id
stringlengths 1
8
| url
stringlengths 31
389
| title
stringlengths 1
250
| text
stringlengths 5
274k
|
---|---|---|---|
26115
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ma%20Ha
|
Ma Ha
|
Thiền sư Ma Ha (chưa rõ năm sinh-mất)
Tu tại chùa Quan Ái, hương Đào Gia, Cổ Miệt.
Thiền sư tên cũ là Mahamaya, tự lấy họ Dương, tổ tiên người Chiêm Thành. Sư là người hiểu biết sâu rộng, giỏi cả chữ Hán lẫn chữ Phạn.
Cơ duyên và hành trạng
Năm 24 tuổi, Thiền sư nối nghiệp cha là Bối Đà trụ trì chùa Quan Ái. Một hôm, trong khi đang ngồi dịch kinh Lá Bối, sư đọc thấy Hộ pháp thiện thần bảo rằng: dùng kiến thức ngoại học thì không thể thông được nghĩa lý. Từ đó hai mắt sư bị mù, sư tự hối lỗi gieo mình xuống vực sâu mà chết ngay, giữa chừng gặp Đông Lâm Viễn Biệt ngăn lại mà bảo:
- Dừng lại, dừng lại!
Sư bỗng tỉnh ngộ, đến thụ giáo với thiền sư Đỗ Pháp Thuận ở chùa Cổ Sơn, chuyên tụng niệm kinh đại bi tâm chú đề sám hối, liền ba năm chưa từng biếng trễ. Sư lại được Quan Âm đại sĩ dùng cành dương tĩnh thủy rưới đầu rảy mặt làm cho mắt sư sáng lại, tâm càng thanh tĩnh.
Năm Thiên Thành thứ 2 (1029), sư được mời về trụ trì chùa Khai Thiên ở phủ Thái Bình. Đến năm thứ 6 (1033) sư cáo từ trở về Hoan Châu, sau không rõ thọ chung thế nào.
Năm Thuận Thiên thứ 5 (1014), sư dời đến chùa Đại Vân ở Trường An, chuyên cần tu tập, đắc phép tu tập thiền định cùng các phép ảo thuật, người ngoài không ai dò biết được. Vua Lê Đại Hành ba lần thỉnh sư về triều để hỏi han việc nước, sư chỉ chắp tay cúi đầu mà thôi. Gặng hỏi hai ba lần thì sư mới đáp rằng:
- Bần đạo chỉ là kẻ cuồng tăng ở chùa Quan Ái!
Vua cả giận sai đưa sư đến chùa Vạn Tuế trong Đại Nội đóng cửa lại, sai người canh giữ. Sáng hôm sau đã thấy sư ở ngoài tăng phòng mà cửa vẫn đóng như cũ. Vua lấy làm lạ cho phép sư muốn đi đâu tùy ý. Sư lại đi về phía Nam, đến trấn Sa Đãng thuộc Ái Châu. Nơi đây, phong tục dân chúng còn sùng chuộng thờ quỷ thần, nhiều người làm nghề sát sinh, sư khuyên họ ăn chay kiêng thịt nhưng không được nghe theo.
Sư nói: - Nếu các ngươi chịu khó bỏ ác theo thiện thì lão tăng này dù có bị hại cũng cam chịu.
Dân làng nói: - Vùng này có người bị bệnh hủi lâu ngày sắp chết, các thầy lang thầy bói đều chịu bó tay. Nếu hòa thượng chữa khỏi, chúng tôi xin theo lời hòa thượng.
Sư bèn niệm chú vào nước lã rồi ngậm phun, người hủi liền khỏi bệnh. Dân làng cảm phục nhưng lấy cớ theo tục thờ cúng đã lâu nên chưa thể cải hóa ngay được. Có người họ Ngô bày rượu thịt ra ép sư ăn uống, nói rằng: nếu hòa thượng chịu thưởng thức thú vui này thì chúng tôi xin quy y đạo Phật.
Sư đáp: - Bần đạo không dám từ chối, chỉ sợ bị đau bụng thôi.
Người họ Ngô cười nói: - Nếu đau thì Ngô mỗ này xin chịu cho.
Sư miễn cưỡng nghe theo. Được một lúc, sư về nhà bị trướng bụng, đau dữ dội, sư bèn kêu to: - Ngô quân hãy chịu đau cho tôi đi!
Chủ nhà họ Ngô hốt hoảng không biết làm thế nào. Bấy giờ sư chắp tay niệm: Nam mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tăng, xin cứu độ cho đệ tử! Rồi cúi xuống nôn hết thức ăn, các món thịt liền biến thành thú vật chạy đi, các món cá biến thành cá sống vùng quãy, rượu biến thành nước gỉ đồng. Mọi người hết sức kinh lạ và khiếp sợ. Sư nói: - Người bệnh của ngươi ta đã chữa khỏi, còn ta bị đau bụng thì chẳng ai chịu đau thay cho ta. Vậy bây giờ người đã chịu theo đạo ta chưa?
Người làng đều sụp xuống lạy tạ.
Nguyên bản chữ Hán
Tham khảo
Lê Mạnh Thát: Nghiên cứu về Thiền Uyển Tập Anh, Nhà xuất bản TP HCM 1999.
Thiền uyển tập anh- Viện nghiên cứu Phật học, Nhà xuất bản Văn học, 1990.
Liên kết ngoài
Thiền Uyển Tập Anh - Bản tiếng Việt
Thiền Uyển Tập Anh - Bản chữ Hán
Người Hải Dương
Thiền sư Việt Nam
Thiền phái Tì-ni-đa-lưu-chi
|
26118
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/G%E1%BB%91m%20Chu%20%C4%90%E1%BA%ADu%20%E2%80%93%20M%E1%BB%B9%20X%C3%A1
|
Gốm Chu Đậu – Mỹ Xá
|
Gốm Chu Đậu – Mỹ Xá, còn được biết đến là gốm Chu Đậu, là gốm cổ truyền Việt Nam đã được sản xuất tại làng Chu Đậu và làng Mỹ Xá thuộc tổng Thượng Triệt, nay thuộc các xã Minh Tân (làng Mỹ Xá) và Thái Tân (làng Chu Đậu), huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Tuy nhiên, gốm Chu Đậu tại Việt Nam ít người biết đến cho đến khi có sự việc ông Makoto Anabuki - cán bộ ngoại giao Nhật Bản tại Tokyo nhờ tìm hiểu về xuất xứ chiếc bình gốm hoa lam tại Bảo tàng Topkapı, Istanbul (Thổ Nhĩ Kỳ) do ông nghi ngờ đây là bình gốm Việt Nam chứ không phải là Trung Quốc và sự việc khảo sát và khai quật con tàu đắm ở Cù lao Chàm (Quảng Nam).
Xuất xứ
Dòng gốm này có thể đã được hình thành và phát triển trong khoảng từ thế kỷ 13 đến thế kỷ 18. Có nguồn nói, nó bị hủy diệt do chiến tranh Lê-Mạc cuối thế kỷ 16.
Loại gốm này thường được nhắc đến với tên gốm Chu Đậu là do lần đầu tiên người ta khai quật được các di tích của dòng gốm này ở Chu Đậu. Sau này, khi khai quật tiếp ở Mỹ Xá (làng bên cạnh Chu Đậu) thì người ta phát hiện ra khối lượng di tích còn đa dạng hơn và có một số nước men người ta không tìm thấy trong số các di tích khai quật được tại Chu Đậu. Kết quả khai quật ấy được báo cáo tại hội nghị khảo cổ học toàn quốc tổ chức vào tháng 9 năm 1986. Nó trở thành một nhận thức mới về gốm Việt Nam trong lịch sử và tên gọi Chu Đậu - lấy theo tên ngôi làng đầu tiên phát hiện gốm - được ghi vào bản đồ khảo cổ học là một di tích quan trọng bậc nhất của gốm Việt Nam.
Tại Mỹ Xá, gia phả dòng họ Vương có ghi câu "...tổ tiên...lấy nghề nung bát làm nghiệp". Câu này hiện được lưu lại trong bảng ghi lịch sử dòng gốm này tại Xí nghiệp gốm sứ Chu Đậu.
Cả hai vùng Mỹ Xá và Chu Đậu đều coi ông Đặng Huyền Thông, người Hùng Thắng, Minh Tân là ông tổ (đã biết) của dòng gốm này. Nhà nghiên cứu Tăng Bá Hoành, nguyên giám đốc Bảo tàng Hải Dương cho rằng, một nhân vật là bà Bùi Thị Hý là tổ nghề gốm Chu Đậu. Nhiều bài nghiên cứu đã chứng minh sự tồn tại của Bùi Thị Hý là ngụy tạo và nhân vật này không có thật.
Nổi tiếng trong nước và xuất khẩu
Nhiều lập luận về sự phát triển rực rỡ gốm Chu Đậu đều xuất phát từ sự bế quan tỏa cảng đương thời của nhà Minh, giai đoạn đầu và giữa của triều đại này đã thực thi chính sách cấm biển và nghiêm cấm người dân ra nước ngoài. Triều đình chỉ cho phép những tàu nước ngoài đến buôn bán kèm theo những vật dâng cống cho triều đình. Gốm sứ Trung Quốc xuất khẩu theo đường biển sang phương Tây đang hồi hưng thịnh bị chặn dòng. Trước tình trạng đó, các nhà buôn chuyển hướng sang các nước lân cận. Những lò gốm vùng Hải Dương và Thăng Long đã nắm lấy thời cơ, đẩy gốm Việt Nam phát triển rực rỡ, chiếm lĩnh thị trường quốc tế. Thứ đến là đội ngũ thợ thủ công người Việt, cả gốm sứ và nhiều ngành nghề khác rất khéo tay và lành nghề. Mặt khác, về vị trí địa kinh tế, Việt Nam nằm trên tuyến đường giao lưu thương mại quốc tế, trong đó có gốm sứ.
Trong nước
Tháng 4-1986, Bộ Văn hóa cấp giấy phép cho tỉnh Hải Hưng khai quật lần đầu tiên ở làng Chu Đậu.
Tại hai hố rộng 35m2, các nhà khoa học tìm thấy hàng ngàn hiện vật với rất nhiều con kê hình đĩa, hình vành khăn, nón cụt và hình vòng đeo tay, những chồng bát đĩa gốm hoa lam dính chồng vào nhau bị quá lửa nên méo xẹo, nhiều chồng gốm non lửa thì vàng xỉn, nhiều xỉ than và mảnh bao nung gốm cùng rất nhiều mảnh bát đĩa lớn nhỏ...
Kết quả khai quật ấy được báo cáo tại hội nghị khảo cổ học toàn quốc tổ chức vào tháng 9-1986, trở thành một bất ngờ lớn trong giới khoa học. Nó trở thành một nhận thức mới về gốm Việt Nam trong lịch sử và tên gọi Chu Đậu - lấy theo tên ngôi làng đầu tiên phát hiện gốm - được ghi vào bản đồ khảo cổ học là một di tích quan trọng bậc nhất của gốm sứ Việt Nam.
Từ năm 1986-1991, trải qua năm cuộc khai quật khảo cổ ở làng Chu Đậu, dù tổng diện tích chỉ 140,5m2 và thám sát khảo cổ 19m2 nhưng đã thu được hàng vạn hiện vật về sản phẩm và công cụ sản xuất gốm sứ.
Năm 1997, trong quá trình khảo sát và khai quật con tàu đắm ở Cù lao Chàm (Quảng Nam) của người Bồ Đào Nha. Đó là cuộc khai quật tốn tiền nhất từ trước đến nay (hơn 6 triệu USD), kéo dài nhất (trong bốn năm), huy động nhiều nhà nghiên cứu nhất (chừng 40 nhà nghiên cứu trong và ngoài nước), dùng những thiết bị tối tân và hiện đại nhất, khai quật ở độ sâu nhất (hơn 70m) và số lượng hiện vật nhiều nhất (hơn 240.000 trong đó có nhiều bát, đĩa, hộp, lọ, bình, ang là gốm Chu Đậu), trong đó có nhiều tuyệt tác độc bản như chiếc bình gốm vẽ hình bốn con thiên nga trong bốn tư thế khác nhau, cao 56,5 cm, trưng bày ở Bảo tàng Lịch sử Việt Nam là một trong số 779 hiện vật độc bản trong con tàu đắm, được xem là tinh hoa của làng gốm Chu Đậu ở thế kỷ XV cả về mỹ thuật lẫn kỹ thuật.
Sau năm 1975, đội ngũ đông đảo dân vạn đò trên sông Hương của Huế đã trục vớt được rất nhiều những hiện vật gốm vẽ lam, trắng ngà phong cách đáy màu sôcôla nhưng không ai biết xuất xứ. Mãi cho đến khi có kết quả các cuộc khai quật khảo cổ ở Nam Sách (Hải Dương) và con tàu đắm Cù Lao Chàm thì mới biết đây là gốm Chu Đậu Có rất nhiều đồ gốm nước ngoài, từ Hán, Đường, Minh, Thanh xuất xứ từ Trung Quốc, hay gốm Thái Lan, Nhật Bản và các nước phương Tây giai đoạn trung đại... Nhưng chiếm số lượng nhiều bậc nhất trong bộ sưu tập vẫn là những bình vôi, chén, đĩa thuộc dòng gốm Chu Đậu. Hiện nay bộ sưu tập này do nhà nghiên cứu Hồ Tấn Phan sở hữu tại nhà riêng 28/5 Cao Bá Quát.
Xuất khẩu
Gốm Chu Đậu là dòng gốm nổi tiếng vì màu men và họa tiết thuần Việt. Nó đã từng xuất khẩu sang nhiều nước. Từ cuối thế kỷ XIV đến cuối đầu thế kỷ XVII, gốm Chu Đậu cùng với những dòng gốm khác của Việt Nam đã có một vị thế quan trọng trong thị trường gốm sứ ở Nhật Bản và ở các nước Đông Nam Á hải đảo đương thời, bằng chứng là sự hiện diện của vô số hiện vật gốm Chu Đậu trong các di chỉ khảo cổ học và trong các con tàu đắm được phát hiện ở Nhật Bản và khu vực Đông Nam Á trong nhiều năm qua: Malaysia có 9 di chỉ, Brunei có 2 di chỉ, Philippines có 10 di chỉ, Indonesia có 11 di chỉ và Nhật Bản có 30 di chỉ khảo cổ
Trong cuốn sách Vietnamese ceramics A separate tradition do John Stevenson và John Guy chủ biên (Art Media Resources with Avery Press, 1997) có giới thiệu nhiều món đồ gốm Chu Đậu từ sưu tập của những bảo tàng lớn trên thế giới như: Metropolitan Museum of Art (New York), Denver Museum of Art (Denver), Seattle Art Museum (Seattle), Museum of Fine Arts (Boston), Birmingham Art Museum (Alabama) và Asian Art Museum of San Francisco (San Francisco) ở Mỹ; Society of Ancient Southeast Asian Ceramics, Kyoto National Museum, Machida Municipal Museum ở Nhật Bản; British Museum of London ở Anh; Museum of East Asian (Bath) và Art Gallery of South Australia (Adelaide) ở Úc; Museum het Princesshof (Leewarden) ở Hà Lan; Bảo tàng Nghệ thuật Dresden, Bảo tàng Dân tộc học Muenchen ở Đức; Bảo tàng Lịch sử và nghệ thuật Hoàng gia Mariemont ở Bỉ. Tuy nhiên, hiện vật gốm Chu Đậu nổi danh nhất thế giới là chiếc bình hoa lam ở Bảo tàng Tokapi Saray tại Istanbul ở Thổ Nhĩ Kỳ.
Suy tàn
Suốt nhiều năm qua, một câu hỏi lớn là vì sao đang phát triển rực rỡ nhưng gốm Chu Đậu bỗng chốc lụi tàn như chưa từng tồn tại là rất kỳ lạ.
Nhiều cách lý giải đã được đưa ra gồm cả chiến tranh Lê-Mạc và sự mở cửa trở lại vào cuối thời Minh chính là nguyên nhân khiến dòng gốm này vào quên lãng. Việc truy quét của triều Lê - Trịnh đối với nhà Mạc đã làm ảnh hưởng lớn đến việc sản xuất gốm Chu Đậu. Nhà nghiên cứu Tăng Bá Hoành cũng cho rằng bởi cuộc chiến tranh Lê-Mạc, và năm kết thúc nhà Mạc 1592 cũng chính là năm kết thúc của gốm Chu Đậu.
Ngoài ra, gốm Chu Đậu vẫn còn những điểm hạn chế về trình độ kỹ thuật chưa thật sự đạt đến mức độ hoàn mỹ. Vì vậy, sự cạnh tranh trên thị trường cũng kém cạnh. Khi người Trung Quốc mở cửa để dòng gốm của họ tái xuất khẩu ra thị trường thế giới thì không những về mặt ngoại thương tàn lụi mà hàng loạt gốm sứ Trung Quốc tràn vào chiếm lĩnh thị trường trong nước.
Phục hồi và phát triển
Gốm Chu Đậu sau mấy trăm năm biến mất đang dần trở lại với thị trường trong nước và quốc tế. Ngay sau lô sản phẩm gốm Chu Đậu đầu tiên xuất lò vào năm 2003, cùng với thị trường trong nước, gốm Chu Đậu đã xuất khẩu cung ứng sản phẩm cho nhiều nước trên thế giới. Việc mạnh dạn đưa sản phẩm xuất sang thị trường châu Âu như một hướng đi đột phá. Trong nhiều năm liền, thị trường này vẫn tiêu thụ khá đều đặn. Tiếp đến là thị trường Nga, Nhật Bản cũng như một thị trường mới gồm nhiều nước châu Phi.
Xem thêm
Gốm Bát Tràng
Làng gốm Phù Lãng
Tham khảo
Gốm Việt Nam
Hải Dương
Làng nghề Hải Dương
Nghệ thuật Việt Nam thời Mạc
Kinh tế Việt Nam thời Mạc
Văn hóa xứ Đông
|
26126
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%93%20th%E1%BB%8B%20%28l%C3%BD%20thuy%E1%BA%BFt%20%C4%91%E1%BB%93%20th%E1%BB%8B%29
|
Đồ thị (lý thuyết đồ thị)
|
Bài này chỉ viết về các định nghĩa cơ bản. Để hiểu rộng hơn, xin xem lý thuyết đồ thị. Về ý nghĩa biểu diễn hàm số trên hệ tọa độ, xem đồ thị hàm số.
Trong toán học và tin học, đồ thị là đối tượng nghiên cứu cơ bản của lý thuyết đồ thị. Một cách không chính thức, đồ thị là một tập các đối tượng gọi là đỉnh nối với nhau bởi các cạnh. Thông thường, đồ thị được vẽ dưới dạng một tập các điểm (đỉnh, nút) nối với nhau bởi các đoạn thẳng (cạnh). Tùy theo ứng dụng mà một số cạnh có thể có hướng.
Các định nghĩa
Trong các tài liệu, các định nghĩa trong lý thuyết đồ thị được phát biểu theo nhiều kiểu. Dưới đây là kiểu truyền thống của cuốn từ điển bách khoa này.
Đồ thị vô hướng
Đồ thị vô hướng hoặc đồ thị G là một cặp không có thứ tự (unordered pair) G:=(V, E), trong đó
V, tập các đỉnh hoặc nút,
E, tập các cặp không thứ tự chứa các đỉnh phân biệt, được gọi là cạnh. Hai đỉnh thuộc một cạnh được gọi là các đỉnh đầu cuối của cạnh đó.
Trong nhiều tài liệu, tập các cạnh bao gồm cả các cặp đỉnh không phân biệt, các cạnh này được gọi là các khuyên.
V (và E) thường là các tập hữu hạn, phần lớn các kết quả nghiên cứu đã biết không đúng (hoặc khác) khi áp dụng cho đồ thị vô hạn (infinite graph) vì nhiều luận cứ không dùng được trong trường hợp vô hạn.
Đồ thị có hướng
Đồ thị có hướng G là một cặp có thứ tự G:=(V, A), trong đó
V, tập các đỉnh hoặc nút,
A, tập các cặp có thứ tự chứa các đỉnh, được gọi là các cạnh có hướng hoặc cung. Một cạnh e = (x, y) được coi là có hướng từ x tới y; x được gọi là điểm đầu/gốc và y được gọi là điểm cuối/ngọn của cạnh.
Đơn đồ thị và Đa đồ thị
Đơn đồ thị là đồ thị mà không có khuyên và không có cạnh song song.
Đa đồ thị là đồ thị mà không thỏa mãn đơn đồ thị.
Đa đồ thị có hướng là một đồ thị có hướng, trong đó, nếu x và y là hai đỉnh thì đồ thị được phép có cả hai cung (x, y) và (y, x).
Đơn đồ thị có hướng (hoặc Đa đồ thị có hướng) là một đồ thị có hướng, trong đó, nếu x và y là hai đỉnh thì đồ thị chỉ được phép có tối đa một trong hai cung (x, y) hoặc (y, x).
<div id="quiver">
Quiver thường được coi là một đồ thị có hướng. Nhưng trong thực hành, nó là một đồ thị có hướng với các không gian vector (vector space) gắn với các đỉnh và các biến đổi tuyến tính gắn với các cung.
Đồ thị hỗn hợp
Đồ thị hỗn hợp G là một bộ ba có thứ tự G:= (V,E,A) với V, E và A được định nghĩa như trên.
Các định nghĩa khác
Như đã được định nghĩa ở trên, các cạnh của đồ thị vô hướng có hai đầu là hai đỉnh phân biệt; E và A là các tập hợp (với các phần tử phân biệt). Nhiều ứng dụng cần các khái niệm rộng hơn, và các thuật ngữ cũng khác nhau.
Một khuyên (loop) là một cạnh (vô hướng hoặc có hướng) nối từ một đỉnh về chính nó; Kiểu cạnh này có được chấp nhận hay không là tùy ở ứng dụng. Trong ngữ cảnh này, một cạnh nối hai đỉnh phân biệt được gọi là một liên kết (link).
Đôi khi, E và A được phép là các đa tập hợp (multiset), khi đó giữa hai đỉnh có thể có nhiều hơn một cạnh. Có thể cho phép giữa hai đỉnh có nhiều cạnh bằng cách cho E là một tập hợp độc lập với V, và xác định các điểm đầu của mỗi cạnh bằng một quan hệ liên thuộc (incidence relation) giữa V và E. Đối với đồ thị có hướng, ta áp dụng tương tự cho tập hợp cạnh có hướng A, tuy nhiên, phải có hai quan hệ liên thuộc, một cho đỉnh đầu và một cho đỉnh cuối của mỗi cung.
Trong các sách, tùy theo ý của tác giả hoặc theo yêu cầu của chủ đề cụ thể mà từ "đồ thị" có thể hàm ý cho phép hoặc không cho phép khuyên hay đa cạnh. Nếu đồ thị không cho phép đa cạnh (và không cho phép khuyên nếu là đồ thị có hướng), đồ thị được gọi là đơn đồ thị. Mặt khác, nếu cho phép đa cạnh (và đôi khi cả khuyên), đồ thị được gọi là đa đồ thị. Đôi khi, từ giả đồ thị (pseudograph) còn được dùng để hàm ý cả đa cạnh và khuyên đều được phép.
Trong các trường hợp đặc biệt, thậm chí còn cần đến các cạnh chỉ có một đỉnh, được gọi là nửa cạnh (halfedge), hoặc không có đỉnh nào, (cạnh rời). Xem ví dụ tại signed graph.
Các định nghĩa khác
Xem thêm thuật ngữ lý thuyết đồ thị.
Hai cạnh của một đồ thị được coi là kề nhau nếu chúng có chung một đỉnh. Tương tự, hai đỉnh được coi là kề nhau nếu chúng được nối với nhau bởi một cạnh. Một cạnh và đỉnh nằm trên cạnh đó được coi là liên thuộc với nhau.
Đồ thị chỉ có một đỉnh và không có cạnh nào được gọi là đồ thị tầm thường. Đồ thị không có cả đỉnh lẫn cạnh được gọi là đồ thị rỗng
Trong một đồ thị có trọng số, mỗi cạnh được gắn với một giá trị nào đó, được gọi là trọng số, độ dài, chi phí, hoặc các tên khác tùy theo ứng dụng; các đồ thị như vậy được dùng trong nhiều ngữ cảnh, chẳng hạn trong các bài toán tối ưu hóa đường đi như bài toán người bán hàng.
Ví dụ
Hình bên là một biểu diễn đồ họa của đồ thị sau
V:={1,2,3,4,5,6}
E:=,{1,5},{2,3},{2,5},{3,4},{4,5},
Đôi khi, thông tin "đỉnh 1 được nối với đỉnh 2" được ký hiệu là 1 ~ 2.
Trong lý thuyết phạm trù (category theory) một phạm trù có thể được coi là một đa đồ thị có hướng với các đối tượng là các đỉnh và các morphism là các cạnh có hướng. Khi đó, các hàm tử (functor) giữa các phạm trù là một số (nhưng không nhất thiết tất cả) digraph morphism.
Trong Khoa học máy tính đồ thị có hướng được dùng để biểu diễn các ô-tô-mát hữu hạn (finite state machine) và nhiều cấu trúc rời rạc khác.
Một quan hệ đôi (binary relation) R trên tập X là một đơn đồ thị có hướng. Hai đỉnh x,y của X được nối với nhau bởi một cung nếu xRy.
Các dạng đồ thị quan trọng
Trong một đồ thị đầy đủ mỗi cặp đỉnh đều được nối với nhau bằng một cạnh, nghĩa là đồ thị chứa tất cả các cạnh có thể.
Một đồ thị phẳng có thể được vẽ trên mặt phẳng sao cho không có hai cạnh nào cắt nhau.
Cây là một đồ thị liên thông không có chu trình.
Đồ thị hai phía (Bipartite graph)
Đồ thị hoàn hảo (Perfect graph)
Cograph
Đồ thị Cayley
Đồ thị Petersen và các suy rộng của nó
Các thao tác trên đồ thị
Có một số phép toán tạo đồ thị mới từ các đồ thị cũ.
Các phép toán một ngôi
Đồ thị đường (Line graph) (tạo đồ thị mới bằng cách chuyển cạnh thành đỉnh và tạo các cạnh tương ứng)
Đồ thị đối ngẫu (Dual graph) (tạo đồ thị mới từ một đồ thị phẳng bằng cách tạo một đỉnh cho mỗi miền mặt phẳng và các cạnh được nối giữa hai đỉnh tương ứng với hai miền kề nhau)
Đồ thị bù (Complement graph)
Các phép toán hai ngôi
Tích Đề-các của đồ thị (Cartesian product of graphs)
Tích Ten-xơ của đồ thị (Tensor product of graphs)
Các suy rộng
Trong siêu đồ thị (hypergraph), một cạnh có thể nối nhiều hơn hai đỉnh.
Một đồ thị vô hướng có thể được coi là một phức đơn hình (simplicial complex) bao gồm các đơn hình 1 chiều (các cạnh) và các đơn hình 0 chiều (các đỉnh). Như vậy, đa hình là suy rộng của đồ thị do chúng cho phép các đơn hình nhiều chiều hơn.
Mỗi đồ thị đều cho một matroid, nhưng nói chung, không thể tạo lại đồ thị từ matroid của nó, do đó, matroid không phải là suy rộng của đồ thị.
Trong lý thuyết mô hình (model theory), một đồ thị chỉ là một cấu trúc. Nhưng khi đó, không có giới hạn về số cạnh: nó có thể là một số đếm bất kỳ.
Xem thêm
Đa giác
Bài toán lát gạch (Tiling)
Thuật ngữ lý thuyết đồ thị
Danh sách các chủ đề lý thuyết đồ thị
Đồ thị (cấu trúc dữ liệu)
Các ấn phẩm lý thuyết đồ thị quan trọng
Tham khảo
Lý thuyết đồ thị
Khoa học máy tính
|
26130
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%93%20th%E1%BB%8B%20c%C3%B3%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng
|
Đồ thị có hướng
|
Trong toán học, và cụ thể hơn trong lý thuyết đồ thị, đồ thị có hướng (tiếng Anh: directed graph hay digraph) là một đồ thị được tạo thành từ tập hợp các đỉnh được nối bởi các cạnh, trong đó các cạnh có hướng liên kết với chúng.
Định nghĩa
Trong thuật ngữ chính thức, đồ thị có hướng là một cặp có thứ tự trong đó
V là một tập hợp có các phần tử được gọi là đỉnh (vertices), nút (nodes), hoặc điểm (points);
A là một tập hợp các cặp được sắp của đĩnh, được gọi là mũi tên (arrows), cạnh có hướng (directed edges), (hay đôi khi chỉ đơn giản là cạnh (edges) với tập hợp tương ứng có tên E thay vì A), cung có hướng (directed arcs), hay đường có hướng (directed lines).
Xem thêm
Thuật ngữ lý thuyết đồ thị
Lý thuyết đồ thị
Lý thuyết mạng
Ghi chú
Tham khảo
(the corrected 1st edition of 2007 is now freely available on the authors' site; the 2nd edition appeared in 2009 ).
.
(the electronic 3rd edition is freely available on author's site).
.
Number of directed graphs (or directed graphs) with n nodes from On-Line Encyclopedia of Integer Sequences
Đồ thị có hướng
Lý thuyết đồ thị
|
26131
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Koala
|
Koala
|
Koala, hay gấu túi (danh pháp khoa học: Phascolarctos cinereus) là một loài thú có túi ăn thực vật sống tại Úc và là loài vật duy nhất hiện còn sống trong họ Phascolarctidae, và họ hàng gần gũi nhất còn sinh tồn của nó là wombat. Koala được tìm thấy ở vùng dọc theo bờ biển phía đông và nam đảo chính, chính xác là ở Queensland, New South Wales, Victoria và Nam Úc. Nó có chiều dài cơ thể khoảng và khối lượng . Màu lông từ xám bạc đến nâu sô-cô-la. Koala ở các quần thể phía bắc nói chung nhỏ hơn và sáng màu hơn hơn các cá thể sống ở phía nam. Có thể các quần thể này thuộc các phân loài riêng biệt, nhưng điều này không được công nhận.
Phân loại học và tiến hóa
Koala được đặt tên chi là Phascolarctos năm 1816 bởi nhà động vật học người Pháp Henri Marie Ducrotay de Blainville, ông đã không đặt tên loài cho nó mãi đến khi được xem xét lại. Năm 1819, nhà động vật học người Đức Georg August Goldfuss đặt danh pháp hai phần cho nó là Lipurus cinereus. Vì tên Phascolarctos được công bố trước, chiếu theo Ủy ban Quốc tế về Danh mục Động vật học (ICZN), nó có quyền ưu tiên là tên chính thức. Nhà tự nhiên học người Pháp Anselme Gaëtan Desmarest đề xuất tên Phascolartos fuscus năm 1820, cho rằng các cá thể màu nâu khác loài với các cá thể màu xám. Các tên khác được đề xuất bởi các tác giả châu Âu gồm Marodactylus cinereus bởi Goldfuss năm 1820, P. flindersii bởi René Primevère Lesson năm 1827, và P. koala bởi John Edward Gray năm 1827.
Sinh sản
Koala cái trưởng thành đủ để sinh sản vào tầm 2 đến 3 tuổi, còn con đực ở độ tuổi 3 đến 4. Nếu khỏe mạnh, một koala cái có thể đẻ một con mỗi năm trong vòng 12 năm. Chu kì mang thai là 35 ngày. Rất hiếm khi có sinh đôi. Con đực và cái thường giao hợp trong khoảng từ tháng 12 đến tháng 3, tương ứng với mùa hè tại Nam Bán Cầu.
Koala mới sinh không có lông, chưa mở mắt, chưa có tai và chỉ bé bằng hạt đậu. Koala khi lọt lòng mẹ trèo lên cái túi lộn ngược của mẹ nó (có thể đóng mở theo ý muốn của koala mẹ) và bám vào một trong hai núm vú của mẹ. Koala nhỏ ở trong túi của mẹ trong khoảng 6 tháng đầu tiên, chỉ bú sữa. Trong thời gian này, nó phát triển tai, mắt và lông. Sau đó koala nhỏ sẽ bắt đầu đi ra ngoài. Khoảng 30 tuần tuổi, nó bắt đầu ăn thức ăn sệt gọi là "pap" do koala mẹ tiết ra. Koala nhỏ tiếp tục ở với mẹ khoảng 6 tháng sau, trèo trên lưng mẹ, bú sữa và ăn lá cây. Sau 12 tháng ở với mẹ, koala cái tự đi kiếm ăn ở vùng xung quanh; trong khi koala đực tiếp tục ở với mẹ tới tận 2 đến 3 tuổi.................................
Hình ảnh
Chú thích
Tham khảo
Ben Fordham, "Koala cull: the Kangaroo Island controversy" , A Current Affair (15 tháng 4 năm 2004).
Flannery, T.F., The Future Eaters, An ecological History of the Australasian Lands and People, (Reed New Holland, Sydney, 1994).
C
Hóa thạch sống
Động vật được mô tả năm 1817
Động vật ăn cỏ
|
26133
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cung%20%C4%91%C3%A0n%20x%C6%B0a
|
Cung đàn xưa
|
"Cung đàn xưa" là một trong những bản nhạc đầu tay (viết năm 1942), thuộc dòng nhạc tình trước 1945, của nhạc sĩ Văn Cao.
Cung đàn xưa chia làm 4 đoạn khúc rõ rệt, đoạn đầu giới thiệu cung đàn năm xưa, đoạn hai nói tới cung đàn và tiếng hát, tức cung thương và cung nam trong nhạc Đông phương, tức tiếng đàn và tiếng người, đoạn ba chuyển qua một nhịp điệu réo rắt diễn tả nét buồn trong cung đàn xưa, đoạn bốn nói đến người tình tuyệt thế giai nhân trong trí tưởng đầy mộng mị.
Các Album
Tình khúc Văn Cao (Nhạc tiền chiến 4) (Mai Hương và Quỳnh Giao) (1995)
Cung Đàn Xưa (Ánh Tuyết)
Hát cho tuổi thơ 2 (Trần Thái Hòa)
Những tình khúc vượt thời gian 10 (Cao Minh)
Chú thích
Nhạc Văn Cao
Bài hát nhạc tiền chiến
Bài hát tiếng Việt
|
26135
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%8Dc%20Mannheim
|
Đại học Mannheim
|
Đại học thực hành Mannheim, trước 2006 là Đại học Thực hành Mannheim – Đại học Kỹ thuật và Thiết kế (Fachhochschule Mannheim – Hochschule für Technik und Gestaltung), là một trường đại học thực hành Đức tại Mannheim.
Lịch sử
Trường đại học được thành lập vào năm 1898 như là trường kỹ sư tư nhân có sự tài trợ của thành phố với các bộ môn chế tạo máy và kỹ thuật điện. Năm 1939 trường thuộc về thành phố hoàn toàn và được đổi tên là Trường Kỹ sư Thành phố Mannheim (Städtische Ingenieurschule Mannheim). Năm 1962 trường được bang Baden-Württemberg đảm nhận và đổi tên thành Trường Kỹ sư Quốc gia Mannheim (Staatliche Ingenieurschule Mannheim). Trong những năm sau đó các bộ môn đào tạo được mở rộng thêm nhiều, ngoài những bộ môn khác ra là kỹ thuật hóa, tin học và kỹ thuật phương pháp (Verfahrenstechnik). Năm 1971 trường kỹ sư được nhận thể chế là trường đại học và được đổi tên thành Đại học Thực hành Kỹ thuật Mannheim (Fachhochschule für Technik Mannheim). Năm 1986, trong khuôn khổ thử nghiệm mô hình liên bang, trường là một trong những trường đại học thực hành đầu tiên được nhận bộ môn đào tạo công nghệ sinh học.
Năm 1995 Đại học Thực hành Thiết kế (Fachhochschule für Gestaltung), cho đến thời điểm đó là trường của thành phố, được sáp nhập vào Đại học Thực hành Kỹ thuật.
Năm 2006 Đại học Xã hội học Mannheim (Fachhochschule für Sozialwesen Mannheim) được sáp nhập thêm vào. Tên của trường từ năm 2005 đơn giản chỉ là Đại học Mannheim (Hochschule Mannheim).
Môn học (2005)
Công nghệ sinh học
Công nghệ sinh học (Diplom cao học, tiếng Đức: Diplom)
Hóa công nghệ sinh học (Diplom)
Công nghệ sinh học (cử nhân, tiếng Anh: bachelor)
Công nghệ sinh học (thạc sĩ, tiếng Anh: master)
Công nghệ thông tin và Kỹ thuật điện
Kỹ thuật tự động hóa (Diplom)
Công nghệ thông tin/Điện tử (Diplom)
Tin học kỹ thuật (Diplom)
Công nghệ tự động hóa (Bachelor)
Kỹ thuật điện (Bachelor)
Nghiên cứu dịch thuật cho công nghệ thông tin (Translation Studies for Information Technologies) (Bachelor) (hợp tác với trường Đại học Tổng hợp Heidelberg)
Hệ thống tự động hóa và hệ thống năng lượng (Master)
Công nghệ thông tin (Master)
Kỹ thuật điện và công nghệ thông tin dành cho giáo viên trường dạy nghề (Bachelor, Master) (hợp tác với trường Đại học Sư phạm Heidelberg)
Thiết kế
Thiết kế thông tin (Bachelor)
Thiết kế thông tin (Master)
Tin học
Tin học (Diplom)
Tin học (Bachelor)
Tin học (Master)
Chế tạo máy
Chế tạo máy (Diplom)
Kỹ thuật gia công (Fertigungstechnik) (Diplom)
Chế tạo máy (Diplom, đào tạo song quốc gia Đức-Pháp)
Chế tạo máy (Bachelor)
Chế tạo máy (Master)
Kỹ thuật phương pháp và Kỹ thuật hóa
Kỹ thuật phương pháp (Verfahrenstechnik, tiếng Anh: process engineering) (Diplom)
Kỹ thuật hóa (Diplom)
Kỹ sư hóa (Diplom, đào tạo song quốc gia Đức-Pháp)
Kỹ sư hóa (Bachelor)
Kỹ sư hóa (Master) (hợp tác với trường Đại học Tổng hợp Mannheim)
Kỹ sư hóa (Master, đào tạo song quốc gia Đức-Pháp)
Kỹ sư kinh tế
Kỹ sư kinh tế (Diplom)
Kỹ sư kinh tế (Master)
Vài số liệu (2005)
Giáo sư: 138
Giảng viên ngoại ngữ: 7
Giảng viên cộng tác: 78
Sinh viên: khoảng 3750
Quan hệ quốc tế
Chương trình trao đổi với Đại học Tổng hợp Maryland, Mỹ
Nhiều ngành học Đức-Pháp chung với Institut National Polytechnique de Lorraine tại Nancy
Hợp tác với hơn 50 trường đại học tại 30 nước trên toàn thế giới
Trọng tâm nghiên cứu
Công nghệ sinh học định hướng y học
Kỹ thuật thiết bị y học
Kỹ thuật phương pháp và kỹ thuật môi trường
Tribologie (tiếng Anh: tribology - bộ môn nghiên cứu về ma sát, hao mòn và bôi trơn)
Tham khảo
Liên kết ngoài
Đại học Mannheim
Mannheim
Mannheim
Đại học và cao đẳng kỹ thuật
|
26139
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C6%B0u%20hu%E1%BB%B3nh
|
Lưu huỳnh
|
Lưu huỳnh (tên khác: Sulfur (đọc như "Xun-phu"), lưu hoàng hay diêm sinh) là nguyên tố hóa học trong bảng tuần hoàn có ký hiệu S và số nguyên tử 16. Nó là một phi kim phổ biến, không mùi, không vị, nhiều hóa trị. Lưu huỳnh, trong dạng gốc của nó là chất rắn kết tinh màu vàng chanh. Trong tự nhiên, nó có thể tìm thấy ở dạng đơn chất hay trong các khoáng chất sulfide và sulfat. Nó là một nguyên tố thiết yếu cho sự sống và được tìm thấy trong hai amino acid. Lưu huỳnh được ứng dụng chủ yếu để tạo ra axit sunfuric-nguyên liệu sản xuất phân lân (P) nhưng cũng được dùng rộng rãi trong việc chế tạo thuốc súng, diêm, thuốc trừ sâu và thuốc diệt nấm.
Các đặc trưng nổi bật
Ở nhiệt độ phòng, lưu huỳnh là một chất rắn xốp màu vàng nhạt. Mặc dù lưu huỳnh không được ưa thích do mùi của nó - thường xuyên bị so sánh với mùi trứng ung - mùi này thực ra là đặc trưng của hydro sulfide (H2S); còn lưu huỳnh đơn chất không có mùi. Nó cháy với ngọn lửa màu xanh lam và tỏa ra lưu huỳnh dioxide, với mùi ngột ngạt dị thường. Lưu huỳnh không hòa tan trong nước nhưng hòa tan trong carbon disulfide và các dung môi không phân cực khác. Các trạng thái oxy hóa phổ biến của nó là -2, -1 (pirit sắt...), +2, +4 và +6. Lưu huỳnh tạo thành các hợp chất ổn định với gần như mọi nguyên tố, ngoại trừ các khí trơ.
Lưu huỳnh trong trạng thái rắn thông thường tồn tại như là các phân tử vòng dạng vòng hoa S8. Lưu huỳnh có nhiều thù hình bên cạnh S8. Loại một nguyên tử từ vòng sẽ là S7, đây là nguyên nhân cho màu vàng đặc trưng của lưu huỳnh. Nhiều vòng khác cũng được điều chế ra, bao gồm S12 và S18. Trái lại, nguyên tố oxy cùng phân nhóm nhưng nhẹ hơn về cơ bản chỉ tồn tại trong hai dạng cơ bản có ý nghĩa hóa học là: O2 và O3. Seleni, nguyên tố nặng hơn cùng phân nhóm với lưu huỳnh có thể tạo ra các vòng nhưng thông thường nó nằm trong chuỗi polymer.
Tinh thể lưu huỳnh rất phức tạp. Phụ thuộc vào các điều kiện cụ thể, các thù hình của lưu huỳnh tạo thành vài cấu trúc tinh thể khác nhau, với các dạng tà phương và đơn tà S8 là các dạng được nghiên cứu kỹ nhất.
Một tính chất đáng chú ý là độ nhớt của lưu huỳnh nóng chảy, không giống như phần lớn các chất lỏng khác, tăng lên theo nhiệt độ do sự hình thành các chuỗi polymer. Tuy nhiên, sau khi đã đạt được một khoảng nhiệt độ nhất định thì độ nhớt lại bị giảm do đã đủ năng lượng để phá vỡ chuỗi polyme.
Lưu huỳnh vô định hình hay "dẻo" có thể được tạo ra khi làm nguội nhanh lưu huỳnh nóng chảy. Các nghiên cứu tinh thể bằng tia X chỉ ra rằng dạng vô định hình có thể có cấu trúc xoắn ốc với 8 nguyên tử trên một vòng. Dạng này là ổn định động ở nhiệt độ phòng và dần dần chuyển ngược thành dạng kết tinh. Tiến trình này diễn ra trong vòng vài giờ hay vài ngày nhưng có thể tăng tốc nhờ xúc tác.
Ứng dụng
Lưu huỳnh có nhiều ứng dụng công nghiệp. Thông qua dẫn xuất chính của nó là acid sulfuric (H2SO4), lưu huỳnh được đánh giá là một trong các nguyên tố quan trọng nhất khi được sử dụng như là nguyên liệu công nghiệp. Nó có vai trò quan trọng bậc nhất đối với mọi lĩnh vực của nền kinh tế thế giới.
Sản xuất acid sulfuric là ứng dụng chủ yếu của lưu huỳnh, và việc tiêu thụ acid sulfuric được coi như một trong các chỉ số tốt nhất về sự phát triển công nghiệp của một quốc gia. Acid sulfuric được sản xuất hàng năm ở Hoa Kỳ nhiều hơn bất kỳ hóa chất công nghiệp nào khác.
Lưu huỳnh cũng được sử dụng trong ắc quy, bột giặt, lưu hóa cao su, thuốc diệt nấm và trong sản xuất phân bón phosphat. Các sulfit được sử dụng để làm trắng giấy và làm chất bảo quản trong rượu vang và làm khô hoa quả. Do bản chất dễ cháy của nó, lưu huỳnh cũng được dùng trong các loại diêm, thuốc súng và pháo hoa. Các thiosulfat natri và amôni được sử dụng như là các tác nhân cố định trong nhiếp ảnh. Magnesi sulfat, được biết dưới tên gọi muối Epsom có thể dùng như thuốc nhuận tràng, chất bổ sung cho các bình ngâm (xử lý hóa học), tác nhân làm tróc vỏ cây, hay để bổ sung magnesi cho cây trồng. Lưu huỳnh tác dụng được với thủy ngân ngay ở điều kiện thường nên được dùng để thu hồi thủy ngân rơi vãi.
Cuối thế kỷ XVIII, các nhà sản xuất đồ gỗ sử dụng lưu huỳnh nóng chảy để tạo ra các lớp khảm trang trí trong các sản phẩm của họ. Do dioxide lưu huỳnh được tạo ra trong quá trình nung chảy lưu huỳnh nên các đồ gỗ với lớp khảm lưu huỳnh đã bị loại bỏ rất nhanh.
Từ xa xưa, người ta đã biết dùng lưu huỳnh để làm đẹp da và trị mụn trứng cá. Tuy nhiên đến nay vẫn chưa có nghiên cứu nào tìm ra cách hoạt động của lưu huỳnh trong việc điều trị mụn. Bằng thực nghiệm, người ta đã kết luận lưu huỳnh có khả năng kháng viêm và kháng khuẩn cao, từ đó làm xẹp nốt mụn một cách nhanh chóng. Để đạt hiệu quả cao, lưu huỳnh có thể được kết hợp với acid salicylic (BHA) hay resorcinol trong thành phần dược liệu.
Điều chế
Lưu huỳnh có thể được tìm thấy riêng lẻ và trong lịch sử thường thu được ở dạng này; pyrit cũng là nguồn cung cấp lưu huỳnh Ở các vùng núi lửa ở Sicily, vào thời cổ đại, nó được tìm thấy trên bề mặt Trái đất và "quy trình Sicilia" đã được sử dụng: các mỏ lưu huỳnh được chất đống và xếp chồng lên nhau trong các lò gạch xây trên sườn đồi dốc, có khoảng không giữa chúng. Sau đó, một ít lưu huỳnh được nghiền thành bột, rải lên quặng đã xếp chồng lên nhau và bốc cháy, khiến lưu huỳnh tự do tan chảy xuống các ngọn đồi. Cuối cùng, các lớp trầm tích trên bề mặt đã cạn kiệt và các thợ mỏ đã khai quật các mạch mà cuối cùng rải rác khắp cảnh quan Sicilia với các mỏ mê cung. Việc khai thác không được cơ giới hóa và sử dụng nhiều lao động, với những người nhặt quặng lấy quặng ra khỏi đá, và những người thợ mỏ hoặc carusi mang những giỏ quặng lên bề mặt, thường xuyên qua những đường hầm dài một dặm trở lên. Khi quặng đã nổi lên bề mặt, nó sẽ được khử và chiết xuất trong lò nấu chảy. Điều kiện ở các mỏ lưu huỳnh ở Sicilia thật khủng khiếp, khiến Booker T. Washington viết "Ngay bây giờ tôi chưa sẵn sàng để nói rằng tôi tin vào địa ngục vật chất ở thế giới tiếp theo ở mức độ nào, nhưng mỏ lưu huỳnh ở Sicily là điều gần nhất." đến địa ngục mà tôi mong được thấy trong cuộc đời này."Lưu huỳnh vẫn được khai thác từ các lớp trầm tích bề mặt ở các quốc gia nghèo hơn có núi lửa, chẳng hạn như Indonesia, và điều kiện của người lao động không được cải thiện nhiều kể từ thời Booker T. Washington.
Lưu huỳnh nguyên tố được chiết xuất từ vòm muối (đôi khi nó xuất hiện ở dạng gần như tinh khiết) cho đến cuối thế kỷ 20. Hiện nay lưu huỳnh được sản xuất như một sản phẩm phụ của các quy trình công nghiệp khác như lọc dầu, trong đó lưu huỳnh không được ưa chuộng. Là một khoáng chất, lưu huỳnh tự nhiên dưới vòm muối được cho là nguồn tài nguyên khoáng sản hóa thạch, được tạo ra do hoạt động của vi khuẩn kỵ khí trên các mỏ sunfat. Nó đã được loại bỏ khỏi các mỏ muối dạng vòm chủ yếu bằng quy trình Frasch.Trong phương pháp này, nước quá nhiệt được bơm vào cặn lưu huỳnh tự nhiên để làm tan chảy lưu huỳnh, sau đó khí nén đưa sản phẩm tan chảy nguyên chất 99,5% trở lại bề mặt. Trong suốt thế kỷ 20, quy trình này đã tạo ra lưu huỳnh nguyên tố không cần tinh chế thêm. Do số lượng các mỏ lưu huỳnh như vậy có hạn và chi phí vận hành chúng cao, quy trình khai thác lưu huỳnh này đã không được sử dụng rộng rãi ở bất kỳ nơi nào trên thế giới kể từ năm 2002.
Ngày nay, lưu huỳnh được sản xuất từ dầu mỏ, khí tự nhiên và các tài nguyên hóa thạch liên quan, từ đó nó thu được chủ yếu dưới dạng hydro sunfua.[8] Các hợp chất lưu huỳnh hữu cơ, tạp chất không mong muốn trong dầu mỏ, có thể được nâng cấp bằng cách cho chúng trải qua quá trình hydrodesulfur hóa, làm đứt các liên kết C–S:[77][78]
R-S-R + 2 H2 → 2 RH + H2S
Hydro sunfua thu được từ quá trình này, cũng như nó xuất hiện trong khí tự nhiên, được chuyển thành lưu huỳnh nguyên tố theo quy trình Claus. Quá trình này đòi hỏi quá trình oxy hóa một số hydro sunfua thành lưu huỳnh đioxit và sau đó là sự cân đối của cả hai:[77] [78]
3 O2 + 2 H2S → 2 SO2 + 2 H2O
SO2 + 2 H2S → 3 S + 2 H2O
Ngoài ra lưu huỳnh còn được điều chế bằng cách cho Axit sunfulric tác dụng với Natri thiosulfat
Na2S2O3 + H2SO4 → Na2SO4 + S ↓ + SO2 ↑ + H2O
Vai trò sinh học
Các amino acid cystein và methionin chứa lưu huỳnh, cũng như mọi polypeptid, protein và enzym có chứa các amino acid này. Điều đó làm cho lưu huỳnh trở thành thành phần cần thiết cho mọi tế bào. Các liên kết disulfide giữa các polypeptid là rất quan trọng trong sự tạo thành và cấu trúc của protein. Homocystein và taurin cũng là các amino acid chứa lưu huỳnh nhưng không được mã hóa bởi DNA và chúng cũng không phải là một phần của cấu trúc sơ cấp của các protein. Một số dạng vi khuẩn sử dụng sulfide hydro (H2S) thay vào vị trí của nước như là chất cung cấp electron trong các tiến trình thô sơ tương tự như quang hợp. Thực vật cũng hấp thụ lưu huỳnh từ đất trong dạng các ion sulfat. Lưu huỳnh vô cơ tạo thành một phần của các cụm sắt-lưu huỳnh, và lưu huỳnh là chất cầu nối trong vị trí CuA của cytochrom c oxidaza. Lưu huỳnh là thành phần quan trọng của coenzym A
Ảnh hưởng môi trường
Sự đốt cháy than và dầu mỏ trong công nghiệp và các nhà máy điện giải phóng ra một lượng lớn lưu huỳnh dioxide SO2, nó sẽ phản ứng với hơi nước và oxy có trong khí quyển để tạo ra acid sulfuric. Đây là nguyên nhân của các trận mưa acid và làm giảm pH của đất cũng như các khu vực chứa nước ngọt, tạo ra những tổn thất đáng kể cho môi trường tự nhiên và gây ra phong hóa hóa học đối với các công trình xây dựng và kiến trúc. Các tiêu chuẩn về nhiên liệu đã thắt chặt các chỉ tiêu về hàm lượng lưu huỳnh trong các nhiên liệu hóa thạch để giảm thiểu sự hình thành của mưa acid. Lưu huỳnh được tách ra từ các nhiên liệu này sau đó sẽ được làm tinh khiết và tạo ra một phần lớn của sản lượng lưu huỳnh được sản xuất.
Lịch sử
Lưu huỳnh (tiếng Phạn, sulvere; tiếng Latinh sulpur), (còn được gọi là lưu hoàng, sinh diêm vàng, diêm sinh) đã được biết đến từ thời cổ đại, và nó được nhắc đến trong Pentateuch của Kinh Thánh (Sáng thế ký). Các phiên dịch ra tiếng Anh của nó đều coi lưu huỳnh như là "brimstone", tạo ra tên gọi của các bài thuyết giáo "Fire and brimstone", trong đó địa ngục và sự quở trách của Thượng đế đối với những kẻ có tội được nhấn mạnh. Nó có từ phần của Kinh Thánh cho rằng địa ngục có mùi của lưu huỳnh.
Trong tiếng Ả Rập sufra có nghĩa là màu vàng, có từ màu sáng của dạng tự nhiên của lưu huỳnh và người ta cho rằng nó là nguyên từ của các tên gọi để chỉ lưu huỳnh trong ngôn ngữ của một số quốc gia châu Âu hiện nay.
Homer đã đề cập tới "lưu huỳnh ngăn ngừa các loài phá hoại" từ thế kỷ IX TCN và năm 424 TCN thì bộ tộc ở Boeotia đã tiêu hủy các bức tường của thành phố bằng cách đốt hỗn hợp than, lưu huỳnh và hắc ín dưới chân tường.
Vào khoảng thế kỷ XII, người Trung Quốc đã phát minh ra thuốc súng, nó là hỗn hợp của kali nitrat (KNO3), carbon và lưu huỳnh. Các nhà giả kim thuật ban đầu cho lưu huỳnh ký hiệu giả kim thuật là một tam giác ở đỉnh của chữ thập. Vào những năm cuối thập niên 1770, Antoine Lavoisier đã củng cố niềm tin của cộng đồng khoa học khi cho rằng lưu huỳnh là một nguyên tố chứ không phải hợp chất.
Năm 1867 lưu huỳnh đã được phát hiện trong các mỏ ở Louisiana và Texas. Lớp nằm trên của nó là cát chảy đã ngăn cản các hoạt động khai thác thông thường. Vì thế quy trình Frasch đã nảy sinh và được thực hiện.
Sự phổ biến
Lưu huỳnh dạng đơn chất có thể tìm thấy ở gần các suối nước nóng và các khu vực núi lửa tại nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là dọc theo vành đai lửa Thái Bình Dương. Các nguồn phổ biến này là cơ sở cho tên gọi truyền thống brimstone, do lưu huỳnh có thể tìm thấy gần các miệng núi lửa. Các trầm tích núi lửa hiện được khai thác tại Indonesia, Chile và Nhật Bản.
Các mỏ đáng kể của lưu huỳnh đơn chất cũng tồn tại trong các mỏ muối dọc theo bờ biển thuộc vịnh Mexico và trong các evaporit ở Đông Âu và Tây Á. Lưu huỳnh trong các mỏ này được cho là có được nhờ hoạt động của các vi khuẩn kỵ khí đối với các khoáng chất sulfat, đặc biệt là thạch cao. Các mỏ này là nền tảng của sản xuất lưu huỳnh công nghiệp tại Hoa Kỳ, Ba Lan, Nga, Turkmenistan và Ukraina.
Lưu huỳnh thu được từ dầu mỏ, khí đốt và cát dầu Athabasca đã trở thành nguồn cung cấp lớn trên thị trường, với các kho dự trữ lớn dọc theo Alberta.
Các hợp chất chứa lưu huỳnh nguồn gốc tự nhiên phổ biến nhất là các sulfide kim loại, như pyrit (sulfide sắt), cinnabar hay còn gọi là chu sa (sulfide thủy ngân), galen (sulfide chì), sphalerit (sulfide kẽm) và stibnit (sulfide antimon) cũng như các sulfat kim loại, như thạch cao (calci sulfat), alunit (nhôm kali sulfat) và barit (bari sulfat). Hydro sulfide là một chất khí tạo ra mùi đặc trưng của trứng thối. Trong tự nhiên, nó có trong các sản phẩm phun trào từ núi lửa, chẳng hạn từ các miệng phun thủy nhiệt, và do tác động của vi khuẩn với các hợp chất hữu cơ chứa lưu huỳnh khi bị phân hủy.
Các màu đặc trưng của các vệ tinh núi lửa của Sao Mộc, như Io, là do các dạng khác nhau của lưu huỳnh gây ra (nóng chảy, rắn hay khí). Các khu vực sẫm màu trên Mặt Trăng gần hố Aristarchus có thể là mỏ lưu huỳnh. Lưu huỳnh cũng tồn tại trong nhiều loại thiên thạch.
Hợp chất
Hydro sulfide có mùi đặc trưng của trứng thối. Khi hòa tan trong nước nó có tính acid và phản ứng với nhiều kim loại để tạo ra các sulfide kim loại. Các sulfide kim loại khá phổ biến, đặc biệt là của sắt. Sulfide sắt còn được gọi là pyrit cũng như khoáng sản màu vàng. Một điều thú vị là pyrit có các tính chất bán dẫn . Galen là sulfide chì tự nhiên, là chất bán dẫn đầu tiên được phát hiện và nó đã từng được dùng làm bộ chỉnh lưu tín hiệu trong các "râu mèo" của các radio tinh thể đầu tiên.
Nhiều hợp chất hữu cơ của lưu huỳnh với mùi khó ngửi như các êtyl và mêtyl mecaptan được dùng làm chất tạo mùi cho khí đốt nhằm dễ dàng phát hiện rò rỉ. Mùi của tỏi và "mùi hôi như chồn hôi" cũng do các hợp chất hữu cơ chứa lưu huỳnh gây ra. Tuy nhiên, không phải mọi hợp chất hữu cơ chứa lưu huỳnh đều có mùi khó ngửi, chẳng hạn, terpen-một hợp chất chứa lưu huỳnh là tác nhân tạo ra mùi thơm đặc trưng của quả bưởi chùm.
Nitride lưu huỳnh polyme hóa có các tính chất của kim loại mặc dù nó không chứa bất kỳ một nguyên tử kim loại nào. Hợp chất này cũng có các tính chất điện và quang học bất thường. Polyme này có thể tạo ra từ Tetra lưu huỳnh tetranitride S4N4.
Các hợp chất quan trọng khác của lưu huỳnh còn có:
Vô cơ:
Các sulfide (S2-) là các hợp chất đơn giản nhất của lưu huỳnh với các nguyên tố hóa học khác.
Các sulfit (SO32-), các muối của acid sulfurơ, H2SO3, được tạo ra bằng cách hòa tan SO2 trong nước. acid sulfurơ và các sulfit tương ứng là các chất khử tương đối mạnh. Các hợp chất dẫn xuất khác từ SO2 còn có các ion pyrosulfit hay mêtabisulfit (S2O52−).
Các sulfat (SO42-), các muối của acid sulfuric. acid sulfuric cũng phản ứng với SO3 trong các tỷ lệ đẳng phân tử gam để tạo ra acid pyrosulfuric (H2S2O7).
Các thiosulfat (đôi khi được gọi là thiosulfit hay "hyposulfit") (S2O32−)- như thiosulfat natri được dùng như các chất cố định trong nhiếp ảnh (trong vai trò của các chất khử) và amoni thiosulfat đã được phát hiện như là chất thay thế cho các cyanide trong lọc quặng vàng .
Natri dithionit, Na2S2O4 tạo ra từ acid hyposulfurơ/đithionơ - là một chất khử mạnh.
Natri dithionat (Na2S2O6)
Các acid polythionic (H2SnO6), trong đó n dao động từ 3 đến 80.
acid peroxymonosulfuric (H2SO5) và acid peroxydisulfuric (H2S2O8)-được điều chế từ phản ứng của SO3 hay H2SO4 với H2O2 đậm đặc một cách tương ứng.
Các natri polysulfide (Na2Sx)
lưu huỳnh hexafluoride, SF6, một tác nhân đẩy nặng, dạng khí, không phản ứng và không độc
Tetra lưu huỳnh tetranitride S4N4.
Các thiocyanat là các hợp chất chứa ion thiocyanat, SCN-. Liên quan đến các ion này là thiocyanogen, (SCN)2.
Hữu cơ:
dimethylsulfoniopropionat (DMSP; (CH3)2S+CH2CH2COO-) là thành phần trung tâm của chu trình lưu huỳnh hữu cơ trong đại dương.
Các thioether là các phân tử với công thức tổng quát dạng R-S-R′, trong đó R và R′ là các nhóm hữu cơ. Các chất này là sự tương đương của các ether (lưu huỳnh thay thế oxy).
Các thiol (hay mecaptan) là các phân tử với nhóm chức -SH. Chúng là các chất tương đương với rượu (lưu huỳnh thay thế oxy).
Các thiolat có nhóm chức -S- gắn vào. Chúng là các chất tương đương của các ankoxide (lưu huỳnh thay thế oxy).
Sulfoxide là các phân tử với nhóm chức R-S(=O)-R′, trong đó R và R′ là các nhóm hữu cơ. Một chất phổ biến trong số các sulfoxide là DMSO.
Sulfon là các phân tử với nhóm chức R-S(=O)-R′, trong đó R và R′ là các nhóm hữu cơ.
Thuốc thử Lawesson là thuốc thử hóa học có thể lấy oxy từ các chất hữu cơ khác và thay nó bằng lưu huỳnh.
Naphthalen-1,8-diyl 1,3,2,4-dithiadiphosphetane 2,4-disulfide
Đồng vị
Lưu huỳnh có 18 đồng vị, trong đó 4 đồng vị ổn định: S32 (95,02%), S33 (0,75%), S34 (4,21%) và S36 (0,02%). Các đồng vị khác và S35 là các đồng vị phóng xạ và có chu kỳ bán rã ngắn. S35 được tạo ra từ sự bắn phá của các tia vũ trụ với Ar40 trong khí quyển Trái Đất. Nó có chu kỳ bán rã là 87 ngày.
Khi các khoáng chất sulfide theo nước mưa xuống đất thì cân bằng đồng vị giữa các thể rắn và các thể lỏng có thể sinh ra sự sai biệt nhỏ trong các giá trị của dS34 của các khoáng chất cùng nguồn gốc. Sự khác biệt trong các khoáng chất có thể sử dụng để ước tính nhiệt độ của cân bằng. dC13 và dS34 của các carbonat cùng tồn tại và các sulfide có thể sử dụng để xác định pH và độ khó giữ oxy của các chất lỏng mang theo quặng trong quá trình hình thành quặng.
Trong phần lớn các hệ sinh thái rừng, sulfat chủ yếu thu được từ khí quyển hay sự phong hóa của các quặng khoáng sản và các chất đã thoát hơi nước cũng cung cấp một lượng lưu huỳnh nhỏ. Lưu huỳnh với thành phần đồng vị đặc biệt được sử dụng để xác định các nguồn ô nhiễm, và lưu huỳnh được làm giàu được thêm vào dưới dạng dấu vết trong các nghiên cứu thủy học. Các khác biệt trong độ phổ biến tự nhiên cũng được sử dụng trong các hệ thống mà trong đó có các biến đổi đủ lớn của S34 trong thành phần của hệ sinh thái.
Phòng ngừa
Các chất như carbon disulfide, carbonyl sulfide, hydro sulfide và lưu huỳnh dioxide cần phải rất cẩn thận khi tiếp xúc.
Mặc dù lưu huỳnh dioxide là khá an toàn để sử dụng như là phụ gia thực phẩm với một lượng nhỏ, nhưng khi ở nồng độ cao nó phản ứng với hơi ẩm để tạo ra acid sulfurơ mà với một lượng đủ lớn có thể gây tổn thương cho phổi, mắt hay các cơ quan khác. Trong các sinh vật không có phổi như côn trùng hay thực vật thì nó ngăn cản sự hô hấp.
Hydro sulfide là rất nhẹ (nó độc hơn nhiều so với cyanide). Mặc dù ban đầu nó có mùi, nhưng nó nhanh chóng làm mất cảm giác mùi, vì thế các nạn nhân có thể không biết được sự hiện diện của nó cho đến khi đã quá muộn.
Xem thêm
Chu trình lưu huỳnh
Liên kết disulfide
Sulfoni S+, S+R3
Chú thích
Tham khảo
Phòng thí nghiệm quốc gia Los Alamos, Hoa Kỳ-Lưu huỳnh
R. Steudel (ed.): Elemental Sulfur and Sulfur-Rich Compounds (phần I & II), Topics in Current Chemistry Vol. 230 & 231, Springer, Berlin 2003.
Liên kết ngoài
Biểu đồ pha của lưu huỳnh.
WebElements.com-Lưu huỳnh
Phi kim
Nhóm oxy
Chất khoáng dinh dưỡng
Khoáng vật hệ thoi
Khoáng vật tự sinh
Nhóm nguyên tố 16
|
26140
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n%20Xu%C3%A2n%20Kho%C3%A1t
|
Nguyễn Xuân Khoát
|
Nguyễn Xuân Khoát (11 tháng 2 năm 1910 – 7 tháng 5 năm 1993) là một nhạc sĩ và là Chủ tịch đầu tiên của Hội Nhạc sĩ Việt Nam. Ông không chỉ được xem là Người anh cả, là Cánh chim đầu đàn của nền tân nhạc Việt Nam, mà còn là người có công đầu khơi lại giá trị nghệ thuật của ca trù – một trong những di sản phi vật thể của Việt Nam.
Cuộc đời
Nguyễn Xuân Khoát sinh ngày 11 tháng 2 năm 1910, trong một gia đình Công giáo tại phố Nhà Thờ ở Hà Nội.
Trước Cách mạng tháng Tám
Năm 1927, ông cùng với vài người bạn như Nguyễn Hữu Hiếu, Nguyễn Văn Giệp bắt đầu theo học contrebasse tại Conservatoire Français d'Extrême-Orient (Nhạc viện Viễn Đông), một nhạc viện do người Pháp lập ra tại Hà Nội. Nhưng chỉ sau 3 năm, Pháp cho đóng cửa học viện này vì cho rằng "người Việt Nam" không có khả năng âm nhạc. Nguyễn Xuân Khoát cùng các bạn buộc phải chơi nhạc ở các hộp đêm để kiếm sống. Ông có thể chơi thành thạo violin, piano và nhất là contrebass. Năm 1936, ông tham gia ban kịch Tinh Hoa do nhà thơ Đoàn Phú Tứ thành lập. Đây là ban kịch tồn tại lâu nhất tại thời điểm bấy giờ, biểu diễn đến tận Huế, Đà Nẵng và Hội An.
Nguyễn Xuân Khoát đã tự học chèo, ca trù và phổ những bài ca dao quen thuộc của âm nhạc dân gian Việt Nam như "Thằng Bờm", "Con voi", "Con cò mày đi ăn đêm". Sáng tác mới đầu tay của ông là bài "Bình minh" (phổ thơ của Thế Lữ) được in ngày 31 tháng 7 năm 1938 trên tờ "Ngày Nay" số 121. Bài hát sử dụng chất liệu ngũ cung của phương Đông với hệ ký âm của phương Tây. Đây được xem là một trong những cột mốc mở đầu nền Tân nhạc Việt Nam. Năm 1942, ông tham gia nhóm Xuân Thu nhã tập cùng với nhà thơ Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Lương Ngọc, họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung, nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh. Không chỉ phổ nhạc bài thơ "Màu thời gian" của Đoàn Phú Tứ, "Xây mơ" của Nguyễn Xuân Sanh, ông còn kết hợp với Thế Lữ làm ra ca kịch "Trầm Hương Đình". Từ phần lời của Thế Lữ, Nguyễn Xuân Khoát đã viết ca khúc "Chào người chìm bóng" cho ca kịch này.
Sau Cách mạng tháng Tám
Đầu năm 1945, khi nạn đói dần lan đến Hà Nội, ông cùng Thế Lữ và một số nhạc sĩ khác như Đoàn Phú Tứ, Bùi Công Kỳ, Văn Chung tổ chức Đoàn ca vũ nhạc Anh Vũ, biểu diễn xuyên Việt, hưởng ứng phong trào Cách mạng Tháng Tám ở miền Trung với nhạc phẩm "Uất hận". Đây là một trong những nhạc phẩm gây tiếng vang lớn trong thời kỳ cách mạng ở Việt Nam đang lên cao trào. Nguyễn Xuân Khoát từng tự hát và đệm phong cầm bài hát này trên sân khấu rạp hát Phan Lương. Sau khi trở về Hà Nội, ông đã đăng bài viết "Nguyện vọng âm nhạc" trên tạp chí Tiên Phong của Hội Văn hóa cứu quốc và tham gia hoạt động cho Hội Khuyến nhạc của Lưu Quang Duyệt. Ông cũng là thành viên chính trong ban nhạc của Quán Nghệ sĩ ở Hà Nội.
Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, nhạc sĩ Lưu Hữu Phước được bổ nhiệm là Trưởng phòng Thiếu nhi (thuộc nha Thể dục, Bộ Thanh niên). Đầu năm 1946, Tổng bộ Việt Minh dự định thành lập Trung ương Nhạc viện nhưng bất thành vì sự trở lại của quân đội Pháp. Sau khi Toàn quốc kháng chiến bùng nổ vào ngày 19 tháng 12, Nguyễn Xuân Khoát gia nhập Đoàn kịch Tháng Tám của Bộ Nội vụ. Trước đó, Lưu Hữu Phước đã bàn với Nguyễn Xuân Khoát cùng một vài nhạc sĩ khác về việc thành lập đoàn nghệ thuật đầu tiên của Việt Nam. Đến đầu năm 1947, đoàn "Nhạc kịch thiếu nhi kháng chiến" ra đời. Đoàn nhạc kịch chủ yếu biểu diễn những ca khúc vốn có được biên đạo Tống Ngọc Hạp sân khấu hóa thành điệu nhảy. Dàn nhạc của đoàn do Nguyễn Xuân Khoát chỉ huy chỉ gồm 1 trống, vài cây đàn mandolin, alto, băng cầm và sáo.
Cũng như nhiều cơ quan chính phủ khác, Nguyễn Xuân Khoát cùng gia đình và bạn bè trong đoàn kịch rời Hà Nội để đến căn cứ địa Việt Bắc. Ông vượt sông Hồng, qua Việt Trì đến vùng trung du phía cực Tây Phú Thọ. Đoàn nhạc kịch của ông cũng biểu diễn khắp an toàn khu Việt Bắc (Cao – Bắc – Lạng, Hà – Tuyên – Thái). Trong hành trình di tản này, ông được chứng kiến và nghe kể về những đợt tấn công của quân đội Pháp. Bị ảnh hưởng bởi sự oán thán của người dân, tình cảnh những nhà thờ bị tàn phá, ông đã bắt đầu sáng tác bài "Tiếng chuông nhà thờ" ngay khi đến bến Việt Trì. Sau khoảng 1 tuần thì bài hát mang âm hưởng thánh ca này hoàn thành và được in trên giấy dó tại cơ quan Đoàn Văn nghệ kháng chiến, họa sĩ Tô Ngọc Vân là người trình bày bìa. Phó giáo sư, nhà nghiên cứu Tú Ngọc nhận định, nhạc phẩm này được xem là mẫu hình đầu tiên của thể loại ca khúc hợp xướng thời kỳ 1945 – 1954 của âm nhạc Việt Nam.
Sau khi hoàn thành "Tiếng chuông nhà thờ", Nguyễn Xuân Khoát đã rời Đoàn Văn nghệ kháng chiến và nhập ngũ. Trong những năm tháng đi hành quân, ông đã cho ra đời nhiều tác phẩm như "Đoàn quân cứu thương", "Chiều Việt Bắc" và đặc biệt là "Hát mừng chiến thắng". Năm 1952, chỉ một thời gian ngắn sau khi nhập ngũ, ông cùng các nhạc sĩ, nghệ sĩ như Tô Vũ, Lê Yên, Thế Lữ xây dựng Đoàn Văn công Nhân dân Trung ương. Sau khi thành lập, Đoàn Văn công do ông làm trưởng đoàn, Thế Lữ và Lưu Hữu Phước làm phó đoàn. Đến năm 1954, ông lại được điều về Ban Nhạc vũ – tiền thân của Hội Nhạc sĩ Việt Nam – cùng với Tô Vũ, Đặng Đình Hưng, Văn Chung, Nguyễn Đình Phúc và Lê Yên.
Sau chiến dịch Điện Biên Phủ
Tháng 5 năm 1954, Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc, miền Bắc Việt Nam tái lập hòa bình, ông đã sáng tác bản hành khúc hợp xướng "Ta đã lớn" sử dụng một đoạn khá dài trong bài thơ dài "Ta đi tới" của Tố Hữu. Đây được xem là bản hành khúc ra đời sớm nhất trong giai đoạn này. Sau khi quân đội Việt Nam tiếp quản Thủ đô Hà Nội, Nguyễn Xuân Khoát là một trong những lãnh đạo của Ban Nhạc vũ thuộc Hội Văn nghệ Việt Nam đã cùng các cơ quan quân dân chính vào Hà Nội trước để chuẩn bị cho việc tiếp quản và lãnh đạo các ban ngành liên quan. Đầu năm 1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh và chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về Hà Nội. Rất nhiều nhạc phẩm về việc tiếp quản Hà Nội đã ra đời trong thời gian này, trong đó có "Thủ đô thân mến" của Nguyễn Xuân Khoát. Năm 1957, Hội Nhạc sĩ Việt Nam chính thức được thành lập bởi 5 nhạc sĩ bao gồm Đỗ Nhuận, Lưu Hữu Phước, Văn Cao, Nguyễn Văn Tý và Nguyễn Xuân Khoát, ông cũng trở thành Chủ tịch đầu tiên của hội.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Thụy Kha đã từng nhận xét "Nguyễn Xuân Khoát đã tạo dựng được một đội ngũ âm nhạc hùng hậu như một binh chủng đặc biệt với sức công phá của âm thanh còn lớn hơn bom đạn, tạo nên bức tranh âm nhạc thời chống Mỹ hoánh tráng nhất, rock nhất từ trong bản thể âm thanh...", chính là nói về vai trò của Nguyễn Xuân Khoát trong những năm đảm nhận vai trò Chủ tịch Hội Nhạc sĩ Việt Nam. Trong những năm này, ông đã cho ra đời nhiều nhạc phẩm như nhạc cảnh "Vượt Sông Cái", nhạc cho vở kịch "Lu Ba", nhạc cho phim "Trở lại Điện Biên", "Đôi bạn". Năm 1965, ông sáng tác bài hát "Thanh niên làm theo lời Bác", cùng tên với nhạc phẩm nổi tiếng của nhạc sĩ Hoàng Hà đã ra đời trước đó 12 năm. Bài hát được sáng tác trong những năm Chiến tranh Việt Nam diễn ra khốc liệt, thanh niên miền Bắc Việt Nam tự nguyện nhập ngũ vào chiến đấu ở chiến trường miền Nam. Năm 1970, bài thơ "Bài ca dâng Đảng" của nhà thơ Nguyên Hồ dài 814 câu được in trên Báo Nhân Dân và Báo Quân đội nhân dân đã nhận được nhiều lời khen từ độc giả. Nguyễn Xuân Khoát đã trích một nhiều câu trong bài thơ này để phổ thành bài hát "Từ khi có Đảng". Bài hát đã được đăng trên Báo Nhân Dân và tuyển chọn in trong tập bài hát "Chào mừng Đảng Lao động Việt Nam" do Nhà xuất bản Văn hóa ấn hành năm 1970. Không chỉ sáng tác những ca khúc với những đề tài quen thuộc, ông còn có những ca khúc dành cho thiếu nhi như "Lúa thu", "Ông giẳng ông giăng", "Bài ca chữ S".
Bên cạnh những nhạc phẩm có lời ca, Nguyễn Xuân Khoát còn sáng tác nhiều bản hòa tấu, nổi bật nhất là hai tổ khúc "Ông Gióng" và "Sơn Tinh Thủy Tinh" viết cho dàn nhạc cụ dân tộc vốn là nhạc cho hai bộ phim hoạt họa. Tổ khúc "Ông Gióng" được rút ra từ nhạc phim hoạt hình búp bê "Chuyện Ông Gióng" – bộ phim đã đoạt giải Bồ câu Vàng tại năm 1970 – và trở thành bản hòa tấu độc lập gồm 6 chương cho Dàn nhạc Dân tộc tổng hợp. Trong viết nhạc phim, ông đã cho đàn bầu – một nhạc cụ truyền thống của Việt Nam – và cello – một nhạc cụ của phương Tây – thay phiên nhau phụ họa cho lời ru của mẹ Gióng. Còn trong phim "Sơn Tinh Thủy Tinh", bên cạnh các nhạc cụ phương Tây như vĩ cầm, cello, kèn fagotte, ông chủ yếu sử dụng đàn bầu và các bộ gõ Việt Nam như trống đế của chèo, trống con, trống cái, sênh tiền, thanh la. Ngoài ra, ông còn sáng tác những nhạc phẩm dành riêng cho các nhạc cụ gõ, bộ gõ như tổ khúc bốn mùa "Xuân – Hạ – Thu – Đông" và tổ khúc tứ bình "Trúc – Cúc – Tùng – Mai". Đặc biệt, trong bản hòa tấu "Mùa hè" ("Hạ" trong tổ khúc bốn mùa) ông đã sử dụng một nhạc cụ dân gian cổ truyền của miền Trung chính là sênh sứa. Những tác phẩm này của ông đã được dàn nhạc gõ Phù Đổng trình diễn ở nhiều nơi trong và ngoài nước, rất được khán giả hoan nghênh.
Việt Nam tái lập hòa bình
Ông sống cùng vợ tại khu tập thể Nguyễn Công Trứ (Phố Huế, Hai Bà Trưng, Hà Nội). Dù đã cao tuổi, nhưng ông vẫn tiếp tục sáng tác nhiều ca khúc mới, đặc biệt là cho các phong trào sáng tác ở Hà Nội. Năm 1979, chiến tranh biên giới Việt–Trung nổ ra. Một đợt biểu diễn ca nhạc đặc biệt đã được tổ chức tại Nhà hát Lớn Hà Nội để phản đối cuộc xung đột vũ trang này. Để hưởng ứng buổi biểu diễn, Nguyễn Xuân Khoát đã sáng tác bài "Giờ đây là giờ sinh tử" trong 1 đêm. Năm 1988, ông tiếp tục sáng tác bài "Chúng tôi quét" nói về đề tài sạch đẹp đường phố, sạch đẹp tư tưởng con người để hưởng ứng phong trào sáng tác đề tài nếp sống của thành phố.
Ngoài việc sáng tác, ông còn có nhiều bài tiểu luận, bài viết đăng trên các báo và tạp chí với những chuyên khảo về ca trù tuồng, chèo truyền thống. Những năm cuối đời, ông vẫn tiếp tục giữ gìn và truyền lại đam mê với bản sắc dân tộc, nghệ thuật cổ truyền cho các thế hệ kế cận thông qua các cuộc nói chuyện, bài viết, tác phẩm, tuyển tập ca khúc, sách chuyên khảo hay album tác giả. Ông được xem là một trong những người đặt nền móng cho việc nghiên cứu âm nhạc chèo, ca trù và âm nhạc dân tộc cổ truyền Việt Nam.
Cuối đời và vinh danh
Với những đóng góp của ông cho nền Tân nhạc Việt Nam, ông được xem là "anh cả" của âm nhạc Việt Nam hiện đại, nhiều người còn thân mật gọi ông là "Cụ cả Khoát". Ông qua đời vào ngày 7 tháng 5 năm 1993, an táng tại Nghĩa trang Mai Dịch, Hà Nội. Năm 1996, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật ngay trong đợt trao thưởng đầu tiên với 5 tác phẩm bao gồm: "Tiếng chuông nhà thờ", "Ta đã lớn", "Thanh niên làm theo lời Bác", "Ông Gióng" và "Sơn Tinh Thủy Tinh". Ngày 11 tháng 1 năm 2011, lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông đã được tổ chức tại trụ sở Hội Nhạc sĩ Việt Nam. Lễ kỷ niệm có sự tham gia của nhà thơ Hữu Thỉnh – Chủ tịch Uỷ ban Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam, cùng nhiều nghệ sĩ như Nghệ sĩ nhân dân Quang Thọ, Nghệ sĩ ưu tú Dương Minh Đức, Quốc Hưng. Hiện nay, tên của ông được đặt cho một tuyến phố ở quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội, nối từ cuối phố Đỗ Nhuận đến đường trục khu đô thị Tây Hồ Tây. Năm 2021, đạo diễn Nguyễn Trung Thành bắt đầu thực hiện bộ phim Ả đào, một dự án phim tài liệu về nghệ thuật bảo trợ của Viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia Việt Nam. Nguyễn Xuân Khoát là một trong những nhân vật xuất hiện trong bộ phim.
Một số tác phẩm
Thanh nhạc
Khí nhạc
Đánh giá
Nhà nghiên cứu âm nhạc Nguyễn Thụy Kha:
Nhà nghiên cứu âm nhạc cổ truyền, Giáo sư Trần Văn Khê:
Nhà soạn nhạc Jason Gibbs, người được xem là có những khảo cứu và tư liệu đầy đủ nhất về nhạc Việt Nam từ thời tiền chiến cho tới nay:
Khen thưởng
Huân chương Độc lập hạng Nhất.
Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật (1996)
Ghi chú
Tham khảo
Nguồn
Nhạc sĩ tiền chiến
Nhạc sĩ nhạc đỏ
Người nhận giải thưởng Hồ Chí Minh
Người Hà Nội
Nghệ sĩ dương cầm Việt Nam
Nhà soạn nhạc Việt Nam
Nghệ sĩ Công giáo Việt Nam
Tín hữu Công giáo Việt Nam
Nhà soạn nhạc thế kỷ 20
Nghệ sĩ dương cầm thế kỷ 20
Người họ Nguyễn tại Việt Nam
Tín hữu Công giáo được đặt tên đường ở Việt Nam
|
26150
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%B4ng%20B%C3%A9%20%28t%E1%BB%89nh%29
|
Sông Bé (tỉnh)
|
Sông Bé là một tỉnh cũ thuộc vùng Đông Nam Bộ, Việt Nam.
Địa lý
Tỉnh Sông Bé có biên giới với Campuchia ở phía bắc, có vị trí địa lý:
Phía đông bắc và đông giáp tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Lâm Đồng
Phía đông nam giáp tỉnh Đồng Nai
Phía nam và tây nam giáp Thành phố Hồ Chí Minh
Phía tây giáp tỉnh Tây Ninh.
Như vậy, Sông Bé là tỉnh có diện tích lớn nhất Nam Bộ lúc bấy giờ.
Lịch sử
Tỉnh Sông Bé được thành lập ngày 2 tháng 7 năm 1976 trên cơ sở sáp nhập 2 tỉnh Bình Dương (chính quyền cách mạng gọi là tỉnh Thủ Dầu Một), Bình Phước (do chính quyền cách mạng sáp nhập hai tỉnh Bình Long, Phước Long tồn tại trước đó) và 3 xã An Bình, Bình An, Đông Hoà của huyện Thủ Đức. Ban đầu tỉnh lấy tên là tỉnh Bình Thủ, nhưng tên gọi này chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn.
Khi mới thành lập, tỉnh Sông Bé có 14 huyện: Bến Cát, Bù Đăng, Bù Đốp, Châu Thành, Chơn Thành, Dầu Tiếng, Dĩ An, Đồng Xoài, Hớn Quản, Lái Thiêu, Lộc Ninh, Phú Giáo, Phước Bình, Tân Uyên và thị xã Thủ Dầu Một. Tỉnh lỵ đặt tại thị xã Thủ Dầu Một.
Năm 1977, Quyết định 55-CP năm 1977 hợp nhất một số huyện thuộc tỉnh Sông Bé:
Hợp nhất 3 huyện Lộc Ninh, Hớn Quản, Chơn Thành thành huyện Bình Long
Hợp nhất 3 huyện Bù Đốp, Phước Bình, Bù Đăng thành huyện Phước Long
Hợp nhất 2 huyện Đồng Xoài và Phú Giáo thành huyện Đồng Phú
Sáp nhập huyện Dầu Tiếng vào huyện Bến Cát;
Sáp nhập 4 xã của huyện Phú Giáo: Bình Mỹ, Tân Bình, Phước Hòa, Tân Hưng và 3 xã của huyện Châu Thành: Tân Phước Khánh, Tân Phú Hiệp (nay là các phường Phú Chánh, Vĩnh Tân) và Tân Vĩnh Hiệp vào huyện Tân Uyên
Sáp nhập 5 xã của huyện Châu Thành: Phú Hòa (nay là phường Phú Hòa và phường Phú Lợi), Phú Mỹ, Định Hòa, Tương Bình Hiệp và Tân An (nay là các phường Tân An và phường Hiệp An) vào thị xã Thủ Dầu Một
Hợp nhất 2 huyện Lái Thiêu và Dĩ An thành huyện Thuận An.
Năm 1978, tái lập huyện Lộc Ninh từ một số xã của 2 huyện Bình Long và Phước Long.
Năm 1988, tái lập huyện Bù Đăng từ một số xã của huyện Phước Long.
Đến năm 1996, tỉnh Sông Bé có 9 đơn vị hành chính gồm thị xã Thủ Dầu Một (tỉnh lỵ) và 8 huyện: Bến Cát, Bình Long, Bù Đăng, Đồng Phú, Lộc Ninh, Phước Long, Tân Uyên, Thuận An.
Ngày 6 tháng 11 năm 1996, kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa IX ra nghị quyết chia tỉnh Sông Bé để tái lập tỉnh Bình Dương và tỉnh Bình Phước:
Tỉnh Bình Dương gồm thị xã Thủ Dầu Một và 3 huyện: Bến Cát, Tân Uyên, Thuận An (ngày nay bao gồm 4 thành phố Thủ Dầu Một, Dĩ An, Thuận An, Tân Uyên, thị xã Bến Cát và 4 huyện Bàu Bàng, Bắc Tân Uyên, Phú Giáo, Dầu Tiếng). Tỉnh lỵ đặt tại thị xã Thủ Dầu Một.
Tỉnh Bình Phước gồm 5 huyện: Bình Long, Bù Đăng, Đồng Phú, Lộc Ninh, Phước Long (ngày nay bao gồm thành phố Đồng Xoài, 3 thị xã Bình Long, Phước Long, Chơn Thành và 8 huyện Bù Đăng, Bù Đốp, Bù Gia Mập, Đồng Phú, Hớn Quản, Lộc Ninh, Phú Riềng). Tỉnh lỵ đặt tại thị trấn Đồng Xoài của huyện Đồng Phú.
Chú thích
Tham khảo
Sông Bé
Hành chính Bình Dương
Hành chính Bình Phước
|
26152
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BA%A3i%20H%C6%B0ng%20%28t%E1%BB%89nh%29
|
Hải Hưng (tỉnh)
|
Hải Hưng là một tỉnh cũ ở vùng đồng bằng sông Hồng Việt Nam, tồn tại từ ngày 26 tháng 1 năm 1968 đến ngày 5 tháng 11 năm 1996.
Địa lý
Tỉnh Hải Hưng có vị trí địa lý (năm 1996):
Phía bắc giáp tỉnh Hà Bắc và thành phố Hà Nội
Phía nam giáp tỉnh Thái Bình và tỉnh Nam Hà
Phía đông giáp tỉnh Quảng Ninh và thành phố Hải Phòng
Phía tây giáp tỉnh Hà Tây.
Diện tích, dân số
Diện tích (1995): 2.556,01 km²
Dân số (1995): 2.761.003 người
Lịch sử
Ngày 26 tháng 1 năm 1968, theo Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội Việt Nam, hai tỉnh Hải Dương và Hưng Yên sáp nhập thành tỉnh Hải Hưng. Khi hợp nhất, tỉnh có 2 thị xã: thị xã Hải Dương (tỉnh lị), thị xã Hưng Yên và 20 huyện: Ân Thi, Bình Giang, Cẩm Giàng, Chí Linh, Gia Lộc, Khoái Châu, Kim Động, Kim Thành, Kinh Môn, Mỹ Hào, Nam Sách, Ninh Giang, Phù Cừ, Thanh Hà, Thanh Miện, Tiên Lữ, Tứ Kỳ, Văn Giang, Văn Lâm, Yên Mỹ.
Sau khi sáp nhập tỉnh, các huyện cũng tiến hành hợp nhất.
Năm 1977, hợp nhất Cẩm Giàng và Bình Giang thành huyện Cẩm Bình.
Năm 1979, hợp nhất Kim Thành và Kinh Môn thành huyện Kim Môn; Nam Sách và Thanh Hà thành huyện Nam Thanh; Tứ Kỳ và Gia Lộc thành huyện Tứ Lộc; Thanh Miện và Ninh Giang thành huyện Ninh Thanh.
Năm 1977, hợp nhất Phù Cừ và Tiên Lữ thành huyện Phù Tiên, Văn Giang và Yên Mỹ thành huyện Văn Yên, Văn Lâm và Mỹ Hào thành huyện Mỹ Văn.
Năm 1979, hợp nhất 14 xã của huyện Văn Yên (gồm phần lớn huyện Yên Mỹ cũ) và huyện Văn Mỹ thành huyện Mỹ Văn; hợp nhất 14 xã còn lại của huyện Văn Yên (gồm phần lớn huyện Văn Giang cũ) và huyện Khoái Châu thành huyện Châu Giang; Kim Động và Ân Thi thành huyện Kim Thi.
Như vậy đơn vị hành chính của tỉnh đến đầu năm 1996 bao gồm thị xã Hải Dương (tỉnh lị), thị xã Hưng Yên, 10 huyện: Cẩm Bình, Châu Giang, Chí Linh, Kim Môn, Kim Thi, Mỹ Văn, Nam Thanh, Ninh Thanh, Phù Tiên, Tứ Lộc.
Ngày 27 tháng 1 năm 1996, chia huyện Kim Thi thành 2 huyện Kim Động và Ân Thi, chia huyện Ninh Thanh thành 2 huyện: Ninh Giang và Thanh Miện, chia huyện Tứ Lộc thành 2 huyện: Tứ Kỳ và Gia Lộc như trước khi sáp nhập.
Đến cuối năm 1996, đơn vị hành chính của tỉnh bao gồm thị xã Hải Dương (tỉnh lị), thị xã Hưng Yên và 13 huyện: Ân Thi, Cẩm Bình, Châu Giang, Chí Linh, Gia Lộc, Kim Động, Kim Môn, Mỹ Văn, Nam Thanh, Ninh Giang, Phù Tiên, Thanh Miện, Tứ Kỳ.
Ngày 6 tháng 11 năm 1996, kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa IX ra nghị quyết chia tỉnh Hải Hưng để tái lập tỉnh Hải Dương và tỉnh Hưng Yên.
Tỉnh Hải Dương gồm thị xã Hải Dương và 8 huyện: Cẩm Bình, Chí Linh, Gia Lộc, Kim Môn, Nam Thanh, Ninh Giang, Thanh Miện, Tứ Kỳ.
Tỉnh Hưng Yên gồm thị xã Hưng Yên và 5 huyện: Ân Thi, Châu Giang, Kim Động, Mỹ Văn, Phù Tiên.
Ngày 24 tháng 7 năm 1999, huyện Châu Giang tách thành 2 huyện Khoái Châu và Văn Giang. Đồng thời, chia lại huyện Mỹ Văn thành 3 huyện: Mỹ Hào, Văn Lâm và Yên Mỹ.
Xem thêm
Hải Dương
Hưng Yên
Tham khảo
H
H
|
26154
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/N%C6%B0%E1%BB%9Bc%20m%E1%BA%AFm
|
Nước mắm
|
Nước mắm theo cách hiểu thông thường là chắt phần nước rỉ được từ cá, tôm và xác động vật nhuyễn thể khác được ướp muối lâu ngày. Nó được sử dụng rộng rãi trong ẩm thực của các quốc gia Đông Nam Á như Việt Nam và Thái Lan, để chấm hoặc gia vị chế biến các món ăn khác.Tại miền nam Trung Quốc, nước mắm cũng được sử dụng, nhưng chỉ dùng để làm dầu hay gia vị trong các món súp và thịt hầm.Trên phương diện khoa học, nước mắm là hỗn hợp muối với các amino acid được chuyển thể từ protein trong thịt cá qua một quá trình thủy phân có tác nhân là các hệ enzyme có sẵn trong ruột cá cùng với một loại vi khuẩn kỵ khí chịu mặn.
