id
stringlengths 1
8
| url
stringlengths 31
389
| title
stringlengths 1
250
| text
stringlengths 5
274k
|
---|---|---|---|
26781
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Foo%20fighter
|
Foo fighter
|
Thuật ngữ "Foo fighter" được phi công phe Đồng Minh sử dụng trong Chiến tranh thế giới thứ hai để miêu tả về UFO hay hiện tượng bí ẩn xuất hiện trên bầu trời tại châu Âu và Thái Bình Dương. Nhiều nhân chứng cho rằng foo fighter là thứ vũ khí bí mật mà đối phương trang bị. Nếu không kể nỗi sợ hãi thì foo fighter (cho dù nó là gì đi chăng nữa) chưa bao giờ được ghi nhận là gây hại hay có ý gây hại cho bất kỳ ai.
Có nhiều thuật ngữ khác cũng dùng để chỉ những vật thể này (chẳng hạn "quả cầu lửa Kraut") nhưng "foo fighter" có vẻ thông dụng nhất.
Lịch sử
Foo fighter đã được ghi nhận nhiều lần trên khắp thế giới, dưới đây là một số ví dụ.
Một đêm tháng 11 năm 1941 ở Ấn Độ Dương, từ boong tàu S.S. Pulaski, hai thủy thủ báo cáo về sự xuất hiện một "quả cầu kỳ lạ đang cháy rực với màu xanh nhạt, khoảng cỡ một nửa trăng tròn đang xuất hiện trước chúng tôi". Họ đã báo động cho một viên sĩ quan người Anh và cùng nhau quan sát chuyển động của vật thể trong hơn một giờ.
Một báo cáo khác từ đảo Solomon năm 1942. Sau hồi chuông báo động về một đợt không kích bất chợt, Brickner và vài người khác chứng kiến khoảng 150 vật thể xếp theo nhóm trên đường thẳng từ 10 đến 12 vật mỗi đường, có vẻ như "lảo đảo" khi chúng di động. Brickner báo cáo rằng các vật thể giống như được bọc bằng bạc, chuyển động nhanh hơn một chút so với máy bay chiến đấu của Nhật. Ông nói "đó là cảnh tượng kinh hãi nhất mà tôi đã từng chứng kiến trong cuộc đời".
Tạp chí Time năm 1945 viết "nếu như đó không phải tin vịt hay hiện tượng ảo giác thì nó chắc chắn phải là một câu đố hóc búa nhất về thứ vũ khí bí mật mà quân đội Đồng Minh đã từng bắt gặp. Tuần trước, phi công bay đêm của Mỹ đã kể câu chuyện kỳ lạ về những quả cầu lửa bay theo máy bay của họ trong hơn một tháng trên vùng trời nước Đức. Không ai hiểu nó là cái gì, các phi công đặt tên cho nó là "foo-fighter" và đoán chừng nó là một thứ vũ khí tâm lý mới. Một phi công kể rằng foo-fighter xuất hiện dạng quả cầu lửa, dính vào cánh máy bay của họ cho đến khi anh ta đạt vận tốc 360 dặm một giờ thì nó bay lên bầu trời."
Giải thích
Giả thuyết sinh vật ngoài hành tinh: cho rằng foo finghter là bằng chứng về sinh vật ngoài Trái Đất viếng thăm Trái Đất.
Một giả thuyết được đề nghị cho rằng đó là một dạng phóng điện ở cánh máy bay.
Giả thuyết khác cho rằng các phi công đã nhìn thấy sét hòn.
Tham khảo
Liên kết ngoài
The Foo Fighters of World War II – Saturday Night Uforia
UFO
Hiện tượng quang học khí quyển
Tai nạn máy bay quân sự
|
26785
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BB%99c%20nh%C4%A9%20tr%E1%BA%AFng
|
Mộc nhĩ trắng
|
Mộc nhĩ trắng (danh pháp khoa học: Tremella fuciformis), hay gọi là nấm tuyết nhĩ, ngân nhĩ hay nấm tuyết, là một loài nấm được sử dụng trong ẩm thực của một số nước châu Á như Trung Quốc, Việt Nam. Tại Trung Quốc, nó được gọi là 银耳 (ngân nhĩ) hay 白木耳 (bạch mộc nhĩ), và trong tiếng Nhật là shiro kikurage.
Loại mộc nhĩ này mọc trên thân cây và có màu trắng nhạt trong mờ.
Sản phẩm được bán trong dạng sấy khô và cần ngâm nước trước khi dùng. Nó được sử dụng trong cả các món ăn mặn và món ăn ngọt. Nó không có mùi vị gì nhưng được sử dụng và đánh giá cao nhờ kết cấu giống như thạch cũng như một số tính chất bổ dưỡng.
Thành phần dinh dưỡng
Vitamin: A, B1, B2, B3, B5, B6, B9, B12, C, D, Carotene.
Chất dinh dưỡng: protein, chất béo, cacbohydrate.
Khoáng chất: Calci, Phosphor, Kẽm, Đồng,Kali, Natri, Selen, Magne.
Năng lượng: 200 kcal.
Chất xơ: 33,7g.
Xem thêm
Nấm mèo
Mao mộc nhĩ
Mộc nhĩ
Nấm hương
Liên kết
Mộc nhĩ trắng
Mộc nhĩ trắng
Tham khảo
Liên kết ngoài
Tremella fuciformis Berk. 1856 (tên chấp nhận) Catalogue of Life: 28th September 2015
Nấm ăn
F
Nấm châu Á
Nấm Bắc Mỹ
Nấm châu Đại dương
Nấm Nam Mỹ
Nấm trồng
Nấm Úc
Nấm New Zealand
Nấm châu Phi
Nấm Trung Mỹ
|
26796
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Venice%20c%E1%BB%A7a%20ph%C6%B0%C6%A1ng%20B%E1%BA%AFc
|
Venice của phương Bắc
|
Venezia phương Bắc là tên gọi một số thành phố ở phía Bắc châu Âu, có kênh đào, so sánh với Venezia, Ý, thành phố nổi tiếng với hệ thống kênh đào.
Danh sách
Chú thích
Danh sách biệt danh thành phố
Venezia
|
26800
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%C5%A9i%20H%E1%BA%A3o%20V%E1%BB%8Dng
|
Mũi Hảo Vọng
|
Mũi Hảo Vọng (tiếng Afrikaans: Kaap die Goeie Hoop, tiếng Hà Lan: Kaap de Goede Hoop) được sử dụng theo hai ngữ cảnh:
Nghĩa đen (sensu stricto): Nó là mũi đất hoang dã và nhiều đá ở Cộng hòa Nam Phi, ở rìa phía nam của bán đảo Cape, cách thành phố Cape Town khoảng 30 km về phía nam.
Nghĩa bóng (sensu lato): Nó là tên gọi được dùng để chỉ toàn bộ vùng thuộc địa ban đầu của người châu Âu ở mỏm phía nam của châu Phi, đặc biệt là trong giai đoạn thế kỷ 18 và thế kỷ 19. Năm 1825, một người từ Swellendam đến châu Phi có lẽ đã từng nói "Tôi đến từ mũi Hảo Vọng", thậm chí nơi sinh sống của người này đã cách xa vùng đất hoang vắng đó tới cả trăm dặm. Nhiều người dân sống ở "mũi Hảo Vọng" theo nghĩa bóng này thậm chí chưa bao giờ nhìn thấy mũi Hảo Vọng.
Mũi Hảo Vọng theo nghĩa đen nằm ở tọa độ: 34°21′23″vĩ nam, 18°29′ 15″kinh đông. Không nên nhầm lẫn nó với mũi Point. Hai mũi đất này chỉ cách nhau khoảng 1 km nhưng chúng là các địa danh địa lý khác hẳn nhau. Cả hai mũi đất này được tạo ra từ sa thạch của nhóm dãy núi Table và về mặt địa chất chúng là cùng loại với các khối đất đá của dãy núi này. Theo truyền thống (nhưng không chính xác) thì mỏm đất phía nam của bán đảo Cape được coi là điểm đánh dấu để phân chia Đại Tây Dương và Ấn Độ Dương.
Về mặt kỹ thuật, người ta có thể cho rằng sự phân chia giữa hai đại dương nằm xa hơn về phía đông nam tại mũi Agulhas, hoặc ranh giới này dao động theo sự thay đổi của các dòng hải lưu chính trong khu vực; theo khu vực mà dòng hải lưu Benguela lạnh ở bờ biển phía tây và dòng hải lưu Agulhas ấm ở bờ biển phía đông trộn lẫn vào nhau. Cả mũi Hảo Vọng và mũi Point đều có phong cảnh đẹp. Trên thực tế toàn bộ phần phía nam của bán đảo Cape là công viên quốc gia hoang dã, đồi núi lởm chởm, có phong cảnh đẹp và chưa bị bàn tay con người tàn phá và hầu như rất ít biến đổi trong vòng 500 năm qua, kể từ khi người châu Âu bắt đầu để mắt tới nó. Mũi Hảo Vọng là quê hương truyền thuyết của con tàu "Người Hà Lan bay". Do những thủy thủ bóng ma đau khổ và bị nguyền rủa điều khiển, nó phải chịu số phận bi đát vĩnh cửu là đi luẩn quẩn trong vùng nước mênh mông xung quanh đó mà không bao giờ có thể cập bờ vào vùng mũi đất.
Sách của người Việt thế kỷ 19 còn gọi địa danh này là Mũi Độc.
Lịch sử
Mũi Hảo Vọng hiện được coi là do nhà hàng hải người Bồ Đào Nha là Bartolomeu Dias vượt qua lần đầu tiên năm 1488. Ông đã đặt tên cho nó là "Mũi bão táp" (Cabo de las Tormentas). Sau này nó được vua Bồ Đào Nha là John II đổi tên thành "Mũi Hảo Vọng" (Cabo de Buena Esperanza) do có sự lạc quan lớn nhờ mở ra một hành trình trên đại dương để đi về phía đông.
Vùng đất xung quanh Kaap De Goede Hoop (tiếng Hà Lan để chỉ mũi Hảo Vọng) là quê hương của người Khoikhoi (Hottentot) khi người Hà Lan đầu tiên đặt chân tới đây vào năm 1652. Người Khoikhoi đã là những người đầu tiên đến đây vào khoảng 1.500 năm trước.
Thương nhân người Hà Lan là Jan van Riebeeck đã thiết lập trạm tiếp tế cho Công ty Đông Ấn Hà Lan gần mũi Hảo Vọng vào ngày 6 tháng 4 năm 1652 và nó sau này đã phát triển lên thành Cape Town. Sự cung cấp thực phẩm tươi sống đã là cực kỳ quan trọng đối với các chuyến đi dài ngày xung quanh châu Phi, và do vậy Cape Town đã trở thành cái gọi là "Quán trọ của đại dương".
Vào ngày 31 tháng 12 năm 1687, một nhóm những người theo đạo Tin lành (Huguenot) đã từ Hà Lan đến mũi Hảo Vọng. Họ đã chạy từ Pháp qua Hà Lan để tránh những vụ đàn áp tôn giáo tại quốc gia này đang diễn ra khi đó. Công ty Đông Ấn Hà Lan khi đó đang có nhu cầu về thợ có tay nghề đến làm việc tại mũi Hảo Vọng và chính quyền Hà Lan nhận ra cơ hội cho những người Huguenot và gửi họ đến đây. Dân cư và lãnh thổ thuộc địa này đã phát triển dần dà theo năm tháng trong 150 năm sau đó hoặc cho đến khi nó mở rộng xa hàng trăm kilômét về phía bắc và đông bắc.
Vương quốc Anh đã xâm lược và chiếm đóng mũi Thuộc địa này vào năm 1795 ("Lần chiếm đóng thứ nhất") nhưng đã từ bỏ sự kiểm soát vùng đất này vào năm 1803. Tuy nhiên, quân đội Anh đã trở lại vào ngày 19 tháng 1 năm 1806 và chiếm đóng mũi đất này một lần nữa ("Lần chiếm đóng thứ hai"). Lãnh thổ này được nhượng lại cho Anh theo Hiệp ước Anh-Hà Lan năm 1814 và từ đó trở đi người Anh đã quản lý mũi Thuộc địa. Nó là thuộc địa của Anh cho đến khi được sáp nhập vào Liên hiệp Nam Phi độc lập năm 1910 (ngày nay là Cộng hòa Nam Phi).
Chính quyền Bồ Đào Nha đã dựng lên hai đèn hiệu hàng hải ở đây, là Diaz Cross và Da Gama Cross, để kỷ niệm hai nhà hàng hải Vasco da Gama và Bartolomeu Dias. Khi nối với nhau, nó sẽ đi qua Whittle Rock (tọa độ: 34°14′48″ vĩ nam, 18°33′36″ kinh đông), một chướng ngại lớn, ngầm và vĩnh cửu đối với tàu thuyền trên vịnh False. Hai đèn hiệu khác tại Simonstown tạo ra sự giao nhau với đường trên.
Xem thêm
Lịch sử mũi Thuộc địa
Tỉnh Cape
Mũi Horn, một mũi đất tương tự ở Nam Mỹ
Người Hà Lan bay
Tham khảo
Liên kết ngoài
Website chính thức
Các chuyển nhượng trong thời gian 1677–1895 vùng đất mũi Hảo Vọng lịch sử
Mũi đất Tây Cape
Địa lý Cape Town
Lịch sử hàng hải Nam Phi
|
26805
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%A1o%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
Pháo (định hướng)
|
Pháo trong tiếng Việt có nhiều nghĩa, tùy theo ngữ cảnh, có thể là:
Tên gọi chung của các loại hỏa khí - súng lớn có uy lực dùng trong quân đội các nước để tiêu diệt sinh lực và vũ khí của đối phương. Xem bài: Pháo và các loạt bài liên quan như Pháo cao xạ, pháo dã chiến, sơn pháo, lựu pháo, pháo chống tăng, v.v.
Tên gọi chung của mặt hàng, trước đây được làm từ thuốc pháo, có vỏ bằng giấy nhuộm màu (xanh, đỏ, tím, vàng, v.v) và có ngòi dẫn cháy dùng để tạo ra tiếng nổ và khói, sử dụng trong các lễ hội (Tết, cưới xin, v.v.). Có nhiều loại như pháo tép (pháo cóc), pháo đại (pháo đùng, pháo cối). Hiện nay đang bị cấm sử dụng tại Việt Nam và Trung Quốc. Xem bài: Pháo (lễ hội).
Tên gọi của một loại quân cờ trong môn Cờ tướng, tên gọi này có lẽ có nguồn gốc từ pháo theo nghĩa thứ nhất.
Trong các cụm từ như:
Pháo binh: Một binh chủng trong quân đội, sử dụng pháo (theo nghĩa thứ nhất) làm vũ khí.
Pháo đài: Một kiểu công trình quân sự, được xây dựng ở các nơi hiểm yếu, chủ yếu nhằm mục đích phòng thủ trong chiến tranh.
"Pháo đài bay": Từ để chỉ các loại máy bay quân sự lớn.
Pháo đất, một trò chơi dân gian Việt Nam.
Pháo hạm, từ chỉ loại tàu chiến sử dụng pháo, phân biệt với loại tàu chiến có trước kỷ nguyên súng đạn.
Pháo hoa hay pháo bông: Được sử dụng chủ yếu để tạo màu sắc trong đêm các lễ hội quan trọng.
Pháo kích: một loại hoạt động tấn công của pháo binh.
Cà pháo- Một loài thực vật có hoa, quả ăn được. Danh pháp khoa học là Solanum undatum, họ: Solanaceae.
Pháo (rapper)
|
26812
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/A%20L%C6%B0%E1%BB%9Bi
|
A Lưới
|
A Lưới là một huyện miền núi biên giới thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế, Việt Nam.
Địa lý
Địa giới huyện A Lưới được giới hạn trong tọa độ địa lý từ 160 00'57'' đến 16027’ 30'' vĩ độ Bắc và từ 1070 0' 3’ đến 1070 30' 30'' kinh độ Đông, có vị trí địa lý:
Phía đông giáp thị xã Hương Thủy và huyện Nam Đông
Phía tây giáp huyện Đakrông, tỉnh Quảng Trị và nước CHDCND Lào
Phía nam giáp huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam
Phía bắc giáp thị xã Hương Trà và huyện Phong Điền.
Huyện A Lưới nằm trên trục đường Hồ Chí Minh chạy qua địa phận 14 xã, thị trấn trong huyện đã phá thế ngõ cụt, nối liền A Lưới thông suốt với hai miền Bắc-Nam đất nước; cách không xa quốc lộ 9- trục đường xuyên Á, có thể thông thương thuận lợi với các nước trong khu vực qua cửa khẩu Lao Bảo-Quảng Trị; đồng thời, Quốc lộ 49 nối đường Hồ Chí Minh với Quốc lộ 1, đây là trục giao thông Đông-Tây quan trọng kết nối A Lưới với Quốc lộ 1, thành phố Huế và các huyện đồng bằng. Có 85 km đường biên giới giáp với nước CHDCND Lào và là huyện duy nhất trong tỉnh có 2 khẩu quốc tế A Đớt-Tà Vàng (tỉnh Sê Kông) và cửa khẩu Hồng Vân-Kutai (tỉnh SaLavan) liên thông với CHDCND Lào, đây là các cửa ngõ phía Tây quan trọng, là lợi thế để huyện mở rộng hợp tác kinh tế, văn hóa với nước bạn Lào và các nước trong Khu vực.
Huyện A Lưới tiếp giáp với Lào ở phía tây, cách thành phố Huế 70 km về phía đông.
Về mặt giao thông, nó được nối với thành phố Huế bằng quốc lộ 49, là một quốc lộ rất hiểm trở có ba đèo cao và vực sâu, trong đó đèo A Co dài 16 km.
A Lưới là vùng đất có nhiều người dân tộc thiểu số sinh sống như: Tà Ôi, Cơ Tu, Vân Kiều,...
Các địa danh được biết đến ở A Lưới trong Chiến tranh Việt Nam gồm: đèo Mẹ Ơi, suối Máu, đồi A Bia (người Mỹ gọi là Hamburger Hill - đồi Thịt Băm, nơi xảy ra trận Đồi Thịt Băm),...
Địa hình
A Lưới là huyện miền núi, nằm trong khu vực địa hình phía Tây của dãy Trường Sơn Bắc, có độ cao trung bình 600–800 m so với mặt nước biển, độ dốc trung bình 20-250.
Địa hình A Lưới gồm hai phần:
Phần phía Đông Trường Sơn, địa hình hiểm trở, độ dốc lớn, có các đỉnh cao là Động Ngai 1.774 m ở giáp giới huyện Phong Điền, đỉnh Cô Pung 1.615 m, Re Lao 1.487 m, Tam Voi 1.224 m v.v. Đây là vùng thượng nguồn của ba con sông lớn là sông Đakrông, sông Bồ và sông Tả Trạch đổ về vùng đồng bằng của hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên Huế.
Phần phía Tây Trường Sơn, địa hình có độ cao trung bình 600 m so mặt nước biển, bao gồm các đỉnh núi thấp hơn và một vùng thung lũng với diện tích khoảng 78.300 ha. Thung lũng A Lưới có địa hình tương đối bằng phẳng với chiều dài trên 30 km, đây là địa bàn tập trung đông dân cư của huyện.
Khí hậu
A Lưới nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, chịu ảnh hưởng của khí hậu chuyển tiếp giữa miền Bắc và miền Nam.
Nhiệt độ trung bình trong năm khoảng 22 °C- 25 °C. Nhiệt độ cao nhất khoảng 34 °C- 36 °C, nhiệt độ thấp nhất trong khoảng 7 °C- 12 °C.
Lượng mưa các tháng trong năm từ 2900– 5800 mm.
Độ ẩm tương đối trung bình các tháng trong năm 86-88%.
Khí hậu chia làm 2 mùa rõ rệt:
Mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 12, trong đó lượng mưa lớn tập trung vào 10 đến tháng 12, thường gây lũ lụt, ngập úng.
Mùa khô kéo dài từ tháng 5 đến tháng 8, mưa ít, chịu ảnh hưởng gió Tây khô nóng, lượng bốc hơi lớn gây ra khô hạn kéo dài.
Thủy văn
A Lưới là khu vực thượng nguồn của năm con sông lớn, trong đó có 2 sông chảy sang Lào là sông A Sáp và sông A Lin; 3 sông chảy sang phía Việt Nam là sông Đakrông, sông Bồ và sông Tả Trạch (nhánh tả của sông Hương). Ngoài ra A Lưới còn có mạng lưới các suối phân bố hầu khắp trên địa bàn huyện. Phần lớn sông suối có độ dốc lớn, nhiều thác ghềnh, lòng sông hẹp, thường bị sạt lở vào mùa mưa, gây khó khăn cho xây dựng cầu, đường và đi lại.
Các nguồn tài nguyên
Tài nguyên đất
Hiện trạng đất đang sử dụng: Tổng diện tích tự nhiên toàn huyện A Lưới là 1.224,63 km², trong đó:
Đất nông nghiệp: Diện tích 114.052,58 ha, chiếm 93,1% tổng diện tích tự nhiên, được sử dụng vào sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản.
Đất phi nông nghiệp: Diện tích 4.997,99 ha, bao gồm đất ở, đất chuyên dùng, đất tôn giáo-tín ngưỡng, đất nghĩa trang-nghĩa địa và sông suối, mặt nước chuyên dùng.
Đất chưa sử dụng: Toàn huyện còn 3.413,03 ha đất chưa sử dụng, chiếm 2,78% diện tích tự nhiên, chủ yếu là đất đồi núi chưa sử dụng phân bố ở những vùng ít có điều kiện thuận lợi về tưới và giao thông đi lại khó khăn.
Đặc điểm thổ nhưỡng: Đất đai, thổ nhưỡng trên địa bàn A Lưới khá đa dạng, một số nhóm đất chiếm diện tích lớn bao gồm: 1) Nhóm đất feralit đỏ vàng trên đá sét và biến chất (Fs), chiếm 63% diện tích của huyện; 2) Nhóm đất feralit vàng trên đá cát (Fc), chiếm 28%; 3) Các nhóm đất khác, chiếm diện tích 9%.
Tài nguyên nước
Nguồn nước mặt: Nguồn cung cấp nước chủ yếu cho sản xuất và sinh hoạt dân cư trên địa bàn huyện A Lưới là hệ thống các sông và mạng lưới các khe suối. Trong phạm vi huyện A Lưới có các sông chính là sông A Sáp, A Lin, Tà Rình, Đakrông, sông Bồ.
Nguồn nước ngầm: Mực nước ngầm của các khu vực trong huyện khá cao. Qua khảo sát thực tế cho thấy các giếng đào của dân cho thấy mực nước ngầm có ở độ sâu từ 4 m trở lên.
Tài nguyên rừng
A Lưới có diện tích đất lâm nghiệp lớn 107.849,63 ha, trong đó diện tích đất rừng sản xuất có 45.903,28 ha, đất rừng phòng hộ 46.322,34 ha, rừng đặc dụng 15.489,10 ha; đất rừng tự nhiên là 86.647,16 ha, đất rừng trồng là 15.858,79 ha. Tỷ lệ che phủ rừng năm 2010 đạt 75%. Trữ lượng gỗ khoảng 6-7 triệu m³, với nhiều loại gỗ quí như lim, gõ, sến, mun, vàng tâm, dổi, kiền, tùng v.v. và nhiều loại lâm sản khác như tre, nứa, luồng, lồ ô, mây... Động vật rừng đa dạng và có một số loài như sao la, chồn hương, mang, nai...thuộc nhóm động vật quý hiếm cần được bảo vệ.
Tài nguyên khoáng sản
Trên địa bàn huyện A Lưới tài nguyên khoáng sản khá phong phú, trữ lượng lớn có thể khai thác theo quy mô công nghiệp, trong đó đáng kể nhất là các mỏ cao lanh, đá xây dựng, vàng, nước khoáng nóng v.v.
Tài nguyên du lịch
A Lưới là vùng núi cao mang trong mình nhiều cảnh đẹp thiên nhiên hoang sơ nhưng kỳ vỹ. Thác A Nô là một thắng cảnh nổi tiếng nằm trên địa phận xã Hồng Kim. Cách trung tâm huyện 30 km là những cánh rừng nguyên sinh và suối nước nóng rất cuốn hút và độc đáo thuộc địa phận xã A Roàng. Đây là khu rừng nguyên sinh còn khá nguyên vẹn, với diện tích khoảng 3.000 ha kéo dài từ A Lưới đến tận Quảng Nam với nhiều thác cao, vực sâu, rất hấp dẫn đối với loại hình du lịch sinh thái và dành cho những người yêu thích phiêu lưu, mạo hiểm. A Lưới còn có nhiều tiềm năng phát triển du lịch khác như động Tiến Công, núi Ta Lơng Ai, sông Tà Rình v.v.
Bên cạnh những tiềm năng du lịch thiên nhiên sinh thái hấp dẫn, A Lưới còn có nhiều di tích lịch sử cách mạng ghi dấu các chiến công anh dũng của dân và quân A Lưới cùng cả nước. Toàn huyện có 72 di tích lịch sử, trong đó có 7 điểm di tích cấp quốc gia với những cái tên quen thuộc như sân bay A So, địa đạo A Đon, địa đạo Động So, đồi A Biah, đường Hồ Chí Minh huyền thoại v.v.
A Lưới được nhắc đến như là một vùng đất còn lưu trữ nhiều giá trị văn hoá truyền thống đặc sắc. Đặc biệt là các lễ hội truyền thống văn hóa dân tộc, trong đó đậm nét nhất là lễ hội A Riêu Ping của người Pa Cô và lễ Aza. Các điệu múa, hát cha Chấp, dân ca cổ, cồng chiêng, khèn và cùng các món ăn đặc sản truyền thống như cơm nếp nương, bánh nếp A Coác, rượu đoác, rượu cần, cá suối v.v. tạo nên sự đa dạng, phong phú của văn hóa dân tộc đặc sắc nơi đây; làm cho A Lưới càng trở nên hấp dẫn để có thể khai thác phát triển du lịch văn hóa, lịch sử và du lịch cộng đồng v.v.
Hành chính
Huyện A Lưới có 18 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm thị trấn A Lưới (huyện lỵ) và 17 xã: A Ngo, A Roàng, Đông Sơn, Hồng Bắc, Hồng Hạ, Hồng Kim, Hồng Thái, Hồng Thượng, Hồng Thủy, Hồng Vân, Hương Nguyên, Hương Phong, Lâm Đớt, Phú Vinh, Quảng Nhâm, Sơn Thủy, Trung Sơn.
Lịch sử
Hình thành và phát triển
A Lưới là căn cứ địa cách mạng của cả tỉnh, cả nước trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Qua hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, đồng bào các dân tộc A Lưới đã có nhiều tấm gương tiêu biểu như: Anh hùng liệt sỹ A Vầu, xã Hồng Kim; Anh hùng liệt sỹ Cu Lối, xã Hồng Nam; Anh hùng Cu Trip, Anh hùng Hồ Vai, Kăn Lịch, Kăn Đơm, Bùi Hồ Dục, Hồ A Nun và nhiều tấm gương tiêu biểu khác; đồng thời, đã đóng góp 33.837 tấn lương thực, thực phẩm, 4.560 lượt dân công hỏa tuyến, 7.850 lượt công dân lên đường nhập ngũ, 1,5 triệu ngày công phục vụ chiến đấu; 577 liệt sỹ, 1.086 thương binh, hàng ngàn gia đình có công, gần 10 nghìn người và 5.000 hộ gia đình tham gia cách mạng. Nhờ những đóng góp to lớn cho cách mạng mà đã được Đảng, Nhà nước tuyên dương, phong tặng huyện A Lưới danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; 16 xã, thị trấn được phong tặng anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; 8 cá nhân được phong tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, 12 bà mẹ Việt Nam anh hùng, 19 tập thể anh hùng lực lượng vũ trang.
Đồng thời, huyện A Lưới là địa bàn sinh sống, tụ cư lâu đời của đồng bào các dân tộc thiểu số anh em: Pa Kô, Tà Ôi, Ka Tu, Pa Hy trong các thung lũng dọc Trường Sơn, sát với nước bạn Lào anh em, đến năm 1976, huyện A Lưới được thành lập và có thêm 3 xã kinh tế mới Sơn Thủy, Phú Vinh, Hương Phong là đồng bào kinh lên xây dựng quê hương mới tại A Lưới.
Đến nay, sau 38 năm (1976- 2014) trưởng thành và phát triển, huyện A Lưới hôm nay đã thay da đổi thịt, bộ mặt nông thôn miền núi đã có nhiều khởi sắc, kinh tế - xã hội đã có những bước phát triển và đã đạt được những kết quả quan trọng: Thu nhập bình quân đầu người 14 triệu đồng/người/năm; tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất đạt 15%; tỷ lệ hộ nghèo còn 13,64%; cơ sở hạ tầng được quan tâm đầu tư, xây dựng, như: Điện, đường, trường, trạm, thủy lợi, nước sinh hoạt,… nhờ vậy, đã có 100% thôn, bản có đường giao thông, 90% hộ gia đình sử dụng nước hợp vệ sinh, 100% xã, thị trấn có điểm bưu điện văn hóa xã (số liệu năm 2013).
Lịch sử hành chính
Sau năm 1975, huyện A Lưới thuộc tỉnh Bình Trị Thiên, gồm 20 xã: A Đớt, A Ngo, A Roàng, Bắc Sơn, Đông Sơn, Hồng Bắc, Hồng Hạ, Hồng Kim, Hồng Nam, Hồng Quảng, Hồng Thái, Hồng Thượng, Hồng Thủy, Hồng Tiến, Hồng Trung, Hồng Vân, Hương Lâm, Hương Nguyên, Hương Phong và Nhâm.
Ngày 13 tháng 3 năm 1979, thành lập 2 xã Phú Vinh và Sơn Thủy thuộc vùng kinh tế mới.
Ngày 18 tháng 5 năm 1981, chuyển xã Hồng Tiến về huyện Hương Trà quản lý (nay là thị xã Hương Trà). Huyện A Lưới có 21 xã: A Đớt, A Ngo, A Roàng, Bắc Sơn, Đông Sơn, Hồng Bắc, Hồng Hạ, Hồng Kim, Hồng Nam, Hồng Quảng, Hồng Thái, Hồng Thượng, Hồng Thủy, Hồng Trung, Hồng Vân, Hương Lâm, Hương Nguyên, Hương Phong, Nhâm, Phú Vinh, Sơn Thủy.
Ngày 30 tháng 6 năm 1989, tỉnh Thừa Thiên Huế được tái lập từ tỉnh Bình Trị Thiên, huyện A Lưới thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế.
Ngày 22 tháng 11 năm 1995, thành lập thị trấn A Lưới (thị trấn huyện lỵ huyện A Lưới) trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của xã Hồng Nam.
Ngày 1 tháng 1 năm 2020, sáp nhập xã A Đớt và xã Hương Lâm thành xã Lâm Đớt, sáp nhập xã Hồng Quảng và xã Nhâm thành xã Quảng Nhâm, sáp nhập xã Bắc Sơn và Hồng Trung thành xã Trung Sơn.
Huyện A Lưới có 1 thị trấn và 17 xã như hiện nay.
Giáo dục
Trên địa bàn huyện có 3 trường THPT công lập là:
Trường THPT A Lưới (đóng tại thị trấn A Lưới).
Trường THCS & THPT Trường Sơn (trên cơ sở hợp nhất trường THCS Hương Lâm và trường THPT Hương Lâm từ ngày 01/12/2021) (đóng tại xã Lâm Đớt).
Trường THCS và THPT Hồng Vân (đóng tại xã Hồng Vân).
Ngoài ra, còn có Trung tâm GDNN-GDTX huyện A Lưới.
Ở các xã, thị trấn đều có các trường THCS, Tiểu học, Mầm non.
Dân số
Theo số liệu thống kê năm 2013, dân số toàn huyện có 46.417 nghìn người, mật độ dân số 38 người/km², trong đó trên 80% là dân tộc thiểu số, bao gồm chủ yếu là các dân tộc Pa Kô, Tà Ôi, Ka Tu, Pa Hy và dân tộc Kinh. Chính vì thế, nơi đây hội tụ đa dạng những truyền thống văn hóa dân tộc rất đặc sắc, giá trị.
Thủy điện
Thủy điện A Lưới có công suất 170 MW với 2 tổ máy, xây dựng với hồ nước ở thượng nguồn dòng sông A Sáp (hay Sê A Sáp) chuyển nước về nhà máy điện xả nước ra sông Bồ , khởi công tháng 6/2007 hoàn thành tháng 6/2012 . Tên ban đầu của công trình là thủy điện A Sáp. .
Thủy điện A Roàng có công suất 7,2 MW với 2 tổ máy, xây dựng trên thượng nguồn sông Bồ tại vùng đất xã A Roàng, khánh thành tháng 1/2016 .
Chỉ dẫn
Chú thích
Tham khảo
Liên kết ngoài
Dư địa chí Thừa Thiên Huế - Huyện A Lưới
Thừa Thiên Huế lịch sử hình thành và phát triển.
Huyện biên giới Việt Nam với Lào
|
26813
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%A3n%20h%C6%B0%C6%A1u%20Buru
|
Lợn hươu Buru
|
Lợn hươu Buru (danh pháp khoa học: Babyrousa babyrussa), là một động vật giống như lợn, có nguồn gốc ở Celebes và các đảo xung quanh của Indonesia. Là thành viên duy nhất trong chi của nó (chi Babyrousa), nó thông thường được phân loại trong họ Lợn (Suidae).
Khu vực sinh sống của nó là các bụi cây rậm trong rừng rậm nhiệt đới và các bụi lau sậy cũng như bên bờ các dòng sông và hồ nước. Chúng có ít hoặc không lông, lớp da lốm đốm màu nâu và xám, tạo điều kiện thuận lợi cho sự ngụy trang của chúng.
Lợn hươu Buru được biết đến nhờ hai cặp răng nanh của chúng: cả hai cặp răng nanh trên và dưới đều khá lớn, cong ngược và uốn về phía sau rồi sau đó uốn ngược trở lại phía trước; trên thực tế, cặp răng nanh trên của lợn đực là cong và lớn đến mức chúng nổi rõ qua lớp thịt, xuyên ra ngoài qua các lỗ để vượt qua phần đỉnh của mõm.
Sau thời gian mang thai khoảng 125 đến 150 ngày, con cái thường đẻ hai con .
Loài này hiện đang ở trong danh sách các loài đang gặp nguy hiểm.
Hình ảnh nổi
Các hình dưới đây có thể xem bằng kính màu 3 chiều để có ấn tượng 3 chiều về vật thể.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Lợn hươu
Động vật được mô tả năm 1758
B
Động vật đặc hữu Indonesia
Động vật có vú Indonesia
Nhóm loài do Carl Linnaeus đặt tên
|
26824
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%8D%20L%E1%BB%A3n
|
Họ Lợn
|
Họ Lợn (Suidae) là một họ động vật có vú gồm các loài được gọi là lợn hay heo (tiếng Anh: Pig, Hog, Swine hoặc Boar) trong Bộ Guốc chẵn. Cùng với nhiều loài hóa thạch, hiện có 18 loài còn sinh tồn được công nhận, (hoặc 19 loài nếu tính riêng lợn nhà và lợn rừng), được phân loại vào từ 4 - 8 chi. Trong Họ này, chi Sus bao gồm lợn nhà (Sus Scrofa localus hoặc Sus localus), và nhiều loài lợn hoang từ châu Âu đến Thái Bình Dương. Các chi khác bao gồm lợn hươu và lợn bướu. Tất cả các loài lợn có nguồn gốc từ Cựu Thế giới, phân bố từ châu Á đến châu Âu và châu Phi.
Hóa thạch Suidae cổ nhất có niên đại từ thế Oligocen ở châu Á, rồi các loài hậu duệ lan đến châu Âu vào thế Miocen. Các loài hóa thạch thích ứng với nhiều chế độ ăn khác nhau, từ ăn thuần thực vật đến có lẽ cả ăn xác chết (Phân họ Tetraconodontinae).
Phân loại
Mười bảy loài trong họ Lợn sau hiện được công nhận:
Chi tuyệt chủng
Danh sách chi tuyệt chủng chưa đầy đủ, đơn vị phân loại tuyệt chủng được đánh dấu dấu chữ thập "†":
Suidae
Phân họ †Cainochoerinae
Chi †Albanohyus
Chi †Cainochoerus
Phân họ †Hyotheriinae
Chi †Aureliachoerus
Chi †Chicochoerus
Chi †Chleuastochoerus
Chi †Hyotherium
Chi †Nguruwe (formerly placed in Kubanochoerinae)
Chi †Xenohyus
Phân họ †Listriodontinae
Tông †Kubanochoerini
Chi †Kubanochoerus (danh pháp đồng nghĩa của Libycochoerus, Megalochoerus)
Tông †Listriodontini
Chi †Eurolistriodon
Chi †Listriodon (danh pháp đồng nghĩa của Bunolistriodon)
Tông †Namachoerini
Chi †Lopholistriodon
Chi †Namachoerus
Subfamily Suinae
Tông Suini
Chi †Eumaiochoerus (Miocen)
Chi †Hippopotamodon (Miocen đến Pleistocen)
Chi †Korynochoerus (Miocen đến Pliocen)
Chi †Microstonyx (Miocen)
Chi Porcula
Chi Sus (Miocen đến nay)
Tông Potamochoerini
Chi †Celebochoerus (Pliocen đến Pleistocen)
Chi Hylochoerus (Pleistocen đến recent)
Chi †Kolpochoerus (Pliocen đến Pleistocen)
Chi Potamochoerus (Miocen đến nay)
Chi †Propotamochoerus (Miocen đến Pliocen)
Tông †Hippohyini
Chi †Hippohyus (Pliocen)
Chi †Sinohyus (Pliocen)
Chi †Sivahyus (Pliocen)
Tông Phacochoerini
Chi †Metridiochoerus (Pliocen đến Pleistocen)
Chi Phacochoerus (Pliocen đến nay)
Chi †Potamochoeroides (Pliocen, có lẽ cả Pleistocen)
Chi †Stylochoerus (Pleistocen)
Tông Babyrousini
Chi Babyrousa (Pleistocen tới nay)
Phân họ †Tetraconodontinae
Chi †Conohyus
Chi †Notochoerus
Chi †Nyanzachoerus
Chi †Parachleuastochoerus
Chi †Sivachoerus
Chi †Tetraconodon
Chưa rõ phân họ (incertae sedis)
Chi †Hemichoerus
Chi †Hyosus
Chi †Kenyasus (trước xếp vào Kubanochoerinae)
Chi †Schizochoerus
Chi †Sinapriculus
Chú thích
Liên kết ngoài
Họ động vật có vú
|
26829
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%A8o
|
Chèo
|
Chèo (chữ Nôm: 掉) hay còn gọi là hát chèo là loại hình nghệ thuật sân khấu cổ truyền Việt Nam. Chèo phát triển mạnh ở phía bắc Việt Nam với trọng tâm là vùng đồng bằng sông Hồng cùng hai khu vực lan tỏa là trung du miền núi Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Loại hình sân khấu này phát triển cao, giàu tính dân tộc. Chèo mang tính quần chúng và được coi là loại hình sân khấu của hội hè với đặc điểm sử dụng ngôn ngữ đa thanh, đa nghĩa kết hợp với cách nói ví von giàu tính tự sự, trữ tình. Nếu sân khấu truyền thống Trung Quốc có đại diện tiêu biểu là Kinh kịch của Bắc Kinh thì đại diện tiêu biểu nhất của sân khấu truyền thống Việt Nam là chèo.
Nghệ thuật sân khấu chèo đã trải qua quá trình lịch sử lâu dài từ thế kỉ 10 tới nay, đã đi sâu vào đời sống xã hội Việt Nam. Chèo phản ánh đầy đủ mọi góc độ của bản sắc dân tộc Việt Nam: lạc quan, nhân ái, yêu cuộc sống yên lành, bình dị, nhưng tràn đầy tự hào dân tộc, kiên cường đuổi giặc ngoại xâm, bảo vệ tổ quốc. Cũng chính vì nội dung tư tưởng lành mạnh đó mà trong chèo có đầy đủ các thể loại văn học: trữ tình, lãng mạn, anh hùng ca, sử thi, thơ ca giáo huấn... hơn hẳn các loại hình nghệ thuật khác như tuồng, cải lương, ca kịch… Từ năm 2021, Nghệ thuật chèo đồng bằng sông Hồng được lập hồ sơ đề nghị UNESCO ghi danh là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Nguồn gốc hình thành chèo
Chèo được hình thành từ thế kỷ 10, dưới thời nhà Đinh khi vua Đinh Tiên Hoàng trị vì. Kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình) là đất tổ của sân khấu chèo, người sáng lập là bà Phạm Thị Trân, một vũ ca tài ba trong hoàng cung đã được nhà vua phong chức quan Ưu Bà chuyên truyền dạy nghề múa hát. Sau đó chèo phát triển rộng ra toàn lãnh thổ Đại Cồ Việt gồm khu vực châu thổ Bắc Bộ và các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh ngày nay. Chèo bắt nguồn từ âm nhạc và múa dân gian, nhất là trò nhại từ thế kỷ 10. Qua thời gian, người Việt đã phát triển các tích truyện ngắn của chèo dựa trên các trò nhại này thành các vở diễn trọn vẹn dài hơn.
Đến thế kỷ 14, sự phát triển của sân khấu Việt Nam có một mốc quan trọng là thời điểm một con hát quân đội Nguyên Mông đã bị bắt ở Việt Nam tên gọi Lý Nguyên Cát. Binh sĩ này vốn là một diễn viên nên đã được tha tội chết và sai dạy lối hát đó cho binh sĩ. Cát cho diễn vở Vương mẫu hiến đào để vua ngự lãm cùng các triều thần xem, Ai cũng cho là hay. Qua đó lan tỏa nghệ thuật Kinh kịch của Trung Quốc vào Việt Nam, tác động trực tiếp đến các loại hình sân khấu tuồng, chèo. Các loại vai diễn cũng ảnh hưởng theo sự kiện này như đán nương (đào), quan nhân (kép), châu tử (tướng), sửu nô (hề)...
Vào thế kỷ 15, vua Lê Thánh Tông đã không cho phép biểu diễn chèo trong cung đình, do chịu ảnh hưởng của đạo Khổng. Chèo trở về với nông thôn, kịch bản lấy từ truyện viết bằng chữ Nôm. Chèo gắn liền với sinh hoạt đời sống, hội hè của người Việt. Đồng bằng châu thổ sông Hồng luôn là cái nôi của nền văn minh lúa nước của người Việt. Mỗi khi vụ mùa được thu hoạch, họ lại tổ chức các lễ hội để vui chơi và cảm tạ thần thánh đã phù hộ cho vụ mùa no ấm. Nhạc cụ chủ yếu của chèo là trống chèo. Chiếc trống là một phần của văn hoá cổ Việt Nam, người nông dân thường đánh trống để cầu mưa và biểu diễn chèo.
Tới thế kỷ 18, hình thức chèo đã được phát triển mạnh ở vùng nông thôn Việt Nam và tiếp tục phát triển, đạt đến đỉnh cao vào cuối thế kỷ 19. Chèo do các Nho sĩ soạn, chẳng hạn Lưu Bình-Dương Lễ do danh sĩ Vũ Trinh, thời cuối Lê- đầu Nguyễn soạn. Các vở nổi tiếng như Quan Âm Thị Kính, Lưu Bình Dương Lễ, Kim Nham, Trương Viên xuất hiện trong giai đoạn này. Đến thế kỷ 19, chèo khai thác một số tích truyện ảnh hưởng của tuồng như Tống Trân, Phạm Tải, hoặc tích truyện Trung Quốc như Hán Sở tranh hùng. Đầu thế kỷ 20, chèo được đưa lên sân khấu thành thị trở thành chèo văn minh. Có thêm một số vở mới ra đời dựa theo các tích truyện cổ tích, truyện Nôm như Tô Thị, Nhị Độ Mai.
Đặc trưng của chèo
Chèo là nghệ thuật tổng hợp, muốn thấy được cái hay, cái đẹp, cái đặc sắc của chèo phải trực tiếp đến với các chiếu chèo, các vở diễn. Đặc trưng của chèo là vẫn những câu chuyện đó, tích cũ đó nhưng lối hát, lối diễn của từng nghệ sĩ lại làm nên sự phong phú khác biệt riêng nên đi xem chèo, nghe chèo cũng là xem các đào, các kép diễn xuất. Đặc biệt, nếu thuộc được một số làn điệu thì mới thấy được sức cuốn hút lạ kỳ của chèo. Hát chèo là lối hát sân khấu, có thể đơn ca, song ca hoặc đồng ca. Giai điệu của các làn điệu hát chèo rất phù hợp với giọng tự nhiên và ngôn ngữ của người Việt.
Hát chèo được hình thành trong các sáng tác văn học dân gian và hội tụ tất cả những dòng dân ca vùng châu thổ sông Hồng như hát văn, hát xẩm, hát ghẹo, hát xoan, hát Quan họ, hát đúm, ca Huế, ca trù... Hát chèo là loại hình nghệ thuật dân tộc có sức sống lâu bền, độc đáo và phổ biến. Nó đáp ứng được nhu cầu thẩm mỹ, giáo dục và phục vụ đắc lực cho đời sống tinh thần của nhân dân nên chèo luôn được nhân dân yêu mến, gìn giữ. Sân khấu chèo dân gian đơn giản, những danh từ chèo sân đình, chiếu chèo cũng phát khởi từ đó. Đặc điểm nghệ thuật của chèo bao gồm yếu tố kịch tính, kỹ thuật tự sự, phương pháp biểu hiện tính cách nhân vật, tính chất ước lệ và cách điệu. Ngôn ngữ chèo có những đoạn sử dụng những câu thơ chữ Hán, điển cố, hoặc những câu ca dao với khuôn mẫu lục bát rất tự do, phóng khoáng về câu chữ.
Về nội dung, không giống tuồng chỉ ca tụng hành động anh hùng của các giới quyền quý, chèo thường miêu tả cuộc sống bình dị của người dân nông thôn, ca ngợi những phẩm chất cao cả của con người. Trong chèo, cái thiện thường thắng cái ác, các sĩ tử tốt bụng, hiền lành, luôn đỗ đạt, làm quan còn người vợ thì tiết nghĩa, cuối cùng sẽ được đoàn tụ với chồng. Các tích trò chủ yếu lấy từ truyện cổ tích, truyện Nôm; ca vũ nhạc từ dân ca dân vũ; lời thơ chủ yếu là thơ dân gian. Lối chèo thường diễn những việc vui cười, những thói xấu của người đời như các vai: Thầy mù, Hương câm, Đồ điếc trong Quan Âm Thị Kính hay thể hiện tính nhân đạo, như trong vở Trương Viên. Chèo luôn gắn với chất "trữ tình", thể hiện những xúc cảm và tình cảm cá nhân của con người, phản ánh mối quan tâm chung của nhân loại: tình yêu, tình bạn, tình thương.
Nhân vật trong chèo thường mang tính ước lệ, chuẩn hóa và rập khuôn với 5 loại chính: Sinh, Đào, Lão, Mụ, Hề. Theo giáo sư Trần Bảng thì Hề, Lão, Mụ, thường diễn theo phong cách dân gian; còn Sinh, Đào thường diễn theo phong cách gần như cổ điển, gần với hình tượng văn học của văn chương cổ điển. Tính cách của các nhân vật trong chèo thường không thay đổi với chính vai diễn đó. Những nhân vật phụ của chèo có thể đổi đi và lắp lại ở bất cứ vở nào, nên hầu như không có tên riêng như thầy đồ, phú ông, thừa tướng, thư sinh, hề...
Hề chèo là một vai diễn rất đặc trưng trong các vở diễn chèo, điều đó đã được khẳng định qua nhiều vở chèo truyền thống - “phi hề bất thành chèo”. Các cảnh diễn có vai hề là nơi để đả kích những thói hư tật xấu của xã hội phong kiến như vua quan, những người có quyền, có của trong làng xã. Nghệ thuật tung hứng của các anh hề trong tích chèo đã không chỉ mang lại tiếng cười cho người xem mà nó còn chứa đựng, chuyển tải cả những tinh thần, tư tưởng khác của vở diễn. Có hai loại hề chính là: hề áo dài và hề áo ngắn. Hề áo ngắn gồm có hề Gậy và hề Mồi. Hề Gậy thường là các anh chàng hề đồng lóc cóc mang gậy chạy theo hầu thầy. Hề Mồi là những nhân vật hầu hạ sai vặt trong nhà hoặc lính canh hầu nơi quan phủ, thường ra sân khấu trước mang theo chiếc mồi quấn bằng giẻ tẩm dầu đốt sáng như đuốc dọn dẹp, đón quan đủng đỉnh ra sau. Loại hề áo dài là các nhân vật như thầy bói, thầy phù thủy, thầy đồ... không phải kẻ hầu hạ. Hề áo dài thường hóa trang xấu xí, nhọ nhem, hả hê vui sướng tự giễu cợt mình, tự lột mặt nạ bản thân và tự đẩy mình vào tình huống lố bịch.
Chèo sử dụng tối thiểu là ba loại nhạc cụ dây là đàn nguyệt, đàn nhị và đàn bầu đồng thời thêm cả sáo nữa. Ngoài ra, các nhạc công còn sử dụng thêm trống và chũm chọe. Bộ gõ nếu đầy đủ thì có trống cái, trống con, trống cơm, thanh la, mõ. Trống con dùng để giữ nhịp cho hát, cho múa và đệm cho câu hát. Có câu nói " phi trống bất thành chèo" chỉ vị trí quan trọng của chiếc trống trong đêm diễn chèo. Trong chèo hiện đại có sử dụng thêm các nhạc cụ khác để làm phong phú thêm phần đệm như đàn tam thập lục, tiêu v.v...
Các làn điệu chèo
Số làn điệu chèo theo ước tính có khoảng trên 200 làn điệu, chủ yếu được hình thành và bắt nguồn từ các làn điệu dân ca, ca dao, thơ giàu chất văn học đằm thắm trữ tình...
Làn điệu chèo được chia ra thành hệ thống như sau:
Hệ thống làn điệu đối đáp, trữ tình: 22 điệu,
Hệ thống làn điệu đường trường: 17 điệu, Hệ thống đường trường thường là những điệu hát có cấu trúc lớn bao gồm nhiều trổ và có kĩ thuật phức tạp. Những điệu hát trong hệ thống này thường mang tính chất trữ tình và diễn tả những trạng thái nội tâm khá phức tạp của nhân vật.
Hệ thống làn điệu sắp: 29 điệu. Mô hình hát sắp thường mang tính chất hát nói, tiết tấu nhanh, vui vẻ, sôi nổi, thể hiện sự phấn chấn, lạc quan trong đó có cả những bài hát sắp mang tính giễu cợt để dùng cho các vai hề như: Sắp mưa ngâu, sắp đan lồng, sắp dựng.
Hệ thống làn điệu hề: 28 điệu. Đây là những hệ thống làn điệu chuyên dùng cho các vai: Hề gậy, hề mồi có tính chất vui vẻ, gây cười và nhiều lúc dùng để châm biếm và giễu cợt.
Hệ thống làn điệu ra trò: 36 điệu. Tiêu biểu như: Gió thổi màn loan, Quá giang, Con gà rừng
Hệ thống làn điệu vãn, thảm: 10 điệu. Hát vãn thường dùng cho nhân vật trong những hoàn cảnh buồn khổ, than thân trách phận, ngậm ngùi xót xa.
Hệ thống làn điệu nói sử: Hát sử và nói sử là lối nói đặc biệt quan trọng trong việc hình thành phong cách âm nhạc kể chuyện của chèo, nó mang tính tự sự rõ rệt nhưng rất chú ý đến việc vận dụng ngữ khí âm sắc. Khi thể hiện thì lại mang âm điệu đĩnh đạc và có tiết tấu nhất định. Nó dùng để thể hiện cho nhiều nhân vật ở những hoàn cảnh cần phải thể hiện rõ nét hơn.
Hệ thống làn điệu sa lệch: Hệ thống sa lệch thể hiện tính chất trữ tình, đằm thắm thiết tha, đôi khi có chút dỗi hờn và sự buồn thương man mác.
Hệ thống làn điệu nói, vỉa, ngâm vịnh.
Hệ thống chỉ có một làn điệu như một bài hát riêng được gọi là bài ca lẻ trong chèo. Bài ca lẻ không đứng trong một hệ thống làn điệu nhưng mang giá trị thẩm mỹ cao như: Quân tử vu dịch, Đào liễu, Đào lý, Tình thư hạ vi, Bình thảo, Chức cẩm hồi văn, Lới lơ... bản thân mỗi làn điệu đó cũng là một mô hình âm nhạc nhưng chưa được bẻ làn nắn điệu và chuyển hóa mô hình thành một điệu khác.
Giới chuyên môn cũng chia các làn điệu chèo thành hai loại: chuyên dùng và đa dùng. Chuyên dùng là chỉ dùng cho một số nhân vật trong các vở diễn nào đó như trong vở Quan âm Thị Kính có điệu kể hạnh, ru kệ, ba than cho vai Thị Kính; trong vở Kim Nham có điệu con gà rừng, hát xuôi hát ngược… dành cho vai Xúy Vân. Còn các làn điệu đa dùng được dùng trong nhiều vở diễn, có nhiều hoàn cảnh khác nhau như lới lơ, luyện năm cung.
Các làn điệu chèo có nguồn gốc phần lớn từ các vở chèo cổ như:
Vở chèo Quan Âm Thị Kính: Sử rầu, gối hạc, ba than, Bình thảo, Chi tải vu quy, Nói lệch, Cấm giá, Đường trường phải chiều, Hát đúm, Sắp thường, Làn thảm, Vỡ nước, Rỉ vong, Ru kệ, Sử chuyện, Ví hề, Sử xuân, Sử chúc, Sắp chợt...
Vở chèo Lưu Bình Dương Lễ: Hề sư cụ, Quân tử vu dịch, Sử xếp, Sa lệch chênh, Tình thư hạ vị, Ngâm bốn mùa, Sử bằng, Nói sử ghé rầu...;
Vở chèo Trương Viên: Hề mồi đồn rằng, Luyện năm cung, Trần tình, Gió thổi màn loan, Hoài thai, Vãn canh 2, Vãn cầm, Vãn theo, Vãn xô, Xẩm tàu điện...;
Vở chèo Từ Thức gặp tiên: Đường trường thu không, Ván cờ tiên, Chèo quế, Dương xuân, Hề tiểu, Hát cách, Tuyết dạt sông Thương, Sắp đặt để mà chơi, các làn điệu hề gậy theo thầy...;
Vở chèo Kim Nham: Bà chúa con cua, Con gà rừng, Hát xuôi hát ngược, Hề cu sứt, Lới lơ, Rủ nhau lên núi thiên thai, Sắp cổ phong, Sắp cá rô, Khấn hàng, Tò vò, Quá giang, Vãn canh 1, Hề tiểu gấm hoa chanh...
Vở chèo Chu Mãi Thần: Hò bắt đò, Có thánh trị vì, Vỉa Huế: dậm chân, sắp sông dâu, suông hời, Thiếp tôi trả lại cho chàng, Hề gậy đốt nhọ bôi mồm, Hề mồi thắt dải lưng xanh, Sắp bắt hề, Hề mồi ba mươi tết'
Vở chèo Trinh Nguyên: Hề ông đồ (Bồ kếch bồ các), Rỉ vong, ba than, Xẩm xoan, Xẩm dựng, Xẩm thầy bói;
Vở chèo Tấm Cám:Chinh phụ, Hát ru, Ru bống; vở chèo Kiều: Du xuân, Quạt màn, Hải đường...
Mỗi làn điệu chèo đều có những chức năng biểu cảm, diễn đạt trạng thái của nhân vật trong hoàn cảnh cụ thể. Trong chèo có những làn điệu tiêu biểu như: Đào liễu, Lới lơ, Đò đưa, Làn thảm chứa trong mình đủ những yếu tố quan trọng của thanh nhạc: trữ tình, kịch tính và màu sắc. Có những làn điệu độc đáo như Con gà rừng, Nón thúng quai thao, Du xuân, Tứ quý… thể hiện tâm hồn con người rất phong phú, tràn ngập những tình cảm như lãng đãng, phất phơ, chòng chành, sương khói… Giai điệu trong làn điệu chèo phản ánh tương đối đầy đủ các trạng thái hỷ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục của con người. Ví dụ ở trạng thái vui vẻ có điệu Hồi tiếu, Lão say, Sắp dựng, Dương xuân…; trạng thái buồn tủi có: Sử rầu, Ba than, Vãn cầm, Vãn theo, Trần tình…; tâm sự yêu thương có: Tình thư hạ vị, Đào liễu, Quân tử vu dịch, Đường trường duyên phận, Sử truyện…
Tứ chiếng chèo
Tứ chiếng chèo là cách phân vùng không gian nghệ thuật chèo đồng bằng sông Hồng kể từ thế kỷ 15, khi chèo rời kinh đô trở về vùng nông thôn. Chiếng chèo là những phường chèo hoạt động trong một vùng văn hóa nhất định. Phong trào hát chèo xưa phân vùng chèo châu thổ sông Hồng thành 4 chiếng chèo Đông, chèo Đoài, chèo Nam, chèo Bắc tương ứng với 4 trấn Hải Đông, Sơn Tây, Sơn Nam, Kinh Bắc xung quanh thủ đô Hà Nội. Mỗi chiếng có những ngón nghề riêng, đặc trưng riêng rất khó lưu truyền và phát triển ra đến bên ngoài do sự khác nhau trong phong cách nghệ thuật dựa trên cơ sở dân ca, dân vũ và đặc trưng văn hóa địa phương.
Chiếng chèo Đông nay thuộc các tỉnh Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh và phần lớn tỉnh Hưng Yên. Vùng này xưa là trấn Hải Đông. Chèo xứ Đông thiên về lối diễn mực thước, đĩnh đạc, tinh tế với lối hát chậm rãi, chau chốt của các vai diễn nho sinh, kép chính, đào chín, ông lão, bà lão và không nổi bật so với hai chiếng chèo Nam, chèo Bắc ở các vai diễn hề và đào, kép lệch. Chèo Đông hợp với các làn điệu Đường trường, Sử bằng, Sử chuyện, Du xuân, Chinh phụ, Ngâm, Vỉa.... Câu ca dao xứ Đông của vùng cửa biển Hải Phòng, Quảng Ninh: Anh về xẻ ván cho dày / Bắc cầu sông cái cho thầy mẹ sang đã được chèo hóa thành làn điệu chèo Hát đúm rất độc đáo cho màn đối đáp giao duyên giữa hai nhân vật Nô - Màu là một trong những làn điệu chèo tiêu biểu của xứ Đông.
Chiếng chèo Đoài nay thuộc khu vực tây Hà Nội và các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang. Vùng này xưa là trấn Sơn Tây. Chèo xứ Đoài mang âm hưởng của hát xoan, hát dô, dân ca Phú Thọ và cò lả. Làn điệu chèo tiêu biểu của xứ Đoài là điệu chèo Tứ quý, vốn xuất phát từ điệu dân ca mừng hội cướp bông trong các lễ hội cướp bông vùng Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Sơn Tây để tôn vinh sơn thần và các nhân vật thời Hùng Vương đã được chèo khai thác đặt lời rất tài tình thành điệu Tứ quý rất độc đáo. Các làn điệu khác như Duyên phận phải chiều, Cách cú, Hồi tiếu cũng có nguồn gốc từ dân ca xứ Đoài.
Chiếng chèo Nam nay thuộc các tỉnh Hà Nam, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa và phần phía nam của Hà Nội. Vùng này xưa là trấn Sơn Nam. Chèo xứ Nam rất đa dạng và độc đáo. Những làn điệu đặc trưng chèo Nam như: Chèo quế hay Hạ vị tả cảnh du thuyền thăm các thắng cảnh ở Ninh Bình, Bà chúa con cua gắn với tín ngưỡng chầu văn Nam Định, Nhịp đuổi gắn với tích trấn thủ Lưu Đồn ở Thái Bình hay các làn điệu độc đáo xứ Nam như Đò đưa, Đường trường thu không, Đường trường tải lương, Tình thư hạ vị...
Chiếng chèo Bắc nay thuộc các tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh, Thái Nguyên và khu vực bắc sông Hồng của Hà Nội. Vùng này xưa là trấn Kinh Bắc. Chèo xứ Bắc mang âm hưởng của dân ca quan họ, phát triển mạnh ở các vùng chèo Yên Dũng, Quế Võ, Gia Bình. Các làn điệu chèo đặc trưng của chiếng chèo Bắc như: Con nhện giăng mùng, Đường trường vị thủy, Đường trường trong rừng, Rủ nhau lên núi Thiên Thai, Sắp sông dâu...
Kinh đô Thăng Long - Hà Nội là nơi giao thoa, hội tụ của tứ chiếng chèo vì thế mà chèo Hà Nội mang nét đặc trưng là tinh túy, nhẹ nhàng và hội tụ. Với việc mở rộng địa giới hành chính, các huyện ngoại thành của thủ đô hiện nay từng là một phần của các chiếng chèo Đoài, Nam và Bắc xưa. Hiện 3 nhà hát Chèo chuyên nghiệp mạnh nhất Việt Nam đều đóng ở Hà Nội là Nhà hát Chèo Quân đội (Việt Nam), Nhà hát Chèo Việt Nam và Nhà hát Chèo Hà Nội.
Trong tứ chiếng chèo xưa thì hiện nay thì chiếng chèo Nam được bảo tồn tốt hơn cả vì là quê hương của nghệ thuật chèo và có các địa phương mạnh về chèo như Thái Bình, Ninh Bình, Nam Định và Hà Nam. Tiếp theo là chiếng chèo Đông với các vùng chèo Hải Dương, Hưng Yên, Hải Phòng, Quảng Ninh. Chiếng chèo xứ Đoài trước đây với trung tâm là vùng Thạch Thất - Sơn Tây nay đã bị sáp nhập về Hà Nội, phần còn lại thuộc các tỉnh trung du Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Tuyên Quang. Xứ Bắc là quê hương của quan họ nên nghệ thuật chèo ít được quan tâm hơn, nhưng vẫn tồn tại ở nhiều làng quê Bắc Giang, Bắc Ninh và Thái Nguyên.
Các tổ chức chèo hiện nay
Các tổ chức chèo hiện nay gồm có các nhà hát chèo, đoàn chèo chuyên nghiệp và các câu lạc bộ chèo không chuyên
Quy mô lớn nhất của các đơn vị nghệ thuật Chèo là Nhà hát Chèo rồi đến Đoàn Chèo, một số tỉnh chỉ biên chế đội hoặc tổ Chèo thuộc đoàn nghệ thuật hoặc trung tâm nghệ thuật tỉnh. Ở Việt Nam hiện có 18 đơn vị nghệ thuật chuyên nghiệp có chèo trong đó gồm:
8 nhà hát chèo: Nhà hát Chèo Việt Nam, Nhà hát Chèo Hà Nội, Nhà hát Chèo Quân đội, Nhà hát Chèo Ninh Bình, Nhà hát Chèo Thái Bình, Nhà hát Chèo Hải Dương, Nhà hát Chèo Hưng Yên, Nhà hát Chèo Bắc Giang.
1 đoàn chèo độc lập: Đoàn Chèo Hải Phòng
9 đoàn nghệ thuật chèo đã sáp nhập vào các nhà hát nghệ thuật tỉnh từ năm 2020: Đoàn Chèo Quảng Ninh, Đoàn Chèo Phú Thọ, Đoàn Chèo Yên Bái, Đoàn Chèo Thái Nguyên, Đoàn Chèo Thanh Hóa, Đoàn Chèo Tuyên Quang, Đoàn Chèo Nam Định, Nhà hát Chèo Hà Nam, Đoàn chèo Vĩnh Phúc.
Hình thức sinh hoạt câu lạc bộ chèo hiện đại đã vượt ra khỏi không gian làng xã và trở thành nơi tập hợp những người yêu chèo. Các câu lạc bộ Chèo cấp tỉnh, huyện, xã, thôn do các nghệ sĩ chèo hoặc những người yêu chèo sáng lập nhiều nơi như: Bắc Giang có 40 CLB chèo, Bắc Ninh có 60 CLB chèo, Hà Nam có 70 CLB chèo, Hải Dương có 190 CLB chèo, Nam Định có 200 CLB chèo...
Các nghệ sĩ nổi tiếng
Các cố nghệ sĩ
Tổ nghề Phạm Thị Trân và các vị hậu tổ nghệ thuật chèo được chép trong Hý phường phả lục của Lương Thế Vinh gồm: Đào Văn Só, Đặng Hồng Lân, Đào Hoa, Từ Đạo Hạnh, Sái Ất và Chính Vịnh Càn.
Nguyễn Đình Nghị (1886-1954) quê làng Thụy Lôi, xã Thụy Lôi, huyện Tiên Lữ, Hưng Yên. Ông có công đầu trong việc gìn giữ và cách tân Chèo. Ông đi từ Chèo sân đình, qua Chèo văn minh và thành đạt ở Chèo cải lương.
Trùm Thịnh (Cụ Nguyễn Văn Thịnh), (1883-1973), được truy phong Nghệ sĩ nhân dân; là người phục hồi nghệ thuật chèo và xây dựng sân khấu chèo hiện đại. Vở Lưu Bình Dương Lễ lời trò do cụ Trịnh Thị Lan đọc và có bổ sung của cụ Nguyễn Văn Thịnh năm 1956.
Cả Tam (Cụ Trịnh Thị Lan), (1888 - 1971), được truy phong Nghệ sĩ nhân dân; một trong những nghệ nhân có công khôi phục vốn chèo cổ đồng thời có đóng góp lớn cho việc hiện đại hoá chèo.
An Văn Mược (Cả Mược): Nghệ nhân trùm chèo nổi tiếng ở Ninh Bình, có công lưu giữ các làn điệu chèo. cung cấp các vở Quan Âm Thị Kính (cùng với Phạm Hồng Lô) và Kim Nham (cùng với Phạm Hồng Lô, Nguyễn Mầm, Nguyễn Văn Tích).
Tào Mạt: là người có đóng góp lớn trong sự phát triển chèo hiện đại. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là bộ ba vở chèo Bài ca giữ nước kể về lịch sử Việt Nam thời nhà Lý với nhân vật chính là Lý Thánh Tông, Nguyên phi Ỷ Lan và Lý Nhân Tông.
Nguyễn Thị Minh Lý, bà sinh năm 1912, là con gái Trùm Thịnh (1883 - 1973), người đã cùng với Nguyễn Đình Nghị và Cả Tam (1888 - 1971) đóng góp lớn cho việc hiện đại hóa chèo đầu thế kỷ 20.
Dịu Hương (1919-1994), người Bình Lục, Hà Nam, thành công với những trích đoạn Xuý Vân giả dại và Thị Màu lên chùa.
Năm Ngũ, Tư Liên, Lý Mầm, Mạnh Tuấn, những nghệ nhân nổi danh với loại vai hề chèo
Hoa Tâm (1906 - 1986), người xã Kim Động, tỉnh Hưng Yên.
Phạm Hồng Lô: Nghệ nhân chèo người Yên Khánh, Ninh Bình.
Vũ Thị Tý (1936-1974); được truy phong Nghệ sĩ ưu tú năm 1995; nổi tiếng với các vai: Thị Kính trong "Quan âm Thị Kính"; Đào Huế trong "Chu Mãi Thần"; Mụ quán trong "Xúy Vân" (tác giả: Hàn Thế Du); Chị Út Tịch trong "Cô Giải phóng" (tác giả: Tào Mạt); Chị Tâm trong "Phiến đá" (tác giả: Hà Văn Cầu).
Kiều Bạch Tuyết (1939-1975); được truy phong Nghệ sĩ ưu tú năm 1995; nổi tiếng với các vai: Thị Mầu trong "Quan Âm Thị Kính"; Đào nấp trong "Chu Mãi Thần"; Mụ Cám trong "Tấm Cám" (tác giả: Lưu Quang Thuận)
Các nghệ sĩ đương đại
Nhà hát Chèo Việt Nam: NSND Thanh Ngoan, NSƯT Thùy Dung, NSUT Ngọc Bích, NSUT Kim Liên, NSUT Thu Hương, NS Hà Cường...
Nhà hát Chèo Quân Đội: NSND Đình Óng, NSND Quốc Trượng, NSND Minh Tiến, NSƯT Thùy Linh, NSƯT Ngọc Sơn, NSND Tự Long....
Nhà hát Chèo Hà Nội: NSND Thu Huyền, NSƯT Thảo Quyên, NSƯT Minh Huệ, NSƯT Hồng Nam, NS Quốc Phòng, NSƯT Việt Thắng, NSND Thanh Loan, NSND Hoài Thu, biên đạo múa Hoài Anh...
Nhà hát Chèo Ninh Bình: NSND Mai Thủy, NSND Quang Thập, NSƯT Huyền Diệu, NSƯT Anh Tú, NS Thanh Tuyền, NSƯT Đỗ Lý, NSƯT Bá Toản...
Nhà hát Chèo Thái Bình: NSND Văn Bằng, NSUT Thu Hà, NSND Vũ Cải, NSND Ánh Điện...
Nhà hát Chèo Bắc Giang: Thanh Hường, NSND Quang Lẫm, Phạm Quỳnh Mai, Hà Văn Quân, Vũ Ngọc Anh, Đức Anh, Xuân Hải, Thành Trung...
Nhà hát Chèo Hải Dương: NSND Mạnh Thắng, Thanh Sóng, NSƯT Quốc Anh, Trần Quang Minh, Bùi Đức Thiện, Đoàn Thị Bẩy, Đoàn Thị Nga, Phạm Minh Hiếu...
Nhà hát Chèo Hưng Yên: NSND Xuân Sanh, Mạnh Đán, Bích Họa, Phương Nhàn, Khắc Nghĩa, Hữu Nam, Đức Đạt, Thanh Lam...
Đoàn Chèo Hải Phòng: NSƯT Kim Liên, Quốc Kiên, Thanh Bình, Thùy Dung, Văn Mởn, Hương Huế, Văn Tạo
Hội Nghệ sĩ sân khấu VN: NSND Thúy Ngần, NSND Thúy Mùi, NSND Vân Quyền, NSND Mạnh Phóng, NSND Hồng Ngát, NSND Huyền Phin, NSND Thúy Hiền
Tác phẩm chèo tiêu biểu
7 vở chèo truyền thống trong tuyển tập chèo cổ Việt Nam, được xem là những tác phẩm kinh điển của nghệ thuật chèo gồm: Quan Âm Thị Kính, Trương Viên, Chu Mãi Thần, Kim Nham , Lưu Bình - Dương Lễ, Trinh Nguyên và Từ ThứcCác vở chèo khác ra đời sau đó đã có tác giả như Bài ca giữ nước ( Tào Mạt), Tấm Cám ( Lưu Quang Thuận, Nàng Si ta ( Lưu Quang Vũ), Đồng tiền Vạn Lịch, Hoàng Trìu kén vợ, Nghêu sò ốc hến, Trần Tử Lệ......Các vở chèo về đề tài hiện đại: Những vần thơ thép, Danh chiếm bảng vàng, Chiến trường không tiếng súng, Cà phê chín đỏ, Bến nước đời người, Giếng thơi trong lòng phố, Quả ngọt trái mùa, Đất làng, Nắng quái chiều hôm...
Một số trích đoạn tiêu biểu được xem là mẫu mực, kinh điển, được đưa vào giảng dạy cho các sinh viên học khoa Kịch hát dân tộc, chuyên ngành chèo như: Thị Mầu lên chùa, Xã trưởng - Mẹ Đốp (vở Quan Âm Thị Kính); Xúy Vân giả dại, Cả sứt dặn em, Phù thủy sợ ma, Mụ Quán và thằng Khoèo (vở Kim Nham), Tuần Ty Đào Huế (vở Chu Mãi Thần); Thày bói đi chợ, Thày đồ dạy học (vở Trinh Nguyên); Nghinh Hương quán, Lưu Bình vinh quy bái tổ (vở Lưu Bình Dương Lễ); Từ Thức gặp Tiên, Giáng Hương vào chùa, Hề gậy theo thầy (vở Từ Thức)...
Nghiên cứu về chèo
Lương Thế Vinh đã viết Hý Phường Phả Lục là tài liệu nghiên cứu chèo xưa nhất ở Việt Nam. Tác phẩm viết về các khoán ước của phường chèo, kịch bản và diễn xuất, cách đánh trống chèo, phương pháp múa hát, các vị tổ chèo, nôi chèo.
Hà Văn Cầu (1964), Tim hiểu phương pháp viết Chèo, Nhà xuất bản Văn hóa nghệ thuật Hà Nội.
Hà Văn Cầu (1973), Hề Chèo, Nxb Văn hoá, Hà Nội.
Hà Văn Cầu (1976), Tuyển tập Chèo cổ, Nxb Văn hoá, Hà Nội.
Hà Văn Cầu (2005), Lịch sử nghệ thuật Chèo, Nxb Sân khấu, Hà Nội.
Bùi Đức Hạnh (2006), 150 làn điệu chèo cổ, Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
Vũ Khắc Khoan (1974), Tìm hiểu Sân khấu Chèo, Nhà xuất bản Lửa thiêng, Sài Gòn.
Nguyễn Thanh Phương (2003), Âm nhạc sân khấu chèo nửa cuối thể kỷ XX, Trường Đại học Sân khấu - Điện ảnh Hà Nội.
Trần Bảng (1985), Những vấn đề sân khấu (vấn đề sáng tác âm nhạc trong những vở chèo mới), Viện Sân khấu, Hà Nội.
Trần Bảng (1995), Chèo-một hiện tượng sân khấu dân tộc, Nxb Hội sân khấu, Hà Nội.
Trần Bảng (1999), Khái luận về Chèo, Viện Sân khấu-Trường Đại học Sân khấu và Điện ảnh Hà Nội, Hà Nội.
Trần Bảng (2006), Đạo diễn Chèo, Nxb Sân khấu, Hà Nội.
Lê Ngọc Canh (2003), Nghệ thuật múa Chèo, Nxb Sân khấu, Hà Nội.
Lê Thanh Hiền (sưu tầm) (1996), Tổng luận Nghệ thuật chèo nửa sau thế kỷ XX, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
Trần Đình Khải (1970), Nghệ thuật sân khấu Việt Nam, Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn.
Nguyễn Thúc Khiêm (1930), “Khảo cứu về hát tuồng và hát chèo”, Tạp chí Nam Phong, (141), tháng 1.
Vũ Khắc Khoan (1974), Tìm hiểu sân khấu chèo, Nxb Lửa thiêng, Sài Gòn.
Hoàng Kiều (2003), Tìm hiểu các làn điệu Chèo cổ, Nxb Âm nhạc, Hà Nội.
Trần Đình Ngôn (1993), Đường trường phải chiều, Nxb Sân khấu, Hà Nội.
Trần Đình Ngôn (1997), Đường trường chông chênh, Nxb Sân khấu, Hà Nội.
Trần Đình Ngôn (2003), Tào Mạt và Chèo, Nxb Sân khấu, Hà Nội.
Trần Đình Ngôn (2004), Hệ thống lý luận cơ bản của kịch hát truyền thống Việt Nam (chèo và tuồng), đề tài NCKH cấp Bộ, tư liệu Viện Sân khấu, Hà Nội.
Trần Đình Ngôn (2005), Nguyên tắc cơ bản trong nghệ thuật chèo, Nxb Sân khấu, Hà Nội.
Trần Đình Ngôn (2010), Nghệ thuật biểu diễn chèo truyền thống, Nxb Sân khấu, Hà Nội.
Trần Đức Ngôn (2000), “Chức năng nghệ thuật của không gian, thời gian trong kịch bản chèo cổ”, đặc san 20 năm đào tạo của Trường Đại học Sân khấu và Điện ảnh Hà Nội.
Trần Việt Ngữ và Hoàng Kiều (1964), Tìm hiểu sân khấu chèo, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
Trần Việt Ngữ (1969), Vấn đề nhạc Chèo, tư liệu Viện Sân khấu, Hà Nội.
Trần Việt Ngữ (1996), Về nghệ thuật Chèo, Viện Âm nhạc, Hà Nội.
Trần Việt Ngữ (chủ biên) (1998), Chèo cổ Thái Bình, Sở Văn hóa Thông tin Thái Bình, Thái Bình.
Nhiều tác giả (1990), Mấy vấn đề nghệ thuật Chèo, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Viện Sân khấu và Sở Văn hoá-Thông tin Hà Nội, Hà Nội.
Nhiều tác giả (1995), Thực trạng chèo hôm nay, Nxb Sân khấu, Hà Nội.
Nhiều tác giả (2002), Bàn về làn điệu Chèo mới, Kỷ yếu hội thảo, Viện Sân khấu, Hà Nội.
Nhiều tác giả (2003), Tào Mạt và bộ ba Bài ca giữ nước, Kỷ yếu hội thảo, Viện Sân khấu và Đoàn Chèo Tổng cục Hậu cần, Hà Nội.
Nhiều tác giả (2010), Nghệ thuật Chèo trong đời sống hôm nay, Kỷ yếu hội thảo, Viện Sân khấu-Điện ảnh, Hà Nội.
Nhiều tác giả (2011), Trần Huyền Trân với nghệ thuật Chèo, Kỷ yếu hội thảo, Viện Sân khấu-Điện ảnh, Hà Nội.
Nhiều tác giả (2012), Nghệ thuật Chèo với đề tài hiện đại, Kỷ yếu Hội thảo, Hội nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam, Hà Nội.
Nhóm nguồn Việt (1974), Hát chèo của dân tộc Việt Nam, Nxb Đường Sáng, Sài gòn.
Nguyễn Thị Nhung (1998), Nhạc khí gõ và trống đế trong chèo truyền thống, Nxb Âm nhạc, Hà Nội.
Tất Thắng (2001), Nghệ thuật Chèo-nhận thức từ một phía, Nxb Văn học và Trường Đại học Sân khấu Điện ảnh, Hà Nội.
Trần Quốc Thịnh (2007), Chèo cổ truyền làng Thất Gian, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
Trần Trí Trắc (2002), “Nghệ thuật chèo truyền thống phục hồi và phát triển”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, (1), tr. 70-74.
Đôn Truyền (2006), Đến với nhạc Chèo, Viện Sân khấu Điện ảnh, Trường Đại học Sân khấu và Điện ảnh Hà Nội, Hà Nội.
Viện Sân khấu (1995), Thực trạng chèo hôm nay, Nxb Sân khấu, Hà Nội.
Trần Vinh (2011), Nhạc Chèo, Nxb Sân khấu, Hà Nội.
Bảo tồn nghệ thuật chèo
Đề cử di sản văn hóa thế giới
Năm 2021 Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Thái Bình đã xây dựng hồ sơ "Nghệ thuật chèo đồng bằng sông Hồng" để trình UNESCO đưa vào danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Hà Nam là tỉnh tiên phong trong việc lập hồ sơ đệ trình UNESCO công nhận nghệ thuật hát Chèo là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Đây là chủ trương được cụ thể trong theo Quyết định này Quy hoạch phát triển văn hoá, thể dục thể thao tỉnh Hà Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
Ngày 20/10/2021, Văn phòng Chính phủ ban hành văn bản 7611/VPCP-KGVX đồng ý để Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương liên quan triển khai lập Hồ sơ di sản đối với Nghệ thuật Chèo Đồng bằng sông Hồng trình UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới.
Hội diễn sân khấu chèo
Các cuộc thi nghệ thuật Sân khấu Chèo chuyên nghiệp toàn quốc dành cho các đơn vị nghệ thuật Chèo chuyên nghiệp là hoạt động mang tính thi đua cao nhằm đánh giá, tổng kết hoạt động nghệ thuật Chèo của các đơn vị trên toàn quốc sau thời gian 3 năm; từ đó định hướng cho 3 năm tiếp theo. Thời gian tổ chức Cuộc thi dành cho các đơn vị nghệ thuật Chèo chuyên nghiệp là 3 năm một lần. Ngoài ra còn các cuộc thi dành cho nhóm nghệ sĩ, cá nhân nghệ sĩ như: Cuộc thi tài năng trẻ diễn viên Sân khấu Tuồng, Chèo; Cuộc thi tài năng trẻ đạo diễn Sân khấu toàn quốc; Cuộc thi tài năng biểu diễn Múa; Cuộc thi tài năng trẻ biên đạo Múa.
Liên hoan nghệ thuật sân khấu Chèo là hoạt động giao lưu, trao đổi, học tập, tôn vinh các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong sáng tạo nghệ thuật. Liên hoan chỉ tổ chức cho các loại hình nghệ thuật Chèo không tham gia các Cuộc thi dành cho các đơn vị nghệ thuật Chèo. Đơn vị tổ chức các cuộc Liên hoan nghệ thuật Chèo tại Việt Nam xây dựng chủ đề cho mỗi cuộc, gắn với việc kỷ niệm các ngày lễ trọng đại của dân tộc, các sự kiện chính trị diễn ra hàng năm. Các cuộc Liên hoan tổ chức xen kẽ trong khoảng thời gian giữa hai kỳ tổ chức các Cuộc thi.
Lễ hội truyền thống
Niềm đam mê chèo của người dân Việt thể hiện qua việc khát khao đến với các lễ hội dân gian truyền thống:Ăn no rồi lại nằm khoèoNghe giục trống chèo vỗ bụng đi xemChẳng thèm ăn chả ăn nemThèm no cơm tẻ, thèm xem hát chèo''.
Các lễ hội ở vùng châu thổ sông Hồng thường có biểu diễn nghệ thuật hát chèo dưới dạng sân khấu chèo, chiếu chèo hoặc tổ chức hội thi, hội diễn chèo. Các lễ hội tiêu biểu luôn có hát chèo làm chủ đạo tiêu biểu như:
Lễ hội Hoa Lư ở Ninh Bình với hội thi hát Chèo không chuyên và các tiết mục sân khấu hóa do Nhà hát Chèo Ninh Bình thực hiện.
Lễ hội Côn Sơn Kiếp Bạc ở Hải Dương với hội thi hát Chèo và các tiết mục nghệ thuật do Nhà hát Chèo Hải Dương thực hiện.
Lễ hội chùa Keo ở Nam Định với hội thi hát Chèo và các tiết mục sân khấu hóa do Nhà hát Chèo Nam Định thực hiện.
Lễ hội chùa Keo ở Thái Bình với hội thi hát Chèo và các tiết mục sân khấu hóa do Nhà hát Chèo Thái Bình thực hiện..
Lễ hội đền Trần ở Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình và Quảng Ninh đều có hát chèo chủ đạo trong phần biểu diễn nghệ thuật.
Chú thích
Nhạc cổ truyền Việt Nam
Âm nhạc Việt Nam
Văn hóa Việt Nam
Vũ đạo ở Việt Nam
|
26841
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Shogi
|
Shogi
|
, hay còn gọi là Cờ tướng Nhật Bản, là một loại cờ phổ biến tại Nhật Bản. Trò chơi trí tuệ này rất được ưa chuộng tại Nhật Bản, được xem là có chung nguồn gốc với cờ vua, cờ tướng (Trung Quốc), makruk, janggi từ trò chơi chaturanga của Ấn Độ..
Môn cờ này độc đáo với nước thả quân: quân đã bị bắt có thể được đưa lại vào bàn cờ bởi người bắt nó. Luật thả quân này được cho là đã được phát minh vào thế kỷ XV, có thể liên quan đến hiện tượng lính đánh thuê khi bị bắt thì đổi phe thay vì bị xử tử ở thời kỳ này.
Trò chơi chaturanga - tổ tiên của shogi - xuất phát từ Ấn độ từ thế kỷ VI, có lẽ đã được truyền bá qua Trung Quốc hoặc Hàn Quốc và đến Nhật Bản khoảng sau thời kỳ Nara. Shogi với luật chơi như ngày nay bắt đầu hoàn thiện từ khoảng thế kỷ XVI; trước đó biến thể shogi không có luật thả quân đã được ghi chép lại từ năm 1210 trong tập bách khoa thư .
Bàn cờ và quân cờ
Hai người chơi ngồi đối diện nhau, người đi trước gọi là , người đi sau gọi là , trên một bàn cờ hình chữ nhật gồm có 9 và 9 tạo thành 81 ô vuông. Khác với cờ vua, các ô trên bàn cờ shogi không có phân biệt gì về màu sắc. Ở giữa bàn cờ có đánh dấu 4 điểm sao để đánh dấu vùng phong cấp của hai bên.
Trong biên bản ván cờ sử dụng ký hiệu hình quân cờ shogi màu đen (☗) cho bên Tiên và màu trắng (☖) cho bên Hậu (điều này có thể là do ảnh hưởng của cờ vây), do đó đã dẫn đến cách gọi Tiên là bên Đen (Black), Hậu là bên Trắng (White) ở cả cộng đồng shogi quốc tế và Việt Nam. Tuy nhiên về bản chất đây là cách gọi không chính xác, bởi lẽ quân cờ hai bên đều cùng màu với nhau. Do đó trong thời gian gần đây, cộng đồng shogi quốc tế đã chuyển về cách gọi gốc trong tiếng Nhật là Sente và Gote.
Mỗi người chơi điều khiển 20 quân cờ hình nêm ngũ giác, có kích thước khác nhau đôi chút. Trừ hai quân Vua, các quân cờ của hai bên không có dấu hiệu hay màu sắc khác nhau để phân biệt. Thay vào đó, các quân cờ hướng về phía trước bằng cách hướng mũi nhọn về phía đối phương, nhìn hướng của quân sẽ biến quân đó của bên nào. Các quân cờ của mỗi bên bao gồm:
1 Vua
1 Xe
1 Tượng
2 Kim (Tướng vàng)
2 Ngân (Tướng bạc)
2 Mã
2 Thương
9 Tốt
Những tên gọi quân cờ trên đây được CLB Shogi Việt Nam (chi nhánh của Liên đoàn Shogi Nhật Bản tại Việt Nam) dịch và thống nhất sử dụng dựa trên thói quen của cộng đồng người chơi cũng như tương quan với các môn cờ phổ biến khác tại Việt Nam, do đó không phải là cách dịch sát nghĩa so với tên quân cờ trong tiếng Nhật.
Mỗi quân có tên gồm 2 chữ Hán thường được khắc trên mặt quân bằng mực đen. Trên mỗi mặt trái của quân, trừ quân Vua và quân Vàng, là một hay hai chữ khác (trong các bộ quân dành cho người mới chơi thường được khắc bằng mực đỏ để dễ phân biệt), thường được viết theo kiểu chữ thảo, dùng để chỉ ra là quân này đã được phong cấp.
Ở những bộ quân cờ cao cấp, mặt lưng của hai quân Vua (mặt hướng về phía người chơi khi quân cờ đặt trên bàn) sẽ khắc thêm nội dung liên quan đến kiểu thư pháp được sử dụng trên quân cờ cũng như nghệ nhân khắc bộ quân cờ đó.
Sau đây là bảng tên gọi các quân cờ trong tiếng Nhật và tên gọi tương ứng trong tiếng Việt. Tên viết tắt được dùng trong ghi chép biên bản ván cờ (kỳ phổ) và cũng thường được sử dụng khi bình luận cờ.
Cộng đồng người chơi shogi ở Việt Nam thường gọi Xe phong cấp và Tượng phong cấp lần lượt là Long vương và Long mã, theo tên tiếng Nhật của những quân cờ này. Tướng vàng và Tướng bạc được gọi tắt là Vàng và Bạc.
Chữ viết trên mặt phong cấp của quân cờ thường được viết theo kiểu chữ thảo. Trong các bộ quân cờ dành cho người mới chơi, mặt phong cấp được khắc bằng mực đỏ để dễ phân biệt. Chữ viết trên mặt phong cấp của các quân có dạng phong cấp đi như quân Vàng chính là những dị thể thảo thư của chữ (HV: Kim) - với giá trị quân càng giảm thì chữ viết càng tắt và đơn giản hơn. Trong văn bản in, những ký tự thảo thư này có các dạng tương đương như sau: - Bạc phong cấp, - Mã phong cấp, - Thương phong cấp, và - Tốt phong cấp. Một quy ước khác cho các văn bản in sử dụng chữ của giá trị gốc quân cờ nhưng bớt nét đi: - Mã phong cấp , - Thương phong cấp , trong khi Bạc phong cấp vẫn sử dụng chữ , và chữ hiragana được sử dụng cho quân Tokin.
Nhiều người cho rằng chữ Hán trên mặt quân đã làm nản lòng nhiều người không biết chữ Hán đến với shogi. Điều này đã dẫn đến việc một số người chơi shogi sáng tạo ra các loại quân cờ quân được phương Tây hóa, hoặc quốc tế hóa, bằng cách thay các chữ Hán khó đọc bằng các chữ viết tắt của các quân (K, R, B v.v.) hoặc bằng hình vẽ phỏng theo quân cờ vua. Tuy vậy chúng đều không phổ biến bằng các quân cờ chữ Hán truyền thống, bởi lẽ hầu hết người chơi đều có thể nhận dạng được mặt chữ trên quân cờ, phần vì các quân cờ có kích thước khác nhau trong đó quân nào mạnh hơn thì có kích thước lớn hơn. Các quân cờ vẽ hình ảnh động vật cũng được sáng tạo để trẻ em học chơi shogi, tiêu biểu là bộ cờ Dōbutsu shogi do kỳ thủ Kitao Madoka Nữ lưu Nhị đẳng sáng tạo.
Xếp cờ và cách chơi
Ở thế khởi đầu, quân được bố trí ở 3 hàng dưới cùng của bàn cờ, hướng về phía đối phương (xem hình).
Ở hàng dưới cùng:
Vua đặt ở giữa;
Hai quân Vàng đặt cạnh Vua;
Hai quân Bạc đặt cạnh Vàng;
Hai quân Mã đặt cạnh Bạc;
Hai quân Thương được đặt ở hai góc bàn cờ, cạnh hai Mã.
Như vậy hàng đầu tiên được xếp như sau:
{| class="wikitable"
|- style="text-align:center;"
| Th || M || B || Vg || V || Vg || B || M || Th
|}
Hoặc
{| class="wikitable"
|- style="text-align:center;"
|||||||||||||||||
|}
Ở hàng thứ hai:
Quân Tượng ở tay trái người chơi, phía trên quân Mã trái;
Quân Xe ở tay phải người chơi, phía trên quân Mã phải.
Ở hàng thứ ba xếp 9 quân Tốt.
Người đi trước sẽ được xác định bằng cách , thực hiện như sau: Một trong hai người chơi (thường là người cầm Vương Tướng) cầm 5 quân Tốt, xóc lên và thả xuống một bề mặt phẳng bất kỳ. Nếu số Tokin (と) ngửa mặt nhiều hơn số Tốt (歩) ngửa mặt, người thực hiện furigoma sẽ cầm Hậu và ngược lại.
Sau khi furigoma, ván đấu bắt đầu. Nếu thi đấu nhiều ván liên tiếp nhau, sau mỗi ván hai bên sẽ đổi lượt đi cho nhau (bên trước đó cầm Tiên sẽ cầm Hậu và ngược lại). Trong mỗi lượt, người chơi có thể di chuyển quân cờ trên bàn cờ (và có thể phong cấp nó, hoặc bắt quân đối phương, hoặc cả hai) hoặc thả quân đã bắt trước đó của đối phương trở lại bàn cờ. Những nước đi này sẽ được giải thích rõ hơn ở phần sau.
Luật chơi
Mục đích
Giống như những bộ môn cùng nguồn gốc từ Chaturanga khác, mục đích của một ván shogi là chiếu hết quân Vua của đối phương.
Cách đi quân
Đa số quân cờ trong shogi chỉ có thể đi được đến những ô liền kề nó. Một số quân cờ có thể đi tầm xa khắp bàn cờ. Mã có thể nhảy qua đầu các quân khác.
Thương, Xe và Tượng là các quân viễn chiến: những quân này có thể di chuyển số ô tùy ý dọc theo một đường thẳng đến khi gặp quân cản hoặc rìa bàn cờ. Nếu quân cản là quân đối phương, có thể bắt quân này ra khỏi bàn cờ và thế chỗ bằng quân bắt. Nếu quân cản là quân mình, quân di chuyển phải dừng lại ở ô liền kề quân cản; nếu quân mình nằm ngay cạnh quân di chuyển, nó không thể di chuyển theo hướng đó.
Vua (玉/王) đi được 1 ô theo mọi hướng.
Xe (飛) có thể đi ngang dọc tùy ý cho đến khi gặp quân cản.
Tượng (角) có thể đi chéo tùy ý cho đến khi gặp quân cản. Do Tượng không thể đi thẳng, Tượng chưa phong cấp chỉ có thể kiểm soát một nửa bàn cờ, trừ khi bắt được Tượng đối phương và thả lại bàn cờ.
Vàng (金) đi ngang dọc 1 ô, hoặc đi chéo tiến 1 ô, như vậy có tổng cộng 6 cách đi. Vàng không thể đi chéo lùi.
Bạc (銀) đi chéo 1 ô, hoặc tiến thẳng 1 ô, như vậy có tổng cộng 5 cách đi. Như vậy Bạc chưa phong cấp có khả năng đi lùi cơ động hơn so với Bạc phong cấp, do đó thường để một Bạc chưa phong cấp ở phía đối phương. (Xem phần Phong cấp.)
Mã (桂) đi theo hình chữ L, có thể hình dung là đi tiến 1 ô và đi chéo tiến 1 ô trong cùng 1 nước đi. Như vậy Mã chỉ có 2 cách đi. So với Mã trong cờ vua, Mã trong shogi không thể đi ngang hay đi lùi. Mã là quân duy nhất có thể nhảy qua quân cản. Mã không bị cản bởi quân đứng giữa đường đi của nó, nhưng cũng không thể bắt quân này. Do đó thường sẽ hữu ích khi để một Mã chưa phong cấp ở phía đối phương. Tuy nhiên, Mã bắt buộc phải phong cấp nếu nó đi đến một trong hai hàng cuối bàn cờ. (Xem phần Phong cấp.)
Thương (香) đi như Xe nhưng không thể đi ngang hay đi lùi. Do đó thường sẽ hữu ích khi để một Thương chưa phong cấp ở phía đối phương. Tuy nhiên, Thương bắt buộc phải phong cấp nếu nó đi đến hàng cuối bàn cờ. (Xem phần Phong cấp.)
Tốt (歩) đi thẳng 1 ô về phía trước. Tốt không thể đi lùi. Khác với Tốt trong cờ vua, Tốt trong shogi có cách bắt quân tương tự cách đi. Tốt bắt buộc phải phong cấp nếu nó đi đến hàng cuối bàn cờ. (Xem thêm phần Phong cấp.) Tuy nhiên trên thực tế, người ta thường phong cấp Tốt ngay khi có thể. Có 2 giới hạn về việc thả Tốt. (Xem phần Thả quân.)
Trừ Mã, các quân còn lại có thể đi ngang, đi dọc hoặc đi chéo. Trong cùng một nước đi không thể kết hợp những hướng đi này mà phải chọn 1 hướng nhất định.
Mọi quân đều có thể chặn không cho quân khác (trừ Mã) đi qua ô mình đang chiếm giữ.
Nếu một quân cờ chiếm giữ vị trí hợp lệ của quân đối phương, quân đối phương sẽ bị bắt ra khỏi bàn cờ và thay bằng quân bắt nó. Quân bắt không được đi tiếp quá ô bắt quân trong lượt đó. Cách bắt quân của các quân trong shogi tương tự cách đi quân.
Thông thường khi đi quân (hay bắt/thả quân), người chơi đập quân lên bàn cờ bằng đầu ngón tay đi quân để tạo tiếng động gây chú ý cho đối phương. Trên bàn cờ shogi gỗ truyền thống, âm thanh này có phần trầm và nhẹ nhàng hơn.
Phong cấp
Vùng phong cấp của một người chơi là 3 hàng cuối bàn cờ, tức là 3 hàng xếp quân của đối phương khi khởi đầu ván cờ. Vùng phong cấp thường được đánh dấu trên bàn cờ bằng 2 điểm sao. Khi đi quân, nếu một phần đường di chuyển của quân đó nằm trong vùng phong cấp (tức là nếu quân cờ di chuyển vào vùng phong cấp, ra khỏi vùng phong cấp hoặc bên trong vùng phong cấp; ngoại trừ khi quân cờ được thả vào vùng phong cấp – xem phần Thả quân), người chơi có quyền phong cấp quân cờ ở cuối nước đi này. Hành động phong cấp được thể hiện bằng việc lật ngược quân cờ, ngửa mặt phong cấp lên trên.
Thông thường phong cấp là không bắt buộc; tuy nhiên nếu Tốt hoặc Thương đi đến hàng cuối cùng, hoặc nếu Mã đi đến một trong hai hàng cuối cùng thì bắt buộc phải phong cấp (nếu không thì những quân này không thể di chuyển hợp lệ ở bất kỳ nước đi nào tiếp theo). Bạc không bao giờ bắt buộc phải phong cấp, và thường sẽ lợi hơn nếu giữ một Bạc không phong cấp (như vậy sẽ dễ rút lui một Bạc từ trại của đối phương hơn chẳng hạn, nếu Bạc đã phong cấp thì chỉ có 1 nước đi lùi và như vậy dễ bị cản lại hơn). Xe, Tượng và Tốt thường được phong cấp ngay khi có thể, do những quân này không bị mất nước đi ban đầu sau khi phong cấp.
Phong cấp một quân sẽ làm thay đổi cách đi của quân đó. Cách đi của các quân cờ đã phong cấp như sau:
Bạc, Mã, Thương và Tốt sau khi phong cấp sẽ mất cách đi cũ và có cách đi của Vàng.
Xe và Tượng giữ nguyên nước đi cũ và cộng thêm khả năng đi 1 ô theo mọi hướng (tức là thêm cách đi của Vua). Đối với Tượng rồng, điều này có nghĩa rằng bây giờ nó có thể di chuyển đến khắp bàn cờ.
Vua và Vàng không phong cấp. Quân đã phong cấp rồi không thể phong cấp thêm.
Khi bị bắt khỏi bàn cờ, quân cờ trở về trạng thái chưa phong cấp. Ngoại trừ trường hợp đó ra, quân phong cấp không thể trở về trạng thái cũ được nữa.
Xe rồng/Xe phong cấp ("vua rồng", 龍王 ryūō; ký hiệu: 龍, 竜) có cách đi của Xe và của Vua. Quân cờ này còn được gọi là Long vương.
Tượng rồng/Tượng phong cấp ("ngựa rồng", 龍馬 ryūma; ký hiệu: 馬) có cách đi của Tượng và của Vua. Quân cờ này còn được gọi là Long mã.
Bạc phong cấp (成銀 narigin; ký hiệu: 全, dạng chữ thảo của 金), Mã phong cấp (成桂 narikei; ký hiệu: 圭, 今, dạng chữ thảo của 金), Thương phong cấp (成香 narikyō; ký hiệu: 杏, 仝, dạng chữ thảo của 金) và Tốt phong cấp (と金 tokin; ký hiệu: と, 个, dạng chữ thảo của 今) đều có cách đi của Vàng. Tốt phong cấp thường được gọi bằng tên gốc tiếng Nhật Tokin ở cả bên ngoài Nhật Bản.
Thả quân
Trong shogi, các quân bị "bắt" theo đúng nghĩa đen, tức là quân bị bắt được giữ lại "trên tay" và có thể được đưa lại vào bàn cờ, trở thành quân của người đã bắt nó. Trong tiếng Nhật, quân trên tay được gọi là hoặc . Khi đến lượt, thay vì đi quân, kỳ thủ có thể đưa một quân bị bắt từ trước và đặt chúng (dưới dạng chưa phong cấp) ở bất kỳ ô nào còn trống. Quân được thả, kể từ đó, trở thành một quân của kỳ thủ đó. Hành động này gọi là thả quân. Một lần thả quân được tính là một nước đi độc lập.
Nước đi thả quân không được ăn quân của đối phương, và quân được thả không được phong cấp ngay nếu được thả trong vùng phong cấp. Tuy nhiên nó có thể ăn quân và được phong cấp như bình thường ở các nước đi kế tiếp.
Giới hạn: Có ba giới hạn sau đây cho việc thả quân, hai điều sau chỉ áp dụng cho quân Tốt.
Quân cờ không có nước đi hợp lệ ( ikidokorononaikoma): Không được phép thả Tốt, Thương và Mã ở hàng xa nhất (hàng 9) và không được thả Mã ở hàng áp chót (hàng 8) theo góc nhìn của người thả quân; bởi nếu thả như vậy, những quân này không có nước đi hợp lệ ở bất kỳ nước đi nào sau đó (do những quân này chỉ có thể đi tiến).
Hai Tốt ( nifu): Không được thả Tốt trên cùng cột với một quân Tốt chưa phong cấp khác của cùng bên (không tính Tốt đã phong cấp).
Thả Tốt chiếu hết ( uchifuzume): Không được thả Tốt để chiếu hết Vua ngay lập tức. (Luật này chỉ áp dụng với nước thả quân Tốt để chiếu hết − cụ thể, được phép thả quân không phải Tốt để chiếu hết ngay lập tức, được phép chiếu hết bằng quân Tốt đã có sẵn trên bàn cờ, và được phép thả Tốt để chiếu Vua miễn sao không tạo thành thế chiếu hết ngay lập tức).
Hệ quả của điều 2 là nếu kỳ thủ có Tốt chưa phong cấp trên tất cả các cột sẽ không thể thả Tốt ở bất cứ đâu. Vì lý do này, các kỳ thủ thường thí 1 Tốt để rộng đường thả quân.
Quân bị bắt thường được đặt trên một chiếc bàn nhỏ bằng gỗ gọi là , thường được đặt bên tay phải người chơi, mép dưới gióng thẳng hàng với mép dưới bàn cờ. Không được phép giấu hay che các quân cờ mình đã bắt được.
Đổi Tượng sớm ở đầu ván cờ là chiến thuật khá phổ biến do hai quân Tượng nằm đối diện nhau. Điều này khiến mỗi bên đều có một Tượng trên tay để thả về sau. Luật thả quân khiến shogi trở nên phức tạp biến hóa và giàu tính chiến thuật. Luật này cũng khiến cho không quân cờ nào bị loại hẳn ra khỏi ván cờ, do đó rất hiếm thấy những ván hòa cờ trong shogi.
Chiếu
Khi người chơi đi một nước dọa bắt Vua đối phương ở nước đi tiếp theo, nước đi đó gọi là nước chiếu Vua và Vua đó đang bị chiếu. Đấu thủ có Vua bị chiếu phải thực hiện nước đi loại bỏ nước chiếu, nếu có thể. Các cách loại bỏ nước chiếu bao gồm chạy Vua khỏi đường chiếu, bắt quân đang chiếu, hoặc di chuyển/thả quân để chặn đường chiếu.
Để hô "chiếu!" trong tiếng Nhật, có thể nói ōte (), dẫu vậy điều này không bắt buộc và có thể là do ảnh hưởng của cờ vua. Trong các ván đấu có người mới chơi, có thể nói ōte để họ dễ nhận biết, hoặc trong các giải đấu quy định rõ rằng phải hô "chiếu". Ít khi thấy các kỳ thủ hô "chiếu" trong các giải đấu chuyên nghiệp.
Kết thúc ván cờ
Kết thúc thường gặp của các ván shogi là khi một bên chiếu hết được Vua của đối phương, sau đó bên thua cuộc phải chịu đầu hàng. Khác với cờ vua hay cờ tướng, hầu hết các ván đấu shogi đều kết thúc bằng chiếu hết, bởi lẽ không quân cờ nào bị loại hẳn ra khỏi bàn cờ, do đó gần như luôn có đủ quân cờ để tạo thành thế chiếu hết. Tuy nhiên có 3 cách kết thúc ván cờ khác như sau: lặp lại nước đi ( sennichite), thế cờ bế tắc ( jishōgi), và nước đi phạm luật ( hansokute). Hai trường hợp đầu tiên (lặp lại nước đi và thế cờ bế tắc) rất hiếm gặp. Trong các ván đấu chuyên nghiệp cũng hiếm khi có nước đi phạm luật, dẫu vậy điều này có thể không đúng với các ván đấu nghiệp dư (nhất là ở những người mới chơi).
Khác với cờ vua, trong shogi hai bên không được phép đề nghị hòa cờ.
Chiếu hết
Nếu Vua đang bị chiếu và không còn nước đi nào để bảo vệ Vua, nước đi này được gọi là chiếu hết (tsumi 詰み) Vua đối phương. Điều này có nghĩa là người chơi chiếu hết đã thắng ván cờ, do đối phương không còn nước đi hợp lệ nào. (Xem thêm: tsumeshogi, hisshi.)
Xin thua
Thông thường người chơi đang ở thế thua sẽ xin thua khi họ thấy rằng thế cờ không thể cứu vãn được nữa. Người chơi có thể xin thua bất kỳ lúc nào trong lượt của mình. Mặc dù có thể chờ đến khi bị chiếu hết mới xin thua, trong các ván cờ thông thường sẽ không chơi đến lúc bị chiếu hết, do thông thường người chơi sẽ xin thua ngay khi cảm thấy không thể tránh được việc bị thua - ví dụ như khi họ đọc ra chuỗi nước đi ép chiếu hết (tsume). Tương tự, nếu một người chơi sắp thua trong tình huống Đôi Nhập Ngọc (xem phần bên dưới) do có ít hơn 24 điểm (hay theo các luật nghiệp dư khác liên quan đến thế cờ bế tắc), người chơi sẽ xin thua trước thời điểm đó.
Thông thường trong các giải đấu sẽ yêu cầu tuyên bố xin thua chính thức - tức là, chiếu hết không phải là điều kiện đủ để chiến thắng và kết thúc ván cờ. Tuyên bố xin thua được thể hiện bằng cử chỉ cúi đầu và/hoặc nói "Tôi xin thua" (負けました makemashita) và/hoặc đặt bàn tay phải lên komadai. Cử chỉ đặt bàn tay phải lên komadai bắt nguồn từ phong tục xin thua trong quá khứ bằng cách cầm các quân trên tay và thả nhẹ lên bàn cờ để thể hiện xin thua. Nếu muốn thay đổi cho phù hợp với phong tục phương Tây, có thể thay bằng bắt tay đối thủ.
Nước đi phạm luật
Trong các ván đấu chuyên nghiệp và các ván đấu nghiêm túc (đánh giải) nghiệp dư, kỳ thủ thực hiện nước đi phạm luật sẽ bị xử thua ngay lập tức. Kết quả thua cuộc vẫn giữ nguyên kể cả khi hai bên không nhận ra, tiếp tục ván cờ và nhận ra nước phạm luật ở thời điểm muộn hơn. Tuy nhiên, nếu không ai trong hai kỳ thủ và không bên thứ ba nào chỉ ra nước đi phạm luật trước khi một bên xin thua, kết quả xin thua sẽ tính là kết quả cuối cùng của ván cờ.
Các nước đi phạm luật bao gồm:
Phạm luật Hai Tốt (nifu) (Xem phần Thả quân bên trên)
Phạm luật Thả Tốt chiếu hết (uchifuzume)
Thả quân hoặc đi quân đến ô mà nó không thể có nước đi hợp lệ trong bất kỳ nước đi nào sau đó (ví dụ như thả Mã vào một trong hai hàng cuối bàn cờ, v.v.)
Thả quân ở dạng phong cấp
Không có lượt mà lại đi quân, ví dụ đi 2 nước trong 1 lượt, hoặc bên Hậu đi trước
Chiếu lặp 4 lần (xem phần sennichite)
Để mặc Vua bị chiếu hoặc di chuyển Vua vào thế bị chiếu
Đi quân sai cách đi của nó (ví dụ di chuyển Vàng như Bạc, hoặc di chuyển Tượng sai đường chéo)
Trong các ván đấu giải trí nghiệp dư, thỉnh thoảng luật này được nhân nhượng, người chơi có thể rút lại nước đi phạm luật và thực hiện nước đi khác đúng luật.
Cá biệt có nước phạm luật Hai Tốt là nước phạm luật thường gặp nhất trong các ván đấu chuyên nghiệp. Toyokawa Takahiro Lục đẳng khi đối đầu với Tamura Kōsuke Ngũ đẳng tại Giải vô địch Shogi Cúp NHK đã thực hiện nước phạm luật Hai Tốt gây tai tiếng lớn, do nó được phát sóng trên truyền hình. Ở nước thứ 109, Toyokawa cầm Tiên đã thả T*29 khi đang có Tốt khác chưa phong cấp ở 23, và do đó bị xử thua.
Lặp lại nước đi (hòa cờ)
Nếu cùng một thế cờ xuất hiện lặp lại 4 lần với cùng lượt đi và quân trên tay giống nhau cho cả hai bên, ván cờ kết thúc do , miễn sao thế cờ lặp lại không phải do chiếu lặp. Chiếu lặp (連続王手の千日手 renzokuōte no sennichite) là nước đi phạm luật (xem phần bên trên), trong thi đấu hành động này sẽ bị xử thua.
Trong thi đấu shogi chuyên nghiệp, kết quả hòa do lặp lại nước đi không được tính là kết quả cuối cùng, bởi về cơ bản các ván hòa đều không được tính. Mỗi ván đấu chỉ có thể kết thúc bằng kết quả thắng thua. Trong trường hợp hòa do lặp lại nước đi, hai bên phải thi đấu lại ván mới (hoặc nhiều ván mới, nếu cần thiết) và đổi lượt đi cho nhau (bên cầm Tiên trước đó sẽ cầm Hậu và ngược lại), để phân định kết quả thắng thua. Thông thường các giải đấu quy định ván đấu lại trong trường hợp này sẽ thi đấu bằng phần thời gian còn lại của ván đấu trước đó.
Do đó hướng đến ván hòa do lặp lại nước đi có thể lại là một chiến thuật nghiêm túc cho bên Hậu để được đánh ván đấu lại cầm Tiên, bởi người cầm Tiên có một chút lợi thế và có quyền chủ động hơn trong ván đấu. Ví dụ, chiến pháp Tứ gian Phi Xa đổi Tượng là chiến pháp thụ động đối với bên Hậu, có mục tiêu hướng đến ván hòa do lặp lại nước đi (do khi sử dụng chiến pháp này sẽ mất 2 nhịp - chuyển Xe sang cột 4 và đổi Tượng), tuy nhiên đối với bên Tiên đây lại là chiến pháp tấn công mạnh bạo.
Các ván hòa do lặp lại nước đi khá hiếm gặp trong shogi chuyên nghiệp, chiếm tỉ lệ khoảng 1-2% tổng số ván đấu. Trong shogi nghiệp dư, hòa do lặp lại nước đi còn hiếm gặp hơn nữa. Trong shogi chuyên nghiệp, các ván hòa do lặp nước tường xảy ra ở khai cuộc bởi một số thế cờ trên lý thuyết là bất lợi cho cả hai bên (zugzwang kép). Trong shogi nghiệp dư, hòa do lặp lại nước đi thường xảy ra ở trung cuộc và tàn cuộc do những nước đi lỗi của hai bên.
Thế cờ bế tắc
Ván cờ đạt đến khi cả hai Vua đều đã tiến vào vùng phong cấp của mình – thế cờ này được gọi là – và hai bên đều không có khả năng chiếu hết hoặc bắt thêm quân. Thế bế tắc có thể dẫn đến kết quả thắng thua hoặc hòa cờ. Khi xảy ra thế bế tắc, sẽ phân định thắng thua như sau: mỗi kỳ thủ đồng ý kết thúc ván cờ ở thế bế tắc, sau đó tính điểm: Xe hoặc Tượng, bất kể trạng thái phong cấp, mỗi quân được tính 5 điểm, các quân còn lại trừ Vua mỗi quân được tính 1 điểm. Bên nào có dưới 24 điểm sẽ bị xử thua ván cờ. (Lưu ý rằng mỗi bên có 27 điểm khi bắt đầu ván cờ). Nếu không bên nào ít hơn 24 điểm, ván cờ hòa. Trong shogi chuyên nghiệp, ván cờ kết thúc ở thế bế tắc luôn luôn dẫn đến kết quả hòa, do kỳ thủ nào biết mình không đủ 24 điểm sẽ xin thua trước khi giải quyết bằng quy trình thế cờ bế tắc. Kiểu hòa cờ này được xem là kết quả ván cờ chứ không bị hủy bỏ như hòa do lặp lại nước đi, nhưng thực tế cũng không khác biệt gì. Do cả hai bên cần phải đồng ý thì mới có thể kết thúc ván cờ ở thế bế tắc, kỳ thủ có thể không đồng ý kết thúc ván cờ và tiếp tục cố gắng thắng ván cờ ở những nước đi sau. Do điều này, để tránh ván cờ diễn ra quá lâu, Liên đoàn Shogi Nhật Bản đã đặt ra điều luật mới - ván cờ sẽ tự động kết thúc sau 500 nước đi và được xem là kết thúc ở thế bế tắc, trừ khi ở nước đi thứ 500 đang có một chuỗi nước chiếu liên tục thì ván cờ sẽ tự động kết thúc khi chiếu hết hoặc khi chuỗi nước chiếu liên tục kết thúc.
Ngoài ra, Liên đoàn cũng quy định một kỳ thủ khi đạt đến trạng thái Nhập Ngọc (đưa Vua vào vùng phong cấp) thì có thể tuyên bố Nhập Ngọc và kết thúc ván cờ khi thỏa mãn đủ cả 4 điều kiện sau:
Quân Vua của đấu thủ này đang ở trong vùng phong cấp của họ;
Ngoài quân Vua ra, có ít nhất 10 quân khác của đấu thủ này đang ở trong vùng phong cấp của họ;
Quân Vua của đấu thủ này đang không bị chiếu;
Theo cách tính điểm nói trên (chỉ tính quân trên tay đấu thủ này và các quân nằm ở vùng phong cấp của họ trừ quân Vua):
Nếu đấu thủ tuyên bố có từ 24 đến 30 điểm, ván đấu kết thúc bằng kết quả hòa.
Nếu đấu thủ tuyên bố có từ 31 điểm trở lên, đấu thủ này được xử thắng và đối phương bị xử thua.
Chỉ cần tuyên bố không thỏa mãn một trong 4 điều kiện trên, đấu thủ tuyên bố sẽ bị xử thua. Quy định này có thể là ảnh hưởng từ các cách giải quyết thế cờ bế tắc của các giải đấu nghiệp dư (xem phần bên dưới) .
Các giải đấu nghiệp dư quy định những cách thức khác để phân định kết quả thắng thua khi đạt thế bế tắc để tránh kết quả hòa.
Ván cờ hòa do bế tắc xảy ra lần đầu tiên vào năm 1731 trong một ván chấp Tượng giữa Itō Sōkan Tam thế - Thất thế Danh Nhân và em trai ông, Ōhashi Sōkei Bát thế - Bát đẳng.
Nhập Ngọc
Trên thực tế, khi Vua đối phương đi vào vùng phong cấp (tức là vào trại của đấu thủ đang được nói đến), nhất là khi có quân bảo vệ đi kèm, quân Vua này sẽ rất khó chiếu hết, bởi lẽ hầu hết quân cờ shogi có xu hướng tiến về phía trước. Trạng thái này được gọi là . Nếu cả hai bên đều đạt đến trạng thái Nhập Ngọc, khả năng cao sẽ xảy ra hòa cờ do bế tắc.
Trong hình bên, mặc dù Vua bên Hậu đang ở trong thành Anaguma rất chắc chắn, Vua bên Tiên đã xâm nhập vào trại của bên Hậu cùng với nhiều quân bảo vệ, như vậy Hậu rất khó có thể chiếu hết Tiên. Do đó trong thế cờ này, bên Tiên đang có lợi thế hơn.
Một ví dụ điển hình của thế Nhập Ngọc xảy ra ở Ván 4 trong loạt 7 ván tranh ngôi Vương Vị kỳ 60 giữa Toyoshima Masayuki Vương Vị và Kimura Kazuki Cửu đẳng vào ngày 20-21/08/2019. Sau khi thất bại trong việc tấn công Kimura cũng như phòng thủ Vua trong trại của mình, Toyoshima cầm Hậu đã di chuyển Vua tránh các quân tấn công của Kimura bằng cách chạy lên hàng 2, dần dần tiến vào trại của Kimura ở nước thứ 150. Mặc dù Toyoshima đã đạt được trạng thái Nhập Ngọc, anh vẫn chỉ có 23 điểm - thiếu 1 điểm để có thể xin hòa cờ do bế tắc, trong khi Kimura cầm Tiên đang có 31 điểm. Trong vòng 134 nước đi tiếp theo, Toyoshima cố gắng nâng điểm số của mình lên con số 24, nhưng nó chỉ biến động trong khoảng 17 ~ 23 điểm. Ở nước thứ 231 ván cờ đạt đến trạng thái Đôi Nhập Ngọc, và đến nước thứ 285 Kimura vẫn giữ được điểm số của Toyoshima dưới mức cần thiết. Ở nước đi này, khi chỉ còn 20 điểm (trong khi Kimura có 34 điểm), Toyoshima đã xin thua. Ván đấu này cũng đã phá kỷ lục ván đấu dài nhất trong một trận tranh danh hiệu.
Cách giải quyết ở các giải nghiệp dư
Trong các ván đấu nghiệp dư, có khá nhiều cách giải quyết tình trạng bế tắc, nhưng hầu như không được chuẩn hoá thành luật. John Fairbairn có ghi lại một điều luật của Hiệp hội Shogi phương Tây (nay đã ngừng hoạt động) từ những năm 1980, giải quyết tình trạng này bằng cách một trong hai bên di chuyển toàn bộ quân của mình vào vùng phong cấp và sau đó tính điểm để kết thúc ván cờ.
Một cách giải quyết khác là Luật 27 điểm (27点法), được sử dụng ở một số giải nghiệp dư. Phiên bản đơn giản nhất của luật này quy định bên nào có 27 điểm hoặc nhiều hơn sẽ được xử thắng ván cờ bế tắc. Một phiên bản khác là luật Tuyên bố 27 điểm, được áp dụng trên trang chơi shogi trực tuyến 81Dojo. Ở phiên bản này, người chơi muốn tuyên bố thắng ván cờ khi có thế bế tắc phải thoả mãn những điều kiện sau:
Vua đang nằm trong vùng phong cấp
Ngoài Vua ra phải có 10 quân khác nằm trong vùng phong cấp
Không bị chiếu
Chưa bị hết thời gian
Phải đủ 28 điểm trở lên nếu cầm Tiên, 27 điểm trở lên nếu cầm Hậu
Nếu thoả mãn toàn bộ điều kiện này, người tuyên bố bế tắc sẽ được xử thắng bất kể đối phương có đồng ý kết thúc ván cờ ở thế bế tắc hay không.
Một cách giải quyết nữa cho thế cờ bế tắc là luật Try (トライルール torairūru). Luật này quy định rằng sau khi cả hai Vua đều đã đi vào vùng phong cấp của mình, bên nào đưa được Vua đến ô khởi đầu của Vua đối phương trước (đối với Tiên là ô 51, đối với Hậu là ô 59) sẽ được xử thắng. Ứng dụng chơi shogi trực tuyến Shogi Wars do tập đoàn HEROZ Inc. phát triển đã sử dụng luật Try cho đến năm 2014. (Hiện tại ứng dụng này sử dụng một phiên bản khác của Luật Tuyên bố 27 điểm, nhưng khác với luật của 81Dojo). Luật này bắt nguồn từ bộ môn bóng bầu dục.
Các ván hoà trong các giải đấu
Ở các giải đấu chuyên nghiệp, thông thường sẽ quy định các ván hoà phải được đánh lại và hai bên đổi lượt đi cho nhau, và thường giảm thời gian thi đấu xuống. Tỉ lệ hoà trong shogi rất thấp so với cờ vua và cờ tướng, chỉ ở 1-2% cả ở những ván đấu nghiệp dư.
Loạt tranh ngôi Danh Nhân kỳ 40 (1982) giữa Katō Hifumi Thập Đẳng và Nakahara Makoto Danh Nhân lại có tỉ lệ hoà cao bất thường. Ván 1 (Đôi Yagura) diễn ra vào ngày 13-14/4/1982 kết thúc bằng kết quả hoà do bế tắc, đây mới chỉ là ván hoà do bế tắc lần thứ 5 trong suốt 40 năm diễn ra Thuận Vị Chiến - Danh Nhân Chiến. Ván đấu này (Katō Thập Đẳng cầm Tiên) kéo dài 223 nước, trong đó có nước đi phải mất tới 114 phút suy nghĩ. Một trong những lý do ván đấu này kéo dài đến vậy là vì Nakahara Danh Nhân cầm Hậu đã suýt không thể duy trì số điểm tối thiểu 24 để thủ hoà ván cờ. Do đó giai đoạn cuối tàn cuộc mang nặng tính chiến lược để giữ cho điểm của bên Hậu không tụt xuống dưới 24 điểm. Ở loạt tranh ngôi này, tại ván 6 và ván 8 đã xảy ra kết quả hoà do lặp lại nước đi. Như vậy loạt tranh ngôi 7 ván này đã kéo dài 8 ván trong vòng 3 tháng với bên Tiên không thua ở bất kỳ ván đấu nào. Chung cuộc, Katō Thập Đẳng giành chiến thắng với tỷ số 4-3 và thành công đoạt ngôi Danh Nhân.
Thời gian thi đấu
Cũng giống như cờ vua, các ván đấu shogi chuyên nghiệp đều tính giờ (giới hạn thời gian cho các kỳ thủ thực hiện nước đi trong một ván đấu), tuy nhiên các kỳ thủ shogi chuyên nghiệp hầu như không cần phải tự bấm đồng hồ, trừ một số giải cờ nhanh như ABEMA Tournament. Thay vào đó, một người thứ ba được phân công làm người bấm giờ, thường là học viên Trường Đào tạo Kỳ thủ. Thời gian thi đấu trong shogi kéo dài hơn nhiều so với cờ vua, đặc biệt nếu áp dụng thể thức thời gian truyền thống - . Ở thể thức này, thời gian đã sử dụng được làm tròn xuống đến số phút gần nhất (chẳng hạn nếu sử dụng 3 phút 59 giây cho một nước đi sẽ xem là sử dụng 3 phút). Do đó thời gian thi đấu thực tế kéo dài hơn khoảng thời gian định sẵn rất nhiều, chẳng hạn như thời gian thi đấu cho loạt tranh ngôi Danh Nhân là 9 tiếng mỗi ván cho mỗi bên theo thể thức này, nhưng trên thực tế các ván đấu đều kéo dài trong vòng 2 ngày.
Nếu ván đấu sử dụng , thời gian sẽ không bị làm tròn, tuy nhiên nếu kỳ thủ hết thời gian chính thức sẽ có thêm một khoảng thời gian bổ sung không tích luỹ (thường là 60 giây) cho mỗi nước đi sau đó. Nếu kỳ thủ chưa sử dụng hết 60 giây, thời gian này sẽ được trả về 60 giây cho nước đi tiếp theo. Khoảng thời gian bổ sung này thường được gọi là , do trong vòng 1 phút cuối cùng theo cả 2 thể thức tính giờ, người bấm giờ sẽ đếm thành tiếng số giây cho kỳ thủ được biết. Người bấm giờ sẽ đọc các mốc 30, 40 và 50 giây, và trong 10 giây cuối cùng sẽ đếm xuôi từ 1 đến 10 - nếu hết giờ, kỳ thủ sẽ bị xử thua ngay lập tức.
Ở các ván đấu nghiệp dư, thường kỳ thủ sẽ phải tự bấm trên đồng hồ điện tử và thường theo thể thức đồng hồ cờ vua kèm thời gian byōyomi. Đồng hồ sẽ phát ra tiếng bíp cảnh báo khi đến thời gian byōyomi và sau mỗi 1 giây trong 10 giây cuối cùng. Những mẫu đồng hồ shogi hiện đại còn có chức năng phát ra tiếng đếm giây được ghi âm từ trước.
Xếp hạng kỳ thủ & chấp quân
Có nhiều hệ thống xếp hạng kì thủ shogi trên thế giới, nhưng hệ thống được coi trọng và đánh giá cao nhất là hệ thống xếp hạng chuyên nghiệp của .
Nhìn chung, hệ thống xếp hạng của shogi sử dụng hai đơn vị là và tương tự như ở cờ vây hay judo. Có 2 hệ thống xếp hạng riêng biệt: nghiệp dư và chuyên nghiệp.
Xếp hạng nghiệp dư bắt đầu từ 15-kyu (thập ngũ cấp), tiến lên dần tới 1-kyu (nhất cấp), sau đó chuyển sang 1-dan (Sơ đẳng), tiếp tục tới 8-dan (Bát đẳng). Trước đây hạng Bát đẳng nghiệp dư chỉ được trao tặng danh dự cho những người nổi tiếng. Mặc dù hiện tại trên lý thuyết có thể đạt hạng Bát đẳng nghiệp dư qua thi đấu (bằng cách giành danh hiệu Long Vương nghiệp dư 3 lần), chưa ai có thể đạt được thành tích này.
Kỳ thủ tham gia hệ thống đào tạo chuyên nghiệp của Liên đoàn - sẽ được xếp vào các đẳng/cấp theo hệ thống chuyên nghiệp từ 6-kyu (lục cấp) đến 3-dan (Tam đẳng). Sau khi đạt đến trình độ 3-dan, các kỳ thủ sẽ tham gia để đạt điều kiện thăng lên 4-dan (Tứ đẳng) - trở thành kỳ thủ chuyên nghiệp. Lưu ý rằng khi đạt tới mức xếp hạng chuyên nghiệp (4-dan), kỳ thủ sẽ không thể bị giáng hạng nữa, do đó hệ thống này ít nhiều chỉ mang ý nghĩa cột mốc chứ không phản ánh đúng trình độ hiện tại của các kỳ thủ. Trong hệ thống này, để lên được đẳng (dan) cao hơn, các kỳ thủ phải đạt được một số điều kiện nhất định như thắng đủ số ván đấu quy định hoặc có được một số lần danh hiệu.
Các kỳ thủ chuyên nghiệp được xếp hạng từ 4-dan (Tứ đẳng) lên đến 9-dan (Cửu đẳng). Lưu ý rằng trình độ giữa các hạng giống nhau của hệ thống chuyên nghiệp và nghiệp dư chênh lệch nhau khá nhiều, chẳng hạn Tứ đẳng nghiệp dư chỉ mạnh ngang Lục cấp chuyên nghiệp mà thôi.
Hệ thống chuyên nghiệp nữ (Nữ Lưu kỳ sĩ) cũng sử dụng xếp hạng đẳng/cấp, tuy nhiên chúng không tương đương với đẳng/cấp trong hệ thống chuyên nghiệp. (Xem thêm Các giải đấu)
Hiện nay ở một số liên đoàn shogi ngoài Nhật Bản, hệ thống đẳng/cấp được sử dụng song song với hệ số Elo như của cờ vua. Khác biệt rõ nhất giữa 2 hệ thống là đẳng cấp dan-kyu chỉ tăng hoặc giữ nguyên không cấp thêm chứ không lên xuống như hệ số Elo. Ngoài ra, hệ số Elo sẽ cho người xem biết rõ hơn về phong độ tức thời của một kì thủ nhất định, thay vì là mức xếp hạng đẳng-cấp mà không thể bị giáng hạng. Thay vì sử dụng hệ số Elo, trong hệ thống shogi chuyên nghiệp sẽ căn cứ vào hạng và tổ của kỳ thủ tại Thuận Vị Chiến và Long Vương Chiến để nhận định phong độ tức thời của kỳ thủ đó.
Chấp quân
Tương tự cờ vây, shogi cũng có hệ thống chấp quân, theo đó các ván đấu có sự chênh lệch lớn về trình độ sẽ được điều chỉnh sao cho người có trình độ cao hơn (người chấp) phải chịu những bất lợi nhất định để bù vào sự chênh lệch trình độ. Trong một ván chấp quân, sẽ loại bỏ một hay nhiều quân của mình ra khỏi bàn cờ. Bên chấp quân luôn là bên đi trước. Bên còn lại là
Sự mất cân bằng khi chấp quân này không lớn như trong cờ vua vì lợi thế hơn quân trong shogi không lớn như vậy do các quân cờ trong shogi nhờ luật thả quân có thể quay trở lại bàn cờ.
Chấp quân không được áp dụng trong các giải đấu, nhưng được sử dụng nhiều trong các trận đấu luyện tập hoặc giảng dạy.
Sau đây là một số cách chấp quân thông dụng:
: bên chấp bỏ quân Thương trái.
: bên chấp bỏ quân Tượng.
: bên chấp bỏ quân Xe.
: bên chấp bỏ Xe và Thương trái.
: bên chấp bỏ Xe và Tượng.
: bên chấp bỏ Xe, Tượng và hai Thương.
: bên chấp bỏ Xe, Tượng, hai Thương và hai Mã.
: bên chấp bỏ Xe, Tượng, hai Thương, hai Mã và hai Bạc.
: bên chấp chỉ có Vua trên bàn cờ và 3 Tốt trên tay.
: bên chấp chỉ có Vua.
Ghi chép ván cờ
Trên thế giới có hai hệ thống ký hiệu thường dùng để ghi chép nước đi trong : hệ thống ký hiệu truyền thống được sử dụng trong các văn bản tiếng Nhật, và hệ thống ký hiệu phương Tây do các kỳ thủ George Hodges và Glyndon Townhill tạo ra, sử dụng tiếng Anh. Hosking đã chỉnh lý lại hệ thống này để bám sát hơn với ký hiệu gốc tiếng Nhật (sử dụng 2 chữ số để biểu thị tọa độ ô cờ thay vì một chữ số và một chữ cái). Ngoài ra cũng có những hệ thống ký hiệu khác để ghi lại thế cờ. Khác với cờ vua, ô gốc tọa độ (ô 11) nằm ở góc trên bên phải bàn cờ thay vì góc dưới bên trái.
CLB Shogi Việt Nam sử dụng hệ ký hiệu phương Tây có điều chỉnh, trong đó sử dụng tên viết tắt của các quân cờ theo tiếng Việt.
Trong hệ thống ký hiệu phương Tây, cú pháp ghi nước đi bao gồm:
Ký hiệu viết tắt tên quân cờ + Cách di chuyển + Tọa độ điểm đến
Tên viết tắt các quân cờ như sau:
Ký hiệu cho cách di chuyển bao gồm: đi quân dùng dấu gạch nối -, bắt quân dùng chữ x và thả quân dùng dấu hoa thị *. Các cột được đánh số từ 1 đến 9 từ phải sang trái theo góc nhìn của Tiên. Hệ ký hiệu của Hodges ký hiệu các hàng bằng các chữ cái từ a đến i, tuy nhiên Hosking đã chỉnh sửa lại và đánh số hàng từ 1 đến 9 để khớp với hệ ký hiệu Nhật Bản. Các hàng được đánh số từ trên xuống dưới theo góc nhìn của Tiên. Như vậy, chẳng hạn Rx24/Xx24 nghĩa là "Xe bắt quân ở 24". Các quân phong cấp được ký hiệu bằng cách thêm dấu cộng + vào trước ký hiệu quân ban đầu (ví dụ +Rx24/+Xx24). Việc phong cấp quân cờ cũng được ký hiệu bằng dấu cộng + thêm vào sau cùng nước đi (ví dụ S-21+/B-21+), trong khi đó việc không phong cấp khi có cơ hội phong cấp được ký hiệu bằng dấu bằng = (ví dụ S-21=/B-21=). Trong trường hợp hai hay nhiều quân cùng loại có thể cùng đến 1 ô, sẽ chỉ rõ bằng cách thêm ô xuất phát vào trước ký hiệu cách di chuyển (ví dụ N65-53+/M(65)-53+ có nghĩa là "Mã từ 65 đi đến 53, phong cấp", để phân biệt với N45-53+/M(45)-53+).
Hệ ký hiệu Nhật Bản sử dụng ký tự tiếng Nhật để ký hiệu quân cờ, thể hiện sự phong cấp và dùng chữ số Hán tự thay cho chữ số Ả Rập để đánh số hàng. Thường không có ký hiệu cách di chuyển, ngoại trừ thả quân (tuy nhiên nếu thả quân là nước đi duy nhất của loại quân đó đến ô chỉ định thì ký hiệu này cũng không cần thiết). Trường hợp hai hay nhiều quân cùng loại có thể cùng đến 1 ô, cách phân biệt cũng khá khác so với hệ ký hiệu phương Tây. Chẳng hạn:
Thông thường trên các trang web, sách báo, v.v... về shogi, kết quả trận đấu được ký hiệu bằng vòng tròn màu trắng (○) đối với ván thắng và vòng tròn màu đen (●) đối với ván thua, mặc dù điều này không quy định trong hệ thống ký hiệu ghi chép ván cờ.
Chiến lược và chiến thuật
Mặc dù là bộ môn gần giống với cờ vua, shogi có cây trò chơi (game tree) phức tạp hơn nhiều vì những yếu tố như luật thả quân, số quân lớn hơn và bàn cờ nhiều ô hơn. Trung bình một ván shogi có 140 nước đi (tương đương 70 nước theo cách đếm của cờ vua - đếm nước đi của cả 2 bên là 1 nước), trong khi trung bình một ván cờ vua chỉ có khoảng 80 nước đi (40 nước theo cách đếm của cờ vua).
Dẫu vậy, tương tự cờ vua, một ván shogi có thể chia thành khai cuộc, trung cuộc và tàn cuộc, mỗi giai đoạn cần có chiến lược và chiến thuật khác nhau. Khai cuộc bao gồm xây dựng cấu trúc phòng thủ, thông thường là thành, và bố trí lực lượng tấn công; trung cuộc là giai đoạn vừa tấn công để phá cấu trúc phòng thủ của đối phương, vừa phòng thủ cấu trúc của mình; tàn cuộc là giai đoạn khi cấu trúc phòng thủ của một hoặc cả hai bên bị phá vỡ, thường là cuộc đua xem ai chiếu hết đối phương trước.
Trong hình bên, Tiên chọn khai cuộc Chấn Phi Xa (cụ thể là Tứ gian Phi Xa - Xe cột IV), ở đây Xe di chuyển ra khỏi vị trí ban đầu của nó sang cánh trái bàn cờ. Tiên cũng đang sử dụng thành Ngân quán (Vương miện Bạc, Ginkanmuri), đây là cấu trúc thành tạo bởi 1 Bạc và 2 Vàng bảo vệ Vua nằm bên trong. Cái tên Ngân quán là do quân Bạc nằm ngay trên đầu Vua ở ô 27 hệt như một chiếc vương miện. Trong hình, Hậu chọn khai cuộc Cư Phi Xa - giữ nguyên Xe ở vị trí ban đầu. Khai cuộc Cư Phi Xa trong hình là Cư Phi Xa Anaguma, sử dụng thành Anaguma. Đây là chiến thuật thường được sử dụng để chống lại Chấn Phi Xa. Anaguma là loại thành xây bằng cách đưa Vua vào tận trong góc bàn cờ ở ô 11 với Bạc nằm ở 22 để đóng kín lỗ hổng và hai Vàng ở 31 và 32 để gia cố thêm cho cấu trúc thành. Thế cờ này được tạo thành sau 33 nước đi (12 nước theo cách đếm của cờ vua).
Nghi thức
Là môn cờ mang nặng tính lễ nghi và văn hóa, người chơi shogi cần tuân theo những nghi thức bên cạnh luật chơi đã được mô tả trên đây. Thông thường nghi thức khi chơi shogi bao gồm:
Cúi chào đối thủ trước và sau ván đấu
Tránh các hành động ảnh hưởng đến đối phương trong khi ván đấu diễn ra hay sau khi ván đấu kết thúc, ví dụ:
Không rút lại nước đi sau khi đã thực hiện trên bàn cờ
Khi không muốn chơi tiếp thì không có những hành động gây ảnh hưởng đối phương như ném quân cờ tung tóe lên bàn cờ để tỏ thái độ khó chịu
Tuyên bố xin thua bằng lời nói
Thông thường các bộ shogi có 2 quân Vua có khắc chữ khác nhau là 王将 (Vương Tướng) và 玉将 (Ngọc Tướng). Người chơi có đẳng cấp, trình độ, địa vị xã hội hoặc tuổi tác cao hơn sẽ cầm quân Vương Tướng. Ví dụ, trong các ván đấu tranh danh hiệu, người đang giữ danh hiệu sẽ cầm quân Vương Tướng.
Người chơi ở địa vị cao hơn ngồi đối diện với cửa ra vào, và là người lấy quân cờ ra khỏi hộp.
Shogi không có luật chạm quân như trong các giải đấu cờ vua hay trong chu shogi. Tuy nhiên trong các ván đấu chuyên nghiệp, nước đi được coi là đã hoàn thành khi quân cờ rời tay. Trong các ván đấu nghiệp dư và cả chuyên nghiệp, có thể chạm bất cứ quân nào để chỉnh quân cờ cho cân với ô nó đang đứng.
Không được phép rút lại nước đi (待った matta) trong các ván đấu chuyên nghiệp. Tuy nhiên trong các ván đấu giải trí nghiệp dư thường cho phép rút lại nước đi.
Các kỳ thủ chuyên nghiệp cũng phải tuân theo một số quy tắc nặng tính lễ nghi, hình thức khác, ví dụ như quy tắc về trang phục hay ngồi ở tư thế chính tọa trong lúc xếp cờ cũng như khi chào nhau trước và sau ván đấu, v.v.
Xếp cờ
Theo truyền thống, cần phải xếp quân cờ theo thứ tự. Có hai cách xếp được sử dụng là kiểu và kiểu . Thứ tự xếp cờ cụ thể như sau, với các quân Vàng, Bạc, Mã và Thương luôn được xếp từ trái sang phải:
Vua
Vàng
Bạc
Mã
Theo kiểu Itō sẽ tiếp tục xếp như sau:
5. Tốt (từ trái sang phải)
6. Thương
7. Tượng
8. Xe
Theo kiểu Ōhashi sẽ tiếp tục xếp như sau:
5. Thương
6. Tượng
7. Xe
8. Tốt (bắt đầu từ cột trung tâm, sau đó tỏa dần ra ngoài, luân phiên xếp trái trước phải sau)
Furigoma (tung quân cờ)
Ở các giải đấu nghiệp dư, người có đẳng/cấp cao hơn hoặc người đang giữ chức vô địch/danh hiệu sẽ thực hiện furigoma. Trong các ván đấu chuyên nghiệp, một người thứ ba, thường là người bấm thời gian hoặc khách mời sẽ thực hiện furigoma thay cho kỳ thủ có đẳng/cấp cao hơn hoặc kỳ thủ giữ danh hiệu. Người này sẽ quỳ bên cạnh kỳ thủ này và tung quân lên một tấm vải lớn trải trên mặt sàn. Trong các ván đấu giải trí nghiệp dư, theo phép lịch sự một bên sẽ đề nghị đối phương thực hiện furigoma, hoặc cũng có thể oẳn tù tì để chọn người thực hiện furigoma.
Lịch sử
Trang The Chess Variant Pages viết:
Không rõ môn cờ du nhập vào Nhật Bản vào thời điểm nào. It is not clear when chess was brought to Japan. Shogi được cho là được nhắc đến lần đầu tiên trong lịch sử ở cuốn của tác giả Akihira Fujiwara (1058–1064). Di tích khảo cổ cổ nhất tìm thấy được về shogi là 16 quân cờ shogi tìm thấy trong lòng đất Chùa Hưng Phúc ở tỉnh Nara. Do những di tích này liên quan trực tiếp đến một tấm bảng gỗ khắc vào năm Thiên Hỷ thứ 6 (1058), có lẽ những quân cờ này được chế tác trong khoảng đó. Những quân cờ này được chế tác đơn giản bằng cách cắt tấm bảng gỗ ra thành hình ngũ giác như các quân cờ hiện đại, và viết tên quân cờ lên mặt quân.
Cuốn bách khoa thư (khoảng 1210-1221) tổng hợp dựa trên hai cuốn và mô tả hai biến thể shogi là "dai shogi" (大将棋, "shogi lớn") và "sho shogi" (小将棋, "shogi nhỏ"). Những biến thể này ngày nay được gọi là Heian shogi (平安将棋) và Heian dai shogi (平安大将棋). Shogi hiện đại hình thành dựa trên Heian shogi, tuy nhiên cuốn Nhị Trung Lịch cũng viết rằng một bên sẽ thắng ván cờ nếu bên kia chỉ còn lại Vua, có thể là dấu hiệu cho thấy biến thể này chưa có nước thả quân. Theo Shimizu Kōji - Giám đốc Nghiên cứu tại Viện Khảo cổ học Kashihara, tỉnh Nara, tên các quân cờ trong Heian shogi giữ các quân cơ bản của chaturanga (tướng, voi, ngựa, xe và tốt/lính) và thêm vào 5 bảo vật của Phật giáo (ngọc, vàng, bạc, "quế" (liên hương) và hương).
Biến thể dai shogi (大将棋, "shogi lớn", khác với Heian dai shogi ở trên) hình thành vào khoảng thế kỷ XIII với số quân tăng lên nhiều so với Heian shogi. Cùng thời gian đó xuất hiện biến thể sho shogi, bổ sung thêm quân Xe, Tượng và Túy tượng từ dai shogi vào Heian shogi. Quân Túy tượng (酔象, "voi say") đi được 1 ô theo mọi hướng trừ đi lùi thẳng, phong cấp thành Thái tử (太子), có vai trò như quân Vua thứ hai mà đối phương cần phải bắt cùng với quân Vua để có thể thắng ván cờ. Khoảng thế kỷ XV, luật của dai shogi được đơn giản hóa và trở thành biến thể chu shogi. Biến thể này, giống như tiền thân của nó là dai shogi, có nhiều quân cờ đặc trưng, ví dụ như quân Bôn vương (đi như Hậu cờ vua) và quân Sư tử (đi như Vua nhưng được đi 2 lần trong 1 lượt, có thể ăn quân 2 lần trong 1 lượt, và có những nước đi đặc biệt khác). Chu shogi dần trở nên phổ biến hơn hẳn trong khi dai shogi không còn phổ biến nữa. Chu shogi phổ biến ngang ngửa với sho shogi cho đến khi sho shogi có luật thả quân, dù vậy chu shogi vẫn khá phổ biến đến khoảng sau Thế chiến thứ 2, đặc biệt là ở Kyoto.
Người ta cho rằng luật shogi hiện đại đã được hoàn thiện ở thế kỷ 16 khi loại bỏ quân Túy tượng ra khỏi sho shogi. Tuy nhiên không tài liệu nào ghi lại thời điểm luật thả quân được đưa vào shogi.
Trong thời kỳ Edo sinh ra nhiều biến thể shogi như tenjiku shogi, dai dai shogi, maka dai dai shogi, tai shogi, và taikyoku shogi. Tuy nhiên người ta cho rằng những biến thể này chỉ được chơi trong phạm vi rất hẹp. Mạc phủ Tokugawa khuyến khích phát triển cả hai bộ môn cờ vây và shogi hiện đại. Vào năm 1612, triều đình Mạc phủ thông qua đạo luật tài trợ cho các kỳ thủ shogi hàng đầu như các Danh Nhân. Vào thời Tướng quân thứ 8 Tokugawa Yoshimune, các giải đấu shogi trong thành được tổ chức hằng năm vào ngày 17 tháng 10 âm lịch, theo đó hiện nay ngày 17 tháng 11 theo lịch Gregorian được chọn làm Ngày Shogi.
Danh hiệu Danh Nhân tại thời điểm đó mang tính cha truyền con nối trong hai gia tộc Ōhashi và Itō cho đến khi Mạc phủ sụp đổ. Sau đó danh hiệu này được trao trên cơ sở tiến cử. Hiện nay, danh hiệu Danh Nhân được trao cho người giành chiến thắng loạt tranh ngôi Danh Nhân Chiến, đây cũng là trận đấu tranh danh hiệu đầu tiên của shogi hiện đại. Từ khoảng năm 1899, các tờ báo lớn bắt đầu xuất bản kỳ phổ các trân đấu shogi chuyên nghiệp, đồng thời các kỳ thủ đẳng cấp cao bắt đầu liên kết với nhau thành tổ chức để xuất bản các ván đấu của họ trên các báo. Tổ chức được thành lập vào năm 1909, sau đó được thành lập vào năm 1924. Hai tổ chức này là tiền thân của , và tổ chức này lấy năm 1924 làm năm thành lập.
Vào năm 1935, Sekine Kinjirō Danh Nhân thoái vị để danh hiệu Danh Nhân được trao tặng thông qua thi đấu - giải đấu . là kỳ thủ đầu tiên giành danh hiệu Danh Nhân qua hệ thống này vào năm 1937. Điều này đã khởi nguồn cho các giải đấu shogi tranh danh hiệu sau này. Sau Thế chiến thứ 2, một số giải đấu khác được nâng lên thành giải tranh danh hiệu, và đến năm 2017 với sự hình thành danh hiệu Duệ Vương, tổng cộng hiện tại có 8 danh hiệu trong hệ thống shogi chuyên nghiệp Nhật Bản. Hiện tại có khoảng gần 200 kỳ thủ chuyên nghiệp đang hoạt động và thi đấu. Mỗi năm, kỳ thủ giữ danh hiệu sẽ phòng thủ danh hiệu trước người thách đấu (khiêu chiến giả) được chọn ra qua giải đấu của danh hiệu đó, theo thể thức vòng tròn hoặc loại trực tiếp.
Sau Thế chiến thứ 2, chính quyền của quân Đồng minh chiếm đóng Nhật Bản (Tổng Tư lệnh tối cao của lực lượng Đồng minh, SCAP) cố gắng loại bỏ các yếu tố "phong kiến" khỏi xã hội Nhật Bản, trong danh sách những yếu tố có thể bị loại bỏ có bao gồm shogi cùng với Võ sĩ đạo và những yếu tố văn hóa khác. Lý do cấm shogi được SCAP đưa ra do luật thả quân có thể ngầm chỉ việc lạm dụng tù nhân chiến tranh. Tuy nhiên Masuda Kōzō Bát đẳng, đương thời là một trong những kỳ thủ shogi hàng đầu, khi bị SCAP thẩm vấn đã chỉ trích góc nhìn này về shogi, cho rằng không phải shogi mà chính cờ vua mới là môn có thể ngầm chỉ việc lạm dụng tù nhân, bởi lẽ trong cờ vua quân đối phương bị bắt xem như bị "giết", trong khi shogi có phần nhân đạo và dân chủ hơn khi cho các "tù nhân" có cơ hội quay trở lại ván cờ. Masuda cũng cho rằng cờ vua đi ngược lại lý tưởng bình đẳng giới của xã hội châu Âu, bởi vì quân Vua dùng quân Hậu để che chắn và chạy trốn. Lập luận này của Masuda được cho là đã giúp cho shogi không bị cấm sau đó.
Các giải đấu
Liên đoàn Shogi Nhật Bản là tổ chức lớn nhất điều hành các giải đấu shogi chuyên nghiệp cũng như quản lý các kỳ thủ chuyên nghiệp tại Nhật Bản. Các kỳ thủ chuyên nghiệp hàng đầu nhận được thu nhập cao từ tiền thưởng của các giải đấu. Trong năm 2022, các kỳ thủ có thu nhập cao nhất gồm có Fujii Sōta Long Vương (122,05 triệu yên) và Watanabe Akira Danh Nhân (70,63 triệu yên).
Có hai loại kỳ thủ chuyên nghiệp được Liên đoàn công nhận: và . Đẳng/cấp của hai hệ thống này không tương đương mà chênh lệch nhau khá nhiều, và tiêu chí thăng đẳng/cấp cũng không giống nhau. Mặc dù hệ thống kỳ thủ chuyên nghiệp mở rộng cho cả hai giới nam và nữ, trong lịch sử chưa từng có kỳ thủ nữ nào đủ khả năng trở thành kỳ thủ chuyên nghiệp. Do đó, hệ thống Nữ Lưu kỳ sĩ được Liên đoàn thành lập từ năm 2006 dành riêng cho các kỳ thủ nữ (tương tự hệ thống danh hiệu dành cho nữ trong cờ vua). Thành tích cao nhất mà một kỳ thủ nữ đạt được là Tam đẳng chuyên nghiệp tại Trường Đào tạo Kỳ thủ. Đến nay mới chỉ có Satomi Kana Nữ lưu Ngũ quán, Nishiyama Tomoka Nữ lưu Tam quán và Naka Nanami Tam đẳng là những kỳ thủ nữ đạt được thành tích này.
Vào năm 2007, một nhóm Nữ Lưu kỳ sĩ đã tách khỏi Liên đoàn và thành lập . Tổ chức này cùng với Nữ Lưu kỳ sĩ hội (tổ chức con của Liên đoàn) quản lý các Nữ Lưu kỳ sĩ cũng như tổ chức các giải đấu Nữ Lưu. Hai tổ chức cũng đã đi đến thỏa thuận hợp tác để quảng bá bộ môn này thông qua các giải đấu và các sự kiện khác.
Liên đoàn Shogi Nhật Bản là tổ chức duy nhất có quyền tổ chức các giải đấu chuyên nghiệp, có thể kể đến tám giải đấu tranh danh hiệu (Bát đại danh hiệu) và các giải đấu chuyên nghiệp khác. Vào năm 1996, Habu Yoshiharu trở thành người đầu tiên đạt được thành tích Thất quán - giữ cùng lúc 7 danh hiệu lớn của shogi Nhật Bản. Sau khi thành lập danh hiệu thứ tám (Duệ Vương) vào năm 2017, Fujii Sōta là kỳ thủ thứ hai đạt được thành tích Thất quán vào năm 2023 sau khi đánh bại Watanabe Akira để giành danh hiệu Danh Nhân. Fujii cũng đã trở thành kỳ thủ đầu tiên đạt thành tích Bát quán - độc chiếm cùng lúc 8 danh hiệu lớn, sau khi giành danh hiệu Vương Toạ từ tay Nagase Takuya tại Vương Toạ Chiến kỳ 71 (2023).
Liên đoàn Shogi Nhật Bản cùng với Hiệp hội Shogi chuyên nghiệp nữ Nhật Bản đều tổ chức các giải đấu Nữ Lưu (chung và riêng). Hệ thống Nữ Lưu cũng có 8 danh hiệu lớn, các giải đấu nghiệp dư có thể do chính Liên đoàn hay Hiệp hội chuyên nghiệp nữ tổ chức, hoặc do các CLB, các tờ báo địa phương, các công ty, cơ sở giáo dục hoặc chính quyền địa phương tổ chức dưới sự hướng dẫn của Liên đoàn và Hiệp hội.
Từ những năm 1990, shogi bắt đầu phát triển ra ngoài biên giới Nhật Bản, đặc biệt là tại Trung Quốc, châu Âu, Nam Mỹ và Đông Nam Á. Những khu vực này cũng đã hình thành những tổ chức shogi cho riêng mình, nổi bật nhất là Liên đoàn Shogi châu Âu (FESA).
Shogi máy tính
Trong các biến thể cờ phổ biến, shogi là bộ môn phức tạp nhất. Từ những năm 1970, máy tính bắt đầu phát triển vượt bậc về khả năng chơi shogi. Vào năm 2007, Habu Yoshiharu ước tính rằng kỳ lực của Bonanza, phần mềm shogi vô địch shogi máy tính thế giới năm 2006, ngang với Nhị đẳng chuyên nghiệp tại Trường đào tạo.
Trước đây, Liên đoàn từng hạn chế không cho các kỳ thủ chuyên nghiệp thi đấu với máy tính trước công chúng khi chưa được cho phép, với lý do quảng bá môn shogi và để kiếm tiền từ các sự kiện thi đấu giữa người - máy tính.
Vào ngày 12 tháng 10 năm 2010, sau khoảng 35 năm phát triển, lần đầu tiên máy tính đã đánh bại con người - Shimizu Ichiyo Nữ lưu Lục đẳng đã thất bại trước phần mềm Akara2010 trong một ván đấu kéo dài khoảng 6 tiếng đồng hồ.
Vào ngày 24 tháng 7 năm 2011, các phần mềm máy tính Bonanza và Akara đã lần lượt đánh bại một đội gồm hai kỳ thủ nghiệp dư trong 2 ván đấu. Thời gian suy nghĩ cho hai kỳ thủ nghiệp dư là 1 tiếng (đồng hồ cờ vua) + 3 phút mỗi nước đi sau khi hết giờ, trong khi thời gian cho máy tính là 25 phút (đồng hồ cờ vua) + 10 giây mỗi nước đi sau khi hết giờ.
Vào ngày 20 tháng 4 năm 2013, phần mềm GPS Shogi đã đánh bại Miura Hiroyuki Bát đẳng trong một ván đấu kéo dài 102 nước đi trong vòng hơn 8 tiếng đồng hồ.
Vào ngày 13 tháng 12 năm 2015, tài khoản có hệ số Elo cao nhất trên trang shogi trực tuyến Shogi Club 24 là phần mềm máy tính Ponanza với Elo là 3455.
Vào ngày 10 tháng 4 năm 2016, phần mềm Ponanza đã đánh bại Yamasaki Takayuki Bát đẳng trong vòng 85 nước. Yamasaki Bát đẳng đã sử dụng tới 7 giờ 9 phút suy nghĩ.
Vào tháng 10 năm 2017, công ty DeepMind tuyên bố rằng phần mềm AlphaZero do công ty này phát triển, sau 9 tiếng luyện tập đã đánh bại phần mềm elmo sau loạt 100 ván đấu, trong đó thắng 90 ván, thua 8 ván và hòa 2 ván.
Trên góc nhìn về độ phức tạp tính toán, nhìn chung shogi là bài toán EXPTIME-complete.
Văn hóa
Habu Yoshiharu Cửu đẳng cho rằng ở Nhật Bản shogi không chỉ được xem là một trò chơi giải trí hay một môn thể thao trí tuệ, mà là một môn nghệ thuật - một phần của văn hóa truyền thống Nhật Bản cùng với thơ haiku, thơ tanka, kịch nō, nghệ thuật cắm hoa ikebana và trà đạo. Shogi đạt đến địa vị này nhờ hệ thống iemoto do triều đình Mạc phủ thiết lập.
Thành phố Tendō thuộc tỉnh Yamagata là nơi có làng nghề truyền thống sản xuất quân và bàn cờ shogi, là nơi cung cấp quân và bàn cờ shogi chất lượng cao đi khắp Nhật Bản. Ở đây có được tổ chức vào tháng 4 nàng năm.
Chữ Mã 馬 (ký hiệu quân Tượng rồng/Long mã) ngược (左馬, hidari uma) thường xuất hiện trên các mặt hàng lưu niệm (như tượng quân cờ khổng lồ để trang trí, móc khóa, bùa may mắn và các vật phẩm khác) bán tại thành phố Tendō, Yamagata như là một biểu tượng may mắn. Có nhiều giả thuyết về nguồn gốc của biểu tượng này. Giả thuyết phổ biến nhất là uma (うま) đọc ngược lại sẽ là まう mau (舞う), nghĩa là nhảy múa, và hình tượng ngựa nhảy múa trong văn hóa Nhật Bản được cho là mang lại may mắn.
Trong văn hóa đại chúng
Trong loạt manga và anime Naruto, shogi đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển nhân vật Nara Shikamaru. Cậu thường chơi cờ với thầy của cậu là Sarutobi Asuma, lần nào cũng đánh thắng thầy. Asuma hy sinh trong 1 trận chiến với Hidan và Kakuzu của Akatsuki. Trước khi nhắm mắt Asuma đã nói với Shikamaru những lời cuối cùng khiến cậu nhớ mãi: "Tất cả ninja đều giống như những quân cờ, hi sinh để bảo vệ Vua. Và quân Vua chính là những đứa trẻ - thế hệ mai sau của Làng Lá."
Shogi đóng vai trò quan trọng trong cốt truyện của các loạt manga - anime Quân Vua của Shion, Sư tử tháng 3, loạt light novel - anime Công việc của Long Vương, cũng như loạt manga - phim truyền hình 81diver.
Trong loạt manga - anime Durarara!!, nhân vật môi giới tin tức Orihara Izaya chơi một môn cờ nhập cả cờ vua, cờ vây và shogi trên cùng một bàn cờ, biểu trưng cho những cuộc ẩu đả ở Ikebukuro.
Trong loạt manga - anime Soredemo Ayumu wa Yosetekuru, học sinh năm 2 Trung học Phổ thông Yaotome Urushi là chủ tịch CLB shogi của trường cô, tuy nhiên CLB này không được công nhận do không có đủ thành viên - thành viên duy nhất ngoài cô là chàng học sinh năm nhất Tanaka Ayumu.
Xem thêm
Thể thao trí tuệ
Chiến lược và chiến thuật shogi
Biến thể Shogi
Chu shogi
Dai shogi
Dōbutsu shōgi
Tsumeshogi
Biến thể cờ vua
Crazyhouse
Shogi máy tính
Janggi
Cờ tướng
Ghi chú
Tham khảo
Thư mục
SHOGI Magazine (70 issues, January 1976 – November 1987) by The Shogi Association (edited by George Hodges)
Liên kết ngoài
Shogi Shack
Reijer Grimbergen's Shogi Page
Shogi.Net
Shogi Hub kênh thông tin về các giải đấu, sự kiện shogi toàn cầu bằng tiếng Anh (đã dừng hoạt động)
Shogi-L danh sách gửi thư shogi
Trang Shogi Ricoh
Thuật ngữ shogi Nhật-Anh
Từ vựng Shogi cơ bản của Hans Geuns
Tạp chí Shogi quốc tế
Quy tắc
Luật Shogi - Câu lạc bộ Shogi Việt Nam (chi nhánh trực thuộc Liên đoàn Shogi Nhật Bản tại Việt Nam) (năm 2022)
Shogi Harbour: Level 1 Shogi Course by women's professional player Karolina Fortin
40 shogi lessons on YouTube by HIDETCHI
An Introduction to Shogi for Chess Players
Shogi by Hans L. Bodlaender and Fergus Duniho, The Chess Variant Pages
Rules and Manners of Shogi by Tomohide Kawasaki (a.k.a. HIDETCHI)
FESA - Shogi official playing rules
Shogi, the Japanese Chess by Jean-Louis Cazaux
Shogi and Dobutsu-Animal shogi rules to download by Filip Marek
Chơi trực tuyến
81Dojo Trang chơi shogi trực tuyến được Liên đoàn Shogi Nhật Bản tài trợ
Lishogi free and open source shogi server
Shogi Dojo 24 shogi server in Japan
Shogi Wars
Shogi Quest
PlayOK shogi
GoldToken online turn-based shogi
World Shogi League Giải đấu shogi toàn cầu do 81Dojo tổ chức, được Liên đoàn Shogi Nhật Bản tài trợ
HamShogi handicap shogi against the computer, instructions
boardspace.net real time play against human or (weak) computer players.
Công cụ trực tuyến
将棋DB2 shogi game record database
Kyokumenpedia game record databases as move decision tree with user-generated wiki annotations (associated with 81Dojo)
Shogi Playground record or play through games, mate problems, board positions
Create Shogi Diagram on the Web
Shogi
Trò chơi chiến thuật trừu tượng
Trò chơi Nhật Bản
Trò chơi trên bàn cổ điển
Trò chơi liên quan đến chaturanga
|
26842
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Li%C3%AAn%20%C4%91o%C3%A0n%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20ch%C3%A2u%20Phi
|
Liên đoàn bóng đá châu Phi
|
Liên đoàn bóng đá châu Phi ( - CAF) là một trong sáu liên đoàn bóng đá cấp châu lục, điều hành bóng đá ở Châu Phi. CAF được thành lập ngày 19 tháng 8 năm 1957. Chủ tịch hiện nay là ông Ahmad Ahmad, người Madagascar.
Chủ tịch CAF
Abdel Aziz Abdallah Salem (Ai Cập): 1957 - 1958.
Tướng Abdel Aziz Mostafa (Ai Cập): 1958 - 1968.
Tiến sĩ Abdel Halim Mohamed (Sudan): 1968 - 1972.
Ydnekatchew Tessema (Ethiopia): 1972 - 1987.
Tiến sĩ Abdel Halim Mohamed (Sudan): 1987 - 1988.
Issa Hayatou (Cameroon): 1988 - 2017.
Ahmad Ahmad (Madagascar): 2017 - nay.
Chủ tịch danh dự
Tướng Abdel Aziz Mostafa (Ai Cập) +
Ydnekatchew Tessema (Ethiopia) +
Tiến sĩ Abdel Halim Mohamed (Sudan).
Tổng thư ký CAF
Youssef Mohamed (Ai Cập): 1957 - 1958.
Mustafa Kamel Mansour (Ai Cập): 1958 - 1961.
Mourad Fahmy (Ai Cập): 1961 - 1982.
Mustapha Fahmy (Ai Cập): 1982 - 1999.
Sodiq Kola (Nigeria): 1999 - 2017.
Amr Fahmy (Ai Cập): 2017 - nay.
Bảng xếp hạng FIFA
Bóng đá nam
Bảng xếp hạng được công bố bởi FIFA
Cập nhật lần cuối: 24 tháng 10 năm 2019
Bóng đá nữ
Bảng xếp hạng được công bố bởi FIFA.
Các giải thi đấu cấp đội tuyển quốc gia
Cúp bóng đá châu Phi
Giải vô địch bóng đá các quốc gia châu Phi
Giải vô địch bóng đá trẻ châu Phi
Giải vô địch bóng đá U-17 châu Phi
Cúp bóng đá nữ châu Phi
Giải vô địch bóng đá nữ U-20 châu Phi
Giải vô địch bóng đá nữ U-17 châu Phi
Giải vô địch bóng đá trong nhà châu Phi
Giải vô địch bóng đá bãi biển châu Phi
Đại hội Thể thao Toàn Phi
Các giải thi đấu cấp câu lạc bộ
Giải vô địch các câu lạc bộ châu Phi
Cúp Liên đoàn CAF
Siêu cúp CAF
Cúp các câu lạc bộ CECAFA
Cầu thủ xuất sắc nhất châu Phi
Các giải đấu quốc tế của nam
World Cup
CAN
Giải vô địch bóng đá trong nhà thế giới
Thế vận hội Mùa hè
African Games
Cúp bóng đá U-23 châu Phi
Giải vô địch bóng đá U-20 thế giới
Cúp bóng đá U-20 châu Phi
Giải vô địch bóng đá U-17 thế giới
Cúp bóng đá U-17 châu Phi
Các giải đấu quốc tế của nữ
World Cup
CAN
Thế vận hội Mùa hè
African Games
Giải vô địch bóng đá U-20 thế giới
Giải vô địch bóng đá U-20 châu Phi
Giải vô địch bóng đá U-17 thế giới
Giải vô địch bóng đá U-17 châu Phi
Các giải đấu quốc tế khác
Giải vô địch bóng đá bãi biển thế giới
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang web chính thức của Liên đoàn bóng đá châu Phi
Liên đoàn bóng đá cấp châu lục
|
26843
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90a%20nguy%C3%AAn
|
Đa nguyên
|
Đa nguyên theo nghĩa tổng quát triết học là sự xác nhận và chấp nhận tính đa dạng. Khái niệm này thường được dùng theo nhiều cách khác nhau trong nhiều vấn đề khác nhau. Trong chính trị, sự xác nhận tính phong phú về các mối quan tâm và niềm tin của toàn thể công dân là một trong số các đặc tính quan trọng của nền dân chủ hiện đại. Trong khoa học, khái niệm này thường miêu tả quan điểm cho rằng có vài, không phải duy nhất, phương pháp, lý thuyết hay quan điểm là hợp lý hoặc đáng tin cậy. Thái độ này được cho là một yếu tố quan trọng cho tiến bộ khoa học. Thuật ngữ đa nguyên cũng được dùng với một số nghĩa khác trong ngữ cảnh tôn giáo và triết học.
Trong chính trị, Đa nguyên được hiểu là sự đa dạng về ý thức hệ. Trong văn hóa – dân tộc, Đa nguyên là sự đa dạng về sắc màu văn hóa – dân tộc.
Triết học
Học thuyết triết học đa nguyên luận chỉ thừa nhận sự tồn tại của nhiều nguyên thể khác biệt, độc lập với nhau trong thế giới, thế giới được hợp thành bởi nhiều bản nguyên.
Tôn giáo tín ngưỡng,tâm linh học
Trong tôn giáo học, tính đa nguyên còn chỉ sự tồn tại của nhiều tôn giáo trong một xã hội. Hiện nay trong cuộc sống, nhiều chính quyền đã phải thừa nhận xu hướng "Đa nguyên trong tôn giáo", nghĩa là chấp nhận nhiều tôn giáo mới du nhập trên mặt pháp lý lẫn thực địa.
Việc thừa nhận nhiều tôn giáo trong một xã hội xuất hiện nhiều ở các nước Phương Đông hơn các nước Phương Tây vì ở Phương Tây Kitô giáo mang một tính chất độc quyền, phản đối tính đa nguyên tôn giáo, gắn cho các tôn giáo khác cái mác dị giáo trong một thời gian dài.
Kinh tế – chính trị
Học thuyết đa nguyên trong kinh tế – chính trị học cho rằng cần có nhiều lực lượng chính trị, nhiều đảng phái trong một quốc gia (chống lại vai trò độc quyền lãnh đạo của một đảng); nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại và đua tranh với nhau, không có thành phần kinh tế chủ đạo.
Xem thêm
Nhất nguyên
Nhị nguyên
Bất nhị
Tham khảo
Lý thuyết nhận thức luận
Lý thuyết siêu hình
Triết học tinh thần
|
26849
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nam%20ch%C3%A2m
|
Nam châm
|
Nam châm là vật liệu hoặc vật thể tạo ra từ trường. Từ trường này là vô hình nhưng chịu trách nhiệm cho tính chất đáng chú ý nhất của nam châm: tạo ra một lực kéo các vật liệu từ khác (như sắt), và hút (hoặc đẩy) các nam châm khác.
Nam châm vĩnh cửu là một vật thể được làm từ một vật liệu được từ hóa và tạo ra từ trường ổn định của chính nó. Một ví dụ hàng ngày là một nam châm tủ lạnh được sử dụng để giữ ghi chú trên cửa tủ lạnh. Vật liệu có thể được từ hóa, mà còn là những vật được thu hút mạnh mẽ đối với một nam châm, được gọi là sắt từ (hoặc ferrimagnetic). Chúng bao gồm các nguyên tố sắt, nickel và cobalt và hợp kim của chúng, một số hợp kim của kim loại đất hiếm và một số khoáng chất tự nhiên như lodestone. Mặc dù vật liệu sắt từ (và sắt từ) là những vật liệu duy nhất bị nam châm hút đủ mạnh để được coi là từ tính, nhưng tất cả các chất khác phản ứng yếu với từ trường, bởi một trong một số loại từ tính khác.
Vật liệu sắt từ có thể được chia thành các vật liệu "mềm" từ tính như sắt ủ, có thể được từ hóa nhưng không có xu hướng bị từ hóa, và các vật liệu "cứng" từ tính. Nam châm vĩnh cửu được chế tạo từ các vật liệu sắt từ "cứng" như alnico và ferrite được xử lý đặc biệt trong từ trường mạnh trong quá trình sản xuất để sắp xếp cấu trúc vi tinh thể bên trong của chúng, khiến chúng rất khó bị khử từ. Để khử từ một nam châm bão hòa, phải sử dụng một từ trường nhất định và ngưỡng này phụ thuộc vào lực kháng từ của vật liệu tương ứng. Vật liệu "cứng" có lực kháng từ cao, trong khi vật liệu "mềm" có lực kháng từ thấp. Sức mạnh tổng thể của một nam châm được đo bằng mômen từ của nó hoặc, thay vào đó, tổng từ thông mà nó tạo ra. Sức mạnh cục bộ của từ tính trong vật liệu được đo bằng từ hóa của nó.
Một nam châm điện được tạo ra từ một cuộn dây có tác dụng như một nam châm khi một dòng điện đi qua nó nhưng dừng lại là một nam châm khi dòng điện dừng lại. Thông thường, cuộn dây được quấn quanh lõi của vật liệu sắt từ "mềm" như thép carbon, giúp tăng cường đáng kể từ trường do cuộn dây tạo ra.
Tên gọi và ý nghĩa
Từ Nam Châm (南針) được lấy từ Chỉ Nam Châm (指南針), có nghĩa là "Kim chỉ Nam" hay đầy đủ hơn là "cây kim chỉ về phía Nam". Khi cây kim nhiễm từ và ở trạng thái treo, theo Lực từ của Trái Đất, nó sẽ chỉ về hướng Nam. Và đó chính là ứng dụng cơ bản cho La bàn. Ngày nay từ "Kim chỉ Nam" thường dùng với nghĩa đen là la bàn và nghĩa bóng là "sự dẫn hướng đúng đắn và hợp lý", còn "Nam Châm" thường dùng để gọi vật đang có từ trường và có thể hút được vật liệu sắt từ.
Khám phá và phát triển
Người cổ đại đã học về từ tính từ đá vôi (hoặc từ tính) là những mảnh quặng sắt được từ hóa tự nhiên. Từ magnet đã được đưa vào tiếng Anh từ tiếng Latin magnetum " cục nam châm ", mà đến từ Hy Lạp (Magntis [lithos]) có nghĩa là "[đá] từ Magnesia", một phần của Hy Lạp cổ đại nơi tìm thấy các lodestone có từ tính. Lodestone, được treo lơ lửng để chúng có thể quay, là những la bàn từ tính đầu tiên. Các mô tả sớm nhất còn tồn tại của nam châm và tính chất của chúng là từ Hy Lạp, Ấn Độ và Trung Quốc khoảng 2500 năm trước. Các đặc tính của lodestone và mối quan hệ của chúng đối với sắt được Pliny the Elder viết lại trong bách khoa toàn thư của ông Naturalis Historia.
Vào thế kỷ 12 đến 13 sau Công nguyên, la bàn từ tính đã được sử dụng trong định vị hoa tiêu ở Trung Quốc, Châu Âu, Bán đảo Ả Rập và các nơi khác.
Ứng dụng vật lý
Từ trường
Mật độ từ thông (còn gọi là từ trường B hoặc chỉ từ trường, thường được ký hiệu là B) là một trường vectơ. Vectơ từ trường B tại một điểm nhất định trong không gian được chỉ định bởi hai thuộc tính:
Hướng của nó, đó là dọc theo hướng của kim la bàn.
Độ lớn của nó (còn được gọi là sức mạnh), tỷ lệ thuận với mức độ mạnh mẽ của kim la bàn hướng dọc theo hướng đó.
Trong các đơn vị SI, cường độ của từ trường B được tính bằng tesla.
Mômen từ
Khoảnh khắc từ của nam châm (còn gọi là mômen lưỡng cực từ và thường được ký hiệu là μ) là một vectơ đặc trưng cho tính chất từ tính tổng thể của nam châm. Đối với một thanh nam châm, hướng của mô men từ chỉ từ cực nam của nam châm đến cực bắc của nó, và độ lớn liên quan đến mức độ mạnh và khoảng cách giữa các cực này. Trong các đơn vị SI, mô men từ được đo bằng A · m² (ampe mét bình phương).
Một nam châm vừa tạo ra từ trường riêng của nó vừa phản ứng với các từ trường khác. Độ mạnh của từ trường mà nó tạo ra là tại bất kỳ điểm nào cho tỉ lệ với độ lớn của mô men từ của nó. Ngoài ra, khi nam châm được đưa vào một từ trường bên ngoài, được tạo ra bởi một nguồn khác, nó phải chịu một mô-men xoắn có xu hướng định hướng mô men từ song song với từ trường. Lượng mô-men xoắn này tỷ lệ thuận với mô men từ và trường ngoài. Một nam châm cũng có thể chịu một lực đẩy nó theo hướng này hay hướng khác, theo vị trí và hướng của nam châm và nguồn. Nếu trường đồng nhất trong không gian, nam châm không chịu lực ròng, mặc dù nó chịu mô-men xoắn.
Một sợi dây có dạng hình tròn có diện tích A và mang dòng điện cường độ I sẽ có momen từ bằng IA.
Từ hóa
Từ hóa của vật liệu từ hóa là giá trị cục bộ của mô men từ của nó trên một đơn vị thể tích, thường được ký hiệu là M, với đơn vị A/m. Đó là một trường vectơ, thay vì chỉ là một vectơ (như mô men từ), bởi vì các khu vực khác nhau trong một nam châm có thể được từ hóa với các hướng và cường độ khác nhau (ví dụ, vì các miền, xem bên dưới). Một thanh nam châm tốt có thể có mô men từ có cường độ 0,1 A • m² và thể tích 1 cm 3 hoặc 1×106 m³, và do đó cường độ từ hóa trung bình là 100.000 A/m. Sắt có thể có từ hóa khoảng một triệu ampe mỗi mét. Một giá trị lớn như vậy giải thích tại sao nam châm bằng sắt rất hiệu quả trong việc tạo ra từ trường.
Mô hình nam châm
Hai mô hình khác nhau tồn tại cho nam châm: cực từ và dòng nguyên tử.
Mặc dù đối với nhiều mục đích, thật thuận tiện khi nghĩ rằng nam châm có cực từ nam và bắc riêng biệt, khái niệm về cực không nên được hiểu theo nghĩa đen: nó chỉ là một cách để chỉ hai đầu khác nhau của nam châm. Nam châm không có các hạt phía bắc hoặc phía nam riêng biệt ở hai bên đối diện. Nếu một thanh nam châm bị vỡ thành hai mảnh, trong nỗ lực tách hai cực bắc và nam, kết quả sẽ là hai nam châm thanh, mỗi thanh có cả hai cực bắc và nam. Tuy nhiên, một phiên bản của phương pháp cực từ được các nhà nghiên cứu từ tính chuyên nghiệp sử dụng để thiết kế nam châm vĩnh cửu.
Trong phương pháp này, sự phân kỳ của từ hóa ∇ · M bên trong một nam châm và thành phần bình thường bề mặt M · n được coi là sự phân bố của các đơn cực từ. Đây là một thuận tiện toán học và không ngụ ý rằng thực sự có các đơn cực trong nam châm. Nếu phân phối cực từ được biết đến, thì mô hình cực cho từ trường H. Bên ngoài nam châm, trường B tỷ lệ với H, trong khi bên trong từ hóa phải được thêm vào H. Một phần mở rộng của phương pháp này cho phép tích điện từ bên trong được sử dụng trong các lý thuyết về sắt từ.
Phân cực
Cực bắc của nam châm được định nghĩa là cực mà khi nam châm lơ lửng tự do, hướng về cực Bắc của Trái Đất ở Bắc Cực (các cực từ và địa lý không trùng nhau, nhìn thấy sự suy giảm từ tính). Do các cực đối diện (bắc và nam) thu hút, cực từ Bắc thực sự là cực nam của từ trường Trái Đất. Như một vấn đề thực tế, để cho biết cực của nam châm ở phía bắc và phía nam, không nhất thiết phải sử dụng từ trường của Trái Đất. Ví dụ, một phương pháp sẽ là so sánh nó với một nam châm điện, có thể xác định được cực của chúng bằng quy tắc bàn tay phải. Các đường sức từ của một nam châm được coi là theo quy ước xuất hiện từ cực bắc của nam châm và nhập lại ở cực nam.
Vật liệu từ tính
Thuật ngữ nam châm thường được dành riêng cho các đối tượng tạo ra từ trường liên tục của riêng chúng ngay cả khi không có từ trường ứng dụng. Chỉ một số lớp vật liệu nhất định có thể làm điều này. Tuy nhiên, hầu hết các vật liệu tạo ra một từ trường để đáp ứng với từ trường ứng dụng - một hiện tượng được gọi là từ tính. Có một số loại từ tính, và tất cả các vật liệu trưng bày ít nhất một trong số chúng.
Hành vi từ tính tổng thể của vật liệu có thể rất khác nhau, tùy thuộc vào cấu trúc của vật liệu, đặc biệt là cấu hình electron của nó. Một số dạng hành vi từ đã được quan sát thấy trong các vật liệu khác nhau, bao gồm:
Sắt từ và ferrimagnetic là những vật liệu bình thường coi như có từ tính; chúng bị hút bởi một nam châm đủ mạnh với sự hấp dẫn thấy được. Những vật liệu này là những vật liệu duy nhất có thể giữ được từ hóa và trở thành nam châm; một ví dụ phổ biến là một nam châm tủ lạnh truyền thống. Vật liệu Ferrimagnetic, trong đó bao gồm ferrites và vật liệu từ tính lâu đời nhất magnetite và đá nam châm, cũng tương tự như nhưng yếu hơn ferromagnetics. Sự khác biệt giữa vật liệu sắt và sắt từ có liên quan đến cấu trúc kính hiển vi của chúng, như được giải thích trong Từ học.
Các chất thuận từ, chẳng hạn như bạch kim, nhôm và oxy, bị thu hút với lực yếu khi đến gần hai cực của nam châm. Điểm thu hút này yếu hơn hàng trăm nghìn lần so với vật liệu sắt từ, do đó, nó chỉ có thể được phát hiện bằng cách sử dụng các dụng cụ nhạy cảm hoặc sử dụng nam châm cực mạnh. Nước từ có từ tính, mặc dù chúng được làm từ các hạt sắt từ nhỏ lơ lửng trong chất lỏng, đôi khi được coi là thuận từ vì chúng không thể bị nhiễm từ.
