ta có thể nghĩ ra) info "Hvad Tidselen opleved" (Sự việc mà cây Kế gai trải qua) info "Hvem var den Lykkeligste?" (Ai là người hạnh phúc nhất?) info "Hyldemoer" (Mẹ cây cơm cháy) info "Hyrdinden og Skorsteensfeieren" (Cô mục đồng và người quét ống khói) info "Hønse-Grethes Familie" (Gia đình Gà Grethes) info "Hørren" (Cây lanh) info "I Andegaarden" (Ở sân nuôi vịt) info "I Børnestuen" (Trong phòng trẻ em) info "Ib og lille Christine" (Ib và bé Christine) info "Iisjomfruen" (Cô Băng đồng trinh) info "Jødepigen" (Cô gái Do Thái) info "Kartoflerne" (Những củ khoai tây) info "Keiserens nye Klæder" (Bộ quần áo mới của hoàng đế) info "Kjærestefolkene" (Những cặp tình nhân) info "Klods-Hans" (Chàng Hans vụng về) info "Klokkedybet" (Đáy chuông) info "Klokken" (Cái chuông) info "Kometen" (Sao chổi) info "Krøblingen" (Người què quặt) info "Laserne" (Những giẻ rách) info "Lille Claus og store Claus" (Claus nhỏ và Claus lớn) info "Lille Tuk" (Bé Tuk) info "Loppen og Professoren" (Con bọ chét và ông giáo sư) info "Lygtemændene ere i Byen, sagde Mosekonen" (Bà già ở vùng đầm lầy nói rằng Ma trơi đang ở trong thành phố) info "Lykken kan ligge i en Pind" (Vận may có thể nằm ở một cái que) info "Lykkens Kalosker" (Đôi giầy cao su mang lại hạnh phúc) info "Lysene" (Những cây nến) info "Man siger" (Người ta nói rằng) info "Marionetspilleren" (Người diễn trò búp bê múa rối) info "Metalsvinet" (Con heo bằng kim loại) info "Moster" (Người Dì) info "Nabofamilierne" (Các gia đình hàng xóm) info "Nattergalen" (Chim họa mi (truyện thần kỳ)|Chim họa mi) info "Nissen hos Spekhøkeren" (Thần tí hon ở tiệm bán thức ăn nguội chế biến sẵn) in "Nissen og Madamen" (Thần tí hon và bà vợ người làm vườn) info "Noget (Một cái gì đó) info "Oldefa'er" (Cụ ông) info "Ole Lukøie" (Ông ba bị) info "Om Aartusinder" (Một thiên niên kỷ nữa) info "Paradisets Have" (Vườn địa đàng) info "Pebersvendens Nathue" (Chiếc mũ ban đêm của người đàn ông lớn tuổi độc thân) info "Peiter, Peter og Peer" (Peiter, Peter và Peer) info "Pen og Blækhuus" (Cái bút và lọ mực) info "Pengegrisen" (Con heo đất đựng tiền tiết kiệm) info "Pigen, som traadte paa Brødet" (Cô gái giẫm lên ổ bánh mì) info "Portnerens Søn" (Con trai của người gác cổng) info "Portnøglen" (Chìa khóa cổng) info "Prindsessen paa Ærten" (Nàng công chúa nằm trên hạt đậu) info "Psychen" (Tâm trạng) info "Paa den yderste Dag" (Vào ngày phán xét cuối cùng) info "Qvæk" (Tiếng quạc quạc) info "Reisekammeraten" (Người bạn đồng hành) info "Rosen-Alfen" (Vị tiên nhỏ trên cây hoa hồng) info "Skarnbassen" (Con bọ xít) info "Skriveren" (Người viết chữ) info "Skrubtudsen" (Con cóc tía) info "Skyggen (eventyr)|Skyggen (Chiếc bóng) info "Sneedronningen" (Bà chúa Tuyết) info "Sneemanden" (Người tuyết) info "Sneglen og Rosenhækken" (Con sên và hàng cây hoa hồng) info "Solskins-Historier" (Những câu chuyện của tia nắng) info "Sommerfuglen" (Con bướm) info "Sommergjækken" (Cuộc trêu ngươi mùa hè) info "Springfyrene" (Những con vật biết nhảy) info "Spørg Amagermo'er" (Hãy hỏi bà mẹ Amager) info "Stoppenaalen (Kim để vá quần áo) info "Storkene" (Những con cò) info "Stormen flytter Skilt" (Trận bão di chuyển tấm biển hiệu) info "Suppe paa en Pølsepind" (Chuyện bé xé ra to) info "Svanereden" (Tổ chim thiên nga) info "Svinedrengen (Cậu bé chăn heo) info "Svinene" (Những con heo) info "Sølvskillingen" (Đồng xu bằng bạc) info "Talismanen" (Lá bùa) info "Tante Tandpine" (Người thím đau răng) info "Temperamenterne" (Những loại tính khí) info "Theepotten" (Bình nước trà) info "To Brødre" (Hai anh em) info "To Jomfruer" (Hai cô gái đồng trinh) info "Tolv med Posten" (Mười hai người đưa thư lúc 12 giờ) info "Tommelise" (Tommelise) info "Taarnvægteren Ole" (Ole, người canh gác tháp) info "Tællelyset" (Ngọn nến làm bằng mỡ bò) info "Ugedagene" (Các ngày trong tuần) info "Under Piletræet" (Dưới cây liễu) info "Urbanus" (Urbanus) info "Vanddraaben" (Giọt nước) info "Ved det yderste Hav" (Ở vùng biển cực xa) info "Veirmøllen" (Cối xay gió) info "Venskabs-Pagten" (Hiệp ước hữu nghị) info "Verdens deiligste Rose" (Cây hoa hồng đẹp nhất thế giới) info "Vinden fortæller om Valdemar Daae og hans Døttre" (Gió nói về Valdemar Daae và cô con gái của ông) info "Vor gamle Skolemester" (Thầy giáo cũ của chúng tôi) info "Vænø og Glænø" (Đảo Vænø và đảo Glænø) info "Æblet" (Trái táo) info "Ærens Tornevei" (Con đường chông gai của danh vọng) info "Aarets Historie (Chuyện của năm) info Tiểu thuyết "At være eller ikke være" (Hiện hữu hay không hiện hữu) info "De to Baronesser" (Hai bà nam tước) info "Improvisatoren" (Người ứng tác) info Kun en Spillemand (Chỉ một người chơi) info "Lykke-Peer" (Peer hạnh phúc) info "O. T." (viết tắt của tên Otto Thostrups, nhân vật chính và "Odense Tugthus" = nhà trừng giới Odense) info Ký sự du hành "En Digters Bazar" (Tiệm tạp hóa của nhà thơ) info "Et Besøg i Portugal 1866" (Cuộc viếng thăm Bồ Đào Nha năm 1866) info "I Spanien" (Ở Tây Ban Nha) info "I Sverrig" (Ở Thụy Điển) info "Skyggebilleder af en Reise til Harzen, det sachsiske Schweitz etc. etc., i Sommeren 1831" (Những hình bóng của chuyến đi tới vùng Harz (Đức), một Thụy Sĩ của vùng Sachsen vv...) info Tự truyện Das Märchen meines Lebens ohne Dichtung, tháng Giêng và tháng 2 năm 1847 (tiếng Đức) Mit Livs Eventyr (Cuộc phiêu lưu của đời tôi), Nhà xuất bản. C.A. Reitzels, Copenhagen, 19.7.1855 The Story of My Life, 1871 (tiếng Anh) Levnedsbog (Sách về lối sống), 1929 Thơ Barn Jesus i en Krybbe laae (Chúa Giêsu Hài Đồng nằm trong máng cỏ) info Danmark mit fædreland (Đan Mạch, tổ quốc của tôi) info Det døende Barn (Đứa bé nằm chờ chết) info "Hvor Skoven dog er frisk og stor" (Rừng này lớn và xanh tươi biết bao) info Jeg har en Angst som aldrig før (Tôi có nỗi sợ chưa từng có) info Jylland — Jylland mellem tvende Have (Jylland — Jylland giữa hai biển) info Konen med Æggene (Bà vợ và những trái trứng) info Moderen med Barnet (Mẹ với con) info "Rolighed" (Sự Yên tĩnh) tekst Đánh giá Ông được sánh ngang với những bậc danh nhân văn hóa của nhân loại. Tác phẩm của ông được dịch ra 90 thứ tiếng, xuất bản gần 500 lần với hơn 70000000 bản . Đó là những cuốn sách bán chạy nhất hành tinh. Sau đây là lời nhận định của các nhà nghiên cứu Việt Nam về Anđécxen: "Bằng sức mạnh của ngôn từ hiếm có, trí tưởng tượng nhiệm màu mà trong sáng, cốt truyện hấp dẫn, lối kể chuyện có duyên, pha lẫn giữa bút pháp hiện thực và huyền ảo, tác phẩm của Anđécxen đã đạt đến sự hoàn hảo của một nghệ sĩ "độc nhất vô nhị, trước và sau ông chưa hề có". " Nhà văn Nga Konstantin Georgiyevich Paustovsky nhận định: " Trong mỗi truyện cổ tích cho trẻ con của Anđécxen còn có một truyện cổ tích khác mà người lớn mới có thể hiểu hết ý nghĩa của nó". Tham khảo Liên kết ngoài The Story of My Life (1871) by Hans Christian Andersen - English And the cobbler's son became a princely author Details of Andersen's life and the celebrations Hans Christian Andersen i Dansk Biografisk Leksikon, 1887 Hans Christian Andersen i Salmonsens konversationsleksikon, 1915 Hans Christian Andersen i Vilhelm Østergaard, Danske Digtere i det 19de Aarhundrede, 1907 Trung tâm Hans Christian Andersen – có nhiều câu chuyện bằng tiếng Đan Mạch và Anh Hai trăm năm của Hans Christian Andersen của Công ty Truyền hình Đan Mạch (DR) – website nổi tiếng có rất nhiều âm thanh chuyện tiên và phương tiện hoạt động bằng tiếng Đan Mạch và Anh Ngày hội Hai trăm năm của Hans Christian Andersen 2005 – website chính thức Hans Christian Andersen Information Bài cơ bản dài trung bình Nhà thơ Đan Mạch Sinh năm 1805 Mất năm 1875 Người song tính nam Nhà văn song tính Nhà thơ LGBT Người từ Odense
27923
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%85%20c%C6%B0%E1%BB%9Bi
Lễ cưới
Lễ cưới (hay hôn lễ, đám cưới, lễ đường) là một phong tục văn hóa trong hôn nhân nhằm thông báo rộng rãi về sự chấp nhận và/hoặc sự chứng kiến của gia đình, xã hội hay tôn giáo về cuộc hôn nhân của một cặp đôi. Lễ cưới được hiểu là một nghi lễ, và thường kết hợp với một tiệc cưới để trở thành đám cưới hoặc lễ thành hôn. Việt Nam Trước đây, người Việt gọi lễ này là lễ rước dâu. Ngày nay, trong ngôn từ của đời sống thường ngày, người ta gọi lễ này là lễ cưới, hôn lễ. Đây là hình thức liên hoan, mừng hạnh phúc cô dâu, chú rể và hai gia đình. Đây là nghi lễ được một số xã hội quan tâm và thường chỉ được tổ chức sau khi đã được chính quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn. Trong tâm thức người Việt thì lễ cưới có giá trị cao hơn cả giấy chứng nhận đăng ký kết hôn. Sự quan tâm lớn của xã hội vào buổi lễ này đôi khi gây sức ép lên những người tổ chức: họ phải đảm bảo để có thể làm hài lòng nhiều người tham dự. Lễ cưới của người Việt có nhiều thủ tục gồm: Lễ dạm ngõ Lễ ăn hỏi Lễ rước dâu Tiệc cưới Lại mặt Lễ cưới của người Việt thường phải xem ngày tốt để tiến hành các thủ tục như ngày tổ chức, ngày rước dâu về nhà chồng. Đây là một sự tin tưởng chuyện vui được cử hành ngày lành tháng tốt thì sẽ mang đến hạnh phúc và bình an cho cô dâu, chú rể. Họ nhà trai sẽ phải chuẩn bị đầy đủ lễ vật (như là bánh phu thê, rượu, trầu cau, trái cây,...) và sang họ nhà gái đúng ngày giờ đã xem. Các thủ tục như cha mẹ chú rể sẽ nói lời để xin con dâu với họ nhà gái, cô dâu - chú rể lạy bàn thờ tổ tiên, mời rượu cha mẹ hai bên và cha mẹ, họ hàng, anh chị em thân thiết có thể tặng quà mừng cho đôi vợ chồng mới cưới vào lúc này,...sẽ được tiến hành trước khi rước dâu về nhà chồng. Lễ cưới cũng có thể được tổ chức tại nhà thờ (dành cho những gia đình theo đạo Công giáo Rôma) hay tại chùa (cho những gia đình Phật giáo). Cũng đã có những nỗ lực nhằm sáng tạo một biểu trưng cưới hỏi ở Việt Nam như đôi chim bồ câu, quả cau lá trầu, song biểu trưng thường gặp, cô đúc nhất về ngữ nghĩa trong lễ cưới ở Việt Nam xưa nay vẫn là chữ song hỷ. Đây là biểu trưng xuất xứ từ phong tục cưới hỏi Trung Quốc, với ý nghĩa trước kia thể hiện hai niềm vui lớn: đại đăng khoa (thi đỗ làm quan) và tiểu đăng khoa (cưới vợ), nay song hỷ biểu thị niềm vui chung của hai họ. Nhiều người Việt không hiểu chữ Hán nhưng khi nhìn vào chữ này cũng biết những nơi dán biểu trưng này đang có đám cưới. Cũng co 1 thể dùng chữ Lễ Tân hôn cho nhà trai hay Lễ Vu quy cho nhà gái. Trong lễ cưới Việt Nam, thông thường sẽ có một bữa tiệc được tổ chức ở nhà hàng hoặc tại gia để mời bạn bè đến chung vui. Những người tham dự thường đem tặng các đồ mừng đám cưới hoặc tiền mừng. Quà cưới thường trang trọng, được bọc giấy điều, tiền có thể được bỏ vào bì thư đỏ. Trong đám cưới, ban lễ tân (thường là người thân của chú rể hay cô dâu) đứng ra nhận quà mừng. Có những đám cưới tổ chức tiệc trà, đơn giản hơn tiệc cưới thông thường, có ý không yêu cầu người tham dự mang quà mừng. Trong cuộc sống hiện đại, nhiều đôi dâu rể còn thường chụp ảnh kỷ niệm trước lễ cưới tại các ảnh viện hoặc chụp ngoại cảnh. Trong đám cưới thì thường chụp ảnh và quay phim. Và sau lễ cưới thì đôi vợ chồng trẻ có thể đi hưởng tuần trăng mật (đây là một hình thức được du nhập từ các nước phương Tây). Người Hoa Lễ cưới người Hoa cũng phức tạp và nhiều nghi Lễ. Theo nghi thức truyền thống thì cô dâu va chú rể sẽ che mặt bằng khăn màu đỏ, đeo bông. Được mang kiệu rước đi, sau đó làm lễ bái đường để chính thức trở thành vợ chồng. Nghi lễ gồm: Nhất bái thiên địa, nhị bái cao đường, phu thê giao bái. Và cuối cùng là đưa vào động phòng, chú rể sẽ mở khăn che mặt của cô dâu ra và động phòng. Phương Tây Đám cưới truyền thống của phương Tây thông thường tổ chức tại nhà thờ có sự chứng kiến của người thân, bạn bè và một linh mục. Thông thường những cặp cô dâu, chú rể lần đầu làm đám cưới thì sẽ theo nghi thức này (vì do lời thề chung sống trọn đời, nên những người tái hôn sẽ không làm lễ ở nhà thờ nữa). Theo nghi lễ, chú rể và cô dâu (thường cầm theo bó hoa) sẽ dắt tay nhau vào nhà thờ và thề trước người cha xứ. Người cha xứ sẽ tuần tự hỏi từng người: Con có đồng ý lấy anh ấy/cô ấy không? có trọn đời yêu thương, chung thủy với anh ấy/cô ấy không?. Sau khi hai người trả lời "Con đồng ý" thì người cha tuyên bố từ nay hai người là vợ chồng. Sau đó chú rể trao nhẫn cưới và cả hai trao nhau nụ hôn trước tràng vỗ tay của mọi người. Ngoài ra khi kết thúc việc tổ chức đám cưới thường cô dâu chú rể sẽ tung hoa cưới cho bạn bè hoặc anh em trong nhà. Âm nhạc Có lời Cười lên đi em (Only C) Cưới nhau đi (Châu Đăng Khoa) Em mơ làm cô dâu (Long Họ Huỳnh) Mãi mãi bên nhau (Đỗ Hiếu) Mùa xuân cưới em (Mặc Thế Nhân) Nắm lấy tay anh (Tú Dưa) Xin Mẹ (Ngọc Kôn) Không lời Wedding day at Troldhaugen (Edvard Grieg) Wedding march (Hành khúc đám cưới) (Felix Mendelssohn) Xem thêm Ngày kỷ niệm cưới Lễ ăn hỏi Lễ cưới người Việt Lễ cưới truyền thống Ba Lan Tiệc cưới Chụp ảnh cưới Nhà nguyện lễ cưới Đám cưới của những đám cưới Tảo hôn Tham khảo Liên kết ngoài Lễ cưới Nghi lễ Tiệc Nhân loại học
27986
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%8Bch%20s%E1%BB%AD%20ki%E1%BA%BFn%20tr%C3%BAc
Lịch sử kiến trúc
Lịch sử kiến trúc nghiên cứu sự phát triển và lịch sử của nền kiến trúc thế giới thông qua việc nghiên cứu các ảnh hưởng ở các góc độ khác nhau như nghệ thuật, văn hoá, chính trị kinh tế và kĩ thuật. Nhìn chung, nhiệm vụ của lịch sử kiến trúc là phải xây dựng được mối quan hệ giữa ý nghĩa biểu cảm vô hình của công trình kiến trúc (ngữ nghĩa, chức năng, biểu tượng...) với sự thể hiện hữu hình của các đối tượng kiến trúc (kích thước, vật liệu, thành phần của kiến trúc...) và đặt vào trong một nghiên cứu tổng thể của thời điểm lịch sử. Lịch sử kiến trúc, cũng như bất kì một ngành nghiên cứu lịch sử có nguyên tắc nghiên cứu về sự giới hạn và sự tiềm ẩn của lịch sử. Điều đó có nghĩa là dưới một cùng một sự kiện chúng ta có thể có nhiều cách nhìn nhận và suy diễn khác nhau, phụ thuộc vào hoàn cảnh quan sát. Từ đó cho phép nảy sinh ra một số lượng lớn các quan điểm nghiên cứu về lịch sử kiến trúc, đặc biệt ở phương Tây Vào thế kỉ 19, kiến trúc Cổ điển được nhìn nhận từ góc độ hình thức, nhất mạnh xuống đặc điểm hình thái của hình thức, kĩ thuật và vật liệu. Thời kì này cũng chứng kiến sự xuất hiện các kiến trúc sư riêng lẻ, sự pha trộn của các luồng tư tưởng mà sau này sẽ trở thành chủ đề cho các phong trào nghệ thuật. Trên những bình diện đó, lịch sử kiến trúc là một nhánh phân ngành của lịch sử nghệ thuật, tập trung vào lịch sử phát triển tiến hóa của các nguyên tắc và phong cách thiết kế công trình và thiết kế đô thị. Dưới ảnh hưởng của sự đa nguyên Hậu Hiện đại, các nhà lý thuyết gần đây cố gắng mở rộng kiến trúc ra những diễn dịch mới đa dạng hơn. Những lý thuyết ngôn ngữ (linguistic) thịnh hành trong giữa thập niên 1990 cố gắng nhìn nhận các thành tố kiến trúc nhưng một ngôn ngữ độc lập, đóng góp và sự phát triển của Lý luận Phê bình (Critical Theory). Các nghiên cứu về Chú giải Ngôn ngữ (Hermeneutics) đóng góp những khía cạnh khác cho lịch sử kiến trúc và các bản tính trọng điểm của kiến trúc được xem như những hiện tượng. Tất cả đều tìm cách tiếp cận và xác định kiến trúc như một dạng của ngôn ngữ. Hai cách nhìn nhận đó khác nhau ở các khái niệm tham khảo, trong khi Lý thuyết Phê bình chủ yếu mang tính tự tham chiếu các đặc điểm cá nhân (seft-referential), còn Chú giải ngôn ngữ nặng về nghiên cứu bối cảnh tình huống (contextual). Xu thế chung của thời đại có thể xem như một phản ứng với các quan điểm siêu hình, nặng tính lý thuyết trước đó, cũng những ưu thế của những biểu hiện siêu hiện đại trong quá trình toàn cầu hóa, hậu tư bản (late capitalism) và dân chủ tự do mới (neo-liberal democracy). Sự gia tăng nhận thức dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa thuộc địa cũng thúc đẩy quá trình xem xét lại về kiến trúc ở các quốc gia thuộc địa hóa và tìm kiếm sự giải phóng khỏi những quan điểm lý thuyết và thực hành không phù hợp của phương Tây. Dưới ảnh hưởng của quá trình thuộc địa và sự ưu thế của văn hóa phương Tây, vấn đề lại càng trở nên phức tạp hơn. Các nhà viết sử Hậu Hiện đại đang cố gắng xác định cốt lõi của vấn đề. Tuy nhiên do tầm vóc quá lớn, người ta vẫn chưa tìm thấy được một sự đồng thuận của các nhà viết sử, thậm chí quan điểm của cá nhân đôi khi cũng không thống nhất, biến đổi theo thời gian. Nhưng có thể nói rằng, lịch sử kiến trúc phản ánh sự phát triển chung của lịch sử nhân loại. Thời kì đồ đá Xem bài chính:Kiến trúc thời kì đồ đá Ở Tây Nam Á, thời kì đồ đá trong lịch sử kiến trúc bắt đầu từ khoảng 10000 năm trước Công nguyên ở vùng Cận Đông (levant), từ thời kì Tiền đồ sứ Đồ đá mới A và Tiền đồ sứ Đồ đá mới B (Pre-Pottery Neolithic A/Pre-Pottery Neolithic B) và mở rộng ra hướng đông và hướng tây. Thời kì văn minh Đồ đá mới ở Đông nam Anatolia, Syria và Iraq vào khoảng 8000 năm trước Công nguyên. Hình thái xã hội hái lượm bắt đầu từ 7000 năm trước Công nguyên ở Đông Nam châu Âu, và ở Trung Âu vào khoảng 5500 năm trước Công nguyên. Ở châu Mỹ và châu Đại dương, người thổ dân bản địa vẫn còn ở thời kì đồ đá cho đến khi người châu Âu khám phá ra họ. Các cư dân thời Đồ đá ở Cận Đông, Anatolia, Syria, phía nam bình nguyên Lưỡng Hà và Trung Á là những nhà xây dựng vĩ đại. Họ đã biết sử dụng gạch-bùn để xây nhà ở và các ngôi làng. Ở Çatalhöyük, người ta đã biết trang trí nhà cửa với những tranh vẽ tạo hình người và thú vật. Ở Trung Âu, các căn nhà dài bằng phên liếp đã được xây dựng. Các khu mộ tỉ mỉ cũng được cũng xây dựng. Đặc biệt, ngày nay vẫn còn hàng ngàn ngôi mộ như vậy ở Ireland. Người thời Đồ đá mới ở quần đảo Anh cũng xây dựng những nấm mồ và phòng mộ cho mình và các trại tường đất đắp (causewayed camps), các vòng tròn đá (henges flint mines) và các đài đá lớn hình tròn (cursus monuments). Kiến trúc Cổ đại Kiến trúc Ai Cập cổ đại Xem bài chính:Kiến trúc Ai Cập cổ đại Nhà nước Ai Cập cổ đại là một trong những nhà nước ra đời sớm nhất ở lưu vực sông Nil vùng đông bắc châu Phi. Nền văn minh Ai Cập cổ đại là một trong những nền văn minh cổ xưa nhất và rực rỡ nhất của nhân loại. Những người Ai Cập cổ đại đã để lại cho hậu thế một di sản kiến trúc đồ sộ, trong số đó như tượng Nhân sư Spinx và các Kim tự tháp là những công trình kiến trúc đồ sộ nổi tiếng trên toàn thế giới. Kiến trúc Ai Cập cổ đại chủ yếu là các đền đài tôn giáo với các cấu trúc khổng lồ và sự thần bí của không gian, được xác định bởi các bờ tường dày và dốc với ít lỗ mở. Đây có thể là ảnh hưởng từ phương pháp xây dựng cũ để tạo độ ổn định của tường bằng bùn. Tương tự như vậy, các vệt khắc chạm trên bề mặt và các chi tiết trang trí bề mặt tường công trình bằng đá có thể xuất phát từ cách trang trí cho tường bùn đất. Mặc dù, kết cấu vòm được phát triển trong triều đại thứ tư, tất cả các công trình khổng lồ đều sử dụng kết cấu lanhtô và cột trụ, với mái bằng xây dựng từ các tảng đá khổng lồ đỡ bằng tường ngoài và các cột xếp gần sát nhau. Kiến trúc Lưỡng Hà Xem bài chính:Kiến trúc Lưỡng Hà Kiến trúc Hy Lạp cổ đại Xem bài chính:Kiến trúc Hy Lạp cổ đại Kiến trúc Hy Lạp cổ đại ra đời và hình thành trên một vùng đất đai rộng lớn, bao gồm miền Nam bán đảo Balkans, các đảo nhỏ ở vùng biển Aegaeum (Αιγαίον, Aigaion), khu vực Tiểu Á, vùng ven Hắc Hải, Ý, Sicilia, Pháp, Tây Ban Nha và Ai Cập. Kiến trúc La Mã cổ đại Xem bài chính:Kiến trúc La Mã cổ đại Kiến trúc Byzantine Xem bài chính:Kiến trúc Byzantine Là một phong cách kiến trúc xuất phát từ Constantinopolis, thủ đô của đế chế La mã phương Đông (330-1453). Kiến trúc Ba Tư xem bài:Kiến trúc Iran Kiến trúc Á Đông Kiến trúc truyền thống Á Đông phần nhiều bị ảnh hưởng bởi phong cách kiến trúc của Trung Hoa, nền văn minh lâu đời nhất ở Đông Á. Các công trình kiến trúc Á Đông truyền thống thường sử dụng gỗ làm vật liệu chính để xây dựng hệ kết cấu chịu lực cho công trình và dùng sức nặng từ mái ngói của công trình để tạo sự chắc chắn. Tại từng quốc gia và từng thời kỳ mà phong cách kiến trúc có sự thay đổi nhất định. Trong thời kỳ hiện đại, kiến trúc Á Đông đã ít sử dụng gỗ hơn và du nhập nhiều ảnh hưởng từ kiến trúc phương Tây cũng như phong cách kiến trúc hiện đại trên toàn thế giới để dùng trong cuộc sống thường nhật. Tuy nhiên các quốc gia như Trung Quốc và Nhật Bản vẫn bảo lưu được rất nhiều những công trình kiến trúc đặc sặc mang phong cách truyền thống Á Đông. Lịch sử kiến trúc châu Âu Kiến trúc thời Trung cổ Các kiến trúc thế tục còn tồn tại chủ yếu là liên quan đến quốc phòng, chủ yếu là các lâu đài. Kiến trúc tiền La Mã Kiến trúc La Mã Kiến trúc La Mã là thời kỳ kiến trúc phổ biến tại châu Âu vào thế kỷ 11 và 12 Kiến trúc Gothic Kiến trúc thời Phục Hưng Kiến trúc Baroque Kiến trúc Rococo Kiến trúc Tân cổ điển Kiến trúc Hiện đại Kiến trúc Biểu hiện Kiến trúc Quốc tế Kiến trúc Hậu Hiện đại Phi kiến trúc Chú thích Tham khảo Braun, Hugh, An Introduction to English Mediaeval Architecture, London: Faber and Faber, 1951. Francis Ching, Mark Jarzombek, Vikram Prakash, A Global History of Architecture, Wiley, 2006. Copplestone, Trewin. (ed). (1963). World architecture - An illustrated history. Hamlyn, London. Hitchcock, Henry-Russell, The Pelican History of Art: Architecture: Nineteenth and Twentieth Centuries, Penguin Books, 1958. Nuttgens, Patrick (1983), The Story of Architecture, Prentice Hall, ISBN Watkin, David (Sep 2005), A History of Western Architecture, Hali Publications, ISBN Modernism Banham, Reyner, (1 Dec 1980) Theory and Design in the First Machine Age Architectural Press. Curtis, William J. R. (1987), Modern Architecture Since 1900, Phaidon Press Frampton, Kenneth (1992). Modern Architecture, a critical history. Thames & Hudson- Third Edition. Jencks, Charles, (1993) Modern Movements in Architecture. Penguin Books Ltd - second edition. Pevsner, Nikolaus, (28 Mar 1991) Pioneers of Modern Design: From William Morris to Walter Gropius, Penguin Books Ltd. Sir Banister Fletcher's a History of Architecture Fletcher, Banister; Cruickshank, Dan, Architectural Press, 20th edition, 1996. ISBN 0-7506-2267-9 Liên kết ngoài The Society of Architectural Historians web site The Society of Architectural Historians of Great Britain web site The Society of Architectural Historians, Australia and New Zealand web site European Architectural History Network web site Western Architecture Timeline Lịch sử kiến trúc Thiết kế kiến trúc Khoa học bổ trợ của lịch sử
27991
https://vi.wikipedia.org/wiki/Antonio%20Sant%27Elia
Antonio Sant'Elia
Antonio Sant'Elia (30 tháng 4 năm 1888 – 10 tháng 10 năm 1916), sinh ra tại Como, Lombardy, là một kiến trúc sư người Ý. Elia mở văn phòng thiết kế tại Milano năm 1912 và gia nhập Chủ nghĩa vị lai. Từ năm 1912 đến 1914, Elia bị ảnh hưởng của Otto Wagner và Adolf Loos cũng như các thành phố công nghiệp của Mỹ, ông bắt đầu một loạt các thiết kế cho đồ án "Thành phố mới" (Città Nouva) được coi như một biểu tượng của tương lai. Rất nhiều bản vẽ đã được ra mắt lần đầu và cũng là lần duy nhất tại triển lãm vào tháng 5 và 6 năm 1914 của nhóm Khuynh hướng mới (Nouve Tendenze) mà Elia là thành viên. Ngày nay, các bản vẽ được trưng bày tại Villa Olmo, gần Como. Elia được cho là tác giả của Bản tuyên ngôn của kiến trúc vị lai, xuất bản tháng 8 năm 1914. Đây là một chủ đề tranh cãi vào giai đoạn đó. Trong đó, tác giả viết "Giá trị trang trí của kiến trúc tương lai phụ thuộc duy nhất vào việc sử dụng và bố cục của các loại vật liệu màu sắc mạnh mẽ, nguyên thủy và trần trụi". Tương tự bản tuyên ngôn, đặc điểm kiến trúc của Elia là sự mạnh mẽ của tập hợp khối, các diện tấm lớn tạo ra phong cách biểu cảm oai hùng mang tính công nghiệp. Quan điểm của ông là một sự công nghiệp hóa cao độ của thành phố tương lai. Đó không chỉ là một tập hợp số lượng lớn của nhiều đơn vị nhà ở các thể độc lập, mà đó là một cấu trúc khổng lồ đa tầng, các đô thị liên kết tương tác, tích hợp thành một chuỗi đô thị, xem như "sinh lực" của đô thị. Các thiết kế của ông biểu lộ rõ đặc trưng của các nhà chọc trời với hình khối lớn, thô ráp, với các sân thượng, cầu và hành lang giao thông trên cao, biểu lộ sự khởi phát cuồng nhiệt của kiến trúc và kỹ thuật hiện đại. Ông vừa là một người theo chủ nghĩa xã hội vừa là một người theo chủ nghĩa phục quốc, Sant'Elia gia nhập quân đội Ý trong Chiến tranh thế giới thứ nhất năm 1915 và bị giết tại Monfalcone năm 1916. Hầu hết các thiết kế của ông không được xây dựng, nhưng quan điểm và cách nhìn của ông có ảnh hưởng đến các thế hệ kiến trúc sư sau này. Một trong số đó là nhóm Archigram. Tác phẩm La Citta Nuova (Thành phố mới), 1914 Tham khảo Liên kết ngoài Antonio Sant'Elia – Museo Virtuale – bảo tàng điện tử (tiếng Ý) Trang web về Elia bằng tiếng Ý Sant'Elia, Antonio Sant'Elia, Antonio Sinh năm 1888 Mất năm 1916
27993
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tange%20Kenzo
Tange Kenzo
là một kiến trúc sư người Nhật. Ông được coi là một trong số những người làm nên bộ mặt của kiến trúc thế kỉ 20. Tange sinh ra tại một làng quê nhỏ tại Imabari, đảo Shikoku, Nhật Bản. Bị quyến rũ bởi những bản vẽ của Le Corbusier, ông theo học khoa kiến trúc, Đại học Tokyo. Năm 1946, Tange trở thành trợ lý giáo sư tại Đại học Tokyo và thành lập xưởng thực nghiệm Tange. Trong số những sinh viên của ông có Maki Fumihiko, Kamiya Koji, Isozaki Arata, Kurokawa Kisho và Taneo Oki. Năm 1951, Tange thắng cuộc thi tái thiết thành phố Hiroshima. Công trình công viên Hòa bình và Trung tâm là biểu tượng cho sự hòa bình lâu dài của thành phố. Năm 1959, ông hoàn thành luận án tiến sĩ với đề tài "Cấu trúc không gian một đô thị lớn", một diễn giải cho cấu trúc đô thị dựa trên nền tảng của lộ trình giao hoán của con người từ nhà đến nơi làm việc và ngược lại. Dự án Vịnh Tokyo 1960 của nhóm Tange là một câu trả lời hợp lý cho các vấn đề trên, thông qua việc xem xét bản chất tự nhiên của cấu trúc đô thị, từ đó cho phép phát triển và thay đổi. Đồ án này nhận được sự quan tâm trên toàn thế giới, với những ý tưởng mới về việc phát triển đô thị trên mặt vịnh Tokyo, cùng với việc sử dụng các cầu, các đảo nhân tạo, các bãi đỗ xe nổi... Tất cả được tích hợp trong một cấu trúc hạ tầng khổng lồ với các đối tượng là các modun cài cắm (plug-in). Đồ án "Vịnh Tokyo 1960" được xem là một mẫu mực điển hình cho sự phát triển của học thuyết Siêu cấu trúc giai đoạn đó (Megastructure) và được coi là đồ án kinh điển của chủ nghĩa không tưởng. Năm 1961, Tange Kenzo thắng giải trong cuộc thi thiết kế sân vận động Quốc gia Yoyogi cho Thế vận hội Mùa hè 1964 tại Tokyo. Công trình này được coi là một trong số những công trình đẹp nhất thế kỉ 20. Phong cách kiến trúc của ông là sự pha trộn hài hòa giữa kiến trúc hiện đại và kiến trúc cổ truyền Nhật Bản. Ông là giáo sư thỉnh giảng của nhiều trường đại học Âu - Mỹ như Viện Công nghệ Massachusetts (Massachusetts Institute of Technology), Đại học Yale, Đại học Princeton, Đại học Harvard, Học viện kỹ thuật Illinois (Illinois Institute of Technology), Đại học California tại Berkeley, Đại học Alabama, Đại học Toronto... Với những cống hiến của mình, ông được tặng thưởng giải thưởng Pritzker vào năm 1987. Công trình nổi tiếng Công viên tưởng niệm Hòa bình, Hiroshima Nhà thờ St. Mary, Tokyo Tòa thị chính siêu đô thị Tokyo Quần thể Cung thể thao Olympic, Tokyo Tổng mặt bằng Expo '70, Suita, Osaka Hanae Mori, Aoyama, Tokyo Hãng truyền hình Fuji, Odaiba, Tokyo Vòm Tokyo Đại học kĩ thuật Nam Dương, Singapore Trung học Hoa Kiều quốc tế, Singapore Sân vận động Quốc gia Yoyogi, Tokyo Tham khảo Liên kết ngoài Trang chính thức Tiểu sử Tange tại trang web của giải thưởng Pritzker Kiến trúc sư Hiện đại Kiến trúc sư Nhật Bản Kiến trúc sư nhận giải thưởng AIA Người đoạt giải Pritzker Giáo sư Đại học California tại Berkeley Bắc Đẩu Bội tinh
27994
https://vi.wikipedia.org/wiki/Richard%20Meier
Richard Meier
Richard Meier (sinh ngày 12 tháng 10 năm 1934), tại New Jersey, Hoa Kỳ, là một trong số các kiến trúc sư nổi tiếng và có ảnh hưởng trên toàn thế giới. Ông là một thành viên của nhóm New York Five gồm có 5 kiến trúc theo chủ nghĩa Hiện đại với việc sử dụng các yếu tố thuần khiết (hình khối, màu sắc) của kiến trúc. Không gian kiến trúc của ông chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Le Corbusier. Vào năm 1963, Meier mở văn phòng kiến trúc trong căn hộ của mình tại New York, New York. Công trình đầu tiên của ông là nhà của bố mẹ ông tại Essex Fells, New Jersey. Từ 1962 đến 1973, song song với hoạt động thiết kế bên ngoài, Richard Meier còn tham gia giảng dạy tại Trường Khoa học và nghệ thuật cao cấp (Cooper Union for the Advancement Science and Art), tại Đại học Yale (1975-1977) và Đại học Harvard (1980-1991). Ông được tặng thưởng giải thưởng Pritzker năm 1984. Hiện nay, ông đang điều hành hãng Richard Meier và cộng sự, có văn phòng tại New York và Los Angeles. Công trình thiết kế Tháp ECM, Praha, Cộng hòa Séc, 2004-2007 Toà nhà Life Sciences Technology, Ithaca, New York, dự kiến hoàn thành năm 2007 Bảo tàng Frieder Burda Museum, Baden Baden, Đức, 2004 Tòa án Sandra Day O'Connor, Phoenix, Arizona, 2000 Getty Center, Los Angeles, California, 1997 Bảo tàng Vô tuyến và Radio, Beverly Hills, California, 1996 Bảo tàng nghệ thuật đương đại Barcelona, Barcelona, Tây Ban Nha, 1995 Toà thị chính và thư viện trung tâm Hague, Hà Lan, 1995 Trụ sở hãng truyền hình Canal+, Paris, Pháp Phần trưng bày nghệ thuật hiện đại Trung tâm nghệ thuật Des Moines, Des Moines, Iowa, 1984 Bảo tàng nghệ thuật High, Atlanta, Georgia, 1983 Bảo tàng Atheneum, New Harmony, Indiana, 1979 Trung tâm Bronx, Bronx, New York, 1976 Biệt thự Douglas, Harbor Springs, Michigan, 1973 Biệt thự Smith, Darien, Connecticut, 1965-1967 Tham khảo Liên kết ngoài Trang chính thức của Richard Meier Tiểu sử Richard Meier tại trang web của giải thưởng Pritzker "Meier Tower" Meier, Richard Meier, Richard Meier, Richard Meier, Richard Meier, Richard Nhân vật còn sống Sinh năm 1934
27995
https://vi.wikipedia.org/wiki/DNA%20t%C3%A1i%20t%E1%BB%95%20h%E1%BB%A3p
DNA tái tổ hợp
DNA tái tổ hợp(viết tắt là rDNA) là phân tử DNA được tạo thành từ hai hay nhiều trình tự DNA của các loài sinh vật khác nhau. Trong kỹ thuật di truyền, DNA tái tổ hợp thường là được tạo thành từ việc gắn những đoạn DNA có nguồn gốc khác nhau vào trong vectơ tách dòng. Những vectơ tách dòng mang DNA tái tổ hợp này có thể biểu hiện thành các protein tái tổ hợp trong các sinh vật. Ví dụ một số dược phẩm là hormone peptide được tạo ra từ công nghệ DNA tái tổ hợp là insulin, hormone tăng trưởng, và oxytocin. Những vắc-xin cũng có thể được sản phẩm bằng phương thức này. Sinh vật chủ được sử dụng phổ biến nhất trong công nghệ DNA này là Escherichia coli. DNA tái tổ hợp là tên chung cho một đoạn DNA đã được tạo ra bằng cách kết hợp hai hoặc nhiều đoạn từ các nguồn khác nhau. Việc hình thành DNA tái tổ hợp là có thể vì các phân tử DNA từ tất cả các sinh vật có chung cấu trúc hóa học, chỉ khác nhau về trình tự nucleotide. Các phân tử DNA tái tổ hợp đôi khi được gọi là DNA khảm vì chúng có thể được tạo thành từ vật liệu từ hai loài khác nhau như chimera trong thần thoại. Công nghệ rDNA sử dụng trình tự palindromic và dẫn đến việc tạo ra sticky and blunt ends. Các trình tự DNA được sử dụng trong việc xây dựng các phân tử DNA tái tổ hợp có thể bắt nguồn từ bất kỳ loài nào. Ví dụ, DNA của thực vật có thể nối với DNA của vi khuẩn hoặc DNA của con người có thể nối với DNA của nấm. Ngoài ra, các trình tự DNA không xuất hiện ở bất kỳ đâu trong tự nhiên có thể được tạo ra bằng tổng hợp hóa học của DNA và đưa vào các phân tử DNA tái tổ hợp. Bằng cách sử dụng công nghệ DNA tái tổ hợp và DNA tổng hợp, bất kỳ trình tự DNA nào cũng có thể được tạo ra và đưa vào cơ thể sống. Protein có thể là kết quả của sự biểu hiện của DNA tái tổ hợp trong các tế bào sống được gọi là protein tái tổ hợp. Khi ADN tái tổ hợp mã hóa protein được đưa vào cơ thể vật chủ, protein tái tổ hợp không nhất thiết được tạo ra. Sự biểu hiện của các protein ngoại lai đòi hỏi phải sử dụng các vectơ biểu hiện chuyên biệt và thường đòi hỏi phải tái cấu trúc đáng kể bằng cách trình tự mã hóa nước ngoài. DNA tái tổ hợp khác với tái tổ hợp di truyền ở chỗ tái tổ hợp là kết quả của các phương pháp nhân tạo trong khi tái tổ hợp là một quá trình sinh học bình thường dẫn đến việc trộn lại các chuỗi DNA hiện có trong tất cả các sinh vật. Tạo DNA Nhân bản phân tử là quá trình tạo ra DNA tái tổ hợp trong phòng thí nghiệm. Đây là một trong hai phương pháp được sử dụng rộng rãi nhất, cùng với phản ứng chuỗi polymerase (PCR), được sử dụng để định hướng sao chép bất kỳ trình tự DNA cụ thể nào do nhà thực nghiệm chọn. Có hai sự khác biệt cơ bản giữa các phương pháp. Một là nhân bản phân tử liên quan đến việc sao chép DNA trong một tế bào sống, trong khi PCR sao chép DNA trong ống nghiệm, không có tế bào sống. Sự khác biệt nữa là nhân bản liên quan đến việc cắt và dán các chuỗi DNA, trong khi PCR khuếch đại bằng cách sao chép một chuỗi hiện có. Biểu thức DNA Sau khi cấy ghép vào sinh vật chủ, DNA ngoại lai có trong cấu trúc DNA tái tổ hợp có thể hoặc không biểu hiện. Nghĩa là, DNA có thể được sao chép đơn giản mà không biểu hiện, hoặc có thể phiên mã và dịch mã và protein tái tổ hợp được tạo ra. Nói chung, sự biểu hiện của một gen ngoại lai đòi hỏi phải tái cấu trúc gen để bao gồm các trình tự cần thiết để tạo ra một phân tử mRNA có thể được sử dụng bởi bộ máy dịch mã của vật chủ (ví dụ: promoter, tín hiệu bắt đầu dịch mã, và điểm kết thúc phiên mã). Những thay đổi cụ thể đối với sinh vật chủ có thể được thực hiện để cải thiện biểu hiện của gen ngoài tử cung. Ngoài ra, những thay đổi cũng có thể cần thiết đối với trình tự mã hóa, để tối ưu hóa quá trình dịch mã, làm cho protein hòa tan, hướng protein tái tổ hợp đến vị trí thích hợp trong tế bào hoặc ngoại bào và ổn định protein khỏi sự thoái hóa. Lịch sử Ý tưởng về DNA tái tổ hợp lần đầu tiên được đề xuất bởi Peter Lobban, một sinh viên tốt nghiệp của Giáo sư Dale Kaiser tại Khoa Hóa sinh tại Trường Y Đại học Stanford. Các ấn phẩm đầu tiên mô tả quá trình sản xuất thành công và sao chép nội bào của DNA tái tổ hợp xuất hiện vào năm 1972 và 1973, từ Stanford và UCSF. Năm 1980 Paul Berg, giáo sư Khoa Hóa sinh tại Stanford và là tác giả của một trong những bài báo đầu tiên , đã được trao giải Nobel Hóa học cho công trình của ông về axit nucleic "đặc biệt liên quan đến DNA tái tổ hợp". Werner Arber, Hamilton Smith, và Daniel Nathans đã chia sẻ Giải thưởng Nobel Sinh lý học và Y học năm 1978 cho việc khám phá Endonuclease hạn chế đã nâng cao các kỹ thuật của công nghệ rDNA. Đại học Stanford đã nộp đơn xin cấp bằng sáng chế của Hoa Kỳ về DNA tái tổ hợp vào năm 1974, liệt kê các nhà phát minh là Herbert W. Boyer (giáo sư tại Đại học California, San Francisco) và Stanley N. Cohen (giáo sư tại Đại học Stanford); bằng sáng chế này đã được trao vào năm 1980. Loại thuốc nhận giấy phép đầu tiên được tạo ra bằng công nghệ DNA tái tổ hợp là insulin nhân học, do Genentech phát triển và Eli Lilly and Company cấp phép. Tranh cãi Các nhà khoa học liên quan đến sự phát triển ban đầu của các phương pháp DNA tái tổ hợp đã nhận ra rằng tiềm năng tồn tại đối với các sinh vật chứa DNA tái tổ hợp có các đặc tính không mong muốn hoặc nguy hiểm. Tại Hội nghị Asilomar về DNA tái tổ hợp năm 1975, những lo ngại này đã được thảo luận và một lệnh cấm tự nguyện đối với nghiên cứu DNA tái tổ hợp đã được bắt đầu đối với các thí nghiệm được coi là đặc biệt rủi ro. Lệnh cấm này đã được tuân thủ rộng rãi cho đến khi Viện Y tế Quốc gia (Hoa Kỳ) phát triển và ban hành các hướng dẫn chính thức cho công việc của rDNA. Ngày nay, các phân tử DNA tái tổ hợp và protein tái tổ hợp thường không được coi là nguy hiểm. Tuy nhiên, vẫn còn những lo ngại về một số sinh vật biểu hiện DNA tái tổ hợp, đặc biệt là khi chúng rời khỏi phòng thí nghiệm và được đưa vào môi trường hoặc chuỗi thức ăn. Những lo ngại này được thảo luận trong các bài báo về sinh vật biến đổi gen và tranh cãi về thực phẩm biến đổi gen. Hơn nữa, có những lo ngại về các sản phẩm phụ trong sản xuất dược phẩm sinh học, trong đó DNA tái tổ hợp tạo ra các sản phẩm protein cụ thể. Sản phẩm phụ chính, được gọi là protein tế bào chủ, xuất phát từ hệ thống biểu hiện của vật chủ và gây ra mối đe dọa đối với sức khỏe của bệnh nhân và môi trường tổng thể. Xem thêm Kỹ thuật di truyền Sinh vật biến đổi gen Tham khảo Đọc thêm The Eighth Day of Creation: Makers of the Revolution in Biology. Touchstone Books, . 2nd edition: Cold Spring Harbor Laboratory Press, 1996 paperback: . Micklas, David. 2003. DNA Science: A First Course. Cold Spring Harbor Press: . Rasmussen, Nicolas, Gene Jockeys: Life Science and the rise of Biotech Enterprise, Johns Hopkins University Press, (Baltimore), 2014. . Rosenfeld, Israel. 2010. DNA: A Graphic Guide to the Molecule that Shook the World. Columbia University Press: . Schultz, Mark and Zander Cannon. 2009. The Stuff of Life: A Graphic Guide to Genetics and DNA. Hill and Wang: . Watson, James. 2004. DNA: The Secret of Life. Random House: . Liên kết ngoài Recombinant DNA fact sheet (từ Đại học New Hampshire) Plasmids in Yeasts (Tờ thông tin từ Đại học bang San Diego) Animation illustrating construction of recombinant DNA and foreign protein production by recombinant bacteria Recombinant DNA research at UCSF and commercial application at GenentechBiên bản đã được chỉnh sửa của cuộc phỏng vấn năm 1994 với Herbert W. Boyer, Dự án lịch sử sống. Lịch sử truyền miệng. Recombinant Protein Purification Principles and Methods Handbook Massachusetts Institute of Technology, Oral History Program, Oral History Collection on the Recombinant DNA Controversy, MC-0100. Viện Công nghệ Massachusetts, Bộ sưu tập đặc biệt, Cambridge, Massachusetts Công nghệ sinh học Di truyền học Sinh học phân tử Phát minh của Hoa Kỳ Công nghệ sinh học Kỹ thuật di truyền Sinh học tổng hợp Sinh học phân tử
28006
https://vi.wikipedia.org/wiki/Antoine%20Laugier
Antoine Laugier
Abbé Marc-Antoine Laugier (1711–1769), là một lý thuyết gia kiến trúc người Pháp. Ông nguyên là một thầy tu đạo Cơ Đốc và là một trong số các lý thuyết gia thuộc trường phái Vitruvius. Ông là tác giả của tác phẩm nổi tiếng "Luận về Kiến trúc" (Essai sur l'architecture). Trong tác phẩm "Luận về Kiến trúc", ông xây dựng các nguyên tắc cơ bản cho kiến trúc. Theo ông, tất cả các sách vở đã có đều bị quá lệ thuộc vào Vitruvius. Ông cho rằng bản chất cái đẹp tuyệt đối không phụ thuộc vào thói quen và quy ước. Đó chính là bản chất của cái đẹp tự nhiên, còn vẻ đẹp trong kiến trúc chỉ đơn thuần là sự mô phỏng ngẫu nhiên những gì tồn tại trong tự nhiên. Từ đó, Laugier khẳng định rằng, kiến trúc phải xuất phát từ những quy luật trong tự nhiên. Laugier đã dựa trên sự diễn giải của mình về bí ẩn của túp lều nguyên thủy bằng gỗ để dẫn dến kết luận rằng các thức cột cổ điển Hy Lạp có nguồn gốc từ thân cây gỗ. Đó là hình ảnh đầu tiên của kiến trúc. Đối với ông, đó là sự hợp lý và thuận theo lẽ tự nhiên của công năng. Từ đó, Laugier tin rằng chân lý của kiến trúc thuộc về logic công năng và tất cả những gì còn lại thuộc về phạm trù đạo đức. Đó là một quan điểm tương đối hiện đại của thời kì đó. Chính ông là người đã khởi xướng cuộc tranh luận kéo dài trong suốt hai thế kỉ 19 vào 20 về vai trò của công năng trong kiến trúc. Laugier là một người nhiệt thành với kiến trúc Gothic vì tính duy lý, cách lấy ánh sáng độc đáo và sự phong phú của không gian. Tuy nhiên, quan điểm của ông có phần cực đoan khi cho rằng chỉ có những quy luật của ông là chân lý và ông không chấp nhận bất cứ sự chệch hướng nào. Tham khảo Laugier, M, Essay on Architecture, Hennessey & Ingalls, 1985 Claus Bernet: Marc-Antoine Laugier, in: BBKL, XXI, 2003, 786-793: http://www.bautz.de/bbkl/l/laugier_m_a.shtml Laugier, Antoine Laugier, Antoine Laugier, Antoine Mất năm 1769 Sinh năm 1713
28008
https://vi.wikipedia.org/wiki/MIDI
MIDI
MIDI (Musical Instrument Digital Interface - Giao diện kỹ thuật số dành cho nhạc cụ) là chuẩn công nghiệp về nghi thức giao thông điện tử định rõ các nốt âm nhạc trong nhạc cụ điện tử như là bộ tổng hợp chính xác và ngắn gọn, để nhạc cụ điện tử và máy tính trao đổi dữ liệu, hoặc "nói", với nhau. MIDI không truyền âm thanh – nó chỉ truyền thông tin điện tử về một bản nhạc. MIDI có thế được sử dụng cho các mục đích khác, nhưng mục tiêu ban đầu cho việc phát minh MIDI vẫn là phục vụ cho âm nhạc. Chuẩn MIDI bao gồm 3 thành phần: Giao thức (protocol), Phương tiện kết nối (connector) và Dạng tập tin lưu trữ tiêu chuẩn (standard MIDI file). Giao thức Đàn synthesizer Đây là chính là "ngôn ngữ" của MIDI, cũng như con người sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp. Các thiết bị kỹ thuật số đề cập ở trên cũng vậy, để chúng "hiểu" nhau, bạn phải cho chúng "nói" cùng một ngôn ngữ. Đại diện tiêu biểu cho các thiết bị này là các nhạc cụ điện tử như keyboard, synthesizer và máy vi tính PC. Các phương tiện kết nối Các thiết bị MIDI phải có ngõ vào/ra để kết nối với nhau. Chuẩn MIDI 1.0 quy định connector (dây cáp có đầu cắm) là 5-pin DIN. Hiện nay, các thế hệ đàn synthesizer mới nhất đã sử dụng chuẩn USB của PC làm phương tiện kết nối. Dạng tập tin lưu trữ tiêu chuẩn MIDI ra đời từ những năm đầu của thập niên 80. Các hãng sản xuất nhạc cụ điện tử của Nhật và Mỹ muốn đề xuất ra một chuẩn cho phép các loại nhạc cụ "nói chuyện" được với nhau, nâng cao khả năng mở rộng giúp cho việc sáng tác, biểu diễn và ghi âm được thuận lợi hơn. Sự thật là từ khi ra đời, MIDI đã tạo nên những thay đổi rất quan trọng trong công nghệ ghi âm. Năm 1991, để tăng cường hơn nữa tính tương thích giữa các nhạc cụ, chuẩn General MIDI 1 ra đời. Đến năm 1999, General MIDI 2 được công bố, mở rộng bộ tiếng và khả năng chỉnh sửa dữ liệu MIDI. Và một điều lý thú: để thay thế âm thanh nghe như "tiếng dế gáy" của chiếc ĐTDĐ, chuẩn General MIDI Lite được khai sinh vào năm 2001 để ứng dụng cho các thiết bị di động. Hoạt động Ba cổng và một dây cắm MIDI Như đã nêu trong phần định nghĩa, MIDI dùng để trao đổi thông tin biểu diễn nhạc giữa các nhạc cụ điện tử hoặc giữa nhạc cụ điện tử với máy vi tính. Tín hiệu trao đổi được mã hóa dưới dạng nhị phân bao gồm các con số 0 và 1 và được gọi là message (thông điệp). Một message sẽ chứa các thông tin như là: nốt nhạc nào, âm thanh phát ra sẽ lớn hay nhỏ, sử dụng nhạc cụ gì. Nói cho đơn giản dễ hiểu, file MIDI là bản nhạc, còn các thiết bị như là đàn điện tử hay ĐTDĐ chính là các dàn nhạc tấu lại bản nhạc đó và nói như hiểu biết của đa số người sử dụng, nhạc MIDI là nhạc hòa tấu. Chính vì chỉ ghi lại bản nhạc mà file MIDI có dung lượng rất nhỏ. Để tạo ra âm thanh, MIDI phụ thuộc hoàn toàn vào thiết bị phát lại. Trên các thiết bị này có một thành phần gọi là synthesizer. Trên ĐTDĐ và soundcard máy vi tính đều có tích hợp một synthesizer đơn giản. Synthesizer có thể là phần cứng - chip nhớ ROM hoặc phần mềm - SoftSynth. Ngày nay nhạc MIDI được ứng dụng rộng rãi trong cuộc sống bởi kích thước file nhạc nhỏ và âm thanh của nó cũng dễ nghe. Ngoài điện thoại di động, MIDI còn được ứng dụng rộng rãi trong các nhạc cụ điện tử như Keyboard, guitar điện, kèn saxophone... Ngoài ra MIDI còn có một số ứng dụng khác như điều khiển ánh đèn sân khấu dành cho MIDI Show Control. Trong các phòng thu âm, MIDI Machine Control làm nhiệm vụ đồng bộ hoá các thiết bị ghi âm. Tham khảo Liên kết ngoài Website chính thức của AMEI (tiếng Nhật) Hội Hãng MIDI (tiếng Anh) Tiêu chuẩn Điều khiển Biểu diễn MIDI 1.0 BRELS MIDI Editor (GNU/GPL) Phần cứng Nhạc cụ điện tử Cách mạng số Phương tiện số Công nghệ âm thanh Định dạng tập tin âm thanh Bus nối tiếp Nhạc điện tử Phát minh của Nhật Bản MIDI
28011
https://vi.wikipedia.org/wiki/Christian%20de%20Portzamparc
Christian de Portzamparc
Christian de Portzamparc (sinh 5 tháng 5 năm 1944) là một kiến trúc sư và một nhà thiết kế đô thị người Pháp. Ông sinh ra tại Casablanca, Maroc. Ông học tại trường nghệ thuật hàn lâm từ 1962 đến 1969. Tại đây, bị hấp dẫn bởi các phác thảo kiến trúc của Le Corbusier, Christian de Portzamparc quyết định đi theo con đường kiến trúc. Năm 1994, ông là người đầu tiên và là người Pháp duy nhất tính đến thời điểm hiện nay (2006) nhận được giải thưởng Pritzker. Năm 2004 ông còn nhận được Giải thưởng lớn về đô thị của chính phủ Pháp. Vợ của ông là bà Élizabeth de Portzamparc là một nhà thiết kế nội thất nổi tiếng. Công trình nổi tiếng 1971-1979: Tháp nước Marne-la-Vallée 1979: Khu nhà tập thể Hautes-Formes, gồm 209 căn hộ, Paris XIII 1987: Trường múa của Nhà hát quốc gia Paris, Nanterre 1988-1992: Mở rộng bảo tàng Bourdelle, Paris 1989-1992: Nội thất nhà ở, Nexus Workd, Fukuoka (Nhật) 1990: Nhà ở Paul Riquet, Nanterre 1991-1994: Nội thất căn hộ, ZAC Bercy 1994: Nhà ở Parc Nord (còn gọi là MH51), Nanterre 1995: Thành phố âm nhạc, Paris XIX 1995: Tháp Crédit Lyonnais trong quần thể Euralille, Lille 1999: Mở rộng cung hội nghị, Paris XVII 1999: Tháp LVMH, Thành phố New York 2000: Tòa án Grasse 2000: Văn phòng và các trường quay của đài truyền hình, Boulogne-Billancourt 1996-2003: Phòng biểu diễn giao hưởng. Luxembourg 2000: Cuộc thi Thư viện quốc gia Quebec, Montréal, Canada 2002: Sứ quán Pháp ở Berlin 2002: Tháp Granite cho cộng đồng, Paris La Défense 2002-2007: Thành cổ âm nhạc (Cidade da musica), Rio de Janeiro (Brasil) 2004: Tòa báo ''Le Monde, Paris XIII 2006: Khu phòng đọc tự do, thư viện sách, đa phương tiện về vũ trụ, Rennes Tham khảo Liên kết ngoài Website văn phòng thiết kế của Portzamparc Diễn văn của Portzamparc khi nhận giải thưởng Pritzker Portzamparc, Christian de Portzamparc, Christian de Portzamparc, Christian de Collège de France Nhân vật còn sống
28012
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gordon%20Bunshaft
Gordon Bunshaft
Gordon Bunshaft (9 tháng 5 năm 1909 – 6 tháng 8 năm 1990) tốt nghiệp bằng thạc sĩ kiến trúc tại Học viện kĩ thuật Massachusetts (MIT). Ông gia nhập hãng kiến trúc Skidmore, Owings & Merrill (SOM) từ năm 1949 và sau đó giữ chức vụ kiến trúc sư trưởng của hãng này. Ông là một kiến trúc sư theo chủ nghĩa Hiện đại, chịu ảnh hưởng bởi Ludwig Mies van der Rohe và Le Corbusier. Công trình nổi tiếng nhất của ông tòa nhà Level trên Đại lộ Park (Công viên) ở Thành phố New York. Công trình này xây dựng từ năm 1951 đến 1952, làm trụ sở hãng xà phòng Lever Brothers. Công trình này được so sánh với tòa nhà Seagram của Mies. Trong những năm 1950, ông được Văn phòng Xây dựng tại nước ngoài thuộc Bộ Ngoại giao Mỹ đặt hàng thiết kế một loạt các lãnh sự quán Mỹ tại Đức. Với những cống hiến của mình, ông được tặng giải thưởng Pritzker về kiến trúc năm 1988. Công trình 1951 – Lever House – New York, New York 1953 – Ngân hàng Chi nhánh Tín dụng Công nghiệp Hanover – New York, New York 1962 – Nhà trưng bày Albright-Knox Art – Buffalo, New York 1963 – Nhà Travertine – Hamptons 1963 – Thư viện Beinecke – Đại học Yale, New Haven, Connecticut 1965 – Banque Lambert – Brussel 1967 – Tòa Marine Midland – New York, New York 1971 – Thư viện và Bảo tàng Lyndon Baines Johnson – Austin, Texas 1974 – Tòa Solow – số 9 Tây Đường 57, New York, New York 1974 – Bảo tàng và Vườn Điêu khắc Hirshhorn – Washington, D.C. 1983 – Ngân hàng Thương mại Quốc gia – Jeddah, Ả Rập Xê Út Tham khảo Liên kết ngoài Thảo luận và liên kết về việc giữ gìn và xây lại nhà ở Bunshaft ("Nhà Travertine"). Kiến trúc sư Mỹ Kiến trúc sư Hiện đại Người đoạt giải Pritzker Người New York Sinh năm 1909 Mất năm 1990 Người từ Buffalo, New York
28021
https://vi.wikipedia.org/wiki/Huy%E1%BB%81n%20Tr%C3%A2n%20C%C3%B4ng%20ch%C3%BAa
Huyền Trân Công chúa
Huyền Trân Công chúa (chữ Hán: 玄珍公主; sinh năm 1287, mất ngày 9 tháng 1 năm 1340), là công chúa đời nhà Trần, Hòa thân công chúa, là con gái của Trần Nhân Tông, em gái của Trần Anh Tông, vợ thứ 3 của vua Chế Mân. Năm 1306, Huyền Trân công chúa được gả cho Quốc vương Chiêm Thành là Chế Mân (tiếng Phạn: Jaya Sinhavarman III) để đổi lấy hai châu Ô, Lý (từ đèo Hải Vân, Thừa Thiên Huế đến phía bắc Quảng Trị ngày nay). Một năm sau, Chế Mân chết, Huyền Trân công chúa được Trần Anh Tông sai Trần Khắc Chung đưa về. Câu chuyện về Huyền Trân công chúa được truyền tụng trong dân gian, không chỉ vì lý do chính trị mà còn về khía cạnh văn hóa thơ, ca nhạc cũng như nghệ thuật sân khấu. Cuộc đời Công chúa không rõ tên thật, theo dã sử Đền thờ Huyền Trân công chúa tại Huế, bà được cho là hạ sinh vào năm 1289, mẹ công chúa có thể là Khâm Từ Bảo Thánh hoàng hậu - trưởng nữ của Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn. Tuy nhiên, cũng có khả năng bà là con gái của Tuyên Từ hoàng hậu, em gái của Khâm Từ hoàng hậu. Năm 1301, Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông nhận lời mời, du ngoạn vào Chiêm Thành, được Quốc vương Chiêm Thành là Chế Mân tiếp đãi nồng hậu, có ở lại trong cung điện Chiêm Thành gần 9 tháng. Khi ra về, Thái thượng hoàng có hứa gả con gái cho Chế Mân, mặc dù khi đó Chế Mân đã có 2 người vợ là Vương Hậu Bhaskaradevi (nguyên phối) và Vương hậu Tapasi, người Java (Indonesia ngày nay). Sau đó nhiều lần, Chế Mân cử sứ sang hỏi về việc hôn lễ, nhưng nhiều quan lại nhà Trần phản đối, chỉ có Văn Túc vương Trần Đạo Tái và Nhập nội hành khiển Trần Khắc Chung chủ trương tán thành. Năm Bính Ngọ, Hưng Long năm thứ 14 (1306), tháng 6, Chúa Chiêm Thành là Chế Mân dâng hai châu Ô, Rý (còn gọi là Lý) làm hồi môn, vua Trần Anh Tông khi đó mới đồng ý gả Công chúa Huyền Trân cho Chế Mân. Công chúa khi về Chiêm Thành, được phong làm Vương hậu thứ 3 với phong hiệu là Paramecvari . Năm Đinh Mùi (1307), vào tháng 5, quốc vương Chế Mân chết. Nghĩa là chỉ một năm sau khi cuộc liên hôn giữa Đại Việt và Chiêm Thành diễn ra. Thế tử Chế Đa Da sai sứ thần Bảo Lộc Kê sang dâng voi trắng và có thể cũng để báo tang sự việc này. Theo Đại Việt sử ký chép lại, Trần Anh Tông khi đó nghe rằng theo tục nước Chiêm, Quốc vương chết thì Vương hậu phải lên giàn hỏa để tuẫn tang. Trần Anh Tông liền cử Hành khiển Trần Khắc Chung vờ sang viếng tang, tìm cách cứu công chúa. Trần Khắc Chung thành công, cứu được công chúa và đưa xuống thuyền, đưa công chúa về Đại Việt bằng đường biển. Cuộc hải hành này kéo dài tới một năm. Trong cuộc hành trình trở về, công chúa còn đi theo Thế tử Đa Da, vì vậy về sau không ít người cho rằng Thế tử là con của công chúa. Tuy nhiên xét theo hành trạng có thể cử sứ thần sang báo tang, Thế tử rất có thể chẳng phải là con của Huyền Trân công chúa, và việc đi cùng với công chúa về là do lý do chính trị nào đó mà thôi. Về sau, Đại Việt sử ký không còn bất kỳ ghi chép nào về hành trạng của công chúa. Cuối đời Theo dã sử và thần tích tại đền thờ của bà, sau khi bà trở về Thăng Long thì theo di mệnh của Thái Thượng hoàng, công chúa xuất gia ở núi Trâu Sơn (nay thuộc Bắc Ninh). Công chúa thọ Bồ tát giới và được ban pháp danh Hương Tràng (香幢). Cuối năm Tân Hợi (1311), Hương Tràng cùng một thị nữ trước đây, bấy giờ đã quy y đến làng Hổ Sơn, huyện Thiên Bản (nay thuộc Nam Định), lập am dưới chân núi Hổ để tu hành. Sau đó, am tranh trở thành điện Phật, tức chùa Hổ Sơn hay còn gọi là Quảng Nghiêm Tự. Bà mất ngày mồng 9 tháng giêng năm Canh Thìn (1340). Dân chúng quanh vùng thương tiếc và tôn bà là Thần Mẫu và lập đền thờ cạnh chùa Hổ Sơn. Ngày công chúa mất sau này hàng năm trở thành ngày lễ hội đền Huyền Trân trên núi Ngũ Phong ở Huế. Các triều đại sau đều sắc phong công chúa Huyền Trân là thần hộ quốc. Nhà Nguyễn ban chiếu ghi nhận công lao của công chúa Huyền Trân "trong việc giữ nước giúp dân, có nhiều linh ứng", nâng bậc tăng là "Trai Tĩnh Trung Đẳng Thần" . Nhận định Một số người đời sau cho rằng câu chuyện Huyền Trân lên giàn thiêu có phần thêu dệt, chuyện nêu lý do công chúa phải lên giàn hỏa chỉ là cớ do sách Việt sau này viết thêm. Theo tiến sĩ Po Dharma, Huyền Trân công chúa không thể hội đủ điều kiện để xin lên giàn hỏa thiêu vì nếu theo truyền thống Champa xưa, đây là một vinh dự và chỉ có Vương hậu chính thức mới được phép hoả thiêu trên giàn hỏa thiêu với chồng của mình. Trong kinh điển theo đạo Bà La Môn đều không nhắc đến tục lệ này của người Champa, chưa chắc đã có tục lệ như thế. Cho dù có tục lệ đó đi nữa, thì việc hỏa táng phải tổ chức trong vòng 7 ngày sau khi chết, vì khí hậu nhiệt đới không cho phép bảo quản thi hài được lâu hơn, đến khi tin đưa về Đại Việt và dù Trần Khắc Chung có lên tàu sang ngay cũng không thể nào kịp, trong điều kiện giao thông thời đó. Chuyện Trần Khắc Chung tư thông với Huyền Trân có thể là vì bị gièm pha, đồn thổi vì sự chênh lệch tuổi tác quá lớn và Trần Khắc Chung được tiếng đạo đức, trên tàu còn rất nhiều người khác cùng đi, như là An Phủ Sứ Đặng Vân (Đặng Thiệu), không dễ dàng hành động. Sử thần Ngô Sĩ Liên trong Đại Việt Sử ký Toàn thư chê trách chuyện này: Ngày xưa Hán Cao Hoàng vì nước Hung Nô nhiều lần làm khổ biên cương, mới lấy con gái nhà dân làm công chúa gả cho thiền vu. Kết hôn với người không cùng giống nòi, các tiên nho đã từng chê trách, song dụng ý là muốn binh yên, dân nghỉ, thì còn có thể nói được. Nguyên Đế thì vì Hô Hàn sang chầu, xin làm rể nhà Hán, nên lấy nàng Vương Tường mà ban cho, cũng là có cớ. Còn như Nhân Tông đem con gái gả cho chúa Chiêm Thành là nghĩa làm sao? Nói rằng nhân khi đi chơi đã trót hứa gả, sợ thất tín thì sao không đổi lại lệnh đó có được không? Vua giữ ngôi trời mà Thượng hoàng đã xuất gia rồi, vua đổi lại lệnh đó thì có khó gì, mà lại đem gả cho người xa không phải giống nòi để thực hiện lời hứa trước, rồi sau lại dùng mưu gian trá cướp về, thế thì tín ở đâu Theo Phạm Văn Sơn trong Việt sử toàn thư: Duy việc Trần Khắc Chung lập mưu đưa Huyền Trân trở về nước sau khi Chiêm Vương qua đời, dù muốn sao ta cũng phải nhận là một việc bất tín đối với Chiêm Thành. Thì phản ứng của nước Chiêm là lẽ dĩ nhiên và chính đáng. Còn người Việt đã thắng một canh bạc không lương thiện lắm lại còn ra bộ não nùng xót xa. Trích lưu bút của bà Trương Mỹ Hoa, nguyên phó Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam lưu tại điện thờ Huyền Trân Công Chúa, Huế: Có những vấn đề của phụ nữ phải được giải quyết từ Quốc gia, có những vấn đề của Quốc gia phải giải quyết từ người phụ nữ. Trong thơ ca nghệ thuật Câu chuyện về Huyền Trân đã trở thành một đề tài trong thi ca, nghệ thuật. Trong dân gian, có lẽ vì thời đó người Việt coi người Chăm là dân tộc thấp kém nên đã có câu:Tiếc thay cây quế giữa rừngĐể cho thằng Mán thằng Mường nó leoTương truyền là bài "Nước non ngàn dặm" theo điệu Nam Bình, có người cho rằng chính công chúa đã soạn ra trong lúc đi đường sang Chiêm:Nước non ngàn dặm ra đi...Mối tình chi!Mượn màu son phấnĐền nợ Ô, Lý.Xót thay vì,Đương độ xuân thì.Số lao đao hay là nợ duyên gì?...Nhạc sĩ Phạm Duy cũng dùng những chữ đầu trong bài này để viết thành ca khúc "Nước non ngàn dặm ra đi", nói về tâm sự của Huyền Trân công chúa khi sang Chiêm Quốc:Nước non ngàn dặm ra đi...Dù đường thiên lý xa vờiDù tình cố lý chơi vơiCũng không dài bằng lòng thương mến người...Một số tác phẩm có nói đến Huyền Trân như: Âm nhạc Trường ca Con đường Cái Quan của Phạm DuyNăm tê trong lúc sang XuânTôi theo Công chúa Huyền Trân tôi lên đườngĐường máu xương đã lắm oán thươngĐổi sắc hương lấy cõi giang sanTôi đi theo bước ái tìnhĐi cho trăm họ được hòa bình ấm noĐèo núi cao nghe gió vi vuThổi phấn son bay tới kinh đô.... Tiễn biệt Huyền Trân của Phạm Duy phổ thơ Đào Tiến Luyện Nước non ngàn dặm ra đi của Phạm Duy Huyền Trân Công chúa của nhạc sĩ Nguyễn Hiền Nhớ của nhạc sĩ Châu Kỳ Tình sử Huyền Trân của Nam Lộc Sương gió Chiêm Thanh - cổ nhạc Thơ Công chúa Huyền Trân của Hoàng Cao Khải (?)Đổi chác khôn ngoan khéo nực cười,Vốn đà không mất lại thêm lời,Hai châu Ô Lý vuông ngàn dặm,Một gái Huyền Trân của mấy mươi... ! Tiễn biệt Huyền Trân của Đào Tiến Luyện Tiểu thuyết lịch sử Bộ "Bão táp triều Trần" của Hoàng Quốc Hải gồm 4 tập: Bão táp cung đình, Thăng Long nổi giận, Huyền Trân Công chúa, Vương triều sụp đổ'', được xuất bản lần đầu cả bộ năm 2003. Dịch giả Chapuis Gérard đã hoàn thành bản dịch Huyền Trân Công Chúa/Requiem pour une Princesse sang tiếng Pháp cuối năm 2009 và dự kiến phát hành năm 2012 . Xem thêm Chế Mân Trần Khắc Chung Ngọc Vạn Ngọc Khoa Công chúa An Tư Chú thích Liên kết ngoài Huyền Trân Công Chúa Hoàng hậu PARAMECVARI của Champa Nhìn lại một sự kiện lịch sử - 700 năm cuộc tình Chế Mân và Huyền Trân công chúa Công chúa Huyền Trân trong niềm hoài vọng của nhân dân Huế Kỳ bí về ngôi miếu cổ rửa mối oan tình Công chúa nhà Trần Tu sĩ Phật giáo Việt Nam Sinh năm 1289 Mất thế kỷ 14
28032
https://vi.wikipedia.org/wiki/An%20T%C6%B0%20C%C3%B4ng%20ch%C3%BAa
An Tư Công chúa
An Tư công chúa (chữ Hán: 安姿公主), 1267-1285, Việt sử tiêu án chép Thiên Tư công chúa (天姿公主), công chúa nhà Trần, Hòa thân công chúa, là một trong hai vị công chúa nổi tiếng nhất lịch sử nhà Trần vì các cuộc hôn nhân mang tính trọng đại, cùng với Huyền Trân công chúa. Bà nổi tiếng trong việc kết hôn với Trấn Nam vương Thoát Hoan, giữ cho quân Trần rút lui an toàn trong Chiến tranh Nguyên Mông-Đại Việt lần 2 vào năm 1285. Kết cục của bà đến bây giờ vẫn là đề tài bàn luận của các sử gia. Thân thế Trước khi được gả cho người Nguyên, cuộc đời của An Tư công chúa không được ghi lại cụ thể theo bất kỳ hồ sơ nào. Theo ghi nhận của Đại Việt sử ký toàn thư, An Tư công chúa là em gái út của Trần Thánh Tông và là cô ruột của Trần Nhân Tông, cho nên suy ra bà là con gái út của Trần Thái Tông, nhưng không rõ mẹ bà là ai. Về xưng hô, sách Toàn thư đặc biệt gọi bà là 「Thánh Tông Quý muội; 聖宗季妹」, tức "Quý muội của Thánh Tông", trong đó chữ Hán "Quý" (季) có nghĩa là út hoặc nhỏ tuổi nhất trong thứ tự gia đình, vì lẽ đó bà cũng có thể được gọi là Hoàng quý muội (皇季妹). Sách An Nam chí lược ghi bà là Quốc muội (國妹), trong đó chữ "Quốc" được dùng tương tự chữ "Hoàng", biểu thị vai vế người thuộc dòng dõi Quân chủ một quốc gia. Cống cho nhà Nguyên Đầu năm 1285, quân đội nhà Nguyên đã đánh tới Gia Lâm vây hãm Thăng Long. Thánh Tông Thái thượng hoàng và Đương kim Nhân Tông hoàng đế đã đi thuyền nhỏ ra vùng Tam Trĩ, còn thuyền ngự thì đưa ra vùng Ngọc Sơn để đánh lạc hướng đối phương. Nhưng quân Nguyên vẫn phát hiện ra. Ngày 9 tháng 3 cùng năm, thủy quân Nguyên đã bao vây Tam Trĩ suýt bắt được Thượng hoàng và Hoàng đế. Chiến sự buổi đầu bất lợi. Tướng Trần Bình Trọng lại hy sinh ở bờ sông Thiên Mạc. Trước thế mạnh của đối phương, nhiều tôn thất nhà Trần như Trần Kiện, Trần Lộng, kể cả hoàng thân Trần Ích Tắc đều quy hàng. Về sau Đỗ Khắc Chung được sai đi sứ để làm chậm tốc độ tiến quân của Nguyên, nhưng không có kết quả. Trong lúc đó, cần phải có thời gian để củng cố lực lượng, tổ chức chiến đấu, bởi vậy, Thượng hoàng Trần Thánh Tông bất đắc dĩ phải dùng đến mỹ nhân kế, tức sai người dâng em gái út của mình cho tướng Thoát Hoan để tạm cầu hòa. Cuộc đời của bà chỉ ghi nhận qua sự kiện bà thành hôn với Thoát Hoan. Có 3 cuốn sách sử tại Việt Nam nói về chuyện này. Theo cuốn An Nam chí lược của Lê Tắc, một thuộc hạ của Trần Kiện theo chủ chạy sang nhà Nguyên, đã ghi lại sự việc sớm nhất: 「Năm Ất Dậu, Chí Nguyên (1285)... Ngày Kỷ Dậu (mồng 6), Giảo Kỳ suất bọn Chương Hiến hầu đánh phá quân của người em Thế tử (có lẽ nói Trần Thánh Tông) là Thái úy Trần Quang Khải tại bến đò Phú Tân, chém ngàn người, Thanh Hoá và Nghệ An đều đầu hàng. Vua Trần sợ, khiến người trong họ là Trung Hiến hầu Trần Dương xin hoà. Lại sai kẻ Cận thị là Đào Kiên đưa bà chúa em vua cho Trấn Nam vương xin hoà giải. Nhà Nguyên khiến Ngại Thiên Hộ qua tuyên lời dụ nói:"Nếu đã muốn xin hoà, sao không thân hành tới mà bàn luận". Thế tử không nghe」. Sau đó, sự việc của An Tư công chúa được ghi trong Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên thời Lê Sơ, và Việt sử tiêu án của Ngô Thì Sĩ thời Lê Trung hưng. Các cuốn sử về sau, Khâm định Việt sử thông giám cương mục và Việt Nam sử lược lại không ghi dòng nào về sự kiện này. Đại Việt sử ký toàn thư ghi:「"Tháng 2 (Ất Dậu)... Sai người đưa công chúa An Tư (em gái út của Thánh Tông) đến cho Thoát Hoan, là muốn làm thư giãn loạn nước vậy"」. Việt sử tiêu án ghi:「"Thoát Hoan lên sông Nhĩ Hà, cột liền bè vào làm cầu, cho quân qua sông; quân ta theo hai bên sông lập đồn để cự lại, không được; ngày đã về chiều, quân giặc qua được sông vào kinh thành, vua sai đưa Thiên Tư công chúa cho chúng, để thư nạn cho nước"」. Sau khi quân Trần bắt đầu phản công, quân Nguyên đại bại. Trấn Nam vương Thoát Hoan, con trai của Hốt Tất Liệt đã phải chui vào cái ống đồng để lên xe bắt quân kéo chạy để về. Chiến thắng, hoàng tộc Trần làm lễ tế lăng miếu, khen thưởng công thần, nhưng không ai nói đến An Tư công chúa. Không rõ công chúa còn hay mất, được mang về Trung Quốc hay đã chết trong đám loạn quân, và điều này về sau được đem ra bàn tán và nhận định về công lao của bà không được triều Trần ghi nhận. Có một số ghi nhận Thoát Hoan sau đó 「"Cưới người con gái họ Trần và sinh được hai con"」 và người con gái họ Trần này được nhiều người cho là An Tư công chúa. Nhưng trong cuốn An Nam chí lược của Lê Tắc, mục "Các vương hầu nội phụ", phần "Trần Tú Viên" (con của Trần Di Ái) có ghi rõ thân thế của người con gái họ Trần này như sau:「"... Năm sau (1336), trở về Hán Dương. Trấn Nam vương (ý chỉ Thoát Hoan) cưới người em gái làm Thứ phi, sinh được hai con"」. Theo cách ghi này, "người con gái họ Trần" là con gái Trần Di Ái, em của Tú Viên chứ không phải An Tư công chúa. Nhận định Trong Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, mục từ "An Tư": GS. Phạm Đức Dương, Chủ tịch Hội Khoa học Đông Nam Á ở Việt Nam, viết: {{cquote|Nhà Trần trở thành triều đại vinh quang nhất trong lịch sử Đại Việt vì đã ba lần chiến thắng quân Nguyên, một đội quân đã từng làm mưa làm gió khắp Á – Âu. Trong chiến công chung đó người ta ghi nhận sự đóng góp, sự hy sinh thầm lặng của những người phụ nữ, trong số ấy có công chúa An Tư. Người con gái "lá ngọc cành vàng" ấy vì nợ nước đã ra đi không trở lại. Nhưng trớ trêu thay, sau chiến thắng quân Nguyên, tháng 7 năm 1285, vua trở về kinh thành hân hoan khen thưởng những người có công, nhưng không ai nhắc tới công chúa An Tư.}} Và trên website Vietsciences trong một bài viết, không ghi tên tác giả, cũng có đoạn: Trong văn hóa đại chúng Khoảng năm 1943, câu chuyện về người công chúa này đã được nhà văn Nguyễn Huy Tưởng viết thành cuốn tiểu thuyết lịch sử có tên gọi An Tư. Tiểu thuyết này được viết xong ngày 18 tháng 12 năm 1943. Sau đó được đăng báo Tri tân từ 15 tháng 6 năm 1944 đến 12 tháng 7 năm 1945. Theo nội dung truyện, công chúa An Tư có người yêu là một nhân vật hư cấu tên Chiêu Thành vương Trần Thông, con cả của Thái úy Khâm Thiên Đại vương Trần Nhật Hiệu. Thân phận con của Trần Nhật Hiệu là hư cấu, nhưng sử sách đời Trần chính xác có ghi nhận có một "Chiêu Thành vương" và một người tên "Trần Thông", điểm đặc biệt là cả hai người này đùng được ghi là cùng ra quân với Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản, nên có lẽ tác giả Nguyễn Huy Tưởng đã dựa vào đó để đồng nhất thành một người. Và sau khi "người chồng" là Thoát Hoan trốn chạy, Nguyễn Huy Tưởng viết về kết cục của nhân vật: 「"Nàng xuống ngựa thắp hương, rồi dập đầu trên nấm đất (ngôi mộ của Trần Thông) mà khóc rũ rượi... Ánh trăng bàng bạc, nàng mê man như ngày ruổi ngựa cùng chàng vào Thanh. Nàng đã đến bên bờ sông Cái, và không ngần ngại văng mình xuống nước..."」Tiểu thuyết An Tư - Nguyễn Huy Tưởng, bản điện tử. Bàn về nhân vật này, PGS.TS. Nguyễn Bích Thu viết: Trong tiểu thuyết...An Tư tượng trưng cho cái đẹp biết dấn thân, mang một ý nghĩa lớn lao có thể lay chuyển hàng binh thế trận...Nguyễn Huy Tưởng bằng tình cảm và lòng ngưỡng mộ của mình đã ghi nhận và tôn vinh sự hi sinh thầm lặng nhưng quyết liệt của An Tư, một nữ trung hào kiệt trong tiểu thuyết như một chiến công sánh ngang với Trần Quốc Toản, Trần Bình Trọng và trường hợp của nàng đáng được lưu danh như tên tuổi các bậc tiền nhân nhà Trần.Ngày nay, hình tượng An Tư công chúa luôn được thể hiện rất xinh đẹp và cao cả, hầu như người hiện đại hình dung kết cục của An Tư công chúa rất "tang thương" đúng như Chí lược, Toàn thư và Tiêu án ghi lại:「"An Tư qua trại Thoát Hoan và không rõ kết cục ra sao"」. Trong chương trình phim tài liệu Thăng Long Nhân Kiệt dài 100 tập được phát sóng nhằm kỷ niệm 1000 năm Thăng Long trên đài VTV, An Tư công chúa được liệt vào thứ 18 trong 100 vị vĩ nhân mà chương trình gọi là 「"Nàng công chúa nhỏ bé lá ngọc cành vàng, trở thành vật hi sinh cho nền độc lập dân tộc"」. Độ tuổi của An Tư công chúa, do hình tượng xinh đẹp và quan niệm về độ tuổi cưới gả khi ấy, mà luôn được hình dung ở khoảng từ 16 đến 18 tuổi, độ tuổi được cho là "hợp lý" để cưới gả, mặc dù không có sách sử nào chứng minh điều này. Bên cạnh đó, có không ít giả thuyết cho rằng An Tư là người khác ngoài hoàng tộc họ Trần, được phong làm công chúa để phục vụ mục đích khác trong việc gả cho người Nguyên. Giả thuyết này xuất phát ở việc trong khi đề nghị hòa thân, các triều đại nhà Hán, nhà Đường thường lấy người trong họ, thậm chí là dân nữ, để phong công chúa rồi gả cho nhân vật cần liên hôn, chứ ít khi là Hoàng nữ thật sự (như Vương Chiêu Quân, Văn Thành công chúa và Nghi Phương công chúa). Bộ truyện tranh tên Long thần tướng'' đã dựa vào suy luận này mà tạo nên tình huống nhân vật Lê Nhật Lan, được cướp về từ hôn lễ không mong muốn của mình, sau được chỉ thị từ Hưng Đạo vương mà được giáo dục trở thành công chúa gả cho Thoát Hoan trong tương lai. Ngoài ra, An Tư Công Chúa cũng được thể hiện qua vai diễn của diễn viên Lâm Thanh Mỹ qua bộ phim Hoàng Quý Muội được khởi chiếu ngày 3 tháng 12 năm 2020. Bộ phim xoay quanh mối tình xuyên không gian từ năm 1285 đến năm 2020 của An Tư và Chiêu Thành Vương. Xem thêm Huyền Trân Trần Thánh Tông Trần Thái Tông Nguồn Tham khảo Công chúa nhà Trần Năm mất không rõ Năm sinh không rõ
28034
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BA%B1ng%20s%E1%BB%91%20%C4%91i%E1%BB%87n%20m%C3%B4i
Hằng số điện môi
Trong điện từ học, độ điện thẩm tương đối hay hằng số điện môi của một vật liệu là tỉ số của độ điện thẩm tuyệt đối của nó với độ điện thẩm chân không. Lực tĩnh điện giữa hai điện tích điểm trong một môi trường phụ thuộc vào hằng số điện môi của môi trường đó. Cụ thể hơn, lực Coulomb giữa hai điện tích đặt trong điện môi đồng chất nhỏ hơn lực tác dụng giữa chúng trong chân không một số lần; hệ số tỉ lệ đó chính là độ điện thẩm tương đối. Tương tự, độ điện thẩm tương đối của một vật liệu là tỉ số giữa điện dung của một tụ điện dùng vật liệu đó làm điện môi, với điện dụng của một tụ điện tương tự sử dụng chân không làm điện môi. Cụm từ "hằng số điện môi" vẫn thường được sử dụng, nhưng đã bị các tổ chức chuẩn hóa trong kỹ thuật và hóa học ngưng sử dụng. Định nghĩa Độ điện thẩm tương đối thường được ký hiệu là (đôi khi là , chữ kappa) và được định nghĩa bằng trong đó là độ điện thẩm phức phụ thuộc vào tần số của vật liệu, còn là độ điện thẩm chân không. Độ điện thẩm tương đối là một đại lượng không thứ nguyên, với giá trị phức trong trường hợp tổng quát; phần thực và phần ảo của nó thường được ký hiệu là: Độ điện thẩm tương đối liên quan đến độ cảm điện của môi trường đó, , theo hệ thức . Trong những môi trường dị hướng (như tinh thể không lập phương), độ điện thẩm tương đối là một tenxơ hạng hai. Độ điện thẩm tương đối của một vật liệu trong trường hợp tần số bằng không được gọi là độ điện thẩm tương đối tĩnh. Thuật ngữ Cụm từ vốn hay được dùng để chỉ độ điện thẩm tương đối là hằng số điện môi, và hiện vẫn đang được dùng rộng rãi. Tuy nhiên, thuật ngữ đó đã bị các tổ chức chuẩn hóa như IEEE và IUPAC ngưng sử dụng, bởi nó hay bị nhầm với độ điện thẩm tuyệt đối . Trong ngành, cụm từ độ điện thẩm tương đối có thể dùng để chỉ tính chất không đổi, hoặc một tính chất phụ thuộc vào tần số. Đôi khi thuật ngữ này cũng chỉ tới phần thực của đại lượng giá trị phức ở trên. Vật lý Độ điện thẩm tương đối là một đại lượng số phức, với phần ảo tương ứng với sự lệch pha của phân cực so với điện trường và dẫn đến sự suy yếu sóng điện từ truyền qua môi trường. Theo định nghĩa, hằng số điện môi của chân không bằng 1, tức , mặc dù có thể có những hiệu ứng lượng tử phi tuyến tính trong chân không trở nên đáng kể với điện trường mạnh. Bảng sau liệt kê hằng số điện môi của một số dung môi quen thuộc Đo đạc Độ điện thẩm tương đối có thể được đo bằng điện trường tĩnh như sau: đầu tiên điện dung của một tụ điện với chân không ở giữa hai bản tụ, , được đo đạc. Sau đó, cũng với tụ điện đó, điện dung với một điện môi giữa hai bản tụ được đo đạ. Độ điện thẩm tương đối khi đó bằng Trong trường hợp trường điên từ thay đổi theo thời gian, đại lượng này sẽ phụ thuộc vào tần số. Một phương pháp gián tiếp để tính là chuyển đổi kết quả đo tham số S tần số radio. Ngoài ra, còn có thể sử dụng hiệu ứng cộng hưởng ở những tần số cố định. Xem thêm Độ điện thẩm Độ điện thẩm chân không Tham khảo Đại lượng vật lý Điện học Khái niệm vật lý Vật lý vật chất ngưng tụ Điện trường và từ trường trong vật chất Hóa keo
28035
https://vi.wikipedia.org/wiki/Skidmore%2C%20Owings%20%26%20Merrill
Skidmore, Owings & Merrill
Skidmore, Owings & Merrill (viết tắt là SOM) là một hãng kiến trúc và xây dựng lớn của Mỹ. Được Louis Skidmore và Nathaniel Owings thành lập năm 1936 tại thành phố Chicago, sau đó John Merrill gia nhập vào năm 1936. SOM là một trong những công ty kiến trúc lớn nhất thế giới. Chuyên môn chính của họ là trong các tòa nhà thương mại cao cấp, do SOM đã dẫn đầu việc sử dụng rộng rãi của phong cách quốc tế hiện đại hay nhà chọc trời "hộp kính". Họ đã thiết kế một số các tòa nhà cao nhất thế giới, bao gồm cả Trung tâm John Hancock (1969, tòa nhà cao thứ nhì thế giới khi được xây dựng), tháp Willis (năm 1973, cao nhất thế giới trong hơn hai mươi năm), và Burj Khalifa (2010, tòa nhà cao nhất hiện nay trên thế giới). Lĩnh vực hoạt động của hãng gồm: Kiến trúc, Dịch vụ xây dựng/kỹ thuật MEP, đồ họa, thiết kế nội thất, kỹ thuật kiến trúc, xây dựng dân dụng, thiết kế bền vững và quy hoạch & thiết kế đô thị Hãng đã thực hiện hơn 10.000 dự án thiết kế lớn nhỏ trên toàn thế giới, trong đó có Việt Nam. Một số kiến trúc sư nổi tiếng của hãng này gồm có: Edward Charles Bassett, Natalie de Blois, Gordon Bunshaft, David Childs, Myron Goldsmith, Bruce Graham, Gertrude Kerbis, Fazlur Rahman Khan. Lucien Lagrange, Walter Netsch, Larry Oltmanns, Brigitte Peterhans, Adrian Smith, và Marilyn Jordan Taylor Các công trình nổi tiếng Các công trình và quy hoạch thị trấn Oak Ridge, Tennessee, 1942 Lever House, Thành phố New York, 1952 Một loạt các công trình của Học viện Kỹ thuật Illinois, Chicago, 1950-1970 Học viện Không quân Mỹ, Colorado Springs, Colorado, 1958 Thư viện Tài liệu và Bản thảo quý hiếm Beinecke, Đại học Yale, New Haven, Connecticut, 1963 "Circle Campus" của trường Đại học Illinois tại Chicago, 1965 Thư viện Louis Jefferson Long ở Wells College, 1968 Bank of America Center, San Francisco, California, 1969 Trung tâm John Hancock, Chicago, Illinois, 1969 Trụ sở Weyerhaeuser, Tacoma, Washington, 1971 Sân bay Haj, Jeddah, Ả Rập Xê Út, 1972 Willis Tower, Chicago, Illinois, 1973 Trung tâm Carlton, Johannesburg, Cộng hòa Nam Phi, 1973 Trụ sở ngân hàng US, Milwaukee, Wisconsin, 1973 First Wisconsin Plaza, Madison, Wisconsin, 1974 Enerplex, North Building, Princeton, New Jersey, 1982 Vòm Hubert H. Humphrey, Minneapolis, 1982 Trung tâm Wachovia Financial, Miami, Florida, 1984 Tháp Kim Mậu, Thượng Hải, 1998 Đại sứ quán Mỹ tại Ottawa, Canada, 1999 7 South Dearborn đồ án không xây dựng, Chicago, 2000 Công trình trong quá trình xây dựng Freedom Tower, New York Số 7 World Trade Center, New York Burj Dubai, Dubai Khách sạn và tháp quốc tế Trump, Chicago Nhà ga số 3, sân bay quốc tế Ninoy Aquino, Manila, Philippines Tham khảo Liên kết ngoài Tranh chính của SOM Review of the 1954 Manufacturer's Hanover Trust Branch Bank in NYC Công ty kiến trúc Hoa Kỳ Kiến trúc Hiện đại
28037
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kohn%20Pedersen%20Fox
Kohn Pedersen Fox
Kohn Pedersen Fox (hay KPF) là một hãng thiết kế kiến trúc và xây dựng lớn của Mỹ. Hãng được Eugene Kohn, William Pedersen và Sheldon Fox thành lập năm 1976. Hãng nổi tiếng qua các công trình nhà cao tầng trên toàn thế giới với một phong cách đặc biệt. Triết lý thiết kế của Kohn Pedersen Fox xuất phát từ mối quan hệ chặt chẽ với khách hàng, địa điểm xây dựng và kế hoạch tổng thể (program). Sự cân bằng giữa các yếu tốt đó là mục đích chính của KPF trong quá trình giải quyết. Để đạt được mục đích đó, Kohn Pedersen Fox giả quyết đồng thời cả hai quá trình, từ "trong ra" (đề xuất của kiến trúc sư với khách hàng) và từ "ngoài vào" vào để đạt được một tác phẩm kiến trúc hoàn chỉnh, tích hợp được giữa địa điểm xây dựng và kế hoạch tổng thể. Sự đáp ứng và thỏa mãn đầy đủ các nhu cầu của khách hàng được coi là chìa khóa thành công của hãng. Tham khảo Millennium Series: KPF Selected Works, America, Europe, Asia, Images Publishing, 2005 Powell, K, KPF: Vision and Process, Europe 1990-2002, Birkhauser, 2003 Giovannini, J, Building the Gannett/USA Today Corporate Headquarters, Edizioni Press, 2002 Luna and Powell, Kohn Pedersen Fox: Architecture and Urbanism 1993-2002, Rizzoli, 2002 Kohn, E, KPF: The First 22 Years, Featuring William Pedersen's Selected Building Designs 1976-1988, L’Arca Edizioni, 1999 Kohn Pedersen Fox: Master Architect Series II, Images Publishing, 1998 Kohn Pedersen Fox: Architecture and Urbanism 1986-1992, Rizzoli, 1993 KPF: Architecture and Urbanism 1976-1985, Rizzoli, 1985 Tham khảo Liên kết ngoài Trang Web của Kohn Pedersen Fox Hãng kiến trúc
28052
https://vi.wikipedia.org/wiki/Xe%20t%C4%83ng
Xe tăng