Trên thế giới
Châu Á
Nước mắm châu Á thường được chế biến từ cá cơm, muối, và nước, và cần được tiêu thụ điều độ vì nó có vị rất mạnh. Nước mắm Thái Lan rất giống mắm Việt Nam và được gọi là nam pla (น้ำปลา). Tại Trung Quốc, nó được gọi là ngư lộ (魚露, yúlù), tại Triều Tiên eojang (어장), tại Indonesia kecap ikan và tại Philippines patis. Tại Nhật Bản, ba loại mắm được sử dụng; shottsuru(しょっつる) ở tỉnh Akita, ishiru(いしる) ở tỉnh Ishikawa, và ikanago-jōyu(いかなご醤油) ở tỉnh Kagawa.
Bã cá giống mắm ở Indonesia được gọi là trasi, tại Campuchia prahok (bò hóc) và thường dùng cá đã để hơi ươn trước khi ướp muối. Người Mã Lai cũng có cục gạnh cá gọi là belacan.
Mắm Lào được gọi là padek, được chế biến từ cá nước ngọt.
Phương Tây
Có một loại nước mắm cũng đã từng phổ biến ở thời La Mã cổ đại, tiếng Latin gọi là garum hoặc liquamen, và cũng tồn tại trong nhiều loại nước chấm như oxygarum (pha với giấm), meligarum (pha với mật ong),... Nước mắm cũng là một trong những đặc sản ở vùng Hispania Baetica.
Trong tiếng Anh, nó được gọi là fish sauce. Nước chấm Worcestershire ở Anh là một sản phẩm tương tự, loại nước chấm này được mang từ Ấn Độ sang Anh Quốc. Ngày nay, người ta dùng cá trống để làm garum, nhưng không được lên men.
Việt Nam
Có thể nói Việt Nam từ thời xa xưa đã là xứ sở của các loại mắm. Từ mắm nêm, mắm phệt, mắm cáy, mắm ruốc, mắm tôm đến các loại mắm lóc, mắm sặt, khô mắm, khô mặn v.v... cho đến loại mắm đặc biệt là mắm nước thường được gọi là nước mắm. Nước mắm có thể làm từ cá sống, cá khô; hoặc từ cả các loại sò hến, tôm cua hoặc trái cây như quả điều khi làm nước mắm chay. Một số loại nước mắm được làm từ cá nguyên con, một số khác thì chỉ được từ tiết hay nội tạng cá. Một số loại nước mắm chỉ có cá và muối, một số khác có thể có thêm dược thảo và gia vị. Nước mắm lên men ngắn ngày có mùi tanh đặc trưng của cá. Quá trình lên men dài ngày sẽ giảm được mùi tanh và tạo ra hương vị mùi quả hạch và béo hơn.
Tại Việt Nam, suốt miền duyên hải đều làm nước mắm. Nước mắm thường chủ yếu làm từ các loại cá biển (cá cơm, cá thu, cá nục v.v.) và rút chiết ra dưới dạng nước. Tùy theo độ đạm trong nước mắm mà người ta phân cấp độ (nước mắm cốt, nước mắm loại 1, nước mắm loại 2). Chén nước mắm dùng chung giữa mâm cơm được coi là nét đặc trưng cho văn hoá chia sẻ trong ẩm thực Việt Nam.
Cuốn Việt sử đầu tiên có đề cập đến nước mắm có lẽ là cuốn Đại Việt sử ký toàn thư, khắc in vào năm Chính Hòa thứ 18 (1697). Trong Kỷ nhà Lê, phần viết về Đại Hành hoàng đế, sách này có ghi lại sự kiện: "Đinh Dậu, Ứng Thiên năm thứ 4 (997)... Mùa hạ, tháng 4, nhà Tống phong vua làm Nam Bình Vương. Vua sai sứ sang nước Tống đáp lễ. Vua Tống ban chiếu thư khen ngợi. Trước kia, sứ Tống sang thường mượn cớ đòi cống nước mắm, nhân thế bắt đóng góp. Đến đây, Tống Chân Tông nghe biết chuyện ấy, chỉ sai quan giữ biên giới gọi đến nhận mệnh, không sai sứ sang nữa." Đoạn sử liệu này cho thấy muộn nhất là vào trước năm 997, người Việt đã biết làm và dùng nước mắm và nước mắm đã được lưu vào sử sách. Bấy giờ, nước mắm do người Việt làm ra hẳn phải là một loại đặc sản có tiếng, khiến vua chúa Trung Hoa tuy ở xa vạn dặm, cũng "ngửi thấy" mùi thơm của nước mắm, nên mới đòi triều đình Đại Việt phải triều cống nước mắm cho họ. Khi đọc đến đoạn ghi chép này trong Đại Việt sử ký toàn thư, nhà nghiên cứu Phạm Hoàng Quân đã nêu một câu hỏi rất thú vị: "Người Trung Hoa không có truyền thống ăn nước mắm, mà họ ăn nước tương, sao lại đòi cống nước mắm? Hay là thời Tiền Lê, nước mắm Việt hiếm hoi trân quý đến mức người ta phải lấy nó để bắt chẹt nhau?" Quả đúng như vậy, vì người Tàu ăn xì dầu, coi món nước chấm làm từ đậu nành này là thứ gia vị căn cốt của họ, khiến cho món ăn Tàu nhìn bên ngoài có vẻ giống với món ăn Việt, kỳ thực lại khác nhau một trời một vực, như nhận xét của M. Coughlin rằng: "Mặc dù người Việt Nam ăn bằng đũa và thức ăn của họ thì khó phân biệt được với đồ ăn của Trung Hoa đối với một người Tây phương bình thường, đã có nhiều sự khác biệt và các sự biến cải theo khẩu vị địa phương. Nước chấm căn bản – nước mắm, món gia vị trong mọi bữa ăn, thì đặc biệt là của người Việt Nam và hoàn toàn khác với nước tương, nước chấm gia vị tiêu chuẩn của Trung Hoa."
Nhà hàng hải người Anh William Dampier trong chuyến ghé Đàng Ngoài năm 1688 có ghi lại cách sản xuất nước mắm khi ngư dân trộn cá và tôm với muối và nước rồi nén trong hũ đậy kín. Sau một thời gian xác tôm cá nhừ nát ra thì người Việt gạn ra phần nước dùng, gọi là nuke-mum. Người nghèo thì ăn phần bã mắm với cơm. Phần nước màu nâu nhạt, ngả màu xám nhưng trong suốt được mọi người ưa chuộng, ăn với thịt gà, thịt vịt rất ngon.
Thống kê của Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (2016) cho biết khoảng gần 2.800 doanh nghiệp vừa và nhỏ làm nước mắm truyền thống. Việt Nam sản xuất 200 triệu lít nước mắm mỗi năm, trong đó 75% là nước mắm công nghiệp (nước mắm pha loãng với hóa chất). Chỉ riêng công ty Masan chiếm 65% thị phần toàn ngành nước mắm.
Cách chế biến
Phương thức Gài nén
Cách chế biến nước mắm truyền thống của người Việt là ủ chượp theo phương pháp gài nén. Cá được trộn đều với muối ăn theo tỷ lệ xấp xỉ 3:1 (gọi là chượp) rồi cho vào thùng gỗ lớn, dung tích thường dùng từ 2,5 – 8 m³, rồi rải muối gài nẹp đè đá bên trên để nén. Sau 2 – 4 ngày thì mở nút lù dưới đáy thùng để hứng "nước bổi". Nội dung trong thùng chượp sau khi rút nước bổi sẽ xẹp xuống, nút lù được đóng lại và ủ từ 7 – 12 tháng. Khi chượp "chín", nước mắm hình thành trong suốt, có màu từ vàng rơm đến cánh gián, mất mùi tanh và thay vào đó có mùi thơm đặc trưng, được rút đợt đầu gọi là nước cốt hay "nước nhỉ". Phần bã còn lại được tra thêm nước bổi và muối rồi lại để lên men tiếp trước khi rút nước hai, nước ba. Những đợt nước sau nước cốt thì gọi là "nước ngang" hoặc "nước long" và độ đạm giảm dần và phẩm chất càng kém. Nước mắm ngon phải để chượp chín 12 tháng mới rút nước cốt.
Phương thức Đánh khuấy
Ở một số địa phương miền Bắc, như Cát Hải - Hải Phòng, cách chế biến phổ biến là đánh khuấy, theo đó cá trước khi trộn chượp có thể đập dập, sau thời gian khoảng 3 tháng thì đánh khuấy chượp để tăng tốc độ chín. Phương pháp này rút ngắn thời gian ủ chượp xuống 6 – 7 tháng, nhưng chỉ cho nước mắm có độ đạm thấp hơn phương pháp truyền thống.
Nước mắm công nghiệp
Nước mắm sản xuất tại Việt Nam sang thế kỷ XXI đã công nghệ hóa nên nước bổi, nước cốt do nhà sản xuất cung cấp, thường được pha chế thêm để tăng sản lượng trước khi chai đóng chai đem bán, gọi là "nước mắm công nghiệp". Phương thức pha chế đó làm phần nước mắm cốt càng loãng, màu nhợt nhạt và mùi mắm mắm cũng phai nên phải bù vào bằng cách pha phẩm màu, tăng độ sánh, chế thêm hương liệu và các chất bảo quản để thành phẩm bắt mắt. Vì vậy, danh từ "nước mắm nhỉ" tuy được dùng trên nhiều nhãn hiệu nhưng thật ra không còn nữa. Tính đến năm 2019 thị phần nước mắm truyền thống chỉ khoảng 15 – 20% trong khi đó nước mắm công nghiệp thống lĩnh phần lớn tuyệt đối lượng tiêu thụ.
Đánh giá
Tiêu chí truyền thống để đánh giá chất lượng nước mắm nguyên chất là độ đạm – đạm tạo nên hậu vị ngòn ngọt đằng sau vị mặn của muối. Nếu muối có nhiều tạp thì nước mắm thường có vị chát, vị khé. Nên nước mắm ngon trước hết phải có vị mặn không chát kèm theo hậu vị đạm cao, sau đó phải có mùi đặc trưng mà không tanh, không thối.
Nước mắm nhĩ hay nước mắm nhỉ thì cũng đều là cách gọi để chỉ loại nước mắm cao cấp nhất, những giọt nước mắm đầu tiên được nhỏ giọt ra từ thùng ủ chượp sau một thời gian dài lên men của cá và muối. Vì vậy, người sản xuất nước mắm mới gọi những loại mắm từ những thùng này là nước mắm nhỉ hay còn có tên gọi khác là mắm nhĩ, tùy thuộc vào từng vùng miền khác nhau.
Tranh cãi
2016: Nước mắm nhiễm asen
Tháng 10 năm 2016, báo Thanh Niên, và sau đó là Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam (Vinastas) đã công bố thông tin "cho thấy 67% nước mắm họ khảo sát có hàm lượng arsen tổng vượt ngưỡng cho phép." Thông tin này không rõ ràng về tỷ lệ nhiễm arsen trong nước mắm là vô cơ hay hữu cơ. Từ hai nguồn này, hàng chục cơ quan báo chí Việt Nam đã đăng 170 tin, bài công bố kết quả khảo sát có nội dung sai sự thật từ báo Thanh Niên và Vinastas.
12 giờ sau khi bài báo xuất hiện, Nguyễn Xuân Phúc yêu cầu các cơ quan kiểm tra tình trạng nước mắm công nghiệp có hoá chất thêm vào, báo cáo trước ngày 22/10/2016
Sau đó chính quyền và giới chuyên gia đính chính rằng arsen trong nước mắm là arsen hữu cơ, không ảnh hưởng xấu đến sức khỏe người tiêu dùng.
Ngày 21/11, Bộ Thông tin và Truyền thông Việt Nam công bố mức xử phạt vi phạm hành chính với 50 cơ quan báo chí. Bị phạt nặng nhất là tờ Thanh Niên, 200 triệu đồng - mức phạt tiền cao nhất đối với vi phạm hành chính trong hoạt động báo chí.
Trước đó từ năm 2009 Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc (FAO) đã thông báo phân tích khối phổ về sáu loại nước mắm từ Việt Nam và Thái Lan, kết quả là tuy có arsenobetaine (82 – 94%), arsenocholine (4.9-7.7%), trimethylarsine oxide (0.7 – 7.8%), và trimethylarsenopropionate (0.5 – 2.1%) nhưng hợp tố độc hại như arsenite, arsenate, methylarsonic acid (MA) và dimethylarsinic acid (DMA) đều rất thấp, dưới mức có thể đo được.
2019: Dự thảo tiêu chuẩn nước mắm
Ngày 9 tháng 3, Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản cùng Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường chất lượng vừa công bố văn bản Dự thảo Tiêu chuẩn Việt Nam 12607:2019 Quy phạm thực hành sản xuất nước mắm.
Nhiều tổ chức,đại diện nước mắm truyền thống kiến nghị gửi tờ trình đến Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, cho rằng Dự thảo Tiêu chuẩn nói trên "đang thiên về sự cổ súy cho sự phát triển nước mắm pha chế – nước mắm công nghiệp".
Sáng ngày 12 tháng 3, Thứ trưởng Bộ Khoa học - Công nghệ Phạm Công Tạc cho biết xác nhận tạm dừng thẩm định bản Dự thảo tiêu chuẩn sản xuất nước mắm vì chưa đảm bảo ba tiêu chuẩn: các yếu tố phù hợp với trình độ phát triển của đất nước, đảm bảo sự đồng thuận và đảm bảo hài hòa lợi ích của các bên liên quan. Bộ Nông nghiệp – Phát triển Nông thôn nói cũng sẽ tiếp tục lấy ý kiến các tổ chức xã hội, các hiệp hội về dự thảo tiêu chuẩn sản xuất nước mắm.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Xem thêm
Nước mắm Phú Quốc
Nước mắm Cát Hải
Mắm cáy
Mắm nhĩ
Mắm nêm
Mắm ruốc
Mắm rươi
Mắm tôm
Mắm tép
Nước mắm Hương Phú
Nước mắm
Gia vị
Thực phẩm lên men
Ẩm thực Thái Lan
Ẩm thực Việt Nam
Ẩm thực Campuchia
Ẩm thực Lào
Ẩm thực Philippines
|
26155
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%A1i%20Thi%C3%AAu
|
Lái Thiêu
|
Lái Thiêu là một phường thuộc thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương, Việt Nam.
Địa lý
Phường nằm ở trung tâm thành phố Thuận An, cách thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh lỵ tỉnh Bình Dương 11 km về phía nam và cách trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh 16 km về phía bắc, có vị trí địa lý:
Phía đông giáp phường Bình Hòa
Phía tây giáp Thành phố Hồ Chí Minh qua sông Sài Gòn
Phía nam giáp phường Vĩnh Phú
Phía bắc giáp phường Bình Nhâm và phường Thuận Giao.
Phường Lái Thiêu có diện tích 7,89 km², dân số năm 2021 là 54.394 người, mật độ dân số đạt 6.895 người/km².
Phường Lái Thiêu là trung tâm của thành phố Thuận An, nơi đặt trụ sở của nhiều cơ quan hành chính quan trọng như Ủy ban Nhân dân, Hội đồng Nhân dân, Tòa án Nhân dân. Phường có vị trí nằm ven sông Sài Gòn, nổi tiếng với những vườn trái cây, là một địa điểm du lịch của người dân Bình Dương cũng như nhiều địa phương khác.
Lịch sử
Trước đây, Lái Thiêu là một xã thuộc huyện Thuận An. Huyện lỵ huyện Thuận An khi đó đặt tại xã Lái Thiêu.
Ngày 29 tháng 8 năm 1994, xã Lái Thiêu giải thể để thành lập thị trấn Lái Thiêu và xã Bình Nhâm.
Ngày 13 tháng 1 năm 2011, Chính phủ ban hành Nghị quyết 04/NQ-CP về việc thành lập hai thị xã Dĩ An và Thuận An thuộc tỉnh Bình Dương. Theo đó, thành lập phường Lái Thiêu thuộc thị xã Thuận An trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị trấn Lái Thiêu.
Sau khi thành lập, phường Lái Thiêu có 790 ha diện tích tự nhiên, dân số là 50.669 người.
Hành chính
Phường Lái Thiêu được chia thành 9 khu phố: Bình Đức 1, Bình Đức 2, Bình Hòa, Chợ, Đông Nhì, Đông Tư, Hòa Long, Long Thới, Nguyễn Trãi.
Hình ảnh
Chú thích
Tham khảo
|
26161
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BA%AFm
|
Mắm
|
Trong tiếng Việt, mắm có thể chỉ đến:
Khi là danh từ:
Cá hay thủy sản có ướp muối mặn để bảo quản lâu, để ngấu, có thể được xử lý tiếp bằng cách nấu, lọc hoặc không cần xử lý tiếp. Ví dụ:
Nước mắm: Có xử lý tiếp bằng cách nấu, lọc. Ở Việt Nam thường làm từ cá biển (như cá cơm) hoặc đôi khi từ tôm, tép biển.
Mắm tôm, mắm tép, mắm ruốc: Không qua nấu lọc. Thường có thêm gia vị để tạo hương vị thơm ngon hơn.
Các loài cây mọc ở vùng ngập mặn ven biển, thân nhỏ, rễ trồi lên khỏi mặt đất, thường trồng để bảo vệ đê nước mặn và lấn biển, có danh pháp khoa học là Avicennia spp. thuộc họ Avicenniaceae/Acanthaceae. Xem bài Họ Mắm.
Khi là động từ: Là sự bặm miệng để nén bực tức hoặc khi phải gắng sức để làm một việc gì đó quá sức.
Thành ngữ với dạng ...mắm...muối
"thêm mắm thêm muối": vẽ thêm chuyện hay đừng phức tạp hóa vấn đề
"ăn mắm ăn muối": thô tục, khiếm nhã
Là gia vị
|
26174
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%BAng%20ng%E1%BA%AFn%20TT
|
Súng ngắn TT
|
{{Infobox Weapon
|name= Tokarev TT-33
|image=
|caption= Súng ngắn Tokarev TT-33, phiên bản sản xuất năm 1941
|origin= (TT-33) (K54) (K54, K54VN, K54M2, K14)
|type= Súng ngắn bán tự động
|is_ranged= yes
|service= 1930 – Nay
|used_by= Xem Các nước sử dụng''
|wars=Chiến tranh thế giới thứ haiChiến tranh Triều TiênChiến tranh Đông DươngChiến tranh Việt NamNội chiến Trung QuốcNội chiến LàoNội chiến CampuchiaChiến tranh biên giới Tây NamChiến tranh Việt Nam-CampuchiaChiến tranh biên giới Việt-Trung, 1979Chiến tranh Afghanistan (1978–1992)Xung đột biên giới Campuchia–Thái LanChiến tranh biên giới Lào–Thái LanVà nhiều cuộc chiến khác
|designer= Fedor Tokarev
|design_date= 1930
|manufacturer= Tula Arsenal, Norinco, Femaru, Radom Arsenal, Cugir Arsenal, Zastava Arms
|unit_cost=
|production_date=
|number= 1.700.000
|variants= TT-30, TT-33, TTC, M48, M48 Tokagypt, M57, M70, M70, R-3, Type 51, Type 54, Type 68
|spec_label=
|weight= 854 g, 940g (có nạp đạn)
|length= 194 mm
|part_length= 116 mm
|width= 32,1 mm
|height= 134 mm
|cartridge= 7,62x25mm Tokarev
|action= Nạp đạn bằng độ giật, khóa nòng lùi, bắn từng viên
|rate=
|velocity= 420 m/s
|range= 50 m
|max_range=
|feed= Hộp đạn rời 8 viên
|sights= Điểm ruồi, tầm ngắm + 15,6 mm
}}
TT-33 (viết tắt của "Tokarev-Tula năm 1933", Tiếng Nga: 7,62-мм самозарядный пистолет Токарева образца 1933 года) là một loại súng ngắn bán tự động do Liên bang Xô-viết thiết kế và chế tạo. Trung Quốc chép lại TT-33 và gọi là "Type 54". Cách gọi K-54 ở Việt Nam xuất phát từ "kiểu năm 1954" này. Loại súng này được sản xuất hết sức rộng rãi.
Lịch sử
Súng được nhà sáng chế Súng tự động lừng danh Fedor Tokarev thiết kế lần đầu tiên vào năm 1929, dự kiến thay thế cho súng ngắn tiền nhiệm Nagant M1895. Phiên bản chế thử cuối cùng được gọi là TT-30 đã vượt qua cuộc thử nghiệm quốc gia ngày 23 tháng 12 năm 1930 sau khi đã khắc phục một số nhược điểm.
Ngày 12 tháng 2 năm 1931, lô súng dùng thử đầu tiên gồm 1.000 khẩu được xuất xưởng và trang bị cho các cấp chỉ huy Liên Xô thử nghiệm đại trà. Năm 1933, cải tiến cuối cùng được thực hiện là việc dùng cơ cấu cò đẩy thay cho cơ cấu cò quay. Năm 1934, phiên bản TT-33 được Ủy ban Quốc phòng Nhà nước chấp nhận đưa vào sản xuất hàng loạt và trang bị cho Hồng Quân. Súng được sản xuất và sử dụng với số lượng lớn trong Chiến tranh thế giới thứ hai đến những năm 1950. Việc sản xuất ở Liên Xô dừng lại năm 1954 khi nó còn chưa kịp thay thế hết khẩu tiền nhiệm Nagant M1895. Khẩu Makarov ra đời năm 1951 đã thay khẩu TT-33 trong trang bị tiêu chuẩn cho sĩ quan chỉ huy Liên Xô.
Tuy vậy, ở nước ngoài, súng tiếp tục được sản xuất với số lượng lớn, kể cả sao chép hợp pháp và không. Trung Quốc có Type-51, Type-54, Hungary có khẩu M20, Tiệp Khắc có khẩu M-48, Ba Lan có khẩu TU-90, Nam Tư có các khẩu M57 và M70A. CHDCND Triều Tiên có Type-68 đều là các phiên bản hoặc sao chép nguyên dạng khẩu TT-33. Các phiên bản xuất khẩu cho Ai-Cập Tokagypt-58 dùng đạn có vỏ 9mm Parabellum. Hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa đều đã sản xuất K-54 với số lượng lớn nhưng đến năm 1965, K-54 dần dần được thay bởi kiểu K-59 Makarov. Ở Việt Nam, việc sản xuất K-54 cũng chấm dứt vào năm 1990.
Hiện nay, chỉ còn Công ty Công nghiệp Hoa Bắc Trung Quốc vẫn sản xuất các phiên bản của súng TT-33 nhưng dùng đạn 9×19mm Parabellum, có tên mới là "Tokarev Kiểu 213". Súng có nhiều cải tiến ưu việt so với các phiên bản ban đầu. Các đường xẻ hẹp, súng mỏng, không cần tăng kích thước tay cầm để dùng đạn 9mm.
Khi xem qua các loại súng ngắn kiểu TT, dễ dàng nhận thấy rằng Fedor Tokarev đã bị ảnh hưởng bởi tác phẩm của John Moses Browning. Bên ngoài, nó gần giống với FN Model 1903. Bên trong, súng sử dụng cùng một hệ thống giảm độ giật ngắn được tìm thấy trong thiết kế súng lục năm 1911 của Browning. Ở các khu vực khác, TT-33 khác nhiều hơn so với các thiết kế của Browning - nó sử dụng tổ hợp búa/cò đơn giản hơn nhiều so với M1911. Cụm này có thể tháo rời khỏi súng lục dưới dạng một đơn vị mô-đun và bao gồm các môi nạp băng đạn được gia công, ngăn chặn việc nạp nhầm khi băng đạn bị hỏng được nạp vào băng đạn tốt Các kỹ sư Liên Xô đã thực hiện một số thay đổi để giúp sản xuất và bảo trì dễ dàng hơn, đáng chú ý nhất là việc đơn giản hóa các vấu khóa nòng, cho phép thực hiện ít bước gia công hơn.
Cấu tạo
Súng có cấu tạo vô cùng đơn giản, đáng tin cậy hơn nhiều so với kiểu lùi ngắn John Browning "FN Model 1903". Toàn bộ khẩu TT-33 được làm bằng thép tôi (trừ báng súng làm bằng gỗ hoặc nhựa). TT-33 không dùng một bulong hoặc đinh vít nào mà kết nối các bộ phận bằng các khe, rãnh, lẫy và chốt hãm.
Thân súng
Làm bằng thép đúc liền gia công nguội, gồm khung báng để lắp ốp báng, hộp đạn và khung đẩy cò. Phía trước khung báng có khung cò để lắp cò súng gắn liền với khung cò. Phía trên khung cò là bệ trượt hình lòng máng để lắp nòng súng. Mặt trên thân súng có các khe xẻ ngang để lắp bệ búa đập, hai bên là rãnh dương dọc theo thân súng để lắp hộp khóa nòng.
Nòng súng
Hình trụ rỗng hai đầu làm bằng thép tôi, lòng trong mạ Crom, có đường kính trong 7,62mm (tính theo khương tuyến âm). Trong nòng súng có 4 rãnh khương tuyến xoắn, bước xoắn 11mm. Cuối nòng súng có buồng đạn dài 25,1mm, đường kính 8,45mm để chứa vỏ đạn. Phía dưới buồng đạn có một chốt gập đục lỗ để kết nối với thân súng. Ở các phiên bản chế tạo sau năm 1947, nòng súng làm bằng hợp kim không gỉ.
Hộp khóa nòng
Hay còn gọi là thanh trượt(slide) trong tiếng Anh,chứa và gắn liền với quy lát(bolt) để kéo quy lát lên đạn. Làm bằng thép đúc gia công nguội, phần đầu hình ống, phần sau hình chữ U. Trong hộp khóa nòng có các rãnh âm xẻ dọc để kết nối với thân súng, đầu khóa nòng có rãnh âm hở để cố định bao đầu nòng súng. Phía sau hộp khóa nòng có quy lát chứa kim hỏa và một lỗ đục ngang để chốt kim hỏa. Phần trên hộp khóa nòng có gắn đầu ngắm ở phía rước và bệ khe ngắm ở phía sau. Hai bên má ngoài phía sau của hộp khóa nòng có xẻ rãnh ngang để tăng ma sát khi dùng tay lên đạn. TT-33 sản xuất trước năm 1943 xẻ rãnh rộng và nông, TT-33 sản xuất từ năm 1943 có rãnh xẻ hẹp và sâu hơn.
Bao đầu nòng
Làm bằng thép đúc gia công nguội, hình vành khăn hai tấm, có hai lỗ để cố định nòng súng với hộp khóa nòng và cố định đầu lò xo đẩy về, có rãnh dương hở để cố định với hộp khóa nòng.
Lò xo đẩy về
Có đường kính lớn hơn đường kính ngoài nòng súng 0,5mm, làm bằng thép tôi, dài hơn độ dài nòng súng từ 3 cm đến 4 cm.
Các chốt lò xo đẩy về
Gồm chốt đầu hình tròn để kết nối với bao đầu nòng và chốt cuối hình nửa Oval để kết nối với hộp khóa nòng.
Cò và khung đẩy
Cò súng làm bằng thép đúc, gia công nguội, hình trăng lưỡi liềm đậm nối liền với khung đẩy. Cò súng được lắp qua khe xẻ ở phần trước khung báng súng nối với khung cò.
Bệ búa
Đây là phần cấu tạo phức tạp nhất của khẩu TT-33 nhưng hoàn toàn không dùng một bulon hay đinh vít nào. Nó gồm một khung búa có khe để kết nối cố định với thân súng. Bên trong chứa búa đập, lò xo búa hình trụ, lẫy búa và lò xo lẫy hình lá. Tất cả đều được kết nối với nhau bằng các trục chốt. Hai bên má và đỉnh của hộp khóa nòng sẽ giữ bệ búa cố định trên thân súng khi súng hết đạn.
Hộp tiếp đạn
Hình hộp chữ nhật có tiết diện Oval dẹt, phía trong chứa lò do đẩy đạn hình xoắn ốc, chứa được một hàng 8 viên đạn tiêu chuẩn 7,62x25mm Tokarev. Tại góc trái của tấm mặt đẩy đạn có một lẫy nhỏ. Khi súng hết đạn, lẫy này tạo thành chốt chặn không cho khóa nòng trả về vị trí sẵn sàng bắn để báo cho người sử dụng biết súng đang hết đạn.
Báng súng
Gồm hai tấm ốp đối diện nhau hai bên tay cầm phía dưới thân súng; thường làm bằng nhựa Bakelit đúc, có xẻ rãnh dọc để tăng độ bám cho bàn tay cầm súng; gắn với thân súng bằng then xoay phía trong. Trong thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai, một số lớn khẩu TT-33 có ốp báng súng bằng gỗ.
Đạn
Súng TT-33 sử dụng đạn có vỏ 7,62x25mm Tokarev. Đạn 7,62x25mm Tokarev có nhiều chủng loại: đạn xuyên, đạn cháy, đạn vạch đường nhưng TT-33 chỉ sử dụng đạn xuyên và đạn vạch đường.
Hộp đạn của TT-33 chứa được một hàng đạn 8 viên. Người ta có thể lắp thêm viên thứ 9 trực tiếp vào buồng đạn của nòng súng trước khi tra hộp đạn đã lắp 8 viên vào thân súng.
Ưu điểm và nhược điểm
Việc tháo lắp, bảo dưỡng, sửa chữa rất đơn giản, chỉ cần sử dụng hộp tiếp đạn và tay không là có thể tháo rời khẩu súng thành từng bộ phận để lau chùi, bảo dưỡng sửa chữa. Việc tháo lắp khó nhất là đối với bệ búa nhưng cũng chỉ cần một chiếc kìm và một đột tống chốt để thực hiện. Do cấu tạo đơn giản và khá đồng nhất nên các quân khí viên dễ dàng loại bỏ những cấu kiện bị hỏng và dồn ghép những cấu kiện còn hoạt động được thành một khẩu súng hoàn chỉnh mà không cần phải gia công thêm các chi tiết đó. Súng chịu được bùn lầy, đất cát, chỉ cần dùng dầu hỏa hoặc nước rửa qua là có thể sử dụng được.
Thiết kế điểm chạm của đạn trên mục tiêu có độ cao chênh lệch lên 15,6 cm so với điểm ngắm (ở cự ly 25 m) cho phép người sử dụng có thể quan sát toàn bộ mục tiêu trong khi ngắm bắn. Sức nổ trên dưới 500 jun của thuốc đạn trong chiều dài nòng súng là 116mm cho phép tạo nên sơ tốc lớn khi đầu đạn ra khỏi nòng súng, kéo tầm bắn có hiệu quả (với độ tản mát dưới 35 cm) lên đến 50 m hoặc hơn nữa tùy phiên bản.
Hai nhược điểm lớn nhất của súng: Một là chất lượng gờ bám tồi. Quá trình bắn lâu ngày mài mòn gờ bám giữa khóa nòng và thân súng, dẫn đến sai lệch giữa trục nòng súng và trục thước ngắm, làm cho đường đạn thiếu chính xác so với những khẩu súng ngắn khác; hai là tay cầm của súng đứng, không phù hợp với tư thế tự nhiên và gây mỏi tay cho xạ thủ. Cải tiến đáng kể nhất ở bản Tokagypt-58 của Ai Cập dùng đạn 9×19mm Parabellum nhưng do phản lực của sức nổ viên đạn 9mm lớn hơn nên móc đạn dễ làm rách vành chân vỏ đạn, làm tắc vỏ đạn trong buồng đạn và người bắn buộc phải dùng tay và thông nòng để tống vỏ đạn đã bắn ra khỏi buồng nòng thì mới tiếp tục bắn được.
Các thông số
Tên: TT-33 (Trung Quốc gọi là T-54, Việt Nam gọi là K-54).
Kiểu: súng ngắn bán tự động.
Trọng lượng: 840 g; (cả đạn): 910 g.
Dài: 196mm.
Nòng dài: 116mm.
Đường kính nòng (khương tuyến âm): 7,62mm.
Số đường khương tuyến: 4.
Sơ tốc đầu nòng: 420 m/giây.
Tốc độ đạn xoay trong nòng: 4000 vòng/giây.
Băng đạn: 8 viên.
Cỡ đạn: 7,62x25mm Tokarev
Chế độ bắn: từng phát.
Cơ chế nạp đạn: tự động bằng khóa nòng lùi.
Cơ chế thoát vỏ đạn: móc kéo thẳng.
Cơ chế điểm hỏa: kim hỏa - hạt nổ.
Cơ chế vận hành búa đập: lò xo nén bởi khóa nòng lùi, búa đập quay 1/4 vòng tròn.
Tầm đạn rơi tối đa: 500m (với góc xạ kích 45 độ).
Tầm bắn sát thương: đến 150 m.
Tầm bắn thẳng hiệu quả: 25 – 45 m.
Số lượng đã được sản xuất: hàng chục triệu khẩu trên khắp Thế giới.
Các phiên bản và cải tiến
Liên Xô
Tokarev Tula kiểu 1930: Sản xuất từ 1930 đến 1933, số lượng khoảng 93.000 khẩu.
Tokarev Tula kiểu 1933: Sản xuất từ 1933 đến 1941, số lượng khoảng 600.000 khẩu.
Tokarev Tula kiểu 1933 sản xuất trong chiến tranh (đến 1943): Ốp báng làm bằng gỗ.
Tokarev Tula kiểu 1933 sản xuất từ 1943: Rãnh xẻ trên hai má phần đuôi hộp khóa nòng nhỏ và sâu.
Các nước khác
Hungary: Tổ hợp FEG bắt đầu chế tạo TT-48 theo nguyên mẫu TT-33 từ năm 1948 đến 1958. Năm 1958, phiên bản TT-58 (còn gọi là M20) có góc tay cầm 75o nhỏ hơn nguyên bản 5o. Điểm chạm có khoảng cách 200mm phía trên điểm ngắm ở cự ly 25 m.
Việt Nam: Sản xuất K-54 theo nguyên mẫu lấy từ Trung Quốc.
K14: Súng ngắn K14 được phát triển dựa trên khẩu K54VN sử dụng cỡ đạn 7,62x25mm Tokarev với nòng súng dài hơn nhằm tăng độ chính xác, thân súng làm lớn lên cho phép chứa băng đạn 13 viên. Súng ngắn K14 ưu việt hơn 2 phiên bản K54 (gồm K54VN và K54M2 đều do Việt Nam sản xuất) ở điểm: - Kết cấu nòng súng được thiết kế dài hơn nòng K54VN (12,7mm so với 11,9mm nòng cũ) - Kích thước nòng súng, buồng đạn, đường kích ngoài và các kích thước khác chính xác hơn - Đối với thân khóa nòng, súng ngắn K14 được thiết kế dài hơn cho phù hợp với nòng súng, các kích thước rãnh trượt chính xác hơn để rà lắp chính xác và giảm độ sai lệch khi bắn - Trên thân súng, phần tay cầm được thiết kế dày và dài hơn để chứa hộp tiếp đạn hai hàng so le 13 viên, đáp ứng được khả năng bắn nhiều hơn, chính xác hơn với tầm bắn hiệu quả lên tới 55–60 m, ngoài ra còn ứng dụng được cho các bài thi đấu tập luyện
Ai Cập: Sản xuất phiên bản Tokagypt-58 sử dụng đạn 9×19mm Parabellum
Trung Quốc:
K-51: dập theo nguyên mẫu TT-33 trước Chiến tranh thế giới thứ 2.
K-54: Sản xuất theo mẫu M20 của Hungary nhưng thay đổi độ cao đầu ruồi và khe ngắm. Điểm chạm có khoảng cách 156 mm phía trên điểm ngắm ở cự ly 25 m như TT-33 nguyên bản.
M213: Phiên bản thương mại do "Norinco" sản xuất, sử dụng đạn 9×19mm Parabellum, hộp đạn một hàng 8 viên.
M213A: Phiên bản thương mại do "Norinco" sản xuất, sử dụng đạn 9×19mm Parabellum, hộp đạn hai hàng so le 14 viên.
M213V: Phiên bản thương mại do "Norinco" sản xuất, sử dụng đạn 9×19mm Parabellum được thiết kế thêm một chốt an toàn chặn búa đập khi súng ở trạng thái đạn đã lên nòng.
CHDCND Triều Tiên: Sao chép nguyên bản TT-33, gọi là M68.
Ba Lan: Sao chép nguyên bản TT-33, gọi là PW wz.33 (Pistolet Wojskowy Wzor 33), dừng sản xuất vào năm 1960.
Romania: Một số phiên bản TT-33 sau chiến tranh được sản xuất vào những năm 1950, gọi là Cugir Tokarov
Nam Tư: Phiên bản cải tiến nhiều nhất Zastava M57 được sản xuất từ 1957 đến 1970, có tay cầm dài hơn để lắp hộp tiếp đạn 9 viên, thiết kế thêm một chốt an toàn chặn búa đập khi súng ở trạng thái đạn đã lên nòng; đến năm 1970 được tăng kích cỡ nòng và buồng đạn để sử dụng đạn 9 mm gọi là Zastava M70. Súng có uy lực lớn hơn ở tầm gần nhưng trọng lượng rỗng (không đạn) lên đến 900 g và sơ tốc đầu đạn giảm còn 370 m/s.
Iraq: Một số phiên bản TT-33 và K-54 được sản xuất trong vòng 30 năm trước khi chế độ Saddam Hussein sụp đổ.
Pakistan: Phiên bản Type-54 Trung Quốc được POF (Pakistani Ordnance Factories) sản xuất.
Chuyển đổi mục đích sử dụng
Thể thao
P-3: phiên bản huấn luyện thể thao quốc phòng, dùng đạn 5,6x15 mm.
S-TT: Phiên bản súng ngắn thể thao tiêu chuẩn ra đời tại Nga tháng 5 năm 2012.
Vũ khí hỗ trợ phòng vệ
VPO-501 "Lider": Phiên bản súng bắn đạn cao su 10 x 32mm, do nhà máy "Vyatskie Polyanski" sản xuất từ 2005.
VPO-501 "Lider M": Phiên bản súng VPO-501 "Lider" cải tiến bắn đạn cao su 11,43 x 32mm.
TT-T: Phiên bản súng bắn đạn cao su 10 x 28mm do Công ty cổ phần "Zavod V. A. Degtyarev" sản xuất năm 2011.
MP-81: Phiên bản súng bắn đạn cao su 9mm do Nhà máy cơ khí Izhevsk thiết kế và sản xuất năm 2008.
MP-81: Phiên bản súng bắn đạn cao su 4,5mm do Nhà máy cơ khí Izhevsk thiết kế và sản xuất năm 2008 do MVD đặt hàng trang bị cho cảnh sát, không có phiên bản thương mại.
TTP: Phiên bản súng bắn đạn cao su 9mm do công ty "SOBR" của Ukraina chế tạo.
Súng hơi
Các phiên bản MP-656k; Gletcher TT; Gletcher TT NBB; TTP "SOBR" và Crosman C-TT sử dụng đạn súng hơi 4,5mm
Súng bắn pháo sáng
Phiên bản TT-S dựa trên phiên bản VPO-501 "Lider" dùng để bắn pháo sáng hoặc đạn vạch đường KV21.
Chú thích
Liên kết ngoài
Tháo lắp K-54
Các kiểu súng Tokarev TT-30, TT-33 và cấu tạo chung
Giới thiệu sơ Tokarev
Súng Nga
Súng ngắn
Vũ khí cảnh sát
Vũ khí dùng đạn 9mm Parabellum
Súng của Nhà máy Kalashnikov
Vũ khí Liên Xô
Vũ khí thời Thế chiến thứ hai
Vũ khí trong Chiến tranh Việt Nam
|
26179
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%93%20th%E1%BB%8B%20%C4%91%E1%BA%A7y%20%C4%91%E1%BB%A7
|
Đồ thị đầy đủ
|
Đồ thị đầy đủ n đỉnh (tiếng Anh: complete graph), ký hiệu là (chữ K lấy từ tiếng Đức komplett), là đồ thị đơn vô hướng mà giữa hai đỉnh bất kì của nó luôn có cạnh nối.
Đồ thị có tất cả cạnh. Nó là đồ thị đơn có nhiều cạnh nhất, đồng thời là đồ thị chính quy bậc n-1.
Ví dụ
Sau đây là danh sách và hình vẽ minh họa các đồ thị đầy đủ với số đỉnh từ 1 đến 12, cùng với số cạnh của chúng:
Xem thêm
Chú thích
Tham khảo
Liên kết ngoài
Lý thuyết đồ thị
|
26182
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%93%20th%E1%BB%8B%20ph%E1%BA%B3ng
|
Đồ thị phẳng
|
Trong lý thuyết đồ thị, một đồ thị phẳng là một đồ thị có thể được nhúng vào mặt phẳng, tức là có thể được vẽ trên mặt phẳng sao cho các cạnh chỉ gặp nhau ở các đỉnh.
Bài toán
Từ xa xưa đã lưu truyền một bài toán cổ "Ba nhà, ba giếng": Có ba nhà ở gần ba cái giếng,nhưng không có đường nối thẳng các nhà với nhau cũng như không có đường nối thẳng các giếng với nhau.
Có lần bất hoà với nhau, họ tìm cách làm các đường khác đến giếng sao cho các đường này đôi một không giao nhau. Họ có thực hiện được ý định đó không?
Bài toán thực tế: Có 3 gia đình, 3 nhà cung cấp điện, nước, gas. Các gia đình đều cần điện, nước, gas và đều muốn đi dây riêng, do đó cần nối dây từ gia đình đến các nhà cung cấp sao cho không dây nào cắt dây nào.
Ngày nay cũng có những bài toán tương tự như bài toán đi dây trong mạch in.
Thiết lập bài toán
Bài toán này có thể được mô hình bằng đồ thị phân đôi đầy đủ . Câu hỏi ban đầu có thể diễn đạt như sau: Có thể vẽ trên một mặt phẳng sao cho không có hai cạnh nào cắt nhau (ở một điểm không phải là điểm mút của các cạnh)?
Tổng quát:
Có thể vẽ một đồ thị trên một mặt phẳng không? Có các cạnh nào cắt nhau không?
Khi nào có thể tìm được ít nhất một cách biểu diễn đồ thị không có cạnh cắt nhau?
Đồ thị phẳng
Một đồ thị được gọi là một đồ thị phẳng nếu ta có thể vẽ nó trên mặt phẳng sao cho các cạnh của nó không cắt nhau ngoài ở đỉnh. Cách vẽ như vậy sẽ được gọi là biểu diễn phẳng của đồ thị. Ví dụ là một đồ thị phẳng.
Điều kiện cần và đủ để đồ thị là phẳng được chỉ ra trong định lý Kuratowski:
Đồ thị là phẳng khi và chỉ khi nó không chứa đồ thị con đồng phôi với hoặc .
Trong thực tế việc sử dụng định lý Kuratowski để kiểm tra đồ thị có phải là đồ thị phẳng hay không thì rất khó khăn. Tuy nhiên, tồn tại thuật toán để kiểm tra vấn đề này. Xét đồ thị phẳng với n đỉnh và p cạnh, ta có:
Định lý 1. Nếu n ≥ 3 thì p ≤ 3n - 6.
Định lý 2. Nếu n ≥ 3 và không có chu trình có độ dài 3, thì p ≤ 2n - 4.
Công thức Euler cho đồ thị phẳng
Euler đã chứng minh được rằng các biểu diễn phẳng khác nhau của một đồ thị đều chia mặt phẳng ra thành cùng một số miền qua định lý sau (thường được gọi là công thức Euler):
Giả sử một đồ thị phẳng liên thông có n đỉnh, m cạnh, r miền. Khi đó r=m-n+2.
Chứng minh:
Cho G là đồ thị phẳng liên thông có n đỉnh, m cạnh và r miền.
Ta bỏ một số cạnh của G để được một cây khung của G. Mỗi lần ta bỏ một cạnh (m giảm 1) thì số miền của G cũng giảm 1 (r giảm 1), còn số đỉnh của G không thay đổi (n không đổi). Như vậy, giá trị của biểu thức n - m + r không thay đổi trong suốt quá trình ta bỏ bớt cạnh của G để được một cây. Cây này có n đỉnh, do đó có n - 1 cạnh và cây chỉ có một miền, vì vậy:
n - m + r = n - (n -1) + 1 = 2.
Hệ thức n - m + r = 2 thường gọi là hệ thức Euler cho hình đa diện, vì được Euler chứng minh đầu tiên cho hình đa diện có n đỉnh, m cạnh và r mặt.
Một hệ quả đơn giản là:
Trong một đồ thị phẳng liên thông luôn tồn tại ít nhất một đỉnh có bậc không vượt quá 5.
Chứng minh:
Trong đồ thị phẳng mỗi miền được bao bằng ít nhất 3 cạnh. Mặt khác, mỗi cạnh có thể nằm trên biên của tối đa hai miền. Gọi d là số miền, thì 3d ≤ 2p.
Nếu trong đồ thị phẳng mà tất cả các đỉnh đều có bậc không nhỏ hơn 6 thì do mỗi đỉnh của đồ thị phải là đầu mút của ít nhất 6 cạnh mà mỗi cạnh lại có hai đầu mút nên ta có 6n ≤ 2p hay 3n ≤ p. Từ đó suy ra 3d+3n ≤ 2p+p hay d+n ≤ p, trái với hệ thức Euler d+n = p+2.
Đồ thị không phẳng
Định lý: Đồ thị không phải là đồ thị phẳng.
Chứng minh:
Giả sử là đồ thị phẳng. Khi đó ta có một đồ thị phẳng với 6 đỉnh (n=6) và 9 cạnh (p=9), nên theo hệ thức Euler đồ thị có số miền là d = p-n+2 = 5.
Ở đây, mỗi cạnh chung cho hai miền. Bằng kiểm tra trực tiếp ta thấy không thể có miền tạo ra từ 3 cạnh, do đó mỗi miền có ít nhất 4 cạnh. Do đó 4d ≤ 2p, tức là 4x5 ≤ 2x9, vô lý.
Như vậy định lý này cho ta lời giải của bài toán "Ba nhà ba giếng", nghĩa là không thể thực hiện được việc làm các đường khác đến giếng sao cho các đường này đôi một không giao nhau.
Định lý: Đồ thị không phải là đồ thị phẳng.
Chứng minh: Giả sử là đồ thị phẳng. Khi đó ta có một đồ thị phẳng với 5 đỉnh (n=5) và 10 cạnh (p=10), nên theo hệ thứcEuler đồ thị có số miền là d=p-n+2=7.
Trong , mỗi miền có ít nhất 3 cạnh, mỗi cạnh chung cho 2 miền, vì vậy 3d ≤ 2n, tức là 3x7 ≤ 2x10, vô lý.
Tô màu đồ thị
Tô màu bản đồ
Mỗi bản đồ có thể coi là một đồ thị phẳng. Trong một bản đồ, ta coi hai miền có chung nhau một đường biên là hai miền kề nhau (hai miền chỉ có chung nhau một điểm biên không được coi là kề nhau). Một bản đồ thường được tô màu, sao cho hai miền kề nhau được tô hai màu khác nhau. Ta gọi một cách tô màu bản đồ như vậy là một cách tô màu đúng.
Để đảm bảo chắc chắn hai miền kề nhau không bao giờ có màu trùng nhau, chúng ta tô mỗi miền bằng một màu khác nhau. Tuy nhiên việc làm đó nói chung là không hợp lý. Nếu bản đồ có nhiều miền thì sẽ rất khó phân biệt những màu gần giống nhau. Do vậy người ta chỉ dùng một số màu cần thiết để tô bản đồ. Một bài toán được đặt ra là: xác định số màu tối thiểu cần có để tô màu đúng một bản đồ.
Tô màu đồ thị
Mỗi bản đồ trên mặt phẳng có thể biểu diễn bằng một đồ thị, trong đó mỗi miền của bản đồ được biểu diễn bằng một đỉnh; các cạnh nối hai đỉnh, nếu các miền được biểu diễn bằng hai đỉnh này là kề nhau. Đồ thị nhận được bằng cách này gọi là đồ thị đối ngẫu của bản đồ đang xét. Rõ ràng mọi bản đồ trên mặt phẳng đều có đồ thị đối ngẫu phẳng. Bài toán tô màu các miền của bản đồ là tương đương với bài toán tô màu các đỉnh của đồ thị đối ngẫu sao cho không có hai đỉnh liền kề nhau có cùng một màu, mà ta gọi là tô màu đúng các đỉnh của đồ thị.
Định lý 4 màu của Appel-Haken: Mọi đồ thị phẳng đều có thể tô đúng bằng 4 màu.
Định lý Bốn màu đầu tiên được đưa ra như một phỏng đoán vào năm 1850 bởi một sinh viên người Anh tên là F. Guthrie và cuối cùng đã được hai nhà toán học Mỹ là Kenneth Appel và Wolfgang Haken chứng minh vào năm 1976. Trước năm 1976 cũng đã có nhiều chứng minh sai, mà thông thường rất khó tìm thấy chỗ sai, đã được công bố. Hơn thế nữa đã có nhiều cố gắng một cách vô ích để tìm phản thí dụ bằng cách cố tìm bản đồ mà cần hơn bốn màu để tô nó.
Có lẽ một trong những chứng minh sai nổi tiếng nhất trong toán học là chứng minh sai bài toán bốn màu được công bố năm 1879 bởi luật sư, nhà toán học nghiệp dư Luân Đôn tên là Alfred Kempe. Nhờ công bố lời giải của "bài toán bốn màu", Kempe được công nhận là hội viên Hội Khoa học Hoàng gia Anh. Các nhà toán học chấp nhận cách chứng minh của ông ta cho tới 1890, khi Percy Heawood phát hiện ra sai lầm trong chứng minh của Kempe. Mặt khác, dùng phương pháp của Kempe, Heawood đã chứng minh được "bài toán năm màu" (tức là mọi bản đồ có thể tô đúng bằng 5 màu).
Định lý 5 màu của Kempe-Heawood: Mọi đồ thị phẳng đều có thể tô đúng bằng 5 màu.
Chứng minh: Cho G là một đồ thị phẳng. Không mất tính chất tổng quát có thể xem G là liên thông và có số đỉnh n ≥ 5. Ta chứng minh G được tô đúng bởi 5 màu bằng quy nạp theo n.
Trường hợp n=5 là hiển nhiên. Giả sử định lý đúng cho tất cả các đồ thị phẳng có số đỉnh nhỏ hơn n. Xét G là đồ thị phẳng liên thông có n đỉnh.
Theo Hệ quả ở trên, trong G tồn tại đỉnh a với deg(a) ≤ 5. Xoá đỉnh a và các cạnh liên thuộc với nó, ta nhận được đồ thị phẳng G’ có n−1 đỉnh. Theo giả thiết quy nạp, có thể tô đúng các đỉnh của G’ bằng 5 màu. Sau khi tô đúng G’ rồi, ta tìm cách tô đỉnh a bằng một màu khác với màu của các đỉnh kề nó, nhưng vẫn là một trong 5 màu đã dùng. Điều này luôn thực hiện được khi deg(a) < 5 hoặc khi deg(a)=5 nhưng 5 đỉnh kề a đã được tô bằng 4 màu trở xuống.
Chỉ còn phải xét trường hợp deg(a)=5 mà 5 đỉnh kề a là b, c, d, e, f đã được tô bằng 5 màu rồi. Khi đó trong 5 đỉnh b, c, d, e,f phải có 2 đỉnh không kề nhau, vì nếu 5 đỉnh đó đôi một kề nhau thì b c d e f là đồ thị đầy đủ K5 và đây là một đồ thị không phẳng, do đó G không phẳng, trái với giả thiết. Giả sử b và d không kề nhau (Hình 1).
Xoá 2 đỉnh b và d và cho kề a những đỉnh trước đó kề b hoặc kề d mà không kề a (Hình 2), ta được đồ thị mới G’’ có n−2 đỉnh. Theo giả thiết quy nạp, ta có thể tô đúng G’’ bằng 5 màu. Sau khi các đỉnh của G’’ được tô đúng rồi (Hình 2), ta dựng lại 2 đỉnh b và d, rồi tô b và d bằng màu đã tô cho a (màu 1, Hình 3), còn a thì được tô lại bằng màu khác với màu của b, c, d, e, f. Vì b và d không kề nhau đã được tô bằng cùng màu 1, nên với 5 đỉnh này chỉ mới dùng hết nhiều lắm 4 màu.. Do đó G được tô đúng bằng 5 màu.
Như vậy, Heawood mới giải được bài toán năm màu, còn bài toán bốn màu vẫn còn đó và là một thách đố đối với các nhà toán học trong suốt gần một thế kỷ. Việc tìm lời giải của bài toán bốn màu đã ảnh hưởng đến sự phát triển theo chiều hướng khác nhau của lý thuyết đồ thị.
Mãi đến năm 1976, khai thác phương pháp của Kempe và nhờ công cụ máy tính điện tử, Appel và Haken đã tìm ra lời giải của "bài toán bốn màu". Chứng minh của họ dựa trên sự phân tích từng trường hợp một cách cẩn thận nhờ máy tính. Họ đã chỉ ra rằng nếu "bài toán bốn màu" là sai thì sẽ có một phản thí dụ thuộc một trong gần 2000 loại khác nhau và đã chỉ ra không có loại nào dẫn tới phản thí dụ cả. Trong chứng minh của mình họ đã dùng hơn 1000 giờ máy. Cách chứng minh này đã gây ra nhiều cuộc tranh cãi vì máy tính đã đóng vai trò quan trọng trong chứng minh này. Chẳng hạn, liệu có thể có sai lầm trong chương trình và điều đó dẫn tới kết quả sai không? Lý luận của họ có thực sự là một chứng minh hay không, nếu nó phụ thuộc vào thông tin ra từ một máy tính không đáng tin cậy?
Ứng dụng
Những ứng dụng của bài toán tô màu đồ thị:
Lập lịch thi: Hãy lập lịch thi trong trường đại học sao cho không có sinh viên nào có hai môn thi cùng một lúc.
Có thể giải bài toán lập lịch thi bằng mô hình đồ thị, với các đỉnh là các môn thi, có một cạnh nối hai đỉnh nếu có sinh viên phải thi cả hai môn được biểu diễn bằng hai đỉnh này. Thời gian thi của mỗi môn được biểu thị bằng các màu khác nhau. Như vậy việc lập lịch thi sẽ tương ứng với việc tô màu đồ thị này.
Chẳng hạn, có 7 môn thi cần xếp lịch. Giả sử các môn học được đánh số từ 1 tới 7 và các cặp môn thi sau có chung sinh viên: 1 và 2, 1 và 3, 1 và 4, 1 và 7, 2 và 3, 2 và 4, 2 và 5, 2 và 7, 3 và 4, 3 và 6, 3 và 7, 4 và 5, 4 và 6, 5 và 6, 5 và 7, 6 và 7. Hình dưới đây biểu diễn đồ thị tương ứng. Việc lập lịch thi chính là việc tô màu đồ thị này. Vì số màu của đồ thị này là 4 nên cần có 4 đợt thi.
Phân chia tần số: Các kênh truyền hình từ số 1 tới số 12 được phân chia cho các đài truyền hình sao cho không có đài phát nào cách nhau không quá 240 km lại dùng cùng một kênh. Có thể chia kênh truyền hình như thế nào bằng mô hình tô màu đồ thị.
Ta xây dựng đồ thị bằng cách coi mỗi đài phát là một đỉnh. Hai đỉnh được nối với nhau bằng một cạnh nếu chúng ở cách nhau không quá 240 km. Việc phân chia kênh tương ứng với việc tô màu đồ thị, trong đó mỗi màu biểu thị một kênh.
Các thanh ghi chỉ số: Trong các bộ dịch hiệu quả cao việc thực hiện các vòng lặp được tăng tốc khi các biến dùng thường xuyên được lưu tạm thời trong các thanh ghi chỉ số của bộ xử lý trung tâm (CPU) mà không phải ở trong bộ nhớ thông thường. Với một vòng lặp cho trước cần bao nhiêu thanh ghi chỉ số? Bài toán này có thể giải bằng mô hình tô màu đồ thị. Để xây dựng mô hình ta coi mỗi đỉnh của đồ thị là một biến trong vòng lặp. Giũa hai đỉnh có một cạnh nếu các biến biểu thị bằng các đỉnh này phải được lưu trong các thanh ghi chỉ số tại cùng thời điểm khi thực hiện vòng lặp. Như vậy số màu của đồ thị chính là số thanh ghi cần có vì những thanh ghi khác nhau được phân cho các biến khi các đỉnh biểu thị các biến này là liền kề trong đồ thị.
Đồ thị phẳng có nhiều ứng dụng quan trọng trong công nghệ chế tạo mạch in. Biểu diễn phẳng của đồ thị sẽ chia mặt phẳng ra làm các miền, bao gồm cả miền không bị chặn.
Ngoài ra, một trong các ứng dụng là ánh xạ từ ảnh số 2 chiều sang một đồ thị phẳng. Trong đó, ảnh số được biểu diễn dưới dạng ma trận lưới ô vuông; mỗi ô đặc trưng cho 1 pixel.
Chú thích
Tham khảo
Adams and Franzosa, Topology, pure and applied, 2008.
Đỗ Văn Nhơn, Toán rời rạc, Nhà xuất bản ĐHQG Thành phố Hồ Chí Minh, 2006.
Lý thuyết đồ thị
Họ đồ thị
|
26186
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ai%20C%E1%BA%ADp
|
Ai Cập
|
Ai Cập ( , , ), tên chính thức là nước Cộng hòa Ả Rập Ai Cập, là một quốc gia liên lục địa có phần lớn lãnh thổ nằm tại Bắc Phi, cùng với bán đảo Sinai thuộc Tây Á. Ai Cập giáp Địa Trung Hải, có biên giới với Dải Gaza và Israel về phía đông bắc, giáp vịnh Aqaba về phía đông, biển Đỏ về phía đông và nam, Sudan về phía nam, và Libya về phía tây. Ngoài ra, Ai Cập có biên giới hàng hải với Jordan và Ả Rập Xê Út qua vịnh Aqaba và biển Đỏ.
Trong số các quốc gia hiện tại, Ai Cập có lịch sử vào hàng lâu đời nhất, là một trong các quốc gia đầu tiên trên thế giới vào thiên niên kỷ 10 TCN., và đã trải qua một số bước phát triển sớm nhất về chữ viết, nông nghiệp, đô thị hoá, tôn giáo có tổ chức và chính phủ trung ương. Di sản văn hoá phong phú của Ai Cập là bộ phận của bản sắc dân tộc, từng phải chịu ảnh hưởng mà đôi khi là đồng hoá từ bên ngoài như Hy Lạp, Ba Tư, La Mã, Ả Rập, Ottoman, và châu Âu như Anh, Pháp( thời gian ngắn ). Ai Cập từng là một trong các trung tâm ban đầu của Cơ Đốc giáo, song trải qua Hồi giáo hoá trong thế kỷ VII và từ đó duy trì là một quốc gia Hồi giáo, song Cơ Đốc giáo vẫn chiếm một phần đáng kể ở quốc gia này.
Ai Cập có trên 100 triệu dân, là quốc gia đông dân nhất tại Bắc Phi và thế giới Ả Rập, là quốc gia đông dân thứ ba tại châu Phi và thứ 14 trên thế giới. Đại đa số cư dân sống gần bờ sông Nin, trong một khu vực có diện tích khoảng 40.000 km², là nơi duy nhất có đất canh tác. Các khu vực rộng lớn thuộc sa mạc Sahara chiếm hầu hết lãnh thổ Ai Cập, song có cư dân thưa thớt. Khoảng một nửa cư dân Ai Cập sống tại khu vực thành thị, các trung tâm dân cư đông đúc là Đại Cairo, Alexandria và các thành phố lớn khác tại đồng bằng châu thổ sông Nin.
Ai Cập hiện đại được nhận định là một cường quốc khu vực và cường quốc bậc trung, có ảnh hưởng đáng kể về văn hoá, chính trị và quân sự tại Bắc Phi, Trung Đông và thế giới Hồi giáo. Kinh tế Ai Cập nằm vào hàng lớn nhất và đa dạng nhất tại Trung Đông, và theo dự kiến sẽ nằm trong số các nền kinh tế lớn nhất thế giới trong thế kỷ XXI. Ai Cập là một thành viên của Liên Hợp Quốc, Phong trào không liên kết, Liên đoàn Ả Rập, Liên minh châu Phi, và Tổ chức Hợp tác Hồi giáo.
Từ nguyên
Tên gọi của Ai Cập trong tiếng Việt bắt nguồn từ tiếng Trung. Trong tiếng Anh, quốc gia này được gọi "Egypt", bắt nguồn từ tên tiếng Hy Lạp cổ đại "Aígyptos" (). Bằng tiếng Trung, tên "Aígyptos" của tiếng Hy Lạp được phiên âm thành "Āi jí", và viết bằng chữ Hán là "埃及". Trong các tài liệu Kinh thánh bằng tiếng Việt thì Ai Cập được phiên âm là Ê-díp-tô (phiên âm thẳng từ phát âm tiếng Hy Lạp).
Mir là quốc hiệu chính thức theo tiếng Ả Rập của Ai Cập hiện đại, nó có gốc ngôn ngữ Semit, cùng gốc trực tiếp với tiếng Hebrew מִצְרַיִם (Mitzráyim), có nghĩa là "hai đoạn thẳng" và cũng có thể có nghĩa là "một đất nước" hay "một quốc gia".
Tên cổ của nước này là kemet, hay "miền đất đen," xuất phát từ lớp đất phù sa lắng đọng màu mỡ màu đen do những trận lụt của sông Nin đem đến, khác biệt so với 'miền đất đỏ' (deshret) của sa mạc. Ở giai đoạn sau, cái tên này trở thành keme trong tiếng Copt. Tên Egypt theo tiếng Anh bắt nguồn từ từ Aegyptus trong tiếng Latin và xuất phát từ Αίγυπτος (Aiguptos) trong tiếng Hy Lạp cổ. Từ này có thể lại có nguồn gốc từ câu ḥwt-k3-ptḥ ("Hwt ka Ptah") trong tiếng Ai Cập cổ có nghĩa là "ngôi nhà Ka của Ptah," tên của một ngôi đền thánh Ptah tại Memphis (Ai Cập).
Vị trí địa lý
Ai Cập có biên giới với Li bi ở phía tây, Sudan ở phía nam, với Israel ở đông bắc. Vai trò địa chính trị quan trọng của Ai Cập xuất phát từ vị trí chiến lược của Ai Cập: là một quốc gia liên lục địa ở cả châu Á và châu Phi, họ sở hữu một cầu nối lục địa (Eo đất Suez) giữa Châu Phi và Châu Á, và một cầu nối đường thủy (Kênh Suez) nối giữa Biển Địa Trung Hải và Ấn Độ Dương thông qua Biển Đỏ.
Các thành phố và thị trấn gồm Alexandria, một trong những thành phố cổ vĩ đại nhất, Aswan, Asyut, Cairo, thủ đô Ai Cập hiện đại, El-Mahalla El-Kubra, Giza, nơi có Kim tự tháp Khufu, Hurghada, Luxor, Kom Ombo, Port Safaga, Port Said, Sharm el Sheikh, Shubra-El-Khema, Suez,nơi có Kênh Suez, Zagazig, và Al-Minya.
Các sa mạc: Ai Cập chiếm một phần Sa mạc Sahara và Sa mạc Libya. Các sa mạc này được coi là "vùng đất đỏ" trong thời Ai Cập cổ đại, và nó bảo vệ Vương quốc của các Pharaohs tránh khỏi các mối đe dọa từ phía tây.
Ốc đảo gồm: Ốc đảo Bahariya, Ốc đảo Dakhleh, Ốc đảo Farafra, Ốc đảo Kharga, Ốc đảo Siwa. Một ốc đảo là một vùng đất xanh tươi và màu mỡ ở giữa sa mạc.
Năm 2017, theo thỏa thuận điều chỉnh biên giới trên biển được Ai Cập và Ả Rập Saudi ký kết hồi tháng 4 năm 2016 nhân chuyến thăm Cairo của Quốc vương Salman của Ả Rập Xê Út. Chính quyền Cairo nhất trí chuyển giao chủ quyền hai đảo Tiran và Sanafir trên biển Đỏ cho Ả Rập Xê Út dù người dân không đồng tình. Ai Cập khẳng định hai hòn đảo Tiran và Sanafir thuộc chủ quyền của Ả Rập Xê Út và do Ai Cập kiểm soát khi trước đó Ả Rập Xê Út đã đề nghị Ai Cập bảo vệ những đảo này trong những năm 1950.
Lịch sử
Tồn tại bằng chứng về thuật khắc đá dọc theo thềm sông Nin và tại các ốc đảo sa mạc. Trong thiên niên kỷ 10 TCN, nền văn hoá săn bắn-hái lượm và đánh cá bị thay thế bằng nền văn hoá xay hạt lương thực. Biến đổi khí hậu hoặc chăn thả quá độ vào khoảng năm 8.000 TCN bắt đầu làm khô hạn đất đồng cỏ chăn nuôi của Ai Cập, hình thành sa mạc Sahara. Các bộ lạc ban đầu này di cư đến gần sông Nin, tại đó họ phát triển một nền kinh tế nông nghiệp định cư và xã hội tập trung hơn.
Đến khoảng năm 6000 TCN, một nền văn hoá đồ đá mới bén rễ tại thung lũng sông Nin. Trong thời kỳ đồ đá mới, một số nền văn hoá tiền triều đại phát triển độc lập tại Thượng và Hạ Ai Cập. Văn hoá Badari và kế thừa nó là văn hoá Naqada thường được cho là các tiền thân của Ai Cập thời các vương triều. Di chỉ Hạ Ai Cập có niên đại sớm nhất được biết đến là Merimda, có niên đại trước văn hoá Badari khoảng bảy trăm năm. Các cộng đồng Hạ Ai Cập đương thời cùng tồn tại với các đối tác ở phía nam trong hơn hai nghìn năm, duy trì khác biệt về văn hoá song vẫn thường xuyên giao lưu thông qua mậu dịch. Bằng chứng có niên đại sớm nhất được biết đến về các bản khắc tượng hình Ai Cập xuất hiện trên các bình gốm Naqada III thuộc giai đoạn tiền triều đại, có niên đại khoảng 3200 TCN.
Một vương quốc thống nhất được Quốc vương Menes thành lập vào khoảng năm 3150 TCN, khởi đầu cho một loạt triều đại cai trị Ai Cập trong ba thiên niên kỷ sau đó. Văn hoá Ai Cập phồn thịnh trong giai đoạn kéo dài này và duy trì đặc trưng Ai Cập trong tôn giáo, nghệ thuật, ngôn ngữ và phong tục. Sau hai triều đại đầu tiên của Ai Cập thống nhất là giai đoạn Cổ vương quốc khoảng 2700–2200 TCN, trong giai đoạn này có nhiều kim tự tháp được xây dựng, đáng chú ý nhất là các kim tự tháp Giza.
Giai đoạn Chuyển tiếp lần thứ nhất là một thời gian chấn động chính trị trong khoảng 150 năm. Tuy nhiên, việc các trận lụt của sông Nin mạnh hơn và chính phủ ổn định hoá giúp đem lại phồn thịnh mới cho quốc gia trong giai đoạn Trung vương quốc từ khoảng 2040 TCN, đạt đến đỉnh cao dưới thời trị vì của Pharaon Amenemhat III. Một giai đoạn bất hoà thứ nhì báo hiệu xuất hiện triều đại gốc ngoại quốc đầu tiên của Ai Cập, đó là người Hyksos gốc Tây Á. Những kẻ xâm lược Hyksos chiếm phần lớn Hạ Ai Cập vào khoảng 1650 TCN và định đô tại Avaris. Một đội quân Thượng Ai Cập dưới quyền Ahmose I đẩy lui người Hyksos, và lập ra vương triều thứ mười tám và dời đô từ Memphis đến Thebes.
Giai đoạn Tân vương quốc khoảng 1550–1070 TCN bắt đầu từ vương triều thứ mười tám, trong giai đoạn này Ai Cập vươn lên thành một cường quốc quốc tế, bành trướng đến cực độ thành một đế quốc có lãnh thổ xa về phía nam đến Tombos tại Nubia, và bao gồm bộ phận của Levant tại phía đông. Giai đoạn này có một số vị Pharaon nổi tiếng như Hatshepsut, Thutmose III, Akhenaten cùng vợ là Nefertiti, Tutankhamun và Ramesses II. Biểu hiện được chứng thực lịch sử đầu tiên về thuyết độc thần là từ giai đoạn này, với cải cách Aten. Tiếp xúc thường xuyên với các quốc gia khác giúp đưa các tư tưởng mới đến Ai Cập. Sau đó, Ai Cập lần lượt bị người Libya, người Nubia, và người Assyria xâm chiếm và chinh phục, song người Ai Cập bản địa cuối cùng đẩy lui được họ và giành lại quyền kiểm soát quốc gia.
Năm 525 TCN, quân Achaemenes Ba Tư dưới quyền Quốc vương Cambyses II bắt đầu tiến hành chinh phục Ai Cập, cuối cùng bắt được Pharaon Psamtik III. Cambyses II lấy tước hiệu là pharaoh, song cai trì Ai Cập từ quê hương mình tại Ba Tư, cho một satrap (thống đốc) quản lý Ai Cập. Giai đoạn vương triều thứ 27 kéo dài từ năm 525 TCN đến năm 402 TCN do Ba Tư cai trị hoàn toàn. Một vài cuộc khởi nghĩa thành công tạm thời chống Ba Tư diễn ra trong thế kỷ V TCN, song chưa từng lật đổ lâu dài người Ba Tư. Vương triều thứ 30 là vương triều bản địa cuối cùng trong kỷ nguyên pharaon. Họ thất thủ trước người Ba Tư vào năm 343 TCN sau khi Nectanebo II chiến bại. Tuy nhiên vương triều thứ 31 không kéo dài do người Ba Tư bị Alexandros Đại đế lật đổ vài thập niên sau đó. Một tướng quân người Hy Lạp Macedonia của Alexandros là Ptolemaios I Soter lập ra vương triều Ptolemaios.
Ai Cập Ptolemaios và La Mã
Vương quốc Ptolemaios là một nhà nước Hy Lạp hoá hùng mạnh, kéo dài đến miền nam Syria ngày nay tại phía đông, đến Cyrene tại phía tây, và phía nam đến biên giới với Nubia. Alexandria trở thành thành phố thủ đô và một trung tâm của văn hoá và mậu dịch Hy Lạp. Để được dân chúng Ai Cập bản địa công nhận, các quân chủ gốc Hy Lạp nhìn nhận bản thân là người kế thừa của các pharaon. Các quân chủ Ptolemaios cuối cùng tuân theo truyền thống Ai Cập, phác hoạ bản thân trên các công trình kỷ niệm công cộng theo phong cách và trang phục Ai Cập, và tham gia sinh hoạt tôn giáo Ai Cập.
Vị quân chủ cuối cùng của dòng Ptolemaios là Cleopatra VII, bà tự tử cùng tình nhân của mình là Mark Antony sau khi Octavianus chiếm được Alexandria và đội quân đánh thuê của bà chạy trốn. Vương triều Ptolemaios phải đối diện với các cuộc khởi nghĩa của người Ai Cập bản địa, nguyên nhân thường là vì chính thể này không được lòng dân và tham dự nhiều cuộc chiến bên ngoài lẫn bên trong khiến quốc lực suy thoái, kết quả bị La Mã sáp nhập. Tuy thế, văn hoá Hy Lạp hoá tiếp tục thịnh vượng tại Ai Cập ngay cả sau khi người Hồi giáo chinh phục nơi đây.
Thánh sử Mark đưa Cơ Đốc giáo đến Ai Cập vào thế kỷ I. Thời gian cai trị của Diocletianus (từ 284 đến 305) đánh dấu chuyển tiếp từ thời kỳ La Mã sang Đông La Mã (Byzantine) tại Ai Cập, khi một lượng lớn người Cơ Đốc giáo Ai Cập bị ngược đãi. Tân Ước được dịch sang tiếng Ai Cập. Sau Công đồng Chalcedon vào năm 451, một giáo hội Copt Ai Cập riêng biệt được thành lập vững chắc.
Trung đại
Đông La Mã giành lại quyền kiểm soát Ai Cập sau một cuộc xâm chiếm ngắn ngủi của Sassanid Ba Tư vào đầu thế kỷ VII, người Ba Tư đặt Ai Cập làm một tỉnh được 10 năm (619–629). Đến năm 639–42, Ai Cập bị người Ả Rập Hồi giáo xâm chiếm và chinh phục. Khi người Ả Rập đánh bại quân đội của Đông La Mã tại Ai Cập, họ mang theo Hồi giáo Sunni đến đây. Vào lúc ban đầu trong giai đoạn này, người Ai Cập bắt đầu hoà trộn đức tin mới với các niềm tin và hành lễ bản địa, dẫn đến nhiều trật tự Sufi phát triển cho đến nay. Những lễ nghi này trước đó đã tồn tại qua thời kỳ Cơ Đốc giáo Copt.
Các đế quốc Hồi giáo bổ nhiệm những người Hồi giáo cai trị Ai Cập trong sáu trăm năm sau đó, Cairo từng là thủ đô của Đế quốc Hồi giáo Fatima. Đến khi Vương triều Ayyub của người Kurd kết thúc, một tầng lớp quân sự người Turk-Circassia gọi là Mamluk nắm quyền kiểm soát Ai Cập vào khoảng năm 1250. Đến cuối thế kỷ XIII, Ai Cập có liên hệ với khu vực biển Đỏ, Ấn Độ, Mã Lai và Đông Ấn. Cái chết Đen vào giữa thế kỷ XIV khiến cho khoảng 40% dân số Ai Cập thiệt mạng.
Thời kỳ Ottoman (1517–1867)
Người Thổ Ottoman chinh phục Ai Cập vào năm 1517, lãnh thổ này sau đó trở thành một tỉnh của Đế quốc Ottoman. Quân sự hoá mang tính phòng thủ đã tàn phá các thể chế xã hội dân sự và kinh tế của Ai Cập. Hệ thống kinh tế suy yếu kết hợp với tác động của dịch bệnh khiến Ai Cập dễ bị ngoại bang xâm chiếm. Các thương nhân Bồ Đào Nha tiếp quản ngành mậu dịch. Từ năm 1687 đến năm 1731, Ai Cập trải qua sáu nạn đói. Nạn đói năm 1784 khiến cho khoảng một phần sáu dân số thiệt mạng.
Ai Cập luôn là một tỉnh khó quản lý đối với Ottoman, một phần là do tầng lớp Mamluk duy trì được quyền lực và ảnh hưởng. Ai Cập duy trì là bộ phận bán tự trị dưới quyền tầng lớp Mamluk cho đến khi quân Pháp của Napoléon Bonaparte tiến hành xâm chiếm vào năm 1798. Sau khi người Pháp bị người Anh đánh bại, khoảng trống quyền lực xuất hiện tại Ai Cập, và một cuộc đấu tranh quyền lực ba bên bùng phát giữa người Thổ Ottoman, người Mamluk Ai Cập, và các thương gia Albania phục vụ cho Ottoman.
Đến năm 1805, một chỉ huy quân sự người Albania của quân đội Ottoman tại Ai Cập là Muhammad Ali Pasha đoạt được quyền lực. Ông mang tước hiệu phó vương của Ai Cập, song chỉ lệ thuộc Ottoman trên danh nghĩa. Muhammad Ali tàn sát tầng lớp Mamluk và lập ra một triều đại cai trị Ai Cập cho đến cách mạng năm 1952.
Muhammad Ali sáp nhập miền bắc Sudan (1820–1824), Syria (1833), và bộ phận của bán đảo Ả Rập và Tiểu Á; tuy nhiên đến năm 1841 các cường quốc châu Âu vì lo sợ ông sẽ lật đổ chính Đế quốc Ottoman nên buộc ông trao trả hầu hết lãnh thổ chinh phục được cho Ottoman. Tham vọng quân sự của ông đòi hỏi ông phải hiện đại hoá quốc gia: Ông cho kiến thiết công nghiệp, một hệ thống kênh tưới tiêu và giao thông, cải cách dịch vụ công. Ông dựng nên một nhà nước quân sự với khoảng bốn phần trăm dân chúng phục vụ quân đội, khiến Ai Cập có một vị thế mạnh mẽ trong Ottoman.
Kế vị Muhammad Ali lần lượt là Ibrahim (tháng 9 năm 1848), rồi đến cháu nội Abbas I (tháng 11 năm 1848), rồi đến Said (năm 1854), và Isma'il (năm 1863) là người khuyến khích khoa học và nông nghiệp cũng như cấm chỉ chế độ nô lệ tại Ai Cập.
Châu Âu xâm phạm
Ai Cập dưới thời Vương triều Muhammad Ali trên danh nghĩa là một tỉnh của Ottoman, rồi vị thế của một nhà nước chư hầu tự trị từ năm 1867 đến năm 1914. Ai Cập hợp tác với Pháp xây dựng Kênh đào Suez, công trình hoàn thành vào năm 1869. Việc xây dựng công trình này dẫn đến khoản nợ khổng lồ từ các ngân hàng châu Âu, và khiến quần chúng bất mãn do đặt ra sưu thuế nặng nề. Năm 1875, Ismail buộc phải bán cổ phần của Ai Cập trong kênh đào cho chính phủ Anh. Trong vòng ba năm, điều này dẫn đến các người quản lý kênh đào người Anh và Pháp có vị trí trong nội các Ai Cập, và nắm được thực quyền trong chính phủ do sau lưng họ có quyền lực tài chính của những người giữ trái phiếu. Các yếu tố khác như dịch bệnh, lũ lụt, và chiến tranh khiến kinh tế suy sụp và càng làm tăng độ phụ thuộc của Ai Cập vào nợ nước ngoài.
Dân chúng địa phương bất mãn với Ismail và với việc châu Âu xâm phạm, kết quả là hình thành các tổ chức dân tộc chủ nghĩa đầu tiên vào năm 1879, trong đó Ahmad Urabi là một nhân vật nổi bật. Lo ngại cho quyền kiểm soát của mình, Anh và Pháp can thiệp quân sự, oanh tạc Alexandria và đánh tan quân đội Ai Cập trong trận Tel El Kebir năm 1882. Họ đưa con trai của Ismail là Tewfik làm bù nhìn của một lãnh thổ do Anh bảo hộ trên thực tế.
Ai Cập duy trì là bộ phận trên pháp lý của Ottoman cho đến năm 1914, khi nơi đây trở thành một lãnh thổ thuộc Anh nhằm phản ứng trước quyết định của Thanh niên Thổ tại Ottoman về việc tham gia Chiến tranh thế giới thứ nhất bên phái Liên minh Trung tâm. Tước hiệu của nguyên thủ quốc gia từ khedive trở thành sultan nhằm cự tuyệt vết tích bá chủ của sultan Ottoman. Abbas II bị phế truất, thay thế là người chú Hussein Kamel.
Sau Thế Chiến, Saad Zaghlul và Đảng Wafd lãnh đạo phong trào dân tộc chủ nghĩa Ai Cập giành đa số ghế trong cơ quan lập pháp địa phương. Người Anh cho lưu đày Zaghlul và các cộng sự sang Malta vào tháng 3 năm 1919, khiến bùng phát cuộc khởi nghĩa hiện đại đầu tiên tại Ai Cập. Cuộc khởi nghĩa khiến chính phủ Anh phải đơn phương ban bố tuyên ngôn độc lập Ai Cập vào ngày 22 tháng 2 năm 1922.
Chính phủ mới soạn thảo và thi hành một hiến pháp vào năm 1923 trên cơ sở hệ thống nghị viện. Saad Zaghlul được bầu làm thủ tướng của Ai Cập vào năm 1924. Đến năm 1936, Hiệp định Anh-Ai Cập được ký kết. Ai Cập liên tục bất ổn do tàn dư ảnh hưởng của Anh và quốc vương gia tăng can thiệp chính trị, dẫn đến giải tán nghị viện trong một cuộc đảo chính quân sự mang tên Cách mạng 1952. Quốc vương Farouk buộc phải thoái vị để cho con là Fuad đăng cơ. Anh hiện diện quân sự tại Ai Cập cho đến năm 1954.
Cộng hoà (1953–nay)
Sau Cách mạng 1952, quyền cai trị Ai Cập sang tay thế lực quân sự. Đến ngày 18 tháng 6 năm 1953, nước Cộng hoà Ai Cập được tuyên bố thành lập, Tướng quân Muhammad Naguib là tổng thống đầu tiên. Naguib bị Gamal Abdel Nasser buộc phải từ chức vào năm 1954, Nasser là một nhân vật theo chủ nghĩa liên Ả Rập và là người gây dựng thực tế phong trào 1952. Nasser trở thành tổng thống vào tháng 6 năm 1956. Sau khi quân Anh hoàn thành rút lui khỏi Khu vực Kênh đào Suez, Nasser cho quốc hữu hoá kênh đào này vào ngày 26 tháng 7 năm 1956, thúc đẩy Khủng hoảng Kênh đào Suez. Năm 1958, Ai Cập và Syria hình thành Cộng hòa Ả Rập Thống nhất, liên minh này kết thúc vào năm 1961 khi Syria ly khai. Trong hầu hết thời gian tồn tại, Cộng hoà Ả Rập Thống nhất còn tham gia một bang liên lỏng lẻo với Bắc Yemen trong Hợp chúng quốc Ả Rập. Năm 1959, Chính phủ Toàn Palestine trên Dải Gaza, một nhà nước lệ thuộc Ai Cập, được sáp nhập vào Cộng hoà Ả Rập Thống nhất với lý do liên minh Ả Rập.
Trong Chiến tranh Sáu ngày năm 1967, Israel tấn công Ai Cập, chiếm đóng bán đảo Sinai và Dải Gaza mà Ai Cập chiếm giữ từ năm 1948. Trong chiến tranh năm 1967, luật tình trạng khẩn cấp được ban hành và có hiệu lực cho đến năm 2012, ngoại trừ 18 tháng vào năm 1980/81.
Trong thời kỳ Nasser nắm quyền diễn ra cải cách và phân phối ruộng đất, phát triển mạnh mẽ trong giáo dục đại học, và chính phủ ủng hộ các ngành công nghiệp quốc gia. Trong thập niên 1960, kinh tế Ai Cập đi từ chậm chạp đến bờ vực sụp đổ, xã hội trở nên ít tự do hơn, và uy tín của Nasser suy giảm đáng kể.
Năm 1970, Tổng thống Nasser từ trần và người kế nhiệm là Anwar Sadat, ông chuyển Ai Cập từ thân Liên Xô sang thân Hoa Kỳ. Ông phát động chính sách cải cách kinh tế Infitah, trong khi kiềm chế thế lực phản đối từ tôn giáo và thế tục. Năm 1973, Ai Cập và Syria phát động Chiến tranh Tháng 10, bất ngờ tấn công Israel nhằm giành lại bán đảo Sinai. Sau đó, Ai Cập lấy lại Sinai để đổi lấy hoà bình với Israel vào năm 1979. Sự kiện gây tranh luận rất lớn trong thế giới Ả Rập, khiến Ai Cập bị trục xuất khỏi Liên đoàn Ả Rập. Năm 1975, Sadat thay đổi các chính sách kinh tế của Nasser và tìm cách giảm các quy định của chính phủ và khuyến khích đầu tư nước ngoài thông qua chương trình Infitah. Chính sách này có các khích lệ như giảm thuế và thuế quan nhập khẩu, giúp thu hút một số nhà đầu tư song chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực ít mạo hiểm và sinh lợi như du lịch và xây dựng, khiến ngành công nghiệp non trẻ của Ai Cập bị bỏ rơi. Sadat bị một phần tử Hồi giáo cực đoan ám sát vào năm 1981.
Hosni Mubarak lên nắm quyền sau một cuộc trưng cầu dân ý, trong đó ông là ứng cử viên duy nhất. Hosni Mubarak tái khẳng định quan hệ với Israel song xoa dịu căng thẳng với các láng giềng Ả Rập. Về đối nội, Mubarak đối diện với các vấn đề nghiêm trọng. Mặc dù sản lượng nông nghiệp và công nghiệp gia tăng, song kinh tế không giữ được nhịp độ phát triển do bùng nổ dân số, trong khi nghèo đói và thất nghiệp khiến các gia đình nông thôn đổ xô lên các thành thị như Cairo. Trong thời kỳ Mubarak cai trị, chính trường Ai Cập do Đảng Dân chủ Quốc gia chi phối. Pháp luật hạn chế quyền tự do lập hội và biểu đạt khi áp đặt các quy định mới và hình phạt khắc nghiệt. Do đó, đến cuối thập niên 1990, chính trị nghị viện gần như không còn ý nghĩa và lộ trình thay thế để biểu đạt chính trị cũng bị tước đi. Trong các thập niên 1980, 1990 và 2000, có nhiều vụ tấn công khủng bố tại Ai Cập và có tính chất nghiêm trọng, bắt đầu nhắm đến mục tiêu là Cơ Đốc giáo Copt, du khách ngoại quốc và quan chức chính phủ.
Đến năm 2005, Mubarak tuyên bố cải cách luật bầu cử tổng thống, mở đường cho bầu cử nhiều ứng cử viên lần đầu tiên kể từ năm 1952. Tuy nhiên, luật mới áp đặt hạn chế đối với ứng cử viên, khiến Mubarak dễ dàng tái đắc cử. Thay đổi hiến pháp năm 2007 cấm chỉ các chính đảng sử dụng tôn giáo làm cơ sở cho hoạt động chính trị, cho phép tổng thống quyền giải tán quốc hội và kết thúc giám sát bầu cử của tư pháp.
Ngày 25 tháng 1 năm 2011, biểu tình đại quy mô bắt đầu nhằm chống lại chính phủ của Mubarak. Đến ngày 11 tháng 2 năm 2011, Mubarak từ chức vào rời Cairo. Quân đội Ai Cập nắm quyền quản lý quốc gia. Sau một cuộc trưng cầu dân ý về hiến pháp, Ai Cập tổ chức bầu cử nghị viện. Mohamed Morsi trở thành tổng thống dân cử vào ngày 24 tháng 6 năm 2012. Ngày 3 tháng 7 năm 2013, sau một làn sóng bất mãn của quần chúng với tính chuyên quyền quá độ của chính phủ Anh em Hồi giáo dưới quyền Morsi, quân đội phế truất Tổng thống Morsi thông qua đảo chính và lập chính phủ lâm thời.
Chính phủ lâm thời Ai Cập do quân đội hậu thuẫn sau đó đàn áp Anh em Hồi giáo và các ủng hộ viên của họ, sát hại hàng trăm người biểu tình đường phố vào tháng 8 năm 2013. Ngày 18 tháng 1 năm 2014, chính phủ lâm thời thiết lập hiến pháp mới sau một cuộc trưng cầu dân ý Ngày 26 tháng 3 năm 2014, người lãnh đạo Các lực lượng vũ trang Ai Cập là Abdel Fattah el-Sisi từ chức trong quân đội và tuyên bố tranh cử tổng thống. Abdel Fattah el-Sisi chiến thắng với cách biệt lớn, và tuyên thệ nhậm chức tổng thống vào ngày 8 tháng 6 năm 2014. Anh em Hồi giáo và một số nhóm hoạt động tư do và thế tục tẩy chay bỏ phiếu.
El-Sisi tái đắc cử vào năm 2018, không vấp phải sự phản đối nghiêm trọng nào. Năm 2019, một loạt sửa đổi hiến pháp đã được quốc hội thông qua, nâng cao hơn nữa quyền lực của Tổng thống và quân đội, tăng nhiệm kỳ tổng thống từ 4 năm lên 6 năm và cho phép El-Sisi tranh cử hai nhiệm kỳ khác. Các đề xuất đã được thông qua trong một cuộc trưng cầu dân ý.
Tranh chấp giữa Ai Cập và Ethiopia về Đập Đại Phục hưng Ethiopia leo thang vào năm 2020. Ai Cập coi con đập là một mối đe dọa hiện hữu, lo ngại rằng con đập sẽ làm giảm lượng nước mà nó nhận được từ sông Nile.
Chính trị
Ai Cập đã là một nước cộng hòa từ ngày 18 tháng 6 năm 1953. Tổng thống Mohamed Hosni Mubarak đã làm Tổng thống nền Cộng hoà từ 14 tháng 10 năm 1981, sau vụ ám sát cựu Tổng thống Mohammed Anwar El-Sadat. Ông ta là lãnh đạo đảng cầm quyền Đảng Dân chủ Quốc gia. Mubarak giữ chức vụ cho đến nhiệm kỳ thứ năm thì bị nhân dân Cairo nổi dậy lật đổ vào tháng 2 năm 2011. Thủ tướng Ahmed Nazif lên cầm quyền ngày 9 tháng 7 năm 2004, sau khi Atef Ebeid từ chức.
Chính quyền Ai Cập bị nhiều nước coi là độc tài quân sự. Dù quyền lực trên danh nghĩa được tổ chức theo hệ thống bán tổng thống đa đảng, theo đó quyền hành pháp trên lý thuyết được phân chia giữa Tổng thống và Thủ tướng, trên thực tế hầu như chỉ một mình Tổng thống được bầu ra trong những cuộc bầu cử chỉ có một ứng cử viên trong vòng hơn năm mươi năm qua. Ai Cập cũng có những cuộc bầu cử nghị viện đa đảng thường xuyên. Cuộc bầu cử tổng thống gần đây nhất, trong đó Mubarak thắng cử nhiệm kỳ thứ năm liên tiếp, được tổ chức vào tháng 9 năm 2005 (xem dưới đây).
Cuối tháng 2 năm 2005, Mubarak thông báo trên một chương trình truyền hình rằng ông đã ra lệnh cải tổ luật bầu cử tổng thống của đất nước, dọn đường cho những cuộc bầu cử đa ứng cử viên trong tương lai. Lần đầu tiên kể từ phong trào năm 1952, dân chúng Ai Cập có cơ hội thực sự để bầu ra một nhà lãnh đạo từ một danh sách ứng cử viên. Tổng thống nói rằng ý định này của ông xuất phát từ "nhận thức đầy đủ của tôi về sự cần thiết phải củng cố những nỗ lực để tăng cường hơn nữa tự do và dân chủ." Tuy nhiên, luật mới đặt ra những hạn chế khắc nghiệt đối với người muốn ra tranh cử, và đã được toan tính trước nhằm ngăn chặn các ứng cử viên đã rất nổi tiếng như Ayman Nour không thể ra tranh cử chống lại Mubarak, và dọn đường để ông dễ dàng được tái tranh cử.
Những lo ngại một lần nữa lại dấy lên sau cuộc bầu cử năm 2005 về sự can thiệp của chính phủ vào quá trình bầu cử thông qua việc gian lận và lừa gạt. Hơn nữa, bạo lực do những người ủng hộ Mubarak tiến hành chống lại những người đối lập và sự tàn bạo của cảnh sát đã xảy ra trong quá trình bầu cử. Điều này đặt ra nghi vấn về cam kết mà chính phủ đã loan báo về một quá trình dân chủ.
Vì vậy, đa số người dân Ai Cập vẫn còn hoài nghi về quá trình dân chủ hóa và vai trò của các cuộc bầu cử. Một tỷ lệ rất nhỏ những người đủ tư cách bầu cử trên thực tế đã bị gạt ra khỏi danh sách cuộc bầu cử năm 2005. Tuy nhiên, báo chí đã cho thấy họ ngày càng tự do hơn trong việc chỉ trích tổng thống, và những kết quả của cuộc bầu cử nghị viện gần đây cho thấy những đảng Hồi giáo như đảng hiện bị cấm Anh Em Hồi giáo đã thắng nhiều ghế, việc này chứng tỏ một sự thay đổi thật sự đang diễn ra.
Quốc tế
Trụ sở thường trực của Liên đoàn Ả rập đóng tại Cairo. Tổng thư ký Liên đoàn từ lâu theo truyền thống đều là người Ai Cập. Cựu Bộ trưởng ngoại giao Ai Cập Amr Moussa hiện là Tổng thư ký Liên đoàn Ả rập. Liên đoàn Ả rập đã rời khỏi Ai Cập sang Siry trong một giai đoạn ngắn năm 1978 để phản đối hiệp ước hòa bình của Ai Cập với Israel nhưng đã quay trở lại năm 1989.