Nghịch từ có nghĩa là bị đẩy lùi bởi cả hai cực. So với các chất thuận từ và sắt từ, các chất nghịch từ tính, như carbon, đồng, nước và nhựa, thậm chí còn bị đẩy mạnh hơn bởi nam châm. Độ thấm của vật liệu từ tính nhỏ hơn độ thấm của chân không. Tất cả các chất không sở hữu một trong các loại từ tính khác là từ tính; điều này bao gồm hầu hết các chất. Mặc dù lực tác dụng lên một vật thể từ tính từ một nam châm thông thường quá yếu để có thể cảm nhận được, bằng cách sử dụng nam châm siêu dẫn cực mạnh, các vật thể từ tính như mảnh chì và thậm chí cả các con chuột có thể được nâng lên trong không trung. Các chất siêu dẫn đẩy các từ trường từ bên trong của chúng và có tính từ tính mạnh.
Có nhiều loại từ tính khác nhau, chẳng hạn như kính xoay, siêu màng từ, siêu thuận từ, và siêu vật liệu.
Tham khảo
Từ học
Nam châm
|
26851
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hi%E1%BB%87u%20%E1%BB%A9ng%20Meissner
|
Hiệu ứng Meissner
|
Hiệu ứng Meissner hay hiệu ứng Meissner-Ochsenfeld là hiệu ứng từ thông hoàn toàn bị đẩy ra khỏi bên trong của vật siêu dẫn. Hiện tượng này là hiện tượng nghịch từ hoàn hảo (:en:Superdiamagnetism). Từ thông sinh ra bởi vật siêu dẫn bù trừ hoàn toàn từ thông ở môi trường ngoài. Do đó, từ thông bên trong vật siêu dẫn bằng 0. Hiện tượng này được khám phá bởi hai nhà vật lý người Đức Walther Meissner và Robert Ochsenfeld vào năm 1933.
Thí nghiệm
Hiệu ứng Meissner-Ochennfeld được hai nhà khoa học Đức Walther Meissner và Robert Ochsenfeld phát hiện vào năm 1933 một cách gián tiếp bằng cách đo sự phân bố từ trường bên ngoài các mẫu thiếc và chì siêu dẫn. Các mẫu đã bị phá hủy bởi điều kiện thí nghiệm, nhưng hai ông đã phát hiện ra sự bảo toàn từ thông: khi từ thông bên trong giảm, từ thông bên ngoài tăng. Đặc biệt hơn, đường sức từ vốn dĩ chạy xuyên qua vật thể, giờ đây đi vòng qua vật thể. Tính chất từ của vật liệu siêu dẫn đã thay đổi hoàn toàn so với vật liệu gốc.
Lý giải
Khi thả một nam châm lên một vật liệu siêu dẫn, do sự di chuyển của nam châm, từ thông qua bề mặt vật liệu biến thiên. Khi đó, trong vật xuất hiện dòng điện Foucault. Theo định luật Lenz, dòng này có xu hướng chống lại nguyên nhân tạo ra nó (trong trường hợp này là sự chuyển động). Thông thường dòng này sẽ yếu đi nhanh chóng do điện trở, nhưng vì vật liệu siêu dẫn không có điện trở, dòng này không bị suy giảm. Do dòng điện vẫn duy trì cường độ, lực kháng sự di chuyển của nam châm không suy giảm mà vẫn giữ nguyên, khiến nam châm lơ lửng. Khi đó, từ trường trong lòng của chất siêu dẫn gần như bằng không và bị "đẩy" ra ngoài, vì từ trường bên trong nó sinh ra do dòng Foucault triệt tiêu với từ trường ngoài tác dụng vào nó.
Trường hợp tương tự cũng xảy ra khi vật siêu dẫn được thả trên một nam châm. Dòng Foucault xuất hiện trong vật siêu dẫn kháng lại mọi sự chuyển động, khiến nó bị "khóa cứng" phía trên nam châm.
Ứng dụng
Hiện tượng Meissner-Ochsenfeld còn có khá ít ứng dụng trong thực tế. Trong phòng thí nghiệm, hiện tượng này là một trong các tiêu chí nhận diện vật liệu siêu dẫn. Ngoài ra, có một số ứng dụng khác sẽ được áp dụng trong tương lai khi chất siêu dẫn điều kiện thường xuất hiện.
Xem thêm
Dòng điện Foucault
Định luật Lenz
Walther Meissner
Siêu dẫn
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hành trình hướng đến điện trở bằng không - 360thuvienvatly - http://360.thuvienvatly.com/bai-viet/lich-su-vat-ly/1407-hanh-trinh-huong-den-dien-tro-bang-khong-phan-1
Hiệu ứng Meissner - Mimirbook (có lỗi dịch) - https://mimirbook.com/vi/85392144c5e
Siêu dẫn
Từ học
M
|
26868
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ti%E1%BA%BFng%20Qu%E1%BA%A3ng%20Ch%C3%A2u
|
Tiếng Quảng Châu
|
Tiếng Quảng Châu (phồn thể: 廣州話, giản thể: 广州话, phiên âm Yale: Gwóngjāu wá, Hán-Việt: Quảng Châu thoại) hay tiếng tỉnh Quảng Đông là một phương ngữ tiếng Trung được nói tại Quảng Châu và các vùng phụ cận ở Đông Nam Trung Quốc. Đây là phương ngữ ưu thế nhất trong nhóm phương ngữ tiếng Quảng Đông, là tiếng mẹ đẻ của khoảng trên 80 triệu người.
Tại Trung Quốc Đại lục, đây là lingua franca của tỉnh Quảng Đông và một phần khu tự trị Quảng Tây. Đây cũng là ngôn ngữ chính thức và có ưu thế nhất tại Hồng Kông và Ma Cao. Ngoài ra, đây là ngôn ngữ được sử dụng nhiều nhất trong cộng đồng Hoa kiều Đông Nam Á (tại các nước Việt Nam, Malaysia, Thái Lan, Singapore, Campuchia,...) và phương Tây (tại các nước Canada, Úc, Tây Âu, Hoa Kỳ,...).
Tiếng Quảng Châu đôi khi còn được gọi là tiếng Quảng Đông (廣東話 / 广东话, Quảng Đông thoại). Tuy nhiên, trong ngôn ngữ học, tiếng Quảng Đông đề cập đến một nhóm lớn các phương ngữ của tiếng Trung Quốc, trong đó tiếng Quảng Châu là phương ngữ ưu thế.
Tiếng Quảng Châu rất khác biệt với các ngữ âm khác trong tiếng Trung Quốc, đặc trưng cho đặc điểm văn hóa và đặc tính dân tộc của một bộ phận người Trung Quốc.
Tên gọi
Tiếng Quảng Châu đôi khi còn được gọi là tiếng Quảng Đông hay Việt ngữ (粵語/粤语, vì tỉnh Quảng Đông còn được gọi là tỉnh Việt 粵/粤, đồng âm khác nghĩa với Việt (越) trong Việt Nam (越南)). Tuy nhiên, xét về mặt ngôn ngữ học, Việt ngữ là một nhánh rộng hơn, gồm một số phương ngữ như tiếng Đài Sơn, tiếng Cao Dương,...
Trong lịch sử, người ta gọi tên là tiếng Quảng Châu, mặc dù phạm vi nói của thứ tiếng này rộng hơn nhiều. Tại Quảng Đông và Quảng Tây, người ta gọi đây là tiếng tỉnh thành (省城話/省城话, tỉnh thành thoại) hoặc bạch thoại (白話/白话) hoặc tiếng Quảng Phủ (廣府話/广府话, Quảng Phủ thoại). Người Hoa hải ngoại nói tiếng Quảng Châu là tiếng mẹ đẻ, họ tự gọi ngôn ngữ của mình là tiếng Đường (唐話, Đường thoại), vì họ tự gọi mình là người Đường (唐人, Đường nhân).
Tại Hồng Kông, Ma Cao và những cộng đồng người Hoa ở nước ngoài, người ta thường gọi ngôn ngữ này là tiếng Quảng Đông (廣東話/广东话) (vì nguồn gốc dân cư là từ di cư từ khu vực này đến) hay đơn giản hơn là tiếng Trung (中文: trung văn) (vì trong lịch sử ngôn ngữ này từng có giai đoạn thịnh hành ở Trung Quốc, trước khi bị tiếng Trung phổ thông thay thế).
Do là phương ngữ ưu thế trong Việt ngữ, ngôn ngữ này còn được gọi là Việt ngữ tiêu chuẩn (標準粵語/标准粤语).
Lịch sử
Do thiếu những văn kiện lịch sử, nguồn gốc của tiếng Quảng Châu chỉ có thể dựa vào ước đoán. Sự khác biệt giữa các thứ tiếng địa phương ở Trung Quốc cổ đại được ghi nhận sớm nhất vào thời Xuân Thu (770-476 trước Công Nguyên). Một vài nguồn suy đoán rằng tiếng Quảng Châu cùng với tiếng Ngô và tiếng Tương (tiếng Hồ Nam ngày nay) đã hình thành vào khoảng thời nhà Tần (221-206 trước Công Nguyên). Cho đến cuối thời Tần, người Hán đã định cư tại khu vực tỉnh Quảng Đông và Phúc Kiến ngày nay cùng với ngôn ngữ của họ. Trong sách vở, tiếng Hán được dùng để đề cập đến ngôn ngữ phương Bắc. Ngôn ngữ này được dùng như ngôn ngữ chính thức vào thời Tần. Sau thời nhà Hán (202 trước Công Nguyên đến 220), quãng thời gian hỗn loạn chính trị kéo dài và phân tách lãnh thổ liên miên dẫn đến sự tách biệt giữa phương ngữ địa phương và phương ngữ phương Bắc. Việc giao tiếp qua lại với người bản địa cũng giúp hình thành loại phương ngữ đặc biệt mà ngày nay gọi là Việt ngữ. Mặc dù không được ghi nhận rõ ràng trong lịch sử, nhiều người đồng tình rằng vào thời nhà Đường (618-907), tiếng Quảng Châu có những đặc trưng ngôn ngữ giống với thứ tiếng Trung phổ biến thời kỳ này hơn các phương ngữ khác.
Vào thời Nam Tống, Quảng Châu trở thành trung tâm văn hoá của khu vực. tiếng Quảng Châu phát triển thành nhánh phương ngữ có uy thế nhất của Việt ngữ khi thành phố cảng Quảng Châu ở đồng bằng sông Châu Giang trở thành hải cảng lớn nhất Trung Quốc, với mạng lưới thương mại trải rộng đến tận Ả Rập. Tiếng Quảng Châu cũng được sử dụng trong loại hí kịch truyền thống Quảng Đông có tên gọi là "Việt kịch" hay "đại kịch". Thêm vào đó, trong quá trình phát triển, ngôn ngữ này đã hình thành nên một dòng văn học đặc biệt có cách phát âm từ thời Trung cổ gần giống với tiếng Quảng Châu hiện đại hơn bất kỳ phương ngữ Trung Quốc nào khác ngày nay, kể cả tiếng Hoa phổ thông.
So với tiếng phổ thông và tiếng Ngô, tiếng Quảng Châu gần với tiếng Khách Gia và tiếng Mân hơn.
Khi Quảng Châu trở thành trung tâm thương mại, nơi thực hiện phần lớn giao thương với nước ngoài vào thế kỷ 18, tiếng Quảng Châu là ngôn ngữ chủ yếu được sử dụng để giao tiếp với thế giới phương Tây. Suốt giai đoạn này và kéo dài đến tận thế kỷ 20, tổ tiên hầu hết dân cư Hồng Kông và Ma Cao đều đến từ Quảng Châu và những khu vực lân cận sau khi hai nơi này biến thành thuộc địa của Anh và Bồ Đào Nha.
Tại Trung Quốc lục địa, tiếng Hoa phổ thông là đối tượng cốt lõi dùng để giảng dạy và học tập ở trường học, đồng thời là ngôn ngữ chính thức, đặc biệt là sau khi Đảng Cộng sản Trung Quốc lên nắm quyền từ năm 1949. Trong khi đó, tiếng Quảng Châu vẫn được xem là ngôn ngữ chính thức tại Hồng Kông và Ma Cao kể từ thời kỳ thuộc địa cho đến nay.
Vị trí phân bố
Hồng Kông và Ma Cao
Trung Quốc
Đông Nam Á
Hiện nay, tiếng Quảng Châu được sử dụng ở rất nhiều nơi trên thế giới trong đó có cả Việt Nam. Khi xưa người Trung Quốc di cư sang Việt Nam và tập trung đa phần ở miền Nam Việt Nam. Những người Trung Quốc này chủ yếu là đến từ Quảng Đông và Phúc Kiến. Họ đem theo nền văn hóa cũng như tiếng nói Quảng Đông đặc trưng của mình. Khi sang Việt Nam người ta thường gọi họ là người Hoa.
Ngày nay người Hoa tập trung đông đúc và chủ yếu ở Chợ Lớn thuộc Quận 5, Quận 6 và Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh. Người Hoa ở đây chủ yếu dùng tiếng Quảng Đông để giao tiếp và buôn bán hàng ngày.
Bắc Mỹ
Tây Âu
Vai trò văn hoá và xã hội
Ngôn ngữ giao tiếp Trung Quốc khác nhau rất lớn tuỳ theo vùng và khu vực, phần lớn không thể dùng để giao tiếp lẫn nhau được. Hầu hết những loại ngôn ngữ bản địa này ít gặp tại những địa phương khác, dù vẫn có thể gặp người sử dụng chúng ở bên ngoài Trung Quốc. Từ sau sắc lệnh năm 1909 của nhà Thanh, tiếng Hoa phổ thông trở thành ngôn ngữ sử dụng trong giáo dục, truyền thông và giao tiếp. Tuy nhiên, tuyên bố đưa tiếng Hoa phổ thông làm ngôn ngữ chính thức quốc gia không được các nhà chức trách ở khu vực sử dụng ngôn ngữ này hoàn toàn chấp nhận vào đầu thế kỷ 20. Tiếng Quảng Châu vẫn kiên trì được sử dụng ở một số đài truyền hình và phát thanh Quảng Đông ngày nay, xen lẫn với tiếng phổ thông. Riêng tại Hồng Kông, hầu hết mọi chương trình và đài phát thanh đều phát tiếng Quảng Châu. Do chính sách năm 1949, ngày càng nhiều người Quảng Đông dùng song song hai thứ tiếng này cùng lúc, đặc biệt là trong môi trường giáo dục và hành chính. Ở Hồng Kông, ngôn ngữ thứ hai không phải tiếng phổ thông mà là tiếng Anh.
Những năm gần đây việc sử dụng tiếng Quảng Châu ở Trung Quốc lục địa va phải một số nỗ lực hạn chế. Nổi bật nhất là một đề nghị năm 2010, yêu cầu đài truyền hình Quảng Châu tăng thời lượng phát sóng tiếng phổ thông, sử dụng kinh phí của những chương trình tiếng Quảng Châu. Điều này dẫn đến
cuộc biểu tình lớn tại Quảng Châu. Kết quả là đã ngăn cản được chuyện ép buộc thay đổi ngôn ngữ của các nhà chức trách. Thêm vào đó, có những tin tức về việc sinh viên bị phạt do nói thứ tiếng không phải tiếng phổ thông tại trường học. Những việc này càng làm gia tăng thêm vai trò của tiếng Quảng Châu trong văn hoá địa phương, người ta xem ngôn ngữ là đặc trưng nhận dạng người bản địa để phân biệt với những người dân nhập cư phần lớn đến từ những miền nghèo hơn ở Trung Quốc - họ chủ yếu nói tiếng phổ thông.
Do lịch sử ngôn ngữ tại Hồng Kông và Ma Cao cùng với việc sử dụng tiếng Quảng Châu phổ biến trong cộng đồng người Hoa ở nước ngoài, phạm vi sử dụng quốc tế của tiếng Quảng Châu lan rộng tỉ lệ thuận với số người nói. tiếng Quảng Châu là ngôn ngữ nói chiếm ưu thế tại Hồng Kông và Ma Cao. Tại những khu vực này, những bài diễn thuyết, phát biểu chính trị hầu hết đều bằng tiếng Quảng Châu, khiến nó trở thành phương ngữ Trung Quốc duy nhất ngoài tiếng phổ thông được sử dụng cho chức năng chính sự.
Đặc biệt từ sau khi Hồng Kông được Anh trao trả lại cho Trung Quốc, tiếng Quảng Châu càng được sử dụng như một biểu tượng bản địa tại Hồng Kông, càng phổ biến hơn nữa qua chính sách phát triển dân chủ tại Hồng Kông và chính sách thoát ly Trung Quốc nhằm bất đồng hoá với Trung Quốc lục địa và chính quyền của nó.
Tình huống tương tự cũng xảy ra tại Hoa Kỳ, tại đây mâu thuẫn xã hội ngày càng gia tăng trong cộng đồng người Mỹ gốc Hoa do một lượng lớn dân cư nói tiếng phổ thông từ Đài Loan và Trung Quốc tràn vào Hoa Kỳ trong những năm gần đây. Trong khi nhiều di dân từ Đài Loan đã học tiếng Quảng Châu để củng cố quan hệ với cộng đồng người Mỹ gốc Hoa nói tiếng Quảng Châu truyền thống, ngày càng nhiều người dân mới nhập cư gần đây và phần lớn dân nhập cư từ Trung Quốc đại lục vẫn tiếp tục dùng tiếng phổ thông, đôi khi họ dùng nó như thứ ngôn ngữ duy nhất của họ thay vì cố gắng sử dụng tiếng Anh. Điều này đã góp phần tạo nên sự chia rẽ cộng đồng dựa trên sự phân biệt nói những loại tiếng Trung khác nhau. Song song đó là việc ngày càng nhiều người Mỹ gốc Hoa (bao gồm những người Hoa sinh ra tại Mỹ) nói tiếng Quảng Châu bảo vệ nền văn hoá từ xưa đến nay của cộng đồng của họ trước luồng dân di cư nói tiếng phổ thông.
Cũng như tiếng Hoa phổ thông và tiếng Phúc Kiến, tiếng Quảng Châu cũng sở hữu dòng nhạc riêng, thường gọi là Cantopop hay HK-pop. Tại Hồng Kông, nhạc tiếng Quảng Châu giữ vị trí thống trị trong dòng nhạc thịnh hành. Nhiều nghệ sĩ đến từ Bắc Kinh và Đài Loan phải học tiếng Quảng Châu để tạo ra phiên bản ca khúc tiếng Quảng Châu. Nhiều ca sĩ nói tiếng phổ thông bản địa như Vương Phi, Vu Khải Hiền,... và những ca sĩ đến từ Đài Loan phải học tiếng Quảng Châu để biểu diễn tại đây.
Từ buổi đầu sơ khai của nền điện ảnh Trung Quốc, người ta đã làm những bộ phim tiếng Quảng Châu. Bộ phim đầu tiên có tên là "Bạch Kim Long" (白金龍/白金龙) được hãng phim Thiên Nhất của Thượng Hải sản xuất năm 1932. Bất chấp lệnh cấm đối với phim tiếng Quảng Châu do chính quyền Nam Kinh đưa ra vào thập niên 1930, hãng phim tiếng Quảng Châu tiếp tục làm phim tại Hồng Kông - khi đó vẫn đang là thuộc địa của Anh. Từ giữa thập niên 1970 đến thập niên 1990, những bộ phim tiếng Quảng Châu sản xuất tại Hồng Kông đều rất phổ biến trong giới cộng đồng người Hoa ở hải ngoại.
Chữ viết
Do là ngôn ngữ chính thức tại hai đặc khu hành chính Hồng Kông, Ma Cao và sử dụng nhiều bởi người Hoa hải ngoại, tiếng Quảng Châu sử dụng bộ chữ Hán phồn thể thay vì bộ bộ giản thể như tiếng Trung Quốc phổ thông. Ngoài ra, tiếng Quảng Châu còn có một số từ ngữ không có trong văn viết của tiếng Trung Quốc phổ thông. Một số từ phát âm giống hoặc gần giống nhau, nhưng phần lớn là khác biệt. Cách dùng từ, đặc biệt là trong giao tiếp đôi khi không giống nhau. Ví dụ như từ "không có", tiếng phổ thông là 没有 (méi yǒu), tiếng Quảng Châu là 冇 (mou5). Văn nói tiếng Quảng Châu thường có những câu tận cùng bằng từ 啊 (aa3) nhiều hơn so với tiếng phổ thông.
Do Quảng Châu và Hồng Kông từ thế kỷ 18 là nơi có nhiều người nước ngoài sinh sống, một số từ vựng chịu ảnh hưởng phát âm tiếng Anh.
Về ngữ pháp, tiếng phổ thông và Quảng Châu có đôi chút khác biệt. Tuy nhiên, nếu một người sử dụng một trong hai thứ tiếng và đọc được cả hai loại chữ giản thể và phồn thể, họ có thể hiểu được văn bản viết bằng văn phong chính luận của thứ tiếng kia (tuy không thể nghe hiểu được), nhưng nếu viết bằng văn phong hội thoại sẽ khó hiểu hơn.
Phiên âm La tinh
Hệ thống phiên âm Latinh tiếng Quảng Châu dựa trên giọng nói của người dân bản địa và Hồng Kông, hỗ trợ tạo nên khái niệm gọi là tiếng Quảng Đông chuẩn. Các hệ thống phiên âm chính gồm Barnett–Chao, Meyer–Wempe, phiên âm La tinh tiếng Quảng Đông của chính phủ Trung Quốc, Yale và Việt bính (粵拼/jyutping). Các hệ thống phiên âm này về cơ bản không khác nhau nhiều.
Nhà ngôn ngữ học Hồng Kông Sidney Lau đã sửa đổi hệ thống Yale trong giáo trình tiếng Quảng Đông nổi tiếng của ông và vẫn được sử dụng rộng rãi ngày nay. Hệ thống phiên âm La tinh tiếng Quảng Đông của Ma Cao khá khác biệt so với Hồng Kông, phát âm chịu ảnh hưởng cơ bản từ tiếng Bồ Đào Nha. Tuy nhiên, vài từ ngữ trong hệ thống phiên âm của Ma Cao cũng tương tự như của Hồng Kông (ví dụ 林 là "Lam" và 陳 là "Chan"). Những từ trong hệ thống phiên âm của Hồng Kông dùng "u" thì được thay bằng "o" trong hệ thống phiên âm của Ma Cao (ví dụ 周 là "Chau" và "Chao", 梁 là "Leung" và "Leong"). Trong khi đó, cả hai hệ thống phiên âm này đều khác nhiều với hệ thống bính âm tiếng Quảng Đông của Trung Quốc.
Giáo trình và bộ gõ chữ
Một giáo trình dạy tiếng Quảng Châu phổ biến hiện nay là Pimsleur Cantonese.
Số người theo học tiếng Quảng hiện nay ít hơn so với tiếng Trung Quốc phổ thông bởi tiếng Trung Quốc phổ thông là ngôn ngữ được sử dụng chính thức và nhiều nhất tại CHND Trung Hoa.
Bộ gõ chữ Hán tiếng Quảng Châu phổ biến hiện nay là Cantonese Phonetic IME rất thuận lợi cho những người mới tiếp xúc với tiếng Quảng Châu.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Ngôn ngữ tại Ma Cao
Ngôn ngữ tại Hồng Kông
Ngôn ngữ tại Singapore
Ngôn ngữ tại Malaysia
Ngôn ngữ tại Trung Quốc
Ngôn ngữ tại Việt Nam
Văn hóa tiếng Quảng Đông
|
26869
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tuy%C3%AAn%20ng%C3%B4n%20%C4%91%E1%BB%99c%20l%E1%BA%ADp%20Hoa%20K%E1%BB%B3
|
Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ
|
Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ là tuyên bố được thông qua bởi cuộc họp của Đệ nhị Quốc hội Lục địa tại Tòa nhà bang Pennsylvania (nay là Independence Hall) ở Philadelphia, Pennsylvania, vào ngày 4 tháng 7 năm 1776. Tuyên ngôn này tuyên bố rằng Mười ba thuộc địa trong tình trạng chiến tranh với Vương quốc Liên hiệp Anh sẽ coi mình là mười ba quốc gia độc lập có chủ quyền,không còn dưới sự cai trị của người Anh và nước Anh .Với Tuyên ngôn độc lập các quốc gia mới này đã thực hiện bước đầu tiên tập thể để hình thành Hợp chúng quốc Hoa Kỳ.Tuyên ngôn được ký bởi các đại diện từ New Hampshire, vịnh Massachusetts, Rhode Island, Connecticut, New York, New Jersey, Pennsylvania, Maryland, Delaware, Virginia, Bắc Carolina, Nam Carolina và Georgia.
Nghị quyết Lee về độc lập đã được thông qua vào ngày 2 tháng 7 mà không có phiếu chống đối. Hội đồng Năm đã soạn thảo Tuyên ngôn để sẵn sàng khi Quốc hội bỏ phiếu độc lập. John Adams, một nhà lãnh đạo thúc đẩy độc lập, đã thuyết phục ủy ban chọn Thomas Jefferson để soạn thảo bản thảo gốc của tài liệu, mà Quốc hội chỉnh sửa để tạo ra phiên bản cuối cùng. Tuyên ngôn là một lời giải thích chính thức về lý do tại sao Quốc hội đã bỏ phiếu tuyên bố độc lập khỏi Vương quốc Anh, hơn một năm sau khi Chiến tranh Cách mạng Mỹ nổ ra. Adams đã viết thư cho vợ Abigail như sau: "Ngày thứ hai của tháng 7 năm 1776, sẽ là Kỷ nguyên đáng nhớ nhất, trong Lịch sử Hoa Kỳ" - mặc dù Ngày Độc lập thực sự được tổ chức vào ngày 4 tháng 7, ngày mà Chữ nghĩa của Tuyên ngôn Độc lập đã được phê duyệt.
Sau khi phê chuẩn văn bản vào ngày 4 tháng 7, Quốc hội đã ban hành Tuyên ngôn độc lập dưới nhiều hình thức. Ban đầu nó được xuất bản dưới dạng bản in Dunlap được phát hành rộng rãi và đọc cho công chúng. Bản sao nguồn được sử dụng cho việc in ấn này đã bị mất và có thể là bản sao trong tay Thomas Jefferson. Bản nháp gốc của Jefferson được lưu giữ tại Thư viện Quốc hội, được hiệu chỉnh với những thay đổi được thực hiện bởi John Adams và Benjamin Franklin, cũng như các ghi chú của Jefferson về những thay đổi được thực hiện bởi Quốc hội. Phiên bản nổi tiếng nhất của Tuyên bố là một bản sao đã ký được trưng bày tại Cục Lưu trữ Quốc gia ở Washington, D.C., và được coi là tài liệu chính thức. Bản sao bằng chữ to này (bản hoàn chỉnh, bản sao thư pháp) đã được Quốc hội đặt hàng vào ngày 19 tháng 7 và ký chủ yếu vào ngày 2 tháng 8.
Các nguồn và giải thích của Tuyên bố đã là chủ đề của nhiều cuộc điều tra học thuật. Tuyên bố biện minh cho sự độc lập của Hoa Kỳ bằng cách liệt kê 27 bất bình của thuộc địa chống lại Vua George III và bằng cách khẳng định một số quyền tự nhiên và pháp lý, bao gồm cả quyền cách mạng. Mục đích ban đầu của nó là tuyên bố độc lập, và các tài liệu tham khảo về văn bản của Tuyên bố là rất ít trong những năm tiếp theo. Abraham Lincoln đã biến nó thành trung tâm của các chính sách và tài hùng biện của mình, như trong Diễn văn Gettysburg năm 1863. Kể từ đó, nó đã trở thành một tuyên bố nổi tiếng về quyền con người, đặc biệt là câu thứ hai:
Chúng tôi khẳng định những chân lý này là hiển nhiên, mọi người sinh ra đều bình đẳng, họ được Tạo hoá ban cho một số quyền tất yếu bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.
Đây được gọi là "một trong những câu nổi tiếng nhất trong tiếng Anh", có chứa "những từ có tiềm năng và hệ quả nhất trong lịch sử Hoa Kỳ". Đoạn văn đã thể hiện một tiêu chuẩn đạo đức mà Hoa Kỳ nên phấn đấu. Quan điểm này được Lincoln đề cao một cách đáng chú ý, người coi Tuyên ngôn là nền tảng của triết lý chính trị của mình và cho rằng đó là một tuyên bố về các nguyên tắc mà theo đó Hiến pháp Hoa Kỳ nên được giải thích.
Tuyên ngôn độc lập đã truyền cảm hứng cho nhiều tài liệu tương tự ở các quốc gia khác, lần đầu tiên là Tuyên ngôn 1789 của nước Bỉ thống nhất được ban hành trong cuộc Cách mạng Brabant ở Hà Lan thuộc Áo. Nó cũng là mô hình chính cho nhiều tuyên bố độc lập ở châu Âu và châu Mỹ Latinh, cũng như châu Phi (Liberia) và Châu Đại Dương (New Zealand) trong nửa đầu thế kỷ 19.
Bối cảnh
Vào thời điểm Tuyên ngôn Độc lập được thông qua vào tháng 7 năm 1776, Mười ba thuộc địa và Vương quốc Anh đã có chiến tranh trong hơn một năm. Mối quan hệ đã xấu đi giữa các thuộc địa và nước mẹ kể từ năm 1763. Quốc hội ban hành một loạt các biện pháp để tăng doanh thu từ các thuộc địa, như Đạo luật tem năm 1765 và Đạo luật Townshend năm 1767. Quốc hội tin rằng những hành vi này là một biện pháp hợp pháp về việc các thuộc địa phải trả phần chi phí hợp lý của họ để giữ họ nằm trong Đế quốc Anh.
Tuy nhiên, nhiều người dân thuộc địa đã phát triển một quan niệm khác về đế quốc. Các thuộc địa không được đại diện trực tiếp trong Nghị viện và thực dân cho rằng Nghị viện không có quyền đánh thuế đối với họ. Tranh chấp về thuế này là một phần của sự khác biệt lớn hơn giữa các diễn giải của Anh và Mỹ về Hiến pháp Anh và phạm vi quyền lực của Nghị viện tại các thuộc địa. Quan điểm chính thống của Anh, có từ Cách mạng Vinh quang năm 1688, là Nghị viện là cơ quan quyền lực tối cao trên toàn đế quốc, và theo định nghĩa, bất cứ điều gì mà Nghị viện làm đều là hiến pháp. Tuy nhiên, tại các thuộc địa, ý tưởng đã phát triển rằng Hiến pháp Anh công nhận một số quyền cơ bản nhất định mà không chính phủ nào có thể vi phạm, ngay cả Nghị viện. Sau Đạo luật Townshend, một số nhà tiểu luận thậm chí bắt đầu đặt câu hỏi liệu Quốc hội có quyền tài phán hợp pháp nào ở các thuộc địa hay không. Dự đoán sự sắp xếp của Khối thịnh vượng chung Anh, trước năm 1774 nhà văn Mỹ như Samuel Adams, James Wilson, và Thomas Jefferson đang tranh luận rằng Nghị viện chỉ là cơ quan lập pháp của Vương quốc Anh, và rằng các thuộc địa, có cơ quan lập pháp riêng, là kết nối với phần còn lại của đế chế chỉ thông qua lòng trung thành của họ với Vương miện.
Triệu tập Đại hội
Vấn đề thẩm quyền của Nghị viện ở các thuộc địa đã trở thành một cuộc khủng hoảng sau khi Nghị viện thông qua Đạo luật cưỡng chế (được gọi là Đạo luật Không thể dung thứ ở các thuộc địa) vào năm 1774 để trừng phạt những kẻ thực dân vì vụ Gaspee năm 1772 và Tiệc trà Boston năm 1773. Đạo luật cưỡng chế là vi phạm Hiến pháp Anh và do đó là mối đe dọa đối với quyền tự do của tất cả các thuộc địa Mỹ, vì vậy Quốc hội Lục địa đầu tiên đã triệu tập tại Philadelphia vào tháng 9 năm 1774 để phối hợp trả lời. Quốc hội đã tổ chức tẩy chay hàng hóa của Anh và kiến nghị nhà vua bãi bỏ các Đạo luật trên. Các biện pháp này đã không thành công vì Vua George và Thủ tướng, Bá tước North đã quyết tâm thực thi quyền tối cao của quốc hội tại Mỹ. Như nhà vua đã viết cho North vào tháng 11 năm 1774, "những cú đánh phải quyết định, họ phải chịu sự chi phối của đất nước này hoặc độc lập".
Hầu hết những người dân thuộc địa vẫn hy vọng hòa giải với Vương quốc Anh, ngay cả sau khi giao tranh bắt đầu trong Chiến tranh Cách mạng Hoa Kỳ tại Lexington và Concord vào tháng 4 năm 1775. Đệ Nhị Quốc hội Lục địa được triệu tập tại Tòa nhà bang Pennsylvania ở Philadelphia vào tháng 5 năm 1775 và một số đại biểu hy vọng độc lập cuối cùng, nhưng không ai ủng hộ tuyên bố đó. Nhiều người dân thuộc địa không còn tin rằng Quốc hội có bất kỳ chủ quyền nào đối với họ, nhưng họ vẫn tuyên bố trung thành với Vua George, người mà họ hy vọng sẽ thay mặt họ. Họ đã thất vọng vào cuối năm 1775 khi nhà vua từ chối kiến nghị thứ hai của Quốc hội, đưa ra Tuyên ngôn nổi loạn và tuyên bố trước Quốc hội vào ngày 26 tháng 10 rằng ông đang xem xét "đề nghị hỗ trợ nước ngoài một cách thân thiện" để đàn áp cuộc nổi loạn. Một nhóm thiểu số thân Mỹ trong Quốc hội cảnh báo rằng chính phủ đang đẩy thực dân tiến tới độc lập.
Hướng tới độc lập
Cuốn sách nhỏ của Thomas Paine, Lẽ Thông Thường được xuất bản vào tháng 1 năm 1776, ngay khi các thuộc địa thấy rõ rằng nhà vua không có khuynh hướng hành động như một hòa giải viên. Paine chỉ vừa mới đến các thuộc địa từ Anh, và ông lập luận ủng hộ độc lập thuộc địa, ủng hộ chủ nghĩa cộng hòa như là một thay thế cho chế độ quân chủ và cai trị. Lẽ Thông Thường đã đưa ra một trường hợp đầy thuyết phục và sôi nổi về giành độc lập, chưa được xem xét nghiêm túc về mặt trí tuệ ở các thuộc địa của Mỹ. Paine kết nối độc lập với niềm tin Tin lành như một phương tiện để thể hiện bản sắc chính trị rõ rệt của Mỹ, do đó kích thích tranh luận công khai về một chủ đề mà trước đây ít ai dám thảo luận công khai, và sự ủng hộ của công chúng về việc tách khỏi Vương quốc Anh tăng dần sau khi xuất bản.
Một số người thực dân vẫn giữ hy vọng hòa giải, nhưng sự phát triển vào đầu năm 1776 càng củng cố thêm sự ủng hộ của công chúng cho nền độc lập. Vào tháng 2 năm 1776, những người dân thuộc địa biết được thông qua Đạo luật ngăn cấm của Quốc hội, nơi đã thiết lập một cuộc phong tỏa các cảng của Mỹ và tuyên bố tàu Mỹ là tàu của kẻ thù. John Adams, một người ủng hộ độc lập mạnh mẽ, tin rằng Nghị viện đã tuyên bố độc lập một cách hiệu quả trước khi Quốc hội có thể. Adams đã gán cho Đạo luật Ngăn cấm là "Đạo luật Độc lập", gọi đó là "Sự chia cắt hoàn hảo của Đế quốc Anh". Sự ủng hộ tuyên bố độc lập thậm chí còn tăng lên khi được xác nhận rằng Vua George đã thuê lính đánh thuê người Đức sử dụng để chống lại người Mỹ.
Mặc dù sự ủng hộ quần chúng ngày càng tăng đối với việc độc lập, Quốc hội thiếu thẩm quyền rõ ràng để tuyên bố. Các đại biểu đã được bầu vào Quốc hội bởi 13 chính phủ khác nhau, bao gồm các công ước ngoại khóa, ủy ban đặc biệt và các hội đồng được bầu, và họ bị ràng buộc bởi các chỉ thị dành cho họ. Bất kể ý kiến cá nhân của họ, các đại biểu không thể bỏ phiếu để tuyên bố độc lập trừ khi có chỉ thị cho phép một hành động như vậy. Trên thực tế, một số thuộc địa đã cấm các đại biểu của họ thực hiện bất kỳ bước nào để tách khỏi Vương quốc Anh, trong khi các phái đoàn khác có những chỉ dẫn mơ hồ về vấn đề này;, do đó, những người ủng hộ độc lập đã tìm cách sửa đổi các chỉ thị của Quốc hội. Để Quốc hội tuyên bố độc lập, đa số các phái đoàn sẽ cần ủy quyền bỏ phiếu cho nó, và ít nhất một chính quyền thuộc địa sẽ cần chỉ thị cụ thể cho phái đoàn của mình đề xuất tuyên bố độc lập tại Quốc hội. Từ tháng 4 đến tháng 7 năm 1776, một "cuộc chiến chính trị phức tạp" đã được tiến hành để mang lại điều này.
Sửa đổi chỉ thị
Trong chiến dịch sửa đổi các hướng dẫn của Quốc hội, nhiều người Mỹ chính thức bày tỏ sự ủng hộ của họ đối với việc tách khỏi Vương quốc Anh trong những tuyên bố độc lập của bang và địa phương một cách hiệu quả. Nhà sử học Pauline Maier xác định hơn chín mươi tuyên bố như vậy được ban hành trong suốt mười ba thuộc địa từ tháng 4 đến tháng 7 năm 1776. Những "tuyên bố" này có nhiều hình thức. Một số là các hướng dẫn chính thức bằng văn bản cho các phái đoàn của Quốc hội, chẳng hạn như các Nghị quyết Halifax ngày 12 tháng 4, trong đó Bắc Carolina trở thành thuộc địa đầu tiên ủy quyền rõ ràng cho các đại biểu của mình bỏ phiếu độc lập. Những người khác là các hành động lập pháp chính thức chấm dứt sự cai trị của Anh tại các thuộc địa riêng lẻ, chẳng hạn như cơ quan lập pháp Rhode Island tuyên bố độc lập khỏi Vương quốc Anh vào ngày 4 tháng 5, thuộc địa đầu tiên làm như vậy. Nhiều "tuyên ngôn" là các nghị quyết được thông qua tại các cuộc họp của thị trấn hoặc quận nhằm hỗ trợ cho việc độc lập. Một số ít xuất hiện dưới hình thức chỉ thị của bồi thẩm đoàn, chẳng hạn như tuyên bố được đưa ra vào ngày 23 tháng 4 năm 1776, bởi Chánh án William Henry Drayton ở Nam Carolina: "luật đất đai cho phép tôi tuyên bố... rằng George Đệ tam, Vua của Vương quốc Anh... không có thẩm quyền đối với chúng tôi và chúng tôi không phải vâng lời ông ta. " Hầu hết các tuyên bố này hiện không rõ ràng và đã bị lu mờ bởi tuyên bố được Quốc hội phê chuẩn vào ngày 2 tháng 7 và ký ngày 4 tháng 7.
Một số thuộc địa đã kìm chế koi sự độc lập được tán thành. Kháng chiến tập trung ở các thuộc địa miền Trung gồm New York, New Jersey, Maryland, Pennsylvania và Delaware. Những người ủng hộ độc lập coi Pennsylvania là nơi cốt yếu; nếu thuộc địa đó chuyển sang ủng hộ độc lập, người ta tin rằng những thuộc địa khác sẽ làm theo. Tuy nhiên, vào ngày 1 tháng 5, những người phản đối độc lập vẫn giữ quyền kiểm soát Hội đồng Pennsylvania trong một cuộc bầu cử đặc biệt tập trung vào vấn đề độc lập. Đáp lại, Quốc hội đã thông qua một nghị quyết vào ngày 10 tháng 5 đã được thúc đẩy bởi John Adams và Richard Henry Lee, kêu gọi các thuộc địa không có "chính phủ đủ để giải quyết vấn đề của họ" để thông qua các chính phủ mới. Nghị quyết đã được nhất trí thông qua, và thậm chí còn được John Dickinson, lãnh đạo phe chống độc lập tại Quốc hội ủng hộ, người tin rằng nó không ảnh hưởng đến thuộc địa của mình.
Lời mở đầu ngày 15 tháng 5
Theo thông lệ, Quốc hội đã chỉ định một ủy ban soạn thảo một lời mở đầu để giải thích mục đích của nghị quyết. John Adams đã viết lời mở đầu, trong đó tuyên bố rằng vì Vua George đã từ chối hòa giải và đang thuê lính đánh thuê nước ngoài sử dụng để chống lại các thuộc địa, "cần phải thực thi mọi loại quyền lực dưới vương miện nói trên".] Lời mở đầu của Adams là nhằm khuyến khích sự lật đổ của chính phủ Pennsylvania và Maryland, nơi vẫn thuộc quyền quản lý độc quyền. Quốc hội đã thông qua lời mở đầu vào ngày 15 tháng 5 sau nhiều ngày tranh luận, nhưng bốn trong số các thuộc địa giữa đã bỏ phiếu chống lại nó, và phái đoàn Maryland đã đi biểu tình. Adams coi lời mở đầu ngày 15 tháng 5 của mình là một tuyên bố độc lập của Mỹ, mặc dù một tuyên bố chính thức vẫn sẽ phải được thực hiện.
Nghị quyết của Lee
Cùng ngày mà Quốc hội đã thông qua lời mở đầu cực đoan của Adams, Công ước Virginia đã tạo tiền đề cho một tuyên bố độc lập chính thức của Quốc hội. Vào ngày 15 tháng 5, Công ước đã chỉ thị cho phái đoàn quốc hội của Virginia "đề xuất với cơ quan đáng kính đó tuyên bố các Bang tự do và độc lập của Hoa Kỳ, được miễn trừ khỏi mọi sự trung thành hoặc phụ thuộc vào Vương miện hoặc Nghị viện của Vương quốc Anh". Theo các hướng dẫn đó, Richard Henry Lee của Virginia đã trình bày nghị quyết gồm ba phần trước Quốc hội vào ngày 7 tháng 6 Đề xuất đã được John Adams tán thành, kêu gọi Quốc hội tuyên bố độc lập, hình thành các liên minh nước ngoài và chuẩn bị một kế hoạch của liên minh thuộc địa. Một phần của nghị quyết liên quan đến tuyên bố độc lập là:
Vấn đề đã được giải quyết, rằng các Thuộc địa Thống nhất này phải là các bang độc lập và tự do, rằng họ phải được miễn trừ khỏi mọi sự trung thành với Vương quốc Anh, và tất cả các kết nối chính trị giữa họ và Nhà nước Anh đều phải được, và nên được dẹp tan hoàn toàn.
Nghị quyết của Lee đã gặp phải sự kháng cự trong cuộc tranh luận sau đó. Những người phản đối nghị quyết thừa nhận rằng việc hòa giải là không thể xảy ra với Vương quốc Anh, trong khi lập luận rằng tuyên bố độc lập lúc bấy giờ còn quá sớm, và đảm bảo viện trợ nước ngoài nên được ưu tiên. Những người ủng hộ nghị quyết phản bác rằng các chính phủ nước ngoài sẽ không can thiệp vào một cuộc đấu tranh nội bộ của Anh, và vì vậy cần có một tuyên bố độc lập chính thức trước khi có thể xin viện trợ nước ngoài. Tất cả những gì Quốc hội cần làm đó là "tuyên bố một sự thật đã tồn tại". Các đại biểu từ Pennsylvania, Delaware, New Jersey, Maryland và New York vẫn chưa được phép bỏ phiếu độc lập, tuy nhiên, một số người trong số họ đe dọa sẽ rời Quốc hội nếu nghị quyết được thông qua. Do đó, Quốc hội đã bỏ phiếu vào ngày 10 tháng 6 để hoãn thảo luận thêm về nghị quyết của Lee trong ba tuần. Cho đến lúc đó, Quốc hội đã quyết định rằng một ủy ban nên chuẩn bị một tài liệu công bố và giải thích sự độc lập trong trường hợp nghị quyết của Lee được phê chuẩn khi nó được đưa ra một lần nữa vào tháng Bảy.
Chú thích cuối cùng
Hỗ trợ cho một tuyên ngôn độc lập của Quốc hội đã được củng cố trong những tuần cuối cùng của tháng 6 năm 1776. Vào ngày 14 tháng 6, Hội đồng Connecticut đã chỉ thị cho các đại biểu của mình đề xuất độc lập và ngày hôm sau, các cơ quan lập pháp của New Hampshire và Delaware đã ủy quyền cho các đại biểu của họ tuyên bố độc lập. Tại Pennsylvania, các cuộc đấu tranh chính trị đã kết thúc bằng việc giải tán hội đồng thuộc địa và một Hội nghị ủy ban mới dưới thời Thomas McKean ủy quyền cho các đại biểu của Pennsylvania tuyên bố độc lập vào ngày 18 tháng 6. Đại hội tỉnh New Jersey đã điều hành tỉnh này từ tháng 1 năm 1776; họ đã quyết tâm vào ngày 15 tháng 6 rằng Thống đốc Hoàng gia William Franklin là "kẻ thù đối với tự do của đất nước này" và đã bắt giữ ông. Vào ngày 21 tháng 6, họ đã chọn các đại biểu mới vào Quốc hội và trao quyền cho họ tham gia tuyên bố độc lập.
Chỉ Maryland và New York vẫn chưa cho phép độc lập vào cuối tháng Sáu. Trước đây, các đại biểu của Maryland đã đi ra ngoài khi Quốc hội Lục địa thông qua lời mở đầu ngày 15 tháng 5 của Adams, và đã gửi đến hội nghị Annapolis để được hướng dẫn. Vào ngày 20 tháng 5, hội nghị Annapolis đã từ chối lời mở đầu của Adams, hướng dẫn các đại biểu của mình tiếp tục chống lại độc lập. Nhưng Samuel Chase đã đến Maryland và nhờ các nghị quyết địa phương ủng hộ độc lập, đã có thể khiến hội nghị Annapolis thay đổi quyết định vào ngày 28 tháng 6. Chỉ có các đại biểu New York không thể nhận được hướng dẫn sửa đổi. Khi Quốc hội đang xem xét nghị quyết độc lập vào ngày 8 tháng 6, Đại hội tỉnh New York đã nói với các đại biểu chờ đợi. Nhưng vào ngày 30 tháng 6, Đại hội tỉnh đã sơ tán New York khi các lực lượng Anh tiếp cận, và sẽ không triệu tập lại cho đến ngày 10 tháng 7. Điều này có nghĩa là các đại biểu của New York sẽ không được phép tuyên bố độc lập cho đến khi Đại hội ra quyết định.
Dự thảo và thông qua
Sự vận động chính trị đã tạo tiền đề cho một tuyên bố độc lập chính thức trong khi một tài liệu được viết để giải thích quyết định này. Vào ngày 11 tháng 6 năm 1776, Quốc hội đã chỉ định một "Hội đồng Năm" để soạn thảo một bản tuyên bố, bao gồm John Adams của Massachusetts, Benjamin Franklin của Pennsylvania, Thomas Jefferson của Virginia, Robert R. Livingston ở New York và Roger Sherman ở Connecticut. Ủy ban không mất một phút nào, vì vậy có một số điều không chắc chắn về quá trình soạn thảo được tiến hành như thế nào; các bản sao mâu thuẫn đã được viết và nhiều năm sau đó bởi Jefferson và Adams, quá nhiều năm để được coi là hoàn toàn đáng tin cậy mặc dù bản sao của họ cũng thường được trích dẫn. Điều chắc chắn là ủy ban đã thảo luận về đề cương chung mà bản tuyên ngôn nên tuân theo và quyết định rằng Jefferson sẽ viết bản thảo đầu tiên. Ủy ban nói chung, và Jefferson nói riêng, nghĩ rằng Adams nên viết tài liệu, nhưng Adams đã thuyết phục họ chọn Jefferson và hứa sẽ đóng góp ý kiến cá nhân của mình. Xem xét lịch trình bận rộn của Quốc hội, có lẽ Jefferson đã giới hạn thời gian viết trong 17 ngày tới và có khả năng ông đã viết một bản thảo nhanh chóng. Sau đó, ông đã tham khảo ý kiến của những người khác và thực hiện một số thay đổi, và sau đó tạo ra một bản sao khác kết hợp những thay đổi này. Ủy ban đã trình bản sao này cho Quốc hội vào ngày 28 tháng 6 năm 1776. Tiêu đề của bản tuyên ngôn là "Tuyên ngôn của các Đại diện Hoa Kỳ, trong Đại hội đồng được tập hợp."
Quốc hội đã ra chỉ thị rằng để dự thảo "trên bàn" và sau đó chỉnh sửa một cách có phương pháp bản thảo chính của Jefferson trong hai ngày tiếp theo, rút ngắn nó xuống một phần tư, loại bỏ từ ngữ không cần thiết và cải thiện cấu trúc câu. Họ đã xóa bỏ khẳng định của Jefferson rằng Vương quốc Anh đã ràng buộc chế độ nô lệ vào các thuộc địa để bản Tuyên ngôn trở nên ôn hòa và xoa dịu những người ở Vương quốc Anh ủng hộ Cách mạng. Jefferson đã viết rằng Quốc hội đã "đọc sai" phiên bản dự thảo của mình, nhưng bản Tuyên ngôn cuối cùng được tạo ra là "một văn kiện hùng vĩ đã truyền cảm hứng cho cả người đương thời và hậu thế", theo lời của nhà viết tiểu sử John Ferling.
Quốc hội đã công bố bản dự thảo tuyên ngôn vào thứ Hai, ngày 1 tháng 7 và chuyển nó sang một ủy ban toàn diện, với chủ tịch Benjamin Harrison của Virginia, và họ đã tiếp tục cuộc tranh luận về nghị quyết độc lập của Lee. John Dickinson đã thực hiện một nỗ lực cuối cùng để trì hoãn quyết định, cho rằng Quốc hội không nên tuyên bố độc lập mà không đảm bảo liên minh nước ngoài và hoàn thiện Các điều khoản Hợp bang. John Adams đã có một bài phát biểu khi trả lời Dickinson, khôi phục lại vụ kiện để tuyên bố ngay lập tức.
Một cuộc bỏ phiếu đã được thực hiện sau một ngày dài các bài phát biểu, mỗi thuộc địa bỏ một phiếu bầu như mọi khi. Phái đoàn mỗi thuộc địa được đánh số từ hai đến bảy thành viên và mỗi phái đoàn đã bỏ phiếu để xác định phiếu bầu của thuộc địa. Pennsylvania và Nam Carolina đã bỏ phiếu chống lại tuyên ngôn độc lập. Phái đoàn New York đã bỏ phiếu trắng vì không được phép bỏ phiếu độc lập. Delaware không bỏ phiếu vì phái đoàn đã bị chia rẽ giữa Thomas McKean, người đã bỏ phiếu đồng ý và George Read, người đã bỏ phiếu chống. Chín phái đoàn còn lại đã bỏ phiếu ủng hộ độc lập, điều đó có nghĩa là nghị quyết đã được ủy ban toàn diện phê chuẩn. Bước tiếp theo là nghị quyết được bầu bởi chính Quốc hội. Edward Rutledge của Nam Carolina đã phản đối nghị quyết của Lee nhưng mong muốn sự nhất trí, và anh ta cảm động khi biết rằng cuộc bỏ phiếu sẽ bị hoãn lại cho đến ngày hôm sau.
Vào ngày 2 tháng 7, Nam Carolina đã đổi ý và bỏ phiếu độc lập. Trong phái đoàn Pennsylvania, Dickinson và Robert Morris đã bỏ phiếu trắng, cho phép phái đoàn bỏ phiếu ba thắng hai ủng hộ độc lập. Sự cân bằng trong phái đoàn Delaware đã bị phá vỡ bởi sự xuất hiện kịp thời của Caesar Rodney, người đã bỏ phiếu ủng hộ độc lập. Phái đoàn New York đã bỏ phiếu trắng một lần nữa vì họ vẫn không được phép bỏ phiếu độc lập, mặc dù họ được phép làm như vậy một tuần sau đó bởi Đại hội tỉnh New York. Nghị quyết độc lập đã được thông qua với mười hai phiếu thuận và một phiếu trắng, và các thuộc địa chính thức cắt đứt quan hệ chính trị với Vương quốc Anh. John Adams đã viết cho vợ vào ngày hôm sau và dự đoán rằng ngày 2 tháng 7 sẽ trở thành một ngày lễ lớn của nước Mỹ Ông nghĩ rằng cuộc bỏ phiếu độc lập sẽ được kỷ niệm; ông đã không biết rằng người Mỹ thay vào đó sẽ kỷ niệm Ngày quốc khánh vào ngày mà thông báo về hành động đó được hoàn tất.
Tôi có thể tin rằng [Ngày quốc khánh] sẽ được tổ chức, bởi các Thế hệ kế cận, như là Lễ hội kỷ niệm lớn. Nó nên được tưởng niệm, như Ngày Giải phóng bằng Hành động thành tâm đầy tôn nghiêm để gửi đến Thiên Chúa toàn năng. Nó nên được tổ chức long trọng với nghi thức trang trọng và diễu binh, với các chương trình, trò chơi, hoạt động thể thao, bắn súng, rung chuông, bắn pháo bông và thắp đèn màu từ đầu này đến đầu kia của lục địa từ thời khắc này cho đến mãi về sau.
Quốc hội tiếp theo chuyển sự chú ý đến dự thảo tuyên bố của ủy ban. Họ đã thực hiện một vài thay đổi về từ ngữ trong vài ngày tranh luận và xóa gần một phần tư văn bản. Từ ngữ của Tuyên ngôn Độc lập đã được phê duyệt vào ngày 4 tháng 7 năm 1776 và được gửi đến nhà in để xuất bản.
Có một sự thay đổi rõ rệt trong cách diễn đạt từ bản in đại trà ban đầu này của Tuyên ngôn và bản sao chính thức cuối cùng. Từ "nhất trí" được chèn vào do kết quả của nghị quyết của Quốc hội được thông qua vào ngày 19 tháng 7 năm 1776:
Đã được giải quyết, Tuyên ngôn đó đã được thông qua vào ngày 4, bằng chữ khá to với giấy da, với tiêu đề và bản tuyên bố "Tuyên ngôn nhất trí của mười ba Hoa Kỳ," và tương tự, với bản chữ to, được ký bởi mọi thành viên Quốc hội
Nhà sử học George Billias nói:
Độc lập lên tới một tình trạng phụ thuộc lẫn nhau mới: Hoa Kỳ hiện là một quốc gia có chủ quyền được hưởng các đặc quyền và trách nhiệm đi kèm với tình trạng đó. Do đó, Mỹ trở thành một thành viên của cộng đồng quốc tế, có nghĩa là trở thành nhà sản xuất các hiệp ước và liên minh, một đồng minh quân sự trong ngoại giao và là đối tác trong ngoại thương trên cơ sở bình đẳng hơn.
Văn bản chú thích của tuyên ngôn bằng chữ to
Tuyên bố không được chia thành các phần chính thức; nhưng nó thường được thảo luận bao gồm năm phần: giới thiệu, mở đầu, cáo trạng của Vua George III, tố cáo của người Anh và kết luận.
Ảnh hưởng và tình trạng pháp lý
Các nhà sử học thường tìm cách xác định các nguồn có ảnh hưởng nhiều nhất đến các từ ngữ và triết lý chính trị của Tuyên ngôn Độc lập. Bằng sự thừa nhận của chính Jefferson, Tuyên bố không có ý tưởng nào độc đáo, mà thay vào đó là một tuyên bố đầy tình cảm được chia sẻ rộng rãi bởi những người ủng hộ Cách mạng Mỹ. Như ông đã giải thích vào năm 1825:
Không nhằm mục đích làm độc đáo về nguyên tắc hay tình cảm, cũng không được sao chép từ bất kỳ văn bản cụ thể nào trước đó, nó được dự định là một biểu hiện của tâm hồn người Mỹ, và để cung cấp cho biểu hiện đó giai điệu và tinh thần thích hợp được kêu gọi trong dịp này.
Các nguồn trực tiếp nhất của Jefferson là hai tài liệu được viết vào tháng 6 năm 1776: bản thảo của ông về phần mở đầu của Hiến pháp Virginia và bản dự thảo Tuyên ngôn Nhân quyền Virginia của George Mason. Ý tưởng và cụm từ từ cả hai tài liệu này xuất hiện trong Tuyên ngôn độc lập. Đến lượt họ, họ chịu ảnh hưởng trực tiếp từ Tuyên ngôn Nhân quyền năm 1689 của Anh, chính thức chấm dứt triều đại của Vua James II. Trong cuộc Cách mạng Hoa Kỳ, Jefferson và những người Mỹ khác đã xem Tuyên ngôn Nhân quyền của Anh như là một mô hình về cách chấm dứt triều đại của một vị vua bất công. Tuyên ngôn Arbroath của Scotland (1320) và Đạo luật Chối bỏ Hà Lan (1581) cũng đã được đưa ra làm mô hình cho Tuyên bố của Jefferson, nhưng những mô hình này hiện được một số học giả chấp nhận.
Jefferson đã viết rằng một số tác giả đã gây ảnh hưởng chung đến các từ của Tuyên bố. Nhà lý luận chính trị người Anh John Locke thường được coi là một trong những người có ảnh hưởng chính, một người đàn ông mà Jefferson gọi là một trong "ba người đàn ông vĩ đại nhất từng sống". Năm 1922, nhà sử học Carl L. Becker đã viết, "Hầu hết người Mỹ đã tiếp thu các tác phẩm của Locke như một loại phúc âm chính trị, và Tuyên ngôn, dưới hình thức, theo cách nói của nó, theo các câu nhất định trong Hai luận thuyết về chính phủ của Locke." Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng của Locke đối với Cách mạng Mỹ đã bị một số học giả sau đó nghi ngờ. Nhà sử học Ray Forrest Harvey đã lập luận vào năm 1937 về ảnh hưởng chi phối của luật sư Thụy Sĩ Jean Jacques Burlamaqui, tuyên bố rằng Jefferson và Locke là "hai cực đối lập" trong triết lý chính trị của họ, bằng chứng là việc sử dụng của ông Peter trong Tuyên ngôn Độc lập của cụm từ "theo đuổi hạnh phúc "thay vì" tài sản ". Các học giả khác nhấn mạnh ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng hòa hơn là chủ nghĩa tự do cổ điển của Locke. Nhà sử học Garry Wills lập luận rằng Jefferson bị ảnh hưởng bởi Khai sáng Scotland, đặc biệt là Francis Hutcheson, chứ không phải Locke, một cách giải thích đã bị chỉ trích mạnh mẽ.
Nhà sử học pháp lý John Phillip Reid đã viết rằng sự nhấn mạnh vào triết lý chính trị của Tuyên ngôn đã bị đặt sai chỗ. Tuyên ngon không phải là một vấn đề triết học về quyền tự nhiên, Reid lập luận, thay vào đó là một tài liệu pháp lý, một bản cáo trạng chống lại vua George vì vi phạm quyền lập hiến của thực dân. Như vậy, nó tuân theo quy trình của Tuyên bố Magdeburg năm 1550, đã hợp pháp hóa cuộc kháng chiến chống lại Hoàng đế La Mã thần thánh Charles V trong một công thức pháp lý gồm nhiều bước được gọi là học thuyết của thẩm phán Ít hơn. Nhà sử học David Armitage đã lập luận rằng Tuyên ngôn bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi Luật Quốc gia của de Vattel, chuyên luận luật quốc tế thống trị thời kỳ này, và một cuốn sách mà Benjamin Franklin nói là "liên tục nằm trong tay các thành viên của Quốc hội chúng ta". Armitage viết, "Vattel làm cho nền độc lập trở thành nền tảng cho định nghĩa của ông về chế độ nhà nước"; do đó, mục đích chính của Tuyên bố là "thể hiện chủ quyền pháp lý quốc tế của Hoa Kỳ". Nếu Hoa Kỳ có bất kỳ hy vọng nào được các cường quốc châu Âu công nhận, thì các nhà cách mạng Mỹ trước tiên phải nói rõ rằng họ không còn phụ thuộc vào Vương quốc Anh. Tuyên ngôn Độc lập không có lực lượng pháp luật trong nước, tuy nhiên nó có thể giúp cung cấp sự rõ ràng về lịch sử và pháp lý về Hiến pháp và các luật khác.
Ký kết
Tuyên ngôn đã được chính thức hóa khi Quốc hội bỏ phiếu cho nó vào ngày 4 tháng 7; chữ ký của các đại biểu là không cần thiết để làm cho nó chính thức. Bản sao viết tay của Tuyên ngôn Độc lập được Quốc hội ký ngày 4 tháng 7 năm 1776. Chữ ký của năm mươi sáu đại biểu được đóng dấu; tuy nhiên, ngày chính xác khi mỗi người ký tên từ lâu đã là chủ đề tranh luận. Jefferson, Franklin và Adams đều viết rằng Tuyên ngôn đã được Quốc hội ký ngày 4 tháng 7. Nhưng vào năm 1796, người ký Thomas McKean đã tranh luận rằng Tuyên ngôn đã được ký vào ngày 4 tháng 7, chỉ ra rằng một số người ký đã không có mặt, bao gồm một số người thậm chí không được bầu vào Quốc hội cho đến sau ngày đó.
Tuyên bố được chuyển trên giấy, được Quốc hội Lục địa thông qua và được ký bởi John Hancock, Chủ tịch Quốc hội, vào ngày 4 tháng 7 năm 1776, theo hồ sơ các sự kiện năm 1911 của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ dưới thời Bộ trưởng Philander C. Knox. Vào ngày 2 tháng 8 năm 1776, một bản sao giấy tờ của Tuyên ngôn đã được ký bởi 56 người. Nhiều người trong số những người ký tên này đã không có mặt khi Tuyên bố ban đầu được thông qua vào ngày 4 tháng 7 Người ký Matthew Thornton từ New Hampshire đã ngồi trong Đại hội lục địa vào tháng 11; ông đã yêu cầu và nhận được đặc quyền thêm chữ ký của mình tại thời điểm đó và ký vào ngày 4 tháng 11 năm 1776.
Các nhà sử học thường chấp nhận phiên bản sự kiện của McKean, cho rằng phiên bản Tuyên ngôn nổi tiếng đã được tạo ra sau ngày 19 tháng 7 và không được Quốc hội ký cho đến ngày 2 tháng 8 năm 1776. Năm 1986, nhà sử học pháp lý Wilfred Ritz lập luận rằng các nhà sử học đã hiểu sai các tài liệu chính và trao quá nhiều tín nhiệm cho McKean, người đã không có mặt tại Quốc hội vào ngày 4 tháng 7. Theo Ritz, khoảng ba mươi bốn đại biểu đã ký Tuyên bố vào ngày 4 tháng 7 và những người khác đã ký vào hoặc sau ngày 2 tháng 8 Các nhà sử học phủ nhận buổi ký kết ngày 4 tháng 7 và xác nhận là hầu hết các đại biểu đã ký vào ngày 2 tháng 8, và những người ký cuối cùng không có mặt đã thêm tên của họ sau đó.
Hai tổng thống tương lai của Hoa Kỳ nằm trong số những người ký kết: Thomas Jefferson và John Adams. Chữ ký nổi tiếng nhất trên bản sao chữ to là của John Hancock, người có lẽ đã ký đầu tiên với tư cách là Chủ tịch Quốc hội. Chữ ký lớn, lòe loẹt của Hancock đã trở thành biểu tượng và thuật ngữ John Hancock nổi lên ở Hoa Kỳ như một từ đồng nghĩa không chính thức cho "chữ ký". Một tài khoản thường được lưu hành nhưng tận thế tuyên bố rằng, sau khi Hancock ký, đại biểu đến từ Massachusetts đã bình luận: "Người Anh có thể đọc tên đó mà không cần đeo kính." Một báo cáo đáng ngờ khác nói rằng Hancock tự hào tuyên bố: "Đấy! Tôi đoán Vua George sẽ có thể đọc được nó!"
Nhiều truyền thuyết khác nhau xuất hiện nhiều năm sau đó về việc ký Tuyên ngôn, khi tài liệu này đã trở thành một biểu tượng quốc gia quan trọng. Trong một câu chuyện nổi tiếng, John Hancock được cho là đã nói rằng Quốc hội, đã ký Tuyên ngôn, giờ đây "tất cả phải đoàn kết với nhau" và Benjamin Franklin trả lời: "Vâng, chúng tôi thực sự phải đoàn kết với nhau, hoặc chắc chắn nhất là tất cả chúng tôi sẽ độc lập cùng nhau." Các trích dẫn đã không xuất hiện trong bản in cho đến hơn năm mươi năm sau cái chết của Franklin.
Giá để bút mực Syng được sử dụng trong buổi ký kết cũng được sử dụng trong buổi ký kết Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787.
Công bố và phản ứng
Sau khi Quốc hội phê chuẩn văn từ cuối cùng của Tuyên ngôn vào ngày 4 tháng 7, một bản sao viết tay đã được gửi một vài khối tới cửa hàng in của John Dunlap. Qua đêm, Dunlap đã in khoảng 200 bản phát hành để phân phối. Không lâu sau, nó đã được đọc cho khán giả và được in lại trên các tờ báo trên khắp 13 tiểu bang. Các bài đọc công khai chính thức đầu tiên của tài liệu diễn ra vào ngày 8 tháng 7, tại Philadelphia (bởi John Nixon trong sảnh của Hội trường Độc lập), Trenton, New Jersey, và Easton, Pennsylvania; tờ báo đầu tiên xuất bản nó là Pennsylvania Evening Post ngày 6 tháng 7. Bản dịch tiếng Đức của Tuyên ngôn đã được xuất bản tại Philadelphia vào ngày 9 tháng 7.
Chủ tịch Quốc hội John Hancock đã gửi một bản tới Tướng George Washington, để ông đọc tuyên ngôn "với tư cách là Người đứng đầu Quân đội theo cách ông sẽ nghĩ là đúng đắn nhất". Washington đã đọc Tuyên bố gửi cho quân đội của mình tại thành phố New York vào ngày 9 tháng 7, với hàng ngàn lính Anh trên các tàu trong bến cảng. Washington và Quốc hội hy vọng rằng Tuyên ngôn sẽ truyền cảm hứng cho các binh sĩ và khuyến khích những người khác gia nhập quân đội. Sau khi nghe Tuyên bố, đám đông ở nhiều thành phố xé xuống và phá hủy các biển hiệu hoặc biểu tượng của chính quyền hoàng gia. Một bức tượng cưỡi ngựa của vua George ở thành phố New York đã bị kéo xuống và đầu được sử dụng để tạo ra những quả bóng súng hỏa mai.
Các quan chức Anh ở Bắc Mỹ đã gửi các bản sao của Tuyên ngôn tới Vương quốc Anh. Nó được xuất bản trên các tờ báo của Anh bắt đầu vào giữa tháng 8, nó đã đến Florence và Warsaw vào giữa tháng 9, và một bản dịch tiếng Đức xuất hiện ở Thụy Sĩ vào tháng Mười. Bản sao đầu tiên của Tuyên ngôn gửi đến Pháp đã bị mất và bản sao thứ hai chỉ đến vào tháng 11 năm 1776. Nó đến được nước Mỹ Bồ Đào Nha bởi sinh viên y khoa người Brazil "Vendek" José Joaquim Maia e Barbalho, người đã gặp Thomas Jefferson ở Nîmes.
Chính quyền Mỹ gốc Tây Ban Nha đã cấm lưu hành Tuyên ngôn, nhưng nó đã được truyền tải và dịch rộng rãi: bởi một người Venezuela, ông Manuel García de Sena, người Colombia Miguel de Pombo, bởi Vicente Rocafuerte người Ecuador, và Richard Cleveland và William Shaler người New England, người phân phối Tuyên ngôn và Hiến pháp Hoa Kỳ giữa các Creoles ở Chile và Ấn Độ ở Mexico năm 1821. Bộ miền Bắc không đưa ra câu trả lời chính thức cho Tuyên ngôn, mà thay vào đó, bí mật ủy thác tờ rơi John Lind để công bố một phản hồi mang tên Phản hồi Tuyên ngôn của Quốc hội Hoa Kỳ. Học thuyết Anh đã tố cáo những người ký Tuyên ngôn không áp dụng các nguyên tắc tương tự "cuộc sống, tự do và mưu cầu hạnh phúc" cho người Mỹ gốc Phi. Thomas Hutchinson, cựu thống đốc hoàng gia Massachusetts, cũng phản bác. Những cuốn sách nhỏ này đã thách thức các khía cạnh khác nhau của Tuyên ngôn. Hutchinson lập luận rằng Cách mạng Hoa Kỳ là công việc của một số kẻ âm mưu muốn giành độc lập ngay từ đầu, và cuối cùng đã đạt được nó bằng cách thúc đẩy thực dân trung thành khác nổi dậy. Cuốn sách nhỏ của Lind đã có một cuộc tấn công nặc danh vào khái niệm quyền tự nhiên được viết bởi Jeremy Bentham, một lập luận mà ông đã lặp lại trong Cách mạng Pháp. Cả hai cuốn sách nhỏ đều hỏi làm thế nào những người chủ nô Mỹ trong Quốc hội có thể tuyên bố rằng "tất cả đàn ông được tạo ra như nhau" mà không giải phóng nô lệ của chính họ.
William Whipple, một người ký Tuyên ngôn độc lập đã chiến đấu trong chiến tranh, đã giải thoát nô lệ Prince Whipple của mình vì lý tưởng cách mạng. Trong những thập kỷ sau chiến tranh, những người chủ nô khác cũng giải phóng nô lệ của họ; từ 1790 đến 1810, tỷ lệ người da đen tự do ở Thượng Nam tăng lên 8,3% từ dưới một phần trăm dân số da đen. Tất cả các bang miền Bắc đã bãi bỏ chế độ nô lệ vào năm 1804.
Lịch sử của các tài liệu
Bản sao chính thức của Tuyên ngôn Độc lập là bản in vào ngày 4 tháng 7 năm 1776, dưới sự giám sát của Jefferson. Nó đã được gửi đến các tiểu bang và Quân đội và được đăng lại rộng rãi trên các tờ báo. "Bản sao chu to" hơi khác biệt (hiển thị ở đầu bài viết này) đã được thực hiện sau đó để các thành viên ký tên. Phiên bản chu to là phiên bản được phân phối rộng rãi trong thế kỷ 21. Lưu ý rằng các dòng mở đầu khác nhau giữa hai phiên bản.
Bản sao của Tuyên bố được ký bởi Quốc hội được gọi là bản sao chữ to hoặc giấy da. Nó có lẽ đã được thảo (nghĩa là viết tay cẩn thận) bởi thư ký Timothy Matlack. Một bản fax được thực hiện vào năm 1823 đã trở thành nền tảng của hầu hết các bản sao hiện đại thay vì bản gốc vì bảo tồn kém bản sao chữ to trong suốt thế kỷ 19. Năm 1921, quyền lưu giữ bản sao Tuyên ngôn chữ to đã được chuyển từ Bộ Ngoại giao sang Thư viện Quốc hội, cùng với Hiến pháp Hoa Kỳ. Sau cuộc tấn công của Nhật Bản vào Trân Châu Cảng năm 1941, các tài liệu đã được chuyển đến để giữ an toàn cho Kho lưu trữ vàng thỏi của Hoa Kỳ tại Fort Knox ở Kentucky, nơi chúng được lưu giữ cho đến năm 1944. Năm 1952, Tuyên ngôn chữ to đã được chuyển đến Cục lưu trữ và Quản lý tài liệu quốc gia và hiện được trưng bày vĩnh viễn tại Cục Lưu trữ Quốc gia trong "Phòng lớn dành cho Hiến chương Tự do".
Tài liệu được ký bởi Quốc hội và được lưu giữ trong Cục Lưu trữ Quốc gia thường được coi là Tuyên ngôn Độc lập, nhưng nhà sử học Julian P. Boyd cho rằng Tuyên ngôn, như Magna Carta, không phải là một tài liệu duy nhất. Boyd coi các bản in được Quốc hội ra lệnh là văn bản chính thức. Tuyên bố lần đầu tiên được xuất bản dưới dạng một bản phát hành được in vào đêm 4 tháng 7 bởi John Dunlap của Philadelphia. Dunlap đã in khoảng 200 bản, trong đó 26 bản được biết là còn tồn tại. Bản sao thứ 26 được phát hiện trong Cơ quan lưu trữ quốc gia ở Anh năm 2009.
Năm 1777, Quốc hội ủy quyền cho Mary Katherine Goddard in một bản in mới liệt kê những người ký Tuyên ngôn, không giống như bản in của Dunlap. Chín bản sao của Goddard được biết là vẫn còn tồn tại. Một loạt các bản in được in bởi các tiểu bang cũng còn tồn tại.
Một số bản sao viết tay ban đầu và bản nháp của Tuyên ngôn cũng đã được bảo tồn. Jefferson đã giữ một bản thảo dài bốn trang mà cuối đời ông gọi là "bản nháp thô gốc". Người ta không biết có bao nhiêu bản nháp mà Jefferson đã viết trước đó, và bao nhiêu văn bản được đóng góp bởi các thành viên ủy ban khác. Năm 1947, Boyd đã phát hiện ra một đoạn của một bản thảo trước đó bằng chữ viết tay của Jefferson. Jefferson và Adams đã gửi các bản sao của bản thảo thô cho bạn bè, với những thay đổi nhỏ.
Trong quá trình viết, Jefferson đã đưa ra bản thảo thô cho Adams và Franklin, và có lẽ cho các thành viên khác trong ủy ban soạn thảo, người đã thực hiện một vài thay đổi nữa. Franklin, chẳng hạn, có thể đã chịu trách nhiệm thay đổi cụm từ gốc của Jefferson "Chúng tôi giữ những sự thật này là thiêng liêng và không thể chối cãi" thành "Chúng tôi giữ những sự thật này là hiển nhiên". Jefferson đã kết hợp những thay đổi này thành một bản sao được đệ trình lên Quốc hội dưới danh nghĩa của ủy ban. Bản sao được đệ trình lên Quốc hội vào ngày 28 tháng 6 đã bị mất và có lẽ đã bị hủy trong quá trình in, hoặc bị hủy trong các cuộc tranh luận theo quy tắc bí mật của Quốc hội.
Vào ngày 21 tháng 4 năm 2017, người ta đã phát hiện ra rằng một bản sao chữ to thứ hai đã được phát hiện trong kho lưu trữ tại Hội đồng Hạt West Sussex ở Chichester, Anh. Được người tìm thấy đặt tên là "Tuyên ngôn Sussex", nó khác với bản sao ở cục Lưu trữ Quốc gia (mà những người tìm thấy gọi là "Tuyên ngôn Matlack") ở chỗ các chữ ký trên đó không được nhóm bởi các bang. Làm thế nào nó đến được ở Anh vẫn chưa được biết, nhưng những người tìm thấy tin rằng sự ngẫu nhiên của các chữ ký chỉ ra một nguồn gốc với người ký tên James Wilson, người đã lập luận mạnh mẽ rằng Tuyên ngôn không phải do Hoa Kỳ mà là của toàn dân.
Di sản
Tuyên ngôn đã được chú ý rất ít trong những năm ngay sau Cách mạng Hoa Kỳ, đã phục vụ mục đích ban đầu của nó là tuyên bố độc lập của Hoa Kỳ. Lễ kỷ niệm sớm ngày quốc khánh phần lớn đã bỏ qua Tuyên ngôn, cũng như lịch sử ban đầu của Cách mạng. Hành động tuyên bố độc lập được coi là quan trọng, trong khi văn bản tuyên bố hành động đó thu hút ít sự chú ý. Tuyên ngôn hiếm khi được đề cập trong các cuộc tranh luận về Hiến pháp Hoa Kỳ và ngôn ngữ của nó không được đưa vào tài liệu đó. Dự thảo Tuyên ngôn nhân quyền Virginia của George Mason có ảnh hưởng lớn hơn và ngôn ngữ của nó được lặp lại trong các hiến pháp tiểu bang và các dự luật về nhân quyền của tiểu bang thường xuyên hơn so với những lời của Jefferson. "Trong những tài liệu này", Pauline Maier đã viết, "có bằng chứng nào cho thấy Tuyên ngôn Độc lập trong tâm trí con người như một tuyên bố kinh điển về các nguyên tắc chính trị của Mỹ."
Ảnh hưởng ở các nước khác
Nhiều nhà lãnh đạo của Cách mạng Pháp ngưỡng mộ Tuyên ngôn Độc lập nhưng cũng quan tâm đến các hiến pháp mới của nhà nước Mỹ. Cảm hứng và nội dung của Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền (1789) nổi lên phần lớn từ những lý tưởng của Cách mạng Hoa Kỳ. Dự thảo quan trọng của nó đã được chuẩn bị bởi Lafayette, làm việc chặt chẽ ở Paris với người bạn Thomas Jefferson. Nó cũng mượn ngôn ngữ từ Tuyên ngôn nhân quyền Virginia của George Mason. Tuyên bố cũng ảnh hưởng đến Đế quốc Nga. Tài liệu này có tác động đặc biệt đến Khởi nghĩa tháng Chạp và các nhà tư tưởng Nga khác.
Theo nhà sử học David Armitage, Tuyên ngôn Độc lập đã chứng tỏ có ảnh hưởng quốc tế, nhưng không phải là một tuyên bố về quyền con người. Armitage lập luận rằng Tuyên bố là lần đầu tiên trong một thể loại tuyên ngôn độc lập mới tuyên bố thành lập các nhà nước mới.
Các nhà lãnh đạo Pháp khác bị ảnh hưởng trực tiếp bởi văn bản Tuyên ngôn Độc lập. Tuyên ngôn của tỉnh Flanders (1790) là bản phát hành nước ngoài đầu tiên của Tuyên ngôn; khác bao gồm Tuyên ngôn độc lập của Venezuela (1811), Tuyên ngôn độc lập của Liberia (1847), Tuyên bố ly khai của Liên minh miền Nam (1860-61), và Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam (1945). Những tuyên bố này lặp lại Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ trong việc tuyên bố độc lập của một quốc gia mới, mà không nhất thiết phải tán thành triết lý chính trị của bản gốc.
Các quốc gia khác đã sử dụng Tuyên bố làm nguồn cảm hứng hoặc có các phần được sao chép trực tiếp từ nó. Chúng bao gồm tuyên ngôn Haiti ngày 1 tháng 1 năm 1804, trong Cách mạng Haiti, Các tỉnh thống nhất của New Granada năm 1811, Tuyên ngôn độc lập Argentina năm 1816, Tuyên ngôn độc lập Chile năm 1818, Costa Rica năm 1821, El Salvador năm 1821, Guatemala năm 1821, Honduras năm (1821), Mexico năm 1821, Nicaragua năm 1821, Peru năm 1821, Chiến tranh giành độc lập của Bolivia năm 1825, Uruguay năm 1825, Ecuador năm 1830, Colombia năm 1831, Paraguay năm 1842, Cộng hòa Dominica năm 1844, Tuyên ngôn Độc lập Texas vào tháng 3 năm 1836, Cộng hòa California vào tháng 11 năm 1836, Tuyên ngôn Độc lập Hungary năm 1849, Tuyên ngôn Độc lập New Zealand năm 1835 và Tuyên ngôn độc lập Tiệp Khắc từ năm 1918 được soạn thảo tại Washington DC với Gutzon Borglum trong số những người soạn thảo. Tuyên ngôn độc lập đơn phương của Rhodesia, được phê chuẩn vào tháng 11/1965, cũng dựa trên cơ sở của người Mỹ; tuy nhiên, nó bỏ qua các cụm từ "tất cả đàn ông được tạo ra bằng nhau" và "sự đồng ý của người được cai trị". Tuyên bố ly khai của Nam Carolina từ tháng 12 năm 1860 cũng đề cập đến Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ, mặc dù nó cũng giống như tuyên bố của người Rhodesia, không dùng các đoạn "tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng" và "là do có sự ưng thuận của nhân dân".
Phục hưng sự quan tâm
Sự quan tâm đến Tuyên ngôn đã được hồi sinh vào những năm 1790 với sự xuất hiện của các đảng chính trị đầu tiên của Hoa Kỳ. Trong suốt những năm 1780, rất ít người Mỹ biết hoặc quan tâm đến người đã viết Tuyên ngôn. Nhưng trong thập kỷ tiếp theo, những người Đảng Dân chủ-Cộng hòa đã tìm kiếm lợi thế chính trị so với những người Đảng Liên bang đối thủ của họ bằng cách phát huy cả tầm quan trọng của Tuyên ngôn và Jefferson với tư cách là tác giả của nó. Những người liên bang đã phản ứng bằng cách nghi ngờ về quyền tác giả hoặc tính nguyên bản của Jefferson, và bằng cách nhấn mạnh rằng sự độc lập đã được toàn bộ Quốc hội tuyên bố, với việc ông chỉ là một thành viên của ủy ban soạn thảo. Những người liên bang nhấn mạnh rằng hành động tuyên bố độc lập của Quốc hội, trong đó đảng viên đảng Liên bang John Adams đã đóng một vai trò quan trọng, quan trọng hơn tài liệu công bố nó. Nhưng quan điểm này đã biến mất, giống như chính Đảng Liên bang và không lâu sau đó, hành động tuyên bố độc lập đã trở thành đồng nghĩa với tài liệu này.
Một sự đánh giá ít đảng phái hơn đối với Tuyên ngôn đã xuất hiện trong những năm sau Chiến tranh năm 1812, nhờ một chủ nghĩa dân tộc Mỹ đang phát triển và một mối quan tâm mới trong lịch sử Cách mạng. Năm 1817, Quốc hội đã ủy thác bức tranh về những người ký tên nổi tiếng của John Trumbull, được trưng bày trước đám đông trước khi được lắp đặt tại Tòa nhà Quốc hội. Các bản in kỷ niệm sớm nhất của Tuyên ngôn cũng xuất hiện vào thời điểm này, cung cấp cho nhiều người Mỹ cái nhìn đầu tiên về tài liệu đã ký. Tiểu sử tập thể của những người ký tên được xuất bản lần đầu tiên vào những năm 1820, khai sinh ra thứ mà Garry Wills gọi là "giáo phái của những người ký tên". Trong những năm sau đó, nhiều câu chuyện về việc viết và ký tài liệu đã được xuất bản lần đầu tiên.
Khi quan tâm đến Tuyên bố được hồi sinh, các phần quan trọng nhất vào năm 1776 không còn phù hợp: thông báo về sự độc lập của Hoa Kỳ và sự bất bình chống lại Vua George. Nhưng đoạn thứ hai đã được áp dụng rất lâu sau khi chiến tranh kết thúc, với phần nói về những sự thật hiển nhiên và quyền không thể thay đổi. Hiến pháp và Tuyên ngôn nhân quyền Hoa Kỳ thiếu các tuyên bố sâu rộng về quyền và bình đẳng, và những người ủng hộ các nhóm có khiếu nại đã chuyển sang Tuyên bố để được hỗ trợ. Bắt đầu từ những năm 1820, các biến thể của Tuyên bố đã được ban hành để tuyên bố các quyền của công nhân, nông dân, phụ nữ và những người khác. Ví dụ, vào năm 1848, Hội nghị Thác Seneca về những người ủng hộ quyền phụ nữ tuyên bố rằng "tất cả đàn ông và phụ nữ đều được tạo ra như nhau".
Bức tranh Tuyên ngôn độc lập của John Trumbull (1817-1826)
Bức tranh Tuyên ngôn Độc lập của John Trumbull đã đóng một vai trò quan trọng trong các quan niệm phổ biến về Tuyên ngôn Độc lập. Bức tranh có kích thước 12 x 18 feet (3,7 x 5,5 m) và được Quốc hội Hoa Kỳ ủy quyền vào năm 1817; nó đã được treo tại phòng mái vòm Tòa nhà Quốc hội Hoa Kỳ từ năm 1826. Đôi khi nó được mô tả là việc ký Tuyên ngôn Độc lập, nhưng nó đang diển tả cảnh Hội đồng Năm trình bày dự thảo Tuyên ngôn của họ cho Đệ Nhị Quốc hội Lục địa vào ngày 28 tháng 6 năm 1776 chứ không phải là việc ký văn bản, diễn ra sau đó.
Trumbull đã vẽ các nhân vật còn sống bất cứ khi nào có thể, nhưng một số đã chết và không thể xác định được hình ảnh; do đó, bức tranh không bao gồm tất cả những người ký Tuyên ngôn. Một nhân vật đã tham gia soạn thảo nhưng không ký vào tài liệu cuối cùng; một người khác từ chối ký. Trên thực tế, tư cách thành viên của Đại hội lục địa lần thứ hai đã thay đổi theo thời gian, và các nhân vật trong bức tranh không bao giờ ở cùng một phòng cùng một lúc. Tuy nhiên, đó là một mô tả chính xác của căn phòng trong Hội trường Độc lập, trung tâm của Công viên Lịch sử Quốc gia Độc lập ở Philadelphia, Pennsylvania.
Bức tranh của Trumbull đã được miêu tả nhiều lần trên tiền tệ và tem bưu chính của Hoa Kỳ. Lần sử dụng đầu tiên của nó là mặt trái của tờ 100 đô la giấy bạc quốc gia phát hành năm 1863. Vài năm sau, bản khắc thép được sử dụng để in tiền giấy ngân hàng đã được sử dụng để sản xuất một con tem 24 cent, được phát hành như một phần của phát hành tranh ảnh năm 1869. Một bản khắc của cảnh ký đã được đặc trưng ở mặt trái của tờ tiền hai đô la Mỹ kể từ năm 1976.
Chế độ nô lệ và Tuyên ngôn
Mâu thuẫn rõ ràng giữa tuyên bố rằng "tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng" và sự tồn tại của chế độ nô lệ Mỹ đã thu hút bình luận khi Tuyên bố được công bố lần đầu tiên. Như đã đề cập ở trên, Jefferson đã thêm một đoạn trong dự thảo ban đầu của mình, người đã cáo buộc mạnh mẽ vai trò của Vương quốc Anh trong buôn bán nô lệ, nhưng điều này đã bị xóa khỏi phiên bản cuối cùng. Bản thân Jefferson là một chủ nô nổi tiếng ở Virginia, sở hữu hàng trăm nô lệ. Đề cập đến mâu thuẫn có vẻ mâu thuẫn này, Thomas Day, người theo chủ nghĩa bãi nô người Anh đã viết trong một bức thư năm 1776, "Nếu có một đối tượng thực sự lố bịch, đó là một người yêu nước Mỹ, vừa ký một tuyên ngôn độc lập vừa cầm roi chống lại những nô lệ đang khiếp đảm của họ. "
Vào thế kỷ 19, Tuyên bố mang một ý nghĩa đặc biệt đối với phong trào bãi bỏ. Nhà sử học Bertram Wyatt-Brown đã viết rằng "những người theo chủ nghĩa bãi nô có xu hướng giải thích Tuyên ngôn Độc lập như một thần học cũng như một tài liệu chính trị". Các nhà lãnh đạo theo chủ nghĩa bãi nô, Benjamin Lundy và William Lloyd Garrison, đã sử dụng "hòn đá song sinh" của "Kinh thánh và Tuyên ngôn độc lập" làm cơ sở cho các triết lý của họ. "Miễn là vẫn còn một bản sao của Tuyên ngôn Độc lập, hoặc Kinh thánh, trên đất của chúng tôi," Garrison viết, "chúng tôi sẽ không tuyệt vọng." Đối với những người theo chủ nghĩa bãi nô triệt để như Garrison, phần quan trọng nhất của Tuyên ngôn là sự khẳng định quyền cách mạng. Garrison kêu gọi phá hủy chính phủ theo Hiến pháp và thành lập một nhà nước mới dành riêng cho các nguyên tắc của Tuyên ngôn.
Câu hỏi gây tranh cãi về việc có nên thêm các bang có nô lệ vào Hoa Kỳ trùng với tầm vóc ngày càng tăng của Tuyên ngôn hay không. Cuộc tranh luận công khai lớn đầu tiên về chế độ nô lệ và Tuyên ngôn đã diễn ra trong cuộc tranh luận ở Missouri năm 1819 đến 1821. Các nghị sĩ chống độc quyền lập luận rằng ngôn ngữ của Tuyên ngôn chỉ ra rằng Nhóm lập quốc Hoa Kỳ đã chống lại chế độ nô lệ về nguyên tắc, và vì vậy không nên thêm các bang có nô lệ mới vào nước này. Các nghị sĩ đảng Cộng hòa do Thượng nghị sĩ Nathaniel Macon của Bắc Carolina dẫn đầu lập luận rằng Tuyên ngôn không phải là một phần của Hiến pháp và do đó không liên quan đến câu hỏi.
Với phong trào chống độc quyền đang có được động lực, những người bảo vệ chế độ nô lệ như John Randolph và John C. Calhoun thấy cần phải lập luận rằng tuyên bố của Tuyên ngôn rằng "tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng" là sai, hoặc ít nhất là nó không áp dụng cho người da đen. Ví dụ, trong cuộc tranh luận về Đạo luật Kansas-Nebraska năm 1853, Thượng nghị sĩ John Pettit của Indiana lập luận rằng tuyên bố "tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng" không phải là "sự thật hiển nhiên" mà là "lời nói dối tự hiển nhiên". Những người phản đối Đạo luật Kansas-Nebraska, bao gồm Salmon P. Chase và Benjamin Wade, đã bảo vệ Tuyên ngôn và những gì họ coi là các nguyên tắc chống chế độ nô lệ của nó.
Lincoln và Tuyên ngôn
Mối quan hệ của Tuyên ngôn với chế độ nô lệ đã được đưa ra vào năm 1854 bởi Abraham Lincoln, một cựu Dân biểu ít được biết đến, người đã thần tượng các Cha sáng lập. Lincoln nghĩ rằng Tuyên ngôn Độc lập đã thể hiện những nguyên tắc cao nhất của Cách mạng Hoa Kỳ, và những Người sáng lập đã dung túng chế độ nô lệ với mong muốn cuối cùng nó sẽ khô héo. Để Hoa Kỳ hợp pháp hóa việc mở rộng chế độ nô lệ trong Đạo luật Kansas-Nebraska, Lincoln nghĩ, là để từ chối các nguyên tắc của Cách mạng. Trong bài phát biểu Peoria tháng 10 năm 1854, Lincoln nói:
Ý nghĩa của Tuyên bố là một chủ đề lặp đi lặp lại trong các cuộc tranh luận nổi tiếng giữa Lincoln và Stephen Douglas vào năm 1858. Douglas lập luận rằng cụm từ "tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng" trong Tuyên ngôn chỉ nói đến đàn ông da trắng. Mục đích của Tuyên ngôn, theo ông, chỉ đơn giản là để biện minh cho sự độc lập của Hoa Kỳ, và không tuyên bố sự bình đẳng của bất kỳ "chủng tộc thấp kém hay suy thoái" nào. Tuy nhiên, Lincoln nghĩ rằng ngôn ngữ của Tuyên ngôn là cố ý phổ quát, đặt ra một tiêu chuẩn đạo đức cao mà nền cộng hòa Mỹ nên khao khát. "Tôi đã nghĩ rằng Tuyên ngôn đã dự tính sự cải thiện tiến bộ trong tình trạng của tất cả đàn ông ở khắp mọi nơi," ông nói. Trong cuộc tranh luận chung thứ bảy và cuối cùng với Steven Douglas tại Alton, Illinois vào ngày 15 tháng 10 năm 1858, Lincoln đã nói về tuyên ngôn:
Theo Pauline Maier, cách giải thích của Douglas chính xác hơn về mặt lịch sử, nhưng quan điểm của Lincoln cuối cùng đã thắng thế. "Trong tay Lincoln," Maier viết, "Tuyên ngôn độc lập trở thành tài liệu sống đầu tiên và quan trọng nhất" với "một loạt các mục tiêu sẽ được hiện thực hóa theo thời gian".
Giống như Daniel Webster, James Wilson và Joseph Story trước ông, Lincoln lập luận rằng Tuyên ngôn độc lập là một tài liệu sáng lập của Hoa Kỳ, và điều này có ý nghĩa quan trọng để giải thích Hiến pháp, đã được phê chuẩn hơn một thập kỷ sau Tuyên ngôn. Hiến pháp đã không sử dụng từ "bình đẳng", nhưng Lincoln tin rằng khái niệm "tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng" vẫn là một phần của các nguyên tắc sáng lập của quốc gia. Ông nổi tiếng bày tỏ niềm tin này vào câu mở đầu của Diễn văn Gettysburg năm 1863: "Bốn điểm và bảy năm trước [tức là vào năm 1776] cha ông chúng tôi đã đưa ra lục địa này, một quốc gia mới, được hình thành trong Tự do và đề xuất rằng tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng."
Quan điểm của Tuyên bố của Lincoln đã trở nên có ảnh hưởng, coi đó là một hướng dẫn đạo đức để giải thích Hiến pháp. "Đối với hầu hết mọi người bây giờ," Garry Wills đã viết vào năm 1992, "Tuyên ngôn có nghĩa là những gì Lincoln nói với chúng tôi, nó là một cách sửa chữa Hiến pháp mà không lật đổ nó." Những người hâm mộ của Lincoln như Harry V. Jaffa đã ca ngợi sự phát triển này. Các nhà phê bình Lincoln, đặc biệt là Willmoore Kendall và Mel Bradford, cho rằng Lincoln đã mở rộng một cách nguy hiểm phạm vi của chính phủ quốc gia và vi phạm các quyền của các bang bằng cách đọc Tuyên ngôn trong Hiến pháp.
Quyền bầu cử của phụ nữ và Tuyên ngôn
Vào tháng 7 năm 1848, hội nghị về nữ quyền đầu tiên, hội nghị Seneca Falls, được tổ chức tại Seneca Falls, New York. Hội nghị được tổ chức bởi Elizabeth Cady Stanton, Lucretia Mott, Mary Ann McClintock và Jane Hunt. Trong "Tuyên ngôn tình cảm", theo khuôn mẫu của Tuyên ngôn độc lập, các thành viên hội nghị đòi hỏi sự bình đẳng chính trị xã hội cho phụ nữ. Phương châm của họ là "Tất cả đàn ông và phụ nữ sinh ra đều bình đẳng" và công ước đòi quyền bầu cử cho phụ nữ. Phong trào quyền bầu cử được hỗ trợ bởi William Lloyd Garrison và Frederick Doulass.
Thế kỷ XX và sau đó
Tuyên ngôn được chọn là văn bản số hóa đầu tiên (1971).
Đài tưởng niệm 56 người ký Tuyên ngôn độc lập được dành riêng vào năm 1984 tại Vườn Hiến pháp trên National Mall ở Washington, D.C., nơi chữ ký của tất cả những người ký ban đầu được khắc trên đá với tên, nơi cư trú và nghề nghiệp.
Tòa nhà Trung tâm Thương mại Một Thế giới mới ở Thành phố New York (2014) cao 1776 feet để tượng trưng cho năm mà Tuyên ngôn Độc lập được ký kết.
Văn hóa đại chúng
Việc thông qua Tuyên ngôn độc lập đã được kịch tính trong vở nhạc kịch 1776 đoạt giải Tony Award năm 1969 và phiên bản phim năm 1972, cũng như trong bộ phim truyền hình năm 2008 John Adams. Năm 1970, The 5th Dimension đã ghi lại phần mở đầu của Tuyên ngôn trong album Chân dung của họ trong bài hát "Tuyên ngôn". Nó được trình diễn lần đầu tiên trên Ed Sullivan Show vào ngày 7 tháng 12 năm 1969 và nó được coi là một bài hát phản đối chiến tranh Việt Nam. Tuyên ngôn độc lập cũng là một thiết bị cốt truyện trong bộ phim Kho báu quốc gia của Mỹ năm 2004.
Xem thêm
Phần cáo trạng trong Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ
Tham khảo
Liên kết ngoài
"Declare the Causes: The Declaration of Independence" lesson plan for grades 9–12 from National Endowment for the Humanities
Declaration of Independence at the National Archives
Declaration of Independence at the Library of Congress
Chính phủ Hoa Kỳ
Lịch sử Hoa Kỳ
Cách mạng Hoa Kỳ
Hoa Kỳ
Quốc hội Lục địa
Luật năm 1776
Hoa Kỳ năm 1776
Ngày Độc lập Hoa Kỳ
Quan hệ quốc tế năm 1776
Tác phẩm năm 1776
Lịch sử Hoa Kỳ (1776–89)
|
26877
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20%C4%91%E1%BA%A3ng%20ph%C3%A1i%20ch%C3%ADnh%20tr%E1%BB%8B%20Vi%E1%BB%87t%20Nam
|
Danh sách đảng phái chính trị Việt Nam
|
Dưới đây là danh sách các đảng phái chính trị của Việt Nam trong lịch sử và hiện tại. Danh sách này chỉ liệt kê những đảng chính trị từng đăng ký chính thức, hoặc có ảnh hưởng nhất định tại Việt Nam.Hiện tại, các đảng chính trị khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam, đều không được chính quyền Việt Nam công nhận do Hiến pháp 2013 (đặc biệt Điều 4) chỉ công nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Danh sách các đảng
Xem thêm
Tổ chức chính trị Việt Nam
Tham khảo
Liên kết ngoài
Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng Nhân dân Hành động
Đảng Dân tộc
Đảng Việt Tân
Đảng Vì Dân
Đảng Dân chủ Việt Nam
Đảng Thăng Tiến Việt Nam
Đại Việt Quốc dân đảng
Việt Nam Quốc dân Đảng
Đại Việt Cách mạng Đảng
Đảng Dân chủ Nhân dân
D
Đảng phái
Danh sách chính đảng
|
26881
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%B1c%20l%C6%B0%E1%BB%A3ng%20v%C5%A9%20trang
|
Lực lượng vũ trang
|
Lực lượng vũ trang là lực lượng chiến đấu của nhà nước nhân dân, có nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, an ninh, quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội.
Do tính chất nhiệm vụ đặc biệt không cho người phi hành quân đội, công an và dân quân , khu vực không cho ai vào , cho nên lực lượng này được hưởng những chế độ đặc biệt. Nó được trang bị vũ khí cùng với những quyền hạn rất lớn. Thông thường, ở các nước, dù khác nhau về hệ thống chính trị hay địa lý, nhưng lực lượng vũ trang vẫn bao gồm những lực lượng chính là quân đội, công an và dân quân. Có nhiều nước chỉ tính quân đội.
Quân đội có nhiệm vụ bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền của quốc gia, chống ngoại xâm.
Công an có nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự nội địa.
Dân quân là lực lượng bán vũ trang, thường được các quốc gia tổ chức như là một lực lượng dự phòng nhằm huy động sức mạnh từ số đông quần chúng.
Ngoài ra, còn một lực lượng nữa cũng nằm trong lực lượng vũ trang là lực lượng an ninh, có trách nhiệm bảo vệ an ninh quốc gia.
Tùy theo tổ chức nhà nước mà các bộ phận này được đặt ở các cơ quan quản lý khác nhau. Thông thường, quân đội được đặt dưới quyền điều động của Bộ Tổng tham mưu (hay Hội đồng tham mưu liên quân), lực lượng an ninh do Ủy ban An ninh Quốc gia điều động, còn cảnh sát thuộc quyền của Bộ Nội vụ.
Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam
Ở Việt Nam, lực lượng vũ trang nhân dân bao gồm Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và Dân quân tự vệ. Trong đó, lực lượng Quân đội nhân dân bao gồm Lục quân, Hải quân, Phòng không - Không quân, Biên phòng, Cảnh sát biển, đặt dưới sự quản lý của Bộ Quốc phòng và chịu sự điều động của Bộ Tổng tham mưu. Lực lượng Công an nhân dân bao gồm An ninh và Cảnh sát, chịu sự quản lý của Bộ Công An. Lực lượng Dân quân tự vệ là lực lượng quản lý hỗn hợp của Bộ Quốc phòng và cơ quan hành chính địa phương.
Tổng chỉ huy các lực lượng vũ trang Việt Nam là Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang. Chức vụ này thường do Chủ tịch nước đảm nhiệm, trừ một trường hợp ngoại lệ của Đại tướng Võ Nguyên Giáp được trao chức Tổng Tư lệnh khi đang giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Chú thích
Chính phủ
Quân đội
Quân sự
|
26882
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hi%E1%BB%87p%20h%E1%BB%99i%20c%C3%A1c%20qu%E1%BB%91c%20gia%20%C4%90%C3%B4ng%20Nam%20%C3%81
|
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
|
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (, ASEAN) là một tổ chức kinh tế, văn hóa và xã hội của các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á. Tổ chức này được thành lập ngày 8 tháng 8 năm 1967, tại Bangkok, Thái Lan. Những thành viên đầu tiên của Hiệp hội bao gồm Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Singapore và Philippines, nhằm biểu hiện tinh thần đoàn kết giữa các nước trong cùng khu vực với nhau, đồng thời hợp tác chống tình trạng báo động và bất ổn tại những nước thành viên. Sau Hội nghị Bali năm 1976, ASEAN xúc tiến chương trình cộng tác kinh tế, nhưng các nỗ lực đều đi đến bế tắc vào giữa thập niên 1980. Phải đợi đến năm 1991, khi Thái Lan đề xuất thành lập khu vực thương mại tự do thì Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN mới hình thành. Hàng năm, các nước thành viên đều luân phiên tổ chức các cuộc hội họp chính thức để tăng cường hợp tác. Hiện tại, ASEAN gồm có 10 quốc gia thành viên: Brunei, Campuchia, Lào, Indonesia, Malaysia, Myanmar, Philippines, Singapore, Thái Lan, Việt Nam. Hai quốc gia bày tỏ ý muốn gia nhập ASEAN là Đông Timor và Papua New Guinea hiện đang giữ vai trò quan sát viên. Trong tuyên bố ngày 11 tháng 11 năm 2022, Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đã nhất trí về nguyên tắc để kết nạp Đông Timor vào ASEAN, trở thành thành viên thứ 11 của khối.
ASEAN có diện tích đất 4,46 triệu km², chiếm 3% tổng diện tích đất của Trái Đất, và có dân số khoảng 600 triệu người, chiếm 8,8% dân số thế giới. Vùng biển của ASEAN có diện tích gấp ba lần so với diện tích đất. Năm 2018, tổng GDP ước tính của tất cả các quốc gia ASEAN lên tới xấp xỉ 2,92 nghìn tỷ USD. Nếu coi ASEAN là một thực thể duy nhất thì thực thể này sẽ xếp hạng 5 trong số các nền kinh tế lớn nhất thế giới theo GDP thực tế, sau Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Đức. Dự kiến đến năm 2030, thực thể này có thể vươn lên thứ 4 thế giới.
Vào ngày 31 tháng 12 năm 2015, Cộng đồng Kinh tế ASEAN (ASEAN Economic Community – AEC) được thành lập.
Lịch sử
Tiền thân của ASEAN là tổ chức có tên Hiệp hội Đông Nam Á (Association of Southeast Asia, gọi tắt ASA). ASA là một liên minh thành lập năm 1961 gồm Philippines, Malaysia và Thái Lan. Ngày 8 tháng 8 năm 1967, khi các Ngoại trưởng của 5 quốc gia Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, và Thái Lan gặp gỡ tại Bộ Ngoại giao Thái Lan ở Bangkok đã ra Tuyên bố ASEAN, thường được gọi là Tuyên bố Bangkok, để nhập ASA cùng với Indonesia và Singapore thành ASEAN. 5 ngoại trưởng Adam Malik của Indonesia, Narciso Ramos của Philippines, Abdul Razak của Malaysia, S. Rajaratnam của Singapore, và Thanat Khoman của Thái Lan được coi là những sáng lập viên của tổ chức này.
3 động lực tạo ra ASEAN là mục đích xây dựng đất nước và mục tiêu phát triển kinh tế, chính trị và an ninh. Các quốc gia trong vùng khi đã mất tin tưởng vào các cường quốc bên ngoài đã tìm đến nhau trong bối cảnh của thập niên 1960 để hỗ trợ lẫn nhau. Đối với Indonesia, thì nước này còn có tham vọng bá chủ trong khu vực, trong khi Malaysia và Singapore thì lại muốn dùng ASEAN để kiềm chế Indonesia, đưa nước này vào một khuôn khổ mang tính hợp tác hơn. Khác với Liên minh châu Âu với mô hình phân giảm quyền hành tập trung ở mỗi quốc gia, ASEAN có mục đích bảo vệ và chấn hưng chủ nghĩa quốc gia.
Năm 1976, Papua New Guinea được trao quy chế quan sát viên. Trong suốt thập niên 1970, tổ chức này bám vào một chương trình hợp tác kinh tế, sau Hội nghị thượng đỉnh Bali năm 1976. Nó đã giảm giá trị hồi giữa thập niên 80 và chỉ được hồi phục khoảng năm 1991 nhờ một đề xuất của Thái Lan về một khu vực tự do thương mại cấp vùng. Sau đó khối này mở rộng khi Brunei trở thành thành viên thứ 6 sau khi gia nhập ngày 8 tháng 1 năm 1984, chỉ một tuần sau khi họ giành được độc lập ngày 1 tháng 1.
Ngày 28 tháng 7 năm 1995, Việt Nam trở thành thành viên thứ 7. Lào và Myanmar gia nhập ngày 23 tháng 7 năm 1997. Campuchia đã dự định gia nhập cùng Lào và Myanmar, nhưng bị trị hoãn vì cuộc tranh giành chính trị nội bộ. Nước này sau đó gia nhập ngày 30 tháng 4 năm 1999, sau khi đã ổn định chính phủ.
Trong thập niên 1990, khối có sự gia tăng cả về số thành viên cũng như khuynh hướng tiếp tục hội nhập. Năm 1990, Malaysia đề nghị thành lập một Diễn đàn Kinh tế Đông Á gồm các thành viên hiện tại của ASEAN và Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc, với mục tiêu cân bằng sự gia tăng ảnh hưởng của Hoa Kỳ tại Tổ chức Hợp tác Kinh tế châu Á Thái Bình Dương (APEC) cũng như tại vùng châu Á như một tổng thể. Tuy nhiên, đề xuất này đã thất bại bởi nó gặp sự phản đối mạnh mẽ từ Nhật Bản và Hoa Kỳ. Dù vậy, các quốc gia thành viên tiếp tục làm việc để hội nhập sâu hơn. Năm 1992, kế hoạch Biểu thuế Ưu đãi chung (CEPT) được ký kết như một thời gian biểu cho việc từng bước huỷ bỏ các khoản thuế và như một mục tiêu tăng cường lợi thế cạnh tranh của vùng như một cơ sở sản xuất hướng tới thị trường thế giới. Điều luật này sẽ hoạt động như một khuôn khổ cho Khu vực Tự do Thương mại ASEAN. Sau cuộc Khủng hoảng Tài chính Đông Á năm 1997, một sự khôi phục lại đề nghị của Malaysia được đưa ra tại Chiang Mai, được gọi là Sáng kiến Chiang Mai, kêu gọi sự hội nhập tốt hơn nữa giữa các nền kinh tế của ASEAN cũng như các quốc gia ASEAN+3 (Trung Quốc, Nhật Bản, và Hàn Quốc).
Bên cạnh việc cải thiện nền kinh tế của mỗi quốc gia thành viên, khối hiệp ước cũng tập trung trên hoà bình và sự ổn định của khu vực. Ngày 15 tháng 12 năm 1995, Hiệp ước Đông Nam Á Không Vũ khí hạt nhân đã được ký kết với mục tiêu biến Đông Nam Á trở thành Vùng Không Vũ khí hạt nhân. Hiệp ước có hiệu lực ngày 28 tháng 3 năm 1997 nhưng mới chỉ có một quốc gia thành viên phê chuẩn nó. Nó hoàn toàn có hiệu lực ngày 21 tháng 6 năm 2001, sau khi Philippines phê chuẩn, cấm hoàn toàn mọi loại vũ khí hạt nhân trong vùng.
Sau khi thế kỷ XXI bắt đầu, các vấn đề chuyển sang khuynh hướng môi trường hơn. Tổ chức này bắt đầu đàm phán các thoả thuận về môi trường. Chúng bao gồm việc ký kết Thoả thuận về Ô nhiễm Khói bụi Xuyên biên giới ASEAN năm 2002 như một nỗ lực nhằm kiểm soát ô nhiễm khói bụi ở Đông Nam Á. Không may thay, nó không thành công vì những vụ bùng phát khói bụi Malaysia năm 2005 và khói bụi Đông Nam Á năm 2006. Các hiệp ước môi trường khác do tổ chức này đưa ra gồm Tuyên bố Cebu về An ninh Năng lượng Đông Á, the ASEAN-Wildlife Enforcement Network in 2005, và Đối tác châu Á Thái Bình Dương về Phát triển Sạch và Khí hậu, cả hai đều nhằm giải quyết những hiệu ứng có thể xảy ra từ sự thay đổi khí hậu. Thay đổi khí hậu cũng là vấn đề được quan tâm hiện nay.
Trong Hiệp ước Bali II năm 2003, ASEAN đã tán thành khái niệm hoà bình dân chủ, có nghĩa là mọi thành viên tin rằng các quá trình dân chủ sẽ thúc đẩy hoà bình và ổn định trong khu vực. Tương tự, các thành viên phi dân chủ đều đồng ý rằng đây là điều mà mọi quốc gia thành viên đều mong muốn thực hiện.
Các lãnh đạo của mỗi nước, đặc biệt là Mahathir Mohamad của Malaysia, cũng cảm thấy sự cần thiết hội nhập hơn nữa của khu vực. Bắt đầu từ năm 1997, khối đã thành lập các tổ chức bên trong khuôn khổ của họ với mục tiêu hoàn thành tham vọng này. ASEAN+3 là tổ chức đầu tiên trong số đó được thành lập để cải thiện những quan hệ sẵn có với Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Tiếp đó là Hội nghị cấp cao Đông Á còn rộng lớn hơn, bao gồm tất cả các nước trên cùng Ấn Độ, Úc và New Zealand. Nhóm mới này hoạt động như một điều kiện tiên quyết cho Cộng đồng Đông Á đã được lên kế hoạch, dự định theo mô hình của Cộng đồng châu Âu hiện đã không còn hoạt động nữa. Nhóm Nhân vật Nổi bật ASEAN đã được tạo ra để nghiên cứu những thành công và thất bại có thể xảy ra của chính sách này cũng như khả năng về việc soạn thảo một Hiến chương ASEAN.
Năm 2006, ASEAN được trao vị thế quan sát viên của Đại hội đồng Liên hiệp quốc. Đổi lại, tổ chức này trao vị thế "đối tác đối thoại" cho Liên hiệp quốc. Hơn nữa, ngày 23 tháng 7 năm đó, José Ramos-Horta, khi ấy là Thủ tướng Đông Timor, đã ký một yêu cầu chính thức về vị thế thành viên và hy vọng quá trình gia nhập sẽ kết thúc ít nhất năm năm trước khi nước này khi ấy đang là một quan sát viên trở thành một thành viên chính thức.
Năm 2007, ASEAN kỷ niệm lần thứ 40 ngày khởi đầu, và 30 năm quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ. Ngày 26 tháng 8 năm 2007, ASEAN nói rằng các mục tiêu của họ là hoàn thành mọi thoả thuận tự do thương mại của Tổ chức này với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Úc và New Zealand vào năm 2013, vùng với việc thành lập Cộng đồng Kinh tế ASEAN vào năm 2015. Tháng 11 năm 2007 các thành viên ASEAN đã ký Hiến chương ASEAN, một điều luật quản lý mọi quan hệ bên trong các thành viên ASEAN và biến ASEAN thành một thực thể luật pháp quốc tế. Cùng trong năm ấy, Tuyên bố Cebu về An ninh Năng lượng Đông Á tại Cebu ngày 15 tháng 1 năm 2007, của ASEAN và các thành viên khác của EAS (Úc, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, New Zealand, Hàn Quốc), khuyến khích an ninh năng lượng bằng cách tài trợ vốn cho các nghiên cứu về năng lượng thay thế cho các loại nhiên liệu quy ước.
Ngày 27 tháng 2 năm 2009, một Thỏa thuận Tự do Thương mại giữa 10 quốc gia thành viên khối ASEAN và New Zealand cùng đối tác thân cận của họ là Úc đã được ký kết, ước tính rằng thỏa thuận này sẽ làm tăng GDP của 12 quốc gia lên thêm hơn 48 tỷ USD trong giai đoạn 2000–2020.
Các thành viên
Hiện nay, tổ chức này gồm 10 quốc gia thành viên được liệt kê theo ngày gia nhập:
Các quốc gia sáng lập (ngày 8 tháng 8 năm 1967):
Cộng hòa Indonesia
Liên bang Malaysia
Cộng hòa Philippines
Cộng hòa Singapore
Vương quốc Thái Lan
Các quốc gia gia nhập sau:
Nhà nước Brunei Darussalam (ngày 8 tháng 1 năm 1984)
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (ngày 28 tháng 7 năm 1995)
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (ngày 23 tháng 7 năm 1997)
Cộng hòa Liên bang Myanmar (ngày 23 tháng 7 năm 1997)
Vương quốc Campuchia (ngày 30 tháng 4 năm 1999)
Ứng viên xin gia nhập, hiện đang là quan sát viên:
Nhà nước Độc lập Papua New Guinea (quan sát viên từ năm 1976)
Cộng hòa Dân chủ Timor-Leste (quan sát viên từ năm 2015)
Cơ cấu tổ chức
Bộ máy hoạt động của ASEAN được quy định như sau:
Hội nghị cấp cao ASEAN (ASEAN Summit): Đây là cơ quan quyền lực cao nhất của hiệp hội, họp chính thức 2 năm/lần.
Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN (ASEAN Ministerial Meeting – AMM): theo Tuyên bố Băng Cốc năm 1967, AMM là hội nghị hàng năm của các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN có trách nhiệm đề ra và phối hợp các hoạt động của ASEAN, có thể họp không chính thức khi cần thiết.
Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN (ASEAN Economic Ministers – AEM):AEM họp chính thức hàng năm và có thể họp không chính thức khi cần thiết. Trong AEM có hội đồng AFTA được thành lập theo quyết định của hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 4 tại Singapore.
Hội nghị Bộ trưởng các ngành: Hội nghị Bộ trưởng của một ngành trong hợp tác kinh tế ASEAN sẽ được tổ chức khi cần thiết để thảo luận sự hợp tác trong ngành cụ thể đó. Hiện có Hội nghị Bộ trưởng năng lượng, Hội nghị Bộ trưởng Nông nghiệp, Lâm nghiệp. Các Hội nghị Bộ trưởng ngành có trách nhiệm báo cáo lên AEM.
Các hội nghị bộ trưởng khác: Hội nghị Bộ trưởng của các lĩnh vực hợp tác ASEAN khác như y tế, môi trường, lao động, phúc lợi xã hội, giáo dục, khoa học và công nghệ, thông tin, luật pháp có thể được tiến hành khi cần thiết để điều hành các chương trình hợp tác trong các lĩnh vực này.
Hội nghị liên Bộ trưởng (Join Ministerial Meeting – JMM): JMM được tổ chức khi cần thiết để thúc đẩy sự hợp tác giữa các ngành và trao đổi ý kiến về hoạt động của ASEAN. JMM bao gồm các Bộ trưởng Ngoại giao và Bộ trưởng Kinh tế ASEAN.
Tổng Thư ký ASEAN: Được những Người đứng đầu Chính phủ ASEAN bổ nhiệm theo khuyến nghị của Hội nghị AMM với nhiệm kỳ là 3 năm và có thể gia hạn thêm, nhưng không quá một nhiệm kỳ nữa; có hàm Bộ trưởng với quyền hạn khởi xướng, khuyến nghị và phối hợp các hoạt động của ASEAN, nhằm giúp nâng cao hiệu quả các hoạt động và hợp tác của ASEAN. Tổng thư ký ASEAN được tham dự các cuộc họp các cấp của ASEAN, chủ toạ các cuộc họp của ASC thay cho Chủ tịch ASC trừ phiên họp đầu tiên và cuối cùng. Tổng thư ký hiện nay là ông Lâm Ngọc Huy (Lim Jock Hoi) cựu Bí thư thường trực Bộ Ngoại thương Brunei.
Ủy ban thường trực ASEAN (ASEAN Standing Committee – ASC): ASC bao gồm chủ tịch là Bộ trưởng Ngoại giao của nước đăng cai Hội nghị AMM sắp tới, Tổng Thư ký ASEAN và Tổng Giám đốc của các Ban thư ký ASEAN quốc gia. ASC thực hiện công việc của AMM trong thời gian giữa 2 kỳ họp và báo cáo trực tiếp cho AMM.
Cuộc họp các quan chức cao cấp (Senior Officials Meeting – SOM): SOM được chính thức coi là một bộ phận của cơ cấu trong ASEAN tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 3 tại Manila 1987. SOM chịu trách nhiệm về hợp tác chính trị ASEAN và họp khi cần thiết; báo cáo trực tiếp cho AMM.
Cuộc họp các quan chức kinh tế cao cấp (Senior Economic Officials Meeting – SEOM): SEOM cũng đã được thể chế hoá chính thức thành một bộ phận của cơ cấu ASEAN tại Hội nghị Cấp cao Manila 1987. Tại hội nghị Cấp cao ASEAN 4 năm 1992, 5 uỷ ban kinh tế ASEAN đã bị giải tán và SEOM được giao nhiệm vụ theo dõi tất cả các hoạt động trong hợp tác kinh tế ASEAN. SEOM họp thường kỳ và báo cáo trực tiếp cho AEM.
Cuộc họp các quan chức cao cấp khác: Ngoài ra có các cuộc họp các quan chức cao cấp về môi trường,ma tuý cũng như của các uỷ ban chuyên ngành ASEAN như phát triển xã hội, khoa học và công nghệ, các vấn đề công chức, văn hoá và thông tin. Các cuộc họp này báo cáo cho ASC và Hội nghị các Bộ trưởng liên quan.
Cuộc họp tư vấn chung (Joint Consultative Meeting – JCM): Cơ chế họp JCM bao gồm Tổng thư ký ASEAN, SOM, SEOM, các Tổng giám đốc ASEAN. JCM được triệu tập khi cần thiết dưới sự chủ toạ của Tổng Thư ký ASEAN để thúc đẩy sự phối hợp giữa các quan chức liên ngành. Tổng Thư ký ASEAN sau đó thông báo kết quả trực tiếp cho AMM và AEM.
Các cuộc họp của ASEAN với các bên đối thoại: ASEAN có 11 bên đối thoại: Úc, Canada, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, New Zealand, UNDP, Nga, Trung Quốc, Ấn Độ, Mỹ.ASEAN cũng đối thoại theo từng lĩnh vực với Pakistan.
Trước khi có cuộc họp với các Bên đối thoại, các nước ASEAN tổ chức cuộc họp trù bị để phối hợp có lập trường chung. Cuộc họp này do quan chức cao cấp của nước điều phối (Coordinating Country) chủ trì và báo cáo cho ASC.
Ban thư ký ASEAN quốc gia: Mỗi nước thành viên ASEAN đều có Ban thư ký quốc gia đặt trong bộ máy của Bộ Ngoại giao để tổ chức, thực hiện và theo dõi các hoạt động liên quan đến ASEAN của nước mình. Ban thư ký quốc gia do một Tổng Vụ trưởng phụ trách.
Ủy ban ASEAN ở các nước thứ ba: Nhằm mục đích tăng cường trao đổi và thúc đẩy mối quan hệ giữa ASEAN với bên đối thoại đó và các tổ chức quốc tế ASEAN thành lập các uỷ ban tại các nước đối thoại. Ủy ban này gồm những người đứng đầu các cơ quan ngoại giao của các nước ASEAN tại nước sở tại. Hiện có 10 Ủy ban ASEAN tại: Bonn (Đức), Brussel (Bỉ), Canberra (Úc), Genève (Thụy Sĩ), Luân Đôn (Anh), Ottawa (Canada), Paris (Pháp), Seoul (Hàn Quốc), Washington, D.C., (Hoa Kỳ), Wellington (New Zealand).
Ban thư ký ASEAN: Ban thư ký ASEAN được thành lập theo Hiệp định ký tại Hội nghị Cấp cao lần thứ hai Bali,1976 tăng cường phối hợp thực hiện các chính sách, chương trình và các hoạt động giữa các bộ phận khác nhau trong ASEAN, phục vụ các hội nghị của ASEAN.
Phương thức ASEAN
Trong thập niên 1960, sự thúc đẩy giải thực đã mang lại chủ quyền cho Indonesia và Malaysia cùng các quốc gia khác. Bởi việc xây dựng quốc gia luôn là khó khăn và dễ gặp sự can thiệp từ bên ngoài, giới cầm quyền muốn được tự do thực hiện các chính sách độc lập, với nhận thức rằng các nước láng giếng sẽ kiềm chế không can thiệp vào công việc nội bộ của họ. Về lãnh thổ, các thành viên nhỏ như Singapore và Brunei luôn lo ngại về các biện pháp bạo lực và cưỡng bức từ các nước láng giềng lớn hơn như Indonesia và Malaysia. "Thông qua đối thoại chính trị và xây dựng lòng tin, căng thẳng sẽ không leo thang thành đối đầu bạo lực trong các quốc gia thành viên ASEAN từ khi nó được thành lập hơn ba thập niên trước".
Phương thức ASEAN có thể truy nguồn gốc từ việc ký kết Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á. "Các nguyên tắc nền tảng được thông qua trong hiệp ước này gồm: tôn trọng lẫn nhau về độc lập, chủ quyền, bình đẳng, tính toàn vẹn lãnh thổ, và bản sắc quốc gia của tất cả các nước; quyền của mọi Nhà nước duy trì sự tồn tại quốc gia của mình không gặp trở ngại từ sự can thiệp, phá hoại, cưỡng bức từ bên ngoài; không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; giải quyết các khác biệt hay tranh chấp bằng biện pháp hoà bình; từ bỏ đe dọa hay sử dụng bạo lực; và hợp tác có hiệu quả với nhau".
Ngoài mặt, quá trình tư vấn và đồng thuận được cho là một cách tiếp cận trong việc đưa ra quyết định, nhưng Phương thức ASEAN đã được điều khiển thông qua những tiếp xúc thân cận giữa các cá nhân chỉ trong giới lãnh đạo, họ thường cùng chần chừ trong việc định chế hoá và pháp điển hoá sự hợp tác, có thể làm tổn hại tới sự kiểm soát của chế độ của họ với việc tiến hành hợp tác trong vùng. Vì thế, tổ chức có một vị thư ký điều hành.
Tất cả các đặc tính trên, nói gọn là không can thiệp, không chính thức, tối thiểu hoá việc định chế hoá, tư vấn và đồng thuận, không sử dụng vũ lực và không đối đầu đã tạo thành cái được gọi là Phương thức ASEAN.
Từ cuối thập niên 1990, nhiều học giả đã cho rằng nguyên tắc không can thiệp đã làm tổn hại tới những nỗ lực của ASEAN trong việc giải quyết vấn đề Myanmar, vi phạm nhân quyền và ô nhiễm khói bụi trong vùng. Tuy nhiên, với cách tiếp cận dựa trên đồng thuận, mọi thành viên trên thực tế đều có quyền phủ quyết và các quyết định thường bị giảm xuống mức mẫu thức chung thấp nhất. Có một sự tin tưởng rộng rãi rằng các thành viên ASEAN phải có một quan điểm ít cứng nhắc hơn về hai nguyên tắc chủ yếu này khi họ muốn được coi là một cộng đồng liên kết chặt chẽ và có liên quan.
Chính sách
Dù các cuộc thảo luận Track II thỉnh thoảng được nêu ra như những ví dụ về sự liên quan của xã hội dân sự trong quá trình đưa ra quyết định cấp vùng của các chính phủ và các bên thứ hai khác, các tổ chức phi chính phủ hiếm khi tiếp cận được với nó, tuy nhiên những người tham gia từ các cộng đồng hàn lâm là một nhóm 12 cố vấn. Tuy nhiên, những cố vấn này, trong hầu hết các trường hợp, có kết nối chặt chẽ với các chính phủ của họ, và sự phụ thuộc vào nguồn tài chính của chính phủ cho các hoạt động hàn lâm và liên quan tới chính sách đó, và nhiều công việc trong Track II đã từng có trải nghiệm quá trình quan liêu. Những gợi ý của họ, đặc biệt trong việc hội nhập kinh tế, thường gần gũi với các quyết định của ASEAN hơn là lập trường của phần còn lại của xã hội dân sự.
Track hoạt động như một diễn đàn cho xã hội dân sự ở Đông Nam Á được gọi là Track III. Những người tham gia Track III nói chung là các nhóm dân sự xã hội đại diện cho một ý tưởng hay nhóm riêng biệt. Các mạng lưới của Track III tuyên bố đại diện cho các cộng đồng và những người phần lớn ở bên ngoài các trung tâm quyền lực chính trị và không có khả năng thực hiện thay đổi hữu ích mà không có sự hỗ trợ từ bên ngoài. Track này tìm cách gây ảnh hưởng trực tiếp tới các chính sách của chính phủ bằng cách lobby, tạo áp lực qua truyền thông. Những người tham gia Track III cũng tổ chức và/hay tham gia các cuộc họp cũng như các hội nghị để tiếp cận với các quan chức của Track I.
Xem xét ba Track, rõ ràng cho tới hiện tại, ASEAN đã được điều hành bởi các quan chức chính phủ, những người khi mà các vấn đề ASEAN, Tiến sĩ Susilo Bambang Yudhoyono đã thừa nhận:
"Tất cả các quyết định về các hiệp ước, và khu vực tự do thương mại, về các tuyên bố và các kế hoạch hành động, đều do các Lãnh đạo chính phủ, các bộ trưởng và quan chức cao cấp thực hiện. Và thực tế rằng trong đông đảo đại chúng, có ít sự hiểu biết, chưa nói tới sự đánh giá, về những sáng kiến lớn mà ASEAN đang thực hiện thay mặt cho họ."
Các cuộc họp
Hội nghị cấp cao ASEAN
Tổ chức này tổ chức các cuộc họp, được gọi là Hội nghị cấp cao ASEAN, nơi các nguyên thủ quốc gia của mỗi thành viên gặp mặt để thảo luận và giải quyết các vấn đề khu vực, cũng như để tổ chức các cuộc hội họp khác với các nước bên ngoài khối với mục đích thúc đẩy quan hệ bên ngoài.
Hội nghị cấp cao Chính thức các nhà Lãnh đạo ASEAN được tổ chức lần đầu tại Bali, Indonesia năm 1976. Cuộc họp thứ ba được tổ chức tại Manila năm 1987 và trong cuộc họp này, các lãnh đạo đã quyết định sẽ gặp nhau năm năm một lần. Sau đó, hội nghị cấp cao thứ tư được tổ chức tại Singapore năm 1992 nơi các nhà lãnh đạo lại đồng ý sẽ gặp gỡ thường xuyên hơn, quyết định tổ chức hội nghị cấp cao ba năm một lần. Năm 2001, họ quyết định gặp nhau hàng năm để giải quyết các vấn đề cấp bách ảnh hưởng tới khu vực. Các quốc gia thành viên được sắp xếp đứng ra tổ chức hội nghị cấp cao theo tên nước trong bảng chữ cái ngoại trừ Myanmar vốn đã từ bỏ quyền đăng cai hội nghị năm 2006 của mình vào năm 2004 vì áp lực từ Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu.
Tới tháng 12 năm 2008, Hiến chương ASEAN bắt đầu có hiệu lực và cùng với nó, Hội nghị cấp cao ASEAN sẽ được tổ chức 2 lần/năm.
Cuộc họp cấp cao chính thức diễn ra trong ba ngày. Chương trình nghị sự như sau:
Lãnh đạo các quốc gia thành viên sẽ tổ chức một cuộc họp nội bộ tổ chức.
Lãnh đạo các quốc gia thành viên sẽ tổ chức một hội thảo cùng với các ngoại trưởng của Diễn đàn Khu vực ASEAN.
Một cuộc họp, được gọi là ASEAN+3, được tổ chức cho các lãnh đạo của ba Đối tác Đối thoại (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc)
Một cuộc họp riêng rẽ, được gọi là ASEAN-CER, được tổ chức cho các lãnh đạo của hai Đối tác Đối thoại khác (Úc, New Zealand).
Hội nghị cấp cao ASEAN được tổ chức luân phiên giữa các quốc gia thành viên, và quốc gia nào tổ chức thường kiêm luôn chức Chủ tịch luân phiên ASEAN, thường là vị tổng thống hay thủ tướng quốc gia đó.
Trong cuộc họp cấp cao thứ năm tại Bangkok, các lãnh đạo đã quyết định gặp gỡ "không chính thức" với nhau trong mỗi hội nghị chính thức:
Năm 2020, trong năm đảm nhiệm vai trò Chủ tịch luân phiên ASEAN, Việt Nam đã đăng cai tổ chức Hội nghị Cấp cao đặc biệt ASEAN và Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 Đặc biệt nhằm bàn luận về vấn đề dịch bệnh COVID-19 đang diễn biến phức tạp.
Hội nghị cấp cao Đông Á
Hội nghị cấp cao Đông Á hay Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS) là một diễn đàn liên châu Á được các lãnh đạo 16 quốc gia Đông Á và khu vực tổ chức hàng năm, với ASEAN có một lập trường chỉ đạo chung. Hội nghị cấp cao thảo luận các vấn đề gồm thương mại, năng lượng và an ninh và hội nghị cấp cao có một vai trò trong việc xây dựng cộng đồng vùng.
Các thành viên của hội nghị gồm 10 quốc gia thành viên ASEAN cùng với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Úc và New Zealand tổng cộng chiếm tới gần một nửa dân số thế giới. Nga cũng đã xin gia nhập làm thành viên cuộc họp cấp cao vào năm 2005 là một khách mời cho EAS Đầu tiên theo lời mời của nước chủ nhà - Malaysia.
Hội nghị cấp cao đầu tiên được tổ chức tại Kuala Lumpur ngày 14 tháng 12 năm 2005 và các cuộc họp sau đó được tổ chức sau cuộc gặp gỡ hàng năm của các lãnh đạo ASEAN.
Hội nghị Thượng đỉnh kỷ niệm
Một hội nghị thượng đỉnh kỷ niệm là một hội nghị do một quốc gia không thuộc ASEAN tổ chức để đánh dấu một dịp kỷ niệm ngày thiết lập quan hệ giữa ASEAN và quốc gia tổ chức. Quốc gia tổ chức mời các lãnh đạo chính phủ các quốc gia thành viên ASEAN tới để thảo luận tương lai của việc hợp tác và đối tác.
Diễn đàn Khu vực
Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) là một cuộc đối thoại chính thức, đa bên trong vùng châu Á ‒ Thái Bình Dương. Tới thời điểm tháng 7 năm 2007, nó gồm 27 bên tham gia. Các mục tiêu của ARF là khuyến khích đối thoại và tham vấn, và thúc đẩy xây dựng lòng tin và chính sách ngoại giao ngăn chặn trong khu vực. ARF được tổ chức lần đầu năm 1994. Các bên tham gia ARF hiện tại như sau: toàn bộ thành viên ASEAN, Úc, Bangladesh, Canada, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, Liên minh châu Âu, Ấn Độ, Nhật Bản, Bắc Triều Tiên, Hàn Quốc, Mông Cổ, New Zealand, Pakistan, Papua New Guinea, Nga, Đông Timor, Hoa Kỳ và Sri Lanka. Trung Hoa Dân Quốc (cũng gọi là Đài Loan) đã bị trục xuất từ khi ARF thành lập, và các vấn đề về Eo biển Đài Loan không được thảo luận tại các cuộc họp của ARF cũng như được đề cập tới trong Tuyên bố của Chủ tịch ARF.
Các cuộc gặp khác
Ngoài các cuộc họp ở trên, các cuộc họp thường xuyên khác cũng được tổ chức. Chúng bao gồm Cuộc họp Bộ trưởng ASEAN Thường niên cũng như các uỷ ban nhỏ hơn khác, như Trung tâm Phát triển Nghề cá Đông Nam Á. Các cuộc họp tập trung vào các chủ đề riêng biệt, như quốc phòng hay môi trường, và do các Bộ trưởng, thay vì các nguyên thủ quốc gia tham dự.
Cộng Ba
ASEAN+3 là một cuộc họp giữa ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc, và chủ yếu được tổ chức trong mỗi kỳ họp cấp cao ASEAN.
Diễn đàn Hợp tác Á–Âu
Diễn đàn Hợp tác Á-Âu (ASEM) là một quá trình đối thoại không chính thức được đưa ra sáng kiến năm 1996 với mục tiêu tăng cường hợp tác giữa các quốc gia châu Á và châu Âu, đặc biệt giữa các thành viên Liên minh châu Âu và ASEAN. ASEAN, được đại diện bởi vị Tổng thư ký của mình, là một trong 45 đối tác ASEM. Họ cũng chỉ định một đại diện trong ban quản lý Quỹ Á-Âu (ASEF), một tổ chức văn hoá xã hội gắn liền với cuộc Gặp gỡ.
Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN – Nga
Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN-Nga là một cuộc gặp gỡ hàng năm giữa các lãnh đạo các quốc gia thành viên và Tổng thống Nga.
Ba trụ cột Cộng đồng ASEAN
Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC)
ASEAN đã nhấn mạnh trên việc hợp tác khu vực trong "ba trụ cột" về an ninh, văn hoá xã hội và hội nhập kinh tế. Các nhóm khu vực đã có những thành quả lớn nhất trong hội nhập kinh tế, với mục tiêu tạo lập một Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) vào năm 2015.
Khu vực Tự do Thương mại
Nền tảng của AEC là Khu vực Tự do Thương mại ASEAN (AFTA), một kế hoạch thuế xuất ưu đãi bên ngoài chung để khuyến khích dòng chảy tự do của hàng hoá bên trong ASEAN. Khu vực Tự do Thương mại ASEAN (AFTA) là một thoả thuận của các quốc gia thành viên ASEAN liên quan tới chế tạo địa phương tại mọi quốc gia ASEAN. Thoả thuận AFTA được ký ngày 28 tháng 1 năm 1992 tại Singapore. Khi thoả thuận AFTA được ký lần đầu tiên, ASEAN có sáu thành viên là Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan. Việt Nam gia nhập năm 1995, Lào và Myanmar năm 1997, và Campuchia năm 1999. Những thành viên gia nhập sau vẫn chưa đáp ứng đầy đủ các quy định của AFTA, nhưng họ đã chính thức được coi là một phần của AFTA khi họ bị yêu cầu ký thoả thuận này khi gia nhập vào ASEAN, và được trao các khung thời gian dài hơn để đạt tới các quy định về miễn giảm thuế của AFTA.
Khu vực Đầu tư Toàn diện
Khu vực Đầu tư Toàn diện ASEAN (ACIA) sẽ khuyến khích dòng chảy tự do của đầu tư bên trong ASEAN. Các nguyên tắc chính của ACIA như sau
Mọi ngành công nghiệp đều phải được mở cửa cho đầu tư, ngoại trừ những ngành sẽ từ từ bị loại bỏ theo lộ trình
Quy tắc đối xử quốc gia được trao ngay lập tức cho các nhà đầu tư ASEAN với ít ngoại lệ
Hạn chế ngăn trở đầu tư
Hợp lý hoá quá trình và các thủ tục đầu tư.
Tăng cường minh bạch
Tiến hành các biện pháp khuyến khích đầu tư
Việc thực hiện đầy đủ ACIA với việc loại bỏ các danh sách ngoại lệ hiện tại trong chế biến nông nghiệp, đánh cá, lâm nghiệp và khai thác mỏ được quy định vào năm 2010 cho hầu hết thành viên ASEAN và năm 2015 cho Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam.
Thương mại trong Dịch vụ
Một Thoả thuận Khung của ASEAN về Thương mại trong Dịch vụ được thông qua tại Hội nghị cấp cao ASEAN tại Bangkok tháng 12 năm 1995. Theo AFAS, các quốc gia thành viên ASEAN tham gia vào các vòng đàm phán tự do hoá thương mại trong dịch vụ liên tục này với mục tiêu ngày càng tạo ra các cam kết cấp độ cao hơn. Các cuộc đàm phán đã dẫn tới các cam kết đặt ra các lộ trình cho các cam kết cụ thể là một bộ phận của Thoả thuận Khung. Các lộ trình thường được gọi là các gói cam kết dịch vụ. Hiện tại, ASEAN đã ký kết bảy gói cam kết theo AFAS.
Thị trường hàng không duy nhất
Thị trường Hàng không Duy nhất ASEAN (SAM), do Nhóm Làm việc Vận tải Hàng không ASEAN đệ trình, được Cuộc họp các Quan chức Vận tải Cao cấp ASEAN ủng hộ, và được các Bộ trưởng Vận tải ASEAN xác nhận, sẽ đưa ra một thoả thuận bầu trời mở cho khu vực vào năm 2015. ASEAN SAM được mong đợi sẽ hoàn toàn tự do hoá đi lại bằng đường hàng không giữa các quốc gia thành viên, cho phép ASEAN được hưởng lợi ích trực tiếp từ sự tăng trưởng giao thông đường không trên thế giới, và cũng tự do hoá cho các dòng chảy du lịch, thương mại, đầu tư và dịch vụ giữa các quốc gia thành viên. Bắt đầu từ ngày 1 tháng 12 năm 2008, những hạn chế trên các quyền tự do hàng không thứ ba và thứ tư giữa các thành phố thủ đô của các quốc gia thành viên về dịch vụ chở khách đường không sẽ bị xoá bỏ, trong khi đó từ ngày 1 tháng 1 năm 2009, sẽ có sự tự do hoá hoàn toàn trong việc chuyên chở hàng hoá bằng hàng không trong khu vực Tới ngày 1 tháng 1 năm 2011, quyền tự do lưu thông thứ năm giữa mọi thành phố thủ đô sẽ được tự do hoá.
Các thoả thuận tự do thương mại với các quốc gia khác
ASEAN đã ký kết các thoả thuận tự do thương mại với Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Úc, New Zealand và gần đây nhất là Ấn Độ. Ngoài ra, hiện nay tổ chức này đang đàm phán thoả thuận tự do thương mại với Liên minh châu Âu. Đài Loan cũng đã thể hiện sự quan tâm tới một thoả thuận với ASEAN nhưng cần vượt qua những trở ngại về ngoại giao từ Trung Quốc.
Cộng đồng An ninh – Chính trị ASEAN (APSC)
Cộng đồng Văn hóa – Xã hội ASEAN (ASCC)
Hiến chương Asean
Ngày 15 tháng 12 năm 2008 các thành viên ASEAN gặp gỡ tại thủ đô Jakarta của Indonesia để đưa ra một hiến chương, được ký kết tháng 11 năm 2007, với mục tiêu tiến gần hơn tới "một cộng đồng kiểu Liên minh châu Âu". Hiến chương biến ASEAN thành một thực thể pháp lý và các mục tiêu tạo lập một khu vực tự do thương mại duy nhất cho khu vực gồm 500 triệu dân. Tổng thống Indonesia Susilo Bambang Yudhoyono đã nói rằng "Đây là một sự phát triển quan trọng khi ASEAN đang đoàn kết, hội nhập và biến mình thành một cộng đồng. Nó đã được hoàn thành khi ASEAN tìm kiếm một vai trò tích cực hơn trong các vấn đề châu Á và quốc tế ở thời điểm khi hệ thống thế giới đang trải qua một sự thay đổi chấn động" ông thêm, đề cập tới sự thay đổi khi hậu và dịch chuyển kinh tế. "Đông Nam Á không còn là một vùng bị chia rẽ, bị chiến tranh tàn phá như trong thập niên 1960 và 1970". Các nguyên tắc nền tảng bao gồm:
a) Tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng sự toàn vẹn lãnh thổ và bản sắc quốc gia của mọi quốc gia thành viên ASEAN;
b) Có chung cam kết và trách nhiệm trong việc tăng cường hoà bình khu vực, an ninh và thịnh vượng;
c) Bác bỏ sự gây hấn và đe dọa sử dụng vũ lực hay các hành động khác theo bất kỳ cách nào không thích hợp với luật pháp quốc tế;
d) Dựa trên sự giải quyết hoà bình các tranh chấp;
e) Không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia thành viên ASEAN;
f) Tôn trọng quyền của mọi Quốc gia bảo đảm sự tồn tại của mình và không bị sự can thiệp, lật đổ hay ép buộc từ bên ngoài;
g) Tăng cường tham vấn về những vấn đề ảnh hưởng nghiêm trọng tới lợi ích chung của ASEAN;
h) Trung thành với sự cai trị của pháp luật, quản lý tốt, các nguyên tắc dân chủ và định chế chính phủ;
i) Tôn trọng các quyền tự do nền tảng, khuyến khích và bảo vệ nhân quyền, và khuyến khích công bằng xã hội;
j) Tán thành Hiến chương Liên hiệp quốc và luật pháp quốc tế, gồm cả luật nhân đạo quốc tế, đã được tán thành bởi các quốc gia thành viên ASEAN;
k) Tránh tham gia vào bất kỳ chính sách hay hoạt động nào, gồm cả việc sử dụng lãnh thổ của mình, được theo đuổi bởi một quốc gia thành viên hay không phải là thành viên của ASEAN hay bất kỳ một bên phi quốc gia nào, đe doạ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ hay sự ổn định kinh tế chính trị của các quốc gia thành viên ASEAN;
l) Tôn trọng những sự khác biệt văn hoá, ngôn ngữ và tôn giáo của người dân ASEAN, trong khi nhấn mạnh những giá trị chung theo tin thần thống nhất trong đa dạng;
m) Thúc đẩy hình thành một ASEAN hướng về nhân dân, trong đó khuyến khích mọi thành phần xã hội tham gia và hưởng lợi từ tiến trình liên kết và xây dựng cộng đồng ASEAN;
n) Tôn trọng các quy định thương mại đa bên và các quy định của ASEAN dựa trên các chế độ cho sự áp dụng hiệu quả các cam kết kinh tế và dần giảm bớt hướng tới loại bỏ tất cả các rào cản với sự hội nhập kinh tế của khu vực, trong một nền kinh tế định hướng thị trường".
Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đang diễn ra đã được coi như một mối đe doạ với những mục tiêu của bản hiến chương, và cũng đặt ra ý tưởng về một cơ cấu nhân quyền sẽ được đàm phán trong cuộc hội nghị cấp cao sắp tới vào tháng 2 năm 2009. Đề xuất này đã gây ra tranh cãi, bởi cơ quan này sẽ không có quyền áp đặt cấm vận hay trừng phạt các quốc gia vi phạm vào quyền của công dân nước mình và vì thế sẽ không có nhiều hiệu quả.
Các hoạt động văn hoá
ASEAN có tổ chức các hoạt động văn hoá trong một nỗ lực nhằm hội nhập hơn nữa cho khu vực. Chúng gồm các hoạt động thể thao và giáo dục cũng như các giải thưởng văn chương. Các ví dụ gồm Mạng lưới Trường đại học ASEAN, Trung tâm Đa dạng sinh học ASEAN, Giải thưởng Nhà khoa học và Nhà kỹ thuật Xuất sắc ASEAN, cuộc thi hoa hậu Kinh đô Asean 2020 và Học bổng ASEAN do Singapore tài trợ.
S.E.A. Write Award
Giải thưởng Văn học Đông Nam Á (S.E.A. Write Award) là một giải thưởng văn học được trao hàng năm cho các nhà văn và nhà thơ Đông Nam Á từ năm 1979. Giải thưởng này hoặc được trao cho một tác phẩm riêng biệt hay như một sự công nhận với thành tựu cả đời của một nhà văn. Các tác phẩm được trao giải rất đa dạng và gồm cả thi ca, truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản sân khấu, dân gian cũng như các tác phẩm hàn lâm và tôn giáo. Các buổi lễ được tổ chức tại Bangkok và được chủ trì bởi một thành viên của gia đình hoàng gia Thái Lan.
ASAIHL
ASAIHL hay Hiệp hội các Định chế Cao học Đông Nam Á là một tổ chức phi chính phủ được thành lập năm 1956 với mục tiêu tăng cường các định chế cao học, đặc biệt trong giảng dạy, nghiên cứu, và dịch vụ công, với tham vọng tạo ra một bản sắc khu vực và sự phụ thuộc lẫn nhau.
Các di sản vườn quốc gia
Các Vườn quốc gia Di sản ASEAN là một danh sách các vườn quốc gia được đưa ra năm 1984 và được sửa đổi năm 2004. Nó có mục đích bảo vệ các tài nguyên tự nhiên trong khu vực. Hiện có 35 khu vực như thế đang được bảo tồn, gồm Vườn Đá ngầm Biển Tubbataha và Vườn Quốc gia Kinabalu.
Học bổng
Học bổng ASEAN là một chương trình học bổng của Singapore dành cho 9 quốc gia thành viên khác về giáo dục cấp ba, cao đẳng và đại học. Nó bao gồm nơi ăn ở, các lợi ích y tế và bảo hiểm, phí học tập và phí thi cử.
Mạng lưới đại học
Mạng lưới Đại học ASEAN (AUN) là một tập hợp các trường đại học Đông Nam Á. Ban đầu nó được 11 trường đại học bên trong các quốc gia thành viên thành lập tháng 11 năm 1995. Hiện tại AUN gồm 21 trường đại học tham gia.
Bài ca chính thức
The ASEAN Way (Con đường ASEAN) - bài hát chính thức của khu vực ASEAN, âm nhạc của Kittikhun Sodprasert và Sampow Triudom ; Lời của Payom Valaiphatchra .
ASEAN Song of Unity hay ASEAN Hymn, âm nhạc của Ryan Cayabyab .
Let us move ahead, một bài hát ASEAN, sáng tác của Candra Darusman .
Thể thao
SEA Games
Đại hội Thể thao Đông Nam Á (), thường được gọi là SEA Games, là một sự kiện thể thao được tổ chức hai năm một lần với các vận động viên từ 11 quốc gia Đông Nam Á tham gia. Sự kiện này nằm dưới sự quản lý của Liên đoàn đại hội thể thao Đông Nam Á và dưới sự giám sát của Ủy ban Olympic Quốc tế (IOC) và Hội đồng Olympic châu Á.
ASEAN Para Games
Đại hội Thể thao Người khuyết tật Đông Nam Á () là một sự kiện thể thao được tổ chức hai năm một lần sau mỗi kỳ SEA Games dành cho các vận động viên khuyết tật. Sự kiện này được các vận động viên của cả 11 quốc gia Đông Nam Á tham gia. ASEAN Para Games được tổ chức theo mô hình Paralympic Games, và dành cho các vận động viên khuyết tật về thể hình như khả năng vận động, khuyết tật thị giác, người mất chân tay và những người liệt não.
AFF Championship
Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á () là một sự kiện bóng đá được tổ chức hai năm một lần bởi Liên đoàn bóng đá Đông Nam Á, được FIFA công nhận và với sự tham gia của các đội tuyển quốc gia Đông Nam Á. Giải đầu tiên tổ chức năm 1996 với tên gọi Tiger Cup, dưới sự tài trợ của Asia Pacific Breweries. Năm 2008, giải mang tên AFF Suzuki Cup, dưới sự tài trợ của Suzuki. Từ năm 2022, giải mang tên AFF Mitsubishi Electric Cup, dưới sự tài trợ của Mitsubishi Electric.
Chỉ trích
Các quốc gia phương Tây đã chỉ trích ASEAN về cách tiếp cận quá mềm dẻo của họ trong việc khuyến khích dân chủ và nhân quyền ở Myanmar do một hội đồng quân sự điều hành. Dù có những lời lên án của quốc tế về vụ chính phủ sử dụng vũ lực đàn áp những người biểu tình hoà bình tại Yangon, ASEAN đã từ chối ngừng quy chế thành viên của Myanmar và cũng bác bỏ các đề xuất áp dụng trừng phạt kinh tế. Điều này đã gây nên những lo ngại khi Liên minh châu Âu, một đối tác thương mại tiềm năng, đã từ chối tiến hành các cuộc đàm phán tự do thương mại ở cấp vùng vì những lý do chính trị đó. Các nhà quan sát quốc tế coi tổ chức như một "nơi hội họp", ngụ ý rằng tổ chức này chỉ "mạnh miệng lên án mà ít hành động".
Tại cuộc họp Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 12 ở Cebu, nhiều nhóm hoạt động đã tổ chức các cuộc tuần hành phản đối toàn cầu hoá và chống Arroyo. Theo các nhà hoạt động, lộ trình hội nhập kinh tế sẽ có ảnh hưởng xấu tới các ngành công nghiệp của Philippines và sẽ khiến hàng nghìn người Philippines mất việc. Họ cũng coi tổ chức như một tổ chức đế quốc đe dọa tới chủ quyền quốc gia. Một luật sư nhân quyền từ New Zealand cũng đã đệ trình bản phản đối về tình hình nhân quyền trong vùng nói chung.
Xem thêm
Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN
Hội nghị bộ trưởng kinh tế ASEAN
Hội nghị cấp cao ASEAN
Cộng đồng Kinh tế ASEAN
Cộng đồng An ninh ASEAN
Cộng đồng văn hóa-xã hội ASEAN
Diễn đàn khu vực châu Á
Hiến chương ASEAN
Danh sách các quốc gia ASEAN theo lãnh thổ quốc gia
Ghi chú
Liên kết ngoài
Tổ chức
ASEAN Secretariat Truy cập 13 tháng 3 năm 2007.
The ASEAN Charter 1/2008
ASEAN Regional Forum Truy cập 13 tháng 3 năm 2007.
BBC Country Profile/Asean Truy cập 13 tháng 3 năm 2007.
Các hội nghị cấp cao
14th ASEAN Summit
13th ASEAN Summit Singapore official site. Truy cập 16 tháng 9 năm 2007.
12th ASEAN Summit Truy cập 13 tháng 3 năm 2007.
11th ASEAN Summit 12 December-14, 2005, Kuala Lumpur, Malaysia official site. Truy cập 13 tháng 3 năm 2007.
11th ASEAN Summit 12 December–14, 2005, Kuala Lumpur, Malaysia. Truy cập 13 tháng 3 năm 2007.
Các tổ chức của ASEAN
ASEAN official directory of ASEAN organisations
ASEAN Architect
ASEAN Law Association
ASEAN Ports Association
US-ASEAN Business Council
Tổ chức quốc tế
Hiệp hội
Quan sát viên Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc
Liên minh siêu quốc gia
Tổ chức có trụ sở tại Jakarta
Tổ chức liên chính phủ
Tổ chức thành lập năm 1967
Đông Nam Á
|
26883
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BA%A7u%20th%E1%BB%A7%20xu%E1%BA%A5t%20s%E1%BA%AFc%20nh%E1%BA%A5t%20ch%C3%A2u%20Phi
|
Cầu thủ xuất sắc nhất châu Phi
|
Giải thưởng Cầu thủ xuất sắc nhất châu Phi của France Football được trao cho cầu thủ bóng đá châu Phi xuất sắc nhất hàng năm bởi tập chí France Football (Pháp) từ năm 1970 đến 1994. Giải bị kết thúc năm 1995 sau khi Quả bóng vàng châu Âu (Ballon d'or) được mở rộng cho cả những cầu thủ không thuộc quốc tịch châu Âu, và George Weah được giải thưởng này năm đó. Nó đã được thay với giải thưởng chính thức, Cầu thủ xuất sắc nhất châu Phi, trao bởi Liên đoàn bóng đá châu Phi từ năm 1992. Samuel Eto'o (Cameroon) và Yaya Touré (Bờ Biển Ngà) là hai cầu thủ đoạt giải nhiều lần nhất, cùng 4 lần.
Danh sách các cầu thủ đoạt giải
Xếp hạng theo nước
* Được biết đến là Zaire từ năm 1971 đến năm 1997
† Được biết đến là Cộng hòa Nhân dân Congo từ năm 1970 đến năm 1992
Xem thêm
Cầu thủ xuất sắc nhất năm của FIFA
Quả bóng vàng châu Âu
Tham khảo
Liên đoàn bóng đá châu Phi
Giải thưởng bóng đá
Danh sách bóng đá
|
26904
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%E1%BB%87%20tinh%20kh%C3%AD%20t%C6%B0%E1%BB%A3ng
|
Vệ tinh khí tượng
|
Vệ tinh khí tượng là một loại vệ tinh nhân tạo được dùng chủ yếu để quan sát thời tiết và khí hậu trên Trái Đất. Các vệ tinh khí tượng không chỉ quan sát được mây và các hệ mây. Nó có thể quan sát được ánh sáng của thành phố, các vụ cháy, ô nhiễm, cực quang, cát và bão cát, vùng bị tuyết bao phủ, bản đồ băng, hải lưu, năng lượng lãng phí... và các thông tin môi trường khác được thu thập bởi vệ tinh khí tượng. Vệ tinh có thể quay quanh cực hoặc quanh đường xích đạo.
Ảnh từ vệ tinh khí tượng giúp giám sát các đám tro núi lửa từ núi St. Helens và các hoạt động núi lửa khác như núi Etna. Khói từ các vụ cháy rừng phía Tây Hoa Kỳ như Colorado và Utah cũng được giám sát.
Các vệ tinh theo dõi môi trường khác có thể phát hiện những thay đổi trong thảm thực vật, trạng thái mặt biển, màu nước biển và băng nguyên của Trái Đất. Ví dụ, vụ tràn dầu tàu Prestige năm 2002 ở ngoài khơi bờ biển phía tây bắc Tây Ban Nha đã được vệ tinh ENVISAT châu Âu theo dõi cẩn thận, mặc dù không phải là vệ tinh thời tiết, để có thể nhìn thấy những thay đổi trên mặt biển. Thêm vào đó, vệ tinh thời tiết quan sát được thời tiết toàn cầu.
El Niño và các hiệu ứng thời tiết của nó cũng được giám sát hằng ngày bằng hình ảnh từ vệ tinh thời tiết. Nói chung, các vệ tinh thời tiết phần lớn thuộc sở hữu của Hoa Kỳ, Châu Âu, Ấn Độ, Trung Quốc, Nga và Nhật Bản cung cấp các quan sát gần như liên tục cho một chiếc đồng hồ thời tiết toàn cầu.
Lịch sử
Ngay từ năm 1946, ý tưởng về các camera quay theo quỹ đạo để quan sát thời tiết đã được phát triển. Điều này là do phạm vi quan sát dữ liệu yếu ớt và chi phí sử dụng tên lửa quan sát thời tiết quá tốn kém cho mỗi lần quan sát. Đến năm 1958, các nguyên mẫu ban đầu cho TIROS và Vanguard (được phát triển bởi Quân đoàn Tín hiệu Quân đội) đã được tạo ra. Vệ tinh khí tượng đầu tiên, Vanguard 2, được phóng vào ngày 17 tháng 2 năm 1959. Nó được thiết kế để đo sự che phủ của mây. Tuy nhiên, do trục quay không chính xác nên nó không thu thập được nhiều dữ liệu có ích.
Vệ tinh khí tượng được xem là thành công đầu tiên là TIROS-1, được phóng bởi NASA vào ngày 1 tháng 4 năm 1960. TIROS hoạt động trong 78 ngày và được chứng minh là thành công hơn nhiều so với Vanguard 2. TIROS mở đường cho nhiều vệ tinh khí tượng cao cấp hơn trong tương lai, trong đó có chương trình Nimbus. Bắt đầu với vệ tinh Nimbus 3 vào năm 1969, thông tin nhiệt độ qua cột tầng đối lưu từ phía đông Đại Tây Dương và hầu hết Thái Bình Dương, dẫn đến những cải thiện đáng kể cho dự báo thời tiết.
Các vệ tinh quay quanh cực ESSA và NOAA vận hành từ cuối những năm 1960 trở đi. Các vệ tinh địa tĩnh theo sau, bắt đầu với các vệ tinh loại ATS và SMS vào cuối thập niên 60 và đầu thập niên 70 của thế kỷ XX, sau đó tiếp tục với loại GOES từ những năm 1970 trở đi. Các vệ tinh quay quanh cực như QuikScat và TRMM bắt đầu chuyển thông tin gió gần bề mặt đại dương bắt đầu từ cuối những năm 1970, với hình ảnh vi sóng giống như màn hình radar, giúp cải thiện đáng kể các dự đoán về sức mạnh của bão nhiệt đới, cường độ và vị trí trong những năm 2000 và 2010.
Quan sát
Việc quan sát thường được thực hiện thông qua các 'kênh' khác nhau của phổ điện từ, đặc biệt là các phần nhìn thấy và hồng ngoại.
Một số kênh này bao gồm:
Nhìn thấy và cận hồng ngoại: 0,6-1,6 μm để ghi lại mây che trong ngày
Hồng ngoại: 3,9-7,3 μm (hơi nước), 8,7-13,4 μm (hình ảnh nhiệt)
Phổ nhìn thấy được
Hình ảnh ánh sáng nhìn thấy được từ các vệ tinh thời tiết ban ngày rất dễ thấy ngay cả với mắt người bình thường; các đám mây, hệ thống mây và bão nhiệt đới, hồ, rừng, núi, băng tuyết, hỏa hoạn và ô nhiễm như khói, sương mù, bụi và khói mù là điều dễ thấy. Ngay cả gió cũng có thể được xác định bởi các mô hình đám mây, sự sắp xếp và chuyển động từ các bức ảnh liên tiếp.
Phổ hồng ngoại
Hình ảnh nhiệt hoặc hồng ngoại được ghi lại bởi các cảm biến gọi là bức xạ kế cho phép một nhà phân tích được đào tạo để xác định độ cao và loại mây, để tính toán nhiệt độ nước và mặt nước và xác định vị trí các đặc điểm bề mặt đại dương. Hình ảnh vệ tinh hồng ngoại có thể được sử dụng hiệu quả cho bão nhiệt đới với mắt bão có thể nhìn thấy được, sử dụng kỹ thuật Dvorak, trong đó chênh lệch giữa nhiệt độ của mắt ấm và vùng mây lạnh xung quanh có thể được sử dụng để xác định cường độ của nó (vùng mây lạnh hơn thường xác định đó là một cơn bão dữ dội hơn). Hình ảnh hồng ngoại mô tả các sắc thái đại dương hoặc xoáy lốc và dòng chảy như Gulf Stream có giá trị đối với ngành vận tải biển. Ngư dân và nông dân quan tâm đến việc biết nhiệt độ đất và nước để bảo vệ cây trồng của họ chống lại băng giá hoặc tăng sản lượng đánh bắt từ biển. Ngay cả hiện tượng El Nino có thể được phát hiện. Sử dụng các kỹ thuật số hóa màu, hình ảnh nhiệt phổ màu xám có thể được chuyển đổi thành màu sắc khác để dễ dàng xác định thông tin muốn thu thập.
Các loại vệ tinh khí tượng
Vệ tinh khí tượng thường có hai loại quỹ đạo cơ bản: quỹ đạo địa tĩnh (vệ tinh địa tĩnh) và quỹ đạo cực.
Vệ tinh khí tượng địa tĩnh
Vệ tinh khí tượng địa tĩnh bay vòng quanh Trái Đất phía trên xích đạo ở độ cao khoảng 35.880 km (22.300 dặm). Ở quỹ đạo này, các vệ tinh có chiều quay cùng chiều với Trái Đất, do đó nó có vị trí cố định so với mặt đất. Do đó, nó có thể truyền các hình ảnh của bán cầu phía dưới liên tục bằng các máy ảnh và bộ cảm biến hồng ngoại của nó. Các hãng thông tấn đưa tin tức về thời tiết dùng các ảnh từ vệ tinh này trong các chương trình dự báo thời tiết như là các ảnh chụp, hoặc ghép lại thành ảnh động để thể hiện sự thay đổi thời tiết. Chúng cũng có sẵn trên các trang dự báo của www.noaa.gov.
Hiện nay, có nhiều vệ tinh khí tượng địa tĩnh đang được sử dụng. Hoa Kỳ có sáu vệ tinh đang hoạt động thuộc dòng GOES (vệ tinh). GOES-15, GOES-16 và GOES-17. GOES-16 và GOES-17 theo thứ tự vẫn hoạt động trên Đại Tây Dương và Thái Bình Dương. GOES-15 sẽ kết thúc sứ mệnh vào đầu tháng 7 năm 2019. Trước đó Mỹ cũng đã có ba vệ tinh thời tiết và đã hoàn thành sứ mệnh bao gồm GOES-12 được mệnh danh là GOES-East, nằm phía trên sông Amazon và cung cấp hầu hết thông tin thời tiết của Hoa Kỳ. GOES-10 còn được gọi là GOES-West nằm ở trên phía Đông Thái Bình Dương. GOES-9 cho Nhật mượn thông qua một thỏa thuận quốc tế do vệ tinh GMS-5 của Nhật đã hư hỏng và việc phóng vệ tinh thay thế (vệ tinh MTSAT-1) thất bại; nó bay trên vùng giữa Thái Bình Dương.
Vệ tinh thời tiết thế hệ mới của Nga Elektro-L No.1 hoạt động ở tọa độ 76°Đ trên Ấn Độ Dương. Nhật Bản có MTSAT-2 nằm ở giữa Thái Bình Dương ở tọa độ 145°Đ và Himawari 8 ở 140°Đ. Châu Âu có các vệ tinh Meteosat-8 (3,5°T) và Meteosat-9 (0°) bay trên Đại Tây Dương và Meteosat-5. Meteosat-6 (63°Đ) và Meteosat-7 (57,5°Đ) bay trên Ấn Độ Dương. Nga có vệ tinh GOMS bay trên xích đạo phía Nam Moskva. Ấn Độ cũng có vệ tinh địa tĩnh gọi là INSAT chứa các thiết bị thời tiết. Trung Quốc có vệ tinh Phong Vân (Tiếng Anh: Feng-Yun, Tiếng Trung Quốc: 風雲) là vệ tinh địa tĩnh. Vệ tinh được phóng gần đây nhất là FY-2E,,FY-2F và FY-2G hoạt động lần lượt tại kinh độ 86,5°Đ, 123,5°Đ và 105°Đ.
Vệ tinh quỹ đạo cực bay vòng quanh Trái Đất ở độ cao từ 850 km (530 dặm) từ hướng bắc đến nam hoặc ngược lại và đi ngang qua các địa cực trên đường đi. Vệ tinh quỹ đạo cực có quỹ đạo đồng bộ mặt trời , có nghĩa là nó có thể quan sát bất kỳ vị trí nào trên Trái Đất và mỗi ngày 2 lần với cùng điều kiện ánh sáng vì giờ địa phương chỗ nó đi qua gần như không thay đổi. Các vệ tinh thời tiết quay quanh cực cung cấp độ phân giải tốt hơn nhiều so với các vệ tinh địa tĩnh do gần Trái Đất hơn.
Hoa Kỳ có những vệ tinh NOAA là vệ tinh khí tượng quỹ đạo cực, hiện tại NOAA-15 và NOAA-18, NOAA-19 (POES) và NOAA-20 (JPSS). Châu Âu có vệ tinh MetOp-A và MetOp-B vận hành bởi EUMETSAT. Nga có những vệ tinh Meteor và RESURS. Trung Quốc có FY-3A, 3B và 3C. Ấn Độ cũng có những vệ tinh quỹ đạo cực.
Ảnh chụp ánh sáng bình thường của vệ tinh khí tượng chụp ban ngày người bình thường vẫn có thể hiểu được; mây, hệ mây như bão nhiệt đới, hồ, rừng, núi, tuyết, cháy, ô nhiễm, khói, sương mù... đều hiện ra. Ngay cả gió vẫn có thể xác định được dựa trên hình dạng mây, cách sắp xếp và sự di chuyển từ những bức ảnh trước đó.
Ảnh hồng ngoại và ảnh chụp nhiệt độ được chụp bằng các sensor cho phép các nhà phân tích xác định độ cao và loại mây, tính nhiệt độ mặt đất và mặt nước, đặt điểm mặt biển. Các ảnh hồng ngoại mô tả những xoáy nước trên biển và bản đồ các dòng hải lưu có giá trị kinh tế và công nghiệp hàng hải. Ngư dân và nông dân cũng cần biết nhiệt độ mặt đất và mặt nước để bảo vệ mùa màng trước sự băng giá hoặc tăng sản lượng đánh bắt trên biển. Hiện tượng El Niño cũng có thể được xác định. Dùng kỹ thuật tô màu ảnh kỹ thuật số, các sắc độ xám của ảnh được chuyển thành các màu để xác định các thông tin mong muốn một cách dễ dàng.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Space Applications for Development
Near realtime composite of satellite image of the Earth
Physical Characteristics of Geostationary and Polar-Orbiting weather satellites
Earth at night
Real-time Satellite Images – SSEC
Interpreting Satellite Images – Suomi Virtual Museum
Dr. Verner Suomi ("father of the geostationary satellite") biography
Khí tượng học
Thời tiết
Phát minh của Hoa Kỳ
|
26910
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%E1%BB%91c%20k%E1%BB%B3%20Nh%E1%BA%ADt%20B%E1%BA%A3n
|
Quốc kỳ Nhật Bản
|
là một lá cờ hình chữ nhật có nền trắng với một hình tròn màu đỏ lớn (tượng trưng cho mặt trời) nằm ở chính giữa. Trong tiếng Nhật, quốc kỳ được gọi là , song được biết đến với tên gọi thông tục hơn là , vì thế có thể gọi theo cách dân dã là "Lá cờ mặt trời". Nhật chương kỳ được xem là biểu tượng của đất nước Mặt trời mọc.
Nisshōki đã được chỉ định làm quốc kỳ theo Đạo luật về Quốc kỳ và Quốc ca được công bố và có hiệu lực vào ngày 13 tháng 8 năm 1999. Mặc dù trước đó không có bất kỳ luật nào chỉ định quốc kỳ chính thức cho nước Nhật nhưng hiệu kỳ mặt trời đã là quốc kỳ trên thực tế của Nhật Bản. Thái chính quan ban hành hai đạo luật vào năm 1870, mỗi đạo luật có một điều khoản về thiết kế của quốc kỳ. Theo Tuyên bố số 57 Minh Trị 3, ngày 27 tháng 2 năm 1870, hiệu kỳ mặt trời được thông qua làm hiệu kỳ sử dụng cho thương thuyền. Theo Tuyên bố 651 Minh Trị 3 ngày 27 tháng 10 cùng năm, hiệu kỳ mặt trời là quân kỳ sử dụng cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Việc sử dụng Hinomaru bị hạn chế vô cùng nghiêm ngặt trong những năm đầu Hoa Kỳ chiếm đóng Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai, những hạn chế này sau đó đã được nới lỏng.
Mặt trời có một vai trò quan trọng trong thần thoại và tôn giáo của người Nhật Bản, thiên hoàng được cho là hậu duệ trực tiếp của nữ thần mặt trời Amaterasu, và tính hợp pháp của nhà cai trị dựa trên mối quan hệ thiêng liêng này, nữ thần mặt trời là vị thần đứng đầu của Thần đạo. Tên gọi của đất nước cũng như lá cờ phản ánh ý nghĩa quan trọng của mặt trời. Quyển lịch sử Nhật thời cổ đại là Shoku Nihongi đã ghi rằng Thiên hoàng Monmu từng sử dụng một lá cờ tượng trưng cho mặt trời trong triều đình của mình vào năm 701, và đây cũng là lần đầu tiên một lá cờ có họa tiết mặt trời được sử dụng ở Nhật Bản. Lá cờ lâu đời nhất Nhật Bản được bảo tồn trong đền Unpō, Kōshū, Yamanashi, có từ trước thế kỷ thứ 16, một truyền thuyết cổ nói rằng lá cờ đã được Thiên hoàng Go-Reizei trao cho ngôi đền vào thế kỷ thứ 11. Trong cuộc Minh Trị Duy tân, cả hiệu kỳ mặt trời và Húc Nhật kỳ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản đã trở thành những biểu tượng quan trọng trong thời đại Đế quốc Nhật Bản trỗi dậy mạnh mẽ. Áp phích tuyên truyền, sách giáo khoa và phim mô tả lá cờ là nguồn tự hào và lòng yêu nước. Trong các gia đình ở Nhật Bản, công dân được yêu cầu phải treo cờ trong các ngày lễ quốc gia, lễ kỷ niệm và các dịp khác theo quy định của chính phủ. Các biểu tượng khác dành cho quốc gia và thiên hoàng có họa tiết Hinomaru ngày càng trở nên phổ biến từ sau Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ hai cũng như các cuộc chiến tranh khác.
Quan niệm của công chúng ở Nhật về quốc kỳ không giống nhau. Từ lâu, truyền thông phương Tây và Nhật Bản đều khẳng định lá cờ là một biểu tượng mạnh mẽ và bền bỉ đối với người Nhật. Từ khi Thế chiến II chấm dứt, việc sử dụng quốc kỳ và quốc ca Kimigayo trở thành vấn đề gây tranh cãi cho các trường công lập ở Nhật Bản. Tranh cãi về việc sử dụng các biểu tượng này đã dẫn đến các cuộc biểu tình và các vụ kiện. Cờ không được treo thường xuyên ở Nhật Bản do liên hệ của nó với chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản. Đối với một số người dân Okinawa, lá cờ đại diện cho sự kiện Thế chiến II và sự hiện diện quân sự của Hoa Kỳ sau chiến tranh. Đối với một số quốc gia từng bị Nhật Bản chiếm đóng, lá cờ bị xem là biểu tượng của sự xâm lược và chủ nghĩa đế quốc mà người Nhật đã gây ra cho họ. Hinomaru được sử dụng như một công cụ chống lại các quốc gia bị Nhật chiếm đóng với mục đích đe dọa, khẳng định sự thống trị và sự phục tùng vào Nhật Bản. Một số biểu ngữ quân sự của Nhật Bản thiết kế dựa theo Hinomaru, bao gồm cả biểu tượng hải quân. Hinomaru cũng đóng vai trò như một khuôn mẫu cho các lá cờ Nhật Bản khác trong việc sử dụng tư nhân và công cộng.
Lịch sử
Trước 1900
Vẫn chưa rõ về nguồn gốc chính xác của Hinomaru, song biểu tượng mặt trời mọc với ý nghĩa tượng trưng đã có kể từ đầu thế kỷ 7 (quần đảo Nhật Bản nằm về phía đông lục địa châu Á, do đó là nơi mặt trời "mọc"). Năm 607, một quốc thư bắt đầu bằng "nhật xuất xứ thiên tử" (thiên tử xứ mặt trời mọc) được gửi cho Tùy Dạng Đế. Nhật Bản thường được gọi là "xứ mặt trời mọc". Trong Bình gia vật ngữ (平家物語) từ thế kỷ 12 có chép rằng trên quạt của những samurai có vẽ hình mặt trời. Có một truyền thuyết về quốc kỳ liên quan vị hòa thượng Nichiren (日蓮: Nhật Liên) của đạo Phật, trong đó nói rằng, khi quân Mông Cổ xâm lược Nhật Bản vào thế kỷ 13, vị hòa thượng đã trao một hiệu kỳ mặt trời cho Đại tướng quân để đem ra chiến trường. Mặt trời cũng có liên hệ chặt chẽ với hoàng thất, do có truyền thuyết kể rằng các thiên hoàng là hậu duệ của nữ thần Amaterasu.
Một trong những hiệu kỳ cổ nhất của Nhật Bản nằm tại đền Unpō thuộc tỉnh Yamanashi. Theo truyền thuyết thì Thiên hoàng Go-Reizei đã trao cho Minamoto no Yoshimitsu và được xem là một bảo vật của gia tộc Takeda trong suốt 1.000 năm, và hiệu kỳ này đã có ít nhất 1.600 năm tuổi.
Các hiệu kỳ xuất hiện sớm nhất tại Nhật Bản được ghi nhận có niên đại từ Thời kỳ Azuchi-Momoyama vào cuối thế kỷ 16. Mỗi daimyō có hiệu kỳ riêng và được sử dụng chủ yếu trên chiến trường. Hầu hết hiệu kỳ là các dải dài thường mang mon (gia văn) của daimyō. Các thành viên trong cùng một gia tộc cũng có hiệu kỳ khác nhau để mang ra chiến trường. Các tướng lĩnh cũng có hiệu kỳ riêng của mình, hầu hết trong số đó khác biệt với hiệu kỳ của binh sĩ vốn có hình vuông.
Năm 1854, vào thời Mạc phủ Tokugawa, các thuyền đi biển của Nhật Bản được lệnh kéo Hinomaru nhằm phân biệt chúng với thuyền của ngoại quốc. Trước đó, các kiểu Hinomaru khác nhau được sử dụng trên những thuyền buôn bán với người Mỹ và người Nga. Hinomaru được quy định là hiệu kỳ thương mại của Nhật Bản vào năm 1870 và là quốc kỳ theo pháp luật từ năm 1870 đến năm 1885, đây là quốc kỳ đầu tiên được Nhật Bản thông qua.
Mặc dù khái niệm biểu tượng quốc gia còn xa lạ với người Nhật Bản, song chính phủ Minh Trị cần chúng để giao thiệp với thế giới bên ngoài. Điều này trở nên quan trọng sau khi Phó đề đốc Hoa Kỳ Matthew C. Perry đổ bộ lên vịnh Yokohama. Chính phủ Minh Trị còn quy định thêm những biểu tượng nhận dạng cho Nhật Bản, trong đó có quốc ca Kimigayo và quốc huy. Năm 1885, toàn bộ các luật trước đó không được ban hành trong Công báo chính thức của Nhật Bản đều bị bãi bỏ. Do quy định này, Hinomaru là quốc kỳ trên thực tế do không có pháp luật nào quy định về nó sau Minh Trị Duy tân.
Những xung đột ban đầu và Chiến tranh Thái Bình Dương
Việc sử dụng quốc kỳ gia tăng khi Nhật Bản mưu cầu mở rộng đế quốc của họ, Hinomaru hiện diện tại các lễ kỷ niệm sau những chiến thắng Chiến tranh Thanh-Nhật và Chiến tranh Nga-Nhật. Quốc kỳ cũng được sử dụng trong những nỗ lực chiến tranh trên toàn quốc. Một bộ phim tuyên truyền của Nhật Bản trong năm 1934 phác hoạ những quốc kỳ ngoại quốc là có thiết kế không hoàn chỉnh và có khuyết điểm, còn quốc kỳ Nhật Bản thì hoàn toàn hoàn hảo. Năm 1937, một nhóm thiếu nữ từ tỉnh Hiroshima thể hiện tình đoàn kết với những binh sĩ Nhật Bản chiến đấu tại Trung Quốc trong Chiến tranh Trung-Nhật bằng cách ăn "bữa cơm quốc kỳ" gồm có umeboshi. Hinomaru bento trở thành biểu tượng chính trong việc động viên và đoàn kết chiến tranh của Nhật Bản đối với binh lính, kéo dài cho đến thập niên 1940.
Hinomaru được sử dụng trong các lễ kỷ niệm khi Nhật Bản giành được các thắng lợi trong Chiến tranh Trung-Nhật. Mọi người Nhật đều cầm quốc kỳ trong các dịp lễ.
Sách giáo khoa trong thời kỳ này cũng in Hinomaru cùng những khẩu hiệu khác, nhằm biểu đạt lòng trung thành với Thiên hoàng và quốc gia. Lòng ái quốc được dạy như một đức tính cho thiếu nhi Nhật Bản. Những biểu hiện của lòng ái quốc, như trưng quốc kỳ hoặc kính bái Thiên hoàng hàng ngày đều là một phần của một "người Nhật tốt."
Quốc kỳ là một công cụ của chủ nghĩa đế quốc Nhật Bản tại các khu vực Đông Nam Á bị chiếm đóng trong Chiến tranh thế giới thứ hai: người dân các nước bị chiếm đóng phải sử dụng quốc kỳ Nhật Bản, và học sinh phải hát Kimigayo trong lễ thượng kỳ vào buổi sáng. Các lá cờ địa phương được phép sử dụng tại một số khu vực như Philippines, Indonesia và Mãn Châu Quốc. Trong một số thuộc địa như Triều Tiên, Hinomaru và những biểu tượng khác được sử dụng nhằm giáng người Triều Tiên xuống vị thế hạng hai trong đế quốc.
Đối với người Nhật, Hinomaru là "lá cờ Mặt trời mọc sẽ thắp sáng bóng tối trên toàn thế giới." Đối với người phương Tây, đó là một trong những biểu tượng mạnh mẽ nhất của quân đội Nhật Bản.
Thời kỳ Hoa Kỳ chiếm đóng
Hinomaru là quốc kỳ Nhật Bản trên thực tế trong suốt Chiến tranh thế giới thứ hai và trong thời kỳ bị chiếm đóng. Trong thời gian Hoa Kỳ chiếm đóng Nhật Bản sau chiến tranh, cần phải có sự chấp thuận từ Tư lệnh Tối cao của Đồng Minh tại Nhật Bản thì mới được treo Hinomaru. Nhiều nguồn khác nhau chỉ nói đến mức độ sử dụng Hinomaru là hạn chế; một số nguồn sử dụng thuật ngữ "bị cấm". Ban đầu có những hạn chế nghiêm ngặt về việc treo Hinomaru, song không đến mức độ cấm hoàn toàn.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, các thuyền dân sự của Nhật Bản sử dụng một thuyền kỳ do Hoa Kỳ cấp. Thuyền kỳ này được sửa đổi từ mã dấu hiệu E, được sử dụng từ tháng 9 năm 1945 đến khi thời kỳ chiếm đóng kết thúc. Tàu thuyền của Hoa Kỳ hoạt động tại vùng biển Nhật Bản sử dụng hiệu kỳ dấu hiệu "O" sửa đổi làm thuyền kỳ.