Xe tăng hay chiến xa (Tiếng Anh: Tank) thường được gọi tắt là tăng, là loại xe chiến đấu bọc thép, được trang bị pháo lớn, di chuyển bằng bánh xích được thiết kế cho tấn công và phòng thủ độc lập hoặc cùng các đơn vị chiến đấu khác. Hỏa lực này thường được cung cấp bởi 1 pháo chính cỡ nòng lớn với súng máy trong 1 tháp pháo quay, có giáp hạng nặng và có khả năng di chuyển trên nhiều loại địa hình nhằm cung cấp sự bảo vệ cho xe tăng và tổ lái, cho phép thực hiện tất cả các nhiệm vụ chiến đấu trên chiến trường. Thiết kế Do đặc trưng chức năng chiến đấu nên xe tăng được đánh giá qua rất nhiều các thông số kỹ thuật – chiến thuật mà chúng nằm trong các nhóm tính năng chính như sau: Hoả lực: là số lượng, chất lượng, cỡ nòng của vũ khí gắn trên xe. Bao gồm nhiều thông số như tốc độ bắn nhanh, độ chính xác, tầm bắn xa nhất, tầm bắn gần nhất, sức công phá của đạn... Các xe tăng hiện đại thường trang bị 1 pháo bắn thẳng nòng trơn hoặc có khương tuyến cỡ nòng từ 100 đến 125mm (Trong Thế chiến II cỡ nòng thông dụng từ 75–100mm) 1–2 khe súng máy đằng mũi 1 đại liên nằm trên tháp pháo. Đạn có nhiều loại đạn nổ, xuyên thép, đạn chống tăng, và tên lửa có điều khiển bắn qua nòng pháo Vỏ thép: đây là thông số về tính được bảo vệ của xe gồm các yếu tố về số lượng, chất lượng, độ dày, vật liệu, hình dáng và vị trí bố trí của các lớp vật liệu vỏ thép để bảo vệ xe... Các xe tăng hiện đại ngoài nhiều lớp vỏ thép và các vật liệu tổng hợp còn các lớp treo bảo vệ bằng thuốc nổ (còn gọi là giáp phản ứng nổ, viết tắt là ERA) và các lớp vật liệu chống phóng xạ cho trường hợp chiến tranh hạt nhân xảy ra và hệ thống tuần hoàn và lọc khí chống vũ khí hoá học, sinh học. Tính cơ động: Là tính năng rất quan trọng quyết định hiệu quả chiến đấu của xe tăng, bao gồm các thông số như tốc độ tối đa, tốc độ chiến đấu trên các địa hình, khả năng vượt vật cản, khả năng vượt dốc, khả năng vượt sông, tầm hoạt động xa nhất, tính việt dã... Hiện nay, các loại xe tăng nổi tiếng được sản xuất tại một số nước là các cường quốc quân sự và kinh tế trên thế giới và cũng là các nước có truyền thống sử dụng xe tăng trong chiến tranh như Nga (Liên Xô), Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Đức, Israel, và gần đây là Trung Quốc, Hàn Quốc, Triều Tiên... Mỗi quốc gia tùy quan điểm, kinh nghiệm và điều kiện của mình chế tạo xe theo ưu tiên riêng cho các tính năng của xe tăng. Các điểm mạnh, yếu và chiến thuật sử dụng xe tăng Điểm mạnh Xe tăng có các điểm mạnh thể hiện ở 3 chức năng chiến thuật: chức năng tấn công thọc sâu, chức năng chống tăng và chức năng trợ chiến bộ binh. Chức năng tấn công thọc sâu: Xe tăng là xe vũ trang mạnh di chuyển bằng xích, thực tế là loại xe việt dã chạy mọi địa hình không cần đường sá, xe có thể vượt các chướng ngại vật và các địa hình, địa chất phức tạp với vận tốc khá cao, có hoả lực mạnh, độ bảo vệ tốt và tương đối độc lập trong hoạt động do đó xe tăng là loại vũ khí tấn công thọc sâu cơ động tiện dụng, phổ biến nhất của lục quân: bên tấn công tung các đơn vị xe tăng đánh vào khoảng không gian chiến thuật phía sau tuyến phòng thủ của đối phương, thọc sâu chia cắt các đơn vị của địch phá vỡ hậu tuyến phòng ngự và các cơ cấu liên lạc, hậu cần, chỉ huy của đối phương làm đối phương tan vỡ hoảng loạn hoặc bị rơi vào vòng vây, nhất là khi quân tấn công dùng nhiều mũi xe tăng kết hợp bộ binh cơ giới đánh chia cắt và hợp vây quân phòng thủ. Đây chính là các kịch bản của chiến tranh chớp nhoáng của quân đội Đức quốc xã trong chiến tranh thế giới lần thứ hai với các đơn vị xe tăng thiết giáp tập trung cấp sư đoàn, tập đoàn quân xe tăng đánh thọc sâu chia cắt đã tạo các chiến thắng vang dội nhanh chóng, hiệu quả rất lớn trong giai đoạn đầu của chiến tranh trên bộ tại chiến trường châu Âu. Chức năng chống tăng: Cũng chính vì khả năng thọc sâu cơ động cực kỳ nguy hiểm trong tấn công của xe tăng nên để đối phó lại, quân phòng ngự cũng phải duy trì một lực lượng xe tăng thiết giáp hùng hậu, tập trung tại hậu tuyến phòng ngự của quân mình làm lực lượng dự bị để cơ động phản công chống lại và hoá giải các mũi thọc sâu của xe tăng đối phương. Đây chính là kịch bản của trận Vòng cung Kursk nơi có trận đấu xe tăng lớn nhất trong lịch sử chiến tranh của nhân loại. Như vậy sức mạnh chủ yếu của xe tăng là sức mạnh tiến công cơ động và nhờ sức tiến công cơ động đó xe tăng cũng được dùng làm phương tiện chủ yếu để phòng thủ tích cực phản công chống lại sức tấn công cơ động của đối phương. Chức năng trợ chiến cho bộ binh: Xe tăng cũng có thể được sử dụng như các ụ pháo di động để trợ chiến cho bộ binh trong việc đánh quân địch phòng ngự trong công sự và trận địa kiên cố liên hoàn. Nhưng chỉ nên dùng chức năng này khi thật cần thiết không nên lạm dụng vì có thể gây tổn thất lớn cho lực lượng xe tăng vì không phát huy được các điểm mạnh mà còn dễ bị quân phòng ngự khai thác các điểm yếu của mình. Điểm yếu Điểm yếu rất quan trọng của xe tăng là tầm quan sát của kíp chiến đấu kém. Vũ khí đánh gần của xe tăng khá kém do xạ giới bị hạn chế bởi các vỏ bọc thép ở tháp pháo, sự cơ động bị chậm do phụ thuộc vào tốc độ quay của tháp pháo. Những xe tăng kiểu cũ có lớp vỏ giáp trên đỉnh tháp pháo mỏng, không được trang bị vũ khí phòng không (súng máy, tên lửa đất đối không tầm ngắn) đều bất lực trước máy bay cường kích và trực thăng chống tăng của đối phương. Xe tăng gần như bất lực trước máy bay, trực thăng của đối phương vì tầm quan sát rất kém và vũ khí của xe tăng không phải là thứ chuyên dụng để chống lại mục tiêu trên không. Do đó để tránh thương vong cho xe tăng, khi tác chiến phải có lực lượng không quân yểm trợ hữu hiệu hoặc lực lượng phòng không đủ mạnh để bảo vệ khoảng không cho xe tăng tác chiến, lực lượng phòng không này vừa phải chống máy bay hiệu quả vừa phải có sức cơ động cao đi kèm xe tăng, do đó tại các cường quốc quân sự thế giới đã chế tạo các loại xe tăng phòng không trang bị radar và tên lửa, pháo phòng không để đi kèm trong đội hình tấn công của xe tăng-cơ giới, ví dụ như Flugabwehrkanonenpanzer Gepard của Đức, 9K22 Tunguska, Buk M2 của Nga hay Type 95 SPAAA của Trung Quốc. Xe tăng kém hiệu quả tác chiến ở nơi rừng núi và thành phố: Tại nơi có rừng, núi, thành phố, pháo của xe tăng sẽ khó xoay trở vì vướng địa hình. Điển hình là trong thành phố, khi bộ binh đối phương ở trên nhà cao tầng thì pháo chính không bắn tới được (góc nâng pháo của xe tăng chỉ đạt đến 30 độ). Yếu kém trong đánh gần: vì tầm quan sát yếu và vũ khí xe tăng không hiệu quả khi bị bộ binh địch áp sát, nhất là ngày nay khi bộ binh được trang bị các vũ khí chống tăng vác vai rất hiệu quả là súng phóng lựu chống tăng hay các loại tên lửa chống tăng dẫn đường (tên lửa ATGM) . Điển hình như RPG-2 (B40), RPG-7 (B41), RPG-29, 9M133 Kornet, FGM-148 Javelin... Xe tăng nếu không có bộ binh đi cùng thì sẽ dễ bị bộ binh địch ẩn nấp dễ dàng tiếp cận tiêu diệt bằng vũ khí chống tăng vác vai bắn vào các điểm yếu: nóc chỉ huy, hông, mông, ... Xe tăng là vũ khí đắt tiền và nặng nề, cần nhiều chi phí để mua sắm và bảo trì. Nếu xe tăng bị hư hại trên chiến trường thì khó mà sửa chữa tại chỗ mà phải tìm cách kéo về xưởng. Chiến thuật sử dụng xe tăng Vì các điểm mạnh yếu nêu trên cho nên cần phải sử dụng xe tăng hợp lý theo đúng chiến thuật: . Dùng lực lượng xe tăng tập trung theo các nhiệm vụ tác chiến độc lập và đúng chức năng là lực lượng tấn công cơ động thọc sâu, hạn chế dùng đơn lẻ phân tán làm các nhiệm vụ phụ trợ cho bộ binh. Xe tăng nên tấn công trong đội hình có bộ binh, bộ binh cơ giới và vũ khí phòng không đi kèm để khắc phục tầm quan sát kém và có bảo vệ từ trên không. Không nên sử dụng xe tăng trong việc đánh các mục tiêu trong thành phố, rừng núi, vì sẽ dễ dàng bị bộ binh địch áp sát và tấn công (Quân đội Nga phải chịu tổn thất lớn về thiết giáp khi sử dụng xe tăng trong Chiến tranh Chesnia lần thứ nhất, 1994–1996), tránh dùng xe tăng đánh các tuyến phòng thủ kiên cố của địch vì xe tăng không phát huy được tính cơ động của mình vì các hệ thống vật cản và mìn chống tăng địch giăng sẵn và là nơi tập trung các lực lượng chống tăng của địch. Tốt nhất chỉ nên sử dụng xe tăng vào chức năng thọc sâu và chống tăng: Theo kinh nghiệm của chiến tranh hiện đại nhất là trong thế chiến thứ hai thì nhiệm vụ đánh chọc thủng các vỏ cứng của tuyến phòng thủ kiên cố của đối phương nên được thực hiện bởi bộ binh kết hợp với xe tăng, yểm trợ bởi mật độ bắn phá cao của pháo binh cùng với sự giúp đỡ của không quân. Sau khi đã chọc thủng được tuyến phòng thủ, đã mở ra khoảng không gian chiến thuật thì lúc đó mới giao nhiệm vụ phát triển tấn công đánh cơ động thọc sâu cho các lực lượng xe tăng - thiết giáp có sự yểm trợ từ trên không của không quân và có bộ binh cơ giới đi kèm. Lịch sử phát triển của xe tăng Ra đời trong thế chiến I Chiến tranh thế giới thứ nhất là một cuộc chiến tranh trận địa điển hình hay còn gọi là chiến tranh chiến hào là loại chiến tranh mà "dễ phòng thủ, khó tấn công". Quân đội hai bên cố thủ trong hệ thống chiến hào nhiều tầng lớp, dày đặc dây thép gai và bãi mìn. Lúc đó chưa có phương tiện cơ giới để yểm trợ bộ binh tiến công. Để đánh chiếm một đoạn tuyến phòng thủ của đối phương, quân tấn công phải chịu thương vong rất lớn và cũng không thể phát triển tấn công nhanh chóng và hiệu quả. Ngược lại quân phòng ngự có thể nhanh chóng tái lập phòng tuyến mới phía sau chiến tuyến của mình. Chiến tranh có hình thức giằng co hai bên ép dần chiến tuyến của nhau, chiến tuyến thay đổi chậm chạp, ổn định. Đánh nhau rất ác liệt, thương vong lớn nhưng ít có các trận đánh quyết định thắng bại dứt khoát. Kết cục chiến tranh phụ thuộc vào sự chịu đựng dẻo dai của xã hội các nước đối kháng đối với gánh nặng của chiến tranh... Năm 1916, người Anh nghĩ ra loại xe tấn công đầu tiên mà để giữ bí mật khi sản xuất và vận chuyển vũ khí mới họ gọi là "tank" (cái thùng sắt) đó là xe tăng Mark I, Mark II, Mark III, Mark IV mỗi loại xe được sản xuất theo 2 phương án: "xe đực" có pháo (nòng pháo nhô ra nên gọi là "đực"), và "xe cái" không có pháo chỉ có lỗ châu mai để bắn súng máy nên gọi là "cái". Xe tăng đầu tiên lấy động cơ từ các động cơ ô tô đương thời nhưng chuyển động bằng bánh xích, cho phép xe đi được trên các địa hình phức tạp nhưng chậm hơn người đi bộ, vỏ thép thì dùng đinh tán. Các mẫu xe đầu tiên có hình dạng kết cấu rất khác xa so với xe tăng bây giờ: Xe đực Mark I đến Mark IV chưa có tháp pháo, pháo lắp 2 bên sườn xe với khung xích hình quả trám rất cao để bò qua các vật cản cao. Điều thú vị là tuy xe tăng là vũ khí lục quân nhưng việc nghiên cứu phát triển xe tăng đầu tiên lại do Bộ Hải quân Hoàng gia Anh tiến hành với sự chỉ đạo của Bộ trưởng Winston Churchill. Lần đầu tiên người Anh đem xe tăng ra chiến trường là tại trận sông Somme tại miền Bắc nước Pháp ngày 15 tháng 9 năm 1916. Do xe tăng đầu tiên còn quá thiếu độ tin cậy nên trong số 49 xe để chiến đấu 17 chiếc trục trặc không thể xuất phát, trong số còn lại 5 chiếc bị sa xuống bùn, 9 chiếc trục trặc kỹ thuật trước khi tấn công, tổng cộng chỉ còn 18 chiếc thực sự tấn công. Nhưng chúng đã thành công lớn, gây hoảng loạn cho quân Đức phòng thủ, cuộc tấn công trong ngày hôm đó đã tiến lên chiếm được 5km chiều sâu chiến tuyến với số thương vong cho binh sĩ thấp hơn mức trung bình tới 20 lần. Tuy Trận sông Somme năm 1916 vì nhiều lý do khác nhau mà cũng lại có kết cục không dứt khoát, nhưng xe tăng đã trở thành vũ khí tiến công rất có triển vọng. Ngay sau đó người Đức cũng học theo và chế tạo được loại xe tăng A7V. Người Pháp cũng chế tạo xe tăng và năm 1917 họ đã sản xuất ra xe tăng hạng nhẹ Renault FT-17, đây là xe tăng có kết cấu hoàn chỉnh đầu tiên, đến mức nó còn được quân đội Pháp và Ba Lan dùng cho đến đầu thế chiến thứ II. Xe Renault FT17 đã có bố trí cấu tạo về cơ bản rất giống với xe tăng ngày nay với tháp pháo có thể quay nhanh và pháo có thể nâng hạ góc bắn, xe có tốc độ cao, tính cơ động tốt, khả năng việt dã tốt với các thông số như sau: Hoả lực là súng máy Hotchkiss hoặc pháo 37mm. Động cơ xăng Renault tốc độ 6–7km/giờ leo dốc đến 35 độ, vượt hào rộng 1,8 m. Vỏ thép 6–22mm. Kích thước xe: dài × rộng × cao: 5 × 1,74 × 2,14 m. Trước và trong thế chiến II Trước và đặc biệt trong thế chiến II, xe tăng có những bước phát triển rất nhanh, mạnh trong cả kỹ thuật chế tạo xe và chiến thuật sử dụng chúng. Trước chiến tranh các cường quốc thế giới đã nhận thức được vai trò của xe tăng trong chiến tranh và ra sức xây dựng một lực lượng xe tăng mạnh. Về kỹ thuật: Trong thời gian này nhà kỹ thuật người Mỹ George Christie đã ứng dụng hệ thống treo cho xe tăng đã nâng cao độ tin cậy tác chiến của xe tăng: tháp pháo nhờ hệ thống này vẫn giữ nguyên vị trí khi xe chuyển động cho phép xe tăng có thể ngắm bắn khi đang chuyển động. Các loại xe tăng của Liên Xô ngay trước thế chiến II lần đầu tiên trên thế giới được lắp động cơ Diesel. Các xe tăng được trang bị liên lạc radio, hỏa lực được nâng cao (cỡ nòng từ 30–40mm của thế chiến I nâng lên 70–80mm đầu thế chiến II và cuối thế chiến II có loại mang pháo 122mm). Vỏ thép được gia cường rất nhiều để chống lại các loại vũ khí chống tăng của đối thủ. Các loại xe tăng tốt nhất của thời kỳ này là của hai cường quốc lục quân Liên Xô và Đức Quốc xã, kết quả của các đối chọi của quân đội hai nước này trên chiến trường. Nhưng trong thời kỳ này có sự đánh giá rất khác nhau (ở các nước và trong một nước) trong quan niệm về vai trò của xe tăng trong chiến tranh dẫn đến sự phát triển xe tăng theo các hướng và phát sinh nhiều hạng xe tăng khác nhau cho các mục đích sử dụng khác nhau mà sau chiến tranh thế giới thứ 2 đã loại bỏ tất cả các loại xe không thích hợp, chỉ còn một vài loại được khẳng định qua chiến tranh. Do coi trọng chức năng trợ chiến cho bộ binh, một số loại xe của Pháp và Liên Xô được chế tạo với vỏ thép rất nặng, hỏa lực rất mạnh, cơ động rất kém, thậm chí có vài tháp pháo cho nhiều loại pháo, đây là loại xe thực sự là "ụ pháo biết đi" để yểm trợ hỏa lực cho bộ binh và chống xe tăng địch. Ví dụ, xe tăng T-35 của Liên Xô có số lượng rất ít ỏi (năm 1933-1939 Liên Xô sản xuất 61 chiếc), là một thử nghiệm của xe bọc thép hỗ trợ bộ binh với 5 tháp pháo rất nặng nề; hoặc loại xe tăng nặng đến 70 tấn Char 2C của Pháp. Các loại xe này trong thực tế chiến đấu tỏ ra khá vô dụng và nhanh chóng chết yểu. Thời gian này có sự chạy đua giữa hỏa lực và vỏ thép trong chế tạo xe tăng. Các cường quốc chạy đua bằng việc gia tăng cỡ pháo, tăng độ dày của vỏ thép và tăng sức cơ động. Sự chạy đua của các tính năng mâu thuẫn lẫn nhau này làm cho xuất hiện rất nhiều phân hạng xe tăng: Xe tăng hạng nhẹ: xe nhẹ, vỏ thép yếu, thường dưới 40mm, cơ động tốt nhưng hỏa lực pháo khá yếu (dưới 50mm), rất điển hình là xe tăng BТ-7, T-26 của Liên Xô, Panzer II của Đức. Trong chiến tranh, loại xe này tỏ rõ tính không hiệu quả khi đấu tăng, nhưng lợi thế của chúng là tốc độ và độ cơ động cao, nên được dùng chủ yếu để trinh sát. Xe tăng hạng trung (theo tiếng Anh "Medium tank"): là kết hợp hợp lý của vỏ thép 40–70mm, hỏa lực pháo 70–90mm, tính cơ động tốt đây là hạng xe tăng tối ưu được thực tế chiến tranh khẳng định mà các mẫu xe tốt nhất là của Đức và Liên Xô, điển hình là loại xe tăng Panzer IV của Đức và T-34 của Liên Xô, trong đó có phiên bản T-34-85 là thành công nhất. Một thành công trong thiết kế của loại T-34 là vỏ thép không thật dày nhưng bố trí hình dạng vát nghiêng đã tăng hiệu quả chống đạn lên rất nhiều, kinh nghiệm này sẽ có mặt trong các thiết kế xe tăng sau này. Sau chiến tranh, xe hạng trung sẽ xóa nhòa các hạng khác và phát triển thành xe tăng chiến đấu chủ lực (tiếng Nga: Основной боевой танк, viết tắt ОБТ; tiếng Anh: main battle tank, viết tắt MBT). Xe tăng hạng nặng (tiếng Anh còn gọi là heavy tank): vỏ thép rất nặng, dày từ 80 đến trên 100mm, hỏa lực mạnh đến 85–122mm, chi phí đắt đỏ. Loại xe này trong thực tế thích hợp để chống tăng và diệt lô cốt (giống chức năng của pháo tự hành) hơn là tấn công đột phá nhanh do xe chậm chạp nặng nề, tầm hoạt động ngắn và bộ phận truyền động dễ bị hư hỏng. Ví dụ tiêu biểu là các loại Tiger (con cọp) và King Tiger ( Tiger II, vua cọp) của Đức và Xe tăng Kliment Voroshilov, xe tăng Iosif Stalin (ИС-2, ИС-3) của Liên Xô. Về chiến thuật: Đây là thời kỳ của những tư tưởng táo bạo của chiến thuật sử dụng xe tăng mà các tướng lĩnh Đức Quốc Xã đã đi đầu và tạo nên cuộc cách mạng trong nghệ thuật chiến tranh. Các chiến thắng vũ bão của quân đội Đức Quốc xã trên chiến trường trên bộ đánh tan nhanh chóng quân đội các cường quốc địch thủ tại châu Âu trong chiến lược chiến tranh chớp nhoáng (Blitzkrieg) là nhờ các sáng tạo chiến thuật chứ không phải là nhờ chất lượng hơn hẳn của xe tăng Đức. Tuy trước chiến tranh tại nhiều nước đã có các trường phái lý luận quân sự đặt nền móng cho chiến thuật chiến tranh cơ động như Hobart tại Anh, Guderian tại Đức, tăng Chaffee tại Hoa Kỳ, De Gaulle tại Pháp, và Tukhachevsky tại Liên Xô, các nhà tư tưởng quân sự này đã cùng đi đến một kết luận như nhau về kịch bản của chiến tranh hiện đại, nhưng chỉ dừng lại ở ý tưởng lý thuyết. Chỉ có tại Đức các lý luận này được cấp lãnh đạo cao nhất của quốc gia là Adolf Hitler thực sự tin tưởng và ủng hộ và với quyết tâm cao đưa vào thực tế xây dựng quân đội. Quân đội Đức thay vì sử dụng xe tăng một cách xé lẻ biên chế vào các đơn vị bộ binh như các phương tiện hỗ trợ chiến đấu như ở các nước khác, đã tập trung lại thành các sư đoàn, tập đoàn quân xe tăng xung kích, phát triển một loại bộ binh mới là bộ binh cơ giới có chức năng đi kèm xe tăng cho các hành động chiến đấu cơ động tấn công, Phát triển các ngón đòn liên hoàn cho chiến thuật kết hợp mũi nhọn xe tăng cùng không quân. Tất cả đều lấy xe tăng làm vai trò trung tâm của chiến thuật tấn công theo sơ đồ các mũi nhọn thiết giáp thọc sâu, chia cắt, hợp vây và tiêu diệt các khối lớn các đạo quân phòng thủ của địch. Sau này chiến thuật tương tự được phía Liên Xô phát triển được gọi là chiến thuật chiến dịch tiến công chiều sâu. Các chiến thuật tiến công này đã đưa chức năng tấn công thọc sâu cơ động của xe tăng lên làm chức năng số một gây nên sự thay đổi lớn trong hình thức tác chiến của chiến tranh thế giới lần thứ hai và trong quan điểm chế tạo xe tăng trong các giai đoạn kế tiếp sau này. Thời chiến tranh lạnh và hiện đại Sau thế chiến II có thể phân ra 3 giai đoạn phát triển xe tăng: Giai đoạn thứ nhất là ngay sau chiến tranh và trong thập niên 1950: việc thiết kế, sản xuất xe tăng trong giai đoạn này vẫn theo các tiêu chuẩn của chiến tranh thông thường, theo xu hướng tăng cỡ nòng hoả lực và tăng vỏ thép. Sau chiến tranh loại xe tăng hạng nặng không còn chỗ đứng và tuyệt chủng, xe tăng hạng nhẹ vẫn còn vai trò hạn chế trong trinh sát vì nó nhẹ thuận tiện cho vận chuyển đổ bộ đường không nhưng rồi cũng hết vai trò và nhanh chóng tuyệt chủng. Các loại xe tăng hạng trung được nâng cao tính năng và biến đổi thành xe tăng chiến đấu cơ bản. Cơ cấu pháo về cơ bản ít thay đổi nhưng có thay đổi nhiều về đạn dược, hệ thống máy móc động cơ có nhiều hoàn thiện lên: động cơ Diesel thay thế hoàn toàn động cơ xăng tuy vẫn nhỏ gọn nhưng công suất mạnh hơn rất nhiều, hệ thống treo được hoàn thiện... Các xe tăng tiêu biểu của giai đoạn này là T-54, T-55, T-62 của Liên Xô, M-46, M48 Patton của Mỹ, AMX của Pháp, xe tăng Centurion của AnhỞ thời kỳ này, để đáp ứng nhu cầu chở bộ binh cơ giới tấn công cùng xe tăng các cường quốc quân sự thế giới phát triển một loại xe đặc biệt là xe bọc thép có một số đặc điểm như xe tăng: xe bọc thép cũng chạy bằng xích, có tính năng cơ động rất tốt nhưng hỏa lực và vỏ thép yếu, có thể có hoặc không có tháp pháo. Vũ khí có thể là loại pháo cỡ nhỏ (dưới 40mm) nhưng chủ yếu là súng máy, các xe bọc thép hiện đại thường có trang bị thêm tên lửa chống tăng (Tên lửa ATGM). Vỏ thép yếu thường chỉ chống được đạn súng máy, không chống được trái phá, có loại có vỏ rất nhẹ bằng hợp kim nhôm. Tiêu biểu là các loại xe bọc thép lội nước M-113 của Hoa Kỳ, xe BTR-60, xe tăng PT-76 của Liên Xô viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sử dụng trong chiến tranh Việt Nam. Nhưng đặc trưng cơ bản phải có của xe bọc thép là có khoang rộng để chở bộ binh cơ giới, thường một xe cho một tiểu đội trên dưới 10 người. Thông thường trong tấn công hành tiến bộ binh cơ giới ngồi trong xe bọc thép trong đội hình đi kèm xe tăng, khi gặp tuyến cố thủ của bộ binh địch thì bộ binh cơ giới triển khai ra bên ngoài chạy cùng xe tăng tấn công để khắc phục nhược điểm tầm quan sát kém và khả năng đánh gần kém của xe tăng. Và khoang xe bọc thép còn có thể được sử dụng để bố trí các loại hỏa lực phụ trợ đi kèm rất lợi hại của bộ binh như súng cối, súng phun lửa, hoặc súng máy phòng không... Giai đoạn thứ hai là những năm 1960–1970: Xe tăng chủ lực xuất hiện. Đây là giai đoạn mà xe tăng tuy về kết cấu cơ bản không thay đổi nhiều nhưng tính năng được hoàn thiện cao chủ yếu nhờ vào công nghệ mới: độ bảo vệ của xe không phải do tăng độ dày của vỏ thép mà nhờ áp dụng các vật liệu mới siêu nhẹ, siêu bền vì với sự phát triển của đầu đạn lõm xuyên thép thì chạy đua bằng cách tăng mãi độ dày của vỏ thép trở nên vô nghĩa, do đó vỏ thép, trọng lượng không tăng lên mấy nhưng có thể chống lại mọi loại trái phá chống tăng thời đại chiến. Tính cơ động của xe tốt lên rất nhiều, xe có tốc độ rất lớn nên được gọi là xe tăng bay (xe Leopard – con báo của Đức, xe T-64 của Liên Xô). Đặc biệt xe tăng thời kỳ này được thiết kế để chiến đấu trong điều kiện chiến tranh có vũ khí huỷ diệt hàng loạt: vỏ xe bảo vệ được kíp chiến đấu khỏi bức xạ hạt nhân và xe được bảo đảm kín hoàn toàn với hệ thống tuần hoàn và lọc khí để bảo vệ khỏi bụi phóng xạ, vũ khí hoá học, vũ khí vi trùng. Thời kỳ này các loại vũ khí chống tăng phát triển mạnh nên xe tăng cũng phải thích nghi và chạy đua theo, xe tăng được trang bị các loại thiết bị điện tử và công nghệ cao: Về hoả lực độ chính xác rất cao nhờ máy tính đường đạn, máy đo xa bằng laze, máy nạp đạn tự động giúp tăng tốc độ bắn nhanh và giảm được 1 pháo thủ nạp đạn. Để chống lại các loại đầu đạn xuyên phá và tên lửa chống tăng của đối phương và các vũ khí dẫn đường chính xác, các xe tăng thời kỳ này (bắt đầu bằng loại xe T-55 của Liên Xô) đã trang bị hệ thống bảo vệ tích cực là các ống phóng lựu kết hợp cùng radar bảo vệ cục bộ chuyên dụng: Khi radar phát hiện có mục tiêu đang nhắm đến xe sẽ điều khiển hệ thống phóng lựu bắn lên các đầu đạn nổ mảnh tạo nên 1 đám mây mảnh kim loại khả dĩ phá huỷ vũ khí của đối phương hoặc làm nhiễu loạn độ chính xác của vũ khí địch, hệ thống này cũng dùng để bắn tạo màn khói ngăn cản các thiết bị ngắm bắn của đối phương, hệ thống bảo vệ tích cực này làm tăng sức sống của xe lên nhiều lần. Các xe tăng nổi tiếng và tiêu biểu của thời kỳ này là T-64, T-72 của Liên Xô, M60 Patton của Hoa Kỳ, xe tăng Chieftain của Anh, Leopard 1 của Đức. Giai đoạn thứ 3 là thời kỳ những năm 1980 và tiếp diễn đến 2014: là giai đoạn mà các tính năng "cổ điển" của xe (như tính cơ động, hoả lực, vỏ thép) đã không còn là các yếu tố duy nhất để đánh giá sức mạnh, mà các tính năng công nghệ cao giờ đây có vai trò rất quan trọng: như mức độ hiệu quả trong đấu tranh điện tử, độ bí mật về tiếng ồn và hồng ngoại (tia nhiệt), trong thời kỳ này xuất hiện xe tăng có động cơ tuốc bin khí (của Liên Xô – Nga và của Hoa Kỳ) làm xe có công suất máy cực mạnh, động cơ xe tăng thời kỳ này đều là đa nhiên liệu. Hệ thống bảo vệ của xe được cải tiến nhiều nhất và được coi là ưu tiên hàng đầu: trong thiết kế xe tăng hệ thống bảo vệ thụ động (vỏ xe) cũng vẫn được quan tâm hoàn thiện có loại xe được nhồi bằng vật liệu mật độ lớn như uranium nghèo của Mỹ để tăng độ chống xuyên phá của đầu đạn lõm của vũ khí chống tăng, một hướng khác lại dùng những vật liệu chất dẻo đặc biệt có cốt sợi đặc biệt siêu nhẹ, siêu bền để chế tạo xe tăng siêu nhẹ dùng cho đổ bộ đường không cho các lực lượng phản ứng nhanh. Hệ thống bảo vệ tích cực ra đời và được trang bị trên các xe tăng của Liên Xô - Nga, xe được sơn phủ bằng các lớp sơn và vật liêu hấp thụ sóng điện từ và chống hồng ngoại giúp xe khó bị máy bay và trực thăng địch phát hiện, hệ thống gây nhiễu dẫn đường vũ khí. Xuất hiện hệ thống bảo vệ bằng phản lực hay giáp phản ứng nổ, ví dụ như xe tăng T-72 cải tiến của Nga trên bề mặt có thể thấy các mảnh thuốc nổ Dynamit hình chữ nhật được dán trên vỏ xe. Nguyên tắc của hệ thống này là: Khi trái phá (nhất là tên lửa chống tăng) của địch bắn vào vỏ xe trước tiên nó gặp lớp thuốc nổ Dynamit và kích nổ lớp thuốc nổ này trước khi đầu đạn trái phá hoặc tên lửa tự nổ. Sức nổ của Dynamit sẽ tạo phản lực đẩy vào đầu đạn theo chiều ngược lại và hoặc là sẽ phá huỷ đầu đạn hoặc cân bằng với xung lực của đầu đạn làm giảm sức xuyên phá của nó, chí ít thì cũng hạn chế, triệt tiêu hiệu ứng đầu đạn lõm. Hệ thống bảo vệ này rất hiệu quả theo thử nghiệm trên thao trường nó làm giảm xác suất bị tiêu diệt xuống 2 lần. Về hoả lực, các loại đạn trên xe rất phong phú tinh xảo, các xe T-80, T-90 của Nga và Merkava của Israel có hệ thống pháo – tên lửa tích hợp (có thể phóng tên lửa qua nòng pháo). Các xe tăng tiêu biểu thời kỳ này là T-72B3 cải tiến, T-80, T-90 của Nga, M1 Abrams của Hoa Kỳ, Leopard 2 của Đức. Giai đoạn thứ 4, bắt đầu từ năm 2014: là giai đoạn mà xe tăng trở nên tự động hóa ngày càng cao, mở đầu là xe tăng T-14 Armata của Nga có tháp pháo hoàn toàn tự động. Trong tương lai, dự đoán rằng mức tự động hóa sẽ tiếp tục tăng lên, biến xe tăng trở thành cỗ máy chiến đấu không người lái. Xe tăng tương lai còn có thể điều khiển máy bay không người lái để tự trinh sát mục tiêu, và trang bị các loại tên lửa tầm xa có thể tấn công mục tiêu từ tầm xa hàng chục km theo sự chỉ dẫn của máy bay không người lái. Phân loại xe tăng Theo thời gian cũng như sự phát triển của lý thuyết quân sự, của khoa học và công nghệ, sự hiện hóa của vũ khí và các phương tiện chiến tranh, sự phân loại xe tăng từng thời kỳ cũng có những biến đổi: Trước năm 1920 Có bốn loại xe tăng, được phân loại theo trọng lượng: Xe tăng siêu nhẹ: Trọng lượng toàn bộ từ 2 đến 3 tấn Xe tăng hạng nhẹ: Trọng lượng từ 3 đến 15 tấn Xe tăng hạng trung: Trọng lượng từ 15 tấn đến 40 tấn Xe tăng hạng nặng: Trọng lượng trên 40 tấn Trước năm 1960 Khối Warszawa Có ba loại xe tăng, được phân loại theo trọng lượng: Xe tăng hạng nhẹ: Trọng lượng dưới 20 tấn Xe tăng hạng trung: Trọng lượng từ 20 tấn đến 40 tấn Xe tăng hạng nặng: Trọng lượng trên 40 tấn Khối NATO Có ba loại xe tăng, được phân loại theo trọng lượng và kích cỡ của pháo tăng: Xe tăng hạng nhẹ: Trọng lượng dưới 25 tấn, pháo tăng có cỡ nòng đến 85mm Xe tăng hạng trung: Trọng lượng từ 25 tấn đến 50 tấn, pháo tăng có cỡ nòng đến 105mm Xe tăng hạng nặng: Trọng lượng trên 50 tấn, pháo tăng có cỡ nòng lớn hơn 105mm Từ năm 1960 Xe tăng được phân loại không chỉ theo trọng lượng, kích cỡ pháo tăng mà còn được phân loại theo công dụng, tính năng. Theo cách phân loại này, xe tăng có các chủng loại sau: Xe tăng chủ lực: Kết hợp các tính năng của xe tăng hạng nặng và xe tăng hạng trung, được trang bị nhiều loại vũ khí khác nhau phục vụ cho nhiều mục đích chiến đấu khác nhau, có thể sử dụng trong nhiều môi trường tác chiến khác nhau, kể cả tác chiến mặt đất, tác chiến phòng không và đổ bộ đường biển. Xe tăng đặc chủng: Còn gọi là xe tăng chuyên biệt. Loại xe này có những thiết bị đặc biệt chuyên dùng để thực hiện những nhiệm vụ chuyên môn riêng như diệt tăng, trinh sát, phun lửa, phá công sự kiên cố, rà phá mìn, bắc cầu, đổ bộ từ tàu biển, đổ bộ từ trên không... Từ năm 1960, xe tăng hiện đại trang bị nhiều loại vũ khí như pháo, tên lửa chống tăng( tên lửa ATGM), tên lửa phòng không tầm ngắn và trung bình. Hiện nay. ở những nước có nền công nghiệp quốc phòng hiện đại, phần lớn các loại xe tăng hạng nhẹ trước đây không được mở rộng sản xuất. Họ chuyển sang chế tạo xe thiết giáp chiến đấu của bộ binh dùng bánh xích có tính năng giống với xe tăng hạng nhẹ nhưng đa năng hơn, (BMP, BMD, M2 Bradley); xe thiết giáp trinh sát (BRDM), hay xe chiến đấu hỗ trợ tăng dựa trên khung thân xe tăng, có thể chiến đấu độc lập hoặc phối hợp với xe tăng trong thực hiện nhiệm vụ đột kích tốc độ cao của lục quân hiện đại. Các xu hướng phát triển trong chiến tranh hiện đại Trong thời đại ngày nay nhất là sau khi nguy cơ chiến tranh thế giới tổng lực không còn và với sự lên ngôi vai trò của không quân thì tương lai sử dụng xe tăng vẫn chưa rõ ràng: Một mặt với sự xuất hiện ngày càng nhiều và tích cực của máy bay cường kích và trực thăng thì xe tăng mất độc quyền trong việc tiến công cơ động: tốc độ cơ động và các khả năng cơ động với mọi địa hình, tính bất ngờ của máy bay trực thăng mang quân đổ bộ thì xe tăng không thể so sánh được. Ngày nay xe tăng khi tiến công rất dễ trở thành mồi săn cho các loại máy bay và trực thăng: để chống lại các mũi tiến công của xe tăng bên phòng thủ không cần phải duy trì một lực lượng thiết giáp mạnh để phản công mà hiệu quả hơn là dùng các đội trực thăng vũ trang chống tăng hoặc các loại máy bay yểm trợ mặt đất như máy bay A-10 Thunderbolt của Hoa Kỳ, máy bay Su-25 của Liên Xô/Nga là điển hình của tính hiệu quả. Máy bay và trực thăng chống tăng có thể bao phủ một khoảng rất rộng chiến trường hiệu quả diệt tăng rất cao, do đó chỉ cần duy trì một lượng máy bay tương đối nhỏ là có thể thay thế cho một lực lượng xe tăng rất lớn trong phòng thủ, và bộ binh ngày nay cũng được trang bị các loại vũ khí chống tăng hữu hiệu nên bộ binh không còn quá yếu thế trước các lực lượng xe tăng đối phương. Do đó vai trò chủ lực của xe tăng như trong thế chiến II đã không còn và vai trò của xe tăng sẽ ngày càng suy giảm trong chiến tranh hiện đại. Trong chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất và chiến tranh vùng vịnh thứ hai, lực lượng xe tăng với số lượng khá hùng hậu của Iraq được trang bị chủ yếu bằng các loại xe tăng T-55 và Sư tử Babylon - một biến thể do Iraq sản xuất từ T-72, đã tỏ ra bất lực vô vọng trước ưu thế trên không của quân đội Mỹ cùng chư hầu, và thực tế bị vô hiệu hoá nhanh chóng. Đó là khía cạnh suy giảm vai trò của xe tăng trong chiến tranh hiện đại. Mặt khác trong chiến tranh trong tương lai gần cũng có nhiều đặc điểm làm tăng khả năng sử dụng của xe tăng: Trong điều kiện ngày nay không còn các chiến tuyến phòng thủ chiều sâu chạy dài theo phân cách quân hai phía như trong thế chiến thứ nhất và thế chiến thứ hai mà việc phòng ngự được tổ chức theo các trung tâm phòng thủ. Giữa các trung tâm đó là khoảng không gian lớn rất tiện dụng cho các hoạt động của xe tăng. Hơn nữa các cuộc chiến tranh và xung đột thường nổ ra giữa các nước không phải là các cường quốc vũ trang với lực lượng không quân hùng hậu mà là các quốc gia vũ trang trung bình hoặc yếu kém về không quân và khi đó xe tăng vẫn là một lực lượng xung kích hàng đầu. Với giá rẻ tương đối của loại vũ khí tấn công này nếu so với không quân làm cho xe tăng vẫn là vũ khí tấn công được ưu tiên. Do các yếu tố trên nên một mặt lục quân của các cường quốc quân sự thế giới không đặt ưu tiên hàng đầu cho lực lượng tiến công vào lực lượng xe tăng thiết giáp nữa mà chọn các loại khác như bộ binh trực thăng vận. Nhưng đồng thời các quốc gia dẫn đầu về chế tạo xe tăng vẫn tăng cường nghiên cứu và chế tạo các loại xe tăng ngày càng hiện đại cho quân đội của mình và bán cho các nước khác. Trong điều kiện hiện nay vẫn chưa thấy có xu hướng rời bỏ xe tăng, ngay như quân đội Hoa Kỳ đứng đầu thế giới về các loại máy bay chiến đấu và trực thăng vẫn duy trì lực lượng xe tăng mạnh cho lục quân của họ. Cấu tạo Xe tăng hiện nay thường gồm 1 thân xe được làm thấp đến nỗi người lái phải nằm gần như lái xe công thức 1 để giảm độ cao nhằm tránh phát hiện và trúng đạn. Thân xe thường được bọc thép chủ yếu phía trước để đối đầu trong các cuộc đấu tăng, các loại xe hiện đại như T-90, Leopard 2... có giáp trước tương đương 600mm đến 900mm thép chống đạn xuyên giáp động năng và hơn 1m chống đầu đạn xuyên thuốc nổ. Tại gầm xe, hai bên hông thì giáp mỏng hơn rất nhiều. Thân xe đặt trên hệ thống bánh xích, với 6 hoặc 7 bánh chịu lực và đảm bảo độ ổn định, 1 bánh truyền động từ động cơ ra xích, 1 bánh định hướng đặt cao hơn so với mặt đất để tạo moment lớn khi vượt chướng ngại vật. Áp suất xe xuống mặt đường thường xấp xỉ 1 kg/cm2 và nhỏ hơn áp suất của người đứng bằng chân trần, điều đó giúp xe chạy được trên nền đất yếu. Động cơ xe tăng thường từ 1000 hp đến 1500 hp (sức ngựa), rất khỏe để có thể đảm bảo độ cơ động cho khối lượng xe từ 40 tấn đến 70 tấn, và tốc độ tối đa như M1 của Hoa Kỳ lên đến 70 km/h (bị giới hạn bởi máy điều tốc). Hai bên thân xe, phía ngoài xích thường có gắn các tấm giáp thép hoặc lưới thép chủ yếu để kích nổ các đầu đạn từ ngoài giáp chính hoặc cũng có thể chỉ là tấm cao su. Đối với yêu cầu tác chiến thành phố, các tấm giáp hai bên thường được đặc chế để chống lại đầu đạn CE dùng sức xuyên hóa học. Trên thân xe đặt tháp pháo, nhằm nâng và xoay một khẩu pháo chính thường là nòng trơn (không có rãnh, trừ Challenger II của Anh) cỡ nòng chung khối Nato (Mĩ, Tây Âu) là 120mm và phương Đông là 125mm (Nga, Trung Quốc). Góc xoay quanh không bị hạn chế, góc nâng hạ nòng súng từ -10 đến 20 độ (phương Tây). Trên tháp pháo có gắn rất nhiều thiết bị điện tử như kính hồng ngoại, các đơn vị thu thập tín hiệu, lọc khí,.. và chứa toàn bộ thành viên tổ điều khiển trừ lái xe. Đối với các xe tăng phương Tây, tháp pháo cũng chỉ được bọc giáp chủ yếu ở phía trước như một tấm khiên, độ bảo vệ tương đương phía trước thân xe, còn bên hông rất mỏng và thậm chí nóc tháp pháo chỉ tương đương 20mm thép. Một tổ điều khiển thường có ba người (xe tăng Nga, Trung Quốc, Pháp) với một tổ trưởng, lái xe và pháo thủ, với pháo được nạp đạn tự động bằng máy. Trong khi đó các nước Mĩ, Anh, Đức, Nhật, Israel... sử dụng tổ lái 4 người với thêm một người nạp đạn, họ cho rằng một người nạp đạn được huấn luyện tốt sẽ nhanh hơn máy và giúp bố trí đạn thuận tiện hơn. Tuy nhiên kết cấu 4 người khiến kích thước xe lớn hơn, nặng nề hơn, cần nhiều giáp hơn, và trong các xu hướng phát triển thì việc nạp đạn thủ công sớm muộn sẽ bị thay bởi máy vì các loại đạn tương lai ngày càng nặng và lớn (dài tổng cộng 1,5 mét/viên và nặng hàng chục kg) thì người nạp đạn không thể mang vác nhanh được. Khoang đạn thường được bố trí sau tháp pháo, khiến cho tháp pháo trở nên to nặng, rất dễ trúng đạn, làm cho kích thước tổng thể của xe to nặng hơn, việc chế tạo sẽ trở nên tốn kém hơn. Xe tăng Nga thường gắn thêm giáp phản ứng nổ ERA. Vì thiết kế ban đầu của xe tăng Nga chỉ có kíp lái 3 người, hệ thống nạp đạn tự động, khoang đạn được đưa xuống gầm xe, nơi được bảo vệ tốt nhất, do đó thể tích trong xe nhỏ đi, có thể làm giáp dày lên ngay cả bên hông xe. Do đó xe tăng Nga khá nhẹ, ngay cả khi đã mang ERA. Yêu cầu đối với tất cả các xe tăng trong quân đội Nga hiện nay phải được lắp ERA đầy đủ. Vai trò Sau khi kết thúc chiến tranh lạnh, xe tăng vẫn có chỗ đứng quan trọng nhất trong các binh chủng đột kích của lục quân. Khác với chiến tranh thế giới thứ hai và các cuộc chiến tranh 1956, 1967 và 1973 ở Trung Đông thường chuyên dùng xe tăng để thực hiện các trận "đấu tăng" trên chiến trường, xu hướng sử dụng xe tăng phối hợp với các loại xe thiết giáp của bộ binh (những biến thể của xe tăng hạng nhẹ trước đây) được trang bị nhiều loại vũ khí mặt đất và phòng không hiện đại, được tin học hoá, tự động hóa ở cấp độ cao và phối hợp với trực thăng chiến đấu trở tổ chức quân binh chủng hợp thành có sức cơ động cao, hiệu suất đột kích lớn. Điển hình cho việc sử dụng các đơn vị quân - binh chủng hợp thành này là quân đội Hoa Kỳ và liên quân trong hai cuộc chiến tranh vùng vịnh 1991 và 2003. Do sự phối hợp quân binh chủng đó, vai trò của xe tăng có thể mờ nhạt nếu nhìn về hình thức. Các hình ảnh thường thấy trên truyền thông là các loại tên lửa nhỏ từ bộ binh, trực thăng dễ dàng tiêu diệt xe tăng, hình ảnh cuộc chiến Iraq với sự áp đảo về không quân dẫn đến câu hỏi: phải chăng xe tăng đã lỗi thời? Thế nhưng thực tế phát triển xe tăng từ năm 1990 đến nay đã cho câu trả lời ngược lại. Bên cạnh việc tập trung nghiên cứu các xe thiết giáp nhẹ với hỏa lực mạnh nhằm vận chuyển bằng máy bay để sử dụng trong cuộc chiến nhỏ, các nước vẫn liên tục nghên cứu, chế tạo các mẫu xe tăng mới. Sau M1A1, Hoa Kỳ cho ra đời loại M1A2 tiện dụng hơn. Nga nâng cấp xe tăng T-72 lên T-72B3 và T-90, đồng thời đang đưa vào sản xuất loại tăng mới T-14 với nhiều thiết kế mới dựa trên khung gầm Armata đã xuất hiện trong lễ duyệt binh chiến thắng phát xít vào ngày 9-5-2015. Trung Quốc phát triển xe tăng chủ lực Type-99, Nước Đức liên tục nâng cấp xe tăng chủ lực Leopard 2, Anh vẫn tiếp tục sản xuất xe tăng chủ lực Challenger, Pháp vẫn cho ra đời xe tăng chủ lực Leclerc; tất cả đều là xe tăng hạng nặng. Nếu tính đến chiến tranh tổng lực giữa các quốc gia có tiềm lực quân sự mạnh, trực thăng tấn công không thể đáp ứng được vai trò so với một đội hình chiến đấu gồm xe tăng và các phương tiện phòng không đi cùng. Hơn nữa nhu cầu về các loại chiến xa để chịu đựng hỏa lực và đối phó với xe thiết giáp nhẹ của đối phương sẽ lại dẫn tới nhu cầu về xe tăng. Một số đặc điểm ưu tiên khi chế tạo xe tăng của các quốc gia Các quốc gia đầu bảng trên thế giới trong lĩnh vực chế tạo xe tăng là Hoa Kỳ, Liên Xô – Nga, Anh, Pháp, Đức, Israel. Mỗi quốc gia khi chế tạo xe tăng đều có hướng ưu tiên trong cách lựa chọn các giải pháp nhiều khi mâu thuẫn nhau. Điều đó tạo ra "trường phái" của các nước này. Trường phái Liên Xô-Nga Quân đội Liên Xô cũ và Nga trước đây đi theo hướng nghĩa vụ quân sự, chuẩn bị cho chiến tranh tổng lực với quân số đông nhưng đã có sự xuất hiện của những binh sĩ chuyên nghiệp, theo phương châm bên trong giới quân sự Nga là chất lượng phải song hành cùng số lượng. Dòng tăng Liên Xô-Nga đi đầu trong nhiều đột phá công nghệ như đạn liều rời, pháo nòng trơn, giáp bằng vật liệu tổng hợp, máy nạp đạn tự động, tên lửa bắn qua nòng pháo. Xe tăng T-14 sử dụng khung gầm Armata còn có tháp pháo không người lái điều khiển hoàn toàn bằng điện tử. Xe tăng Xô-Nga đặc trưng với kích thước nhỏ gọn, diện tích bề mặt giảm thiểu, nên giảm khả năng bị bắn trúng, và vỏ giáp được làm rất dầy mà tổng khối lượng vẫn rất nhẹ (trừ BM Oplot của Ukraina thì không có xe tăng Nga-Xô nào vượt quá 50 tấn). Ngoài vỏ giáp dầy cứng, các phiên bản gần đây của xe tăng Xô-Nga cũng được trang bị giáp phản ứng nổ, hệ thống gây nhiễu quang-điện tử (như Shtora), hệ thống đánh chặn (như Drozd, ARENA và Afghanit). Đạn dược của xe tăng T-64 trở về sau để trong băng nạp đạn đứng (T-64, T-80) hay băng nằm (T-72, T-90), đặt ở dưới tháp pháo, trung tâm thân xe nơi được che chắn kỹ. Phần đạn còn lại đặt trong khoang của binh sĩ, cách đặt này bị phê phán là thiếu an toàn do kíp lái bị ảnh hưởng bởi sức nổ của khối đạn dược (nếu chẳng may bị kích nổ) nên gần đây phần đạn dược "thêm" này được chuyển sang đặt trong khoang sau tháp pháo như T-90AM hay T-14 Armata. Trừ các phiên bản đầu của T-80 dùng động cơ tuabin khí, xe tăng Xô-Nga đều dùng động cơ diesel. T-72 dùng dòng động cơ V 4 thì sản xuất bởi nhà máy ở Nga, trong khi T-64 và T-80 dùng động cơ 2 thì nhỏ gọn và công suất cao hơn (nhưng tốn nhiên liệu hơn), sản xuất ở nhà máy Malyshev tại Ukraina. Sau khi Liên Xô tan rã, xe tăng Nga tiếp tục dùng động cơ dòng V yếu hơn do mất nguồn cung từ Ukraina, nhưng Nga đã nỗ lực cải tiến để khắc phục và đã tăng công suất động cơ dòng V lên 1.000-1.250 mã lực. Động cơ mới dùng trong khung gầm Armata có công suất đến 1.500 mã lực. Các xe tăng Liên Xô-Nga hiện nay đều dùng pháo nòng trơn 125mm bắt đầu từ T-64. Loại xe mới như T-90 và T-14 Armata đã được thử nghiệm để trang bị pháo nòng trơn 135mm và 152mm (cỡ nòng pháo tăng lớn nhất thế giới), nhưng do sự đối đầu thời Chiến tranh Lạnh đã qua nên chưa áp dụng rộng rãi để tiết kiệm chi phí. Trường phái Âu-Mỹ Thời điểm hiện tại, xe tăng trường phái Âu-Mỹ lấy thiết kế của Leopard 2 của Đức (ra đời năm 1978) làm nền tảng. Xe tăng trường phái Âu-Mỹ thường to và rất nặng (trừ Type-10 của Nhật Bản nặng 48 tấn, còn lại hầu như nặng trên 50-60 tấn), tháp pháo hình chữ nhật to dài do khoang đạn đặt phía sau tháp pháo. Đạn liều liền, nạp bằng tay (Leopard 2, M1 Abrams, Challenger II,...) hay nạp máy bằng băng xích. Pháo 120mm nòng trơn nền tảng do Đức thiết kế, trừ Challenger 2 của Anh vẫn dùng 120mm nòng xoắn. Leopard 2 của Đức sử dụng các giáp hộp rất to và rất nghiêng, có tác dụng kích nổ đạn xuyên nổ ngoài giáp chính hay đẩy nghiêng đạn xuyên động năng, giúp giảm đi nhiều lần sức xuyên của đạn; động cơ cũng rất khỏe (1.500 mã lực). M1 Abrams bớt xén các giáp hộp, thay bằng giáp chính cứng tăng cường bởi các lớp urani nghèo, thay động cơ diesel bằng động cơ tuabin khí khỏe nhưng rất tốn nhiên liệu khi chạy ở tốc độ thấp. Xe tăng Merkava của Israel đặt động cơ ra trước và bố trí cửa ở sau xe, xem động cơ như một lớp bảo vệ phụ che chắn cho binh sĩ, chấp nhận việc xe dễ hỏng hơn để bảo vệ binh sĩ trong xe tốt hơn. Vũ khí chống tăng Cũng như xe tăng, vũ khí chống tăng cũng ngày càng được cải tiến để chống lại loại xe này. Tuỳ theo thời kỳ mà tỷ lệ xe tăng thiệt hại bởi các loại vũ khí là khác nhau. Trong thế chiến 2, số xe tăng hạng nặng của Đức bị Liên Xô tiêu diệt với tỷ lệ đóng góp như sau: từ pháo binh và pháo xe tăng là 88-91%; từ mìn 4-8%; từ bom và pháo của máy bay 4-5%. Thập niên 1960, tên lửa chống tăng dần phổ biến, thay thế vai trò của pháo chống tăng. Trong chiến tranh Ả Rập-Israel năm 1973, tên lửa chống tăng chiếm tới 50% tổng số xe tăng bị mất, 28% là do máy bay, pháo binh, súng phóng lựu cá nhân và mìn, 22% còn lại là do xe tăng địch. Ảnh Chú thích Tham khảo Иностранные армии: Вооружение и техника – Справочник (Воениздат) Mосква 1984 – Sổ tay tra cứu: Vũ khí, kỹ thuật các quân đội nước ngoài – Bản tiếng Nga Nhà xuất bản Quân sự Mосква 1984 Военный энциклопедический словарь – (Воениздат) Mосква 1986 – Từ điển bách khoa quân sự Nhà xuất bản quân sự Mосква 1986. Các bài về xe tăng trong Wikipedia tiếng Anh và tiếng Nga. Scott Cunningham's Armor in Action – trang Web chứa số lượng lớn các ảnh xe tăng thiết giáp và trang bị vũ khí kỹ thuật trên thực địa Liên kết ngoài T T Phương tiện chiến đấu bọc thép theo loại Phát minh Anh
28053
https://vi.wikipedia.org/wiki/Belarus
Belarus
Belarus (phiên âm: "Bê-la-rút", ; , tr. , , tiếng Nga: Беларусь, Белоруссия, Belarus, Belorussiya,) tên chính thức là Cộng hòa Belarus (tiếng Belarus: Рэспубліка Беларусь, tiếng Nga: Республика Беларусь), là quốc gia không giáp biển nằm ở phía Đông Âu, giáp Nga ở phía Đông Bắc, Ukraina ở phía Nam, Ba Lan ở phía Tây, với Latvia và Litva ở phía Tây Bắc. 40% diện tích 207.595 km² (80.200 dặm vuông) là rừng, và các ngành kinh tế nổi trội của đất nước là nông nghiệp và công nghiệp chế tạo. Đến thế kỷ XX, vùng đất của Belarus hiện nay từng thuộc về một vài nước, gồm Đại công quốc Lietuva, Liên bang Ba Lan-Litva và Đế quốc Nga. Sau cuộc cách mạng Nga (1917), Belarus trở thành 1 trong 15 nước cộng hòa của Liên bang Xô viết và đổi tên thành Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Byelorussia (Беларуская Савецкая Сацыялістычная Рэспубліка). Đến năm 1991, Belarus tách ra khỏi Liên Xô và tuyên bố độc lập nhưng vẫn giữ mối quan hệ về chính trị bị cho là "gần gũi" với Nga. Ngày 8 tháng 12 năm 1999, Belarus và Nga ký một thỏa thuận song phương nhằm phát triển hơn nữa các mối quan hệ chính trị và kinh tế. Tên gọi cũ của quốc gia là Belorussia (Белоруссия) và vẫn còn được sử dụng, chủ yếu trong các hoàn cảnh liên quan đến lịch sử. Một bộ phận dân cư người Belarus có thể cảm thấy bị xúc phạm khi gặp phải việc sử dụng tên gọi "người Belorussia" vì theo họ nó gợi nên những hồi ức về thời gian bị Nga hóa. Tên gọi này bị dịch sai thành "Bạch Nga" trong khi thực ra nó chỉ là một vùng đất. Belarus là một thành viên của Cộng đồng các Quốc gia độc lập (là СНГ trong tiếng Nga hay CIS trong tiếng Anh) cùng với Azerbaijan, Armenia, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Moldova, Nga, Tajikistan và Uzbekistan. Tên gọi Về mặt lịch sử, nước này được gọi theo tiếng Anh là "Bạch Nga" tức "Nga Trắng" (White Russia), dù đây là sự phiên dịch sai. Nghĩa dịch đúng là "White Rus'", vừa miêu tả vùng Đông Âu nơi người Slav sinh sống hay nhiều quốc gia khác nhau hiện diện trong vùng. Tuy vậy việc sử dụng thuật ngữ 'Nga Trắng' vẫn tiếp diễn tới tận năm 2007 trong các ngôn ngữ: "Weißrussland" trong tiếng Đức, "Beyaz Rusya" trong tiếng Thổ Nhĩ Kỳ hay "Λευκορωσία" (Levkorosía) trong tiếng Hy Lạp (xem tại đây để có danh sách đầy đủ). Lần đầu thuật ngữ "Nga Trắng" được dùng để chỉ Belarus là bởi Sir Jerome Horsey người Anh hồi cuối thế kỷ mười sáu. Ông dùng nó để miêu tả các vùng đất của Đế chế Ivan Hung bạo. Trong thế kỷ mười bảy, các Sa hoàng Nga đã dùng "White Rus'", xác nhận rằng họ đang tìm cách chiếm lại di sản từ Khối thịnh vượng chung Ba Lan-Litva. Belarus được đặt tên "Byelorussia" thời Đế quốc Nga, và các Sa hoàng Nga thường được gọi là "Sa hoàng của tất cả nước Nga — Đại Nga, Tiểu Nga, và Bạch Nga". Điều này kéo dài tới tận thời kỳ Xô viết, khi nước này lấy tên chính thức là "Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Byelorussia". Một số người Belarus coi cái tên "Byelorussia", là cách tưởng nhớ đến thời kỳ Liên bang Xô viết còn thống nhất. Theo chính thức, tên đầy đủ của quốc gia này là Cộng hoà Belarus (Республика Беларусь, Respublika Belarus'). Năm 2002, một cuộc điều tra không chính thức do Web site pravapis.org tiến hành để xem tên gọi nào được dùng phổ biến nhất trên các trang web. Khi sử dụng Google, Pravapis.org thấy rằng "Belarus", tên chính thức rút gọn, được dùng trên 93% Web site đã được kiểm tra. Cách đánh vần khác sử dụng "Belorussia", "Bielorussia" và "Byelorussia," chỉ được dùng trong 1%–2% trường hợp. Lịch sử Giữa thế kỷ thứ VI và thế kỷ thứ mười hai, nước Belarus hiện đại ngày nay là nơi sinh sống của người Slav, hiện họ vẫn chiếm đa số trong nước. Người Slav thời kỳ đầu (Early East Slavs) dần tiếp xúc với người Varangians và được họ tổ chức dưới nhà nước Kievan Rus'. Ở thế kỷ XIII, nhiều công quốc Ruthenian riêng biệt bị ảnh hưởng nặng nề sau cuộc xâm lược từ phía Đế chế Mông Cổ. Sau này, nhiều phần của Rus bị sáp nhập vào Đại Lãnh địa Công tước Litva. Đa số dân cư là người thuộc sắc tộc Slavơ. Những vùng đất slavơ được hưởng quyền tự trị hạn chế bên trong nhà nước Litva. Tuy thỉnh thoảng có ý kiến không chính xác rằng tiếng Belarus là ngôn ngữ chính thức quốc gia, tiếng La tinh, tiếng Nga cổ (Ruthenian), và tiếng Ba Lan được đồng thời sử dụng trong công việc nhà nước. Tiếng Belarusia phát sinh vào giữa thế kỷ XIX khi những người nói tiếng Nga ở lãnh thổ Belarus hiện đại ngày nay chịu ảnh hưởng văn hoá mạnh từ Ba Lan. Đầu thế kỷ XVII, tiếng Nga cổ bị từ bỏ tại Litva và được thay thế bằng tiếng Ba Lan, ngôn ngữ đã giành địa vị thống trị trong nhiều thế kỷ. Việc sử dụng tiếng Nga cổ (tiếng Slavonic-Ruthenian cổ) được cho phép tại các lãnh địa Ruthenian tự trị (công quốc). Các vùng đất Belarusia nhanh chóng bị sáp nhập vào Lãnh địa Công tước trong hai trăm năm sau đó, vì sức mạnh của Litva và mối đe doạ từ phía người Mông Cổ trên những vùng đất là Belarus ngày nay. Trong thời gian đó, Lãnh địa Công tước đã tham gia vào các trận đánh giữa nhiều lực lượng khác nhau. Một trong những trận đánh lớn là Trận Grunwald giữa Lãnh địa Công tước và Các hiệp sĩ Giéc manh năm 1410. Lãnh địa Công tước thắng trận và chiến thắng cho phép họ kiểm soát các biên giới phía tây bắc của Đông Âu. Các trận đánh khác diễn ra giữa Lãnh địa Công tước và người Mông Cổ và người Turk, và đều là những chiến thắng cho Lãnh địa Công tước. Tới thế kỷ mười lăm, Đại Lãnh địa Công tước Litva trải dài hầu hết vùng Đông Âu, từ Biển Baltic tới Biển Đen. Ngày 2 tháng 2 năm 1386, Đại vương công Lietuva Jogaila lên ngôi Vua Ba Lan, và liên minh Đại Lãnh địa Công tước với Vương quốc Ba Lan trở thành một liên minh cá nhân. Liên minh hình thành sau cuộc hôn nhân giữa Jogaila và con gái Vua Luis Ba Lan, Jadwiga. Hành động này được người Ba Lan coi là sự chấm dứt liên minh với Hungary. Liên minh cá nhân này cuối cùng dẫn đến Khối thịnh vượng chung Ba Lan-Litva, một liên bang được thành lập năm 1569. Những người Muscovites, dưới sự lãnh đạo của Sa hoàng Ivan III, bắt đầu các chiến dịch chinh phục quân sự năm 1486 nhằm giành lấy những vùng đất Kievan Rus', chính xác là Belarus và Ukraina. Liên minh giữa Ba Lan và Litva chấm dứt năm 1795, với việc khối thịnh vượng chung bị phân chia và sáp nhập bởi Đế quốc Nga, Phổ, và Áo. Các lãnh thổ Belarusia vẫn tiếp tục là một phần của Đế chế Nga tới khi bị Đức chiếm trong Thế Chiến thứ I. Belarus lần đầu tuyên bố độc lập ngày 25 tháng 3 năm 1918, hình thành nên nhà nước Cộng hoà Nhân dân Belarusia. Tuy nhiên, nhà nước cộng hoà tồn tại ngắn ngủi và chế độ này bị lật đổ ngay sau khi quân Đức rút lui. Năm 1919, Belarus trở thành nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Byelorussia (BSSR). Sau khi Nga tái chiếm phần phía đông và phía bắc Litva, chúng được gộp với nhau để hình thành nên nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Litva - Byelorussia. Sau khi Chiến tranh Ba Lan-Xô viết chấm dứt năm 1921, các vùng đất Byelorussia bị chia cắt, phần phía Tây rơi vào tay Ba Lan, và nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Xô viết Byelorussia mới tái thành lập và trở thành một thành viên của Liên bang các nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết năm 1922. Tháng 9 năm 1939, theo Hiệp ước Molotov-Ribbentrop, Liên Xô tấn công Ba Lan và tái sáp nhập những vùng đất phía đông nước này, gồm cả đa phần lãnh thổ Byelorussia do Ba Lan kiểm soát. Năm 1941, Phát xít Đức tiến hành xâm lược Liên bang Xô viết. Byelorussia bị chiếm ngay sau đó và tiếp tục nằm trong tay quân Đức cho tới năm 1944. Hơn một triệu ngôi nhà đã bị phá huỷ và hơn hai triệu người Belarusia thiệt mạng. Người Do Thái tại Byelorussia đã bị tàn sát trong Cuộc tàn sát người Do Thái. Dân số Belarus chỉ đạt mức trước chiến tranh vào năm 1971. Tuy nhiên, số lượng người Do Thái không bao giờ khôi phục lại được như cũ. Sau khi chiến tranh chấm dứt, Belorussia là một trong năm mốt nước ký kết Hiến chương Liên hiệp quốc năm 1945. Sau chiến tranh, Belarus bắt đầu một chương trình tái thiết, với sự trợ giúp của Mátxcơva. Trong thời gian này, Belarus trở thành một trung tâm sản xuất chính ở vùng phía tây Liên bang Xô viết. Sự gia tăng việc làm đã mang lại một làn sóng di cư lớn từ Nga Xô viết. Dưới sự kiểm soát của Joseph Stalin, một chính sách Xô viết hoá được khởi động để "bảo vệ" nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết Byelorussia khỏi những ảnh hưởng từ phương Tây. Chính sách này dẫn tới việc gửi hàng nghìn người Nga từ nhiều vùng khác nhau tại Xô viết được cử tới giữ các vị trí quan trọng trong chính phủ Byelorussia. Việc sử dụng chính thức tiếng Belarus và các khía cạnh văn hoá khác bị hạn chế bởi Mátxcơva. Sau cái chết của Stalin năm 1953, người kế tục ông, Nikita Khrushchev, tiếp tục chương trình này, phát biểu, "Ngày tất cả chúng ta cùng nói tiếng Nga đến càng sớm, chúng ta càng nhanh chóng xây dựng chủ nghĩa cộng sản." Khi người đứng đầu Liên Xô Mikhail Gorbachev bắt đầu đưa ra kế hoạch cải tổ, người dân Byelarussia đã gửi đơn thỉnh cầu tới ông vào tháng 12 năm 1956 để giải thích sự mất mát văn hoá của họ. Sự kiện này được các nhà sử học coi là vụ "Chernobyl văn hoá". (Sau đó, năm 1986, Belarus bị ảnh hưởng bởi bụi phóng xạ từ vụ nổ nhà máy điện hạt nhân Chernobyl tại nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraina láng giềng.) Tháng 6 năm 1988, những ngôi mộ tập thể được nhà khảo cổ học Zyanon Paznyak phát hiện tại Kurapaty. Một số người sử dụng khám phá này để tuyên truyền rằng chính phủ Xô viết đã tìm cách xoá sổ dân tộc Belarus, và dẫn tới một số nỗ lực tìm cách khôi phục độc lập. Hai năm sau, tháng 3 năm 1990, những cuộc bầu cử Xô viết Tối cao Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Byelorussia diễn ra. Tuy Mặt trận Nhân dân Belarusia chỉ chiếm 10% số ghế, nhân dân tỏ ra hài lòng với kết quả này. Belarus tuyên bố chủ quyền ngày 27 tháng 7 năm 1990, bằng việc ra Tuyên bố Chủ quyền Quốc gia Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Byelorussia. Với sự hỗ trợ của Đảng Cộng sản, tên nước được thay đổi thành Cộng hoà Belarus ngày 25 tháng 8 năm 1991. Chủ tịch Xô viết Tối cao Belarus Stanislav Shushkevich, cùng với Boris Yeltsin tại nước Nga và Leonid Kravchuk của Ukraina, gặp gỡ ngày 8 tháng 12 năm 1991, tại Belavezhskaya Pushcha chính thức tuyên bố giải tán Liên bang Xô viết và thành lập Cộng đồng các quốc gia độc lập. Năm 1993, một thoả thuận trong Xô viết tối cao chấp nhận giảm thời hạn hoạt động một năm, mở đường cho việc tổ chức bầu cử năm 1994. Tháng 3 năm 1994, một hiến pháp quốc gia được thông qua, thay thế chức thủ tướng bằng chức tổng thống. Những cuộc bầu cử tổng thống dẫn tới chiến thắng của một nhân vật chính trị còn chưa được biết tới nhiều Aliaksandr Ryhoravič Lukašenka với hơn 80% số phiếu. Từ cuộc bầu cử này, Lukashenka đã luôn giữ chức vụ tổng thống, được bầu lại vào các năm 2001, 2006 và 2015. Chính trị Ba đảng chính trị hiện có ghế trong Hạ viện: Đảng Cộng sản Belarus (tám ghế), Đảng Ruộng đất Belarus (ba ghế), và Đảng Dân chủ Tự do Belarus (một ghế). Các đảng chính trị ủng hộ tổng thống Lukashenko, Đảng Xã hội chủ nghĩa Thể thao Belarus và Đảng Lao động và Công bằng cộng hoà, và các đảng đối lập, như Mặt trận Nhân dân Belarus (BPF) và Đảng Dân sự Thống nhất Belarus (UCPB) không giành được ghế nào trong cuộc bầu cử năm 2004. UCPB và BPF là hai đảng gồm Liên minh 5+ nhân dân, một nhóm các đảng chính trị phản đối Lukashenko. Nhiều tổ chức, gồm Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu (OSCE), đã tuyên bố cuộc bầu cử là "không tự do" vì các đảng chính trị đối lập giành được kết quả âm và sự thiên vị của truyền thông Belarus giành ưu ái cho chính phủ. Cuộc bầu cử tổng thống gần đây nhất diễn ra ngày 19 tháng 3 năm 2006. Đối thủ của Lukashenka lần này là Alaksandar Uładzimieravič Milinkievič, một ứng cử viên đại diện cho liên minh các đảng đối lập và Alaksandar Vladislavovich Kazulin đại diện cho phe Xã hội Dân chủ. Kazulin đã bị cảnh sát đánh đập và giam giữ trong những cuộc tuần hành phản đối quanh Quốc hội của mọi người dân Belarus. Tuy Lukashenka đạt 80% số phiếu bầu, OSCE và các tổ chức khác cho rằng cuộc bầu cử không công bằng. Lukashenka được trích dẫn là đã phát biểu rằng ông có "kiểu cầm quyền độc tài" để nắm quyền trong nước. Hội đồng châu Âu đã ngăn cản Belarus trở thành thành viên từ năm 1997 vì sự bỏ phiếu không dân chủ và những gian lận bầu cử trong cuộc trưng cầu dân ý theo hiến pháp tháng 11 năm 1996 và cuộc bầu cử bổ sung nghị viện. Chính phủ Belarus cũng bị chỉ trích vì những vi phạm nhân quyền trong những hành động chống lại các tổ chức phi chính phủ, các nhà báo độc lập, các cộng đồng thiểu số, và các chính trị gia đối lập. Belarus là quốc gia duy nhất tại châu Âu còn duy trì hình phạt tử hình cho một số tội trong thời gian chiến tranh và hoà bình. Để làm chứng trước Uỷ ban quan hệ nước ngoài Thượng viện Hoa Kỳ, Ngoại trưởng Condoleezza Rice đã nêu tên Belarus, cùng sáu quốc gia khác, như một phần trong danh sách "quốc gia độc tài". Bộ ngoại giao Belarus đã thông báo rằng những lời tuyên bố của Ngoại trưởng Rice "là nền tảng tồi" để xây dựng liên minh Belarus-Hoa Kỳ. Quan hệ ngoại giao Trong lĩnh vực ngoại giao, Belarus và Nga có mối quan hệ liên minh thân cận từ khi Liên bang Xô viết tan rã. Nga cung cấp cho Belarus không chỉ nguyên liệu thô, mà còn yêu cầu cộng đồng quốc tế nhìn nhận Belarus với quan điểm tốt hơn, làm việc với Belarus về hội nhập kinh tế từ năm 1996. Những quan hệ giữa Belarus và Cộng đồng các quốc gia độc lập đã bị ảnh hưởng bởi các cuộc cách mạng màu diễn ra tại Gruzia, Ukraina và Kyrgyzstan. Dù Liên minh châu Âu đã ra lệnh cấm đi lại với Lukashenka và các quan chức quan trọng trong chính phủ, Belarus có các thoả thuận thương mại với nhiều quốc gia thành viên EU. Các quốc gia láng giềng như Litva và Ba Lan cùng nước cộng hoà thuộc Liên Xô cũ Latvia cũng có thoả thuận thương mại với Belarus. Trước năm 1997 quan hệ song phương với Hoa Kỳ diễn ra bình thường, khi Bộ ngoại giao Mỹ bắt đầu cung cấp các khoản trợ cấp cho các tổ chức phi chính phủ có định hướng thị trường tự do và chính phủ Belarus cũng đưa ra các biện pháp nhằm khiến các tổ chức có trụ sở tại Hoa Kỳ khó hoạt động hơn. Năm 2004, Hoa Kỳ đã thông qua một đạo luật gọi là Luật Dân chủ Belarus, cho phép Hoa Kỳ cung cấp tài chính cho các nhóm đối lập với Lukashenka và những nỗ lực làm mất ổn định tình hình nước này; không cần biết tới việc hai quốc gia đang hợp tác trong việc giải quyết các vấn đề buôn người, tội ác kỹ thuật, quyền sở hữu trí tuệ và ngăn chặn các thảm hoạ tự nhiên cũng như do con người gây ra. Belarus đã phát triển hợp tác với các quốc gia châu Phi, Trung Đông và châu Á. Trung Quốc và Belarus đã xây dựng các mối quan hệ thân thiện với nhau, được tăng cường thêm bởi chuyến thăm của Tổng thống Lukashenka tới Trung Quốc tháng 10 năm 2005. Ngoài Cộng đồng các quốc gia độc lập, Belarus còn là thành viên của các tổ chức cấp vùng như Cộng đồng Kinh tế Âu Á và Tổ chức Hiệp ước An ninh Tập thể. Trong các tổ chức quốc tế, Belarus là thành viên của Phong trào không liên kết từ năm 1998 và Belarus từng là một trong những thành viên sáng lập Liên hiệp quốc năm 1945. Quân đội Trung tướng Viktor Khrenin đứng đầu Bộ Quốc phòng, và Alexander Lukashenko (tổng thống) làm Tổng tư lệnh. Các lực lượng vũ trang được thành lập năm 1992 sử dụng các bộ phận của các lực lượng vũ trang cũ của Liên Xô trên lãnh thổ của nước cộng hòa mới. Việc chuyển đổi các lực lượng cũ của Liên Xô thành các lực lượng vũ trang của Belarus, được hoàn thành vào năm 1997, đã giảm số lượng binh sĩ xuống còn 30.000 và tái cấu trúc các lãnh đạo và quân đội. Hầu hết quân đội Belarus là lính nghĩa vụ, phục vụ trong vòng 12 tháng nếu họ học đại học hoặc 18 tháng nếu họ không. Giảm quân số Belarus trong độ tuổi tham gia đã tăng tầm quan trọng của những người lính hợp đồng, số người lên tới 12.000 người vào năm 2001. Năm 2005, khoảng 1,4% tổng sản phẩm quốc nội của Belarus được dành cho chi tiêu quân sự . Belarus không bày tỏ mong muốn gia nhập NATO, nhưng đã tham gia vào Chương trình Đối tác Cá nhân từ năm 1997, và Belarus cung cấp hỗ trợ tiếp nhiên liệu và không phận cho sứ mệnh ISAF ở Afghanistan. Belarus bắt đầu hợp tác với NATO khi ký văn bản tham gia vào quan hệ đối tác của họ đối với Chương trình Hòa bình vào năm 1995. Tuy nhiên, Belarus không thể tham gia NATO bởi vì nó là một thành viên của Tổ chức Hiệp ước An ninh Tập thể. Căng thẳng giữa NATO và Belarus đạt đỉnh điểm sau cuộc bầu cử tổng thống tháng 3 năm 2006 tại Belarus. Tử hình Belarus là nước châu Âu duy nhất vẫn còn áp dụng án tử hình. Hoa Kỳ và Belarus là hai trong số 56 nước thành viên của Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu đã thi hành trong năm 2011. Hành chính Belarus được chia thành sáu voblast (tỉnh), được đặt tên theo các thành phố thủ phủ. Thành phố Minsk nằm tại voblast Minsk, nhưng có vị thế đặc biệt trực thuộc quốc gia, bởi nó không bị gộp vào trong bất kỳ một voblast nào. Phân chia hành chính thành các voblasts là di sản từ thời Xô Viết. Các voblast được chia nhỏ tiếp thành các raion (thường được dịch thành "quận" hay "huyện"). Các cơ quan lập pháp địa phương (raisovet, "hội đồng quận") do người dân sống tại đó bầu ra. Các cơ quan hành pháp địa phương (hành chính quận) được chỉ định bởi các cơ quan hành pháp cấp cao hơn. Tương tự, mỗi voblast có cơ quan lập pháp của riêng mình (oblsovet), do người dân bầu ra, và một cơ quan hành pháp (voblast administration), lãnh đạo cơ quan này do Tổng thống chỉ định. Địa lý Belarus là Quốc gia không giáp biển, khá phẳng và có những dải đất đầm lầy rộng. Những con sông và hồ chằng chịt trong nước. Đầm lầy lớn nhất là Polesie, đây cũng là một trong những đầm lầy lớn nhất châu Âu. Có 11.000 hồ tại Belarus, nhưng đa số hồ nhỏ hơn 0.5 kilômét vuông (124 acre). Ba sông chính chảy xuyên đất nước; Sông Neman, Sông Pripyat, và Sông Dnepr. Điểm cao nhất tại Belarus là Dzyarzhynskaya Hara (Đồi Dzyarzhynsk), 345 mét (1.132 ft), và điểm thấp nhất nằm trên sông Neman, 90 mét (295 ft). Belarus cùng với Ba Lan là quê hương của Belavegskaya Pushcha (Белавежская пушча) hay, theo tiếng Ba Lan là Rừng Białowieża, vùng rừng rộng lớn duy nhất còn lại của khu rừng từng một thời che phủ Đồng bằng châu Âu. Khí hậu thay đổi từ khắc nghiệt trong mùa đông (trung bình nhiệt độ tháng một trong khoảng −8 °C(18 °F) tới −2 °C (28 °F)) tới mát và ẩm trong mùa hè (nhiệt độ trung bình 15 °C (59 °F) tới 20 °C(68 °F)). Trung bình, 15 tới 30 centimét tuyết rơi trong nước, chủ yếu ở phía đông bắc. Belarus có lượng mưa khoảng 600 tới 700 milimét với hơn 70% lượng mưa rơi trong giai đoạn nóng trong năm. Vì các mô hình thời tiết, các thảm họa tự nhiên như hạn hán và lũ lụt thỉnh thoảng xảy ra tại Belarus. Trong giai đoạn 1881 tới 2005, nhiệt độ trung bình tại Belarus đã tăng 1 độ Celsius, nhiệt độ tăng đáng kể trong các tháng mùa đông và mùa xuân. Từng có ý kiến rằng Belarus sẽ phải đối mặt với tình trạng tăng từ 3 đến 4 độ vào cuối thế kỷ XXI. Rừng che phủ khoảng 34% tổng diện tích, khiến các sản phẩm lâm nghiệp trở thành một trong những nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú nhất tại Belarus. Các nguồn tài nguyên tự nhiên khác tại Belarus gồm than bùn, một lượng nhỏ dầu mỏ và khí tự nhiên, đá granite, khoáng chất dolomite (đá vôi), marl, chalk, cát, sỏi, và đất sét. Khoảng một phần năm lãnh thổ, chủ yếu tại các tỉnh phía đông nam Homyel và Mahilyow, tiếp tục bị ảnh hưởng bởi phóng xạ từ thảm họa nhà máy điện hạt nhân tại Chernobyl, Ukraina năm 1986. Tuy lượng phóng xạ đã giảm từ sau thảm hoạ, đa phần diện tích này vẫn được coi là không thể ở được. Xấp xỉ 70% tổng lượng phóng xạ thoát ra từ nhà máy điện Chernobyl đã rơi xuống lãnh thổ Belarus. Belarus giáp biên giới với các nước: Latvia (phía bắc), Litva (tây bắc), Ba Lan (tây), Nga (bắc và đông) và Ukraina (nam). Từ khi rút khỏi Liên bang Xô viết, Belarus đã ký hiệp ước với Latvia và Litva phân chia ranh giới lãnh thổ giữa ba nước. Ukraina đã ký một hiệp ước tương tự với Belarus, dù việc phê chuẩn bên phía Belarus còn chưa được tiến hành. Tới năm 2006, Belarus và Litva đã bắt đầu phân định biên giới. Kinh tế Kinh tế Belarus chủ yếu vẫn thuộc nhà nước kiểm soát như thời Xô viết. Hơn một nửa doanh nghiệp thuộc kiểm soát nhà nước và công ty thuộc sở hữu nước ngoài chỉ chiếm dưới 4%. Nước này có nền kinh tế khá ổn định, nhưng phụ thuộc nhiều vào các nguồn cung nguyên liệu, như dầu mỏ, từ đồng minh thân cận là Nga. Công nghiệp và nông nghiệp chủ yếu vẫn là thủ công. Nông nghiệp phần lớn là các hợp tác xã, và những sản phẩm mũi nhọn là khoai tây và chăn nuôi gia súc. Các ngành công nghiệp có vị trí quan trọng trong lịch sử gồm dệt may và chế biến gỗ. Sau năm 1965, các ngành công nghiệp nặng mới xuất hiện và cơ khí máy (máy cày, tủ lạnh,...) đã tăng cường đáng kể sự phát triển của đất nước. Bên trong Liên bang Xô viết, Belarus từng là một trong những nước cộng hòa có nền công nghiệp phát triển nhất. Về kinh tế, Belarus là một thành viên của Cộng đồng các quốc gia độc lập (CIS), Cộng đồng kinh tế Âu Á, và Liên minh với Nga. Ngay sau năm 1990, sản xuất công nghiệp đã rơi vào tình trạng giảm sút vì những kế hoạch tái cơ cấu theo hướng thị trường tự do tại Liên Xô cũ. Tăng trưởng kinh tế đã quay trở lại năm 1996, vào năm 2001 Belarus là nước cộng hòa đầu tiên trong Cộng đồng các quốc gia độc lập quay trở lại mức sản xuất công nghiệp và nông nghiệp thời Liên Xô. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) năm 2005 đạt $79.13 tỷ (ước tính), hay khoảng $7.700 trên đầu người. Năm 2005, tổng sản phẩm quốc nội tăng khoảng 8-9%, với tỷ lệ lạm phát trung bình khoảng 8%. Theo Liên hiệp quốc, mức thu nhập trung bình hàng tháng đã tăng từ US$20 lên US$225 trong mười năm qua. Hơn bốn triệu người đang ở độ tuổi lao động tại Belarus, phụ nữ hơi chiếm đa số hơn nam giới. Năm 2005, gần một phần tư dân số làm việc trong các nhà máy công nghiệp. Số lượng nhân công trong nông nghiệp, bán hàng sản xuất, hàng thương mại và giáo dục cũng khá cao. Theo các con số thống kê của chính phủ Belarus, tỷ lệ thất nghiệp khoảng 1.5% năm 2005. Tổng số người thất nghiệp là 679.000, với khoảng hai phần ba là phụ nữ. Tỷ lệ thất nghiệp đã liên tục giảm từ năm 2003, và về tổng thể nó cũng giảm so với những con số thống kê từ năm 1995. Đồng tiền tệ Belarus là đồng Rúp Belarus (BYR). Đồng tiền này được đưa vào sử dụng tháng 5 năm 1992, thay thế đồng ruble Xô viết. Đồng ruble được tái đưa ra thị trường với giá trị mới năm 2000 và đã được sử dụng từ thời điểm đó. Như một phần trong kế hoạch Liên minh Nga-Belarus, đã có những cuộc thảo luận giữa hai quốc gia về một đồng tiền tệ chung tương tự đồng Euro. Theo ITAR-TASS kế hoạch này đã khiến có đề xuất ngừng sử dụng đồng ruble Belarus thay bằng đồng ruble Nga (RUB), bắt đầu từ ngày 1 tháng 1 năm 2008. Hệ thống ngân hàng Belarus gồm ba mươi ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước và một ngân hàng tư nhân. Kinh tế Belarus từng bị tác động bởi tình hình chính trị bên trong nhà nước cộng hoà. Sự tác động chủ yếu diễn ra dưới hình thức những lệnh trừng phạt chống lại giới lãnh đạo Belarus. Ví dụ, Liên minh châu Âu đã thông qua Quy định Hội đồng (EC) Số 765/2006 ngày 18 tháng 5 năm 2006. Quy định buộc đóng băng các khoản tiền của Tổng thống Lukashenka cùng 30 tới 35 viên chức cao cấp Belarus. Lệnh trừng phạt cũng ngăn cản sự đi lại của các vị lãnh đạo đó. Lệnh này được EU đưa ra sau khi họ tuyên bố cuộc bầu cử ngày 19 tháng 3 năm 2006 không công bằng và có sự đàn áp phe đối lập. Tính đến năm 2016, GDP của Belarus đạt 48.126 USD, đứng thứ 83 trên thế giới và đứng thứ 28 châu Âu. Nhân khẩu Đa phần dân số Belarus là người Belarus bản xứ, chiếm 81.2% tổng số dân 10.293.011 người. Người Nga là nhóm sắc tộc lớn thứ hai, chiếm 11.4% dân số. Người Ba Lan và Người Ukraina chiếm 3.9% và 2.4% dân số. Các ngôn ngữ chính thức và thường được dùng tại Belarus là tiếng Nga và tiếng Belarus. Tuy nhiên hiện nay có 72% dân số nước này nói tiếng Nga tại gia đình trong khi chỉ 11,9% sử dụng tiếng Belarus tại gia đình. Có 29,4% người Belarus có thể đọc hoặc nói hay viết tiếng Belarus, và 52,5% có thể viết và đọc ngôn ngữ này.. Đây được cho là hậu quả của việc hạn chế sử dụng tiếng Belarus từ thời kỳ Liên Xô cũ, người dân Belarus thời đó cho rằng sử dụng ngôn ngữ của mình là "vô văn hóa" hay "ngôn ngữ quê mùa của kẻ nhà quê" Mật độ dân số khoảng 50 người trên kilômét vuông (127/dặm vuông) và 71.7% tổng dân số sống tại các khu vực đô thị. Trong số dân thành thị, 24% sống tại Minsk, thủ đô và là thành phố lớn nhất nước. Tổng số dân tại Minsk xấp xỉ 1.741.400 người. Homel, với 481.000 người, là thành phố lớn thứ hai tại Belarus và là thủ phủ của Homel Oblast. Các thành phố lớn khác là Mogilev (365.100), Vitebsk (342.400), Hrodna (314.800) và Brest (298.300). Đa phần dân số, 69.7%, ở giữa độ tuổi 14 và 64. 16% dân số dưới 14 tuổi, trong khi 14.6% trên 65 tuổi. Độ tuổi trung bình của dân cư là 37. Tuổi thọ trung bình của người dân Belarus là 68.72; nam giới là 63.03 và nữ là 74.96. Tỷ lệ biết chữ tại Belarus (số lượng người từ 15 trở lên biết đọc, viết) là 99%, nam giới là 99.8% và phụ nữ là 99.3%. Tỷ lệ nam trên nữ năm 2005 được ước tính là 0.88. Đa phần các chỉ số dân cư Belarus tương tự như các quốc gia châu Âu, đáng chú ý nhất là cả tỷ lệ tăng trưởng dân số và tỷ lệ tăng trưởng dân số tự nhiên của người bản xứ. Tăng trưởng dân số hiện tại ở mức −0.06% năm 2005, với tỷ lệ sinh là 1.43. Dân số đang ngày càng già đi, và tới năm 2050, đa số dân sẽ trên 50 tuổi. Tỷ lệ di dân là +2.3 trên mỗi 1.000 người dân Belarus. Theo tổ chức báo cáo của Tổ chức Cứu giúp Trẻ em quốc tế (so sánh 167 quốc gia), Belarus có tỷ lệ chất lượng cuộc sống cho phụ nữ và trẻ em tốt nhất trong mọi nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ. Belarus xếp hạng 16 về chất lượng cuộc sống bà mẹ, 14 về chất lượng cuộc sống phụ nữ, và 20 về chất lượng cuộc sống trẻ em. Nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ có chất lượng xếp sau là Estonia (18 cho phụ nữ), Ukraina (21/31/26) và Nga (27/34/64). Tôn giáo Theo nguồn tin chính phủ, tính đến tháng 11 năm 2011, Chính Thống giáo Đông có số tín hữu chiếm khoảng 82% dân số, với gần 1.000 nhà thờ. Mặc dù Giáo hội Chính Thống đã bị tàn phá trong Thế Chiến II và tiếp tục suy giảm cho đến đầu những năm 1980 bởi các chính sách của chính phủ cộng sản và đã trải qua một sự hồi sinh nhỏ với sự khởi đầu của công cuộc cải tổ vào ngày lễ kỷ niệm của 1.000 Kitô giáo ở Liên Xô trong năm 1988. Năm 1990, Belarus Giáo hội Chính Thống Belarus được tái lập trực thuộc Tòa Thượng phụ Moskva. Trong những năm 1990, 60% dân số tự nhận mình là tín đồ Chính Thống giáo. Giáo hội Chính Thống Belarus có một chủng viện, ba dòng tu, và một học viện thần học đã được mở ra vào năm 1995. Ngày nay có 1.402.605 người Công giáo trong nước, khoảng 15% tổng dân số. Trong năm 1989, 05 giáo phận Công giáo chính thức, vốn đã mất kể từ Thế Chiến II và đã không có một giám mục, đã được tổ chức lại vào bao gồm 455 giáo xứ và hai Tổng giáo phận Minsk và Mahilyow. Trong những năm 1990, số liệu cho thấy dân Công giáo tại Belarus dao động từ 8 phần trăm đến 20 phần trăm; một ước tính xác định 25 phần trăm của những người Công giáo thuộc sắc tộc Ba Lan. Giáo hội Công giáo Belarus có một chủng viện và gần 400 nhà thờ ở Belarus. Trước khi chiến tranh thế giới thứ hai, số lượng tín đồ Tin Lành tại Belarus là khá thấp so với các cộng đồng Kitô hữu khác, nhưng họ đã cho thấy sự tăng trưởng đáng chú ý kể từ sau Thế Chiến II. Năm 1990, đã có hơn 350 cộng đồng Tin Lành trong nước. Bao gồm: Giáo hôi Luther, Mặc Môn, Baptists và thần học Calvin. Người Hồi giáo tại Belarus được đại diện bởi các cộng đồng nhỏ sắc tộc Tatar. Một số cộng đồng Tatar là hậu duệ của người di dân và tù nhân chiến tranh định cư ở Belarus, từ vùng Volga, sau thế kỷ XI. Năm 1997, có 23 cộng đồng Hồi giáo, trong đó có 19 cộng đồng nằm ở khu vực Tây của Belarus. Hiện Hội giáo có 9 thánh đường tại nước này. Văn hoá Trang phục truyền thống Belarus xuất phát từ giai đoạn Kievan Rus. Vì đặc điểm khí hậu, trang phục tại đây giữ ấm cho mọi người. Trang phục tại Belarus được chế tạo từ hoặc sợi lanh hay len và được trang trí các mô hình tùy theo thời kỳ, và đã gây ảnh hưởng tới các nền văn hóa lân cận: Ba Lan, Litva, Latvia, Nga và các quốc gia châu Âu khác. Mỗi vùng trong Belarus đều có kiểu thiết kế và trang trí riêng. Một kiểu trang trí thường thấy trên các loại trang phục thời kỳ đầu hiện đang được dùng trên lá cờ quốc gia Belarus. Ẩm thực Belarus chủ yếu gồm rau, thịt và bánh mì. Thực phẩm thường được coi là những món ăn chính tại Belarus gồm thịt lợn, cải bắp, khoai tây và bánh mì. Vì các phong cách nấu ăn truyền thống thời tiền Xô viết, thực phẩm thường được nấu chín từ từ hoặc hầm. Kiểu ăn uống thông thường nhất tại Belarus gồm bữa sáng nhẹ, hai bữa chính, và bữa tối là bữa ăn chủ yếu nhất trong ngày. Bột mì và bánh mì lúa mạch đều là món ăn thường thấy tại Belarus, nhưng lúa mạch xuất hiện nhiều hơn vì khí hậu ở đây không thích hợp lắm cho cây lúa mì. Khi đón khách, một chiếc bánh mì với muối thường được mời để tỏ lòng hiếu khách. Các đồ uống cũng thường gặp tại các gia đình Belarus, chủ yếu là rượu vodka Nga nấu bằng lúa mạch và nước kvass. Kvass là kiểu nước giải khát được làm từ bánh mì xám hay bột lúa mạch ủ. Kvass cũng có thể dùng kèm với rau thái lát tạo thành món súp gọi là okroshka. Trong lịch sử, Belarus từng là quốc gia theo Nhà thờ chính thống Nga với một thiểu số nhỏ tín đồ Cơ đốc giáo, Do thái giáo và các tôn giáo khác. Người Belarus đã cải theo Nhà thờ chính thống nga sau khi Belarus bị tách khỏi Ba Lan sau sự phân chia Ba Lan. Thiểu số Cơ đốc giáo La Mã Belarus, chiếm khoảng 10% dân số sống tập trung ở vùng phía tây đất nước, đặc biệt xung quanh Hrodna, là nhóm người pha tạp giữa người Ba Lan và người Litva. Một thiểu số nhỏ (khoảng 1%) thuộc Nhà thờ Thiên chúa Hy Lạp Belarus. Người Do Thái từng chiếm 10% dân số Belarus cho tới Thế Chiến II, là một trung tâm Do thái lớn tại châu Âu, nhưng trong cuộc chiến số lượng người Do Thái đã giảm sút nhiều, vì nạn đói, nạn diệt chủng, hiện chỉ còn 1% hoặc ít hơn. Tình trạng di cư từ Belarus cũng là nguyên nhân làm giảm số người Do Thái. Trong Điều 16 Hiến pháp Belarus, không có tôn giáo chính thức tại nước này. Tuy nhiên, quyền tự do tín ngưỡng được đảm bảo theo cùng điều trên, các tôn giáo làm gây ảnh hưởng không tốt tới chính phủ hay trật tự xã hội quốc gia có thể bị cấm. Tổ chức Đoàn kết Thiên chúa giáo Quốc tế đã báo cáo rằng một số giáo đoàn đang bị quấy rầy. Về âm nhạc, bản nhạc lớn đầu tiên do một công dân Belarus sáng tác là vở opera Faust của Radzivill cùng một số tác phẩm khác. Trong thế kỷ XVII, nhà soạn nhạc Ba Lan Stanislau Maniushka sống tại Belarus, đã sáng tác một số vở opera và thính phòng tại Minsk. Trong thời gian sống tại đây, ông đã làm việc cùng nhà thơ Belarus Vincent Dunin-Marcinkevich và sáng tác vở opera Sialianka (Người phụ nữ nông dân). Cuối thế kỷ XIX, các thành phố lớn tại Belarus đã hình thành nên các đội opera và ballet của riêng mình. Trong thời kỳ Xô viết, có tác phẩm ballet Nightingale của M. Kroshner. Sau Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, âm nhạc chủ yếu tập trung miêu tả sự gian khổ của người dân Belarus hay những người Belarus đã đứng lên cầm vũ khí bảo vệ quê hương. Đây cũng là giai đoạn A. Bogatyryov, tác giả vở opera "In Polesye Virgin Forest," là "người giám hộ" của những nhà soạn nhạc Belarus. Sau khi giành lại độc lập, ballet vẫn đóng một vai trò văn hóa quan trọng tại Belarus. Nhà hát Hàn lân Quốc gia Ballet, tại Minsk, đã được trao giải Benois de la Dance Prize năm 1996 với tư cách nhóm ballet hàng đầu thế giới. Âm nhạc hiện đại đã trở nên quen thuộc trong dân chúng Belarus. Các nhóm nhạc rock nổi tiếng trong nước gồm NRM, Neurodubel, Ulis, Nowaje Nieba, và Krama. Nhiều nhóm nhạc Belarus đã biểu diễn tại Ba Lan và Litva, nơi số dân nói tiếng Belarus khá đông. Ba Lan cũng là nơi tổ chức festival âm nhạc Basowiszcza của Belarus. Từ 2004, Belarus đã gửi các ca sĩ đến cuộc thi Eurovision Song Contest. Chính phủ Belarus tài trợ nhiều cho festival văn hóa hàng năm: "Slavianski Bazaar in Vitebsk", "Minsk Spring", "Slavonic Theatrical Meetings", International Jazz Festival, National Harvesting Festival, "Arts for Children and Youth", the Competition of Youth Variety Show Arts, "Muses of Niesvizh", "Mir Castle", và National Festival of the Belarusian Song and Poetry. Những sự kiện này là nơi các ca sĩ, nghệ sĩ, nhà soạn nhạc, diễn viên nổi tiếng Belarus thể hiện mình. Các festival kết thúc với những buổi lễ trong đó những giải thưởng được trao để vinh danh những nhà soạn nhạc nổi tiếng Belarus. Nhiều ngày lễ quốc gia, như Ngày độc lập hay Ngày chiến thắng tập trung những đám khán giả to lớn và nhiều sự kiện trình diễn như pháo hoa và duyệt binh. Đa số các festival được tổ chức tại Vitebsk hay Minsk. Belarus có bốn Địa điểm Di sản Thế giới, hai trong số đó thuộc sở hữu chung của Belarus và nước láng giềng. Bốn địa điểm đó là Tổ hợp Lâu đài Mir; Lâu đài Niasvizh; Belovezhskaya Pushcha (chung với Ba Lan); và Struve Geodetic Arc (chung với Estonia, Phần Lan, Latvia, Litva, Na Uy, Moldova, Nga, Thụy Điển và Ukraina). Viễn thông Nhà độc quyền viễn thông nhà nước, Beltelecom, nắm giữ kết nối độc quyền với các nhà cung cấp dịch vụ Internet bên ngoài Belarus. Beltelecom sở hữu tất cả các kênh trục chính liên kết với Lattelecom, TEO LT, Tata Communications (trước đây là Teleglobe), Synterra, Rostelecom, Transtelekom và MTS ISP. Beltelecom là nhà khai thác duy nhất được cấp phép cung cấp dịch vụ VoIP thương mại tại Belarus. Xem thêm Tham khảo Liên kết ngoài Truyền thông Politics and News from Belarus (eng, bel, rus) News of Belarus (bel) Belarus News and Analysis Website chính phủ President's official site Government of Belarus Embassy of Belarus in the United States E-Government in Belarus Thông tin/Văn hoá A Belarus Miscellany The Virtual Guide of Belarus Eating the Belarusian way Media in Belarus Cộng hòa Quốc gia và vùng lãnh thổ nói tiếng Nga Quốc gia châu Âu Quốc gia Đông Âu Quốc gia nội lục Quốc gia thành viên của Liên Hợp Quốc Quốc gia và vùng lãnh thổ Slav Quốc gia thành viên Cộng đồng các Quốc gia Độc lập
28054
https://vi.wikipedia.org/wiki/Acid%20h%E1%BB%AFu%20c%C6%A1
Acid hữu cơ
Acid hữu cơ là những hợp chất hữu cơ có tính acid. Các acid hữu cơ phổ biến nhất là các acid carboxylic. Các acid sulfonic, có chứa nhóm –SO2OH, là những acid tương đối mạnh hơn so với acid carboxylic. Alcohol, với –OH, có thể hoạt động như acid nhưng chúng thường rất yếu. Độ ổn định tương đối của base liên hợp của acid quyết định độ acid của nó. Có một số nhóm chức có thể tạo ra tính acid yếu: hydroxyl (), enol, phenol,... Tham khảo Liên kết ngoài
28055
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ho%E1%BA%A1n%20quan
Hoạn quan
Hoạn quan (chữ Nho: 宦官) hay quan hoạn là người đàn ông do khiếm khuyết ở bộ phận sinh dục nên không thể có gia đình riêng, được đưa vào cung vua chúa để hầu hạ những việc cẩn mật. Có nhiều tên gọi để chỉ hoạn quan: thái giám (太監), công công (公公), tự nhân (寺人), yêm nhân (閹人), nội thị (內侍), thị nhân, yêm hoạn, hoạn giả, trung quan, nội quan, nội thân, nội giám... Hoạn quan Trung Quốc Trong lịch sử Trung Quốc, hoạn quan đã có từ thời Tây Chu, đương thời gọi là tử nhân, hoặc hạng nhân, yêm doãn, nội tiểu thần. Được tuyển dụng để làm một số công việc cung đình: truyền lệnh của nhà vua đến các quan, canh gác hậu cung, quét dọn phòng ốc, liên lạc giữa nhà vua với các cung phi... Vào thời Tây Chu các nước Tề, Sở, Tần, đều có hoạn quan, và gọi bằng các tên như hình thần, ty cung. Thời Chiến Quốc nước Triệu có Hoạn giả lệnh coi về hoạn quan. Nước Tần có hoạn quan đảm nhận chức Xa phủ lệnh. Sau khi Tần thống nhất Trung nguyên, hoạn quan có người làm đến Thừa tướng, gọi là Trung thừa lệnh. Thời Tây Hán, các hoạn quan được gọi là thường thị có những hoạn quan đảm nhận các chức Hoàng môn lệnh, Dịch đình lệnh. Đến nhà Đường đổi là trung quan. Tại các triều nhà Tùy, nhà Đường, nhà Tống đặt ra cơ cấu Nội thị tỉnh do hoạn quan đảm nhiệm, trông coi các việc nội bộ ở trong cung đình. Hoạn quan ở hai triều Đường, Tống có người trực tiếp thống lãnh quân đội. Đến đời nhà Minh, đặt ra Thập nhị giám, Tứ ty, Bát cục gọi là Nhị thập tứ nha môn, trông coi về việc phục dịch trong cung đình, mỗi cơ cấu có thái giám trông coi. Đến đời nhà Thanh có Tổng quản thái giám, người đứng đầu thái giám, trực thuộc Nội vụ phủ. Hoạn quan vốn chỉ là quan trong nội đình, không có quyền can dự chính sự, nhưng là người hầu cận thường ngày gần nhất của hoàng đế, được hoàng đế tin dùng, nên có khả năng lộng quyền, nắm được đại quyền chính trị, thậm chí có thể phế lập hoàng đế. Dưới các triều Đông Hán, Đường, Minh đều từng xảy ra những việc hoạn quan chuyên quyền làm bậy. Chữ Hán, có hơn ba mươi từ ngữ dùng để chỉ hoạn quan, nên thường giải thích hoạn quan là thái giám. Nhưng kỳ thực, khái niệm về hai từ ngữ này có chỗ khác biệt. Mới đầu hoạn quan không nhất thiết phải là người bị thiến. Trong lịch sử Trung Quốc cổ xưa đã có hoạn quan. "Hoạn quan" chỉ là danh xưng chỉ chung những quan viên phục dịch, hầu hạ hoàng đế và gia tộc trong hoàng cung. Cho đến đầu đời nhà Đông Hán, khi Lưu Tú quang phục lại Hán thất, mới ban lệnh hoạn quan tất yếu phải là người đàn ông bị thiến. Trước đó, thời Hán Võ Đế, năm 99 trước Công nguyên, khi Lý Lăng thua trận đầu hàng Hung Nô, Tư Mã Thiên vì bênh vực Lý Lăng mà bị thiến và tuy là người bị thiến nhưng Tư Mã Thiên không phải là hoạn quan. Từ ngữ "thái giám" xuất hiện sớm nhất vào đời Đường Cao Tông Lý Trị năm Long Sóc nhị niên, tức năm 662, khi đem thay đổi danh xưng "Điện trung tỉnh", cơ cấu chuyên lo việc xa giá, y phục trong hoàng cung thành "Trung ngự phủ", và cải "Giám thành trung ngự" thành "thái giám" và "thiếu giám". Đến đầu đời nhà Minh thiết lập "Nhị thập tứ nha môn", mỗi nha môn đặt ra một thái giám giữ ấn tín phục dịch hoàng đế cùng gia thuộc, và người được giữ chức thái giám tất yếu phải là hoạn quan. Từ đấy "thái giám" thành danh xưng chuyên chỉ hoạn quan. Đến giữa thời kỳ nhà Minh, quyền thế của thái giám được mở rộng thêm ra. Thái giám có quyền làm sứ giả, trông coi quân đội, coi xét quan lại, dân tình nên trở thành lộng quyền. Đến đời nhà Thanh, xét thấy sự chuyên hoành và tệ hại của thái giám mới đặt ra chức "Tổng quản Thái giám" làm thủ lĩnh, lệ thuộc vào "Nội vụ phủ" và giới hạn tước vị đến "tứ phẩm" để nhằm làm giảm quyền lực của thái giám. Theo các nhà nghiên cứu, nguồn gốc hoạn quan ở Trung Quốc có ba nguyên nhân chủ yếu sau đây: Hoạn quan là những tội phạm, tù binh hoặc phản nghịch bị cắt sinh thực khí. Hoạn quan là cống phẩm của địa phương tiến cống vào cung đình. Tự nguyện xin thiến làm hoạn quan để mưu cầu phú quý. Một số phương pháp yêm cát Loại trừ những người đã khiếm khuyết khi sinh ra, một hoạn quan phải qua một "thủ thuật" hết sức đau đớn gọi là "yêm cát", "cung hình", "tàm thất", "hủ hình" hay "âm hình". Việc yêm cát như thế nào, sử sách ghi chép bất nhất. Theo Nam tinh thái giám khốc hình thì ghi lại có 4 phương pháp để thiến con trai: Cắt toàn bộ âm kinh và dịch hoàn Chỉ cắt bỏ dịch hoàn Đè cho vỡ nát dịch hoàn Cắt bỏ ống dẫn tinh Theo sách Mạt đại thái giám bí văn còn liệt kê một phương pháp thiến nữa là "thằng hệ pháp", tức dùng dây cột chặt dịch hoàn của đứa bé, lâu dần thực khí mất công năng, bị chết đi. Hoặc cho đứa trẻ uống một thứ thuốc tê gọi là ma tuý dược, rồi dùng kim chích hoài vào dịch hoàn đứa trẻ khiến cho sinh thực khí không còn công năng nữa. Carter Stent miêu tả về việc cát thể ở Trung Hoa cuối đời Mãn Thanh như sau: Trước khi cát thể, người có ý định trở thành thái giám được đặt nằm nghiêng trên một cái giường thấp và được hỏi lần cuối cùng có hối hận gì khi bị thiến hay không. Nếu người đó trả lời không thì một người sẽ giữ chặt bụng người đó, hai người khác banh hai chân ra giữ cho khỏi cục cựa. Băng vải được quấn chặt ở bụng dưới và hai đùi và bệnh nhân được cho uống một thang thuốc mê (ma phế thang), bộ phận sinh dục của y được chà xát bằng nước ngâm ớt. Cả dương vật lẫn dịch hoàn được cắt xoẹt bằng một nhát dao sát tận đáy, một nút bằng kim loại cắm ngay vào lỗ sinh thực khí và vết thương được băng chặt bằng giấy bản, bên ngoài quấn vải thật chặt. Người thái giám lập tức được những "đao tử tượng" dìu đi quanh phòng trong hai ba giờ liền trước khi được quyền nằm nghỉ. Người đó vừa đau đớn, vừa khát nước nhưng không được ăn uống và tiểu tiện trong ba ngày. Sau ba ngày, vải băng được cởi ra và cái nút được rút ra và nếu bệnh nhân có thể đi tiểu được ngay thì cuộc giải phẫu thành công và qua được thời kỳ nguy hiểm. Nếu người thái giám không tiểu tiện được có nghĩa là đường sinh thực khí đã bị thu hẹp hay bịt kín và chỉ còn đường chờ chết... Thế nhưng việc tĩnh thân để thành thái giám không phải chỉ trong việc cắt bỏ bộ phận sinh dục mà thôi. Có gia đình chuẩn bị việc cho con mình tương lai sẽ làm thái giám tử khi còn nhỏ. Một bà vú (bảo mẫu) thuê để đặc biệt chăm sóc cho đứa trẻ ngay từ khi còn nằm trong nôi. Bà vú này có một thủ thuật riêng, mỗi ngày ba lần nắn bóp dịch hoàn đứa trẻ khiến đứa bé đau đến khóc thét lên. Lực bóp cũng tăng thêm và cơ quan sinh dục của đứa bé dần dần bị hủy hoại. Khi lớn lên không những mất khả năng sinh dục mà dương vật còn teo dần khiến đứa trẻ có nhiều nữ tính, không có yết hầu, hai vú nhô cao, mông nở, giọng nói lanh lảnh, dáng điệu ẻo lả và trở thành "ái nam, con gái" Năm 1996, Tôn Diệu Đình (孫耀庭 Sun Yaoting), vị hoạn quan cuối cùng của chế độ phong kiến Trung Hoa qua đời, đặt dấu chấm hết cho hiện tượng hoạn quan của Trung Quốc. Hoạn quan Việt Nam Mặc dù văn hóa Việt Nam và văn hoá Trung Hoa có rất nhiều tương đồng, tương cận nhưng tại Việt Nam hầu như ít có những thái giám khuynh loát triều chính như ở Trung Hoa, trái lại có khá nhiều danh thần xuất thân từ hàng yêm hoạn. Người hoạn quan thứ nhất cũng rất tiếng tăm là Việp Quận công Hoàng Ngũ Phúc làm quan dưới đời vua Lê Hiển Tông, đã cùng Phạm Đình Trọng dẹp yên hai cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Hữu Cầu và Nguyễn Danh Phương, khi về hưu được phong làm Quốc lão. Về sau ông đem đại quân đánh vào Phú Xuân, bắt được Trương Phúc Loan rồi trấn thủ Thuận Hóa, chấm dứt một giai đoạn phân tranh Nam – Bắc kéo dài hơn 200 năm. Người thứ ba là Tả quân Lê Văn Duyệt khai quốc công thần triều Nguyễn mà nay mộ của ông tại Bà Chiểu, Gia Định vẫn là một đền thờ được dân chúng chiêm bái gọi là Lăng Ông. Lê Văn Duyệt tuy cũng xuất thân hoạn quan nhưng ông bản chất là người liên giới tính chứ không phải tự thiến để thành quan thị như Việp Quận công Hoàng Ngũ Phúc. Ở Việt Nam, hoạn quan được ghi nhận là có từ thời nhà Lý, đến triều Nguyễn, hoạn quan được chia làm năm trật: Quản vụ Thái giám và Điển sự Thái giám. Kiểm sự Thái giám và Phụng nghi Thái giám. Thừa vụ và Điển nô Thái giám. Cung sự và Hộ nô Thái giám. Cung phụng và Thừa biện Thái giám. Việc kén chọn hoạn quan ưu tiên tuyển những trẻ em "ái nam con gái" do lệnh của triều đình. Người dân nào sinh con có khuyết tật đó được quan sở tại tới khám xét rồi làm sớ tâu lên. Cha mẹ đứa bé sẽ nuôi con đến lúc 13 tuổi, sau đó Bộ Lễ sẽ đưa vào cung tập sự hoạn quan. Làng nào có hoạn quan tiến cử được miễn binh lính, phu phen tạp dịch và cả sưu thuế. Nếu không có đủ số trẻ ái nam con gái, thanh niên nào tự nguyện thiến bộ phận sinh dục sẽ được tuyển chọn. Tuy nhiên, thái giám Việt Nam chỉ là một số nhỏ không được trọng vọng lại chỉ được làm những việc lặt vặt chưa thành hẳn một tầng lớp có ảnh hưởng như Trung Hoa. Theo chỉ dụ của vua Minh Mạng, thái giám không được dự vào phẩm hàm hay quan chức triều đình và chỉ được hầu hạ trong cung mà thôi, cũng có thể nhà vua không muốn xảy ra việc hoạn quan chuyên quyền như Trung Hoa hay vì đố kỵ với Tả quân Lê Văn Duyệt trong vụ nổi loạn thành Phiên An. Tấm bia khắc là toàn văn bản dụ này nay vẫn còn trong Văn Miếu, Huế. Thái giám cũng có riêng một nghĩa trang trong khuôn viên chùa Từ Hiếu, cách Huế khoảng 1 km theo hướng tây nam và vì thế chùa này còn được gọi là chùa Thái Giám. Trong một số thời kỳ, nước Việt phải đem cống sang Tàu một số người tài giỏi, sau đó bị trở thành hoạn quan. Theo Hoàng Minh thông ký, một hoạn quan người Việt là Nguyễn An đã vẽ kiểu tu tạo thành Bắc Kinh bao gồm 9 cửa, 2 cung, 3 điện, 5 phủ, công đường, nha môn 6 bộ và các trường xưởng nhà trạm. Ông làm quan trải năm đời vua triều Minh là: Thành Tổ, Nhân Tông, Tuyên Tông, Anh Tông, và Cảnh Tông, tính tình liêm khiết rất đáng kính trọng. Thái giám dưới thời Lê - Trịnh Thời vua Lê Dụ Tông, niên hiệu Bảo Thái (1720 - 1729), trong hàng quan lại, ngoài Văn ban và Võ ban, chúa Trịnh còn đặt ra một ban thứ ba là Giám ban với các chức: Tổng thái giám (hàm Chánh tam phẩm) Đô thái giám (Tòng tam phẩm) Thái giám (Chánh tứ phẩm) Thiếu thái giám (Tòng tứ phẩm) Đồng trị giám sự (Chánh ngũ phẩm) Tả hữu thiếu giám (Tòng ngũ phẩm) Trong thời kỳ này, hoạn quan được trực tiếp tham gia chính sự, viên chức đứng đầu Giám ban chỉ kém vế hơn Thượng thư (Tòng nhị phẩm) một bậc, còn chức danh Thiếu giám (Tòng ngũ phẩm), một loại quan nhỏ trong Giám ban còn to hơn cả quan Tri phủ tại địa phương (Tòng lục phẩm) đến hai bậc. Theo ký sự của R.P Koffler, một người Pháp đã đến Đại Việt thời kỳ này, có ba viên quan đứng đầu Giám ban giữ những nhiệm vụ hết sức quan trọng: một người quản lý ngân khố triều đình, thu thuế, thanh toán mọi chi tiêu trong cung đình; còn hai người kia phụ trách việc thương mại với người nước ngoài và chỉ có họ mới được phép bán vàng, sắt, ngà voi... cho thương nhân Châu Âu. Điều này chứng tỏ các chúa Trịnh luôn có ý dùng Giám quan làm một lực lượng hậu thuẫn riêng cho mình. Hậu quả của tình trạng đó là sự lộng quyền của nhiều hoạn quan trong triều, điển hình là trường hợp Hoàng Công Phụ, một hoạn quan được phong đến tước Hiệp quận công, đã thao túng việc triều chính, lấn át cả chúa Trịnh Giang khiến một số quan lại ở phủ liêu phải đứng lên truất Trịnh Giang lập em là Trịnh Doanh lên thay và triệt hạ phe cánh Hoàng Công Phụ. Cũng từ đó Giám ban bị bãi bỏ hẳn. Thái giám dưới thời Nguyễn Dưới thời Gia Long, vị vua này không có những sửa đổi nào đáng kể trong quy chế hoạn quan. Phải đợi đến năm Minh Mạng thứ 17 (17.3.1836), nhà vua mới ban hành một chỉ dụ quan trọng nhằm hạn chế quyền hạn của hàng hoạn quan trong triều đình. Theo chỉ dụ này, hoạn quan phải trở lại với những công việc cố hữu là phục dịch trong cung. Họ không còn được xếp trong ngạch chung của các quan lại mà xếp riêng làm 5 hạng: Hạng nhất (Thủ đẳng) gồm Quảng vụ và Điểm sự thái giám. Hạng nhì (Thứ đẳng) gồm Kiểm sự và Phụng nghi thái giám. Hạng ba (Trung đẳng) gồm Thừa vụ và Điển thắng thái giám. Hạng tư (Ái đẳng) gồm Cung sự và Hộ thắng thái giám. Hạng năm (Hạ đẳng) gồm Cung phụng và Thừa biện thái giám. Chỉ dụ được ban ra không đầy nửa năm sau khi dẹp xong vụ khởi loạn của Lê Văn Khôi cùng binh lính ở Gia Định thành và truy xét tội của Tả quân Lê Văn Duyệt, nguyên là một thái giám trong phủ chúa Nguyễn Phúc Ánh. Điều này cho thấy vua Minh Mạng đã để những ấn tượng về biến cố Gia Định thành chi phối quyết định của mình. Để chỉ dụ được phỉ biến rộng rãi, nhà vua cho khắc vào một bia đá đặt ngay trước Quốc Tử Giám để các giám sinh xem và truyền đạt lại đời sau. Đến cuối thập niên 1910, người ta vẫn còn thấy tấm bia này. Các đời Đồng Khánh (1887), Thành Thái (1895), có những thay đổi nhỏ trong quy chế thái giám, chủ yếu là về lương bổng hàng năm. Riêng đời Thành Thái (1889 - 1907) trong cung có 15 thái giám: 5 người phụ coi lăng tẩm của tiên đế, 2 người phục dịch Hoàng thái hậu, còn 2 giúp các việc trong cung cấm. Đến thời Duy Tân (1914), triều đình tuy không quyết định bãi bỏ hẳn lớp hoạn quan, những vẫn giữ lại những người đương chức và từ đó về sau không tuyển mới nữa. Hoạn quan Triều Tiên Các quốc gia khác Trung Quốc là nước đã định chế hóa vai trò của thái giám nhưng tập tục này đã hiện diện trong nhiều quốc gia, nhiều bộ lạc và xã hội có tục đa thê. Người ta thường sử dụng những người bị yêm hoạn làm kẻ hầu người hạ, canh giữ các tì thiếp của vua chúa hay phú gia. Ngày nay, việc giải phẫu cắt bỏ sinh thực khí của mình vì bệnh tật, vì tôn giáo hay vì một quan điểm tính dục nào đó vẫn còn công khai hay lén lút tại một vài nơi trên thế giới. Theo truyền thuyết, việc cắt bỏ bộ phận sinh dục phái nam đã có rất lâu như một nỗ lực mà người đàn ông muốn trở thành nữ nhân để mong có được khả năng truyền chủng như phụ nữ (womanlike fertility). Tại Trung Đông và một số quốc gia châu Phi có tục cắt da qui đầu vào tuổi dậy thì để đánh dấu sự thành niên của con trai cũng là nhằm bắt chước việc hành kinh của đàn bà và mảnh da đó dùng như một tế phẩm để dâng lên thượng đế (offerings to Yahweh). Người Trung Đông còn quan niệm rằng nếu giữ mình trong sạch thì sẽ dễ được lên thiên đàng và chính vì thế nhiều nam nhân đã tự nguyện được thiến để thành yêm hoạn ngõ hầu được sống đời đời sau khi chết. Dưới thời Đế quốc La Mã, những thanh niên khỏe mạnh được tuyển chọn để đem thiến đi làm hoạn quan. Ví dụ Bagoas là hoạn thần được Alexander Đại đế sủng ái, còn vua Nero thì có hoạn quan tên là Sporus. Người Ấn Độ chia người yêm hoạn ra thành ba loại: loại bẩm sinh lúc đẻ ra có dương vật nhưng không có dịch hoàn, loại không có cả dương vật lẫn dịch hoàn và loại trở thành yêm hoạn sau khi giải phẫu. Ở Ấn Độ trước đây có những người đi rong từ vùng này sang vùng khác thiến người khác để kiếm ăn (traveling eunuch-makers). Phương pháp của họ rất giản dị là buộc chặt bộ phận sinh dục bằng một mảnh băng (ligature) rồi cắt xoẹt đi bằng một con dao thật sắc. Trong thời Trung cổ, một số quốc gia thuộc châu Âu cũng có tục lệ thiến những kẻ bị kết án đa dâm (excessive cupidity) và nhiều giáo sĩ muốn giữ mình trong sạch cũng tự cắt bỏ bộ phận sinh dục để khỏi vướng mắc vào đường tình ái. Những người này được gọi dưới cái tên hesychasti có nghĩa là "kẻ mãi mãi trong sạch". Nước Ý có thời điểm có đến 4000 người yêm hoạn, nhiều nhất là các tu sĩ Thiên Chúa giáo và chính Giáo hoàng Clement 14 đã phải ra lệnh cấm thi hành hủ tục này. Còn tại Pháp, những người nào tự hủy mình sẽ bị trừng phạt theo hình luật. Ở Ai Cập và Ba Tư, những ai phạm tội hiếp dâm cũng bị thiến để trừng trị. Tại một số di tích ở Ai Cập, người ta đã phát hiện được những hình ảnh về những người nô lệ bị hoạn nhằm phục vụ cho những phu nhân của các gia đình giàu có. Những dấu tích đó cho thấy hoạn quan đã từng tồn tại ở Ai Cập cách đây khoảng 4.000 năm. Theo hình luật của Vương quốc Assyrie – khu vực Lưỡng Hà (1450–1250 TCN), nếu người chồng bắt được vợ mình đang ngoại tình với kẻ khác, anh ta có thể trừng phạt kẻ tình địch bằng cách thiến, biến thành hoạn quan. Một số quốc gia khác thì có tập tục thiến những ca sinh có giọng cao (tenor) trong những ca đoàn tôn giáo để giữ cho những người này khỏi vỡ tiếng khi dậy thì. Những ca sinh đó gọi là castrati được tịnh thân từ khi còn nhỏ vì người ta tin rằng giọng trong trẻo của họ sẽ khiến cho Thiên Chúa vừa lòng hơn những ca sinh con gái, và vì thế trong thời Trung cổ phụ nữ không được gia nhập các ca đoàn này. Tại Nga, giáo phái tên là Bồ Câu Trắng (White Dove), hay còn gọi là giáo phái Skoptzy do Ssaliwanow sáng lập vào thế kỷ 18, đã khuyến khích giáo đồ tự nguyện cắt bỏ bộ phận sinh dục, coi đó như là một hành vi dâng hiến cho Thiên Chúa. Phương pháp này áp dụng cho cả nam lẫn nữ tín đồ. Nam nhân có thể bị cắt cả sinh thực khí lẫn dịch hoàn hay chỉ một trong hai, còn đàn bà thì cắt bỏ tử cung, ngoại âm thần, nhũ hoa tùy theo mức độ trong sạch mà họ muốn. Những người cắt bỏ hoàn toàn bộ phận sinh dục được mang nhãn hiệu "người mang dấu ấn của Vương triều" (Bearer of the Imperial Seal)... Nhiệm vụ và đời sống hoạn quan Nhiệm vụ Dưới các triều đại phong kiến Trung Quốc cũng như Việt Nam, triều đình có hệ thống quan lại để tham gia làm việc nước, chia làm hai ban văn - võ, từ lớn đến nhỏ gồm cửu phẩm, mỗi phẩm lại phân biệt chánh và tòng, cuối cùng là hạng vị nhập lưu (chưa được liệt vào hạng nào cả). Ngoài ra, trong cấm cung, hoàng gia đông đúc cũng cần người phục vụ công việc hàng ngày và chầu hầu từ nhà vua đến tam cung lục viện. Họ phần lớn thuộc phái yếu gọi là nữ quan, có nhan sắc, được tuyển chọn hàng năm trong dân gian, ai may mắn được lọt vào mắt xanh của nhà vua, được sủng ái và sinh hạ hoàng nam, hoàng nữ thì được cất nhắc dần lên địa vị lục tần, tam phi còn lại đều thuộc hạng thị tỳ và làm việc ở các cơ sở nội đình như nhà kho (cung nô), nhà bếp (cung trù), hay quét tước, coi sóc các cung điện... Trong cấm thành còn có bao nhiêu công việc mà phái yếu không làm nổi, phải cậy đến phái mạnh. Nhưng một kẻ phái mạnh chính tông mà ở giữa đám phái yếu xinh như hoa, đẹp như mộng thì quá nguy hiểm. Để tránh những sự cố đáng tiếc xảy ra, nhà vua phải cần đến những người đàn ông không còn là đàn ông nữa. Đó là hoạn quan. Tuy nhiên, mặc dù hoạn quan bị mất khả năng sinh dục, họ vẫn có những thèm khát và đòi hỏi, nhất là những người bị thiến sau khi đã đến tuổi trưởng thành. Trong nhiều trường hợp, chính họ là nạn nhân của những cung phi bị dồn nén, nhất là những thái giám còn nhỏ tuổi. Trong một vài triều đại, họ còn được phép ngủ chung với đàn bà trong cung để cho các phi tần có chút khí dương ngõ hầu ít bệnh tật. Đối với những hoạn quan chỉ bị cắt dịch hoàn rất có thể họ vẫn cương cứng được và chính vì thế nhiều lời đồn đãi rằng họ vẫn có thể phục vụ cung nhân... Những tiểu thái giám xinh đẹp chừng mười mấy tuổi được tĩnh thân để tiến cung gọi là "đồng giám" hay "hài giám" thường được hoàng hậu, quý phi, quý nhân yêu thích. Những đứa trẻ này vì đã tĩnh thân từ khi còn rất nhỏ nên được coi là rất trong sạch chưa vương vấn một ý niệm tính dục nào và thường được cung nhân, phi tần nuôi như như người ta nuôi một con vật yêu thích. Chúng cũng được tự do hơn nghĩa là được vào phục vụ các cung nhân trong khuê phòng hay trong buồng tắm ở những khung cảnh kín đáo nhất. Tuy nhiên khi đã lớn, họ vẫn bị thay thế bằng những thái giám nhỏ tuổi hơn và được điều động ra làm công việc ở bên ngoài khu vực phụ nữ sinh sống. Nhiệm vụ của hoạn quan là làm đủ thứ việc trong nội cung, như trà nước, xe kiệu, chợ búa, hầu hạ hoàng đế, thái hậu, phi tần, truyền mệnh lệnh vua, liên lạc thông tin và canh phòng, bảo vệ an ninh các cung điện. Thái giám hầu cận bên vua bao giờ cũng được tuyển chọn rất kỹ, còn lại là cung dám làm các việc vặt như quét tước nhà cửa, chăm sóc cây cối, cất giữ hóa phẩm... Như vậy, thái giám là một hệ thống nội quan chỉ phục vụ công việc hàng ngày trong cấm cung, không liên quan gì đến triều đình. Thế nhưng trong lịch sử, không ít trường hợp ngoại lệ xảy ra, có những người tài năng, nhờ được vua yêu mà lập nên sự nghiệp lẫy lừng, lưu danh muôn thuở; trái lại, cũng có những người dựa thế vua mà khuynh loát cả triều đình, tạo nên cái thế rối loạn, suy sụp. Hoạn quan mỗi khi lấn quyền triều đình thì gây nhiều tai họa, vua Minh Mạng đã cảnh báo trong bài dụ hiện còn ở Văn Miếu, Huế, trong đó có đoạn: Đời sau dần dần không noi phép cổ, để bọn điêu đang tham chính nắm quyền, không khác cho chúng nắm gươm đằng chuôi, như bọn thập thường thị đời Hán, bọn trung quan đời Đường, bọn tứ hung đời Minh, cho đến lũ Hoàng Công Phụ đời Lê ở nước An Nam; cái thế của chúng nổi lên như lửa, những điều họa hại theo nhau đổ đến. Nguyên do là bởi ông vua đương thời làm đầu têu, thấy chúng dễ sai bảo nên yêu thích, rồi hết sức tin cậy, rốt cuộc quyền thế của chúng đã thành, không thề đè nén được. Dẫm sương biết sẽ có tuyết, gương đã rõ ràng... Đời sống hoạn quan Họ sống rất đầy đủ, sung sướng về mặt vật chất, nhưng lại thiếu thốn, đau khổ về mặt tinh thần. Người xưa vốn rất coi trọng nhiệm vụ truyền giống, phê phán, kết tội nặng những kẻ tuyệt chủng, bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại (có ba điều bất hiếu, lớn nhất là không có con nối dõi tông đường), vì thế, họ bị người đời coi thường, khinh rẻ. Sống với mặc cảm ấy, nên họ luôn bị dằn vặt làm cho đau khổ, nhất là đối với những người bất đắc dĩ vướng vào cái nghiệp oan trái này. Đối với tổ tiên, cha mẹ, họ tự coi mình là tội nhân bất hiếu; đối với bản thân, họ không thoát khỏi cái cảnh trăm năm cô đơn, và đến khi nhắm mắt, sẽ trở thành loài ma lang thang, không nơi nương tựa. Vì vậy, họ níu vào chùa để nương nhờ hương khói mai sau và đã có những thời, thái giám trở thành một tầng lớp cách biệt. Sau khi đã cắt bỏ bộ phận sinh dục, âm nang, âm hành của họ được gọi dưới cái tên bảo cụ sẽ được dùng những kỹ thuật riêng để bảo tồn và coi như một món đồ quý, giữ gìn rất cẩn thận. Trước hết bảo cụ được tẩm vôi bột để cho khỏi thối và hút hết những máu mủ còn trong đó để cho được khô ráo, sau đó dùng vải hay giấy bản lau sạch rồi mới đem ướp trong hương liệu để cho dầu thấm vào, đặt trong bao bằng lụa, cất trong hộp gỗ rồi hàn kín lại. Người ta chọn ngày lành tháng tốt cung kính đưa chiếc hộp đó đến từ đường họ người bị thiến, cung kính treo chiếc hộp đó trên xà nhà. Sau đó mỗi năm, họ lại rút cái hộp đó lên cao thêm một chút, ý chúc tụng cho người bị yêm hoạn phục vụ trong triều đình được thăng quan tiến chức. Việc gìn giữ "bảo cụ" có hai lý do. Thứ nhất, mỗi khi được thăng thưởng thái giám phục vụ trong cung đình đều phải trình cho thượng quan xem của quý để chứng minh rằng quả thực mình đã được tĩnh thân (nghiệm bảo). Lý do thứ hai, là khi người đó chết đi, lúc tẩm liệm người ta sẽ hạ phần thân thể bị cắt ra còn đang treo trên xà nhà xuống may cho dính lại chỗ cũ, còn tờ tự nguyện yêm cát thư (đơn tình nguyện xin cắt bỏ bộ phận sinh dục) sẽ được đốt trước linh sàng để người chết được khôi phục nguyên trạng ngõ hầu dưới cửu tuyền còn mặt mũi mà nhìn lại cha mẹ tổ tiên và nếu có đầu thai thì kiếp sau cũng được toàn vẹn thân thể. Chính thủ tục này cũng gây nên nhiều chuyện trớ trêu, hoặc đao tử tượng giữ bảo cụ làm của riêng để sau này bán lại hoặc cho thuê những ai muốn thăng quan nhưng lại không giữ được món đồ của mình vì bị thất lạc hay bị kẻ gian ăn cắp mất. Mỗi khi có biến loạn ở kinh thành, nhiều thái giám đã hoảng hốt chạy đi tìm cái bảo cụ của mình, có khi tranh cướp nhau để mong được chết toàn thây. Mặc dù bị thiến vẫn có những hoạn quan vẫn hoang tưởng rằng họ có thể "mọc" lại được. Chính vì niềm tin đó, đời Thanh đã có luật lệ rằng tiểu thái giám nhập cung rồi sau ba năm sẽ phải qua một kỳ "tiểu tu", năm năm qua một kỳ "đại tu" để những thái giám chuyên môn xét lại xem ngọc hành có "trùng sinh" hay không. Theo sách Thần Viên Tạp Thức, thái giám thường thích ăn các loại thức ăn tráng dương và dùng những toa thuốc như Mẫu Cẩu Cảnh Tán, Thiên Khẩu Nhất Bôi Ẩm, Ngọc Cảnh Trùng Sinh Phương... để mong trở lại bình thường. Về phần ngoại mạo, người đã bị yêm cát thay đổi rất nhiều, trở nên có nhiều nữ tính, không mọc râu, không lộ hầu, ngực nhô lên, mông nở, giọng nói the thé, hành động yểu điệu, da dẻ cũng nhẵn nhụi hơn trông chẳng khác gì đàn bà giả đàn ông. Vì hạ thể nở nang (đùi và chân to ra) nên thái giám thường đi chân chữ bát, bước ngắn mà nhanh. Thái giám cũng dễ trở nên phì nộn, mặc dầu da thịt thường nhão nhoẹt nhưng đến già lại teo đi nên những người có tuổi da dẻ lại nhăn nheo hơn bình thường khiến thái giám bốn mươi tuổi trông già như người già tám mươi. Thái giám thường là đề tài để cho người ta diễu cợt, châm chọc lắm khi rất tàn nhẫn. Ở Bắc Kinh có một khu vực tên là "Thiên Kiều" là nơi có trình diễn những nghệ thuật dân gian, trong đó có một loại hí kịch gọi là "tướng thanh" bao gồm hai người, kẻ xướng người đáp trong đó thái giám thường bị lôi ra làm trò cười. Người bị thiến ngoài những thay đổi thể chất, tinh thần cũng ảnh hưởng nặng nề và chính vì thế họ trở nên độc ác, nhỏ nhen, tàn nhẫn khác với người thường. Ngoài ra, thái giám vì bị khiếm khuyết các cơ ở hạ bộ nên thường hay bị són nước tiểu ra quần, thành thử nặng mùi nên cũng hay bị chế giễu. Trong một xã hội còn kém văn minh, những người bất hạnh vì cơ thể bị khuyết tật không được xã hội ưu đãi mà thường bị ngược đãi. Hiện tượng đó vẫn còn xảy ra ở một vài nơi trên thế giới... Một số hoạn quan nổi tiếng Việt Nam Đỗ Thích, hoạn quan thời nhà Đinh, người đã ám sát vua Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn Lý Thường Kiệt, thời nhà Lý Dương Chấp Nhất, thời nhà Mạc, người đã đầu độc tướng Nguyễn Kim Hoàng Ngũ Phúc đời vua Lê Hiển Tông. Lê Văn Duyệt, Tả quân khai quốc công thần triều Nguyễn, nguyên là một thái giám trong phủ chúa Nguyễn Phúc Ánh Trung Quốc Triệu Cao nhà Tần Tào Đằng cuối thời Đông Hán, hoạn quan duy nhất có tước hiệu hoàng đế (truy tôn).. Thập Thường thị thời Tam Quốc (Trương Nhượng, Kiển Thạc...) Ngụy Trung Hiền thời nhà Minh Nguyễn An, kiến trúc sư người Việt sống vào thế ky 15 tại Trung Quốc. Ông là tổng công trình sư từng phụ trách việc tu bổ, sửa chữa một số cung điện trong Tử Cấm Thành Bắc Kinh, Trung Quốc (công trình này xây dựng thời vua Minh Thành Tổ Chu Đệ (1403 - 1424). Lý Liên Anh, thời Thanh Tham khảo Tạp chí Nghiên cứu và phát triển số 3 (51).2005 do Sở Khoa học và Công nghệ Thừa Thiên-Huế phát hành. Hoạn-Quan-Thị. Tác giả Bình Giang, Nhà nghiên cứu Hán Nôm, Việt Kiều tại Pháp. Xem thêm Phim Mạt đại hoàng tôn của Hồng Kông: phim có một phần đề cập về cuộc đời một Thái giám trước và sau khi vị Hoàng đế cuối cùng của Trung Hoa bị phế bỏ. Tham khảo Tham khảo Hoạn giả