Ai Cập là nước Ả rập đầu tiên thiết lập quan hệ ngoại giao với nhà nước Israel, sau khi ký kết Hiệp ước hòa bình Ai Cập-Israel theo Thỏa thuận trại David. Ai Cập có ảnh hưởng lớn đối với các quốc gia Ả rập, và từ lâu đã đóng một vai trò quan trọng làm người hòa giải các tranh chấp giữa các nước Ả rập, và tranh chấp Israel-Palestine. Đa số các quốc gia Ả rập vẫn tin tưởng Ai Cập trong vai trò này, dù ảnh hưởng của nó thường bị hạn chế.
Cựu Phó thủ tướng Ai Cập Boutros Boutros-Ghali đã làm Tổng thư ký Liên hiệp quốc từ 1991 đến 1996.
Một tranh chấp lãnh thổ với Sudan về vùng được gọi là Tam giác Hala'ib, khiến quan hệ ngoại giao giữa hai nước vẫn còn nhiều trở ngại.
Quân đội
Quân đội Ai Cập có lẽ là lực lượng quân sự mạnh nhất trên lục địa châu Phi,Trung Đông,được xếp đứng thứ 10 trên thế giới và là một trong những lực lượng lớn nhất vùng Trung Đông. Các lực lượng quân sự Ai Cập cũng có nhiều kinh nghiệm chiến trường hơn đa số các quân đội khác trong vùng. Quân đội Ai Cập có khoảng 468.500 người phục vụ thường xuyên.
Lực lượng vũ trang Ai Cập gồm 4 thành phần chính: Lục quân; Hải quân; Không quân và Bộ tư lệnh Phòng không. Trong đó, lực lượng lục quân lớn nhất, chiếm tới 90% quân số.
Chỉ huy tối cao là Tổng thống, trong thời chiến kiêm luôn chức Nguyên soái quân đội, Đô đốc hải quân, Nguyên soái (Colonel General) các lực lượng Phòng không và Không quân. Trong thời bình, tước vị Chỉ huy tối cao chỉ là danh nghĩa.
Nghĩa vụ quân sự là bắt buộc đối với đàn ông Ai Cập từ tuổi 19. Những sinh viên có thể lùi thời hạn nhập ngũ tới tuổi 28. Thời gian nghĩa vụ phụ thuộc vào mức độ giáo dục của từng người.
Ai Cập có mối hợp tác quân sự mạnh với Hoa Kỳ, và trong nhiều lĩnh vực chiến lược, gồm quá trình hợp tác đang thực hiện nhằm hiện đại hóa trang bị vũ khí và huấn luyện các lực lượng Ai Cập.
Ai Cập tham gia thường xuyên vào các cuộc tập trận với Hoa Kỳ và các nước châu Âu cũng như các đồng minh Ả rập, gồm những cuộc thao diễn hai năm một lần diễn ra tại Ai Cập.
Ai Cập liên tục tham gia vào các chiến dịch gìn giữ hòa bình của Liên hiệp quốc, gần đây nhất là tại Đông Timor, Sierra Leone, và Liberia.
Hành chính
Ai Cập được chia thành 26 tỉnh và thành phố Al Uqsur (Luxor), được xếp hạng là một thành phố chứ không phải một vùng thủ hiến. Dưới tỉnh là các khu. Dưới khu là các thành phố và các tổng. Dưới thành phố là các quận. Dưới tổng là các xã.
Kinh tế
Ai Cập là một thị trường được các công ty quốc gia xem là trọng điểm trong khu vực Trung Đông và Bắc Phi. Kinh tế Ai Cập phụ thuộc chủ yếu vào nông nghiệp, môi giới trung gian, xuất khẩu dầu mỏ và du lịch; cũng có hơn 5 triệu người Ai Cập đang làm việc ở nước ngoài, đa số tại Ả rập Xê út, Vùng Vịnh như UAE, và Châu Âu. Hoa Kỳ cũng có một lượng lớn dân nhập cư Ai Cập. Ai Cập có thu nhập GDP đầu người ở mức 5800 USD, đứng thứ 133 trên thế giới. Ngoài ra, hiện tại Ai Cập cung cấp khoảng 55% sản lượng vải cotton trên thế giới.
Đập Aswan được hoàn thành năm 1971 và Hồ Nasser được hình thành từ đó đã thay đổi vị trí của dòng sông Nile lâu đời đối với nông nghiệp và sinh thái Ai Cập. Với một dân số tăng trưởng nhanh chóng (đông nhất thế giới Ả rập), hạn chế về đất canh tác, và sự phụ thuộc vào sông Nile khiến các nguồn tài nguyên và kinh tế nước này phải chịu nhiều sức ép lớn.
Chính phủ đã gắng sức đẩy mạnh phát triển kinh tế trong thiên niên kỷ mới thông qua cải cách kinh tế và đầu tư ồ ạt vào viễn thông và hạ tầng cơ sở, đa số nguồn tài chính có được từ viện trợ nước ngoài của Hoa Kỳ (từ 1979, khoảng $2.2 tỷ mỗi năm). Ai Cập là nước nhận viện trợ lớn thứ ba của Hoa Kỳ từ sau chiến tranh Iraq. Các điều kiện kinh tế đang bắt đầu được cải thiện nhiều sau một giai đoạn trì trệ nhờ việc tự do hóa các chính sách kinh tế của chính phủ, cũng như tăng nguồn thu từ du lịch và sự bùng nổ của thị trường chứng khoán. Trong bản báo cáo hàng năm của mình, IMF đã xếp hạng Ai Cập là một trong những nước dẫn đầu thế giới về thực hiện cải cách kinh tế.
Dân cư
Ai Cập là nước đông dân thứ hai ở châu Phi, với khoảng 83 triệu người. Hầu hết dân số tập trung dọc theo hai bờ sông Nile (nhất là tại Alexandria và Cairo) và tại Châu thổ và vùng gần Kênh đào Suez. Gần 90% dân số theo Hồi giáo và đa số còn lại theo Kitô giáo (nhiều nhất là phái Chính thống giáo Copt). Ngoài việc phân chia theo tôn giáo, người Ai Cập có thể được xếp loại theo nhân khẩu thành những người sống ở vùng thành thị và nông dân (fellahin) hay các chủ trại ở các làng nông nghiệp.
Từ thời cổ đại, đặc biệt trước khi Thượng và Hạ Ai Cập thống nhất, những ảnh hưởng từ Bắc Phi và Địa Trung Hải đã trở thành thống trị ở phía bắc, trong khi người Ai Cập ở phía Nam vẫn giữ quan hệ với người Nubians và Ethiopians. Dù có những khác biệt đó, người Ai Cập hiện đại đang ngày càng có quan hệ gần gũi hơn với nhau và đều là con cháu của xã hội Ai Cập cổ, luôn gắn với nông nghiệp và đông đúc so với các vùng xung quanh. Dân Ai Cập đã sử dụng nhiều loại ngôn ngữ từ ngữ hệ Phi-Á trong suốt lịch sử của họ bắt đầu từ Ai Cập Cổ cho tới Ai Cập Ả rập hiện đại.
Sự Ả Rập hoá Ai Cập là một quá trình văn hóa đã bắt đầu với việc du nhập Đạo Hồi và ngôn ngữ Ả rập sau khi người Ả rập Hồi giáo chinh phục họ vào thế kỷ thứ VII. Trong các thế kỷ tiếp theo, một hệ thống thứ bậc xã hội đã được tạo ra theo đó người Ai Cập đã cải đạo Hồi giáo có được vị trí mawali hay "khách hàng" đối với tầng lớp Ả rập cai trị, trong khi những người vẫn theo Kitô giáo, người Copt, bị gọi là dhimmis. Sự ưu tiên của cộng đồng Ả rập thiểu số tiếp tục biến đổi thành một hình thức mới trong giai đoạn hiện đại ở vùng nông thôn, nơi những tàn tích của các bộ lạc Ả rập Bedouin tồn tại song song với các nông dân Ai Cập. Một tác giả đã miêu tả nhân khẩu học xã hội nông thôn vùng Thượng Ai Cập như sau:
Thượng Ai Cập bao gồm tám vùng thủ hiến xa nhất về phía nam.... lịch sử vùng này là một trong những trung tâm cách biệt nhất khỏi trung tâm đời sống quốc gia. Mối quan hệ địa phương hình thành từ điều kiện đó trong nhiều thế kỷ đã khiến Thượng Ai Cập có một nét riêng biệt bên trong quốc gia Ai Cập hiện đại. Bên cạnh đó, sự hiện diện từ xa xưa của người Copts, những nhóm bộ tộc từ thời chinh phục của người Ả rập đã hình thành nên một tôn ti trật tự đặt hai nhóm [thiểu số], ashraf và Ả rập lên vị trí thống trị. Trật tự này được các bộ tộc nhỏ hơn tuân theo, với người nông dân [Ai Cập] ở vị trí thấp nhất trong xã hội(28) [...] Tôn giáo là trung tâm của sự phát triển xã hội Thượng Ai Cập. Ashraf tuyên bố họ là con cháu trực tiếp của Prophet, trong khi Ả rập cho rằng họ có nguồn gốc từ một nhóm bộ tộc ở Ả rập. Mặt khác, người nông dân (fellahin) vẫn bị cho là con cháu của các cộng đồng tiền Hồi giáo Ai Cập và đã cải sang Hồi giáo, một lịch sử khiến họ không thể vượt lên cả ashraf lẫn Ả rập. [...] Trong các cộng đồng Hồi giáo cũng như Kitô giáo, và đặc biệt ở mức độ kinh tế xã hội thấp hơn, việc thực thi tôn giáo rất quan trọng đối với những yếu tố dân gian không chính thống, một trong những nguồn gốc từ thời pharaoh.
Fellah có nghĩa là "nông dân", "tá điền", trong tiếng Ả rập nó chỉ những người dân vùng nông thôn tại những nơi người Ả rập đã chinh phục được. 60% dân số Ai Cập, là fellahin (số nhiều của fellah???) có cuộc sống khổ cực và tiếp tục sống trong những ngôi nhà làm bằng gạch bùn giống như tổ tiên xưa kia của họ. Đầu thế kỷ XX, con số này còn cao hơn, trước khi có làn sóng nhập cư của họ vào các thành thị và thị trấn. Năm 1927, nhà nhân loại học Winifred Blackman, tác giả cuốn Người Fellahin Thượng Ai Cập, đã tiến hành một nghiên cứu dân tộc học về cuộc sống của những người nông dân Thượng Ai Cập và kết luận rằng có một sự tiếp nối giữa các đức tin và sự thi hành văn hóa và tôn giáo trong những người fellahin với những thời Ai Cập cổ đại.
Các nhóm dân tộc thiểu số ở Ai Cập gồm một lượng nhỏ bộ tộc Ả rập Bedouin sống ở phía đông và phía tây sa mạc và Bán đảo Sinai, người Siwis ở Ốc đảo Siwa nói ngôn ngữ Berber và các cộng đồng Nubian cổ tụ tập dọc theo sông Nile vùng cực nam Ai Cập. Ai Cập cũng có khoảng 90.000 người tị nạn, đa số là 70.000 người tị nạn Palestine và 20.000 người tị nạn Sudan. Một cộng đồng Do Thái từng rất mạnh mẽ đã hoàn toàn biến mất, hiện chỉ còn một số lượng nhỏ ở lại Ai Cập và những người chỉ tới đó vào các dịp lễ hội tôn giáo. Nhiều địa điểm khảo cổ học và lịch sử quan trọng của Do Thái hiện vẫn còn tại đó.
Tôn giáo
Theo hiến pháp, bất kỳ một thể chế mới nào đều phải tuân theo luật Hồi giáo (tiếng Ả rập: الإسلام). Ai Cập là một nước Hồi giáo với gần 90% dân số theo đạo này, phần lớn thuộc dòng Sunni một nhánh của Hồi giáo. Người theo Cơ Đốc giáo chiếm khoảng 10% dân số, phần lớn là dòng Chính thống giáo Copt với 9%, 1% còn lại gồm Công giáo, Chính thống giáo Hy Lạp, Chính thống giáo Syria, và Chính thống giáo Armenia, phần lớn sống tại Alexandria và Cairo. Ai Cập cũng là quốc gia có số dân theo Hồi giáo đông thứ hai châu Phi sau Nigeria và đứng thứ ba khu vực Trung Đông sau Iran và Thổ Nhĩ Kỳ.
Hiện vẫn còn một cộng đồng Do Thái nhỏ, với khoảng 300 người Ai Cập.
Có những người Ai Cập tự coi mình là vô thần và theo thuyết bất khả tri, nhưng không thể biết số lượng của họ vì việc công khai điều này đồng nghĩa với việc bị trừng phạt. Năm 2000, một nhà văn Ai Cập vô thần công khai, kêu gọi thành lập một hiệp hội những người vô thần ở Ai Cập, đã bị kết tội lăng mạ Hồi giáo và những nhà tiên tri trong bốn cuốn sách của ông.
Trường phái Hanafi của Hồi giáo Sunni được nhà nước tổ chức rộng rãi thông qua Wizaret Al-Awkaf (Bộ các vấn đề tôn giáo). Al-Awkaf kiểm soát mọi thánh đường và quản lý mọi tu sĩ Hồi giáo. Các Imams được đào tạo trong những trường hướng nghiệp Imam và tại Đại học Al-Azhar. Ủy ban này ủng hộ Hồi giáo Sunni và có nhiệm vụ đưa ra những lời phán quyết Fatwa về các vấn đề.
Ai Cập có hai thể chế tôn giáo chính. Đại học Al-Azhar (Arabic: جامعة الأزهر) là thể chế Hồi giáo cổ nhất và là viện nghiên cứu cấp cao nhất (đã được thành lập từ khoảng năm 970 Công Nguyên). Ai Cập cũng có nhiều di sản Cơ Đốc giáo với sự hiện diện của Giáo hội Chính thống giáo Copt do Thượng phụ thành Alexandria lãnh đạo, với khoảng từ 12 tới 20 triệu tín đồ trên khắp thế giới (Một trong những Nhà thờ Chính thống giáo Copt là Nhà thờ Thánh Takla Haimanot tại Alexandria).
Bahá'ís ở Ai Cập với số người theo khoảng vài trăm nghìn, nhưng các thể chế và hoạt động cộng đồng của họ bị cấm ngặt; họ cũng không được phép có chứng minh thư. Tháng 4, 2006 một tòa án đã công nhận Đức tin Bahá'í nhưng chính phủ đã quyết định tái thẩm lại trường hợp đó. Một thành viên nghị viện, Gamal Akl của đảng chính trị đối lập Anh Em Hồi giáo, đã nói Bahá'ís là những người vô đạo và phải bị giết trên mảnh đất mà họ đã quyết định thay đổi tôn giáo của mình.
Người Ai Cập cổ đại rất tôn sùng thần "Kim ngưu". Các thầy cúng sẽ nuôi dưỡng những chú bò có xuất thân "Kim ngưu" rất cẩn thận, khi chúng được bốn tháng tuổi thì đem tới miếu Kim Ngưu để tiến hành lễ hiến tế. Tại đây, các thiếu nữ phải trút bỏ quần áo và tự nguyện dâng cho thần sự trinh trắng. Đó là trách nhiệm tôn giáo bắt buộc của phụ nữ Ai Cập cổ đại.
Văn hoá
Thủ đô Cairo của Ai Cập là thành phố lớn nhất châu Phi và từ nhiều thế kỷ đã là một trung tâm học thuật, văn hóa và thương mại. Viện hàn lâm ngôn ngữ Ả rập của Ai Cập chịu trách nhiệm chỉnh lý ngôn ngữ Ả rập (Arabic:اللغة العربية) trên khắp thế giới.
Ai Cập có một nền công nghiệp truyền thông và nghệ thuật phát triển từ cuối thế kỷ XIX, hiện nay có hơn 30 kênh truyền hình vệ tinh và 100 phim truyện sản xuất hàng năm. Trên thực tế Cairo từ lâu đã được gọi là "Hollywood của phương Đông." Để phát triển hơn nữa ngành truyền thông của mình, đặc biệt với sự cạnh tranh mạnh mẽ từ Các quốc gia Ả rập Vùng Vịnh và Liban, một thành phố điện ảnh lớn đã được xây dựng. Ai Cập là nước Ả rập duy nhất có nhà hát opera.
Một số người Ai Cập nổi tiếng:
Saad Zaghlul (lãnh đạo cuộc cách mạng hiện đại Ai Cập đầu tiên)
Gamal Abdel Nasser (cựu tổng thống)
Anwar Sadat (cựu tổng thống và là người đoạt giải Nobel Hòa bình)
Boutros Boutros-Ghali (cựu tổng thư ký Liên hiệp quốc)
Naguib Mahfouz (tác giả đoạt giải Nobel)
Umm Kulthum (ca sĩ)
Omar Sharif (diễn viên)
Ahmed Zewail (nhà hóa học đoạt giải Nobel)
Mohamed ElBaradei (Lãnh đạo Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế; đoạt giải Nobel hòa bình năm 2005)
Mohamed Salah (cầu thủ bóng đá)
Để biết thêm những người khác, xem Danh sách người Ai Cập
Tham khảo
Liên kết ngoài
Chính phủ
Egyptian Government Services Portal
Egypt State Information Services
Egypt Information Portal - available in Arabic and English
Tin tức
Al-Ahram Weekly
AllAfrica – Egypt news
Egypt Today magazine
Business Today Egypt magazine
Khái quát
Webcams in Egypt
Egypt's location on a 3D globe (Java)
BBC News Country Profile - Egypt
CIA World Factbook - Egypt
US State Department - Egypt includes Background Notes, Country Study and major reports
Congressional Research Service (CRS) Reports regarding Egypt
Human Rights Watch -Egypt
Open Directory Project - Egypt directory category
Joinafrica.com - Egypt
Giáo dục
Xem: Danh sách các trường đại học tại Ai Cập
Study Destinations in Egypt
Supreme Council of Universities
Du lịch
Xem: Danh sách các viện bảo tàng tại Ai Cập
Tour Egypt (Association of Egyptian Travel Businesses)
Egypt Hotel & Travel Guide
Journey through Eternal Egypt
Images from Egypt
Khác
CAIRO - 1001 Years of Islamic Art and Architecture (Video series in four parts)
Egypt Maps - Perry-Castañeda Map Collection
Egypt Photo Galleries Pictures from a visit in tháng 12 năm 2004
Egypt through the ages..
Ancient Egyptian History - A comprehensive & consise educational website focusing on the basic and the advanced in all aspects of Ancient Egypt
Egyptian Mythology
Khnumhotep & Niankhkhnum
Egyptian law from Jurispedia
Photographs of Egypt Pictures from a visit in May/tháng 6 năm 2005
Images of Egypt on Odd-stuff!
Quốc gia thành viên Liên minh châu Phi
Quốc gia thành viên Liên đoàn Ả Rập
Quốc gia thành viên Cộng đồng Pháp ngữ
Quốc gia thành viên Tổ chức Hợp tác Hồi giáo
Quốc gia thành viên Liên minh Địa Trung Hải
Quốc gia Bắc Phi
Quốc gia Sahara
Quốc gia Trung Đông
Quốc gia Cận Đông
Quốc gia G15
Quốc gia châu Phi
Quốc gia châu Á
Quốc gia và vùng lãnh thổ nói tiếng Ả Rập
Quốc gia thành viên của Liên Hợp Quốc
Quốc gia thành viên Khối D8
|
26202
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Si%C3%AAu%20Tr%C3%A1i%20%C4%90%E1%BA%A5t
|
Siêu Trái Đất
|
Siêu Trái Đất là những hành tinh ngoài hệ Mặt Trời có khối lượng lớn hơn Trái Đất, nhưng nhỏ hơn nhiều so với các hành tinh băng khổng lồ của hệ Mặt Trời: Sao Thiên Vương (gấp 14,5 lần Trái Đất) và Sao Hải Vương (gấp 17 lần Trái Đất). Thuật ngữ "siêu Trái Đất" chỉ phản ánh khối lượng của các hành tinh này chứ không nói lên điều gì về các điều kiện trên bề mặt hoặc khả năng sinh sống của chúng.
Các hành tinh bay quanh các ngôi sao ngoài Hệ Mặt Trời có độ sáng biểu kiến rất thấp. Các kỹ thuật quan sát hiện nay thường tìm thấy các hành tinh có khối lượng cỡ Sao Mộc. Việc phát hiện các siêu Trái Đất với khối lượng vài chục lần Trái Đất đã được xem là tiến bộ trong quan sát khi những hành tinh kiểu này lần đầu được tìm thấy bay quanh sao Mu Arae.
Lịch sử quan sát, phát hiện
Ngày 26 tháng 1 năm 2006, các nhà thiên văn học thông báo đã tìm ra siêu Trái Đất nhỏ nhất, có mã số OGLE-2005-BLG-390Lb.
Vào lúc 6g GMT ngày 9 tháng 10 năm 2008, cơ quan Không gian Ukraina ở Evpatoria đã gửi một thông điệp đến một siêu Trái Đất có tên gọi là Gliese 581 c. Nếu ở nơi đó có sự sống thì nhân loại sẽ hy vọng nhận được thông tin phản vào năm 2049. Cần nói thêm là đều kiện ở Gliese 581 c với nhiệt độ 0-40 °C sẽ rất có nhiều cơ hội có sự sống ở đó.
Cũng trong tháng 6 năm 2008, David P. Bennett ở Microlensing Observations in Astrophysics đã phát hiện ra MOA-2007-BLG-192Lb, cũng là một hành tinh đặc như Trái Đất và ở cách xa chúng ta 3000 năm ánh sáng về phía chòm sao Nhân Mã.
Xem thêm
Hành tinh đất đá
Hành tinh Hycean
Chú thích
Liên kết ngoài
Tìm thấy hành tinh giống Trái Đất nhỏ nhất
Viet Sciences
VietnamNet
Nhân dân
Space.com (tiếng Anh)
Thuật ngữ thiên văn học
Siêu Trái Đất
Hành tinh kiểu Trái Đất
Loại hành tinh
|
26206
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20H%C3%A0%20N%E1%BB%99i%20%28b%C3%A0i%20h%C3%A1t%29
|
Người Hà Nội (bài hát)
|
Người Hà Nội là một bài hát do nhạc sĩ Nguyễn Đình Thi sáng tác. Bài hát ca ngợi Hà Nội và những dấu ấn lịch sử lên con người và thành phố trong thời gian diễn ra cuộc kháng chiến chống Pháp.
Lịch sử
Nhạc sĩ Nguyễn Đinh Thi sáng tác bài hát này đầu năm 1947, khi cuộc kháng chiến chống Pháp chỉ vừa mới nổ ra được ít ngày, sau khi cả Hà Nội đã lên đường sơ tán theo Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến tháng 12 năm 1946 của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tên gọi ban đầu là Bài hát của một người Hà Nội. Mặc dù bản thân nhạc sĩ từng thổ lộ ông không được học cao về âm nhạc, bài Người Hà Nội của ông thực sự đòi hỏi ca sĩ trình bày phải có trình độ thanh nhạc tốt bên cạnh một nhạc cảm tốt, cái nhạy bén vốn có trong tâm hồn người Tràng An.
Trong bài hát này, Nguyễn Đình Thi đã có một câu hát nhắc lại nguyên văn câu mở đầu một tác phẩm nổi tiếng của nhạc sĩ Văn Cao. Đó là câu "Đoàn quân Việt Nam đi" của bài Tiến quân ca.
Bài hát này được một số nghệ sĩ trình bày thành công như Lê Dung, Trọng Tấn, Cao Minh và Ánh Tuyết...
Lời bài hát
Đây Hồ Gươm, Hồng Hà, Hồ Tây.
Đây lắng hồn núi sông ngàn năm.
Đây Thăng Long, đây Đông Đô, đây Hà Nội, Hà Nội mến yêu!
Hà Nội cháy, khói lửa ngập trời.
Hà Nội hồng ầm ầm rung,
Hà Nội vùng đứng lên! Hà Nội vùng đứng lên! Sông Hồng reo Hà Nội vùng đứng lên!
Hà Nội đẹp sao! Ôi nước Hồ Gươm xanh thắm lòng.
Bóng Tháp Rùa thân mật êm ấm lòng.
Hồng Hà tràn đầy, Hồng Hà cuốn ngàn nguồn sống tràn đầy dâng.
Hà Nội vui sao. Những cửa đầu ô.
Tíu tít gánh gồng đây Ô Chợ Dừa, kia Ô Cầu Dền làn áo xanh nâu Hà Nội tươi thắm.
Sống vui phố hè. Bồi hồi chàng trai, những đôi mắt nào.
Quanh co chen quanh rộn ràng Đồng Xuân, xanh tươi bát ngát Tây Hồ.
Hàng Đào ríu rít Hàng Đường, Hàng Bạc, Hàng Gai.
Ôi tha thiết lòng ta biết bao nhiêu! Mỗi tấc đất Hà Nội đượm thắm máu hồng tươi.
Một ngày thu non sông chiến khu về, đường vang tiếng hát cuốn lòng người.
"Đoàn quân Việt Nam đi"
Hà Nội say mê chen đón Cha về, kín trời phơi phới vàng sao.
Ngày ấy chói vinh quang vang ngàn phương lời thề nước. Việt Nam yêu dấu ngả soi bóng sông Hồng Hà.
Hà Nội cháy khói lửa ngợp trời.
Hà Nội hồng ầm ầm rung. Sông Hồng reo!
Thét lên xung phong căm hờn sôi gầm súng.
Bùng cháy, khắp phố ta ơi! Vùng lên chiến sĩ ta ơi!
Trời Hà Nội đỏ máu!
Bụi hè đường cuốn bốc tung bay, xác thù rơi dưới gót giày.
Ầm ầm cười tiếng súng vui thay vang ngày mai sáng láng.
Này lớp lớp người đi ánh sao tưng bưng chói lói lòng ta.
Mai này lớp lớp người đi thét vang vang trời khải hoàn.
Nhìn đây máu chúng ta tưới bao nhiêu đất này ta tưới ngày mai vút lên.
Hồng Hà réo sóng say sưa trông Cha bóng Người mênh mông.
Mắt Người sáng láng vầng sao thắm tươi, trán Người mái tóc bạc thêm.
Bóng cờ bát ngát ngày vui nước non reo cười trên môi Người cười.
Tiếng cười.
Ngày về chiến thắng!
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sáu mươi năm vang vọng một bài ca
Nguyễn Đình Thi
Bài hát về Hà Nội
Bài hát nhạc đỏ
Trường ca (âm nhạc)
Bài hát tiếng Việt
Bài hát năm 1947
|
26207
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20H%C3%A0%20N%E1%BB%99i
|
Người Hà Nội
|
Người Hà Nội có thể là:
Người dân Hà Nội
Bài hát "Người Hà Nội" của nhạc sĩ Nguyễn Đình Thi
Phim Người Hà Nội
Báo Người Hà Nội
|
26224
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%8Dc%20British%20Columbia
|
Đại học British Columbia
|
Viện Đại học British Columbia hay Đại học British Columbia (tiếng Anh: University of British Columbia) là viện đại học lớn nhất và nổi tiếng ở thành phố Vancouver, British Columbia, Canada. Đây là một trong 50 viện đại học đứng đầu thế giới.
Lịch sử
Viện Đại học British Columbia được thành lập vào năm 1908.
Thành lập:
Những năm đầu tiên
Hiện tại
Quản trị và chuyên ngành
Chuyên ngành
UBC có hơn 200 chuyên khoa dành cho sinh viên đại học, và 297 chương trình sau đại học , trong đó nổi bật nhất là khoa học đời sống hay life science nằm trong top 20 trên thế giới trong năm 2012 .
Tuyển sinh
Nghiên cứu
Tài chính
Địa điểm
Vancouver
UBC Vancouver tọa lạc tại Point Grey, một bán đảo biệt lập cách trung tâm thành phố Vancouver khoảng 20 phút. Khuôn viên trường được bao quanh bởi các bãi biển, trong đó nổi tiếng nhất là Wreck Beach, vành đai xanh rộng hơn 7,63 km vuông Pacific Spirit Regional Park.
Okanagan
UBC Okanagan - Kelowna, British Columbia, Canada
Thư viện của đại học
Thư viện của trường UBC là thư viện lớn thứ 2 tại Canada. Với hơn 6 triệu bàn tài liệu, hơn 800,000 e-book, và hơn 4 triệu lượt ra vào hàng năm, thư viện là một phần không thể thiếu đối với các sinh viên của trường.
Đời sống sinh viên
Những người nổi tiếng
Michael Smith (giáo sư, Giải Nobel Hóa học 1993)
Robert Mundell (sinh viên, Giải Nobel Kinh tế 1999)
Har Gobind Khorana (giáo sư, Giải Nobel Y học 1968)
David Suzuki (giáo sư, nhà sinh vật học, người quan tâm đến ô nhiễm môi trường nổi tiếng)
William Gibson (sinh viên, nhà văn viết đặc biệt về khoa học máy tính giả tưởng)
Kim Campbell, nữ thủ tướng đầu tiên của Canada, cựu sinh viên
Huỳnh Bích Liên, nữ diễn viên, người dẫn chương trình tại Hồng Kông
Hình ảnh
Tham khảo
Liên kết ngoài
Website chính thức
Trường đại học và cao đẳng tại Canada
|
26226
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/UBC
|
UBC
|
UBC có thể viết tắt cho các tổ chức sau đây:
University of British Columbia: Đại học British Columbia
Unified Buddhist Church: Giáo hội Phật giáo Thống nhất
Union Bank of California
Uganda Broadcasting Corporation
|
26234
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%8Dc%20Simon%20Fraser
|
Đại học Simon Fraser
|
Viện Đại học Simon Fraser hay Đại học Simon Fraser (tiếng Anh: Simon Fraser University, viết tắt là SFU) là một trong những viện đại học lớn của Canada tại tỉnh bang British Columbia. SFU được thành lập tháng 9 năm 1965, đặt tên theo tên của nhà thám hiểm Simon Fraser, người đã từng thám hiểm khu vực xung quanh thành phố Vancouver.
SFU đạt danh hiệu là trường đại học tốt nhất của Canada 8 lần (1993, 1996, 1997, 1998, 2000, 2009, 2010 và 2011) theo bảng xếp hạng hằng năm của tạp chí Maclean'. Hiện tại SFU có 35,204 sinh viên, trong đó số sinh viên quốc tế là 4,602, chiếm 13.07%.
Các khoa
SFU gồm có 6 khoa:
Khoa khoa học ứng dụng
Khoa khoa học xã hội & nhân văn
Khoa kinh doanh
Khoa sư phạm
Khoa khoa học sức khỏe (Y học)
Khoa khoa học (tự nhiên)
Các học xá (campus)
Simon Fraser University Burnaby Mountain Campus (địa điểm chính)
8888 University Drive
Burnaby, B.C.
Canada. V5A 1S6
Phone: 604.291.3111
Diện tích: 1,7 km²
Simon Fraser University at Harbour Centre
515 West Hastings Street
Vancouver, B.C.
Canada. V6B 5K3
Phone: 604.291.5000
Simon Fraser University Surrey Campus
2400 Central City
10153 King George Hwy
Surrey, B.C.
Canada. V3T 2W1
Phone: 604.268.7500
Huy hiệu
Kể từ năm 2007, SFU đổi huy hiệu mới với lý do để tránh bị nhầm lẫn với các trường công giáo bởi biểu tượng thánh giá trên huy hiệu cũ.
Cựu sinh viên nổi tiếng
Terry Fox
Gordon Campbell
Ujjal Dosanjh
Glen Clark
David Usher
Margaret Trudeau
Chu Thiên Tuyết
Choi Woo-shik
Hình ảnh
Xem thêm
Đại học British Columbia
Đại học Victoria
Danh sách các trường đại học của Canada
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang web của SFU
Trường kinh doanh SFU
Trường đại học và cao đẳng tại Canada
Trường đại học ở Canada
Kiến trúc hiện đại tại Canada
|
26248
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ki%E1%BA%BFn%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
Kiến (định hướng)
|
Kiến trong tiếng Việt có thể là:
Động vật kiến thuộc bộ Cánh màng, lớp Sâu bọ.
Khái niệm kiến trong Phật giáo
|
26251
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Xenon
|
Xenon
|
Xenon là một nguyên tố hóa học trong bảng tuần hoàn có ký hiệu Xe và số nguyên tử bằng 54. Là một khí hiếm không màu, không mùi và rất nặng, xenon có trong khí quyển Trái Đất với một lượng nhỏ dạng dấu vết và là một phần của hợp chất khí hiếm đầu tiên được tổng hợp.
Đặc trưng nổi bật
Xenon là thành viên của nhóm các nguyên tố hóa trị 0 được gọi là các khí hiếm hay khí trơ. Từ "khí trơ" đã được sử dụng từ lâu để chỉ nhóm các nguyên tố này, song có lẽ cần phải bỏ do một số nguyên tố hóa trị 0 cũng có thể tạo ra hợp chất với các nguyên tố khác. Trong các ống chứa khí thì xenon phát ra ánh sáng màu xanh lam khi khí này bị phóng điện qua. Với áp lực nén hàng gigapascal thì xenon dạng kim loại được tạo ra. Xenon cũng có thể tạo ra các mắt lưới với nước khi các nguyên tử của nó bị mắc kẹt trong lưới của các phân tử nước.
Ứng dụng
Khí này được dùng rộng rãi nhất và nổi tiếng nhất trong các thiết bị phát ra ánh sáng gọi là các đèn chớp xenon, được sử dụng trong các đèn chớp của máy ảnh, để tạo ra môi trường kích hoạt trong các thiết bị tạo laser mà sau đó sẽ phát sinh ánh sáng giao thoa, trong các đèn diệt khuẩn (hiếm dùng) và sử dụng trong một số ứng dụng y học liên quan đến bệnh da liễu. Các đèn hồ quang xenon liên tục, hồ quang ngắn, áp suất cao có nhiệt độ màu gần với ánh sáng Mặt Trời lúc giữa trưa và được dùng trong các thiết bị giả lập Mặt Trời, một số hệ thống đèn chiếu và một số ứng dụng đặc biệt khác. Chúng là các nguồn rất tốt để tạo ra các tia cực tím có bước sóng ngắn cũng như chúng có các bức xạ rất mạnh trong các bước sóng gần tia hồng ngoại, được sử dụng trong một số thiết bị quan sát ban đêm. Các sử dụng khác của xenon bao gồm:
Được sử dụng như là chất gây mê toàn phần, mặc dù giá thành quá đắt.
Trong các ứng dụng năng lượng hạt nhân nó được sử dụng trong các buồng bọt, máy dò và trong các khu vực khác mà phân tử lượng lớn cũng như tính trơ là các yêu cầu.
Các perxenat được sử dụng như là tác nhân oxy hóa trong hóa phân tích.
Đồng vị Xe133 là có ích trong vai trò của một đồng vị phóng xạ.
Việc chụp cộng hưởng từ (MRI) siêu phân cực phổi và các cơ quan nội tạng khác sử dụng Xe129 .
Nhiên liệu thích hợp cho động cơ đẩy dùng ion do phân tử lượng cao, dễ bị ion hóa, lưu trữ như là chất lỏng ở nhiệt độ phòng (với áp suất cao) và dễ dàng chuyển ngược lại dạng khí để nạp năng lượng cho động cơ, bản chất trơ làm cho nó là thân thiện môi trường và ít ăn mòn đối với động cơ ion so với các loại nhiên liệu khác, chẳng hạn thủy ngân hay xêzi. Tuy nhiên, hiện vẫn đang có các ý kiến trái ngược nhau về khả năng phổ biến trong tương lai về việc sử dụng nó trong công nghiệp thám hiểm vũ trụ, do nó sẽ bị mất đi vĩnh cửu trong không gian và làm suy giảm nguồn cung cấp hữu hạn trong khí quyển Trái Đất.
Được sử dụng phổ biến trong tinh thể học protein. Khi ở áp suất cao (~600 psi) tác động vào các tinh thể protein thì các nguyên tử xenon liên kết chủ yếu trong các hốc không ưa nước, thông thường tạo ra dẫn xuất nặng nguyên tử, đồng hình và chất lượng cao.
Lịch sử
Xenon (tiếng Hy Lạp : "kỳ dị") được William Ramsay và Morris Travers phát hiện tại Anh năm 1898 trong phần còn lại sau khi cho các thành phần khác của không khí lỏng bay hơi.
Sự phổ biến
Xenon là khí ở dạng dấu vết trong khí quyển Trái Đất, ở mức một phần 20 triệu (0,05 ppm). Nguyên tố này thu được trong công nghiệp nhờ chiết ra từ phần còn lại của không khí hóa lỏng. Khí hiếm này trong tự nhiên được tìm thấy như là khí thoát ra từ một số suối nước khoáng. Xe133 và Xe135 được tổng hợp bằng chiếu xạ neutron trong không khí làm mát các lò phản ứng hạt nhân.
Hợp chất
Trước năm 1962, xenon và các khí hiếm khác nói chung được coi là trơ về mặt hóa học và không thể tạo ra các hợp chất hóa học. Các chứng cứ sau đó chỉ ra rằng xenon, cùng với các khí hiếm khác, trên thực tế có tạo ra các hợp chất. Một số hợp chất của xenon là điflorua xenon, têtraflorua xenon, hexaflorua xenon, hiđrat và đơterat cũng như perxenat natri. Hợp chất có tính gây nổ cao là trioxide xenon cũng được tạo ra. Có ít nhất 80 hợp chất của xenon, trong đó flo hay oxy được liên kết với xenon. Một số hợp chất của xenon có màu nhưng đa phần là không màu.
Đồng vị
Xenon nguồn gốc tự nhiên bao gồm 7 đồng vị ổn định và 2 đồng vị phóng xạ nhẹ. Ngoài các dạng ổn định này còn có 20 đồng vị không ổn định đang được nghiên cứu. Xe129 được tạo ra nhờ phân rã beta của I129 (chu kỳ bán rã: 16 triệu năm); Xe131m, Xe133, Xe133m và Xe135 là một phần sản phẩm phân rã hạt nhân của cả U235 và Pu239 và vì thế được dùng làm chỉ số của các vụ nổ hạt nhân.
Đồng vị nhân tạo Xe135 có tầm quan trọng đáng lưu ý trong hoạt động của các lò phản ứng hạt nhân. Xe135 có tiết diện vuông lớn cho các neutron nhiệt (2,65x106 barn, vì thế nó đóng vai trò của chất hấp thụ neutron hay "chất độc" mà có thể làm chậm hay dừng các chuỗi phản ứng sau một thời gian hoạt động. Đây đã là một vấn đề đáng kể trong các lò phản ứng hạt nhân đầu tiên được Dự án Manhattan của Mỹ xây dựng để sản xuất plutoni.
Nồng độ tương đối cao của các đồng vị xenon phóng xạ cũng được phát hiện là tỏa ra từ các lò phản ứng hạt nhân do sự giải phóng của khí này từ các thanh nhiên liệu bị gãy hay sự phân hạch của urani trong nước làm mát. Nồng độ của các đồng vị này nói chung vẫn là thấp khi so với các khí hiếm phóng xạ nguồn gốc tự nhiên, như Rn222.
Do xenon là nguồn dò vết cho 2 đồng vị cha, tỷ lệ các đồng vị của xenon trong các thiên thạch là công cụ mạnh để nghiên cứu sự hình thành của hệ Mặt Trời. Phương pháp I-Xe trong xác định niên đại bằng phóng xạ cho ta khoảng thời gian đã trôi qua giữa tổng hợp hạt nhân và sự đông đặc của các thiên thể rắn từ tinh vân Mặt Trời. Các đồng vị xenon cũng là công cụ mạnh để nghiên cứu sự tiến hóa của đất đá. Tỷ lệ cao của Xe129 tìm thấy trong các giếng khí dioxide cacbon ở New Mexico được cho là do sự phân rã của các khí có trong lớp phủ ngay sau khi Trái Đất hình thành.
Phòng ngừa
Khí này có thể lưu giữ an toàn trong các chai lọ thủy tinh có gắn nắp thông thường ở nhiệt độ và áp suất tiêu chuẩn. Xenon là không độc, nhưng nhiều hợp chất của nó là độc do các tính chất oxy hóa mạnh của chúng.
Do xenon nặng hơn không khí, nên tốc độ truyền âm thanh của nó thấp hơn so với không khí, và khi bị hít thở phải thì nó làm giảm các tần số cộng hưởng của hệ thống thanh âm. Nó tạo ra cường độ âm thanh thấp đặc trưng, tương tự như cường độ âm thanh lớn sinh ra do hít thở phải heli. Vì một vài lý do, sự hít thở phải xenon là nguy hiểm hơn so với hít thở phải heli. Đầu tiên là do các tính chất gây mê của xenon còn ít được nghiên cứu, tương tự như các tính chất của oxide nitrơ. Sự hít thở phải xenon có thể gây ra các hiệu ứng từ nhẹ đến trung bình, kéo dài không lâu, bao gồm các cảm giác lạ đối với ánh sáng và âm thanh.
Do các nguy hiểm gắn liền với sự hít thở phải xenon nên nhiều trường đại học đã không còn cho phép sử dụng nó như là sự minh họa trong hóa đại cương. Xenon trong bất kỳ hoàn cảnh nào đều là rất đắt tiền (giá của nó khoảng 60 USD trên 0,077 pps). Khí hexaflorua lưu huỳnh nói chung được sử dụng để thay thế.
Tham khảo
Phòng thí nghiệm quốc gia Los Alamos, Hoa Kỳ-Xenon
Thermophysical properties of neon, argon, krypton, and xenon / V. A. Rabinovich... Theodore B. Selover, phiên bản tiếng Anh-nhà xuất bản
Washington [u.a.] Hemisphere Publ. Corp. [u.a.], 1988. - XVIII (Tiêu chuẩn quốc gia tham khảo dịch vụ dữ liệu của Liên Xô; 10).
Liên kết ngoài
Biểu đồ pha của xenon.
WebElements.com-Xenon
Xenon trong vai trò chất gây mê.
Khí hiếm
Chất gây mê
Xenon
Hợp chất xenon
|
26256
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A1i%20B%C3%A1%20T%C3%A2n
|
Thái Bá Tân
|
Thái Bá Tân sinh ngày tại xã Diễn Lộc, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An là dịch giả, nhà thơ, nhà văn Việt Nam.
Tiểu sử
Ông sinh ra trong dòng họ Thái, được coi là hậu duệ của Tao Đàn Phó Nguyên Soái Thái Thuận dưới triều Lê Thánh Tông. Ông từng học Đại học ngoại ngữ Matscova (khoa phiên dịch tiếng Anh) 1967 – 1974. Phiên dịch tiếng Anh và Nga ở Bộ Thủy Sản. Dạy tiếng Anh và văn học Anh tại Đại học Sư phạm ngoại ngữ Hà Nội 1975 – 1978. Sau đó ông về làm biên tập sách tại nhà xuất bản Lao động, Hội nhà văn. Hiện thuộc biên chế Hội Nhà văn Việt Nam, phó chủ tịch Hội đồng Văn học nước ngoài và ủy viên Ban đối ngoại của hội. Hiện ông đang sống và làm việc tại Hà Nội.
Đã xuất bản khoảng 70 đầu sách, gồm thơ dịch, truyện ngắn và thơ sáng tác.
Hơn hai mươi lăm năm ông tổ chức lớp học thêm tiếng Anh cho sinh viên tại Hà Nội, với gần 300 người một lớp, rất nhiều thế hệ học sinh, sinh viên đã trưởng thành và thành công từ lớp học tiếng Anh này của ông.
Tác phẩm tiêu biểu
Dịch thuật
Tuyển tập thơ G.G.Byron
Thơ cổ phương Đông (thơ 4 câu của Omar Khayam)
Nghịch lý của bàn tay của E. Mejelaitis
Cổ thi tác dịch
Thơ tình thế giới (2004) Trong tuyển tập này, ông đã dịch rất nhiều bài thơ tình hay từ các nhà thơ nổi tiếng trên thế giới. Một số bài tiêu biểu:
Thơ
Lục ngôn thi tập
Bàn tay hình chiếc lá
Thơ thời sự
“Vứt mẹ cái khẩu hiệu / Còn đảng là còn mình./ Thế mai kia đảng chết / Không lẽ mày quyên sinh?“
Tiểu thuyết
Đói, Knut Hamsun
Yevgeny Onegin, Aleksandr Puskin
Kho báu của vua Xôlômông, Henry Haggard
Nàng Margaret xinh đẹp, Henry Haggard
Truyện ngắn
Ông già và chiếc đàn piano, 2002
Tranh cãi
Cuốn Thơ Haiku Nhật Bản của dịch giả Thái Bá Tân được phát hành tháng 11/2013 (Nhà sách Đông Tây liên kết với Nhà xuất bản Lao Động ấn hành). Tuy vậy, sau khi đọc những bài thơ dịch trong sách, độc giả có thể phát hiện nhiều lỗi sai trong dịch thuật.
Chú thích
Tham khảo
Thái Bá Tân dịch sai phá hỏng tuyệt phẩm haiku Nhật Bản?
Liên kết ngoài
Website Thái Bá Tân
Blog Thái Bá Tân
Page
Dịch giả Việt Nam
Nhà thơ Việt Nam
Nhà văn Việt Nam
Nhà giáo Việt Nam
Người Nghệ An
Dòng họ Thái Bá
|
26259
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Argon
|
Argon
|
Argon là một nguyên tố hóa học trong bảng tuần hoàn. Nó có ký hiệu Ar và số nguyên tử bằng 18. Là khí hiếm thứ ba trong nhóm 8, argon chiếm khoảng 0,934% khí quyển Trái Đất, điều này làm cho nó trở thành khí hiếm phổ biến nhất trên Trái Đất.
Lịch sử
Argon (tiếng Hy Lạp argos có nghĩa là "lười" hoặc "bất động") đã được Henry Cavendish cho là tồn tại trong không khí từ năm 1785 nhưng chỉ được Lord Rayleigh (John William Strutt, nam tước đời 3 của Rayleigh) và William Ramsay phát hiện chính thức từ năm 1894.
Khí này được cô lập từ không khí lỏng bằng chưng cất phân đoạn do khí quyển Trái Đất chỉ chứa khoảng 0,934% thể tích là argon (1,29% khối lượng). Khí quyển Sao Hỏa chứa tới 1,6% Ar40 và 5 ppm Ar36. Vào năm 2005, tàu thăm dò Huygens cũng đã phát hiện sự tồn tại của Ar40 trên Titan, vệ tinh lớn nhất của sao Thổ .
Tính chất lý - hóa
Argon hòa tan trong nước nhiều gấp 2,5 lần nitơ và xấp xỉ độ hòa tan của oxi. Nguyên tố hóa học có độ ổn định cao này là không màu, không mùi trong cả dạng lỏng và khí. Người ta biết rất ít về các hợp chất hóa học của argon, đây là một trong các lý do trước đây nó được gọi là khí trơ. Sự tạo ra argon fluorohydride (HArF), một hợp chất rất không ổn định của argon với hydro và flo đã được các nhà nghiên cứu của trường Đại học Tổng hợp Helsinki thông báo vào năm 2000, nhưng vẫn chưa được xác nhận.
Mặc dù không có hợp chất hóa học nào của argon hiện đã được công nhận, nhưng argon có thể tạo ra các mắt lưới với nước khi các nguyên tử của nó bị mắc kẹt trong lưới các phân tử nước. Các tính toán lý thuyết trên các máy tính đã chỉ ra vài hợp chất của argon mà có thể ổn định nhưng cách thức tạo ra các chất này thì vẫn chưa được biết.
Ứng dụng
Nó được sử dụng trong các loại đèn điện do nó không phản ứng với dây tóc trong bóng đèn ngay cả ở nhiệt độ cao và trong các trường hợp mà nitơ phân tử là một khí bán trơ không ổn định. Các ứng dụng khác:
Argon được sử dụng như là môi trường khí trơ trong nhiều công nghệ hàn kim loại, bao gồm hàn kim loại khí trơ (mig) và hàn wolfram khí trơ (tig) (trong đó "I" là viết tắt của inert trong tiếng Anh tức là trơ).
Có vai trò là lớp phủ không phản ứng trong sản xuất titan và các nguyên tố có phản ứng hóa học cao khác.
Là lớp khí bảo vệ để nuôi cấy các tinh thể silic và germani trong công nghiệp sản xuất chất bán dẫn.
Là chất khí dùng trong các đèn plasma.
Argon39 được sử dụng cho nhiều ứng dụng, chủ yếu là nghiên cứu lõi băng. Nó cũng được dùng để xác định niên đại nước ngầm.
Các thiết bị phẫu thuật lạnh chẳng hạn như sự cắt bỏ lạnh sử dụng agon lỏng để tiêu diệt các tế bào ung thư.
Argon cũng được sử dụng trong các thiết bị lặn tự chứa để làm căng quần áo khô, do nó trơ và có độ dẫn nhiệt kém.
Hợp chất
Trước năm 1962, argon và các khí hiếm khác nói chung được coi là trơ về mặt hóa học và không có khả năng tạo ra các hợp chất. Tuy nhiên, kể từ thời điểm đó, các nhà khoa học đã có thể bắt các khí hiếm nặng hơn tạo ra các hợp chất. Năm 2000, hợp chất đầu tiên của argon được các nhà nghiên cứu của trường Đại học Tổng hợp Helsinki thông báo là đã tạo ra bằng cách chiếu tia cực tím vào argon rắn chứa một lượng nhỏ fluoride hydro (HF), và chất tạo ra là Argon fluorohydride (HArF).
Đồng vị
Các đồng vị chính của argon tìm thấy trên Trái Đất là Ar40, Ar36 và Ar38. K40 nguồn gốc tự nhiên với chu kỳ bán rã 1,250 x 109 năm, bị phân rã thành Ar40 ổn định (11,2%) bằng bắt electron và bằng bức xạ positron cũng như chuyển thành Ca40 ổn định (88,8%) bằng phân rã beta. Các tính chất và tỷ lệ này được dùng để xác định niên đại của các loại đá.
Trong khí quyển Trái Đất, Ar39 được tạo ra nhờ hoạt động của các tia vũ trụ, chủ yếu là với Ar40. Trong các môi trường dưới bề mặt Trái Đất thì nó cũng được tạo ra thông qua bắt neutron của K39 hay phân rã alpha của calci. Agon37 được tạo ra từ phân rã của Ca40 như là kết quả của các vụ thử nghiệm hạt nhân ngầm. Nó có chu kỳ bán rã 35 ngày.
Chú thích
Tham khảo
Phòng thí nghiệm quốc gia Los Alamos, Hoa Kỳ-Argon
Liên kết ngoài
WebElements.com-Argon
Các ứng dụng lặn: Tại sao là argon?
Argon Ar -Tính chất, sử dụng và ứng dụng
Hóa điện toán Wiki
Khí hiếm
Nguyên tố hóa học
Khí công nghiệp
|
26260
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/D%C6%B0%C6%A1ng%20Thi%E1%BB%87u%20T%C6%B0%E1%BB%9Bc
|
Dương Thiệu Tước
|
Dương Thiệu Tước (15 tháng 5 năm 1915 – 1 tháng 8 năm 1995) là một nhạc sĩ tiền chiến của tân nhạc Việt Nam. Ông nổi danh qua một số ca khúc như Chiều, Đêm tàn bến Ngự, Tiếng xưa và Ơn nghĩa sinh thành. Ông được xem là nhạc sĩ thuộc thế hệ đầu tiên của nền tân nhạc Việt Nam.
Thân thế
Dương Thiệu Tước sinh ngày 15 tháng 5 năm 1915, quê ở làng Vân Đình, huyện Sơn Lãng, phủ Ứng Hoà, Hà Nội. Ông xuất thân trong một gia đình nho giáo, là cháu nội của nhà thơ Dương Khuê, có cháu họ là nhạc sĩ Dương Thụ. Cha ông làm bố chính tỉnh Hưng Yên. Năm 7 tuổi, ông đã được học đàn nguyệt, đàn tranh và cổ nhạc. Năm 14 tuổi, ông được học piano cùng với giáo sư người Pháp tại Viễn Đông âm nhạc viện.
Những năm thập niên 1930, ông cùng nhạc sĩ Thẩm Oánh, Nguyễn Thiện Tơ thành lập ban nhạc "Myosotis", trình diễn tại Hà Nội. Trong thời gian ông còn ở Hà Nội, ông có mở một tiệm đàn mandolin, nhưng cũng phải đóng cửa sau đó.
Sau năm 1954, ông di cư vào Sài Gòn. Thời gian này, ông phụ trách ban nhạc "Cổ kim hòa điệu" trên Đài phát thanh Sài Gòn và dạy học tại Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ.
Sau năm 1975, ông bị đuổi khỏi trường Âm nhạc và sống tại quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh. Ông mất vào 1 giờ 45 phút ngày 1 tháng 8 năm 1998 tại tư gia.
Đời tư
Ông từng có một mối tình với bà Vi Kim Ngọc, nhưng sau đó bị gia đình bà từ chối.
Dương Thiệu Tước kết hôn với bà Lương Thị Thuần vào năm 1934 và có 5 người con trước khi chia tay nhau. Năm 1951, ông lập gia đình với nữ ca sĩ Minh Trang và có với nhau 5 người con. Sau năm 1975, ông chung sống với bà Nguyễn Thị Nga và được bà chăm lo cho đến khi mất.
Sự nghiệp
Ông bắt đầu sáng tác với bài hát "Tâm hồn anh tìm em" vào năm 1936, với nét nhạc được nhận xét là chịu ảnh hưởng khiêu vũ Tây phương. Ngay từ những sáng tác đầu tiên, ông đã có chủ trương viết những bài nhạc Tây theo điệu ta. Những bài hát của ông về sau có những bài mang âm hưởng nhạc cổ truyền, như "Tiếng xưa", "Thề non nước" (phổ thơ Tản Đà), "Đêm tàn Bến Ngự",...
Năm 1953, ông phổ thơ "Màu cây trong khói" của Hồ Dzếnh thành bài "Chiều", gây được tiếng vang lớn. Một số bài hát được vợ sau của ông, ca sĩ Minh Trang viết lời như "Bóng chiều xưa", "Ôi quê xưa", "Mơ tiên",...
Năm 1954, ông vào Sài Gòn, phụ trách ban nhạc "Cổ kim hòa điệu" trên làn sóng điện Đài phát thanh Sài Gòn và dạy tại trường Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ. Thời điểm này, ông vẫn sáng tác một số bài hát mới như "Bạn cùng tôi", "Đêm ngắn tình dài", "Thiết tha vài lời" do một số nhà xuất bản âm nhạc tại Sài Gòn phát hành và xuất bản. Sang thập niên 1960, ông ít sáng tác hơn trước.
Ông sáng tác hơn 200 bài nhạc, trong đó có những bài phổ biến cho đến bây giờ, như "Ngọc lan", "Tiếng xưa", "Chiều", "Đêm tàn Bến Ngự",... và được ấn hành khá nhiều lần. Ngoài những bài nhạc tình, ông còn viết những bài hùng ca và viết những bài nhạc cho thiếu nhi, như bài "Uống nước nhớ nguồn" được ông viết chung với Hùng Lân. Riêng bài "Ơn nghĩa sinh thành" của ông được hát nhiều trong ngày lễ Vu Lan.
Những nhạc phẩm của ông được nhiều ca sĩ trình bày, như Thanh Thúy, Minh Trang, Mai Hương, Quỳnh Giao,... Sau năm 1975, một số nhạc phẩm của ông được ca sĩ Ánh Tuyết, Quỳnh Hoa,... trình bày.
Sau năm 1975, các sáng tác của ông đều bị cấm ở trong nước và ông cũng không viết nhạc nữa. Mãi sau này, khi có chính sách Đổi Mới, một số nhạc phẩm của ông đã được lưu hành trở lại.
Vinh danh
Năm 1995, Hãng phim Trẻ có sản xuất băng VHS "Thuyền mơ" để vinh danh và tưởng niệm ông. Tại Hoa Kỳ, chương trình "Chiều Minh Trang – Dương Thiệu Tước" được diễn ra ngày 1 tháng 8 năm 2005 với sự tổ chức của hội Vysca và sự hỗ trợ của một số văn nghệ sĩ và báo Người Việt nhằm tưởng nhớ nhạc sĩ, có đến 600 người tham dự và một số ca sĩ như Mai Hương, Kim Tước,... cũng xuất hiện trong chương trình này.
Tên ông được đặt cho hai con đường, một tại Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh và một tại Hương Thủy, Thừa Thiên Huế.
Tác phẩm
Áng mây chiều
Bạn cùng tôi
Bên ngàn hoa thắm
Bến hàn giang
Bến xuân xanh (Dương Thiệu Tước & Minh Trang)
Bóng chiều xưa (Dương Thiệu Tước & Minh Trang)
Buồn xa vắng (Dương Thiệu Tước & Minh Trang)
Cánh bằng lướt gió
Chiều (thơ Hồ Dzếnh)
Chiều lữ thứ (Dương Thiệu Tước & Minh Trang)
Đêm ngắn tình dài
Đêm tàn bến Ngự
Dòng sông xanh
Dưới nắng hồng
Dưới trăng
Giáng xuân
Hội hoa đăng
Họa mi trong lồng (thơ Tản Đà)
Hờn sóng gió
Hương thu
Hương Giang mộng khúc
Khúc nhạc dưới trăng (Dương Thiệu Tước & Minh Trang)
Kiếp hoa
Mơ tiên (Dương Thiệu Tước & Minh Trang)
Một chiều đông (Dương Thiệu Tước & Minh Trang)
Mối duyên thừa (Võ Đức Tuyết & Dương Thiệu Tước)
Mùa lá rụng
Mùa lúa mới (Dương Thiệu Tước & Minh Trang)
Nắng hè (Dương Thiệu Tước & Minh Trang)
Ngọc lan
Nhạc buồn
Nhớ cánh uyên bay
Ôi quê xưa
Ơn nghĩa sinh thành
Phút say hương
Sóng lòng
Tâm hồn anh tìm em
Thu nhớ chiều quê (Dương Thiệu Tước & Đỗ Thu)
Thuyền mơ
Thiết tha vài lời
Tiếc một thời xuân (lời Thẩm Oánh)
Tiếng xưa
Tiếng xưa 2
Tình anh
Tình thắm duyên đàn
Trời xanh thẳm
Ước hẹn chiều thu
Uống nước nhớ nguồn (Dương Thiệu Tước & Hùng Lân)
Việt Nam anh dũng
Việt Nam mến yêu
Vọng chinh phu
Vườn xuân thắm tươi
Vui xuân (Dương Thiệu Tước & Minh Trang)
Chú thích
Tham khảo
Nhạc sĩ Việt Nam
Nhạc sĩ Việt Nam Cộng hòa
Nhạc sĩ tiền chiến
Người Hà Nội
|
26272
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%ADnh%20c%C3%A1ch
|
Tính cách
|
Tính cách là tính chất, đặc điểm về nội tâm của mỗi con người, mà có ảnh hưởng trực tiếp đến suy nghĩ, lời nói và hành động của người đó. Một người có thể có nhiều tính cách và nhiều người có thể có cùng một tính cách.
Tính cách khác với tính tình, tính khí hay cá tính. Tính cách là yếu tố quan trọng nhất của con người. Người ta thường đánh giá hành động, lời nói, và đôi khi là suy nghĩ của một người để suy ra tính cách người đó, và cuối cùng là kết luận về bản chất người đó.
Thường thì tính cách được chia làm hai loại: tính tốt và tính xấu. Tốt và xấu là theo quan niệm của đa số người dân. Tuy nhiên đối với những tính cách mà số người cho là xấu bằng số người cho là tốt hay không ai cho tốt xấu gì cả thì chúng ta nên xem xét lại trong từng trường hợp cụ thể hoặc gắn cho nó quan niệm trung lập.
Xem thêm Danh sách tính cách
Tính tốt và tính trung
Tính tốt
Người tốt thường có nhiều tính tốt và có đầy đủ các tính tốt chủ yếu. Tính tốt giúp cho những người xung quanh ta cảm thấy dễ chịu, hài lòng, nhiều khi mến phục và yêu quý ta. Những người có quá nhiều tính tốt thường dễ bị lợi dụng. Sau đây là một vài tính tốt quan trọng trong thời đại ngày nay:
Khiêm tốn
Vị tha, khoan dung
Kiên nhẫn, chịu khó
Hòa đồng, cởi mở, vui vẻ, hoạt bát
Lễ phép, chừng mực, biết kính trên nhường dưới
Biết nghĩ đến người khác và nhiệt tình giúp đỡ mọi người
Tính trung
Tính vừa xấu vừa tốt
Kiên định (hay bảo thủ), đôi lúc ta cần giữ vững lập trường, nhưng đôi lúc cũng phải biết thay đổi nếu thấy mình chưa đúng.
Thẳng thắn: nhiều khi có những điều cần phải bộc trực mà nói, nhưng nhiều khi không thể thẳng mặt mà nhận xét được. Nên sự thẳng thắn nên kết hợp với khéo léo và tế nhị. Có những điều chúng ta cũng nên giữ riêng cho mình vì quá thẳng thắn sẽ làm đau lòng người khác.
Hiền lành: trong những trường hợp bình thường thì đúng là nên nhu mì, hiền diệu, nhưng khi gặp kẻ dữ dằn, ghê gớm thì nên cứng rắn lên để tránh bị lợi dụng hay ăn hiếp.
Trung lập. Ví dụ như trầm lặng, người mang tính này chả gây rắc rối gì, mà cũng chẳng bị ai gây rắc rối cho, không xấu mà cũng không tốt.
Xem thêm Danh sách tính trung lập và tính vừa xấu vừa tốt
Tính xấu
Tính xấu là tính trái ngược với tính tốt. Có bao nhiêu tính tốt thì có bấy nhiêu tính xấu. Tính xấu thường gây ra những tai hại hay bực bội cho người khác nên bị ghét và lên án. Cũng có vài tính xấu không gây ảnh hưởng đến ai, nên không hoàn toàn bị chê trách. Mọi tính xấu trên đời này đều bắt nguồn từ sự ích kỉ... Sau đây là vài tính xấu thịnh hành ngày nay:
Ích kỉ: đừng nhầm lẫn từ này với nghĩa keo kiệt, người ích kỉ chỉ muốn mọi thứ đều diễn ra có lợi cho mình và không quan tâm xem người khác có lợi hay hại. Tính xấu này là động cơ chủ yếu để phát triển những tính xấu khác. Ví dụ như những người hay giận dỗi hoặc giận dai, họ chỉ nghĩ là những người xung quanh đáng ghét và phải bị mình giận, trong khi không nghĩ rằng những người bị giận đang gặp phiền toái vì hành động ngu xuẩn đó.
Khoe khoang, ba hoa: là người lúc nào cũng khoe khoang những thứ mình có được, thậm chí những thứ mình chưa có hoặc không hề có. Ví dụ: khoe mình từng là tỷ phú dù hiện tại rất nghèo. Hoặc như Giúp người thì tốt, nhưng giúp một mà đi khoe mười thì đúng là khoác lác. Những người này chỉ cố tạo cho mình một cái vỏ tốt bên ngoài để che đậy những cái xấu trong tâm.
Dựng chuyện, đặt điều, bêu xấu người khác: những điều tốt đẹp trong mắt họ đều trở thành xấu xí. Họ dùng mọi cách để bêu xấu những người tốt xung quanh mình. Đơn giản họ chỉ muốn tự nâng mình lên vị trí cao nhất. Những người này thường không hạnh phúc với chính mình, thường xuất phát từ tính ích kỷ và tính đố kỵ.
Vụ lợi, thích lợi dụng
Gian trá, lừa lọc
Nhẫn tâm, ác độc
Vô duyên, lố bịch, nhảm nhí
Đua đòi.
Đố kị, ganh ghét
Vô ơn: phủ nhận những điều mà người khác đã từng giúp mình bằng cách đi bêu xấu họ
Lười biếng
Hách dịch
Học tính tốt bỏ tính xấu, hai thứ sẽ bổ sung cho nhau vào tâm hồn con người, khiến nó thanh khiết, tươi đẹp và hoàn hảo hơn.
Xem thêm Danh sách tính xấu
Tham khảo
Đạo đức
Triết học
Hành vi con người
Văn học
Tự sự học
|
26274
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%BAp%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20ch%C3%A2u%20Phi
|
Cúp bóng đá châu Phi
|
Cúp bóng đá châu Phi ( - CAN; - AFCON) là giải bóng đá giữa các đội tuyển quốc gia thuộc khu vực châu Phi do Liên đoàn bóng đá châu Phi (CAF) tổ chức. Giải lần đầu tiên được tổ chức năm 1957 chỉ với 3 đội tuyển. Giải chính thức được tổ chức 2 năm một lần kể từ năm 1968 đến nay. Từ năm 2013, giải được chuyển sang tổ chức vào các năm lẻ để tránh trùng với Giải vô địch bóng đá thế giới. Như vậy lần thứ hai giải được tổ chức vào hai năm liên tiếp (2012 và 2013), sau lần đầu tiên vào 50 năm trước đó (1962 và 1963). Giải đấu năm 2021 được hoãn sang tháng 1 năm 2022 do đại dịch Covid-19, còn giải đấu năm 2023 cũng được dời sang đầu năm 2024 do khí hậu nắng nóng của nước chủ nhà Bờ Biển Ngà.
Đội tuyển đoạt nhiều chức vô địch nhất tính đến thời điểm hiện tại là với 7 lần bước lên ngôi vị cao nhất vào các năm 1957, 1959, 1986, 1998, 2006, 2008 và 2010.
Kết quả các trận chung kết và tranh hạng 3
(1) Năm 1959, chỉ có 3 đội tham dự và trận cuối cùng được coi như trận chung kết.
(2) Năm 1976, 4 đội cuối cùng (giải có 8 đội) đấu vòng tròn xếp hạng.
(3) Năm 1978, đội Tunisia bỏ cuộc ở phút thứ 42 và đội Nigeria được xử thắng 2-0.
Các đội lọt vào top 4
<div id="0">* Chủ nhà
Kết quả của các nước chủ nhà
Kết quả của đương kim vô địch
Vô địch theo từng khu vực
Giải thưởng
Cầu thủ xuất sắc nhất giải
Vua phá lưới
Các đội tham dự
Chú thích
– Vô địch
– Á quân
– Hạng ba
– Hạng tư
TK – Tứ kết
V16 – Vòng 16 đội
VB – Vòng bảng
Q – Vượt qua vòng loại
— Chủ nhà
— Bỏ cuộc khi tham dự vòng loại
— Bị loại khỏi vòng loại
Các đội chưa từng tham dự CAN , , , , , , , , , .
Lần đầu tham dự
Dưới đây là thống kê giải đầu tiên mà các đội tuyển giành quyền vào chơi một vòng chung kết CAN.
Bảng xếp hạng tổng thể
Các huấn luyện viên vô địch
Tham khảo
Liên kết ngoài
Giải đấu của Liên đoàn bóng đá châu Phi cho đội tuyển quốc gia
|
26275
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Krypton
|
Krypton
|
Krypton là một nguyên tố hóa học có ký hiệu Kr và số nguyên tử bằng 36. Là một khí hiếm không màu, krypton có mặt trong khí quyển Trái Đất dưới dạng dấu vết và được cô lập bằng cách chưng cất phân đoạn không khí lỏng, và nó thường được sử dụng cùng các khí hiếm khác trong các đèn huỳnh quang. Krypton mang các đặc tính hóa học của khí trơ trong phần lớn các ứng dụng thực tế nhưng người ta đã biết rằng nó có thể phản ứng tạo ra hợp chất với flo. Krypton cũng có thể tạo ra các mắt lưới với nước khi các nguyên tử của nó bị mắc kẹt lại trong lưới các phân tử nước.
Đặc trưng nổi bật
Krypton, trước đây được gọi là một khí trơ do có độ hoạt động hóa học rất yếu, được đặc trưng bởi quang phổ màu xanh lục và da cam rực rỡ. Nó là một trong các sản phẩm phân rã hạt nhân của urani. Krypton ở dạng rắn là chất kết tinh màu trắng với cấu trúc tinh thể là hình lập phương tâm mặt, đây cũng là tính chất chung của mọi "khí hiếm".
Lịch sử
Krypton (tiếng Hy Lạp kryptos có nghĩa là "ẩn") được William Ramsay và Morris Travers phát hiện năm 1898 trong phần còn lại của không khí lỏng khi cho bay hơi gần hết mọi thành phần. Neon được phát hiện bằng cách tương tự trong cùng một công trình chỉ vài tuần sau đó. William Ramsay được trao giải Nobel hóa học năm 1904 vì phát hiện ra các nguyên tố thuộc nhóm khí hiếm. Năm 1960 một thỏa thuận quốc tế đã xác định độ dài của mét theo thuật ngữ của bước sóng ánh sáng phát ra từ một đồng vị của krypton. Thỏa thuận này đã thay thế cho mét tiêu chuẩn cũ được đặt ở Paris – là một thanh kim loại được làm từ hợp kim platin-iridi (mét cũ này được ước lượng bằng một phần mười triệu của một phần tư chu vi Trái Đất tính theo hai cực). Vào tháng 10 năm 1983 thì tiêu chuẩn krypton này cũng đã được Bureau International des Poids et Mesures (Ủy ban đo lường quốc tế) thay thế. Mét hiện nay được định nghĩa như là khoảng cách mà ánh sáng có thể vượt qua trong chân không trong 1/299.792.458 s.
Sự phổ biến
Trái Đất lưu giữ tất cả khí hiếm kể từ khi nó có mặt lúc Trái Đất hình thành trừ heli. Nồng độ của khí này trong khí quyển Trái Đất là khoảng 1 ppm. Nó có thể tách ra từ không khí hóa lỏng bằng chưng cất phân đoạn. Lượng krypton trong không gian thì chưa chắc chắn và có nguồn gốc từ hoạt động của thiên thạch và từ gió Mặt Trời. Các đo đạc đầu tiên cho rằng krypton rất phong phú trong không gian.
Hợp chất
Giống như các khí hiếm khác, krypton nói chung được coi là trơ về mặt hóa học. Tuy nhiên, các nghiên cứu từ năm 1962 trở đi đã khám phá ra một số hợp chất hóa học của krypton. Đifluoride krypton đã được tạo ra với khối lượng tính bằng gam và có thể sản xuất bằng một số cách khác nhau. Các fluoride và muối khác của ôxôaxít krypton cũng đã được tìm thấy. Các phân tử-ion ArKr+ và KrH+ cũng đã được nghiên cứu và có chứng cứ cho thấy sự tồn tại của KrXe hay KrXe+.
Đồng vị
Krypton nguồn gốc tự nhiên bao gồm 5 đồng vị ổn định và 1 đồng vị phóng xạ nhẹ. Vạch quang phổ của krypton dễ dàng được tạo ra với một số đường rất sắc nét. Kr81 là sản phẩm của các phản ứng trong khí quyển của các đồng vị nguồn gốc tự nhiên khác của krypton. Nó là đồng vị phóng xạ với chu kỳ bán rã 250.000 năm. Giống như xenon, krypton rất dễ bay hơi khi nó gần với nước bề mặt và vì thế Kr81 được sử dụng để xác định niên đại của nước ngầm cổ (50.000–800.000 năm).
Kr85 là đồng vị phóng xạ với chu kỳ bán rã 10,76 năm, được tạo ra bằng các phản ứng phân rã hạt nhân của Uranium và Plutonium. Các nguồn tạo ra nó bao gồm các thử nghiệm bom nguyên tử, lò phản ứng hạt nhân và sự giải phóng Kr85 trong quá trình tái chế các thanh nhiên liệu từ các lò phản ứng hạt nhân. Người ta cũng ghi nhận là có sự chênh lệch về nồng độ của Kr85 ở Bắc cực và Nam cực là khoảng 30%. Ở Bắc cực nồng độ này cao hơn do một thực tế là phần lớn đồng vị này được tạo ra ở Bắc bán cầu và sự hòa trộn không khí giữa hai bán cầu diễn ra tương đối chậm.
Laser fluoride krypton
Một trong các ứng dụng chính của krypton là laser fluoride krypton. Một lượng năng lượng nhất định được truyền vào để làm cho khí krypton phản ứng với khí flo để tạo ra fluoride krypton (KrF2).
Hợp chất bị phân hủy ngay sau khi việc cung cấp năng lượng bị ngừng lại. Trong quá trình phân hủy, lượng năng lượng dư thừa được lưu trữ trong hợp chất sẽ được thoát ra dưới dạng năng lượng laser mạnh.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Mục từ Krypton ở WebElements (vận tốc truyền âm trong krypton lỏng)
Laser florua krypton
Nguyên tố hóa học
Khí hiếm
Krypton
|
26283
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C5%A9%20Th%C3%A0nh%20An
|
Vũ Thành An
|
Vũ Thành An (sinh ngày 20 tháng 4 năm 1943) là một trong những nhạc sĩ nổi bật của miền Nam Việt Nam thời kỳ 1954 - 1975. Các "Bài không tên" là những tác phẩm nổi tiếng của ông. Hiện nay, ông là một phó tế của Giáo hội Công giáo Rôma, đã ngừng sáng tác nhạc tình ca mà chỉ sáng tác thánh ca.
Tiểu sử
Vũ Thành An sinh tại xã Hải Trung, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định (về sau đổi thành quận Hải Hậu thuộc tỉnh Bùi Chu). Năm 1954 ông theo gia đình di cư vào miền Nam. Năm 1960, ông vào học trường trung học Nguyễn Trãi, có theo học nhạc sĩ Chung Quân cùng Ngô Thụy Miên, Đức Huy. Năm 1961 ông thi hỏng Tú tài và về trường Hưng Đạo học tiếp Đệ nhị. Năm 1963, Vũ Thành An thi đậu Tú tài toàn phần.
Sau đó ông được linh mục Trần Đức Huynh, giám đốc trường Hưng Đạo cho dạy lớp Đệ thất để có tiền học Đại học. Cuối năm 1963, Vũ Thành An vào làm phóng viên ở Đài phát thanh Sài Gòn, ở đó ông gặp nhà thơ Nguyễn Đình Toàn. Năm 1965, ông viết Tình khúc thứ nhất, thơ Nguyễn Đình Toàn và nổi tiếng ngay từ ca khúc đầu tay đó. Những năm tiếp theo, ông viết nhiều Bài không tên khác. Năm 1967, Vũ Thành An nhập ngũ khóa 25 Sĩ quan dự bị Thủ Đức và đến năm 1969 ông lập gia đình.
Năm 1969, ông phát hành tập nhạc Những bài không tên. Các tác phẩm của Vũ Thành An được yêu thích ở khắp miền Nam khi đó. Người ta có thể nghe tại gần như hầu hết các quán cà phê nhạc của Sài Gòn và những thành phố lớn khác, tại các quân trường và trên các làn sóng phát thanh. Tên tuổi của Vũ Thành An cùng với Tình khúc thứ nhất, Em đến thăm anh đêm ba mươi và các Bài không tên gắn liền với giới trẻ thời bấy giờ. Vũ Thành An cùng với Trịnh Công Sơn, Ngô Thụy Miên, Từ Công Phụng, Lê Uyên Phương tạo thành một lớp nhạc sĩ mới đầy tài năng.
Năm 1971, Vũ Thành An tốt nghiệp Trường Đại học Luật khoa Sài Gòn. Ông tiếp tục làm việc tại Đài phát thanh Sài Gòn với cấp bậc sĩ quan, và trải qua nhiều chức vụ: Trưởng cơ sở dân vận Gia Định 1973, Trưởng phân khối văn hóa, Phụ tá trưởng khối chương trình, Trưởng khối chương trình và Trưởng phân khối kế hoạch hệ thống truyền thanh 1974.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Vũ Thành An là người cuối cùng rời Đài phát thanh Sài Gòn lúc 10 giờ 30 phút. Sau đó ông phải học tập cải tạo suốt 10 năm dài từ 1975 đến 1985 tại miền Bắc. Theo lời Vũ Thành An, ông bắt đầu sáng tác Thánh ca, Những Bài Nhân Bản trong thời gian cải tạo từ năm 1981.
Năm 1991, Vũ Thành An rời Việt Nam và định cư tại Hoa Kỳ. Năm 1996, ông ghi danh học chương trình Cao học Thần học của Tổng giáo phận Portland, Oregon. Năm 2000, Vũ Thành An được đào tạo làm chức Phó Tế và phụ trách Đài phát thanh Việt Nam Hải Ngoại ở Portland, Oregon. Vũ Thành An ngừng sáng tác tình khúc và chỉ tiếp tục soạn các bản thánh ca, và tham gia các công việc từ thiện.
Năm 2002, trung tâm Thúy Nga thực hiện Paris By Night 64 - Đêm Văn Nghệ Thính Phòng vinh danh ông, cùng với 2 nhạc sĩ Tuấn Khanh và Từ Công Phụng.
Tác phẩm
Những bài không tên
Khoảng 50 bài, được đánh số không theo thứ tự thời gian, trong đó một số bài vẫn có mang tên khác. Một vài Bài không tên khác không đánh số như Bài không tên cuối cùng và Bài không tên cuối cùng tiếp nối...
Những bài có tên
Anh biến mất thôi
Biển vang lời mẹ nhắn
Bài không tên cuối cùng
Cảm ơn
Cánh chim xa vời
Cháy bỏng tình cố hương
Chị ơi
Đêm say
Đêm vàng trăng úa
Đời đá vàng
Đừng yêu tôi
Anh đến thăm em đêm 30 (thơ Nguyễn Đình Toàn)
Hai mươi năm làm tuổi trẻ
Hạt sầu
Hồn lạnh nắng phai
Lời tình buồn
Một lần nào cho tôi gặp lại em
Nếu tôi còn được yêu
Ngày mưa
Nhân bản 6
Sầu khúc
Thân cỏ hoa
Tình đã xa
Tình khúc thứ nhất (thơ: Nguyễn Đình Toàn)
Trong tay nhau
Xa lạ
Xin cảm ơn chàng những đêm không ngủ
Cấp phép phổ biến
Từ cuối năm 2014, Cục Nghệ thuật Biểu diễn cấp phép cho Hãng phim Phương Nam khai thác độc quyền 21 sáng tác của Vũ Thành An tại Việt Nam. Các ca khúc được phổ biến rộng rãi gồm 10 Bài không tên và những bản nhạc nổi tiếng của nhạc sĩ như: Em đến thăm anh đêm 30, Đêm say, Đời đá vàng, Một lần nào cho tôi gặp lại em...
Vào ngày 7 tháng 11 năm 2014, ca sĩ Lệ Quyên phát hành album biên tập mang tên Vùng tóc nhớ bao gồm 10 bài không tên.
Ngày 27 tháng 12 năm 2014, Lệ Quyên, Đức Tuấn, Hồ Trung Dũng, Lê Hiếu tham gia chương trình Tình khúc vượt thời gian với chủ đề Vũ Thành An và Những bản tình ca. Đây là lần đầu tiên nhạc Vũ Thành An được trình diễn trên sóng truyền hình trực tiếp tại Việt Nam.
Vào ngày 28 tháng 8 năm 2015, Lệ Quyên hợp tác cùng Hãng phim Phương Nam thực hiện liveshow Vũ Thành An - Lệ Quyên - Tình khúc không tên tại nhà hát Hòa Bình với sự tham gia của Tuấn Ngọc, Quang Dũng, Hồ Trung Dũng, nhóm 5 Dòng Kẻ, nhóm Ayor. Cũng trong ngày công diễn liveshow, tập sách nhạc Tình khúc Vũ Thành An lần đầu được ra mắt khán giả với 39 bài hát của nhạc sĩ được cấp phép. Nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 cũng tham gia chia sẻ về những kỷ niệm về nhạc sĩ Vũ Thành An. Ngày 10 tháng 12 năm 2015, bộ đôi CD và DVD ghi hình lại chương trình được phát hành trong hội chợ băng đĩa của Hãng phim Phương Nam.
Danh sách đĩa nhạc
Tình ơi giã biệt - Vũ Thành An
Tình khúc thứ nhất - Vũ Khanh (Diễm xưa 164)
Đừng Yêu Tôi (Tình khúc Vũ Thành An) - Khánh Ly
Tình khúc Vũ Thành An - Làng Văn 002 (1988)
Tình khúc Vũ Thành An - Những bài không tên tiếp nối - ASIA036 (1991)
Tình khúc Vũ Thành An - Người đẹp Bình Dương 59 (1998)
Tình ca Vũ Thành An - Khánh Hà CD15
Vũ Thành An - Tuấn Ngọc (2000)
Đừng yêu tôi - Thuý Nga 277 (2002)
Hát cho tình yêu người 2 - Thuý Nga (2004)
Tình ca Vũ Thành An 2 - Tuấn Ngọc & Ý Lan (2004)
Tình khúc Vũ Thành An - Bằng Kiều (2011)
Tình ca Vũ Thành An 5 (2011)
Vùng tóc nhớ (10 bài không tên) - Lệ Quyên (2014)
Đời đá vàng - Vĩnh Tâm (2014)
Đời đá vàng - Xuân Phú (2015)
Một lần nào cho tôi gặp lại em - Hồ Trung Dũng (2015)
Tình khúc không tên - Lệ Quyên (2015)
Tham khảo
Người Nam Định
Người Mỹ gốc Việt
Nhạc sĩ tình khúc 1954–1975
Nhạc sĩ hải ngoại
Nghệ sĩ Công giáo Việt Nam
Tín hữu Công giáo Việt Nam
Người cải sang Công giáo
Người họ Vũ tại Việt Nam
Sinh năm 1943
Nhạc sĩ Việt Nam
Nhạc sĩ Việt Nam Cộng hòa
|
26284
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%C3%AD%20hi%E1%BA%BFm
|
Khí hiếm
|
Khí hiếm hoặc khí trơ (Tiếng Anh: noble gas) là nhóm các nguyên tố hóa học trong nhóm nguyên tố số 18, (trước đây gọi là nhóm 0), có số electron lớp ngoài cùng là 8 trong bảng tuần hoàn. Chuỗi nguyên tố hóa học này chứa heli, neon, argon, krypton, xenon, radon và oganesson (có thể không phải khí hiếm) Ngoài ra, flerovi nhóm 14 cũng thể hiện các đặc điểm giống khí hiếm. Khí hiếm trước đây được gọi là khí trơ, nhưng thuật ngữ này không chính xác một cách chặt chẽ do các nguyên tố này cũng có tham gia vào một số phản ứng hóa học nhất định. Thuật ngữ khí hiếm cũng là một tên gọi chưa chính xác, do trên thực tế, ví dụ, argon trong tự nhiên tồn tại ở một phần đáng kể (0,93% theo thể tích hay 1,29% theo khối lượng) của khí quyển Trái Đất. Tên gọi khí quý chỉ tới danh nghĩa 'quý tộc' vì những nguyên tố trong nhóm này không tham gia vào những phản ứng hóa học với các loại nguyên tố khác ngoại tộc, được so sánh như các vị quý tộc không nối dòng với bình dân. Mà cũng có lẽ là có liên quan tới các kim loại quý kém hoạt động hóa học, chúng được gọi như thế là do sự quý báu, khả năng chống ăn mòn cao và có một sự gắn kết lâu dài với tầng lớp quý tộc, nhưng các khí quý thì không thấy có liên quan gì đến các yếu tố đã nói như kim loại quý, ngoại trừ một số trong chúng là đắt tiền. Như vậy, trên thực tế cả ba tên gọi đều không thực sự chặt chẽ và không phản ánh đầy đủ các tính chất hóa-lý hay lịch sử của nhóm các nguyên tố này.
Do độ hoạt động hóa học cực kỳ yếu của chúng, các khí hiếm đã không được phát hiện cho đến tận năm 1868, khi heli được phát hiện ra trong quang phổ của Mặt trời. Trên Trái Đất, mãi đến năm 1895 thì người ta mới cô lập được heli. Các khí hiếm có các lực tương tác nội nguyên tử cực kỳ yếu, kết quả là chúng có điểm nóng chảy và điểm sôi rất thấp. Điều này giải thích tại sao tất cả chúng đều ở dạng khí trong các điều kiện bình thường, thậm chí ngay cả các nguyên tố có nguyên tử lượng lớn hơn so với nhiều chất rắn thông thường khác.
Bảng tuần hoàn chứa một ô trống phía dưới radon, với số nguyên tử bằng 118. Điều này gián tiếp chỉ ra sự tồn tại, mặc dù có thể chu kỳ tồn tại rất ngắn, của một nguyên tố khí hiếm vẫn chưa được phát hiện ra, mà hiện nay người ta đặt tên là oganesson.
Mặc dù các khí hiếm nói chung là không hoạt động hóa học, nhưng trong một số điều kiện cụ thể thì chúng vẫn tạo ra các hợp chất (hợp chất của khí hiếm).
Khí hiếm không phải là tên gọi riêng cho nhóm nguyên tố 18 vì oganesson thực tế có thể không phải là khí hiếm, trong khi flerovi (nhóm nguyên tố 14) lại là một khí hiếm.
Thuộc tính vật lý
Tham khảo
Liên kết ngoài
Bài tuyên bố của Trường Đại học Ohio phát cho báo chí về các hợp chất của urani với các khí hiếm
Khí hiếm – Neon, Krypton, Xenon – Tính chất, sử dụng và ứng dụng
argon (Ar) Tính chất, sử dụng và ứng dụng
Nhóm nguyên tố hóa học
|
26288
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Scandi
|
Scandi
|
Scandi hay scandium là một nguyên tố hóa học trong bảng tuần hoàn có ký hiệu Sc và số nguyên tử bằng 21. Là một kim loại chuyển tiếp mềm, màu trắng bạc, scandi có trong các khoáng chất hiếm ở Scandinavia và nó đôi khi được phân loại cùng với ytri và các nguyên tố trong nhóm Lanthan như là các nguyên tố đất hiếm.
Nó được phát hiện vào năm 1879 bằng cách phân tích quang phổ của các khoáng chất euxenit và gadolinit từ Scandinavia, nên được đặt tên theo bán đảo này.
Scandi có mặt trong hầu hết các mỏ của các hợp chất đất hiếm và urani, nhưng nó được khai thác từ các quặng này chỉ trong một vài mỏ trên toàn thế giới. Do tính sẵn có thấp và những khó khăn trong việc chuẩn bị scandi kim loại, lần đầu tiên được thực hiện vào năm 1937, các ứng dụng cho scandi đã không được phát triển cho đến những năm 1970. Những tác động tích cực của scandi lên hợp kim nhôm đã được phát hiện vào những năm 1970 và việc sử dụng nó trong các hợp kim như vậy vẫn là ứng dụng chính duy nhất của nó. Sản xuất thương mại toàn cầu của scandi oxit là khoảng 10 tấn mỗi năm.
Các tính chất của các hợp chất scandi là trung gian giữa các hợp chất của nhôm và ytri. Một mối quan hệ chéo tồn tại giữa hành vi của magnesi và scandi, giống như có giữa beryli và nhôm. Trong các hợp chất hóa học của các nguyên tố thuộc nhóm 3, trạng thái oxy hóa chiếm ưu thế là +3.
Đặc trưng nổi bật
Scandi là một nguyên tố kim loại có tỷ trọng thấp, hóa trị 3 màu trắng bạc, mềm, khi bị phơi ra ngoài không khí thì nó chuyển sang màu vàng hay hồng nhạt. Nguyên tố này tương tự như ytri và các kim loại đất hiếm nhiều hơn là so với nhôm hay titan (là các nguyên tố cận kề trong bảng tuần hoàn). Trạng thái oxy hóa phổ biến của scandi là +3 và nó không bị ăn mòn bởi hỗn hợp tỷ lệ 1:1 của acid nitric (HNO3) và acid hydrofluoric (HF) 48%.
Ứng dụng
Khoảng 20 kg (trong dạng Sc2O3) scandi được sử dụng hàng năm tại Hoa Kỳ để sản xuất các thiết bị chiếu sáng có cường độ cao. Iodide scandi được thêm vào các đèn hơi thủy ngân để tạo ra nguồn ánh sáng nhân tạo hiệu suất cao tương tự như ánh sáng mặt trời và cho phép tái tạo màu rất tốt cho các camêra truyền hình. Khoảng 80 kg scandi được sử dụng trong các loại đèn trên thế giới trong một năm. Đồng vị phóng xạ Sc46 được sử dụng trong các thiết bị lọc dầu bằng cracking như là chất dò dấu vết. Ứng dụng chính theo khối lượng là các hợp kim nhôm-scandi cho công nghiệp tàu vũ trụ và các thiết bị thể thao (xe đạp, gậy bóng chày v.v.) dựa trên các tính chất đặc biệt của vật liệu. Khi thêm vào nhôm, scandi có thể cải thiện độ bền (ở nhiệt độ phòng và ở nhiệt độ cao hơn), độ mềm v.v thông qua sự hình thành của pha Al3Sc. Ngoài ra, nó cũng làm giảm khả năng tạo vết nứt khi đông đặc trong quá trình hàn các hợp kim nhôm có độ bền cao.
Các nhà sản xuất xe đạp cho rằng việc sử dụng ban đầu của hợp kim nhôm-scandi là ở các đầu mũi hình nón của các tên lửa đạn đạo phóng từ các tàu ngầm của Liên Xô. Độ bền của các đầu mũi hình nón này là đủ để nó xuyên thủng các tảng băng mà không bị tổn hại, vì thế nó cho phép các tên lửa được phóng đi trong khi các tàu ngầm vẫn còn đang lặn dưới các tảng băng Bắc cực. Nếu điều này là đúng thì nó sẽ giúp giải thích tại sao các kho dự trữ của Liên Xô cũ lại là các nguồn chủ yếu của scandi.
Lịch sử
Dmitri Mendeleev sử dụng định luật tuần hoàn của mình năm 1869 để dự đoán sự tồn tại và một số tính chất của ba nguyên tố chưa biết đến vào thời kỳ đó, bao gồm một nguyên tố mà ông gọi là ekabo.
Lars Fredrick Nilson và đồng nghiệp của mình, dường như đã không biết đến dự đoán này tới tận mùa xuân năm 1879 trong khi tìm kiếm các kim loại đất hiếm; đã sử dụng phương pháp phân tích quang phổ và tìm thấy một nguyên tố mới trong các khoáng chất euxenit và gadolinit. Ông đặt tên nó là scandium, từ tiếng Latinh scandia có nghĩa là "Scandinavia", và để cô lập nguyên tố này thì ông đã phải xử lý 10 kilôgam euxenit với các cặn bã đất hiếm khác và thu được khoảng 2 gam scandia (Sc2O3) rất tinh khiết.
Per Teodor Cleve đã kết luận rằng các tính chất của scandi đã phù hợp rất tốt với ekabo mà người ta đã hy vọng và thông báo điều này cho Mendeleev vào tháng 8 cùng năm.
Scandi kim loại được điều chế lần đầu tiên vào năm 1937 bằng phương pháp điện phân hỗn hợp nóng chảy eutecti của kali, lithi và chloride scandi ở 700-800°C. Người ta dùng các sợi wolfram trong bể kẽm lỏng làm các điện cực trong nồi nấu kim loại bằng graphit. Scandi với độ tinh khiết 99% chỉ được sản xuất ra vào năm 1960.
Sự phổ biến
Các khoáng chất hiếm ở Scandinavia và Madagascar, chẳng hạn như thortveitit, euxenit và gadolinit là các nguồn cô đặc duy nhất đã biết có chứa nguyên tố này (nó không bao giờ ở dạng kim loại tự do).
Nguyên tố số 21 này là nguyên tố có độ phổ biến đứng thứ 23 trong Mặt Trời và các ngôi sao tương tự nhưng chỉ đứng thứ 50 trên Trái Đất. Scandi được phân bổ rộng khắp trên Trái Đất nhưng chỉ ở dạng dấu vết trong khoảng trên 800 khoáng chất. Màu xanh lam trong biến thái aquamarin của khoáng chất berylin được cho là do scandi tạo ra. Nó là thành phần quan trọng của khoáng chất hiếm thortveitit và được tìm thấy trong cặn còn lại sau khi wolfram được chiết ra khỏi Zinnwald wolframit.
Thortveitit là nguồn chủ yếu của scandi, các sản phẩm phụ trong cặn bã của quặng uran cũng là một nguồn quan trọng. Scandi tinh khiết được sản xuất thương mại bằng cách khử fluoride scandi bởi calci kim loại.
Nguồn chủ yếu của scandi từ các kho dự trữ quân sự của Liên Xô cũ, chúng được tách ra từ các phụ phẩm của sản xuất uran. Tại châu Âu và Bắc Mỹ không có nguồn sản xuất chính của scandi.