Ngày 2 tháng 5 năm 1947, Tướng Douglas MacArthur bãi bỏ việc cấm treo Hinomaru trong khuôn viên Tòa nhà Quốc hội Nhật Bản, Hoàng cung Tokyo, dinh Thủ tướng và Tòa án Tối cao cùng với việc phê chuẩn Hiến pháp Nhật Bản mới. Những hạn chế này được nới lỏng hơn nữa vào năm 1948, khi nhân dân được phép treo quốc kỳ vào những dịp quốc lễ. Đến tháng 1 năm 1949, những hạn chế bị bãi bỏ và bất cứ ai cũng có thể treo Hinomaru vào bất kỳ thời gian nào mà không cần sự cho phép. Kết quả là cho đến đầu thập niên 1950, các trường học và hộ gia đình được khuyến khích treo Hinomaru.
Sau chiến tranh đến 1999
Kể từ Chiến tranh thế giới thứ hai, quốc kỳ Nhật Bản bị phê phán do có liên hệ với quá khứ quân phiệt của quốc gia. Sự phản đối tương tự cũng dành cho quốc ca của Nhật Bản là Kimigayo. Cảm nghĩ về Hinomaru và Kimigayo nhìn chung biến đổi từ một cảm giác ái quốc về "Đại Nhật Bản" sang một nước Nhật hòa bình và chống quân phiệt. Do biến đổi về tư tưởng này, quốc kỳ được sử dụng ít thường xuyên tại Nhật Bản từ sau chiến tranh, mặc dù những hạn chế bị bãi bỏ vào năm 1949.
Do Nhật Bản bắt đầu tái lập quan hệ ngoại giao với các nước, Hinomaru được sử dụng như một công cụ chính trị tại nước ngoài. Trong một chuyến công du của Thiên hoàng Hirohito và Hoàng hậu Kōjun đến Hà Lan, một số công dân Hà Lan đốt Hinomaru yêu cầu Thiên hoàng về nước và phải xét xử vấn đề tù binh chiến tranh người Hà Lan bị sát hại trong Thế chiến II. Ở trong nước, Hinomaru không được sử dụng trong hoạt động kháng nghị một hiệp định địa vị quân đồn trú mới được Hoa Kỳ và Nhật Bản đang đàm phán. Lá cờ được sử dụng phổ biến bởi công đoàn và những người kháng nghị khác là lá cờ đỏ.
Hinomaru và quốc ca lại gặp phải vấn đề mới khi Tokyo đăng cai Thế vận hội Mùa hè 1964. Trước Thế vận hội, kích cỡ của hình mặt trời trên quốc kỳ được cải biến một phần là do hình mặt trời không nổi bật khi trưng cùng những quốc kỳ khác. Chuyên gia về màu sắc Tadamasa Fukiura chọn đặt hình tròn mặt trời chiếm 2/3 chiều cao của quốc kỳ. Fukiura lựa chọn màu sắc cho cờ trong Thế vận hội năm 1964 cũng như trong Thế vận hội Mùa đông 1998 tại Nagano.
Năm 1989, Thiên hoàng Hirohito băng hà, sự kiện này lại làm nổi lên vấn đề tinh thần của quốc kỳ. Phe bảo thủ cho rằng nếu quốc kỳ có thể được sử dụng trong tang lễ mà không khơi lại nỗi đau thương cũ, họ có thể có cơ hội đề xuất Hinomaru trở thành quốc kỳ mà không bị thách thức về mặt ý nghĩa của nó. Trong tang kỳ chính thức kéo dài sáu ngày trên toàn Nhật Bản, các lá quốc kỳ được treo rủ hoặc bọc trong dải màu đen. Mặc dù có những báo cáo về việc những người kháng nghị phá hoại Hinomaru trong ngày an táng Thiên hoàng, song việc các trường học treo Hinomaru rủ mà không bị hạn chế giúp đem đến thắng lợi cho phe bảo thủ.
Từ năm 1999 đến nay
Đạo luật về Quốc kỳ và Quốc ca được thông qua vào năm 1999, Hinomaru và Kimigayo được chọn lựa trở thành những biểu tượng quốc gia của Nhật Bản. Việc thông qua luật này bắt nguồn từ một vụ tự tử của hiệu trưởng ở Sera, Hiroshima, Toshihiro Ishikawa, ông đã không thể giải quyết được tranh chấp giữa hội đồng trường và giáo viên của ông về việc sử dụng Hinomaru và Kimigayo. Đạo luật này là một trong những luật gây tranh cãi nhiều nhất trong Quốc hội kể từ khi thông qua "Luật về hiệp lực với các hoạt động duy trì hòa bình của Liên Hợp Quốc" vào năm 1992.
Thủ tướng Obuchi Keizō của Đảng Dân chủ Tự do (LDP) đã quyết định soạn thảo bộ luật để biến Hinomaru và Kimigayo thành biểu tượng chính thức của Nhật Bản vào năm 2000. Bộ trưởng Nội các của ông, Hiromu Nonaka, muốn bộ luật hoàn thành vào dịp kỷ niệm 10 năm hoàng đế Akihito lên ngôi. Đây không phải là lần đầu tiên mà pháp luật được xem xét nhằm thiết lập cả hai biểu tượng trở thành biểu tượng chính thức. Năm 1974, sau bối cảnh trở lại chủ quyền Nhật của Okinawa vào năm 1972 và cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973, Thủ tướng Tanaka Kakuei nói ẩn ý về một đạo luật sẽ được thông qua bao gồm hai biểu tượng trong luật pháp Nhật Bản. Ngoài việc hướng dẫn các trường dạy và hát Kimigayo, Tanaka muốn học sinh treo cờ Hinomaru trong lễ mỗi buổi sáng, và áp dụng một giáo trình dạy đạo đức dựa trên Bản trích dẫn Hoàng gia về Giáo dục do Thiên hoàng Minh Trị đưa ra vào năm 1890. Tanaka đã không thành công trong việc thông qua bộ luật trong quốc hội vào năm đó.
Những nhóm ủng hộ chính của dự luật là LDP và Đảng Công Minh (CGP), trong khi phe đối lập bao gồm Đảng Dân chủ Xã hội (SDPJ) và Đảng Cộng sản (JCP), họ đã phản đối vì ý nghĩa cả hai biểu tượng trong thời kỳ chiến tranh. CPJ tiếp tục phản đối vì không cho phép vấn đề được quyết định bởi công chúng. Trong khi đó, Đảng Dân chủ Nhật Bản (DPJ) không thể thúc đẩy sự đồng thuận trong đảng về vấn đề này. Chủ tịch DPJ và là thủ tướng tương lai của Nhật Kan Naoto tuyên bố DPJ buộc phải ủng hộ dự luật vì DPJ đã công nhận cả hai biểu tượng này là biểu tượng của Nhật Bản. Phó tổng thư ký và thủ tướng tương lai Hatoyama Yukio hiểu rằng dự luật này sẽ gây ra một sự chia rẽ hơn nữa trong xã hội và trong các trường công lập. Hatoyama đã bỏ phiếu cho dự luật trong khi Kan bỏ phiếu chống lại.
Trước khi tiến hành bỏ phiếu, đã có những lời kêu gọi tách đôi bộ luật tại Quốc hội. Giáo sư Đại học Waseda, Norihiro Kato tuyên bố Kimigayo là một vấn đề riêng biệt phức tạp hơn Hinomaru. Nỗ lực chỉ định Hinomaru là quốc kỳ của DPJ, và của các bên khác trong cuộc bỏ phiếu cho dự luật đã bị Quốc hội từ chối. Hạ viện đã thông qua dự luật vào ngày 22 tháng 7 năm 1999 với số phiếu thuận 86 trên 403. Dự luật đã được gửi đến Hạ viện vào ngày 28 tháng 7 và được thông qua vào ngày 9 tháng 8. Nó đã được ban hành thành luật vào ngày 13 tháng 8.
Vào ngày 8 tháng 8 năm 2009, một bức ảnh được chụp tại một cuộc biểu tình của DPJ trong Tổng tuyển cử Nhật Bản năm 2009 cho thấy một biểu ngữ được treo trên trần nhà. Biểu ngữ làm bằng hai lá cờ Hinomaru được cắt và khâu lại với nhau để tạo thành hình dạng của logo DPJ. Điều này gây phẫn nộ cho LDP và Thủ tướng Asō Tarō, họ nói đây là hành động không thể tha thứ. Đáp lại, Chủ tịch DPJ Yukio Hatoyama (người đã bỏ phiếu cho Luật về Quốc kỳ và Quốc ca) nói rằng biểu ngữ không phải là Hinomaru và không nên xem như vậy.
Thiết kế
Quy tắc số 57 năm 1870 có hai điều khoản liên quan đến quốc kỳ, điều khoản đầu tiên quy định về người treo và cách treo, điều khoản thứ hai quy định về cách sản xuất quốc kỳ. Tỷ lệ giữa chiều cao và chiều rộng là 7:10. Hình tròn màu đỏ tượng trưng cho mặt trời và có đường kính bằng ba phần năm tổng chiều dài đứng. Luật quy định hình tròn nằm tại trung tâm, song thường được đặt lệch 1% hướng về phía vận thăng. Ngày 3 tháng 10 cùng năm, các quy định về thiết kế thương thuyền kỳ và các hải quân kỳ khác được thông qua. Đối với thương thuyền kỳ, tỷ lệ giữa chiều cao và chiều rộng là 2:3. Kích cỡ hình tròn trong vẫn giữ nguyên, song hình tròn được đặt lệch 5% hướng về phía vận thăng.
Khi Đạo luật về Quốc kỳ và Quốc ca được thông qua, kích thước của quốc kỳ có biến đổi nhỏ. Tỷ lệ tổng thể của quốc kỳ quy định chiều cao bằng 3:5 chiều rộng. Hình tròn đỏ chuyển dịch về chính tâm, song kích cỡ tổng thể của hình tròn vẫn không đổi. Nền của quốc kỳ là màu trắng (白色, bạch sắc) và hình tròn mặt trời là màu đỏ (紅色, hồng sắc), song sắc độ chính xác không được định rõ trong pháp luật năm 1999. Gợi ý duy nhất là đối với màu đỏ phải là màu "đậm".
Cục Phòng vệ Nhật Bản (nay là Bộ Quốc phòng) vào năm 1973 (năm Chiêu Hòa thứ 48) định rõ đặc điểm kỹ thuật của màu đỏ trên quốc kỳ là 5R 4/12 và của màu trắng là N9 trong hệ màu Munsell. Văn kiện này được thay đổi vào ngày 21 tháng 3 năm 2008 nhằm tương phối dựng hình của quốc kỳ với pháp luật hiện hành và hệ màu Munsell cập nhật. Văn kiện này quy định sợi acrylic và ni lông được sử dụng để sản xuất quốc kỳ sử dụng trong quân sự. Đối với acrylic, sắc độ màu đỏ là 5.7R 3.7/15.5 và màu trắng là N9.4; đối với ni lông sắc độ màu đỏ là 6.2R 4/15.2 và sắc độ màu trắng là N9.2. Trong một văn kiện do Cơ quan viện trợ phát triển chính phủ (Nhật Bản) (ODA) công bố, sắc độ màu đỏ của Hinomaru và biểu trưng của Cơ quan là DIC 156 và CMYK 0-100-90-0. Trong hội nghị thẩm định về Đạo luật về Quốc kỳ và Quốc ca, có đề nghị sử dụng sắc độ đỏ nhạt (赤色, xích sắc) hoặc hệ màu của Quy cách công nghiệp Nhật Bản. Cờ được sản xuất tại Nhật Bản thường sử dụng thuốc nhuộm màu đỏ son.
Bảng màu
Sử dụng và phong tục
Khi Hinomaru lần đầu tiên ra mắt ở Nhật Bản, chính phủ đã yêu cầu công dân chào đón Hoàng đế bằng cờ. Có một số người Nhật phản đối, dẫn đến một số cuộc biểu tình. Phải mất một thời gian sau thì cờ mới được người dân chấp nhận.
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, có một phong tục phổ biến là bạn bè, bạn học và thân nhân của một quân nhân tại ngũ sẽ viết vào một Hinomaru và tặng nó cho anh ta. Quốc kỳ cũng được sử dụng như một bùa vận khí tốt và là một vật cầu nguyện quân nhân bình an trở về từ chiến trường. Một thuật ngữ về loại bùa này là . Một truyền thống là các chữ viết không được chạm vào hình mặt trời. Sau các trận chiến, những quốc kỳ này thường bị đối phương đoạt lấy, hoặc được tìm thấy trên người những quân nhân Nhật Bản tử trận. Những quốc kỳ này trở thành vật kỷ niệm, song ngày càng có nhiều quốc kỳ được gửi trả lại cho hậu duệ của những quân nhân Nhật Bản tử trận. Truyền thống ký lên Hinomaru như một lá bùa may mắn vẫn còn tiếp tục mặc dù khá hạn chế. Có thể thấy Hinomaru Yosegaki tại các sự kiện thể thao nhằm cổ động cho các đội tuyển quốc gia Nhật Bản.
là một headband màu trắng (bandana) với mặt trời đỏ ở giữa. Các cụm từ thường được viết trên đó. Chúng được đeo như một biểu tượng cho sự kiên trì, nỗ lực và can đảm của người mang chúng. Đây là những vật được mang trong nhiều dịp bởi khán giả cổ vũ thể thao, phụ nữ khi sinh, sinh viên trong trường luyện thi, nhân viên văn phòng, nhà buôn như niềm tự hào của họ, v.v. Trong Thế chiến II, các cụm từ hoặc "Bảy cuộc đời" được viết trên hachimaki và được các phi công kamikaze mang trên đầu. Điều này thể hiện tinh thần sẵn sàng chết vì đất nước của người phi công.
Trước Chiến tranh thế giới thứ hai, toàn bộ các hộ gia đình được yêu cầu treo Hinomaru vào những ngày quốc lễ. Sau chiến tranh, việc treo quốc kỳ Nhật Bản hầu hết bị hạn chế trong các tòa nhà liên hệ với chính phủ quốc gia và địa phương như tòa thị chính; quốc kỳ hiếm khi xuất hiện tại các hộ gia đình hoặc tòa nhà thương mại, song một số cá nhân và công ty chủ trương treo quốc kỳ trong những ngày lễ. Mặc dù chính phủ Nhật Bản khuyến khích công dân treo Hinomaru trong những dịp quốc lễ, song việc này không mang tính pháp lý. Kể từ sinh nhật lần thứ 80 của Thiên hoàng vào ngày 23 tháng 12 năm 2002, Công ty Đường sắt Kyushu cho treo Hinomaru tại 330 trạm.
Bắt đầu từ năm 1995, ODA đã sử dụng họa tiết Hinomaru trong logo chính thức của họ. Bản thiết kế đó không phải do chính phủ tạo ra (logo được chọn từ 5.000 mẫu thiết kế do công chúng gửi) nhưng chính phủ đang cố gắng tăng trực quan hóa của Hinomaru thông qua các gói viện trợ và chương trình phát triển của họ. Theo ODA, việc sử dụng cờ là cách hiệu quả nhất tượng trưng cho viện trợ do người dân Nhật Bản cung cấp.
Văn hóa và nhận thức
Theo các cuộc thăm dò được thực hiện bởi truyền thông chính thống, hầu hết người dân Nhật Bản đã coi lá cờ của Nhật Bản là cờ quốc gia ngay cả trước khi thông qua Đạo luật về Quốc kỳ và Quốc ca năm 1999. Mặc dù vậy, những tranh cãi xung quanh việc sử dụng cờ trong các sự kiện ở trường học hoặc phương tiện truyền thông vẫn còn. Ví dụ, các tờ báo tự do như Asahi Shimbun và Mainichi Shimbun thường đăng các bài viết phê phán lá cờ của Nhật Bản, phản ánh một phổ quát chính trị từ các độc giả của họ. Đối với những người Nhật Bản khác, lá cờ đại diện cho thời kỳ mà nền dân chủ bị đàn áp khi Nhật Bản là một đế chế.
Việc treo quốc kỳ tại hộ gia đình và doanh nghiệp cũng được tranh luận trong xã hội Nhật Bản. Bởi vì liên kết của nó với các nhà hoạt động uyoku dantai (cánh hữu), những người chính trị phản động và cực đoan, một số hộ và doanh nghiệp không treo cờ. Không có yêu cầu treo cờ trong bất kỳ ngày lễ quốc gia hoặc sự kiện đặc biệt nào. Thị trấn Kanazawa, Ishikawa, đã đề xuất kế hoạch vào tháng 9 năm 2012 sử dụng các quỹ của chính phủ để mua cờ với mục đích khuyến khích người dân treo cờ vào các ngày lễ quốc gia. Đảng Cộng sản Nhật Bản thì phát ngôn chống lại lá cờ.
Suy nghĩ tiêu cực về quốc kỳ vẫn tồn tại ở các thuộc địa cũ của Nhật Bản cũng như trong chính lãnh thổ Nhật Bản, chẳng hạn như ở Okinawa. Một ví dụ đáng chú ý về điều này, vào ngày 26 tháng 10 năm 1987, một chủ siêu thị người Okinawa đã đốt cờ trước khi bắt đầu Đại hội Thể thao Quốc gia Nhật Bản. Người đốt cờ là Shōichi Chibana đã đốt cháy Hinomaru không chỉ để thể hiện sự phản đối sự tàn bạo của quân đội Nhật Bản mà còn phản đối sự hiện diện liên tục của lực lượng Hoa Kỳ, và còn nhằm ngăn không cho nó xuất hiện trước công chúng. Các sự cố khác ở Okinawa là việc xé cờ trong các buổi lễ ở trường, và học sinh từ chối tôn vinh lá cờ khi nó được kéo lên cùng nhạc "Kimigayo".
Tại thủ phủ Naha, Okinawa, Hinomaru được kéo lên lần đầu tiên khi Okinawa trở về với Nhật Bản trong dịp kỷ niệm 80 năm thành phố vào năm 2001. Tại Trung Quốc và Hàn Quốc, cả hai đều bị chiếm đóng bởi Đế quốc Nhật Bản, việc áp dụng chính thức Hinomaru vào năm 1999 là phản ứng của Nhật Bản chủ động hơn về an ninh và tái vũ trang. Các cuộc tranh cãi về tình trạng của đền Yasukuni, Hợp tác quân sự Mỹ-Nhật và tiến hành chương trình phòng thủ tên lửa. Ở các quốc gia khác mà Nhật Bản từng chiếm đóng, luật năm 1999 đã gặp phải những phản ứng trái chiều và bị che đậy. Ở Singapore, thế hệ cũ vẫn có những cảm xúc xấu đối với cờ trong khi thế hệ trẻ không giữ quan điểm như vậy vì họ phần nhiều chấp nhận các khía cạnh văn hóa Nhật Bản thông qua anime, game và Uniqlo. Chính phủ Philippines không chỉ tin rằng Nhật Bản sẽ không trở lại chủ nghĩa quân phiệt, mà còn tin mục tiêu của luật năm 1999 là chính thức thiết lập hai biểu tượng (cờ và quốc ca) trong luật pháp và mọi quốc gia đều có quyền tạo ra các biểu tượng quốc gia của họ. Nhật Bản không có luật hình sự đối với việc đốt Hinomaru, nhưng cờ nước ngoài không thể bị đốt ở Nhật Bản.
Lễ nghi
Theo lễ nghi, Hinomaru có thể treo từ bình minh cho đến hoàng hôn; các doanh nghiệp và trường học được phép treo quốc kỳ từ khi mở cửa đến khi đóng cửa. Khi treo quốc kỳ Nhật Bản cùng quốc kỳ khác đồng thời, quốc kỳ Nhật Bản được đặt ở vị trí vinh dự và quốc kỳ ngoại quốc nằm ở bên phải, cả hai có kích cỡ bình đẳng. Khi treo cùng từ hai quốc kỳ khác trở lên, Hinomaru được xếp theo thứ tự của bảng chữ cái theo quy định của Liên Hiệp Quốc. Khi các quốc kỳ không còn thích hợp để sử dụng, nó thường được đốt một cách kín đáo. Đạo luật về Quốc kỳ và Quốc ca không định rõ cách sử dụng quốc kỳ, song các tỉnh khác nhau lại ban hành các quy định riêng về việc sử dụng Hinomaru và các huyện kỳ của họ.
Tưởng niệm
Hinomaru có hai kiểu treo để tang, một là treo theo kiểu (cờ rủ) giống như tại nhiều quốc gia khác. Những cơ quan của Bộ Ngoại giao treo bán kỳ trong thời gian tang lễ của một nguyên thủ quốc gia ngoại quốc.
Một kiểu treo rủ thay thế là , gắn thêm một dải băng màu đen ở phía trên Hinomaru, kiểu này truy nguyên từ ngày 30 tháng 7 năm 1912, khi Nhật hoàng Minh Trị băng hà và Nội các quyết định ban một sắc lệnh rằng Hinomaru cần phải được treo để tang khi Nhật hoàng băng hà. Nội các có thẩm quyền trong việc công bố treo quốc kỳ nhằm để tang.
Trường công lập
Từ sau Thế chiến II, Bộ Giáo dục ban hành các tuyên bố và quy định nhằm thúc đẩy việc sử dụng cả Hinomaru và Kimigayo tại các trường thuộc thẩm quyền của họ. Tuyên bố đầu tiên trong số này được ban hành vào năm 1950, với nội dung mong muốn nhưng không bắt buộc, đối với việc sử dụng cả hai biểu tượng. Điều này sau đó được mở rộng bao gồm sử dụng các biểu tượng vào các ngày lễ và trong các buổi tưởng niệm nhằm khuyến khích học sinh về các ngày lễ quốc gia và thúc đẩy giáo dục quốc phòng. Trong cuộc cải cách năm 1989 về định hướng giáo dục, chính phủ của LDP yêu cầu cờ phải được sử dụng trong các nghi lễ của trường và phải tôn trọng đúng mức đối với nó, và đối với cả Kimigayo. Hình phạt đối với quan chức nhà trường không tuân theo lệnh này cũng được ban hành trong cuộc cải cách năm 1989.
Hướng dẫn chương trình giảng dạy năm 1999 (学習指導要領 Gakushū shidō yōryō) do Bộ Giáo dục ban hành sau khi thông qua "Đạo luật về Quốc kỳ và Quốc ca" quy định rằng "vào lễ khai giảng và lễ tốt nghiệp, các trường phải giương cờ Nhật Bản và hướng dẫn học sinh hát "Kimigayo" (quốc ca), nâng cao ý nghĩa của cờ và bài hát." Ngoài ra, bình luận của Bộ về Hướng dẫn chương trình giảng dạy năm 1999 cho các trường tiểu học lưu ý rằng: "đưa ra tiến bộ quốc tế hóa, cùng việc thúc đẩy lòng yêu nước và nhận thức về người Nhật, điều quan trọng là nuôi dưỡng thái độ tôn trọng của trẻ em đối với quốc kỳ Nhật Bản và Kimigayo để họ trưởng thành lòng tự tôn công dân Nhật Bản trong một xã hội quốc tế hóa." Bộ cũng tuyên bố rằng nếu sinh viên Nhật Bản không thể tôn trọng biểu tượng của chính họ, thì họ sẽ không thể tôn trọng biểu tượng của các quốc gia khác.
Các trường học là trung tâm của tranh cãi về cả quốc ca và quốc kỳ. Hội đồng Giáo dục Tokyo yêu cầu sử dụng cả quốc ca và cờ trong các sự kiện thuộc thẩm quyền của họ. Lệnh yêu cầu giáo viên nhà trường phải tôn trọng cả hai biểu tượng hoặc có nguy cơ mất việc. Một số người phản đối các quy định đó vi phạm Hiến pháp Nhật Bản, nhưng Hội đồng đã lập luận rằng các trường học là cơ quan công lập, giáo viên phải có nghĩa vụ dạy học sinh của mình cách để trở thành một người công dân Nhật Bản tốt. Nhưng đã xảy ra các cuộc phản đối, các trường học từ chối treo Hinomaru trong lễ tốt nghiệp của trường và một số phụ huynh xé cờ. Các giáo viên thất bại trong việc khiếu nại hình sự chống Thống đốc Tokyo Shintarō Ishihara và các quan chức cấp cao, vì hành động đã ra lệnh cho các giáo viên tôn vinh Hinomaru và Kimigayo. Sau các cuộc phản đối trước đó, Liên đoàn giáo viên Nhật Bản chấp nhận sử dụng cả cờ và quốc ca; Liên minh giáo viên và nhân viên Nhật Bản vẫn phản đối cả hai biểu tượng và việc sử dụng chúng trong hệ thống trường học.
Hiệu kỳ có liên quan
Quân kỳ
Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản (JSDF) và Lực lượng Phòng vệ Mặt đất Nhật Bản sử dụng một phiên bản Hinomaru với tám tia màu đỏ hướng ra ngoài, gọi là . Một viền màu vàng nằm xung quanh rìa lá cờ.
Một biến thể nổi tiếng của Hinomaru là Hinomaru với 16 tia đỏ, từng được quân đội Nhật Bản sử dụng, đặc biệt là Lục quân Đế quốc Nhật Bản và Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Thuyền kỳ (cờ hải quân) được thông qua làm cờ chiến tranh lần đầu tiên vào ngày 15 tháng 5 năm 1870, và được sử dụng đến khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai vào năm 1945. Thuyền kỳ được tái thông qua vào ngày 30 tháng 6 năm 1954 và nay được sử dụng làm cờ hải quân của Lực lượng Phòng vệ Mặt đất Nhật Bản (JGSDF) và Lực lượng Phòng vệ Biển Nhật Bản (JMSDF). Tham mưu trưởng Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản Katsutoshi Kawano nói rằng lá cờ là "niềm kiêu hãnh" của Lực lượng Phòng vệ biển Nhật Bản. Do từng được sử dụng bởi Quân đội Đế quốc Nhật Bản, lá cờ này vẫn mang đến tình cảm tiêu cực ở Trung Quốc và Hàn Quốc. Họ phản đối lá cờ này vì là biểu tượng gắn liền với chủ nghĩa đế quốc Nhật Bản trong Thế chiến II. JMSDF cũng sử dụng một cờ hiệu vận hành. Được thông qua lần đầu tiên vào năm 1914 và được tái tuyên bố vào năm 1965, cờ hiệu này chứa một phiên bản đơn giản của biểu tượng cờ hải quân đặt cuối tàu, với phần lớn cờ có màu trắng. Tỷ lệ cờ hiệu nằm trong khoảng từ 1:40 đến 1:90.
Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản (JASDF) được thành lập một cách độc lập vào năm 1952, chỉ có đĩa mặt trời đơn giản như biểu tượng của nó. Đây là chi nhánh dịch vụ duy nhất có biểu tượng không theo Tiêu chuẩn Hoàng gia. Tuy nhiên, chi nhánh có một thiết kế để treo ở các căn cứ và trong các cuộc diễu hành. Thiết kế được tạo ra vào năm 1972, đây là lần thứ ba được JASDF sử dụng kể từ khi thành lập. Thiết kế chứa biểu tượng của chi nhánh tập trung trên nền màu xanh.
Mặc dù không phải là quốc kỳ chính thức, cờ tín hiệu Z đóng vai trò chính trong lịch sử hải quân Nhật Bản. Vào ngày 27 tháng 5 năm 1905, Đô đốc Heihachirō Tōgō của tàu chiến Mikasa đang chuẩn bị giao chiến với Hạm đội Baltic của Nga. Trước khi Hải chiến Tsushima bắt đầu, Togo đã giương cờ Z trên Mikasa nhằm giao chiến với hạm đội Nga, kết quả chiến thắng cho Nhật Bản. Ông nói với hải đoàn như sau: "Số phận của Hoàng gia Nhật Bản đặt vào trận chiến này; mọi cánh tay sẽ nỗ lực và làm hết sức mình." Cờ Z cũng được treo trên tàu sân bay Akagi vào đêm trước cuộc tấn công của Nhật Bản tại Trân Châu Cảng, Hawaii, vào tháng 12 năm 1941.
Cờ hoàng gia
Bắt đầu từ năm 1870, cờ được tạo ra cho Thiên hoàng Nhật Bản (lúc đó là Thiên hoàng Minh Trị), hoàng hậu và cho các thành viên khác trong hoàng tộc. Lúc đầu, cờ của Thiên hoàng được trang trí công phu, với một mặt trời nằm ở trung tâm của mẫu cờ. Thiên hoàng có những lá cờ được sử dụng trên đất liền, trên biển và trên xe ngựa. Gia đình hoàng gia cũng được cấp cờ để sử dụng trên biển và trên đất liền (một để cắm, và một cờ khi di chuyển). Các lá cờ trên xe ngựa là một bông hoa cúc đơn sắc với 16 cánh hoa, được đặt ở trung tâm của một nền đơn sắc. Những lá cờ này được loại bỏ vào năm 1889 khi Thiên hoàng quyết định sử dụng hoa cúc trên nền đỏ làm cờ của ông. Với những thay đổi nhỏ về sắc thái và tỷ lệ màu sắc, những lá cờ được thông qua vào năm 1889 vẫn được sử dụng bởi gia đình hoàng gia.
Cờ của Thiên hoàng hiện tại là một bông hoa cúc 16 cánh màu vàng, tập trung trên nền đỏ với tỷ lệ 2:3. Hoàng hậu sử dụng cùng một lá cờ, có hình dạng đuôi én. Hoàng tử kế vị và công chúa kế vị sử dụng cùng một mẫu lá cờ, ngoại trừ với một bông hoa cúc nhỏ hơn và một đường viền màu trắng ở giữa các lá cờ. Hoa cúc đã gắn liền với ngai vàng của Hoàng đế kể từ thời Thiên hoàng Go-Toba vào thế kỷ thứ 12, nhưng nó không trở thành biểu tượng độc quyền của ngai vàng cho đến năm 1868.
Cờ địa phương
Mỗi tỉnh trong số 47 tỉnh tất cả của Nhật Bản có một lá cờ riêng, giống như quốc kỳ, bao gồm một biểu tượng - được gọi là mon - được đặt trên một mặt nền đơn sắc (trừ tỉnh Ehime, nơi nền được tô màu). Có một số cờ tỉnh, như Hiroshima, phù hợp với thông số kỹ thuật của họ để làm lá cờ quốc gia (tỷ lệ 2:3, mon đặt ở trung tâm và chiều dài của lá cờ). Một số mon hiển thị tên tỉnh bằng chữ Nhật; một số khác được mô tả cách điệu về địa điểm hoặc một điểm đặc biệt khác của tỉnh. Một ví dụ về cờ của tỉnh là Nagano, ký tự katakana ナ (na) màu cam xuất hiện ở trung tâm của một đĩa trắng. Một cách giải thích của mon là biểu tượng na đại diện cho một ngọn núi và đĩa trắng là một cái hồ. Màu cam đại diện cho mặt trời trong khi màu trắng đại diện cho tuyết của khu vực.
Đơn vị hành chính cấp hạt cũng có thể áp dụng cờ của riêng họ. Các thiết kế của cờ thành phố tương tự như cờ của tỉnh: một mon trên nền đơn sắc. Một ví dụ là lá cờ của Amakusa ở tỉnh Kumamoto: biểu tượng thành phố bao gồm ký tự Katakana ア (a) và được bao quanh bởi những con sóng. Biểu tượng này được tập trung vào một lá cờ trắng, với tỷ lệ 2:3. Cả biểu tượng thành phố và cờ được thông qua năm 2006.
Thiết kế khác
Ngoài những lá cờ được sử dụng bởi quân đội, một số mẫu thiết kế cờ khác được lấy cảm hứng từ quốc kỳ. Cờ Tổng công ty Bưu chính Nhật Bản trước đây bao gồm Hinomaru với một thanh ngang màu đỏ được đặt ở trung tâm của lá cờ. Ngoài ra còn có một vòng trắng mỏng xung quanh mặt trời đỏ. Sau đó, nó đã được thay thế bằng một lá cờ bao gồm dấu bưu điện 〒 màu đỏ trên nền trắng.
Có hai lá cờ quốc gia được thiết kế gần đây giống với lá cờ Nhật Bản. Năm 1971, Bangladesh giành được độc lập từ Pakistan, nước này đã thông qua một lá cờ quốc gia có nền màu xanh lá cây, có một đĩa tròn màu đỏ ngoài ở trung tâm chứa bản đồ vàng của Bangladesh. Cờ hiện tại được thông qua vào năm 1972, đã bỏ bản đồ vàng và giữ các chi tiết còn lại. Chính phủ Bangladesh chính thức gọi đĩa đỏ là một vòng tròn; màu đỏ tượng trưng cho máu đã đổ ra để tạo ra đất nước của họ. Quốc đảo Palau sử dụng một lá cờ có thiết kế tương tự, nhưng cách phối màu hoàn toàn khác nhau. Trong khi Chính phủ Palau không trích dẫn lá cờ Nhật Bản như một ảnh hưởng trên lá cờ quốc gia của họ, khi Nhật Bản từng quản lý Palau từ năm 1914 cho đến năm 1944. Lá cờ của Palau mang màu sắc của trăng tròn trên nền màu xanh da trời. Mặt trăng tượng trưng cho hòa bình và một quốc gia non trẻ trong khi nền màu xanh tượng trưng cho sự chuyển đổi của chính quyền Palau từ năm 1981 đến năm 1994, khi nó giành được độc lập hoàn toàn.
Biểu tượng hải quân Nhật Bản cũng ảnh hưởng đến việc thiết kế các lá cờ khác. Một thiết kế cờ như vậy được sử dụng bởi Asahi Shimbun. Ở dưới cùng của lá cờ, một phần tư mặt trời được hiển thị. Ký tự kanji 朝 được hiển thị trên lá cờ, với màu trắng, bao gồm hầu hết mặt trời. Các tia sáng kéo dài từ mặt trời, xuất hiện theo thứ tự xen kẽ đỏ và trắng, đỉnh điểm là 13 sọc. Lá cờ thường thấy tại Giải vô địch bóng chày trường trung học quốc gia, vì Asahi Shimbun là nhà tài trợ chính của giải đấu. Các cờ cấp bậc và biểu tượng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản cũng dựa trên các thiết kế của họ trên biểu tượng của hải quân.
Thư viện ảnh
Xem thêm
Danh sách cờ Nhật Bản
Biểu tượng quốc gia Nhật Bản
Uma-jirushi
Sashimono
Nobori
Tham khảo
Chú thích
Thư mục
Luật
Liên kết ngoài
Bằng tiếng Anh
Bằng tiếng Nhật
Giao thức cờ
Website theo tiêu chuẩn của Hoàng gia
Nhật Bản
Nhật Bản
Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai
Đế quốc Nhật Bản
Biểu tượng quốc gia Nhật Bản
Cờ đỏ và trắng
|
26912
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nit%C6%A1%20l%E1%BB%8Fng
|
Nitơ lỏng
|
Nitơ lỏng là nitơ trong trạng thái lỏng ở nhiệt độ siêu thấp. Nó được sản xuất công nghiệp bằng cách chưng cất phân đoạn không khí lỏng. Nitơ lỏng là chất lỏng trong suốt, không màu, trọng lượng riêng 0,807 g/ml ở điểm sôi của nó và hằng số điện môi 1.4. Nitơ lỏng thường được gọi bằng LN2, viết tắt hoặc "LIN" hoặc "LN "và có số UN 1977.
Ở áp suất khí quyển, nitơ lỏng sôi ở nhiệt độ 77 K (-196 °C, -321 °F) và là một chất lỏng đông lạnh có thể gây đóng băng nhanh chóng khi tiếp xúc với mô sống, có thể dẫn đến bị tê cóng. Khi được cách nhiệt thích hợp với nhiệt độ xung quanh, nitơ lỏng có thể được lưu trữ và vận chuyển, ví dụ trong bình chân không. Ở đây, nhiệt độ rất thấp được duy trì liên tục tại 77 K bằng cách làm chậm sự sôi của nitơ. Tùy thuộc vào kích thước và thiết kế, thời gian lưu trữ trong bình chân không trung bình từ vài giờ đến vài tuần.
Nitơ lỏng có thể dễ dàng chuyển đổi thành dạng rắn bằng cách đặt nó trong một khoang chân không được bơm bằng một máy bơm chân không quay. Nitơ lỏng đóng băng ở 63 K (-210 °C, -346 °F) . Dù có vai trò quan trọng trong việc làm lạnh, hiệu quả của nitơ lỏng là chất làm mát bị hạn chế bởi thực tế là nó sôi ngay lập tức khi tiếp xúc với một đối tượng ấm hơn, bao quanh các đối tượng trong lớp bong bóng khí nitơ cách nhiệt. Hiệu ứng này, được gọi là hiệu ứng Leidenfrost, xảy ra khi bất kỳ chất lỏng nào tiếp xúc với một đối tượng có nhiệt độ cao hơn đáng kể so với điểm sôi của nó. Việc làm mát nhanh hơn có thể đạt được bằng cách nhúng vật vào hỗn hợp nitơ lỏng và nitơ rắn thay vì chỉ sử dụng nitơ lỏng.
Nitơ được hoá lỏng đầu tiên tại Đại học Jagiellonia ngày 15 tháng tư 1883 bởi 2 vật lý Ba Lan, Zygmunt Wroblewski và Karol Olszewski. Nitơ lỏng từng được sử dụng để bảo quản thi thể.
Tham khảo
Nitơ
Thiết bị y khoa
Chất lỏng
Công nghệ làm lạnh
|
26915
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Theodor%20Schwann
|
Theodor Schwann
|
Theodor Schwann (sinh ngày 7 tháng 12 năm 1810, Neuss, Đức; mất ngày 11 tháng 1 năm 1882, Köln, Đức), là một nhà tế bào học, mô học và sinh lý học người Đức. Ông là một trong những người tiên phong trong việc miêu tả tế bào như cấu trúc cơ bản của mô động vật.
Ông là học trò của Johannes Müller và làm giáo sư ở trường Đại học Louvain (từ 1838 đến 1848) và trường Liège (từ 1848). Là đồng tác giả của thuyết tế bào (cùng với Matthias Schleiden), Schwann đã mở rộng công trình của Schleiden và cho thấy tế bào là nền tảng của cả mô động vật lẫn thực vật. Ông đã nhận ra ý nghĩa sinh lý và hình thái học của tế bào trước các nhà khoa học khác cùng thời thế kỉ 19 và có thể được gọi là ông tổ của tế bào học. Ông tách triết được pepsin vào năm 1836 vào năm 1848 ông đã miêu tả lớp vỏ myelin, tế bào bọc ngoài của tế bào thần kinh, sau này được gọi theo tên ông (tế bào Schwann). Ông cũng giải thích bản chất sống của nấm men và đưa ra thuật ngữ chuyển hoá để diễn tả quá trình biến đổi hoá học xảy ra trong tế bào. Tác phẩm có ảnh hưởng lớn là Nghiên cứu ở mức độ hiển vi về tính thống nhất trong cấu trúc và sự phát triển của động vật và thực vật (1839).
Tiểu sử
Cha của Schwann là một người rất có tài về cơ khí, lúc đầu là một người thợ kim hoàn, sau đó ông lập ra cơ nghiệp in ấn. Schwann được thừa hưởng sở thích của người cha, và niềm vui hồi nhỏ của ông là xây dựng những cái máy móc nhỏ đủ loại. Ông học ở trường cao đẳng Jesuit ở Köln và sau đó ở Bonn, nơi ông gặp Johannes Peter Müller, và không lâu sau trở thành người phụ tá cho những thí nghiệm sinh lý của Müller. Sau đó ông tới Wurzburg để tiếp tục học y khoa, và từ đó tới Berlin để tốt nghiệp vào năm 1834. Ở đây ông gặp lại Müller, lúc đó cũng tới Berlin, và đã được Müller thuyết phục đi vào con đường nghiên cứu khoa học và chỉ định làm phụ tá ở một viện giải phẫu. Năm 1838, Schwann được gọi vào làm về giải phẫu học tại trường Đại học Louvain của người Công giáo La Mã ở Louvain, Bỉ, nơi ông đã ở lại 9 năm. Năm 1847 ông tới làm giáo sư ở Liège, và ông đã làm việc ở đây cho tới lúc mất, năm 1882. Ông là người đặc biệt lịch sự, hoà nhã tốt bụng, và sùng đạo Thiên chúa giáo trong suốt cuộc đời.
Sự nghiệp khoa học
Trong 4 năm dưới sự ảnh hưởng của Müller ở Berlin, những công trình có giá trị nhất của Schwann đã được hoàn thành. Müller trong lúc này đang hoàn thành cuốn sách nổi tiếng của ông về sinh lý, và Schwann đã giúp đỡ ông trong các thí nghiệm cần thiết cho công trình đó. Vì thế sự quan tâm của ông được hướng về mô thần kinh và cơ.
Müller cũng hướng sự quan tâm của ông về quá trình tiêu hoá. Năm 1836, trong khi ở Đại học Berlin, Schwann đã chỉ ra sự phụ thuộc cốt yếu của quá trình tiêu hóa vào sự có mặt của một chất lên men mà ông gọi là pepsin, trong dịch tách triết từ biểu mô dạ dày. Sau này, người ta biết đây là một loại enzyme tiêu hóa. Pepsin là enzyme đầu tiên tách được từ mô động vật. Năm 1837, Schwann đã kết luận rằng có cái gì đó trong không khí (mà bị phân hủy bởi nhiệt độ) là tác nhân gây ra sự thối rữa, nhưng bản thân không khí thì không. Schwann cũng xem xét lại câu hỏi về "học thuyết nảy sinh ngẫu phát" (spontaneous generation). Học thuyết nảy sinh ngẫu phát cho rằng bệnh là do lam sơn chướng khí. Ông đã phản biện nó sau này; và ông cũng khám phá ra bản chất hữu cơ của nấm men trong quá trình thí nghiệm. Thực tế là lý thuyết về mầm sống của Louis Pasteur cũng như ứng dụng của Joseph Lister vào việc khử trùng, đều có phần ảnh hưởng của ông.
Một lần khi ông ăn tối với Matthias Jakob Schleiden năm 1837, câu chuyện chuyển sang nhân của tế bào thực vật. Schwann nhớ là đã nhìn thấy một cấu trúc tương tự trong tế bào của dây sống (notochord) (được chỉ ra bởi Müller) và ngay lập tức nhận ra điều cốt yếu kết nối hai hiện tượng này. Sự giống nhau đã được xác nhận bởi cả hai nhà quan sát, và kết quả là một hợp tác khoa học về thuyết tế bào được tiến hành trong suốt hai năm sau đó.
Năm 1838, Schwann trở thành giáo sư tại Đại học Louvain, Bỉ. Thời gian này, ông cùng với Matthias Schleiden, phát triển thuyết tế bào. Học thuyết đã xác minh tế bào là phần tử cơ bản của thực vật và động vật. Schwann và Schleiden ghi nhận rằng một số loài là đơn bào, một số là đa bào. Họ cũng ghi nhận màng tế bào, nhân và tế bào chất là đặc điểm chung của mọi tế bào và miêu tả chúng bằng cách so sánh nhiều mô thực vật và động vật khác nhau. Năm 1839, Schwann đưa ra giả thuyết rằng tất cả các loài đều được cấu tạo từ tế bào. Cùng với Matthias Schleiden, ông đã hệ thống hoá thuyết tế bào của sự sống. Những quan sát này cùng với thuyết tế bào đã được ghi lại trong tác phẩm của Schwann Nghiên cứu ở mức độ hiển vi về tính thống nhất trong cấu trúc và sự phát triển của động vật và thực vật xuất bản năm 1839 ở Berlin.
Lý thuyết tế bào vì thế được hình thành, và Schwann là học trò đầu tiên của Müller đã phá vỡ "thuyết sống" cổ điển và tìm ra cách giải thích về mặt lý hoá học của sự sống. Trong quá trình xác minh thuyết tế bào, ông đã xét kỹ lưỡng lại toàn bộ mô học, và chứng minh nguồn gốc và sự phát triển từ tế bào của những mô biệt hoá ở mức độ cao nhất như móng sừng, lông vũ hay men. Sự tổng quát hoá của ông trở thành nền móng cho mô học hiện đại, và đối với Rudolf Virchow (người có những nghiên cứu về tế bào bệnh học được suy diễn từ Schwann), sự tổng quát hoá ấy đã đặt bệnh học hiện đại trên một cơ sở khoa học thực sự.
Năm 1848, Schwann làm giáo sư tại Đại học Liège, Bỉ. Trong khi ở đó, ông đã tìm ra rằng sự lên men của đường và tinh bột là kết quả của một quá trình sống, có sự tham gia của nấm men. Ông cũng đã nghiên cứu sự co cơ cùng với cấu trúc thần kinh, và cũng tìm ra cơ vân ở phần trên thực quản và lớp vỏ myelin ở axon ngoại biên mà chúng ta gọi là tế bào Schwann. Bên cạnh việc khám phá ra lớp vỏ của sợi thần kinh mang tên ông, ông cũng bắt đầu những nghiên cứu về sự co cơ mà sau đó được nghiên cứu kĩ lưỡng hơn bởi Emil du Bois-Reymond và những người khác. Ông cũng thực hiện những thí nghiệm nhằm bác bỏ thuyết "nảy sinh ngẫu phát" (spontaneous generation). Schwann đặt ra thuật ngữ "chuyển hóa" để miêu tả sự biến đổi hoá học trong các mô sống và hệ thống hoá những nguyên tắc cơ bản của phôi thai học bằng cách quan sát thấy trứng là một tế bào đơn và phát triển thành cơ thể hoàn thiện.
Tham khảo
1911 Encyclopædia Britannica
Xem thêm
Tế bào học
Lý thuyết tế bào
Schwann, Theodor
Cựu sinh viên Đại học Bonn
|
26925
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20Ngo%E1%BA%A1i%20h%E1%BA%A1ng%20Anh
|
Giải bóng đá Ngoại hạng Anh
|
Giải bóng đá Ngoại hạng Anh (), thường được biết đến với tên gọi English Premier League hoặc EPL, là hạng đấu cao nhất của hệ thống các giải bóng đá ở Anh. Gồm 20 câu lạc bộ, giải đấu sử dụng hệ thống thăng hạng và xuống hạng với English Football League (EFL). Mùa giải kéo dài từ tháng 8 đến tháng 5 với mỗi đội chơi 38 trận đấu (đấu với 19 đội khác trên sân nhà và sân khách). Đa số các trận đấu được diễn ra vào chiều Thứ Bảy và Chủ Nhật.
Giải đấu được thành lập vào ngày 20 tháng 2 năm 1992 với tên gọi FA Premier League sau quyết định của các câu lạc bộ tham dự Football League First Division tách khỏi Football League, một giải đấu khởi nguồn từ năm 1888, nhằm tận dụng lợi thế về các thỏa thuận bản quyền truyền hình. Thỏa thuận trong nước trị giá 1 tỉ bảng/năm được ký cho mùa 2013–14, với việc BSkyB và BT Group giành quyền phát sóng lần lượt 116 và 38 trận đấu. Giải đấu thu về 2,2 tỉ euro/năm tiền bản quyền truyền hình trong nước và quốc tế. Tính đến mùa 2014–15, các câu lạc bộ được chia khoản lợi nhuận 1,6 tỉ bảng, và 2,4 tỉ bảng vào mùa 2016–17.
Hiện tại, Premier League là giải đấu bóng đá được xem nhiều nhất trên thế giới, phát sóng trên 212 vùng lãnh thổ tới 643 triệu hộ gia đình và khoảng 30 tỉ lượng xem truyền hình. Trong mùa giải 2014–15, trung bình 1 trận đấu tại Premier League thu hút khoảng 36,000 khán giả tới sân, cao thứ 2 trong các giải bóng đá chuyên nghiệp sau Bundesliga với 43.500 khán giả. Phần lớn các sân bóng đều được lấp đầy khán giả. Premier League xếp thứ 1 trong Hệ số UEFA dành cho các giải đấu dựa theo thành tích của các câu lạc bộ tại các giải đấu châu Âu trong 5 mùa giải, tính đến năm 2021.
Đã có tất cả 51 câu lạc bộ tham dự kể từ mùa giải đầu tiên của Premier League năm 1992, nhưng mới chỉ có 7 trong số đó giành được chức vô địch: Manchester United (13), Manchester City (7), Chelsea (5), Arsenal (3), Blackburn Rovers, Leicester City và Liverpool (1).
Lịch sử hình thành
Bối cảnh
Sau thành công tại châu Âu những năm 1970 và đầu 1980, đến cuối những năm 80 đánh dấu những bước lùi của bóng đá Anh. Các sân vận động xuống cấp, những cổ động viên phải sử dụng cơ sở vật chất nghèo nàn, nạn côn đồ tràn lan, và các câu lạc bộ Anh bị cấm thi đấu tại các giải châu Âu trong 5 năm sau thảm họa Heysel năm 1985. Football League First Division, giải đấu cao nhất của nước Anh ra đời năm 1888, xếp sau Serie A của Italia và La Liga của Tây Ban Nha về số lượng khán giả cũng như doanh thu, một vài cầu thủ Anh nổi bật chuyển ra nước ngoài thi đấu.
Đầu thập niên 1990, xu hướng dần đảo ngược: tại World Cup 1990, lọt tới vòng bán kết; UEFA, cơ quan quản lý bóng đá châu Âu, dỡ bỏ lệnh cấm các câu lạc bộ Anh thi đấu tại các giải đấu châu Âu cũng trong năm đó, kết quả là Manchester United giành chức vô địch UEFA Cup Winners' Cup một năm sau đó, cùng với đó Lord Justice Taylor đưa ra bản báo cáo vào tháng 1 năm đó sau thảm họa Hillsborough, đề nghị các sân vận động phải nâng cấp trở thành những sân vận động gồm tất cả các khán đài ngồi.
Vào thập niên 1980, những câu lạc bộ lớn ở Anh bắt đầu chuyển dịch thành những dự án kinh doanh khi áp dụng các cơ chế thị trường vào quản lý câu lạc bộ để tối đa hóa lợi nhuận. Martin Edwards của Manchester United, Irving Scholar của Tottenham Hotspur và David Dein của Arsenal là những người dẫn đầu trong sự chuyển dịch này. Điều này đem lại cho các câu lạc bộ lớn nhiều quyền lực hơn. Bằng cách đe dọa sẽ ly khai, các câu lạc bộ ở Division One đã cố gắng làm tăng quyền chi phối biểu quyết của họ. Họ còn chiếm 50% cổ phần từ thu nhập truyền hình và tài trợ vào năm 1986. Doanh thu về truyền hình cũng dần trở nên quan trọng hơn: Football League nhận được 6,3 triệu bảng trong một thỏa thuận hai năm năm 1986, nhưng khi gia hạn hợp đồng mới năm 1988, giá trị đã tăng lên 44 triệu bảng cho bốn năm, với các đội bóng lớn chiếm 75% số tiền. Theo Scholar, người trực tiếp tham gia những cuộc đàm phán về thỏa thuận truyền hình, các đội bóng ở giải Hạng Nhất chỉ nhận được khoảng 25.000 bảng từ tiền bản quyền truyền hình, nhưng con số đó đã tăng lên vào khoảng 50.000 bảng trong đàm phán năm 1986 và 600.000 bảng vào năm 1988. Những cuộc đàm phán năm 1988 là những dấu hiệu đầu tiên của một giải đấu ly khai: 10 câu lạc bộ dọa rời khỏi và thành lập một "siêu giải đấu", nhưng cuối cùng đã được thuyết phục để ở lại, khi các đội bóng lớn chiếm phần lớn nhất của thỏa thuận. Khi mà các sân vận động được tu bổ, lượng khán giả và doanh thu tăng lên, các câu lạc bộ hàng đầu lại một lần nữa cân nhắc việc rời khỏi Football League để tận dụng dòng tiền chảy vào các môn thể thao.
Thành lập
Năm 1990, giám đốc điều hành của London Weekend Television (LWT), Greg Dyke, đã gặp mặt đại diện của những đội bóng "big five" ở Anh (Manchester United, Liverpool, Tottenham, Everton và Arsenal) trong một bữa tối. Mục đích của cuộc gặp là sự mở đường cho cuộc ly khai khỏi Football League. Dyke tin rằng việc này sẽ đem lại lợi ích cho LWT nếu chỉ có những đội bóng lớn hơn trong nước xuất hiện trên truyền hình quốc gia, đồng thời muốn xác minh liệu các câu lạc bộ có quan tâm đến cổ phần tiền bản quyền truyền hình lớn hơn hay không. Tuy nhiên giải đấu sẽ không có uy tín nếu như không có sự ủng hộ của Liên đoàn bóng đá Anh (FA), vì thế David Dein của Arsenal đã đàm phán với FA để tiếp nhận ý tưởng. FA vốn đang không có mối quan hệ tốt với Football League vào thời điểm đó nên coi đó như là một cách làm suy yếu đi vị thế của Football League.
Kết thúc mùa bóng 1991, một lời đề nghị đã được đưa ra về việc tạo ra giải đấu mới sẽ mang về nhiều tiền hơn. Bản hiệp định các thành viên sáng lập do các câu lạc bộ của giải đấu cấp cao nhất lúc đó ký ngày 17 tháng 7 năm 1991, nhằm lập ra các nguyên tắc cơ bản về việc thành lập FA Premier League.> Giải đấu cấp cao nhất mới được thành lập này sẽ độc lập tài chính với Hiệp hội bóng đá Anh và Football League, giúp cho FA Premier League tự chủ về việc thỏa thuận các hợp đồng tài trợ và bản quyền truyền hình. Lý lẽ được đưa ra khi đó là việc tăng thu nhập sẽ giúp các câu lạc bộ Anh tăng khả năng cạnh tranh với các đội bóng khác ở châu Âu. Mặc dù Dyke đóng vai trò quan trọng trong việc thành lập giải bóng đá Ngoại hạng Anh, Dyke và ITV lại thất bại trong cuộc đấu thầu bản quyền phát sóng khi BSkyB là đơn vị giành gói thầu với trị giá 304 triệu bảng trong 5 năm, còn BBC nhận gói phát sóng các chương trình tổng hợp vòng đấu trên Match of the Day.
Năm 1992, các câu lạc bộ Hạng Nhất đồng loạt từ bỏ Football League và tới ngày 27 tháng 5 năm 1992, FA Premier League thành lập 1 công ty trách nhiệm hữu hạn làm việc tại văn phòng của Hiệp hội bóng đá Anh sau đó đặt trụ sở chính ở Lancaster Gate. Điều đó có nghĩa Football League chấm dứt 104 năm hoạt động với bốn giải đấu; Premier League sẽ hoạt động như một hạng đấu riêng còn Football League chỉ còn ba hạng. Không có sự thay đổi nào về thể thức; vẫn giữ nguyên số đội ở hạng đấu cao nhất, việc lên xuống hạng giữa Premier League và Hạng Nhất mới vẫn giữ nguyên như giữa Hạng Nhất và Nhì cũ với 3 đội lên hạng và 3 đội xuống hạng.
Mùa giải đầu tiên diễn ra vào 1992–93 và có 22 câu lạc bộ tham dự. Bàn thắng đầu tiên tại Premier League được ghi bởi Brian Deane của Sheffield United trong trận thắng 2–1 trước Manchester United. 22 thành viên ban đầu của Premier League mới là Arsenal, Aston Villa, Blackburn Rovers, Chelsea, Coventry City, Crystal Palace, Everton, Ipswich Town, Leeds United, Liverpool, Manchester City, Manchester United, Middlesbrough, Norwich City, Nottingham Forest, Oldham Athletic, Queens Park Rangers, Sheffield United, Sheffield Wednesday, Southampton, Tottenham Hotspur, và Wimbledon. Luton Town, Notts County và West Ham United là 3 đội bị xuống hạng ở giải hạng nhất cũ mùa 1991–92, nên không được tham dự mùa giải đầu tiên của Premier League.
"Top Four" thống trị (thập niên 2000)
Một dấu hiệu nổi bật của Ngoại hạng Anh vào giữa thập niên 2000 là sự thống trị của nhóm "Top Four" gồm bốn câu lạc bộ: Arsenal, Chelsea, Liverpool và Manchester United. Trong thập kỷ đó, cá biệt là từ 2002 tới 2009, họ thống trị 4 vị trí đầu, nơi có suất tham dự UEFA Champions League. Họ góp mặt cả trong 4 vị trí này 5 trong 6 mùa giải từ 2003–04 tới 2008–09, cùng với đó là việc Arsenal giành chức vô địch mà không thua trận nào mùa 2003–04, lần duy nhất diễn ra tại Premier League.
Trong thập niên 2000 có bốn đội bóng ngoài "Big Four" đã giành được một suất trong top 4 Ngoại hạng Anh và giành vé tới đấu trường UEFA Champions League. Đó là Leeds United (1999–2000), Newcastle United (2001–02 và 2002–03), Everton (2004–05) và Tottenham Hotspur (2009–10) – mỗi đội đều đứng ở vị trí thứ 4 và giành suất cuối cùng dự Champions League, riêng Newcastle ở mùa bóng 2002–03, họ kết thúc ở vị trí thứ ba.
Tháng 5 năm 2008, Kevin Keegan phát biểu rằng việc thống trị của "Top Four" đe dọa đến giải đấu: "Giải đấu này có nguy cơ trở thành một trong những giải đấu lớn nhưng nhàm chán nhất thế giới." Giám đốc điều hành Premier League, Richard Scudamore phản biện lại rằng: "Có nhiều sự cạnh tranh khác nhau ở Premier League tại các vị trí đầu bảng, giữa bảng hay cuối bảng xếp hạng. Điều đó làm nên sự thú vị của giải đấu."
Trên đấu trường châu Âu, từ năm 2005 đến năm 2012, các đội bóng trong Big Four xuất hiện ở chung kết Champions League đến 7 trong tổng số 8 lần (ngoại trừ năm 2010). Liverpool (2005), Manchester United (2008) và Chelsea (2012) đã giành được chức vô địch, với Arsenal (2006), Liverpool (2007), Chelsea (2008) và Manchester United (2009 và 2011) đều để thua chung kết Champions League. Arsenal là đội bóng duy nhất trong "Big Four" chưa giành được chức vô địch Champions League nào trong lịch sử. Leeds United là đội bóng duy nhất ngoài Big Four tiến tới bán kết Champions League (2000–01).
Ở các cúp châu Âu khác (UEFA Cup và Europa League sau này), bốn đội bóng Anh đã tiến đến các trận chung kết của UEFA Cup (hay Europa League sau này), trong đó chỉ Liverpool đoạt cúp vào năm 2001. Arsenal (2000), Middlesbrough (2006) và Fulham (2010) đều thua trận chung kết.
Từ Top 4 tới "Top 6"
Từ sau năm 2009, đánh dấu sự thay đổi cấu trúc của "Top 4" với việc Tottenham Hotspur và Manchester City cùng lọt vào top 4. Trong mùa giải 2009–10, Tottenham kết thúc ở vị trí thứ tư, qua đó trở thành đội bóng đầu tiên lọt vào top bốn kể từ sau Everton năm 2005. Tuy nhiên, những chỉ trích về khoảng cách giữa nhóm các "siêu câu lạc bộ" và phần còn lại của Premier League thì vẫn tiếp diễn, do họ chi tiêu nhiều hơn so với các câu lạc bộ khác ở Premier League. Kể từ khi liên tục có sự hiện diện của Manchester City và Tottenham Hotspur ở các vị trí đầu bảng xếp hạng, không có đội bóng nào bảo vệ thành công chức vô địch Ngoại hạng Anh. Ngoài ra, Premier League là giải vô địch quốc gia duy nhất tại các quốc gia thuộc UEFA mà không có câu lạc bộ nào bảo vệ thành công chức vô địch. Manchester City vô địch mùa 2011–12, trở thành câu lạc bộ đầu tiên ngoài "Top Four" vô địch kể từ mùa 1994–95. Đó cũng là mùa đầu tiên 2 trong 4 đội Top Four (Chelsea và Liverpool) kết thúc ngoài top 4 kể từ 1994–95.
Chỉ với 4 vị trí đầu tiên của giải đấu có được suất dự UEFA Champions League mà hiện nay có sự cạnh tranh lớn hơn 4 suất đó, mặc dù chỉ mới mở ra đến 6 đội bóng. Nếu các đội bằng điểm và hiệu số bàn thắng, một trận đấu phân định suất dự cúp Châu Âu sẽ được chơi ở sân trung lập. Trong năm mùa giải tiếp theo sau mùa bóng 2011–12, Manchester United và Liverpool đều đứng ngoài top bốn 3 lần trong khi Chelsea kết thúc ở vị trí 10 trong mùa giải 2015–16. Arsenal khép lại giải đấu ở vị trí thứ 5 vào mùa bóng 2016–17, kết thúc kỷ lục của họ với 20 lần liên tiếp kết thúc trong top bốn.
Mùa bóng 2015–16, top bốn đã bị phá vỡ bởi một đội bóng nằm ngoài nhóm Big Six lần đầu tiên kể từ sau Everton năm 2005. Leicester City viết thành công câu chuyện cổ tích khi giành được chức vô địch Premier League và được tham dự vòng bảng Champions League.
Ngoài sân cỏ, "Top 6" nắm giữ sức mạnh và tầm ảnh hưởng về tài chính, các đội bóng này cho rằng họ nên được hưởng phần doanh thu lớn hơn do tầm vóc của câu lạc bộ của họ trên toàn cầu và thứ bóng đá hấp dẫn mà họ nhắm đến. Những người phản đối điều đó cho rằng cơ cấu doanh thu bình đẳng ở Premier League giúp duy trì tính cạnh tranh của giải đấu, điều đó rất quan trọng cho sự thành công trong tương lai.
Quá trình phát triển
Do yêu cầu của Liên đoàn bóng đá thế giới (FIFA), cơ quan quản lý bóng đá quốc tế, rằng các giải đấu trong nước phải giảm số trận đấu, số câu lạc bộ giảm xuống còn 20 năm 1995, với việc 4 đội xuống hạng và chỉ có 2 lên hạng. Và cao nhất chỉ có 22 đội vào năm đầu tiên của mùa giải.
Ngày 8 tháng 6 năm 2006, FIFA yêu cầu tất cả các giải đấu lớn của châu Âu, gồm cả Serie A của Italia và La Liga của Tây Ban Nha giảm xuống còn 18 đội bắt đầu từ mùa 2007–08. Premier League phản ứng bằng cách đưa ra các ý định của họ để phản đối việc cắt giảm. Cuối cùng, mùa 2007–08 vẫn khởi tranh với 20 đội.
Giải đấu được đổi tên FA Premier League đơn giản hơn thành Premier League năm 2007.
2020 - nay
Từ mùa giải 2019–20, các Trợ lý trọng tài video (VAR) đã được sử dụng trong giải đấu. Vào tháng 10 năm 2020, Dự án Big Picture được công bố, mô tả kế hoạch tái hợp các câu lạc bộ hàng đầu Premier League với Giải bóng đá Anh. Dự án này do các câu lạc bộ Manchester United và Liverpool đề xuất, với mục tiêu cải thiện tình hình tài chính của các câu lạc bộ nhỏ và tăng cường sức cạnh tranh của giải đấu.
Mùa giải 2022–23 của Premier League ghi dấu ấn với một lịch thi đấu đặc biệt. Giải đã phải tạm nghỉ tới 6 tuần, từ tháng 11 đến tháng 12 năm 2022, để nhường chỗ cho kỳ FIFA World Cup lần đầu tiên được tổ chức vào mùa đông. Ngay sau khi giải vô địch thế giới khép lại, các trận đấu của Premier League đã trở lại vào dịp Boxing Day truyền thống, mang đến không khí bóng đá tưng bừng cho khán giả hâm mộ. Cầu thủ quyết định quỳ gối trước trận đấu để thể hiện sự đoàn kết và cam kết xóa bỏ phân biệt chủng tộc. Mùa giải đó cũng đáng chú ý khi có nhiều bất ngờ. Newcastle United và Brighton & Hove Albion đã lọt vào top 6, trong khi Tottenham và Chelsea đã tụt hạng. Leicester City, nhà vô địch mùa giải 2015-2016, đã xuống hạng, trở thành câu lạc bộ vô địch thứ hai phải xuống hạng kể từ năm 1992.
Cơ cấu tổ chức
Football Association Premier League Ltd (FAPL) được tổ chức như 1 công ty và được sở hữu bởi 20 thành viên câu lạc bộ. Mỗi câu lạc bộ là 1 cổ đông, với 1 phiếu mỗi khi biểu quyết về các vấn đề như thay đổi quy tắc và hợp đồng. Các câu lạc bộ lựa chọn ra 1 chủ tịch, giám đốc điều hành, và các thành viên ban giám đốc để giám sát các hoạt động của giải đấu.
Chủ tịch hiện tại là Sir Dave Richards, được bổ nhiệm vào tháng 4 năm 1999, và giám đốc điều hành là Richard Scudamore, được bổ nhiệm tháng 11 năm 1999. Cựu chủ tịch và giám đốc điều hành, John Quinton và Peter Leaver, bị buộc từ chức vào tháng 3 năm 1999 sau khi trao hợp đồng tư vấn cho cựu giám đốc Sky Sam Chisholm và David Chance. Liên đoàn bóng đá Anh không trực tiếp tham gia vào việc điều hành Premier League, nhưng có quyền phủ quyết với tư cách cổ đông đặc biệt trong việc lựa chọn chủ tịch và giám đốc điều hành và khi các luật mới được đưa ra áp dụng cho giải đấu.
Premier League có đại diện tại Hiệp hội các Câu lạc bộ châu Âu của UEFA, số câu lạc bộ và những câu lạc bộ được lựa chọn theo hệ số UEFA. Mùa giải 2012–13, Premier League có 10 đại diện trong Hiệp hội: Arsenal, Aston Villa, Chelsea, Everton, Fulham, Liverpool, Manchester City, Manchester United, Newcastle United và Tottenham Hotspur. Hiệp hội các Câu lạc bộ châu Âu có trách nhiệm lựa chọn ra 3 thành viên tham gia Ủy ban các giải đấu cấp câu lạc bộ của UEFA, nơi tham gia điều hành các giải đấu của UEFA như Champions League và UEFA Europa League.
Thể thức giải đấu
Giải đấu
Có 20 câu lạc bộ tại Premier League. Trong một mùa giải (từ tháng 8 tới tháng 5), mỗi câu lạc bộ sẽ thi đấu với các đối thủ khác 2 lần (vòng tròn 2 lượt) bao gồm 1 trận sân nhà và 1 trận sân khách, tính ra có 38 trận đấu. Các đội sẽ giành được 3 điểm/trận thắng, 1 điểm/trận hòa và không có điểm khi thua trận. Các đội sẽ được xếp hạng theo tổng số điểm giành được, rồi sau đó mới xét tới hiệu số bàn thắng và thành tích đối đầu. Nếu vẫn bằng điểm nhau, các đội sẽ được tính là xếp cùng vị trí. Nếu việc bằng nhau đó quyết định tới chức vô địch, xuống hạng hay giành quyền tham dự 1 giải đấu khác, 1 trận play-off sẽ được diễn ra trên sân trung lập để xác định thứ hạng. 3 vị trí thấp nhất sẽ xuống chơi tại Football League Championship, còn 2 đội đứng đầu Championship, cùng với đội thắng vòng play-off dành cho các đội xếp từ thứ 3 tới thứ 6 Championship, sẽ giành quyền lên hạng.
Năm 2008 đã từng có đề xuất thêm vòng đấu 39 nhưng ý tưởng này đã bị hủy bỏ.
Tư cách tham dự các giải đấu châu Âu
Mùa giải 2009–10, suất tham dự UEFA Champions League thay đổi, 4 đội đứng đầu Premier League giành quyền tham dự UEFA Champions League, với việc 3 đội dẫn đầu lọt trực tiếp vào vòng bảng. Trước đó chỉ có 2 đội dẫn đầu lọt trực tiếp. Đội xếp thứ 4 tham dự Champions League ở vòng play-off dành cho các đội không vô địch và phải thắng sau 2 lượt trận mới được vào vòng bảng.
Đội xếp thứ 5 Premier League sẽ trực tiếp tham dự UEFA Europa League, đội thứ 6 và thứ 7 được tham dự hay không, phụ thuộc vào đội vô địch 2 cúp quốc nội là FA Cup và League Cup. Hai suất Europa League sẽ được dành cho đội vô địch của giải đấu đó; nếu đội vô địch FA Cup hoặc League Cup đã giành quyền tham dự Champions League, thì suất đó sẽ dành cho đội có vị trí kết thúc ở vị trí cao hơn tại Premier League. Một suất tham dự UEFA Europa League khác cũng có thể giành được nhờ giải Fair Play. Nếu Premier League là một trong ba giải đứng bảng xếp hạng Fair Play của châu Âu, đội xếp cao nhất trong bảng xếp hạng Fair Play Premier League nếu chưa giành quyền tham dự cúp châu Âu sẽ được tham dự từ vòng loại thứ nhất UEFA Europa League.
Một ngoại lệ xảy ra năm 2005, khi Liverpool vô địch Champions League năm trước đó, nhưng họ không giành được quyền tham dự Champions League tại Premier League mùa giải đó. UEFA dành cho Liverpool quyền đặc biệt tham dự Champions League, giúp Anh có 5 đội tham dự. UEFA sau đó đưa ra quy định đội đương kim vô địch mặc nhiên được tham dự vào mùa sau bất chấp kết quả của họ tại giải quốc nội. Tuy nhiên, đối với những quốc gia có 4 suất tham dự Champions League, nếu nhà vô địch Champions League kết thúc ở vị trí ngoài đội đứng đầu ở giải quốc nội, đội đó sẽ lấy suất tham dự của đội xếp thứ 4. Tại thời điểm đó, không có một liên đoàn nào có hơn 4 đại diện tham dự Champions League. Điều này diễn ra vào năm 2012, khi Chelsea – đội vô địch Champions League năm trước đó nhưng xếp thứ 6 tại giải trong nước – giành suất tham dự Champions League của Tottenham Hotspur, đội phải tham dự Europa League.
Bắt đầu từ mùa 2015–16, đội vô địch Europa League sẽ được tham dự Champions League mùa giải tiếp theo, suất tối đa tham dự Champions League cho mỗi quốc gia được nâng lên 5. Một quốc gia có 4 suất Champions League, như Anh, sẽ chỉ kiếm được suất thứ 5 nếu một câu lạc bộ không giành được quyền tham dự Champions League thông qua giải quốc nội mà vô địch Champions League hoặc Europa League.
Năm 2007, Premier League trở thành giải đấu đứng đầu bảng xếp hạng Các giải đấu châu Âu dựa theo thành tích của các câu lạc bộ Anh tại cúp châu Âu trong giai đoạn 5 năm. Điều này đã phá vỡ sự thống trị 8 năm của giải vô địch quốc gia Tây Ban Nha, La Liga.
Các câu lạc bộ Premier League tại các giải quốc tế
Từ mùa 1992–93 tới 2021–22, các câu lạc bộ Premier League đã 6 lần giành chức vô địch UEFA Champions League (và 8 lần giành á quân), xếp sau La Liga của Tây Ban Nha với 12 lần và Serie A của Italia với 5 lần, và Bundesliga của Đức với 4 lần vô địch. FIFA Club World Cup (hay FIFA Club World Championship, theo tên gọi ban đầu) từng 3 lần được các câu lạc bộ Premier League giành được (Manchester United năm 2008, Liverpool năm 2019, Chelsea năm 2021), họ cũng 2 lần giành chức á quân (Liverpool vào 2005, Chelsea vào 2012), xếp sau và La Liga của Tây Ban Nha với 12 lần, và Brasileirão của Brazil với 4lần.
Lên, xuống hạng
Các câu lạc bộ của Giải Ngoại hạng và Giải bóng đá hạng nhất Anh có sự chuyển đổi hạng thi đấu sau mỗi mùa giải. Cụ thể, ba đội bóng đứng cuối bảng xếp hạng của giải Ngoại hạng Anh sẽ trực tiếp xuống chơi tại Giải bóng đá hạng nhất Anh. Còn 2 đội đứng đầu bảng của giải hạng nhất Anh sẽ trực tiếp thăng hạng lên Ngoại hạng Anh, một câu lạc bộ còn lại sẽ lên hạng sau chiến thắng trong trận play-off giữa các đội đứng thứ 3, thứ 4, thứ 5 và thứ 6 giải hạng nhất Anh. Số lượng các câu lạc bộ có sự chuyển đổi hạng thi đấu được thể hiện như sau:
Câu lạc bộ
Có tổng cộng 50 câu lạc bộ từng tham dự Premier League từ khi thành lập năm 1992, tính đến mùa 2021–22.
Các đội vô địch
Số lần vô địch theo câu lạc bộ
Các câu lạc bộ theo giai đoạn
Do việc lên xuống hạng, chỉ có 6 thành viên sáng lập Premier League chưa từng xuống hạng, trong khi đó 6 đội sáng lập khác chưa thể trở lại sau khi xuống hạng. Có 25 câu lạc bộ giành được quyền thăng hạng, chỉ có 3 đội không xuống hạng trong mùa tiếp theo, trong khi đó có 7 đội xuống hạng ngay sau 1 giai đoạn. Số còn lại 15 câu lạc bộ lên xuống nhiều lần, như trường hợp của thành viên sáng lập Crystal Palace là 5 giai đoạn khác nhau.
Mùa 2023–24
Dưới đây là 20 câu lạc bộ tham dự Premier League mùa 2023–24:
Burnley, Watford và Norwich City xuống chơi tại Championship mùa giải 2023–24, trong khi đó Burnley, Sheffield United và Luton Town, lần lượt là đội vô địch, á quân và đội thắng trong trận chung kết playoff, lên thi đấu từ Championship mùa giải 2022–23.
Brighton & Hove Albion, Brentford và Luton Town là 3 câu lạc bộ vẫn tiếp tục tại Premier League sau lần lên hạng đầu tiên với mùa giải thứ 7, 3 và 1 (trong tổng cộng 32 mùa).
a: Thành viên sáng lập Premier League
b: Chưa từng xuống hạng từ Premier League
c: Một trong 12 đội Football League ban đầu
Các câu lạc bộ ngoài Anh
Wales
Năm 2011, câu lạc bộ của Wales tham dự Premier League lần đầu tiên, khi Swansea City giành suất lên hạng. Trận đấu đầu tiên của Premier League diễn ra bên ngoài nước Anh là trận đấu sân nhà của Swansea City ở Sân vận động Liberty gặp Wigan Athletic ngày 20 tháng 8 năm 2011. Mùa 2012–13, Swansea giành quyền tham dự Europa League khi vô địch League Cup. Số câu lạc bộ của Wales tại Premier League được tăng lên 2 lần đầu tiên mùa 2013–14, khi Cardiff City giành quyền thăng hạng, nhưng Cardiff City đã xuống hạng ngay mùa đó. Cardiff được quay lại vào 2017-18 nhưng số lượng đội của Xứ Wales vẫn tương tự.
Vì họ là thành viên của Hiệp hội bóng đá Wales (FAW), vấn đề là những câu lạc bộ như Swansea nên đại diện cho Anh hay Wales ở các giải đấu châu Âu đã đặt ra những cuộc thảo luận kéo dài tại UEFA. Swansea giành một trong ba suất của Anh tham dự Europa League mùa 2013–14 sau khi vô địch League Cup 2012–13. Quyền của các câu lạc bộ Wales thi đấu dưới danh nghĩa đại diện của Anh được tranh cãi cho tới khi Welsh UEFA làm rõ vấn đề tháng 3 năm 2012.
Scotland và Ireland
Việc tham dự Premier League của một vài câu lạc bộ Scotland hay Ireland được đưa ra thảo luận vài lần nhưng không có kết quả. Ý tưởng khả thi nhất là vào năm 1998, khi Wimbledon được Premier League chấp thuận di chuyển tới Dublin, Ireland, nhưng cuối cùng bị chặn lại bởi Hiệp hội bóng đá Cộng hòa Ireland. Thêm vào đó, giới truyền thông thi thoảng lại đưa ra ý tưởng về việc hai đội bóng lớn nhất Scotland, Celtic và Rangers, nên hoặc sẽ gia nhập Premier League, nhưng không có gì ngoài các cuộc thảo luận.
Các nhà tài trợ
Từ 1993 tới 2016, Premier League đã bán quyền tài trợ giải đấu cho hai công ty; Barclays là nhà tài trợ gần nhất, họ tài trợ cho Premier League từ năm 2001 tới 2016 (trước 2004, tài trợ thông qua thương hiệu Barclaycard trước khi trở lại với nhãn hiệu ngân hàng chính năm 2004).
Hợp đồng của Barclays với Premier League kết thúc vào cuối mùa giải 2015–16. FA thông báo vào ngày 4 tháng 6 năm 2016, rằng sẽ không còn bất cứ nhà tài trợ nào gắn tên với Premier League nữa, họ muốn xây dựng một thương hiệu "sạch" cho giải đấu giống như các giải đấu thể thao nhà nghề Mỹ.
Ngoài nhà tài trợ chính của giải đấu, Premier League còn có một số đối tác chính thức và các nhà cung cấp. Bóng chính thức được cung cấp bởi Nike có hợp đồng từ mùa 2000–01 khi họ giành được quyền từ tay Mitre.
Tài chính
Premier League là giải đấu bóng đá có doanh thu cao nhất thế giới, với tổng doanh thu các câu lạc bộ là 2.48 tỉ Euro mùa 2009–10. Mùa 2013–14, do doanh thu truyền hình được cải thiện và kiểm soát chi phí, Premier League đã có lợi nhuận ròng vượt trên 78 triệu bảng Anh, vượt qua tất cả các giải bóng đá khác. Năm 2010 Premier League giành Giải thưởng Nữ hoàng dành cho doanh nghiệp trong hạng mục Thương mại quốc tế tôn vinh những đóng góp xuất sắc của họ đối với thương mại quốc tế và giá trị mà nó mang lại cho bóng đá Anh và ngành công nghiệp truyền hình của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland.
Premier League có một vài câu lạc bộ giàu nhất thế giới. Bảng xếp hạng "Football Money League" của Deloitte có bảy câu lạc bộ Premier League nằm trong top 20 trong mùa giải 2009–10, và cả 20 câu lạc bộ nằm trong top 40 toàn cầu tới cuối mùa 2013–14, phần lớn là kết quả của việc tăng doanh thu bản quyền truyền hình. Từ năm 2013, giải đấu thu về 2.2 tỉ Euro một năm tiền bản quyền truyền hình nội địa và quốc tế.
Các câu lạc bộ tại Premier League đã đồng ý về nguyên tắc trong tháng 12 năm 2012, để kiểm soát chi phí mới một cách triệt để. Hai đề xuất bao gồm quy tắc hòa vốn và một mức trần mà các câu lạc bộ có thể tăng quỹ lương của họ theo từng mùa.
Bản quyền truyền hình
Vương quốc Anh và Ireland
Từ năm 1992, sau khi 20 CLB hàng đầu nước Anh rời hệ thống Football League, Ngoại hạng Anh ra đời và hoạt động như một tập đoàn. Nó được điều hành bởi chính các đội bóng tham dự, độc lập với Liên đoàn bóng đá Anh. Sky là kênh phát sóng chủ yếu giải đấu này tại Vương quốc Anh và Ireland, sau này có thêm các kênh khác cùng phát như ESPN, Setanta Sports, hiện nay là BT Sport, BT Sport bắt đầu nhảy vào tranh chấp miếng bánh ngon này với Sky, kênh truyền hình từ trước đến nay vốn độc quyền giải đấu trên lãnh thổ Anh từ năm 2013. Khi ấy, nhờ luật "đấu thầu mù" của Ngoại hạng Anh, hãng này bất ngờ lần đầu tiên giành quyền phát sóng 38 trận mỗi mùa. Từ khi BT Sport nhảy vào, giá bản quyền truyền hình trong lãnh thổ Anh tăng đột biến, từ 1,5 tỷ đôla mỗi mùa trong khoảng thời gian 2013–2016 lên 2,6 tỷ đôla trong giai đoạn 2016–2019. Tính ra, mỗi trận đấu từ năm 2016 sẽ có giá 15 triệu đôla chỉ riêng trên đất Anh.
Toàn thế giới
Premier League là giải đấu bóng đá được xem nhiều nhất trên thế giới, phát sóng trên 212 vùng lãnh thổ tới 643 triệu hộ gia đình và khoảng 4,7 tỉ khán giả truyền hình. Tại Việt Nam, từ hơn 20 năm trước, người hâm mộ vẫn được thưởng thức miễn phí EPL trên truyền hình khi giải phát trên sóng VTV3. Nhưng sau đó, một số đài truyền hình trả tiền tại Việt Nam muốn tăng thị phần nên đã sẵn sàng bỏ ra hàng núi tiền để mua độc quyền bản quyền phát sóng EPL. Cuộc đua giữa các nhà đài luôn diễn ra rất căng thẳng khiến giá bản quyền EPL tăng với tốc độ phi mã. Kể từ năm 2010 đến nay, công ty truyền hình số vệ tinh VSTV (K+ - liên doanh giữa VTV và Canal Plus) đã đánh bật các đối thủ khác trong nước và trở thành đơn vị duy nhất sở hữu tất cả các trận đấu của mỗi mùa giải.
Khoảng cách với các giải đấu thấp hơn
Khoảng cách giữa Premier League và Football League ngày càng tăng. Kể từ khi tách khỏi Football League, nhiều câu lạc bộ sáng lập Premier League vẫn đang vật lộn ở các giải thi đấu thấp hơn. Do một phần lớn là sự chênh lệch về doanh thu bản quyền truyền hình giữa các giải đấu, nhiều câu lạc bộ mới lên hạng rất khó khăn để trụ lại sau mùa giải đầu tiên của họ tại Premier League. Ở mọi mùa bóng trừ 2001–02, 2011–12 và 2017–18 có ít nhất một đội bóng mới lên Premier League phải quay trở lại với Football League. Mùa 1997–98, cả ba đội mới lên hạng đều phải xuống hạng vào cuối mùa bóng.
Premier League vẫn phân chia một phần doanh thu bản quyền truyền hình cho các câu lạc bộ phải xuống hạng. Bắt đầu từ mùa 2013–14, khoản này đã vượt quá 60 triệu bảng cho bốn mùa bóng. Mặc dù đã có kế hoạch để giúp các đội bóng điều chỉnh sự không cân đối về doanh thu truyền hình (trung bình các đội Premier League nhận 55 triệu bảng trong khi đó các câu lạc bộ Football League Championship chỉ là 2 triệu), người ta cho rằng chính các khoản được chia này đã làm sâu thêm khoảng cách giữa các đội từng được tham dự Premier League với các câu lạc bộ khác, dẫn đến việc các câu lạc bộ thường trở lại sau khi xuống hạng. Một vài câu lạc bộ không thể quay trở lại ngay với Premier League, các vấn đề về tài chính, bao gồm một vài trường hợp bị chính quyền tiếp quản hoặc thậm chí là phá sản.
Các sân vận động
Tính tới mùa 2017–18, Premier League đã được diễn ra trên 58 sân vận động kể từ mùa giải đầu tiên của Premier League. Sau thảm họa Hillsborough năm 1989 và kết quả của Báo cáo Taylor đề nghị loại bỏ khán đài đứng; kết quả là các sân vận động tại Premier League đều là khán đài ngồi. Từ khi thành lập Premier League, các sân bóng ở Anh đã được nâng cấp sức chứa và cơ sở vật chất, một số câu lạc bộ còn chuyển tới những sân vận động xây mới. 9 sân vận động từng diễn ra Premier League đã bị phá hủy. Các sân đấu của mùa 2010–11 sân có sức chứa lớn nhất là: Old Trafford, sân nhà của Manchester United với sức chứa 75,957 còn nhỏ nhất là Vitality stadium, sân nhà của
Bournemouth A.F.C., với sức chứa 11464. Tổng sức chứa của các sân vận động Premier League mùa 2017–18 là 806,033 trung bình là 40,302 một sân.
Khán giả tới sân là một nguồn thu đáng kể của các câu lạc bộ Premier League. Mùa 2016–17, trung bình có 35,838 khán giả tới xem một trận đấu tại Premier League trong tổng số 13,618,596. Con số này tăng 13,089 so với số 21,126 khán giả ghi nhận trong mùa giải đầu tiên (1992–93). Tuy nhiên, sau mùa bóng 1992–93, sức chứa của các sân giảm xuống do phải loại bỏ khán đài đứng và đến hạn chót là mùa 1994–95 các sân phải bao gồm toàn bộ khán đài ngồi. Kỉ lục trung bình khán giả tới sân tại Premier League là 36,144 được thiết lập vào mùa giải 2007–08. Kỉ lục đó sau đó bị phá mùa 2013–14 với 36,695 khán giả, cao nhất kể từ năm 1950.
Huấn luyện viên
Huấn luyện viên tại Premier League phụ trách đội bóng ngày qua ngày bao gồm tập luyện, lựa chọn đội hình và mua bán cầu thủ. Tầm ảnh hưởng của họ thay đổi từ cầu lạc bộ này đến câu lạc bộ khác và có liên quan tới chủ sở hữu đội bóng và mối quan hệ với các cổ động viên. Các huấn luyện viên phải đạt chứng chỉ UEFA Pro Licence bằng cấp cao nhất, sau khi hoàn thành cả UEFA 'B' và 'A' Licences. UEFA Pro Licence là yêu cầu cần thiết đối với những người muốn huấn luyện lâu dài tại Premier League (nghĩa là dưới 12 tuần là thời gian huấn luyện viên tạm quyền được cho phép huấn luyện đội bóng). Vị trí tạm quyền sẽ được bổ nhiệm trong khoảng thời gian trống chờ đợi huấn luyện viên chính thức mới. Một vài huấn luyện viên đã được bổ nhiệm làm huấn luyện viên chính thức sau thời gian tạm quyền; ví dụ như trường hợp của Paul Hart ở Portsmouth hay David Pleat ở Tottenham Hotspur.
Huấn luyện viên có thời gian làm việc dài nhất là Alex Ferguson, người nắm quyền Manchester United từ tháng 11 năm 1986 tới khi nghỉ hưu mùa 2012–13, nghĩa là ông huấn luyện cả 21 mùa đầu tiên của Premier League. Arsène Wenger hiện là huấn luyện viên có thời gian làm việc dài nhất, khi dẫn dắt Arsenal tại Premier League từ 1996.. Hiện tại ông đã không còn dẫn dắt Arsenal F.C
Các huấn luyện viên giành chức vô địch
Các HLV hiện tại
Cầu thủ
Cầu thủ nước ngoài và quy định chuyển nhượng
Trong mùa giải Premier League đầu tiên 1992–93, ở vòng đấu mở màn chỉ có 11 cầu thủ ra sân trong đội hình xuất phát đến từ bên ngoài của Vương quốc Anh hoặc Ireland. Tới mùa 2000–01, số cầu thủ nước ngoài tham dự Premier League là 36%. Mùa 2004–05 con số tăng lên 45%. Ngày 26 tháng 12 năm 1999, Chelsea trở thành đội bóng đầu tiên tại Premier League ra sân với toàn cầu thủ nước ngoài, còn ngày 14 tháng 2 năm 2005, Arsenal trở thành đội bóng đầu tiên đăng ký cả 16 cầu thủ cho 1 trận đấu là người nước ngoài. Tới năm 2009, chỉ còn dưới 40% cầu thủ tham dự Premier League là người Anh.
Để đối phó với những lo ngại rằng các câu lạc bộ ngày càng bỏ qua các cầu thủ trẻ Anh để sử dụng các cầu thủ nước ngoài, năm 1999, Cục Xuất nhập cảnh Vương quốc Anh thắt chặt quy định của cấp giấy phép lao động cho cầu thủ đến từ ngoài Liên minh châu Âu. Một cầu thủ ngoài EU chỉ được cấp giấy phép lao động khi thi đấu 75% số trận đấu hạng 'A' mà cầu thủ đó được lựa chọn trong vòng 2 năm, và quốc gia của cầu thủ đó trung bình phải xếp ít nhất là thứ 70 trong bảng xếp hạng FIFA trong vòng 2 năm. Nếu 1 cầu thủ không đạt được những tiêu chí đó, câu lạc bộ muốn ký hợp đồng với cầu thủ đó có thể đưa ra lời yêu cầu.
Các cầu thủ sẽ chỉ được chuyển nhượng khi thị trường chuyển nhượng mở cửa bởi Hiệp hội bóng đá. Sẽ có 2 kỳ chuyển nhượng bắt đầu từ ngày cuối cùng của mùa giải tới 31 tháng 8 và từ 31 tháng 12 tới 31 tháng Giêng. Cầu thủ đã được đăng ký sẽ không được thay đổi trong kì chuyển nhượng đó trừ khi có giấy phép đặc biệt từ FA, thường là trong trường hợp khẩn. Tới mùa 2010–11, Premier League đưa ra luật mới về việc các câu lạc bộ chỉ được phép đăng ký tối đa 25 cầu thủ trên 21 tuổi, cùng với đó là danh sách đội hình chỉ được phép thay đổi trong kì chuyển nhượng hoặc trong trường hợp đặc biệt. Cùng với đó là khái niệm 'home grown' cũng được áp dụng, theo đó cũng từ năm 2010 ít nhất là 8 trong số 25 cầu thủ đăng ký phải là 'cầu thủ home-grown'.
Lương cầu thủ và phí chuyển nhượng
Không có mức lương trần dành cho một cá nhân hay một đội bóng nào tại Premier League. Đây là kết quả của những bản hợp đồng bản quyền truyền hình ngày càng hấp dẫn, lương các cầu thủ tăng mạnh kể từ khi Premier League ra đời khi mà mức lương trung bình của cầu thủ chỉ là 75.000 bảng Anh một năm. Mức lương trung bình vào mùa 2008–09 là 1,1 triệu bảng. Tới năm 2015, trung bình lương của Premier League cao nhất trong các giải bóng đá trên thế giới.
Kỷ lục chuyển nhượng dành cho một cầu thủ Premier League tăng đều đặn qua từng năm. Trước khi bắt đầu mùa giải Premier League đầu tiên Alan Shearer mới trở thành cầu Anh có mức chuyển nhượng trên 3 triệu bảng. Các kỷ lục tăng đều đặn trong vài mùa giải đầu tiên ở Premier League, cho đến khi Alan Shearer đã phá vỡ kỷ lục 15 triệu bảng khi chuyển tới Newcastle United vào năm 1996. Ba kỉ lục chuyển nhượng cao nhất lịch sử thể thao thì đều là các câu lạc bộ Premier League bán đi, khi Tottenham Hotspur bán Gareth Bale cho Real Madrid với giá 85 triệu bảng năm 2013, Manchester United bán Cristiano Ronaldo cho Real Madrid với mức giá 80 triệu bảng năm 2009, và Liverpool bán Luis Suárez cho Barcelona thu về 75 triệu năm 2014.
Giá trị chuyển nhượng
Cầu thủ ghi bàn hàng đầu
Nghiêng cầu thủ vẫn đang thi đấu chuyên nghiệp.Đậm hiện đang thi đấu tại Premier League.
Chiếc giày vàng được trao cho cầu thủ ghi nhiều bàn thắng tại Premier League vào cuối mỗi mùa bóng. Cựu tiền đạo Blackburn Rovers và Newcastle United Alan Shearer đang giữ kỉ lục ghi nhiều bàn thắng nhất tại Premier League với 260. Ba mươi tư cầu thủ đã đạt cột mốc 100 bàn thắng.
Kể từ mùa giải Premier League đầu tiên 1992–93, hơn 26 cầu thủ đến từ 12 câu lạc bộ khác nhau đã giành hoặc chia sẻ danh hiệu vua phá lưới giải đấu. Thierry Henry giành danh hiệu vua phá lưới thứ tư với 27 bàn vào mùa 2005–06. Erling Haaland giữ kỉ lục ghi nhiều bàn thắng nhất trong một mùa giải (36) – cho Manchester City. Ryan Giggs của Manchester United giữ kỉ lục ghi bàn trong nhiều mùa liên tiếp nhất, với việc ghi bàn trong cả 21 mùa giải đầu tiên.
Giải thưởng
Cúp
Premier League có 2 chiếc cúp – một chiếc cúp thật (được giữ bởi nhà đương kim vô địch) và một bản sao dự trữ. Hai chiếc cúp sẽ được sử dụng trong trường hợp hai câu lạc bộ có thể có cơ hội vô địch ở ngày thi đấu cuối cùng của mùa giải. Trong trường hợp có nhiều hơn hai đội cùng cạnh tranh nhau chức vô địch trong ngày thi đấu cuối cùng của mùa giải – thì một bản sao từng được giành bởi một câu lạc bộ trước đó sẽ được sử dụng.
Chiếc cúp Premier League hiện tại được tạo ra bởi Royal Jewellers Asprey of London. Chiếc cúp bao gồm thân cúp với chiếc vương miện bằng vàng và chiếc đế bằng malachit. Chiếc đế nặng còn thân cúp nặng . Cả thân và đế cao , rộng và sâu .
Thân chính được làm từ bạc đặc thật và bạc mạ vàng, trong khi đó đế được làm từ malachit, một loại đá quý. Đế có một dải bạc xung quanh chu vi của nó, nơi ghi tên các nhà vô địch giải đấu. Malachit màu xanh cũng là tượng trưng cho màu xanh của cỏ trên sân. Chiếc cúp được thiết kế dựa trên huy hiệu của Tam Sư kết hợp với bóng đá Anh. Hai con sư tử được đặt ở hai bên chiếc cúp phía trên tay nắm– con thứ ba được biểu tượng chính là người đội trưởng của đội vô địch người nâng cao chiếc cúp, và khi ấy chiếc vương miện vàng sẽ ở trên đầu của anh ta. Các ruy băng treo lên tay nắm được thể hiện bằng màu của đội vô địch giải đấu năm đó.
Năm 2004, một phiên bản vàng đặc biệt được trao cho Arsenal khi họ giành chức vô địch mà không để thua một trận đấu nào.
Các giải thưởng cho cầu thủ và huấn luyện viên
Bên cạnh việc cúp dành cho đội vô địch và huy chương dành cho các cá nhân cầu thủ, Premier League cũng trao các giải Huấn luyện viên xuất sắc nhất tháng và Cầu thủ xuất sắc nhất hàng tháng. Có cả các giải Huấn luyện viên xuất sắc nhất mùa giải, Cầu thủ xuất sắc nhất mùa giải.
Hàng năm có giải Chiếc giày vàng và Găng tay vàng hàng năm.
Giải thưởng 20 năm
Năm 2012, Premier League kỉ niệm thập niên thứ hai bằng lễ trao Giải thưởng 20 năm:
Đội hình tiêu biểu
Chuyên gia bình chọn: Peter Schmeichel, Gary Neville, Tony Adams, Rio Ferdinand, Ashley Cole, Cristiano Ronaldo, Roy Keane, Paul Scholes, Ryan Giggs, Thierry Henry, Alan Shearer
Khán giả bình chọn: Peter Schmeichel, Gary Neville, Tony Adams, Nemanja Vidić, Ashley Cole, Cristiano Ronaldo, Steven Gerrard, Paul Scholes, Ryan Giggs, Thierry Henry, Alan Shearer
Huấn luyện viên xuất sắc nhất: Sir Alex Ferguson
Cầu thủ xuất sắc nhất: Ryan Giggs
Ra sân nhiều lần nhất: Ryan Giggs (598)
Ghi được nhiều bàn thắng nhất: Alan Shearer (260)
Giữ sạch lưới nhiều nhất: David James (173)
Câu lạc bộ 500: Ryan Giggs, David James, Gary Speed, Frank Lampard, Emile Heskey, và Sol Campbell.
Bàn thắng đẹp nhất: Wayne Rooney, 12 tháng 2 năm 2011, Man. United vs Man. City
Cứu thua xuất sắc nhất: Craig Gordon, 18 tháng 12 năm 2010, Sunderland vs Bolton
Đội bóng bất bại trong một mùa giải: Arsenal 2003-04
Chú thích
Ghi chú
Tham khảo
Tài liệu tham khảo
Liên kết ngoài
1
Khởi đầu năm 1992 ở Anh
Anh
Giải thể thao thành lập năm 1992
Giải thể thao chuyên nghiệp Vương quốc Liên hiệp Anh
Tổ chức có trụ sở tại Luân Đôn
|
26927
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Robert%20Koch
|
Robert Koch
|
Heinrich Hermann Robert Koch (11 tháng 12 năm 1843 – 27 tháng 5 năm 1910) là một bác sĩ và nhà sinh vật học người Đức. Ông nổi tiếng như một người đã tìm ra trực khuẩn bệnh than (năm 1877), trực khuẩn lao (năm 1882) và vi khuẩn bệnh tả (năm 1883), đồng thời là người đã đưa ra nguyên tắc Koch. Ông đã được trao giải Nobel dành cho Sinh lý và Y học cho các công trình về bệnh lao vào năm 1905. Ông cũng được coi là một trong số những người đặt nền móng cho vi khuẩn học.
Tiểu sử
Robert Koch sinh ngày 11 tháng 12 năm 1843 tại thị trấn nhỏ Clausthal nằm dưới chân dãy núi Harz, Vương quốc Hannover (nay là miền Trung nước Đức). Là con trai của một người kĩ sư mỏ, ông làm bố mẹ phải kinh ngạc khi nói với họ rằng ông đã tự học đọc bằng một tờ báo. Đó là dấu ấn đầu tiên về sự thông minh và tính kiên trì về mặt phương pháp – những đức tính đã theo ông trong suốt cuộc đời sau này. Ông học ở một trường cấp 3 địa phương (trường Gymnasium). Ở đó ông đã thể hiện mối quan tâm tới sinh học, và cũng như bố, Koch cũng có sở thích đi du lịch khám phá.
Năm 1862, Koch tới Đại học Göttingen để học y khoa. Tại đây, Koch bị ảnh hưởng bởi tư tưởng của giáo sư môn giải phẫu học là Friedrich Gustav Jakob Henle về bệnh truyền nhiễm là do những loài sinh vật sống ký sinh (luận điểm này đã được xuất bản vào năm 1840). Sau khi lấy bằng bác sĩ vào năm 1866, Koch tới Berlin trong sáu tháng để học hoá học dưới sự dẫn dắt của Virchow. Cùng năm, Koch cưới Emmy Fraats. Bà đã sinh cho ông một người con gái duy nhất là Gertrud (sinh năm 1865), người mà sau này trở thành vợ của tiến sĩ E. Pfuhl.
Năm 1867, ông bắt đầu ổn định cuộc sống sau thời gian thực tập, đầu tiên ở Langenhagen và không lâu sau đó, năm 1869, ở Rackwitz, tỉnh Posen. Ở đây ông đã vượt qua kì thi nhân viên y tế của tỉnh. Năm 1870, ông tham gia tình nguyện phục vụ trong cuộc Chiến tranh Pháp – Phổ và từ năm 1872 tới 1880 là nhân viên ngành y của tỉnh Wollstein. Cũng chính ở đây, ông đã thực hiện những nghiên cứu bước ngoặt, những nghiên cứu đã đưa ông lên vị trí cao trong giới khoa học.
Các nghiên cứu
Bệnh than vào thời đó đang xuất hiện trong các trang trại chăn nuôi ở tỉnh Wollstein. Mặc dù không có công cụ nghiên cứu khoa học nào và còn bị tách biệt với thư viện và giới khoa học, Koch đã lao vào nghiên cứu bệnh này bất chấp sức ép từ công việc bận rộn của ông. Phòng thí nghiệm của ông là căn nhà 4 phòng và cũng chính là nhà ông, còn dụng cụ nghiên cứu của ông, ngoài cái kính hiển vi vợ ông tặng, đều do ông tự trang bị. Trước đó thì trực khuẩn than đã được tìm ra bởi Pollender, Rayer và Davaine; và Koch đặt ra mục tiêu là chứng minh loài trực khuẩn này chính là tác nhân gây bệnh than, nếu có thể thì tìm ra cách chữa trị.
Ông cấy vào chuột, bằng miếng gỗ tự chế, trực khuẩn than lấy từ lá lách của những động vật trong nông trại đã bị chết bởi bệnh than, và thấy rằng những con chuột này cũng bị chết bởi trực khuẩn. Trong khi cùng lúc những con chuột được cấy bằng máu từ lách của những con vật nuôi khoẻ mạnh thì không bị mắc bệnh than. Điều này củng cố cho những nghiên cứu khác đã chứng minh rằng bệnh này có thể lây qua đường máu từ những con vật đã bị bệnh.
Nhưng điều đó chưa thoả mãn Koch. Ông còn muốn biết những con trực khuẩn than chưa bao giờ phát triển trong động vật thì có khả năng gây bệnh hay không. Để giả quyết vấn đề này, ông đã triết xuất pure culture của trực khuẩn bằng cách nuôi cấy chúng trong dịch lấy từ mắt bò. Bằng cách nghiên cứu, vẽ và chụp hình lại những môi trường nuôi cấy này, Koch đã ghi lại sự nhân lên của trực khuẩn và nhận thấy rằng điều kiện nuôi cấy không thích hợp với chúng, chúng đã tạo ra bào tử (spore) bên trong chúng để chống lại điều kiện bất lợi đặc biệt là thiếu oxy, và khi điều kiện thuận lợi trở lại, bào tử có thể trở lại thành trực khuẩn. Koch nuôi trực khuẩn qua vài thế hệ trong pure culture và chỉ ra rằng cả khi chúng không hề lớn lên trong động vật thì chúng vẫn có khả năng gây bệnh than.
Kết quả của công việc lao khổ này đã được Koch trình bày cho Ferdinand Cohn, giáo sư thực vật học ở Đại học Breslau, người đã tổ chức một cuộc họp cùng với những đồng nghiệp của mình cùng làm chứng cho sự trình bày của Koch trong số đó có giáo sư Cohnheim, giáo sư về giải phẫu bệnh học. Cả Cohn và Cohnheim đều bị ấn tượng bởi công trình của Koch và khi Cohn, vào năm 1876, xuất bản công trình của Koch trong một tờ báo của ngành thực vật học mà ông làm biên tập viên thì Koch đã lập tức trở nên nổi tiếng. Tuy nhiên ông vẫn tiếp tục làm việc ở Wollstein 4 năm sau đó và trong thời gian đó đã tiến bộ hơn nhiều trong kĩ năng cố định, nhuộm và chụp hình vi khuẩn đồng thời nghiên cứu thêm một số công trình quan trọng nữa về bệnh gây ra bởi vi khuẩn trong các vết thương, và xuất bản công trình vào năm 1878. Trong những công trình này ông đã nêu lên, cũng như những gì ông đã làm với bệnh than, bản chất khoa học và thực nghiệm cho cách kiểm soát những bệnh truyền nhiễm đó.
Tuy nhiên Koch vẫn còn thiếu điều kiện cho công việc của ông và phải tới năm 1880, khi ông được bổ nhiệm làm thành viên của Reichs-Gesundheitsamt (Cục Y tế Hoàng gia) ở Berlin, thì ông mới được cung cấp đầu tiên là một phòng hẹp, thiếu thốn nhưng sau đó là một phòng thí nghiệm đầy đủ hơn, trong đó ông đã làm việc với các phụ tá là Loeffler, Gaffky và những người khác. Ở đây, Koch tiếp tục hoàn thiện phương pháp nghiên cứu vi khuẩn mà ông đã dùng ở Wollstein. Ông phát minh ra phương pháp mới Reinkulturen – cấy pure culture của vi khuẩn vào môi trường nuôi cấy rắn như khoai tây, hay thạch đựng trong một loại đĩa đặc biệt phát minh bởi đồng nghiệp của ông là Julius Richard Petri, mà tới nay nó vẫn được sử dụng phổ biến. Ông cũng phát minh ra một phương pháp nhuộm vi khuẩn mới làm chúng dễ nhìn hơn và giúp xác minh chúng. Kết quả của những công trình này là sự mở đầu cho phương pháp nghiên cứu vi khuẩn gây bệnh trong đó vi khuẩn có thể dễ dàng tách ra trong pure culture, không nằm trong cơ thể sinh vật và vì vậy chúng có thể được xác định.
Koch cũng đặt ra tiêu chuẩn, được biết đến như nguyên tắc Koch (Koch's postulate). Để chấp nhận một vi khuẩn nào đó là nguyên nhân gây ra một bệnh nhất định hay không thì tất cả tiêu chuẩn của "nguyên tắc Koch" cần được thoả mãn.
Hai năm sau khi tới Berlin, Koch phát hiện ra trực khuẩn lao và phương pháp nuôi cấy nó trên pure culture. Năm 1882, ông xuất bản công trình kinh điển của ông về trực khuẩn. Ông vẫn tiếp tục bận rộn nghiên cứu cho tới khi ông được cử tới Ai Cập vào năm 1883 với vai trò Chủ tịch Ủy ban về bệnh tả của Đức, để điều tra về dịch tả đang bùng phát ở đó. Ở đây ông đã phát hiện ra vi khuẩn vibrio là nguyên nhân gây bệnh tả và mang được pure culture của vi khuẩn này về Đức. Ông cũng nghiên cứu cả vi khuẩn tả ở Ấn Độ.
Trên cơ sở những kiến thức của ông về đặc điểm sinh học và sự phân bố của vi khuẩn tả, Koch đã hệ thống hoá nguyên tắc để kiểm soát dịch tả và điều đó đã được chấp thuận bởi Quyền tối cao ở Dresden vào năm 1893 và nó đã trở thành nền móng cho việc kiểm soát dịch tả ngày nay. Công trình của ông về bệnh tả đã được nhận giải thưởng 100 ngàn mark Đức đồng thời cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc có kế hoạch bảo vệ nguồn nước sinh hoạt.
Năm 1885, Koch được phong Giáo sư về vệ sinh học của Đại học Berlin và Giám đốc của Viện vệ sinh mới được thành lập lúc đó tại trường này. Năm 1890 ông được phong thượng tướng và người có đặc quyền (Freeman) của thành phố Berlin. Năm 1891 ông trở thành Giáo sư Danh dự của khoa Y ở Berlin và Giám đốc Viện các bệnh truyền nhiễm, nơi ông đã may mắn gặp được những đồng nghiệp như Ehrlich, von Behring và Kitasato, cũng là những nhà phát minh nổi tiếng. Năm 1893, Koch cưới người vợ thứ hai là Hedwig Freiberg.
Trong thời gian này, Koch quay lại với những nghiên cứu về bệnh lao. Ông cố gắng hãm lại quá trình phát triển bệnh bằng chất mà ông gọi là tuberculin, được làm từ môi trường nuôi cấy trực khuẩn lao. Ông chuẩn bị các mẫu tuberculin, mới và cũ, và sự thông báo về mẫu tuberculin cũ đã gây rất nhiều tranh cãi. Khả năng chữa trị của chất này theo như những gì Koch tuyên bố là một sự thổi phồng, và bởi vì hi vọng từ nó không được thoả mãn, dư luận quay ra chống lại nó và chống lại Koch. Chất tuberculin mới được Koch công bố vào năm 1896 và khả năng chữa trị của nó cũng làm thất vọng mọi người; nhưng nó đã dẫn tới sự phát hiện của một chất có giá trị về mặt chẩn đoán.
Trong khi công trình về tuberculin vẫn tiếp tục, đồng nghiệp của ông ở Viện về các bệnh truyền nhiễm là von Behring, Ehrlich và Kitasato nghiên cứu và xuất bản công trình mang tính bước ngoặt của họ về sự miễn dịch của bệnh bạch hầu.
Năm 1896, Koch tới Nam Phi để nghiên cứu nguyên nhân của bệnh dịch virut Rinde (rinderpest) và mặc dù ông không tìm được nguyên nhân, ông cũng đã thành công trong việc hạn chế sự bùng phát của bệnh dịch bằng cách tiêm cho những con gia súc khoẻ mạnh mật lấy từ túi mật của những con đã bị bệnh. Rồi sau đó là các nghiên cứu ở Ấn Độ và châu Phi về sốt rét, sốt rét tiểu đen (blackwater fever), bệnh xura (surra) ở gia súc, ngựa và bệnh dịch hạch và xuất bản những quan sát của ông về các bệnh này vào năm 1898. Không lâu sau khi quay lại Đức, ông lại được cử tới Ý và vùng nhiệt đới nơi ông xác nhận công trình của Ronald Ross về sốt rét và làm được một số công việc có ích trong nghiên cứu về nguyên nhân của các dạng khác nhau của sốt rét và việc kiểm soát nó bằng thuốc ký ninh.
Trong những năm cuối của cuộc đời, Koch đi tới kết luận là trực khuẩn gây bệnh lao ở người và bò là khác nhau, và tuyên bố của ông về điều này tại Hội nghị Y học quốc tế về Lao ở Luân Đôn năm 1901 đã gây ra nhiều tranh cãi, nhưng bây giờ thì quan điểm đấy của ông đã được công nhận là đúng. Công trình nghiên cứu của ông về bệnh sốt Rickettsia đã dẫn đến ý tưởng mới, rằng căn bệnh này được truyền dễ dàng từ người sang người hơn là từ nước uống, và vì thế dẫn đến phương pháp kiểm soát bệnh mới.
Tháng 12 năm 1904, Koch được cử tới vùng Đông Phi của người Đức để nghiên cứu bệnh sốt ở Bờ Biển Đông trên gia súc và ông đã tiến hành những quan sát quan trọng, không chỉ với dịch bệnh này mà còn với những loài gây bệnh Babesia và Trypanosome và bệnh xoắn khuẩn spirochaet có nguồn gốc lây truyền qua ve, bọ; và tiếp tục công việc của ông trên những sinh vật này khi ông trở về nhà.
Danh hiệu
Với nhiều khám phá quan trọng về y học, Koch đã nhận rất nhiều giải thưởng và huân chương, học vị tiến sĩ danh dự của Đại học Heidelberg và Bologna, công dân danh dự của thành phố Berlin, Wollstein và quê hương ông Clausthal, thành viên danh dự của giới khoa học hàn lâm ở Berlin, Viên, Posen, Perugia, Napoli và New York. Ông cũng được huân chương danh dự Đức (German Order of the Crown), Bắc đẩu bội tinh của German Order of the Red Eagle (lần đầu tiên giải thưởng cao quý này được trao cho một người trong ngành Y), và huân chương của Nga và Thổ Nhĩ Kỳ. Rất lâu sau khi ông mất, ông còn được ghi công bằng tượng đài kỉ niệm và nhiều hình thức khác ở một số nước.
Năm 1905, ông nhận được giải thưởng Nobel dành cho Sinh lý và Y học. Năm 1906, ông quay lại Trung Phi để nghiên cứu về việc kiểm soát bệnh trùng mũi khoan (trypanosomiasis), và ở đó ông đã báo cáo rằng atoxyl có tác dụng chống lại bệnh này giống như thuốc ký ninh đối với sốt rét. Sau đó Koch tiếp tục công việc thực nghiệm về vi khuẩn học và huyết thanh học.
Bác sĩ Koch mất ngày 27 tháng 5 năm 1910 tại Baden-Baden.
Xem thêm
Vi sinh
Giải Robert Koch
Huy chương Robert Koch
Tham khảo
Liên kết ngoài
Tiểu sử Robert Koch – Quỹ Hỗ trợ Nobel
Sinh năm 1843
Mất năm 1910
Người đoạt giải Nobel Sinh lý và Y khoa
Người Đức đoạt giải Nobel
Nhà sinh học Đức
Bác sĩ Đức
Bệnh lao
Nhà vi sinh học Đức
Quân nhân Đức trong Chiến tranh Pháp–Phổ
Cựu sinh viên Đại học Göttingen
Nhà phát minh Đức
|
26935
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%BAc%20Y%C3%AAn
|
Phúc Yên
|
Phúc Yên là một thành phố trực thuộc tỉnh Vĩnh Phúc, Việt Nam.
Thành phố Phúc Yên là đô thị cửa ngõ của tỉnh Vĩnh Phúc, là một trong những đô thị vệ tinh của Vùng thủ đô Hà Nội; là trung tâm du lịch, nghỉ dưỡng, thể dục thể thao và đào tạo, là trung tâm kinh tế công nghiệp - dịch vụ, trung tâm khoa học kỹ thuật và công nghệ, giữ vị trí chiến lược quan trọng về phát triển công nghiệp và thương mại - du lịch của tỉnh Vĩnh Phúc, góp phần kết nối giao lưu phát triển kinh tế với vùng thủ đô Hà Nội.
Địa lý
Thành phố Phúc Yên nằm ở phía đông nam tỉnh Vĩnh Phúc, phía bắc Thủ đô Hà Nội, cách trung tâm thủ đô 30 km, cách thành phố Vĩnh Yên 25 km và cách sân bay quốc tế Nội Bài 5 km. Phúc Yên có chiều dài theo trục Bắc - Nam là 24 km, từ phường Hùng Vương đến đèo Nhe, xã Ngọc Thanh giáp với tỉnh Thái Nguyên.
Thành phố Phúc Yên có vị trí địa lý:
Phía đông giáp huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội
Phía tây giáp huyện Bình Xuyên
Phía nam giáp huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội
Phía bắc giáp thành phố Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên.
Thành phố Phúc Yên có hệ thống giao thông đa dạng: đường bộ có các tuyến Quốc lộ 2, Quốc lộ 23, đường xuyên Á Hà Nội - Lào Cai đi qua; có đường sắt Hà Nội - Lào Cai, giáp cảng hàng không quốc tế Nội Bài, tạo điều kiện cho Phúc Yên tiềm lực, lợi thế để mở rộng thị trường, thu hút đầu tư, giao lưu kinh tế, văn hoá. Thành phố Phúc Yên nằm ở phía Đông Nam tỉnh Vĩnh Phúc, phía Đông Bắc của Thủ đô Hà Nội, cách trung tâm thủ đô 30 Km. Thành phố Phúc Yên có chiều dài theo trục Bắc - Nam 24 km, từ phường Hùng Vương đến đèo Nhe, xã Ngọc Thanh giáp với tỉnh Thái Nguyên.
Thành phố Phúc Yên là một đô thị lớn của tỉnh Vĩnh Phúc, đạt tiêu chuẩn đô thị loại III vào năm 2013 và cơ bản đạt các tiêu chí đô thị loại II vào năm 2025, là trung tâm công nghiệp, thương nghiệp, du lịch và dịch vụ tổng hợp của tỉnh, đồng thời còn là một trong những trung tâm của vùng.
Thành phố Phúc Yên còn có hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hệ thống cung cấp dịch vụ tương đối hoàn chỉnh.
Điều kiện tự nhiên
Địa hình
Thành phố Phúc Yên có địa hình đa dạng, tổng diện tích là 12.029,55 ha, chia thành 2 vùng chính là vùng đồi núi bán sơn địa (Ngọc Thanh, Cao Minh, Xuân Hoà, Đồng Xuân), diện tích 9700 ha; vùng đồng bằng gồm các phường: Nam Viêm, Tiền Châu, Phúc Thắng, Hùng Vương, Trưng Trắc, Trưng Nhị, diện tích 2300 ha, có Hồ Đại Lải, Sông Cà Lồ và nhiều đầm hồ khác có thể phát triển các loại hình du lịch.
Địa chất
Nhìn chung, đất đai của thành phố Phúc Yên không nhiều, không giàu chất dinh dưỡng nhưng lại nằm gần kề thủ đô Hà Nội cho nên tài nguyên đất của thành phố đã trở thành tài nguyên có giá trị kinh tế cao.
Tài nguyên khoáng sản quý hiếm của thành phố hầu như không có gì ngoài đá granit, nước mặt và nước ngầm phong phú đáp ứng nhu cầu phát triển trong tương lai.
Khí hậu, thủy văn
Thành phố Phúc Yên nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ bình quân năm là 23 °C, có nét đặc trưng nóng ẩm, mưa nhiều về mùa hè, hanh khô và lạnh kéo dài về mùa đông. Khí hậu tương đối thuận lợi cho phát triển nông nghiệp đa dạng.
Nhiệt độ không khí có các đặc trưng sau:
Cực đại trung bình năm là 20,5 °C
Cực đại tuyệt đối 41,6 °C
Cực tiểu tuyệt đối 3,1 °C
Độ ẩm không khí tương đối trung bình năm là 83%, độ ẩm cực tiểu tuyệt đối là 16%.
Hướng gió chủ đạo về mùa đông là Đông – Bắc, về mùa hè là Đông – Nam, vận tốc gió trung bình năm là 2,4 m/s. Vận tốc gió cực đại có thể xảy ra theo chu kỳ thời gian 5 năm là 25 m/s; 10 năm là 32 m/s, 20 năm là 32 m/s.
Hành chính
Thành phố Phúc Yên có 10 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 8 phường: Đồng Xuân, Hùng Vương, Nam Viêm, Phúc Thắng, Tiền Châu, Trưng Nhị, Trưng Trắc, Xuân Hòa và 2 xã: Cao Minh, Ngọc Thanh.
Dân số
Thành phố Phúc Yên có 82.730 người (1/1/2004), mật độ dân số trung bình là 700 người/km².
Năm 2008 là 104.092 người, mật độ dân số là 870 ng/km².
Năm 2018 là 155.500 người (bao gồm cả quy đổi), mật độ dân số là 1260 ng/km².
Tốc độ tăng dân số tự nhiên của thành phố so với cùng kỳ năm trước đạt khoảng 1,93%. Dân số của thành phố trong những năm qua có xu hướng tăng nhanh ở khu vực thành thị và tăng không nhiều ở nông thôn. Tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên so với cùng kỳ năm trước đạt khoảng 1,9%.
Lịch sử
Phúc Yên được thành lập ngày 31 tháng 10 năm 1905, là tỉnh lỵ tỉnh Phúc Yên. Trong kháng chiến chống Pháp, chuyển thành thị trấn rồi được tái lập thành thị xã ngày 1 tháng 2 năm 1955.
Ngày 26 tháng 6 năm 1976, một lần nữa Phúc Yên chuyển thành thị trấn thuộc huyện Yên Lãng, tỉnh Vĩnh Phú. Khi huyện Yên Lãng hợp nhất với huyện Bình Xuyên thành huyện Mê Linh thì thị trấn Phúc Yên trở thành huyện lỵ của huyện Mê Linh.
Từ năm 1978 đến năm 1991 thị trấn Phúc Yên cùng với huyện Mê Linh chuyển về Hà Nội. Sau đó thị trấn Phúc Yên lại trở về tỉnh Vĩnh Phú, rồi thuộc tỉnh Vĩnh Phúc (từ năm 1996).
Thị xã Phúc Yên được tái lập theo Nghị định số 153/NĐ-CP ngày 9 tháng 12 năm 2003 của Chính phủ trên cơ sở tách 2 thị trấn Phúc Yên, Xuân Hòa và 5 xã: Ngọc Thanh, Cao Minh, Nam Viêm, Phúc Thắng, Tiền Châu thuộc huyện Mê Linh.
Khi mới thành lập, thị xã Phúc Yên gồm 5 phường: Hùng Vương, Phúc Thắng, Trưng Nhị, Trưng Trắc, Xuân Hòa và 4 xã: Cao Minh, Nam Viêm, Ngọc Thanh, Tiền Châu.
Ngày 4 tháng 4 năm 2008, chia phường Xuân Hòa thành 2 phường: Xuân Hòa và Đồng Xuân.
Ngày 21 tháng 1 năm 2013, Bộ Xây dựng ra Quyết định số 93/QĐ-BXD công nhận thị xã Phúc Yên là đô thị loại III thuộc tỉnh Vĩnh Phúc.
Cuối năm 2017, thị xã Phúc Yên bao gồm 6 phường: Đồng Xuân, Hùng Vương, Phúc Thắng, Trưng Nhị, Trưng Trắc, Xuân Hòa và 4 xã: Cao Minh, Nam Viêm, Ngọc Thanh, Tiền Châu.
Ngày 7 tháng 2 năm 2018, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 484/NQ-UBTVQH14. Theo đó, thành lập 2 phường Nam Viêm và Tiền Châu thuộc thị xã Phúc Yên và thành lập thành phố Phúc Yên thuộc tỉnh Vĩnh Phúc trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Phúc Yên.
Thành phố Phúc Yên có 8 phường và 2 xã như hiện nay.
Điều kiện xã hội
Thành phố Phúc Yên có nguồn lao động dồi dào, lao động trong độ tuổi chiếm trên 60% tổng dân số; tỷ lệ lao động phi nông nghiệp chiếm trong tổng cơ cấu không cao.
Thành phố Phúc Yên còn có hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hệ thống cung cấp dịch vụ tương đối hoàn chỉnh. Trên địa bàn thành phố có trên 500 cơ quan, doanh nghiệp, các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp, dạy nghề của trung ương, của tỉnh, của Hà Nội, là điều kiện thuận lợi để Phúc Yên khai thác các thế mạnh, phát triển kinh tế xã hội.
Kinh tế
Cơ cấu kinh tế của thành phố Phúc Yên được xác định là: công nghiệp - dịch vụ, du lịch, nông - lâm nghiệp.
Thành phố Phúc Yên có nhiều tiềm năng, lợi thế để thu hút đầu tư phát triển kinh tế xã hội.Kinh tế trên địa bàn luôn đạt mức tăng trưởng cao, 5 năm gần đây bình quân tăng 23,05%/năm, trong đó, công nghiệp tăng 21,78%; dịch vụ tăng 25,57%; nông nghiệp tăng 5,37%/năm. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của thành phố luôn cao hơn mức bình quân chung của tỉnh. Cơ cấu kinh tế của thành phố trong những năm vừa qua chuyển biến theo hướng tích cực, có sự chuyển dịch phù hợp với xu thế chung
của toàn tỉnh, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp. Năm 2013, Thương mại- Dịch vụ: 7,44%; Công
nghiệp - xây dựng: 92,23%; Nông, lâm nghiệp: 0,51%; Tỷ trọng công nghiệp - xây dựng và thương mại - dịch vụ - du lịch trong cơ cấu kinh tế là 99,51%. Tổng thu ngân sách các thành phần kinh tế trên địa bàn chiếm trên 2/3 tổng thu Ngân sách của tỉnh Vĩnh Phúc. Thành phố Phúc Yên luôn xứng đáng là vùng trọng điểm kinh tế, là đầu tàu kinh tế của Vĩnh Phúc.
Văn hóa
Trên toàn địa bàn thành phố Phúc Yên, đến nay đã có 18 di tích lịch sử văn hoá đã được xếp hạng. Trong đó có 6 di tích cấp quốc gia gồm: Đền Ngô Miễn (phường Phúc Thắng), Chùa Bảo Sơn (phường Nam Viêm), Đình Khả Do (phường Nam Viêm), Đình Cao Quang (xã Cao Minh), Chiến khu cách mạng Ngọc Thanh (xã Ngọc Thanh), Đình Đạm Xuyên (phường Tiền Châu). 12 di tích cấp tỉnh gồm: Chùa Cấm (chùa Báo Ân) thuộc phường Trưng Nhị, Đình chùa Nam Viêm (phường Nam Viêm), Đình Thanh Lộc (xã Ngọc Thanh), Đền Đồng Chằm (xã Ngọc Thanh), Đền Ngọc Mỗ (xã Ngọc Thanh), Đình Xuân Hoà (xã Cao Minh), Khu lăng mộ Đỗ Nhân Tăng - Trần Công Tước (phường Phúc Thắng), Đền Thiện (phường Phúc Thắng), Đình - chùa Hiển Lễ (xã Cao Minh), Đình Đức Cung (xã Cao Minh), Đình Yên Điềm (xã Cao Minh), Đền Đạm Nội (phường Tiền Châu).
Thành phố Phúc Yên từ lâu đã có nhiều người đỗ đạt khoa bảng, tiêu biểu là tướng công Ngô Miễn (1371-1407). Ông là tiến sĩ xuất thân khoa bảng cuối đời Trần, là người tham gia tích cực trong cuộc sống cách tân dưới triều Hồ Quý Ly, được thăng tới chức Đặc tiến quân sử, vinh tộc đại phu, kiêm xương phủ tổng quản Chi Lăng, thượng thư lệnh, Đồng Bình Chuông quốc trọng sự, ông đã có công to lớn giúp nhân dân địa phương ổn định kinh tế, phát triển sản xuất, tổ chức cho dân di cư, lập ấp, khai khẩn đất hoang vùng bờ biển Sơn Nam (Phủ Thiên Trường) lập nên các xã Xuân Hùng, Xuân Thủy, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định ngày nay. Khi nhà Minh xâm lược nước ta, Ngô Miễn cùng Vua tôi nhà Hồ, trực tiếp kháng chiến chống giặc Minh. Cuộc kháng chiến thất bại, ông không chịu khuất phục quy hàng đã cùng vợ tuẫn tiễn tại cửa biển Kỳ La (Nghệ An) năm ông 36 tuổi.
Cùng thời với tướng công Ngô Miễn còn có tiến sĩ Nguyễn Tôn Miệt người Phúc Thắng thành phố Phúc Yên. Ông đỗ tiến sĩ năm 1481 và là thành viên của hội tao đàn, tác phẩm của ông để lại đời sau còn có 8 bài thơ chữ Hán trong cuốn sách: "Toàn việt thi lục". Đất Phúc Thắng còn lưu giữ lại nhiều di sản văn hoá vật thể và phi vật thể, điển hình là tấm bia thời Lý Cao Tông niên hiệu Trị Bình Long ứng thứ 5 (1209).
Giáo dục
Thành phố Phúc Yên là một trong những trung tâm giáo dục lớn của Vĩnh Phúc với một số trường đại học, cao đẳng,....
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Cao đẳng Vĩnh Phúc
Cao đẳng Công nghiệp Phúc Yên
Cao đẳng Nghề Việt - Xô
Cao đẳng Công nghệ và Kinh tế Hà Nội (cơ sở 2)
Trung cấp Nghề kỹ thuật xây dựng và nghiệp vụ
Đại học Kiến trúc Hà Nội (cơ sở 2 tại Xuân Hòa)
Trung cấp Kỹ thuật cơ điện
Trung tâm Dạy nghề
Trên địa bàn thành phố có 4 trường Trung học phổ thông. Trong đó Trường Trung học phổ thông Hai Bà Trưng luôn lọt Top 100 trường Trung học phổ thông có kết quả thi đại học tốt nhất cả nước trong suốt nhiều năm, là cơ sở giáo dục có chất lượng đi đầu thành phố.
Trường Trung học phổ thông Hai Bà Trưng
Trường Trung học phổ thông Bến Tre
Trường Trung học phổ thông Xuân Hòa
Trường Trung học phổ thông Dân tộc nội trú Phúc Yên
Y tế
Các cơ sở y tế trên địa bàn có bệnh viện 74 TƯ (1.000 giường), BV đa khoa khu vực Phúc Yên (400 giường), Bệnh viện Giao thông vận tải, BV đa khoa TP (70 giường), Trung tâm Y tế thành phố, phòng khám Phúc Thắng, phòng khám đa khoa Hà Thành... các trạm y tế. Bình quân 11,4 giường/1.000 người.
Trung tâm thương mại
Trên địa bàn thành phố Phúc Yên có nhiều chợ, trung tâm thương mại lớn, các showroom ô tô xe máy phục vụ nhu cầu của người dân thành phố và các địa bàn lân cận như: Mê Linh, Đông Anh, Sóc Sơn, Bình Xuyên, Yên Lạc, Phổ Yên.
Siêu thị Lan Chi Mart, Phúc Yên Mart, Phúc Yên Plaza, Thành Nghĩa, chợ Phúc Yên, chợ Đồng Xuân, TTTM Đồng Sơn, TT nội thất Tùng Chi, Siêu thị điện máy Pico, Thế giới di động, Viettel Store, FPT Shop, Điện máy xanh, Siêu thị điện máy Mediamart, Sakuko Family.....
Chú thích
Liên kết ngoài
UBND thành phố Phúc Yên tỉnh Vĩnh Phúc
Đô thị Việt Nam loại III
|
26942
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C4%A9nh%20Ph%C3%BA%20%28t%E1%BB%89nh%29
|
Vĩnh Phú (tỉnh)
|
Vĩnh Phú là một tỉnh cũ của Việt Nam, tồn tại từ năm 1968 đến năm 1996. Tỉnh này bao gồm hai tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ hiện nay.
Địa lý
Tỉnh Vĩnh Phú có vị trí địa lý (năm 1991-1996):
Phía Bắc giáp các tỉnh Yên Bái, Tuyên Quang, Bắc Thái
Phía Nam giáp tỉnh Hòa Bình
Phía Đông giáp thành phố Hà Nội
Phía Đông Nam giáp tỉnh Hà Tây
Phía Tây giáp tỉnh Sơn La.
Diện tích và dân số của tỉnh qua các thời kỳ
Năm 1976, tỉnh Vĩnh Phú có diện tích 5.187 km², 1.591.000 người
Năm 1979: 4.630 km², dân số 1.429.900 người
Năm 1991 4.823 km², 2.081.043 người.
Lịch sử
Ngày 26 tháng 1 năm 1968, Ủy ban thường vụ Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra Nghị quyết số 504-NQ/TVQH hợp nhất hai tỉnh Phú Thọ và Vĩnh Phúc thành tỉnh Vĩnh Phú. Tỉnh lỵ của tỉnh đặt tại thành phố Việt Trì.
Khi hợp nhất, tỉnh Vĩnh Phú ban đầu có tỉnh lỵ là thành phố Việt Trì, 3 thị xã: thị xã Phú Thọ, Phúc Yên, Vĩnh Yên và 18 huyện: Bình Xuyên, Cẩm Khê, Đa Phúc, Đoan Hùng, Hạ Hòa, Kim Anh, Lâm Thao, Lập Thạch, Phù Ninh, Tam Dương, Tam Nông, Thanh Ba, Thanh Sơn, Thanh Thủy, Vĩnh Tường, Yên Lạc, Yên Lãng, Yên Lập.
Ngày 26 tháng 6 năm 1976, thị xã Phúc Yên chuyển thành thị trấn thuộc huyện Yên Lãng.
Theo Quyết định số 178-CP ngày 5-7-1977 của Hội đồng Chính phủ, hợp nhất các huyện sau đây:
Huyện Tam Nông với huyện Thanh Thủy thành huyện Tam Thanh
Huyện Vĩnh Tường với huyện Yên Lạc thành huyện Vĩnh Lạc
Huyện Lập Thạch với huyện Tam Dương thành huyện Tam Đảo
Huyện Yên Lập với huyện Cẩm Khê thành huyện Sông Thao (cộng thêm 10 xã: Hiền Lương, Quân Khê, Lâm Lợi, Xuân Áng, Chuế Lưu, Vô Tranh, Bằng Giã, Động Lâm, Văn Lang, Minh Côi của huyện Hạ Hòa)
Huyện Lâm Thao với huyện Phù Ninh (trừ 7 xã: Liên Hoa, Phú Mỹ, Trạm Thản, Tiên Phú, Minh Phú, Chân Mộng, Vụ Quang nhập vào huyện Sông Lô) thành huyện Phong Châu
Huyện Bình Xuyên với huyện Yên Lãng thành huyện Mê Linh (cộng thêm 4 xã: Văn Tiến, Nguyệt Đức, Minh Tân, Bình Định của huyện Yên Lạc, 2 xã Kim Hoa và Quang Minh của huyện Kim Anh)
Hai huyện Đa Phúc và Kim Anh (trừ 2 xã Kim Hoa và Quang Minh nhập vào huyện Mê Linh), thị trấn Xuân Hòa (trực thuộc tỉnh) thành huyện Sóc Sơn
Ba huyện Đoan Hùng, Thanh Ba, Hạ Hòa thành huyện Sông Lô (cộng thêm 7 xã: Liên Hoa, Phú Mỹ, Trạm Thản, Tiên Phú, Minh Phú, Chân Mộng, Vụ Quang của huyện Phù Ninh).
Ngày 29 tháng 12 năm 1978, huyện Mê Linh (trừ 14 xã, 1 thị trấn thuộc huyện Bình Xuyên cũ và 4 xã thuộc huyện Yên Lạc cũ) và huyện Sóc Sơn được sáp nhập vào Hà Nội (cũng trong năm này, hai thị xã Hà Đông, Sơn Tây và 5 huyện Đan Phượng, Hoài Đức, Ba Vì, Phúc Thọ, Thạch Thất cùng một số xã thuộc huyện Quốc Oai, Chương Mỹ, Thanh Oai, Thường Tín của tỉnh Hà Sơn Bình cũng được nhập vào Hà Nội (mặc dù trên thực tế thị xã Hà Đông lúc này vẫn thuộc tỉnh Hà Sơn Bình và là tỉnh lỵ của tỉnh này).
Ngày 26 tháng 2 năm 1979, tái lập huyện Lập Thạch, tách ra từ huyện Tam Đảo . Đồng thời, sáp nhập 14 xã, 1 thị trấn thuộc huyện Bình Xuyên cũ của huyện Mê Linh vào huyện Tam Đảo; sáp nhập 4 xã thuộc huyện Yên Lạc cũ của huyện Mê Linh vào huyện Vĩnh Lạc.
Năm 1980, tỉnh Vĩnh Phú có 1 thành phố Việt Trì (tỉnh lỵ), 2 thị xã Phú Thọ, Vĩnh Yên và 8 huyện Tam Đảo, Tam Thanh, Lập Thạch, Vĩnh Lạc, Sông Thao, Sông Lô, Phong Châu và Thanh Sơn.
Ngày 22 tháng 12 năm 1980, tái lập huyện Yên Lập, tách ra từ huyện Sông Thao, tách huyện Sông Lô thành 2 huyện Đoan Hùng và Thanh Hòa.
Ngày 12 tháng 8 năm 1991, chuyển huyện Mê Linh thuộc thành phố Hà Nội về tỉnh Vĩnh Phú quản lý (cũng trong năm này, thị xã Sơn Tây và 5 huyện Đan Phượng, Hoài Đức, Ba Vì, Phúc Thọ, Thạch Thất của Hà Nội chuyển trở về tỉnh Hà Tây vừa tái lập). Tuy nhiên đến ngày 1 tháng 8 năm 2008, huyện Mê Linh cùng với toàn bộ tỉnh Hà Tây và 4 xã thuộc huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình sáp nhập vào Hà Nội.
Ngày 7 tháng 10 năm 1995, chia lại huyện Thanh Hòa thành 2 huyện Thanh Ba và Hạ Hòa; chia lại huyện Vĩnh Lạc thành 2 huyện Vĩnh Tường và Yên Lạc.
Đến cuối năm 1995, tỉnh Vĩnh Phú có 16 đơn vị hành chính gồm: thành phố Việt Trì (tỉnh lị), 2 thị xã Phú Thọ, Vĩnh Yên và 13 huyện: Đoan Hùng, Hạ Hòa, Lập Thạch, Mê Linh, Phong Châu, Sông Thao, Tam Đảo, Tam Thanh, Thanh Ba, Thanh Sơn, Vĩnh Tường, Yên Lạc, Yên Lập.
Ngày 6 tháng 11 năm 1996, kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa IX ra nghị quyết chia tỉnh Vĩnh Phú để tái lập tỉnh Phú Thọ và tỉnh Vĩnh Phúc.
Tỉnh Phú Thọ gồm thành phố Việt Trì (tỉnh lỵ), thị xã Phú Thọ và 8 huyện: Đoan Hùng, Hạ Hòa, Phong Châu, Sông Thao, Tam Thanh, Thanh Ba, Thanh Sơn, Yên Lập.
Tỉnh Vĩnh Phúc gồm thị xã Vĩnh Yên và 5 huyện: Lập Thạch, Mê Linh (nay thuộc Hà Nội), Tam Đảo, Vĩnh Tường, Yên Lạc.
Chú thích
Xem thêm
V
V
|
26943
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/D%E1%BA%ABn%20%C4%91i%E1%BB%87n%20ho%C3%A0n%20h%E1%BA%A3o
|
Dẫn điện hoàn hảo
|
Bài này nói về mô hình vật chất trong vật lý cổ điển, ví dụ từ thủy động lực học. Xem bài siêu dẫn để biết về vật chất thực tế có một tính chất tương tự
Dẫn điện hoàn hảo khái niệm là mô hình lý tưởng trong vật lý cổ điển, ví dụ như từ thủy động lực học, chỉ các vật có điện trở bằng không.
Dòng điện chạy trong dây dẫn điện hoàn hảo sẽ không tỏa ra nhiệt lượng, nghĩa là năng lượng của dòng điện không bị tiêu hao trong quá trình chuyển tải điện từ nơi này đến nơi khác.
Vật chất thực tế có tính chất dẫn điện hoàn hảo là chất siêu dẫn. Chất này còn có các tính chất khác mà vật dẫn điện hoàn hảo trong mô hình cổ điển (như từ thủy động lực học) không xét tới. Ví dụ, trong vật siêu dẫn, còn có thể xảy ra hiện tượng lượng tử hóa của từ trường.
Tham khảo
Điện học
Từ thủy động lực học
Siêu dẫn
|
26944
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%AB%20th%E1%BB%A7y%20%C4%91%E1%BB%99ng%20l%E1%BB%B1c%20h%E1%BB%8Dc
|
Từ thủy động lực học
|
Từ thủy động lực học, còn được gọi là động từ học chất lỏng và viết tắt là MHD (MagnetoHydroDynamics), là môn học nghiên cứu các chất lưu (chất lỏng, plasma,...) dẫn điện chuyển động dưới tác động của điện trường hoặc từ trường.
Các ví dụ về chất lưu dẫn điện là plasma, nước muối, kim loại dưới dạng lỏng. Lĩnh vực này được nghiên cứu đầu tiên bởi Hannes Alfvén. Các công trình của ông về lĩnh vực này đã được giải thưởng Nobel vào năm 1970.
Ý tưởng cơ bản của từ thủy động lực học là từ trường có thể tác động lực Lorentz lên các điện tích chuyển động trong plasma, gây ra áp suất và dòng điện cảm ứng, và dòng cảm ứng lại sinh ra từ trường cảm ứng thay đổi từ trường tổng cộng. Các phương trình mô tả các hiện tượng từ thủy động học là sự kết hợp giữa các phương trình Navier-Stokes (mô tả thủy động lực học) và các phương trình Maxwell (mô tả trường điện từ).
Tham khảo
Thủy động lực học
Vật lý plasma
Điện động lực học
Biến đổi năng lượng
Khái niệm vật lý
Động lực học chất lưu
pt:Magnetohidrodinâmica
ru:Электродинамика сплошных сред
|
26972
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ma
|
Ma
|
Ma còn được gọi là hồn ma, là một khái niệm theo quan niệm dân gian để chỉ hồn của người chết (hoặc các sinh vật đã chết khác như động vật) xuất hiện ở thế giới của người đang sống.
Không có bằng chứng khoa học nào cho thấy hồn ma tồn tại. Sự tồn tại của hồn ma được coi là không thể phủ chứng được, không thể kiểm chứng bằng các phương pháp khoa học. Do đó các nghiên cứu về hồn ma, hay săn ma bị liệt vào phạm trù ngụy khoa học.
Những phác hoạ về hình thái tồn tại của ma rất đa dạng và có thể khác nhau tùy theo từng khu vực, từng nền văn hóa; từ những trường hợp mô tả ma vô hình, bóng mờ cho đến những mô tả ma có thể xác như một người sống. Theo một nghiên cứu năm 2009 bởi Pew Research Center, 18% người Mỹ nói rằng họ đã nhìn thấy một hồn ma.
Những quan niệm lâu đời về sự sống sau cái chết là một trong những điều khiến nhiều người tin rằng ma có thật. Một số chất độc và các loại thực vật có chứa hoạt chất hướng thần (thí dụ như cà độc dược hay thiên tiên tử) được cho là gắn với âm ty, địa ngục, có chứa chất kháng cholinergic, một hợp chất có liên quan đến chứng sa sút trí tuệ cũng như thoái hóa thần kinh. Các nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng hiện tượng nhìn thấy ma có thể có liên hệ đến các bệnh thoái hóa não như Alzheimer. Một số thuốc kê đơn đặc trị thông dụng hoặc thuốc không kê đơn (như các dược phẩm hỗ trợ giấy ngủ) có thể có tác dụng phụ gây ra ảo giác về ma (thí dụ như zolpidem and diphenhydramine). Một số nghiên cứu trước đây cũng đã chỉ ra mối liên hệ giữa nhiễm độc carbon monoxide và ảo giác về ma.
Tên gọi
Trong tiếng Việt
Hồn ma là một từ để chỉ sự hiện hình của người chết và cũng cần phải phân biệt giữa hồn ma, quỷ và ác quỷ. Quỷ là oan hồn vất vưởng lâu năm, chất chứa nhiều cảm xúc tiêu cực (oán hận) trong văn hóa Việt Nam, thường lưu truyền những câu chuyện rất hãi hùng dễ sợ về quỷ từng giết và ăn thịt, uống máu người (hoàn toàn không có thật). Còn Ác quỷ là những ác linh thuộc về cõi siêu hình trong các nền văn hóa khác (như phương Tây), sở hữu những khả năng siêu phàm, khỏe mạnh, không hẳn là đều độc ác và xấu xa, thường là phe đối lập với các vị thần linh.
Phật giáo gọi linh hồn người mới mất là vong linh, hương linh.
Trong ngôn ngữ Đông Á
Trong tiếng Trung, hồn ma được gọi là quỷ (鬼-guǐ), như quỷ sứ (鬼使 Guǐshǐ) là hồn ma ở cõi âm ti, hay ngạ quỷ (餓鬼 Èguǐ) nghĩa là "ma đói", điều này thường tạo sự nhầm lẫn trong những bản dịch bằng văn phong Hán Việt. Còn Ma (魔-mó) trong tiếng Trung lại là một khái niệm khác, đây là cách rút gọn của từ Māra (魔羅) trong tiếng Phạn. Từ điển Phật học Hán Việt của Giáo hội Phật giáo Việt Nam do Kim Cương Tử chủ biên giảng là: "Ma là cách phiên âm của từ tiếng Phạn māra, chỉ lũ tà ác làm hại nhân mạng, có khả năng cướp đoạt nhân mạng, gây chướng ngại, nhiễu loạn, phá hoại các thiện sự của loài người. Vì vậy, tiếng Trung gọi những ác linh thuộc về cõi siêu hình trong các nền văn hoá khác là Ma quỷ (魔鬼 móguǐ), hoặc Ác ma (惡魔 Èmó) khi chỉ đến những sinh vật như vậy trong văn hoá phương Tây.
Tiếng Hàn cũng gọi hồn ma là , hoặc . Trong khi là từ để chỉ những thực thể trong các tôn giáo và nền văn hoá khác.
Khác với tiếng Trung và tiếng Hàn, trong văn hoá Nhật Bản thì hồn ma được goị là , trong khi đó là một loại yêu quái trong văn hóa dân gian. Còn trong tiếng Nhật thì lại giống với tiếng Trung là đều có nguồn gốc từ Māra, thường để chỉ đến ma tộc, một chủng tộc giả tưởng. Những thực thể tà ác trong các nền văn hóa, tôn giáo khác (đặc biệt là từ phương Tây) thì tiếng Nhật cũng gọi là như tiếng Trung và tiếng Hàn.
Ma trong các nền văn hóa
Việt Nam
Nền văn hóa Việt Nam hơn 4000 năm gắn liền với truyền thống thờ cúng ông bà và niềm tin về cuộc sống sau cái chết cộng với những ảnh hưởng của các tôn giáo đã hình thành những niềm tin nhất định vào sự tồn tại của ma quỷ cũng như vong hồn của người đã khuất. Cũng như nhiều nền văn hóa khác, phần lớn người Việt Nam đều có quan niệm về sự tồn tại của linh hồn trong thể xác, Linh hồn cũng là một khái niệm được thần thánh hóa từ những khái niệm về tinh thần. Linh hồn theo người Việt Nam và các nước Đông Nam Á tách ra làm hai phần: hồn và vía. Người Việt cho rằng con người có ba hồn, nhưng vía thì nam có bảy, còn nữ có chín. Như vậy khái niệm ma, đơn giản chính là hồn và vía của con người.
Trong văn hóa Việt Nam xuất hiện một số loại ma quỷ như:
Ma xó: Là những hồn ma trú ngụ ở góc nhà, góc khuất, góc tối trong nhà, theo tục người Mường, khi có người chết, đem dựng đứng ở xó nhà, sau thành ma.
Ma trành: Là những oan hồn của nạn nhân bị cọp ăn thịt, đây là ma cọp dữ, thường tìm dẫn cọp bắt ăn người khác để nó được đầu thai.
Ma da: Oan hồn người chết đuối, ma người chết đuối, thường ở các sông lớn, vùng nước sâu, kéo chân hoặc lật thuyền người khác để được đầu thai.
Ma men: người say chết thành ma thường hay lôi cuốn người khác say sưa tới chết. Ngày nay, thuật ngữ này dùng để phê phán những người xay xỉn tối ngày, nghiện rượu bia.
Ma gà: loại ma hay theo những cô gái đẹp (theo quan niệm của dân tộc Tày–Nùng).
Ma lai: thứ người ban đêm hóa ma đi ăn phân người khác, có nhiều truyền thuyết về ma lai rút ruột, đầu, v.v.
Ma thần vòng: ma những người thắt cổ chết (sau giục người khác tự tử chết như họ).
Ma đói: chỉ về những con ma hay những linh hồn phiêu dạt không nơi nương tựa, không người thờ cúng hoặc chết vì đói khát bệnh tật mà theo quan niệm tại một số quốc gia thì các cô hồn không (hoặc chưa) được cõi nào tiếp nhận, những vong hồn vật vờ, không có ai là thân nhân trên trần gian cúng bái. Các con ma đói này phải lang thang và chịu đói rét, hoặc quấy rối người sống để kiếm miếng ăn. Theo quan niệm tâm linh ở Đông Á, ma đói còn được gọi là cô hồn hay ngạ quỷ, là linh hồn phiêu dạt không nơi nương tựa, không có người thờ của những người đã chết vì đói khát bệnh tật. Hình dáng của chúng được mô tả là đáng kinh khiếp với cái bụng rất to.
Còn lại gồm: ma le, ma hời (oan hồn của người Chăm), ma lon, v.v.
Trung Quốc
Có các cương thi, oan hồn, hồ ly, yêu tinh.
Thái Lan
Một số hồn ma như: Nang Tani (Ma cây chuối), ma búp bê Kumanthong, v.v.
Nhật Bản
Có Yūrei, yōkai, ma gấu, ma một mắt, ma cổ dài, ma dù, ma búp bê, ....
Châu Âu
Niềm tin về ma qủy trong các nền văn hóa ở Châu Âu cũng dựa trên quan niệm về sự trở về hoặc là sự hồi sinh của người chết. Các hình tượng về ma quỷ tiêu biểu trong văn hóa Tây Phương có thể thấy như gjenganger (một từ để chỉ ma trong tiếng Na Uy) trong nền văn hóa các nước vùng Scandinavi, Strigoi trong thần thoại Romania, vrykolakas trong thần thoại Hy Lạp, ma cà rồng, ma sói, v.v. Một hình tương ma quỷ nổi tiếng khác cũng xuất phát từ văn hóa Tây Phương chính là Satan, tuy nhiên hình tượng quỷ Sa-tăng lại mang màu sắc tôn giáo nhiều hơn là những loại ma quỷ thông thường. Các câu chuyện dân gian Châu Âu cũng thường đề cập đến những lâu đài ma.
Các tôn giáo
Phật giáo
Theo Phật giáo, có một số cõi mà một người khi chết có thể tái sinh vào, một trong số đó là cõi ngạ quỷ.
Ki-tô giáo
Sách Torah và Kinh Thánh bằng tiếng Do Thái có vài chỗ nói về ma, thuật chiêu hồn bằng những hoạt động huyền bí bị cấm. Trường hợp đáng lưu ý nhất là trong Sách I Sa-mu-ên, kể về chuyện Vua Saul đã cải trang đi gặp bà đồng Endor để triệu hồi linh hồn hay hồn ma của Samuel. Trong Kinh Tân Ước, Jesus đã phải thuyết phục các tông đồ rằng ông không phải là một hồn ma sau khi phục sinh. Cũng thế, các đệ tử của Jesus ban đầu đã tin rằng ông là một hồn ma khi thấy ông bước đi trên mặt nước.
Các sự kiện
Lễ hội ma
Được tổ chức ở các nước như Thái Lan, Hồng Kông, Nhật Bản. Ở một số nước như Anh, Mỹ, Úc, Canada, Halloween là một ngày lễ của trẻ em, được tổ chức vào ngày 31 tháng 10, còn gọi là lễ hội Ma lộ hình. Vào dịp này, người ta thường hoá trang mình thành những hình thù kì dị, ma quỷ hay mặt nạ dúm dó, v.v. để doạ mọi người. Trong dịp lễ này, trẻ con thường mặc trang phục ma đi gõ cửa nhà hàng xóm, đồng thanh hô to "Trick or treat" (tạm dịch: Cho kẹo hay bị ghẹo) để xin kẹo. Tuy là một lễ hội ma, nhưng nó lại được nhiều trẻ em và các bậc phụ huynh yêu thích.
Du lịch
Ngành công nghiệp du lịch Anh dùng ma để thu hút du khách, mở các tour tham quan những lâu đài bị đồn là có ma.
Trong nghệ thuật
Những vấn đề về ma quỷ nói riêng và những vấn đề về tâm linh nói chung xuất hiện rất nhiều trong các tác phẩm nghệ thuật ở mọi nền văn hóa. Các đề tài này xuất hiện rất nhiều trong các tác phẩm văn học dân gian như cổ tích, truyền thuyết; trong tiểu thuyết, hội họa, điêu khắc, và cả trong những tác phẩm văn học mang đậm màu sắc tôn giáo. Ngày nay, với sự phát triển của nền công nghiệp điện ảnh, các hình ảnh ma quỷ còn được tái hiện trên các phim ảnh truyền hình và cả trong phim hoạt hình. Một số phim hoạt hình có sự xuất hiện của ma quỷ lại không có màu sắc rùng rợn nên phù hợp với trẻ em trong khi một số phim hoạt hình thuộc thể loại này lại mang nhiều yếu tố máu me, kinh dị và do đó luôn được khuyến cáo là không dành cho trẻ em. Cũng giống như hoạt hình, chủ đề ma quỷ cũng xuất hiện trong truyện tranh với Nhật Bản là quốc gia có số lượng áp đảo về các truyện tranh kinh dị và hầu hết đều được khuyến cáo là không dành cho những độc giả nhỏ tuổi.
Văn học
Việt Nam
Đề tài về ma quỷ đã xuất hiện trong văn học dân gian Việt Nam từ lâu, các truyền thuyết, cổ tích: Con Rồng Cháu Tiên, An Dương vương xây thành, v.v. cũng có những yếu tố kì quái cũng như sự xuất hiện ma quỷ, yêu quái. Văn học Việt Nam trung đại có những tác phẩm về ma qủy tiêu biểu như: Chuyện Chức Phán sự đền Tản Viên, Chuyện yêu quái ở Xương Giang, Chuyện tướng Dạ Xoa (Truyền kỳ mạn lục – Nguyễn Dữ), Khách chôn của (Nam thiên trân dị tập – Khuyết danh), Biết chuyện kiếp trước (Thoái thực ký văn – Trương Quốc Dụng), Kim quy hiến kế giết yêu tinh (Tân đính Lĩnh Nam chích quái). Thời trung đại, thể loại này để lại nhiều tác phẩm nổi tiếng: Thánh Tông di cảo, Công Dư tiệp ký, Truyền kỳ tân phả, Tân truyền kỳ lục (Phạm Quý Thích, thế kỷ XIX), Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, Lĩnh Nam chích quái.
Sang thế kỷ 20, khi Việt Nam chính thức hoàn thiện và sử dụng chữ Quốc ngữ, các tác phẩm văn học về ma quỷ và các đề tài siêu nhiên xuất hiện ngày một nhiều hơn như: Vàng và Máu, Bên đường Thiên Lôi (Thế Lữ), Ai hát giữa rừng khuya (Tchya), v.v. Ngày nay, với tốc độ phát triển của công nghê in ấn và sự bùng nổ Internet ở Việt Nam, các truyện ma, kinh dị được các tác giả Việt Nam trong và ngoài nước sáng tác ngày một nhiều hơn, được đăng tải và bày bán ở nhiều nơi. Có một số tác giả khá thành công với những truyện, tiểu thuyết thể loại này như Người Khăn Trắng (Huỳnh Thượng Đẳng), Nguyễn Ngọc Ngạn, v.v.
Trung Quốc
Tây du ký của Ngô Thừa Ân: xuất hiện nhiều yêu tinh, ma quái.
Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh: bao gồm cả ma thiện lẫn ma ác và ma có hình dạng giống hệt như người trần.
Anh
Trong series truyện Harry Potter, ma xuất hiện nhiều, nhưng đặc biệt ở chỗ ma cũng là một nhân vật bình thường như bao người khác và không giống như tính chất của ma làm người ta sợ. Thực chất ma sống trong lâu đài chung với các học sinh và giáo viên.
Điện ảnh
Điện ảnh các nước khai thác yếu tố tâm lý "sợ ma" cũng như tò mò về những hiện tượng siêu nhiên của con người để sản xuất nhiều bộ phim. Nhiều phim trong số đó đạt được nhiều giải thưởng. Đa số các phim kinh dị đều dùng các yếu tố ma quái. Càng ngày, những bộ phim kinh dị càng được sản xuất nhiều để đáp ứng sự thích thú được cảm giác run sợ vì ma. Những bộ phim này có thể có cốt truyện ma ăn thịt người, ma hào hiệp, ma "có tình người" chuyên giúp đỡ người khác, ma hại người. Cũng có những bộ phim nói về ma nhưng theo thể loại hài.
Việt Nam
Tại Việt Nam, thể loại ma trước đây ít được khai thác do chưa phải là đề tài được khuyến khích thì nay các bộ phim với nội dung đề tài ma được khai thác nhiều. Điển hình như:
Bộ phim: Đoạt hồn
Bộ phim Mười.
Bộ phim Ngôi nhà bí ẩn - Suối Oan Hồn.
Bộ phim Oan hồn (phim 2004).
Bộ phim Bệnh viện ma - Biệt thự trắng.,...
Mỹ
Tại Mĩ, bộ phim The Ring (Vòng tròn định mệnh), sản xuất năm 2002, được xếp thứ 20 trong top 100 khoảnh khắc kinh dị nhất mọi thời đại của kênh truyền hình cáp Bravo. Sau khi công chiếu vào ngày 18, tháng 10 năm 2002, bộ phim xếp thứ nhất tại Mĩ với doanh thu 15 triệu đô la. Tổng doanh thu bộ phim đạt $249.348.933, là một trong những phim kinh dị thành công nhất mọi thời đại.
Thây ma
Khác với khái niệm về ma thì trong bộ phim kinh dị của Mỹ, zombie là một loại xác sống chuyên đi ăn thịt người sau khi bị ăn thịt thì chính họ lại trở thành một thây ma khác và được gọi chung là zombie. Lý do xuất hiện zombie đó là họ bị một loại virus gây nên ăn thẳng vào cơ thể nhưng không chết hoàn toàn mà vẫn tồn tại theo hướng khác bản năng và không còn tính người.
Tại các nước
Tại Campuchia, hầu như các phim kinh dị về ma luôn luôn đông khách và nền điện ảnh nước này năm nào cũng cho ra đời những bộ phim ma mà đề tài về ma cũng rất đa dạng. Hầu như rạp chiếu phim nào tại đất nước này cũng trình chiếu phim ma.
Tại Trung Quốc, bộ phim Thiến nữ u hồn là bộ phim nổi tiếng trong dòng phim ma tại nước này. Phim ma Trung Quốc thường đi theo lối mòn là mang yếu tố thần thoại, cốt truyện mang nội dung gần giống với Liêu trai chí dị. Bộ phim Thiến nữ u hồn đã mang lại nhiều giải thưởng cao cho điện ảnh Trung Quốc.
Tại Thái Lan, các phim ma kinh dị và các phim ma hài hước được khai thác tối đa. Truyền hình có cả kênh chuyên đề ma là chuyện kể các nhân chứng gặp được ma.
Tại Hàn Quốc, thể loại phim ma kết hợp giữa hư và thực hay sử dụng kỹ xảo điện ảnh cho ra đời các phim truyện ma có nội dung rõ ràng và giáo dục con người nhiều hơn là kinh dị câu khách.
Truyện tranh
Ở Hồng Kông: Âm dương lộ
Hội họa Nhật Bản
Đây là những bức tranh vẽ ma do họa sĩ Nhật sáng tác:
Một số bức ảnh ma
Có một số bức ảnh mà người chụp ảnh sau khi rửa ảnh cho rằng đã chụp được ma nên đã công bố trên các kênh truyền thông. Tuy nhiên, một số hình ảnh này nhiều khi do hiệu ứng ánh sáng, tốc độ chụp nhanh và bị lệch, hình ảnh cho ra sẽ khác.
Xem thêm
Gọi hồn
Kết giới
Ác quỷ
Ma Vương
Quỷ Tử Mẫu
Linh hồn
Chú thích
Liên kết ngoài
MA QUỶ TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM, Trần Minh Thương.
Truyền thuyết siêu nhiên
Chết
|
26973
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BB%99%20C%C3%A1%20s%E1%BA%A5u
|
Bộ Cá sấu
|
Bộ Cá sấu (Crocodilia) là một bộ thuộc lớp Mặt thằn lằn (Sauropsida) hay theo các phân loại truyền thống thì thuộc lớp Bò sát (Reptilia), xuất hiện từ khoảng 84 triệu năm trước, vào cuối kỷ Phấn trắng (Cretaceous, tầng Champagne). Bộ này là họ hàng gần gũi nhất còn sinh tồn của các loài chim, do hai nhóm là các thành viên duy nhất còn sống sót đã biết của nhóm Archosauria. Các thành viên của nhóm thân cây dạng cá sấu, nhánh gọi là Crurotarsi, đã xuất hiện khoảng 220 triệu năm trước trong kỷ Trias và có sự đa dạng lớn về các dạng trong thời kỳ đại Trung sinh.
Tên khoa học của bộ này thường cũng hay được viết thành 'Crocodylia' để phù hợp với chi điển hình Crocodylus (Laurenti, 1768). Tuy nhiên, Richard Owen đã sử dụng -i- khi ông công bố tên gọi này năm 1842, vì thế trong các văn bản khoa học nói chung nó được viết thành Crocodilia. Cách viết dùng -i- cũng là sự La tinh hóa chính xác hơn của từ κροκόδειλος (crocodeilos, nghĩa đen là "giun sỏi cuội", nói tới cấu tạo và hình dáng của nhóm động vật này) trong tiếng Hy Lạp.
Thuật ngữ cá sấu trong tiếng Việt bao gồm các dạng cá sấu đích thực, cá sấu mõm ngắn và cá sấu mõm dài. Tuy nhiên, nó cũng được áp dụng để chỉ các họ hàng xa thời tiền sử của chúng, chẳng hạn như "cá sấu biển" (Thalattosuchia).
Đặc điểm chung
Cá sấu là động vật cao cấp nhất trong tất cả các loài bò sát. Cá sấu có tim 4 ngăn, cơ hoành và vỏ não. Đặc điểm này làm nó được đánh giá là tiến hóa hơn những loài bò sát khác.
Kích thước và hình dạng
Bài chi tiết: Kích thước các loài cá sấu
Kích thước của cá sấu thay đổi đáng kể, giữa loài cá sấu lùn chỉ dài khoảng trên 1m và cân nặng trên dưới 10 kg cho đến loài cá sấu nước mặn khổng lồ dài tới 6-7m và có khối lượng 1-2 tấn. Một số loài cá sấu lớn có thể dài từ 5 đến 6 mét và nặng khoảng 1.200 kg. Tuy nhiên, lúc mới sinh ra cá sấu chỉ khoảng 20 cm. Loài cá sấu lớn nhất là cá sấu nước mặn sống ở Bắc Úc và Đông Nam Á. Theo một số nhà khoa học, không một con cá sấu nào có thể vượt qua kích thước 8,64 m.
Có tất cả 24 loài trong Bộ cá sấu hiện còn tồn tại. Chúng đều có hình dáng kiểu thằn lằn, với một cái đuôi dài rất khỏe giúp chúng bơi trong nước, và một cặp hàm dài, mạnh mẽ với những chiếc răng sắc nhọn vô cùng nguy hiểm. Tuy nhiên các loài cá sấu có chiếc mõm rất khác nhau. Họ cá sấu đích thực (Crocodylidae) gồm 14 loài có đầu hẹp và tương đối dài với chiếc mõm nhọn hình chữ V. Họ cá sấu mõm ngắn (Alligatoridae) bao gồm 8 loài có chiếc mõm rộng hình chữ U. Hai loài cá sấu mõm dài (họ Gavialidae) có chiếc mõm cực kỳ dài, mảnh dẻ với bộ hàm yếu, chủ yếu săn bắt cá và các loài thủy sinh nhỏ.
Môi trường sống
Cá sấu là các loài bò sát lớn ưa thích môi trường nước, chúng sống trên một diện tích rộng của khu vực nhiệt đới của châu Phi, châu Á, Bắc Mỹ, Nam Mỹ và châu Đại Dương. Cá sấu có xu hướng sinh sống ở những vùng sông và hồ có nước chảy chậm. Thân thể chúng thuôn dài giúp bơi nhanh hơn. Khi bơi chúng ép sát chân vào người để giảm sức cản của nước. Chân cá sấu có màng, không phải dùng quạt nước mà để sử dụng cho những cử động nhanh đột ngột hoặc lúc bắt đầu bơi. Chân có màng giúp cá sấu có lợi thế ở những chỗ nước nông, nơi mà các con vật trên cạn thường qua lại. Một số loài, chủ yếu là cá sấu cửa sông ở Úc và các đảo trên Thái Bình Dương, được biết là có khả năng bơi ra xa ngoài biển.
Các loài cá sấu đích thực phân bố hầu khắp các vùng nhiệt đới của các châu lục, trong khi các loài cá sấu mõm ngắn phân bố chủ yếu ở châu Mỹ (trừ cá sấu Dương Tử sinh sống ở Trung Quốc) và các loài cá sấu mõm dài chỉ có mặt ở phía nam châu Á.
Kỹ năng tấn công
Cá sấu ăn thịt và là tay đi săn cừ khôi. Thức ăn của chúng khá đa dạng, chủ yếu là cá và động vật có vú, kể cả còn sống hay đã chết. Cá sấu rất nhanh nhẹn trong khoảng cách ngắn, thậm chí cả khi ở ngoài môi trường nước. Chúng có quai hàm cực khỏe và bộ răng sắc nhọn để xé thịt, nhưng chúng không thể há miệng nếu nó bị khép chặt, do cơ khép hàm khỏe hơn nhiều so với cơ mở hàm, vì thế có một số câu chuyện về việc người sống sót khỏi những con cá sấu sông Nin mõm dài bằng cách khép chặt quai hàm của chúng. Áp lực của quai hàm cá sấu đạt tới 3000 pao trên một inch vuông (3000 psi, xấp xỉ 144 kPa), so sánh với chỉ 100 psi đối với một con chó to. Tất cả những con cá sấu lớn cũng có vuốt sắc và khỏe.
Cá sấu là những kẻ đi săn kiểu mai phục, chúng chờ đợi cho cá hay động vật sống trên đất liền đến gần, sau đó tấn công chớp nhoáng. Sau khi dùng cú đớp trời giáng của mình, con cá sấu kéo nạn nhận xuống con sông để nhấn chìm tới ngạt thở. Sau đó, để xé mồi, nó ngoạm chặt miếng thịt rồi xoay người nhiều vòng để dứt thịt ra. Thoạt nhiên, bạn có thể cho rằng điều này thật khó khăn vì không kiếm được điểm tựa, nhưng những con cá sấu thì không phải lo điều đó: ngay khi đánh hơi được mùi máu, năm sáu chú cá sấu cùng bơi đến tỏ ý muốn chia sẻ bữa ăn, và thường thì con mồi bị xé ra thành hàng trăm mảnh nhỏ bởi những bộ hàm to khỏe và cú xoay người mãnh liệt.
Là động vật ăn thịt máu lạnh, chúng có thể sống nhiều ngày không có thức ăn, và hiếm khi thấy chúng cần thiết tích cực đi săn mồi. Mặc dù có vẻ ngoài chậm chạp, nhưng cá sấu là những kẻ săn mồi thượng hạng trong môi trường của chúng, và người ta còn thấy một số loài cá sấu dám tấn công và giết cả sư tử, động vật móng guốc lớn và thậm chí cả cá mập. Tại Vườn quốc gia Sundarbans ở Ấn Độ một con cá sấu dài 4,5m ở khu đầm lầy ngập mặn hoang dã tây Bangal đã có một cuộc tấn công lịch sử trở thành con cá sấu đầu tiên tiêu diệt một con hổ hoang dã tại đây, con hổ đã bị tấn công khi nó đang cố bơi qua sông và bị giết trong một trận chiến khốc liệt sau đó, con cá sấu đã có được lợi thế khi chiến đấu ở dưới nước. Ngoại lệ nổi tiếng là chim choi choi Ai Cậplà loài có quan hệ cộng sinh, trong đó chim choi choi có thức ăn là các loài ký sinh trùng sinh sống trong miệng cá sấu và cá sấu để cho chim tự do làm việc này.
Sách Kỷ lục Guinness đã ghi nhận sự kiện một Trung đoàn biệt kích Nhật Bản bị cá sấu xóa sổ trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai là một thảm kịch có số lượng lớn nhất các ca tử vong của con người do động vật gây ra. Trung đoàn biệt kích thiện chiến với 1.215 binh sĩ đã bị đàn cá sấu nuốt sống, hơn 20 binh sĩ và sĩ quan sống sót, những người thoát khỏi những cái hàm cá sấu và bị người Anh bắt làm tù binh.
Mùa sinh sản
Tất cả cá sấu là loài đẻ trứng. Cá sấu đực là những kẻ khá ầm ỹ. Vào mùa sinh sản, chúng phát ra những âm thanh có thể so sánh với động cơ của những chiếc máy bay cỡ nhỏ, âm thanh này có thể lan truyền nhiều km trong làn nước. Chúng thu hút những con cái và tất nhiên, những con đực khác đang đố kị. Rất nhanh chóng, hàng chục con đực khác kéo đến và thi nhau cất lên những lời ca trầm hùng, đôi khi còn làm rung động mặt nước phía trên tấm lưng chúng, khiến nước bắn lên cao một cách đáng kinh nhạc.
Tất nhiên, chú sấu nào khỏe hơn sẽ có tiếng ca lớn hơn. Ở môi mỗi con cá sấu đều có một bộ phận cảm nhận những rung động của mặt nước, đối với con cái là để tìm được người chồng ưng ý, còn đối với những chàng ca sĩ khác là để đánh giá đối thủ. Nếu cảm thấy kẻ to mồm kia mạnh hơn mình, những con cá sấu sẽ tự rời bỏ cuộc tranh đua, còn nếu không thì trận chiến thực sự giữa những hàm răng sắc nhọn sẽ nổ ra.
Tuổi thọ
Không có 1 phương pháp chính xác nào đo đạc được tuổi thọ của cá sấu, mặc dù có một vài kỹ thuật đưa ra được những phỏng đoán khá chính xác. Phương pháp chung là đo những vòng tuổi trong xương và răng chúng, mỗi vòng biểu hiện cho 1 sự tăng trưởng mới thường xuất hiện mỗi năm một lần vào mùa mưa, khí hậu ẩm. Loài cá sấu nước mặn trung bình sống khoảng 71 năm, nhưng có những cá nhân vượt qua con số 100. Một trong những con cá sấu sống thọ nhất được ghi lại là con cá sấu sống ở vườn thú Nga, 115 tuổi. Tuy nhiên tài liệu ghi chép không nói rõ nó thuộc giống cá sấu nào. Một con cá sấu nước ngọt giống đực sống ở vườn thú Australia đã 130 tuổi. Nó được Bob và Steve Irwin cứu sống sau khi đã bị bắn 2 lần.
Tiến hóa và phân loại
Cá sấu có lẽ có quan hệ họ hàng gần với chim và khủng long hơn là với tất cả các động vật khác đã được phân loại như là lưỡng cư (mặc dù tất cả các động vật lưỡng cư này được cho là có quan hệ họ hàng gần với nhau hơn) và có các đặc điểm bất thường đối với các loài lưỡng cư, chẳng hạn như tim có 4 ngăn.
Eusuchia (cá sấu thật sự), một nhánh hiện đại, bao gồm nhóm chỏm cây Crocodilia, lần đầu tiên đã xuất hiện vào thời kỳ Hậu Phấn trắng tại châu Âu. Isisfordia duncani sinh sống khoảng 95-98 triệu năm trước, trong thời kỳ thuộc tầng Cenomanum của Tiền Phấn trắng. Isisfordia là nhóm cá sấu thật sự cổ thứ hai đã biết, còn dạng Crocodylomorpha sớm nhất đã được tìm thấy ở Australia. Nhóm cá sấu thật sự (Eusuchia) trải qua sự phân tỏa lớn vào Hậu Phấn trắng và trong kỷ Paleogen, trong đó chúng tiến hóa thành một loạt các dạng, chẳng hạn các loài sống bán thủy sinh và ăn thịt khủng long (Deinosuchus); các loài sống trên đất liền, có chân giống móng guốc và ăn thịt (Pristichampsus) và dạng hộp sọ hình 'rìu' (Baru).
Phân loại
Liên bộ Crocodylomorpha
Bộ Crocodilia gồm 24 loài còn tồn tại, 9 chi thuộc 3 họ sinh học.
Liên họ Gavialoidea
Họ Gavialidae: gồm 2 loài trong 2 chi là cá sấu sông Hằng và giả cá sấu sông Hằng
Liên họ Alligatoroidea
Họ Alligatoridae gồm 8 loài trong 4 chi.
Phân họ Diplocynodontinae (tuyệt chủng)
Phân họ Alligatorinae: gồm 2 loài trong 1 chi là cá sấu mõm ngắn Mỹ và cá sấu Dương Tử
Phân họ Caimaninae: gồm 6 loài trong 3 chi là Chi cá sấu caiman lùn, Chi cá sấu caiman và Cá sấu caiman đen
Liên họ Crocodyloidea
Họ Crocodylidae gồm 14 loài trong 3 chi.
Phân họ Mekosuchinae (tuyệt chủng)
Phân họ Crocodylinae: gồm 14 loài trong 3 chi là Chi cá sấu, Cá sấu tí hon và Cá sấu mũi hẹp
Phát sinh loài
Biểu đồ này vẽ theo Brochu (1997).
Eusuchia
├──Hylaeochampsa
└──┬──Allodaposuchus
└──Crocodilia
├──Gavialoidea
│ ├──Eothoracosaurus
│ └──┬──Thoracosaurus
│ └──┬──Argochampsa
│ ├──Eosuchus
│ └──Gavialidae
└──┬──Borealosuchus
└──┬──Pristichampsus
└──Brevirostres
├──Alligatoroidea
│ ├──Leidyosuchus
│ ├─?Deinosuchus
│ └──Globidonta
│ ├──Stangerochampsa
│ ├──Brachychampsa
│ └──Alligatoridae
└──Crocodyloidea
├──Prodiplocynodon
└──┬──Asiatosuchus
└──┬──Brachyuranochampsa
└──┬──Harpacochampsa
└──Crocodylidae
Quan hệ với con người
Những loài cá sấu lớn có thể rất nguy hiểm đối với con người. Cá sấu cửa sông và cá sấu sông Nin là những loài nguy hiểm nhất, chúng đã giết chết hàng trăm người mỗi năm ở các khu vực Đông Nam Á và châu Phi. Cá sấu mõm ngắn Mỹ và có thể cả cá sấu caiman đen (là loài đang nguy cấp trong sách đỏ của IUCN) cũng là những loài gây nguy hiểm cho con người.
Các loài cá sấu lớn nhất, cũng là các loài lưỡng cư lớn nhất trên Trái Đất là cá sấu nước mặn, sinh sống ở khu vực miền bắc Úc và trong suốt khu vực Đông Nam Á. Một điều gây nhầm lẫn là ở miền bắc Úc đôi khi người ta gọi cá sấu nước mặn là alligator (cá sấu alligator) trong khi nó không phải là như thế và loài cá sấu nước ngọt nhỏ hơn thì gọi là crocodile (cá sấu). Điều này có lẽ là do cá sấu nước ngọt có mõm dài nhìn rất giống cá sấu sông Nin thu nhỏ, trong khi cá sấu nước mặn có thể rất giống với cá sấu alligator Mỹ ít nguy hiểm hơn nhiều. Vì thế khi người Úc nói Alligator Rivers để chỉ cá sấu ở vùng lãnh thổ phía bắc thì trên thực tế nó là cá sấu nước mặn. Đây là giải thích cho việc những người Mỹ đôi khi cho rằng cá sấu alligator là những động vật nguy hiểm chứ không phải cá sấu crocodile.
Cá sấu trong thiên nhiên được bảo vệ ở một số nơi trên thế giới, nhưng chúng cũng được chăn nuôi vì mục đích thương mại, và da của chúng được thuộc làm da cá sấu có chất lượng cao để sản xuất túi, ủng, cặp v.v, trong khi thịt cá sấu được coi là đặc sản đối với những người sành ăn. Các loài có giá trị thương mại chủ yếu là cá sấu nước mặn và cá sấu sông Nin, trong khi con lai của cá sấu nước mặn và cá sấu Xiêm cũng được chăn nuôi trong các trang trại ở châu Á. Việc chăn nuôi đã làm tăng số lượng cá sấu nước mặn ở Úc, do trứng thông thường được thu hoạch từ tự nhiên, vì thế những chủ sở hữu đất đai có động cơ thúc đẩy để bảo tồn môi trường sống của cá sấu.
Hình ảnh
Xem thêm
Đất rừng phương Nam của Đoàn Giỏi
Ghi chú
Liên kết ngoài
Cá sấu hoa cà Crocodylus porosus
Cá sấu Xiêm Crocodylus siamensis
Hóa thạch sống
|
26975
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bao%20cao%20su
|
Bao cao su
|
Bao cao su, cũng được gọi bao dương vật, túi cao su, ca pốt (từ capote trong tiếng Pháp) hay condom theo tiếng Anh, hay áo mưa theo tiếng lóng, là một dụng cụ được dùng để giảm khả năng có thai và nguy cơ lây bệnh đường tình dục (như lậu mủ, giang mai và HIV) khi quan hệ tình dục và thực hiện các hành vi tình dục khác.
Nhiều người có suy nghĩ sai lầm rằng: bao cao su sẽ cung cấp "sự bảo vệ an toàn tuyệt đối" khi quan hệ tình dục, khi đã sử dụng đúng cách thì không cần lo lắng về việc mang thai ngoài ý muốn hoặc lây bệnh hoa liễu. Nhưng thực ra, bao cao su chỉ giảm bớt chứ không ngăn chặn được rủi ro một cách tuyệt đối, tức là dù có sử dụng bao cao su đúng cách thì rủi ro vẫn có thể xảy ra. Kể cả khi sử dụng đúng cách và dùng trong mọi lần quan hệ tình dục, tỉ lệ xảy ra mang thai ngoài ý muốn vẫn vào khoảng 2% một năm. Đối với HIV/AIDS, khả năng ngăn chặn lây nhiễm của bao cao su vào khoảng 67-85% (tức xác suất lây nhiễm vẫn còn khoảng 15-33%) trong mỗi lần dùng. Đối với một số bệnh hoa liễu lây qua đường tiếp xúc hoặc nước bọt, bao cao su không có tác dụng ngăn chặn.
Bao cao su được trùm lên dương vật đã cương cứng và chặn tinh dịch không cho thâm nhập vào cơ thể bạn tình. Được sử dụng trong kế hoạch hóa gia đình, bao cao su nam giới có lợi thế là giá rẻ, dễ sử dụng, ít tác dụng phụ. Vì bao cao su là chất dẻo không thấm nước và bền, chúng cũng được dùng vào một số mục đích khác như đựng tinh dịch khi chữa trị vô sinh cũng như một số mục đích không liên quan tới tình dục như tạo micro không thấm nước, bọc nòng súng trường để khỏi bị kẹt.
Bao cao su đã được sử dụng cách đây ít nhất 400 năm, khi đó nó làm bằng ruột hoặc da động vật (một số khám phá khảo cổ còn cho thấy nó có từ thời Ai Cập cổ đại). Từ thế kỷ 19, sử dụng bao cao su là một trong các phương pháp ngừa thai phổ biến nhất. Bao cao su hiện đại hầu hết được làm bằng nhựa, nhưng đôi khi cũng được làm bằng nhựa tổng hợp, polyisoprene hoặc ruột cừu. Bao cao su nữ giới thường được làm bằng nhựa tổng hợp. Hầu hết bao cao su đều có một phần dư ra trên đầu để chứa tinh dịch. Bao cao su có nhiều kích cỡ và bề mặt khác nhau để kích thích người dùng. Bao cao su thường được tẩm chất bôi trơn để giúp dương vật thâm nhập dễ dàng còn bao cao su có mùi vị thì dùng cho làm tình bằng miệng.