28057
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%C3%AAn%20Ng%E1%BB%8Dc
Nguyên Ngọc
Nguyễn Văn Báu, bút danh Nguyên Ngọc (sinh năm 1932), là một nhà văn, nhà báo, biên tập, dịch giả, nhà nghiên cứu văn hóa, giáo dục nổi tiếng của Việt Nam. Ông còn được xem là một nhà văn quân đội, gắn bó mật thiết với chiến trường Tây Nguyên, từng được phong hàm Đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam. Về sau, ông trở thành một nhà hoạt động xã hội với quan điểm không chính thống (người bất đồng chính kiến) và đã tuyên bố rút khỏi Đảng Cộng sản Việt Nam. Thân thế Nguyễn Văn Báu, sinh ngày 5 tháng 9 năm 1932 quê ở xã Bình Triều, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam trong một gia đình có 5 anh chị em. Ông là con của một viên chức bưu điện. Thuở nhỏ ông sống tại Hội An. Năm 1950, khi đang học trung học chuyên khoa (nay là trung học phổ thông) tại Trường Phổ thông Lê Khiết (Quảng Ngãi), ông gia nhập Quân đội nhân dân Việt Nam, chủ yếu hoạt động ở Tây Nguyên – chiến trường chính của Liên khu V bấy giờ. Sau một thời gian ở đơn vị chiến đấu, ông chuyển sang làm phóng viên báo Quân đội nhân dân Liên khu V và lấy bút danh Nguyên Ngọc. Văn nghiệp Sau Hiệp định Genève, ông tập kết ra Bắc và viết tiểu thuyết Đất nước đứng lên, kể về cuộc kháng chiến chống Pháp của người Ba Na, tiêu biểu là anh hùng Núp và dân làng Kông-Hoa, dựa trên câu chuyện có thật của anh hùng Núp. Tác phẩm khi xuất bản được nhiều người yêu thích và hâm mộ. Sau này cuốn truyện được dựng thành phim. Theo công kích của nhà báo Hoàng Hải Vân (Huỳnh Kim Sánh) đang trên facebook ngày 7 tháng 9 năm 2022, trong thời gian ở miền bắc, ông tham gia tích cực vào việc công kích phản bác nhóm Nhân Văn Giai phẩm. Nhà khoa học Dương Tú và nhà thơ Thái Hạo sau đó cho rằng nhà báo Hoàng Hải Vân sử dụng thủ pháp thao túng tâm lý trong bài viết của mình nhằm bôi nhọ nhà văn Nguyên Ngọc. Năm 1962 ông trở lại miền Nam, lấy bí danh Nguyễn Trung Thành, hoạt động ở khu V, là Chủ tịch chi hội Văn nghệ giải phóng miền Trung Trung Bộ, phụ trách Tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng của quân khu V. Thời gian này ông sáng tác truyện Rừng xà nu. Sau chiến tranh, ông có thời gian làm Phó Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam, Tổng biên tập báo Văn nghệ. Trong thời kỳ Đổi mới và phong trào Cởi Mở, ông đã có những đổi mới quan trọng về nội dung tư tưởng của tờ báo và được coi là người có công phát hiện, nâng đỡ nhiều nhà văn tên tuổi sau này như Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Ngọc Tư, Phạm Thị Hoài... Ông cũng dành nhiều tình cảm trân trọng đối với các nhà văn khác như Nguyễn Thi, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải. Tuy nhiên, khoảng đầu thập niên 1990, báo Văn nghệ và một số lãnh đạo đảng Cộng sản chính thức phê phán ông là "chệch hướng". Sau đó, Nguyên Ngọc đã từ chức Tổng biên tập và nghỉ hưu. Người kế nhiệm ông là nhà báo Hữu Thỉnh. Hoạt động xã hội Sau thời kỳ làm báo, ông tham gia tích cực trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục, gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc và chấn hưng giáo dục Việt Nam. Ông đã dịch một số tác phẩm lý luận văn học như Độ không của lối viết (Rolland Barthes), Nghệ thuật tiểu thuyết (Milan Kundera), tác phẩm của Jean-Paul Sartre, Jacques Dournes... Được xem là một chuyên gia về Tây Nguyên, trong buổi hội thảo vào tháng 4 năm 2009 về vấn đề khai thác bauxite ở Việt Nam, ông cho biết ý kiến chưa đồng tình với chính sách của chính phủ. Ông cũng từng tham gia phong trào quần chúng biểu tình phản đối việc gây hấn, xâm lược của Trung Quốc ở Biển Đông năm 2011 trong bối cảnh có sự ngăn cấm. Ngày 22 tháng 8 năm 2011, Đài Truyền hình Hà Nội có làm một chương trình về sự việc này, trong đó có đoạn phát thanh viên nói "một số phần tử phản động tham gia biểu tình", đồng thời khung hình đang quay cảnh Nguyên Ngọc và hai trí thức khác là giáo sư Nguyễn Huệ Chi, tiến sĩ Nguyễn Văn Khải. Sự việc này làm ông bất bình và đã gửi thư phản đối lên Bí thư Thành ủy Hà Nội. Gần đây, ông đã xin rút tên khỏi danh sách đề cử Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 2011, một giải thưởng cao quý của Việt Nam, một động thái được nhiều người cho rằng nhằm phản đối quy trình bầu chọn bất hợp lý của hội đồng giải thưởng. Bút ký Các bạn tôi ở trên ấy viết về Tây Nguyên của ông được giải thường văn xuôi năm 2013 của Hội Nhà văn Hà Nội. Tuyên bố từ bỏ Hội Nhà văn Việt Nam Ngày 12 tháng 5 năm 2015, trong một tuyên bố được đăng tải trên mạng xã hội, nhà văn Nguyên Ngọc cùng 19 nhà văn, nhà thơ khác tuyên bố từ bỏ Hội Nhà văn Việt Nam kể từ ngày 11 tháng 5 năm 2015. Bị đề nghị rút toàn bộ tác phẩm ra khỏi sách giáo khoa Ngày 13 tháng 3 năm 2018, Ban Tuyên giáo Trung ương ra công văn yêu cầu Ban cán sự Đảng Bộ Giáo dục và Đào tạo rút toàn bộ tác phẩm của các tác giả tham gia Tổ chức ‘Văn Đoàn Độc lập’ ra khỏi Chương trình sách giáo khoa. Tuyên bố ra khỏi Đảng Cộng sản Việt Nam Ngày 26 tháng 10 năm 2018, ông tuyên bố ra khỏi Đảng Cộng sản Việt Nam nhân sự kiện Phó giáo sư, Tiến sĩ Chu Hảo bị Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng đề nghị kỷ luật. Trong tuyên bố, nhà văn Nguyên Ngọc cho biết đã định ra khỏi Đảng từ lâu, nhưng không có ý định gây ồn ào. Nay sau việc Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng kỷ luật Phó giáo sư, Tiến sĩ Chu Hảo, ông muốn tỏ rõ thái độ đối với thông báo của Đảng. Những tác phẩm chính Đất nước đứng lên (tiểu thuyết, 1955) Mạch nước ngầm (truyện vừa, 1959) Rẻo cao (tập truyện ngắn, 1962) Rừng xà nu (truyện ngắn, 1965) Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc (tập truyện và ký, 1969) Đất Quảng (tiểu thuyết 2 tập, 1971 - 1974) Tháng Ninh Nông (tập truyện và ký, 1999) Tản mạn nhớ và quên (tập ký, 2004) Nghĩ dọc đường (2005) Lắng nghe cuộc sống (2006) Bằng đôi chân trần (2008) Các bạn tôi ở trên ấy (tập bút ký, 2013) Đường chúng ta đi Có một đường mòn trên biển Đông Cát cháy Liên kết ngoài Đôi điều về Đất nước đứng lên Nguyên Ngọc Nhà văn Nguyên Ngọc bàn về bản sắc dân tộc Nhà văn Nguyên Ngọc...xin rút tên khỏi danh sách đề cử Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 2011 Nguyên Ngọc – Một nhà văn hóa, một tài năng, một nhân cách lớn Nguyên Ngọc N Nhà văn Việt Nam thời kỳ từ 1976 N N N N Đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam Nhân vật bất đồng chính kiến Việt Nam Người họ Nguyễn tại Việt Nam Cựu đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam
28059
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%99i%20%C4%91%E1%BB%93ng%20B%E1%BA%A3o%20an%20Li%C3%AAn%20H%E1%BB%A3p%20Qu%E1%BB%91c
Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc
Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc (HĐBA) là một trong sáu cơ quan chính của Liên Hợp Quốc, có quyền đề nghị Đại Hội đồng kết nạp nước mới vào Liên Hợp Quốc, phê chuẩn các điều sửa đổi, bổ sung Hiến chương Liên Hợp Quốc và quyết định các biện pháp giữ gìn hòa bình, trừng phạt, quân sự. Các nước thành viên LHQ có nghĩa vụ thi hành các nghị quyết của HĐBA. HĐBA họp lần đầu tiên vào ngày 17 tháng 1 năm 1946. Vào thời kỳ Chiến tranh Lạnh, HĐBA bị tê liệt do tranh chấp giữa Hoa Kỳ và Liên Xô nhưng có nghị quyết về các xung đột ở Triều Tiên, Congo, Síp, Tây New Guinea và Bán đảo Sinai. Sau khi Liên Xô tan rã, HĐBA đẩy mạnh hoạt động giữ gìn hòa bình, có nghị quyết về Kuwait, Namibia, Campuchia, Bosnia và Herzegovina, Rwanda, Somalia, Sudan và Cộng hòa Dân chủ Congo. HĐBA gồm 15 ủy viên, có năm ủy viên thường trực là Anh, Mỹ, Nga, Pháp và Trung Quốc thuộc khối Đồng Minh thời Chiến tranh thế giới thứ hai. Ủy viên thường trực có quyền phủ quyết nghị quyết của HĐBA. Mười ủy viên không thường trực được bầu ra theo khu vực, có nhiệm kỳ là hai năm. Các ủy viên luân phiên giữ chức Chủ tịch HĐBA. Lực lượng giữ gìn hòa bình của LHQ chịu trách nhiệm thi hành các nghị quyết của HĐBA. Tháng 11 năm 2021, trên thế giới có 12 nhiệm vụ giữ gìn hòa bình có 121 nước tham gia, 87.000 binh lính và ngân sách 6,3 tỷ đô la Mỹ. Lịch sử Sáng lập Trước khi LHQ ra đời đã có nhiều tổ chức và hội nghị được thành lập để điều hòa xung đột giữa các nước như Ủy ban Chữ thập đỏ quốc tế và các Công ước Den Haag năm 1899 và năm 1907. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, Hội Quốc Liên được thành lập để giữ gìn an ninh quốc tế. Hội Quốc Liên có một số thành công nhất định trong việc hòa giải các tranh chấp lãnh thổ nhưng không ngăn được Nhật Bản xâm lược Mãn Châu, Ý xâm lược Ethiopia và các hành vi bành trướng của Đức Quốc Xã. Ngoài ra, Hội Quốc Liên không có đại diện của các thuộc địa trên thế giới và sự tham gia tích cực của một số cường quốc như Mỹ, Liên Xô, Đức và Nhật Bản. Tuy nhiên, nhiều tổ chức quốc tế do Hội Quốc Liên thành lập về sau được Liên Hợp Quốc tiếp quản. Ngày 1 tháng 1 năm 1942, Anh, Liên Xô, Mỹ và Trung Hoa Dân quốc ký bản Tuyên ngôn chung Liên Hợp Quốc, lần đầu tiên dùng từ Liên Hợp Quốc để chỉ khối Đồng Minh. Tổng cộng 47 nước ký bản Tuyên ngôn chung LHQ. Bốn nước Anh, Liên Xô, Mỹ và Trung Hoa Dân quốc được gọi là "Bốn cảnh sát". Ngày 21 tháng 8 năm 1944, Anh, Liên Xô, Mỹ và Trung Hoa Dân quốc họp Washington, D.C. để thảo luận về sự tổ chức của Liên Hợp Quốc. Vấn đề thành phần của HĐBA được đưa ra. Bốn nước đồng ý tự chọn mình làm ủy viên thường trực. Mỹ đề nghị thêm Brasil làm ủy viên thường trực nhưng bị Anh và Liên Xô phản đối. Vấn đề nóng hổi nhất là quyền phủ quyết của các ủy viên thường trực. Liên Xô chủ trương rằng mỗi ủy viên thường trực nên có quyền phủ quyết đối với nghị quyết của HĐBA và thậm chí việc thảo luận nghị quyết đó. Anh phản bác rằng ủy viên thường trực được phủ quyết nghị quyết liên quan đến mình là không hợp lý. Ở Hội nghị Yalta, Anh, Mỹ và Liên Xô đồng ý rằng mỗi ủy viên thường trực được phủ quyết nghị quyết của HĐBA nhưng không được ngăn việc thảo luận nghị quyết đó. Ngày 25 tháng 4 năm 1945, Hội nghị San Francisco khai mạc để soạn thảo Hiến chương Liên Hợp Quốc, có 50 nước thuộc khối Đồng Minh tham gia. Úc vận động những nước khác hạn chế quyền phủ quyết của các ủy viên thường trực nhưng không tranh thủ được đủ phiếu bởi vì những nước khác sợ các cường quốc sẽ không chịu tham gia Liên Hợp Quốc nếu không có quyền phủ quyết. Đề nghị của phái đoàn Úc bị bác bỏ với 10 phiếu thuận và 20 phiếu chống. Ngày 24 tháng 10 năm 1945, Hiến chương LHQ được phê chuẩn. Ngày 17 tháng 1 năm 1946, HĐBA họp lần đầu tiên ở Church House, Westminster tại Luân Đôn, Anh. Chiến tranh Lạnh Vào thời kỳ đầu của Chiến tranh Lạnh, HĐBA bị tê liệt do tranh chấp giữa Mỹ và Liên Xô. HĐBA chỉ can thiệp vào những xung đột không có Mỹ và Liên Xô dính líu tới; một ngoại lệ là HĐBA cho phép liên quân Mỹ can thiệp vào Chiến tranh Triều Tiên vào năm 1950 nhưng Liên Xô vắng mặt ở cuộc biểu quyết. Năm 1956, HĐBA lần đầu tiên thành lập lực lượng giữ gìn hòa bình để giải quyết Khủng hoảng Kênh đào Suez. Ủy ban tham mưu quân sự thuộc HĐBA cũng bị tê liệt tuy có nhiệm vụ chỉ huy các lực lượng quân sự của LHQ. Ủy ban tham mưu quân sự ngừng hoạt động từ giữa thập niên 1950. HĐBA tập trung vào các xung đột nhỏ, không ảnh hưởng đến quyền lợi của Mỹ và Liên Xô. Năm 1960, HĐBA điều lực lượng giữ gìn hòa bình đến giải quyết Khủng hoảng Congo, một trong những nhiệm vụ giữ gìn hòa bình lớn nhất trong lịch sử của LHQ. Năm 1962, LHQ tiếp quản Tây New Guinea thay Hà Lan trong thời kỳ chuyển tiếp chủ quyền đến Indonesia. Năm 1964, HĐBA điều lực lượng giữ gìn hòa bình đến Síp để phòng ngừa xung đột giữa bên Hy Lạp và bên Thổ Nhĩ Kỳ, hiện tại là một trong những nhiệm vụ giữ gìn hòa bình lâu nhất của LHQ. Ngày 25 tháng 10 năm 1971, Đại Hội đồng LHQ thông qua nghị quyết công nhận Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là nhà nước đại diện chính đáng của Trung Quốc. Trung Hoa Dân quốc bị khai trừ khỏi LHQ, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tiếp quản quyền đại diện Trung Quốc ở LHQ. Kết quả biểu quyết đánh dấu sự suy yếu của thế lực Mỹ ở LHQ. Từ thập niên 1970, LHQ chuyển hướng sang phát triển kinh tế và trao đổi văn hóa sau khi HĐBA giải hòa xung đột thất bại ở Trung Đông, Việt Nam và Kashmir. Ngân sách phát triển kinh tế, xã hội tăng mạnh hơn ngân sách giữ gìn hòa bình. Sau Chiến tranh Lạnh Sau Chiến tranh Lạnh, LHQ đẩy mạnh hoạt động giữ gìn hòa bình, chỉ trong mười năm có nhiều nhiệm vụ hơn bốn thập kỷ trước. Từ năm 1988 đến năm 2000, HĐBA thông qua gấp đôi số nghị quyết, ngân sách giữ gìn hòa bình tăng gấp mười lần. Năm 1989, HĐBA điều lực lượng giữ gìn hòa bình đến Namibia. Năm 1991, HĐBA thông qua nghị quyết lên án Iraq xâm lược Kuwait và về sau cho phép liên quân Mỹ tham chiến đẩy lùi quân Iraq. Năm 1992, LHQ tổ chức đàm phán chấm dứt Nội chiến El Salvador. Năm 1993, LHQ tổ chức bầu cử tự do và công bằng ở Campuchia. LHQ giám sát cuộc bầu cử ở Nam Phi sau khi chế độ apartheid bị thủ tiêu. Tuy nhiên, Thứ Tổng Thư ký LHQ Brian Urquhart gọi những thành công này là "sự phục hưng giả" do những thất bại về sau của LHQ. Đầu thập niên 90, LHQ đối mặt với một loạt các cuộc khủng hoảng trong nước ở những nước như Haiti, Mozambique và Nam Tư cũ mà Hiến chương LHQ không dự liệu cho HĐBA giải quyết. Lực lượng giữ gìn hòa bình LHQ ở Bosnia bị chỉ trích vì không ngăn chặn nạn thanh lọc sắc tộc ở đó. Năm 1994, lực lượng LHQ không can thiệp vào nạn diệt chủng Rwanda do HĐBA bế tắc. Cuối thập niên 90, HĐBA quyết nghị nhiều hình thức can thiệp vào các xung đột quốc tế. HĐBA điều lực lượng giữ gìn hòa bình đến chấm dứt Nội chiến Sierra Leone, có lính thủy đánh bộ Anh yểm trợ. Năm 2001, HĐBA cho phép liên quân Mỹ dưới quyền NATO đánh Taliban sau vụ khủng bố 9/11. Năm 2003, Mỹ xâm lược Iraq mặc dù không được HĐBA cho phép, dấy lên nghi vấn về quyền lực của HĐBA. Ngoài ra, HĐBA quyết nghị can thiệp vào Chiến tranh Darfur ở Sudan và xung đột Kivu ở Cộng hòa Dân chủ Congo. Năm 2013, Tổng Thư ký LHQ kết luận rằng LHQ đã rút lực lượng quá sớm trong giai đoạn cuối của Nội chiến Sri Lanka, gián tiếp dẫn tới thương vong thường dân. Vai trò HĐBA là cơ quan chính của LHQ để giữ gìn hòa bình và an ninh quốc tế. HĐBA có quyền điều tra các nguy cơ đe dọa nền hòa bình quốc tế, sắp xếp giải hòa các xung đột và yêu cầu các nước thành viên LHQ thi hành lệnh trừng phạt kinh tế, ngoại giao, quân sự. HĐBA tiến cử Tổng Thư ký cho Đại Hội đồng bầu ra và kiến nghị Đại Hội đồng kết nạp nước mới vào LHQ. Chương VI Hiến chương LHQ quy định HĐBA có quyền điều tra các tranh chấp hoặc tình thế có thể gây ra sự bất hòa quốc tế hoặc tranh chấp quốc tế. HĐBA đề nghị các biện pháp cần thiết phòng khi có tranh chấp đe dọa nền hòa bình và an ninh quốc tế nhưng thường không có cơ chế để thi hành các biện pháp này. Chương VII Hiến chương LHQ quy định HĐBA quyết định các biện pháp phòng khi có "sự đe dọa nền hòa bình, phá hoại nền hòa bình hoặc hành vi xâm lược". HĐBA có quyền điều lực lượng quân sự để "duy trì hoặc khôi phục nền hòa bình và an ninh quốc tế". Nghị quyết của HĐBA căn cứ chương VII có hiệu lực ràng buộc các nước thành viên LHQ. Quy chế Roma về Tòa án Hình sự Quốc tế (TAHSQT) quy định HĐBA có quyền giao cho TAHSQT những vụ việc mà thường là ngoài thẩm quyển của TAHSQT. Tháng 3 năm 2005, HĐBA lần đầu tiên giao cho TAHSQT xem xét tình hình ở Darfur. Tháng 2 năm 2011, HĐBA lần thứ hai giao cho TAHSQT xem xét hành vi trấn áp của chính phủ Libya đối với phong trào biểu tình trong nước và gián tiếp gây ra Nội chiến Libya. Ngày 28 tháng 4 năm 2006, HĐBA thông qua nghị quyết khẳng định lại rằng các nước đều có nghĩa vụ phòng chống nạn diệt chủng, nạn thanh lọc sắc tộc, tội chiến tranh và tội chống loài người. Thành viên Ủy viên thường trực HĐBA có năm ủy viên thường trực có quyền phủ quyết các nghị quyết của HĐBA nhưng không được ngăn HĐBA thảo luận về nghị quyết đó. Năm ủy viên thường trực HĐBA ban đầu là Anh, Chính phủ lâm thời Cộng hòa Pháp, Liên Xô, Mỹ và Trung Hoa Dân quốc. Đã có hai lần đổi ghế ủy viên thường trực. Năm 1971, Đại Hội đồng LHQ công nhận Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là nhà nước đại diện chính đáng của Trung Quốc và khai trừ Trung Hoa Dân quốc khỏi LHQ. Năm 1991, Liên Xô tan rã, Liên bang Nga được công nhận là nước thừa kế các quyền lợi và nghĩa vụ của Liên Xô. Ngoài ra, Pháp thành lập nền Đệ ngũ Cộng hòa vào năm 1958 dưới sự lãnh đạo của Charles de Gaulle nhưng được giữ ghế ủy viên thường trực do được quốc tế công nhận. Năm ủy viên thường trực HĐBA là những nước lãnh đạo khối Đồng Minh thời Chiến tranh thế giới thứ hai. Họ có những quân đội mạnh nhất trên thế giới: năm 2013, năm nước này tổng cộng chi hơn một tỷ đô la Mỹ cho quân đội, chiếm hơn 55% tổng chi quân sự trên thế giới (chỉ Mỹ thôi đã chiếm hơn 35%). Họ là những nước xuất khẩu nhiều vũ khí nhất trên thế giới và những nước duy nhất được phép có vũ khí hạt nhân. Quyền phủ quyết Điều 27 Hiến chương LHQ quy định nghị quyết HĐBA được thông qua khi có ít nhất chín ủy viên biểu quyết tán thành, trừ phi một ủy viên thường trực phủ quyết. Biểu quyết trắng không phải là phủ quyết. Tất cả năm ủy viên thường trực đều phải biểu quyết về việc sửa đổi, bổ sung Hiến chương LHQ và đề nghị kết nạp nước mới vào LHQ. Ủy viên thường trực không được phủ quyết việc thảo luận về nghị quyết HĐBA. Ủy viên thường trực phần lớn thực hiện quyền phủ quyết đối với việc tiến cử Tổng Thư ký LHQ và việc kết nạp nước mới vào LHQ. Ở Hội nghị San Francisco, các nước nhỏ phản đối quyền phủ quyết nhưng bị các cường quốc dọa là sẽ không tham gia LHQ nếu không có quyền phủ quyết. Từ năm 1945 đến năm 2013, quyền phủ quyết nghị quyết HĐBA đã được thực hiện 269 lần: Trung Quốc phủ quyết 9 lần, Pháp 18 lần, Liên Xô rồi Nga 128 lần, Anh 32 lần, Mỹ 89 lần. Hai phần ba tổng số lần phủ quyết của Liên Xô và Mỹ được thực hiện trong thập kỷ đầu sau khi LHQ được thành lập. Ủy viên không thường trực HĐBA có các ủy viên không thường trực đại diện cho các khu vực. Ban đầu HĐBA có sáu ủy viên không thường trực; sáu ủy viên không thường trực đầu tiên là Ai Cập, Ba Lan, Brasil, Hà Lan, Mexico và Úc. Năm 1965, số ủy viên không thường trực được tăng lên mười. Ủy viên không thường trực do Đại Hội đồng bầu ra, nhiệm kỳ là hai năm, mỗi năm bầu lại năm ủy viên. Phải có ít nhất hai phần ba biểu quyết tán thành thì nước đó mới được bầu vào HĐBA. Năm 1979, Cuba và Colombia thỏa hiệp nhường ghế ủy viên không thường trực cho Mexico sau khi tranh cử ba tháng, 154 cuộc biểu quyết thất bại. Ủy viên không thường trực không được giữ chức hai nhiệm kỳ liên tiếp. Châu Phi có ba ủy viên không thường trực, Mỹ Latin và Caribe có hai ủy viên, châu Á Thái Bình Dương có hai ủy viên, Tây Âu có hai ủy viên, Đông Âu có một ủy viên. Lệ thường là nhóm khu vực châu Á Thái Bình Dương và châu Phi luân phiên bầu ra một nước Ả Rập. Nhiệm kỳ năm số chẵn gồm hai ủy viên châu Phi, một ủy viên Đông Âu, một ủy viên châu Á Thái Bình Dương, một ủy viên Mỹ Latinh và Caribe. Nhiệm kỳ năm số lẻ gồm hai ủy viên Tây Âu, một ủy viên châu Á Thái Bình Dương, một ủy viên châu Phi, một ủy viên Mỹ Latinh và Caribe. Ủy viên Ả Rập được bầu ra vào nhiệm kỳ năm số chẵn. Bên dưới là các ủy viên không thường trực nhiệm kỳ 2021-2022 và 2022-2023: Chủ tịch Chủ tịch HĐBA chủ tọa phiên họp HĐBA và sắp đặt chương trình nghị sự. Các ủy viên HĐBA luân phiên giữ chức chủ tịch HĐBA mỗi tháng theo thứ tự tên các nước ủy viên trong tiếng Anh. Bên dưới là danh sách các nước giữ chức Chủ tịch HĐBA vào năm 2022: Hội trường Mỗi ủy viên HĐBA phải có một đại diện thường trực ở trụ sở LHQ phòng khi HĐBA phải họp khẩn cấp. Phòng họp chính của HĐBA ở Trụ sở LHQ tại New York, là quà tặng của Na Uy, do kiến trúc sư người Na Uy Arnstein Arneberg thiết kế. Trong phòng họp có bức tranh tường của họa sĩ người Na Uy Per Krohg, vẽ cảnh con phượng hoàng sống lại, tượng trưng cho thế giới sau Chiến tranh thế giới thứ hai. HĐBA đã họp ở những thành phố khác như Nairobi, Addis Ababa, Thành phố Panama và Genève. Từ tháng 3 năm 2010 đến ngày 16 tháng 4 năm 2013, phòng họp của HĐBA được sửa sang lại, do Na Uy tài trợ tổng kinh phí 5 triệu đô la Mỹ. Ở giữa phòng họp là chiếc bàn hình móng ngựa. Chủ tịch HĐBA ngồi ở chính giữa, bên phải là Thư ký, bên trái là Phó Thư ký. Các ủy viên ngồi quanh chủ tịch theo thứ tự tên các nước ủy viên trong tiếng Anh, chừa hai ghế ở cuối bàn cho khách mời. Thứ tự ghế ngồi thay đổi mỗi tháng. "Hiệp thương ngoài lề" HĐBA thường xuyên "hiệp thương ngoài lề" để giải quyết các vấn đề trước khi họp công khai. Năm 1978, một phòng họp phụ được xây bên cạnh phòng họp chính của HĐBA, do Tây Đức tài trợ. Phòng họp đó trở thành địa điểm "hiệp thương ngoài lề" của HĐBA. Năm 1994, đại sứ Pháp ở LHQ phản ánh với Tổng Thư ký rằng "hiệp thương ngoài lề đã trở thành tác phong chính của HĐBA còn họp công khai thì ngày càng hiếm, hóa vô nghĩa bởi mọi việc đã được quyết trước". Năm 2013, đại sứ Nga ở LHQ gọi phòng hiệp thương là "địa điểm thú vị nhất trong toàn thể giới ngoại giao". Chỉ các ủy viên HĐBA được vào phòng hiệp thương, báo chí và các nước thành viên LHQ khác không được tham dự. Không có biên bản về các phiên hiệp thương ngoài lề nên các ủy viên có thể giao tiếp thân mật; trong một phiên hiệp thương ngoài lề, đại diện của một nước cộng sản bắt đầu công kích Mỹ nhưng bị đại diện của Liên Xô trách: "ở đây không được ăn nói như vậy". Trước khi được đưa ra thảo luận công khai thì nghị quyết HĐBA đã được quyết định ở các phiên hiệp thương ngoài lề. Ví dụ: Nghị quyết HĐBA 1373 được thông qua trong năm phút mà không có thảo luận. Thường thì nghị quyết không được đưa ra nếu đã bị ủy viên thường trực HĐBA phản đối ở phiên hiệp thương ngoài lề, trừ phi có ủy viên muốn ép ủy viên thường trực công khai phủ quyết. Năm 2012, HĐBA họp hiệp thương ngoài lề 160 lần, họp kín 16 lần, họp công khai 9 lần. Năm 2016, HĐBA họp hiệp thương ngoài lề 150 lần, họp kín 19 lần, họp công khai 68 lần. Cơ quan giúp việc Điều 29 Hiến chương LHQ quy định HĐBA có quyền thành lập các cơ quan giúp việc như Ủy ban tham mưu kết nạp nước thành viên LHQ, Tòa án Hình sự Quốc tế về Nam Tư cũ, Tòa án Hình sự Quốc tế về Rwanda và các Ủy ban Trừng phạt. Lực lượng giữ gìn hòa bình LHQ HĐBA quyết định điều lực lượng giữ gìn hòa bình đến các vùng mới ngừng chiến để thi hành hiệp định hòa bình và ngăn các bên gây chiến lại. Quân số lực lượng giữ gìn hòa bình do các nước thành viên LHQ cung cấp, được gọi là "lính mũ nồi xanh". Năm 1988, lực lượng giữ gìn hòa bình LHQ được trao Giải Nobel Hòa bình. Tháng 9 năm 2013, LHQ có 116.837 binh lính tham gia giữ gìn hòa bình ở 15 địa điểm. Lực lượng lớn nhất ở Cộng hòa Dân chủ Congo, gồm 20.688 binh lính. Lực lượng nhỏ nhất ở Kashmir, gồm 42 binh lính có nhiệm vụ giám sát ngừng bắn. Nhiệm vụ giữ gìn hòa bình lâu nhất hiện ở Trung Đông, hoạt động từ năm 1948 đến nay. Binh lính lực lượng giữ gìn hòa bình LHQ đã bị cáo buộc hiếp dâm trẻ em, mua dâm và thực hiện các hành vi ngược đãi tình dục khác ở Cộng hòa Dân chủ Congo, Haiti, Liberia, Sudan, Nam Sudan, Burundi, và Bờ Biển Ngà. Sau trận động đất Haiti năm 2010, giới khoa học kết luận binh lính LHQ gây ra dịch tả làm chết hơn 8.000 người Haiti. Ngân sách giữ gìn hòa bình được tính riêng với ngân sách chính của LHQ. Các nước thành viên LHQ nộp tiền vào ngân sách theo khả năng nhưng LHQ phụ thu đối với năm ủy viên thường trực HĐBA để bù khoản thu chiết khấu của các nước kém phát triển. Năm 2020, 10 nước đóng góp nhiều nhất vào ngân sách giữ gìn hòa bình LHQ là Mỹ (27,89%), Trung Quốc (15,21%), Nhật Bản (8,56%), Đức (6,09%), Anh (5,79%), Pháp (5,61%), Ý (3,30%), Nga (3,04%), Canada (2,73%) và Hàn Quốc (2,26%). Xem thêm Hệ thống Liên Hợp Quốc Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc Tòa án Công lý Quốc tế Tham khảo Thư mục tham khảo Đọc thêm Liên kết ngoài UN Security Council Research Guide Global Policy Forum – UN Security Council Security Council Report – information and analysis on the council's activities What's In Blue – a series of insights on evolving Security Council actions Center for UN Reform Education – information on current reform issues at the United Nations UN Democracy: hyperlinked transcripts of the United Nations General Assembly and the Security Council An ninh quốc tế Tổ chức quốc tế
28060
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%B3m%20methyl
Nhóm methyl
Methyl là một nhóm chức hữu cơ, phần còn lại của methan sau khi đã mất đi một nguyên tử hydro, công thức cấu tạo là –CH3, và nhiều khi được viết tắt là –Me. Methyl là một nhóm đẩy electron, có mặt trong rất nhiều hợp chất hữu cơ. Methyl cation, anion, và gốc tự do Methyl cation Các methylium cation (CH3 +) tồn tại trong giai đoạn khí, nhưng nếu không gặp phải. Một số hợp chất được coi là nguồn cation CH3 +, và sự đơn giản hóa này được sử dụng phổ biến trong hóa học hữu cơ. Chẳng hạn, protonation methanol cung cấp cho một electrophilic methylating phản ứng mạnh: CH3OH + H+ → CH3+ + H2O Tương tự, iodomethan và methyl triflate được xem như tương đương với cation methyl vì chúng dễ dàng trải qua phản ứng SN2 bởi các nucleophiles yếu. Anion methyl Anion methanide (CH3−) chỉ tồn tại trong pha khí hiếm hoặc trong điều kiện kỳ ​​lạ. Nó có thể được sản xuất bằng cách xả điện trong ketene ở áp suất thấp (ít hơn một torr) và enthalpy của phản ứng được xác định khoảng 252,2±3.3 kJ/mol. Trong thảo luận các cơ chế của các phản ứng hữu cơ, methyl lithium và các thuốc thử Grignard liên quan thường được coi là muối của "CH3−"; Và mặc dù mô hình có thể hữu ích cho mô tả và phân tích, nó chỉ là một tiểu thuyết hữu ích. Các thuốc thử này thường được điều chế từ các methyl halide: 2 M + CH3X → MCH3 + MXTrong đó M là một kim loại kiềm. Gốc methyl Các gốc methyl có công thức CH3. Nó tồn tại trong các loại khí pha loãng, nhưng ở dạng tập trung hơn nó dễ dàng dimerizes để ethane. Nó có thể được tạo ra bởi sự phân hủy nhiệt của các hợp chất nhất định, đặc biệt là các hợp chất có liên kết-N = N. Phản ứng Phản ứng của một nhóm methyl phụ thuộc vào các nhóm thế kế tiếp. Các nhóm methyl có thể khá không phản ứng. Ví dụ, trong các hợp chất hữu cơ, nhóm methyl chống lại các cuộc tấn công bởi ngay cả các acid mạnh nhất. Oxy hóa Sự oxy hóa của một nhóm methyl xảy ra rộng rãi trong tự nhiên và công nghiệp. Các sản phẩm oxy hóa có nguồn gốc từ methyl là CH 2OH, CHO, và CO2H. Ví dụ, permanganat thường chuyển một nhóm methyl thành nhóm carboxyl (-COOH), ví dụ: Sự chuyển đổi toluene sang acid benzoic. Cuối cùng quá trình oxy hóa các nhóm methyl mang lại proton và carbon dioxide, như đã thấy trong quá trình đốt cháy. Methyl hóa Demethyl hóa (chuyển methyl nhóm sang hợp chất khác) là một quá trình thông thường, và các chất thử trải qua phản ứng này được gọi là chất methyl hóa. Các tác nhân methyl hoá thông thường là dimethyl sulfat, iodide methyl và methyl triflate. Methanogenesis, nguồn khí tự nhiên, phát sinh thông qua một phản ứng demethyl hóa. Deproton hóa Một số nhóm methyl có thể được deproton. Ví dụ, tính acid của các nhóm methyl trong aceton ((CH3)2CO) khoảng khoảng 1020 khí chua hơn methan. Các carbanions kết quả là chìa khóa trung gian trong nhiều phản ứng trong tổng hợp hữu cơ và tổng hợp. Acid béo được tạo ra theo cách này. Phản ứng gốc tự do Khi đặt trong các vị trí benzyl hoặc allylic, sức mạnh của liên kết C-H sẽ giảm, và độ phản ứng của nhóm methyl tăng lên. Một biểu hiện của phản ứng tăng cường này là chlorua quang hóa của nhóm methyl trong toluene để cung cấp cho benzyl chloride. Liên kết ngoài Tham khảo Methyl Nhóm Ankyl
28061
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%A3p%20ch%E1%BA%A5t
Hợp chất
Trong hóa học, hợp chất là 1 chất được cấu tạo bởi từ 2 nguyên tố khác loại trở lên, với tỷ lệ thành phần cố định và trật tự nhất định. Thành phần của hợp chất khác với hỗn hợp, ở chỗ không thể tách các nguyên tố hóa học ra khỏi hợp chất bằng phương pháp vật lý. Ví dụ, nước (H2O) là hợp chất gồm 1 nguyên tử H cho mỗi nguyên tử O. Trái ngược với hợp chất là đơn chất. Nói chung, tỷ lệ cố định này phải tuân theo những định luật vật lý, hơn là theo sự lựa chọn chủ quan của con người. Đó là lý do vì sao những vật liệu như đồng thau, chất siêu dẫn như YBCO, chất bán dẫn như nhôm gali arsen hoặc sô-cô-la được xem là hỗn hợp hoặc hợp kim hơn là hợp chất. Một công thức hóa học xác định số nguyên tử của mỗi nguyên tố trong một phân tử hợp chất, sử dụng chữ viết tắt tiêu chuẩn cho các nguyên tố hóa học và số kí hiệu. Ví dụ, một phân tử nước có công thức H2O chỉ ra hai nguyên tử hydro liên kết với một nguyên tử oxy. Nhiều hợp chất hóa học có số nhận dạng số CAS duy nhất được chỉ định bởi Dịch vụ tóm tắt hóa học. Trên toàn cầu, hơn 350.000 hợp chất hóa học (bao gồm cả hỗn hợp hóa chất) đã được đăng ký để sản xuất và sử dụng. Một hợp chất có thể được chuyển đổi thành một thành phần hóa học khác nhau bằng cách tương tác với một hợp chất hóa học thứ hai thông qua một phản ứng hóa học. Trong quá trình này, liên kết giữa các nguyên tử bị phá vỡ trong cả hai hợp chất tương tác và liên kết mới được hình thành. Đến nay con người đã biết trên 10 triệu hợp chất khác nhau, trong số đó phần rất lớn là những hợp chất hữu cơ. Định nghĩa Bất kỳ chất nào bao gồm hai hoặc nhiều loại nguyên tử (nguyên tố hóa học) khác nhau theo tỷ lệ cân bằng hóa học cố định đều có thể được gọi là hợp chất hóa học; khái niệm này dễ hiểu nhất khi xem xét các chất hóa học tinh khiết. Nó xuất phát từ việc chúng bao gồm các tỷ lệ cố định của hai hoặc nhiều loại nguyên tử mà các hợp chất hóa học có thể được chuyển đổi, thông qua phản ứng hóa học, thành các hợp chất hoặc các chất mà mỗi nguyên tử có ít nguyên tử hơn. Tỷ lệ của mỗi nguyên tố trong hợp chất được thể hiện bằng tỷ lệ trong công thức hóa học của nó. Một công thức hóa học là một cách để thể hiện thông tin về tỷ lệ của các nguyên tử tạo thành một hợp chất hóa học đặc biệt, sử dụng chữ viết tắt tiêu chuẩn cho các nguyên tố hóa học, và kí hiệu để chỉ số nguyên tử có liên quan. Ví dụ, nước bao gồm hai nguyên tử hydro liên kết với một nguyên tử oxy: công thức hóa học là H 2 O. Trong trường hợp của các hợp chất không cân bằng hóa học, tỷ lệ có thể biến thiên liên quan đến việc điều chế của chúng với, và đưa ra tỷ lệ cố định của các yếu tố thành phần của chúng, nhưng tỷ lệ mà có thể nằm trong một phạm vi [ví dụ, đối với palladium hydride, PDH x (0,02 <x <0,58)]. Các hợp chất hóa học có cấu trúc hóa học độc nhất và xác định được tổ chức với nhau theo cách sắp xếp không gian xác định bằng các liên kết hóa học. Các hợp chất hóa học có thể là các hợp chất phân tử được giữ với nhau bằng liên kết cộng hóa trị, muối hay axit được liên kết với nhau bằng liên kết ion, hợp chất intermetallic được giữ với nhau bằng liên kết kim loại hoặc tập hợp các phức hợp hóa học được liên kết với nhau bằng liên kết cộng hóa trị. Các nguyên tố hóa học tinh khiết thường không được coi là hợp chất hóa học, không đáp ứng yêu cầu hai nguyên tử trở lên, mặc dù chúng thường bao gồm các phân tử gồm nhiều nguyên tử (như trong phân tử diatomic H 2, hoặc phân tử polyatomic S 8, v.v.). Nhiều hợp chất hóa học có số nhận dạng số duy nhất được chỉ định bởi Dịch vụ tóm tắt hóa học (CAS): số CAS của nó. Có các chất khác biệt danh pháp khác nhau và đôi khi không nhất quán, bao gồm các ví dụ thực sự không cân bằng hóa học, từ các hợp chất hóa học, đòi hỏi các tỷ lệ cố định. Nhiều chất hóa học rắn, ví dụ như nhiều khoáng vật silicat là các chất hóa học, nhưng không có công thức đơn giản phản ánh liên kết hóa học của các nguyên tố với nhau theo tỷ lệ cố định; mặc dù vậy, các chất kết tinh này thường được gọi là "các hợp chất không cân bằng hóa học". Có thể lập luận rằng chúng có liên quan đến, chứ không phải là các hợp chất hóa học, trong trường hợp sự biến đổi trong thành phần của chúng thường là do sự có mặt của các nguyên tố lạ bị mắc kẹt trong cấu trúc tinh thể của một hợp chất hóa học thực sự khác, hoặc do nhiễu loạn trong cấu trúc liên quan đến hợp chất đã biết phát sinh do sự thiếu hụt của các yếu tố cấu thành tại các vị trí trong cấu trúc của nó; các chất không cân bằng hóa học này (cùng các loại có trong nhiều khoáng vật khác) tạo thành hầu hết lớp vỏ và lớp phủ của Trái Đất. Các hợp chất khác được coi là giống hệt nhau về mặt hóa học có thể có tỉ lệ đồng vị nặng hoặc nhẹ khác nhau của các nguyên tố cấu thành, làm thay đổi tỷ lệ các nguyên tố theo khối lượng một chút. Phân loại Hợp chất trong hóa học được phân làm nhiều loại: Hợp chất vô cơ Hợp chất vô cơ bao gồm khí CO, khí CO2, H2CO3 và các muối cacbonat, hydrocacbonat và những hợp chất không có mặt nguyên tử C. Chúng thường được xem là kết quả của sự tổng hợp từ các quá trình địa chất, trong khi hợp chất hữu cơ thường liên quan đến các quá trình sinh học. Các nhà hóa học hữu cơ truyền thống thường xem bất kỳ phân tử nào có chứa C là hợp chất hữu cơ, và như vậy, hóa học vô cơ được mặc định là nghiên cứu về các phân tử không có C. Phân loại: Hợp chất vô cơ được chia làm bốn loại: oxide, acid, base, muối. Oxide là hợp chất gồm 1 nguyên tố kết hợp với 1 hay nhiều nguyên tử O. Oxide được chia làm bốn loại: - Oxide acid: Là những oxide cấu tạo từ 1 nguyên tố phi kim với O và có 1 acid tương ứng. VD: SO2, CO2,... - Oxide base: Là những oxide cấu tạo từ 1 nguyên tố kim loại với O và có 1 base tương ứng. VD: CaO, Fe3O4,... - Oxide lưỡng tính: Là những oxide vừa có 1 acid tương ứng vừa có 1 base tương ứng. VD: Al2O3, ZnO,... - Oxide trung tính: Là những oxide không có acid hay base nào tương ứng (còn gọi là oxide không tạo muối). VD: CO, NO,... Acid là các hợp chất hóa học cấu tạo từ các phi kim hoặc oxide acid và có thể hòa tan trong nước (trừ H2SiO3), phân ra: - Acid dựa theo độ mạnh, yếu: + Acid mạnh: HCl, H2SO4, HNO3, HClO4, H2SbF7, ... + Acid yếu: HClO, H2SO3, H2CO3, ... Base là các hợp chất hóa học được cấu tạo từ các kim loại (đôi khi nó được tạo thành từ các oxide base), phân ra: - Base tan trong nước: LiOH, NaOH, KOH, RbOH, CsOH, Ca(OH)2, Sr(OH)2, Ba(OH)2, N(CH3)4OH, NH3(aq) (NH4OH), ... - Base không tan trong nước: Fe(OH)2, Fe(OH)3, Cu(OH)2, Zn(OH)2, Al(OH)3, Mg(OH)2, Be(OH)2, C6H5NH2, ... Hợp chất hữu cơ Hợp chất hữu cơ là 1 lớp lớn của các hợp chất hóa học mà các phân tử của chúng có chứa C, ngoại trừ các carbide, cacbonat, cacbon oxide (mônoxide và dioxide), xyanua. Sự nghiên cứu về các hợp chất hữu cơ gọi là hóa hữu cơ. Rất nhiều hợp chất trong số các hợp chất hữu cơ, chẳng hạn như prôtêin, chất béo, và cacbohydrat (đường), là những chất có tầm quan trọng trong hóa sinh học. VD: rượu, acid axetic,... Liên kết và các lực Các hợp chất được tổ chức với nhau thông qua nhiều loại liên kết và lực khác nhau. Sự khác biệt về các loại liên kết trong các hợp chất khác nhau dựa trên các loại nguyên tố có trong hợp chất. Lực phân tán London là lực yếu nhất trong tất cả các lực liên phân tử. Chúng là các lực hấp dẫn tạm thời hình thành khi các electron trong hai nguyên tử liền kề được định vị sao cho chúng tạo ra một lưỡng cực tạm thời. Ngoài ra, các lực phân tán London chịu trách nhiệm ngưng tụ các chất không phân cực thành chất lỏng và tiếp tục đóng băng đến trạng thái rắn phụ thuộc vào nhiệt độ của môi trường thấp như thế nào. Một liên kết cộng hóa trị, còn được gọi là liên kết phân tử, liên quan đến việc chia sẻ các electron giữa hai nguyên tử. Về cơ bản, loại liên kết này xảy ra giữa các nguyên tố gần nhau trên bảng tuần hoàn các nguyên tố, tuy nhiên nó được quan sát giữa một số kim loại và phi kim. Điều này là do cơ chế của loại trái phiếu này. Các nguyên tố nằm gần nhau trên bảng tuần hoàn có xu hướng có độ âm điện tương tự nhau, có nghĩa là chúng có ái lực tương tự với các điện tử. Do cả hai phần tử đều không có ái lực mạnh hơn để tặng hoặc thu được electron, nó khiến các phần tử chia sẻ electron để cả hai phần tử có octet ổn định hơn. Liên kết ion xảy ra khi các electron hóa trị được chuyển hoàn toàn giữa các nguyên tố. Đối lập với liên kết cộng hóa trị, liên kết hóa học này tạo ra hai ion tích điện trái dấu. Các kim loại trong liên kết ion thường mất các electron hóa trị của chúng, trở thành một cation tích điện dương. Phi kim sẽ thu được các electron từ kim loại, làm cho phi kim trở thành một anion tích điện âm. Như đã phác thảo, liên kết ion xảy ra giữa một người cho điện tử, thường là kim loại và chất nhận điện tử, có xu hướng là một phi kim. Liên kết hydro xảy ra khi một nguyên tử hydro liên kết với một nguyên tử có độ âm điện tạo thành một kết nối tĩnh điện với một nguyên tử có độ âm điện khác thông qua các lưỡng cực hoặc điện tích tương tác. Phản ứng Một hợp chất có thể được chuyển đổi thành một thành phần hóa học khác nhau bằng cách tương tác với một hợp chất hóa học thứ hai thông qua một phản ứng hóa học. Trong quá trình này, liên kết giữa các nguyên tử bị phá vỡ trong cả hai hợp chất tương tác, và sau đó liên kết được cải tổ để các liên kết mới được tạo ra giữa các nguyên tử. Theo sơ đồ, phản ứng này có thể được mô tả là , trong đó A, B, C và D là mỗi nguyên tử duy nhất; và AB, AD, CD và CB là mỗi hợp chất duy nhất. Xem thêm Đơn chất Hợp chất vô cơ Hợp chất hữu cơ Nguyên tử Phân tử Hóa học Hóa sinh học Tính chất hóa học Công thức hóa học Bảng tuần hoàn Cacbon Oxi Hydro Acid base Muối Hỗn hợp Tham khảo Liên kết ngoài Hóa học
28062
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C6%A1n%20ch%E1%BA%A5t
Đơn chất
Trong hóa học, đơn chất là chất được tạo từ 1 hay nhiều nguyên tử của cùng 1 nguyên tố hóa học. Một số loại đơn chất Đơn chất kim loại Cấu tạo từ nguyên tử, dẫn điện, dẫn nhiệt tốt, có ánh kim, dễ uốn nắn... - Lithi (Li), Natri (Na), Kali (K)... - Beryli (Be), Magnesi (Mg) Calci (Ca), Bari (Ba)... - Nhôm (Al), Mangan (Mn), Kẽm (Zn), Chromi (Cr), Sắt (Fe), Cobalt (Co), Nickel (Ni), Thiếc (Sn), Chì (Pb)... - Đồng (Cu), Thủy ngân (Hg), Bạc (Ag), Platin (Pt), Vàng (Au)... Tính chất hóa học: - (trừ Au, Pt) Tác dụng với oxy ở nhiệt độ thường hoặc nhiệt độ cao tạo thành oxide (thường là oxide base). - (trừ Au, Pt) Tác dụng với phi kim khác ở nhiệt độ cao tạo thành muối. - (Mg, Al, Mn, Zn, Cr, Fe, Co, Ni, Sn, Pb) tác dụng với dung dịch acid (HCl, H2SO4 loãng) tạo thành muối và H2. - Kim loại hoạt động mạnh (trừ nhóm I và Ca, Ba...) đẩy kim loại yếu ra khỏi dung dịch muối. Đơn chất phi kim Cấu tạo từ nguyên tử hoặc phân tử, dẫn nhiệt, dẫn điện kém (trừ than chì)... Tồn tại ở cả ba trạng thái: - Trạng thái rắn: than chì và kim cương (C), Bo (B), Silic (Si), Phosphor (P), Lưu huỳnh (S)... - Trạng thái lỏng: Brom (Br2)... - Trạng thái khí: Hydro (H2), Heli (He), Nitơ (N2), Oxy (O2), Ozon (O3), Fluor (F2), Neon (Ne), Chlor (Cl2), Argon (Ar)... Tính chất hóa học: - Tác dụng với oxy tạo thành oxide (thường là oxide acid). - Tác dụng với kim loại ở nhiệt độ cao tạo thành muối hoặc oxide. - Tác dụng với hydro tạo thành hợp chất khí. Đặc điểm cấu tạo - Trong đơn chất kim loại, các nguyên tử sắp xếp khít nhau và theo 1 trật tự nhất định. - Trong đơn chất phi kim, các nguyên tử thường liên kết với nhau theo một số nhất định và thường là 2. Liên kết hóa học của đơn chất Trong những đơn chất gồm nhiều nguyên tử, liên kết hóa học giữa các nguyên tử là liên kết cộng hóa trị không phân cực. Xem thêm Hợp chất Nguyên tử Phân tử Bảng tuần hoàn Nhóm tuần hoàn Chu kỳ tuần hoàn Liên kết hóa học Nguyên tố hóa học Kim loại Phi kim Tham khảo Hóa học
28066
https://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%E1%BB%91c%20ca%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20Belarus
Quốc ca Cộng hòa Belarus
Quốc ca Cộng hòa Belarus (tiếng Belarus: Дзяржаўны гімн Рэспублікі Беларусь), thường được gọi My Biełarusy (Мы, беларусы – nghĩa là Chúng ta, người Belarus) là quốc ca của Cộng hòa Belarus. Bài Quốc ca này được Tổng thống Aliaksandr Ryhoravich Lukashenka chính thức phê chuẩn Quốc ca vào ngày 2 tháng 7 năm 2002. Nhạc của bài quốc ca này cũng chính là nhạc của Quốc ca Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô Viết Byelorussia, nhưng lời bài hát đã được thay thế bằng lời do Klimkovich và Uładzimir Karyzny sáng tác. Lời bài hát Lời: Michaś Klimkovič và Uładzimir Karyzna Nhạc: Nieścier Sakałowski Lời tiếng Belarus Lời tiếng Nga Tạm dịch Chúng ta, những người dân Belarus, những con người yêu hòa bình, Với trái tim luôn được hiến dâng cho Tổ quốc. Chúng ta là những người bạn thủy chung, Cùng sống và lớn lên trong một gia đình cần lao và tự chủ. Điệp khúc Vinh quang thay, tên gọi thiêng liêng của Tổ quốc ta Vinh quang thay, tình đoàn kết và tình anh em bền chặt của nhân dân ta ! Trường tồn và phồn vinh, Mẹ Tổ quốc thân yêu của chúng ta, Belarus! Hàng thế kỷ nay, cùng với những người anh em Chúng ta đã anh dũng bảo vệ biên giới của Tổ quốc. Trong cuộc chiến vì tự do và vận mệnh của chúng ta, Chúng ta đã giành được ngọn cờ chiến thắng! Điệp khúc Vinh quang thay, tên gọi thiêng liêng của Tổ quốc ta Vinh quang thay, tình đoàn kết và tình anh em bền chặt của nhân dân ta ! Trường tồn và phồn vinh, Mẹ Tổ quốc thân yêu của chúng ta, Belarus! Tình hữu nghị giữa các dân tộc là sức mạnh của nhân dân, Tỏa ánh nắng trên con đường thiêng liêng của chúng ta. Huy hoàng, rực rỡ trên bầu trời trong sáng, Là ngọn cờ chiến thắng, ngọn quốc kỳ niềm tin! Điệp khúc Vinh quang thay, tên gọi thiêng liêng của Tổ quốc ta Vinh quang thay, tình đoàn kết và tình anh em bền chặt của nhân dân ta ! Trường tồn và phồn vinh, Mẹ Tổ quốc thân yêu của chúng ta, Belarus! Âm thanh Bản nhạc Chú thích Liên kết ngoài Quốc ca Cộng hòa Belarus Belarus Quốc ca Quốc ca châu Âu Biểu tượng quốc gia Belarus
28067
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n%20M%E1%BA%A1nh%20C%E1%BA%A7m
Nguyễn Mạnh Cầm
Nguyễn Mạnh Cầm (sinh ngày 15 tháng 9 năm 1929) là một nhà ngoại giao Việt Nam, nguyên là Ủy viên Bộ Chính trị, Đại biểu Quốc hội, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Tiểu sử Nguyễn Mạnh Cầm thuộc dòng họ Nguyễn Khắc, sinh ngày 15 tháng 9 năm 1929 trong một gia đình công nhân ở làng Yên Dũng Thượng nay thuộc phường Hưng Dũng, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Năm 1945, ông tham gia công tác cách mạng tại quê nhà và năm sau gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Ông được cử sang Bắc Kinh, Trung Quốc học tiếng Nga rồi bước vào ngành ngoại giao năm 1952, làm phiên dịch viên tiếng Nga cùng ông Tạ Hữu Canh tại Đại sứ quán Việt Nam dưới thời Đại sứ Việt Nam đầu tiên tại Liên Xô Nguyễn Lương Bằng. Sau này ông tiếp tục làm việc ở Vụ Liên Xô và Đông Âu thuộc Văn phòng Bộ Ngoại giao, Vụ theo dõi hội đàm Paris và thực hiện Hiệp định Paris về Việt Nam. Ông đã làm Đại sứ tại Hungary (1973-1976), kiêm nhiệm Đại sứ tại Áo và Iran, sau đó là Đại sứ tại Cộng hòa Liên bang Đức kiêm nhiệm tại Áo, Iran và Thụy Sĩ. Năm 1981, ông được cử làm Thứ trưởng Bộ Ngoại thương, rồi đến năm 1987 quay lại Bộ Ngoại giao trên cương vị Đại sứ tại Liên Xô. Tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa VIII (tháng 8 năm 1991), ông được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Sau đó là Phó Thủ tướng (cho đến năm 2002) kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao (cho đến đầu năm 2000). Đây là thời kỳ Việt Nam chính thức bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ, ký Hiệp định khung về quan hệ với EU và gia nhập khối ASEAN (cả ba sự kiện đều diễn ra vào năm 1995). Ông là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam các khóa VI, VII, VIII (1986-2001), Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng (từ tháng 1 năm 1994 đến năm 2001). Tháng 12 năm 2005, ông được bầu làm Chủ tịch Hội khuyến học Việt Nam thay ông Vũ Oanh. Ngoài ra, từ sau Hội nghị cấp cao ASEAN năm 2005, ông là thành viên nhóm những nhân vật có uy tín của ASEAN (gồm 10 người, là các cựu nguyên thủ hoặc cựu Bộ trưởng Ngoại giao) có nhiệm vụ phác thảo xây dựng Hiến chương ASEAN. Tặng thưởng Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng Ba Huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhất Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng Danh hiệu Tôn vinh Ông được Nhà nước Việt Nam trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh vào ngày 22 tháng 11 năm 2005, Giải thưởng Nhân dân ASEAN 2015 Gia đình Con trai ông là Nguyễn Cẩm Tú - từng là Thứ trưởng Bộ Công Thương và về hưu năm 2016. Tham khảo Liên kết ngoài Phó Thủ tướng, bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm Sinh năm 1929 Nhân vật còn sống Người Vinh Nhà ngoại giao Việt Nam Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa VIII Phó Thủ tướng Việt Nam Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VI Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VII Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VIII Huân chương Kháng chiến Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa IX Đại sứ Việt Nam tại Đức Đại sứ Việt Nam tại Hungary Đại sứ Việt Nam tại Áo Đại sứ Việt Nam tại Iran Đại sứ Việt Nam tại Thụy Sĩ Đại sứ Việt Nam tại Liên Xô
28085
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20v%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20ch%C3%A2u%20%C3%82u%202008
Giải vô địch bóng đá châu Âu 2008
Giải vô địch bóng đá châu Âu 2008 (hay còn gọi là EURO 2008) là giải vô địch bóng đá châu Âu lần thứ 13 do Liên đoàn bóng đá châu Âu (UEFA) tổ chức. Giải đấu này được diễn ra trên các sân vận động của Áo và Thụy Sĩ từ ngày 7 và kết thúc với trận chung kết trên Sân vận động Ernst Happel tại Viên vào ngày 29 tháng 6 năm 2008. Đây là kỳ Euro lần thứ 2 có hai quốc gia đồng tổ chức giải vô địch bóng đá châu Âu. Lần trước vào kỳ Euro 2000 do Bỉ và Hà Lan cùng đăng cai. Giải có 50 đội tham gia vòng loại, trong đó 16 đội giành quyền tham dự vòng chung kết. Đội tuyển Tây Ban Nha đã giành chức vô địch Euro lần thứ hai trong lịch sử sau khi đánh bại đội tuyển Đức với tỉ số 1–0 bằng bàn thắng duy nhất của Fernando Torres ở phút thứ 33 của hiệp 1 và trở thành đội thứ ba có hai lần đăng quang, còn Hy Lạp trở thành đội đương kim vô địch thứ 4 bị loại ngay từ vòng bảng (sau Đức 1984, 2000 và Đan Mạch 1996). Cuộc đua giành quyền đăng cai UEFA nhận được tổng cộng 7 hồ sơ xin đăng cai Euro 2008: Áo/Thụy Sĩ, Hy Lạp/Thổ Nhĩ Kỳ, Scotland/Ireland, Nga, Hungary, Croatia/Bosna và Hercegovina và đơn xin đăng cai chung của 4 nước Bắc Âu: Na Uy/Thụy Điển/Đan Mạch/Phần Lan. Đây là lần thứ hai liên tiếp Áo xin đăng cai chung một kỳ Euro. Năm 2004, họ cùng Hungary đã bị Bồ Đào Nha đánh bại. Ở vòng bỏ phiếu cuối cùng, chỉ còn hồ sơ của Áo/Thụy Sĩ cùng với hồ sơ Hy Lạp/Thổ Nhĩ Kỳ và Hungary được giữ lại. Sau hai vòng bỏ phiếu, lần lượt Hy Lạp/Thổ Nhĩ Kỳ và Hungary bị loại, nhường quyền đăng cai Euro 2008 cho hai quốc gia nhỏ vùng Tây-Trung Âu. Các sân vận động Linh vật giải đấu Hai linh vật chính thức của Euro 2008, có tên sau cuộc bầu chọn của công chúng hai nước chủ nhà. Tên đưa ra lựa chọn gồm: Zagi và Zigi Flitz và Bitz Trix và Flix Với 36,3% số phiếu, Trix và Flix được chọn. Vòng loại 50 đội tuyển bóng đá quốc gia châu Âu được xếp vào 7 bảng để chọn ra hai đội đứng đầu mỗi bảng cùng với hai đội bóng của hai nước chủ nhà Áo và Thụy Sĩ. Dưới đây là danh sách 16 đội bóng tham dự vòng chung kết tại giải lần này: 1 Với tư cách là đội 2 Với tư cách là đội 3 Với tư cách là đội 4 Với tư cách là đội Năm in đậm là năm mà đội giành chức vô địch. Có hai đội lần đầu tham dự vòng chung kết một kỳ Euro là Áo và Ba Lan. Đây cũng là lần đầu tiên kể từ năm 1984, bốn đội bóng thuộc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland đều không vượt qua vòng loại. Các đội bóng đáng chú ý vắng mặt tại vòng chung kết lần này gồm: Anh, Scotland, Đan Mạch, Bulgaria, Serbia, Ukraina và Cộng hòa Ireland. Danh sách cầu thủ Trọng tài Dưới đây là danh sách 12 trọng tài cùng 24 trợ lý được lựa chọn cho giải đấu: Ngoài ra, còn có 8 trọng tài khác được lựa chọn vào vị trí trọng tài bàn ở giải Phân nhóm và bốc thăm chia bảng Phân nhóm Lễ bốc thăm được tiến hành vào ngày 2 tháng 12 năm 2007. Theo thể thức từ các giải Euro 1992 và Euro 1996, các trận đấu của mỗi bảng được tổ chức trên hai sân vận động, với đội hạt giống được đá trên một sân trong cả ba trận. Cũng như vòng chung kết năm 2000 và 2004, các đội tham dự được chia vào 4 nhóm bốc thăm, dựa trên điểm trung bình trên mỗi trận đấu ở vòng loại World Cup 2006 và Euro 2008, 4 đội trong mỗi bảng từ 4 nhóm khác nhau. Thụy Sĩ và Áo, hai nước đồng chủ nhà, cùng Hy Lạp - đương kim vô địch, mặc nhiên được xếp vào nhóm 1 (nhóm hạt giống). Hà Lan là hạt giống thứ tư dựa trên điểm hệ số UEFA. Pháp với nhiều trận hòa tại vòng loại World Cup 2006, cùng với hai trận thua Scotland tại vòng loại Euro 2008 nên bị xếp vào nhóm 4 (chú ý rằng không tính thành tích tại vòng chung kết World Cup). Điều đó có thể tạo ra bảng tử thần gồm Hà Lan, Ý, Pháp và một trong 3 đội Đức, Tây Ban Nha hoặc Bồ Đào Nha. Bốc thăm chia bảng Lễ bốc thăm diễn ra tại Trung tâm Văn hoá và Hội nghị ở Lucerne, với sự điều khiển chính của Gianni Infantino, giám đốc điều hành UEFA và 8 đội trưởng vô địch các kỳ Euro từ năm 1968 cho đến năm 2004 (Riêng Michel Platini, đội trưởng đội tuyển Pháp vô địch Euro 1984 không điều hành lễ bốc thăm do đang nắm giữ chức chủ tịch UEFA). Gianni Infantino, điều khiển chính Vô địch Euro 1992, Peter Schmeichel, phụ trách bốc thăm Nhóm 1. Vô địch Euro 1996, Jürgen Klinsmann, phụ trách bốc thăm Nhóm 2. Vô địch Euro 2000, Didier Deschamps, phụ trách bốc thăm Nhóm 3. Vô địch Euro 2004, Theodoros Zagorakis, phụ trách bốc thăm Nhóm 4. Vô địch Euro 1980, Bernard Dietz, phụ trách bốc thăm Bảng A. Vô địch Euro 1976, Anton Ondrus, phụ trách bốc thăm Bảng B. Vô địch Euro 1972, Franz Beckenbauer, phụ trách bốc thăm Bảng C. Vô địch Euro 1968, Dino Zoff, phụ trách bốc thăm Bảng D. Kết quả bốc thăm như sau Vòng chung kết Vòng bảng Giờ thi đấu tính theo giờ địa phương (GMT +2) Bảng A Bảng B Bảng C Bảng D Vòng đấu loại trực tiếp Vòng đấu loại trực tiếp Euro 2008 có thể thức hơi khác so với các vòng chung kết trước đó. Các đội của bảng A và B sẽ không gặp các đội của bảng C và D cho đến tận trận chung kết. Sơ đồ tóm tắt Tứ kết Bán kết Chung kết Vô địch Thống kê Cầu thủ ghi bàn 4 bàn David Villa 3 bàn Lukas Podolski Roman Pavlyuchenko Hakan Yakin Semih Şentürk 2 bàn Ivan Klasnić Michael Ballack Bastian Schweinsteiger Miroslav Klose Ruud van Nistelrooy Robin van Persie Wesley Sneijder Andrei Arshavin Dani Güiza Fernando Torres Zlatan Ibrahimović Arda Turan Nihat Kahveci 1 bàn Ivica Vastić Luka Modrić Ivica Olić Darijo Srna Jan Koller Jaroslav Plašil Libor Sionko Václav Svěrkoš Thierry Henry Philipp Lahm Angelos Charisteas Daniele De Rossi Christian Panucci Andrea Pirlo Giovanni van Bronckhorst Klaas-Jan Huntelaar Dirk Kuyt Arjen Robben 1 bàn (tiếp) Roger Guerreiro Deco Raul Meireles Nuno Gomes Pepe Hélder Postiga Ricardo Quaresma Cristiano Ronaldo Adrian Mutu Dmitri Torbinski Konstantin Zyrianov Rubén de la Red Cesc Fàbregas Xavi David Silva Petter Hansson Uğur Boral Giải thưởng Đội hình tiêu biểu của UEFA Nhóm kỹ thuật của UEFA được giao nhiệm vụ đặt tên cho một đội bao gồm 23 cầu thủ xuất sắc nhất trong suốt giải đấu. Nhóm chín nhà phân tích đã theo dõi mọi trận đấu tại giải đấu trước khi đưa ra quyết định sau trận chung kết. Chín cầu thủ của đội Tây Ban Nha chiến thắng được điền tên vào đội của giải đấu, trong khi không có cầu thủ nào bị loại ở vòng bảng. Bốn cầu thủ từ Nga lọt vào bán kết cũng được đưa vào, lần đầu tiên có cầu thủ Nga trong Đội hình tiêu biểu của giải đấu sau sự sụp đổ của Liên Xô. Cầu thủ xuất sắc nhất giải Nhóm kỹ thuật của UEFA cũng phải chọn Cầu thủ xuất sắc nhất giải đấu, có tính đến phiếu bầu của người hâm mộ. Cầu thủ được chọn là tiền vệ người Tây Ban Nha Xavi. Xavi Chiếc giày vàng Chiếc giày vàng đã được trao cho một cầu thủ người Tây Ban Nha khác, David Villa, người đã ghi bốn bàn, ba trong số đó đến trong chiến thắng 4–1 của đội anh trước Nga (cú hat-trick duy nhất của giải đấu). David Villa (4 bàn) Tiền thưởng Bảng xếp hạng giải đấu Chú thích Liên kết ngoài Trang web của UEFA 2008 Quan hệ Áo-Thụy Sĩ
28094
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hellmuth%2C%20Obata%20%26%20Kassabaum
Hellmuth, Obata & Kassabaum
Hellmuth, Obata & Kassabaum (viết tắt là HOK) là một hãng kiến trúc lớn trên thế giới. Được George Hellmuth, Gyo Obata và George Kassabaum thành lập năm 1955 tại Saint Louis, Missouri, Hoa Kỳ. Công trình đầu tiên của hãng là một trường học ở Saint Louis, Missouri. Vào thập niên 1960 HOK bắt đầu mở rộng sau khi trúng thầu một loại các công trình trên toàn nước Mỹ. Văn phòng thiết kế thứ hai được khai trương tại San Francisco vào năm 1966. Vào thập niên 1970, hãng đã tạo dựng được danh tiếng trên toàn thế giới. Vào năm 1975, HOK được chỉ định thiết kế trường Đại học Vua Saud ở Ả Rập Xê Út với tổng trị giá 3.5 tỉ đô la Mỹ, công trình đắt giá nhất thế giới vào thời điểm đó. Vào năm 1983, HOK thành lập chi nhánh chuyên thiết kế các công trình thể thao (HOK sport). Chi nhánh HOK sport nhanh chóng trở nên dẫn đầu trong thể loại công trình thể thao. Năm 2000, theo xếp hạng của Tạp chí Kiến trúc thế giới (World architecture), HOK là hãng thiết kế lớn nhất thế giới với trên 1600 kiến trúc sư hoạt động trên toàn thế giới trong hầu hết mọi thể loại công trình kiến trúc. Đặc biệt hãng rất quan tâm đến kiến trúc bền vững. Các công trình kiến trúc Tham khảo Liên kết ngoài Trang chính của HOK Hãng kiến trúc Kiến trúc Hiện đại Kiến trúc Hậu Hiện đại
28098
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ethan
Ethan
Ethan là một hợp chất hóa học có công thức hóa học C2H6. Nó là một alkan, nghĩa là một hydrocarbon no không tạo vòng. Ở áp suất và nhiệt độ bình thường thì ethan là một khí không màu, không mùi. Nó là hydrocarbon bão hòa đơn giản nhất có chứa nhiều hơn 1 nguyên tử carbon. Ethan là một hợp chất có tầm quan trọng công nghiệp do có thể chuyển hóa thành etylen nhờ cracking. Ở mức độ công nghiệp thì ethan được sản xuất từ khí thiên nhiên và từ chưng cất dầu mỏ. Trong phòng thí nghiệm nó có thể được tổng hợp hóa học bằng điện phân Kolbe. Tính chất hóa học Với nhiệt độ 500 °C dưới tác dụng xúc tác ethan ra ethylen: C2H6 -> C2H4 +H2 Tác dụng với halogen: VD: C2H6+Br2->C2H5Br+HBr Tác dụng với HNO3: C2H6 + HNO3 (40-60 °C)-> C2H5O2N+H2O Điều chế 2CH3Cl + 2Na → C2H6 + 2NaCl Phương trình tổng quát: 2RCl + 2Na → R + 2NaCl 3CH3Cl + 3 C2H5Cl + 6Na → C2H6 + C4H10 + C3H8 + 6NaCl C2H4 + H2 → C2H6 Phương trình tổng quát: CnH2n + H2 → CnH2n+2 C4H10 → C2H6 + C2H4 C2H5COONa + NaOH → C2H6 + Na2CO3 Phương trình tổng quát: RCOONa + NaOH → RH + Na2CO3 C2H2 + 2H2 → C2H6 Phương trình tổng quát: CnH2n-2 + 2H2 → CnH2n+2 Ứng dụng Ethan là nguyên liệu thô quan trọng cho công nghiệp hóa dầu và là nguồn nhiên liệu quan trọng nhất của kinh tế thế giới. Các nguyên liệu ban đầu cho gia công chế biến là khí thiên nhiên và dầu thô. Dầu thô được tách ra tại các nhà máy lọc dầu bằng cách chưng cất phân đoạn và sau đó được chế biến thành các sản phẩm khác nhau, ví dụ xăng. Sự "phân đoạn" khác nhau của dầu thô có các điểm sôi khác nhau và có thể cô lập và tách bóc rất dễ dàng: với các phân đoạn khác nhau thì các chất có điểm sôi gần nhau sẽ bay hơi cùng với nhau. Sử dụng chủ yếu của một alkan nào đó có thể xác định hoàn toàn phù hợp với số nguyên tử carbon trong nó, mặc dù sự phân chia ranh giới dưới đây là đã lý tưởng hóa và chưa thực sự hoàn hảo. Bốn alkan đầu tiên được sử dụng chủ yếu để cung cấp nhiệt cho các mục đích sưởi ấm và nấu ăn, và trong một số quốc gia còn để chạy máy phát điện. Methan và ethan là các thành phần chủ yếu của khí thiên nhiên; chúng thông thường được lưu trữ như là khí nén. Tuy nhiên, rất dễ dàng chuyển chúng sang dạng lỏng: điều này đòi hỏi đồng thời việc nén và làm lạnh khí. Propan và butan có thể hóa lỏng ở áp suất tương đối thấp, và chúng được biết dưới tên gọi khí hóa lỏng (viết tắt trong tiếng Anh là LPG). Ví dụ, prôpan được sử dụng trong các lò nung khí propan còn butan thì trong các bật lửa sử dụng một lần (ở đây áp suất chỉ khoảng 2 barơ). Cả hai alkan này được sử dụng làm tác nhân đẩy trong các bình xịt. Từ pentan tới octan thì alkan là các chất lỏng dễ bay hơi. Chúng được sử dụng làm nhiên liệu trong các động cơ đốt trong, do chúng dễ hóa hơi khi đi vào trong khoang đốt mà không tạo ra các giọt nhỏ có thể làm hư hại tính đồng nhất của sự cháy. Các alkan mạch nhánh được ưa chuộng hơn, do chúng có sự bắt cháy muộn hơn so với các alkan mạch thẳng tương ứng (sự bắt cháy sớm là nguyên nhân sinh ra các tiếng nổ lọc xọc trong động cơ và dễ làm hư hại động cơ). Xu hướng bắt cháy sớm được đo bằng chỉ số octan của nhiên liệu, trong đó 2,2,4-trimethylpentan (isooctan) có giá trị quy định ngẫu hứng là 100 còn heptan có giá trị bằng 0. Bên cạnh việc sử dụng như là nguồn nhiên liệu thì các alkan này còn là dung môi tốt cho các chất không phân cực. Các alkan từ nonan tới ví dụ là hexadecan (alkan với mạch chứa 16 nguyên tử carbon) là các chất lỏng có độ nhớt cao, ít phù hợp cho mục đích sử dụng như là xăng. Ngược lại, chúng tạo ra thành phần chủ yếu của dầu diesel (điêzen) và nhiên liệu hàng không. Các nhiên liệu điêzen được đánh giá theo chỉ số cethan (cethan là tên gọi cũ của hexadecan). Tuy nhiên, điểm nóng chảy cao của các alkan này có thể sinh ra các vấn đề ở nhiệt độ thấp và tại các vùng gần cực Trái Đất, khi đó nhiên liệu trở nên đặc quánh hơn và sự truyền dẫn của chúng không được đảm bảo chuẩn xác. Các alkan từ hexadecan trở lên tạo ra thành phần quan trọng nhất của các loại chất đốt trong các lò đốt và dầu bôi trơn. Ở chức năng sau thì chúng làm việc như là các chất chống gỉ do bản chất không ưa nước của chúng làm cho nước không thể tiếp xúc với bề mặt kim loại. Nhiều alkan rắn được sử dụng như là parafin, ví dụ trong các loại nến. Không nên nhầm lẫn parafin với sáp thực sự (ví dụ sáp ong) chủ yếu là hỗn hợp của các ester. Các alkan với độ dài mạch carbon khoảng từ 35 trở lên được tìm thấy trong bitum, được sử dụng chủ yếu trong nhựa đường để rải đường. Tuy nhiên, các alkan có mạch carbon lớn có ít giá trị thương mại và thông thường hay được tách ra thành các alkan mạch ngắn hơn thông qua phương pháp cracking. Xem thêm Diboran Disilan Tham khảo Liên kết ngoài Thẻ an toàn hóa chất quốc tế 0266 Ủy ban hóa chất châu Âu (ECB) Hóa điện toán tại Wiki Alkan
28099
https://vi.wikipedia.org/wiki/Picasa
Picasa
Picasa là một tiện ích trưng bày và quản lý hình ảnh kỹ thuật số trên máy tính hiện đã ngừng hỗ trợ. Nó được cung cấp bởi Google sau khi công ty này mua Picasa, Inc. từ Idealab. Vào ngày 12 tháng 2 năm 2016, Google thông báo đã ngừng hỗ trợ Picasa Desktop và Anbom Web, có hiệu lực từ ngày 15 tháng 3 năm 2016 và tập trung vào Google Photos dựa trên đám mây làm người kế nhiệm. Anbum Web Picasa, một dịch vụ đồng hành, đã bị đóng vào ngày 1 tháng 5 năm 2016. Chức năng Picasa được xem là dễ sử dụng, có nhiều dụng cụ để sửa đổi hình ảnh như cải tiến màu, khử mắt đỏ, sắp xếp hình thành album, v.v. Bên cạnh đó, nó còn có một số tính năng nổi bật như nhận diện khuôn mặt, đồng bộ dữ liệu với album trực tuyến, đánh dấu vị trí ảnh trên bản đồ (sử dụng dịch vụ Google Maps). Picasa hỗ trợ 40 ngôn ngữ, trong đó có tiếng Việt. Để sử dụng được dịch vụ dịch vụ Picasa, người dùng phải đăng ký một tài khoản Gmail (hay còn gọi là Google Mail). Tham khảo Liên kết ngoài Picasa tiếng Việt Tiện ích máy tính Google Phần mềm miễn phí Chia sẻ ảnh Dịch vụ Google Phần mềm năm 2002
28102
https://vi.wikipedia.org/wiki/Frank%20Gehry
Frank Gehry
Frank Owen Gehry (tên khai sinh là Frank Owen Goldenberg; sinh 28 tháng 2 năm 1929) là một kiến trúc sư nổi tiếng, thuộc kiến trúc Giải toả kết cấu hay còn gọi trường phái phá cân đối (deconstructivism) của kiến trúc Hiện đại, hành nghề tại California, Mỹ. Các công trình của ông nổi tiếng bằng các đường cong tròn trịa, thường bọc bằng những vật liệu kim loại phản xạ. Tiểu sử Frank Owen Gehry sinh ra tại Toronto, Canada, hiện đang sinh sống và hành nghề tại Mỹ. Gehry sinh ra trong một gia đình người Do Thái gốc Ba Lan. Bố ông làm nghề buôn bán vật liệu, mẹ là một người yêu âm nhạc. Những đặc điểm gia đình đó sẽ góp phần tạo dựng nên sự nghiệp của ông sau này. Thời trẻ, Gehry được các bạn cùng trường gọi là "Cá Vàng" (Goldenberg) , sau đó Frank Owen Goldenberg đổi tên thành Frank Owen Gehry vào năm 1954. Hiện nay, ông mang quốc tịch Mỹ. Từ 1949 đến 1951, ông theo học tại trường Đại học Nam California (University of Southern California) và trường Đại học Los Angeles (1949-1951) và học thiết kế đô thị tại trường Đại học Harvard từ 1956 đến 1957. Ông nhận giải thưởng Pritzker năm 1989. Các công trình kiến trúc Bảo tàng Guggenheim Bilbao, Bilbao, Tây Ban Nha (1997) Tháp Gehry, Hanover, CHLB Đức (2001) Trung tâm hoà nhạc Walt Disney Los Angeles, Bang California, Hoa Kỳ (2003) Rạp Pritzker, Công viên Thiên niên kỷ, Chicago, tiểu bang Illinois, Hoa Kỳ (2004) ... Các giải thưởng Giải thưởng Arnold W. Brunner về Kiến trúc, Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Mỹ, 1977 Giải thưởng Pritzker, 1989 Giải thưởng Wolf về Kiến trúc của Quỹ Wolf, 1992 Giải thưởng Hoàng gia về kiến trúc, Hiệp hội Nghệ thuật Nhật Bản, 1992 Giải thưởng Dorothy và Lillian Gish, 1994 Huy chương Quốc gia về Nghệ thuật, (1998) Giải thưởng Friedrich Kiesler, 1998 Huy chương vàng AIA, Hiệp hội Kiến trúc sư Mỹ (AIA), 1999 Huy chương vàng, Hiệp hội Kiến trúc sư Hoàng gia Anh (RIBA), 2000 Huy chương vàng Kiến trúc, Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Mỹ, 2002 Huân chương Canada (Order of Canada), 2002 Tiến sĩ danh dự tại các Đại học Nghệ thuật Thị giác: Học viện Nghệ thuật California, 1987 Mỹ thuật: Trường Thiết kế Rhode Island, 1987; Học viện Nghệ thuật Otis, 1989 Kỹ thuật: Đại học Kỹ thuật Nova Scotia 1989 Nhân chủng học: Học viện phương Tây (Occidental College), 1993 Học viện Whittier, 1995 Kiến trúc: Học viện Kiến trúc Nam California, 1997 Luật: Đại học Toronto, 1998 Đại học Edinburgh, 2000 Đại học Nam California, 2000 Đại học Yale, 2000 Đại học Harvard, 2000 Tham khảo Liên kết ngoài Gehry Partners, LLP , hãng kiến trúc của Gehry và các cộng sự Hãng kỹ thuật của Gehry Hình ảnh về Gehry và các công trình kiến trúc Giải thưởng Pritzker Gehry, Frank Gehry, Frank Gehry, Frank Gehry, Frank Gehry, Frank Gehry, Frank Gehry, Frank Nhân vật còn sống Cựu sinh viên Đại học Harvard Cựu sinh viên Đại học Nam California Người đoạt Huy chương Nghệ thuật Quốc gia Người Toronto Lính Lục quân Hoa Kỳ Người đoạt Huy chương Tự do Tổng thống
28106
https://vi.wikipedia.org/wiki/Renzo%20Piano
Renzo Piano
Renzo Piano (sinh ngày 14 tháng 9 năm 1937 tại Genova, Ý) là một trong số những kiến trúc sư nổi tiếng làm nên bộ mặt kiến trúc thế kỷ 20. Ông theo học tại trường Kỹ thuật Milano. Từ 1965 đến 1970, Piano làm việc cùng với Louis Kahn và Makowsky. Ông cộng tác với Richard Rogers từ 1971 đến 1977. Họ đã cho ra đời công trình nổi tiếng Trung tâm văn hóa Georges Pompidou hay còn gọi là Trung tâm Beaubourg ở thủ đô Paris của Pháp vào năm 1977. Công trình biểu hiện vẻ đẹp của công nghệ mới, bộc lộ các loại cấu trúc, thang máy, đường ống ra ngoài, tạo nên một vẻ đẹp khỏe khoắn. Một điểm lý thú của công trình này ba màu của quốc kì Pháp được ẩn sau lớp khung thép và ống của công trình. Công trình này được xem như sự thể hiện các ước mơ của nhóm Archigram. Công trình sân bay quốc tế Kansai trên một hòn đảo nhân tạo, gần Osaka, Nhật Bản được xem như một trong những kì quan của kỹ thuật thế kỷ 20. Ông còn là tác giả của một số các bảo tàng như Bảo tàng Menil (Menil Collection) ở Houston, Mỹ năm 1986, được xem như một tác phẩm mỹ nghệ kỹ thuật cao với giải pháp tinh tế để lọc ánh sáng qua mái xuống gian trưng bày. Các bảo tàng khác như Bảo tàng Paul Klee ở Bern, Thụy Sĩ, bảo tàng của Quỹ Beyeler ở Basel, Thụy Sĩ và phần mở rộng Bảo tàng nghệ thuật Hight ở Atlanta (High Museum of Art), Mỹ, năm 2005. Năm 2002, một tuyệt tác của ông được hoàn thành là Phòng biểu diễn nhạc thính phòng (Auditorium-Parco della Musica) ở Roma. Công trình này với 3 phòng biểu diễn có sức chứa 2800, 1200 và 700 khán giả, cùng với một nhà hát ngoài trời và một công viên. Đây là công trình biểu diễn nghệ thuật lớn nhất châu Âu. Năm 2003, công trình nhà thờ Padre Pio Pilgrimage được hoàn thành. Đây là công trình có sức chứa tới 6500 người bên trong và 30000 người bên ngoài. Ông còn là tác giả của nhiều cầu, sân vận động và xa lộ. Với những cống hiến của mình, ông được nhận giải thưởng Pritzker năm 1998 và là Đại sứ thiện chí của Liên Hợp Quốc. Hiện giờ, trụ sở chính hãng thiết kế kiến trúc Renzo Piano và cộng sự đặt tại Genova, Ý. Các dự án chính IRCAM, Paris, Pháp Trung tâm văn hóa Jean-Marie Tjibaou, Noumea, Nouvelle-Calédonie Bảo tàng Beyeler, Basel, Thụy Sĩ Gian Triển lãm Di động IBM Quy hoạch khu trung tâm mới của Berlin, Đức Mở rộng Học viện Nghệ thuật Chicago Cảng hàng không quốc tế Kansai, Osaka, Nhật Bản Tham khảo Liên kết ngoài Renzo Piano, official site Trang web của Renzo Piano Tiểu sử Các công trình của Renzo Piano, Renzo Piano, Renzo Piano, Renzo Nhân vật còn sống Sinh năm 1937
28113
https://vi.wikipedia.org/wiki/Muhammad
Muhammad