Đồng vị
Scandi nguồn gốc tự nhiên bao gồm 1 đồng vị ổn định Sc45. Mười ba đồng vị phóng xạ cũng đã được tìm thấy với đồng vị ổn định nhất là Sc46 có chu kỳ bán rã 83,79 ngày, Sc47 với chu kỳ bán rã 3,3492 ngày và Sc48 với chu kỳ bán rã 43,67 giờ. Tất cả các đồng vị phóng xạ còn lại có chu kỳ bán rã nhỏ hơn 4 giờ và phàn lớn trong chúng có chu kỳ bán rã nhỏ hơn 2 phút. Nguyên tố này cũng có 5 siêu trạng thái với ổn định nhất là Scm44 (t½ 58,6 giờ).
Các đồng vị của scandi có nguyên tử lượng từ 39,978 amu (Sc40) to 53,963 amu (Sc54). Phương thức phân rã chủ yếu của các đồng vị nhẹ hơn đồng vị ổn định duy nhất Sc45 là bắt điện tử và phương thức chủ yếu của các đồng vị nặng hơn Sc45 là bức xạ beta. Sản phẩm phân rã chủ yếu của đồng vị nhẹ là các đồng vị của nguyên tố thứ 20 (calci) và sản phẩm chủ yếu của các đồng vị nặng là các đồng vị của nguyên tố thứ 22 (titan).
Phòng ngừa
Bột scandi kim loại là chất dễ cháy và tạo ra nguy cơ cháy nổ.
Liên kết ngoài
Phòng thí nghiệm quốc gia Los Alamos, Hoa Kỳ-Scandi
WebElements.com-Scandi
Chú thích
Nguyên tố hóa học
Kim loại chuyển tiếp
|
26294
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%E1%BA%A3n%20l%C3%BD
|
Quản lý
|
Quản lý là việc quản trị của một tổ chức, cho dù đó là một doanh nghiệp, một tổ chức phi lợi nhuận hoặc cơ quan chính phủ. Quản lý bao gồm các hoạt động thiết lập chiến lược của một tổ chức và điều phối các nỗ lực của nhân viên (hoặc tình nguyện viên) để hoàn thành các mục tiêu của mình thông qua việc áp dụng các nguồn lực sẵn có, như tài chính, tự nhiên, công nghệ và nhân lực. Thuật ngữ "quản lý" cũng có thể chỉ những người quản lý một tổ chức.
Các nhà khoa học xã hội học nghiên cứu quản lý như một ngành học thuật, điều tra các lĩnh vực như tổ chức xã hội và lãnh đạo tổ chức. Một số người học quản lý tại các trường cao đẳng hoặc đại học. Các bằng cấp chính về quản lý bao gồm Cử nhân Thương mại (B.Com.) Cử nhân Quản trị kinh doanh (BBA.) Thạc sĩ Quản trị Kinh doanh (MBA.) Và, đối với khu vực công, Thạc sĩ Quản trị Công (MPA). Các cá nhân muốn trở thành chuyên gia quản lý hoặc chuyên gia, nhà nghiên cứu quản lý hoặc giáo sư có thể hoàn thành Tiến sĩ Quản lý (DM), Tiến sĩ Quản trị Kinh doanh (DBA) hoặc Tiến sĩ Quản trị Kinh doanh hoặc Quản lý.
Các tổ chức lớn hơn thường có ba cấp quản lý, thường được tổ chức theo một cấu trúc phân cấp, kim tự tháp:
Quản lý cấp cao, chẳng hạn như thành viên Hội đồng quản trị và Giám đốc điều hành (CEO) hoặc Chủ tịch của một tổ chức. Họ đặt ra các mục tiêu chiến lược của tổ chức và đưa ra quyết định về cách thức tổ chức tổng thể sẽ hoạt động. Các nhà quản lý cấp cao thường là các chuyên gia cấp điều hành và đưa ra định hướng cho quản lý cấp trung, những người trực tiếp hoặc gián tiếp báo cáo với họ.
Quản lý cấp trung, các ví dụ trong số này sẽ bao gồm các nhà quản lý chi nhánh, quản lý khu vực, quản lý bộ phận và quản lý bộ phận, những người cung cấp phương hướng cho các nhà quản lý tuyến đầu. Các nhà quản lý cấp trung truyền đạt các mục tiêu chiến lược của quản lý cấp cao tới các nhà quản lý tiền tuyến.
Quản lý thấp hơn, chẳng hạn như giám sát viên và trưởng nhóm tiền tuyến, giám sát công việc của nhân viên thường xuyên (hoặc tình nguyện viên, trong một số tổ chức tình nguyện) và đưa ra định hướng về công việc của họ.
Trong các tổ chức nhỏ hơn, một người quản lý cá nhân có thể có phạm vi rộng hơn nhiều. Một người quản lý có thể thực hiện một số vai trò hoặc thậm chí tất cả các vai trò thường được thấy trong một tổ chức lớn.
Các đề tài về quản lý
Quản lý trong kinh doanh hay quản lý trong các tổ chức nhân sự nói chung là hành động đưa các cá nhân trong tổ chức làm việc cùng nhau để thực hiện, hoàn thành mục tiêu chung. Công việc quản lý bao gồm 5 nhiệm vụ (theo Henry Fayol): xây dựng kế hoạch, tổ chức, chỉ huy, phối hợp và kiểm soát. Trong đó, các nguồn lực có thể được sử dụng và để quản lý là nhân lực, tài chính, công nghệ và thiên nhiên.
Quản lý nói chung hay quản lý doanh nghiệp nói riêng bao gồm những đề tài chính sau:
Chức năng cơ bản của quản lý
Hoạch định: xác định mục tiêu, quyết định những công việc cần làm trong tương lai (ngày mai, tuần tới, tháng tới, năm sau, trong 5 năm sau...) lên các kế hoạch hành động.
Tổ chức: sử dụng một cách tối ưu các tài nguyên được yêu cầu để thực hiện kế hoạch.
Bố trí nhân lực: phân tích công việc, tuyển mộ phân công từng cá nhân cho từng công việc thích hợp.
Lãnh đạo/Động viên: Giúp các nhân viên khác làm việc hiệu quả hơn để đạt được các kế hoạch (khiến các cá nhân sẵn lòng làm việc cho tổ chức).
Kiểm soát: Giám sát, kiểm tra quá trình hoạt động theo kế hoạch (kế hoạch có thể sẽ được thay đổi phụ thuộc vào phản hồi của quá trình kiểm tra).
Cơ cấu chính sách kinh doanh
Nhiệm vụ (mission) kinh doanh là mục đích rõ ràng nhất của một doanh nghiệp.
Tầm nhìn (vision) của việc kinh doanh phản ánh những nguyện vọng của doanh nghiệp cũng như chỉ rõ phương hướng phát triển và đích đến trong tương lai của doanh nghiệp đó.
Mục tiêu (objectives) kinh doanh có quan hệ mật thiết với hệ quả của các hoạt động mà mỗi nhiệm vụ nhất định nhắm vào.
Chính sách (policy) kinh doanh là một hướng dẫn bao gồm những quy định, mục tiêu cùng những điều lệ có thể được dùng trong việc ra quyết định của những nhà quản lý. Chính sách cần phải dễ điều chỉnh để phù hợp với tình hình thực tiễn đồng thời phải dễ truyền đạt và dễ hiểu đối với công nhân viên.
Chiến lược (strategy) kinh doanh của doanh nghiệp liên hệ chặt chẽ với sự kết hợp hài hòa giữa phương hướng hoạt động trong tương lai, cũng như là các nguồn lực sẽ được sử dụng, để xác định được tầm nhìn của việc kinh doanh và các mục tiêu dài hạn của doanh nghiệp. Đó là một hướng dẫn tới những nhà quản lý, quy định họ nên cấp phát và sử dụng các yếu tố sản xuất như thế nào để tạo nên lợi thế trong kinh doanh. Bước đầu, họ có thể giúp các nhà quản lý tìm ra loại hình kinh doanh phù hợp.
Làm thế nào để thực hiện các chính sách và chiến lược kinh doanh?
Tất cả các chính sách và chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp phải được đưa ra bàn luận và thống nhất với các cấp quản lý và các bộ phận khác.
Nhà quản lý phải hiểu thực hiện các chính sách và chiến lược ở đâu và như thế nào.
Mỗi ban ngành đều phải có một kế hoạch hành động cụ thể.
Các chính sách và chiến lược kinh doanh cần được xem xét và nghiên cứu lại một cách thường xuyên.
Các kế hoạch đề phòng bất ngờ cần được nghiên cứu để có thể ứng phó kịp thời với những thay đổi của môi trường kinh doanh.
Các nhà quản lý cấp cao của doanh nghiệp cần đánh giá quá trình hoạt động kinh doanh một cách thường xuyên.
Để việc kinh doanh phát triển thuận lợi, môi trường kinh doanh tốt là một trong những yếu tố tối quan trọng.
Phát triển các chính sách và chiến lược kinh doanh
Nhiệm vụ, mục tiêu, ưu điểm, nhược điểm của các phòng ban cần được nghiên cứu cụ thể để xác định rõ vai trò của từng bộ phận trong việc hoàn thành nhiệm vụ chung của doanh nghiệp.
Phương pháp dự báo phác thảo được một bức tranh xác thực về môi trượng kinh doanh trong tương lai.
Một bộ phận kế hoạch cần được thành lập để đảm bảo các kế hoạch đề ra là nhất quán và các chính sách, chiến lược kinh doanh đều nhắm tới chung một mục đích và nhiệm vụ của doanh nghiệp.
Các kế hoạch đề phòng bất trắc cần được nghiên cứu kỹ lưỡng.
Để cho các chính sách riêng của từng phòng ban có thể được thực hiện, tất cả các chính sách chung của doanh nghiệp cần được đưa ra nghiên cứu và bàn bạc trước các cấp quản lý và các bộ phận chức năng trong công ty.
Các chính sách và chiến lược trở nên phù hợp với kế hoạch kinh doanh ở điểm nào?
Các chính sách và chiến lược của doanh nghiệp đưa ra cho các quản lý cấp trung và cấp thấp các ý tưởng, kế hoạch hành động cho từng phòng ban.
Các chính sách và chiến lược này là một bộ khung cho các kế hoạch và các quyết định của doanh nghiệp.
Các quản lý trung cấp và hạ cấp có thể đưa ra những kế hoạch làm việc riêng cho các phòng ban dựa trên chiến lược chung của doanh nghiệp.
Các cấp quản lý và hệ thống thứ bậc
Việc quản lý trong các tổ chức, doanh nghiệp lớn thường được chia làm 3 bậc lớn:
Quản lý cao cấp
Yêu cầu một nguồn kiến thức rộng rãi về các vai trò và kỹ năng quản lý.
Có nhận thức tốt về các yếu tố ngoại cảnh có thể ảnh hưởng đến việc kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt là thị trường.
Các quyết định của các nhà quản lý cao cấp thường mang tính dài hạn.
Quyết định của các nhà quản lý cao cấp phải dựa trên các quá trình phân tích, chỉ đạo, các nghiên cứu liên quan tới nhận thức, hành vi, mức độ tham gia hoạt động kinh doanh của các nhân viên.
Có trách nhiệm với các quyết định mang tính chiến lược.
Có khả năng vạch ra các kế hoạch làm việc hiệu quả cho doanh nghiệp.
Về mặt bản chất, nhà quản lý cao cấp chính là người điều hành cả doanh nghiệp.
Quản lý trung cấp
Nhà quản lý trung cấp cần có một nguồn kiến thức chuyên ngành về một số nhiệm vụ quản lý.
Có trách nhiệm về việc thực hiện các quyết định của quản lý cấp cao.
Quản lý hạ cấp
Cấp quản lý này có nhiệm vụ đảm bảo các kế hoạch và quyết định cúa hai cấp quản lý cao hơn được thực hiện.
Các quyết định của quản lý cấp này chỉ mang tính thời vụ (ngắn kỳ).
Vai trò của nhà quản lý
Vai trò giao tiếp, quan hệ
Đối với bên ngoài là đại diện cho tập thể mà người đó quản lý.
Đối với bên trong là lãnh đạo, liên kết mọi người để hoàn thành mục tiêu chung
Vai trò thông tin
Thu thập thông tin từ cấp dưới
Phổ biến thông tin từ cấp trên
Cung cấp thông tin cho bên ngoài
Vai trò quyết định
Đây là vai trò quan trọng nhất của người quản lý. Nhà quản lý là người có quyền quyết định và chịu trách nhiệm về những quyết định của mình.
Kỹ năng của nhà quản lý
Nhà quản lý nói chung cần phải có các kỹ năng sau:
Kỹ năng kỹ thuật, chuyên môn: khả năng thực hiện một công việc cụ thể
Kỹ năng tư duy, nhận thức: khả năng nắm bắt, nhận thức thông tin, cơ hội, nguy cơ
Kỹ năng nhân sự: khả năng giao tiếp, lãnh đạo, động viên...
Tùy vào nhà quản lý đang ở vị trí nào mà yêu cầu đối với các kỹ năng đó có thể khác nhau.
Phẩm chất cần có của nhà quản lý
Có khả năng giao tiếp tốt với mọi người.
Có khả năng ra quyết định một cách nhanh chóng.
Có tính logic, phân tích và lập luận một cách chặt chẽ.
Có khả năng động viên và lãnh đạo mọi người.
Có thể làm việc hiệu quả, nhanh chóng và không rời khỏi khi công việc chưa hoàn thành.
Có khả năng thuyết phục mọi người làm việc.
Có khả năng ra những mệnh lệnh.
Có một khả năng về chuyên môn nhất định.
Các lĩnh vực quản lý
Quản lý hành chính
Quản lý hiệp hội
Quản lý thay đổi
Quản lý thông tin
Quản lý yếu tố ràng buộc
Quản lý chi phí
Quản lý khủng hoảng
Quản lý quan hệ khách hàng
Quản lý thu nhập
Quản lý xí nghiệp
Quản lý trang thiết bị
Quản lý tương tác với con người
Quản lý quá trình tích hợp
Quản lý tri thức
Quản lý bất động sản
Quản lý hậu cần
Quản lý tiếp thị
Quản lý kinh doanh
Quản lý hoạt động
Quản lý nhân sự
Quản lý chương trình
Quản lý dự án
Quản lý quy trình
Quản lý sản phẩm
Quản lý chất lượng
Quản lý tài nguyên
Quản lý rủi ro
Quản lý kĩ năng
Quản lý chi tiêu
Quản lý stress
Quản lý đầu vào
Quản lý hệ thống
Quản lý nhân tài
Quản lý nghệ sĩ
Quản lý thời gian
Quản lý thể thao
Quản lý giáo dục
Xem thêm
Quản trị học
Quản trị công ty
Môi trường doanh nghiệp
Năm tác động của Porter
Nhà quản lý
Chủ tịch (Chức danh công ty)
Tổng giám đốc điều hành
Giám đốc sản xuất
Nhà quản lý nghệ sĩ
Người đại diện tài năng
Người đại diện văn chương
Nhà quản lý thể thao
Tham khảo
Quản lý
Kinh doanh
Chức vụ quản trị
Hành chính
Lãnh đạo
Lý thuyết tổ chức
|
26299
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%B4ng%20Neva
|
Sông Neva
|
Sông Neva, hay sông Nêva, (tiếng Nga: Невa, ) là một con sông dài 74 km ở nước Nga, chảy từ hồ Ladoga qua eo đất Karelia và thành phố Sankt-Peterburg vào vịnh Phần Lan. Độ rộng trung bình của nó là 400-600 mét, chỗ rộng nhất tới 1.200 mét. Độ sâu trung bình là 8-11 mét, chỗ sâu nhất là 24 mét (chân cầu Liteinui). Đoạn chảy qua Sankt-Peterburg dài 28 km. Nếu tính theo đường chim bay thì khoảng cách từ thượng nguồn đến hạ lưu sông này dài 45 km.
Tại cửa sông, một lớp hàng rào cản lũ hiện đang được xây dựng để ngăn không cho thành phố Sankt-Peterburg bị ngập do sự dâng lên của nước biển khi có bão. Mặc dù có chiều dài rất ngắn, nhưng sông Neva lại là một trong số các con sông có ý nghĩa lớn trong lịch sử của châu Âu. Ngoài ra cung điện Ekaterina(cung điện mùa đông) nằm ngay cạnh sông Neva xinh đẹp này
Tên gọi
Hiện tồn tại vài phiên bản về nguồn gốc tên gọi: Nó có thể có nguồn gốc từ tiếng Phần Lan cổ để chỉ hồ Ladoga ("nevo" có nghĩa là biển), hay từ cụm từ "neva" (cũng trong ngôn ngữ này, có nghĩa là đầm lầy), hoặc từ tiếng Thụy Điển "nu" có nghĩa là (sông) mới.
Lịch sử
Trong thời Trung cổ, con sông rộng và đi lại dễ dàng này là hành trình thương mại quan trong của người Varjag tới những người Hy Lạp, do nó nối liền việc vận chuyển hàng hóa từ biển Baltic sang sông Volga để dẫn tới phương Đông. Nó cũng là địa điểm diễn ra trận chiến trên sông Neva nổi tiếng năm 1240. Nó cũng là một phần của tuyến giao thông thủy Bạch Hải-Baltic.
Trong thế kỷ 16, cửa sông Neva là địa điểm xây dựng pháo đài Nyen của người Thụy Điển, và trên bờ lạch nhỏ dẫn tới hồ Ladoga là pháo đài Oreshek của người Nga, sau này được đổi tên thành Shlisselburg. Pháo đài đầu tiên sau này được thay thế bằng pháo đài Petropavlovskaija năm 1703. Nằm trên đảo Zayachii (đảo Thỏ), pháo đài này được coi là công trình xây dựng đầu tiên của Sankt-Peterburg ngày nay.
Neva cũng được đặt tên cho tàu chiến nhẹ ba cột buồm đầu tiên của Nga dài 61 mét (200 ft), để đi vòng quanh Trái Đất vào năm 1804 dưới sự chỉ huy của thiếu tá hải quân Urey Fedorovich Lisianski. Nhà thơ nữ Nga Anna Akhmatova đã đưa hình ảnh của sông Neva vào trong nhiều bài thơ của bà.
Rasputin, người có ảnh hưởng lớn đến gia đình hoàng tộc Romanov, đã bị giết chết thả trôi sông Neva vào năm 1916.
Trong chiến tranh vệ quốc vĩ đại, trận chiến bảo vệ thành phố Leningrad được diễn ra ác liệt từ 8/9/1941 đến 27/1/1944(882 ngày đêm), trong đó việc bị phong tỏa thành phố với đất mẹ do Hồng quân không thể giải quyết được khu vực Shlisselburg cạnh hồ Ladoga và sông Neva nơi được gọi là 'Con heo Neva'
Các đảo
Thành phố Sankt-Peterburg nằm trên 42 hòn đảo thuộc phần châu thổ hạ lưu sông Neva. Các đảo lớn nhất có:
Đảo Vasiljevskii
Đảo Petrogradskii
Đảo Krestovskii
Đảo Decabristov (Đảo những người (tham gia khởi nghĩa) tháng Chạp).
Ngoài ra còn có các đảo Elagin và Kamennui (đảo Đá).
Các cầu trên sông
Aleksandr Nevskii
Obukhovskii (Vantovui)
Volodarskii
Dvortsovui
Trung úy Smidt
Liteinui
Piotr Velikii (tên cũ: Bolsheokhotinskii)
Troitskii (tên cũ: Kirovskii)
Phần Lan (Finljandskii (đường sắt)
Giao thông thủy
Sông Neva là phần nằm xa nhất về phía tây bắc của tuyến đường thủy Volga-Baltic, nó nối liền sông Volga, hồ Onega, hồ Ladoga và biển Baltic. Tuyến đường thủy này có thể cho các tàu sông lớn nhất qua lại dễ dàng, và nó là một phần quan trọng trong giao thông thủy giữa Sankt-Peterburg và Moskva. Nhiều tàu khách và tàu vận tải hàng hóa cỡ lớn chạy trên tuyến đường thủy này.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Weblog với hình ảnh của sông Neva
Sankt-Peterburg
Neva
Sông Sankt-Peterburg
Sông tỉnh Leningrad
|
26302
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Fyodor%20Mikhaylovich%20Dostoyevsky
|
Fyodor Mikhaylovich Dostoyevsky
|
Fyodor Mikhailovich Dostoyevsky (tiếng Nga: Фёдор Миха́йлович Достое́вский ; 11 tháng 11 (lịch cũ: 30 tháng 10) năm 1821 – 9 tháng 2 (lịch cũ: 28 tháng 1) năm 1881), hay còn được gọi là Dostoevsky, là một nhà văn nổi tiếng người Nga. Cùng với Lev Tolstoy, Dostoevsky được xem là một trong hai nhà văn Nga vĩ đại thế kỷ 19. Các tác phẩm của ông, như Anh em nhà Karamazov hay Tội ác và hình phạt đã khai thác tâm lý con người trong bối cảnh chính trị, xã hội và tinh thần của xã hội Nga thế kỷ 19. Ông được giới phê bình đánh giá rất cao, phần lớn xem ông là người sáng lập hay là người báo trước cho chủ nghĩa hiện sinh thế kỷ 20, chẳng hạn, Walter Kaufman xem Ghi chép dưới hầm là "tác phẩm về chủ nghĩa hiện sinh tuyệt vời nhất từng được viết".
Tuy nhiên ở Liên Xô, sau Cách mạng tháng Mười, người ta hầu như phủ nhận toàn bộ các sáng tác của Dostoevsky. Từ 1972, tác phẩm của Dostoevsky mới được nhìn nhận lại và đánh giá đúng mức ở quê hương của mình.
Tiểu sử
Những năm đầu đời
Dostoevsky sinh năm 1821 ở Moskva, là con trai thứ hai trong gia đình có 7 anh em. Cha ông là Mikhail, vốn dòng dõi quý tộc nhưng đã sa sút, một bác sĩ quân y sau khi nghỉ hưu làm việc tại bệnh viện Maryinski chuyên chữa trị các người nghèo. Mẹ ông là Mariya Fyodorovna, con một thương gia. Bệnh viện Maryinski, nơi Dostoevsky sống hồi nhỏ, nằm ở chỗ tồi tệ nhất của thành phố, một khu vực bao gồm một nghĩa trang cho tội nhân, một trại thương điên và một cô nhi viện cho trẻ sơ sinh. Khung cảnh khu phố này đã để lại một ấn tượng lâu dài lên thời trẻ Dostoevsky, sớm quan tâm tới những người nghèo, bị áp bức và thống khổ. Dù bị bố mẹ cấm, Dostoevsky vẫn thích lẻn ra vườn của bệnh viện, nơi những bệnh nhân đau khổ ngồi sưởi nắng. Cậu bé Dostoevsky thích dành thời gian ngồi bên các bệnh nhân và lắng nghe các câu chuyện của họ.
Có nhiều câu chuyện về cách cha Dostoevsky đối xử với những đứa con của mình, nhưng khó kiểm chứng về tính xác thực của chúng vì có lẽ chúng dựa trên tác phẩm Anh em nhà Karamazov hơn là đời thực của tác giả. Tuy vậy, những thư từ và tường thuật cho thấy giữa Dostoevsky và bố có một mối quan hệ khá tốt đẹp.
Năm 1837, mẹ của Dostoevsky mất vì bệnh lao. Ông Mikhail quyết định gửi các con trai của mình tới Học viện Kỹ thuật Quân sự ở kinh đô Sankt-Peterburg. Năm 1839, Fyodor Dostoevsky hay tin bố mình qua đời. Mặc dù chưa bao giờ được kiểm chứng, một số người tin rằng Mikhail Dostoevsky chết bởi chính những người nông nô của ông. Theo một câu chuyện, trong một cơn say rượu, ông đã làm họ phẫn nộ và họ đã giữ ông ta, đổ vodka vào miệng ông tới khi chết. Những tình tiết tương tự được Dostoevsky miêu tả trong Ghi chép dưới hầm. Một số khác lại tin rằng ông đã chết vì những nguyên nhân tự nhiên, còn câu chuyện sát nhân là do một người chủ trại láng giềng bịa đặt để có thể mua các tài sản với giá rẻ. Vài người lập luận rằng những tính cách của người cha đã ảnh hưởng lớn tới nhân vật Fyodor Pavlovich Karamazov trong Anh em nhà Karamazov, nhưng những ý kiến này chịu nhiều chỉ trích. Dù sao đi nữa sự kiện này đã ảnh hưởng lớn tới tâm hồn ông, đó là một cách giải thích cho chủ đề tội ác luôn xuất hiện trong các tác phẩm của Dostoevsky.
Những sáng tác đầu tiên
Dostoevsky mắc chứng động kinh. Cơn động kinh đầu tiên xảy ra năm ông lên chín và thỉnh thoảng lại xuất hiện trong suốt cuộc đời ông. Trải nghiệm bản thân đã trở thành cơ sơ cho việc mô tả cơn động kinh của các nhân vật như Hoàng thân Myshkin trong Chàng ngốc hay Smerdyakov trong Anh em nhà Karamazov.
Ở Học viện Kỹ thuật Quân sự Sankt-Peterburg, ông phải học toán học, một môn ông xem thường. Tuy vậy, ông cũng học văn học từ Shakespeare, Pascal, Hugo, Balzac, và E.T.A Hoffmann. Tập trung vào các lĩnh vực khác, Dostoevsky vẫn làm tốt các bài kiểm tra toán và nhận được học bổng năm 1841. Năm đó, ông được cho là đã viết hai vở kịch chịu ảnh hưởng của nhà thơ/ nhà viết kịch lãng mạn Đức Friedrich Schiller là Mary Stuart và Boris Godunov. Các vở kịch này chưa sưu tầm được. Dostoevsky tự miêu tả mình thời kỳ này như một người mơ mộng và tôn sùng Schiller. Nhưng sau này, ở thời kỳ đỉnh cao tài năng, ý kiến của ông đã thay đổi và thỉnh thoảng ông chế giễu Schiller.
Sau khi tốt nghiệp, Dostoevsky được điều về một đơn vị công binh, nhưng sau đó một năm ông xin giải ngũ.Khoảng thời gian này, Dostoevsky hoàn thành việc dịch cuốn Eugénie Grandet của Balzac nhưng không được chú ý lắm.
Khoảng cuối năm 1844, Dostoevsky bắt tay vào viết tiểu thuyết. Tác phẩm đầu tiên ra đời một năm sau đó, Những kẻ bần hàn (Бедные люди). Khi mới in dưới dạng các phần trên tập san Sovremennik, cuốn sách đã rất được hoan nghênh. Theo chuyện kể, biên tập viên của tờ bào, nhà thơ Nikolai Nekrasov đi vào văn phòng của nhà phê bình Vissarion Belinsky và nói: "Một Gogol mới hiện". Cuốn tiểu thuyết được xuất bản thành sách những năm sau đó đã khiến Dostoevsky sớm nổi tiếng ở tuổi 24.
Tuy nhiên, cuốn truyện vừa Con người kép (Двойник) và những tác phẩm ông viết mấy năm sau đó (Tiểu thuyết chín chữ, Ông Prokharchin, Bà chủ,...) không được đánh giá cao. Nhiều người đã cảm thấy tiên đoán của Belinsky, rằng F. Dostoevsky sẽ thành một trong những nhà văn Nga vĩ đại nhất có vẻ đã lầm lẫn.
Tù đày ở Siberia
Năm 1847, Dostoevsky tham gia vào nhóm Petrashevsky, một diễn đàn do Mikhail Vasilevich Petrashevsky, một người chịu ảnh hường của Fourier khởi xướng. Như phần lớn các diễn đàn của giời trí thức ở kinh đô Peterburg bấy giờ, đó là một tập hợp phức tạp của trí thức, sinh viên, viên chức,... chủ yếu thảo luận văn học và nhất là triết học phương Tây, cũng như một loạt câc vấn đề xã hội khác. Tuy không có quan điểm chính trị rõ rệt, phần lớn hội viên bất mãn với chế độ quân chủ Nga. Bất an về cuộc cách mạng 1848 ở châu Âu, hoàng đế Nikolai I đã quyết định đàn áp các diễn đàn như vậy. Ngày 23 tháng 4 năm 1849, Dostoevsky bị bắt.
Sau 9 tháng nằm tù trong hầm pháo đài Petropavlovskaya, ngày 16 tháng Mười một, Dostoevsky cùng 15 người khác bị đưa ra tòa và kết án tử hình. Ngày hành hình, họ đứng trong thời tiết lạnh giá để chờ đợi một loạt súng mà vào phút chót bị bãi bỏ bởi một lệnh ân xá của hoàng đế. Thay vào đó, họ bị kết án 4 năm lao động khổ sai tại Omsk, thuộc tây nam miền Siberia. Sau này Dostoevsky có mô tả cho người em của mình rằng những năm tháng khắc nghiệt đó với ông như "bị đóng trong quan tài".
Về trại lính đổ nát mà "đáng lẽ phải sụp xuống từ một năm trước", ông kể lại:
Ông ra khỏi nhà tù năm 1854, nhưng phải phục vụ trong Trung đoàn Siberia. Ông đã trải qua 5 năm kế tiếp như là một binh nhì (sau thành trung úy) ở Tiểu đoàn 7, đóng tại lâu đài của vùng Semipalatinsk (nay thuộc Kazakhstan). Thời gian ở đây, ông bắt đầu mối quan hệ với Maria Dmitrievna Isayeva, vợ một người bạn. Họ kết hôn vào tháng 2 năm 1857, khi người chồng qua đời.
Những trải nghiệm thời gian ở tù và quân ngũ đã làm thay đổi lớn niềm tin tôn giáo và chính trị của ông. Trước hết, ông đã tỉnh ngộ về những tư tưởng "phương Tây", quyết định từ bỏ trào lưu triết học Tây Âu đương thời, thay vào đó công hiến những sáng tác của mình cho các "giá trị Nga" truyền thống, trọng nông như khái niệm Sobornost của Chủ nghĩa thân Slav (Slavophilia). Nhưng còn mạnh mẽ hơn thế là sự tăng cường đức tin Cơ đốc giáo, nhất là Chính thống giáo (sau này ông mô tả sự chuyển biến đó trong truyện ngắn Bác nông dân Marey). Từ đây Dostoevsky đứng trên thái độ phê phán hơn với triết học châu Âu đường thời, đồng thời có thái độ khắc nghiệt với các trào lưu hư vô và xã hội chủ nghĩa. Về mặt xã hội, ông quay ra chỉ trích những người cách mạng, nghi ngờ những cải cách xã hội và ngả sang những quan điểm bảo thủ.
Những năm chính trong sự nghiệp
Tháng 12 năm 1860, Fyodor Dostoevsky trở về kinh đô Sankt Peterburg, bắt tay vào xuất bản một loạt các tạp chí văn học như Время (Thời đại) và Эпоха (Kỷ nguyên) với người anh trai Mikhail nhưng không thành công. Số cuối cùng bị hủy bởi bài tường thuật của nó về Cuộc nổi dậy tháng Giêng ở Ba Lan năm 1863. Năm đó ông đi du lịch châu Âu và thường xuyên chơi bạc trong các sòng bạc. Ông đã gặp Apollinaria Suslova, một người đàn bà đẹp mà ông đã lấy làm hình mẫu cho hai nhân vật tên Katerina Ivanovna trong Anh em nhà Karamazov và Tội ác và hình phạt. Dostoevsky chìm sâu vào trầm uất và bài bạc. Ông thua rất nhiều, có câu chuyện kể rằng ông đã hoàn tất Tội ác và hình phạt với một sự gấp gáp điên cuồng vì mong mỏi khoản tiền trả trước của nhà xuất bản. Cuối cùng, ông thật sự rỗng túi. Trong tuyệt vọng, ông đã viết Con bạc (Игрок) để đáp ứng mong muốn của nhà xuất bản Stellovsky, khi họ tuyên bố sẽ tranh chấp quyền tác giả tất cả các sáng tác của Dostoevsky nếu ông không viết tiếp cho họ.
Dostoevsky trở về nước Nga sau cái chết của vợ (1864) và anh trai Mikhail (1865). Thời gian này, vì tiếp tục vướng vào cờ bạc, ông mắc nợ rất nhiều và phải sáng tác để trả nợ, nhưng không vì thế mà ông dễ dãi với những sáng tác của mình.
Năm 1864 xuất hiện cuốn Ghi chép dưới hầm (Записки из подполья). Năm 1865, Dostoevsky bắt đầu viết Tội ác và hình phạt (Преступление и наказание), một trong những tác phẩm quan trọng nhất của ông. Tội ác và hình phạt được đăng từng kỳ trên tờ báo Người đưa tin Nga.
Vì nhu cầu viết nhanh hơn, theo lời khuyên của một người bạn, ông quyết định tuyển một thư ký. Đó là Anna Grigorievna Snitkina, một cô gái rất trẻ, mới 20 tuổi. Năm 1867, Dostoevsky kết hôn với Anna và cùng nhau đi du lịch châu Âu. Thời gian này ông sáng tác cuốn Chàng ngốc (Идиот).
Năm 1868, Anna sinh hạ đứa con gái Sonya nhưng bé gái này bị chết yểu sau vài tháng. Về sau, Dostoevsky có thêm ba con: con gái Lyubov sinh năm 1869, con trai Fyodor sinh năm 1870 và con trai Alyosha sinh năm 1875.
Fyodor Dostoevsky trở lại Sankt-Peterburg vào năm 1871 và liên lạc với các nhóm bảo thủ. Trong hai năm 1871 và 1872, ông viết tác phẩm Lũ người quỷ ám (Бесы). Sức khỏe của ông luôn yếu kém sau những năm lao tù tại miền Siberia, chứng bệnh động kinh thêm nặng và thời gian này ông còn mắc bệnh lao phổi, rồi căn bệnh trở thành ung thư phổi.
Năm 1880, ông xuất bản cuốn Anh em nhà Karamazov (Братья Карамазовы). Đó là cuốn tiểu thuyết cuối cùng và được xem là lớn của ông. Với tác phẩm này, Dostoevsky được toàn thế giới công nhận là một trong những đại văn hào nước Nga.
Dostoevsky mất năm 1881 tại Sankt-Peterburg.
Câu nói nổi tiếng
Cái đẹp cứu rỗi thế giới. Còn được dịch là Cái đẹp giải thoát thế giới.
Chỉ có một điều mà tôi lo sợ: “là không xứng đáng với những đau khổ của mình”.
Tác phẩm nổi tiếng
Những kẻ bần hàn (Бедные люди; tiếng Anh: Poor Folk; tiếng Pháp: Les Pauvres Gens – 1846)
Con người kép (Двойник; The Double; Le Double – 1846)
Đêm trắng (Белые ночи, bản dịch khác: Những đêm trắng; White Nights; Les Nuits blanches – 1848)
Ghi chép từ Ngôi nhà chết (Записки из Мертвого дома; The House of the Dead; Souvenirs de la maison des morts – 1862)
Những kẻ tủi nhục (Униженные и оскорблённые, tạm dịch: Những kẻ bị lăng mạ và tật nguyền; The Insulted and Humiliated; Humiliés et offensés – 1861)
Con bạc (Игрок; The Gambler; Le Joueur – 1867)
Ghi chép dưới hầm (Записки из подполья; Notes from Underground; Les Carnets du sous-sol – 1864)
Tội ác và hình phạt (Преступление и наказание; Crime and Punishment; Crime et Châtiment – 1866)
Chàng ngốc (Идиот; The Idiot; L'Idiot – 1868)
Lũ người quỷ ám (Бесы; The Possessed; Les Possédés – 1872)
Anh em nhà Karamazov (Братья Карамазовы; The Brothers Karamazov; Les Frères Karamazov – 1880)
Ghi chú
Tham khảo
Liên kết ngoài
Fyodor Mikhailovich Dostoevsky, trang Vietscience
Tác phẩm của Dostoyevsky tại Dự án Gutenberg
Some works of Fyodor Dostoevsky in the original Russian
Bài cơ bản dài trung bình
Nhà triết học Nga
Nhà văn Nga
Nhà văn thế kỷ 19
Mất năm 1881
Nhà triết học Kitô giáo
Nhà phê bình chủ nghĩa vô thần
Người mắc bệnh động kinh
Nhà văn từ Moskva
Chôn cất tại nghĩa trang Tikhvin
Tín hữu Chính Thống giáo tại Nga
|
26303
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%B1%20do%20ng%C3%B4n%20lu%E1%BA%ADn
|
Tự do ngôn luận
|
Tự do ngôn luận (freedom of speech) là nguyên tắc đảm bảo cho một cá nhân hay một cộng đồng quyền tự do nói ra rõ ràng quan điểm và ý kiến của mình mà không sợ bị trả thù, kiểm duyệt, hay trừng phạt pháp lý. Quyền "tự do biểu đạt" (freedom of expression) đã được công nhận là quyền con người trong Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền (UDHR) và luật nhân quyền quốc tế của Liên hợp quốc. Nhiều quốc gia đã ghi nhận quyền tự do ngôn luận trong hiến pháp. Các thuật ngữ tự do ngôn luận và tự do biểu đạt thường được sử dụng thay thế lẫn nhau trong các diễn ngôn chính trị. Tuy nhiên, trong ngôn từ pháp lý, tự do biểu đạt bao hàm tất cả hoạt động tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt bất kỳ thông tin hoặc ý kiến nào thông qua mọi phương tiện truyền thông.
Điều 19 của UDHR quy định rằng "ai cũng có quyền giữ quan điểm mà không bị can thiệp" và "ai cũng có quyền tự do biểu đạt; quyền này bao gồm quyền tự do tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến thông tin và ý kiến tất cả các loại, không kể biên giới quốc gia, bất kể bằng lời nói, bằng văn bản hay in ấn, dưới hình thức nghệ thuật, hoặc thông qua bất kỳ phương tiện truyền thông nào khác tùy theo sự lựa chọn của họ". Điều 19 trong ICCPR sau đó bổ sung điều này với việc chỉ ra rằng việc thực hiện quyền tự do ngôn luận cũng phải mang theo "nhiệm vụ và trách nhiệm đặc biệt" và "theo đó phải tuân theo các hạn chế nhất định" khi cần thiết "để tôn trọng quyền hoặc danh dự của những người khác" hoặc "để bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, hoặc sức khỏe hay đạo đức cộng đồng".
Do đó, quyền tự do ngôn luận và biểu đạt không được nhìn nhận như là "quyền tuyệt đối" mà phải tuân theo những giới hạn được quy định trong pháp luật. Những hạn chế chung về tự do ngôn luận liên quan đến hành động phỉ báng, tôn giáo, vu khống, tục tĩu, khiêu dâm, tuyên truyền chính trị, kích động, ngôn từ gây hấn, thông tin bí mật, vi phạm bản quyền, bí mật thương mại, nhãn dán thực phẩm, thỏa thuận bảo mật thông tin, quyền riêng tư, quyền được lãng quên, an ninh công cộng, và khai man.
Những hạn chế này được biện minh bằng "nguyên tắc gây hại" (harm principle), được đề xuất bởi John Stuart Mill trong tác phẩm Bàn về tự do (On Liberty), trong đó có nêu: "mục đích duy nhất mà quyền lực có thể được thực thi một cách chính đáng đối với bất kỳ thành viên nào của một cộng đồng văn minh, ngược lại ý chí của anh ta, là nhằm ngăn chặn sự tổn hại cho người khác." Nếu không có những giới hạn này, thì như tổng thống Cộng hòa Séc Vaclav Havel bình luận: "Tự do ngôn luận luôn tràn đầy nguy hiểm, vì cùng với tự do nói điều Thiện cũng sẽ có tự do nói điều Ác"
Ý tưởng về "nguyên tắc xúc phạm" (offense principle) cũng được sử dụng để biện minh cho các hạn chế với ngôn luận, theo đó các hình thức biểu đạt được coi là gây ảnh hưởng xấu đến xã hội có thể bị hạn chế, tùy theo các yếu tố như mức độ, thời lượng, động cơ của người nói và mức độ dễ dàng trong việc tránh khỏi các ngôn luận đó. Cùng với sự phát triển của thời đại kỹ thuật số, việc đưa tự do ngôn luận vào thực tế càng gây nhiều tranh cãi hơn khi ngày càng có nhiều phương tiện để giao tiếp cũng như hạn chế ngôn luận. Đơn cử như Dự án Chiếc Khiên Vàng (Golden Shield Project), dự án của Bộ Công an Trung Quốc nhằm lọc dữ liệu có nguy cơ gây bất lợi từ nước ngoài.
Nguồn gốc
Tự do ngôn luận và biểu đạt có một lịch sử lâu đời trước cả các văn kiện nhân quyền quốc tế của ngày nay. Người ta cho rằng nguyên tắc dân chủ của người Athen (Athenian democratic principle) cổ đại về tự do ngôn luận có thể đã xuất hiện vào cuối thế kỷ thứ 6 hoặc đầu thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên. Các giá trị của nền Cộng hòa La Mã đã bao gồm quyền tương tự đối với tự do ngôn luận và tự do tôn giáo.
Các khái niệm về tự do ngôn luận cũng có thể được tìm thấy trong các tài liệu nhân quyền từ sớm. Tuyên ngôn về các quyền của con người và công dân (Declaration of the Rights of Man and of the Citizen), được thông qua trong Cuộc cách mạng Pháp năm 1789, đặc biệt khẳng định quyền tự do ngôn luận như một quyền không thể thay đổi. Tuyên ngôn quy định quyền tự do ngôn luận trong Điều 11, trong đó nêu rõ rằng:
Quyền tự do trao đổi ý kiến và quan điểm là một trong những điều quý giá nhất về quyền của con người. Mọi công dân có thể, theo đó, có quyền tự do phát biểu, viết và in ấn, nhưng sẽ chịu trách nhiệm về việc lạm dụng quyền tự do này theo luật định.
Điều 19 của Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, thông qua năm 1948, tuyên bố:
Ai cũng có quyền tự do quan niệm và tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền không bị ai can thiệp vì những quan niệm của mình, và quyền tìm kiếm, tiếp nhận cùng phổ biến tin tức và ý kiến bằng mọi phương tiện truyền thông không kể biên giới quốc gia.
Ngày nay, tự do ngôn luận, hoặc tự do biểu đạt, được công nhận trong luật nhân quyền của quốc tế và từng khu vực. Quyền này được quy định tại Điều 19 của Công ước quốc tế về Quyền Dân sự và Chính trị, Điều 10 của Công ước châu Âu về Nhân quyền, Điều 13 của Công ước châu Mỹ về Nhân quyền và Điều 9 của Hiến chương châu Phi về Quyền Con người và Quyền các Dân tộc. Dựa trên lập luận của John Milton tự do ngôn luận được hiểu là một quyền đa diện bao gồm không chỉ quyền biểu đạt, hoặc phổ biến, thông tin và ý kiến, mà còn là ba khía cạnh riêng biệt:
quyền tìm kiếm thông tin và ý kiến;
quyền tiếp nhận thông tin và ý kiến;
quyền truyền đạt thông tin và ý kiến
Các tiêu chuẩn quốc tế, khu vực và quốc gia cũng công nhận rằng tự do ngôn luận, cũng như tự do biểu đạt, bao gồm bất kỳ phương tiện biểu đạt nào, có thể bằng lời nói, bằng văn bản, in ấn, thông qua Internet hoặc thông qua các hình thức nghệ thuật. Điều này có nghĩa là việc bảo vệ quyền tự do ngôn luận như một quyền chính đáng không chỉ bao gồm nội dung, mà còn cả phương tiện biểu đạt.
Quan hệ với các quyền khác
Quyền tự do ngôn luận và biểu đạt có liên quan chặt chẽ với các quyền khác. Nó có thể bị hạn chế khi xung đột với các quyền khác (xem Hạn chế với quyền tự do ngôn luận). Quyền tự do biểu đạt cũng liên quan đến quyền được xét xử công bằng và quá trình tố tụng ở tòa án, quá trình này có thể hạn chế tiếp cận với việc tìm kiếm thông tin, hoặc việc xác định cơ hội và phương tiện mà ở đó quyền tự do biểu đạt có thể phát huy tác dụng trong phạm vi tố tụng. Theo nguyên tắc chung, quyền tự do biểu đạt không được xâm phạm quyền riêng tư, cũng như danh dự và uy tín của người khác. Tuy nhiên, sự chỉ trích các gương mặt của công chúng được nới rộng hơn.
Quyền tự do biểu đạt có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với truyền thông báo chí vì truyền thông giữ vai trò đặc biệt trong việc mang quyền tự do biểu đạt chung đến cho tất cả mọi người. Tuy nhiên, tự do báo chí không nhất thiết hỗ trợ cho tự do ngôn luận. Judith Lichtenberg đã chỉ ra các tình huống trong đó tự do báo chí có thể hạn chế quyền tự do ngôn luận. Đơn cử như khi tất cả những người kiểm soát các phương tiện báo chí cùng ngăn chặn thông tin hoặc đàn áp các ý kiến đa chiều vốn là một phần của tự do ngôn luận. Sự hạn chế này có thể được tóm lược trong câu nói nổi tiếng: "Tự do báo chí được đảm bảo chỉ cho những người sở hữu một [tờ báo .ND] (Freedom of the press is guaranteed only to those who own one)". Lichtenberg lập luận rằng tự do báo chí chỉ đơn giản là một dạng quyền sở hữu được tóm gọn trong nguyên tắc "Không tiền, không tiếng nói (No money, no voice)".
Một quyền thụ động
Quyền tự do ngôn luận thường được nhìn nhận như một quyền thụ động (negative right). Điều này có nghĩa rằng chính phủ về mặt pháp lý bắt buộc không được đưa ra hành động chống lại một người nói nào đó mà chỉ căn cứ trên quan điểm của người nói đó, nhưng không ai bị bắt buộc phải giúp đỡ bất cứ người nói nào công bố quan điểm của họ, và không ai bị yêu cầu phải nghe, đồng ý hay ghi nhận người nói hay quan điểm của người nói.
Dân chủ và tương tác xã hội
Bản thân tự do ngôn luận được xem là nguyên tắc cơ bản cho một nền dân chủ. Các quy phạm về việc hạn chế quyền tự do ngôn luận có nghĩa là một cuộc tranh luận công khai không thể bị triệt tiêu hoàn toàn ngay cả trong trường hợp khẩn cấp. Một trong những người ủng hộ nổi trội nhất về mối liên hệ giữa tự do ngôn luận và dân chủ chính là Alexander Meiklejohn. Ông lập luận rằng khái niệm về dân chủ là khái niệm tự quản của nhân dân. Để một hệ thống như vậy có thể hoạt động được, một cử tri cần phải được cung cấp đầy đủ thông tin. Để có thể được trang bị các kiến thức đầy đủ, luồng thông tin và ý kiến không được ràng buộc bởi bất cứ điều gì. Theo Meiklejohn, nền dân chủ sẽ không đúng với lý tưởng chủ đạo của nó nếu những người cầm quyền có thể thao túng cử tri bằng cách kìm hãm thông tin và đàn áp các ý kiến chỉ trích. Meiklejohn thừa nhận rằng mong muốn thao túng ý kiến có thể xuất phát từ động cơ hướng đến các lợi ích cho xã hội. Tuy nhiên, ông lập luận rằng bằng cách lựa chọn phương thức thao túng, tự bản thân nó đã trái lại với lý tưởng dân chủ.
Eric Barendt cho rằng biện luận về quyền tự do ngôn luận dựa trên nền tảng dân chủ này "có lẽ là lý thuyết về tự do ngôn luận hấp dẫn nhất và hiển nhiên là hợp thời nhất trong các nền dân chủ Tây phương cận đại". Thomas I. Emerson đã củng cố thêm cho biện luận này khi ông lập luận rằng tự do ngôn luận giúp mang đến cân bằng giữa sự ổn định và sự thay đổi xã hội. Tự do ngôn luận có tác dụng như một cái "van an toàn" để xả hơi hạ nhiệt khi mọi người bắt đầu có xu hướng chuyển biến thành một cuộc cách mạng. Ông lập luận rằng "Nguyên tắc thảo luận mở là một phương pháp hướng đến một cộng đồng với khả năng thích nghi tốt hơn và đồng thời ổn định hơn, giúp duy trì sự cân bằng mong manh giữa vấn đề chia rẽ tất yếu và sự đồng thuận thiết yếu." Emerson tiếp tục kiên định rằng "Các phe đối lập có vai trò như một chức năng quan trọng của xã hội để bù đắp hoặc cải thiện tình trạng suy đồi không tránh khỏi của chế độ quan liêu."
Nghiên cứu được thực hiện bởi dự án Chỉ số Quản trị Toàn cầu tại Ngân hàng Thế giới, cho thấy tự do ngôn luận, và quy trình trách nhiệm giải trình, có tác động đáng kể đến chất lượng quản trị của một quốc gia. "Tiếng nói và Trách nhiệm Giải trình" của một quốc gia, được định nghĩa là "mức độ công dân của một quốc gia có thể tham gia lựa chọn chính phủ của họ, cũng như tự do ngôn luận, tự do hội họp và tự do báo chí" là một trong sáu khía cạnh quản trị mà dự án Chỉ số Quản trị Toàn cầu dùng để đo lường cho hơn 200 quốc gia. Trong bối cảnh này, điều quan trọng là các cơ quan phát triển phải tạo cơ sở hỗ trợ hiệu quả cho báo chí tự do ở các nước đang phát triển.
Richard Moon đưa ra một lập luận rằng giá trị của tự do ngôn luận và tự do biểu đạt nằm ở các hoạt động tương tác xã hội. Moon viết rằng "bằng cách giao tiếp, một cá nhân sẽ xây dựng các mối quan hệ và liên kết với những người khác, như gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, hội thánh và những người đồng hương. Bằng cách tham gia thảo luận với những người khác, một cá nhân sẽ góp phần phát triển kiến thức cũng như hướng về cộng đồng."
Hạn chế với quyền tự do ngôn luận
Tự do ngôn luận không phải là quyền tuyệt đối. Hệ thống luật pháp của hầu hết các nước đều đặt ra giới hạn với quyền tự do ngôn luận, đặc biệt khi quyền tự do ngôn luận xung đột với các quyền và sự bảo vệ khác, chẳng hạn như trong các trường hợp phỉ báng, vu khống, khiêu dâm, tục tĩu, phát ngôn gây thù hằn và sở hữu trí tuệ. Tại Châu Âu, sự báng bổ tôn giáo không được tính là nằm trong khuôn khổ tự do ngôn luận. Những tổ chức công cộng nhất định cũng có thể ban hành các chính sách hạn chế với quyền tự do ngôn luận, ví như quy định về ngôn từ tại các trường công lập. Có thể hạn chế quyền tự do ngôn luận thông qua trừng phạt pháp lý, thông qua sự lên án xã hội hay cả hai.
Nội dung gây hại hoặc xúc phạm
Không thể phát ngôn một số quan điểm vì nó có thể gây hại cho người khác. Điều này thường bao gồm các phát ngôn vừa sai vừa nguy hiểm, chẳng hạn như hô to: "Cháy rồi!" (khi không cháy) trong rạp hát đông người và gây ra hoảng loạn. Người ta thường tham chiếu đến "nguyên tắc gây hại" và "nguyên tắc xúc phạm" để giải thích cho sự giới hạn với tự do ngôn luận.
Trong tác phẩm Bàn về Tự do, John Stuart Mill lập luận rằng "... phải tồn tại sự tự do đầy đủ nhất để bày tỏ và thảo luận, như một nguyên tắc đạo đức, bất kỳ luận thuyết (doctrine) nào, dẫu cho vô đạo đức, đều có thể được xem xét.". Mill cho rằng một sự tự do ngôn luận đầy đủ nhất là cần thiết để thúc đẩy các lập luận đến giới hạn của sự hợp lý của chúng, chứ không phải giới hạn của sự khó chịu xã hội (social embarrassment). Tuy nhiên, Mill cũng đưa ra "nguyên tắc gây hại", khi đặt ra hạn chế cho quyền tự do biểu đạt: "mục đích duy nhất mà quyền lực có thể được thực thi một cách chính đáng đối với bất kỳ thành viên nào của cộng đồng văn minh, ngược lại ý chí của anh ta, là nhằm ngăn chặn tổn hại cho người khác."
Năm 1985, Joel Feinberg đã đưa ra nguyên tắc có tên "nguyên tắc xúc phạm". Ông viết: "Có lý do tốt để ủng hộ một lệnh cấm về mặt hình sự được đề xuất (a proposed criminal prohibition) khi nó hầu như chắc chắn sẽ là cách thức hiệu quả để ngăn chặn sự xúc phạm-gây phản cảm nghiêm trọng (mà không gây ra chấn thương hay gây hại) đối với những người không phải là tác nhân, và khi nó hầu như chắc chắn là phương tiện cần thiết để đạt được mục tiêu đó. Do đó, Feinberg lập luận rằng nguyên tắc gây hại đã đặt ra tiêu chuẩn quá cao [cho sự gây hại .ND] và rằng một số dạng thức biểu đạt có thể bị cấm bằng luật chỉ vì chúng gây ra sự xúc phạm-phản cảm. Tuy nhiên, vì xúc phạm ai đó ít nghiêm trọng hơn việc gây tổn hại cho họ, nên các hình phạt áp dụng đối với hành vi gây tổn hại sẽ cao hơn. Trái lại, Mill không ủng hộ sự xử phạt mang tính pháp lý trừ khi nó đặt trên cơ sở nguyên tắc gây hại . Vì mức độ mà mọi người cảm thấy bị xúc phạm-phản cảm là khác nhau ở mỗi người, Feinberd đề xuất rằng một số yếu tố cần phải được tính đến khi áp dụng nguyên tắc xúc phạm. Các yếu tố này bao gồm: mức độ, thời lượng và giá trị xã hội của phát ngôn, mức độ dễ dàng tránh được, các động cơ của người nói, số lượng người bị xúc phạm, cường độ của sự xúc phạm và lợi ích chung của cộng đồng nói chung .
Jasper Doomen lập luận rằng sự tổn hại nên được xác định từ quan điểm của cá nhân công dân, không chỉ giới hạn trong sự tổn hại về mặt vật lý khi mà có những tổn hại là phi vật lý; ông chỉ trích sự phân biệt giữa sự gây hại (harm) và sự xúc phạm (offence) của Feinberg khi sự xúc phạm gây hại là khá hiển nhiên.
Năm 1999, Bernard Harcourt viết về sự sụp đổ của nguyên tắc gây hại: "Ngày nay, cuộc tranh luận này được đặc trưng bởi sự bất hòa khắc nghiệt của các lập luận về sự gây hại cạnh tranh với nhau mà không có cách thức nào để giải quyết. Không còn có một lập luận nào nằm trong cấu trúc của cuộc tranh luận này để giải quyết các tuyên bố cạnh tranh với nhau về sự gây hại. Nguyên tắc gây hại nguyên gốc chưa bao giờ được trang bị để xác định tầm quan trọng tương đối này của các sự gây hại."
Sự diễn giải cho cả nguyên tắc gây hại và nguyên tắc xúc phạm với giới hạn của tự do ngôn luận đều mang tính tương đối về mặt văn hóa và chính trị. Đơn cử, ở Nga, nguyên tắc gây gại và nguyên tắc xúc phạm đã được sử dụng để biện minh cho Luật chống tuyên truyền LGBT của Nga, nhằm hạn chế ngôn luận (và hành động) liên quan đến vấn đề LGBT. Nhiều quốc gia châu Âu vốn đề cao quyền tự do ngôn luận cũng cấm những ngôn luận có thể bị diễn giải là sự phủ nhận vấn đề diệt chủng người Do Thái (Holocaust). Các quốc gia này bao gồm: Áo, Bỉ, Cộng hòa Séc, Pháp, Đức, Hungary, Israel, Liechtenstein, Litva, Luxembourg, Hà Lan, Ba Lan, Bồ Đào Nha, Slovakia,Thụy Sĩ và Romania. Sự phủ nhận cuộc diệt chủng người Armenia cũng bị coi là bất hợp pháp ở một số quốc gia.
Ở một số quốc gia, báng bổ tôn giáo là phạm tội. Đơn cử, ở Áo, việc nói xấu Muhammad, nhà tiên tri của Hồi giáo, không được bảo vệ như là tự do ngôn luận. Trái lại, ở Pháp, luật tự do ngôn luận bảo vệ sự báng bổ và nói xấu Muhammad.
Một số tổ chức công lập cũng có thể ban hành các chính sách hạn chế quyền tự do ngôn luận, chẳng hạn như quy tắc ngôn luận tại các trường học do nhà nước điều hành ở Mỹ.
Ở Hoa Kỳ, nhận định mang tính bước ngoặt về phát ngôn chính trị là ở án lệ Brandenburg v. Ohio (1969), bác bỏ Whitney v. California.Trong Brandenburg, Tối cao pháp viện Hoa Kỳ đã đề cập đến quyền được nói công khai về hành động bạo lực và cách mạng theo nghĩa rộng:
Quan điểm trong Brandenburg đã loại bỏ thử nghiệm trước đây về "mối nguy hiểm rõ ràng và tức thời" (clear and present danger) và khiến cho quyền tự do bảo vệ phát ngôn (về chính trị) tại Hoa Kỳ thành gần như tuyệt đối. Phát ngôn thù hận (hate speech) cũng được bảo vệ bởi Tu chính án thứ nhất của Hoa Kỳ, như đã quyết định trong án lệ R.A.V. v. City of St. Paul, (1992), trong đó Tòa án Tối cao phán quyết rằng ngôn từ kích động thù hận được cho phép, ngoại trừ trong trường hợp bạo lực sắp xảy ra. Xem Tu chính án thứ nhất của Hiến pháp Hoa Kỳ để biết thêm thông tin chi tiết về quyết định này cũng như bối cảnh lịch sử của nó.
Internet và xã hội thông tin
Jo Glanville, biên tập viên của Bảng xếp hạng sự kiểm duyệt, cho rằng "Internet là một cuộc cách mạng cho kiểm duyệt cũng giống như cho tự do ngôn luận". Tiêu chuẩn của các khu vực, quốc gia và quốc tế về tự do ngôn luận như một dạng của tự do biểu đạt được á dụng cho bất cứ phương tiện biểu đạt nào, bao gồm cả Internet. Luật Communications Decency Act (CDA) làm năm 1996 là nỗ lực đáng ghi nhận của Hạ viện Hoa Kỳ trong việc kiểm soát các tài liệu khiêu dâm trên Internet. Năm 1997, Tòa án tối cao Hoa Kỳ đã bãi bỏ một phần của luật này trong một vụ án có tính bước ngoặt về luật an ninh mạng giữa Reno và ACLU. Thẩm phán Stewart R. Dalzell, một trong 3 thẩm phán liên bang, người đã tuyên bố một phần của luật CDA là vi viến vào tháng 6 năm 1996. Ý kiến của ông như sau:
Internet đã vượt xa hơn là một phương tiện để thúc đẩy tự do ngôn luận so với in ấn, hay thư từ. Bởi vì tầm quan trọng của Internet, luật CDA đã hạn chế khả năng lên tiếng của người trưởng thành trên phương tiện truyền thông này. Điều này dẫn đến sự bất dung được luật hóa. Một vài cuộc trao đổi trên internet chắc chắn kiểm tra giới hạn của các diễn ngôn thông thường. Các ngôn luận trên internet có thể không bị lọc, không bị đánh bóng, trái với tập tục, thậm chí gợi dục và thô tục- nói ngắn ngọn là không đúng đắng trong nhiều cộng đồng. Nhưng chúng ta nên mong đợi những ngôn luận đó xuất hiện trên truyền thông nơi mà các công dân từ mọi thành phần có thẻ có tiếng nói. Chúng ta nên bảo vệ sự hấp dẫn của truyền thông cũng như sự ẩn danh thứ mà phương tiện truyền thông có thể trao cho những người thường dân […] Những lập luận của tôi không loại bỏ những phương tiện bảo vệ trẻ em của chính phủ từ những nguy hiểm trên Internet. Chính phủ có thể tiếp tục bảo vệ trẻ em từ các ấn phẩm khiêu dâm trên Internet thông qua các sự nghiêm khắc của các đạo luật vốn đang tồn tại với mục đích ngăn chặn sự tục tữu và các sản phẩm khiêu dâm trẻ em. […] Như chúng ta đã biết ở buổi xét xử, tồn tại một nhu cầu thiết thực trong giáo dục công chúng về lợi ích cũng như tác ại của phương tiện truyền thông mới, và chính phủ phải làm nhiệm vụ này. Theo quan điểm của tôi, các hành động của chúng tôi hôm nay chỉ có nghĩa là sự kiểm duyệt của chính phủ với các nội dung trên Internet chỉ nên giới hạn trong các ngôn luận không được bảo vệ. […] Sự vắng mặt các quy định của chính quyền trong việc điều chỉnh các nội dung trên Internet tạo ra một kiểu hỗn loạn không thể nghi ngờ, nhưng như một trong các chuyên gia của nguyên đơn đã phản bác tại tòa: "Những thành công đã có chính là sự hỗn loạn mà Internet có. Sức mạnh của Internet là sự hỗn loạn." Chỉ có sức mạng của Internet là sự hỗn loạn, vì vây sức mạng của tự do phụ thuộc vào sự hỗn loạn và các hợp âm hỗn loạn của một ngôn luận không bị kiểm duyệt được Tu chính án thứ Nhất bảo vệ.
Tuyên bố về các nguyên tắc của Hội nghị thế giới về xã hội thông tin World Summit on the Information Society năm 2013 đã tạo ra một tài liệu tham khảo cụ thể cho tầm quan trọng của quyền tự do biểu đạt trong xã hội thông tin như sau:
Chúng tôi tái khẳng định rằng, một nền tảng quan trọng của xã hội thông tin như đã vạch ra trong Điều 19 của Tuyên ngôn Nhân quyền phổ quát, rằng mọi người đều có quyền tự do ý kiến và biểu đạt; và quyền này bao gồm quyền được bảo lưu ý kiến mà không bị can thiệp, quyền tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến thông tin, ý tưởng thông qua bất cứu phương tiện nào không phân biệt ranh giới quốc gia. Truyền thông là quá trình xã hội cơ bản, là nhu cầu cơ bản của con người và là nền tảng của tất cả các tổ chức xã hội. Nó là trung tâm của xã hội thông tin. Tất cả mọi người ở mọi nơi nên có cơ hội được tham gia và không ai nên bị loại trừ khỏi lợi ích mà Xã hội Thông tin có thể đem lại.
Theo Bernt Hugenholtz và Lucie Guibault, phạm vi công cộng đang chịu áp lực từ "hàng hóa thông tin" vì thông tin có ít hoặc không có giá trị kinh tế trước đây đã có được giá trị kinh tế độc lập trong thời đại thông tin. Điều này bao gồm dữ liệu thực tế, dữ liệu cá nhân, thông tin di truyền và ý tưởng thuần túy. Việc hàng hóa thông tin đang diễn ra thông qua luật sở hữu trí tuệ, luật hợp đồng, cũng như luật phát thanh và viễn thông.
Internet và tự do ngôn luận đang là tâm điểm khá thường xuyên gần đây. Việc Facebook và Youtube loại bỏ tài khoản của Alex Jones đã dấy lên các câu hỏi về quyền tự do ngôn luận và làm thế nào những người tự do có thể sử dụng chúng trên Internet.
Tự do thông tin
Tự do thông tin là phần mở rộng của tự do ngôn luận nơi mà phương tiện biểu đạt là Internet. Tự do thông tin có thể được đề cập đến quyền riêng tư trên Internet và các công nghệ thông tin. Cùng với quyền tự do biểu đạt, quyền tiêng tư được công nhận như một quyền con người và tự do thông tin được hiểu như một sự mở rộng của quyền này. Tự do thông tin có thể liên quan đến sự kiểm duyệt thông tin trong một bối cảnh công nghệ thông tin cụ thể, ví dụ như khả năng truy cập vào các nội dung của một trang mạng mà không bị kiểm duyệt hoặc hạn chế.
Tự do thông tin cũng gồm cả việc được bảo vệ rõ ràng bởi các luật như Tự do thông tin và bảo vệ quyền riêng tư của Ontario ở Canada.
Kiểm duyệt Intetnet
Khái niệm tự do thông tin đã nổi lên để đáp lại các kiểm duyệt của nhà nước, điều khiển và theo dõi trên internet. Kiểm duyệt internet bao gồm sự kiểm soát và đàn áp các ấn phẩm hoặc việc truy cập thông tin trên Internet. Hiệp hội tự do Internet toàn cầu Global Internet Freedom Consortium yêu cầu loại bỏ việc ngăn chặn các dòng chảy thông tin ở những "xã hội đóng" mà họ liệt kê. Theo Tổ chức các quốc gia không biên giới "danh sách kẻ thù của Internet" liệt kê các quốc gia sau trong việc tham gia vào việc kiểm duyệt Internet một cách phổ biến: Trung Quốc, Cuba, Iran, Myanmar, Triều Tiên, Saudi Arabia, Syria, Thổ Nhĩ Kỳ, Uzbekistan và Việt Nam.
Một ví dụ được công bố rộng rãi về kiểm duyệt internet là "Tường lửa vĩ đại của Trung Quốc" (liên quan đến cả vai trò của nó như một tường lửa mạng và Vạn Lý Trường Thành cổ đại của Trung Quốc). Hệ thống chặn nội dung bằng cách ngăn chặn các địa chỉ IP được chuyển qua và bao gồm các máy chủ proxy và tường lửa tiêu chuẩn tại các cổng Internet. Hệ thống cũng chọn lọc tham gia đầu độc DNS khi các trang web cụ thể được yêu cầu. Chính phủ dường như không kiểm tra một cách có hệ thống nội dung Internet, vì điều này dường như không thực tế về mặt kỹ thuật. Kiểm duyệt Internet tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thực hiện theo nhiều luật và quy định hành chính khác nhau, bao gồm hơn sáu mươi quy định hướng vào Internet. Các hệ thống kiểm duyệt được triển khai mạnh mẽ bởi các chi nhánh của các ISPs, công ty kinh doanh và tổ chức thuộc sở hữu nhà nước.
Lịch sử bất đồng chính kiến và sự thật
Trước khi phát minh ra báo in, một tác phẩm bằng văn bản được tạo ra chỉ có thể được nhân lên một cách vật lý thông qua việc sao chép thủ công vốn rất tốn công và dễ bị lỗi. Không có hệ thống kiểm duyệt và kiểm soát công phu nào tồn tại, những người chép văn bản tồn tại cho đến thế kỷ 14 bị giới hạn trong các tổ chức tôn giáo, và các tác phẩm của họ hiếm khi gây ra tranh cãi rộng hơn..Đáp lại báo in và những điều dị giáo mà nó cho phép lan truyền, Giáo hội Công giáo La Mã đã chuyển sang áp đặt kiểm duyệt. In ấn cho phép nhiều bản sao chính xác của một tác phẩm, dẫn đến sự lưu thông nhanh chóng và rộng rãi hơn các ý tưởng và thông tin (xem văn hóa in). Nguồn gốc của luật bản quyền ở hầu hết các nước châu Âu nằm trong nỗ lực của Giáo hội Công giáo La Mã và các chính phủ để điều chỉnh và kiểm soát đầu ra của máy in.
Trong Panegyricae orationes septem (1596), Henric van Cuyck, a Giám mục người Hà Lan, bảo vệ cho việc cần thiết của kiểm duyệt và lập luận rằng các tờ báo in của ông Johannes Gutenberg đã dẫn đến một thế giới bị lây nhiễm bởi "lời nói dối đồi trụy", vì vậy Cuyck đã loại bỏ Talmud và Qu’ran, cùng các tác phẩm củaMartin Luther, Jean Calvin và Erasmus of Rotterdam.]]
Năm 1501, Giáo hoàng Alexander VI đã ban hành Dự luật chống lại việc in sách không có giấy phép và năm 1559, Expurgatorius Index, hay Danh sách các sách bị cấm, đã được ban hành lần đầu tiên.. Danh sách các sách bị cấm là ví dụ nổi tiếng và lâu dài nhất về các danh mục "sách xấu" do Giáo hội Công giáo La Mã ban hành, được cho là có thẩm quyền đối với những suy nghĩ và ý kiến riêng tư, và đàn áp những quan điểm đi ngược lại các học thuyết của nó. Index Expurgatorius được quản lý bởi Toà án dị giáo La Mã, nhưng được thi hành bởi chính quyền địa phương, và đã trải qua 300 phiên bản. Trong đó, nó đã cấm hoặc kiểm duyệt các cuốn sách được viết bởi René Descartes, Giordano Bruno, Galileo Galilei, David Hume, John Locke,Daniel Defoe, Jean-Jacques Rousseau và Voltaire. Trong khi các chính phủ và nhà thờ khuyến khích in ấn bằng nhiều cách vì nó cho phép phổ biến Kinh Thánh và thông tin chính phủ, các tác phẩm bất đồng chính kiến và phê bình cũng có thể lưu hành nhanh chóng. Do đó, các chính phủ đã thiết lập quyền kiểm soát đối với các máy in trên khắp châu Âu, yêu cầu họ phải có giấy phép chính thức để giao dịch và sản xuất sách.
Quan niệm cho rằng sự thể hiện quan điểm bất đồng chính kiến hoặc lật đổ cần được dung thứ, không bị kiểm duyệt hoặc trừng phạt bởi pháp luật, được phát triển cùng với sự phát triển của báo in và báo chí. Areopagitica, được xuất bản năm 1644, là phản ứng của John Milton trước đề xuất trở lại của chính phủ Anh về việc cấp phép cho các nhà in, do đó bao gồm cả các nhà xuất bản. Chính quyền nhà thờ trước đây đã đảm bảo rằng bài tiểu luận về quyền ly hôn essay on the right to divorcecủa Milton bị từ chối giấy phép xuất bản. Trong Areopagitica, được xuất bản mà không có giấy phép, Milton đã đưa ra một lời biện hộ không khoan nhượng cho tự do ngôn luận và lỗi lầm:, stating:
Hãy cho tôi sự tự do để biết, để nói ra, và tranh luận một cách tự do theo lương tâm, trên hết là tự do.
Sự bảo vệ tự do ngôn luận của Milton được đặt nền tảng trong một thế giới quan Tin lành và ông nghĩ rằng người dân Anh có sứ mệnh tìm ra sự thật của Cải cách, điều này sẽ dẫn đến sự giác ngộ của tất cả mọi người. Nhưng Milton cũng nói rõ các vấn đề chính của các cuộc thảo luận trong tương lai về tự do ngôn luận. Bằng cách xác định phạm vi tự do ngôn luận và phát ngôn "có hại", Milton lập luận chống lại nguyên tắc kiểm duyệt trước và ủng hộ sự khoan dung đối với một loạt các quan điểm. Anh đã cho phép Tự do báo chí quay trở lại vào năm 1695 khi Lệnh cấp phép năm 1643 hết hiệu lực sau khi Dự luật Nhân quyền 1689 được giới thiệu ngay sau Cách mạng Vinh quang. Sự xuất hiện của các ấn phẩm như Tatler (1709) và Spectator (1711) được công nhận trong việc tạo ra một "lĩnh vực công tư sản" ở Anh, nơi cho phép trao đổi ý tưởng và thông tin tự do.
Khi "mối đe dọa" của việc in ấn lan rộng, nhiều chính phủ đã cố gắng tập trung kiểm soát. Hoàng Gia Pháp đã đàn áp việc in ấn và máy in Etienne Dolet đã bị đốt cháy trên giàn hỏa thiệu vào năm 1546. Năm 1557, Vương quốc Anh nghĩ rằng sẽ ngăn chặn dòng chảy của những cuốn sách dị giáo và lạc giáo bằng cách ban đặc quyền cho Công ty xuất bản Stationers' Company. Quyền in ấn được giới hạn trong thành viên của hiệp hội,và 30 năm sau công ty in Star Chamber đã được chỉ định để cắt giảm "sự lạm dụng to lớn" của "những người thợ nhuộm, những kẻ gây rối hoặc những người in và bán sách lậu." Quyền in được giới hạn ở 2 trường đại học với 21 máy in tồn tại ở thành phố London city of London, nơi từng có 53 máy in báo printing presses. Khi Hoàng Gia Anh nắm quyền kiểm soát việc thành lập nhà in, 1637 máy in được chuyển sang Hà Lan. Cuộc đối đầu với chính quyền đã khiến các nhà in trở nên cực đoan và nổi loạn, với 800 tác giả, nhà in và đại lý sách bị giam giữ ở Bastille ở Paris trước khi nó bị thổi bay vào năm 1789.
Hậu duệ của các nhà tư tưởng Anh đã đi đầu trong các cuộc thảo luận ban đầu về quyền tự do ngôn luận, trong đó có John Milton (1608 -1674) và John Locke (1632 -1704). Locke thiết lập cá nhân là đơn vị giá trị và là người mang quyền sống, quyền tự do, tài sản và mưu cầu hạnh phúc. Tuy nhiên, các ý tưởng của Locke phát triển chủ yếu xoay quanh khái niệm về quyền tìm kiếm sự cứu rỗi cho linh hồn của một người, và do đó chủ yếu liên quan đến các vấn đề thần học. Locke không ủng hộ một sự khoan dung phổ quát của các dân tộc cũng như tự do ngôn luận; theo ý tưởng của ông, một số nhóm, chẳng hạn như người vô thần, không nên được cho phép.
Vào nửa sau của thế kỉ 17 trên lục địa châu Âu, các nhà triết học như Baruch Spinoza và Pierre Bayle đã phát triển các ý tưởng bao gồm một khía cạnh tự do ngôn luận và khoan dung hơn so với các nhà triết học Anh đầu tiên. Vào thế kỷ 18, ý tưởng về tự do ngôn luận đã được thảo luận bởi các nhà tư tưởng trên khắp thế giới phương Tây, đặc biệt là các triết gia Pháp như Denis Diderot, Baron d'Holbach và Claude Adrien Helvétius. Ý tưởng bắt đầu được kết hợp trong lý thuyết chính trị cả về lý thuyết cũng như thực tiễn; sắc lệnh nhà nước đầu tiên trong lịch sử tuyên bố tự do ngôn luận hoàn toàn là bản phát hành ngày 4 tháng 12 năm 1770 tại Đan Mạch-Na Uy trong thời kỳ nhiếp chính của Johann Friedrich Struensee. Tuy nhiên, bản thân Struensee đã áp đặt một số hạn chế nhỏ cho sắc lệnh này vào ngày 7 tháng 10 năm 1771 và nó thậm chí còn bị hạn chế hơn sau khi Struensee sụp đổ với luật được đưa ra vào năm 1773, mặc dù việc kiểm duyệt không được giới thiệu lại.
John Stuart Mill (1806 -1873) lập luận rằng nếu con người không có tự do thì không thể có tiến bộ về khoa học, luật pháp hay chính trị, theo đó Mill yêu cầu việc tự do thảo luận và nêu ý kiến. Tác phẩm Bàn vệ tự do của Mill, xuất bản năm 1859 đã trở thành một sự phòng thủ kinh điển cho quyền tự do ngôn luận. Mill lập luận rằng sự thật xua đuổi sự giả dối, do đó không nên sợ sự thể hiện ý tưởng tự do, dù nó đúng hay sai. Sự thật không ổn định hoặc cố định, mà phát triển theo thời gian. Mill lập luận rằng phần lớn những gì chúng ta từng coi là đúng đã trở thành sai. Do đó, các quan điểm không nên bị cấm cho dù nó có sai lầm hiển nhiên. Mill cũng lập luận rằng thảo luận tự do là cần thiết để ngăn chặn "sự chậm trễ sâu sắc của một ý kiến dứt khoát ". Thảo luận sẽ thúc đẩy sự tiến lên của sự thật và bằng cách xem xét các quan điểm sai lầm, cơ sở của các quan điểm thực sự có thể được xác nhận lại. Hơn nữa, Mill lập luận rằng một ý kiến chỉ mang giá trị nội tại cho chủ sở hữu của ý kiến đó, do đó, buộc phải im lặng việc biểu hiện ý kiến đó là một sự bất công đối với một quyền cơ bản của con người. Đối với Mill, trường hợp duy nhất trong đó lời nói có thể bị triệt tiêu một cách chính đáng là để ngăn chặn tác hại từ mối đe dọa rõ ràng và trực tiếp. Không có ý nghĩa kinh tế hay đạo đức, cũng như việc người nói không sở hữu tài sản có thể biện minh cho việc đàn áp ngôn luận..
Trong tiểu sử Voltaire của Evelyn Beatrice Hall, bà đã đặt ra câu sau đây để minh họa cho niềm tin của Voltaire: "Tôi không đồng ý với những gì bạn nói, nhưng tôi sẽ bảo vệ đến cùng điều bạn nói cho dù phải chết." Câu nói này thường xuyên được trích dẫn để mô tả nguyên tắc của tự do ngôn luận. Hall's quote is frequently cited to describe the principle of freedom of speech. Trong Thế kỷ 20, Noam Chomsky tuyên bố rằng: "Nếu bạn tin vào tự do ngôn luận, bạn tin vào tự do ngôn luận cho những quan điểm mà bạn không thích. Những kẻ độc tài như Stalin và Hitler, chỉ ủng hộ tự do ngôn luận cho những quan điểm mà họ ưu thích. Nếu bạn ủng hộ tự do ngôn luận, điều đó có nghĩa là bạn ủng hộ tự do ngôn luận cho những quan điểm mà bạn coi thường. " Lee Bollinger lập luận rằng "nguyên tắc tự do ngôn luận liên quan đến một hành động đặc biệt được khắc sâu trong lĩnh vực tương tác xã hội để tự kiềm chế phi thường, mục đích của nó là phát triển và thể hiện năng lực xã hội nhằm kiểm soát cảm xúc được gợi lên bởi một loạt các cuộc gặp gỡ xã hội." Bollinger lập luận rằng sự khoan dung là một giá trị mong muốn, không hiển nhiên. Tuy nhiên, các nhà phê bình cho rằng xã hội nên được quan tâm bởi những người trực tiếp phủ nhận hoặc ủng hộ, ví dụ, tội diệt chủng (xem các hạn chế ở trên).
Cuốn tiểu thuyết Người tình của Lady Chatterley viết năm 1928 của D. H. Lawrence đã bị cấm vì những điều được cho là tục tĩu ở một số quốc gia, bao gồm Vương quốc Anh, Hoa Kỳ, Úc và Canada. Vào cuối những năm 1950 và đầu những năm 1960, các phán quyết của tòa án mang tính bước ngoặt đã chứng kiến lệnh cấm đối với những điều tục tĩu bị lật đổ. Dominic Sandbrook của tờ The Telegraph ở Anh đã viết: "Bây giờ sự tục tĩu công khai đã trở nên phổ biến, thật khó để lấy lại bầu không khí của một xã hội phù hợp để cấm những cuốn sách như Người tình của Lady Chatterley vì nó gây "đồi trụy và suy đồi" đối với độc giả của nó. " Fred Kaplan của tờ New York Times tuyên bố việc đảo ngược các luật tục tĩu" đặt ra một vụ nổ của tự do ngôn luận "ở Mỹ.
Quyền tự do ngôn luận đã được giải thích bao gồm quyền chụp và xuất bản ảnh của người lạ ở khu vực công cộng mà cho dù họ không biết hoặc không cho phép.. Điều này không áp dụng phổ biến trên toàn thế giới.
Việt Nam
Đánh giá của Ủy ban Nhân quyền Liên hiệp quốc
Ủy ban Nhân quyền Liên hiệp quốc (CCPR) vào ngày 11/11/2022 vừa qua công bố phúc trình về công tác theo dõi tiếp sau Nhận xét Kết luận được thông qua vào ngày 25/3/2022. Việt Nam được đánh giá thuộc nhóm E, thấp nhất trong thang từ A xuống. CCPR bày tỏ quan ngại về công tác thông qua những nghị định nhằm hạn chế thêm nữa quyền tự do ngôn luận. CCPR cũng lấy làm tiếc việc Việt Nam không cung cấp thông tin về các bước thực hiện trong lĩnh vực thúc đẩy truyền thông đa chiều, không bị chính phủ can thiệp.
Xem thêm
Academic freedom
Artistic freedom
The Confessionals
Digital rights
Election silence
Forbidden number
Forced speech
Freedom of thought
Global Network Initiative
Hate speech
Heckler's veto
Je suis Charlie
Jyllands-Posten Muhammad cartoons controversy
Laws against Holocaust denial
Market for loyalties theory
Media transparency
NUS No Platform Policy
Open court principle
Paradox of tolerance
Parrhesia
Photography is Not a Crime
Political correctness
Rights
Right to pornography
Symbolic speech
Jamal Khashoggi
Nguồn
Đọc thêm
Giải thưởng Tứ tự do
Liên kết ngoài
"Timeline: a history of free speech", David Smith and Luc Torres, The Guardian, ngày 5 tháng 2 năm 2006.
"Original Meaning of Freedom of Speech or of the Press" (U.S.A) , P.A. Madison, The Federalist Blog, ngày 18 tháng 10 năm 2008.
"Free Speech in the Age of YouTube", Somini Sengupta, New York Times, ngày 22 tháng 9 năm 2012.
Article19.org, Global Campaign for Free Expression.
Free Speech Debate, a research project of the Dahrendorf Programme for the Study of Freedom at St Antony's College in the University of Oxford.
Index on Censorship, an international organisation that promotes and defends the right to freedom of expression.
Media Freedom Navigator: Media Freedom Indices at a Glance, Deutsche Welle Akademie.
Special Rapporteur for Freedom of Expression, Organization of American States.
Several images for Everybody Draw Mohammed Day:
Quyền tự do
Nhân quyền
Báo chí
Kiểm duyệt
Tranh cãi
Tự do thể hiện
|
26313
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thu%E1%BA%ADt%20ng%E1%BB%AF%20l%C3%BD%20thuy%E1%BA%BFt%20%C4%91%E1%BB%93%20th%E1%BB%8B
|
Thuật ngữ lý thuyết đồ thị
|
Lưu ý: Danh sách thuật ngữ lý thuyết đồ thị này chỉ là điểm khởi đầu cho những người mới nhập môn làm quen với một số thuật ngữ và khái niệm cơ bản. Bài này không trình bày các định nghĩa chính thức của các khái niệm và thuật ngữ này.
B
Bậc (degree hoặc valency)
Bậc của đỉnh v trong đồ thị G, ký hiệu dG(v), là số cạnh liên thuộc với v, trong đó, khuyên được tính hai lần. Một đỉnh có bậc 0 là đỉnh cô lập. Đỉnh có bậc 1 là một đỉnh treo hay lá. Trong đồ thị ví dụ, các đỉnh 1 và 3 có bậc là 2, các đỉnh 2, 4 và 5 có bậc bằng 3, đỉnh 6 có bậc 1.
Nếu tập cạnh E là hữu hạn thì tổng giá trị bậc của các đỉnh gọi là bậc của đồ thị. Bậc của đồ thị bằng hai lần số cạnh. Số các đỉnh bậc lẻ luôn là số chẵn.
Bậc cực đại của đồ thị G, ký hiệu Δ(G), là bậc lớn nhất của các đỉnh trong đồ thị; bậc cực tiểu, δ(G), là bậc nhỏ nhất của các đỉnh trong đồ thị.Ví dụ
Trong đồ thị có hướng Γ, bậc ngoài dΓ+(v), số cung xuất phát từ đỉnh v(số cung đi ra đỉnh v), và bậc trong dΓ-(v), số cung đi vào đỉnh v. Bậc dΓ(v) của đỉnh v bằng tổng bậc ngoài và bậc trong của đỉnh đó. Bậc ngoài cực đại và cực tiểu được ký hiệu Δ+(Γ) và δ+(Γ); bậc trong cực đại và cực tiểu, Δ-(Γ) và δ-(Γ). Trong ngữ cảnh rõ ràng, có thể bỏ qua chỉ số dưới Γ.
Bất biến đồ thị (graph invariant)
là một tính chất của một đồ thị G, thường là một số hoặc một đa thức chỉ phụ thuộc vào lớp đẳng cấu của G. Ví dụ: bậc của đồ thị.
C
Cạnh(Edge): Cạnh nối đỉnh x với đỉnh y là một tập gồm hai phần tử {x,y}, thường được vẽ dưới dạng một đoạn thẳng nối hai đỉnh. Cạnh nối hai đỉnh x và y được ký hiệu là xy (không phải x⋅y). Tập cạnh của G thường được ký hiệu là E(G), hoặc E nếu không có nguy cơ hiểu nhầm.
Cạnh có hướng là một cặp đỉnh có thứ tự. Trong mỗi cặp có thứ tự đó, đỉnh thứ nhất được gọi là đỉnh đầu, đỉnh thứ hai là đỉnh cuối. Cạnh vô hướng không quan tâm đến hướng và coi hai đỉnh như nhau.
Cạnh lá: Cạnh nối với một đỉnh lá.
Cạnh cắt: xem Cầu.
Cạnh kề nhau : Hai cạnh của một đồ thị được xem là kề nhau nếu chúng có một đỉnh chung.
Cặp ghép: (matching): một cặp ghép M của đồ thị G = (V,E) là một tập các cạnh đôi một không kề nhau của G.
Cặp ghép hoàn hảo (perfect matching): là cặp ghép phủ tất cả các đỉnh của đồ thị. Nghĩa là mỗi đỉnh của đồ thị đều liên thuộc với đúng một cạnh của cặp ghép.
Cặp ghép lớn nhất, Cặp ghép tối đa: là cặp ghép chứa nhiều cạnh nhất có thể. Có thể có nhiều cặp ghép tối đa.
Cấp (order) của một đồ thị là số đỉnh của nó, nghĩa là |V(G)|.
Cầu: là một cạnh mà nếu loại bỏ nó thì đồ thị tăng số thành phần liên thông.
Cây: là một đồ thị đơn liên thông phi chu trình(không có chu trình).
Cây bao trùm(cây khung): là một đồ thị con bao trùm có dạng cây. Chỉ có đồ thị liên thông mới có cây bao trùm.
Cây (có gốc): thường được coi như các đồ thị đơn có hướng phi chu trình với các cung hướng từ phía gốc ra phía lá. Với mỗi cung, đỉnh tại gốc cung được gọi là đỉnh cha hoặc cha, các đỉnh tại điểm cuối của cung được gọi là đỉnh con hoặc con của đỉnh tại gốc cung.
Cây con: một cây con của đồ thị G là một đồ thị con có dạng cây.
Cây k-ary:(ví dụ: nhị phân, tam phân...) là cây có gốc mà mỗi đỉnh trong đều có không quá k con.
Cây đơn phân chỉ là một đường đi.
Cây nhị phân là cây mà mỗi đỉnh có không quá 2 con.
Cây nhị phân đầy đủ là cây mà mỗi đỉnh trong có đúng 2 con.
Chỉ số clique: Chỉ số clique ω(G) của đồ thị G là bậc của đồ thị con đầy đủ lớn nhất của G.
Chỉ số độc lập: Chỉ số độc lập của đồ thị G, ký hiệu α(G), là kích thước của tập độc lập lớn nhất của G.
Chu trình trong đồ thị: là một đường đi đóng trong đồ thị. Đồ thị chỉ gồm một chu trình với n đỉnh được gọi là đồ thị vòng, ký hiệu Cn,
Chu trình bao trùm: là cách gọi khác của chu trình Hamilton.
Chu trình chẵn: là chu trình có độ dài chẵn.
Chu trình có hướng: là một chu trình đơn mà mọi cung trong đó đều cùng hướng, nghĩa là mọi đỉnh đều có bậc trong và bậc ngoài bằng 1. Có thể gọi đơn giản là chu trình khi ngữ cảnh rõ ràng.
Chu trình đơn: là chu trình đi qua mỗi đỉnh không quá một lần. Trong đồ thị ở hình trên, (1, 5, 2, 1) là một chu trình đơn. Nếu không chỉ rõ, chu trình thường được hiểu là một chu trình đơn.
Chu trình Euler: là chu trình qua tất cả các cạnh, mỗi cạnh đúng một lần.
Chu trình lẻ: là chu trình có độ dài lẻ.
Chu vi nhỏ (girth): Chu vi nhỏ của một đồ thị là độ dài của chu trình đơn ngắn nhất của đồ thị.
Chu vi lớn (circumference): Chu vi lớn của một đồ thị là độ dài của chu trình đơn dài nhất của đồ thị. Đối với đồ thị không có chu trình, chu vi lớn và chu vi nhỏ được định nghĩa bằng giá trị vô cùng ∞.
Chuỗi bậc (degree sequence): là danh sách các bậc của một đồ thị sắp xếp theo thứ tự giảm dần. (ví dụ, d1 ≥ d2 ≥ … ≥ dn). Một chuỗi giảm dần các số tự nhiên được coi là hiện thực được (realizable) nếu nó là chuỗi bậc của một đồ thị nào đó.
Cung: là cạnh có hướng.
D
Dẫn xuất (induced)
Đồ thị con H của đồ thị G được coi là dẫn xuất nếu: với mỗi cặp đỉnh x và y của H, xy là một cạnh của H khi và chỉ khi xy là một cạnh của G. Nếu H được chọn dựa trên tập đỉnh S là tập con của V(G), thì H còn được ký hiệu là G[S] và được coi là dẫn xuất từ S.
Đ
Đẳng cấu
Hai đồ thị G và H được coi là đẳng cấu, ký hiệu G ~ H, nếu có một quan hệ tương ứng một-một giữa hai tập đỉnh của hai đồ thị sao cho hai đỉnh của đồ thị G kề nhau khi và chỉ khi các đỉnh tương ứng của chúng trong đồ thị H cũng kề nhau.
Đỉnh: Xem Đồ thị. Đỉnh được vẽ dưới dạng một nút hoặc một điểm. Tập đỉnh của đồ thị G thường được ký hiệu là V(G), hoặc V khi không có nguy cơ hiểu nhầm.
Đỉnh cha: Xem Cây (có gốc)
Đỉnh con: Xem Cây (có gốc)
Đỉnh cắt (cut vertex): là một đỉnh mà nếu loại bỏ nó thì đồ thị tăng số thành phần liên thông.
Đỉnh gốc: là một đỉnh đặc biệt của cây có gốc. Trong trường hợp này, cây là đồ thị có hướng, đỉnh gốc là đỉnh duy nhất có bậc trong bằng 0.
Đỉnh lá: Đỉnh có bậc 1, còn được gọi là lá. Thường dùng cho cây có gốc, khi đó lá là đỉnh không có con.
Đỉnh phát (source): là đỉnh có bậc trong bằng 0.
Đỉnh thu (sink): là đỉnh có bậc ngoài bằng 0.
Đỉnh trong (internal vertex): Đỉnh không phải là đỉnh lá.
Đồ thị: Gồm một tập các đỉnh được nối với nhau bằng các cạnh. Xem chi tiết tại Đồ thị (toán học). Nếu không không được chỉ rõ trong ngữ cảnh, đồ thị được hiểu là đồ thị đơn.
Đa đồ thị: Đồ thị có đa cạnh nhưng không có khuyên. Có tài liệu quy định là: đồ thị có đa cạnh và có khuyên.
Đồ thị cha: Một đồ thị cha của G là một đồ thị chứa G với danh nghĩa một đồ thị con. Ta nói rằng đồ thị G chứa đồ thị H nếu có một đồ thị con nào đó của G chính là H hoặc đẳng cấu với H (tùy theo yêu cầu của hoàn cảnh).
Đồ thị chính quy: là đồ thị có bậc của tất cả các đỉnh bằng nhau.
Đồ thị có hướng
Đồ thị có trọng số: Trong đồ thị có trọng số, mỗi cạnh được gắn nhãn là một số, số này được gọi là trọng số của đỉnh. Nói cách khác, đồ thị có trọng số là một đồ thị cùng với một ánh xạ từ tập các cạnh vào tập số thực. Khi không chỉ rõ, một đồ thị luôn được coi là đồ thị không có trọng số.
Đồ thị con: Một đồ thị con của đồ thị G là một đồ thị mà tập cạnh và tập đỉnh của nó là các tập con của các thành phần tướng ứng của G.
Đồ thị con bao trùm (spanning subgraph): Đồ thị con H là một đồ thị con bao trùm của đồ thị G nếu tập đỉnh của H trùng với tập đỉnh của G. Ta nói rằng H bao trùm G.
Đồ thị đầy đủ: Đồ thị đầy đủ bậc n, ký hiệu Kn, là một đồ thị đơn gồm n đỉnh trong đó hai đỉnh bất kỳ đều được nối với nhau bởi một cạnh. Có tất cả n(n-1)/2 cạnh. Đồ thị ví dụ không phải đồ thị đầy đủ.
Đồ thị đơn: là đồ thị không có đa cạnh và không có khuyên.