Độ phổ biến của bao cao su tùy thuộc nhiều vào từng quốc gia. Hầu hết các thống kê về mục đích tránh thai được thực hiện với phụ nữ có chồng hoặc phụ nữ trong các tổ chức. Nhật Bản có tỉ lệ dùng bao cao su cao nhất thế giới: chiếm 80% trong ngừa thai của phụ nữ có chồng. Trung bình ở các nước phát triển, bao cao su là phương pháp ngừa thai phổ biến nhất: 28%. Trung bình ở các nước kém phát triển, bao cao su là phương pháp ngừa thai ít phổ biến nhất: 6-8%. Được chấp nhận rộng rãi trong lịch sử hiện đại, bao cao su gây ra nhiều tranh cãi chủ yếu về cách dùng chúng trong giáo dục giới tính.
Sử dụng bao cao su để ngăn ngừa lây bệnh cũng khác nhau. Đối với người đồng tính nam ở Hoa Kỳ, một thống kê cho thấy 35% từng sử dụng hai bao cao su cùng lúc. Mặc dù có mục đích là tăng khả năng bảo vệ, dùng hai bao cao su cùng lúc thực ra lại làm tăng khả năng hỏng bao cao su.
Rủi ro khi sử dụng
Bao cao su có thể bị tuột ra khỏi dương vật sau khi xuất tinh, bị rách do không sử dụng đúng cách hoặc bị xé khi mở gói, bị rách hoặc tuột vì chất liệu nhựa bị hỏng (thường do quá hạn sử dụng, cất giữ không đúng cách hoặc bị dính dầu). Tỉ lệ rách bao cao su là từ 0,4% đến 2,3%, tỉ lệ tuột là 0,6% và 1,3%. Một tổng kết từ 10 nghiên cứu với nhiều loại bao cao su khác nhau đã cho tỉ lệ thất bại trung bình (cả rách hoặc tuột) là 8,04%.
Tùy theo loại thất bại khi dùng bao cao su mà có các mức độ thâm nhập tinh dịch khác nhau. Một nghiên cứu cho thấy khi bị rách bao, tinh dịch sẽ bị thâm nhập một nửa so với không dùng bao. Còn khi bị tuột thì chỉ 1/5 tinh dịch bị thâm nhập. Mặc dù nếu bao cao su không bị rách hoặc tuột, 1–2% phụ nữ được kiểm tra là vẫn có tinh dịch sau khi quan hệ tình dục dùng bao cao su, do bị thẩm thấu qua lớp màng cao su. Sử dụng hai bao cao su cùng lúc cũng tăng khả năng hỏng bao cao su.
Đặc biệt, ngay cả khi mang bao cao su đúng cách, nguy cơ lây nhiễm AIDS vẫn còn khoảng 20-25% vì kích thước virus rất nhỏ (chỉ 0,1 micrômét), nhiều khi có thể lọt được qua lớp màng bao cao su và truyền sang bạn tình. Một nghiên cứu khác còn cho tỷ lệ lây nhiễm trong mỗi lần dùng lên đến 33%. Nếu biết về tỉ lệ này, tất nhiên không ai dám bỏ qua khi AIDS là một căn bệnh chết người chưa có thuốc chữa. Điều này càng trở nên nguy hiểm khi nhiều người tưởng rằng chỉ cần sử dụng bao cao su thì sẽ ngăn ngừa được tuyệt đối nguy cơ lây nhiễm HIV.
Bao cao su tiêu chuẩn vừa cho hầu hết kích cỡ dương vật mặc dù nhiều nhà sản xuất bán loại khít hoặc loại lớn. Vài nhà sản xuất cũng bán các loại bao cao su vừa kích cỡ dương vật khách hàng và đảm bảo rằng chúng tin cậy và tăng khoái cảm hơn. Vài nghiên cứu cho thấy sự tương quan giữa dương vật lớn và bao cao su nhỏ với tỉ lệ rách cao và tỉ lệ tuột thấp (và ngược lại), nhưng những nghiên cứu khác thì không thấy điều này.
Độ dày không liên quan đến việc rách, bao cao su loại mỏng thì hiệu quả hơn loại dày. Tuy vậy, các nhà sản xuất được khuyến cáo tránh sản xuất loại quá dày hoặc quá mỏng vì chúng kém hiệu quả hơn. Nhiều tác giả còn khuyến khích dùng loại mỏng vì "độ bền, khoái cảm và thoải mái", nhưng những tác giả khác cảnh báo rằng "bao cao su càng mỏng thì cần một lực nhỏ hơn để làm rách chúng".
Người dùng bao cao su có kinh nghiệm thì khả năng bị rách hay tuột thấp hơn nhiều so với người dùng lần đầu, mặc dù những ai từng bị tuột hoặc rách một lần thì khả năng bị rách hoặc tuột lần hai là cao hơn. Một bài báo trên Báo cáo Dân số (Population Reports) cho thấy chỉ dạy về cách sử dụng bao cao su sẽ giảm những thao tác làm tăng khả năng rách và tuột bao cao su.
Trong số những người sử dụng phương pháp tránh thai bằng bao cao su, một người có thể hết bao cao su, hoặc đang đi du lịch và không có mang bao cao su hoặc chỉ đơn giản muốn thử cảm giác lạ và quyết định không sử dụng một lần. Hành vi kiểu này là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc thất bại khi dùng bao cao su.
Một nguyên nhân thất bại khác là do phá hoại ngầm của bạn tình. Một trong những động cơ là muốn có con trái với mong muốn hoặc sự đồng ý của bạn tình. Vài người bán dâm Nigeria báo cáo rằng khách hàng ngầm phá hoại bao cao su để trả thù cho việc bị ép buộc dùng bao cao su. Dùng một chiếc kim nhỏ đâm nhiều lỗ ở đầu bao cao su được cho là giảm đáng kể hiệu quả của bao cao su.
Sử dụng đúng
Kiểm tra bao cao su
Chú ý: Bước này rất hay bị nhiều người bỏ qua.
Bao cao su phải còn hạn sử dụng, còn nguyên gói, không quăn gói, vẫn còn mềm, màu không loang lổ, không bị rách.
Đeo
Bao phải được sử dụng ngay sau khi bóc gói. Sử dụng ngay từ khi dương vật bắt đầu cương cứng. Chú ý nên dùng động tác từ từ, nhẹ nhàng (nhất là khi làm cho người khác), tránh làm rách bao. Xem kỹ hướng vòng tròn để tròng vòng bao cao su cho đúng hướng, đảm bảo bao sẽ che được dương vật. Bóp túi phình nhỏ ở đầu bao cho không khí ra hết (lấy chỗ chứa tinh dịch, đề phòng thủng, bể bao khi phóng tinh), một tay còn lại cuộn vòng tròn bao lên để bao phủ đầu dương vật và vuốt cho bao phủ đến tận gốc.
Tháo
Lưu ý sau khi giao hợp: Nên rút bao ra ngay lúc dương vật còn cương cứng. Một tay nên giữ chặt bao cao su, để tránh trường hợp bao hoặc tinh dịch có thể rớt vào âm đạo lúc đã hết cương. Để phòng tránh có thai và vệ sinh triệt để, chú ý rửa tay và bộ phận sinh dục nhiều lần với nước ấm và xà phòng, sau đó lau khô bằng khăn riêng. Lưu ý không để dương vật lại gần bộ phận sinh dục nữ giới nữa, vì tinh dịch vẫn tiết ra trong vòng hai giờ đồng hồ sau khi xuất tinh.
Bao cao su cho nữ giới
Loại bao cao su âm đạo Reality (Reality vaginal condom): là một ống dài 17 cm, được chế tạo bằng chất dẻo polyurethan, có hai vòng mềm ở hai đầu. Dụng cụ được đặt vào âm đạo giống như cách đặt một màng ngăn, vòng ở đầu trong khớp với cổ tử cung, vòng ở đầu ngoài phủ lên các môi của âm hộ, do đó có thể hứng toàn bộ tinh dịch của nam giới phóng ra khi giao hợp, không cho lọt vào đường sinh dục nữ.
Loại bao cao su âm đạo thứ hai (Women's choice female condom): có cấu tạo giống như bao cao su nam kèm theo một que nhựa để đẩy vào, đầu trong dày hơn khớp với đầu trên âm đạo, đầu ngoài là một vòng che phủ lên các môi của âm hộ. Dụng cụ được chế tạo bằng latex và dày hơn bao cao su của nam để tăng độ bền. Qua thử nghiệm người dùng thấy thoải mái, dễ lắp và dễ tháo.
Còn một loại bao cao su dùng cho nữ nữa, có cấu tạo gần giống như chiếc quần lót bằng latex với một túi nhỏ ở đúng vị trí lỗ âm đạo. Trước khi giao hợp, người phụ nữ đẩy cái túi nhỏ này vào trong âm đạo. Dụng cụ này che phủ được toàn bộ tầng sinh môn và bộ phận sinh dục ngoài của người phụ nữ, do đó có khả năng bảo vệ tránh các bệnh lây theo đường tình dục cao.
Đặt bao
Xé vỏ, lấy bao ra nhẹ nhàng. Vân vê nhẹ cho dịch trơn đẫm hết bao. Bóp hẹp hình vòng nhỏ, cầm bao chắc chắn.
Tay cầm bao đưa vào âm đạo, tay kia vạch môi sinh dục dẫn đường. Đưa bao vào sâu hết mức có thể đưa được.
Đưa ngón tay vào trong bao, tìm chạm vòng nhỏ, đẩy bao sâu lên đến hết âm đạo. Tránh đừng để bao bị xoắn.
Tháo bao
Xoắn miệng bao để giữ tinh dịch ở trong, kéo nhẹ bao ra.
Phổ biến tại Việt Nam
Để phòng lây nhiễm HIV qua đường tình dục, UBND Thành phố Hồ Chí Minh tuyên bố ngày 05.03.2013, nhất trí mở rộng "chương trình 100% bao cao su" và triển khai việc đặt bao cao su trong tất cả phòng khách sạn trên địa bàn.
Chú thích
Tham khảo
Boston Women's Health Book Collective, 2005.Our Bodies, Ourselves: A New Edition for a New Era. New York: Touchstone.
MacPhail, Catherine and Campbell, Catherine (2001 Jun). "I think condoms are good but, aai, I hate those things: condom use among adolescents and young people in a Southern African township." Social Science and Medicine, 2001, 52, 11, 1613-1627
Kulczycki, Andrzej. "The Sociocultural context of condom use within marriage in rural Lebanon. Studies in Family Planning 35.4 (Dec 2004): 246(15).
Crossley, Michele L. (2004). "Making sense of 'barebacking': Gay men's Narratives, unsafe sex and the 'resistance habitus'. British Journal of Social Psychology, 43, 225-244.
Watt, Emily (2005 April 24). "Older Adults Shy Away From Safe Sex Advice". The Sunday Star-Times (Auckland, New Zealand).
Semple, S.J., Patterson, T.L., & Grant, I. (2004). Determinants of condom use stage of change among heterosexually-identified methamphetamine users. AIDS & Behavior, 8 (4), 391-400.
Liên kết ngoài
Planned Parenthood of America — Provides information and training for all forms of birth control from their website and locations across the U.S.
Condom Research from FHI - Family Health International's topic page on condoms.
Fact sheet on condoms and sexually transmitted diseases - from the US Center for Disease Control
HIV/AIDS
Sức khỏe tình dục
Giới thiệu thế kỷ 16
Phòng ngừa HIV/AIDS
|
26980
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A1%20s%E1%BA%A5u%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20ng%E1%BB%8Dt%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
Cá sấu nước ngọt (định hướng)
|
Cá sấu nước ngọt có thể là:
Cá sấu mũi dài
Cá sấu Xiêm
|
26986
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Huy%E1%BB%81n%20Trang
|
Huyền Trang
|
Huyền Trang (chữ Hán: 玄奘; bính âm: Xuán Zàng; khoảng 602–664), hay Huyền Tráng, tục danh Trần Huy (陳禕), cũng thường được gọi là Đường Tam Tạng (唐三藏) hay Đường Tăng (唐僧), là một cao tăng Trung Quốc, một trong bốn dịch giả lớn nhất, chuyên dịch kinh sách Phạn ngữ ra tiếng Hán. Nhà sư cũng là người sáng lập Pháp tướng tông (zh. fǎxiàngzōng 法相宗), một dạng của Duy thức tông (zh. 唯識宗, sa. yogācāra, vijñānavāda) tại Trung Quốc. Danh hiệu Tam Tạng được giới tăng sĩ tôn xưng để tôn vinh ông là người tinh thông cả Tam tạng Kinh điển Phật giáo.
Cơ duyên và thành tích
Huyền Trang tên tục Trần Huy (Trần Hy, Trần Vĩ, Trần Qui hoặc Trần Y 陳褘) sinh năm 602, có thuyết nói là năm 600 (niên hiệu Khai Hoàng thứ 20, đời Tùy), tại Lạc Châu (洛州), huyện Câu Thị (緱氏縣), tỉnh Hà Nam, trong một gia đình có truyền thống quan lại. Đến cha của Huyền Trang là Trần Huệ thì dốc tâm vào Nho học, khước từ làm quan. Theo các truyện ký thì từ nhỏ Sư nổi danh thông minh đĩnh ngộ, sớm được thân phụ chỉ dạy những nghi thức Nho giáo.
Năm lên 13 tuổi Sư đã xuất gia và thọ giới cụ túc năm 21 tuổi. Sư tu học kinh sách Đại thừa dưới nhiều giảng sư khác nhau và thấy có nhiều chỗ giảng giải mâu thuẫn. Đây là lý do chính thúc đẩy Sư lên đường đi Thiên Trúc để tự mình tìm hiểu.
Mặc dù bị Đường Thái Tông ra lệnh cấm đi du hành qua Ấn Độ, năm 629 Sư liều mình ra đi để hành hương chiêm bái quê hương Đức Phật, hi vọng sẽ tìm kiếm và nghiên cứu kinh điển mà hồi đó Trung Quốc chưa biết tới. Tập ký sự du hành của Sư (viết theo yêu cầu của nhà vua, người đã khâm phục và hỗ trợ Huyền Trang sau khi Sư vinh quang trở về năm 645), có tên là Đại Đường Tây Vực ký, để lại cho hậu thế một nguồn tài liệu vô song về địa lý, xã hội và tập quán của miền Trung Á và Ấn Độ trong thế kỉ thứ bảy. Nhiều miêu tả của Sư về các vùng đất đó đã đạt tới độ chính xác mà trong thế kỉ 19, 20, nhiều nhà du khảo phương Tây như Ariel Stein đã tham khảo tập ký sự đó như một tập sách hướng dẫn nhằm tìm lại và xác định những vị trí đã được tìm ra và rồi bị lãng quên trong nhiều thế kỉ.
Sau khi trở về cố quốc, một phần nhờ trình độ uyên bác xuất chúng, một phần nhờ tiếng tăm vang dội mà Sư đã gặt hái được tại Ấn Độ và các nước Trung Á, một phần nhờ hoàng đế Trung Quốc đặc biệt hỗ trợ, như xây cất chùa chiền cho Sư trú ngụ cũng như thành lập một ban dịch thuật do chính nhà vua chọn lọc để giúp cho Sư hoàn thành công tác phiên dịch của hơn 600 kinh sách mang về Trung Quốc, Huyền Trang đã trở thành tu sĩ tiếng tăm nhất tại vùng Đông Á trong thế hệ đó. Học viên đến với Sư từ khắp Trung Quốc, kể cả từ Triều Tiên và Nhật Bản, song song có nhiều tăng sĩ từ Ấn Độ và các vương quốc Trung Á đến để bày tỏ lòng hâm mộ. Ngoài việc truyền bá kinh sách Phật giáo và tư tưởng Ấn Độ mới mẻ vào Trung Quốc, Sư cũng gây ảnh hưởng lên nền nghệ thuật và kiến trúc Trung Quốc bằng những vật dụng và thiết kế do Sư mang về. Có một ngôi chùa được xây theo thiết kế của Sư tại Trường An (ngày nay là Tây An) để chứa đựng kinh sách và các tác phẩm nghệ thuật của Sư mang về. Ngôi chùa đó ngày nay vẫn còn và là một dấu ấn quan trọng của đô thị này.
Sư là một trong những dịch giả người Hán dịch các văn bản của Phật giáo Ấn Độ vĩ đại nhất và mang lại thành quả lớn lao nhất (và cũng chính xác nhất). Nhiều dịch phẩm của Sư, như Tâm kinh và Kim Cương kinh, ngày nay vẫn còn đóng một vai trò quan trọng trong việc hành lễ Phật giáo hàng ngày. Quy mô của các dịch phẩm của Sư là vô song, không chỉ những kinh sách của Duy thức tông mà Sư quy phục, mà còn bao gồm đầy đủ những kinh tạng đạo Phật, từ phép chỉ quán và đà-la-ni, đến phép quán tưởng, đến a-tì-đạt-ma cũng như toàn bộ kinh bát-nhã ba-la-mật (bộ kinh này chiếm ba bộ của Đại tạng Trung Quốc), kinh A-hàm, kinh Đại thừa, các chú giải về kinh và luận, Nhân minh học (Sư là người duy nhất dịch kinh luận Nhân minh ra chữ Hán) và kể cả một văn bản Thắng luận của Ấn Độ giáo.
Trong thời Huyền Trang, Phật giáo Trung Quốc có nhiều trường phái và học thuyết được hình thành. Họ tranh cãi nhau về các vấn đề cơ bản. Trong số đó, nhiều trường phái dựa trên các kinh sách không rõ xuất xứ nhưng được xem là phiên dịch từ nguồn gốc Ấn Độ. Một số khác dựa trên kinh sách thật nhưng các bản dịch thiếu chính xác đã gây ra nhiều nhầm lẫn. Điều này ngày một phổ biến tại Trung Quốc và Triều Tiên. Sau 16 năm tại Trung Á và Ấn Độ, trở về Trung Quốc, Huyền Trang cống hiến đời mình bằng cách đưa Phật giáo Trung Quốc thời đó trở lại phù hợp với những gì Sư học hỏi được tại Ấn Độ. Sư thực hiện điều đó bằng cách phiên dịch lại các kinh sách quan trọng, trình bày lại một cách chính xác hơn cũng như giới thiệu những kinh sách mới và nhiều tài liệu chưa hề có tại Trung Quốc. Song song với công trình dịch thuật khổng lồ – 74 bộ kinh luận trong 19 năm – trong đó có một số kinh với quy mô to lớn, như bộ Ma-ha-bát-nhã-ba-la-mật-đa đã nhắc đến dài hàng ngàn trang – Sư còn đào tạo tăng sĩ học tập hệ thống Duy thức và Nhân minh Ấn Độ, đồng thời Sư là tăng sĩ biện giải số một của triều đình cho đến ngày nhập diệt. Công trình dịch thuật của Sư ghi dấu ấn sâu sắc sự thâm nhập của tư tưởng Phật giáo Ấn Độ vào miền Đông Á.
Du hành Ấn Độ
Nguyên nhân đi Ấn Độ
Khoảng đầu thế kỉ 7, kinh sách Phật giáo của Trung Quốc gồm có vô số những bản dịch, văn bản chữ Hán; đại diện và làm nền tảng cho nhiều quan điểm đối chọi nhau. Tất cả đều tự nhận mình là "Phật giáo". Trên một chừng mức nhất định, Phật giáo Trung Quốc của thế kỉ thứ sáu có thể được xem là một trường tranh cãi giữa các trường phái của Duy thức tông, tức là giáo phái được ghi lại trong các tác phẩm của Vô Trước và Thế Thân. Thế nhưng, các điểm chi tiết của hệ thống này, cả về mặt cơ bản lẫn luận giải, là đối tượng của những cuộc tranh cãi triền miên.
Trong không khí đó thì cậu tiểu tăng Trần Huy học tập và trưởng thành với kinh sách Phật giáo nói trên. Sư được tham cứu kinh sách cùng với tăng già với số tuổi mười ba. Nhà Tùy (589-618) điêu tàn, chiến tranh, nội loạn gây ra chết chóc và bất ổn trong nhiều vùng Trung Quốc. Vì thế nhiều tăng sĩ, học trò kéo nhau về Trường An, kinh đô của nhà Đường, nơi mà các vị đó được ủng hộ trong việc tu hành và giáo hóa một cách tương đối an toàn. Huyền Trang cũng về Tràng An và sau khi theo học với nhiều vị sư tiếng tăm, Sư đã được biết là một người học rộng và có tư chất. Thế nhưng Sư sớm kết luận rằng: mọi tranh cãi, diễn dịch khác nhau trong Phật giáo Trung Quốc là hậu quả của sự thiếu thốn kinh sách chủ chốt viết bằng tiếng Hán. Đặc biệt, Sư cho rằng một bản dịch đầy đủ của bộ Du-già sư địa luận, một bộ luận bách khoa của phái Duy thức tông miêu tả con đường dẫn tới Phật quả của Vô Trước, sẽ có khả năng giải quyết mọi tranh chấp. Trong thế kỉ 6, đã có một vị tăng Ấn Độ là Chân Đế (một Đại dịch giả khác) đã dịch một phần tác phẩm đó. Huyền Trang thấy mình phải dịch trọn bộ luận Ấn Độ này và giới thiệu cho Trung Quốc.
Hoạt động tại Ấn Độ
Mặc dù nhà vua cấm Huyền Trang ra đi, Sư vẫn lên đường, trải qua nhiều gian khổ trên đường băng qua núi non và sa mạc, đối diện với đói khát và giặc cướp, và cuối cùng sau một năm, Sư tới Ấn Độ. Khi tới nơi, Sư nhận ra rằng sự khác biệt giữa Phật giáo Ấn Độ và Trung Quốc không phải chỉ ở vài chương thiếu sót của một bộ luận. Từ trên một thế kỉ nay, Phật giáo Ấn Độ nằm trong vòng cương toả của lý luận duy lý của Trần-na và dù một số bài luận về Nhân minh học của Trần-na đã được phiên dịch thì lý luận Phật giáo – nay đã trở thành một phần không tách rời khỏi triết học Phật giáo Ấn Độ – vẫn hoàn toàn chưa ai biết tới tại Trung Quốc. Huyền Trang cũng khám phá được rằng, tư tưởng Phật giáo mà người Phật tử hay tranh luận và diễn dịch mênh mông hơn, lớn rộng hơn nhiều so với những tài liệu lưu hành tại Trung Quốc: nhiều quan điểm Phật giáo được tôi luyện trong các cuộc tranh luận nghiêm túc giữa các Phật tử và người ngoài, các quan điểm đó không hề được biết tới tại Trung Quốc và những từ ngữ, khái niệm trong các cuộc tranh luận giàu nội dung đó có ý nghĩa rất rõ rệt. Trong khi tại Trung Quốc thì tư tưởng Duy thức và tư tưởng Như lai tạng không thể phân chia được, thì trong quan điểm kinh viện của Duy thức Ấn Độ, tư tưởng Như lai tạng không được nhắc tới, thậm chí bị từ chối. Nhiều nội dung chủ yếu của Phật giáo Trung Quốc (thí dụ Phật tính) và các kinh sách quan trọng (thí dụ Đại thừa khởi tín luận) thì hoàn toàn không được Ấn Độ biết tới.
Huyền Trang ở lại Ấn Độ nhiều năm để học tập với những vị thầy danh tiếng nhất, chiêm bái các thánh tích và tham gia vào các cuộc tranh luận với những Phật tử và ngoại đạo, đả bại tất cả những đối thủ và trở nên nổi tiếng là một nhà tranh luận cứng rắn. Sau một loạt tranh luận với hai đại diện của Trung quán tông (môn đệ kế thừa quan điểm Long Thụ), Sư viết một bài luận giải bằng tiếng Phạn với ba ngàn câu kệ nói về "Điểm không khác biệt giữa Trung quán và Duy thức" mà ngày nay không còn. Sau khi hứa với Giới Hiền, thầy dạy của Sư tại đại học Na-lan-đà (trung tâm tu học Phật pháp thời bấy giờ) là sẽ trình bày lý luận của Trần-na tại Trung Quốc, Sư trở về quê hương với hơn 600 bộ kinh luận viết bằng tiếng Phạn.
Công trình biên dịch
Với hi vọng sẽ thu lượm được các thông tin quan trọng cho chiến lược quân sự của mình, nhà vua đưa Huyền Trang vào ở một tu viện đặc biệt gần kinh đô và chỉ định nhiều học giả thông thái thời bấy giờ hỗ trợ cho Sư trong công trình biên dịch. Mặc dù từ chối cung cấp cho vua các thông tin có thể dùng trong chiến trận, Sư viết một tập du ký miêu tả những nơi đã từng đi qua, đặc biệt là những thánh tích Phật giáo Sư đã đến chiêm bái. Tác phẩm này, Tây vực ký, cung cấp cho chúng ta một cái nhìn bao quát về xã hội, phong tục, tập quán, địa dư và điều kiện phát triển của đạo Phật trong thế kỉ thứ bảy tại Trung và Nam châu Á.
Quy mô những gì Sư biên dịch bao trùm tất cả mọi giáo pháp của Đức Phật: Duy thức tông với các luận giải; Trung quán tông với luận giải của phía Duy Thức; kinh cầu siêu (Huyền Trang là người đầu tiên đưa khái niệm "Tịnh độ" – cõi của một vị Phật mà người ta có thể tái sinh – với Tây phương cực lạc, cõi Phật A-di-đà; về sau cõi này trở thành phổ thông nhất đối với người dân Đông Á); Mật tông và mật chú đà-la-ni; Nhân minh luận; Tạng kinh (do Phật thuyết giảng); A-tì-đạt-ma (đặc biệt là Đại-tì-bà-sa luận) cũng như luận giải về A-tì-đạt-ma câu-xá của Thế Thân; và một bộ luận thuộc Thắng luận gia của Ấn Độ giáo. Dù đề tài rộng khắp, nhưng sự lựa chọn của Sư không tùy tiện. Thay vì chọn những đề tài tranh biện thắng lợi của một giáo phái chống lại một giáo phái khác, Sư đưa ra những bản dịch chính xác để cho mọi người cùng nhau ghi nhận. Dường như Sư thấy luận giải của Chân Đế, một dịch giả Duy thức của thế kỉ thứ sáu là không ổn; môn đệ của Chân Đế xem bộ Nhiếp đại thừa luận của Vô Trước là tác phẩm trung tâm. Không những dịch lại bộ Nhiếp đại thừa luận, Huyền Trang còn dịch toàn bộ luận giải về bộ luận này, kể cả luận giải của Thế Thân, với hi vọng chỉ cho độc giả Trung Quốc những gì bản gốc đã nói và đã không nói, cũng như những gì được hiểu và trình bày tại Ấn Độ. Mặc dù bản Phạn ngữ ngày nay không còn, sự so sánh giữa bản dịch của Huyền Trang và bản Tạng ngữ cho thấy bản dịch sau của Sư sát với bản gốc hơn bản của Chân Đế (bản dịch của Huyền Trang đồng nhất với bản Tạng ngữ trong phần lớn, trong lúc bản của Chân Đế đầy những chú thích và nhiều phân tán).
Về Huyền Trang người ta sớm truyền tụng trong vùng Đông Á: rằng Sư đến tận Ấn Độ để học tập từ gốc ngọn; rằng Sư là người duy nhất được nhà vua đỡ đầu; rằng Sư là người đưa những bản dịch mới, chính gốc giáo pháp mà từ trước đến nay chưa ai biết. Học trò người Nhật của Sư đem giáo pháp về lại Nhật, thiết lập trường phái Pháp Tướng tại đây (gọi theo tiếng Nhật là Hossō), đó là trường phái danh tiếng nhất cho đến khi phái Thiên Thai du nhập vài thế kỉ sau đó.
Giáo pháp của Sư cũng được chú ý tại Triều Tiên, nơi đó nó tổng hợp với phái Hoa nghiêm và Thiền và gây ảnh hưởng quyết định lên nền Phật giáo Triều Tiên từ cả ngàn năm nay.
Tư tưởng
Tư tưởng Phật giáo cần lý luận chính xác, nhưng điều này chỉ có ích cho hành giả hướng tới việc rời bỏ lý luận để đạt tới thực tại Vô Ngã Vô Pháp ở giai đoạn tu hành sau cùng;
Các nội dung siêu hình như Phật tính hay Như Lai tạng chỉ làm méo mó giáo pháp Đức Phật, nhưng điều này không có nghĩa là Phật tính hay Như Lai tạng là không có thật mà chỉ có ý nói rằng các nội dung siêu hình (Phật tính hay Như Lai tạng) đó là Bất Khả Tư Nghị (khó thể hiểu rõ);
Cái được gọi là thực tại cuối cùng như Chân Như hay Vô vi pháp là không thật, chúng chỉ là sự sáng tạo của đầu óc, của văn tự, nhưng điều đó không có nghĩa là thực tại cuối cùng là không tồn tại (hay nói cách khác nếu đã gọi là thực tại cuối cùng thì nó không những không phải là sự sáng tạo của đầu óc, của văn tự mà còn khó thể hiểu rõ - Bất Khả Tư Nghị);
Chỉ những gì đang xảy ra và có hiệu ứng lên cảm thụ, cái đó là thật: cái "thật" là ngược lại với cái sai lầm và "danh sắc", nhưng bản chất của các cảm thụ hay cái "thật" đó vẫn không nằm ngoài tính Không (Sắc tức thị Không) và bản chất của tính Không vẫn không nằm ngoài các cảm thụ hay cái "thật" đó (Không tức thị Sắc);
Khả năng phát triển tâm linh của mỗi người được thành hình bởi sự phối hợp của những chủng tử có sẵn và những chủng tử sinh ra do kinh nghiệm;
Không có sự mâu thuẫn giữa giáo pháp Trung quán và Duy thức.
Công trình phiên dịch theo niên biểu
Những tác phẩm liệt kê sau đây là một trích đoạn thu gọn từ một phụ lục của cuốn sách Buddhist Phenomenology (London: Curzon, 2000). Xin tham khảo cuốn này để có toàn bộ ghi chú về các tác phẩm nói trên, trong đó có một danh sách những bản dịch và luận giải được viết bằng các ngôn ngữ phương Tây.
Chỉ cần nhìn tổng quát về các bản dịch đầy thành quả của Huyền Trang, ta đã thấy Sư không hề là một nhà luận giải tôn giáo hẹp hòi. Công trình dịch thuật của Sư bao gồm toàn bộ kinh điển đạo Phật, gồm có: Kinh và Luận liên quan đến Duy thức tông, Trung quán tông, Tịnh độ tông, các tác phẩm thuộc về Thắng luận của Nhất thiết hữu bộ, các bộ kinh thuộc Mật tông, một bộ của Thắng luận gia Ấn Độ; các tác phẩm thuộc về Luận lý và Nhân minh học; A-tì-đạt-ma; Đà-la-ni; Thí dụ kinh; Đại thừa kinh; Phương đẳng kinh; các kinh thuộc Thập nhị nhân duyên, lời dạy của Phật trước khi Ngài nhập niết-bàn, các quy định về luật; Ba-la-đề mộc-xoa (nói về giới luật); kinh Bát-nhã-ba-la-mật; các tập ký sự; các bài luận giải về Quán Thế Âm, Di-lặc, Dược Sư, Địa Tạng, A-di-đà... Công trình của Sư được lưu lại trong Đại tạng của Phật giáo Trung Quốc, được xếp đặt theo cách phân chia kinh điển của các giáo phái. Nó cho thấy Sư đã đóng góp trong tất cả mọi phân ngành. Một số dịch phẩm của Sư, như Tâm Kinh hay kinh Kim Cương bát-nhã, đã trở thành trung tâm của mọi nghiên cứu và tu học của Phật giáo châu Á. Một số khác, như bản dịch Kinh Duy-ma-cật sở thuyết của Sư thì lại không bằng các bản dịch của các dịch giả khác. Một số dịch phẩm của Sư thì rất ngắn, một số khác lại dài không ai bằng (bản dịch của Ma-ha-bát-nhã ba-la-mật phải chứa trong ba bộ của Đại Chính tạng. Không có bản kinh Trung Quốc nào có thể sánh gần bằng).
Danh sách sau đây được xếp theo thứ tự thời gian. Về một số kinh sách thì có tư liệu lịch sử rất chính xác, nhưng một số khác thì rất ít hoặc không có. Có một số nghi vấn liên quan đến nơi chốn hay ngày tháng của một số kinh sách nhất định. Trong số các nghi vấn đó thì một phần được ghi chú, một phần khác được bỏ qua.
Các ghi chú ngắn trong nhiều mục trong danh sách dưới đây không nhằm cung cấp thêm thông tin, chúng chỉ gợi thêm quan tâm của người đọc về công trình của Huyền Trang.
Năm 645
1. Đại Bồ Tát Tạng kinh (zh. 大菩薩藏經; sa. bodhisattva-piṭaka-sūtra), 20 quyển, dịch tại Hoằng Phúc tự (zh. 弘褔寺); là một phần của Bảo tích kinh (sa. ratnakūta-sūtra). Phần lớn kinh Bảo tích được dịch bởi Bồ-đề-lưu-chi (sa. bodhiruci, 706) và Trúc Pháp Hộ (sa. dharmarakṣa, 313) mặc dù một số dịch giả khác cũng đã góp phần trích dịch. Theo truyện ký của Huyền Trang thì bộ kinh trọn vẹn cuối cùng Sư được thỉnh dịch chính là kinh Bảo tích này. Sư bắt đầu công trình dịch, nhưng tuổi già và bệnh tật là nguyên nhân cản trở Sư không tiến xa. Vì Đại Bồ Tát tạng kinh là bộ kinh đầu tiên được Huyền Trang dịch sau khi từ Ấn Độ về Trung Hoa nên người ta có thể xem nó mở, và đóng vòng công trình dịch thuật của Sư.
2. Hiển dương thánh giáo luận tụng (顯揚聖教論頌; sa. prakaraṇāryavākā), 1 quyển, tháng 7, tại Hoằng Phúc tự. Tác giả được xem là Vô Trước (zh. 無著; sa. asaṅga). Bản này của Vô Trước lập cơ sở trên bộ Du-già sư địa luận (sa. yogācārabhūmi). Tương truyền Trần-na có viết một luận giải về chương thứ 9 của tác phẩm này với tên Nhập du-già luận (sa. yogāvatāra), hiện không còn tồn tại.
3. Phật địa kinh (zh. 佛地經; sa. buddhabhūmisūtra), 1 quyển, dịch xong ngày 12.08. tại Hoằng Phúc tự.
4. Lục môn đà-la-ni kinh (zh. 六門陀羅尼經; sa. saṇmukhi-dhāranī), 1 quyển, dịch xong ngày 11. 10. tại Hoằng Phúc tự.
5. Hiển dương thánh giáo luận (zh. 顯揚聖教論), 20 quyển, Vô Trước tạo. Dịch từ tháng 10 năm 645 đến tháng 2 năm 646 tại Hoằng Phúc tự. Đây là bản luận giải Hiển dương thánh giáo luận tụng (zh. 顯揚聖教論頌; sa. prakaraṇāryavākā) của Vô Trước.
Năm 646
6. Đại thừa A-tì-đạt-ma tạp tập luận (zh. 大乘阿毗達摩雜集論, sa. abhidharmasamuccaya-vyākhyā), 16 quyển. Gọi tắt là Tạp tập luận (雜集論). Tác giả là An Huệ (zh. 安慧, sa. sthiramati), dịch từ ngày 7 tháng 3 đến 19 tháng 4 tại Hoằng Phúc tự. Đây là bản luận giải A-tì-đạt-ma tập luận (gọi ngắn là Tập luận 集論) của Vô Trước. Đây là tác phẩm duy nhất của An Huệ được Huyền Trang dịch sang Hán văn. Khuy Cơ có viết luận giải về tác phẩm này. Truyền thống Tây Tạng xem Tối Thắng Tử (zh. 最勝子; sa. jinaputra) là tác giả.
7. Đại Đường Tây Vực ký (zh. 大唐西域記), 12 quyển, hoàn tất tại Hoằng Phúc tự. Tác giả là chính Huyền Trang. Dưới lệnh viết của Hoàng Đế, đây là tác phẩm du ký tả lại hành trình xuyên Trung á và Ấn Độ, đến bây giờ vẫn là một trong những tài liệu quan trọng nhất nói về những vùng đất này trong thế kỉ thứ bảy. Tác phẩm này chứa đựng nhiều tài liệu về truyền thống, sự tích Phật giáo, dân số v.v... "Đại Đường" chỉ nhà Đường, và trong một ý nghĩa rộng hơn thì đây cũng là danh hiệu của nước Trung Hoa thời bấy giờ.
Năm 647
8. Đại thừa ngũ uẩn luận (zh. 大乘五蘊論; sa. pañcaskandhaka-prakaraṇa), 1 quyển. Hoàn tất tại Hoằng Phúc tự. Tác giả là Thế Thân (zh. 世親; sa. vasubandhu). Một tác phẩm "Tiền-Duy thức" của Thế Thân.
9. Nhiếp Đại thừa luận Vô Tính thích (zh. 攝大乘論無性釋; sa. mahāyānasaṅgrahopanibandhana), 10 quyển, từ 10.04.647 đến 31.07.649, tại Đại Từ Ân tự (大慈恩寺), tác giả là Cao tăng Vô Tính (zh. 無性, sa. asvabhāva). Đây là bài chú thích Nhiếp đại thừa luận, một trong nhiều phiên bản của bài luận cùng tên của Vô Trước, được Huyền Trang dịch sang Hán văn. Sư dịch Nhiếp Đại thừa luận để chỉnh lại những kiến giải sai lầm của Phật tử Trung Hoa sau khi nghiên cứu những bản dịch của Chân Đế. Nhiếp Đại thừa luận hoặc gọi ngắn là Nhiếp luận (zh. 攝論) là một bài luận căn bản của những đệ tử theo Chân Đế (được gọi là Nhiếp luận tông).
10. Du-già sư địa luận (zh. 瑜伽師地論; sa. yogācārabhūmi-śāstra), 100 quyển. Từ 03.07.646 đến 11.06.648 tại Hoằng Phúc và Đại Từ Ân tự. Tác giả: Di-lặc (彌 勒, sa. maitreya). Tác giả của bộ luận vĩ đại này được xem là Bồ Tát Di-lặc theo truyền thống Trung Hoa, và Vô Trước theo truyền thống Tây Tạng. Huyền Trang xem nó như là bộ bách khoa toàn thư của Du-già hành tông, và Sư sang Ấn Độ cũng vì gắng tìm toàn văn của bộ luận này. Chân Đế cũng dịch một phần của bộ luận du-già này.
11. Giải thâm mật kinh (zh. 解深密經, sa. sandhinirmocana-sūtra), 5 quyển. 8.8. tại Hoằng Phúc tự. Kinh Giải thâm mật thường được xem là bộ kinh đầu tiên diễn giảng giáo lý Du-già một cách phân biệt rõ ràng, ví như "Duy thức", "Tam tự tính", v.v... Kinh này được dịch sang Hán văn nhiều lần, và các dịch giả gồm Bồ-đề-lưu-chi (514), Chân Đế (557) và Cầu-na-bạt-đà-la (679).
12. Nhân minh nhập chính lý luận (zh. 因明入正理論, sa. nyāyapraveśa), 1 quyển. Dịch xong ngày 10. 09. tại Hoằng Phúc tự. Tác giả là Thương-yết-la-chủ (zh. 商 羯羅主; sa. śaṅkarasvāmin). Bài luận về Luận lý học Ấn Độ đầu tiên được dịch sang Hán văn, trình bày quan điểm luận lý của Trần-na (sa. dignāga)
Năm 648
13. Thiên thỉnh vấn kinh (zh. 天請問經; sa. devatā-sūtra), 1 quyển. 17.04.648 tại Hoằng Phúc tự.
14. Thập cú nghĩa luận (zh. 十句義論; sa. vaiśeṣika-daśapadārtha-śāstra), 1 quyển. 11.06.648 tại Hoằng Phúc tự. Tác giả: Huệ Nguyệt (zh. 慧月; sa. maticandra). Đây là một bài luận của Thắng luận gia (sa. vaiśeṣika). Cú (句, sa. padārtha) ở đây là những thành phần căn bản của hiện thật (en. reality). Thắng luận gia thường đề ra 9 cú hơn là 10 cú.
15. Duy thức tam thập luận (zh. 唯識三十論; sa. triṃśikā), 1 quyển. 25.06.648 tại Hoằng Phúc tự. Tác giả: Thế Thân (zh. 世親; sa. vasubandhu). Đây là bài luận gốc mà luận Thành duy thức dùng làm cơ sở. Tên Trung Hoa của luận này có thể dịch ngược sang Phạn ngữ là Triṃśikā-vijñapti-mātra-śāstra.
16. Kim cương bát-nhã kinh (zh. 金剛般若經, sa. vajracchedikā-sūtra), 1 quyển. Dịch tại Đại Từ Ân tự. Có nhiều bản dịch của kinh này: Cưu-ma-la-thập (401), Bồ-đề-lưu-chi (509), Chân Đế (558), Nghĩa Tịnh (703), nhưng bản dịch của Huyền Trang đã trở thành bản dịch tiêu chuẩn của Phật giáo Đông á.
17. Bách pháp minh môn luận (zh. 百法明門論; sa. mahāyāna-śatadharmā-prakāśamukha-śāstra), 1 quyển. 07.12. tại Hoằng Pháp viện (弘 法 院), tác giả là Thế Thân. Trong luận này, Thế Thân liệt kê 100 pháp theo quan điểm Du-già hành tông cũng như phân loại chúng.
18. Nhiếp Đại thừa luận Thế Thân thích (zh. 攝大乘論世親釋; sa. mahāyānasaṅgraha-bhāṣya), 10 quyển. Dịch tại điện Bắc Quyết (北闕) và Đại Từ Ân tự. Tác giả: Thế Thân.
Năm 649
19. Nhiếp Đại thừa luận bản (zh. 攝大乘論本; sa. mahāyānasaṅgraha), 3 quyển. Từ 14.01. đến 31.07.649 tại Đại Từ Ân tự. Tác giả: Vô Trước. Bản dịch của Chân Đế rất được phổ biến trong thế kỉ thứ sáu, ngay cả thời Huyền Trang. Và việc Sư chọn dịch tất cả những luận giải của Nhiếp luận (số 9 và 18 bên trên) – trong đó có một bản của Thế Thân – trước khi dịch nguyên bản chứng tỏ rằng, Sư muốn chỉnh lý những khái niệm sai lầm được dẫn khởi bởi những điểm, những tư tưởng sai lầm trong bản dịch của Chân Đế. Trước khi đưa ra một bản dịch mới, Sư trình bày những luận giải tiêu chuẩn để giảm đi phần nào lập trường của Chân Đế.
20. Duyên khởi thánh đạo kinh (zh. 緣起聖道經; sa. nidāna-sūtra), 1 quyển. Ngày 17 tháng 3 tại Hoằng Pháp viện. Kinh này nói về Duyên khởi.
21. Thức thân túc luận (zh. 識身足論; sa. abhidharma-vijñāna-kāya-pāda-śāstra), 16 quyển. Từ 03.03. đến 19.09.649 tại Hoằng Pháp viện và Đại Từ Ân tự. Tác giả: Đề-bà-thiết-ma (zh. 提婆設摩; sa. devakṣema). Bài luận thứ ba trong A-tì-đạt-ma tạng của Thuyết Nhất thiết hữu bộ (sa. sarvāstivāda).
22. Như Lai thị giáo Thắng Quân vương kinh (zh. 如來示教勝軍王經; sa. rājavavādaka-sūtra), 1 quyển. 24.03. tại Đại Từ Ân tự. Phật dạy vua Ba-tư-nặc (sa. prasenajit; dịch ý là Thắng Quân 勝軍) tu hành như thế nào để là một ông vua tốt. Kinh này ít nhất mang hai ý nghĩa đối với Huyền Trang. Thứ nhất là một người bạn và cũng là thầy quan trọng tại Ấn Độ của Sư cũng mang tên Thắng Quân (勝軍). Vua Ba-tư-nặc là người cùng thời với đức Phật và có cùng tuổi: sinh cùng ngày với đức Phật, ông thừa kế vua cha lên ngôi, khác với trường hợp đức Phật là từ khước ngôi vị, trở thành một tu sĩ khất thực; Vua Ba-tư-nặc cũng trở thành một đệ tử Phật. Thứ hai, nó là một câu trả lời của Huyền Trang dành cho Hoàng Đế bấy giờ, người thường bắt buộc Sư trình bày những tin tức thâu thập được trong chuyến du hành vừa qua về những miền đất phía Tây Trung Hoa – phần lớn vì ôm ấp mộng xâm lược. Đại Đường Tây vực ký là câu trả lời của Sư, đưa ra tin tức rõ ràng về chùa chiền, địa lý và phong tục, nhưng ít tài liệu có thể sử dụng trong quân sự.
23. Thậm hi hữu kinh (zh. 甚希有經; sa. adbhūta-dharma-paryāya sūtra), 1 quyển. 02.07. tại Thuý Vi cung (翠微宮), Chung Nam sơn (終南山).
24. Bát-nhã tâm kinh (zh. 般若心經; sa. prajñā-pāramitā-hṛdaya-sūtra), 1 quyển. 08.07. tại cung Thuý Vi. Tên đầy đủ của kinh này là Bát-nhã-ba-la-mật-đa tâm kinh (般若波羅密多心經), được dịch nhiều lần sang Hán ngữ. Bản dịch của Huyền Trang trở thành bản dịch tiêu chuẩn, rất được ưa chuộng tại Trung Hoa, Nhật Bản và Triều Tiên (cũng như Việt Nam). Bản này được tụng niệm mỗi ngày bởi Tăng ni, giới cư sĩ khắp Đông á hơn suốt một ngàn năm nay. Có nhiều bản dịch Anh ngữ.
25. Bồ Tát giới yết-ma văn (菩薩戒羯磨文), 1 quyển. 28.08. tại Đại Từ Ân tự. Tác giả: Di-lặc (彌勒). Bản này được trích từ bộ luận Du-già sư địa.
26. Vương pháp chính lý kinh (王法正理經), 1 quyển. 31.08. tại Đại Từ Ân tự. Tác giả: Di-lặc (彌勒)
27. Tối vô tỉ kinh (最無比經), 1 quyển. 01.09. tại Đại Từ Ân tự.
28. Bồ Tát giới bản (菩薩戒本; sa. bodhisattva-śīla-sūtra), 1 quyển. 03. 09. tại Đại Từ Ân tự (hoặc cung Thuý Vi năm 647). Tác giả: Di-lặc (彌勒). Bồ Tát giới bản này được truyền thống Trung Hoa xem là của Di-lặc, Tây Tạng xem là của Vô Trước. Bản này được xem là giới luật của Du-già hành phái, được sử dụng thực hành nghi lễ cho tăng và ni. Bản Yết-ma (bản dịch 25 bên trên) được phát huy trên cơ sở của quyển này.
29. Đại thừa chưởng trân luận (zh. 大乘掌珍論; sa. karatala-ratna), 2 quyển. 19-24.10. tại Đại từ Ân tự. Tác giả: Thanh Biện (清辯; sa. bhāvaviveka). Văn bản Trung quán đầu tiên được dịch bởi Huyền Trang. Sự tranh chấp giữa Trung quán và Du-già đang ở mức căng thẳng khi Huyền Trang đến Na-lan-đà, tập trung vào học thuyết của Thanh Biện (Trung quán phái) một bên, và An Huệ và Hộ pháp (Du-già phái) một bên.
30. Phật địa kinh luận (佛地經論; sa. buddhabhūmi-sūtra-śāstra), 7 quyển. 12.11.649 đến 02.01.650. Tác giả: Thân Quang (親光; sa. bandhuprabha) và nhiều người khác. Chứa nhiều lời bình giảng về Phật địa kinh. Vì một vài đoạn văn ở đây được tìm thấy trong luận Thành duy thức, một vài người phỏng đoán rằng, tác giả của chúng là Hộ pháp (mặc dù bản văn này cũng như Thành duy thức luận không nói một cách rõ rệt như thế). Một bản dịch của một lời bình giảng Tây Tạng cũng có những đoạn văn trùng hợp văn bản này; Tây Tạng cho rằng, tác giả của bản bình giảng ấy là Giới Hiền (sa. śīlabhadra), viện trưởng của Na-lan-đà trong lúc Huyền Trang du học tại Ấn Độ.
Năm 650
(Năm đầu tiên lên ngôi Hoàng Đế của Đường Cao Tông 高宗. Thân phụ của ông là Đường Thái Tông 太宗 ủng hộ Huyền Trang cực lực. Cao Tông, rất tin vào Đạo giáo và ý niệm mình là con cháu Lão Tử giáng trần, tiếp tục ủng hộ nhưng không nhiệt tình như trước.)
31. Nhân minh chính lý môn luận bản (因明正理門論本; sa. nyāyamukha), 1 quyển. 01. 02. tại Đại Từ Ân tự. Tác giả: Trần-na (陳那; sa. dignāga). Một trong những tác phẩm căn bản của Trần-na về Nhân minh học (Luận lý học).
32. Xưng tán Tịnh độ Phật nhiếp thụ kinh (稱讚淨土佛攝受經; sa. sukhāvatīvyūha), 1 quyển. Đại Từ Ân tự. Một bài kinh quan trọng trong Tịnh Độ tông.
33. Du-già sư địa luận thích (瑜伽師地論釋; sa. yogācārabhūmi-śāstra-kārikā), 1 quyển. Tác giả Tối Thắng Tử (最勝子; sa. jinaputra). Bản bình giải của Tối Thắng Tử về Du-già sư địa luận. Còn một bản Phạn ngữ, được dịch sang Pháp ngữ bởi Sylvain Lévy, 2 quyển, Paris, 1911.
34. Phân biệt duyên khởi sơ thắng pháp môn kinh (分別緣起初勝法門經; sa. vikalpa-pratītya-samutpāda-dharmottara-praveśa-sūtra), 2 quyển. 10.03. tại Đại Từ Ân tự. Một bài kinh khác với chủ đề Duyên khởi (pratītya-samutpāda).
35. Thuyết Vô Cấu Xứng kinh (說無垢稱經; sa. vimalakīrti-nirdeśa-sūtra), 6 quyển. Đại Từ Ân tự. Kinh này rất được ưa chuộng tại Trung Hoa – bởi vì nhân vật chính trong đó là một vị cư sĩ giác ngộ, trí huệ vượt hẳn tất cả những vị đệ tử, Bồ Tát cao đẳng nhất của đức Phật, chứng minh là giới cư sĩ có thể đạt một cấp bậc giác ngộ cao hơn tăng chúng –, được dịch sang Hán ngữ 5 lần trước bản dịch của Huyền Trang: Cưu-ma-la-thập (406), Chi Khiêm (223-228), Trúc Pháp Hộ (308), Upaśūnya (545), Xà-na Quật-đa (591). Bản dịch của Cưu-ma-la-thập trở thành bản dịch tiêu chuẩn phần lớn vì trình độ văn chương.
36. Dược Sư (Lưu Li Quang Như Lai) bản nguyện công đức kinh (藥師(流璃光如來)本願功德經; sa. bhaiṣajya-guru-vaiḍūrya-prabhāsa-pūrvapraṇidhāna-viśeṣa-vistara), 1 quyển. 09.06. tại Đại Từ Ân tự. Một bài kinh quan trong về Phật Dược Sư. Tại Nhật, Pháp Tướng tông (ja. hossō) được xem là có mối liên hệ với Phật Dược Sư (ja. yakushi) và cho đến ngày nay, nhiều chùa chiền còn lại từ thời Nại Lương vẫn còn những chính điện thờ Phật Dược Sư, và những ngôi chùa chính của tông Pháp Tướng với tên Dược Sư tự.
37. Đại thừa quảng bách luận bản (大乘廣百論本; sa. catuḥśataka), 1 quyển. 13.07.650-30. 01. 651 tại Đại Từ Ân tự. Tác giả: Thánh Thiên (聖 天; sa. āryadeva). Một bài luận quan trọng của Thánh Thiên, đệ tử quan trọng nhất của Long Thụ.
38. Đại thừa quảng bách luận thích luận (大乘廣百論釋論), 10 quyển. 30.07.650-30.01.651 tại Đại Từ Ân tự. Tác giả: Thánh Thiên (聖天; sa. āryadeva), Hộ pháp (護法; sa. dharmapāla). Hộ pháp chú thích một bài văn của Thánh Thiên, như vậy là diễn giải một bài luận căn bản của Trung quán theo quan điểm Duy thức. Một vài đoạn văn ở đây được tìm thấy trong Thành duy thức luận.
39. Bản sự kinh (本事經; sa. itivṛttaka-sūtra), 7 quyển. 10. 10. đến 06.12. tại Đại Từ Ân tự.
40. Chư Phật tâm đà-la-ni kinh (諸佛心陀羅尼經; sa. buddha-hṛdaya-dhāranī), 1 quyển. 26. 10 tại Đại Từ Ân tự.
Năm 651
41. Thụ trì thất Phật danh hiệu (sở sinh) công đức kinh (受持七佛名號[所生]功德經), 1 quyển. 04.02. tại Đại Từ Ân tự.
42. Đại thừa đại tập Địa Tạng thập luân kinh (大乘大集地藏十輪經; sa. daśa-cakra-kṣitigarbha-sūtra), 10 quyển. 18.02.651-09.08.652. Theo Nakamura thì kinh này được biên tập bởi những vị tăng nói tiếng Iran.
43. A-tì-đạt-ma tạng hiển tông luận (阿毘達磨藏顯宗論; sa. abhidharma-samayapradīpika hoặc abhidharmakośa-śāstra-kārikā-vibhāṣya), 40 quyển. 30.04.651 đến 26.11.652. Tác giả là Tôn giả Chúng Hiền (尊者眾賢; sa. saṅghabhadra). Bộ luận này và A-tì-đạt-ma thuận chính lý luận (sa. nyāyānusāra, số 49 bên dưới) là hai luận giải thuộc A-tì-đạt-ma tạng của Chúng Hiền (một người đồng thời trẻ tuổi hơn của Thế Thân, đại diện cho Thuyết Nhất thiết hữu bộ) được Huyền Trang dịch sang Hán ngữ. Bộ luận này chỉ trích luận A-tì-đạt-ma-câu-xá (số 44 bên dưới) của Thế Thân trên luận điểm bảo thủ của Thuyết Nhất thiết hữu bộ.
44. A-tì-đạt-ma câu-xá luận (阿毘達磨俱舍論; sa. abhidharmakośa-bhāṣya), 30 quyển. Từ 03.06.651 đến 13.09.654 tại Đại Từ Ân tự. Tác giả là Thế Thân (世親). Tác phẩm "Tiền du-già" quan trọng nhất của Thế Thân, cũng được gọi ngắn là Câu-xá luận (俱舍論). Bao gồm kệ tụng (cũng được dịch riêng dưới số 45 bên dưới) với diễn giảng, luận Câu-xá tổ chức và giản lược các học thuyết trong Luận tạng của Thuyết nhất thiết hữu bộ, nhưng không thiếu tinh thần dè dặt phê phán và vì vậy, hấp thụ những kiến giải, lập trường được xem là của những trường phái Phật giáo khác, ví như Kinh lượng bộ. Có thể là nỗi bận tâm này khiến Sư sau này trở thành một đại biểu của Du-già hành tông.
45. A-tì-đạt-ma câu-xá luận bản tụng (阿毘達磨俱舍論本頌; sa. abhidharmakośa), 1 quyển. Được dịch tại Đại Từ Ân tự. Tác giả: Thế Thân.
46. Đại thừa thành nghiệp luận (大乘成業論; sa. karma-siddhi-prakaraṇa), 1 quyển. 24.09. tại Đại Từ Ân tự. Tác giả: Thế Thân. Đây là một tác phẩm trung gian, cho thấy sự phát triển tư tưởng của Thế Thân từ luận Câu-xá đến bây giờ, nhưng chưa phải là tư tưởng Du-già (Duy thức).
Năm 652
47. Đại thừa a-tì-đạt-ma tập luận (大乘阿毘達磨集論; sa. abhidharmasamuccaya), 7 quyển. Tác giả: Vô Trước (無著; sa. asaṅga). Một tác phẩm Du-già quan trọng của Vô Trước, được gọi ngắn là Tập luận (集論).
48. Phật lâm niết-bàn ký pháp trú kinh (佛臨涅槃記法住經), 1 quyển. 17.05. tại Đại Từ Ân tự. Kinh này trình bày một phiên bản khác của thuyết "mạt pháp" mà trong đó, Phật pháp sẽ suy tàn trong mười cấp bậc, mỗi bậc kéo dài một thế kỉ. Vì trong thời gian cuối cùng tại Ấn Độ, Huyền Trang có một giấc mộng chấn động mạnh, báo rằng Phật pháp sẽ đến thời kì kết thúc tại Ấn Độ nên bộ kinh nêu trên có thể có mối tương quan đặc biệt với những ấn tượng tại Ấn Độ của sư.
Năm 653
49. A-tì-đạt-ma thuận chính lý luận (阿毘達磨順正理論; sa. abhidharmanyāyānusāraśāstra), 80 quyển. 03.02.653-27.08.654. Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền (尊者眾賢; sa. saṅghabhadra). Một bộ luận bảo thủ thuộc Luận tạng của Thuyết nhất thiết hữu bộ, được Chúng Hiền biên soạn, người cũng đã viết một bài luận chỉ trích luận Câu-xá (số 43). Dài và dễ hiểu hơn luận Câu-xá.
Năm 654
50. Đại A-la-hán Nan-đề Mật-đa-la sở thuyết pháp trú ký (大阿羅漢難提蜜羅所說法住記; sa. nandimitrāvadāna), 1 quyển. 08.06.654. Một phần trích từ kinh Đại Bát-niết-bàn (sa. mahāparinirvāṇasūtra) – cũng được gọi ngắn là Pháp trú lập – mà trong đó, Na-đề Mật-đa-la thuật lại việc Phật phó chúc Pháp trú đến 16 vị A-la-hán và đệ tử của họ, khuyên họ bảo vệ Pháp trú như thế nào ngay trước khi ngài nhập niết-bàn.
51. Xưng tán Đại thừa công đức kinh (稱讚大乘功德經), 1 quyển. 24.07. tại Đại Từ Ân tự.
52. Bạt tế khổ nạn đà-la-ni kinh (拔濟苦難陀羅尼經), 1 quyển. 15.10. tại Đại Từ Ân tự.
53. Bát danh phổ mật đà-la-ni kinh (八名普密陀羅尼經), 1 quyển. 11.11. tại Đại Từ Ân tự. Những người tụng niệm tám danh hiệu này sẽ không bao giờ đoạ địa ngục, nhưng khi lâm chung, chư Phật sẽ xuất hiện và thuyết pháp giảng dạy họ. Sau khi chết, họ sẽ tái sinh tại cung trới Đâu-suất của Bồ Tát Di-lặc. Trong Đát-đặc-la Đông á, một số cách tụng niệm "Bát danh" có tương quan đến đức Di-lặc.
54. Hiển vô biên Phật độ công đức kinh (顯無邊佛土功德經; sa. tathāgatāṇaṃ-buddhakṣetra-guṇokta-dharma-paryāya[-sūtra]), 1 quyển. 12.11.654 tại Đại Từ Ân tự.
55. Thắng tràng tí ấn đà-la-ni kinh (勝幢臂印陀羅尼經), 1 quyển. 13.11.654 tại Đại Từ Ân tự.
56. Trì thế đà-la-ni kinh (持世陀羅尼經; sa. vasudhāra-dhāranī), 1 quyển. 24.11. tại Đại Từ Ân tự.
Năm 655
...
Năm 656
57. Thập nhất diện thần chú tâm kinh (十一面神咒心經; sa. avalokiteśvaraikādaśamukha-dhāranī), 1 quyển. 17.04. tại Đại Từ Ân tự. Quán Âm với mười một gương mặt có liên hệ đến phái Du-già tại Đông á, đặc biệt tại Nhật Bản trong thời kì Nại Lương (vào lúc Pháp Tướng tông tại đây đang thịnh hành). Nhiều bức tượng đá vẫn còn tồn tại tại Nhật Bản ngày nay là biểu trưng của thời Nại Lương: trình bày Quán Thế Âm với mười hai gương mặt bao quanh gương mặt chính.
58. A-tì-đạt-ma đại tì-bà-sa luận (阿毘達磨大毘婆沙論; sa. [abhidharma-]mahāvibhāṣa), 200 quyển. 18.08.656-27.07.659. Tác giả: 500 vị A-la-hán. Tác phẩm vĩ đại này rất quan trọng đối với Luận tạng của hệ phái Thuyết Nhất thiết hữu, chiếm giữ trọn một bộ phần của Đại chính tân tu Đại tạng kinh (100 bộ). Luận này bao gồm 8 phần với 43 chương, nguyên là một bài luận giải A-tì-đạt-ma phát trí luận, có lẽ được soạn tại Kashmir. 500 vị A-la-hán – thường được bàn luận trong những bộ kinh như Pháp Hoa, Niết-bàn, và đặc biệt được tôn thờ trong Thiền tông – được xem là những người biên tập bộ luận Đại Tì-bà-sa này 400 năm sau khi Phật nhập niết-bàn, trong một cuộc hội họp kết tập được vua Ca-nị-sắc-ca tổ chức. Có hai bản dịch Hán ngữ khác: Một bản được dịch trong những năm 425-27 bởi Buddhavarmin và những vị khác, bao gồm 110 quyển nhưng 50 quyển đã bị thất lạc trong thời nhà Lương và một bản dịch khác của Tăng-già Bạt-trừng (僧伽跋澄; sa. saṅghabhadra hoặc saṅghadeva), bao gồm 20 quyển.
Năm 657
59. A-tì-đạt-ma phát trí luận (阿毘達磨發智論; sa. [abhidharma-] jñānaprasthāna-śāstra), 20 quyển. 14.02.657-20.06.660 tại cung Ngọc Hoa (玉華). Tác giả: Già-đa-diễn-khả-tử (迦多衍可子; sa. katyāyanīputra). Bộ luận thứ bảy trong Luận tạng của Thuyết nhất thiết hữu bộ. Nhìn một cách rộng mở thì – cùng với Đại Tì-bà-sa luận, bài luận giải về chính nó – đây là bộ luận trung tâm của Thuyết nhất thiết hữu bộ.
60. Quán sở duyên duyên luận (觀所緣緣論; sa. ālambana-parikṣā), 1 quyển. Dịch tại Đại Nội Li Nhật điện (大內麗日殿). Tác giả: Trần-na (陳那; sa. dignāga). Một tác phẩm về Nhận thức học (Lượng học) của Trần-na, đã được dịch sang Hán ngữ trước đó bởi Chân Đế.
Năm 658
61. Nhập a-tì-đạt-ma luận (zh. 入阿毘達磨論; sa. abhidharmāvatāra-prakaraṇa), 2 quyển. 13.11. tại Đại Từ Ân tự. Tác giả: Tắc-kiền-đà-la (塞建陀羅; sa. skandhila). Theo Nakamura, một vài phần còn lại của nguyên bản tại Tocharia cũng như bản Tây Tạng thì Huyền Trang dịch bài luận này một cách "tuỳ tiện".
Năm 659
62. Bất không quyên sách thần chú tâm kinh (zh. 不空罥索神咒心經; sa. amoghapāśahṛdaya-śāstra), 1 quyển. 15.05. tại Đại Từ Ân tự.
63. A-tì-đạt-ma pháp uẩn túc luận (阿毘達磨法薀足論; sa. abhidharma-dharmaskandha-pāda-śāstra), 12 quyển. 20.08. đến 05.10. tại Đại Từ Ân tự. Tác giả: Tôn giả Đại Mục-kiền-liên (尊者大目乾連; sa. mahāmāudgalyāyana). Bộ luận thứ năm trong A-tì-đạt-ma của Thuyết Nhất thiết hữu bộ, thường được truyền thống Phật giáo xem là của một trong hai Đại đệ tử của đức Phật, một là Đại Mục-kiền-liên hay là Xá-lợi-phất, nhưng có lẽ được biên tập hai hoặc ba thế kỉ sau khi Phật nhập niết-bàn.
64. Thành duy thức luận (成唯識論; sa. vijñaptimātrasiddhiśāstra), 10 quyển. Tháng 10 hoặc 11 tại cung Ngọc Hoa. Tác giả: Huyền Trang, được truyền thống xem là của Hộ pháp và những tác giả khác. Việc gán bài luận này vào Hộ pháp của Khuy Cơ có những điểm không ổn (xem chương 15 trong Buddhist Phenomenology). Đây là bản dịch duy nhất của Huyền Trang không dựa vào một bản gốc mà thay vào đó, một cách tuyển chọn, biên dịch từ nhiều bản khác nhau (theo truyền thống là 10 bộ luận). Bởi vì Khuy Cơ theo giáo lý của bộ luận này trong khi xem tự mình là đệ tử kế thừa Huyền Trang, truyền thống Phật giáo Đông á xem Thành duy thức luận là biểu trưng trung tâm của học thuyết Huyền Trang.
Năm 660
65. Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa kinh (大般若波羅蜜多經; sa. mahā-prajñā-pāramitā-sūtra), 600 quyển. 16.02.660 đến 25.11.663, tại Ngọc Hoa cung (玉華宮). Tác phẩm vĩ đại này với tổng cộng 600 quyển chiếm giữ trọn vẹn ba bộ của Đại chính tân tu, bao gồm những bài kinh nổi danh như Kim Cương, và là một trong những bộ kinh hệ Bát-nhã đầy đủ nhất. Huyền Trang có ý định giản lược để tránh trường hợp trùng lặp trong khi dịch nhưng bị một giấc mộng ngăn cản, vì vậy nên Sư dịch bộ kinh Bát-nhã này trọn vẹn.
66. A-tì-đạt-ma phẩm loại túc luận (阿毘達磨品類足論; sa. abhidharma-prakaraṇa-pāda), 18 quyển. 10.10. đến 30.11. tại Ngọc Hoa cung. Tác giả: Tôn giả Thế Hữu (尊者世友; sa. vasumitra). Bộ luận thứ hai trong A-tì-đạt-ma của Thuyết nhất thiết hữu bộ. Bao gồm: Thuật ngữ, phân loại và lập trường.
67. A-tì-đạt-ma tập dị môn túc luận (阿毘達磨集異門足論; sa. abhidharma-saṅgītī-paryāya-pāda-śāstra), 20 quyển. 02.01.660 đến 01.02.664, tại Ngọc Hoa cung. Tác giả: Tôn giả Xá-lợi tử (尊者舍利子; sa. śāriputra). Bộ luận thứ nhất trong A-tì-đạt-ma của Thuyết Nhất thiết hữu bộ, được truyền thống Tây Tạng xem là của Mahākauṣṭhila, được Yaśomitra xem (trong bài luận giải của chính mình) là của Phú-lâu-na (sa. pūrṇa). Giáo lý được sắp xếp theo nhóm pháp số.
Năm 661
68. Biện trung biên luận tụng (辯中邊論頌; sa. madhiānta-vibhāga-kārikā), 1 quyển. 03.06. tại Ngọc Hoa cung. Tác giả: Di-lặc (彌勒). Kệ tụng căn bản của một bài luận Du-già; tác giả được xem là Di-lặc hoặc Vô Trước.
69. Biện trung biên luận (辯中邊論; sa. madhyānta-vibhāga-bhāṣya), 1 quyển. 12.06. đến 02.07. tại Ngọc Hoa cung. Tác giả: Thế Thân (世親). Bài giảng giải những kệ tụng trong Biện trung biên luận tụng (辯中邊論頌), được xem là của Thế Thân.
70. Duy thức nhị thập luận (唯 識 二 十 論; sa. viṃśatikā-vṛtti), 1 quyển. 03.07. tại Ngọc Hoa cung. Tác giả: Thế Thân. Một trong những tác phẩm triết học Duy thức quan trọng nhất của Thế Thân.
71. Duyên khởi kinh (緣起經; sa. pratītya-samutpāda divibhaṅga-nirdeśa-sūtra), 1 quyển. 09.08.661. Một bài kinh nói về Nhân duyên sinh, có những điểm giống với kinh thứ 33 trong Trung bộ kinh (pi. majjhima-nikāya): Mahāgopalaka-sutta.
Năm 662
72. Dị bộ tông luân luận (異部宗輪論; sa. samaya-bhedoparacana-cakra), 1 quyển. 02.09. tại Ngọc Hoa cung. Tác giả: Thế Hữu (theo truyền thống Tây Tạng). Một cách nhìn tổng quát về 20 bộ phái theo quan điểm Thuyết nhất thiết hữu bộ.
Năm 663
73. A-tì-đạt-ma giới thân túc luận (阿毘達磨界身足論; sa. abhidharma-dhātu-kāya-pāda-śāstra), 3 quyển. 14.04. tại Ngọc Hoa cung. Tác giả: Tôn giả Thế Hữu (尊者世友). Bộ luận thứ ba trong A-tì-đạt-ma của Thuyết nhất thiết hữu bộ. Phân loại, liệt kê tâm pháp.
74. Ngũ sự tì-bà-sa luận (五事毘婆沙論; sa. pañca-vastuka-vibhāṣa), 2 quyển. 18.11. tại Đại Từ Ân tự. Tác giả: Tôn giả Pháp Cứu (尊者法救; sa. dharmatrāta). Một bài luận theo lối A-tì-đạt-ma về sắc, tâm và tâm sở hữu.
75. Tịch chiếu thần biến tam-ma-địa kinh (寂照神變三摩地經; sa. praśānta-viniścaya-prātihārya-samādhi-sūtra), 1 quyển. 01. 02. 664 (hoặc 12.02.665) tại cung Ngọc Hoa.
Năm 664
76. Chú ngũ thủ kinh (咒五首經), 1 quyển. 02. 02. tại Ngọc Hoa cung.
77. Bát thức quy củ tụng (八識規矩頌). Tác giả: Huyền Trang. Bài được Huyền Trang biên soạn (thay vì thường gặp là ‘dịch’) này không được tìm thấy trong Đại chính tân tu, mặc dù một bài luận của Phổ Thái (普泰) nhắc đi nhắc lại là chính văn nằm trong Đại chính tân tu (Taishō 45, 467-476) với tên Bát thức quy củ bổ chú (八識規矩補註). Luận này bao gồm những luận đề tương tự Thành duy thức luận, nhưng được tổ chức, biên soạn khác một chút.
Qua đời
Trưa ngày 5 tháng 2 năm 664, Thầy Huyền Trang gác bút nghìn thu tại chùa Ngọc Hoa, vì bệnh tật và già yếu. Thọ 62 tuổi. Ngày 14 tháng 4 thi hài Huyền Trang được an táng tại Bạch Lộc Nguyên. . Từ xưa đến nay chưa có vị sư nào được ngưỡng mộ sùng bái bằng vị Thánh Tăng có một không hai này.
Xem thêm
Tây du ký
Đường Tăng (nhân vật tiểu thuyết)
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sự thật về Trần Huyền Trang trên Thư Viện Hoa Sen ().
Đường Tam Tạng thỉnh kinh ()
Sinh năm 602
Đại sư Phật giáo
Người nhà Đường
Người Hà Nam (Trung Quốc)
Nhân vật Tây du ký
Nhà thám hiểm Trung Quốc
Mất năm 664
|
26999
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Viagra
|
Viagra
|
Viagra là tên hiệu của thuốc Sildenafil dùng để giúp chứng liệt dương ở nam giới, do công ty Pfizer Inc. sản xuất.
Viagra là một loại thuốc được sử dụng để điều trị rối loạn chức năng cương dương và tăng huyết áp động mạch phổi. Hiệu quả điều trị rối loạn chức năng tình dục ở phụ nữ chưa được chứng minh.
Tác dụng phụ thường gặp bao gồm đau đầu và ợ nóng, cũng như da đỏ bừng. Cần thận trọng ở những người mắc bệnh tim mạch. Tác dụng phụ hiếm gặp nhưng nghiêm trọng bao gồm cương cứng kéo dài, có thể dẫn đến tổn thương dương vật và mất thính lực đột ngột. Không nên dùng Sildenafil cho những người dùng nitrat như nitroglycerin (glycerin trinitrate), vì điều này có thể dẫn đến giảm huyết áp nghiêm trọng và có khả năng gây tử vong.
Sildenafil hoạt động bằng cách ức chế phosphodiesterase loại 5 cụ thể (phosphodiesterase 5, PDE5), một enzyme thúc đẩy sự thoái hóa cGMP, điều hòa lưu lượng máu trong dương vật.
Các nhà khoa học Pfizer Andrew Bell, David Brown, và Nicholas Terrett ban đầu đã phát hiện ra sildenafil như một phương pháp điều trị các chứng rối loạn tim mạch khác nhau. Kể từ khi trở thành có sẵn vào năm 1998, sildenafil đã được điều trị phổ biến cho rối loạn cương dương; đối thủ cạnh tranh chính của nó là tadalafil (tên thương mại Cialis) và vardenafil (Levitra).
Lịch sử
Năm 1992, tại thành phố Mertir Tidefeel của xứ Wales, Viagra được nghiên cứu như thuốc điều trị cao huyết áp. Trong quá trình thử nghiệm người ta đã phát hiện ra một hiệu ứng phụ của thuốc này là làm tăng độ cương cứng của dương vật người dùng.
Thành phần hoá học
Sildenafil citrate có khả năng ngăn chặn hóa chất cGMP - specific PDE5 (phosphodiesterase type 5), là PDE isoenzyme chính yếu trong thể hang của dương vật.
Công thức hóa học là C22H30N6O4S•C6H807
1-[4-ethoxy-3-(6, 7-dihydro-1-methyl-7-oxo-3-propyl-1H-pyrazolo[4, 3-d]pyrimidin-5-yl)phenylsulphonyl]-4-methylpiperazine citrate.
CAS number 171, 599-83-0.
Chất màu trắng ngà, bột tinh thể, trọng lượng phân tử 666,7. Khả năng hòa tan 2.6 mg mỗi mililit (ở 25 độ C).
Mỗi viên Viagra còn có các chất (không tác dụng dược học).
Tác dụng dược học
Viagra là thuốc uống giúp chữa chứng liệt dương bằng cách tăng lượng máu tràn vào dương vật khi có xúc cảm tình dục.
Phân loại
Chỉ định
Viagra có tác dụng tốt với:
Người yếu sinh lý nói chung
Tổn thương cột sống, tuỷ sống, yếu sinh lý do vấn đề tâm lý
Viagra có tác dụng cả với phụ nữ trong việc tăng cường lưu lượng máu tới cho cơ quan sinh dục nữ
Cơ chế
Viagra làm tăng sự cương cứng bằng cách điều hòa vận hành mạch ở dương vật, ức chế men phosphodiesteraza 5 (PDE 5), nhờ đó làm chất GMP (tiết ra trong lúc hứng khởi tình dục) tồn tại lâu, giúp máu tới dương vật nhiều hơn. Hiệu quả của Viagra đạt tới 80%.
Liều lượng
Một viên Viagra trung bình là 100 mg. Nên bắt đầu thử với 50 mg. Nếu có tác dụng thì thử dùng liều lượng thấp hơn - 25 mg. Nếu không thấy có tác dụng thì hãy thử với 100 mg. Viagra có tác dụng trong 1 ngày (24h), do đó, không nên dùng 2 viên trong 1 ngày. Viagra không có tác dụng trong ngày hôm sau.
Chống chỉ định
Những người bị bệnh tim hoặc các bệnh đang điều trị bằng thuốc có nitrat không nên dùng Viagra, vì có thể gây giảm lưu lượng máu kéo dài và nghiêm trọng ở các động mạch vành vốn đã hẹp nhiều.
Người bị huyết áp cao hay thấp, bị viêm võng mạc sắc thì cần hỏi ý kiến thầy thuốc trước khi dùng Viarga. Tác dụng của Viagra trên những bệnh này chưa được nghiên cứu đầy đủ.
Theo nghiên cứu của công ty Pfizer thuốc có thể sử dụng cho người bị bệnh tim, cao huyết áp, tiểu đường... với ý kiến bác sĩ.
Tác dụng phụ
Nhức đầu
Nóng bừng mặt, mờ mắt
Khó tiêu
Lồng ngực đau nhói, khó thở (có thể dẫn đến ngất xỉu)
Cơ sở pháp lý
Khía cạnh đạo đức
Lạm dụng
Hệ thống phân phối
Hiện nay thuốc đã được phân phối rộng rãi trên hệ thống bệnh viện và nhà thuốc trên toàn quốc với giá tham khảo 500,000vnd vỉ 4 viên liều 50 mg, 800,000VND cho vỉ 4 viên liều 100 mg. Lưu ý nếu thuốc được phân phối với giá một nửa giá tham khảo ở trên rất có thể là thuốc giả không đạt chất lượng.
Hình ảnh
Xem thêm
Bao cao su
Dương vật
Quan hệ tình dục
Liệt dương
Tham khảo
Liên kết ngoài
Tiếng Anh:
Home page for Viagra
Pfizer Pharmaceutical (Company website) - manufacturer of Viagra; prescribing information available in PDF format.
FDA Web Site for Viagra Consumer Information
FDA current Viagra label (a form of clinical information and report)
MedlinePLUS drug Information - Side Effects of sildenafil
How Viagra Works - Howstuffworks article
Does Viagra Keep Flowers From Wilting?
Tình dục
Dược phẩm
Lactam
|
27006
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Napol%C3%A9on%20Bonaparte
|
Napoléon Bonaparte
|
Napoléon Bonaparte (tên khai sinh là Napoleone Buonaparte; 15 tháng 8 năm 1769 – 5 tháng 5 năm 1821), sau này được biết đến với tôn hiệu Napoléon I, là một chỉ huy quân sự và nhà lãnh đạo chính trị người Pháp. Được biết đến là một vị tướng nổi bật trong thời kỳ Cách mạng Pháp và là người lãnh đạo thành công các chiến dịch trong cuộc Chiến tranh Cách mạng Pháp, ông lãnh đạo Cộng hòa Pháp với tư cách Tổng tài thứ nhất từ năm 1799 đến năm 1804, sau đó là Hoàng đế Pháp từ năm 1804 đến năm 1814 và trở lại ngai vàng vào năm 1815. Di sản chính trị và văn hóa của Napoléon vẫn tồn tại cho đến ngày nay, với tư cách là một nhà lãnh đạo nổi tiếng và gây nhiều tranh cãi. Ông khởi xướng nhiều cải cách tự do đã tồn tại lâu dài trong xã hội và được coi là một trong những chỉ huy quân sự vĩ đại nhất trong lịch sử. Các chiến dịch của ông vẫn được nghiên cứu tại các học viện quân sự trên thế giới. Trong thời gian diễn ra chiến tranh Napoléon, có khoảng từ ba đến sáu triệu dân thường và binh lính đã thiệt mạng.
Napoléon sinh ra trên đảo Corse, không lâu sau khi bị Pháp sáp nhập, trong một gia đình bản địa xuất thân từ tầng lớp quý tộc nhỏ ở Ý. Ông ủng hộ Cách mạng Pháp năm 1789 trong khi đang phục vụ trong quân đội Pháp và cố gắng truyền bá lý tưởng của nó đến quê hương Corse của mình. Ông nhanh chóng thăng tiến trong quân đội sau khi cứu được Hội đồng Đốc chính Pháp bằng việc nổ súng trấn áp quân nổi dậy bảo hoàng. Năm 1796, ông bắt đầu chiến dịch quân sự chống lại người Áo và đồng minh Ý của họ, ghi điểm bằng những chiến thắng quyết định và trở thành một anh hùng dân tộc. Hai năm sau, ông dẫn đầu một cuộc viễn chinh quân sự tới Ai Cập, đóng vai trò như bàn đạp cho quyền lực chính trị. Ông đã dàn dựng một cuộc đảo chính vào tháng 11 năm 1799 và trở thành Tổng tài thứ nhất của nền Cộng hòa.
Sự khác biệt với Vương quốc Anh đã khiến Pháp phải đối mặt với Chiến tranh Liên minh thứ Ba vào năm 1805. Napoléon đã phá tan liên minh này bằng các chiến thắng trong chiến dịch Ulm và trận Austerlitz, dẫn đến sự tan rã của Đế quốc La Mã Thần thánh. Năm 1806, Liên minh thứ Tư đã cầm vũ khí chống lại ông. Napoléon hạ gục Phổ trong các trận Jena và Auerstedt, dẫn dắt đoàn quân Grande Armée vào Đông Âu và đánh bại Nga vào tháng 6 năm 1807 tại Friedland. Thắng lợi này đã buộc các quốc gia bại trận của Liên minh thứ Tư phải chấp nhận Hiệp ước Tilsit. Hai năm sau đó, người Áo lại thách thức Pháp một lần nữa trong Chiến tranh Liên minh thứ Năm, nhưng Napoleon đã củng cố sự kiểm soát của mình đối với châu Âu sau chiến thắng trong trận Wagram.
Với hy vọng mở rộng Hệ thống Lục địa, lệnh cấm vận của ông nhằm vào nước Anh, Napoléon xâm chiếm bán đảo Iberia và tuyên bố anh trai mình là Joseph làm Vua Tây Ban Nha vào năm 1808. Người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha nổi dậy trong Chiến tranh Bán đảo với sự hỗ trợ của quân đội Anh, dẫn đến thất bại của các tướng lĩnh dưới trướng Napoléon. Napoléon phát động cuộc xâm lược nước Nga vào mùa hè năm 1812. Kết quả của chiến dịch này chứng kiến cuộc rút lui thảm khốc của Grande Armée. Năm 1813, Phổ và Áo cùng với lực lượng Nga gia nhập Liên minh thứ Sáu chống lại Pháp, dẫn đến một đội quân liên minh lớn đánh bại Napoléon tại trận Leipzig. Liên quân xâm lược Pháp và chiếm được Paris, buộc Napoléon phải thoái vị vào tháng 4 năm 1814. Ông bị lưu đày đến đảo Elba, nằm giữa Corse và Ý. Ở Pháp, dòng họ Bourbon đã được khôi phục quyền lực.
Napoléon trốn thoát vào tháng 2 năm 1815 và nắm quyền kiểm soát nước Pháp. Đồng minh phản ứng bằng việc hình thành Liên minh thứ Bảy, đánh bại Napoléon trong trận Waterloo vào tháng 6 năm 1815. Người Anh đã lưu đày ông đến đảo Saint Helena xa xôi ở Đại Tây Dương, nơi ông qua đời vào năm 1821, thọ 51 tuổi.
Napoléon đã có ảnh hưởng sâu rộng đến thế giới hiện đại, mang đến các cải cách tự do cho các vùng đất ông chinh phục, đặc biệt là những vùng đất ở Các quốc gia vùng đất thấp, một phần nước Ý và Đức hiện đại. Ông thi hành nhiều chính sách khai phóng ở Pháp và Tây Âu.
Đầu đời
Napoléon Bonaparte là con thứ hai trong một gia đình có tám người con, chào đời tại dinh thự "Casa Buonaparte" ở thị trấn Ajaccio, đảo Corse vào ngày 15 tháng 8 năm 1769, một năm sau khi hòn đảo này được Cộng hòa Genova chuyển giao cho Pháp. Ông được đặt tên thánh là Napoleone di Buonaparte, theo tên một người chú (trước đó ông bà Bonaparte đã có một con trai đặt tên là Napoleone nhưng đã mất sớm). Ở tuổi 20, ông lấy tên là Napoléon Bonaparte cho có vẻ Pháp hơn.
Dòng họ Bonaparte ở Corse bắt nguồn từ giới quý tộc nhỏ Ý ở Lombardia, những người đã đến Corse từ Liguria từ thế kỷ XVI. Cha của ông là Nobile Carlo Buonaparte, một luật sư, từng được chỉ định làm đại diện của đảo Corse trước triều đình vua Louis XVI. Người có ảnh hưởng lớn đến Napoléon trong suốt thời thơ ấu là mẹ ông, Letizia Ramolino, kỷ luật nghiêm khắc của bà đã kiềm chế đứa bé ngỗ nghịch.
Ông có một anh trai là Joseph và sáu người em là Lucien, Elisa, Louis, Pauline, Caroline và Jérôme. Có hai đứa trẻ khác, một trai một gái được sinh trước Joseph nhưng chết yểu. Napoléon được rửa tội như một người Công giáo ngay trước sinh nhật hai tuổi của mình, vào ngày 21 tháng 7 năm 1771 tại nhà thờ Ajaccio.
Nền tảng quý tộc và tương đối khá giả cùng với các mối quan hệ của gia đình giúp Napoléon có cơ hội học tập lớn hơn nhiều so với một người Corse thông thường thời đó. Tháng 1 năm 1779, Napoléon đã ghi danh vào một trường tôn giáo ở Autun trên đất liền để học tiếng Pháp. Đến tháng 5, ông được nhận vào một học viện quân sự tại Brienne-le-Château. Ông nói giọng Corse và không thể đánh vần đúng cách, điều khiến ông bị bạn bè trêu chọc và do đó chuyên tâm vào việc học. Nhưng một viên giám thị quan sát thấy Napoléon "luôn luôn nổi trội trong sự chăm chú đối với toán học. Anh tương đối thuần thục với lịch sử và địa lý... Chàng trai này sẽ là một thủy thủ xuất sắc". Khi hoàn thành việc học ở Brienne năm 1784, Napoléon được nhận vào trường quân sự danh tiếng École Militaire ở Paris. Điều này đã kết thúc tham vọng hải quân từng khiến ông cân nhắc xin vào Hải quân Hoàng gia Anh. Ông được đào tạo để trở thành một sĩ quan pháo binh. Cái chết của người cha làm giảm thu nhập, đã buộc Napoléon phải hoàn thành khóa học hai năm trong vòng một năm. Ông là người Corse đầu tiên tốt nghiệp École Militaire. Ông được sát hạch bởi nhà khoa học nổi tiếng Pierre-Simon Laplace, người sau này được Napoléon bổ nhiệm vào Thượng viện.
Khởi đầu sự nghiệp
Khi tốt nghiệp vào tháng 9 năm 1785, Bonaparte được phong hàm trung úy ở trung đoàn pháo binh La Fère. Ông từng đóng ở Valence, Drôme và Auxonne cho đến trước khi bùng nổ Cách mạng năm 1789, và nghỉ phép gần hai năm ở Corse và Paris trong giai đoạn này. Là một người theo chủ nghĩa dân tộc nhiệt thành, ông viết cho lãnh đạo Corse Pasquale Paoli vào tháng 5 năm 1789:
"Tôi đã được sinh ra khi dân tộc suy vong. Ba mươi nghìn người Pháp được tung tới bờ biển của chúng ta, nó nhấn chìm ngôi báu của tự do vào những làn sóng máu. Chính cảnh tượng đó là thứ ghê tởm đầu tiên đập vào mắt tôi".
Ông trải qua những năm đầu Cách mạng ở Corse, chiến đấu trong một cuộc xung đột phức tạp ba bên giữa những người bảo hoàng, những người cách mạng, và những người dân tộc chủ nghĩa Corse. Ông ủng hộ phái cách mạng Jacobin, nhận hàm trung tá trong đoàn dân quân Corse, và chỉ huy một tiểu đoàn quân tình nguyện. Mặc dù quá thời gian nghỉ phép vắng mặt và lãnh đạo một cuộc bạo động chống lại quân đội Pháp ở Corse, ông vẫn được thăng hàm đại úy trong quân đội chính quy Pháp tháng 7 năm 1792.
Ông trở lại quê hương và bắt đầu mâu thuẫn với Paoli, người quyết định chia tách Corse khỏi Pháp và phá hoại một cuộc tấn công của Pháp trên đảo Sardegna, nơi Bonaparte là một trong các viên chỉ huy chính. Bonaparte và gia đình phải bỏ trốn vào đất liền Pháp vào tháng 6 năm 1793 bởi sự cắt đứt quan hệ với Paoli.
Cuộc vây hãm Toulon
Tháng 6 năm 1793, Napoléon đã xuất bản một cuốn sách nhỏ có khuynh hướng thân cộng hòa, Le Souper de Beaucaire (Bữa tối ở Beaucaire), thứ đem lại cho ông sự khâm phục và ủng hộ của Augustin Robespierre, em trai nhà lãnh đạo cách mạng Maximilien Robespierre. Với sự giúp đỡ của một đồng đội người Corse là Antoine Christophe Saliceti, Bonaparte được bổ nhiệm làm chỉ huy pháo binh của quân đội cộng hòa trong cuộc vây hãm Toulon. Thành phố này nổi dậy chống chính phủ cộng hòa và được quân Anh đóng giữ.
Ông tiến hành một kế hoạch chiếm một quả đồi nơi các khẩu pháo của quân cộng hòa có thể bao quát cảng thành phố và buộc các chiến thuyền Anh phải rút lui. Cuộc đột kích lên vị trí trên, trong đó Bonaparte bị thương ở đùi, đã dẫn tới việc chiếm được thành phố sau đó, nhờ vậy ông được thăng hàm Thiếu tướng ở tuổi 24. Ủy ban An ninh Công cộng (chính phủ de facto của Pháp đương thời) chú ý đến Napoléon, ông được cử đảm trách pháo binh tại Tập đoàn quân Ý của Pháp.
Trong lúc chờ sự xác nhận bổ nhiệm, Napoléon dành thời gian để khảo sát các công sự duyên hải trên bờ biển Địa Trung Hải gần Marseille. Ông thảo ra kế hoạch tấn công Vương quốc Sardegna như một phần của chiến dịch chống lại Liên minh thứ nhất. Tư lệnh Tập đoàn quân Ý, Pierre Jadart Dumerbion, đã chứng kiến quá nhiều viên tướng bị xử tử do không đủ hay do có quan điểm chính trị sai lầm. Do đó, ông chiều theo ý các ủy viên đặc trách của Quốc Ước (représentant en mission) là Augustin Robespierre và Saliceti, những người đến lượt họ sẵn lòng lắng nghe viên tướng pháo binh mới được thăng chức.
Thực hiện kế hoạch của Bonaparte trong trận Saorgio tháng 4 năm 1794, quân đội Pháp tiến lên phía đông bắc tới vùng Riviera thuộc Ý sau đó ngoặt sang phía bắc để chiếm đóng Ormea trong vùng núi. Từ Ormea, họ đột phá phía tây để thọc sườn các vị trí Áo-Sardegna xung quanh Saorge. Kết quả là, các thành thị duyên hải Oneglia và Loano, cũng như con đèo Tenda chiến lược, bị chiếm bởi quân Pháp. Sau đó, Augustin Robespierre gửi Bonaparte tới một nhiệm vụ ở Cộng hòa Genova để xác định các toan tính của quốc gia này đối với nước Pháp.
13 Vendémiaire
Theo sau sự sụp đổ của chính quyền Jacobin vào tháng 7 năm 1794 Chính biến Thermidor, một báo cáo vạch tội khiến Bonaparte bị quản chế tại gia ở Nice vì mối liên hệ với anh em Robespierre. Thư ký của Napoléon, Bourrienne, phản kháng cáo buộc này trong hồi ký của ông. Theo Bourrienne, sự đố kị giữa Tập đoàn quân Alps và Tập đoàn quân Ý (mà Napoléon đứng vị trí thứ hai lúc đó) chịu trách nhiệm về cáo buộc này. Sau một lời biện hộ sôi nổi trong một lá thư mà Bonaparte gửi gấp tới các đặc phái viên Saliceti và Albitte, ông được tha bổng mọi tội.
Ông được thả trong vòng hai tuần, và do năng lực của mình, được yêu cầu thảo kế hoạch tấn công các vị trí Ý trong bối cảnh cuộc chiến Pháp-Áo. Ông cũng tham gia vào một cuộc viễn chinh nhằm chiếm lại Corse từ tay người Anh, nhưng quân Pháp đã bị đẩy lùi bởi Hải quân Hoàng gia.
Tháng 4 năm 1795, Bonaparte đính hôn với Désirée Clary, em gái của Julie Clary, người đã cưới anh trai của Bonaparte là Joseph; nhà Clary là một gia đình thương nhân giàu có đến từ Marseilles. Cùng thời gian này, ông được chỉ định tới Tập đoàn quân phía Tây, lúc này đang tham gia Chiến tranh Vendée — một cuộc nội chiến kéo dài do phe bảo hoàng chống cách mạng gây ra ở vùng Vendée phía tây miền trung nước Pháp. Làm một tư lệnh bộ binh, đó là một sự giáng cấp từ tướng pháo binh — mà quân đội đã có đủ hạn ngạch — và ông viện cớ sức khỏe yếu để từ chối nhậm chức.
Ông được chuyển tới Văn phòng Trắc địa của Ủy ban An ninh Công cộng và tìm kiếm cơ hội được gửi tới Constantinople để phục vụ cho Sultan nhưng không thành. Trong thời kì này, ông viết một tiểu thuyết lãng mạn ngắn mang tựa đề Clisson et Eugénie kể về một người lính và tình nhân của anh ta, một so sánh rõ ràng nhất về mối quan hệ của chính Bonaparte với Désirée. Ngày 15 tháng 9, Bonaparte bị loại khỏi danh sách các tướng của quân đội chính quy do việc từ chối nhận nhiệm vụ ở chiến dịch Vendée. Ông đối diện với một tình trạng tài chính khó khăn và thu hẹp những tham vọng về tiền đồ của mình.
Ngày 3 tháng 10, những người bảo hoàng ở Paris tuyên bố một cuộc nổi loạn chống lại Quốc Ước sau khi họ bị loại khỏi chính phủ mới, nội các Đốc chính. Paul Barras, một lãnh đạo của Chính biến Thermidor, biết đến thành tích quân sự của Bonaparte ở Toulon và trao cho ông quyền chỉ huy các lực lượng ứng biến phòng thủ trụ sở Quốc Ước ở Cung điện Tuileries. Chứng kiến vụ thảm sát đội Cận vệ Thụy Sĩ của nhà vua ba năm trước đó, ông nhận ra pháo binh có thể là chìa khóa để kháng cự.
Ông lệnh cho một sĩ quan kị binh trẻ, Joachim Murat, chiếm các khẩu đại bác lớn và dùng chúng để đẩy lui các đợt tấn công vào ngày 5 tháng 10 năm 1795 hay 13 tháng Vendémiaire (Hái Nho) năm IV theo Lịch Cách mạng Pháp. Sau khi 1400 người bảo hoàng chết, số còn lại rút lui.
Sự thất bại của cuộc nổi dậy phe bảo hoàng đã dập tắt mối đe dọa với Quốc Ước và giúp Bonaparte đột nhiên gặt hái được danh vọng, tiền tài cùng với sự bảo trợ của nội các mới. Murat cưới một trong số các em gái và trở thành em rể cũng như tiếp tục phục vụ Napoléon như một vị tướng. Bonaparte được thăng hàm Trung tướng, đảm nhiệm chức Tư lệnh Tập đoàn quân Nội địa (Commandand de l'armée de l'Intérieur) và sau đó Tập đoàn quân Ý được trao cho ông.
Trong vòng vài tuần ông đã gắn bó với nhân tình cũ của Barras, Joséphine de Beauharnais. Họ cưới nhau vào ngày 9 tháng 3 năm 1796 sau khi ông hủy đính ước với Désirée Clary.
Chiến dịch Ý thứ nhất
Hai ngày sau hôn lễ, Bonaparte rời Paris để nắm quyền chỉ huy Tập đoàn quân Ý và dẫn dắt một cuộc chinh phạt thắng lợi nước Ý. Ở trận Lodi ông đã đánh bại quân đội Áo và đẩy họ ra khỏi Lombardia. Ông thất bại trong trận Caldiero bởi sự tăng viện của Áo, chỉ huy bởi József Alvinczi, tuy nhiên Bonaparte lấy lại thế chủ động trong trận đánh có tính quyết định ở Arcole tiến tới chinh phục địa phận của Giáo hoàng.
Bonaparte đã bác bỏ mong muốn của những người vô thần ở Hội đồng Đốc chính là hành quân vào Roma và phế truất Giáo hoàng vì ông cho rằng điều này sẽ tạo ra một khoảng trống quyền lực sẽ bị Vương quốc Napoli lợi dụng. Thay vào đó, tháng 3 năm 1797, Bonaparte chỉ huy quân đội tiến vào Áo và buộc nước này thương lượng một hòa ước. Hiệp ước Leoben đã cho Pháp quyền cai quản hầu hết Bắc Ý và các miền đất phía dưới châu thổ sông Rhine (Pays-Bas, gồm Bỉ, Hà Lan và một phần lãnh thổ Đức, Pháp hiện nay), trong khi một điều khoản bí mật hứa hẹn Cộng hòa Venezia cho Áo. Bonaparte hành quân tới Venezia và buộc nó đầu hàng, kết thúc 1100 năm nền độc lập của thành phố thương mại này; ông cũng lấy cớ cho quân Pháp cướp bóc những báu vật như những bức tượng ngựa bằng đồng ở Giáo đường Thánh Mác-cô.
Áp dụng những ý tưởng quân sự thông thường vào các tình huống thực tế đã làm nên những vinh quang quân sự của ông, chẳng hạn như việc sử dụng sáng tạo pháo binh như một lực lượng linh hoạt để hỗ trợ cho bộ binh. Ông nói về chiến thuật của mình như sau: "Tôi đã đánh sáu mươi trận và tôi không học được điều gì mà tôi chưa biết vào lúc bắt đầu. Nhìn Caesar xem; ông ta đánh trận đầu giống như trận cuối".
Ông tinh thông trong việc sử dụng gián điệp với mưu trá từ đó nắm thế chủ động bằng cách che đậy việc triển khai quân và tập trung quân vào điểm mấu chốt ở mặt trận bị suy yếu của đối phương. Nếu ông không thể sử dụng chiến lược bao vây ưa thích của mình (Mouvement en tenaille, chuyển quân sang hai cánh và hợp vây kẻ địch), ông sẽ nắm lấy vị trí trung tâm và tấn công hai lực lượng phối hợp ở điểm mấu chốt của họ, tung quân đánh một cánh cho đến khi nó rút lui, sau đó quay lại đương đầu với cánh kia. Trong chiến dịch Ý này, quân đội của Bonaparte bắt được 150 000 tù binh, 540 khẩu đại bác và 170 cờ hiệu. Quân đội Pháp đã đánh 67 trận và thắng 19 trận chính quy (pitched battles, trong đó hai bên chọn một địa điểm dàn quân trước khi đánh) nhờ kĩ thuật pháo binh áp đảo và các chiến thuật của Bonaparte.
Trong khi chiến dịch diễn ra, Bonaparte trở nên ngày càng có ảnh hưởng trong chính trị Pháp; ông thành lập hai tờ báo: một cho quân đội của ông và một phát hành ở Pháp. Những người bảo hoàng đả kích Bonaparte vì cướp phá Ý và cảnh báo rằng ông có thể trở thành một kẻ độc tài. Bonaparte gửi tướng Pierre Augereau tới Paris để lãnh đạo một cuộc đảo chính và thanh lọc những người bảo hoàng vào ngày 4 tháng 9, sự kiện này sau được gọi là Đảo chính ngày 18 Fructidor. Điều này đem Barras và các đồng minh phe Cộng hòa trở lại nắm quyền nhưng phụ thuộc vào Bonaparte, người bấy giờ đang tiến hành đàm phán hòa ước mới với Áo. Những thương lượng này dẫn tới Hiệp ước Campo Formio, Bonaparte trở lại Paris tháng 12 như một anh hùng. Ông gặp Talleyrand, Bộ trưởng Ngoại giao mới của Pháp — người về sau phục vụ ở cùng cương vị cho đế chế của Napoléon và họ bắt đầu chuẩn bị cho một cuộc xâm lược nước Anh.
Viễn chinh tới Ai Cập
Sau hai tháng lên kế hoạch, Bonaparte quyết định rằng lực lượng hải quân Pháp chưa đủ mạnh để đối diện với Hải quân Hoàng gia ở Eo biển Anh và đề xuất một cuộc viễn chinh để chiếm Ai Cập và do đó phá sự tiếp cận của người Anh với những nguồn lợi thương mại ở Ấn Độ. Bonaparte mong mỏi thiết lập một sự hiển hiện của Pháp ở Trung Đông, với giấc mộng tối hậu về việc liên kết với một kẻ thù Hồi giáo của Anh ở Ấn Độ, Tippu Sultan.
Napoléon đảm bảo với Hội đồng Đốc chính rằng ngay sau khi mình chinh phục được Ai Cập, ông sẽ thành lập những mối quan hệ với các hoàng thân Ấn Độ, và cùng với họ, tấn công người Anh tại các thuộc địa của họ. Theo một bản tường trình tháng 2 năm 1798 bởi Talleyrand: "Khi đã chiếm giữ và củng cố Ai Cập, chúng ta sẽ gửi một lực lượng 15000 người từ Suez tới Ấn Độ, kết hợp với Tipu-Sahib và đánh đuổi người Anh". Hội đồng đồng ý với kế hoạch để bảo đảm tuyến giao thương tới Ấn Độ.
Tháng 5 năm 1798, Bonaparte được bầu làm thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Pháp. Chuyến viễn chinh Ai Cập của ông có sự tham gia của 167 nhà khoa học bao gồm các nhà toán học, tự nhiên học, hóa học và trắc địa; trong những khám phá của họ có Phiến đá Rosetta, và công trình của họ được xuất bản thành cuốn Description de l'Égypte năm 1809.
Trên đường tới Ai Cập, Bonaparte tới Malta vào ngày 9 tháng 6 năm 1798, khi đó dưới quyền kiểm soát của dòng Hiệp sĩ Cứu tế. Hai trăm hiệp sĩ gốc Pháp không ủng hộ vị Đại trưởng lão, Ferdinand von Hompesch zu Bolheim, và bày tỏ rằng họ sẽ không chiến đấu chống lại đồng bào. Hompesch đầu hàng sau một sự kháng cự yếu ớt, và Bonaparte chiếm được một căn cứ hải quân quan trọng với tổn thất chỉ ba binh sĩ.
Tướng Bonaparte cùng đoàn quân của ông đã phải né tránh cuộc truy đuổi của Hải quân Hoàng gia và cập cảng ngày 1 tháng 7 ở Alexandria. Ông đánh trận Shubra Khit chống lại Mamluk, giới quân sự thống trị Ai Cập bấy giờ. Điều này giúp những người Pháp thực hành chiến thuật phòng thủ cho trận Kim Tự Tháp diễn ra ngày 21 tháng 7, cách kim tự tháp 24 km. Lực lượng của Bonaparte vào khoảng 25000 người, xấp xỉ bằng quân số kỵ binh Mamluk, nhưng ông đã cho lập những khối quân hình vuông rỗng với quân nhu được giữ an toàn bên trong. Kết quả, chỉ có 29 người Pháp chết, so với gần 2000 quân Ai Cập. Chiến thắng này đã củng cố tinh thần cho quân đội Pháp.
Ngày 1 tháng 8, hạm đội Anh dưới quyền Horatio Nelson đã bắt giữ và tiêu diệt gần như tất cả quân Pháp chỉ trừ hai chiếc tàu trong trận sông Nile, mục tiêu của Bonaparte về một vị thế tăng cường của người Pháp ở Địa Trung Hải tan vỡ. Quân đội của ông thành công trong sự gia tăng ngắn hạn quyền lực của Pháp ở Ai Cập, tuy nhiên sau đó đối mặt với những cuộc nổi dậy liên tiếp. Đầu năm 1799, ông chuyển quân tới tỉnh Damascus thuộc đế quốc Ottoman (Syria và Galilea). Bonaparte chỉ huy 13000 lính Pháp trong cuộc chinh phục các thành thị duyên hải Arish, Gaza, Jaffa, và Haifa. Cuộc tấn công vào Jaffa đặc biệt đẫm máu: Bonaparte, khi khám phá ra phần nhiều trong những người bảo vệ thành phố là cựu tù nhân chiến tranh từng hứa danh dự không trả thù để được tha, đã ra lệnh xử tử quân phòng thủ cùng 1.400 người khác bằng lưỡi lê và dìm chết đuối để tiết kiệm đạn. Đàn ông, đàn bà kể cả trẻ con đã bị cướp giật và giết hại trong ba ngày.
Với đội quân bị suy yếu bởi bệnh dịch — chủ yếu là dịch hạch — và nguồn quân nhu nghèo nàn, Bonaparte không thể hạ các pháo đài ở Akko và trở lại Ai Cập vào tháng 5. Để tăng tốc cuộc hành quân, ông ra lệnh bỏ lại những người lính ốm yếu vì dịch hạch và bắt họ uống thuốc độc. Tuy nhiên, những người Anh chứng kiến đã ghi chép lại rằng hầu hết những người này sống sót và không bị đầu độc. Những người ủng hộ ông lập luận rằng điều này là cần thiết để đối phó với các trận tập hậu của quân Ottoman, và thực tế những người bỏ lại còn sống thường bị tra tấn và chặt đầu bởi kẻ địch. Trở lại Ai Cập, vào ngày 25 tháng 7, Bonaparte đánh bại cuộc tấn công đổ bộ của Ottoman trong trận Abukir.
Nhà cai trị nước Pháp
Khi ở Ai Cập, Bonaparte vẫn nhận được thông báo về sự vụ châu Âu thông qua các báo chí và thông điệp được chuyển tới không đều đặn. Ông biết rằng Pháp đã phải chịu một chuỗi những thất bại trong Chiến tranh Liên minh thứ hai. Ngày 24 tháng 8 năm 1799, ông lợi dụng sự rút lui tạm thời các tàu Anh khỏi các cảng Pháp để giong buồm về nước, bất chấp sự kiện là ông không nhận được mệnh lệnh rõ ràng nào từ Paris. Quân đội ở lại được giao phó cho tướng Jean Baptiste Kléber.
Hội đồng Đốc chính đã gửi ông những mệnh lệnh quay về để ngăn ngừa những cuộc xâm lược vào đất Pháp, nhưng đường dây liên lạc nghèo nàn khiến cho các thông điệp không đến được với ông. Vào lúc ông tới được Paris vào tháng 10, tình hình nước Pháp đã được cải thiện bởi một chuỗi những thắng lợi. Tuy nhiên nền Cộng hòa đã phá sản, và Hội đồng bất lực không được lòng dân Pháp. Hội đồng đã thảo luận về việc "đào ngũ" của Bonaparte nhưng quá yếu ớt để trừng phạt ông.
Bonaparte được một trong các viên Đốc chính, Emmanuel Joseph Sieyès, tiếp cận để hỗ trợ cho một cuộc đảo chính lật đổ chính phủ hợp hiến. Những người đứng đầu kịch bản này bao gồm người em trai ông là Lucien; phát ngôn viên của Hội đồng Năm trăm (tức Hạ nghị viện), Roger Ducos; một viên Đốc chính khác, Joseph Fouché; và Talleyrand. Vào ngày 9 tháng 11 hay 18 tháng Brumaire (Sương mù) theo lịch Cộng hòa Pháp — Bonaparte được trao nhiệm vụ bảo đảm an ninh cho hai viện lập pháp, những người bị thuyết phục rời về Lâu đài Saint-Cloud ở phía Tây Paris, sau một tin đồn về một cuộc nổi loạn của phe Jacobin được lan truyền bởi những người âm mưu. Ngày hôm sau, các nghị sĩ nhận ra họ đang đối mặt với một cuộc đảo chính. Trước sự phản kháng của họ, Bonaparte chỉ huy quân đội nắm quyền và giải tán họ, kế đó một nghị viện thu nhỏ (rump legislature) chỉ định Bonaparte, Sieyès, và Ducos làm các Tổng tài lâm thời quản lý chính quyền.
Chế độ Tổng tài Pháp
Mặc dù Sieyès hi vọng sẽ cầm đầu trong chính quyền mới, ông sớm bị vượt mặt bởi Bonaparte, người thảo ra Hiến pháp Năm VIII và bảo đảm việc bầu chọn bản thân làm Đệ nhất Tổng tài, và ông dọn đến ở điện Tuileries. Điều này khiến cho Bonaparte trở thành con người quyền lực nhất ở Pháp.
Năm 1800, Bonaparte và quân đội của ông vượt dãy Alps tới Ý, nơi quân đội Pháp đã hầu như bị đánh bật hoàn toàn bởi quân Áo trong lúc ông đang ở Ai Cập. Chiến dịch khởi đầu tệ hại cho người Pháp khi Bonarpate có những sai lầm chiến lược; một lực lượng đã bị vây hãm ở Genova nhưng cuối cùng phá được vây và do đó chiếm được tài nguyên của quân Áo. Nỗ lực này, và sự tăng viện kịp thời của tướng Louis Desaix, đã cho phép Bonaparte quay lại với chuỗi thắng lợi vào tháng Sáu trong trận Marengo có tính quyết định.
Anh trai Joseph của Bonaparte tiến hành thương lượng hòa bình ở Lunéville và thông báo rằng Áo, được khuyến khích bởi người Anh, sẽ không công nhận những lãnh thổ Pháp vừa mới chiếm được. Khi cuộc thương lượng trở nên ngày càng căng thẳng, Bonaparte trao quyền cho tướng Moreau tấn công đất Áo thêm một lần nữa. Moreau đã lãnh đạo quân Pháp tới chiến thắng trong trận Hohenlinden. Kết quả là, Hiệp ước Lunéville được ký vào tháng 2 năm 1801; những chiến quả của Pháp từ Hiệp ước Campo Formio được tái xác nhận và tăng cường. Tất cả quá trình này đã thúc đẩy việc Hòa giải Đức, xoá bỏ hàng trăm nhà nước giáo hội, thành bang đế chế và những thân vương quốc nhỏ trong Đế chế La Mã Thần thánh, từ 300 nhà nước xuống chỉ còn 39, đã tạo ra quá trình phân phối lại tài sản và lãnh thổ rộng rãi nhất trong lịch sử Đức trước năm 1945.
Nền hòa bình tạm thời cho châu Âu
Cả Pháp lẫn Anh đã trở nên mệt mỏi với chiến tranh và ký với nhau Hiệp ước Amiens vào tháng 10 năm 1801 và tháng 3 năm 1802. Điều này đòi hỏi sự triệt thoái quân đội Anh khỏi hầu hết các thuộc địa họ chiếm gần đó. Sự hưu chiến này không dễ dàng và ngắn ngủi. Người Anh không chịu rút khỏi Malta như đã hứa và chống lại việc Bonaparte thôn tính Piedmont và Đạo luật Hòa giải của ông đã thiết lập nên một Liên bang Thụy Sĩ mới phụ thuộc vào Pháp, mặc dù không lãnh thổ nào kể trên nằm trong phạm vi của hiệp ước. Sự tranh cãi đạt đến đỉnh điểm và kết thúc bằng một tuyên bố chiến tranh của người Anh vào tháng 5 năm 1803, và Napoléon tái lập căn cứ xâm lược ở Boulougne.
Bonaparte cũng đứng trước sự thất thế và cuối cùng là thảm bại trong đàn áp Cách mạng Haiti. Bằng Luật 20 tháng 5 năm 1802 ông tái thiết lập chế độ nô lệ trong các vùng thuộc địa Pháp vốn đã bị bãi trừ sau Cách mạng. Đáp trả một cuộc nổi dậy của nô lệ, ông gửi một đạo quân viễn chinh để tái chiếm Saint-Dominique và thiết lập một căn cứ. Tuy nhiên lực lượng này bị hủy diệt bởi dịch sốt vàng và sức kháng cự mãnh liệt bởi những viên tướng Haiti Toussaint Louverture và Jean-Jacques Dessalines. Nước Pháp đứng trước tình trạng phá sản tài chính và một cuộc chiến tranh cận kề với người Anh, Bonaparte nhận thấy không thể bảo vệ được những thuộc địa của Pháp ở lục địa Bắc Mĩ và bán chúng cho Hợp chúng quốc Hoa Kỳ — Vụ mua bán Louisiana — với giá hơn ba cent mỗi mẫu Anh (acre) (tức khoảng 7,4 cent mỗi hecta).
Đế quốc Pháp
Napoléon phải đương đầu với những âm mưu của phe bảo hoàng và Jacobin, bao gồm các Âm mưu dao găm vào tháng 10 năm 1800 và Âm mưu Phố Saint-Nicaise hai tháng sau, đều nhắm vào ám sát cá nhân ông. Tháng 1 năm 1804, cảnh sát khám phá một kế hoạch ám sát ông có can dự tới Moreau và dường như được nhà Bourbon thúc đẩy. Theo lời khuyên của Talleyrand, Napoléon ra lệnh bắt cóc Louis Antoine, Công tước xứ Enghien trong một cuộc đột nhập vào lãnh thổ Bá quốc Baden láng giềng. Sau một phiên xử bí mật Công tước bị hành hình, mặc dù ông không tham gia vào âm mưu.
Napoléon sử dụng âm mưu trên để biện hộ cho sự tái lập của nền quân chủ cha truyền con nối ở Pháp, mà chính ông là Hoàng đế, với lập luận rằng sự phục hồi đáng lo ngại của nhà Bourbon sẽ khó khăn hơn nếu sự thừa kế nhà Bonaparte được ghi nhận bởi hiến pháp. Trong một cử chỉ có tính hình thức, Thượng viện Pháp yêu cầu ông lên ngôi Hoàng đế để "bảo vệ nền Cộng hòa". Napoléon tự đội đế miện với hiệu Hoàng đế Napoléon I vào ngày 2 tháng 12 năm 1804 ở Nhà thờ Đức Bà Paris và sau đó trao miện Hoàng hậu cho Joséphin dưới sự chứng kiến của Giáo hoàng Piô VII. Ludwig van Beethoven, một người hâm mộ từ lâu của ông, đã thất vọng vì sự quay sang chủ nghĩa đế quốc này và xóa lời đề tặng Napoléon trong Giao hưởng số 3 của mình.
Tại Nhà thờ Milano vào ngày 26 tháng 5 năm 1805, Napoléon đăng quang ngôi Vua của Ý với Vương miện Sắt của Lombardia. Ông lập nên cấp Thống chế của Đế quốc từ những vị tướng hàng đầu của mình, để đảm bảo lòng trung thành của quân đội.
Chiến tranh liên minh thứ ba
Nước Anh phá vỡ Hòa ước Amiens và tuyên chiến với Pháp vào tháng 5 năm 1803. Napoléon thiết lập doanh trại ở Boulogne-sur-Mer để chuẩn bị cho cuộc xâm lược nước Anh. Đến năm 1805, Anh đã thuyết phục được Áo và Nga tham gia vào một Liên minh thứ ba chống Pháp. Napoléon biết rằng hạm đội Pháp không thể đánh bại Hải quân Hoàng gia trong một trận chiến mặt đối mặt và lập kế hoạch nhử họ ra khỏi Eo biển Anh.
Theo đó, Hải quân Pháp sẽ thoát khỏi sự bao vây của quân anh ở Toulon và Brest rồi đe dọa tấn công Tây Ấn, do đó sẽ loại bỏ được sự phòng thủ phía Tây quần đảo Anh, với hi vọng một hạm đội Pháp-Tây Ban Nha có thể đoạt được eo biển đủ lâu để quân đội Pháp băng qua từ Boulogne và xâm lược nước Anh. Tuy nhiên, sau thất bại trong trận hải chiến ở Mũi Finisterre vào tháng 7 năm 1805 và cuộc rút lui của Đô đốc Villeneuve về Cádiz, xâm lược đất Anh không bao giờ còn là một lựa chọn hiện thực đối với Napoléon nữa.
Khi quân đội Áo được triển khai tới Bayern, ông ngừng triển khai xâm lược Anh và ra lệnh cho đạo quân đóng ở Boulogne, Grande Armée của ông, hành quân bí mật trong một cuộc di chuyển thọc sâu vào hậu phương địch — chiến dịch Ulm. Điều này bao vây lực lượng Áo sắp sửa tấn công Pháp và cắt đứt các đường liên lạc của họ. Ngày 20 tháng 10 năm 1805, quân Pháp bắt được 30 000 tù binh trong trận Ulm, tuy nhiên ngày hôm sau chiến thắng của người Anh ở Trafalgar đồng nghĩa với việc Hải quân Hoàng gia hoàn toàn chiếm lĩnh các vùng biển.
Sáu tuần sau, trong lần kỉ niệm một năm ngày đăng quang, Napoléon đã đánh bại liên quân Áo-Nga trong trận Austerlitz nổi tiếng với tổn thất của phe Liên minh vào khoảng 27000 người, gấp 3 lần quân Pháp. Trận này đã bẻ gãy Liên minh thứ ba, khiến cho Aleksandr I phải than thở: "Chúng ta là những em bé trong bàn tay của một gã khổng lồ" . Napoléon trở về Paris nhận sự hưởng ứng nhiệt liệt, cho khánh thành Khải Hoàn Môn để tưởng niệm chiến thắng. Áo phải chịu nhường một phần lãnh thổ; Hòa ước Pressburg dẫn tới sự giải thể Đế quốc La Mã Thần thánh và lập nên Liên bang sông Rhine với Napoléon giữ vị trí Bảo hộ công.
Napoléon sau này nhắc lại "trận Austerlitz là trận đánh đẹp nhất trong mọi trận đánh tôi từng thực hiện". Frank McLynn cho rằng Napoléon đã quá thành công ở Austerlitz tới mức ông mất sự liên hệ với thực tiễn, và thứ từng là chính sách ngoại giao Pháp trở thành "một thứ của riêng Napoléon". Vincent Cronin không tán thành, cho rằng Napoléon không tự mãn quá mức về bản thân, mà "ông là hiện thân cho lòng tự mãn của ba mươi triệu người Pháp".
Các đồng minh Trung Đông
Ngay cả sau chiến dịch ở Ai Cập, Napoléon vẫn tiếp tục ấp ủ một kế hoạch lớn lao là thành lập một sự hiện diện của Pháp ở Trung Đông. Một mối đồng minh với các cường quốc Trung Đông sẽ là lợi thế chiến lược gây sức ép cho Nga ở biên giới phía Nam của nước này. Từ 1803, Napoléon tiến những bước đáng kể trong cố gắng thuyết phục Đế quốc Ottoman chiến đấu chống lại Nga ở bán đảo Balkan và gia nhập liên minh chống Nga của ông.
Napoléon gửi tướng Horace Sebastiani sang làm đặc sứ, hứa hẹn sẽ giúp đỡ Đế quốc Ottoman khôi phục những lãnh thổ đã mất. Tháng 2 năm 1806, sau chiến thắng của Napoléon ở Austerlitz và sự chia cắt sau đó của Đế quốc Habsburg, Hoàng đế Ottoman Selim III cuối cùng thừa nhận ngôi Hoàng đế của Napoléon, chính thức chọn liên minh với Pháp như "người đồng minh thân thiết và tự nhiên của chúng ta", đồng thời tuyên chiến với Nga và Anh.
Một liên minh Pháp-Ba Tư cũng được hình thành, trong thời gian từ năm 1807 đến năm 1809, giữa Đế quốc Ba Tư của Fat′h-Ali Shah Qajar chống Nga và Anh. Liên minh này chấm dứt khi Pháp bắt tay với Nga và chuyển trọng tâm sang các chiến dịch châu Âu.
Chiến tranh với Liên minh thứ tư
Liên minh thứ tư được thành lập năm 1806, và Napoléon đánh bại quân Phổ trong trận Jena-Auerstedt vào tháng 10. Ông hành quân vượt Ba Lan để đương đầu với quân Nga đang tiến sang và hai bên đụng độ đẫm máu tại trận Eylau ngày 6 tháng 2 năm 1807 nhưng bất phân thắng bại.
Ngày 14 tháng 6 năm 1807, Napoléon lại đụng trận với quân đội Nga ở Friedland. Quân Pháp thắng lớn, chỉ thương vong khoảng 10.000 người mà loại ít nhất 30.000 quân Nga khỏi vòng chiến. Sau đó ông ký kết Hiệp ước Tilsit bao gồm một văn bản với Nga hoàng Aleksandr I phân chia lục địa giữa hai cường quốc này; một văn bản khác với Phổ tước một nửa lãnh thổ nước này. Napoléon đặt các nhà cai trị lên ngai vàng các bang nước Đức, bao gồm người em Jérôme làm vua của Vương quốc Westphalia mới lập. Trong vùng Ba Lan mà Pháp kiểm soát, ông lập nên Công quốc Warszawa dưới quyền Vua Friedrich August I của Sachsen.
Với các chiếu chỉ Milano và chiếu chỉ Berlin, Napoléon nỗ lực tăng cường một sự tẩy chay thương mại khắp châu Âu đối với Anh mang tên Hệ thống Lục địa. Đạo luật chiến tranh kinh tế này không thành công, bởi nó khuyến khích các thương gia Anh buôn lậu vào châu Âu lục địa, và nhân viên cưỡng bách thuế quan độc quyền của Napoléon không thể ngăn họ lại.
Chiến tranh Bán đảo
Vì Bồ Đào Nha không tuân theo lệnh phong tỏa lục địa nên Napoléon phải cất quân chinh phạt vào năm 1807 với sự hỗ trợ của Tây Ban Nha. Dưới chiêu bài tăng cường cho quân đội Pháp - Tây Ban Nha chiếm đóng Bồ Đào Nha, Napoléon xâm lược luôn cả Tây Ban Nha, phế Carlos IV rồi đưa anh trai của mình là Joseph Bonaparte lên ngôi, đồng thời đặt em vợ là Joachim Murat lên cầm quyền thay Joseph ở Napoli. Điều này đã dẫn đến sự kháng cự mạnh mẽ của quân đội và thường dân Tây Ban Nha gây nên cuộc khởi nghĩa Dos de Mayo.
Ở Tây Ban Nha, Napoléon còn phải đối mặt với một loại hình chiến tranh mới, chiến tranh du kích, trong đó cư dân địa phương, hưởng ứng chủ nghĩa ái quốc và tinh thần tôn giáo, tham gia vào cuộc chiến. Loại hình bước đầu của chiến tranh nhân dân này bao gồm nhiều hình thức chiến đấu cường độ thấp (quấy rối, phá hoại, nổi dậy vũ trang...) và trợ giúp cho quân đội chính quy những nước đồng minh với Tây Ban Nha. Sau khi quân Pháp đồn trú buộc phải rút khỏi nhiều phần đất nước này, Napoléon nắm quyền chỉ huy trực tiếp, đánh bại quân Tây Ban Nha. Ông chiếm lại Madrid, đánh bật một đội quân Anh tới cứu viện và đẩy lui họ khỏi bờ biển . Tuy vậy, trước khi người dân Tây Ban Nha chịu khuất phục hoàn toàn, nước Áo lại đe dọa chiến tranh, buộc Napoléon phải quay về Pháp..
Cuộc chiến tranh trên bán đảo Iberia tốn kém và thường đẫm máu vẫn tiếp tục khi Napoléon vắng mặt. Trong cuộc vây hãm Zaragoza lần thứ hai, gần như toàn bộ thành phố bị phá hủy và hơn 5 vạn người bỏ mạng. Mặc dù Napoléon để 30 vạn quân tinh nhuệ ở lại Tây Ban Nha để chống lại quân du kích cũng như liên quân Anh-Bồ Đao Nha dưới sự chỉ huy của Công tước Wellington, nhưng sự kiểm soát của Pháp ngày một suy yếu.
Sau khi phía đồng minh giành thắng lợi, cuộc chiến kết thúc sau khi Napoléon thoái vị vào năm 1814. Napoléon mô tả cuộc chiến tranh Bán đảo là trung tâm của sự thất bại chung cuộc của mình. Ông đã viết trong hồi ký: "Cuộc chiến tranh bất hạnh đó đã hủy diệt tôi...Tất cả...những tai họa của tôi bị buộc chặt với nút thắt định mệnh đó".
Chiến tranh Liên minh thứ năm và tái hôn
Tháng 4 năm 1809, Áo bất ngờ phá vỡ liên minh với Pháp, tham gia vào Liên minh thứ năm chống Pháp. Napoléon buộc phải nắm quyền chỉ huy các lực lượng ở mặt trận Danube và Đức. Sau những thắng lợi ban đầu, quân Pháp vấp phải khó khăn trong việc vượt qua sông Donau và thất bại vào tháng Năm trong trận Aspern-Essling gần Viên. Người Áo đã bỏ lỡ lợi dụng tình thế, để cho Napoléon có thể tập hợp lại lực lượng. Ông đánh bại quân Áo trong trận Wagram, và Hiệp ước Schönbrunn được ký giữa Pháp và Áo. Tuy thắng lợi nhưng thiệt hại nặng nề trong trận Wagram đã chứng tỏ những suy sút của quân đội Pháp.
Vương quốc Anh vẫn chống Pháp và có vài trận thắng trên biển. Trên lục địa châu Âu, Anh chỉ hỗ trợ cuộc chiến trên bán đảo Iberia và gửi một đoàn quân viễn chinh gồm 40.000 người tới Walcheren (vùng Zeeland, Hà Lan) từ ngày 30 tháng 7 đến ngày 10 tháng 12 năm 1809 để tấn công căn cứ hải quân Antwerpen của Pháp và để chia cắt lực lượng Pháp nhằm giúp Áo nhưng cuối cùng phải rút lui khi Napoléon đem quân tăng viện.
Ông đồng thời sáp nhập lãnh thổ của Giáo hoàng bởi Giáo hội từ chối ủng hộ Hệ thống Lục địa; Giáo hoàng Piô VII đáp trả bằng cách rút phép thông công vị hoàng đế Pháp. Sau đó một số sĩ quan của Napoléon đã bắt cóc Giáo hoàng, Napoléon tuy không ra lệnh trên nhưng khi biết được sự việc cũng không cho thả Piô. Giáo hoàng bị chuyển đi khắp các lãnh thổ của Napoléon và Napoléon đã gửi các phái đoàn tới gây áp lực buộc ông trên các vấn đề bao gồm thỏa thuận về một giáo ước mới với nước Pháp, tuy nhiên Piô đều từ chối. Năm 1810 Napoléon kết hôn với Nữ Đại vương công Maria Ludovica của Áo, sau khi ông ly dị với Joséphine; điều này gây thêm căng thẳng với Giáo hội, và mười ba Hồng y đã bị tống giam do vắng mặt tại lễ cưới. Giáo hoàng tiếp tục bị giam cầm trong 5 năm và không trở về Roma cho đến tháng 5 năm 1814.
Napoléon chấp nhận việc Bernadotte, một trong các thống chế của ông được bầu làm người thừa kế ngai vàng Thụy Điển vào tháng 11 năm 1810. Ông thường chiều Bernadotte bất chấp những sơ suất của viên tướng này vì Bernadotte cưới hôn thê cũ của ông là Désirée Clary nhưng về sau hối hận cả đời khi Bernadotte đem Thụy Điển liên minh với các kẻ thù của Pháp trong Liên minh thứ sáu và trở thành một trong những đối thủ đáng ngại nhất của ông
Xâm lược nước Nga
Hội nghị Erfurt được tổ chức nhằm bảo vệ mối đồng minh Nga-Pháp, và các hoàng đế Pháp và Nga đã có một mối quan hệ cá nhân thân thiện sau cuộc họp đầu tiên ở Tilsit năm 1807. Tuy nhiên tới năm 1811, căng thẳng gia tăng và Alexander chịu sức ép từ giới quý tộc Nga đòi phá vỡ đồng minh. Dấu hiệu ban đầu rằng mối quan hệ đã biến đổi là sự chối bỏ trên thực tế Hệ thống Lục địa, điều khiến Napoléon đe dọa Aleksandr nhiều hậu quả thảm khốc nếu ông lập quan hệ đồng minh với người Anh.
Đến năm 1812, các cố vấn của Aleksandr đề xuất khả năng tiến hành xâm lược Đế quốc Pháp và tái chiếm Ba Lan. Nhận được báo cáo tình báo về những sự chuẩn bị chiến tranh của Nga, Napoléon tăng cường mở rộng đạo quân Grande Armée của mình lên hơn 450 000 lính. Ông phớt lờ lời khuyên lặp lại chống một cuộc xâm lược vào trung tâm nước Nga và chuẩn bị cho một chiến dịch tấn công; và ngày 23 tháng 6 năm 1812 cuộc chinh phạt bắt đầu.
Trong một nỗ lực nhằm thu được sự hỗ trợ hơn nữa từ những người yêu nước dân tộc chủ nghĩa Ba Lan, Napoléon gọi cuộc chiến là Chiến tranh Ba Lan lần thứ hai. Chiến tranh Ba Lan lần thứ nhất là cuộc nổi dậy Liên bang Bar của quý tộc Ba Lan chống lại Nga năm 1768. Những người yêu nước Ba Lan muốn khu vực Ba Lan thuộc Nga sáp nhập vào Công quốc Warszawa và một nhà nước Ba Lan độc lập được tạo ra. Điều này bị từ chối bởi Napoléon đã hứa với đồng minh Áo không cho phép như vậy. Napoléon cũng từ chối giải phóng cho nông nô Nga bởi lo ngại điều này có thể tạo nên những chống đối trong miền hậu phương của quân đội ông. Những nông nô này về sau đã đối xử thậm tệ đối với lính Pháp khi họ rút chạy.
Người Nga từ chối mục tiêu của Napoléon về một trận giao chiến quyết định, thay vào đó thoái lui ngày càng sâu vào lãnh thổ Nga. Một nỗ lực kháng cự ngắn ngủi được thực hiện ở Smolensk vào tháng Tám; người Nga bị đánh bại trong một loạt trận, và Napoléon tiếp tục tiến công. Người Nga vẫn trì hoãn đánh nhau, mặc dù trong một vài trường hợp điều này chỉ đạt được do sự ngần ngừ ít thấy ở Napoléon khi cơ hội tới. Do chiến thuật tiêu thổ của quân Nga, người Pháp cảm thấy ngày càng khó để tìm kiếm thức ăn cho bản thân và cho ngựa.
Người Nga bấy giờ mới tung ra những trận đánh ở ngoại vi Moskva. Ngày 7 tháng 9: trận Borodino khiến cho 44 000 quân Nga và 35 000 quân Pháp tử vong, bị thương hoặc bị bắt, và có lẽ là ngày chiến sự đẫm máu nhất trong lịch sử từ trước tới thời điểm đó. Mặc dù quân Pháp thắng, quân đội Nga đã đương đầu, và đứng vững, trong trận chiến trực diện mà Napoléon đã hi vọng sẽ mang tính quyết định. Napoléon đã ghi chép lại: "Trận khủng khiếp nhất trong mọi trận đánh của tôi là trận trước Moskva. Người Pháp đã chứng tỏ họ xứng đáng với chiến thắng, nhưng người Nga đã chứng tỏ họ bất khả chiến bại".
Quân đội Nga rút xa khỏi Moskva. Napoléon tiến vào thành phố, trông đợi việc Moskva thất thủ sẽ kết thúc chiến tranh và Aleksandr sẽ đàm phán hòa bình. Tuy nhiên, tổng đốc thành phố Feodor Rostopchin ra lệnh đốt cháy Moskva chứ không đầu hàng. Sau một tháng, lo lắng mất quyền kiểm soát ở Pháp, Napoléon và quân đội rút lui.
Người Pháp chịu tổn thất to lớn trong quá trình rút quân tai hại, mà một phần là do Mùa Đông Nga. Quân đội Pháp bắt đầu với hơn 400 000 quân tiền phương, nhưng vào lúc kết thúc chỉ có ít hơn 40 000 người vượt sông Berezina tháng 11 năm 1812. Phía Nga mất 150 000 lính trong trận chiến và hàng trăm nghìn người dân khác thiệt mạng.
Chiến tranh Liên minh thứ sáu
Có một thời gian tạm lắng chiến sự trong mùa đông 1812–1813 khi cả người Nga lẫn người Pháp đang tái xây dựng lực lượng; Napoléon sau đó có thể tung ra chiến trường 350.000 quân. Được cổ vũ bởi thất bại của Pháp tại Nga, Phổ liên hợp với Áo, Thụy Điển, Nga, Anh, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha trong một liên minh mới. Napoléon nắm quyền chỉ huy ở mặt trận Đức và giáng cho Liên minh một chuỗi trận thua bao gồm thảm bại ở trận Dresden vào tháng 8 năm 1813.
Bất chấp những thắng lợi này, tình thế tiếp tục ngày càng chống lại Napoléon, và quân Pháp bị khóa chặt bởi một lực lượng đông gấp đôi và do đó thua trong trận Leipzig. Đây có lẽ là trận chiến lớn nhất trong toàn bộ các cuộc chiến tranh của Napoléon và nó khiến cho 90.000 người thương vong.
Napoléon rút về Pháp với đội quân giảm xuống còn 70.000 lính và 40.000 người tụt khỏi đội hình, chống lại đội quân Liên minh đông gấp hơn ba lần. Nước Pháp bị bao vây: quân Anh dồn ép từ phía nam, các đạo quân Liên minh khác đang nhắm vào tấn công các bang chư hầu Đức. Napoléon thắng một loạt trận xuất sắc trong Chiến dịch Sáu ngày, tuy nhiên chúng không đủ ý nghĩa để thay đổi cục diện. Quân Liên minh đã đánh bại Napoléon trong những trận đánh quan trọng tại Laon và Arcis-sur-Aube, và tiến chiếm Paris vào tháng 3 năm 1814.
Khi Napoléon đề xuất hành quân tới thủ đô, các thống chế của ông quyết định gây binh biến. Ngày 4 tháng 4, Thống chế Ney lãnh đạo lật đổ Napoléon. Napoléon khẳng định rằng quân đội sẽ theo ông, và Ney đáp lại rằng quân đội sẽ theo những vị tướng của nó. Napoléon không có lựa chọn nào ngoài việc thoái vị. Ông quyết định nhường ngôi cho con nhưng Liên minh từ chối điều này, Napoléon buộc phải thoái vị không điều kiện vào ngày 11 tháng 4.
Lưu đày tại Elba
Trong Hiệp ước Fontainebleau, những người chiến thắng đày ông tới Elba, một hòn đảo 12 000 dân ở Địa Trung Hải, cách bờ biển Toscana 20 km. Họ cho ông quyền cai trị hòn đảo và cho phép ông giữ lại danh hiệu hoàng đế. Napoléon đã định tự tử bằng viên thuốc mà ông mang theo mình kể từ một lần suýt bị người Nga bắt được trong đợt rút lui khỏi Moskva. Tuy nhiên độc tính của nó đã giảm sau vài năm, và Napoléon sống sót. Ông chấp nhận lưu đày, trong khi vợ và con trai tìm sự nương náu ở nước Áo. Trong vài tháng đầu ở Elba ông đã tạo dựng một đội quân và cả một lực lượng hải quân nhỏ trên đảo, phát triển các mỏ sắt, và ra những sắc lệnh liên quan đến phương thức canh tác nông nghiệp hiện đại.
Triều đại Một trăm ngày
Dù bị chia cắt khỏi vợ và con trai, những người đã chịu sự kiểm soát của nước Áo, bị cắt khoản trợ cấp được đảm bảo cho ông bởi Hiệp ước Fontainebleau, và dấy lên những tin đồn ông dường như bị trục xuất tới một hòn đảo xa xôi ở Đại Tây Dương, Napoléon trốn khỏi Elba ngày 26 tháng 2 năm 1815. Ông cập bến ở Golfe-Juan trên đất liền Pháp, hai ngày sau đó.
Trung đoàn số 5 được gửi tới để ngăn chặn ông và nối lại tuyến đường tới nam Grenoble vào mùng 7 tháng 3 năm 1815. Napoléon tiếp cận đội quân một mình, xuống ngựa và khi đứng trong tầm đạn, ông hét lên: "Ta ở đây. Giết Hoàng đế của các người đi, nếu các người muốn".
Những người lính đáp lại bằng tiếng hô "Hoàng đế Vạn tuế!" ("Vive L'Empereur!") và hành quân cùng Napoléon tới Paris; Louis XVIII bỏ chạy. Ngày 13 tháng Ba, các cường quốc tại Đại hội Viên đã tuyên bố Napoléon là kẻ ngoài vòng pháp luật, và bốn ngày sau Anh, Nga, Áo và Phổ kết hợp một lần nữa để gửi mỗi nước 150.000 quân tới chiến trường để chấm dứt nền cai trị của ông.
Napoléon đến Paris ngày 20 tháng 3 và cầm quyền trong một thời kì mà ngày nay gọi là Triều đại Một trăm ngày. Đến đầu tháng 6 lực lượng vũ trang mà ông tập hợp được đạt con số 200.000, và ông quyết định chọn tấn công để đánh bật gọng kìm của quân đội Anh và Phổ. Tập đoàn quân phía Bắc băng qua biên giới tới Vương quốc Liên hiệp Hà Lan, nay là Bỉ.
Quân đội Napoléon chiến đấu với quân liên minh, chỉ huy bởi Wellington và Gebhard Leberecht von Blücher, trong trận Waterloo ngày 18 tháng 6 năm 1815. Quân đội Wellington chịu đựng các đợt tấn công liên tiếp của người Pháp và đẩy lùi họ trên chiến trường trong khi quân Phổ tới tăng viện và phá vỡ sườn phải của đội hình quân Napoléon. Napoléon bị đánh bại bởi ông phải chiến đấu với quân số một chọi hai, tấn công một đội quân chiếm được vị trí phòng ngự tuyệt vời trên địa hình ẩm ướt lầy lội.
Sức khỏe của ông ngày hôm đó có thể đã ảnh hưởng tới sự hiện diện và sự hăng hái của ông trên chiến trường, thêm vào sự kiện là cấp dưới có thể đã khiến ông bị ngã. Một sự kiện khác có ảnh hưởng quan trọng tới kết cục là lực lượng kị binh do tướng Grouchy đã không tiếp ứng kịp thời. Dù vậy, Napoléon đã tiến rất gần tới một chiến thắng chớp nhoáng. Bị áp đảo về số lượng, quân đội Pháp rút khỏi chiến trường trong hỗn loạn, điều cho phép lực lượng Liên minh tiến vào nước Pháp và khôi phục ngai vàng nước Pháp cho Louis XVIII.
Ở ngoài cảng Rochefort, Charente-Maritime, sau khi cân nhắc một cuộc đào thoát sang Hợp chúng quốc, Napoléon chính thức yêu cầu tị nạn chính trị từ đại tá người Anh Frederick Lewis Maitland trên chiến hạm ngày 15 tháng 7 năm 1815.
Lưu đày ở Saint Helena
Napoléon bị tống giam và sau đó lưu đày tới đảo Saint Helena trên Đại Tây Dương, cách bờ biển Tây Phi . Trong hai tháng đầu tiên ở đây, ông sống trong một căn lều ở khu đất Briars thuộc về một người tên William Balcombe. Napoléon trở nên gần gũi với gia đình này, đặc biệt với cô con gái út tên Lucia Elizabeth, người về sau viết cuốn Những hồi ức về Hoàng đế Napoléon. Tình bạn này bị chia cắt vào năm 1818 khi chính quyền Anh bắt đầu nghi ngờ rằng Balcombe đóng vai một người trung gian giữa Napoléon và Paris và đuổi ông này khỏi đảo.
Napoléon chuyển tới Longwood House vào tháng 12 năm 1815; nó đã rơi vào tình trạng hư hỏng, ẩm ướt và gió lùa, gây hại cho sức khỏe. Tờ The Times đã xuất bản những bài báo ám chỉ rằng chính phủ Anh đang cố gắng làm ông chết mau, và ông thường phàn nàn về điều kiện sống trong những bức thư gửi cho tổng đốc và là người canh giữ ông Hudson Lowe.
Với sự đỡ đần của một ít người đi theo, Napoléon viết hồi ký và lên án những người giam giữ ông — đặc biệt là Lowe. Sự đối xử của Lowe với Napoléon bị xem là tồi tệ bởi các học giả như Frank MacLynn. Lowe đã gia tăng thêm tình trạng khổ cực của ông bằng những biện pháp bao gồm sự hạn chế việc đi lại của Napoléon, một quy định yêu cầu không món quà nào được gửi cho ông nếu nó đề cập đến danh hiệu hoàng đế của ông, và một văn bản mà những người ủng hộ phải ký đòi hỏi rằng họ sẽ phải ở lại với người tù vô thời hạn.
Năm 1818, The Times tường thuật một tin đồn thất thiệt về sự đào thoát của Napoléon và nói rằng tin tức được chào đón bởi sự thắp nến đồng thời ở nhiều gia đình Luân Đôn. Có một sự thông cảm cho ông ở Nghị viện Anh: Nam tước Holland có một bài diễn văn trước Nghị viện yêu cầu tù nhân phải được đối xử mà không chịu sự tàn nhẫn nào. Napoléon tiếp tục theo dõi thời sự qua tờ The Times và từng hi vọng được thả khi Holland trở thành Thủ tướng. Ông cũng nhận sự giúp đỡ từ Nam tước Cochrane, người tham dự vào các cuộc đấu tranh của Chile và Brasil giành độc lập và muốn cứu Napoléon và giúp ông lập nên một đế chế mới ở Nam Mỹ, một viễn cảnh bị sụp đổ bởi cái chết của Napoléon vào năm 1821.
Có những âm mưu khác để giải thoát Napoléon khỏi sự giam cầm bao gồm một âm mưu từ Texas, nơi những người lính lưu đày của Grande Armée muốn một sự phục hưng Đế quốc Napoléon ở Mỹ. Có cả một kế hoạch cứu ông bằng một tàu ngầm sơ khai. Trong thời kì Napoléon bị giam cầm, Nam tước Byron đã viết những vần thơ xem Napoléon như hiện thân của anh hùng lãng mạn, thiên tài bất toàn, cô độc và bị ngược đãi. Tin tức rằng Napoléon khởi sự làm vườn ở Longwood cũng làm dấy lên sự đồng cảm với nhiều gia đình Anh.
Qua đời và an táng
Ngay từ cuối năm 1817, đã xuất hiện nhiều dấu hiệu bệnh tật nơi vị cựu Hoàng Đế, một phần cũng vì ông thiếu vận động. Napoléon có triệu chứng bị ung thư bao tử. Bác sĩ riêng của Napoléon, Barry O'Meara, cảnh báo chính quyền về tình trạng sức khỏe suy giảm của người tù mà nguyên nhân chính, theo ông, là sự đối xử khắc nghiệt của viên "cai ngục", Lowe, buộc Napoléon giam thân hàng tháng trời trong nơi cư trú hư hỏng và ẩm ướt Longwood. O'Meara có một liên lạc thư từ bí mật với một thư ký ở Bộ Hải quân Anh, được biết rằng những lá thư này được đọc bởi lãnh đạo cao cấp: ông hi vọng, bằng cách này, cảnh báo chính phủ, nhưng thực tế không đem lại điều gì. Đã vậy, O'Meara còn bị thuyên chuyển đi nơi khác, thay thế bằng một bác sĩ gốc đảo Corse tên là Francesco Antommarchi.
Tháng 2 năm 1821, sức khỏe Napoléon nhanh chóng trở nên suy sụp, ông phải nằm liệt trên giường. Tháng 4, Napoléon Bonaparte đã đọc lời di chúc cuối cùng, gồm có câu: "Tôi ước muốn nắm xương tàn của tôi nằm bên bờ sông Seine, ở giữa những người dân Pháp mà tôi rất yêu mến. Tôi chết trước thời hạn, bị giết bởi thể chế hoạt đầu Anh và do các kẻ sát nhân được thuê mướn". Ngày 2 tháng 5, hai bác sĩ Anh, những người vừa tới gần đó, chăm sóc cho ông nhưng chỉ có thể kê những liều thuốc giảm đau. Ông mất hai ngày sau đó, sau khi trải qua lễ thú tội, xức dầu thánh và ban thánh thể với sự hiện diện của Giám mục Ange Vignali. Những lời cuối cùng của ông là "France, armée, tête d'armée, Joséphine" (Nước Pháp, quân đội, chỉ huy quân đội, Joséphine). Napoléon đã qua đời lúc 5 giờ 49 phút giờ chiều ngày hôm đó, khi chưa tròn 52 tuổi. Thi thể của ông được mặc bộ quân phục mà ông ưa thích và được phủ lên bằng tấm áo choàng màu xám, tấm áo trận mà ông đã khoác trong trận Marengo.
Trái với di nguyện của ông, tổng đốc người Anh cho rằng ông nên được chôn cất ở St. Helena, trong Thung lũng Willows. Hudson Lowe khăng khăng đòi câu khắc trên bia mộ phải đề "Napoleon Bonaparte"; những thuộc hạ theo đi đày, Montholon và Bertrand muốn Đế hiệu "Napoleon" phải được viết chỉ bằng tên đầu. Kết quả là tấm bia mộ để trống tên.
Năm 1840, Louis Philippe I nhận được sự cho phép của Anh để đem di hài Napoléon về Pháp. Di hài được vận chuyển bằng chiến hạm Belle-Poule, được sơn đen trong dịp này, và ngày 29 tháng 11 nó cập bến Chebourg. Di hài tiếp đó được mang bởi tàu hơi nước Normandie tới Le Havre, ngược sông Seine tới Rouen và dừng ở Paris.
Ngày 15 tháng 12, lễ quốc tang được cử hành. Xe tang di chuyển từ Khải Hoàn Môn xuống đại lộ Champs-Élysées, băng qua Quảng trường Concorde tới Les Invalides (Điện Phế binh) và tới mái vòm ở nhà nguyện St Jérôme nơi nó nằm lại cho đến khi ngôi mộ được thiết kế bởi Louis Visconti hoàn thành. Năm 1861, thi hài được an táng trong một chiếc quách làm từ đá tràng thạch (porphyry) trong hầm mộ dưới mái vòm của Điện Invalides.
Nguyên nhân cái chết
Cuộc khám nghiệm tử thi chỉ ra rằng nguyên nhân cái chết là ung thư dạ dày. Tuy nhiên, François Carlo Antommarchi, bác sĩ riêng của Napoléon và là người chỉ đạo cuộc khám nghiệm, đã không ký vào báo cáo chính thức. Cha của Napoléon cũng qua đời vì ung thư dạ dày nhưng điều này dường như không được biết vào thời điểm mổ tử thi. Antommarchi tìm thấy bằng chứng về một vết loét dạ dày, và đây là cách giải thích tiện lợi nhất đối với chính phủ Anh, những người muốn tránh sự chỉ trích về việc chăm sóc vị hoàng đế Pháp.
Năm 1955, nhật ký của người hầu phòng của Napoléon, Louis Marchand, xuất hiện trên báo chí. Bản mô tả về Napoléon những tháng trước khi mất khiến cho Sten Forshufvud đề xuất những nguyên nhân khác cho cái chết, bao gồm sự đầu độc arsen từ từ, trong một bài báo trên tờ Nature năm 1961. Arsen được dùng làm thuốc độc vào thời kì đó bởi khi ấy nó không thể bị phát hiện khi áp dụng trong một thời gian dài. Forshufvud, trong một cuốn sách năm 1978 với Ben Weider, lưu ý rằng cơ thể vị hoàng đế được thấy là được bảo quản tốt một cách đáng ngạc nhiên khi di chuyển vào năm 1840. Arsen là một chất có tính bảo quản mạnh, và do đó điều này củng cố giả thuyết đầu độc. Forshufvud và Weider nhận xét rằng Napoléon từng cố hạ bớt cơn khát bất thường bằng uống nhiều si-rô nước mạch ướp hoa cam (orgeat syrup) chứa các hợp chất cyanide trong quả hạnh dùng để tạo mùi.
Họ khẳng định rằng kali tactrat, được sử dụng để ngăn dạ dày đào thải các chất này và cơn khát là triệu chứng của đầu độc. Giả thuyết của họ là calomen (thủy nhân clorua HgCl2, xưa kia được dùng làm thuốc nhuận tràng) được áp dụng quá liều cho Napoléon, đã giết ông và để lại những tổn thương mô rộng khắp. Một bài báo năm 2007 đã khẳng định loại arsen tìm thấy trên thân tóc Napoléon là loại vô cơ, độc tính cao nhất, và theo nhà độc dược học Patrick Kintz, điều này ủng hộ kết luật rằng cái chết của ông là một vụ ám sát.
Giấy dán tường được dùng ở Longwood chứa nồng độ cao hợp chất arsen được sử để nhuộm màu bởi những nhà sản xuất Anh. Chất kết dính, vốn vô hại ở điều kiện nước Anh, có lẽ đã bị mốc trong khí hậu ẩm hơn nhiều ở St. Helena và nhả ra khí arsin (arsen hydride, AsH3) độc hại. Lý thuyết này đã được loại trừ do nó không giải thích được số liệu về nồng độ hấp thụ arsen tìm thấy trong các phân tích khác.
Dù sao, những nghiên cứu hiện đại tỏ ra nghiêng về chứng cớ giải phẫu ban đầu. Các nhà nghiên cứu năm 2008 đã phân tích các mẫu tóc Napoléon khác nhau từ suốt cuộc đời ông, từ gia đình và những người đương thời. Tất cả các mẫu đều có nồng độ arsen rất cao, xấp xỉ gấp 100 lần con số trung bình. Theo các nhà nghiên cứu này, cơ thể Napoléon đã bị nhiễm độc arsen nặng khi còn là một cậu bé, và nồng độ arsen cao trong tóc không phải do sự đầu độc có chủ ý nào; người ta có thể phơi nhiễm liên tục với arsen từ các loại keo và chất nhuộm trong suốt cuộc đời họ.
Những cải cách lớn
Napoléon đã tiến hành những cải cách lâu dài, liên quan đến giáo dục bậc cao, một đạo luật thuế, hệ thống đường sá và cống thoát nước, và thiết lập nên Ngân hàng Pháp (Banque de France — ngân hàng trung ương của Pháp). Ông thương lượng Giáo ước 1801 với Giáo hội Công giáo, tìm cách hòa giải với dân chúng hầu hết theo Công giáo với nền cai trị của ông. Nó được ban hành song song với Bộ Điều khoản Cơ bản (Les Articles Organiques), bộ luật chỉnh đốn tín ngưỡng dân chúng ở Pháp. Cùng năm đó, Bonaparte trở thành Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học Pháp và bổ nhiệm Jean Baptiste Joseph Delambre làm Thư ký Thường trực.
Tháng 5 năm 1802, ông lập nên Bắc Đẩu Bội tinh (tiếng Pháp là Légion d'honneur, nghĩa là "Binh đoàn danh dự"), một sự thay thế cho các huân chương hoàng gia và tước hiệu hiệp sĩ cũ, để khuyến khích các thành tích quân sự lẫn dân sự; huân chương này hiện vẫn là phần thưởng danh dự cao nhất ở Pháp ngày nay. Quyền lực ông được tăng cường nhờ Hiến pháp Năm X do ông chỉ đạo biên soạn: "Điều 1. Nhân dân Pháp chỉ đinh, và Thượng viện tấn phong Napoléon-Bonaparte là Tổng tài Thứ nhất suốt đời. Chính sau văn bản này mà ông thường được gọi là Napoléon thay vì Bonaparte.
Bộ luật dân sự của Napoléon, Code Civil — nay thường được biết dưới tên Bộ luật Napoléon — được chuẩn bị bởi hai viện lập pháp dưới sự giám sát của Jean Jacques Régis de Cambacérès, vị Tổng tài thứ hai. Napoléon tham gia tích cực vào các phiên họp của Hội đồng Nhà nước để sửa chữa bản thảo. Sự phát triển bộ luật là một thay đổi căn bản về bản chất của hệ thống luật dân sự với sự nhấn mạnh rõ ràng lên các luật phải được viết rõ ràng và có thể tiếp cận được. Các bộ luật khác do Napoléon ấn định nhằm hệ thống hóa luật thương mại và luật hình sự; một Hướng dẫn Luật Hình sự được thiết lập lần đầu tiên một cách quy củ các quy trình tố tụng.
Trong số các cải cách của Napoléon, đáng kể nhất là luật pháp và hệ thống đo lường. Về ý nghĩa các cải cách của Napoléon, xem phần Di sản.
Bộ luật Napoléon
Bộ luật Napoléon được tiếp nhận trên phần lớn châu Âu, dù chỉ trong những vùng đất ông chinh phục được, và được duy trì ngay cả sau thất bại của ông. Napoléon từng nói: "Vinh quang thực sự của tôi không phải là thắng 40 trận chiến...Waterloo sẽ xóa sạch ký ức về rất nhiều chiến thắng như vậy.... Nhưng...thứ sẽ tồn tại mãi mãi, đó là Bộ luật Dân sự của tôi". Bộ luật vẫn có tầm quan trọng ngày nay trên một phần tư hệ thống luật thế giới bao gồm ở châu Âu, châu Mỹ và châu Phi.
Đánh giá tầm ảnh hưởng của nó tới Đức, Dieter Langewiesche mô tả bộ luật như một "dự án cách mạng" khuyến khích sự phát triển của một xã hội tư sản ở miền Đức bằng việc mở rộng quyền đối với tài sản tư hữu và một sự đẩy nhanh kết thúc của chế độ phong kiến. Napoléon đã tái cấu trúc thứ từng là Đế quốc La Mã Thần thánh, tạo nên từ hơn một nghìn lãnh địa lớn nhỏ, thành một Liên bang sông Rhine gồm bốn mươi bang; điều này cung cấp cơ sở cho Liên bang Đức và sự thống nhất nước Đức năm 1871.
Phong trào hướng tới thống nhất dân tộc ở Ý cũng được thúc đẩy một cách tương tự bởi sự cầm quyền của Napoléon. Những sự thay đổi này góp phần vào sự phát triển nói chung của chủ nghĩa dân tộc và quốc gia dân tộc.
Hệ thống đo lường
Việc ban hành chính thức hệ thống đo lường vào tháng 9 năm 1799 không được biết đến nhiều trong nhiều tầng lớp xã hội Pháp, và nền cai trị của Napoléon đã khuyến khích mạnh mẽ sự tiếp nhận những tiêu chuẩn mới không chỉ trên nước Pháp mà cả những lãnh thổ trong phạm vi ảnh hưởng của Pháp. Napoléon rốt cục lại có một bước đi thụt lùi vào 1812 khi ông thông qua đạo luật giới thiệu mesures usuelles (những đơn vị đo lường truyền thống) cho các giao dịch bán lẻ — một hệ thống đo lường tương tự những đơn vị trước Cách mạng nhưng dựa trên kilôgam và mét; chẳng hạn như "bảng hệ mét" (livre metrique) bằng 500 g thay vì 489.5 g—giá trị livre du roi (bảng nhà vua). Các đơn vị khác quay trở lại theo cách tương tự. Dù vậy điều này ít nhất đã thiết lập cơ sở để đưa ra dứt khoát hệ mét trên khắp châu Âu vào giữa thế kỷ XIX.
Napoléon và tôn giáo
Lễ rửa tội của Napoléon diễn ra ở Ajaccio ngày 21 tháng 7 năm 1771; ông được nuôi dưỡng trong một gia đình ngoan đạo và tiếp nhận một nền giáo dục Công giáo. Tuy nhiên, các thầy giáo của ông đã thất bại trong việc đem lại niềm tin tôn giáo cho ông khi còn nhỏ. Khi trưởng thành, Napoléon được miêu tả như một người "hữu thần với niềm tin và sự tôn kính không tự nguyện với Công giáo". Ông chưa bao giờ tin vào một vị Chúa hiện hữu; thượng đế với ông là một vị Chúa vắng mặt và xa xôi nhưng ông thừa nhận một cách thực dụng rằng những tôn giáo có tổ chức là yếu tố then chốt của trật tự xã hội và đặc biệt là Giáo hội Công giáo Rôma, mà theo ông, có "những nghi lễ tráng lệ và luân lý cao cả hơn là các đạo luật có ảnh hưởng lên trí tưởng tượng của dân chúng tốt hơn những tôn giáo khác".
Napoléon có một hôn lễ dân sự với Joséphine de Beauharnais mà không cử hành nghi lễ tôn giáo nào, vào ngày 9 tháng 3 năm 1796. Trong chiến dịch Ai Cập, ông thể hiện nhiều sự khoan dung đối với tôn giáo hơn so với bất kì một vị tướng cách mạng nào khác, và thảo luận với các học giả Hồi giáo và cho phép các buổi lễ tôn giáo, nhưng tướng Dupuy, người tham gia chiến dịch cùng ông, về sau tiết lộ sau cái chết của Giáo hoàng Piô VI, về những lý do chính trị cho cách đối xử như vậy: "Chúng ta đang lừa gạt những người Ai Cập với mối quan tâm giả vờ của chúng ta đối với tôn giáo của họ; chẳng phải Bonaparte lẫn chúng ta tin vào tôn giáo này hơn chúng ta đã từng tin vào tôn giáo của ngài Piô quá cố". Trong hồi ký của mình, thư ký của Bonaparte là Bourienne viết về mối quan tâm tôn giáo của Bonaparte theo những lời lẽ tương tự.
Chủ nghĩa cơ hội về tôn giáo của ông được tóm tắt trong câu nói nổi tiếng của chính ông: "Chính bằng việc làm cho mình thành người Cơ đốc giáo ta đã đem hòa bình cho Bretagne và Vendée. Chính bằng việc làm cho mình thành người Ý ta đã chinh phục tinh thần ở Ý. Chính bằng việc làm cho mình thành một người Hồi giáo ta đã thiết lập quyền lực ở Ai Cập. Nếu ta cai trị một quốc gia Do Thái, ta hẳn nên cho xây lại Đền Solomon".
Napoléon đã tự đội vương miện cho mình làm Hoàng đế Napoléon I vào ngày 2 tháng 12 năm 1804 ở Nhà thờ Đức Bà Paris với sự ban phúc của Giáo hoàng Piô VII. Ngày 1 tháng 4 năm 1810, Napoléon kết hôn theo giáo lễ với Nữ Đại vương công nước Áo Maria Ludovica. Trong một cuộc thảo luận riêng tư với tướng Gourgaud khi đang lưu đày ở St. Helena, Napoléon bộc lộ các quan điểm duy vật về nguồn gốc con người{{#tag:ref|"Tôi nghĩ rằng vật chất làm nên con người là một chất nhớt, được hun nóng bởi mặt trời và thổi hồn bởi các dòng điện. Cái làm nên động vật —một con bò, chẳng hạn— mà không phải vật chất có tổ chức? Chao, khi chúng ta thấy rằng khuôn khổ thể chất của chúng ta tương tự chúng, có lẽ chúng ta không tin rằng chúng ta chỉ là những vật chất được tổ chức chất hơn... ý tưởng đơn giản nhất hàm chứa trong sự thờ cúng mặt trời, thứ đem lại sự sống cho vạn vật. Tôi nhắc lại, tôi nghĩ con người được tạo ra trong không khí được sưởi ấm bởi mặt trời, và sau một thời gian nào đó điều đó năng lực sinh sôi này chấm dứt"<ref>[http://www.archive.org/stream/talkofnapoleonat007678mbp#page/n311/mode/2up Talk Of Napoleon At St. Helena']' (1903), pp. 270–271</ref>.|group=chú thích}} và nghi ngờ tính thần thánh của Giê-su, khẳng định rằng thật là ngu xuẩn để tin rằng Sokrates, Platon, Muhammad và Anh giáo cần bị nguyền rủa vì không thuộc Giáo hội Công giáo Rôma{{#tag:ref|"Tôi không tin rằng Giê-su Kitô từng tồn tại. Tôi sẽ tin vào tôn giáo Cơ đốc nếu nó bắt đầu từ khởi thủy thế giới. Cho rằng Socrates, Plato, người Hồi giáo, và tất cả người Anh cần bị nguyền rủa là quá ngu xuẩn. Giê-su hẳn là đã chết, giống như nhiều kẻ cuồng tín tự tuyên bố họ là những nhà tiên tri hoặc đấng Cứu thế được mong chờ. Hàng năm có nhiều kẻ như vậy"<ref>Talk Of Napoleon At St. Helena']' (1903), pp. 276–277</ref>.|group=chú thích}}. Tuy nhiên, Napoléon vẫn nhận xức dầu bởi một linh mục khi sắp từ trần.
Giáo ước
Tìm kiếm một sự hòa giải dân tộc giữa những người Cách mạng và những người Công giáo, Giáo ước 1801 được ký vào ngày 15 tháng 7 năm 1801 giữa Napoléon và Giáo hoàng Piô VII. Nó củng cố vai trò của Giáo hội Công giáo Rôma như giáo hội đa số của Pháp và mang trở lại hầu hết vị thế thế tục của nó.
Trong Cách mạng Pháp, Quốc hội Pháp đã đoạt lấy các tài sản của Giáo hội và ban bố Luật Tổ chức dân sự của Tăng lữ, biến Giáo hội thành một bộ phận của Nhà nước, tách nó khỏi quyền lực của Giáo hoàng. Điều này gây nên sự thù địch của những người vùng Vendée đối với sự thay đổi trong mối quan hệ giữa Giáo hội Công giáo và chính phủ Pháp. Các đạo luật sau đó hủy bỏ lịch Gregorius truyền thống và các ngày lễ Công giáo.
Trong khi Giáo ước phục hồi một số liên hệ với Giáo hoàng, nó chủ yếu có lợi cho chính quyền; cán cân mối quan hệ nhà nước-nhà thờ nghiêng hẳn theo hướng có lợi cho Napoléon. Giờ đây, Napoléon có thể thu được lợi ích của giới Công giáo trong nước Pháp đồng thời kiểm soát Roma về mặt chính trị. Napoléon từng nói với người em Lucien vào tháng 4 năm 1801, "Những nhà chinh phục khéo léo không bị vướng víu bởi những thầy tu. Họ có thể vừa kiềm chế chúng vừa sử dụng chúng". Như một phần của Giáo ước, ông giới thiệu một bộ luật song song mang tên Những Điều khoản Cơ bản.
Giải phóng tôn giáo
Napoléon đã giải phóng những người Do Thái, cũng như những người Tin Lành ở các quốc gia Công giáo và những người Công giáo trong các quốc gia Tin Lành, khỏi các đạo luật hạn chế họ trong các khu biệt lập, và ông đã mở rộng quyền của họ đối với tài sản, tín ngưỡng và nghề nghiệp. Bất chấp phản ứng bài Do Thái đối với các chính sách của Napoléon từ các chính phủ nước ngoài và một bộ phận dư luận bên trong nước Pháp, ông tin rằng sự giải phóng đó sẽ làm lợi cho Pháp nhờ việc thu hút người Do Thái tới đất nước mình nơi không có những hạn chế như những nơi khác.
Ông từng tuyên bố: "Tôi sẽ không bao giờ chấp nhận một đề xuất nào bắt buộc dân tộc Do Thái phải rời Pháp, bởi đối với tôi người Do Thái giống như bất kì công dân nào khác trên đất nước chúng ta. Đẩy người Do Thái khỏi đất nước sẽ làm suy yếu, nhưng đồng hóa họ sẽ làm tăng thêm sức mạnh cho đất nước". Ông được người Do Thái mến mộ tới mức Giáo hội Chính thống Nga kết tội ông là "kẻ chống lại Giê-su và kẻ thù của Chúa Trời".
Hình ảnh trong văn hóa
Napoléon đã trở thành một biểu tượng văn hóa thế giới, hiện thân của thiên tài quân sự và quyền lực chính trị. Sử gia Martin van Creveld mô tả ông như "con người tài ba nhất từng sống". Kể từ khi ông qua đời, rất nhiều thành thị, con đường, tàu và cả các nhân vật hoạt hình được đặt theo tên ông. Ông được minh họa trong hàng trăm bộ phim và được thảo luận trong hàng nghìn cuốn sách và bài báo, trong đó, cuộc đời và sự nghiệp của ông là đề tài để Ridley Scott thực hiện tác phẩm Đế chế Napoleon ra mắt vào năm 2023.
Trong thời kì Chiến tranh Napoléon ông bị báo chí Anh quốc xem như một bạo chúa nguy hiểm, rình rập xâm lược. Một khúc hát cho trẻ em cảnh báo trẻ nhỏ rằng Bonaparte ăn ngấu nghiến những đứa trẻ hư; một "ông ba bị". Báo chí phái Bảo thủ Anh đôi khi mô tả Napoléon lùn hơn nhiều chiều cao trung bình của con người, và hình ảnh này kéo dài dai dẳng. Sự ngộ nhận về chiều cao của ông cũng là kết quả của sự khác biệt giữa các đơn vị đo là pouce của Pháp (2.71 cm) và inch của Anh (2.54 cm); ông cao khoảng 1,7 mét, chiều cao trung bình thời bấy giờ. Napoléon thường được bao quanh bởi các cận vệ cao lớn và biệt hiệu le petit caporal (hạ sĩ bé) là một tiếng thân mật thể hiện sự thân thiết được ghi nhận giữa ông với những người lính hơn là chiều cao của ông.
Năm 1908, nhà phân tâm học Alfred Adler lấy Napoléon để mô tả một phức cảm thấp kém (inferiority complex) trong đó những người lùn có cư xử hiếu chiến để bù đắp cho sự thiếu chiều cao; điều này gợi cảm hứng cho thuật ngữ Phức cảm Napoléon. Nhân vật hình mẫu về Napoléon là một "bạo chúa bé nhỏ" lùn một cách tức cười và điều này đã trở thành một sáo ngữ (cliché) trong văn hóa đại chúng. Ông thường được minh họa mang một mũ nồi rộng với cử chỉ tay đưa lên áo gi-lê — liên hệ với bức tranh năm 1812 của Jacques-Louis David. Ngoài ra, còn có bài hát dân ca Pháp về ông là Napoleón avait cinq cents soldats (lời Việt do Nguyễn Ngọc Thiện với tên Bài ca Napoleon).
Di sản
Quân sự
Trong lĩnh vực tổ chức quân đội, Napoléon đã vay mượn nhiều từ các nhà lý thuyết trước đó như Jacques Hippolyte, và từ các cuộc cải cách của những chính phủ Pháp tiền nhiệm, đồng thời phát triển nhiều thứ đã có sẵn. Ông tiếp tục chính sách, ra đời từ thời Cách mạng, về thăng chức dựa trên công trạng.
Quân đoàn thay thế sư đoàn làm đơn vị quân đội lớn nhất, và pháo tự hành được tích hợp vào các khẩu đội dự bị, hệ thống nhân sự trở nên linh hoạt hơn và kỵ binh trở lại làm một đội hình quan trọng trong lý thuyết quân sự Pháp. Các phương pháp này ngày nay được xem là các đặc điểm chủ yếu của học thuyết quân sự Napoléon. Mặc dù ông đã củng cố việc thực hành chế độ tòng quân cưỡng bức hiện đại được đưa ra bởi Hội đồng Đốc chính, một trong các chiếu chỉ đầu tiên của nhà Bourbon phục hưng là chấm dứt nó.
Các đối thủ của Napoléon học tập từ các cách tân của ông. Tầm quan trọng được tăng cường của hỏa lực pháo sau 1807 bắt nguồn từ việc ông tạo nên một lực lượng pháo có tính cơ động cao, tăng cường số lượng pháo và thay đổi trong cách vận dụng chúng. Kết quả của những yếu tố này là Napoléon, thay vì dựa vào bộ binh làm xói mòn sức phòng thủ của kẻ địch, giờ có thể sử dụng hỏa lực tập trung như một mũi nhọn để khoét một lỗ thủng trong phòng tuyến của kẻ địch và sau đó khai thác lỗ thủng đó bằng bộ binh và kỵ binh hỗ trợ. McConachy bác bỏ lập luận cho rằng sự phụ thuộc tăng lên vào pháo binh bởi quân đội Pháp bắt đầu từ 1807 là một sản phẩm tự nhiên của chất lượng suy giảm của bộ binh Pháp và sau này là sự yếu thế của Pháp về số lượng kỵ binh.
Vũ khí và các loại kĩ thuật quân sự khác nhìn chung không đổi trong kỷ nguyên Cách mạng và thời Napoléon, nhưng sự vận động tác chiến của thế kỷ XVIII đã chứng kiến những thay đổi đáng kể.
Ảnh hưởng lớn nhất của Napoléon là trong cách ông chỉ đạo chiến tranh. Antoine-Henri Jomini đã giải thích các phương pháp của Napoléon trong một cuốn sách giáo khoa được sử dụng rộng rãi đã ảnh hướng tới tất cả các quân đội châu Âu và Mỹ. Napoléon được nhà lý thuyết quân sự đầy ảnh hưởng Carl von Clausewitz xem như một thiên tài trong nghệ thuật tiến hành chiến tranh, và các nhà sử học xếp ông vào một trong những chỉ huy quân sự vĩ đại nhất. Wellington, khi được hỏi ai là vị tướng vĩ đại nhất thời đó, đã trả lời: "Trong thời đại này, trong những thời đại đã qua, [cũng như trong bất kỳ thời đại nào, [đó là] Napoléon".
Dưới thời Napoléon, đã xuất hiện một sự nhấn mạnh mới vào sự hủy diệt, chứ không phải ưu thế chiến thuật, đối với kẻ thù. Các cuộc xâm lược và lãnh thổ địch xảy ra trên những mặt trận rộng lớn hơn, thứ làm cho các cuộc chiến tranh hao tiền tốn của hơn và có tính dứt điểm hơn. Hệ quả chính trị của chiến tranh tăng lên rõ rệt; sự thất trận đối với một cường quốc châu Âu đáng kể hơn nhiều việc mất các nước vùng đệm cô lập. Những nền hòa bình tựa Hòa bình Carthago (nền hòa bình khắc nghiệt với phe bại trận) bện chặt với toàn thể các nỗ lực dân tộc, làm khuếch trương hiện tượng Cách mạng của chiến tranh tổng lực.
Chủ nghĩa Bonaparte
Trong lịch sử chính trị Pháp, chủ nghĩa Bonaparte (Bonapartisme) có hai ý nghĩa. Thuật ngữ này có thể chỉ những người muốn khôi phục Đế chế Pháp dưới sự cai trị của Nhà Bonaparte bao gồm gia tộc của Napoléon ở Corse và cháu ông Louis. Tâm lý luyến tiếc thời đại Napoléon trong dân chúng đã giúp Louis trở thành Tổng thống Pháp đầu tiên rồi thành Napoléon III, Hoàng đế của Đệ Nhị Đế chế Pháp. Theo một nghĩa rộng hơn, chủ nghĩa Bonaparte liên hệ với một phong trào chính trị trung hữu hoặc ôn hòa rộng rãi có chủ trương chính là ủng hộ một nhà nước mạnh, tập quyền dựa trên chủ nghĩa dân túy.
Chỉ trích
Napoléon đã chấm dứt thời kì vô luật pháp và hỗn loạn hậu Cách mạng Pháp. Tuy nhiên, ông bị các đối thủ xem là một tên bạo chúa, một kẻ cướp ngôi.
Những người chỉ trích ông cáo buộc rằng ông không hề băn khoăn lắm khi đối mặt với viễn cảnh chiến tranh và cái chết của hàng ngàn người, biến việc tìm kiếm một nền thống trị đồng thuận sang một chuỗi những xung đột trên khắp châu Âu và phớt lờ các hòa ước và hiệp định. Vai trò của ông trong Cách mạng Haiti và quyết định phục hồi chế độ nô lệ ở các thuộc địa hải ngoại của Pháp gây nên tranh cãi và làm ảnh hưởng tới hình ảnh của ông.
Napoléon đã thể chế hóa sự cướp bóc ở các lãnh thổ chinh phục được: các bảo tàng Pháp chứa đựng những tác phẩm nghệ thuật vơ vét bởi quân đội của ông trên khắp châu Âu. Các vật tạo tác được đem tới Bảo tàng Louvre để tạo nên một bảo tàng trung ương vĩ đại; ví dụ của ông về sau thành nguồn cảm hứng cho những kẻ bắt chước khét tiếng hơn. Ông bị đem so sánh với Adolf Hitler, nổi tiếng nhất bởi nhà sử học Pieter Grey năm 1947. Tuy nhiên David G. Chandler, chuyên gia về lịch sử Napoléon chỉ trích so sánh trên: "Không gì có thể hạ cấp người trước [Napoléon] và làm tăng giá trị cho kẻ sau [Hitler] hơn" .
Những người chỉ trích cũng lập luận rằng di sản thực sự của Napoléon phải phản ánh sự mất mát vị thế của nước Pháp và những cái chết vô ích do nền cai trị của ông đem lại: sử gia Victor Davis Hanson viết, "Xét cho cùng, kỷ lục quân sự là không phải tranh cãi - 17 năm chiến tranh, chừng sáu triệu người chết, nước Pháp khánh kiệt, các thuộc địa hải ngoại bị mất". McLynn lưu ý với độc giả rằng, "Ông có thể xem như người đã kéo chậm đời sống kinh tế châu Âu cả một thế hệ bởi những biến động do những cuộc chiến tranh của ông. Tuy nhiên, Vincent Cronin đáp lại rằng những chỉ trích như vậy dựa vào một tiền đề không đầy đủ rằng Napoléon chịu hoàn toàn trách nhiệm cho những cuộc chiến mang tên ông, trong khi thực tế nước Pháp là nạn nhân của một loạt những mối liên minh nhằm hủy diệt những lý tưởng của Đại Cách mạng Pháp. Mặt khác, một cuộc thăm dò ý kiến xuất bản trên báo Le Figaro năm 2005 cho thấy gần 40% người Pháp coi ông là "một tay độc tài đã dùng mọi cách để thỏa mãn sự thèm khát quyền lực của mình".
Tuyên truyền và tưởng niệm
Khả năng vận dụng tuyên truyền bậc thầy của Napoléon đóng góp nhiều vào sự nổi lên nắm quyền của ông, hợp thức hóa nền cai trị của ông, và thiết lập hình ảnh ông cho hậu thế. Chính sách kiểm duyệt nghiêm ngặt, kiểm soát sự thể hiện của sách, báo, sân khấu, mỹ thuật, chỉ là một phần trong kế hoạch tuyên truyền của ông, nhằm vào việc mô tả ông như liều mình mang lại một nền hòa bình và ổn định mà nhân dân Pháp mong mỏi. Thuật hùng biện thay đổi theo những sự kiện chính trị và theo không khí uy quyền của Napoléon, tập trung trước hết vào vai trò của ông như một vị tướng lĩnh quân đội và sự đặc tả như một người lính, rồi chuyển sang vai trò của ông như một hoàng đế và lãnh tụ dân sự. Vì đặc biệt nhắm vào công chúng bình dân, Napoléon đã nuôi dưỡng một mối quan hệ quan trọng, nhưng không dễ dàng, với giới nghệ thuật đương thời, nắm vai trò tích cực trong việc đặt hàng và kiểm soát các sản phẩm nghệ thuật nhiều hình thức khác nhau để đảm bảo mục đích tuyên truyền của mình.
Học giả Hazareesingh năm 2004 đã xem xét hình ảnh và sự tưởng niệm Napoléon trong ngữ cảnh chính trị-xã hội của nó. Theo đó, nó đóng một vai trò quan trọng trong những thách thức chính trị tập thể đối với nền quân chủ Bourbon những năm 1815-1830. Người dân ở mọi tầng lớp và mọi khu vực trên nước Pháp, đặc biệt là các cựu binh thời kì Napoléon, gợi đến di sản của Napoléon và những mối liên hệ của nó đối với những lý tưởng của cuộc cách mạng 1789.
Những tin đồn lan nhanh về sự quay về của Napoléon từ đảo St. Helena và Napoléon như một cảm hứng cho chủ nghĩa ái quốc, sự tự do tập thể lẫn cá nhân, cùng với sự vận động chính trị đã tự thể hiện trong những chất liệu có tính nổi loạn, đáng chú ý là sự thể hiện các họa tiết ba màu (cách mạng) và hoa hồng (nhà Bonaparte), và những hoạt động tổ chức những ngày kỷ niệm cuộc đời và Triều đại Napoléon trong khi phá hoại những ngày lễ hoàng gia, và chứng tỏ mục tiêu thành công và thịnh hành của những người ủng hộ Napoléon các loại nhằm liên tục làm mất ổn định nền cai trị của nhà Bourbon.
Datta (2005) chỉ ra rằng sau sự sụp đổ của chủ nghĩa quân phiệt Boulanger vào cuối những năm 1880, huyền thoại Napoléon đã tách li khỏi chính trị đảng phái và hồi sinh trong văn hóa đại chúng. Tập trung phân tích một số tác phẩm văn học thời Belle Époque, Datta xem xét cách các tác giả và nhà phê bình thời kì này khai thác huyền thoại Napoléon cho những mục đích chính trị và văn hóa đa dạng.
Quy giảm về một nhân vật phụ, hình ảnh hư cấu mới về Napoléon không còn là một nhân vật lịch sử thế giới mà là một nhân vật gần gũi hơn, phỏng theo những nhu cầu của mỗi cá nhân và được tiếp nhận như sự giải trí đại chúng. Trong nỗ lực của các tác giả để thể hiện vị hoàng đế như một biểu tượng của sự thống nhất quốc gia, những người đề xướng lẫn đả kích Đệ Tam Cộng hòa sử dụng huyền thoại này như một phương tiện để thăm dò những nỗi lo về giới và những nỗi sợ về quá trình dân chủ hóa đi kèm với kỉ nguyên của văn hóa và chính trị quần chúng.
Các Hội nghị Napoléon Quốc tế được tổ chức thường xuyên và có sự tham gia của các thành viên của giới quân sự Pháp và Mỹ, các chính trị gia Pháp và các học giả đến từ nhiều quốc gia khác nhau.
Được dự tính hoàn thành vào năm 2014, Công viên giải trí Napoleonland ở gần Montereau-Fault-Yonne trên vị trí diễn ra chiến thắng của Napoléon trong trận Montereau sẽ có nội dung hoạt động liên quan đến cuộc đời ông.