Muhammad (tiếng Ả Rập: ; sống vào khoảng 570 – 632) hay Mohamed, là một nhà lãnh đạo tôn giáo, xã hội và chính trị người Ả Rập và là người sáng lập ra Hồi giáo. Học thuyết Hồi giáo xem ông là một ngôn sứ mà Thượng Đế cử đi rao giảng và xác nhận những giáo lý độc thần của Adam, Ibrahim, Musa, Isa cũng như các nhà tiên tri đi trước. Trong tất cả giáo phái chính của đạo Hồi, Muhammad được xem là vị ngôn sứ cuối cùng của Thượng Đế, dù một số giáo phái hiện đại khác không chia sẻ cùng quan điểm này. Muhammad thống nhất toàn cõi Ả Rập thành một chính thể Hồi giáo thống nhất, sử dụng Qur’an và những tập tục và giáo lý của ông làm nền tảng của đức tin này. Sinh ra vào khoảng năm 570 (Năm Con voi) tại thành Mecca trên bán đảo Ả Rập, Muhammad mồ côi cả cha lẫn mẹ khi mới 6 tuổi. Ông lần lượt được ông nội Abd al-Muttalib (tiếng Ả Rập: عبد المطلب) và chú là Abu Talib (tiếng Ả Rập:ابو طالب) nuôi dưỡng. Trong những năm tiếp đó, ông thường bế quan cầu nguyện nhiều đêm trong một hang núi tên là Hira. Năm 40 tuổi, Muhammad tuyên bố được Thiên sứ Jibreel ghé thăm trong hang động và được truyền lời mặc khải đầu tiên từ Chúa. Năm 613, Muhammad bắt đầu cuộc hành trình rao giảng những điều mặc khải này một cách công khai. Những lời giảng dạy của ông bao gồm tính "duy nhất" của Thượng Đế, sự "phục tùng" hoàn toàn (islām) trước Ngài là lối sống đúng đắn (dīn). Tương tự như các nhà tiên tri khác của Hồi giáo, Muhammad xem ông là một nhà tiên tri và ngôn sứ được Thượng Đế cử xuống dẫn dắt nhân loại. Các cách gọi và câu chúc tụng Tín đồ Islam trên khắp thế giới thường gọi ông bằng các danh từ tiếng Ả Rập như: Nabi (al-nabi,) có nghĩa là "sứ giả (của Thượng đế)". Rasul-Allah () có nghĩa là "khâm sai của Thượng đế". hoặc ngắn gọn là Rasul. Danh từ thông dụng trong Anh/Pháp gọi là ông là Prophet/Prophète, với định nghĩa là "Sứ giả của Thiên Chúa" như một số các vị trưởng phụ trong kinh Cựu Ước. Một số từ điển lớn như Merriem-Webster online tiếng Anh hoặc Lexilogos tiếng Pháp biên thêm một định nghĩa cho chữ Prophet/Prophète là "Muhammad, người lập ra đạo Islam". Trong tiếng Việt danh từ Prophet/Prophète được dịch một cách thông dụng là 'nhà tiên tri' hay 'ngôn sứ'. Một số tài liệu tiếng Việt của người ngoài Islam cũng gọi ông bằng 'giáo chủ Muhammad'. Trong các sách vở, bài báo, trang web của cộng đồng tín đồ Islam nói tiếng Việt, danh từ thông dụng nhất hiện nay để chỉ định ông là Thiên Sứ (nhưng dùng trong ý nghĩa một người xác phàm được mặc khải và ban cho một vài phép lạ, khác với danh từ Thiên Sứ của tín đồ Cơ Đốc giáo chỉ định chữ angel tiếng Anh). Một số tài liệu khác cũng dùng danh từ Thánh để chỉ định ông. Trong bản dịch các tác phẩm văn học (tiêu biểu là truyện Nghìn lẻ một đêm) sang tiếng Việt, và trên báo chí, ngôn ngữ tiếng Việt thông dụng không theo Hồi giáo, ông được gọi là Đấng tiên tri, Đại tiên tri, Giáo chủ Mô-ha-met. Những tín đồ sùng đạo khi nhắc đến tên của ông thường kèm theo câu chúc tụng "Sall- Allahu alayhi wa salam" (Cầu xin Allah ban ân phước và sự bình an cho ngài), viết tắt là "(saw)" hay "(saas)". Câu này cũng thường được dịch sang tiếnq Anh là "Peace and Benediction Upon Him", viết tắt là PBUH, hoặc tiếng Pháp là "Paix et Bénédiction Sur Lui", viết tắt là PBSL. Tài liệu gốc Những tài liệu căn bản về cuộc đời ông gồm có kinh Koran, các lời Hadith và các câu truyện Sunnah, các quyển tiểu sử đầu tiên của ông viết bởi các tín đồ Islam, và một vài bút ký của người ở các xứ lân cận một thời gian sau khi ông qua đời. Koran Kinh Koran là những lời mặc khải từ Thượng đế được mang đến cho ông qua trung gian thiên thần Gabriel đối với tín đồ Islam. Một số câu trong Koran phản ánh những biến cố, những tình huống trong đời ông. Mặc dù các câu không theo thứ tự thời gian, và không có ghi rõ năm, nhưng kinh Koran được coi là tài liệu tham khảo quan trọng nhất bởi là tài liệu xưa nhất và được người trong đạo tôn trọng nhất. Mặt khác, ngày nay trên khắp thế giới các ấn bản để trì tụng của Koran đều giống y nhau từng chữ, nên Koran cũng được các học giả trong và ngoài đạo coi là tài liệu ít bị sai lệch so với nguyên bản nhất. Hadith Lúc sinh tiền, Thiên Sứ Muhammad (saw) ngăn cản không cho tín đồ chép lại lời nói của ông, mà chỉ khuyến khích mọi người dồn cố gắng học thuộc kinh Koran. Nhưng sau khi ông qua đời, một số người vận dụng trí nhớ để chép lại lời ông nói, một cách trực tiếp nếu đã từng gặp ông, hoặc một cách gián tiếp khi nghe những người thân cận ông nhắc lại việc xưa. Những lời đó được gọi là lời Hadith. Chưa đầy 200 năm sau khi ông từ trần, những lời được cho là 'lời Hadith' nhiều đến khoảng 700.000. Một số học giả đi gom góp, gạn lọc và xuất bản lại một số ít những lời đó. Chẳng hạn Ahmed Ibn Hanbal (780 - 855), chép lại khoảng 40.000 lời hadith trong bộ sách "Musnad" của ông, sau khi đã gạn bỏ bớt phần lớn của 700.000 "lời hadith" mà ông được biết. Ít lâu sau, học giả al-Bukhary (810 - 870) đã sưu tầm được 750.000 "hadith" và chỉ chấp nhận 7.275 lời coi là "Sahih" (xác thực) trong bộ sách "Sahih Bukhary" của ông. Phần lớn các "lời Hadith" ngày nay được coi là công trình sưu tầm và tuyển lọc của khoảng mười nhà sưu tầm, trong đó có Ahmed Ibn Hanbal, al-Bukhary và năm người đồ đệ của ông. Sunnah Sunnah tiếng Ả Rập có nghĩa là "truyền thống". Đó là những mẫu truyện về những gì Thánh Muhammad đã làm. Những mẫu truyện này thường nằm trong các sách 'Hadith', kể lại vì lý do gì, trong tình huống nào ông đã nói những lời nào. Những mẫu truyện này cũng nằm trong các quyển tiểu sử do các tín đồ viết về ông. Tiểu sử viết bởi các tín đồ Nhà viết tiểu sử xưa nhất về Thiên Sứ Muhammad được biết đến là Ibn Ishaq, qua đời năm 768. Một mảnh của tác phẩm của ông còn giữ được đến ngày nay. Tuy nhiên, hai quyển sách của ông được ông Ibn Hisham (qua đời năm 854) sắp xếp thành một quyển "Sirat Rasul Allah", được nhiều lần tái bản. Đồng thời với Ibn Hisham có ông Ibn Sa'd (cũng mất năm 854) soạn một quyển tự điển tiểu sử "Tabaqat" viết về cuộc đời của Thánh Muhammad và hàng trăm 'sahabah' (bạn đồng hành) của ông. Cũng khoảng thời gian đó, cuộc đời của ông cũng được nói đến trong các quyển sử Ả Rập của Ibn al-Kalbi (? - 819), al-Baladhuri (? - 892) hoặc sử thế giới của al-Tabari (838-923), al-Masudi (871-957), v.v... Các sách của người ngoại giáo Các nhà khảo cứu vẫn chưa tìm được bút ký nào của người Copt ở Ai Cập, người Ba Tư, người Ấn hoặc người Hoa thời xưa nói về ông. Riêng người Đông La Mã (Byzantine) thì có Theophanus và Joannes Zonaras. Theophanus (khoảng 760 - 818) là một giáo sĩ Cơ Đốc giáo. Trong quyển 'Chronographia', ông có một đoạn nói về đạo Islam và Thiên Sứ Muhammad, trên quan điểm chống đối. Joannes Zonaras là sử gia sống vào thế kỷ XII. Ông soạn bộ sử 'Historical Epitome' nói về lịch sử thế giới từ khởi thủy đến năm 1118. Bối cảnh lịch sử và thân thế Bán đảo Ả Rập Vào khoảng năm 570, bán đảo Ả Rập được bao quanh bởi đế quốc Đông La Mã, đế quốc Ba Tư và đế quốc Abyssinia. Lãnh thổ Đông La Mã có Ai Cập, Jordan, Palestine, Syria là các vùng gần Ả Rập nhất. Ba Tư thì gồm các đất Iraq, Iran ngày nay, và có lúc kiêm luôn dải đất miền đông và miền nam của bán đảo Ả Rập. Xứ Abyssinia ở phía nam của Ai Cập, và có lúc kiêm cả đất Yemen ở miền nam bán đảo Ả Rập. Phía bắc bán đảo Ả Rập có các vương quốc Cơ Đốc giáo, thường là chư hầu của Đông La Mã hoặc Ba Tư. Phần lớn nhất của bán đảo, với sa mạc Ả Rập, gồm có những thành bang ('city-state'), những bộ lạc tự trị, cách biệt nhau bởi những vùng đất rộng lớn không thuộc quyền kiểm soát của bang tộc nào. Miền trung tây, gọi là miền Hijaz có mấy thành bang lớn là Mecca, Ta'if và Jeddah. Các thành bang này hoặc có vua, hoặc được cai trị bởi một hội đồng quý tộc như ở Cổ Hy Lạp. Thành phố Mecca Mặc dù mỗi nơi tự cai trị lấy, nhưng thành Mecca lại có một địa vị đặc biệt là trung tâm tôn giáo của phần lớn bán đảo Ả Rập, nhờ ở đền Al-Haram (đền "Cấm") và toà nhà vuông Ka'aba. Tương truyền Ka'aba là một ngôi đền do thiên sứ Abraham và con là thiên sứ Ishmael dựng lên để thờ Thiên Chúa (Vinh Danh Tối cao). Với thời gian, người ta đem các tượng thần đặt xung quanh đền Ka'aba để thờ thêm, và dựng thành đền Al-Haram. Mỗi ngày trong năm đều trở thành ngày cúng vía của một hoặc vài vị thần nào đó. Và ngày nào cũng có một hoặc vài bộ lạc từ đâu đó trên bán đảo Ả Rập đến Mecca hành hương, và luôn tiện đem các sản vật của họ đến bán, rồi mua sản vật của các nơi khác. Do đó Mecca là một trung tâm thương mại rất thịnh vượng. Tộc Qureysh Mecca được cai trị bởi một nhóm quý tộc thuộc dòng Qureysh. Người Ả Rập thời đó không có họ mà chỉ tính dòng dõi. Tinh thần thị tộc rất cao, nên thường mỗi người đều thuộc gia phả của mình cho đến nhiều đời về trước. Dòng Qureysh sau tộc trưởng Abdul-Manaf (ông sơ của thánh Muhammad) thì chia làm mười chi, trong đó dòng Hashim trách nhiệm về mặt tế tự và quản lý đền thờ. Thánh Muhammad là cháu cố của tộc trưởng Hashim, vì vậy có khi tên ông được viết một cách trang trọng là Abu l-Qasim Muhammad ibn ‘Abd Allāh al-Hashimi al-Qurashi . Trước khi truyền đạo Chào đời Thánh Muhammad (saw) chào đời ngày 12 tháng 3 âm lịch Ả Rập. Mỗi năm, ngày này là ngày nghỉ lễ tại các xứ Islam. Ngay cả tại Trung Quốc, ở các vùng đông tín đồ Islam như Tân Cương, Cam Túc và Ninh Hạ Hồi, tín đồ Islam cũng được nghỉ lễ ngày này. Người Ả Rập cổ đại cũng có ghi lại một số sự kiện lịch sử, tính năm theo một vài kỷ nguyên xưa. Nhưng tại Mecca công việc này bị lơ là nên người ta chỉ nhớ là thánh Muhammad sinh vào năm "Con Voi". Năm ấy thống đốc vùng Yemen của xứ Abyssinia là Abraha vào chiếm Mecca, trong đoàn quân có con voi chiến rất to, nên người ta gọi nôm na là năm Con Voi. Ông nội của thánh Muhammad lúc bấy giờ là người quản lý đền Al Haram đứng ra điều đình với thống đốc Abraha và thuyết phục được Abraha rút quân về. Năm Con Voi theo các sử gia ngày nay là năm 569, 570 hoặc 571. Số đông coi là năm 570. Thánh Muhammad là con đầu lòng của đức ông Abd-Allah (cũng thường viết là Abdullah) và đức bà Aminah. Người Trung Đông và Ấn-Âu vốn không có tục kiêng húy, ngược lại còn có truyền thống lấy tên những người mình quý mến đặt cho con, nên tên thánh Muhammad và tên các thân nhân của ông đều thông dụng ngày nay. Thời thơ ấu Muhammad (saw) không được biết mặt cha. Cha ông, trên một chuyến đi buôn xa, lâm bệnh và từ trần vài tuần trước khi ông ra đời. Mẹ con ông từ đó được ông nội ông cấp dưỡng. Mẹ ông là người có học vấn và có sáng tác một số bài thơ, vẫn còn giữ được đến ngày nay. Tiếc thay, bà qua đời một cách đột ngột lúc ông lên sáu. Ông được ông nội rước về nuôi. Ông nội ông tuổi cũng đã cao, nên ông cũng chỉ ở được với ông hai năm. Kế đó, ông được nuôi nấng và dạy dỗ bởi người bác là Abu Talib. Ông Abu Talib cũng là người thừa kế chức quản lý đền Al Haram. Tuổi thanh niên Lớn lên, thánh Muhammad (saw) có tiếng là người đẹp trai và hào hiệp. Ông gia nhập một nhóm hiệp sĩ ở Mecca là nhóm Hilf al Fudul, nhiều lần bênh vực những người cô quả bị cường hào ác bá ức hiếp. Là người rất tôn trọng lời nói, ông được mọi người tặng cho ngoại hiệu là Al-Amin ("người đáng tin cậy"). Như nhiều người dân Mecca, thánh Muhammad theo nghề buôn bán. Và cũng như phần đông người Mecca thời bấy giờ, ông không biết đọc và viết. Lập gia đình Gặp năm đói kém, kinh tế thành Mecca bị suy thoái. Bác ông, ông Abu Talib mới đề nghị ông làm việc cho một goá phụ giàu có là bà Khadija, để quản lý cho bà các chuyến buôn hàng đường xa. Sau một thời gian làm việc cho bà Khadija, ông thành hôn với bà năm ông được 25 tuổi. Phần nhiều các tài liệu nói rằng lúc ấy bà Khadija tuổi đã 40, nhưng theo sách của Baladhuri thì lúc ấy bà chỉ mới 28. Tất cả tài liệu đều nói rằng sau đó hai người sống với nhau hạnh phúc đến lúc bà Khadija qua đời, khoảng 24 năm sau. Trong khoảng 10 năm tiếp theo, bà Khadija sinh cho ông 7 người con, 3 trai 4 gái. Đầu tiên là một bé trai, tên là Qasim, nhưng chỉ nuôi được đến lúc vừa mới biết đi. Chỉ những người con gái mới nuôi được đến lúc trưởng thành, nổi tiếng nhất là người con gái út, tên là Fatima. Thời kỳ truyền đạo ở Mecca Thiên thần Gabriel Tuổi gần 40, với cuộc sống tạm an ổn, ông thường có vẻ trầm tư mặc tưởng, và hay đi đến núi Nur (núi "Ánh Sáng") ở ngoại ô Mecca, vào động Hira tham thiền nhập định theo lối tu khổ hạnh . Có khi ông ở đấy hằng mấy ngày liền, bà Khadija phải cho người mang thức ăn nước uống cho ông. Ông kể lại rằng, năm ông được 40 tuổi, vào một đêm cuối tháng 9 âm lịch Ả Rập (tháng Ramadan), tại động Hira, một tạo vật bằng ánh sáng hiện ra và nói đại ý rằng: Ta là thiên thần Gabriel, được Thiên Chúa phái đến đây để báo cho anh được biết, anh được chọn làm sứ giả của Ngài. Thiên thần dạy ông tẩy rửa theo nghi thức, và sau đó đưa một tấm lụa dài có thêu chữ bảo ông đọc. Ông trả lời rằng: Tôi không biết đọc. Thiên thần mới ôm siết lấy ông và nói: Hãy đọc, nhân danh Chúa của ngươi, Đấng đã tạo ngươi từ một hòn máu đặc.... Ông đọc theo sau đó. Sau nhiều tháng hoang mang tự hỏi sức khỏe và tâm trí mình có bình thường, hoặc mình có bị tà ma ám ảnh không, và kiểm điểm điều đó với những người thân cận nhất, thánh Muhammad dần dần tin rằng mình được Thiên Chúa (Vinh Danh Tối cao) trao sứ mệnh để cứu độ một phần của nhân loại. Ông thấy thiên thần Gabriel tiếp tục đến với ông với những điềm lành, và tiếp tục mang đến thêm những lời kinh bảo ông học thuộc. Những lời kinh ấy được gọi là kinh Qur'an (Koran), mà thứ tự trình bày hoàn toàn khác với thứ tự thời gian của thiên thần Gabriel mang đến. Câu đầu tiên của Koran, "Hãy đọc, nhân danh Chúa của ngươi..." sau trở thành câu 1 của chương 96. Những tín đồ đầu tiên Và thánh Muhammad bắt đầu truyền đạo Islam. Những giáo điều căn bản của Islam trong buổi ban đầu gồm có: hãy noi gương các vị thánh đời trước (Adam, Noah, Abraham, Moses, David, Jesus, v.v...) chỉ thờ phụng một Đấng Thượng đế, và tránh xa việc cúng lạy các pho tượng, là tác phẩm của bàn tay con người; hãy giúp đỡ người nghèo khó, cô quả và tránh tích lũy tài sản, tránh cho vay nặng lãi; hãy kính trọng, hiếu thảo với cha mẹ; đừng giết con thơ, nhất là con gái vì lo rằng không đủ sức nuôi; hãy chăm lo làm điều thiện và giữ mình tránh tạo tội ác vì mọi hành động của mỗi cá nhân đều được thiên thần ghi chép, đến Ngày Phán Xét Cuối Cùng sẽ được tổng kết, ai phần phước nhiều hơn phần tội sẽ được lên Thiên Đàng, và trái lại sẽ bị đọa Địa Ngục. Người tín đồ đầu tiên là bà Khadija, vợ ông. Kế đến là người nô lệ vừa được ông trả tự do tên là Zaid. Rồi ông làm một buổi tiệc mời thân bằng quyến thuộc đến nhà, và giới thiệu về Islam. Sau buổi tiệc đó, có anh họ của ông là Ali, (con của ông Abu Talib) lúc ấy mới 12 tuổi, tuyên bố theo đạo. Kế đến là người bạn chí thân của ông, ông Abu Bakar, một doanh nhân giàu có. Ông Abu Bakar (cũng thường viết là Abu Bakr) vừa theo đạo liền trả tự do cho 8 người nô lệ của ông. Ông cũng truyền đạo rất tích cực và ngay cả rể của thánh Muhammad là ông Othman cũng theo đạo qua sự thuyết phục của ông. Buổi giảng trên đồi Safa Khoảng năm 613, một hôm, theo tập quán cổ truyền khi có việc hệ trọng, ông kêu gọi mọi người quy tụ trên đồi Safa, trong phạm vi Mecca. Ông bắt đầu bằng câu hỏi: Mọi người có tin không nếu tôi nói rằng phía sau ngọn đồi này đang có một đoàn quân đang hạ trại để chuẩn bị tấn công chúng ta ?. Người ta trả lời rằng: Ông chưa hề nói dối, dĩ nhiên ông nói gì ai cũng sẽ tin. Ông mới bắt đầu rằng: Thiên Chúa đã sai phái tôi đến cảnh cáo mọi người, và ai không nghe tôi hãy coi chừng cơn thịnh nộ của Ngài. Từ đó, ông thường xuyên ra giảng đạo trước công chúng. Sự phản kháng và bức hại của phe bảo thủ Thấy giáo điều Islam đi ngược lại với tín ngưỡng cha ông họ, và lợi tức kinh tế của thành Mecca do các bộ lạc đến dâng hương cúng các tượng thần, nên một số người của dòng Qureysh bắt đầu có phản ứng mạnh để ngăn chống sự phát triển của Islam. Hai người chống đối mạnh nhất là hai người bác của thánh Muhammad: ông Abu Jahl và ông Abu Lahab. Theo chế độ thị tộc cổ Ả Rập, khi một người bị giết thì cả họ - những người chung đầu ông cố - có bổn phận phải báo thù, nên trong thời gian đầu nhóm đối lập không dám giết ông, và không dám giết những tín đồ thuộc dòng Qureysh ở Mecca. Họ thương lượng với bác của ông là ông Abu Talib, người quản lý đền Al Haram và tìm nhiều biện pháp mềm mỏng để ông chấm dứt truyền đạo. Nhưng ông Abu Talib nhất quyết bảo vệ giọt máu của người em trai quá cố, còn ông nhất quyết tiếp tục sứ mạng, nên các giải pháp thương lượng không đạt được kết quả mong muốn của phe chống đối. Khi ông giảng đạo, họ châm biếm, chế nhạo, chửi rủa và ném đá. Họ đứng đón các bộ lạc từ xa đến hành hương và dặn đừng đến nghe ông. Điều này gợi sự tò mò nên có kết quả trái lại. Một vài người ở xa theo Islam và về bộ lạc họ truyền đạo, nên tín đồ vùng xa ngày càng đông. Tuy nhiên, có lúc thiên sứ Muhammad không thể ra giảng trước công chúng được nữa vì sự chế nhạo, ném đá và các cách tương tự. Nhưng sau khi có vài người dũng kiện thuộc dòng Qureysh theo đạo và ra đứng bảo vệ thì ông lại tiếp tục. Đối với những người từ xa đến Mecca làm việc, tứ cố vô thân, thường là nô lệ thì họ dùng những cực hình dã man để bức bách bỏ đạo. Một số không chịu nổi nên giả xưng bỏ đạo, hoặc có bỏ đạo thật. Một số khác bị giết hoặc bị chết trong lúc hành hạ, và được ghi nhớ là những người tử vì đạo. Một số khác kiên trì giữ đạo và sống sót sau nhiều cực hình. Đợt tị nạn đến Abyssinia Do sự bách hại đó, năm 615, khoảng 101 tín đồ Islam, trong đó có 18 phụ nữ, dẫn đầu bởi ông Othman là rể của thánh Muhammad đã trốn khỏi Mecca và đi đến xin tị nạn ở Abyssinia. Ông Othman vào yết kiến vị 'negus' (hoàng đế) xứ này và được chấp thuận tị nạn. Phe bảo thủ Mecca cho người đến Abyssinia đòi, nhưng 'negus' Abyssinia khước từ. Năm buồn Ông Abu Talib, người đã nuôi nấng thánh Muhammad từ lúc còn thơ, và người đã cương quyết bảo vệ ông trước phe bảo thủ, qua đời năm 619, lúc ông đã hơn 80 tuổi. Vài hôm sau lại đến lượt bà Khadija từ trần. Các nhà viết tiểu sử gọi năm này là "năm buồn" trong đời ông. Năm này công cuộc truyền đạo cũng gặp nhiều khó khăn. Lúc bấy giờ quyền quản lý đền Al Haram được về tay ông Abu Lahab, một trong hai người chống đối quan trọng nhất của ông, nhưng ông Abu Lahab lại tỏ vẻ hòa hoãn hơn. Đêm Miraj Vào năm 620, một hôm, thánh Muhammad kể lại với tín đồ và công chúng rằng đêm qua thiên thần Gabriel đã rước ông đi Jerusalem. Tại Jerusalem ông đã cầu nguyện nơi ngôi đền mà xưa kia thánh vương Solomon đã dựng lên lần đầu tiên. Sau đó ông cưỡi con thiên mã Al Buraq lên các tầng trời, được gặp các thánh đời trước như tổ Adam, Chúa Giê-Su, thánh Moses và thánh Abraham rồi được vào bái kiến Thiên Chúa (Vinh Danh Tối cao). Dịp này, ông đã nhận được lệnh là các tín đồ Islam phải cầu nguyện 5 lần mỗi ngày. Tín đồ lắm người hoang mang ngờ vực, không biết còn nên tiếp tục tin ở ông hay không. Nhưng kế đó ông cho biết là trên đường về có thấy một đoàn khách thương từ Syria trở về, ông kể cho biết chi tiết của vài sự kiện nhỏ đã xảy ra cho đoàn khách thương đó, và ai đã nói câu gì. Những điều này được xác nhận khi đoàn khách thương này về đến Mecca. Từ đó sự cầu nguyện mỗi ngày 5 lần trở thành giáo điều căn bản của Islam. Ngày nay, tại các xứ Islam, mỗi năm ngày 27 tháng 7 âm lịch Ả Rập là ngày nghỉ lễ kỷ niệm chuyến đi lên thượng giới của ông, gọi là chuyến đi Miraj. Tại các nhà thờ, người ta cầu nguyện suốt đêm. Hai lời thề ở Aqaba Thành phố Yathrib nằm cách Mecca khoảng 450 km về phía bắc. Khoảng năm 620 có vài người Yathrib theo đạo, trở về truyền giảng được thành công lớn. Năm 621, tại đồi Aqaba ở Mecca, thánh Muhammad lần lượt gặp hai phái đoàn người Yathrib. Tại đây, hai nhóm người này đã thề trung thành với đạo và với ông. Họ cũng sẵn sàng đón tiếp những người bị bách hại ở Mecca và mời ông sang thành phố họ cư trú. Cuộc thoát ly đi Yathrib Sau hai cuộc hội thề này, nhiều tín đồ Islam ở Mecca dần dần trốn sang Yathrib. Thấy đây là một đe dọa cho kinh tế và tín ngưỡng của họ, phe bảo thủ của tộc Qureysh lại nhóm họp và tìm ra một ý kiến mới: mỗi chi của tộc Qureysh sẽ cử ra một thanh niên, đứng canh trước nhà thánh Muhammad, chờ ông bước ra thì đồng xông đến hạ sát, và như vậy những ai muốn báo thù cho ông sẽ, vì luân lý, không thể nào hướng sự trả thù đến tất cả các chi trong bộ tộc. Thánh Muhammad thoát được cạm bẫy này. Ông cùng ông Abu Bakar trốn ra khỏi Mecca, và sau mấy tháng vừa đi vừa ẩn trú, họ đến được Yathrib. Thời kỳ ở Medina (Yathrib) Tổ chức cộng đồng tôn giáo và quốc gia Đến Yathrib, ông được các tín đồ cũ mới đón tiếp nồng nhiệt. Ông được dành cho mọi danh dự và phút chốc trở thành lãnh tụ của đa số dân thành phố này, thành phố mà một thời gian sau được đổi tên thành "Madina-t-ul-Nabi" (« Thành phố của vị Sứ Giả ») gọi tắt là Medina. Việc đầu tiên ông làm ở đây là khởi công xây một thánh đường đơn sơ, và giảng đạo trước công chúng mỗi tuần vào buổi trưa thứ sáu. Ông cũng quy định khi cầu nguyện, nếu phân biệt được phương hướng thì hãy hướng mặt về Ngôi Đền Thiêng ở Jerusalem. Nhưng không đầy hai năm sau, có câu kinh Koran được mặc khải đưa lệnh khi cầu nguyện hãy hướng về đền Ka'aba ở Mecca. Những người rời bỏ Mecca được gọi là những người 'Muhajirin' ("di cư"). Mỗi gia đình người "di cư" được một gia đình gốc Medina, gọi là người 'Ansar' (« tiếp trợ ») cho tá túc và giúp tìm kế sinh nhai. Cuộc thống kê đầu tiên cho biết có 186 gia đình "di cư" và khoảng 1500 tín đồ tổng cộng. Medina lúc bấy giờ có hai bộ lạc Ả Rập chiếm đa số dân là bộ lạc Aus và bộ lạc Khajraz, và một thiểu số Do Thái với ba bộ lạc chính. Mỗi bộ lạc có một hoặc vài lâu đài, đồn lũy và đất cát cứ riêng. Các bộ lạc này vừa trải qua mấy năm chiến tranh với nhau. Thánh Muhammad họp các bộ lạc ấy lại, soạn một bản hiến pháp, và định quy chế thành bang cho Medina. Bản hiến pháp này gồm có 47 điều khoản, và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng châu Âu. Thánh Muhammad di cư từ Mecca đến Medina cùng với Abu Bakr năm 622. Năm này về sau (vào năm 638) được Umar lấy làm năm khởi đầu kỷ nguyên của cộng đồng Islam, gọi là kỷ nguyên Hijri (viết tắt là AH, Hijri nghĩa là Cuộc Di Cư), hay chính là năm đầu tiên của lịch Hồi giáo. Ngày đầu tiên của kỷ nguyên Hijri, tức là ngày 1 tháng Muharram 1 AH, tương ứng với ngày 16 tháng 7 năm 622. Ngày nay kỷ nguyên này được dùng làm kỷ nguyên chính thức tại nhiều nước Islam, song song với kỷ nguyên Công giáo của Dương lịch. Năm 2008, Công Nguyên tương đương với năm 1429 lịch Hijri, cũng thường gọi là Hồi lịch (âm lịch Ả Rập mỗi năm chỉ có khoảng 355 ngày). Sau đó một thời gian, luật nhịn chay tháng Ramadan được ban ra, và được coi là một sự giảm nhẹ so với luật ban xuống thời trước (Do Thái giáo và Cơ Đốc giáo nguyên thủy phải nhịn 40 ngày, thay vì 30 ngày). Luật Zakat (đóng góp an sinh xã hội, lấy từ 2,5% lợi tức đã trừ những chi tiêu căn bản), phân biệt với sự khuyến khích bố thí đã có từ trước, cũng được ban ra khoảng thời gian này. Đương đầu với phe bảo thủ Mecca Phe bảo thủ Mecca gởi thư,có cả mềm mỏng lẫn hăm dọa tàn sát, để thuyết phục người Medina tuyệt giao với thánh Muhammad và các tín đồ đến từ Mecca. Họ cũng liên lạc, bí mật hoặc công khai với các bộ lạc ở Medina và các vùng lân cận, để cấm vận kinh tế hay để có nội ứng cho cuộc tấn công về sau. Tín đồ Islam từ Mecca vẫn tiếp tục rải rác trốn đi Medina. Có lần phe bảo thủ cho người trà trộn trong những người này để hành thích ông. Nhưng khi thích khách đến gần thì ông nói cho biết là thích khách và người chủ mưu ám sát ông đã nói riêng những lời gì với nhau, khiến thích khách hoảng sợ, thú nhận mưu định và thật sự theo đạo. Trận Badr Trận chiến đầu tiên giữa cộng đồng Islam ở Medina và phe bảo thủ Mecca xảy ra năm 624. Địa điểm ở cách Medina khoảng 100 km về phía nam. Quân Mecca đông hơn 900, quân Islam chỉ được 313 người, nhưng thắng trận. Phe Mecca tử trận khoảng 70 người, trong đó có ông Abu Jahl, một trong hai người chống đối quan trọng nhất. Ông Abu Lahab không đi đánh, nhưng hay tin bại trận thì tức tối thành bệnh mà chết một tuần sau. Đa số tù binh được đối xử tử tế, và được trả tự do đổi lấy tiền chuộc. Ai biết chữ thì phải dạy đọc dạy viết cho hai đứa trẻ ở Medina. Ai nghèo quá thì cũng được trả tự do mà không có điều kiện gì cả. Trận núi Uhud Cộng đồng Islam tiếp tục tăng trưởng. Năm 626, khi phe bảo thủ Mecca phái đến 3000 quân thì thánh Muhammad cũng có đến 1000 quân để ứng chiến. Trận này quân Mecca thắng, nhưng quân Medina giữ được các vị trí quan trọng, nên người Mecca phải rút về. Trận này cũng tăng uy tín cho thánh Muhammad vì quân Islam đã chiếm được thượng phong, nhưng một toán quân cung thủ quên lệnh của ông, bỏ vị trí lo giành chiến lợi phẩm, nên phe Mecca chuyển bại thành thắng. Trận Chiến Hào Năm 627, phe bảo thủ Mecca chuẩn bị trở lại với một đoàn quân đông hơn nữa. Tùy tài liệu, đoàn quân này đông 10.000, 12.000 hoặc 24.000, với một số lớn quân thuê từ các bộ lạc khác. Lúc này, quân Islam đã được 3.000. Theo lời cố vấn của ông Salman, người Ba Tư, thánh Muhammad cho đào chiến hào để ngăn địch. Ông tham gia công tác đào hào như tất cả mọi người. Quân Mecca đến nơi, không qua được hào. Sau một thời gian bao vây, lều trại họ bị thiệt hại nặng trong một đêm mưa to gió lớn, nên phải rút lui. Trận đánh huy động nhiều quân nhất của hai bên, nhờ có chiến hào, trở thành trận đánh ít tổn thất nhân mạng nhất: 6 người ở Medina, 8 người phe Mecca vì những mũi tên bắn qua hào. Hòa ước Hudaybiya Năm 628, một thủ lĩnh lớn của miền đông - vựa lúa mì của bán đảo Ả Rập - là Thumamah bin Uthal theo Islam và cấm bán thực phẩm đi Mecca. Kinh tế của Mecca cũng gần kiệt quệ vì phí tổn tổ chức trận Chiến Hào, nên Mecca bị nạn đói đe dọa. Thánh Muhammad bèn ra lệnh xuất công quỹ giúp đỡ một số người nghèo túng ở Mecca, bán thực phẩm cho Mecca, và để cho người của phe bảo thủ Mecca tự do đi ngang qua vùng kiểm soát của Medina để buôn bán với Syria và Palestine. Sau một số cử chỉ tỏ thiện ý muốn hòa bình với Mecca, thánh Muhammad cùng 1.400 người đi về Mecca với ý định hành hương, và không mang theo vũ khí. Phe bảo thủ Mecca dàn quân sẵn, và cử đại diện đến gặp ông tại đồi Hudaybiya. Họ ra điều kiện như sau: 1) Các tín đồ Islam không được viếng Mecca năm nay, mà chỉ được viếng năm tới, trong thời hạn tối đa 3 ngày. 2) Người nào từ Medina chạy đến Mecca, chính quyền Medina không được đòi lại. Ngược lại, người nào từ Mecca chạy đến Medina, chính quyền Medina phải giao trả nếu có cha hay chủ nhân ở Mecca đòi. 3) Hai bên đình chiến 10 năm. Không được đánh nhau trực tiếp, và cũng không được đánh nhau gián tiếp qua các đồng minh. Trong thời gian đó, mỗi bên có quyền đi ngang lãnh thổ của nhau. Thánh Muhammad chấp thuận các điều kiện đó và ký kết hòa ước. Rồi ông trở về Medina. Năm sau, cuộc hành hương của ông và những người đồng hành đến Mecca diễn ra tốt đẹp. Hai bên đều theo đúng điều đã giao kết tại Hudaybiya. Trận Mouta Khi dân thành Yathrib theo Islam hàng loạt năm 621 thì tại đấy có một số người chỉ làm theo số đông, nhưng không thật tâm theo đạo. Rồi thánh Muhammad ở phương xa đến cầm quyền, mang lại nhiều thay đổi, họ cảm thấy bị mất quyền lợi, mất địa vị. Do đó, ngay từ đầu, họ đã ngầm liên lạc với phe bảo thủ Mecca để làm nội ứng. Họ cũng tích cực khuyến khích một số bộ lạc xa gần chống lại chính quyền Islam. Khi Mecca suy yếu từ sau trận Chiến Hào, họ tìm cách kéo các thế lực xa hơn, mạnh hơn vào thực hiện ý định của họ. Hoàng đế xứ Abyssinia vẫn luôn thân thiện với cộng đồng tín đồ Islam, nên nhất định không đánh Medina. Hai đế quốc Ba Tư và Đông La Mã thì trong tình trạng chiến tranh với nhau từ năm 603, nhưng lúc này Đông La Mã thắng thế, đã lần lượt thu hồi các đất Syria, Palestine và Ai Cập. Hoàng đế Đông La Mã là Heraclius đang có mặt trong vùng, nhận thấy có thể đưa một ít lực lượng đi chiếm thêm đất, hoặc ít ra đánh cho suy yếu một kình địch tương lai. Được tin Đông La Mã tập trung lực lượng khá đông gần cửa ải vào bán đảo, thánh Muhammad phái một đội quân 3.000 người đi ngăn địch. Quân hai bên giao chiến tại Mouta. Theo At-Tabari, quân Medina bại trận, nhưng cũng cầm cự được 3 ngày. Đông La Mã thấy muốn thắng Ả Rập cũng phải tổn thất nhiều, và họ còn cần giữ lực lượng để phòng Ba Tư phản công, nên không tiến quân vào bán đảo. Tiếp quản Mecca Năm 630 có bộ lạc Banu Bakr đồng minh của Mecca đánh nhau với bộ lạc Khuza'ah đồng minh của Medina. Phe bảo thủ Mecca giúp bộ lạc Banu Bakr. Thánh Muhammad coi là họ đã xé bỏ hòa ước Hudaibiya qua hành động đó, nên chuẩn bị hưng binh, nhưng giữ bí mật không nói là sắp đi đâu. Thủ lĩnh phe bảo thủ Mecca là ông Abu Sufyan lo ngại, đích thân đến Medina điều đình, nhưng bị giữ lại không cho về. Thánh Muhammad đem 10.000 quân đến Mecca. Phe bảo thủ Mecca hoang mang vì năm trước hai tướng giỏi nhất của họ là Khalid bin Walid và Amr bin Al Ass đã bỏ đi Medina theo Islam. Nay lại không có thủ lĩnh Abu Sufyan quyết định, nên đa số ngồi im không kháng cự. Thánh Muhammad đã dặn quân sĩ không được hại mạng ai, ngoại trừ 20 người có thành tích bách hại tàn bạo nhất trước nay. Nhưng khi vào thành, ông được mặc khải lệnh tha thứ và hấp tấp truyền lệnh này. Lúc ấy có ba người trong danh sách đã bị giết. Tướng Khalid về đến khu phố nhà thì gặp tướng Ikrimah - chỉ huy phó kỵ binh Mecca - với một toán quân nhỏ nghênh chiến. Một số người chết. Tướng Ikrimah trốn thoát được nhưng vài ngày sau đã trở về khi hay tin được ân xá. Thánh Muhammad vào đền Al-Haram, cho dẹp đi các tượng thần, và bảo sơn lấp đi các hình ảnh của tín ngưỡng đa thần giáo. Kế đến ông ra tiếp công chúng tụ tập trước đền, phủ dụ chiêu an. Ngày hôm sau, có vụ án mạng do người từ Medina về trả thù riêng, ông khiển trách thủ phạm nặng nề, và sai đem 100 con lạc đà bồi thường gia đình nạn nhân, theo đúng phong tục. Attab bin Asid, một nhân vật quan trọng của phe bảo thủ, nay theo Islam, được ông đặt làm thống đốc Mecca, và quy định lương bổng theo cơ chế chính quyền Medina. Khi vào xem kho tàng của đền Ka'aba từ nhiều năm được khách thập phương dâng cúng, người ta kiểm kê được hơn 55.000 lạng vàng . Thánh Muhammad không chạm đến tiền này. Sau khi ở lại Mecca vài tuần sắp xếp các công việc, ông trở về Medina. Quốc gia Islam Năm thứ 9 của kỷ nguyên Hijri (tương đương với năm 631) được các sử gia Islam gọi là Năm của Các Phái Đoàn. Năm ấy có rất nhiều phái đoàn đến từ khắp nơi trên bán đảo Ả Rập tuyên bố bộ lạc họ theo Islam và xin nội thuộc vào lãnh thổ Medina. Thánh Muhammad dành nhiều thời gian để tổ chức hệ thống hành chính, thuế khóa cho các vùng mới gia nhập. Ông nghiêm cấm gia đình và người trong họ lấy tiền công quỹ chi tiêu riêng. Năm thứ 10 Hijri rất nhiều trường học được lập ra trong khắp lãnh thổ, và đặc biệt là ở Yemen phía nam bán đảo. Chiến dịch Tabuk Ba Tư ngày càng suy yếu, trong 3 năm ngôi hoàng đế qua tay ít nhất 5 người. Năm 631 Đông La Mã nhận thấy có thể yên tâm làm một cuộc viễn chinh vào Ả Rập. Được quân tế tác cho biết Đông La Mã chuẩn bị binh sĩ, thánh Muhammad bèn kêu gọi thánh chiến. Ông quy tụ được một đạo quân đông 30.000 người. Thánh Muhammad và quân sĩ ra đến ải Tabuk, cách Medina khoảng 800 km về phía bắc. Đông La Mã thấy quân đối phương hùng hậu và kỷ luật, ngại nhiều tổn thất, nên không đến tấn công. Thánh Muhammad ở lại Tabuk ít lâu nhận định tình thế, rồi rút quân về. Bài giảng ở Arafat Năm 632 thánh Muhammad về Mecca hành hương lần cuối. Ngày 9 tháng 12 âm lịch Ả Rập, theo nghi thức hành hương, các tín đồ quy tụ ở đất Arafat, ngoại ô Mecca, để cầu nguyện. Tùy tài liệu, số tín đồ có mặt đông 90.000, 100.000 hoặc 140.000 người . Thánh Muhammad đứng trên một đỉnh núi con là núi Từ Bi ('Ar-Rahman'). Mỗi khoảng cách xa xa có một người khỏe giọng lặp truyền lại từng câu ông nói để mọi người đều nghe rõ. Ông nhắc lại những tín điều quan trọng, dặn dò mọi người hãy cố gắng theo lời truyền dạy của kinh Koran, và tuyên bố là sứ mạng truyền đạo Islam của ông nay đã hoàn tất. Những ngày cuối cùng Mặc dù là lãnh tụ của một quốc gia rộng lớn, nhưng thánh Muhammad vẫn sống giản dị, ở nhà cửa sơ sài. Ông không đòi hỏi sự phục dịch, tự tay xách nước giếng khi cần tắm rửa. Ông thường nhịn chay, và tránh trong một bữa ăn hai thứ thịt. Trong thời gian bà Khadija còn sinh tiền, ông chỉ một vợ một chồng. Sau khi bà Khadija qua đời khoảng một năm thì ông tục huyền với một góa phụ, và sau đó thành hôn với mấy người nữa, đều là góa phụ hay đã ly dị chồng, ngoại trừ cô Aisha con ông Abu Bakar, trong những tình huống đặc biệt. Đầu năm 11 Hijri, sức khỏe ông kém hẳn. Vài lần thấy mình không đủ sức dẫn lễ cầu nguyện ngày 5 lần ở thánh đường, nên ông nhờ ông Abu Bakar dẫn lễ thay. Ông kiểm lại tài sản, có chút ít đất đai thì ông để lấy hoa lợi cho gia đình, còn 7 đồng dinar thì bố thí cho người nghèo. Ông cũng còn thanh gươm trị giá mấy đồng tiền vàng gởi cho người rể út là Ali, và một chiếc áo giáp nằm ở một hiệu cầm đồ người Do Thái ở Medina. Ông qua đời ngày 12 tháng 3 âm lịch Ả Rập, cũng là sinh nhật của ông. Đã có nhiều người có khuynh hướng thờ phụng ông như một vị thần linh khi ông còn sinh tiền, nên ông Abu Bakar mới tuyên bố: Hỡi dân chúng ! Nếu ai tôn thờ Muhammad thì hãy biết rằng Muhammad đã chết. Còn ai tôn thờ Allah thì Allah vẫn hằng sống và không bao giờ chết ! Thi hài ông được an táng trong khuôn viên thánh đường gần nhà, nay gọi là thánh đường Al-Nabawi (« Thánh Đường Thiên Sứ »). Sau thánh đường mở rộng, phần mộ ông nay nằm trong toà đại điện. Những người tiếp nối Căn cứ vào việc thánh Muhammad đã nhờ ông Abu Bakar dẫn lễ cầu nguyện trong những ngày cuối cùng, ông Omar đề nghị ông Abu Bakar làm lãnh tụ. Đề nghị này được đa số chấp thuận. Thánh Muhammad không thu nhận đồ đệ, không xưng hô thầy trò, nên những người tín đồ từng gặp qua ông, từng nghe giảng đều được gọi là Sahaba ("bạn đồng hành" hay "bạn đường"). Chân dung Thánh Muhammad không cho họa chân dung của ông, sợ rằng nhiều tín đồ Islam đời sau hướng về đó mà thờ phụng, trái với sứ mạng của ông. Theo Al-Tabari, ông Ali, rể ông tả rằng: Gia đình và dòng dõi Vợ con Bà Khadija sinh cho ông 3 người con trai là Qasim, Tahir và Tayeb. Theo Al-Tabari, có thêm một người con trai nữa là Abdullah. Những người này đều chết lúc còn thơ ấu. Bốn người con gái là Roqayya, Um-Kulsum, Zainab và Fatima. Cô Roqayya sau là vợ ông Othman, vị khalip thứ ba của quốc gia Islam. Hai cô Um-Kulsum và Zainab gả cho hai con trai của ông Abu Lahab, bác của thánh Muhammad, cũng là người đối đầu quan trọng của ông. Vì vậy đã ly dị. Cô Fatima gả cho ông Ali, con của ông Abu Talib, cũng là bác của ông. Cô sinh được hai trai là Hassan và Hussein, là hai vị lãnh tụ rất được tôn sùng trong hệ phái Shia. Mộ của cô Fatima ở thành phố Qum, Iran nay là một thánh địa quan trọng của hệ phái này. Những người vợ được nhiều tài liệu nhắc tới, nhưng không loại trừ xác suất tài liệu ngụy tạo là: Bà Sawda, một người đã theo chồng đi Abyssinia lánh nạn bách hại, khi về đến Mecca năm 620 thì chồng bà là ông Sukran qua đời, bà không còn nơi nương tựa. Bà Aisha, con ông Abu Bakar, gả cho ông lúc tuổi mới dậy thì. Bà nổi tiếng về kiến thức y học, và ngày nay nhiều người Bắc Phi thờ bàn tay của bà. Bà Hafsah, góa phụ, con ông Omar. Bà Um Habiba, một người đã đi lánh nạn ở Abyssinia và trở thành góa phụ, nhưng cũng là con ông Abu Sufyan lãnh tụ phe bảo thủ Mecca. Bà Maimun, góa phụ, cô ruột tướng Khalid. Sau bà Khadija, thánh Muhammad không có con với ai, ngoại trừ một người tiểu thiếp tên là Maria do thống đốc Ai Cập gởi tặng. Người này sinh cho ông một bé trai tên là Ibrahim, nhưng chỉ nuôi được đến hai tuổi. Các học giả như Al-Tabari và Muhammad Hamidullah thường liệt kê nhiều dị bản về các vợ con của thánh Muhammad, với các thông tin khác biệt, mâu thuẫn nhau. Người vợ thứ ba của Muhammad là Aisha chỉ mới sáu tuổi khi hai người hứa hôn và chín tuổi khi hai người chuyển đến sống cùng nhau , do đó những người chỉ trích Hồi giáo chẳng hạn như mục sư Jerry Vines và lãnh đạo Đảng Tự do Hà Lan Geert Wilders đã viện dẫn tuổi của Aisha để tố cáo Muhammad đã có quan hệ tình dục với một đứa trẻ chín tuổi, từ đó họ kết luận rằng Muhammad là một kẻ ấu dâm. Những hậu duệ là lãnh tụ tôn giáo Bài chi tiết: Các chi nhánh của Islam Bài chi tiết: Hệ phái Shia của Islam Những hậu duệ là lãnh tụ quốc gia Nhà Fatimid (909 - 1171) ở Bắc Phi và Tây Á Nhà Sayyid (1414 - 1451) ở Ấn Độ Nhà Alaouite (1666 -) hiện trị vì tại Maroc Những hậu duệ là thường dân Theo bách khoa tự điển Quid 1990 của đài RTL (Radio Télévision Luxembourgeoise) xuất bản năm 1989, tại Iran có 600.000 người 'sayyid' (hậu duệ của thánh Muhammad theo phụ hệ) và 500.000 người 'sharif' (mẹ thuộc dòng dõi thánh Muhammad) (trang 979). Hậu duệ của ông cũng khá đông đảo tại Ả Rập Xê Út, Iraq, Syria, Jordan, Ai Cập, Libya, Tunisia, Algérie, Maroc, Ấn Độ, Afghanistan, Pakistan và Bangladesh. Chú thích Tham khảo Histoire des Envoyés de Dieu et des rois - nguyên tác tiếng Ả Rập "Tarikh al Rousoul wal Moulouk" của Muhammad ibn Djarir Al-Tabari (838-923), bản dịch tiếng Pháp do Mohamad Hamadé, dịch từ bản tiếng Đức của M. Hermann Zotenberg (1874), dịch từ bản tiếng Ba Tư của tể tướng Abou-'Ali Mohammad Bel'Ami (963). Editions Al-Bustane, Paris 2002. Kinh Qur'an (ý nghĩa nội dung). Người dịch: Hassan Abdul Karim. Santa Ana, California 1997. La tradition musulmane - Ali Merad - Editions Que-Sais-Je ? - Presses Universitaires de France, Paris 2001. Le Prophète de l'Islam, sa vie, son oeuvre. Muhammad Hamidullah. Editions El-Najah. 6ème édition augmentée 1998, Paris. Les grandes dates de l'Islam, sous la direction de Robert Mantran, Editions Larousse, Paris 1990. Les minorités dans le monde - Faits et analyses - Joseph Yacoub - Editions Desclee de Brouwer - Paris 1998. L'Islam dans le monde - dossier présenté et établi par Paul BALTA - Edition La Découverte et Journal Le Monde - Paris 1986. Musulmans de Chine - Une anthropologie des Hui du Henan - Elisabeth Allès - Editions EHESS, Paris 2000. Quid 1990 - Dominique et Michèle Frémy, Editions Robert Laffont et Société des Encyclopédies Quid, 1989. Liên kết ngoài Các tiểu sử khách quan: Chương trình PBS về Muhammad (tiếng Anh) Tiểu sử trong bách khoa toàn thư Encarta (Anh) Bài viết về Muhammad trong số Encyclopædia Britannica năm 1911 (Anh) Các văn kiện viết bởi tín đồ Islam và người ngoại giáo với tính cách quý trọng tại University of Southern California (Anh) Các tiểu sử viết bởi tín đồ Islam: Islamonline (tiếng Anh, Ả Rập ) Tiểu sử bởi Harun Yahya (Anh) Ar-Raheeq Al-Makhtum (Mật hoa bịt kín) – Truyện ký của Nhà Thiên Sứ Cao quý (Anh) Cuộc đời thánh Muhammad – bởi Muhammad Husayn Haykal, dịch bởi Isma'il Razi A. al-Faruqi (Anh) Giới thiệu về Thiên Sứ Muhammad (Anh) www.muhammad.net – tiểu sử Thiên Sứ Muhammad và thêm nữa (Anh) Nhà Thiên Sứ Muhammad là ai? – có hình ảnh bởi ar-Rawdah an-Nabawiyah (Anh) Quan điểm phê bình: Xu hướng trong các Tiểu sử Muhammad (Anh) Các bà vợ của Muhammad (Anh) Tên cuồng tín hay là Nhà tiên tri Muhammad (tiếng Pháp) Các vấn đề khác: Các thanh gươm của Nhà tiên tri Muhammad (Anh) Tiên tri Hồi giáo Hồi giáo Người Ả Rập Mất năm 632 Sinh thập niên 570 Bài cơ bản dài Chính trị gia Ả Rập Nghị sĩ Nhà triết học Người sáng lập tôn giáo Muhammad Tín hữu Hồi giáo Ả Rập Tướng Ả Rập Nhà ngoại giao Medina Thương nhân Người từ Mecca
28128
https://vi.wikipedia.org/wiki/Paris%20Hilton
Paris Hilton
Paris Whitney Hilton (sinh ngày 17/2/1981) là ngôi sao chương trình thực tế, doanh nhân, người mẫu, và là ca sĩ người Mỹ. Cô là cháu cố của Conrad Hilton, người sáng lập tập đoàn khách sạn Hilton. Được sinh ra ở New York và lớn lên ở Beverly Hills, California, Paris bắt đầu làm người mẫu khi còn ở độ tuổi teen và đã kí hợp đồng với công ty quản lý người mẫu của Donald Trump. Phong cách sống của cô cùng với những mối tình ngắn hạn làm cô luôn xuất hiện trên mặt báo cùng với những bài tin tức phóng đại khiến cô trở thành "Cô nàng nổi tiếng nhất New York" vào năm 2001. Năm 2003, một băng sex của Paris quay cùng với bạn trai thời lúc đó là Rick Salomon, bị phát tán với tựa đề "Một đêm ở Paris". Băng sex của Paris trở thành cú sốc với mọi người nhất là khi nó bị phát tán chỉ 3 tuần trước khi series truyền hình thực tế "The Simple Life" đóng cặp cùng với bạn thân lâu năm của Paris, là Nicole Richie sắp được ra mắt. Năm 2004, Paris phát hành cuốn tự truyện "Confessions of an Heiress" (Thú tội của nhà thừa kế), cuốn tự truyện đã trở thành cuốn sách bán chạy nhất của New York Times. Sau đó Paris có đóng một vai phụ trong phim "House of Wax" (Ngôi nhà sáp) (2005). Năm 2005, Paris kí hợp đồng với Warner Bros để trở thành ca sĩ và hợp tác với các nhà sản xuất như Scott Storch, Tom Whalley, J.R Rotem, Dr. Luke, Fernando Garibay và Kara DioGuardi để ra mắt một album nhạc pop. Đĩa đơn đầu tiên "Stars Are Blind" được ra mắt toàn thế giới vào tháng 6 năm 2006 và nhanh chóng trở thành hit lớn bao gồm vị trí số một ở Scotland. Ở Mỹ, "Stars Are Blind" là một trong những đĩa đơn ra mắt có thành tích cao nhất trong năm 2006, leo lên vị trí thứ 18 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 nhờ vào thành tích bán đĩa cao cùng với được phát trên hơn 125 đài phát thành ở Mỹ chỉ trong hai năm 2006 và 2007. Album mang tên chính mình, Paris, được ra mắt chính thức vào ngày 22/8/2006. Album đạt thứ hạng thứ 6 trên bảng xếp hạng Billboard 200 và bán được được hơn 600,000 bản copy toàn cầu. Cô trở lại với sự nghiệp ngôi sao chương trình truyền hình thực tế vào năm 2008 với series "Người bạn thân của Paris Hilton" cùng với hai bản ăn theo là "Người bạn thân người Anh của Paris Hilton" (2009) và "Người bạn thân Dubai của Paris Hilton" (2009), năm 2011, cô ra mắt chương trình "Thế giới theo góc nhìn của Paris". Paris còn tham gia diễn xuất trong các phim Bottoms Up, Nationals Lampoon's Pledge This! (2006), The Hottie and the Nottie (2008), Repo! The Genetic Opeara (2008) và bộ phim của Sofia Coppola là The Bling Ring (2013). Năm 2012, Paris quyết định trở thành DJ và trình diễn lần đầu tiên là Sự kiện âm nhạc Sao PauloPop. Mặc dù bị chỉ trích, cô lại trở thành một trong những DJ được trả lương cao nhất và trình diễn thường xuyên ở những hộp đêm toàn thế giới. Cùng năm, cô cũng quay lại với dự án âm nhạc của mình và kí hợp đồng với hãng thu âm Cash Money của rapper Lil Wayne và Birdman. Nhiều người nói rằng cô chỉ nổi tiếng bởi vì cô "nổi tiếng", không có tài năng gì nổi trội nhưng lại được chú ý vì phong cách sống giàu có xa hoa của mình. Paris đã sử dụng danh tiếng của mình để đầu tư cho việc bán nước hoa và dòng thời trang riêng của mình; dòng nước hoa của cô thu về lợi nhuận 1,5 tỉ dollar. Hiện tại, cô sở hữu 3 khu phức hợp chung cư cùng với 44 cửa hàng mang tên Paris Hilton toàn thế giới, với các sản phẩm bao gồm nước hoa, túi xách, đồng hồ và giày dép. Cô thu về hơn 10 triệu dollar Mỹ mỗi năm cho công việc kinh doang hãng mang tên của mình. Chỉ tính riêng mỗi sản phẩm nước hoa, Paris đã thu về hơn 2,5 tỉ dollar Mỹ, được xếp hạng là nhãn hiệu nước hoa người nổi tiếng bán chạy thứ nhì chỉ sau dòng nước hoa của minh tinh Liz Taylor, vào năm 2005, Paris được trả 300,000 dollar Mỹ cho mỗi lần xuất hiện của mình. Tiểu sử 1981-2001: Thời thơ ấu và sự nghiệp Paris được sinh ra ở New York. Mẹ của cô là bà Kathy Hilton (nhũ danh Kathleen Elizabeth Avanzino) là cựu diễn viên; ba của cô là Richard Howard "Rick" Hilton là doanh nhân. Cô là người Cơ Đốc Giáo. Cô là chị cả và có 1 em gái là Nicholai Olivia "Nicky" Hilton (sinh năm 1983) và hai em trai: Barron Nicholas Hilton đệ nhị (sinh năm 1989) và Conrad Hughes Hilton đệ tam (sinh năm 1994). Ông cố ruột của cô là Conrad Hilton, người sáng lập tập đoàn khách sạn Hilton. Paris lai dòng máu Na Uy, Đức, Ý, Anh, người Ireland và người Scotland. Cô thường xuyên di chuyển tới lui suốt thời niên thiếu của mình, và thường sinh sống ở tầng thượng của Khách sạn Waldorf-Astoria ở Manhattan, khu Beverly Hills và khu The Hamptons. Khi còn bé, cô là bạn với những người có tiếng khác như Ivanka Trump, Nicole Richie và Kim Kardashian. Lớn lên ở Los Angeles, Paris theo học ở Trường Buckley và Trường St. Paul the Apostle, cô hoàn thành cấp 1 vào năm 1995. Cô học năm đầu trung học ở Trường Marywood-Palm Valley ở Rancho Mirage, California. Năm 1996, cô cùng gia đình rời khỏi California và chuyển tới bờ Đông nước Mỹ. Paris theo học ở Trường Provo Canyon - trường chuyên dành cho học sinh có vấn đề tâm lý vào lúc năm 16. Sau đó cô theo học Trường Canterbury ở New Milford, Connecticut từ mùa thu năm 1998 tới tháng 2/1999, tại đó cô là thành viên của đội hockey sân băng. Tháng 2/1999, cô bị đuổi khỏi trường do vi phạm nội quy trường học, sau đó theo học ở Trường Dwight và bỏ học một vài tháng sau đó. Cô nhận được chứng chỉ GED. Paris bắt đầu theo nghề người mẫu từ lúc nhỏ, thường biểu diễn ở các sự kiện từ thiện. Khi cô 19 tuổi, cô kí hợp đồng người mẫu với công ty quản lý người mẫu của Donald Trump tên T Management. Cô nói rằng cô "muốn trở thành người mẫu" còn Trump thì muốn cô kí hợp đồng với mình, Paris nói rằng cô rất yêu thích nghề người mẫu. Trong khi theo đuổi sự nghiệp người mẫu, cô trở thành gương mặt thường xuyên xuất hiện trên các trang báo vì thói quen tiệc tùng của mình; theo Cisco Adler (nhà sản xuất của Sweetie Pie mà Paris cũng tham gia diễn xuất) của Tạp chí Vanity Fair, Paris "là cô gái trẻ ưa thích tiệc tùng ở LA và lớn quá nhanh". Năm 2001, cô bắt đầu sự nghiệp ngôi sao thực tế của mình khi được phong danh hiệu "It Girl của New York", lúc này danh tiếng của cô vươn xa và vượt qua những lời bàn tán lá cải ở New York. Tầm khoảng thời gian đó, cô cũng đóng một vai cameo trong phim Zoolander cũng như xuất hiện trên trang bìa một số tạp chí, bao gồm Tạp chí Tatler của Anh, Giola của Ý và Vanity Fair của Mỹ cùng với Tạp chí FHM. Paris cũng xuất hiện trong video ca nhạc "Honey Bunny" của Vincent Gallo. Năm 2002, cô đóng vai chính trong phim kinh dị Nine Lives. Theo trang web beyondhollywood.com, "sự xuất hiện của Paris Hilton trong dàn diễn viên là mưu đồ quảng bá, vốn dĩ quá dễ thấy vì cô ấy đóng vai chính trên các poster phim và tên cô ấy là cái tên duy nhất mà mọi người biết trong dàn diễn viên". Trang web cũng nhận xét rằng vai diễn của Paris Hilton thực chất chỉ là bê nguyên xi hình mẫu của chính mình lên phim, "Hilton đóng vai, gì nhỉ? Một ngôi sao truyền hình thực tế người Mỹ đi shopping vòng quanh thế giới chỉ trong 1 ngày. Sườn phim còn lộ liễu hơn nữa khi bóc nhặt một số chi tiết từ cuộc sống thật của Paris đem lên phim, thậm chí còn nói về việc cô ấy xuất hiện vài lần trên vài tạp chí tàn tàn của cô ấy". Cùng năm đó, cô đính hôn với người mẫu nam Jason Shaw nhưng hai người chia tay vào năm 2003 sau đó. 2003-2005: The Simple Life và đột phá Vai diễn đột phá của Paris là vào năm 2003, khi cô hợp tác với ngôi sao thực tế khác là Nicole Richie trong chương trình truyền hình thực tế của Fox tên The Simple Life. Series được lên sóng vào ngày 2/12/2003, chỉ một thời gian ngắn sau khi băng sex của Paris bị phát tán. The Simple Life có tỉ lệ người xem tốt; tập đầu tiên thu hút tới 13 triệu lượt xem, làm cho mục phim dành cho đối tượng từ 18 tới 49 tuổi tăng lên tới 79%. Cô được biết tới với tính cách hơi ngu ngơ tóc vàng hoe của mình trên màn ảnh, sau khi series kết thúc, cô thú nhận rằng cô đóng vai một người khác không phải là mình trong series The Simple Life. Năm 2003, cô hẹn hò với Nick Carter và kéo dài tới thêm 1 năm sau đó. Paris giới thiệu dòng sản phẩm của mình vào năm 2004, cô tham gia thiết kế dòng túi xách cho thương hiệu Nhật Bản mang tên Samantha Thavasa. Dòng trang sức được thiết kế bởi chính Paris được bán trên trang Amazon; cô nói rằng cô "muốn sản xuất một dòng sản phẩm thật đẹp và có chất lượng tốt, đồng thời giá phải chăng và ai cũng có thể mua được". Dòng trang sức được làm dựa trên chính phong cách của Paris - nữ tính, ve vãn và rạng rỡ - cùng với các hình trái tim, ngôi sao và hình dấu chéo. Mùa thu năm 2004, Paris phát hành cuốn tự truyện viết cùng với Merle Ginsberg mang tên "Lời thú tội của nhà thừa kế" có nhiều sách ảnh và các lời khuyên từ chính bản thân cô. Cuốn sách xếp hạng thứ 7 trên danh sách Những quyển sách bán chạy nhất của New York Times. Lời khuyên của cô "Lúc nào cũng ăn mặc đẹp đẽ, cuộc sống quá ngắn để chìm lỉm giữa mọi người khác", được đưa vào từ điển Oxford những câu nói hay vào tháng 9/2009.Paris tiếp tục hợp tác ra mắt dòng nước hoa tên Parlux, tuy được dự định chỉ ra mắt một số lượng ít, tuy nhiên do nhu cầu tăng mà cô đã quyết định sản xuất thêm vào tháng 12/2009. Theo sau đó là lợi nhuận tăng thêm 47% của nước hoa Parlux. Sau sự thành công của Parlux, cô cho ra mắt theo nhiều hương nước hoa mang tên mình, cùng với một số mùi hương dành cho nam. Paris còn cho ra mắt quyển sách thứ hai của mình tên Your Heiress Dairy: Confess it All to Me vào năm 2005; sau đó cô cho ra mắt dòng nước hoa mới tên Just Me. Sau khi dẫn chương trình Saturday Night Live của đài NBC vào tháng 2/2005 cùng với Keane, cô nhận vai diễn chính thống đầu tiên của mình, cùng với Elisha Cuthbert và Chad Michael Murray trong bộ phim kinh dị "Ngôi nhà sáp" (House of Wax). Bộ phim được trình chiếu đầu tiên tại Liên hoan phim Tribeca vào tháng 5/2005 và nhận được nhiều luồng ý kiến khác nhau. Matthew Turner của View London nói rằng Paris "làm tốt hơn những gì bạn có thể nghĩ". Mặc dù MTV cũng cho rằng Paris diễn "khá tốt", TV Guide lại bảo rằng Paris "bất tài". Vai diễn Paige Edward đem về cho cô giải "Tiếng hét xuất sắc nhất" ở giải Teen Choice và đồng thời cũng được đề cử cho "Màn trình diễn đột phá" dành cho nữ; vai diễn cũng đem về cho cô giải "Diễn viên nữ phụ tệ nhất" năm 2005 thuộc giải Mâm Xôi Vàng. Cô cũng nhận được đề cử cho "Màn trình diễn bị kích động hay nhất" ở giải MTV Movie Awards năm 2006. Ngôi nhà sáp có doanh thu hơn 70 triệu dollar Mỹ. Tháng 5 tới tháng 10/2005, cô đính hôn với nhà thừa kế người Hy Lạp tên Paris Latsis. The Simple Life bị hủy sau 3 mùa trình chiếu vào năm 2005 do có những tranh cãi giữa cô và Nicole Richie. Paris nói "ai cũng biết là tôi với Nicole không còn chơi với nhau nữa. Nicole biết mình đã làm gì và đó là tất cả những gì tôi muốn nói". Cả Nicole và Paris đều không lên tiếng về những tranh cãi của mình, mặc dù có tin đồn cho rằng Nicole đã cho một nhóm bạn của mình xem băng sex của Paris. Họ tái hợp với nhau vào tháng 10/2006. 2006-2007: Paris, phim ảnh và những lần bị tạm giam Sau khi series The Simple Life bị hủy bởi kênh Fox vào năm 2005, những kênh truyền hình khác bao gồm NBC, The WB, VH1 và MTV lại khá hứng thú và muốn làm mùa tiếp theo của series. Ngày 28/11/2005, kênh E! thông báo rằng họ đã sở hữu quyền phát sóng series, bao gồm việc sản xuất cho mùa thứ 4 và quyền phát sóng lại 3 mùa trước đó. Mùa thứ 4 được bắt đầu quay vào ngày 27/2/2006. Mùa mới có tỉ suất người xem cao, tận 1,3 triệu lượt xem. Paris cho ra mắt album ca nhạc đầu tay mang tên của mình là Paris vào ngày 22/8/2006. Nó đã đạt thứ hạng thứ sáu trên bảng xếp hạng Billboard 200, và bán hơn 600,000 bản copy toàn thế giới. Đĩa đơn đầu tay mang tên "Stars Are Blind" được phát trên hơn 125 đài phát thanh ở Mỹ. Bài hát được xem là một bảng hit và có mặt trên top 10 của hơn 17 quốc gia. Mặc dù The Guardian cho rằng giọng hát của Paris "nghe vừa chán vừa cứng", AllMusic lại cho rằng album này "thú vị hơn mấy album của Britney Spears hay Jessica Simpson". Tuy nhiên vẫn có nhiều ý kiến trái chiều. Tháng 9/2006, Paris bị bắt giam và bị cáo buộc với tội danh say xỉn khi lái xe với nồng độ cồn trong máu khoảng 0.08%. Việc này đã gây rắc rối tới việc quay hình của mùa thứ năm của The Simple Life. Bằng lái xe của cô bị treo vào tháng 11/2006, Paris bị buộc tội lái xe ẩu. Bản án dành cho cô là 36 tháng tù treo cùng với tiền phạt 1,500 dollar Mỹ. Phim chiếu bản DVD Bottoms Up được phát hành vào cuối năm 2006. Bộ phim nhận được nhiều ý kiến và nhận xét tiêu cưc; Australia's Urban Cinefile cho rằng Paris trong vai chính, "dành hầu hết thời gian trong phim diễn cảnh cô nàng hất tóc trong khi đọc những lời thoại như là "sách là những gì bạn cần đọc". Tháng 12/2006, phim National Lampoon's Pledge This! do Paris sản xuất và tham gia diễn xuất, được ra mắt giới hạn trước khi được chuyển thẳng thành bản DVD. Paris đã bỏ lỡ lễ ra mắt bộ phim ở Liên hoan phim Cannes như một hành động chống đối vì bộ phim có nhiều cảnh khỏa thân. "Tôi đã rất bực mình tới độ bỏ luôn buổi ra mắt phim của chính mình". Tháng 8/2008, Worldwide Entertainment Group kiện Paris ở Tòa án quận Miami buộc tội cô đã không thực hiện nghĩa vụ quảng bá tuyên truyền cho bộ phim như trên hợp đồng đã thỏa thuận. Catse của Paris cho bộ phim này là 1 triệu dollar Mỹ. Ngày 10/1/2007, Paris ra mắt sản phấm tóc nối mang tên DreamCatchers hợp tác với Hair Tech International. Ngày 22/1/2007, thông tin cũng cuộc sống riêng tư của Paris bị tiết lộ trên trang web ParisExposed.com, website chứa nhiều hình ảnh, tài liệu, video riêng tư và nhiều tài liệu khác được cho là đã được lấy từ một locker lưu trữ dữ liệu mà Paris từng thuê, được bán đấu giá với giá 208 dollar Mỹ. Trang web tính phí cho mỗi lượt xem trên website thu hút hơn 1,2 triệu lượt người xem chỉ trong vòng 40 tiếng đồng hồ. Ngoài ra còn có nhiều tranh ảnh, nhật kí, hợp đồng và thư tình cùng với một video được quay bởi diễn viên Joe Francis của phim Girls Gone Wild. Paris sau đó đã đóng cửa trang web. Tháng 1/2007, Paris không được phép lái xe vì đã treo bằng lái, cô còn phải kí một bản thỏa thuận là mình không được phép lái xe. Tháng sau đó, cô bị bắt gặp đã lái xe với vận tốc 70 km/h trên làn đường chỉ cho phép 35 km/h mà không có đèn chiếu sáng cùng với một bằng lái treo. Công tố viên ở Sở luật Los Angeles đã buộc tội rằng những vi phạm này cùng với việc Paris không thực hiện nghĩa vụ đầy đủ trong chương trình giáo dục sử dụng phương tiện làm cho việc tù treo của Paris trở nên rắc rối. Ngày 4/5, Thẩm phán Michael T Sauer buộc tội Paris với 45 ngày tù giam vì vi phạm. Paris đã nhờ Thống đốc bang California lúc bấy giờ là Arnold Schwarzengger cho án tha bổng. Tuy nhiên sau đó Paris đổi luật sư và từ bỏ việc tìm cách thoát án. Paris bắt đầu án phạt của mình vào ngày 5/6 ở nhà tù nữ ở Lynwood, California sau khi tham gia Giải MTV Movie Awards vào ngày 3/6 trước đó. Ngày 7/6, Cảnh sát trưởng Hạt Los Angeles là Lee Baca đã kí bản án cho Paris hưởng tù treo quản thúc tại gia trong vòng 40 ngày cùng với một thiết bị theo dõi đeo ở cổ chân do Paris có bệnh sử nên cô không thể thực hiện án phạt của mình trong tù. Bace nói "tôi nghĩ rằng những ai không thích người nổi tiếng cho rằng người nổi tiếng nên bị phạt nặng hơn người thường, việc đó rất vô lý và không công bằng". Thấm phán Micheal Sauer cũng ra lệnh triệu hồi Paris tới tòa ngày 8/6 cho bản kháng án của mình bao gồm "không làm việc công ích và không đeo thiết bị theo dõi". Sau khi nghe điều này, thẩm phán Sauer từ chối bản kháng án và Paris vẫn sẽ phải thực hiện án phạt là 45 ngày trong tù. Sau khi nghe phán quyết, Paris đã hét lớn và đòi gặp mẹ của mình. Cô được đưa tới phòng y tế và quay trở lại tù sau đó ở Lynwood vào ngày 13/6. Paris được thả tự do vao ngày 26/6/2007. Trong tù, mục sư Marty Angelo đã khai sáng cho Paris nhiều điêu, bao gồm việc "một khởi đầu mới" trong một bài phỏng vấn với Larry King trong talk show vào ngày 28/6/2007 (2 ngày sau khi được thả tự do) và trích nhiều câu nói khác từ hồi kí của Angelo. Ngày 9/6, Angelo thất bại trong việc kiến nghị với thẩm phán Sauer rằng mình sẽ ở tù giúp Paris nếu như tòa cho phép Paris rời khỏi nhà tù để tiện cho việc chữa trị bệnh. Paris nói với Larry King rằng từ bé cô đã phải dùng thuốc Adderall cho chứng bệnh tăng động giảm chú ý. Vì điều này mà series The Simple Life dừng lại hoàn toàn sau mùa thứ 5 vào tháng 7/2007. Đầu tháng 8, Paris kí bản hợp đồng thỏa thuận với Antebi để cho ra mắt dòng giày dép mang tên Paris Hilton bao gồm cao gót, giày đế thấp, giày đế xuồng và giày thể thao, được dự định sẽ cho ra mắt vào năm 2008. Giữa tháng 8, cô giới thiệu dòng sản phẩm bao gồm áo quần, đầm váy, áo khoác và quần jeans ở Kitson Boutique ở Los Angeles. Paris cho rằng đây là "giấc mơ thành hiện thật", mô tả dòng sản phẩm của mình "rất vui tươi, tươi sáng và hào nhoáng". Vào tháng 12/2007, cô chụp ảnh khỏa thân (đã được phủ với sơn vàng) để quảng cáo cho rượu "Rich Prosecco" phiên bản đóng lon, đồng thời cũng bay tới Đức để thực hiện quảng cáo cho nhãn hiệu này. Cùng lúc đó, ông nội của cô là Barron Hilton đã quyên góp 97% tài sản của mình cho quỹ từ thiện được thành lập bởi ông cố Conrad N. Hilton: quỹ Conrad N. Hilton. Vì thế, quyền thừa kế cho các cháu bao gồm Paris bị giảm đi. Năm 2007, Paris làm mẫu cho 2 B Free và ra mắt dòng nước hoa thứ tư của mình mang tên Can Can. 2008-2009: Tập trung diễn xuất và chương trình My new BFF Tình yêu đối với chó đã khiến Paris ra mắt dòng sản phẩm dành riêng cho thú cưng tên Little Lilly by Paris Hilton, một phần lợi nhuận sẽ được quyên cho quỹ cứu trợ động vật. "Tôi có 17 chú chó và tôi rất thích diện đồ cho bọn chúng, vì thế tôi bắt đầu thiết kế dòng sản phẩm cho thú cưng, nó thật sự rất dễ thương như đầm và quần jeans - những thứ mà chỉ con người có thể mặc được, nhưng lại dành cho những chú chó cưng", Paris trả lời phỏng vấn trong lúc diễn ra giải Super Bowl. Tháng 4/2008, cô xuất hiện trong một tập phim từ show "Tên tôi là Earl" tên "Tôi sẽ không chết chỉ với một sự giúp đỡ từ bạn bè". Ngày 6/8/2008, Paris xuất hiện trong một đoạn phim trên mạng tên "Paris trả lời đoạn quảng cáo của McCain" được đạo diễn bởi Adam McKay, video được đăng trên trang web Funny or Die. Trong đoạn video, Paris đóng vai nhại lại một quảng cáo mang tên "Celeb" thuộc chiến dịch tranh cử tổng thống của John McCain năm 2008. Trong "Celeb", McCain so sánh Barack Obama giống như người nổi tiếng cỡ Paris Hilton và Britney Spears, nêu lên tranh cãi về việc liệu Obama có đủ khả năng và chỉ trích năng lực chính trị của Obama. Tờ Washington nói rằng đây "có thể là vai diễn hay nhất của cô ấy", Paris mặc một bộ đồ bơi in hình da báo trong video. Thu hút 7 triệu lượt xem chỉ trong 2 ngày và nhận được vô số nhận xét từ khắp mọi nơi. Trong tháng 10 sau đó, cô cũng xuất hiện trong parody mang tên Funny or Die, tên "Paris Hilton đối thoại về tổng thống với Martin Sheen", cùng với Martin Sheen, con trai của diễn viên Charlie Sheen. Paris mặc một chiếc váy ngủ màu xanh lá và make up đậm, bàn luận về những vấn đề chính trị với Martin Sheen đóng vai cánh hữu. Một bộ phim tài liệu về cô tên Paris, Not France được lên sóng ở Liên hoan phim quốc tế Toronto năm 2008. Trong phim tài liệu, Paris nói về việc hình ảnh của cô trong mắt công chúng và truyền thông, "Tôi bị đánh giá mọi lúc mọi nơi, còn họ thì chỉ mặc sức tự vẽ lên hình ảnh một con người hoàn toàn khác với bản thân tôi, tôi không thể làm được gì". Tại buổi công chiếu bộ phim, đạo diễn Adria nói rằng "làm nên một bộ phim như thế này sẽ không tốt cho cô ấy trong thời điểm quá khứ, nhưng bây giờ ai cũng biết cô ấy và để thấy được một mặt khác của con người cô ấy là một điều thú vị". Bộ phim được chiếu trên đài MTV vào tháng 7/2009. Paris đóng vai chính trong show truyền hình "Paris Hilton's My New BFF", chương trình chủ yếu về việc Paris tìm người bạn thân mới; series được ra mắt vào ngày 30/9/2008. Cùng ngày Paris cũng phát hành ca khúc "My BFF" (bài hát chủ đề của show) trên KIIS FM cùng với Ryan Seacrest dẫn chương trình. Series thu hút hơn 1,2 triệu lượt người xem ở tập đầu tiên và đạt 1.6 tỉ suất người xem lứa tuổi 12 tới 34 tuổi được lên sóng vào tối thứ ba lúc 10 giờ tối. Kế hoạch tiếp theo của Paris chương trình nhạc kịch Gothic Rock tên Repo! The genetic opera. Cô đóng vai Amber Sweet, cô con gái nghiện chất kích thích của một nhà công nghệ sinh học. Horror.com nói rằng "đây có lẽ là vai diễn tốt nhất Paris tới thời điểm này". Tuy nhiên Jam! Movies lại cho rằng cô chỉ bất tài. Paris phản bác lại "được giao một vai diễn như thế này thật sự là 1 điều mới mẻ vì đó giờ tôi chỉ được giao những vai diễn chính mình trên phim". Paris được để cử cho giải Nữ diễn viên phụ tệ nhất của Giải Mâm xôi vàng nâm 2009. Bộ phim được ra mắt tại hội chợ Comic-Con quốc tế và chỉ được chiếu một thời gian ngắn ở Mỹ và Canada vào ngày /11/2008. Repo! có doanh thu mở màn tốt trong tuần đầu tiên công chiếu, thu về 51,600 dollar Mỹ ở 8 rạp chiếu phim. Tầm thời điểm đó, Paris cũng cho ra mắt dòng nước hoa thứ năm của mình tên Fairy Dust, đồng thời cũng chia tay với tay chơi guitar Benji Madden của nhóm nhạc Good Charlotte sau gần 1 năm hẹn hò. Sau phiên bản Mỹ có thành công nhất định, phiên bản show truyền hình "Paris's My New BFF" phiên bản Anh được lên sóng trên kênh ITV2 ở Anh vào ngày 29/1/2009. Trước đó, show đã được ghi hình vào tháng 10/2008. Mặc dù series được xem là thành công nhưng nó chỉ có 428,000 lượt người xem ở tập đầu tiên và 605,000 lượt xem cho tập cuối. Mùa thứ hai của chương trình được phát hành vào ngày 2/6/2009. Á quân của phiên bản Anh là Kat McKenzie, mất vào ngày 3/7/2009 do bị nghi sốc chất kích thích. Vào tháng 6, Paris quay chương trình ở Dubai, và được chiếu vào năm 2011. Cô cũng xuất hiện trong tập 5 của phim truyền hình Supernatural mùa thứ 5. Tháng 7/2009, dòng nước hoa thứ sáu của cô là Siren được giới thiệu và thậm chí còn thắng giải Nước hoa người nổi tiếng nữ của năm tại giải Fifi năm 2009. Cô cũng tham gia thiết kế kính mát cho Gripping Eyewear. Cô giới thiệu dòng kính mát của mình vào ngày 7/10/2009 và chính thức lên kệ vào tháng 3/2010 sau đó. Tháng kế tiếp, cô ra mắt dòng sản phẩm chăm sóc bao gồm dầu gội, dầu xả và vitamin dành cho tóc. Cùng năm, Paris bắt đầu hẹn hò ngôi sao The Hills là Doug Reinhardt tuy nhiên hai người chia tay vào tháng 4/2010 sau khi Paris e ngại rằng Doug chỉ hẹn hò với cô để làm bàn đạp cho sự nghiệp. 2010-2012: Vấn đề pháp lý, quay trở lại làm ngôi sao truyền hình thực tế và sự nghiệp DJ. Tháng 2/2010, cô tham gia một quảng cáo cho hãng bia đến từ Brazil mang tên Devassa Bem Loura, slogan của hãng được dịch thẳng ra tiếng Anh là "con ả tóc vàng hoa". Là một phần của chiến dịch quảng bá, cô cưỡi trên một bóng hơi hình thùng đựng bia ở lễ hội Carnival Rio. Ngày 2/7, Paris bị bắt gặp hút cần sa trong lúc diễn ra trận đấu giữa Brazil và Hà Lan thuộc khuôn khổ World Cup 2010. Mặc dù đã bị dẫn ra khỏi sân vận động bởi cảnh sát địa phương, vụ việc chìm xuồng không lâu sau đó. Người phát ngôn của cô là Dawn Miller lên tiếng rằng "sự việc chỉ là hiểu lầm thật ra là do có người trong nhóm đã hút cần sa chứ không phải Paris". Hai tuần sau, Paris bị bắt và thả ngay sau đó sau khi bị phát hiện có chứa cần sa tại sân bay Figari Sud-Corse ở Corsica. Ngày 10/8/2010, Paris ra mắt dòng nước hoa thứ 10 mang tên Tease, được lấy cảm hứng từ Marilyn Monroe. Ngày 19/8, cô ra mắt dòng thời trang giày ở Las Vegas, trong bài phỏng vấn về dòng sản phẩm có giá từ 60 tới 160 dollar Mỹ, cô nói rằng cô "đã lựa thiết kế, chất liệu và màu sắc cũng như làm sao để nó có thể thoải mái nhất cho người dùng". Cùng tháng đó, cô cũng bị giam giữ bì tình nghi hút ma túy ở Las Vegas cùng với bạn trai lúc bấy giờ là Cy Waits, bị buộc tội lái xe trong lúc phê chất kích thích. Luật sư của Paris nói rằng chiếc túi xách đựng 800gr ma túy không phải của cô, "chiếc túi đến từ thương hiệu cao cấp nhưng không có nghĩa là nó thuộc về Paris". Sau đó Paris thừa nhận rằng tiền mặt và thẻ tín dụng từ chiếc túi xách là của mình, gián tiếp thừa nhận rằng ma túy cũng là của cô. Paris bị buộc tội với 2 tội danh vào ngày 17/9/2010. Paris hưởng 1 năm tù treo, 200 giờ hoạt động công ích xã hội và án phạt 2,000 dollar Mỹ cũng như phải hoàn thành lớp giáo huấn về chất kích thích. Luật sư David Rogers cho rằng "Nếu như cô ấy bị giam giữ vì tội vi phạm luật giao thông nhỏ thôi cũng đủ cho cô ấy vô tù ngồi trong 1 năm. Sẽ không có bàn tới bàn lui gì cả". Ngày 21/9/2010, trên đường tới Tokyo quảng bá cho dòng thời trang và nước hoa, Paris cùng em gái là Nicky Hilton bị nhân viên xuất nhập cảnh giữ lại tại sân bay Narita do những cáo buộc sử dụng chất kích thích trước đó. Do luật cấm chất kích thích hà khắc ở Nhật, những ai có liên quan tới sử dụng chất kích thích sẽ bị cấm nhập cảnh vào Nhật. Nhân viên sân bay điều tra cả hai "hàng tiếng đồng hồ", dẫn tới việc cả hai phải qua đêm ở khách sạn trong sân bay. Ngày 22/9, Nhật Bản cấm Paris nhập cảnh vào Nhật, sau đó Paris bay về Mỹ bằng máy bay riêng. Những điểm dừng khác trong chương trình quảng bá như Indonesia và Malaysia cũng bị hủy bỏ do luật cấm chất kích thích. Cuốn phim tài liệu tên Teenage Paparazzo có Paris xuất hiện được lên sóng trên kênh HBO ngày 27/9. Cô lồng tiếng cho nhân vật Bella trong bộ phim đài ABC tên "Chú chó cứu lấy kì nghỉ Giáng Sinh", đây là vai lồng tiếng đầu tiên của cô, Paris phát biểu: "Tôi nghĩ đây là một bộ phim rất đáng yêu" và "Tôi rất thích những bộ phim về động vật, cũng như phim chủ đề Giáng Sinh, bà của tôi mất vài năm về trước vì căn bệnh ung thư vú, cũng có một chú chó lông xù tên Paris như thế. Khi xem bộ phim này tôi có cảm giác như đang xem chú cún của bà mình vậy". Bộ phim được lên sóng vào ngày 28 tháng 11 năm 2010 và nhận được nhiều phản hồi tích cực với 2,611 triệu lượt xem. Tháng 12 năm 2010, cô ra mắt đội xe đua của mình trong khi một trong những tài xế của cô là Maverick Vinales thắng giải đấu và đạt thứ hạng thứ 3 trong giải đua 125cc phân khối vào tháng 11 sau đó. Paris làm mẫu lần thứ 2 cho Tuần lễ thời trang Brazil năm 2011 (lần đầu tiên là vào đầu năm 2010). Tháng 2, cô giới thiệu dòng nước hoa mới mang tên The Passport Collection, được lấy cảm hứng từ những thành phố lớn như Paris, South Beach, Florida và Tokyo. Tháng tiếp theo, cô giới thiệu dòng sản phẩm giày dép ở Mexico. Vào khoảng thời gian đó, cô cũng ra mắt ứng dụng di động tương thích với iPhone và iPod Touch. Ngày 12 tháng 5 năm 2011, cô mở cửa hàng thứ 3 ở Philippines. Cửa hàng tọa lạc ở trung tâm thương mại Abreeza ở thành phố Davao, bày bán các mặt hàng bao gồm túi xách, hoa tai, ví, dây thắt lưng và nước hoa. Vào ngày 1/6, cô trở lại tham gia chương trình thực tế mang tên "Oxygen's The World According to Paris". Chương trình theo sát những sự kiện thực tế trong cuộc sống hàng ngày của Paris, thu hút 409 ngàn lượt xem. Đây không phải là số người xem quá cao, khiến cho nhiều người nghĩ rằng danh tiếng của Paris không còn như xưa. Tờ New York Times nói rằng cô "là một người phụ nữ hấp dẫn với tài năng đã được kiểm chứng cho việc tự quảng bá bản thân cũng như tự marketing, mặc dù là một ngôi sao truyền hình thực tế không còn nổi danh như xưa, giống như Sony Walkman trong thời đại iPod, hay Friendster trong thời đại của Facebook" kèm theo "Paris có nhiều bạn trai, cũ cũng như mới. Paparazzi vẫn săn đón cô nhưng bây giờ Paris không còn thu hút một lượng lớn khán giả như xưa nữa - ngay cả việc lên sóng trực tiếp về những buổi công chiếu phim trên Facebook cũng vô tác dụng". Cô xuất hiện cùng với bạn trai của mình là một chủ nightclub, tên Cy Waits, chia tay vào tháng 6 cùng năm. Cô được phong danh hiệu "Doanh nhân triệu đô" bởi tạp chí Variety và được lên trang bìa cho ấn bảng cùng tháng. Paris khai trương cửa hàng thứ 4 ở Philippines vào ngày 18 tháng 8 năm 2011. Vào tháng 9, cô giới thiệu dòng sản phẩm giày dép ở Istanbul; một cửa hàng nữa được mở ở Ấn Độ, là tiền đề cho 8 cửa hàng tiếp theo. Cô cũng làm mẫu cho nhà thiết kế Andre Tan trong Tuần lễ thời trang Ukraine vào tháng 10 năm 2011. Đầu năm 2012, Paris ra mắt dòng sản phẩm kính mát ở Thượng Hải, và tự gọi "đây là một thành công lớn". Sau đó cô bắt đầu sự nghiệp làm DJ của mình ở một chương trình nhạc hội ở Brazil, giới thiệu đĩa đơn "Last night" (được sản xuất bởi Afrojack). Mặc dù nhận được nhiều phản hồi tiêu cực từ DJ Deadmau5, Samantha Ronson và Afrojack sau khi màn trình diễn của cô được đăng trên Youtube, DJ Poet, người hâm mộ và khán giả có mặt tại sự kiện lại khen ngợi cô. Sau màn trình diễn đó, cô trở thành chủ đề được bàn tán nhiều nhất trên Twitter. "Last night" sau đó được đưa lại cho Pitbull và xuất hiện trong album Global Warming hợp tác Havanna Brown là ca sĩ hát chính. Dòng sản phẩm giày dép của Paris được vinh danh là dòng sản phẩm người nổi tiếng tốt nhất tại Lễ trao giải trao thưởng quốc tế năm 2012, cô cũng cho ra mắt dòng nước hoa thứ 15 của mình tên Dazzle. Cô xuất hiện trong video ca nhạc của ca sĩ người Hàn Quốc Kim Jang Hoon, video được quay tại bãi biển Malibu trong 2 ngày 24 và 25 tháng 8 năm 2012. Người đại diện của Kim Jang Hoon phát biểu rằng có nhiều sao nữ đã được nhắm cho vai diễn này bao gồm Jessica Alba và Scarlett Johansson. Paris được chọn bởi vì sau một cuộc khảo sát, người Hàn biết cô ấy nhiều hơn những người còn lại. Có tin cho rằng cô đã được trả thù lao 1 triệu đôla, video được ra mắt dưới định dạng 3D vào tháng 10 năm 2012. Ngày 20 tháng 9 năm 2012, một đoạn băng thoại trong đó có giọng của Paris mỉa mai người đồng tính xuất hiện trên Internet. Sau khi bị chỉ trích dữ dội, cô lên tiếng xin lỗi thông qua GLAAD và nói rằng mình luôn ủn hộ cộng đồng đồng tính và nói rằng những người đồng tính là những người mạnh mẽ và truyền cảm hứng nhất mà mình từng biết. Vì sự kiện này mà đài Logo TV đã hủy bỏ kế hoạch lên sóng phim tài liệu về Paris. Cùng tháng đó, Paris bắt đầu hẹn hò với người mẫu nam Tây Ban Nha River Viiperi và khai trương một cửa hàng ở Mecca vào đầu tháng 11. Được xem là "thánh đường của người Hồi Giáo" và Ả Rập Xê Út là đất nước khá bảo thủ, những vấn đề về đời tư của Paris bắt đầu lan truyền trên Twitter. Đầu tháng 12, cô làm mẫu cho nhà thiết kế Shane và Falguni Peacock ở Tuần lễ Thời trang Ấn Độ, cũng như đảm nhận vai trò DJ. Giống như buổi diễn ra mắt của mình, nhiều khán giả có mặt tại chương trình rất yêu thích và ủng hộ, trong khi người xem trên Youtube lại chỉ trích nặng nề. 2013-hiện tại: Quay trở lại sự nghiệp âm nhạc và những kế hoạch khác Tháng 1 năm 2013, Paris xuất hiện trong 4 tập của chương trình Paradise Hotel phiên bản Đan Mạch, và được trả thù lao $300,000. Cô cũng xuất hiện trong 2 tập của "The Real Housewives of Beverly Hills", có dì của cô là Kyle và Kim Richards thủ vai. Vào tháng 4, cô mở cửa hàng thứ 44 ở Botoga, Colombia. Tháng 5, video ca nhạc của Rich Gang là "Tapout", cô xuất hiện cùng với Lil Wayne, Christina Milian và Nicki Minaj được ra mắt. Cùng tháng, có tin rằng Paris kí hợp đồng với hãng thu âm Cash Money và lên kế hoạch ra mắt album thứ hai hợp tác với RedOne, Snoop Dogg và Flo Rida. Cô nói với tạp chí Rolling Stone "Tôi đang làm việc với những người thật tuyệt vời vài tài năng cho album của mình và rất mong muốn được chia sẻ với khán giả và người hâm mộ", miêu tả album sắp tới "rất đa dạng". Tháng tiếp theo đó, Paris xuất hiện trong bộ phim The Bling Ring của đạo diễn Sofia Coppola, nói về một băng trộm tuổi teen đã đột nhập các căn hộ của nhiều người nổi tiếng bao gồm Paris, Lindsay Lohan và Orlando Bloom. Paris cho Coppola mượn nhà của mình để quay phim trong 2 tuần. Trong một bài phỏng vấn với The Hollywood Reporter, cô nói rằng Sofia rất thích nhà của cô khi Sofia tới dự tiệc sinh nhật của Paris. Đạo diễn Coppola nói "Tôi rất muốn được quay phim ở căn nhà của cô ấy, nó rất khác biệt. Vì thế sẽ rất khó để tái dựng lại ngôi nhà to lớn như vậy của Paris" Suốt tháng 8 năm đó, Paris làm DJ ở tuần lễ lệ hội Amnesia ở Ibiza. Nhận được sự ủng hộ từ khán giả và nhà phê bình âm nhạc giúp cô được gia hạn hợp đồng vào năm 2014. Vào tháng 10, cô phát hành đĩa đơn đầu tiên từ album phòng thu thứ hai của mình mang tên "Good Time" hợp tác với rapper Lil Wayne. Đĩa đơn đạt thứ hạn 18 trên bảng xếp hạng nhạc dance và nhạc điện tử. Đĩa đơn thứ hai "Come alive" được ra mắt vào tháng 7 năm 2014. Vào tháng 4 năm 2015, cún cưng của Paris từng xuất hiện trong The Simple Life đã qua đời ở tuổi 14. Đĩa đơn thứ 3 "High Off My Love" được phát hành và đạt thứ hạng thứ 3 trên bảng xếp hạng Billboard nhạc dance Mỹ. Tháng 1 năm 2016, bài hát "Crazy" hợp tác với DJ Poet được ra mắt. Paris đính hôn với người mẫu và diễn viên Chris Zylka vào tháng 1 năm 2018. Cô cũng phát hành bài hát "I need you" vào lễ Valentine năm 2018 và gửi tặng tới vị hôn phu của mình. Danh sách phim và giải thưởng Tham khảo Liên kết ngoài Nhân vật còn sống Nữ ca sĩ nhạc pop Mỹ Nữ diễn viên đến từ thành phố New York Nữ diễn viên điện ảnh Mỹ Nữ diễn viên Mỹ thế kỷ 21 Nữ diễn viên truyền hình Mỹ Nhà tạo mẫu Mỹ Sinh năm 1981 Người Mỹ gốc Anh Người Mỹ gốc Na Uy Giải Mâm xôi vàng Diễn viên nữ chính tồi nhất Ca sĩ Mỹ thế kỷ 21 Người viết hồi ký Mỹ Người Mỹ gốc Đức Người Mỹ gốc Ireland Người Mỹ gốc Ý Nữ nhà văn Mỹ Người viết hồi ký nữ Người thành phố New York Nghệ sĩ của Warner Bros. Records Nữ diễn viên Los Angeles Nữ người mẫu Mỹ Doanh nhân Los Angeles Nhà từ thiện từ California Nữ ca sĩ thế kỷ 21 Ca sĩ nhạc pop Mỹ Người Mỹ gốc Scotland
28129
https://vi.wikipedia.org/wiki/Shche%20ne%20vmerla%20Ukrayina
Shche ne vmerla Ukrayina
"Shche ne vmerla Ukraina" (tiếng Ukraina: Ще не вмерла Україна tức là "Ukraina bất diệt") là quốc ca của Ukraina. Nhạc sĩ Mikhailo Verbytsky, một người theo đạo Thiên chúa và là cha cố, đã sáng tác phần nhạc từ năm 1863 để đi kèm phần lời do Pavlo Chubynsky viết. Năm 1917, nó trở thành quốc ca của Nước Cộng hòa Nhân dân Ukraina dù nước này tồn tại trong thời gian ngắn. "Shche ne vmerla Ukraina" được cất lên như là Quốc ca trong lễ nhậm chức của Tổng thống đầu tiên của Ukraina, Leonid Kravchuk, và ngày 5 tháng 12 năm 1991. Hiến pháp năm 1996 lấy nhạc của Verbytsky làm chủ đề cho Quốc ca, còn phần lời được 2/3 Thượng viện lựa chọn. Ngày 6 tháng 3 năm 2003, Quốc hội Ukraina đã chọn phần lời sau khi sửa đổi chút ít nguyên bản của Chubynsky. Lịch sử Sáng tác quốc ca Ukraina bắt đầu vào mùa thu năm 1862 trong một bữa tiệc của Pavlo Chubynsky. Một số nghiên cứu tin rằng Quốc ca Ba Lan - "Jeszcze Polska nie zginęła" (Ba Lan bất diệt), sau này trở thành quốc ca của nước này, nhưng đã có từ năm 1797 và Ba Lan, cũng có ảnh hưởng đến lời bài hát của Chubynsky. Vào thời điểm đó, quốc ca Ba Lan đã rất phổ biến trong các quốc gia Đông Âu của cựu Thịnh vượng chung Ba Lan, khi họ bắt đầu những cuộc đấu tranh giành độc lập: một vài tháng sau khi Chubynsky đã viết lời bài hát của mình, khởi nghĩa tháng Giêng bắt đầu. Tương tự như vậy, chịu ảnh hưởng từ quốc ca Ba Lan, nhà thơ Slovak Samo Tomášik đã viết bài hát "Hej, Slováci" (Này! người Slav), mà sau này trở thành bài quốc ca của Nam Tư từ năm 1944 đến năm 2003. Việc sử dụng rộng rãi lời bài hát của Chubynsky trong những người Ukrainophiles (những người có cảm tình với Ukraina) rất nhanh. Vào ngày 20 cùng năm đó Chubynsky đã viết lời bài hát, người đứng đầu cảnh binh - Hoàng tử Vasily Dolgorukov ra lệnh trục xuất Chubynsky với tội danh "gây ảnh hưởng nguy hiểm trong suy nghĩ của dân thường" và ông sống lưu vong tại tỉnh Arkhangelsk. Bài thơ của Chubynsky lần đầu tiên được công bố chính thức vào năm 1863 khi nó xuất hiện trong ấn bản thứ tư tạp chí Meta của Lviv. Ngay sau khi bài thơ trở nên phổ biến ở miền Tây Ukraine, nó đã được nhận thấy bởi các giáo sĩ Ukraina. Lấy cảm hứng từ bài thơ của Pavlo Chubynsky, linh mục Mykhailo Verbytsky của Giáo hội Công giáo Hy Lạp Ukraina, một nhà soạn nhạc nổi tiếng người Ukraina, đã quyết định viết nhạc cho nó. Năm 1865, bài thơ của Chubynsky được xuất bản lần đầu cùng với bản nhạc của Verbytsky. Lần đầu được hợp xướng vào năm 1864 tại Nhà hát Ukraine ở Kiev. Bản thu âm đầu tiên của "Shche ne vmerla Ukrayiny ni slava ni volya" ("Szcze ne wmerla Ukrainy ni slava ni volya") bằng tiếng Ukraina được phát hành trên một bản ghi vinyl của Công ty thu âm Columbia vào năm 1916. Là một bài hát dân gian được thực hiện bởi một người di cư người Ukraine từ Lviv và cư dân New York Mychajlo Zazulak vào năm 1915. Tuy nhiên, bài thơ của Chubynsky đã không được sử dụng như một bài quốc ca cho đến năm 1917, khi nó được thông qua bởi Cộng hòa Nhân dân Ukraina. Tuy nhiên, ngay cả trong năm 1917–21, "Shche ne vmerla Ukrayina" đã không được chấp nhận theo luật định là một bài quốc ca chính thức như những bài quốc ca khác cũng được sử dụng vào thời điểm đó. Trong khoảng thời gian từ năm 1918 đến năm 1919, bài thơ của Chubynsky cũng được sử dụng như một bài quốc ca của Cộng hòa Nhân dân Tây Ukraina. Năm 1939, "Shche ne vmerla Ukrayiny i slava i volya" đã được thông qua như là bài ca chính thức của khu tự trị Carpatho-Ukraina bên trong Tiệp Khắc. Thời kỳ Xô Viết Khi Ukraina ký Hiệp ước về việc thành lập Liên Xô với Nga, Ngoại Kavkaz và Byelorussian vào năm 1922, Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết được thành lập, quốc ca đã bị chế độ Xô viết cấm ngay lập tức. Vào buổi đầu tiên của Liên Xô, khi quyết định rằng mỗi nước cộng hòa Xô viết nên có bài quốc ca riêng, bài thơ "Shche ne vmerla Ukrayina" đã bị từ chối để ngăn chặn chủ nghĩa ly khai ở Ukraina. Các nhà cầm quyền Liên Xô tuyên bố rằng Ukraina là một quốc gia nằm trong Liên Xô, đó là "bình đẳng giữa những người bình đẳng, tự do trong số những người tự do" và nó nhất thiết phải đề cập đến chủ nghĩa cộng sản. Nhiệm vụ này được thực hiện bởi Pavlo Tychyna, phiên bản của "Zhyvy, Ukrayino, prekrasna i syl'na" (Quốc ca Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết Ukraina) là bài hát chính thức của Ukraina từ 1949 đến 1991. Anton Lebedynez đã viết nhạc cho nó. Ca khúc này không bao giờ trở nên phổ biến tại Ukraina và thời Xô Viết, quốc ca Liên Xô được trình diễn trong hầu hết các sự kiện chính thức ở Ukraina. Lời "Shche ne vmerla Ukrainy ni slava ni voly" được hát như là bài quốc ca trên thực tế tại lễ nhậm chức của Tổng thống đầu tiên Leonid Kravchuk vào ngày 5 tháng 12 năm 1991, nhưng đến tận ngày 6 tháng 3 năm 2003, bài thơ của Chubynsky chính thức trở thành một phần của Quốc ca Ukraina. Vào ngày 6 tháng 3 năm 2003, Verkhovna Rada đã chấp nhận lời bài hát chính thức của ca, chọn sử dụng câu đầu tiên và điệp khúc từ bài thơ của Chubynsky, trong khi sửa đổi một chút đoạn đầu tiên của nó. Thay vì nói "Ukraina vẫn chưa chết, không phải sự vinh quang của Người, cũng không phải tự do của Người" (tiếng Ukraina: Ukrainianе не вмерла Україна, ні слава, ні воля), khái niệm về Ukraina "đã chết" như một quốc gia đã bị xóa sổ: "Vinh quang của Ukraina vẫn chưa tắt, cũng không phải tự do của Người" (tiếng Ukraina: Ukrainianе не вмерла України, і слава, і воля). Điều 20 Hiến pháp của Ukraina (ngày 28 tháng 6 năm 1996) chỉ định âm nhạc của Verbytsky cho bài quốc ca: Quốc ca của Ukraina là quốc ca được đặt theo âm nhạc của M. Verbytsky, với những từ được xác nhận bởi luật được thông qua bởi không ít hơn hai phần ba thành phần hiến pháp của Verkhovna Rada của Ukraina. Lời chính thức Lời chính thức từ năm 2003 Lời gốc của Chubynsky Khổ thơ đầu trong bài thơ gốc của Chubynsky tương tự như khổ thơ đầu của quốc ca các nước Ba Lan, Nam Tư, và Israel. Bản gốc xuất bản năm 1863: Bản gốc tiếng Ukraine Ще не вмерла України, і слава, і воля! Ще нам браття-Українці, Усміхнеться доля! Згинуть наші вороженьки, Як роса на сонці; Запануємъ, браття й ми У своїй сторонці. Душу й тіло ми положим За нашу свободу І покажем, що ми браття Козацького роду. Гей-гей, браття миле, Нумо братися за діло! Гей-гей пора встати, Пора волю добувати! Наливайко, Залізнякъ И Тарас Трясило Кличуть насъ изъ-за могилъ На святеє діло. Изгадаймо славну смерть Лицарства-козацтва, Щобъ не втратить марне намъ Своєго юнацтва. Душу, тіло... Ой Богдане, Богдане Славний нашъ гетьмане! На-що віддавъ Україну Москалям поганимъ?! Щобъ вернути іі честь, Ляжемъ головами, Назовемся України Вірними синами! Душу, тіло... Наші браття Славяне Вже за зброю взялись; Не діжде ніхто, щобъ ми По-заду зістались. Поєднаймось разомъ всі, Братчики-Славяне: Нехай гинуть вороги, Най воля настане! Душу, тіло... Chuyển ngữ tiếng Latin Šče ne vmerla Ukrajiny, i slava, i volja Šče nam, brattja-Ukrajinci, Usmichnetjsja dolja! Zhynutj naši voroženjky, Jak rosa na sonci; Zapanujem, brattja j my U svojij storonci. Dušu, tilo, my pložym Za našu svobodu I pokažem, ščo my brattja Kozacjkoho rodu. Hej-hej, brattja myle, Numo bratysja za dilo! Hej-hej, pora vstaty, Pora volju dobuvaty! Nalyvajko, Zaliznjak Y Taras Trjasylo Klyčutj nas yz-za mohyl Na svjateje dilo Yzhadajmo slavnu smertj Lycarctva-kozactva, Ščob ne vtratytj marne nam Svojeho junactva. Dušu, tilo... Oj Bohdane, Bohdane Slavnyj naš hetjmane! Na-ščo viddav Ukrajinu Moskaljam pohanym?! Ščob vernuty ii čestj Ljažem holovamy Nazovemsja Ukrajiny Virnymy synamy! Dušu, tilo... Naši brattja Slavjane Vže za zbroju vzjalysj; Ne dižde nichto, ščob my Po-zadu zistalysj. Pojednajmosj razom vsi, Bratčyky-Slavjane: Nechaj hynutj vorohy, Naj volja nastane! Dušu, tilo... Bản dịch Ukraina vinh quang và tự do, Vẫn chưa gục ngã! Hỡi những người Ukraina dũng cảm, Số phận sẽ mỉm cười! Kẻ thù của chúng ta rồi sẽ chết Như sương sớm phải ánh mặt trời; Chúng ta sẽ cai trị Trong đất nước chúng ta. Linh hồn và cơ thể chúng ta ngã xuống Cho tự do của chúng ta Và để thiên hạ ngưỡng mộ anh em ta Dòng giống Kazakh ngàn năm, Này, những người anh em thân yêu Hãy trở lại chiến đấu Này, này thời gian tăng dần Thời gian để đạt được tự do! Nalyvaiko, Zalizniak And Taras Triasylo Call us from beyond the grave To the holy battle. Recall the famous death of Chivalrous Cossacks Not to lose vainly Our youth. Soul and body... Oh Bohdan, Bohdan Our great hetman What for did you give Ukraine To wretched muscovites?! To return her honor, We lay our heads We shall call ourselves Ukraine's Faithful sons! Soul and body... Our Slavic brothers Already took up arms No one shall see That we should stay behind. Unite together all, Brothers Slavs: So that enemies perish, And freedom comes! Soul and body... Bản sao chép Được sử dụng trước năm 2003 Ukrainian original Ще не вмерла України ні слава, ні воля. Ще нам, браття-українці, усміхнеться доля. Згинуть наші вороженьки, як роса на сонці, Запануєм і ми, браття, у своїй сторонці. Приспів (×2) Душу й тіло ми положим за нашу свободу, І покажем, що ми, браття, козацького роду! Станем браття, в бій кривавий, від Сяну до Дону В ріднім краю панувати не дамо нікому. Чорне море ще всміхнеться, дід Дніпро зрадіє, Ще на нашій Україні доленька наспіє. Приспів (×2) А завзяття, праця щира свого ще докаже, Ще ся волі в Україні піснь гучна розляже. За Карпати відіб'ється, згомонить степами, України слава стане поміж народами. Приспів (×2) Roman transliteration Šče ne vmerla Ukrajiny, ni slava, ni volja, Šče nam, brattja ukrajinci, usmichnetjsja dolja. Zhynutj naši voroženjky, jak rosa na sonci, Zapanujem j my, brattja, u svojij storonci. Refrain (×2) Dušu y tilo my položym za našu svobodu, I pokažem, ščo my, brattja, kozacjkoho rodu! Stanem brattja, v bij kryvavyj, vid Sjanu do Donu V ridnim kraju panuvaty ne damo nikomu. Čorne more šče vsmichnetjsja, did Dnipro zradije, Šče u našij Ukrajini dolenjka naspije. Refrain (×2) A zavzjattja pracja ščyra svoho šče dokaže, Šče sja voli v Ukrajini pisnj hučna rozljaže. Za Karpaty vidib'jetjsja zhomonytj stepamy, Ukrajiny slava stane pomiž narodamy. Refrain (×2) English translation Ukraina bất diệt, nor her glory, nor her freedom, Khi chúng ta, những người Ukraina, số phận rồi sẽ lại mĩm cười. Kẻ thù của ta rồi sẽ chết, như sương sớm phải ánh mặt trời, Và anh em hỡi, chúng ta sẽ cai trị trong vùng đất tự do của chúng ta. Điệp khúc (×2) Linh hồn và cơ thể chúng ta sẽ nằm xuống, tất cả vì sự tự do của chúng ta, Để thiên hạ ngưỡng mộ anh em chúng ta, dòng giống Kakazh ngàn năm. Anh em hỡi, hãy đứng lên, trong những trận chiến đẫm máu từ Syan đến Don, Chúng ta không cho phép kẻ thù cai trị đất của chúng ta. Biển Đen sẽ mỉm cười, và Dnepr sẽ vui mừng, Vì may mắn của Ukraina sẽ bùng cháy lần nữa. Refrain (×2) Our persistence and our sincere toils will be rewarded, And freedom's song will throughout all of Ukraine resound. Echoing off the Carpathians, and across the steppes rumbling, Ukraine's fame and glory will be known among all nations. Refrain (×2) Ghi âm Tham khảo Liên kết ngoài Lời hát bằng MP3 Luật Ukraina về Quốc ca – từ website của Nghị viện (tiếng Ukraina) Quốc ca Bài hát Ukraina Lịch sử Ukraina Bài hát năm 1863 Quốc ca châu Âu Biểu tượng quốc gia Ukraina Âm nhạc Ukraina
28134
https://vi.wikipedia.org/wiki/RealPlayer
RealPlayer
RealPlayer (có lúc khi được gọi là RealOne) là trình đa phương tiện do RealNetworks cung cấp, nó chơi nhiều định dạng phương tiện bao gồm MP3, MPEG-4, và QuickTime, cùng với nhiều thế hệ codec RealAudio và RealVideo. Chức năng Chơi những Hồ Sơ nhạc có dạng đuôi: RM, RAM, RA, Danh Sách nhạc có dạng đuôi: Tải Về Máy Real Player, Địa chỉ Tải về Máy Nhúng WMP trong trang mạng <object width="320" height="240" classid="clsid:CFCDAA03-8BE4-11cf-B84B-0020AFBBCCFA"> <param name="controls" value="ImageWindow" /> <param name="autostart" value="true" /> <param name="src" value="male.ram" /> </object> <EMBED type="audio/x-pn-realaudio-plugin" SRC="STREAMURL" CONTROLS="ControlPanel,StatusBar" HEIGHT=60 WIDTH=236 AUTOSTART=false> </embed> Tham khảo Liên kết ngoài Tải xuống RealPlayer 10 Basic cho mọi hệ điều hành RealPlayer 10 cho Linux RealPlayer 10 cho Mac OS X Trình đa phương tiện Phần mềm cho Linux Phần mềm cho macOS Phần mềm cho Palm OS Phần mềm cho Windows Phần mềm miễn phí Phần mềm năm 1995
28140
https://vi.wikipedia.org/wiki/Richard%20Clayderman
Richard Clayderman
Richard Clayderman (tên thật là Philippe Pagès, sinh ngày 28 tháng 12 năm 1953 tại Pháp) là một nghệ sĩ dương cầm nổi tiếng. Ông đã phát hành nhiều album nhạc, trong đó có các nhạc phẩm của Beethoven, Liszt, Chopin và Mozart, nhưng chủ yếu là của Paul de Senneville và Olivier Toussiant. Richard Clayderman cũng được biết đến bởi khả năng diễn xuất tuyệt vời những bản nhạc được nhiều người ưa chuộng như "Yesterday", "The Sound of Silence" và "Memory". Mặc dù được đào tạo để trở thành nghệ sĩ piano cổ điển, song hầu hết các đĩa nhạc của ông tập trung vào âm nhạc phổ thông với những tình khúc đương thời. Sự nghiệp Thời trẻ Clayderman học chơi piano từ cha của mình, một giáo viên piano. Khi 12 tuổi, ông được nhận vào nhạc viện Paris, nơi ông được đánh giá cao vào cuối tuổi thanh niên. Những khó khăn về tài chính đã ngăn cản ông theo đuổi sự nghiệp đầy triển vọng là trở thành nghệ sĩ piano. Thay vào đó, để kiếm sống, Richard đã làm nhân viên ngân hàng và người đệm nhạc cho những ban nhạc đương thời. Ông từng đệm nhạc cho các ca sĩ như Johnny Hallyday, Thierry Le Luron và Michel Sardou. Thành công và phê bình Clayderman đã thu âm hơn 1.300 giai điệu, và đã tạo nên một phong cách riêng cho mình. Ông đã dành nhiều thời gian thực hiện các buổi hòa nhạc. Đến năm 2006, con số kỷ lục bán đĩa của ông vào khoảng 150 triệu USD, và có 267 đĩa vàng, 70 đĩa bạch kim để tín dụng của mình. Ông đã nổi tiếng tại châu Á và được ghi nhận vào sách kỷ lục Guinness là "nghệ sĩ piano thành công nhất trên thế giới". Clayderman rất nổi tiếng ở các nước thế giới thứ ba, nhiều nhà phê bình cho rằng nhạc của ông là "nhạc thang máy", bởi vì các tác phẩm của ông được chơi ở những nơi không gian rộng rãi, chuyển tiếp như thang máy, khu buôn bán... Một vài giáo viên âm nhạc Trung Quốc đã góp phần phổ biến nhạc của ông vào Trung Quốc đại lục nhằm làm tăng số lượng sinh viên học đàn piano kể từ thập niên 1980. Theo sách Last Chance to See của Douglas Adams xuất bản năm 1990 thì Clayderman là nghệ sĩ chơi piano nổi tiếng nhất tại Trung Quốc kể từ đó. Danh sách đĩa nhạc Tham khảo Liên kết ngoài Website của Richard Clayderman Tiểu sử chính thức Website tuyển chọn nhạc không lời - Richard Clayderman Nghệ sĩ dương cầm Pháp Người Paris Nhân vật còn sống Sinh năm 1953 Nhạc easy listening Nghệ sĩ dương cầm thế kỷ 21
28146
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp%20%C4%91o%C3%A0n%20kh%C3%A1ch%20s%E1%BA%A1n%20Hilton
Tập đoàn khách sạn Hilton
Tập đoàn Khách sạn Hilton là một tập đoàn khách sạn Mỹ được sáng lập bởi Conrad Hilton vào đầu thế kỷ 20. Vào năm 1919, Conrad Hilton mua khách sạn đầu tiên ở Cisco, Texas. Khách sạn mang tên Hilton đầu tiên được xây dựng ở Dallas năm 1925. Từ năm 1943, Hilton trở thành một hệ thống khách sạn ở Mỹ. Năm 1949, tập đoàn mở khách sạn đầu tiên bên ngoài biên giới Mỹ ở San Juan, Puerto Rico. Cũng trong năm đó, Hilton mua lại khách sạn Waldorf Astoria ở thành phố New York. Năm 1946, tập đoàn niêm yết cổ phiếu ở New York. Trong những khách sạn sang trọng của tập đoàn, có thể kể đến Beverly Hilton, Cavalieri Hilton ở Roma, Hilton Athens, Hilton San Francisco, Hilton New York, Hilton Hawaiian Village, Hilton Waikoloa Village, Paris Hilton... Đến năm 2004, tập đoàn Hilton sở hữu: Hilton Conrad Hotels Doubletree, Doubletree Guest Suites et Doubletree Club Hotel Embassy Suites Hotels Hampton Inn, Hampton Inn & Suites Hilton Garden Inn Hilton Grand Vacations Company Homewood Suites by Hilton Ngày nay, Hilton là tập đoàn khách sạn lớn nhất thế giới với 2.800 khách sạn, hơn 475.000 phòng trên hơn 80 quốc gia. Xem thêm Paris Hilton Tham khảo Liên kết ngoài Trang chính của Khách sạn Hilton Hilton Hanoi Opera Khách sạn Mỹ Tập đoàn kinh doanh Công ty niêm yết tại Thị trường Chứng khoán New York da:Hilton de:Hilton Hotels es:Hoteles Hilton fr:Hilton ja:ヒルトン pt:Hilton sv:Hilton yi:הילטאן האטעלס
28149
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%93%20Thi%E1%BB%87u%20Tr%E1%BB%8B
Hồ Thiệu Trị
Hồ Thiệu Trị là một kiến trúc sư nổi tiếng tại Việt Nam, ông sinh năm 1945 tại Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang, Việt Nam. Ông tốt nghiệp trường Đại học Kiến trúc Sài Gòn năm 1973. Sau đó ông chuyển sang Pháp và nhập quốc tịch ở đó. Năm 1995, Hồ Thiệu Trị trở lại Việt Nam theo lời mời của kiến trúc sư Hoàng Đạo Kính. Đồ án tu bổ Nhà hát lớn Hà Nội của ông được thông qua. Từ năm 1995 đến năm 1997, ông tham gia giám sát công trình. Sau công trình này, ông đã được nhận Giải thưởng Kiến trúc Việt Nam do Bộ Văn hóa-Thông tin, Bộ Xây dựng và Hội Kiến trúc sư Việt Nam trao tặng. Các công trình 2000: Trung tâm Chiếu phim Quốc gia (Láng Hạ, Hà Nội) 2001: Khu biệt thự cao cấp Hồ Tây (Đặng Thai Mai, Tây Hồ, Hà Nội) 2001: Cao ốc Văn phòng 21 tầng Bitexco (Q1, Tp. Hồ Chí Minh) 2002: Trung tâm Ngôn ngữ Văn minh Pháp L'Espace (24 Tràng Tiền, Hà Nội) 2002: Khách sạn 5 sao Tân Hoàng Cung (Huế) 2002: Resort Mỹ Cảnh – Bảo Ninh (Đồng Hới, Quảng Bình) 2003: Trung tâm Tổ chức Hội nghị tỉnh Quảng Ninh (Hạ Long, Quảng Ninh) 2003: Khu du lịch sinh thái Giang Điền 30 ha (Đồng Nai) 2004: Nhà hỗn hợp cao tầng ở & làm việc 21 tầng Lilama (124 Minh Khai, HN) 2004: Khách sạn Zephir (4-6 Bà Triệu, Hà Nội) 2004: Nhà câu lạc bộ Sân gôn Tam Đảo (Vĩnh Phúc) 2004: Quy hoạch Khu đô thị mới Nam thị xã Vĩnh Yên 1300 ha (Vĩnh Phúc) 2004: Quy hoạch Khu đô thị mới Đại Phước 464 ha (Đồng Nai) 2004: Quy hoạch Khu đô thị mới Nhơn Phước 201 ha (Đồng Nai) 2004: Trụ sở làm việc Tỉnh uỷ Kiên Giang 2004: Trung tâm Kinh doanh đồng bộ 3 chức năng Toyota Mỹ Đình (Mỹ Đình) 2004: Cao ốc văn phòng 10 tầng (63 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Q1, Tp. HCM) 2004: Cao ốc văn phòng 15 tầng (10 Công trường Quốc tế, Q1, Tp. HCM) 2007: Cao ốc văn phòng FPT 27 tầng nổi, 5 tầng hầm (89 Láng Hạ, Đống Đa, Hà Nội) Tham khảo Liên kết ngoài Hồ Thiệu Trị Group KTS Hồ Thiệu Trị-người lang thang qua những công trình 10 công ty kiến trúc hàng đầu tại Việt Nam năm 2006: bình chọn của BCI Asia Kiến trúc sư Việt Nam Kiến trúc sư Pháp
28152
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A1i%20gi%C3%A1m
Thái giám
Thái giám (chữ Hán: 太監) có thể là: Một chức võ quan của Nhật Bản, nhà Triều Tiên, nhà Lê sơ, nhà Mạc, nhà Lê trung hưng. Một chức hoạn quan, là chức quan phục vụ cho hoàng tộc trong cung đình ở một số nước phong kiến thời xưa.