Đồ thị Euler có hướng: là một đồ thị có hướng mà mỗi đỉnh đều có bậc trong bằng bậc ngoài.
Đồ thị hai phía: là một đồ thị đặc biệt, trong đó tập các đỉnh có thể được chia thành hai tập không giao nhau thỏa mãn điều kiện không có cạnh nối hai đỉnh bất kỳ thuộc cùng một tập.Đồ thị hữu hạn: là đồ thị có hữu hạn cạnh và hữu hạn đỉnh. Nếu không được chỉ rõ tính chất, một đồ thị thường được hiểu là hữu hạn.Đồ thị hữu hạn địa phương: là đồ thị vô hạn trong đó mỗi cạnh đều có bậc hữu hạn. Đồ thị phẳng là đồ thị có thể được vẽ trên mặt phẳng Euclid sao cho không có hai cạnh nào cắt nhau. Đồ thị ví dụ là đồ thị phẳng.Đồ thị phi chu trình: là đồ thị không có chu trình. Một đồ thị có hướng là phi chu trình nếu nó không chứa chu trình có hướng.Đồ thị phổ dụng (universal graph): Đồ thị phổ dụng của một lớp đồ thị K là một đồ thị đơn nhỏ nhất mà mọi đồ thị là phần tử của K đều là đồ thị con của nó.Đồ thị rỗng: là đồ thị không có cạnh và không có đỉnh. Hoặc, nó là một đồ thị không có cạnh nhưng có một số đỉnh bất kỳ, khi đó, nó được gọi là đồ thị rỗng đỉnh. (Không có sự thống nhất giữa các tài liệu).Đồ thị vòng: là đồ thị chứa một chu trình duy nhất đi qua tất cả các đỉnh, mỗi đỉnh đều có bậc đúng bằng 2.Đồ thị vô hạn: là đồ thị có vô hạn cạnh hoặc vô hạn đỉnh hoặc cả hai.Đồ thị vô hướng: là đồ thị gồm toàn các cạnh không có hướng.Độ dàiĐộ dài của một đường đi là số cạnh mà nó đi qua. Đường đi Pn có độ dài n - 1. Trong đồ thị ví dụ, (1, 2, 5, 1, 2, 3) là đường đi có độ dài 5, còn (5, 2, 1) là đường đi đơn có độ dài 2.
Độ dài của một chu trìnhlà số cạnh của nó, số này cũng bằng số đỉnh nó đi qua (tính cả bội, nếu một đỉnh được đi qua nhiều lần). Cn có độ dài n. Khác với đường đi, chu trình không được phép có độ dài 0. Các chu trình độ dài 1 là các khuyên. Các chu trình độ dài 2 là các cặp đa cạnh. Trong đồ thị ví dụ, (1, 2, 3, 4, 5, 1) là chu trình độ dài 5.Độc lậpHai đường đi được coi là độc lập nếu chúng không có chung đỉnh nào, ngoại trừ đỉnh đầu và đỉnh cuối.
Một đỉnh cô lập hoặc đỉnh độc lập là đỉnh không liên thuộc với một cạnh nào, cũng có nghĩa là đỉnh có bậc 0.
Một tập độc lập, hay tập ổn định, là tập các đỉnh đôi một không kề nhau. Đồ thị con dẫn xuất từ một tập độc lập là một đồ thị rỗng. Trong ví dụ trên, các đỉnh 1, 3 và 6 hợp thành một tập độc lập; các đỉnh 3, 5 và 6 hợp thành một tập độc lập khác.
Số độc lập (indepndence number) của một đồ thị là số cực đại các đỉnh của tập độc lập ứng với đồ thị đóĐồng cấuMột đồ thị G được coi là đồng cấu với đồ thị H nếu có một ánh xạ từ V(G) tới V(H) sao cho: nếu hai đỉnh kề nhau trong G thì các đỉnh tương ứng của nó cũng kề nhau trong đồ thị H.Đường đi (walk/path): là một chuỗi luân phiên giữa đỉnh và cạnh, bắt đầu và kết thúc bởi một đỉnh. Trong đó, mỗi đỉnh là đỉnh đầu cuối của hai cạnh đứng liền trước và liền sau trong chuỗi, các đỉnh đứng liền trước và liền sau một cạnh là các đỉnh đầu cuối của cạnh đó. Khi có hai cạnh giống nhau trên chuỗi có thể loại bỏ bớt các cạnh trùng nhau, sao cho không có cạnh nào của đồ thị cómặt quá một lần trên đường đi. Một đường đi được coi là đónghay một chu trình nếu đỉnh đầu và đỉnh cuối trùng nhau, được coi là mở nếu đỉnh đầu và đỉnh cuối khác nhau. Đường đi qua n đỉnh được ký hiệu là Pn.Đường đi có hướng: là một đường đi đơn trong đó mọi cung đều theo cùng một hướng, nghĩa là mọi đỉnh trên đó đều có bậc trong và bậc ngoài bằng 1. Trong đồ thị có hướng, đỉnh v được coi là đến được từ đỉnh u nếu có một đường đi có hướng xuất phát từ u và kết thúc tại v. Có thể gọi đơn giản là đường đi khi ngữ cảnh rõ ràng.Đường đi đơn:là đường đi trong đó mỗi đỉnh chỉ được đi qua nhiều nhất một lần. Đường đi Euler (Eulerian path): là đường đi qua tất cả các cạnh, mỗi cạnh đúng một lần. Đồ thị ví dụ không có đường đi Euler.Đường đi Hamilton (Hamiltonian path): là đường đi đơn qua tất cả các đỉnh trong đồ thị. Đồ thị ví dụ có đường đi Hamilton.
GGắn nhãn đồ thị (graph labelling)
Việc gán các nhãn phân biệt (thường là các số) cho các cạnh và đỉnh của đồ thị.Gốcxem Đỉnh gốc.
KKềHai đỉnh u và v được coi là kề nhau, ký hiệu u ↓ v, nếu có một cạnh nối chúng. Trong đồ thị ví dụ, các đỉnh 1 và 2 kề nhau, nhưng các đỉnh 2 và 4 không kề.Khoảng cáchKhoảng cách dG(u, v) giữa hai đỉnh (không nhất thiết phân biệt u và v trong đồ thị G là độ dài đường đi ngắn nhất giữa chúng. Có thể bỏ chỉ số dưới G nếu không sợ hiểu nhầm. Khi u và v là một, khoảng cách giữa chúng bằng 0. Khi giữa u và v không có đường đi, khoảng cách giữa chúng là vô cùng ∞.Khuyên (loop)
Cạnh có hai đầu trùng nhau (cùng một đỉnh).Kích thước của đồ thịKích thước của một đồ thị là số cạnh của nó, nghĩa là |E(G)|.
LLáXem Đỉnh lá.Lát cắt đỉnhlà tập các đỉnh mà khi loại bỏ chúng sẽ làm cho đồ thị mất tính liên thông.Lát cắt cạnhlà tập tất cả các cạnh có một đầu thuộc tập đỉnh con S và đầu kia thuộc V(G)\S.Liên thôngNếu giữa hai điểm bất kỳ của một đồ thị đều có thể thiết lập một đường đi từ đỉnh này đến đỉnh kia, đồ thị được coi là liên thông; nếu không, đồ thị được coi là không liên thông. Một đồ thị được coi là hoàn toàn không liên thông nếu không có đường đi giữa hai đỉnh bất kỳ trong đồ thị. Đây chỉ là một cái tên khác để miêu tả một đồ thị rỗng hoặc một tập độc lập.
Một đồ thị có hướng được coi là liên thông mạnh nếu từ mọi đỉnh đều đến được mọi đỉnh khác. Ngược lại, đồ thị có hướng được coi là liên thông yếu nếu đồ thị vô hướng nền tảng của nó là đồ thị liên thông.Lưới (còn gọi là mạng, mạng lưới)
Trong một số tài liệu về lý thuyết đồ thị, thuật ngữ lưới (network) được coi là từ đồng nghĩa với đồ thị có trọng số. Một lưới có thể có hướng hoặc vô hướng. Lưới có thể chứa các đỉnh (nút) đặc biệt, chẳng hạn đỉnh phát hoặc đỉnh thu.
MMa trận kề Một ma trận kích thước n×n, trong đó mỗi phần tử tại dòng i cột j cho biết số cạnh nối từ đỉnh thứ i tới đỉnh thứ j.
NNhân (kernel)
là một tập độc lập ổn định ngoài. Một đồ thị có hướng được gọi là nhân hoàn hảo (kernel perfect) nếu mọi đồ thị con dẫn xuất đều có một nhân.Nhúng: (embedding)
Phép nhúng thực hiện trên (cho kết quả là đồ thị ) là một hàm đơn ánh từ tới sao cho mỗi cạnh trong tương ứng với một đường đi (các đường đi này đôi một không chung cạnh) trong đồ thị .
Một đồ thị được coi là nhúng được trên một bề mặt nếu khi vẽ đồ thị trên đó, các đỉnh và cạnh của nó có thể được sắp xếp trên đó sao cho không có hai cạnh nào cắt nhau.Nút (knot)
trong một đồ thị có hướng, nút là một tập các đỉnh và cung với tính chất: mọi đỉnh trong nút đều có cung từ đó đi ra, và mọi cung xuất phát từ các đỉnh trong nút đều có đích là các đỉnh nằm trong nút. Do đó, không thể ra khỏi nút nếu đi theo hướng của các cung.
Trong trường hợp đồ thị là sơ đồ sử dụng tài nguyên (general resource graph), một nút là điều kiện đủ cho deadlock.Nút (node)
Trong một số ngữ cảnh, một đỉnh của đồ thị cũng được gọi là một nút. Chẳng hạn, các đỉnh trong một cây có gốc thường được gọi là nút.
PPhản cạnh (anti-edge)
Là một cạnh "không tồn tại".
Cho hai đỉnh và , là một phản cạnh của đồ thị nếu không phải là cạnh của . Nghĩa là: hoặc không có cạnh nào nối hai đỉnh, hoặc chỉ có một cung từ tới nếu là đồ thị có hướng.Phần bù (complement)
Phần bù của một đồ thị G là một đồ thị có cùng tập đỉnh như G nhưng lại có tập cạnh thỏa mãn điều kiện: xy là một cạnh của khi và chỉ khi xy không phải là cạnh của G.
QQuan hệ liên thuộcQuan hệ giữa cạnh và đỉnh là một trong hai đầu của cạnh đó.
RRừng là hợp của các cây; tương đương với một đồ thị phi chu trình.
SSắc sốSắc số χ(G) của một đồ thị G là số nhỏ nhất các màu cần thiết để tô màu đồ thị đó, nghĩa là tô màu các đỉnh của nó sao cho hai đỉnh kề nhau có màu khác nhau.Siêu cạnh (hyperedge)
Là cạnh có thể có số đỉnh đầu cuối tùy ý, có thể lớn hơn 2. Khi không nói rõ, một cạnh luôn được hiểu là có nhiều nhất 2 đỉnh.Siêu đồ thị (hypergraph)
Đồ thị cho phép có siêu cạnh. Khi không chỉ rõ, đồ thị không bao giờ bị hiểu nhầm là siêu đồ thị
TTập cắtxem lát cắt đỉnh.Tập láng giềngTập láng giềng, còn gọi là tập láng giềng (mở) của một đỉnh v, ký hiệu NG(v), bao gồm tất cả các đỉnh kề với v không kể v. Nếu kể cả v, tập này được gọi là tập láng giềng đóng, ký hiệu NG[v]. Nếu không nói rõ, một tập láng giềng được coi là mở. Chỉ số dưới G thường được bỏ qua nếu không gây nhầm lẫn. Trong đồ thị ví dụ, đỉnh 1 có hai hàng xóm: các đỉnh 2 và 5. Đối với đồ thị đơn, số láng giềng của một đỉnh trùng với bậc của đỉnh đó.Tập thống trị (dominating set)
Một tập thống trị của một đồ thị là một tập con của tập đỉnh, trong đó hợp của các tập láng giềng đóng của các đỉnh trong tập con đó bao gồm tất cả các đỉnh của đồ thị.Tập ổn địnhXem Độc lập.Tập ổn định trong cùng nghĩa với tập độc lập.Tập ổn định ngoài cùng nghĩa với tập thống trị.Thành phần liên thông Quan hệ liên thông trong đồ thị vô hướng là quan hệ tương đương, quan hệ này chia tập các đỉnh của đồ thị thành các lớp tương đương, mỗi lớp được gọi là một thành phần liên thông của một đồ thị.Thành phần liên thông mạnhThành phần liên thông mạnh của một đồ thị có hướng là một đồ thị con, trong đó từ mỗi đỉnh của nó đều có đường đi đến mọi đỉnh khác.Thống trịĐỉnh v thống trị đỉnh u nếu có một cạnh từ v tới u. Một tập đỉnh V thống trị một tập đỉnh U khác nếu mọi đỉnh trong U đều thuộc V hoặc kề với một đỉnh nào đó trong V. Kích thước của tập thống trị nhỏ nhất được gọi là chỉ số thống trị γ(G).
Tập đỉnh S được gọi là thống trị ngoài (out-dominating) nếu mọi đỉnh ngoài S đều bị thống trị bởi một đỉnh nào đó thuộc S; gọi là thống trị trong (in-dominating) nếu mọi đỉnh thuộc S đều bị thống trị bởi một đỉnh nào đó không thuộc S.Trọng sốlà các giá trị thường được gán cho các cạnh của đồ thị. Trọng số thường là các số thực. Chúng có thể bị giới hạn trong phạm vi số hữu tỷ hoặc số nguyên. Một số thuật toán có thể đòi hỏi các giới hạn khác đối với trọng số. Chẳng hạn, thuật toán Dijkstra chỉ dùng được cho các trọng số dương. Trọng số của đường đi hoặc trọng số của cây trong một đồ thị có trọng số là tổng trọng số của các cạnh được chọn. Đôi khi một cạnh không tồn tại được gán một trọng số đặc biệt để biểu diễn giá trị vô cùng. Từ chi phí' đôi khi được dùng để chỉ trọng số.
Xem thêm
Đồ thị (toán học)
Lý thuyết đồ thị
Danh sách các chủ đề lý thuyết đồ thị
Tham khảo
Bollobás, Béla (1998). Modern Graph Theory. New York: Springer-Verlag. ISBN 0-387-98488-7. [Nhiều chủ đề nâng cao kèm thêm tổng quan về quá trình phát triển tai cuối mỗi chương.]
West, Douglas B. (2001). Introduction to Graph Theory (2ed). Upper Saddle River: Prentice Hall. ISBN 0-13-014400-2. [Nhiều minh họa, tham khảo, và bài tập. Hướng dẫn hoàn chỉnh nhất về chủ đề này.]
Eric W. Weisstein. "Graph." From MathWorld—A Wolfram Web Resource. http://mathworld.wolfram.com/Graph.html
Zaslavsky, Thomas. Glossary of signed and gain graphs and allied areas. Electronic Journal of Combinatorics'', Dynamic Surveys in Combinatorics, # DS 8. http://www.combinatorics.org/Surveys/
Lý thuyết đồ thị
Lý thuyết đồ thị
cs:Podgraf
de:Teilgraph
he:תת גרף
pl:Podgraf
pt:Subgrafo
sk:Podgraf
|
26324
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Huy%20hi%E1%BB%87u%20Ohio
|
Huy hiệu Ohio
|
Đại Huy hiệu Tiểu bang Ohio (tiếng Anh: The Great Seal of the State of Ohio) gồm có huy hiệu vòng tròn của Ohio và "THE GREAT SEAL OF THE STATE OF OHIO", viết chung quanh theo kiểu Gôtic báo. Huy hiệu Ohio có một bó mì, tượng trưng nông nghiệp và thịnh vượng; một bó 17 mũi tên, tượng trưng Ohio được nhận vào Hoa Kỳ là tiểu bang thứ 17; hình Núi Logan, Quận Ross, nhìn từ Đài Kỷ niệm Tiểu bang Adena; ba phần tư của Mặt Trời đằng sau núi, tỏa ra 13 tia nắng để tượng trưng 13 tiểu bang đầu tiên, chiếu sáng vào tiểu bang đầu tiên của Lãnh thổ Tây Bắc; và hình sông Scioto và sân cỏ.
Đại hội đồng Ohio, cơ quan lập pháp của tiểu bang, đã định rõ huy hiệu tiểu bang trong Bộ luật Cập nhật Ohio, chương 5, đoạn 4. Đại Huy hiệu được định rõ vào đoạn 10. Định nghĩa này thay đổi khoảng 10 lần trong lịch sử Ohio.
Xem thêm
Đối với Thiên Chúa, mọi sự đều có thể được là tiêu ngữ (motto) của tiểu bang Ohio.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Điều 5.04 của Bộ luật Cập nhật Ohio (Lawriter) – định rõ huy hiệu (coat of arms) (tiếng Anh)
Điều 5.10 của Bộ luật Cập nhật Ohio (Lawriter) – định rõ huy hiệu (seal) (tiếng Anh)
Lịch sử của Đại Huy hiệu, từ Netstate.com (tiếng Anh)
Ohio
Ohio
|
26342
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C6%B0%20Lai
|
Như Lai
|
Như Lai (zh. 如來, sa., pi. तथागत tathāgata) là một danh hiệu của Phật được dịch từ tathāgata của tiếng Phạn. Chiết tự của tathāgata là tathā + āgata, và có thể được hiểu là "Người đã đến như thế" hoặc "Người đã đến từ cõi chân như". Sinh thời, Thích-ca-mâu-ni sử dụng danh từ này để tránh sử dụng ngôi thứ nhất "ta", "tôi" trong lúc giảng dạy, thuyết Pháp, để thể hiện sự khiêm tốn. Về sau, Như Lai được biến đổi thành một danh hiệu chỉ một vị Đại Bồ Tát đã đến bậc giác ngộ cao nhất, bậc Chính đẳng chính giác (sa. samyaksambuddha). Như Lai là một trong mười danh hiệu của một vị Phật.
Với sự phát triển của Phật giáo theo thời gian, ý nghĩa của danh từ Như Lai đã biến đổi. Trong Đại thừa, Như Lai chỉ Ứng thân (sa. nirmāṇakāya, Tam thân) của Phật. Đó là con người toàn hảo, có thể xuất hiện dưới mọi dạng khác nhau, có Thập lực (sa. daśabala) của một vị Phật. Như Lai cũng là sự biểu hiện cụ thể của Chân như (sa. tathatā), thể tính của vũ trụ, được xem là sứ giả trực tiếp của Chân như, là gạch nối giữa hiện tượng và bản thể. Trong nhiều trường hợp, Như Lai được xem là đồng nghĩa với Trí huệ (sa. prajñā) và tính Không (sa. śūnyatā). Trong kinh Kim Cương, đức Phật giảng: Như Lai là một thực tại như thế, không từ đâu đến cũng chẳng đi về đâu. Ngũ trí Như Lai là 5 vị Phật tối cao của Phật giáo Tây Tạng và Mật tông.
Xem thêm
Ngũ trí Như Lai
Tất-đạt-đa Cồ-đàm
Không tính
Phật tính
Vô ngã
Ngộ
Bát chính đạo
Tham khảo
Sách tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-guang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren, Bern 1986.
Triết lý Phật giáo
Thuật ngữ và khái niệm Phật giáo
Phật
|
26348
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/N%C3%BAi%20l%E1%BB%ADa
|
Núi lửa
|
Nguy hiểm địa chất
Hoạt động núi lửa
Kiến tạo mảng
Địa mạo núi lửa
Núi lửa học
Núi lửa (tiếng Anh: Volcano) là một vết đứt gãy trên lớp vỏ của một hành tinh, như là Trái Đất cho phép dung nham, tro núi lửa, và khí thoát ra từ một lò magma ở dưới bề mặt.
Núi lửa trên Trái Đất xảy ra vì lớp vỏ của nó được chia thành 7 mảng kiến tạo lớn, cứng rắn nổi trên lớp phủ nóng hơn và mềm hơn. Do đó, trên Trái Đất, núi lửa thường xuất hiện những ranh giới giữa các mảng kiến tạo, và hầu hết là ở dưới nước. Ví dụ, một sống núi giữa đại dương, như là sống núi giữa Đại Tây Dương, có núi lửa do các mảng kiến tạo phân kỳ, trong khi vành đai lửa Thái Bình Dương có núi lửa do các mảng kiến tạo hội tụ. Núi lửa cũng có thể hình thành nơi các mảng kiến tạo kéo dài và mỏng đi, ví dụ như ở đới tách giãn Đông Phi hay cánh đồng núi lửa Wells Gray-Clearwater và đới tách giãn Rio Grande tại Bắc Mỹ. Loại hoạt động núi lửa này thuộc "thuyết mảng". Hoạt động núi lửa không gần ranh giới mảng kiến tạo cũng có xuất hiện, và được giải thích là các chùm manti. Những "điểm nóng", ví dụ như Hawaii, được cho là hình thành từ nếp trồi với magma dâng lên từ ranh giới lớp lõi – lớp phủ, sâu 3,000 km trong lòng Trái Đất. Núi lửa thường không được tạo ra khi hai mảng kiến tạo trượt lên nhau.
Núi lửa phun trào có thể tạo nên nhiều mối nguy hiểm, không chỉ trong khu vực lân cận của vụ phun trào. Một mối đe dọa là tro núi lửa, ảnh hưởng xấu đến máy bay, đặc biệt là những loại có động cơ phản lực, có thể làm nóng chảy những hạt tro, sau đó tro nóng chảy sẽ dính vào cánh tua bin và thay đổi hình dạng, làm hỏng tua bin. Những vụ phun trào lớn có thể thay đổi nhiệt độ bởi tro và những giọt axit sulfuric che mờ mặt trời và làm tầng khí quyển thấp (tầng đối lưu); tuy nhiên, chúng cũng hấp thụ nhiệt lượng tỏa ra từ Trái Đất, làm ấm lớp khí quyển cao hơn (tầng bình lưu). Trong quá khứ, mùa đông núi lửa đã gây ra những nạn đói trên diện rộng.
Từ nguyên
Trong tiếng Anh, từ volcano dùng để chỉ núi lửa có nguồn gốc từ Vulcano, một hòn đảo núi lửa thuộc quần đảo Eolie của Ý. Cái tên đó lại bắt nguồn từ Vulcan, vị thần của lửa trong thần thoại La Mã. Ngành nghiên cứu tính chất và hoạt động của núi lửa được gọi là núi lửa học.
Kiến tạo mảng
Ranh giới mảng phân kỳ
Tại các sống núi giữa đại dương, hai mảng kiến tạo tách xa nhau, đồng thời đá nóng chảy nguội dần và hóa cứng tạo thành vỏ đại dương mới. Lớp vỏ rất mỏng ở những sống núi này do lực kéo của các mảng kiến tạo khiến cho áp lực được giải phóng, dẫn đến sự giãn nở đoạn nhiệt (không có sự truyền nhiệt hay vật chất) và làm lớp manti tan chảy một phần, gây ra núi lửa và tạo thành vỏ đại dương mới. Hầu hết ranh giới tách giãn nằm ở đáy đại dương; do đó, hầu hết hoạt động núi lửa trên Trái Đất xảy ra dưới mặt nước, hình thành nên đáy biển mới. Miệng phun thủy nhiệt là bằng chứng cho dạng hoạt động húi lửa này. Nếu sống núi giữa đại dương nằm trên mặt nước biển, các đảo núi lửa, ví dụ như Iceland.
Ranh giới mảng hội tụ
Các đới hút chìm là những nơi mà hai mảng va chạm, thường là một mảng đại dương và một mảng lục địa. Trong trường hợp này, mảng đại dương bị hút xuống dưới mảng lục địa, tạo thành một rãnh đại dương ngay ngoài bờ biển. Trong một quá trình gọi là tan chảy dòng (tiếng Anh: flux melting), nước thoát ra từ mảng nằm dưới làm giảm nhiệt độ nóng chảy của lớp manti nằm trên, tạo thành magma. Magma này thường cực kỳ nhớt do thành phần chứa nhiều silica, vì vậy nó thường không nổi lên bề mặt mà nguội đi và hóa cứng ở dưới sâu. Nhưng nếu nó lên đến bề mặt, một núi lửa sẽ được hình thành. Những ví dụ điển hình gồm Núi Etna và núi lửa trong Vành đai lửa Thái Bình Dương.
Điểm nóng
Điểm nóng là những khu vực núi lửa được cho là hình thành từ các chùm manti, tức là những cột vật chất nóng chảy dâng lên từ ranh giới lớp lõi - lớp phủ. Do các mảng kiến tạo di chuyển qua chúng, các núi lửa ngủ yên và chỉ hoạt động lai khi mảng kiến tạo di chuyển qua chùm manti đã có. Quần đảo Hawaii được cho là hình thành theo cách như thế; cũng như hõm chảo Yellowstone, một phần của mảng Bắc Mỹ nằm trên một điểm nóng. Tuy nhiên, giả thuyết này đã bị nghi ngờ.
Phân loại
Hình ảnh phổ biến nhất của núi lửa là một ngọn núi hình nón, phun dung nham và khí độc từ miệng ở trên đỉnh núi; tuy nhiên, đây chỉ là một trong nhiều dạng núi lửa. Đặc điểm của núi lửa phức tạp hơn rất nhiều và cấu tạo và hoạt động của chúng phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Một số núi lửa có đỉnh gồ ghề hình thành từ vòm dung nham thay vì miệng núi lửa trong khi những núi lửa khác có đặc điểm cảnh quan như cao nguyên lớn. Các miệng phun vật chất núi lửa (bao gồm dung nham và tro) và khí có thể xuất hiện trên bất kì địa mạo nào và có thể hình thành nên những nón núi lửa nhỏ hơn như Puu Ōō ở rìa của hòn đảo Kīlauea thuộc Hawaii. Các dạng núi lửa khác bao gồm núi lửa băng, cụ thể là trên một số mặt trăng của sao Mộc, sao Thổ và sao Hải Vương; và núi lửa bùn, dạng núi lửa có sự hình thành không xuất hiện hoạt động magma. Núi lửa bùn hoạt động thường có nhiệt độ thấp hơn nhiều so với núi lửa magma, trừ trường hợp núi lửa bùn đó là một lỗ phun của một núi lửa magma.
Vết nứt núi lửa
Vết nứt núi lửa là những khe nứt bằng, thẳng mà từ đó dung nham phun trào.
Núi lửa hình khiên
Núi lửa hình khiên, với hình dạng rộng giống cái khiên, được hình thành từ sự phun trào dung nham có độ nhớt thấp và di chuyển xa khỏi lỗ phun. Chúng thường không nổ lớn khi phun trào. Do dung nham ít nhớt thường chứa ít silica, núi lửa hình khiên xuất hiện nhiều ở khu vực biển hơn là đất liền. Dãy núi lửa Hawaii là một chuỗi cái núi lửa hình khiên, ngoài ra chúng cũng phổ biến tại Iceland.
Vòm dung nham
Vòm dung nham hình thành từ dung nham có độ nhớt cao chảy chậm. Đôi khi chúng xuất hiện trong miệng núi lửa của một vụ phun trào trước đó, như trong trường hợp của Núi St. Helens, nhưng cũng có thể hình thành riêng biệt, như Đỉnh Lassen. Giống với núi lửa dạng tầng, vòm dung nham có thể tạo ra những vụ phun trào mạnh, nhưng dung nham của chúng thường không đi xa khỏi lỗ phun.
Vòm ẩn
Vòm ẩn được hình thành từ dung nham nhớt bị đẩy lên khiến bề mặt đất phình lên. Vụ phun trào núi St. Helens năm 1980 là một ví dụ; dung nham dưới bề mặt ngọn núi tạo một chỗ phồng lên trên bề mặt, chỗ phồng này sau đó trượt xuống sườn bắc của ngọn núi.
Nón núi lửa (nón than)
Nón núi lửa hay nón than hình thành từ các mảnh scoria và đá mạt vụn núi lửa (cả hai đều giống than xỉ, từ đó có tên gọi của loại núi lửa này) tích tụ xung quanh lỗ thông. Các vụ phun trào này thường không dài, hình thành những ngọn đồi hình nón cao từ 30 đến 400 mét. Hầu hết nón than chỉ phun trào một lần. Nón than có thể xuất hiện trên sườn của những ngọn núi lửa lớn hơn, hoặc xuất hiện riêng lẻ. Parícutin ở Mexico và miệng núi lửa Sunset ở Arizona là những ví dụ của nón than. Tại New Mexico, Caja del Rio là một cánh đồng núi lửa gồm hơn 60 nón than.
Dựa trên hình ảnh vệ tinh, người ta cho rằng nón than có thể xuất hiện trên những vật thể khác trong hệ mặt trời, như trên bề mặt của sao Hỏa và mặt trăng.
Núi lửa dạng tầng
Núi lửa dạng tầng hay núi lửa hỗn hợp là những ngọn núi lửa cao hình nón gồm nhiều lớp dung nham, tro và những vật chất khác. Núi lửa dạng tầng còn được gọi là núi lửa hỗn hợp do chúng được tạo thành từ nhiều cấu trúc khác nhau trong các vụ phun trào. Núi lửa dạng tầng có than xỉ, và tro chồng lên nhau, dung nham chảy trên lớp tro rồi nguội đi và cứng lại, sau đó quá trình này lặp lại. Các vị dụ điển hình là Núi Phú Sĩ ở Nhật Bản, Núi lửa Mayon ở Philippines, và Núi Vesuvius và Stromboli ở Ý.
Trong lịch sử được ghi chép, tro từ các vụ phun trào núi lửa của núi lửa dạng tầng là mối nguy hiểm lớn nhất từ núi lửa đến các nền văn minh. Núi lửa dạng tầng có áp lực lớn hơn núi lửa khiên do những dòng chảy dung nham trong lòng núi lửa, đồng thời vết nứt núi lửa và nón núi lửa của chúng cũng phun trào mạnh hơn. Núi lửa dạng tầng cũng dốc hơn núi lửa hình khiên, với độ dốc khoảng 30-35° so với độ dốc 5–10°, và mạt vụn núi lửa tạo nên những lahar nguy hiểm. Những mạt vụn lớn được gọi là bom núi lửa. Những quả bom lớn có thể dài đến 1.2 mét và nặng vài tấn.
Siêu núi lửa
Một siêu núi lửa thường có hõm chảo lớn và có sức phả hủy trên quy mô lớn, đôi khi là toàn lục địa. Những ngọn núi lửa như thế có khả năng làm giảm nhiệt độ toàn cầu trong nhiều năm sau khi phun trào do lượng lớn lưu huỳnh và tro phóng ra khí quyển. Đây là loại núi lửa nguy hiểm nhất. Các ví dụ bao gồm hõm chảo Yellowstone trong Vườn quốc gia Yellowstone và hõm chảo Valles tại New Mexico (cả hai đều ở miền Tây nước Mỹ); hồ Taupo tại New Zealand; hồ Toba ở Sumatra, Indonesia; và Miệng núi lửa Ngorongoro ở Tanzania. Do chúng trải dài trên một khu vực rộng lớn, siêu núi lửa thường khó được định vị nhiều thế kỉ sau một cuộc phun trào. Tương tự, các tỉnh thạch học lớn (, LIP) cũng được coi là siêu núi lửa do lượng dung nham bazan lớn được phun trào (tuy rằng không nổ lớn khi phun trào).
Núi lửa dưới nước
Núi lửa ngầm thường xuất hiện trên mặt đáy biển. Ở vùng nước nông, núi lửa đang hoạt động phun khói và vụn đá lên trên bề mặt nước biển, khiến chúng dễ được nhận ra. Ở những vùng sâu hơn, áp suất của tầng nước bên trên quá lớn nên núi lửa không thể phun vật chất ra ngoài đủ mạnh; tuy nhiên, chúng vẫn có thể được phát hiện bằng hydrophone và sự đổi màu nước do khí núi lửa. Dung nham gối là một sản phẩm thường thấy của núi lửa ngầm và đặc trưng bởi những chuỗi khối hình gối không liên tục hình thành dưới nước. Ngay cả những vụ phun trào lớn dưới nước có thể không có tác động lớn do khả năng làm nguội nhanh và lực nổi lớn (so với không khí) của nước. Các miệng phun thủy nhiệt cũng hay xuất hiện gần những núi lửa ngầm, và một số có cả hệ sinh thái xung quanh.
Năm 2018, một loạt các tín hiệu địa chấn được phát hiện bởi các cơ quan theo dõi động đất khắp thế giới trong tháng 6 và tháng 7. Chúng tạo ra những âm thanh kỳ lạ và một số tín hiệu bắt được vào tháng 11 cùng năm kéo dài đến 20 phút. Tháng 5 năm 2019, một chiến dịch hải dương cho thấy những âm thanh kỳ lạ trước đó xuất phát từ sự hình thành của một núi lửa ngầm ngoài khơi Mayotte.
Núi lửa dưới băng
Núi lửa dưới băng hình thành dưới các chỏm băng từ những lớp dung nham chảy trên những dung nham gối và palagonit. Khi chỏm băng tan, dung nham ở trên sụp đổ, để lại một ngọn núi bằng. Những ngọn núi lửa này còn được gọi là núi bàn hay tuya. Loại núi lửa này có thể được tìm thấy ở Iceland, ngoài ra các tuya cũng có ở British Columbia, Canada. Nguồn gốc cái tên "tuya" là từ Butte Tuya, một trong vài tuya ở khu vực Sông Tuya và Dãy Tuya miền bắc British Columbia.
Núi lửa bùn
Núi lửa bùn hay mái vòm bùn hình thành từ bùn hoặc bột nhão, nước và khi thoát ra từ phun trào. Núi lửa bùn, không như núi lửa thông thường, không phun trào dung nham. Chúng có thể rộng đến 10 km và cao đến 700 mét.
Vật chất phun trào
Thành phần dung nham
Một cách phân loại núi lửa là dựa vào thành phần của vật chất được phun trào (dung nham), do nó ảnh hưởng đến hình dáng núi lửa. Dung nham có thể được chia thành bốn nhóm lớn, dựa vào tỉ lệ silica có trong magma.
Felsic
Nếu magma phun trào chứa lượng lớn silica (>63%), dung nham được gọi là felsic. Nếu thành phần silica lớn hơn 69%, chúng được gọi là rhyolit, nếu nằm trong khoảng 63–69% là dacit. Dung nham felsic thường có độ nhớt cao và phun trào thành mái vòm hay những dòng chảy ngắn. Dung nham nhớt thường hình thành núi lửa tầng hay mái vòm dung nham. Đỉnh Lassen tại California là một núi lửa hình thành từ dung nham felsic và thực chất là một mái vòm dung nham lớn.
Do magma chứa nhiều silica có độ nhớt cao, chúng thường nhốt khí lại, khiến magma phun trào rất mạnh, tạo thành núi lửa tầng. Luồng mạt vụn núi lửa (ignimbrit) là sản phẩm rất nguy hiểm của núi lửa dạng này, do chúng chứa tro núi lửa bị nóng chảy quá nặng để bay lên không khí, nhưng vẫn đủ nhẹ để di chuyển rất nhanh và xa khỏi nơi phun trào. Những dòng chảy này có nhiệt độ lên đến 1.200 °C, đốt cháy mọi thứ trên đường đi, trong khi những mạt vụn có thể dồn lại thành lớp dày đến vài mét. Thung lũng Vạn khói ở Alaska, hình thành từ sự phun trào của Novarupta gần Núi Katmai năm 1912, là một ví dụ của luồng mạt vụn dày. Tro núi lửa đủ nhẹ để bay vào khí quyển Trái Đất có thể đi hàng kilômét trước khi rơi xuống đất thành tuff.
Trung gian
Nếu magma phun trào chứa 52–63% silica, gọi chung là có thành phần trung gian, dung nham được gọi là andesit (xuất phát từ dãy Andes). Những núi lửa andesit thường chỉ xuất hiện trên những đới hút chìm, ví dụ như Núi Merapi ở Indonesia. Dung nham andesit thường hình thành tại ranh giới hội tụ của những mảng kiến tạo qua một vài quá trình:
Kết tinh phân đoạn của magma mafic (xem ở dưới)
Nóng chảy từng phần của vật chất trong lớp vỏ
Sự trộn lẫn magma rhyolit và magma bazan mafic trong một buồng chứa trung gian
Mafic
Nếu lượng silica trong magma nằm trong khoảng 45–52%, dung nham được gọi là mafic, do chứa lượng lớn magie (Mg) và sắt (Fe)) hay bazan. Dung nham dạng này thường ít nhớt hơn nhiều so với dung nham rhyolit, tùy thuộc vào nhiệt độ phun trào; chúng cũng thường nóng hơn dung nham felsic. Dung nham mafic xuất hiện trong nhiều trường hợp:
Ở những sống núi giữa đại dương, nơi hai mảng kiến tạo rời xa nhau làm dung nham bazan phun trào, hình thành nên dung nham gối;
Núi lửa hình khiên (như Quần đảo Hawaii, bao gồm Mauna Loa và Kilauea), trên vỏ đại dương và lục địa;
Lũ bazan trên lục địa.
Ultramafic
Magma phun trào chứa ≤45% silica tạo ra dung nham ultramafic. Dòng chảy ultramafic, còn được gọi là komatiite, rất hiếm; chỉ có vài dòng chảy như thế xuất hiện trên bề mặt Trái Đất kể từ Liên đại Nguyên Sinh hàng trăm triệu năm về trước. Chúng là những dung nham nóng nhất, và có lẽ lỏng hơn dung nham mafic thông thường.
Dòng chảy dung nham
Hai loại dòng chảy dung nham bazan được đặt tên theo kết cấu bề mặt: Aa (phát âm ) và pāhoehoe (), cả hai đều là từ tiếng Hawaii. Aa có bề mặt thô giống clinker và thường thấy ở những dòng chảy dung nham nhớt. Ngay cả dòng chảy bazan hay mafic cũng có thể phun trào thành aa, đặc biệt khi vụ nổ mạnh và sườn núi dốc.
Pāhoehoe được đặc trưng bởi bề mặt trơn và gợn sóng hay nhăn nheo. Nó hình thành từ những dòng chảy dung nham lỏng, thường là dòng mafic với nhiệt độ cao và thành phần hóa học thích hợp giúp chúng chảy dễ hơn.
Hoạt động núi lửa
Một cách phân loại núi lửa phổ biến là dựa trên tần suất hoạt động, với những núi lửa phun trào thường xuyên được gọi là còn hoạt động (hay đang hoạt động), những ngọn đã từng phun trào trong quá khứ nhưng bây giờ thì không gọi là ngủ yên hoặc không hoạt động, và những núi lửa không phun trào nữa được coi là đã tắt. Tuy nhiên hệ thống phân loại này, đặc biệt là loại đã tắt, thường không mang nhiều ý nghĩa đối với các nhà khoa học. Các nhà núi lửa học sử dụng quá trình hình thành và phun trào cũng như hình dáng của chúng để phân loại.
Còn hoạt động
Không có định nghĩa thống nhất giữa các nhà núi lửa học về một núi lửa "còn hoạt động". Tuổi đời của núi lửa có thể trải dài từ vài tháng đến vài triệu năm, khiến cho phân loại như thế hầu như vô dụng khi so với tuổi đời của con người hay thậm chí nền văn minh. Ví dụ, nhiều núi lửa đã phun trào hàng chục lần trong hàng ngàn năm qua nhưng hiện không có dấu hiệu phun trào. Xét trên tuổi đời của chúng, những núi lửa này rất tích cực, nhưng xét trên khoảng thời gian của con người, chúng không còn hoạt động.
Các nhà khoa học thường coi một núi lửa có khả năng phun trào nếu nó có dấu hiệu bất ổn như động đất khác thường hoặc lượng lớn khí ga thoát ra. Nhiều người coi một núi lửa còn hoạt động (tiếng Anh: active) nếu nó từng phun trào trong 10.000 năm qua (thế Holocene)—Chương trình núi lửa toàn cầu của viện Smithsonian sử dụng định nghĩa này. Hầu hết núi lửa còn hoạt động nằm trên Vành đai lửa Thái Bình Dương. Khoảng 500 triệu người sống gần các núi lửa còn hoạt động.
Lịch sử được ghi chép là một khoảng thời gian khác để chỉ còn hoạt động. Quyển Catalogue of the Active Volcanoes of the World, xuất bản bởi Hiệp hội Quốc tế về Núi lửa, sử dụng định nghĩa này, gồm hơn 500 ngọn núi lửa. Tuy nhiên, lịch sử được ghi chép ở mỗi khu vực là khác nhau. Tại Trung Quốc và vùng Địa Trung Hải, nó bắt đầu từ gần 3.000 năm trước, nhưng ở tây bắc Thái Bình Dương tại Mỹ và Canada, ít hơn 300 năm, và tại Hawaii và New Zealand, chỉ khoảng 200 năm.
Đã tắt
Núi lửa đã tắt là những núi lửa được coi là không có khả năng phun trào lần nữa do nguồn magma của nó bị cạn kiệt. Một số ví dụ là các núi lửa trên chuỗi núi ngầm Hawaii–Emperor ở Thái Bình Dương (tuy một số núi lửa ở mạn đông vẫn còn hoạt động), Hohentwiel ở Đức, Shiprock ở bang New Mexico, núi lửa Zuidwal tại Hà Lan, và nhiều núi lửa ở Ý như Monte Vulture. Lâu đài Edinburgh tại Scotland nằm trên một ngọn núi lửa đã tắt. Trong nhiều trường hợp, việc xác định liệu một ngọn núi lửa có thực sự đã tắt không dễ. Do các hõm chảo siêu núi lửa có thể có tuổi đời lên đến hàng triệu năm, một hõm chảo không phun trào trong vài chục ngàn năm thường được coi là ngủ yên thay vì đã tắt. Một số nhà núi lửa học gọi núi lửa đã tắt là ngừng hoạt động, tuy nhiên từ này thường dùng để chỉ những núi lửa được coi là đã tắt nhưng hóa ra là đang ngủ.
Ngủ yên
Không dễ để phân biệt một núi lửa đã tắt với một núi lửa ngủ yên (ngừng hoạt động). Núi lửa ngủ yên là những núi lửa ngừng phun trào trong vài ngàn năm, nhưng có khả năng tiếp tục phun trào trong tương lai. Núi lửa thường được coi là đã tắt nếu không có ghi chép gì về hoạt động phun trào của nó. Mặc dù vậy, núi lửa có thể ngủ yên trong thời gian rất dài, để rồi lại phun trào. Ví dụ, núi lửa Yellowstone có thời gian ngủ yên khoảng 700.000 năm, và núi lửa Toba khoảng 380.000 năm. Núi lửa Vesuvius, theo lời các học giả La Mã, được phủ bởi mảng xanh và vườn nho trước vụ phun trào năm 79, phá hủy các thành phố Herculaneum và Pompeii. Trước vụ phun trào thảm khốc năm 1991, Pinatubo là một núi lửa ít được biết đến với người dân xung quanh. Hai ví dụ khác nữa là núi lửa Soufrière Hills trên đảo Montserrat, được cho là đã tắt trước khi hoạt động trở lại vào năm 1995, và Núi Fourpeaked ở Alaska, ngủ yên hơn 10.000 năm và được cho là đã tắt, nhưng lại phun trào vào tháng 9 năm 2006.
Phun trào núi lửa
Phun trào núi lửa, hiện tượng dung nham, mạt vụn và khí thoát ra ngoài miệng núi lửa, có nhiều loại khác nhau, và thường được đặt tên theo những ngọn núi lửa nổi tiếng nơi diễn ra loại phun trào ấy. Ba loại phun trào núi lửa chính là phun trào magma, phun trào phreatomagma, và phun trào phreatic. Ngoài ra, người ta cũng chia các vụ phun trào thành phun trào bùng nổ (explosive), với những vụ nổ khí đẩy magma và mạt vụn lên cao, và phun trào chảy tràn (effusive), trong đó dung nham chảy ra mà không có vụ nổ lớn nào.
Chỉ số sức nổ núi lửa (hay chỉ số VEI) là một thang đo từ 0 đến 8 để đánh giá độ mạnh của vụ phun trào, được dùng bởi Chương trình Núi lửa Toàn cầu của Viện Smithsonian. Nó hoạt động giống với thang đo Richter dùng cho động đất, trong đó mỗi khoảng giá trị tượng trưng cho sự tăng gấp 10 lần trong độ lớn (tức là thang logarit). Hầu hết các vụ phun trào núi lửa có VEI nằm trong khoảng từ 0 đến 2.
Phun trào magma
Phun trào magma được đặc trưng bởi sự phóng đá vụn, dung nham và tro trong những đợt bùng nổ do áp suất khí trong lòng núi lửa. Độ lớn của loại phun trào này trải dài từ những đài dung nham trên Hawaii đến những cột phun trào cao hơn 30 km. Các loại phun trào magma chính đều được đặt tên theo tên núi lửa nổi tiếng, bao gồm phun trào Hawaii, phun trào Stromboli, phun trào Vulcan, phun trào Pelée và phun trào Pliny.
Phun trào Hawaii là loại phun trào nhẹ nhất, chủ yếu là phun trào chảy tràn dung nham dạng bazan rất nhớt và ít khí. Chúng có thể kéo dài trong thời gian rất lâu; Puʻu ʻŌʻō, một nón núi lửa trên đảo Kīlauea, đã phun trào suốt 35 năm, còn núi Etna trên đảo Sicily thì hoạt động gần như liên tục. Ngược lại, phun trào Pliny, đặt tên theo Pliny Trẻ, người ghi chép về vụ phun trào núi Vesuvius năm 79, lại mạnh hơn rất nhiều, với những cột núi lửa cao đặc trưng, lên tới 2 đến 45 km vào bầu khí quyển.
Phun trào phreatomagma
Phun trào phreatomagma xuất phát từ sự gặp nhau của nước và magma. Chênh lệch nhiệt độ lớn giữa hai chất này dẫn đến phản ứng co nhiệt dữ dội, tạo thành đợt phun trào. Sản phẩm của phun trào phreatomagma được cho là đều và mịn hơn so với phun trào magma do sự khác biệt trong cơ chế phun trào.
Các dạng phun trào phreatomagma gồm có phun trào Surtsey, đặt tên theo hòn đảo núi lửa Surtsey ngoài khơi Iceland, phun trào ngầm diễn ra ở dưới nước, và phun trào dưới băng do dung nham và băng gặp nhau tạo thành.
Phun trào phreatic
Phun trào phreatic (hay phun trào hơi nước) là dạng phun trào do sự giãn nở của hơi nước. Khi mặt đất hay mặt nước lạnh tiếp xúc với đá nóng hay magma nó trở nên nóng nhanh và nổ, phá vỡ lớp đá xung quanh và đẩy ra một hỗn hợp hơi nước, nước, tro, bom và khối núi lửa. Điểm đặc biệc của những vụ nổ phreatic là chúng chỉ bắn ra những mảnh vụn của đá có trong lòng núi lửa chứ không phun ra magma từ dưới lòng đất.
Núi lửa nổi bật
Hoạt động tích cực
Ngọn núi lửa thường được xem là hoạt động tích cực nhất là Kīlauea, ngọn núi lửa nổi tiếng ở Hawaii, phun trào gần như liên tục từ năm 1983 đến năm 2018 (dung nham chảy trên mặt đất suốt thời gian này), và có hồ dung nham lâu nhất được ghi nhận. Một số núi lửa tích cực khác là:
Núi Etna và núi Stromboli, hai núi lửa nổi tiếng vùng Địa Trung Hải ngoài khơi nước Ý.
Piton de la Fournaise, thuộc Réunion, là một địa điểm tham quan nổi tiếng.
Núi Nyiragongo và người hàng xóm Nyamuragira, là những ngọn núi lửa tích cực nhất châu Phi.
Ol Doinyo Lengai tại Tanzania
Erta Ale, thuộc Tam giác Afar, đã có một hồ dung nham từ ít nhất 1906.
Núi Merapi tại Indonesia, phun trào nhiều lần từ năm 2006 đến nay.
Núi lửa Mayon, núi lửa tích cực nhất Philippines, phun trào hơn 47 lần trong 500 năm qua.
Ambrym thuộc quần đảo Vanuatu.
Núi lửa Arenal thuộc Costa Rica, phun trào từ 1968 đến 2010.
Pacaya tại Guatemala, Trung Mỹ, phun trào thường xuyên từ 1961 đến nay.
Klyuchevskaya Sopka, Sheveluch và Karymsky là những núi lửa tích cực nhất bán đảo Kamchatka, Nga.
Núi Erebus tại Nam Cực
Theo dữ liệu của Chương trình Núi lửa Toàn cầu, tính đến ngày 4 tháng 6 năm 2020, những núi lửa với thời gian phun trào dài nhất (bỏ qua những khoảng thời gian ngừng hoạt động dưới ba tháng) là:
Núi Yasur, 246 năm
Santa María, 98 năm
Dukono, 87 năm
Stromboli, 86 năm
Sangay, 77 năm
Tất cả ngọn núi lửa trên, trừ núi lửa Sangay tại Ecuador, đều vẫn đang hoạt động trong tháng 6 năm 2020.
Núi lửa Thập niên
Núi lửa Thập niên là 16 núi lửa được Hiệp hội Quốc tế về Núi lửa và Hóa học lòng Trái Đất (IAVCEI) liệt kê là đáng chú ý do từng có những vụ phun trào lớn và nằm gần khu vực có người ở. Chúng được đặt tên là Núi lửa Thập niên vì dự án này được khởi xướng bởi Thập niên Quốc tế về Giảm thiểu Thiên tai (những năm 1990) do Liên Hợp Quốc tài trợ. Dự án này khuyến khích nghiên cứu và các hoạt động tuyên truyền nhằm đạt được sự hiểu biết và khả năng chuẩn bị trong trường hợp thiên tai.
Bảng sau liệt kê 16 núi lửa thập niên này.
Ảnh hưởng
Có nhiều loại phun trào núi lửa và tương ứng với đó là các mối nguy hiểm với con người, như vụ nổ phun trào, lở đất, lahar, dòng chảy pyroclastic, khí núi lửa.
Khí núi lửa
Hơi nước thường là khí núi lửa phổ biến nhất, theo sau là cacbon dioxide và lưu huỳnh dioxide. Những khí núi lửa thường gặp khác bao gồm hydro sulfide, hydro chloride, và hydro fluoride. Một lượng lớn các khí hydro, cacbon monoxit, halocacbon, hợp chất hữu cơ, và muối chloride kim loại cũng tồn tại trong khí núi lửa.
Mùa đông núi lửa
Những vụ phun trào núi lửa lớn phun hơi nước (H2O), cacbon dioxide (CO2), lưu huỳnh dioxide (SO2), hydro chloride (HCl), hydro fluoride (HF) và tro (đá mịn và đá bọt) vào tầng bình lưu ở độ cao 16–32 kilomét trên bề mặt Trái Đất. Tác động lớn nhất của chúng đến từ việc chuyển đổi lưu huỳnh dioxít thành axít sulfuric (H2SO4), ngưng tụ nhanh trong tầng bình lưu, tạo thành aerosol sulfat. Những aerosol này làm tăng suất phản chiếu của Trái Đất và làm lạnh đi tầng khí quyển thấp, trong khi hấp thụ nhiệt từ bề mặt và làm ấm tầng bình lưu. Một vài vụ phun trào núi lửa lớn trong thập niên qua đã làm nhiệt độ trung bình của bề mặt Trái Đất giảm đến 0,4 độ C.
Lịch sử
Một số giả thiết cho rằng hoạt động núi lửa đã gây ra hoặc góp phần vào các sự kiện tuyệt chủng cuối Ordovic, Permi-Trias, Devonian muộn. Sự kiện phun trào hình thành nên bẫy Siberia diễn ra trong một triệu năm và nhiều khả năng đã gây ra sự kiện tuyệt chủng kỷ Permi–kỷ Trias khoảng 250 triệu năm trước, được ước tính là đã giết đến 90% số loài khi đó.
Một mùa đông núi lửa được cho là đã xảy ra khoảng 70,000 năm về trước sau vụ phun trào của siêu núi lửa Toba trên Đảo Sumatra ở Indonesia. Theo thuyết thảm họa Toba được một số nhà nhân chủng và khảo cổ học đề xướng, sự kiện này đã có ảnh hưởng toàn cầu, giết chết phần lớn con người thời điểm đó và tạo ra một cổ chai di truyền ảnh hưởng đến sự di truyền của tất cả con người ngày nay.
Vụ phun trào năm 1815 của Núi Tambora tạo nên sự bất thường trong khí hậu toàn cầu và được gọi là "Năm không có mùa hè" do ảnh hưởng đến thời tiết Bắc Mỹ và châu Âu. Thu hoạch mùa vụ giảm sút và gia súc chết hàng loạt ở bán cầu Bắc, dẫn đến một trong những nạn đói tồi tệ nhất thế kỷ 19.
Mưa axit
Aerosol sunfat dẫn đến những phản ứng hóa học phức tạp trên bề mặt làm thay đổi thành phần clo và nitơ trong tầng bình lưu. Khi aerosol tăng về số lượng và đông lại, chúng rơi xuống phần trên tầng đối lưu và hình thành mây ti và thay đổi cân bằng bức xạ của Trái Đất. Hầu hết hydro chloride (HCl) và hydro fluoride (HF) tan trong giọt nước và rơi xuống đất tạo thành mưa axit. Một ví dụ tiêu biểu là núi lửa Masaya ở Nicaragua, nơi liên tục phun ra khí lưu huỳnh dioxide, gây ra mưa axit ở những vùng cách xa hàng trăm kilomét.
Núi lửa trên những thiên thể khác
Mặt Trăng của Trái Đất không có núi lửa lớn nào, mặc dù bằng chứng gần đây cho thấy nó có thể có lõi còn nóng chảy. Tuy nhiên, Mặt Trăng có nhiều dạng địa hình núi lửa như là biển (vùng sẫm màu trên bề mặt mặt trăng), rille và vòm.
Có một vài núi lửa đã tắt trên Sao Hỏa, bốn trong số đó là những núi lửa khiên lớn hơn những núi lửa trên Trái Đất rất nhiều. Chúng là Arsia Mons, Ascraeus Mons, Hecates Tholus, Olympus Mons, và Pavonis Mons. Những núi lửa nảy đã ngừng hoạt động hàng triệu năm, nhưng tàu thăm dò Mars Express của châu Âu đã tìm thấy bằng chứng cho thấy hoạt động núi lửa có thể đã diễn ra trên Sao Hỏa trong quá khứ gần.
Vệ tinh của Sao Mộc, Io, là thiên thể hoạt động núi lửa tích cực nhất trong hệ mặt trời do tương tác thủy triều với Sao Mộc. Nó được bao phủ bởi núi lửa phun trào lưu huỳnh, lưu huỳnh dioxide và đá silicat, khiến cho bề mặt của Io luôn được bồi thêm. Dung nham của nó nóng nhất trong hệ mặt trời, với nhiệt độ vượt quá 1.800 K (1.500 °C). Tháng 2 năm 2001, vụ phun trào núi lửa lớn nhất trong hệ mặt trời được ghi nhận trên Io. Một nghiên cứu năm 2010 về hành tinh ngoài hệ Mặt Trời COROT-7b, chỉ ra rằng gia nhiệt thủy triều từ ngôi sao chủ gần với hành tinh đó có thể gây ra hoạt động núi lửa mạnh mẽ như ở trên Io.
Europa, vệ tinh Galileo nhỏ nhất, cũng có một hệ thống núi lửa đang hoạt động, chỉ khác là hoạt động của nó hoàn toàn dựa trên nước, đông lạnh thành băng trên bề mặt. Năm 1989 tàu vũ trụ Voyager 2 quan sát núi lửa băng trên Triton, một vệ tinh của Sao Hải Vương, và vào năm 2005 tàu thăm dò Cassini–Huygens chụp đài phun hạt đóng băng trên Enceladus, một vệ tinh của Sao Thổ. Vật chất phun trào có thể chứa nước, nitơ lỏng, amonia, bụi, hoặc hợp chất chứa metan. Cassini–Huygens cũng tìm thấy bằng chứng cho núi lửa băng phun trào metan trên vệ tinh Sao Thổ, Titan, được cho là góp phần vào thành phần metan trong khí quyển của vệ tinh này.
Xem thêm
Chương trình Núi lửa Toàn cầu
Danh sách núi lửa ngoài Trái Đất
Dòng thời gian hoạt động núi lửa trên Trái Đất
Chỉ số sức nổ núi lửa
Đài quan sát núi lửa
Tham khảo
Đọc thêm
This is a reference aimed at geologists, but many articles are accessible to non-professionals.
Liên kết ngoài
Nguy hiểm địa chất
Hoạt động núi lửa
Kiến tạo mảng
Địa mạo núi lửa
Núi lửa học
|
26355
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%A0n%20M%E1%BA%B7c%20T%E1%BB%AD
|
Hàn Mặc Tử
|
Nguyễn Trọng Trí, thường được biết đến với bút danh Hàn Mặc Tử hay Hàn Mạc Tử (22 tháng 9 năm 1912 – 11 tháng 11 năm 1940), là một nhà thơ người Việt Nam, người khởi xướng Trường thơ Loạn và cũng là người tiên phong của dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam. Lệ Thanh, Phong Trần, Minh Duệ Thị,... là một vài bút danh khác của ông.
Hàn Mặc Tử cùng với Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ở Bình Định gọi là Bàn thành tứ hữu, nghĩa là Bốn người bạn ở thành Đồ Bàn.
Hàn Mặc Tử với những tác phẩm nổi tiếng như Trăng Vàng Trăng Ngọc. Đây Thôn Vĩ Dạ
Tiểu sử
Thân thế
Tổ tiên Hàn Mặc Tử gốc họ Phạm ở Thanh Hóa. Ông cố là Phạm Chương vì liên quan đến quốc sự, gia đình bị truy nã, nên người con trai là Phạm Bồi phải di chuyển vào Thừa Thiên Huế đổi họ Nguyễn theo họ mẹ. Sinh ra ông Nguyễn Văn Toản lấy vợ là Nguyễn Thị Duy (con cụ Nguyễn Long, ngự y có danh thời vua Tự Đức), sinh hạ được 8 người con:
Nguyễn Bá Nhân (nhà thơ Mộng Châu) cũng là người dìu dắt Hàn Mặc Tử trên con đường thơ văn
Nguyễn Thị Như Nghĩa
Nguyễn Thị Như Lễ
Nguyễn Trọng Trí
Nguyễn Bá Tín (người cải táng mộ Hàn Mặc Tử từ Quy Hòa về Ghềnh Ráng vào ngày 13 tháng 2 năm 1959).
Nguyễn Bá Hiếu
Nguyễn Văn Hiền
Nguyễn Văn Thảo
Thuở nhỏ
Ông sinh ở làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, Quảng Bình khi ông Nguyễn Văn Toản đang làm Chủ sự Sở Thương Chánh Nhật Lệ – Đồng Hới; lớn lên, Hàn Mặc Tử theo cha đi nhiều nơi và theo học ở các trường Tiểu học Sa Kỳ (1920), Quy Nhơn, Bồng Sơn (1921–1923), Sa Kỳ (1924)... đến năm 1926, cụ thân sinh của Hàn Mặc Tử bị bệnh và mất ở Huế, Hàn Mặc Tử được mẹ cho học tiếp ở trường Pellerin - Huế. Năm 1930, Hàn Mặc Tử mới thôi học theo mẹ vào Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Gia đình ông theo đạo Công giáo, ông được rửa tội tại Nhà thờ Tam Tòa với tên thánh là Phêrô Phanxicô.
Hàn Mặc Tử mang vóc mình ốm yếu, tính tình hiền từ, giản dị, hiếu học và thích giao du bè bạn trong lĩnh vực văn thơ. Do cha ông là Nguyễn Văn Toản làm thông ngôn, ký lục nên thường di chuyển nhiều nơi, nhiều nhiệm sở, nên Hàn Mặc Tử cũng đã theo học ở nhiều trường khác nhau ở Sa Kỳ (1920), Quy Nhơn, Bồng Sơn (1921–1923), Pellerin Huế (1926).
Sự nghiệp làm báo và làm thơ
Ông có tài năng làm thơ từ rất sớm khi mới 16 tuổi. Ông đã từng gặp gỡ Phan Bội Châu và chịu ảnh hưởng khá lớn của chí sĩ này. Ông được Phan Bội Châu giới thiệu bài thơ Thức khuya của mình lên một tờ báo. Sau này, ông nhận một suất học bổng đi Pháp nhưng vì quá thân với Phan Bội Châu nên đành đình lại. Ông quyết định vào Sài Gòn lập nghiệp, năm ông 21 tuổi; lúc đầu làm ở Sở Đạc điền.
Đến Sài Gòn, ông làm phóng viên phụ trách trang thơ cho tờ báo Công luận. Khi ấy, Mộng Cầm ở Phan Thiết cũng làm thơ và hay gửi lên báo. Hai người bắt đầu trao đổi thư từ với nhau, và ông quyết định ra Phan Thiết gặp Mộng Cầm.
Bệnh tật
Theo gia đình Hàn Mặc Tử, thì vào khoảng đầu năm 1935, họ đã phát hiện những dấu hiệu của bệnh phong trên cơ thể ông. Tuy nhiên, ông cũng không quan tâm vì cho rằng nó là một chứng phong ngứa gì đó không đáng kể. Cho đến năm 1936, khi ông được xuất bản tập "Gái quê", rồi đi Huế, Sài Gòn, Quảng Ngãi, vào Sài Gòn lần thứ hai, được bà Bút Trà cho biết đã lo xong giấy phép cho tờ Phụ nữ tân văn, quyết định mời Hàn Mặc Tử làm chủ bút, bấy giờ ông mới nghĩ đến bệnh tật của mình. Nhưng ý ông là muốn chữa cho dứt hẳn một loại bệnh thuộc loại "phong ngứa" gì đấy, để yên tâm vào Sài Gòn làm báo chứ không ngờ đến một căn bệnh nan y. Năm 1938 - 1939, Hàn Mặc Tử đau đớn dữ dội. Tuy nhiên, ở bên ngoài thì không ai nghe ông rên rỉ than khóc. Ông chỉ gào thét ở trong thơ mà thôi. Trước ngày Hàn Mặc Tử vào trại phong Quy Hòa, em ruột của nhà thơ là Nguyễn Bá Tín cho biết tình trạng bệnh tật của anh mình như sau: Da anh đã khô cứng, nhưng hơi nhăn ở bàn tay, vì phải vận dụng sức khỏe để kéo các ngón khi cầm muỗng ăn cơm. Bởi vậy, trông như mang chiếc "găng" tay bằng da thô. Toàn thân khô cứng.
Ông Nguyễn Bá Tín, trong một chuyến thăm Bệnh viện Quy Hòa, có đến thăm bác sĩ Gour Vile - Giám đốc Bệnh viện Quy Nhơn. Bác sĩ nói rằng: Bệnh cùi rất khó phân biệt. Giới y học (thời đó) chưa biết rõ lắm. Tuy triệu chứng giống nhau, nhưng lại có nhiều thứ. Đó là căn bệnh do trực khuẩn Hansen gây nên. Ông bác sĩ quả quyết bệnh cùi không thể lây dễ dàng được.
Nhiều truyện kể cho rằng, một hôm Hàn Mặc Tử đi dạo với bà Mộng Cầm ở lầu Ông Hoàng (Phan Thiết), qua một nghĩa địa có ngôi mộ mới an táng thì gặp mưa. Bỗng ông phát hiện ra từng đốm đỏ bay lên từ ngôi mộ. Sau đó ông về nhà nghỉ, để rồi sớm hôm sau ông phát hiện ra mình như vậy. Thực ra đây chỉ là truyện kể hư cấu, chứ về mặt khoa học thì quá trình lây nhiễm rồi xuất hiện triệu chứng của phong cùi phải kéo dài ít nhất là hàng tháng, không thể chỉ diễn ra chỉ trong 1 ngày như câu chuyện này.
Thời đó, kiến thức khoa học về bệnh phong chưa phổ biến rộng rãi, nhiều người cho rằng đây là căn bệnh truyền nhiễm dễ lây nên bệnh nhân thường bị hắt hủi, cách ly, xa lánh, thậm chí bị ngược đãi. Hàn Mặc Tử cũng không là ngoại lệ. Gia đình ông phải đối phó với chính quyền địa phương vì họ đã hay tin ông mắc căn bệnh truyền nhiễm, đòi đưa ông đi cách ly. Sau đó gia đình phải đưa ông chạy chữa nhiều nơi, nhưng thường là các cách chữa phản khoa học và lẽ ra phải sớm đưa ông vào nơi có đầy đủ điều kiện chữa trị nhất lúc bấy giờ là Bệnh viện phong Quy Hòa. Trong câu chuyện với người em của thi sĩ Hàn Mặc Tử, bác sĩ Gour Vile cũng nói rằng theo kinh nghiệm từ các trại cùi, không có bệnh nhân nào chỉ mắc bệnh có từng ấy năm mà chết được. Ông trách gia đình Hàn Mặc Tử không đưa nhà thơ đi trại phong sớm. Bác sĩ cho rằng Hàn Mặc Tử sớm qua đời do nội tạng hư hỏng vì uống quá nhiều thuốc tạp nham của lang băm trước khi nhập viện phong Quy Hòa.
Ông bỏ tất cả quay về Quy Nhơn vào Trại phong Quy Hòa (20 tháng 9 năm 1940) mang số bệnh nhân 1.134 và từ trần vào lúc 5 giờ 45 phút rạng sáng 11 tháng 11 năm 1940 tại đây vì chứng bệnh kiết lỵ, khi mới bước sang tuổi 28.
Bút danh Hàn Mặc Tử
Ông làm thơ từ năm 16 tuổi lấy hiệu là Phong Trần rồi Lệ Thanh. Đến năm 1936, khi chủ trương ra phụ trương báo Saigon mới đổi hiệu là Hàn Mạc Tử, nghĩa là chàng trai đứng sau bức rèm lạnh lẽo, trống trải. Sau đó bạn bè gợi ý ông nên vẽ thêm Mặt Trăng khuyết vào bức rèm lạnh lẽo để lột tả cái cô đơn của con người trước thiên nhiên, vạn vật. "Mặt Trăng khuyết" đã được "đặt vào" chữ "Mạc" thành ra chữ "Mặc". Hàn Mặc Tử có nghĩa là "chàng trai bút nghiên".
Đánh giá và bình luận
Cuộc đời Hàn Mặc Tử có duyên với 4 chữ "bình": sinh tại Quảng Bình, làm báo Tân Bình, có người yêu ở Bình Thuận và mất tại Bình Định. Ông được biết đến với nhiều mối tình, với nhiều người phụ nữ khác nhau, đã để lại nhiều dấu ấn trong văn thơ của ông - có những người ông đã gặp, có những người ông chỉ giao tiếp qua thư từ, và có người ông chỉ biết tên như Mộng Cầm, Hoàng Cúc, Mai Đình, Thương Thương, Ngọc Sương, Thanh Huy, Mỹ Thiện.
Đã có rất nhiều đánh giá và bình luận về tài thơ của Hàn Mặc Tử. Sau đây là một số đánh giá của các tác giả nổi tiếng:
"Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình"
"Tôi xin hứa hẹn với các người rằng, mai sau, những cái tầm thường, mực thước kia sẽ biến tan đi, và còn lại của cái thời kỳ này, chút gì đáng kể đó là Hàn Mạc Tử."
(Nhà thơ Chế Lan Viên)
"Sẽ không thể giải thích được đầy đủ hiện tượng Hàn Mặc Tử nếu chỉ vận dụng thi pháp của chủ nghĩa lãng mạn và ảnh hưởng của Kinh thánh. Chúng ta cần nghiên cứu thêm lý luận của chủ nghĩa tượng trưng và chủ nghĩa siêu thực. Trong những bài thơ siêu thực của Hàn Mặc Tử, người ta không phân biệt được hư và thực, sắc và không, thế gian và xuất thế gian, cái hữu hình và cái vô hình, nội tâm và ngoại giới, chủ thể và khách thể, thế giới cảm xúc và phi cảm xúc. Mọi giác quan bị trộn lẫn, mọi lôgic bình thường trong tư duy và ngôn ngữ, trong ngữ pháp và thi pháp bị đảo lộn bất ngờ. Nhà thơ đã có những so sánh ví von, những đối chiếu kết hợp lạ kỳ, tạo nên sự độc đáo đầy kinh ngạc và kinh dị đối với người đọc."
(Nhà phê bình văn học Phan Cự Đệ)
"Hàn Mặc Tử có khoảng bảy bài hay, trong đó có bốn bài đạt đến độ toàn bích. Còn lại là những câu thơ thiên tài. Những câu thơ này, phi Hàn Mặc Tử, không ai có thể viết nổi. Tiếc là những câu thơ ấy lại nằm trong những bài thơ còn rất nhiều xộc xệch..."
(Nhà thơ Trần Đăng Khoa)
"...Theo tôi thơ đời Hàn Mặc Tử sẽ còn lại nhiều. Ông là người rất có tài, đóng góp xứng đáng vào Thơ mới."
(Nhà thơ Huy Cận)
"...Một nguồn thơ rào rạt và lạ lùng..." và "Vườn thơ Hàn rộng không bờ không bến càng đi xa càng ớn lạnh..."
(Nhà phê bình văn học Hoài Thanh)
Tác phẩm
Các sáng tác của Hàn Mặc Tử, gồm có:
Lệ Thanh thi tập (gồm toàn bộ các bài thơ Đường luật)
Gái Quê (1936, tập thơ duy nhất được xuất bản lúc tác giả chưa qua đời)
Thơ Điên (hay Đau Thương, thơ gồm ba tập: 1. Hương thơm; 2. Mật đắng; 3. Máu cuồng và hồn điên-1938)
Xuân như ý
Thượng Thanh Khí (thơ)Cẩm Châu DuyênDuyên kỳ ngộ (kịch thơ-1939)Quần tiên hội (kịch thơ, viết dở dang-1940)Chơi Giữa Mùa Trăng (tập thơ-văn xuôi)
Ngoài ra còn có một số bài phóng sự, tạp văn, văn tế... Xem thêm chi tiết ở bên dưới.
Tuyển tập
Gái quê (1936)
Thơ điên (sau đổi thành Đau thương, 1938)
Hương thơm
Đôi ta Những giọt lệ Cuối thu Đàn ngọc Hãy nhập hồn em Sầu vạn cổ Trường tương tư Mật đắng
Máu cuồng và hồn điên
Xuân như ý
Thượng thanh khí
Cẩm châu duyên
Nỗi buồn vô duyên Tiêu sầuKịch thơ của Huỳnh Nghi
Duyên kỳ ngộ (1939)
Quần tiên hội (1940)
Khác
Tác phẩm được phổ nhạc
Đây thôn Vỹ Dạ được Phan Huỳnh Điểu và Hoàng Thanh Tâm phổ nhạc
Đà Lạt trăng mờ và Tình quê được Phạm Duy phổ nhạc.
Đây thôn vỹ dạ được Phan Mạnh Quỳnh phổ nhạc
Ave Maria (tên khác: Thánh nữ đồng trinh Maria) được nhạc sư Hải Linh phổ nhạc thành bản giao hưởng hợp xướng Trường ca Ave MariaLời chú ấn tượng
Ra đời (Xuất thế gian):
Vinh danh
Ông được biết đến là chủ xướng của Trường thơ Loạn: Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Yến Lan và Bích Khê.
Nhiều địa phương Việt Nam dùng tên của ông để đặt tên đường như:
Bình Định (phường Ghềnh Ráng, Quy Nhơn)
Bà Rịa – Vũng Tàu (phường 7, Vũng Tàu)
Đà Nẵng (phường Thuận Phước, Hải Châu)
Đắk Lắk (phường Tân An, Buôn Ma Thuột)
Huế (phường Vỹ Dạ, Huế, Thừa Thiên Huế)
Nghệ An (phường Trung Đô, Vinh)
Phan Thiết (đường dẫn lên Lầu Ông Hoàng)
Quảng Bình (phường Đồng Mỹ, Đồng Hới)
Thanh Hóa (phố Hàn Mặc Tử, phường Trường Thi, Thanh Hóa)
Thành phố Hồ Chí Minh (phường 12, Tân Bình; phường Tân Thành, Tân Phú; đường Nguyễn Trọng Trí, quận Bình Tân, gần bến xe Miền Tây).
Sáng tác văn nghệ về Hàn Mặc Tử
Năm 2004, Hãng phim Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh (TFS) đã thực hiện bộ phim Hàn Mặc Tử để kỷ niệm ông.
Nhạc sĩ nổi tiếng Trần Thiện Thanh thuộc dòng nhạc vàng và nhạc trữ tình tại miền Nam Việt Nam trước 1975, sinh trưởng tại Phan Thiết, có sáng tác một bài hát nổi tiếng nói về cuộc đời Hàn Mặc Tử. Bài hát đã được chính tác giả (ca sĩ Nhật Trường) nhiều ca sĩ dòng nhạc vàng cả ở Việt Nam và hải ngoại thu âm.
Các bản dịch ra tiếng nước ngoài
Năm 2001, nhà xuất bản Arfuyen đã xuất bản tuyển tập thơ của Hàn Mặc Tử sang tiếng Pháp, lấy tên Le Hameau des roseaux (Đây thôn Vĩ Dạ) do Hélène Péras và Vũ Thị Bích dịch.
Chú thích
Liên kết ngoài
Tạp chí Hoạt động Khoa Học (số 08.2005), Phương pháp luận trong nghiên cứu văn học , Tạp chí Hoạt động Khoa Học''.
Người Quảng Bình
Nhà thơ Việt Nam thời Pháp thuộc
Nhà thơ tiền chiến
Hàn Mặc Tử
Người bị phong cùi
Tín hữu Công giáo Việt Nam
Nhà thơ Việt Nam
Tín hữu Công giáo được đặt tên đường ở Việt Nam
Văn hóa Bình Định
Nhà thơ Việt Nam thế kỷ 20
Nam nhà văn thế kỷ 20
|
26368
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%E1%BB%87n%20b%E1%BA%A3o%20t%C3%A0ng%20Louvre
|
Viện bảo tàng Louvre
|
Louvre (, phát âm là Lu-vơ), hoặc Viện bảo tàng Louvre ( ), là một viện bảo tàng nghệ thuật và di tích lịch sử tại Paris, Pháp. Có vị trí ở trung tâm lịch sử thành phố, bên bờ sông Seine, Viện bảo tàng Louvre vốn là một pháo đài được vua Philippe Auguste cho xây dựng vào năm 1190. Cuối thế kỷ XIV, dưới thời Charles V, Viện bảo tàng Louvre trở thành cung điện hoàng gia và sau đó tiếp tục được mở rộng qua các triều đại. Từ năm 1672, khi triều đình Pháp chuyển về lâu đài Versailles, bộ sưu tập hoàng gia được lưu trữ tại Louvre. Vào thời kỳ Cách mạng Pháp, cung điện trở thành bảo tàng và mở cửa vào ngày 10 tháng 8 năm 1793.
Những hiện vật ban đầu của Louvre chủ yếu từ bộ sưu tập hoàng gia và tài sản của giáo hội bị tịch thu trong thời kỳ cách mạng. Dưới thời Đệ Nhất Đế chế Pháp, nhờ những cuộc chinh phạt của Napoléon, nhiều tác phẩm nghệ thuật và hiện vật khảo cổ giá trị được chuyển về Louvre. Nhưng sau thất bại của quân đội Pháp trong trận Waterloo, phần lớn các hiện vật này đã trở về với những quốc gia chủ nhân cũ. Bộ sưu tập của Louvre tăng trở lại dưới thời Bourbon phục hoàng và kể từ Đệ Tam cộng hoà, bên cạnh những hiện vật mua lại, bảo tàng còn liên tục nhận được các di vật và tặng phẩm cá nhân.
Ngày nay, Louvre là một trong những viện bảo tàng nổi tiếng nhất thế giới, nơi trưng bày các hiện vật về những nền văn minh cổ, nghệ thuật Hồi giáo và nghệ thuật châu Âu từ thế kỷ XIII cho tới giữa thế kỷ XIX. Với diện tích 210 ngàn mét vuông, Louvre trưng bày 35.000 trên tổng số 380.000 hiện vật. Trong bộ sưu tập của bảo tàng Louvre hiện nay có những tác phẩm nổi tiếng bậc nhất của lịch sử nghệ thuật, như Tượng thần Vệ Nữ, Tượng thần chiến thắng Samothrace, Mona Lisa, Nữ thần Tự do dẫn dắt nhân dân, cùng các hiện vật giá trị về những nền văn minh cổ, như phiến đá ghi bộ luật Hammurabi, tấm bia Mesha. Vào năm 2021, Louvre đón 2,8 triệu lượt khách, giữ vị trí địa điểm thu phí được viếng thăm nhiều nhất Paris, đồng thời cũng là bảo tàng thu hút nhất trên thế giới.
Lịch sử
Cung điện
Lịch sử cung điện Louvre bắt đầu vào năm 1190 khi vua Philippe Auguste cho xây dựng một pháo đài bên hữu ngạn sông Seine. Công trình với kích thước 78 × 72 m, hào nước bao quanh, bốn góc được trấn giữ bởi các tháp canh, có nhiệm vụ chính là giám sát vùng hạ lưu, con đường tấn công truyền thống của những người Viking. Thế kỷ XIV, Paris phát triển rộng vượt ra ngoài bức tường thành của vua Philippe Auguste. Trong khoảng thời gian Chiến tranh Trăm năm, một lần nữa Louvre lại cần thiết để bảo vệ thành phố. Từ 1356 tới 1358, Étienne Marcel, người đứng đầu Paris, cho xây dựng một thành luỹ bằng đất, sau đó được Charles V tiếp tục. Bức thành mới này bao quanh khu vực bên hữu ngạn, Louvre không còn chức năng trấn giữ Paris.
Từ năm 1394, dưới thời Charles V, nhờ kiến trúc sư Raymond du Temple, Louvre từ một công trình quân sự trở thành một cung điện hoàng gia xa hoa. Những bức vẽ còn lại đến ngày nay cho thấy phần mái lộng lẫy của công trình. Các toà nhà chính bao quanh sân giữa với những cửa sổ lớn trạm khắc, cầu thang xoáy ốc nối các tầng, nội thất được trang trí các những phẩm điêu khắc, thảm và đồ gỗ. Một khu vườn cũng được bố trí ở phía Bắc cung điện.
Nhưng sau khi vua Charles VI mất, Louvre bị bỏ quên trong một thế kỷ. Tới năm 1527, François I quay lại Paris, và để đón chào nhà vua, cung điện được sửa chữa lại. Thế nhưng François I không bằng lòng với công trình được tu sửa, quyết định cho xây dựng một cung điện mới vào năm 1546 và được tiếp tục dưới thời vị vua kế nhiệm, Henri II. Sau khi Henri II mất, hoàng hậu Catherine de Médicis không muốn sống ở điện Tournelles, cho xây dựng cung điện Tuileries nằm kề bên phía Tây của Louvre. Công trình này dừng lại vài năm sau đó khi đang còn dang dở. Tới thời Henri IV, trong khoảng thời gian 1595 đến 1610, một hành lang lớn được xây dựng dọc sông Seine với ý định nối liền Louvre với Tuileries. Dãy nhà kéo dài tới 450 mét, và để tránh đơn điệu nên được giao cho hai kiến trúc sư: Louis Métezeau bên phía Đông và Jacques II Androuet du Cerceau bên phía Tây. Cùng thời gian đó, Tuileries cũng tiếp tục được mở rộng. Nhưng sau cái chết của Henri IV vào năm 1610, việc xây dựng lại bị bỏ rơi một thời gian dài.
Năm 1625, Louis XIII quyết định tiếp tục công việc xây dựng Louvre, thực hiện Grand Dessein mà Henri IV dự định trước đó. Louis XIII cho phá bỏ một phần dãy phía Bắc của Louvre từ thời Trung Cổ để kéo dài dãy Lescot. Tổng thể công trình mang tính đối xứng hoàn hảo, cả về trang trí. Giữa dãy nhà mới và dãy nhà cũ, năm 1639, kiến trúc sư Jacques Lemercier xây dựng một toà nhà lớn có tên Pavillon de l'Horloge (Toà nhà Đồng hồ), ngày nay là Pavillon Sully (Toà nhà Sully).
Từ 1655 tới 1658, Vương hậu Ana, nhiếp chính khi Louis XIV còn nhỏ tuổi, cho bố trí một căn phòng ở tầng trệt của Petite Galerie (Hành lang nhỏ). Tổng thể công trình còn tiếp tục với 6 phần xếp thành dãy theo nguyên tắc phổ biến thời kỳ đó: phòng khách lớn, phòng đợi, tiền sảnh, phòng lớn, phòng ngủ, phòng nhỏ. Việc trang trí được giao cho Giovanni-Francesco Romanelli, họa sĩ người Ý, và Michel Anguier, nhà điêu khắc người Pháp. Năm 1660, kiến trúc sư Louis Le Vau chịu trách nhiệm hoàn thiện Louvre: nhân đôi Petite Galerie, hoàn thành dãy phía Bắc của Cour Carrée (Sân vuông), kéo dài dãy phía Nam trong khoảng 1661 tới 1663, hoàn thiện toà nhà phía Tây, toà nhà hoàng gia phong cách Phục Hưng và toà nhà trung tâm được làm thành đối xứng. Ngày 6 tháng 2 năm 1661, một đám cháy thiêu huỷ một phần Petite Galerie khiến Le Vau phải xây dựng lại. Từ 1663, Le Vau nhân đôi chiều rộng cung điện. Những thành phần cuối cùng của Louvre thời Trung Cổ bị phá bỏ. Từ 1665, Louis XIV giao cho Cavalier Bernin xây dựng dãy phía Tây của Cour Carrée. Nhưng sau đó dự án này không được hoàn thành, chính nhà vua đã ra lệnh dừng lại, triều đình Pháp dần chuyển về lâu đài Versailles. Cho tới 1756, Louis XV mới tiếp tục xây dựng Louvre, các dãy nhà từ thời Louis XIV được hoàn thành.
Viện Bảo tàng Louvre
Năm 1692, Louis XIV cho chuyển một bộ sưu tập các tác phẩm điêu khắc Cổ đại về phòng Caryatides tại Louvre. Cùng năm đó, Viện Hàn lâm Pháp và Viện Hàn lâm Hội họa và Điêu khắc Hoàng gia được đặt tại cung điện. Năm 1699, các nghệ sĩ mở cuộc triển lãm đầu tiên ở Louvre, trong Grande Galerie (Hành lang lớn). Từ 1725, triển lãm này được mang tên Salon và chuyển về trưng bày tại Salon Carré (Phòng vuông), gần văn phòng của Viện Hàn lâm. Tháng 11 năm 1750, một cuộc triển lãm nghệ thuật được tổ chức ở cung điện Luxembourg gây được tiếng vang lớn. Thành công này thúc đẩy Hầu tước Marigny, người phục trách các toà nhà hoàng gia, và người kế nhiệm là Bá tước Angiviller xây dựng Louvre thành một bảo tàng thường xuyên.
Sự ra đời
Ngày 10 tháng 8 năm 1793, bảo tàng Trung tâm nghệ thuật được mở cửa và do Bộ Nội vụ quản lý. Các tác phẩm phần lớn từ bộ sưu tập của hoàng gia được trưng bày ở Salon Carré và Grande Galerie, miễn phí, chủ yếu cho các nghệ sĩ và dành cho công chúng vào cuối tuần. Hiệp ước Campo-Formio năm 1797 đã đem lại cho nước Pháp rất nhiều tác phẩm giá trị từ Venezia và bộ sưu tập của Giáo hoàng. Trong số đó, các hoạ phẩm cùng những tác phẩm điêu khắc cổ được chuyển về Louvre. Ngày 9 tháng 11 năm 1800, kỷ niệm cuộc đảo chính ngày 18 tháng Sương mù, Napoléon Bonaparte và Joséphine khánh thành bảo tàng Cổ đại. Các tác phẩm cổ từ thành Vatican, Bảo tàng Capitoline ở Roma, Firenze... cùng bộ sưu tập hoàng gia được trưng bày trong căn phòng mùa hè của Vương hậu Ana trước đây. Từ đó, Louvre không ngừng nhận được thêm hiện vật nhờ những cuộc viễn chinh của quân đội Pháp. Cũng dưới thời Đệ Nhất đế chế, bảo tàng được mang tên Napoléon và Vivant Denon trở thành giám đốc đầu tiên vào năm 1802. Trong khoảng thời gian 1804 đến 1811, cung điện được kiến trúc sư Pierre-François-Léonard Fontaine mở rộng, trang trí lại và Napoléon cho xây dựng khải hoàn môn Carrousel ở giữa Louvre và Tuileries. Nhưng Đệ Nhất đế chế sụp đổ vào năm 1815, các quốc gia đã lấy lại tài sản của mình, gây ảnh hưởng trực tiếp đến bộ sưu tập của Louvre.
Năm 1824, Viện Bảo tàng Điêu khắc Hiện đại được mở ở tầng trệt dãy nhà phía Tây sân Cour Carrée với các tác phẩm chuyển về từ bảo tàng Công trình Pháp và điện Versailles. Năm 1827, các hiện vật Ai Cập cổ đại cùng những tác phẩm Phục Hưng hợp thành bảo tàng Charles X ở dãy nhà phía Nam của Cour Carrée rồi Bảo tàng Hàng hải được mở ở dãy phía Bắc. Cuối thập niên 1830 đến thập niên 1840, bộ sưu tập hội họa Tây Ban Nha vốn đang bị phân tán được tập trung về Louvre. Tiếp đó đến các hiện vật từ México, Algérie... Thời Đệ Nhị đế chế, Tuileries được mở rộng và lần đầu tiên được nối với Louvre. Khoảng thời gian này, Bảo tàng Napoléon III cũng được thành lập với 11.385 tác phẩm hội họa và điêu khắc cổ. Năm 1871, Tuileries bị đốt cháy rồi phá huỷ sau đó. Còn Louvre được kiến trúc sư Hector-Martin Lefuel sửa chữa lại.
Louvre hiện đại
Năm 1905, một bộ sưu tập nghệ thuật trang trí được mang từ Palais de l'Industrie về Louvre và đến năm 1922, phòng trưng bày nghệ thuật Hồi giáo được mở ở toà nhà Horloge. Từ năm 1930, một số không gian được tu sửa với mục đích dành cho các tác phẩm điêu khắc. Sân Cour du Sphinx được lợp mái kính dành cho điêu khắc cổ. Điêu khắc châu Âu nằm trong dãy nhà Flore. Các phòng Ai Cập và phương Đông Cổ đại cũng được sửa chữa lại.
Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, các hiện vật của Louvre được giấu trong những túi cát và gửi đi khắp nơi. Những cuộc vận chuyển diễn ra nhiều lần, đầu tiên về lâu đài Chambord rồi chia nhỏ, đưa đến khắp các lâu đài khác. Mặc dù gần như trống rỗng, tháng 9 năm 1940, khi Quân đội Đức chiếm giữ Paris, Louvre được mở cửa trở lại. Năm 1945, các bộ sưu tập của Nhà nước được phân bố lại. Những hiện vật về châu Á của Louvre chuyển về Bảo tàng Guimet. Năm 1947, một chi nhánh của Louvre, Bảo tàng Jeu de Paume mở ở vườn Tuileries với các hoạ phẩm trường phái ấn tượng. Bộ sưu tập quan trọng này còn ở đây cho tới năm 1986 được chuyển về Orsay.
Louvre đương đại
Ngày 26 tháng 6 năm 1981, Tổng thống François Mitterrand tuyên bố toàn bộ không gian cung điện Louvre sẽ dành cho bảo tàng. Bộ Tài chính, vốn trụ sở ở dãy Richelieu, được chuyển về Bercy. Dự án mang tên "Grand Louvre" được bắt đầu. Tới năm 1983, kiến trúc sư nổi tiếng Ieoh Ming Pei được chọn để thực hiện dự án này. Năm 1986, bảo tàng Orsay khánh thành. Các bộ sưu tập nghệ thuật châu Âu từ 1848 tới thời kỳ khai sinh trường phái lập thể được chuyển từ Louvre về bảo tàng mới.
Ngày 30 tháng 3 năm 1989, công trình gây nhiều tranh cãi Kim tự tháp kính khánh thành trên sân Napoléon. Một không gian lớn được mở ngầm dưới kim tự tháp, trở thành lối vào chính của bảo tàng. Sảnh lớn này còn dành cho các dịch vụ gửi áo, hiệu sách, nhà hàng, quán cà phê. Năm 1993, dãy Richelieu mở cửa đón công chúng. Ba sân phía trong được lợp mái trở thành không gian lý tưởng cho các tác phẩm cỡ lớn. Tới 1997, một số phòng dãy Sackler được dành cho phương Đông Cổ đại và 1998, École du Louvre được mở ở dãy Flore với 5000 m² dành cho điêu khắc. Một gian trưng bày nghệ thuật Hồi giáo khác đã hoàn thành vào năm 2012.
Hoạt động thường xuyên và quan trọng nhất của Louvre là các cuộc triển lãm. Vốn chỉ trưng bày 35 ngàn trên tổng số 380 ngàn hiện vật, các cuộc triển lãm giúp công chúng khám khá phần còn lại của bộ sưu tập. Mỗi mùa, Louvre tổ chức các buổi triển lãm, đôi khi giới thiệu các nghiên cứu mới nhất về nghệ thuật. Một phần lớn các cuộc triển lãm của Louvre nhận được sự tài trợ của các công ty. Louvre cũng ký kết với Bảo tàng High Museum of Art của Atlanta cho mượn 142 tác phẩm trong vòng 3 năm. Bên cạnh đó một số những dự án văn hoá và khoa học cũng được xúc tiến giữa hai bảo tàng.
Các hoạt động văn hoá quan trọng khác của Louvre là những buổi gặp gỡ, các xưởng nghệ thuật và tham gia lĩnh vực giáo dục, đào tạo. Khán phòng của Louvre nằm phía dưới Kim tự tháp kính, được hoàn thành cùng kim tự tháp theo thiết kế của Ieoh Ming Pei. Khán phòng, với 450 chỗ, là nơi tổ chức các buổi gặp gỡ, chiếu phim... với chủ đề lịch sử, khảo cổ học. Các xưởng nghệ thuật của Louvre dành công chúng muốn tìm hiểu nghệ thuật được thực hành các kỹ thuật sáng tác. Các xưởng nghệ thuật được dành cho cả ba đối tượng: người lớn, trẻ em và người tàn tật. Ngoài ra, École du Louvre, nằm trong dãy Flore của bảo tàng, cũng là một trường quan trọng về lịch sử nghệ thuật, khảo cổ học và bảo tàng học. Trung bình mỗi năm, Louvre tổ chức khoảng 8 kỳ triển lãm, 40 buổi hoà nhạc, 5 buổi trình diễn và gần 200 buổi chiếu phim.
Bộ sưu tập
Bộ sưu tập của bảo tàng Louvre gồm hơn 380.000 hiện vật, nhưng chỉ có khoảng 35.000 hiện vật được trưng bày thường xuyên. Toàn bộ Louvre rộng 210.000 m², trong đó 60.600 m² dành cho trưng bày và được chia thành 8 khu: Phương Đông cổ đại; Ai Cập cổ đại; Hy Lạp, La Mã và Etruria cổ đại; Nghệ thuật Hồi giáo; Hội họa; Điêu khắc; Nghệ thuật hoạ hình và Nghệ thuật trang trí. Theo chính sách sắp xếp, tổ chức của hệ thống bảo tàng quốc gia Pháp, nhiều bộ sưu tập giá trị từng ở Louvre đã được chuyển đến các bảo tàng khác. Hiện nay, những hiện vật của Louvre bao gồm các tác phẩm nghệ thuật phương Tây từ Trung Cổ cho tới năm 1848, các nền văn minh cổ và nghệ thuật Hồi giáo.
Ngoài 8 bộ sưu tập chính, Louvre còn một khu trưng bày lịch sử của chính cung điện và một bộ sưu tập nghệ thuật châu Á, Phi, Mỹ và châu Đại Dương.
Phương Đông cổ đại
Khu vực trưng bày Phương Đông cổ đại được thành lập vào năm 1881. Các hiện vật này xuất phát từ những cuộc khai quật trong khoảng thế kỷ XIX cho tới Chiến tranh thế giới thứ hai. Cuộc khai quật đầu tiên được tiến hành từ 1843 đến 1854 ở Khorsabad, thành phố do Sargon II của Assyria cho xây dựng cách đây 8 thế kỷ. Bảo tàng Louvre đóng vai trò động lực trong việc tiến hành cuộc khai quật này với tham vọng giúp công chúng đương đại khám phá về Assyria và các nền văn minh đã mất ở phương Đông.