Di sản ngoài nước Pháp
Napoléon chịu trách nhiệm cho việc lật đổ nhiều Chế độ cũ (Ancien Régime) — những nền quân chủ điển hình ở châu Âu và lan truyền các giá trị chính thống của Cách mạng Pháp tới các quốc gia khác. Đặc biệt, chủ nghĩa dân tộc Pháp của Napoléon đã có ảnh hưởng lên sự phát triển của chủ nghĩa dân tộc ở những miền khác — thường là một cách không chủ ý. Một ví dụ là chủ nghĩa dân tộc Đức của Fichte đã thách thức sự chinh phục nước Đức của Napoléon. Napoléon cũng là tác giả tạo ra cơ sở cờ tam sắc xanh-trắng-đỏ của nước Ý trong thời kì ông cai trị đất nước này.
Đạo luật Napoléon là sự hệ thống hóa luật pháp bao gồm luật dân sự, luật gia đình và luật hình sự mà ông áp đặt lên các lãnh thổ bị chinh phục. Sau sự sụp đổ của Napoléon, bộ luật này không những vẫn tồn tại ở nhiều quốc gia bao gồm Hà Lan, Bỉ, một phần của Ý và Đức, mà còn được dùng làm cơ sở cho nhiều phần của những bộ luật ngoài châu Âu bao gồm Cộng hòa Dominica, bang Louisiana của Hoa Kỳ và tỉnh Quebec của Canada.
Ở Ba Lan hồi ức về Napoléon rất mạnh mẽ, do sự ủng hộ của ông với nền tự chủ và đối lập lại Nga, đạo luật của ông, sự kết thúc chế độ nông nô, và việc hình thành bộ máy quan liêu trung lưu hiện đại.
Một số nhà lãnh đạo chịu ảnh hưởng bởi Napoléon. Muhammad Ali của Ai Cập tìm kiếm liên minh với nước Pháp của Napoléon và tìm cách hiện đại hóa Ai Cập theo các cách thức của chính quyền Pháp. Vào thế kỷ XX, Adolf Hitler từng bày tỏ sự tôn kính Napoléon bằng cách viếng mộ 3 ngày sau khi Đức chiếm được Pháp (1940) trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Hitler được cho là đã nói rằng đây là "một trong những khoảnh khắc lớn nhất trong đời tôi". Hôm sau, Hitler lại thăm mộ Napoléon trong chuyến tham quan Paris, và trong suốt chiến tranh, vị lãnh tụ Đức Quốc xã đã đặt các túi cát quanh mộ Napoléon để tránh sự hư hại do bom đạn gây ra.
Hôn nhân và con cái
Napoléon kết hôn với Joséphine (nhũ danh Marie Josèphe Rose Tascher de La Pagerie) năm 1796, khi ông 26 tuổi; còn bà là một góa phụ 32 tuổi mà người chồng trước bị xử tử trong Cách mạng. Khi bà gặp Bonaparte, bà được biết đến với tên "Rose", một cái tên mà ông không ưa. Ông gọi bà là "Joséphine", và từ đó bà mang tên này. Bonaparte thường gửi các bức thư tình trong các chiến dịch của mình. Ông chính thức thừa nhận con trai riêng của bà Eugène và em họ Stéphanie và sắp xếp các hôn lễ hoàng gia cho họ. Joséphine có một con gái riêng là Hortense, cưới em trai Bonaparte là Louis.
Joséphine có nhiều nhân tình, bao gồm một trung úy người Hungary, Hippolyte Charles, trong chiến dịch Ý của Napoléon. Napoléon biết được đầy đủ mức độ mối quan hệ của bà với Charles khi ở Ai Cập, và một bức thư ông viết cho anh trai nói về chủ đề này bị người Anh chặn được. Lá thư xuất hiện trên các báo chí ở Luân Đôn và Paris, gây cho Napoléon nỗi xấu hổ to lớn. Napoléon cũng có những mối quan hệ của riêng mình: trong chiến dịch Ai Cập ông đã chiếm Pauline Bellisle Foures, vợ của một sĩ quan cấp thấp, làm nhân tình của mình.
Trong khi các nhân tình của ông có những đứa con bởi ông, Joséphine không sinh được một người thừa kế, có thể vì hoặc những ám ảnh về sự bắt giam trong Thời kỳ Khủng bố hoặc lần bà từng phá thai ở tuổi 20. Napoléon sau cùng chọn ly dị để ông có thể tái hôn để tìm người thừa kế. Tháng 3 năm 1810, ông cưới Maria Ludovica 19 tuổi, nữ Đại Công tước Áo, và cháu gái của Maria Antonia của Áo thông qua một đám cưới vắng mặt; do đó ông đã kết hôn với một gia đình đế vương Đức.
Họ duy trì hôn nhân cho tới khi ông qua đời, mặc dù bà không đi đày cùng ông ở Elba và do đó không nhìn thấy chồng lần nữa. Họ có một đứa con, Napoléon Francis Joseph Charles (1811–1832), từ lúc sinh ra đã được phong Vua của người La Mã. Đứa trẻ về sau trở thành Napoléon II năm 1814 và tại vị chỉ hai tuần. Ông hoàng được ban danh hiệu Công tước Reichstadt năm 1818 và mất do bệnh lao ở tuổi 21, mà không có con cái.
Napoléon cũng công nhận hai đứa con ngoài giá thú khác: Charles Léon (1806–1881) sinh bởi Eléonore Denuelle de La Plaigne và Bá tước Alexandre Joseph Colonna-Walewski (1810–1868) bởi Nữ bá tước Maria Walewska. Ông còn có bốn đứa con ngoài giá thú khác không được thừa nhận, như Karl Eugin von Mühlfeld bởi Victoria Kraus; Hélène Napoleone Bonaparte (1816–1910) bởi Albine de Montholon; và Jules Barthélemy-Saint-Hilaire, người mà thông tin về mẹ hiện còn chưa rõ.
Tước hiệu và huy hiệu
Phả hệ tổ tiên
Chú thích
Trích dẫn
Tham khảo
</div>
Liên kết ngoài
The Napoleonic Guide
Napoleon Series
International Napoleonic Society
John Holland Rose
John Gibson Lockhart
William Milligan Sloane Vol. 1/4
William Milligan Sloane Vol. 3/4
Napoléon Bonaparte
Vua Pháp
Vua Ý
Đệ nhất Đế chế Pháp
Vương tộc Bonaparte
Thiếu tướng Pháp
Cách mạng Pháp
Tướng Pháp trong chiến tranh Napoléon
Mất năm 1821
Sinh năm 1769
Bài cơ bản dài
Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Pháp
Người Pháp gốc Ý
N
Chết vì ung thư dạ dày
Nhà toán học tài tử
Người từ Ajaccio
Người Pháp lưu vong
Nhân vật Chiến tranh và hòa bình
Hoàng đế Pháp
Thân vương xứ Andorra
Vua theo đạo Công giáo Rôma
|
27010
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/RSS%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20d%E1%BA%A1ng%20t%E1%BA%ADp%20tin%29
|
RSS (định dạng tập tin)
|
RSS là một định dạng tập tin thuộc họ XML dùng trong việc chia sẻ tin tức Web (Web syndication) được dùng bởi nhiều website tin tức và weblog.
Công nghệ của RSS cho phép người dùng Internet có thể đặt mua thông tin từ các websites có cung cấp khả năng RSS (RSS feeds); chúng thường là các site có nội dung thay đổi và được thêm vào thường xuyên. Để có thể dùng công nghệ này, người quản trị site đó tạo ra hay quản lý một phần mềm chuyên dụng (như là một hệ thống quản lý nội dung - content management system-CMS), mà với định dạng XML máy có thể đọc được, có thể biểu diễn các bài tin mới thành một danh sách, với một hoặc hai dòng cho mỗi bài tin và một liên kết đến bài tin đầy đủ đó. Khác với việc mua nhiều ấn bản của các tờ báo hay tạp chí in giấy, hầu hết việc mua RSS là miễn phí.
Định dạng RSS cung cấp nội dung web và tóm lược nội dung web cùng với các liên kết đến phiên bản đầy đủ của nội dung tin đó, và các siêu-dữ-liệu (meta-data) khác. Thông tin này được cung cấp dưới dạng một tập tin XML được gọi là một RSS feed, webfeed, RSS stream, hay RSS channel. Cùng với việc hỗ trợ cung cấp chia sẻ thông tin, RSS cho phép những độc giả thường xuyên của một website có thể theo dõi các cập nhật của site đó dùng aggregator.
Cách sử dụng
RSS được dùng phổ biến bởi cộng đồng weblog để chia sẻ những tiêu đề tin tức mới nhất hay toàn bộ nội dung của nó, và ngay cả các tập tin đa phương tiện đính kèm. (Xem podcasting, vodcasting, broadcasting, screencasting, Vloging, và MP3 blogs.) Vào giữa năm 2000, việc sử dụng RSS trở nên phổ biến đối với hãng tin tức lớn, bao gồm Reuters, CNN, và BBC. Những nhà cung cấp tin này cho phép các website khác tổng hợp những tiêu đề tin tức "được chia sẻ" hay cung cấp các tóm tắt ngắn gọn của các bản tin chính dưới nhiều hình thức thỏa hiệp khác nhau. RSS ngày nay được dùng cho nhiều mục đích, bao gồm tiếp thị, báo cáo lỗi (bug-reports), hay các hoạt động khác bao gồm cập nhật hay xuất bản định kì.
Một chương trình gọi là một feed reader hay aggregator có thể kiểm tra xem một website có hỗ trợ RSS cho người dùng không và, nếu có, hiển thị những bài viết cập nhật nhất mà nó tìm thấy từ website đó. Ngày nay có thể tìm thấy RSS feeds trên rất nhiều Web sites lớn, cũng như nhiều những site nhỏ.
Các công cụ đọc tin phía trình khách và công cụ aggregators thường được xây dựng thành một chương trình độc lập hoặc là một phần mở rộng của các chương trình có sẵn như trình duyệt web. Những chương trình như vậy có mặt trên nhiều hệ điều hành khác nhau. Xem danh sách các aggregators chuyên về tin tức.
Các phần mềm thu thập tin tức như trên không đòi hỏi phải cài đặt và có thể sử dụng trên các máy tính có kết nối Internet. Một số aggregators kết hợp khả năng chia sẻ tin tức, ví dụ: lấy mọi thông tin bóng đá từ nhiều nguồn tin và cung cấp thành một nguồn tin mới. Đây cũng chính là các động cơ tìm kiếm nội dung được đăng tải thông qua RSS feeds như Feedster hay Blogdigger.
Trên các trang web, RSS feeds thường được liên kết bằng một hình chữ nhật màu cam , có thể kèm theo các ký tự XML hay RSS .
Lịch sử
Trước RSS, có nhiều định dạng khác cũng từng được dùng cho vấn đề chia sẻ thông tin, nhưng không có định dạng nào được dùng rộng rãi cho đến ngày nay, vì hầu hết chủ yếu dùng cho từng dịch vụ đơn. Ví dụ, năm 1997 Microsoft tạo ra Channel Definition Format cho chức năng Active Channel của Internet Explorer 4.0. Dave Winer cũng đã thiết kế định dạng XML cho việc chia sẻ thông tin riêng cho Scripting News weblog, ra đời năm 1997.
RDF (Resource Description Framework) Site Summary, phiên bản đầu tiên của RSS, được tạo ra bởi Dan Libby của Netscape vào tháng 3 năm 1999 dùng cho cổng điện tử My Netscape. Phiên bản này trở thành RSS 0.9. Vào tháng 7 năm 1999, đáp trả lại các đề nghị và góp ý, Libby đưa ra bản phác thảo ban đầu đặt tên là RSS 0.91 (RSS viết tắt của Rich Site Summary), nhằm đơn giản hóa định dạng và tích hợp một số phần trong định dạng scriptingNews của Winer. Từ đó, Libby đề xuất ra định dạng tương tự-RSS 1.0 thông qua cái gọi là Futures Document.
Chẳng bao lâu sau, Netscape không còn tập trung vào RSS/XML, bỏ rơi định dạng đó. Một nhóm làm việc và danh sách địa chỉ mail, RSS-DEV, được thành lập bởi nhiều người dùng và cộng đồng XML để tiếp tục phát triển nó. Cùng thời điểm, Winer đưa ra phiên bản sửa đổi của RSS 0.91 cho website Userland, vì nó đang được dùng trong sản phẩm của họ. Ông ta cho rằng đặc tả kĩ thuật của RSS 0.91 là tài sản riêng của công ty ông, UserLand Software. Vì chẳng có bên nào có tuyên bố chính thức về tên của định dạng, cho nên bây giờ có nhiều tên gọi.
Nhóm RSS-DEV tiếp tục đưa ra RSS 1.0 vào tháng 12 năm 2000 dựa trên bản phác thảo góp ý sửa đổi cho bản đặc tả kĩ thuật đưa ra bởi Tristan Louis. Giống với RSS 0.9 (không phải 0.91) bản này dựa vào đặc tả kĩ thuật của RDF, nhưng có tính khả mở hơn, với nhiều mục bắt nguồn từ các từ vựng metadata chuẩn như Dublin Core.
Mười chín ngày sau, Winer cho ra phiên bản RSS 0.92, a một vài chỉnh sửa có tính tương thích với các thay đổi của RSS 0.91 dựa trên cùng bản góp ý. Vào tháng 4 năm 2001, ông đưa ra bản phác thảo của RSS 0.93 mà hầu hết là giống với bản 0.92. Bản thảo RSS 0.94 ra đời vào tháng Tám, phục hồi lại những thay đổi trong bản 0.93, và thêm vào thuộc tính (attribute) type cho thành phần (element) description.
Vào tháng 9 năm 2002, Winer cho ra bản cuối cùng của RSS 0.92, bây giờ gọi là RSS 2.0 và nhấn mạnh "Really Simple Syndication" là nghĩa của ba ký tự viết tắt RSS. Đặc tả kĩ thuật của RSS 2.0 loại bỏ thuộc tính type từng được thêm vào trong RSS 0.94 và cho phép người dùng có thể thêm thành phần mở rộng nhờ dùng XML namespaces. Nhiều phiên bản của RSS 2.0 đã được ra đời, nhưng chỉ số của phiên bản thì vẫn không thay đổi.
Vào tháng Mười Một, 2002, Thời báo New York đã bắt đầu cung cấp cho người đọc khả năng mục các tin có hỗ trợ RSS feeds liên quan đến nhiều chủ đề khác nhau. Vào tháng Giêng, 2003, David Winer đã gọi việc dùng RSS của Thời báo New York Time là một "điểm nhấn" (tipping point) trong việc đưa định dạng RSS trở thành một chuẩn.
Vào tháng Bảy, 2003, Winer và Userland Software được cấp quyền sở hữu của đặc tả kĩ thuật RSS 2.0, Trung tâm Berkman về Xã hội và Internet của Harvard .
Winer đã bị phê bình vì đã đơn phương tạo ra định dạng mới và tự đưa ra số của phiên bản. Để đáp lại, đồng tác giả của RSS 1.0 Aaron Swartz đã đưa ra RSS 3.0, một định dạng văn bản không dựa trên XML. Định dạng đó chỉ là một sự bắt chước và chỉ được dùng rất ít.
Vào tháng Giêng 2005, Sean B. Palmer và Christopher Schmidt đã cho ra bản sơ thảo đầu tiên của RSS 1.1. Nó là bản sửa lỗi cho 1.0, loại bỏ những đặc tính ít dùng, đơn giản hóa cú pháp và nâng cao đặc tả kĩ thuật dựa vào các đặc tả RDF. Vào tháng 7 năm 2005, RSS 1.1 chỉ hơn một bài tập mang tính học thuật một ít.
Ví dụ
Đây là ví dụ về tập tin RSS 1.0.
<?xml version="1.0"?>
<rdf:RDF
xmlns:rdf="http://www.w3.org/1999/02/22-rdf-syntax-ns#"
xmlns="http://purl.org/rss/1.0/">
<channel rdf:about="http://www.xml.com/xml/news.rss">
<title>XML.com</title>
<link>http://xml.com/pub</link>
<description>
XML.com features a rich mix of information and services
for the XML community.
</description>
<image rdf:resource="http://xml.com/universal/images/xml_tiny.gif" />
<items>
<rdf:Seq>
<rdf:li resource="http://xml.com/pub/2000/08/09/xslt/xslt.html" />
<rdf:li resource="http://xml.com/pub/2000/08/09/rdfdb/index.html" />
</rdf:Seq>
</items>
<textinput rdf:resource="http://search.xml.com" />
</channel>
<image rdf:about="http://xml.com/universal/images/xml_tiny.gif">
<title>XML.com</title>
<link>http://www.xml.com</link>
<url>http://xml.com/universal/images/xml_tiny.gif</url>
</image>
<item rdf:about="http://xml.com/pub/2000/08/09/xslt/xslt.html">
<title>Processing Inclusions with XSLT</title>
<link>http://xml.com/pub/2000/08/09/xslt/xslt.html</link>
<description>
Processing document inclusions with general XML tools can be
problematic. This article proposes a way of preserving inclusion
information through SAX-based processing.
</description>
</item>
<item rdf:about="http://xml.com/pub/2000/08/09/rdfdb/index.html">
<title>Putting RDF to Work</title>
<link>http://xml.com/pub/2000/08/09/rdfdb/index.html</link>
<description>
Tool and API support for the Resource Description Framework
is slowly coming of age. Edd Dumbill takes a look at RDFDB,
one of the most exciting new RDF toolkits.
</description>
</item>
<textinput rdf:about="http://search.xml.com">
<title>Search XML.com</title>
<description>Search XML.com's XML collection</description>
<name>s</name>
<link>http://search.xml.com</link>
</textinput>
</rdf:RDF>
Đây là ví dụ về tập tin RSS 2.0.
<?xml version="1.0"?>
<rss version="2.0">
<channel>
<title>Birthday Bash Interviews</title>
<link>http://kccnfm100.com/</link>
<description>Natural Vibrations.</description>
<language>en-us</language>
<pubDate>Tue, 10 Jun 2003 04:00:00 GMT</pubDate>
<lastBuildDate>Tue, 10 Jun 2003 09:41:01 GMT</lastBuildDate>
<docs>http://blogs.law.harvard.edu/tech/rss</docs>
<generator>Weblog Editor 2.0</generator>
<managingEditor>[email protected]</managingEditor>
<webMaster>[email protected]</webMaster>
<item>
<title>Star City</title>
<link>http://liftoff.msfc.nasa.gov/news/2003/news-starcity.asp</link>
<description>How do Americans get ready to work with Russians aboard the
International Space Station? They take a crash course in culture, language
and protocol at Russia's Star City.</description>
<pubDate>Tue, 03 Jun 2003 09:39:21 GMT</pubDate>
<guid>http://liftoff.msfc.nasa.gov/2003/06/03.html#item573</guid>
</item>
<item>
<description>Sky watchers in Europe, Asia, and parts of Alaska and Canada
will experience a partial eclipse of the Sun on Saturday, May 31st.</description>
<pubDate>Fri, ngày 30 tháng 5 năm 2003 11:06:42 GMT</pubDate>
<guid>http://liftoff.msfc.nasa.gov/2003/05/30.html#item572</guid>
</item>
<item>
<title>The Engine That Does More</title>
<link>http://liftoff.msfc.nasa.gov/news/2003/news-VASIMR.asp</link>
<description>Before man travels to Mars, NASA hopes to design new engines
that will let us fly through the Solar System more quickly. The proposed
VASIMR engine would do that.</description>
<pubDate>Tue, ngày 27 tháng 5 năm 2003 08:37:32 GMT</pubDate>
<guid>http://liftoff.msfc.nasa.gov/2003/05/27.html#item571</guid>
</item>
<item>
<title>Astronauts' Dirty Laundry</title>
<link>http://liftoff.msfc.nasa.gov/news/2003/news-laundry.asp</link>
<description>Compared to earlier spacecraft, the International Space
Station has many luxuries, but laundry facilities are not one of them.
Instead, astronauts have other options.</description>
<pubDate>Tue, ngày 20 tháng 5 năm 2003 08:56:02 GMT</pubDate>
<guid>http://liftoff.msfc.nasa.gov/2003/05/20.html#item570</guid>
</item>
</channel>
</rss>
Xem thêm
OPML
News aggregator
Push technology
Atom (standard)
danh sách các ngôn ngữ đánh dấu chia sẻ nội dung
danh sách các aggregators chuyên về tin tức
Media RSS
Semantic Web
Chú thích
Winer, Dave, 12 December, 1997. Scripting.com: Scripting News in XML
Libby, Dan, 10 July, 1999. RSS 0.91 Spec, revision 3
Libby, Dan, 24 August, 2000. Syndication Mailing List: Introducing Myself
Winer, Dave, 4 June, 2000. RSS 0.91: Copyright and Disclaimer
RSS-DEV Working Group, December 9, 2000. RDF Site Summary (RSS) 1.0 Louis, Tristan, 13 October 2000. Suggestion for RSS 0.92 specification Winer, Dave, 25 December, 2000. RSS 0.92 Specification Winer, Dave, 20 April, 2001. RSS 0.93 Specification Berkman Center, 15 July, 2003. RSS 2.0 Specification moves to Berkman Swartz, Aaron, 6 September, 2002. The Road to RSS 3.0 and RSS 3.0 Palmer, Sean B. and Christopher Schmidt, 23 January, 2005. RSS 1.1: RDF Site Summary Avidan, Jonathan, August 2005. RSS 3 Project Palmer, Sean B., 20 August, 2005. RSS 3: Cease and Desist Notice
Tham khảo
Liên kết ngoài
Đặc tả kĩ thuật
RSS 0.91 Spec, revision 3
RSS 1.0 Specifications (RDF Site Summary 1.0) Modules
RSS 2.0 Specifications Modules
(proposed) Simple Sharing Extensions to RSS (Microsoft)
rss-extensions.org , a proposed list of RSS extensions by companies such as Microsoft, Apple and others
[en]United Nations RSS
Hoàn cảnh lịch sử và Nguồn tài nguyên
RSS History (Joseph Reagle)
RSS History (Dave Winer)
RSS Political Faq (Dave Winer)
History of the RSS Fork (Mark Pilgrim)
The Myth of RSS Compatibility (Mark Pilgrim)
RSS Quick Summary (Sam Ruby)
RSS 2.0 And Atom 1.0 Compared (various/wiki)
Content feeds with RSS 2.0
Usage Study, RSS—Crossing into the Mainstream (Ipsos Insight/Yahoo!), PDF
Định dạng chia sẻ thông tin Web
RSS
Chuẩn dựa trên XML
Định dạng tập tin
Tiêu chuẩn dựa trên XML
|
27012
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C6%A1%20quan%20V%C5%A9%20tr%E1%BB%A5%20Li%C3%AAn%20bang%20Nga
|
Cơ quan Vũ trụ Liên bang Nga
|
Cơ quan nhà nước cho các hoạt động không gian "Roscosmos" (), cũng được gọi là Roskosmos (), tiền thân là Cơ quan Vũ trụ Nga, rồi Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Nga, là cơ quan chính phủ chịu trách nhiệm về chương trình khoa học vũ trụ và nghiên cứu không gian của Nga. Roskosmos toạ lạc tại một thành phố nhỏ, được gọi là 'thành phố Vũ trụ', gần Moskva.
Cơ quan Vũ trụ Nga (, hay RKA) được thành lập vào ngày 25 tháng 2 năm 1992, sau sự tan rã của Liên Xô cùng với chương trình vũ trụ Xô viết, với người đứng đầu là Yuri Koptev. Mục đích của RKA là thực hiện vai trò như cơ quan NASA của Hoa Kỳ.
Tháng 6 năm 1999, RKA được tổ chức lại, đặt lại tên là Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Nga (, gọi tắt là Rosaviakosmos ) và có thêm chức năng mới về hàng không. Yuri Koptev vẫn là người đứng đầu.
Ngày 9 tháng 3 năm 2004, trong nỗ lực sắp xếp lại một số tổ chức khi Vladimir Putin tái tranh cử chức tổng thống, Rosaviakosmos lại được tái tổ chức, với tên mới là Cơ quan Vũ trụ Liên bang (FKA). Yuri Koptev bị thay bằng Anatoly Perminov, một cựu chỉ huy của Lực lượng Vũ trụ Quân đội.
Từ những năm 2010, hàng loạt lỗi kỹ thuật đã dẫn đến sự cần thiết phải hiện đại hoá và tái cơ cấu ngành công nghiệp và không gian. Nỗ lực tái cơ cấu sau đó đã thành công trong một loạt các cải cách dự kiến cả về hình thức và nội dung. Đầu tiên là tạo ra Cơ quan Thống nhất về Tên lửa và Không gian (Объединенная ракетно-космическая корпорация, viết tắt ORKK)
Cuối cùng, ngày 28 tháng 12 năm 2015, theo sáng kiến của phó thủ tướng Dmitry Olegovich Rogozin, Cơ quan Vũ trụ Liên bang Nga được đổi thành Cơ quan nhà nước cho các hoạt động không gian "Roscosmos".
Ngân sách
Ngân sách dành cho Cơ quan Vũ trụ Liên bang Nga Roscosmos từ 5 tỷ USD năm 2014 xuống còn 1.7 tỷ USD năm 2020 trong khi ngân sách của NASA năm 2020 lên tới 22.6 tỷ USD.
Các dự án trong tương lai
Dmitry Rogozin, người đứng đầu tập đoàn vũ trụ Nga Roscosmos, gần đây tiết lộ rằng nước này có kế hoạch thực hiện một sứ mệnh mới của riêng họ trên sao Kim và nhiều dự án về sứ mệnh sao Kim đang nằm trong chương trình thăm dò không gian của chính phủ Nga giai đoạn 2021-2030". Tuy nhiên nhiều nhà quan sát tỏ ra nghi ngờ khi một cựu quan chức Roscosmos cho biết Nga không có bất kỳ tàu vũ trụ mới nào" còn chuyên gia không gian độc lập Vitaly Yegorov nói sứ mệnh tới sao Kim, "do sự phức tạp của nhiệm vụ, các nhà khoa học Nga thậm chí không nghĩ đến nó",
Vedomosti dẫn lời quan chức Roscosmos cho biết Nga hiện chế tạo khoảng 15 vệ tinh mỗi năm và đặt mục tiêu tới cuối năm 2025 tăng con số này lên mức từ 200-250 vệ tinh.
Tham nhũng
Lĩnh vực vũ trụ của Nga đã bị tình trạng tham nhũng trong những năm gần đây, các công tố viên đã phát hiện một phần nhỏ trong số 1 tỷ USD gian lận liên quan đến Roscosmos và các tập đoàn quốc phòng và vũ trụ do nhà nước điều hành khác bị phát hiện chỉ trong năm 2018. Các công tố viên Nga cũng phát hiện hơn 150 triệu USD đã bị biển thủ trong quá trình xây dựng sân bay vũ trụ mới Vostochny Cosmodrome trị giá 5 tỷ USD tại vùng Viễn Đông của Nga.
Rò rỉ công nghệ
Tháng 7 năm 2018 nhà khoa học Viktor Kudryavtsev của Roscosmos bị bắt giữ vì cáo buộc làm rò rỉ thông tin phát triển công nghệ tên lửa siêu thanh cho một thành viên của NATO năm 2013.
Kudryavtsev bị buộc tội rò rỉ bí mật tên lửa siêu thanh cho Bỉ. Ông sau đó đã được thả sau hơn một năm bị giam giữ sau khi được chẩn đoán mắc bệnh ung thư phổi giai đoạn cuối. Kudryavtsev đã giành được giải thưởng cấp nhà nước cho nghiên cứu của mình về động lực học chất khí và chất lỏng. Nhóm nhân quyền Memorial của Nga đã tuyên bố Kudryavtsev là một tù nhân chính trị. Kudryavtsev đã chết vì ung thư ở tuổi 77 năm 2021.
Một người khác là Alexei Temirev, 64 tuổi (năm 2018), bị bắt vào ngày 18 tháng 7 năm 2018 và bị quản thúc vì cáo buộc làm rò rỉ tài liệu bí mật cho Việt Nam. Tòa án ở Rostov đã kết án Tiến sĩ Khoa học Kỹ thuật Alexei Temirev ở Novocherkassk 7,5 năm tù giam vì tội phản quốc cao độ theo điều 275 của Bộ luật Hình sự. Cơ quan An ninh Liên bang FSB buộc Temirev chia sẻ thông tin về thiết bị mà anh ta đã làm việc tại phòng thiết kế cùng với nghiên cứu sinh từ Việt Nam và chuyển bí mật nhà nước cho quốc gia đó.
Xem thêm
Ủy ban Nghiên cứu Vũ trụ (COSPAR)
Tham khảo
Liên kết ngoài
Роскосмос trên VK
Роскосмос trên OK.RU
N
Chương trình vũ trụ Nga
Khoa học và công nghệ Nga
Khởi đầu năm 1992 ở Nga
|
27020
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ki%E1%BB%81u%20Chinh
|
Kiều Chinh
|
Kiều Chinh (tên khai sinh là Nguyễn Thị Chinh, sinh 3 tháng 9 năm 1937 tại Hà Nội ) là nữ diễn viên nổi tiếng ở miền Nam Việt Nam trước năm 1975 và từng tham gia trong một số phim của Hollywood.
Cuộc đời và sự nghiệp
Kiều Chinh là nữ diễn viên chính trong cuốn phim Hồi chuông Thiên Mụ (1957). Sau đó, Kiều Chinh mau chóng trở thành một trong những người nổi tiếng ở Việt Nam. Trong thập niên 1960, bà cũng xuất hiện trong các cuốn phim của Hoa Kỳ như A Yank in Vietnam (1964) và Operation C.I.A. (1965) (diễn chung với Burt Reynolds). Kiều Chinh là diễn viên chính và cũng là người sản xuất bộ phim về chiến tranh Người tình không chân dung (1971), cuốn phim sau này đã được tái bản và trình chiếu trong Đại hội Điện ảnh Việt Nam Quốc tế (Vietnamese International Film Festival) tại Hoa Kỳ năm 2003.
Năm 1975, khi Kiều Chinh đang thực hiện cuốn phim Full House ở Singapore thì Sài Gòn thất thủ. Kiều Chinh cùng chồng di cư Hoa Kỳ, nơi cô tiếp tục sự nghiệp diễn xuất của mình trong bộ phim M*A*S*H (1977), bộ phim gần như dựa trên câu chuyện về cuộc đời cô.
Kiều Chinh cũng xuất hiện trên các bộ phim truyền hình như The Children of An Lac (1980), The Letter (1982), The Girl Who Spelled Freedom (1986), cũng như trong các phim truyện khác như Hamburger Hill (1987), Gleaming the Cube (1988), Catfish in Black Bean Sauce (1999), What's Cooking (2000), Face (2002), Returning Lyly (2002).
Năm 1993, Kiều Chinh vào vai Suyuan, một phụ nữ trong cuốn phim The Joy Luck Club của Wayne Wang. Năm 2005, Kiều Chinh vào vai một người bà với hình ảnh người phụ nữ Việt Nam tiêu biểu trong cuốn phim Vượt sóng, có tên tiếng Anh là Journey from the Fall của đạo diễn Trần Hàm. Vượt Sóng là cuốn phim đầu tiên và có ngân sách lớn nhất nói về người tỵ nạn Việt Nam, cuốn phim theo dấu các gia đình Việt Nam sau khi chiến tranh kết thúc, về các trại cải tạo, về kinh nghiệm của các thuyền nhân và những khó khăn ban đầu khi họ được định cư tại Hoa Kỳ.
Năm 1996, Viện Khoa học và Nghệ thuật Truyền hình Mỹ (Academy of Television Arts and Sciences) đã trao giải Emmy cho phim tài liệu Kieu Chinh: A Journey Home của đạo diễn Patrick Perez / KTTV. Năm 2003, tại Đại hội Điện ảnh Việt Nam Quốc tế (Vietnamese International Film Festival), Kiều Chinh được trao giải thưởng Thành tựu Suốt đời (Lifetime Achievement Award). Cũng trong năm 2003, tại Liên hoan phim Phụ nữ (Women's Film Festival) ở Torino, Ý, Kiều Chinh được trao giải Diễn xuất Đặc biệt (Special Acting Award).
Ngày 15 tháng 3 năm 2021, tại thành phố Los Angeles, bang Califonia, Hoa Kỳ, Kiều Chinh đã vinh dự nhận giải thưởng Thành tựu trọn đời do Ban tổ chức Liên hoan phim Thế giới Châu Á (AWFF) trao tặng.
Những phim tham gia
Hồi chuông Thiên Mụ (1957)
Mưa rừng (1962)
Chuyện năm Dần (Year Of The Tiger / A Yank in Viet-Nam), 1964
Destination Việt Nam ??
Điệp vụ CIA (Operation C.I.A.), 1965
The Evil Within (1970)
Người tình không chân dung (1971)
Bão tình, 1972
Chiếc bóng bên đường, 1973
Chờ sáng
Inside Out
Hè muộn
Hồng yến
MASH
Ngàn năm mây bay
Từ Sài Gòn đến Điện Biên Phủ
Hamburger Hill (1987)
Vietnam, Texas (1990)
The Joy Luck Club (1993)
What's Cooking? (2000)
Rồng xanh (2001)
Vượt sóng (2006)
Đoạt hồn (2014)
Xem thêm
Thẩm Thúy Hằng
Thanh Nga
Kim Cương
Tham khảo
Liên kết ngoài
Vài lời của Kiều Chinh trên trang Quỹ từ thiện Nhi đồng Việt Nam
K
Diễn viên hải ngoại
K
Nhân vật còn sống
Người Hà Nội
Người Việt di cư tới Mỹ
Nữ diễn viên điện ảnh Mỹ
Nữ diễn viên điện ảnh Việt Nam Cộng hòa
|
27022
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%E1%BA%BF%20kinh
|
Khế kinh
|
Kinh (zh. 經, sa. sūtra, pi. sutta), nguyên văn là Khế kinh (chữ Hán: 契經), còn được phiên âm là Tu-đa-la (修多羅) hay Tố-đát-lãm (素怛纜), là tên gọi của các bài giảng trong Phật giáo, được cho là do chính đức Phật truyền dạy. Các bài giảng này được xếp vào phần Kinh tạng (sa. sūtrapiṭaka) trong bộ Tam tạng (sa. tripiṭaka).
Khái lược
Theo truyền thống Phật giáo, Kinh ghi lại những gì chính đức Phật giảng dạy. Trong cuộc đời hơn 40 năm giảng pháp, số lượng bài giảng của đức Phật là cực kỳ lớn. Ngoài ra, tùy theo căn nguyên và lĩnh hội của các đệ tử mà tồn tại những bài giảng khác nhau. Trong quá trình truyền pháp, sự khác biệt văn hóa địa phương cũng ảnh hưởng ít nhiều về các diễn giảng ý nghĩa dẫn đến những bất đồng trong cách hiểu bài giảng của Phật. Vì vậy, sau khi Phật nhập diệt, các đại đệ tử của ông đã tập hợp tại Đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ nhất, nhằm kiểm điểm lại các bài giảng của vị Bổn sư. A-nan-đà, một đệ tử của Phật, vốn sở hữu trí nhớ phi thường, được Tăng đoàn yêu cầu thuật lại những bài giảng của Phật mà ông đã được nghe. Tất cả các A-la-hán có mặt trong đại hội kết tập này sau đó đã tụng thuộc lòng để bảo tồn nội dung thống nhất các bài giảng này.
Hình thái bảo tồn bằng trí nhớ này phù hợp với điều kiện chữ viết còn sơ khai và phương tiện ghi chép còn chưa hiệu quả. Tuy nhiên nhược điểm lớn nhất của phương pháp này là khả năng lưu giữ không được đồng nhất, nhất là với số lượng bài giảng rất lớn, dẫn đến sự khác biệt hình thành theo thời gian về nội dung bài giảng giữa các tăng sĩ. Vì vậy, vào khoảng 400 năm sau khi Phật nhập diệt, các bài kinh bắt đầu được ghi lại bằng chữ viết, bằng tiếng Pali (đối với Phật giáo Nam truyền) hay tiếng Phạn (đối với Phật giáo Bắc truyền). Nếu như Phật giáo Nam truyền vẫn trung thành với kinh điển tiếng Pali qua nhiều thế hệ, thì Phật giáo Bắc truyền khi được truyền bá đến Trung Hoa và Tây Tạng đã dịch các bản kinh tiếng Phạn sang ra chữ Hán và chữ Tạng, nhờ đó thâm nhập sau rộng vào văn hóa bản địa hoặc ở những vùng văn hóa quyển có ảnh hưởng.
Vào thời hiện đại, với phong trào chấn hưng Phật giáo, xu hướng dịch kinh điển Phật giáo bằng ngôn ngữ bản địa nhằm thâm nhập sâu vào giới bình dân càng được đẩy mạnh (như Phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam). Thậm chí, nhiều học giả còn dịch các kinh điển này ra những ngôn ngữ Tây phương để giới thiệu với phương Tây một bộ môn triết học và văn hóa đặc biệt của phương Đông, qua đó truyền bá các tư tưởng Phật giáo lan rộng trên toàn thế giới.
Các nội dung chính
Khởi đầu các bộ kinh thường được bắt đầu bằng câu "Tôi nghe như vầy…" (sa. evaṃ śrute mayā, zh. 如是我聞, Hán Việt: Như thị ngã văn), là lời thuật của A-nan-đà. Sau câu này, thường thường nội dung kinh kể lại buổi nói chuyện đó gồm có người tham dự, nơi chốn, thời gian. Sau đó là những lời khai thị của Phật, có khi là những cuộc đối thoại sinh động.
Do đặc tính ban đầu là ghi nhớ kinh bằng hình thức tụng thuộc lòng, nên lối hành văn của kinh súc tích nhưng giản đơn, dễ hiểu, có tính giáo khoa. Kinh thường sử dụng các thí dụ và so sánh, ẩn dụ. Có khi kinh nhắc lại quá đầy đủ các yếu tố trong bài giảng tạo ra sự trùng điệp nhiều lần để cho người tụng dễ thuộc hơn. Mỗi một kinh là một bài riêng biệt, xử lý một vấn đề riêng biệt.
Các kinh Nam-tông được viết bằng văn hệ Pāli, trong Bộ kinh (pi. nikāya). Các bộ này trong văn hệ chữ Phạn có tên là A-hàm (sa. āgama). Kinh Bắc-tông được viết bằng tiếng Phạn, nhưng ngày nay phần lớn cũng đã thất lạc, chỉ còn bản dịch bằng chữ Hán hoặc Tây Tạng. Các kinh Bắc-tông có thể được xem là phát khởi giữa thế kỉ thứ nhất trước CN và thứ sáu CN. Các kinh này cũng bắt đầu bằng câu "Tôi nghe như vầy…" và ghi rõ danh xưng, nơi chốn thời gian.
Trong "rừng" kinh sách Phật giáo người ta có thể phân biệt hai hướng sau đây:
7.Kinh dựa trên Tín tâm (sa. śraddhā), nói về thế giới quan Phật giáo, quan niệm Bồ Tát cũng như nhấn mạnh lên lòng thành tâm của người nghe. Hướng này có lẽ xuất xứ từ Bắc Ấn. Trong những bộ kinh này, ta thấy rất nhiều điều huyền bí, cách miêu tả trùng trùng điệp điệp.
8.Kinh nhắc lại các vị Phật và Bồ Tát thi triển nhiều thần thông, qua vô lượng thế giới, không gian và thời gian. Các vị Phật và Bồ Tát được biến thành các Báo thân (Ba thân) đầy quyền năng. Khuynh hướng này xuất phát từ Bắc-tông, vừa muốn đáp ứng tinh thần tín ngưỡng của Phật tử, vừa phù hợp với giáo pháp căn bản của mình là tính Không (sa. śūnyatā), cho rằng mọi biến hiện trong thế gian chẳng qua chỉ là huyễn giác. Qua đó thì các thần thông cũng như toàn bộ thế giới hiện tượng chỉ là Ảo ảnh.
9.Kinh có tính triết học, lý luận dựa trên quan điểm chính của Bắc-tông là tính Không. Xuất xứ các kinh này có lẽ từ miền Đông của Trung Ấn. Các loại kinh này được nhiều luận sư giảng giải khác nhau và vì vậy mà xuất phát nhiều trường phái khác nhau.
Các kinh độc lập quan trọng của Bắc-tông là: Diệu pháp liên hoa kinh (sa. saddharmapuṇḍarīka), Nhập Lăng-già kinh (sa. laṅkāvatāra), Phổ diệu kinh (hay Thần thông du hí, sa. lalitavistara), Chính định vương kinh (sa. samādhirāja), Đại thừa vô lượng thọ trang nghiêm (sa. sukhāvatī-vyūha), Hiền kiếp kinh (sa. bhadrakalpika), Phạm võng kinh (sa. brahmajāla), Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh (sa. buddhāvataṃsaka), Thắng Man kinh (sa. śrīmālādevī), A-di-đà kinh (sa. amitābha), Quán vô lượng thọ kinh (sa. amitāyurdhyāna), Duy-ma-cật sở thuyết (sa. vimalakīrti-nirdeśa), Thủ-lăng-nghiêm-tam-muội kinh (sa. śūraṅgama).
Kinh tạng Pali (Nguyên Thủy)
Kinh tạng Pali gồm năm bộ kinh: Dìgha Nikàya (Kinh Trường Bộ), Majjhima Nikàya (Kinh Trung Bộ), Samyutta Nikàya (Kinh Tương Ưng Bộ), Anguttara Nikàya (Kinh Tăng Chi Bộ), và Khuddaka Nikàya (Kinh Tiểu Bộ).
Kinh Trường Bộ
Kinh Trung Bộ
Kinh Tương Ưng Bộ
Kinh Tăng Chi Bộ
Kinh Tiểu Bộ
Xem thêm
Kinh điển Phật giáo
Tham khảo
Liên kết ngoài
Đại tạng kinh Phạn ngữ .
Đại tạng kinh Pali bản dịch tiếng Anh.
Beyond the Tipitaka: A Field Guide to Post-canonical Pali Literature
Văn bản điện tử để nghiên cứu kinh điển, Anh ngữ.
Thư viện Phật giáo trực tuyến , Anh ngữ.
Kinh điển Đại thừa, Anh ngữ
Thư mục tham khảo Triết học Ấn Độ của Karl Potter; nói rất rõ về kinh văn tiếng Phạn , bao gồm danh sách những bản dịch và thời điểm hình thành của nhiều bộ kinh; Anh ngữ.
Kinh điển Phật giáo
Triết lý Phật giáo
Phật học
Thuật ngữ và khái niệm Phật giáo
Nghi thức Phật giáo
|
27026
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Joachim%20Peiper
|
Joachim Peiper
|
Joachim Peiper (30 tháng 1 năm 1915 tại Berlin - 13 tháng 7 năm 1976 tại Traves, Pháp), còn được biết dưới tên Joachim "Jochen" Peiper vì Jochen là tên gọi thân mật cho Joachim, là một sĩ quan và lãnh đạo cao cấp của Waffen-SS (lực lượng vũ trang SS), Đức Quốc xã. Vào cuối đời binh nghiệp của mình, Peiper là sĩ quan mang quân hàm tương đương với đại tá trung đoàn của quân đội: quân hàm Standartenführer của Waffen-SS, sư đoàn xe tăng SS số 1, Leibstandarte-SS Adolf Hitler.
Năm 1946, trong phiên tòa về cuộc Thảm sát tại Malmédy, Peiper đã bị kết án là tội phạm chiến tranh.
Tiểu sử
Cha của Peiper là một cựu binh của Chiến tranh thế giới thứ nhất; ông cũng có hai người anh em: Hans-Hasso và Horst.
Mùa xuân năm 1933 ông gia nhập Hitlerjugend (Thiếu niên Hitler) và ngay từ tháng 10 cùng năm gia nhập lực lượng SS do Heinrich Himmler lãnh đạo. Năm 1934 Peiper làm đơn xin được trở thành học viên sĩ quan SS (tiếng Đức: SS-Offizieranwärter). Ông được nhận vào cái gọi là Trường Junkers của lực lượng SS (SS-Junkerschule) tại Braunschweig. Sepp Dietrich đã xem qua hồ sơ của Peiper và cho phép Peiper gia nhập vào trung đoàn cận vệ danh dự SS số 1 "Leibstandarte Adolf Hitler", trung đoàn này sau đó được đổi thành một đơn vị chiến đấu Waffen-SS. Lúc đầu, Peiper làm công việc như một sĩ quan phụ tá của Heinrich Himmler trước khi được thuyên chuyển sang các đơn vị xe tăng khác nhau trong "Leibstandarte Adolf Hitler". Trong lúc còn là phụ tá cho Himmler, Peiper đã gặp và cưới người vợ của mình, Sigurd, và họ đã có ba người con: Hinrich, Elke và Silke. Himmler đặc biệt ưa thích Peiper và đã chú ý đến việc Peiper được thăng tiến lên cấp chỉ huy. Ở tuổi 29, Peiper đã là một đại tá thực thụ trong lực lượng Waffen-SS rất được tôn trọng và là một trong số ít người có được huân chương cao quý nhất trong quân đội phát xít Đức, huân chương Knight's Cross with Swords được ban tặng bởi chính Adolf Hitler.
Peiper là một người chỉ huy có tài và đã tham gia rất nhiều trận chiến có xe tăng trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Peiper được cấp dưới trung thành tuyệt đối và được xem là một thủ lĩnh có sức thu hút. Peiper đã tham gia vào một số trận đánh nổi tiếng trong cuộc chiến, bao gồm cả các trận chiến tại Kursk và Kharkov vào năm 1943 tại mặt trận phía Đông nước Nga. Nổi tiếng nhất trong số đó là Peiper đã chỉ huy đội quân "Kampfgruppe Peiper" (Đội chiến đấu Peiper) của "Leibstandarte Adolf Hitler" (thuộc sư đoàn Panzer số 6 dưới quyền chỉ huy của Sepp Dietrich) trong chiến dịch "Wacht am Rhein". Đội quân này tiến thẳng về ngôi làng La Gleize, nước Bỉ, trước khi bị đẩy lùi lại bởi các lực lượng Mỹ. Peiper bị buộc phải bỏ lại hàng trăm phương tiện vận chuyển tại ngôi làng này, gồm cả sáu xe tăng Tiger II, và quay lại phòng tuyến của Đức với 800 lính bộ binh.
Sau này, Peiper đã bị buộc tội dính líu đến cuộc Thảm sát tại Boves, nhưng ông chưa bao giờ bị xét xử trước tòa về vụ này.
Một lần ở Ý, Peiper đã khám phá ra chính phủ nước Ý đã bắt giữ một nhóm người Do Thái. Peiper đã giải thoát và trao trả tự do cho họ. Một trong số những người Do Thái này là một giáo sĩ (rabbi), người này sau đó đã làm chứng cho lòng nhân từ của Peiper trong suốt thời gian xét xử các tội ác chiến tranh của ông.
Sau chiến tranh, Peiper cùng với những người dưới quyền của mình bị tố cáo vì tội ác chiến tranh trong cuộc xét xử về vụ án Thảm sát tại Malmédy. Peiper đã xin tòa án chịu hết trách nhiệm nếu như để cho các thuộc hạ của mình được trả tự do, nhưng phiên tòa đã bác bỏ lời đề nghị này. Thiếu tá Harold D. McCown, tiểu đoàn trưởng thuộc trung đoàn số 119, sư đoàn bộ binh số 30 của quân đội Hoa Kỳ đã đứng ra làm chứng trong suốt phiên tòa rằng ông ta đã có một buổi chuyện trò với Peiper. McCown đã nghe các lời đồn về chuyện lính của Peiper bắn tù binh Mỹ và hỏi Peiper về tình trạn an toàn của các binh lính Mỹ. Peiper nói rằng binh lính của McCown không bị bắn; McCown cũng nói rằng ông không có bằng chứng về chuyện tù binh Mỹ bị bắn. Mặc dầu vậy, cũng như nhiều thuộc hạ của mình, Peiper bị buộc là có tội và kết án treo cổ cho đến chết. Sau đó, Peiper yêu cầu thuộc hạ của mình được xử bắn thay vì treo cổ nhưng cũng bị từ chối. Sự thật là, vì nhiều lý do khác nhau đối với bị cáo, người ta mới biết được rằng các lời thú tội của nhiều bị cáo đã bị ép buộc bằng cách chế nhạo hay đánh đập một cách dã man. Nhiều bị cáo trong cuộc thảm sát Melmédy sau đó được trả tự do sau một thời gian ở trong tù, và Peiper trở về với cuộc sống bình thường vào tháng 12 năm 1956, sau 11 năm rưỡi ngồi tù với phần lớn thời gian bị giam một mình.
Sau khi được trao trả tự do, Peiper chưyển đến sống tại Traves, Haute-Saône, nước Pháp, và làm nghề phiên dịch. Sau một loạt những lời đe dọa đến tính mạng của mình, Peiper đã bị giết chết trong một cuộc tấn công bằng súng tại nhà của mình vào ngày 13 tháng 7 năm 1976. Những kẻ tấn công không bao giờ bị đem ra tòa, nhưng người ta cho rằng họ có thể là những người Cộng sản Pháp.
Những câu nói nổi tiếng của Joachim Peiper
"Sau các trận chiến tại Normandy, tôi nhận thấy rằng những người lính trong đơn vị của tôi phần lớn là những người trẻ tuổi và hiếu chiến. Họ đã mất cha mẹ, anh chị em trong các cuộc oanh tạc. Tại Koln, bản thân họ đã phải chứng kiến hàng ngàn người chết sau một trận tấn công dữ dội. Chính lòng căm thù của họ đối với quân địch đã dẫn đến những điều này, và tôi dám thề là tôi sẽ không bao giờ có thể kiểm soát được những tình huống như vậy."
"Hãy thử tượng tượng, bạn được tung hô là người hùng của quốc gia, được hàng triệu con người trong cơn tuyệt vọng tôn thờ bạn, thế rồi chỉ trong vòng sáu tháng sau, bạn bị tuyên án treo cổ cho đến chết."
"Những người lính của tôi là sản phẩm của toàn bộ cuộc chiến này, họ lớn lên trên đường phố của những ngôi làng vung vãi khắp nơi (scattered towns), họ không có được sự giáo dục. Điều duy nhất mà họ biết đó là cầm lấy vũ khí chiến đấu cho Reich. Họ là những người trẻ tuổi với một trái tim cháy bỏng, với nỗi thèm muốn được chiến thắng hay cái chết: đúng hay là sai đó là đất nước của tôi. Ngày hôm nay, khi nhìn thấy những bị cáo đứng sau vành móng ngựa kia, không thể tin được họ là những người từng trong lực lượng Kampfgruppe Peiper. Tất cả những người bạn và chiến hữu ngày nào của tôi đã ra đi. Valhala đang chờ đón tôi (The real outfit is waiting for me in Valhala)."
"Lịch sử luôn được viết bởi người chiến thắng, còn lịch sử của những người thuộc phe thất bại thì thuộc những người ngày càng ít đi. (History is always written by the victor, and the histories of the losing parties belong to the shrinking circle of those who were there)."
Chú thích
Tham khảo
Agte, Patrick (2000). Jochen Peiper: Commander Panzerregiment Leibstandarte. J.J. Fedorowicz Publishing, Inc. ISBN 0921991460
Reynolds, Michael (2004). The Devil’s Adjutant: Jochen Peiper, Panzer Leader, Casemate Publishers and Book Distributors; Pbk edition. ISBN 1862271569
Watt, Jim. "Jochen Peiper: Maligned Hero and Selected Campaign Series Notes." Nov. 2001.<http://www.warfarehq.com/articles/cs_articles/maligned_hero.shtml >.
Williamson, Gordon (2003). Waffen-SS Handbook 1933-1945, Sutton Publishing Ltd. ISBN 0750929278
No Author. "Joachim Peiper." .
No Author. "Malmedy Massacre Trial." .
Peiper, Joachim
Peiper, Joachim
Nhân vật trong Thế chiến thứ hai
Người Berlin
Mất năm 1976
Đảng viên Đức Quốc Xã
|
27032
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Da
|
Da
|
Da là lớp mô bên ngoài, thường mềm và đàn hồi bao phủ cơ thể của động vật có xương sống. Da có ba chức năng chính: bảo vệ, điều tiết và cảm giác.
Các lớp phủ động vật khác, chẳng hạn như bộ xương ngoài của động vật chân đốt, có nguồn gốc phát triển, cấu trúc và thành phần hóa học khác nhau. Ở động vật có vú, da là một cơ quan của hệ bì được tạo thành từ nhiều lớp mô ngoại bì và bảo vệ các cơ, xương, dây chằng và các cơ quan nội tạng bên dưới. Da của động vật lưỡng cư, bò sát và chim có bản chất khác nhau. Da (bao gồm cả mô da và mô dưới da) đóng những vai trò quan trọng trong việc hình thành, cấu trúc và chức năng của bộ phận xương ngoài như sừng của các loài bò (ví dụ: gia súc) và tê giác, gạc hươu, sừng hươu cao cổ và vảy của Tatu chín đai.
Tất cả các loài động vật có vú đều có một ít lông trên da, ngay cả những loài động vật có vú ở biển như cá voi và cá heo. Da tiếp xúc với môi trường và là hàng phòng thủ đầu tiên khỏi các yếu tố bên ngoài. Ví dụ, da đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ cơ thể chống lại các mầm bệnh và sự mất nước. Các chức năng khác của nó là cách nhiệt, điều hoà nhiệt độ, nhận diện cảm giác và liên quan mật thiết đến sản xuất vitamin D. Da bị tổn thương nghiêm trọng có thể lành lại bằng cách hình thành mô sẹo. Các mô này đôi khi bị biến màu và mất sắc tố. Độ dày của da cũng thay đổi theo từng vị trí trên cơ thể. Ví dụ ở người, vùng da nằm dưới mắt và xung quanh mí mắt là vùng da mỏng nhất trên cơ thể với độ dày 0,5 mm và là một trong những vùng da đầu tiên xuất hiện các dấu hiệu lão hóa như vết chân chim và nếp nhăn. Da lòng bàn tay và lòng bàn chân là vùng da dày nhất trên cơ thể, dày 4 mm. Tốc độ và chất lượng chữa lành vết thương trên da được thúc đẩy bởi sự tiếp nhận estrogen.
Cấu trúc da ở người và các loài động vật có vú
Da của động vật có vú bao gồm hai lớp chính:
lớp biểu bì, cung cấp khả năng chống thấm và đóng vai trò như một rào cản chống nhiễm trùng
lớp hạ bì, đóng vai trò là vị trí cho các phần phụ của da
Lớp biểu bì
Tầng sừng
Tầng sừng gồm có các tế bào đã chết, xếp sít nhau, rất dễ bong ra.
Tầng tế bào sống
Tầng tế bào sống gồm các tế bào có khả năng phân chia tạo thành tế bào mới, chứa các hạt sắc tố tạo nên màu da, một số tế bào sống phân hóa thành tế bào sinh lông và tế bào sinh móng
Lớp bì
Lớp bì được cấu tạo từ các sợi mô liên kết bền chặt, gồm các thụ quan,tuyến nhờn, tuyến mồ hôi, lông và bao lông, cơ co chân lông, mạch máu, dây thần kinh.
Tuyến nhờn
Nhiệm vụ của tuyến nhờn là tiết chất nhờn, tạo thành một lớp chất nhờn bao phủ bề mặt da, giúp da mềm mịn, không bị thấm nước và hạn chế sự xâm nhập của vi khuẩn từ môi trường bên ngoài
Tuyến mồ hôi
Dạng chùm dưới da (nhiều nhất ở bàn tay, bàn chân, nách, bẹn, trán) có từ 2 đến 3 triệu tuyến. Nhiệm vụ là tiết mồ hôi (là các chất thải bã được lọc từ máu ra), giúp điều hòa thân nhiệt cơ thể, làm nhiệt độ cơ thể giảm xuống nhiệt độ bình thường khi quá nóng.
Muối lysozym có tính kháng khuẩn cao.
Có hai loại tuyến mồ hôi là tuyến mồ hôi toàn vẹn và tuyến mồ hôi bán hủy. Các yếu tố kích thích sự bài tiết mồ hôi như nhiệt độ, tâm lý, vị giác.
Lông và các phụ quan liên quan
Lông gồm có:chân lông, bao lông, cơ co chân lông. Cơ co chân lông có nhiệm vụ co lại mỗi khi trời lạnh, làm cho lông dựng đứng lên, che khít lỗ chân lông, không cho hơi ấm trong cơ thể bay ra không khí, như thế sẽ giữ ấm được cơ thể
Dây thần kinh
Giúp da nhận biết những kích thích từ môi trường từ đó thích ứng được với ngoại cảnh và tránh được nhiều yếu tố có hại.
Mạch máu
Giúp da trao đổi chất với cơ thể
Lớp mỡ dưới da
Mô mỡ
Bảo vệ da khỏi những tác động cơ học, giữ nhiệt, dự trữ năng lượng
Cấu trúc da ở cá, lưỡng cư, chim và bò sát
Chức năng
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hệ vỏ bọc
Giác quan
Giải phẫu học động vật
Cơ quan
Mô mềm
|
27040
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gigabyte
|
Gigabyte
|
Gigabyte (từ tiền tố giga- của SI) là đơn vị thông tin hoặc khả năng lưu giữ thông tin của bộ nhớ máy tính, bằng một tỷ byte hoặc 230 byte (1024 mebibyte). Gigabyte thường được viết tắt là GB (không nhầm lẫn với Gb, có nghĩa là gigabit).
Việc sử dụng từ "gigabyte" khá nhập nhằng, phụ thuộc vào ngữ cảnh. Khi đề cập đến kích thước RAM và tập tin, nó nguyên thủy là định nghĩa nhị phân, bằng 10243 byte (có thể đồng nhất hoặc xấp xỉ 10003, để thuận tiện). Với cách dùng khác, nó bằng chính xác 10003. Để thể hiện sự nhập nhằng này, hiện nay hầu hết các cơ quan tiêu chuẩn đề nghị sử dụng thuật ngữ "gibibyte" (viết tắt là GiB) để chỉ khái niệm nhị phân.
Định nghĩa
Có hai cách định nghĩa gigabyte hơi khác nhau tồn tại:
1.000.000.000 byte hay 109 byte là định nghĩa theo hệ thập phân dùng trong truyền thông (như tốc độ mạng) và phần lớn nhà sản xuất thiết bị lưu trữ (ổ cứng và ổ USB). Cách dùng này tuân thủ quy tắc của SI.
1.073.741.824 byte, bằng 10243, hoặc 230 byte. Định nghĩa này thường được dùng cho bộ nhớ máy tính, khoa học máy tính, hệ điều hành. Từ 1999, IEC đề nghị gọi đơn vị này là gibibyte (viết tắt là GiB) để phân biệt với tên gọi trong hệ SI. Microsoft sử dụng định nghĩa này để hiển thị kích thước ổ cứng, những hệ điều hành khác cũng vậy. Tất cả các hệ điều hành sử dụng định nghĩa này khi đề cập đến kích thước tập tin.
Gigabytes và gigabits
Trong cách quy ước hiện đại, một byte bằng 8 bit. Một gigabyte tương đương với 8 gigabit.
Sự rắc rối cho người dùng
Vào năm 2007, phần lớn ổ cứng được bán ra định nghĩa dung lượng theo gigabyte của họ. Dung lượng thật thường lớn hơn hay nhỏ cách dùng thông thường. Mặc dù phần lớn nhà sản xuất ổ cứng và ổ Flash định nghĩa 1 gigabyte là 1.000.000.000 byte, hệ điều hành máy tính mà phần lớn mọi người sử dụng thường tính một gigabyte bằng cách chia byte (bất kể nó là dung lượng ổ cứng, kích thước tập tin, hay RAM hệ thống) cho 1.073.741.824. Sự khác biệt này là lý do gây ra hoang mang, đặc biệt đối với những người không biết kỹ thuật, vì một ổ cứng mà nhà sản xuất quy định là có dung lượng 40 gigabyte có thể hệ điều hành báo chỉ có 37,2 GB, tùy vào loại báo cáo.
Sự khác nhau giữa tiền tố SI và nhị phân là lôgarít — hay nói cách khác, một kilobyte SI bằng gần 98% một kibibyte, nhưng một megabyte thì bằng dưới 96% một mebibyte, và một gigabyte chỉ hơn 93% gibibyte. Điều đó có nghĩa là ổ cứng 500 GB sẽ chỉ hiển thị "465 GB". Khi kích thước lưu trữ ngày càng lớn và sử dụng đơn vị ngày càng cao, sự chênh lệch này sẽ càng ngày càng lớn.
Chú ý rằng bộ nhớ máy tính được diễn tả bằng cơ số 2, theo như thiết kế, cho nên kích thước bộ nhớ luôn là lũy thừa của 2 (hoặc số liên quan gần, ví dụ như 384 MiB = 3×227 byte). Do đó thuận tiện khi làm việc với RAM bằng đơn vị nhị phân. Sự đo lường máy tính khác, như kích thước lưu trữ phần cứng, mức truyền dữ liệu, tốc độ xung đồng hồ, FLOP, vân vân..., không sử dụng cơ số đó, và thường được giới thiệu bằng đơn vị thập phân.
Một ví dụ, có một ổ cứng có thể chứa chính xác 140 hay 140 tỷ byte sau khi định dạng. Nói chung, hệ điều hành tính kích thước đĩa và tập tin dùng số nhị phân, do đó ổ cứng 140 GB này sẽ được báo là "130,38 GB". Kết quả là có một sự không nhất quán rõ ràng giữa thứ mà người mua mua và thứ hệ điều hành nói họ đang có.
Vài người dùng cảm thấy bị hớ khi thấy sự khác nhau, và cho rằng nhà sản xuất ổ cứng và thiết bị truyền dữ liệu đang sử dụng thước đo thập phân là một cách cố tình để giảm con số xuống, mặc dù sự đo lường là bình thường trong các lĩnh vực khác ngoài bộ nhớ máy tính. Vài tranh chấp pháp lý xuất phát từ sự nhập nhằng này.
Cơ sở của rắc rối dĩ nhiên là định nghĩa chính thức của đơn vị SI không được biết đến rộng rãi, và vài sự hòa giải pháp lý bao gồm những cách để nhà sản xuất sử dụng thông tin rõ ràng hơn, như mô tả dung lượng ổ cứng bằng cả GB và GiB.
Việc sử dụng GB
Nhiễm sắc thể người chứa 0,791175 GB dữ liệu (3.1647 cặp biểu diễn như 2-bit).
Một đĩa định dạng DVD-5 có thể lưu trữ 4,7 gigabyte, hoặc xấp xỉ 4,38 gibibyte. Một DVD-9 có thể lưu trữ 8,5 gigabyte, hoặc xấp xỉ 7,92 gibibyte.
Một gigabyte xấp xỉ bằng 18 giờ nhạc MP3 (ở 128 kbit/s).
Một gigabyte tương đương xấp xỉ với 11 giờ, 40 phút phim Flash (ở phân giải 450x370).
Phần lớn máy chơi game thế hệ 6 và tất cả máy thế hệ 7 có đĩa game khoảng 1 GB hay nhiều hơn: Dreamcast (1,1 GB), Nintendo GameCube (1,5 GB), PlayStation 2, Xbox, Xbox 360, and Wii (8,5 GB), and PlayStation 3 (25/50 GB).
Đĩa hai lớp Blu-ray và HD DVD có thể chứa lần lượt khoảng 50 gigabyte và 30 gigabyte dữ liệu.
Xem thêm
Gibibyte
Gigabit
Tiền tố nhị phân
Chuẩn bộ nhớ JEDEC
Orders of magnitude (data)
Tham khảo
Đơn vị thông tin
|
27042
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ma%20tr%E1%BA%ADn%20Jacobi
|
Ma trận Jacobi
|
Trong giải tích véctơ, ma trận Jacobi là ma trận chứa các đạo hàm riêng bậc nhất của hàm giữa hai không gian véctơ. Ma trận này được đặt tên theo nhà toán học Carl Gustav Jacobi. Ma trận này được ứng dụng trong giải tích vì nó là xấp xỉ tuyến tính tốt nhất cho một hàm khả vi tại một điểm trong không gian véctơ biến của hàm này.
Chi tiết
Cụ thể nếu hàm F: Rn → Rm là một hàm từ không gian Ơclít n chiều đến một không gian Ơclít m chiều, nó sẽ có m thành phần:
y1(x1,...,xn)
...
ym(x1,...,xn).
Đạo hàm riêng bậc nhất của các hàm này (nếu tồn tại) sẽ có thể được xếp thành một ma trận có kích thước m nhân n, chính là ma trận Jacobi của F:
Có thể ký hiệu ma trận này là:
hay:
Như vậy, hàng thứ i của ma trận là gradient của thành phần yi với i=1,...,m.
Nếu p là một điểm trong không gian Rn và F là khả vi tại p, và các đạo hàm riêng của F tại p chính là JF(p). Lúc này, JF(p) là một hàm tuyến tính và là xấp xỉ tuyến tính tốt nhất của F xung quanh p, theo nghĩa là:
cho x nằm gần p.
Định thức Jacobi
Nếu m = n, thì ma trận Jacobi là ma trận vuông, và định thức của nó là định thức Jacobi.
Định thức Jacobi cho biết tính chất của hàm tại điểm đang xét. Ví dụ, hàm khả vi liên tục F là khả nghịch gần p nếu định thức Jacobi tại điểm đó khác không. Đây là định lý hàm nghịch đảo. Hơn nữa, nếu định thức Jacobi tại p là dương, thì F bảo toàn chiều quay tại gần p; và ngược lại, nếu nó âm, F đảo chiều quay. Giá trị tuyệt đối của định thức Jacobi tại p cho biết mức độ F nở rộng hay thu nhỏ thể tích gần p. Ý nghĩa này khiến định thức Jacobi xuất hiện trong phép đổi biến.
Trong trường hợp m = n = 3, định thức Jacobi có thể tính bằng:
Với
Còn "." là nhân vô hướng, "×" là phép nhân véc tơ.
Ví dụ
Xét hàm F: R3 → R3 với các thành phần:
y1 = 5x2
y2 = 4(x1)2 - 2sin(x2x3)
y3 = x2x3
Ma trận Jacobi của F sẽ là:
Định thức Jacobi của F sẽ là:
Như vậy F sẽ bảo toàn chiều quay tại các điểm có x1 cùng dấu với x2; hàm sẽ khả nghịch tại gần các điểm có x1 và x2 khác 0. Với một thể tích nhỏ xíu gần điểm (1,1,1), sau khi tác dụng F lên thể tích này, sẽ nhận được một vật thể có thể tích lớn gấp 40 lần thể tích ban đầu.
Xem thêm
Ma trận Hesse
Tham khảo
Gradshteyn, I. S. and Ryzhik, I. M. "Jacobian Determinant." §14.313 in Tables of Integrals, Series, and Products, 6th ed. San Diego, CA: Academic Press, pp. 1068–1069, 2000.
Kaplan, W. Advanced Calculus, 3rd ed. Reading, MA: Addison-Wesley, pp. 98–99, 123, and 238-245, 1984.
Simon, C. P. and Blume, L. E. Mathematics for Economists. New York: W. W. Norton, 1994.
Liên kết ngoài
Mathworld
Ma trận Jacobi trên Planetmath
[http://www.maths.abdn.ac.uk/~ran/mx3503/notes/notes/node13.html Trang dạy học của Ian Craw]
Giải tích nhiều biến
Jacobi
Định thức
|
27052
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%A9p%20th%E1%BB%AD%20Bernoulli
|
Phép thử Bernoulli
|
Phép thử Bernoulli là phép thử ngẫu nhiên mà nó có thể nhận một trong hai kết quả thành công hay thất bại, trong đó xác suất thành công giống nhau mỗi khi phép thử này được tiến hành. Phép thử này đặt tên theo Jacob Bernoulli, một nhà toán học Thụy Sĩ ở thế kỉ 17.
Mô tả toán học
Về mặt toán học, một phép thử Bernoulli được mô tả bằng một ánh xạ (biến ngẫu nhiên) . Trong đó là không gian mẫu gồm hai giá trị, là "thành công" và là "thất bại", tức là . Biến ngẫu nhiên này được xác định như sau
Nếu xác suất thành công bằng thì ta nói biến ngẫu nhiên có phân phối Bernoulli . Trong trường hợp này .
Xem thêm
Phân phối Bernoulli
Phân phối nhị thức
Tham khảo
Lý thuyết xác suất
|
27054
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%8Bnh%20l%C3%BD%20B%C3%A9zout
|
Định lý Bézout
|
Trong hình học đại số, định lý Bézout, hay định lý Bezout, là định lý toán học, được phát hiện năm 1770 từ nhà toán học Pháp Étienne Bézout (1730-1783), về số giao điểm của các đường cong trên cùng mặt phẳng. Đây là một trong những định lý lâu đời nhất trong hình học đại số.
Phát biểu
"Cho hai đường cong phẳng đại số có bậc m và n đồng thời không có thành phần chung nào, thì có đúng m nhân n điểm giao nhau. Trong đó, kể cả các giao điểm trùng nhau và các giao nhau số 8 nằm ngang (ngoài ra còn có nhiều định lý khác liên quan đến số học)
Ví dụ
Trong hình học phẳng thì định lý này có thể minh hoạ thu hẹp thành:
Đường cong bậc hai tổng quát sẽ cắt đường thẳng (bậc 1) tối đa ở hai giao điểm. Đặc biệt, trường hợp đường cong bậc hai là parabol thì có thể có giao điểm ở vô cực. Trường hợp đường thẳng là tiếp tuyến thì hai giao điểm này trùng nhau đó là tiếp điểm chung duy nhất..
Tương tự, hai đường cong bậc hai trong cùng mặt phẳng sẽ có tối đa với nhau 2 x 2 = 4 giao điểm và các giao điểm này có thể ở vô cực hay chúng trùng nhau tạo thành các tiếp điểm.
Xem thêm
Tham khảo
Liên kết ngoài
Bézout
Hình học đại số
Bézout, Định lý
Định lý trong hình học phẳng
|
27058
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%8Bnh%20l%C3%BD%20de%20Branges
|
Định lý de Branges
|
Trong giải tích phức, định lý de Branges là một định lý toán học mô tả các điều kiện cần để một hàm là một ánh xạ đơn ánh từ đĩa đơn vị lên mặt phẳng phức.
Định lý này được đặt tên theo Louis de Branges, người đã chứng minh nó vào năm 1985. Trước khi được chứng minh, định lý mới được phát biểu ở dạng giả định, gọi là giả định Bieberbach, theo tên của Ludwig Bieberbach, người phát biểu nó vào năm 1916 trong một buổi lễ. Sau năm 1985, nhiều người khác cũng đã đơn giản hóa cách chứng minh định lý này. Trong suốt thời gian chưa được chứng minh, đây đã từng là một bài toán khó trong ngành giải tích phức.
Phát biểu
Nếu hàm f trên một đĩa đơn vị của mặt phẳng phức thỏa mãn các điều kiện sau:
Hàm f là chỉnh hình
Hàm f là hàm 1-1
Tồn tại chuỗi lũy thừa bên trong của dĩa thì các hệ số an sẽ thỏa mãn điều kiện với mọi n.
Ở đây:
Một hàm phức f gọi là chỉnh hình nếu nó khả vi.
Một hàm f gọi là 1-1 hay đơn ánh nếu
Tham khảo
Giải tích phức
Branges
Phỏng đoán
|
27059
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%8Bnh%20l%C3%BD%20nh%E1%BB%8B%20th%E1%BB%A9c
|
Định lý nhị thức
|
Trong toán học, định lý khai triển nhị thức (ngắn gọn là định lý nhị thức) là một định lý toán học về việc khai triển hàm mũ của tổng. Cụ thể, kết quả của định lý này là việc khai triển một nhị thức bậc thành một đa thức có số hạng:
với:
Gọi là số tổ hợp chập k của n phần tử.
Định lý này đã được độc lập chứng minh bởi hai người đó là:
Nhà toán học và cơ học Isaac Newton tìm ra trong năm 1665.
Nhà toán học James Gregory tìm ra trong năm 1670.
Công thức đã giới thiệu còn mang tên là Nhị thức Newton.
Chứng minh định lý
Định lý này được chứng minh bằng quy nạp.
Ta có biểu thức (1) với mọi số tự nhiên n.
Đầu tiên tại P(1) đúng.
Giả sử P(n) đúng, ta phải chứng minh và
Áp dụng hằng đẳng thức Pascal ta có:
Do đó công thức (1) đúng.
Giờ đặt và do đó
Ta có điều phải chứng minh.
Ví dụ
Các trường hợp đặc biệt của định lý này nằm trong danh sách các hằng đẳng thức đáng nhớ.
Ví dụ: điển hình nhất là nhị thức là công thức bình phương của :
Hệ số nhị thức xuất hiện ở phép triển khai này tương ứng với hàng thứ ba của tam giác Pascal. Các hệ số có lũy thừa cao hơn của tương ứng với các hàng sau:
Chú ý rằng:
Lũy thừa của giảm dần cho tới khi đạt đến 0 (), giá trị bắt đầu là (n trong .)
Lũy thừa của tăng lên bắt đầu từ 0 () cho tới khi đạt đến ( trong .)
Hàng nhị thức của tam giác Pascal sẽ là các hệ số của nhị thức mở rộng (chú ý rằng đỉnh là hàng 0)
Với mỗi hàng, tích số (tổng của các hệ số) bằng .
Với mỗi hàng, nhóm tích số bằng .
Định lý nhị thức có thể áp dụng với lũy thừa của bất cứ nhị thức nào. Ví dụ:
Với một nhị thức có phép trừ, định lý có thể được áp dụng khi sử dụng phép nghịch đảo số hạng thứ hai.
Tổng quát
Trong trường hợp tổng quát trên trường số phức và ràng buộc một số hạng trong nhị thức.
Nếu là một số thực và là một số phức có số dư nhỏ hơn 1 thì khi đó, ta sẽ phân tích được ra thành một chuỗi vô hạn hội tụ:
Trong đó:
Xem thêm
Định lý khai triển đa thức
Định lý luật số lớn
Tam giác Pascal
Tham khảo
H Anton, Calculus with Analytic Geometry (NewYork, 1980)
Đại số
Giải tích phức
Nhị thức
Giai thừa
|
27063
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%BAc%20h%C6%B0ng%20vi%C3%AAn
|
Phúc hưng viên
|
Phúc hưng viên (福興園) là một bài thơ của Trần Quang Khải, được viết vào thời nhà Trần.
Sau khi chiến thắng quân nhà Nguyên, Thượng tướng Trần Quang Khải về hưu lúc tuổi già và nghỉ ngơi tại tư dinh của ông, có vườn riêng tên gọi "Phúc hưng viên". Bài thơ này đại ý tả cảnh nhàn nhã thời thanh bình. Hiện còn một bản lưu truyền của Ngô Tất Tố
Nguyên bản Hán văn
福興一曲水回環
中有平園數畝寬
梅塢雪消珠蓓蕾
竹亭雲捲碧琅玕
暑來邀客澆茶碗
雨過呼童理藥攔
南望狼煙無復起
頹然一榻夢偏安
Phiên âm
Phúc Hưng nhất khúc thủy hồi hoàn,
Trung hữu bình viên sổ mẫu khoan.
Mai ổ tuyết tiêu châu bội lỗi,
Trúc đình vân quyển bích lang can.
Thử lai yêu khách kiêu trà uyển,
Vũ quá hô đồng lý dược lan.
Nam vọng lang yên vô phục khởi,
Đồi nhiên nhất tháp mộng thiên an
Chú thích
Việt Nam Văn Học: Văn Học Đời Trần (VHĐT), Ngô Tất Tố, Nhà xuất bản Đại Nam, Khai Trí, Sàigòn, 1960, trang 87. Bản điện tử truy cập tháng 1 năm 2006.
Tham khảo
Trần Quang Khải
Bài thơ Việt Nam
Thất ngôn tứ tuyệt
|
27092
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%8D%20Dong
|
Họ Dong
|
Họ Dong, hay Họ Dong ta, còn gọi là họ Hoàng tinh (danh pháp khoa học: Marantaceae) là một họ các thực vật có hoa một lá mầm. Họ này là một phần của bộ Gừng (Zingiberales), bao gồm 550 loài được chia ra trong 32 chi. Họ này có nguồn gốc ở các vùng nhiệt đới của châu Mỹ, châu Phi và châu Á. Một vài loài trong chi Calathea được trồng làm cây cảnh vì các lá của chúng có các ánh màu khác nhau như lục, trắng hay hồng.
Họ Dong ở Việt Nam có một số loài quan trọng như dong lá (Phrynium placentarium) có lá sử dụng để gói bánh chưng, và dong củ (Maranta arundinacea), tại miền Nam gọi là bình tinh, được dùng làm lương thực.
Các chi
Phân loại World Checklist of Selected Plant Families (WCSP) (16 tháng 2 năm 2012):
Afrocalathea K.Schum. (1902)
Calathea G.Mey. (1818)
Cominsia Hemsl. (1891)
Ctenanthe Eichler (1884)
Donax Lour. (1790)
Goeppertia Nees (1831).
Halopegia K.Schum (1902)
Haumania J.Léonard (1949)
Hylaeanthe A.M.E.Jonker & Jonker (1955)
Hypselodelphys (K.Schum.) Milne-Redh. (1950)
Indianthus Suksathan & Borchs. (2009)
Ischnosiphon Körn. (1859)
Koernickanthe L.Andersson (1981)
Maranta Plum. ex L. (1753)
Marantochloa Brongn. ex Gris (1860)
Megaphrynium Milne-Redh. (1952)
Monophyllanthe K.Schum. (1902)
Monotagma K.Schum. (1901)
Myrosma L.f. (1782)
Phrynium Willd. (1797)
Pleiostachya K.Schum. (1902)
Sanblasia L.Andersson (1984)
Saranthe (Regel & Körn.) Eichler (1884)
Sarcophrynium K.Schum. (1902)
Schumannianthus Gagnep. (1904)
Stachyphrynium K.Schum. (1902)
Stromanthe Sond. (1849)
Thalia L. (1753)
Thaumatococcus Benth. (1883)
Trachyphrynium Benth. (1883)
Phân loại Angiosperm Phylogeny Website (21 tháng 5 năm 2010):
Afrocalathea K.Schum.
Ataenidia Gagnep.
Calathea G.Mey.
Cominsia Hemsl.
Ctenanthe Eichler
Donax Lour.
Halopegia K.Schum.
Haumania J.Leonard
Hylaeanthe A.M.E.Jonker & Jonker
Hypselodelphys (K.Schum.) Milne-Redh.
Ischnosiphon Korn.
Koernickanthe L.Andersson
Maranta L.
Marantochloa Brongn. ex Gris
Megaphrynium Milne-Redh.
Monophrynium K.Schum.
Monophyllanthe K.Schum.
Monotagma K.Schum.
Myrosma L.f.
Phacelophrynium K.Schum.
Phrynium Willd.
Pleiostachya K.Schum.
Sanblasia L.Andersson
Saranthe (Regel & Korn.) Eichler
Sarcophrynium K.Schum.
Schumannianthus Gagnep.
Stachyphrynium K.Schum.
Stromanthe Sond.
Thalia L.
Thaumatococcus Benth.
Thymocarpus Nicolson, Steyerm. & Sivad.
Trachyphrynium Benth.
Phân loại NCBI (22 tháng 4 năm 2010):
Afrocalathea
Ataenidia
Calathea
Cominsia
Ctenanthe
Donax
Halopegia
Haumania
Hylaeanthe
Hypselodelphys
Ischnosiphon
Koernickanthe
Maranta
Marantochloa
Megaphrynium
Monophrynium
Monotagma
Myrosma
Phacelophrynium
Phrynium
Pleiostachya
Saranthe
Sarcophrynium
Schumannianthus
Stachyphrynium
Stromanthe
Thalia
Thaumatococcus
Trachyphrynium
Phân loại DELTA Angio (22 tháng 4 năm 2010):
Afrocalathea
Ataenidia
Calathea
Cominsia
Ctenanthe
Donax
Halopegia
Haumania
Hylaeanthe
Hypselodelphys
Ischnosiphon
Koernickanthe
Maranta
Marantochloa
Megaphrynium
Monophrynium
Monophyllanthe
Monotagma
Myrosma
Phacelophrynium
Phrynium
Pleiostachya
Sanblasia
Saranthe
Sarcophrynium
Schumannianthus
Stachyphrynium
Thalia
Thaumatococcus
Trachyphrynium
Phân loại ITIS (22 tháng 4 năm 2010):
Calathea G.F.W. Mey.
Donax Lour.
Maranta L.
Marantochloa Brongn. & Gris
Myrosma L. f.
Thalia L.
Thaumatococcus Benth.
Phát sinh chủng loài
Cây phát sinh chủng loài dưới đây lấy theo APG III.
Lưu ý
Cây dong riềng (tên khoa học: Canna edulis Ker.) lấy bột để làm miến dong ở Việt Nam không thuộc họ này mà thuộc về họ Dong riềng (hay họ Chuối hoa, Cannaceae) cũng thuộc bộ Gừng.
Hoàng tinh (chữ Hán: 黄精) trong y học cổ truyền Trung Hoa (Đông y) chỉ nhiều loài thuộc chi Polygonatum, đặc biệt là loài Polygonatum sibiricum, có thân rễ làm dược liệu.
Hình ảnh
Tham khảo
Liên kết ngoài
Cây trồng trong nhà
|
27096
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%8D%20Dong%20ri%E1%BB%81ng
|
Họ Dong riềng
|
Họ Dong riềng hay họ Chuối hoa (danh pháp khoa học: Cannaceae) là một họ thực vật một lá mầm chỉ có một chi duy nhất là chi Canna.
Các loài
Họ này chỉ có một chi Canna duy nhất với khoảng 50 loài phân bố chủ yếu ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới châu Mỹ. Một số loài phổ biến như:
Canna flaccida (Salisb)
Canna x generalis (Bailey-pro sp.)
Canna glauca (L.)
Canna indica - cây chuối hoa
Canna lambertii (Lindl.)
Canna lutea (P. Mill.)
Canna neglecta (Steud.)
Canna pertusa (Urban)
Canna sylvestris (Roscoe)
Ở Việt Nam có vài loài như:
Dong riềng (Canna edulis Ker.): hoa nhỏ màu đỏ, trồng lấy củ ăn, lấy bột làm miến.
Chuối hoa lai (Canna hybrida Forst.): hoa to có màu sặc sỡ, đỏ hay vàng, làm cảnh.
Chuối hoa (Canna indica L.): hoa nhỏ không đẹp bằng loài trên.
Phát sinh chủng loài
Cây phát sinh chủng loài dưới đây lấy theo APG III.
Hình ảnh
Chú thích
Tham khảo
|
27101
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Otto%20Skorzeny
|
Otto Skorzeny
|
Otto Skorzeny (12 tháng 6 năm 1908 tại Viên – 6 tháng 7 năm 1975 tại Madrid) là một trung tá (tiếng Đức: Obersturmbannführer) của Lực lượng Vũ trang SS trong suốt giai đoạn Chiến tranh thế giới thứ hai. Skorzeny được nhiều người biết đến khi chỉ huy đơn vị biệt kích giải thoát cho Benito Mussolini sau khi chính quyền phát xít Ý sụp đổ và qua những hành động liên quan đến việc thành lập một trong các cơ sở quan trọng nhất của Tổ chức cựu thành viên SS (Organisation der ehemaligen SS-Angehörigen hay ODESSA) tại Tây Ban Nha dưới thời chính quyền độc tài của Francisco Franco.
Binh nghiệp
Gia nhập quân ngũ
Sinh ra trong một gia đình trung lưu người Áo có truyền thống phục vụ trong quân đội, Skorzeny là một kiếm thủ trong thời gian học tại Viên trong thập niên 1920. Trong một trận đấu kiếm, Skorzeny đã bị thương với một vết sẹo lớn bên má trái. Skorzeny gia nhập vào Đảng Quốc xã của Áo năm 1931 và sau đó gia nhập vào lực lượng SA. Ngay từ lúc đầu, Skorzeny đã tỏ ra có tố chất lãnh đạo, và đã giữ một vai trò nhỏ trong sự kiện Đức chiếm Áo vào ngày 12 tháng 3 năm 1938, khi giải cứu tổng thống nước Áo là Wilhelm Miklas khỏi bị bắn bởi những thành viên SA đang tức giận.
Khi chiến tranh thế giới nổ ra vào năm 1939, Skorzeny, khi đó đang là một kỹ sư, đã tình nguyện gia nhập vào Không quân Đức (Luftwaffe) nhưng đã bị từ chối vì đã quá 30 tuổi. Sau đó, Skorzeny chuyển sang gia nhập lực lượng Waffen-SS. Vào ngày 21 tháng 2 năm 1940, Skorzeny tham gia chiến tranh cùng với một trong những đơn vị nổi tiếng nhất, "Leibstandarte-SS Adolf Hitler", và chiến đấu trong những chiến dịch khác nhau chống lại Liên bang Xô Viết trong các năm 1941 và 1942 trước khi bị thương và quay trở về Đức vào tháng 12 năm 1942, được phong tặng Huân chương Thập tự Sắt (Eisernes Kreuz) vì sự dũng cảm khi tham gia chiến đấu.
Giải cứu Mussolini
Sau khi bình phục vết thương, một người bạn trong lực lượng SS đã tiến cử Skorzeny với giới lãnh đạo quân đội Đức như là một chỉ huy tài năng cho các lực lượng biệt kích mà Adolf Hitler có ý định thành lập. Với vai trò mới này, vào tháng 7 năm 1943, Skorzeny đã được đích thân Hitler lựa chọn trong số hàng trăm nhân viên đặc biệt trong các lực lượng quân đội và không quân để chỉ huy chiến dịch giải cứu Benito Mussolini, nhà độc tài của nước Ý và là một người bạn của Hitler, thoát khỏi sự giam cầm dưới chính quyền mới tại Ý.
Nhưng người Ý đã di chuyển Mussolini hết nơi này đến nơi khác để đánh lạc hướng những kẻ có ý định giải cứu. Sau gần 2 tháng chơi trò mèo vờn chuột, cuối cùng, những tin tức về nơi giam giữ do Herbert Kappler cung cấp và các chuyến trinh sát do đích thân Skorzeny thực hiện đã đem lại đủ những thông tin cần thiết cho chiến dịch giải cứu. Ngày 12 tháng 9, bằng một chiếc tàu lượn, Skorzeny đã tổ chức một cuộc tấn công táo bạo vào khách sạn Campo Imperatore, giải cứu được Mussolini mà không phải tốn một viên đạn nào. Skorzeny đã hộ tống Mussolini về Roma và sau đó di chuyển về Berlin. Chiến công vang dội này đã làm cho Skorzeny nổi tiếng khắp thế giới, được thăng cấp lên thiếu tá và ban tặng Huân chương Thập tự Hiệp sĩ (Ritterkreuz), là một huân chương cao hơn Thập tự Sắt.
Cuối chiến tranh
Vào ngày 25 tháng 5 năm 1944, Skorzeny được chỉ định chỉ huy chiến dịch Rösselsprung. Chiến dịch này do một toán biệt kích dù thực hiện với mục tiêu bắt sống viên chỉ huy Tito của lực lượng du kích Nam Tư tại tổng hành dinh của Tito, gần Drvar, nhằm khuất phục sự chống cự của những người cộng sản tại bán đảo Balkans. Skorzeny và nhóm lính dù của ông đã chiến đấu thành công chống lại lực lượng du kích có số lượng đông hơn nhưng Tito đã trốn thoát khỏi hang động chỉ huy của mình chỉ vài phút trước khi người của Skorzeny tiến đến.
Ngày 20 tháng 7 năm 1944 Skorzeny có mặt tại Berlin khi xảy ra cuộc mưu sát Hitler cùng với việc một nhóm sĩ quan Đức cố gắng nắm lấy quyền kiểm soát của các cơ quan đầu não của đất nước trước khi nhà độc tài hồi phục lại vết thương. Skorzeny đã giúp dập tắt cuộc nổi loạn ở thủ đô, làm việc 36 tiếng đồng hồ trong bộ chỉ huy trung ương của quân đội Đức.
Tháng 10 năm 1944, Hitler đã biệt phái Skorzeny sang Hungary khi hay tin viên toàn quyền (Regent) của nước này, Miklós Horthy, đang bí mật đàm phán về khả năng đầu hàng với Hồng quân Liên Xô. Sự đầu hàng này, nếu diễn ra, sẽ cắt đứt đường rút lui của khoảng 1 triệu lính chiến đấu Đức tại bán đảo Balkans. Skorzeny, dưới chiến dịch mang mật dannh "Panzerfaust", đã bắt cóc con trai của Horthy là Nicolas và ép buộc ông này từ bỏ chức vụ toàn quyền của mình. Một chính quyền thân Đức được thành lập tại Hung và đã chiến đấu bên cạnh nước Đức cho đến tháng 4 năm 1945 khi binh lính Đức bị Hồng quân đẩy lùi ra khỏi Hungary.
Ngày 21 tháng 10, Hitler, lấy ý tưởng từ một vụ cải trang do quân đội Mỹ thực hiện (quân Mỹ đã sử dụng ba chiếc xe tăng lấy được từ tay quân Đức đã tấn công một cách hiệu quả trong trận chiến tại thành phố Aachen, một thành phố có nhiều ý nghĩa lịch sử đối với người Đức), đã gọi Skorzeny và giao cho Skorzeny chỉ huy một lữ đoàn xe tăng. Theo kế hoạch được vạch ra trong chiến dịch mang tên "Greif", Skorzeny cùng với khoảng 200 lính Đức, hầu hết được ngụy trang đi trên các chiếc xe Jeep của quân đội Mỹ mà họ lấy được, đã vượt qua phòng tuyến của quân Mỹ trước khi trận Ardennes nổ ra vài giờ. Toán lính này đã gieo rắc sự hỗn loạn và sự lộn xộn trong hàng ngũ quân đội Đồng Minh. Một tên lính trong toán của Skorzeny đã bị bắt và tung ra tin đồn rằng Skorzeny đang tiến về Paris để bắt sống hoặc sẽ giết chết Eisenhower. Mặc dầu đây không phải là sự thật, nhưng Eisenhower đã phải ở trong tổng hành dinh của mình vài tuần và Skorzeny được gán cho cái tên "Người nguy hiểm nhất tại châu Âu".
Trong 2 tháng đầu của năm 1945, Skorzeny đã chỉ huy các lực lượng quân chính quy cố gắng giữ lấy các tỉnh của nước Đức thuộc vùng đất Phổ và Ba Lan (Preußen-Pommern), vai trò của Skorzeny lúc đó tương đương với quyền hạn của một viên thiếu tướng. Với những gì làm được tại đây, đặc biệt là trong cuộc phòng ngự tại "Frankfrut an der Oder", Hitler đã ban thưởng cho Skorzeny Huân chương Thập tự Hiệp sĩ với lá Sồi), một trong những danh dự cao quý nhất của quân đội Đức.
Sau chiến tranh
Skorzeny đã đầu hàng quân đội Đồng Minh vào tháng 5 năm 1945 và bị giam giữ như là một tù binh chiến tranh hơn 2 năm trước khi bị đem ra xét xử tại tòa án tội ác chiến tranh do những hành động tại trận Ardennes. Tuy nhiên, Skorzen đã được tha tội vì Yeo-Thomas, một trung tá của Không quân Hoàng gia Anh, đã làm chứng cho Skorzeny và nói rằng lực lượng Đồng Minh cũng đã có những hành động tương tự đối với quân địch của mình. Tuy nhiên, Skorzeny tiếp tục bị giam giữ cho đến khi trốn thoát khỏi trại giam vào ngày 27 tháng 7 năm 1948.
Skorzeny ổn định cuộc sống tại Tây Ban Nha, với hộ chiếu do chính nhà độc tài Francisco Franco cấp và làm lại nghề kỹ sư như trước chiến tranh. Năm 1952, Skorzeny được hưởng chính sách "Denazifizierung" do một ủy ban xét xử của chính quyền Đức phán xét, điều này cho phép Skorzeny có thể di chuyển ra nước ngoài. Trước khi có chính sách này, đúng lý ra Skorzeny phải bị giam giữ tại Đức hoặc Áo cho đến khi Skorzen tuyên thệ trước những người có thẩm quyền rằng mình thừa nhận những sai phạm mà mình đã gây ra trước đây. Sau đó, Skorzen làm cố vấn cho nhà độc tài Ai Cập, Gamal Abdel Nasser, và tổng thống Argentina, Juan Peron. Theo lời đồn, Skorzeny đã bí mật giúp đỡ nhiều người bạn SS trốn thoát và gia nhập tổ chứ ODESSA trong những năm sau chiến tranh. Theo tờ báo El Mundo tại Tây Ban Nha, Skorzeny là nhân vật chủ chốt trong việc thành lập một trong các cơ sở lớn nhất của tổ chức ODESSA nằm ở đâu đó tại Tây Ban Nha. Một số tay chân của Skorzeny đã giúp đỡ Aribert Heim (có biệt danh là "Thần Chết" – Doctor Death, tháng 10 năm 2005 có tin nói ông này hiện đang sống tại Tây Ban Nha) thoát khỏi các phiên tòa xét xử.
Skorzeny chết vì ung thư cột sống tại Madrid vào năm 1975, lúc đó, Skorzen đang là một triệu phú.
Tham khảo
Thư mục
Otto Skorzeny, David Johnson transl. My Commando Operations: The Memoirs of Hitler's Most Daring Commando (reprint Schiffer Publishing, 1995) ISBN 0-88740-718-8
Charles Foley, Commando Extraordinary (Arms & Armour, 1987) ISBN 0-85368-824-9
Charles Whiting, Skorzeny: "The Most Dangerous Man in Europe" (DaCapo Press, 1998) ISBN 0-938289-94-2
Annussek, G. Hitler's Raid To Save Mussolini, De Capo Press, 2005. ISBN 0-306-81396-3
Liên kết ngoài
Otto Skorzeny
Trial of Otto Skorzeny and Others , General Military Government Court of the U.S. Zone of Germany, 18 tháng 8 to 9 tháng 9 năm 1947.
Summary of KV 2/403 a British intelligence file Declassified in July 2001 it details the post war debriefing of Otto Skorzeny on Operation Werewolf and other matters.
Mất năm 1975
Viên chức Đức Quốc Xã
Người Viên
Chết vì ung thư phổi
Đảng viên Đức Quốc Xã
|
27104
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%8D%20M%C3%A3%20ti%E1%BB%81n
|
Họ Mã tiền
|
Họ Mã tiền (danh pháp khoa học: Loganiaceae) là một họ thực vật hai lá mầm, thuộc về bộ Long đởm (Gentianales). Họ này có 13 chi, phân bố ở các vùng nhiệt đới trên toàn thế giới.
Phân loại
Các phân loại đầu tiên gắn cho họ này tới 29 chi. Một số sơ đồ phân loại, chẳng hạn của Takhtadjan, đã chia họ Loganiaceae được miêu tả tại đây thành ra nhiều (tới 4) họ là: Strychnaceae, Antoniaceae, Spigeliaceae và Loganiaceae. Các nghiên cứu DNA gần đây về bộ Long đởm đã tìm thấy các chứng cứ ủng hộ mạnh mẽ cho Loganiaceae như là một nhánh đơn nguồn gốc chứa 13 chi và khoảng 420 loài. Các chi đa dạng loài nhất là Strychnos (190 loài), Mitrasacme (55 loài), Geniostoma (55 loài).
Chi tiết cụ thể như dưới đây:
Tông Antonieae
Antonia
Bonyunia
Norrisia
Usteria
Tông Loganieae
Logania (bao gồm cả Nautophylla): Khoảng 37 loài, gần như đặc hữu Australia và chỉ có 1 loài ở New Caledonia cộng 1 loài ở New Zealand (có lẽ đã tuyệt chủng). Chia làm 2 tổ đơn ngành là Logania và Stomandra nhưng bản thân Logania là không đơn ngành. Năm 2014 Foster et al. đề xuất việc công nhận tổ Stomandra như là một chi mới, gọi là Orianthera với 13 loài.
Geniostoma (bao gồm cả Anasser): Khoảng 28 loài. Phân bố trải rộng từ Australasia tới Thái Bình Dương, về phía bắc tới miền nam Nhật Bản, về phía tây tới quần đảo Mascarene.
Labordia: Khoảng 17 loài đặc hữu Hawaii. Về hình thái là tương tự Geniostoma, khác ở chỗ ống tràng dài hơn các thùy, cụm hoa đầu cành (ở Geniostoma là ở nách lá) và quả nang 2 hoặc 3 (ít khi 4) mảnh vỏ trong khi ở Geniostoma luôn là 2. Phân tích phát sinh chủng loài của Gibbons et al. năm 2012 cho thấy tốt nhất nên gộp Labordia trong Geniostoma, do việc công nhận Labordia như một chi độc lập làm cho Geniostoma trở thành nhóm cận ngành.
Mitreola (bao gồm cả Cynoctonum): Trước đây xếp trong Spigelieae. Khoảng 14 loài, phân bố rộng khắp ở châu Mỹ, châu Phi, châu Á, New Guinea và miền bắc Australia. Loài M. minima lại phân bố hạn hẹp ở tây nam Australia và phân tích phát sinh chủng loài của Gibbons et al. (2012) cho thấy nó không có quan hệ họ hàng gần với các loài còn lại của chi Mitreola mà có quan hệ chị-em với nhóm Schizacme + Phyllangium + Mitrasacme và tốt nhất là nên coi nó như một chi độc lập. Năm 2013 Gibbons et al. chuyển nó sang chi mới gọi là Adelphacme.
Mitrasacme: Trước đây xếp trong Spigelieae. Khoảng 54 loài, chủ yếu ở Australia, nhưng mở rộng tới New Caledonia, Malesia và châu Á.
Schizacme: Tách ra từ Mitrasacme năm 1996. Khoảng 3+ loài cây bụi nhỏ lâu năm ở Tasmania, Victoria (nam Australia) và New Zealand.
Phyllangium: Tách ra từ Mitrasacme năm 1996. Khoảng 5 loài cây thân thảo đặc hữu vùng ôn đới Australia.
Tông Strychneae
Gardneria (bao gồm cả Pseudogardneria)
Neuburgia (bao gồm cả Couthovia, Crateriphytum)
Strychnos (bao gồm cả Atherstonea, Scyphostrychnos)
Tông Spigelieae
Spigelia (bao gồm cả Coelostylis, Pseudospigelia). Phân tích phát sinh chủng loài của Yang et al. (2016) cho thấy tốt nhất nên gộp Spigelieae trong tông Strychneae.
Các chi bị loại ra
Adenoplea = Buddleja (họ Scrophulariaceae).
Adenoplusia = Buddleja (họ Scrophulariaceae).
Androya: Chuyển sang họ Scrophulariaceae.
Anthocleista: Chuyển sang họ Gentianaceae.
Buddleia = Buddleja (họ Scrophulariaceae).
Buddleja: Chuyển sang họ Scrophulariaceae.
Chilianthus = Buddleja (họ Scrophulariaceae).
Coinochlamys = Mostuea (họ Gelsemiaceae).
Cyrtophyllum = Fagraea (họ Gentianaceae).
Desfontainia: Chuyển sang họ Columelliaceae.
Emorya: Chuyển sang họ Scrophulariaceae.
Fagraea: Chuyển sang họ Gentianaceae.
Gelsemium: Chuyển sang họ Gelsemiaceae.
Gomphostigma: Chuyển sang họ Scrophulariaceae.
Hasslerella = Polypremum (họ Tetrachondraceae).
Lachnopylis = Nuxia (họ Stilbaceae).
Leptocladus = Mostuea (họ Gelsemiaceae).
Lithophytum = Plocosperma (họ Plocospermataceae).
Medicia = Gelsemium (họ Gelsemiaceae).
Mostuea: Chuyển sang họ Gelsemiaceae.
Nicodemia = Buddleja (họ Scrophulariaceae).
Nuxia: Chuyển sang họ Stilbaceae.
Peltanthera: Chuyển sang họ Gesneriaceae.
Plocosperma: Chuyển sang họ Plocospermataceae.
Polypremum: Chuyển sang họ Tetrachondraceae.
Potalia (họ Gentianaceae).
Retzia: Chuyển sang họ Stilbaceae.
Valerioa = Peltanthera (họ Gesneriaceae).
Phát sinh chủng loài
Cây phát sinh chủng loài vẽ theo kết quả tổng hợp từ Backlund et al. (2000), Gibbons et al. (2012) và Yang et al. (2016)
Hình ảnh
Tham khảo
Xem thêm
Struwe L., V. A. Albert và B. Bremer 1994. Mô tả theo nhánh và sự phân loại theo họ của bộ Long đởm. Cladistics 10: 175–205.
Liên kết ngoài
Mã tiền, họ
|
27106
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%A1%20ng%C3%B3n
|
Lá ngón
|
Cây lá ngón, còn gọi là cây rút ruột, co ngón, hồ mạn trường, hồ mạn đằng, hoàng đằng, đoạn trường thảo, cây xóa nợ (danh pháp hai phần: Gelsemium elegans) là một loài thực vật có hoa, từ năm 1994 được phân loại trong họ Hoàng đằng (Gelsemiaceae).
Lịch sử phân loại
Loài này trước đây được phân loại trong họ Mã tiền (Loganiaceae), nhưng từ năm 1994 đến nay được cho là thuộc họ mới là họ Hoàng đằng (Gelsemiaceae). Tuy nhiên, cần phân biệt với một loài cũng được gọi là "lá ngón" nhưng ăn được ở một số vùng dân tộc thiểu số như Mường So,.....
Đặc điểm
Là một loại cây leo thân quấn thường xanh, dài tới 12 m khá phổ biến ở miền rừng núi Việt Nam, Ấn Độ, Indonesia, Lào, Malaysia, miền bắc Myanmar, bắc Thái Lan, cũng như các tỉnh Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Quý Châu, Hải Nam, Hồ Nam, Giang Tây, Vân Nam, Chiết Giang của Trung Quốc và Đài Loan. Nó được tìm thấy trong các cánh rừng rậm và dày ở cao độ từ 200 mét đến 2.000 mét. Thân cây có khía. Cành non màu xanh lục nhạt không có lông. Cành già màu xám nâu nhạt. Lá mọc đối, không lông, hình trứng hay hình trứng mũi mác, đầu nhọn, mép nguyên, xanh nhẵn bóng, mép lá nguyên, dài 7–12 cm. Hoa mọc thành xim đầu cành hay kẽ lá. Năm cánh hoa màu vàng, tràng hoa hình phễu, ra hoa trong khoảng từ tháng 5 tới tháng 11-12. Quả là dạng quả nang, hình thon elíp hay hình trứng, dài 1-1,4 X 0,6-0,8 cm, nhẵn không lông, màu nâu. Hạt nhỏ cỡ 0,5 cm, dạng từ hình elíp tới hình thận, màu nâu nhạt, phần giữa có lông, có diềm cánh mỏng xung quanh giúp phát tán theo gió. Là loài cây ưa sáng nên thường mọc chỗ đất trống, bìa rừng, ven đường.
Độc tính
Độc tính của lá ngón là do các ancaloit chứa trong toàn bộ cây, trật tự độc giảm từ rễ, lá, hoa, quả và thân cây. Tới 17 đơn phân ancaloit đã được chiết ra từ lá ngón như koumin, gelsenicin, gelsamydin I, gelsemoxonin, 19α-hydroxygelsamydin, trong đó hàm lượng koumin là cao nhất còn độc tính của gelsenicin tính theo LD50 trên chuột là cao nhất.
Ở Việt Nam và Trung Quốc, nó được coi là một trong bốn loại cây có độc tính hàng cao nhất (thuốc độc bảng A), một số người cho rằng chỉ cần ăn ba lá là đủ chết người.
Ngộ độc
Ngày 12-7-2020, một nhóm 5 người dân ở xã Linh Hồ, huyện Vị Xuyên, Hà Giang hái rau rừng, sau đó được cho là lá ngón, để nấu canh ăn sáng, được đưa vào bệnh viện.
Tự tử
Lá ngón ở Việt Nam là một loại thực vật có độc tính cao, nên nhiều người (đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số) ăn nó để tự tử. Đa số các trường hợp ăn xong khi chuyển đến bệnh viện sẽ tử vong, chỉ từ 3-5% mới có khả năng thoát khỏi cửa tử vì biết cách sơ cứu kịp thời và đúng cách.
Triệu chứng ngộ độc
Người bị ngộ độc lá ngón có các triệu chứng khát nước, đau họng, chóng mặt, hoa mắt, buồn nôn… sau đó bị mỏi cơ, thân nhiệt hạ, huyết áp hạ, răng cắn chặt, sùi bọt mép, đau bụng dữ dội, tim đập yếu, khó thở, đồng tử giãn và chết rất nhanh do ngừng hô hấp.
Giải độc
Cũng như đối với các loại ngộ độc khác qua đường tiêu hoá, bước sơ cứu đầu tiên đó là nhanh chóng tìm cách giải phóng chất độc ra khỏi cơ thể. Ở nhà có thể cho uống thật nhiều nước rồi móc họng, dùng lông gà hoặc các biện pháp khác để kích thích gây nôn. Quan trọng sau đó là chuyển đến cấp cứu tại các cơ sở y tế (cho thở máy, trợ tim và giải độc)
Theo một nghiên cứu khác, giã nhiều rau má hoặc rau muống lấy nước cốt, sau đó cho người bị ngộ độc uống để làm giảm độc tính rồi chuyển đến bệnh viện cấp cứu..
Sử dụng y học
Tại Trung Quốc, nó được sử dụng để điều trị eczema, bệnh trĩ, nhiễm trùng răng, phong (hủi), nhọt ngoài da, chống tổn thương và co thắt, nhưng do độc tính cao nên chỉ hạn chế trong các ứng dụng ngoài da.
Công dụng khác
Lá ngón còn được sử dụng làm thuốc nhuộm tóc. Người ta sử dụng với liều lượng rất ít, vì có độc tính cao nên để thuốc nhuộm tóc xa khỏi tầm tay trẻ em.
Đọc thêm
Gelsemium rankinii và Gelsemium sempervirens - hai họ hàng gần, có nguồn gốc ở vùng đông nam Hoa Kỳ.
Ghi chú
Liên kết ngoài
Hình ảnh cây đoạn trường thảo nở hoa vàng
E
Cây độc
|
27107
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A7n%20Quang%20Kh%E1%BA%A3i
|
Trần Quang Khải
|
Trần Quang Khải (chữ Hán: 陳光啓; 24 tháng 08 năm 1241 – 26 tháng 7 năm 1294), hay Chiêu Minh Đại vương (昭明大王), là một nhà chính trị, quân sự, tôn thất hoàng gia Đại Việt thời Trần. Ông làm đến chức Thừa tướng đời Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông và Trần Anh Tông, coi cả mọi việc trong nước.
Trong kháng chiến chống Nguyên-Mông (1285), Hoàng đế Trần Nhân Tông phong ông chức Thượng tướng Thái sư; ông giữ vai trò nổi bật trong trận phòng thủ Thanh Hóa, Nghệ An và trận đánh tan quân Nguyên tại Chương Dương độ. Ông được Trần Thánh Tông khen là người bề tôi trung hiếu hiếm có; ngoài ra, sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú ghi nhận: "Công lao thu phục được nước, ông đứng thứ nhất". Ông còn là người học rộng, giỏi thơ phú, có làm Lạc Đạo tập lưu lại ở đời.
Thân thế
Trần Quang Khải sinh vào tháng 10 âm lịch, năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 10 (1241). Ông là con thứ ba của vua Trần Thái Tông (vị hoàng đế đầu tiên của Nhà Trần), mẹ là Thuận Thiên hoàng hậu Lý thị (con gái trưởng Lý Huệ Tông). Ông là em cùng mẹ với thái tử Trần Hoảng, tức vua Trần Thánh Tông. Người anh đầu của hai ông là Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang, dù được Thái Tông nhận làm con, nhưng thật ra là con của Khâm Minh Đại vương Trần Liễu.
Đại Việt Sử ký Toàn thư, bộ quốc sử Đại Việt biên soạn năm 1479 (thời Hậu Lê), đã để lại 1 chi tiết về thời niên thiếu của Trần Quang Khải:
"Quang Khải lúc mới sinh, phát chứng kinh suýt chết, Thái Tông lấy áo của Thượng hoàng và thanh gươm báu truyền quốc để bên cạnh rồi bảo ông: "Nếu sống lại, sẽ ban cho những thứ này".
Đến khi sống lại, Thái Tông nói:
"Gươm báu truyền quốc, không thể trao bừa, chỉ ban cho áo của Thượng hoàng thôi".
Thừa tướng Đại Việt
Từ nhỏ, ông đã được Trần Thái Tông phong tước Chiêu Minh vương (昭明王) và cho thụ giáo với Hàn lâm viện học sĩ kiêm Quốc sử Viện giám tu, Bảng nhãn Lê Văn Hưu. Sử chép ông là người có học thức, hiểu tiếng nói của các bộ tộc ít người.
Năm Nguyên Phong thứ 8 (1258), ông được gả Phụng Dương công chúa, con gái của Thái sư Khâm Thiên đại vương Trần Nhật Hiệu, ban cho thái ấp Độc Lập, phủ Thiên Trường (nay thuộc xã Mỹ Thành, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định). Cùng năm, vua Trần Thái Tông nhường ngôi cho thái tử Trần Hoảng, tức Trần Thánh Tông, rồi lên làm thái thượng hoàng. Tân quân Trần Thánh Tông phong cho Quang Khải tước Chiêu Minh Đại vương (昭明大王).
Năm Thiệu Long năm thứ 4 (1261), Trần Thánh Tông phong Trần Quang Khải làm Thái úy; ông chính thức tham gia công việc triều chính khi vừa 20 tuổi. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, Thánh Tông có người anh là Tĩnh Quốc đại vương Quốc Khang lớn tuổi hơn, nhưng không có tài cán đặc biệt, nên nhà vua cho Quang Khải làm đại thần.. Năm Thiệu Long năm thứ 8 (1265), nhà vua lại phong Quang Khải làm Thượng tướng, vào trấn thủ Nghệ An. Trại trạng nguyên Bạch Liêu là môn khách của ông.
Đầu năm Thiệu Long năm thứ 14 (1271), ông làm Tướng quốc thái úy, trở thành đại thần đầu triều nắm giữ việc nước, đứng trên cả Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn.
Quan hệ với Hưng Đạo vương
Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn là con của Khâm Minh đại vương Trần Liễu, Chiêu Minh đại vương Trần Quang Khải là con của Thái Tông hoàng đế Trần Cảnh. Theo quan hệ huyết thống thì Thái Tông là em ruột của Khâm Minh đại vương, cho nên, Hưng Đạo vương và Chiêu Minh vương cùng với Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang đều là anh em nửa dòng máu. Ngoài mâu thuẫn giữa dòng chính và dòng thứ, giữa hai ông còn có cả mối bất hòa cá nhân.
Cuối năm 1257, Hưng Đạo vương được cử làm chỉ huy các đạo quân thủy bộ ở biên giới, lập nhiều công lao cho triều đình. Tuy nhiên, sau khi đánh đuổi được quân Nguyên Mông, ông vẫn giữ nguyên tước cũ và trở về thái ấp ở Vạn Kiếp. Trong khi đó, không lâu sau Trần Quang Khải được phong tước Đại vương, và thăng làm Thái úy.
Đầu năm Bảo Phù thứ 5 (1277), Trần Thánh Tông thân chinh đánh các bộ tộc thiểu số ở động Nẫm Bà La (nay thuộc Quảng Bình). Sử chép:
Trước kia, Thánh Tông thân đi đánh giặc, Quang Khải theo hầu, ghế Thừa tướng bỏ không, vừa lúc có sứ phương Bắc đến. Thượng hoàng Thái Tông gọi Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn tới bảo: "Thượng tướng đi theo hầu vắng, trẫm định lấy khanh làm Tư đồ để tiếp sứ phương Bắc".
Quốc Tuấn trả lời: "Việc tiếp sứ giả, thần không dám từ chối, còn như phong thần làm Tư đồ thì thần không dám vâng chiếu. Huống chi Quan gia đi đánh giặc xa, Quang Khải theo hầu mà bệ hạ lại tự ý phong chức, thì tình nghĩa trên dưới, e có chỗ chưa ổn, sẽ không làm vui lòng Quan gia và Quang Khải. Đợi khi xa giá trở về, sẽ xin vâng mệnh cũng chưa muộn".
Đến khi Thánh Tông trở về, việc ấy lại bỏ đấy, vì hai người vốn không ưa nhau.
Năm 1278, vua Trần Thánh Tông truyền ngôi cho thái tử Trần Khâm, tức vua Trần Nhân Tông. Đầu năm 1281, sứ nhà Nguyên là Sài Thung đến Thăng Long đòi vua Trần sang chầu. Thung tỏ thái độ rất ngạo mạn:
{{Cquote|
Vua sai Quang Khải đến sứ quán khoản tiếp. Thung nằm khểnh không ra, Quang Khải vào hẳn trong phòng, hắn cũng không dậy tiếp. Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn nghe thấy thế, tâu xin đến sứ quán xem Thung làm gì. Lúc ấy Quốc Tuấn đã gọt tóc, mặc áo vải. Đến sứ quán, ông đi thẳng vào trong phòng. Thung đứng dậy vái chào mời ngồi. Mọi người đều kinh ngạc, có biết đâu gọt tóc, mặc áo vải là hình dạng nhà sư phương Bắc. Ông ngồi xuống pha trà, cùng uống với hắn. Người hầu của Thung cầm cái tên đứng sau Quốc Tuấn, chọc vào đầu đến chảy máu, nhưng sắc mặt Quốc Tuấn vẫn không hề thay đổi. Khi trở về, Thung ra cửa tiễn ông.
|||Đại Việt Sử ký Toàn thư}}
Nhờ cách ứng xử khéo léo của Hưng Đạo Vương, Sài Thung thay đổi thái độ. Khi Sài Thung về lại Bắc Kinh, Trần Quang Khải đã làm tặng một bài thơ, trong đó có câu:Vị thẩm hà thời trùng đỗ diện
Ân cần ác thủ tự huyên lương.
Tạm dịch:Chưa biết ngày nào cùng tái ngộ
Để ân cần tay nắm chuyện hàn huyên
Cuối năm Thiệu Bảo thứ 4 (1282), vua Trần Nhân Tông thăng chức Trần Quang Khải làm Thượng tướng Thái sư, nắm cả quyền quân sự lẫn hành chính. Tuy vậy, trước tình hình áp lực nhà Nguyên gia tăng, cuối năm Thiệu Bảo thứ 5 (1283), triều đình tiến phong Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn làm Quốc công tiết chế, thống lĩnh quân đội toàn quốc. Như vậy, về thực quyền quân sự, Hưng Đạo Vương trở thành cấp trên của Chiêu Minh Đại vương.
Mối bất hòa giữa 2 chi họ cũng như bất hòa cá nhân giữa 2 người trở thành một hiểm họa sâu sắc. Nhận ra điều này, Hưng Đạo vương chủ động tìm cách giải hòa:
Chiến tranh Việt-Nguyên
Trận Nghệ An
Đầu năm 1285, quân Nguyên tràn sang tấn công Đại Việt với sức công kích rất mạnh. Thái sư Trần Quang Khải suýt tử thương khi thuyền của ông đang ngủ bị bốc cháy, may nhờ có vợ là Phụng Dương công chúa đánh thức, thoát được.
Tuy nhiên, dưới sự điều động tài tình của Hưng Đạo Vương, quân Đại Việt đã thực hiện các cuộc nghi binh, đưa quân Nguyên vào thế bị động. Năm Ất Dậu (1285), Toa Đô từ Chiêm Thành theo đường bộ kéo ra Nghệ An tấn công quân Nam, có Ô Mã Nhi dẫn quân đi đường biển tiếp ứng. Được tin, Trần Hưng Đạo tâu vua Trần Nhân Tông xin cho Thượng tướng Trần Quang Khải đưa binh vào đóng mặt Nghệ An, và cho Trần Bình Trọng giữ Thiên Trường, rồi rước xa giá ra Hải Dương.
Trần Quang Khải vào đến Nghệ An, chia quân phòng giữ. Thấy thế giặc quá mạnh, ông cho lui quân ra mặt biển và giữ các nơi hiểm yếu . Quân của Toa Đô đánh mãi không được, cạn lương, bèn cùng với Ô Mã Nhi dẫn quân xuống thuyền trở ra Bắc. Trần Quang Khải hay tin cho người về Thanh Hóa cấp báo. Vua Nhân Tông cho Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật cùng Trần Quốc Toản và Nguyễn Khoái đem 5 vạn quân ra đón đánh tại Hàm Tử Quan thuộc huyện Đông An, tỉnh Hưng Yên. Quân Nguyên thua to chết hại rất nhiều.
Trận Chương Dương độ
Lúc bấy giờ đại binh của Thoát Hoan đóng tại Thăng Long, còn chiến thuyền thì đóng ở bến Chương Dương, thuộc địa phận huyện Thượng Phúc. Trần Quang Khải được lệnh vua, cùng Trần Quốc Toản và Phạm Ngũ Lão đem quân từ Thanh Hóa đi thuyền vòng đường biển ra đến bến Chương Dương tấn công chiến thuyền của quân Nguyên. Quân Nguyên địch không nổi phải bỏ thuyền lên bờ chạy. Trần Quang Khải đem quân lên bờ đuổi đánh về đến chân thành Thăng Long, nhưng ông lập mưu cho phục binh đóng sẵn ngoài thành.
Thoát Hoan đem quân ra đánh, bị phục binh đánh úp, quân Nguyên đại bại phải bỏ thành Thăng Long vượt sông Hồng giữ mặt Kinh Bắc (Bắc Ninh ngày nay). Trần Quang Khải cho quân vào thành chiếm lại Thăng Long, và cho quân về Thanh Hóa báo tin. Trong vòng hai tháng, đại phá quân Nguyên hai lần tại Hàm Tử và Chương Dương, nên khí thế quân sĩ Đại Việt trở nên rất mạnh, sau đó thắng nhiều trận liên tiếp, giết các tướng Toa Đô, Lý Hằng, Lý Quán và đuổi được Thoát Hoan về Trung Quốc.
Ngày 6 tháng 6 âm lịch năm 1285, hai vua Trần ca khúc khải hoàn về kinh sư. Thái sư Trần Quang Khải làm thơ:
Vinh danh
Chính sử không chép rõ Trần Quang Khải tham gia trong Chiến tranh Nguyên Mông-Đại Việt lần 3 như thế nào. Sau chiến thắng này, triều đình luận công ban thưởng, Trần Quốc Tuấn có công lớn nhất, được phong tước Đại vương. Trần Quang Khải cũng được xếp công thần hạng nhất.
Đất nước hòa bình, Quang Khải tiếp tục ở ngôi Thái sư, cùng Thái úy Tá Thiên Đại vương Trần Đức Việp (con trai thứ của Trần Thánh Tông) cai quản việc nước.
Ngày 3 tháng 7 âm lịch năm Hưng Long thứ hai (tức 26 tháng 7 năm 1294) đời Trần Anh Tông, ông qua đời. Vợ ông là Phụng Dương công chúa đã mất trước đó 3 năm. Ông bà được chôn cất tại thái ấp của mình, được thờ làm Thành hoàng làng Cao Đài.
Sinh thời, Trần Thánh Tông có làm bài thơ ca ngợi công lao của ông:
Sách Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục do sử thần Đại Nam thời Nguyễn soạn cũng đánh giá về Trần Quang Khải:
Con ông là Văn Túc vương Trần Đạo Tái cũng rất có tài văn học, được Thượng hoàng Trần Nhân Tông ưu ái hơn các em thúc bá khác, nhưng đáng tiếc mất sớm.
Trần Quang Khải được người dân Việt Nam lập đền thờ ở một số nơi; như tại đình làng Phương Bông, ngoại thành thành phố Nam Định. Tại Phường Bông cũng lưu lại điệu múa "bài bông" được người dân ở đây cho là khởi xướng bởi Trần Quang Khải trong tiệc "Thái bình diên yến" do Trần Nhân Tông tổ chức sau khi chiến thắng quân Nguyên. Tại đền Thái Vi ở Hoa Lư, Ninh Bình ông cùng với Trần Hưng Đạo được đúc tượng phối thờ trong hậu cung cùng với các vị vua nhà Trần.
Vinh danh Trần Quang Khải, tên ông được đặt cho nhiều trường học và đường phố tại Việt Nam.
Gia quyến
Cha: Trần Thái Tông.
Mẹ: Thuận Thiên hoàng hậu.
Vợ: Phụng Dương công chúa
Thiếp: tự Chiêu Hàn (昭韩) quê Nghi Dương, Hà Nam
Con cái: Đều do Phụng Dương sinh.
Người con trai trưởng mất sớm. Phụng Dương công chúa vì xót con nên nhận Quan nội hầu Quốc công (không rõ là ai) làm con nuôi.
Văn Túc vương Trần Đạo Tái, lấy Bảo Tư công chúa là con của Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang.
Vũ Túc vương Trần Quang Đạo, lấy Bảo Châu công chúa, con gái thứ ba của Trần Thánh Tông.
Quỳnh Huy công chúa, con gái cả, húy Thụy Hữu, hai lần gả chồng đều không hòa hợp. Mất sớm.
Quỳnh Tư công chúa, húy Thụy Nhu, lấy Kiểm hiệu Thái úy Tá Thiên đại vương Trần Đức Việp, con trai thứ của Thánh Tông. Mất sớm.
Quỳnh Bảo công chúa, huý Thuỵ Ân, lấy Nhân Quốc vương (không rõ tên) là con trai trưởng của Tĩnh Quốc đại vương.
Quỳnh Thái công chúa, húy Thụy Tư, làm kế thất của Kiểm hiệu Thái úy Trần Đức Việp.
Cháu nội cháu ngoại có 13 người, đó là từ những người con dòng dõi đích xuất của Chiêu Minh vương Quang Khải. Trong đó Chân Từ công chúa, không rõ tên, lấy con trai của Phán thủ Thượng vị Vũ Ninh hầu, tên là Chiểu.
Tác phẩm
Trần Quang Khải, cũng như một số quý tộc đời Trần, là người học rộng và có viết văn, làm thơ. Ông viết Lạc đạo tập, và tác phẩm của ông nay còn lại một số bài thơ, liệt kê dưới đây:
Tụng giá hoàn kinh sư (hay "Phò giá về kinh")
Phúc hưng viên
Lưu gia độ
Dã thự
Xuân nhật hữu cảm
Xem thêm
Văn học đời Trần
Nhà Trần
Liên kết ngoài
Công chúa Phụng Dương và Thái ấp Độc Lập
Về Độc Lập chiêm ngưỡng Chiêu Minh đại vương và Phụng Dương công chúa
Chú thích
Đọc thêm
Phạm Văn Sơn, Việt sử toàn thư'' (bản điện tử)
Võ tướng nhà Trần
Quan lại nhà Trần
Hoàng tử nhà Trần
Nhà thơ Việt Nam thời Trần
Sinh năm 1241
Mất năm 1294
Tể tướng Việt Nam
Người tham gia lực lượng kháng chiến của Đại Việt chống quân Nguyên–Mông xâm lược
Vương tước nhà Trần
Thái úy Việt Nam
|
27108
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BB%99%20Long%20%C4%91%E1%BB%9Fm
|
Bộ Long đởm
|
Bộ Long đởm (danh pháp khoa học: Gentianales), tên gọi đã lỗi thời là bộ Hoa vặn (Contortae), là một bộ thực vật có hoa, bao gồm trong nó nhóm các loài có cùng một nguồn gốc đơn nhất của thực vật hai lá mầm có hoa cánh hợp, thuộc nhánh Cúc (Asterids). Các họ điển hình của các hệ thống phân loại gần đây được đưa ra ở bên phải. Các loài cây trong bộ khá đa dạng, lá thường mọc đối. Mạch gỗ với bản ngăn đơn. Hoa đều, tràng tiền khai hoa vặn, hoa thích nghi với lối thụ phấn nhờ sâu bọ.
Theo hệ thống phân loại Cronquist đã lỗi thời thì các họ như Saccifoliaceae, Retziaceae và họ Bông tai (Asclepiadaceae), nay là một phần của họ La bố ma, cũng được đưa vào đây. Cũng trong hệ thống này thì họ Thiến thảo (Rubiaceae) đã được đặt vào một bộ riêng còn họ Hoàng đằng (Gelsemiaceae) là một phần của họ Mã tiền (Loganiaceae).
Theo APG II bộ này chứa 5 họ, 1.118 chi và 16.637 loài và đã xuất hiện cách đây khoảng 89-83 triệu năm trước.
Phát sinh chủng loài
Struwe và ctv. (1995) cho rằng họ Loganiaceae, thậm chí ngay cả khi được định nghĩa hẹp, là cực kỳ cận ngành, với các nhánh bao gồm khoảng 1.300 chi và 15.500 loài (các họ Rubiaceae, Gentianaceae, Apocynaceae + Asclepiadaceae) xuất hiện từ trong họ này; chúng cũng phân định các họ một cách tương ứng. B. Bremer (1996), Potgeiter và ctv (2000), Backlund và ctv. (2000) lại cho rằng có mối quan hệ khác hẳn - họ Rubiaceae là chị em với Loganiaceae, Gentianaceae, Gelsemiaceae và Apocynaceae và quan hệ giữa 4 họ sau là không rõ ràng. M. Endress và ctv. (1996) lại tìm thấy mối quan hệ Gelsemiaciaceae [[Strychnaceae + Geniostomaceae - hỗ trợ tốt] Apocynaceae], và điều này cũng được hỗ trợ trong các phân tích của B. Bremer và Struwe (1992). Trong các phân tích khác, như trong cây phát sinh dưới đây, có sự hỗ trợ yếu cho mối quan hệ giữa Gelsemiaceae và Apocynaceae (Backlund et al. 2000; Jiao & Li 2007; B. Bremer 1999; Rova et al. 2002), trong khi Soltis et al. (2011: lấy mẫu) phát hiện một vài hỗ trợ cho cặp chị em [Gentianaceae + Apocynaceae].
Biểu đồ chỉ ra mối quan hệ phát sinh chủng loài của bộ Long đởm với các bộ khác trong nhánh Cúc như sau:
Biểu đồ chỉ ra mối quan hệ phát sinh chủng loài trong phạm vi bộ Long đởm như sau:
Phân loại
Apocynaceae (họ La bố ma): 415 chi, 4.555 loài.
Gelsemiaceae (họ Hoàng đằng): 2 chi, 11 loài.
Gentianaceae (họ Long đởm): 87 chi, khoảng 1.655 loài.
Loganiaceae (họ Mã tiền): 13 chi, 420 loài.
Rubiaceae (họ Thiến thảo): 611 chi, 13.150 loài.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Struwe L., V. A. Albert và B. Bremer 1994. Mô tả theo nhánh và sự phân loại theo họ của bộ Long đởm. Cladistics 10: 175–205.
Backlund Maria, Bengt Oxelman và Birgitta Bremer 2000. Quan hệ phát sinh loài trong Bộ Long đởm (Gentianales) dựa trên các chuỗi NDHF và RBCL, với dẫn chiếu cụ thể tới họ Mã tiền (Loganiaceae). American Journal of Botany''. 87:1029-1043. nội dung
|
27112
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%8D%20Ho%C3%A0ng%20%C4%91%E1%BA%B1ng
|
Họ Hoàng đằng
|
Họ Hoàng đằng hay họ Lá ngón (danh pháp khoa học: Gelsemiaceae) là một họ của thực vật có hoa hai lá mầm, thuộc về bộ Long đởm (Gentianales). Cho tới gần đây, họ này chỉ chứa 2 chi là: Gelsemium và Mostuea, nhưng gần đây chi Pteleocarpa với chỉ 1 loài (Pteleocarpa lamponga) đã được chuyển sang họ này.
Chi Gelsemium có 3 loài, một loài có nguồn gốc ở vùng Đông Nam Á và miền nam Trung Quốc là lá ngón và hai loài có nguồn gốc ở vùng đông nam Hoa Kỳ, México và Trung Mỹ.
Tám tới mười loài trong chi Mostuea có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới của Nam Mỹ, châu Phi và Madagascar.
Hai chi này trước đây được phân loại trong họ Mã tiền (Loganiaceae); họ Hoàng đằng chỉ được miêu tả kể từ năm 1994 và nó phân biệt với họ Mã tiền do không có nhựa mủ (latex) trong thân cây và lá kèm, cũng như các hoa dị nhụy với tràng hoa màu trắng hay vàng, các bầu nhụy thượng.
Năm 2014, một nghiên cứu phát sinh chủng loài phân tử về lamiids (tức Garryidae) đã dung giải Gelsemiaceae như là đơn vị phân loại chị-em với chi dị thường Pteleocarpa. Các tác giả của công trình nghiên cứu này cho rằng Gelsemiaceae nên được mở rộng để gộp cả Pteleocarpa. Mô tả sửa đổi cho họ Gelsemiaceae mở rộng đã được công bố năm 2014 để chứa thêm Pteleocarpa. Trong hệ thống APG IV công bố năm 2016, Pteleocarpa cũng được gộp trong Gelsemiaceae.
Phân loại
Chi Gelsemium (bao gồm cả Medicia):
Gelsemium elegans - lá ngón (hoàng đằng, đoạn trường thảo)
Gelsemium rankinii
Gelsemium sempervirens
Chi Mostuea (bao gồm cả Coinochlamys, Leptocladus): Khoảng 10 loài.
Mostuea adamii
Mostuea batesii
Mostuea brunonis
Mostuea hirsuta
Mostuea hymenocardioides
Mostuea microphylla
Mostuea muricata
Mostuea neurocarpa
Mostuea rubrinervis
Mostuea surinamensis
Chi Pteleocarpa:
Pteleocarpa lamponga
Tham khảo
Liên kết ngoài
Bản đồ phân bố danh sách các chi Gelsemiaceae Gentianales Trees APweb botanical databases About Science & Conservation Missouri Botanical Garden
|
27115
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C6%B0u%20gia%20%C4%91%E1%BB%99
|
Lưu gia độ
|
Lưu gia độ (劉家渡) là một bài thơ của Trần Quang Khải, được viết vào thời nhà Trần. Hiện còn một bản lưu truyền của Ngô Tất Tố. Bài thơ này đại ý tả cảnh khách qua bến đò Lưu gia, nhớ lại ngày xưa từng hộ tống xa giá vua có dừng quân nơi đây, nay non sông thái bình, trở lại chốn cũ đầu đã bạc, thấy hoa mai nở trắng xóa như tuyết bên bờ sông.
Nguyên bản Hán văn
劉家渡口樹參天
扈從東行昔白船
舊塔江亭秋水上
荒祠古塚石麟前
太平圖志幾千里
李代山河二百年
詩客重來頭髮白
梅花如雪照晴川
Phiên âm
Lưu Gia độ khẩu thụ tham thiên,
Hỗ tụng đông hành tích bạc thuyền.
Cựu tháp giang đình lưu thủy thượng,
Hoang tử cổ trũng thạch lân tiền.
Thái bình đồ chí kỷ thiên lý,
Lý đại quan hà nhị bách niên.
Thi khách trùng lai đầu phát bạch,
Mai hoa như tuyết chiếu tình xuyên
Chú thích
Việt Nam Văn Học: Văn Học Đời Trần (VHĐT), Ngô Tất Tố, Nhà xuất bản Đại Nam, Khai Trí, Sàigòn, 1960, trang 89. Bản điện tử truy cập tháng 1 năm 2006.
Tham khảo
Trần Quang Khải
Bài thơ Việt Nam
Thơ chữ Hán
|
27116
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ho%C3%A0ng%20S%C3%A0o
|
Hoàng Sào
|
Hoàng Sào (, 835 - 884) là người phát động Khởi Nghĩa Hoàng Sào, đồng thời cũng là thủ lĩnh của cuộc khởi nghĩa, diễn ra trong khoảng thời gian từ 874 đến 884, trong thời gian của cuộc khởi nghĩa Hoàng Sào xưng Hoàng Đế, thành lập chính quyền Đại Tề, khởi nghĩa Hoàng Sào tuy thất bại nhưng khiến nhà Đường suy yếu nghiêm trọng rồi sụp đổ trong khoảng 23 năm sau (năm 907).
Thân thế
Hoàng Sào là người Oan Cú, Tào châu. Gia đình ông buôn lậu muối trong nhiều thế hệ (do triều đình Đường giữ độc quyền muối từ sau loạn An Sử), nhờ đó mà trở nên hưng thịnh. Hoàng Sào được mô tả là có tài kiếm thuật, cưỡi ngựa, bắn cung, và ở một mức độ nhất định là văn chương, cũng là một người giỏi tranh luận. Hoàng Sào dùng tài sản của mình để chiêu mộ những con người tuyệt vọng đến phụng sự. Hoàng Sào có ít nhất một huynh là Hoàng Tồn (黃存), và ít nhất sáu đệ: Hoàng Nghiệp (黃鄴) hay Hoàng Tư Nghiệp (黃思鄴), Hoàng Quỹ (黃揆), Hoàng Khâm (黃欽), Hoàng Bỉnh (黃秉), Hoàng Vạn Thông (黃萬通), và Hoàng Tư Hậu (黃思厚). Hoàng Sào liên tục ứng thí trong các kỳ thi khoa cử, song không đỗ đạt, sau đó quyết tâm nổi dậy chống lại sự cai trị của nhà Đường.
Thủ lĩnh nổi dậy
Hợp binh với Vương Tiên Chi
Năm 874, Vương Tiên Chi và Thượng Quân Trường nổi dậy tại Trường Viên và đến năm 875 thì họ nhiều lần đánh bại Thiên Bình tiết độ sứ Tiết Sùng (薛崇). Hoàng Sào cũng nổi dậy với vài nghìn người và hợp binh với Vương Tiên Chi.
Năm 876, Vương Tiên Chi thông qua quan triều Đường là Vương Liêu (王鐐)- thân thích của tể tướng Vương Đạc, và Kì châu thứ sử Bùi Ác (裴偓) để đàm phán hòa bình với triều đình Trường An. Theo ý của Vương Đạc, Đường Hy Tông cử sứ giả đến tuyên bố sách phong Vương Tiên Chi làm quan. Tuy nhiên, Hoàng Sào lại không được phong chức gì, ông tức giận và nói:
Hoàng Sào đánh vào đầu Vương Tiên Chi, các binh sĩ nổi dậy cũng đồng thanh phản đối hòa giải. Vương Tiên Chi lo sợ trước cơn thịnh nộ của quân sĩ nên quay sang chống lại Bùi Ác và cướp phá Kì châu. Tuy nhiên, sau đó đội quân nổi dậy bị phân thành hai nhóm, một nhóm theo Vương Tiên Chi, và một nhóm đi theo Hoàng Sào.
Sau khi tách khỏi Vương Tiên Chi
Sau đó, Hoàng Sào tiến quân khắp vùng miền Trung của Trung Hoa, nhiều lần giao chiến với quân Đường:
Vào mùa xuân năm 877, Hoàng Sào công chiếm thủ phủ Vận châu của Thiên Bình quân, giết chết Tiết độ sứ Tiết Sùng, và sau đó công chiếm Nghi châu .
Vào mùa hè năm 877, Hoàng Sào hội quân với Thượng Nhượng tại Tra Nha Sơn. Hoàng Sào và Vương Tiên Chi sau đó lại hợp binh trong một thời gian ngắn và bao vây tướng Đường là Bình Lô (宋威) tại Tống châu. Tuy nhiên, một tướng Đường khác là Trương Tự Miễn (張自勉) sau đó đem quân tiến đến và đánh bại quân nổi dậy, họ phải bỏ bao vây Tống châu và phân tán.
Vào mùa đông năm 877, Hoàng Sào cướp phá Kì châu và Hoàng châu. Tuy nhiên, Hoàng Sào chiến bại trước tướng Đường là Tăng Nguyên Dụ (曾元裕), rồi chạy trốn. Hoàng Sào sau đó chiếm được Khuông Thành và Bộc châu.
Vào mùa xuân năm 878, khi Hoàng Sào đang bao vây Bạc châu, Vương Tiên Chi bị Tăng Nguyên Dụ tiêu diệt, Thượng Nhượng đem tàn dư đội quân của Vương Tiên Chi đến hợp binh với Hoàng Sào tại Bạc châu. Thượng Nhượng đề nghị Hoàng Sào xưng vương. Hoàng Sào lấy hiệu là Xung Thiên đại tướng quân, cải nguyên "Vương Bá", nhằm thể hiện sự độc lập với triều đình Đường. Sau đó, Hoàng Sào lại công chiếm Nghi châu và Bộc châu, song sau lại phải chịu một số thất bại trước quân Đường. Do đó, Hoàng Sào viết thư cho Thiên Bình tiết độ sứ mới được bổ nhiệm là Trương Tích (張裼), nhờ Trương Tích thượng biểu xin triều đình phong quan cho mình. Theo đề xuất của Trương Tích, Đường Hy Tông hạ chiếu bổ nhiệm Hoàng Sào là 'hữu vệ tướng quân', song lệnh cho Hoàng Sào đưa quân đến Vận châu giải giáp trước khi đến Trường An. Trước các điều kiện này, Hoàng Sào từ chối tuân chỉ, ông tiến công Tống châu và Biện châu, sau đó tiến công Vệ Nam, và kế tiếp là tiến công Diệp huyện và Dương Trạch. Đường Hy Tông do đó phái quân lính từ ba quân đến trấn thủ đông đô Lạc Dương, cũng lệnh cho Tăng Nguyên Dụ tiến đến Lạc Dương. Do quân Đường tập trung trấn thủ Lạc Dương, Hoàng Sào chuyển sang tiến về phương nam.
Hành quân về phương nam
Hoàng Sào vượt Trường Giang và chiếm được một số châu ở bờ nam: Kiền châu, Cát châu, Nhiêu châu, và Tín châu. Vào mùa thu năm 878, Hoàng Sào tiến về phía đông bắc và tiến công Tuyên châu, đánh bại Tuyên Thiệp quan sát sứ Vương Ngưng (王凝) tại Nam Lăng, song không thể chiếm được Tuyên châu. Do đó, Hoàng Sào tiếp tục tiến về đông nam và tiến công Chiết Đông, và sau đó, theo một tuyến đường vùng núi, ông tiến công Phúc Kiến vào mùa đông năm 878. Tuy nhiên, trong cuộc hành quân này, Hoàng Sào vài lần chiến bại trước các bộ tướng của Trấn Hải tiết độ sứ Cao Biền là Trương Lân (張璘) và Lương Toản (梁纘), một số bộ tướng của Hoàng Sào đầu hàng Trấn Hải quân. Hoàng Sào tiếp tục tiến xa hơn về phương nam, hướng đến vùng Lĩnh Nam.
Vương Đạc được Hoàng đế Đường phong là 'Nam diện hành doanh chiêu thảo đô thống' và Kinh Nam tiết độ sứ, Vương Đạc bổ nhiệm Lý Hệ (李係) là 'hành doanh phó đô thống', kiêm Hồ Nam quan sát sứ, ngăn chặn đường tiến về phương bắc của Hoàng Sào. Trong khi đó, Hoàng Sào viết thư cho Chiết Đông quan sát sứ Thôi Cầu (崔璆) và Lĩnh Nam Đông đạo tiết độ sứ Lý Điều (李迢), xin họ làm trung gian dàn xếp giúp ông, nói rằng sẽ chịu quy phục triều đình nếu được phong là Thiên Bình tiết độ sứ. Thôi Cầu và Lý Điều chuyển tiếp đề xuất của Hoàng Sào về Trường An, song Đường Hy Tông từ chối. Hoàng Sào sau đó trực tiếp thượng biểu cho Đường Hy Tông, đề nghị được bổ nhiệm là Lĩnh Nam Đông đạo tiết độ sứ. Tuy nhiên, do sự phản đối của tể tướng Vu Tông, Đường Hy Tông vẫn tiếp tục từ chối đề xuất của Hoàng Sào, chỉ đồng ý để Hoàng Sào làm 'phủ soái'. Hoàng Sào nhận được chiếu chỉ thì tức giận và xem đây là một hành động sỉ nhục. Vào mùa thu năm 879, Hoàng Sào tiến công Quảng châu- thủ phủ của Lĩnh Nam Đông đạo, chiếm được thành sau một ngày bao vây và bắt giữ Lý Điều. Hoàng Sào đề nghị Lý Điều một lần nữa thượng biểu cho Đường Hy Tông, song lần này Lý Điều từ chối và bị hành quyết.
Hành quân về bắc
Tuy nhiên, khi ở Lĩnh Nam, các binh sĩ của Hoàng Sào phải chịu cảnh đau ốm và khoảng 30-40% thiệt mạng. Khi các thuộc hạ chủ chốt đề xuất nên hành quân về lại phương bắc, Hoàng Sào chấp thuận. Hoàng Sào cho kết bè tại Quế châu và xuôi theo Tương Giang tiến đến Đàm châu- thủ phủ của Hồ Nam - vào mùa đông năm 879. Hoàng Sào chỉ mất một ngày để chiếm Đàm châu, Lý Hệ chạy trốn đến Lãng châu.
Bản thân Hoàng Sào đi bè theo Tương Giang và qua Giang Lăng để tiến công Tương Dương- thủ phủ của Sơn Nam Đông đạo. Tuy nhiên, Hoàng Sào chiến bại trước liên quân của Sơn Nam Đông đạo tiết độ sứ Lưu Cự Dung (劉巨容) và tướng triều đình là Tào Toàn Trinh (曹全晸), còn bị truy kích đến tận Giang Lăng. Tuy nhiên, Lưu Cự Dung lại lo ngại rằng nếu bắt Hoàng Sào thì ông ta sẽ không còn được triều đình xem trọng, vì thế ngừng lại việc truy kích, Tào Toàn Trinh cũng thôi không truy kích. Sau đó, Hoàng Sào tiến về phía đông và tiến công Ngạc châu, và cướp phá 15 châu xung quanh. Tuy nhiên, Hoàng Sào khi đó cũng bị Trương Lân đẩy lui nhiều lần. Do các chiến công của Trương Lân, triều đình Đường cho thượng cấp của Trương Lân là Cao Biền thay thế chức đô thống của Vương Đạc.
Quân của Hoàng Sào liên tiếp bại trận trước quân của Trương Lân, ngoài ra còn bị dịch bệnh, Hoàng Sào khi đó đang đóng trại tại Tín châu, ông quyết định hối lộ để thoát khỏi tình thế khó khăn. Ông gửi nhiều vàng cho Trương Lân và viết một lá thư cầu xin Cao Biền. Tuy nhiên, ngay sau khi Cao Biền triệu hồi các đội quân tăng viện, Hoàng Sào phá vỡ đàm phán và thách thức Trương Lân giao chiến. Cao Biền tức giận và lệnh cho Trương Lân tiến đánh, song lần này, vào mùa xuân năm 880, Hoàng Sào đánh bại dứt điểm và giết chết Trương Lân, khiến Cao Biền hoảng sợ.
Sau khi đánh bại Trương Lân, Hoàng Sào chiếm Tuyên châu, và đến mùa hè năm 880, Hoàng Sào vượt sang bờ bắc Trường Giang tại Thái Thạch, bao vây các tiền đồn phòng thủ của Hoài Nam là Thiên Trường và Lục Hợp, không xa đại bản doanh của Cao Biền tại Dương châu. Đường Hy Tông hạ chiếu chỉ cho các quân ở bờ nam Hoàng Hà phái quân đến Ân Thủy để ngăn Hoàng Sào tiến sâu hơn, và cũng khiển Cao Biền cùng Thái Ninh tiết độ sứ Tề Khắc Nhượng ngăn chặn Hoàng Sào. Tuy nhiên, Cao Biền không thể khiến đội quân 15 vạn lính của Hoàng Sào phải dừng lại. Sau đó do tranh chấp trong nội bộ hàng ngũ binh sĩ triều đình, quân sĩ của các quân đóng tại Ân Thủy phân tán, con đường của Hoàng Sào trở nên rộng mở. Hoàng Sào vượt sang bờ bắc Hoài Hà, và từ thời điểm này, quân của Hoàng Sào dừng hành vi cướp bóc của cải, song cưỡng ép nhiều tráng niên tòng quân để tăng cường lực lượng.
Chiếm Lạc Dương và Trường An
Bắt đầu vào mùa đông năm 880, Hoàng Sào tiến quân hướng đến Lạc Dương và Trường An, ông tuyên bố mục tiêu của mình là bắt Đường Hy Tông để hoàng đế phải chịu trách nhiệm cho tội ác của mình. Quân Hoàng Sào nhanh chóng chiếm được đông đô Lạc Dương của Đường.
Sau đó, Hoàng Sào tiến công Đồng Quan, Tề Khắc Nhượng và Trương Thừa Phạm kháng cự trong hơn một ngày, sau đó do quân của Tề Khắc Nhượng đói và mệt mỏi nên tan rã và chạy trốn, còn Tề Khắc Nhượng cố gắng trấn thủ song cũng thất bại, Đồng Quan thất thủ. Đường Hy Tông và Điền Lệnh Tư từ bỏ Trường An và chạy hướng đến Tây Xuyên vào ngày 8 tháng 1 năm 881. Cũng trong ngày hôm đó, tướng tiên phong Sài Tồn (柴存) của quân Hoàng Sào tiến vào Trường An, Kim Ngô đại tướng quân của Đường là Trương Trực Phương cùng một số quan văn võ nghênh tiếp Hoàng Sào vào thành. Thượng Nhượng tuyên bố với người dân Trường An rằng: "Hoàng Vương khởi binh là vì bách tính, không như họ Lý khi trước không yêu thương dân chúng, hãy an cư đừng sợ hãi". Tuy nhiên, mặc dù Thượng Nhượng đảm bảo rằng tài sản của dân chúng sẽ được tôn trọng, song quân lính của Hoàng Sào nhiều lần cướp bóc trong kinh thành. Trong một thời gian ngắn, Hoàng Sào sống trong phủ đệ của Điền Lệnh Tư, song vài ngày sau thì chuyển đến hoàng cung của vương triều Đường. Hoàng Sào cũng hạ lệnh đồ sát các thành viên hoàng tộc Đường.
Hoàng đế Đại Tề
Kiểm soát Quan Trung
Hoàng Sào chuyển vào sinh sống trong hoàng cung triều Đường và xưng đế vào ngày Nhâm Thìn (13) tháng 12 năm Canh Tý (tức 16 tháng 1 năm 881), đặt quốc hiệu là Đại Tề. Ông lập Tào thị làm hoàng hậu, bổ nhiệm các quan văn võ. Thoạt đầu, Hoàng Sào muốn duy trì cấu trúc triều đình Đường, ông cho các quan hàng tứ phẩm và thấp hơn được tiếp tục tại nhiệm miễn là họ thể hiện quy phục, chỉ loại bỏ các quan lại hàng tam phẩm trở lên. Các quan lại triều Đường không quy phục bị hành hình tập thể. Hoàng Sào cũng cố gắng thuyết phục các tướng Đường ở các quân quy phục ông, và có một số người chấp thuận như Gia Cát Sảng, Vương Kính Vũ, Vương Trọng Vinh, và Chu Ngập, song cuối cùng những người này lại quay về trung thành với Đường. Hoàng Sào cũng cố gắng thuyết phục Phượng Tường tiết độ sứ Trịnh Điền quy phục, song Trịnh Điền từ chối. Hoàng Sào sau đó khiển Thượng Nhượng và Vương Bá (王播) đi đánh chiếm Phượng Tường, song quân Đại Tề chiến bại vào mùa xuân năm 881.
Sau khi Trịnh Điền chiến thắng quân Đại Tề, một số tiết độ sứ trung thành với Đường hội quân gần Trường An vào mùa hè năm 881, hy vọng có thể nhanh chóng chiếm được thành. Do người dân Trường An cũng đang tiến hành kháng cự lại quân Đại Tề, Hoàng Sào buộc phải rút quân ra ngoài thành. Tuy nhiên, khi quân Đường tiến vào Trường An, họ đánh mất kỷ luật và tiến hành cướp bóc kinh thành. Quân Đại Tề sau đó phản công và đánh bại quân Đường tại Trường An. Hoàng Sào lại tiến vào Trường An, và do tức giận trước việc người dân Trường An hỗ trợ cho quân Đường, Hoàng Sào lệnh tiến hành đồ sát dân chúng.
Vào mùa xuân năm 882, Đường Hy Tông khi đó đang ở Thành Đô, bổ nhiệm Vương Đạc làm Chư đạo hành doanh đô thống, giám sát các chiến dịch chống Đại Tề. Sau đó, quân Đường bắt đầu tập hợp lại tại khu vực quanh Trường An, và khu vực do Đại Tề kiểm soát nay chỉ giới hạn tại Trường An và vùng gần đó, cùng với Đồng châu (同州) và Hoa châu (華州)- nay đều thuộc Vị Nam. Đến mùa thu năm 882, Đồng châu phòng ngự sứ Chu Ôn, đầu hàng. Vào mùa đông năm 882, Vương Ngộ (王遇) cũng dâng Hoa châu đầu hàng quân Đường, lãnh thổ Đại Tề nay chỉ còn giới hạn tại Trường An.
Đương thời, tướng người Sa Đà là Lý Khắc Dụng lại chuyển sang quy phục Đường và được đề nghị tiến công Tề, Lý Khắc Dung đến Đồng châu vào mùa đông năm 882 và hợp binh với các đội quân Đường khác. Vào mùa xuân năm 883, quân Đường đánh bại 15 vạn quân Đại Tề do Thượng Nhượng thống soái, sau đó tiếp cận Trường An. Vào mùa hè năm 883, Lý Khắc Dụng tiến vào Trường An, Hoàng Sào không thể kháng cự nổi nên từ bỏ Trường An và chạy trốn về phía đông. Do quân Đường lại tiến hành cướp phá kinh thành, họ không thể đuổi theo Hoàng Sào, Hoàng Sào chạy thoát mà không bị ngăn cản.
Hành quân về phía đông
Hoàng Sào tiến về Phụng Quốc và khiển bộ tướng Mạnh Khải tiến công Thái châu-thủ phủ của Phụng Quốc. Phụng Quốc tiết độ sứ Tần Tông Quyền chiến bại trước Mạnh Khải và phải mở cổng thành quy phục Hoàng Sào, hợp binh với quân Hoàng Sào. Sau khi đánh bại Tần Tông Quyền, Mạnh Khải tiến công Trần châu, song bị Trần châu thứ sử Triệu Thù phản kích và giết chết. Trước việc Mạnh Khải tử trận, Hoàng Sào dẫn quân của mình và Tần Tông Quyền đi bao vây Trần châu, song không thể chiếm được thành sau gần 300 ngày bao vây. Do quân lính cạn kiệt nguồn cung lương thực, Hoàng Sào cho phép họ đi đến các vùng thôn quê lân cận, bắt người để dùng làm quân lương.
Trong khi đó, vào mùa xuân năm 884, lo sợ sẽ thành mục tiêu kế tiếp của Hoàng Sào, Chu Ngập, Thì Phổ và Chu Ôn (cải thành Chu Toàn Trung), cùng xin Lý Khắc Dụng cứu viện, Lý Khắc Dụng do đó tiến quân về phía nam. Sau khi quân Lý Khắc Dụng hợp binh với quân của Chu Ngập, Thì Phổ, Chu Toàn Trung và Tề Khắc Nhượng, họ đánh bại Thượng Nhượng và Hoàng Tư Nghiệp. Hoàng Sào lo sợ, từ bỏ việc bao vây Trần châu và triệt thoái. Do doanh trại bị một trận lụt phá hủy, Hoàng Sào quyết định tiến về Biện châu- thủ phủ của Tuyên Vũ quân. Chu Toàn Trung đẩy lui được các đợt tiến công ban đầu của Hoàng Sào, song ông ta vẫn khẩn cấp cầu viện Lý Khắc Dụng. Lý Khắc Dụng cho rằng Hoàng Sào sẽ vượt sang bờ bắc Hoàng Hà, vì thế ông ta tiến công vào Vương Mãn Độ và tiêu diệt quân Hoàng Sào. Thượng Nhượng đầu hàng Thì Phổ, trong khi có một lượng lớn các tướng khác của Hoàng Sào cũng đầu hàng. Bị Lý Khắc Dụng truy kích, Hoàng Sào chạy về phía đông, song con trai út của Hoàng Sào bị Lý Khắc Dụng bắt được. Tuy nhiên, do quân lính trở nên kiệt sức, Lý Khắc Dụng ngừng truy kích Hoàng Sào và trở về Biện châu.
Hoàng Sào tiến đến Duyện châu- thủ phủ của Thái Ninh. Thuộc hạ của Thì Phổ là Lý Sư Duyệt (李師悅) cùng Thượng Nhượng giao chiến với Hoàng Sào tại Duyện châu, kết quả là quân Hoàng Sào chiến bại và bị tiêu diệt gần hết, bản thân Hoàng Sào chạy trốn đến Lang Hổ Cốc. Ngày Bính Ngọ (17) tháng 6 năm Giáp Thìn (tức 13 tháng 7 năm 884,) cháu của Hoàng Sào là Lâm Ngôn (林言) giết chết Hoàng Sào cùng huynh đệ và thê tử của ông, đem thủ cấp của họ đến trình Thì Phổ. Tuy nhiên, trên đường đến trại của Thì Phổ, Lâm Ngôn chạm trán với quân Sa Đà và Bác Dã, quân Sa Đà và Bác Dã giết chết Lâm Ngôn và đem các thủ cấp đến trình Thì Phổ (Tuy nhiên, theo mô tả trong Tân Đường thư, Hoàng Sào tự sát và chỉ thị cho Lâm Ngôn đem thủ cấp của mình đến đầu hàng, mục đích là để cứu sống các binh sĩ.)
Nhà thơ
Không chỉ có tài võ, Hoàng Sào còn là một nhà thơ.
Chú giải
Chú thích
Mất năm 884
Vua Trung Quốc
Nhân vật quân sự nhà Đường
Nhà thơ Trung Quốc thời Đường
Người Sơn Đông
Sinh năm 835
Sinh thế kỷ 9
Tướng lĩnh từ Sơn Đông
|
27120
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Vinh
|
Vinh
|
Vinh (永) là thành phố trực thuộc tỉnh Nghệ An, Việt Nam. Thành phố có vị trí ở phía Đông Nam của tỉnh bên cạnh sông Lam, và nằm trên trục giao thông Bắc Nam chính của Việt Nam, có thể dễ dàng tiếp cận bằng đường cao tốc, đường sắt, tàu thuyền và đường hàng không. Sân bay Quốc tế Vinh vừa được mở rộng được phục vụ bởi ba hãng hàng không: Vietnam Airlines, VietJet Air và Jetstar Pacific. Ngày 5 tháng 9 năm 2008, thành phố trở thành đô thị loại I thứ tư của Việt Nam sau Hải Phòng, Đà Nẵng và Huế. Thành phố tiếp giáp huyện Nghi Lộc về phía Bắc và phía Đông, huyện Hưng Nguyên về phía Tây, cũng như huyện Nghi Xuân của tỉnh Hà Tĩnh về phía Nam. Vinh nằm cách Hà Nội 300 km về phía Nam và cách Thành phố Hồ Chí Minh 1.400 km về phía Bắc. Thành phố có tổng diện tích 104,97 km2, bao gồm 16 phường và 9 xã.
Lịch sử
Tên gọi
Thành phố Vinh (chữ nôm: 城庯永) thuộc vùng Kẻ Vang hoặc tên gọi khác là Kẻ Vịnh thời xưa. Sau đó, lần lượt đổi thành Kẻ Vinh, Vinh Giang, Vinh Doanh, Vinh Thi. Cuối cùng, tên chính thức của thành phố được rút gọn lại thành một tiếng là Vinh và tồn tại mãi cho đến tận bây giờ. Chữ Vinh là gọi chệch của chữ Vịnh.
Cách đây hàng ngàn năm, người Việt cổ đã sinh sống trên vùng đất này khá đông đúc. Việc tìm thấy hai trống đồng thuộc thời đại Hùng Vương (cách đây 4.000 năm) dưới chân núi Quyết mà hiện nay đang lưu giữ tại Bảo tàng tổng hợp Nghệ An đã chứng minh điều đó.
Vinh Doanh là tên trấn thời nhà Lê, có thôn Vĩnh Yên và thôn Yên Vinh, nay là địa bàn thành phố Vinh. Thôn này sau là làng Vĩnh Yên, thuộc xã Yên Trường, tổng Yên Trường, huyện Chân Phúc, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An. Đến thời nhà Nguyễn, thuộc huyện Nghi Lộc. Nơi đây có chợ Vĩnh và làng Yên Vinh, còn gọi là làng Vang, là nơi có Tòa Công sứ Pháp được xây dựng năm 1897 ở ngoài thành Nghệ An, phía tây thành, cạnh sông Vĩnh Giang và chợ Vĩnh. Theo Đinh Xuân Vịnh, trong Sổ tay địa danh Việt Nam, thì vì Tòa Công sứ Pháp đóng ở thôn Yên Vinh, nên về sau tên gọi Vinh dần dần thay thế cho tên gọi cũ là Vĩnh (tiếng địa phương gọi là Vịnh).
Là vùng đất có núi bao bọc lại nằm cạnh biển Đông, Vinh có một vị trí đặc biệt. Các Vua Đinh, Lê, Lý, Trần đều chú ý đến Vinh và đã cử các tướng tài vào đây trấn giữ. Nhưng đến thế kỷ XV dưới thời Lê Lợi và Nguyễn Trãi thì vùng Vinh mới thực sự được quan tâm đặc biệt.
Thế kỷ XVII thời kỳ Trịnh – Nguyễn phân tranh, Ninh Quận Công Trịnh Toàn nhiều năm đã đóng đại bản doanh ở Núi Quyết. Huy động nhân dân và binh lính xây thành ông Ninh, đào kênh nối sông Cồn Mộc (tức sông Vinh) với sông Lam.
Ngày 1 tháng 10 năm 1788, Hoàng đế Quang Trung đã quyết định cho xây dựng đế đô tại vùng đất Yên Trường, nay thuộc phường Trung Đô - thành phố Vinh - Nghệ An và đặt tên là thành Phượng Hoàng Trung Đô. Và bằng việc xây dựng đơn vị hành chính: Phượng Hoàng - Trung Đô đã khẳng định vị thế của đất Yên Trường trong sự cân đối hài hòa với Đông Đô ở miền Bắc, Tây Đô ở miền Nam và trong chiến lược lâu dài của Hoàng đế Quang Trung là sẽ xây dựng Yên Trường thành kinh đô của đất Việt. Dù rằng, chưa được xây dựng hoàn tất do sự nghiệp nhà Tây Sơn quá ngắn ngủi, nhưng Phượng Hoàng Trung Đô là một dấu son chói lọi trên chặng đường phát triển của đô thị Vinh.
Từ đời vua Gia Long đến các đời vua Tự Đức, Thành Thái, Duy Tân, Khải Định vùng đất Yên Trường tiếp tục được coi trọng xây dựng. Dấu tích các cổng thành cổ Nghệ An đã là một minh chứng cho công cuộc xây dựng và phát triển vùng đất này.
Ngày 20 tháng 10 năm 1898, vua Thành Thái ra đạo dụ thành lập thị xã Vinh cùng với các thị xã Thanh Hóa, Huế, Fai-Fo (Hội An ngày nay), Quy Nhơn và Phan Thiết. Ngày 30 tháng 8 năm 1899, Toàn quyền Đông Dương chuẩn y đạo dụ này. Thị xã lúc đầu bao quanh thành Nghệ An, sau dần dần phát triển về phía Nam.
Ngày 10 tháng 12 năm 1927, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định hợp nhất thị xã Vinh, thị xã Bến Thủy (thành lập ngày 11 tháng 3 năm 1914) và thị xã Trường Thi (thành lập ngày 27 tháng 8 năm 1917) thành thành phố Vinh - Bến Thủy, do Công sứ Nghệ An kiêm chức đốc lý (tức thị trưởng).
Cuối những năm 20, đầu những năm 30 của thể kỷ trước, Vinh được biết đến như một đô thị với những nhà máy, xí nghiệp, bến cảng, hãng buôn, nhà băng... nổi tiếng của người Pháp, Hoa Kiều, Ấn Kiều... Vinh cũng là thành phố của thợ thuyền với hàng vạn công nhân. Đó cũng là cái nôi của phong trào yêu nước và cách mạng.
Khi Việt Nam độc lập năm 1945, Vinh trở thành thị xã tỉnh lị của tỉnh Nghệ An.
Ngày 28 tháng 12 năm 1961, Bộ Chính trị có Nghị quyết số 32 về việc thành lập thành phố Vinh.
Ngày 10 tháng 10 năm 1963, Hội đồng Chính phủ đã ra Quyết định số 148/CP thành lập thành phố Vinh, gồm 3 xã: Hưng Bình, Hưng Dũng, Hưng Thủy . Vinh lúc này được coi là một trong 5 thành phố công nghiệp lớn nhất miền Trung Việt Nam.
Trong những năm chiến tranh chống Mỹ, Vinh là một trong những thành phố miền Bắc bị không quân Mỹ ném bom tàn phá nặng nề nhất, toàn thành phố hầu như bị san phẳng. Tòa nhà Kareba Dreams (nay là khách sạn Vinh Downtown nằm ở đại lộ VI Lê Nin) bị máy bay B52 của không quân Mỹ phá tan tành.
Ngày 26 tháng 12 năm 1970, chuyển 4 xã: Hưng Hòa, Hưng Lộc, Hưng Đông, Hưng Vĩnh, một phần đất đai ở bờ bắc sông Cầu Đước thuộc xã Hưng Chính (thành lập 2 xã Vinh Hưng và Vinh Tân) thuộc huyện Hưng Nguyên và xã Nghi Phú thuộc huyện Nghi Lộc về thành phố Vinh quản lý.
Ngày 1 tháng 5 năm 1974, Phó Thủ tướng Đỗ Mười (sau trở thành Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam) đã đặt viên gạch đầu tiên xây dựng lại thành phố. Thành phố được xây dựng lại theo kiểu thiết kế đô thị của Đông Đức và Liên Xô như các đại lộ lớn, rộng và các dãy nhà chung cư. Qua hơn 30 năm xây dựng và phát triển, đặc biệt là 20 năm đổi mới vừa qua, Vinh đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Cơ sở hạ tầng được xây dựng vững chắc, hệ thống giao thông phát triển. Nhiều công trình kinh tế, kỹ thuật, văn hoá lớn được xây dựng, nhiều khu đô thị mới đã mọc lên. Kinh tế phát triển ổn định, thường xuyên giữ mức tăng trưởng cao. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân không ngừng đợc cải thiện, nâng cao.
Từ năm 1975, Vinh là tỉnh lị tỉnh Nghệ Tĩnh, gồm 5 phường: Hồng Sơn, Lê Mao, Quang Trung I, Quang Trung II, Trung Đô và 10 xã: Hưng Bình, Hưng Đông, Hưng Dũng, Hưng Hòa, Hưng Lộc, Hưng Thủy, Hưng Vĩnh, Nghi Phú, Vinh Hưng, Vinh Tân.
Ngày 2 tháng 3 năm 1979, giải thể 3 xã Hưng Bình, Hưng Thủy, Vinh Hưng để thành lập 9 phường: Cửa Bắc, Tân Vinh, Hưng Bình, Lê Lợi, Cầu Cảng, Bến Thủy, Trường Thi, Đội Cung, Cửa Nam; hợp nhất 2 xã Hưng Vĩnh và Hưng Đông thành xã Đông Vĩnh; sáp nhập xóm Yên Giang của xã Vinh Hưng và xóm Vĩnh Mỹ của xã Hưng Vĩnh vào xã Vinh Tân theo điều chỉnh quy hoạch thành phố Vinh.
Ngày 18 tháng 8 năm 1982, hợp nhất phường Quang Trung I vào phường Quang Trung II thành phường Quang Trung; sáp nhập phường Tân Vinh vào phường Lê Mao; tách phường Hưng Bình thành 2 phường: Hưng Bình và Hà Huy Tập.
Từ năm 1991, trở lại là tỉnh lị tỉnh Nghệ An.
Ngày 28 tháng 6 năm 1994, chia xã Đông Vĩnh thành phường Đông Vĩnh và xã Hưng Đông.
Ngày 13 tháng 8 năm 1993, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định công nhận thành phố Vinh là đô thị loại II.
Ngày 23 tháng 8 năm 1994, sáp nhập phường Cửa Bắc vào phường Cửa Nam; sáp nhập phường Cầu Cảng vào phường Bến Thủy; chuyển xã Hưng Dũng thành phường Hưng Dũng.
Ngày 23 tháng 3 năm 2005, thành lập phường Hưng Phúc trên cơ sở 58,17 ha diện tích tự nhiên và 7.932 nhân khẩu của phường Hưng Bình, 55,73 ha diện tích tự nhiên và 1.535 nhân khẩu của phường Hưng Dũng; thành lập phường Quán Bàu trên cơ sở 111,20 ha diện tích tự nhiên và 5.300 nhân khẩu của phường Lê Lợi, 120,20 ha diện tích tự nhiên và 3.370 nhân khẩu của xã Hưng Đông.
Ngày 17 tháng 4 năm 2008, thành phố Vinh được mở rộng thêm trên cơ sở sáp nhập 4 xã: Nghi Kim, Nghi Đức, Nghi Liên, Nghi Ân thuộc huyện Nghi Lộc và xã Hưng Chính; 174 ha diện tích tự nhiên và 3.043 nhân khẩu của xã Hưng Thịnh thuộc huyện Hưng Nguyên; chuyển xã Vinh Tân thành phường Vinh Tân.
Ngày 5 tháng 9 năm 2008, tại Quyết định số 1210/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ đã công nhận Vinh là đô thị loại I trực thuộc tỉnh Nghệ An .
Địa lý
Vị trí địa lý
Thành phố Vinh nằm ở phía đông nam của tỉnh Nghệ An, nằm cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 295 km về phía bắc, cách trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 1424 km về phía nam, có vị trí địa lý:
Phía đông và phía nam giáp huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh
Phía tây giáp huyện Hưng Nguyên
Phía bắc giáp huyện Nghi Lộc.
Thành phố Vinh là trung tâm kinh tế, chính trị của tỉnh và đã được Chính phủ quy hoạch để trở thành trung tâm kinh tế - văn hóa của vùng Bắc Trung Bộ.
Thành phố có vị trí ở phía Đông Nam của tỉnh bên cạnh sông Lam, và nằm trên trục giao thông Bắc Nam chính của Việt Nam, có thể dễ dàng tiếp cận bằng đường cao tốc, đường sắt, tàu thuyền và đường hàng không. Sân bay Quốc tế Vinh vừa được mở rộng được phục vụ bởi ba hãng hàng không: Vietnam Airlines, VietJet Air và Jetstar Pacific. Ngày 5 tháng 9 năm 2008, thành phố trở thành đô thị loại I thứ tư của Việt Nam sau Hải Phòng, Đà Nẵng và Huế. Thành phố tiếp giáp huyện Nghi Lộc về phía Bắc và phía Đông, huyện Hưng Nguyên về phía Tây và Tây Bắc, cũng như huyện Nghi Xuân và tỉnh Hà Tĩnh về phía Nam. Vinh nằm cách Hà Nội 300 km về phía Nam và cách Thành phố Hồ Chí Minh 1.400 km về phía Bắc. Thành phố có tổng diện tích là 104,97 km², bao gồm 16 phường và 9 xã.
Diện tích & Dân số
Theo thống kê năm 2019, thành phố Vinh có diện tích 105 km², dân số là 339.114 người, mật độ dân số đạt 3.230 người/km². Dân số thành thị là 230.439 người chiếm 68% và dân số nông thôn là 108.675 người chiếm 32%.
Địa hình
Địa hình thành phố Vinh được kiến tạo bởi hai nguồn phù sa, đó là phù sa sông Lam và phù sa của biển Đông. Sau này sông Lam đổ dòng chảy về mạn núi Rú Rum thuộc dãy Trường Sơn thì miền đất này còn nhiều chỗ trũng và được phù sa bồi lấp dần. Địa hình bằng phẳng và cao ráo nhưng không đơn điệu, có núi Dũng Quyết hùng vĩ và dòng sông Lam thơ mộng bao quanh, tạo nên cảnh quan thiên nhiên của thành phố rất hài hòa và khoáng đạt.
Khí hậu
Thành phố Vinh nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có 2 mùa rõ rệt và có sự biến động lớn từ mùa này sang mùa khác.
Nhiệt độ trung bình 24,3 °C, nhiệt độ có thể lên mức tuyệt đối 42.1 °C vào mùa hè,và thấp tuyệt đối 7 °C vào mùa đông. Độ ẩm trung bình 85–90%. Số giờ nắng trung bình 1.696 giờ. Năng lượng bức xạ dồi dào, trung bình 12 tỷ Keal/ha năm, lượng mưa trung bình hàng năm 2.000mm thích hợp cho các loại cây trồng phát triển.
Hành chính
Thành phố Vinh được chia thành 25 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 16 phường: Bến Thủy, Cửa Nam, Đội Cung, Đông Vĩnh, Hà Huy Tập, Hồng Sơn, Hưng Bình, Hưng Dũng, Hưng Phúc, Lê Lợi, Lê Mao, Quán Bàu, Quang Trung, Trung Đô, Trường Thi, Vinh Tân và 9 xã: Hưng Chính, Hưng Đông, Hưng Hòa, Hưng Lộc, Nghi Ân, Nghi Đức, Nghi Kim, Nghi Liên, Nghi Phú.
Kinh tế
Thành phố Vinh nằm giữa hai khu kinh tế lớn là Nghi Sơn (Thanh Hóa) và Vũng Áng (Hà Tĩnh), bên cạnh thành phố là khu kinh tế Đông Nam (Nghệ An).
Năm 2018, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 9,12%, thu nhập bình quân đầu người đạt 3.696 USD, tương đương hơn 85 triệu đồng, thu ngân sách đạt 2.800 tỷ đồng.
Vinh cũng được biết đến là một thành phố trẻ năng động, có nhiều tòa nhà cao tầng. Hiện có rất nhiều dự án phát triển đô thị tại đây. Trong tương lai không xa, Vinh sẽ là một thành phố hiện đại xứng tầm là đô thị trung tâm vùng Bắc Trung Bộ.
Năm 2010, cơ cấu kinh tế:
Công nghiệp chiếm tỷ lệ 38,5%
Dịch vụ chiếm 60%
Nông nghiệp chiếm 1,5%.
Công nghiệp
Là đô thị hạt nhân có tác động lan tỏa mạnh mẽ đến tốc độ công nghiệp hoá của tỉnh Nghệ An, trong nhiều năm qua cơ cấu kinh tế thành phố Vinh chuyển dịch tích cực và đúng hướng, trong đó tốc độ phát triển công nghiệp khá nhanh tập trung chủ yếu là công nghiệp sạch. Tạo tiền đề phát triển nhiều ngành công nghiệp chế biến thực phẩm - đồ uống, chế biến thủy hải sản, dệt may, vật liệu xây dựng, cơ khí, sản xuất đồ thủ công mỹ nghệ, chế tác đá mỹ nghệ, đá trang trí, sản xuất bao bì, nhựa, giấy,...
Hiện nay, trên địa bàn thành phố Vinh có 7 khu công nghiệp và một số cụm công nghiệp:
KCN Nam Cấm, VSIP, WHA, HOÀNG MAI 1, Bắc Vinh
CCN Nghi Phú, Hưng Đông, Hưng Lộc, Nghi Thạch, khu công nghệ cao, dệt may - khai thác cảng Bến Thủy, sản xuất Vật liệu xây dựng Trung Đô.
Thương mại – Dịch vụ
Các ngành dịch vụ như thương mại, tài chính – ngân hàng, du lịch, khách sạn cũng phát triển nhanh chóng và ổn định. Với hệ thống ngân hàng, các công trình chợ đầu mối bán buôn bán lẻ, siêu thị, hệ thống khách sạn đa cấp, đầu mối các tour du lịch của tỉnh và vùng Bắc Trung Bộ, tạo cơ sở để trở thành trung tâm tài chính, thương mại, dịch vụ và du lịch của khu vực Bắc miền Trung. Từ năm 2003 - 2008, tỷ trọng dịch vụ đạt gần 60% GDP của thành phố và so với tính quy luật chung thì tỷ trọng dịch vụ trên thể hiện sự tiến bộ trong cơ cấu kinh tế của thành phố Vinh ngày càng rõ nét.
Trung tâm Thương mại
Hiện nay, ở Vinh có các chợ lớn là Chợ Vinh, Chợ Ga Vinh, Chợ Quán Lau. Thành phố đang triển khai dự án xây dựng khu phố thương mại Vinh trên trục đường ven Sông Lam, đoạn Vinh - Cửa Lò. Tại đây đang xây dựng các trung tâm thương mại lớn gắn với hệ thống siêu thị cao trên 30 tầng, ngoài ra còn có tổ hợp các khách sạn cao cấp, khu văn phòng cao trên 20 tầng tạo thành một khu thương mại du lịch lý tưởng mang tầm khu vực, một hệ thống đô thị thương mại ven sông.
Các Khu phố chuyên doanh
Đường Nguyễn Thị Minh Khai chuyên doanh các mặt hàng điện thoại di động, thiết bị viễn thông, công nghệ thông tin,...
Đường Phan Đình Phùng, Phạm Hồng Thái chuyên kinh doanh các mặt hàng vật liệu xây dựng.
Đường Trần Phú chuyên kinh doanh các mặt hàng trang trí, nội ngoại thất.
Đường Cao Thắng chuyên kinh doanh vàng bạc, đá quý và trao đổi ngoại tệ.
Đường Đặng Thái Thân, Lê Hồng Phong chuyên kinh doanh mỹ phẩm, quần áo thời trang.
Đường Quang Trung chuyên doanh các mặt hàng xe gắn máy, điện tử, điện lạnh,...
Đường Đào Tấn, Nguyễn Văn Cừ, Hồ Xuân Hương chuyên kinh doanh hàng ẩm thực ăn uống, giải khát.
Đường Phan Bội Châu chuyên kinh doanh phụ tùng xe ô tô, sửa chữa ô tô,...
Tài chính - Ngân hàng
Hệ thống Ngân hàng: ngoài Ngân hàng Thương mại Cổ phần Bắc Á có hội sở chính ở Vinh - ngân hàng duy nhất của khu vực Miền Trung - Tây Nguyên, hầu hết các Ngân hàng của Việt Nam với gần 40 Ngân hàng thương mại nhà nước, thương mại cổ phần với hàng trăm Phòng giao dịch có mặt tại thành phố Vinh. Các Ngân hàng lớn trong hệ thống Ngân hàng Quốc doanh như Vietcombank, Vietinbank, BIDV, Ngân hàng nông nghiệp đều có 2 chi nhánh cấp 1 tại thành phố gồm Vietcombank Vinh, Vietcombank Trung Đô, Vietinbank Nghệ An, Vietinbank Bến Thủy, BIDV Nghệ An, BIDV Thành Vinh, NHNN Nghệ An, Nam Nghệ An.
Các công ty Chứng khoán: Công ty Chứng khoán Việt, Ngân hàng Nông nghiệp Nghệ An, Sara Group, VVS An Phú, FPTS,...
Các công ty Tài chính: Công ty Kiều hối Ngân hàng Đông Á, Tiết kiệm Bưu điện Nghệ An, Tài chính Dầu khí Nghệ An, Vàng bạc Đá quý PNJ, Ngân hàng Nông nghiệp Bắc miền Trung,...
Hạ tầng
Hiện nay, trên địa bàn thành phố Vinh đã và đang hình thành một số khu đô thị mới như: Vinh Tân, Nghi Phú, Đại Thành - Nghi Kim, Đường 72m Vinh, Tây Đại lộ VI Lenin,...
An ninh - Quốc phòng
Bộ Tư lệnh Quân khu 4 đặt tại thành phố Vinh có nhiệm vụ chỉ huy, quản lý và tổ chức xây dựng quân đội chiến đấu, bảo vệ vùng Bắc Trung Bộ Việt Nam. Quân khu 4 có địa bàn rộng, bao gồm 6 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế. Địa bàn Quân khu 4 có vị trí hết sức quan trọng. Từ xa xưa đây đã từng là chốn biên thùy, là phên dậu, là nơi xuất phát của nhiều cuộc khởi nghĩa và chiến tranh giữ nước của dân tộc. Qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, mảnh đất Khu 4 vừa là tiền tuyến, vừa là hậu phương vững chắc. Quân và dân Khu 4 vừa hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc gia, vừa làm tròn nghĩa vụ quốc tế với cách mạng Lào, Cam-pu-chia.
Xã hội
Giáo dục
Thành phố Vinh là trung tâm giáo dục & đào tạo lớn thứ ba của khu vực miền Trung – Tây Nguyên sau thành phố Đà Nẵng và tỉnh Thừa Thiên Huế. Hiện nay trên địa bàn thành phố có 6 trường đại học, 13 trường cao đẳng và nhiều phân hiệu, cùng nhiều trường trung học chuyên nghiệp, trung tâm dạy nghề và hàng trăm trường học từ bậc học phổ thông tới ngành học mầm non.