28155
https://vi.wikipedia.org/wiki/James%20Clerk%20Maxwell
James Clerk Maxwell
James Clerk Maxwell (13 tháng 6 năm 1831 – 5 tháng 11 năm 1879) là một nhà toán học, một nhà vật lý học người Scotland. Thành tựu nổi bật nhất của ông đó là thiết lập lên lý thuyết cổ điển về bức xạ điện từ, mà đã lần đầu tiên bắc chiếc cầu nối giữa điện học, từ học, và ánh sáng như là biểu hiện của cùng một hiện tượng. Phương trình Maxwell của trường điện từ đã được gọi là "lần thống nhất vĩ đại thứ hai trong vật lý" sau lần thống nhất bởi Isaac Newton. Với bài báo Một lý thuyết động lực học của trường điện từ công bố năm 1865, Maxwell đã chứng tỏ được rằng lực tĩnh điện và từ trường lan truyền trong không gian như là các sóng chuyển động với vận tốc bằng tốc độ ánh sáng. Maxwell cho rằng ánh sáng là một dạng dao động sóng trong cùng một môi trường mà là nguyên nhân gây các các hiện tượng điện và từ. Sự thống nhất của ánh sáng với các hiện tượng điện đã đưa đến tiên đoán tồn tại sóng vô tuyến. Maxwell đóng vai trò trong việc phát triển phân phối Maxwell–Boltzmann, một phương pháp thống kê miêu tả các đặc điểm của thuyết động học chất khí. Ông là người đầu tiên đưa ra phương pháp tạo ra ảnh màu bền lâu vào năm 1861 và ông có những công trình nền tảng trong lý thuyết phân tích độ cứng của hệ khung liên kết bởi các nút và thanh (khung giàn) như ở kết cấu cầu. Các khám phá của ông đã mở ra lối đi cho vật lý hiện đại, đặt cơ sở cho các lĩnh vực như thuyết tương đối hẹp và cơ học lượng tử. Nhiều nhà vật lý coi Maxwell là nhà khoa học thế kỷ 19 có ảnh hưởng lớn nhất đến vật lý thế kỷ 20. Đóng góp của ông đối với khoa học được sánh ngang với các nhà khoa học Isaac Newton và Albert Einstein. Trong một cuộc khảo sát bỏ phiếu chọn ra 100 nhà vật lý có tầm ảnh hưởng nhất trong 1000 năm qua—Maxwell được đánh giá xếp thứ ba, chỉ xếp sau Newton và Einstein. Vào dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Maxwell, Einstein đã miêu tả các công trình của Maxwell "có tầm sâu sắc nhất và là mảnh đất màu mỡ nhất mà vật lý có được kể từ thời của Newton". Cuộc đời Thời trẻ, 1831–39 James Clerk Maxwell sinh ngày 13 tháng 6 năm 1831 tại nhà số 14 đường India, Edinburgh, con của ông John Clerk-Maxwell của Middlebie, một người biện hộ, và Frances Cay con của Robert Hodshon Cay và chị của John Cay. Bố ông là một người có địa vị và giàu có của dòng họ Clerk ở Penicuik, những người giữ tước tòng nam (baronetcy) Clerk của Penicuik. Bác của ông là tòng nam tước thứ 6. Tên khai sinh của bố ông là "John Clerk", cộng thêm tên đệm Maxwell sau khi ông thừa hưởng (lúc thơ ấu năm 1793) đất đai xứ Middlebie gần Corsock, Kirkcudbrightshire, từ mối liên hệ với dòng họ Maxwell, cũng là một tầng lớp quý tộc. James Clerk Maxwell cũng là anh em họ của họa sĩ Jemima Blackburn và của (con trai của cậu) kỹ sư xây dựng William Dyce Cay. Họ là những người bạn thân và Cay là phù rể trong lễ cưới của Maxwell. Bố mẹ của Maxwell gặp nhau và làm đám cưới khi họ đã ngoài 30 tuổi; khi ông sinh ra thì mẹ ông đã gần 40 tuổi. Họ đã từng có một đứa con gái trước đó, tên là Elizabeth, tuy vậy đã chết yểu. Gia đình Maxwell chuyển đến ngôi nhà Glenlair khi ông còn trẻ, mà bố mẹ ông đã xây dựng trên khu đất Middlebie hơn . Mọi chứng cứ gợi ý rằng Maxwell đã có tính tò mò không ngừng ngay từ hồi nhỏ. Cho đến lúc ba tuổi, mọi thứ chuyển động, phát sáng hay gây ra tiếng ồn đều khiến cậu đưa ra câu hỏi: "cái gì khiến nó như thế?" Trong một lá thư của bố ông đến mợ Jane Cay vào năm 1834, mẹ ông đã miêu tả tính hay tò mò này của ông: Giáo dục, 1839–47 Nhận ra khả năng tiềm tàng của cậu bé, mẹ của Maxwell bà Frances đã có trách nhiệm trong việc giáo dục James từ lúc còn nhỏ, cũng do đây là một công chủ yếu của người phụ nữ trong gia đình ở thời kỳ Victoria. Lúc 8 tuổi ông có thể đọc thuộc lòng các đoạn thơ dài của John Milton và toàn bộ bài thánh Vịnh thứ 119 (176 câu thơ). Quả thực ông hiểu biết rất chi tiết về kinh thánh; ông có thể nói ra chương và câu thơ đối với hầu hết đoạn trích nào từ thánh Vịnh. Mẹ ông có sức khỏe yếu dần do ung thư dạ dày, sau một lần phẫu thuật không thành công, bà qua đời vào tháng 12 năm 1839. Việc giáo dục của James lúc đó do bố ông và dì Jane giám sát, mà cả hai người này đóng vai trò quan trọng trong cuộc đời ông. Việc đi học chính thức của ông khởi đầu không thành công dưới sự hướng dẫn của một học sinh 16 tuổi ở lớp trên. Thông tin về thanh niên này được John thuê về để dạy con trai ông không có nhiều, ngoại trừ anh ta khắt khe với cậu bé, chê mắng cậu vì tính chậm chạp và ương ngạnh. John đuổi gia sư này vào tháng 11 năm 1841, và suy nghĩ cẩn thận, ông gửi James tới trường học Edinburgh Academy danh giá. Ông ở tại nhà của dì Isabella trong thời gian học ở đây. Thời gian này ông trở lên hứng thú với hội họa bởi ảnh hưởng từ chú Jemima lớn tuổi hơn ông. Cậu bé Maxwell 10 tuổi, được nuôi nấng tách biệt trong khu đất nông thôn của bố ông, đã không hợp lắm với trường học. Học xong năm đầu tiên, ông tiếp tục được vào học cùng với các anh lớn tuổi trong năm thứ hai. Phong cách và giọng nói vùng Galloway của ông tác động vào các chàng trai khác một cách mộc mạc. Ngày đầu tiên đến trường ông đi đôi giày và mặc áo dài thắt ngang lưng của nhà làm, và người ta đặt cho cậu biệt danh là "Daftie" (gàn dở). Có vẻ ông chưa bao giờ bực bội với biệt danh này, và chẳng phàn nàn gì về nó trong nhiều năm. Cách sống biệt lập tại trường Academy kết thúc khi ông gặp Lewis Campbell và Peter Guthrie Tait, hai chàng trai cùng lứa tuổi và sau này trở thành những học giả có tiếng. Họ đã trở thành những người thân hữu lâu năm. Maxwell đã thích thú hình học ngay từ khi còn bé, cậu khám phá lại các khối đa diện đều trước khi bắt được đi học chính thức. Mặc dù chiến thắng trong cuộc thi tìm hiểu về kinh thánh ở năm học thứ hai, các công trình hàn lâm của ông vẫn không được chú ý tới cho đến khi, lúc ông 13 tuổi, ông giành được huy chương toán học của trường và giải nhất về văn học Anh và thơ ca. Những quan tâm của Maxwell vượt ra ngoài phạm vi chương trình dạy ở trường và ông cũng không quá tập trung vào các kỳ thi kiểm tra. Ông viết bài báo khoa học đầu tiên lúc 14 tuổi. Nội dung bài báo miêu tả cách vẽ bằng cơ học của các đường cong toán học với sợi dây cuộn, và các tính chất của elíp, oval Descartes, và các đường cong liên quan có nhiều hơn hai tiêu điểm. Nghiên cứu của ông về các đường cong oval được trình bày tại Hội Hoàng gia Edinburgh bởi James Forbes, một giáo sư triết học tự nhiên ở đại học Edinburgh, bởi Maxwell quá trẻ để có thể trình bày công trình. Nghiên cứu này hoàn toàn không phải là nghiên cứu gốc, do René Descartes cũng đã kiểm tra các tính chất của elíp đa tiêu điểm trong thế kỷ 17, nhưng Maxwell đã chỉ ra cách dựng hình đơn giản hơn. Đại học Edinburgh, 1847–50 Maxwell rời trường Academy vào năm 1847 lúc 16 tuổi và bắt đầu tham dự các lớp của đại học Edinburgh. Ông đã có cơ học để học tại đại học Cambridge, nhưng sau một học kỳ đầu tiên ông đã quyết định học một chương trình đại học hoàn toàn ở đại học Edinburgh. Các giảng viên ở trường Edinburgh khi ấy bao gồm một số tên tuổi lớn như thầy dạy năm thứ nhất của ông là tòng nam tước Sir William Hamilton, người dạy ông môn logic và siêu hình học, Philip Kelland dạy về toán học, và James David Forbes dạy về triết học tự nhiên. Chương trình dạy ở Edinburgh không quá yêu cầu nặng nề đối với ông, vì vậy ông có thể tự thực hiện nghiên cứu trong thời gian rãnh rỗi khi ở trường và đặc biệt khi quay về thăm nhà ở Glenlair. Ông có thể làm thí nghiệm với các hóa chất tùy biến, dòng điện và các thiết bị từ, nhưng ông có sự quan tâm chủ yếu vào tính chất của ánh sáng bị phân cực. Ông tạo ra các khối gelatin, cho chúng chịu dưới nhiều ứng suất khác nhau, và với một cặp lăng trụ phân cực do William Nicol làm cho ông, ông đã quan sát thấy các vân giao thoa tương tự như ở các con sứa. Nhờ thí nghiệm này mà ông đã khám phá ra phương pháp quang đàn hồi học, cho phép xác định sự phân bố ứng suất bên trong cấu trúc vật liệu và kết cấu. Ở tuổi 18, Maxwell đã viết hai bài báo cho Tạp chí Triết học của Hội hoàng gia Edinburgh. Một bài báo với tiêu đề On the Equilibrium of Elastic Solids (Về sự cân bằng của vật rắn đàn hồi), đã đặt cơ sở cho khám phá quan trọng về sau của ông, đó là lưỡng chiết tạm thời hình thành trong chất lỏng có độ nhớt dưới tác dụng của ứng suất cắt. Bài báo kia có tiêu đề Rolling Curves (Các đường cong tạo từ sự lăn không trượt) và, giống như bài báo Oval Curves mà ông đã viết tại trường Edinburgh Academy, một lần nữa ông bị xem là quá trẻ để có thể đứng trước bục thuyết trình. Bài báo này sau đó do người thầy Kelland của ông trình bày trước Hội hoàng gia. Đại học Cambridge, 1850–56 Tháng 10 năm 1850, lúc này ông đã trở thành một nhà toán học, Maxwell rời Scotland chuyển đến đại học Cambridge. Lúc đầu ông đăng ký vào Peterhouse, nhưng trước khi kết thúc nhiệm kỳ thứ nhất ông chuyển tới Trinity, nơi ông tin nhận được học bổng dễ dàng hơn. Ở Trinity, ông được bầu chọn vào một hội bí mật quan trọng là Những người cải cách Cambridge (Cambridge Apostles). Tri thức hiểu biết của Maxwell về đức tin Cơ đốc và khoa học phát triển nhanh chóng trong những năm ông ở Cambridge. Ông gia nhập "Hội những người cải cách", một hội quy tụ những tri thức lớn khi đó, nơi nhờ các bài luận của ông mà ông có thể nắm bắt dần kiến thức về thế giới quan. Vào mùa hè năm thứ ba, Maxwell đã có thời gian ở nhà của Charles Benjamin Tayler tại Otley thuộc hạt Suffolk, chú của người bạn cùng lớp G.W.H. Tayler. Tình yêu đối với chúa của gia đình đã gây ấn tượng với Maxwell, đặc biệt sau khi ông được chăm sóc trong lúc ốm bởi ông bộ trưởng và vợ của ông. Tháng 11 năm 1851, Maxwell học thầy William Hopkins, người đã dạy nhiều thiên tài toán học mà được mọi người đặt cho biệt danh "người đào tạo những sinh viên giỏi" (senior wrangler-maker). Năm 1854, Maxwell tốt nghiệp trường Trinity với bằng cử nhân toán học. Ông xếp thứ hai trong kỳ thi tốt nghiệp, xếp sau Edward Routh và được trao danh hiệu sinh viên giỏi. Về sau ông đạt đồng giải nhất với Routh trong kỳ thi của Giải Smith. Ngay sau khi tốt nghiệp, Maxwell đã đọc bài báo On the Transformation of Surfaces by Bending trước Hội Triết học Cambridge. Đây là một trong số ít bài báo thuần túy toán học do ông viết, chứng tỏ sự tiến triển trong tầm vóc của Maxwell như là một nhà toán học. Maxwell quyết định ở lại Trinity sau khi tốt nghiệp và nộp hồ sơ để làm thành viên của trường, một quá trình mà ông nghĩ có thể mất hai năm. Nhờ sự thành công khi còn là sinh viên nghiên cứu, ông có thể tự do khỏi trách nhiệm giảng dạy và coi thi, để theo đuổi mục tiêu nghiên cứu khoa học theo ý ông muốn. Bản chất và sự cảm nhận màu sắc là một trong những quan tâm của ông khi ông học ở Đại học Edinburgh dưới sự hướng dẫn của giáo sư Forbes. Với con quay nhiều màu sắc do Forbes sáng chế ra, Maxwell có thể chứng minh được ánh sáng trắng là tổ hợp của ánh sáng màu đỏ, lục và lam. Bài báo Experiments on Colour của ông đặt cơ sở cho các nguyên lý kết hợp màu sắc và được trình bày trước Hội Hoàng gia Edinburgh vào tháng 3 năm 1855. Thời điểm này Maxwell đã có thể tự trình bày các bài báo của mình trước hội đồng các nhà khoa học. Maxwell chính thức trở thành thành viên của trường Trinity ngày 10 tháng 10 năm 1855, sớm hơn so với thông thường, và được yêu cầu chuẩn bị các bài giảng về thủy tĩnh học và quang học cũng như các câu hỏi kiểm tra. Tháng 2 năm sau thầy Forbes hối thúc ông đảm nhiệm vị trí mới là Chủ tịch phân viện Triết học tự nhiên tại Marischal College, Aberdeen. Bố ông đã hỗ trợ ông chuẩn bị những thứ cần thiết, nhưng ông đã qua đời vào ngày 2 tháng 4 tại Glenlair trước khi biết kết quả của việc ứng cử của Maxwell. Maxwell được nhận làm giáo sư ở Aberdeen, và ông rời Cambridge tháng 11 năm 1856. Trường Marischal College, Aberdeen, 1856–60 Chàng thanh niên Maxwell 25 tuổi trẻ hơn 15 tuổi so với bất kỳ giáo sư nào khác ở Marischal. Ông đảm trách vị trí trưởng khoa, đưa ra đề cương và chuẩn bị các bài giảng. Ông tự cam kết sẽ tham gia giảng dạy khoảng 15 tiếng một tuần, bao gồm bài giảng cuối tuần miễn phí (pro bono) tại một trường đào tạo công nhân ở địa phương. Ông sống ở Aberdeen trong thời gian sáu tháng của năm học và dành thời gian của mùa hè ở trại Glenlair, nơi ông được thừa kế từ bố ông. Ông tập trung chú trọng vào một vấn đề làm đau đầu các nhà khoa học trong suốt 200 năm: đó là bản chất của vành đai Sao Thổ. Trước đó, người ta không biết được tại sao nó vẫn ổn định mà không bị vỡ tan ra, bay ra khỏi hoặc rơi trở lại Sao Thổ. Vấn đề này còn thu hút sự chú ý đặc biệt vào lúc đó bởi trường St John's College, Cambridge đã chọn nó làm chủ đề cho giải Adams vào năm 1857. Maxwell đã dành 2 năm để nghiên cứu vấn đề này, ông chứng minh rằng một vành đai đặc rắn sẽ không thể ổn định, trong khi một vành chất lỏng sẽ bị tác động bởi lực thủy triều và xé nhỏ thành các mảnh nhỏ. Vì chi tiết cấu tạo vành đai chưa từng được quan sát kỹ, Maxwell kết luận rằng các vành đai phải là tổ hợp của nhiều hạt nhỏ mà ông gọi là những viên gạch vỡ ("brick-bats"), từng hạt quay độc lập quanh Sao Thổ. Maxwell được trao giả Adams trị giá £130 vào năm 1859 cho bài luận của ông On the stability of the motion of Saturn's rings; ông là người duy nhất đã viết về vấn đề này. Công trình rất chi tiết đầy thuyết phục của ông được George Biddell Airy bình luận khi ông đọc nó là "Đây là một trong những ứng dụng nổi bật nhất của toán học đối với vật lý mà tôi từng xem." Vấn đề này được chứng thực cho tới tận khi tàu Voyager bay qua Sao Thổ vào thập niên 1980 và xác nhận tiên đoán của Maxwell. Năm 1857 Maxwell trở thành bạn với Reverend Daniel Dewar, lúc đó là hiệu trưởng của trường Marischal. Thông qua đó mà Maxwell đã gặp con gái của Dewar, Katherine Mary Dewar. Họ đính hôn vào tháng 2 năm 1858 và làm lễ cưới ở Aberdeen vào ngày 2 tháng 6 năm 1858. Ở giấy đăng ký kết hôn, Maxwell được ghi là giáo sư Triết học tự nhiên ở Marischal College, Aberdeen. Thông tin về Katherine ít được biết đến, người ta chủ yếu biết rằng bà đã trợ giúp ông trong văn phòng của mình và làm các nghiên cứu thực nghiệm tính nhớt của chất lỏng. Người bạn và người viết về tiểu sử Maxwell - Lewis Campbell, người viết về Katherine như một người trầm lặng, thông qua miêu tả cuộc sống hôn nhân của họ như là "một trong những sự cống hiến chưa từng có". Năm 1860, Marischal College sáp nhập với trường King's College để thành lập lên Đại học Aberdeen. Không có phòng cho hai giáo sư về Triết học tự nhiên, do vậy Maxwell - mặc dù ông với danh tiếng khoa học, ông phải tự mình chuyển đi. Ông đăng ký không thành công vào vị trí mà giáo sư Forbes gần đây đã bỏ trống tại Edinburgh, do vị trí này được trao cho nhà vật lý Tait. Thay vào đó, Maxwell được chọn làm chủ tịch khoa Triết học tự nhiên ở King's College, London. Sau khi bình phục từ một lần bị đậu mùa thập tử nhất sinh vào năm 1860, Maxwell chuyển tới London cùng với vợ ông. King's College, London, 1860–65 Thời gian Maxwell ở trường King's là những năm hoàng kim của ông. Ông được trao huy chương Rumford của Hội Hoàng gia Luân Đôn năm 1860 cho nghiên cứu của ông về màu sắc và sau đó ông được bầu làm thành viên của Hội vào 1861. Giai đoạn cuộc đời này chứng kiến ông trình bày máy chụp ảnh màu chớp sáng đầu tiên trên thế giới, các ý tưởng phát triển về độ nhớt của khí, và đề xuất hệ thống xác định các đại lượng vật lý—mà ngày nay gọi là phân tích thứ nguyên. Maxwell thường tham dự các bài giảng của Viện Hoàng gia (Royal Institution), nơi ông thường gặp Michael Faraday. Mối quan hệ giữa hai người không thể miêu tả là thân thiết, bởi Faraday hơn Maxwell 40 tuổi và đã có dấu hiệu suy giảm trí nhớ. Họ chưa từng thể hiện sự kính trọng cao đối với tài năng của mỗi người. Thời gian này đặc biệt đáng nhớ đối với sự nghiệp của Maxwell trong nghiên cứu về điện trường và từ trường. Ông xem xét bản chất của cả từ trường và điện trường trong bài báo hai phần On Physical Lines of Force, công bố năm 1861. Trong bài báo này ông đưa ra mô hình tưởng tượng về hiện tượng cảm ứng điện từ, chứa những lý thuyết xoắn phân tử mô tả cho từ thông. Thêm hai phần nữa được đưa thêm vào và công bố trong cùng bài báo vào đầu năm 1862. Trong phần viết thêm thứ nhất, ông thảo luận về bản chất của tĩnh điện học và dòng điện dịch chuyển. Trong phần viết thêm thứ hai, ông nghiên cứu về sự quay mặt phẳng của phân cực ánh sáng trong trường điện từ, một hiện tượng do Faraday khám phá và ngày nay được gọi là hiệu ứng Faraday. Những năm cuối đời, 1865–1879 Năm 1865 Maxwell thôi vị trí trưởng khoa tại King's College, London, và trở về Glenlair cùng với Katherine. Trong bài báo On reciprocal figures, frames and diagrams of forces (1864, 1870) ông đã miêu tả phương pháp xác định biểu đồ lực đối với kết cấu giàn mà ngày nay được biết đến như là phương pháp Cremona-Maxwell trong cơ học kết cấu. Ông viết cuốn sách Theory of Heat (1871) và chuyên luận Matter and Motion (1876). Maxwell cũng lần đầu tiên sử dụng phương pháp phân tích thứ nguyên vào năm 1871. Năm 1871 ông trở thành giáo sư Cavendish về Vật lý đầu tiên ở Cambridge. Maxwell được giao nhiệm vụ phát triển Phòng thí nghiệm Cavendish, giám sát từng bước trong quá trình xây dựng và mua các trang thiết bị thí nghiệm. Một trong những đóng góp lớn cuối cùng của Maxwell đối với khoa học đó là tham gia soạn thảo (với những ghi chú gốc) các nghiên cứu của Henry Cavendish, mà từ đó phát hiện ra các nghiên cứu của Cavendish, mà một trong số đó là vấn đề về khối lượng riêng của Trái Đất và thành phần của nước. Maxwell qua đời ở Cambridge do ung thư dạ dày vào ngày 5 tháng 11 năm 1879 ở tuổi 48. Mẹ ông cũng mất với cùng độ tuổi và cùng căn bệnh ung thư. Maxwell được chôn cất tại Parton Kirk, gần thị trấn Castle Douglas ở Galloway gần nơi ông lớn lên. Cuốn tiểu sử The Life of James Clerk Maxwell, viết bởi người bạn lâu năm là giáo sư Lewis Campbell, được xuất bản năm 1882. Tuyển tập các công trình của ông được in thành hai tập bởi Nhà xuất bản Đại học Cambridge năm 1890. Cá nhân Là một người yêu thơ Scotland, Maxwell ghi nhớ về chúng và cũng tự mình làm thơ. Bài thơ nổi bật nhất là Rigid Body Sings, dựa trên bài "Comin' Through the Rye" của Robert Burns, mà ông thường dùng nó để hát khi chơi guitar. Các đoạn đầu của bài thơ là Tập hợp các bài thơ của ông được người bạn Lewis Campbell công bố vào năm 1882. Sự nghiệp khoa học Điện từ học Maxwell bắt đầu nghiên cứu và phê bình về điện và từ học vào năm 1855 khi bài báo của ông On Faraday's lines of force được đọc tại Hội Triết học Cambridge. Bài báo trình bày một mô hình đơn giản về nghiên cứu của Faraday và hai hiện tượng liên hệ với nhau như thế nào. Ông thu gọn mọi hiểu biết thời đó vào trong hệ 20 phương trình vi phân có 20 biến. Công trình này sau này được công bố trong bài báo On Physical Lines of Force vào tháng 3 năm 1861. Khoảng năm 1862, khi đang giảng dạy tại King's College, Maxwell đã tính ra tốc độ lan truyền của một trường điện từ xấp xỉ bằng tốc độ ánh sáng. Ông coi kết quả này không chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên, khi viết, "Chúng ta khó tránh khỏi kết luận rằng ánh sáng chứa những dao động theo phương ngang của cùng một môi trường mà gây ra các hiện tượng điện và từ." Nghiên cứu vấn đề xa hơn, Maxwell chứng tỏ rằng các phương trình dự đoán sự tồn tại các sóng dao động của từ trường và điện trường truyền qua chân không với một tốc độ có thể tiên đoán được từ thí nghiệm điện đơn giản; sử dụng dữ liệu có được lúc đó, Maxwell thu được vận tốc của sóng bằng . Trong bài báo năm 1864 Một lý thuyết động lực học của trường điện từ - A Dynamical Theory of the Electromagnetic Field, Maxwell viết, "Các kết quả khớp nhau dường như cho thấy ánh sáng và từ học là những ảnh hưởng của cùng một thứ, và rằng ánh sáng là một dao động điện từ lan truyền qua trường tuân theo các định luật của điện từ học". Phương trình nổi tiếng của ông, trong dạng hiện đại chứa bốn phương trình đạo hàm riêng, xuất hiện đầy đủ lần đầu tiên trong cuốn sách của ông A Treatise on Electricity and Magnetism xuất bản năm 1873. Maxwell thực hiện phần lớn công trình này ở Glenlair trong thời gian ông giữ vị trí ở London và đảm nhiệm chức danh giáo sư Cavendish. Maxwell biểu diễn thuyết điện từ trong dạng đại số của các quaternion và sử dụng thế điện từ làm đối tượng trung tâm của lý thuyết. Năm 1881, Oliver Heaviside thay đại lượng thế điện từ của Maxwell bằng 'trường lực' trở thành trung tâm của lý thuyết. Heaviside đã giảm thiểu tính phức tạp của lý thuyết Maxwell xuống còn bốn phương trình vi phân, mà ngày nay biết tới như là các định luật Maxwell hay phương trình Maxwell. Theo Heaviside, trường thế điện từ là tùy ý và cần phải "loại bỏ". Cách sử dụng thế vô hướng và vectơ ngày nay trở thành mẫu mực trong trình bày nghiệm của phương trình Maxwell. Một vài năm sau đã có cuộc tranh luận giữa Heaviside và Peter Guthrie Tait về vai trò của giải tích vectơ và quaternion. Kết quả là các nhà vật lý nhận ra rằng không cần có ý nghĩa vật lý đem lại bởi quaternion nếu lý thuyết là định xứ thuần túy, và giải tích vectơ trở lên phổ biến. Maxwell đã được chứng minh là đúng, và mối liên hệ định lượng của ông giữa ánh sáng và điện từ học được coi là một trong những thành tựu vĩ đại của vật lý toán trong thế kỷ 19. Maxwell cũng giới thiệu ra khái niệm trường điện từ khi so sánh với các đường sức mà Faraday miêu tả. Bằng cách hiểu sự lan truyền của điện từ như là một trường phát ra các hạt, Maxwell có thể tiến bước trong lý thuyết của ông về ánh sáng. Lúc đó, Maxwell tin rằng sự lan truyền của ánh sáng đòi hòi môi trường cho các sóng, mà ông đặt là ête siêu sáng (luminiferous aether). Về sau, sự tồn tại của một môi trường như thế, thấm vào toàn bộ không gian và không phát hiện được bằng bất kỳ cơ chế nào, được chứng minh là không tương hợp với kết quả một số thí nghiệm như thí nghiệm Michelson–Morley. Hơn nữa, nó dường như đòi hỏi một hệ quy chiếu tuyệt đối mà trong đó các phương trình vẫn còn đúng, nhưng dạng của phương trình bị thay đổi một cách khó chịu khi viết trong hệ quy chiếu của một người đang chuyển động. Những khó khăn này đã thúc đẩy Albert Einstein thiết lập ra thuyết tương đối hẹp; trong đó Einstein đã bác bỏ sự cần thiết có một môi trường ê te siêu sáng. Thị giác màu sắc Như các nhà vật lý thời đó, Maxwell rất quan tâm tới tâm lý học. Ông đặc biệt chú ý tới, theo các hướng của Isaac Newton và Thomas Young, nghiên cứu thị giác màu sắc (colour vision). Từ 1855 đến 1872, ông công bố một loạt đều đặn các bài báo khảo cứu về cảm nhận màu sắc, rối loạn sắc giác, và lý thuyết màu sắc, và được trao Huy chương Rumford về bài báo On the Theory of Colour Vision. Isaac Newton đã chứng minh, sử dụng lăng kính, rằng ánh sáng trắng, như ánh nắng Mặt Trời, là tổ hợp của một số ánh sáng đơn sắc mà có thể kết hợp thành ánh sáng trắng. Newton cũng chỉ ra rằng một màu sơn vàng cam làm từ màu đỏ và vàng nhìn y hệt như ánh sáng đơn sắc vàng cam, mặc dù là tổ hợp của hai ánh sáng đơn sắc đỏ và vàng. Từ đây xuất hiện nghịch lý thách thức các nhà vật lý thời đó: hai ánh sáng phức hợp (là tổ hợp của hai hay nhiều ánh sáng đơn sắc) có thể nhìn giống nhau nhưng khác nhau về mặt vật lý, gọi là hiện tượng phân dị (metamerism). Thomas Young về sau đề xuất cách lý giải nghịch lý này bởi cảm nhận màu sắc thông qua một số giới hạn các kênh trong mắt, mà ông đề xuất lý thuyết ba màu đơn sắc, hay lý thuyết Young–Helmholtz. Maxwell sử dụng công cụ đại số tuyến tính phát triển gần đây để chứng minh lý thuyết Young. Bất kỳ ánh sáng đơn sắc nào kích thích ba thụ thể có thể được kích thích bằng nhau bởi ba ánh sáng đơn sắc khác nhau (thực tế, bởi bất kỳ ba ánh sáng khác nhau). Ông chứng minh đó là trường hợp, phát minh ra thí nghiệm làm phù hợp màu và so khớp màu (colorimetry). Maxwell cũng thích thú áp dụng lý thuyết của ông đến cảm nhận màu sắc, hay chụp ảnh màu. Xuất phát trực tiếp từ nghiên cứu tâm lý học của ông về cảm nhận màu sắc: nếu tổng của bất lỳ ba ánh sáng màu nào có thể tái tạo bất kỳ màu được cảm nhận nào, thì có thể tạo ra các bức ảnh màu thông qua bộ lọc ba màu sắc. Trong nội dung bài báo năm 1855, Maxwell đề xuất là, nếu ba bức ảnh màu đen trắng về một cảnh được chụp thông qua bộ lọc ba màu đỏ, lục và lam và các phim trong suốt của các bức ảnh này được chiếu lên một màn sử dụng ba máy chiếu trang bị các bộ lọc tương tự, thì khi ghép chồng trên màn ảnh sẽ cho cảm nhận của mắt người như một bức ảnh đầy đủ về màu sắc. Trong một bài giảng về màu sắc tại Viện Hoàng gia vào năm 1861 về lý thuyết màu sắc, Maxwell trình bày bức ảnh màu đầu tiên trên thế giới dựa theo nguyên lý phân tích và tổng hợp ba màu này. Nhiếp ảnh gia Thomas Sutton, người sáng chế ra máy ảnh phản xạ ống kính đơn, đã chụp bức ảnh này. Ông chụp một dải ruy băng ba lần, thông qua các bộ lọc đỏ, lục và lam, đồng thời chụp một bức ảnh thứ tư thông qua bộ lọc vàng, mặc dù theo như Maxwell, đã không được sử dụng trong bức ảnh tổng hợp. Bởi vì tấm kính ảnh (photographic plate) của Sutton không đủ nhạy với màu đỏ và chỉ hơi nhạy với màu lục, bức ảnh tổng hợp tiên phong này còn khá xa so với mục đích mong muốn. Trong bài giảng ông viết rằng "nếu ảnh màu đỏ và lục được chụp đầy đủ như ảnh màu lục," nó "sẽ trở thành một bức ảnh ruy bông màu thực sự. Bằng cách tìm các vật liệu chụp ảnh có độ nhạy hơn với các tia ít khúc xạ hơn, độ biểu diễn màu sắc của vật thể có thể được nâng cao nhiều lên." Các nhà nghiên cứu vào năm 1961 kết luận rằng chất lượng ảnh thấp do ảnh hưởng tự bộ lọc màu đo là vì ánh sáng tử ngoại, nó bị phản xạ mạnh bởi một số thuốc nhuộm màu đỏ, và không hoàn toàn bị chặn bởi bộ lọc màu đỏ này, và trong phạm vi nhạy của quá trình nhúng ướt mà Sutton đã áp dụng. Thuyết động học chất khí và nhiệt động lực học Maxwell cũng quan tâm nghiên cứu thuyết động học của chất khí. Bắt đầu từ Daniel Bernoulli, lý thuyết này phát triển bởi các nghiên cứu của John Herapath, John James Waterston, James Joule, và đặc biệt là của Rudolf Clausius, đạt đến mức độ chính xác của nó nói chung vượt ra khỏi sự nghi ngờ; lý thuyết cũng nhận nhiều sự đóng góp lớn từ Maxwell, người trong lĩnh vực này như là một nhà thực nghiệm (về các định luật ma sát chất khí) cũng như một nhà toán học. Giữa các năm 1859 và 1866, ông phát triển lý thuyết phân bố vận tốc của hạt trong một chất khí, mà công trình này về sau được Ludwig Boltzmann tổng quát hóa lên. Công thức phân phối Maxwell–Boltzmann cho tỷ lệ các phân tử khí chuyển động ở một vận tốc cho trước tại một nhiệt độ bất kỳ. Trong thuyết động học chất khí, nhiệt độ và nhiệt lượng đóng góp chỉ bởi chuyển động của phân tử. Cách tiếp cận này tổng quát các định luật nhiệt động lực học thiết lập trước đó theo cách tốt hơn phương pháp áp dụng trước đây. Công trình của Maxwell về nhiệt động lực học đưa ông đi đến thí nghiệm tưởng tượng mà ngày nay gọi là con quỷ Maxwell, nơi định luật hai nhiệt động lực học bị vi phạm bằng tưởng tượng có một cách sắp xếp lại phân bố của các hạt phân tử theo năng lượng. Năm 1871 ông thiết lập liên hệ nhiệt động lực học Maxwell, phát biểu về sự bằng nhau giữa đạo hàm bậc hai của thế nhiệt động lực với từng biến nhiệt động lực khác nhau. Năm 1874, ông làm một mặt nhiệt động lực bằng thạch cao khi nghiên cứu về sự chuyển pha, dựa trên các bài báo về nhiệt động lực học bằng đồ thị của nhà vật lý người Mỹ Josiah Willard Gibbs. Lý thuyết điều khiển Maxwell viết một bài báo tiêu đề On governors trong Proceedings of Royal Society, tập 16 (1867–1868). Bài báo này chứa đựng nội dung trung tâm của lý thuyết điều khiển tự động trong những ngày đầu. Ở đây "governors" nói tới bộ điều tốc hoặc bộ điều tốc ly tâm sử dụng trong động cơ hơi nước. Vinh danh Maxwell đã được vinh danh bởi: Đơn vị maxwell (Mx), một đơn vị dẫn xuất trong hệ CGS đo từ thông Giải thưởng Maxell của IEEE Dãy núi Maxwell, một dãy núi trên Sao Kim Khoảng trống Maxwell trong vành đai Sao Thổ Kính thiên văn James Clerk Maxwell, một kính thiên văn bước sóng dưới milimét, có đường kính 15 m. Tòa nhà James Clerk Maxwell của Đại học Edinburgh, nơi đặt khoa toán, vật lý và khí tượng học. Tòa nhà James Clerk Maxwell tại khu Waterloo của trường King's College London, một chức danh trong khoa vật lý, và hội các sinh viên vật lý được mang tên ông tại đại học này. Trung tâm James Clerk Maxwell tại trường Edinburgh Academy. Trung tâm Maxwell tại Đại học Cambridge, dành cho hợp tác giữa doanh nghiệp và các nhà khoa học trong lĩnh vực Công nghệ và khoa học Vật lý. Một bức tượng được dựng ở đường George, Edinburgh. Nhà sản xuất GPU Nvidia đã đặt tên của ông cho kiến trúc của dòng chip xử lý đồ họa GeForce 900. Phần mềm ANSYS dành cho phân tích điện từ, mang tên Maxwell. Công bố khoa học Three of Maxwell's contributions to Encyclopædia Britannica appeared in the Ninth Edition (1878): Atom, Attraction,, and Ether; and three in the Eleventh Edition (1911): Capillary Action, Diagram, and Faraday, Michael. Tham khảo Chú thích Thư mục tham khảo Liên kết ngoài James Clerk Maxwell, "Experiments on colour as perceived by the Eye, with remarks on colour-blindness". Proceedings of the Royal Society of Edinburgh, vol. 3, no. 45, pp. 299–301. (digital facsimile from the Linda Hall Library) Nhà vật lý Scotland Nhà vật lý lý thuyết Nhà toán học Scotland Hội viên Hội Hoàng gia Nhà phát minh Scotland Chết vì ung thư dạ dày Mất năm 1879
28157
https://vi.wikipedia.org/wiki/%E1%BA%A2%20R%E1%BA%ADp%20X%C3%AA%20%C3%9At
Ả Rập Xê Út
Ả Rập Xê Út (, "thuộc về Nhà Saud", cũng được viết là Ả Rập Saudi, Arab Saudi, Saudi Arabia), tên gọi chính thức là Vương quốc Ả Rập Xê Út ( (🔊 nghe) , "Vương quốc Ả Rập của Nhà Saud", ) là một quốc gia có chủ quyền tại khu vực Tây Á, chiếm phần lớn bán đảo Ả Rập. Quốc gia này có diện tích đất liền vào khoảng 2,15 triệu km², là quốc gia rộng lớn thứ 5 tại châu Á và rộng lớn thứ nhì trong thế giới Ả Rập (chỉ xếp sau Algérie). Ả Rập Xê Út có biên giới với Jordan và Iraq về phía bắc; Kuwait về phía đông bắc; Qatar, Bahrain và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (UAE) về phía đông; Oman về phía đông nam và Yemen về phía nam. Ả Rập Xê Út tách biệt với Israel và Ai Cập qua vịnh Aqaba. Đây là quốc gia duy nhất có bờ biển tiếp giáp với cả biển Đỏ cùng vịnh Ba Tư. Hầu hết địa hình của Ả Rập Xê Út là các hoang mạc khô hạn hoặc địa mạo cằn cỗi. Lãnh thổ Ả Rập Xê Út ngày nay khi xưa là 4 khu vực riêng biệt: Hejaz, Najd, một bộ phận của Đông Ả Rập (Al-Ahsa) và Nam Ả Rập ('Asir). Vương quốc Ả Rập Xê Út được Ibn Saud thành lập vào năm 1932, "Saud" (Xê Út) trong quốc hiệu bắt nguồn từ hoàng tộc Saud, thể hiện quan điểm quốc gia là tài sản cá nhân của hoàng tộc. Ibn Saud thống nhất bốn khu vực thành một quốc gia thống nhất thông qua một loạt các cuộc chinh phạt bắt đầu từ năm 1902. Ả Rập Xê Út từ đó trở thành một quốc gia quân chủ chuyên chế, thực chất là một chế độ độc tài thế tập do các Hoàng tộc theo các dòng Hồi giáo cai trị. Ngày nay, Phong trào tôn giáo Wahhabi (Wahhabism) theo thiên hướng bảo thủ thuộc phái Hồi giáo Sunni được gọi là "đặc điểm nổi bật nhất của văn hóa Ả Rập Xê Út", phong trào này được truyền bá mạnh mẽ trên toàn cầu nhờ vào tiền tài trợ từ mậu dịch dầu khí. Ả Rập Xê Út đôi khi còn được gọi là "Vùng đất Hai Thánh đường" - để ám chỉ Al-Masjid al-Haram (tại Mecca), và Al-Masjid an-Nabawi (tại Medina), đó là hai địa điểm linh thiêng nhất trong Thế giới Hồi giáo. Ả Rập Xê Út có tổng dân số là 33 triệu người vào năm 2017, trong đó có hàng triệu người là ngoại kiều. Ngôn ngữ quốc gia chính thức là tiếng Ả Rập. Dầu mỏ lần đầu tiên được phát hiện tại quốc gia này vào ngày 3 tháng 3 năm 1938, sau đó là hàng loạt phát hiện lớn khác tại vùng Đông. Ả Rập Xê Út từ đó trở thành quốc gia sản xuất và xuất khẩu dầu lớn nhất trên thế giới, với trữ lượng dầu mỏ lớn thứ nhì và trữ lượng khí đốt lớn thứ 6 toàn cầu. Quốc gia này được Ngân hàng Thế giới phân loại là một nền kinh tế có thu nhập rất cao với chỉ số phát triển con người (HDI) cũng ở mức rất cao và là quốc gia Ả Rập duy nhất góp mặt trong G-20. Tuy nhiên, quốc gia này đã bị chỉ trích vì nhiều lý do bao gồm vai trò của nó trong Nội chiến Yemen, bị cáo buộc tài trợ cho chủ nghĩa khủng bố Hồi giáo đi kèm với hồ sơ nhân quyền tồi tệ, đặc trưng qua việc sử dụng hình phạt tử hình quá mức và thường xuyên, thất bại trong việc chống lại nạn buôn người, phân biệt đối xử do nhà nước bảo trợ chống lại các nhóm thiểu số tôn giáo lẫn người vô thần, và chủ nghĩa bài Do Thái cũng như cách giải thích nghiêm ngặt luật Shari'a. Tuy nhiên, Ả Rập Xê Út gần đây đã đưa ra những cải cách mới theo lệnh của Mohammed bin Salman, bao gồm cải thiện quyền của phụ nữ ở Ả Rập Xê Út, cấm tảo hôn, xóa bỏ những đoạn văn bài Do Thái và quan niệm sai lầm trong giáo dục trường học, thúc đẩy việc luật hóa hệ thống pháp luật, giảm việc sử dụng hình phạt tử hình, cũng như các biện pháp bảo vệ mới được thực thi đối với người lao động nhập cư để ngăn chặn tình trạng ngược đãi. Tuy nhiên, nhiều tổ chức nhân quyền chỉ ra rằng Ả Rập Xê Út phải tiếp tục đưa ra các cải cách mới để được coi là đủ hướng tới việc cải thiện hồ sơ nhân quyền. Vương quốc này chi 8% GDP cho quân sự (cao nhất trên thế giới sau Oman), khiến Ả Rập Xê Út là quốc gia chi tiêu quân sự lớn thứ ba thế giới sau Hoa Kỳ và Trung Quốc, và là nhà nhập khẩu vũ khí lớn nhất thế giới từ Từ 2015 đến 2019, nhận một nửa tổng số vũ khí của Mỹ xuất khẩu sang Trung Đông. Theo BICC, Ả Rập Xê Út là quốc gia quân sự hóa thứ 28 trên thế giới và có chất lượng trang thiết bị quân sự tốt nhất trong khu vực, sau Israel. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, liên tục có những lời kêu gọi ngừng bán vũ khí cho Ả Rập Xê Út, chủ yếu do các cáo buộc tội ác chiến tranh ở Yemen và đặc biệt là sau vụ ám sát Jamal Khashoggi. Ả Rập Xê Út được coi là cả một cường quốc và nước trung gian thương lượng trong khu vực. Nền kinh tế Ả Rập Xê Út là nền kinh tế lớn nhất ở Trung Đông và lớn thứ 19 trên thế giới. Ả Rập Xê Út cũng là một trong những quốc gia có dân số trẻ nhất thế giới, với khoảng 50% dân số 34,2 triệu người dưới 25 tuổi. Ngoài là thành viên của Hội đồng Hợp tác Vùng Vịnh, Ả Rập Xê Út còn là thành viên tích cực và sáng lập của Liên hợp quốc, Tổ chức Hợp tác Hồi giáo, Liên đoàn Ả Rập và OPEC. Lịch sử Có bằng chứng cho thấy loài người cư trú tại bán đảo Ả Rập từ khoảng 125.000 năm trước. Trong thời cổ đại, bán đảo Ả Rập đóng vai trò là một hành lang mậu dịch và biểu lộ một số nền văn minh. Tôn giáo của cư dân bán đảo Ả Rập thời kỳ tiền Hồi giáo gồm có các đức tin đa thần bản địa, Cơ Đốc giáo Ả Rập, Cảnh giáo, Do Thái giáo và Hỏa giáo. Văn minh Al-Magar thời tiền sử hình thành tại trung tâm của bán đảo Ả Rập, đặc biệt là tại Najd. Al-Magar là nơi đầu tiên diễn ra thuần hóa động vật trong thời kỳ đồ đá mới, đặc biệt là ngựa. Dilmun là một trong các nền văn minh cổ đại tại Trung Đông và tại bán đảo Ả Rập. Đây là một trung tâm mậu dịch lớn, và vào lúc tối thịnh nó kiểm soát các tuyến mậu dịch qua vịnh Ba Tư. Văn minh Dilmun bao phủ phần phía đông của bán đảo Ả Rập, đặc biệt là Vùng Đông của Ả Rập Xê Út. Một trong số các câu khắc sớm nhất ghi tên Dilmun là của Quốc vương Ur-Nanshe xứ Lagash (khoảng 2300 TCN) Văn minh Thamud tại Hejaz được cho là kéo dài từ thiên niên kỷ thứ nhất TCN đến gần thời kỳ Muhammad. Ghi nhận được trên 9.000 câu khắc Thamud tại tây nam Ả Rập Xê Út. Vương quốc Lihyan (لحيان) hay Dedan là một quốc gia Bắc Ả Rập cổ đại, nằm tại tây bắc của lãnh thổ Ả Rập Xê Út ngày nay, có các câu khắc cổ đại có niên đại từ khoảng thế kỷ VI đến IV TCN. Kindah là một vương quốc bộ lạc được thành lập tại khu vực Najd, các quốc vương nước này có ảnh hưởng đến một số bộ lạc liên kết song dựa trên thanh thế cá nhân hơn là quyền uy giải quyết cưỡng chế. Thủ đô đầu tiên của Kindah là Qaryat Dhāt Kāhil, nay gọi là Qaryat al-Fāw. Thời kỳ Hồi giáo Thời kỳ tiền Hồi giáo, bên cạnh một số ít các khu định cư mậu dịch đô thị (như Mecca và Medina), hầu hết Ả Rập Xê Út ngày nay có cư dân thuộc các xã hội bộ lạc du mục trong hoang mạc khắc nghiệt. Nhà tiên tri Hồi giáo Muhammad sinh tại Mecca vào khoảng năm 571. Đến đầu thế kỷ VII, Muhammad thống nhất các bộ lạc khác nhau trên bán đảo và lập nên một chính thể tôn giáo Hồi giáo duy nhất. Sau khi Muhammad từ trần vào năm 632, các môn đồ của ông nhanh chóng bành trướng lãnh thổ Hồi giáo ra ngoài bán đảo Ả Rập, chinh phục được lãnh thổ rộng lớn (từ bán đảo Iberia ở phía tây đến Pakistan ngày nay ở phía đông) trong khoảng vài thập niên. Kết quả là bán đảo Ả Rập nhanh chóng trở thành một khu vực ngoại biên về chính trị của thế giới Hồi giáo do trọng tâm được chuyển đến các vùng đất bị chinh phục song phát triển hơn. Từ thế kỷ X đến đầu thế kỷ XX, Mecca và Medina nằm dưới quyền kiểm soát của một quân chủ Ả Rập bản địa mang hiệu là Sharif của Mecca, tuy nhiên Sharif trong hầu hết giai đoạn này đều trung thành với một đế quốc Hồi giáo lớn đặt tại Baghdad, Cairo hoặc Istanbul. Hầu hết phần còn lại của Ả Rập Xê Út ngày nay quay lại quyền cai trị bộ lạc truyền thống. Trong hầu hết thế kỷ X, giáo phái Qarmat thuộc hệ Shia Isma'il là thế lực quyền lực nhất tại vịnh Ba Tư. Năm 930, giáo phái Qarmat cướp phá Mecca, xúc phạm thế giới Hồi giáo, đặc biệt là khi họ trộm Đá Đen. Trong thế kỷ XVI, Đế quốc Ottoman sáp nhập khu vực duyên hải biển Đỏ và vịnh Ba Tư (Hejaz, Asir và Al-Ahsa) và yêu sách quyền bá chủ đối với khu vực nội lục. Một nguyên nhân là nhằm ngăn cản nỗ lực của Bồ Đào Nha nhằm tấn công biển Đỏ và Ấn Độ Dương. Mức độ kiểm soát của Ottoman đối với các vùng đất này thay đổi trong bốn trăm năm sau đó cùng với biến động mạnh yếu của quyền lực trung ương đế quốc. Thành lập triều đại Saudi Hoàng tộc Al Saud hiện nay khởi nguồn tại Nejd thuộc trung tâm bán đảo Ả Rập vào năm 1744, khi người sáng lập triều đại là Muhammad bin Saud hội quân với người sáng lập phong trào Wahhabi là Muhammad ibn Abd al-Wahhab, Wahhabi là một hình thức đạo đức khắt khe thuộc hệ Hồi giáo Sunni. Liên minh này hình thành trong thế kỷ XVIII giúp cung cấp động lực tư tưởng để gia tộc Saud bành trướng và vẫn là cơ sở của quyền lực triều đại Ả Rập Xê Út ngày nay. Quốc gia đầu tiên của gia tộc Saud được thành lập vào năm 1744 tại khu vực quanh Riyadh, quốc gia này bành trướng nhanh chóng và trong thời gian ngắn từng kiểm soát hầu hết lãnh thổ hiện nay của Ả Rập Xê Út, song đến năm 1818 thì bị Phó vương Ai Cập của Ottoman là Mohammed Ali Pasha tiêu diệt. Quốc gia thứ nhì của gia tộc Saud có quy mô nhỏ hơn nhiều được thành lập vào năm 1824 và chủ yếu nằm tại Nejd. Trong suốt thời gian còn lại của thế kỷ XIX, gia tộc Saud tranh giành quyền kiểm soát khu vực nội lục của Ả Rập Xê Út ngày nay với một gia tộc thống trị Ả Rập khác là Rashid. Đến năm 1891, gia tộc Rashid giành thắng lợi và gia tộc Saud bị đẩy đi lưu vong tại Kuwait. Vào lúc khởi đầu thế kỷ XX, Đế quốc Ottoman tiếp tục kiểm soát hoặc có quyền bá chủ đối với hầu hết bán đảo. Dưới quyền bá chủ này, bán đảo Ả Rập nằm dưới quyền cai trị của nhiều người thống trị bộ lạc, trong đó Sharif của Mecca có ưu thế và cai trị Hejaz. Năm 1902, Abdul Aziz – sau này gọi là Ibn Saud – tái chiếm Riyadh khiến gia tộc Saud trở về Nejd. Ibn Saud giành được ủng hộ của Ikhwan, một đội quân bộ lạc lấy cảm hứng từ giáo phái Wahhabi và do Faisal Al-Dawish lãnh đạo, đội quân này phát triển nhanh chóng sau khi thành lập vào năm 1912. Với giúp đỡ từ Ikhwan, Ibn Saud chiếm được Al-Ahsa (Đông Ả Rập) từ Ottoman vào năm 1913. Năm 1916, được Anh khuyến khích và hỗ trợ (Anh giao tranh với Ottoman trong Chiến tranh thế giới thứ nhất), Sharif của Mecca là Hussein bin Ali lãnh đạo một khởi nghĩa liên Ả Rập chống lại Đế quốc Ottoman nhằm lập nên một quốc gia Ả Rập thống nhất. Mặc dù khởi nghĩa Ả Rập 1916-1918 thất bại về mục tiêu, song thắng lợi của Đồng Minh trong Chiến tranh thế giới thứ nhất dẫn đến kết thúc quyền bá chủ và kiểm soát của Ottoman tại bán đảo Ả Rập. Ibn Saud tránh can dự vào khởi nghĩa Ả Rập, thay vào đó ông tiếp tục đấu tranh với gia tộc Rashid. Sau chiến thắng cuối cùng trước gia tộc này, ông lấy hiệu là Sultan của Nejd vào năm 1921. Nhờ giúp đỡ từ Ikhwan, ông chinh phục Hejaz vào năm 1924–25 và vào ngày 10 tháng 1 năm 1926, Ibn Saud tự xưng là Quốc vương Hejaz. Một năm sau, ông lấy thêm hiệu là Quốc vương Nejd. Trong 5 năm sau đó, ông cai trị hai bộ phận này với vị thế là các thực thể riêng biệt. Sau khi chinh phục Hejaz, mục tiêu của giới lãnh đạo Ikhwan chuyển sang bành trướng lãnh địa Wahhabi đến các xứ bảo hộ của Anh là Ngoại Jordan, Iraq và Kuwait, và họ bắt đầu tấn công các lãnh thổ này. Tuy nhiên, Ibn Saud phản đối việc này do nhận thức được nguy hiểm từ một cuộc xung đột trực tiếp với Anh. Trong khi đó, Ikhwan trở nên vỡ mộng trước các chính sách đối nội của Ibn Saud mà theo đó ủng hộ hiện đại hóa và tăng số lượng người ngoại quốc phi Hồi giáo trong nước. Do đó, họ quay sang chống lại Ibn Saud, và sau 2 năm giao tranh, họ thất bại trong trận Sabilla vào năm 1929. Năm 1932, hai vương quốc Hejaz và Nejd thống nhất thành Vương quốc Ả Rập Xê Út. Hậu thống nhất Vương quốc khi thành lập là một trong các quốc gia nghèo nhất trên thế giới, dựa vào thu nhập hạn chế từ nông nghiệp và hành hương. Năm 1938, phát hiện trữ lượng dầu mỏ lớn tại khu vực Al-Ahsa dọc duyên hải vịnh Ba Tư, và việc phát triển toàn diện các mỏ dầu bắt đầu vào năm 1941 dưới quyền Công ty Aramco do Hoa Kỳ kiểm soát. Dầu mỏ mang lại cho Ả Rập Xê Út sự thịnh vượng về kinh tế và đòn bẩy chính trị đáng kể trên trường quốc tế. Sinh hoạt văn hóa phát triển nhanh chóng, chủ yếu là tại Hejaz, nơi đây là trung tâm của báo chí và đài phát thanh. Tuy nhiên, dòng chảy lớn các công nhân ngoại quốc tại Ả Rập Xê Út trong ngành công nghiệp dầu khí làm gia tăng xu hướng bài ngoại vốn tồn tại từ trước đó. Đồng thời, chính phủ trở nên lãng phí và xa xỉ. Đến thập niên 1950, điều này dẫn đến thâm hụt ngân sách chính phủ lớn và vay nợ nước ngoài quá mức. Năm 1953, Saud kế vị cha làm quốc vương, song đến năm 1964 ông bị phế truất và hoàng vị về tay người em khác mẹ của ông là Faisal sau một cuộc kình địch khốc liệt, được thúc đẩy từ nghi ngờ trong hoàng tộc về năng lực của Saud. Năm 1972, Ả Rập Xê Út giành được 20% quyền kiểm soát tại Aramco, làm giảm đi kiểm soát của Hoa Kỳ đối với dầu mỏ quốc gia. Năm 1973, Ả Rập Xê Út lãnh đạo một cuộc tẩy chay bằng dầu mỏ chống lại các quốc gia Phương Tây ủng hộ Israel trong chiến tranh Yom Kippur. Giá dầu tăng gấp bốn lần. Năm 1975, Faisal bị một cháu trai tên là Faisal bin Musaid ám sát và người kế vị ông là em trai khác mẹ Khalid. Đến năm 1976, Ả Rập Xê Út trở thành quốc gia sản xuất dầu lớn nhất trên thế giới. Trong thời gian Khalid cai trị, Ả Rập Xê Út trải qua phát triển cực kỳ nhanh chóng về kinh tế và xã hội, biến đổi hệ thống hạ tầng và giáo dục của quốc gia; về chính sách đối ngoại, quan hệ mật thiết với Hoa Kỳ được phát triển. Năm 1979, có hai sự kiện khiến chính phủ lo ngại rất nhiều, và có ảnh hưởng lâu dài đến chính sách đối ngoại và đối nội của Ả Rập Xê Út. Thứ nhất là Cách mạng Hồi giáo Iran, chính phủ lo ngại rằng cộng đồng Shia thiểu số tại Vùng Đông (nơi có các mỏ dầu) có thể nổi loạn do ảnh hưởng từ các đạo hữu Iran của họ. Thực tế đã diễn ra một số cuộc khởi nghĩa chống chính phủ trong khu vực như khởi nghĩa Qatif 1979. Sự kiện thứ nhì là các phần tử quá khích Hồi giáo chiếm giữ Đại Thánh đường tại Mecca. Các chiến binh tham gia một phần là do tức giận trước điều mà họ cho là bản chất tham nhũng và phi Hồi giáo của chính phủ Ả Rập Xê Út. Chính phủ giành lại quyền kiểm soát thánh đường sau mười ngày. Hoàng gia Ả Rập Xê Út phản ứng bằng việc thực thi nghiêm ngặt hơn các quy tắc tôn giáo và xã hội truyền thống và trao cho Ulema (học giả Hồi giáo) vai trò lớn hơn trong chính phủ. Tuy nhiên, chủ nghĩa Hồi giáo tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Năm 1980, Ả Rập Xê Út mua lại cổ phần của Hoa Kỳ trong Aramco. Quốc vương Khalid từ trần vào năm 1982, người kế vị là em trai ông Fahd. Fahd tiếp tục phát triển quan hệ mật thiết với Hoa Kỳ và tăng cường mua thiết bị quân sự của Hoa Kỳ và Anh. Lượng của cải lớn bắt nguồn từ thu nhập dầu mỏ bắt đầu có tác động lớn hơn lên xã hội Ả Rập Xê Út. Nó dẫn đến hiện đại hóa kỹ thuật, đô thị hóa, giáo dục đại chúng và tạo ra các phương tiện truyền thông mới một cách nhanh chóng. Điều này cộng với việc lượng lớn công nhân ngoại quốc hiện diện ngày càng tăng đã gây ảnh hưởng lớn đến quy tắc và giá trị Ả Rập Xê Út truyền thống. Mặc dù có thay đổi lớn trong sinh hoạt xã hội và kinh tế trong nước, song quyền lực vẫn do hoàng gia nắm độc quyền dẫn đến bất mãn trong nhiều công dân và họ bắt đầu tìm cách tham gia rộng rãi hơn trong chính phủ. Trong thập niên 1980, Ả Rập Xê Út đã chi 25 tỷ USD để hỗ trợ Saddam Hussein trong Chiến tranh Iran–Iraq. Tuy nhiên, Ả Rập Xê Út lên án Iraq xâm lược Kuwait vào năm 1990 và yêu cầu Hoa Kỳ can thiệp. Quốc vương Fahd cho phép binh sĩ Hoa Kỳ và liên quân được đồn trú tại Ả Rập Xê Út. Ông mời chính phủ Kuwait và nhiều công dân nước này đến sống tại Ả Rập Xê Út, song trục xuất các công dân Yemen và Jordan do chính phủ hai nước đó ủng hộ Iraq. Năm 1991, quân đội Ả Rập Xê Út tham gia oanh tạc Iraq cũng như tiến công trên bộ nhằm giúp giải phóng Kuwait. Quan hệ giữa Ả Rập Xê Út và Phương Tây bắt đầu gây lo ngại ngày càng lớn cho một số ulema và người nghiên cứu luật sharia, và là một trong các vấn đề dẫn đến gia tăng các hoạt động khủng bố Hồi giáo tại Ả Rập Xê Út, cũng như các cuộc tấn công khủng bố Hồi giáo tại Phương Tây của công dân Ả Rập Xê Út. Osama bin Laden là một công dân Ả Rập Xê Út (cho đến khi bị tước quốc tịch vào năm 1994); 15 trong số 19 phần tử khủng bố tham gia các cuộc tấn công 11 tháng 9 năm 2001 tại Hoa Kỳ là công dân Ả Rập Xê Út. Chủ nghĩa Hồi giáo không phải là nguồn gốc thù địch duy nhất đối với chính phủ. Mặc dù vương quốc cực kỳ giàu có, song kinh tế quốc gia gần như đình đốn. Thuế cao và gia tăng thất nghiệp góp phần vào bất mãn, thể hiện trong gia tăng bất ổn dân sự, và bất mãn với hoàng tộc. Để đối phó, Quốc vương Fahd khởi xướng một số "cải cách" hạn chế. Trong tháng 3 năm 1992, ông cho thi hành "Luật Cơ bản", trong đó nhấn mạnh các nghĩa vụ và trách nhiệm của một quân chủ. Trong tháng 12 năm 1993, Hội đồng Cố vấn được thành lập, song thành viên đều do Quốc vương lựa chọn. Fahd làm rõ rằng tâm trí mình không có dân chủ: "Một hệ thống dựa trên tuyển cử không phù hợp với tín ngưỡng Hồi giáo của chúng ta." Năm 1995, Fahd bị đột quỵ, Thái tử Abdullah đảm nhiệm vai trò nhiếp chính trên thực tế. Tuy nhiên, quyền lực của ông bị cản trở do xung đột với các em trai cùng mẹ của Fahd. Từ thập niên 1990, các dấu hiệu bất mãn tiếp tục, bao gồm một loạt cuộc đánh bom và xung đột vũ trang tại Riyadh, Jeddah, Yanbu và Khobar năm 2003-2004. Năm 2005, các cuộc bầu cử cấp đô thị toàn quốc lần đầu tiên được tổ chức, song nữ giới không được phép tham gia. Năm 2005, Fahd từ trần và Abdullah kế vị, ông tiếp tục chính sách cải cách tối thiểu và kiểm soát chặt chẽ các phản đối. Quốc vương thi hành một số cải cách kinh tế nhằm khiến quốc gia giảm phụ thuộc vào thu nhập từ dầu mỏ: bãi bỏ quy định ở quy mô hạn chế, khuyến khích đầu tư nước ngoài, và tư hữu hóa. Năm 2009, Abdullah công bố một loạt thay đổi cấp chính phủ về tư pháp, lực lượng vũ trang, và nhiều bộ nhằm hiện đại hóa các thể chế này. Ngày 29 tháng 1 năm 2011, hàng trăm người biểu tình tụ tập tại thành phố Jeddah trong một cuộc biểu dương hiếm hoi nhằm chỉ trích cơ sở hạ tầng yếu kém tại thành phố sau khi các trận lụt quét qua thành phố làm 11 người chết. Cảnh sát ngưng cuộc tuần hành và bắt giữ nhiều người tham gia. Kể từ năm 2011, Ả Rập Xê Út chịu ảnh hưởng từ làn sóng "Mùa xuân Ả Rập". Nhằm đối phó, vào ngày 22 tháng 2 năm 2011, Abdullah tuyên bố một loạt quyền lợi cho công dân trị giá 36 tỷ USD, trong đó 10,7 tỷ USD dành cho nhà ở. Ngày 18 tháng 3 cùng năm, Abdullah tuyên bố một gói trị giá 93 tỷ USD, bao gồm 500.000 căn nhà mới với chi phí 67 tỷ USD, và tạo thêm 60.000 công việc an ninh mới. Abdullah cho phép nữ giới bầu cử và ứng cử trong bầu cử cấp đô thị năm 2015, và nữ giới cũng được đề cử vào Hội đồng Cố vấn. Ngày 23 tháng 1 năm 2015, Abdullah từ trần, người kế vị là em trai khác mẹ Salman. Chính trị Ả Rập Xê Út là một quốc gia quân chủ chuyên chế. Tuy nhiên, theo Luật Cơ bản được phê chuẩn vào năm 1992, quốc vương cần phải tuân theo luật Sharia và kinh Quran, trong khi Quran và Sunnah (lời dạy của Muhammad) được tuyên bố là hiến pháp của quốc gia. Không có các chính đảng, và không có bầu cử cấp quốc gia tại Ả Rập Xê Út. Các nhà phê bình xem đây là một chế độ độc tài chuyên chế. The Economist xếp hạng chính phủ Ả Rập Xê Út là chính phủ chuyên chế đứng thứ 5/167 trong Chỉ số dân chủ 2012 của họ, còn Freedom House xếp hạng vương quốc này là không tự do", với điểm số thấp nhất vào năm 2013. Chính trị tại Ả Rập Xê Út diễn ra trên hai đấu trường riêng biệt: nội bộ hoàng tộc Saud, và giữa hoàng tộc với phần còn lại trong xã hội quốc gia. Ngoài hoàng tộc Saud, quyền tham gia tiến trình chính trị bị hạn chế trong một nhóm tương đối nhỏ dân chúng và dưới hình thức cố vấn cho hoàng tộc trong các quyết định trọng đại, bao gồm ulema, các sheikh (tù trưởng) bộ lạc và thành viên của các gia đình thương nghiệp quan trọng. Theo tục lệ, toàn bộ nam giới đến tuổi thành niên có quyền kiến nghị trực tiếp đến quốc vương thông qua hội nghị bộ lạc truyền thống được gọi là majlis. Trên nhiều mặt, cách tiếp cận với chính phủ ít khác biệt với hệ thống cai trị bộ lạc truyền thống. Bản sắc bộ lạc vẫn còn mạnh, và ngoài hoàng tộc thì ảnh hưởng chính trị thường được xác định theo liên hệ bộ lạc, theo đó sheikh của các bộ lạc duy trì mức độ ảnh hưởng đáng kể đối với các sự kiện địa phương và quốc gia. Trong thời gian gần đây, chính phủ có các bước đi hạn chế nhằm mở rộng quyền tham gia chính trị, chẳng hạn như lập Hội đồng Cố vấn vào đầu thập niên 1990 và lập Diễn đàn Đối thoại Quốc gia vào năm 2003. Quyền cai trị của gia tộc Saud đối diện với phản đối chính trị từ bốn nhóm: các nhà hoạt động theo chủ nghĩa Hồi giáo Sunni; các nhà phê bình theo chủ nghĩa tự do; cộng đồng thiểu số Hồi giáo Shia—đặc biệt là tại Vùng Đông; các đối thủ trường kỳ đặc thù có tính bộ lạc và theo chủ nghĩa địa phương (chẳng hạn tại Hejaz). Trong đó, các nhà hoạt động theo chủ nghĩa Hồi giáo là mối đe doạ đáng chú ý nhất và trong thời gian gần đây đã gây ra một số hành động bạo lực hoặc khủng bố tại Ả Rập Xê Út. Chế độ quân chủ và hoàng tộc Quốc vương nắm giữ quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp và chiếu chỉ tạo thành cơ sở cho pháp luật quốc gia. Quốc vương đồng thời là thủ tướng, và chủ trì Hội đồng Bộ trưởng (Majlis al-Wuzarāʾ). Hoàng tộc chi phối hệ thống chính trị. Do hoàng tộc có số lượng thành viên đông đảo nên họ có thể kiểm soát hầu hết các chức vụ quan trọng của quốc gia, tham gia và hiện diện trong mọi cấp độ chính phủ. Số lượng thân vương ước tính lên tới 7.000 (khoảng năm 2010), trong đó có quyền lực và ảnh hưởng nhất là các hậu duệ nam giới của quốc vương khai quốc Ibn Saud. Các chức vụ bộ trưởng quan trọng thường được dành cho hoàng tộc, cũng như là 13 chức vụ thống đốc vùng. Các chức vụ chính trị và chính phủ dài hạn dẫn đến hình thành "các đất phong quyền lực" cho các thân vương cấp cao, như Quốc vương Abdullah từng là Tư lệnh Vệ binh Quốc gia từ năm 1963 (cho đến năm 2010, khi ông bổ nhiệm con trai mình thay thế), Quốc vương Salman giữ chức Bộ trưởng Quốc phòng và Hàng không giai đoạn 2011-2015, và giữ chức Thống đốc tỉnh Riyadh từ năm 1962 đến năm 2011. Con trai Quốc vương Salman là Mohammad bin Salman kế nhiệm làm Bộ trưởng Quốc phòng. Hoàng tộc trên phương diện chính trị bị phân thành các phái hệ dựa trên lòng trung thành theo dòng dõi, tham vọng cá nhân và tư tưởng, do đó hay xảy ra nạn tham nhũng. Phái hệ dòng dõi có quyền lực nhất được gọi là 'Sudairi Bảy', gồm các anh em cùng cha cùng mẹ với Quốc vương Fahd và các hậu duệ của họ. Phân chia tư tưởng bao gồm các vấn đề về tốc độ và phương hướng cải cách, và vai trò của ulema nên được tăng lên hay giảm xuống. Tồn tại phân tranh trong hoàng tộc về vấn đề người kế vị. Trong nhiều năm, chính phủ Ả Rập Xê Út và hoàng tộc thường xuyên bị cáo buộc tham nhũng. Tại một quốc gia được cho là "thuộc về" hoàng tộc và quốc hiệu đặt theo họ của hoàng tộc, ranh giới giữa tài sản quốc gia và của cải cá nhân của các thân vương cấp cao là điều mập mờ. Al ash-Sheikh và vai trò của ulema Ả Rập Xê Út hầu như là quốc gia duy nhất trao cho Ulema (thể chế gồm các thủ lĩnh tôn giáo và luật gia Hồi giáo) vai trò trực tiếp trong chính phủ, quốc gia duy nhất tương tự là Iran. Ulema có ảnh hưởng then chốt trong các quyết định trọng đại của chính phủ, như áp đặt cấm vận dầu mỏ vào năm 1973 và mời binh sĩ ngoại quốc đến Ả Rập Xê Út vào năm 1990. Ngoài ra, họ có vai trò quan trọng trong hệ thống tư pháp và giáo dục và có độc quyền về quyền lực trong phạm vi đạo đức tôn giáo và xã hội. Cho đến thập niên 1970, do thịnh vượng từ dầu mỏ và quốc gia được hiện đại hóa, xã hội Ả Rập Xê Út diễn ra các biến chuyển quan trọng và quyền lực của Ulema bị suy thoái. Tuy nhiên, tình hình thay đổi sau khi các phần tử Hồi giáo cấp tiến chiếm giữ Đại Thánh đường tại Mecca vào năm 1979. Chính phủ phản ứng bằng cách củng cố quyền lực của Ulema và gia tăng hỗ trợ tài chính cho họ: họ được trao quyền kiểm soát lớn hơn đối với hệ thống giáo dục và được phép thực thi nghiêm khắc hơn các quy tắc Wahhabi về đạo đức và hành vi xã hội. Sau khi đăng cơ vào năm 2005, Quốc vương Abdullah thực hiện các bước đi nhằm giảm quyền lực của Ulema, chẳng hạn chuyển quyền kiểm soát giáo dục trẻ em gái sang Bộ Giáo dục. Ulema có truyền thống do gia tộc Al ash-Sheikh lãnh đạo, đây là gia tộc tôn giáo đứng đầu quốc gia. Thành viên gia tộc Al ash-Sheikh là hậu duệ của Muhammad ibn Abd al-Wahhab (1703 – 1792), là người sáng lập giáo phái Wahhabi thuộc hệ Hồi giáo Sunni, giáo phái này hiện chi phối Ả Rập Xê Út. Gia tộc này có thanh thế chỉ đứng sau hoàng tộc hai gia tộc hình thành một "hiệp ước tương hỗ" và dàn xếp chia sẻ quyền lực trong gần 300 năm qua. Hiệp ước vẫn còn cho đến nay, được dựa trên việc hoàng tộc duy trì quyền lực của gia tộc Al ash-Sheikh trong các vấn đề tôn giáo, ủng hộ và truyền bá thuyết Wahhabi. Đổi lại, gia tộc Al ash-Sheikh ủng hộ quyền lực chính trị của hoàng tộc do đó sử dụng quyền lực tôn giáo-đạo đức của họ để hợp pháp hóa quyền cai trị của hoàng tộc. Mặc dù thế chi phối của gia tộc Al ash-Sheikh trong Ulema bị giảm bớt trong các thập niên qua, song họ vẫn giữ các chức vụ tôn giáo quan trọng nhất và liên kết mật thiết với hoàng tộc thông qua liên hôn ở mức độ lớn. Hệ thống tư pháp Nguồn chủ yếu của pháp luật Ả Rập Xê Út là Sharia bắt nguồn từ lời giáo huấn trong Qur'an và Sunnah (lời dạy của Muhammed). Ả Rập Xê Út là quốc gia Hồi giáo hiện đại duy nhất không hệ thống hóa Sharia và không có hệ thống án lệ pháp lý, trao cho thẩm phán quyền sử dụng lập luận pháp luật độc lập để phán quyết. Các thẩm phán Ả Rập Xê Út có xu hướng theo các nguyên tắc của trường phái luật học Hanbali (hay fiqh) thường thấy trong các văn bản tiền hiện đại và được chú ý do diễn giải theo nghĩa đen Qur'an và hadith. Thẩm phán có quyền bỏ qua phán quyết trước đó (của bản thân hoặc thẩm phán khác) và có thể áp dụng cách diễn giải cá nhân của mình đối với Sharia trong bất kỳ trường hợp cụ thể nào, do đó có các bản án khác nhau cho dù các vụ án có vẻ giống nhau, nên khó khăn trong việc dự đoán diễn giải pháp lý. Hệ thống tòa án Sharia là bộ máy tư pháp cơ bản của Ả Rập Xê Út, các thẩm phán (qadi) và luật sư thuộc Ulema. Chiếu chỉ là nguồn pháp luật chủ yếu khác; song được gọi là điều lệnh thay vì luật do phụ thuộc Sharia. Các chiếu chỉ bổ sung cho Sharia trong các lĩnh vực như lao động, thương nghiệp và công ty. Ngoài ra, luật bộ lạc truyền thống và phong tục vẫn còn quan trọng. Các tòa án chính phủ ngoài Sharia thường giải quyết tranh chấp liên quan đến các chiếu chỉ cụ thể. Quyền kháng cáo cuối cùng từ tòa án Sharia và tòa án chính phủ thuộc về Quốc vương, và toàn bộ các tòa án theo các quy tắc Sharia về chứng cứ và thủ tục. Hệ thống tư pháp Ả Rập Xê Út bị chỉ trích vì "các thẩm phán theo chủ nghĩa đạo đức cực đoan", họ thường khắc nghiệt trong việc tuyên án, song cũng đôi khi khoan dung và trì hoãn quá độ, như nhiều phụ nữ không thể ly hôn. Năm 2007, Quốc vương Abdullah ban chiếu chỉ cải cách hệ thống tư pháp và tạo ra một hệ thống tòa án mới, và đến năm 2009, ông tiến hành một số cải biến đáng kể đối với nhân sự ở cấp cao nhất khi bổ nhiệm một thế hệ trẻ tuổi. Các tòa án Ả Rập Xê Út có thể tuyên án tử hình và trừng phạt thân thể, như chặt đầu, ném đá (đến chết), cắt cụt chi, đóng đinh, đánh roi, số lượng tuyệt đối các vụ hành quyết bị chỉ trích mạnh. Tử hình có thể được tuyên cho nhiều tội như giết người, hiếp dâm, cướp có vũ trang, sử dụng ma túy nhiều lần, bội giáo, thông gian, yêu thuật và ma thuật. Hành vi tình dục đồng giới bị trừng phạt bằng cách đánh roi hoặc tử hình. Gia đình nạn nhân bị giết có thể lựa chọn yêu cầu tử hình thủ phạm, hoặc quyết định khoan hồng để đổi lấy một khoản tiền diyya (tiền máu). Ngoại giao Ả Rập Xê Út gia nhập Liên Hợp Quốc vào năm 1945 và là một thành viên sáng lập của Liên đoàn Ả Rập, Hội đồng Hợp tác Vùng Vịnh, Liên đoàn Thế giới Hồi giáo, và Tổ chức Hội nghị Hồi giáo (nay là Tổ chức Hợp tác Hồi giáo). Quốc gia này giữ một vai trò nổi bật trong Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới, và tham gia Tổ chức Thương mại Thế giới vào năm 2005. Ả Rập Xê Út ủng hộ hình thành Liên minh Thuế quan Ả Rập vào năm 2015 và một thị trường chung Ả Rập vào năm 2020. Kể từ năm 1960, với vị thế là thành viên sáng lập của OPEC, chính sách giá dầu mỏ của Ả Rập Xê Út về tổng thể là giúp ổn định thị trường dầu mỏ thế giới và nỗ lực điều chỉnh biến động giá mạnh nhằm không gây hại cho các nền kinh tế phương Tây. Từ giữa thập niên 1970 đến năm 2002, Ả Rập Xê Út đã chi ra trên 70 tỷ USD "viện trợ phát triển hải ngoại" (ODA). Tuy nhiên, có bằng chứng rằng đại đa số chúng trên thực tế được dành cho truyền bá và khuếch trương giáo phái Wahhabi, điều này gây bất lợi cho các giáo phái Hồi giáo khác. Tồn tại tranh luận mãnh liệt về việc liệu viện trợ của Ả Rập Xê Út và giáo phái Wahhabi đã kích động chủ nghĩa cực đoan tại các quốc gia tiếp nhận hay không. Hai luận điệu chính là về bản chất giáo phái Wahhabi khuyến khích tính không khoan dung và xúc tiến chủ nghĩa khủng bố. Chỉ tính tại các quốc gia có đa số cư dân không theo Hồi giáo, trong bốn thập niên sau khi Faisal đăng cơ, Ả Rập Xê Út đã trả tiền xây dựng 1.359 thánh đường, 210 trung tâm Hồi giáo. Ả Rập Xê Út và Hoa Kỳ là các đồng minh chiến lược, và từ khi Barack Obama nhậm chức vào năm 2009 đến tháng 8 năm 2016, Hoa Kỳ đã bán lượng vũ khí trị giá 110 tỷ USD cho Ả Rập Xê Út. Quan hệ giữa hai quốc gia trở nên căng thẳng sau các vụ tấn công ngày 11 tháng 9 năm 2001 tại Hoa Kỳ. Các chính trị gia và truyền thông Hoa Kỳ cáo buộc chính phủ Ả Rập Xê Út ủng hộ chủ nghĩa khủng bố và dung thứ văn hoá jihad (thánh chiến). Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton từng cho rằng Ả Rập Xê Út ủng hộ tài chính cho al-Qaida, Taliban, LeT và các tổ chức khủng bố khác. Chính phủ Ả Rập bác bỏ các cáo buộc này, cùng các cáo buộc rằng họ xuất khẩu chủ nghĩa cực đoan tôn giáo hoặc văn hoá. Trong thế giới Ả Rập và Hồi giáo, Ả Rập Xê Út được nhìn nhận là quốc gia thân phương Tây và thân Mỹ, và họ dĩ nhiên là một đồng minh trường kỳ của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, điều này và vai trò của Ả Rập Xê Út trong chiến tranh Vùng Vịnh 1991, đặc biệt là cho phép binh sĩ Hoa Kỳ đồn trú trên lãnh thổ Ả Rập Xê Út từ năm 1991, xúc tiến chủ nghĩa Hồi giáo thù địch phát triển trong nước. Do đó, Ả Rập Xê Út trong một chừng mực nhất định đã tự tách mình khỏi Hoa Kỳ, chẳng hạn như từ chối ủng hộ hoặc tham gia chiến tranh Iraq vào năm 2003. Hậu quả của chiến tranh Iraq năm 2003 và Mùa xuân Ả Rập khiến chế độ quân chủ Ả Rập Xê Út gia tăng báo động về ảnh hưởng của Iran trong khu vực. Các lo ngại này được phản ánh qua lời của Quốc vương Abdullah, ông từng bí mật thuyết phục Hoa Kỳ tấn công Iran và "cắt cổ con rắn". Nhằm bảo vệ hoàng tộc Khalifa của Bahrain, Ả Rập Xê Út phái quân xâm nhập Bahrain để đàn áp cuộc khởi nghĩa của nhân dân Bahrain vào ngày 14 tháng 3 năm 2011. Chính phủ Ả Rập Xê Út nhìn nhận cuộc khởi nghĩa là một "mối đe doạ an ninh" do người Shia vốn chiếm đa số cư dân Bahrain đặt ra. Ngày 25 tháng 3 năm 2015, Ả Rập Xê Út, dẫn đầu một liên minh các quốc gia Hồi giáo Sunni, khởi đầu can thiệp quân sự tại Yemen chống lại phái Houthi thuộc hệ Hồi giáo Shia và lực lượng trung thành với cựu Tổng thống Ali Abdullah Saleh. Ả Rập Xê Út được nhìn nhận là có ảnh hưởng ôn hoà trong xung đột Ả Rập-Israel, định kỳ đưa ra kế hoạch hoà bình giữa Israel và người Palestine, và lên án Hezbollah. Trong Mùa xuân Ả Rập, Ả Rập Xê Út cấp quyền tị nạn cho Tổng thống Zine El Abidine Ben Ali của Tunisia và Quốc vương Abdullah điện đàm với Tổng thống Hosni Mubarak của Ai Cập (trước khi bị phế truất) để đề nghị giúp đỡ. Năm 2014, quan hệ giữa Ả Rập Xê Út và Qatar trở nên căng thẳng do Qatar ủng hộ Anh em Hồi giáo. Ả Rập Xê Út từng công khai ủng hộ Đội quân Chinh phục, một nhóm thuộc lực lượng chống chính phủ trong Nội chiến Syria mà theo báo cáo bao gồm cả Mặt trận al-Nusra có liên kết với al-Qaeda. Quân sự Ả Rập Xê Út là một trong các quốc gia có tỷ lệ chi tiêu quân sự cao nhất thế giới, 10% GDP của quốc gia này được dành cho quân sự. Quân đội Ả Rập Xê Út gồm có lục quân, không quân, hải quân, phòng không, vệ binh quốc gia (SANG), và các lực lượng dân quân, tổng cộng có gần 200.000 nhân viên tại ngũ. Năm 2005, nhân viên lực lượng vũ trang: lục quân có 75.000; không quân có 18.000; phòng không có 16.000; hải quân có 15.500 (bao gồm 3.000 thủy quân lục chiến); và SANG có 75.000 binh sĩ tại ngũ và 25.000 dân quân bộ lạc. Ngoài ra, còn có cơ quan tình báo quân sự Al Mukhabarat Al A'amah. Ả Rập Xê Út có quan hệ quân sự lâu năm với Pakistan, và từ lâu có suy đoán rằng Ả Rập Xê Út bí mật tài trợ cho chương trình bom nguyên tử của Pakistan và tìm cách mua vũ khí nguyên tử từ Pakistan. Vệ binh Quốc gia Ả Rập Xê Út không phải lực lượng dự bị mà là một lực lượng tiền tuyến hoạt động đầy đủ, và bắt nguồn từ lực lượng quân sự-tôn giáo bộ lạc của Ibn Saud là Ikhwan. Vệ binh Quốc gia Ả Rập Xê Út dưới dạng hiện nay bắt nguồn từ đội quân cá nhân của Abdullah từ thập niên 1960. Vệ binh Quốc gia Ả Rập Xê Út từng là một đối trọng với phái Sudairi trong hoàng tộc. Thiết bị quân sự của Ả Rập Xê Út chủ yếu do Hoa Kỳ, Pháp và Anh cung cấp. Hoa Kỳ bán trên 80 tỷ USD phần cứng quân sự cho quân đội Ả Rập Xê Út trong giai đoạn 1951-2006. Năm 2013, chi tiêu quân sự của Ả Rập Xê Út tăng lên 67 tỷ USD, vượt qua Anh, Pháp và Nhật Bản để chiếm vị trí thứ tư toàn cầu. Theo Viện Nghiên cứu Hoà bình Quốc tế Stockholm (SIPRI), trong giai đoạn 2010–14 Ả Rập Xê Út trở thành quốc gia nhập khẩu vũ khí nhiều thứ nhì trên thế giới, tiếp nhận gấp bốn lần so với giai đoạn 2005–2009. Ả Rập Xê Út chiếm 41% xuất khẩu vũ khí của Anh trong giai đoạn 2010–14. Pháp cho phép bán 18 tỷ USD vũ khí cho Ả Rập Xê Út chỉ trong năm 2015. Thương vụ vũ khí trị giá 15 tỷ USD với Ả Rập Xê Út vào năm 2016 được cho là thương vụ vũ khí lớn nhất trong lịch sử Canada. Năm 2017, Ả Rập Xê Út và Hoa Kỳ đạt được một thoả thuận vũ khí trị giá 110 tỉ USD. Đơn vị hành chính Ả Rập Xê Út được phân thành 13 vùng (; manatiq idāriyya, số ít منطقة إدارية; mintaqah idariyya). Các vùng được chia tiếp thành 118 tỉnh (; muhafazat, số ít محافظة; muhafazah). Con số này bao gồm 13 thủ phủ vùng, có vị thế khác biệt là đô thị (; amanah) do thị trưởng (; amin) quản lý. Các tỉnh được chia tiếp thành huyện (; marakiz, số ít مركز; markaz). Các thành phố lớn Địa lý Ả Rập Xê Út chiếm khoảng 80% bán đảo Ả Rập (bán đảo lớn nhất thế giới), nằm giữa vĩ tuyến 16° Bắc và 33° Bắc, giữa kinh tuyến 34° Đông và 56° Đông. Do biên giới phía nam của quốc gia với Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất và Oman không được phân giới chính xác, kích thước thực tế của vương quốc này chưa được xác định. CIA World Factbook ước tính diện tích Ả Rập Xê Út là và xếp hạng là quốc gia rộng thứ 13 thế giới. Về phương diện địa lý, đây là quốc gia lớn nhất trên mảng Ả Rập. Hoang mạc Ả Rập cùng các bán hoang mạc và vùng cây bụi có liên hệ với nó chi phối địa lý Ả Rập Xê Út. Thực tế, hoang mạc mạc Ả Rập là một số sa mạc liên kết với nhau và bao gồm 647.500 km² Rub' al Khali ("miền hoang vu") tại phần phía nam của vương quốc, là sa mạc với các đụn cát liền kề lớn nhất thế giới. Hầu như không có sông hồ tại Ả Rập Xê Út, song có một số wadi (thung lũng sông thường xuyên khô hạn). Một vài khu vực phì nhiêu hình thành nhờ bồi tích tại các wadi, bồn địa, và ốc đảo. Đặc điểm địa hình chính là cao nguyên trung tâm, cao lên đột ngột từ biển Đỏ và dần thấp xuống Nejd và hướng ra vịnh Ba Tư. Tại duyên hải biển Đỏ, có một đồng bằng duyên hải hẹp gọi là Tihamah. Vùng Asir thuộc miền tây nam có địa hình núi non, tại đó có núi Sawda cao 3.133 m, là đỉnh cao nhất toàn quốc. Ngoại trừ vùng Asir, phần còn lại của Ả Rập Xê Út có khí hậu hoang mạc nóng với nhiệt độ ban ngày cực kỳ cao và giảm đột ngột vào ban đêm. Nhiệt độ trung bình vào mùa hè là khoảng 45 °C, song có thể lên đến 54 °C. Vào mùa đông, nhiệt độ có thể lạnh, nhưng hiếm khi xuống dưới 0 °C. Vào mùa xuân và mùa thu, sức nóng dịu đi với nhiệt độ trung bình khoảng 29 °C. Lượng mưa hàng năm cực kỳ thấp, riêng vùng Asir chịu ảnh hưởng từ gió mùa Ấn Độ Dương thường xuất hiện từ tháng 10 đến tháng 3. Lượng mưa trung bình của vùng trong giai đoạn này là 300 mm, chiếm khoảng 60% lượng mưa hàng năm. Dù có địa hình và khí hậu khô cằn, Ả Rập Xê Út lại sở hũu một hệ sinh thái đa dạng, với hầu hết các sinh vật đều thích nghi tốt với điều kiện khắc nghiệt vùng hoang mạc. Các loài động vật đặc hữu bao gồm các loài như chó sói Ả Rập, linh cẩu vằn, cầy Mangut, khỉ đầu chó, thỏ sa mạc, chuột cát, chuột nhảy. Các loài động vật lớn như linh dương Gazelle, linh dương sừng kiếm, và báo hoa mai có số lượng tương đối nhiều cho đến thập niên 1950, song săn bắn bằng ô tô làm giảm số lượng các loài này đến mức gần tuyệt chủng. Các loài chim bao gồm chim cắt (bị bắt và huấn luyện để săn bắt), đại bàng, diều hâu, kền kền, gà gô cát và chào mào. Ả Rập Xê Út có một số loài rắn trong đó nhiều loài có độc, và một số loài thằn lằn. Hệ sinh vật biển tại vịnh Ba Tư cũng rất đa dạng. Các động vật được thuần hoá gồm lạc đà một bướu, dê, cừu, lừa và gà. Do có điều kiện sa mạc, hệ thực vật Ả Rập Xê Út hầu hết là các cây thân thảo và cây bụi nhỏ cần ít nước. Cũng có một số khu vực đồng cỏ và cây với quy mô nhỏ tại miền nam Asir. Chà là là loài cây phổ biến. Kinh tế Ả Rập Xê Út có nền kinh tế chỉ huy, dựa trên dầu mỏ với khoảng 75% thu ngân sách và 90% thu nhập xuất khẩu đến từ công nghiệp dầu mỏ. Quốc gia này phụ thuộc nhiều vào công nhân ngoại quốc, khoảng 80% người lao động trong khu vực tư nhân không phải là công dân Ả Rập Xê Út. Một số thách thức đối với kinh tế Ả Rập Xê Út là ngăn chặn hoặc đảo nghịch việc suy giảm thu nhập bình quân, cải thiện giáo dục để chuẩn bị cho thanh niên trở thành lực lượng lao động và cung cấp cho họ việc làm, đa dạng hoá kinh tế, khuyến khích khu vực tư nhân và xây dựng nhà ở, giảm bớt tham nhũng và bất bình đẳng. Ngành công nghiệp dầu mỏ chiếm khoảng 45% tổng sản phẩm quốc nội danh nghĩa của Ả Rập Xê Út, trong khi khu vực tư nhân chiếm 40%. Ả Rập Xê Út theo số liệu chính thức có trữ lượng dầu mỏ , chiếm khoảng 20% trữ lượng dầu mỏ được kiểm chứng của thế giới. Trong thập niên 1990, thu nhập từ dầu mỏ của Ả Rập Xê Út bị tụt giảm đáng kể, kết hợp với tỷ lệ gia tăng dân số cao khiến thu nhập bình quân giảm từ mức 11.700 USD vào đỉnh điểm bùng nổ dầu mỏ trong năm 1981 xuống còn 6.300 USD trong năm 1998. Giá dầu mỏ sau đó tăng lên khiến GDP bình quân tăng lên, đạt 17.000 USD vào năm 2007 (khoảng 7.400 USD điều chỉnh theo lạm phát), song giảm xuống do giá dầu mỏ giảm từ giữa năm 2014. Tổ chức các nước xuất khẩu dầu lửa (OPEC) hạn chế sản lượng dầu mỏ của các thành viên dựa trên "trữ lượng được chứng minh" của họ. Trữ lượng công bố của Ả Rập Xê Út có ít biến động kể từ năm 1980, ngoại lệ chính là lần tăng khoảng giai đoạn 1987-1988. Trong giai đoạn 2003–2013, một số dịch vụ trọng yếu được tư hữu hoá: cung cấp nước đô thị, điện lực, viễn thông; và một phần hệ thống giáo dục và y tế, kiểm soát giao thông và tường trình tai nạn ô tô cũng được tư hữu hoá. Tuy nhiên, có ý kiến lo ngại về hoạt động của các thực thể được tư hữu hoá này. Tháng 11 năm 2005, Ả Rập Xê Út được phê chuẩn trở thành một thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới. Ả Rập Xê Út duy trì việc cấm đầu tư nước ngoài trong một số lĩnh vực, song chính phủ có kế hoạch mở cửa một số lĩnh vực như viễn thông, bảo hiểm, truyền tải điện. Chính phủ cũng tiến hành nỗ lực nhằm bản địa hoá kinh tế, tức thay thế công nhân ngoại quốc bằng công dân Ả Rập Xê Út song chỉ có thành công hạn chế. Ả Rập có các kế hoạch phát triển 5 năm kể từ năm 1970. Trong số các kế hoạch này có triển khai "các thành phố kinh tế" (như King Abdullah Economic City) được hoàn thành cho đến năm 2020, nhằm đa dạng hoá kinh tế và cung cấp việc làm. có bốn thành phố được lập kế hoạch. Quốc vương tuyên bố rằng thu nhập bình quân sẽ tăng lên đến 33.500 USD vào năm 2020. Các thành phố phân bố khắp Ả Rập Xê Út nhằm xúc tiến đa dạng hoá tại mỗi khu vực. Ngoài dầu mỏ và khí đốt, Ả Rập Xê Út còn có ngành khai thác vàng quy mô nhỏ tại khu vực Mahd adh Dhahab và các ngành khai khoáng khác, lĩnh vực nông nghiệp (đặc biệt là tại tây nam) dựa vào chà là và gia súc, và một số công việc tạm thời được tạo ra trong mỗi dịp hành hương hajj. Ả Rập Xê Út khuyến khích nông nghiệp sa mạc bằng cách cung cấp trợ cấp đáng kể cũng như tiêu tốn 300 tỷ m³ nước mà hầu hết là nguồn nước không tái tạo để trồng cỏ linh lăng, ngũ cốc, thịt và sữa tại hoang mạc Ả Rập. Ước tính việc tiêu thụ nguồn nước ngầm không tái tạo khiến cho 4/5 trữ lượng nước ngầm biến mất cho đến năm 2012. Ả Rập Xê Út đầu tư đáng kể vào việc khử muối nước biển, cung cấp nước, hệ thống thoát nước và xử lý nước, làm tăng đáng kể tỷ lệ dân chúng được tiếp cận nước uống và cải thiện điều kiện vệ sinh trong các thập niên qua. Khoảng 50% nước uống có nguồn gốc từ nước khử muối, 40% đến từ khai thác nước ngầm và 10% đến từ nước bề mặt (đặc biệt tại vùng núi non tây nam). Thủ đô Riyard được cung cấp nước khử muối bơm từ vịnh Ba Tư với khoảng cách 467 km. Nhờ thu nhập từ dầu mỏ, nước được cung cấp gần như miễn phí. Mặc dù chất lượng dịch vụ được cải thiện song vẫn còn thấp, chẳng hạn tại Riyadh chỉ có nước một lần trong mỗi 2,5 ngày vào năm 2011, còn tại Jeddah chỉ có nước 9 ngày một lần. Nhân khẩu Dân số Ả Rập Xê Út vào tháng 7 năm 2016 được ước tính là 28,1 triệu, trong đó có 30% (khoảng hơn 8 triệu) đến 10 triệu người nhập cư không có quyền công dân, tuy nhiên giới lãnh đạo quốc gia này có lịch sử nâng khống số liệu nhân khẩu. Dân số Ả Rập Xê Út tăng trưởng nhanh từ khoảng năm 1950 với dân số 3 triệu, và trong nhiều năm đây là một trong các quốc gia có tỷ suất sinh cao nhất trên thế giới với khoảng 3% một năm. Tuy nhiên, tổng tỷ suất sinh năm 2016 giảm xuống còn 2,11 trẻ em trên mỗi phụ nữ. Thành phần dân tộc của công dân Ả Rập Xê Út có 90% là người Ả Rập và 10% là người lai Á-Phi. Hầu hết người Ả Rập Xê Út sống tại Hejaz (35%), Najd (28%), và Vùng Đông (15%). Cho đến khoảng năm 1970, hầu hết người Ả Rập Xê Út sống tại nông thôn, song trong nửa sau của thế kỷ XX vương quốc trải qua đô thị hoá nhanh chóng. khoảng 80% người Ả Rập Xê Út sống tại các khu vực đô thị lớn, đặc biệt là Riyadh, Jeddah hay Dammam. Dân số Ả Rập Xê Út khá trẻ với trên một nửa dưới 25 tuổi (2012). Một phần lớn dân số là mang quốc tịch nước ngoài. (The CIA Factbook ước tính rằng người nước ngoài sống tại Ả Rập Xê Út chiếm khoảng 21% dân số. Cục Thống kê và Thông tin Trung ương Ả Rập Xê Út ước tính số người nước ngoài vào cuối năm 2014 chiếm 33% dân số (10,1 triệu). Trong đó, người Ấn Độ có 1,3 triệu, người Pakistan có 1,5 triệu (2012), người Ai Cập: 900.000, người Yemen: 800.000, người Bangladesh: 500.000, người Philippines: 500.000, người Jordan/Palestine: 260.000, người Indonesia: 250.000, người Sri Lanka: 350.000, người Sudan: 250.000, người Syria: 100.000 và người Thổ Nhĩ Kỳ: 100.000. Người Hồi giáo nước ngoài sống tại vương quốc đủ 10 năm có thể xin quyền công dân Ả Rập Xê Út (ưu tiên cho người có trình độ khoa học, và ngoại lệ là người Palestine trừ khi họ kết hôn với một công dân Ả Rập Xê Út.) Ả Rập Xê Út không ký kết Công ước người Tị nạn Liên Hợp Quốc 1951. Do dân số Ả Rập Xê Út tăng trưởng và thu nhập từ xuất khẩu dầu mỏ đình trệ, khiến gia tăng áp lực trong việc thay thế công nhân nước ngoài bằng công dân, và chính phủ Ả Rập Xê Út hy vọng giảm số người nước ngoài tại đây. Cho đến đầu thập niên 1960, số nô lệ tại Ả Rập Xê Út ước tính là 300.000. Chế độ nô lệ chính thức bị bãi bỏ vào năm 1962. Ngôn ngữ chính thức của Ả Rập Xê Út là tiếng Ả Rập. Ba phương ngữ chủ yếu của người Ả Rập Xê Út là tiếng Ả Rập Hejaz (khoảng 6 triệu người nói), tiếng Ả Rập Najd (khoảng 8 triệu người nói), và tiếng Ả Rập Vùng Vịnh (khoảng 0,2 triệu người nói). Ngôn ngữ ký hiệu Ả Rập Xê Út là ngôn ngữ chủ yếu của cộng đồng khiếm thính. Các cộng đồng ngoại kiều lớn cũng nói ngôn ngữ của họ, đông đảo nhất là tiếng Tagalog, tiếng Rohingya, tiếng Urdu, tiếng Ả Rập Ai Cập. Có nhiều người nói tiếng Anh tại Ả Rập Xê Út vì Công ty Dầu mỏ Ả Rập-Mỹ (SAMCO) chi phối kinh tế Ả Rập Xê Út. Mặc dù tiếng Ả Rập là ngôn ngữ chính thức duy nhất, song nhiều khi tiếng Anh được ghi song song với tiếng Ả Rập. Hồi giáo là quốc giáo của Ả Rập Xê Út và pháp luật vương quốc yêu cầu rằng toàn bộ công dân là tín đồ Hồi giáo., và gần như toàn bộ cư dân Ả Rập Xê Út là người Hồi giáo. Khu vực Hejaz có các thành phố Mecca và Medina là cái nôi của Hồi giáo, là điểm đến trong cuộc hành hương hajj, là hai thánh địa của Hồi giáo. Theo ước tính số lượng tín đồ hệ Hồi giáo Sunni tại Ả Rập Xê Út là từ 75% đến 90%, 10–25% còn lại thuộc hệ Hồi giáo Shia. Thể thức chính thức và chi phối của hệ Hồi giáo Sunni tại Ả Rập Xê Út thường được gọi là Wahhabi (những người đề xướng chuộng tên gọi tư tưởng Salafi, nhìn nhận Wahhabi là xúc phạm) và thường được các nhà quan sát mô tả là 'chủ nghĩa đạo đức', 'không khoan dung', hay 'cực bảo thủ', còn các tín đồ xem đây là Hồi giáo "đích thực". Phái này do Muhammad ibn Abd al-Wahhab thành lập trong thế kỷ XVIII tại bán đảo Ả Rập. Các phái khác như Hồi giáo Shia thiểu số bị đàn áp có hệ thống. do tư tưởng Wahabbi lên án đức tin Shia. Theo ước tính có khoảng 1,5 triệu tín đồ Cơ Đốc giáo tại Ả Rập Xê Út, gần như toàn bộ là công nhân nước ngoài. Ả Rập Xê Út cho phép người Cơ Đốc giáo nhập cảnh với tư cách công nhân nước ngoài để làm việc tạm thời, song không cho phép họ hành lễ công khai. Tỷ lệ công dân Ả Rập Xê Út theo Cơ Đốc giáo về chính thức là không có, do công dân bị cấm cải đạo khỏi Hồi giáo và nếu vi phạm sẽ bị tử hình. Bất chấp điều đó, một nghiên cứu vào năm 2015 ước tính rằng có 60.000 người Hồi giáo cải sang Cơ Đốc giáo tại Ả Rập Xê Út. Theo Trung tâm Nghiên cứu Pew thì có 390.000 tín đồ Ấn Độ giáo tại Ả Rập Xê Út, gần như toàn bộ là công nhân nước ngoài. Theo pháp lý từ năm 2014, Người vô thần sẽ bị xác định là phần tử khủng bố. Văn hoá Ả Rập Xê Út có các quan điểm và truyền thống từ nhiều thế kỷ, thường bắt nguồn từ văn minh Ả Rập. Văn hoá này chịu ảnh hưởng mạnh từ phái Hồi giáo gia bảo Wahhabi có tính đạo đức khắc nghiệt. Hồi giáo Wahhabi được cho là "đặc điểm chi phối văn hoá Ả Rập Xê Út." Tôn giáo trong xã hội Ả Rập Xê Út là một trong số rất ít quốc gia có cảnh sát tôn giáo (gọi là Haia hoặc Mutaween), họ tuần tra trên đường phố "chỉ thị điều thiện và trừng trị điều ác" bằng cách buộc tuân thủ luật về trang phục, phân tách nghiêm ngặt nam giới và nữ giới, tham dự cầu nguyện (salat) 5 lần mỗi ngày, và cấm chỉ đồ uống có cồn, và các khía cạnh khác của gia bảo Trước năm 2016, Ả Rập Xê Út sử dụng lịch Hồi giáo theo chu kỳ Mặt Trăng, song vào năm 2016 vương quốc tuyên bố đổi sang lịch Gregorius quốc tế đối với các mục đích dân sự. Sinh hoạt thường nhật bị chi phối bởi việc hành lễ Hồi giáo. Các cơ sở kinh doanh đóng cửa ba hoặc bốn lần mỗi ngày trong giờ làm việc để người lao động và khách hàng cầu nguyện. Cuối tuần là thứ 6 và thứ 7 do thứ 6 là ngày thánh của người Hồi giáo. Trong nhiều năm, chỉ hai ngày lễ tôn giáo được công nhận công khai là Eid al-Fitr và Eid al-Adha. (Eid al-Fitr là ngày lễ "lớn nhất", có thời hạn ba ngày với các bữa tiệc hay tặng quà.) khoảng một nửa thời gian phát sóng của truyền hình nhà nước Ả Rập Xê Út dành cho các vấn đề tôn giáo. 90% số sách xuất bản tại vương quốc là về chủ đề tôn giáo, và hầu hết bằng tiến sĩ do các đại học trao là về nghiên cứu Hồi giáo. Trong hệ thống trường công, khoảng một nửa số tài liệu giảng dạy là về tôn giáo. Trong khi đó, phần dành cho lịch sử, văn học, và văn hoá của thế giới phi Hồi giáo trong 12 năm học có tổng cộng khoảng 40 trang. Sự ủng hộ của quần chúng đối với cấu trúc chính trị/tôn giáo truyền thống mạnh tới mức một nhà nghiên cứu nhận thấy hầu như không có ủng hộ đối với các cải cách để thế tục hoá nhà nước. Do các hạn chế tôn giáo, văn hoá Ả Rập Xê Út thiếu đa dạng về biểu lộ tôn giáo, các toà nhà, lễ hội và sự kiện công cộng thường niên. Việc kỷ niệm các ngày lễ Hồi giáo (phi-Wahhabi) như sinh nhật Muhammad và ngày Ashura, (một ngày lễ quan trọng đối với 10–25% dân số theo Hồi giáo Shia), chỉ được khoan dung khi có quy mô nhỏ tại địa phương. Tín đồ Shia cũng phải đối diện với kỳ thị có hệ thống trong công việc, giáo dục, tư pháp theo đánh giá của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền. Các lễ hội phi Hồi giáo như Lễ Giáng Sinh và Lễ Phục Sinh hoàn toàn không được dung thứ. Không được phép lập các điểm thờ phụng phi Hồi giáo tại Ả Rập Xê Út. Trong các vụ kiện bồi thường pháp lý (Diyya) người phi Hồi giáo nhận được ít hơn người Hồi giáo. Giáo phái Wahhabi chống đối bất kỳ sự sùng kính nào với các địa điểm lịch sử và tôn giáo quan trọng vì lo ngại có thể dẫn đến thần thánh hoá, và các di tích lịch sử Hồi giáo quan trọng nhất (tại Mecca và Medina) nằm tại khu vực Hejaz. Kết quả là, dưới quyền cai trị của gia tộc Saud, khoảng 95% toà nhà lịch sử của Mecca đã bị phá huỷ vì lý do tôn giáo dù hầu hết chúng có niên đại trên một nghìn năm. Các nhà chỉ trích cho rằng trong 50 năm, 300 di tích lịch sử có liên kết với Muhammad, gia đình và bằng hữu của ông đã biến mất, chỉ còn ít hơn 20 cấu trúc còn lại tại Mecca có niên đại từ thời kỳ Muhammad. Trang phục Trang phục của người Ả Rập Xê Út tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc hijab (nguyên tắc Hồi giáo về khiêm tốn, đặc biệt trong trang phục). Quần áo phần lớn rộng và rủ tự nhiên song che phủ toàn thân, phù hợp với khí hậu hoang mạc của Ả Rập Xê Út. Theo truyền thống, nam giới thường mặc một áo choàng dài đến mắt cá chân dệt từ vải len hoặc bông (gọi là thawb), cùng một keffiyeh (khăn kẻ ô vuông làm bằng bông được giữ bằng một đai agal) hoặc một ghutra (một khăn trắng tuyền bằng vải bông mịn, cũng giữ bằng một agal) trùm lên đầu. Trong những ngày lạnh giá hiếm thấy, nam giới Ả Rập Xê Út mặc một áo choàng bằng lông lạc đà (bisht). Tại nơi công cộng, nữ giới được yêu cầu mặc abaya màu đen hoặc trang phục màu đen khác bao phủ mọi phần trên cơ thể bên dưới cổ ngoại trừ bàn chân và bàn tay, song hầu hết nữ giới che đầu để thể hiện tôn kính tôn giáo của mình. Yêu cầu này cũng áp dụng cho nữ giới phi Hồi giáo, và nếu không tuân thủ có thể khiến cảnh sát hành động, đặc biệt là tại các khu vực bảo thủ hơn trong nước. Trang phục của nữ giới thường được trang trí với hoạ tiết bộ lạc, tiền xu, sequin, sợi kim loại và miếng đính. Một số nữ giới lựa chọn che mặt bằng niqāb còn một số thì không. Một số áo choàng abaya bao phủ cả phần đầu. Nghệ thuật và giải trí Trong thập niên 1970, có nhiều rạp chiếu phim tại Ả Rập Xê Út mặc dù chúng được nhìn nhận là trái với quy tắc Wahhabi. Trong phong trào Phục hưng Hồi giáo vào thập niên 1980, và để phản ứng chính trị trước sự gia tăng của hoạt động chủ nghĩa Hồi giáo, chính phủ cho đóng cửa toàn bộ các rạp chiếu phim và nhà hát. Từ đầu những năm 1980, rạp chiếu phim bị cấm do các sức ép liên quan đến đạo Hồi. Năm 2017, Ả Rập Xê Út cho phép các rạp chiếu phim mở cửa trở lại. Những rạp chiếu phim thương mại đầu tiên theo kế hoạch khai trương vào tháng 3 năm 2018. Hai bộ phim đầu tiên được công chiếu là hai phim hoạt hình The Emoji Movie - Đội quân cảm xúc và Captain Underpants: The First Epic Movie - Siêu nhân quần chip. Dự kiến trong vòng 12 năm tới sẽ có khoảng 2.000 rạp chiếu phim hoạt động tại Ả Rập Xê Út. Đối với ngành công nghiệp điện ảnh, việc mở cửa lại rạp chiếu phim công cộng sau hơn 3 thập niên được kỳ vọng sẽ sự "cởi trói" cho hoạt động giải trí này. Kể từ thế kỷ XVIII trở đi, trào lưu chính thống Wahhabi làm thoái chí các bước phát triển nghệ thuật nếu như chúng mâu thuẫn với giáo lý của giáo phái này. Ngoài ra, việc Hồi giáo Sunni cấm chỉ tạo ra tượng trưng cho người làm hạn chế nghệ thuật thị giác, vốn có xu hướng chịu chi phối bởi hình học, hoa văn, phác hoạ trừu tượng và thư pháp. Nhờ thu nhập từ dầu mỏ trong thế kỷ XX, đã xuất hiện các ảnh hưởng từ bên ngoài như phong cách nhà ở, nội thất và trang phục phương Tây. Âm nhạc và vũ đạo luôn là bộ phận của sinh hoạt xã hội Ả Rập Xê Út, âm nhạc truyền thống thường gắn với thơ và được hát tập thể. Các nhạc cụ gồm có rabābah (giống vĩ cầm 3 dây), các loại nhạc cụ gõ như ṭabl (trống) và ṭār (tambourine). Trong các vũ điệu địa phương, nổi tiếng nhất là điệu theo kiểu thượng võ ʿarḍah, gồm các hàng nam giới thường mang theo gươm hoặc súng, nhảy theo tiếng trống. Thơ Bedouin (người Ả Rập du cư), gọi là nabaṭī, vẫn rất phổ biến. Kiểm duyệt làm hạn chế phát triển của văn học Ả Rập Xê Út, song một số tiểu thuyết gia và thi nhân Ả Rập Xê Út được hoan nghênh trong thế giới Ả Rập dù gây ra thái độ thù địch chính thức tại quê hương. Họ gồm có Ghazi Algosaibi, Abdelrahman Munif, Turki al-Hamad và Rajaa al-Sanea. Thể thao Bóng đá là môn thể thao quốc gia tại Ả Rập Xê Út. Đội tuyển bóng đá Ả Rập Xê Út được xem là một trong những đội tuyển bóng đá thành công nhất châu Á với sáu lần lọt vào chung kết Cúp bóng đá châu Á, trong đó có ba lần vô địch. Ngoài ra đội cũng từng có năm lần tham dự World Cup với thành tích tốt nhất là lọt vào vòng 16 đội năm 1994. Lặn biển, lướt ván buồm, thuyền buồm và bóng rổ cũng phổ biến, được cả nam giới và nữ giới chơi, và đội tuyển bóng rổ quốc gia Ả Rập Xê Út từng giành huy chương đồng tại giải vô địch châu Á năm 1999. Các môn thể thao truyền thống hơn như đua lạc đà trở nên phổ biến hơn trong thập niên 1970. Một sân vận động tại Riyadh tổ chức các cuộc đua lạc đà trong mùa đông. Giải đua lạc đà Quốc vương được tổ chức thường niên từ năm 1974, là một trong các cuộc thi quan trọng nhất và thu hút động vật và tay đua từ khắp khu vực. Việc đi săn bằng chim ưng cũng là một việc truyền thống và vẫn được thực hiện. Ẩm thực Ẩm thực Ả Rập Xê Út tương tự như các quốc gia xung quanh trên bán đảo Ả Rập, và chịu ảnh hưởng từ đồ ăn Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ, Ba Tư và châu Phi. Luật chế độ ăn uống Hồi giáo được thi hành, theo đó thịt lợn là bất hợp pháp và các loại động vật khác phải được giết mổ phù hợp với halal. Một món ăn gồm thịt cừu non mang tên khūzī là món ăn dân tộc truyền thống. Các món Kebab được phổ biến, như shāwarmā (shawarma), một món thịt ướp nướng gồm thịt cừu hoặc thịt gà. Giống như tại các quốc gia khác trên bán đảo Ả Rập, một món cơm với cá hoặc tôm gọi là machbūs (kabsa) được phổ biến. Bánh mì dẹt, không men là thành phần chủ yếu của gần như mọi bữa ăn, giống như chà là và nước hoa quả. Cà phê theo phong cách Thổ Nhĩ Kỳ là loại đồ uống truyền thống. Các vấn đề xã hội Mục tiêu của xã hội Ả Rập Xê Út là trở thành một quốc gia Hồi giáo sùng đạo, song cùng với các khó khăn kinh tế đã gây ra một số vấn đề và xung đột. Một cuộc khảo sát ý kiến độc lập hiếm có được công bố vào năm 2010 cho thấy rằng các quan tâm xã hội chủ yếu của người Ả Rập Xê Út là thất nghiệp (10% vào năm 2010), tham nhũng và chủ nghĩa cực đoan tôn giáo. Tội phạm không phải là một vấn đề đáng kể. Song mặt khác, trẻ vị thành niên phạm pháp dưới dạng đua xe bất hợp pháp, sử dụng ma tuý và sử dụng đồ uống có cồn quá mức đang gia tăng. Tỷ lệ thất nghiệp cao và một thế hệ nam thanh niên khinh thường hoàng tộc là một mối đe doạ đáng kể đối với ổn định xã hội. Một số người Ả Rập Xê Út cảm thấy họ có quyền có các công việc được trả lương tốt trong chính quyền, và việc chính phủ không làm thoả mãn được cảm tưởng này đã dẫn đến bất mãn đáng kể. Ước tính số người Ả Rập Xê Út sống dưới mức nghèo (theo chuẩn trong nước) là từ 12,7% (2013) đến 25% (2013). Theo một nghiên cứu công bố năm 2010, một trong bốn trẻ em tại Ả Rập Xê Út bị lạm dụng. Hội Nhân quyền Quốc gia Ả Rập Xê Út báo cáo rằng gần 45% trẻ em trong nước đối diện với một số kiểu lạm dụng và bạo lực gia đình. Năm 2013, chính phủ thông qua một luật để hình sự hoá bạo lực gia đình chống lại trẻ em. Có ý kiến cho rằng buôn bán phụ nữ là một vấn đề đặc biệt tại Ả Rập Xê Út do nước này có lượng lớn nữ giúp việc gia đình người nước ngoài, và các lỗ hổng trong hệ thống khiến nhiều người trở thành nạn nhân bị lạm dụng và tra tấn. Giống như nhiều quốc gia Hồi giáo tại Trung Đông, Ả Rập Xê Út có tăng trưởng dân số và tỷ lệ dân số dưới 30 tuổi ở mức cao, và nhìn thấy trước thay đổi đáng kể trong văn hoá Ả Rập Xê Út khi thế hệ này lớn hơn. Một số yếu tố cho thấy rằng sinh hoạt và mức độ thoả mãn của thanh niên sẽ khác biệt với thế hệ trước họ: Trong khi vài thập niên qua người Ả Rập Xê Út có thể được cho là dễ thoả mãn, song số lượng các công việc chính phủ được trả lương tốt và thu nhập từ dầu mỏ không đi cùng với tăng trưởng dân số làm tăng thất nghiệp, và nền giáo dục kém làm hạn chế cơ hội việc làm trong khu vực tư nhân. Thanh niên không hiểu rõ tiêu chuẩn sinh hoạt đã được cải thiện ra sao kể từ giữa thế kỷ XX. Tuổi của quốc vương và thái tử ở mức cao, khiến họ lớn tuổi hơn nửa thế kỷ so với hầu hết dân chúng. Tiếp xúc với phong cách sinh hoạt của thanh niên thế giới bên ngoài gây xung đột với văn hoá bản địa có tính phục tùng và tuân thủ tôn giáo nghiêm ngặt. Xu hướng cha mẹ để con cho người giúp việc nước ngoài nuôi dạy họ không thể truyền lại các giá trị và truyền thống Hồi giáo cốt lõi tạo nên nền tảng xã hội Ả Rập Xê Út. Theo một khảo sát vào năm 2011, 31% thanh niên Ả Rập Xê Út đồng ý với phát biểu `các giá trị truyền thống đã lỗi thời và... Tôi quan tâm nắm bắt các giá trị và đức tin hiện đại`—là tỷ lệ cao nhất trong mười quốc gia Ả Rập được khảo sát. Kết hôn giữa anh em họ chung ông bà hoặc chung cụ tại Ả Rập Xê Út ở mức cao hàng đầu thế giới. Xã hội theo truyền thống nhìn nhận đây là một cách thức "đảm bảo quan hệ giữa các bộ lạc và bảo tồn tài sản gia đình". Thực tế này được cho là một yếu tố dẫn đến tỷ lệ cao mắc các bệnh di truyền nghiêm trọng như xơ nang, hay tan máu bẩm sinh, tiểu đường, tăng huyết áp, hồng cầu hình liềm, teo cơ tuỷ, câm điếc. Tại Ả Rập Xê Út, nữ giới không có quyền lợi bình đẳng với nam giới. Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ nhận định kỳ thị của chính phủ Ả Rập Xê Út với nữ giới là một "vấn đề nghiêm trọng" tại nước này và lưu ý rằng nữ giới có ít quyền lợi chính trị do chính sách kỳ thị của chính phủ. Theo pháp luật, mọi nữ giới thành niên cần phải có một nam giới thân thuộc làm "người giám hộ", cần phải được người này cho phép thì nữ giới mới được ra ngoài, học tập hay làm việc. Nữ giới phải đối diện với kỳ thị trong tòa án, tại đó lời làm chứng của một nam giới bằng lời làm chứng của hai nữ giới trong các vụ án về gia đình và thừa kế. Nam giới Ả Rập Xê Út được phép có đa thê, và nam giới có quyền đơn phương ly hôn vợ mà không cần bất kỳ biện minh pháp lý nào. Nữ giới chỉ có thể được ly hôn nếu chồng chấp thuận hoặc về phương diện pháp luật nếu bị chồng làm hại. Trong thực tế, nữ giới Ả Rập Xê Út rất khó được ly hôn theo pháp lý. Ngày 25 tháng 9 năm 2011, Quốc vương Abdulla tuyên bố rằng nữ giới sẽ có quyền ứng cử và bỏ phiếu trong các cuộc bầu cử cấp đô thị kỳ sau và tham gia hội đồng Shura với vị thế thành viên đầy đủ. Tháng 9 năm 2017, Quốc vương Salman ký một sắc lệnh cho phép nữ giới Ả Rập Xê Út lái xe ô tô, được thực hiện từ tháng 6 năm 2018, sẽ kết thúc tình trạng là quốc gia duy nhất không cho nữ giới lái xe. Giáo dục Giáo dục tại Ả Rập Xê Út được miễn phí trong mọi cấp học. Hệ thống trường học bao gồm tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông. Một phần lớn chương trình giảng dạy trong mọi cấp học được dành cho Hồi giáo, và tại cấp trung học cơ sở học sinh có thể theo hướng tôn giáo hoặc kỹ thuật. Tỷ lệ biết chữ đạt 97% đối với nam giới và khoảng 91,1% đối với nữ giới (2015). Các lớp học được phân theo giới tính. Giáo dục bậc đại học được mở rộng nhanh chóng, có nhiều đại học và cao đẳng được thành lập đặc biệt là từ năm 2000. Các thể chế giáo dục bậc đại học bao gồm Đại học Quốc vương Saud được thành lập vào năm 1957, Đại học Hồi giáo tại Medina được thành lập vào năm 1961, và Đại học Quốc vương Abdulaziz tại Jeddah được thành lập vào năm 1967. Đại học Khoa học và Kỹ thuật Quốc vương Abdullah, viết tắt là KAUST, được thành lập vào năm 2009. Các đại học và cao đẳng khác nhấn mạnh chương trình vào khoa học và kỹ thuật, nghiên cứu quân sự, tôn giáo và y tế. Các thể chế dành cho nghiên cứu Hồi giáo có số lượng đặc biệt đông đảo. Nữ giới thường tiếp nhận giáo dục tại các thể chế riêng. Bảng xếp hạng chất lượng đại học thế giới xếp hạng 4 thể chế của Ả Rập Xê Út vào danh sách 980 đại học hàng đầu thế giới năm 2016-2017. Còn Bảng xếp hạng đại học thế giới Quacquarelli Symonds xếp hạng 19 đại học của Ả Rập Xê Út trong 100 thể chế đại học hàng đầu thế giới Ả Rập năm 2016. Học thuộc lòng phần lớn kinh Qur'an, giải thích và am hiểu cũng như áp dụng truyền thống Hồi giáo trong sinh hoạt hàng ngày là cốt lõi của chương trình giảng dạy. Giảng dạy tôn giáo theo cách này cũng là một môn bắt buộc đối với toàn bộ sinh viên đại học. Do đó, thanh niên Ả Rập Xê Út "thường thiếu các kỹ năng giáo dục và kỹ thuật mà khu vực tư nhân cần đến" theo đánh giá của CIA. Theo một báo cáo của Freedom House năm 2006, chương trình giảng dạy tôn giáo quốc gia của Ả Rập Xê Út truyền bá tư tưởng thù hận nhằm vào "những người không tin theo", bao gồm tín đồ Cơ Đốc giáo, Do Thái giáo, Ấn Độ giáo, cũng như tín đồ Hồi giáo không theo thuyết Wahhabi, và các tín ngưỡng khác. Chương trình giảng dạy nghiên cứu tôn giáo của Ả Rập Xê Út được dạy bên ngoài vương quốc thông qua madrasah, trường học và câu lạc bộ có liên hệ với chính phủ nước này trên toàn cầu. Các tiếp cận trong hệ thống giáo dục Ả Rập Xê Út bị cáo buộc là khuyến khích chủ nghĩa khủng bố Hồi giáo, dẫn đến các nỗ lực cải cách. Sau các vụ tấn công ngày 11 tháng 9 năm 2001, chính phủ đặt mục tiêu giải quyết hai vấn đề là khuyến khích chủ nghĩa cực đoan và giáo dục đại học không tương thích với kinh tế hiện đại, bằng cách hiện đại hoá với tốc độ châm hệ thống giáo dục thông qua chương trình cải cách "Tatweer". Chương trình Tatweer được tường thuật là có ngân sách khoảng 2 tỷ USD và tập trung vào việc chuyển đổi việc giảng dạy ra khỏi phương thức truyền thống là học thuộc lòng và học vẹt để hướng đến khuyến khích sinh viên phân tích và giải quyết vấn đề. Nó cũng đặt mục tiêu lập ra một hệ thống giáo dục cung cấp đào tạo có nền tảng thế tục và nghề nghiệp hơn. Ghi chú Tham khảo Đọc thêm Liên kết ngoài Saudi Arabia trang chính phủ chính th hồ sơ Ả Rập Xê Út từ BBC News Dự báo phát triển chủ yếu cho Ả Rập Xê Út từ International Futures Quốc gia thành viên Liên đoàn Ả Rập Quốc gia Hồi giáo Bán đảo Ả Rập Thành viên G20 Quốc gia và vùng lãnh thổ nói tiếng Ả Rập Quốc gia thành viên của Liên Hợp Quốc Quốc gia thành viên Tổ chức Hợp tác Hồi giáo Quốc gia thành viên OPEC Vương quốc Quốc gia Trung Đông Quốc gia Cận Đông Quốc gia châu Á Nhà nước toàn trị
28210
https://vi.wikipedia.org/wiki/D%C6%B0%C6%A1ng%20c%E1%BA%A7m
Dương cầm
Piano hay dương cầm là một nhạc cụ có bàn phím dây trong đó các dây được gõ bởi các búa gỗ được bao phủ bởi một vật liệu mềm hơn (các búa gỗ hiện đại được phủ bởi len dầy, một số đàn piano thời kì đầu dùng lông). Người ta chơi dương cầm thông qua một bàn phím, trong đó các phím được sắp thành hàng ngang (các đòn bẩy nhỏ), khi đó người chơi đàn nhấn xuống hoặc đánh với lực của các ngón của cả hai tay để làm cho các búa đập vào các dây đàn. Đàn piano được phát minh tại Ý bởi Bartolomeo Cristofori khoảng năm 1700. Tên gọi và từ nguyên Ngày trước, Việt Nam dùng từ "Tây Dương" - ý nghĩa "biển phía Tây" để chỉ các nước Tây Âu. Khi Piano du nhập từ phương Tây vào Việt Nam nên ban đầu được gọi là "Tây Dương cầm", sau rút gọn thành "dương cầm". "Cương cầm" (phồn thể: 鋼琴 / giản thể: 钢琴 / bính âm: gāng qín) - tên gọi piano ở Trung Quốc. Ngoài ra, một từ Hán Việt cũng được đọc là Dương cầm nhưng nó ám chỉ đến đàn tam thập lục của Trung Quốc, và loại đàn này không liên quan gì tới piano. Mô tả Lịch sử Những chiếc dương cầm cổ điển hay còn gọi thông thường là piano cổ điển ngày nay được xây dựng trực tiếp từ những chiếc đàn clavico clavecin (harpsichord) từ khoảng thế kỷ 16 và 17. Khoảng năm 1700, Bartolomeo Cristofori đã thử tạo ra một chiếc đàn harpsichord mà có thể biểu hiện âm nhạc một cách truyền cảm hơn, và đã tạo ra một bộ máy mà các búa gõ vào các dây, khác với đàn harpsichord là dùng quill (dụng cụ gảy đàn bằng ống lông) để gảy. Một đặc trưng lớn khác ở đàn piano thời đầu của ông là cơ cấu búa thoát, nó khiến cho búa tách rời khỏi phím một khi các nốt được đánh lên, và rồi chơi lại ở một vận tốc khác hẳn, làm thay đổi hẳn sự biểu cảm của chính các nốt phím đó. Những chiếc piano đầu tiên của Critofori vẫn còn chứa đựng rất nhiều nét giống với thiết kế của một cây đàn clavecin, còn âm thanh thì phần nhiều vẫn như thế, ngoại trừ việc là người chơi bấy giờ có thể chơi nhạc bằng việc nhấn vào bàn phím. Các thiết kế của Cristofori không được biết đến mãi cho đến những năm cuối của 1700, khi các bản thiết kế piano của ông được xuất bản. Các nhà sản xuất như Gottfried Silbermann người Đức và học trò của ông là Christian Friederici và Johannes Zumpe bắt đầu phát triển piano với vai trò là một nhạc cụ độc lập với clavecin. Mặc dù lúc đầu không được ấn tượng cho lắm nhưng được J.S.Bach ủng hộ năm 1747. Âm nhạc bắt đầu được viết riêng cho piano từ năm 1732 và kỷ nguyên của nó với vai trò một nhạc cụ dành cho biểu diễn bắt đầu. Sự phát triển của piano cổ điển sau năm 1750 diễn ra theo hai hướng cơ bản. Ở Anh, đàn piano được thiết kế nặng hơn và phức tạp hơn. Ở Đức, một loại khác nhẹ hơn và cấu trúc đơn giản hơn được biết đến như một cây đàn xứ Viên, được nhà sản xuất Johann Andreas Stein xây dựng, đó chính là những cây đàn mà Haydn, Mozart và Beethoven đã chơi và soạn nhạc trên đó. Khi piano cổ điển ngày càng phát triển, nó dần trở thành một nhạc cụ độc lập và cần làm cho âm thanh to hơn. Để tăng âm, các dây phải dày hơn và bộ khung phải khoẻ hơn nữa, như thế có thể đạt được một áp lực lớn hơn. Bộ khung của đàn piano thông thường được làm bằng gỗ, trở nên dày hơn và nặng hơn và thanh chằng chéo giúp nó kiên cố hơn. Đến năm 1820, Thomas Allen thậm chí vẫn còn dùng các ống kim loại để giữ căng các dây, và một nhà sản xuất thành công người Anh là John Broadwood bắt đầu dùng các tấm bằng sắt để giữ cho chúng được căng lên, mà giờ đây các đĩa đó phần lớn được làm bằng kim loại hơn là bằng gỗ. Năm 1825, Alpheus Babcock sáng chế ra khung bằng gang và sau đó năm 1843, một người Mỹ là Jonas Chickering bắt đầu làm piano với một đĩa tròn vành, một nét đặc trưng của các piano cánh ngày nay. Một sự phát triển đáng chú ý khác là việc chằng các dây, được phát triển bởi Henri Pape vào năm 1828 và Steinway cấp bằng sáng chế năm 1859, ông đã đặt các dây bass dài hơn lên cao hơn các dây kim, giúp cho các dây dài hơn ở trong hộp ngắn hơn và đặt các dây bass ở giữa qua một bảng cộng hưởng (soundboard) để có một sự hồi âm tốt hơn. Piano cổ điển được bắt đầu sản xuất hàng loạt vào những năm 1800, cùng với sự thành lập của các công ty lớn chuyên sản xuất đàn Piano cổ điển, những công ty này hoàn toàn phát triển từ nền tảng của mẫu đàn cánh đó tới năm 1821. Đặc điểm và cấu tạo Đàn dương cầm cổ điển tạo ra âm thanh bằng cách gõ vào các sợi dây thép bằng những chiếc búa bọc nỉ bật lên ngay tức thì để cho dây đàn piano tiếp tục ngân vang ở tần số cộng hưởng của nó. Những rung động này được truyền qua các cầu đến bảng cộng hưởng (soundboard), bộ phận khuếch đại chúng. Ứng dụng Đàn dương cầm có nhiều ứng dụng thực tế trong biểu diễn và sáng tác âm nhạc, trong nhiều thể loại âm nhạc: nhạc cổ điển và nhạc hiện đại. Nhạc jazz Jazz là một thể loại âm nhạc bắt nguồn từ cộng đồng người châu Phi ở Hoa Kỳ vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Jazz nổi lên ở nhiều nơi trên nước Mỹ với phong cách âm nhạc độc lập phổ biến vào thời đó; liên kết bằng kết nối chung giữa âm nhạc Mỹ gốc châu Âu và âm nhạc Mỹ gốc Phi với một xu hướng thiên về biểu diễn Piano được dùng phổ biến trong nhạc jazz, nó thường chơi solo như một nhạc cụ độc lập trên nền nhạc, hoặc cũng có thể đệm cho các nhạc cụ khác hoặc cho người hát. Nhạc cổ điển Nhạc cổ điển là dòng nhạc nghệ thuật được sản xuất, hoặc được bắt nguồn từ truyền thống tế lễ ở phương Tây bao gồm cả nhạc tôn giáo và nhạc thế tục, một khoảng thời gian rộng lớn từ khoảng thế kỷ thứ XI đến thời điểm hiện tại. Có nhiều thể loại nhạc cổ điển được soạn riêng cho đàn dương cầm: sonata cho piano, concerto cho piano và dàn nhạc, mazurka, polonaise, rondo, nocturne... Các thể loại nhạc khác Piano được dùng phổ biến trong tất cả các thể loại nhạc khác với vai trò là nhạc cụ đệm cho người hát, hoặc là nhạc cụ độc tấu các bản nhạc không lời được chuyển soạn cho piano. Tiền thân Harpsichord Harpsichord là một nhạc cụ xuất hiện từ thế kỉ 15. Đó là một nhạc cụ có phím và dây, trong đó dây được gẩy bằng một mẩu lông quạ gắn ở cuối phím. Harpsichord có nhiều kiểu hình dáng và có thể có dạng giống như một chiếc dương cầm lớn. Mặc dù harpsichord rất phổ biến trong vài thế kỉ và được nhiều nhà soạn nhạc lừng danh như J. S. Bach sử dụng, nó có một nhược điểm lớn: không có khả năng phát tiếng to nhỏ theo độ mạnh nhẹ khi bấm của người chơi. Clavichord Clavichord là một trong những nhạc cụ phím đơn giản và nhỏ nhất mà âm thanh được phát ra bằng dây. Dựa trên các hình vẽ và ghi ghép, người ta cho rằng clavichord, với hình dạng giống như một số mẫu hiện còn tồn tại, đã xuất hiện từ những năm đầu thế kỉ 15. Clavichord được sử dụng rộng rãi ở Tây Âu vào thời Phục hưng và ở Đức cho đến đầu thế kỉ 19, nhưng chỉ được coi như một nhạc cụ để học và chơi chứ ít khi dùng để sáng tác. Khi người chơi bấm vào phím, một mảnh kim loại bật lên và đập vào dây đàn. Mảnh kim loại còn có tác dụng như một thanh chặn dây, và nốt nhạc được ngân lên cho đến khi phím đàn được thả ra. Hệ thống đơn giản này giúp cho người đọc kiểm soát được cường độ và trường độ của âm thanh. Pianoforte Năm 1709, người thợ chế tạo harpsichord người Ý Bartolomeo Cristofori chế tạo chiếc dương cầm đầu tiên trên thế giới gọi là piano et forte (nhẹ và mạnh). Không lâu sau, những người thợ khác tạo ra những chiếc pianoforte với búa. Tiếp đó, pianoforte thay thế harpsichord và clavichord bởi nó có những ưu điểm mà các nhạc cụ phím khác không có. Fortepiano là một nhạc cụ dây-búa có khả năng tạo ra những sự thay đổi âm thanh nhỏ thông qua sự bấm phím mạnh hay nhẹ của người chơi. Đến khoảng năm 1850, từ "fortepiano" được thay thế bởi từ "piano". Vào những năm đầu thế kỉ 18, dương cầm không mấy thu hút được sự chú ý và ủng hộ. J.S. Bach có lẽ thích clavichord, nhạc cụ mà ông đã quen chơi và cũng là nhạc cụ chơi dễ hơn. Dương cầm vuông Vào khoảng 1760, Johannes Zumpe chế tạo chiếc dương cầm vuông kiểu Anh lần đầu tiên tại London (sau được biết đến với cái tên "piano vuông lớn"). Sau đó không lâu, Broadwood ở London và Erard ở Pháp cũng chế tạo ra những chiếc tương tự. Johann Behrend ở Philadelphia trưng bày chiếc đàn vuông của ông vào năm 1775. Những chiếc đàn vuông này có tiếng hơi yếu yếu và không thể so sánh được với chiếc pianoforte lớn (kiểu có nắp rộng bản). Thêm vào đó, những chiếc dương cầm vuông không có cơ cấu nhấc và búa của chúng không thể gõ vào dây một cách liên tục. Ngoài ra, búa đàn, làm bằng những mảnh gỗ nhỏ với một lớp da mỏng, đều cùng một kích thước dù chúng phải gõ lên những dây bass lớn nhất. Rất nhiều công ty sản xuất dương cầm hàng đầu của Mĩ chế tạo những chiếc dương cầm vuông lớn được đẽo nhằm mục đích trang trí trong suốt thập niên 1800, bao gồm Chickering, Knabe, Steinway và Mathushek. Mặc dù trong suốt 75 năm sau đã có một số thay đổi về chế tạo đàn dương cầm, chiếc dương cầm vuông tiếp tục thống lĩnh thị trường, đặc biệt ở Mĩ. Một sự tụt hậu trong những nhạc cụ phím đầu tiên, bao gồm cả những chiếc dương cầm vuông đầu tiên, chính là sự yếu ớt trong âm thanh. Yêu cầu phải có những âm thanh mạnh mẽ hơn chỉ có thể được thỏa mãn với việc sử dụng những dây nặng hơn và một khung âm lớn hơn. Cách giải quyết này rất hạn chế bởi khung gỗ không thể chịu đựng nổi sức căng của những dây nặng đó. Vào khoảng năm 1825, Alpheus Babcock đã chế tạo một khung sắt hoàn chỉnh. Tuy nhiên, phải đến 1837 Jonas Chickering mới hoàn chỉnh cấu tạo và nhận được bằng sáng chế không lâu sau đó. Mặc dù vẫn có những tranh cãi rằng khung sắt ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng âm thanh, cuối cùng khung sắt vẫn được ủng hộ. Vào năm 1855, Steinway trưng bày chiếc dương cầm vuông theo kiểu dây đan tại hội chợ thế giới ở Thành phố New York và chứng minh rằng nó là một đối thủ đáng gờm của về chế tạo dương cầm của Chickering. Thiết kế mới về cách mắc dây này đã tạo ra một sự thúc đẩy mạnh mẽ cho sự nghiên cứu chế tạo dương cầm trong tương lai. Các kiểu đàn hiện tại Hiện nay, trên thị trường có 3 kiểu đàn dương cầm: dương cầm lớn, dương cầm đứng và kiểu lai giữa hai loại trên. Những chiếc đàn đứng, dù chất lượng có cao đến mấy, không được những người chơi piano coi là nhạc cụ có chất lượng thuộc hàng chuyên nghiệp. Nhiều yếu tố dù đã được nghiên cứu hay chỉ là do sở thích là lý do cho sự đánh giá này. Một mục tiêu của các hãng sản xuất đàn đứng là mang lại chất lượng âm thanh giống như của đàn lớn cho những chiếc đàn đứng. Hình dáng của chiếc đàn đứng, ban đầu được chế tạo để dùng trong nhà, tạo ra một cảm giác thiếu dễ chịu theo một hướng. Đồng thời cũng rất khó để người chơi đàn quan sát nhạc công, để khán giả nhìn thấy người chơi và để âm thanh tỏa ra một cách truyền cảm cho khán giả. Những chiếc đàn lớn có một hệ thống phím tận dụng trọng lượng của phím khiến cho phím trở về vị trí ban đầu. Đàn đứng lại sử dụng lò xo. Hệ thống phím là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến âm thanh từ đàn piano và ảnh hưởng đến đánh giá của người chơi đàn về chất lượng âm thanh. Những tấm chặn của đàn piano lớn có hiệu quả cao hơn bởi chúng chặn dây ở ngay chỗ búa gõ. Trong đàn đứng, những tấm chặn chặn ở bên dây và vì thế không đạt được hiệu quả như của đàn piano lớn. Tuy nhiên, hệ quả của quá trình chặn dây, một yếu tố rất quan trọng trong chất lượng âm thanh, lại chưa được nghiên cứu. Hình dáng của đàn lớn thích hợp hơn đàn đứng. Đối với đàn lớn, cả hai bên hộp cộng hưởng đều được mở ra khiến cho âm thanh phát ra mà không bị cản trở. Đối với đàn đứng, hộp cộng hưởng của đàn bị ngăn cách với phòng bởi vỏ đàn và thường ở rất gần tường. Kết quả là âm thanh của đàn đứng mềm và đục hơn của đàn lớn. Hai chiếc đàn với cùng một hình dáng có thể có âm thanh hoàn toàn khác biệt bởi sự tinh xảo về cấu tạo. Đàn lớn tạo nên cảm giác phím chuẩn hơn, âm thanh tốt hơn, có những nguyên liệu tốt hơn và nhiều thứ khác. Những khác biệt do kĩ thuật chế tạo này có thể nghe thấy, và những người thợ sửa đàn có thể phân biệt được điều này. Nhiều sự vượt trội về âm thanh của cây đàn lớn là do kích cỡ của nó so với cây đàn đứng hiện tại. Những ưu điểm khác là do vị trí nằm ngang của dây và hộp cộng hưởng tạo điều kiện tốt hơn cho âm thanh tỏa ra. Dương cầm lai có ưu điểm của cả hai loại trên: dây và hộp cộng hưởng nằm ngang, kích cỡ nhỏ có thể chứa trong phòng ở. Tuy nhiên, nó vẫn to hơn đàn đứng và chất lượng âm thanh, dù hơn đàn đứng, vẫn thua xa một cây đàn lớn đúng nghĩa. Kết cấu và các thành phần Bàn phím Bàn đạp Cơ học dương cầm Bảo quản Mỗi cây đàn piano đều được các nhà sản xuất piano luôn chú trọng đến độ ẩm. Đặc biệt đối với mỗi cây đàn Piano, nhà sản xuất sẽ khuyến nghị độ ẩm khác nhau. Với mỗi cây đàn Piano, đặc biệt là Grand Piano (Piano Thùng). Mỗi hãng sẽ khuyến nghị độ ẩm để bảo quản cây đàn piano giúp cho người chơi một cách tốt nhất. 'Trong một số mẫu của cây đàn piano, thì độ ẩm lý tưởng là từ 30% - 70%. Còn các hãng khác như là Steinway and Sons, thì độ ẩm lý tưởng là từ 45%-70%. Chơi đàn và các kĩ thuật Vai trò Piano đã làm đẹp không gian ở rất nhiều ngôi nhà, và cũng là một nhạc cụ thiết yếu ở trong các phòng hòa nhạc lớn và nhỏ. Thông thường, đối với nhà có phòng khách nhỏ, thì đàn Piano dạng tủ (Upright) được để ở trong phòng khách. Đối với nhà có phòng khách rộng, thì một cây Grand Piano có thể đặt được ở không gian này. Đối với mẫu Concert Grand 2.7 mét, sẽ được đặt ở trong phòng hòa nhạc, và phòng khách có kích thức bự. Xem thêm Vladimir Horowitz Sviatoslav Teofilovich Richter Arturo Benedetti Michelangeli Richard Clayderman Wolfgang Amadeus Mozart Đặng Thái Sơn Nguyễn Thúy Quỳnh An Coong Đọc thêm Benedetti, Nicola. “Fazioli Pianoforti.” Fazioli.com, 2023, www.fazioli.com/en/maintenance/. Accessed 20 July 2023. Tham khảo Liên kết ngoài Lịch sử Piano Forte Bài cơ bản dài trung bình Nhạc cụ Từ ngữ tiếng Ý Phát minh của Ý Chordophone Tác phẩm dành cho dương cầm Nhạc cụ dân gian Nhạc cụ keyboard
28242
https://vi.wikipedia.org/wiki/Alfred%20Hitchcock
Alfred Hitchcock
Sir Alfred Joseph Hitchcock (13 tháng 8 năm 1899 – 29 tháng 4 năm 1980) là một đạo diễn, nhà biên kịch và nhà sản xuất phim người Anh. Ông là một trong những nhà làm phim có ảnh hưởng và được nghiên cứu nhiều nhất lịch sử điện ảnh. Với biệt hiệu "Bậc thầy dòng phim hồi hộp", ông đã đạo diễn hơn 50 bộ phim điện ảnh trong sự nghiệp trải dài 6 thập kỷ, trở nên nổi tiếng không kém bất cứ diễn viên nào nhờ tham gia nhiều buổi phỏng vấn, các vai khách mời trong hầu hết phim của mình, và chủ trì kiêm sản xuất chương trình truyền hình tuyển tập Alfred Hitchcock Presents (1955–65). Các bộ phim của ông đã thu về 46 đề cử giải Oscar cùng 6 chiến thắng, song ông chưa bao giờ giành giải Đạo diễn xuất sắc mặc cho có tới 5 đề cử. Năm 1955, Hitchcock trở thành công dân Hoa Kỳ. Sinh ra ở Leytonstone, Luân Đôn, Hitchcock bước vào ngành công nghiệp điện ảnh vào năm 1919 dưới công việc thiết kế bảng nội đề sau khi được đào tạo làm thư ký kĩ thuật và người viết quảng cáo cho một công ty điện báo cáp. Ông có tác phẩm đạo diễn đầu tay với bộ phim câm The Pleasure Garden (1925) của Anh–Đức. Bộ phim thành công đầu tiên của ông, The Lodger: A Story of the London Fog (1927) đã giúp định hình thể loại giật gân, còn bộ phim công chiếu năm 1929 của ông, Blackmail là "phim có tiếng" đầu tiên của Anh. Hai trong số những tác phẩm giật gân của ông ở thập niên 1930, The 39 Steps (1935) và The Lady Vanishes (1938) nằm trong danh sách những phim Anh xuất sắc nhất của thế kỉ 20. Đến năm 1939, Hitchcock đã là một nhà làm phim có tiếng nói quốc tế, để rồi nhà sản xuất điện ảnh David O. Selznick thuyết phục ông chuyển tới Hollywood. Từ đây hàng loạt bộ phim thành công của ông đã ra đời như Rebecca (1940), Foreign Correspondent (1940), Suspicion (1941), Shadow of a Doubt (1943) và Notorious (1946). Rebecca đã thắng giải Oscar cho phim hay nhất, song bản thân Hitchcock chỉ được đề cử Đạo diễn xuất sắc nhất; ông còn được đề cử cho các phim Lifeboat (1944) và Spellbound (1945). Phong cách làm phim của Hitchcock gồm có sử dụng chuyển động của máy quay để bắt chước ánh nhìn của một người, từ đó biến khán giả thành những thị dâm, và chỉnh khung hình để đạt cảnh giới lo lắng và sợ hãi tột độ. Nhà phê bình điện ảnh Robin Wood viết rằng ý nghĩa đằng sau một bộ phim của Hitchcock "là nằm ở phương pháp, phát triển từ góc máy này sang góc máy kia. Một phim của Hitchcock là một tổ chức, toàn bộ ngụ ý nằm trong từng chi tiết và mỗi chi tiết lại liên quan đến tổng thể." Hitchcock làm nhiều bộ phim với một số ngôi sao điện ảnh lớn nhất Hollywood, trong đó có 4 phim với Cary Grant ở các thập niên 1940 và 50, ba phim với Ingrid Bergman ở nửa sau thập niên 1940, 4 phim với James Stewart trong hơn 10 năm bắt đầu từ năm 1948, và ba phim với Grace Kelly ở giữa thập niên 1950. Sau một thời gian ngắn tạm lắng thành công thương mại ở cuối thập niên 1940, Hitchcock lấy lại phong độ với Strangers on a Train (1951) và Dial M For Murder (1954). Từ năm 1954 đến 1960, Hitchcock đã đạo diễn 4 bộ phim thường được xếp vào hàng ngũ hay nhất mọi thời đại: Rear Window (1954), Vertigo (1958), North by Northwest (1959) và Psycho (1960) - phim cuối cùng đem về cho ông đề cử Đạo diễn xuất sắc nhất. Năm 2012, tác phẩm giật gân Vertigo của ông với sự góp mặt của Stewart, đã soán ngôi Công dân Kane (1941) của Orson Welles để trở thành phim điện ảnh hay nhất mọi thời đại của Viện phim Anh, dựa trên cuộc bầu chọn của hàng trăm nhà phê bình điện ảnh khắp thế giới. Tính đến năm 2018, 8 phim của ông đã được lựa chọn bảo tồn tại Viện lưu trữ phim quốc gia Hoa Kỳ, trong đó gồm The Birds (1963) và tác phẩm yêu thích của ông là Shadow of a Doubt (1943). Ông nhận giải BAFTA Fellowship năm 1971, giải Thành tựu trọn đời của Viện phim Mỹ năm 1979 và được phong tước Hiệp sĩ vào tháng 12 cùng năm, ở thời điểm 4 tháng trước khi ông mất. Cuộc đời Những năm tháng đầu đời: 1899–1919 Tuổi thơ và giáo dục Alfred Joseph Hitchcock sinh ngày 13 tháng 8 năm 1899 trong căn hộ phía trên cửa hàng bán rau quả của gia đình ông, số 517 High Road, Leytonstone, vùng ngoại ô Đông Luân Đôn (lúc ấy còn là một phần của Essex); ông là con út trong số ba người con của Emma Jane (; 1863–1942) và William Edgar Hitchcock (1862–1914), ông có một người anh trai, William Daniel (1890–1943), và một người chị gái, Ellen Kathleen ("Nellie") (1892–1979). Cha mẹ ông đều là tín đồ Công giáo La Mã, có một phần gốc gác từ Ireland. Người anh trai William theo cha làm nghề bán rau quả. Ngoài ra ông còn có một đại gia đình lớn, trong đó người chú John Hitchcock sở hữu căn nhà Victoria 5 giường ngủ ở Đường Campion, Putney, cùng sự phục vụ của người giúp việc, đầu bếp, tài xế riêng và thợ làm vườn. Mỗi mùa hè John thuê cho gia đình một căn nhà bên bờ biển ở Cliftonville, Kent. Hitchcock cho biết ông lần đầu nhận thức về gia cấp tại đây, nhìn rõ những khác biệt giữa khách du lịch và người dân địa phương. Hitchcock tự miêu tả mình là một cậu nhóc ngoan ngoãn (cha ông còn đặt biệt danh cho con mình là "chú cừu nhỏ không có lấy một vết nhơ"). Ông nói rằng bản thân không thể nhớ nổi một người bạn thuở bé. Một trong những câu chuyện yêu thích mỗi dịp ông được phỏng vấn là chuyện cha gửi ông tới đồn cảnh sát với một mẩu giấy khi ông 5 tuổi; cảnh sát đọc mẩu giấy và nhốt ông trong xà lim trong ít phút, họ nói với ông: "Đây là những gì bọn chú làm với những cậu nhóc hư." Trải nghiệm ấy đã để lại cho ông nỗi sợ thường trực với cảnh sát; năm 1973 ông nói với Tom Snyder rằng ông "sợ bất cứ điều gì... dính dáng đến luật pháp" và thậm chí sẽ không lái xe trong trường hợp bị dính vé phạt. Năm lên 6 tuổi, gia đình ông chuyển đến quận Limehouse và thuê cửa hàng ở số 130 đường Salmon Lane để bán món cá và khoai tây chiên và cửa hàng số 175 đường Salmon Lane để bán cá; họ sống trong lầu trên căn số 130. Hitchcock tới trường học đầu tiên, Tu viện Howrah ở Poplar, nơi ông nhập học vào năm 1907, tức lúc 7 tuổi. Theo cây viết tiểu sử Patrick McGilligan, ông ở Nhà Howrah trong hai năm. Ông còn theo học một trường tu viện nữa là Trường phố Wode "dành cho con gái của các quý ông và những cậu bé", do viện Cơ đốc giáo Faithful Companions of Jesus điều hành. TIếp đó ông theo học một trường tiểu học gần nhà và đi học nội trú ở Cao đẳng Salesian tại Battersea trong một thời gian ngắn. Gia đình lại chuyển đi năm ông 11 tuổi, lần này là đến Stepney, và vào ngày 5 tháng 10 năm 1910, Hitchcock được gửi nhập học trường Cao đẳng St Ignatius ở Stamford Hill, Tottenham (sáp nhập vào khu tự quản Haringey mới của Luân Đôn), một ngôi trường dạy ngữ pháp theo đạo Dòng Tên nổi tiếng về kỷ luật. Để trừng phạt thân thể học trò, các linh mục đã sử dụng một công cụ/vũ khí phẳng và cứng (có lò xo làm bằng cây gutta-percha và được gọi là "ferula") để đánh vào cả lòng bàn tay; hình phạt luôn diễn ra vào cuối ngày, vì vậy các cậu nam sinh phải ngồi trong lớp dự đoán hình phạt nếu chúng bị điểm tên vì tội đó. Sau này ông kể rằng đây là nơi mình phát triển cảm giác sợ hãi. Sổ đăng ký của trường ghi năm sinh của ông là 1900 chứ không phải 1899; cây viết tiểu sử Donald Spoto cho biết Hitchcok cố tình ghi danh năm 10 tuổi vì ông đi học chậm một năm. Trong khi cây viết tiểu sử Gene Adair ghi chép rằng Hitchcock là "học sinh ở mức trung bình hoặc trên trung bình một chút", Hitchcock lại kể rằng ông "thường nằm trong 4 hoặc 5 bạn đứng đầu lớp"; vào cuối năm học đầu tiên, việc học tập tiếng Latin, tiếng Anh, tiếng Pháp và giáo dục tín ngưỡng của ông đã được ghi nhận. Ông kể với Peter Bogdanovich: "Các tu sĩ Dòng Tên đã dạy tôi tổ chức, kiểm soát và ở mức độ nào đấy là phân tích." Môn học yêu thích của Hitchcock là môn địa lý; ông bắt đầu quan tâm đến bản đồ, lịch trình xe lửa, xe điện và xe buýt; theo John Russell Taylor, ông có thể thuộc lòng tất cả các điểm dừng trên tàu tốc hành Phương Đông. Ông còn đặc biệt quan tâm đến xe điện ở Luân Đôn. Phần lớn các bộ phim của ông có các cảnh xe lửa hoặc xe điện, đặc biệt là The Lady Vanishes, Strangers on a Train và Numberteen. Một tấm chập ghi số cảnh và số lần quay, và Hitchcock thường lấy hai con số trên tấm chập và thì thầm tên các tuyến xe điện ở London. Ví dụ: nếu tấm chập ghi Cảnh 23; Lượt 3; Hitchcock sẽ thì thầm "Woodford, Hampstead" – Woodford là ga cuối của tuyến xe điện 23, và Hampstead là điểm cuối của tuyến 3. Henley's Hitchcock nói với cha mẹ rằng ông muốn làm kỹ sư, rồi ngày 25 tháng 7 năm 1913, ông rời St Ignatius và theo học các lớp học đêm của Trường kĩ thuật và hàng hải thuộc Hội đồng quận Luân Đôn ở Poplar. Trong một cuộc phỏng vấn dài qua sách vào năm 1962, ông kể với François Truffaut rằng ông theo học các ngành "cơ học, điện, âm học và hàng hải". Ngày 12 tháng 12 năm 1914, cha ông vốn là người mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính và bệnh thận, đã từ trần ở tuổi 52. Nhằm trang trải cho bản thân và mẹ (lúc bấy giờ anh chị của ông đã rời nhà), Hitchcock nhận công việc thư ký kĩ thuật với mức lương 15 shillings một tuần (£ vào năm 2017), tại Công ty cáp và điện báo Henley ở Phố Blomfield gần Bức tường Luân Đôn. Ông tiếp tục theo đi các lớp học đêm, lần này là theo chuyên ngành lịch sử nghệ thuật, hội họa, kinh tế và khoa học chính trị. Anh trai ông là người điều hành các cửa hàng của gia đình, còn ông và mẹ thì tiếp tục sống tại Salmon Lane. Hitchcock quá nhỏ để nhập ngũ khi Thế chiến thứ nhất bắt đầu vào tháng 7 năm 1914; cho đến lúc ông tròn 18 tuổi vào năm 1917, ông nhận được một tấm bằng phân loại C3 ("không mắc bệnh cơ quan nghiên trọng, có thể chấp hành các điều kiện dịch vụ đồn trú tại gia... chỉ phù hợp với công việc ngồi một chỗ"). Ông gia nhập trung đoàn học viên của lớp huấn luyện quân sự Royal Engineers và tham gia các buổi hướng dẫn chiến thuật, tập trận và thực hành cuối tuần. John Russell Taylor viết rằng, trong một buổi thực hành ở Hyde Park, Hitchcock bị bắt phải đeo xà cạp. Ông không thể quần chúng thành thạo quanh chân mình, và chúng liên tục rớt xuống mắt cá chân của ông. Sau chiến tranh, Hitchcock hứng thú với nghề viết lách sáng tạo. Tháng 6 năm 1919 ông trở thành cây viết sáng lập và giám đốc kinh doanh chi nhánh ấn phẩm nội bộ của Henley là The Henley Telegraph (sáu xu cho một bản), ông đã nộp nhiều truyện ngắn cho ấn phẩm này. Henley's đã thăng chức cho ông vào bộ phận quảng cáo, nơi ông viết đề tài và vẽ minh họa cho các quảng cáo điện cáp. Ông rất yêu công việc và nán lại muộn tại văn phòng để kiểm tra các bằng chứng; ông nói với Truffaut rằng đây là "bước tiến đầu tiên vào điện ảnh của mình". Ông rất thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ, từ năm 16 tuổi ông đã đọc tạp chí thương mại; ông xem các tác phẩm của Charlie Chaplin, D. W. Griffith và Buster Keaton, đặc biệt thích phim Der müde Tod (1921) của Fritz Lang. Sự nghiệp giữa hai cuộc Thế chiến: 1919–1939 Famous Players-Lasky Từ lúc còn ở Henley's, ông đã đọc tạp chí trên một tạp chí thương mại rằng Famous Players-Lasky, chi nhánh sản xuất của Paramount Pictures đang mở một xưởng phim ở Luân Đôn. Họ đang lên kế hoạch ghi hình phim The Sorrows of Satan của Marie Corelli, sthế nên ông đã vẽ một vài bức họa cho bảng nội đề và gửi chúng tới xưởng phim. Họ đồng ý nhận thuê ông và vào năm 1919, ông bắt đầu làm việc cho Islington Studios ở Phố Poole, Hoxton dưới vai trò nhà thiết kế bảng nội đề. Donald Spoto viết rằng phần lớn đội ngũ là người Mỹ với những đặc tính công việc khắt khe, nhưng những nhân công người Anh lại được khuyến khích thử sức bất kì thứ gì, tức là Hitchcock đã tích lũy kinh nghiệm ở các vai trò đồng biên kịch, chỉ đạo nghệ thuật và quản lý sản xuất trong ít nhất 18 phim câm. Tháng 2 năm 1922, The Times viết một bài về "bộ phận làm bảng nội đề nghệ thuật đặc biệt dưới quyền giám sát của Ngài A. J. Hitchcock" của xưởng phim. Những tác phẩm của ông gồm có Number 13 (1922), còn có tựa là Mrs. Peabody; phim đã bị ngừng chiếu bởi các vấn đề tài chính—một ít cảnh đã quay xong lại bị mất—và Always Tell Your Wife (1923) – phim mà ông và Seymour Hicks hoàn thành cùng nhau khi mà Hicks có ý định bỏ dở giữa chừng. Sau này Hicks ghi chép về việc được giúp đỡ bởi "một cậu thanh niên mập đang phụ trách quản lý phòng tài sản ... [k]hông một ai ngoài Alfred Hitchcock". Gainsborough Pictures và làm việc ở Đức Khi Paramount rút khỏi Luân Đôn vào năm 1922, Hitchcock được một công ty thuê làm trợ lý giám đốc tại chính địa bàn này bởi Michael Balcon, sau này còn có tên là Gainsborough Pictures. Hitchcock làm việc trong phim Woman to Woman (1923) cùng đạo diễn Graham Cutts, ông thiết kế hiện trường, viết kịch bản và sản xuất. Ông cho biết: "Đây là phim đầu tiên mà tôi thật sự phải nhúng tay vào." Người dựng phim kiêm "nữ biên kịch" của Woman to Woman là Alma Reville, vợ tương lai của ông. Ông còn làm trợ lý cho Cutts trong các phim The White Shadow (1924), The Passionate Adventure (1924), The Blackguard (1925) và The Prude's Fall (1925). The Blackguard được sản xuất tại Babelsberg Studios ở Potsdam, nơi Hitchcock theo dõi một bộ phận quá trình làm phim The Last Laugh (1924) của F. W. Murnau. Ông rất ấn tượng với cách làm phim của Murnau và sau này sử dụng kĩ thuật Murnau trong khâu thiết kế hiện trường ở những tác phẩm của mình. Mùa hè 1925, Balcon đề nghị Hitchcock làm đạo diễn The Pleasure Garden (1925), với sự tham gia diễn xuất của Virginia Valli; đây là thành phẩm hợp tác giữa Gainsborough và công ty Emelka của Đức tại Geiselgasteig studio gần Munich. Hôn thê của Hitchcok lúc ấy, bà Reville là trợ lý đạo diễn kiêm nhà dựng phim. Mặc dù phim thất bại về mặt thương mại, Balcon lại thích tác phẩm của Hitchcock; một dòng tít trên tờ Daily Express ví ông là "Thanh niên trẻ sở hữu một trí óc bậc thầy". Quá trình sản xuất phim The Pleasure Garden gặp nhiều trục trực, làm cho Hitchcock phải rút ra bài học về sau: trên đường đến Brenner Pass, ông không khai báo thước phim cho hải quan và nó bị tịch thu; một nữ diễn viên không thể xuống nước để diễn vì cô đang đến kì; kinh phí bội lên làm ông phải vay tiền từ các diễn viên. Hitchcock còn cần một phiên dịch để hướng dẫn cho dàn diễn viên và đoàn làm phim. Tại Đức, Hitchcock quan sát những sắc thái trong lối làm phim và điện ảnh Đức – chúng có tác động lớn đến ông. Khi rảnh không làm việc, ông ghé thăm các phòng trưng bày nghệ thuật, buổi hòa nhạc và bảo tàng của Berlin. Ông còn gặp gỡ các diễn viên, nhà văn và nhà sản xuất để xây dựng quan hệ. Balcon mời ông đạo diễn phim thứ hai ở Munich là The Mountain Eagle (1926), dựa trên nguyên tác có nhan đề Fear o' God. Bộ phim bị thất lạc và Hitchcock gọi tác phẩm là "một bộ phim cực kỳ tệ". Một năm sau, Hitchcock viết kịch bản kiêm đạo diễn phim The Ring; mặc dù kịch bản ghi công mỗi tên ông, Elliot Stannard là người đã hỗ trợ ông trong lúc xây dựng kịch bản. The Ring thu được những nhận xét tích cực; tạp chí phê bình Bioscope gọi đây là "phim Anh tráng lệ nhất từng được làm ra". Khi trở về Anh, Hitchcock là một trong những thành viên đầu tiên của Hiệp hội điện ảnh Luân Đôn, mới được thành lập năm 1925. Nhờ có Hiệp hội, ông bị cuốn hút bởi tác phẩm của những nhà làm phim Liên Xô: Dziga Vertov, Lev Kuleshov, Sergei Eisenstein và Vsevolod Pudovkin. Ông còn giao lưu với các nhà làm phim đồng nghiệp người Anh Ivor Montagu, Adrian Brunel và Walter C. Mycroft. Hitchcock thành danh trong vai trò đạo diễn với bộ phim kinh dị đầu tiên của mình là The Lodger: A Story of the London Fog (1927). Bộ phim kể về cuộc săn lùng sát nhân hàng loạt kiểu Jack the Ripper mặc áo choàng đen và đeo một cái túi đen, y là hung thủ sát hại phụ nữ trẻ tóc vàng ở London và chỉ vào các ngày Thứ Ba. Một bà chủ trọ nghi ngờ rằng người thuê trọ của mình là tên sát nhân, song hoá ra anh ta vô tội. Để truyền tải ấn tượng cho người xem thấy rằng tiếng bước chân được nghe thấy từ tầng trên, Hitchcock đã thiết kế một sàn kính để khán giả có thể nhìn thấy người thuê trọ đi lại trong phòng của anh ta phía trên bà chủ trọ. Hitchcock từng muốn nam chính phải chịu tội, hoặc ít nhất là bộ phim kết thúc một cách mơ hồ, nhưng ngôi sao của tác phẩm lại là Ivor Novello, một thần tượng nhạc kịch và thuộc "hệ thống ngôi sao", tức Novello không thể là nhân vật phản diện. Hitchcock kể với Truffaut: "Bạn phải đánh vần rõ bằng chữ cái lớn: 'Anh ta vô tội'." (Nhiều năm sau, ông cũng gặp vấn đề tương tự với Cary Grant trong phim Suspicion vào năm 1941). Ra rạp vào tháng 1 năm 1927, The Lodger gặt hái thành công về mặt thương mại lẫn phê bình ở Anh. Sau khi phim chiếu rạp, tạp chí thương mại Bioscope đã viết: "Có thể bộ phim này là tác phẩm hay nhất của Anh từng được thực hiện". Hitchcock kể với Truffaut rằng đây là bộ phim đầu tiên của ông chịu ảnh hưởng bởi chủ nghĩa biểu hiện Đức: "Thực tế, bạn gần như có thể nói rằng The Lodger là tác phẩm đầu tiên của tôi." Ông đóng vai khách mời đầu tiên trong phim với nhân vật ngồi trong tòa soạn. Hôn nhân Ngày 2 tháng 12 năm 1926, Hitchcock kết hôn với nhà biên kịch người Anh-Mỹ Alma Reville (1899–1982) tại Nhà thờ Brompton ở Nam Kensington. Cặp đôi đi hưởng tuần trăng mật ở Paris, Hồ Como và St. Moritz, trước khi trở về Luân Đôn sống chung trong hai tầng trên cùng của căn hộ cho thuê ở số 153 Đường Cromwell, Kensington. Reville sinh ra chỉ ít giờ sau Hitchcock, và đã cải đạo Tin Lành sang Công giáo, dường như là do mẹ Hitchcock nài nỉ; bà được rửa tội vào ngày 31 tháng 5 năm 1927 và làm lễ tại Nhà thờ lớn Westminster bởi Hồng y Francis Bourne vào ngày 5 tháng 6. Năm 1928, khi biết tin Reville mang bầu, nhà Hitchcock đã mua một trang trại Tudor đặt tên là "Winter's Grace" rộng 11 mẫu Anh trên Hẻm Stroud, Shamley Green, Surrey với giá 2.500 bảng Anh. Đứa con gái và con độc của họ, Patricia Alma Hitchcock, chào đời vào ngày 7 tháng 7 năm đó. Patricia mất vào ngày 9 tháng 8 năm 2021, thọ 93 tuổi. Reville trở thành người cộng sự thân thiết nhất của chồng mình; Charles Champlin từng viết vào năm 1982: "Xúc giác của Hitchcock có 4 cái thì hai cái là của Alma." Khi Hitchcock nhận giải Thành tựu trọn đời của Viện phim Mỹ vào năm 1979, ông phát biểu rằng muốn nhắc đến "4 người đã dành cho tôi tình cảm, sự trân trọng và động viên nhất cùng sự hợp tác vững bền. Người đầu tiên trong 4 người là nhà dựng phim, người thứ hai là biên kịch, người thứ ba là mẹ của con gái tôi tên Pat, và người thứ tư là đầu bếp từng thể hiện những phép màu trong căn bếp của gia đình. Và tên của 4 người họ là Alma Reville." Reville là người chắp bút hoặc đồng chắp bút kịch bản trong nhiều phim của Hitchcock, chẳng hạn như Shadow of a Doubt, Suspicion và The 39 Steps. Những bộ phim có tiếng đầu tiên Hitchcock bắt đầu thực hiện dự án phim thứ 10 là Blackmail (1929), khi công ty sản xuất phim là British International Pictures (BIP) chuyển hoạt động từ xưởng phim Elstree sang làm phim có tiếng. Đây là bộ "phim có tiếng" đầu tiên của Anh; từ đó làm phát triển mạnh việc ra đời các bộ phim có tiếng ở Mỹ, từ sử dụng những đoạn âm thanh ngắn trong The Jazz Singer (1927) cho tới bộ phim dài đầu tiên nói từ đầu tới cuối The Lights of New York (1928). Blackmail mở đầu cho thói quen sử dụng các địa danh nổi tiếng làm bối cảnh cho những phân cảnh hồi hộp của Hitchcock, với đoạn cao trào diễn ra trên mái vòm Bảo tàng Anh. Phim còn có một trong những lần xuất hiện khách mời lâu nhất của ông, cụ thể trong phim ông bị một cậu bé con làm phiền khi đang đọc sách trên tàu điện ngầm Luân Đôn. Trong chương trình The Men Who Made The Movies của PBS, Hitchcock giải thích cách ông sử dụng bản thu tiếng đầu tiên làm chất liệu đặc biệt của phim, nhấn mạnh từ "con dao" trong cuộc đối thoại với người phụ nữ bị tình nghi là sát nhân. Trong thời gian này, Hitchcock chỉ đạo các đoạn thuộc vở kịch thời sự Elstree Calling (1930) của BIP và đạo diễn phim ngắn An Elastic Affair (1930) có sự tham gia của hai quán quân học bổng Film Weekly. An Elastic Affair là một trong những tác phẩm bị thất lạc. Năm 1933, Hitchcock ký hợp đồng làm nhiều phim với Gaumont-British và một lần nữa làm việc dưới trướng Michael Balcon. Bộ phim đầu tiên của ông cho công ty mới là The Man Who Knew Too Much (1934) đã gặt hái thành công; phim thứ hai The 39 Steps (1935) được khen ngợi ở Anh và giúp ông được công nhận ở Mỹ. Phim còn cho ra đời "nàng tóc vàng của Hitchcock" (Madeleine Carroll) tinh hoa của người Anh – hình mẫu cho sự kế thừa những cô nàng vừa lạnh lùng vừa thanh lịch của ông. Nhà biên kịch Robert Towne nhận xét: "Không quá lời khi nói rằng tất cả sự giải trí thoát ly thực tế đương đại khởi đầu bằng The 39 Steps". Phim này là một trong những tác phẩm đầu tiên giới thiệu chi tiết dẫn dắt cốt truyện "MacGuffin", thuật ngữ do nhà biên kịch người Anh Angus MacPhail đặt ra. MacGuffin là một món đồ hoặc mục tiêu mà nhân vật chính theo đuổi, mặc khác nó không hề có giá trị dẫn truyện; trong The 39 Steps, MacGuffin là tập hợp các bản thiết kế bị đánh cắp. Hitchcock phát hành hai tựa phim giật gân gián điệp vào năm 1936. Phim Sabotage dựa trên tiểu thuyết của Joseph Conrad, phim The Secret Agent (1907) kể về một người phụ nữ phát hiện ra rằng chồng mình là một tên khủng bố, và Secret Agent dựa trên hai mẩu chuyện trong Ashenden: Or the British Agent (1928) của W. Somerset Maugham. Lúc bấy giờ, Hitchcock còn khét tiếng với những trò chơi khăm dàn diễn viên và đoàn làm phim. Những trò đùa này trải dài từ đơn giản và vô tư đến điên rồ. Chẳng hạn, ông tổ chức một bữa tiệc tối, nơi ông nhuộm tất cả thức ăn thành màu xanh lam vì vị đạo diễn cho rằng không có đủ thức ăn màu xanh lam. Ông còn gửi một con ngựa đến phòng thay đồ của bạn mình là nam diễn viên Gerald du Maurier. Kế đến Hitchcock cho ra mắt Young and Innocent vào năm 1937, một bộ phim giật gân hình sự dựa trên cuốn tiểu thuyết A Shilling for Candles của Josephine Tey. Với sự tham gia diễn xuất của Nova Pilbeam và Derrick De Marney, bộ phim tương đối thú vị đối với dàn diễn viên và đoàn làm phim. Để đáp ứng mục đích phân phối ở Mỹ, thời lượng phim đã bị cắt, kể cả loại bỏ một trong những cảnh yêu thích của Hitchcock: một bữa tiệc trà thiếu nhi trở thành mối đe dọa đối với các nhân vật chính. Dự án thành công lớn tiếp theo của Hitchcock là The Lady Vanishes (1938), "một trong những bộ phim đề tài xe lửa hay nhất từ kỷ nguyên vàng của dòng phim", theo nhận định của Philip French, trong đó Miss Froy (May Whitty), một điệp viên người Anh giả làm gia sư bỗng biến mất trên một cuộc chuyến đi xe lửa qua đất nước Bandrika hư cấu ở châu Âu. Tác phẩm chứng kiến Hitchcock giành giải Hội phê bình phim New York năm 1938 cho Đạo diễn xuất sắc nhất. Benjamin Crisler của tờ New York Times viết vào tháng 6 năm 1938: "Ba thứ nổi danh độc đáo và giá trị mà người Anh có còn chúng tôi ở Mỹ không có: Đại Hiến chương, Cầu Tháp và Alfred Hitchcock, đạo diễn phim tâm lý tình cảm xuất sắc nhất thế giới." Bộ phim dựa trên cuốn tiểu thuyết The Wheel Spins (1936) do Ethel Lina White sáng tác. Đến năm 1938, Hitchcock biết rằng mình đã đạt đỉnh cao sự nghiệp ở Anh. Ông nhận được rất nhiều lời mời từ các nhà sản xuất ở Hoa Kỳ, song ông từ chối tất cả vì không thích các nghĩa vụ trong hợp đồng hoặc cho rằng các dự án là phản cảm. Tuy nhiên, nhà sản xuất David O. Selznick đưa ra một đề xuất cụ thể là mời làm một bộ phim dựa trên vụ chìm tàu (dự án sau cùng bị xếp xó), nhưng Selznick đã thuyết phục thành công Hitchcock đến Hollywood. Tháng 7 năm 1938, Hitchcock bay đến New York và nhận ra rằng mình đã là một nhân vật nổi tiếng; ông có mặt trên các tạp chí và trả lời phỏng vấn cho các đài phát thanh. Tại Hollywood, Hitchcock gặp Selznick lần đầu tiên. Selznick đề nghị ông một bản hợp đồng làm 4 phim, khoảng 40.000 đô la Mỹ cho mỗi tác phẩm (). Những năm đầu ở Hollywood: 1939–1945 Hợp đồng của Selznick Selznick đã ký với Hitchcock bản hợp đồng có thời hạn 7 năm bắt đầu vào tháng 4 năm 1939, rồi nhà Hitchcock chuyển đến Hollywood. Nhà Hitchcock sống trong một căn hộ rộng lớn nằm trên Đại lộ Wilshire và dần dấn thích nghi với cuộc sống ở Los Angeles. Ông cùng vợ Alma đều kín tiếng và không hào hứng với việc tham dự các bữa tiệc hoặc trở thành người nổi tiếng. Hitchcock đã khám phá sở thích những món ăn hảo hạng ở Tây Hollywood, nhưng vẫn duy trì lối sống của mình từ Anh. Ông ấn tượng với văn hóa làm phim, kinh phí khổng lồ và năng suất của Hollywood, đem so sánh chúng với những hạn chế mà ông thường phải đối mặt ở Anh. Tháng 6 năm ấy, tạp chí Life ví ông là "bậc thầy kịch tâm lý xuất sắc nhất trong lịch sử màn ảnh". Mặc dù Hitchcock và Selznick dành sự tôn trọng lẫn nhau, nhưng các khâu sắp xếp công việc của họ đôi khi gặp trục trặc. Selznick liên tục dính phải những vấn đề tài chính, còn Hitchcock thường không vui khi Selznick kiểm soát và can thiệp sáng tạo trong những bộ phim của ông. Selznick cũng không hài lòng với phương pháp ghi hình chỉ những gì có trong kịch bản của Hitchcock mà không còn gì khác, tức là bộ phim không thể bị cắt và tái dựng theo cách khác về sau. Giống như lời phàn nàn về cách "cắt ghép hình chết tiệt" của Hitchcock, cá tính của hai người tỏ ra không hòa hợp: Hitchcock dè dặt còn Selznick thì lại khoa trương. Sau cùng, Selznick hào phóng cho Hitchcock đi vay các xưởng phim lớn hơn. Selznick chỉ làm một ít him mỗi năm, giống như nhà sản xuất phim độc lập đồng hương Samuel Goldwyn, vì thế không phải lúc nào ông cũng nắm trong tay các dự án để Hitchcock làm đạo diễn. Goldwyn cũng thỏa thuận với Hitchcock về một bản hợp đồng tiềm năng, chỉ để Selznick đưa ra cái giá hấp dẫn hơn để giữ Hitchcock. Trong một buổi phỏng vấn sau này, Hitchcock chia sẻ: "[Selznick] là một nhà sản xuất lớn... Nhà sản xuất là vua. Lời tâng bốc nhất mà Ngài Selznick từng nói về tôi—và nó cho bạn thấy ổng nắm quyền kiểm soát ra sao—ổng nói rằng tôi là 'đạo diễn duy nhất' mà ông ấy 'tin tưởng với một bộ phim'." Hitchcock tiến cận với nền điện ảnh Mỹ một cách thận trọng; bộ phim Mỹ đầu tiên của ông lấy bối cảnh ở Anh, trong đó "chất Mỹ" của các nhân vật là ngẫu nhiên: Rebecca (1940) lấy bối cảnh tại Cornwall – một phiên bản của Hollywood tại Anh và dựa trên một cuốn tiểu thuyết của tiểu thuyết gia người Anh Daphne du Maurier. Selznick nhất quyết muốn chuyển thể trung thành với tựa sách và không đồng ý với cách sử dụng yếu tố hài hước của Hitchcock. Với sự tham gia diễn xuất của Laurence Olivier và Joan Fontaine nói về một cô gái trẻ ngây thơ vô danh cưới một vị quý tộc góa vợ. Cô sống trong một căn biệt thự ở miền nông thôn nước Anh của chồng, và phải đấu tranh với danh tiếng còn sót lại của Rebecca – người vợ đầu thanh lịch và trần tục của ông, sau khi cô mất một cách bí ẩn. Tác phẩm đã giành Phim hay nhất tại lễ trao giải Oscar lần thứ 13; tượng vàng được trao cho nhà sản xuất Selznick. Hitchcock thì nhận được đề cử Đạo diễn xuất sắc nhất đầu tiên, một trong số 5 đề cử của ông sau này. Dự án phim Mỹ thứ hai của Hitchcock là phim giật gân Foreign Correspondent (1940), lấy bối cảnh ở Châu Âu, dựa trên cuốn sách Personal History (1935) của Vincent Sheean và do Walter Wanger làm nhà sản xuất. Tác phẩm đã giành đề cử Oscar cho Phim xuất sắc nhất năm ấy. Hitchcock cảm thấy không thoải mái khi sống và làm việc ở Hollywood trong lúc nước Anh đang có chiến tranh; mối quan tâm của ông đã cho ra đời một bộ phim công khai ủng hộ nỗ lực chiến tranh của Anh. Được ghi hình vào năm 1939, bộ phim lấy cảm hứng từ những sự kiện đang thay đổi nhanh chóng ở châu Âu, do một phóng viên tin tức người Mỹ (Joel McCrea) đưa tin. Bằng cách kết hợp những thước phim về các cảnh ở châu Âu với các cảnh được ghi hình trên phim trường ngoài trời của Hollywood, bộ phim tránh nhắc trực tiếp đến chủ nghĩa Quốc Xã, Đức Quốc Xã và người Đức để tuân thủ Bộ luật sản xuất điện ảnh vào thời điểm đó. Những năm đầu thời chiến Tháng 9 năm 1940, nhà Hitchcock mua lại Trang trại Cornwall rộng gần Thung lũng Scotts, California, nằm trong dãy núi Santa Cruz. Chỗ ở chính của họ là một căn nhà thiết kế theo kiểu Anh tại Bel Air, được mua vào năm 1942. Những bộ phim của Hitchcock trong thời kỳ này rất đa dạng, từ tác phẩm hài lãng mạn Mr. & Mrs. Smith (1941) cho tới phim noir lạnh lẽo Shadow of a Doubt (1943). Suspicion (1941) đánh dấu bộ phim đầu tiên của Hitchcock làm nhà sản xuất kiêm đạo diễn. Phim lấy bối cảnh ở Anh; Hitchcock đã chọn bờ biển phía bắc của Santa Cruz để ghi hình cảnh phim bờ biển của Anh. Đây là tác phẩm đầu tiên trong 4 phim mà Cary Grant được Hitchcock tuyển vai và là một trong những dịp hiếm hoi mà Grant hóa thân làm một nhân vật độc ác. Grant thủ vai Johnnie Aysgarth, một tên lừa bịp người Anh có những hành động làm người vợ bẽn lẽn của y, Lina McLaidlaw (Joan Fontaine) cảm thấy nghi ngờ và lo lắng. Trong một cảnh phim, Hitchcock đặt ngọn đèn bên một ly sữa (có lẽ đã bị bỏ độc) mà Grant đem đến cho vợ mình; ánh đèn như đảm bảo sự chú ý của khán giả vào ly sữa. Nhân vật của Grant thực chất là một tên sát nhân như đã viết trong cuốn sách nguyên tác Before the Fact của Francis Iles, song hãng phim thấy hình ảnh của Grant có thể vì thế mà bị hoen ố. Do đó Hitchcock đã chỉnh đoạn cuối phim thành một cảnh kết mơ hồ, dù ông muốn kết thúc phim bằng vụ sát hại người vợ. Fontaine đã thắng giải Oscar cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất nhờ màn thể hiện của cô trong phim. Saboteur (1942) là tác phẩm đầu tiên trong số hai phim mà Hitchcock làm cho hãng Universal Studios trong thập niên 40. Hitchcock bị Universal ép phải sử dụng hai diễn viên mà Universal đã ký hợp đồng là Robert Cummings và Priscilla Lane (một người hành nghề tự do ký hợp đồng đóng một phim với Universal), cả hai được biết tới với những tác phẩm hài và chính kịch nhẹ. Truyện phim miêu tả cuộc đối đầu giữa một nghi phạm phá hoại (Cummings) và kẻ phá hoại thực sự (Norman Lloyd) trên đỉnh Tượng Nữ thần Tự do. Hitchcock mất ba ngày đi quanh thành phố New York để tìm các địa điểm ghi hình cho Saboteur. Ông còn đạo diễn Have You Heard? (1942), một tác phẩm kịch dưới dạng hình ảnh cho tạp chí Life nói về mối nguy của những tin đồn trong thời chiến. Năm 