Bộ sưu tập Phương Đông cổ đại của Louvre tương đương với Bảo tàng Anh (British Museum) ở Luân Đôn và Bảo tàng Trung Đông (Vorderasiatisches Museum Berlin) ở Berlin. Các hiện vật được tìm thấy qua rất nhiều cuộc khải quật giới thiệu một cái nhìn toàn cảnh về những nền văn minh cổ, các gốc rễ văn hoá khu vực Cận Đông. Bộ sưu tập được trưng bày ở tầng trệt, phía bên dãy Richelieu, chia thành ba khu vực nhỏ: Iran, Lưỡng Hà và Levant, gồm các nước châu Á gần Địa Trung Hải, Syria, Liban, Israel và đảo Síp ngày nay.
Một trong những hiện vật giá trị nhất của bảo tàng Louvre là phiến đá Bộ luật Hammurabi. Đây là một trong những văn bản luật cổ nhất được tìm thấy, có từ thời vua Hammurabi, khoảng 1760 trước Công nguyên. Một hiện vật giá trị khác là tấm bia Mesha, từ thế kỷ IX trước Công nguyên.
Ai Cập cổ đại
Việc mở khu vực trưng bày Ai Cập cổ đại không phải kết quả trực tiếp từ cuộc viễn chinh sang Ai Cập của Napoléon Bonaparte. Nhiều hiện vật thu được của Napoléon đã bị người Anh lấy đi như một chiến lợi phẩm. Trong số đó có phiến đá Rosetta hiện trưng bày ở Bảo tàng Anh, từng cho Louvre mượn lại vào tháng 10 năm 1972. Một số hiện vật khác quay trở lại Louvre một khoảng thời gian dài sau đó.
Vào năm 1802, Vivant Denon, học giả lớn về sau trở thành giám đốc bảo tàng, xuất bản cuốn hồi ký Voyage dans la Haute et la Basse Egypte (Du hành Thượng và Hạ Ai Cập). Tiếp đó trong khoảng 1810 tới 1830, những tập Description de l'Egypte (Mô tả Ai Cập) của các thành viên khoa học trong đoàn viễn chinh xâm lược Ai Cập cũng được phát hành. Những cuốn sách này đã gợi nên các quan tâm về Ai Cập cổ đại trong những năm đầu thế kỷ XIX. Jean-François Champollion, nhà Ai Cập học nổi tiếng, đã thuyết phục vua Charles X mua lại ba bộ sưu tập lớn của Bernardino Drovetti (nhà phiêu lưu người Ý từng theo Napoléon sang Ai Cập), Henry Salt (học giả người Anh) và nhà sưu tầm Paul Durand. Mặt khác, trước đó Louvre đã có một bộ sưu tập về Ai Cập của hoàng gia. Tới ngày 15 tháng 12 năm 1827, khu vực trưng bày Ai Cập cổ đại của Louvre được thành lập với khoảng 9.000 hiện vật và Jean-François Champollion trở thành giám đốc đầu tiên.
Trong khoảng 1852 tới 1868, khu vực Ai Cập cổ đại tiếp tục phong phú nhờ các hiện vật từ một số nhà sưu tầm châu Âu thời kỳ đó. Cũng khoảng thời gian này, Auguste-Édouard Mariette nhận nhiệm vụ của Louvre đến khai quật ở Saqqara. Từ 1852 tới 1953, Mariette gửi về Paris 5.964 hiện vật. Nhờ sự đồng ý của chính phủ Ai Cập, các cuộc tìm kiếm còn được tiến hành ở Abou Roach, Assiout, Baouît, Médamoud, Tôd, Deir el-Médineh. Nhà sưu tập người Mỹ Atherton Curtis cũng đã di tặng lại cho Louvre 1.500 hiện vật trong khoảng thời gian trước và sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Bộ sưu tập Ai Cập cổ đại hiện nay được trưng bày trong 30 gian ở tầng một và hai gần Cour Carrée cùng một phần nhỏ ở tầng hầm. Trong những hiện vật giá trị ở đây có các bức tượng pharaoh Ramesses II, Akhenaton hay bức tượng Viên thư lại Kai từ 2620 đến 2500 trước Công nguyên và một số xác ướp Ai Cập.
Hy Lạp, La Mã và Etruria cổ đại
Các hiện vật Hy Lạp, La Mã cổ đại đầu tiên do những người Cách mạng thu được từ bộ sưu tập rất phong phú của hoàng gia. Năm 1800, những hiện vật này được trưng bày trong các căn phòng của hoàng hậu Anne trước đây. Những thập niên tiếp theo, bảo tàng mua lại rất nhiều tác phẩm từ bộ sưu tập của các gia đình Borghese, Albani... Bên cạnh đó, các cuộc khai quật thực hiện trong thế kỷ XIX đem lại cho Louvre một số lượng lớn hiện vật. Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX là khoảng thời gian bảo tàng nhận được rất nhiều tác phẩm giá trị về Hy Lạp, La Mã cổ đại nhờ kết quả các cuộc khai quật, mua bán và quà tặng từ các cá nhân.
Trong bộ sưu tập Hy Lạp, La Mã cổ đại của Louvre có những tác phẩm rất nổi tiếng. Bức tượng thần Vệ Nữ được Hầu tước Rivière tặng lại cho Louis XVIII vào năm 1821 và được đưa về Louvre. Tượng thần chiến thắng Samothrace được phó lãnh sự Pháp tại Hy Lạp khám phá năm 1863. Một tác phẩm nổi tiếng khác là tượng Đấu sĩ Borghese từ bộ sưu tập của gia đình Borghese. Hiện nay khu vực Hy Lạp, La Mã và Etruria cổ đại gồm 47 phòng ở tầng một, hai và một số không gian nhỏ khác.
Nghệ thuật Hồi giáo
Nghệ thuật Hồi giáo là khu vực trưng bày mới nhất, được thành lập năm 2003. Bộ sưu tập này là kết quả của mối quan hệ đã nhiều thế kỷ giữa Pháp và các nước thuộc thế giới Hồi giáo. Vào thời gian mới mở cửa và đầu thế kỷ XIX, nhiều hiện vật của hoàng gia và Nhà nước được chuyển về Louvre. Từ những năm 1890, bộ sưu tập dần đa dạng nhờ sự thúc đẩy của hai nhà bảo tàng học Gaston Migeon và Emile Molinier. Emile Molinier đã mở gian trưng bày về Hồi giáo đầu tiên vào năm 1893.
Cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX là khoảng thời gian bảo tàng được tặng lại một số lượng rất lớn các hiện vật. Các di tặng của Nữ nam tước Delort de Gléon năm 1912 được hợp thành phòng Delort de Gléon vào năm 1922. Năm 1936, nghệ thuật Hồi giáo được gộp trung với khu trưng bày nghệ thuật châu Á. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, các tác phẩm thuộc về Viễn Đông được chuyển đến Bảo tàng Guimet, nghệ thuật Hồi giáo trưng bày chung với Phương Đông cổ đại. Bộ Tài chính rời Louvre năm 1993 đã giúp bộ sưu tập Hồi giáo có không gian riêng. Sau khi kỹ sư Mario Bellini và Rudy Ricciotti chiến thắng một cuộc thi triển lãm quốc tế, một không gian mới trải dài 3.000 mét vuông mở cửa năm 2012. Được dự định mở cửa năm 2009, khu vực này đại diện cho kiến trúc lớn đầu tiên của Lourve kể từ kim tự tháp của I.M. Pei năm 1989.
Hội họa
Bộ sưu tập hội họa được bắt nguồn từ phòng tranh của François I trong lâu đài Fontainebleau. François I đã mua lại nhiều tuyệt tác của các họa sĩ lớn người Ý như Michelangelo, Raffaello và mời một số nghệ sĩ khác như Leonardo da Vinci, Rosso Fiorentino, Francesco Primaticcio về cung đình của mình. Qua nhiều thế hệ của hoàng triều Pháp, bộ sưu tập này dần phong phú theo xu thế nghệ thuật từng thời kỳ và sở thích của từng vị vua. Trong số đó phải kể đến những tác phẩm do Louis XIV mua lại của chủ nhà băng Everhard Jabach. Bên cạnh hội họa Ý, Louis XVI đã thêm hội họa Tây Ban Nha vào bộ sưu tập. Các trường phái phía Bắc có mặt trong bộ sưu tập từ thế kỷ XVII và đặc biệt tăng trong thế kỷ XVIII. Năm 1793, khi Louvre mở cửa, bộ sưu tập của hoàng gia là những hiện vật đầu tiên của bảo tàng. Trong thế kỷ XIX, những của cải do Cách mạng Pháp tịch thu rồi chiến lợi phẩm của Napoléon đã giúp bộ sưu tập hội họa của Louvre không ngừng tăng.
Bên cạnh đó, các tặng vật và sự giúp đỡ của các tổ chức bảo trợ đóng vai trò quan trọng trong bộ sưu tập hội họa của Louvre. Dẫn đầu là hội Những người bạn của Louvre, hội bảo trợ đã tặng lại cho Louvre một số lượng lớn các tác phẩm, đủ thời kỳ, trong đó một số hiện vật có giá trị. Những tặng vật của La Caze là một phần quan trọng của các tác phẩm thế kỷ XVIII. Fiammetta Lemme giúp bảo tàng bổ sung phần còn thiếu của hội họa Ý thế kỷ XVIII. Bá tước Epine cùng con gái là công chúa Louis de Croy tặng Louvre bộ sưu tập hội họa Hà Lan.
Bộ sưu tập hội họa của Louvre hiện nay gồm các tác phẩm phương Tây từ thế kỷ XIII cho tới năm 1848. Các tác phẩm thuộc trường phái Ấn tượng và Hậu ấn tượng đã được chuyển về Bảo tàng Orsay vào năm 1986. Bộ sưu tập hội họa chiếm một không gian trưng bày rất lớn của Louvre. Hội họa Ý và Tây Ban Nha nằm ở tầng hai, dãy Denon bên cạnh hội họa Pháp và hội họa Anh. Còn tầng ba được dành gần như tất cả cho hội họa, gồm Pháp–dãy nhà bao quanh Cour Carrée–Đức, Hà Lan, Bỉ... Mona Lisa, tác phẩm được xem như nổi tiếng nhất của Louvre, cũng là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất thế giới, nằm ở phòng số 6, tầng hai. Ngoài Mona Lisa, bảo tàng cũng sở hữu một số hoạ phẩm khác của Leonardo da Vinci như Đức mẹ đồng trinh, Chúa Hài đồng và Thánh Anne, Đức mẹ đồng trinh trong hang đá... Các tác phẩm danh tiếng khác của Louvre có thể kể tới Le nozze di Cana (Tiệc cưới ở Cana) của Paolo Veronese, Le Radeau de la Méduse (Chiếc mảng Méduse) của Théodore Géricault và La Liberté guidant le peuple (Nữ thần Tự do dẫn dắt nhân dân) của Eugène Delacroix...
Điêu khắc
Là cung điện hoàng gia, bản thân Louvre đã được trang trí bởi các tác phẩm điêu khắc. Một số tác phẩm của hoàng gia không sử dụng hoặc tháo dỡ được tập hợp tại phòng Caryatides ngày nay, tầng một sân Cour Carrée. Viện Hàn lâm Hội họa và Điêu khắc cũng duy trì một bộ sưu tập riêng của mình. Khi bảo tàng Louvre được mở cửa năm 1793, một số tác phẩm điêu khắc đã được trưng bày. Năm 1794, Louvre nhận thêm các hiện vật từ tài sản tịch biên của những người đào vong thời kỳ Cách mạng. Trong đó có các bức tượng nô lệ của Michelangelo cùng một số tượng bán thân các nghệ sĩ và nhiều nhất là các tác phẩm sao chép lối Cổ đại. Thời kỳ Cách mạng, bảo tàng Công trình Pháp là nơi lưu trữ nhiều nhất các tác phẩm điêu khắc. Tới thời kỳ nhà Bourbon quay lại ngai vàng, bảo tàng Công trình Pháp đóng cửa, một số tác phẩm giá trị được chuyển về Louvre.
Năm 1824, Bảo tàng Điêu khắc Hiện đại được mở cửa ở tầng trệt dãy nhà phía Tây sân Cour Carrée. Khoảng một trăm tác phẩm thuộc nhiều các trường phái và thời kỳ được trưng bày trong 5 gian phòng. Năm 1847, Louvre nhận thêm các hiện vật từ Versailles, trong đó có những tác phẩm của Germain Pilon và Pierre Puget. Khoảng thời gian tiếp theo, chính sách tìm mua lại giúp số lượng hiện vật tăng lên. Năm 1900, danh mục bộ sưu tập điêu khắc kiểm kê được 867 tác phẩm. Bảo tàng cũng nhận được nhiều tặng vật, đặc biệt từ hội Những người bạn của Louvre. Từ năm 1986, các tác phẩm từ nửa sau thế kỷ XIX được chuyển về Orsay.
Hiện nay, bộ sưu tập điêu khắc Pháp được trưng bày ở tầng trệt, dãy Richelieu, gồm cả hai sân có mái che Puget và Marly. Gian dành cho các tác phẩm điêu khắc nước ngoài ở tầng một và tầng hầm dãy Denon. Trong số đó có những tác phẩm nổi tiếng như Chevaux de Marly của Guillaume Coustou, Captif (hay Người nô lệ hấp hối) của Michelangelo và đặc biệt là Amore e Psiche của Antonio Canova.
Nghệ thuật hoạ hình
Việc thành lập khu vực trưng bày nghệ thuật hoạ hình bắt nguồn từ cuộc triển lãm ngày 28 tháng Nóng năm V, tức ngày 15 tháng 8 năm 1797, tại gian Apollon. Các tác phẩm này vốn của vua Louis XIV mua lại từ chủ nhà băng Everhard Jabach. Bộ sưu tập của Louvre tăng lên sau đó nhờ các của cải tịch biên từ hội thánh. Năm 1806, bảo tàng mua lại 1200 bức hoạ do Filippo Baldinucci, nhà lịch sử mỹ thuật người Ý, sưu tập từ thế kỷ XVII.
Năm 1852, có 36 ngàn hiện vật được kiểm kê. Các tác phẩm nghệ thuật hoạ hình được bảo vệ trong khung kính, trưng bày tại hai tầng của toà nhà Horloge và dọc phố Rivoli. Sự phong phú của bộ sưu tập còn tăng thêm nhờ việc mua lại cũng như được tặng các tác phẩm của Eugène Boudin, Théodore Chassériau, Walter Gay... Đặc biệt, năm 1935, bảo tàng nhận được một bộ sưu tập rất lớn của Nam tước Edmond de Rothschild. Năm 1986, một phần lớn các tranh phấn màu thế kỷ XIX được chuyển về Bảo tàng Orsay.
Hiện nay, nghệ thuật hoạ hình là bộ sưu tập có số lượng hiện vật lớn nhất nhưng chiếm một không gian nhỏ trong bảo tàng. Do tính nhạy cảm với ánh sáng và kém bền của các tác phẩm trên giấy, những hiện vật này được trưng bày không thường xuyên. Dù vậy, công chúng vẫn có cơ hội khám phá tất cả các tác phẩm với điều kiện yêu cầu trước.
Nghệ thuật trang trí
Trưng bày các tác phẩm nghệ thuật trang trí ở Louvre đã được dự định trong sắc lệnh từ năm 1793. Một vài đồ đạc được mang về từ bộ sưu tập hoàng gia. Bộ sưu tập đồ đồng và đá quý tới muộn hơn, vào năm 1796. Số lượng hiện vật tăng thêm nhờ hai nguồn khác: nhà thờ Sainte-Chapelle và nhà thờ Saint-Denis. Sắc lệnh ngày 1 tháng Nảy mầm năm II, tức ngày 21 tháng 3 năm 1794, cho phép bảo tàng nhận được nhiều hiện vật từ tài sản những người đào vong trong thời kỳ Cách mạng. Nhưng khi đó, khu vực dành cho nghệ thuật trang trí chưa được thành lập. Mặt khác, số hiện vật bị giảm bớt khi bảo tàng bán 16 tác phẩm vốn từ nhà thờ Saint-Denis và Napoléon cũng lấy đi một số hiện vật mang về cung điện của mình. Nhưng nhờ những cuộc chinh phạt của Napoléon, số lượng hiện vật nghệ thuật trang trí lại tăng lên.
Trong thời kỳ nhà Bourbon phục hoàng, Louvre đã mua lại rất nhiều hiện vật từ các bộ sưu tập cá nhân. Bên cạnh đó, nhiều các phẩm từ Thư viện quốc gia và cả những tặng vật được đưa về Louvre. Năm 1870, sự sụp đổ của Đệ Nhị đế chế giúp Louvre có thêm các tác phẩm từ Tuileries và Saint-Cloud. Đến năm 1893, khu vực trưng bày nghệ thuật trang trí được tách ra độc lập.
Cuối thế kỷ XIX và trong suốt thế kỷ XX, Louvre nhận được di tặng rất nhiều bộ sưu tập cá nhân. Năm 1880, vợ Tổng thống Adolphe Thiers tặng lại bảo tàng một bộ sưu tập lớn. Năm 1922, gia đình Rothschild tặng lại các tác phẩm Ý, Pháp thời kỳ Phục Hưng và thế kỷ XVIII. Việc Bộ Tài chính chuyển khỏi Louvre vào năm 1981 đã giúp khu vực nghệ thuật trang trí được mở rộng. Các phòng Trung Cổ và Phục Hưng được mở năm 1993. Phòng thế kỷ XIX, với số lượng hiện vật rất lớn và phong phú, được giới thiệu cho công chúng từ 1996. Hiện nay khu vực nghệ thuật trang trí gồm 81 phòng, chiếm chọn tầng một dãy Richelieu.
Tổ chức
Ngân sách và doanh thu
Về mặt hành chính, từ 1 tháng 1 năm 1993, bảo tàng Louvre là một cơ quan nhà nước, thuộc Bộ Văn hoá Pháp. Hoạt động của bảo tàng cần tới gần 2000 nhân viên. Trong số đó, lượng nhân viên an ninh chiếm đông nhất, hơn một ngàn người, công việc cả bảy ngày trong tuần, 24/24. Một lực lượng quan trọng tiếp theo là các chuyên gia về bảo tàng, những người cũng giữ chức vụ cao về hành chính. Để đạt được vị trí này, họ phải trải qua một kỳ thi tuyển về khảo cổ học, lịch sử, lịch sử nghệ thuật, dân tộc học hay khoa học tự nhiên.
Năm 2006, Bảo tàng Louvre được nhà nước cấp 109,98 triệu euro. Doanh thu bảo tàng đạt 72,74 triệu euro, trong đó hơn 40 triệu từ tiền vé, 13 triệu từ các tổ chức bảo trợ, phần còn lại nhờ các hoạt động văn hoá, thương mại khác. Ngoài ra, Louvre cũng cho phép các công ty LCL, Accenture và Blue Martini đặt logo trên trang web của bảo tàng.
Các tổ chức bảo trợ
Để làm giàu thêm bộ sưu tập, bên cạnh bảo tàng, một số tổ chức cũng tham gia vào việc mua lại các hiệt vật. Hội Những người bạn của Louvre (Société des Amis du Louvre) được thành lập vào năm 1879, hiện nay có 70 ngàn thành viên, đóng góp và tài trợ mỗi năm khoảng 3 triệu euro cho việc mua hiện vật mới. Kể từ khi thành lập, Những người bạn của Louvre đã mua tặng lại cho bảo tàng 704 tác phẩm nghệ thuật. Trong đó có một số tác phẩm giá trị như La Pietà de Villeneuve-lès-Avignon của Enguerrand Quarton hay Le Bain turc của Jean-Auguste-Dominique Ingres. Hội Những người bạn của Louvre là nhà bảo trợ quan trọng nhất của bảo tàng.
Một tổ chức bảo trợ quan trọng khác là hội Những người bạn Hoa Kỳ của Louvre (American Friends of the Louvre). Tổ chức này có mục đích gây dựng và giữ mối quan hệ giữa bảo tàng với công chúng Hoa Kỳ và tài trợ cho một số dự án của Louvre. Những người bạn Hoa Kỳ của Louvre giúp đỡ bảo tàng trong việc tiếp đón du khách nước ngoài, chủ yếu về tiếng Anh, và xúc tiến các mỗi quan hệ của Louvre với những cơ quan tại Mỹ. Sau Pháp, Hoa Kỳ là quốc gia có lượng khách thăm Louvre đông nhất.
Các bảo tàng chi nhánh
Bảo tàng quốc gia Eugène Delacroix
Bảo tàng quốc gia Eugène Delacroix nằm ở phố Furstenberg, Quận 6, Paris. Trụ sở của bảo tàng này vốn là ngôi nhà và xưởng vẽ của họa sĩ Eugène Delacroix. Từ năm 1971, Bảo tàng Eugène Delacroix trở thành bảo tàng quốc gia. Quá nhỏ để có thể là một cơ quan nhà nước độc lập, Bảo tàng Eugène Delacroix thuộc Louvre về mặt hành chính.
Hiện nay bảo tàng sở hữu một phần lớn những hoạ phẩm trong sự nghiệp của Delacroix, bao gồm cả các tranh sơn dầu và hoạ phẩm trên giấy. Ngoài ra bảo tàng còn có những tư liệu về họa sĩ và một bộ sưu tập nghệ thuật châu Phi do Delacroix tập hợp trong thời gian ở Maroc.
Louvre-Lens
Với chính sách giảm sự tập trung về Paris, ngày 29 tháng 11 năm 2004, Thủ tướng Pháp Jean-Pierre Raffarin đã quyết định thành lập một bảo tàng chi nhánh của Louvre tại Lens. Dự định này được công bố từ năm 2003 và cùng với Lens, còn có 5 thành phố ứng viên khác: Amiens, Arras, Boulogne-sur-Mer, Calais và Valenciennes. Nhờ địa điểm thuận lợi, về diện tích, giao thông... Louvre-Lens đã được chọn làm bảo tàng chi nhánh của Louvre.
Một cuộc thi kiến trúc được tổ chức vào 2005 và bản thiết kế được chọn là của văn phòng kiến trúc sư Nhật Bản SANAA với các kiến trúc sư Kazuyo Sejima và Ryue Nishizawa. Louvre-Lens dự định sẽ mở cửa vào 2010 với những hiện vật từ cả tám bộ sưu tập của Louvre. Trong đó một số sẽ trưng bày thường xuyên ở Lens, một số khác sẽ luân chuyển về Louvre.
Louvre Abu Dhabi
Ngày 6 tháng 3 năm 2007, chính phủ Pháp và chính phủ Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất đã ký thỏa thuận thành lập bảo tàng Louvre Abu Dhabi ở thủ đô Abu Dhabi. Theo ký kết, bảo tàng Louvre Abu Dhabi sẽ được dùng tên "Louvre" trong 30 năm 6 tháng. Chính phủ Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất chi trả cho bảo tàng Louvre 150 triệu euro sau khi ký 30 ngày. Tiếp đó, 62,5 triệu khi mở cửa bảo tàng và vào mỗi thời điểm 5 năm, 10 năm và 15 năm sau ngày mở cửa. Đổi lại, Louvre sẽ cho Louvre Abu Dhabi mượn 300 tác phẩm vào thời điểm mở cửa, 250 tác phẩm vào năm thứ 4, cuối cùng 200 tác phẩm từ năm thứ 7 tới năm thứ 10. Ngoài ra Louvre cũng đào tạo nhân sự cho Louvre Abu Dhabi.
Bảo tàng Louvre Abu Dhabi dự định có diện tích 24.000 m², trong đó có 6.000 m² trưng bày thường xuyên và 2.000 m² cho triển lãm. Không gian trưng bày sẽ được mở rộng với ba giai đoạn: 2.000 m² vào thời điểm mở cửa, 4.000 m² sau 4 năm và đạt 6.000 m² vào năm thứ 7. Công trình do kiến trúc sư người Pháp nổi tiếng Jean Nouvel thiết kế.
Dự án Louvre Abu Dhabi đã gây nên một số tranh cãi. Trong bài Les musées ne sont pas à vendre (Các bảo tàng không phải để bán) đăng trên Le Monde ngày 12 tháng 12 năm 2006, Françoise Cachin, cựu giám đốc các bảo tàng Pháp, đã chỉ trích chính sách mang tính thương mại của một vài bảo tàng, đặc biệt là dự án Louvre Abu Dhabi. Trả lời lại, Jack Lang, cựu bộ trưởng Bộ Văn hoá và Bộ Giáo dục Pháp, đã lên tiếng bảo vệ Louvre Abu Dhabi trong bài báo có tên Le Louvre, un musée universel (Louvre, một bảo tàng thế giới) đăng trên Le Monde ngày 1 tháng 2 năm 2007.
Louvre trong nghệ thuật
Cung điện và Bảo tàng Louvre đã là đề tài của không ít tác phẩm nghệ thuật. Từ thế kỷ XVII, các họa sĩ đã tái hiện Louvre trên tranh của mình. Trong Ba người lính ngự lâm (Trois Mousquetaires) và Marguerite de Valois, Vương hậu Pháp (La Reine Margot), Alexandre Dumas đã dùng Louvre làm bối cảnh cho nhiều đoạn. Tương tự, bảo tàng xuất hiện trong Quán rượu (L’Assommoir) của Émile Zola và Tình sử Angélique (Angélique) của Anne và Serge Golon. Năm 1927, tiểu thuyết trinh thám Belphégor của Arthur Bernède đăng từng kỳ trên tờ Le Petit Parisien, Louvre trở thành bối cảnh chính cho tác phẩm và tập 2 được mang tên Le Mystère du Louvre (Bí ẩn của Louvre).
Với điện ảnh, năm 1957, trong bộ phim Funny Face, diễn viên huyền thoại Audrey Hepburn bước xuống cầu thang phía dưới Tượng thần chiến thắng Samothrace. Trong Les Amants du Pont-Neuf (1991) với sự tham gia diễn xuất của Juliette Binoche, một người bảo vệ cũ và một nữ họa sĩ mù lén lút vào thăm Louvre ban đêm. Bảo tàng còn xuất hiện trong các bộ phim khác như Mr. and Mrs. Bridge (1990) của James Ivory, The Age of Innocence (1993) của Martin Scorsese, The Dreamers (2003) của Bernardo Bertolucci.
Năm 2003, Louvre trở thành bối cảnh chính của cuốn tiểu thuyết nổi tiếng Mật mã Da Vinci (The Da Vinci Code). Tới mùa hè 2003, tức ba tháng sau khi xuất bản cuốn tiểu thuyết tại Mỹ, các hướng dẫn viên đã phải trả lời các câu hỏi mới liên quan tới Mật mã Da Vinci khi đưa khách đi thăm bảo tàng. Nhiều du khách nói tiếng Anh tới Louvre để được tận mắt thấy kim tự tháp kính, Grande Galerie, "phòng Mona Lisa"... Khi Mật mã Da Vinci được dịch sang các thứ tiếng khác, Louvre lại đón thêm các nhóm khách tương tự từ Nhật, Tây Ban Nha, Nga, Ý... và cả Pháp. Tới năm 2006, tiểu thuyết được chuyển thể thành tác phẩm điện ảnh với sự tham gia diễn xuất của hai diễn viên nổi tiếng Tom Hanks và Audrey Tautou.
Lượng khách viếng thăm
Với kiến trúc của điện hoàng gia, vị trí trung tâm Paris và các hiện vật giá trị, Louvre là một trong những bảo tàng nổi tiếng và thu hút nhất thế giới. Năm 2006, Louvre là địa điểm thu phí được viếng thăm nhiều nhất Paris. Lượng khách của Louvre đứng trên tháp Eiffel, chỉ thua hai địa điểm tự do là nhà thờ Đức Bà và nhà thờ Sacré-Cœur. Đồng thời năm 2007, Louvre cũng là bảo tàng thu hút nhất thế giới, vượt hơn 2 triệu khách so với Bảo tàng Anh ở vị trí thứ hai. Trong hai năm 2006 và 2007, Louvre đều đạt khoảng 8,3 triệu khách viếng thăm. Trong số đó, 91% khách thăm khu vực trưng bày thường xuyên, 8% thăm các triển lãm, phần còn lại là lượng khán giả của trung tâm nghe nhìn và bảo tàng Eugène Delacroix. Theo thống kê năm 2006, lượng khách nữ giới cao hơn, chiếm 53%. Điều này cũng tương tự như năm 2005. Lượng khách quốc tịch Pháp chiếm 33% và trong số khách nước ngoài, người Mỹ chiếm số đông nhất.
Thuộc hệ thống bảo tàng quốc gia, từ tháng 1 năm 1996, Louvre mở cửa miễn phí vào mỗi chủ nhật đầu tiên của tháng. Đây là chính sách hướng tới các khách thăm người Pháp, chủ nhật đầu tiên vốn là ngày lượng khách nước ngoài ít nhất trong tháng. Từ năm 2004, nhóm khách với mục đích giáo dục không còn được miễn phí ở Louvre. Đồng thời các nghệ sĩ không thuộc hội Maison des Artistes cũng bắt đầu phải trả tiền mua vé. Ngược lại, các nhân viên của Total, công ty tài trợ cho Louvre sửa gian Apollon, được thăm bảo tàng miễn phí và không giới hạn. Ngoài ra, nhóm khách dưới 18 tuổi vẫn được miễn phí ở bảo tàng Louvre.
Xem thêm
Hệ thống bảo tàng Paris
Danh sách bảo tàng Paris
Chú thích
Thư mục
Liên kết ngoài
Tranh chính thức của Viện Bảo tàng Louvre-Lens
Tranh chính thức của Những người bạn của Louvre
Louvre
Louvre
Louvre
Louvre
Louvre
Bài Pháp chọn lọc
|
26370
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A0%20th%E1%BB%9D%20%C4%90%E1%BB%A9c%20B%C3%A0%20Paris
|
Nhà thờ Đức Bà Paris
|
Nhà thờ Đức Bà Paris (tiếng Pháp: Cathédrale Notre-Dame de Paris) là nhà thờ chính tòa, nơi đặt ngai tòa giám mục của Tổng giáo phận Paris, tọa lạc trên đảo Île de la Cité (nằm giữa dòng sông Seine) của thành phố Paris, Pháp. Đây là một nhà thờ Công giáo tiêu biểu cho phong cách kiến trúc gothic, nhưng việc sử dụng sáng tạo của mái cong kiểu vòm có sườn và trụ bay, cửa sổ bông gió và kính màu ghép khổng lồ đầy màu sắc kết hợp chủ nghĩa tự nhiên và phong phú của trang trí điêu khắc làm cho nó khác biệt với phong cách kiến trúc Roman trước đó.
Nhà thờ được bắt đầu khởi công vào năm 1160 dưới thời Tổng giám mục Maurice de Sully, phần lớn công trình được hoàn thành vào năm 1260, mặc dù nó đã được tu sửa thường xuyên trong các thế kỷ về sau. Vào những năm 1790, Nhà thờ Đức Bà bị mạo phạm bởi cuộc Cách mạng Pháp; phần lớn hình ảnh tôn giáo của nó đã bị hư hại hoặc bị phá hủy. Năm 1804, nhà thờ là nơi đăng quang của Napoléon I với tư cách là Hoàng đế của Pháp, và chứng kiến lễ rửa tội của Henri, Bá tước Chambord vào năm 1821 và đám tang của một số tổng thống của Cộng hòa Pháp thứ ba.
Sự quan tâm phổ biến đối với nhà thờ nở rộ ngay sau khi xuất bản, vào năm 1831, cuốn tiểu thuyết Nhà thờ Đức Bà Paris của Victor Hugo. Điều này đã dẫn đến một dự án phục hồi lớn giữa năm 1844 và 1864, được giám sát bởi Eugène Viollet-le-Duc, người đã thêm vào ngọn tháp biểu tượng của nhà thờ. Giải phóng Paris đã được tổ chức tại Notre-Dame vào năm 1944 với tiếng hát của Magnificat. Bắt đầu từ năm 1963, mặt tiền của nhà thờ đã được dọn sạch hàng thế kỷ của bồ hóng và bụi bẩn. Một dự án làm sạch và phục hồi khác được thực hiện từ năm 1991 đến năm 2000.
Nhà thờ là một trong những biểu tượng được công nhận rộng rãi nhất của thành phố Paris và quốc gia Pháp. Là nhà thờ chính tòa của Tổng giáo phận Paris, Notre-Dame chứa thánh đường của Tổng giám mục Paris (Michel Aupetit). 12 triệu người đến thăm Notre-Dame hàng năm, làm cho địa điểm này trở thành di tích được ghé thăm nhiều nhất ở Paris.
Trong khi đang tiến hành cải tạo và phục hồi, mái nhà thờ Đức Bà đã bốc cháy vào tối ngày 15 tháng 4 năm 2019. Đốt cháy trong khoảng 15 giờ, nhà thờ bị hư hại nghiêm trọng, bao gồm cả việc phá hủy ngọn lửa và phần lớn mái nhà trên trần nhà bằng đá. Các lính cứu hỏa đã có thể cứu mặt tiền, tháp, tường, trụ, cơ quan đường ống và cửa sổ kính màu. Những bức tượng trên ngọn lửa đã được gỡ bỏ để làm sạch và các di tích đã được giải cứu trong vụ cháy, nhưng các phần của trần đá bị sụp đổ. Điều tra đầu tiên chỉ ra rằng cấu trúc vẫn cơ bản là âm thanh. Tổng thống Pháp Emmanuel Macron tuyên bố rằng Notre-Dame sẽ được xây dựng lại, nhưng thời gian cần thiết để làm điều này hiện không chắc chắn.
Lịch sử
Các công trình tôn giáo đầu tiên
Theo truyền thuyết thì thánh Dennis truyền bá Kitô giáo vào thành phố Paris khoảng năm 250. Công trình tôn giáo đầu tiên có thể đã được xây dựng bên bờ trái sông Seine, cạnh Val-de-Grâce ngày nay. Nhưng sử sách đã không ghi lại được chính xác về nhà thờ lớn đầu tiên của Paris cũng như các nhà thờ sau đó. Theo những dấu tích, trên đảo Île de la Cité từng có một ngôi đền, rồi được thay thế bởi một nhà thờ Cơ Đốc giáo mang tên Saint-Etienne. Nhưng không thể biết nhà thờ này được xây dựng vào thế kỷ 4 rồi được tu sửa sau đó hay xây vào thế kỷ 7 trên các dấu tích cũ. Một điều chắc chắn rằng Saint-Etienne là một giáo đường rất lớn và giống với các nhà thờ cổ khác của La Mã hay Ravenna. Bên trong, năm gian được chia cách bởi những cột lớn, tường được trang trí ghép mảnh. Phía Bắc nhà thờ còn có nhà rửa tội mang tên Saint-Jean le Rond.
Bên bờ trái sông Seine, tu viện Saint-Germain-des-Prés được xây khoảng thập niên 540. Nhưng vào thế kỷ 9 và 10, những người Normand thường xuyên tấn công Paris và đã phá hủy tu viện Saint-Germain-des-Prés. Tu viện mới được xây lại trong khoảng 990 tới 1021.
Bối cảnh
Thế kỷ 12, Paris là một thành phố quan trọng của Kitô giáo. Đây cũng là giai đoạn thành phố có những phát triển mạnh mẽ về cả dân số và kinh tế. Nhà buôn và thợ thủ công tập trung tại chợ lớn bên bờ phải sông Seine. Trường học của nhà thờ tạo được uy tín. Vương triều Capet cũng quay trở lại Paris.
Ngày 12 tháng 10 năm 1160, dưới thời Louis VII, Maurice de Sully trúng cử giám mục Paris. Cùng với các tu sĩ, Maurice de Sully đã có một quyết định quan trong: xây dựng trên quảng trường Saint-Etienne một nhà thờ mới lớn hơn nhiều so với nhà thờ cũ. Nhà thờ sẽ thờ Đức Mẹ và theo phong cách kiến trúc mới, về sau được gọi là kiến trúc Gothic. Cùng với việc xây dựng nhà thờ là cả một dự án quy hoạch đô thị.
Nhà thờ cũ Saint-Etienne sẽ bị phá bỏ.
Bố trí sân trước nhà thờ mới như một khoảng trung gian giữa những người ngoại đạo và các tín đồ Công giáo.
Vạch ra con phố Neuve-Notre-Dame rộng 6 mét, cho phép một lượng lớn dân chúng đến nhà thờ.
Tòa giám mục và Hôtel-Dieu cũng được xây dựng lại.
Xây dựng
Năm 1163, viên đá đầu tiên được đặt với sự có mặt của Giáo hoàng Alexanđê III và vua Louis VII. Tên của kiến trúc sư đầu tiên đã không được nhắc tới. Giám mục Maurice de Sully chỉ đạo công việc xây dựng cho tới năm 1196, rồi tiếp tục bởi giám mục Eudes de Sully. Việc thi công đầu tiên gồm bốn giai đoạn chính:
1163-1182: Xây dựng điện và hai hành lang chính diện
1182-1190: Xây dựng hai gian cuối, các gian bên và diễn đàn
1190-1225: Xây dựng mặt ngoài, hai gian đầu của nhà thờ
1225-1250: Xây dựng hành lang thượng, hai tháp cùng thay đổi, mở rộng các cửa sổ.
1350: Chính thức xây dựng xong.
Các xây dựng tiếp theo từ cuối thế kỷ 13 cho tới đầu thế kỷ 14, tên tuổi các kiến trúc sư được ghi lại: Jean de Chelles, Pierre de Montreuil, Pierre de Chelles, Jean Ravy và Jean le Bouteiller. Hai cánh ngang nhà thờ được mở rộng, điện thờ được bố trí lại.
Vụ hỏa hoạn lớn 15 tháng 4 năm 2019
Ngày 15 tháng 4 năm 2019, Nhà thờ Đức Bà Paris bị cháy. Vụ hỏa hoạn đã gây ra thiệt hại rất lớn cho cấu trúc nhà thờ. Hầu như toàn bộ mái nhà bị sụp đổ. Bên cạnh đó, các cửa sổ hoa hồng cũng bị thiệt hại phần lớn. Tuy nhiên, khu vục hầm đá vẫn còn nguyên vẹn bên trong, theo như mô tả của một số người liên quan được cho phép vào hiện trường thì "khu vực này tương đối không bị ảnh hưởng". Nhiều cổ vật đã được cứu, Tổng thống Pháp Emmanuel Macron đã tuyên bố sẽ xây dựng lại nhà thờ và gây quỹ để khôi phục lại di sản của Paris.
Biểu tượng lịch sử
Nhà thờ Đức Bà Paris là một trong những biểu tượng được công nhận rộng rãi nhất của không chỉ của thành phố Paris mà cả còn của cả nước Pháp. Nhà thờ Đức Bà Paris đã truyền cảm hứng cho nhiều tác phẩm như The Hunchback of Notre Dame của Hugo và bộ phim Disney năm 1996. Đây là nhà thờ chính tòa của Tổng giáo phận Paris, Notre-Dame do Tổng giám mục Paris (Michel Aupetit) quản lý. Hàng năm có hơn 12 triệu khách du lịch ghé thăm nơi đây.
Xem thêm
Đức mẹ Maria
Tham khảo
Liên kết ngoài
Tiếng Pháp:
Trang chính của Nhà thờ Đức Bà Paris
Tiếng Anh:
Hình ảnh Nhà thờ Đức Bà Paris
Đức Bà
Công trình hai bờ sông Seine
Đức bà Paris
Kiến trúc Gothic
Quận 4, Paris
Paris
Paris
Jeanne d'Arc
Kiến trúc Gothic ở Pháp
Giáo hoàng Alexanđê III
Danh lam thắng cảnh ở Pháp
|
26371
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%E1%BA%A3i%20Ho%C3%A0n%20M%C3%B4n%20%28Paris%29
|
Khải Hoàn Môn (Paris)
|
Khải Hoàn Môn (có tên khác là Bắc đẩu Tinh tú Hoàn môn) (tiếng Pháp: L’arc de triomphe de l’Étoile) là một công trình ở Paris, một trong những biểu tượng lịch sử nổi tiếng của nước Pháp. Nằm giữa quảng trường Étoile (Charles-de-Gaulle), vị trí của Khải Hoàn Môn là điểm cuối của đại lộ Champs-Elysées, khu vực tập trung khách du lịch của thành phố. Vốn là công trình do Napoléon cho xây dựng vào năm 1806 để vinh danh quân đội Đệ Nhất Đế chế Pháp, nhưng Khải Hoàn Môn được hoàn thành vào năm 1836, dưới Nền quân chủ Tháng bảy.
Ngày nay, Khải Hoàn Môn là một trong những công trình nổi tiếng nhất của Paris và cùng với Champs-Elysées là địa điểm tổ chức các lễ hội, sự kiện hay ăn mừng các chiến thắng thể thao. Với 1.330.738 lượt khách mua vé viếng thăm, Khải Hoàn Môn đứng thứ 10 trong các công trình thu hút nhất của Paris.
Lịch sử
Đầu thế kỷ 17, vị trí của Khải Hoàn Môn thuộc ngoại ô của Paris. Năm 1616, hoàng hậu Marie de Médicis quyết định mở một con đường dài có trồng cây hai bên để đi dạo, chính là đại lộ Champs-Elysées ngày nay. Trong thế kỷ 17, khu vực Champs-Elysées dần được đô thị hóa và quảng trường Étoile được tạo ra vào năm 1670, nhưng vẫn nằm ngoài bức tường thành do Louis XIII xây từ 1633 đến 1636. Năm 1787, bức tường Thuế quan được xây dựng để kiểm soát hàng hóa vào Paris và đi qua quảng trường Étoile. Étoile được kiến trúc sư Claude Nicolas Ledoux bố trí là một trong những trạm thu thuế. Quảng trường Étoile khi đó là giao lộ của năm con đường lớn.
Năm 1806, sau chiến thắng Austerlitz, hoàng đế Napoléon Bonaparte quyết định xây dựng trên quảng trường Étoile một công trình vinh danh quân đội. Khải Hoàn Môn được kiến trúc sư Jean-François-Thérèse Chalgrin thiết kế, lấy cảm hứng từ các công trình cổ đại, cao 50 mét, rộng 45 mét. Sau Jean-François-Thérèse Chalgrin, những người kế nhiệm công việc xây dựng là Louis-Robert Goust và Jean-Nicolas Huyot.
Sự sụp đổ của Đệ nhất đế chế khiến việc thi công Khải Hoàn Môn bị đình lại. Tới năm 1825, công trình mới được tiếp tục và năm 1836 được vua Louis-Philippe khánh thành. Năm 1840, thi hài của Napoléon - người quyết định xây dựng công trình - được đưa qua Khải Hoàn Môn trước khi về điện Invalides. Sau đó, linh cữu Victor Hugo cũng được để một đêm ở đây trước khi đưa về điện Panthéon.
Thời Đệ nhị đế chế, khi Paris được Georges Eugène Haussmann cải tạo lại, bảy con đường mới được vạch thêm, gặp nhau tại quảng trường Étoile. Khải Hoàn Môn dần trở thành biểu tượng của thành phố Paris. Kể từ 14 tháng 7 năm 1919, cuộc duyệt binh mừng quốc khánh được tổ chức đi ngang qua Khải Hoàn Môn. Năm 1989, Grande Arche được hoàn thành ở khu La Défense, được xem như một Khải Hoàn Môn mới, kéo dài trục Axe historique.
Ngày này, Khải Hoàn Môn là một trong những công trình nổi tiếng nhất của thành phố, khu vực Champs-élysées là điểm hấp dẫn du khách và cũng là địa điểm tổ chức các lễ hội, chào đón năm mới. Cơ quan quản lý Khải Hoàn Môn là Trung tâm công trình quốc gia.
Khải Hoàn Môn
Nằm trên quảng trường Étoile, cuối đại lộ Champs-Elysées, Khải Hoàn Môn thuộc trục Axe historique đi qua nhiều công trình quan trọng của Paris. Vị trí của Khải Hoàn Môn là điểm giao của 12 đại lộ và ba quận. Để tới chân công trình, lối đi Passage du Souvenir (Lối đi Kỷ Niệm) được xây dựng ngầm dưới quảng trường.
Với vị trí cuối Champs-Elysées, một năm sẽ có hai lần, khoảng 10 tháng 5 và 1 tháng 8, xảy ra hiện tượng: đứng giữa đại lộ, nhìn thấy Mặt Trời lặn ngang qua Khải Hoàn Môn trong vài phút. Vào ngày 10 tháng 5 năm 1994, hiện tượng này xảy ra đồng thời với nhật thực. Đã có gần 200 ngàn người tới đây để chứng kiến. Tương tự, nhìn từ hướng ngược lại, phía Porte Maillot, hiện tượng này xảy ra vào khoảng 7 tháng 2 và 4 tháng 11. Đài tưởng niệm mở cửa hàng ngày từ 10:00 sáng đến 10:30 tối.
Điêu khắc
Khải Hoàn Môn có kích thước mặt đứng gần hình vuông, chiều rộng 45 mét, cao 50 mét, nằm trên quảng trường có đường kính 240 mét. Công trình là tổng thể điêu khắc lớn nhất của Pháp trong thế kỷ 19. Các mặt của công trình được trang trí nhiều bức phù điêu, tượng đài và khắc tên các nhân vật nổi tiếng trong giai đoạn Cách mạng và Đế chế.
Bốn tác phẩm điêu khắc lớn nhất là: Xuất quân 1792 và Khải hoàn 1810 phía Champs-Elysées, Kháng chiến 1814 và Hòa bình 1815 phía Grande-Armée. Trong đó Xuất quân, tên đầy đủ Xuất quân của các chiến sĩ tình nguyện 1792 (Le départ des volontaires de 1792), tức La Marseillaise nổi tiếng hơn cả. Tác phẩm của nhà điêu khắc François Rude, cao 11,6 mét rộng 6 mét. Mặt phía trong bốn chân của Khải Hoàn Môn được trang trí bởi các bức phù điêu miêu tả những trận đánh nổi tiếng thời Cách mạng và Đế chế. Bên dưới khắc tên tuổi các nhân vật nổi tiếng trong giai đoạn lịch sử đó. Sáu bức phù điêu, bốn phía trên các tượng đài và hai ở các cạnh bên, mô tả những giai đoạn, sự kiện của Cách mạng Pháp và Đế chế. Ngoài ra bề mặt Khải Hoàn Môn còn có các phù điêu nhỏ khác.
Chi tiết
Bốn nhóm điêu khắc chính trên mỗi trụ cột của Arc là:
Le Départ de 1792 (hoặc là La Marseillaise), của François Rude. Nhóm điêu khắc kỷ niệm nguyên nhân của Đệ Nhất Cộng hòa Pháp trong thời gian Cuộc nổi dậy ngày 10 tháng 8. Phía trên các tình nguyện viên là sự nhân cách hóa có cánh của Liberty. Nhóm này phục vụ như một công cụ tuyển dụng trong những tháng đầu của Thế Chiến I và khuyến khích người Pháp đầu tư vào các khoản vay chiến tranh ở 1915–1916.
Le Triomphe de 1810, của Jean-Pierre Cortot kỷ niệm Hiệp ước Schönbrunn. Nhóm này có Napoleon, được trao vương miện bởi nữ thần Chiến thắng.
La Résistance de 1814, của Antoine Étex kỷ niệm cuộc kháng chiến của Pháp với quân đội đồng minh trong thời gian Chiến tranh Liên minh thứ Sáu.
La Paix de 1815, của Antoine Étex kỷ niệm Hiệp ước Paris, kết luận vào năm đó.
Sáu phù điêu được điêu khắc trên mặt tiền của Arch, đại diện cho những khoảnh khắc quan trọng của Cách mạng Pháp và của Thời đại Napoleon bao gồm:
Les funérailles du général Marceau (Tướng Marceau an táng), bởi P. H. Lamaire (mặt tiền phía Nam, phải).
La bataille d'Aboukir (Trận Aboukir), của Bernard Seurre (Mặt tiền Nam, trái).
La bataille de Jemappes (Trận Jemappes), của Carlo Marochetti (Mặt tiền Đông).
Le passage du pont d'Arcole (Trận Arcole), của Jean-Jacques Feuchère (Mặt tiền Bắc, phải).
La prise d'Alexandrie, (Mùa thu của Alexandria), của John-Étienne Chaponnière (Mặt tiền Bắc, trái).
La bataille d'Austerlitz (Trận Austerlitz), của Théodore Gechter (Mặt tiền phía Tây).
Tên của một số trận đánh lớn của Chiến tranh Cách mạng và Napoléon Pháp được khắc trên gác mái, bao gồm.
Một danh sách các chiến thắng của Pháp được khắc dưới các vòm lớn trên mặt tiền bên trong của di tích.
Trên mặt tiền bên trong của các vòm nhỏ là khắc tên của các nhà lãnh đạo quân sự của Cách mạng và Đế quốc Pháp sự của Cách mạng và Đế quốc Pháp. Tên của những người đã chết trên chiến trường được gạch chân.
Điều tuyệt vời arcade được trang trí với số liệu ngụ ngôn đại diện cho các nhân vật trong thần thoại La Mã (bởi James Pradier).
Trần nhà với 21 tác phẩm điêu khắc Hoa hồng.
Nội thất của Khải Hoàn Môn.
Có một số mảng dưới chân tượng đài.
Mộ chiến sĩ vô danh
Mộ chiến sĩ vô danh nằm dưới Khải Hoàn Môn từ ngày 11 tháng 11 năm 1920. Đây là một người lính Pháp vô danh chết trong trận Verdun, thời Chiến tranh thế giới thứ nhất. Cùng với ở Paris, bảy chiến sĩ vô danh khác cũng được chôn cất ở Flandres, Artois, Somme, Chemin des Dames, Champagne, Verdun và Lorraine. Trên ngôi mộ ở Khải Hoàn Môn khắc dòng chữ:
Có nghĩa: "Nơi đây yên nghỉ một người lính Pháp chết cho tổ quốc". Từ năm 1923, một ngọn lửa được thắp trên ngôi mộ chiến sĩ vô danh vào mỗi chiều tối. Buổi lễ được tổ chức vào lúc 18 giờ 30 ở chân Khải Hoàn Môn liên tục cho tới ngày nay. Vào ngày 14 tháng 7 năm 1940, trong thời gian Quân đội Đức chiếm đóng Paris, buổi lễ vẫn được tổ chức với sự cho phép của sĩ quan Đức.
Xem thêm
Những cái tên được khắc dưới Khải Hoàn Môn
Grande Arche
Khải hoàn môn Carrousel
Chú thích
Liên kết ngoài
Tranh chính thức của Khải Hoàn Môn
Khải Hoàn Môn trên trang Insecula
Khải Hoàn Môn trên trang Parisrama
Công trình lịch sử Paris
Khải hoàn môn Pháp
Quận 8, Paris
Quận 16, Paris
Quận 17, Paris
Tượng đài Paris
Danh lam thắng cảnh ở Pháp
|
26375
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Victor%20Hugo
|
Victor Hugo
|
Victor-Marie Hugo (; (26 tháng 2, 1802 - 22 tháng 5, 1885 tại Paris) là một chính trị gia, thi sĩ, nhà văn, và kịch gia thuộc chủ nghĩa lãng mạn nổi tiếng của Pháp.
Victor Hugo chiếm một vị trí trang trọng trong lịch sử văn học Pháp. Các tác phẩm của ông đa dạng về thể loại và trải rộng trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Với tư cách là nhà thơ trữ tình, Hugo đã xuất bản tập Odes et Ballades (1826), Les feuilles d'automne (1831) hay Les Contemplations (1856). Nhưng ông cũng thể hiện vai trò của một nhà thơ dấn thân chống Napoléon III bằng tập thơ Les Châtiments (1853) và vai trò một nhà sử thi với tập La Légende des siècles (1859 và 1877). Thành công vang dội của hai tác phẩm Nhà thờ Đức Bà Paris và Những người khốn khổ đã đưa Victor Hugo trở thành tiểu thuyết gia của công chúng. Về kịch, ông đã trình bày thuyết kịch lãng mạn trong bài tựa của vở kịch Cromwell (1827) và minh họa rõ nét thể loại này ở hai vở kịch nổi tiếng Hernani (1830) và Ruy Blas (1838).
Victor Hugo đã cống hiến lớn lao cho sự đổi mới thơ ca và sân khấu. Ông được người đương thời ngưỡng mộ nhưng cũng gây ra tranh cãi ở một số tác gia hiện đại. Cuộc lưu đày 20 năm trong đế chế thứ hai của ông đặt ra sự suy ngẫm cho nhiều thế hệ về vai trò của một nhà văn trong đời sống chính trị xã hội.
Những lựa chọn mang tính đạo đức và chính trị của Victor Hugo, cùng với những kiệt tác văn học đã đưa ông trở thành gương mặt nổi bật của thời đại đó. Khi qua đời, Victor Hugo được nhà nước cử lễ quốc tang và thi hài ông được đưa vào điện Panthéon.
Đầu đời
Victor-Marie Hugo sinh ngày 26 tháng 2 năm 1802 tại Besançon ở miền Đông nước Pháp. Ông là đứa con thứ 3, và là con út, của đại tướng Joseph Léopold Sigisbert Hugo (1774–1828), một vị tướng trong quân đội Napoléon, và họa sĩ Sophie Trébuchet (1772–1821); hai người anh của ông là: Abel Joseph (1798–1855) và Eugène (1800–1837). Gia đình Hugo đến từ Nancy ở Lorraine, ông nội của Victor Hugo là một thương gia buôn gỗ. Cha ông gia nhập quân đội Cách mạng Pháp năm mười bốn tuổi, ông là một người vô thần và là người ủng hộ nhiệt thành cho nền cộng hòa được thành lập sau khi chế độ quân chủ bị bãi bỏ vào năm 1792. Sophie, mẹ của Victor, là một người Công giáo sùng đạo, trung thành với Vương tộc Bourbon đã bị phế truất. Họ gặp nhau ở Châteaubriant, cách Nantes vài dặm vào năm 1796 và kết hôn vào năm sau đó.
Vì cha của Hugo là một sĩ quan trong quân đội của Napoléon, gia đình ông phải thường xuyên di chuyển từ nơi này sang nơi khác, Sophie sinh được ba người con trong vòng bốn năm." Victor Hugo tin rằng ông đã được sinh ra vào ngày 24 tháng 6 năm 1801, đây là nguồn gốc của số 24601 của Jean Valjean, nhân vật chính trong tiểu thuyết Những người khốn khổ do chính ông viết.
Vào năm 1810, cha của Hugo được vua Tây Ban Nha Joseph Bonaparte phong là Bá tước Hugo de Cogolludo y Sigüenza, mặc dù có vẻ như tước hiệu Tây Ban Nha không được công nhận hợp pháp ở Pháp. Hugo sau đó tự xưng là tử tước, và chính là "Vicomte Victor Hugo", ông được bổ nhiệm làm người Peerage của Pháp vào ngày 13 tháng 4 năm 1845.
Mệt mỏi vì phải chuyển nơi ở liên tục trong cuộc sống quân ngũ, Sophie tạm thời tách khỏi Léopold và định cư ở Paris vào năm 1803 với các con trai của mình, bà bắt đầu gặp Tướng Victor Fanneau de La Horie, cha đỡ đầu của Hugo, người từng là đồng đội của Tướng Hugo trong chiến dịch ở Vendee. Vào tháng 10 năm 1807, gia đình tái gia nhập Leopold, lúc này là Đại tá Hugo, Tỉnh trưởng tỉnh Avellino. Tại thành phố đó, Victor được dạy toán bởi Giuseppe de Samuele Cagnazzi, anh trai của nhà khoa học người Ý Luca de Samuele Cagnazzi. Sophie phát hiện ra rằng Leopold đã sống bí mật với một phụ nữ người Anh tên là Catherine Thomas.
Ngay sau đó cha của Hugo được gọi đến Tây Ban Nha để chiến đấu trong Chiến tranh Bán đảo. Madame Hugo và các con của bà được gửi trở lại Paris vào năm 1808, sau đó họ chuyển đến một tu viện cũ, 12 Impasse des Feuillantines, một dinh thự biệt lập trong một phần tư hoang vắng của tả ngạn sông Seine. Ẩn trong một nhà nguyện ở sau vườn, là Victor Fanneau de La Horie, người đã âm mưu khôi phục lại nhà Bourbons và đã bị kết án tử hình vài năm trước đó. Anh ấy đã trở thành một người cố vấn cho Victor và những người anh em của anh ấy.
Năm 1811, gia đình ông cùng cha đến Tây Ban Nha, Victor và các anh trai được gửi đến trường trong khi Sophie trở về Paris một mình, hiện đã chính thức ly thân với chồng. Năm 1812, Victor Fanneau de La Horie bị bắt và bị xử tử. Vào tháng 2 năm 1815, Victor và Eugene được đưa đi khỏi mẹ và được cha của họ đưa vào Pension Cordier, một trường nội trú tư nhân ở Paris, nơi Victor và Eugène ở lại ba năm trong khi cũng tham gia các bài giảng tại Lycée Louis le Grand.
Vào ngày 10 tháng 7 năm 1816, Hugo đã viết trong nhật ký của mình: “Tôi sẽ là Chateaubriand hoặc không là gì cả”. Năm 1817, ông đã viết một bài thơ cho một cuộc thi do Academie Française tổ chức, cuộc thi mà ông đã được vinh danh. Các Viện sĩ từ chối tin rằng ông chỉ mới mười lăm. Victor chuyển đến ở với mẹ tại 18 Rue des Petits-Augustins năm sau và bắt đầu theo học trường luật. Victor yêu và bí mật đính hôn, trái với mong muốn của mẹ anh, với người bạn thời thơ ấu Adèle Foucher. Vào tháng 6 năm 1821 Sophie Trebuchet qua đời, và Léopold kết hôn với người tình lâu năm của mình là Catherine Thomas một tháng sau đó. Victor kết hôn với Adèle vào năm sau. Năm 1819, Victor và các anh trai của ông bắt đầu xuất bản một tạp chí định kỳ có tên là Le Conservateur littéraire .
Nghề nghiệp
Hugo xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tiên sau khi kết hôn (, 1823), và cuốn thứ hai của ông xuất bản là ba năm sau (Bug-Jargal, 1826). Từ năm 1829 đến năm 1840, ông xuất bản thêm năm tập thơ (, Năm 1829; , Năm 1831; Les Chants du crépuscule, Năm 1835; , năm 1837; và , 1840), các tiểu thuyết của ông góp phần củng cố danh tiếng của ông như một trong những nhà thơ trữ tình và điện ảnh vĩ đại nhất thời đại. Giống như nhiều nhà văn trẻ cùng thế hệ, Hugo chịu ảnh hưởng sâu sắc của François-René de Chateaubriand, nhân vật nổi tiếng trong trào lưu văn học Chủ nghĩa lãng mạn và là nhân vật văn học lỗi lạc của Pháp đầu thế kỷ XIX. Khi mới mười bốn tuổi, Hugo viết trong cuốn nhật kí của mình rằng "Tôi muốn là hoặc không gì cả", và cuộc đời của ông sẽ song song với cuộc đời của những người tiền nhiệm theo nhiều cách. Thích , Hugo tiếp tục phát triển sự nghiệp theo Chủ nghĩa lãng mạn, ông còn tham gia vào chính trị (chủ yếu là người đấu tranh cho chủ nghĩa Cộng hòa), và ông bị buộc phải lưu vong do lập trường chính trị của mình.
Niềm đam mê sớm và khả năng hùng biện trong công việc ban đầu của Hugo đã mang lại thành công và danh tiếng ngay từ khi còn nhỏ. Tập thơ đầu tiên của ông: () được xuất bản vào năm 1822 khi ông mới 20 tuổi và nhận được tiền trợ cấp hoàng gia từ Louis XVIII. Mặc dù các bài thơ được ngưỡng mộ vì sự nhiệt tình và trôi chảy của chúng, bộ sưu tập tiếp theo bốn năm sau vào năm 1826 () cho thấy Hugo là một nhà thơ vĩ đại, một bậc thầy thiên bẩm về trữ tình và sáng tạo ca khúc.
Tác phẩm tiểu thuyết chính thức đầu tiên của Victor Hugo được Charles Gosselin xuất bản lần đầu tiên vào tháng 2 năm 1829 mà không có tên tác giả và phản ánh lương tâm xã hội gay gắt sẽ ngấm vào tác phẩm sau này của ông. (Ngày cuối cùng của một tử tù) có ảnh hưởng sâu sắc đến các nhà văn sau này như Albert Camus, Charles Dickens và Fyodor Dostoyevsky. , một truyện ngắn tài liệu về một kẻ sát nhân có thật đã bị hành quyết ở Pháp, xuất hiện vào năm 1834 và sau đó được chính Hugo coi là tiền thân của tác phẩm vĩ đại về bất công xã hội, Những người khốn khổ.
Hugo trở thành đầu tàu của phong trào văn học lãng mạn với các vở kịch Cromwell (1827) và Hernani (1830). Hernani thông báo sự xuất hiện của chủ nghĩa lãng mạn tại Pháp: được biểu diễn tại Comédie-Française, nó đã được chào đón bằng nhiều buổi biểu diễn náo nhiệt với những người theo chủ nghĩa lãng mạn và những người theo chủ nghĩa truyền thống xung đột về việc cố tình coi thường các quy tắc tân cổ điển của vở kịch. Sự nổi tiếng của Hugo với tư cách là một nhà viết kịch đã tăng lên với các vở kịch sau đó, chẳng hạn như Marion Delorme (1831), The King Amuses Himself (1832), và Ruy Blas (1838).
Cuốn tiểu thuyết (Nhà thờ Đức Bà Paris) được xuất bản năm 1831 và nhanh chóng được dịch ra các thứ tiếng khác trên khắp châu Âu. Một trong những tác động của cuốn tiểu thuyết là làm nhục cả thành phố Paris cho đến khi họ khôi phục lại Nhà thờ Đức Bà, một công trình bị lãng quên đương thời và hiện là nơi đang thu hút hàng nghìn khách du lịch đã đọc cuốn tiểu thuyết nổi tiếng này. Cuốn sách cũng truyền cảm hứng cho sự đánh giá mới đối với các tòa nhà thời kỳ tiền Phục hưng, để rồi thời gian sau chúng đã được tích cực bảo tồn.
Hugo bắt đầu lên kế hoạch cho một cuốn tiểu thuyết lớn về sự khốn cùng và bất công của xã hội ngay từ những năm 1830, nhưng phải mất đến 17 năm nữa để cho cuốn Những người khốn khổ hoàn thiện rồi mới được xuất bản vào năm 1862. Ông đã đến Toulon để thăm nhà tù Bagne vào năm 1839 và ghi chép nhiều thông tin, mặc dù ông không bắt đầu viết cuốn sách cho đến năm 1845. Trên một trong những trang ghi chú của mình về nhà tù, ông đã viết bằng các chữ cái lớn một cái tên khả quan cho người hùng của mình: "JEAN TRÉJEAN". Sau khi sách được viết xong, Tréjean trở thành Jean Valjean .Hugo có nhận thức sâu sắc về chất lượng của cuốn tiểu thuyết này, bằng chứng là trong một lá thư ông viết cho nhà xuất bản của mình, Albert Lacroix, vào ngày 23 tháng 3 năm 1862, "Tôi tin rằng cuốn sách này sẽ là một trong những đỉnh cao, nếu không muốn nói là nổi bật nhất trong sự nghiệp của tôi." Tác phẩm Những người khốn khổ thuộc về người trả giá cao nhất. Nhà xuất bản và đã thực hiện một chiến dịch tiếp thị bất thường đương thời, đó chính là phát hành thông cáo báo chí về tác phẩm sáu tháng trước khi ra mắt. Ban đầu nó cũng chỉ xuất bản phần đầu tiên của cuốn tiểu thuyết ("Fantine"), và đã được phát hành đồng thời ở các thành phố lớn. Các phần của cuốn sách đã được bán hết chỉ trong vài giờ và có tác động không tưởng đến xã hội Pháp.
Cơ sở phê bình nói chung là thù địch với cuốn tiểu thuyết này; thấy nó không chân thành, phàn nàn về sự thô tục, cho rằng nội dung "không phải sự thật cũng không hề vĩ đại", anh em nhà Goncourt chê bai tính giả tạo, và - mặc dù đã đưa ra những đánh giá tích cực trên các tờ báo - vẫn cho rằng nó "thật ghê tởm và vô dụng". Những người khốn khổ đã chứng tỏ được mức phổ biến của nó đối với quần chúng khi những vấn đề mà nó tô đậm đã sớm nằm trong chương trình nghị sự của Quốc hội Pháp. Ngày nay, cuốn tiểu thuyết vẫn là tác phẩm nổi tiếng nhất của ông. Nó mang tính phổ biến trên toàn thế giới và đã được chuyển thể cho điện ảnh, truyền hình và các chương trình sân khấu.
Một câu chuyện ngụy thư về thư từ ngắn nhất trong lịch sử được cho là giữa Hugo và nhà xuất bản Hurst và Blackett của ông vào năm 1862. Hugo đã đi nghỉ khi Những người khốn khổ được xuất bản, công bố. Ông hỏi về phản ứng đối với tác phẩm bằng cách gửi một bức điện có một ký tự duy nhất đến nhà xuất bản của mình, hỏi rằng "". Nhà xuất bản đã trả lời bằng một "" để chỉ ra sự thành công của nó.
Hugo quay lưng lại với các vấn đề xã hội/chính trị trong cuốn tiểu thuyết tiếp theo của mình, (Lao động biển cả), xuất bản năm 1866. Cuốn sách được đón nhận nồng nhiệt, có lẽ do thành công trước đó của Những người khốn khổ. Tác phẩm dành riêng cho hòn đảo Guernsey, nơi ông đã trải qua 15 năm sống lưu vong. Trong truyện, Hugo kể về một người đàn ông cố gắng giành được sự chấp thuận của người cha thân yêu của mình bằng cách giải cứu con tàu của họ, vị thuyền trưởng của con tàu cố ý trốn thoát với một kho tiền đang vận chuyển, thông qua một trận chiến kiệt sức của kỹ thuật con người chống lại sức mạnh của biển và trận chiến chống lại một con mực khổng lồ được cho là quái vật thần thoại của biển cả. Vẻ ngoài là một cuộc phiêu lưu, một trong những tiểu sử gia của Hugo gọi nó là một "phép ẩn dụ cho thế kỷ XIX, khi tiến bộ kỹ thuật, sự sáng tạo tài năng và nỗ lực chăm chỉ vượt lên cái ác nội tại của thế giới vật chất."
Sau đó, Hugo trở lại viết về các vấn đề chính trị và xã hội trong cuốn tiểu thuyết tiếp theo của mình, (Người đàn ông cười), được xuất bản năm 1869 và vẽ nên một bức tranh phê bình tầng lớp quý tộc. Cuốn tiểu thuyết không thành công như những nỗ lực trước đó của ông, và chính Hugo cũng bắt đầu nhận xét rằng khoảng cách giữa ông và những văn hào đương thời như và ngày một lớn, những cuốn tiểu thuyết theo chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa tự nhiên của họ đã bấy giờ vượt mức độ phổ biến của các tác phẩm ông viết.
Cuốn tiểu thuyết cuối cùng của ông là (Chín mươi ba), xuất bản năm 1874, đề cập đến một chủ đề mà Hugo đã né tránh trước đó: Triều đại khủng bố trong Cách mạng Pháp. Mặc dù sự nổi tiếng của Hugo đã giảm vào thời điểm xuất bản, nhiều người hiện coi Chín mươi ba là một tác phẩm ngang hàng với những tiểu thuyết nổi tiếng hơn của Hugo.
Cuộc sống chính trị và lưu vong
Sau ba lần thất bại, Hugo cuối cùng cũng được bầu vào năm 1841, từ đó củng cố được vị trí của mình trong thế giới nghệ thuật và thư từ Pháp. Một nhóm các viện sĩ Pháp, đặc biệt là , đã chiến đấu chống lại "sự tiến hóa của văn học lãng mạn" và đã tìm được cách trì hoãn cuộc bầu cử của Victor Hugo. Vì vậy nên sau này ông ngày càng tham gia nhiều hơn vào chính trường Pháp.
Vào cuộc đề cử của Vua , Hugo bước vào Thượng viện Quốc hội với tư cách là một vào năm 1845, nơi ông lên tiếng chống lại án tử hình và sự bất công xã hội, ủng hộ quyền tự do báo chí và chế độ tự trị cho Ba Lan.
Năm 1848, Hugo được bầu vào Quốc hội của nền Cộng hòa thứ hai Đệ Nhị Pháp với tư cách là một người theo phe bảo thủ. Năm 1849, ông đoạn tuyệt với phe bảo thủ khi có bài phát biểu nổi tiếng kêu gọi chấm dứt sự khốn khổ và nghèo đói. Các bài phát biểu khác đã kêu gọi phổ thông đầu phiếu và giáo dục miễn phí cho mọi trẻ em. Chủ trương xóa bỏ án tử hình của Hugo đã trở nên trứ danh trên toàn thế giới.
Các bài phát biểu của quốc hội này được đăng trên tạp chí . Cuộn xuống đầu đề và các trang tiếp theo. Khi Louis Napoléon (Napoléon III) nắm hoàn toàn quyền lực vào năm 1851, thiết lập một hiến pháp chống nghị viện, Hugo bị phe đối lập tuyên bố công khai rằng ông là kẻ phản bội nước Pháp. Ông chuyển đến Brussels, sau đó là Jersey, từ đó ông bị trục xuất vì ủng hộ một tờ báo của Jersey khi họ chỉ trích Nữ hoàng Victoria. Cuối cùng, ông định cư với gia đình tại nhà Hauteville ở Cảng Saint Peter, Guernsey, nơi ông đã sống cuộc đời lưu vong từ tháng 10 năm 1855 cho đến năm 1870.
Tại thời điểm sống lưu vong, Hugo đã viết nên và xuất bản hai bài luận chính trị ngắn nổi tiếng chống Napoléon III, và . Các bài luận này đã bị cấm ở Pháp nhưng dù sao vẫn có tác động mạnh mẽ ở đó. Ông cũng đã sáng tác hoặc xuất bản một số tác phẩm hay nhất của mình khi còn ở Guernsey, bao gồm Những người khốn khổ, và ba tập thơ được ca ngợi rộng rãi gồm (,1853, , 1856 và , 1859).
Như những người đương thời, Victor Hugo đã biện minh cho chế độ Chủ nghĩa Thực dân trong giới hạn là nó được dùng trong các nhiệm vụ khai hóa và bãi bỏ mạng lưới buôn bán nô lệ trên bờ biển Barbary. Trong một bài phát biểu vào ngày 18 tháng 5, năm 1879, tại buổi yến tiệc ăn mừng sự xóa bỏ chế độ nô lệ, trước sự hiện diện của văn hào bãi nô và nghị sĩ Victor Schœlcher, Hugo đã tuyên bố rằng dòng biển Địa Trung Hải đã tạo nên một đường phân chia tự nhiên giữa "nền đỉnh cao văn minh và [...] sự man rợ không tưởng," thêm vào đó, ông nói rằng "Thượng Đế đã ban Châu Phi cho Châu Âu thì hãy lấy nó đi," để góp phần khai hóa nhân dân bản địa nơi ấy.
Có lẽ lí do trên đã phân tích được phần nào sự im lặng của ông về vấn đề ở Algeria mặc dù bản thân quan tâm sâu sắc và tham gia vào các vấn đề chính trị. Ông biết về những hành động tàn bạo mà Quân đội Pháp đã gây ra trong cuộc chinh phục Algeria của Pháp được thông qua nhật ký của ông nhưng ông chưa bao giờ tố cáo chúng một cách công khai; tuy nhiên trong Những người khốn khổ, Hugo đã viết: "Algeria bị cai trị quá khắc nghiệt, và, như trường hợp của sự cai trị Ấn Độ bởi người Anh, với sự man rợ của nhà cầm quyền còn nhiều hơn là văn minh khai hóa".
Sau khi được dịp gặp Victor Schœlcher, văn hào ủng hộ bãi nô và chế độ thực dân Pháp tại vùng Caribe, ông bắt đầu vận động đấu tranh chống chế độ nô lệ. Vào ngày 6 tháng 7, năm 1851, Hugo đã viết trong một lá thư gửi đến Maria Wetson Chapman, người Hoa Kỳ theo chủ nghĩa bãi nô, rằng: Chế độ nô lệ ở Hoa Kỳ! Đấy là một tấm gương xấu mà chính nền Cộng hòa bên đó phải có nghĩa vụ xóa bỏ... Hợp chúng quốc Hoa Kỳ sẽ phải bác bỏ tự do nếu không làm thế được chế độ nô lệ. Năm 1859, ông viết một lá thư gửi cho Chính phủ Hoa Kỳ yêu cầu họ tha mạng cho người ủng hộ bãi nô John Brown để danh tiếng họ sau này không bị ảnh hưởng xấu. Hugo đã biện minh cho hành động của John Brown qua những lời sau: "Nếu như nổi dậy là một nghĩa vụ linh thiêng thì chắc chắn rằng sự thiêng liêng đó được dùng để chống chế độ nô lệ." Hugo đã đồng ý truyền tin và bán một trong những bức tranh nức tiếng nhất của ông, "Le Pendu" (Người bị treo), bức tranh được xem là sự tôn kính của ông dành cho John Brown, vì như thế thì một người có thể "giữ cho kí ức người giải phóng các anh em da đen của chúng ta còn sống mãi trong mọi tâm hồn, kí ức về người liệt sĩ quả cảm John Brown khi ông đã hi sinh vì Chúa như Chúa cũng đã ra đi."
Victor Hugo đã chiến đấu suốt đời để xóa bỏ án tử hình với tư cách là một tiểu thuyết gia, nhà viết báo và thành viên Nghị viện. Quyển Ngày cuối cùng của một tử tù xuất bản năm 1829 đã phân tích nỗi đau của một người đàn ông đang chờ bị hành quyết; một số mục của "Những Điều đã thấy" (Choses vues), cuốn nhật ký mà ông lưu giữ từ năm 1830 đến 1885, thể hiện sự lên án kiên quyết của ông đối với những gì ông coi là một bản án man rợ; vào ngày 15 tháng 9 năm 1848, bảy tháng sau Cách mạng Pháp năm 1848, ông đọc một bài phát biểu trước Quốc hội và kết luận, "Các anh đã lật đổ ngai vàng. […] Bây giờ hãy lật đổ đoạn đầu đài. " Ảnh hưởng của ông được ghi nhận trong việc loại bỏ án tử hình khỏi hiến pháp tại Thụy Sĩ, Bồ Đào Nha và Colombia . Ông cũng đã cầu xin Benito Juárez tha cho hoàng đế Maximilian I của Mexico mới bị bắt nhưng cũng vô ích.
Mặc dù Napoléon III đã ban lệnh ân xá cho tất cả những người lưu vong chính trị vào năm 1859, Hugo vẫn từ chối quay về, vì điều đó có nghĩa là ông sẽ phải hạn chế những lời chỉ trích của mình đối với chính phủ. Chỉ sau khi Napoléon III mất quyền lực và nền Cộng hòa thứ ba được tuyên bố, Hugo mới trở về quê hương vào năm 1870, sau đó ông nhanh chóng được bầu vào Quốc hội và Thượng viện.
Ông đã ở Paris trong cuộc bao vây của Quân đội Phổ vào năm 1870, và được cho rằng đã ăn thịt thú vật do Sở thú Paris tặng cho ông. Khi cuộc bao vây tiếp diễn, và thực phẩm ngày càng trở nên khan hiếm hơn, ông viết trong nhật ký rằng ông đã giảm "ăn những thứ không biết".
Trong giai đoạn nắm quyền từ ngày 18 tháng 3 năm 1871 đến ngày 28 tháng 5 của chính quyền cách mạng Công xã Paris - Victor Hugo đã chỉ trích gay gắt những hành động tàn bạo của cả hai bên. Vào ngày 9 tháng 4, ông viết trong nhật ký của mình, “Nói ngắn gọn là, cái Công xã này dốt bao nhiêu thì Quốc hội dữ bấy nhiêu. Hai bên đều có trò dại dột hết." Tuy nhiên, ông đã đưa ra quan điểm khi đề nghị hỗ trợ các thành viên của Công xã bị đàn áp dã man. Ông ở Brussels từ ngày 22 tháng 3 năm 1871 và trong số ra ngày 27 tháng 5 của tờ báo Bỉ l'Indépendance Victor Hugo tố cáo việc chính phủ từ chối cấp tị nạn chính trị cho những người Cộng sản bị đe dọa bỏ tù, trục xuất hoặc bị hành quyết. Điều này gây náo động đến nỗi vào buổi tối, một đám đông từ năm mươi đến sáu mươi người đã cố xông vào nhà của văn thân, hô hào lên: "Cái chết cho Victor Hugo! Treo cổ hắn đi! Chết cho cái tên vô lại!".
Victor Hugo, người đã nói "Một cuộc chiến tranh giữa những người Châu Âu là một cuộc nội chiến", là một người ủng hộ nhiệt tình cho việc thành lập Hợp chúng quốc Châu Âu . Ông trình bày quan điểm của mình về chủ đề này trong một bài phát biểu tại Đại hội Hòa bình Quốc tế diễn ra ở Paris năm 1849. Đại hội, mà trong đó Hugo là Chủ tịch, đã chứng tỏ bản thân là một thành công quốc tế, thu hút các triết gia nổi tiếng như Frederic Bastiat, Charles Gilpin, Richard Cobden và Henry Richard . Hội nghị đã giúp đưa Hugo trở thành một diễn giả nổi bật trước công chúng và làm vang đội danh tiếng của ông, đồng thời thúc đẩy lý tưởng "Hợp chúng quốc Châu Âu". Vào ngày 14 tháng 7 năm 1870, ông đã "trồng cây sồi của Hợp chúng quốc Châu Âu" trong khu vườn của Ngôi nhà Hauteville, nơi ông đã ở trong thời gian lưu vong tại Guernsey từ năm 1856 đến năm 1870. Cuộc thảm sát những người theo đạo Cơ đốc Balkan do người Thổ vào năm 1876 đã truyền cảm hứng cho ông viết bài Pour la Serbie (Vì Serbia) trên tờ báo Le Rappel của các con trai ông. Bài phát biểu này ngày nay được coi là một trong những hành vi sáng lập của lý tưởng châu Âu.
Vì quan tâm đến quyền của nghệ sĩ và quyền tác giả, ông là thành viên sáng lập của (Liên minh Văn chương và Nghệ thuật Quốc tế) , dẫn đến Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật. Tuy nhiên, trong "", tài liệu lưu trữ đã xuất bản, ông tuyên bố mạnh mẽ rằng "bất kỳ tác phẩm nghệ thuật nào cũng có hai tác giả: những người cảm nhận một cách khó hiểu điều gì đó, một người sáng tạo dịch những cảm xúc này và những người hiến dâng tầm nhìn của mình về cảm giác đó. Khi một trong các tác giả qua đời, quyền hoàn toàn nên được trao lại cho bên còn lại: người dân ". Victor Hugo là một trong những người ủng hộ khái niệm "Người trả lương công cộng Domainel", theo đó một khoản phí danh nghĩa sẽ được tính cho việc sao chép hoặc biểu diễn các tác phẩm trong phạm vi công cộng, và khoản tiền này sẽ được đưa vào một quỹ chung dành riêng cho việc giúp đỡ các nghệ sĩ, đặc biệt là những người trẻ tuổi.
Quan điểm tôn giáo
Quan điểm tôn giáo của Hugo đã thay đổi hoàn toàn trong suốt cuộc đời của ông. Khi còn trẻ và dưới ảnh hưởng của mẹ mình, ông là một người Công giáo và tuyên bố tôn trọng hệ thống phẩm trật và thẩm quyền của Giáo hội. Từ đó, ông trở thành một người Công giáo không theo đạo và ngày càng thể hiện quan điểm chống Công giáo và chống giáo sĩ. Ông lui tới Thông linh luận trong lưu vong của mình (nơi ông cũng đã tham gia vào nhiều hoạt động Lên đồng được tiến hành bởi Quy cô Delphine de Girardin) và trong những năm sau đó xác định thành người theo chủ nghĩa duy lý tự nhiên thần giáo tương tự như tán thành bởi Voltaire. Năm 1872, một nhân viên điều tra dân số hỏi Hugo rằng ông có phải là người Công giáo không, và ông trả lời: "Không. Tư tưởng tự do".
Sau năm 1872, Hugo không bao giờ hết ác cảm với Giáo hội Công giáo. Ông cảm thấy Giáo hội thờ ơ trước cảnh ngộ của giai cấp công nhân dưới sự áp bức của chế độ quân chủ. Có lẽ ông cũng khó chịu vì tần suất tác phẩm của ông xuất hiện trong danh sách sách bị cấm của Giáo hội. Hugo thống kê được 740 vụ tấn công Những người khốn khổ trên báo chí Công giáo. Khi con trai của Hugo là Charles và François-Victor chết, ông đinh ninh rằng hai người nên được chôn cất nơi không có cây thánh giá hay linh mục nào. Trong di chúc của mình, ông đã quy định tương tự về cái chết và tang lễ của bản thân.
Tuy nhiên, ông tin vào sự sống sau cái chết và cầu nguyện mỗi sáng và tối, tin chắc như ông đã viết trong The Man Who Laughs (Người đàn ông cười) rằng “Lễ Tạ ơn đã chắp cánh và bay đến đúng đích của nó. Lời cầu nguyện của ta hiểu theo lối của nó tốt hơn là ta làm ".
Chủ nghĩa duy lý của Hugo có thể được tìm thấy trong các bài thơ như Torquemada (1869, về sự cuồng tín tôn giáo), The Pope (1878, chống giáo sĩ ), Các tôn giáo và tôn giáo (1880, phủ nhận tính hữu dụng của nhà thờ) và, được xuất bản sau đó, The End of Satan (Sự Tiêu vong của Ác quỷ Satan) và Thiên Chúa (1886 và 1891 tương ứng, trong đó ông đại diện cho thiên Chúa giáo như một Điểu sư và chủ nghĩa duy lý như một thiên thần). Vincent van Gogh đã viết: "Các tôn giáo qua đi, nhưng Chúa vẫn còn", của Jules Michelet, cho Hugo.
Ảnh hưởng với âm nhạc
Mặc dù tài năng của Hugo không bao gồm khả năng âm nhạc đặc biệt, nhưng ông đã có tác động lớn đến thế giới âm nhạc thông qua nguồn cảm hứng mà các tác phẩm của ông cung cấp cho các nhà soạn nhạc của thế kỷ 19 và 20. Bản thân Hugo đặc biệt thích âm nhạc của Gluck và Weber. Trong Những người khốn khổ, ông gọi đoạn điệp khúc trong Euryanthe của Weber rằng: "có lẽ là bản nhạc đẹp nhất từng được sáng tác". Ông cũng rất ngưỡng mộ Ludwig van Beethoven và đánh giá cao các tác phẩm của các nhà soạn nhạc từ những thế kỷ trước như Palestrina và Monteverdi.
Hugo có hai người bạn là nhạc sĩ nổi tiếng của thế kỷ 19: Hector Berlioz và Franz Liszt. Sau đó, ông đã chơi đàn với Beethoven tại nhà của mình, và Hugo đã nói đùa trong một bức thư gửi cho một người bạn rằng, nhờ những bài học piano của Liszt, ông đã học được cách chơi một bài hát yêu thích trên dương cầm đàn chỉ bằng một ngón tay. Hugo cũng đã làm việc với nhà soạn nhạc Louise Bertin, viết lời nhạc cho vở opera La Esmeralda năm 1836 của cô, dựa trên nhân vật trong Nhà thờ Đức Bà Paris. Do nhiều lý do khác nhau, vở opera đã sớm đóng cửa sau buổi biểu diễn và ngày nay nó ít được biết đến, nhưng giờ nó được hưởng một sự hồi sinh hiện đại, cả trong một phiên bản hòa tấu piano, bài hát của Liszt tại 2007 và trong một phiên bản đầy đủ cho dàn nhạc được trình bày vào tháng 7 năm 2008 tại .
Hơn một nghìn tác phẩm âm nhạc đã được lấy cảm hứng từ các tác phẩm của Hugo từ thế kỷ 19 cho đến ngày nay. Đặc biệt, các vở kịch của Hugo, trong đó ông từ chối các quy tắc của sân khấu cổ điển để ủng hộ kịch lãng mạn, đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà soạn nhạc, những người đã chuyển thể chúng thành các vở opera. Hơn một trăm vở opera dựa trên tác phầm của Hugo như Lucrezia Borgia (1833) của Donizetti, (1851) và Ernani (1844) của Verdi, và (1876) của Ponchielli.
Tiểu thuyết của Hugo, cũng như các vở kịch của ông, đã là nguồn cảm hứng tuyệt vời cho các nhạc sĩ, khuấy động họ để tạo ra không chỉ opera và ballet mà còn cả các nhạc kịch như và Những người khốn khổ ngày càng nổi tiếng, với vở Những người khốn khổ hoạt động lâu nhất trong nhà hát London West End. Ngoài ra, những bài thơ của Hugo đã thu hút một lượng lớn sự quan tâm đặc biệt từ các nhạc sĩ, và nhiều giai điệu đã được các nhà soạn nhạc như , Bizet, , Franck, Lalo, , Massenet, Saint-Seins, Rachmaninoff, và Wagner .
Ngày nay, tác phẩm của Hugo tiếp tục là nguồn cảm hứng cho các nhạc sĩ sáng tác mới. Ví dụ, cuốn tiểu thuyết chống lại hình phạt tử hình của Hugo, Ngày cuối cùng của một tử tù, đã được chuyển thể thành một vở opera bởi , với văn ca kịch của và được ra mắt bởi anh trai của hai người, giọng nam cao , vào năm 2007. Tại Guernsey, cứ hai năm một lần, Lễ hội Âm nhạc Quốc tế Victor Hugo thu hút rất nhiều nhạc sĩ và buổi ra mắt các bài hát được đặt hàng đặc biệt từ những nhà soạn nhạc như , , và và dựa trên thơ của Hugo.
Đáng chú ý rằng nguồn cảm hứng cho các tác phẩm âm nhạc không chỉ nằm ở tác phẩm văn học của Hugo mà còn ở các tác phẩm chính luận của ông. Ví dụ, vào năm 2009, nhà soạn nhạc người Ý Matteo Sommacal được Festival "Bagliori d'autore" ủy quyền và đã viết một tác phẩm cho dàn diễn giả và hòa tấu thính phòng có tựa đề Actes et paroles, với một đoạn văn do Chiara Piola Caselli soạn thảo sau bài phát biểu chính trị cuối cùng của Victor Hugo đề cập đến Assemblée législative, "Bản sửa đổi của Hiến pháp Sur la" (18 tháng 7 năm 1851), và được công chiếu lần đầu tại Rome vào ngày 19 tháng 11 năm 2009, trong khán phòng của Institut français, Trung tâm Saint-Louis, Đại sứ quán Pháp tại Tòa thánh của Piccola Accademia degli Specchi với sự góp mặt của nhà soạn nhạc Matthias Kadar.
Cuối đời và qua đời
Khi Hugo trở lại Paris vào năm 1870, cả nước đã ca ngợi ông như một anh hùng dân tộc. Ông tự tin rằng mình sẽ được loại bỏ chế độ độc tài, thể hiện qua những ghi chép mà ông lưu giữ vào thời điểm đó: “Chế độ độc tài là một tội ác. Đây là một tội ác mà tôi sẽ phạm phải" ông cảm thấy mình phải gánh vác trách nhiệm đó. Mặc dù nổi tiếng, Hugo vẫn thất cử trong cuộc tái tranh cử vào Quốc hội năm 1872.
Trong suốt cuộc đời của mình, Hugo luôn tin tưởng vào sự tiến bộ không ngừng của con người. Trong bài phát biểu cuối cùng trước công chúng vào ngày 3 tháng 8 năm 1879, ông đã tiên tri một cách lạc quan quá mức, “Trong thế kỷ XX chiến tranh sẽ chết, đoạn đầu đài sẽ chết, hận thù sẽ chết, biên cương giới hạn sẽ chết, những giáo điều sẽ chết; con người sẽ sống."
Trong một thời gian ngắn, ông bị đột quỵ nhẹ, con gái Adèle của ông bị đưa vào nhà thương điên, và hai con trai của ông qua đời. (Tiểu sử của Adèle đã truyền cảm hứng cho bộ phim Câu chuyện về Adele H.) Vợ ông Adèle đã qua đời vào năm 1868
Người tình chung thủy của ông, Juliette Drouet qua đời năm 1883, chỉ hai năm trước khi ông qua đời. Bất chấp nổi đau tin thần, Hugo vẫn cam kết vì sự nghiệp thay đổi chính trị. Vào ngày 30 tháng 1 năm 1876, ông được bầu vào Thượng viện mới được thành lập. Giai đoạn cuối cùng trong sự nghiệp chính trị của ông được coi là một thất bại. Hugo không đạt được nhiều thành tích trong Thượng viện.
Hugo bị đột quỵ nhẹ vào ngày 27 tháng 6 năm 1878.Để tôn vinh ông đã bước vào tuổi 80, một trong những lễ tưởng nhớ lớn nhất dành cho một nhà văn còn sống đã được tổ chức. Lễ kỷ niệm bắt đầu vào ngày 25 tháng 6 năm 1881, khi Hugo được tặng bằng bình hoa, món quà truyền thống dành cho các vị vua. Vào ngày 27 tháng 6, một trong những cuộc diễu hành lớn nhất trong lịch sử nước Pháp đã được tổ chức.
Những người tuần hành trải dài từ , nơi tác ông đang sống, ở , và tất cả các con đường đến trung tâm của Paris. Những người diễu hành đã diễu hành trong sáu giờ khi Hugo ngồi bên cửa sổ nhà mình. Mỗi inch và chi tiết của sự kiện đều dành cho Hugo, hướng dẫn viên chính thức thậm chí còn đeo hoa ngô như một sự ám chỉ đến bài hát của Fantine trong . Vào ngày 28 tháng 6, thành phố Paris đổi tên Đại lộ d'Eylau thành Đại lộ Victor-Hugo. Từ đó, các bức thư gửi tới đây được dán nhãn "Gửi cho ông Victor Hugo, Tại đại lộ của ông, Paris".
Hai ngày trước khi chết, ông đã để lại một bức thư với những lời cuối cùng: "Yêu là phải hành động".
Vào ngày 20 tháng 5 năm 1885, Le Petit Journal đã xuất bản bản tin y tế chính thức về tình trạng sức khỏe của Hugo. "Bệnh nhân lừng lẫy" đã hoàn toàn tỉnh táo và nhận thức được rằng không còn hy vọng nào cho mình. Họ cũng báo cáo từ một nguồn đáng tin cậy rằng vào một thời điểm trong đêm ông đã thì thầm câu alexandrin, "En moi c'est le combat du jour et de la nuit" - "Trong tôi, đây là cuộc chiến giữa ngày và đêm". Le Matin đã xuất bản một phiên bản dịch khác, "Đây là trận chiến giữa ngày và đêm."
Hugo qua đời vì bệnh viêm phổi vào ngày 22 tháng 5 năm 1885, ở tuổi 83. Tang lễ của ông được cử hành quốc tang long trọng. Ông không chỉ được tôn kính như một nhân vật vĩ đại trong văn học, mà còn là một chính khách đã định hình nên nền Cộng hòa thứ ba và nền dân chủ ở Pháp. Trong suốt cuộc đời của mình, ông vẫn là một người bảo vệ tự do, bình đẳng và tình huynh đệ cũng như một nhà vô địch kiên quyết của nền văn hóa Pháp. Năm 1877, 75 tuổi, ông viết, “Tôi không thuộc kiểu của mấy ông già dễ tính. Tôi vẫn sẽ nổi nóng và bạo lực. Tôi hét lên và tôi cảm thấy phẫn nộ và tôi khóc. Khốn cho ai làm hại nước Pháp! Tôi tuyên bố sẽ chết trong vai một người yêu nước cuồng tín."
Mặc dù ông đã yêu cầu một tang lễ một cách giản dị, chính phủ lại tổ chức tang lễ cấp nhà nước cho ông theo sắc lệnh của Tổng thống Jules Grévy. Hơn hai triệu người đã tham gia đám tang của ông ở Paris từ Khải Hoàn Môn đến điện Panthéon, nơi ông được chôn cất trong hầm mộ cùng với Alexander Dumas và Émile Zola. Hầu hết các thị trấn và thành phố lớn của Pháp đều có đường phố hoặc quảng trường mang tên ông.