Trường Phổ thông
Tại địa bàn, có nhiều trường trung học khác nhau phục vụ nhu cầu học tập của học sinh, một số trường lớn, tiêu biểu như:
Trường THPT Chuyên Phan Bội Châu
Trường THPT Chuyên Đại học Vinh
Trường THPT Huỳnh Thúc Kháng (Vinh 1)
Trường THPT Hà Huy Tập (Vinh 2)
Trường THPT Lê Viết Thuật (Vinh 3).
Trường Cao đẳng
Trường Cao đẳng Kỹ thuật Công nghiệp Việt Nam-Hàn Quốc
Trường Cao đẳng Sư phạm Nghệ An
Trường Cao đẳng Văn hóa - Nghệ thuật Nghệ An
Trường Cao đẳng Du lịch và Thương mại Nghệ An
Trường Cao đẳng Giao thông vận tải Miền Trung
Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật số 1
Trường Cao đẳng Hoan Châu
Trường Cao đẳng Việt - Anh
Trường Cao đẳng Nghề Kỹ thuật Việt - Đức
Trường Cao đẳng Nghề số 4 - Bộ Quốc phòng
Trường Cao đẳng Nghề công nghiệp LILAMA 2
Trường Cao đẳng Nghề Kinh tế - Kỹ thuật Vinatex (cơ sở Vinh)
Trường Cao đẳng Nghề Dầu khí (Phân hiệu tại TP. Vinh)
Trường Cao đẳng Kinh tế Kĩ thuật Thái Nguyên (phân hiệu tại TP. Vinh)
Trường Cao đẳng Bách Nghệ Hải Phòng (Phân hiệu tại TP. Vinh)
Trường Cao đẳng công nghiệp Huế (cơ sở Vinh).
Đại học
Xem thêm Danh sách trường đại học, cao đẳng và trung cấp tại Nghệ An
Trường Đại học Vinh (1959) - Trường Đại học trọng điểm quốc gia Việt Nam
Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vinh (2006)
Trường Đại học Công nghệ Vạn Xuân (2008)
Trường Đại học Y khoa Vinh (2010)
Trường Đại học Công nghiệp Vinh (2013)
Trường Đại học Kinh tế Nghệ An (2014)
Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh, cơ sở Nghệ An (2008)
Trường Đại học Điện lực, cơ sở Miền Trung.
Tổng số sinh viên các trường Đại học, Cao đẳng, Trung Cấp: gần 100 ngàn người (năm 2011).
Sắp tới trên địa bàn thành phố Vinh sẽ có thêm các trường Đại học cấp khu vực được thành lập, nâng cấp như:
Trường Đại học Nghệ An
Trường Đại học Văn hóa, Nghệ thuật và Du lịch Vinh
Đại học Kỹ thuật Công nghiệp Việt - Hàn
Học viện Kiểm toán Việt Nam
Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Vinh
Phân hiệu 2 - Trường Đại học Xây dựng Hà Nội,...
Y tế
Trên địa bàn thành phố hiện có khoảng 24 bệnh viện đa khoa và chuyên khoa, cùng nhiều trung tâm y tế, phòng khám đa khoa khác.
Hệ thống bệnh viện tại thành phố hiện nay:
Trung tâm và Viện nghiên cứu khu vực
Tại thành phố Vinh tập trung nhiều cơ quan cấp vùng về chính trị; An ninh - Quốc phòng; Kinh tế; Văn hóa - Xã hội, Giáo dục; Y tế,....
Một số cơ quan:
Bộ Tư lệnh Quân khu 4
Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Bắc Trung Bộ
Viện Quy hoạch Kiến trúc Bắc Trung Bộ
Viện nghiên cứu Văn hóa và Ngôn ngữ Bắc Trung Bộ
Viện Ngôn ngữ Quốc tế Vạn Xuân
Phân viện Điều tra Quy hoạch rừng Bắc Trung Bộ
Phân Viện nghiên cứu và nuôi trồng thủy sản Bắc Trung Bộ
Đài Khí tượng Thủy văn khu vực Bắc Trung Bộ
Trung tâm Khí tượng Thủy văn Bắc Trung Bộ
Trung tâm Phát hành sách Bắc miền Trung
Kiểm toán Nhà nước khu vực II, chịu trách nhiệm kiểm toán khu vực Bắc Trung Bộ
Trung tâm Tần số Vô tuyến điện Khu vực 6
Công viên phần mềm VTC
Liên đoàn Địa chất Bắc Trung Bộ
Khu Quản lý đường bộ 4
Ban quản lý dự án 4 - Bộ Giao thông
Ban quản lý dự án 85 (PMU 85)- Bộ Giao thông
Ban Quản lý Đầu tư và Xây dựng Thủy lợi 4 - Bộ Nông nghiệp - PTNT
Ban quản lý các dự án Thủy điện BTB - Bộ Công thương
Ban quản lý các dự án Nhiệt điện điện BTB - Bộ Công thương
Trung tâm điều hành sản xuất các nhà máy điện BTB - Bộ Công thương
Công ty hoa tiêu hàng hải khu vực VI - Bộ giao thông vận tải
Trung tâm thú y vùng 3
Trung tâm bảo vệ thực vật vùng Khu IV
Đoàn Tài nguyên nước Bắc Trung Bộ
Chi cục bảo vệ thực vật vùng khu IV
Xí nghiệp đảm bảo an toàn hàng hải khu vực Bắc Trung Bộ
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam khu vực Bắc Trung Bộ
Văn hóa - Du lịch
Văn hóa
Quảng trường và Tượng đài Hồ Chí Minh
Công trình Quảng trường và Tượng đài Hồ Chí Minh nằm trên địa bàn phường Trường Thi, phía Bắc giáp đường Hồ Tùng Mậu, phía Đông giáp đường Trường Thi, phía Nam giáp đường Trần Phú (QL IA). Được khởi công xây dựng vào năm 2000, khánh thành vào 19 tháng 5 năm 2003 đúng dịp kỷ niệm 113 năm ngày sinh nhật của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Quần thể quảng trường và tượng đài rộng 11ha, gồm nhiều hạng mục như: lễ đài, cột cờ, đường diễu hành, sân hành lễ, hệ thống điện chiếu sáng, thảm cỏ, cây xanh, hệ thống đài phun nước tạo cảnh, núi Chung mô phỏng theo núi Chung ở Làng Sen quê của Người. Trên 1.650 loài cây tiêu biểu của mọi miền đất nước Việt Nam đã được đem về trồng, trên đỉnh có vườn cây lưu niệm của các lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước và nhiều nhân vật quốc tế trồng trong những dịp đến viếng thăm.
Tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ở vị trí trang trọng ở phía Tây-Nam của Quảng trường. Tượng cao 18m, làm bằng chất liệu đá granít Bình Định.
Quảng trường Hồ Chí Minh không chỉ là một trong những biểu tượng văn hóa của nhân dân Nghệ An, mà còn là địa chỉ quan trọng của du khách trong và ngoài nước trên con đường di sản miền Trung.
Phượng Hoàng Trung Đô
Phượng Hoàng Trung Đô là kinh thành do vua Quang Trung (tức Nguyễn Huệ, 1752-1792) xây dựng bên dòng sông Lam và núi Dũng Quyết, nay thuộc thành phố Vinh - tỉnh Nghệ An. Thành được xây vào năm 1788. Tại đây vua Quang Trung đã tập trung 10 vạn quân trước khi tiến ra Bắc để giành lại thành Thăng Long lúc bấy giờ đang bị quân Thanh xâm chiếm. Ngôi thành này dự định được xây dựng để thay thế kinh đô Phú Xuân, được đặt tên theo ý nghĩa chim Phượng Hoàng, một loài chim có ở trong truyền thuyết. Trung Đô còn có ý nghĩa là kinh đô nằm giữa vùng lãnh thổ do vua
Quang Trung kiểm soát.
Thành cổ Nghệ An
Năm 1803, vua Gia Long ra Bắc, chọn làng Vĩnh Yên nằm phía Tây bắc Dũng Quyết (khu vực thành cổ bây giờ) xây trấn sở. Năm 1884 chính thức dời trấn từ Dũng Quyết về Vĩnh Yên, cho xây thành Nghệ An bằng đất. Mãi đến năm 1831 vua Minh Mạng mới cho xây lại thành bằng đá ong theo kiểu Vauban. Thành có 6 cạnh, chu vi dài 603 trượng (2.412 m), cao 1 trượng, 1 tấc, 5 thước (4,42 m), diện tích: 420.000 m², bao xung quanh có hào rộng 7 trượng (28 m), sâu 8 thước ta (3,20 m). Lúc khởi công, triều đình nhà Nguyễn đã huy động 1000 lính Thanh Hoá, 4000 lính Nghệ An. Đến thời Tự Đức, khi nâng cấp phải lấy 8599 phiến đá sò từ Diễn Châu và đá ong từ Nam Đàn, 4.848 cân vôi, 155 cân mật mía, với tổng kinh phí là 3.688 quan tiền.
Thành cổ có 3 cửa ra vào. Cửa tiền là cửa chính hướng về phía Nam, cửa để vua ngự giá, các quan trong lục bộ triều đình và tổng đốc ra vào. Cửa Tả hướng về phía đông, Cửa hữu hướng về phía Tây. Muốn đi qua các cửa đều phải qua một cái cầu. Bên trong, công trình lớn nhất là hành cung, phía đông hành cung có dinh thống đốc, phía nam có dinh bố chánh và án sát, dinh lãnh binh, dinh đốc học, phía bắc có trại lính và nhà ngục. Sau này phía tây có nhà giám binh người Pháp. Toàn bộ được trang bị 65 khẩu thần công, 47 khẩu đặt ở các vọng gác, số còn lại tập trung ở hành cung và dinh thống đốc.
Trải qua nhiều biến cố của lịch sử và sự phá hoại của chiến tranh, di tích thành cổ hầu như không còn lại gì, chỉ còn lại 3 cổng thành và khu hồ bao quanh. Tỉnh Nghệ An và Thành phố Vinh đã có quy hoạch khôi phục lại di tích và cải tạo thành một công viên văn hoá lớn của thành phố.
Văn Miếu Vinh
Văn Miếu Vinh được xây dựng vào năm 1803 dưới triều vua Gia Long, là một công trình tiêu biểu của đạo học xứ Nghệ. Theo sách Đại Nam nhất thống chí ghi về Văn miếu Vinh như sau: Văn miếu Vinh ở địa phận xã Yên Dũng, phía đông tỉnh thành, phía tây là đền Khải Thánh. Có diện tích rộng, bằng phẳng, tới 22.000m2. Với vị trí lấy đường tiếp nối đường thiên lý Bắc Nam mà tổ tiên vạch mở từ ngàn xưa làm chỗ đứng thì ta thấy bên phải là Võ Miếu (tức đền Hồng Sơn), bên trái là Văn Miếu: Văn tả, Võ hữu, cùng với Cửa Tiền nhìn ra bến sông Vĩnh và hướng về Nam, phía xa trước mặt là Lam Thành - lỵ sở cũ của trấn Nghệ An, như thế là cân đối cả về vị trí thờ tự và thuận cả về thuật phong thủy. Văn miếu Vinh được bố trí có 3 cửa tam quan đều hướng về phía Nam (phía kinh đô triều Nguyễn). Trên cửa chính môn có tầng lầu đề bốn chữ " Vạn thánh linh từ". Hai bên cửa có đôi câu đối ánh màu sơn son thiếp vàng, toát lên niềm tự hào của dân Nghệ về đạo học: " Nhật nguyệt trung thiên minh thánh đạo. Giang sơn đại địa tích Nhân văn"- (Đạo thánh sáng ngời như mặt trời, Mặt Trăng trong vũ trụ, Nhân văn được bồi tụ là do ở sông núi nơi đất này). Phía trên là hạ điện. Giữa là thương điện. Hai bên có nhà tả vu với hữu vu. Sân lộ thiên ở giữa bốn ngôi nhà thâm nghiêm, tĩnh mịch. Xung quanh là hồ cá, giếng thiên tĩnh, vườn cây cảnh và rừng cây.
Hiện nay, Văn miếu Vinh chỉ còn là phế tích, nền cũ đã được Công ty In Nghệ An trưng dụng và nhiều nhà dân lấn chiếm, sử dụng. Các đồ tế khí, bia đá được chuyển đến đền Hồng Sơn (Võ Miếu) để tạm cất giữ.
Cồn Mô - Ngã ba Bến Thủy
Cồn Mô được xây dựng thành tượng đài kỷ niệm cuộc đấu tranh của nhân dân Nghệ An trong phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh năm 1930 - 1931, với chiều cao 10m, rộng 16.2m. Trên tượng đài khắc biểu tượng búa liềm, mặt trước gắn biểu tượng trống Xô Viết. Trên nền bia còn khắc ghi lại những sự kiện lịch sử diễn ra ở Cồn Mô.
Khu di tích ngã ba Bến Thủy có diện tích 6.400 m². Qua thời gian và chiến tranh tàn phá, cảnh vật thay đổi, cột điện lịch sử đã không còn nữa. Nhưng tại đây, để ghi lại sự kiện lịch sử anh hùng của nhân dân, tỉnh Nghệ An và chính quyền thành phố Vinh đã xây dựng tượng đài công nông binh để giáo dục truyền thống đấu tranh anh dũng của cha anh.
Đền thờ Vua Quang Trung
Đền thờ Vua Quang Trung được xây dựng với ý nghĩa muôn đời ghi nhớ công lao to lớn và tôn vinh sự nghiệp vĩ đại của Hoàng Đế Quang Trung, góp phần nêu cao truyền thống yêu nước cho các thế hệ mai sau. Đền toạ lạc trên đỉnh thứ 2 núi Dũng Quyết, cao 92m so với mực nước biển,cách đây 220 năm, ngày 1/10/1788 Vua Quang Trung hạ chiếu cho xây dựng Phượng Hoàng - Trung Đô. Đó được xem là đất tứ linh có 4 chi: Chi hướng về Tây gọi là Long thủ (đầu Rồng), chi hướng phía Đông Nam gọi là Phượng dự (cánh Phượng Hoàng), chi hướng về Đông Bắc gọi là Quy bối (lưng Rùa), chi hướng về phía Tây Nam gọi là Kỳ Lân (con Mèo).
Công trình bao gồm các hạng mục chính là Khu Tiền đường có diện tích 180 m², khu Trung đường có diện tích 160 m² và khu Hậu cung có diện tích 60 m², nhà Tả vu, Hữu vu, diện tích mỗi nhà 80 m².
Chùa Cần Linh
Chùa Cần Linh (hay còn gọi là chùa Sư nữ) là ngôi chùa có quy mô lớn và đẹp nhất tỉnh Nghệ An. Đã được Bộ Văn hóa - Thể thao & Du lịch Việt Nam chứng nhận là Di tích lịch sử cấp Quốc gia. Chùa được xây dựng từ thời nhà Lê, trên một vùng đất trước đây thuộc Làng Vang, tổng Yên tường, huyện Hưng Nguyên. Nay thuộc phường Cửa Nam thành phố Vinh. Chùa thờ Phật Thích Ca - vị tổ của đạo Phật - và các vị sư tăng đã từng trụ trì trong chùa, trong vùng. Tổng diện tích: 5.208 m², gồm có các kiến trúc sau: Tam quan, bái đường, chính điện, tăng đường, nhà tả vu, hữu vu. Hàng năm, chùa có tổ chức rất nhiều ngày lễ lớn thu hút đông đảo nhân dân và du khách tới thăm viếng.
Bảo tàng - Thư viện
Một số bảo tàng lớn như bảo tàng tổng hợp Nghệ An,bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh, bảo tàng Quân khu IV và các thư viện như thư viện tỉnh Nghệ An, thư viện Nguyễn Thúc Hào.
Nghệ thuật - Điện ảnh - Báo chí - Truyền hình
Các Trung tâm lớn:
Nhà Văn hóa Lao động
Cung Lễ hội Vinh
Nhà Văn hóa Quân khu 4
Nhà Văn hóa Thiếu nhi Việt - Đức
Nhà hát Dân ca Nghệ An - Trung tâm bảo tồn và phát huy dân ca Xứ Nghệ (gồm 2 đoàn nghệ thuật: Đoàn kịch hát và Đoàn dân ca)
Đoàn Ca múa nhạc dân tộc Nghệ An
Đoàn Nghệ thuật Quân khu IV
Trung tâm Điện ảnh Bắc Trung Bộ
Rạp chiếu phim 12-9 (nay đã xây dựng và quy hoạch lại thành Trung tâm điện ảnh đa chức năng Vinh)
Ngay từ năm 1929, Nghệ An (tập trung tại TP Vinh) đã trở thành trung tâm báo chí cách mạng và đến nay Nghệ An vẫn là một trong những trung tâm báo chí lớn với số lượng đội ngũ cán bộ, phóng viên, kỹ thuật viên hơn 600 người, trong đó trên 360 hội viên Hội Nhà báo Việt Nam (đứng thứ 3 sau Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh về số hội viên). Nghệ An là một trong số ít địa phương có báo ngành hoạt động hiệu quả, như báo Công An Nghệ An, Lao động Nghệ An, Tạp chí Sông Lam, Tạp chí Văn Hoá Nghệ An. Nghệ An cũng là địa phương có số cơ quan báo chí trung ương thường trú nhiều, đứng thứ tư trong cả nước sau các thành phố lớn là Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh.
Truyền hình Nghệ An là một đài truyền hình lớn, được trang bị công nghệ hiện đại, phủ sóng vệ tinh Vinasat. Từ năm 2015 bằng hệ thống truyền hình số mặt đất và vệ tinh TH Nghệ An sẽ gồm 21 kênh do TH Nghệ An sản xuất (NTV1 đến NTV21, trong đó có 6 kênh HD và 15 kênh SD). Từ năm 2020 phát 21 kênh HD và phát song song 21 kênh SD bằng số hóa theo đề án của Chính phủ. Đài TH Vinh, đài truyền hình riêng biệt của TP Vinh cũng đang được lập đề án xây dựng.
Nhà thờ Giáo xứ Yên Đại - Giáo phận Vinh: Đây là ngôi nhà thờ Công giáo lớn nhất Việt Nam. Có sức chứa 50.000 người dự lễ, nhà thờ tọa lạc tại xã Nghi Phú -TP Vinh.
Thể dục - Thể thao
Lĩnh vực thể dục thể thao thành phố Vinh hoạt động sôi nổi và quy mô ngày càng mở rộng. Hiện có Sân vận động Vinh do ngành TDTT quản lý có sức chứa 30.000 người; Sân vận động Quân khu 4 có sức chứa 10.000 chỗ; nhiều Nhà thi đấu đa chức năng của tỉnh, thành phố, QK4, các trường đại học,...; các bể bơi, nhà tập luyện, sân bóng chuyền đạt tiêu chuẩn quốc tế...; (đến 8/2010, Thành phố có 30 sân tennis, 345 sân cầu lông, 62 nhà thi đấu, 95 sân bóng chuyền,... hầu hết các phường, xã đã có sân vận động). Khu Liên hợp thể thao của thành phố đã được đầu tư xây dựng quy mô cấp khu vực. Chính sách lâu dài của thành phố là tiếp tục thực hiện xã hội hoá TDTT đồng thời chú trọng vào các bộ môn thể thao thành tích cao đặc biệt là bóng đá, đóng góp thành tích cho thể dục - thể thao nước nhà.
Tại Vinh hiện nay có 1 câu lạc bộ bóng đá đang thi đấu ở giải chuyên nghiệp là câu lạc bộ bóng đá Sông Lam Nghệ An.
Du lịch
Thành phố Vinh từ lâu đã hấp dẫn du khách bởi một quần thể khu du lịch với những nét đặc trưng tiêu biểu của một đô thị xứ Nghệ. Đến với thành phố Vinh, du khách có thể tham gia vào nhiều loại hình du lịch như: du lịch nghiên cứu, du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng...Thành phố còn có nhiều di tích, danh thắng trong đó có tới 14 di tích được xếp hạng cấp quốc gia, 16 di tích được xếp hạng của tỉnh Nghệ An.
Với nhiều hãng du lịch lữ hành đang hoạt động tại đây, Vinh còn là đầu mối trung chuyển cho các tour du lịch trong tỉnh và các địa phương lân cận. Từ thành phố Vinh, cách 5 km là khu mộ của đại thi hào Nguyễn Du, cách 15 km là khu di tích Kim Liên - quê hương chủ tịch Hồ Chí Minh và cách 17 km là bãi biển Cửa Lò - một trong những bãi biển đẹp nổi tiếng của khu vực miền Trung và cả nước, cách 60 km là khu du lịch sinh thái Mường Thanh Safari Diễn Lâm, cách 120 km là Vườn Quốc gia Pù Mát và thác Khe Kèm.
Địa điểm Du lịch
Công viên Trung tâm:
Nằm tại trung tâm thành phố, có ranh giới thuộc 2 phường Lê Mao và Trường Thi. Diện tích: 41.3 ha, bao gồm các khu vực chính như sau:
Khu Quảng trường và Tượng đài Hồ Chí Minh nằm tại góc đường Hồ Tùng Mậu và đường Trường Thi. Quảng trường có quy mô lớn, có đường duyệt binh, vườn hoa, lễ đài, là nơi tổ chức các lễ hội, các lễ kỷ niệm trọng đại của nhân dân trong tỉnh.
Khu biểu diễn nghệ thuật: Trên cơ sở một số công trình của Liên đoàn Lao động Nghệ An. Tại đây đã có một số công trình phục vụ biểu diễn, các sân khấu trong nhà, ngoài trời, các sân bãi công trình dịch vụ, bể bơi. Ngoài các công trình trên còn bố trí một số sân khấu ngoài trời tại những nơi thích hợp.
Khu thể thao vui chơi thanh thiếu niên: Bố trí tại vùng đất phía Nam nhà Văn hoá lao động kéo đến đường Trần Phú là nhà thi đấu thể thao có mái che hiện đại và các công trình phục vụ vui chơi, thi đấu thể thao.
Khu dạo chơi, vãn cảnh: là khu vực từ đường Trần Phú, ngã ba khách sạn Phương Đông, chạy dọc theo đường Trường Thi. Tại đây bố trí nhiều tiểu cảnh, nơi ngồi nghỉ, các đường đi dạo, nhiều bồn hoa, cây cảnh.
Khu tạo cảnh rừng nguyên sinh: là khu kết hợp giữa núi sau lưng tượng Bác Hồ và vùng đất kẹp giữa hồ nước, đường Hồ Tùng Mậu và đảo nổi giữa hồ. Tại đây trồng cây theo kiểu rừng nguyên sinh. Chọn một số cây đặc trưng của rừng và trồng theo kiểu tự nhiên, đường và một số chòi nghỉ, chuồng thú, vườn phong lan, tạo nên không khí của rừng núi.
Hồ nước: Nằm giữa công viên, có đảo nhỏ, là nơi tạo cảnh thần tiên như trong truyện cổ tích. Hồ nước tạo mặt thoáng, cảnh quan cho công viên, trong hồ có thể tổ chức một số trò chơi như: chèo thuyền, lướt ván, trò chơi điều khiển từ xa...
Nhà chiếu hình Vũ trụ:
Nhà chiếu hình vũ trụ do Chính phủ Nhật Bản tài trợ cho Việt Nam theo diện viện trợ văn hoá (CGA), được lắp đặt và đưa vào sử dụng trong Công viên trung tâm thành phố Vinh từ tháng 9 năm 1998. Công trình có kiến trúc mang dáng vẻ của chiếc máy bay tàng hình với các thiết bị chiếu hình hiện đại... Đây là nhà chiếu hình vũ trụ duy nhất ở Việt Nam hiện nay, về tầm vóc là công trình khoa học mang tầm chiến lược Quốc gia. Kể từ khi đi vào hoạt động, nhà chiếu hình vũ trụ đã thu hút hàng triệu lượt học sinh, sinh viên từ các trường Đại học, Cao đẳng trong cả nước và các nhà khoa học đến tham quan, học tập, nghiên cứu trong lĩnh vực Thiên văn học.
Lâm viên Dũng Quyết:
Với diện tích 15.6 ha, bao gồm toàn bộ khu vực núi Dũng Quyết và vùng đất bằng phẳng của phường Trung Đô, phường Bến Thủy. Lâm viên Dũng Quyết có 39 hạng mục công trình. Trong đó có những công trình chủ yếu như sau:
Theo quy hoạch, trên các cao điểm của núi Quyết sẽ xây dựng các công trình như: Đền thờ Quang Trung, tượng Uy minh Vương - Lý Nhật Quang, cáp treo vượt sông Lam... Phía Đông núi có vách đá cao dựng đứng gần 100 m sẽ là nơi tổ chức các cuộc thi thể thao leo núi.
Trong khu vực di tích thành Phượng Hoàng Trung Đô sẽ khôi phục lại một đoạn bờ thành và xây đền thờ Quang Trung. Trên núi Kỳ lân dựng tượng vua Quang Trung trong tư thế của một vị đại nguyên soái đang duyệt hàng vạn hùng binh.
Công viên Nguyễn Tất Thành:
Là công viên lớn nằm ở phía Đông Nam thành phố, trên 2 trục đường chính là Phan Đăng Lưu và Trường Thi. Tổng diện tích là 8.3 ha, trong đó diện tích mặt hồ Goong là 5.64 ha, xung quanh hồ được phủ kín hệ thống cây xanh. Trong công viên có cụm tượng đài "Bác Hồ với tuổi trẻ", nhà truyền thống, bể bơi, các hoạt động nghệ thuật khác...Công viên này được xây dựng từ nguồn đóng góp của thanh thiếu nhi cả nước trao tặng cho quê hương chủ tịch Hồ Chí Minh.
Vườn hoa Cửa Bắc:
Là vườn hoa nằm ở trung tâm thành phố, hình tam giác, nên còn được gọi là vườn hoa Tam Giác (hay còn gọi là vườn hoa Vòi Phun, vì ở giữa vườn hoa có một vòi phun nước lớn). Vườn hoa này nằm giữa 3 tuyến phố chính là Lê Lợi, Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai.
Du thuyền Sông Lam:
Sông Lam xưa có tên là Sông Cả (sông mẹ). Tiếng Cả vừa hàm nghĩa là "lớn", vừa có hàm nghĩa là "mẹ", mẹ của những con sông nhỏ đổ về như: Nậm Nơm, Nậm Mộ, sông Giăng, sông La...Có lẽ do màu nước trong xanh lại chảy qua nhiều núi non, làng mạc tạo nên cảnh đẹp khác thường nên các nhà nho, các tao nhân mặc khách đã đặt cho sông những cái tên hoa mỹ: "Lam Giang", "Thanh Long Giang", "Lam Thủy"...đồng thời sáng tác nhiều bài thơ ca ngợi vẻ đẹp có một không hai của nó.
Năm 1998, nhân kỷ niệm 210 năm Phượng Hoàng Trung Đô - Vinh, công ty du lịch thành phố Vinh đã khai trương tua du lịch trên sông Lam. Du khách sẽ được nghe các làn điệu dân ca Nghệ Tĩnh tha thiết trên sông và được ghé thăm các địa điểm du lịch nổi tiếng nằm ven sông Lam của thành phố Vinh và tỉnh Nghệ An như Đền Ông Hoàng Mười, khu di tích cố Tổng bí thư Lê Hồng Phong của vùng quê Hưng Nguyên, đến với Đình Trung Cần và Hoành Sơn, khu di tích Kim Liên, lăng và mộ Mai Hắc Đế, khu di tích danh nhân Phan Bội Châu...Từ bến thuyền Hưng Hòa, ngược nguồn dòng Lam du khách sẽ đến với quê hương của Đại thi hào Nguyễn Du, danh nhân Nguyễn Công Trứ và sẽ được đắm chìm trong giai điệu mượt mà của ca trù Cổ Đạm...
Đường ven Sông Lam:
Đường ven Sông Lam cách thành phố không xa, nối giữa cầu Bến Thủy, lâm viên Núi Quyết với Cửa Lò, đi qua rừng bần Hưng Hòa với hệ sinh thái đa dạng gồm nhiều động vật, thực vật quý. Đây là tuyến đường "xanh - sạch - đẹp" của thành phố Vinh và là nơi đi dạo lý tưởng cho nhân dân thành phố và du khách.
Đặc sản
Cam Vinh
Cháo lươn Vinh
Món hến
Canh hến là đặc sản có vị đậm đà không thể thiếu trong những bữa cơm trưa hè. Thông thường người ta xào ruột hến thật thơm bỏ vào nước hến cùng với món rau nào đó, mà thường là các loại rau vặt như: rau bầu, rau lang, mồng tơi, rau dềnh, rau muống, v.v. thành một món canh rất ngọt, giàu vitamin và khoáng chất, đặc biệt là rất mát.
Bên cạnh món canh hến du khách còn có thể dùng món hến xúc bánh tráng. Hến được xào với mỡ hành, rắc thêm rau thơm và một ít lạc rang giã dập cùng vài lát ớt cắt mỏng ăn với bánh tráng là một món ăn ngon lý tưởng.
Chả rươi
Rươi là thức ăn nhiều đạm. Du khách có thể ăn rươi với trứng gà mà người dân nơi đây gọi là chả rươi hoặc ăn canh rươi, mắm rươi.. đến mùa rươi người ta còn có thể phơi khô ăn dần.
Chả rươi được chế biến hết sức công phu: rươi rửa thật sạch, đun nước sôi cho vào chần, xong để ráo nước mới lấy đũa đánh xáo rươi thật nhuyễn. Làm chả rươi cần 200 gam rươi, khoảng 3 quả trứng, 200 gam thịt lợn nạc, băm nhuyễn cộng thêm gia vị: lá gừng, hành hoa, thì là, vỏ quýt (thái nhỏ). Tất cả đánh nhuyễn, đổ vào dầu thực vật tao già, đun nhỏ lửa. Chả rươi có vị ngọt đậm đà, béo ngậy, có mùi vị riêng được nâng lên nhờ hoà quyện với mùi vỏ quýt. Tạo nên hương vị quê hương đặc trưng của thành Vinh - xứ Nghệ.
Còn nếu muốn làm mắm rươi thì đơn giản hơn chả rươi. Rươi được làm sạch, bỏ muối theo tỷ lệ vừa phải xóc, ướp khoảng 10 ngày, sau đó đem phơi nắng, cho gia vị chủ yếu là vỏ quýt trộn đều, ủ trong liễn hoặc đóng trong vại… mắm rươi dùng chấm rau sống, đặc biệt là thịt lợn luộc rất ngon.
Nộm chợ Vinh
Nói nộm chợ Vinh tức là nói món nộm được bán ở các chợ tại thành phố Vinh. Như chúng ta đã biết, có nhiều món nộm khác nhau: nộm đu đủ, nộm hoa chuối, nộm khế, nộm cà, nôm mướp đắng. Tại chợ Vinh còn có nộm măng, nộm dưa chuột, nộm rau muống, nộm xu hào, nộm thập cẩm, nôm củ chuối... ở đây xin nói về nộm thập cẩm.
Nguyên liệu gồm: đu đủ, hoa chuối, giá đỗ, khế xanh. Đu đủ xanh gọt vỏ, nạo thành từng sợi như sợi miến; hoa chuối cũng phải thái thành sợi nhỏ, hai thứ này trộn đều, xoa qua loa rồi ngâm với nước muối loãng. Vớt ra, rảy cho khô nước, bỏ trong xoong, thái quả khế xanh thành những lát mỏng, lấy ít giá đỗ bỏ vào tất cả trộn đều cùng với các loại gia vị sau: một ít giấm chua (nếu nhiều khế thì thôi), một ít đường, một ít ớt cay, lá chanh thái nhỏ, lá húng quế cũng thái nhỏ, một ít lạc rang giã dập, bột canh, mỳ chính, tổng cộng chín loại gia vị cả thảy. Khi ăn sẽ có cảm giác bùi bùi, chua chua, cay cay, mằn mặn, ngọt ngọt, khá hấp dẫn. Màu sắc đĩa nộm có đủ màu đỏ của ớt, màu xanh của lá chanh, húng quế; màu trắng của đu đủ, giá đậu, màu vàng nhờ nhỡ của hoa chuối.... Thế đã ngon lắm rồi, có người muốn cho ngon hơn. Họ mua bì lợn, luộc chín, thái nhỏ như tăm trộn vào.
Bữa ăn hàng ngày trên mâm cơm gần như nhà nào cũng có. Đó là món ăn dân dã, ngon miệng, dễ làm mà người dân thành Vinh ưa thích.
Nước chè xanh
Ai đã từng về Vinh đều có lẽ không thể bỏ qua bát nước chè xanh xứ Nghệ. Chè xanh ở đây có thể nói là không chê vào đâu được. Nhưng để có được bát nước như vậy quả là phải có kỹ thuật từ chọn chè đến cách om cách nấu.
Trước hết, người ta chọn thứ lá chè dày và mơn mởn (không già quá mà cũng không non quá). Nếu già quá thì nước bầm đen trông không ngon, không thơm. Nếu chè non quá thì nước chóng nhạt, không đượm. Nước nấu chè phải là thứ nước ngòn ngọt. Thường là nước mưa hay nước giếng đá sỏi thì nước mới ngọt. Nấu chè thường dùng nồi bù hay ấm đất.
Nhận chè vào phải đúng kỹ thuật, không vò nát chè, mà cũng không để nguyên lá chè vì lâu ngấm mà phải vò nhè nhẹ, tỉa nhặt những lá vàng, lá sâu. Lửa nấu nước chè là lửa đỏ đều, không to quá mà cũng không nhỏ quá. Củi nấu nước phải dùng thứ củi nấu không làm phai mất vị nước chè như: củi bạch đàn, củi xoan đâu, củi tre...
Khi nồi nước chè đã sôi, lấy gáo nhận chè cho chìm xuống, sau đó đổ thêm vài ba gáo nước lã vào rồi hạ lửa. ít phút sau đó sẽ có ấm nước chè vừa chát, vừa thơm, vừa nóng, vừa xanh.
Những người nghiện nước chè xanh thường nói vui là uống nước "năm cho" nói trệch là "năm trò" tức là: cho chát, cho xanh, cho thơm, cho nóng, cho vui. Nước chè ngon là nước chát, uống vào lúc đầu nghe chát, ngấm vào thấy ngòn ngọt thật khoái miệng. Nước chè vừa ngọt vừa có màu xanh nái trông thật sướng mắt. Hương nước chè xanh bốc lên nghe thoang thoảng mùi chè xanh khá hấp dẫn. Khi uống phải đông mới vui, vừa uống vừa nói chuyện thì thật là lý tưởng. Người nghiện chè xanh sáng sớm chưa ăn gì, không chỉ uống 3 - 4 bát cho tỉnh người rồi đi làm việc. Có người đau lưng, mỏi gối vì lao động mệt nhọc, họ pha mật mía với chè xanh đặc uống vào thấy khoẻ người ngay.
Kẹo Cu Đơ
Người xứ Nghệ nói đến chè xanh mà không nhắc đến kẹo Cu Đơ thì quả là thiếu sót. Vậy keo Cu Đơ như thế nào và tại sao gọi là kẹo Cu Đơ?
Theo nhiều người kể, Cu Đơ là một nhân vật vốn có tên là cu Hai. Vì số 2, tiếng Pháp gọi là "đơ" (deux) do đó người ta gọi đùa ông là Cu Đơ, để đối chọi một cách nghịch ngợm với cái tên Đờ-cu (Decoux) - viên toàn quyền bại trận ở Đông Dương thời Đại chiến thế giới thứ hai, vốn dĩ mang cái chất thiếu thanh lịch khi nghe gọi qua ngôn ngữ Việt Nam.
Cu Hai, người Hương Sơn nấu kẹo lạc vào hồi sơ tán lần thứ nhất, để bán tại một quán nước chè xanh do ông bán. Sáng kiến của ông là dùng bánh tráng thay cho miếng giấy lót dưới kẹo lạc mà mỗi lần ăn phải bóc bằng tay. Sáng kiến này tuy đơn giản nhưng rất quan trọng, vừa sạch sẽ, vừa đỡ mất công bóc giấy mà ăn lại vừa ngon, giòn, rất khoái khẩu. Từ đó nhiều hàng kẹo khác bắt chước và cái tên Cu Đơ được chấp nhận như tên một nhãn hiệu.
Khách xa về thăm quê vừa nhâm nhi kẹo Cu Đơ vừa uống nước chè xanh mới thấy tuyệt. Vị ngọt của kẹo, vị thơm của chè xanh, đượm chát, vị bùi của hạt lạc....Tất cả quyện vào nhau tạo nên hương vị đặc trưng của Thành Vinh - Xứ Nghệ.
Giao thông
Thành phố Vinh nằm trên trục giao thông huyết mạch Bắc - Nam về cả đường bộ, đường sắt, đường thủy và đường hàng không, nắm giữ vị trí trọng yếu trên con đường vận chuyển trong nước từ Bắc vào Nam và ngược lại. Đồng thời rất thuận lợi cho việc giao lưu kinh tế - văn hóa trong khu vực và quốc tế.
Đường bộ
Đối ngoại
TP Vinh được hưởng lợi hệ thống giao thông đối ngoại rất thuận tiện với các tuyến Quốc lộ theo trục Bắc - Nam và Đông - Tây.
Quốc lộ 1 chạy xuyên qua trung tâm thành phố theo hướng Bắc - Nam với chiều dài 15 km đã được nâng cấp đạt tiêu chuẩn quốc gia. Hiện tại, thành phố đã hoàn thiện xây dựng Quốc lộ 1 đoạn tránh ở phía Tây nhằm giảm tải giao thông trong khu vực trung tâm.
Đường Hồ Chí Minh, Quốc lộ 15 theo trục Bắc - Nam
Quốc lộ 7 đi qua các huyện trong tỉnh đến Xiêng Khoảng (nơi có cánh đồng Chum) và cố đô Luang Prabang của Lào
Quốc lộ 8 đi qua các huyện, thị: Hồng Lĩnh, Đức Thọ, Hương Sơn phía bắc Hà Tĩnh qua cửa khẩu Cầu Treo đến thủ đô Viên Chăn (Lào)
Quốc lộ 46 đi qua các huyện: TX Cửa Lò, TP Vinh, Hưng Nguyên, Nam Đàn, Thanh Chương qua cửa khẩu Thanh Thủy sang Lào
Quốc lộ 48 đi qua: TP Vinh, Yên Lý, Nghĩa Đàn, Thái Hòa, Quế Phong, Boritambay (Lào)
Nội thị
Mạng lưới giao thông nội thị có 765 km đường giao thông các loại, hầu hết đã rải nhựa hoặc đổ bê tông xi măng; tỷ lệ đường rộng trên 12m chiếm 15,7%, mật độ đường giao thông đạt 12 km/km². Thành phố có 2 bến xe lớn phục vụ nhu cầu đi lại nội và ngoại tỉnh của nhân dân, bến xe Vinh và bến xe Chợ Vinh thu hút trên 700 lượt xe đón trả khách/ ngày. Vinh còn có 2 bến xe mới là Bắc Vinh và Nam Vinh đang được xây dựng.
Thành phố Vinh đang quy hoạch xây dựng các khu trung tâm đô thị dọc trục đường Lê Lợi, Quang Trung, Trường Thi, Đại lộ Lê Nin, đường du lịch ven sông Lam, Đại lộ Vinh - Cửa Lò... trong tương lai không xa sẽ mang lại cho thành phố bộ mặt đô thị hiện đại, xứng tầm đô thị loại 1 trung tâm cấp vùng.
Giao thông Công cộng
Ở Vinh hiện có nhiều tuyến xe bus phục vụ việc đi lại của người dân thành phố và các huyện lân cận. Lộ trình xe buýt Vinh:
Tuyến 1: Cầu Bến Thủy - ĐH Vinh - KS Phương Đông - Trần Phú - Chợ Vinh - Quang Trung - Lê Lợi - KS Hữu Nghị - Nguyễn Sỹ Sách - BV Đa Khoa cũ - Lê Viết Thuật - Cao đẳng Sư phạm - Cửa Hội - Cửa Lò.
Tuyến 2: Cầu Bến Thủy - ĐH Vinh - KS Phương Đông - Trần Phú - Chợ Vinh - Quang Trung - Lê Lợi - KS Hữu Nghị - Mai Hắc Đế - Nguyễn Trãi - Quán Bánh - Nghệ An Xuyên Khoảng - ĐH Vinh CS 2 - Cửa Lò.
Tuyến 3: Cầu Bến Thủy - KS Phương Đông - Hồ Tùng Mậu - Nguyễn Văn Cừ - Cầu Kênh Bắc - Nguyễn Sỹ Sách - KS Hữu Nghị - Lê Lợi - Quang Trung - Phan Đình Phùng - Nguyễn Sinh Sắc - Chợ Đước - Hưng Nguyên - Nam Đàn - Thanh Chương.
Tuyến 4: Cầu Bến Thủy - ĐH Vinh - KS Phương Đông - Trần Phú - Chợ Vinh - Quang Trung - Lê Lợi - KS Hữu Nghị - Mai Hắc Đế - Nguyễn Trãi - Quán Bánh - Nghi Lộc - Diễn Châu - Quỳnh Lưu - Hoàng Mai.
Tuyến 5: Cầu Bến Thủy - ĐH Vinh - KS Phương Đông - Trần Phú - Chợ Vinh - Quang Trung - Lê Lợi - KS Hữu Nghị - Mai Hắc Đế - Nguyễn Trãi - Quán Bánh - Diễn Châu - Yên Thành
Tuyến 6: Ga Vinh - Phan Bội Châu - Lê Lợi - Quang Trung - Trần Phú _ Lê Duẩn - Nguyễn Du - - Nghi Xuân- Thị xã Hồng Lĩnh- Can Lộc-Thạch Hà-thành phố Hà Tĩnh.
Tuyến 8: BV Đa Khoa Vinh - Đường XVNT - Nguyễn Sỹ Sách - Nguyễn Phong Sắc - Phong Định Cảng - ĐH Vinh - Lê Duẩn - Trần Phú - Quang Trung - Lê Lợi - Nguyễn Trãi Diễn Châu - Đô Lương
Tuyến 17: Đường Phượng Hoàng - Nguyễn Văn Trỗi (ĐH Vinh) - Phong Định Cảng - Nguyễn Gia Thiều - Tôn Thất Tùng - Nguyễn Phong Sắc (BV Ba Lan cũ, ĐH Y Vinh) - Nguyễn Sỹ Sách - ĐL Xô Viết Nghệ Tĩnh (BV Đa Khoa tỉnh) - Ngã 4 Sân Bay - Đường Nghệ An Xuyên Khoảng - Thăng Long - Quán Hành - ĐH 226 - Đại Sơn (ĐH2) - Trù Sơn
Tuyến 22: BX Bắc Vinh - Nghi Kim - Quán Bánh - Nguyễn Trãi - Lê Lợi - Quang Trung - Chợ Vinh - Trần Phú - Lê Duẩn - Nguyễn Du - Nghi Xuân - Thị xã Hồng Lĩnh - Đức Thọ - Hương Sơn.
Tuyến 24 (Thạch Thành): CĐSP - Lê Viết Thuật - Nguyễn P. Sắc - Nguyễn Duy Trinh - ĐHSPKT Vinh - Nguyễn Viết Xuân- Phong Định Cảng - Nguyễn Văn Trỗi - Lê Duẩn - Trường Thi - Nguyễn Văn Cừ - Hà Huy Tập - Mai Hắc Đế - Lê Lợi - BX Vinh - Big C - Phan Đình Phùng - Hưng Nguyên - Nam Đàn - Đô Lương - Tân Kỳ.
Tuyến 25 (Thạch Thành): CĐSP - Lê Viết Thuật - Nguyễn P. Sắc - Nguyễn Duy Trinh - ĐHSPKT Vinh - Nguyễn Viết Xuân - Phong Định Cảng - Nguyễn Văn Trỗi - Lê Duẩn - Trần Phú - Quang Trung - Lê Lợi - Mai Hắc Đế - Nguyễn Trãi - QL 1 - Quán Hành - Diễn Châu - Yên Lý - QL 48 Thái Hòa - QL15A - Nghĩa Sơn
Tuyến 27: Nghi Liên- Đường Thăng Long - Quốc lộ 46 - Đại lộ Lê Nin - Nguyễn Sỹ Sách - Nguyễn Phong Sắc - Võ Nguyên Hiến - Phong Định Cảng - Nguyễn Du - Lê Duẩn - Trần Phú - Phan Đình Phùng - Nguyễn Sinh Sắc - QL 46 - Cầu Dùng mới - Đường Hồ Chí Minh - QL 7 - TT Anh Sơn
Tuyến 28: Lê Viết Thuật - Nguyễn P. Sắc - Tôn Thất Tùng - Nguyễn Gia Thiều - Võ Văn Hiến - Phong Định Cảng - Nguyễn Văn Trỗi - Lê Duẩn - Trần Phú - Quang Trung - Lê Lợi - Mai Hắc Đế - Nguyễn Trãi - QL 1 - Ngã 3 Quán Hành - TL 534 - TT Yên Thành
Tuyến 29 (Sự Chuyên): Cầu Bến Thủy - Đ. Dũng Quyết - Nguyễn Văn Trỗi - Phong Định Cảng - Phan Đăng Lưu - Hồ Tùng Mậu - Nguyễn Văn Cừ - Hà Huy Tập - Nguyễn Trãi - Thăng Long - QL.1 - Cầu Giát - tỉnh lộ 537 - Quỳnh Phương - Đền Cờn
Tuyến 30 (Khanh Quỳnh): BV Đa Khoa - XV Nghệ Tĩnh - Lê Nin - Nguyễn Sỹ Sách - BV Ba Lan cũ - Nguyễn Phong Sắc - Nguyễn Duy Trinh - ĐH SP Kỹ thuật Vinh - Nguyễn Viết Xuân - Phong Đình Cảng - ĐH Vinh - Trần Phú - Phan Đình Phùng - Trần Hưng Đạo - Ga Vinh - Phan Bội Châu - Mai Hắc Đế - Nguyễn Trãi - QL 1 - Tỉnh lộ 534 (Quán Hành - Nghi Kiều) - Khuôn - Đại Sơn - Tràng Minh - Yên Sơn - Đà Sơn - QL 15 - TT Đô Lương
Đường sắt
Ga Vinh là một trong 2 ga lớn nhất miền Trung (ga hạng 1 cùng với Ga Đà Nẵng) và quan trọng trên tuyến đường sắt Bắc Nam của Việt Nam, cách ga Hà Nội 319 km hay khoảng 5 tiếng rưỡi đồng hồ đi tàu theo tốc độ đường sắt hiện tại. Theo các tài liệu hỏa xa thời Pháp còn được lưu trữ, ga Vinh chính thức được bắt đầu xây dựng vào quý II năm 1900. Đây là một trong năm tuyến đường sắt Đông Dương được Chính phủ Pháp đầu tư khoảng 200 triệu franc để xây dựng nhằm mục đích khai thác thuộc địa. Hiện nay, Ga Vinh trực thuộc Công ty Vận tải hành khách đường sắt Hà Nội. Tất cả các chuyến tàu xuyên Việt đều dừng đón và trả khách tại đây. Ngoài các chuyến tàu Thống Nhất, còn có các chuyến tàu địa phương xuất phát từ Vinh đi miền Bắc là NA1, NA2 và đi miền Trung là VQ1, VQ2. Ga Vinh hiện là ga đầu tiên và duy nhất thuộc Tổng công ty Đường sắt Việt Nam được đầu tư lắp đặt hệ thống điều khiển chạy tàu tập trung Domino 70-E của Hãng Siemens (CHLB Đức).
Đường thủy
Hệ thống sông ngòi bao quanh phía Tây Đông và phía Nam thành phố là điều kiện thuận lợi cho giao lưu kinh tế với các huyện trong tỉnh. Sông Lam có độ sâu 2 - 4m có cảng Bến Thủy là một cảng hàng hoá lâu đời của khu vực Bắc miền Trung có khả năng cho tàu dưới 2.000 tấn ra vào thuận lợi. Trong tương lai, khi thị xã Cửa Lò sáp nhập vào thành phố Vinh, thì cảng nước sâu Cửa Lò với công suất 3 triệu tấn/năm (sẽ được nâng lên 5 triệu tấn/năm vào năm 2015, 17 triệu tấn/năm vào năm 2020) là một cảng lớn trong hệ thống cảng biển quốc gia sẽ đóng góp cho sự phát triển kinh tế của thành phố trong việc giao thương bằng đường biển.
Đường hàng không
Sân bay Vinh là một sân bay quốc tế của Việt Nam nằm ở khu vực miền Trung. Hiện nay, từ Cảng hàng không Vinh đang có các đường bay thẳng khứ hồi kết nối Vinh với các thành phố như: Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng, Buôn Ma Thuột, Đà Lạt, Nha Trang, Pleiku, Bangkok (Thái Lan),... với tần suất trên 40 lần chuyến cất, hạ cánh/ngày, do các hãng hàng không đối tác: Vietnam Airlines, Jetstar Pacific Airlines và Vietjet Air khai thác. Lượng khách năm 2015 đạt 1,4 triệu lượt khách.
Trong tương lai gần, sân bay này sẽ được nâng cấp hiện đại và mở thêm một số tuyến bay nội địa và quốc tế mới, như Vinh - Đông Bắc Thái Lan, Vinh - Singapore, Vinh - Hàn Quốc, Vinh - Đài Bắc.... Sau đó, Chính phủ dự kiến mở rộng sân bay Vinh thành sân bay quốc tế với quy mô lớn, mở các tuyến bay đi Trung Quốc, Nhật Bản, khu vực Đông Á và các nước khác. Nhà ga hành khách mới của sân bay Vinh cũng đã hoàn thành đưa vào sử dụng với công suất 2,5-3 triệu khách/năm.
Ngày 16/1/2015, Thủ tướng ký quyết định bổ sung sân bay Vinh vào mạng lưới quy hoạch sân bay quốc tế trong cả nước, công nhận và công bố sân bay Vinh thành sân bay Quốc tế
Danh nhân
Chính trị
Nguyễn Mạnh Cầm: Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao
Chu Huy Mân: Đại tướng, Phó Chủ tịch nước, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị
Nguyễn Thị Minh Khai: Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Gia Định
Lê Viết Thuật: Bí thư Xứ ủy Trung Kỳ
Lê Mao: Bí thư Xứ ủy Trung Kỳ năm 1930.
Khoa học
Nguyễn Xiển
Nguyễn Khánh Toàn
Nguyễn Văn Ngọ
Văn nghệ-Thể thao
Lê Văn Miến: họa sĩ
Nguyễn Văn Tý: nhạc sĩ
Chính Hữu: nhà thơ
Thanh Tâm Tuyền: nhà thơ
Thái Bảo: ca sĩ
Nguyễn Hữu Thắng: cầu thủ bóng đá
Hương Tràm: ca sĩ
Thành phố kết nghĩa
Thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi
Chú thích
Liên kết ngoài
Trang web chính thức của thành phố Vinh
Quy hoạch Vinh thành "thủ phủ" của Bắc Trung bộ
Quy hoạch thành phố Vinh đến năm 2025
Điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng thành phố Vinh
Thành phố Vinh hướng đến đô thị trung tâm vùng Bắc Trung bộ
100% số phiếu tán thành đề án đề nghị công nhận Thành phố Vinh là đô thị loại 1
Phúc Thịnh– điểm nhấn kiến trúc đô thị của Thành phố Vinh
Cập nhật tin tức về TP Vinh
Vinh
Đô thị Việt Nam loại I
Tỉnh lỵ Việt Nam
|
27164
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%87%20quy%20chi%E1%BA%BFu%20qu%C3%A1n%20t%C3%ADnh
|
Hệ quy chiếu quán tính
|
Hệ quy chiếu quán tính trong vật lý cổ điển và thuyết tương đối hẹp sở hữu tính chất là trong hệ quy chiếu này, một vật không có lực ròng tác dụng lên nó sẽ không gia tốc; nghĩa là, một vật như vậy sẽ ở trạng thái nghỉ hoặc chuyển động với vận tốc không đổi. Hệ quy chiếu quán tính có thể được định nghĩa trong thuật ngữ của cơ học giải tích là hệ quy chiếu mô tả thời gian và không gian một cách đồng nhất, đẳng hướng và không phụ thuộc vào thời gian. Về mặt khái niệm, vật lý của một hệ thống trong một hệ thống quán tính không có nguyên nhân nào bên ngoài hệ thống. Hệ quy chiếu quán tính còn có thể được gọi là hệ quy chiếu Galile hay không gian quán tính.
Tất cả các hệ quy chiếu quán tính đều ở trạng thái chuyển động thẳng, không đổi đối với nhau; một gia tốc kế chuyển động cùng với bất kỳ thứ nào trong số chúng sẽ phát hiện gia tốc bằng không. Các phép đo trong một hệ thống quán tính có thể được chuyển đổi thành các phép đo trong một hệ thống khác bằng một phép biến đổi đơn giản (phép biến đổi Galilê trong vật lý Newton và phép biến đổi Lorentz trong thuyết tương đối hẹp). Trong thuyết tương đối rộng, trong bất kỳ vùng nào đủ nhỏ để độ cong của không thời gian và lực thủy triều là không đáng kể, người ta có thể tìm thấy một tập hợp các hệ quy chiếu quán tính mô tả gần đúng vùng đó.
Trong hệ quy chiếu phi quán tính trong vật lý cổ điển và thuyết tương đối hẹp, vật lý của một hệ thay đổi tùy thuộc vào gia tốc của hệ đó so với hệ quán tính, và các lực vật lý thông thường phải được bổ sung bằng các lực hư cấu. Ngược lại, các hệ thống trong thuyết tương đối rộng không có nguyên nhân bên ngoài, bởi vì nguyên lý của chuyển động trắc địa. Trong vật lý cổ điển, ví dụ, một quả bóng rơi xuống đất không đi thẳng xuống chính xác vì Trái đất đang quay, có nghĩa là hệ quy chiếu của một người quan sát trên Trái đất không quán tính. Vật lý phải tính đến hiệu ứng Coriolis - trong trường hợp này được coi là một lực - để dự đoán chuyển động ngang. Một ví dụ khác về một lực hư cấu như vậy liên quan đến các hệ quy chiếu quay là hiệu ứng ly tâm hay còn gọi là lực ly tâm.
Giới thiệu
Chuyển động của một vật chỉ có thể được mô tả so với một thứ khác — các vật thể khác, người quan sát hoặc một tập hợp các tọa độ không thời gian. Chúng được gọi là hệ quy chiếu. Nếu các tọa độ được chọn không tốt, quy luật chuyển động có thể phức tạp hơn mức cần thiết. Ví dụ, giả sử một vật thể tự do không có ngoại lực tác động lên nó đang ở trạng thái nghỉ ngay lập tức. Trong nhiều hệ tọa độ, nó sẽ bắt đầu chuyển động ngay sau đó, mặc dù không có lực tác động lên nó. Tuy nhiên, hệ quy chiếu luôn có thể được chọn trong đó hệ quy chiếu đứng yên. Tương tự, nếu không gian không được mô tả thống nhất hoặc thời gian một cách độc lập, một hệ tọa độ có thể mô tả chuyến bay đơn giản của một vật thể tự do trong không gian dưới dạng một đường zig-zag phức tạp trong hệ tọa độ của nó. Thật vậy, có thể đưa ra một tóm tắt trực quan về hệ quy chiếu quán tính: trong hệ quy chiếu quán tính, các định luật cơ học có dạng đơn giản nhất.
Trong một hệ thống quán tính, định luật đầu tiên của Newton, định luật quán tính, được thỏa mãn: Mọi chuyển động tự do đều có độ lớn và hướng không đổi. Định luật thứ hai của Newton cho một hạt có dạng:
với F là lực ròng (một vector), m là khối lượng của một hạt và một sự tăng tốc của hạt (cũng là một vector) mà sẽ được đo bởi một người quan sát đứng yên trong khung. Lực F là tổng vectơ của tất cả các lực "thực" lên hạt, chẳng hạn như điện từ, lực hấp dẫn, hạt nhân, v.v. Ngược lại, định luật thứ hai của Newton trong hệ quy chiếu quay, quay với tốc độ góc Ω quanh một trục, có dạng:
trông giống như trong một hệ thống quán tính, nhưng bây giờ lực F ′ là kết quả của không chỉ F mà còn là các số hạng bổ sung (đoạn sau phương trình này trình bày các điểm chính mà không có công thức toán học chi tiết):
trong đó góc quay của hệ quy chiếu được biểu thị bằng vectơ Ω chỉ theo hướng của trục quay và có độ lớn bằng tốc độ góc quay Ω, ký hiệu × biểu thị tích chéo vectơ, vectơ x B định vị vật thể và vectơ v B là vận tốc của vật theo quan sát quay (khác với vận tốc mà quan sát viên quán tính).
Các số hạng phụ trong lực F ′ là lực "hư cấu" đối với hệ quy chiếu này, mà nguyên nhân của nó đến từ bên ngoài hệ trong hệ quy chiếu. Số hạng phụ đầu tiên là lực Coriolis, lực ly tâm thứ hai, và lực thứ ba là lực Euler. Tất cả các thuật ngữ này đều có các đặc tính sau: chúng biến mất khi Ω = 0; nghĩa là, chúng bằng 0 đối với một khung quán tính (tất nhiên là không quay); chúng có độ lớn và hướng khác nhau trong mọi hệ quy chiếu quay, phụ thuộc vào giá trị cụ thể của Ω; chúng có mặt ở khắp nơi trong hệ quy chiếu quay (ảnh hưởng đến mọi hạt, bất kể hoàn cảnh nào); và chúng không có nguồn rõ ràng trong các nguồn vật chất có thể xác định được, cụ thể là vật chất. Ngoài ra, các lực hư cấu không giảm theo khoảng cách (không giống như lực hạt nhân hoặc lực điện). Ví dụ, lực ly tâm xuất hiện từ trục quay trong một hệ quy chiếu quay tăng theo khoảng cách từ trục.
Tất cả các nhà quan sát đều đồng ý về các lực lượng thực, F; chỉ những người quan sát phi quán tính mới cần những lực hư cấu. Các định luật vật lý trong hệ thống quán tính đơn giản hơn vì không xuất hiện các lực không cần thiết.
Vào thời Newton, các ngôi sao cố định được gọi là hệ quy chiếu, được cho là ở trạng thái nghỉ so với không gian tuyệt đối. Trong các hệ quy chiếu ở trạng thái nghỉ đối với các ngôi sao cố định hoặc trong phép tịnh tiến đồng đều so với các ngôi sao này, định luật chuyển động của Newton được cho là đúng. Ngược lại, trong các khung tăng tốc liên quan đến các ngôi sao cố định, một trường hợp quan trọng là các khung quay so với các ngôi sao cố định, các quy luật chuyển động không giữ ở dạng đơn giản nhất của chúng, mà phải được bổ sung bằng cách bổ sung các lực hư cấu, vì ví dụ, lực Coriolis và lực ly tâm. Hai thí nghiệm được Newton nghĩ ra để chứng minh cách phát hiện ra những lực này, qua đó tiết lộ cho người quan sát rằng chúng không nằm trong một hệ thống quán tính: ví dụ về lực căng của sợi dây liên kết hai quả cầu quay quanh trọng tâm của chúng, và ví dụ của độ cong của mặt nước trong một thùng quay. Trong cả hai trường hợp, việc áp dụng định luật thứ hai của Newton sẽ không hiệu quả đối với người quan sát đang quay nếu không viện dẫn lực ly tâm và lực Coriolis để tính toán cho quan sát của họ (lực căng trong trường hợp quả cầu; mặt nước hình parabol trong trường hợp thùng quay).
Như chúng ta bây giờ đã biết, các ngôi sao cố định không cố định. Những vật thể cư trú trong Dải Ngân hà quay cùng thiên hà, thể hiện những chuyển động thích hợp. Những tinh vân bên ngoài thiên hà của chúng ta (chẳng hạn như tinh vân từng bị nhầm là sao) cũng tham gia vào chuyển động của chính chúng, một phần do sự giãn nở của vũ trụ, và một phần là do vận tốc đặc biệt. Thiên hà Andromeda đang va chạm với Dải Ngân hà với tốc độ 117 km/s. Khái niệm về hệ quy chiếu quán tính không còn ràng buộc với các ngôi sao cố định hay với không gian tuyệt đối. Đúng hơn, việc xác định một hệ quy chiếu quán tính dựa trên sự đơn giản của các định luật vật lý trong hệ. Đặc biệt, việc không có lực lượng hư cấu là tính chất nhận dạng của các hệ này.
Trong thực tế, mặc dù không phải là một yêu cầu bắt buộc, nhưng việc sử dụng hệ quy chiếu dựa trên các ngôi sao cố định như thể nó là một hệ quy chiếu quán tính tạo ra rất ít sự khác biệt. Ví dụ, gia tốc ly tâm của Trái đất do quay quanh Mặt Trời lớn hơn khoảng ba mươi triệu lần gia tốc dịch chuyển của Mặt Trời về tâm thiên hà.
Để minh họa thêm, hãy xem xét câu hỏi: "Vũ trụ của chúng ta có xoay không?" Để trả lời, chúng ta có thể cố gắng giải thích hình dạng của Ngân Hà bằng cách sử dụng các định luật vật lý, mặc dù các quan sát khác có thể chắc chắn hơn, nghĩa là cung cấp độ chênh lệch lớn hơn hoặc ít độ không đảm bảo đo hơn, như dị hướng của nền vi sóng phóng xạ hoặc tổng hợp hạt nhân Big Bang. Độ phẳng của Dải Ngân hà phụ thuộc vào tốc độ quay của nó trong hệ quy chiếu quán tính. Nếu chúng ta quy tốc độ quay biểu kiến của nó hoàn toàn là quay trong một khung quán tính, thì một "độ phẳng" khác được dự đoán so với nếu chúng ta cho rằng một phần của chuyển động quay này thực sự là do chuyển động quay của vũ trụ và không nên bao gồm chuyển động quay của thiên hà chinh no. Dựa trên các định luật vật lý, một mô hình được thiết lập trong đó một tham số là tốc độ quay của Vũ trụ. Nếu các định luật vật lý đồng ý chính xác hơn với các quan sát trong một mô hình có quay hơn là không có nó, chúng tôi có xu hướng chọn giá trị phù hợp nhất cho quay, tùy thuộc vào tất cả các quan sát thực nghiệm thích hợp khác. Nếu không có giá trị nào của tham số quay là thành công và lý thuyết không nằm trong sai số quan sát, thì việc sửa đổi quy luật vật lý được coi là, ví dụ, vật chất tối được sử dụng để giải thích đường cong quay của thiên hà. Cho đến nay, các quan sát cho thấy bất kỳ vòng quay nào của vũ trụ đều rất chậm, không nhanh hơn một lần sau mỗi 60·1012 năm (10−13 rad / yr), và cuộc tranh luận vẫn tồn tại về việc liệu có bất kỳ vòng quay nào hay không. Tuy nhiên, nếu sự quay được tìm thấy, việc giải thích các quan sát trong một hệ quy chiếu gắn với vũ trụ sẽ phải được điều chỉnh cho các lực hư cấu vốn có trong sự quay như vậy trong vật lý cổ điển và thuyết tương đối hẹp, hoặc được hiểu là độ cong của không thời gian và chuyển động của vật chất dọc theo trắc địa trong thuyết tương đối rộng.
Tham khảo
Quỹ đạo
Thuyết tương đối
Hệ quy chiếu
Cơ học cổ điển
|
27173
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%B1c%20qu%C3%A1n%20t%C3%ADnh
|
Lực quán tính
|
Lực quán tính, hay còn gọi là lực ảo, là một lực xuất hiện và tác động lên mọi khối lượng trong một hệ quy chiếu phi quán tính, như là hệ quy chiếu quay.
Lực quán tính không xuất phát từ bất kỳ tương tác vật lý nào mà là từ gia tốc tự xuất hiện trong hệ quy chiếu phi quán tính. Dựa vào định luật 2 Newton , lực quán tính luôn tỉ lệ thuận với khối lượng tác động vào.
Một lực quán tính xuất hiện khi một hệ quy chiếu có gia tốc so với một hệ quy chiếu khác. Một hệ quy chiếu có thể được gia tốc theo bất kỳ cách nào, nên lực quán tính cũng là tùy ý (nhưng phải phụ thuộc vào gia tốc của hệ quy chiếu). Tuy nhiên, bốn lực quán tính đã được định nghĩa theo những cách gia tốc thường xảy ra: một lực gây ra bởi bất kỳ gia tốc tương đối theo một đường thẳng (lực quán tính tịnh tiến), hai lực gây ra từ bất kỳ chuyển động quay nào (lực quán tính ly tâm và lực Coriolis) và lực cuối, còn gọi là lực Euler, gây ra bởi sự thay đổi tốc độ quay.
Lực quán tính trong các hệ quy chiếu phi quán tính
Trong hệ quy chiếu chỉ có gia tốc tịnh tiến
Gọi hệ quy chiếu là hệ quy chiếu phi quán tính chuyển động có gia tốc tịnh tiến so với hệ quy chiếu quán tính , mọi khối lượng trong hệ quy chiếu phải chịu tác động của lực quán tính tịnh tiến :
Trong hệ quy chiếu chỉ có chuyển động quay
Bài chi tiết : Hệ quy chiếu quay
Trong một hệ quy chiếu quay có tốc độ góc là so với hệ quy chiếu quán tính, mọi khối lượng phải chịu tác động của 3 lực quán tính còn lại:
Lực Coriolis
với là vectơ vận tốc của vật trong hệ quy chiếu quay.
Lực quán tính ly tâm
với là vectơ bán kính của vật trong hệ quy chiếu quay.
và Lực Euler
với là sự thay đổi vectơ tốc độ góc theo thời gian.
Trong hệ quy chiếu tổng quát
Với một hệ quy chiếu phi quán tính quay với vectơ tốc độ góc và tịnh tiến với gia tốc so với hệ quy chiếu quán tính , mọi khối lượng phải chịu tác động của 4 lực quán tính trên.
Gọi là tổng lực tác động lên vật trong hệ quy chiếu quán tính và là tổng lực tác động lên vật trong hệ quy chiếu phi quán tính , chúng ta có phương trình:
Xem thêm
Hệ quy chiếu
Hệ quy chiếu quay
Lực Euler
Lực quán tính ly tâm
Hiệu ứng Coriolis
Tham khảo
Lực quán tính
Lực
Cơ học cổ điển
Vật lý học
|
27175
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%8D%20Chu%E1%BB%91i
|
Họ Chuối
|
Họ Chuối (danh pháp khoa học: Musaceae) là một họ thực vật một lá mầm bao gồm các loài chuối và chuối lá. Các nghiên cứu so sánh gần đây về thể hạt và chuỗi gen cùng với các ứng dụng phép miêu tả theo nhánh đã đưa ra sự phân loại mới, nhưng vẫn hơi mâu thuẫn theo bộ của các thực vật có hoa. Tuy nhiên, bộ Gừng (Zingiberales) cho đến nay là bộ duy nhất chịu ảnh hưởng nhẹ bởi các nghiên cứu này.
Chi Musa đã được miêu tả lần đầu tiên bởi nhà thực vật thời kỳ tiền Linnaeus là Georg Eberhard Rumphius nhưng về hình thức thì nó chỉ được thiết lập trong lần xuất bản thứ nhất của tác phẩm Species Plantarum của Linnaeus năm 1753-tác phẩm là ranh giới giữa các tác phẩm thời kỳ tiền-Linnaeus và hậu-Linnaeaus. Khi viết Species Plantarum, Linnaeus chỉ biết có một loại chuối, khi ông có cơ hội nhìn thấy nó trong vườn kính của George Clifford gần Haarlem ở Hà Lan.
Loài "điển hình" của chi này, Musa paradisiaca L. đã dựa trên Musa Cliffortiana L. và được công bố năm 1736, về mặt kỹ thuật là tên gọi "tiền-Linnaeus" của Linnaeus. Musa paradisiaca thực ra không phải là một loài, mà là một loại cây lai mà ngày nay đã biết là giữa Musa (nhóm AAB) chuối lá 'Pháp' hay Musa x paradisiaca L. mà Linnaeus đã lựa chọn sai lầm để đặt tên loài cho một cây lai phức tạp, và nó là nền tảng của nhiều sự lộn xộn trong phân loại học của chi này mà vấn đề đó đã không được giải quyết trọn vẹn cho đến thập niên 1940 và 1950.
Cho đến tận năm 1862 thì Musa đã là chi duy nhất trong họ này. Năm 1862, Horaninow đã miêu tả Ensete nhưng chi này đã không nhận được sự công nhận rộng rãi cho đến khi Cheesman sửa lại vào năm 1947. Tình trạng của chi Musella vẫn còn có một số điểm gây mâu thuẫn. Musella lasiocarpa đã được xoay tròn trong khối phân loại, đầu tiên nó được cho vào chi Musa, sau đó vào chi Ensete và một lần nữa quay ngược trở lại chi Musa trước khi địa vị đại diện duy nhất cuối cùng của nó được thừa nhận, ít nhất là bởi một số học giả vào năm 1978.
Đặc điểm chung họ Chuối
Củ to, thân có căn hành, lá lớn, mọc xen. Có phác hoa dạng gié tạo thành buồng chuối ở tận ngọn.
Có rất nhiều hoa trong một buồng, có thể lên tới 19 ngàn hoa
Hoa sắp thành hai hàng tạo thành nải chuối.
Các hoa đực nằm ở nải trên ngọn (ngọn của buồng), còn ở gần cọng của phác hoa (gốc của buồng) là hoa lưỡng phái.
Hoa có 5 tiểu nhụy, bầu noãn 3 tâm bì tạo thành 3 buồng, mỗi buồng có nhiều tiểu noãn. Vòi nhụy duy nhất với nuốm hình chùy.
Trái là phì quả. Trái không hột gọi là trinh quả.
Thường trái có nhiều hột.
Phát sinh chủng loài
Cây phát sinh chủng loài của họ Chuối trong phạm vi bộ Gừng dưới đây lấy theo APG III.
Cây phát sinh chủng loài trong phạm vi họ Chuối lấy theo Pavla Christelová và ctv (2011)
Một vài hình ảnh về chuối
Ghi chú
Liên kết ngoài
Musaceae in L. Watson and M.J. Dallwitz (1992 onwards). The families of flowering plants: descriptions, illustrations, identification, information retrieval.
|
27180
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Musella
|
Musella
|
Musella là một chi hiện đã biết, chứa một hay hai loài (Musella lasiocarpa, M. splendida) trong họ Chuối (Musaceae) có nguồn gốc ở vùng đông nam châu Á, bao gồm cả tây nam Trung Quốc (các tỉnh Vân Nam và Quý Châu), Việt Nam, Lào và Myanmar. Sự phân loại này đã và vẫn tiếp tục gây ra nhiều vấn đề cho các nhà phân loại học và địa vị của nó vẫn còn có mâu thuẫn ít nhiều.
Loài thực vật này về hình thức lần đầu tiên được Franchet đặt tên năm 1889. Ông đặt nó vào chi Musa, với danh pháp Musa lasiocarpa, nhưng trong phần sau ông lại đặt tên là Musella. Năm 1947, Cheesman đã kiểm tra các mẫu cây ở Kew và với các chứng cứ tìm thấy, ông đã bình luận rằng "Nó có thể là bất cứ thứ gì, nhưng có lẽ không phải là Musa, theo nghĩa đen" và tuy thế nhưng ông lại tách nó ra để cho vào chi Ensete. Trong khi lưu ý rằng nghiên cứu sâu hơn nữa có thể tìm thấy là loài thực vật này đại diện cho một chi mới thì Cheesman lại tạo ra tổ hợp Ensete lasiocarpum khi rà soát lại chi Ensete trong các văn bản của ông vào năm 1947.
Norman Simmonds (1960) đã không đồng ý với Cheesman mặc dù ông đã biết rằng biểu hiện bề ngoài của loài cây này rất giống với chi Ensete. Tuy nhiên, Simmonds cũng lưu ý rằng "cấu trúc bao hoa (của nó) là tương tự như của Musa" và "các đặc trưng bao hoa là chẩn đoán quan trọng về chi". Mặc dù rõ ràng là ông trên thực tế chưa nhìn thấy mẫu cây còn sống nhưng Simmonds vẫn thích gọi nó là Musa lasiocarpa.
Các nhà phân loại học khác cho rằng loài cây này là bất thường đối với cả Musa và Ensete. Năm 1978, C. Y. Wu đã tái tạo thuật ngữ Musella để chỉ một chi riêng rẽ. John Kress tại Viện Smithsonia có (chưa công bố) các dữ liệu về hình thái học và phân tử để củng cố địa vị của Musella như là một chi riêng rẽ. Sự xuất bản của công trình có tuyên bố rõ ràng này hiện vẫn còn phải chờ.
Năm 2002 một loài mới của chi Musella là Musella splendida, đã được miêu tả ở Việt Nam (Valmayor và Lê Đình Danh, 2002).
Tham khảo
Cheeseman, E.E. 1947. Classification of the bananas (Phân loại chuối). Kew Bull. Số. 2: 97-106.
Simmonds, N. W. 1962. The evolution of the banana (Tiến hóa của chuối). Longmans, Green và Co., Ltd. London. 170 pp.
Valmayor, R.V., và Lê Đình Danh. 2002. Classification and characterization of "Musella splendida" sp. nov.(Phân loại và đặc trưng của loài "Musella splendida"). The Philippine Agricultural Scientist, 85(2): 204-209 (tái bản theo giấy phép và có ở dạng tập tin PDF tại InfoMusa, 11(2): 24-27).
Wu C.Y. 1976. Musella lasiocarpa. Iconographia Cormophytorum Sinicorum. Timus V; 580-582 (bằng tiếng Trung). Cũng có tại Florea Relpublicae Popularis Sinicaer, Tomus 16: 2, Bắc Kinh.
Liên kết ngoài
Chi Musella
Họ Chuối
Chi thực vật
|
27185
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/VA-111%20Shkval
|
VA-111 Shkval
|
Ngư lôi VA-111 Shkval (tiếng Nga: шквал, cơn gió mạnh) và các thế hệ sau của nó là ngư lôi siêu khoang hay ngư lôi siêu bọt, được phát triển bởi Hải quân Nga. Dù đạt tốc độ cực đại gần 370km/h, nhanh gấp 2,5 lần ngư lôi của Mỹ, song ngư lôi VA-111 Shkval Nga lại có quá nhiều những điểm yếu cố hữu khiến chúng bị coi là "cá mập giấy". Dù có tốc độ nhanh gấp nhiều lần đối thủ nhưng loại ngư lôi này rất ồn ào khi phóng đi khiến tàu ngầm trang bị loại ngư lôi này nhanh chóng bị đối phương phát hiện và tiêu diệt. Mặt khác do lao đi với tốc độ quá nhanh, tạo ra nhiều bọt khí xung quanh thân khiến cho việc truyền nhận tín hiệu điều khiển là bất khả thi. Tàu ngầm trang bị ngư lôi VA-111 Shkval còn phải tiếp cận thật gần mục tiêu vì tầm bắn của ngư lôi chỉ đạt 6,8 km, ít hơn rất nhiều so với tầm tác chiến 38 km của ngư lôi Mark-48 Mỹ. Việc cho tàu ngầm đến quá gần mục tiêu được coi là hành động tự sát khiến ngư lôi này độc đáo đột phá về công nghệ nhưng khó gây được hiệu quả thực chiến khi sử dụng.
Lịch sử hình thành và phát triển
Công việc thiết kế bắt đầu những năm 1960 khi viện nghiên cứu NII-24 được ra lệnh chế tạo một loại vũ khí có thể chống lại tàu ngầm nguyên tử. Năm 1969, GSKB-47 hợp nhất NII-24 thành viện nghiên cứu thủy cơ học ứng dụng; Shkval được cho là sản phẩm của sự hợp nhất này. Ngày 29-11-1977 hệ thống chống tàu ngầm dùng ngư lôi Shkval VA-111 được chấp nhận sử dụng trong Hải Quân.
Shkval được thiết kế để chống ngư lôi phóng từ tàu ngầm hạt nhân đối phương còn chưa bị phát hiện, diệt các mục tiêu chạy nhanh đang tới gần. Shkval cho phép những tàu ngầm, tàu chiến ồn ào tự vệ và diệt đối phương khi đối đầu với những tàu ngầm hiện đại chạy êm.
Shkval có tốc độ vượt trội so với ngư lôi thông thường, tốc độ của VA-111 vượt xa tốc độ của ngư lôi hiện có của NATO. Tốc độ cao của Shkval đạt được nhờ ứng dụng hiện tượng siêu khoang – ngư lôi chuyển động trong một bong bóng khí khổng lồ, làm giảm đáng kể lực ma sát và cho phép ngư lôi chuyển động ở tốc độc cực cao. Với đặc điểm trên, có thể coi Shkval là tên lửa dưới nước.
Shkval sử dụng động cơ tên lửa dưới nước nhiên liệu rắn. Loại động cơ này có lực đẩy rất lớn so với động cơ trên không. Đầu ngư lôi có bộ phận tạo siêu khoang đến nay vẫn bí mật, bộ phận này tạo ra siêu khoang. Có các càng chống vào thành khoang giúp ngư lôi luôn ở giữa khoang. Shkval sử dụng các ống phóng lôi thông dụng.
Khi ra khỏi ống phóng lôi 533 mm, VA-111 có tốc độ khởi động 50 hải lý / giờ. Nhanh chóng sau đó, tên lửa được kích hoạt và đẩy tốc độ lên tới 200 hải lý / giờ (theo một số báo cáo có thể lên tới trên 250 hải lý / giờ).
Tiếp sau Nga, một số quốc gia khác cũng cố gắng thiết kế ngư lôi siêu khoang cho riêng mình. Đức là quốc gia được biết đã có chương trình Barracuda vào năm 2004. Iran được cho là đã sử dụng thành công các ngư lôi siêu khoang trong tập trận năm 2006 và 2007.
Hải quân Nga sở hữu ngư lôi siêu khoang Skval từ năm 1977, nhưng vũ khí hải quân lợi hại này cũng có nhược điểm là không hiệu quả khi sử dụng từ tàu ngầm. Độ ổn và nhiễu thủy âm của nó khi hoạt động sẽ làm bộc lộ ngay tức khắc vị trí tàu ngầm sử dụng loại vũ khí này. Ngoài ra, độ sâu hoạt động của ngư lôi Skval chỉ ở 30m.
Đặc tính tác chiến
Hiện có ít nhất ba loại Va-111 Shkval khác nhau:
VA-111 Shkval – loại nguyên thủy; không có hệ thống hướng dẫn (hoặc có hệ thống theo dõi đường phóng, nhưng không chỉnh hướng được dễ dàng)
"Shkval 2" – loại hiện hành; có hệ thống hướng dẫn, có thể qua hệ thống phản lực định hướng (vectored thrust), và tầm hoạt động xa hơn
Shkval 3 "loại nhẹ" xuất khẩu bán cho hải quân các nước khác, năm 1992.
Hiện tất cả các loại Shakval được trang bị đầu đạn nổ thường, và tuy có thể trang bị đầu đạn hạt nhân, nhưng hiện chưa được ai chứng minh là đã có loại đầu đạn hạt nhân.
Chiều dài: 8,2 m (26 ft 11 in)
Đường kính: 0,533 m (1 ft 9 in)
Trọng lượng: 2.700 kg (5.953 cân Anh)
Trọng lượng đầu nổ: 210 kg (463 cân Anh)
Tốc độ tối đa: 360 km/h (200 hải lý/giờ), có thể hơn
Tốc độ ra khỏi ống phóng: 93 km/h (50 hải lý/giờ)
Tầm bắn: khoảng 6.858 m (7.500 yard)
Xem thêm
Trang FAS về Tên lửa dưới biển VA-111
Trang kính tiềm vọng quân đội
http://missiles.ru/foto_Shkval.htm
http://www.diehl-bgt-defence.de/
http://www.swissroller.ch/swissroller%20weisheiten_torpedo.htm
http://www.spektrumderwissenschaft.de/artikel/827868
Tham khảo
Hải quân Nga
Ngư lôi
Ngư lôi Nga
|
27186
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/D%C3%A3%20th%E1%BB%B1
|
Dã thự
|
Dã thự (野墅) là một bài thơ của Trần Quang Khải, được viết vào thời nhà Trần. Hiện còn một bản lưu truyền của Ngô Tất Tố. Bài thơ này đại ý tả cảnh một ngôi biệt thự mới được xây ở đồng quê, cảnh tượng mới mẻ, cây trái tươi tốt, bốn mùa như mùa xuân. Ban đêm có khi ánh trăng và tiếng còi mục đồng vọng lên chòi canh, ban ngày mây hòa theo bóng áo ngườì nông dân bên đồng lúa. Đường sá thì quanh co uốn khúc nhưng tiện lợi, quỷ thần cũng phải bảo nhau nơi đây đáng thật là nơi ở ẩn.
Nguyên bản Hán văn
野墅初開景相新,
芬菲桃李四時春。
一聲牛笛青樓月,
幾片農蓑碧隴雲。
路挽羊腸通紫陌,
溪分燕尾斷紅塵。
鬼神暗地偷相語,
一段風光可隱君。
Phiên âm
Dã thự sơ khai cảnh tướng tân,
Phân phi đào lý tứ thời xuân.
Nhất thanh ngưu địch thanh lâu nguyệt,
Kỷ phiến nông thoa bích lũng vân.
Lộ vãn dương trường thông tử mạch
Khe phân yến vỹ đoạn hồng trần
Quỷ thần ám địa thâu tương ngữ
Nhất đoạn phong quang khả ẩn quân
Chú thích
Việt Nam Văn Học: Văn Học Đời Trần (VHĐT), Ngô Tất Tố, Nhà xuất bản Đại Nam, Khai Trí, Sàigòn, 1960, trang 92. Bản điện tử truy cập tháng 1 năm 2006.
Tham khảo
Trần Quang Khải
Bài thơ Việt Nam
Thơ chữ Hán
|
27188
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Xu%C3%A2n%20nh%E1%BA%ADt%20h%E1%BB%AFu%20c%E1%BA%A3m
|
Xuân nhật hữu cảm
|
Xuân nhật hữu cảm I, II (春日有感) là hai bài thơ của Trần Quang Khải, được viết vào thời nhà Trần. Hiện còn hai bản lưu truyền của Ngô Tất Tố. Bài thứ nhất đại ý nói mùa xuân, một người đóng chặt cửa, ngồi nhìn mưa bụi bay trên hoa mai, nghĩ đến ba phần ngày xuân đà bỏ phí hết hai, nay năm mươi biết sức đã suy, nhưng hào khí ngày nào vẫn còn, dùng vào chi hơn là đè ngọn gió Đông mà làm một bài thơ. Bài thứ hai nói cảnh đêm xuân gần tàn, dưới bóng trăng mờ thấy hơi lành lạnh ngọn gió đưa đến, sáng ra mấy chùm bông liễu trên không bay lạc vào gác, vài cành trúc đập vào hiên như muốn quấy rầy giấc ngủ, xa xa hình như đang mưa, trong gió đưa lại hơi mát làm mọi sự tươi tỉnh. Người sực nhớ giật mình, thấy mình không còn xuân trẻ, nay chỉ có ba chén rượu giải sầu, nhưng khi say cầm vỗ lại thanh gươm thời trẻ, thấy nhớ ngọn núi xưa nơi đã tung hoành một thời.
Nguyên bản Hán văn và phiên âm, bài I
Nguyên bản Hán văn và phiên âm, bài II
Chú thích
Việt Nam Văn Học: Văn Học Đời Trần (VHĐT), Ngô Tất Tố, Nhà xuất bản Đại Nam, Khai Trí, Sàigòn, 1960, trang 94-95.
Tham khảo
Bài thơ Việt Nam
Thơ chữ Hán
|
27196
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Konstantin%20Konstantinovich%20Rokossovsky
|
Konstantin Konstantinovich Rokossovsky
|
Konstantin Konstantinovich Rokossovsky (tiếng Nga: Константин Константинович Рокоссовский, tiếng Ba Lan: Konstanty Rokossowski), tên khai sinh là Konstantin Ksaveryevich Rokossovsky, (21 tháng 12 năm 1896 – 3 tháng 8 năm 1968) là một chỉ huy cao cấp của Hồng quân Liên Xô trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Ông cũng là người duy nhất hai lần được phong Nguyên soái, Nguyên soái Liên Xô năm 1944 và sau đó là Nguyên soái Ba Lan năm 1949.
Tiểu sử
Konstantin Rokossovsky sinh năm 1896 tại thủ đô Warszawa của Ba Lan, tuy nhiên cũng có tài liệu cho rằng ông sinh tại thành phố Velikiye Luki ở Tây Bắc Đế quốc Nga và gia đình ông chỉ chuyển về Warszawa một thời gian sau đó. Dòng họ Rokossovsky vốn thuộc dòng dõi quý tộc Ba Lan (Szlachta) từng sản sinh ra nhiều kỵ sĩ nổi tiếng, nhưng bố của Konstantin, ông Ksawery Wojciech Rokossowski, chỉ là một công nhân xe lửa Ba Lan làm việc ở Nga, còn mẹ ông là người Nga chính gốc.
Năm 14 tuổi, Konstantin Rokossovsky trở thành trẻ mồ côi và bắt đầu phải kiếm sống bằng cách làm việc trong nhà máy và sau đó là thợ đá học việc ở Warszawa.
Sự nghiệp
Trước Chiến tranh thế giới thứ hai
Khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ năm 1914, Rokossovsky đã gia nhập quân đội của Đế quốc Nga và phục vụ trong lực lượng kỵ binh. Ngay sau khi Cách mạng tháng Mười thành công năm 1917, ông gia nhập Đảng Bolshevik và Hồng quân. Trong Nội chiến Nga (1918), Rokossovsky được thăng chức chỉ huy và nhận nhiệm vụ chống lại quân Bạch vệ của tướng Aleksandr Kolchak rồi nhận được huân chương vì chiến đấu dũng cảm. Năm 1920, Rokossovsky tiếp tục tham gia Chiến tranh Nga - Ba Lan chống lại quân đội của tư sản quý tộc Ba Lan .
Sau đó Rokossovsky vào học tại Học viện Quân sự Frunze và trở thành chỉ huy kỵ binh cao cấp của Hồng quân. Trong thập niên 1920 sư đoàn của ông đóng ở Mông Cổ, năm 1929 với sự đồng ý của Chính phủ Trung Quốc, ông đã tham gia việc bảo vệ biên giới phía Đông của nước này khỏi các lực lượng phiến quân.
Vào đầu thập niên 1930, Rokossovsky là một trong số những chỉ huy Hồng quân đầu tiên nhận thấy tầm quan trọng của việc đột kích bằng lực lượng thiết giáp, ông bắt đầu ủng hộ ý tưởng thành lập một đội ngũ tăng thiết giáp mạnh làm nòng cốt cho Hồng quân. Vì suy nghĩ có tính đột phá này, Rokossovsky gặp phải xung đột với một số vị chỉ huy kì cựu của Hồng quân, đặc biệt là Nguyên soái Semyon Budyonny, người vẫn ủng hộ chiến thuật sử dụng kỵ binh.
Rokossovsky tiếp tục giữ vị trí chỉ huy cao cấp cho đến năm 1937, khi ông bị kết tội "liên lạc với tình báo ngoại quốc" trong cuộc Đại thanh trừng. Ông bị tống giam, tra hỏi và sau đó bị chuyển vào một trại lao động ở Norilsk. Tháng 3 năm 1940, Rokossovsky được thả mà không rõ lý do, có lẽ là vì yêu cầu chuẩn bị gấp gáp của Hồng quân trước nguy cơ bùng nổ của chiến tranh. Sau một thời gian an dưỡng ở thành phố biển Sochi, ông được khôi phục quân hàm và giữ chức tư lệnh một quân đoàn ở Quân khu Kiev.
Chiến tranh thế giới thứ hai
Khi quân đội Đức Quốc xã bắt đầu Chiến dịch Barbarossa tấn công Liên Xô tháng 6 năm 1941, Rokossovsky được cử làm Tư lệnh Tập đoàn quân số 16 đóng ở Smolensk. Trong những trận giao tranh quyết liệt mùa Đông 1941 - 1942, tập đoàn quân của ông đã đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ thủ đô Moskva.
Đầu năm 1942 Rokossovsky được chuyển đến Phương diện quân Bryansk để chỉ huy cánh phải của đơn vị này. Trong Trận Stalingrad, Rokossovsky, lúc này là Tư lệnh Phương diện quân Sông Don, đã chỉ huy cuộc phản công ở cánh phía Bắc của Hồng quân dẫn đến việc bao vây Tập đoàn quân 6 Đức Quốc xã của Thống chế Friedrich Paulus dẫn đến chiến thắng quan trọng bậc nhất của Liên Xô trong Chiến tranh giữ nước vĩ đại.
Năm 1943, ông được cử làm Tư lệnh Phương diện quân Trung tâm và thực hiện thành công nhiệm vụ bảo vệ trận địa của Hồng quân trong Trận Kursk. Sau đó ông lại tiếp tục phụ trách cuộc phản công ở phía Tây Kursk dẫn đến làm thất bại hoàn toàn cuộc tấn công lớn cuối cùng của quân Đức và mở đường cho Hồng quân tiến về Kiev. Phương diện quân Trung tâm được đổi tên thành Phương diện quân Belorussia 1 có nhiệm vụ giải phóng Belarus và tiến vào Ba Lan giữa năm 1944. Nhờ những chiến công trên mặt trận, Rokossovsky được phong hàm Nguyên soái Liên bang Xô viết ngày 29 tháng 6 năm 1944.
Tháng 11 năm 1944, Rokossovsky được chuyển sang làm Tư lệnh Phương diện quân Belorussia 2. Theo hồi ký của Rokossovsky, ông đã cho rằng đây là một sự giáng chức từ chỉ huy hướng tấn công chính sang hướng tấn công phụ và đã hỏi I. V. Stalin cho ra nhẽ. Stalin đã hồi đáp rằng cả ba hướng tấn công của các phương diện quân Belorussia 2, Belorussia 1 và Ukraina 1 đều nằm trong một khu vực tác chiến tổng thể, đòi hỏi cả 3 phương diênj quân phải phối hợp chặt chẽ với nhau và "Nếu đồng chí và Konev không tiến lên được, Zhukov cũng sẽ không tiến lên được.". Còn trong cuộc nói chuyện riêng với trung tướng tình báo Nikolai Zheleznikov, Rokossovsky đã nói thẳng hơn, ông cho biết Xtalin đã quyết định cho Zhukov vinh dự tấn công Berlin và giải thích rằng "Đó không phải là một sự thiên vị - đó là chính trị."..
Phương diện quân Belorussia 2 dưới sự chỉ huy của Rokkosovsky đã tiến vào Đông Phổ và vượt qua miền Bắc Ba Lan tiến vào thành phố Szczecin trên Sông Oder, góp phần đánh tan các khối quân lớn của phát xít Đức tại Đông Phổ và Pomerania. Trong chiến dịch Berlin, phương diện quân của Rokkosovsky đánh bại Tập đoàn quân xe tăng 3 (Đức) tại Stettin, đẩy lui quân Đức về Mecklenburg và khiến cho đạo quân này không thể tiếp ứng cho Berlin. Cuối tháng 4 năm 1945 lực lượng Hồng quân do Rokossovsky chỉ huy hội quân cùng lực lượng của Thống chế Anh Bernard Montgomery ở miền Bắc nước Đức trong khi các lực lượng Liên Xô khác do Georgy Zhukov và Ivan Konev chỉ huy tiêu diệt những lực lượng Đức Quốc xã cuối cùng ở Berlin.
Sau chiến tranh
Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Rokossovsky tiếp tục là Tư lệnh các lực lượng vũ trang Xô viết đóng tại Ba Lan. Tháng 10 năm 1949, sau khi Chính phủ Cộng sản do Bolesław Bierut thành lập ở Ba Lan, Rokossovsky được cử làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Ba Lan và được phong quân hàm Nguyên soái Ba Lan. Năm 1952 ông trở thành Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (tương đương Phó Thủ tướng Chính phủ) Ba Lan. Tuy là một người Ba Lan, nhưng Rokossovsky đã sống và làm việc ở Liên Xô 35 năm và phần lớn người Ba Lan coi ông là một phái viên của Liên Xô ở Ba Lan chứ không phải một người Ba Lan thực sự nhất là khi Rokossovsky nói tiếng Ba Lan không được tốt và thậm chí còn ra lệnh cho các binh sĩ Ba Lan gọi ông bằng cái tên tiếng Nga. Bản thân Rokossovsky cũng từng công nhận khá chua chát rằng: "Ở Nga người ta nói tôi là người Ba Lan, còn ở Ba Lan mọi người lại gọi tôi là người Nga".
Sau khi Władysław Gomułka trở thành Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Ba Lan, Rokossovsky rời Ba Lan về Liên Xô giữ chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Liên Xô và Tư lệnh Quân khu Ngoại Kavkaz. Năm 1958 ông trở thành Tổng Thanh tra Bộ Quốc phòng và nghỉ hưu tháng 4 năm 1962.
Theo lời kể của nguyên soái tư lệnh không quân A. Golovanov, vào năm 1962 khi N. S. Khruschyov yêu cầu Rokossovsky viết một bài báo phê phán Stalin theo tinh thần của nghị quyến Đại hội XX, Rokossovsky đã trả lời rằng: "Nikita Sergeevich [Khruschyov] à, đối với tôi đồng chí Stalin là một vị thánh !". Tuy nhiên, người cháu trai của Rokossovsky, Konstantin Vilyevich, nói rằng nguyên soái không hề nói gì về Stalin với người trong gia đình, không biết được ông nghĩ gì về Tổng tư lệnh tối cao và câu chuyện trên chỉ là một giai thoại.
Konstantin Rokossovsky mất ngày 3 tháng 8 năm 1968 ở tuổi 74, ông được chôn cất tại chân tường của Điện Kremlin bên cạnh hầu hết các vị Nguyên soái khác của Hồng quân.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Bài phát biểu của Rokossovski tại Quốc hội Ba Lan năm 1949
Chú thích
Tham khảo
Nguyên soái Ba Lan
Anh hùng Liên Xô
Nhân vật trong Thế chiến thứ hai
Chiến dịch Stalingrad
Quân nhân Nga Thế chiến thứ nhất
|
27204
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n%20%C4%90%C3%ACnh%20Thi
|
Nguyễn Đình Thi
|
Nguyễn Đình Thi (1924–2003) là một nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình văn học và nhạc sĩ Việt Nam thời hiện đại.
Tiểu sử
Ông sinh ngày 20 tháng 12 năm 1924 ở Luang Prabang (Lào). Tuy nhiên, nguyên quán của ông là ở làng Vũ Thạch, nay là phố Bà Triệu, phường Tràng Tiền, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Cha ông là một viên chức Sở bưu điện Đông Dương, từng sang làm việc ở Lào.
Những năm 1940 ông tham gia Tổ Văn hóa Cứu quốc. Năm 1945 ông tham dự Quốc dân Đại hội Tân Trào, sau đó được bầu làm Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I. Sau Cách mạng Tháng Tám, Nguyễn Đình Thi làm Tổng thư ký Hội Văn hóa cứu quốc.
Ông thuộc thế hệ các nghệ sĩ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp. Ông viết sách khảo luận triết học, viết văn, làm thơ, soạn nhạc, soạn kịch, viết lý luận phê bình. Ông được nhà nước phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt I năm 1996.
Sau năm 1954 ông tham gia công tác quản lý văn học nghệ thuật. Từ năm 1958 đến năm 1989 làm Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam. Từ năm 1995, ông là Chủ tịch Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật.
Ông có con trai là nhà văn nổi tiếng Nguyễn Đình Chính.
Ông mất ngày 18 tháng 4 năm 2003 tại Hà Nội và an táng tại Nghĩa trang Mai Dịch. Từ đó đến nay, ông được đặt tên cho 1 con phố ở Hà Nội. Năm 2012 đến nay, 1 con đường ở phường Nam Lý, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình cũng được mang tên ông.
Tác phẩm
Triết luận
Triết học nhập môn (1942)
Triết học Kant (1942)
Triết học Nietzsche (1942)
Triết học Einstein (1942)
Triết học Descartes (1942)
Siêu hình học (1942)
Truyện, văn xuôi
Xung kích (1951)
Thu đông năm nào (1954)
Bên bờ sông Thao (tập truyện ngắn, 1957)
Cái Tết của mèo con (truyện thiếu nhi, 1961)
Vào lửa (1966)
Mặt trận trên cao (1967)
Vỡ bờ (tập I năm 1962, tập II năm 1970)
Trên sóng thời kỳ (tập bút ký, 1996)
Tuyết (tập truyện ngắn, 2003)
Tiểu luận
Mấy vấn đề văn học (1956)
Một số vấn đề đấu tranh tư tưởng trong văn nghệ hiện nay (1957)
Công việc của người viết tiểu thuyết (1964)
Thơ
Người tử sĩ (1958)
Bài thơ Hắc Long (1958)
Dòng sông trong xanh (1974)
Tia nắng (1985)
Trong cát bụi (1992)
Sóng reo (2001)
Đất nước (1948 - 1955). (Đã được nhạc sĩ Đặng Hữu Phúc phổ thành bản Giao Hưởng - Hợp xướng cùng tên "Đất nước" Biểu diễn lần đầu tiên tại Nhà hát Lớn Hà Nội ngày 1 tháng 9/2009, Do chính Đặng Hữu Phúc chỉ huy Dàn nhạc - Hợp xướng Nhà hát Nhạc vũ kịch VN)
Việt Nam quê hương ta
Lá đỏ
Kịch
Con nai đen (1961)
Hoa và Ngần (1975)
Giấc mơ (1983)
Rừng trúc (1978)
Nguyễn Trãi ở Đông Quan (1979)
Người đàn bà hóa đá (1980)
Tiếng sóng (1980)
Cái bóng trên tường (1982)
Trương Chi (1983)
Hòn Cuội (1983 - 1986)
Nhạc
Người Hà Nội (1947)
Diệt phát xít (1945)
Tham khảo
Liên kết ngoài
Nguyễn Đình Thi - người nghệ sĩ đa tài
Sáu mươi năm vang vọng một bài ca
Nhà thơ Việt Nam thời kỳ 1945–1975
Nhà văn Việt Nam thời kỳ 1945–1975
Nhạc sĩ nhạc đỏ
Người Hà Nội
Nhà viết kịch Việt Nam
Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I
Học sinh trường Bưởi
Cựu học sinh trường Bonnal - Ngô Quyền, Hải Phòng
Người nhận giải thưởng Hồ Chí Minh
Nhà soạn nhạc Việt Nam
Sinh năm 1924
Mất năm 2003
Nhà văn Việt Nam
Người họ Nguyễn tại Việt Nam
Nhạc sĩ nhạc đỏ
|
27205
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n%20Kh%E1%BA%A3i%20%28nh%C3%A0%20v%C4%83n%29
|
Nguyễn Khải (nhà văn)
|
Nguyễn Khải (tên khai sinh: Nguyễn Mạnh Khải; 3 tháng 12 năm 1930 - 15 tháng 1 năm 2008), là một nhà văn người Việt Nam được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh và là một trong những gương mặt nổi bật của thế hệ nhà văn trưởng thành sau cách mạng tháng 8 năm 1945. Ông là đại biểu Quốc hội khóa VII; Phó Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam khóa III.
Tiểu sử
Quê nội Nguyễn Khải ở thành phố Nam Định nhưng tuổi nhỏ sống ở nhiều nơi. Đang học trung học thì gia nhập Cách mạng tháng Tám. Trong Kháng chiến chống Pháp, ông gia nhập đội tự vệ chiến đấu ở thị xã Hưng Yên, sau đó vào bộ đội, làm y tá rồi làm báo. Bắt đầu viết văn từ những năm 1950, được chú ý từ tiểu thuyết Xung đột (phần I năm 1959, phần II năm 1962).
Sau năm 1975 Nguyễn Khải chuyển vào sinh sống tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ông rời quân đội năm 1988 với quân hàm đại tá để về làm việc tại Hội Nhà văn Việt Nam. Nguyễn Khải từng là Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các khóa 2, 3 và là Phó tổng thư ký khóa 3. Ông là Đại biểu Quốc hội khóa VII.
Nguyễn Khải mất ngày 15 tháng 1 năm 2008 tại Thành phố Hồ Chí Minh do bệnh tim. Ông có ba người con, hai trai một gái, trong đó người con trai út là Nguyễn Khải Hoàn, Chủ tịch Tập đoàn bất động sản Khải Hoàn Land.
Sự nghiệp
Chủ đề các tác phẩm của Nguyễn Khải khá phong phú: về nông thôn trong quá trình xây dựng cuộc sống mới, về bộ đội trong những năm chiến tranh chống Mỹ, về những vấn đề xã hội-chính trị có tính thời sự và đời sống tư tưởng, tinh thần của con người hiện nay trước những biến động phức tạp của đời sống.
Sáng tác của Nguyễn Khải thể hiện sự nhạy bén và cách khám phá riêng của nhà văn với các vấn đề xã hội, năng lực phân tích tâm lý sắc sảo, sức mạnh của lý trí tỉnh táo. Năm 1982, Nguyễn Khải nhận Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam với tiểu thuyết Gặp gỡ cuối năm. Năm 2000, nhà văn được phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt II về Văn học nghệ thuật.
Tác phẩm Mùa lạc của Nguyễn Khải thường được trích dạy trong sách giáo khoa phổ thông môn Văn học nhiều năm qua. Trong bộ sách giáo khoa Ngữ văn bộ mới (lớp 12), tác phẩm này được thay bằng Một người Hà Nội, cũng là một truyện ngắn xuất sắc của ông.
Tác phẩm
Ông sáng tác nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, ký sự, kịch. Trong đó, Nguyễn Khải để dấu ấn qua nhiều tác phẩm như: Xung đột (1959-1962), Mùa lạc (tập truyện ngắn, 1960), Thời gian của người (1985)... Tác phẩm tiểu thuyết Thượng đế thì cười (2003), mang giọng văn hồi ký về cuộc đời viết lách của ông.Tác phẩm cuối cùng của ông là tuỳ bút Đi tìm cái tôi đã mất (2006) ghi lại những trăn trở của Nguyễn Khải vào những năm cuối đời.
Các tác phẩm nổi bật của Nguyễn Khải
Mùa xuân ở Chương - Mỹ (1954)
Người con gái quang vinh (1956)
Xung đột (truyện, 1959)
Mùa lạc (tập truyện ngắn, 1960)
Hãy đi xa hơn nữa (truyện vừa, 1963)
Người trở về (tập truyện vừa, 1964)
Họ sống và chiến đấu (ký sự, 1966)
Hoà - Vang (bút ký, 1967)
Đường trong mây (tiểu thuyết, 1970)
Ra đảo (1970)
Chủ tịch huyện (truyện, 1972)
Chiến sĩ (tiểu thuyết, 1973)
Tháng ba Tây nguyên (ký, 1976)
Cách mạng (kịch, 1978)
Gặp gỡ cuối năm (tiểu thuyết, 1982)
Thời gian của người (1985)
Điều tra về một cái chết (tiểu thuyết, 1986)
Vòng sống đến vô cùng (truyện, 1987)
Một cõi nhân gian bé tí (tiểu thuyết, 1989)
Một người Hà Nội (tập truyện ngắn, 1990)
Cha và các con và... (tiểu thuyết, 1990)
Sư già chùa Thắm và ông đại tá về hưu (tập truyện vừa, 1993)
Một thời gió bụi (truyện ngắn, 1993)
Hà Nội trong mắt tôi (tập truyện ngắn, 1995)
Chút phấn của đời (truyện ngắn và kịch, 1999)
Chuyện nghề (1999)
Nắng chiều (tập truyện ngắn, 2001)
Hãy đi xa hơn nữa (tập truyện ngắn thiếu nhi, 2002)
Mẹ và các con (tập truyện ngắn thiếu nhi, 2002)
Sống ở đời (tập truyện, 2003)
Ký sự & Kịch (2003)
Thượng đế thì cười (tiểu thuyết, 2003)
Nghề văn cũng lắm công phu (truyện - tạp văn, 2003)
Vòng tròn trống rỗng (kịch, 2003)
Một chặng đường (tiểu thuyết, 2005)
Đi tìm cái tôi đã mất (tùy bút, 2006)
Các tác phẩm khác của ông có thể kể tới: Ước gì tôi được trẻ lại, Tự bạch, Người ngu, Người mơ mộng, Nếp Nhà, Má Hồng, Đời khổ, Đất Mỏ, Đàn ông, Đàn bà, Đã từng có ngày vui, Chị Mai, Cái thời lãng mạn, Buổi sớm mai, Bố con, Bảy đô một đêm, Bắt đầu từ một câu nói, Bạn viết cũ, Anh Thanh Tịnh, Đứa con nuôi,...
Giải thưởng
Trong suốt sự nghiệp, Nguyễn Khải đã nhận nhiều giải thưởng văn học như: Giải thưởng Văn học Lê Thanh Nghị (Liên khu III, 1951), Giải thưởng Văn nghệ Việt Nam (1951-1952), Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam (1982), Giải thưởng Văn học Đông Nam Á (2000), Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật (đợt II - 2000) và Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng.
Tham khảo
Liên kết ngoài
"Đi tìm cái tôi đã mất"
Vĩnh biệt nhà văn Nguyễn Khải, Vietnamnet 20:39' 15/01/2008 (GMT+7)
[http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/gioi-sao/trong-nuoc/tac-gia-mua-lac-qua-doi-1895459.html Tác giả 'Mùa lạc' qua đời], Thoại Hà, VnExpress 16/1/2008 08:51 GMT+7
Nhà văn Việt Nam thời kỳ 1945–1975
Nhà văn Việt Nam thời kỳ từ 1976
Người Hà Nội
Người Nam Định
Người nhận giải thưởng Hồ Chí Minh
Đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam
Sinh năm 1930
Mất năm 2008
Nhà văn Việt Nam
Người họ Nguyễn tại Việt Nam
|
27209
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n%20M%E1%BA%A1nh%20Kh%E1%BA%A3i
|
Nguyễn Mạnh Khải
|
Nguyễn Mạnh Khải có thể là:
Tên khai sinh của nhà văn Nguyễn Khải, tác giả truyện ngắn Mùa lạc
Thiếu tướng Nguyễn Mạnh Khải, Cục trưởng Cục Phòng không Lục quân, Quân chủng Phòng không - Không quân, Quân đội nhân dân Việt Nam (2018-nay)
|
27212
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A3o%20ch%C3%ADnh
|
Đảo chính
|
Đảo chính hay đảo chánh (), còn gọi là chính biến hay chánh biến, là việc lật đổ một chính phủ bằng cách dùng những biện pháp vi hiến. Đảo chính hiện hành khi mà chính quyền bị lật đổ không còn nhận được sự ủng hộ của những lực lượng tham gia đảo chính. Một cuộc đảo chính có thể dùng bạo lực hay không bạo lực.
Trong chính trị, cách mạng và đảo chính có những điểm giống và khác với nhau: Cách mạng và đảo chính đều được tiến hành nhằm lật đổ chế độ chính trị cũ, nhưng khác nhau ở mục tiêu sau đó: cách mạng là thay chế độ cũ bằng 1 chế độ mới tiến bộ hơn về cơ cấu và tính chất, còn đảo chính là thay thế 1 chính quyền này bằng 1 chính quyền khác có bản chất giống như cũ. Một cuộc đảo chính thường chỉ được thực hiện bởi một nhóm lãnh đạo nhắm vào một nhóm các lãnh đạo khác, trong khi một cuộc cách mạng thường được tổ chức bởi phần lớn quần chúng xã hội và thường lật đổ cả thể chế chính trị cũ của quốc gia.
Chữ "coup d'état" là một nhóm từ ngữ tiếng Pháp, có nghĩa là "đánh nhà nước". Trong một số ngôn ngữ, từ "putsch" vốn là tiếng Đức cũng được dùng, sau cuộc đảo chính không thành của Adolf Hitler tại München trong năm 1923.
Nguồn gốc tên gọi
Tiếng Pháp
Albert Vandal định nghĩa coup d'État là "một hành động bạo lực của một phần công quyền chống lại phần còn lại". Định nghĩa này dựa trên sự quan sát từ ba "coups d'État", cuộc đảo chính 18 fructidor năm V, cuộc đảo chính 18 Brumaire năm VIII và cuộc đảo chính ngày 2 tháng 12 năm 1851. Cả ba cuộc đảo chính này đều do thành phần hành pháp thực hiện chống lại thành phần lập pháp.
Tiếng Việt
Đảo chính (chữ Hán: 倒政) là một từ Hán Việt. Chữ đảo trong đảo lộn, đảo ngược, có nghĩa là "lật" hay "đổ"; chữ chính trong chính phủ, chính trị, chính quyền, có nghĩa là nắm quyền lực cai trị. Do vậy đảo chính ở đây có thể hiểu là "lật đổ chính quyền".
Tránh nhầm lẫn với từ đảo chính (島正) mang nghĩa là "hòn đảo chính của một quần đảo", do chữ Quốc ngữ chỉ có thể biểu âm, không có khả năng biểu nghĩa được như chữ Hán và chữ Nôm khi có từ đồng âm khác nghĩa.
Ví dụ
Đảo chính quán bia
Cuộc đảo chính Xô viết năm 1991
Cuộc đảo chính ở Kyrgyzstan tháng 3 năm 2005
Cuộc đảo chính lật đổ Tổng thống Chile Salvador Allende năm 1973 do tướng Augusto Pinochet lãnh đạo.
Cuộc đảo chính ở Haiti năm 1986.
Đảo chính Thái Lan 2006
Đảo chính Thổ Nhĩ Kỳ 2016
Đảo chính Myanmar 2021
Lịch sử
Theo thống kê của Clayton Thyne và Jonathan Powell, đã có 457 cuộc đảo chính từ 1950 đến 2010, trong đó 227 (49,7%) thành công và 230 (50,3%) không thành công. Họ nhận thấy rằng cuộc đảo chính "phổ biến nhất ở châu Phi và châu Mỹ (tương ứng là 36,5% và 31,9%). Châu Á và Trung Đông đã trải qua lần lượt 13,1% và 15,8% tổng số đảo toàn cầu. số lần đảo chính: 2,6%. " Hầu hết các nỗ lực đảo chính xảy ra vào giữa những năm 1960, nhưng cũng có nhiều nỗ lực đảo chính vào giữa những năm 1970 và đầu những năm 1990. Cuộc đảo chính thành công đã giảm theo thời gian. Chính biến xảy ra trong thời kỳ sau Chiến tranh Lạnh có nhiều khả năng dẫn đến các hệ thống dân chủ. Chính biến xảy ra trong cuộc nội chiến rút ngắn thời gian chiến tranh. Nghiên cứu cho thấy rằng các cuộc biểu tình thúc đẩy cuộc đảo chính, khi họ giúp giới tinh hoa trong bộ máy nhà nước để phối hợp các cuộc đảo chính.
Loại
Một nghiên cứu năm 2016 phân loại các cuộc đảo chính thành bốn kết quả có thể xảy ra:
Cuộc đảo chính thất bại
Không có thay đổi chế độ, chẳng hạn như khi một nhà lãnh đạo bất hợp pháp xáo trộn quyền lực mà không thay đổi danh tính của nhóm trong quyền lực hoặc các quy tắc quản lý
Thay thế chế độ độc tài đương nhiệm hoặc chế độ, chính phủ hiện tại bằng thể chế chính trị khác
Thay thế chế độ độc tài này bằng một chế độ độc tài khác
Tham khảo
Chuyển giao quyền lực chính trị
|
27216
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%A0%20Tri%E1%BB%87u
|
Bà Triệu
|
Bà Triệu (chữ Hán: 趙婆, còn gọi là Triệu Ẩu, Triệu Trinh Nương, Triệu Thị Trinh hay Triệu Quốc Trinh, 08 tháng 11, 226 – 04 tháng 04, 248) là một thủ lĩnh kháng chiến thế kỷ thứ 3 tại Việt Nam.
Bối cảnh
Năm 226, Sĩ Nhiếp mất, vua Đông Ngô là Tôn Quyền bèn chia đất từ Hợp Phố về bắc thuộc Quảng Châu dùng Lã Đại làm thứ sử; từ Hợp Phố về nam là Giao Châu, sai Đới Lương làm thái thú; và sai Trần Thì làm thái thú quận Giao Chỉ. Lúc bấy giờ, con của Sĩ Nhiếp là Sĩ Huy tự nối ngôi và xưng là thái thú, liền đem binh chống lại.
Thứ sử Lã Đại bèn xua quân sang đánh. Do nghe lời chiêu dụ, Sỹ Huy cùng năm anh em ra hàng. Lã Đại đem chém tất cả rồi đem đầu gửi về Vũ Xương. Dư đảng của Sỹ Huy tiếp tục chống lại, khiến Lã Đại mang quân vào Cửu Chân giết hại một lúc hàng vạn người.
Cuộc đời và sự nghiệp
Triệu Thị Trinh sinh ngày 2 tháng 10 năm Bính Ngọ (8 tháng 11 năm 226) tại miền núi Quan Yên (hay Quân Yên), quận Cửu Chân, nay thuộc làng Quan Yên (hay còn gọi là Yên Thôn), xã Định Tiến, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa.
Từ nhỏ, bà sớm tỏ ra có chí khí hơn người. Khi cha bà hỏi về chí hướng mai sau, tuy còn ít tuổi, bà đã rắn rỏi thưa: “Lớn lên con sẽ đi đánh giặc như bà Trưng Trắc, Trưng Nhị”. Cha mẹ đều mất sớm, Bà Triệu đến ở với anh là Triệu Quốc Đạt, một hào trưởng ở Quan Yên.
Lớn lên, bà là người có sức mạnh, giỏi võ nghệ, lại có chí lớn. Đến năm 19 tuổi gặp phải người chị dâu (vợ ông Đạt) ác nghiệt, bà giết chị dâu rồi vào ở trong núi Nưa (nay thuộc các thị trấn Nưa huyện Triệu Sơn, xã Mậu Lâm huyện Như Thanh, xã Trung Thành huyện Nông Cống, Thanh Hóa), chiêu mộ được hơn ngàn tráng sĩ.
Mùa xuân năm Mậu Thìn (248), thấy quan lại nhà Đông Ngô (Trung Quốc) tàn ác, dân khổ sở, Bà Triệu bèn bàn với anh việc khởi binh chống lại.
Từ hai căn cứ núi vùng Nưa và Yên Định, hai anh em bà dẫn quân đánh chiếm huyện trị Tư Phố nằm ở vị trí hữu ngạn sông Mã. Đây là căn cứ quân sự lớn của quan quân nhà Đông Ngô trên đất Cửu Chân. Thừa thắng, lực lượng nghĩa quân chuyển hướng xuống hoạt động ở vùng đồng bằng con sông này.
Đang lúc ấy, Triệu Quốc Đạt lâm bệnh qua đời. Các nghĩa binh thấy bà làm tướng có can đảm, bèn tôn lên làm chủ. Bà đã phối hợp với ba anh em họ Lý ở Bồ Điền đánh chiếm các vùng đất còn lại ở phía Bắc Thanh Hóa ngày nay, đồng thời xây dựng tuyến phòng thủ từ vùng căn cứ Bồ Điền đến cửa biển Thần Phù (Nga Sơn, Thanh Hoá) để ngăn chặn viện binh của giặc Ngô theo đường biển tấn công từ phía Bắc. Khi ra trận, Bà Triệu mặc áo giáp vàng, đi guốc ngà, cài trâm vàng, cưỡi voi trắng một ngà và được tôn là Nhụy Kiều tướng quân. Quân Bà đi đến đâu cũng được dân chúng hưởng ứng, khiến quân thù khiếp sợ. Theo truyền thuyết, để mua chuộc, giặc đã phong cho Bà Triệu đến chức Lệ Hải Bà Vương (nữ vương xinh đẹp của vùng ven biển), còn bí mật sai tay chân thân tín tới gặp và hứa sẽ cấp cho Bà thật nhiều tiền bạc, nhưng Bà cũng chẳng chút tơ hào. Cũng theo truyền thuyết, sau nhiều trận thất bại, hễ nghe tới việc phải đi đàn áp Bà Triệu là binh lính giặc lại lo lắng, chúng phải thốt lên rằng:
Hoành qua đương hổ dị,
Đối diện Bà vương nan.
Dịch:
Vung tay đánh cọp xem còn dễ
Đối diện Bà Vương mới khó sao.
Được tin cuộc khởi nghĩa lan nhanh,.
Trước đây, Hồng Đức quốc âm thi tập, Đại Việt sử ký toàn thư, Thanh Hóa kỉ thắng, Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục... đều gọi bà là Triệu Ẩu. Sau, sử gia Trần Trọng Kim khi cho tái bản Việt Nam sử lược đã không giải thích mà chỉ ghi chú rằng: Bà Triệu, các kỳ xuất bản trước để là Triệu Ẩu. Nay xét ra nên để là Triệu Thị Chinh (tr. 52).
Kể từ đó có nhiều lý giải khác nhau, như:
Sử gia Phạm Văn Sơn: Vì người Tàu căm giận nên đặt tên là Triệu Ẩu (Ẩu có nghĩa là mụ) để tỏ ý khinh mạn (tr. 205).
Nhóm tác giả sách Lịch sử Việt Nam (trước thế kỷ 10, quyển 1, tập 1): Sách sử Trung Quốc gọi bà là Triệu Ẩu với nghĩa xấu (người vú em) (tr. 109).
Một số người lại giải thích "ẩu" nghĩa là con mụ họ Triệu, là bà già, hoặc là "nữ tù trưởng Triệu".
Hình tượng vú dài
Sách Giao Chỉ chí chép:
Trong núi ở quận Cửu Chân có người con gái họ Triệu, vú dài ba thước, không lấy chồng, họp đảng cướp bóc các quận, huyện, thường mặc áo ngắn màu vàng, chân đi giày mũi cong, ngồi đầu voi mà chiến đấu, sau chết làm thần.
Sách Những trang sử vẻ vang giải thích: Phụ nữ khổng lồ, vú dài… là huyền thoại về bà Mẹ-Đất (terre-Mère, Déesse-Mère). Sau hình tượng đó được khoác cho bất kỳ một phụ nữ hiệt kiệt nào (tr. 129). Các tác giả sách Lịch sử Việt Nam (tập I) cũng đều cho rằng huyền thoại về một người phụ nữ có "vú dài ba thước" vốn rất phổ biến ở phương Nam, từ Hợp Phố đến Cửu Chân. Như truyện "Tẩy thị phu nhân", "Tiểu quốc phu nhân" đều nói họ là những phụ nữ cao to và có vú dài đôi ba thước... Có thể, vì bà Triệu cũng là một người phụ nữ kiệt xuất, nên dân gian đã dùng hình tượng này khoác lên cho bà (tr. 345).
Chú thích
Sách tham khảo
Khuyết danh, Đại Việt sử lược (Nguyễn Gia Tường dịch. Nguyễn Khắc Thuần hiệu đính). Nhà xuất bản TP. Hồ Chí Minh, 1993.
Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư (Tập 1). Nhà xuất bản KHXH, Hà Nội, 1983.
Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược. Nhà xuất bản Tân Việt, Sài Gòn, 1968.
Phạm Văn Sơn, Việt sử tân biên (Quyển 1). Nhà xuất bản Khai Trí, Sài Gòn, lần tái bản năm 1968.
Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh, Lịch sử VN (tập I). Nhà xuất bản Đại học & THCN, 1983.
Trương Hữu Quýnh-Phan Đại Đoàn-Nguyễn Cảnh Minh, Đại cương lịch sử Việt Nam (tập I). Nhà xuất bản Giáo dục, 2007.
Nhiều người soạn, Lịch sử Việt Nam (trước thế kỷ 10), quyển 1 tập 1. Nhà xuất bản Giáo dục, 1977.
Nguyễn Q. Thắng-Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. Nhà xuất bản KHXH, Hà Nội, 1992.
Văn Lang-Quỳnh Cư-Nguyễn Anh, Danh nhân đất Việt (Tập 1). Nhà xuất bản Thanh niên, 1995.
Hồng Nam-Hồng Lĩnh, Những trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam chống phong kiến Trung Quốc xâm lược. Nhà xuất bản KHXH, Hà Nội, 1984.
Hoàng Khôi-Hoàng Đình Thi, Giai thoại về phụ nữ Việt Nam. Nhà xuất bản Phụ nữ, 1987.
ĐỗThị Hảo- Mai Thị Ngọc Chúc, Các nữ thần Việt Nam. Nhà xuất bản Phụ nữ, 1984.
Đặng Duy Phúc, Việt Nam anh kiệt. Nhà xuất bản Hà Nội, 2004.
Nhiều người soạn, Hỏi đáp lịch sử (Quyển 1). Nhà xuất bản Trẻ, 2006.
Liên kết ngoài
Triệu Thị Trinh trang Văn hóa Việt Nam - Bưu điện Đà Nẵng.
Ngọn cờ vàng, tác giả Đinh Gia Thuyết, đăng tại trang web của Bộ Văn hóa - Thông tin (Việt Nam).
Triệu Thi Trinh trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư
Triệu Thị Trinh trang quận 8 Thành phố Hồ Chí Minh
Anh thư dân tộc Việt Nam
Người Thanh Hóa
Khởi nghĩa Việt Nam thời Bắc thuộc lần 2
Nữ giới Việt Nam
Người tự sát
Sinh năm 226
Mất năm 248
Khởi nghĩa Việt Nam
Người họ Triệu tại Việt Nam
Nữ tướng Việt Nam
|
27219
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A0%20L%C3%AA%20s%C6%A1
|
Nhà Lê sơ
|
Nhà Lê sơ (chữ Nôm: 茹黎初 chữ Hán: 黎初朝, Hán Việt: Lê sơ triều) là giai đoạn đầu của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê. Đây là thời kỳ mà chế độ quân chủ chuyên chế tập quyền trong lịch sử Việt Nam lần đầu tiên đạt đến đỉnh cao của sự phát triển cũng như suy thoái của nó. Nhà Lê sơ được thành lập sau khi Lê Lợi phát động Khởi nghĩa Lam Sơn đánh bại nhà Minh. Ông đổi tên Giao Chỉ (交阯), vốn tồn tại trong thời gian nội thuộc nhà Minh, trở về Đại Việt (大越), quốc hiệu có từ đời Lý Thánh Tông.
Thời đại Lê sơ có 10 vị hoàng đế thuộc 6 thế hệ, đây là thời kỳ các hoàng đế nhà Lê nắm trọn được quyền hành, cũng là thời kỳ vĩ đại, hoàng kim của chế độ phong kiến Việt Nam. Đời Lê Thái Tổ (Lê Lợi) và đặc biệt là đời Lê Thái Tông, xã hội được đi vào ổn định, phát triển thịnh vượng một cách mau chóng sau thời kỳ chiến tranh trước đó.
Dưới thời Lê Thánh Tông, Đại Việt phát triển cực thịnh về mọi mặt từ kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, quân sự. Nước Đại Việt từ trước chưa bao giờ cường thịnh và mạnh mẽ, có sức ảnh hưởng toàn khu vực lớn bằng thời này, thời kỳ này được gọi là Hồng Đức thịnh thế (洪德晟世), tính đến ảnh hưởng các đời sau là Lê Hiến Tông, Lê Túc Tông, là hơn 30 năm.
Lãnh thổ thời đại này tiếp tục được mở rộng ra hơn nữa, cực thịnh gấp mấy lần so với đời nhà Lý và nhà Trần. Cùng với quân sự hùng mạnh, các đời Thái Tông đến Thánh Tông liên tiếp sáp nhập lãnh thổ các quốc gia Bồn Man, Chiêm Thành; ngoài việc đối phó với các quốc gia, nền quân sự hùng mạnh khiến triều đình thẳng tay đàn áp các cuộc bạo loạn ở miền thượng, ổn định chính quyền trong thời gian dài. Mặt khác vì để đáp ứng một nền quân sự phát triển mạnh, nền kinh tế được phát triển theo thông qua buôn bán trong nước và thông thương với nước ngoài.
Thời kỳ nhà Hậu Lê bước vào giai đoạn trọng dụng quan lại, khác với nhà Trần bị chi phối bởi người trong hoàng tộc, luôn nắm đại quyền và được kế thừa nhau bằng việc thế tập. Triều đình mở nhiều khoa cử, thay đổi bộ máy chính quyền, không cho hoàng tộc các chức vụ thực quyền mà trọng dụng những người đã đổ khoa để bổ nhiệm, việc hạn chế sự thế tập dòng dõi quan lại giúp chế độ quan liêu hạn chế rất nhiều sự chuyên quyền dòng họ. Văn học Việt Nam được ghi nhận phát triển rực rỡ thời kỳ này, với việc Lê Thánh Tông mở ra Hội Tao đàn, chính Hoàng đế khuyến khích học thuật trong toàn quốc gia. Danh sử Ngô Sĩ Liên thuộc về triều đại này, đã biên soạn Đại Việt sử ký toàn thư, tiếp tục nối bước Lê Văn Hưu đời Trần ghi chép giai đoạn lịch sử một cách đầy đủ và hoàn thiện. Nhiều công trình sử liệu, văn học, thiên văn, quan chế... được hoàn thiện trong thời Lê Sơ.
Tồn tại từ năm 1428 đến năm 1527, kéo dài được 100 năm, triều đại này bị gián đoạn bởi nhà Mạc do Mạc Đăng Dung cướp ngôi và tự lập mình làm Hoàng đế, sau 6 năm được tái lập với tên gọi nhà Lê Trung hưng.
Lịch sử
Lê Lợi sáng lập
Nhà Lê sơ được thành lập từ kết quả thắng lợi của Khởi nghĩa Lam Sơn kéo dài 10 năm chống lại sự đô hộ của nhà Minh do Lê Lợi lãnh đạo.
Khi sang đánh nhà Hồ chiếm nước Đại Ngu (1406), nhà Minh đã nhân danh Phù Trần Diệt Hồ, nhưng sau đó lại đánh diệt nhà Hậu Trần (1413). Vào cuối cuộc chiến với Lê Lợi, khi bị quân Lam Sơn vây trong thành Đông Quan (Hà Nội), tướng nhà Minh là Vương Thông đề nghị lập lại con cháu họ Trần làm điều kiện giảng hòa. Lê Lợi đã tìm lập Trần Cảo lập làm vua trên danh nghĩa vào cuối năm 1426.
Năm 1427, quân Minh sau 2 trận thua quyết định ở Chi Lăng và Xương Giang phải rút về nước. Lê Lợi đứng tên Trần Cảo là người đang làm vua trên danh nghĩa, sai sứ dâng biểu cho nhà Minh xin được phong. Minh Tuyên Tông biết Lê Lợi không có ý tôn Cảo nhưng vì bị thua mãi nên đồng ý phong cho Trần Cảo làm An Nam quốc vương.
Ít lâu sau Trần Cảo chết. Lê Lợi tự mình lên ngôi, rồi sai sứ sang tâu nhà Minh rằng Trần Cảo bệnh mà chết ngày 10 tháng 1 năm 1428, do đó Lê Lợi có danh chính để làm vua Đại Việt. Minh Tuyên Tông thừa nhận Lê Lợi làm An Nam quốc vương.
Nhà Hậu Lê chính thức thành lập năm 1428, đó là ngày 15 tháng 3. Lê Lợi tự xưng làm Thuận Thiên Thừa Vận Duệ Văn Anh Vũ Đại Vương, lấy hiệu là Lam Sơn Động chủ, sử gọi là Lê Thái Tổ. Ông đổi quốc hiệu từ Giao Chỉ (交阯) tồn tại dưới thời nhà Minh trở thành Đại Việt (大越). Ông đóng đô ở Đông Quan (Thăng Long), đổi kinh thành Thăng Long trở thành Đông Kinh, Tây Đô thành Tây Kinh, Tây Kinh về sau đều gọi là Lam Kinh.
Thái Tổ chia nước ra làm 5 đạo: Đông Đạo, Tây Đạo, Nam Đạo, Bắc Đạo và Hải Tây Đạo, trong đó Hải Tây đạo gồm cả Thanh Hóa, Nghệ An, Tân Bình và Thuận Hóa. Mỗi đạo đặt một vệ quân, mỗi Vệ đặt chức Tổng quản, lại có chức Hành khiển để giữ sổ sách về việc quân-dân. Còn như các xã-thôn thì cứ xã nào có hơn 100 người trở lên, gọi là đại xã, đặt ba người xã quan; xã nào có 50 người trở lên, gọi là trung xã, đặt hai xã quan; xã nào có 10 người trở lên gọi là tiểu xã, đặt một người xã quan để coi việc trong xã. Kinh tế nhanh chóng được khôi phục, ông ra Quân điền chế, khiến mọi tầng lớp đều có ruộng, sự phục hưng đồng đều dần đi lên. Dù mới chiến loạn nhưng Thái Tổ hết sức quan tâm ngay đến giáo dục, ông cho mở lại Quốc Tử Giám, cho con cháu các quan viên và những người thường dân có khả năng vào học tập; mở nhà học và đặt thầy dạy nho học ở các phủ và các lộ.
Năm 1432, tù trưởng Đèo Cát Hãn nổi dậy, Thái Tổ sai Quốc vương Lê Tư Tề trấn áp. Tư Tề là con trưởng của Thái Tổ, vốn là người dũng mãnh, thiện chiến, ngay từ khi còn khởi binh Lam Sơn đã không ít lần lập được công lao, phong làm Quốc vương (國王). Nay khi cầm binh dẹp loạn, nhanh chóng họ Đèo phải ra hàng. Bấy giờ Thái Tổ hay đau ốm, mọi việc đều do Quốc vương xử lý.
Lê Thái Tổ lên ngôi chưa lâu, nhưng diệt trừ những công thần mà ông nghĩ là có ý mưu phản như Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo, những đại tướng quân có công trong việc thành lập nhà Lê. Bấy giờ trong triều chưa định ai làm người kế ngôi, con trai thứ 2 Lê Nguyên Long vốn là Lương quận công (良郡公), được phong làm Hoàng thái tử, Quốc vương Tư Tề lại là người quen việc trị nước. Các đại thần Lê Sát, Lê Ngân, Lê Khôi ủng hộ Lương quận công, trong khi các tướng Phạm Văn Xảo, Trần Nguyên Hãn ủng hộ Quốc vương. Cuối cùng vào năm 1433, Thái Tổ giáng Quốc vương làm Quận vương (郡王), đưa Nguyên Long quyền kế thừa đại thống.
Có thuyết cho rằng: Thái Tổ vốn nghi kị họ Trần, thấy Trần Nguyên Hãn là người tôn thất họ Trần nên diệt trừ đi, lại cho rằng Quốc vương cùng phe với Nguyên Hãn nên Quốc vương cũng vì thế mất lòng Thái Tổ. Sau vụ việc giáng Quốc vương, sử thần chỉ ghi ngắn gọn mắc chứng điên cuồng, giết bừa các tỳ thiếp, nên không làm vừa ý Thái Tổ.
Năm 1433, Lê Lợi mất, thọ 49 tuổi, trị vì được 5 năm. Ông được truy thụy hiệu là Cao hoàng đế (高皇帝), nên còn được gọi là Thái Tổ Cao hoàng đế (太祖高皇帝), hay Cao Hoàng (高皇).
Thái tử Nguyên Long lên kế vị, tức Lê Thái Tông.
Thái Tông chuyên chính và đảng tranh
Vì hoàng đế còn nhỏ tuổi, bên cạnh ông có Đại tư đồ Lê Sát được ban quyền phụ chính. Lê Sát xuất thân từ võ tướng, là người Lam Sơn, tính tình nóng nảy, nhiều việc xử lý quá khắt khe, làm bừa và không cân nhắc. Quan đồng tri Bắc đạo là Bùi Ư Đài xin chọn những bậc kỳ lão vào cung giúp can gián ấu đế và đặt chức sư phó để chỉ huy trăm quan. Lê Sát thấy ý định đó đụng chạm đến quyền lớn đang trong tay mình, nên sai bắt Ư Đài tống giam, kết tội ly gián vua tôi. Dù Thái Tông không đồng tình nhưng Lê Sát vẫn tâu đi tâu lại 4 lần, ép Thái Tông khép tội Ư Đài. Thái Tông bất đắc dĩ phải lưu đày Ư Đài, nhưng từ đó càng ngày càng ghét Lê Sát.
Năm 1437, Thái Tông ra chiếu chỉ: "Lê Sát tự chuyên giữ quyền bính, ghen người tài, giết Nhân Chú để tự ra oai của mình, truất Trịnh Khả để người ta phục, bãi chức của Ư Đài khiến đình thần không ai dám nói, đuổi Cầm Hổ ra nơi biên thùy để gián quan phải ngậm miệng. Xem những việc làm ấy đều không phải là đạo làm tôi. Nay muốn khép vào luật hình để tỏ rõ phép nước, song vì là đại thần cố mệnh, có công với nhà nước, đặc cách khoan tha, nhưng phải bãi chức tước". Sau đó Thái Tông bắt giam người cùng phe Lê Sát là Đặng Đắc, cho Bùi Ư Đài được phục chức, triệu Bùi Cầm Hổ về kinh, cử Tư khấu Lê Ngân thay Lê Sát chấp chính.
Tháng 7 năm đó, Thái Tông ra lệnh phế truất con gái ông là Nguyên phi Lê Ngọc Dao (黎玉瑤) làm dân thường, rồi ra chiếu kết tội Lê Sát và những người cùng cánh, định xử chém đầu rao ở chợ. Tuy nhiên, do là công thần nên Lê Ngân và Bùi Cầm Hổ khuyên Thái Tông không nên chém, chỉ ban thuốc tự tử, Thái Tông nghe theo.
Trừ được Lê Sát, Thái Tông càng khắt khe trong số các công thần, trong tâm có ý trừ Tư khấu Lê Ngân. Bấy giờ Lê Nhật Lệ (黎日厲), con gái của Lê Ngân được phong làm Huệ phi (惠妃) nhưng không được sủng hạnh, Lê Ngân sai người phù thủy làm lễ ở nhà, đúc tượng vàng Quan Thế Âm để mong con gái được yêu thương. Thái Tông nghe đến, sai người vào nhà ông tra khảo, bắt được bọn phù thủy yếm và tượng vàng. Lê Ngân hoảng hốt vào triều, tâu sớ giải bầy, nhưng Thái Tông quyết xử tử, ban cho ông tự vẫn tại nhà như Lê Sát trước đây. Tuy nhiên cũng như Lê Sát, cả nhà ông chỉ bị lưu đày, con trai Lê Nho Tông bị buộc làm lính giữ cửa, không được trọng dụng.
Dẹp được quyền thần, Thái Tông chuyên tâm vào chính sự. Năm 1438, Thái Tông chỉnh đốn việc thi cử các đạo. Lệ cứ 5 năm một lần thi hương, 6 năm một lần thi hội. Phép thi thì kỳ thứ nhất làm một bài kinh nghĩa, bốn bài tứ thư nghĩa, mỗi bài phải 300 chữ trở lên; kỳ thứ hai làm bài chiếu, bài chế và bài biểu; kỳ thứ ba làm bài thi phú; kỳ thứ tư làm một bài văn sách phải 1.000 chữ trở lên. Lại cho mở khoa cử, chọn tiến sĩ, ai đỗ đều được khắc tên vào bia đá Văn miếu, lệ khắc tên vào bia bắt đầu từ đây.
Năm 1439, Thái Tông thân chinh dẫn quân đi đánh các châu Phục Lễ (Lai Châu ngày nay). Bấy giờ bọn tù trưởng man di họ Cầm quấy nhiễu biên giới, nước Ai Lao nghe theo cũng cử 3 vạn quân theo chúng cướp phá. Thái Tông đích thân dẫn 60000 quân đi đánh, thắng lợi rực rỡ. Năm 1441, phản tặc tên Thượng Nghiễm làm loạn ở châu Thuận Mỗi, Nghiễm trước cậy vào Ai Lao nhiều lần làm loạn, Thái Tông đã từng cất binh nhưng do dâng phương vật nên tha về. Đến nay Thái Tông đem quân đến bắt sống được 1 viên tướng Ai Lao và vợ con; lại bắt được các con trai của Nghiễm, Nghiễm bèn ra hàng. Thái Tông dâng chiếu báo thắng trận ở Thái Miếu.
Bấy giờ, sau khi Lê Thái Tổ mất, văn vật, chế độ, sách vở, lễ nhạc đều được khôi phục, điển chương văn vật rực rỡ. Các nước Trảo Oa (Java), Xiêm La, Tam Phật Tề, Chiêm Thành, Mãn Lạt Gia (Malacca) vượt biển sang cống, bên trong bọn phản nghịch đều được dẹp yên, giáng đòn phạt đến nỗi không gượng dậy được. Thái Tông lúc đó chưa đầy 20 tuổi, nếu không phải nói thiên tư trời ban thì còn từ nào đủ hình dung.
Năm 1442, ngày 4 tháng 8, Thái Tông đi thăm trại Vải (Lệ Chi viên, nay thuộc xã Đại Lai huyện Gia Bình, Bắc Ninh), thuộc khu dinh thự của Hành khiển Nguyễn Trãi, bỗng nhiên băng hà, khi đó hoàng đế chỉ tròn 20 tuổi. Việc này dẫn đến vụ án Lệ Chi Viên nổi tiếng trong lịch sử, triều đình kết tội Hành khiển Nguyễn Trãi và thị thiếp là Nguyễn Thị Lộ, vì khi Thái Tông băng Thị Lộ đã luôn hầu bên cạnh, bấy giờ cho rằng Thị Lộ giết hoàng đế. Án đưa ra là tru di tam tộc, giết đến 3 họ của Nguyễn Trãi.
Thái Tông được truy thụy hiệu là Văn hoàng đế (文皇帝), về sau đều gọi là Thái Tông Văn hoàng đế (太宗文皇帝).
Ngày 12 tháng 8, Thái tử Lê Bang Cơ lên kế vị, tức Lê Nhân Tông. Nhân Tông lên ngôi còn nhỏ tuổi, mẹ là Nguyễn Thần phi được tôn làm Hoàng thái hậu, buông rèm nhiếp chính.
Sự biến Diên Ninh
Lê Nhân Tông lên ngôi còn thơ ấu, Nguyễn Thái hậu cùng các đại thần Nguyễn Xí, Lê Thụ, Trịnh Khả phụ chính cho Tân đế. Lúc này niên hiệu được đổi thành Thái Hòa (太和).
Thái hậu coi việc, dùng phép sẵn từ đời trước, kinh tế, văn hóa tiếp tục được đi lên. Bấy giờ, Chúa Chiêm Thành là Bí Cai hai lần mang quân vây Hóa Châu. Tuy triều đình đã mấy lần phát binh, quân Chiêm vẫn chưa bỏ thói gây hấn. Vào năm 1446, Thái hậu sai Trịnh Khả, Lê Thụ, Lê Khắc Phục đi đánh, Bí Cai ra hàng, các tướng lập cháu Bí Cai là Ma Ha Quý Lai làm chúa Chiêm. Với chiến thắng huy hoàng này, quân Đại Việt tóm gọn được các cung phi của Bí Cai mà đem về kinh thành Đông Kinh.
Vào năm 1448, quốc gia Bồn Man (盆蠻) chịu nội thuộc vào Đại Việt. Thái hậu sáp nhập Bồn Man, trở thành châu Quy Hợp (歸合) của Nhà nước Đại Việt. Ngoài ra, cũng trong những năm tháng Thái hậu chấp chính, Triều đình ban lệnh cho đào sông Bình Lỗ ở Thái Nguyên, mang lại thuận lợi cho việc giao thông vận tải.
Vào năm 1449, Quý Lai bị Quý Do cướp ngôi. Quý Do sai sứ sang triều cống Đại Việt, nhưng Thái hậu từ chối không tiếp nhận lễ vật và phán: "Tội giết vua, em giết anh là tội đại ác xưa nay, trẫm không nhận đồ dâng". Sau khi buộc sứ phải mang trả lại lễ vật về Chiêm, Thái hậu truyền lệnh cho Đồng tri hữu tri sự Nguyễn Hữu Quang, Điện trung thị ngự sử Trình Ngự đem thư sang Chiêm Thành, với nội dung như sau: "Sự thực của các ngươi như thế nào thì phải sang trình bày cho rõ".
Tháng 11, năm Quý Dậu (1453), Nhân Tông lên 12 tuổi, có thể tự coi chính sự, Thái hậu trả lại quyền chính cho ông rồi lui về ở cung riêng. Khi tự mình ra coi chính sự, Nhân Tông xuống lệnh đại xá, và đổi niên hiệu là Diên Ninh (延寧). Năm 1454 trở thành năm Diên Ninh thứ nhất.
Nhân Tông tỏ ra là người độ lượng với các công thần khai quốc có tội bị xử tử trước đây, từ thời Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông đến khi Nguyễn Thái hậu chấp chính. Ngay khi ra cầm chính sự, ông ra nhiều chiếu chỉ biểu dương công lao của họ, hoặc trả lại của cải, ruộng đất cho con cháu họ. Ông khôi phục lại quan tước và ban cho con cháu Trịnh Khả (bị xử tử năm 1451) 100 mẫu ruộng; cấp 100 mẫu ruộng cho con cháu Lê Sát và Lê Ngân (bị xử tử năm 1437); trả lại điền sản trước đây cho con cháu Phạm Văn Xảo (bị xử tử năm 1430) và Trần Nguyên Hãn (bị xử tử năm 1429). Ông biểu dương công lao sự nghiệp của Nguyễn Trãi (bị xử tử năm 1442): Nguyễn Trãi là người trung thành giúp đức Thái Tổ dẹp yên giặc loạn, giúp đức Thái Tông sửa sang thái bình. Văn chương và đức nghiệp của Nguyễn Trãi, các danh tướng của bản triều không ai sánh bằng.
Ân đức của Nhân Tông nổi danh đương thời, ông chủ trương không quá hà khắc hình luật, trọng giáo dục, văn học, chế độ hiến chương triều đình, là người hiền minh sáng suốt, tuổi còn nhỏ mà là vị minh quân khó ai bì. Tuy hiền đức là vậy nhưng ông lại có kết cục bi thảm khi bị chính người anh lớn là Lạng Sơn vương Lê Nghi Dân giết chết.
Lê Nghi Dân (黎宜民) - tước phong bấy giờ là Lạng Sơn vương (諒山王) - là con trai trưởng của Lê Thái Tông, mẹ là Dương chiêu nghi (楊昭儀). Dương thị vốn là sủng phi của Thái Tông, về sau hành xử lỗ mãng mà bị phế làm thứ nhân. Nghi Dân trước đây mẹ được sủng ái nên được lập làm Hoàng thái tử, sau do mẹ thất sủng nên cũng bị phế, bị biếm đến vùng Lạng Sơn. Nhân Tông vốn nhân từ, đối đãi với anh em rất hậu, nên đối với Nghi Dân không phòng bị gì, đến đây bị Nghi Dân sai người lẻn vào cung và giết chết. Nguyễn Thái hậu cũng bị đem ra xử chết vào ngày hôm sau.
Theo một số nhà sử học, cũng như thần tích và các chuyện chép rải rác trong Đại Việt sử ký toàn thư, Nhân Tông vốn không phải con của Thái Tông Văn hoàng đế. Mẹ ông Nguyễn Thái hậu được cho là đã tư thông với Lê Nguyên Sơn, một người trong tôn thất họ Lê, chi dưới của Tuyên Tổ hoàng đế Lê Khoáng, tức tổ phụ của Thái Tông. Rất có thể trong quá trình trưởng thành, Nghi Dân đã được nghe nói về lời đồn này và quyết tâm đoạt ngôi của Nhân Tông.
Lạng Sơn vương Nghi Dân lên ngôi vào ngày 7 tháng 10 năm 1459, đặt niên hiệu là Thiên Hưng (天興). Tuy giết hại Nhân Tông nhưng Thiên Hưng Đế lại tha cho những người em khác, ông cải phong Lê Khắc Xương (黎克昌) từ Tân Bình vương (賓平王) thành Cung vương (恭王); Lê Tư Thành từ Bình Nguyên vương (平原王) thành Gia vương (嘉王).
Tháng 5 năm 1460, các tể tướng đại thần là Đỗ Bí, Lê Ngang, Lê Thụ, Lê Ê bí mật bàn việc lật đổ Thiên Hưng. Việc đó bị lộ, cả mấy người đều bị bắt giết. Thiên Hưng thay đổi nhiều pháp chế của đời trước, dùng những người thân tín của mình vào triều nên nhiều cựu thần không bằng lòng.
Tháng 6 năm đó, các đại thần Nguyễn Xí, Đinh Liệt, Lê Lăng, Lê Niệm, Lê Nhân Quý, Trịnh Văn Sái, Nguyễn Đức Trung...cùng bàn nhau làm binh biến lần nữa. Ngày 6 tháng 6, có buổi chầu sớm. Khi tan chầu, những người định làm binh biến ngồi ngoài cửa Sùng Vũ nơi Nghị sự đường. Nguyễn Xí phát động lệnh dẫn quân vào giết các bề tôi tin cẩn của Thiên Hưng là Phạm Đồn, Phan Ban ở Nghị sự đường. Lê Nhân Thuận chém chết Trần Lăng, giữ chặt quân cấm binh, đóng các cửa thành. Hơn 100 người phe cánh của Thiên Hưng bị giết.
Thiên Hưng Đế bị bắt, truất làm Lệ Đức hầu (厲德侯) và bị thắt cổ chết khi mới 22 tuổi.
Bấy giờ, các đại thần Nguyễn Xí, Đinh Liệt, Nguyễn Đức Trung đều nhất trí đưa Gia vương Tư Thành lên ngôi, kế thừa hoàng vị. Nhưng Nhập nội Thiếu úy Lê Lăng lại mời Cung vương, khi các đại thần đến mời Cung vương thì Vương nhất quyết từ chối, vì vậy Gia vương được tôn lên ngôi vị.
Ngày 26 tháng 6 năm 1460, Gia vương Lê Tư Thành lên ngôi, sử gọi là Lê Thánh Tông, lấy niên hiệu là Quang Thuận (光順). Năm đó, ông chỉ mới 18 tuổi. Ông chỉ định Nguyễn Xí và Đinh Liệt vào các chức quan cao nhất của triều đình, nắm giữ binh quyền. Từ đây, Đại Việt bước vào thời kỳ cực thịnh.
Hồng Đức thịnh thế
Lê Thánh Tông – có thể nói là vị hoàng đế tài giỏi nhất trong triều đại thời Lê Sơ.
Lên nắm chính quyền, ông chủ trương làm việc siêng năng, làm gương cho các quan lại. Ông sửa sang bộ máy chính quyền, chia làm Lục bộ một cách đầy đủ. Về cơ cấu chính quyền các cấp, ông đã tiến hành xóa bỏ hệ thống tổ chức hành chính cũ thời Lê Thái Tổ từ 5 đạo đổi thành 13 đạo (thừa tuyên). Thánh Tông ra chỉ dụ, các quan chỉ được làm việc tối đa đến tuổi 65 và ông bãi bỏ luật cha truyền con nối cho các gia đình có công - công thần. Ông tôn trọng việc chọn quan phải là người có tài và đức.
Về kinh tế, Thánh Tông chủ trương các chính sách: sửa đổi luật thuế khóa, điền địa, khuyến khích nông nghiệp, mở đồn điền,kêu gọi người phiêu tán về quê,đặt ra luật quân điền chia đều ruộng đất cho mọi người. Những nỗ lực nhằm xây dựng phát triển Đại Việt của Thánh Tông đã được kiểm chứng qua các bài chiếu, chỉ dụ do ông trực tiếp chấp bút và ban bố, như Chiếu khuyến nông, Chiếu lập đồn điền, Chiếu định quan chế...và các chiếu thư khác. Các ngành nghề thủ công nghiệp và xây dựng dưới thời trị vì của Lê Thánh Tông cũng phát triển rực rỡ. Nghề in và làm giấy ở Đại Việt đạt một trình độ cao của thế giới thời bấy giờ. Số lượng sách in thời này khá đồ sộ. Đặc biệt nhất thời kỳ này là thành tựu trong công nghệ chế tạo vũ khí và đồ sắt chiếm ưu thế. Đồ gốm, sứ thời Lê Sơ phát triển đạt được độ tinh xảo và hoa văn đẹp, nay càng rực rỡ hơn dưới thời Thánh Tông. Việc giao thương buôn bán đã chắp cánh cho đồ gốm thời này đi xa và hiện nay bộ sưu tập về đồ gốm Lê Sơ cũng rất phong phú. Thương mại và giao dịch buôn bán với các lân bang phát triển mạnh, cùng với bước chân viễn chinh xa xôi của đội quân đế chế Đại Việt. Để tạo thuận tiện cho việc mua bán, Lê Thánh Tông đã từng khuyến dụ các quan rằng: "Trong dân gian hễ có dân là có chợ để lưu thông hàng hóa, mở đường giao dịch cho dân. Các xã chưa có chợ có thể lập thêm chợ mới. Những ngày họp chợ mới không được trùng hay trước ngày họp chợ cũ để tránh tình trạng tranh giành khách hàng của nhau".
Bên cạnh phát triển kinh tế, về văn hóa, giáo dục cũng được phát triển mạnh. Thánh Tông tiếp tục đẩy cao Nho giáo, hạn chế sự phát triển của Phật giáo như đời nhà Lý, sửa sang nhiều chế độ đãi ngộ hiền tài. Ông cho Ngô Sỹ Liên soạn bộ Đại Việt sử ký toàn thư, góp phần lớn lao trong việc chép sử, ngoài ra còn có Nhà toán học Lương Thế Vinh với Đại thành Toán pháp, Phan Phu Tiên với Việt âm thi tập, Đại Việt sử ký tục biên, Bản thảo thực vật toát yếu (Tóm lược sách bản thảo thực vật), tri thức thời đại này đã lên đến đỉnh cao, rực rỡ hơn các triều đại trước. Thánh Tông bắt đầu cho phép tôn vinh việc học bằng các cuộc lễ xướng danh (lễ đọc tên người thi đậu), lễ vinh quy bái tổ (lễ đón rước người thi đậu về làng) và nhất là lệ khắc tên và lý lịch tiến sĩ vào bia đá Văn Miếu. Vì thế khuyến khích mọi tầng lớp cư dân đua nhau học hành để tên tuổi được ghi vào bảng vàng, để gia môn được vinh dự và để làng quê được vinh hiển. Bên cạnh đó, bản thân Thánh Tông là một người hay chữ, ông tự xưng làm Thiên Nam động chủ (天南洞主), viết nhiều bài thơ, rất nhiều bài được lưu truyền trong dân gian và trong giới tri thức. Đặc biệt tuyển tập Thánh Tông di thảo đã để lại giá trị lớn trong dòng truyện ký. Thánh Tông cho thành lập Tao đàn Nhị thập bát tú, xưng làm Tao Đàn nguyên súy (騷壇元帥), cùng với Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận, Thái Thuận là những trụ cột văn chương nổi tiếng dưới thời Lê Sơ.
Năm 1470, Thánh Tông đổi niên hiệu thành Hồng Đức (洪德), về sau người ta đều gọi niên hiệu này của ông khi nói về một triều đại đầy thịnh vượng và cực thịnh, gọi là Hồng Đức thịnh thế (洪德晟世). Trên thực tế sự cực thịnh này kéo dài cả về đến thời cháu nội ông là Lê Túc Tông. Bản thân Thánh Tông được gọi là Hồng Đức Đế (洪德帝).
Bên cạnh là một nhà văn hóa, Thánh Tông còn chủ trương mở rộng lãnh thổ Đại Việt. Ông là vị hoàng đế mở mang bờ cõi nổi tiếng bậc nhất trong lịch sử Việt Nam khi Tây tiến đánh qua các tiểu quốc, cường quốc phía tây như Lan Xang, Bồn Man, những nước giúp đỡ họ Cầm làm loạn ở vùng đất thuộc Lai Châu ngày nay. Bên cạnh đó, sau sự kiện năm 1471, Chiêm Thành vốn là kình địch của Đại Việt, từ một cường quốc trở nên suy yếu trầm trọng, kinh đô Đồ Bàn bị phá hủy, hơn 30.000 người bị bắt, trong đó chúa Chiêm Trà Toàn đã bị tử trận cùng hơn 40.000 quân Chiêm. Sau khi Trà Toàn bị bắt, em là Trà Toại trốn vào núi, sai người sang cầu cứu nhà Minh và xin phong vương. Được tin, Thánh Tông sai Kỳ quận công Lê Niệm đem 3 vạn quân vào đánh, Trà Toại bị bắt giải về kinh. Về sau, Minh Hiến Tông sai sứ sang bảo Thánh Tông phải trả đất cho Chiêm Thành, nhưng ông nhất quyết không chịu. Sau chiến thắng, Thánh Tông thực hiện chính sách mới, bình định và Việt hóa dân chúng người Chiêm Thành và sáp nhập lãnh thổ miền bắc Chiêm Thành (từ đèo Hải Vân tới bắc Phú Yên ngày nay) vào Đại Việt. Tháng 6 năm 1471, lãnh thổ miền bắc Chiêm Thành được lập thành thừa tuyên Quảng Nam và vệ Thăng Hoa. Tới đây, Thánh Tông đưa thừa tuyên Quảng Nam vào Thiên hạ bản đồ, đất nước Đại Việt tổng cộng 13 thừa tuyên.
Ngày 30 tháng 1 năm 1497, Lê Thánh Tông mất, thọ 55 tuổi, cai trị được 37 năm, thụy hiệu là Thuần hoàng đế (淳皇帝), nên được gọi là Thánh Tông Thuần hoàng đế (聖宗淳皇帝). Con trưởng là Lê Tranh (黎鏳) kế vị, sử gọi là Lê Hiến Tông. Ông đổi niên hiệu là Cảnh Thống (景統).
Lê Hiến Tông là bậc minh quân như phụ hoàng, tiếp tục đường lối trị vì của Thánh Tông nhưng chủ trương ổn định và phát triển, đẩy mạnh chính quyền sau một thời gian chiến tranh và để dần thu phục những người bản địa của các vùng đất mà Thánh Tông đã chiếm được. Các sử gia đều nhìn nhận Hiến Tông là vị hoàng đế giỏi. Tuy nhiên, ông chỉ cai trị được 7 năm thì qua đời, đó là vào ngày 24 tháng 5 năm 1504. Thái tử Lê Thuần (黎㵮) kế vị, tức Lê Túc Tông. Túc Tông được nhận xét là thông minh hơn người, từ nhỏ được Hiến Tông yêu quý và chọn làm Thái tử dù không phải là con trưởng. Tuy nhiên chưa được 1 năm thì Túc Tông yểu mệnh qua đời vào ngày 30 tháng 12 năm 1504, nối ngôi chỉ vừa 6 tháng.
Trước khi qua đời, Túc Tông nhận thấy trong số hoàng thất, anh trai mình là Lê Tuấn (黎晭) có khả năng nhất, nên chỉ định làm người kế vị. Huy Gia Thái hoàng thái hậu Nguyễn thị, mẹ của Hiến Tông, bà nội của Túc Tông và Lê Tuấn lại phản đối. Bà cho rằng Lê Tuấn là con của hạng tỳ thiếp hèn mọn, nên nhân cách không cao quý, không thể kế thừa ngôi chính thống, bà bèn chọn một tôn thất trong họ là Lã Côi vương (không rõ tên) làm người kế vị. Tuy nhiên, mẹ nuôi của Lê Tuấn là Nguyễn Kính phi và đại thần Nguyễn Nhữ Vy đã mưu kế trong cung, lừa Thái hậu ra khỏi thành đi đón Lã Côi vương, còn bọn họ trong cung mau chóng truyền chỉ lập Lê Tuấn kế vị.
Ngày 18 tháng 12 năm 1505, Lê Tuấn lên ngôi, đặt niên hiệu là Đoan Khánh (端慶), sử gọi là Lê Uy Mục. Từ đây lịch sử nhà Lê sơ rơi vào một thời kỳ khủng hoảng vì sự man rợ của vị hoàng đế này.
Uy Mục bạo đế
Lê Uy Mục, tên thật Lê Tuấn (黎濬), con trai thứ hai của Lê Hiến Tông, mẹ là Nguyễn Thị Cận, người làng Phù Chẩn, huyện Đông Ngàn. Ngày 8 tháng 12, năm 1488, Nguyễn Thị Cận sinh ra Lê Tuấn rồi mất do bệnh hậu sản, Nguyễn Kính phi lúc đó là chị em tốt với Hoàng hậu, bèn nhận Tuấn về làm con.
Bấy giờ, Hiến Tông có con trưởng là An vương Lê Tuân (黎洵), con thứ 2 là Uy Mục và con thứ 3 chính là Lê Túc Tông. Mẹ của An vương là Mai chiêu nghi, chỉ là thị thiếp nên dù là con trưởng của Hiến Tông nhưng An vương khó được xét làm người kế thừa, hơn nữa lúc nhỏ An vương phạm tội bất hiếu với mẹ, nên Hiến Tông càng không đoái hoài. Trong khi đó, mẹ của Túc Tông là chính thất, Trang Thuận hoàng hậu Nguyễn Hoàn, bản chất Túc Tông lại là người nhân hiếu, thông minh, ngôi Thái tử sớm thuộc về Túc Tông. Khi Hiến Tông qua đời năm 1504, Nguyễn Kính phi muốn đưa Uy Mục lên ngôi, đem tiền vàng hối lộ cho Thượng thư Đàm Văn Lễ, Văn Lễ không nhận mà quyết lập Túc Tông, Uy Mục từ đấy sinh hận.
Ngày 22 tháng 3, năm đầu niên hiệu Đoan Khánh, Uy Mục cho người trong đêm giết chết bà nội là Thái hoàng thái hậu Nguyễn Thị Hằng, vì Uy Mục căm giận Thái hậu sỉ nhục mẹ của mình và việc bà không chịu lập Uy Mục lên ngôi. Ngày 5 tháng 6, cũng năm ấy, Uy Mục sai cách chức Lễ bộ thượng thư Đàm Văn Lễ và Đô ngự sử Nguyễn Quang Bật, bấy giờ 2 người là những người không thừa nhận ngôi vị của Uy Mục, bị cách chức đày về Thừa tuyên Quảng Nam. Nhưng Uy Mục nghe lời Nguyễn Nhữ Vy, trên đường đi lén sai người giết chết cả hai người, về sau lại giết Nhữ Vy. Uy Mục còn ra lệnh cho giết hết những người Chiêm Thành bị bắt làm gia nô trong các điền trang của các thế gia, công thần. Ông từ khi lên ngôi, đêm nào cũng cùng với cung nhân uống rượu, rồi đến khi say thì giết đi rất tàn bạo. Phó sứ thần Nhà Minh là Hứa Thiên Tích (許天錫) sang, trông thấy Uy Mục, làm thơ gọi Uy Mục là Quỷ vương (鬼王):
Sự tàn bạo của Uy Mục đã gây nên một làn sóng bất bình trong hàng ngũ quan lại, tông thất. Quyền hành trong triều rơi vào tay họ ngoại của hoàng đế. Bấy giờ, uy quyền thuộc về họ ngoại, phía đông thì làng Hoa Lăng (quê của Nguyễn Kính phi), phía tây thì làng Nhân Mục (quê của Trần hoàng hậu), phía bắc thì làng Phù Chẩn (quê của Chiêu Nhân thái hậu) đều chuyên cậy quyền thế, vùi dập các quan, kẻ thì vì ý riêng mà giết hại sinh dân, kẻ thì dùng ngón kín mà yêu sách tiền của. Muôn dân ta oán mà hoàng đế vẫn không chừa, lại mang lòng ngờ vực, đố kỵ. Các quan người nào ngày trước không lập mình, thì thường giết đi. Lại ngầm sai nội nhân Nguyễn Đình Khoa dò xét cả các thân vương là các chú và anh em của ông. Trong đó, Kinh vương Lê Kiện là chú đã chạy trốn không biết đi đâu, chỉ có Giản Tu công Lê Oanh là con của Kiến vương Lê Tân, chú ruột của hoàng đế, thì bị giam vào ngục nhưng trốn thoát được. Do vậy, mọi người đều cảm thấy nguy đến thân mình, càng nghĩ đến việc nổi loạn.
Tháng 11 năm 1509, Giản Tu công giả xưng anh ruột của mình là Cẩm Giang Vương Lê Sùng (黎漴), dựng cờ ở Lam Kinh và đưa quân về Đông Kinh. Uy Mục bèn bắt giết Lê Sùng và mẹ của Lê Oanh là Trịnh Thị Tuyên. Giản Tu công vào chiếm kinh thành bắt được và bức Uy Mục tự tử ngày 1 tháng 12 năm 1510. Giản Tu công hận Uy Mục giết hại gia đình mình, chưa nguôi giận, sai người dùng súng lớn, để xác Uy Mục vào miệng súng, cho nổ tan hết hài cốt, chỉ lấy ít tro tàn về chôn tại An Lăng (安陵) ở quê mẹ ông tại làng Phù Chẩn.
Vì sự tàn bạo độc ác, Uy Mục bị giáng làm Mẫn Lệ công (愍厲公), tuy nhiên về sau Lê Chiêu Tông lên kế vị đã truy phong ông thành thụy hiệu Uy Mục hoàng đế (威穆皇帝), còn được gọi là Uy Mục bạo đế (威穆暴帝).
Ngày 4 tháng 12 năm 1509, Giản Tu công lên ngôi, tức Lê Tương Dực.
Hồng Thuận trung hưng và sự suy trị
Lê Tương Dực, tên thật là Lê Oanh, con trai thứ hai của Kiến vương Lê Tân, là cháu nội của Lê Thánh Tông, dưới thời Lê Hiến Tông được ban phong hiệu Giản Tu công (簡修公). Khi Lê Uy Mục nghi ngờ tôn thất, bắt giam ông trong ngục, ông đã tìm kế thoát ra, gặp được Nghĩa quận công Nguyễn Văn Lang hiện đang ẩn dật tại Lam Kinh. Hai người tập hợp lực lượng, thảo chiếu dấy binh và tiến vào Đông Kinh vào năm 1509. Ông đặt niên hiệu là Hồng Thuận (洪順), bắt đầu thời kỳ trung hưng ngắn ngủi sau sự náo loạn dưới thời Uy Mục.
Trong những năm đầu cầm quyền, Lê Tương Dực cũng có vài đóng góp thể hiện sự cố gắng vực dậy đất nước đã suy tàn, nhất là trong lĩnh vực khoa cử. Năm 1511, ông tổ chức kỳ thi Hội, đến kỳ thi Đình thì ông đích thân ra đề văn hỏi về đạo trị quốc. Ông cho trùng tu Quốc Tử Giám, dựng lại bia tiến sĩ tỏ rõ sự khuyến khích hiền tài. Đông các Đại học sĩ Đỗ Nhạc đã soạn bài ký ở Quốc Tử giám ca ngợi công đức của Lê Tương Dực, đánh giá là người đủ tài đức để tiếp nối cơ nghiệp của Thuần Hoàng khi xưa. Bấy giờ, Lại bộ tả thị lang Lương Đắc Bằng dâng kế trị nước, đại ý khuyên rằng sửa sang văn chiếu điển lệ; tỏ lòng hiếu để cho người trong nước thuận theo; rời xa sắc dục; không dùng lời nịnh; không tùy tiện trao thưởng quan tước; cân nhắc bổ nhiệm quan lại chân chính công bằng; tiết kiệm chi tiêu để khuyến khích sự liêm chính; khen người tiết nghĩa để trọng đạo cương thường; cấm hối hộ bỏ trừng thói tham ô; sửa sang võ bị để thủ thế hùng cường; lựa chọn ngôn quan để trọng dụng lời thật; nới nhẹ việc phu để xót thương dân chúng; hiệu lệnh tín thực để nắm ý chí thiên hạ; luật pháp chế độ phải thận trọng để mở nền thịnh trị thái bình. Bấy giờ Tương Dực Đế đều cho là lời hay, luôn nghe theo, chẳng mấy chốc mở ra thời kỳ trung hưng thịnh vượng dưới thời cai trị của ông.
Năm 1510, Tương Dực sai quan Binh bộ Thượng thư là Vũ Quỳnh soạn bộ Đại Việt thông giám thông khảo, gọi tắt là Đại Việt thông giám hay Việt giám thông khảo. Đại Việt thông giám gồm 26 quyển, chia thành Ngoại kỷ chép từ Hồng Bàng đến hết nhà Ngô, Bản kỷ từ Đinh Tiên Hoàng đến đầu thời Lê Thái Tổ. Tương Dực còn sai Lê Tung soạn bài tổng luận về bộ sử ấy. Theo Phan Huy Chú, bộ sách này được Lê Nại đánh giá là quy mô và đúng với kinh, trúng với sử.
Năm 1511, người làng Quang Bị, huyện Bất Bạt là Trần Tuân nổi loại ở vùng Sơn Tây. Bấy giờ, nhân dân các phố xá ở kinh thành náo động, đều đem vợ con về quê quán, đường phố không còn một ai đi lại. Lê Tương Dực sai Mỹ Huệ hầu Trịnh Duy Sản chỉ huy quan quân đi đánh Trần Tuân. Bấy giờ, quân của Tuân đã bức sát đến huyện Từ Liêm (Quốc Oai), quan quân bại trận, lui về đóng ở các xứ Đông Ngạc, Nhật Chiêu. Về sau, Trịnh Duy Sản lập đại công, phá tan được cuộc nổi loạn, được phong tước Nguyên quận công (原郡公).
Năm 1516, Lê Tương Dực cho đắp thành rộng cả ngàn trượng chắn ngang sông Tô Lịch. Để thể hiện uy quyền đế vương, ông sai một người thợ là Vũ Như Tô xây điện 100 nóc, xây Cửu Trùng Đài. Quân dân làm trong mấy năm trời không xong, hao tổn tiền của, chết hại nhiều người. Bỏ bê việc nước, chỉ ngày ngày du ngoạn Hồ Tây, Tương Dực nghĩ ra nhiều trò quái lạ. Bấy giờ, có Trần Cảo thấy lời sấm ở phía Đông có khí thiên tử, bèn gầy dựng thế lực làm phản tại vùng Hải Dương, Đông Triều, Thủy Đường, tự xưng làm Đế Thích, chiêu mộ quân sĩ hơn 1 vạn người. Lê Tương Dực đích thân xuất chinh đi đánh giặc, ngự ở trên điện ra lệnh điều động các tướng. Sau quân triều đình sang đánh, Trần Cảo lui về đóng ở Trâu Sơn, thuộc phủ Từ Sơn. Tương Dực sai An Hòa hầu là Nguyễn Hoằng Dụ sang đóng quân ở Bồ Đề để chống giữ.
Nguyên quận công Trịnh Duy Sản, bấy giờ có công lao dẹp loạn Trần Tuân, đem lòng oán hận Lê Tương Dực đã từng phạt mình bằng roi trước đây. Duy Sản nghe lời Thái sư Lê Quảng Độ và kẻ hầu là Trình Trí Sâm, âm mưu giết Lê Tương Dực và lập người mới, trở thành quyền thần. Ngày 7 tháng 4 năm đó, Duy Sản xông vào cung tìm và giết chết Lê Tương Dực, giết luôn nhiều quan nội thị theo hầu cận. Bấy giờ cho rằng Duy Sản là kẻ đại nghịch, sự đại loạn cuối đời Lê Sơ đều do y bắt đầu mà ra.
Lê Tương Dực bị giáng làm Linh Ẩn vương (靈隱王), về sau được truy phong làm Tương Dực hoàng đế (襄翼皇帝), táng ở Nguyên Lăng (元陵). Bấy giờ Khâm Đức hoàng hậu nghe tin hoàng đế qua đời, bèn than khóc, nhảy vào điện Mục Thanh đang cháy để chết theo. Người quân sĩ cũng đem xác bà an táng cùng Tương Dực trong Nguyên lăng.
Chính quyền tàn vong
Sau khi giết Tương Dực Đế, Nguyên quận công Trịnh Duy Sản bèn tính lập con trưởng của Mục Ý vương là Lê Quang Trị, nhưng Vũ Tá hầu Phùng Mại lại muốn lập con trưởng của Cẩm Giang vương là Lê Y (黎椅). Bấy giờ Tường quận công Phùng Dĩnh sai lực sĩ giết chết Mại, rồi lập Quang Trị lên. Nhưng chưa được 3 ngày, Trịnh Duy Đại đã đem Quang Trị về Tây Kinh. Bọn đại thần Trịnh Duy Sản bấy giờ lại đón Lê Y lên ngôi, tức Lê Chiêu Tông.
Bấy giờ, An Hoà hầu Nguyễn Hoằng Dụ đóng quân ở Bồ Đề, nghe tin Trịnh Duy Sản làm việc thí nghịch, liền nổi giận đem quân vượt sông, đốt phá phố xá ở kinh thành, bọn Trần Cảo ùa vào thì thành thất thủ, Thái sư Lê Quảng Độ ra hàng. Trịnh Duy Sản cùng triều đình đưa Chiêu Tông về Tây Kinh. Khi cửa thành bỏ hoang, dân chúng vào thành tranh nhau lấy vàng bạc, châu báu, bạch đàn, xạ hương, lụa là tơ gai đầy trong dân gian; sách vở, hồ tiêu, hương liệu các thứ vứt bỏ trên đường phố cao đến 2 tấc, không thể kể xiết. Người mạnh khoẻ tranh cướp vàng bạc, có người lấy được đến 400 lạng, người yếu cũng được đến hơn 200 lạng. Cung khuyết, kho tàng do vậy mà hết sạch.
Chiếm được kinh thành, Trần Cảo xưng làm Thiên Ứng Đế (天應帝), ra cung điện bàn việc triều đình, dùng Lê Quảng Độ coi việc. Lúc này Thiết Sơn bá Trần Chân, con nuôi của Nguyên quận công Trịnh Duy Sản, tập hợp quân sĩ hơn 6000 người ở chợ Hoàng Hoa (chợ Ngọc Hà ngày nay). Cảo xua Phan Ất đi trấn áp, 2 bên đánh nhau quyết liệt, Trần Chân do không có tiếp viện bèn lui về cố thủ. Bấy giờ Chiêu Tông từ Tây Kinh, hiệu triệu quân 3 phủ, sai các Nguyên quận công Trịnh Duy Sản, An Hòa hầu Nguyễn Hoằng Dụ, Bình Phú hầu Nguyễn Văn Lự (em của Nguyễn Văn Lang), Vĩnh Hưng hầu Trịnh Tuy đem quân thủy bộ cùng tiến thẳng đến Đông Kinh. Đồng thời gửi hịch cho các phủ huyện.
Ngày 23 tháng 3 năm 1516, tại Đông Kinh xảy ra trận chiến ác liệt giữa các thế lực phò Chiêu Tông và Trần Cảo. Cảo liên tục dùng súng, hỏa khí bắn ra để chặn quân triều đình, Nguyên quận công Trịnh Duy Sản, An Tín bá Trịnh Hy, Vĩnh Hưng hầu Trịnh Tuy ra sức chống lại, hết sức dũng mãnh, khiến Cảo phải gắng đóng cửa thành cố thủ. Đến khi thế trận nguy khốn, Cảo mở cửa thành chạy qua sông Đuống, chạy lên Lạng Nguyên.
Ngày 27 tháng 3, Chiêu Tông chính thức đặt niên hiệu là Quang Thiệu (光紹). Bấy giờ Trịnh Duy Đại giữ Quang Trị ở Tây Kinh, nghe đến Chiêu Tông đã chiếm được Đông Kinh, bèn giết Quang Trị và những người em để chạy về Chiêu Tông. Tặc thần Lê Quảng Độ do đầu hàng Trần Cảo bị giết, cùng năm Nguyên quận công Trịnh Duy Sản do đánh tàn dư của Trần Cảo bị tử trận.
Năm 1517, An Hoà hầu Nguyễn Hoằng Dụ có hiềm khích với Vĩnh Hưng bá Trịnh Tuy, đóng quân chống nhau. Hoằng Dụ đóng quân ở phường Đông Hà, Tuy đóng quân ở ngoài thành Đại La chống giữ nhau, kinh thành trở thành chiến trường của 2 bên. Bấy giờ tướng Trần Chân có ân tình với họ Trịnh, thấy Nguyễn Hoằng Dụ đánh Trịnh Tuy bèn đem quân định cứu, đợi khi Hoằng Dụ vào chầu Chiêu Tông thì xông ra bắt. Khi ấy Hoằng Dụ đến cửa Đại Hưng, ngờ có quân của Trần Chân bèn đi thuyền chạy ra Thanh Hóa. Trần Chân gửi thư cho Trấn thủ Sơn Nam là Mạc Đăng Dung khuyên bắt Hoằng Dụ, nhưng Đăng Dung không nghe theo. Năm ấy, trong nước đói to, xác người chết đói nằm gối lên nhau. Những nơi trải qua binh lửa như Đông Triều, Giáp Sơn ở Hải Dương; Yên Phong, Tiên Du, Đông Ngàn ở Kinh Bắc lại càng đói dữ. Trần Chân sau khi đuổi được Hoằng Dụ, tiện tay chiếm giữ Kinh thành.
Năm 1518, Chiêu Tông ra lệnh giết chết Thiết Sơn bá Trần Chân, cùng bè đảng hơn 6 người. Bấy giờ, quyền thế Trần Chân rất lớn, Vũ Xuyên hầu Mạc Đăng Dung còn phải kết thông gia. Trong kinh sư có kẻ hiếu sự làm câu ca rằng: "Trần hữu nhất nhân, vi thiên hạ quân, thố đầu hổ vĩ, tế thế an dân" (Có một người họ Trần, làm vua thiên hạ, đầu thỏ đuôi hổ, trị nước yên dân); Thọ quốc công Trịnh Hựu cùng với Thuỵ quân công Ngô Bính bàn với nhau rằng: Một người họ Trần tức là Trần Chân, đầu thỏ đuôi hổ tức là cuối năm Dần đầu năm Mão, sợ rằng vào năm ấy sẽ có biến loạn, họ khuyên Chiêu Tông sớm trừ đi. Trần Chân bị xử trảm, bêu đầu, đệ tử của Chân là Nguyễn Kính, Hoàng Duy Nhạc, Nguyễn Áng, Nguyễn Hiêu, Cao Xuân Thì họp binh với nhau ở chùa Yên Lãng, đánh sát vào kinh thành. Chiêu Tông nghe tin, đành đem trốn vào Gia Lâm. Bấy giờ, Vĩnh Hưng hầu Trịnh Tuy đóng quân ở xứ Sơn Nam có hơn 1 vạn người, nghe tin quan gia chạy ra ngoài, quân lính tan cả. Thế là quân Sơn Tây thả sức cướp phá, trong thành sạch không, Kinh sư thành bãi săn bắn, đánh cá. Chiêu Tông cho gọi Nguyễn Hoằng Dụ ra đánh bọn Nguyễn Kính. Nhưng Hoằng Dụ lưỡng lự không đi.
Để xoa dịu phe cánh Nguyễn Kính, Chiêu Tông sai giết những người gièm pha Trần Chân trước đây, nhưng Kính vẫn tụ tập cướp phá như trước. Mạc Đăng Dung khuyên Chiêu Tông về Bảo Châu (huyện Từ Liêm), nhưng nội thần Đỗ Nhạc và Nguyễn Dư can ngăn, Đăng Dung đem giết cả hai, đưa Chiêu Tông cùng em là Lê Xuân về Bảo Châu. Sau khi Chiêu Tông rời Đông Kinh, Vĩnh Hưng bá Trịnh Tuy cùng bọn giặc Sơn Tây lập Lê Bảng (黎榜), con của Tĩnh Tu công Lê Lộc (静修公黎禄) lên ngôi, đổi thành Đại Đức Đế (大德帝). Được nửa năm lại phế Bảng mà lập Lê Do (黎槱), đổi thành Thiên Hiến Đế (天宪帝). Cả hai đều là cháu 4 đời của Cung vương Lê Khắc Xương (黎克昌), con thứ hai của Thái Tông Văn Hoàng.
Mạc Đăng Dung soán vị
Chiêu Tông triệu thông gia của Trần Chân là Vĩnh Xuyên bá Mạc Đăng Dung đang trấn thủ Hải Dương và An Hòa hầu Nguyễn Hoằng Dụ đem quân đánh bọn Nguyễn Kính, Nguyễn Áng. Hoằng Dụ thua to, quân chết rất nhiều. Hoằng Dụ chạy xuống thuyền, tự liệu không đánh được, liền bãi binh lui về, chỉ để một mình Mạc Đăng Dung ở lại cầm cự với bọn Nguyễn Áng.
Năm 1519, Vĩnh Hưng bá Trịnh Tuy đánh úp Chiêu Tông ở dinh Bồ Đề, bị thua, phải đem Lê Do về Yên Lãng, Yên Lạc (Vĩnh Phú ngày nay). Tháng 7 năm ấy, Mạc Đăng Dung dẹp được Lê Do, bắt giết Do và Nguyễn Sư. Trịnh Tuy bỏ chạy về Tây Kinh, Nguyễn Kính đầu hàng. Cấp phong cho Đăng Dung làm Minh quận công (明郡公).