1943, ông viết một câu chuyện ly kỳ cho tạp chí Look mang tên "Vụ ám sát Monty Woolley" – một chuỗi các bức ảnh có chú thích mời độc giả tìm kiếm những manh mối đến danh tính của tên sát nhân; Hitchcock đã tuyển các diễn viên vào vai chính họ như Woolley, Doris Merrick và người hóa trang Guy Pearce. Trở lại nước Anh, mẹ của Hitchcock là bà Emma bị ốm nặng; bà từ trần vào ngày 26 tháng 9 năm 1942, thọ 79 tuổi. Hitchcock chưa bao giờ phát ngôn công khai về mẹ mình, nhưng người trợ lý của ông cho biết ông rất ngưỡng mộ bà. 4 tháng sau, tức vào ngày 4 tháng 1 năm 1943, người anh William của ông tử vong vì sốc thuốc ở tuổi 52. Hitchcock không quá thân thiết với William, nhưng cái chết của người anh làm Hitchcock ý thức về thói quen ăn uống của ông. Ông bị thừa cân và mắc chứng đau lưng. Ông hạ quyết tâm vào dịp Năm mới 1943 sẽ thực hiện nghiêm tức chế độ ăn với sự giúp đỡ của một bác sĩ. Tháng 1 năm ấy, Shadow of a Doubt đã công chiếu, gợi lại cho Hitchcock những kỷ niệm đẹp khi làm phim. Trong phim, Charlotte "Charlie" Newton (Teresa Wright) nghi ngờ người chú yêu quý Charlie Oakley (Joseph Cotten) của mình là một tên sát nhân hàng loạt. Hitchcock đã bấm máy ghi hình ở rất nhiều nơi, lần này là ở thành phố Santa Rosa phía Bắc California. Tại 20th Century Fox, Hitchcock tiến cận John Steinbeck để bàn về ý tưởng làm một bộ phim ghi lại trải nghiệm của những người sống sót sau vụ tấn công bằng tàu U-boat của Đức. Steinbeck bắt đầu viết kịch bản cho dự án phim Lifeboat (1944) về sau. Tuy nhiên, Steinbeck không hài lòng với bộ phim và yêu cầu xóa tên ông khỏi phần danh đề, song chẳng ích gì. Ý tưởng này được Harry Sylvester viết lại thành một truyện ngắn và xuất bản trên tạp chí Collier's vào năm 1943. Những phân cảnh hành động được ghi hình trên một chiếc thuyền nhỏ trong bể nước của phim trường. Phim trường làm nảy sinh vấn đề vai khách mời truyền thống của Hitchcock; vấn đề được giải quyết bằng cách để hình ảnh của Hitchcock xuất hiện trên một tờ báo mà William Bendix đang đọc trên thuyền, in hình vị đạo diễn trong một quảng cáo trước và sau "Reduco-Obesity Slayer". Ông kể với Truffaut vào năm 1962:Bữa tối điển hình của Hitchcock trước khi giảm cân là gà nướng, giăm bông luộc, khoai tây, bánh mì, rau, gia vị, salad, món tráng miệng, một chai rượu vang và chút rượu mạnh. Để giảm cân, chế độ ăn kiêng của ông gồm cà phê đen cho bữa sáng và bữa trưa, bít tết và salad cho bữa tối, nhưng thật khó để duy trì; Donald Spoto ghi chép rằng cân nặng của ông dao động đáng kể trong hơn 40 năm tới. Cuối năm 1943, mặc dù đã giảm cân, Công ty Bảo hiểm Occidental của Los Angeles từ chối đơn xin bảo hiểm nhân thọ của ông. Những phim phi hư cấu thời hậu chiến Hitchcock trở lại Anh trong một chuyến thăm kéo dài từ cuối năm 1943 đến đầu năm 1944. Trong lúc ấy ông làm hai bộ phim ngắn tuyên truyền là Bon Voyage (1944) và Aventure Malgache (1944) cho Bộ Thông tin. Vào tháng 6 và tháng 7 năm 1945, Hitchcock làm "cố vấn nghiên cứu" cho bộ phim tài liệu về Holocaust sử dụng những trích đoạn của Khối Đồng Minh về công cuộc giải phóng những trại tập trung của Đức Quốc xã. Bộ phim được thực hiện ở Luân Đôn và sản xuất bởi Sidney Bernstein của Bộ Thông tin (ông là bạn của Hitchcock và đã đưa vị đạo diễn lên tàu). Lúc đầu phim được dự kiến chiếu cho người Đức xem, nhưng chính phủ Anh lại thấy quá đau thương khi chiếu phim cho một người dân bị sốc hậu chiến. Thay vào đó, năm 1952 tác phẩm được chuyển từ kho lưu trữ phim của Văn phòng chiến tranh Anh sang Bảo tàng Chiến tranh Đế quốc của Luân Đôn và vẫn chưa được phát hành cho đến năm 1985, khi một bản dựng phim được phát sóng thành một tập trong chương trình Frontline của Mỹ dưới nhan đề mà Bảo tàng chiến tranh Đế quốc đặt là: Memory of the Camps. Phiên bản dài đấy đủ của bộ phim là German Concentration Camps Factual Survey đã được phục chế bởi các học giả của Bảo tàng chiến tranh Đế quốc vào năm 2014. Những năm hậu chiến ở Hollywood: 1945–1953 Những bộ phim cuối của Selznick Hitchcock hợp tác cùng David Selznick một lần nữa trong tác phẩm Spellbound (1945) mà ông làm đạo diễn; phim khám phá đề tài phân tâm học và có một chuỗi cảnh giấc mơ do Salvador Dalí thiết kế. Chuỗi cảnh giấc mơ xuất hiện trong ngắn hơn 10 phút so với hình dung ban đầu; Selznick đã biên tập chuỗi cảnh này để giúp nó "phát huy" hiệu quả hơn. Gregory Peck thủ vai Tiến sĩ Anthony Edwardes bị mất trí nhớ phải tìm đến sự điều trị của Tiến sĩ phân tích Peterson (Ingrid Bergman), rồi cô phải lòng anh trong lúc cố tìm hiểu về quá khứ bị kìm nén của anh. Hai cảnh quay theo góc nhìn thứ nhất được thực hiện bằng cách xây dựng một cánh tay gỗ lớn (vật này dường như thuộc về nhân vật mà góc máy đặt điểm nhìn) và cầm những đạo cụ ngoại cỡ: một ly sữa to bằng chiếc xô và một khẩu súng gỗ lớn. Nhằm tăng thêm tác động mới lạ, cảnh bắn súng cao trào được tô màu đỏ thủ công trên vài bản sao của bộ phim đen trắng. Phần nhạc nền do Miklós Rózsa sáng tác có sử dụng nhạc cụ theremin, một vài đoạn nhạc sau đó được tác giả chuyển thể thành bản nhạc Piano Concerto Op. 31 (1967) của Rozsa chơi trên piano và dàn nhạc. Bộ phim đề tài gián điệp Notorious là tác phẩm kế tiếp công chiếu vào năm 1946. Hitchcock bảo François Truffaut rằng Selznick đã bán ông, Ingrid Bergman, Cary Grant và kịch bản của Ben Hecht cho hãng RKO Radio Pictures dưới dạng "trọn gói" với giá 500.000 đô la Mỹ () do kinh phí làm phim Duel in the Sun (1946) của Selznick bị đội lên. Notorious có sự tham gia diễn xuất của Bergman và Grant (cả hai người hợp tác lâu năm với Hitchcock) và có cốt truyện nói về Đức Quốc Xã, urani và Nam Mỹ. Hành động sử dụng urani làm chi tiết dẫn dắt cốt truyện đã làm ông bị đặt dưới sự giám sát nghiêm ngặt của Cục Điều tra Liên bang trong thời gian ngắn. Theo lời Patrick McGilligan, đâu đó vào khoảng tháng 3 năm 1945, Hitchcock và Hecht đã tham vấn Robert Millikan của Viện Công nghệ California về việc phát triển một quả bom urani. Selznick phàn nàn rằng khái niệm làm phim là "khoa học viễn tưởng", chỉ để đối sánh với tin tức về vụ thả hai quả bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki tại Nhật Bản vào tháng 8 năm 1945. Transatlantic Pictures Hitchcock đã lập nên công ty sản xuất phim độc lập mang tên Transatlantic Pictures cùng với người bạn Sidney Bernstein. Ông làm hai bộ phim với Transatlantic, một trong số đó là tác phẩm phim màu đầu tiên của ông. Với Rope (1948), Hitchcock đã được trải nghiệm dẫn dắt sự hồi hộp trong một môi trường hạn chế, giống như ông từng làm với Lifeboat trước kia. Phim có số lượng cảnh quay liên tục rất hạn chế, nhưng tác phẩm thực sự được ghi hình trong 10 cảnh (thời lượng từ 4- đến 10 phút mỗi cảnh); thời lượng 10 phút của phim là thời lượng dài nhất mà vỏ cuộn ghi hình phim có thể chứa lúc bấy giờ. Một vài đoạn chuyển cảnh giữa các cuộn phim bị ẩn mất do một vật thể tối che mất toàn bộ khung hình trong chốc lát. Hitchcock đã sử dụng những điểm ấy để giấu đi đoạn cắt và bắt đầu quay cảnh kế tiếp với máy quay đặt cùng vị trí. Phim có sự tham gia diễn xuất của James Stewart trong vai chính và là bộ đầu tiên trong 4 phim mà Stewart làm với Hitchcock. Phim được lấy cảm hứng từ vụ án Leopold và Loeb ở thập niên 1920. Các đánh giá từ giới phê bình dành cho bộ phim lúc ấy là trái chiều. Under Capricorn (1949), lấy bối cảnh nước Úc thế kỉ 19, cũng sử dụng những cú máy ghi hình dài trong ngắn hạn, nhưng ở tần suất hạn chế hơn. Ông một lần nữa dùng màu trong tác phẩm này, rồi quay trở về với màu đen-trắng trong nhiều năm. Transatlantic Pictures ngừng hoạt động sau khi làm hai bộ phim cuối. Hitchcock đã quay phim Stage Fright (1950) tại xưởng phim Elstree ở Anh, nơi ông từng làm việc theo hợp đồng cho British International Pictures nhiều năm trước. Ông đã ghép đôi Jane Wyman (một trong những minh tinh nổi tiếng nhất của Warner Bros. lúc ấy) với nữ diễn viên biệt xứ người Đức Marlene Dietrich và sử dụng nhiều diễn viên Anh tên tuổi như Michael Wilding, Richard Todd và Alastair Sim. Đây là tác phẩm đúng nghĩa đầu tien mà Hitchcock làm cho Warner Bros. – đơn vị từng nắm quyền phân phối Rope và Under Capricorn, bởi Transatlantic Pictures đang gặp khó khăn về tài chính. Tác phẩm giật gân Strangers on a Train (1951) của ông dựa trên cuốn tiểu thuyết cùng tên của Patricia Highsmith. Hitchcock đã kết hợp nhiều yếu tố từ những bộ phim trước của ông. Ông đã mời Dashiell Hammett viết thoại, nhưng Raymond Chandler nhận việc này rồi rời đi do bất đồng với vị đạo diễn. Trong phim, hai người đàn ông tình cờ gặp nhau, một người trong số họ đoán ra phương thức giết người hết sức rõ ràng; anh đề xuất rằng hai người (mỗi bên đều muốn kết liễu kẻ còn lại) nên thực hiện phương thực giết người của người kia. Farley Granger vào vai nạn nhân vô tội của âm mưu, còn Robert Walker (trước đây nổi tiếng với các vai "cậu bé hàng xóm") là người thủ vai phản diện. Phim I Confess (1953) lấy bối cảnh tại Quebec với Montgomery Clift hóa thân làm một linh mục Cơ đốc giáo. Những năm hoàng kim: 1954–1964 Dial M for Murder và Rear Window Kế tiếp I Confess là ba tác phẩm phim màu có sự tham gia của Grace Kelly: Dial M for Murder (1954), Rear Window (1954) và To Catch a Thief (1955). Trong Dial M for Murder, Ray Milland thủ vai phản diện cố ám sát người vợ không chung thủy của mình (Kelly) nhằm chiếm đoạt tiền của cô. Cô giết tên thích khách thuê trong lúc tự vệ, vì thế Milland thao túng bằng chứng để làm vụ việc giống như giết người. Tình nhân của cô, Mark Halliday (Robert Cummings) và Thanh tra cảnh sát Hubbard (John Williams) là những người cứu cô khỏi bị hành quyết. Hitchcock đã thử nghiệm kỹ thuật ghi hình 3D với Dial M for Murder. Hitchcock chuyển tới Paramount Pictures và bấm máy thu hình Rear Window (1954), một lần nữa có sự góp mặt của James Stewart và Grace Kelly, cũng như Thelma Ritter và Raymond Burr. Nhân vật của Stewart là một nhiếp ảnh gia tên Jeff (dựa trên Robert Capa) tạm thời phải dùng xe lăn. Vì buồn chán, anh bắt đầu quan sát hàng xóm của mình qua sân trong, rồi đinh ninh rằng một trong số họ (Raymond Burr) là người sát hại vợ anh. Sau cùng Jeff cố thuyết phục ông bạn thân cảnh sát (Wendell Corey) và cô bạn gái (Kelly). Giống như với Lifeboat và Rope, các nhân vật chính được miêu tả trong những góc nhà hẹp hoặc chật chội, trong trường hợp này là căn hộ phòng thu của Stewart. Hitchcock sử dụng góc máy quay cận cảnh mặt của Stewart để thẻ hiện những phản ứng của nhân vật mà anh đóng, "từ thói nhìn trộm kỳ cục hướng vào hàng xóm của mình cho đến nỗi khiếp đảm bất lực khi nhìn Kelly và Burr trong căn hộ của phản diện". Alfred Hitchcock Presents Từ năm 1955 đến 1965, Hitchcock là người dẫn chương trinh truyền hình Alfred Hitchcock Presents. Với cách nói kỳ quặc, khiếu hài hước và hình ảnh biểu tượng của vị đạo diễn, chương trình đã biến Hitchcock thành nhân vật nổi tiếng. Chuỗi tiêu đề của chương trình là một bức hình biếm họa vẽ tối giản lược sử của ông (do chính tay ông vẽ; gồm chỉ 9 nét vẽ), rồi cái bóng thật của ông in đè lên. Nhạc hiệu của chương trình là bài Funeral March of a Marionette của nhà soạn nhạc người Pháp Charles Gounod (1818–1893). Những phần giới thiệu của ông luôn mang nét hài hước gượng, chẳng hạn như miêu tả một vụ hành quyết nhiều người gần đây bị cản trở bởi chỉ có một chiếc ghế điện, trong khi hai chiếc ghế kia ghi ký hiệu "Hai ghế—không chờ đợi!" Ông đã đạo diễn 18 tập của sê-ri, được phát sóng từ 1955 đến 1965. Chương trình trở thành The Alfred Hitchcock Hour vào năm 1962, và NBC là đơn vị phát sóng tập cuối vào ngày 10 tháng 5 năm 1965. Ở thập niên 1980, một phiên bản mơi của Alfred Hitchcock Presents đã được sản xuất để chiếu trên màn ảnh nhỏ, sử dụng những phần giới thiệu gốc của Hitchcock dưới dạng có màu. Thành công của Hitchcock trên mảng truyền hình là nguyên nhân ra đời hàng loạt tuyển tập truyện ngắn mang tên ông; trong số này có Alfred Hitchcock's Anthology, Stories They Wouldn't Let Me Do on TV và Tales My Mother Never Told Me. Năm 1956, HSD Publications còn cấp phép dùng tên vị đạo diễn để sáng tạo ra Alfred Hitchcock's Mystery Magazine, một cuốn tập san phát hành hàng tháng chuyên về hình sự và trinh thám hư cấu. Chương trình truyền hình của Hitchcock rất ăn khách, còn các bản sách nước ngoài của ông mang về lợi nhuận lên tới 100.000 đô la Mỹ/năm (). Từ To Catch a Thief đến Vertigo Năm 1955, Hitchcock trở thành công dân Hoa Kỳ. Cùng năm ấy, bộ phim thứ ba của ông với Grace Kelly, To Catch a Thief được công chiếu; phim lấy bối cảnh ở Côte d’Azur với sự tham gia diễn xuất của Kelly và Cary Grant. Grant thủ vai tên trộm đã giải nghệ John Robie; anh trở thành nghi phạm chính của hàng loại vụ cướp tại Côte d’Azur. Một cô gái sở hữu quyền thừa kế và ưa những tình huống ly kỳ (do Kelly thủ vai) phỏng đoán danh tiếng thật của anh và cố quyến rũ anh. "Mặc cho chênh lệch tuổi tác rõ ràng giữa Grant và Kelly cùng một cốt truyện nhẹ nhàng, kịch bản dí dỏm (chứa nhiều hàm ý kép) và diễn xuất ôn hậu đã giúp phim gặt hái thành công về mặt thương mại." Đây là phim cuối của Hitchcock với Kelly; cô kết hôn với Công tuóc Rainier của Monaco vào năm 1956 và chấm dứt sự nghiệp điện ảnh của mình sau đó. Tiếp đó Hitchcock làm lại bộ phim của chính mình năm 1934 The Man Who Knew Too Much với bản phim năm 1956. Lần này tác phẩm có sự tham gia diễn xuất của James Stewart và Doris Day – người thể hiện bài hát chủ đề "Que Sera, Sera"; ca khúc đã thắng giải Oscar cho ca khúc trong phim hay nhất và trở thành một bài hit lớn. Họ hóa thân vai một cặp đôi có con trai bị bắt cóc nhằm ngăn họ can thiệp vào một vụ ám sát. Giống như bản phim năm 1934, đoạn cao trào diễn ra tại Royal Albert Hall. The Wrong Man (1956) – phim cuối của Hitchcock với Warner Bros. là một tác phẩm đen–trắng không quá sôi nổi dựa trên một trường hợp nhầm lẫn danh tính có thật từng được đưa tin trên tạp chí Life vào năm 1953. Đây là bộ phim duy nhất của Hitchcock có sự tham gia của Henry Fonda, anh thủ vai một nhạc sĩ của câu lạc bộ Stork Club bị nhận nhầm với một tên trộm rượu, rồi bị bắt và xét xử vì tội cướp, còn vợ anh (Vera Miles) suy sụp tinh thần vì quá căng thẳng. Hitchcock nói với Truffaut rằng nỗi sợ hãi cảnh sát cả đời ông đã thu hút ông với đề tài này và vị đạo diễn còn lồng ghép nỗi sợ ấy vào nhiều cảnh phim. Trong lúc chỉ đạo các tập phim của Alfred Hitchcock Presents ở mùa hè năm 1957, Hitchcock phải nhập viện vì bị thoát vị và sỏi mật, nên buộc phải cắt bỏ túi mật. Sau ca phẫu thuật thành công, ông ngay lập tức trở lại làm việc để chuẩn bị cho dự án kế tiếp. Vertigo (1958) một lần nữa có sự tham gia của James Stewart, bên cạnh Kim Novak và Barbara Bel Geddes. Vị đạo diễn từng muốn Vera Miles nhận vai chính song cô lại đang mang bầu. Ông chia sẻ với Oriana Fallaci: "Tôi đã mời cô ấy một vai lớn, cơ hội trở thành một quý cô tóc vàng xinh đẹp thông minh, một nữ diễn viên thực thụ. Chúng tôi đã chi hàng đồng đô-la cho vai ấy, và thật tệ là cô ấy lại mang bầu. Tôi ghét phụ nữ bầu bí, bởi sau đó họ có con nhỏ." Trong phim Vertigo, Stewart thủ vai Scottie, một cựu thanh tra cảnh sát bị mắc chứng sợ độ cao, trở nên ám ảnh với một người phụ nữ mà anh được thuê để theo dõi (Novak). Nỗi ám ảnh của Scottie dẫn tới bi kịch, và lần này Hitchcock không lựa chọn cái kết có hậu. Một vài nhà phê bình, trong đó có Donald Spoto và Roger Ebert nhất trí rằng Vertigo là bộ phim riêng tư và mang tính khám phá nhất của vị đạo diễn, đối phó với những nỗi ám ảnh kiểu Pygmalion của một người đàn ông về việc biến một phụ nữ thành người mà anh ta thèm khát. Vertigo khám phá trần trụi hơn và sâu sắc hơn mối quan tâm của ông về liên hệ giữa tình dục và cái chết, hơn bất kì tác phẩm nào khác trong sự nghiệp của ông. Vertigo có sử dụng kĩ thuật ghi hình do Irmin Roberts phát triển (thường được gọi là dolly zoom), về sau được nhiều nhà làm phim sao chép. Bộ phim có buổi chiếu ra mắt tại Liên hoan phim quốc tế San Sebastián, và Hitchcock giật giải Silver Seashell. Vertigo được xem là một tác phẩm điện ảnh kinh điển, song phim lại thu về những đánh giá trái chiều và doanh thu bán vé nghèo nàn lúc bấy giờ; nhà phê bình từ tạp chí Variety nhận định rằng phim "quá chậm và quá dài". Bosley Crowther của tờ New York Times thì thấy phim "rất chi là gượng gạo", nhưng dành lời khen cho khâu diễn xuất và phần chỉ đạo của Hitchcock. Tác phẩm còn đánh dấu lần hợp tác cuối giữa Stewart và Hitchcock. Trong cuộc bầu chọn của Sight & Sound năm 2002, phim chỉ xếp sau Citizen Kane (1941); 10 năm sau, cũng chính bởi ấn phẩm này, các nhà phê bình đã lựa chọn tác phẩm là bộ phim điện ảnh hay nhất từng được làm ra. North by Northwest và Psycho Sau Vertigo, phần còn lại của năm 1958 là một năm khó nhằn với Hitchcock. Trong giai đoạn tiền sản xuất của North by Northwest (1959) — vốn diễn ra "chậm" và "gian nan", vợ ông Alma bị chẩn đoán mắc ung thư. Trong khi bà ở trong bệnh viện, Hitchcock bận rộn với lịch làm việc trên truyền hình song vẫn ghé thăm bà hàng ngày. Alma trải qua ca phẫu thuật và bình phục hoàn toàn, song sự việc làm cho Hitchcock lần đầu tưởng tượng ra cuộc sống nếu thiếu bà. Kế đó Hitchcock làm ra ba bộ phim thành công nữa và đều được công nhận trong hàng ngũ những tác phẩm hay nhất của ông: North by Northwest, Psycho (1960) và The Birds (1963). Trong phim North by Northwest, Cary Grant thủ vai Roger Thornhill, một giám đốc quảng cáo ở Madison Avenue bị nhầm là một mật vụ của chính phủ. Anh bị các đặc vụ kẻ thù truy đuổi khắp nước Mỹ, trong đó có Eve Kendall (Eva Marie Saint). Thoạt đầu, Thornhill tin rằng Kendall đang giúp đỡ mình, nhưng rồi nhận ra cô là đặc vụ đối địch; sau đó anh biết được cô đang làm đặc vụ ngầm cho CIA. Trong hai tuần chiếu mở màn tại Radio City Music Hall, bộ phim thu về 404.056 đô la Mỹ (), thiết lập kỷ lục doanh thu cho một bộ phim không chiếu vào kì nghỉ tại rạp đó. Tạp chí Time ví bộ phim là "thể hiện ổn và hết sức giải trí". Psycho (1960) có thể xem là bộ phim nổi tiếng nhất của Hitchcock. Dựa trên cuốn tiểu thuyết Psycho ra mắt năm 1959 của Robert Bloch (lấy cảm hứng từ vụ án Ed Gein), phim được sản xuất với kinh phí eo hẹp là 800.000 đô la Mỹ () và ghi hình màu đen-trắng trên một phim trường sơ sài sử dụng tổ ê-kíp từ Alfred Hitchcock Presents. Cảnh bạo lực trong nhà tắm chưa từng có, cái chết sớm của nhân vật nữ chính, và những sinh mạng vô tội bị tước đoạt bởi một tên sát nhân lúng túng đã trở thành những tiêu chuẩn của một dòng phim kinh dị mới. Tác phẩm rất được khán giả yêu thích, với hàng dài người xếp hàng ngoài rạp để chờ đọi buổi chiếu kế tiếp. Tác phẩm phá các kỷ lục phòng vé tại Liên hiệp Anh, Pháp, Nam Mỹ, Hoa Kỳ và Canada, đồng thời gặt hái thành công nhất định ở Úc trong một thời gian ngắn. Psycho là phim ăn khách nhất trong sự nghiệp của Hitchcock, và cá nhân ông đã bỏ túi tới 15 triệu đô la Mỹ (tương đương $ triệu năm ). Sau đó ông sử dụng bản quyền với Psycho và chương trình truyền hình tuyển tập của mình để đổi lấy 150.000 cổ phiếu của MCA, biến ông trở thành cổ đông lớn thứ ba và ông chủ của chính mình tại Universal (ít nhất về mặt lý thuyết), dù cho không ngăn được hãng phim can thiệp. Sau phần phim đầu tiên, Psycho trở thành một loạt tác phẩm phim kinh dị của Mỹ: Psycho II, Psycho III, Bates Motel, Psycho IV: The Beginning và bản làm lại bản gốc năm 1998 có màu. Phỏng vấn của Truffaut Ngày 13 tháng 8 năm 1962, nhân dịp Hitchcock mừng sinh nhật tuổi 63, đạo diễn người Pháp François Truffaut đã khởi động một buổi phỏng vấn dài 50 giờ với Hitchcock, thu hình trong hơn 8 ngày tại Universal Studios, trong đó Hitchcock đồng ý trả lời 500 câu hỏi. Phải mất tới 4 năm để ghi cuộc phỏng vấn thành các tệp băng và sắp xếp hình ảnh; cuộc phỏng vấn được xuất bản thành sách vào năm 1967, được Truffaut đặt biệt hiệu là "Hitchbook". Các băng audio được dùng làm chất liệu cho một bộ phim tài liệu công chiếu năm 2015. Truffaut bán buổi phỏng vấn vì đối với ông, Hitchcock rõ ràng không đơn giản là một đối tượng giải trí sản xuất đại trà mà giới truyền thống Mỹ muốn biến ông trở thành. Truffaut ghi chép rằng hiển nhiên từ những bộ phim của Hitchcock, vị đạo diễn đã "chú tâm nhiều đến tiềm năng nghệ thuật của bản thân hơn bất cứ đồng nghiệp nào khác của ông". Ông ví buổi phỏng vấn là "Oedipus' thảo luận với nhà tiên tri". The Birds Nhà học giả điện ảnh Peter William Evans viết rằng The Birds (1963) và Marnie (1964) được xem là những "tuyệt tác không thể phủ nhận". Hitchcock từng định ghi hình Marnie trước, và vào tháng 3 năm 1962 có tin đồn rằng Grace Kelly (Công nương Grace của Monaco từ năm 1956) sẽ đổi ý giải nghệ để quay lại đóng phim. Khi Kelly yêu cầu Hitchcock hoãn Marnie đến năm 1963 hoặc 1964, ông đã tuyển Evan Hunter (tác giả cuốn The Blackboard Jungle năm 1954) để phát triển kịch bản dựa trên truyện ngắn "The Birds" (1952) của Daphne du Maurier, được Hitchcock tái xuất bản trong cuốn My Favorites in Suspense (1959) của mình. Ông thuê Tippi Hedren thủ vai chính. Đây là vai diễn đầu tiên của cô; nữ diễn viên từng làm người mẫu ở New York thì Hitchcock nhìn thấy cô vào tháng 10 năm 1961 trong một đoạn quảng cáo Sego (một loại đồ uống ăn kiêng) trên kênh truyền hình NBC: "Tôi ký kết với cô ấy bởi cổ là một mỹ nhân kiểu cổ điển. Phim ảnh không còn có hợ nữa. Grace Kelly là người cuối cùng." Không cần giải thích, ông khẳng định rằng họ của cô được viết trong dấu ngoặc kép duy nhất: 'Tippi'. Trong phim The Birds, một cô gái trẻ hoạt giao tên Melanie Daniels gặp gỡ luật sư Mitch Brenner (Rod Taylor) trong một cửa hàng bán chim cảnh; Jessica Tandy thủ vai người mẹ có tính chiếm hữu của anh. Hedren ghé thăm anh ở Bodega Bay (nơi ghi hình The Birds) mang theo một cặp chim tình yêu làm quà. Đột nhiên đàn chim bắt đầu tập hợp, theo dõi và tấn công. Câu hỏi: "What do the birds want?" ("Những chú chim muốn gì) để nghỏ không lời giải. Hitchcock đã làm phim với thiết bị từ Revue Studio (nơi làm chương trình Alfred Hitchcock Presents). Ông cho biết đây là bộ phim thử thách ông về mặt kĩ thuật cao nhất, sử dụng kết hợp các chú chim máy và được huấn luyện với bối cảnh một đàn chim hoang dã. Mọi góc máy được phác thảo từ trước. Một bộ phim điện ảnh truyền hình của HBO/BBC mang tên The Girl (2012) đã miêu tả những trải nghiệm của Hedren trên phim trường; nữ diễn viên chia sẻ Hitchcock trở nên ám ảnh với cô và quấy rối tình dục cô. Vị đạo diễn được cho là đã cô lập cô khỏi những thành viên còn lại của đoàn làm phim, theo dõi cô, thì thầm những lời tục tĩu với cô, phân tích chữ viết tay của cô và cho xây dựng một bờ dốc nối từ văn phòng riêng của ông vào thẳng trailer của cô. Bạn diễn của Hedren trong phim Marnie là Diane Baker kể lại: "Đối với tôi thì chẳng có gì kinh khủng hơn việc đến phim trường đó và thấy cô ấy từng bị đối xử ra sao." Trong lúc ghi hình cảnh tấn công trên gác mái (mất tới một tuần ghi hình), cô bị đặt ở một căn phòng trong lồng, cùng lúc đó hai người đàn ông đeo găng tay bảo vệ dài đến khuỷu tay ném những chú chim sống vào cô. Cho đến cuối tuần, nhằm ngăn đàn chim bay khỏi cô quá sớm, chân của mỗi con bị buộc sợi nylon nối đến các sợi dây thun may bên trong quần áo cô. Nữ diễn viên suy sụp sau khi một chú chim cắt mất mí mắt dưới của cô, và công đoạn ghi hình bị tạm dừng theo chỉ định của các bác sĩ. Marnie Tháng 6 năm 1962, Grace Kelly thông báo cô đã quyết định từ chối xuất hiện trong phim Marnie (1964). Hedren đã ký một bản hợp đồng độc quyền dài 7 năm, kèm mức đãi ngộ 500 đô la/tuần với Hitchcock vào tháng 10 năm 1961, và vị đạo diễn quyết định tuyển cô vào vai chính đóng cặp cùng Sean Connery. Năm 2016, không chỉ miêu tả diễn xuất của Hedren là "một trong những [màn thể hiện] xuất sắc nhất lịch sử điện ảnh", Richard Brody gọi bộ phim là một "câu chuyện về bạo hành tình dục" gây tổn thương cho nhân vật mà Hedren diễn: "Đơn giản thì bộ phim thật bệnh hoạn, và sỡ dĩ là vì Hitchcock cũng bệnh hoạn. Ông ấy đã chịu khổ sở cả cuộc đời mình vì ham muốn tình dục mãnh liệt, chịu khổ vì thiếu thỏa mãn nó, chịu khổ vì không thể biến khả năng tưởng tượng thành hiện thực, rồi bắt đầu và hiện thực hóa nó bằng con đường nghệ thuật của mình." Một bài đánh giá của tờ New York Times nhận xét tác phẩm là "phim đáng thất vọng nhất [của Hitchcock] trong nhiều năm", chỉ ra Hedren và Connery thiếu kinh nghiệm diễn xuất, một kịch bản nghiệp dư và "những tấm màn bối cảnh bằng bìa các-tông giả quá rõ". Trong phim, Marnie Edgar (Hedren) trộm mất 10.000 đô la Mỹ từ chủ của mình và bỏ trốn. Cô nộp đơn xin việc tại công ty của Mark Rutland (Connery) ở in Philadelphia và cũng trộm đồ từ nơi đó. Trong quá khứ, cô bị hoảng loạn trong một cuộc tấn công khi trời giông bão và mắc chứng sợ màu đỏ. Mark theo dõi cô và hăm dạo tống tiền để ép cô cưới anh. Cô giải thích rằng mình không muốn bị động chạm, song trong một "chuyến trăng mật", Mark nổi cơn thú tính cưỡng hiếp cô. Marnie và Mark phát hiện rằng mẹ của Marnie từng là điếm lúc Marnie còn bé; một ngày nọ trong lúc bà đang xô xát với một khách hàng giữa lúc trời giông bão—bà mẹ tin rằng vị khách đã cố gạ gẫm Marnie—và thế là Marnie sát hại vị khách đó để cứu mẹ mình. Cô chữa khỏi nỗi sợ hãi sau khi nhớ lại những chuyện đã xảy ra, rồi quyết định ở cùng Mark. Hitchcock đã nhắc nhà quay phim Robert Burks rằng máy ghi hình phải được đặt gần Hedren nhất có thể khi anh quay cận mặt nữ diễn viên. Evan Hunter (nhà biên kịch của The Birds và cũng chắp bút viết kịch bản Marnie) giải thích với Hitchcock rằng nếu Mark yêu Marnie thì anh sẽ an ủi cô chứ không phải cưỡng hiếp. Song Hitchcock đáp lại: "Evan, khi anh quan hệ tình dục với cô ta, tôi muốn cái máy quay ấy dí vào mặt cổ!" Khi Hunter nộp hai bản kịch bản (trong đó một cái không có cảnh cưỡng hiếp) Hitchcock liền thay thế anh bằng Jay Presson Allen. Những năm cuối đời: 1966–1980 Những bộ phim cuối Sức khỏe suy yếu làm cho năng suất làm phim của Hitchcock tụt giảm trong hai thập kỷ cuối đời ông. Cây viết tiểu sử Stephen Rebello cho biết hãng Universal đã ép vị đạo diễn làm hai phim là Torn Curtain (1966) và Topaz (1969), trong đó Topaz dựa trên một cuốn tiểu thuyết của Leon Uris, lấy bối cảnh một phần ở Cuba. Cả hai phim đều thuộc thể loại gián điệp giật gân với đề tài liên quan tới Chiến tranh Lạnh. Torn Curtain (với sự góp mặt của Paul Newman và Julie Andrews) đã sớm chấm dứt quan hệ 12 năm hợp tác giữa Hitchcock và Bernard Herrmann theo cách đầy chua xót. Hitchcock không hài lòng với phần nhạc nền của Herrmann và thay thế ông bằng John Addison, Jay Livingston và Ray Evans. Sau khi phát hành, Torn Curtain thất bại ở thị trường phòng vé, còn Topaz bị giới phê bình lẫn hãng phim ghét bỏ. Hitchcock trở lại Liên hiệp Anh để làm bộ phim áp chót của sự nghiệp mang tên Frenzy (1972), dựa trên tiểu thuyết Goodbye Piccadilly, Farewell Leicester Square (1966). Sau hai phim hoạt động gián điệp, cốt truyện của phim đánh dấu màn trở lại với dòng phim sát nhân-giật gân. Richard Blaney (Jon Finch), một tay phục vụ quán rượu hoạt bát với tiến sử bộc phát nỗi giận dữ, trở thành nghi phạm chính trong vụ điều tra "Những sát nhân bằng ca vát", thực sự là do bạn của anh là Bob Rusk (Barry Foster). Lần này, Hitchcock làm cho nạn nhân và phản diện tương đồng nhau, thay vì đối địch như trong phim Strangers on a Train. Trong phim Frenzy, Hitchcock cho phép khỏa thân lần đầu tiên. Hai cảnh phim chiếu những người phụ nữ khỏa thân, một trong số họ bị cưỡng hiếp và bóp cổ; Donald Spoto cho rằng bóp cổ là "một trong những ví dụ gây khó chịu nhất về vụ giết người chi tiết trong lịch sử điện ảnh". Cả hai diễn viên là Barbara Leigh-Hunt và Anna Massey từ chối đóng trong những cảnh đó, vì thế những người mẫu được sử dụng thay thế. Những cây viết tiểu sử lưu ý rằng Hitchcock đã luôn thúc đấy những hạn chế về kiểm duyệt phim, thường cố đánh lừa Joseph Breen (giám đốc của Motion Picture Production Code). Hitchcock sẽ đưa những lời bóng gió bất lịch sự bị cấm kiểm duyệt cho đến giữa những năm 1960. Tuy nhiên Patrick McGilligan ghi chép rằng Breen và những người khác thường nhận ra cài cắm những chi tiết như vậy và thực sự thấy thích thú, cũng như bị phấn khích tột độ bởi "những kết luận không tránh khỏi được" của Hitchcock". Family Plot (1976) là phim cuối của Hitchcock. Tác phẩm xoay quanh những cuộc đào tẩu của nhà tâm linh lừa đảo "Madam" Blanche Tyler (đóng bởi Barbara Harris) và tình nhân kiêm tài xế taxi của cô Bruce Dern, họ kiếm sống bằng năng lực giả tạo của cô. Dù Family Plot dựa trên cuốn tiểu thuyết The Rainbird Pattern (1972) của Victor Canning, màu sắc của nguyên tác lại có phần nham hiểm hơn. Nhà biên kịch Ernest Lehman lúc đầu là người viết kịch bản phim dưới tiêu đề sản xuất là Deception, với một màu sắc đen tối song bị Hitchcock ép phải chuyển sang màu sắc vừa nhẹ nhàng, vừa hài hước hơn, rồi cuối cùng tựa phim được chọn là Family Plot. Phong tước hiệp sĩ và từ trần Cho đến cuối đời, Hitchcock đang thực hiện kịch bản cho tác phẩm giật gân gián điệp mang tên The Short Night, hợp tác với James Costigan, Ernest Lehman và David Freeman. Mặc cho đã đi vào công đoạn sản xuất sơ bộ, song phim chưa bao giờ được ghi hình. Sức khỏe Hitchcock tụt giảm và ông lo lắng cho vợ mình vì thấy bà bị đột quỵ. Kịch bản phim sau cùng được xuất bản trong cuốn sách The Last Days of Alfred Hitchcock (1999) của Freeman. Dẫu từng từ chối tước CBE vào năm 1962, Hitchcock đã được phong làm Hiệp sĩ Đế chế Anh (KBE) trong lễ Phong tước năm mới 1980. Do quá yếu để đi tới Luân Đôn (ông đã đeo một chiếc máy điều hòa nhịp tim và được chích cortisone để chữa bệnh viêm khớp), nên vào ngày 3 tháng 1 năm 1980, tổng lãnh sự Liên hiệp Anh đã trao tặng ông văn bằng phong tước tại Universal Studios. Khi được một phỏng viên hỏi sau lễ nhận danh hiệu rằng vì sao lại làm Nữ hoàng mất nhiều thời gian như thế, Hitchcock hóm hỉnh trả lời, "Tôi đoán là do bất cẩn thôi." Cary Grant, Janet Leigh và nhiều người khác đã tham dự một bữa tiệc trưa ngay sau đó. Hitchcock xuất hiện lần cuối trước công chúng vào ngày 16 tháng 3 năm 1980, khi ông giới thiếu người chiến thắng giải Viện phim Mỹ vào năm kế tiếp. Một tháng sau, ông mất vì suy thận vào ngày 29 tháng 4 tại nhà riêng ở Bel Air. Donald Spoto (một trong những người viết tiểu sử về Hitchcock) ghi chép rằng Hitchcock từng từ chối gặp một vị linh mục, nhưng theo linh mục Dòng Tên Mark Henninger, ông và một linh mục khác là Tom Sullivan đã cử hành lễ thánh tại nhà riêng của nhà làm phim, và Sullivan nghe thấy lời sám hối của Hitchcock. Hitchcock để lại vợ mình và con gái. Đám tang của ông được tổ chức tại Nhà thờ Công giáo Good Shepherd ở Beverly Hills vào ngày 30 tháng 4 năm, sau khi thi hài ông được hỏa táng. Tro cốt của ông được đem rải khắp Thái Bình Dương vào ngày 10 tháng 5 năm 1980. Phong cách làm phim Phong cách và đề tài Sự nghiệp làm phim của Hitchcock phát triển từ phim câm quy mô nhỏ sang phim có tiếng quan trọng về mặt tài chính. Hitchcock nhận xét rằng ông chịu ảnh hưởng bởi các nhà làm phim đầu tiên như George Méliès, DW Griffith và Alice Guy-Blaché. Phim câm của ông từ năm 1925 đến năm 1929 thuộc thể loại hình sự và hồi hộp, nhưng cũng có cả tâm lý tình cảm và hài kịch. Trong khi lối kể chuyện bằng hình ảnh phù hợp trong thời kỳ phim câm, ngay cả sau khi phim có tiếng xuất hiện, Hitchcock vẫn dựa vào thị giác trong điện ảnh; ông ví trọng tâm vào cách kể chuyện bằng hình ảnh này là "điện ảnh thuần túy". Ở Anh, ông trau dồi kỹ năng để khi chuyển đến Hollywood, vị đạo diễn đã hoàn thiện phong cách và kỹ thuật quay phim của mình. Sau này Hitchcock kể rằng tác phẩm ở Anh của ông là "có cảm xúc của điện ảnh", trong khi giai đoạn ở Mỹ là khi "ý tưởng của ông được thai nghén". Học giả Robin Wood viết rằng hai bộ phim đầu tiên của đạo diễn là The Pleasure Garden và The Mountain Eagle chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa biểu hiện Đức. Sau đó, ông khám phá ra điện ảnh Liên Xô, và các thuyết dựng phim của Sergei Eisenstein và Vsevolod Pudovkin. Phim The Lodger năm 1926 lấy cảm hứng từ tính thẩm mỹ của cả Đức và Liên Xô, những phong cách ấy đã định hình phần còn lại trong sự nghiệp của ông. Mặc dù tác phẩm của Hitchcock ở thập niên 1920 đạt thành công nhất định, một số nhà phê bình người Anh chỉ trích phim của Hitchcock là không nguyên bản và kiêu ngạo. Raymond Durgnat cho rằng phim của Hitchcock được xây dựng cẩn thận và thông minh, nhưng nhận xét chúng có thể hời hợt và hiếm khi thể hiện một "thế giới quan mạch lạc". Với danh hiệu "Bậc thầy dòng phim hồi hộp", vị đạo diễn đã thử nghiệm nhiều cách để tạo căng thẳng trong tác phẩm của mình. Ông chia sẻ: "Tác phẩm hồi hộp của tôi xuất phát từ việc tạo ra ác mộng cho khán giả. Và tôi chơi với khán giả. Tôi khiến họ há hốc mồm, làm họ ngạc nhiên và sốc. Khi bạn gặp ác mộng, sẽ cực kỳ sống động nếu bạn nằm mơ thấy mình bị dẫn lên ghế điện. Sau đó, bạn cảm thấy hạnh phúc nhất có thể khi thức dậy vì cảm thấy nhẹ nhõm." Trong quá trình ghi hình North by Northwest, Hitchcock giải thích lý do khi tái dựng bối cảnh Núi Rushmore: "Khán giả phản ứng tương đương với mức độ chân thực mà bạn thực hiện. Một trong những lý do ấn tượng cho kiểu ghi hình này là làm cho nó trông tự nhiên đến mức khán giả bị thu hút và tin rằng lúc này chuyện gì đang diễn ra trên màn ảnh." Trong một cuộc phỏng vấn năm 1963 với nhà báo người Ý Oriana Fallaci, Hitchcock được hỏi làm thế nào mặc cho vẻ ngoài là một người đàn ông vui vẻ và vô vị, nhưng ông lại có vẻ thích làm những bộ phim liên quan đến hồi hộp và hình kinh hoàng. Ông trả lời:Những bộ phim của Hitchcock (từ thời kỳ phim câm đến phim có tiếng) có một số đề tài lặp đi lặp lại làm ông nổi tiếng. Các bộ phim của ông khám phá khán giả dưới dạng một thị dâm, đặc biệt là trong Rear Window, Marnie và Psycho. Ông hiểu rằng con người thích các hoạt động thị dâm và làm khán giả tham gia vào hoạt động ấy thông qua hành động của nhân vật. Trong số 53 phim của ông, 11 phim xoay quanh những câu chuyện về nhầm lẫn danh tính, trong đó một nhân vật chính vô can bị buộc tội và bị cảnh sát truy đuổi. Ở hầu hết các trường hợp, đó là một người bình thường thấy bản thân mình rơi vào một tình huống nguy hiểm. Hitchcock chia sẻ với Truffaut: "Tôi cảm thấy đó là vì đề tài người đàn ông vô can bị buộc tội mang đến cho khán giả cảm giác nguy hiểm lớn hơn. Họ dễ đồng cảm với anh ta hơn là với một kẻ có tội đang chạy trốn." Một trong những đề tài thường trực của ông là cuộc đấu tranh của nhân cách bị giằng xé giữa "trật tự và hỗn loạn"; được gọi là khái niệm "kép", tức là so sánh hoặc tương phản giữa hai nhân vật hoặc đối tượng: kép đại diện cho mặt tối hoặc ác. Spoto đề xuất rằng tuổi thơ kìm nén tình dục của Hitchcock có thể đã góp phần vào việc ông khám phá ra sự lệch lạc của mình. Ở thập niên 1950, Bộ luật sản xuất điện ảnh cấm nhắc trực tiếp đến đồng tính luyến ái nhưng vị đạo diễn được biết đến với những chi tiết tế nhị, và vượt qua ranh giới của các nhà kiểm duyệt. Ngoài ra, Shadow of a Doubt có đề tài loạn luân kép xuyên suốt mạch truyện, được thể hiện ẩn ý qua hình ảnh. Tác giả Jane Sloan nhận định rằng Hitchcock bị thu hút bởi cả biểu hiện tình dục thông thường lẫn bất thường trong tác phẩm của ông, và đề tài hôn nhân thường được trình bày một cách "ảm đạm và hoài nghi". Mãi cho đến sau khi mẹ ông mất năm 1942, Hitchcock mới miêu tả những hình tượng người mẹ là "các bà mẹ quái vật khét tiếng". Bối cảnh gián điệp và những vụ giết người do các nhân vật có khuynh hướng biến thái nhân cách thực hiện cũng là những đề tài thông dụng. Trong phần miêu tả những kẻ phản diện và sát nhân của Hitchcock, chúng thường rất cuốn hút và thân thiện, buộc người xem phải đồng cảm với chúng. Tuổi thơ nghiêm ngặt và nền giáo dục đạo Dòng Tên của vị đạo diễn có thể đã làm ông không tin tưởng những nhân vật độc đoán như cảnh sát và chính trị gia; đề tài mà ông khám phá ra. Ngoài ra, ông sử dụng "MacGuffin"—tứcc sử dụng một đồ vật, nhân vật hoặc sự kiện để giữ cho cốt truyện tiếp tục diễn ra ngay cả khi nó không cần thiết cho câu chuyện. Một số ví dụ bao gồm vi phim trong North by Northwest và 40.000 đô la bị đánh cắp trong phim Psycho. Hitchcock xuất hiện thoáng qua trong hầu hết các bộ phim của chính mình. Ví dụ, khán giả thấy ông đang vật lộn để đưa một cây đại vĩ cầm lên tàu hỏa (Strangers on a Train), dắt chó ra khỏi cửa hàng thú cưng (The Birds), sửa đồng hồ cho hàng xóm (Rear Window), dạng một cái bóng (Family Plot), ngồi ở bàn trong một bức ảnh (Dial M for Murder) và đi xe buýt (North by Northwest, To Catch a Thief). Miêu tả phụ nữ Chân dung phụ nữ của Hitchcock là đối tượng của nhiều cuộc tranh luận học thuật. Bidisha viết trên The Guardian năm 2010: "Có ma cà rồng, kẻ lang thang, kẻ chỉ điểm, phù thủy, kẻ lừa đảo, kẻ hai mặt và tuyệt nhất là mẹ quỷ dữ. Đừng lo, cuối cùng tất cả chúng đều bị trừng phạt." Trong một bài luận được nhiều người trích dẫn vào năm 1975, Laura Mulvey trình bày ý tưởng về nhãn quan nam giới; cô luận định rằng góc của khán giả trong phim của Hitchcock là góc nhìn của nhân vật nam chính dị tính. "Các nhân vật nữ trong phim của ông lặp đi lặp lại những đặc điểm giống nhau", Roger Ebert viết vào năm 1996: "Họ tóc vàng. Họ lãnh đạm và cách biệt. Họ bị cầm tù trong những bộ trang phục kết hợp tinh vi thời trang với sùng bái. Họ mê hoặc những người đàn ông thường bị khuyết tật về thể chất hoặc tâm lý. Sớm hay muộn, mọi phụ nữ của Hitchcock đều bị lăng nhục." Những nạn nhân trong The Lodger đều là các cô gái tóc vàng. Trong The 39 Steps, Madeleine Carroll bị còng tay. Ingrid Bergman, người mà Hitchcock chỉ đạo ba lần (Spellbound, Notorious và Under Capricorn) có màu tóc vàng sẫm. Trong Rear Window, Lisa (Grace Kelly) liều mạng đột nhập vào căn hộ của Lars Thorwald. Trong To Catch a Thief, Francie (cũng do Kelly đóng) đề nghị giúp đỡ một người đàn ông mà cô tin là một tên trộm. Lần lượt trong Vertigo và North by Northwest , Kim Novak và Eva Marie Saint đóng vai những nữ chính tóc vàng. Trong Psycho, nhân vật của Janet Leigh ăn trộm 40.000 đô la Mỹ và bị Norman Bates, một kẻ tâm thần sống ẩn dật sát hại. Tippi Hedren (một cô gái tóc vàng) dường như là tâm điểm của những vụ tấn công trong The Birds. Trong Marnie, nhân vật chính (vẫn do Hedren thủ vai) là một tên trộm. Trong Topaz, nữ diễn viên người Pháp Dany Robin trong vai vợ của Stafford và Claude Jade trong vai con gái của Stafford là những nữ chính tóc vàng, còn tình nhân do Karin Dor tóc nâu thủ vai. Nữ chính tóc vàng cuối cùng của Hitchcock là Barbara Harris vào vai một nhà ngoại cảm giả trở thành thám tử nghiệp dư trong Family Plot (1976), bộ phim cuối cùng của ông. Trong cùng phim ấy, tay buôn lậu kim cương do Karen Black thủ vai đội một bộ tóc giả dài màu vàng trong một số cảnh. Những phim của ông thường có các nhân vật đấu tranh trong quan hệ với mẹ của họ, chẳng hạn như Norman Bates trong Psycho. Trong North by Northwest, Roger Thornhill (Cary Grant) là một người đàn ông vô can bị mẹ chế nhạo vì nhất mực cho rằng những tên sát nhân trong bóng tối đang theo đuổi anh ta. Trong The Birds, nhân vật Rod Taylor (một người đàn ông vô tội) thấy thế giới của mình những con chim hung ác tấn công và đấu tranh để giải thoát mình khỏi người mẹ đeo bám (Jessica Tandy). Sát nhân trong Frenzy ghê tởm phụ nữ nhưng lại thần tượng mẹ mình. Nhân vật phản diện Bruno trong Strangers on a Train ghét cha mình nhưng lại có mối quan hệ vô cùng thân thiết với mẹ (do Marion Lorne thủ vai). Sebastian (Claude Rains) trong Notorious có mối quan hệ mâu thuẫn rõ ràng với mẹ anh, bà nghi ngờ (chính xác) cô dâu mới của anh là Alicia Huberman (Ingrid Bergman). Mối quan hệ với diễn viên Hitchcock nổi danh với nhận xét rằng "nên đối xử diễn viên như gia súc". Trong lúc ghi hình Mr. & Mrs. Smith (1941), Carole Lombard mang ba con bò đến phim trường đeo bảng tên của Lombard, Robert Montgomery và Gene Raymond (những ngôi sao của bộ phim) để làm ông bất ngờ. Trong một tập của The Dick Cavett Show phát sóng lần đầu vào ngày 8 tháng 6 năm 1972, Dick Cavett chia sẻ rằng Hitchcock từng gọi các diễn viên là gia súc. Hitchcock đáp lại rằng, ông từng bị cáo buộc gọi các diễn viên là gia súc. "Tôi đã nói rằng tôi sẽ chẳng bao giờ nói những thứ vô cảm, thô lỗ về các diễn viên như vậy. Điều tôi có lẽ đã nói là tất cả diễn viên nên được đối xử như gia súc... Tất nhiên là theo một cách đẹp." Kế đến ông mô tả trò đùa của Carole Lombard bằng một nụ cười. Hitchcock tin rằng các diễn viên nên tập trung vào diễn xuất của họ và để công việc viết kịch bản và nhân vật cho đạo diễn và biên kịch. Ông kể với Bryan Forbes vào năm 1967: "Tôi nhớ mình đã thảo luận với một diễn viên diễn nhập tâm về cách anh ta được dạy... Anh kể, 'Chúng tôi được dạy sử dụng ứng tác. Chúng tôi được trao một ý tưởng và sau đó chúng tôi được thả lỏng để phát triển theo bất kỳ cách nào chúng tôi muốn.' Tôi đáp, 'Đó không phải là diễn xuất. Đó là viết kịch bản.'" Nhớ lại những trải nghiệm về phim Lifeboat với Charles Chandler (tác giả của It's Only a Movie: Alfred Hitchcock A Personal Biography), Walter Slezak cho rằng Hitchcock "biết cách giúp đỡ một diễn viên nhiều hơn bất kỳ đạo diễn nào tôi từng làm việc cùng", còn Hume Cronyn gạt bỏ quan điểm đó, cho rằng việc Hitchcock không quan tâm đến các diễn viên của mình là "hoàn toàn ngụy biện", miêu tả rất dài quá trình diễn tập và ghi hình phim Lifeboat. Các nhà phê bình nhận xét rằng, mặc dù nổi tiếng là người không thích diễn viên, nhưng những diễn viên từng làm việc với ông thường có màn thể hiện xuất sắc. Ông sử dụng chung các diễn viên trong nhiều bộ phim của mình; Cary Grant và James Stewart đều làm việc với Hitchcock 4 lần, còn Ingrid Bergman và Grace Kelly thì ba lần. James Mason kể rằng Hitchcock coi các diễn viên là "đạo cụ diễn hoạt". Đối với Hitchcock, diễn viên là một phần trong bối cảnh của bộ phim. Ông kể với François Truffaut: "Điều kiện tiên quyết đối với một diễn viên là khả năng làm tốt mọi việc, điều ấy chẳng hề dễ dàng như người ta tưởng. Anh ta nên sẵn sàng để đạo diễn và máy quay sử dụng và nhập tâm hoàn toàn vào tác phẩm. Anh phải cho phép máy quay xác định điểm nhấn thích hợp và những điểm nhấn ấn tượng hiệu quả nhất." Biên kịch, kịch bản phân cảnh và sản xuất Hitchcock định lên chi tiết các kịch bản với đội biên kịch của mình. Trong Writing with Hitchcock (2001), Steven DeRosa lưu ý rằng Hitchcock giám sát họ qua từng bản nháp, yêu cầu họ kể câu chuyện thật trực quan. Hitchcock kể với Roger Ebert vào năm 1969:Những bộ phim của Hitchcock được xây dựng phân cảnh rộng đến từng chi tiết nhỏ nhất. Ông được cho là thậm chí không bao giờ thèm nhìn qua kính ngắm vì không cần thiết, mặc dù trong các bức ảnh quảng cáo thể hiện ông đã làm vậy. Ông còn sử dụng điều này như một cái cớ để không bao giờ phải thay đổi các bộ phim của mình so với tầm nhìn gốc của mình. Nếu hãng phim yêu cầu ông thay đổi một bộ phim, ông sẽ tuyên bố rằng nó đã ghi hình theo một cách duy nhất và không có phương án thay thế nào để xem xét. Quan điểm về Hitchcock với tư cách đạo diễn dựa nhiều vào khâu tiền kỳ hơn là sản xuất thực tế, bị Bill Krohn (phóng viên người Mỹ của tạp chí điện ảnh Pháp Cahiers du Cinéma) lên tiếng thách thức trong cuốn sách Hitchcock at Work. Sau khi điều tra những sửa đổi kịch bản, ghi chú cho đội sản xuất khác do Hitchcock viết hoặc của Hitchcock và các chất liệu sản xuất khác, Krohn nhận thấy rằng tác phẩm của Hitchcock thường sai lệch so với cách viết kịch bản hoặc lối hình dung gốc của bộ phim. Ông lưu ý rằng giai thoại về kịch bản phân cảnh liên quan đến Hitchcock (thường được nhiều thế hệ bình luận viên các bộ phim của ông nhắc lại) ở mức độ lớn là do chính Hitchcock hoặc bộ phận quảng cáo của hãng phim duy trì. Ví dụ, cảnh phun thuốc nổi tiếng trong phim North by Northwest hoàn toàn không có trong kịch bản phân cảnh. Sau khi ghi hình cảnh đó, bộ phận quảng cáo yêu cầu Hitchcock làm kịch bản phân cảnh để quảng bá bộ phim, rồi đến lượt Hitchcock thuê một nghệ sĩ để ghép chi tiết các cảnh. Ngay cả khi kịch bản phân cảnh được dựng, những cảnh được ghi hình khác chúng đáng kể. Krohn phân tích về khâu sản xuất các tác phẩm kinh điển của Hitchcock như Notorious, tiết lộ rằng Hitchcock đủ linh hoạt để thay đổi khái niệm của bộ phim trong quá trình sản xuất. Một ví dụ khác mà Krohn lưu ý là bản làm lại phim The Man Who Knew Too Much của Mỹ có lịch quay bắt đầu mà không có kịch bản hoàn chỉnh và hơn nữa còn trễ quá lịch trình; đấy là điều mà như Krohn lưu ý không phải là hiếm gặp trên nhiều bộ phim của Hitchcock, kể cả Strangers on a Train và Topaz. Mặc dù Hitchcock chuẩn bị chi tiết cho mọi phim của mình, song ông hoàn toàn nhận thức được rằng quá trình làm phim thực tế thường đi chệch khỏi kế hoạch đã định và linh hoạt để thích ứng với những thay đổi và nhu cầu sản xuất vì phim của ông không tránh khỏi việc đối mặt với những rắc rối thông thường và những thói quen phổ biến được sử dụng trong khâu sản xuất phim khác. Tác phẩm của Krohn còn làm sáng tỏ thông lệ quay phim nói chung theo trật tự thời gian của Hitchcock, trong đó lưu ý rằng nhiều bộ phim đã dội quá kinh phí và quá lịch trình, và quan trọng là khác biệt với quy trình vận hành tiêu chuẩn của Hollywood trong kỷ nguyên xưởng phim. Điều quan trọng không kém là xu hướng quay những lượt cảnh thay thế của Hitchcock. Do đó khác với việc đưa tin ở chỗ những bộ phim không nhất thiết phải được quay từ nhiều góc độ khác nhau để cung cấp cho nhà dựng phim lựa chọn định hình bộ phim theo cách mà họ chọn (thường dưới sự bảo trợ của nhà sản xuất). Theo Krohn, điều này và rất nhiều thông tin khác được tiết lộ thông qua nghiên cứu của anh về các giấy tờ cá nhân của Hitchcock, các lần sửa kịch bản và những thứ tương tự bác bỏ quan điểm cho rằng Hitchcock là một đạo diễn luôn kiểm soát các bộ phim của mình, người sở hữu tầm nhìn các bộ phim không thay đổi trong quá trình sản xuất (cái mà Krohn lưu ý vẫn là giai thoại trung tâm lâu đời của Alfred Hitchcock). Cả sự khó tính và chú ý đến từng chi tiết của ông còn được đưa vào từng áp phích các bộ phim của vị đạo diễn. Hitchcock thích làm việc với những tài năng giỏi nhất thời bấy giờ—những nhà thiết kế áp phích phim như Bill Gold và Saul Bass —họ sẽ cho ra những tấm áp phích thể hiện chính xác các bộ phim của ông. Di sản Giải thưởng và tôn vinh Hitchcock được ghi danh vào Đại lộ Danh vọng Hollywood vào ngày 8 tháng 2 năm 1960 với hai ngôi sao: một ngôi sao cho mảng truyền hình và một ngôi sao cho mảng điện ảnh. Năm 1978, John Russell Taylor miêu tả cố đạo diễn là "nhân vật dễ nhận diện nhiều nhất thế giới" và "một quý ông người Anh thẳng thắn thuộc tầng lớp trung lưu tình cờ trở thành một thiên tài nghệ thuật". Năm 2002, ấn phẩm MovieMaker vinh danh ông là đạo diễn giàu ảnh hưởng nhất mọi thời đại, và vào năm 2007, một cuộc bầu chọn của giới phê bình do The Daily Telegraph tổ chức đã liệt ông là đạo diễn vĩ đại nhất nước Anh. David Gritten (nhà phê bình điện ảnh của tờ báo) viết: "[Hitchcock] chắc chắn là nhà làm phim vĩ đại nhất xuất thân từ quần đảo này, Hitchcock đã định hình nền điện ảnh hiện đại hơn bất cứ đạo diễn nào, và [nền điện ảnh ấy] sẽ hoàn toàn khác nếu thiếu ông. Tài nghệ của ông nằm ở lối kể chuyện, giữ lại thông tin quan trọng một cách tàn nhẫn (khỏi các nhân vật của ông và khỏi chúng ta) và lôi cuốn cảm xúc của khán giả chẳng giống bất kì ai." Năm 1992, cuộc bầu chọn phê bình của Sight & Sound liệt Hitchcock ở hạng 4 trong danh sách "Top 10 đạo diễn hay nhất" mọi thời đại. Năm 2002, Hitchcock xếp ở vị trí số 2 trong cuộc bầu chọn top 10 của giới phê bình và hạng 5 trong cuộc bầu chọn top 10 đạo diễn giỏi nhất nằm trong danh sách Những đạo diễn xuất sắc nhất mọi thời đại do tạp chí Sight & Sound biên tập. Hitchcock được bầu là "Đạo diễn vĩ đại nhất thế kỉ 20" trong một cuộc bình chọn do tạp chí Nhật Bản kinema Junpo tổ chức. Năm 1996, Entertainment Weekly xếp Hitchcock ở vị trí số 1 trong danh sách "50 đạo diễn vĩ đại nhất" của ấn phẩm. Hitchcock có tên ở hạng 2 trong danh sách "Top 40 đạo diễn xuất sắc nhất mọi thời đại" của tạp chí Empire vào năm 2005. Năm 2007, tạp chí Total Film ghi danh ông ở hạng 1 trong danh sách "100 đạo diễn phim điện ảnh vĩ đại nhất từ trước đến nay". Hitchcock đã giành chiến thắng hai Quả cầu vàng, 8 giải Laurel và 5 giải thưởng thành tựu trọn đời, trong đó có giải BAFTA Academy Fellowship đầu tiên và một giải Thành tựu trọn đời của Viện phim Mỹ vào năm 1979. Ông sở hữu 5 đề cử giải Oscar cho đạo diễn xuất sắc nhất, nhưng chưa bao giờ đoạt giải. Rebecca (đề cử 11 Oscar, giật giải Phim hay nhất năm 1940; một phim nữa của Hitchcock là Foreign Correspondent cũng nhận được đề cử năm ấy. Đến năm 2018, 8 bộ phim của ông đã được Viện lưu trữ phim quốc gia Hoa Kỳ lựa chọn để bảo tồn: Rebecca (1940; đưa vào năm 2018), Shadow of a Doubt (1943; đưa vào năm 1991), Notorious (1946; đưa vào năm 2006), Rear Window (1954; đưa vào năm 1997), Vertigo (1958; đưa vào năm 1989), North by Northwest (1959; đưa vào năm 1995), Psycho (1960; đưa vào năm 1992), and The Birds (1963; đưa vào năm 2016). Năm 2012, nghệ sĩ Sir Peter Blake (tác giả bìa album Sgt. Pepper's Lonely Hearts Club Band của The Beatles) đã lựa chọn Hitchcock vẽ trong một phiên bản mới của tấm bìa, bên cạnh những nhân vật văn hóa khác của Anh; cùng năm ấy ông có mặt trong loạt chương trình The New Elizabethans của đài BBC Radio 4, được cho là "người có những hành động ghi một dấu ấn đáng kể lên đời sống của quần đảo này trong thời gian Nữ hoàng Elizabeth II trị vì và đem đến tuổi thọ cho nhân vật". Tháng 6 năm 2013, 9 bản phục chế những bộ phim câm đầu tiên của Hitchcock, trong đó có The Pleasure Garden (1925), đã được trình chiếu tại Nhà hát Harvey của Nhạc viện Brooklyn; những thước phim tri ân có tên là "The Hitchcock 9" được tổ chức bởi Viện phim Anh. Lưu trữ Bộ sưu tập Alfred Hitchcock nằm ở Viện lưu trữ điện ảnh tại Hollywood, California. Bộ sưu tập gồm các bộ phim gia đình, phim 16mm ghi hình trên phim trường Blackmail (1929) và Frenzy (1972), và thước phim màu ra đời sớm nhất của Hitchcock. Viện lưu trứ điện ảnh đã bảo tồn nhiều bộ phim gia đình của ông. Báo in Alfred Hitchcock nằm tại Thư viện Margaret Herrick của Viện. Các bộ sưu tập của David O. Selznick và Ernest Lehman nằm tại Trung tâm nhân văn Harry Ransom ở Austin, Texas, chứa tài liệu liên quan đến tác phẩm do Hitchcock sản xuất như The Paradine Case, Rebecca, Spellbound, North by Northwest và Family Plot. Hóa thân đóng Hitchcock Anthony Hopkins trong Hitchcock (2012) Toby Jones trong The Girl (2012) Roger Ashton-Griffiths trong Grace of Monaco (2014) Danh sách phim Điện ảnh Phim câm Phim nói Tham khảo Ghi chú Chú thích Tác phẩm trích dẫn Tiểu sử (theo thời gian) Tổng hợp Đọc thêm Bài viết Hitchcock's Style tại Screenonline của BFI Sách Deflem, Mathieu. 2016. "Alfred Hitchcock: Visions of Guilt and Innocence." pp. 203–227 in Framing Law and Crime: An Interdisciplinary Anthology, edited by Caroline Joan S. Picart, Michael Hviid Jacobsen, and Cecil Greek. Latham, MD; Madison, NJ: Rowman & Littlefield; Fairleigh Dickinson University Press. Slavoj Žižek et al.:Everything You Always Wanted to Know About Lacan But Were Afraid to Ask Hitchcock, London and New York, Verso, 2nd edition 2010 Liên kết ngoài Đạo diễn Anh Đạo diễn điện ảnh Mỹ Hollywood Người Mỹ gốc Anh Người California Người Luân Đôn Bài cơ bản dài trung bình Người Mỹ thế kỷ 20 Đạo diễn truyền hình Mỹ Đạo diễn phim Anh Nhà sản xuất phim Mỹ Người Mỹ gốc Ireland Mất năm 1980 Người Anh thế kỷ 19 Người Anh thế kỷ 20 Người giành giải Quả cầu vàng Cecil B. DeMille Đạo diễn phim tiếng Anh
28245
https://vi.wikipedia.org/wiki/Fran%C3%A7ois%20Truffaut
François Truffaut
François Truffaut (6 tháng 2 năm 1932 - 21 tháng 10 năm 1984) là một trong các nhà làm phim đã tạo ra phong trào Làn sóng mới của Pháp. Với bộ phim truyện đầu tay The 400 Blows (Les Quatre Cent Coups) vào năm 1959 Truffaut đã đề cử giải Cành Cọ Vàng (Palme d'or) tại Liên hoan phim Cannes. Tiểu sử Phim 1955 - Une visite 1957 - Les Mistons 1958 - Une histoire d'eau, cùng với Jean-Luc Godard 1959 - Les Quatre Cent Coups 1960 - Tirez sur le pianiste 1961 - Tire au flanc 1962 - Jules et Jim 1962 - L'Amour à vingt ans: Antoine et Colette 1964 - La Peau douce 1966 - Fahrenheit 451 1968 - La Mariée était en noir 1968 - Những nụ hôn bị đánh cắp (Baisers volés) 1969 - La Sirène du Mississippi 1969 - L'Enfant sauvage 1970 - Domicile conjugal (Tổ ấm gia đình) 1971 - Les Deux Anglaises et le continent 1972 - Une belle fille comme moi 1973 - La Nuit américaine 1975 - L'Histoire d'Adèle H. 1976 - L'Argent de poche 1977 - L'Homme qui aimait les femmes 1978 - La Chambre verte 1979 - L'Amour en fuite (Tình Yêu Trốn Chạy) 1980 - Le Dernier Métro, đoạt giải César cho phim và đạo diễn hay nhất năm 1981 - La Femme d'à côté 1983 - Vivement dimanche! Tham khảo Diễn viên nổi tiếng trong phim Truffaut Isabelle Adjani trong L'Histoire d'Adèle H. Fanny Ardant, người bạn trong những ngày cuối đời của Truffaut và mẹ của con gái ông (Joséphine), trong La femme d'à côté và Vivement dimanche! Claude Jade trong vai Christine trong Baisers volés, Domicile conjugal và L'Amour en fuite Nathalie Baye trong La Nuit américaine và La Chambre Verte Jean-Paul Belmondo trong La Sirène du Mississippi Jacqueline Bisset trong La Nuit américaine Catherine Deneuve trong La Sirène du Mississippi và Le Dernier Métro Charles Denner trong La mariée était en noir và L'Homme qui aimait les femmes Gérard Depardieu trong Le Dernier Métro Bernadette Lafont trong Les Mistons và Une belle fille comme moi Jean-Pierre Léaud trong Baisers volés, Domicile conjugal và L'Amour en fuite Jean-François Stévenin fut lui aussi révélé par Truffaut. Jeanne Moreau trong Jules et Jim và La mariée était en noir Liên kết ngoài (tiếng Anh) Trang về François Truffaut (tiếng Pháp) Diễn viên François Truffaut (tiếng Pháp) Sinh năm 1932 Mất năm 1984 Đạo diễn điện ảnh Pháp Người Paris Nhà biên kịch phim Pháp Chết vì u não Nhà phê bình tôn giáo Chôn cất tại Nghĩa trang Montmartre Người giành giải BAFTA cho Đạo diễn xuất sắc nhất
28246
https://vi.wikipedia.org/wiki/Baisers%20vol%C3%A9s
Baisers volés
Baisers volés (Những nụ hôn bị đánh cắp) là một phim của François Truffaut thực hiện năm 1968, với sự tham gia diễn xuất của Jean-Pierre Léaud và Claude Jade. Cốt truyện Antoine Doinel (Jean-Pierre Léaud): Giải ngũ từ quân đội vì chứng bất ổn tính cách, anh chàng muốn nối lại quan hệ với Christine Darbon (Claude Jade). Trong một cuộc điều tra, lĩnh trách nhiệm theo dõi người làm của một cửa hiệu bán giày, anh yêu điên cuồng vợ của ông chủ, bà Tabard. Anh ta thích tỏ tình nồng cháy từ xa, bằng cách viết thư, điều cho phép anh ta kiểm soát tình thế được tốt hơn. Và ngay cả với Christine, cuối cùng anh ta cũng tỏ tình bằng cách viết chứ không phải nói. Dù phim đầy chất khôi hài và độc đáo, sự nặng nề là không hề xa xôi (nhân vật bí ẩn mặc áo mưa theo đuổi Christine xuất hiện đi xuất hiện lại, đại diện cho một cảm giác bất an ngầm ẩn). Diễn viên-phân vai Jean-Pierre Léaud: Antoine Doinel Claude Jade: Christine Darbon Daniel Ceccaldi: Lucien Darbon, cha của Chistine Claire Duhamel: Madame Darbon, mẹ của Christine Delphine Seyrig: Fabienne Tabard Michael Lonsdale: Georges Tabard Serge Rousseau: một người lạ Harry Max: Monsieur Henri André Falcon: Monsieur Blady Catherine Lutz: Catherine Paul Pavel: Julien Martine Ferrière: Mme Turgan Marie-France Pisier: Colette Tazzi Jean-François Adam: Albert Tazzi François Darbon: Adjudant Picard Đạo diễn: François Truffaut Kịch bản: François Truffaut, Claude de Givray và Bernard Revon Nhạc: Antoine Duhamel Sản xuất: Les Films du Carosse et Artistes Associés Dài 87 phút Tham khảo Liên kết ngoài Phim Pháp Phim năm 1968 Phim lấy bối cảnh ở Paris Phim chính kịch Pháp Phim quay tại Paris Phim tiếng Pháp
28256
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%BAp%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20ch%C3%A2u%20%C3%81
Cúp bóng đá châu Á
Cúp bóng đá châu Á () là giải đấu bóng đá giữa các đội tuyển bóng đá nam quốc gia do Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) tổ chức, với chu kỳ bốn năm một lần. Đây là giải bóng đá lớn nhất của châu Á và là giải vô địch bóng đá cấp châu lục lâu đời thứ hai trên thế giới sau Cúp bóng đá Nam Mỹ. Đội vô địch trở thành nhà vô địch châu Á và đại diện châu Á tham dự Cúp Liên đoàn các châu lục. Cúp bóng đá châu Á được tổ chức với chu kỳ bốn năm kể từ lần tổ chức năm 1956 tại Hồng Kông cho đến giải đấu năm 2004 tại Trung Quốc. Tuy nhiên, vì Thế vận hội Mùa hè và Giải vô địch bóng đá châu Âu cũng được lên lịch vào cùng năm với Asian Cup nên AFC đã quyết định dời giải vô địch của họ sang một chu kỳ ít đông đúc hơn. Sau năm 2004, giải tiếp theo được tổ chức vào năm 2007, với sự đồng đăng cai của bốn quốc gia ở Đông Nam Á: Indonesia, Malaysia, Thái Lan và Việt Nam. Sau đó, giải đấu tiếp tục được tổ chức bốn năm một lần. Cúp bóng đá châu Á thường được thống trị bởi một số ít các đội hàng đầu. Các đội thành công ban đầu bao gồm Hàn Quốc (hai lần) và Iran (ba lần). Kể từ năm 1984, Nhật Bản (bốn lần) và Ả Rập Xê Út (ba lần) là những đội thành công nhất, cùng nhau giành bảy chức vô địch trong số mười trận chung kết gần nhất. Các đội khác đã gặt hái thành công là Qatar (hai lần), Úc (2015), Iraq (2007) và Kuwait (1980). Israel vô địch năm 1964 nhưng sau đó đã bị trục xuất và kể từ đó đã gia nhập UEFA. Úc gia nhập liên đoàn châu Á năm 2007 và đăng cai vòng chung kết Cúp bóng đá châu Á năm 2015, giành chiến thắng trong trận chung kết trước Hàn Quốc. Giải đấu năm 2019 đã được mở rộng từ 16 đội lên 24 đội, với quy trình vòng loại tăng gấp đôi như một phần của vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2018. Lịch sử Khởi đầu Một giải đấu toàn châu Á lần đầu tiên được đề xuất sau khi Thế chiến II kết thúc, nhưng nó không được thực hiện cho đến những năm 1950. Hai năm sau khi Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) ra đời vào năm 1954, AFC Asian Cup lần đầu tiên được tổ chức tại Hồng Kông với bảy trong số mười hai thành viên sáng lập tham gia, khiến giải đấu trở thành giải đấu lâu đời thứ hai trên thế giới. Quá trình vòng loại có sự tham gia của đội chủ nhà cộng với những người chiến thắng ở các khu vực khác nhau (Miền Trung, Miền Đông và Miền Tây). Đó chỉ là một giải đấu bốn đội, một thể thức cũng tồn tại trong các năm 1960 và 1964. Mỗi liên đoàn con đã tổ chức giải vô địch hai năm một lần của riêng họ, mỗi giải có mức độ quan tâm khác nhau. Thời gian đầu, các đội tuyển quốc gia mạnh không mấy mặn mà với giải mà tập trung chủ yếu cho đấu trường Olympics và Asiad. Tình trạng các đội bỏ dở thi đấu hoặc không tham gia ngay từ vòng loại thường xuyên diễn ra. Hàn Quốc đã thể hiện sự vượt trội của mình trong những năm đầu của giải đấu khi nước này chinh phục các năm 1956 và 1960; đây vẫn là thành tích tốt nhất của Hàn Quốc trong giải đấu. Sự thống trị của Tây Á (1964–1988) Sau khi Hồng Kông và Hàn Quốc đăng cai tổ chức hai kỳ đầu tiên, Israel được chọn làm chủ nhà của Cúp bóng đá châu Á 1964. Sử dụng cùng một thể thức của hai phiên bản trước, giải đấu này chỉ có bốn đội và thi đấu trong một nhóm duy nhất để xác định nhà vô địch. Israel cuối cùng đã đứng đầu giải đấu trước Ấn Độ với ba trận thắng. Thể thức được cập nhật thành năm đội vào năm 1968 trước khi được mở rộng thành sáu đội vào năm 1972 và 1976. Giải đấu trở thành sân chơi dành riêng cho Iran, đội đã vô địch ba giải đấu liên tiếp vào các năm 1968, 1972 và 1976, với việc Iran đăng cai tổ chức giải trước và giải sau. Iran vẫn là đội tuyển quốc gia duy nhất ở châu Á vô địch ba kỳ Asian Cup liên tiếp. Trận chung kết năm 1972 rất đáng chú ý vì đây là Giải vô địch bóng đá châu Á đầu tiên sử dụng thể thức loại trực tiếp vòng bảng, thể thức này được diễn ra trong các giải đấu tiếp theo với một số thay đổi. Tuy nhiên, giải đấu được đánh dấu bằng một nốt đen khi Israel bị trục xuất khỏi AFC vào năm 1972 do xung đột Ả Rập-Israel. Từ 1980 đến 1988, số đội tham gia tăng lên 10 đội, nhưng các quốc gia Tây Á tiếp tục thống trị trong những năm 1980 với việc Kuwait trở thành quốc gia Ả Rập đầu tiên giành chức vô địch vào năm 1980 được tổ chức trên sân nhà, đánh bại Hàn Quốc 3–0 trong trận chung kết. Ả Rập Xê Út sau khởi đầu không mấy suôn sẻ đã bắt đầu nổi lên với tư cách là quốc gia vượt qua vòng loại, sau đó giành hai chức vô địch châu Á liên tiếp vào các năm 1984 và 1988, vượt qua cả Trung Quốc và Hàn Quốc. Cả hai giải đấu đều là trận ra mắt của Ả Rập Xê Út trong bất kỳ giải đấu lớn nào. Sự trỗi dậy của Nhật Bản và sự chuyên nghiệp hóa của Asian Cup (1992–2011) Cho đến những năm 1990, AFC Asian Cup chủ yếu được tổ chức ở cấp độ nghiệp dư hơn, bất chấp nỗ lực nâng cao tiêu chuẩn. Tuy nhiên, với việc châu Á được trao nhiều suất hơn cho Giải vô địch bóng đá thế giới, các nỗ lực chuyên nghiệp hóa giải đấu cũng bắt đầu. Cuối những năm 1990, giải bắt đầu được chuyên nghiệp hóa. Nhật Bản cho đến những năm 1990 hầu như chỉ là một tên tuổi nhỏ của bóng đá châu Á, và quốc gia này chỉ đủ điều kiện tham dự giải đấu năm 1988, lần đầu tiên Nhật Bản tham dự một giải đấu bóng đá châu lục. Tuy nhiên, khi Nhật Bản bắt đầu có những bước chuyển cụ thể sang bóng đá chuyên nghiệp, vận may của đất nước này đã tăng lên. Nhật Bản đăng cai Cúp bóng đá châu Á 1992, giải đấu được chia thành tám đội và hai bảng, nơi họ giành chiến thắng sau khi đánh bại Ả Rập Xê Út, đương kim vô địch, 1–0, để giành danh hiệu quốc tế lớn đầu tiên của đất nước. Cúp bóng đá châu Á 1996 chứng kiến ​​giải đấu được mở rộng thành 12 đội trong quá trình chuyên nghiệp hóa. Được tổ chức bởi Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, đội chủ nhà lần đầu tiên lọt vào trận chung kết nhưng không thể giành cúp sau khi để thua Ả Rập Xê Út, đội đã lọt vào vòng chung kết châu Á lần thứ tư liên tiếp của quốc gia này, trên chấm phạt đền. Đó là danh hiệu châu Á thứ ba của Ả Rập Xê Út. AFC Asian Cup 2000 chứng kiến ​​​​Lebanon tham dự giải đấu châu Á đầu tiên và Ả Rập Xê Út một lần nữa lọt vào trận chung kết, nhưng lần này, Nhật Bản đã chiến thắng Ả Rập Xê Út với tỷ số 1–0 trong một trận chung kết được đa số người Ả Rập Xê Út cổ vũ. Nhật Bản sẽ tiếp tục giành được chiếc cúp châu Á của họ 4 năm sau đó, mặc dù thi đấu với phong cách chật vật hơn và một trận chung kết rất nóng bỏng, đầy tính chính trị trước chủ nhà Trung Quốc. Giải đấu năm 2004 rất đáng chú ý khi nó mở rộng tới 16 đội và lần đầu tiên Ả Rập Xê Út vắng mặt ở một trận chung kết Cúp bóng đá châu Á. Cúp bóng đá châu Á 2007 đã trở nên đáng chú ý với sự ra mắt của Úc, đội đã rời khỏi Liên đoàn bóng đá châu Đại Dương vào năm 2006 (tình cờ là đội đầu tiên vượt qua vòng loại của giải đấu), cũng như là giải đấu bóng đá đầu tiên trên thế giới được tổ chức bởi nhiều hơn hai quốc gia, với bốn quốc gia ở Đông Nam Á (Việt Nam, Thái Lan, Malaysia, Indonesia) đăng cai. Tại giải đấu này, Iraq đăng quang với tư cách là nhà vô địch châu Á bất chấp Chiến tranh Iraq tàn khốc và căng thẳng giáo phái, áp đảo các đối thủ như Úc, Hàn Quốc và Ả Rập Xê Út trong quá trình này. Úc (gia nhập AFC năm 2006), sau màn ra mắt kém cỏi vào năm 2007, đã phục hồi để lọt vào trận chung kết của Cúp bóng đá châu Á 2011 tại Qatar, nhưng để thua Nhật Bản sau hiệp phụ; chiến thắng cho Nhật Bản đồng nghĩa với việc họ trở thành đội bóng giàu thành tích nhất châu Á với bốn danh hiệu. Tuy nhiên, giải đấu đáng chú ý do Cúp bóng đá châu Á đầu tiên sử dụng thứ tự số áo từ 1 đến 23, trước đây không được thực hiện trong các giải đấu trước đó. Mở rộng Cúp bóng đá châu Á (2015–nay) Sau thành công của Úc tại Cúp bóng đá châu Á 2011, AFC đã phê duyệt quốc gia này đăng cai Cúp bóng đá châu Á 2015. Tại giải đấu, Úc đã hạ gục mọi đối thủ chỉ với một trận thua, trước khi vào trận chung kết gặp Hàn Quốc, đội bóng mà Úc phục thù chung cuộc 2–1 sau hiệp phụ; chiến thắng chính thức đánh dấu chức vô địch châu Á đầu tiên của Đông Nam Á khi Úc tham gia AFF vào năm 2013. Tại Asian Cup 2019, công nghệ trợ lý trọng tài video lần đầu tiên được sử dụng trong giải đấu, cũng như mở rộng lên 24 đội. Ngoài ra, quyền thay người thứ tư được cho phép trong thời gian bù giờ. Giải đấu do Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất đăng cai lần thứ hai, chứng kiến ​​sự trỗi dậy của Qatar, đội đã lần đầu tiên giành danh hiệu châu Á sau khi đánh bại Nhật Bản 3–1 trong trận chung kết. Giải đấu bị ảnh hưởng một phần do cuộc khủng hoảng ngoại giao Qatar, do lệnh cấm nhập cảnh của UAE đối với cổ động viên Qatar, cũng như hành vi ném giày trong trận bán kết của hai đội. Kết quả các trận tranh hạng ba (từ 1972 đến 2015) và chung kết Các đội lọt vào top 4 <div id="0">* Chủ nhà <div id="1"># Israel bị khai trừ khỏi AFC trong những năm 1970 và cuối cùng trở thành một thành viên của UEFA. <div id="2">^ Năm 1975, đất nước Việt Nam được hoàn toàn thống nhất. Do đó, kể từ năm 1975 trở về sau, thành tích của Đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam Cộng hòa sẽ được sáp nhập vào thành tích chung của Đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam. Thành tích của các nước chủ nhà Thành tích đội đương kim vô địch Vô địch theo từng khu vực Israel ngày nay chuyển sang trực thuộc UEFA. Giải thưởng Cúp Đã có hai phiên bản Cúp châu Á; chiếc cúp đầu tiên được sử dụng từ năm 1956 đến 2015 và chiếc thứ hai được sử dụng kể từ năm 2019. Chiếc cúp đầu tiên có dạng một cái bát có đế hình tròn. Nó cao 42 cm và nặng 15 kg. Cho đến giải đấu năm 2000, phần đế màu đen có các bảng khắc tên của mọi quốc gia chiến thắng, cũng như ấn bản đã giành chiến thắng. Chiếc cúp được thiết kế lại, thêm nhiều bạc hơn và giảm phần đế màu đen xuống chỉ còn một lớp mỏng. Căn cứ này không có biển báo và tên của các quốc gia chiến thắng được khắc xung quanh đế. Trong lễ bốc thăm vòng bảng 2019 vào ngày 4 tháng 5 năm 2018 tại Burj Khalifa ở Dubai, một chiếc cúp hoàn toàn mới do Thomas Lyte chế tạo đã được công bố. Nó cao 78 cm, rộng 42 cm và nặng 15 kg bạc. Chiếc cúp được mô phỏng theo hoa sen , một loài thực vật thủy sinh quan trọng mang tính biểu tượng của châu Á. Năm cánh hoa sen tượng trưng cho năm tiểu liên đoàn trực thuộc AFC. Tên của các quốc gia chiến thắng được khắc xung quanh đế cúp, có thể tách rời khỏi thân chính của cúp. Chiếc cúp này có một tay cầm ở mỗi bên, không giống như chiếc cúp tiền nhiệm của nó. Cầu thủ xuất sắc nhất giải Vua phá lưới Các đội tham dự Chú thích – Vô địch – Á quân – Hạng ba – Hạng tư 5th – Hạng năm – Bán kết TK – Tứ kết V2 – Vòng 16 đội VB – Vòng bảng Q – Vượt qua vòng loại cho giải đấu sắp tới —Đủ điều kiện nhưng rút lui — Không vượt qua vòng loại — Không tham dự / Rút lui / Bị cấm — Chủ nhà Các đội chưa từng tham dự Asian Cup , , , , , , , , , , , Lần đầu tham dự Dưới đây là thống kê giải đấu đầu tiên mà các đội tuyển có mặt tại một vòng chung kết Asian Cup. Bảng xếp hạng tổng thể Israel từ năm 1991 chuyển sang trực thuộc UEFA. Các huấn luyện viên vô địch Ghi chú Tham khảo Liên kết ngoài Trang web chính thức Cúp bóng đá châu Á Cúp bóng đá châu Á, AFC.com Lưu trữ RSSSF 1
28275
https://vi.wikipedia.org/wiki/Watt
Watt
Watt hay còn gọi là oát (ký hiệu là W) là đơn vị đo công suất P trong hệ đo lường quốc tế, lấy theo tên của James Watt. Công suất cho biết sự thay đổi năng lượng ΔE trong 1 khoảng thời gian Δt. 1 Watt là sự thay đổi của năng lượng 1 Joule trong 1 giây. Công suất điện tại thời điểm t được tính theo P(t) = U(t) · I(t), với U(t), I(t) là các giá trị hiệu dụng của hiệu điện thế và cường độ dòng điện tại t, khi chúng không lệch pha. Các lũy thừa cơ số 10 thường dùng của Watt: 1 miliwatt (mW) = 0,001 W 1 kilowatt (kW) = 1 000 W 1 megawatt (MW) = 1 000 000 W 1 gigawatt (GW) = 1 000 000 000 W Các tiền tố kết hợp với đơn vị watt Bảng chuyển đổi giá trị giữa các ước số-bội số khác nhau Tham khảo Đơn vị đo công suất Đơn vị dẫn xuất trong SI Đơn vị điện James Watt
28278
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mega
Mega
Mega ở đây có thể là: Mêga (viết tắt M) là một tiền tố được viết liền trước một đơn vị đo lường quốc tế để chỉ bội số lớn gấp 106 hay 1.000.000 lần. Mega (gọi cách điệu là MEGA) là một lưu trữ đám mây, một ứng dụng lưu trữ tập tin do Mega Limited phát triển.