Hugo để lại năm câu như di chúc cuối cùng của mình, được xuất bản chính thức:
Hội hoạ
Hugo đã xuất bản hơn 4.000 bản vẽ. Thập kỉ 1830 là lúc ông đã sáng tác khá nhiều bản phác thảo và các bức biếm họa, đồng thời việc vẽ tranh núi hoặc tượng kỷ niệm bằng bút chì trong quyển nhật kí lưu vong của ông đã trở thành một thói quen. Ban đầu được ông xem như một sở thích bình thường, hội họa dần trở nên quan trọng hơn đối với Hugo ngay trước khi sống lưu vong khi ông quyết định ngừng viết để cống hiến cho chính trị. Hugo chỉ vẽ trên giấy, và thường là những bức tranh nhỏ có màu nâu sẫm hoặc màu đen của bút và mực, đôi khi có màu trắng.
Tranh của ông bắt đầu có một kiểu mẫu mới kể từ khi được truyền cảm hứng từ các chuyến đi bên bờ sông Rhein với Juliette Drouet, họa tiết các bức ấy gồm nhiều nét than chì tượng trưng cho những thành phố điển hình ở thung lũng Rhein. Trong những năm lưu vong tại quần đảo Eo Biển ở Jersey và Guernsey từ 1852 đến 1870, Victor Hugo được truyền cảm hứng từ cảnh biển bao la và đã sáng tác nhiều bức đỉnh cao, đa số là tranh cảnh biển, bão tố và thuyền bị đắm, với sự ứng dụng của vài kĩ thuật đồ họa độc đáo như giấy nến, đường giấy cắt, và in ren. Các bản vẽ còn sót lại được hoàn thiện một cách đáng ngạc nhiên và "hiện đại" trong phong cách và cách thực hiện chúng, báo trước các kỹ thuật thử nghiệm của Chủ nghĩa Siêu thực và Chủ nghĩa biểu hiện Trừu tượng .
Ông sẽ không ngần ngại sử dụng giấy nến, vết mực, vũng nước và vết bẩn, ấn tượng bằng ren của con mình, "" hoặc gấp (ví dụ: Rorschach blots), "" hoặc cọ xát, thường sử dụng than từ que diêm hoặc ngón tay của mình thay vì bút hoặc bút lông. Đôi khi ông còn cho cà phê hoặc bồ hóng vào để đạt được hiệu quả như ý muốn. Có thông tin cho rằng Hugo thường vẽ bằng tay trái hoặc không nhìn vào trang sách, hoặc trong các buổi Lên đồng Spiritist, để tiếp cận tâm trí vô thức của mình, một khái niệm chỉ được Sigmund Freud phổ biến sau này.
Mặc dù những tác phẩm hội họa của ông đa phần khá thân mật, một số lại được dùng để minh họa cho các tác phẩm văn chương của ông (như những bức vẽ dành cho Les Travailleuirs de la Mer (Lao động biển cả), Les Rhin, , và La Légende des siècle). Các bức tranh còn lại là chủ đề của một tác phẩm được xuất bản năm 1862 mang tên Những bức tranh của Victor Hugo. Sau khi ông mất, vào năm 1888, một số bức tranh được chưng bày để góp phần gây quỹ cho công trình xây dựng đài kỷ niệm tưởng nhớ nhà thơ. Mãi sau này các tác phẩm hội họa của Hugo mới được đưa vào những triển lãm danh giá như Mặt trời mực tại Petit Palais nhân lễ kỷ niệm bách chu niên của ông vào năm 1985, tương tự vào năm 2021 gần đây, triển lãm "Victor Hugo, các tác phẩm hội họa" được dự tính ra mắt tại Maison de Victor Hugo. Nhiều công trình triển lãm khác cũng xuất hiện ngoại quốc như ở Bologna, Bruxelles, Madrid, Zurich, Lausanne, New York, Los Angeles, và tại nhiều thành phố ở Nhật Bản.
Hugo đã giấu tác phẩm nghệ thuật của mình ra khỏi mắt công chúng, vì sợ nó sẽ làm lu mờ tác phẩm văn học của ông. Tuy nhiên, ông rất thích nói về những bức vẽ của mình với gia đình và bạn bè, nhiều trong số đó được tặng làm quà cho những người đến thăm khi ông sống lưu vong chính trị. Một số tác phẩm của ông đã được đánh giá cao bởi các nghệ sĩ đương đại như Vincent van Gogh và người thứ hai bày tỏ quan điểm rằng nếu Hugo quyết định trở thành một họa sĩ thay vì một nhà văn, ông sẽ thua kém các nghệ sĩ trong thế kỷ của họ. Ông đã quyết định trao lại mọi bức vẽ và toàn bộ bản thảo của mình cho Thư viện Quốc gia Pháp.
Đời tư
Gia đình
Hôn nhân
Victor Hugo kết hôn với Adèle Foucher, bạn thân 10 năm đầu đời, vào tháng 10 năm 1822 sau khi thiết lập một mối quan hệ lãng mạn giữa hai người vào năm 1819. Một số không ít bài thơ mà ông xuất bản từ 1822 đến 1835 đều được dành tặng cho người vợ của ông. Từ năm 1830 đến năm 1837 Adèle có quan hệ tình cảm với Charles-Augustin Sainte Beuve, một nhà phê bình và nhà văn.
Vào năm 1863, Adèle Foucher xuất bản tác phẩm "Victor Hugo thuật lại từ một nhân chứng của đời ông", đây là một bộ sưu tầm những ký ức riêng tư của chồng bà và những lời khai quý giá về cuộc đời của văn hào. Tác phẩm đã có sự cống hiến của Charles Hugo, Auguste Vacquerie, và đích thân chồng bà, Victor Hugo, cũng đã giúp hoàn thiện bộ sưu tầm này.
Bất chấp công việc riêng, Adèle và Hugo đã sống với nhau gần 46 năm cho đến khi bà qua đời tại Brussels vào ngày 27 tháng 8, năm 1868. Hugo khi đó vẫn bị trục xuất khỏi Pháp, ông đã không thể tham dự lễ tang của bà ở Villequier, nơi con gái ông Léopoldine được chôn cất.
Con cái
Adèle và Victor Hugo có đứa con đầu lòng vào năm 1823, nhưng cậu bé đã chết khi còn nhỏ. Vào ngày 28 tháng 8 năm 1824, đứa con thứ hai Léopoldine được sinh ra, tiếp theo là Charles vào ngày 4 tháng 11 năm 1826, François-Victor vào ngày 28 tháng 10 năm 1828, và Adèle vào ngày 28 tháng 7 năm 1830.
Người con gái lớn nhất và được Victor Hugo yêu thương nhất, Léopoldine, qua đời năm 1843 ở tuổi 19, ngay sau cuộc hôn nhân của cô với Charles Vacquerie. Vào ngày 4 tháng 9, cô bị chết đuối trên sông Seine tại Villequier khi chiếc thuyền của cô bị lật. Người chồng trẻ của cô cũng đã chết khi cố gắng cứu cô. Cái chết khiến cha cô đau đớn tột cùng; Vào thời điểm đó, Hugo đang đi du lịch ở miền Nam nước Pháp, ông biết về cái chết của Léopoldine từ một tờ báo mà ông đọc trong một quán cà phê. Sau đó, ông đã viết nhiều bài thơ về cuộc sống và cái chết của con gái mình. Bài thơ nổi tiếng nhất của ông về vụ việc này là "Demain, dès l'aube" (Ngày mai, lúc Bình minh), trong đó ông mô tả việc đi thăm mộ con gái ông.
Ông mô tả cú sốc và đau buồn của mình trong bài thơ nổi tiếng "À Villequeir" (Ở Villequier):
Lưu đày
Hugo quyết định sống lưu vong sau cuộc đảo chính của Napoléon III vào cuối năm 1851 . Sau khi rời Pháp, Hugo sống ở Brussels một thời gian ngắn vào năm 1851, và sau đó chuyển đến Quần đảo Channel, đầu tiên đến Jersey (1852–1855) và sau đó đến hòn đảo nhỏ hơn Guernsey vào năm 1855, nơi ông ở lại cho đến khi Napoléon III mất quyền lực vào năm 1870. Mặc dù Napoléon III tuyên bố đại xá năm 1859, theo đó Hugo có thể trở về Pháp một cách an toàn, nhưng tác giả vẫn sống lưu vong, chỉ trở về khi Napoléon III bị tước bỏ quyền lực do thành lập nền Cộng hòa thứ ba của Pháp vào năm 1870, do kết quả của thất bại của Pháp trong trận Sedan trong Chiến tranh Pháp-Phổ . Sau Cuộc vây hãm Paris từ 1870 đến 1871, Hugo sống một lần nữa ở Guernsey từ 1872 đến 1873, và sau đó cuối cùng trở về Pháp cho phần còn lại của cuộc đời. Năm 1871, sau cái chết của con trai Charvles, Hugo giành quyền chăm sóc các cháu Jeanne và Georges-Victor.
Các mối quan hệ khác
Juliette Drouet
Từ tháng 2 năm 1833 cho đến khi bà qua đời vào năm 1883, Juliette Drouet đã dành trọn cuộc đời cho Victor Hugo, người không bao giờ kết hôn với bà kể cả sau khi vợ ông qua đời vào năm 1868. Ông đưa cô đi nhiều chuyến và cô theo anh lưu vong ở Guernsey . Ở đó Hugo thuê một ngôi nhà cho cô gần nhà Hauteville , ngôi nhà của gia đình anh. Cô ấy đã viết khoảng 20.000 bức thư trong đó cô ấy bày tỏ niềm đam mê của mình hoặc trút sự ghen tuông lên người yêu của cô ấy. Vào ngày 25 tháng 9 năm 1870 trong Cuộc vây hãm Paris (19 tháng 9 năm 1870 - 28 tháng 1 năm 1871) Hugo lo sợ điều tồi tệ nhất. Ông đã để lại cho các con của mình một bức thư có nội dung như sau:
“JD Cô ấy đã cứu mạng tôi vào tháng 12 năm 1851. Đối với tôi, cô ấy đã trải qua cuộc sống lưu vong. Chưa bao giờ linh hồn cô ấy rời bỏ tôi. Hãy để những người đã yêu tôi yêu cô ấy. Hãy để những người đã yêu thương tôi tôn trọng cô ấy. Cô ấy là góa phụ của tôi." VH
Léonie d'Aunet
Trong hơn bảy năm, Léonie d'Aunet, một phụ nữ đã có gia đình, vướng vào mối quan hệ yêu đương với Hugo. Cả hai bị bắt quả tang ngoại tình vào ngày 5 tháng 7 năm 1845. Hugo, người đã là thành viên của Phòng những người ngang hàng kể từ tháng 4, tránh bị kết án trong khi tình nhân của ông phải ngồi tù hai tháng và sáu trong một tu viện. Nhiều năm sau khi chia tay, Hugo đã quan tâm đến việc hỗ trợ cô về mặt tài chính.
Khác
Hugo đã tự do kiềm chế sự gợi cảm của mình cho đến vài tuần trước khi qua đời. Ông đã tìm kiếm rất nhiều phụ nữ ở mọi lứa tuổi, có thể là gái điếm, diễn viên, người ngưỡng mộ, người hầu hoặc nhà cách mạng như Louise Michel để hoạt động tình dục. Vừa là graphomaniac và erotomaniac, ông đã báo cáo một cách có hệ thống các công việc bình thường của mình bằng cách sử dụng mã riêng của mình, như Samuel Pepys đã làm, để đảm bảo rằng chúng sẽ được giữ bí mật. Ví dụ, ông viện đến từ viết tắt tiếng Latin (osc. nghĩa là những nụ hôn) hoặc Tây Ban Nha (Misma. Mismas cosas: Giống nhau. Những điều tương tự). Các từ đồng âm không ít khi xảy ra: Seins (Vú) trở thành Saint (Thánh); Poële (Bếp) thực chất là để chỉ Poils (Lông mu ). Phép tương tự cũng cho phép ông che giấu ý nghĩa thực sự: Suisses (Thụy Sĩ) của phụ nữ là bộ ngực của cô - do Thụy Sĩ nổi tiếng về sữa. Sau cuộc hẹn với một phụ nữ trẻ tên là Laetitia, Hugo sẽ viết Joie (Hạnh phúc) vào nhật ký của mình. Nếu ông thêm t.n. (toute nue) thì có nghĩa là cô ấy đã cởi truồng trước mặt ông. Các chữ cái đầu S.B. được phát hiện vào tháng 11 năm 1875 có thể ám chỉ Sarah Bernhardt .
Vinh danh
Di sản của ông đã được vinh danh trên nhiều phương diện, bao gồm cả việc chân dung của ông được đặt trên đồng tiền của Pháp.
Guernsey đã dựng một bức tượng của nhà điêu khắc Jean Boucher ở Vườn Candie (Cảng Saint Peter) để tưởng nhớ thời gian ông ở lại quần đảo. Thành phố Paris đã bảo tồn các dinh thự của ông Hauteville House, Guernsey, và , Paris, như viện bảo tàng. Ngôi nhà nơi ông ở tại Vianden, Luxembourg, vào năm 1871 cũng đã trở thành một bảo tàng kỷ niệm.
Đại lộ Victor-Hugo ở quận 16 của Paris mang tên của Hugo và liên kết với đến vùng lân cận của bằng cách đến . Quảng trường này được phục vụ bởi một trạm dừng Paris Métro cũng được đặt tên để vinh danh ông. Tại thị trấn có một con phố chính, một trường học, bệnh viện và một số quán cà phê được đặt theo tên của Hugo, và một số đường phố và đại lộ trên khắp nước Pháp được đặt theo tên của ông. Trường học được thành lập tại thị trấn nơi ông sinh ra, Ở Pháp. , nằm ở Shawinigan, Quebec, được đặt tên để tôn vinh ông. Một con phố ở San Francisco, Phố Hugo, được đặt theo tên ông.
Tại thành phố Avellino, Ý, Victor Hugo đã sống một thời gian ngắn tại nơi mà ngày nay được gọi là khi đoàn tụ với cha mình, , vào năm 1808. Hugo sau đó đã viết về thời gian ngắn ngủi của mình ở đây, trích dẫn (Đó là một cung điện bằng đá cẩm thạch).
Có một bức tượng của Hugo đối diện với Museo Carlo Bilotti ở Rome, ÝVictor Hugo là tên của thành phố Hugoton, Kansas.
Ở Havana, Cuba, có một công viên mang tên ông.
Một bức tượng bán thân Hugoton của Hugo đứng gần lối vào của Cung điện Mùa hè Cổ ở Bắc Kinh.
Một bức tranh khảm kỷ niệm Hugo được đặt trên trần của Tòa nhà Thomas Jefferson của Thư viện Quốc hội
Đường sắt Luân Đôn và Tây Bắc được đặt tên là 'Prince of Wales' Class 4-6-0 No 1134 theo tên Hugo. Đường sắt Anh đã duy trì đài tưởng niệm này, đặt tên Đơn vị Điện 92001 theo tên ông.
Hugo được tôn là vị thánh của Việt Nam, một tôn giáo mới được thành lập ở Việt Nam vào năm 1926.
Hình ảnh
Tác phẩm
Kịch
Cromwell (1827)
Hernani (Trận chiến Hernani, 1830)
Marion Delorme (1831)
Le Roi s'amuse (Vị vua tiêu khiển,1832)
Lucrèce Borgia (1833)
Marie Tudor (1833)
Angelo, tyran de Padoue (Angelo, bạo chúa thành Padoue, 1835)
Ruy Blas (1838)
Les Burgraves (1843)
Torquemada (1882)
Théâtre en liberté (1886)
Tiểu thuyết
Bug Jargal - Người nô lệ da đen (Bug-Jargal) (1820)
Han d'Islande (Hãn của Islande) (1823)
Ngày cuối cùng của người bị kết án (Le Dernier Jour d'un condamné) (1829)
Nhà thờ Đức Bà Paris (Notre-Dame de Paris) (1831)
Claude, thằng cùng (Claude Gueux) (1834)
Những người khốn khổ (Les Misérables) (1862)
Lao động và biển cả (Les Travailleurs de la mer) (1866)
Thằng cười (L'Homme qui rit) (1869)
Chín mươi ba (Quatre-vingt-treize) (1874)
Thơ
Tác phẩm di cảo
La Fin de Satan (Cái kết của quỷ Satan, 1886)
Toute la Lyre (1888)
Dieu (Thiên chúa, 1891)
Toute la Lyre - nouvelle série (Trọn tiếng đàn) (1893)
Les Années funestes (1898)
Dernière Gerbe (1902)
Océan. Tas de pierres (1942)
Choses vues - 1re série (Những điều trông thấy I, 1887)
Alpes et Pyrénées (1890)
France et Belgique (1892)
Correspondances - Tome I (Trận chiến I, 1896)
Correspondances - Tome II (Trận chiến II, 1898)
Choses vues - 2e série (Những điều trông thấy II, 1900)
Post-scriptum de ma vie (1901)
Mille Francs de récompense (1934)
Pierres (1951)
Mélancholia
Tác phẩm khác
Chú thích sách
Afran, Charles (1997). "Victor Hugo: French Dramatist". Website: Discover France. (Originally published in Grolier Multimedia Encyclopedia, 1997, v.9.0.1.) Retrieved November 2005.
Bates, Alfred (1906). "Victor Hugo". Website: Theatre History. (Originally published in The Drama: Its History, Literature and Influence on Civilization, vol. 9. ed. Alfred Bates. London: Historical Publishing Company, 1906. các trang 11–13.) Retrieved November 2005.
Bates, Alfred (1906). "Hernani". Website: Theatre History. (Originally published in The Drama: Its History, Literature and Influence on Civilization, vol. 9. ed. Alfred Bates. London: Historical Publishing Company, 1906. các trang 20–23.) Retrieved November 2005.
Bates, Alfred (1906). "Hugo’s Cromwell". Website: Theatre History. (Originally published in The Drama: Its History, Literature and Influence on Civilization, vol. 9. ed. Alfred Bates. London: Historical Publishing Company, 1906. các trang 18–19.) Retrieved November 2005.
Bittleston, Misha (uncited date). "Drawings of Victor Hugo". Website: Misha Bittleston. Truy cập November 2005.
Burnham, I.G. (1896). "Amy Robsart". Website: Theatre History. (Originally published in Victor Hugo: Dramas. Philadelphia: The Rittenhouse Press, 1896. các trang 203–6, 401-2.) Retrieved November 2005.
Columbia Encyclopedia, 6th Edition (2001-05). "Hugo, Victor Marie, Vicomte" . Website: Bartleby, Great Books Online. Truy cập November 2005. Truy cập November 2005.
Haine, W. Scott (1997). "Victor Hugo" . Encyclopedia of 1848 Revolutions. Website: Ohio University. Truy cập November 2005.
Karlins, N.F. (1998). "Octopus With the Initials V.H." Website: ArtNet. Truy cập November 2005.
Liukkonen, Petri (2000). "Victor Hugo (1802-1885)" . Books and Writers. Website: Pegasos: A Literature Related Resource Site. Truy cập November 2005.
Meyer, Ronald Bruce (2004). "Victor Hugo". Website: Ronald Bruce Meyer. Truy cập November 2005.
Robb, Graham (1997). "A Sabre in the Night". Website: New York Times (Books). (Excerpt from Graham, Robb (1997). Victor Hugo: A Biography. New York: W.W. Norton & Company.) Retrieved November 2005.
Roche, Isabel (2005). "Victor Hugo: Biography" . Meet the Writers. Website: Barnes & Noble. (From the Barnes & Noble Classics edition of The Hunchback of Notre Dame, 2005.) Retrieved November 2005.
Uncited Author. "Victor Hugo" . Website: Spartacus Educational. Truy cập November 2005.
Uncited Author. "Timeline of Victor Hugo". Website: BBC. Truy cập November 2005.
Uncited Author. (2000-2005). "Victor Hugo". Website: The Literature Network. Truy cập November 2005.
Uncited Author. "Hugo Caricature" . Website: Présence de la Littérature a l’école. Truy cập November 2005.
Đọc thêm
Barbou, Alfred (1882). Victor Hugo and His Times. University Press of the Pacific: 2001 paper back edition. Book sources
Barnett, Marva A., ed. (2009). Victor Hugo on Things That Matter: A Reader. New Haven, CT: Yale University Press. Book sources
Brombert, Victor H. (1984). Victor Hugo and the Visionary Novel. Boston: Harvard University Press. Book sources
Davidson, A.F. (1912). Victor Hugo: His Life and Work. University Press of the Pacific: 2003 paperback edition. Book sources
Dow, Leslie Smith (1993). Adele Hugo: La Miserable. Fredericton: Goose Lane Editions. Book sources
Falkayn, David (2001). Guide to the Life, Times, and Works of Victor Hugo. University Press of the Pacific. Book sources
Feller, Martin, Der Dichter in der Politik. Victor Hugo und der deutsch-französische Krieg von 1870/71. Untersuchungen zum französischen Deutschlandbild und zu Hugos Rezeption in Deutschland. Doctoral Dissertation, Marburg 1988.
Frey, John Andrew (1999). A Victor Hugo Encyclopedia. Greenwood Press. Book sources
Grant, Elliot (1946). The Career of Victor Hugo. Harvard University Press. Out of print.
Halsall, A.W. et al. (1998). Victor Hugo and the Romantic Drama. University of Toronto Press.Book sources
Hart, Simon Allen (2004). Lady in the Shadows: The Life and Times of Julie Drouet, Mistress, Companion and Muse to Victor Hugo. Publish American. Book sources
Houston, John Porter (1975). Victor Hugo. New York: Twayne Publishers. Book sources
Hovasse, Jean-Marc (2001), Victor Hugo: Avant l'exil. Paris: Fayard. Book sources
Hovasse, Jean-Marc (2008), Victor Hugo: Pendant l'exil I. Paris: Fayard. Book sources
Ireson, J.C. (1997). Victor Hugo: A Companion to His Poetry. Clarendon Press. Book sources
Laster, Arnaud (2002). Hugo à l'Opéra. Paris: L'Avant-Scène Opéra, no. 208.
Maurois, Andre (1956). Olympio: The Life of Victor Hugo. New York: Harper & Brothers.
Maurois, Andre (1966). Victor Hugo and His World. London: Thames and Hudson. Out of print.
Pouchain, Gérard and Robert Sabourin (1992). Juliette Drouet, ou, La dépaysée. Paris: Fayard. Book sources
Robb, Graham (1997). Victor Hugo: A Biography. W.W. Norton & Company: 1999 paperback edition. Book sources, (description/reviews at wwnorton.com)
Tonazzi, Pascal (2007) Florilège de Notre-Dame de Paris (anthologie) Paris, Editions Arléa ISBN 2-86959-795-9
Tham khảo
Liên kết ngoài
Thơ Victor Hugo (bằng tiếng Pháp)
Tác phẩm của Victor Hugo tại Project Gutenberg
Trang chính thức về Victor Hugo của đảo Guernsey
Victor Hugo le dessinateur
Two poems by Victor Hugo, Đánh giá thơ Cordite
Victor Hugo tại Pháp
Guernsey's trang web chính thức của Victor Hugo
Guernsey's Lễ hội âm nhạc quốc tế Victor Hugo
Trung tâm tác phẩm của Victor Hugo
Victor Hugo's works: văn bản, sự phù hợp và danh sách tần suất
at CliffsNotes.com
Victor Hugo le dessinateur
Official site of the
Official site of the
Chân dung Victor Hugo tại Bảo tàng Nghệ thuật Đại học Michigan
Study of Victor Hugo for 'Le panorama du siècle', (Panorama of the Century) by Alfred Stevens at University of Michigan Museum of Art
Bộ sưu tập Victor Hugo. Bộ sưu tập chung, Thư viện Sách hiếm và Bản thảo Beinecke, Đại học Yale.
Tác phẩm trực tuyến
English translation of Hugo's At Dawn Tomorrow ()
Translation of Victor Hugo note found in Hunchback of Notre Dame, french edition
– at athena.unige.ch
Translation of The legend of Victor Hugo by Paul Lafargue
The Century Was Two Years Old : Victor Hugo The Lilly Library, Bloomington IN
Bài viết có văn bản tiếng Pháp
Hugo, Victor
Hugo, Victor
Hugo, Victor
Hugo, Victor
Văn học lãng mạn
Hugo, Victor
Người Besançon
Bài cơ bản dài trung bình
Sinh viên Đại học Paris
Mất năm 1885
|
26377
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Moulin%20Rouge
|
Moulin Rouge
|
Moulin rouge (trong tiếng Pháp có nghĩa là "cối xay gió đỏ") là một tiệm hát (cabaret) nổi tiếng của Paris, được xây dựng năm 1889 bởi Joseph Oller. Nó nằm trong khu phố Pigalle, một "khu đèn đỏ" của Paris, trên Đại lộ Clichy, gần với đồi Montmartre.
Từ một trăm năm nay Moulin rouge được cả thế giới biết đến qua hình ảnh chiếc cối xay gió đỏ với các vũ nữ chân dài quyến rũ trong điệu nhảy Cancan nổi tiếng.
Henri de Toulouse-Lautrec sơn nhiều áp phích và cảnh thú vui về đêm tại Moulin rouge.
Tranh
áp phích
Những bộ phim về Moulin rouge
Moulin rouge được đưa lên màn ảnh nhiều lần, gần đây nhất là bộ phim ca nhạc được sản xuất năm 2001 với diễn viên Nicole Kidman thủ vai chính.
1928, Moulin Rouge của Ewald André Dupont
1934, Moulin Rouge của Sidney Lanfield, với Lucille Ball
1939, Moulin Rouge của André Hugon
1944, Moulin Rouge của Yves Mirande
1952, Moulin Rouge của John Huston, với Zsa Zsa Gabor
1955, French Can Can của Jean Renoir
2001, Moulin Rouge! của Baz Luhrmann, với Jim Broadbent, Ewan McGregor, Nicole Kidman, John Leguizamo, Kylie Minogue
Thư viện ảnh
Tham khảo
Liên kết ngoài
Moulin Rouge Paris – trang chính của Moulin Rouge
Nhà hàng Paris
Quận 18, Paris
Cabaret Paris
|
26386
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Notre-Dame
|
Notre-Dame
|
Notre Dame (có nghĩa là "Đức bà" trong tiếng Pháp) là tên của nhiều nhà thờ Kitô giáo, bao gồm:
Tại Việt Nam
Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn
Tại Pháp
Nhà thờ Đức Bà Paris (Notre-Dame de Paris) tại Paris
Nhà thờ Đức Bà Bảo vệ (Notre-Dame de la Garde) tại Marseille
Nhà thờ Đức Bà Reims (Notre-Dame de Reims) tại Reims
Nhà thờ Đức Bà Strasbourg (Notre-Dame de Strasbourg) tại Strasbourg
Thánh đường Đức Bà Aiguebelle (Basilica Notre-Dame d'Aiguebelle) tại Aiguebelle
Thánh đường Đức Bà Brebières (Basilica Notre-Dame de Brebières) tại Albert
Nhà thờ Đức Bà Amiens (Basilica Notre-Dame d'Amiens) tại Amiens
Thánh đường Đức Bà Arcachon (Basilica Notre-Dame d'Arcachon) tại Arcachon
Nhà thờ Đức Bà des Doms (Basilica Notre-Dame des Doms) tại Avignon
Thánh đường Đức Bà Avioth (Basilica Notre-Dame d'Avioth) tại Avioth
Thánh đường Đức Bà Beaune (Basilica Notre-Dame de Beaune) tại Beaune
Thánh đường Đức Bà May vá (Basilica Notre-Dame de Couture) tại Bernay
Nhà thờ Đức Bà Rouen (Cathédrale Notre-Dame de Rouen) tại Rouen
Thánh đường Đức Bà Ba ngôi (Basilica Notre-Dame de la Trinité) tại Blois
Thánh đường Đức Bà Bon-Secours (Basilica Notre-Dame de Bon-Secours) tại Bonsecours
Thánh đường Đức Bà Boulogne (Basilica Notre-Dame de Boulogne) tại Boulogne
Nhà thờ Đức Bà Ân huệ (Basilica Notre-Dame de Grâce) tại Cambrai
Thánh đường Đức Bà Ceignac (Basilica Notre-Dame de Ceignac) tại Ceignac
Thánh đường Đức Bà Kỳ vọng (Basilica Notre-Dame d'Espérance) tại Charleville-Mézières
Nhà thờ Đức Bà Chartres (Notre-Dame de Chartres) tại Chartres
Thánh đường Đức Bà của Trẻ con (Basilica Notre-Dame des Enfants) tại Châteauneuf-sur-Cher
Tại Canada
Thánh đường Đức Bà Montréal (Basilica Notre-Dame de Montréal) tại Montréal
Thánh đường Đức Bà Québec (Notre-Dame de Québec) tại Thành phố Québec
Thánh đường Đức Bà du Cap (Notre-Dame du Cap) tại Trois-Rivières
Thánh đường Đức Bà Ottawa (Notre-Dame d'Ottawa) tại Ottawa
Tại Bỉ
Thánh đường Đức Bà Hòa bình và Hòa đồng (Notre-Dame de Paix et de Concorde) tại Basse-Wavre
Thánh đường Đức Bà Bonsecours (Notre-Dame de Bonsecours) tại Bonsecours
Thánh đường Đức Bà Hanswijk (Notre-Dame de Hanswijk) tại Mechelen
Thánh đường Đức Bà Montaigu (Notre-Dame de Montaigu) tại Scherpenheuvel
Thánh đường Đức Bà Tongre (Notre-Dame de Tongre) tại Tongre-Notre-Dame
Thánh đường Đức Bà Chèvremont (Notre-Dame de Chèvremont) tại Vaux-sous-Chèvremont
Thánh đường Đức Bà Kỳ vọng (Notre-Dame de Bonne Espérance) tại Vellereille-Les-Brayeux
Tại Luxembourg
Nhà thờ Đức Bà Luxembourg (Notre-Dame de Luxembourg)
Tại Haiti
Nhà thờ Đức Bà Quy thiên (Notre-Dame de l'Assomption) tại Port-au-Prince
Xem thêm
Tên này cũng chỉ đến nhiều trường, nhiều đại học và hai dòng bà xơ, và đến tác phẩm Nhà thờ Đức Bà Paris của đại văn hào Pháp Victor Hugo.
Nhà thờ Đức Bà Paris (định hướng)
Nhà thờ mang danh hiệu Đức Bà
|
26411
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BB%99%20chuy%E1%BB%83n%20m%E1%BA%A1ch
|
Bộ chuyển mạch
|
Bộ chuyển mạch hay thiết bị chuyển mạch (tiếng Anh: switch) là một thiết bị dùng để kết nối các đoạn mạng với nhau theo mô hình mạng hình sao (star). Theo mô hình này, switch đóng vai trò là thiết bị trung tâm, tất cả các máy tính đều được nối về đây.
Switch làm việc như một Bridge nhiều cổng. Khác với Hub nhận tín hiệu từ một cổng rồi chuyển tiếp tới tất cả các cổng còn lại, switch nhận tín hiệu vật lý, chuyển đổi thành dữ liệu, từ một cổng, kiểm tra địa chỉ đích rồi gửi tới một cổng tương ứng.
Hỗ trợ công nghệ Full Duplex dùng để mở rộng băng thông của đường truyền mà không có repeater hoặc Hub nào dùng được
Trong mô hình tham chiếu OSI, switch hoạt động ở tầng liên kết dữ liệu, ngoài ra có một số loại switch cao cấp hoạt động ở tầng mạng.
Tầng 1
Một hub (một cổng vào, nhiều cổng ra), hoặc bộ lặp (một cổng vào, một cổng ra), là những thiết bị mạng đơn giản không quản lý bất kỳ lưu lượng truy cập nào đến qua nó. Bất kỳ gói tin nào vào cổng được "lập lại" trên tất cả các cổng khác, ngoại trừ cổng nhập vào. Vì mỗi gói được lặp lại trên mỗi cổng khác, sự va chạm của gói ảnh ảnh hưởng đến toàn bộ mạng, giới hạn dung lượng chung của nó. Bộ lặp được dùng để bù suy hao tín hiệu bằng cách chuyển tiếp tất cả các tín hiệu điện đến từ cổng vào tới cổng ra sau khi đã khuếch đại. Trong khi một hub được dùng để nối với nhiều thiết bị ethernet.
Từ đầu những năm 2000, có ít khác biệt về giá cả giữa một hub và một switch cấp thấp, cho nên hub hầu như được thay thế.
Switch tầng 2
Switch ở layer 2, ở một mức độ rất cơ bản, thực chất là một cầu nối trong suốt (transparent bridging) với nhiều port, mỗi port là một đoạn trong Ethernet LAN, biệt lập với các port còn lại. Việc truyền gói tin dựa hoàn toàn vào địa chỉ MAC chứa trong gói, nó sẽ không được truyền đi khi chưa biết được địa chỉ gốc.
Ích lợi của Switch:
Các thiết bị kết nối gián tiếp thông qua các port của switch
Switch làm cho các host có thể hoạt động ở chế độ song công (có thể đọc – ghi, nghe – nói) cùng lúc.
Không cần phải chia sẻ băng thông. Các port của switch sẽ quyết định băng thông truyền đi như thế nào.
Giảm tỷ lệ lỗi trong frame. Frame sẽ được kiểm tra lỗi. Các gói tin tốt khi được nhận sẽ được lưu lại trước khi chuyển đi (công nghệ store-and-forward).
Có thể giới hạn lưu lượng truyền đi ở một mức ngưỡng nào đó.
Một Switch L2 đi kèm với các loại giao diện khác nhau như 10Mbps, 100Mbps, 1Gbps, 10Gbps... và nó cũng hỗ trợ giao tiếp full-duplex trên mỗi cổng của nó. Nó cũng tạo điều kiện mở rộng mạng và kết nối với phần còn lại của mạng thông qua các cổng tốc độ cao được gọi là các cổng uplink có thể được kết nối với các thiết bị chuyển mạch L2 khác hoặc các bộ định tuyến L3.
Khác biệt giữa Switch L2 và repeater
Trong khi repeater là một thiết bị tầng vật lý (tầng 1 của Mô hình OSI) hoạt động trên tín hiệu điện từ và quang học, một Switch L2 là một thiết bị tầng liên kết dữ liệu hoạt động trên khung L2. Ngoài ra, một bộ lặp chủ yếu được sử dụng để mở rộng chiều dài của một phân đoạn LAN hoặc tăng số nút trong mạng LAN, trong khi Switch L2 mạnh hơn và thực sự được sử dụng để chuyển các frame một cách thông minh giữa các nút nguồn và đích của mạng LAN.
Nếu một bộ lặp được sử dụng để kết nối hai phân đoạn của mạng LAN, sau đó cả hai phân đoạn tạo thành một miền va chạm đơn, vì bộ lặp chuyền mỗi khung từ một phân đoạn vô điều kiện vào đoạn khác. Mặt khác, nếu một Switch L2 được sử dụng để kết nối nhiều phân đoạn của một mạng LAN, thì nó sẽ giúp giữ cho từng phân đoạn như một miền va chạm riêng biệt. Nếu các nút trong cùng một phân đoạn giao tiếp với nhau, thì giao thông bị giới hạn trong phân đoạn bởi Switch L2. Chỉ giao thông giữa các nút trên các phân đoạn được chuyển tiếp qua các cổng của L2.
Một điểm khác biệt nữa là mặc dù Repeater có nhiều cổng nhưng tất cả các cổng đều có cùng tốc độ, trong khi L2 Switch có thể có các cổng có tốc độ khác nhau. Ngoài ra, một cổng duy nhất trong Switch L2 có khả năng làm việc ở các tốc độ khác nhau dựa trên tốc độ vận hành của nút kết nối với cổng. Vì Switch L2 hỗ trợ nhiều loại giao diện, thậm chí nó có thể được sử dụng để kết nối các phân đoạn của mạng LAN với các công nghệ khác nhau (ví dụ như phân đoạn Ethernet và phân đoạn vòng Token).
Khác biệt giữa Switch L2 và bridge
Bridge là tên cũ trước đó của switch L2 khi nó (phần cứng) còn cần thêm phần mềm riêng biệt để hoạt động. Trước đây Bridge chính yếu được dùng để nối các phần của LAN với nhau để mở rộng LAN và cũng để giúp giữ cho từng phân đoạn của một LAN như một miền va chạm riêng biệt.
Tham khảo
Ethernet
Phần cứng mạng
|
26414
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ti%C3%AAn%20Ph%C6%B0%E1%BB%9Bc
|
Tiên Phước
|
Tiên Phước là một huyện trung du nằm ở phía tây tỉnh Quảng Nam, Việt Nam.
Địa lý
Huyện Tiên Phước nằm ở phía tây tỉnh Quảng Nam, cách thành phố Tam Kỳ khoảng 25 km về phía tây, có vị trí địa lý:
Phía đông giáp huyện Phú Ninh
Phía tây giáp huyện Hiệp Đức
Phía nam giáp huyện Bắc Trà My
Phía bắc giáp huyện Thăng Bình.
Huyện Tiên Phước có diện tích 453,22 km², dân số năm 2019 là 66.238 người, mật độ dân số đạt 146 người/km².
Điều kiện tự nhiên
Là một huyện trung du nên khí hậu trong vùng tương đối khắc nghiệt, nhiều hạn hán, thiên tai. Phần lớn diện tích trong vùng là đất nông nghiệp nhưng kém màu mỡ và tỷ lệ đất thịt rất thấp. Đây là một vùng kinh tế nghèo của tỉnh Quảng Nam. Do đặc điểm cấu tạo địa hình nên sông Tiên - con sông chảy quanh địa bàn huyện được mệnh danh là "con sông chảy ngược", không xuôi về biển Đông mà ngược về hướng tây-nam, đổ ra sông Thu Bồn.
Hành chính
Huyện Tiên Phước có 15 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Tiên Kỳ và 14 xã: Tiên An, Tiên Cẩm, Tiên Cảnh, Tiên Châu, Tiên Hà, Tiên Hiệp, Tiên Lãnh, Tiên Lập, Tiên Lộc, Tiên Mỹ, Tiên Ngọc, Tiên Phong, Tiên Sơn, Tiên Thọ.
Lịch sử
Sau năm 1975, huyện Tiên Phước thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, gồm 15 xã: Tiên An, Tiên Cảnh, Tiên Châu, Tiên Hiệp, Tiên Kỳ, Tiên Lãnh, Tiên Lập, Tiên Lộc, Tiên Minh, Tiên Mỹ, Tiên Ngọc, Tiên Phong, Tiên Quang, Tiên Sơn và Tiên Thọ.
Ngày 23 tháng 9 năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 79-HĐBT. Theo đó:
Chuyển xã Tiên Kỳ thành thị trấn Tiên Kỳ (thị trấn huyện lỵ huyện Tiên Phước)
Chia xã Tiên Quang thành 2 xã: Tiên Cẩm và Tiên Hà
Chuyển xã Tiên Minh về huyện Trà My quản lý (nay là 2 xã Trà Đông và Trà Dương thuộc huyện Bắc Trà My).
Ngày 6 tháng 11 năm 1996, Huyện Tiên Phước thuộc tỉnh Quảng Nam vừa được tái lập, bao gồm 1 thị trấn và 14 xã như hiện nay.
Danh nhân và địa danh lịch sử
Huỳnh Thúc Kháng (1876–1947): Chí sĩ, danh sĩ, nhà yêu nước, Viện trưởng, chủ nhiệm kiêm Chủ bút báo Tiếng Dân, Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Quyền Chủ tịch nước (năm 1946).
Hồ Truyền (1902–1967): Liệt sĩ; Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; nguyên Bí thư Huyện ủy Nam Tam Kỳ; Bí thư Huyện ủy Nam Tam Kỳ, phụ trách vành đai diệt Mỹ Chu Lai.
Lê Cơ (1870–1918): Nhà thực hành duy tân xuất sắc; chí sĩ yêu nước của phong trào Duy Tân.
Nguyễn Đình Tựu (1828-1888): Nhà giáo triều Nguyễn, Đốc học tỉnh Quảng Nam.
Phan Chu Trinh (1872–1926): Chí sĩ, danh sĩ, nhà yêu nước Việt Nam nổi tiếng.
Lê Vĩnh Khanh: Danh thần triều Nguyễn, ông làm quan trải qua các chức: Hàn lâm viện Kiểm khảo, Tri huyện Phù Cát (Bình Định), Tri phủ Tuy Hòa (Phú Yên).
Trần Ngọc Sương (1940–1972): Liệt sĩ; Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; Ông là thiếu uý, Huyện đội phó huyện Tiên Phước.
Trần Huỳnh (1858 –1908): Lập trường Tân Xuân dạy chữ Quốc ngữ, trường Dục Thanh dạy võ dân tộc. Trần Huỳnh làm Tổng lãnh binh và Trần Tùy Vân làm Phó lãnh binh.
Lê Vĩnh Huy (1842–1916): Chí sĩ yêu nước.
Cây Cốc là một địa danh thuộc xã Tiên Thọ, huyện Tiên Phước. Tại đây, ngày 01 tháng 10 năm 1954, trước việc chính quyền Mỹ - Diệm vô cớ bắt ông Nguyễn Thông, nguyên Chủ tịch Ủy ban Hành chính - Kháng chiến xã Tiên Thọ, đồng bào đã kéo đến bao vây, buộc bọn lính phải thả ông Thông và yêu cầu chúng phải tôn trọng các điều khoản của Hiệp định Giơ ne vơ.
Đặc sản
Tiêu là loại cây trồng có giá trị kinh tế cao của Tiên Phước, rất phù hợp với loại đất có tỷ lệ màu mỡ thấp. Đặc điểm của cây tiêu: thân dây, được trồng quanh hồ (tự tạo) hoặc cọc (chói) bám vào cây tự nhiên, độ cao từ 3–10 m là có thể cho hạt. Hạt tiêu Tiên Phước có vị cay, nồng nhưng rất thơm và là một loại nông sản được xuất khẩu sang các nước châu Á và châu Âu. Cùng với cây tiêu, Tiên Phước còn có quế, lòn bon, thanh trà cũng là các loại cây nông sản đặc trưng của vùng.
Chú thích
Liên kết ngoài
Trang điện tử về huyện Tiên Phước
|
26415
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Borax
|
Borax
|
Borax hay trong dân gian còn gọi là hàn the là tên gọi để chỉ các khoáng chất hay hợp chất hóa học có quan hệ gần nhau:
Borax khan hay natri tetraborat khan (Na2B4O7)
Borax pentahydrat (Na2B4O7·5H2O)
Borax decahydrat (Na2B4O7·10H2O)
Thuật ngữ borax thông thường được dùng để chỉ borax decahydrat. Từ đây trở đi thuật ngữ này được dùng để chỉ borax decahydrat.
Borax cũng được gọi là natri tetraborat ngậm 10 nước, là một hợp chất hóa học quan trọng của bor. Nó là một chất rắn kết tinh màu trắng, mềm, nhiều cạnh, có vị ngọt mặn dễ dàng hòa tan trong nước nhưng không tan trong cồn 90 độ. Khi để ngoài không khí khô, nó bị mất nước dần và trở thành khoáng chất tincalconit màu trắng như phấn (Na2B4O7·5H2O). Borax thương phẩm được bán ra thông thường bị mất nước một phần.
Sự phổ biến
Borax có trong tự nhiên trong các trầm tích evaporit được tạo ra khi các hồ nước mặn bị bay hơi lặp lại theo mùa (xem hồ sa mạc). Các trầm tích có tầm quan trọng thương mại chủ yếu được tìm thấy gần Boron, California và các khu vực khác ở tây nam Hoa Kỳ, sa mạc Atacama ở Chile và ở Tây Tạng. Borax cũng có thể sản xuất nhân tạo từ các hợp chất chứa bor khác.
Nguồn gốc tên gọi
Nguồn gốc của tên gọi borax có lẽ bắt nguồn từ tiếng Ba Tư "bürah". Từ này được sử dụng một cách khinh miệt trong thập niên 1940 để chỉ các đồ nội thất hiện đại thiết kế lòe loẹt và các sản phẩm sản xuất công nghiệp khác. Một số khác cho rằng cách nói này có nguồn gốc từ các quảng cáo đối với những người lau dọn trong gia đình, mặc dù có thể nó có nguồn gốc từ tiếng Yiddish "boraxhs", có nghĩa là các đồ nội thất được thuê mượn.
Sử dụng
Borax được sử dụng rộng rãi trong các loại chất tẩy rửa, chất làm mềm nước, xà phòng, chất khử trùng và thuốc trừ sâu. Một trong các ứng dụng được quảng cáo nhiều nhất là sử dụng làm nước rửa tay cho công nhân trong công nghiệp. Nó cũng được sử dụng làm men thủy tinh men gốm, thủy tinh và làm cứng đồ gốm sứ. Nó cũng rất dễ dàng chuyển thành acid boric hay các borat khác, và chúng có nhiều ứng dụng.
Một lượng lớn borax pentahydrat được sử dụng trong sản xuất sợi thủy tinh và cellulose cách nhiệt như là chất làm chậm cháy và hợp chất chống nấm. Một lượng lớn sử dụng trong sản xuất natri peborat để sử dụng trong bột giặt.
Hỗn hợp của borax và amoni chloride (NH4Cl) được sử dụng như là chất trợ chảy khi hàn các hợp kim chứa sắt như thép. Nó hạ thấp điểm nóng chảy của các oxide sắt không mong muốn, cho phép nó chảy ra. Borax cũng được trộn với nước làm chất trợ chảy khi hàn các kim loại quý như vàng hay bạc. Nó cho phép que hàn nóng chảy chảy tràn lên các mối nối cần thiết.
Khi sử dụng trong hỗn hợp, borax cũng có thể dùng để giết kiến đục gỗ và bọ chét. Borax là một thành phần trong chất lỏng nhớt slime.
Borax cũng là một phụ gia thực phẩm tại một số quốc gia (nó bị cấm sử dụng tại Hoa Kỳ, Việt Nam), với số E là E285. Nó sử dụng tương tự như muối ăn, và nó có trong món trứng cá muối của Pháp và Iran. Mặc dù nó được sử dụng như là thuốc trừ sâu và có độc tính, nhưng liều gây chết 50% (LD50) của borax là tương tự như của muối ăn (cả hai đều khoảng 3.000 mg/kg thể trọng).
Sử dụng để tạo ra chất lỏng bôi trơn slime: trộn 2,5 ly nước, 2 ly keo PVA và 4 thìa trà borax.
Khác
Món trứng cá muối chứa borax được thể hiện như là phần quan trọng trong cuốn sách "Murder at the British Embassy" (Kẻ sát nhân ở đại sứ quán Anh) của Margaret Truman.
Xem thêm
Acid boric natri
Twenty-Mule-Team Borax – một thương hiệu chất tẩy rửa sản xuất tại Hoa Kỳ.
Francis Marion Smith
John Veatch
Tham khảo
Liên kết ngoài
Thẻ an toàn hóa chất quốc tế số 0567
Thẻ an toàn hóa chất quốc tế số 1229 (borax nóng chảy)
- National Pollutant Inventory - Bo và các hợp chất
Hướng dẫn bỏ túi của NIOSH về các nguy hiểm hóa chất
Ủy ban hóa chất châu Âu (ECB)
Sách điện tử về hóa học của NIST
Khoáng_vật_oxide
Hóa chất
Hợp chất natri
Hợp chất bor
Borat
Khoáng chất borat
Chất tẩy rửa
Hóa chất trong gia đình
Phụ gia thực phẩm
Sản phẩm làm sạch
Hóa chất gia dụng
Nesoborat
|
26422
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90i%E1%BB%87n%20Bi%C3%AAn%20Ph%E1%BB%A7
|
Điện Biên Phủ
|
Điện Biên Phủ là thành phố tỉnh lỵ của tỉnh Điện Biên, Việt Nam.
Địa lý
Thành phố Điện Biên Phủ nằm ở trung tâm địa lý của tỉnh Điện Biên, có vị trí địa lý:
Phía đông giáp huyện Điện Biên Đông và huyện Mường Ảng
Phía tây và phía nam giáp huyện Điện Biên
Phía bắc giáp huyện Mường Chà.
Điện Biên Phủ cách trung tâm thủ đô Hà Nội 455 km về phía tây bắc. Trung tâm thành phố nằm trên cánh đồng Mường Thanh với chiều dài khoảng 23 km, chiều rộng trung bình 6 km đến 8 km và tổng diện tích khoảng 150 km².
Khí hậu
Thành Phố Điện Biên Phủ có khí hậu cận nhiệt đới ẩm chịu ảnh hưởng của gió mùa (Koppen: Cwa). Mùa đông lạnh, khô do ảnh hưởng của áp cao Siberia., kéo dài từ tháng 10 năm trước đến tháng 3 năm sau. Mùa hè nóng, rất ẩm do ảnh hưởng của gió mùa, kéo dài liên tục từ tháng 4 đến tháng 9.
Hành chính
Thành phố Điện Biên Phủ có 12 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 7 phường: Him Lam, Mường Thanh, Nam Thanh, Noong Bua, Tân Thanh, Thanh Bình, Thanh Trường và 5 xã: Mường Phăng, Nà Nhạn, Nà Tấu, Pá Khoang, Thanh Minh.
{| cellpadding="0" cellspacing="4" style="margin:auto; width:100%; background:#f9f9f9; border:1px #aaa solid; margin-top:16px;"
! colspan="2" style="background:lavender; font-size:95%;"| Danh sách các đơn vị hành chính trực thuộc thành phố Điện Biên Phủ
|-
| style="vertical-align:top; width:100%; background:#f9f9f9;"|
| style="vertical-align:top; background:#f9f9f9; font-size:50%;" |
|-
| colspan="8" |{{center|<small>Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Điện Biên năm 2022</small>}}
|}
Lịch sử
Điện Biên Phủ vốn được gọi là Mường Thanh, từ chữ Mường Then theo tiếng dân tộc Thái nghĩa là Xứ Trời, gắn với truyền thuyết về sự phát sinh ra dân tộc Thái. Đây là đất tổ của nhiều ngành Thái ở Đông Nam Á.
Khi Lạng Chạng đưa một bộ phận người Thái Đen từ Mường Lò (Nghĩa Lộ ngày nay) đến Mường Thanh thì vùng đất này còn gọi là Song Thanh vì có hai mường: Thanh Nưa (Thanh trên) từ bản Noong Hét ngược về đầu nguồn sông Nậm Rốm và Thanh Tẩu (Thanh dưới) từ bản Noong Hét đến cuối sông Nậm Rốm. Tại đây có Viềng Xam Mứn (thành Tam Vạn) cổ kính của người Thái. Các mường thuộc Mường Thanh xưa gồm: Mường Phăng, Mường Nha, Mường Luân, Mường Lèo, Mường Lói nay thuộc huyện Điện Biên; Mường U nay thuộc tỉnh Phong Xa Lỳ của Lào; Mường Và, Sốp Cộp nay thuộc tỉnh Sơn La.
Tên gọi Mường Thanh xuất hiện lần đầu trong sách Hưng Hóa xứ Phong Thổ lục của Hoàng Bình Chính. Hoàng Công Chất nổi dậy chống lại vua Lê chúa Trịnh, chiếm đất Mường Thanh, xây đắp thành lũy gọi là Phủ Chiềng Lễ, phiên âm Hán -Việt là Trình Lệ. Ông đã ở đây từ năm 1754 đến năm 1769.
Năm 1778 nhà Lê bình được Hoàng Công Toản (con trai Hoàng Công Chất) và đặt ra châu Ninh Biên thay cho tên gọi Mường Thanh, thuộc phủ An Tây. Ninh Biên có 12 mường nhỏ gộp lại.
Tên gọi Điện Biên do vua Thiệu Trị đặt năm 1841 từ châu Ninh Biên; Điện (奠) nghĩa là kiến lập, Biên'' (邊) nghĩa là vùng biên giới, biên ải. Phủ Điện Biên (tức Điện Biên Phủ) thời Thiệu Trị gồm 3 châu: Ninh Biên (do phủ kiêm lý, tức là tri phủ kiêm quản lý châu), Tuần Giáo và Lai Châu.
Thành phố Điện Biên Phủ được biết đến với trận Điện Biên Phủ năm 1954, giữa quân đội Việt Minh (do tướng Võ Nguyên Giáp chỉ huy) và quân đội Pháp (do tướng Christian de Castries chỉ huy). Cuộc chiến mang ý nghĩa rất lớn trong việc kết thúc vai trò của người Pháp ở bán đảo Đông Dương, và đưa tới việc ký kết hiệp định chia Việt Nam ra thành 2 miền: Bắc và Nam. Trận Điện Biên Phủ được nhắc đến như một chiến thắng vĩ đại nhất của các nước Đông Nam Á chống lại một cường quốc phương Tây. Trong trận này, lực lượng Việt Minh đã di chuyển pháo binh của họ lên những quả đồi xung quanh tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ và tiến công vào sườn của quân đội Pháp. Bằng cách huy động sức người một cách tối đa và với lực lượng hậu cần đông đảo của mình, Việt Minh đã làm nên một trong những chiến thắng quan trọng nhất trong lịch sử chiến tranh của Việt Nam.
Quần thể di tích lịch sử Điện Biên Phủ được chính thức xếp hạng di tích lịch sử quốc gia ngày 28 tháng 4 năm 1962. Tượng đài chiến thắng Điện Biên Phủ được xây dựng nhân dịp kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (2004). Hiện nay chạy dọc thung lũng Mường Thanh, nơi diễn ra cuộc đọ sức lịch sử năm xưa là đại lộ 279 (nay là Đại lộ Võ Nguyên Giáp), con phố chính và lớn nhất thành phố Điện Biên Phủ.
Sau năm 1954, địa bàn thành phố Điện Biên Phủ ngày nay thuộc huyện Điện Biên, tỉnh Lai Châu (cũ).
Bắt đầu từ năm 1958, một nông trường quân đội được xây dựng ở đây, kéo theo di dân từ đồng bằng Bắc Bộ, sau đó thị trấn Nông trường Điện Biên được thành lập, sau lại tách một phần diện tích của thị trấn nông trường Điện Biên để thành lập thị trấn Điện Biên, thị trấn huyện lỵ của huyện Điện Biên thuộc tỉnh Lai Châu.
Đến cuối năm 1991, huyện Điện Biên có thị trấn Điện Biên (huyện lỵ), thị trấn Nông trường Điện Biên và 30 xã: Chiềng Sơ, Háng Lìa, Keo Lôm, Luân Giới, Mường Luân, Mường Mươn, Mường Nhà, Mường Nói, Mường Phăng, Mường Pồn, Na Son, Nà Tấu, Na Ủ, Noọng Hẹt, Noong Luống, Núa Ngam, Pa Thom, Phì Nhừ, Phình Giang, Pù Nhi, Sam Mứn, Thanh An, Thanh Chăn, Thanh Hưng, Thanh Luông, Thanh Minh, Thanh Nưa, Thanh Xương, Thanh Yên, Xa Dung.
Ngày 18 tháng 4 năm 1992, tách thị trấn Điện Biên và xã Thanh Minh thuộc huyện Điện Biên để thành lập thị xã Điện Biên Phủ - thị xã tỉnh lỵ tỉnh Lai Châu bấy giờ. Ban đầu, thị xã có 2 phường: Mường Thanh, Him Lam và 2 xã: Thanh Minh, Noong Bua.
Ngày 26 tháng 5 năm 1997, thành lập phường Thanh Bình trên cơ sở điều chỉnh 64,5 ha diện tích tự nhiên và 1.622 nhân khẩu của xã Thanh Luông thuộc huyện Điện Biên.
Ngày 18 tháng 8 năm 2000, thành lập phường Tân Thanh trên cơ sở 102 ha diện tịch tự nhiên và 8.210 nhân khẩu của phường Mường Thanh.
Thị xã Điện Biên Phủ có 4 phường và 2 xã trực thuộc.
Ngày 26 tháng 9 năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 110/2003/NĐ-CP chuyển thị xã Điện Biên Phủ thành thành phố Điện Biên Phủ. Đồng thời, mở rộng địa giới hành chính thành phố Điện Biên Phủ trên cơ sở sáp nhập toàn bộ diện tích và dân số của thị trấn Mường Thanh, một phần diện tích và dân số của các xã Thanh Luông và Thanh Nưa thuộc huyện Điện Biên và thành lập 3 phường mới trực thuộc:
Thành lập phường Nam Thanh trên cơ sở toàn bộ 356,25 ha diện tích tự nhiên và 8.520 nhân khẩu của thị trấn Mường Thanh
Thành lập phường Thanh Trường trên cơ sở 281 ha diện tích tự nhiên và 3.147 nhân khẩu của xã Thanh Luông; 251 ha diện tích tự nhiên và 2.627 nhân khẩu của xã Thanh Nưa thuộc huyện Điện Biên (phần điều chỉnh của 2 xã về thành phố Điện Biên Phủ quản lý)
Thành lập phường Noong Bua trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của xã Noong Bua.
Thành phố Điện Biên Phủ có 7 phường và 1 xã.
Ngày 26 tháng 11 năm 2003, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 22/2003/QH11 chia tỉnh Lai Châu thành hai tỉnh Lai Châu (mới) và Điện Biên. Thành phố Điện Biên Phủ trở thành tỉnh lỵ tỉnh Điện Biên.
Ngày 16 tháng 4 năm 2009, thành lập xã Tà Lèng trên cơ sở điều chỉnh 1.536,29 ha diện tích tự nhiên và 2.500 nhân khẩu của phường Noong Bua.
Cuối năm 2018, thành phố Điện Biên Phủ có diện tích tự nhiên 64,27 km², dân số là 59.748 người, mật độ dân số đạt 929 người/km², gồm 7 phường: Him Lam, Mường Thanh, Nam Thanh, Noong Bua, Tân Thanh, Thanh Bình, Thanh Trường và 2 xã: Tà Lèng, Thanh Minh.
Ngày 21 tháng 11 năm 2019, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết 815/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã thuộc tỉnh Điện Biên (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2020). Theo đó:
Chuyển 4 xã: Mường Phăng, Pá Khoang, Nà Nhạn, Nà Tấu thuộc huyện Điện Biên về thành phố Điện Biên Phủ quản lý
Điều chỉnh 0,72 km² diện tích tự nhiên, 766 người của xã Thanh Luông và 0,25 km² diện tích tự nhiên của xã Thanh Hưng thuộc huyện Điện Biên về phường Thanh Trường quản lý
Điều chỉnh 0,27 km² diện tích tự nhiên, 540 người của xã Thanh Hưng thuộc huyện Điện Biên về phường Nam Thanh quản lý
Sáp nhập xã Tà Lèng vào xã Thanh Minh.
Thành phố Điện Biên Phủ có 7 phường và 5 xã như hiện nay.
Kinh tế
Ngày nay Điện Biên Phủ là một điểm du lịch. Cùng với việc tham quan trận địa, du khách còn có thể thưởng ngoạn thung lũng Mường Thanh, tham quan các ngôi làng lân cận.
Vì chỉ cách biên giới Lào 30 km, nên Điện Biên Phủ là một trung tâm thương mại quan trọng. Thực phẩm từ đây chuyển sang Lào và Thái Lan và hàng hóa chuyển đến các tỉnh phía bắc của Việt Nam.
Hiện nay, thành phố đã và đang có nhiều dự án phục vụ phát triển Kinh tế - xã hội: Khu đô thị mới Nậm Rốm, Nhà khách Quân khu 2 (phường Thanh Bình), Dự án trụ sở Vietinbank, Cục Hải quan tỉnh (phường Mường Thanh)..., cùng nhiều Trung tâm mua sắm, thương mại; đặc biệt là tổ hợp trung tâm thuơng mại Vincom Plaza và nhà ở thuơng mại của Tập đoàn Vingroup đang được xây dựng tại đường Võ Nguyên Giáp, liền kề với quảng trường 7/5, dự kiến khánh thành vào tháng 9/2023. Ngoài ra, TP. Điện Biên Phủ có khu du lịch sinh thái Him Lam (phường Him Lam) với nhà sàn gỗ lim lớn nhất Việt Nam và các dịch vụ du lịch phong phú.
Dân số
Thành phố Điện Biên Phủ có diện tích 308,18 km², dân số năm 2018 là 80.366 người. Cư dân sống ở đây bên cạnh người Kinh còn có một số đông là người Thái, người H'Mông, người Si La. Các dân tộc thiểu số chiếm 1/3 dân số của thành phố.
Thành phố Điện Biên Phủ có diện tích 306,58 km², dân số năm 2022 là 84.672 người, mật độ dân số đạt 276 người/km².
Giao thông
Về đường bộ, Điện Biên Phủ nối với thị xã Mường Lay bằng đường 12, cách nhau 90 km. Điện Biên Phủ cách Hà Nội 474 theo đường 279 đến Tuần Giáo chuyển sang đường 6.
Về đường hàng không, Điện Biên Phủ có sân bay Điện Biên Phủ nối với Hà Nội, Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh.
Các tuyến đường
Võ Nguyên Giáp (trước đây là đường 7/5)
Nguyễn Chí Thanh
Hoàng Văn Thái
Hoàng Công Chất
Nguyễn Hữu Thọ
Sùng Phái Sinh
Đường số 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9 (Phường Noong Bua)
Phan Đình Giót
Trần Can
Trần Văn Thọ
13 tháng 3
Tôn Thất Tùng
Lò Văn Hặc
Lê Trọng Tấn
Trường Chinh
Trần Đăng Ninh
Bế Văn Đàn,...
Chú thích
Liên kết ngoài
Cổng thông tin điện tử Thành phố Điện Biên Phủ
Tỉnh lỵ Việt Nam
Đô thị Việt Nam loại III
|
26428
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BB%A9ng%20c%C3%A1%20mu%E1%BB%91i
|
Trứng cá muối
|
Trứng cá muối là trứng của nhiều loại cá khác nhau được chế biến bằng cách ướp muối, mà nổi tiếng nhất là từ trứng cá tầm. Nó được buôn bán trên thị trường thế giới như là đồ cao lương mỹ vị (trứng cá tầm) và được ăn chủ yếu trong dạng đồ phết trên các đồ nguội khai vị hay ăn với sushi.
Trong tiếng Anh, nó được gọi là caviar, có nguồn gốc từ خاگآ (Khag-avar) trong tiếng Ba Tư, có nghĩa là "vật sinh trứng". Trên thực tế, trong tiếng Ba Tư, tên gọi này được dùng để chỉ chính cá tầm và sản phẩm của nó là trứng cá tầm.
Việc khai thác trứng cá muối
Hiện nay, trứng cá muối tốt nhất có được là từ cá tầm được Nga và Iran đánh bắt ở biển Caspi. Các loại trứng cá muối đắt nhất là các loại Beluga, Ossetra, and Sevruga (lưu ý rằng trứng cá muối Beluga thu được từ cá tầm trắng, tiếng Nga: Белуга-Beluga, mà không phải từ cá voi trắng cũng có tên bằng tiếng Nga là Белуга-Beluga).
Loại trứng cá muối màu vàng từ cá tầm sông Danube đã từng là món ăn khoái khẩu của các vị vua chúa phương Tây nhưng ngày nay loài cá này đã gần như tuyệt chủng.
Việc đánh bắt và khai thác quá tải cũng như sự ô nhiễm nguồn nước đã làm cho người ta phải tìm các nguồn thay thế rẻ tiền hơn, được chế biến từ trứng cá hồi trắng và cá hồi Bắc Đại Tây Dương và làm cho chúng trở nên phổ biến hơn.
Đây cũng là lý do tại sao ngày nay trong một số văn bản thì người ta dịch caviar thành trứng cá hồi. Từ "malossol" trên tem mác các loại trứng cá muối trong tiếng Nga có nghĩa là "ít muối", và nó chỉ ra rằng các loại trứng cá này được chế biến với một lượng tối thiểu muối ăn.
Trong những năm gần đây, việc nuôi cá tầm đã tăng lên, đặc biệt là tại Pháp, Uruguay và miền nam California của Hoa Kỳ và trứng cá tầm thìa đã được phổ biến trên thị trường.
Các loại trứng cá muối giá rẻ này cũng thu được từ các loại cá thuộc họ cá tầm. Gần đây thì lượng cá cho phép khai thác tự nhiên đã giảm xuống và nó là lý do của sự tăng giá các loại trứng cá muối.
Do giá cả rất cao của nó, nên trong văn hóa phương Tây thì các loại trứng cá muối đồng nghĩa với sự xa xỉ và giàu có giống như máy bay, du thuyền và lâu đài của cá nhân. Tại Nga và một số nền văn hóa khác, mặc dù là món ăn xa xỉ, nhưng trứng cá muối là một phần phổ biến trong các ngày lễ hay đám cưới.
Trứng cá muối được đựng trong các đồ dùng nhà bếp bằng sừng, gỗ hay vàng (xà cừ và nhựa cũng rất phổ biến), chứ ít khi trong các đồ bằng bạc hay thép không rỉ, là các đồ dùng có thể có ảnh hưởng đến hương vị và màu sắc của trứng cá muối.
Sản xuất trứng cá muối thương mại bao gồm việc đánh bắt, xẻ thịt cá (thông thường với thân và đầu) và tách ổ trứng ra, mặc dù hiện nay một số nông dân đang thử nghiệm việc tách ổ trứng bằng phẫu thuật từ cá tầm sống và điều này cho phép cá tầm cái có thể tạo ra nhiều trứng hơn trong thời gian sinh sống của chúng.
Trứng cá muối là một sản phẩm từ động vật vì thế nó không thể coi là món ăn chay. Tuy vậy, hiện nay trên thị trường cũng có loại "trứng cá muối" làm từ đậu tương và nó là một đồ ăn chay thực thụ.
Bảo vệ nguồn trứng cá
Đầu thập niên 1900, cả Canada và Hoa Kỳ là các nhà cung cấp chính trứng cá muối vào châu Âu bằng cách khai thác trứng của cá tầm hồ ở miền trung phía tây các quốc gia này, cũng như từ cá tầm mũi ngắn và cá tầm Đại Tây Dương khi chúng vào các con sông ở bờ biển phía đông vào mùa sinh đẻ.
Tuy nhiên vậy nhưng hiện nay thì cá tầm mũi ngắn đã được liệt kê như là dễ tổn thương trong sách đỏ của IUCN về các loài đang ở tình trạng nguy cấp và là nguy cấp trong Luật về các loài đang nguy cấp của Hoa Kỳ.
Dịch vụ cá và động vật hoang dã Hoa Kỳ đã chính thức cấm việc nhập khẩu trứng cá muối Beluga được đánh bắt từ biển Caspi vào tháng 9 năm 2005 trong cố gắng nhằm bảo vệ loài cá tầm trắng đang gặp nguy hiểm tuyệt chủng này. Một tháng sau, lệnh cấm này đã được mở rộng cho trứng cá tầm muối được đánh bắt từ biển Đen vì các lý do tương tự.
Tháng một năm 2006, CITES- công ước về buôn bán các loài đang nguy cấp, đã thông báo rằng họ "không thể cấp hạn ngạch xuất khẩu" năm 2006 cho các loại trứng cá muối khai thác từ các nguồn hoang dã. Nếu điều này không được giải quyết thì việc buôn bán trứng cá muối sẽ bị giới hạn cho các loại cá tầm được nuôi nhân tạo.
Chú thích
Món mặn
Sản phẩm từ cá
Trứng
Ẩm thực Azerbaijan
Ẩm thực Iran
Ẩm thực Kazakhstan
Ẩm thực Nga
Ẩm thực Pháp
Hải sản
|
26430
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Omar%20Khayy%C3%A1m
|
Omar Khayyám
|
Ghiyāth al-Dīn Abū al-Fatḥ ʿUmar ibn Ibrāhīm Nīsābūrī (ngày 18 tháng 5 năm 1048 – ngày 4 tháng 12 năm 1131), thông thường được biết đến với tên gọi Omar Khayyám (),, là một nhà bác học người Ba Tư xưa, được biết đến bởi những cống hiến của ông cho toán học, thiên văn học, khoáng sản học, triết học và thơ ca. Ông sinh ra tại Nishapur, thủ phủ trước kia của Đế chế Seljuk (gần thủ đô Mashad, miền đông Iran ngày nay). Ông là một học giả cùng thời với sự cai trị của triều đình Seljuk quanh thời điểm của cuộc Thập tự chinh đầu tiên.
Là một nhà toán học, ông được chú ý nhiều nhất cho những cố gắng trong công cuộc phân loại và giải nghiệm các phương trình khối (bậc ba). Theo đó, ông đã phát kiến ra các phương án giải bằng hình học qua giao điểm của các đường conic. Khayyam đồng thời cũng đóng góp cho những hiểu biết về tiên đề song song. Là một nhà thiên văn, ông đã tính toán được thời lượng của năm mặt trời với độ chính xác và tinh vi đáng kinh ngạc. Ông đã thiết kế ra bộ lịch Jalali, một bộ lịch dựa theo mặt trời với chu kỳ 33 năm xen kẽ cực kỳ chuẩn xác, đặt làm nền móng cho bộ lịch Ba Tư vẫn còn được sử dụng sau gần một thiên niên kỷ.
Có một truyền thống về việc quy gán thơ ca cho Omar Khayyam, được viết theo thể thơ bốn câu tứ tuyệt(rubāʿiyāt ). Thể thơ này trở nên được biết đến rộng rãi tới bạn đọc tiếng Anh qua một bản dịch bởi Edward Fitzgerald (Rubaiyat của Omar Khayyam, 1859) và nhận được về thành công vang dội trong trường phái chủ nghĩa phương đông Orientalism của fin de siècle.
Cuộc đời
Omar Khayyam ra đời, thuộc dân tộc Khorasani Ba Tư cổ, tại Nishapur vào năm 1048 thời Trung Cổ. Cha của Khayyam có lẽ từng là một người Hỏa giáo đã cải sang đạo Hồi.Trong các văn bản Ba Tư thời ấy, ông thường đơn giản được gọi là Hakim Omar Khayyam. Dẫu cho những nghi vấn còn bỏ ngỏ, người ta vẫn thường cho rằng các tổ tiên của ông theo nghề làm lều. bởi Khayyam có nghĩa là người làm túp lều trong tiếng Ả-rập. Nhà sử học Bayhaqi, người quen biết thân thích với Omar, cung cấp đầy đủ chi tiết về lá số tử vi horoscope của ông: "Omar là thuộc chòm Song Tử Gemini, mặt trời và sao Thuỷ đang ở thế thượng phong[...]". Điều này khiến cho các học giả hiện đại công bố ngày sinh của ông là vào 18 tháng 5, năm 1048.
Khayyam dành tuổi thơ của mình tại Nishapur, một chốn thành thị tiên phong dưới Triều đại Seljuq Vĩ đại. Nó từng là một trung tâm chính của giáo phái Hoả giáo. Toàn bộ tên đầy đủ của ông, như được ghi trong các nguồn tài liệu Ả-rập, là Abu’l Fath Omar ibn Ibrahim al-Khayyam. Tài năng của ông được phát hiện bởi các thầy kèm dạy đầu tiên. Họ gửi ông tới theo học chỗ Imam Muwaffaq Nishaburi, giáo viên tài giỏi nhất của vùng Khorasan, người kèm cặp cho các con em của giới quý tộc thượng lưu nhất. Omar và Imam trở thành cặp thầy trò tri giao tuyệt vời qua bao năm liền. Khayyam cũng đồng thời được dạy bởi nhà toán học Hoả giáo, Abu Hassan Bahmanyar bin Marzban. Sau khi học tập khoa học, triết học, toán học và thiên văn tại Nishapur, vào khoảng năm 1068, Omar lên đường tới tỉnh Burakha, nơi ông thường xuyên lui tới thư viện trứ danh của Ark Burakha. Vào khoảng năm 1070, ông chuyển tới ở Samarkand, nơi ông đã bắt đầu biên soạn công trình nổi tiếng của mình về đại số dưới sự bảo trợ của Abu Tahir Abd al-Rahman ibn ʿAlaq, quan tổng đốc và tổng thẩm phán của thành phố. Omar Khayyam được đón tiếp rất tử tế bởi Shams al-Mulk Nasr, người cai trị Karakhanid, mà theo như Bayhaqi, sẽ "bày tỏ với ông niềm hân hạnh vinh dự to lớn nhất, to đến nỗi có thể cho [Omar] ngồi cạnh mình trên ngai".
Vào tháng 4, năm 1073, hoà bình được ký kết với quốc vương Sultan Malik-Shah I, người từng thực hiện các cuộc tiến công vào các lãnh địa của Karakhanid. Khayyam đi vào phục vụ cho Malik-Shah vào tháng 5, năm 1074 khi ông nhận được lời mời từ quan Đại Tể Tướng Nizam al-Mulk tới gặp gỡ Malik-Shah trong thành phố của Marv. Sau buổi gặp gỡ ấy, Khayyam được giao nhiệm vụ thiết đặt một đài quan sát ở Isfahan và lãnh đạo một nhóm các khoa học gia trong việc thực hiện các quan sát thiên văn tinh vi nhằm tu chỉnh lại bộ lịch Ba Tư. Công việc đảm nhận có thể bắt đầu vào năm 1076 và kết thúc vào năm 1079 khi Omar Khayyam cùng các đồng nghiệp kết thúc các quan sát về độ dài của năm, và báo cáo nó là 365,24219858156 days. Nếu giả thiết rằng, độ dài của năm thay đổi tại vị trí thập phân thứ sáu trong khoảng thời gian một đời người, điều này thực sự là chính xác, tinh vi đến đáng kinh ngạc. Để dễ hình dung, độ dài của năm vào cuối thế kỷ 19 là 365.242196 ngày, trong khi ngày nay nó là 365.242190 ngày.
Sau cái chết của Malik-Shah và tể tướng của mình (bị sát hại, được cho là thực hiện bởi các sát thủ theo mệnh lệnh Ismaili). Omar bị thất sủng tại triều đình. Kết cục là ông phải sớm khăn gói hành hương tới Mecca. Một nguyên do động cơ thầm kín cho chuyến hành hương của ông được báo cáo bởi Al-Qifti, đó là một màn thể hiện công khai cho công chúng đức tin của ông nhằm xoa dịu những nghi hoặc đối với chủ nghĩa hoài nghi và bác bỏ những cáo buộc về sự không chính thống (bao gồm cả những đồng cảm hoặc tuân thủ có thể có đối với Hỏa giáo) do một giáo sĩ thù địch nhằm vào ông. Sau đó, ông được quốc vương Sultan Sanjar mới mời đến Marv, khả năng là để làm việc với tư cách là một nhà chiêm tinh của triều đình. Sau đó, Khayyam được chấp thuận hồi hương quê nhà tại Nishapur do sức khỏe ngày càng giảm sút. Khi trở về, ông dường như đã sống một cuộc sống ẩn dật.
Omar Khayyam qua đời ở tuổi 83 tại quê nhà Nishapur vào ngày 4 tháng 12 năm 1131. Ông được mai táng tại nơi mà hiện nay là Lăng mộ Omar Khayyam. Một trong các đệ tử của ông, Nizami Aruzi, thuật lại câu chuyện rằng, đâu đó trong khoảng năm 1112 và 1113, Khayyam lúc ấy ở tại Balkh trong một đoàn thể của Al-Isfizari (một trong những khoa học gia đã cộng tác cùng ông trong dự án lịch Jalali) khi ông đưa ra một lời tiên đoán rằng "lăng mộ của ta sẽ ở vị trí mà ngọn gió phương bắc sẽ trải hoa hồng lên đó". Bốn năm sau khi ông đã khuất, Aruzi đặt phần lăng mộ của ông trong một nghĩa trang. Nghĩa trang này lại nằm trong một phân khu rộng lớn và nổi tiếng của Nishapur trên đường tới Marv. Như đã được liệu đoán trước bởi Khayyam, Aruzi còn xác định mộ phần của ông đặt tại chân bức tường một khu vườn, nơi những cây lê và cây đào vươn mình ra và thả những nụ hoa của chúng để bia mộ của ông được ẩn giấu bên dưới.
Toán học
Khayyam từng là một nhà toán học rất nổi tiếng trong lúc còn bình sinh. Các công trình toán học còn lưu giữ được của ông bao gồm: Một nhận xét về các khó khăn liên quan đến các mệnh đề trong cuốn "Các nguyên tố" (Elements) của Euclid (, hoàn thành vào tháng 12, năm 1077). Về phép chia góc phần tư của hình tròn (, chưa được định ngày tháng nhưng đã hoàn thành trước chuyên luận về đại số) và Về các chứng minh cho các vấn đề liên quan đến Đại số (, rất có thể được hoàn thành vào năm 1079). Ông tiến tới viết một luận đề về phân phối nhị thức và trích xuất căn bậc n của các số tự nhiên, nhưng công trình này đã bị thất lạc.
Lý thuyết về các đường song song
Một phần nhận xét của Khayyam về cuốn "Nguyên tố" của Euclid là về mệnh đề song song. Chuyên luận của Khayyam có thể được cho là ý kiến đầu tiên về mệnh đề mà không bị phụ thuộc vào petitio principii (lỗi ngộ nhận), mà dựa vào một mệnh đề trực quan hơn. Khayyam bác bỏ các cố gắng trước đó của những nhà toán học khác trong việc chứng minh mệnh đề, chủ yếu với lập luận rằng mỗi người trong số họ đều đã giả thiết một điều gì đó không dễ dàng chấp nhận được hơn chính Mệnh Đề Thứ Năm đó. Rút ra từ các đánh giá của Aristotle, ông bác bỏ việc sử dụng chuyển động (movement) trong hình học và do đó, từ chối luôn cả những nỗ lực cố gắng khác của Al-Haytham. Không được thoả mãn với thất bại của các nhà toán học trong việc chứng minh tuyên bố của Euclid từ các định đề khác của mình, Omar đã cố gắng nối kết tiên đề với Mệnh Đề Thứ Tư, theo đó nói rằng tất cả các góc vuông là đều bằng nhau.
Khayyam là người đầu tiên áp dụng ba trường hợp riêng biệt của góc nhọn, góc tù và góc vuông cho các góc đỉnh của một tứ giác Khayyam-Saccheri. Sau khi chứng minh một số các định lý về chúng, ông cho thấy được rằng, Định Đề Thứ Năm là một kết quả của giả thiết về góc vuông, và đã bác bỏ các trường hợp góc tù và góc nhọn như một điều tự mâu thuẫn. Nỗ lực công phu của ông trong việc chứng minh mệnh đề song song là đặc biệt có ý nghĩa cho sự phát triển tấn tới của hình học, do nó rõ ràng cho chúng ta thấy các hình học phi Euclid là điều khả thi. Những giả thuyết liên quan đến các góc nhọn, góc tù, và góc vuông hiện đã được biết đến là đã dẫn tới phát kiến tương ứng của hình học phi Euclid hyperbola của Gauss-Bolyai-Lobachevsky, cho tới hình học Riemann, và tới hình học Euclid.
Các bình luận của Tusi về cách xử lý của Khayyam với đường song song cũng lan truyền tới châu Âu. John Wallis, giáo sư hình học tại Oxford, đã dịch bình luận của Tusi sang tiếng Latinh. Nhà hình học dòng Jesuit Girolamo Saccheri, người có tác phẩm (euclides ab omni naevo vindicatus, 1733) thường được coi là bước đầu tiên trong sự phát triển tất yếu của hình học phi Euclid, đã khá quen thuộc với công trình của Wallis. Nhà sử học toán học người Mỹ David Eugene Smith đề cập rằng Saccheri "đã sử dụng cùng một bổ đề như của Tusi, thậm chí còn ký hiệu cho hình hoạ trùng hợp theo cùng một cách và sử dụng bổ đề cho cùng mục đích". Ông nói thêm, "Tusi nói một cách tường minh rằng đó là do Omar Khayyam, và từ văn bản, có vẻ như rõ ràng đó chính là người đã truyền nguồn cảm hứng cho ông."
Khái niệm số thực
Chuyên luận này về Euclid chứa đựng một đóng góp khác liên quan tới lý thuyết về tỷ lệ và với sự kết hợp của các tỷ lệ. Khayyam thảo luận về mối quan hệ giữa khái niệm tỷ lệ và khái niệm số và nêu rõ ra nhiều khó khăn về mặt lý thuyết khác nhau. Cụ thể, ông đóng góp vào nghiên cứu lý thuyết của khái niệm số vô tỷ.[citation needed] .Không hài lòng với định nghĩa của Euclid về các tỷ số bằng nhau, ông đã định nghĩa lại khái niệm về của con số bằng cách sử dụng một phân số liên tục làm phương tiện biểu thị tỷ số. Rosenfeld và Youschkevitch (1973) lập luận rằng, "bằng cách đặt các đại lượng và các số vô tỷ trên cùng một quy mô hoạt động, [Khayyam] đã bắt đầu một cuộc cách mạng thực sự trong học thuyết về số.". Tương tự như vậy, D. J. Struik đã lưu ý rằng Omar "đang trên con đường tiến tới mở rộng khái niệm số, dẫn đến khái niệm về số thực."
Đại số hình học
Rashed và Vahabzadeh (2000) đã lập luận rằng, do cách tiếp cận hình học triệt để của ông đối với các phương trình đại số, Khayyam có thể được xem là tiền thân của Descartes trong việc phát minh ra hình học giải tích. Trong "Chuyên luận về phép chia góc phần tư của hình tròn", Khayyam đã áp dụng đại số vào hình học. Trong việc này, ông chủ yếu dành tâm huyết để nghiên cứu xem liệu có thể chia một góc phần tư hình tròn thành hai phần sao cho các đoạn thẳng chiếu từ điểm phân chia đến các đường kính vuông góc của hình tròn tạo thành một tỷ lệ cụ thể hay không. Theo đó, giải pháp của ông đã sử dụng một số cách xây dựng đường cong dẫn đến các phương trình chứa các số hạng bậc ba và bậc bốn.
Giải phương trình khối bậc ba
Khayyam dường như là người tiên phong nghĩ ra một lý thuyết tổng quát về phương trình bậc ba và là người đầu tiên sử dụng hình học để giải mọi loại phương trình bậc ba, miễn là đề cập đến nghiệm dương. Chuyên luận về đại số có chứa công trình của ông về phương trình bậc ba. Nó được chia làm ba phần: (i) các phương trình có thể giải bằng compa và thước thẳng, (ii) các phương trình có thể giải bằng đường cung cônic, và (iii) các phương trình liên quan đến nghịch đảo của ẩn số.
Khayyam đã đưa ra một danh sách đầy đủ tất cả các phương trình khả hữu liên quan đến đường thẳng, hình vuông và hình lập phương. Ông xem xét ba phương trình nhị thức, chín phương trình tam thức và bảy phương trình tứ thức. Đối với các đa thức bậc nhất và bậc hai, ông đưa ra nghiệm số bằng cách xây dựng hình học. Ông kết luận rằng, có mười bốn loại hình khối khác nhau mà không thể rút gọn được thành một phương trình có bậc thấp hơn. Đối với những loại này, ông đã không thể hoàn thành việc xây dựng đoạn thẳng ẩn số của mình bằng compa và thước thẳng. Ông đã tiến hành trình bày các đáp án hình học cho tất cả các loại phương trình bậc ba bằng cách sử dụng các tính chất của các đường cung cônic. Các bổ đề tiên quyết cho chứng minh hình học của Khayyam bao gồm Euclid VI, Mệnh đề 13, và Apollonius II, Mệnh đề 12. Nghiệm dương của một phương trình khối bậc ba được xác định là trục hoành của giao điểm của hai hình nón conic, ví dụ như, giao điểm của hai parabol, hoặc giao điểm của một parabol và một đường tròn, v.v. Tuy nhiên, ông thừa nhận rằng vấn đề số học của các hình khối này vẫn chưa được giải quyết, đồng thời bổ sung rằng, "có khả năng ai đó khác sẽ khám phá ra nó sau chúng ta". Nhiệm vụ này vẫn còn bỏ ngỏ cho tới thế kỷ 16, khi mà nghiệm đại số của phương trình khối bậc ba được Cardano, Del Ferro và Tartaglia tìm ra theo dạng tổng quát của nó vào thời Phục hưng Ý.
Trên thực tế, công trình của Khayyam là một nỗ lực nhằm thống nhất đại số và hình học. Cách giải bằng hình học cụ thể này của phương trình khối bậc ba đã được M. Hachtroudi nghiên cứu sâu hơn và mở rộng để giải các phương trình bậc bốn. Mặc dù các phương pháp tương tự đã xuất hiện lẻ tẻ kể từ thời Menaechmus, và được phát triển thêm bởi nhà toán học thế kỷ thứ 10 Abu al-Jud, công trình của Khayyam có thể được xem là nghiên cứu có hệ thống đầu tiên và phương pháp chính xác đầu tiên để giải các phương trình khối bậc ba. Nhà toán học Woepcke (1851), người đã phiên dịch đại số của Khayyam sang tiếng Pháp đã ca ngợi ông cho "năng lực khái quát hóa và quy trình hệ thống chặt chẽ của ông."
Định lý nhị thức và khai thác nghiệm
{{Quote box|quote=Từ những người Ấn Độ, người ta có các phương pháp để lấy căn bậc hai và căn bậc ba, các phương pháp ấy dựa trên hiểu biết về các trường hợp riêng lẻcụ thể là hiểu biết về các bình phương trong số chín chữ số 12, 22, 32 (v.v.) và các tích tương ứng của chúng, ví dụ 2 x 3 v.v.. Chúng ta đã viết một chuyên luận về bằng chứng cho tính hợp lệ của các phương pháp ấy và rằng chúng thực sự đáp ứng các điều kiện. Thêm vào đó, chúng ta đã gia tăng các kiểu loại của chúng, cụ thể là việc xác định các căn bậc bốn, năm, sáu, hay bất kỳ bậc mong muốn nào. Chưa có ai vượt qua được chúng ta về điều này và những chứng minh đó hoàn toàn là số học, dựa trên số học của cuốn "Các nguyên tố" của Euclid.|source = —Omar Khayyam, Chuyên luận về Trình bày Các vấn đề của Đại số"| width = 35%}}
Trong chuyên luận đại số của mình, Khayyam ám chỉ đến một cuốn sách mà ông đã viết về việc khai thác căn bậc của các số bằng cách sử dụng một định lý mà ông đã khám phá ra mà không phụ thuộc vào các hình hoạ hình học. Cuốn sách này rất có thể có tựa đề là Những khó khăn của số học (), và không còn được lưu giữ nữa. Dựa trên ngữ cảnh, một số nhà sử học toán học như D. J. Struik, tin rằng Omar hẳn đã biết công thức khai triển nhị thức , trong đó là một số nguyên dương. Trường hợp của lũy thừa 2 được phát biểu rõ ràng trong cuốn "Các nguyên tố" của Euclid và trường hợp lớn nhất là lũy thừa 3 đã được các nhà toán học Ấn Độ khám phá thiết lập. Khayyam là nhà toán học nhận ra được tầm quan trọng của định lý nhị thức tổng quát. Lập luận ủng hộ cho khẳng định rằng Khayyam đã có một định lý nhị thức tổng quát dựa trên khả năng khai thác các nghiệm của ông. Một trong những người tiền nhiệm của Khayyam, Al-Karaji, đã khám phá ra quy luật sắp xếp theo hình tam giác của các hệ số của khai triển nhị thức mà người châu Âu sau này biết tới qua tên gọi tam giác Pascal; Khayyam đã phổ biến sắp xếp tam giác này ở Iran, do vậy ngày nay nó được gọi là tam giác Omar Khayyam.
Thiên văn học
Vào tháng 5, năm 1074, Omar Khayyam được quốc vương Sultan Malik-Shah ủy nhiệm xây dựng một đài quan sát tại Isfahan và cải cách bộ lịch Ba Tư. Có một nhóm gồm tám học giả làm việc dưới sự chỉ đạo của Khayyam để thực hiện các quan sát thiên văn quy mô lớn và sửa đổi lại các bảng thiên văn. Việc hiệu chỉnh lại bộ lịch đã ấn định ngày đầu tiên của năm vào đúng thời điểm tâm của Mặt trời đi qua điểm xuân phân. Điều này đánh dấu sự bắt đầu của mùa xuân hoặc Nowrūz (tết Ba Tư), ngày mà Mặt trời đi vào phân độ đầu tiên của Bạch Dương (Aries) trước buổi trưa. Thành quả bộ lịch được đặt tên để vinh danh Malik-Shah ấy là bộ lịch Jalālī, và được khánh thành vào ngày 15 tháng 3 năm 1079. Bản thân đài quan sát đã không được dùng đến nữa sau cái chết của Malik-Shah vào năm 1092.
Bộ lịch Jalālī đích thực là một bộ lịch mặt trời, trong đó thời lượng của mỗi tháng bằng với khoảng thời gian Mặt trời đi qua cung Hoàng đạo tương ứng. Việc cải cách bộ lịch đã cho ra một chu kỳ xen kẽ 33 năm đặc trưng. Như được chỉ ra từ các công trình của Khazini, nhóm của Khayyam đã triển khai một hệ thống xen kẽ dựa trên các năm nhuận 4 năm và năm nhuận 5 năm một lần. Do đó, bộ lịch bao gồm 25 năm bình thường bao gồm 365 ngày và 8 năm nhuận bao gồm 366 ngày. Bộ lịch vẫn được sử dụng trên khắp Đại Iran từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 20. Năm 1911, lịch Jalālī trở thành bộ lịch quốc gia chính thức của Qajar Iran. Năm 1925, nó được đơn giản hóa và tên của các tháng được hiện đại hóa, trở thành bộ lịch Iran hiện đại. Lịch Jalālī chính xác hơn lịch dương Gregorian của năm 1582, với sai số của một ngày được tích lũy trong hơn 5000 năm, so với một ngày sau mỗi 3330 năm trong lịch Gregorian. Moritz Cantor cho rằng nó là bộ lịch hoàn hảo nhất từng được nghĩ ra.
Một trong những học trò của ông, Nizami Aruzi của Samarcand, thuật lại rằng, Khayyam rõ ràng không có niềm tin vào chiêm tinh học và bói toán: "Tôi không quan sát thấy ông ấy (tất nhiên là Omar Khayyam) có bất kỳ niềm tin lớn nào vào các dự đoán chiêm tinh, tôi cũng chưa từng thấy hay nghe nói về bất kỳ [nhà khoa học] vĩ đại nào có niềm tin như vậy." Khi làm việc cho quốc vương Sultan Sanjar dưới tư cách là một nhà chiêm tinh, ông được yêu cầu dự đoán thời tiết – một công việc mà ông rõ ràng là đã làm không tốt. George Saliba (2002) giải thích rằng thuật ngữ , được sử dụng trong nhiều nguồn tư liệu khác nhau mà trong đó có thể tìm thấy các tài liệu tham khảo về cuộc đời và công việc của Omar, đôi khi bị dịch không chính xác sang nghĩa chiêm tinh học. Ông nói thêm: “ít nhất là từ giữa thế kỷ thứ mười, theo cách liệt kê các ngành khoa học của Farabi, thì ngành khoa học này, , đã được phân chia ra làm hai phần rồi, một phần nghiên cứu về chiêm tinh học và phần còn lại nghiên cứu về lý thuyết toán thiên văn học."
Trong một số tác phẩm đã bị mất của Khayyam, có một bản đồ các vì sao mà ông vẽ năm 1079.
Những công trình khác
Khayyam có một chuyên luận ngắn về nguyên lý của Archimedes (Tựa đề đầy đủ Về sự Lừa dối khi Tìm hiểu Lượng Vàng và Bạc trong một Hợp kim được Cấu thành từ cả Hai). Đối với một hợp kim của vàng được pha trộn với bạc, ông mô tả một phương pháp để đo một cách chính xác hơn trọng lượng trên mỗi dung tích của mỗi nguyên tố. Nó bao gồm việc cân đo hợp kim cả trong không khí lẫn trong nước, vì trọng lượng dễ đo được chính xác hơn là đo thể tích. Bằng cách lặp lại tương tự với đồng thời cả vàng cả bạc, người ta biết được chính xác rằng vàng, bạc và hợp kim nặng hơn bao nhiêu so với nước. Chuyên luận này đã được kiểm tra chuyên sâu bởi Eilhard Wiedemann, ông tin rằng giải pháp của Khayyam chính xác và tinh vi phức tạp hơn so với của Khazini và Al-Nayrizi, những người cũng giải quyết vấn đề này từ vị trí khác.
Một chuyên luận ngắn khác liên quan đến lý thuyết âm nhạc, theo đó ông thảo luận về mối liên hệ giữa âm nhạc và số học. Đóng góp của Khayyam đó là cung cấp sự phân loại có hệ thống các thang âm nhạc, và thảo luận về mối quan hệ toán học giữa các nốt, nốt thứ, nốt trưởng và tứ âm.