Năm 1521, Mạc Đăng Dung lại được phong làm Nhân quốc công (仁國公), lĩnh quản binh lực thủy bộ của 13 đạo, lại phong làm Thái phó. Tháng 8, Đăng Dung lãnh quân đến vùng Kinh Bắc, dẹp được Trần Cung, con của Trần Cảo. Lúc này quyền thế của Mạc Đăng Dung rất lớn, kiểm soát toàn bộ triều đình. Dung đem con gái nuôi vào cung hầu, tiếng là chầu hầu, thực ra là để dò xét, coi giữ. Lại cho con trưởng là Mạc Đăng Doanh làm Dục Mỹ hầu (煜美侯), trông coi điện Kim Quang. Đăng Dung đi bộ thì lọng phượng giát vàng, đi thủy thì thuyền rồng giây kéo, ra vào cung cấm, không kiêng sợ gì. Lại giết bọn thị vệ Nguyễn Cấu, Đô lực sĩ Minh Sơn bá Nguyễn Thọ và Đàm Cử.
Ngày 27 tháng 7, năm Quang Thiệu thứ 7 (1522), Chiêu Tông chạy ra huyện Minh Nghĩa ở Sơn Tây (vùng đất nay thuộc tỉnh Hà Tây), lúc đó ông mưu ngầm với bọn Phạm Hiến, Phạm Thứ, sai người đem mật chiếu vào Tây Kinh bảo Trịnh Tuy nghênh viện. Hôm sau Đăng Dung nghe tin, cho người đuổi theo nhưng Chiêu Tông quyết chống lại, chạy vào thành Tây Kinh. Trong kinh thành, Mạc Đăng Dung cùng Thái sư Lượng quốc công Lê Phụ và các công hầu lập em của Chiêu Tông là Lê Xuân lên ngôi. Ngày 11 tháng 8, Mạc Đăng Dung cùng Lê Phụ tôn Lê Xuân lên, tức Lê Cung Hoàng, tuyên bố phế truất Chiêu Tông, gọi là Quang Thiệu Đế (光紹帝). Cung Hoàng lên ngôi, đặt niên hiệu là Thống Nguyên (統元), trong nước lúc đấy tồn tại 2 vị hoàng đế. Cung Hoàng bị Đăng Dung dời đến Hồng Thị, thuộc Hải Dương tạm trú ẩn; ngay khi nghe tin ấy Chiêu Tông ngự về Đông Kinh, thiết lập lại triều đình.
Bấy giờ các xứ Tây, Nam, Bắc thì Chiêu Tông đều lấy được cả, thanh thế lớn. Sau đó, Trịnh Tuy đem quân phủ Thanh Hóa vào chầu, Chiêu Tông nghe lời nịnh mà chém thuộc tướng của Tuy, nên Tuy sinh lòng hận thù. Ngày 18 tháng 10, Trịnh Tuy bắt Chiêu Tông về Thanh Hóa, Tây Kinh, cả nước đều thất vọng. Ngày 18 tháng 12, Mạc Đăng Dung sau khi dẹp phản loạn Giang Văn Dụ, đuổi khỏi kinh thành, đưa Cung Hoàng từ Hồng Thị về kinh sư.
Năm 1523, sau khi Trịnh Tuy đem Chiêu Tông về Thanh Hóa, quân lực Chiêu Tông bị giảm đáng kể, Đăng Dung liên tiếp sai Sơn Đông hầu Mạc Quyết, Quỳnh Khê hầu Vũ Hộ, Dương Xuyên hầu Vũ Như Quế đi đánh Trịnh Tuy ở Thanh Hoa, phá tan quân Tuy. Tuy liền dời Chiêu Tông lên châu Lang Chánh. Năm đó Đang Dung giáng Chiêu Tông làm Đà Dương vương (陀陽王).
Năm 1525, Cung Hoàng phong Mạc Đăng Dung thêm thành Bình chương quốc trọng sự, đem quân đánh Trịnh Tuy, Tuy thua trận bỏ chạy rồi chết. Đăng Dung bắt được Chiêu Tông ở động An Nhân. Về đến kinh sư, Đăng Dung giam Chiêu Tông ở phường Đông Hà. Nghe tin Chiêu Tông bị bắt, các quần thần Phúc Lương hầu Hà Phi Chuẩn, Nghiêm Bá Kỳ, Đàm Thận Huy đều bị truy lùng và giết chết, bấy giờ triều đình đều nằm trong tay Mạc Đăng Dung. Ngày 18 tháng 12, năm 1526, Đang Dung bí mật sai Bái Khê bá Phạm Kim Bảng giết Chiêu Tông ở nơi bị giam, đem xác về chôn ở Vĩnh Hưng lăng.
Năm 1527, Mạc Đăng Dung bắt Cung Hoàng nhường ngôi, lập ra nhà Mạc. Bấy giờ, thần dân trong Kinh đều theo Mạc Đăng Dung và đều đón Đăng Dung vào Kinh.
Nhận định
Giống như Hai Bà Trưng, Lý Nam Đế, Mai Hắc Đế, Phùng Hưng, nhà Hậu Lê lên cầm quyền ở Việt Nam nhờ công đánh đuổi người phương Bắc để giành lại nước. Nhưng khác với thế hệ trước, nhờ có cơ sở vững chắc 470 năm liên tục (938 - 1407) do các triều đại Ngô - Đinh - Tiền Lê - Lý - Trần trước đó tạo dựng nên thành quả đánh ngoại xâm của nhà Hậu Lê được giữ gìn trong thời gian dài. Nước Đại Việt thời nhà Hậu Lê tồn tại được 100 năm (1428 - 1527).
Xây dựng quốc gia
Bộ máy hành chính
Lê Thái Tổ chia nước ra làm 5 đạo, đạo mới đặt gọi là Hải Tây đạo, gồm cả Thanh Hóa, Nghệ An, Tân Bình và Thuận Hóa. Trong các đạo, đạo nào cũng có quan Hành khiển để giữ sổ sách về việc quân-dân.
Dưới đạo là phủ, huyện (miền núi gọi là châu), xã, thôn. Đến thời vua Lê Thánh Tông đổi chia 5 đạo thành 13 đạo thừa tuyên, thay chức An phủ sứ đứng đầu ở mỗi đạo bằng 3 ti phụ trách ba mặt hoạt động khác nhau ở mỗi đạo thừa tuyên (tỉnh). Dưới đạo thừa tuyên (tỉnh) có phủ, huyện, xã, thôn.
Bộ máy chính quyền phong kiến được hoàn thiện dần và đến thời Lê Thánh Tông thì được các nhà nghiên cứu đánh giá là hoàn chỉnh nhất. Đứng đầu triều đình là Hoàng đế, thứ dưới là hệ thống quan liêu chặt chẽ. Để tập trung quyền lực vào Hoàng đế, Lê Thánh Tông bãi bỏ một số chức vụ cao cấp nhất như Tướng quốc, Đại tổng quản, Đại hành khiển... Hoàng đế trực tiếp nắm mọi quyền hành kể cả chức tổng chỉ huy quân đội.
Đời Lê Thái Tổ chỉ có 3 bộ: Lại, Lễ, Dân (tức Hộ Bộ). Lê Thánh Tông tổ chức thành lục bộ:
Lại bộ: Trông coi việc tuyển bổ, thăng thưởng và thăng quan tước;
Lễ bộ: Trông coi việc đặt và tiến hành các nghi lễ, tiệc yến, học hành thi cử, đúc ấn tín, cắt giữ người coi giữ đình, chùa, miếu mạo;
Hộ bộ: Trông coi công việc ruộng đất, tài chính, hộ khẩu, tô thuế kho tàng, thóc tiền và lương, bổng của quan, binh;
Binh bộ: Trông coi việc binh chính, đặt quan trấn thủ nơi biên cảnh, tổ chức việc giữ gìn các nơi hiểm yếu và ứng phó các việc khẩn cấp;
Hình bộ: Trông coi việc thi hành luật, lệnh, hành pháp, xét lại các việc tù, đày, kiện cáo;
Công bộ: Trông coi việc xây dựng, sửa chữa cầu đường, cung điện thành trì và quản đốc thợ thuyền.
Dưới thời Lê Thánh Tông, các quan chỉ được làm việc tối đa đến tuổi 65 và ông bãi bỏ luật cha truyền con nối cho các gia đình có công – công thần. Ông tôn trọng việc chọn quan phải là người có tài và có đức.
Kinh tế
Nông nghiệp
20 năm dưới ách thống trị của phong kiến nhà Minh, đời sống nhân dân Đại Việt rất cực khổ. Để nhanh chóng phục hồi và phát triển nông nghiệp, Lê Thái Tổ cho 25 vạn lính (trong tổng số 35 vạn) về quê làm ruộng ngay sau chiến tranh. Còn lại 10 vạn người được chia làm 5 phiên thay nhau về quê sản xuất. Nhà Lê kêu gọi dân phiêu tán về quê làm ruộng, đặt ra một số chức quan chuyên lo về nông nghiệp như Khuyến nông sứ, Hà đê sứ, Đồn điền sứ và định lại chính sách chia ruộng đất công làng xã gọi là phép quân điền; cấm giết trâu bò bừa bãi, cấm điều động dân phu trong mùa cấy gặt.
Nhà Lê còn đẩy mạnh việc lập đồn điền và khẩn hoang nhằm khai thác những vùng đất mới. Nhờ những chính sách tích cực, nông nghiệp đã đảm bảo tương đối đời sống nhân dân trong nước. Nhân dân thời Lê có câu thơ:
Đời vua Thái Tổ, Thái Tông,
Con bế, con dắt, con bồng, con mang...
Đời vua Thái Tổ, Thái Tông,
Thóc lúa đầy đồng trâu chẳng buồn ăn.
Thủ công nghiệp
Nhờ sự quan tâm đến việc phát triển thương nghiệp nên nền nông nghiệp đã phát triển mạnh mẽ. Các nghề thủ công như: dệt lụa, ươm tơ, dệt vải, nghề mộc, nghề chạm, nghề đúc đồng cũng phát triển. Kinh đô Đông Kinh sầm uất, nhộn nhịp tồn tại phát triển đến tận ngày nay. Phường Yên Thái làm giấy, phường Nghi Tàm dệt vải lụa, phường Hà Tân nung vôi, phường Hàng Đào nhuộm điều, phường Ngũ Xá đúc đồng, phường gạch và gốm sứ Bát Tràng và nhiều phường khác.
Các ngành nghề thủ công truyền thống ở các làng xã như kéo tơ, dệt lụa, đan lát, làm nón, đúc đồng, rèn sắt, làm đồ gốm v.v... ngày càng phát triển. Nhiều làng thủ công chuyên nghiệp nổi tiếng ra đời. Đông Kinh là nơi tập trung nhiều ngành nghề thủ công nhất.
Các công xưởng do nhà nước quản lý gọi là Cục Bách tác sản xuất đồ dùng cho nhà vua, vũ khí, đóng thuyền, đúc tiền đồng...; các nghề khai mỏ đồng, sắt, vàng được đẩy mạnh.
Thương mại
Triều đình khuyến khích lập chợ mới, họp chợ, ban hành những điều luật cụ thể quy định việc thành lập chợ và họp chợ.
Việc buôn bán với nước ngoài được duy trì. Thuyền bè các nước láng giềng qua lại buôn bán ở một số cửa khẩu như Vân Đồn, Vạn Ninh (Quảng Ninh), Hội Thống (Hà Tĩnh) và một số địa điểm ở Lạng Sơn, Tuyên Quang được kiểm soát chặt chẽ. Các sản phẩm sành sứ, vải lụa, lâm sản quý là những thứ hàng được thương nhân nước ngoài ưa chuộng.
Tuy nhiên, cùng với thủ công nghiệp, thương mại vẫn bị nhà nước ức chế. Thời nhà Lê, chính quyền dùng chính sách bế quan tỏa cảng. Nhà Lê hạn chế ngoại thương hơn cả nhà Lý, nhà Trần. Các tàu ngoại quốc tới buôn bán đều phải đậu ở Vân Đồn. Dân buôn muốn đi buôn bán thì phải có giấy phép, về cũng phải có giấy phép. Quan lại vô cớ tới Vân Đồn, dân chúng tự tiện đón tàu vào buôn bán cũng đều bị xử tội.
Giáo dục
Ngay sau khi lên ngôi, Lê Thái Tổ cho dựng lại Quốc Tử Giám ở Đông Kinh, mở trường học các lộ, mở khoa thi và cho phép người nào có học đều được dự thi. Đa số dân đều có thể đi học, đi thi trừ những kẻ phạm tội và làm nghề ca hát.
Ở các đạo phủ có trường công. Nhà nước tuyển chọn người giỏi, có đạo đức để làm thầy giáo. Nội dung học tập thi cử là sách của nhà Nho. Thời Lê sơ (1428-1527) tổ chức được 26 khoa thi tiến sĩ, lấy đỗ 989 tiến sĩ, 20 trạng nguyên. Riêng thời Lê Thánh Tông, tổ chức được 12 khoa thi tiến sĩ, lấy đỗ 501 tiến sĩ, 9 trạng nguyên.
Học chế thời Lê mở rộng hơn các thời trước, không cấm con em nhà thường dân đi học như thời nhà Lý, nhà Trần. Tài liệu học tập thì gồm mấy bộ Tứ Thư, Ngũ Kinh tinh túy, Bắc sử (Sử Trung Quốc). Phương pháp giáo dục chỉ có 2 nguyên tắc chủ chốt là trừng phạt bằng roi vọt và học thuộc lòng. Ngoài ra còn nguyên tắc lặp lại tư tưởng cổ nhân và biểu diễn bằng những câu sáo rỗng.
Lê Thánh Tông khởi xướng và cho lập bia tiến sĩ lần đầu tiên ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám vào năm 1484, các đời vua sau này tiếp tục bổ sung thêm các tấm bia vinh danh mới. Cùng với việc xây dựng thiết chế mới, Lê Thánh Tông đẩy mạnh phát triển giáo dục, đào tạo nhân tài. Ngoài Hàn lâm viện, Quốc sử viện, nhà Thái học, Quốc Tử Giám là những cơ quan văn hóa, giáo dục lớn, Lê Thánh Tông còn cho xây kho bí thư chứa sách, đặc biệt đã sáng lập Hội Tao Đàn bao gồm những nhà văn hóa có tiếng đương thời mà Lê Thánh Tông là Tao Đàn chủ soái. Việc thi cử, học tập thường xuyên và rất nhiều tiến sĩ, trạng nguyên đỗ đạt và thành danh.
Thời Lê sơ, Nho giáo chiếm vị trí độc tôn; Phật giáo và Đạo giáo bị hạn chế. Phật giáo bị đẩy lui xuống sinh hoạt ở các làng xã, trong khi đó Nho giáo lại được coi trọng và lên ngôi, đặc biệt là khu vực triều đình và giới Nho học. Đó là đặc điểm chính của thời kỳ này. Mặt khác do trước đó chịu sự tận diệt của nhà Minh nên nhiều chùa chiền, cung điện và các phật tử phát triển rực rỡ ở các triều đại nhà Lý, nhà Trần đã bị xóa bỏ.
Hệ thống Nho giáo này do phong kiến nhà Lê bắt chước theo nhà Minh của Trung Quốc. Người học tuyệt đối không ai được phát huy ý kiến riêng của mình, cấm chỉ tự do tư tưởng. Nhà nghiên cứu Đào Duy Anh cho rằng kiểu người điển hình do phương pháp giáo dục này đào tạo là người hủ nho hoàn toàn trung thành với chế độ quân chủ nhà Lê.
Luật pháp
Về luật pháp, Bộ Quốc triều hình luật của nhà Hậu Lê đã được hoàn thiện trong thời Lê Thánh Tông, nên còn được gọi là Luật Hồng Đức. Với bộ luật này, Đại Việt đã hình thành một nhà nước pháp quyền sơ khởi và thuộc loại sớm trên thế giới. Lê Thánh Tông đã lấy những quan điểm của nho giáo làm hệ tư tưởng, chỉ đạo việc biên soạn, ban hành luật pháp, nhằm thể chế hóa một nhà nước phong kiến Đại Việt, với truyền thống nhân nghĩa, lấy dân làm gốc.
Nội dung chính của bộ luật là bảo vệ quyền lợi của vua hoàng tộc; bảo vệ quyền lợi của quan lại và giai cấp thống trị địa chủ phong kiến. Đặc biệt bộ luật có những điều luật bảo vệ chủ quyền quốc gia, khuyến khích phát triển kinh tế, gìn giữ những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, bảo vệ một số quyền lợi của phụ nữ.
Xã hội
Trong xã hội, giai cấp nông dân chiếm tuyệt đại đa số dân cư sống chủ yếu ở nông thôn. Họ có rất ít hoặc không có ruộng đất phải cày ruộng đất công, nộp tô thuế, đi phục dịch cho nhà nước (đi lính, đi phu...) hoặc phải cày cấy ruộng thuê của địa chủ, quan lại và phải nộp một phần hoa lợi (gọi là tô) cho chủ ruộng.
Nông dân là giai cấp bị bóc lột nghèo khổ trong xã hội. Tầng lớp thương nhân, thợ thủ công ngày càng đông hơn; họ phải nộp thuế cho nhà nước và không được xã hội phong kiến coi trọng.
Nô tì là tầng lớp thấp kém nhất trong xã hội bao gồm cả người Việt, người Hoa, dân tộc ít người. Pháp luật nhà Lê hạn chế nghiêm ngặt việc bán mình làm nô hoặc bức dân tự do làm nô tì. Nhờ vậy số lượng nô tì giảm dần.
Nhờ chính sách khuyến nông, cuộc sống của nhân dân được ổn định, dân số ngày càng tăng. Nhiều làng mới được thành lập. Các nhà nghiên cứu Việt Nam tự nhận Đại Việt đã trở thành một quốc gia có uy thế trong khu vực Đông Nam Á.
Văn học, khoa học, nghệ thuật
Văn học chữ Hán tiếp tục chiếm ưu thế, có hàng loạt tập văn thơ nổi tiếng. Văn học chữ Nôm giữ một vị trí quan trọng. Văn thơ chữ Hán có những tác phẩm nổi tiếng như: Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo, Quỳnh uyển cửu ca,... Văn thơ chữ Nôm có Quốc âm thi tập, Hồng Đức quốc âm thi tập, Thập giới cô hồn quốc ngữ văn v.v.... Ngoài ra, văn học thời Lê Sơ xuất hiện một bộ phận tác giả chuyên sử dụng văn học làm công cụ chỉ để ca ngợi nhà vua. Phần lớn các tác phẩm loại này được viết với lời lẽ rất trau chuốt, ý tứ cầu kỳ và tình cảm giả tạo.
Sử học có tác phẩm: Đại Việt sử ký (10 quyển) của Lê Văn Hưu, Đại Việt sử ký toàn thư (15 quyển) của Ngô Sĩ Liên, Lam Sơn thực lục của Nguyễn Trãi, Đại Việt thông giám của Vũ Quỳnh, Việt giám thông khảo tổng luận của Lê Tung, Hoàng triều quan chế,...
Địa lý học có sách Hồng Đức bản đồ, Dư địa chí, An Nam hình thăng đồ,... của Nguyễn Trãi.
Y học có công trình Bản thảo thực vật toát yếu của Phan Phu Tiên và Bảo anh lương phương của Nguyễn Trực.
Toán học có các tác phẩm Đại thành toán pháp của Lương Thế Vinh, Lập thành toán pháp của Vũ Hữu.
Ngoài ra, thời Lê sơ cũng cho biên soạn Điển lệ là loại sách tổng hợp thành tựu của nhiều ngành. Bộ Thiên Nam dư hạ tập gồm 100 quyển của Lê Thánh Tông cũng là 1 ví dụ cụ thể.
Nghệ thuật sân khấu như ca múa nhạc, chèo, tuồng được phục hồi nhanh chóng và phát triển nhất là chèo tuồng. Âm nhạc cung đình được hình thành từ thời Lê Thái Tông.
Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc thời Lê sơ biểu hiện rõ rệt và đặc sắc ở các công trình lăng tẩm cung điện tại Lam Kinh, những đồ vật còn sót lại cho thấy tay nghề tinh xảo, tư duy quy mô lớn của nghệ nhân đương thời. Hiện nay còn lại một số dấu vết của Lam Kinh ở Thanh Hóa như nền cột, bậc thềm, một số con vật bằng đá. Cung điện Lam Kinh xây dựng trên một khu đất hình chữ nhật dài 314 mét rộng 254 mét, có tường thành bao bọc dày 1m. Trong các bia đá, nổi tiếng nhất là bia Vĩnh Lăng (viết về Lê Thái Tổ).
Tổ chức quân đội
Hoàng đế Lê Thánh Tông ra sắc chỉ đầu tiên là chỉnh đốn lại quân đội, đôn đốc và thực hiện các bước để tăng cường các khả năng chiến đấu của các vệ quân năm đạo. Việc canh phòng và cảnh giác về vấn đề biên cương rất chặt chẽ và cẩn thận nên triều đình nhà Minh rất tôn trọng và có phần e ngại. Lê Thánh Tông cải tổ quân đội mạnh mẽ về mặt tổ chức, trước đó quân đội chia làm 5 đạo vệ quân, nay đổi làm 5 phủ đô đốc. Mỗi phủ có vệ, sở. Bên cạnh còn có 2 đạo nội, ngoại, gồm nhiều ti, vệ.
Ngoài tổ chức quân thường trực, Lê Thánh Tông còn chú ý lực lượng quân dự bị ở các địa phương gọi là chế độ Ngụ binh ư nông: khi đất nước có giặc ngoại xâm thì tất cả quân lính đều tại ngũ chiến đấu cùng toàn dân; khi hòa bình thì thay phiên nhau về làm ruộng. Ban hành 43 điều quân chính là luật quân đội Lê Thánh Tông ban hành cho thấy kỷ luật quân đội của ông rất nghiêm ngặt, có sức chiến đấu cao.
Quân đội có hai bộ phận chính: quân ở triều đình và quân ở các địa phương; bao gồm bộ binh, thủy binh, tượng binh, kỵ binh. Vũ khí quân sự dưới thời Lê Thánh Tông đã có những tiến bộ vượt bậc; gồm súng hỏa mai, đao, kiếm, giáo, mác, cung, tên, hỏa đồng, hỏa pháo. Được trang bị hết sức đầy đủ, hùng mạnh.
Hằng năm quân lính được luyện tập võ nghệ chiến trận. Vùng biên giới đều có bố trí quân đội mạnh canh phòng và bảo vệ không để xâm lấn.
Gây chiến tranh xâm lược
Đánh Chiêm Thành
Chúa Chiêm Thành là Trà Toàn bỏ tiến cống nhà Lê, thường xâm lấn biên giới phía nam Đại Việt. Năm 1470, Trà Toàn sai sứ thần sang cầu viện nhà Minh, thân hành đem 10 vạn quân thủy, bộ cùng voi ngựa đến đánh úp Hóa Châu. Viên tướng trấn giữ Hóa Châu Phạm Văn Hiển chống không nổi, phải đóng cửa thành chống giữ, cho người phi ngựa đem văn thư cáo cấp về Đông Kinh.
Tháng 10 năm ấy, Lê Thánh Tông sai sứ đem việc Chiêm Thành đánh úp biên giới sang báo cáo với nhà Minh, và thân chinh cầm 200.000 quân tiến vào đất Chiêm Thành. Tháng 3 năm 1471, kinh đô Đồ Bàn của Chiêm Thành thất thủ. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, hơn 30.000 người Chiêm bị bắt, trong đó có chúa Trà Toàn. 40.000 lính Chiêm Thành đã tử trận.
Bấy giờ một tướng Chiêm là Bô Trì Trì chạy về đất Phan Lung, cử sứ sang cống và xin xưng thần với Đại Việt. Theo Việt Nam Sử lược, Thánh Tông có ý muốn làm cho Chiêm Thành yếu đi, mới chia đất Chiêm ra làm 3 nước, phong 3 quốc vương: 1 nước gọi là Chiêm Thành, 1 nước nữa là Hóa Anh và 1 nước nữa là Nam Phan.
Sau khi Trà Toàn bị bắt, em là Trà Toại trốn vào núi, sai người sang cầu cứu nhà Minh và xin phong vương. Được tin, Lê Thánh Tông sai Kỳ quận công Lê Niệm đem 3 vạn quân vào đánh, Trà Toại bị bắt giải về kinh. Về sau, Minh Hiến Tông sai sứ sang bảo Thánh Tông phải trả đất cho Chiêm Thành, nhưng ông nhất quyết không chịu.
Sau chiến thắng, Lê Thánh Tông thực hiện chính sách mới, bình định và Việt hóa dân chúng người Chiêm Thành và sáp nhập lãnh thổ miền bắc Chiêm Thành (từ đèo Hải Vân tới bắc Phú Yên ngày nay) vào Đại Việt. Tháng 6 năm 1471, lãnh thổ miền bắc Chiêm Thành được lập thành thừa tuyên Quảng Nam và vệ Thăng Hoa.
Đánh Bồn Man, dẹp Lão Qua
Bồn Man, lãnh thổ gồm miền tây Nghệ An, tỉnh Huaphanh và tỉnh Sơn La ngày nay, trước đây đã xin nội thuộc Đại Việt, đổi thành châu Quy Hợp dưới quyền các tù trưởng họ Cầm, sau đó đổi thành phủ Trấn Ninh, và đặt quan phủ huyện để trị vì. Nay Cầm Công, với sự giúp đỡ của người Lão Qua, đánh đuổi quân Đại Việt, rồi ra quân chống giữ với quan quân.
Năm 1479, có tù trưởng xứ Bồn Man là Cầm Công làm phản, xúi giục người Lão Qua cầm binh quấy nhiễu miền tây Đại Việt.
Lê Thánh Tông sai Thái uý Lê Thọ Vực cùng các tướng Trịnh Công Lộ, Lê Đình Ngạn, Lê Lộng và Lê Nhân Hiếu chia quân làm 5 đạo đi từ Nghệ An, Thanh Hóa và Hưng Hóa đánh đuổi quân Lão Qua tới sông Kim Sa giáp với Miến Điện. Quân Đại Việt toàn thắng.
Lê Thánh Tông bèn ngự giá thân chinh, nhưng khi tới Phù Liệt, được tin quân Đại Việt thắng Lão Qua thì rút về và cử Kỳ quận công Lê Niệm đem quân đi đánh. Kết quả là những người Bồn Man ra hàng, tù trưởng là Cầm Công cũng tử trận.
Sau đó, Thánh Tông phong người họ Cầm Công là Cầm Đông làm Tuyên úy Đại sứ và đặt lại quan cai trị như trước, đặt vùng đất mới này là xứ Trấn Ninh.
Ngoại giao
Với Trung Quốc
Đến thời Lê Thánh Tông, quân Đại Việt phát triển mạnh, xâm lược Lào, Chiêm nên gây được sự chú ý, Đại Minh lấy lễ nghĩa mà đãi Đại Việt, quan hệ giữa hai nước vẫn được hòa bình.
Đại Việt bấy giờ có lệ xưng thần với nhà Minh, nhưng các vua Lê vẫn phòng bị mặt bắc. Thỉnh thoảng hai bên vẫn xảy ra những vụ lấn cướp biên giới qua lại, có những thổ dân sang quấy nhiễu, thì lập tức vua Lê cho quan quân lên dẹp yên và cho sứ sang Trung Quốc để phân giải mọi sự cho minh bạch. Suốt từ thời Lê Thái Tông đến Lê Thánh Tông, trong gần 50 năm liên tục xảy ra những vụ tranh chấp vùng biên giới tây bắc hoặc đông bắc, nhưng cuối cùng không xảy ra chiến tranh.
Lê Thánh Tông thường bảo với triều thần:
Với các nước Đông Nam Á
Sau khi Đại Việt đánh hạ Chiêm Thành, nhiều vương quốc láng giềng phía Tây bắt đầu cử sứ thần đến thông hiếu. Quan điểm của Vua Lê Thánh Tông là vừa tiếp đãi, vừa dè chừng họ. Năm 1485, nhà vua ra lệnh vệ Cẩm y phải nghiêm ngặt tiếp rước và canh giữ, đề phòng các sứ giả Chiêm Thành, Lão Qua (Lan Xang), Xiêm La (các quốc gia thuộc Thái Lan), Trảo Oa (Java), Lộ Lạc (Malakka) dò xét nội tình Đại Việt.
Các Hoàng đế và Hoàng hậu nhà Lê sơ
Danh sách
Liệt kê
Các Hoàng đế
Lê Lợi
Lê Nguyên Long
Lê Bang Cơ
Lê Nghi Dân
Lê Tư Thành
Lê Tranh
Lê Thuần
Lê Tuấn
Lê Oanh
Lê Quang Trị
Lê Y
Lê Bảng
Lê Do
Lê Xuân
Các Hoàng hậu
Phạm Thị Ngọc Trần
Nguyễn Thị Anh
Ngô Thị Ngọc Dao
Nguyễn Thị Hằng
Nguyễn Thị Hoàn
Nguyễn Thị Cận
Mai Ngọc Đỉnh
Trần Thị Tùng
Nguyễn Thị Đạo
Phạm Thị Ngọc Quỳnh
Gia phả nhà Lê
Chú thích
Xem thêm
Lê Lợi
Lê Thánh Tông
Nhà Mạc
Mạc Đăng Dung
Vua Việt Nam
Vấn đề biên giới Việt-Trung thời Hậu Lê
Thương mại Đại Việt thời Lê Sơ
Hành chính Đại Việt thời Lê sơ
Tham khảo
Đại Việt Sử ký Toàn thư
Đại Việt Thông sử
Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục
Viện sử học (2007), Lịch sử Việt Nam, tập 3, Nhà xuất bản Khoa học xã hội
Đào Duy Anh (2002), Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỷ XIX, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin
Liên kết ngoài
Annam , thu thập các đoạn tài liệu Minh Thực Lục (明實錄) của nhà Minh về Đại Việt, trong đó có nhiều phần liên quan đến thời kỳ trị vì của nhà Hậu Lê.
Khởi đầu năm 1428
Chấm dứt năm 1527
Triều đại Việt Nam
Thế kỷ 16 ở Việt Nam
Việt Nam thế kỷ 15
|
27220
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%E1%BA%ADn
|
Quận
|
Quận là một loại đơn vị hành chính địa phương. Danh xưng "quận" bắt nguồn từ Trung Quốc, trong lịch sử đã từng được sử dụng ở cả Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam. Ngày nay, quận chỉ còn được dùng để chỉ một loại đơn vị hành chính cấp 2 ở Việt Nam, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên và Hàn Quốc. Trong nhiều tài liệu tiếng Anh, từ "district" được xem là có nghĩa tương đương với "quận".
Lịch sử
Danh xưng "quận" (chữ Hán: 郡) được sử dụng để chỉ đơn vị hành chính đầu tiên ở nước Tần cuối thời kỳ Chiến Quốc, sau Biến pháp Thương Ưởng. Ban đầu, quận mang ý nghĩa như một đơn vị hành chính quân sự ở vùng biên cương, khác với huyện chỉ đơn thuần là những đơn vị hành chính nội địa. Sách Sử ký có ghi chép thời Tần Vũ vương, Tả thừa tướng Cam Mậu đánh chiếm đất Nghi Dương của nước Hàn, đặt thành quận huyện.
Khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc, đã xóa bỏ chế độ phong kiến từ của nhà Chu, chia toàn quốc thành 36 quận, sau tăng lên thành 40 quận. Dưới cấp quận là huyện. Nhà Hán kế thừa phân cấp hành chính này (nhà Hán còn thành lập "quốc" để phong cho các hoàng thất chư hầu, nên còn gọi là "chính sách Quận - Quốc"), từ đó lan dần đến các quốc gia ảnh hưởng lịch sử văn hóa Hán như Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam. Tuy nhiên, từ nhà Đường về sau, danh xưng "quận" không còn được sử dụng để chỉ đơn vị hành chính. Thời Tống, dân gian đôi khi vẫn dùng danh xưng "quận" để chỉ đơn vị hành chính cấp châu. Thời Minh - Thanh, giới sĩ nhân thường dùng danh xưng "quận" để chỉ đơn vị hành chính cấp phủ.
Trong lịch sử, Nhật Bản cũng từng dùng danh xưng "quận" để chỉ một cấp đơn vị hành chính. Danh xưng này sử dụng đến năm 1942 thị bị bãi bỏ. Tuy nhiên, tại thuộc địa Đài Loan, đơn vị hành chính cấp quận vẫn được tiếp tục sử dụng cho đến tận năm 1945.
Ngày nay, đơn vị hành chính quận chỉ còn sử dụng ở Việt Nam, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên và Hàn Quốc, đều dùng để chỉ đơn vị hành chính cấp 2. Ở Việt Nam, quận là đơn vị hành chính đô thị, nhưng tại Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên và Hàn Quốc, quận (Hangul: 군, Kun) là đơn vị hành chính nông thôn.
Việt Nam
Ở Việt Nam, quận là đơn vị hành chính của thành phố trực thuộc trung ương. Đơn vị hành chính ngoại thành ngang cấp quận thì được gọi là huyện. Ví dụ như quận Lê Chân là một khu nội thành của thành phố trực thuộc trung ương Hải Phòng và Tiên Lãng là một vùng ngoại thành cũng của Hải Phòng.
Trước năm 1975 tại miền nam dưới thời Việt Nam Cộng hòa, tất cả các đơn vị hành chính cấp thấp ngay dưới đơn vị hành chính tỉnh đều được gọi là quận, không phân biệt vùng thành thị hay nông thôn. Ví dụ quận Sa Đéc thuộc tỉnh Sa Đéc là quận thành thị gồm phần đất của Thành phố Sa Đéc bây giờ, và quận Đức Thành là quận nông thôn thuộc huyện Lai Vung của tỉnh Đồng Tháp ngày nay. Còn cấp quận dưới thị xã là quận đô thị, giống như thị xã Cần Thơ gồm 2 quận là: Quận I và Quận II, hai Quận này ngày nay là Quận Ninh Kiều và một phần hai Quận Bình Thủy và Cái Răng, thành phố Cần Thơ.
Hoa Kỳ
Ở Hoa Kỳ, các đơn vị hành chính theo thứ tự cấp bậc như sau: dưới quốc gia Hoa Kỳ là các tiểu bang, dưới mỗi tiểu bang là quận (county). Ví dụ, nơi đông người Việt nhất ở Hoa Kỳ được gọi là Quận Cam (Orange County), một khu vực rộng lớn có trên 30 thành phố. Đôi khi thuật từ "quận" cũng được dùng để dịch từ district trong tiếng Anh.
Một ví dụ là District of Columbia, thường được dịch là "Quận Columbia", tức là thủ đô Washington D.C. của Hoa Kỳ. Tuy nhiên cách dịch này không chính xác bởi vì Washington D.C. không lệ thuộc bất kỳ một tiểu bang nào hay lãnh thổ nào và thường thì nó được xem ngang cấp với các tiểu bang của Hoa Kỳ vì thế trường hợp này District of Columbia nên dịch là Đặc khu Columbia.
Trung Quốc
Tại Trung Quốc, tương đương của một quận ở Việt Nam được gọi là "khu" (chữ Hán: 区; Hán-Việt: khu) và tương đương của một huyện được gọi là "huyện" (县; huyện, huyền). Khác với Việt Nam, chỉ có thành phố trực thuộc trung ương mới có đơn vị quận, Trung Quốc là quốc gia có rất nhiều thành phố lớn tuy không phải là thành phố trực thuộc trung ương nhưng đủ rộng lớn để có thể thành lập các đơn vị hành chính cấp quận. Ví dụ như thành phố Quế Lâm ở Khu tự trị Quảng Tây, Trung Hoa cũng có các đơn vị hành chính như Thành phố Hồ Chí Minh ở Việt Nam.
Nhật Bản
Quận là khu vực hành chính dưới đô đạo phủ huyện được thiết lập từ năm 1878, thông thường quản lý một số địa phương tự trị đinh hoặc thôn. Địa phương tự trị cấp thành phố thì không thuộc quyền quản lý của quận. Tuy nhiên, Nhật Bản đã bỏ chế độ quận từ năm 1926, hiện thời quận chỉ biểu thị địa danh mà không có chức năng quản lý.
Xem thêm
Phân cấp hành chính Việt Nam
Ghi chú
Liên kết ngoài
Nghị định của Chính phủ số 15/2007/NĐ-CP ngày 26 tháng 1 năm 2007 "Về phân loại đơn vị hành chính cấp tỉnh và cấp huyện"
Phân vùng quốc gia châu Á
Phân cấp hành chính
|
27222
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/IPod
|
IPod
|
iPod là dòng máy nghe nhạc và là thiết bị di động đa mục đích cơ bản được thiết kế và bán bởi Apple Inc.. Phiên bản đầu được ra mắt vào ngày 23 tháng 10 năm 2001, khoảng 8 tháng rưỡi sau khi iTunes trên Mac được tung ra thị trường. Cho đến tháng 5/2022, Apple bán được xấp xỉ 450 triệu sản phẩm iPod. Dòng sản phẩm này ngừng sản xuất vào ngày 10 tháng 5 năm 2022, kết thúc lịch sử của iPod sau hơn 20 năm.
Cho đến tháng 5/2022, toàn bộ dòng sản phẩm iPod thế hệ cuối bao gồm iPod Classic thế hệ 6 và iPod Nano thế hệ 7, iPod shuffle thế hệ 4, và iPod Touch thế hệ 7. Phần mềm bên cạnh iPod dùng để truyền nhạc, hình ảnh, và video lên tới iPod được gọi là iTunes. iTunes là chương trình chơi nhạc mà lưu giữ thư viện đựng cả âm nhạc trên máy của người dùng, và cũng có thể chơi và sao chép nhạc từ CD. Những loại iPod và phiên bản iTunes mới nhất có tính năng chơi video. Có thể lưu giữ định dạng khác vào iPod, làm nó thành đĩa cứng bên ngoài.
iPod luôn là sản phẩm được ưa chuộng, tuy nhiên doanh số bán ra của iPhone và iPad đã vượt qua iPod trong suốt những năm 2010, dẫn đến việc ngừng sản xuất từng dòng iPod.
Lịch sử
Các máy nghe nhạc MP3 đã tồn tại kể từ giữa thập niên 90, nhưng Apple thấy rằng những thiết bị đó to và cồng kềnh hoặc quá nhỏ, không có mục đích, với những giao diện người dùng thậm tệ. Đồng thời các thiết bị nghe nhạc có những mặt hạn chế về dung lượng và độ nặng của máy; các máy dựa trên thẻ nhớ flash chứa quá ít bài hát, trong khi các máy dựa trên ổ cứng thì quá to và cồng kềnh. Để giái quyết những khuyết điểm này, Apple quyết định tạo ra chiếc máy nghe nhạc MP3 của riêng công ty này.
Với sự điều hành của CEO Steve Jobs, trường phòng kĩ sư phần cứng Jon Rubinstein đã chiêu mộ Tony Fadell, người từng là nhân viên của General Magic và Philips. Ông có một ý tưởng tạo nên một chiếc máy chơi nhạc MP3 tốt hơn các hãng khác và tạo ra một cửa hàng nhạc đi kèm với nó. Fadell trước đó từng phát triển các sản phầm như Philips Velo trước khi sáng lập một công ty riêng tên là Fuse Systems để tạo chiếc máy nghe nhạc mới, nhưng RealNetworks, Philips và Sony đều từ chối dự án này. Ông khám phá một ổ cứng siêu nhỏ của Toshiba trong khi đang gặp đối tác cung cấp cho Apple ở Nhật Bản, và từ đó mua bản quyền của ổ cứng đó cho Apple. Kéo theo đó là quá trình vượt trội trong việc phát triển các bộ phận quan trọng, trong đó có cả pin và màn hình.
Fadell tìm được sự hỗ trợ cho dự án của ông bởi Apple Computer Inc. và được chiêu mộ vào công ty, làm với vai trò là hợp đồng cùng với công ty để tạo ra iPod, trước đó dự án mã tên là P-68. Vì hầu hết nhân công và nguồn lực của Apple đều dồn vào dòng iMac, thế nên Fadell chiêu mộ các nhân viên kì cựu của chính công ty ông, Fuse, cùng với General Magic và Philips để tạo nên đội phát triễn cốt lõi của iPod.
Khoảng thời gian ngắn hạn buộc ông phải phát triển nhiều bộ phận của iPod ngoài Apple, bằng cách phối hợp với công ty Portal Player để làm nên phần mềm danh cho nó, từ đó hình thành nên iPod OS. Trong vòng 8 tháng, cả hai bên đã tạo ra một bản mẫu. Bề ngoài của chiếc máy được lấy cảm hứng bới Radio bán dẫn Braun T3 (1958), trong khi phần mềm dựa trên con lăn dựa theo điện thoại BeoCom 6000. Steve Jobs cực kì chú tâm đến những chi tiết của thiết kế bề ngoài; một giai thoại kể rằng ông từng thả một bản mẫu iPod vào bể cá trước mặt những kĩ sư để cho thấy không gian còn trống ở bên trong chiếc máy không được sử dụng, bằng những bong bong khí thoát ra từ nó. Apple kí hợp đồng với công ty Pixo, để thiết kế hệ điều hành cho iPod.
Tên iPod được gợi ý bởi Vinnie Chieco, một người làm quảng cáo tự do. Ông và vài người khác được chiêu mộ bởi Apple để quyết định cách giới thiệu máy chơi nhạc này đối với công chúng. Sau khi ông nhing bản mẫu, ông nhớ đến lời thoại trong phim 2001: A Space Odyssey: "Open the pod bay doors, Hal". Chính điều đó khiến ông liên tưởng đến mối quan hệ giữa tàu không gian lớn và tàu con, tương tự như sự liên kết giữa một máy tính và máy chơi nhạc.
iPod được phát triển trong vòng 8 tháng, và được ra mắt vào ngày 23 tháng 10 năm 2001. Sản phầm gồm một màn hình và vòng lăn, với vỏ nhựa ở trước và vỏ nhôm ở đằng sau. Cùng với đó là ổ cứng 5GB, và 32MB RAM, để lưu trữ, chơi trước nhiều bài hát trong vòng 20 phút và tránh việc ổ cứng phải chạy liên tục, từ đó kéo dài dung lượng pin lên đến 10 tiếng.
Steve Jobs có một câu nói nổi tiếng khi ra mắt iPod: "1,000 bài hát trong túi của bạn".
Các dòng iPod
iPod Classic
iPod thế hệ 1 (23/10/2001)
iPod thế hệ 1 đánh dấu sự ra đời của thương hiệu máy nghe nhạc iPod. Hệ máy đầu tiên này được Apple cho ra mắt vào ngày 23 tháng 10 năm 2001. Thế hệ đầu tiên này dùng màn hình đen trắng, sử dụng hệ thống điều khiển với các nút bấm vật lý (scroll wheel) và ra mắt dưới 2 phiên bản dung lượng bộ nhớ là 5GB và 10GB. Với phiên bản 5GB, nó có thể lưu trữ khoảng 1000 bài nhạc mp3 chất lượng 160kb/s, pin có thời lượng 10 tiếng. Tại thời điểm đó, Apple bán ra bản 5GB với giá 400USD, bản 10GB là 500USD.
iPod thế hệ 2 (17/07/2002)
Vào năm 2002, Apple nâng cấp iPod lên thế hệ cao hơn. Kiểu dáng của phiên bản này tương tự bản trước đó. Ngoài nâng cấp về dung lượng bộ nhớ từ 5GB & 10GB lên thành 10GB & 20GB thì iPod thế hệ thứ hai còn có thêm chức năng cảm ứng đi kèm với nút bấm vật lý. Cả hai thế hệ đầu này đều dùng cổng kết nối Firewire chứ chưa dùng chuẩn kết nối USB thông thường.
iPod thế hệ 3 (28/04/2003)
Một năm sau đó, Apple ra mắt thế hệ 3 của iPod với nhiều mức dung lượng bộ nhớ hơn: 10GB, 15GB, 20GB, 30GB và 40GB. Ở phiên bản này, các nút chức năng như chạy/tạm dừng, chuyển bài...đã được chuyển lên một hàng phía trên bàn rê cảm ứng. Thời gian sử dụng pin của iPod thế hệ 3 đã giảm từ 10 tiếng xuống còn 8 tiếng do Apple chuyển sang dùng loại pin Li-ion thay vì Li-polymer. Tháng 9 năm 2003, Apple phát hành phần mềm iTunes phiên bản dành cho HĐH Windows của Microsoft, giúp các máy iPod có thể kết nối và đồng bộ với Windows.
iPod thế hệ 4 (19/07/2004)
iPod Photo
Từ phiên bản mới này, các nút bấm vật lý đã bị loại bỏ hoàn toàn. Thay vào đó nó thừa hưởng công nghệ cảm ứng clickwheel từ iPod Mini, cùng với đó là thiết kế đẹp hơn, mỏng và nhẹ hơn. iPod thế hệ này có 2 mức dung lượng là 20GB và 40GB. Hai phiên bản khác của iPod thuộc thế hệ 4 cũng được Apple giới thiệu đó là iPod Photo và iPod Color với màn hình màu và khả năng xem ảnh, mức dung lượng lớn nhất đạt 60GB.
iPod thế hệ 5 (12/10/2005)
iPod thế hệ 5 là đợt nâng cấp đánh dấu bước ngoặt của Apple, nó có thiết kế khác các bản trước đó với màn hình to hơn, mỏng và nhẹ hơn cùng với khả năng chơi video. Năm 2006, Apple nâng cấp dung lượng bộ nhớ cho thế hệ này lên cao nhất là 80GB (trước đó là 60GB) đi kèm với bản 30GB. Năm 2005 cũng là năm đánh dấu thời điểm Apple trang bị màn hình màu cho toàn bộ dòng iPod (trừ Shuffle không có màn hình).
iPod Classic thế hệ 6 (05/09/2007)
Đây là hệ máy đánh dấu tên gọi "Classic" được Apple đưa vào sử dụng. Với nhiều thay đổi đáng kể như vỏ hợp kim nhôm, màu bạc thay thế trắng, giao diện người dùng mới và ra mắt dưới 3 phiên bản gồm 80GB, 120GB và 160GB, giúp thỏa mãn các tín đồ nhạc số di động. Ngoài những cải tiến bên ngoài, thời lượng pin cũng nâng cao đáng kể, phiên bản 160GB có thời gian sử dụng khoảng 40 tiếng cho nghe nhạc và 6 tiếng chơi video. Tới nay, Apple chưa ra mắt thế hệ tiếp theo của dòng iPod Classic này vì vậy thế hệ 6 là mới nhất bây giờ, vả lại với những tính năng mà Apple trang bị cho nó thì chưa cần thiết để nâng cấp dòng iPod lâu đời nhất này.
iPod Mini
Đúng với tên gọi, Mini là hệ máy iPod nhỏ nhất của "quả táo" tại thời điểm ra mắt (2004). Chỉ có vỏn vẹn hai phiên bản ra mắt năm 2004 và 2005 với dung lượng bộ nhớ là 4GB và 6GB. iPod Mini là chiếc máy đầu tiên mà "quả táo" trang bị tính năng điều khiển cảm ứng (clickwheel), công nghệ này hiện vẫn đang được Apple sử dụng nhờ tính hiệu quả và đơn giản.
iPod Nano
Nếu đầu năm 2005, Apple ra mắt iPod Mini thế hệ 2 thì cuối năm, họ lập tức giới thiệu chiếc iPod Nano đầu tiên, đây là dòng máy thay thế Mini của Apple. Tính đến nay, iPod Nano trải qua 7 thế hệ với đủ màu sắc thời trang khác nhau.
iPod Nano thế hệ 1 (07/09/2005)
Apple quảng cáo Nano có độ mỏng chỉ như một chiếc bút chì và nhỏ tí hon. iPod Nano thế hệ 1 là chiếc iPod đầu tiên dùng bộ nhớ flash, nhờ đó giảm thiểu kích thước của iPod trong khi dung lượng không hề giảm. Thế hệ 1 có hai màu đen và trắng gồm các phiên bản 1GB, 2GB và 4GB, màn hình màu, thời gian chơi nhạc đạt 24 tiếng.
iPod Nano thế hệ 2 (12/09/2006)
Một năm sau, iPod thế hệ 2 ra mắt với nhiều màu sắc hơn (6 màu). Vỏ nhựa của thế hệ trước bị thay bằng vỏ nhôm, một kiểu thiết kế truyền thống của Apple sau này. Nó hiện diện dưới 3 phiên bản 2GB, 4GB và 8GB.
iPod Nano thế hệ 3 (05/09/2007)
Thế hệ Nano này được trang bị công nghệ màn hình QVGA với kích thước 2", clickwheel thiết kế nhỏ hơn, giao diện người dùng mới (cover flow) và khả năng chơi video. Nó có 2 phiên bản 4GB và 8GB, thời gian dùng pin là 24 tiếng.
iPod Nano thế hệ 4 (09/09/2008)
Giống như iPhone, iPod Nano thế hệ này được tích hợp gia tốc kế, giúp việc xem ảnh, video ngang màn hình dễ dàng hơn. Vỏ ngoài làm từ nhôm và gồm 9 phiên bản màu sắc khác nhau với các mức dung lượng bộ nhớ là 4GB, 8GB, 16GB.
iPod Nano thế hệ 5 (09/09/2009)
Nano giờ đây có thể quay video.
Thế hệ này đánh dấu sự tiến hóa của dòng máy nghe nhạc iPod với khả năng quay video. Ngoài ra, nó còn có màn hình lớn hơn, đài FM tích hợp, loa ngoài và vỏ ngoài được sơn bóng bắt mắt hơn. Phiên bản 4GB của thế hệ 4 đã bị loại bỏ, chỉ còn 8GB và 16GB.
Sản phẩm ngừng bán vào 1/9/2010
iPod Nano thế hệ 6 (01/09/2010)
Với kích thước siêu nhỏ so với các đời trước đây, chỉ vào khoảng 1.48 x 1.61 x 0.35 inch, iPod Nano thế hệ 6 gây sốc với không ít người hâm mộ.
Thay thế cho hệ thống phím điều khiển clickwheel vốn đã tồn tại trên các đời Nano cũ là màn hình cảm ứng đa chạm 1,54 inch (240 x 240 pixel). iPod Nano mới còn đi kèm với tính năng radio FM tích hợp và pin sử dụng liên tục 24 giờ.
Apple phát hành iPod Nano đời mới với 7 màu sắc khác nhau dành cho 2 phiên bản bộ nhớ 8GB và 16GB với giá lần lượt là 129 và 149usd.
iPod Nano thế hệ 7 (12/09/2012)
Chiếc iPod Nano thế hệ mới xuất hiện với thiết kế như một chiếc iPhone tí hon. "Đây là máy nghe nhạc iPod Nano nhất. máy có màn hình 2,5 inch cảm ứng đa điểm với một phím Home như iPhone, các phím điều khiển nhạc nằm ở sườn trái. Một điều rất hấp dẫn là iPod Nano có tới 7 màu sắc khác nhau.
Tích hợp FM, hỗ trợ Bluetooth là những điểm nhấn trên sản phẩm nghe nhạc mới của Apple.Máy chỉ có phiên bản 16 gb với giá 149usd
iPod Shuffle
Nếu như iPod Classic, iPod Nano có màn hình thì Shuffle là chiếc máy nhỏ gọn không có màn hình. Nó là dòng iPod nhỏ nhất của Apple, thế hệ mới nhất chỉ nhỉnh hơn chiếc USB một chút. Nhờ đó có thể kẹp vào áo, quần dễ dàng, không nặng và vướng như iPod Classic.
iPod Shuffle thế hệ 1 (11/01/2005)
Shuffle được Apple trang bị cổng kết nối USB, có thể cắm trực tiếp vào máy tính. Vì không có màn hình nên Shuffle được bán với mức giá dễ chịu hơn các dòng khác. Bản 512MB có giá 100USD, bản 1GB là 150USD tại thời điểm ra mắt. Ngoại trừ iPod Classic, từ phiên bản này trở đi thì Apple bắt đầu dùng bộ nhớ flash cho các dòng iPod giúp giảm kích thước của máy đáng kể.
iPod Shuffle thế hệ 2 (12/09/2006)
Nếu thế hệ 1 có thiết kế dạng thanh thì thế hệ 2 này có hình chữ nhật và được tích hợp chiếc kẹp nhỏ phía sau máy. Có hai phiên bản 1GB và 2GB được Apple giới thiệu. Sau này, Apple còn thêm cho chiếc Shuffle thế hệ 2 này 4 màu sắc khác nhau, không chỉ là một màu đơn thuần nữa.
iPod Shuffle thế hệ 3 (11/03/2009)
Thế hệ này lại quay về kiểu dáng gần giống thế hệ Shuffle đầu tiên, dạng thanh dài, tương tự một chiếc USB và trên thân máy không có nút bấm. Nó có thêm chức năng điều khiển bằng giọng nói (Voice Over) giúp việc chọn bài hát dễ dàng hơn rất nhiều. Đây là thế hệ Shuffle với hai bản 2GB và 4GB, thời lượng pin là 10 tiếng.
iPod Shuffle thế hệ 4 (01/09/2010)
iPod Shuffle mới có thiết kế cực kỳ nhỏ gọn với kiểu dáng vuông vắn. Điểm đáng chú ý trên phiên bản Shuffle thứ tư vừa ra mắt là sự trở lại của hệ thống phím bấm điều khiển tương tự như các mẫu Shuffle thế hệ đầu tiên và thứ hai. iPod Shuffle mới có 5 màu sắc khác nhau, thời lượng pin sử dụng 15 giờ và giá bán 49 USD cho phiên bản 2gb duy nhất.
iPod Touch
Touch là dòng máy cao cấp nhất trong đại gia đình iPod, có thiết kế tương tự iPhone. Cho tới bây giờ iPod Touch đã trải qua 7 lần thay đổi, mỗi lần đều được Apple thêm vào một vài nâng cấp: Bluetooth, quay phim HD, màn hình Retina,... Nhiều người gọi đây là bản sao của iPhone mà họ có thể mua không cần hợp đồng 2 năm với nhà mạng.
iPod Touch thế hệ 1 (05/09/2007)
Thế hệ đầu tiên này được ra mắt cùng năm với iPhone. Được tích hợp công nghệ cảm ứng đa chạm nổi tiếng của Apple, kết nối wifi và một thiết kế sang trọng, bắt mắt. Bề ngoài của iPod Touch hoàn toàn giống iPhone và chức năng bên trong cũng gần như tương tự. Thế hệ đầu có các phiên bản 8GB, 16GB và 32GB.
iPod Touch thế hệ 2 (09/09/2008)
Một năm sau đó Apple nâng cấp chiếc iPod Touch lên thế hệ 2 với dung lượng bộ nhớ giữ nguyên, vỏ sau được mạ crom sáng bóng. Thời lượng dùng pin cũng được cải thiện đáng kể, nếu thế hệ trước có thể dùng được 22 tiếng nghe nhạc thì ở thế hệ này tăng lên thành 36 tiếng.
iPod Touch thế hệ 3 (09/09/2009)
Sự kiện "999" của Apple là nơi chiếc iPod Nano thế hệ 5 được giới thiệu, cùng với đó Apple cũng nâng cấp iPod Touch lên thế hệ 3 mới hơn. Những đặc điểm được nâng cấp như đồ họa được cải thiện, 2 phiên bản bộ nhớ lớn hơn, 32GB và 64GB.
iPod Touch thế hệ 4 (01/09/2010)
iPod Touch thế hệ 4 là mẫu iPod có cấu hình và tính năng gần giống với iPhone 4 nhất, khi được trang bị cả camera quay phim HD lẫn camera Face Time, màn hình Retina. Đây là mẫu iPod Touch đầu tiên có trang bị camera với độ phân giải là 0.7MP. Máy có phiên bản 8GB,16GB,32GB và 64GB.
iPod Touch thế hệ 5 (12/09/2012)
iPod Touch thế hệ thứ 5 là sản phẩm sở hữu những thiết kế tương tự như iPhone 5 với màn hình 4 inch và camera được nâng cấp lên 5MP, có thêm đèn flash. Chiếc máy nghe nhạc này gây ấn tượng khi mỏng chỉ 6,1mm, mảnh mai hơn cả iPhone 5. Đây là chiếc iPod Touch mỏng và nhẹ nhất từ trước đến nay. Điều gây bất ngờ nhất là iPod Touch thế hệ mới được tích hợp Siri. iPod Touch mới có tới 5 tùy chọn màu sắc khác nhau ở mặt lưng, có thêm phụ kiện để đeo tay và chống rơi khá đặc biệt. Máy được bán với giá lần lượt là 229 USD,299 USD và 399 USD cho phiên bản 16GB, 32GB và 64GB. Bản iPod touch thế hệ 5 phát hành ngày 30 tháng 5 năm 2013 chỉ có một màu với bản 16GB và không có camera sau.
iPod touch thế hệ 6 (15/7/2015)
iPod touch thế hệ thứ 6 là sản phẩm sở hữu những thiết kế tương tự như thế hệ iPod touch trước đó với màn hình 4 inch, camera được nâng cấp lên 8MP với bộ vi xử lý Apple A8, RAM 1GB. iPod touch thế hệ 6 này có 6 màu: Xanh dương, Hồng, Bạc, Vàng, Đen và Đỏ (PRODUCT) RED. iPod touch thế hệ 6 này có bản 16GB, 32GB, 64GB và 128GB.
iPod touch thế hệ 7 (28/5/2019)
iPod touch thế hệ 7 là sản phẩm sở hữu những thiết kế tương tự như iPod touch thế hệ 6 trước đó với màn hình 4 inch, camera là 8MP với bộ vi xử lý Apple A10 Fusion, RAM 2GB. iPod touch thế hệ 7 này có 6 màu: Xanh dương, Hồng, Bạc, Vàng, Đen và Đỏ (PRODUCT) RED. iPod touch thế hệ 7 này có bản 32GB, 128GB và 256GB.
Thời điểm phát hành
Tháng 10 năm 2001: iPod (scroll wheel), 5/10 GB
Tháng 7 năm 2002: iPod (touch wheel), 10/20 GB
Tháng 4 năm 2003: iPod (Dock Connector), 10/15/20/30/40 GB
Tháng 1 năm 2004: iPod Mini, 4 GB
Tháng 7 năm 2004: iPod (click wheel), 20/40 GB
Tháng 10 năm 2004: iPod U2 Special Edition, 20 GB - iPod Photo, 30/40/60 GB
Tháng 1 năm 2005: iPod Shuffle, 512 MB/1 GB
Tháng 2 năm 2005: iPod Mini (2. generation), 4/6 GB
Tháng 5 năm 2005: iPod (màn hình màu), 20/60 GB - iPod U2 Special Edition (màn hình màu), 20 GB
Tháng 9 năm 2005: iPod Nano, 1/2/4 GB
Tháng 10 năm 2005: iPod (5. generation), 30/60 GB
Tháng 10 năm 2006: iPod U2 Special Edition (5. generation), 30 GB
Tháng 9 năm 2006: iPod nano 2G,ipod shuffle 2G, iPod video 80 GB
Hình ảnh
Tham khảo
Liên kết ngoài
Apple iPod – Trang chủ của Apple
iPodLinux – iPod với Linux
Sản phẩm của Apple
|
27224
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%93ng%20b%C3%A0o
|
Đồng bào
|
Đồng bào là một cách gọi của người Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản có ý coi nhau như con cháu của cùng tổ tiên sinh ra. Theo nghĩa đen, "đồng bào" (同胞) có nghĩa là "cùng một bọc" hay là "cùng một bào thai" và chỉ anh em ruột thịt cùng cha cùng mẹ. Từ này để gọi người Việt Nam với nhau ở trong nước nhưng đối với người Việt nhưng ở nước ngoài thì phải gọi là kiều bào hay thông dụng hơn là Việt kiều.
Sử dụng
Hiện nay trong văn nói cũng như văn viết tại Việt Nam, từ đồng bào được sử dụng rất rộng rãi và bao phủ hầu hết các đối tượng, có thể nói trong nhiều hoàn cảnh nó được dùng để thay thế từ nhân dân hay người dân Việt Nam.
Chú thích
|
27241
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Internet%20Explorer
|
Internet Explorer
|
Internet Explorer (trước đây là Microsoft Internet Explorer; viết tắt là IE), là một dòng trình duyệt web giao diện đồ họa đã ngừng phát triển do Microsoft phát triển và là một thành phần của các hệ điều hành Microsoft Windows kể từ năm 1995. Đây là trình duyệt web có nhiều người sử dụng nhất từ năm 1999, đạt tới đỉnh cao là khoảng 95% thị phần trong năm 2002 và 2003 với IE5 và IE6. Kể từ đó thị phần của trình duyệt này đã từ từ giảm xuống với sự cạnh tranh đổi mới từ các trình duyệt web khác, với Mozilla Firefox là đối thủ đáng kể. Microsoft đã chi hơn 100 triệu đô la Mỹ mỗi năm vào IE vào cuối thập niên 1990, với hơn 1000 người tham gia phát triển vào năm 1999.
Phiên bản phát hành mới nhất là Internet Explorer 11, là một phần của hệ điều hành Windows 8.1 và Windows Sever 2012 có từ tháng 10 năm 2013. Hiện nay cũng có một phiên bản miễn phí cho hệ điều hành Windows 7 Service Pack 1, phiên bản này phát hành vào tháng 11 năm 2013.
Từ ngày 12 tháng 1 năm 2016, Microsoft chỉ hỗ trợ Internet Explorer 9 trên Windows Vista và Windows Server 2008. Internet Explorer 10 chỉ được hỗ trợ trên Windows Server 2012. Với Windows 10, Internet Explorer 11 tuy được thay thế bằng Microsoft Edge nhưng vẫn được cài đặt sẵn.
Từ ngày 15 tháng 6 năm 2022, Microsoft đã chính thức ngưng hỗ trợ hoàn toàn trình duyệt trên Windows 10, công ty hiện khuyến nghị người dùng chuyển từ Internet Explorer sang Microsoft Edge càng sớm càng tốt thay vì để trình duyệt này chuyển sang chế độ “ngoại tuyến” sau ngày 15/7. Trong quá trình chuyển đổi, người dùng có thể chuyển trực tiếp mật khẩu đã lưu, mục yêu thích và hơn thế nữa sang trình duyệt mới.
Trình duyệt sẽ bị vô hiệu hóa trên tất cả các phiên bản dành cho người tiêu dùng hiện tại của Windows 10 (20H2 trở lên) và Windows 10 IoT (20H2 trở lên). Trong Windows 11, ứng dụng IE 11 không còn có sẵn và trình duyệt mặc định cho Windows 11 là Microsoft Edge.
Nhằm giúp người dùng thuận tiện hơn trong quá trình sử dụng trình duyệt mới, Microsoft đã trang bị cho trình duyệt Edge của mình chế độ IE, và tính năng này sẽ được hỗ trợ đến tận năm 2029. Điều này sẽ cho phép các nhà phát triển web có thêm 8 năm để nâng cấp các ứng dụng cũ.
Cũng theo Microsoft, IE sẽ dần được thay thế bằng Microsoft Edge trong những tháng tới sau khi công ty kết thúc hỗ trợ vào ngày 15/6 trước khi vô hiệu hóa vĩnh viễn trình duyệt này trên Windows. Cũng cần lưu ý rằng người dùng không nên gỡ cài đặt hoàn toàn IE khỏi hệ thống của mình vì IE 11 là yêu cầu bắt buộc để chế độ IE hoạt động trên Microsoft Edge.
Tổng quan
Internet Explorer được phát hành lần đầu tiên với vai trò là một gói bổ sung Plus! for Windows 95 vào năm 1995. Các phiên bản sau đó cho phép tải về miễn phí, hoặc nằm trong các bản service pack, và kèm trong các bản phát hành dịch vụ OEM của Windows 95 và các phiên bản Windows sau đó.
Các phiên bản khác có mặt từ cuối thập niên 1990 bao gồm một phiên bản OEM nhúng có tên gọi Internet Explorer for Windows CE (IE CE) có trong các nền tảng trên WinCE và hiện dựa trên IE6. Internet Explorer dành cho Pocket PC, sau đó được đổi tên thành Internet Explorer Mobile dành cho Windows Mobile cũng đã được phát triển, và vẫn tiếp tục phát triển cùng với các phiên bản dành cho máy tính để bàn với nhiều chức năng hơn.
Lịch sử
Dự án Internet Explorer được bắt đầu vào mùa hè năm 1994 bởi Thomas Reardon và sau đó do Benjamin Slivka làm trưởng nhóm, lấy ý tưởng mã nguồn từ Spyglass, Inc. Mosaic, một trình duyệt web thương mại có mặt từ sớm với hình thức gắn liền với trình duyệt tiên phong Mosaic của NCSA. Vào cuối năm 1994, Microsoft đã xin được phép từ Spyglass Mosaic với sự hỗ trợ chi phí hàng quý cùng với một số phần trăm trong lợi nhuận thu được từ các sản phẩm không phải Windows của Microsoft để đổi lấy phần mềm. Mặc dù có tên tương tự như Mosaic của NCSA, Spyglass Mosaic dùng không nhiều mã nguồn của NCSA Mosaic.
Internet Explorer 1 ra mắt vào tháng 8 năm 1995. Nó là phiên bản chỉnh sửa của Spyglass Mosaic mà Microsoft đã có phép, giống như nhiều công ty khác bắt đầu việc phát triển trình duyệt cho riêng mình, từ Spyglass Inc. Nó đi kèm với Microsoft Plus! for Windows 95 và bản phát hành OEM của Windows 95. Phiên bản này được cài đặt thành một phần của Internet Jumpstart Kit trong Plus!. Nhóm Internet Explorer bắt đầu khoảng sáu người trong giai đoạn phát triển đầu tiên. Internet Explorer 1.5 được phát hành vài tháng sau đó dành cho Windows NT và bổ sung tính năng hỗ trợ hiển thị bảng biểu cơ bản. Tuy nhiên, với việc đưa kèm miễn phí nó vào hệ điều hành, họ không phải trả tiền bản quyền cho Spyglass Inc., dẫn đến kiện cáo làm tiêu tốn hàng triệu đô la Mỹ.
Internet Explorer 2 được phát hành dành cho Windows 95, Windows NT 3.5, và NT 4.0 vào tháng 11 năm 1995 (sau bản 2.0 beta vào tháng 10). Nó hỗ trợ SSL, cookie, VRML, RSA, và nhóm tin Internet. Phiên bản 2 cũng là bản phát hành đầu tiên dành cho Windows 3.1 và Macintosh System 7.0.1 (PPC hay 68k), mặc dù phiên bản Mac không được phát hành cho đến tháng 1 năm 1996 dành cho PPC, và tháng 4 dành cho 68k. Phiên bản 2.1 dành cho Mac ra mắt vào tháng 8 năm 1996, mặc dù vào thời điểm đó Windows đã lên đến phiên bản 3.0. Phiên bản 2 được kèm trong Windows 95 OSR 1 và Internet Starter Kit for Windows 95 của Microsoft vào đầu năm 1996. Phần mềm phát hành với 12 ngôn ngữ trong đó có tiếng Anh nhưng nó mở rộng ra đến 24, 20, và 9 lần lượt cho các phiên bản dành cho Win 95, Win 3.1 và Mac vào tháng 4 năm 1996. Bản 2.0i hỗ trợ bộ ký tự byte kép.
Internet Explorer 3, phát hành vào tháng 8 năm 1996, và tiếp tục nổi tiếng hơn người tiền nhiệm. Nó được phát triển mà không dùng mã nguồn Spyglass, mặc dù vẫn ghi công cho "công nghệ" Spyglass trong tài liệu của chương trình. Internet Explorer 3 là trình duyệt lớn đầu tiên có hỗ trợ CSS, mặc dù còn hạn chế. Được phát hành vào ngày 13 tháng 8 năm 1996, nó cũng cho ra mắt tính năng hỗ trợ ActiveX controls, Java applet, đa phương tiện nhúng, và hệ thống PICS dành cho nội dung siêu dữ liệu (metadata). Phiên bản 3 cũng được đóng gói chung với Internet Mail and News, NetMeeting, và phiên bản đầu tiên của Windows Address Book, và nó cũng kèm trong Windows 95 OSR 2. Phiên bản 3 đã chứng tỏ mình là phiên bản nổi tiếng hơn của Internet Explorer, nhờ sự chăm chút kỹ lưỡng cho nó. Trong nhiều tháng sau khi ra mắt, một số lỗ hổng bảo mật và riêng tư được các nhà nghiên cứu và hacker tìm thấy. Phiên bản này của Internet Explorer là phiên bản đầu tiên có logo "chữ e màu xanh". Nhóm Internet Explorer bao gồm 100 người trong suốt quá trình 3 tháng phát triển. Lỗ hổng bảo mật IE lớn đầu tiên, Princeton Word Macro Virus Loophole, được khám phá vào ngày 22 tháng 8 năm 1996 trong IE3. Tính năng tương thích ngược xử lý bằng cách cho phép những người nào nâng cấp lên IE3 vẫn có thể sử dụng IE trước đó, vì quá trình cài đặt đã chuyển phiên bản trước vào thư mục riêng rẽ.
Internet Explorer 4, phát hành vào tháng 9 năm 1997 đào sâu hơn mức độ tích hợp giữa trình duyệt web và hệ điều hành phía dưới. Việc cài đặt phiên bản 4 trên máy Windows 95 và Windows NT 4 và chọn Windows Desktop Update có thể dẫn đến việc Windows Explorer truyền thống bị thay bằng một phiên bản trông giao diện như trình duyệt web, cũng như màn hình nền Windows cũng trở thành web được thông qua Active Desktop. Tuy nhiên, sự tích hợp với Windows là chủ đề của rất nhiều những chỉ trích về đóng gói (xem Hoa Kỳ kiện Microsoft). Tùy chọn này không còn tồn tại với các bản cài đặt dành cho các phiên bản sau của Internet Explorer nhưng vẫn không bỏ ra khỏi hệ thống được nếu đã cài đặt rồi. Internet Explorer 4 ra mắt sự hỗ trợ Group Policy, cho phép các công ty cấu hình và khóa nhiều chức năng cấu hình của trình duyệt. Internet Mail and News được thay bằng Outlook Express, và Microsoft Chat và một phiên bản NetMeeting cải tiến cũng được đính kèm. Phiên bản này cũng kèm trong Windows 98. Các tính năng mới được thêm vào cho phép người dùng lưu và truy xuất các nội dung đăng trong các mẫu bình luận mà đến nay vẫn không được sử dụng. Internet Explorer 4.5 có thêm các tính năng mới như mã hóa 128-bit dễ dàng hơn. Nó cũng có sự phát triển vượt bậc về độ ổn định so với các phiên bản trước, đặc biệt là phiên bản 68k hoàn toàn không bị treo.
Internet Explorer 5, phát hành vào ngày 18 tháng 3 năm 1999, và sau đó được kèm trong Windows 98 Second Edition và đóng gói chung với Office 2000, là một phiên bản nổi bật khác có hỗ trợ văn bản hai hướng, ký tự ruby, XML, XSLT và khả năng lưu trang web dưới định dạng MHTML. IE5 được đóng gói với Outlook Express 5. Ngoài ra, với việc phát hành Internet Explorer 5.0, Microsoft cũng phát hành phiên bản XMLHttpRequest đầu tiên, khai sinh ra Ajax (mặc dù thuật ngữ "Ajax" vẫn không xuất hiện cho đến vài năm sau). Nó là phiên bản cuối cùng ở dạng 16-bit. Internet Explorer 5.01, một phiên bản sửa lỗi, được phát hành vào tháng 12 năm 1999. Windows 2000 có phiên bản này. Internet Explorer 5.5 tiếp nối vào tháng 7 năm 2000, tăng cường khả năng xem thử trước khi in, hỗ trợ chuẩn CSS và HTML, và API cho lập trình viên; phiên bản này đi cùng với Windows Me. Phiên bản 5.5 cũng hỗ trợ mã hóa 128-bit. Tuy nhiên, phiên bản 5 là phiên bản cuối cùng dành cho Mac và UNIX. Phiên bản 5.5 là phiên bản cuối cùng có Chế độ Tương thích, cho phép Internet Explorer 4 có thể chạy song song với 5.x. Nhóm IE lúc nào đã lên đến hơn 1000 người vào năm 1999, tiêu tốn 100 triệu USD mỗi năm.
Internet Explorer 6 phát hành vào ngày 27 tháng 8 năm 2001, một vài tháng trước khi Windows XP ra mắt. Phiên bản này bao gồm cải tiến DHTML, các khung chứa nội dung, và hỗ trợ một phần CSS cấp 1, DOM cấp 1 và SMIL 2.0. Bộ máy MSXML cũng được cập nhật lên phiên bản 3.0. Các tính năng mới khác bao gồm một phiên bản mới của Internet Explorer Administration Kit (IEAK), thanh Trình diễn, tích hợp Windows Messenger, thu thập lỗi, tự thay đổi kích thước hình ảnh, P3P, và trải nghiệm giao diện mới giống như phong cách hình ảnh Luna của Windows XP, khi dùng trong Windows XP. Internet Explorer 6.0 SP1 có thêm những cải tiến bảo mật và phát hành cùng lúc với phiên bản vá XP SP1. Vào năm 2002, giao thức Gopher đã bị tắt và không còn được hỗ trợ trong Internet Explorer 7. Internet Explorer 6.0 SV1 phát hành vào ngày 6 tháng 8 năm 2004 dành cho Windows XP SP2 và đưa nhiều cải tiến bảo mật và các nút có màu mới trên giao diện. IE6 đã cập nhật biểu trưng "chữ e màu xanh" sang màu xanh nhạt hơn và có hình dáng 3 chiều hơn.
Internet Explorer 7 phát hành vào ngày 18 tháng 10 năm 2006. Nó gồm các sửa lỗi, cải tiến hỗ trợ các tiêu chuẩn web, duyệt theo thẻ với tính năng xem trước và quản lý thẻ, một hộp tìm kiếm tích hợp nhiều bộ máy, bộ đọc mẩu tin mạng, hỗ trợ Tên miền quốc tế hóa (IDN), và bộ lọc chống lừa đảo. Với IE7, Internet Explorer đã được tách ra khỏi Windows Shell - không như các phiên bản khác, Internet Explorer ActiveX control không còn đặt trên tiến trình của Windows Explorer, mà chạy trên một tính trình Internet Explorer riêng biệt. Nó được kèm trong Windows Vista và Windows Server 2008, và có thể tải về cho Windows XP Service Pack 2 trở về sau, và Windows Server 2003 Service Pack 1 trở về sau. Bản phát hành nguyên thủy của Internet Explorer 7 đòi hỏi máy tính phải vượt qua quy trình kiểm tra Windows Genuine Advantage trước khi cài đặt, nhưng vào ngày 5 tháng 10 năm 2007, Microsoft đã bỏ yêu cầu này. Theo như một số thống kê cho thấy, đến giữa năm 2008, Internet Explorer 7 đã vượt qua Internet Explorer 6 về số người sử dụng.
Internet Explorer 8 phát hành vào ngày 19 tháng 3 năm 2009. Nó đã được phát triển trễ nhất là từ tháng 8 năm 2007. Vào ngày 5 tháng 3 năm 2008, bản beta công cộng đầu tiên (Beta 1) được phát hành cho công chúng. Vào ngày 27 tháng 8 năm 2008, bản beta công cộng thứ hai (Beta 2) được phát hành. Nó hỗ trợ Windows XP SP2 và SP3, Windows Server 2003 SP2, Windows Vista và Windows Server 2008 trên cả kiến trúc 32-bit lẫn 64-bit. Internet Explorer 8 (IE8) RC1 được phát hành vào ngày 26 tháng 1 năm 2009. Bảo mật, dễ dùng, và những cải tiến về RSS, CSS, và hỗ trợ Ajax là những ưu tiên của Microsoft dành cho IE8. Nó tương thích chặt hơn với các tiêu chuẩn web, gồm có tương thích đầy đủ với Cascading Style Sheets 2.1. Tất cả các thay đổi này cho phép Internet Explorer 8 vượt qua kiểm tra Acid2. Tuy nhiên, để ngăn ngừa các vấn đề về tương thích, IE8 cũng kèm cả khả năng hiển thị kiểu IE7. Các trang không muốn chuyển đổi giao diện theo IE8 có thể tắt sự thay đổi này bằng cách thêm một thẻ vào phần HEAD của trang web. IE8 cũng kèm thêm nhiều cải tiến đối với JavaScript cũng như tăng cường hiệu năng, mặc dù nó vẫn chưa vượt qua được kiểm tra Acid3, với phiên bản 8.0 RC1 ghi được 20/100 điểm. Nó bao gồm sự hỗ trợ Accelerators - cho phép hỗ trợ ứng dụng web được kích hoạt mà không cần gọi tường minh - và WebSlices - cho phép các thành phần trang được đăng ký và theo dõi từ một Favorites Bar có sẵn. Các tính năng khác gồm có tính năng duyệt riêng tưInPrivate, và bộ lọc lừa đảo SmartScreen .
Internet Explorer 9 (viết tắt IE9) được phát hành chính thức vào ngày 14 tháng 3 năm 2011. Internet Explorer 9 hỗ trợ một vài đặc điểm CSS 3, hỗ trợ nhúng ICC v2 hoặc hỗ trợ cấu hình màu v4 thông qua Windows Color System, đồng thời đã cải thiện hiệu năng JavaScript. Nó cũng có tính năng tăng tốc quá trình kết xuất đồ họa bằng cách sử dụng Direct2D, tăng tốc kết xuất văn bản nhờ sử dụng DirectWrite, tăng tốc kết xuất video thông qua Media Foundation, hỗ trợ hình ảnh được cung cấp bởi Windows Imaging Component, và khả năng in ấn độ trung thực cao hỗ trợ bởi định dạng văn bản XPS. IE9 cũng hỗ trợ thành phần HTML5 video, đánh dấu audio và định dạng font cho các trang web (Web Open Font Format). Microsoft đã phát hành IE9 như là một phiên bản riêng (out-of-band) mà nó không gắn liền với lịch sử phát hành của các phiên bản hệ điều hành Windows đặc biệt như trước đây.
Hệ điều hành yêu cầu của IE9 là Windows 7, Windows Server 2008 R2, Windows Vista Service Pack 2 hay Windows Server 2008 SP2 với phiên bản update. IE9 không hoạt động trên Windows XP được. IE9 cũng được xây dựng cho cả hai nền tảng 32-bit và 64-bit.
Internet Explorer 10 là phiên bản chính thứ mười của Internet Explorer, được phát hành vào ngày 26 tháng 10 năm 2012 cho Windows 7, Windows Server 2008 R2 và là trình duyệt web mặc định cho Windows 8 và Windows Server
Tính năng
Internet Explorer đã được thiết kế để xem được nhiều loại trang web khác nhau và cung cấp một số tính năng nhất định cùng với hệ điều hành, trong đó có Microsoft Update. Vào thời hoàng kim của cuộc chiến trình duyệt lúc trước, Internet Explorer đã chiến thắng Netscape chỉ khi nó bắt kịp với công nghệ để hỗ trợ những tính năng tiên tiến lúc bấy giờ.
Hỗ trợ các tiêu chuẩn
Internet Explorer, dùng bộ máy trình bày Trident:
hỗ trợ đầy đủ HTML 4.01, CSS Cấp 1, XML 1.0 và DOM Cấp 1, với một ít khác biệt hiện thực.
hỗ trợ đầy đủ XSLT 1.0 cũng như một biến thể của XSLT do Microsoft đưa ra (nay đã không còn tồn tại) có tên WD-xsl, dựa một phần trên Bản nháp XSL của W3C vào tháng 12 năm 1998. Hỗ trợ XSLT 2.0 tùy vào tương lai.
hỗ trợ một phần CSS Cấp 2 và DOM Cấp 2, với khoảng cách hiện thực lớn và các vấn đề tương thích lớn. Tương thích hoàn toàn với CSS 2.1 đã có trong bản Internet Explorer 8.
không hỗ trợ XHTML
không hỗ trợ SVG, cả bản 7.0 lẫn 8.0
Internet Explorer sử dụng DOCTYPE sniffing để lựa chọn giữa "chế độ thoái thác" (hiển thị tương tự như các phiên bản MSIE cũ hơn) và chế độ tiêu chuẩn (hiển thị gần với tài liệu W3C) đối với việc hiển thị HTML và CSS trên màn hình (Internet Explorer luôn dùng chế độ chuẩn khi in ấn). Nó cũng cung cấp một biến thể của ECMAScript có tên JScript.
Internet Explorer đã là chủ đề chỉ trích vì sự hỗ trợ hạn chế đối với các tiêu chuẩn web mở.
Bộ mở rộng cho các tiêu chuẩn
Internet Explorer đã giới thiệu một loạt các phần mở rộng thương mại vào nhiều tiêu chuẩn, trong đó có HTML, CSS và DOM. Điều này dẫn đến một số trang web chỉ có thể xem đúng nếu đùng Internet Explorer.
Internet Explorer cũng giới thiệu một số phần mở rộng cho JScript và đã được các trình duyệt khác đưa vào. Trong số các phần mở rộng có thuộc tính innerHTML, sẽ trả về chuỗi HTML trong một thành tố (element); đối tượng XMLHttpRequest, cho phép gửi yêu cầu HTTP và nhận về hồi đáp HTTP; và thuộc tính designMode của đối tượng contentDocument, cho phép soạn thảo nhiều chức năng đối với văn bản HTML. Một số các chức năng này không thể hoạt động được cho đến khi các phương thức W3C DOM ra mắt. Bộ mở rộng ký tự Ruby của nó vào HTML cũng được chấp nhận làm một module trong W3C XHTML 1.1, mặc dù không tìm thấy nó trong tất cả các phiên bản của W3C HTML.
Microsoft đã đề cử một số tính năng khác của IE để W3C xem xét chuẩn hóa. Trong số này có thuộc tính CSS 'hành vi', kết nối các thành tố HTML với các hành vi JScript (có tên HTML Components, HTC); hồ sơ HTML+TIME, thêm hỗ trợ đồng bộ hóa thời gian và phương tiện vào văn bản HTML (tương tự như W3C XHTML+SMIL); và định dạng tập tin đồ họa vector VML. Tuy nhiên, tất cả chúng đều bị từ chối, ít nhất là ở dạng nguyên bản. Tuy nhiên, VML sau đó đã được phối hợp với PGML (do Adobe và Sun đề xuất), để có được định dạng SVG mà W3C đã chứng nhận, hiện là một số ít các định dạng hình ảnh vector đang được sử dụng trên web, còn IE lại rất độc đáo khi vẫn không hỗ trợ định dạng này.
Các tiêu chuẩn thương mại khác bao gồm, hỗ trợ văn bản dọc, nhưng trong một cú pháp khác với lời khuyên ứng viên W3C CSS3. Hỗ trợ các hiệu ứng hình ảnh khác nhau và chuyển trang, không có trong W3C CSS. Hỗ trợ mã kịch bản hoang mang (obfuscated), mà cụ thể là JScript.Encode(). Hỗ trợ các phông chữ EOT nhúng trong trang web.
Favicon
Favicon (viết tắt cho "favorites icon", biểu tượng ưa thích) được Internet Explorer giới thiệu, hiện nay cũng đã được hỗ trợ và mở rộng trong các trình duyệt khác. Nó cho phép các trang web chỉ định một hình ảnh rộng 16x16 pixel trong mục đánh dấu trang. Nguyên thủy, nó chỉ hỗ trợ cho định dạng ICO gốc của Windows, tuy nhiên nó đã được mở rộng cho các loại hình ảnh khác như PNG và GIF.
Tính dễ dùng và dễ tiếp cận
Internet Explorer tận dụng nền tảng dễ tiếp cận (accessibility) trong Windows. Internet Explorer cũng là một giao diện người dùng cho FTP, với các tác vụ tương tự như Windows Explorer (mặc dù tính năng này cần phải dùng cửa sổ dòng lệnh để kích hoạt trong các phiên bản gần đây, chứ không nằm hẳn trong trình duyệt). Visual Basic for Applications (VBA) không được hỗ trợ, nhưng vẫn dùng được thông qua bộ mở rộng (iMacros). Các phiên bản gần đây có tính năng chặn pop-up và duyệt theo thẻ. Duyệt theo thẻ cũng có thể thêm vào các phiên bản cũ nếu cài MSN Search Toolbar của Microsoft hay Yahoo Toolbar của Yahoo.
Bộ đệm
Internet Explorer lưu vào bộ đệm các nội dung đã viếng thăm trong thư mục Temporary Internet Files để cho phép truy cập nhanh hơn (hoặc truy cập ngoại tuyến) vào các trang đã xem trước đó. Nội dung được đánh chỉ mục trong một tập tin cơ sở dữ liệu, có tên Index.dat. Nhiều tập tin Index.dat khác nhau tồn tại để đánh chỉ các nội dung khác nhau - nội dung đã xem, bản tin web, mục tự điền, URL đã xem, cookie, v.v.
Trước IE7, xóa bộ đệm sẽ xóa chỉ mục nhưng bản thân tập tin không bị xóa. Tính năng này có thể là nguy cơ bảo mật cho cả cá nhân lẫn công ty. Từ IE7 trở đi, cả chỉ mục lẫn tập tin đều bị xóa khi tẩy bộ đệm.
Group Policy
Internet Explorer hoàn toàn có thể cấu hình được bằng cách dùng Group Policy (chính sách nhóm). Những người quản trị miền Windows Server có thể áp dụng và bắt buộc một số các thiết lập có ảnh hưởng đến giao diện người dùng (như tắt các mục trên trình đơn và các tùy chọn cấu hình chho từng cá nhân), cũng như các tính năng bảo mật phía dưới như tải tập tin, cấu hình vùng (zone), thiết lập theo từng trang, hành vi ActiveX control, và nhiều thứ khác. Các thiết lập chính sách có thể được cấu hình cho mỗi người dùng và do mỗi máy tính. Internet Explorer cũng hỗ trợ Integrated Windows Authentication (Chứng nhận Windows Tích hợp).
Kiến trúc
Internet Explorer sử dụng kiến trúc phân rã thành phần được xây dựng xoay quanh công nghệ Mô hình Đối tượng Thành phần (Component Object Model - COM). Nó bao gồm năm thành phần chính, mỗi thành phần được chứa trong một thư viện .dll riêng rẽ và đưa ra một tập các interface COM cho phép được chứa trong tập tin thực thi chính của Internet Explorer, iexplore.exe:
WinInet.dll WinInet.dll là bộ xử lý giao thức dành cho HTTP và FTP. Nó xử lý tất cả các giao tiếp mạng thông qua các giao thức này.
URLMon.dll URLMon.dll chịu trách nhiệm xử lý kiểu MIME và việc tải về các nội dung web-type handling and download of web.
MSHTML.dll MSHTML.dll giữ bộ máy biểu diễn Trident được giới thiệu từ Internet Explorer 4, chịu trách nhiệm hiển thị trang lên màn hình và xử lý Mô hình Đối tượng Tài liệu (DOM) của trang web. MSHTML.dll sẽ phân tích các tập tin HTML/CSS và tạo ra dạng biểu diễn cây DOM cho nó. Nó cũng đưa ra một tập các API dành cho việc duyệt và điều chỉnh cây DOM trong khi đang chạy. Cây DOM được bộ máy trình bày xử lý kỹ hơn rồi sau đó được biểu diễn thành cách trình bày lên màn hình.
IEFrame.dll IEFrame.dll chứa giao diện người dùng và cửa sổ IE trong Internet Explorer 7 trở về trước.
ShDocVw.dll ShDocVw.dll cung cấp các tác vụ để duyệt web, lưu bộ đệm và lịch sử cho trình duyệt.
BrowseUI.dll BrowseUI.dll chịu trách nhiệm giao diện người dùng trình duyệt, bao gồm chrome của trình duyệt, tức là tất cả các trình đơn và thanh công cụ.
Internet Explorer không chứa bất kỳ chức năng tạo kịch bản nào bên trong nó. Mà chính MSHTML.dll sẽ đưa ra một tập API khác để cho phép các môi trường tạo kịch bản được nhúng vào và truy xuất cây DOM. Internet Explorer 8 có gắn sẵn bộ máy Active Scripting (là một phần của Microsoft Windows), cho phép bất cứ ngôn ngữ nào được hiện thực thành một module Active Scripting có thể được dùng để tạo kịch bản từ phía máy khách. Mặc định, chỉ có module JScript và VBScript là được cung cấp; các hiện thực từ bên thứ ba như ScreamingMonkey (để hỗ trợ ECMAScript 4) cũng có thể dùng được. Microsoft cũng đưa ra trình chạy Microsoft Silverlight để cho phép ngôn ngữ CLI, bao gồm các ngôn ngữ động dựa trên DLR như IronPython và IronRuby, dùng cho việc tạo kịch bản từ phía máy khách.
Internet Explorer 8 giới thiệu một vài thay đổi lớn, có tên là Loosely Coupled IE (LCIE). LCIE tách các tiến trình giao diện ra khỏi tiến trình chứa các ứng dụng web khác nhau tại các thẻ khác nhau (tiến trình thẻ). Một tiến trình giao diện có thể tạo ra nhiều tiến trình thẻ, mỗi tiến trình thẻ có thể có độ tích hợp khác nhau; mỗi tiến trình thẻ có thể chứa nhiều website và có bộ đệm cookie của riêng nó. Hai tiến trình sử dụng Liên lạc Liên Tiến trình (Inter-Process Communication) bất đồng bộ để tự đồng bộ chúng. Nói chung, sẽ có một tiến trình thẻ dành cho tất cả các web site. Tuy nhiên, trong Windows Vista nếu bật chế độ bảo vệ, nội dung ưu tiên đang được mở (như các trang HTML trong máy) sẽ tạo ra một tiến trình thẻ mới vì nó không bị ràng buộc bởi chế độ bảo vệ.
Khả năng mở rộng
Internet Explorer đưa ra một tập các interface Mô hình Đối tượng Thành phần (Component Object Model - COM) cho phép các thành phần khác mở rộng chức năng của trình duyệt. Khả năng mở rộng này được chia làm hai loại: Mở rộng trình duyệt và Mở rộng nội dung. Các interface mở rộng trình duyệt có thể dùng để nhúng các thành phần dùng để thêm các mục trình đơn, thanh công cụ, mục trong một trình đơn hay Đối tượng Trợ giúp Trình duyệt (Browser Helper Objects - BHO). Các BHO được dùng để mở rộng bộ tính năng của trình duyệt, trong khi các tùy chọn mở rộng khác dùng để đưa tính năng đó ra giao diện. Các interface mở rộng nội dung được các bộ xử lý kiểu nội dung khác nhau sử dụng để thêm hỗ trợ cho các định dạng nội dung không có sẵn. Các BHO không chỉ được truy cập không giới hạn vào DOM và mô hình sự kiện của Internet Explorer, mà chúng còn có thể truy cập hệ thống tập tin, registry và các thành phần hệ điều hành khác. Khả năng mở rộng nội dung có thể được gọi là Active Documents (Doc Objects) (ví dụ, SVG hay MathML) hoặc ActiveX controls. Các ActiveX control được dành cho các bộ xử lý nội dung trình bày nội dung được nhúng trong trang HTML (như Adobe Flash hay Microsoft Silverlight). Các đối tượng Doc được dùng khi kiểu nội dung không được nhúng trong HTML (như Microsoft Word, PDF hay XPS). Trên thực tế, bản thân bộ máy biểu diễn Trident cũng là một đối tượng Doc, do đó HTML tự nó cũng được xem là một Active Document.
Các thành phần bổ trợ (add-on) Interner Explorer chạy với cùng mức ưu tiên với trình duyệt, không giống như các đoạn mã kịch bản phía máy khách có ít quyền ưu tiên hơn. Thành phần bổ trợ có thể được cài đặt từ máy, hoặc trực tiếp từ website. Vì các thành phần bổ trợ có mức truy cập đến hệ thống cao hơn, các trình bổ trợ ác ý có thể và đã được dùng để xâm nhập vào sự bảo mật của hệ thống. Internet Explorer 6 Service Pack 2 trở về sau đã cung cấp các công cụ bảo vệ khỏi những thứ này, bao gồm một Trình quản lý Add-on Manager dùng để quản lý các ActiveX control và Đối tượng Trợ giúp Trình duyệt và một chế độ vận hành "Không có trình bổ sung" cũng như hạn chế hơn đối với việc cài đặt add-on từ website.
Bản thân Internet Explorer có thể được các trình ứng dụng khác lưu trữ thông qua một tập các interface COM. Nó có thể dùng để nhúng các chức năng trình duyệt vào bên trong một ứng dụng. Tương tự, ứng dụng lưu trữ có thể chọn chỉ chứa bộ máy biểu diễn MSHTML.dll chứ không cần phải chứa toàn bộ trình duyệt.
Bảo mật
Internet sử dụng nền tảng bảo mật dựa theo khu vực, nó sẽ nhóm các site lại dựa trên một số điều kiện cụ thể, như nó có phải là site trên Internet hay Intranet hoặc có nằm trong danh sách trắng do người dùng ghi nhận hay không. Các hạn chế bảo mật được áp dụng theo khu vực; tất cả các site trong một khu vực sẽ tuân theo cùng một hạn chế.
Internet Explorer 6 SP2 trở về sau sử dụng Dịch vụ Thực thi Đính kèm (Attachment Execution Service) của Microsoft Windows để đánh các tập tin thực thi được tải về từ Internet có thể không an toàn. Khi truy cập các tập tin được đánh dấu như vậy, trình duyệt sẽ nhắc người dùng phải có quyết định tin tưởng trước khi thực thi, vì các tập tin thực thi xuất phát từ Internet có thể có nhiều nguy cơ không an toàn. Cách làm này giúp ngăn ngừa việc cài đặt phần mềm độc hại một cách vô ý.
Internet Explorer 7 giới thiệu bộ lọc chống lừa đảo (phishing), hạn chế truy cập đến các site phishing trừ khi người dùng quyết định tiếp tục xem. Với phiên bản 8, trình duyệt còn khóa truy cập vào trang site được biết là đang lưu trữ phần mềm độc hại (malware). Việc tải về cũng được kiểm tra để xem chúng có từng được báo là nhiễm phần mềm độc hại hay không.
Trong Windows Vista, Internet Explorer mặc định chạy trong chế độ có tên là Chế độ Bảo vệ (Protected Mode), trong đó đặc quyền của chính trình duyệt bị hạn chế đáng kể - nó không thể thực hiện thay đổi hệ thống. Người dùng có thể tắt chế độ này nhưng không được khuyến khích. Nó cũng hạn chế hiệu quả đặc quyền của các trình bổ sung (add-on). Kết quả là thậm chí nếu trình duyệt hoặc trình bổ sung nào bị khống chế, những thiệt hại bảo mật vẫn rất hạn chế.
Các bản vá và bản cập nhật trình duyệt được phát hành định kỳ và có thể tải về thông qua dịch vụ Microsoft Update, cũng như thông qua Automatic Updates. Mặc dù các bản vá bảo mật tiếp tục được phát hành cho nhiều hệ điều hành, đa số các bổ sung tính năng hay cải tiến nền tảng bảo mật chỉ có mặt cho các hệ điều hành đang trong giai đoạn hỗ trợ chủ yếu của Microsoft.
Vào ngày 16 tháng 12 năm 2008, Trend Micro khuyến cáo người dùng chuyển sang các trình duyệt đối thủ cho đến khi IE phát hành bản vá khẩn cấp để sửa một nguy cơ bảo mật có thể cho phép những kẻ bên ngoài tiếm quyền điều khiển máy tính và ăn cắp mật khẩu của bạn. Người đại diện của Microsoft phản đối đề nghị này, cho rằng chỉ có "0,02% người dùng Internet" bị ảnh hưởng bởi lỗi này. Vào ngày 17 tháng 12 năm 2008, Microsoft phát hành bản vá vấn đề bảo mật này trong bản Cập nhật Bảo mật dành cho Internet Explorer KB960714.
Dễ tổn thương về bảo mật
Internet Explorer luôn là chủ đề của nhiều lỗ hổng và lo ngại về bảo mật: Nhiều phần mềm gián điệp, phần mềm quảng cáo, và virus máy tính trên Internet đã khai thác các lỗi và lỗ hổng trong kiến trúc bảo mật của Internet Explorer, đôi khi không phá hoại trực tiếp ngoài việc khiến người dùng xem một trang web độc hại nào đó để tự cài chúng vào máy. Kiểu phá hoại này có tên "drive-by install". Cũng có loại phần mềm lừa người dùng cài đặt phần mềm độc hại bằng cách giới thiệu một cách giả mạo mục đích tốt đẹp của phần mềm trong phần miêu tả của một cảnh báo bảo mật ActiveX.
Một số lỗ hổng bảo mật ảnh hưởng đến IE không phải xuất phát từ trình duyệt, mà từ các trình bổ sung ActiveX mà IE sử dụng. Vì những trình bổ sung này có cùng đặc quyền với IE, những lỗ hổng này cũng nguy hiểm như lỗ hổng từ trình duyệt. Do đó kiến trúc dựa trên ActiveX này đã bị chỉ trích rất nhiều. Gần đây, nhiều chuyên gia khác vẫn bảo lưu quan điểm rằng các nguy hiểm từ ActiveX đã bị phóng đại và vẫn có những cách bảo vệ đúng nơi đúng lúc. Các trình duyệt khác sử dụng NPAPI làm cơ chế mở rộng cũng đang gặp vấn đề y hệt. Trong cột ý kiến trong tờ tháng 4 năm 2005 của eWeek, Larry Seltzer cho rằng:
Trong khi đã có những lời cáo buộc thiếu chứng cứ rằng ActiveX thiếu an toàn, tiếp tục vẫn không ít lời xác nhận thiếu chứng cứ và tấn công rẻ tiền. Điều tôi ưa thích là vụ việc "Internet Explorer" trong đó Sun thực sự trả tiền cho người khác để viết một ActiveX control độc hại. Hệ thống kiểm thử đưa ra tất cả các hộp thoại cảnh báo về chương trình mà bạn vẫn thường hay thấy còn các nhân viên Sun thì thấy khó chịu khi cứ phải nhấn phím enter thật nhanh để họ có thể đóng hộp thoại đó càng nhanh càng tốt mà không đề cập đến các cảnh báo. Trong khi đó, họ cũng không đề cập đến việc một Java applet đã ký cũng có thể thực hiện các hành vi đặc quyền nguy hiểm và cũng đưa ra cùng kiểu cảnh báo như vậy. Đa số những người chỉ trích ActiveX đơn giản là do không hiểu rõ, nhưng ví dụ này thật là đạo đức giả và thiếu chân thật.
Tuy Internet Explorer vào năm 2008 có số lỗ hổng bảo mật tương tự với Safari và Opera, và ít hơn đáng kể cho với đối thủ cạnh tranh chính, Mozilla Firefox, sự phổ biến của nó đã dẫn đến có nhiều người bị ảnh hưởng hơn khi có một lỗ hổng bị phát hiện. Theo nghiên cứu của công ty nghiên cứu bảo mật Secunia, Microsoft đã không hồi đáp nhanh bằng các đối thủ cạnh tranh trong việc sửa các lỗ hổng bảo mật và đưa ra các bản vá. Công ty này cũng báo cáo rằng có 366 lỗ hổng tìm thấy trong các ActiveX control, tăng hơn so với năm trước.
Tỷ lệ sử dụng và thị phần người dùng
Tỷ lệ sử dụng Internet Explorer dường như liên hệ chặt chẽ với Microsoft Windows, vì nó là trình duyệt web mặc định của Windows. Từ khi tích hợp Internet Explorer 2.0 vào Windows 95 OSR một trong năm 1996, và đặc biệt là sau khi phát hành phiên bản 4.0, tỷ lệ sử dụng tăng lên rất nhanh: từ dưới 20% vào năm 1996 lên đến 40% vào năm 1998 và trên 80% vào năm 2000.
Một bài báo của CNN đã bình luận khi Internet Explorer 4 phát hành: "Internet Explorer của Microsoft đã đi đúng đường và ước tính nâng thị phần sử dụng trình duyệt lên 30 đến 35 phần trăm so với 10 phần trăm vào năm trước". Đến năm 2002, Internet Explorer đã hoàn toàn đánh bại đối thủ chính Netscape và chiếm lĩnh đến 95% thị phần.
Sau khi chiến đấu và giành chiến thắng cuộc chiến trình duyệt vào cuối thập niên 1990, Internet Explorer hầu như thống trị hoàn toàn thị trường trình duyệt. Đạt đến đỉnh 95% vào năm 2002 và 2003, thị phần của nó từ đó giảm đều đặn. Lý do chính là do việc sử dụng Mozilla Firefox, mà các con số thống kê cho thấy đó là đối thủ cạnh tranh đáng chú ý nhất hiện nay. Tuy nhiên, Internet Explorer vẫn là trình duyệt web thống trị, với thị phần toàn cầu là khoảng 66% (con số có thể thay đổi). Tỷ lệ sử dụng có cao hơn ở châu Á và thấp hơn ở châu Âu.
Firefox 1.0 đã vượt qua Internet Explorer 5 vào đầu năm 2005 với con số là xấp xỉ 8% thị phần.
Một bài báo đã ghi khi Internet Explorer 7 phát hành vào tháng 10 năm 2006 "IE6 có thị phần thống lĩnh với 77,22%. Internet Explorer 7 đã leo đến 3,18%, còn Firefox 2.0 là 0.69%".
Internet Explorer 7 được phát hành cùng thời gian với Firefox 2.0, và vượt qua Firefox 1.x vào tháng 11 năm 2006, với khoảng 9% thị phần. Firefox 2.0 vượt qua 1.x vào tháng 1 năm 2007, nhưng IE7 vẫn không qua mặt được IE6 cho đến tháng 12 năm 2007. Đến tháng 1 năm 2008, thị phần tương ứng của chúng là 43% đối với IE7, 32% cho IE6, 16% cho FF2, 4% cho Safari 3 và cả phiên bản FF1.x và IE5 là ít hơn nửa phần trăm.
Số người dùng xấp xỉ qua thời gian dựa trên số liệu thị phần người dùng khác nhau trong cả năm, hoặc dựa trên từng quý, hoặc trong tháng cuối của năm tùy thuộc vào nguồn tham khảo.
Sử dụng trong công nghiệp
Cơ chế mở rộng ActiveX được nhiều website và ứng dụng web công cộng sử dụng, trong đó có eBay. Tương tự, Đối tượng Trợ giúp Trình duyệt cũng được nhiều công ty cung cấp bộ máy tìm kiếm và các bên thứ 3 sử dụng để tạo ra các trình bổ sung để truy cập vào dịch vụ của họ, như thanh công cụ bộ máy tìm kiếm. Do việc sử dụng COM, hoàn toàn có thể nhúng chức năng duyệt web vào các ứng dụng của bên thứ ba. Do đó, hiện có một số Internet Explorer shell, và một số ứng dụng hướng nội dung như RealPlayer cũng sử dụng module duyệt web của Internet Explorer để xem trang web bên trong ứng dụng.
Tương thích với Hệ điều hành
Các phiên bản IE qua thời gian có nhiều độ tương thích hệ điều hành khác nhau, từ việc có mặt ở nhiều nền tảng hệ điều hành và vài phiên bản Windows cho đến chỉ một số ít phiên bản Windows. Nhiều phiên bản IE có hỗ trợ cho hệ điều hành cũ hơn nhưng dừng cập nhật. Lượng người dùng Internet tăng vọt vào thập niên 1990 và 2000 có nghĩa là các trình duyệt hiện nay có thị phần nhỏ vẫn có số lượng người dùng lớn hơn toàn bộ thị phần khi xưa. Ví dụ, 90% thị phần vào năm 1997 là khoảng 60 triệu người dùng, nhưng vào đầu năm 2007 90% thị phần tương đương với 900 triệu người dùng. Kết quả là các phiên bản sau của IE6 có tổng cộng nhiều người dùng hơn tất cả các phiên bản trước đó gộp lại.
Việc phát hành IE7 vào cuối năm 2006 đã dẫn đến sự sụp đổ về thị phần của IE6; đến tháng 2 năm 2007 các con số thống kê thị phần phiên bản cho thấy IE6 đạt khoảng 50% và IE7 khoảng 29%. Bất kể thị phần thực sự thế nào, phiên bản tương thích tốt nhất (qua nhiều hệ điều hành) của IE là 5.x, có mặt cho Mac OS 9 và Mac OS X, Unix, và hầu hết các hệ điều hành Windows và được hỗ trợ một thời gian ngắn vào cuối thập niên 1990 (mặc dù phiên bản 4.x có nền tảng mã nguồn thống nhất hơn qua các phiên bản). Đến năm 2007, IE có mức hỗ trợ hệ điều hành hẹp hơn, với phiên bản mới nhất chỉ hỗ trợ Windows XP Service Pack 2 trở lên. Internet Explorer 5.0, 5.5, 6.0, và 7.0 (thử nghiệm) cũng được chuyển không chính thức sang hệ điều hành Linux từ dự án "ies4linux".
* Internet Explorer 6 SP2 chỉ có mặt dưới dạng thành phần của Windows XP SP2 hay Windows Server 2003 SP1 hay SP2.
** Phiên bản Internet Explorer kèm trong Windows 95 khác nhau tùy theo lần phát hành OSR; 2.0 kèm trong OSR1, 3.0 kèm trong OSR2, và 4.0 kèm trong OSR2.5.
*** Bản chất là không hỗ trợ, nhưng dùng được với bộ cài đặt "Đứng một mình" của bên thứ ba.
**** Phiên bản cuối cùng của Windows XP Service Pack 3 không kèm theo IE7.
Xem thêm Internet Explorer Mobile. Phiên bản IE không dành cho máy tính bàn cũng hỗ trợ Windows CE.
Mạo danh bởi malware
Sự phổ biến của Internet Explorer đã khiến phần mềm độc hại lạm dụng tên của nó xuất hiện. Vào ngày 28 tháng 1 năm 2011, một trình duyệt Internet Explorer giả mang tên là "Internet Explorer - Emergency Mode" đã xuất hiện. Nó gần giống với Internet Explorer thật, nhưng có ít nút hơn và không có thanh tìm kiếm. Nếu người dùng cố gắng khởi chạy bất kỳ trình duyệt nào khác như Google Chrome, Mozilla Firefox, Opera, Safari hoặc Internet Explorer thật, trình duyệt này sẽ được tải thay thế. Nó cũng hiển thị cảnh báo giả mạo rằng máy tính bị nhiễm phần mềm độc hại và Internet Explorer đã vào "Chế độ khẩn cấp". Nó ngăn chặn truy cập đến các trang web hợp pháp như Google nếu cố gắng sử dụng để truy cập chúng.
Internet Explorer "đứng một mình"
Các phiên bản đầu của Internet Explorer 5 như có chế độ tương thích để chạy Internet Explorer 4, mặc dù tính năng này đã được bỏ (tương tự người dùng Mac vẫn dùng được 4.5 sau khi cài đặt 5). Trong khi Microsoft tuyên bố không thể giữ nhiều phiên bản Internet Explorer trên cùng máy tính, một số hacker đã tách thành công các phiên bản của Internet Explorer, khiến cho chúng trở thành các ứng dụng đứng một mình (standalone). Chúng được gọi là IE "đứng một mình" và có từ các phiên bản 3 cho đến 8.
Nhiều IE trong Thiết kế Web Windows — nhà phát triển web Joe Maddalone là người tìm ra giải pháp này.
Hộp cát Trình duyệt Xenocode — chương trình ảo hóa ứng dụng Xenocode
Microsoft không còn tiếp tục cung các bộ cài đặt đứng một mình của Internet Explorer dành cho công chúng. Tuy nhiên, có một số quy trình không chính thức để tải các gói cài đặt đầy đủ về. Các bản hack Internet Explorer đứng một mình thực hiện một các đi vòng qua DLL hell, được giới thiệu trong Windows 2000, có tên đổi hướng DLL.
Bộ IE. Một trình cài đặt dành cho các phiên bản độc lập của IE8.0, IE7.0, IE6.0, IE5.51, IE5.01, IE4.01, IE3.0, IE2.01, IE1.5, và IE1.0
Tài liệu Hỗ trợ Microsoft, với các hướng dẫn tải về toàn bộ các tập tin cài đặt.
Cũng có thể cài đặt Internet Explorer thông qua Wine.
IEs4Linux tự động cài đặt Internet Explorer 5.0, 5.5, và 6.0 trong Wine. Việc hỗ trợ cho Internet Explorer 7 hiện đang được phát triển; đến tháng 8 năm 2007, bộ máy hiển thị IE7 có thể dùng với giao diện IE6.
Sau khi cài đặt Internet Explorer 7, vẫn còn một tập tin thực thi Internet Explorer 6 trong C:\WINDOWS\ie7, mặc định là ẩn. Chạy tập tin này sẽ chuyển người dùng về giao diện cũ của IE6, nhưng các trang web được hiển thị dùng bộ máy IE7. Bộ máy IE6 có thể được tái kích hoạt bằng cách đặt một tập tin có tên "iexplore.exe.local" vào thư mục IE7.
Với một cách thay thế cho việc sử dụng IE đứng một mình, Microsoft cho ra mắt các ảnh Microsoft Virtual PC có chứa các phiên bản Windows XP kích hoạt sẵn với IE6 hoặc IE7 đã được cài. Microsoft khuyến cáo cách dùng này cho những nhà phát triển web tìm cách kiểm thử trang web của họ trong nhiều phiên bản IE khác nhau vì các phiên bản đứng một mình không được hỗ trợ và có thể không hoạt động giống như bản sao đã cài đặt đúng của IE.
Chú thích
Xem thêm
Opera
Safari
Mozilla Firefox
Danh sách trình đọc bản tin
So sánh các trình đọc bản tin
So sánh các trình duyệt web
Liên kết ngoài
Website chính của Internet Explorer (tiếng Anh)
IEBlog – weblog của nhóm đang phát triển Internet Explorer (Anh)
Channel9 Wiki: InternetExplorer – trang wiki của Microsoft về Internet Explorer (Anh)
Cộng đồng Internet Explorer – cộng đồng chính thức sử dụng Microsoft Internet Explorer (Anh)
Trình khách FTP
Lịch sử Internet
Phần mềm thương mại
RSS
Thành phần Windows
Trình duyệt web Windows
Tương tác người-máy tính
Siêu văn bản
Phần mềm năm 1995
|
27247
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Erwin%20Rommel
|
Erwin Rommel
|
Erwin Johannes Eugen Rommel () (15/11/1891 - 14/10/1944) còn được biết đến với tên Cáo Sa mạc, Wüstenfuchs ), là một trong những vị Thống chế lừng danh nhất của nước Đức trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Ông là một trong những bậc thầy vĩ đại về mưu mẹo trong chiến tranh, một vị tướng có lòng quả cảm, thượng võ nhất trong quân đội Đức Quốc xã, được cả đồng minh lẫn đối thủ kính trọng. Ông phục vụ cho Adolf Hitler, tuy là một chiến tướng xuất sắc của Đức Quốc xã, nhưng ông không phải đảng viên của Đảng Quốc xã. Vì tinh thần thượng võ cao đẹp, ngay cả người Anh cũng phải bái phục, dù ông đã giao tranh với họ trong nhiều trận đánh quan trọng tại Bắc Phi. Không những thế, cho đến nay người Mỹ vẫn coi ông là một lãnh đạo mẫu mực.
Là một sĩ quan nổi tiếng trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, Rommel gặp gỡ lãnh tụ Adolf Hitler lần đầu tiên vào năm 1934. Ông được tặng thưởng huân chương Pour le Mérite vì những chiến công của ông ở mặt trận Ý. Trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai, Rommel nổi bật lên trong vai trò chỉ huy của Sư đoàn Ma trong cuộc tấn công Pháp năm 1940 của nước Đức Quốc xã. Tiếp đó, Rommel nắm giữ vai trò chỉ huy liên quân Ý - Đức tại châu Phi, dù phải đối mặt với quân địch đông đảo hơn nhưng nhờ tài nghệ của mình ông đã gặt hái những chiến thắng vẻ vang. Ông đã thực hiện thành công vai trò thống lĩnh Quân đội phe Trục ở châu Phi, đến nỗi nó mang lại cho ông biệt danh Cáo Sa mạc (Wüstenfuchs) và được công nhận rộng rãi là chỉ huy quân sự giỏi nhất ở địa hình sa mạc. Sau đó, ông chỉ huy lực lượng phòng thủ của Đức trong trận Normandie.
Erwin Rommel là một chỉ huy hào hiệp và nhân đức, ngược hẳn với hình tượng chung về Phát xít Đức. Quân đoàn châu Phi (Afrikakorps) của ông hoàn toàn không bị cáo buộc bất cứ tội ác chiến tranh nào. Ngoài ra, ông còn nhiều lần cứng rắn từ chối những lệnh yêu cầu ông phải hành quyết lính và người Do Thái bị bắt giữ ở mọi mặt trận mà ông chỉ huy. Thế nên, trong Đức Quốc xã thì không người lính nào có tiếng tăm lừng lẫy như ông. Erwin Rommel trở thành một nhân vật trung tâm trong sử sách quân sự châu Âu hiện đại.
Ở cuối cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai, Rommel tham gia vào phong trào chống đối Adolf Hitler, nhưng phản đối âm mưu mưu sát ông này năm 1944. Vì sự dính dáng của Rommel nhưng đồng thời cũng vì danh tiếng quá lớn của ông, Hitler buộc Rommel phải tự sát thay vì hành quyết ông. Điều này khiến người ta coi ông là một nạn nhân của chế độ Adolf Hitler, là hiện thân của một người Đức tốt. Sau khi mất, Rommel được chôn cất với đầy đủ các nghi thức dành cho chỉ huy quân sự cấp cao, nhưng lý do thực sự cho cái chết của ông mãi là một bí ẩn tới khi Tòa án Nürnberg được mở. Cho đến nay, cuộc đời và sự nghiệp của ông vẫn luôn là điểm thu hút các học giả quân sự.
Cuộc đời và sự nghiệp thuở ban đầu
Erwin Rommel sinh ra tại Heidenheim an der Brenz, huyện Heidenheim cách Ulm khoảng 50 km, thuộc bang Württemberg (nay là bang Baden-Württemberg), Đế chế Đức. Ông là người con thứ hai của giáo sư Erwin Rommel, hiệu trưởng một trường trung học phổ thông đến hết lớp 10 (???) (tiếng Đức: Progymnasium) theo đạo Tin Lành (Protestant) tại Aalen, với Helene von Luz, con gái của một người có chức sắc tại địa phương. Rommel có một anh trai chế́t sớm tên Manfred, hai em trai Karl và Gerhard, và người chị gái mà ông đặc biệt yêu quý là Helene. Theo lời chị gái kể, khi còn nhỏ, Erwin, một cậu bé tóc bạch kim ốm yếu da dẻ trắng xanh, không thích chơi cũng không thích học, chỉ thích ở gần thiên nhiên. Cậu nhút nhát, tính ngoan ngoãn hay mềm lòng với người nhà đặc biệt là mẹ, nhưng không sợ ai trên đời, khép kín và khó kết bạn (mãi đến già cũng như vậy) nhưng rất cởi mở thân thiện với những người thợ thuyền, lười học nhưng nếu đã thích cái gì thì rất tập trung làm và có kết quả ngay. Ở tuổi 14, Rommel và một người bạn của mình đã làm ra một chiếc tàu lượn có thể bay được, tuy không xa lắm. Lúc trẻ, ông có ý định trở thành một kỹ sư hàng không, thế nhưng cha mẹ ông lại đặt ông trước sự chọn lựa hoặc là trở thành nhà giáo hay là sĩ quan. Ban đầu ông chọn nghề giáo nhưng sau đó bỏ và gia nhập vào trung đoàn bộ binh số 124 của bang Württemberg với chức vụ thiếu sinh quân vào năm 1910 và không lâu sau đó, ông được gửi đến trường Thiếu Sinh Quân tại Danzig.
Trong lúc học tại Danzig, đầu năm 1911, Rommel đã gặp người vợ tương lai của mình là Lucie Maria Mollin. Ông tốt nghiệp vào tháng 11 năm 1911 và được phong chức trung úy vào tháng 1 năm 1912. Trước khi kết hôn, Rommel còn có một mối quan hệ khác với một phụ nữ tên Walburga Stemmer vào năm 1912 và mối tình đó đã đem đến cho hai người một người con gái tên Gertrud. Ông viết cho bà nhiều lá thư với giọng điệu lãng mạn, hơi nông nổi, sau này không còn bao giờ thấy trong thư từ sách vở của ông nữa. Gia đình Rommel phản đối gay gắt đặc biệt là mẹ Rommel vì bà cho rằng xuất thân thấp hèn của Stemmer sẽ làm khó cho việc thăng tiến của Rommel. Lúc ấy, Chiến tranh thế giới thứ nhất gần kề, nếu xuất ngũ để kết hôn với Walburga thì có thể bị coi là hèn nhát, các bạn đồng ngũ của Rommel cũng đều khuyên ông chọn sự nghiệp quân sự. Khi chiến tranh nổ ra, Rommel ra trận, dặn chị gái "Nếu em chết thì tất cả tiền bạc trao lại cho Walburg và Trudel tội nghiệp." Nhưng hết chiến tranh, tình yêu không còn nữa, và Rommel đến gặp Lucie thú thật mọi chuyện. Năm 1916, Rommel làm đám cưới với Lucie. Walburga và Gertrud chuyển về sống với hai vợ chồng và được giới thiệu là "em họ và cháu gái." Walburga biết Rommel hết sức yêu thương chiều chuộng Gertrud nên còn hy vọng và đã chờ ông suốt 12 năm, thế nhưng khi biết Lucie đã có mang thì bà tự tử. Tháng 12, năm 1928 con trai của Rommel ra đời và được đặt tên là Manfred – người con này về sau trở thành thị trưởng của Stuttgart từ 1974 đến 1996.
Thế chiến thứ I
Trong cuộc Thế chiến thứ I, Erwin Rommel phục vụ tại các mặt trận Pháp, Romania và Ý. Là một Sĩ quan trẻ tuổi, ông có hào khí tham chiến lúc cuộc đại chiến bùng nổ vào năm 1914. Ông miêu tả về Trung đoàn của ông như sau:
Tổng cộng, ông bị thương ba lần và được phong tặng Huân chương Thập tự Sắt (Iron Cross) cả hạng I và hạng II. Rommel trở thành người trẻ tuổi nhất nhận được huân chương cao quý này của Đế chế Đức, Huân chương Pour le Mérite (huân chương này là một vinh dự có tính cách truyền thống chỉ dành cho các vị tướng). Ông nhận được nó sau các trận đánh tại các dãy núi phía đông bắc nước Ý. Phần thưởng này là kết quả từ trận đánh tại Longarone, và việc chiếm giữ được ngọn núi Matajur (ngọn núi này cao 1.650 mét, từ đây có thể quan sát được vùng biển Adriatic) cùng với 150 sĩ quan, 7.000 lính Ý và 81 cây đại bác (trong trận đánh này, Rommel cùng với 100 quân của mình chống lại lực lượng Ý hơn 7.000 người). Tiểu đoàn của Rommel sử dụng khí ga trong chuỗi trận chiến tại Isonzo và còn giữ vai trò chủ chốt trong chiến thắng quyết định của Liên minh Trung tâm trước quân Ý trong trận Caporetto (địa điểm trận đánh ngày nay là Kobarid thuộc Slovenia). Trong khi chiến đấu tại Isonzo, Rommel bị lực lượng Ý bắt giữ nhưng trốn thoát về lại Đức hai tuần sau đó.
Giữa hai thế chiến
Rommel là một trong những sĩ quan có khả năng được đưa lên vị trí cao hơn, Thế nhưng, ông tìm cách từ chối một vị trí trong Truppenamt (tổ chức thay thế cho Bộ Tổng tham mưu quân đội Đức, tổ chức mà Đức không được có theo Hiệp ước Versailles)--con đường để vươn lên cấp chỉ huy cao hơn. Thay vào đó, ông lựa chọn để trở thành một sĩ quan ở tiền tuyến..
Sau Thế chiến thứ I, Rommel nắm giữ một chức chỉ huy cấp tiểu đoàn và là giảng viên tại trường bộ binh Dresden từ 1929 đến 1933, và tại Học viện Chiến tranh Potsdam từ 1935 đến 1937. Năm 1934, ông cho xuất bản lần đầu cuốn "Gefechts-Aufgaben für Zug und Kompanie: Ein Handb. f. d. Offizierunterrich" (Bài tập dành cho Trung đội và Đại đội: Một sách hướng dẫn dành cho sĩ quan huấn luyện). Quyển sách này được in tới tận năm 1945 với năm bản in có điều chỉnh và thay đổi tựa. Từ năm 1935 tới 1938, Rommel làm một công việc chỉ huy tại Học viện Chiến tranh Potsdam. Các quyển nhật ký chiến tranh của Rommel, "Những cuộc Tấn công bằng Bộ binh" (tiếng Đức: Infanterie greift an), xuất bản năm 1937, đã trở thành cuốn sách giáo khoa quân sự được đánh giá cao, và cũng thu hút được sự chú ý của Adolf Hitler. Từ đó, Hitler đã lần lượt giao cho Rommel vị trí thuộc bộ Chiến tranh Đức, chủ yếu là các công việc có liên quan tới tổ chức Đoàn Thanh niên Hitler (tiếng Đức: Hitler Jugend); các vị trí đứng đầu lĩnh vực Thể thao Quân đội.
Năm 1937, Rommel tổ chức một loạt chuyến viếng thăm đến các cuộc mít-tinh và nơi đóng trại của Hitler Jugend. Nơi ông tổ chức các buổi giảng dạy quân sự, kiểm tra cơ sở hạ tầng và dự giờ các buổi giảng. Đồng thời, Rommel còn gây áp lực lên Baldur von Schirach, chỉ huy lúc đó của Hitler Jugend, để ông này chấp nhận sự có mặt nhiều hơn của quân đội trong việc huấn luyện Hitler Jugend. Schirach coi đó là một nỗ lực nhằm mục đích biến Hitler Jugend thành một lực lượng hậu cần cho quân đội Đức. Vì thế, Schirach từ chối mọi đề nghị của Rommel, đồng thời ông này còn trở nên không ưa Rommel, có vẻ là do sự ghen tỵ đối với ảnh hưởng của Rommel trong Hitler Jugend. Cuối cùng thì một thỏa thuận hợp tác giữa Hitler Jugend và quân đội Đức cũng hình thành, nhưng nội dung điều khoản thì chỉ cho phép quân đội tổ chức huấn luyện trong Trường dạy Bắn Súng của Hitler Jugend, ít hơn những gì Rommel mong muốn. Tới trước 1939, Hitler Jugend nhận được khoảng 20.000 sĩ quan huấn luyện bắn súng. Trong thời gian này, Rommel vẫn tiếp tục giảng dạy ở Potsdam, công việc đã mang lại cho ông nhiều phần thưởng của quân đội vì thành tích xuất sắc của mình.
Năm 1938, lúc này Rommel đã là đại tá, ông được chỉ định là chỉ huy của Học viện Chiến tranh tại Wiener Neustadt. Tại đây, Rommel bắt đầu viết cuốn sách có tựa đề "Xe Tăng trong các cuộc Tấn công" (tiếng Đức: Panzer greift an). Không lâu sau đó, Rommel lại được thuyên chuyển và giao quyền chỉ huy Tiểu đoàn Bảo vệ Quốc trưởng (tiếng Đức: Führer-Begleitbattalion) để bảo vệ Hitler trong cuộc thăm viếng của ông này đến Nam Tư và vùng Mermel thuộc Litva. Thời gian này chính là thời gian ông đã gặp Joseph Goebbels, khi này là Bộ trưởng Bộ tuyên truyền Đức. Goebbels về sau trở nên hâm mộ Rommel một cách nhiệt thành và ông này giữ một vai trò quan trọng trong việc làm cho truyền thông Đức luôn đưa tin về các chiến công của Rommel.
Thế chiến thứ II
Ba Lan 1939
Vào mùa thu năm 1938, Hitler chọn Rommel chịu trách nhiệm đơn vị lính Đức bảo vệ ông ta trong các chuyến viếng thăm Tiệp Khắc sau khi đã xâm chiếm nước đó. Trước khi cuộc xâm lược Ba Lan xảy ra, ông được thăng hàm thiếu tướng và chỉ huy trưởng của Tiểu đoàn Bảo vệ Quốc trưởng, chịu trách nhiệm về sự an toàn cho các sở chỉ huy di động của Hitler trong suốt chiến dịch này.
Pháp 1940
Chỉ huy tăng thiết giáp
Sau chiến dịch tại Ba Lan, Rommel bắt đầu vận động hành lang để xin được làm chỉ huy của một trong mười sư đoàn tăng thiết giáp của Đức Quốc Xã. Với những chiến tích trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất đều dựa trên tính bất ngờ và sự cơ động, rõ ràng Rommel trở nên rất phù hợp với các đơn vị panzer thế hệ mới. Ông được Hitler thăng lên hàm tướng, sớm hơn cả các sĩ quan dày dạn kinh nghiệm khác. Ông cũng được giao quyền chỉ huy sư đoàn tăng thiết giáp như mong muốn, dù trước đó yêu cầu này bị khước từ bởi Sở chỉ huy Quân đội và ông chỉ được giao nhiệm chỉ huy một đơn vị tác chiến địa hình đồi núi. Theo Caddick-Adams, ông đã nhận được sự hậu thuẫn từ Hitler, chỉ huy đơn vị Quân chủng số 14 Wilhelm List và rất có thể là cả Guderian.
Sự thăng tiến vượt bậc đi ngược lại các quy định trong quân đội đã khiến Rommel bị đồn thổi rằng ông đang được Hitler ưu ái quá mức, tuy nhiên khả năng lãnh đạo phi thường của ông trong chiến dịch tại Pháp đã dập tắt hoàn toàn những tin đồn đó. Sư đoàn tăng thiết giáp số 7 lúc đó cũng mới chỉ được chuyển đổi thành một sư đoàn binh chủng thiết giáp hạng nặng bao gồm 218 xe tăng chia thành 3 tiểu đoàn, với hai trung đoàn súng trường, một tiểu đoàn xe máy, một tiểu đoàn kỹ sư, và một tiểu đoàn chống tăng. Sau khi nắm quyền chỉ huy vào ngày 10 tháng 2 năm 1940, dù không có kinh nghiệm trong việc chỉ huy tăng thiết giáp, Rommel đã nhanh chóng thích nghi để học hỏi và triển khai việc luyện tập chiến thuật tác chiến nhằm chuẩn bị cho chiến dịch sắp tới.
Tấn công nước Pháp
Vào ngày 10/5/1940, một bộ phận của Quân đoàn 15 của quân đội Đức dưới sự chỉ huy của tướng Hermann Hoth tiến vào Bỉ để tiến lên vùng sông Meuse gần vùng đô thị Wallonia của Dinant. Ở bờ sông Meuse, Sư đoàn thiết giáp số 7 của Rommel bị giam chân bởi cầu đường bị phá hủy cũng như hỏa lực từ phía quân Bỉ phòng thủ. Quân Đức lúc này thiếu lựu đạn khói nên Rommel, lúc này là toàn quyền chỉ huy cuộc vượt sông, ra lệnh đốt một vài ngôi nhà ven sông để che mắt quân Bỉ. Các đơn vị Panzergrenadier sau đó vượt sông bằng thuyền cao su, và Rommel thì chỉ huy đợt thứ hai. Sư đoàn của Rommel tiến sâu hơn vào đất quân Bỉ và cách xa các đơn vị quân Đức khác.
Kiểu tiến quân của Rommel là liều lĩnh dùng một lực lượng cơ động mạnh (chủ yếu là lực lượng tăng thiết giáp) đánh thẳng vào một điểm trên phòng tuyến đối phương rồi tiến tới luôn, chấp nhận mạo hiểm khi để hai bên sườn hoàn toàn trống trải, cách tấn công này chủ yếu dựa trên việc đánh vào tinh thần của binh lính đối phương, khiến họ không dám tấn công và làm tan rã ý chí chiến đấu của họ. Khi gặp kháng cự, Rommel sẽ đơn giản là ra lệnh cho xe tăng nhắm vào một điểm mà tiến tới, ra lệnh cho toàn bộ hỏa lực triển khai, dựa chủ yếu vào tính bất ngờ của cuộc tấn công để làm cho tinh thần binh lính đối phương tan rã và sau đó họ đầu hàng. Kiểu đánh này bù đắp được điểm yếu của xe tăng Đức là có thiết giáp giới hạn và cỡ nòng pháo thấp, và nó còn thường làm cho một nhóm lớn tăng hạng nặng đối phương đang dàn quân ra phải đầu hàng. Thêm vào đó, nó sẽ giúp giảm số quân tử trận cho hai bên sườn của phe tiến công vì tránh được kiểu đánh dàn trải nhưng đồng thời cũng gây nhiều rủi ro. Có một lần sư đoàn của Rommel dựa theo cách đánh này, vội vã khai hỏa tối đa vào một đoàn xe vận chuyển của Pháp để rồi sau đó nhận ra rằng người Pháp dùng nhóm xe này để làm bẫy "chuông báo động" từ xa.
Trận Arras
Khoảng này 18 tháng 5, Quân đoàn quân Đức chính chiếm được Cambari nhưng từ đó thông tin về hướng tiến quân của Rommel được phát về một cách rất ít ỏi. Có lúc, Bộ Tham mưu của Đức ở mặt trận này, khi đó đang chỉ huy một phần quân đoàn đóng ở Bỉ, không nhận được bất cứ liên lạc vô tuyến nào từ Rommel, liền ghi lại rằng nhóm quân của Rommel đã bị tiêu diệt và dừng việc tiếp vận nhiên liệu cho nhóm quân này. Lệnh này về sau gây tranh cãi lớn; Rommel thì giận dữ và buộc tội một phần trong nhóm sĩ quan quân nhu của mình là bất cẩn còn Bộ Tham mưu của Đức thì chỉ trích Rommel vì tốc độ tiến quân của ông làm cho chỉ huy không bắt kịp.
Vào ngày 20 tháng 5, nhóm quân của Rommel tiến tới thành phố Arras. Ở đây ông muốn ngăn cách Lực lượng Viễn chinh Anh khỏi bờ biển và ông ra lệnh cho Hans von Luck, lúc này đang chỉ huy một tiểu đoàn trinh sát của sư đoàn, tìm cách mở đường vượt qua nhóm kênh La Bassée gần thành phố này. Được hỗ trợ bởi các máy bay tiêm kích ném bom Junkers Ju 87, nhóm quân của Hans von Luck mở được đường tiến qua sông. Quân Anh phản công (trận Arras) vào ngày 21 tháng 5 với xe tăng Matilda Mk I. Quân Đức nhận ra rằng súng 35 ly họ dùng vô dụng trước giáp tăng của quân Anh. Một khẩu đội súng 88 ly được đưa ra để chống xe tăng Anh và đích thân Rommel chỉ huy khẩu đội này. Kết quả là quân Anh-Pháp phải từ bỏ kế hoạch vượt sông.
Sau trận Arras, Hitler ra lệnh cho các đơn vị thiết giáp chuyển về trạng thái phòng thủ, cũng lúc đó thì người Anh, thực thi theo chiến dịch Dynamo, rút số quân của họ ra khỏi Dunkirk và Sư đoàn Thiết giáp số 7 của Rommel có được một khoảng thời gian cần thiết để nghỉ ngơi. Vào ngày 26 tháng 5, Sư đoàn Thiết giáp số 7 quân Đức tiếp tục tiến quân và nó tiến sát Lille trong ngày 27 tháng 5. Để tấn công thị trấn này, Rommel được giao thêm một sư đoàn tăng nữa, Sư đoàn Thiết giáp 5; việc này làm cho một tướng khác là Max von Hartlieb có cảm giác khó chịu. Cùng ngày, Rommel nhận được tin mình được tặng thưởng huân chương Chữ thập Hiệp sĩ của chữ Thập Sắt; Rommel trở thành Sư trưởng đầu tiên được tặng thưởng trong chiến dịch này. Giải thưởng này đã giúp cho Rommel đảm bảo được vị trí của mình trước Hitler cũng như làm cho các sĩ quan đồng cấp khác chỉ trích là Hitler có quan hệ quá gần gũi với Rommel. Họ tin rằng đây là bằng chứng khác cho thấy Hitler có vẻ ưu tiên Rommel.
Vào ngày 28 tháng 5, khi đang tổng tiến quân vào Lille, và lại ở xa nhóm quân Đức gần nhất, sư đoàn thiết giáp số 7 đụng phải một trận pháo dữ dội của quân Pháp. Rommel thúc quân tiến lên, chiếm được Lille, vây được một nửa của Quân đoàn thứ Nhất (Ire Armée) của Pháp và không cho họ lùi về Dunkirk. Sau trận này quân của Rommel lại có thời gian nghỉ ngơi.
Bờ biển Manche
Quân của Rommel tiếp tục tiến quân vào ngày 6 tháng 6 với ý định chiếm vùng quanh sông Seine và đảm bảo an toàn cho các cây cầu gần thành phố Rouen. Nhóm quân này tiến hơn 100 km trong hai ngày nhưng đến nơi thì toàn bộ cầu đã bị phá hết. Ngày 10 tháng 6, Rommel đến được bờ biển gần Dieppe, gửi tin nhắn "Tôi đang ở bờ biển" về bộ chỉ huy.
Ngày 15 tháng 6, Sư đoàn Thiết giáp 7 bắt đầu tiến về Cherbourg. Tới ngày 17 thì tiến được 35 km và tới ngày 18 thì chiếm được thị xã này. Sau đó, Sư đoàn tiếp tục tiến về Bordeaux nhưng phải dừng lại khi một lệnh đình chiến ngắn được ký kết vào ngày 21 tháng 6. Vào tháng 7, Sư đoàn của Rommel được điều đến Paris nhằm chuẩn bị cho chiến dịch Sư tử biển, chiến dịch tấn công Anh quốc của phát xít Đức. Sự chuẩn bị này là nửa vời bởi vì quân Đức ngày càng nhận ra rằng họ không thể cân bằng về lực lượng không quân với quân đội Anh.
Sư đoàn Ma
Sư đoàn thiết giáp số 7, sau này được đổi tên thành Sư đoàn Ma (tiếng Đức: Gespenster-Division) do tốc độ và tính bất ngờ khi nó làm những nhiệm vụ được giao; thậm chí đến mức có lúc Bộ Chỉ huy Tối cao của quân Đức đã mất liên lạc với nó và không biết nó nằm ở đâu.
Rommel nhận được cả lời tán dương lẫn chỉ trích cho kiểu đánh của mình. Một số chỉ huy như tướng Georg Stumme, người trước đó chỉ huy Sư đoàn Thiết giáp 7 thì ấn tượng mạnh bởi tốc độ và sự thành công của Rommel nhưng một số khác, một vài người vì ghen tị, thì nghĩ ngược lại và chỉ trích rằng chiến thuật Rommel ẩn chứa nhiều nguy cơ không cần thiết. Hermann Hoth, ngoài mặt thì ca ngợi Rommel nhưng sau lưng thì chỉ trích. Trong một báo cáo mật, Hoth ghi rằng không nên giao cho Rommel chỉ huy sư đoàn nào nữa cho tới khi Rommel có thêm nhiều kinh nghiệm và khả năng phán đoán. Hoth còn cáo buộc rằng Rommel không muốn thừa nhận đóng góp của người khác trong những chiến thắng của ông.
Chỉ huy Quân đoàn thứ tư của quân đội Đức, tướng Günther von Kluge, còn chỉ trích Rommel là tự nhận một cách sai trái toàn bộ vinh quang trong những chiến thắng của ông. Kluge cảm thấy rằng Rommel không thừa nhận đóng góp của Không quân Đức (Luftwaffe) và chiến ký của Rommel về thời gian ông ở Pháp thì ghi sai về hướng tiến quân của các đơn vị chiến đấu cũng để chiếm hết công về mình. Kluge còn dẫn ra lời phàn nàn của tướng Hartlieb là Rommel đã lạm dụng dụng cụ xây cầu của Sư đoàn Thiết giáp số 5 vào ngày 14 tháng 5 khi dụng cụ của Sư đoàn Thiết giáp số 7 đã hết; việc làm này khiến cho Sư đoàn Thiết giáp 5 vượt sông bị chậm nhiều giờ. Sau đó Rommel lại lặp lại điều này trong cuộc vượt sông Scarpe ngày 27 tháng 5.
Bắc Phi 1941-1943
Phần thưởng tiếp theo mà Rommel nhận được cho những thành công của mình là ông được thăng cấp và được chỉ định trở thành chỉ huy của Sư đoàn Tia chớp số 5 của quân đội Đức (về sau trở thành Sư đoàn Thiết giáp số 21, sư đoàn này cùng với Sư đoàn Thiết giáp số 15 tạo nên Quân đoàn châu Phi Deutsches Afrikakorps,()). Quân đoàn này được gửi đến Lybia đầu năm 1941 trong chiến dịch Sonnenblume để hộ trợ quân Ý đang mất tinh thần vì những thiệt hại do liên quân Thịnh Vượng chung gây ra trong chiến dịch Compass. Ở Châu phi, Rommel giành được danh tiếng cao nhất của mình trong lãnh vực quân sự.
Đợt tấn công thứ nhất của phe Trục
Vào ngày 6 tháng 2 năm 1941, Rommel được lệnh chỉ huy quân đoàn châu Phi tiến về Libya để giúp quân Ý đang đã bị đánh lui trong chiến dịch Compass của liên quân khối Thịnh Vượng chung dưới sự chỉ huy của thiếu tướng Richard O'Connor vào khoảng tháng 11 năm 1940. Bộ Tổng chỉ huy phe Trục ban đầu thì ra lệnh nghi binh phòng thủ nhưng về sau lại tổ chức những đợt tấn công nhỏ trong tháng 5 vào Agedabia và Benghazi, và lên kế hoạch giữ vững phòng tuyến ở giữa các thành phố trên. Rommel phàn nàn rằng những kiểu tấn công nhỏ như thế sẽ vô dụng vì toàn bộ Cyrenaica sẽ bị chiếm nếu phe Trục phải phải tìm cách giữ tiền tuyến. Ngoài ra, lực lượng của phe Trục phải nhận thêm 7000 lính Ý vốn đã bị mất tinh thần do việc vào 3 tháng trước đó O'Connor's đã bắt giữ được 130.000 lính và 400 xe tăng của quân đoàn Ý ở Bắc Phi.
Vào 24 tháng 3 năm 1941, Rommel mở một đợt tấn công nhỏ với Sư đoàn Tia chớp số 5 và 2 sư đoàn bộ binh Ý hỗ trợ. Đợt tấn công này là một đợt nhỏ trước khi quân Rommel được tăng cường thêm bởi Sư đoàn Thiết giáp số 15 vào tháng 5. Quân Anh, vốn đã bị suy yếu vì phải chia quân gửi sang tham chiến tại mặt trận Hy Lạp, lùi về Mersa el Brega để bắt đầu xây dựng phòng tuyến. Rommel quyết định tiếp tục tấn công một lần nữa để ngăn chặn quân Anh củng cổ phòng tuyến này. Sau một ngày đụng độ quyết liệt, quân Đức chiếm ưu thế và Rommel tiếp tục tiến quân bất chấp lệnh phải hoãn tấn công vào Agedabia cho đến tháng 5. Tổng tư lệnh Anh ở Trung Đông, tướng Archibald Wavell, đánh giá quá cao sức mạnh của liên quân phe Trục và cộng thêm nỗi lo ngại về vấn đề thời tiết mùa đông, liền ra lệnh rút quân khỏi Benghazi để tránh việc bị đợt tấn công của Rommel chia cắt.
Rommel, thấy được sự miễn cưỡng của người Anh trong một trận đánh quyết định, liền đưa ra một quyến định liều lĩnh: chiếm đóng toàn bộ Cyrenaica chỉ với lực lượng được trang bị nhẹ. Ông ra lệnh cho Sư đoàn Thiết giáp Ariete của quân Ý truy đuổi số quân Anh đang rút đi, cùng lúc cho Sư đoàn Tia chớp số 5 của quân Đức liền tiến vào Benghazi. Chỉ huy Sư đoàn Tia chớp số 5, thiếu tướng Johannes Streich, phản đối lệnh với lý do rằng hình trạng trang thiết bị của Sư đoàn hiện tại không thích hợp để hành quân. Thế nhưng, Rommel bỏ ngoài tai lời phải đối này, ông nói "không thể để dịp may hiếm hoi trôi đi chỉ vì những chuyện vặt vãnh". Cùng lúc đó, Tổng Tư lệnh quân Ý là tướng Italo Gariboldi liên tục tìm cách hoãn cuộc tiến quân của Rommel nhưng ông này không thể liên lạc được với Rommel.
Sau khi chiếm được Benghazi, phe trục tiếp tục chiếm thêm khu vực Cyrenaica tới tận Gazala vào 8 tháng 4. Việc làm này của Rommel nhận được sự chỉ trích dữ dội từ phía Bộ Tổng chỉ huy quân Ý vì họ cảm thấy Rommel đã bất tuân thượng lệnh. Điều này càng đặc biệt khi mà Rommel đáng lẽ phải tuân theo lệnh của phía Ý. Sau đó, Rommel còn nhận được lệnh từ phía Bộ Chỉ huy Tối cao quân Đức rằng ông không được vượt qua khỏi Maradah, nhưng một lần nữa Rommel lại bỏ ngoài tai lệnh này cũng như mọi lời phản đối khác từ thuộc tướng của mình. Rommel tin rằng thời điểm đó là một cơ hội lớn lao để tiêu diệt một lượng lớn quân Đồng minh ở Bắc phi và chiếm giữ Ai Cập. Sau đó, Rommel quyết định tiếp tục gây sức ép lên quân Anh đang rút lui và mở một đợt tấn công cánh vào cảng Tobruk. Trong đợt tấn công này, quân của Rommel bắt được Tổng chỉ huy quân sự của quân Đồng Minh tại khu vực Cyrenaica là Trung tướng Philip Neame và cả Richard O'Connor, khi này là thuộc tướng của Neame.
Trong thời gian quân Ý đang tấn công dọc theo bờ biển, Rommel quyến định tiến lên phía bắc và tấn công khu cảng từ phía Đông Nam với Sư đoàn Tia chớp số 5 với mục tiêu rằng sẽ vây được số lớn quân Anh đang đóng tại đó. Đợt tấn công này thất bại vì các lý do về hậu cần cũng như quân Đức không đảm bảo được đường tiếp vận; đồng thời quân của Rommel cũng nhiều lần bị đột kích bởi số quân Anh đóng tại Tobruk. Ngày 11 tháng 4, vòng vây quanh Tobruk đã được thiết lập và liên quân phe Trục mở đợt tấn công đầu tiên vào thành phố. Còn các lực lượng còn lại của phe Trục tiếp tục đông tiến và đẩy lui toàn bộ quân Đồng minh ra khỏi Libya vào ngày 15 tháng 4.
Cuộc vây hãm Tobruk
Cảng quan trọng Tobruk, mặc dầu đã bị bao vây, vẫn nằm trong tay các lực lượng Đồng Minh dưới sự chỉ huy của viên tướng người Úc, Leslie Morshead. Phe phòng thủ bao gồm Sư đoàn số 9 của quân Úc và toàn bộ số lính Anh đã rút kịp về Tobruk, tổng cộng là 25.000 quân. Rommel vội vàng muốn có được chiến thắng một nhanh nhất, ông liên tiếp mở các đợt tấn công nhỏ vào cảng. Những đợt tấn công kiểu trên dễ dàng bị đánh bật. Rommel sau đó còn chỉ trích Bộ Chỉ huy Tối cao quân Ý là đã không thể cung cấp cho ông sơ đờ bố phòng của cảng (cảng này do người Ý xây dựng trước cuộc chiến). Điều này xảy ra là do quân của Rommel tiến quá nhanh so với dự kiến khiến cho quân Ý hầu như không có thời gian để đưa ra sơ đồ mà Rommel yêu cầu. Về giai đoạn này, tướng Heinrich Kirchheim, về sau là chỉ huy của Sư đoàn Tia chớp số 5 kể lại: "Một điều tôi không muốn nhớ lại là trong thời gian đó có quá nhiều máu đã đổ vô ích." Sau đó trong cuộc chiến, Kirchheim đã chống lại việc mở các tấn công khác vào Tobruk do thiệt hại ở các đợt đầu là quá cao.
Rommel vẫn giữ suy nghĩ rằng chiến thắng sắp xảy ra. Trong nhật ký của mình, ông ghi lại rằng ông đã nhận ra từ trước rằng phe địch (chỉ quân Đồng minh) chắc chắc là sẽ bỏ Tobruk, thế nhưng chính bản thân ông cũng nghi ngờ điều này. Trong một bức thư gửi vợ ngày 16 tháng 4 cùng năm, ông ghi rằng quân Đồng minh đang rút khỏi Tobruk bằng đường biển và ông tự tin rằng quân Đồng minh sẽ không cố giữ khu cảng cho đến hết tháng 4. Nhưng sự thật là các chuyến tàu đến cảng Tobruk không phải là để di tản mà là để tiếp vận quân nhu và cả viện binh. Một bức thư khác của Rommel, viết vào ngày 21 tháng 4, kể lại rằng Rommel bắt đầu nhận ra rằng thời gian chờ người Ý cung cấp sơ đồ bố phòng của Toburk lại càng làm cho binh sĩ giảm tinh thần thêm nữa. Nhưng dù như thế nào, Rommel vẫn tiếp tục tin rằng việc chiếm được Toburk chỉ là một sớm một chiều. Đồng thời, mối quan hệ giữ Rommel với các thuộc tướng cũng trở nên xấu chưa từng thấy. Đặc biệt là với Streich người đã công khai chỉ trích các quyết định của Rommel và sau đó ông này còn từ chối mọi trách nhiệm về các trận đánh. Rommel bắt đầu mở một loạt các phiên tòa quân đội, nhưng rốt cục ông hầu như không ký quyết định kết án nào cả. Tình trạng này làm cho đích thân Tổng tư lệnh Walther von Brauchitsch viết thư cho Rommel nói rằng ông thay vì tiếp tục đe dọa và đòi thay những sĩ quan "cho tới nay đã cống hiến xuất sắc trong các trận đánh", Rommel nên có "một cuộc tranh cãi bình tĩnh và có tính xây dựng" thì "kết quả đem lại" sẽ "tốt hơn". Rommel vẫn tiếp tục án binh bất động.
Đến lúc này, Rommel yêu cầu Bộ Tổng tư lệnh Tối cao quân Đức cho ông thêm quân để có thể mở thêm các đợt công kích. Thế nhưng, vì Đức có nhu cầu quân cho chiến dịch Barbarossa ở Đông Âu, yêu cầu của Rommel bị từ chối. Tham mưu trưởng quân đội Đức Franz Halder, trước khi ông này rời khỏi Phi châu, nói với Rommel rằng quân đội sẽ không thể lo về mặt hậu cần cho một số quân lớn thì Rommel trả lời lại "đó là chuyện của ông". Sau đó Halder mỉa mai nhận xét: "bây giờ thì hắn (Rommel) cũng phải miễn cưỡng mà tuyên bố rằng lực lượng của hắn chẳng mạnh đến nổi để mà ông ta có thể dùng chúng để mà tận dụng các 'cơ hội độc nhất' mà tình thế chung đem lại. Đó là cảm giác mà chúng ta có ở hầu hết thời gian mà chúng ta ở đây." Đồng thời, Halder vì nổi giận với Rommel do lệnh cấm vượt qua Maradah của mình bị Rommel bất tuân và thiệt hại của quân Đức quá lớn, nên ông này cử Friedrich Paulus để "chặn thằng lính hoàn toàn mất trí ấy".
Khi mới đến nơi vào ngày 27 tháng 4, Paulus lại bị thuyết phục để cho phép Rommel mở một đợt tấn công khác. Về sau khi ở thủ đô Berlin, Halder viết "theo quan điểm của tôi, điều đó là một sai lầm" nhưng ông này vẫn biện hộ cho Paulus. Đợt tấn công ngày 4 tháng 5 về sau bị Paublus bắt hoãn vì ông này cho rằng nó sẽ trở thành một thảm họa. Thêm vào đó, Paublus cấm Rommel dùng quân để tấn công thêm nữa và ra lệnh hoãn toàn bộ các đợt tấn công khác cho tới khi toàn bộ lực lượng được tái tổ chức và có chỉ đạo từ Bộ tổng tư lệnh tối cao quân Đức.
Tham mưu trưởng của quân Đồng Minh tại đây, tướng Archibald Wavell đã cố gắng thực hiện hai cuộc tấn công nhằm giải vây cho Tobruk, chiến dịch Brevity và Battleaxe, nhưng đều thất bại.
Sau thất bại đáng kể của chiến dịch Battleaxe, Wavell đã được thay thể bằng viên tổng tư lệnh gốc Ấn Độ, tướng Claude Auchinleck. Auchinleck đã mở một trận tấn công lớn để giải vây cho Tobruk, chiến dịch Crusader, và cuối cùng đã thành công. Đã có một lần Rommel đến một bệnh viện cho binh lính New Zealand – hãy còn trong vùng kiểm soát của Anh. "Ông đã hỏi thăm về nhu cầu của bệnh nhân, hứa sẽ cung cấp thuốc của Anh và ra đi không bị ngăn trở."
Chiến dịch Crusader là một thất bại cho Rommel. Vài tuần sau trận đánh, Rommel đã hạ lệnh rút lui tất cả các lực lượng của mình đang đóng tại các khu vực xung quanh Tobruk (7 tháng 12, 1941) và triệt thoái về El Agheila. Quân Anh đã đuổi theo, cố gắng tiêu diệt toán quân Đức đang rút lui như họ đã làm vào năm 1940, thế nhưng Rommel đã tung ra một đợt phản công vào ngày 20 tháng 1 năm 1942 và giáng một đòn chí mạng vào quân Anh. Tập đoàn quân Bắc Phi tái chiếm Benghazi, quân Anh phải lui về khu vực Tobruk và bắt đầu xây dựng các vị trí phòng thủ.
Đầu mùa hè năm 1942 (24 tháng 5, 1942), đội quân của Rommel tấn công. Theo cách đánh chớp nhoáng (blitzkrieg) kinh điển, đội quân của ông đã thọc vào sườn quân Anh tại Gazala. Song, quân Pháp vẫn ngoan cố kháng cự lại các đợt tấn công của người Đức trong trận Bir Hakeim. Tuy nhiên, Rommel cùng các chiến sĩ của ông đã triệt hạ được Bir Hakeim, buộc quân thù phải lui binh khỏi điểm phòng ngự kiên cố này. Như vậy là dù có sai sót trong việc chỉ huy nhưng vị Thống chế đại tài cùng các binh sĩ tinh nhuệ đã lập nên những chiến công hiển hách, đẩy quân địch - dù đông đảo hơn quân của ông - vào thế yếu. Quân Đức thắng thế, buộc quân Anh rút lui một cách nhanh chóng, nên được gọi là "Cú phi nước đại Gazala", để tránh bị tiêu diệt hoàn toàn. Tobruk giờ đây bị cô lập và chỉ còn một mình, nằm giữa Tập đoàn quân Bắc Phi và Ai Cập. Vào ngày 21 tháng 6 năm 1942, sau một trận tấn công phối hợp nhanh, mạnh mẽ và có tính kết hợp của quân Đức, thành phố đã bị bao vây cùng với 33.000 quân lính. Gần một năm sau thất bại tại Singapore, quân Anh và lực lượng trong Khối Thịnh vượng chung Anh mới bị tổn thất thê thảm như vậy. Các lực lượng Đồng Minh đã hoàn toàn bị đánh bại. Vài tuần sau đó, họ phải rút lui ra xa khỏi Ai Cập.
Cuộc tấn công của Rommel cuối cùng phải dừng lại tại đường ray của một thị trấn nhỏ ở El Alamein (Ai Cập), chỉ cách Alexandria 60 dặm. Trong trận chiến El Alamein lần thứ nhất, quân của Rommel thất bại do những vấn đề về nguồn tiếp tế vũ khí, lương thực do một chiến dịch nhằm cắt đứt các tuyến đường vận chuyển của quân Đức mang tên Ultra được Không quân và Hải quân Hoàng gia Anh (Royal Air Force và Royal Navy) thực hiện và những chiến thuật được cải tiến của quân Anh. Người Anh rất gần với nguồn tiếp tế và có được những người lính mới, khỏe mạnh để tăng cường cho các vị trí đóng quân của họ. Chiến thuật của Auchinleck là tiếp tục tấn công vào các lực lượng Ý yếu kém để giành thế chủ động về phía mình. Rommel, một lần nữa cố gắng bẻ gãy phòng tuyến của quân Anh bằng trận đánh tại Alam Halfa. Ông đã hoàn toàn bị cầm chân lại bởi vị chỉ huy mới đến của quân Đồng Minh, Trung tướng Bernard Montgomery, một người luôn có được sự hỗ trợ tuyệt đối về lương thực và vũ khí.
Do các lực lượng Đồng Minh từ Malta ngăn chặn nguồn tiếp tế của Rommel ngay tại bờ biển, và cả một khu vực rất rộng lớn mà ông phải giữ lấy, Rommel không thể giữ El Alamein mãi được. Vì vậy mà sau trận chiến tại El Alemein lần thứ hai, quân của Rommel phải rút lui. Sau thất bại tại El Alamein, mặc dù các vị lãnh tụ Hitler và Mussolini nhiều lần thúc giục Rommel, các lực lượng của ông đã không thể đứng vững và chiến đấu lại được nữa cho đến khi họ tiến vào Tunisia. Sau đó, trận chiến đầu tiên của họ không phải đối đầu với lực lượng quân đội tám nước của người Anh nữa (British Eighth Army, gồm có Úc, Ấn Độ, New Zealand, Nam Phi, Rhodesia, Pháp và Ba Lan), mà là Quân đoàn số 2 của Mỹ. Thống chế Rommel xua quân tấn công quân Mỹ trong trận chiến tại đèo Kasserine, và giáng một đòn nặng nề vào quân địch. Lại một lần nữa, ông lại được vui với chiến thắng lừng lẫy nhờ có sự quyết đoán của ông, tài năng và sự mạnh mẽ của ông đã khiến cho quân thù phải nếm mùi đại bại.
Một lần nữa, khi đối mặt với các lực lượng Khối Thịnh vượng chung của người Anh tại vành đai phòng thủ ở vùng biên giới của Pháp tại Mareth, Rommel đã không thể tránh được sự trễ nải trong các cuộc tấn công do không có nguồn tiếp tế. Kế hoạch Ultra chính là một mắt xích quan trọng dẫn đến sự thất bại đối với các lực lượng của ông. Rommel phải rời khỏi Bắc Phi và nhiều người lính từng chiến đấu dưới sự chỉ huy của ông trở thành tù binh chiến tranh.
Như một số mệnh được định sẵn với Đức Quốc xã, trong khi lực lượng của Rommel đã không thể chiến đấu một cách hiệu quả do luôn gặp phải tình trạng thiếu thốn về nguồn tiếp tế thì tại trận chiến Stalingrad ở mặt trận phía đông nước Nga, mặc dù được sự hỗ trợ tuyệt đối nhưng Đạo quân số 6 do Thống chế Friedrich Paulus chỉ huy đã bị tiêu diệt gần như hoàn toàn và thậm chí viên Thống chế này đã bị bắt làm tù binh.
Trong giai đoạn này, quân Anh đã cố gắng tổ chức một cuộc bắt sống Rommel ngay tại tổng hành dinh của ông, ở phía sau phòng tuyến quân Đức, nhưng ông không có mặt ở đó nên toán biệt kích không thành công, còn thiệt hại nặng. Khi biết được ông đã lấy làm vừa buồn cười vừa tức là họ nghĩ sẽ tìm thấy ông ở nơi cách phòng tuyến những 250 dặm, nhưng ông đã ra lệnh an táng trọng thể cho những người chết.
Pháp 1943–1944
Quay trở về Đức, Rommel có một khoảng thời gian vô công rỗi nghề. Tuy nhiên, khi quân đội phát xít Đức mất thể chủ động trên chiến trường, Hitler đã gửi Rommel đến bộ tham mưu của Tập đoàn quân B. Lúc này, Rommel đang rất bi quan, quan hệ với Hitler thì rất căng thẳng nên Hitler chủ yếu chỉ muốn dùng sự có mặt của ông để quân đội lên tinh thần. Ông đến nơi, rất ngạc nhiên nhận thấy tuyến phòng thủ dọc theo bờ biển Đại Tây Dương chỉ tồn tại trong tuyên truyền của Hitler, còn quân đội thì lơ là, chậm chạp. Trong khi đó Rundstedt và Blumentritt do không hiểu các vấn đề kỹ thuật nên đã giao lại công việc cho một viên tướng chuyên trách về kỹ thuật nhưng lại thiếu năng lực chỉ đạo bao quát. Chỉ giữ chức trách Thanh tra (thực chất là tham mưu), Rommel tự tập hợp các chỉ huy từ cấp trung đội trở lên, giải thích cho họ kế hoạch của bản thân, được ủng hộ nhiệt liệt, nhưng sự chống đối gần như công khai từ các kẻ thù chính trị của ông đang giữ các chức vụ cao cấp nhất xung quanh Hitler đã dẫn đến giằng co, gây chậm tiến độ hàng tháng trời. Cuối cùng Rundstedt can thiệp, ủng hộ cho Rommel được chuyển sang làm chỉ huy. Dưới sự trực tiếp chỉ đạo của ông, công việc diễn ra với tốc độ đáng kinh ngạc, hàng triệu bãi mìn, hàng ngàn ụ bê tông bảo vệ xe tăng và các chướng ngại vật đã được dựng lên trên các bãi biển và các vùng thôn quê. Tướng công binh Meise và nhiều chuyên gia kỹ thuật hiện đại nhận xét rằng Rommel không chỉ có năng lực quân sự mà còn là thiên tài kỹ thuật nữa.
Sau các trận chiến của mình tại châu Phi, ông đúc kết ra rằng không thể nào ngăn chặn được tốc độ tiến công dưới sự yểm trợ tối đa bằng đường không của quân Đồng Minh. Ông đã đưa ra quan điểm rằng các lực lượng xe tăng nên được tách ra thành các đơn vị nhỏ để củng cố vững chắc các điểm trọng yếu và nên được đặt gần chiến tuyến càng tốt bởi vì chúng không thể di chuyển được đi xa một khi cuộc tấn công nổ ra. Ông muốn cuộc tấn công của quân Đồng Minh phải được chặn đứng ngay từ các bãi biển bằng cách kết hợp hỏa lực của quân đội với hệ thống chướng ngại vật. Tuy nhiên, vị chỉ huy của ông, Thống chế Gerd von Rundstedt, lại cho rằng không có cách nào ngăn chặn được cuộc tấn công từ bờ biển vì hỏa lực quá mạnh của lực lượng Hải quân Hoàng gia Anh. Ông ta lại nghĩ các lực lượng xe tăng nên được tổ chức lại thành các đơn vị lớn đóng sâu vào vùng đất liền gần Paris, nơi cho phép lực lượng Đồng Minh tiến sâu vào và sau đó sẽ tiêu diệt họ. Rundstedt bản tính hòa hoãn, không muốn căng thẳng với Rommel, nhưng Leo Geyr von Schweppenburg (vốn là người của Guderian cài vào ngay từ đầu - vốn không phải để chống Rommel mà để cạnh tranh với các lực lượng SS - và được sự ủng hộ ngầm và về sau là công khai của ông này) đã ủng hộ ý tưởng của Rundstedt và cãi nhau với Rommel. Cuối cùng vụ việc đến tai Hitler. Khi phải lựa chọn một kế hoạch cụ thể để tiến hành, Hitler tỏ ra do dự và đưa ra một giải pháp mang tính lưng chừng, giao cho Rommel 3 sư đoàn tăng và Rundstedt 4 sư đoàn, tự giữ lại 4 sư đoàn khác. Kết quả này khiến cả kế hoạch của Rommel lẫn Rundstedt đều không thể thực hiện.
Trong ngày D-Day (ngày mở màn cuộc đổ bộ vào Normandie), nhiều đơn vị xe tăng, nhất là Sư đoàn Panzer SS số 12 khi đó đang ở rất gần bờ biển và có đủ khả năng để gây ra một sự thiệt hại nghiêm trọng cho quân Đồng Minh. Cái rủi cho quân phát xít Đức lại là cái may cho quân Đồng Minh, Hitler đã từ chối tung ra các đơn vị tăng này vì ông ta tin rằng cuộc đổ bộ lên bờ biển chỉ là đòn nghi binh của đối phương. Nhờ có sự thành công của chiến dịch tung tin giả mạo mang tên Fortitude, Hitler và bộ chỉ huy tối cao của Đức đã mong chờ một cuộc tấn công lớn của quân Đồng Minh vào Pas de Calais. Đối mặt với các cuộc tấn công quy mô nhỏ của quân Đức, lực lượng Đồng Minh nhanh chóng chiếm được các vị trí đổ bộ.
Âm mưu chống lại Hitler
Ngày 17 tháng 7 năm 1944, Thống chế Rommel đang di chuyển trên xe hơi thì bị một chiếc máy bay Spitfire của Không lực Hoàng gia Canada (RCAF) oanh kích, ông đã được đưa vào bệnh viện với các vết thương ở vùng đầu. Cùng khoảng thời gian này, sau sự thất bại của âm mưu đảo chính chống lại Hitler vào ngày 20 tháng 7, một cuộc đàn áp thẳng tay đã được thực hiện trong khắp hệ thống quân đội Đức. Khi các cuộc điều tra được tiến hành, nhiều mối liên kết đã chỉ ra sự dính líu chặt chẽ của Rommel đối với âm mưu này, và cả những phụ tá thân tín nhất của ông cũng có liên quan tới. Khi đó, cũng có nhiều nhân viên đảng Quốc xã ở địa phương đã báo cáo rằng Rommel đã có những lời lẽ khinh miệt dành cho giới lãnh đạo đảng Quốc xã trong thời gian ông nằm tại bệnh viện.
Sau chiến tranh, vợ của Rommel quả quyết rằng ông đã chống lại việc ám sát (nhưng cần nói thêm rằng, ngay sau chiến tranh, nhiều người Đức vẫn trung thành với Hitler và tham gia ám sát có thể bị coi là phản bội). Người ta đã cho rằng vì không muốn đem các thế hệ người tương lai của người Đức rơi vào sự thất bại của cuộc chiến bởi thuyết Dolchstoßlegende vẫn thường được một số người Đức tin tưởng sau Thế chiến thứ I, mà thay vào đó, Rommel ủng hộ cuộc một cuộc đảo chính và Hitler sẽ được đem ra xét xử trước công chúng. Một mặt khác, Rommel cảm thấy ngày càng không thể ngồi yên để Hitler quyết định các vấn đề chính trị và chiến lược sau một cuộc trao đồi năm 1943, khi Hitler tuyên bố thẳng thắn là nếu không thể thắng lợi thì sẽ cho dân tộc Đức diệt vong luôn cho xứng với tinh thần của một dân tộc vĩ đại (một điều Hitler sau này đã thực sự thực hiện và chỉ bị chặn lại do Albert Speer và một số người khác ngầm không nghe lệnh). Sau đó tuy Rommel cố gắng nói thẳng nhiều lần với hy vọng Hitler bỏ các suy nghĩ tai hại còn Hitler thì cố lấy lòng Rommel cốt để quan hệ trở lại tốt đẹp như cũ, song cả hai bên đều không thành công. Các tài liệu mật của tình báo Anh mới được giải mã gần đây cho thấy, dường như Rommel cuối cùng đã thay đối ý định và ủng hộ việc tiêu diệt Hitler. Trước khi Rommel tự tử khoảng một tháng, phía Đồng minh đã biết việc Rommel can dự vào âm mưu chống lại Hitler. Trong một cuộc nói chuyện riêng tư, Tướng Heinrich Eberbach (khi đó đã là tù binh của quân Đồng minh và không biết căn phòng đã bị Tình báo Anh cài đặt máy ghi âm) nói rằng thượng cấp của ông là Thống chế Rommel đã nói thẳng rằng: "Hitler và những đồng minh thân cận nhất của ông ta cần phải bị giết." Eberbach là một trong những sĩ quan cao cấp (những người khác bao gồm cả Geyr von Schweppenburg người mới là đối thủ của ông về vấn để Normandie, và các tướng lĩnh SS ở mặt trận phía Tây mà trước đó ông đã có va chạm do ông thường chỉ trích các tội ác của họ như Bittrich, Hausser, Sepp Dietrich - một sĩ quan đã từng rất thân cận với Hitler và một người Quốc xã nhiệt thành) đã hứa với Rommel rằng sẽ phục tùng mệnh lệnh của Thống chế và ủng hộ ông trong nỗ lực chấm dứt chiến tranh với các nước phương Tây. Cấp trên của Rommel là Thống chế Kluge cũng ủng hộ ông, dù không nhiệt tình (Thống chế Manstein cũng biết - trước đó hai người chưa từng quen biết nhưng Rommel vẫn đến xin ông giúp, và bị từ chối. Thống chế Rundstedt không đồng ý tham gia, tuy vậy ông giục Rommel "Cậu phải đứng ra làm đi. Cậu hẵng còn trẻ. Mọi người đèu biết cậu và yêu cậu."). Với sự đồng tình của Kluge, Rommel đã gửi một tối hậu thư cho Hitler ("Đây là cơ hội cuối cùng của ông ta, nếu ông ta không nghe thì chúng ta sẽ hành động!") yêu cầu đi đến "giải pháp chính trị" với các nước phương Tây thuộc phe Đồng minh. Thật không may, sau đó hai ngày Rommel bị thương nặng do một cuộc không kích của quân Đồng minh và không thể điều động các lực lượng ở mặt trận phía Tây cũng như hỗ trợ nhóm của Stauffenberg.
Hiện nay, việc Rommel đồng ý và tham gia vào vụ ám sát còn có những tranh cãi (tính riêng ở Đức, các nhà sử học đồng ý là ông đã ủng hộ cả vụ ám sát gồm có Cornelia Hecht, Maurice Remy, Peter Lieb, trong khi Reuth phản đối. Các nhà sử học Anh-Mỹ như Showalter, Fraser hay Butler thì có xu hướng lý luận rằng thật khó tin một con người trước đó chả quan tâm gì đến chính trị như Rommel lại tự nhiên đổi ý và dây dính vào một vụ ám sát), nhưng tuyệt đại đa số các nhà sử học xác nhận ông đã chủ trì kế hoạch hòa bình ở mặt trận phía Tây (ông hơi ngây thơ khi tin rằng phương Tây sẽ chấp nhận bắt tay với Đức để ngăn họa Cộng sản, và nhất là lại đi giục Hitler là người mà không một chính phủ nào còn tin tưởng được đi làm việc đàm phán đó - nhưng cũng có những nhà sử học như Pimlott cho rằng cũng có khả năng đàm phán thành công, nếu là chính ông đi đàm phán, Maurice Remy thì cho là ít ra cũng ngăn được hàng triệu người chết vô nghĩa, và đa phần sử gia công nhận vụ ông bị thương ngay trước cuộc ám sát là một vận rủi tệ hại ảnh hưởng đến kết quả kế hoạch và số phận nước Đức) Về cơ bản, với ý thức về khả năng nội chiến, và ý thức về nghĩa vụ của người sĩ quan lẫn tình cảm cá nhân với Hitler vẫn rất lớn, có lẽ ông đã không tham gia vào nhóm chuẩn bị và trực tiếp ám sát (những người vẫn sẽ tiến hành khi không có ông). Nhưng ông che chở cho họ, cố gắng tập hợp một lực lượng thống nhất và tìm kiếm một phương án chung có lợi cho nước Đức.. Quá trình tiến hành đã khiến ông đối mặt những "nguy hiểm chẳng kém gì với những người trực tiếp ám sát" (nhận định của Remy) trong vòng vây của bộ máy Quốc xã. Có lúc ông đã tính tới sơ tán vợ con sang Pháp nhưng nghĩ làm thế lại gây nghi ngờ nên thôi.
Rommel bị bức tử
Sau vụ ám sát hụt Hitler ngày 20 tháng 7 năm 1944, năm người chủ mưu bị xử tử ngay trong ngày, còn Mật vụ Đức truy ra sự can dự của Thống chế Günther von Kluge, Tổng Tư lệnh Mặt trận miền Tây, tức cấp trên trực tiếp của Rommel. Sau khi bị thay thế bởi Thống chế Otto Moritz Walter Model, Thống chế Kluge tự tử. Thượng tướng von Stülpnagel (Thống đốc quân sự tại Pháp), sau khi tự tử không thành, lúc nửa mê nửa tỉnh đã thốt ra tên của Rommel. Sau đấy, khi bị Mật vụ tra tấn dã man, Đại tá Caesar von Hofacker (thuộc tổng hành dinh của Ban Quân quản Pháp tại Paris) và nhiều nguười khác khai ra vai trò của Rommel trong âm mưu. Hofacker khai Rommel đã trấn an ông: "Hãy nói với những người ở Berlin rằng họ có thể trông cậy nơi tôi." Đấy là câu nói ám ảnh đầu óc của Hitler khiến cho Lãnh tụ quyết định vị thống chế được ông yêu thích phải chết, dù ông biết đấy là người được ngưỡng mộ nhất trên nước Đức - Thực ra, ban đầu, dù hết sức tức giận và "tổn thương" (từ của Der Spiegel), nhưng Hitler định đợi đến lúc Rommel hết cơn hôn mê thì sẽ cho ông về hưu trong im lặng, nhưng không ngờ ông tỉnh dậy quá nhanh còn bằng chứng thì càng lúc càng nhiều. Hơn nữa, lúc này, các kẻ thù của Rommel, vốn đã chờ cơ hội này từ lâu, đã liên kết với nhau: Himmler, Bormann, Keitel, Jodl... đã vây quanh Hitler và xúi giục, thúc ép ông ta ra tay với kẻ phản bội.
Trong khi xương sọ, trán và xương má còn đang mang những vết nứt nặng, mắt bên trái còn bị thương nặng và cả đầu còn mang mảnh bom, Rommel được dời ra khỏi bệnh viện dã chiến để tránh bị quân Đồng minh bắt, rồi được đưa về nhà riêng ở Herrlingen gần Ulm. Ông nhận được dấu hiệu cảnh báo đầu tiên cho số phận của mình khi biết người cựu tham mưu trưởng của ông, Tướng Hans Speidel, bị bắt ngày 7/9, một ngày sau khi đến thăm ông ở Ulm.
Khi họ nói chuyện với nhau về Hitler, Rommel đã than thở với Tướng Speidel:
Cái tên lừa dối bệnh hoạn ấy đã hoàn toàn điên khùng. Hắn đang trút cơn bạo hành lên những người âm mưu ngày 20/7, và đấy chưa phải là hết!
Bây giờ, Rommel nhận thấy nhân viên SS đang rình rập quanh nhà ông. Khi ông đi tản bộ trong khu rừng gần nhà cùng với cậu con trai 15 tuổi, được đơn vị phòng không nơi cậu phục vụ cho phép về săn sóc cha, cả hai đều mang súng lục. Cùng lúc, tại tổng hành dinh ở Rastenburg Hitler nhận được báo cáo về lời khai của Hofacker đề cập đến Rommel. Theo lời Tướng Wilhelm Keitel (Tham mưu trưởng Bộ Tổng tham mưu Quân lực) khai trước Tòa án Nürnberg, Lãnh tụ nhận ra
rằng đấy sẽ là một vụ xì-căng-đan kinh khủng nếu vị Thống chế có tiếng tăm này, người được yêu mến nhất, lại bị bắt và bị lôi ra trước Tòa án Nhân dân.
Thế là, vào buổi trưa ngày 14/10/1944, hai vị tướng là Burgdorf và Maisel từ tổng hành dinh của Hitler đi đến nhà của Rommel, bấy giờ bị binh sĩ SS bao vây cùng với 5 xe bọc thép. Họ đã báo trước cho Rommel hay rằng Hitler phái họ đến để thảo luận "công tác sắp tới" của Thống chế.
Sau này, Keitel khai trước Tòa án Nurnberg rằng ông ta đã viết một bức thư do Hitler đọc (gửi kèm lời khai của những người khác về sự tham gia của Rommel): Nếu Rommel vô tội, Hitler yêu cầu ông hãy đến gặp trực tiếp Hitler và giải thích , nếu ông không chọn như vậy thì tức là thú nhận đã phản bội và trong trường hợp đó, ông hãy tự cân nhắc các hậu quả. Hitler cử Burgdorf và Maisel đưa thư và mang thuốc độc đến.)
Sau khi Burgdorf và Maisel đến, mọi người thấy không phải để thảo luận công tác sắp tới của Rommel. Hai người yêu cầu được nói chuyện riêng với Thống chế, và ba người đi vào phòng đọc sách. Rommel đã không tận dụng cảm tình của Hitler để tìm đường sống (chọn lựa đến Berlin và giải thích). Ông thú nhận nhẹ nhàng, đến mức Maisel phải ngạc nhiên: "Ừ, tôi sẽ đối mặt với các hậu quả. Có lẽ tôi đã quên." Rồi ông đi lên đi xuống, trong khi hai người cứ chờ, cho đến khi ông dừng, và nói như xin lỗi, "Tôi từng yêu Lãnh tụ, đến bây giờ cũng vẫn yêu." "Sự đạo đức giả" này khiến Maisel, người một lòng trung thành với Hitler, cảm thấy "thật kinh tởm": làm sao một người đã nhận là mình muốn giết Hitler còn nói được câu đó? Nhưng Burgdorf và Maisel vẫn cư xử với vẻ tôn kính.
Sau khi chia tay với vợ con, mặc chiếc áo jacket cũ bằng da của Binh đoàn châu Phi và cầm cây gậy thống chế, Rommel bước vào chiếc xe cùng với hai người tướng. Xe chạy được khoảng 3 kilômét theo con đường ven một khu rừng, rồi Tướng Meisel và tài xế SS bước ra, để Rommel và Tướng Burgdorf ngồi lại phía sau. Một phút sau, hai người quay lại chiếc xe; Rommel đã chết. Mười lăm phút sau khi vĩnh biệt chồng, bà vợ của Rommel nhận được một cuộc gọi từ bệnh viện. Bác sĩ cho biết hai người tướng đã mang thi hài của Rommel đến, qua đời vì nghẽn mạnh máu não, hiển nhiên là do việc vỡ xương sọ lúc trước. Thật ra, Burgdorf đã cấm khám nghiệm tử thi. Ông bảo: "Không được đụng đến xác chết. Mọi việc đã được thu xếp ở Berlin." Tất cả những người nhìn thấy Rommel khi chết đều kinh ngạc vì cái nhếch mép nửa như cười nửa khinh bỉ trên gương mặt người chết, mà Lucie nghĩ rằng đó là dành cho Hitler. Họ chưa từng thấy ông có biểu cảm đó bao giờ.
Thống chế Model ra một nhật lệnh cho biết Rommel đã qua đời vì "những vết thương gây ra ngày 17/7" và tỏ ý thương tiếc sự mất mát "của một trong những vị tư lệnh vĩ đại nhất của đất nước."
Phần lớn các quan chức Quốc xã cao cấp, bao gồm cả Hitler, Himmler..., trừ Keitel và Jodl, gửi điện chia buồn.
Hitler ra lệnh tổ chức lễ quốc táng trong đó vị sĩ quan cao niên của Quân đội Đức, Thống chế Karl Rudolf Gerd von Rundstedt (cựu Tổng Tư lệnh Mặt trận miền Tây, cũng là cấp trên trực tiếp của Rommel, trước Kluge), đọc điếu văn khi đứng bên thi hài của Rommel phủ cờ chữ thập ngược: "Con tim của ông ấy thuộc về Lãnh tụ."
Công bằng mà nói, có lẽ Rundstedt không biết những tình tiết trong cái chết của Rommel, và hẳn chỉ biết được qua lời khai của Keitel tại Tòa án Nürnberg. Rundstedt khai: "Tôi không nghe được những lời đồn đại ấy, nếu không tôi đã từ chối đại diện cho Lãnh tụ ở lễ tang; đấy sẽ là điều ô nhục không lời nào diễn tả được." Tuy nhiên, tang quyến Rommel nhận thấy Rundstedt từ chối đến dự lễ hỏa thiêu sau lễ tang và đến chia buồn với quả phụ tại nhà của Rommel, trong khi phần lớn các tướng lĩnh khác đều đến.
Sau này, một bia tưởng niệm được dựng nơi chiếc xe dừng cho Rommel uống thuốc độc với dòng chữ:
Tại đây, Thống chế Erwin Rommel bị ép buộc phải tự tử vào ngày 14 tháng 10 năm 1944. Ông nhận một cốc thuốc độc và tự hy sinh, hầu cứu gia đình ông thoát khỏi tay sai của Hitler.