28288
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pico
Pico
Pico có thể là: Picô, tiền tố được viết liền trước một đơn vị đo lường quốc tế Pico, Frosinone, một đô thị thuộc tỉnh Frosinone của Ý
28289
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nano
Nano
Nano có thể chỉ đến một trong những khái niệm sau: Khoa học kĩ thuật Nano đi kèm với các đơn vị đo để biểu thị ước số 10−9 của đơn vị gốc. Vật liệu nano Công nghệ nano và công nghệ nano DNA Tin học Nano là một trình soạn thảo văn bản đơn giản trong hệ điều hành kiểu Unix. Khác Tata Nano, một loại ô tô của Ấn Độ iPod Nano Microsoft Nano Server, tùy chọn cài đặt cho Windows Server 2016
28296
https://vi.wikipedia.org/wiki/Joseph%20Fourier
Joseph Fourier
Jean Baptiste Joseph Fourier (21 tháng 3 năm 1768 – 16 tháng 5 năm 1830) là một nhà toán học và nhà vật lý người Pháp. Ông được biết đến với việc thiết lập chuỗi Fourier và những ứng dụng trong nhiệt học. Sau đó, biến đổi Fourier cũng được đặt tên để tưởng nhớ tới những đóng góp của ông. Về lĩnh vực Vật lý đóng góp quan trong lớn nhất của ông là phát hiện ra Hiệu ứng nhà kính vào năm 1824. Đó chính là vấn đề then chốt của Biến đổi khí hậu. Chính nhờ phát hiện ra Hiệu ứng nhà kính giúp nhân loai chủ động hơn trong cuộc chiến chống Biến đổi khí hậu Tiểu sử Sinh ra trong một gia đình thợ may ở Auxerre, (Pháp), và sớm trở nên mồ côi khi lên 8, ông được gửi vào nhà thờ ở Auxerre. Ở đó, Fourier được dạy dỗ bởi các tu sĩ dòng Benedict trong tu viện St. Mark. Sau đó Fourier nhận làm trợ giảng môn toán trong quân đội, nhưng không đủ tư cách vào hội đồng khoa học vì nơi đó chỉ dành cho những người trong gia đình danh giá. Trong một kì thăng nhiệm, Fourier đã thể hiện sự vượt trội của mình và được bổ nhiệm vào École Normale Supérieure năm 1795, ngay sau đó là một vị trí tại Trường Bách khoa Paris (École Polytechnique). Những đóng góp khoa học Xem thêm. Chuỗi Fourier Biến đổi Fourier Định luật Fourier trong lý thuyết dẫn nhiệt Tham khảo Liên kết ngoài Fourier 1827: MEMOIRE sur les températures du globe terrestre et des espaces planétaires Université Joseph Fourier, Grenoble, France Nhà vật lý Pháp Nhà toán học Pháp Nhà toán học thế kỷ 18 Nhà vật lý lý thuyết Nhà khoa học Pháp Mất năm 1830 Nhà sử học Pháp Sinh năm 1768 Chôn cất tại nghĩa trang Père-Lachaise Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Pháp
28301
https://vi.wikipedia.org/wiki/Grace%20Kelly
Grace Kelly
Grace Kelly (12 tháng 11 năm 1929 – 14 tháng 9 năm 1982) hay Thân vương phi Grace là nữ minh tinh điện ảnh người Mỹ. Sau này bà trở thành Thân vương phi của Monaco sau khi kết hôn với Thân vương Rainier III của Monaco vào tháng 4 năm 1956. Bắt đầu sự nghiệp diễn xuất vào năm 1950, ở tuổi 20, Kelly trong các tác phẩm kịch nghệ tại New York và hơn 40 tập trong các bộ phim truyền hình trực tiếp phát sóng trong "Thời đại vàng của truyền hình" vào đầu thập niên 50. Tháng 10 năm 1953, bà đã trở thành ngôi sao của bộ phim Mogambo, đã giúp Kelly giành được 1 giải Quả Cầu Vàng và đề cử cho giải Oscar năm 1954. Tiếp đó, Kellly vào vai chính trong 5 phim điện ảnh có The Country Girl (1954), sự thể hiện diễn xuất được tán dương đã giúp Kelly nhận một Giải Oscar cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất. Các phim khác là High Noon (1952) đóng cùng Gary Cooper, Dial M for Murder (1954) với Ray Milland, Rear Window (1954) với James Stewart, To Catch a Thief (1955) với Cary Grant và High Society (1956) cùng Frank Sinatra và Bing Crosby. Kelly từ bỏ sự nghiệp diễn xuất ở tuổi 26 khi nhận lời cầu hôn của Thân vương Rainier và trở thành Thân vương phi Monaco. Cặp đôi có ba con: Caroline, Vương phi xứ Hannover, Thân vương Albert II và Stéphanie. Kelly giữ gốc gác là người Mỹ và duy trì quyền công dân song tịch Hoa Kỳ và Monaco. Bà qua đời ngày 14 tháng 9 năm 1982 do đột quỵ khi đang lái xe dẫn đến tai nạn lật xe trước đó một ngày. Năm 1999, Grace Kelly được Viện phim Mỹ (AFI) xếp thứ 13 trong số những nữ minh tinh huyền thoại màn bạc Hollywood vĩ đại nhất mọi thời đại. Tiểu sử Grace Patricia Kelly sinh ra tại Bệnh viện Đại học Hahnemann ở Philadelphia, Pennsylvania, là con thứ 3 trong gia đình giàu có và có sức ảnh hưởng. Cha là John B. Kelly Sr. (1889–1960), người gốc Ireland từng đạt 3 huy chương vàng Olympic môn đua thuyền và sở hữu một công ty thầu cung ứng gạch xây dựng, làm ăn phát đạt có tiếng ở bờ Đông nước Mỹ. Là một thành viên của Đảng Dân chủ, ông được đề cử tranh chức thị trưởng của Philadelphia trong cuộc bầu cử năm 1935 nhưng thua đối thủ với tỉ lệ phiếu bầu sít sao nhất trong lịch sử thành phố. Trong những năm sau này, ông làm việc tại Ủy ban Fairmount Park và trong thời Thế chiến thứ hai được Tổng thống Franklin D. Roosevelt bổ nhiệm vào vị trí Giám đốc Thể dục thể thao Quốc gia. Hai người anh em của ông cũng được chú ý: Walter C. Kelly (1873–1939) là một ngôi sao nhạc kịch từng làm phim với Metro-Goldwyn-Mayer và Paramount Pictures, còn George Kelly (1887–1974) là đạo diễn, biên kịch từng thắng một giải biên kịch xuất sắc Pulitzer. Mẹ là Margaret Katherine Majer (1898–1990); thuộc gia đình người Đức định cư ở Pennsylvania. Bà Margaret giảng dạy bộ môn giáo dục thể chất tại Đại học Pennsylvania, người phụ nữ đầu tiên tham gia huấn luyện môn điền kinh nữ tại ngôi trường này. Bà được biết đến vì vẻ đẹp thời trẻ và đã có một thời gian làm người mẫu. Sau khi kết hôn với người đàn ông giàu có John B. Kelly năm 1924, Margaret tập trung chăm sóc các con cho đến tuổi đi học, sau đó bà bắt đầu hoạt động tích cực tại các tổ chức dân sự. Cuối đời, bà từng đột quỵ tại viện dưỡng lão, sau đó được nơi này thừa nhận đã qua đời vì viêm phổi ở tuổi 91. Kelly có hai anh chị là Margaret (1925–1991) và John B. Kelly Jr. (1927–1985) cùng em gái là Elizabeth (1933–2009). Những đứa trẻ trong gia đình được nuôi dạy theo đức tin Công giáo La Mã. Thời niên thiếu Grace Kelly theo học tại Học viện nữ sinh Công giáo Ravenhill đến năm 15 tuổi. Bên cạnh đó còn tham gia trình diễn thời trang trong các sự kiện ở địa phương cùng với mẹ và các chị em gái. Năm 1942, khi lên 13, Kelly diễn vai chính trong vở kịch Don't Feed the Animals được chỉ đạo bởi East Falls Old Academy Players. Trước khi tốt nghiệp trường trung học Stevens School vào tháng 5 năm 1947, một trường tư nổi bật với những hoạt động xã hội ở Walnut Lane, phía tây bắc Philadelphia gần Germantown, Kelly đã tham gia diễn xuất và khiêu vũ. Trong cuốn kỷ yếu thời trung học, Kelly có liệt kê ra nữ diễn viên và nam diễn viên yêu thích là Ingrid Bergman và Joseph Cotten. Cuốn kỷ yếu này còn có mục "Tiên đoán của Steven" viết rằng: "Quý cô Grace P. Kelly – một ngôi sao nổi tiếng trên màn bạc và sân khấu." Do điểm môn toán thấp nên Kelly bị từ chối nhận vào Bennington College tháng 7 năm 1947. Sự nghiệp Thời gian đầu Dù ban đầu không được sự ủng hộ của bố mẹ, Kelly vẫn quyết định theo đuổi giấc mơ thành diễn viên. Cha Kelly đặc biệt không hài lòng với lựa chọn của cô vì ông coi diễn xuất là "một vết cắt mỏng trên mặt gái điếm." Để tìm cơ hội cho mình, Kelly đi thử giọng ở Học viện Kịch nghệ Hoa Kỳ (American Academy of Dramatic Arts) tại New York, diễn một cảnh trong phim The Torch-Bearers (1923) của người bác là George Kelly. Lúc đó ngôi trường này đã đạt đủ chỉ tiêu tuyển sinh trong học kỳ nhưng dưới tác động của người bác George, Kelly vẫn được nhận vào học sau một buổi phỏng vấn với cán bộ tuyển sinh là Emile Diestel. Cô bắt đầu học kỳ đầu tiên vào tháng 10 tiếp sau. Trong thời gian theo học, cô sống trong Barbizon Hotel cho nữ giới tại Manhattan, một địa điểm uy tín cấm đàn ông bước vào sau 10 giờ tối, Kelly còn làm người mẫu để hỗ trợ việc học tập của mình. Cô đã làm việc hết mình và thực hành khả năng nói bằng việc sử dụng máy ghi âm. Nỗ lực theo đuổi diễn xuất ban đầu đã đưa cô đến sân khấu kịch, đáng chú ý nhất lần trình diễn trên Broadway đầu tiên bằng vở The Father của Strindberg bên cạnh Raymond Massey. Ở tuổi 19, Kelly có màn trình diễn tốt nghiệp với vai Tracy Lord trong vở The Philadelphia Story. Nhà sản xuất truyền hình Delbert Mann tuyển chọn Kelly vào vai Bethel Merriday, một phiên bản cùng tên chuyển thể từ tiểu thuyết Sinclair Lewis; đây là vai đầu tay trong số gần 60 chương trình truyền hình trực tiếp của cô. Thành công trên truyền hình cuối cùng giúp chạm đến một phim chiếu bóng quan trọng. Kelly xuất hiện lần đầu trong phim điện ảnh năm 1951 Fourteen Hours. Kelly gây được chú ý trong lần ghé thăm cảnh quay của Gary Cooper, sau này đã đóng vai chính cùng cô trong High Noon (1951). Anh bị quyến rũ và nói rằng "cô khác rất nhiều với tất cả các nữ diễn viên chúng tôi từng thấy". Tuy nhiên, sự thể hiện của Kelly trong Fourteen Hours không được giới phê bình để mắt và dẫn đến việc không có vai diễn nào khác trên màn ảnh rộng. Cô tiếp tục công việc trong rạp hát và truyền hình dù thiếu hụt "mã lực về thanh âm" và có thể không có một sự nghiệp sân khấu dài lâu. Kelly có một số vai trên các chương trình truyền hình được sản xuất bởi NBC và CBS. Khi đang trình diễn trong nhà hát Elitch Theatre, Denver thì Kelly nhận được điện tín từ nhà sản xuất Hollywood Stanley Kramer mời cô đóng vai chính cùng Gary Cooper trong High Noon (1951). Thân vương phi Monaco Grace Kelly dẫn đầu phái đoàn Hoa Kỳ tại Liên hoan phim Cannes vào tháng 4 năm 1955. Khi ở đó, cô được mời tham gia một buổi chụp ảnh với Thân vương Rainier III, người kế vị của Công quốc Monaco, tại Cung điện Thân vương, cách Cannes khoảng 55 km. Sau hàng loạt sự chậm trễ và quy tắc phức tạp, nữ diễn viên đã gặp ông hoàng tại Cung điện Thân vương Monaco vào ngày 6 tháng 5 năm 1955. Vào thời điểm cuộc gặp đầu tiên của Grace với Rainier, cô đang hẹn hò với nam diễn viên người Pháp Jean-Pierre Aumont. Sau những lần gặp gỡ hẹn hò kéo dài một năm được mô tả là có "rất nhiều đánh giá hợp lý cho cả hai bên", Thân vương Rainier và Kelly kết hôn năm 1956. Bộ luật Napoléon của Monaco và luật của Giáo hội Công giáo yêu cầu hai nghi lễ - cả nghi lễ dân sự và lễ cưới tôn giáo. Buổi lễ dân sự kéo dài 16 phút diễn ra trong Phòng ngai vàng của Cung điện Monaco vào ngày 18 tháng 4 năm 1956, và một buổi tiếp tân sau đó trong ngày có sự tham dự của 3.000 công dân Monaco. Để bắt đầu buổi lễ, 142 danh hiệu chính thức mà Grace có được trong liên minh (tương tự như danh hiệu của chồng cô) đã được chính thức đọc lại. Ngày hôm sau, buổi lễ nhà thờ diễn ra tại Nhà thờ Saint Nicholas của Monaco, trước Giám mục Gilles Barthe. Đám cưới ước tính đã thu hút được hơn 30 triệu khán giả theo dõi trực tiếp qua truyền hình và được nhà viết tiểu sử Robert Lacey mô tả là "sự kiện hiện đại đầu tiên tạo ra sự quá mức cần thiết của truyền thông". Váy cưới của Grace, được thiết kế bởi Helen Rose, nhà thiết kế của hãng phim MGM từng nhận giải Oscar, cùng với ba mươi sáu người thợ may thực hiện trong 6 tuần. Váy dài của phù dâu được thiết kế bởi Joe Allen Hong tại Neiman Marcus. Bên phía nhà gái có em gái của cô dâu, Margaret (Peggy) Kelly Davis, với tư cách phù dâu chính, và Judy Balaban và Rita Gam là các phù dâu. Phù rể có Bá tước Charles de Polignac, Trung tá Ardant, và anh trai của cô dâu, John (Kell) Kelly. Các phù dâu và phù rể nhí là Meg và Mary Lee (cháu gái của cô dâu); các cháu gái và cháu trai của chú rể (con của Công chúa Antoinette) Christian, Christine, và Elisabeth; và em họ của chú rể Sebastian Von Furstenberg. 700 khách mời bao gồm một số người nổi tiếng, bao gồm Aristotle Onassis, Cary Grant, David Niven và vợ là Hjördis, Gloria Swanson, Ava Gardner, Aga Khan III, Gloria Guinness, và nhiều người khác. Frank Sinatra đã được mời nhưng không tham dự. Kelly và Rainier rời đi vào đêm đó cho chuyến du lịch trăng mật ở Địa Trung Hải kéo dài bảy tuần trên du thuyền của Thân vương, Deo Juvante II. Cặp đôi có ba người con: Thân vương nữ Caroline, sinh ngày 23 tháng 1 năm 1957 Thân vương tử Albert, sinh ngày 14 tháng 3 năm 1958, Thân vương hiện tại của Monaco Thân vương nữ Stéphanie, sinh ngày 1 tháng 2 năm 1965 Qua đời Ngày 13 tháng 9 năm 1982, Kelly đang lái xe quay về Monaco từ tư gia thuộc vùng nông thôn ở Mont Agel thì lên cơn đột quỵ. Kết quả là Thân vương phi Grace mất lái trên chiếc xe Rover P6 3500 1971 của mình và văng khỏi con đường dốc quanh co, rơi xuống sườn núi cao . Con gái bà, Thân vương nữ Stéphanie đang ngồi ở ghế phụ đã cố gắng lấy lại tay lái nhưng không thành. Khi các nhân viên ý tế đến hiện trường tai nạn,(), Kelly còn sống nhưng bất tỉnh và trong tình trạng nguy kịch. Bà và con gái Stéphanie được chuyển đến bệnh viện Monaco (sau đổi tên thành Princess Grace Hospital Centre). Tại bệnh viện, các bác sĩ đã cố gắng hồi sức cho Grace nhưng vì mức độ chấn thương não, tổn thương ngực và xương đùi bị gãy, vương phi không còn hy vọng cứu sống. Các bác sĩ tin rằng bà gặp phải một cơn đột quỵ thứ phát nên đã mất tay lái gây ra tai nạn. Bà qua đời đêm kế tiếp lúc 10:55 đêm, ở tuổi 52, sau khi chồng bà, Rainier lựa chọn ngắt máy thở của vợ. Chẩn đoán ban đầu cho Thân vương nữ Stéphanie là nhẹ, thâm tím nhỏ và chấn thương nhỏ. Tuy nhiên, sau khi nhận được các kết quả chụp X-quang, cô được phát hiện có vết nứt đường chân tóc ở đốt sống cổ thứ 7. Thân vương nữ không thể có mặt trong đám tang của mẹ do các thương tích. Tang lễ Đám tang nữ minh tinh một thời Kelly được tổ chức tại nhà thờ Thánh Nicolas, Monaco vào 18 tháng 9 năm 1982. Sau một Thánh lễ an táng (Requiem Mass), bà được chôn cất trong hầm mộ của gia tộc Grimaldi. Hơn 400 người tham dự lễ tang trong đó có Cary Grant, Nancy Reagan và Diana, Vương phi xứ Wales. Tại buổi lễ tưởng niệm sau này ở Beverly Hills, James Stewart đã đọc diễn văn ca ngợi như sau: Chồng của Kellly, Rainier không tái hôn, được chôn cạnh vợ sau khi qua đời năm 2005. Hình ảnh Danh sách phim Danh sách đĩa hát "True Love" (trong phim High Society, song ca với Bing Crosby, 1956) L'Oiseau du Nord et L'Oiseau du Soleil, bằng tiếng Pháp và tiếng Anh (1978) Birds, Beasts & Flowers: A Programme of Poetry, Prose and Music (1980) Tham khảo Liên kết ngoài Ancestry Chart of Prince Albert A list of ancestors of Grace Kelly Princess Grace Foundation – USA Princely House of Monaco Grace Kelly Footage Footage of Grace Kelly's Royal Wedding Short film about Grace Kelly |- |- |- ! colspan="3" style="background: #DAA520;" | Giải Oscar |- |- ! colspan="3" style="background: #DAA520;" | Giải Quả cầu vàng |- |- ! colspan="3" style="background: #DAA520;" | Giải NBR |- |- ! colspan="3" style="background: #DAA520;" | Giải NYFCC |- Phim và người giành giải Oscar cho nữ diễn viên xuất sắc nhất Thân vương phi Monaco Phim và người giành giải Quả cầu vàng cho Nữ diễn viên phim chính kịch xuất sắc nhất Phim và người giành giải Quả cầu vàng cho Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất Nữ diễn viên điện ảnh Mỹ Nữ diễn viên Mỹ thế kỷ 20 Nữ diễn viên truyền hình Mỹ Tử vong vì tai nạn giao thông Sinh năm 1929 Mất năm 1982 Vương tộc Grimaldi Người Mỹ gốc Đức Người Mỹ gốc Ireland Tín hữu Công giáo La Mã Hoa Kỳ Tử vong do đột quỵ
28309
https://vi.wikipedia.org/wiki/Francesco%20Toldo
Francesco Toldo
Francesco Toldo (sinh ngày 2 tháng 12 năm 1971 tại Padua) là một cựu thủ môn bóng đá người Ý. Câu lạc bộ Toldo bắt đầu sự nghiệp tại A.C. Milan; tuy nhiên, anh chưa được chơi trận nào ở câu lạc bộ này. Thay vào đó, câu lạc bộ lớn tại Ý này đem anh cho mượn tại Trento và Ravenna từ năm 1991 đến 1993. Toldo sau đó gia nhập Fiorentina, và trở thành cầu thủ thường xuyên trong đội hình xuất phát trong tám năm, hai lần giành được Coppa Italia, và đã chơi tại UEFA Champions League cho Màu tím. Một năm trước khi Fiorentina đối mặt với nguy cơ phá sản, anh chuyển đến F.C. Internazionale Milano vào năm 2001, nơi anh là vị trí số một cho đến mùa hè năm 2005, khi thủ môn người Brasil Júlio César đẩy Toldo ra băng ghế dự bị bắt đầu từ khi Tolder không được đá chính trong chuyến du đấy mùa hè của Inter tại Anh. Anh lấy lại được vị trí thủ môn số một vào tháng 2 năm 2006 sau khi gia hạn hợp đồng, cùng với sự sa sút phong độ của César. Bản gia hạn sẽ giữ anh lại Inter cho đến hết năm 2009. Anh đã ghi một bàn trong trận đấu với Juventus trong chiến dịch Serie A vào phút bù giờ để gỡ hòa 1-1 cho đội bóng. Tuyển quốc gia Đến cuối năm 2004, Toldo đã thi đấu 28 trận cho Ý. Mặc dù phải đối mặt với sự cạnh tranh từ những thủ môn hàng đầu như Gianluca Pagliuca, Angelo Peruzzi, và Gianluigi Buffon, Toldo đã được chọn trong đội hình xuất quân trong Euro 2000 vì Buffon bị gãy tay trong một trấn giao hữu với Na Uy chỉ tám ngày trước khi giải khởi tranh. Toldo đã giúp quốc gia của anh hoàn thành giải ở vị trí thứ hai sau Pháp. Trong suốt trận bán kết với đội chủ nhà Hà Lan, Toldo đã cứu được một quả penalty trong trận đấu và hai quả trong loạt luân lưu. Tuy nhiên trong trận chung kết anh đã không thể đỡ được cú sút quyết định của Sylvain Wiltord khi trận đấu gần kết thúc với tỷ số có lợi một bàn cho Ý. Pháp đã chiến thắng trong phút bù giờ với bàn thắng của David Trézéguet. Anh có mặt trong đội tuyển Ý tham dự Euro 1996, World Cup 1998, World Cup 2002 và Euro 2004, nhưng không được ra sân. Tham khảo Liên kết ngoài FIGC FootballDatabase Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Ý Cầu thủ bóng đá Ý Cầu thủ bóng đá ACF Fiorentina Cầu thủ bóng đá Inter Milan Thủ môn bóng đá nam Cầu thủ bóng đá A.C. Milan Cầu thủ bóng đá Serie A Người Padova Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 1998 Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2002
28312
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C6%B0%C6%A1ng%20qu%E1%BB%91c%20Israel%20%28Samaria%29
Vương quốc Israel (Samaria)
Bài này viết về Vương quốc Israel phía Bắc trong thời kì phân chia, về vương quốc thống nhất ban đầu, xin xem Vương quốc Israel (thống nhất). Vương quốc Israel (tiếng Hebrew: מַלְכוּת יִשְׂרָאֵל Malḫut Yisraʼel; phát âm Tiberias: Malḵûṯ Yiśrāʼēl) là vương quốc phía Bắc tách ra từ Vương quốc Thống nhất đã tồn tại trước đó. Vương quốc phía Bắc này tồn tại trong khoảng từ thập niên 930 TCN cho tới thập niên 720 TCN, khi nó bị quân Assyria tàn phá. Các kinh thành của vương quốc theo thứ tự thời gian là: Sechem, Penuel, Tirza và Samaria. Nhiều sử gia gọi đây là Vương quốc phía Bắc hay Vương quốc Samaria để phân biệt với Vương quốc Judah ở phía Nam. Lãnh thổ của vương quốc này bao gồm các vùng đất của 9 chi tộc: Reuben, Issachar, Zebulun, Dan, Naphtali, Gad, Asher, Ephraim và Manasseh. Chi tộc Simeon, dù tọa lạc ở giữa vùng đất của chi tộc Judah, cũng theo liên minh phía Bắc này. Các vua của Vương quốc Israel Jeroboam I: 930 - 910 TCN Nadab: 910 - 909 TCN, bị ám sát Baasha: 909 - 886 TCN Elah: 886 - 885 TCN, bị người kế nhiệm giết trong lúc say rượu Zimri: 885 TCN (7 ngày), tự sát trong cung điện sau khi người kế nhiệm là Omri được quân đội đưa lên ngôi. Tibni: 885 - 880 TCN, lên ngôi sau khi người tiền nhiệm tự sát, cai trị được 4 năm. Ông và anh trai là Joram bị người kế nhiệm là Omri giết chết trong bữa tiệc. Omri: 885 - 873 TCN Ah'av: 873 - 854 TCN, chết trong cuộc chiến với Vương quốc Judah  Ahaziah: 854 - 852 TCN, chết do mái nhà cung điện rơi trúng khi cố thoát ra khỏi cung điện bị sụp đổ. Yehoram: 852 - 841 TCN, chết trong cuộc nổi loạn do Jehu phát động. Jehu: 842 - 815 TCN Jehoahaz: 814 - 798 TCN. Jehoash: 798 - 782 TCN Jeroboam II: 782 - 753 TCN. Zachariah: 753 - 752 TCN, bị Shallum giết để cướp ngôi Shallum: 752 TCN (1 tháng), bị tướng Menahem giết để cướp ngôi Menachem: 752 - 742 TCN Pekahiah: 742 - 740 TCN, bị Pekah, con trai của Remaliah cùng 50 tên thủ hạ lọt vào cung ám sát. Pekah: 740 - 732 TCN, bị ám sát bởi Hoshea, con của Elah Hoshea: 732-722 TCN, bị vua Assyria Sargon II bắt cầm tù. Vương quốc Israel kết thúc Tham khảo Israel, Quốc vương Cựu quốc gia châu Á Thập niên 720 TCN Thập niên 930 TCN Chính thể tại Vùng đất Israel Israel và Judah cổ đại
28318
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C6%B0%C6%A1ng%20qu%E1%BB%91c%20Judah
Vương quốc Judah
Vương quốc Judah (tiếng Do Thái מַלְכוּת יְהוּדָה; chuyển tự: Malḫut Yəhuda; phát âm Tiberias: Malḵûṯ Yəhûḏāh) là một trong hai vương quốc được thành lập khi Vương quốc Israel Thống nhất phân chia, nó cũng được gọi là Vương quốc phía Nam để phân biệt với Vương quốc còn lại ở phía Bắc. Theo Kinh Thánh, Vương quốc Thống nhất tan rã theo sau sự kiện các chi tộc phương Bắc từ chối công nhận Rehoboam, thuộc nhà David của chi tộc Judah ở phương Nam, làm vua. Các chi tộc này hình thành nên một vương quốc tiếp tục lấy tên là Israel, còn được gọi là Vương quốc Samaria. Chỉ còn hai chi tộc Judah và Benjamin vẫn trung thành với Nhà David và tạo thành Vương quốc Judah. Hai vương quốc phía Bắc và phía Nam cùng tồn tại cách không hòa thuận cho tới khi Vương quốc phía Bắc bị người Assyria phá hủy khoảng năm 722/721 TCN. Vương quốc phía Nam tiếp tục tồn tại cho tới khi dần lệ thuộc vào Đế quốc Tân Babylon và biến mất khi trở thành một tỉnh của Đế quốc này vào năm 586 TCN. Các vua của Judah: Rehoboam: 931 - 913 TCN, con trai của Salomon Abijah: 913 - 911 TCN, con trai của Rehoboam 'Āsā': 911 - 870 TCN, con trai của Abijah Yehoshafat: 870 - 849 TCN, con trai của Asa Jehoram: 849 - 842 TCN Ahaziah: 842 - 841 TCN, con trai của Jehoram Nữ hoàng Athaliah: 841 – 836 TCN Jehoash: 836 – 796 TCN, cháu trai của Nữ hoàng Amaziah: 796 – 767 TCN Uzziah: 767 - 750 TCN Yotam: 750 – 732 TCN Ahaz: 732 – 716 TCN Hezekiah: 716 – 687 TCN, bị con trai là Manasseh đánh bại và phế truất Manasseh: 697 – 643 TCN Amon: 643 – 641 TCN, bị cận thần ám sát Josiah: 640 - 609 TCN, bị quân Ai Cập đánh bại và sát hại Jehoahaz: 609 TCN (3 tháng), bị Pharaoh Ai Cập là Necho II phế truất Jehoiakim: 609 – 598 TCN, anh trai của Jehoahaz Jeconiah, 598 - 597 TCN (4 tháng), bị vua Nebuchadnezzar II của Tân Babylon phế truất Zedekiah: 597–586 TCN, chú của Jeconiah. Năm 586 TCN, Judah bị Tân Babylon đánh bại, vua bị giam cầm và các con trai đều bị quân Tân Babylon sát hại. Viên chỉ huy Tân Babylon là Gedaliah làm Toàn quyền, nhưng đến năm 582 TCN ông ta bị những người dân Judah do Ismael khởi nghĩa ám sát thành công. Xem thêm Judah David - Salomon Các vị vua Vương quốc Judah Tham khảo Israel và Judah cổ đại Cựu quốc gia quân chủ Tây Á Cựu quốc gia châu Á Lịch sử Palestine Lịch sử Levant Levant cổ đại Cộng đồng Do Thái lịch sử Chính thể tại Vùng đất Israel Năm 586 TCN
28333
https://vi.wikipedia.org/wiki/Michael%20Faraday
Michael Faraday
Michael Faraday, FRS (ngày 22 tháng 9 năm 1791 – ngày 25 tháng 8 năm 1867) là một nhà hóa học và vật lý học người Anh (hoặc là nhà triết học tự nhiên, theo thuật ngữ của thời đó) đã có công đóng góp cho lĩnh vực Điện từ học và Điện hóa học. Faraday nghiên cứu về trường điện từ xung quanh một dây dẫn có dòng điện một chiều chạy qua. Khi nghiên cứu những vấn đề này, Faraday đã thành lập khái niệm cơ bản về trường điện từ trong vật lý, rồi sau đó được phát triển bởi James Maxwell. Ông cũng khám phá ra cảm ứng điện, nghịch từ, và định luật điện phân. Ông chứng minh rằng từ học có thể tác động lên các tia của ánh sáng. Những sáng chế của ông về những thiết bị có điện trường quay đã đặt nền móng cho công nghệ động cơ điện, và ông có công lớn khi làm cho điện có thể sử dụng trong ngành công nghệ. Về mặt hóa học, Michael Faraday phát hiện ra benzene, nghiên cứu về clathrate hydrate, sáng chế ra hình dạng đầu tiên của đèn Bunsen và hệ thống chỉ số oxy hóa, và công bố các thuật ngữ như anode, cathode, electrode, và ion. Mặc dù Faraday được đào tạo ở trường rất ít và biết ít về toán cao cấp, như phép giải tích, nhưng ông là một trong những nhà khoa học có uy tín trong lịch sử. Các nhà nghiên cứu về lịch sử của khoa học cho rằng ông là người chủ nghĩa thực nghiệm tốt nhất trong lịch sử khoa học. Đơn vị SI của tụ điện, farad, được đặt theo tên của ông, cũng như hằng số Faraday, điện tích trong một đơn vị mole của electron (khoảng 96,485 coulomb). Định luật cảm ứng Faraday nói rằng luồng điện từ thay đổi trong thời gian nhất định tạo ra một lực điện động tỷ lệ. Faraday là vị giáo sư hóa học Fullerian đầu tiên và lỗi lạc nhất của Viện Hoàng Gia Anh Quốc, đã giữ vị trí trong suốt cuộc đời. Albert Einstein đã dán tấm hình của Faraday lên phòng học của mình cùng với những tấm hình của Isaac Newton và James Clerk Maxwell. Những năm đầu Faraday được sinh ra ở Newington Butts, bây giờ là một phần của khu phố Southwark ở Luân Đôn; nhưng sau đó là phần ngoại ô của Surrey, một dặm về phía nam của cầu Luân Đôn. Gia đình ông không được sung túc. Bố của ông, James, là thành viên của giáo phái cơ đốc Glassite. James Faraday chuyển vợ và hai con rời khỏi Outhgill, Westmorland (nơi ông đã học việc ở làng rèn) đến Luân Đôn trong suốt mùa đông của năm 1790-1791. Michael được sinh ra trong mùa thu năm đó. Cậu nhóc Michael Faraday, là người con thứ ba trong bốn người con, chỉ có được những kiến thức cơ bản nhất từ nhà trường, phải tự nỗ lực giáo dục mình. Lúc 14 tuổi, ông học việc ở cửa hiệu đóng sách và bán sách George Riebau ở Blandford St và, trong suốt 7 năm học việc, ông đã đọc được rất nhiều sách, trong đó có sách của Isaac Watts, quyển Mở mang trí tuệ, và ông say mê tiến hành các nguyên lý và quan điểm trong quyển sách. Ông đã biểu lộ niềm đam mê với khoa học, nhất là lĩnh vực điện năng. Đặc biệt, ông được truyềnn cảm hứng bởi quyển sách Đàm thoại với Hóa Học viết bởi Jane Marcet. Ở tuổi 20, vào năm 1812, khi kết thúc học việc, Faraday đã tham dự các buổi thuyết giảng của nhà hoá học nổi tiếng người Anh Humphry Davy của Học viện Hoàng Gia và Hội hoàng gia Luân Đôn, và của John Tatum, người sáng lập Hội triết học Thành phố. Các vé của những buổi thuyết giảng này được trao cho Faraday bởi William Dance (một trong những người sáng lập Hội yêu nhạc của Hoàng Gia). Sau đó, Faraday gửi cho Davy một quyển sách dày 300 trang mà ông đã ghi chép những điều trong buổi thuyết giảng. Davy trả lời ngay lập tức, một cách ân cần và hào hứng. Khi Davy bị giảm thị lực trong tai nạn với nitrogen trichloride, ông quyết định thuê Faraday làm thư ký. Khi John Payne, một trong những phụ tá trong Học viện Hoàng Gia, bị sa thải, Sir Humphry Davy được yêu cầu tìm người thay thế. Ông đã chỉ định Faraday làm người phụ tá hóa học tại Học viện Hoàng Gia vào ngày 1 tháng 3 năm 1813. Trong tầng lớp người Anh thời đó, Faraday không được xem thuộc giới thượng lưu. Khi Davy đi thuyết giảng ở toàn châu lục trong các năm 1813–15, người giúp việc của ông không muốn đi cùng. Faraday được gọi làm phụ tá khoa học cho Davy, và được yêu cầu làm công việc như người giúp việc của Davy cho tới khi vị trí này có thể được tìm thấy ở Paris. Faraday buộc phải làm tròn bổn phận là người giúp việc cũng như phụ tá trong suốt hành trình. Vợ của Davy, Jane Apreece, từ chối đối xử với Faraday như tầng lớp ngang hàng (đưa ông đi cùng ra ngoài bãi biển, ăn với các người hầu, v.v..) và nói chung làm cho Faraday cảm thấy quá khổ sở đến nỗi ông lẳng lặng bỏ về Anh Quốc một mình và từ bỏ tất cả khoa học. Dù sao, chuyến đi đã cho ông đường đến với khoa học ưu tú của Âu Châu và làm chủ nguồn cảm hứng sáng tạo. Faraday là một người sùng đạo Cơ đốc giáo. Chi nhánh Sandemanian của ông là một chi nhánh của hệ thống nhà thờ Scotland. Sau khi kết hôn, ông ta phụng sự nhà thờ trong nhà hội nghị. Nhà thờ của ông nằm ở Paul's Alley tại Barbican. Nhà hội nghị này lại chuyển đến Barnsbury Grove, Islington vào năm 1862. Chỗ Bắc Luân Đôn này là nơi mà Faraday phụng sự 2 năm cuối cùng của mình trước khi xin trao lại chức vụ. Faraday cưới Sarah Barnard (1800–1879) vào ngày 12 tháng 6 năm 1821, Họ không có con. Họ gặp toàn thể gia đình tại nhà thờ Sandemanian. Ông đã xưng tội với giáo đoàn Sandemanian một tháng sau khi kết hôn. Thành tựu khoa học Hóa học Công việc hóa học đầu tiên của Faraday là làm phụ tá cho Humphry Davy. Faraday nghiên cứu riêng biệt về clo, ông đã phát hiện ra hai chloride của cacbon. Ông cũng làm thí nghiệm gian khổ đầu tiên về sự khuếch tán khí, một hiện tượng đã được biết đến bởi John Dalton, tầm quan trọng của hiện tượng vật lý này đã được Thomas Graham và Joseph Loschmidt đưa ra ngoài ánh sáng. Ông đã thành công trong việc hóa lỏng một vài loại khí; nghiên cứu về hợp chất của thép, và tạo ra những loại thủy tinh mới dùng cho mục đích quang học. Một mẫu vật trong những miếng thủy tinh nặng nề này sau đó đã làm nên lịch sử khi mà Faraday đã phát hiện ra hiện tượng xoay mặt phẳng ánh sáng phân cực khi đưa miếng thủy tinh này vào trường điện từ, và nó cũng là vật liệu đầu tiên bị đẩy bởi các cực của từ trường. Ông đã sáng chế ra thứ mà sau này gọi là đèn Bunsen, loại đèn này đã được sử dụng hầu hết trong các phòng thí nghiệm vì tính tiện lợi của nguồn nhiệt. Faraday nghiên cứu bao trùm trong lĩnh vực hóa học, khám phá ra các chất hóa học như benzene, và hóa lỏng các khí ví dụ như clo. Sự hóa lỏng khí chứng minh rằng khí chỉ là dạng hơi của chất lỏng có điểm sôi rất thấp, và đưa ra quan điểm chắc chắn về sự kết hợp phân tử. Vào năm 1820 Faraday công bố hợp chất tổng hợp đầu tiên làm từ cacbon và clo, C2Cl6 và C2Cl4, và xuất bản các kết quả nghiên cứu trong các năm tiếp theo. Faraday cũng xác định được cấu tạo của chlorine clathrate hydrate, chất đã được khám phá bởi Humphry Davy vào năm 1810. Faraday cũng đã khám phá ra các định luật điện phân và đưa ra công chúng các thuật ngữ như anode, cathode, electrode, và ion, các thuật ngữ này phần lớn xuất phát bởi William Whewell. Faraday là người đầu tiên công bố cái mà sau này được gọi là metallic nanoparticles. Vào năm 1847 ông khám phá ra rằng quang tính của nước vàng (gold colloid) khác với quang tính của các kim loại thông thường khác. Đây có thể là xuất bản đầu tiên về sự khảo sát tác động ở mức lượng tử, và có thể được xem là đã khai sinh ra ngành công nghệ nano. Điện và Từ Faraday được biết đến nhiều nhất vì những thành quả trong lĩnh vực Điện và Từ học. Thí nghiệm được ghi chép đầu tiên của ông là làm nên pin volta bằng 7 đồng xu, xếp chồng lên 7 tấm kẽm và 7 miếng giấy được tẩm nước muối. Với loại pin này, ông đã phân tích hợp chất Magnesi sulphat. Vào năm 1821, ngay sau khi nhà hóa học, vật lý học người Đan Mạch, Hans Christian Ørsted khám phá ra hiện tượng điện từ trường, Davy và một nhà khoa học người Anh William Hyde Wollaston cố gắng làm ra một động cơ điện nhưng bất thành. Faraday, đã thảo luận vấn đề động cơ điện với hai ông này, tiến hành chế tạo hai thiết bị phát ra điện từ trường xoay: chuyển động xoay liên tục xuất phát từ lực từ xoay xung quanh dây điện và dây điện được nhúng vào cốc nước thủy ngân có thỏi nam châm bên trong sẽ xoay xung quanh thỏi nam châm nếu được cấp dòng điện từ nguồn pin hóa học. Thiết bị sau này được biết đến với cái tên homopolar motor. Những thí nghiệm và phát minh này hình thành ra nền tảng của công nghệ điện từ hiện đại. Quá hứng thú, Faraday đã công bố các kết quả này mà không đề cập đến phần việc làm với Wollaston và Davy. Từ đó dẫn đến cuộc tranh cãi trong Hội hoàng gia Luân Đôn, nó làm căng thẳng mối quan hệ thâm niên của ông với Davy và có thể đã góp phần bổ nhiệm ông sang lĩnh vực khác, vì thế ông đã bị đưa ra khỏi hoạt động nghiên cứu điện từ trường trong vài năm. Từ phát hiện đầu tiên về điện từ vào năm 1821, Faraday tiếp tục công việc ở phòng thí nghiệm để khám phá tính chất của vật liệu và tiến hành các thí nghiệm cần thiết. Vào năm 1824, Faraday làm một mạch điện để tìm hiểu liệu một từ trường có thể tác động lên dòng điện của dây điện đặt gần nhau, nhưng không tìm ra kết quả nào. Ông theo đuổi các nghiên cứu với ánh sáng và điện từ trong ba năm mà không có kết quả nào mới. Trong suốt bảy năm tiếp theo, Faraday dành phần lớn thời gian vào việc hoàn thiện công thức cho chất lượng kính quang học, hợp chất chì boro-silicate, thứ mà ông đã sử dụng cho nghiên cứu sau này về việc kết hợp giữa ánh sáng và điện từ. Trong khi nhàn rỗi, Faraday tiếp tục xuất bản các kết quả thí nghiệm (một số liên quan tới điện từ) và đã trao đổi thư từ với các nhà khoa học nước ngoài (cũng làm việc với điện từ) mà ông đã gặp trước đây ở các chuyến đi châu Âu với Davy. Sau khi Davy mất được 2 năm, vào năm 1831, ông bắt đầu công bố một loạt các thí nghiệm mà ông đã khám phá về cảm ứng điện từ. Joseph Henry dường như đã khám phá ra hiện tượng tự cảm ứng sớm hơn vài tháng và kết quả của cả hai muộn hơn của Francesco Zantedeschi ở Ý đã được công bố vào năm 1829 và 1830. Thành quả lớn nhất của Faraday đến khi ông quấn hai cuộn dây cách điện xung quanh một vòng kim loại, và phát hiện rằng, mỗi khi cho dòng điện chạy qua cuộn dây này thì lập tức có một dòng điện được sinh trong cuộn dây kia. Hiện tượng này được gọi là hỗ cảm. Dụng cụ cuộn dây - vòng kim loại này vẫn còn được trưng bày tại Học viện Hoàng Gia. Trong các thí nghiệm tiếp theo, ông thấy rằng, nếu ông di chuyển thanh nam châm qua cuộn dây, một dòng điện sẽ chạy trong cuộn dây. Dòng điện cũng sẽ xuất hiện nếu cuộn dây di chuyển qua thanh nam châm đứng yên. Thí nghiệm của ông cho thấy rằng sự thay đổi từ trường tạo ra dòng điện. Mối quan hệ này được toán học hóa bởi James Clerk Maxwell với tên Định luật cảm ứng Faraday, một trong bốn Phương trình Maxwell. Những phương trình này ngày nay được biết đến với tên gọi lý thuyết trường. Sau này Faraday sử dụng nguyên lý này để tạo ra dynamo, nguồn gốc của máy phát điện ngày nay. Vào năm 1839, ông hoàn thành loạt sách về các thí nghiệm nghiên cứu bản chất cơ bản của điện học. Faraday đã sử dụng tĩnh điện, pin, và điện sinh học để tạo ra lực hút tĩnh điện, điện phân, điện từ trường, v.v.. Ông kết luận rằng, trái ngược với quan điểm khoa học thời đó, ranh giới giữa "các loại" điện là hư cấu. Faraday thay vì kết luận rằng chỉ có một loại điện tồn tại, thì ông nói sự thay đổi về số lượng và cường độ (dòng và thế) sẽ tạo ra nhiều hiện tượng khác nhau. Khi gần kết thúc sự nghiệp của mình, Faraday cho rằng lực điện từ trường tồn tại ở khoảng không gian trống xung quanh cuộn dây. Ý tưởng này đã bị phản đối bởi những nhà khoa học sau ông, và Faraday đã không sống đến lúc nhìn thấy ý tưởng được chứng minh là đúng. Những khái niệm của Faraday về đường từ phát ra từ nam châm đã chỉ ra cách quan sát dòng điện và từ trường. Kiến thức này đã góp phần quan trọng tạo nên sự phát triển thành công của các thiết bị điện cơ mà nó đã chiếm lĩnh trong lĩnh vực công nghệ và công nghiệp trong những năm còn lại thế kỷ 19. Nghịch từ Vào năm 1845, Faraday khám phá ra rằng nhiều vật liệu tồn tại một lực đẩy nhỏ bởi từ trường, một hiện tượng ông gọi là nghịch từ. Faraday cũng phát hiện ra rằng mặt phân cực của ánh sáng phân cực tuyến tính có thể bị đảo bởi một từ trường ngoài tác động lên đường đi của ánh sáng. Ngày nay cái này được biết đến với thuật ngữ Hiệu ứng Faraday. Ông viết rằng, "I have at last succeeded in illuminating a magnetic curve or line of force and in magnetising a ray of light". ("Cuối cùng tôi đã thành công trong việc chiếu sáng đường cong của điện từ hoặc đường lực và trong việc từ hóa các tia sáng") Lúc cuối đời (năm 1862), Faraday sử dụng kính quang phổ để tìm sự biến đổi khác nhau của ánh sáng, sự thay đổi quang phổ ánh sáng vì từ trường. Tuy nhiên, những thiết bị ông dùng không đủ tốt để phát hiện ra sự thay đổi quang phổ. Pieter Zeeman sau này đã sử dụng thiết bị cải tiến hơn để nghiên cứu hiện tượng này, công bố kết quả vào năm 1897 và nhận giải Nobel vật lý vào năm 1902 vì thành công này. Trong cả bản nghiên cứu năm 1897 và bản thuyết trình nhận giải Nobel, Zeeman đều đề cập tới thí nghiệm của Faraday. Lồng Faraday Thư mục Faraday's books, with the exception of Chemical Manipulation, were collections of scientific papers or transcriptions of lectures. Since his death, Faraday's diary has been published, as have several large volumes of his letters and Faraday's journal from his travels with Davy in 1813–1815. 2nd ed. 1830, 3rd ed. 1842 ; vol. iii. Richard Taylor and William Francis, 1855 - published in eight volumes; see also the 2009 publication of Faraday's diary - volume 2, 1993; volume 3, 1996; volume 4, 1999 Course of six lectures on the various forces of matter, and their relations to each other London; Glasgow: R. Griffin, 1860. The liquefaction of gases Edinburgh: W. F. Clay, 1896. The letters of Faraday and Schoenbein 1836-1862. With notes, comments and references to contemporary letters London: Williams & Norgate 1899. Xem thêm Faraday rotator Homopolar generator Faraday's law of induction Faraday (Unit of electrical charge) Farad (Unit of electrical capacitance) Forensic engineering Lines of force Zeeman effect Timeline of hydrogen technologies Timeline of low-temperature technology Faraday paradox Hans Christian Ørsted Faraday cage Chú thích Đọc thêm Biographies The British Electrical and Allied Manufacturers Association (1931). Faraday. R. & R. Clark, Ltd., Edinburgh, 1931. Liên kết ngoài Biographies Biography at The Royal Institution of Great Britain Faraday as a Discoverer by John Tyndall, Project Gutenberg (downloads) The Christian Character of Michael Faraday Michael Faraday on the British twenty-pound banknote The Life and Discoveries of Michael Faraday by J. A. Crowther, London: Society for Promoting Christian Knowledge, 1920 Others Michael Faraday's announcement of ether as an anesthetic in 1818 Interactive Java Tutorial on Faraday's 1821 Motor National High Magnetic Field Laboratory Interactive Java Tutorial on Faraday's Ice Pail Experiment National High Magnetic Field Laboratory "Faraday" at LoveToKnow 1911 Britannica Online Encyclopedia (downloads) "Experimental Researches in Electricity" by Michael Faraday Original text with Biographical Introduction by Professor John Tyndall, 1914, Everyman edition. Video Podcast with Sir John Cadogan talking about Benzene since Faraday The letters of Faraday and Schoenbein 1836-1862. With notes, comments and references to contemporary letters (1899) full download PDF Sinh năm 1791 Mất năm 1867 Nhà vật lý Anh Nhà vật lý thực nghiệm Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Pháp Hội viên Hội Hoàng gia Nhà phát minh Anh Nhà hóa học Anh
28353
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thanh%20minh
Thanh minh
Bài này nói về một trong hai mươi tư tiết khí trong lịch Trung Quốc. Các nghĩa khác, xem Thanh Minh (định hướng). Tiết Thanh minh là một khái niệm trong công tác lập lịch của các nước phương Đông chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa cổ đại. Nó là một trong số hai mươi tư tiết khí của các lịch Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên. Vì lịch của người Trung Quốc, cũng như Việt Nam cổ đại, bị nhiều người lầm tưởng là âm lịch thuần túy nên rất nhiều người cho rằng nó được tính theo chu kỳ của Mặt Trăng quay xung quanh Trái Đất. Trên thực tế lịch Trung Quốc cổ đại là một loại âm dương lịch nên nếu giải thích theo thuật ngữ của lịch hiện đại ngày nay (lịch Gregory) thì nó được tính theo vị trí của Trái Đất trong chu kỳ chuyển động trên quỹ đạo của mình xung quanh Mặt Trời. Nếu tính điểm xuân phân là gốc (kinh độ Mặt Trời bằng 0°) thì điểm diễn ra hay bắt đầu tiết Thanh minh là kinh độ Mặt Trời bằng 15°. Do vậy, tiết Thanh minh thực tế được tính theo cách tính của dương lịch hiện đại và nó thông thường bắt đầu vào ngày 4 hoặc 5 tháng 4 dương lịch tùy theo từng năm. Theo quy ước, tiết thanh minh là khoảng thời gian bắt đầu từ khoảng ngày 4 hay 5 tháng 4 khi kết thúc tiết xuân phân và kết thúc vào khoảng ngày 20 hay 21 tháng 4 trong lịch Gregory theo các múi giờ Đông Á khi tiết Cốc vũ bắt đầu. Từ nguyên Chữ Hán: 清明, thanh (清) trong thanh lọc, thanh khiết, mang nghĩa là "sạch sẽ" hay "trong lành", không phải thanh (青) mang nghĩa là "màu xanh lam", minh (明) mang nghĩa là "tươi sáng". Thời tiết Xét về mặt thời tiết, khí hậu thì từ thời điểm này trở đi ở miền Bắc Việt Nam, do ảnh hưởng của luồng gió mùa đông-bắc đã yếu, gió đông-nam đã mạnh dần lên và mưa phùn đã gần như chấm dứt hẳn. Điều này làm mất đi hiện tượng nồm (hiện tượng làm hơi nước ngưng tụ lại trên bề mặt các đồ vật tiếp giáp gần với mặt đất cũng như nhà cửa) và tiết trời trở nên trong sáng, dễ chịu hơn do nhiệt độ đã lên cao và độ ẩm giảm xuống. Tuy nhiên, gần như vẫn chưa có mưa rào để bắt đầu cho mùa mưa. Mưa rào thường diễn ra gần tiết Cốc vũ. Tết Thanh minh Từ thời nhà Thanh, sau khi sửa đổi lịch thì tết Thanh Minh diễn ra vào ngày tiết Thanh minh. Tại Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông và Ma Cao thì tết này là một ngày quốc lễ. Còn ở các khu vực khác ở Đông Á thì không. Nói đến Tết Thanh minh thì bao giờ người ta cũng nghĩ đến lễ tảo mộ và hội đạp thanh. Tại Việt Nam cộng đồng người gốc Hoa ăn tết này theo ngày tiết Thanh minh như Trung Quốc. Thường thì họ sẽ lấy ngày 4/4 dương lịch (hay ngày 5/4 dương lịch nếu năm đó nhuận tháng 2 có ngày 29 - Năm có số năm chia hết cho 4, ví dụ: 2016, 2020...) là ngày chính để cúng Thanh minh, còn việc cúng vào ngày nào là tùy thuộc mỗi gia đình.Ngày Thanh minh là một yếu tố quan trọng để xác định ngày Tết Nguyên Đán cũng như xác định tháng nhuận trong âm lịch Trung Quốc v.v. Quy tắc đó là: khoảng 60 ngày. Tính theo âm lịch, nó luôn rơi vào khoảng từ sớm nhất là giữa tháng Mão (tháng Hai) đến muộn nhất là giữa tháng Thìn (Tháng Ba). Tảo mộ Nhân ngày Thanh minh, người dân các nước có nền văn hóa tương đồng và chịu ảnh hưởng của nền văn minh Trung Hoa đều có tục đi tảo mộ gia tiên và làm lễ cúng gia tiên sau cuộc tảo mộ. Công việc chính của tảo mộ là sửa sang các ngôi mộ của tổ tiên cho được sạch sẽ. Nhân ngày Thanh minh, người ta mang theo xẻng, cuốc để đắp lại nấm mồ cho đầy đặn, rẫy hết cỏ dại và những cây hoang mọc trùm lên mộ cũng như tránh không để cho các loài động vật hoang dã như rắn, chuột đào hang, làm tổ mà theo suy nghĩ của họ là có thể phạm tới linh hồn người đã khuất. Sau đó, người tảo mộ thắp vài nén hương, đốt vàng mã hoặc đặt thêm bó hoa cho linh hồn người đã khuất. Trong ngày Thanh minh, khu nghĩa địa trở nên đông đúc và nhộn nhịp. Các cụ già thì lo khấn vái tổ tiên nơi phần mộ. Trẻ em cũng được theo cha mẹ hay ông bà đi tảo mộ, trước là để biết dần những ngôi mộ của gia tiên, sau là để tập cho chúng sự kính trọng tổ tiên qua tục viếng mộ. Những người quanh năm đi làm ăn xa cũng thường trở về vào dịp này (có thể sớm hơn một, hai ngày vì nhiều lý do khác nhau) để tảo mộ gia tiên và sum họp với gia đình. Bên cạnh những ngôi mộ được trông nom, chăm sóc cẩn thận, còn có những ngôi mộ vô chủ, không người thăm viếng. Những người đi viếng mộ thường cũng cắm cho các ngôi mộ này một nén hương. Hội đạp thanh Trước đây, nam nữ thanh niên cũng nhân dịp này để du xuân nên mới có tên gọi hội đạp thanh (tức giẫm lên cỏ). Ngày nay, ở Việt Nam lễ hội này có lẽ không còn, nhưng ở Trung Quốc thì một vài nơi vẫn còn duy trì. Trong văn học Nếu tính tiết Đông chí là gốc thì tiết Thanh minh cách tiết này khoảng 105 ngày, còn nếu tính tiết Lập xuân là gốc thì nó cách tiết này khoảng 60 ngày. Tính theo âm lịch, nó rơi vào khoảng từ sớm nhất là giữa tháng Mão (tháng Hai) đến muộn nhất là giữa tháng Thìn (Tháng Ba). Cho nên, Nguyễn Du trong Truyện Kiều mới có câu: Ngày xuân con én đưa thoi Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi Cỏ non xanh tận chân trời Cành lê trắng điểm một vài bông hoa Thanh minh trong tiết tháng Ba Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh Gần xa nô nức yến anh Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân... Xem thêm Lịch Trung Quốc Tiết khí Tham khảo Tiết khí Tết Ngày lễ và Ngày Hành động trong tháng Tư Ngày lễ Trung Quốc Tập tục chôn cất Lễ hội Phật giáo Tín ngưỡng Trung Hoa Mùa xuân
28364
https://vi.wikipedia.org/wiki/Andersen
Andersen
Andersen là một họ có gốc từ vùng Scandinavia (một họ thường thấy ở Đan Mạch và Na Uy). Nó có nghĩa là Con trai của Anders (bắt nguồn từ cái tên Hy Lạp Andreas, có nghĩa là đàn ông hay nam tính). Các dạng khác của họ này là Anderson và Andersson. Người mang họ Andersen Anja Andersen, huấn luyện viên và cựu cầu thủ bóng ném Đan Mạch Hjalmar Andersen, vận động viên trượt băng Na Uy Elmer L. Andersen, cựu Thống đốc tiểu bang Minnesota Hans Christian Andersen, nhà viết truyện cổ tích nổi tiếng Đan Mạch Jim Ronny Andersen, vận động viên cầu lông Na Uy Bjørnar Andersen, vận động viên đua xe chó kéo Na Uy Anders Andersen (Na Uy), cựu lãnh tụ Đảng Lao động (Na Uy) Anders Andersen (Đan Mạch), cựu bộ trưởng Bộ Tài chánh Đan Mạch Felicity Andersen, diễn viên Úc Stephan Andersen, thủ môn bóng đá Đan Mạch Chris Andersen, cựu cầu thủ bóng rổ Morten Andersen, cầu thủ bóng bầu dục Đan Mạch Ib Andersen, nghệ sĩ Đan Mạch Lale Andersen, ca sĩ Đức Dorothy Hansine Andersen, bác sĩ đã tìm ra Cystic fibrosis Xem thêm Anderson Andersson (định hướng) Tham khảo Họ tên
28366
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20Oscar
Giải Oscar
Giải thưởng Viện Hàn lâm (tiếng Anh: Academy Awards), thường được biết đến với tên Giải Oscar (tiếng Anh: Oscars) là giải thưởng điện ảnh hằng năm của Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh (tiếng Anh: Academy of Motion Picture Arts and Sciences, viết tắt là AMPAS) (Hoa Kỳ) với 74 giải thưởng dành cho các diễn viên và kỹ thuật hình ảnh trong ngành điện ảnh Hoa Kỳ. Kể từ năm 1929, giải Oscar được trao hàng năm tại thành phố Los Angeles để ghi nhận những thành tựu xuất sắc của điện ảnh trong năm của các đạo diễn, diễn viên, kịch bản và nhiều lĩnh vực khác qua cuộc bỏ phiếu kín của các thành viên Viện Hàn lâm. Giải Oscar lần đầu được phát thanh trên radio vào năm 1930 và phát hình lần đầu năm 1953. Hiện nay, giải thưởng được phát sóng trực tiếp trên 200 quốc gia và phát trực tiếp trên mạng. Giải Oscar là lễ trao giải lâu đời nhất thế giới trong ngành nghệ thuật. Chịu trách nhiệm bầu chọn và trao giải Oscar là AMPAS, một tổ chức nghề nghiệp danh dự của những người làm điện ảnh Hoa Kỳ. Cho đến năm 2007, số người đủ tiêu chuẩn tham gia bầu chọn là 5830 người, trong đó có 1311 diễn viên (tỷ lệ cao nhất, chiếm 22%). Tính cho đến năm 2007, đã 72 năm quá trình bầu chọn này được thống kê bởi công ty kiểm toán PricewaterhouseCoopers và công ty tiền nhiệm của nó là Price Waterhouse. Đến nay đã có 3140 tượng vàng đã được trao trong suốt 94 năm tồn tại. Lễ trao giải Oscar gần đây nhất, giải Oscar lần thứ 95, đã được trao vào năm 2024, tôn vinh các bộ phim hay nhất năm 2023, sẽ được tổ chức vào ngày 10 tháng 3 năm 2024 tại nhà hát Dolby, Los Angeles, California. Người dẫn chương trình tại buổi lễ lần này là Jimmy Kimmel, và được trực tiếp trên đài ABC của Mỹ. Lịch sử Giải thưởng Viện Hàn lâm đầu tiên được trao vào ngày 16 tháng 5 năm 1929, trong một buổi dạ tiệc chiều tại Khách sạn Roosevelt Hollywood với 280 khách mời. Giá trị tấm vé vào thời đó là 5 USD (tương đương 71 USD ngày nay). 15 bức tượng vàng đã được trao cho các diễn viên, đạo diễn và tổ làm phim cho các bộ phim từ năm 1927-1928 và lễ trao giải kéo dài chỉ trong 15 phút. Người chiến thắng lúc ấy được báo trước 3 tháng để chuẩn bị. Nhưng sau đó, dịp trao giải năm 1941 về sau, kết quả được giữ kín trong phong bì và không một ai biết được kết quả ngoại trừ giám đốc và phó giám đốc công ty sản xuất Tượng vàng Oscar R. S Owen. Tổ chức Diễn viên xuất sắc nhất lần đầu tiên của giải là Emil Jannings trong bộ phim The Last Command và The Way of All Fresh. Vì anh phải trở về châu Âu trước lễ trao giải và do đó Viện Hàn lâm đồng ý trao giải thưởng trước cho anh. Vào lễ trao giải lần thứ 29 được tổ chức vào ngày 27 tháng 3 năm 1957, giải Oscar dành cho phim nước ngoài hay nhất được công bố. Tại lễ trao giải lần thứ 74 vào năm 2002, giải Oscar dành cho phim hoạt hình hay nhất được trao thưởng. Từ năm 1973, tất cả lễ trao giải đều kết thúc với giải Oscar dành cho bộ phim xuất sắc nhất. Điều kiện đề cử và quá trình bầu chọn Từ năm 2004, kết quả đề cử được Viện Hàn lâm công bố cho cộng đồng vào cuối tháng Giêng. Trước đó, kết quả đề cử được công bố vào đầu tháng 2. Điều kiện đề cử Ngày nay, theo điều số hai và số ba trong quy định chính thức của giải Oscar, một phim muốn đủ điều kiện tranh giải phải được trình chiếu trong năm trước đó, tức là từ nửa đêm ngày 1 tháng 1 đến nửa đêm ngày 31 tháng 12, tại quận Los Angeles, California. Điều số hai còn nói rõ các bộ phim nộp dự giải phải là phim dài (feature-length), tức là có độ dài ít nhất 40 phút, trừ các phim tham gia hạng mục phim ngắn, và phải sử dụng phim 35 mm hoặc phim 70 mm, tốc độ 24 hoặc 48 hình trên giây, độ phân giải không được thấp hơn 1280x720. Quá trình bầu chọn Thành viên bầu chọn Tất cả các thành viên của AMPAS đều phải có lời mời chính thức mới được tham gia quá trình lựa chọn đề cử và bầu ra người thắng giải. Các lời mời được đưa ra bởi Hội đồng quản trị (Board of Governors) thay mặt cho các Ủy ban nhánh của Viện Hàn lâm (Academy Branch Executive Committee). Những người được mời được lựa chọn cũng qua một quá trình đề cử hoặc được xét dựa trên sự cống hiến của họ cho ngành công nghiệp điện ảnh. Tuy rằng những người từng được trao giải Oscar thường là được mời tham gia bầu chọn vào các năm sau đó, nhưng điều này không nằm trong quy định của Hội đồng. Việc đề cử các thành viên mới cho việc tuyển chọn được tiến hành hàng năm. Tuy rằng AMPAS không chính thức công bố danh tính những người được tham gia bầu chọn, nhưng báo chí vẫn đưa ra tên tuổi của những người này, theo đó năm 2012 có 5783 người được mời tham gia quá trình xét giải. Những người này nằm trong 15 nhánh của Viện Hàn lâm, việc phân chia dựa vào các quá trình và bộ phận khác nhau của việc làm phim. Những người không nằm trong nhánh nào được xếp vào nhóm Thành viên chung (Members At Large). Các thành viên thuộc các nhánh khác nhau sẽ bầu chọn ứng cử viên cho các hạng mục thuộc nhánh mình, riêng hạng mục Phim hay nhất (Best Picture) thì tất cả đều có quyền tham gia đề cử. Những người thắng giải sẽ được lựa chọn bằng vòng bỏ phiếu thứ hai, trong đó mọi thành viên đều được phép bầu cho hầu hết các hạng mục, kể cả hạng mục Phim hay nhất. Vào năm 2012, theo kết quả điều tra của tờ thời báo Los Angeles, số lượng thành viên bầu chọn của AMPAS chiếm 88%, trong đó 94% là người Caucasia, 77% là đàn ông, 54% còn lại là các thành viên bầu chọn là hơn 60 tuổi. Giải thưởng Tượng vàng Oscar Phần thưởng của giải Oscar là một bức tượng nhỏ có tên chính thức là Giải thưởng của Viện Hàn lâm cho đóng góp xuất sắc (tiếng Anh: Academy Award of Merit) hay thông thường được biết đến là Tượng vàng Oscar. Bức tượng bao gồm phần gốc bằng kim loại đen được mạ vàng và britannium, cao 34.3 cm và nặng 3,856 kg có hình dáng của một hiệp sĩ được điêu khắc theo phong cách Art Deco, người hiệp sĩ này cầm gươm và đứng trên một cuộn phim có năm cánh. Năm cánh này tượng trưng cho các nhánh gốc của Viện Hàn lâm bao gồm diễn viên, biên kịch, đạo diễn, nhà sản xuất và kỹ thuật viên. Hình mẫu bức tượng lấy cảm hứng từ diễn viên người México Emilio "El Endio" Fernández Người nghĩ ra ý tưởng cho bức tượng Oscar là chỉ đạo nghệ thuật của hãng MGM, Cedric Gibbons, một trong các thành viên đầu tiên của Viện Hàn lâm. Những người cụ thể hóa ý tưởng của Gibbons là nhà điêu khắc George Stanley, người đã tạo ra một bản tượng bằng đất sét trước khi Alex Smith chế ra bản tượng bằng thiếc và đồng được mạ vàng 24 karat với tỉ lệ 92,5 phần trăm thiếc và 7,5 phần trăm đồng. Ngày nay, mỗi năm có khoảng 40 bức tượng Oscar được sản xuất bởi công ty R.S. Owens với sự kiểm soát chất lượng rất nghiêm ngặt, các bản tượng lỗi trong quá trình sản xuất lập tức được cắt đôi và nung chảy. Tuy nhiên từ năm 1943 đến năm 1945, do lượng kim loại bị thiếu hụt cho sản xuất trong chiến tranh thế giới lần thứ hai, bức tượng khi ấy bắt buộc phải dùng thạch cao thay cho và sau khi chiến tranh kết thúc thì tượng Oscar trở về chất liệu truyền thống. Tên gọi Nguồn gốc cái tên "Oscar" hiện vẫn còn gây tranh cãi. Trong cuốn tự truyện của mình, Bette Davis cho rằng chính mình là người nghĩ ra cái tên này, cô đặt nó theo tên người chồng đầu tiên, chỉ huy dàn nhạc Harmon Oscar Nelson. Một người khác được coi là người khai sinh ra cái tên Oscar, đó là Margaret Herrick, một thư ký của Viện Hàn lâm, khi lần đầu tiên nhìn thấy bức tượng năm 1931, cô đã nói rằng bức tượng này trông giống "ông chú Oscar" (tên bí danh của ông là Oscar Piere), nhà bình luận báo Sidney Skolsky cũng có mặt ở đó đã lập tức chộp lấy cái tên đó để làm tựa đề cho bài báo của ông có tên: "Một nhân viên đã yêu mến đặt tên cho bức tượng nổi tiếng là 'Oscar'". Ngày nay cả hai cái tên Oscar và Giải thưởng Viện Hàn lâm (Academy Award) đều được AMPAS đăng ký tên thương mại để tránh các vụ kiện tụng hoặc tranh chấp có thể xảy ra. Tính cho đến Giải Oscar lần thứ 79 tổ chức vào năm 2007, đã có tổng cộng 2671 bức tượng Oscar được trao. Có 290 diễn viên khác nhau đã được trao giải Oscar về diễn xuất (bao gồm cả các giải Oscar danh dự và giải Oscar cho trẻ em), trong số này 144 người vẫn còn sống cho đến năm 2007. Người sở hữu tượng vàng Oscar Kể từ năm 1950, AMPAS đã ra quy định về việc chủ nhân của các bức tượng Oscar và người thừa kế của họ không được phép bán bức tượng, trừ trường hợp bán lại cho chính Viện Hàn lâm với giá 1 USD. Nếu người được chọn trao giải từ chối vinh dự này, Viện Hàn lâm sẽ giữ lại bức tượng. Quy định này đã gây ra nhiều tranh cãi, vì nó đồng nghĩa với việc người được trao tượng vàng Oscar lại không được sở hữu hoàn toàn giải thưởng của mình. Đã có trường hợp cháu trai của nhà sản xuất phim Michael Todd đã cố bán bức tượng Oscar của ông mình cho một nhà sưu tập, AMPAS đã ngăn cản được việc này bằng một lệnh của toà án. Vào tháng 12 năm 2011, Orson Welles giành được giải Oscar dành cho kịch bản gốc xuất sắc nhất cho bộ phim Citizen Kane, người thừa kế ông có được quyết định của tòa án năm 2004 cho phép bán đấu giá bức tượng này trên mạng với giá 861542 USD. Vào năm 1992, Harold Russell cần tiền cho các chi phí y tế cho vợ ông. Trong một quyết định gây tranh cãi, ông đã đồng ý bán lại cho diễn viên phụ xuất sắc nhất năm 1946 là Herman Darvick Autograph Auctions cho bộ phim The Best Years of Our Lives và vào ngày 6 tháng 8 năm 1992 tại thành phố New York, giải Oscar được bán lại cho nhà sưu tập với giá 60500 USD. Russell đã bảo vệ quyết định của mình và nói rằng: "Tôi không biết lí do vì sao mọi người đều chỉ trích tôi. Sức khỏe của vợ tôi quan trọng hơn rất nhiều so với giải thưởng này. Bộ phim sẽ vẫn còn mãi, thậm chí là cả giải Oscar Lễ trao giải Địa điểm tổ chức Lễ trao giải đầu tiên của AMPAS diễn ra tại khách sạn Roosevelt ở Hollywood. Trong thập niên 1930 và đầu thập niên 1940, các buổi lễ được tổ chức tại khách sạn The Ambassador Hotel hoặc Millennium Biltmore Hotel ở Los Angeles. Từ năm 1944 đến năm 1946, Nhà hát Trung Hoa Grauman ở Hollywood là nơi tổ chức lễ trao giải trước khi nó dời về thính phòng Shrine Auditorium cho đến năm 1948. Lễ trao giải lần thứ 21 năm 1949 diễn ra tại Nhà hát Giải thưởng Viện Hàn lâm mà sau này là trụ sở chính của AMPAS trên đại lộ Melrose ở Hollywood. Từ năm 1950 đến năm 1960, địa điểm được lựa chọn là Nhà hát Pantages. Từ năm 1961, đến lượt thính phòng Santa Monica Civic Auditorium ở Santa Monica, California được tổ chức lễ trao giải Oscar. Năm 1968, một lần nữa lễ trao giải trở về Los Angeles, lần này là tại rạp Dorothy Chandler Pavilion nằm trong Trung tâm Âm nhạc Los Angeles. Rạp The Dorothy Chandler Pavilion là nơi tổ chức 20 đêm trao giải liên tiếp cho đến tận năm 1988, sau đó giải Oscar lại được trao luân phiên ở Trung tâm Âm nhạc và thính phòng Shrine Auditorium. Kể từ năm 2002, Nhà hát Kodak (từ năm 2012 đổi tên là Trung tâm Hollywood và Highland, sau đó là Nhà hát Dolby) của Hollywood trở thành địa điểm tổ chức lâu dài đầu tiên của giải thưởng. Truyền hình Tại Hoa Kỳ, lễ trao giải Oscar được truyền hình trực tiếp ở hầu hết lãnh thổ Hoa Kỳ (ngoại trừ Alaska và Hawaii), Vương quốc Anh cùng hàng triệu khán giả khắp thế giới trong khi đó lễ trao giải Emmy, Quả cầu vàng và Giải Grammy chỉ được truyền trực tiếp ở Bờ Đông và phát trễ hơn ở Bờ Tây. Lễ trao giải Oscar lần đầu được ghi hình năm 1953 bởi hãng NBC. Đến năm 1960 thì quyền truyền hình rơi vào tay hãng ABC (trong đó có buổi truyền hình trực tiếp có màu lần đầu năm 1966) cho đến năm 1970. Năm 1970, NBC giành lại quyền phát sóng trong 5 năm nhưng rồi từ năm 1976, chỉ có ABC được ghi hình buổi lễ này, hợp đồng của ABC với AMPAS hiện kéo dài đến năm 2028. Lễ trao giải lần đầu phát sóng trực tiếp trên toàn thế giới vào năm 1970 qua vệ tinh nhưng chỉ có 2 quốc gia Nam Mỹ là Chile và Brazil mua được bản quyền phát sóng. Sau đó, bản quyền phát sóng được bán cho 50 quốc gia. Một thập kỷ sau, bản quyền đã được bán cho 60 quốc gia và tiếp tục tăng, đến năm 1984, bản quyền giải Oscar được cấp phép ở 76 quốc gia. Trong buổi phát sóng trực tiếp, các hãng phim bị nghiêm cấm phát quảng cáo. Các hạng mục chính của giải Oscar sẽ được trao trong một buổi lễ trang trọng được truyền hình trực tiếp. Sáu tuần sau khi các ứng cử viên được công bố, buổi lễ được tổ chức rất hào nhoáng theo phong cách Hollywood khi các khách mời bước trên tấm thảm đỏ với những bộ đồ thời trang nhất. Trong vài năm trở lại đây, Viện Hàn lâm thường tuyên bố lễ trao giải của họ có tới hàng tỉ người xem trực tiếp, tuy nhiên thông tin này chưa hề được kiểm chứng bởi các nguồn độc lập và bản thân AMPAS cũng không đưa ra lý do tại sao số người xem lại có thể đạt tới con số lớn như vậy. Giải Oscar phát lần đầu năm 1953 bởi đài NBC đến năm 1960 và sau đó được phát ABC thay thế. NBC giành lại quyền trực tiếp trong 5 năm (1971-1975), và ABC lại phát sóng trở lại vào năm 1976 và sẽ tiếp tục trực tiếp hằng năm cho đến năm 2028 sau khi hết hợp đồng với Viện Hàn lâm. Sau hơn 60 năm được tổ chức vào cuối tháng 3 hoặc đầu tháng 4, kể từ năm 2004, buổi trao giải được dịch sớm lên cuối tháng 2 hoặc đầu tháng 3 để rút ngắn quá trình vận động hành lang và quảng cáo. Việc tổ chức sớm hơn cũng đem lại thuận lợi cho hãng ABC vì tháng 2 là tháng có lượng người xem lớn và dễ đem lại lợi nhuận hơn. Một lí do khác là do sự tăng trưởng về lượt xem giải bóng rổ NCAA làm ảnh hưởng đến khán giả Viện Hàn lâm. Và việc chuyển ngày phát sóng từ thứ Ba sang thứ Hai đem lại nhiều lợi ích cho đài ABC vì đem lại tiền lãi nhiều. Một vài năm, lễ trao giải được dời thành ngày Chủ nhật đầu tiên của tháng Ba để tránh gây xung đột với Thế vận hội Mùa đông. Ngoài ra một lý do khác nữa là vì để tránh lễ trao giải quá gần với ngày lễ tôn giáo là lễ Passover và lễ Phục sinh, mà trong nhiều thập kỉ bị phản đối bởi các thành viên và công chúng. Tuy nhiên, việc dời ngày trao giải làm giảm số lượng quảng cáo. Vào năm 2010, Viện Hàn lâm còn muốn chuyển buổi lễ qua cả tháng Giêng. Tuy nhiên nếu kế hoạch tổ chức sớm như vậy thì sẽ làm ảnh hưởng đến thời gian bỏ phiếu bị rút ngắn, làm cho chất lượng đề cử giảm đi đáng kể, đồng thời, việc tổ chức sớm sẽ trùng với giải Bóng bầu dục quốc gia. Sau nhiều năm tổ chức vào ngày thứ Hai lúc 9 giờ tối (bờ Đông), từ năm 1999, nó được chuyển sang ngày Chủ Nhật lúc 8 giờ 30 (bờ Đông). Nguyên nhân là do nó tránh được việc kẹt xe vào giờ cao điểm ở Los Angeles và giúp cho khán giả bờ Đông có thể ngủ sớm. Trong nhiều năm, nhiều hãng phim phản đối việc phát sóng vào ngày Chủ Nhật bởi vì họ phải cắt đi giờ phim cuối tuần (thường đem lại cho họ rất nhiều lợi nhuận). Vào lễ trao giải lần thứ 40, buổi lễ phải tạm hoãn trong 2 ngày nguyên nhân là do Martin Luther King bị ám sát. Ngày 30 tháng 3 năm 1981, buổi lễ trao giải đã bị lùi lại một ngày sau sự kiện tổng thống Ronald Reagan bị ám sát hụt. Về chiều dài phát sóng, buổi lễ thường kéo dài ba tiếng rưỡi. Giải Oscar đầu tiên vào năm 1929 kéo dài 15 phút. Vào buổi lễ năm 2002 kéo dài 4 giờ 23 phút. Trong năm 2010, các nhà tổ chức Giải thưởng Viện hàn lâm đã công bố những bài phát biểu tạm chấp nhận của người đoạt giải thưởng không được vượt quá 45 giây. Điều này, theo nhà tổ chức Bill Mechanic, là để đảm bảo loại bỏ những gì ông gọi là "điều ghét nhất trong chương trình". Trong lễ trao giải năm 2018, dẫn chương trình Jimmy Kimmel đã thông báo rằng anh sẽ tặng một chiếc cano nước hoàn toàn mới và hiện đại nhất cho những người có bài phát biểu ngắn nhất của đêm (một phần thưởng mà Mark Bridges nhận được khi giành giải Oscar dành cho Thiết kế trang phục xuất sắc nhất của anh trong phim Phantom Thread). Số lượng người xem Về mặt lịch sử, giải Oscar đã thu hút được một số lượng lớn người xem khi các bom tấn của phòng vé được ưa chuộng để tranh danh hiệu Giải Oscar cho Phim xuất sắc nhất. Hơn 57,25 triệu người xem đã theo dõi chương trình truyền hình cho Giải thưởng Học viện 70 năm 1998, năm Titanic thu được gần 600 triệu đô la Mỹ tại các phòng vé trước giải Oscar ở Bắc Mỹ. Lễ trao giải Academy Awards lần thứ 76, trong đó The Lord of the Rings: Sự trở lại của nhà vua (thu được 368 triệu đô la Mỹ) nhận được 11 giải thưởng bao gồm giải cho phim xuất sắc nhất đã thu hút được 43.56 triệu người xem. Tuy nhiên, lễ trao giải được đánh giá cao nhất dựa trên xếp hạng của Nielsen cho đến nay là giải thưởng của Viện Hàn lâm lần thứ 42 với rating 43,4% vào ngày 7 tháng 4 năm 1970. Ngược lại, các buổi lễ tôn vinh các bộ phim không đạt được nhiều thành công tại các phòng vé có xu hướng tỉ lệ người xem thấp hơn. Giải thưởng Viện Hàn lâm lần thứ 78, phim Crash (với tổng doanh thu trước giải Oscar là 53,4 triệu USD) với 38,64 triệu khán giả, tỉ lệ ấy tương đương 22,91%, thấp hơn so với giải Oscar 2 năm trước đó. Trong năm 2008, giải thưởng Giải thưởng Viện hàn lâm lần thứ 80 được theo dõi bởi 31,76 triệu người xem với tỷ suất người xem 18,66%, được đánh giá là lễ trao giải được xem là tỉ lệ thấp nhất cho đến nay, mặc dù đây là buổi lễ 80 năm giải thưởng của Học viện. Mặc dù vẫn chiếm ưu thế trong xếp hạng, lượng người xem của giải đã giảm dần qua từng năm. Sau buổi trình chiếu, Variety khuyến khích ABC đàm phán mở rộng hợp đồng với AMPAS để tìm kiếm ra sự sáng tạo hơn đối với chương trình. Hiện tại, AMPAS chịu trách nhiệm về hầu hết các phần của chương trình, bao gồm cả việc lựa chọn nhân viên sản xuất và ABC được phép có một số ý kiến ​​về quyết định của họ. [65] Vào tháng 8 năm 2016, AMPAS mở rộng hợp đồng với ABC đến năm 2028: hợp đồng không có bất kỳ thay đổi đáng chú ý nào, cũng như không cho ABC bất kỳ sự sáng tạo nào đối với buổi lễ. Danh sách giải thưởng Giải thưởng cho đóng góp xuất sắc Các hạng mục hiện hành Phim hay nhất (Best Picture) Đạo diễn xuất sắc nhất (Best Director) Kịch bản gốc xuất sắc nhất (Best Original Screenplay) Kịch bản chuyển thể xuất sắc nhất (Best Adapted Screenplay) Nam diễn viên chính xuất sắc nhất (Best Actor) Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất (Best Actress) Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất (Best Supporting Actor) Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất (Best Supporting Actress) Quay phim xuất sắc nhất (Best Cinematography) Thiết kế sản xuất xuất sắc nhất (Best Production Design) (được đổi tên từ Chỉ đạo nghệ thuật xuất sắc nhất - Best Art Direction) Nhạc phim hay nhất (Best Original Score) Ca khúc trong phim hay nhất (Best Original Song) Thiết kế trang phục đẹp nhất (Best Costume Design) Dựng phim xuất sắc nhất (Best Film Editing) Hóa trang xuất sắc nhất (Best Makeup and Hairstyling) Hòa âm hay nhất (Best Sound) Hiệu ứng hình ảnh xuất sắc nhất (Best Visual Effects) Phim nói tiếng nước ngoài hay nhất (Best Foreign Language Film) Phim hoạt hình hay nhất (Best Animated Feature Film) (giải Oscar mới nhất, chỉ mới được trao từ năm 2001) Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animated Short Film) Phim tài liệu hay nhất (Best Documentary Features) Phim tài liệu ngắn hay nhất (Best Documentary Short Subject) Phim ngắn hay nhất (Best Live Action Short Film) Hạng mục đã ngừng trao Trợ lý đạo diễn xuất sắc nhất (Best Assistant Director): trao từ năm 1932 đến năm 1937 Đạo diễn phim hài kịch xuất sắc nhất (Best Director, Comedy Picture): 1927, 1928 Đạo diễn phim chính kịch xuất sắc nhất (Best Director, Dramatic Picture): 1927, 1928 Chỉ đạo múa xuất sắc nhất (Best Dance Direction): trao từ 1935 đến 1937 Hiệu ứng kỹ thuật (Best Engineering Effects): chỉ trao năm 1928 Âm thanh trong phim ca nhạc hoặc hài kịch xuất sắc nhất (Best Original Musical or Comedy Score): trao từ 1995 đến 1999 Phim ca nhạc xuất sắc nhất (Best Original Musical): 1984 Phim màu ngắn hay nhất (Best Short Film - Color): trao từ 1936 đến 1937 Phim ngắn dài hai cuộn xuất sắc nhất (Best Short Film - Live Action - 2 Reels): trao từ 1936 đến 1956 Phim ngắn mới lạ (Short Film—Novelty): trao từ 1932 đến 1935 Truyện gốc hay nhất (Best Original Story): trao từ 1928 đến 1956 Chất lượng nghệ thuật độc đáo nhất (Best Unique and Artistic Quality of Production): chỉ trao năm 1928 Biên tập âm thanh xuất sắc nhất (Best Sound Editing): trao từ 1963 đến 2019 Trong năm đầu tiên, giải Oscar đạo diễn xuất sắc nhất được chia thành hai thể loại phim chính kịch và phim hài kịch. Trong một thời gian dài, giải Oscar âm thanh cũng được chia làm hai thể loại chính kịch và hài kịch phim ca nhạc. Hiện nay chỉ có duy nhất một giải Oscar cho âm thanh. Từ thập niên 1930 đến thập niên 1960, các giải Oscar về quay phim, chỉ đạo nghệ thuật và thiết kế trang phục được chia thành hai thể loại cho phim trắng đen và phim màu. Hạng mục được đề nghị Hàng năm Hội đồng quản trị của AMPAS đều họp lại để xem xét các đề nghị về hạng mục giải Oscar mới. Cho đến nay những hạng mục sau vẫn bị từ chối đưa vào danh sách giải thưởng chính thức: Tuyển chọn diễn viên tốt nhất (Best Casting): từ chối năm 1999 Đóng thế xuất sắc nhất (Best Stunt Coordination): từ chối mỗi năm từ 1991 đến 2012 Tên phim hay nhất (Best Title Design): từ chối năm 1999 Giải thưởng đặc biệt Các giải này được bầu chọn bởi những ủy ban đặc biệt chứ không phải toàn bộ thành viên Viện Hàn lâm. Họ luôn luôn không được giới thiệu trong lễ trao giải Hạng mục hiện hành Giải danh dự (Academy Honorary Award): từ năm 1929 Cống hiến đặc biệt (Academy Special Achievement Award): từ năm 1972 đến năm 1995 và năm 2017 Giải khoa học kỹ thuật (Academy Award, Scientific or Technical): từ năm 1931 Giải Tưởng niệm Irving G. Thalberg: từ năm 1938 Giải thưởng nhân đạo Jean Hersholt: từ năm 1957 Giải Gordon E. Sawyer: từ năm 1981 Hạng mục đã ngừng trao Giải cho thiếu nhi (Academy Juvenile Award): trao từ 1934 đến 1960 Quà tặng Đây đã trở thành một truyền thống, những món quà được tặng cho các diễn giả và người biểu diễn tại Oscar sau buổi lễ. Trong những năm gần đây, những món quà này cũng đã được mở rộng để trao cho những ứng cử viên và người chiến thắng. Giá trị của mỗi túi quà tặng này có thể lên đến hàng chục nghìn đô la. Vào năm 2014, giá trị được báo cáo lên đến 80.000 USD. Giá trị món quà đã tăng lên đến mức Dịch vụ Doanh thu Nội địa Hoa Kỳ đã ban hành một điều luật về quà tặng và khả năng đánh thuế họ. Các món quà tặng của Oscar bao gồm gói du lịch đến Hawaii, Mexico và Nhật Bản, bữa tiệc riêng cho người được nhận và bạn bè tại nhà hàng, điện thoại video, bốn đêm ở khách sạn sang trọng, đồng hồ, vòng tay, spa, rượu vodka, và kẹo giảm cân. Lượng người theo dõi và tiền quảng cáo Từ năm 2006 trở đi, thông tin về lượng người xem và tiền quảng cáo sẽ được cập nhật. Thống kê Phim xếp theo số đề cử 14 đề cử All about Eve, 20th Century Fox, 1950 (đoạt 6 giải) Titanic, 20th Century Fox và Paramount Pictures, 1997 (đoạt 11 giải) La La Land, 2017 (đoạt 6 giải) 13 đề cử Cuốn theo chiều gió, Metro-Goldwyn-Mayer, 1939 (đoạt 8 giải, thêm 1 giải đặc biệt và 1 giải kỹ thuật) From Here to Eternity, Columbia Pictures, 1953 (đoạt 8 giải) Mary Poppins, Buena Vista Distribution Company, 1964 (đoạt 5 giải) Who's Afraid of Virginia Woolf?, Warner Bros., 1966 (đoạt 5 giải) Forrest Gump, Paramount Pictures, 1994 (đoạt 6 giải) Shakespeare đang yêu, Miramax Films, 1998 (đoạt 7 giải) Chúa tể của những chiếc nhẫn: Hiệp hội Nhẫn thần, New Line, 2001 (đoạt 4 giải) Chicago, Miramax Films, 2002 (đoạt 6 giải) 12 đề cử Mrs. Miniver, Metro-Goldwyn-Mayer, 1942 (đoạt 6 giải) The Song of Bernadette, 20th Century Fox, 1943 (đoạt 4 giải) Johnny Belinda, Warner Bros., 1948 (đoạt 1 giải) Chuyến tàu mang tên dục vọng, Warner Bros., 1951 (đoạt 4 giải) On the Waterfront, Columbia Pictures, 1954 (đoạt 8 giải) Ben-Hur (phim 1959), Metro-Goldwyn-Mayer, 1959 (đoạt 11 giải) Becket, Paramount Pictures, 1964 (đoạt 1 giải) My Fair Lady, Warner Bros., 1964 (đoạt 8 giải) Reds, Paramount Pictures, 1981 (đoạt 3 giải) Khiêu vũ với bầy sói, Orion Pictures, 1990 (đoạt 7 giải) Bản danh sách của Schindler, Universal Studios, 1993 (đoạt 7 giải) Bệnh nhân người Anh, Miramax Films, 1996 (đoạt 9 giải) Võ sĩ giác đấu, DreamWorks và Universal Studios, 2000 (đoạt 5 giải) 11 đề cử Mr. Smith Goes to Washington, Columbia Pictures, 1939 (đoạt 1 giải) Rebecca, United Artists, 1940 (đoạt 2 giải) Sergeant York, Warner Bros., 1941 (đoạt 2 giải) The Pride of the Yankees, RKO Radio, 1942 (đoạt 1 giải) Sunset Boulevard, Paramount Pictures, 1950 (đoạt 3 giải) Judgment at Nuremberg, United Artists, 1961 (đoạt 2 giải) Câu chuyện phía tây, United Artists, 1961 (đoạt 10 giải) Oliver!, Columbia Pictures, 1968 (đoạt 5 giải, thêm 1 giải danh dự) Chinatown, Paramount Pictures, 1974 (đoạt 1 giải) Bố già phần II, Paramount Pictures, 1974 (đoạt 6 giải) Julia, 20th Century Fox, 1977 (đoạt 3 giải) The Turning Point, 20th Century Fox, 1977 (không đoạt giải nào) Gandhi, Columbia Pictures, 1982 (đoạt 8 giải) Terms of Endearment, Paramount Pictures, 1983 (đoạt 5 giải) Amadeus, Orion Pictures, 1984 (đoạt 8 giải) A Passage to India, Columbia Pictures, 1984 (đoạt 2 giải) The Color Purple, Warner Bros., 1985 (không đoạt giải nào) Out of Africa, Universal Studios, 1985 (đoạt 7 giải) Giải cứu binh nhì Ryan, DreamWorks/Paramount Pictures, 1998 (đoạt 5 giải) Chúa tể của những chiếc nhẫn: Sự trở lại của nhà vua, New Line, 2003 (đoạt 11 giải) The Aviator, Miramax Films, Initial Entertainment Group và Warner Bros., 2004 (đoạt 5 giải) Phim xếp theo số giải giành được 11 giải Ben-Hur (phim 1959), Metro-Goldwyn-Mayer, 1959 (12 đề cử) Titanic, 20th Century Fox và Paramount, 1997 (14 đề cử) Chúa tể của những chiếc nhẫn: Sự trở lại của nhà vua, New Line, 2003 (11 đề cử) 10 giải Câu chuyện phía tây, United Artists, 1961 (11 đề cử) 9 giải Cuốn theo chiều gió, Metro-Goldwyn-Mayer, 1939 (13 đề cử) Hoàng đế cuối cùng, 1987 (9 đề cử) Bệnh nhân người Anh, Miramax Films, 1996 (12 đề cử) Gigi, Metro-Goldwyn-Mayer, 1958 (9 đề cử) 8 giải From Here to Eternity, Columbia Pictures, 1953 (13 đề cử) On the Waterfront, Columbia Pictures, 1954 (12 đề cử) My Fair Lady, Warner Bros., 1964 (12 đề cử) Cabaret, Metro-Goldwyn-Mayer, 1972 (10 đề cử) Gandhi, Columbia Pictures, 1982 (11 đề cử) Amadeus, Orion Pictures và Warner Bros., 1984 (11 đề cử) Slumdog Millionaire, Fox Searchlight Pictures, 2008 (10 đề cử) Phim đoạt 5 giải quan trọng It Happened One Night, 1934 Đạo diễn: Frank Capra Nam diễn viên chính: Clark Gable Nữ diễn viên chính: Claudette Colbert Kịch bản: Robert Riskin Bay trên tổ chim cúc cu (One Flew over the Cuckoo's Nest), 1975 Đạo diễn: Milos Forman Nam diễn viên chính: Jack Nicholson Nữ diễn viên chính: Louise Fletcher Kịch bản: Lawrence Hauben và Bo Goldman Sự im lặng của bầy cừu (The Silence of the Lambs), 1991 Đạo diễn: Jonathan Demme Nam diễn viên chính: Anthony Hopkins Nữ diễn viên chính: Jodie Foster Kịch bản: Ted Tally Chỉ trích Các bộ phim Cũng như nhiều giải thưởng danh giá khác, giải Oscar thường xuyên gặp phải chỉ trích. Những người chỉ trích cho rằng có nhiều bộ phim giành giải Phim hay nhất trong quá khứ không còn nhiều giá trị theo thời gian. Một số phim như 80 ngày vòng quanh Thế giới, Grand Hotel hay The Greatest Show on Earth thường được coi là có tuổi thọ ngắn ngủi và ít có ảnh hưởng trong lần trình chiếu ra mắt. Trong khi đó một số phim khác được coi là rất xứng đáng để trao giải thì lại chưa bao giờ vươn tới được danh hiệu Phim hay nhất. Ví dụ tiêu biểu nhất phải kể tới bộ phim kinh điển Công dân Kane vốn được giới phê bình ủng hộ nhiệt liệt, được đề cử tới 9 giải Oscar nhưng chỉ mang về duy nhất một giải cho Kịch bản gốc xuất sắc nhất. Sau này Công dân Kane được coi là một trong những bộ phim xuất sắc nhất trong lịch sử Điện ảnh Hoa Kỳ. Một bộ phim xuất sắc khác là The Shawshank Redemption được đề cử 7 giải Oscar nhưng thậm chí còn không giành được giải nào, mặc dù nó vẫn luôn được xếp vào hàng những bộ phim hay nhất của mọi thời đại trên trang web uy tín IMDb. Để cạnh tranh trong hạng mục danh giá nhất này, các hãng phim cũng tiến hành rất nhiều cuộc vận động hành lang, và nhiều người cho rằng đôi khi những đề cử cho hạng mục Phim hay nhất lại là kết quả của những cuộc vận động hành lang hơn là chất lượng thực sự của những bộ phim đó. Nhiều chỉ trích còn nhằm vào một sự thật là các đề cử hầu như chỉ dành cho các bộ phim nói tiếng Anh, trừ đề cử cho hạng mục Phim nói tiếng nước ngoài hay nhất. Cho đến năm 2013, mới chỉ có 9 bộ phim nói tiếng nước ngoài được đề cử cho hạng mục Phim hay nhất, đó là các phim Grand Illusion (tiếng Pháp, 1938), Z (tiếng Pháp, 1969), The Emigrants (tiếng Thụy Điển, 1972), Cries and Whispers (tiếng Thụy Điển, 1973), Il Postino (tiếng Ý và tiếng Tây Ban Nha, 1995), Cuộc sống tươi đẹp (tiếng Ý, 1998), Ngọa hổ tàng long (tiếng Quan thoại, 2000), Letters from Iwo Jima (tiếng Nhật Bản, 2006) và Amour (tiếng Pháp, 2012). Cho đến thời điểm hiện tại, Ký sinh trùng là bộ phim nước ngoài duy nhất đạt giải thưởng này. Trong số ít các phim sản xuất tại nước ngoài giành giải Phim hay nhất, gần đây nhất có Slumdog Millionaire (Anh và Ấn Độ, 2008), The King's Speech (Anh, 2010) và The Artist (Pháp, 2011). Quảng cáo thương mại Sau khi nhận được đề cử các bộ phim, các xưởng phim dành hàng triệu USD và thuê chuyên gia quảng cáo đặc biệt để giới thiệu cho bộ phim của mình trong thời gian được gọi là "mùa giải Oscar". Điều này đã gây ra cáo buộc Viện Hàn lâm bị ảnh hưởng nhiều hơn bởi tiếp thị nhiều hơn là chất lượng phim. William Friedkin, đạo diễn bộ phim từng đoạt giải Oscar và là cựu nhà sản xuất của buổi lễ, đã phát biểu tại một hội nghị ở New York vào năm 2009, mô tả nó như là "kế hoạch quảng bá lớn nhất mà bất kỳ ngành công nghiệp nào đã từng thực hiện". Sự thiên vị Những lời chỉ trích điển hình của Giải Oscar cho phim xuất sắc nhất, những người đoạt giải và đề cử có sự thiên vị trong ban bầu chọn. Phân biệt chủng tộc Viện Hàn lâm đã nhận được nhiều lời chỉ trích về việc phân biệt chủng tộc trong số những người được đề cử. Lễ trao giải lần thứ 88 đã trở thành đỉnh điểm của một cuộc tẩy chay, dựa trên việc bầu chọn của các nhà phê bình rằng danh sách các ứng cử viên toàn là người da trắng. Đáp lại, Viện Hàn lâm đã khởi xướng những thay đổi trong lịch sử "có tính lịch sử" vào năm 2020. Từ chối giải thưởng Một số người chiến thắng của Giải Oscar đã tẩy chay các buổi lễ và do đó từ chối nhận giải Oscar của họ. Người đầu tiên làm như vậy là nhà biên kịch Dudley Nichols (cho giải Oscar dành cho Kịch bản gốc xuất sắc nhất năm 1935 của phim The Informer). Nichols tẩy chay lễ trao giải Academy Awards lần thứ 8 vì cuộc xung đột giữa Học viện và Hiệp hội Nhà văn [89] Nichols cuối cùng đã chấp nhận giải thưởng năm 1935 ba năm sau đó, tại lễ 1938. Nichols đã được đề cử ba giải Academy Awards khác trong sự nghiệp của mình. George C. Scott đã trở thành người thứ hai từ chối nhận giải cho Nam diễn viên xuất sắc nhất vào năm 1970 trong phim Patton) tại lễ trao giải lần thứ 43. Người thứ ba từ chối nhận giải là Marlon Brando cho Nam diễn viên xuất sắc nhất trong phim Bố già năm 1972), ông nói rằng có sự phân biệt đối xử và ngược đãi của người Mỹ bản địa trong ngành công nghiệp điện ảnh Hoa Kỳ. Tại lễ trao giải Oscar lần thứ 45 đó, Brando đã gửi một nữ diễn viên và nhà hoạt động vì quyền công dân Sacheen Littlefeather đọc bài phát biểu gồm 15 trang chỉ rõ những lời chỉ trích của ông. Thương hiệu Thuật ngữ "Oscar" là một nhãn hiệu đã đăng kí tên thương mại bởi AMPAS; tuy nhiênvới tiếng Ý, nó được sử dụng rộng rãi để tham khảo bất kỳ giải thưởng hoặc lễ trao giải, bất kể trường hợp nào. Xem thêm Danh sách bình chọn của Viện phim Mỹ Tham khảo K. Gail & J. Piazza, The Academy Awards the Complete History of Oscar, Black Dog & Leventhal Publishers, Inc., 2002. Jon Wright, The Lunacy of Oscar; The Problems with Hollywood's Biggest Night, Thomas Publishing, Inc, 2007. Liên kết ngoài Giải Oscar lần thứ 83, 2011 Trang web chính thức của Giải Oscar Dữ liệu về các giải Oscar Oscar 2006 - Một Oscar chia đều các giải Giải thưởng điện ảnh Mỹ Giải thưởng điện ảnh
28367
https://vi.wikipedia.org/wiki/Antoine%20Doinel
Antoine Doinel
Antoine Doinel là nhân vật do François Truffaut sáng tạo, và do diễn viên Jean–Pierre Léaud thủ vai. Truffaut đã để nhân vật này sống qua nhiều bộ phim: Les Quatre Cent Coups (400 Cú Đấm, 1959), Baisers volés (Những nụ hôn bị đánh cắp, 1968, cùng với Claude Jade, Delphine Seyrig...), Domicile conjugal (Tổ ấm gia đình, 1970, cùng với Claude Jade, Hiroko Berghauer...), L'Amour en fuite (Tình yêu trốn chạy, 1978, cùng với Claude Jade, Marie-France Pisier...). Tham khảo Dionel, Antoine Người Pháp giả tưởng
28372
https://vi.wikipedia.org/wiki/Lucky%20Luke
Lucky Luke
Lucky Luke là một chàng cao bồi, và cũng là nhân vật chính trong bộ truyện tranh cùng tên do họa sĩ người Bỉ Morris sáng tác từ năm 1946. Những truyện Lucky Luke đầu tiên được in trên báo Spirou và tiếp đó là trên Pilote, trước khi được phát hành dưới dạng tập truyện tranh. Tập truyện tranh này thành công rực rỡ trong khoảng 1957 đến 1977 với sự tham gia của René Goscinny với vai trò là biên kịch viên. Tuy rất nổi tiếng tại châu Âu, tập truyện tranh này ít được in tại các nước sử dụng tiếng Anh. Lucky Luke đã phát hành 270 triệu bản với 31 thứ tiếng. Lucky Luke đã có ấn bản tiếng Việt và được nhà xuất bản Trẻ phát hành. Lịch sử Vào Giáng sinh năm 1946, tác giả Morris, khi đó là họa sĩ cho loạt truyện hài Le Moustique, lần đầu tiên cho ra mắt nhân vật Lucky Luke trong tạp chí truyện tranh Spirou với Câu truyện Arizona 1880. Từ năm 1948, tuy chuyển sang Mỹ sinh sống, nhưng Morris vẫn tiếp tục với nhân vật Lucky Luke và gửi các bản thảo của mình cho ban biên tập của Spirou. Cũng chính trong thời gian ở Mỹ, Morris đã gặp gỡ và làm quen với René Goscinny, tác giả kịch bản chính của nhiều tập truyện Lucky Luke sau này. Năm 1949, nhà xuất bản Dupuis của Bỉ cho xuất bản tập truyện tranh Lucky Luke đầu tiên Mỏ vàng của Dig Digger. Trong những năm sau đó, Morris lần lượt cho xuất bản 8 tập tiếp theo mà ông vừa là họa sĩ, vừa là tác giả kịch bản. Năm 1957, từ tập truyện thứ 9, Morris hợp tác cùng với René Goscinny - trừ tập 10 ông vẫn là tác giả duy nhất. Từ năm 1968 tới 1987, các tập Lucky Luke được nhà xuất bản Dargaud của Pháp tiếp tục phát hành. Sau khi René Goscinny mất, Morris hợp tác với nhiều biên kịch viên khác như Xavier Fauche, Bob de Groot, Jean Léturgie, Hartog van Banda, Vicq, Guy Vidal... Từ tập 60 vào năm 1991 cho tới tập 67 vào năm 1998, Lucky Luke được xuất bản bởi Lucky Productions. Sau đó, từ tập 68 vào năm 2000 được tiếp tục với nhà xuất bản Lucky Comics. Sau khi Morris mất vào năm 2001, nhà xuất bản Lucky Comics phát hành serie Những cuộc phiêu lưu của Lucky Luke (Les aventures de Lucky Luke) với nét vẽ của họa sĩ Achdé. Bối cảnh và cốt truyện Bổi cảnh chính của Lucky Luke là miền Tây nước Mỹ cuối thế kỷ 19. Cũng có khi xuất hiện những cảnh ở bờ Đông và cả bên ngoài nước Mỹ như Canada và México. Giống như các bộ phim cao bồi hình ảnh thường thấy trong Lucky Luke là những đồng cỏ, các thị trấn, quán rượu, các chuyến xe lửa... và nhà tù, nơi thường xuyên giam giữ anh em nhà Dalton. Trong Lucky Luke, các thị trấn thường giới thiệu chính nó bằng một biển gỗ với những câu đe dọa hài hước. Trong thị trấn luôn có quán rượu, nhà băng, đồn cảnh sát... Những quán rượu, với các vũ nữ mập mạp nhảy múa trên sân khấu, cây đàn piano, các bàn cờ bạc... là nơi thường xuyên xảy ra ẩu đả và kết thúc với một kẻ bay ra ngoài rơi vào máng nước của ngựa. Còn trong nhà tù liên bang, các tù nhân luôn làm một việc là đập đá. Các chuyến xe lửa thì thường bị trễ giờ vì bị cướp chặn. Nhiều cốt truyện của Lucky Luke được dựa theo các sự kiện có thật trong lịch sử miền Tây nước Mỹ. Tập Dây kẽm gai trên đồng cỏ nói tới cuộc tranh chấp của các chủ trại. Cuộc đổ xô tới Oklahoma nói tới sự kiện ngày 22 tháng 4 năm 1889 khi hơn 100 000 boomer (vai trò này trong tiếng Việt được gọi là "tay bùm", cái tên này dựa trên âm thanh của những khẩu cà-nông, thứ được sử dụng để phát tín hiệu xuất phát cuộc đua giành đất tại Oklahoma, như đã được giải thích trong tập truyện) tham gia vào cuộc đổ xô tới Oklahoma để giành đất. Trang trại O.K. Corral nói về cuộc đấu súng huyền thoại của miền Tây tại O.K. Corral. Đoàn ngựa con tốc hành nói về công ty Pony Express với việc cố gắng rút ngắn thời gian vận chuyển thư từ giữa miền Tây và miền Đông. Sợi dây biết hát nói về việc xây dựng điện báo tại Hoa Kỳ... Tuy nói về miền Tây, nhưng Lucky Luke có rất ít chi tiết bạo lực. Các sự kiện được thể hiện một cách hài hước theo kiểu truyện tranh. Ví dụ như kết thúc cuộc đấu súng O.K Corral mà không có ai chết hay bị thương. Tên cướp Billy the Kid cũng chỉ bị Lucky Luke phạt bằng cách đánh vào mông và tiếp tục xuất hiện trong những tập khác. Trong toàn bộ các tập truyện, Lucky Luke chỉ một lần duy nhất bắn hạ Mad Jim trong tập Mỏ vàng của Dick Digger và một lần khác bắn thương "Nhện chân dài" Phil Defer - cả hai tập đều do Morris tự viết kịch bản. Các cuộc chiến với người da đỏ cũng thường xuyên được đề cập nhưng luôn kết thúc êm đẹp với sự kiện hai bên cùng ngồi hút "tẩu thuốc hòa bình". Hình ảnh không đổi cuối mỗi tập truyện là Lucky Luke cưỡi chú ngựa Jolly Jumper đi về phía cuối chân trời và hát bài "Tôi là gã cao bồi nghèo đơn độc, rong ruổi trên đường dài xa quê hương, mà đường về nhà còn xa..." (câu cuối của bài hát hiếm khi được thay đổi để phù hợp nội dung của một vài tập truyện) bằng tiếng Anh: «I'm a poor lonesome cow-boy And a long far way from home...» Nhân vật Nhân vật chính Lucky Luke là một anh chàng cao bồi nghèo đơn độc của miền Tây nước Mỹ cuối thế kỷ 19. Với biệt danh là "kẻ bắn nhanh hơn cái bóng của mình", Lucky Luke lang thang khắp miền Tây bảo vệ cho công lý và lẽ phải. Trong những tập đầu tiên, diện mạo và tính cách của Lucky Luke chưa thực sự định hình. Những tập truyện về sau, hai tác giả Morris và René Goscinny xây dựng hình ảnh Lucky Luke như một anh chàng cao bồi vui tính, độc thân, bề ngoài thường với chiếc mũ trắng, áo gi-lê đen, sơ mi vàng và cổ đeo chiếc khăn màu đỏ. Ban đầu, Lucky Luke luôn xuất hiện với điếu thuốc lá trên môi, nhưng về sau để tránh hình ảnh người hùng nghiện thuốc lá, Morris cho thay thế bằng một cọng cỏ. Xử lý các tình huống một cách hài hước thông minh, cộng với tài bắn súng và sự may mắn, Lucky Luke luôn thành công ở cuối mỗi tập truyện. Đồng hành với Lucky Luke là Jolly Jumper, chú ngựa chạy nhanh nhất miền Tây. Là con ngựa đặc biệt, Jolly Jumper biết đi trên dây, thông minh tới mức cùng chơi cờ với Lucky Luke và khi nói chuyện có thể trích dẫn cả văn học. Jolly Jumper nhiều lần cứu Lucky Luke thoát khỏi các tình huống khó khăn nhưng hai nhân vật này thường xuyên trêu chọc nhau. Như trong tập Nàng Sarah Bernhardt, Jolly Jumper chê bai vì Lucky Luke soi gương trước khi đi gặp Sarah Bernhardt, còn Lucky Luke trêu rằng Jolly Jumper không mặc gì khi chú ngựa này không đeo yên. Đặc biệt Jolly Jumper rất ghét con chó Rantanplan. Nhân vật phản diện thường xuyên nhất trong tập truyện tranh là anh em nhà Dalton. Từ mẫu những nhân vật có thật trong lịch sử miền Tây, Morris đã xây dựng nên bốn tên cướp Dalton nhưng lại cho chúng chết ngay khi vừa xuất hiện. Về sau, Morris và René Goscinny đã cho chúng "sống lại" bằng cách thay thế của chúng bằng các em họ của chúng. Băng cướp Dalton thứ hai, để thay thế băng cướp Dalton trước bao gồm: Joe, Jack, William và Averell. Trong đó Joe là anh cả, lùn nhất nhưng cũng hung hãn nhất, chỉ huy của cả nhóm. Sau đó tới Jack, William, dần cao hơn nhưng cũng bớt hung hãn hơn. Cuối cùng là Averell, em út, cao nhất và cũng ngốc nhất nhà. Các tập truyện thường bắt đầu bằng việc anh em Dalton trốn khỏi nhà tù, và kết thúc khi chúng bị Lucky Luke bắt trở lại. Một nhân vật thường xuất hiện trong Lucky Luke nữa là Rantanplan, mệnh danh là "con vật ngu ngốc nhất miền Tây" hay "chú chó ngốc hơn cả cái bóng của mình". Rantanplan là chú chó của trại giam và được các nhân viên giao cho nhiệm vụ canh giữ bọn Dalton. Morris đã xây dựng nhân vật Rantanplan dựa trên một nguyên mẫu có thực là Rin Tin Tin, một con chó thông minh, dũng cảm thường xuất hiện trên các bộ phim của hãng Warner Bros vào những năm 1920. Nhưng ngược lại với Rin Tin Tin, Rantanplan là chú chó ngu ngốc, nhát chết, tham ăn, và có cái mũi bị điếc. Trong thực tế, chú chó Rin Tin Tin là một diễn viên ngôi sao, với cát xê cao, đi xe hơi và nhiều người phục vụ... và tác giả Morris đã đưa những chi tiết này vào tập Gia tài của Rantanplan. Một số nhân vật khác thường lặp lại trong Lucky Luke như những tay nhà đòn với bộ lễ phục đen và nước da mai mái, luôn tìm cách trục lợi từ các vụ giết người hoặc treo cổ. Các cô vũ nữ thường mập mạp và hút thuốc. Nhân vật cụ cố ngồi trên xe lăn, tai điếc, cắm chiếc loa kèn vào tai và thường xuyên hỏi lại. Những người Mexico với cái mũ rộng vành ngủ ngay cạnh đường ray. Những người Hoa với mãi tóc đuôi sam làm đầu bếp hoặc nghề giặt ủi... Nhiều nhân vật có thật ở miền Tây cũng được tác giả đưa vào tập truyện. Billy the Kid trở thành một tên cướp trẻ con liều lĩnh. Calamity Jane thành một người bạn của Lucky Luke, mạnh mẽ nhưng hay chửi tục và nhai thuốc lá. Nghệ sĩ nổi tiếng Sarah Bernhardt sang Mỹ biểu diễn và cũng được Lucky Luke hộ tống... Các tổng thống Mỹ cũng nhiều lần xuất hiện trong truyện. Ngược lại, một số nhân vật hư cấu trong truyện lại được Morris vẽ theo nguyên mẫu nổi tiếng. Như một phù thủy da đỏ có gương mặt của ca sĩ Elton John, nhân vật kẻ săn tiền thường có vẻ bề ngoài của diễn viên Lee Van Cleef hay một tên cướp giống với diễn viên Louis de Funès, diễn viên Jack Palance trở thành Nhện chân dài... Những nhân vật có thật Điện ảnh và truyền hình Tập truyện này còn được đưa lên điện ảnh và truyền hình. Để tránh đụng chạm công chúng Mỹ, cũng như trong truyện tranh, chàng cao bồi thay điếu thuốc trên môi bằng một cọng cỏ. Cũng lý do đó, một số tiếng lóng được lược bỏ, như "thợ giặt Trung Hoa" (chinois blanchisseurs) hay "tên Mễ ngủ ngày" (mexicains faisant la sieste). Phim hoạt hình: Daisy Town (1971), kịch bản: Morris, Goscinny và Pierre Tchernia. La Ballade des Dalton (1978). Les Dalton en cavale (1982). Truyền hình: Lucky Luke (1983), bởi hãng phim Hanna Barbera (hiện nay là Cartoon Network Studios). Lucky Luke (1985). Lucky Luke (1990). Lucky Luke (1993), với Terence Hill làm đạo diễn và thủ vai Lucky Luke. Lucky Luke (2001), với Olivier Jean Marie làm đạo diễn. Điện ảnh: Lucky Luke (1991), với Terence Hill làm đạo diễn và thủ vai Lucky Luke. Phim tiếng Anh. Les Dalton (2004), đạo diễn Philippe Haïm, Til Schweiger trong vai Lucky Luke. Phim tiếng Pháp. Lucky Luke cũng trở thành nhân vật của một số trò chơi điện tử, trong đó được biết nhiều hơn cả là của hai công ty Infogrames và The Mighty Troglodytes. Danh sách những tập truyện Lucky Luke Khi tập truyện tranh này được xuất bản bằng tiếng Việt, nhà xuất bản Trẻ không phát hành theo thứ tự của nguyên bản tiếng Pháp. Những câu truyện được vẽ và biên kịch bởi Morris Những câu truyện biên kịch bởi René Goscinny Kịch bản của các tác giả khác Những câu truyện được minh họa bởi Achdé Sau khi Morris mất, nhà xuất bản Lucky Comics phát hành series Những cuộc phiêu lưu của Lucky Luke (Les aventures de Lucky Luke) với nét vẽ của họa sĩ Achdé. Những chi tiết thú vị Theo tiết lộ của Morris thì một phần nguyên mẫu của Lucky Luke là Gary Cooper trong High Noon (1952) với dáng người cao gầy và khuôn mặt hơi dài. Bác sĩ Trần Bồng Sơn với bút danh Anh Rô đã viết nhiều bài cho Câu lạc bộ Lucky Luke khi tập truyện này xuất hiện tại Việt Nam. Tham khảo Lucky Luke trong Dimiþox Các tập truyện Lucky Luke Lucky Luke - Hồ sơ Lucky do nhà xuất bản Trẻ phát hành Morris (1923-2001), dessinateur et scénariste de BD Liên kết ngoài Website chính thức của Lucky Luke Lucky Luke , trang chính thức của René Goscinny lucky-luke.pagina.nl Le site de Lucky Luke Nhân vật truyện tranh Truyện tranh Bỉ Truyện tranh Pháp Người Mỹ giả tưởng Truyện tranh chuyển thể thành phim
28373
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BA%A1ch%20th%E1%BA%A7n%20kinh
Mạch thần kinh
Mạch thần kinh (hay còn gọi là mạch nơ-ron) là một quần thể/tập hợp các nơron kết nối với nhau bởi xynap để thực hiện một chức năng cụ thể khi được kích hoạt. Các mạch thần kinh kết nối với nhau để tạo thành các mạng lưới não bộ quy mô lớn (large-scale brain networks). Mạng thần kinh sinh học đã truyền cảm hứng cho thiết kế của các mạng thần kinh nhân tạo, nhưng mạng thần kinh nhân tạo thường không phải là bản sao chính xác nhất của các bản thể sinh học. Đặc điểm Thông thường, một mạch thần kinh bao gồm một hoặc nhiều nhóm các nơron được kết nối vật lý với nhau hoặc có liên quan với nhau về chức năng. Một nơron đơn có thể được nối với nhiều nơron khác và tổng số nơron và kết nối trong một mạng có thể là một giá trị cực kỳ lớn. Các kết nối, gọi là các khớp thần kinh (synapses), thường nối từ các axon tới các tế bào tua gai thần kinh (dendrite), tuy có thể có các vi mạch dendrodentritic [Arbib, tr.666] và các kết nối khác. Ngoài tín hiệu điện, còn có các dạng tín hiệu khác phát sinh từ việc khuếch tán các chất dẫn truyền xung động thần kinh (neurotransmitter). Chúng có ảnh hưởng đối với tín hiệu điện. Do vậy, cũng như các mạng sinh học khác, mạng neural vô cùng phức tạp. Trong khi hiện nay, dù chưa đạt được một mô tả chi tiết nào về hệ thần kinh, người ta vẫn ngày càng hiểu rõ hơn về các cơ chế cơ bản. Bộ não, mạch thần kinh và máy tính Trong lịch sử, bộ não đã từng được xem là một dạng máy tính, và ngược lại. Tuy nhiên, điều này chỉ đúng theo nghĩa rộng nhất. Máy tính không phải là mô hình của bộ não (mặc dù có thể mô tả một quá trình suy luận logic như là một chương trình máy tính, hoặc có thể kích thích não bằng một cái máy tính) do chúng đã không được chế tạo với mục đích này. Tuy nhiên, từ xưa, các mạch thần kinh dùng trong trí tuệ nhân tạo đã được xem là các mô hình đơn giản của hoạt động thần kinh trong não. Một chủ đề của các nghiên cứu hiện nay trong ngành thần kinh học lý thuyết là câu hỏi: mạch thần kinh cần phức tạp đến đâu và cần có những tính chất gì để có thể tái tạo cái gì đó giống như trí thông minh động vật. Mạch neural và ngành thần kinh học Thần kinh học lý thuyết và tính toán quan tâm đến các phân tích lý thuyết và mô hình tính toán của các hệ thần kinh sinh học. Do các hệ thần kinh có liên quan mật thiết tới các quá trình nhận thức và ứng xử, ngành này còn liên quan chặt chẽ tới mô hình hóa hành vi và nhận thức. Mục tiêu của ngành là xây dựng mô hình của các hệ thần kinh sinh học để tìm hiểu cơ chế hoạt động của các hệ thống sinh học. Để đạt được hiểu biết này, các nhà thần kinh học cố gắng xây dựng một mối liên hệ giữa dữ liệu về các quá trình sinh học quan sát được, các cơ chế sinh học cho xử lý thần kinh với việc học (các mô hình mạng neural sinh học) và lý thuyết (lý thuyết học bằng thống kê và lý thuyết thông tin). Các loại mô hình Ngành thần kinh học sử dụng nhiều mô hình tại nhiều mức độ trừu tượng khác nhau và mô hình các khía cạnh khác nhau của các hệ thần kinh. Từ các mô hình hành vi ngắn hạn của từng nơron, qua các mô hình phát sinh động lực cho các mạch nơron từ tương tác giữa các nơron cá thể, tới các mô hình phát sinh ứng xử từ các mô đun thần kinh trừu tượng đại diện cho các hệ thống con hoàn chỉnh. Các mô hình này còn bao gồm các mô hình về độ dẻo (plasticity) ngắn hạn và dài hạn của các hệ thần kinh và mối liên quan của nó tới việc học và ghi nhớ, từ mức một nơron tới mức hệ thống. Các nghiên cứu hiện nay Trong khi hầu hết các nghiên cứu ban đầu quan tâm đến các tính chất về điện của các neural, một phần đặc biệt quan trọng trong các nghiên cứu gần đây là sự tìm hiểu vai trò của các neuromodulators chẳng hạn dopamine, acetylcholine, và serotonin đối với hành vi và học tập. Xem thêm Phản hồi List of regions in the human brain Khoa học mạng Neural coding Neural engineering Neural oscillation Pulse-coupled networks Systems neuroscience Tham khảo Alspector, "Neuromorphic learning networks". 17 tháng 10 năm 1989. Liên kết ngoài Comparison of Neural Networks in the Brain and Artificial Neural Networks Lecture notes at MIT OpenCourseWare Computation in the Brain Biological Neural Network Toolbox - A free Matlab toolbox for simulating networks of several different types of neurons WormWeb.org: Interactive Visualization of the C. elegans Neural Network - C. elegans, a nematode with 302 neurons, is the only organism for whom the entire neural network has been uncovered. Use this site to browse through the network and to search for paths between any 2 neurons. Introduction to Neurons and Neuronal Networks, Neuroscience Online (electronic neuroscience textbook) Delaying Pulse Networks (Wave Interference Networks) Nhận thức