Gần đây, khi ở Đức lại dấy lên cuộc tranh luận về Rommel, tờ Der Spiegel có ra bài tổng hợp mang tên "Quỷ thuật", với lời bình luận về cuộc đời và cái chết của ông, đại ý: Câu chuyện về con người đầy mâu thuẫn này bắt đầu như trong các truyền thuyết kinh điển. Một người đàn ông đầy tham vọng bán linh hồn cho Quỷ... Chàng đã hoàn thiện nghệ thuật bắt mình không thấy những gì không nên thấy. Nước Đức có những nhà quân sự xuất sắc khác, nhưng không ai có ma lực nhân cách như anh chàng Swabia trán tròn. Chiến dịch châu Phi phải nói là một chiến dịch vớ vẩn về đại cục, nhưng kệ, hồi xưa Napoleon cũng thế, và hơn nữa, châu Phi là một nơi lãng mạn, với thiên nhiên hoang dã và những người Bedouin huyền bí. Với sự giúp đỡ của bộ máy tuyên truyền, huyền thoại về người hùng dũng mãnh, một nhà chiến lược thiên tài đã khơi gợi trí tưởng tượng của bao người. Hết chiến tranh, Rommel tiếp tục thực hiện bước nhảy chưa từng có tiền lệ trong lịch sử, ngôi sao của ông chói sáng hơn bao giờ: "ái tướng của Hitler" trở thành người hùng của nước Cộng hòa non trẻ, trong khi tất cả những hình tượng người cha khác bị lịch sử vạch mặt. Nếu kết tội theo kiểu liên đới thì ông có tội (vì đã làm bạn với Quỷ), nhưng không có tội đến mức không ai muốn đặt niềm tin... (Quay trở lại câu chuyện) Và rồi Rommel, kẻ gan dạ không ai sánh kịp, nhận ra không còn có lý do để tiếp tục cuộc chiến nữa. Nhưng những viên tướng khác, 90 phần trăm là quý tộc, không mấy ai dám nói thẳng tình hình mặt trận với Hitler... Huyền thoại về người anh hùng của truyền thuyết dân gian đã trở nên mạnh mẽ đến nỗi, kẻ đã biến châu Âu thành một lò sát sinh cũng không sao kiểm soát được nữa. Người ta nói, trước lúc đi về thế giới bên kia đầy vinh quang, người hùng đã khóc. Lời Rommel nói, rằng "Tôi vẫn yêu Quốc trường," có lẽ là nói thật. Bị phản bội và tổn thương sâu sắc, Hitler không còn tâm hồn đâu đi đám tang, nhưng gửi điện chia buồn thì muốn tránh cũng không được, "Tên tuổi của Thống chế sẽ mãi gắn với các trận đánh anh hùng ở châu Phi." Và ở đây, nhà độc tài nói đúng.
Sau chiến tranh, quyển nhật ký chiến tranh của ông được xuất bản mang tên The Rommel Papers. Rommel là thành viên duy nhất của Đế chế thứ ba (Third Reich) có được bảo tàng ghi lại cuộc đời và sự nghiệp của ông. Mộ của ông nằm ở Herrlingen, cách Ulm không xa.
Con người và ảnh hưởng chính trị
Dù hiện nay còn có tranh cãi, nhưng đa số (điều được công nhận cả bởi những nhà sử học xét lại như Proske) sử gia nhận định rằng Rommel không phạm tội ác nào, và tù binh hay nhân dân các nước đều được ông và quân lính của ông đối xử tử tế. Trong một cuộc họp Quốc hội, Churchill có nói: "Chúng ta có một đối thủ rất dũng cảm và tài giỏi, và tôi có thể nói (rõ hơn là) phía bên kia của cuộc chiến tàn phá này là, một vị tướng quân vĩ đại." Khi nghe tin về cái chết của Rommel, Churchill có nói: "Ông ta xứng đáng có được sự tôn trọng của chúng ta, bởi vì, mặc dầu là một người lính Đức trung thành, ông đã chán ghét Hitler và những việc làm của hắn, và đã tham gia vào âm mưu giải thoát nước Đức khỏi tay tên bạo chúa này. Vì điều đó mà ông ta đã phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Trong những cuộc chiến tranh cho nền dân chủ tân tiến, có rất ít chỗ cho tinh thần hiệp sĩ này.Các nhà sử học thậm chí còn không chắc rằng con người ngây thơ, đã nhiều lần chống lại, thậm chí đốt bỏ (là tội có thể xử bằng tử hình) các mệnh lệnh tội ác, giáo dục cả đối phương cư xử cho đúng luật lệ chiến tranh, can thiệp vào các cơ quan không dưới quyền mình (như lực lượng SS, Tổ chức Todt) để bênh vực dân thường và tù binh này có bao giờ thật sự nhận ra toàn bộ bộ mặt của chế độ mình đã phục vụ và giá trị của những việc mình đã làm cho nó hay không, hay là một lúc nào đó có biết nhưng đã cố gắng trốn tránh hiện thực. Nguyên nhân đến từ tính cách lạc quan hơi quá đáng, ít đọc sách báo gì ngoại trừ liên quan đến quân sự, lối sống khép kín, những hiểu lầm gây ra do ảo tưởng của ông về Hitler, thói quen luôn luôn có mặt nơi tiền tuyến (nhiều khi để các công việc hành chính lại cho người khác) và một thứ vận may (hoặc vận xui) kỳ lạ nó dẫn đến những trường hợp như: trước chiến tranh, ông tình cờ thoát khỏi việc bị điều động đi huấn luyện hoặc hợp tác với các đơn vị Freikorps nổi tiếng tàn nhẫn (vốn không ngại ngần bắn thằng vào nhân dân Đức); khi chiến tranh diễn ra, ông lại không có mặt ở mặt trận phía Đông nơi các tội ác chú yếu xảy ra; khi ở Ba Lan, ông có đi thăm người chú vợ là nhà lãnh đạo nổi tiếng Edmund Roszczynialski, được mấy hôm thì ông này bị giết trong một đợt thảm sát do Quốc xã tổ chức - Rommel, không biết gì về các việc xảy ra chung quanh, tiếp tục (làm theo lời vợ giục) liên tiếp gửi các bức thư cho các cấp dưới của Himmler nhờ hỏi tin tức và chiếu cố đến người họ hàng của mình (sau cả năm trời viện cớ khó khăn về thủ tục hành chính, các viên chức này thông báo cho ông là có vẻ như ông chú vợ của ông đã tử vong do thời tiết khắc nghiệt hoặc một tai nạn của chiến tranh); khi ở châu Phi, một nhóm SS do Walther Rauff được cử đến để cướp vàng bạc và thanh trừng người Do Thái nhưng Rommel thì đang ở cách đó 500km chỉ huy trận El Alamein, và nhóm này lặng lẽ về Đức khi tình hình xấu đi; các mệnh lệnh tội ác từ trên gửi xuống thì qua OKW (là những người Rommel vốn không có thiện cảm và cho là đã che mắt một lãnh đạo "đầy lý tưởng" như Hitler) và dùng ngôn ngữ mập mờ; năm 1943, ông lên hỏi Hitler là có lẽ nên thăng một người Do Thái lên làm Gauleiter để thế giới biết là các tin đồn mà Đồng minh tuyên truyền là sai; ở Italy, vào thời điểm một nhóm SS gây ra thảm sát (ở khu vực do Rommel cai quản vốn không có đổ máu lớn) thì Rommel đang ốm liệt nằm trong bệnh viện - Tuy nhiên sau ông biết được việc này do đào lên được xác người Do Thái trong cái hồ nước gần đó, và các phản ứng trơ trẽn lạnh lùng của các sĩ quan SS khi ông phàn nàn về tội ác của họ đã khiến ông kinh hoàng. Sau đó bạn ông là tướng Johannes Blaskowitz (một người có lương tâm và lòng dũng cảm, và cũng kết thúc bi kịch) ở phía Đông về đã nói cho ông biết rằng các "tin đồn" đáng sợ về mặt trận phía Đông là có thật. Theo như Desmond Young, ông lên gặp thẳng Hitler báo cáo các sự việc mình mới biết và yêu cầu xử lý ngay, tất nhiên là Hitler tỉnh bơ giải thích cho ông rằng các đề nghị của ông khó mà thực hiện được. Còn nhật ký của Đô đốc Ruge ghi lại rằng sau khi biết được cả tình hình đạo đức lẫn quân sự của đất nước, ông đã trầm cảm nặng, và có lúc ông tâm sự rằng "Công lý là nền tảng không thể nào thay thế được của quốc gia. Vậy mà mấy người trên đó lại không biết giữ mình sạch sẽ." Tuy vậy ông còn tình cảm với Hitler và đã không ngăn được niềm vui chỉ vì y đến thăm, nhưng khi ông ta về thì Rommel quay lại trạng thái trầm cảm như cũ khi nhớ lại hiện thực (dù khi bắt tay vào công việc ông vẫn tràn đầy năng lượng như thường). Tất nhiên Rommel có biết là quan điểm của chính quyền lúc ấy có yếu tố phân biệt chủng tộc, nhưng điều này lúc ấy phổ biến khắp thế giới phương Tây nên chỉ có vậy thì không đủ để ông tin là quốc gia của mình bất thường. Nhìn chung, các nhà sử học nhận định là không có bằng chứng nào cho thấy ông có biết các tội ác chủ yếu của chế độ cho đến trước thời điểm cuối 1943/đầu 1944, là thời điểm ông gia nhập phe chống chính quyền (có lẽ với nhiều lý do), còn nếu là sự việc đập vào mắt trực tiếp thì ông đã ngăn chặn, phản đối, và vì giá trị to lớn của ông với chế độ, Hitler và Đảng Quốc xã đánh chấp nhận.
Bản thân Rommel bất bình với các vấn đề xã hội trong trong nước, đặc biệt là chia rẽ vùng miền và giai cấp, nhưng ông không thích con đường chính trị, hay nghề nghiệp bàn giấy nhàm chán khác và không muốn thỏa hiệp với lý tưởng của mình (sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất, dù rất khát vọng thăng tiến, nhưng ông lại cho là chấp nhận thăng tiến là góp phần ủng hộ "hệ thống bất công", nên đã từ chối cơ hội gia nhập hàng ngũ ưu tú và lên tướng). Mặc dù cổ vũ công bằng xã hội, ông lại nhiệt liệt ủng hộ đạo đức và các tinh hoa truyền thống của giai tầng hiệp sĩ -quý tộc xưa cũ. Là "hiện thân và linh hồn của chiến tranh", "ở ngoài mặt trận như thể trong mùa ái tình" vào thời chiến, nhưng thông thường ông thích giải quyết mọi chuyện bằng biện pháp ngoại giao (một điều thể hiện rõ ở Rommel trong nội loạn sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất - ông lấy lại Thành phố Lindau và bảo vệ khu Thị chính Schwäbisch Gmünd từ làn sóng Cách mạng Cộng sản bằng đàm phán hòa bình, trong khi khắp nước Đức các đội quân chính quy và không chính quy đã đàn áp các cuộc nổi dậy trong bể máu và hỗn loạn. Hitler cũng tham gia các hoạt động dẹp loạn thời kỳ này), với mong muốn tận hưởng hòa bình bên người vợ yêu dấu. Với con người như vậy, nhiều nhà sử học cho rằng, nếu không có cuộc gặp định mệnh với Hitler thì thế giới không thể nào biết đến ông. Ông nhìn thấy ở Hitler, kẻ xuất thân bình dân như mình, hiện thân cho ý chí của nhân dân Đức, và ông sẽ cống hiến, được ghi nhận và tưởng thưởng bởi ý chí đó. Đó cũng là định mệnh với Hitler, người nhìn thấy ở Rommel một chiến binh huyền thoại đúng với lý tưởng của ông ta về người hùng của nhân dân, đồng thời là một công cụ chính trị hoàn hảo để giữ vững tinh thần chiến đấu cho quân dân (không chỉ quân lính mà cả tướng tá nữa) trong những thời khắc gay go nhất, để đổ gánh nặng hận thù từ các quan chức cấp cao sang đôi vai của ông. Y cũng không thể chọn ai khác, vì không ai khác có sức hấp dẫn cá nhân và cá tính mạnh mẽ của Rommel để làm điều đó (một điều thể hiện vào giai đoạn Rommel không còn niềm tin vào chiến thắng và cả Hitler lẫn bộ máy - Hitler và Goebbels đã nghĩ đến Manstein như một giải pháp thay thế để khôi phục khí thế lẫn "định hướng chính trị" cho các sĩ quan, nhưng không thành công). (Sau cuộc ám sát, hoảng hốt về hậu quả khi để cho một người từ đầu đã có tư tưởng dở dở ương ương, thậm chí cấm báo chí Quốc xã tuyên truyền ông là Đảng viên Quốc xã đóng vai trò hiệu triệu, Hitler và Goebbels đã ép Rundstedt và nhất là Guderian giúp phát-xít hóa quân đội) Mối quan hệ này được sử gia Maurice Remy gọi là "cuộc hôn nhân trong mơ", dù về sau, như nhà văn Ernst Juenger nhận xét, nó trở thành "tình yêu pha lẫn hận thù." Ngay từ năm 1941, Joseph Goebbels đã đưa cái tên "Rommel" trở thành biểu hiện của sự bất khả chiến bại của dân tộc Đức.
Hệ thống chiến tranh và mô hình lãnh đạo do Rommel lập ra phục vụ hoàn toàn cho các lý tưởng đó, với sự nhấn mạnh vào sự bình đẳng về hưởng thụ và hy sinh giữa tướng và lính, lãnh đạo bằng tấm gương, sự hào hiệp với kẻ yếu và người nước ngoài, sự đào tạo toàn diện và trọng dụng dành cho các sĩ quan trẻ, giảm thiểu quyền lực của tầng lớp chiến lược gia bàn giấy vốn toàn quý tộc. Có điều sự thiết kế này dựa trên những tính toán rõ ràng của một con người lạnh lùng, hãnh tiến, cao vọng như Hitler, nhưng có tầm nhìn, không phạm tội ác, tỉnh táo hơn cả Hitler vào lúc sống còn, như một số nhà chính trị học đề xuất, hay là cảm hứng nhất thời của một sĩ quan liều mạng nhưng nhân ái, thông minh nhưng ngây thơ, khắc kỷ mà lãng mạn, như nhiều sử gia miêu tả, thì đến nay vẫn còn tranh cãi. Có sử gia như Bruce Watson nhận định "Anh hùng, ác nhân, kẻ thao túng, một tướng quân chân thành... thế nào cũng đúng cả. Trừ có "thằng hèn" thì không phải thôi." Peter Lieb cho rằng "Ông ấy là con người huyền thoại … Còn nếu nói có nên coi ông ấy làm hình mẫu phấn đấu, thì bạn phải tự quyết lấy cho mình thôi." Nhiều sử gia khác đồng ý rằng dù ông là một trong những vĩ nhân tự ghi chép các hoạt động của mình cẩn thận nhất, nhưng đến nay ông thật sự là người thế nào thì rất khó lý giải (bởi vì các ghi chép đó, tuy văn phong mạch lạc, cụ thể ngày tháng lại kèm theo nhiều minh họa tự vẽ tự chụp, nhưng ngoại trừ hỏi thăm vợ con, còn thì có lần hiếm hoi mà ông bình luận sự kiện không dính líu quân sự, là nhận xét một buổi đi nhà hát mà người ép ông tham gia là "quá chán"). Một số hãng truyền thông như FOCUS thì đưa ra ý kiến rằng, có thể ông không phải người Quốc xã, nhưng ngây thơ lại liều mạng như vậy mà đến giờ còn được đem ra làm mẫu hình phấn đấu thì thật là tai hại. Cần nói là con người Rommel có khía cạnh tàn nhẫn: dù chống lại tận cùng mọi sự hy sinh vô nghĩa, nhưng nếu cảm thấy hy sinh binh sĩ hay kể cả cấp dưới thân cận là cần thiết thì ông không bao giờ tiếc, vả lại dù sao người cũ chết thì dọn chỗ trống cho các sĩ quan trẻ thuộc tầng lớp thấp đi lên, cũng vốn chính là ý đồ của ông. Các Tham mưu trưởng của ông, như Mellenthin có miêu tả "(Với ông ấy) Chết thì thay", hay theo Gause "Ông ấy khắc nghiệt, thiếu sự gần gũi cá nhân, chỉ xét đoán con người theo tài năng và đức tính. Ông ấy chả lấy lòng ai, cấp trên hay cấp dưới. Ngay cả với binh lính mà ông ấy rất chăm lo, ông ấy cũng chẳng thèm cố gắng để được họ yêu quý. Nhưng ông ấy có một thứ hào quang không miêu tả được." Nhiều sĩ quan tham mưu cho là bị phái đến làm việc với ông là hình phạt. Nhìn chung các binh lính và sĩ quan kính trọng tin tưởng, sợ hãi ông, có thể là tôn sùng, nhưng yêu quý thì không hẳn, mặc dù họ có cảm thấy, đằng sao lớp áo giáp lạnh lùng, sự khắc nghiệt thái quá, thái độ bất công không nhận thấy lỗi của mình mà chỉ thấy lỗi của người khác (nhưng cũng chóng nguội, dễ thông cảm, không tiếc lời khen với đối thủ hay đồng nghiệp như Guderian hay Manstein, và nhiệt tình giúp cấp dưới phát triển sự nghiệp) ở đâu đó có trái tim dịu dàng của một "chevalier sans peur et sans reproche" (kỵ sĩ vô khuyết). Điều đáng nói là không như với Walther Model là người có nhiều quan điểm về lãnh đạo gần gũi với ông (và là người có khi bị nguyên cả ban tham mưu bỏ rơi, còn sau chiến tranh thì bị kỳ thị và đổ tội hết lời, dù cũng rất dũng cảm và quan tâm cấp dưới), không chỉ binh lính mà cả các sĩ quan hay phàn nàn về ông nói trên đã hết lòng trung thành phục vụ ông, sẵn sàng lao vào chỗ chết nếu ông muốn, chăm sóc ông như chăm trẻ con (vì theo họ thì ông tự hành xác quá mức, không tự lo được cho bản thân). Thậm chí với những người Ý mà sự mâu thuẫn và các lời chế nhạo ông dành cho họ đã thành giai thoại, chính Jodl kẻ thù của ông, vào năm 1943, cũng phải nhìn nhận rằng "Người duy nhất có thể khiến cho nhiều sĩ quan và binh lính bên đó tự nguyện phục tùng thì chỉ có Rommel thôi." (Nhưng vì sự phản đối của phe chống Rọmmel nên cuối cùng Hitler giao cho Kesselring quyền chỉ huy chung ở Ý) Goebbels và ngành tuyên truyền nhận thấy khuyết điểm thiếu tình cảm này nên đã cố gắng tạo ra hình ảnh thân thiện hơn. Nhưng Rommel vẫn giữ thái độ như vậy, và trong quan hệ với giới thượng lưu lại vụng về: khi người ta tổ chức một bữa tiệc lớn để ông làm quen với giới này thì ông biến mất - hóa ra ông có đến, nhưng thấy đám đông thì ngượng nên ngồi trên gác cả buổi tối lắp tàu điện đồ chơi với con chủ nhà; hoặc bình thường thì thì quá khó gần, nhưng hứng lên thì ngồi kể chuyện Caporetto hoặc châu Phi cả buổi mà không cần biết đối phương muốn nghe hay không (Hitler cũng là "nạn nhân")
Nhiều người tham gia vào các âm mưu chống lại Hitler năm đó nhận thấy sự ngây thơ chính trị và lối suy nghĩ nghiêng về lý tướng hóa của Rommel, nhưng không đánh giá thấp ông về điều đó. Stauffenberg gọi ông là một "nhà lãnh đạo vĩ đại". Nhà văn, triết gia Đức Ernst Jünger (khi đó là một Đại úy dưới quyền Thượng tướng von Stülpnagel và cũng là người đã soạn thảo thông điệp hòa bình mà những người tham gia vụ Stauffenberg dự định phát hành sau khi hoàn thành kế hoạch) sau này nhận xét rằng: "Cú đòn xảy đến cho Rommel trên đường Livarot đã tước đoạt khỏi kế hoạch của chúng tôi con người duy nhất có khả năng chịu đựng sức nặng của cả cuộc chiến lẫn một cuộc nội chiến - con người duy nhất mà ngay sự ngây thơ của ông ta đủ để đương đầu với tính chất giản đơn kinh khủng của những kẻ cầm quyền."
Khi chiến tranh qua đi, tác dụng của ông vẫn to lớn cả bề nổi lẫn bề chìm. Các bên sử dụng hình ảnh của ông làm biểu tượng hòa giải ngoại giao, lấy cớ thành lập Bundeswehr và phát triển NATO. Vai trò của ông trong vụ ám sát Hitler cũng khiến ông trở thành biểu hiện cho một nước Đức tốt đẹp: ông là người lính chiến đấu vì vinh quang của dân tộc, theo cách đàng hoàng, chứ ông không phải là người Quốc xã - nhà sử học Thomas Vogel lý luận rằng không có khía cạnh phân biệt chủng tộc thì không thể coi một người là theo chủ nghĩa Quốc xã được. Nước Đức chỉ còn ông là biểu tượng đoàn kết cuối cùng, khi mọi kẻ khác đã bị vạch mặt và sụp đổ. Trong khi đó, theo một số nhà nghiên cứu gần đây mới khám phá ra, nội bộ tầng lớp cầm quyền lúc đó ở châu Âu, đặc biệt Anh và Đức, diễn ra sự chuyển giao giữa "tân chế" (New Regime) và "cựu chế" (Old Regime), dẫn đến xung đột giữa các phe quý tộc hoài cổ, tiểu tư sản trung thành với phát xít, tầng lớp lao động... Họ tận dụng khía cạnh gần gũi nhất của ông với mình để hòa giải (ví như những năm 60, hai phe quý tộc và tiểu tư sản trong Bundeswehr - lúc này mới thành lập - đã xung đột, cuối cùng hòa giải đạt được do cả hai phe đều hâm mộ Rommel) hoặc tuyên truyền cho lý tưởng cục bộ, vì ông là con người có thể lý giải thành anh hùng của tất cả các phe (trừ một nhóm duy nhất, mà với họ ông chưa bao giờ là một thành viên, và họ cảm thấy bị vinh quang của ông che mờ: Keitel, Jodl, Halder và các sĩ quan tham mưu cao cấp khác của Wehrmacht. Họ đã tích cực tô vẽ hình ảnh một Rommel thiếu tầm nhìn bao quát). Nhà lịch sử văn hóa Sandra Mass cho rằng, huyền thoại (Mythos, lưu ý là từ này được các nhà nghiên cứu Đức dùng để chỉ ánh hào quang, các hiện tượng và câu chuyện xoay quanh một nhân vật, mà không có hàm ý ám chỉ Mythos đó sai hay đúng với con người lịch sử) về Rommel là một sự tổng hợp nhiều huyền thoại, nhiều lý tưởng anh hùng cũ và mới như lý tưởng anh hùng vô sản vốn được đại diện bởi Carl Peters và lý tưởng anh hùng tư sản đại diện bởi Paul von Lettow-Vorbeck, kết nối mô hình chiến tranh kiểu kỵ sĩ cổ xưa với chiến tranh kiểu mới thời kỳ công nghiệp hóa... Trong khi đó, các nước thực dân mới và cũ, đặc biệt là Mỹ, cần một mô hình về cả kỹ năng quân sự lẫn đạo đức để xây dựng người lính kiểu mới, vừa ái quốc, có hiệu quả quân sự, vừa có năng lực ngoại giao và ảnh hưởng quốc tế... nên đã chọn Rommel, một thiên tài quân sự phi chính trị nhưng lại cũng có thể coi là một Chính khách-Người lính (Statesman-Soldier). Đến nay đây vẫn là quan điểm chính thức của Bundeswehr và NATO , dù một số sĩ quan như tướng Đức Klaus Naummann và tướng Mỹ Zabecki nghi ngờ không chỉ năng lực chiến lược mà cả hành vi "vô kỷ luật", "kiêu căng phù phiếm" của Rommel. Nguyên Phó Tổng tham mưu trưởng Bundeswehr Storbeck nhận xét rằng "Mô hình Rommel về cả phong cách lãnh đạo và tư duy tiến công tuy có khía cạnh mạo hiểm … nhưng thực tế thì ngày nay, cả chúng ta, các đồng minh NATO, các nước Khối Warszawa, thậm chí bên Israel, ai cũng đang sử dụng cả." Storbeck cũng chỉ trích một số phim tài liệu hiện đại là sử dụng những nhân chứng có ý kiến tiêu cực về Rommel quá nhiều (trong khi nhiều nhân chứng khác, những người có ý kiến ngược lại, không được hỏi đến), đưa ra những thông tin không có cơ sở và tự đặt những tiêu đề sai lệch như "Cuộc chiến tranh của Rommel"("Rommels Krieg").
Các danh tướng hiện đại như Schwarzkopf (và Gaddafi ở bên kia chiến tuyến, người tự nhận là kẻ thừa kế tinh thần của Rommel), Moshe Dayan và nhiều người khác đã coi Rommel làm mô hình của họ không chỉ về chuyên môn mà cả với tư cách một lãnh đạo, một biểu tượng nữa.
Có phương tiện truyền thông trách cứ ông vì chiếm dụng một căn biệt thự mà chính quyền cướp đoạt của người Do Thái. Thực ra, trong những tháng gần cuối đời, quả là sau khi nhà của Rommel bị bom đạn làm sập, Thị trưởng Stuttgart có liên hệ với chính quyền ở Ulm bố trí cho ông một căn biệt thự ở chỗ hẻo lánh làm chỗ ở, và quả 2 năm trước đó nó là của người Do Thái, nhưng gia đình Rommel chưa bao giờ nhận quyền sở hữu nó cả. Trong khi những viên tướng khác nhận được các món "quà" bất động sản (mỗi cơ ngơi hàng vài trăm héc ta) từ Hitler thì Rommel hoặc là không được gợi ý hoặc đã từ chối, cho dù hai người thân thiết như vậy. Đáng nói là trong đời thường, Rommel tính tằn tiện và khắc khổ quá mức, lại tháo vát (theo lời vợ ông thì nhà đỡ được tất cả các loại thợ do chồng có thể chế tạo hay sửa chữa được mọi thứ trong nhà) và quản lý tiền bạc khéo léo theo kiểu người Swabia (thậm chí còn tự lên kế hoạch tránh thuế hợp pháp rất tài tình khi thấy cuốn Infanterie greift an bán được đến không ngờ) nên không hề nghèo (dù ông hào phòng với vợ và cấp dưới) - lúc nghĩ mình sắp tử trận, trong thư tuyệt mệnh, ông vẫn hướng dẫn vợ làm sao đổi món tiền lương trả bằng lire mà ông mới dành dụm được.
Danh tiếng quân sự của Rommel
Thống chế Erwin Rommel là một bậc thầy trận mạc. Ngay cả khi biết liên quân Anh - Mỹ có quân số đông hơn Đức, ông vẫn tự tin sẵn sàng chiến đấu bằng tài chiến thuật siêu việt. Theo thời gian, tên tuổi của ông vẫn lôi cuốn hậu thế. Tướng lĩnh kiêm nhà sử học Anh David Fraser viết năm 1993 rằng, ông là một vị danh tướng lỗi lạc sánh vai với Napoléon Bonaparte và Robert Lee, dù có một sự thật là ông cũng như hai người này đều thua trận đánh cuối cùng trong sự nghiệp quân sự của mình.
Thiên tài quân sự của ông có ảnh hưởng lớn lao đến mức mà cả Thống chế Anh Bernard Montgomery và Đại tướng Hoa Kỳ George S. Patton đều coi cuộc chiến là một cuộc đọ sức cá nhân với vị Thống chế Đức lỗi lạc. Như Patton có nói: "Hai đoàn quân có thể xem. Tôi sẽ bắn Rommel. Ông ta sẽ bắn tôi. Nếu tôi giết được ông ta, tôi sẽ là vị cứu tinh, nước Mỹ sẽ chiến thắng cuộc chiến tranh". Montgomery và Patton cũng hết mực thán phục ông, đáp lại, Rommel cũng có lời bàn: "Montgomery chưa bao giờ làm nên một sai lầm chiến lược... [và] trong quân đội của Patton chúng ta nhận thấy thành tựu nổi bật nhất về chiến tranh cơ động". Các Sĩ quan và binh lính Anh trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai cũng ngưỡng mộ "Cáo Sa mạc" đến mức mà họ thường nói "làm nên một Rommel" để chỉ sự làm việc một cách ngay thẳng và mạnh mẽ.
Theodor Werner, từng là một sĩ quan phục vụ dưới quyền Rommel trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, đã nói: Bất kỳ ai bị rơi vào sức thu hút mạnh mẽ của ông đều trở thành một người lính thực sự. Ông ta dường như biết được kẻ thù của mình ra sao và họ sẽ đánh trả lại như thế nào.. Rommel học rộng binh thư, và ông rất ngưỡng mộ vị Hoàng đế Pháp trứ danh Napoléon Bonaparte. Ngay từ khi là một Sĩ quan trẻ tuổi, ông đã mua một bản in cảnh Napoléon trên thuyền đến nơi an trí tại Helena. Ông thật sự thán phục tài nghệ lãnh đạo của Napoléon, và đặc biệt là câu nói nổi tiếng của vị Hoàng đế rằng các tướng lĩnh không thể chỉ huy Đại quân (Grand Armée) của ông từ cung điện Tuileries, trong khi đó ông không có mấy thiện cảm với Carl von Clausewitz, cho rằng ông này quá lý thuyết: Khi học viên của ông trích dẫn Clausewitz, Rommel sẽ bực mình trả lời "Mặc kệ Clausewitz nghĩ gì, hãy cho tôi biết, ANH nghĩ gì?"
Trong tiểu thuyết và phim ảnh
James Mason đã đóng vai của Rommel trong cuốn phim The Desert Fox năm 1951, và diễn viên Karl Michael Vogler cũng thủ vai của ông trong bộ phim Patton, do George C. Scott đóng vai chính. Năm 1988, Hardy Kruger đóng vai Rommel trong loạt phim nhiều tập War and Remembrance.
Trong cuốn truyện lịch sử giả tưởng The Man in the High Castle, tác giả Philip K. Dick có đề cập đến chi tiết Rommel được chính quyền Mỹ chỉ định làm chủ tích của đảng Quốc xã trong những năm đầu thập niên 1960.
Trong cuốn tiểu thuyết lịch sử Fox on the Rhin của hai tác giả Douglas Niles và Michael Dobson, Hitler bị giết trong âm mưu cho nổ bom vào ngày 20 tháng 7 năm 1944. Điều này dẫn tới việc Rommel tiếp tục sống và nhanh chóng mở ra một cuộc tấn công. Cuộc tấn công này bị đẩy lùi và cuốn sách kết thúc với việc Rommel đầu hàng người Anh và người Mỹ, vì ông tin rằng người dân Đức sẽ được sống tốt đẹp hơn dưới quyền lực của người phương Tây chứ không phải dưới tay chính quyền Xô Viết. Cuốn Fox on the Front là cuốn tiếp theo của Fox on the Rhine.
Tham khảo
Bị chú
Chú thích
Đọc thêm The Battle of Alamein: Turning Point, World War II, bởi Bierman and Smith (2002). ISBN 0-670-03040-6Rommel's Greatest Victory, bởi Samuel W. Mitcham, Samuel Mitcham. ISBN 0-89141-730-3Meeting the Fox: The Allied Invasion of Africa, from Operation Torch to Kasserine Pass to Victory in Tunisia, bởi Orr Kelly. ISBN 0-471-41429-8INSIDE THE AFRIKA KORPS: The Crusader Battles, 1941–1942. ISBN 1-85367-322-6Alamein, bởi Jon Latimer. ISBN 0-674-01016-7Tank Combat in North Africa: The Opening Rounds: Operations Sonnenblume, Brevity, Skorpion and Battleaxe tháng 2 năm 1941–tháng 6 năm 1941 (Schiffer Military History), bởi Thomas L. Jentz. ISBN 0-7643-0226-4Rommel's North Africa Campaign: tháng 9 năm 1940 – tháng 11 năm 1942, bởi Jack Greene. ISBN 1-58097-018-4Tobruk 1941: Rommel's Opening Move (Campaign, 80) bởi Jon Latimer. ISBN 1-84176-092-721st Panzer Division: Rommel's Africa Korps Spearhead (Spearhead Series), bởi Chris Ellis. ISBN 0-7110-2853-2Afrikakorps, 1941–1943: The Libya Egypt Campaign, bởi Francois De Lannoy. ISBN 2-84048-152-9With Rommel's Army in Libya bởi Almasy, Gabriel Francis Horchler, Janos Kubassek. ISBN 0-7596-1608-6
Knight's cross: a life of Field Marshal Erwin Rommel bởi David Fraser. HarperPerennial, 1994. ISBN 0-06-092597-3.
Rommel: the end of a legend bởi Ralf Georg Reuth. Haus Publishing, 2006. ISBN 1-904950-20-5.
Patton and Rommel: Men of War in the Twentieth Century bởi Dennis E. Showalter. Berkley Pub. Group, 2006. ISBN 0-425-20663-7.
Patton, Montgomery, Rommel: Masters of War bởi Tery Brighton. Crown Publishing Group, 2010. ISBN 0-307-46155-6.Generalfeldmarschall Rommel: opperbevelhebber van Heeresgruppe B bij de voorbereiding van de verdediging van West-Europa, 5 tháng 11 năm 1943 tot 6 juni 1944'' bởi Hans Sakkers (1993). ISBN 90-800900-2-6 [sách hình ảnh bằng tiếng Hà Lan nói về Rommel tại bức tường Đại Tây Dương 1943/44]
{{chú thích web | last=Fischer| first=Thomas | website=SWR | url = http://www.swr.de/rommel/rommel-und-hitler/hitlers-lieblingsgeneral/-/id=10224964/did=10210228/nid=10224964/tmdsxi/index.html| title = Rommel und Hitler | authorlink = | date = 2014 | access-date = ngày 30 tháng 5 năm 2016 | ref =
Thư mục
Addington, Larry H. (1967). “Operation Sunflower: Rommel Versus the General Staff”. Military Affairs 31 (3): 120–130. JSTOR 1984650. doi:10.2307/1984650.
Atkinson, Rick (2013). The Guns at Last Light (ấn bản 1). New York: Henry Holt and Company. ISBN 978-0-8050-6290-8.
Barr, Niall (2014). "Rommel in the Desert, 1941". Trong I.F.W. Beckett. Rommel Reconsidered. Mechanicsburg, PA: Stackpole Books. ISBN 978-0-8117-1462-4.
Beckett, Ian F.W. biên tập (2014). Rommel Reconsidered. Stackpole Books. ISBN 978-0-8117-1462-4.
Ball, Simon (17 tháng 8 năm 2016). Alamein: Great Battles. Oxford University Press. ISBN 978-0-19-150462-4.
Beevor, Antony (2009). D-Day: The Battle for Normandy. New York: Viking. ISBN 978-0-670-02119-2.
Benishay, Guitel (4 tháng 5 năm 2016). “Le journal de bord du chef SS en Tunisie découvert”. Création Bereshit Agency. LPH info - Création Bereshit Agency. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2017.
Blumentritt, Günther (1952). Von Rundstedt: The Soldier and the Man. Odhams Press.Standing by Rommel, it could be observed with what animation Hitler and he conversed together. Đã bỏ qua tham số không rõ |url-access= (trợ giúp)
Brighton, Terry (2008). Patton, Montgomery, Rommel: Masters of War. New York: Crown. ISBN 978-0-307-46154-4.
Bradford, Ernie (2011). Siege Malta 1940–1943. Pen and Sword. tr. 66, 183. ISBN 978-1-84884-584-8.
Butler, Daniel Allen (2015). Field Marshal: The Life and Death of Erwin Rommel. Havertown, PA / Oxford: Casemate. ISBN 978-1-61200-297-2.
Butler, Rupert (3 tháng 3 năm 2016). SS Hitlerjugend: The History of the Twelfth SS Division, 1943–45. Amber Books Ltd. ISBN 978-1-78274-294-4.
Caddick-Adams, Peter (2012). Monty and Rommel: Parallel Lives. New York, NY: The Overlook Press. ISBN 978-1-59020-725-3.
Carver, Michael (1962). El Alamein. Ware, Hertfordshire: Wordsworth Editions. ISBN 978-1-84022-220-3.
Carver, Michael (2005). The Warlords. Pen and Sword. ISBN 9781473819740.
Churchill, Winston (1949). Their Finest Hour. The Second World War II. Boston; Toronto: Houghton Mifflin. OCLC 396145.
—— (1950). The Grand Alliance. The Second World War III. Boston; Toronto: Houghton Mifflin. OCLC 396147.
Citino, Robert (2012). “Rommel's Afrika Korps”. HistoryNet. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2016.
Coggins, Jack (1980). The Campaign for North Africa. New York: Doubleday & Company. ISBN 0-385-04351-1. Đã bỏ qua tham số không rõ |url-access= (trợ giúp)
Cohen, Nir (17 tháng 4 năm 2015). “Inside the diary of SS officer known as gas chamber 'mastermind'”. Yedioth Internet. Ynetnews. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2017.
Connelly, Mark (2014). "Rommel as icon". Trong F.W. Beckett. Rommel Reconsidered. Mechanicsburg, PA: Stackpole Books. ISBN 978-0-8117-1462-4.
Douglas-Home, Charles (1973). Rommel. The Great Commanders. New York: Saturday Review Press. ISBN 0-8415-0255-2.
Evans, Richard J. (2009). The Third Reich at War. New York: Penguin. ISBN 978-0-14-101548-4.
Faltin, Thomas (2014). “Haus der Geschichte in Stuttgart - Erwin Rommel kannte wohl Pläne für Hitler-Attentat”. Stuttgarter Zeitung. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2016.
Finklestone, Joseph (2013). Anwar Sadat: Visionary Who Dared. Routledge. tr. 16. ISBN 978-1135195588. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2017.
Von Fleischhauer, Jan; Friedmann, Jan (2012). “Die Kraft des Bösen”. Der Spiegel (bằng tiếng Đức) (44). Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2016.
Forty, George (1997). The Armies of Rommel. Arms and Armour. tr. 342. ISBN 978-1-85409-379-0.
Fraser, David (1993). Knight's Cross: A Life of Field Marshal Erwin Rommel. New York: HarperCollins. ISBN 978-0-06-018222-9.
Friedmann, Jan (23 tháng 5 năm 2007). “World War II: New Research Taints Image of Desert Fox Rommel”. Spiegel Online. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2016.
Green, Leslie C. (1993). The Contemporary Law of Armed Conflict. Manchester University Press. ISBN 978-0-7190-3540-1.
Hart, Russel A. (2014). "Rommel and the 20th July Bomb Plot". Trong Ian F.W. Beckett. Rommel Reconsidered. Stackpole Books. ISBN 978-0-8117-1462-4.
Hoffmann, Karl (2004). Erwin Rommel, 1891–1944. Commanders in Focus. London: Brassey's. ISBN 1-85753-374-7.
Hoffmann, Peter (1996). History of the German Resistance, 1933–1945. McGill-Queen's Press - MQUP. ISBN 9780773515314.
Holderfield, Randy; Varhola, Michael (2009). D-day: The Invasion of Normandy, ngày 6 tháng 6 năm 1944. Da Capo Press. ISBN 978-0-7867-4680-4.
Holmes, Richard (2009). World War II: The Definitive Visual History. Penguin. tr. 129. ISBN 978-0-7566-5605-8.
House, J. M. (1985). Toward Combined Arms Warfare: A Survey of 20th-century Tactics, Doctrine, and Organization. DIANE Publishing. ISBN 9781428915831.
Kitchen, Martin (2009). Rommel's Desert War: Waging World War II in North Africa, 1941–1943. Cambridge University Press. ISBN 978-0-521-50971-8.
Krause, Michael D.; Phillips, R. Cody (2007). Historical Perspectives of the Operational Art. Center of Military History - US Army. ISBN 978-0-16-072564-7.
Latimer, Jon (2002). Alamein. Cambridge, MA: Harvard University Press. ISBN 978-0-674-01016-1.
Lewin, Ronald (1998) [1968]. Rommel As Military Commander. New York: B&N Books. ISBN 978-0-7607-0861-3.
Lieb, Peter (2013). "Ardenne Abbey Massacre". Trong Mikaberidze, Alexander. Atrocities, Massacres, and War Crimes: An Encyclopedia. Santa Barbara, Calif: ABC-CLIO. tr. 25–27. ISBN 978-1-59884-926-4.
—— (2014). "Rommel in Normandy". Trong I.F.W. Beckett. Rommel Reconsidered. Mechanicsburg, PA: Stackpole Books. ISBN 978-0-8117-1462-4.
von Luck, Hans (1989). Panzer Commander: The Memoirs of Colonel Hans von Luck. New York: Dell Publishing of Random House. ISBN 0-440-20802-5.
Luvaas, Jay (1990). “Liddell Hart and the Mearsheimer Critique: A "Pupil's" Retrospective” (PDF). Strategic Studies Institute. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2016.
Maier, Manfred (2013). "Vortrag Manfred Maier zu der Geschichte des Heidenheimer Rommeldenkmals". Trong Geschichtswerkstatt Heidenheim. Vorlage für die Arbeitsgruppe «Umgestaltung des Rommel-Denkmals». tr. 49.
Major, Patrick (2008). "'Our Friend Rommel': The Wehrmacht as 'Worthy Enemy' in Postwar British Popular Culture". German History (Oxford University Press) 26 (4): 520–535. doi:10.1093/gerhis/ghn049.
Mearsheimer, John (1988). Liddell Hart and the Weight of History. Ithaca, N.Y.: Cornell University Press. ISBN 978-0-8014-2089-4.
Megargee, Geoffrey P. (2000). Inside Hitler's High Command. Lawrence, Kansas: Kansas University Press. ISBN 0-7006-1015-4.
von Mellenthin, Friedrich (1956). Panzer Battles: A Study of the Employment of Armor in the Second World War. London: Cassell. ISBN 978-0-345-32158-9.
Messenger, Charles (2009). Rommel: Leadership Lessons from the Desert Fox. Basingstoke, NY: Palgrave Macmillan. ISBN 978-0-230-60908-2.
Mitcham, Samuel (1997). The Desert Fox in Normandy: Rommel's Defense of Fortress Europe. tr. 198. ISBN 0-275-95484-6.
Mitcham, Samuel W. (2007). Rommel's Desert Commanders — The Men Who Served the Desert Fox, North Africa, 1941–42. Mechanicsburg, PA: Stackpole Books. ISBN 978-0-8117-3510-0.
—— (2008). The Rise of the Wehrmacht. Westport, Conn.: Praeger Security International. ISBN 978-0-275-99641-3.
Moorhouse, Roger (2007). Killing Hitler: The Third Reich and the Plots Against the Führer. London: Random House. ISBN 978-1-84413-322-2.
Murray, Williamson; Millett, Allan Reed (2009). A War To Be Won: fighting the Second World War. Harvard University Press. ISBN 978-0-674-04130-1.
Naumann, Klaus (2009). "Afterword". Trong Charles Messenger. Rommel: Leadership Lessons from the Desert Fox. Basingstoke, NY: Palgrave Macmillan. ISBN 0-230-60908-2.
Neitzel, Sönke (2007). Tapping Hitler's Generals: Transcripts of Secret Conversations, 1942–1945. Frontline Books. ISBN 978-1-84415-705-1.
Perry, Marvin (22 tháng 2 năm 2012). World War II in Europe: A Concise History (bằng tiếng Anh). Cengage Learning. tr. 165. ISBN 978-1-285-40179-9.
Pimlott, John biên tập (1994). Rommel: In His Own Words. London: Greenhill Books. ISBN 978-1-85367-185-2.
—— (2003). Rommel and His Art of War. Greenhill Books. ISBN 978-1-85367-543-0.
Playfair, Major-General I. S. O.; with Flynn, Captain F. C. RN; Molony, Brigadier C. J. C. & Gleave, Group Captain T. P. (2004) [1960 HMSO]. Butler, Sir James, biên tập. The Mediterranean and Middle East: British Fortunes reach their Lowest Ebb (September 1941 to September 1942). History of the Second World War, United Kingdom Military Series III. Uckfield, UK: Naval & Military Press. ISBN 1-84574-067-X.
Porch, Douglas (2004). The Path to Victory: The Mediterranean Theater in World War II (ấn bản 1). New York: Farrar, Straus and Giroux. ISBN 978-0-374-20518-8.
Remy, Maurice Philip (2002). Mythos Rommel (bằng tiếng Đức). Munich: List Verlag. ISBN 3-471-78572-8.
Reuth, Ralf Georg (2005). Rommel: The End of a Legend. London: Haus Books. ISBN 978-1-904950-20-2.
Rice, Earle (2009). Erwin J. E. Rommel-Great Military Leaders of the 20th Century Series. Infobase.
Rommel, Erwin (1982) [1953]. Liddell Hart, B. H., biên tập. The Rommel Papers. New York: Da Capo Press. ISBN 978-0-306-80157-0.
Sadler, John (2016). El Alamein 1942: The Story of the Battle in the Words of the Soldiers. Bloomsbury Publishing. ISBN 978-1-4728-1490-6.
Scheck, Raffael (2010). “Mythos Rommel (Raffael Scheck)” . 19./20. Jahrhundert – Histoire Contemporaine.
Scherzer, Veit (2007). Die Ritterkreuzträger 1939–1945 Die Inhaber des Ritterkreuzes des Eisernen Kreuzes 1939 von Heer, Luftwaffe, Kriegsmarine, Waffen-SS, Volkssturm sowie mit Deutschland verbündeter Streitkräfte nach den Unterlagen des Bundesarchives [The Knight's Cross Bearers 1939–1945 The Holders of the Knight's Cross of the Iron Cross 1939 by Army, Air Force, Navy, Waffen-SS, Volkssturm and Allied Forces with Germany According to the Documents of the Federal Archives] (bằng tiếng German). Jena, Germany: Scherzers Militaer-Verlag. ISBN 978-3-938845-17-2. Bảo trì CS1: Ngôn ngữ không rõ (link)
Scianna, Bastian Matteo (2018). "Rommel Almighty? Italian Assessments of the 'Desert Fox' During and After the Second World War". The Journal of Military History, Vol.82, Issue 1. tr. 125–145.
Searle, Alaric (2014). "Rommel and the rise of the Nazis". Trong Beckett, Ian F.W. Rommel Reconsidered. Stackpole Books. ISBN 978-0-8117-1462-4.
Shirer, William L. (1960). The Rise and Fall of the Third Reich. New York: Simon and Schuster. ISBN 978-0-671-62420-0.
Showalter, Dennis (3 tháng 1 năm 2006). Patton And Rommel: Men of War in the Twentieth Century. Penguin. ISBN 978-1-4406-8468-5.
Speidel, Hans (1950). Invasion 1944: Rommel and the Normandy Campaign. Chicago: Henry Regnery.
Strawson, Major General John (2013). If By Chance: Military Turning Points that Changed History. Pan Macmillan. tr. 124. ISBN 978-1-4472-3553-8.
Watson, Bruce Allen (1999). Exit Rommel: The Tunisian Campaign, 1942–43. Westport, Conn.: Praeger Publishers. ISBN 978-0-275-95923-4.
Willmott, H.P. (1984). June, 1944. Poole: Blandford Press. ISBN 0-7137-1446-8.
Young, Desmond (1950). Rommel: The Desert Fox. New York: Harper & Row. OCLC 48067797.
Zabecki, David T. (2016). “Rethinking Rommel” . Military History (Herndon, Va.) 32 (5): 24–29.
—— (2016). “March 2016 Readers' Letters” . HistoryNet. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2016.
Zaloga, Steven (2013). The Devil's Garden: Rommel's Desperate Defense of Omaha Beach. Stackpole Books. ISBN 978-0-8117-5277-0.
Liên kết ngoài
Rommel Chronology World History Database
The Forced Suicide of Field Marshall Rommel, 1944
Excerpts from Rommel's account of the blitzkrieg, 1940
Erwin Johannes Eugen Rommel
Prominent People – Erwin Rommel
Thống chế Lục quân Đức Quốc Xã
Viên chức Đức Quốc Xã
Quân nhân Đức trong Thế chiến thứ nhất
Sinh năm 1891
Mất năm 1944
Người tự sát ở Đức
|
27255
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C4%83ng%20d%C3%ADnh
|
Băng dính
|
Băng dính hay băng keo là một loại vật liệu có tính năng kết dính, thường bao gồm keo kết hợp với một vài vật liệu dai, mềm khác như màng nhựa BOPP, PVC, vải, giấy.
Băng dính sử dụng phần lớn trong nhu cầu đóng gói thành phẩm, bảo vệ sản phẩm. Ngoài ra Băng Dính còn có rất nhiều công dụng trong các ngành như điện tử, công nghiệp,...
Băng dính được phân loại theo nhiều tiêu chuẩn khác nhau: theo chất keo, theo vật liệu quết keo, theo công dụng và theo kích cỡ, hình dạng. Loại Băng dính thông dụng nhất trên thị trường là băng dính OPP hay còn được gọi là băng dính đóng thùng. Ngoài ra còn có rất nhiều biến thể khác của băng dính như băng keo giấy kraft, băng keo giấy, băng keo vải, băng keo chống thấm,...
Băng Dính thường được quy đổi theo đơn vị yard (0.91 mét/1 yard) sẽ rất thiệt hại cho khách hàng nếu không hiểu đơn vị này vì phần lớn các đơn vị thương mại thường dùng đơn vị này để gian lận số mét trên cuộn thành phẩm để hạ giá thành.
Băng dính được phân loại theo nhiều tiêu chuẩn khác nhau: theo chất keo, theo vật liệu quết keo, theo công dụng và theo kích cỡ, hình dạng.
Văn phòng phẩm
|
27257
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Erich%20von%20Manstein
|
Erich von Manstein
|
Erich von Manstein tên đầy đủ là Fritz Erich Georg Eduard von Lewinski (24 tháng 11 năm 1887 – 10 tháng 7 năm 1973) là một chỉ huy cấp cao của quân đội Đức thời Đệ tam Đế chế. Ông được thăng đến cấp hàm Thống chế trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Theo nhận định của B. H. Liddell Hart – một chiến lược gia quân sự có tên tuổi người Anh, Manstein là vị tướng giỏi nhất của Đức Quốc xã.
Sinh trưởng trong một gia đình quý tộc Phổ có truyền thống quân sự lâu đời, Manstein nhập ngũ từ sớm và tham chiến nhiều mặt trận trong Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914–1918). Thế chiến 1 kết thúc, ông tích cực tham gia khôi phục các lực lượng vũ trang Đức và thăng cấp từ Đại úy lên Trung tướng. Khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ tháng 9 năm 1939, ông làm Tham mưu trưởng Cụm Tập đoàn quân Nam, cùng Tư lệnh Gerd von Rundstedt đem quân vào chiếm Ba Lan. Ông còn là tác giả chính của kế hoạch chinh phục Pháp và Tây Âu năm 1940. Phán đoán rằng quân Đồng Minh sẽ phản ứng mạnh nếu Đức chọn Hà Lan làm hướng tấn công chính, Manstein đề xuất cho mũi chủ công xuyên qua Ardennes – nơi Đồng Minh coi là "bất khả xâm phạm" – rồi thọc sâu về eo biển Anh, cô lập quân chủ lực của Anh-Pháp tại Bỉ và Flanders. Được lên chức Thượng tướng Bộ binh sau chiến thắng Tây Âu, ông tham gia tiến công xâm lược Liên Xô vào tháng 6 năm 1941 và vây hãm Sevastopol suốt 8 tháng. Sevastopol thất thủ, Manstein được trao gậy Thống chế ngày 1 tháng 7 năm 1942. Sau đó ông tham gia cuộc vây hãm Leningrad.
Vận mệnh nước Đức trở nên xấu đi từ cuối năm 1942, đặc biệt là trong trận thảm bại tại Stalingrad. Tháng 12 năm đó, Manstein dẫn một đạo quân đi cứu viện cho mặt trận Stalingrad nhưng không thành công. Khi quân đội Liên Xô thừa thắng phản kích, Manstein giáng một đòn "hồi mã thương" vào Kharkov, đánh tơi tả 52 sư đoàn Liên Xô và lấy lại một vùng đất rộng lớn vào tháng 2 – tháng 3 năm 1943. Tiếp sau đó, ông chỉ huy cánh quân phía nam đánh trận Vòng cung Kursk (tháng 7–tháng 8 năm 1943), một trong những trận chiến xe tăng lớn nhất trong lịch sử thế giới. Những bất đồng giữa ông với Adolf Hitler đã dễn đến việc Manstein bị sa thải vào tháng 3 năm 1944. Vài tháng sau khi chiến tranh kết thúc, ông bị người Anh bắt làm tù binh vào tháng 8 năm 1945. Năm 1949, ông bị tuyên án 18 năm tù vì các tội ác nhằm vào tù binh và dân thường ở Đông Âu, nhưng được thả tự do chỉ sau 4 năm ngồi tù, một phần là vì lý do sức khỏe. Trong thập niên 1950, Manstein trở thành cố vấn cao cấp cho Cộng hòa Liên bang Đức và góp phần kiến thiết lực lượng vũ trang của nhà nước này.
Đầu đời
Tên khai sinh của Manstein là Fritz Erich Georg Eduard von Lewinski. Ông sinh ra tại Berlin trong một gia đình quý tộc Phổ, là con trai thứ 10 của Thượng tướng Pháo binh Eduard von Lewinski (1829-1906), và bà Helene von Sperling (1847-1910). Bà Hedwig von Sperling (1852-1925), em gái của bà Helen, cưới Trung tướng Georg von Manstein (1844-1913). Cặp vợ chồng Manstein không thể có con cho nên họ đã quyết định nhận Erich làm con nuôi, do đó mà ông mới mang họ là Manstein (von trong tiếng Đức dùng để chỉ những gia đình quý tộc, giống như van trong tiếng Hà Lan hay de trong tiếng Pháp). Trước đó, ông bà Manstein đã nhận nuôi chị họ của Erich là Martha, con gái người anh quá cố của Sperling và Helen. Khi Erich ra đời, gia đình Lewinski đã viết một bức điện tín cho gia đình Manstein với nội dung: "Hôm nay, chúng ta đã có được một đứa con trai khỏe mạnh. Mẹ con đều khỏe. Chúc mừng." (von Manstein, E.: Soldat im 20. Jahrhundert, 5th Ed., 2002, p. 10).
Các gia tộc Manstein và Lewinski đều mang truyền thống nhà binh từ thời Trung kỳ Trung đại. Thông qua hai họ, Erich có 16 tổ phụ là sĩ quan, tướng lĩnh trong quân đội Đức và Nga. Trong số đó, cha ruột, cha nuôi, ông ruột và ông nuôi của ông đều làm tướng Phổ. Ông nuôi Erich, Thượng tướng Bộ binh Albrecht Gustav von Manstein là Tư lệnh Quân đoàn IX – Binh đoàn Schleswig-Holstein trong Chiến tranh Pháp-Đức (1870-1871). Không những thế, dòng họ bên ngoại của ông cũng có truyền thống quân sự lâu đời, ông ngoại và cậu của Manstein đều là tướng Phổ. Dì ông, bà Gertrud đã thành hôn với Paul von Hindenburg, Thống chế Tổng tham mưu trưởng quân đội Đức trong Chiến tranh thế giới thứ nhất và là Tổng thống cuối cùng của Cộng hòa Weimar. Vì vậy, cuộc đời binh nghiệp của ông đã được đảm bảo ngay từ lúc nhỏ. Bên cạnh đó, theo nhà sử học Pháp Benoit Lemay, một số tác giả nghi vấn rằng Manstein có tổ tiên là người Do Thái và họ Lewinski của ông có thể là một biến thể của Levi, tên một trong 12 chi tộc Israel.
Thiếu thời, Manstein học tại trường trung học Công giáo Lyzeum ở Strasbourg - nơi đã trở thành lãnh thổ của Đức sau khi Pháp bại trận năm 1870-71 - từ năm 1894 đến năm 1899. Sau đó, ông trải qua 6 năm tại các trường thiếu sinh quân từ năm 1900-1906 ở Plön và Groß-Lichterfelde. Manstein gia nhập vào Trung đoàn Bộ binh Cận vệ số 3 vào tháng 3 năm 1906 với quân hàm Chuẩn úy. Ông được thăng cấp lên Thiếu úy vào tháng 1 năm 1907. Vào tháng 10 năm 1913 ông đi tu nghiệp tại Học viện Quân sự ở Berlin.
Sự nghiệp buổi đầu
Chiến tranh thế giới thứ nhất
Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Manstein tham chiến trên cả hai chiến trường Tây Âu và Đông Âu. Khi đại chiến bùng nổ, ông được thăng hàm Trung úy và tham gia tấn công Bỉ trong đội hình Trung đoàn Bộ binh Cận vệ Dự bị số 2 - Sư đoàn Bộ binh Cận vệ số 1. Tháng 8 năm 1914, ông cùng đồng đội đánh chiếm hệ thống pháo đài kiên cố của Bỉ tại Namur. Sang tháng 9, trung đoàn của Manstein được điều sang Đông Phổ và đứng chân trong Tập đoàn quân số 8 do tướng Hindenburg chỉ huy. Tại đây, ông tham gia tiêu diệt Tập đoàn quân số 2 (Nga) ở trận Tannenberg và đánh sụm Tập đoàn quân số 1 (Nga) ở trận hồ Masuren lần thứ nhất. Không bao lâu sau, trung đoàn ông được chuyển vào biên chế Tập đoàn quân số 9 của tướng August von Mackensen, và cùng các đơn vị bạn đánh thốc từ Thượng Schlesien tới Warszawa. Quân Đức áp sát được Warszawa, nhưng bị dàn mỏng và quân Nga phản công đánh bật họ về điểm xuất phát. Trên đường rút lui, Manstein bị thương ngày 16 tháng 11 khi ông tham gia một biệt đội tiêu diệt một chốt lính Nga. Ông trúng đạn vào bả vai trái và đùi trái, phải nằm viện suốt 6 tháng tại Beuthen và Wiesbaden mới hồi phục được.
Sau một thời gian nghỉ phép, Manstein được phân công làm Phó trưởng Phòng tác chiến Tập đoàn quân số 10 do tướng Max von Gallwitz làm tư lệnh. Thắng lợi của Tập đoàn quân số 10 trong các chiến dịch đánh Ba Lan, Litva, Montenegro, và Albania đã đem lại cho Manstein nhiều bài học kinh nghiệm có giá trị về việc tổ chức và phối hợp những cuộc tấn công cấp tập đoàn quân. Tháng 4 năm 1916, Manstein trở lại Mặt trận Tây Âu, phục vụ Bộ Tư lệnh "Tây Meuse" của Gallwitz trong Chiến dịch Verdun. Đến ngày 19 tháng 8, ông được cử làm Trưởng phòng Hậu cần Tập đoàn quân số 1 (tư lệnh: tướng Fritz von Below; tham mưu trưởng: đại tá Fritz von Lossberg) và tham gia đánh chặn Chiến dịch Somme (tháng 7 – tháng 11 năm 1916) của quân đồng minh Anh-Pháp. Chiến dịch này đã tiêu hao một bộ phận lớn quân Đức và buộc họ phải triệt thoái vào Cụm phòng tuyến Hindenburg giữa Verdun và Lens trong mùa đông. Manstein hoạt động ở Tập đoàn quân số 1 đến tháng 10 năm 1917, khi ông được đổi làm tham mưu trưởng Sư đoàn Kỵ binh số 4 đóng quân tại Riga (Nga). Sau khi cuộc chiến Đức-Nga chấm dứt bằng Hòa ước Brest-Litovsk tháng 3 năm 1918, Manstein được thuyên chuyển sang Sư đoàn Bộ binh số 213 gần Reims (Pháp). Trong Chiến dịch Mùa xuân 1918, Sư 213 cùng các đơn vị bạn giành một số thắng lợi lớn trên mạn tây Reims, nhưng thất bại chung cuộc của chiến dịch đã xoay chuyển hoàn toàn cục diện theo hướng có lợi cho Anh-Pháp. 2 ngày sau khi Đế quốc Đức sụp đổ, chính quyền mới ký hiệp định đầu hàng Đồng Minh ở Compiègne ngày 11 tháng 11 năm 1918.
Những năm sau chiến tranh
Năm 1920, Manstein thành hôn với Jutta Sibylle von Loesch, con gái của một địa chủ vùng Schlesien. Ông cầu hôn với Jutta chỉ 3 ngày sau lần đầu tiên ông gặp bà. Mối quan hệ vợ chồng này tồn tại cho đến khi vợ ông mất năm 1966. Họ có ba người con: một người con gái tên Gisela; và hai người con trai: Gero (sinh 31 tháng 12 năm 1922) và Rüdiger. Gero sau này gia nhập lục quân Đức Quốc xã, được thăng tới cấp Trung úy và tử trận tại khu vực phía bắc của chiến trường Xô-Đức vào ngày 29 tháng 10 năm 1942. Gisela lập gia đình với Thiếu tá Edel-Heinrich Zachariae-Lingenthal – Trung đoàn trưởng Trung đoàn Thiết giáp số 15 trong Chiến tranh thế giới thứ hai, sau là Chuẩn tướng Quân đội Cộng hòa Liên bang Đức.
Manstein tiếp tục theo đuổi binh nghiệp sau Chiến tranh thế giới thứ nhất. Tháng 2 năm 1919, ông tình nguyện tham gia bộ tham mưu Lực lượng Biên phòng Breslau (nay là Wroclaw - Ba Lan) và hoạt động tại đây đến mùa hè. Theo Hòa ước Versailles ngày 28 tháng 6 năm 1919, các nước thắng trận ép Đức phải cắt giảm quân số lực lượng vũ trang xuống còn 4.000 sĩ quan và 96.000 hạ sĩ quan, binh lính. Manstein từ lâu đã được biết đến như một cán bộ tài trí, và được chọn tiếp tục phục vụ quân đội Cộng hòa Weimar. Sau khi được bổ nhiệm vào Bộ Tư lệnh II cai quản các sư đoàn trên mạn tây và nam Đức trong tháng 8 năm 1919, ông đã góp phần tái cấu trúc quân đội 50 vạn người của Đế quốc Đức cũ thành Lực lượng Phòng vệ Quốc gia với 10 vạn cán-binh. Ông được phong chức Đại đội trưởng Đại đội 6 Trung đoàn Bộ binh số 5 Phổ ngày 1 tháng 10 năm 1921 và trở lại làm cán bộ tham mưu vào tháng 10 năm 1923. Trong vòng 4 năm tới, ông giảng dạy lịch sử và chiến thuật quân sự ở các Quân khu II và IV. Năm 1927, ông được thăng cấp lên thiếu tá và được tiến cử vào Bộ Tổng tham mưu tại Berlin. Ông đã viếng thăm nhiều nước để học hỏi về trang thiết bị quân đội của họ và tham gia soạn thảo các kế hoạch động viên quân đội Đức. Tiếp theo đó, ông được gắn lon thượng tá ngày 1 tháng 4 năm 1932 và nhận chức tiểu đoàn trưởng một tiểu đoàn biệt kích thuộc Trung đoàn Bộ binh số 4 tại Kolberg ngày 1 tháng 10. Ngày 1 tháng 12 năm 1933, ông lên cấp hàm Đại tá. Cùng năm đó, thủ lĩnh Đảng Quốc xã Adolf Hitler lật đổ nền cộng hòa và thành lập chế độ độc tài chuyên chính. Một trong những mục tiêu chính trị hàng đầu của chính phủ mới lá xé bỏ bản Hòa ước Versailles và cho mở rộng, tái vũ trang quân đội với quy mô lớn.
Ngày 1 tháng 2 năm 1934, Manstein được triệu hồi về Berlin làm Tham mưu trưởng Quân khu III. Không lâu sau, ông lãnh chức Trưởng ban Tác chiến Bộ Tổng tham mưu, cơ quan trực thuộc Bộ Tư lệnh Tối cao Lục quân (Oberkommando des Heeres - viết tắt OKH) ngày 1 tháng 7 năm 1937. Trong suốt nhiệm kỳ tại đây, Manstein cùng các đồng sự đã lập một kế hoạch phòng ngự mang mật danh Fall Rott (Kế hoạch Đỏ) đặng đề phòng sự xâm lược của Pháp. Ông cũng đề xuất phát triển dòng pháo tự hành chống tăng Sturmgeschütz nhằm tăng cường tính cơ động của pháo binh và yểm trợ hỏa lực trực tiếp cho bộ đội bộ binh. Chiến tranh thế giới thứ hai sẽ là lúc các loại pháo thuộc họ StuG được chứng minh là một trong những loại vũ khí thành công và hiệu quả nhất của quân đội Đức. Ngoài ra, Manstein ra sức che chở cho những người lính gốc Do Thái, những người bị loại khỏi quân đội do những điều luật mới về việc làm thanh khiết giống nòi Aryan của chế độ Quốc xã. Trong bức thư gửi Trung tướng Tổng tham mưu trưởng Ludwig Beck ngày 21 tháng 4 năm 1934, ông bày tỏ: "Nếu Nhà nước luôn chuẩn bị đòi hỏi người chiến sĩ phải hy sinh đời mình ở mọi giờ và qua hàng năm, thì thật không có lý do nào để phán rằng: 'Anh không còn là người Đức'. Một người đã vui lòng đầu quân, và qua đó sẵn sàng xả thân vì nhân dân Đức vào bất kỳ lúc nào, xứng đáng được trở thành người Đức thông qua thiện ý của anh. Anh đã khẳng định mình là một người Aryan, bất luận bà nội anh có phải người Aryan hay không". Từ đây, ông nhấn mạnh: "vinh dự của những chiến sĩ trẻ thời hậu chiến ấy cũng là vinh dự của toàn thể chúng ta". Bên cạnh đó, Manstein không quên cam đoan rằng ông luôn trung thành với nhà nước Đức Quốc xã.
Manstein lên cấp hàm Thiếu tướng ngày 1 tháng 10 năm 1936 và được phân công làm Phó Tổng tham mưu trưởng quân đội Đức 5 ngày sau đó. Ông tại nhiệm đến ngày 4 tháng 2 năm 1938 thì được thuyên chuyển làm Sư đoàn trưởng Sư đoàn Bộ binh số 18 tại Liegnitz (Schlesien) với cấp bậc Trung tướng. Thượng tướng Pháo binh Franz Halder lên thay ông làm Phó Tổng tham mưu trưởng. Thay đổi này mang nghĩa là Halder - chứ không phải Manstein - được kế nhiệm Thượng tướng Pháo binh Ludwig Beck làm Thủ trưởng Bộ Tổng tham mưu vào tháng 8, sau khi Beck từ chức để phản đối ý đồ xâm lược Tiệp Khắc trong tháng 10 của Hitler. Điều đó đã đẩy đến sự thù hằn lâu dài giữa Manstein với Halder. Ngày 20 tháng 4 năm 1939, trong một bài diễn văn kỷ niệm sinh nhật lần thứ 50 của Hitler, Manstein ca ngợi Hitler là một lãnh tụ do Thiên Chúa phái xuống cứu nước Đức. Ông cũng cảnh báo "thế giới thù địch" sẽ hứng chịu một cuộc thế chiến mới nếu họ giở trò ngăn cản "con đường đi đến tương lai của dân tộc Đức".
Chiến tranh thế giới thứ hai
Cuộc tấn công Ba Lan
Ngày 18 tháng 8 năm 1939, khi quân đội đang chuẩn bị Chiến dịch chinh phục Ba Lan, Manstein được chỉ định làm Tham mưu trưởng Cụm Tập đoàn quân Nam do Đại tướng Gerd von Rundstedt chỉ huy. Tại đây, ông cùng với Đại tá Trưởng phòng Tác chiến Günther Blumentritt đã thảo ra bản kế hoạch tác chiến mang tên Fall Weiss - tức Kế hoạch Trắng. Rundstedt chấp nhận kế hoạch của Manstein và ra lệnh tập trung một lượng lớn các đơn vị thiết giáp vào Tập đoàn quân số 10 của Thượng tướng Pháo binh Walther von Reichenau với mục tiêu chọc thủng được khu vực tập trung các lực lượng Ba Lan tại phía tây cỷa sông Vistula. Theo kế hoạch của Manstein, hai tập đoàn quân khác trong Cụm tập đoàn quân Nam (gồm Tập đoàn quân số 14 của Đại tướng Wilhelm List và Tập đoàn quân số 8 của Thượng tướng Bộ binh Johannes Blaskowitz) sẽ hỗ trợ cho hai bên mạn sườn của lực lượng thiết giáp do Reichenau chỉ huy tấn công trực diện vào Warszawa (thủ đô của Ba Lan). Bên cạnh đó, Manstein tỏ ra thờ ơ với chiến dịch sắp tới, vì theo ông Ba Lan nên tồn tại như một vùng đất đệm giữa Đức và Liên bang Xô Viết; ông cũng lo lắng về khả năng quân Đồng Minh tấn công phòng tuyến Trường thành phía Tây (West Wall) một khi chiến địch được bắt đầu, và khi đó, nước Đức sẽ phải đối đầu với cuộc chiến từ cả hai mặt trận.
Trong một hội thảo với Manstein và nhiều tướng lĩnh khác vào ngày 22 tháng 8 năm 1939, Hitler tuyên bố quốc gia Ba Lan phải bị hủy diệt bằng vũ lực. Sau chiến tranh, Manstein khẳng định trong hồi ký mình rằng, vào thời điểm diễn ra cuộc hội đàm này, ông không biết Hitler đang theo đuổi chính sách diệt chủng dân Ba Lan. Tuy nhiên, có một sự thật là sau khi chiến tranh bùng nổ, Manstein đã được nghe báo cáo về hoạt động tội ác của các Tổ Công tác thuộc Lực lượng Vũ trang SS ở Ba Lan. Lính SS theo chân quân chính quy vào Ba Lan để tàn sát trí thức và thường dân nước này. Họ cũng được Hitler giao nhiệm vụ lùng bắt người Do Thái đem về các khu biệt cư (ghetto) và trại tập trung Đức Quốc xã. 3 trong 11 cáo buộc tội ác chiến tranh nhằm vào Manstein sau năm 1945 liên quan tới việc không bảo toàn tính mạng cư dân trên địa bàn tác chiến của ông và ngược đãi tù binh Ba Lan.
Chiến dịch Ba Lan mở màn vào ngày 1 tháng 9 năm 1939 và nhanh chóng thu được thắng lợi. Trên địa bàn tác chiến của Cụm Tập đoàn quân Nam, các Tập đoàn quân số 8, 10 và 14 đã truy đuổi cuộc rút lui của các đơn vị Ba Lan, không cho họ có thời gian thiết lập tuyến phòng thủ mới. Thực thi Kế hoạch Trắng, Tập đoàn quân số 8 tiến đánh Łódź trong khi các sư đoàn mô tô hóa của Tập đoàn quân số 10 hành quân cấp tốc theo hướng sông Wisla. Đồng thời, Tập đoàn quân số 14 hình thành thế vây bọc các khối quân Ba Lan trong khu vực Kraków. Từ ngày 8 đến 14 tháng 9, Tập đoàn quân số 10 hợp vây và đánh tan quân Ba Lan ở Radom. Trong khi đó, Tập đoàn quân số 8 bị 2 tập đoàn quân Ba Lan phản kích vào sườn phía bắc, nên các thành phần thuộc 3 Tập đoàn quân số 4, 8 và 10 phải đổi hướng tiến quân dưới sự yểm trợ của không quân, nhằm ngăn quân Ba Lan phá vây về Warszawa. Sự linh hoạt và nhanh nhẹn của quân Đức đã dẫn đến thảm bại của 9 sư đoàn bộ binh Ba Lan và một số đơn vị yểm trợ trong trận Bzura (8 – 19 tháng 9), trận đánh lớn nhất trên đất Ba Lan năm 1939. Chỉ sau 5 tuần chiến đấu, chiến dịch chấm dứt ngày 6 tháng 10 khi các ổ đề kháng cuối cùng của Ba Lan đầu hàng quân Đức.
Ngày 24 tháng 10 năm 1939, khi nước Đức đang khẩn trương chuẩn bị đánh Pháp và Tây Âu, Rundstedt và điều sang Tây Đức làm Thủ trưởng Cụm Tập đoàn quân A. Manstein tiếp tục giữ chức Tham mưu trưởng cho Rundstedt.
Chiến dịch Pháp
Ngày 19 tháng 10 năm 1939, Halder cùng Đại tướng Tổng tư lệnh Walther von Brauchitsch trình bày phương án tác chiến đầu tiên của Fall Gelb (Kế hoạch Vàng), mật danh của kế hoạch tấn công Bắc Pháp và Vùng đất thấp, và cho đến đầu năm 1940 đã đưa ra thêm một số phiên bản khác. Ý đồ chung của các phương án này là tổ chức tấn công vỗ mặt trên chính diện rộng từ Hà Lan đến Bỉ, nhắm vào mục tiêu hạn chế là chiếm lấy bờ biển Flanders. Phương án này bị một số tướng lĩnh Đức phản đối, và một trong số những người đó là Manstein. Theo ông, kế hoạch quá lệ thuộc vào sức mạnh của cánh quân phía bắc, một cuộc tấn công theo hướng này sẽ không thể tạo yếu tố bất ngờ và biến quân Đức thành mồi ngon cho các đòn phản kích từ phía nam. Thêm vào đó, do địa hình nước Bỉ không phải là bàn đạp lý tưởng để đánh thọc vào Pháp, Manstein tin rằng cách đánh của Brauchitsch sẽ không thể triệt tiêu quân chủ lực địch, và chỉ giúp cho quân Đức đạt được thành công nửa vời trước khi sa lầy vào chiến tranh chiến hào như kiểu Chiến tranh thế giới thứ nhất. Được sự cổ vũ của Rundstedt, Manstein quyết định soạn một kế hoạch thay thế phản ánh được những nguyên tắc của Bewegungskrieg ("chiến tranh cơ động") cũng như chiến lược Trận đánh hủy diệt (Vernichtungsgedanke) – vốn đã trở thành kim chỉ nam kinh điển của quân sự Đức từ thế kỷ 19 – vào cuối tháng 10.
Được xây dựng với sự cộng tác của Thượng tướng Thiết giáp Heinz Guderian – người "cha đẻ" của Binh chủng Tăng-Thiết giáp Đức, phương án của Manstein mang ý tưởng chính là biến mũi tấn công phía Bắc thành mồi nhử dụ chủ lực Đồng Minh tiến lên nghênh chiến, trong lúc đó mũi chủ công sẽ được mở ở chính diện trung tâm. Điểm đột phá được chọn là đoạn Dinant - Sedan – nơi có khả năng tạo bất ngờ chiến lược vì có 2 cản ngại tự nhiên cho hoạt động của xe tăng là rừng rậm Ardennes và sông Meuse. Tiếp theo đó, mũi chủ công gồm toàn bộ lực lượng thiết giáp sẽ độc lập tác chiến về eo biển Anh để cô lập chủ lực Đồng Minh ở Bỉ. Giai đoạn 2 này về sau được biết đến với tên gọi Sichelschnitt, tức "Đòn cắt lưỡi liềm". Ngoài ra, von Manstein cũng đề xuất giao một cánh quân tiến theo hướng Tây Nam chiếm Reims - Rethel nhằm ngăn cản đối phương lập tuyến phòng ngự liên tục từ Nam Sedan đến cửa sông Somme, tạo tiền đề cho giai đoạn 2 diễn tiến thuận lợi. Von Manstein viết bản đề xuất đại cương đầu tiên về kế hoạch của mình vào ngày 31 tháng 10. Thông qua Thủ trưởng Rundstedt, ông đệ trình kế hoạch này lên Bộ Tư lệnh Tối cao. Sáu bản đề xuất nữa sau đó, lần lượt vào các ngày 6, 21, 30 tháng 11; ngày 6, 18 tháng 12 năm 1939; và 12 tháng 1 năm 1940, từ từ được xây dựng hoàn thiện hơn về tổng thể. Thế nhưng tất cả đều bị Bộ Tư lệnh Tối cao bác bỏ và không nội dung nào trong đó đến được với Hitler.
Ngày 27 tháng 1, nhằm bóp chết ảnh hưởng của Manstein, Halder đã gây tác động khiến ông bị thuyên chuyển từ Bộ Tư lệnh Cụm Tập đoàn Quân A sang làm chỉ huy Quân đoàn XXXVIII ở Phổ, bắt đầu nhiệm vụ mới ở Stettin ngày 9 tháng 2. Phẫn nộ trước thay đổi này, Bộ Tham mưu Cụm Tập đoàn quân A đã phản ánh và gây được sự chú ý của Hitler, ông ta bắt đầu biết được thông tin về kế hoạch Manstein vào ngày 2 tháng 2 năm 1940. Trước khi biết về bản kế hoạch này, Hitler cũng từng đề xuất một đòn đột kích vào Sedan, nhưng sau đó đã từ bỏ vì bị thuyết phục là nó quá mạo hiểm. Ngày 17 tháng 2, tại Berlin, Hitler triệu tập Manstein cùng một số cán bộ tham mưu đến thảo luận. Quốc trưởng ngồi yên và lắng nghe, khác với thói quen của ông ta là hay ngắt lời và chuyển sang độc thoại. Hitler đã rất có ấn tượng, và cuối cùng hoàn toàn chấp thuận chiến lược của Manstein. Ngày hôm sau, ông ta đã ra lệnh sửa đổi kế hoạch cho phù hợp với ý định của Manstein. Dựa trên ý tưởng đó, Halder đã vạch ra Phương án tác chiến N°4 - Kế hoạch Vàng (Aufmarschanweisung N°4 - Fall Gelb) sau khi cắt bỏ một số điểm quan trọng. Tuy nhiên, nhờ có sự linh hoạt của các chỉ huy thiết giáp như Guderian, Rommel... trong thực tế tác chiến mà ý đồ của Manstein đã được triển khai trọn vẹn, dẫn đến sự thất thủ mau chóng của nước Pháp năm 1940.
Manstein và quân đoàn của mình chỉ giữ một vai trò nhỏ trong suốt các chiến dịch tại Pháp, đứng chân trong Tập đoàn quân số 4 do Đại tướng Günther von Kluge chỉ huy. Tuy nhiên, quân đoàn của ông đã góp sức cho việc giành được trận thắng trong trận chọc thủng phòng tuyến đầu tiên của quân đối phương ở phía đông Amiens, và là đơn vị đầu tiên vượt qua sông Seine. Chiến dịch Pháp kết thúc với thắng lợi giòn dã của quân đội Đức; Manstein được thăng hàm Thượng tướng Bộ binh và phong tặng Huân chương Thập tự Hiệp sĩ.
Tấn công Liên Xô
Đầu năm 1941, Bộ Tư lệnh Tối cao Đức ráo riết chuẩn bị chiến dịch tiến công Liên bang Xô viết. Manstein được phân công làm Tư lệnh Quân đoàn Thiết giáp LVI ngày 15 tháng 3, và là một trong 250 cán bộ cấp cao được nghe chỉ thị bí mật của Hitler về chiến dịch sắp tới vào cuối tháng đó. Ông lần đầu tiên tận mắt chứng kiến các kế hoạch chi tiết vào tháng 5. Quân đoàn ông nằm trong đội hình Cụm Thiết giáp số 4 (Tư lệnh: Đại tướng Erich Hoepner) – Cụm Tập đoàn quân Bắc (Tư lệnh: Thống chế Wilhelm Ritter von Leeb). Nhiệm vụ của cụm tập đoàn quân này là thôn tính các nước Baltic thuộc Liên Xô rồi tiến chiếm Leningrad. Manstein lên biên giới Xô-Đức chỉ 6 ngày trước lúc khởi binh. Cuộc hành quân Barbarossa mở màn ngày 22 tháng 6 năm 1941 khi đại quân Đức ào ạt kéo vào lãnh thổ Liên Xô. Cùng với Quân đoàn Thiết giáp XLI do Thượng tướng Thiết giáp Georg-Hans Reinhardt chỉ huy, Quân đoàn Thiết giáp LVI tiến thần tốc về sông Dvina hòng chiếm giữ các ngọn cầu gần thị trấn Daugavpils. Chỉ trong vòng 100 giờ đồng hồ, quân đoàn Manstein đã thọc sâu 315 km vào phòng tuyến Liên Xô và tiếp cận sông Dvina. Tiếp theo đó, dù bị dàn mỏng và tách rời khỏi các đơn vị bạn trong Cụm Tập đoàn quân Bắc ở sau lưng, lực lượng của ông đã đập tan nhiều đợt phản kích dữ dội của Hồng quân Liên Xô. Không quân Liên Xô cũng ra sức bắn phá đội hình quân đoàn nhưng bị thiệt hại lớn do hỏa lực pháo phòng không Đức. Sau khi Quân đoàn Thiết giáp XLI áp sát sông Dvina, 2 quân đoàn Đức hình thành thế gọng kìm hợp vây các đơn vị Hồng quân quanh Luga.
Dưới sự dẫn dắt của Manstein, Quân đoàn Thiếp giáp LVI tiếp tục khoét sâu vào trận địa đối phương cho đến ngày 15 tháng 7, khi họ dính đòn phản công của Tập đoàn quân số 11 (Nga) do Thiếu tướng V. I. Morozov chỉ huy ở Soltsy. Hồng quân triển khai bao vây và đánh thiệt hại nặng các Sư đoàn Thiết giáp số 8 và Bộ binh Mô tô số 3 (Đức). Quân Đức mở được đường máu rút sang phía tây sau khi đẩy lùi chí ít "7 đợt tấn công liên tiếp" của Hồng quân. Dù cuối cùng cũng bị hủy bỏ ngày 18 tháng 7, trận phản kích Soltsy đã buộc Manstein tạm ngưng đánh Luga và chỉnh đốn binh lực tại Dno. Trong vài tuần kế tiếp, quân của ông đánh nhiều trận đẫm máu với các đơn vị Hồng quân chốt giữ con đường chính đi Luga và Leningrad. Bộ Tư lệnh Tối cao Đức rút Sư Thiết giáp số 8 khỏi biên chế Quân đoàn Thiết giáp LVI và "bù" cho Manstein Sư đoàn Hiến binh SS số 4. Thay đổi này khiến quân đoàn Manstein chỉ còn một đơn vị cơ động duy nhất là Sư Bộ binh Mô tô số 3. Bất bình với điều đó, Manstein yêu cầu các cấp trên hoàn trả Sư đoàn Thiết giáp số 8 cho ông hợp vây Luga, nhưng bị từ chối. Thủ trưởng Cụm Thiết giáp số 4 Hoepner hạ lệnh cho Manstein hoãn tấn công Luga tới ngày 10 tháng 8
Khi trận đánh ngày 10 tháng 8 còn chưa đến hồi ngã ngũ, Bộ Tư lệnh Tối cao chỉ thị cho Manstein phối hợp cùng Quân đoàn Thiết giáp XLI đánh lấy Leningrad. Nhưng vừa dời tổng hành dinh tới hồ Samro, ông lại được lệnh đưa quân tới Staraya Russa đặng giải nguy cho Quân đoàn X đang bị đe dọa vây bọc. Ngày 12 tháng 8, các Tập đoàn quân số 11, 34 của Liên Xô triển khai thế trận bao vây - chia cắt 3 sư đoàn trong Cụm Tập đoàn quân Bắc. Manstein quay trở về Dno và tổ chức phản công thắng lợi. Các đơn vị của ông vây diệt 5 sư đoàn Liên Xô, bắt giữ 12.000 tù binh cùng 141 xe tăng. Đây cũng là lần đầu tiên Quân đoàn Thiết giáp LVI nhận được sự yểm trợ từ không quân. Sau chiến thắng, Manstein xin phép các thủ trưởng cho cán-binh nghỉ dưỡng vì họ đã liên tục chiến đấu trên địa hình tồi tệ và trong điều thời tiết ngày càng xấu kể từ đầu chiến dịch. Bộ Tư lệnh Tối cao bác bỏ đề nghị này và phát lệnh cho Manstein quất sang Demyansk từ hướng tây. Ngày 12 tháng 9, khi Manstein đến gần sát thành phố, ông nhận lệnh thuyên chuyển sang Ukraina làm Tư lệnh Tập đoàn quân số 11 - Cụm Tập đoàn quân Nam.
Chiến dịch Krym-Sevastopol
Tháng 9 năm 1941, Manstein đảm nhiệm chức Tư lệnh Tập đoàn quân số 11 sau khi tư lệnh cũ là Đại tướng Eugen Ritter von Schobert chết do máy bay của ông đáp trúng một bãi mìn Liên Xô. Hitler ra lệnh cho Manstein chinh phục bán đảo Krym và thành phố cảng Sevastopol đặng ngăn ngừa Hồng quân tận dụng các căn cứ không quân ở đây, đồng thời chặt đứt đường tiếp vận dầu khí từ Kavkaz của Liên Xô.. Với lực lượng nòng cốt là bộ binh, Tập đoàn quân số 11 mau chóng đè bẹp các tuyến phòng thủ vững mạnh của quân đội Liên Xô. Sau ngày 26 tháng 9, khi các Tập đoàn quân số 9 và 18 (Liên Xô) liên tục phản kích vào Quân đoàn Sơn cước Romania, Manstein lập sở chỉ huy ở Nish Segorosi gần sát hỏa tuyến để động viên cán-binh giữ vững trận tuyến. Dưới sự chỉ huy sâu sát của ông, các đơn vị Đức-Romania thuộc Tập đoàn quân số 11 đã làm chủ được hầu hết eo đất Perekop – "chiếc cổ hẹp" của Krym trong nửa đầu tháng 10. Bộ Tư lệnh Tối cao sau đó đã giảm biên chế Tập đoàn quân số 11 xuống còn 6 sư đoàn Đức và Quân đoàn Cơ giới Romania.
Từ ngày 18 đến ngày 28 tháng 10, Manstein thanh toán nốt các đơn vị Hồng quân còn sót trên eo đất Perekop. Quân Đức gặp nhiều khó khăn và tổn thất do Không quân Liên Xô khống chế khu vực. Tiếp theo đó, Manstein lập một đơn vị trinh sát cơ động đánh xuống phía nam bán đảo, cắt đôi con đường giữa Simferopol và Sevastopol ngày 31 tháng 10. Hôm sau, Simferopol rơi vào tay quân Đức. Đến ngày 16 tháng 11, Tập đoàn quân số 11 đã hoàn thành đánh chiếm bán đảo Krym — ngoại trừ Sevastopol. Trong khi ấy, Hồng quân Liên Xô đã sơ tán 30 vạn nhân sự khỏi thành phố theo đường biển. Từ đầu tháng 11 đến ngày 21, quân dân Xô viết đã đánh bại đợt tấn công đầu tiên của Manstein vào Sevastopol. Thấy lực lượng không đủ mạnh để chiếm ngay thành phố-pháo đài này, Manstein tiến hành bao vây phong tỏa Sevastopol. Ngày 17 tháng 12, ông mở một tấn công mới nhưng cũng khuất phục được Hồng quân. 9 ngày sau đó, Liên Xô đổ quân lên eo biển Kerch hòng giành lại bán đảo cùng tên. Họ lại tiến hành một cuộc đổ bộ nữa gần Feodosiya vào ngày 30 tháng 12. Phớt lờ mệnh lệnh của Manstein, Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn XLII Hans Graf von Sponeck hối hả rút Sư đoàn Bộ binh số 46O khỏi Kerch. Sư 460 mất phần lớn vũ khí hạng nặng trên đường rút, nhưng hành động của Sponeck đã cứu sư đoàn khỏi nguy cơ bị các Tập đoàn quân số 44 và 51 của Liên Xô hợp vây. Manstein hủy bỏ kế hoạch tấn công lần thứ ba và dồn quân thủ tiêu đầu cầu của Liên Xô. Với sự giúp sức của Quân đoàn XXX, Quân đoàn XLII đã ổn định được mặt trận Kerch dù chịu nhiều tổn hao.
Tháng 1 năm 1942, quân Đức phản công tái chiếm cảng Feodosiya, nhưng chưa đủ thực lực để triệt tiêu hai tập đoàn quân Liên Xô trên bán đảo Kerch. Được tăng cường thêm 9 sư đoàn bộ binh, Hồng quân tổ chức hàng loạt đợt phản kích trong các tháng 2, 3 và 4, nhưng đều bị Quân đoàn LIV (Đức) bẻ gãy với thương vong rất lớn. Hitler cũng điều Tập đoàn Không quân số 4 đến Krym đặng chế áp ưu thế của không quân Liên Xô trong khu vực. Ngày 8 tháng 5 năm 1942, Manstein phát động Chiến dịch Săn Đại bàng hòng dứt điểm Hồng quân trên bán đảo Kerch. Do Tập đoàn quân số 11 bị lép vế về quân số, Manstein cho một bộ phận đánh nghi binh lên mạn bắc trong khi quân chủ lực tiến công theo hướng nam. Các đơn vị Liên Xô nhanh chóng tan vỡ. Theo hồi ký của Manstein, 17 vạn tù binh, 1.133 đại bác và 258 xe tăng đã được thêm vào danh sách chiến lợi phẩm của Tập đoàn quân số 11. Vào thời điểm ngày 16 tháng 5, quân Đức đã chiếm trọn bán đảo Kerch.
Sau một tháng hoãn binh, Manstein một lần nữa tập trung lực lượng đánh Sevastopol. Ngày 21 tháng 5 năm 1942, pháo binh Đức đồng loạt bắn phá cấp tập vào thành phố-pháo đài này. Cùng với các khẩu pháo thông thường, quân Đức đã huy động pháo cối tự hành siêu nặng Karl-Gerät (cỡ nòng 60cm) và siêu pháo "Dora" (cỡ nòng 80 cm) trút bão lửa lên Sevastopol. Đây là hai trong số những loạt pháo lớn nhất của Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Ngày 2 tháng 6, vượt qua hàng rào phòng không mềm mỏng của Liên Xô, toàn bộ lực lượng của Tập đoàn Không quân số 4 (Đức) do Đại tướng Wolfram von Richthofen chỉ huy được huy động để ném bom Sevastopol suốt 5 ngày nhằm dọn đường cho cuộc tiến công sắp tới. Đến ngày 7 tháng 6, lục quân Đức xung phong đánh chiếm các vị trí phòng ngự của Liên Xô. Sau 2 tuần chiến đấu ác liệt, Tập đoàn quân số 11 đã chọc thủng hàng phòng ngự vòng ngoài trên hướng bắc của Sevastopol và làm chủ phần lớn khu vực phía bắc vịnh Severnaya. Thiệt hại của đôi bên đều tăng nhanh trong suốt tháng 8. Hiểu được tầm quan trọng của việc thanh lý Sevastopol trước khi chiến dịch mùa hè năm 1942 làm phân tán nhân và tài lực Đức, ngày 29 tháng 6, Manstein điều quân bất ngờ vượt vịnh Severnaya và đánh bọc hậu tuyến phòng ngự thứ hai của Liên Xô trên dãy Sapun. Quân đội Liên Xô thất thế; ngày 1 tháng 7, quân Đức tràn vào nội đô và Hitler phong Manstein làm Thống chế. 3 ngày sau đó, Tập đoàn quân số 11 hoàn thành chinh phục Sevastopol.
Trong Chiến dịch Krym-Sevastopol, Manstein đã gián tiếp tiếp tay cho các tội ác của lính SS nhằm vào thường dân Liên Xô. Tổ Công tác D là một trong các đơn vị SS mang sứ mệnh xóa sổ người Do Thái khỏi châu Âu, đã theo bước Tập đoàn quân số 11 vào Krym và được Bộ Tư lệnh Tập đoàn quân chi viện xe, nhiên liệu và tài xế. Quân cảnh Đức cũng lập chốt chặn quanh các nơi lính SS tổ chức hành quyết người Do Thái, đặng khóa chặt đường trốn chạy của "phạm nhân". Bị sốc khi chứng kiến Tổ Công tác D thảm sát một nhóm phụ nữ và trẻ em Do Thái, Đại úy Ulrich Gunzert đã yết kiến Manstein và thỉnh cầu ông ngăn chặn các hành động vô nhân đạo như như vậy. Theo như Gunzert sau này kể lại, Manstein bảo viên đại úy nên "quên đi những gì anh thấy" và dồn tâm sức vào việc đánh chiếm bán đảo. Gunzert về sau đã phê bình thái độ của Manstein là "một sự trốn tránh trách nhiệm, một sự suy đồi đạo đức". Tại phiên tòa xử tội ác của Manstein sau chiến tranh, ông đối diện với 7 cáo buộc liên quan đến các hành vi ngược đãi và tàn sát người Do Thái và tù binh ở Krym.
Trận bao vây Leningrad
Sau chiến thắng Sevastopol, Hitler tín nhiệm Manstein làm chỉ huy các binh đoàn Đức tại Leningrad, nơi đã bị vây hãm từ tháng 8 năm 1941. Ngày 27 tháng 8 năm 1942, Manstein lên mặt trận Leningrad, đem theo nhiều binh lực của Tập đoàn quân số 11 vừa đánh trận Sevastopol. Do chưa đủ quân số để công chiếm thành phố, Manstein dự định triển khai Chiến dịch Ánh sáng phương Bắc hòng triệt phá tuyến đường tiếp tế của Leningrad tại hồ Ladoga.
Nhưng đúng ngày Manstein tới Leningrad, các Tập đoàn quân xung kích số 2 và 8 (Liên Xô) mở Chiến dịch Sinyavino đánh vào phòng tuyến Tập đoàn quân số 18 (Tư lệnh: Thượng tướng Kỵ binh Georg Lindemann) ở phía tây hồ Ladoga. Quân Liên Xô chọc sâu vào đội hình địch và vòng vây Leningrad có nguy cơ bị phá tan. Trước tình hình nguy ngập, Hitler trực tiếp đánh điện Manstein và ra lệnh cho ông phát động phản kích. Sau hàng loạt trận đánh dữ dội, Manstein tổ chức phản công lớn vào ngày 21 tháng 9 và chẻ tập đoàn quân Liên Xô làm đôi. Giao tranh kéo dài cho đến tận ngày 10 tháng 10. Mặc dù Chiến dịch Sinyavino bị đập tan, thương vong ghê gớm của quân Đức đã buộc họ phải chuyển sang thế thủ và khai tử Chiến dịch Ánh sáng phương Bắc. Quân Liên Xô cuối cùng cũng giải phóng được Leningrad vào tháng 1 năm 1944.
Chiến cuộc 1942-1943
Nhằm giải quyết tình trạng thiếu dầu mỏ của mình, quân đội Đức triển khai Chiến dịch Blau đặng cắt đứt và đánh chiếm vựa dầu quan trọng Kavkaz trong mùa hè năm 1942. Sau nhiều trận tập kích của không quân, Tập đoàn quân số 6 của Đại tướng Friedrich Paulus nhận lệnh đánh chiếm Stalingrad, một thành phố then chốt trên sông Volga. Được hỗ trợ bởi Tập đoàn Thiết giáp số 4, Tập đoàn quân số 6 đã xâm nhập Stalingrad vào ngày 12 tháng 9. Họ đánh giáp lá cà nảy lửa với quân trú phòng Liên Xô trên hè phố. Ngày 19 tháng 11, Hồng quân phát động một chiến dịch phản công quy mô lớn mang mật danh Sao Thiên Vương hòng bao vây cô lập các binh đoàn Đức trong thành phố. Mục tiêu này được hoàn thành vào ngày 23 tháng 11. Lo ngại không còn cơ hội tái chiếm Stalingrad nếu để mất nó trong lần này, Hitler chỉ định Manstein làm Thủ trưởng Cụm Tập đoàn quân sông Đông mới được thành lập. Ông nhận nhiệm vụ dùng Tập đoàn Thiết giáp số 4 và các đơn vị trợ chiến Romania mở chiến dịch Bão Mùa đông để giải vây cho Paulus. Theo nhận định ban đầu của Manstein vào ngày 24 tháng 11, Tập đoàn quân số 6 sẽ đứng vững nếu nhận được sự yểm trợ đầy đủ của không quân.
Chiến dịch Bão Mùa Đông vào bùng nổ ngày 12 tháng 12 và gây cho Hồng quân choáng váng. Phần lớn các đơn vị Liên Xô bị tấn công đã kiệt sức sau nhiều tuần chiến đấu và chưa được tiếp tế. Do đó, các Sư đoàn Thiết giáp số 6, 12 và 23 của Manstein nhanh chóng đột phá phòng tuyến Hồng quân và thọc sâu hơn 50 km ngay trong ngày đầu. Họ đè bẹp một số đơn vị pháo binh và đe dọa bao vây Tập đoàn quân số 51 (Liên Xô). Hôm sau, quân thiết giáp Đức bắt gặp và đánh thắng Tập đoàn Xe tăng số 5 (Liên Xô), nhưng bị một cuộc phản công của Hồng quân chặn đứng vào buổi tối. Trong suốt 3 ngày tới, hai bên chạm trán nảy lửa quanh làng Verkhne-Kumskiy và sông Alksay. Sư đoàn Thiết giáp số 6 (Đức) mất quá nửa số xe tăng của mình trong các trận giao chiến. Được không quân yểm hộ chặt chẽ, quân thiết giáp Đức cuối cùng đã bẻ gãy đòn phản kích của "bọn Nga" và tiếp tục tiến công vào ngày 15 tháng 12. Ba sư thiết giáp của Manstein cùng các đơn vị trợ chiến thuộc Quân đoàn Thiết giáp LVII chỉ còn cách thành phố 58 km vào ngày 20 tháng 12, khi họ bị xe tăng Liên Xô phản công mãnh liệt trên sông Myshkova dưới bão tuyết. Về cơ bản, Chiến dịch Bão Mùa đông đã bị phá sản vào ngày 23 tháng 12.
Ngày 18 tháng 12, Manstein đã van nài Tập đoàn quân số 6 hãy cố mở một con đường máu nhưng Paulus từ chối do Hitler đã thẳng thừng bác bỏ ý định này và ra lệnh cho binh đoàn này phải trụ lại trong thành phố. Các nỗ lực thuyết phục Hitler và Paulus của Manstein đều vô ích. Tình hình Tập đoàn quân số 6 ngày càng trở nên tồi tệ; binh lính phải lăn lộn với rận chấy, đói rét và thiếu hụt lương thực, đạn dược. Họ còn liên tục hứng chịu những đòn "tra tấn" cực mạnh của pháo phòng không và máy bay chiến đấu Liên Xô. Hồng quân đánh chiếm các căn cứ không quân trong và ngoài Stalingrad, làm suy yếu các nỗ lực tiếp tế bằng đường không của địch. Ngày 24 tháng 1 năm 1943, Manstein thuyết phục Hitler cho Paulus đầu hàng nhưng bị Quốc trưởng gạt phắt. Phớt lờ mệnh lệnh của Hitler, Paulus đem 91.000 tàn binh ra đầu hàng vào ngày 2 tháng 2 năm 1943, kết thúc trận Stalingrad với thắng lợi có tính bước ngoặt của Liên Xô.
Trong khi đó, Liên Xô phát động Chiến dịch Sao Thổ (12 tháng 12 năm 1942 – 18 tháng 2 năm 1943) trên phần lớn các khu vực phía nam của mặt trận, nhằm chiếm lấy Rostov và tiêu diệt Cụm Tập đoàn quân A đang trên đường rút khỏi Kavkaz. Manstein buộc phải chia quân ra để giải tỏa bớt áp lực cho Cụm Tập đoàn quân A khi họ triệt thoái tới Ukraina, và như thế, tránh được sự sụp đổ hoàn toàn của toàn bộ mặt trận. Cuộc tấn công của Hồng quân cũng đã ngăn không cho Quân đoàn Thiết giáp XLVIII (gồm có Sư đoàn Bộ binh số 336, Sư đoàn Không quân Dã chiến số 3, và Sư đoàn Thiết giáp số 11) dưới quyền chỉ huy của Thượng tướng Otto von Knobelsdorff liên kết với các đơn vị tham gia Chiến dịch Bão Mùa đông. Thay vào đó, Quân đoàn Thiết giáp XLVIII bị cầm chân tại bờ sông Chir và phải chống chọi với các đợt công kích liên tục của địch. Dưới sự chỉ huy của Thiếu tướng Hermann Balck, Sư đoàn Thiết giáp số 11 đã thực hiện nhiều cuộc phản kích vào các chỗ lồi của Hồng quân, gây ra không ít tổn thất cho đối phương. Quân đoàn Thiết giáp XLVIII cuối cùng đã buộc phải rút lui sau khi Tập đoàn quân số 8 (Ý) ở hai cánh sườn họ bị đập nát.
Thừa thắng, Hồng quân mở hàng loạt chiến dịch tấn công trong các tháng 1 – 2 năm 1943 nhằm đánh bại triệt để quân Đức và chư hầu ở miền Nam Nga. Sau khi tiêu diệt tàn quân Ý và Hungary trong Chiến dịch Ostrogozhsk–Rossosh, Liên Xô thực hiện Chiến dịch Ngôi Sao và Chiến dịch Bước Nhảy Vọt hòng chiếm lại Kharkov, Kursk và cô lập các khối quân Đức trên hướng đông Donetsk. Hồng quân đã đánh thủng phòng tuyến địch và uy hiếp toàn bộ mặt trận quân Đức ở phía nam. Để loại trừ mối đe dọa này, Cụm Tập đoàn quân sông Đông, Cụm Tập đoàn quân B và một số thành phần của Cụm Tập đoàn quân A được gộp thành Cụm Tập đoàn quân Nam (Heeresgruppe Süd) do Manstein thống lĩnh vào đầu tháng 2.
Chiến dịch Donets
Trong các cuộc tấn công vào tháng 2 năm 1943, Hồng quân Xô Viết đã xuyên thủng phòng tuyến quân Đức và đoạt lại Kursk ngày 9 tháng 2. Dù Hitler phát lệnh giữ Kharkov "bằng mọi giá" vào ngày 13 tháng 2, Đại tướng Tư lệnh Quân đoàn Thiết giáp II SS Paul Hausser thu quân khỏi thành phố 2 ngày sau đó. Ngày 17 tháng 2, Hitler đích thân ra tìền tuyến. Trong 3 ngày họp liên tục, Manstein đã thuyết phục Quốc trưởng cho phản công vào Kharkov hòng giành lại thế chủ động và cứu Cụm Tập đoàn quân Nam khỏi nguy cơ bị hợp vây. Manstein cũng gắng sức chấn chỉnh binh lực và nhận hàng loạt viện binh từ các tập đoàn quân lân cận. Ngày 20 tháng 2, Chiến dịch Donets mở màn khi Manstein huy động các Tập đoàn Thiết giáp số 1 (Tư lệnh: Đại tướng Eberhard von Mackensen) và 4 (Tư lệnh: Đại tướng Hermann Hoth) phản kích từ hướng nam vào sườn Hồng quân. Do tưởng quân Đức đang sắp sửa rút chạy nên phía Liên Xô hoàn toàn bị choáng ngợp. Trong một trận đánh trải dài từ Krasnoarmeiskaia đến phía bắc sông Donets, Quân đoàn Thiết giáp XL Tập đoàn Thiết giáp số 4 đã bao vây và tiêu diệt Cụm Tác chiến Popov gồm 4 quân đoàn thiết giáp thiếu quân. Ngày 22 tháng 2, Manstein và Hoth xua Quân đoàn Thiết giáp II SS cùng Quân đoàn Thiết giáp LVIII đánh thốc vào sườn Phương diện quân Tây Nam (Đại tướng Nikolai F. Vatutin chỉ huy), trong khi quân của Vatutin (Quân đoàn Xe tăng XXV) đang ở cách Zaporozhye 19 km. Do thiếu hụt nhiên liệu, các đơn vị phía sau của Vatutin phải buông bỏ khí giới và tháo chạy lên mạn bắc. Quân Đức tiêu diệt 23.000 binh sĩ Hồng quân và bắt sống 9.000 tù binh.
Ngày 1 tháng 3, trong lúc Hồng quân đang tấn kích Phân bộ quân Kempf (Tư lệnh: Thượng tướng Thiết giáp Werner Kempf), Manstein tiến quân về Kharkov hòng bọc hậu Hồng quân trên hướng tây thành phố. Tập đoàn Thiết giáp số 4 (Đức) quần thảo với Tập đoàn Xe tăng số 3 của Trung tướng Pavel S. Rybalko trong suốt 5 ngày trời. Đến ngày 5 tháng 3, quân Đức đã đè bẹp các khối quân của Tập đoàn Xe tăng số 3 trên sông Berestovaya phía tây-nam thành phố. Họ thu giữ 61 xe tăng, 225 cỗ pháo cùng 600 xe mô-tô trong một mấu lồi nhỏ hẹp ở Krasnogad. Tiếp theo đó, Manstein đánh thọc vào sườn Phương diện quân Voronezh (Đại tướng Filipp I. Golikov) ngày 7 tháng 3. Quân Đức nhanh chóng đục một lỗ thủng giữa các Tập đoàn Xe tăng số 3 và 69 của Liên Xô. Được rảnh tay từ ngày 5 tháng 3, Phân bộ quân Kempf cũng dồn đánh Phương diện quân Voronezh từ mạn tây. Bộ Tư lệnh Tối cao Liên Xô phải điều Quân đoàn Xe tăng Cận vệ II sang cứu viện cho Golikov. Dù Manstein yêu cầu Quân đoàn Thiết giáp II SS hợp vây Kharkov từ phía Bắc, Hausser đã cố tình tung các Sư đoàn Thiết giáp số 1, 2 SS đột kích trực diện vào thành phố ngày 11 tháng 3. Hậu quả là họ phải trải qua bốn ngày đánh nhau đẫm máu giành giật từng căn nhà với lực lượng Hồng quân đồn trú. Quân Đức cuối cùng cũng hoàn tất đánh chiếm Kharkov vào ngày 15 tháng 3. Trong lúc đó, trên phía bắc Phân bộ quân Kempf, Sư đoàn Đại Đức tiến nhanh về Belgorod và đánh tan các đơn vị xe tăng Liên Xô ở Gaivoron. Sự thất thủ của Belgorod ngày 17 tháng 3 đã tạo nên một "mấu lồi" ăn sâu vào phòng tuyến quân Đức tại gần Kursk.
Chiến dịch Donets kết thúc với thắng lợi giòn giã của Cụm Tập đoàn quân Nam. Không chỉ cứu toàn bộ mặt trận khỏi nguy cơ tan vỡ, chiến dịch đã đánh sụm 52 sư đoàn Liên Xô và giành lại được một vùng lãnh thổ rộng lớn. Hồng quân chịu thiệt hại nặng nề với khoảng 46.000 quân tử trận và 14.000 bị bắt làm tù binh. Quân Đức cũng lấy 600 xe tăng cùng 1.200 khẩu pháo làm chiến lợi phẩm. Vì chiến công này, Manstein được Hitler tưởng thưởng Lá sồi gắn vào Huân chương Chữ thập Hiệp sĩ của ông. Tháng 4 năm 1943, Bộ Tư lệnh Tối cao Đức bắt tay vào việc chuẩn bị thanh toán các khối quân Liên Xô trong "chỗ lồi" Kursk.
Chiến dịch Thành Trì
Manstein đề nghị xử lý mấu lồi Kursk bằng một đòn tấn công gọng kìm ngay sau Chiến dịch Donets, nhưng Hitler e rằng hành động đó sẽ phân tán quân Đức khỏi lòng chảo Donets - một khu công nghiệp quan trọng trên chiến trường Liên Xô. Không những thế, mùa tuyết tan mở đầu ngày 23 tháng 2 đã biến địa hình Nga thành những bãi bùn lầy lội, khiến xe tăng Đức khó di chuyển. Bộ Tư lệnh Tối cao bác bỏ đề xuất của Manstein và quyết định tranh thủ chuẩn bị binh lực, đợi hết mùa băng tan mới tấn công. Họ lập kế hoạch mở Chiến dịch Thành Trì đặng hợp vây bằng Kursk: cánh phía Bắc gồm Tập đoàn quân số 9 do Đại tướng Walter Model chỉ huy và cánh phía Nam gồm Cụm Tập đoàn quân Nam do Manstein dẫn dắt. Thông qua các nhân viên tình báo và trinh sát, Bộ Tư lệnh Tối cao Liên Xô đã nắm bắt được các kế hoạch tấn công của đối phương. Họ ra sức tăng cường lực lượng trong khu vực này.
Chiến dịch Thành Trì là chiến dịch tấn công chiến lược cuối cùng của Đức trên chiến trường Đông Âu, và là một trong những trận đánh lớn nhất trong lịch sử thế giới, với sự tham gia của 4 triệu quân nhân. Vào thời điểm quân Đức nổ súng tiến công (ngày 5 tháng 7 năm 1943), họ bị áp đảo về quân số với tỷ lệ 3 chọi 1. Ở hướng bắc, Model xua Tập đoàn quân số 9 tấn công trên một địa bàn hẹp (chỉ rộng 48 km), nhưng sau 7 ngày đánh nhau quyết liệt, họ chỉ chiếm được 12 km đất Nga. Ngày 12 tháng 7, Hồng quân phát động Chiến dịch Kutuzov đánh vào Orel, thu hút cánh quân của tướng Model khỏi Kursk. Quân Đức thành công hơn đôi chút ở phía nam, nơi Manstein dùng Tập đoàn Thiết giáp số 4 thọc sâu 32 km vào phòng tuyến Hồng quân trong các ngày 5 – 12 tháng 7 năm 1943. Thoạt tiên, Tập đoàn Thiết giáp số 4 đánh thủng các tuyến phòng thủ số 1 và 2 của Hồng quân trong những trận đánh dữ dội từ ngày 5 đến ngày 6 tháng 7. Kế đến, quân Manstein phá vỡ tuyến phòng thủ số 3 của Hồng quân vào ngày 7 tháng 7, nhưng ngay sau đó họ vấp phải nhiều đòn phản kích mạnh từ 3 hướng đông bắc, bắc và tây. Các cuộc phản công này đã làm cho tiến độ hành quân của Manstein bị chậm lại rất nhiều. Nhưng đến ngày 11 tháng 7, Cụm Tập đoàn quân Nam đã đẩy quân Liên Xô về sát làng Prokhorovka. Bộ Tư lệnh Tối cao Liên Xô huy động các lực lượng dự bị sung sức phản kích vào Prokhorovka, mở ra một trân đánh xe tăng dữ dội vào ngày 12 tháng 7. Sau một ngày kịch chiến, Hồng quân Xô Viết giữ vững Prokhorovka và loại 300 xe tăng của Manstein khỏi vòng chiến. Chiến dịch Thành Trì chấm dứt ngày 13 tháng 7 khi Hitler phát lệnh ngừng tấn công khu vực Kursk. Manstein phản đối và cho rằng ông còn nhiều quân dự bị chưa tham chiến, trong khi lực lượng dự bị Liên Xô đã khánh kiệt. Tuy nhiên, Hitler dứt khoát hủy bỏ cuộc tấn công. Mặc dù Hồng quân chịu thiệt hại nặng nề, các sử gia hiện đại đã bác bỏ khả năng quân Đức thắng lợi nếu chiến dịch được kéo dài sau ngày 13.
Từ Kursk đến sông Dnieper
Ở một mức độ nào đó, Manstein đánh giá trận Kursk là một thắng lợi của Đức, vì nó "vắt sức" Hồng quân đến mức họ khó thể đánh lớn trong phần còn lại của năm 1943. Nhưng ông đã sai lầm: quân đội Liên Xô hồi phục nhanh hơn nhiều so với tưởng tượng của ông. Manstein điều quân thiết giáp dự bị của mình tới sông Mius và hạ lưu sông Dnieper mà không nhận ra rằng hoạt động của Hồng quân ở đây chỉ là nghi binh. Ngày 3 tháng 8, Liên Xô mở Chiến dịch Nguyên soái Rumyantsev, gây áp lực lớn lên Cụm Tập đoàn quân Nam. Sau 2 ngày chiến đấu kịch liệt, Hồng quân đã đánh thủng phòng tuyến địch và chiếm lại Belgorod, khoét một lỗ hổng rộng 56 km vào giữa Tập đoàn Thiết giáp số 4 với Phân bộ quân Kempf trấn thủ Kharkov. Manstein gọi viện binh và Hitler chi viện cho ông Sư đoàn số 33 SS "Đầu lâu", Sư đoàn số 22 SS "Đế chế", Sư đoàn Thiết giáp số 7 cùng Sư đoàn Bộ binh Cơ giới "Đại Đức".
Trong lúc đó, Manstein cho xây dựng một hệ thống phòng tuyến dọc theo sông Dnieper, nhưng Hitler ngăn cấm Manstein triệt binh và ép ông phải giữ Kharkov. Được tăng cường lực lượng, Manstein xua quân thiết giáp mở hàng loạt đợt phản kích gần Bohodukhiv và Okhtyrka từ ngày 13 đến ngày 17 tháng 8, nhưng bị đẩy lui với thương vong lớn. Ngày 20 tháng 8, ông báo cáo lên Bộ Tư lệnh Tối cao rằng các cụm quân Đức ven sông Donets đang bị kéo căng trên một mặt trận quá rộng, nên ông cần Hitler hoặc là gửi thêm tiếp viện cho ông, hoặc là chấp nhận rút quân về sông Dnieper. Các đòn tấn công dồn dập của Hồng quân cắt rời Cụm Tập đoàn quân Trung tâm trên mạn bắc khỏi Cụm Tập đoàn quân Nam và đe dọa nghiêm trọng sườn phía bắc của Manstein. Khi Liên Xô dốc hết hết quân chủ lực dự bị chiến lược cho trận tái chiếm Kharkov vào các ngày 21–22 tháng 8, Manstein chớp cơ hội này để trám lại lỗ thủng giữa Tập đoàn quân số 8 với Tập đoàn Thiết giáp số 4 và chấn chỉnh trận tuyến. Hitler cuối cùng cũng cho phép Manstein triệt thoái sang sông Dnieper vào ngày 15 tháng 9. Trên đường tháo chạy, Manstein ban bố chính sách tiêu thổ trong một khu vực cách sông khoảng 20 – 30 km. Đây chính là nguồn gốc của một số cáo buộc tội ác chiến tranh nhằm vào ông sau năm 1945. Trong hai tháng 7 – 8, Hồng quân bị thiệt hại tới hơn 1,6 triệu người, 1 vạn xe tăng và pháo tự hành, cùng với 4.200 phi cơ. Tổn thất của quân Đức có phần nhẹ hơn, nhưng tác hại rất lớn đến nỗ lực chiến tranh của họ, do Đức không còn đủ nhân lực và tài lực mà bù đắp. Trong 4 cuộc họp liên tiếp vào tháng 9 năm đó, Manstein cố sức thuyết phục Hitler cải tổ bộ tư lệnh tối cao và nới rộng quyền tự quyết của các tướng lĩnh, nhưng bị gạt phắt.
Chiến dịch Dnieper
Trong suốt tháng 9 năm 1943, Cụm Tập đoàn quân Nam hối hả rút chạy sang bờ tây sông Dnieper. Đến ngày 30 tháng 9, họ đã tập trung đầy đủ trên phòng tuyến Dnieper. Mặc dù nhiều đơn vị Đức trở nên nhốn nháo trên đường rút, Manstein khá hài lòng với cuộc triệt thoái, vì 20 vạn thương binh cùng 2.500 đoàn xe chở quân khí và lương thảo đã được di tản an toàn khỏi trận địa phía đông. Sau Chiến dịch Rumyantsev, Manstein phán đoán rằng "quân địch" sẽ mở một cuộc tấn công mới trên hướng Kiev; và thật vậy, Đại bản doanh Liên Xô dự kiến sử dụng Phương diện quân Ukraina 1 của tướng Vatutin tấn công Tập đoàn Thiết giáp số 4 gần Kiev. Nhưng Hồng quân đã che giấu được thời gian và địa điểm chính xác của chiến dịch sắp tới. Manstein cho tăng cường các hoạt động trinh sát nhưng không mấy hiệu quả. Ngày 24 tháng 9 năm 1943, sau khi Vatutin tập trung một lực lượng mạnh trước Velikii Bukrin, Quân đoàn Không vận 3 (Liên Xô) đổ xuống chiếm Bukrin làm bàn đạp cho đại quân tiến vào Kiev từ hướng nam. Họ bị quân Đức chặn đánh dữ dội và không thể bứt phá khỏi đầu cầu Bukrin.
Thất bại tại Bukrin không làm cho Vatutin nao núng. Trong tuyệt mật, ông nhanh chóng di chuyển Tập đoàn Xe tăng số 3 cùng nhiều đơn vị bộ binh và pháo binh từ khu vực Bukrin sang một đầu cầu nhỏ ở Liutech (phía bắc Kiev), nơi được Tập đoàn quân số 38 (Đức) trấn thủ. Vì Liutech có địa hình rất lầy lội, Manstein và các tướng Đức không bao giờ nghĩ đây sẽ là điểm xuất phát cho mũi chủ công của Hồng quân. Ngày 1 tháng 11 năm 1943, Vatutin dùng các Tập đoàn quân số 27 và 40 mở một đòn tấn công vào Bukrin. Tin rằng đây là mũi chủ công của Liên Xô, Manstein dốc Sư đoàn Das Reich (SS) và nhiều đơn vị dự bị cơ động khác ra chống giữ. Do vậy, quân Đức hoàn toàn choáng ngợp khi Tập đoàn Xe tăng số 3, có sự yểm trợ chặt chẽ của Tập đoàn Không quân số 2, phóng ra khỏi đầu cầu Bukrin và nghiền nát Tập đoàn quân số 38 vào ngày 3 tháng 11. Thừa thắng, Phương diện quân Ukraina 1 mở rộng đánh chiếm khu vực Dnieper và chặt đứt tuyến đường Kiev - Zhytomyr. Đêm ngày 5 tháng 11, Tập đoàn quân số 38 phải tháo chạy vào các vùng phụ cận phía bắc Kiev. Sáng hôm sau, Manstein ra lệnh rút toàn bộ lực lượng khỏi thành phố. Trong khi đó, Tập đoàn quân số 17 trên cánh bắc ủa ông đã bị Phương diện quân Ukraina 4 bao vây cô lập ở Krym từ ngày 28 tháng 10.
Sau chiến thắng Kiev, Tập đoàn Xe tăng số 3 (Liên Xô) nhanh chóng quét sạch quân Đức khỏi ba thành phố Korosten, Zhytomyr và Fastov. Manstein huy động 6 sư thiết giáp và 1 sư bộ binh của Quân đoàn Thiết giáp XXXXVIII phản công giành lại thủ phủ Ukraina. Dưới sự dẫn dắt của Thượng tướng Thiết giáp Hermann Balck, quân Đức tái chiếm được Zhytomyr và Korosten vào giữa tháng 11, nhưng không thể giành một thắng lợi mang tính quyết định nào. Quân hai bên đều bị thương vong lớn, nhưng Kiev vẫn nằm trong tay người Nga. Sau khi được tăng cường lực lượng, Vatutin phát động Chiến dịch tấn công hữu ngạn Dnieper vào ngày 24 tháng 12 năm 1943 và thắng hết trận này đến trận khác. Manstein liên tục xin Hitler tăng viện binh nhưng bị ông ta từ chối. Trong cuộc yết kiến Hitler ngày 4 tháng 11 năm 1944, Manstein thưa rằng phòng tuyến Dnieper không thể trụ lâu và quân Đức cần rút lui để bảo toàn lực lượng. Đồng thời, ông một lần nữa đề nghị Hitler thay đổi cơ cấu chỉ huy tối cao hầu mở rộng quyền quyền điều hành tác chiến cho các tướng. Cả hai đề xuất này đều bị gạt phắt, vì Hitler luôn tin mình đủ sức một mình điều khiển chiến lược tổng thể của Đức trong chiến tranh.
Trước thế tấn công ồ ạt của Hồng quân Xô Viết, tàn binh Cụm Tập đoàn quân Nam phải rút sâu về phía tây vào tháng 1 năm 1944. Không cần đợi sự cho phép của Hitler, Manstein phát lệnh cho các Quân đoàn XI và XXXXII (gồm 6 sư đoàn với khoảng 56.000 quân) mở đường máu thoát khỏi vòng vây ở Korsun–Cherkassy trong đêm ngày 16 – 17 tháng 2. Một nhúm quân Đức đã sổng khỏi "nồi hơi Korsun", nhưng chỉ sau khi 6 sư đoàn của Manstein bị tiêu diệt hoàn toàn. Bước sang đầu tháng 3, quân đội Liên Xô đã hất quân Đức ra xa sông Dnieper. Ngày 19 tháng 3, Hitler ra chỉ thị yêu cầu kể từ lúc đó trở đi, quân tướng phải bám giữ mọi cứ mọi cứ điểm cho đến người cuối cùng. Sau khi Hồng quân hình thành bao vây Tập đoàn Thiết giáp số 1 vào ngày 21 tháng 3, Manstein vội bay tới tổng hình dinh của Hitler tại Lvov đặng thuyết phục ông ta thay đổi ý định. Hitler cuối cùng cũng chấp nhận rút lui, nhưng 9 ngày sau đó (30 tháng 3), ông ta huyền chức Manstein.
Chân dung Manstein xuất hiện trên bìa số ngày 10 tháng 1 năm 1944 của tạp chí Time, trên dòng chữ: "Rút lui có thể thật tuyệt vời, nhưng chiến thắng là ở phía bên kia".
Sa thải
Manstein được ban thưởng thanh bảo kiếm của Huân chương Thập tự Hiệp sĩ vào ngày 30 tháng 3 năm 1944 và bàn giao Cụm Tập đoàn quân Nam cho Thống chế Walter Model, một thành viên Quốc xã trung thành, trong một cuộc hội kiến ở Berghof vào ngày 2 tháng 4. Sau khi mất chức, Manstein vào một bệnh viện mắt tư nhân tại Breslau nằm gần Dresden để được chữa bệnh ở mắt phải. Kế đến, ông lui về tư gia ở Liegnitz và không bao giờ được trọng dụng nữa.
Mặc dù Manstein đã nhiều lần gặp gỡ 3 người chủ mưu chính là Claus von Stauffenberg, Henning von Tresckow, và Rudolf Christoph Freiherr von Gersdorff khi ông còn tại nhiệm, ông không tham gia âm mưu ám sát Hitler vào tháng 6 năm 1944. Ông luôn giữ vững lập trường: "Các thống chế Phổ không bao giờ làm binh biến" (tiếng Đức: Preussische Feldmarschälle meutern nicht) Dù vậy, nhà ông vẫn bị đặt dưới sự giám sát của lực lượng Gestapo. Tháng 10 năm 1944, Manstein mua một điền trang ở Đông Pommern, nhưng phải buông bỏ nó sau khi Hồng quân Xô viết tràn ngập khu vực này. Sau khi di tản khỏi Liegnitz vào ngày 22 tháng 1 năm 1945, Manstein đem gia quyến đến lánh nạn ở Berlin trong một thời gian ngắn. Họ tiếp tục sơ tán vào miền Tây Đức cho tới khi tiếng súng ngừng nổ ở châu Âu vào tháng 5. Manstein lại gặp biến chứng ở mắt phải và được điều trị ở Heiligenhafen, nơi ông bị lính Anh bắt sống và chuyển vào trại tù binh chiến tranh gần Lüneburg ngày 22 tháng 8.
Sau chiến tranh
Xét xử
Tháng 10 năm 1945, Manstein được di chuyển tới Nürnberg, nơi ông làm nhân chứng bào chữa cho Bộ Tư lệnh Tối cao và Bộ Tổng tham mưu trong phiên tòa xét xử tội phạm chiến tranh năm 1946. Tại Nürnberg, ông hợp tác với Thượng tướng Kỵ binh Siegfried Westphal biên soạn và trình bày một văn kiện dài 132 trang vào tháng 8. Cùng với hồi ký "Chiến thắng bị đánh mất" (Verlorene Siege) của Manstein về sau, văn kiện này đã sản sinh huyền thoại về một quân đội Đức "trong sạch", không nhúng tay vào những tội ác diệt chủng của đảng phát xít. Ông cũng đưa ra lời khai về hoạt động của các Tổ Công tác SS, về việc đối xử với tù binh. Về tính phục tùng của quân đội; đặc biệt là mối liên hệ giữa tinh thần này với Sắc lệnh Chính ủy do Hitler ban hành năm 1941, yêu cầu mọi chính ủy, chính trị viên Xô Viết phải bị bắn mà không qua xét xử. Manstein thừa nhận rằng ông đã nghe mệnh lệnh này, nhưng ông không thực thi nó. Các tài liệu từ năm 1941 được trình diện ở Nürnberg và phiên tòa xử Manstein về sau này đã phủ định tuyên bố của ông: trên thực tế, ông thường xuyên nhận báo cáo về hàng trăm vụ hành quyết chính ủy, chính trị viên trong suốt mùa hè năm 1941. Ông cũng cam đoan không hề hay biết về tội ác của các Tổ Công tác SS, và làm chứng là bộ đội của ông không dính líu vào các vụ tàn sát dân Do Thái. Tuy nhiên, trong lời khai của chính Manstein, Tổ trưởng Tổ Công tác D Otto Ohlendorf quả quyết rằng Manstein biết các hành vi tàn bạo trên và Tập đoàn quân số 11 đã tích cực tiếp tay cho chúng. Vào tháng 9 năm 1946, Bộ Tư lệnh Tối cao và Bộ Tổng tham mưu được xác nhận không phải là tổ chức tội ác chiến tranh.
Sau lời khai của Manstein ở Nürnberg, ông bị giam giữ trong Trại giam đặc biệt số 11 ở Bridgend, Wales. Ông thường trao đổi thư từ với sử gia quân sự nổi tiếng người Anh B. H. Liddell Hart, một người rất khâm phục Manstein và khen ông là nhà chỉ huy thiên tài. Hai người giữ liên lạc với nhau sau khi Manstein rời trại giam, sau này Liddell Hart đã giúp Manstein hoàn chỉnh phiên bản tiếng Anh của hồi ký Verlorene Siege năm 1958. Dưới sức ép từ Liên Xô, vào tháng 7 năm 1948, chính phủ Anh quyết định khởi tố Manstein vì các tội ác chiến tranh của ông. Phiên tòa xét xử ông được tổ chức ở Hamburg từ ngày 23 tháng 8 đến ngày 19 tháng 12 năm 1949. Manstein bị cáo buộc về 17 tội danh, bao gồm 3 tội ở Ba Lan và 14 tội ở Liên bang Xô Viết. Các buộc này xoay quay những hành vi ngược đãi tù binh, tiếp tay cho các Tổ Công tác SS thảm sát người Do Thái ở Ba Lan và Krym, làm khổ cư dân Liên Xô bằng chiến thuật "tiêu thổ" trên đường rút khỏi nước này. Kết thúc phiên tòa, Manstein bị khép vào 9 tội danh và bị tuyên án 18 năm tù.
Phán quyết này đã làm dấy lên những phản ứng gay gắt trong giới hâm mộ Manstein ở cả Anh lẫn Đức. Với sự cộng tác của Liddell Hart, đoàn bào chữa Manstein vận động dư luận Anh kêu gọi ân xá cho Manstein. Tại Đức, người ta coi bản án này là một động cơ chính trị. Mức án của Manstein được giảm xuống 12 năm tù vào tháng 2 năm 1950. Năm 1951, Luật sư Reginald Thomas Paget - Trưởng đoàn bào chữa cho Manstein - đã xuất bản một cuốn sách bán chạy nói về sự nghiệp và phiên tòa của Manstein, trong đó Manstein được khắc họa là một quân nhân chân chính, đã anh dũng chiến đấu chống kẻ thù có quân số áp đảo và bị xử án oan ức. Quyển sách đã góp phần làm tăng sự ngưỡng mộ dành cho Manstein ở Anh. Ông được phóng thích vào ngày 7 tháng 5 năm 1953, một phần vì lý do sức khỏe, nhưng một phần là do sức ép mạnh từ Thủ tướng Anh Winston Churchill, Thủ tướng Liên bang Đức Konrad Adenauer cùng Liddell Hart, Paget và nhiều cảm tình viên khác. Ngày nay, việc Manstein có biết các tội ác tày trời của đảng phát xít hay không, và nếu biết thì ông có đủ can đảm để chống đối hay không, vẫn còn là vấn đề tranh cãi.
Cuối đời
Vài tuần sau khi ra tù, Manstein nhận lời mời thăm chính thức tổng hành dinh Tập đoàn quân Rhine (Anh) ở Bad Oeynhausen trong một động thái nhằm hòa giải mối quan hệ Anh-Đức. Cùng với 10 cựu sĩ quan cấp cao khác, ông được Thủ tướng Adenauer vời làm cố vấn cho Bộ Quốc phòng Cộng hòa Liên bang Đức vào các năm 1955 – 1956. Trên cương vị này, ông đã có nhiều đóng góp cho việc xây dựng và phát triển các lực lượng vũ trang Liên bang Đức.
Quyền hồi ký về chiến tranh của ông, cuốn Verlorene Siege (tạm dịch: "Chiến thắng bị đánh mất"), được xuất bản tại Liên bang Đức năm 1955 và được dịch sang tiếng Anh năm 1958. Trong đó, Manstein đã đưa ra luận điểm rằng nếu các tướng lĩnh của Đức phụ trách về mặt chiến lược chứ không phải là Hitler, thì cuộc chiến tại Liên Xô đã có thể giành được chiến thắng. Vợ chồng Manstein đã thay đổi chỗ ở vài lần sau khi ông được trả tự do năm 1953. Họ sinh sống ở Essen và Bonn một thời gian rồi định cư hẳn ở München năm 1958. Cùng năm đó, ông phát hành tập 2 của hồi ký Verlorene Siege với nhan đề Aus einem Soldatenleben ("Đời lính"). Tập 2 này mô tả cuộc đời Manstein trong giai đoạn từ năm 1887 đến năm 1939. Vợ ông là Jutta Sibylle von Manstein qua đời năm 1966.
Erich von Manstein qua đời trong một cơn đột quỵ tại Irschenhausen, Bayern vào đêm ngày 9 tháng 6 năm 1973, hưởng thọ 85 tuổi. Tang lễ ông được tổ chức trọng thể theo nghi thức quân đội, và hàng trăm quân nhân ở mọi cấp bậc đã tham dự lễ tiễn đưa ông về nơi an nghỉ cuối cùng. Lời cáo phó của ông được đăng trên nhật báo Anh The Times ngày 13 tháng 6 năm 1973 như sau "Ảnh hưởng và tác động của ông đến từ sức mạnh của tâm thức và chiều sâu của tri thức, hơn là phát sinh từ khả năng tạo nên một luồng nhiệt điện trong quân đội hoặc gây ấn tượng về tính cách của mình." (His influence and effect came from powers of mind and depth of knowledge rather than by generating an electrifying current among the troops or "putting over" his personality.). Tạp chí Spiegel (Đức) cũng khen ngợi Manstein là "một trong những nhà chiến lược vĩ đại cuối cùng trong quân sử", nhưng phê phán ông vì "lòng trung thành mù quáng" mà "tiếp tay cho con đường đi đến thảm họa" của nước Đức.
Chú thích
Tham khảo
Đọc thêm
Liên kết ngoài
Chronology .
Erich von Manstein – ein unpolitischer Soldat? - A critical assessment of von Manstein by Michael Schröders (in German).
The New York Review of Books: How Wrong Was Churchill? by Noel Annan
Erich von Manstein's Counterattack by F.W. Weatherbee, Jr. - Encompass: A Journal of Military History Vol. I No. 1; February 2004.
Kursk Reconsidered: Germany's Lost Victory by George M. Nipe, Jr. - World War II Articles 1998
The Crimean Campaign - 1942 by Victor Nitu; worldwar2.ro
The Crimean Campaign at wehrmacht-awards.com
Thống chế Lục quân Đức Quốc Xã
Quý tộc Đức
Nhân vật trong Thế chiến thứ hai
Chiến dịch Stalingrad
Sinh năm 1887
Mất năm 1973
Nhà văn từ Berlin
Quân nhân Đức trong Thế chiến thứ nhất
|
27270
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mehmet%20Ali%20A%C4%9Fca
|
Mehmet Ali Ağca
|
Mehmet Ali Ağca (sinh ngày 9 tháng 1 năm 1958) là một thành viên của nhóm Hồi giáo cực đoan "Sói bạc" ở Thổ Nhĩ Kỳ và là người đã ám sát Giáo hoàng Gioan Phaolô II ở Quảng trường Thánh Phêrô vào ngày 13 tháng 5 năm 1981.
Tiểu sử
Mehmet Ali Ağca sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo ở làng İsmailli, Hekimhan, tỉnh Malatya thuộc Thổ Nhĩ Kỳ. Khi còn trẻ, Ağca rất giàu trí tưởng tượng và có khả năng viết văn tuyệt vời. Ağca bị ảnh hưởng của chủ nghĩa dân tộc Thổ Nhĩ Kỳ từ rất sớm. Ağca có lần bị đưa về đồn cảnh sát vì làm những bài thơ chống lại Armenia. Ağca rơi vào tầm ngắm của một trong những nhóm cực đoan và được đưa đến Syria để huấn luyện các kỹ thuật khủng bố (Ağca đã tuyên bố rằng khoá huấn luyện này được chính phủ Bulgaria tài trợ). Sau đó, Ağca gia nhập tổ chức "Sói bạc".
Năm 19 tuổi, Ağca thực hiện vụ ám sát đầu tiên, nạn nhân là một giáo sư triết học. Ngày 1 tháng 2 năm 1979 tại Istabul, Ağca giết chết giám đốc tờ báo có khuynh hướng tự do, tờ Milliyet, là Abdi İpekçi theo lệnh từ "Sói bạc". Tháng 6 năm 1979, Ağca bị bắt nhưng 6 tháng sau, Ağca tẩu thoát rồi trốn sang Iran. Ağca lần lượt trốn sang nhiều nước châu Âu, trong đó có Bulgaria và Nam Tư.
Tháng 8 năm 1980, Ağca đến Ý liên lạc với đồng bọn để chuẩn bị cho việc ám sát giáo hoàng. Ngày 13 tháng 5 năm 1981, Ağca bắn Giáo hoàng Gioan Phaolô II ở Quảng trường ThánhPhê rô và bị bắt ngay sau đó. Phiên tòa xử Ağca bắt đầu từ ngày 20 tháng 7 năm 1981 và Ağca bị tuyên án chung thân vào ngày 22 tháng 7 cùng năm. Nhưng sau 24 năm bị giam ở Ý và Thổ Nhĩ Kỳ, Ağca được trả tự do ngày 12 tháng 1 năm 2006.
Vụ ám sát Giáo hoàng Gioan Phaolô II
Kế hoạch ám sát
Đầu tháng 8 năm 1980, Ağca sử dụng tên và hộ chiếu giả đến Milano. Sau đó Ağca đến Roma và liên lạc với đồng bọn (gồm 1 người Thổ Nhĩ Kỳ và 2 người Bulgaria). Theo lời của Ağca, kế hoạch được chỉ huy bởi Zilo Vassilev, một mật vụ người Bulgaria ở Roma. Nhưng có một số nguồn tin lại cho rằng kế hoạch được tổ chức bởi Abdullah Çatlı theo hợp đồng 3 triệu marks của Bechir Celenk trả cho nhóm "Sói bạc".
Theo kế hoạch, Ağca và Oral Çelik, sẽ bắn Giáo hoàng rồi cho nổ một quả bom đã đặt sẵn. Trong cơn hỗn loạn, 2 người sẽ trốn vào đại sứ quán Bulgaria. Ngày 13 tháng 5, Ağca ngồi đợi xe Giáo hoàng chạy ngang. Khi xe vừa tới, Ağca bắn 2 phát vào Giáo hoàng Gioan Phaolô II nhưng bị đám đông đè xuống ngay sau đó làm Ağca không thể bắn tiếp hay chạy trốn. Çelik thì lại quá sợ hãi nên không cho nổ bom hay bắn vào Giáo hoàng mà lẫn theo đám đông chạy trốn.
Bản án
Ağca bị tuyên án chung thân ở Ý vào năm 1981 nhưng được tổng thống Carlo Azeglio Ciampi ân xá vào tháng 6 năm 2000. Ağca ngay lập tức bị thuyên chuyển đến Thổ Nhĩ Kỳ, và tiếp tục chịu án vì tội giết Abdi İpekçi năm 1979 và 2 vụ cướp nhà băng trong thập niên 1970. Dù có đơn xin mãn hạn sớm, nhưng tòa phán quyết đơn của Ağca sẽ không được xem xét cho đến năm 2010. Dù vậy, Ağca vẫn được thả vào ngày 12 tháng 1 năm 2006.
Tuy nhiên, ngày 20 tháng 1 năm 2006, Tòa án Tối cao Thổ Nhĩ Kỳ đã phán quyết việc Ağca chịu án ở Ý sẽ không được tính vào bản án ở Thổ Nhĩ Kỳ. Ağca lại bị bắt.
Mối quan hệ với giáo hoàng
Sau khi hồi phục, Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã tuyên bố với mọi người rằng: "Tôi luôn cầu nguyện cho người anh em đã bắn vào tôi, người tôi đã chân thành tha thứ". Giáo hoàng đã viết thư định gửi cho Ağca: "Tại sao anh lại bắn tôi khi mà cả hai chúng ta đều chung đức tin vào Chúa?". Nhưng thay vì gửi bức thư đó, đã quyết định đến gặp Ağca. Năm 1983, Gioan Phaolô II đến thăm Ağca và tha thứ cho việc ám sát ông. Ông còn cầu khẩn nhà cầm quyền Ý ân xá cho Ağca. Giáo hoàng đã giữ liên lạc với gia đình của Ağca nhiều năm sau đó và đã thăm mẹ Ağca năm 1987.
Ngày 13 tháng 4 năm 2005, khi Giáo hoàng Gioan Phaolô II qua đời, người anh trai của Ağca đã nói với Reuters rằng em trai ông rất đau buồn trước cái chết của vị Giáo hoàng. Ngày 5 tháng 4 năm 2005, CNN có tin rằng Ağca muốn được đặc cách đến dự lễ tang của Giáo hoàng vào ngày 8 tháng 4, nhưng chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ đã từ chối yêu cầu của Ağca.
Sau khi ra tù
Vào ngày 2 tháng 5 năm 2008, Ağca nộp đơn xin quốc tịch Ba Lan vì ông muốn trải qua những năm cuối cùng của cuộc đời mình tại Ba Lan, quốc gia quê hương của Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Ağca đã tuyên bố rằng khi được phóng thích, ông muốn thăm mộ của Giáo hoàng Gioan Phaolô II và cộng tác với Dan Brown để viết một cuốn sách.
Ağca đã đến viếng thăm ngôi mộ của Đức Gioan Phaolô II vào ngày 27 tháng 12 năm 2014 và đặt hoa hồng trắng trên ngôi mộ.
Agca cải đạo sang Công giáo và thể hiện mong muốn được trở thành một linh mục Công giáo vào năm 2016 và tới Fatima để kỷ niệm 100 năm các cuộc hiện ra của Đức Maria ở đó.
Phụ lục
Vụ ám sát Giáo hoàng của Ağca là sự kiện chính trong cuốn tiểu thuyết Red Rabbit (Thỏ đỏ) của Tom Clancy năm 2002, dù tên họ của các nhân vật có liên quan đã được thay đổi. Trong truyện còn nói đến sự dính líu của KGB trong vụ ám sát.
Từ số 17/2006 (4634), báo Tuổi trẻ có bài viết về vụ ám sát Giáo hoàng trong chuyên mục Hồ sơ.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Mehmet Ali Ağca at NNDB
Timeline
Bí mật 5 triệu đôla, báo Tuổi trẻ phần 1 , phần 2
Ağca, Mehmet Ali
Ağca, Mehmet Ali
Ağca, Mehmet Ali
Người được tha tội
Ağca
Ağca
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1958
Giáo hoàng Gioan Phaolô II
Tội phạm thế kỷ 20
|
27275
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%BFt%20H%C3%A0n%20th%E1%BB%B1c
|
Tết Hàn thực
|
Tết Hàn Thực hay Tết bánh trôi bánh chay là một ngày tết vào ngày mồng 3 tháng 3 Âm lịch. "Hàn Thực" nghĩa là "thức ăn lạnh". Ngày tết truyền thống này xuất hiện tại một số tỉnh của Trung Quốc, miền bắc Việt Nam và một số cộng đồng người gốc Hoa trên thế giới. Hàng năm vào ngày này, nhiều gia đình cho xay bột, đồ đỗ xanh, làm bánh trôi, bánh chay (ở Trung Quốc nấu chè trôi nước), nấu xôi chè lễ Phật và cúng gia tiên.
Điển tích Trung Quốc
Ở Việt Nam, ngày 3 tháng 3 âm lịch ăn tết Hàn thực "phỏng theo người phương Bắc, kỷ niệm ngày Giới Tử Thôi chết cháy". Hai chữ "Hàn Thực" gắn với một điển tích ở Trung Quốc, được biết tới nhiều qua tiểu thuyết Đông Chu liệt quốc.
Đời Xuân Thu, vua Tấn Văn Công nước Tấn gặp loạn phải bỏ nước lưu vong, gặp được một hiền sĩ tên là Giới Tử Thôi theo giúp. Về sau, Tấn Văn Công trở về làm vua, phong thưởng cho những người có công nhưng lại quên mất Giới Tử Thôi. Giới Tử Thôi không oán giận gì, về nhà đưa mẹ vào núi ở ẩn. Tấn Văn Công nhớ ra, cho người đi tìm. Vì Giới Tử Thôi không chịu ra lĩnh thưởng, Tấn Văn Công hạ lệnh đốt rừng để ép ông phải ra; cuối cùng, hai mẹ con ông đều chết cháy. Vua thương xót, lập miếu thờ và hạ lệnh kiêng đốt lửa ba ngày, chỉ ăn đồ ăn nguội đã nấu sẵn để tưởng niệm.
Tục lệ ở Việt Nam
Tục ăn bánh trôi, bánh chay
Ở Việt Nam hiện nay, người ta chỉ làm bánh trôi hay bánh chay để thế cho đồ lạnh, nhưng chỉ cúng gia tiên, và có ít liên hệ đến Giới Tử Thôi và những kiêng kỵ khác. Vào ngày này, người Việt thường "làm bánh trôi nước, bày cỗ bàn, cúng gia tiên", cho nên bánh trôi còn được gọi là bánh Hàn thực.
Theo nhà nghiên cứu Trần Quang Đức, tục ăn bánh trôi vào ngày Hàn thực ở Việt Nam nhiều khả năng được du nhập vào thời Lê, thịnh hành vào giai đoạn Lê Trung Hưng - Nguyễn. Năm 1773, Lê Quý Đôn cho biết: "Tục nước ta trọng nhất bánh trôi nước, mỗi năm cứ ngày mồng 3 tháng 3 thì làm bánh ấy. Người phương Bắc cũng có, gọi là Thủy đoàn". Theo giải thích của Chỉ Nam ngọc âm giải nghĩa (viết vào khoảng thế kỷ 16 thời Lê) giải thích: "Trôi nước có hiệu Thủy đoàn, trong đường ngoài bột nổi hòn lênh đênh".
Tục ăn bánh cuốn
Theo ghi chép của Lê Tắc, người thời Trần "tiết Hàn Thực, đem bánh cuốn tặng nhau" . Qua bài thơ "Tặng bánh xuân cho ngài thiên sứ Trương Hiển Khanh", làm năm 1291, Trần Nhân Tông viết: "Hôm nay đúng ngày mồng 3 tháng 3, trên chiếc mâm chạm hình mây đỏ bày bánh Xuân thái, đây là phong tục cũ của An Nam xưa nay." Theo Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa, bánh Xuân thái cũng chính là tên gọi khác của bánh cuốn. Sách này đồng thời cho biết: "Quyển bính (bánh cuốn) nhiều nhân càng ngon, hiệu là bánh cuốn lăn tròn khéo thay" .
Nhà nghiên cứu Trần Quang Đức cho biết: Như vậy, vào thời Trần, thậm chí có thể truy lên thời Lý, nhằm tiết Hàn thực, người Việt ăn bánh cuốn và có tục đem bánh cuốn tặng nhau, chưa có tục ăn bánh trôi như thời Lê Nguyễn về sau. Bánh cuốn còn được gọi là bánh Xuân thái (thái: rau), trong có nhân (có thể gồm cả rau lẫn thịt), được cuốn tròn lại, hình dạng khá gần với bánh cuốn ngày nay.
Tục lệ ở một số dân tộc thiểu số Việt Nan
Một số dân tộc thiểu số có dân số lớn tại Việt Nam như đồng bào dân tộc Tày, Nùng… Thường sinh sống ở các tỉnh phía bắc, một phần di cư vào nam, Tây Nguyên vẫn giữ phong tục tảo mộ. Vào ngày mồng 3/3 Tết Hàn Thực cũng là một ngày lễ lớn của các dân tộc này. Họ gọi đó là Tết Thanh Minh hay Lễ Tảo Mộ.
Hàng năm cứ đến ngày 3/3 Âm lịch, đồng bào các dân tộc này, mỗi hộ gia đình sẽ chuẩn bị lễ (gồm xôi, gà hoặc thịt…) để mang đến các phần mộ người thân cúng và tưởng nhớ người đã mất. Ngày này là một ngày lễ quan trọng đối với họ. Dù đi làm ở nơi xa họ vẫn sẽ cố gắng đến thăm phần mộ người thân. Cúng bái và dọn dẹp phần mộ sạch sẽ.
Tranh cãi
Nhà nghiên cứu văn hóa Nguyễn Ánh Hồng cho biết ngày tết này ở Việt Nam thực ra bắt nguồn từ một phong tục của người Trung Quốc nhưng đã được Việt hóa nên được lưu truyền cho đến ngày nay:
Tên gọi của Tết Hàn thực nghe có vẻ bắt chước từ Trung Quốc nhưng không phải, mà khi vào Việt Nam, nó đã hợp nhất với tết bánh trôi, bánh chay, tết tháng 3 của người Việt. Bản thân ngày tết này cũng mang ý nghĩa và thể hiện rõ nét về đặc trưng văn hóa, lối sống, những khát vọng mơ ước rất riêng của người Việt. Chính điều này đã tạo nên sức sống lâu bền của ngày tết bánh trôi, bánh chay. Khác với Tết Hàn thực ở Trung Quốc - thường không đốt lửa trong 3 ngày và chỉ ăn đồ lạnh đã nấu sẵn trước đó, ở Việt Nam, người dân không kiêng lửa, mọi việc nấu nướng vẫn diễn ra bình thường.
Nhà nghiên cứu Trần Quang Đức cũng cho biết trong "An Nam phong tục sách" có ghi tục này "phỏng theo người phương Bắc, kỷ niệm ngày Giới Tử Thôi chết cháy".
Xem thêm
Tết Thanh minh
Tấn Văn công
Tết Đoan ngọ
Tham khảo
Sổ tay văn hoá Việt Nam, Đặng Đức Siêu, Nhà Xuất bản Lao động, 2006
Hàn thực
Ngày lễ và Ngày Hành động trong tháng Tư
Lễ hội Trung Quốc
Ngày lễ Trung Quốc
Lễ hội Việt Nam
Ngày lễ Việt Nam
Lễ hội Triều Tiên
|
27282
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Giao%20thoa%20k%E1%BA%BF%20Fabry-P%C3%A9rot
|
Giao thoa kế Fabry-Pérot
|
Trong quang học, Giao thoa kế Fabry-Pérot (Fabry–Pérot interferometer — FPI) hoặc etalon là một khoang quang học bao gồm hai gương bán phản xạ có độ phản xạ cao (bình thường là khoảng 95% tùy vào ứng dụng cụ thể) đặt song song và hướng mặt phản xạ vào nhau. Chỉ khi các sóng quang học (cụ thể hơn là ánh sáng) đạt tần số cùng với không gian quang học, chúng mới có thể truyền qua khoang quang học được.Ánh sáng khi đi vào khoang quang học sẽ phản xạ đi phản xạ lại nhiều lần, tạo nên sự cộng hưởng và giao thoa đa sóng giữa các sóng phản xạ. FPI được đặt tên theo hai nhà khoa học Charles Fabry và Alfred Pérot đã phát triển công cụ này vào năm 1899. Etalon là một từ tiếng Pháp, étalon, có ý nghĩa là "công cụ đo lường" hoặc "tiêu chuẩn".
Các etalons được sử dụng rộng rãi trong các ứng dụng viễn thông, laser, và quang phổ phân tích để kiểm soát và đo đạc bước sóng của ánh sáng. Những tiến bộ gần đây trong kỹ thuật sản xuất và chế tạo cho phép tạo ra các giao thoa kế Fabry-Pérot có khả năng điều chỉnh với độ chính xác cao. Thiết bị này về mặt kỹ thuật được gọi là một giao thoa kế khi khoảng cách giữa hai bề mặt phản xạ (hoặc độ dài của khoang cộng hưởng) có thể thay đổi, và được gọi là một etalon khi khoảng cách này cố định. Tuy nhiên, trong thực tế thì hai thuật ngữ này thường được sử dụng thay thế cho nhau.
MÔ TẢ CƠ BẢN CỦA MỘT GIAO THOA KẾ FABRY-PÉROT
Bộ phận chính của giao thoa kế Fabry–Pérot là một cặp kính phẳng phản xạ một phần, được cách nhau từ vài micromet tới vài centimet, với các bề mặt phản xạ hướng về nhau. (Hoặc, một etalon Fabry–Pérot sử dụng một tấm mỏng với hai bề mặt phản xạ song song.) Các mặt phẳng phản xạ trong một thiết bị thường được chế tạo theo hình dạng cạnh nghiêng (với góc nghiêng nhỏ hơn 1 độ) để ngăn các mặt sau tạo ra các vân nhiễu xạ giao thoa; các mặt sau thường cũng có một lớp phủ chống phản xạ để hạn chế hiện tượng này.
Trong một hệ thống điển hình, ánh sáng chiếu được cung cấp bởi một nguồn khuếch tán được đặt tại mặt tiêu điểm của một thấu kính chuẩn trực. Một thấu kính hội tụ đặt sau cặp mặt phẳng sẽ tập trung tất cả ánh sáng phát ra từ một điểm trên nguồn thành một điểm duy nhất trên mặt ảnh của hệ thống.
Trong hình minh họa đi kèm, chỉ có đường truyển của một tia phát ra từ điểm A trên nguồn được mô tả. Khi một sóng ánh sáng đi vào khoang quang học của giao thoa kế Fabry-Pérot, nó được truyền qua một phần và phản xạ một phần tại mỗi bề mặt gương. Các sóng truyền qua và phản xạ sau đó lan truyền đi lại giữa các gương, giao thoa với nhau. Hiện tượng giao thoa xuất hiện từ sự ghép chồng của các sóng này, dẫn đến hiện tượng giao thoa tăng cường và triệt tiêu tại các bước sóng khác nhau. Sóng ánh sáng sau đó được tập trung bởi thấu kính hội tụ và đến điểm A' trên màn hình.
Mẫu giao thoa hoàn chỉnh có dạng một tập hợp các vòng tròn tâm đối xứng nếu xét một nguồn sáng có diện tích phát sáng lớn bao gồm điểm A. Những vòng tròn này tương ứng với các bước sóng cụ thể của ánh sáng thỏa mãn các điều kiện giao thoa tăng cường hoặc triệt tiêu trong máy quan sát. Vị trí và khoảng cách giữa các vết phụ thuộc vào các yếu tố như độ phản xạ của gương, khoảng cách giữa các gương và bước sóng của ánh sáng chiếu vào. Độ sắc nét của các vòng tròn phụ thuộc vào khả năng phản xạ của các mặt phẳng. Nếu khả năng phản xạ cao, ánh sáng một màu sẽ tạo ra một tập hợp các vòng tròn sáng hẹp trên nền tối. Một giao thoa kế Fabry–Pérot cho sự phân chia rõ rệt giữa vùng sáng và tối được xem là có độ phân giải cao, và được đánh giá qua hệ số chất lượng Q (Quality factor — Q).
CÁC ỨNG DỤNG PHỔ BIẾN
Vô Tuyến Viễn Thông
Các mạng viễn thông sử dụng kỹ thuật phân chia sóng ghép đa kênh có đa mức cung cấp bổ sung với hệ thống các bộ etalon có kích thước thu nhỏ và được sản xuất chính xác bằng phuơng pháp đúc silica hay kim cương. Những chiếc etalon này có kích thước nhỏ khoảng 2 mm mỗi cạnh, có màu sắc lấp lánh, được gắn trên các khung nhỏ chính xác cao. Các vật liệu được chọn để duy trì khoảng cách giữa các gương ổn định và giữ tần số ổn định ngay cả khi nhiệt độ thay đổi. Kim cương là vật liệu được ưu tiên sử dụng vì nó có khả năng dẫn nhiệt tốt hơn và vẫn có hệ số giãn nở thấp. Vào năm 2005, một số công ty thiết bị viễn thông bắt đầu sử dụng etalon dạng rắn ở hình dạng các sợi cáp quang học. Điều này loại bỏ hầu hết các khó khăn liên quan đến việc gắn kết giữa các chi tiết, căn chỉnh, và làm mát.
Dụng cụ quang học
Quang phổ phân tích
Máy quang phổ để phân tích phổ ánh sáng, có thể cho độ phân giải rất cao.
Thực hiện một bộ lọc tần số ánh sáng có tính chọn lọc cao.
Làm bộ cộng hưởng để phát tia laser.
Thiên văn học
LÝ THUYẾT
XEM THÊM
GHI CHÚ
THAM KHẢO
Giao thoa kế
Laser
Giao thoa
|
27283
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Xe
|
Xe
|
Bài này nói về một phương tiện vận tải người hoặc hàng hóa có bánh xe. Với các nghĩa khác xem xe (định hướng)
Xe (còn gọi chung là xe cộ, tiếng Hán-Việt gọi là Xa (車) như trong từ "xa lộ") là phương tiện giao thông và vận chuyển bằng đường bộ. Xe thường có bánh để di động. Chúng có thể được đẩy hay kéo bởi một động cơ, súc vật, hay người.
Một vài loài xe cũng cò khả năng gây tai nạn cho người lưu thông đặc biệt là ba loại xe này: Xe tải, xe buýt và xe ôto (nói chung với xe hơi và taxi). Nó còn có thể gây ra ô nhiễm môi trường nặng.
Trong tiếng Việt, từ xe chỉ nói về loại phương tiện có bánh xe và đi trên cạn, trên mặt đất, còn từ phương tiện giao thông dùng để chỉ chung hơn, có thể chỉ đến các loại tàu biển, máy bay, tàu hỏa,...
Lịch sử
Xe phổ biến nhất
Có hơn 1 tỷ chiếc xe đạp được sử dụng trên toàn thế giới. Năm 2002 ước tính có khoảng 590 triệu xe hơi và 205 triệu xe máy phục vụ trên thế giới. Ít nhất 500 triệu người Trung Quốc đi xe đạp các công ty sản xuất xe có động cơ nổi tiếng là Honda Cub 50, 78,... đã qua 60 triệu xe vào năm 2008. Các mẫu xe nhất sản xuất là Toyota Corolla, với ít nhất 35 triệu xe đã sản xuất vào năm 2010.
Các loại xe
Thư viện ảnh
Tham khảo
Liên kết ngoài
Phương tiện giao thông
|
27288
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/FIDE
|
FIDE
|
FIDE (/ˈfiːdeɪ/, FEE-day, viết tắt từ tiếng Pháp Fédération internationale des échecs, tức là Liên đoàn Cờ vua Quốc tế) là tổ chức quốc tế liên kết các liên đoàn cờ vua quốc gia toàn thế giới.
Được thành lập tại Paris ngày 20 tháng 7 năm 1924, FIDE được Ủy ban Olympic Quốc tế (IOC) công nhận là cơ quan cao nhất chịu trách nhiệm tổ chức các cuộc thi đấu cờ vua trên phạm vi quốc tế. Khẩu hiệu của FIDE là Gens una sumus (có nghĩa: Chúng ta là một). Chủ tịch hiện tại của FIDE là Arkady Dvorkovich, người Nga.
Ngày nay, với sự gia nhập của 161 nước trên thế giới, FIDE là một trong những tổ chức thể thao năng động nhất trong việc thuyết phục và huy động hàng triệu kì thủ trên thế giới cùng phát triển các hoạt động của môn thể thao trí tuệ. Mục tiêu của FIDE là truyền bá và phát triển cờ vua trên tất cả các quốc gia, cũng như nâng cao văn hóa, sự hiểu biết về cờ vua dưới hình thức một môn thể thao và một môn khoa học thực sự.
Lịch sử
Các liên đoàn thành viên
Hiện giờ FIDE có 158 liên đoàn thành viên. Con số này có thể thay đổi vì có liên đoàn mới gia nhập, hoặc đôi khi có liên đoàn thành viên giải tán hoặc không trả được lệ phí.
Các chủ tịch liên đoàn
Xem thêm
Cờ vua
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang chủ của FIDE
Luật cờ vua FIDE
Tổ chức liên quan đến cờ vua
Cơ quan quản lý thể thao
|
27291
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kenneth%20Arnold
|
Kenneth Arnold
|
Kenneth Arnold (29 tháng 3 năm 1915 - 16 tháng 1, 1984) - một phi công tư nhân ở Boise, Idaho, Mỹ, và công việc làm thêm là tìm kiếm cứu nạn hàng không - được coi là nhân chứng đầu tiên nhìn thấy UFO.
Ngày 24 tháng 6 năm 1947, Arnold báo cáo nhìn thấy 9 vật thể bay kỳ lạ xếp thành một chuỗi gần núi Rainier, Washington khi ông ta đang tìm kiếm một máy bay quân sự mất tích. Ông miêu tả các vật thể gần như sáng lờ mờ khi chúng phản xạ ánh sáng Mặt Trời, phi đội của họ thật là bất thường ("giống như đuôi một con diều Trung Quốc"), và bay với "vận tốc kinh khủng". Câu chuyện của Arnold đã được phổ biến rộng rãi và được công nhận như một đại diện tiêu biểu, thú vị cho chủ đề UFO hiện đại.
Không lâu sau sự kiện, Arnold đáp máy bay đến Yakima, Washington, nơi ông ta làm báo cáo thường nhật cho Cơ quan Hàng không Dân sự Hoa Kỳ (Civil Aeronautics Administration). Khi dừng chân trong chuyến bay trở về để tiếp thêm nhiên liệu, ông ta nhắc lại câu chuyện cho một nhóm người hiếu kỳ, trong đó có một phóng viên.
Nhiều năm sau, Arnold xác nhận là ông ta đã nói với các nhà báo rằng "chúng bay với một kiểu bất thường, giống như một cái đĩa nhảy vọt lên khỏi mặt nước" và từ đó, thuật ngữ "đĩa bay" ra đời.Trong tiếng Anh, một thuật ngữ thông dụng khác được sử dụng để miêu tả các vật thể xuất hiện như Arnold đã từng thấy là "flying disks" (hay "discs") bên cạnh "flying saucer".Arnold cảm thấy rằng ông ta đã trích dẫn nhầm.
Dù sao, sự thật về hình dáng Arnold miêu tả đã được phức tạp thêm: ngay sau sự kiện, ông ta đã miêu tả các vật thể mỏng và phẳng, thuôn tròn ở đầu nhưng vát ở phần đuôi tạo nên thành một điểm, tức là ít nhiều giống hình cái đĩa.Ví dụ, trong cuộc phỏng vấn hai ngày sau đó, ông ta miêu tả "một cái gì đó giống như cái đĩa bánh bị cắt ở nửa giữa bởi, một loại hình tam giác lồi, phồng lên ở phía sau.Cũng ngày hôm đó ông ta còn nói " chúng có dạng đĩa và rất mỏng, tôi có thể thấy chúng rõ ràng".Trong báo Portland Oregon ngày sau đó, mô tả của Arnold được trích dẫn " chúng có dạng bán nguyệt, hình trái xoan ở phía trước và phồng lên ở phía sau...chúng trông giống một cái đĩa mỏng lớn ".
Trong một tuyên bố gửi lực lượng không quân ngày 12 tháng 7, Arnold đã nhiều lần ám chỉ các vật thể "giống dạng đĩa" và ở cuối báo cáo ông ta vẽ một bức tranh, có ghi chú:" chúng có vẻ dài hơn là rộng, bề dày của nó khoảng 1/20 bề rộng".
Câu chuyện trở nên phức tạp thêm khi một tháng sau sự kiện, trong cuộc gặp với hai sĩ quan AFF, Arnold cho biết một trong chín vật thể có sự khác biệt, to hơn và càng giống dạng lưỡi liềm, vát thành một điểm ở đằng sau.(Xem hình bên phải).
Dù thế, trong các tuần sau, hàng nghìn báo cáo tương tự tới tấp được gửi tới từ Mỹ và khắp nơi trên thế giới—hầu hết miêu tả các dạng đĩa. Một báo cáo của phi hành đoàn United Airlines: chín vật thể dạng đĩa trên bầu trời Idaho ngày 4 tháng 7 có lẽ thu hút báo chí hơn cả sự kiện Arnold và mở đường cho hàng loạt bài phóng sự sau đó.
Nhằm gán thêm mưu đồ vào câu chuyện của Arnold, không quân Mỹ bác bỏ rằng không có bất kỳ máy bay nào trong khu vực Mount Rainer lúc sự kiện của Arnold xảy ra.Song theo suy đoán của báo chí, các vật thể đã thấy rất giống các dạng đĩa bay quân sự, cả các máy bay thí nghiệm do quân đội Hoa Kỳ đang phát triển cùng thời gian đó (xem đĩa bay quân sự.Lực lượng quân đội trả lời rằng ngay cả máy bay cũng không thể là lời giải thích cho những quan sát đó.
Sự kiện UFO nổi tiếng trong suốt thời kỳ đó là sự kiện UFO ở Roswell được cho là một đĩa bay quân sự bị rơi, câu chuyện diễn ra ngày 8 tháng 7 năm 1947. Để trấn an dư luận, sự kiện đó và các sự kiện khác được quân đội giải thích là nhầm lẫn khi quan sát khí cầu khí tượng.
Bất chấp dư luận phanh phui, ngày 9 tháng 7, AFF đã bí mật bắt đầu nghiên cứu các báo cáo quan trọng nhất, với sự hỗ trợ của FBI.Báo cáo của Arnold cũng như phi hành đoàn United Airlines được đưa vào danh sách đó.Ba tuần sau họ đi tới kết luận rằng các báo cáo đĩa bay không phải là ảo giác hay có thể giải thích bằng các hiện tượng tự nhiên mà thực sự có cái gì đó đang bay và kêu gọi sự điều tra chính thức từ nhiều cơ quan chính phủ.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Tiếng Anh:
Resolving Arnold part 1
Resolving Arnold part 2
Transcript of telephone conversation with Arnold by Edward R. Murrow
Some early newspaper articles on the Arnold sighting
The most complete Arnold sighting description and analysis on the net
Out of This World: 60 Years of Flying Saucers by Nigel Watson
Sinh năm 1915
Mất năm 1984
Phi công Mỹ
Cựu sinh viên Đại học Minnesota
Người liên quan đến UFO học
|
27296
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1p%20T%C3%BD
|
Giáp Tý
|
Giáp Tý (chữ Hán: 甲子) là kết hợp thứ nhất trong hệ thống đánh số Can Chi của người Á Đông. Nó được kết hợp từ thiên can Giáp (Mộc dương) và địa chi Tý (chuột). Trong chu kỳ của lịch Trung Quốc, nó xuất hiện trước Ất Sửu và sau Quý Hợi. Giáp Tý là các năm chia 60 dư 4.
GIáp Tý hay Hoa Giáp: con số này vựa vặn là 60
Thời trước, trong ngôn ngữ cận đại, những người có học thường sử dụng giáp tí để biểu thị cho sự trường thọ. Trong Tử vi, tướng số thời cổ thường sử dụng một giáp tý để tính toán số mệnh. Vì vậy nhiều quyển sách tướng số chỉ có giá trị sử dụng trong 60 năm.
Các năm Giáp Tý
Năm dương lịch số 4 (sau Công nguyên) là năm Giáp Tý.
Giữa năm 1724 và 2224, những năm sau đây là năm Giáp Tý (Ngày được đưa ra được tính theo lịch Việt Nam, chưa được sử dụng trước năm 1967):
1744
1804
1864
1924 (5 tháng 2, 1924 – 23 tháng 1, 1925)
1984 (2 tháng 2, 1984 – 20 tháng 1, 1985)
2044 (30 tháng 1, 2044 – 16 tháng 2, 2045)
2104
2164
Sự kiện năm Giáp Tý
Năm 544, Lý Bí lên ngôi hoàng đế, hiệu là Lý Nam Đế đặt tên nước là Vạn Xuân.
Tham khảo
Can Chi
|
27298
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%E1%BA%A4t%20S%E1%BB%ADu
|
Ất Sửu
|
Ất Sửu (chữ Hán: 乙丑) là kết hợp thứ nhì trong hệ thống đánh số Can Chi của người Á Đông. Nó được kết hợp từ thiên can Ất (Mộc âm) và địa chi Sửu (bò/trâu). Trong chu kỳ của lịch Trung Quốc, nó xuất hiện trước Bính Dần và sau Giáp Tý. Ất Sửu là các năm chia 60 dư 5.
Các năm Ất Sửu
Giữa năm 1724 và 2224, những năm sau đây là năm Ất Sửu (lưu ý ngày được đưa ra được tính theo lịch Việt Nam, chưa được sử dụng trước năm 1967):
1745
1805
1865
1925 (24 tháng 1, 1925 – 12 tháng 2, 1926)
1985 (21 tháng 1, 1985 – 8 tháng 2, 1986)
2045 (17 tháng 2, 2045 – 5 tháng 2, 2046)
2105
2165
Sự kiện năm Ất Sửu
1925: Lễ xây dựng Cầu Nhị Thiên Đường
Tham khảo
Can Chi
|
27299
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%ADnh%20D%E1%BA%A7n
|
Bính Dần
|
Bính Dần (chữ Hán: 丙寅) là kết hợp thứ ba trong hệ thống đánh số Can Chi của người Á Đông. Nó được kết hợp từ thiên can Bính (Hỏa dương) và địa chi Dần (hổ). Trong chu kỳ của lịch Trung Quốc, nó xuất hiện trước Đinh Mão và sau Ất Sửu.
Các năm Bính Dần
Giữa năm 1724 và 2224, những năm sau đây là năm Bính Dần (lưu ý ngày được đưa ra được tính theo lịch Việt Nam, chưa được sử dụng trước năm 1967):
1746
1806
1866
1926 (13 tháng 2, 1926 – 1 tháng 2, 1927)
1986 (9 tháng 2, 1986 – 28 tháng 1, 1987)
2046 (6 tháng 2, 2046 – 25 tháng 1, 2047)
2106
2166
Sự kiện năm Bính Dần
1926: Đại lễ khai Đạo Cao Đài tại Tây Ninh.
1986: Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tham khảo
Can Chi
|
27301
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90inh%20M%C3%A3o
|
Đinh Mão
|
Đinh Mão (chữ Hán: 丁卯) là kết hợp thứ tư trong hệ thống đánh số Can Chi của người Á Đông. Nó được kết hợp từ thiên can Đinh (Hỏa âm) và địa chi Mão (thỏ/mèo). Trong chu kỳ của lịch Trung Quốc, nó xuất hiện trước Mậu Thìn và sau Bính Dần.
Các năm Đinh Mão
Giữa năm 1724 và 2224, những năm sau đây là năm Đinh Mão (lưu ý ngày được đưa ra được tính theo lịch Việt Nam, chưa được sử dụng trước năm 1967):
1747
1807
1867
1927 (2 tháng 2, 1927 – 22 tháng 1, 1928)
1987 (29 tháng 1, 1987 – 16 tháng 2, 1988)
2047 (26 tháng 1, 2047 – 13 tháng 2, 2048)
2107
2167
Sự kiện năm Đinh Mão
Tham khảo
Can Chi
|
27303
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BA%ADu%20Th%C3%ACn
|
Mậu Thìn
|
Mậu Thìn (chữ Hán: 戊辰) là kết hợp thứ năm trong hệ thống đánh số Can Chi của người Á Đông. Nó được kết hợp từ thiên can Mậu (Thổ dương) và địa chi Thìn (rồng). Trong chu kỳ của lịch Trung Quốc, nó xuất hiện trước Kỷ Tỵ và sau Đinh Mão.
Các năm Mậu Thìn
Giữa năm 1700 và 2200, những năm sau đây là năm Mậu Thìn (lưu ý ngày được đưa ra được tính theo lịch Việt Nam, chưa được sử dụng trước năm 1967):
1748
1808
1868
1928 (23 tháng 1, 1928 – 9 tháng 2, 1929)
1988 (17 tháng 2, 1988 – 5 tháng 2, 1989)
2048 (14 tháng 2, 2048 – 1 tháng 2, 2049)
2108
2168
Sự kiện năm Mậu Thìn
Năm 248 (năm Mậu Thìn thứ tư), khởi nghĩa Bà Triệu
968 – Đinh Tiên Hoàng lên ngôi hoàng đế, lập nên nước Đại Cồ Việt, đóng đô tại Hoa Lư (Ninh Bình).
1868 – Chiến tranh Boshin
Tham khảo
Can Chi
|
27304
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/K%E1%BB%B7%20T%E1%BB%B5
|
Kỷ Tỵ
|
Kỷ Tỵ (chữ Hán: 己巳) là kết hợp thứ sáu trong hệ thống đánh số Can Chi của người Á Đông. Nó được kết hợp từ thiên can Kỷ (Thổ âm) và địa chi Tỵ (rắn). Trong chu kỳ của lịch Trung Quốc, nó xuất hiện trước Canh Ngọ và sau Mậu Thìn.
Các năm Kỷ Tỵ
Giữa năm 1700 và 2200, những năm sau đây là năm Kỷ Tỵ (lưu ý ngày được đưa ra được tính theo lịch Việt Nam, chưa được sử dụng trước năm 1967):
1749
1809
1869
1929 (10 tháng 2, 1929 – 29 tháng 1, 1930)
1989 (6 tháng 2, 1989 – 26 tháng 1, 1990)
2049 (2 tháng 2, 2049 – 22 tháng 1, 2050)
2109
2169
Sự kiện năm Kỷ Tỵ
Năm 111 TCN (năm Kỷ Tỵ thứ nhất trước Công nguyên), nhà Hán thôn tính nước ta.
Năm 1989 (năm Kỷ Tỵ thứ 33), Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em ra đời.
Sự kiện tại quảng trường Thiên An Môn (Trung Quốc).
Tham khảo
Can Chi
|
27305
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Canh%20Ng%E1%BB%8D
|
Canh Ngọ
|
Canh Ngọ (chữ Hán: 庚午) là kết hợp thứ bảy trong hệ thống đánh số Can Chi của người Á Đông. Nó được kết hợp từ thiên can Canh (Kim dương) và địa chi Ngọ (ngựa). Trong chu kỳ của lịch Trung Quốc, nó xuất hiện trước Tân Mùi và sau Kỷ Tỵ.
Các năm Canh Ngọ
Giữa năm 1700 và 2200, những năm sau đây là năm Canh Ngọ (lưu ý ngày được đưa ra được tính theo lịch Việt Nam, chưa được sử dụng trước năm 1967):
1750
1810
1870
1930 (30 tháng 1, 1930 – 16 tháng 2, 1931)
1990 (27 tháng 1, 1990 – 14 tháng 2, 1991)
2050 (23 tháng 1, 2050 – 10 tháng 2, 2051)
2110
2170
Sự kiện năm Canh Ngọ
Năm 550 (năm Canh Ngọ thứ 9), Triệu Quang Phục phản công đánh tan quân xâm lược, chiếm được Long Biên.
Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời.
Tham khảo
Can Chi
|
27306
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%A2n%20M%C3%B9i
|
Tân Mùi
|
Tân Mùi (chữ Hán: 辛未) là kết hợp thứ tám trong hệ thống đánh số Can Chi của người Á Đông. Nó được kết hợp từ thiên can Tân (Kim âm) và địa chi Mùi (cừu/dê). Trong chu kỳ của lịch Trung Quốc, nó xuất hiện trước Nhâm Thân và sau Canh Ngọ.
Các năm Tân Mùi
Giữa năm 1700 và 2200, những năm sau đây là năm Tân Mùi (lưu ý ngày được đưa ra được tính theo lịch Việt Nam, chưa được sử dụng trước năm 1967):
1751
1811
1871
1931 (17 tháng 2, 1931 – 5 tháng 2, 1932)
1991 (15 tháng 2, 1991 – 3 tháng 2, 1992)
2051 (11 tháng 2, 2051 – 31 tháng 1, 2052)
2111
2171
Sự kiện năm Tân Mùi
Tham khảo
Can Chi
|
27307
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A2m%20Th%C3%A2n
|
Nhâm Thân
|
Nhâm Thân (chữ Hán: 壬申) là kết hợp thứ chín trong hệ thống đánh số Can Chi của người Á Đông. Nó được kết hợp từ thiên can Nhâm (Thủy dương) và địa chi Thân (khỉ). Trong chu kỳ của lịch Trung Quốc, nó xuất hiện trước Quý Dậu và sau Tân Mùi.
Các năm Nhâm Thân
Giữa năm 1700 và 2200, những năm sau đây là năm Nhâm Thân (lưu ý ngày được đưa ra được tính theo lịch Việt Nam, chưa được sử dụng trước năm 1967):
1752
1812
1872
1932 (6 tháng 2, 1932 – 25 tháng 1, 1933)
1992 (4 tháng 2, 1992 – 22 tháng 1, 1993)
2052 (1 tháng 2, 2052 – 17 tháng 2, 2053)
2112
2172
2232
Tham khảo
Can Chi
|
27308
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%C3%BD%20D%E1%BA%ADu
|
Quý Dậu
|
Quý Dậu (chữ Hán: 癸酉) là kết hợp thứ mười trong hệ thống đánh số Can Chi của người Á Đông. Nó được kết hợp từ thiên can Quý (Thủy âm) và địa chi Dậu (gà). Trong chu kỳ của lịch Trung Quốc, nó xuất hiện trước Giáp Tuất và sau Nhâm Thân.
Các năm Quý Dậu
Giữa năm 1700 và 2200, những năm sau đây là năm Quý Dậu (lưu ý ngày được đưa ra được tính theo lịch Việt Nam, chưa được sử dụng trước năm 1967):
1753
1813
1873
1933 (26 tháng 1, 1933 – 13 tháng 2, 1934)
1993 (23 tháng 1, 1993 – 9 tháng 2, 1994)
2053 (18 tháng 2, 2053 – 7 tháng 2, 2054)
2113
2173
Sự kiện năm Quý Dậu
Năm Quý Dậu 1993, ngày 12 tháng 7, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra nghị quyết về đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ. Ngày 26 tháng 7, khai mạc Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất Liên hiệp các tổ chức Hòa bình, Đoàn kết, Hữu nghị của Việt Nam. Cũng năm này, Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao với nhiều nước châu Phi và châu Mỹ.
Tham khảo
https://www.sggp.org.vn/cac-nam-dau-dang-nho-trong-lich-su-366554.html
Những người sinh năm này thường có phúc lộc lớn.
Trong 12 trực, Quý Dậu thuộc trực Thành.
Can Chi
|
27309
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1p%20Tu%E1%BA%A5t
|
Giáp Tuất
|
Giáp Tuất (chữ Hán: 甲戌) là kết hợp thứ 11 trong hệ thống đánh số Can Chi của người Á Đông. Nó được kết hợp từ thiên can Giáp (Mộc dương) và địa chi Tuất (chó). Trong chu kỳ của lịch Trung Quốc, nó xuất hiện trước Ất Hợi và sau Quý Dậu.
Các năm Giáp Tuất
Giữa năm 1700 và 2200, những năm sau đây là năm Giáp Tuất (lưu ý ngày được đưa ra được tính theo lịch Việt Nam, chưa được sử dụng trước năm 1967):
1754
1814
1874
1934 (14 tháng 2, 1934 — 2 tháng 2, 1935)
1994 (10 tháng 2, 1994 — 30 tháng 1, 1995)
2054 (8 tháng 2, 2054 — 27 tháng 1, 2055)
2114
2174
Sự kiện năm Giáp Tuất
- Năm 1874, nhà Nguyễn ký Hiệp ước Giáp Tuất, nhượng 3 tỉnh miền Tây Nam Kỳ cho Pháp.
- Năm 1994, thành lập Trường Đại học Duy Tân - Trường Đại học tư thục Đầu tiên và Lớn nhất miền Trung Việt Nam
Tham khảo
Can Chi
|
27310
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%E1%BA%A4t%20H%E1%BB%A3i
|
Ất Hợi
|
Ất Hợi (chữ Hán: 乙亥) là kết hợp thứ 12 trong hệ thống đánh số Can Chi của người Á Đông. Nó được kết hợp từ thiên can Ất (Mộc âm) và địa chi Hợi (lợn). Trong chu kỳ của lịch Trung Quốc, nó xuất hiện trước Bính Tý và sau Giáp Tuất.
Các năm Ất Hợi
Giữa năm 1700 và 2200, những năm sau đây là năm Ất Hợi (lưu ý ngày được đưa ra được tính theo lịch Việt Nam, chưa được sử dụng trước năm 1967):
1755
1815
1875
1935 (3 tháng 2, 1935 – 23 tháng 1, 1936)
1995 (31 tháng 1, 1995 – 18 tháng 2, 1996)
2055 (28 tháng 1, 2055 – 14 tháng 2, 2056)
2115
2175
Tham khảo
1995 — Việt Nam gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)
Can Chi
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.