Văn chương thơ ca
Có khoảng 450 bài thơ tứ tuyệt rubaiyat (thơ 4 câu) được cho là của ông, mang nặng triết lý về rượu và tình yêu. Việc ám chỉ sớm nhất về thơ của Omar Khayyam là từ nhà sử học Imad ad-Din al-Isfahani, một người trẻ tuổi đương thời với Khayyam, người đã xác định rõ rằng, ông vừa là nhà thơ vừa là nhà khoa học (, 1174). Một trong những mẫu vật sớm nhất của văn phẩm Rubiyat của Omar Khayyam là từ học giả Fakhr al-Din Razi. Trong tác phẩm (khoảng năm 1160) của mình, Razi trích dẫn một trong những bài thơ của Khayyam (tương ứng với khổ tứ tuyệt LXII trong ấn bản đầu tiên của Fitzgerald). Daya trong các thư tích của mình (, khoảng năm 1230) có trích dẫn hai bài tứ tuyệt, một trong số đó giống với bài đã được ghi nhận bởi Razi. Một bài tứ tuyệt bổ sung được trích dẫn bởi nhà sử học Juvayni ( ,khoảng năm 1226–1283). Năm 1340, Jajarmi đưa mười ba bài tứ tuyệt của Khayyam vào công trình của mình, bao gồm một tuyển tập các tác phẩm của những nhà thơ Ba Tư nổi tiếng (), hai trong số đó cho đến nay đã được biết đến là từ các nguồn tài liệu cũ hơn. Một bản thảo tương đối muộn là bản thảo của thư viện Bodleian, MS. Ouseley 140, viết tại Shiraz vào năm 1460, bao gồm 158 bài tứ tuyệt viết trên 47 tán lá. Bản thảo thuộc về William Ouseley (1767–1842) và được Thư viện Bodleian mua lại vào năm 1844.
Thỉnh thoảng có những đoạn trích dẫn những câu thơ được cho là của Omar trong các văn bản được cho là của các tác giả thế kỷ 13 và 14, nhưng những câu này có tính xác thực đáng nghi ngờ, vì vậy các học giả hoài nghi chỉ ra rằng toàn bộ truyền thống có thể là bút ký giả. Hans Heinrich Schaeder năm 1934 nhận xét rằng, tên của Omar Khayyam "sẽ bị gạch ra khỏi lịch sử văn học Ba Tư" do thiếu bất kỳ những tư liệu nào mà có thể tự tin gán cho ông. De Blois (2004) trình bày một thư mục về truyền thống viết tay bản thảo, kết luận một cách bi quan rằng tình hình vẫn không thay đổi đáng kể kể từ thời của Schaeder.
Năm trong số các bài tứ tuyệt mà sau này được cho là của Omar được tìm thấy sớm nhất là 30 năm sau khi ông qua đời, được trích dẫn trong "Sindbad-Nameh". Mặc dù điều này chứng tỏ rằng những câu thơ cụ thể này đã được lưu hành vào thời của Omar hoặc sau đó không lâu, nhưng điều đó không có nghĩa là những câu thơ đó phải là của ông. De Blois kết luận rằng, ít nhất quá trình gán thơ cho Omar Khayyam dường như đã bắt đầu từ thế kỷ 13. Edward Granville Browne (1906) ghi nhận sự khó khăn trong việc tách bạch câu thơ chân thực và câu thơ giả mạo: "Mặc dù chắc chắn là Khayyam đã viết nhiều bài thơ tứ tuyệt, nhưng gần như là không thể, ngoại trừ một số trường hợp ngoại lệ, khẳng định một cách chắc chắn rằng ông đã viết bất kỳ bài thơ nào mà đã được gán cho ông".
Ngoài những bài thơ tứ tuyệt Ba Tư, còn có 25 bài thơ Ả Rập được cho là của Khayyam. Chúng đã được chứng thực bởi các nhà sử học như al-Isfahani, Shahrazuri (, khoảng năm 1201–1211), Qifti (, 1255 ), và Hamdallah Mustawfi (, 1339).
Boyle và Frye (1975) nhấn mạnh rằng, có một số học giả Ba Tư khác thỉnh thoảng viết thơ tứ tuyệt, bao gồm Avicenna, Ghazzali và Tusi. Họ kết luận, cũng có thể là đối với Khayyam, thơ ca là một thú tiêu khiển trong những giờ rỗi rãi của ông: "những bài thơ ngắn này dường như thường là thành quả của các học giả và nhà khoa học, những người đã sáng tác chúng, có nhẽ là trong những giây phút thư giãn để khai sáng hoặc giải trí trong giới nội bộ các đệ tử của họ".
Thơ ca được cho là của Omar Khayyam đã góp phần rất lớn vào danh tiếng vang dội của ông trong thời kỳ hiện đại. Nguyên nhân trực tiếp là sự nổi tiếng nức danh của bản dịch những câu thơ ấy sang tiếng Anh bởi Edward FitzGerald (1859). "Rubaiyat của Omar Khayyam" bởi Fitzgerald chứa các bản dịch lỏng lẻo của các bài tứ tuyệt quatrain từ bản thảo Bodleian. Nó đạt được thành công trong thời kỳ fin de siècle đến nỗi một thư mục được biên soạn vào năm 1929 đã liệt kê hơn 300 ấn bản riêng biệt, và còn nhiều ấn bản khác đã được xuất bản từ khi đó.
Triết học
Khayyam tự xem mình là học trò của Avicenna. Theo Al-Bayhaqi, ông đã đọc siêu hình học trong "Sách chữa lành" của Avicenna trước khi qua đời. Có sáu bài viết triết học được cho là của Khayyam viết. Một trong số đó, Về sự tồn tại (), nguyên bản được viết bằng tiếng Ba Tư, đề cập đến chủ đề sự tồn tại và mối quan hệ của nó với các toàn thể. Một bài viết khác, có tiêu đề Sự cần thiết của mâu thuẫn trong thế giới, thuyết tất định và sự tồn sinh (), được viết bằng tiếng Ả Rập và đề cập đến ý chí tự do (free will) và thuyết tất định. Tựa đề các tác phẩm khác của ông là Về sự hiện hữu và tất yếu cần thiết (), Chuyên luận về Sự siêu việt trong Tồn tại (), Về kiến thức của các nguyên tắc tồn tại phổ quát (), và Sự rút gọn liên quan đến các hiện tượng tự nhiên ().
Chính Khayyam đã từng nói:
Các quan điểm tôn giáo
Việc đọc các bài tứ tuyệt của Khayyam theo nghĩa đen dẫn đến việc giải thích thái độ triết học của ông đối với cuộc sống như một sự kết hợp của chủ nghĩa bi quan, chủ nghĩa hư vô, chủ nghĩa sử thi Epicurus, thuyết định mệnh và thuyết bất khả tri. Quan điểm này được tiếp nhận bởi các nhà Iran học như Arthur Christensen, H. Schaeder, Richard N. Frye, E. D. Ross, E. H. Whinfield và George Sarton. Ngược lại, các bài tứ tuyệt có thiên hướng Khayyam cũng được mô tả như là thơ Sufi thần bí. Bên cạnh những bài thơ tứ tuyệt Ba Tư của Khayyam, J. C. E. Bowen (1973) đề cập rằng, những bài thơ Ả Rập của Khayyam cũng "thể hiện quan điểm bi quan hoàn toàn phù hợp với vẻ ngoài của một nhà triết học duy lý trí sâu sắc mà Khayyam được biết đến trong lịch sử." Edward FitzGerald nhấn mạnh chủ nghĩa hoài nghi tôn giáo mà ông thấy ở Khayyam. Trong lời nói đầu của Rubáiyát, ông nhận rằng ông "bị những người Sufi căm ghét và khiếp sợ", và đã phủ nhận mọi sự giả bộ trước những câu chuyện ngụ ngôn thần thánh: "Rượu của anh thực sự là Nước ép từ Nho: Quán rượu của anh, nơi nó từng đã có: Saki của anh, Thịt và Máu đã đổ ra cho anh.”. Sadegh Hedayat là một trong những người ủng hộ đáng chú ý nhất của triết học Khayyam đó là chủ nghĩa hoài nghi bất khả tri, và theo như Jan Rypka (1934), ông thậm chí còn xem Khayyam là một người vô thần. Hedayat (1923) nói rằng, "trong khi Khayyam tin vào sự biến tính và chuyển đổi của cơ thể con người, ông ấy không tin vào một linh hồn riêng biệt; nếu chúng ta may mắn, các phần tử cơ thể của chúng ta sẽ có thể được sử dụng để làm ra một bình rượu vang.". Thơ ca của Omar Khayyam đã được trích dẫn trong bối cảnh của Chủ nghĩa Vô thần Mới, chẳng hạn như trong "The Portable Atheist" của Christopher Hitchens.
Al-Qifti (khoảng năm 1172–1248) dường như xác nhận quan điểm này về triết học của Omar. Trong tác phẩm Lịch sử của những Người Uyên bác của mình, ông ghi nhận rằng các bài thơ của Omar chỉ theo phong cách Sufi về bề ngoài mà thôi, nhưng được viết với một tư tưởng chống tôn giáo. Ông cũng đề cập rằng, Khayyam đã có lúc bị truy tố vì tội bất kính, nhưng đã đi hành hương để chứng tỏ mình là người ngoan đạo. Bản ghi nhận cho biết, khi trở về thành phố quê nhà, ông che giấu niềm tin sâu sắc nhất của mình và thực hành một cuộc sống tôn giáo nghiêm ngặt, sáng tối đến nơi thờ phượng.
Khayyam nói về kinh Koran (đoạn trích 84):
Một bản tường thuật về ông, được viết vào thế kỷ thứ 13, cho thấy ông là người "thông thạo tất cả sự khôn ngoan của người Hy Lạp", và thường nhấn mạnh vào sự cần thiết của việc nghiên cứu khoa học theo đường lối Hy Lạp. Trong số các tác phẩm văn xuôi của ông, có hai tác phẩm đứng vững trước nhà cầm quyền, lần lượt đề cập đến đá quý và khí hậu học. Không còn nghi ngờ gì nữa, nhà thơ kiêm nhà thiên văn là người không hề sùng đạo; và thiên văn học của ông chắc chắn đã giúp ông trở thành như vậy. Một người đương thời viết rằng: "Tôi không quan sát thấy ông ấy có bất kỳ niềm tin lớn nào vào các dự đoán chiêm tinh; tôi cũng chưa từng thấy hay nghe nói về bất kỳ (nhà khoa học) vĩ đại nào sở hữu niềm tin như vậy. Ông dành sự tuân thủ của mình cho trường phái không tôn giáo nào cả. Thuyết bất khả tri, mà không phải đức tin, là từ khoá trong các tác phẩm của ông. Trong số các giáo phái, ông thấy đầy rẫy khắp nơi những xung đột và hận thù mà ông không thể nhập cuộc...."
Tiểu thuyết gia Ba Tư Sadegh Hedayat kể rằng, Khayyám từ "khi còn trẻ cho đến khi qua đời vẫn là một người theo chủ nghĩa duy vật, bi quan, bất khả tri. Khayyam nhìn nhận mọi câu hỏi về tôn giáo bằng con mắt hoài nghi", Hedayat tiếp tục, "và ghét bỏ chủ nghĩa cuồng tín, hẹp hòi, và tinh thần báo thù của các giáo sĩ mulla, những người được gọi là các học giả tôn giáo."
Trong bối cảnh của một văn phẩm có tựa đề Về kiến thức của các Nguyên lý Tồn tại, Khayyam tán thành đường lối thần bí Sufi. Csillik (1960) gợi ý đến khả năng rằng, Omar Khayyam có thể nhìn thấy ở trường phái thần bí Sufism một đồng minh chống lại tôn giáo chính thống. Các nhà bình luận khác không chấp nhận được rằng thơ ca của Omar có tư tưởng chống tôn giáo và diễn giải những đề cập của ông đến rượu và say theo nghĩa ẩn dụ thông thường phổ biến trong trường phái thần bí Sufism. Dịch giả tiếng Pháp J. B. Nicolas cho rằng không nên hiểu việc Omar thường xuyên khuyến khích uống rượu theo nghĩa đen, mà hơn là nên được xem xét dưới ánh sáng của tư tưởng Sufi, theo đó cơn say cuồng nhiệt của "rượu" được hiểu như một phép ẩn dụ cho trạng thái giác ngộ hoặc sự sung sướng hân hoan thần thánh của "baqaa". Quan điểm xem Omar Khayyam như là một Sufi được bảo vệ bởi Bjerregaard (1915), Idries Shah (1999), và Dougan (1991), những người cho rằng danh tiếng của chủ nghĩa khoái lạc là do những thất bại trong bản dịch của Fitzgerald, cho rằng thơ của Omar nên được hiểu như một điều "bí truyền sâu sắc". Mặt khác, các chuyên gia Iran như Mohammad Ali Foroughi và Mojtaba Minovi bác bỏ giả thuyết rằng Omar Khayyam từng là một Sufi. Foroughi tuyên bố rằng, những ý tưởng của Khayyam có nhẽ là có thể nhất quán với tư tưởng của những người Sufi đương thời nhưng không có bằng chứng rằng ông chính thức là một Sufi. Aminrazavi (2007) tuyên bố rằng, "Diễn giải Sufi đối với Khayyam chỉ có thể khả thi nếu như đọc kỹ và sâu Rubāʿīyyāt của ông và chèo kéo bóp méo nội dung cho phù hợp với học thuyết Sufi cổ điển.". Hơn nữa, Frye (1975) nhấn mạnh rằng, Khayyam bị bất mãn cực kỳ bởi một số nhà thần bí Sufi nổi tiếng cùng thế kỷ. Bao gồm cả Shams Tabrizi (người hướng đạo tinh thần của Rumi), Najm al-Din Daya, người đã mô tả Omar Khayyam là "một triết gia, người vô thần, và người theo chủ nghĩa duy vật bất hạnh", và Attar, người đã không coi ông như một đồng đạo thần bí mà là một nhà khoa học có tư tưởng tự do, người đang chờ đợi sự trừng phạt sau này.
Seyyed Hossein Nasr lập luận rằng, việc sử dụng cách diễn giải theo nghĩa đen các câu thơ của ông (nhiều câu trong số đó không chắc chắn về tính xác thực ngay từ đầu) là "đơn giản hóa" để thiết lập triết lý của Omar Khayyam. Thay vào đó, ông trích dẫn bản dịch diễn giải của Khayyam chuyên luận của Avicenna Diễn ngôn về sự thống nhất (), tại đó Khayyam bày tỏ các quan điểm chính thống về Sự thống nhất Thiêng liêng đồng tình với tác giả. Các tác phẩm văn xuôi được cho là của Omar được viết theo phong cách Peripatetic và rõ ràng là hữu thần, đề cập đến các chủ đề như là sự tồn tại của Chúa và thần học. Như Bowen đã lưu ý, những tác phẩm này cho thấy sự tham gia của Khayyam trong các vấn đề siêu hình học hơn là vào những điều tinh tế của Sufism. Như bằng chứng cho đức tin của Khayyam và/hoặc việc tuân thủ các phong tục Hồi giáo, Aminrazavi đề cập rằng, trong các chuyên luận của Khayyam, ông đưa ra những lời chào và lời cầu nguyện, ca ngợi Chúa và Muhammad. Trong hầu hết các trích đoạn tiểu sử, ông được nhắc đến bằng những kính ngữ tôn giáo như , Người bảo trợ của Đức tin (), và Bằng chứng của Sự thật (). Aminrazavi cũng lưu ý rằng, những người viết tiểu sử ca ngợi tính cách mộ đạo của Khayyam thường tránh đề cập đến thơ của ông, trong khi những người đề cập đến thơ ca Khayyam lại thường không ca ngợi tính cách tôn giáo của ông. Ví dụ, theo lời kể của Al-Bayhaqi, sớm hơn trước đó vài năm so với những ghi nhận tiểu sử khác, nói về Omar như một người rất ngoan đạo, người đã tuyên xưng quan điểm chính thống cho tới giờ phút cuối cùng của mình.
Trên cơ sở tất cả các chứng cứ văn bản và tiểu sử hiện có, câu hỏi vẫn còn phần nào bỏ ngỏ, và kết quả là Khayyam đã nhận về cả những ghi nhận và phê bình trái chiều gay gắt.
Sự tiếp nhận
Các trích đoạn tiểu sử khác nhau đề cập đến Omar Khayyam có mô tả ông là một người có kiến thức khoa học và thành tựu vô song trong thời đại của mình. Nhiều người gọi ông bằng danh hiệu Vua Thông Thái (). Shahrazuri (mất năm 1300) đánh giá cao ông với tư cách là một nhà toán học, và tuyên bố rằng ông có thể được xem là "người kế tục Avicenna trong các lĩnh vực triết học khác nhau". Al-Qifti (mất năm 1248), mặc dù không đồng thuận với các quan điểm của ông, vẫn thừa nhận rằng ông "có kiến thức vô song về triết học tự nhiên và thiên văn học". Mặc dù được một số nhà viết tiểu sử ca ngợi là một nhà thơ, nhưng theo như Richard N. Frye, "vẫn có thể tranh luận rằng, vị thế nhà thơ hạng nhất của Khayyam là một sự phát triển tương đối muộn."
Thomas Hyde là người châu Âu đầu tiên kêu gọi sự chú ý đến Omar và dịch một trong những bài thơ tứ tuyệt của ông sang tiếng Latinh (Historia religionis veterum Persarum eorumque magorum, 1700). Sự quan tâm của phương Tây đối với Ba Tư đã lớn dần cùng với phong trào Chủ nghĩa phương Đông Orientalism vào thế kỷ 19. Joseph von Hammer-Purgstall (1774–1856) đã dịch một số bài thơ của Khayyam sang tiếng Đức năm 1818, và Gore Ouseley (1770–1844) dịch sang tiếng Anh năm 1846, nhưng Khayyam vẫn còn tương đối ít được biết đến ở phương Tây cho tới sau khi cuốn sách Rubaiyat of Omar Khayyam của Edward FitzGerald được xuất bản vào năm 1859. Thành quả của Fitzgerald lúc đầu không thành công nhưng đã được phổ biến bởi Whitley Stokes từ năm 1861 trở đi, và tác phẩm đã được nhóm nghệ thuật Pre-Raphaelites vô cùng ngưỡng mộ. Năm 1872, Fitzgerald đã cho in ấn bản thứ ba, điều này làm gia tăng sự quan tâm đến tác phẩm tại Mỹ. Đến những năm 1880, cuốn sách cực kỳ nổi tiếng trên khắp cộng đồng nói tiếng Anh, tới mức hình thành nên nhiều quán rượu mang tên ông, các "Câu lạc bộ Omar Khayyam" và một "hội sùng bái fin de siècle dành cho Rubaiyat". Những bài thơ của Khayyam đã và đang còn được dịch ra nhiều thứ tiếng; nhiều trong số những bản dịch gần đây được dịch sát nghĩa hơn cả bản của Fitzgerald.
Bản dịch của Fitzgerald là một yếu tố khơi dậy nên sự quan tâm đến Khayyam với tư cách là một nhà thơ ngay cả tại quê hương Iran của ông. Sadegh Hedayat, trong Những bài ca Khayyam (Taranehha-ye Khayyam, 1934) của mình, đã giới thiệu lại di sản thơ ca của Omar cho Iran hiện đại. Dưới triều đại Pahlavi, một tượng đài mới làm từ đá cẩm thạch trắng do kiến trúc sư Houshang Seyhoun thiết kế đã được dựng lên trên lăng mộ của ông. Một bức tượng của Abolhassan Sadighi đã được dựng lên ở Công viên Laleh, Tehran vào những năm 1960, và một bức tượng bán thân của cùng nhà điêu khắc đặt gần lăng mộ Khayyam ở Nishapur. Năm 2009, nhà nước Iran đã quyên tặng một toà đài điêu khắc cho Văn phòng Liên hợp quốc tại Vienna, khánh thành tại Trung tâm Quốc tế Vienna. Năm 2016, ba bức tượng của Khayyam được khánh thành: một ở Trường đại học Oklahoma, một ở Nishapur và một ở Florence, Ý. Hơn 150 nhà soạn nhạc đã sử dụng Rubaiyat làm nguồn cảm hứng của họ. Nhà soạn nhạc đầu tiên như vậy là Liza Lehmann.
Fitzgerald chuyển tên của Omar thành "Người làm túp lều", và cái tên được Anh ngữ hoá "Omar, người làm túp lều (Omar the Tentmaker)" đã gây được tiếng vang trong văn hóa đại chúng nói tiếng Anh trong một thời gian. Do đó, Nathan Haskell Dole đã xuất bản một cuốn tiểu thuyết có tên Omar, người làm túp lều: Một chuyện tình Ba Tư Cũ (Omar, the Tentmaker: A Romance of Old Persia) vào năm 1898. Omar, người làm túp lều của Naishapur (Omar the Tentmaker of Naishapur) là một cuốn tiểu thuyết lịch sử của John Smith Clarke, xuất bản năm 1910. "Omar the Tentmaker" cũng là tựa đề của một vở kịch năm 1914 do Richard Walton Tully lấy bối cảnh phương Đông, được chuyển thể thành phim câm năm 1922. Tướng Hoa Kỳ Omar Bradley được đặt cho biệt danh "Omar the Tent-Maker" (Omar người làm túp lều) trong Thế chiến thứ hai.
Bài tứ tuyệt Ngón tay chuyển động (The Moving Finger)
Bài thơ tứ tuyệt của Omar Khayyam được biết đến với tên gọi "Ngón tay Chuyển động" (The Moving Finger), theo bản dịch của nó bởi nhà thơ người Anh Edward Fitzgerald là một trong những bài tứ tuyệt nổi tiếng nhất trong vùng ngôn ngữ tiếng Anh. Thơ rằng:
Tựa đề của cuốn tiểu thuyết "The Moving Finger" do Agatha Christie viết và xuất bản năm 1942 được lấy cảm hứng từ bài thơ tứ tuyệt này trong bản dịch "Rubaiyat của Omar Khayyam" của Edward Fitzgerald. Martin Luther King cũng trích dẫn bài tứ tuyệt này của Omar Khayyam trong một bài diễn văn của ông "Beyond Vietnam: A Time to Break Silence" (Bên kia Việt Nam: Thời điểm để Phá vỡ Im lặng):
Trong bài diễn văn thứ lỗi cho vụ scandal Clinton–Lewinsky, tổng thống thứ 42 của Hoa Kỳ Bill Clinton cũng trích dẫn bài tứ tuyệt này.
Trong văn hoá đại chúng
Nhà văn người Pháp gốc Li-băng Amin Maalouf đã dựa vào ông để viết nửa đầu cuốn tiểu thuyết hư cấu lịch sử 'Samarkand về cuộc đời của Khayyam và quá trình tạo ra Rubaiyat của ông. Nhà điêu khắc Eduardo Chillida đã tạo ra bốn tác phẩm bằng sắt khổng lồ mang tên Mesa de Omar Khayyam (Bàn của Omar Khayyam) vào những năm 1980.
Hố Mặt trăng Omar Khayyam được đặt tên để vinh danh ông vào năm 1970, cũng như tiểu hành tinh 3095 Omarkhayyam được nhà thiên văn Liên Xô Lyudmila Zhuravlyova phát hiện vào năm 1980.
Google đã phát hành hai Google Doodles để tưởng nhớ ông. Lần đầu tiên là vào sinh nhật lần thứ 964 của ông vào ngày 18 tháng 5 năm 2012. Lần thứ hai là vào sinh nhật lần thứ 971 của ông vào ngày 18 tháng 5 năm 2019.
Trưng bày
Xem thêm
Nozhat al-Majales
Carpe diem
Thơ Rubaiyat của Omar Khayyam
Thơ say - Omar Khayyam (dịch giả Thái Bá Tân)
Rubayat (tiếng Pháp)
Omar Khayyam — Thành tựu lâu dài của nhà thông thái đồng thời là nhà thơ người Ba Tư
Phim ảnh
Omar Khayyam (phim)
The Keeper: The Legend of Omar Khayyam
Các nhà-Khayyam-học đáng chú ý
Badiozzaman Forouzanfar
Abdolhossein Zarrinkoob
Ghi chú
Chú thích
Đọc thêm
Browne, E. (1899). "Yet More Light on 'Umar-i-Khayyām". Journal of the Royal Asiatic Society of Great Britain and Ireland, 409–420. .
Ross, E. (1927). "Omar Khayyam". Bulletin of the School of Oriental Studies, University of London, 4(3), 433–439. .
Rypka, Jan (1968). History of Iranian Literature. Reidel Publishing Company. .
Các liên kết ngoài
(PDF version)
Umar Khayyam, trong Stanford Encyclopedia of Philosophy
The illustrated Rubáiyát of Omar Khayyám tại Internet Archive.
sinh năm 1048
mất năm 1131
Nhà thơ Đế quốc Seljuk
Nhà thơ Iran
Nhà văn Iran
Nhà thơ thế kỷ 11
Nhà văn thế kỷ 11
Nhà thơ thế kỷ 12
Nhà văn thế kỷ 12
Nhà toán học Iran
Nhà toán học từ Nishapur
Nhà toán học thế kỷ 11
Nhà toán học thế kỷ 12
Nhà thiên văn Iran
Nhà thiên văn thế giới Hồi giáo trung cổ
Nhà thiên văn thế kỷ 11
Nhà thiên văn thế kỷ 12
Nhà vật lý Iran
Triết gia từ Nishapur
Triết gia Iran
Sinh năm 1048
Mất năm 1131
Đại số
Người Khorasan
Người Iran thế kỷ 11
Người Iran thế kỷ 12
Học giả Đế quốc Seljuk
Học giả Iran
Người Ba Tư
|
26441
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Anime
|
Anime
|
là thuật ngữ tiếng Nhật mô tả các loại hoạt hình vẽ tay và máy tính có nguồn gốc từ Nhật Bản hoặc có sự gắn kết mật thiết với Nhật Bản. Bên ngoài Nhật Bản, thuật ngữ này thường được sử dụng nhằm ám chỉ tính đặc trưng và riêng biệt của hoạt hình Nhật Bản hoặc như một phong cách hoạt hình phổ biến tại Nhật Bản thường được vẽ nên bởi đồ họa tràn đầy màu sắc, các nhân vật sống động và những chủ đề tuyệt vời. Hoạt hình sản xuất bên ngoài Nhật Bản với phong cách tương tự như anime được gọi là hoạt hình chịu sự ảnh hưởng của anime.
Hoạt hình Nhật Bản giao thương rất sớm từ năm 1917 và quá trình sản xuất các tác phẩm anime tại Nhật Bản kể từ đó vẫn tiếp tục tăng đều đặn. Phong cách nghệ thuật anime đặc trưng được nổi bật trong những năm 1960 với các tác phẩm của Tezuka Osamu trước khi nhanh chóng lan rộng ra quốc tế trong những năm ở cuối thế kỷ 20 và dần phát triển thành một lượng lớn khán giả người Nhật và quốc tế. Anime được phân phối tại các rạp chiếu phim, phát sóng qua hệ thống đài truyền hình, xem trực tiếp từ phương tiện truyền thông tại nhà và trên internet. Nó được phân loại thành nhiều thể loại hướng đến các mục đích đa dạng và những đối tượng khán giả thích hợp.
Anime là một phương tiện đa dạng kết hợp kết hợp phương pháp sản xuất đặc biệt thích ứng cùng công nghệ mới nổi. Nó là sự kết hợp giữa nghệ thuật đồ họa, phương thức mô tả nhân vật, kỹ thuật dựng phim, trí tưởng tượng và chủ nghĩa cá nhân. So với hoạt hình phương tây, sản xuất anime thường ít tập trung vào chuyển động mà thay vào đó là các kĩ thuật như dựng phim, lia máy hay chụp góc. Một số phong cách nghệ thuật khác như tỉ lệ nhân vật hay đặc điểm trong thể loại này đa dạng với đặc trưng những đôi mắt to và có hồn.
Năm 2015, ngành công nghiệp anime Nhật Bản có khoảng 662 xưởng phim hoạt hình trong đó có một số những cái tên nổi tiếng trong ngành như Kyoto Animation, Ghibi, Toei Animation hay A-1 Pictures. Mặc dù chỉ chiếm một thị phần nhỏ trong thị trường phim nội địa tại Nhật Bản nhưng lại đem đến một thị phần khá lớn doanh thu băng đĩa tại quốc gia này. Sự gia tăng trong văn hóa đại chúng quốc tế dẫn đến nhiều phim hoạt hình không phải của người Nhật sử dụng phong cách anime, những tác phẩm này thường được miêu tả như hoạt hình chịu ảnh hưởng từ anime hơn là anime đúng nghĩa. Tính đến năm 2016, anime chiếm 60% các phim hoạt hình truyền hình trên toàn thế giới.
Từ nguyên
Anime là một hình thái nghệ thuật, hoạt họa đặc trưng bao gồm các thể loại được xây dựng trong điện ảnh nhưng bản thân anime cũng thường bị phân loại nhầm lẫn như một thể loại. Trong tiếng Nhật, thuật ngữ anime được sử dụng như một thuật ngữ cây dù để đề cập đến tất cả các dạng phim hoạt hình trên thế giới. Nhưng trong tiếng Anh, anime (/ˈænəˌmeɪ/) được dùng trong phạm vi giới hạn hơn để chỉ "phim điện ảnh hoặc giải trí truyền hình theo phong cách Nhật Bản" hoặc như "một phong cách hoạt hình được sáng tạo tại Nhật Bản".
Từ nguyên học của từ "anime" đã gây ra nhiều tranh luận. Trong tiếng Nhật, thuật ngữ "animation" tiếng Anh được viết bằng chữ katakana dưới dạng アニメーション (animēshon, phát âm là [animeːɕoɴ]) và là アニメ(anime) trong cách viết ngắn gọn. Một vài nguồn tin nói rằng anime bắt nguồn từ thuật ngữ tiếng Pháp về hoạt họa là dessin animé, nhưng một số nguồn tin khác cho rằng thông tin đó là không xác thực bắt nguồn từ sự phổ biến truyền thông đại chúng tại Pháp trong cuối thập niên 1970 và thập niên 1980.
Trong tiếng Anh, khi anime được dùng như một danh từ chung thì chức năng của nó như một danh từ không đếm được. (Ví dụ "Do you watch anime? [Bạn đã xem anime chưa?]" hay "How much anime have you collected? [Bạn đã sưu tập được bao nhiêu anime?"). Trước khi thuật ngữ anime được sử dụng, Japanimation là thuật ngữ được dùng phổ biến trong khoảng thời gian từ thập niên 1970 cho đến thập niên 1980 trước khi được anime dần thay thế. Còn trong hiện tại, thuật ngữ này chỉ xuất hiện trong các tác phẩm đương đại hiện nay nhằm phân biệt các loại hoạt hình khác với hoạt hình Nhật Bản.
Từ "anime" cũng đã từng nhiều lần bình phẩm như vào năm 1987, khi Miyazaki Hayao, nhà đồng sáng lập xưởng phim hoạt hình Ghibi, phát biểu rằng ông xem thường từ bị cắt xén "anime" bởi vì với ông thì nó thể hiện sự hoang tàn của ngành công nghiệp này. Ông đã đặt ngang hàng sự hoang tàn đó với các họa sĩ diễn hoạt thiếu động lực và các sản phẩm thái quá chủ nghĩa biểu hiện được sản xuất hàng loạt, dựa vào một biểu tượng học cố định của biểu cảm khuôn mặt cùng những phân cảnh hành động bị kéo dài và phóng đại quá mức nhưng lại thiếu đi chiều sâu và sự tinh tế bên trong do họ không cố gắng truyền đạt cảm xúc hoặc suy nghĩ.
Giáo sư Marc Yamada định nghĩa hoạt hình là "một phương tiện truyền thông gồm những hình ảnh được xử lý để xuất hiện như những hình ảnh chuyển động" và liên tục được mở rộng với những tiến bộ công nghệ trong suốt 100 năm qua; ngược lại, anime là một phong cách hoạt hình đặc trưng, hoàn toàn bị ảnh hưởng bởi "tiếp thị và buôn bán nước ngoài, một sự thay đổi dựa vào người hâm mộ và những thành tựu công nghệ tại Nhật Bản". Còn với giáo sư Ian Condry, ông cho rằng sự thành công toàn cầu của anime là "sự phát triển từ năng lượng xã hội tập thể với hoạt động giao thoa giữa các ngành công nghiệp như điện ảnh, truyền hình, manga, đồ chơi và các buôn bán cấp phép khác, kết nối giữa những người hâm mộ với các nhà sáng tạo anime." Theo ông, chính những năng lượng xã hội tập thể này là linh hồn của anime.
Định dạng
Định dạng đầu tiên của anime là hình thức chiếu rạp mà khởi đầu trước tiên với các sản phẩm thương mại vào năm 1917. Các tập sách lật được hoạt họa ban đầu thô và được yêu cầu phối nhạc trước khi thêm phần âm thanh và giọng hát để sản xuất. Vào ngày 14 tháng 7 năm 1958, Nippon TV đã phát sóng Mogura no Abanchūru với phiên bản vừa là phim anime màu đầu tiên và truyền hình đầu tiên ra mắt. Mãi cho đến thập niên 1960 khi các loạt phim truyền hình dài tập đầu tiên được phát sóng và định dạng truyền hình là một phương tiện phổ biến kể từ đó. Các tác phẩm đã được phát hành trong một định dạng video trực tiếp với tên gọi "original video animation" (OVA) hoặc "original video animation" (OAV); và thường không phát hành tại rạp chiếu phim hoặc truyền hình trước khi phát hành trên các phương tiện tại gia. Sự xuất hiện của internet đã khiến một số họa sĩ diễn hoạt phân phối các tác phẩm trực tuyến trong một định dạng gọi là "original net anime" (ONA).
Phân phối băng đĩa tại gia trong việc phát hành anime đã được phổ biến rộng rãi vào thập niên 1980 với các định dạng VHS và đĩa lade. Định dạng video NTSC VHS được sử dụng tại Nhật Bản và Hoa Kỳ đã được công nhận, cũng như hỗ trợ sự gia tăng tính đại chúng của anime trong thập niên 1990. Các định dạng VHS và đĩa lade đã bị định dạng DVD vượt qua nhờ cung cấp nhiều ưu điểm độc đáo, bao gồm nhiều phụ đề tích hợp và nhiều kênh thoại lồng tiếng trên cùng một đĩa phim. Định dạng DVD cũng có những hạn chế trong sử dụng mã hóa vùng được ngành công nghiệp anime chấp nhận để giải quyết việc cấp phép, các vấn đề vi phạm bản quyền và xuất khẩu, cũng như giới hạn khu vực được chỉ định trên đầu đĩa DVD. Định dạng Video CD (VCD) rất phổ biến tại Hồng Kông và Đài Loan, nhưng chỉ là một định dạng ít phổ biến tại Hoa Kỳ được liên kết chặt chẽ với các bản sao lậu.
Lịch sử
Hoạt hình Nhật Bản bắt đầu hình thành vào những năm đầu của thế kỷ 20, khi các nhà làm phim Nhật Bản tiến hành thử nghiệm với các kỹ thuật hoạt hình đang được phát triển tiên phong tại Pháp, Đức, Hoa Kỳ và Nga. Một xác nhận cho rằng bộ phim hoạt hình Nhật Bản xuất hiện sớm nhất là Katsudō Shashin, một tác phẩm không công khai và chưa xác định được thời gian sản xuất do một tác giả vô danh thực hiện. Năm 1917, các tác phẩm chuyên nghiệp và được trình chiếu công khai bắt đầu xuất hiện. Nhiều họa sĩ diễn hoạt như Shimokawa Ōten và Kitayama Seitarō đã tạo ra nhiều tác phẩm; trong đó tác phẩm Namakura Gatana của Kōuchi Jun'ichi là bộ phim còn được lưu trữ lâu nhất, đó là một clip dài 2 phút mô tả một samurai đang thử một thanh kiếm mới mua vào các mục tiêu của anh ta nhưng phải chịu thất bại đau đớn. Đại thảm họa động đất Kantō 1923 dẫn đến sự tàn phá trên diện rộng các cơ sở hạ tầng tại Nhật Bản và nhà kho ở Shimokawa cũng đã bị phá hủy; do đó làm hủy hoại hầu hết các tác phẩm đầu tiên này.
Hoạt hình những năm 1930 đã được củng cố vững chắc tại Nhật Bản như một hình thức thay thế cho ngành công nghiệp phim người đóng. Nó đã chịu sự cạnh tranh từ các nhà sản xuất và những họa sĩ diễn hoạt nước ngoài; Ōfuji Noburō và Murata Yasuji vẫn tiếp tục làm hoạt hình cắt dán có giá thành rẻ hơn hoạt hình cel. Các tác giả khác như Masaoka Kenzō và Seo Mitsuyo đã tạo ra không ít những bước tiến lớn trong kỹ thuật hoạt hình, họ được hưởng lợi từ sự bảo trợ của chính phủ khi chính các họa sĩ diễn hoạt được thuê để sản xuất những bộ phim ngắn mang tính chất giáo dục và tuyên truyền. Anime phim nói đầu tiên là Chikara to Onna no Yo no Naka được sản xuất bởi Masaoka vào năm 1933. Năm 1940, các tổ chức của nhiều họa sĩ anime đã tăng lên, bao gồm Shin Mangaha Shudan và Shin Nippon Mangaka. Phim dài hoạt hình đầu tiên là Momotarō: Umi no Shinpei, được Seo đạo diễn vào năm 1944 cùng với sự tài trợ từ Hải quân Đế quốc Nhật Bản.
Sự thành công từ phim dài Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn (năm 1937) của Công ty Walt Disney đã ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều họa sĩ diễn hoạt Nhật Bản. Trong những năm 1960, họa sĩ manga kiêm họa sĩ diễn hoạt Tezuka Osamu đã mô phỏng lại và giản lược hóa nhiều kỹ thuật hoạt hình của Walt Disney nhằm giảm bớt chi phí và giới hạn số khung hình trong quá trình sản xuất. Tezuka Osamu đã chủ định điều đó như một biện pháp tạm thời cho phép ông sản xuất các bộ phim trên một lịch trình chặt chẽ cùng với đội ngũ hoạt họa còn thiếu kinh nghiệm. Bộ phim Three Tales phát sóng năm 1960, là anime đầu tiên được chiếu trên truyền hình. Loạt anime theo tiêu chuẩn phim truyền hình đầu tiên là Otogi Manga Calendar, phát sóng từ năm 1961 đến năm 1964.
Những năm 1970 cho thấy sự phát triển đột biến mang tính đại chúng của manga, truyện đồ họa, sách tranh Nhật Bản; nhiều trong số đó đã được hoạt họa hóa sau này. Tác phẩm của Tezuka Osamu đã thu hút được sự chú ý: ông đã được gọi là một "huyền thoại" và "Thần manga". Tác phẩm của Tezuka Osamu và những người tiên phong khác trong lĩnh vực này đã truyền cảm hứng cho anime những đặc trưng và các thể loại mà vẫn còn ảnh hưởng đến các quy tắc cơ bản của hoạt hình hiện tại. Thể loại robot khổng lồ (hay còn được gọi là "mecha" bên ngoài Nhật Bản) là một ví dụ: căn bản dựa trên hình dáng robot trong tác phẩm của Tezuka Osamu, rồi sau đó được Nagai Go cùng những tác giả khác phát triển thành thành thể loại "Siêu Robot"; tiếp tục được Tomino Yoshiyuki cách mạng hóa vào cuối thập kỷ khi phát triển thành thể loại "Robot thực". Anime robot như loạt phim Gundam và Chōjikū yōsai Macross đã lập tức trở thành kinh điển trong những năm 1980, và thể loại anime robot tiếp tục là một trong những thể loại phổ biến tại Nhật Bản và trên toàn thế giới hiện tại. Thập niên 1980, anime đã được đón nhận nhiều hơn trong thị hiếu đại chúng tại Nhật Bản (mặc dù ít hơn manga), và trải qua một thời kỳ phát triển bùng nổ trong việc sản xuất. Sau một vài phiên bản anime chuyển thể thành công tại thị trường nước ngoài trong những năm 1980, anime đã gia tăng được nhiều hơn sự đón nhận tại thị trường nước ngoài những năm 1990 và thậm chí còn nhiều hơn khi bước sang thế kỷ XXI. Năm 2002, bộ phim Sen và Chihiro ở thế giới thần bí của Studio Ghibli do Miyazaki Hayao đạo diễn giành được giải thưởng Gấu Vàng tại Liên hoan phim quốc tế Berlin; đồng thời cũng chiến thắng Giải Oscar cho phim hoạt hình hay nhất tại Giải Oscar lần thứ 75 năm 2003.
Tham chiếu văn hóa
Thần đạo, Phật giáo
Thần đạo là tôn giáo sắc tộc của Nhật Bản, được đặc trưng bởi một nhận thức thuyết vật linh về tự nhiên. Thần đạo là hình thức ứng xử hòa hợp với tự nhiên và linh hồn tổ tiên; các kami này chống lại những oni hung bạo. Do đó, vô số thần thoại và truyền thuyết được tạo lập từ truyền thống Thần đạo, bắt nguồn từ những truyền thuyết được ghi chép trong Cổ sự ký và Nhật Bản thư kỷ (các văn bản thế kỷ 8) nhằm giải thích nguồn gốc các linh hồn với nhiều hơn một gợi dẫn dành cho những câu chuyện được thuật lại ở Nhật Bản. Đặc biệt, một đặc điểm đặc trưng của Thần đạo là sự kết hợp các yếu tố kỳ ảo vượt qua ngưỡng nhận thức của con người với cuộc sống thường ngày, một đặc điểm dễ được nhận thấy trong nhiều tác phẩm hoạt hình Nhật Bản.
Phật giáo, đặc biệt là Thiền tông Nhật Bản thường đóng một vai trò trong cốt truyện. Không chỉ hiện diện thường xuyên trong các câu chuyện của một Tì-kheo diễn đạt biếm họa và nghiêm túc, truyền thống Thiền tông Nhật Bản còn đưa cách tiếp cận trực diện và ngữ dụng học đối với thực tế, ít thiên về xây dựng các hệ thống quan niệm yêu cầu giải thích dẫn đến tuyến nhân vật trong cốt truyện thiên về hành động, tâm hồn nhân vật tự tại và bộc lộ.
Võ sĩ đạo
Anime chứa đựng các yếu tố truyền thống, giai thoại, vị thế mà chắc chắn đạo đức võ thuật về cơ bản có thể truy nguyên từ các quy tắc ứng xử phức tạp được cấu thành trong "con đường chiến binh cao quý" võ sĩ đạo (Bushidō ). Cốt truyện trong anime đặc biệt có xu hướng hợp nhất các khía cạnh của bujutsu và budō để không chỉ thể hiện mức độ ngoạn mục của trận chiến mà còn đại diện cho võ đạo và kỹ nghệ võ thuật của nhân vật chính. Trong một số trường hợp, anh hùng trong anime cũng có thể được thần thánh hóa như trong thần thoại Hy Lạp. Tuy nhiên, do võ sĩ đạo được đặc trưng bởi sự hiện diện các quy tắc phẩm chất đạo đức (như công lý, ý thức bổn phận, trung thành, đồng cảm, danh dự, trung thực, can đảm) nên nền tảng văn hóa võ sĩ đạo không chỉ được thể hiện trong anime với tuyến nhân vật tập trung vào chiến đấu, xung đột hoặc bối cảnh phong kiến Nhật Bản mà còn hiện diện trong nhiều cốt truyện cuộc sống học đường và gia phong Nhật Bản đương đại. Sự huấn luyện nghiêm khắc shugyō ) bởi samurai hoặc budōka để hướng đến tự chủ và tự giác, nhằm biểu thị con đường và tiến hóa của các nhân vật chính trong anime, thường được gắn kết trong các nhiệm vụ gian khổ để kiểm chứng tiềm năng bên trong nhân vật khi cần phải vượt qua nỗi sợ hãi và điểm yếu của bản thân. Đôi khi, mục tiêu cuối cùng của con đường thông qua kiểm soát khí năng lượng bên trong nhằm đạt được một nhận thức về tính không của vạn vật, dẫn đến từ bỏ các tuyên bố bản ngã và đánh giá cao sự phù du của vật chất hữu hình, thậm chí không còn sợ hãi cái chết. Tuy nhiên, việc tìm kiếm và định nghĩa về bản sắc người anh hùng chính là nguyên nhân dẫn đến sự từ bỏ này, trái ngược với yêu cầu tiêu chuẩn hóa của xã hội Nhật Bản.
Senpai – Kōhai
Con đường hướng đến budōka không thể bắt đầu mà không có một chỉ dẫn, có thể từ một người cha hoặc một người thầy (sensei) để dẫn dắt hướng hành vi của một người. Mối quan hệ này trong xã hội Nhật Bản thường được đại diện qua senpai–kōhai , khi người thứ nhất là 'người bắt đầu trước' và người thứ hai là 'người bắt đầu sau'; khác với quan hệ dōryō. Mối quan hệ này hàm ý sự kính trọng và thành tâm của kōhai đối với senpai, senpai phải khuyên răn và chỉ dẫn cuộc sống cho kōhai; điều này có thể được nhận diện trong từng bối cảnh xã hội, từ trường học đến nơi làm việc, từ thể thao đến chính trị và chắc chắn cũng được phản chiếu trong anime khi senpai–kōhai thường được xây dựng như mối quan hệ chính giữa các nhân vật.
Vòng lặp, ý thức bổn phận
Theo quan niệm sống của người Nhật, sức mạnh nội tại thực sự nằm ở việc không mưu cầu hạnh phúc cho bản nhân mà một lòng tìm về một lý tưởng và hoàn thành nghĩa vụ, thông qua đó họ đi tìm một con đường trong tâm thức (ikigai ). Tham chiếu đến bổn phận trả món nợ mà có thể chống lại Thiên hoàng, cha mẹ, tổ tiên và thậm chí chống lại chính bản thân; nhưng trong cốt truyện của nhiều anime đưa đến việc chống lại toàn thế giới với nhân vật chính vượt qua cảm xúc cá nhân và sự cô lập nhằm ngụ ý những di sản đa dạng thường thấy, gánh vác trách nhiệm cứu tinh cho đến tự hy sinh cực đoan (gaman ) được truyền cảm hứng từ lịch sử quân sự Nhật Bản. Tuy nhiên, trong một quan niệm hoàn toàn thế tục, đạo đức trong thế giới quan người Nhật thì vạn vật được coi là vô ngã và vô thường (wabi-sabi ). Nhiều ví dụ trong anime về một thiết lập văn hóa như vậy, được nhận diện trong nền tảng của các loạt phim mecha (robot khổng lồ) vào thập niên 1970 và thập niên 1980 với những sắc thái khác nhau. Không chỉ vậy, một phái sinh rõ ràng như Saint Seiya cũng đã đề cập đến nhiều quan niệm văn hóa bên trong.
Nhân loại, tự nhiên và công nghệ
Xã hội Nhật Bản thời hậu chiến với nền kinh tế phát triển thịnh vượng đặt trong bối cảnh yên bình nhưng buồn chán ('ngày dài vô tận' xuất hiện phổ biến, wari-naki nichijō, endless everyday) mà không thể được thay đổi bằng những ý tưởng cách mạng như đã từng diễn ra trong các phong trào sinh viên và xã hội Nhật Bản thập niên 1960. Động đất và sóng thần Tōhoku 2011 khiến nhiều người Nhật tranh luận rằng 'tính đều đặn' (nichijō-sei, everydayness) đã thay đổi hoặc kết thúc, dẫn đến một sự đổ bóng lên các phê phán về hoạt hình Nhật Bản khi tranh luận rằng anime chủ đề 'tính đều đặn' sẽ đánh mất đam mê của họ. Vài ngày sau Động đất và sóng thần Tōhoku 2011, một số anime truyền hình (như Tōkyō Magunichūdo 8,0 hay Oniichan no Koto Nanka Zenzen Suki Janain Dakara ne—!!) có chủ đề gợi nhắc đến sóng thần, thảm họa, sự cố hạt nhân đã bị cắt một số tập hoặc bị thay lịch chiếu vào tháng 11 năm 2011. Truyền thống Thần đạo đã được phản chiếu trong anime qua việc tranh luận phức tạp mối quan hệ giữa tự nhiên và công nghệ, một vấn đề quan trọng tồn tại từ lâu trong xã hội Nhật Bản (cũng như trên toàn thế giới). Bộ phim Momotarō: Umi no Shinpei thể hiện mối quan hệ giữa tự nhiên (đại diện bởi các động vật trên một hòn đảo) và công nghệ (một hình thức tuyên truyền trong chiến tranh thế giới thứ hai) phát triển vượt bậc như một phần của giai đoạn hậu chiến. Trong thể loại khoa học viễn tưởng như mecha (robot khổng lồ) có thể giải thích hướng công nghệ phát triển thay vì ý nghĩa tích cực (đảm bảo hạnh phúc, giải trừ thảm họa) lại bắt đầu trở thành nguồn gốc của sự tàn phá và hủy diệt, nghịch lý mâu thuẫn này như một góc nhìn bao quát và phủ nhận cùng một lúc khi thiệt hại được phục hồi bằng công nghệ tương tự. Công nghệ với giá trị cứu rỗi (các tác phẩm của Nagai Go) hoặc thể hiện sự tàn phá trong các tác phẩm của Miyazaki Hayao và Yoshida Tatsuo. Một khái niệm khác là cyberpunk với bộ phim Akira được coi là tiên phong. Trong Ghost in the Shell và Serial Experiments Lain, khái niệm nhân loại được tích hợp sinh học với công nghệ, nhân tính ít quan trọng hơn và thường đi kèm với chủ nghĩa hiện sinh. Nói cách khác, mối quan hệ công nghệ-con người thông qua các anime chứa đựng và diễn giải lại theo một chuyển vị hiện đại, cuối cùng tạo nên sự kết hợp không thể tách rời giữa cái cũ và cái mới.
Xã hội Nhật Bản
Nhiều anime có tuyến nhân vật thanh thiếu niên được nêu bật hoặc ít nhất ám chỉ vai trò ngày càng tăng của công nghệ trong khuyến khích mất kết nối với phần còn lại của xã hội hoặc tạo điều kiện cho tự sát tập thể, thể hiện sự chán nản và những lo lắng tương lai của giới trẻ Nhật Bản đương đại (Serial Experiments Lain, Chào mừng đến với N.H.K!). Sự thể hiện quá mức nhân khẩu học giới trẻ trong các tác phẩm liên quan đến tự sát mâu thuẫn với hoàn cảnh thực tế tại Nhật Bản khi nhân khẩu học trung niên và cao niên thường có xu hướng tự sát lớn hơn; nguyên nhân một phần do giới trẻ chiếm đa số thị phần khán thính giả mục tiêu hoặc giới trẻ sẵn sàng khám phá chủ đề cấm kỵ tự sát hơn các nhóm nhân khẩu học khác (Colorful, Haibane Renmei, Sayonara Zetsubō Sensei). Hiện tượng hikikomori thường được sử dụng như bối cảnh phụ (Shin Seiki Evangelion) hoặc điểm khởi đầu để phát triển (Higashi no Eden), đôi khi hikikomori đóng vai trò trong tuyến nhân vật chính và trở thành phần lớn cốt truyện (Chào mừng đến với N.H.K!); nội dung anime gắn với hikikomori thường bắt nguồn từ chấn thương quá khứ (bắt nạt, áp lực xã hội) hoặc từ chối trường học, từ chối xã hội. Nhân vật hikikomori trong anime hiếm khi rời khỏi nhà, tương tác kết nối gia đình ít, paranoia, bỏ học, tư thế xấu, tái hòa nhập xã hội. Xã hội thời kỳ Minh Trị bước đầu giải phóng phụ nữ Nhật Bản với việc thành lập trường học dành cho thiếu nữ, ham muốn của nam giới xen lẫn sự lo lắng về giải phóng phụ nữ được thể hiện thông qua thập niên 1920. Anime thường xây dựng hình mẫu người phụ nữ Nhật Bản truyền thống và dần mở rộng với hình tượng chủ nghĩa nữ quyền. Người Nhật chưa bao giờ chính thức thừa nhận thất bại của hải quân Đế quốc Nhật Bản và tiếp tục suy diễn về những chiến thắng tưởng tượng trong suốt chiến tranh thế giới thứ hai, anh hùng anime hoàn toàn kiểm soát vận mệnh của họ và đạt được chiến thắng hoàn toàn bất chấp sự sụp đổ xung quanh (Laputa: Lâu đài trên không, Nàng công chúa ở Thung lũng gió). Vụ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki được tham chiếu trong anime với sự hủy diệt trực tiếp (Barefoot Gen, Góc khuất của thế giới) hoặc theo hướng cam chịu (lý thuyết tận thế về chiến tranh Lạnh, sự yếu đuối của xã hội khoa học công nghệ Nhật Bản sau khủng hoảng dầu mỏ 1973 với Genma Taisen, Uchū Senkan Yamato, Chōjikū yōsai Macross) hoặc phản ánh xung đột chiến tranh hạt nhân (Hokuto no Ken) hoặc hậu chấn tâm lý (Akira, Chōjikū yōsai Macross, Ghost in the Shell, Shin Seiki Evangelion). Anime thập niên 1980 chịu ảnh hưởng bởi khái niệm mà Miyazaki Hayao là một ví dụ khi tuyên bố làm phim cho người Nhật và không quan tâm đến quan điểm của người nước ngoài, Nhật Bản nhân luận tiếp tục ảnh hưởng đến anime thập niên 1990 thông qua sự phổ biến thể loại cyberpunk khi cho rằng chủ nghĩa cá nhân là một đặc điểm tiêu cực đe dọa sự ổn định của xã hội Nhật Bản.
Phê bình, nghiên cứu
Nghiên cứu hoạt hình manh nha bắt đầu từ năm 1934 nhưng chỉ nổi bật khi Imamura Taihei xuất bản "Manga Eiga ron" [Lý thuyết về phim hoạt hình] vào năm 1941; nội dung thảo luận về các phương pháp biểu cảm đặc trưng cho hoạt hình Nhật Bản, đặc biệt là các phương pháp được vẽ từ manga - nghệ thuật - âm nhạc Nhật Bản. Thập niên 1950, Toei Animation được thành lập và anime chiếu rạp được sản xuất định kỳ với tốc độ mỗi phim một năm, sách báo xuất bản bài viết đánh giá về từng anime cụ thể trong chuyên mục điện ảnh như Asahi Shimbun. Phê bình anime thập niên 1950 dần hình thành khi các nhà phê bình điện ảnh Nhật Bản tham khảo cách viết tiểu luận phê bình hoạt hình của châu Âu và Hoa Kỳ. Năm 1966, Mori Takuya xuất bản nghiên cứu "Giới thiệu về hoạt hình" với nhiều dữ liệu nghiên cứu lịch sử hoạt hình thế giới. Thập niên 1960 đến thập niên 1970, tiểu luận và nghiên cứu về hoạt hình được xuất bản tại Nhật Bản chủ yếu đề cập đến hoạt hình Hoa Kỳ. Tạp chí Fantoche giới thiệu nhân vật Starsha trong phim Uchū Senkan Yamato trên trang bìa vào tháng 4 năm 1976, Tokuma Shoten phát hành ấn phẩm hỗn hợp gồm sách và tạp chí "TV anime no sekai" [Thế giới anime truyền hình] với bài phân tích về bộ phim nổi bật Uchū Senkan Yamato, tạp chí Gekkan Out (chuyên viết về tokusatsu và phim hạng B điện ảnh Hoa Kỳ) lần đầu tiên xuất bản một bài viết dài 60 trang về hiện tượng Uchū Senkan Yamato vào năm 1977. Cùng năm 1977, Yamaguchi Katsunori và Yasushi Watanabe xuất bản nghiên cứu "Lịch sử hoạt hình Nhật Bản", đây là thế hệ học giả đầu tiên nghiên cứu anime. Tạp chí anime đầu tiên Animage ra mắt vào tháng 7 năm 1978, trang bìa minh họa bộ phim đánh dấu sự bùng nổ anime tại Nhật Bản là Uchū Senkan Yamato; sau đó xuất hiện nhiều tạp chí anime chuyên biệt tại Nhật Bản vào cuối thập niên 1970 (Animec, My Anime, The Anime, Animedia). Uchū Senkan Yamato đã phá vỡ khuôn mẫu anh hùng hướng đến trẻ em và gắn kết thế hệ người Nhật trưởng thành đã từng quen thuộc với các loạt anime phát sóng vào thập niên 1960 (Astro Boy, Tetsujin 28-go, 8 Man). Hikawa Ryūsuke, Oguchi Yuichiro, Masahiro Hara, Shigeru Shimotsuki, Nakajima Shinsuke bắt đầu công việc nghiên cứu anime không thường xuyên và chỉ hoạt động tích cực từ năm 2000. Animage tập trung giới thiệu một cách hệ thống về lịch sử chế tác phim của các tác giả, Animec và Gekkan Out xuất bản các bài viết phê bình điện ảnh dựa trên nhu cầu của người hâm mộ. Thập niên 1980, các tạp chí anime (như Break Time) biến mất rồi tái xuất hiện trong mối quan hệ cộng sinh với các loạt bài phê bình điện ảnh, phỏng vấn quá trình sản xuất phim vào thời kỳ bùng nổ anime (Gundam, Chōjikū yōsai Macross, các phim hợp tác phương Tây-Nhật Bản). Từ giữa thập niên 1980 đến thập niên 1990, các tạp chí anime (Newtype, Gekkan Out) làm phương tiện quảng bá phim cho nhiều hãng sở hữu anime và thần tượng áo tắm, phân tích và phê bình điện ảnh dần biến mất. Thập niên 1990, các phim thành công của Miyazaki Hayao, Oshi Mamoru và hiện tượng Shin Seiki Evangelion trở thành chủ đề kinh doanh, nhiều sách nghiên cứu tập trung vào các phim nổi tiếng và tác giả nổi bật liên tục được phát hành. Nghiên cứu anime thường bị phân cực với Nhật Bản học: nhân loại học/xã hội học (nghiên cứu anime thông qua đại diện văn hóa xã hội Nhật Bản như tôn giáo, thần thoại, văn hóa dân gian, đặc biệt về đại diện giới tính) thể hiện sự khác biệt với học giả truyền thông (nghiên cứu anime thông qua chủ nghĩa dân tộc mới (neo-nationalism), triết học chính trị, quan hệ quốc tế gắn với thương hiệu quốc gia Cool Japan). Nghiên cứu anime thường có khuynh hướng được xếp vào văn hóa đại chúng Nhật Bản. Học giả truyền thông nghiên cứu anime trong nhiều lĩnh vực học thuật khác nhau: khía cạnh tâm lý học của các sự kiện người hâm mộ, đặc trưng anime trong lịch sử nghệ thuật Nhật Bản, khía cạnh xuyên văn hóa và bản sắc lai, du lịch.
Chính sách văn hóa quốc gia
Thúc đẩy phân phối và tiếp thị anime toàn cầu (qua chính sách thương hiệu quốc gia Cool Japan) như một sản phẩm văn hóa đại chúng Nhật Bản kết hợp với các loại hình truyền thông khác (manga, light novel, mô hình nhân vật, trò chơi) cùng các hoạt động (tác phẩm phái sinh, hội chợ anime, cosplay) tạo ra quan niệm anime như một sản phẩm địa phương và trở thành bản sắc "hoạt hình đại chúng Nhật Bản". Truyền thông hỗn hợp là phương pháp truyền thống phổ biến của công nghiệp văn hóa tại Nhật Bản từ thập niên 1980, hình thành sơ kỳ qua buôn bán vật phẩm với nhân vật anime (Astro Boy, Tetsujin 28-go) được sao chép lại trong nhiều loại hình truyền thông khác nhau như đồ chơi, văn phòng phẩm, hàng gia dụng, trang phục, thức ăn nhẹ. Anime gia tăng sự gắn kết với Nhật Bản, chuyển từ một sản phẩm ngách thành một hình thái truyền thông miêu tả Nhật Bản như một quốc gia toàn cầu. Anime là mô hình nhận nuôi / khuếch tán văn hóa điển hình: những sản phẩm quen thuộc ban đầu kết hợp với các sản phẩm liên kết khác biệt, tạo thành vòng văn hóa kết tụ với vị trí trung tâm sản phẩm nhận nuôi ban đầu và ngoại vi các sản phẩm văn hóa khác xoay quanh; các sản phẩm quen thuộc tạo những chuyển thể để bước đầu tiến vào một thị trường đích nhất định. Một số thay đổi quan trọng của công nghiệp anime thập niên 2000 liên quan đến ảnh hưởng từ các chính sách văn hóa cộng đồng (như chiến lược Cool Japan) nhằm quảng bá các sản phẩm địa phương hoặc vật phẩm Nhật Bản và dịch vụ hải ngoại bằng cách thu hút sự nhạy cảm của người tiêu dùng thông qua nhãn hiệu quốc gia hoặc văn hóa địa phương. Các chiến lược sở hữu trí tuệ được khuyến khích tại Nhật Bản từ năm 2002 nhằm thực hiện một kiến trúc công nghiệp "tri thức tích hợp" hơn là 'tích hợp lao động' và biến Nhật Bản thành 'quốc gia sở hữu trí tuệ', trong đó xúc tiến thương mại nội dung trở thành chìa khóa hồi sinh kinh tế Nhật Bản. Cool Japan được gắn kết chặt chẽ như một đánh giá thực tế về lối sống và lý tưởng người Nhật, hoặc dựa trên mong muốn xây dựng lại Nhật Bản giả tưởng'. Linh vật Aoshima Megu đại diện không chính thức cho thành phố Shima, Mie bị chỉ trích với lý do xúc phạm nghề kai jin truyền thống trong khoảng thời gian diễn ra Hội nghị thượng đỉnh G7 lần thứ 42 được coi như ví dụ về 'Nhật Bản giả tưởng' không nhằm tái hiện giá trị lịch sử mà tận hưởng một thế giới giàu trí tưởng tượng kết hợp văn hóa đại chúng truyền thống và hiện đại. Xu hướng hợp tác sản xuất anime được xem xét nhằm vượt qua rào cản quan liêu và thúc đẩy cấp phép nhanh hơn từ các quốc gia, 'Cool Japan' được gắn kết giữa cân bằng giá trị thương hiệu và lợi ích tiềm năng cao nhất. Người hâm mộ nhiệt thành tạo ra những xã hội mới trong bối cảnh địa phương và khu vực thông qua giao tiếp truyền thông và ý tưởng vượt qua ranh giới địa lý, góp phần hình thành nên một nhóm lai văn hóa có nhiều ý tưởng - suy nghĩ - cảm xúc gắn kết với nhiều phẩm chất con người được chia sẻ từ những nền tảng tương đồng và kích thích mới.
Đặc điểm
Anime khác biệt rất nhiều so với các khuôn mẫu hoạt hình khác bởi phong cách nghệ thuật đa dạng của nó, các phương pháp hoạt họa, sự trình bày của nó và quá trình sản xuất. Một cách trực quan, anime là một hình thái nghệ thuật phong phú, bao hàm một sự rộng lớn các phong cách nghệ thuật, có sự khác nhau giữa từng người sáng tạo, từng họa sĩ, xưởng phim. Trong khi chưa có một phong cách nghệ thuật nào chiếm ưu thế vượt trội trong anime hoàn toàn, họ chỉ đóng góp một vài đặc tính giống nhau trong các thuật ngữ của kỹ thuật hoạt hình và thiết kế nhân vật.
Kỹ thuật hoạt hình
Anime tiếp nối quá trình sản xuất đặc trưng của hoạt hình, bao gồm: kịch bản phân cảnh, diễn xuất thanh âm, thiết kế nhân vật, hoạt hình cel (Shirobako là bộ phim nói rất rõ các kỹ thuật hoạt hình, nổi bật nhiều khía cạnh phức tạp trong quá trình sản xuất anime). Từ những năm 1990, các họa sĩ diễn hoạt đã tăng cường sử dụng hoạt hình máy tính (CGI) để cải thiện hiệu suất quá trình sản xuất. Các họa sĩ như Ōfuji Noburō đã đi tiên phong sớm nhất trong các tác phẩm anime, lựa chọn thử nghiệm và có sự phù hợp với những hình ảnh được vẽ trên bảng đen, hoạt hình tĩnh vật từ cắt giấy, hoạt hình rọi bóng. Hoạt hình cel dần phổ biến cho đến khi lấn át hẳn phương tiện khác. Trong thế kỷ 21, việc sử dụng các kỹ thuật hoạt hình khác hầu hết bị giới hạn trong các phim ngắn độc lập, bao gồm hoạt hình tĩnh vật rối được sản xuất bởi Mochinaga Tadahito, Kawamoto Kihachirō và Murata Tomoyasu. Máy tính đã được tích hợp vào quá trình sản xuất phim hoạt hình trong những năm 1990, nhiều tác phẩm như Ghost in the Shell và Mononoke Hime kết hợp giữa hoạt hình cel với các hình ảnh được máy tính tạo ra. Fujifilm, một công ty lớn sản xuất cel hàng đầu đã tuyên bố dừng sản xuất cel, gây ra hoảng loạn cho ngành công nghiệp về việc mua nhập khẩu cel và đẩy nhanh chuyển đổi sang quá trình kỹ thuật số.
Trước khi tới thời đại kỹ thuật số, anime được sản xuất với các phương pháp hoạt hình truyền thống sử dụng một phép xấp xỉ tạo dáng gần đúng. Phần lớn xu hướng anime sử dụng một ít các khung chính để diễn đạt và nhiều hoạt họa xen khung. Chủ tịch Mitsushisa Ishikawa của Production I.G nói rằng phương pháp kết hợp giữa 2D và 3D được áp dụng rộng rãi trong công nghiệp anime: vẽ trên giấy trước tiên, scan vào máy vi tính, sau đó thêm màu và các hiệu ứng; cơ bản vẫn là vẽ tay, đặc biệt không dùng cel nữa. Workstation là một thiết lập phụ trợ quan trọng cho việc scan các khung hình vào máy tính nhằm gia công phần hoạt họa xen khung trong công nghiệp anime. Đặc biệt, khi bộ phim có một phân cảnh hoạt họa gây ấn tượng thị giác mạnh mẽ hoặc sự tinh tế sắc sảo trong cách thể hiện sẽ được gọi là một cảnh sakuga, là một đặc trưng có tính chu kỳ trong anime hiện đại cho phép các họa sĩ diễn hoạt Nhật Bản thể hiện phong cách nghệ thuật đặc trưng cá nhân. Một số thuật ngữ sakuga nền tảng ảnh hưởng đến phương pháp hoạt họa tại Nhật Bản và tiếp tục được nhiều họa sĩ sử dụng với nhiều biến đổi khác nhau như: "Itano Circus", "Yutapon Cubes", "Ebata Walk", "Akai Smile".
Các xưởng phim hoạt hình Nhật Bản đi tiên phong trong nhiều kỹ thuật về hoạt hình giản lược, và đã cho anime một bộ quy ước riêng biệt. Không giống hoạt hình Disney nhấn mạnh về cử động, anime nổi bật về chất lượng nghệ thuật và cho phép kỹ thuật hoạt hình giản lược bù đắp việc phần thiếu thời gian cho cử động. Nhiều kỹ thuật như vậy thường được sử dụng không chỉ để đáp ứng hạn chót dự án, mà còn như những cách thức mang tính nghệ thuật. Các cảnh quay anime chú trọng vào việc đạt được góc nhìn 3 chiều, và hậu cảnh góp phần tạo bầu không khí cho tác phẩm. Hậu cảnh không phải lúc nào cũng được sáng tạo và đôi khi dựa trên những địa điểm đời thực, như Lâu đài bay của pháp sư Howl hay Suzumiya Haruhi. Oppliger nói rằng anime là một trong những phương tiện hiếm có khi đặt vào đồng thời một dàn diễn viên toàn sao thường xuất hiện "cực kỳ ấn tượng".
Các hiệu ứng điện ảnh của anime đã rất khác biệt với chính bản thân nó từ giai đoạn chuyển mình dựa trên hoạt hình Hoa Kỳ. Anime là cảnh phim nghệ thuật điện ảnh gần như do máy ảnh thực hiện, bao gồm việc đảo máy (panning), cách thu phóng (zooming), cự ly quay và các góc quay để phức hợp tính động lực học trong các cảnh phim mà sẽ khó thực hiện trong đời thực. Trong anime, hoạt họa được thực hiện trước diễn xuất thanh âm, trái ngược với hoạt hình Hoa Kỳ khi chọn diễn xuất thanh âm trước; điều này có thể gây ra một số lỗi nhép môi trong các phiên bản Nhật Bản.
Nhân vật
Tỷ lệ cơ thể của các nhân vật anime con người có xu hướng phản ánh chính xác tỷ lệ cơ thể con người trong thực tế. Chiều cao của đầu được các họa sĩ xem xét coi là đơn vị cơ bản của tỷ lệ. Chiều cao của đầu có thể khác nhau, nhưng hầu hết các nhân vật anime đều cao từ bảy đến tám cái đầu. Họa sĩ anime thỉnh thoảng thực hiện các sửa đổi có chủ ý đối với tỷ lệ cơ thể để tạo ra các nhân vật siêu biến dạng có một thân hình nhỏ không cân đối so với đầu; nhiều nhân vật siêu biến dạng cao từ hai đến bốn cái đầu. Một số tác phẩm anime như Shin – Cậu bé bút chì hoàn toàn coi nhẹ các tỷ lệ này, giống như cách thức biếm họa cartoon phương Tây.
Một quy ước thiết kế nhân vật anime phổ biến là kích thước mắt phóng đại. Hoạt họa về các nhân vật có đôi mắt to trong anime có thể được tìm thấy dấu tích ở Tezuka Osamu, một người bị ảnh hưởng sâu sắc từ những nhân vật hoạt hình đầu tiên như Betty Boop với đôi mắt to không cân xứng. Tezuka là một nhân vật quan trọng trong lịch sử anime và manga, có phong cách nghệ thuật quy ước và thiết kế nhân vật cho phép toàn bộ cảm xúc của con người được miêu tả chỉ qua đôi mắt. Các họa sĩ thêm màu sắc thay đổi bóng cho đôi mắt, đặc biệt là giác mạc để cung cấp cho chúng độ sâu lớn hơn. Nói chung, một phối trộn của một bóng sáng, tông màu và một bóng tối đã được sử dụng. Nhà nhân học văn hóa Thorn Matt cho rằng các họa sĩ diễn hoạt và khán giả Nhật Bản không cảm nhận được đôi mắt bị cách điệu vốn đã mang ít nhiều tính nước ngoài. Tuy nhiên, không phải tất cả anime đều có đôi mắt to, tròn. Ví dụ, các tác phẩm của Miyazaki Hayao được biết đến với đôi mắt có tỷ lệ thực tế, cũng như màu tóc thực tế của các nhân vật.
Tóc trong anime cũng thường sống động không tự nhiên, nhiều màu sắc hoặc được thiết kế độc đáo. Sự chuyển động của tóc trong anime được phóng đại và "hành động mái tóc" được sử dụng để nhấn mạnh hành động và cảm xúc của nhân vật nhằm tăng thêm hiệu ứng thị giác. Poitras theo dõi màu sắc kiểu tóc bao gồm các hình minh họa trên manga, nơi tác phẩm nghệ thuật bắt mắt và các tông màu sáng và sặc sỡ có sức hấp dẫn cho manga trẻ em. Mặc dù được sản xuất cho thị trường trong nước nhưng anime nổi bật các nhân vật có chủng tộc hoặc quốc tịch không phải lúc nào cũng được xác định, và đây thường là một quyết định có chủ ý như trong loạt phim hoạt hình Pokémon.Các họa sĩ anime và manga thường vẽ từ một tiêu chuẩn chung của các minh họa biểu hiện trên khuôn mặt để biểu thị tâm trạng và suy nghĩ đặc biệt. Những kỹ thuật này thường khác về hình thức so với các đối tác của họ trong hoạt hình phương Tây, và chúng bao gồm một biểu tượng học cố định được sử dụng như bảng viết tắt của một số cảm xúc và tâm trạng nhất định. Ví dụ, một nhân vật nam có lẽ dễ chảy máu cam khi bị khơi gợi. Một loạt các biểu tượng trực quan được sử dụng, bao gồm cả một hoặc nhiều những giọt mồ hôi chảy xuống để miêu tả sự căng thẳng, có thể nhìn thấy những hình chéo đỏ trên mặt biểu hiện cho sự xấu hổ, hoặc đôi mắt phát sáng do một ánh sáng chói lóa dữ dội.
Vai diễn khách mời
Các nhân vật có thể chất tương tự hay câu chuyện giống hệt hoặc tương tự trong nhiều anime có thể được tham chiếu đến một anime khác, một video game, manga, visual novel, light novel. Ví dụ, hai nhân vật chính trong phim Vườn ngôn từ là Yukino Yukari và Akizuki Takao có vai diễn khách mời trong phim Your Name – Tên cậu là gì?. Những nhân vật ngoài đời cũng trở thành vai diễn khách mời trong anime. Ví dụ, các tác giả sáng tạo trò chơi Angry Video Game Nerd và chương trình Nostalgia Critic đều xuất hiện trong phim Zettai Karen Children.
Tính cách nhân vật
Tsundere: Nhân vật thường có thái độ lạnh lùng () nhưng hành động có thể rất ngọt ngào với những người họ thích (()).
Yandere: Nhân vật bảo vệ tình yêu thái quá thông qua bạo lực, kết hợp giữa yanderu (病んでる?, bệnh lý tinh thần) và deredere (でれでれ?, tình cảm mạnh mẽ).
Kuudere: Nhân vật có vẻ ngoài hòa nhã và bàng quan, chỉ mở lòng với người họ thích.
Dandere: Nhân vật có vẻ ngoài ngại ngùng xấu hổ, khó giao tiếp, chỉ thoải mái khi trò chuyện với những người thực sự tin tưởng.
Nhạc phim
Bài hát mở đầu và chuỗi danh đề của hầu hết các tập phim anime truyền hình đều đi kèm với các bài hát rock hoặc pop Nhật Bản, thường được các ban nhạc nổi tiếng thể hiện. Các bài hát có thể được viết theo cảm hứng, nhưng cũng được nhắm vào thị trường âm nhạc nói chung, thường ám chỉ một cách mơ hồ hoặc không nói về các chủ đề hay cốt truyện của loạt phim. Các bài rock hoặc pop cũng thỉnh thoảng sử dụng phần nhạc ngẫu nhiên ("insert songs") trong một tập phim, thường để làm nổi bật những cảnh đặc biệt quan trọng. Thời lượng bài hát mở đầu và bài hát kết thúc của mỗi tập phim thường từ ba đến năm phút, bài hát có thể được thay đổi sau 12-15 tập phim nếu là anime truyền hình dài tập. Bài hát trong anime là một hình thức quảng bá cho các hãng thu âm và ca sĩ Nhật Bản, có thể chèn thêm quảng cáo truyền hình. Một số nhà soạn nhạc tiêu biểu như Kanno Yoko, Kajiura Yuki, Takanashi Yasuharu, Sato Naoki và Kato Tatsuya.
Phân loại
Anime thường được phân loại theo nhân khẩu học mục tiêu, bao gồm kodomo, shōjo, shōnen và một phạm vi đa dạng thể loại hướng đến khán giả trưởng thành như seinen hay Josei. Anime shōnen và shōjo thỉnh thoảng bao hàm các yếu tố phổ biến với trẻ em cả hai giới trong một nỗ lực gia tăng sự hấp dẫn giao thoa. Anime cho người trưởng thành có lẽ nổi bật với một nhịp độ chậm hơn hoặc một cốt truyện phức tạp hơn mà khán giả trẻ hơn có thể cảm thấy không hấp dẫn, cũng như những chủ đề và tình huống trưởng thành. Một số thể loại khám phá đồng tính luyến ái như yaoi (tình dục đồng giới nam) và yuri (tình dục đồng giới nữ). Trong khi thường được dùng trong một bối cảnh người lớn, các thuật ngữ này cũng có thể được dùng trong một bối cảnh rộng hơn để miêu tả hoặc tập trung vào các chủ đề hoặc sự phát triển của những mối quan hệ tình dục đồng giới lãng mạn.
Phân loại về thể loại anime khác biệt so với các dạng thể loại khác của hoạt hình và không nên trộn lẫn anime với phân loại thông thường. Gilles Poitras so sánh việc gắn nhãn Gundam 0080 và cách miêu tả phức tạp của phim về chiến tranh như một anime "robot khổng lồ" gần giống với gắn nhãn đơn giản Chiến tranh và hòa bình là một "tiểu thuyết chiến tranh". Khoa học viễn tưởng là một thể loại anime lớn, bao gồm nhiều tác phẩm lịch sử quan trọng như Astro Boy của Tezuka Osamu hay Tetsujin 28-go của Yokoyama Mitsuteru. Một tiểu thể loại lớn của khoa học viễn tưởng là mecha, với chuỗi nhượng quyền Gundam trở thành biểu tượng. Thể loại kỳ ảo gồm nhiều tác phẩm dựa trên truyền thuyết và văn học dân gian phương Đông lẫn phương Tây; nhiều dẫn chứng bao gồm chuyện điển tích phong kiến Nhật Bản như InuYasha, hay sự mô tả các vị thần Bắc Âu tới Nhật Bản bảo vệ một máy tính tên là Yggdrasil trong Aa Megami-sama. Giao thoa thể loại trong anime cũng phổ biến: pha trộn giữa kỳ ảo và hài kịch trong Doragon Hāfu, hợp nhất hài cường điệu (slapstick) trong anime điện ảnh có chủ đề tội phạm Lâu đài của Cagliostro. Các tiểu thể loại khác hình thành trong anime bao gồm mahō shōjo, harem, thể thao, võ thuật, chuyển thể văn học, Trung Cổ học và chiến tranh. Công nghiệp anime
Năm 2004, ngành công nghiệp anime có khoảng 440 công ty sản xuất với một số xưởng phim lớn (Toei Animation, Gainax, Madhouse, Gonzo, Sunrise, Bones, TMS Entertainment, Nippon Animation, P.A.Works, Studio Pierrot, Studio Ghibli), khoảng 70% xưởng phim nhỏ với 30 nhân viên hoặc ít hơn. Năm 2015, Nhật Bản có khoảng 622 công ty chế tác anime với khoảng 50.000 người làm việc, 542 công ty có trụ sở tại Tokyo chiếm 87,1% tổng số công ty anime Nhật Bản. Nhiều xưởng phim thuộc hiệp hội thương mại Hiệp hội Hoạt hình Nhật Bản, những người hoạt động trong ngành thuộc nghiệp đoàn Hiệp hội Tác giả hoạt hình Nhật Bản. Các xưởng phim cũng thường hợp tác cùng nhau để sản xuất các dự án phức tạp và tốn kém hơn, giống như cách thực hiện Sen và Chihiro ở thế giới thần bí của Studio Ghibli. Một tập anime có thể cần chi phí từ khoảng 100.000 US$ - 300.000 US$ để chế tác. Sự phổ biến và thành công của anime được nhận thấy qua lợi nhuận của thị trường DVD với đóng góp gần 70% doanh thu. Theo báo cáo năm 2016 của Nihon Keizai Shimbun, các đài truyền hình Nhật Bản đã mua cấp phép anime hơn 60 tỷ JP¥ từ các công ty sản xuất 'trong vài năm qua', so với dưới 20 tỷ JP¥ từ nước ngoài. Sự gia tăng mạnh mẽ trong việc bán các phim cho nhiều đài truyền hình ở Nhật Bản đến từ anime đêm khuya với khán thính giả mục tiêu là đối tượng trưởng thành, mang lại nhiều lợi nhuận 'hơn một sản phẩm ngách' ở nước ngoài. Pokémon cuối thập niên 1990 đã xóa bỏ khái niệm "thị trường Nhật Bản quan trọng nhất, thị trường ngách ở nước ngoài". Mặc dù anime chiếu rạp thành công trong nhiều năm (Ghost in the Shell, các phim của Miyazaki Hayao), nhưng anime truyền hình nội địa vẫn đóng vai trò trụ cột ngành công nghiệp với doanh thu hàng năm hơn 5 tỷ US$ và gấp 10 lần doanh thu chiếu rạp. Anime thị trường nước ngoài dần phát triển từ thị trường ngách thành thị trường đại chúng, trở thành một thị phần trong công nghiệp cấp phép. Năm 2016, xếp hạng cấp phép Toei Animation thứ 26 thế giới với doanh thu bán lẻ 2,6 tỷ US$, Viz Media xếp hạng 150 thế giới với doanh thu bán lẻ 60 triệu US$. Sen và Chihiro ở thế giới thần bí (năm 2001) là phim có doanh thu cao nhất tại Nhật Bản, và xếp thứ hai trong danh sách anime có doanh thu cao nhất toàn cầu sau Your Name – Tên cậu là gì?. Anime hiện diện phần lớn trong danh sách các phim Nhật Bản có doanh thu cao nhất hàng năm, chiếm sáu vị trí trong nhóm 10 phim doanh thu cao nhất năm 2014 cũng như năm 2015 và năm 2016.
Giải thưởng
Công nghiệp anime có nhiều giải thưởng thường niên nhằm vinh danh các bộ phim tốt nhất của năm. Các anime điện ảnh cũng được nhận đề cử và chiến thắng trong các giải thưởng không dành riêng cho anime như giải Oscar cho phim hoạt hình hay nhất, giải thưởng Gấu Vàng.
Phát sóng
Anime truyền hình thường được sản xuất theo bốn mùa phim trong một năm:
Anime mùa xuân: được phát sóng từ khoảng tháng 4 đến tháng 6.
Anime mùa hạ: được phát sóng từ khoảng tháng 7 đến tháng 9.
Anime mùa thu: được phát sóng từ khoảng tháng 10 đến tháng 12.
Anime mùa đông: được phát sóng từ khoảng tháng 1 đến tháng 3.
Mỗi anime truyền hình phát sóng trong một mùa thường gồm 10-13 tập, có những anime chiếu cả hai mùa (khoảng từ 22-26 tập) hoặc phát sóng trong nhiều năm như One Piece, Naruto.
Một số anime được phát sóng trên đài truyền hình tại Nhật Bản vào giờ vàng từ 19 giờ đến 22 giờ (Pokémon, Naruto, Doraemon), phần lớn "shinya anime" (anime đêm khuya) được chiếu vào khoảng từ 23 giờ đến 4 giờ sáng trên các đài truyền hình như TV Tokyo hay TBS nên khán giả phải thức khuya để xem hoặc thu hình lại. Anime đêm khuya thường hướng đến khán giả chuyên biệt; ví dụ Shin Seiki Evangelion mang cảm giác xa lạ khi chiếu vào khung giờ khán giả đại chúng nhưng lại thành công khi đài truyền hình phát sóng vào đêm khuya. Khán giả có thể không xem được anime do một số đài truyền hình độc lập không có mạng lưới toàn quốc như Tokyo MX, hoặc có thể chênh lệch ngày phát sóng giữa các vùng ở Nhật Bản trên sóng quốc gia. Nếu bỏ lỡ thời gian phát sóng tập phim truyền hình, khán giả Nhật Bản phải chờ đến ngày phát hành đĩa phim nhiều tháng. Phần lớn 'anime mùa mới' không phát sóng bên ngoài mạng truyền hình Tokyo, khán giả Nhật Bản phải kết hợp dịch vụ stream và truyền hình cáp để theo kịp; một số tựa 'anime mùa mới' được chiếu miễn phí vào những khung giờ vô lý. Nửa cuối thập niên 1990, thị phần anime đêm khuya mở rộng trên các đài truyền hình, truyền hình băng tần UHF và truyền hình vệ tinh. Hiệp hội Hoạt hình Nhật Bản (AJA) báo cáo thị trường truyền hình thay đổi với anime đêm khuya vượt số lượng anime phát sóng ban ngày vào năm 2015; xu hướng đó tiếp tục vào năm 2016. Sản xuất, phân phối và buôn bán anime tại Nhật Bản gồm một số công ty lớn như TV Asahi, Fuji TV, Bandai Namco Entertainment, Sony Pictures, Toei Animation, Animate. Phân phối anime tại Nhật Bản qua mạng lưới đài truyền hình, dịch vụ stream (AbemaTV, Niconico, Bandai Channel, GYAO!, DoCoMo anime store, DMM.com, dTV, J:COM On Demand, Hikari TV, VideoMarket, Rakuten TV, U-NEXT, DAZN, Tver của NTT DoCoMo, Hulu, Prime Video, Netflix, Google Play), truyền hình cáp (Animax, AT-X, BS11) kết hợp với sự kiện chiếu anime truyền hình mùa mới trên màn hình lớn.
Phân phối
Đầu thập niên 1970 đến thập niên 1980, nhiều phim hoạt hình hợp tác sản xuất châu Âu-Nhật Bản xuất hiện. Thập niên 1980, các kênh truyền hình quốc gia ở châu Âu được tư nhân hóa cùng với truyền hình cáp và truyền hình vệ tinh cạnh tranh phân phối phim truyền hình Hoa Kỳ cũng như anime, một thế hệ người hâm mộ tại châu Âu đã thúc đẩy các sự kiện văn hóa đại chúng Nhật Bản trên khắp lục địa. Tháng 1 năm 2009, TV Tokyo hợp tác cùng Crunchyroll nhằm trình chiếu anime trực tuyến đồng bộ thời gian phát sóng với Nhật Bản. Theo báo cáo của GEM Partners, quy mô thị trường phim trực tuyến theo yêu cầu tại Nhật Bản đạt 183 tỷ JP¥ (1,7 tỷ US$) năm 2018 và tăng 12,2% so với năm 2017, dự đoán tăng lên 255 tỷ JP¥ (2,4 tỷ US$) vào năm 2022. Theo báo cáo từ Hiệp hội Nội dung số Nhật Bản, quy mô thị trường phân phối video trực tuyến năm 2018 tại Nhật Bản đạt 220 tỷ JP¥ và tăng 19% so với 185 tỷ JP¥ năm 2017, đự đoán đạt 295 tỷ JP¥ năm 2023. Tháng 3 năm 2019, Bilibili tại Trung Quốc và Funimation tại Bắc Mỹ hợp tác mua bản quyền anime và mở rộng thị trường.
Châu Á
Hoạt hình Nhật Bản rất phổ biến ở Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc và Đông Nam Á; ví dụ như loạt phim dài tập dành cho trẻ em là Doraemon đã có thành công lớn tại Thái Lan và Philippines trong thập niên 1990, cũng như Pokémon sau này. Theo dữ liệu hội thảo TIFFCOM năm 2017, thị trường anime tại châu Á năm 2011 đạt 1,2 tỷ US$ và tăng trưởng đạt 2,7 tỷ US$ năm 2016. Fuji TV hợp tác với AEON phân phối anime tại Trung Quốc và Đông Nam Á từ năm 2019, nghiên cứu của PricewaterhouseCoopers ước tính quy mô thị trường nội dung khu vực (Trung Quốc, Đông Nam Á) đạt 426,8 tỷ US$ năm 2018 và dự đoán tăng lên 30% thành 549,1 tỷ US$ vào năm 2022.
Châu Âu
Anime tại châu Âu phát triển mạnh mẽ trên sóng truyền hình; các quốc gia như Tây Ban Nha, Ý, Pháp trong thập niên 1970 và thập niên 1980 đã nhận một 'cuộc xâm lược hòa bình'. Thập niên 1960, Hakujaden đã được chiếu rạp tại Pháp. Giai đoạn 1971-2009, anime chiếm 66% với 318 trong tổng số 484 phim Nhật Bản nhập khẩu đã chiếu trên truyền hình Pháp. Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland gần như không phát sóng anime trên truyền hình, nhưng khi thị trường băng đĩa tại gia được hợp nhất từ cuối thập niên 1980 với kỷ lục doanh thu băng đĩa VHS của Akira và Manga Entertainment thành lập năm 1991 thì thực tế này đã thay đổi; khác với Ý và Pháp khi anime tại Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland chỉ phổ biến vào nửa cuối thập niên 1990.
Hoa Kỳ
Hoa Kỳ nhập khẩu ba anime chiếu rạp của Toei Animation vào năm 1961 (Shōnen Sarutobi Sasuke, Hakujaden, Saiyūki) nhưng không thành công về thương mại sau đó anime truyền hình đầu tiên Astro Boy phát sóng trên NBC vào năm 1963-1964 gần như đồng thời với Nhật Bản. Cuối thập niên 1960 đến thập niên 1970, Hoa Kỳ nhập khẩu Mach GoGoGo, Sư tử trắng Kimba, Gatchaman, Uchū Senkan Yamato. Thời đại hoàng kim thập niên 1980 với các loạt phim kinh điển phát sóng trên nhiều kênh truyền hình khác nhau, mặc dù thường xuyên bị biên tập lại hội thoại và cốt truyện theo thị hiếu công chúng Bắc Mỹ trong các loạt phim ghép nối nổi bật như Force Five, Voltron, Robotech. Loạt phim dài tập Force Five được hợp nhất từ năm anime riêng biệt (Daiku Maryu Gaiking, Wakusei Robo Danguard Ace, Starzinger SF Saiyuki, Getter Robo G, UFO Robot Grendizer) thành 130 tập (mỗi anime bị rút gọn còn 26 tập). Loạt phim Voltron được hợp nhất từ hai anime nguyên tác (Hyakujū ō Golion, Kikō kantai Dairugger XV); Robotech được hợp nhất từ ba anime (Chōjikū yōsai Macross, Kiko soseiki Mospeada, Chōjikū kidan Southern Cross) thành 85 tập. Khi Nhật Bản trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới trong thập niên 1980, các lớp học tiếng Nhật xuất hiện ở phương Tây và anime/manga thời điểm đó đóng vai trò như công cụ giáo dục. Thập niên 1990 phát sóng lại phim từ thập niên 1960-1980 trên truyền hình (Mach GoGoGo trên MTV, Voltron trên Toonami, Ginga Tetsudō 999 trên Syfy) và nhập khẩu phim mới tác động đến văn hóa đại chúng Hoa Kỳ (Dragon Ball, Thủy thủ Mặt Trăng, Tenchi Muyō!, Mobile Suit Gundam Wing). Năm 1998, Nintendo phát hành Pokémon và trở thành hiện tượng văn hóa đại chúng tại Hoa Kỳ. Các công ty phân phối băng đĩa tại gia xuất hiện trong thập niên 1990 như AnimEigo, U.S. Renditions, Central Park Media, Manga Entertainment, A.D. Vision, Media Blasters, Viz Media, Urban Vision, Right Stuf Inc. Sau thành công của Akira tại rạp chiếu thập niên 1990, sự chú ý đến anime gia tăng qua phân phối truyền hình và băng đĩa tại gia, đến mức trong mười năm qua anime tại Hoa Kỳ đã phát triển bùng nổ. Sự thành công vang dội của Gundam và Pókemon, cùng việc Ghost in the Shell đứng đầu bảng xếp hạng Billboard năm 1998 hay sự phổ biến ngày càng tăng các phim Ghibli đã biến Hoa Kỳ thành thị trường anime lớn thứ hai sau Nhật Bản với 38 loạt phim phát sóng cùng 500 băng đĩa đã phát hành năm 2007 và giá trị công nghiệp băng đĩa tại gia ước tính đạt 400 triệu US$ năm 2006 ngay cả khi bị giảm. Từ năm 2000 đến năm 2008, công nghiệp anime tại Hoa Kỳ bị các công ty Mỹ khai thác cấp phép bản quyền nhiều nhất có thể. Các phim chưa bị biên tập phổ biến qua băng đĩa tại gia, hoặc chiếu vào buổi tối trên các đài truyền hình Cartoon Network, Syfy, Toonami, Adult Swim với đối tượng trưởng thành như Cowboy Bebop, Outlaw Star, Gundam, Hành trình U Linh Giới, Rurouni Kenshin, Đại chiến Titan, Kiseijū, Afro Samurai, Death Note. Space Dandy, Ghost in the Shell: Stand Alone Complex và mùa hai The Big O được đồng tài trợ từ nguồn quỹ Hoa Kỳ. Các dịch vụ stream như Hulu, Netflix, Prime Video, Crunchyroll, Funimation liên kết sản xuất và phân phối trực tuyến với các xưởng phim hoạt hình Nhật Bản. Tháng 12 năm 2018, Funimation kết thúc hợp tác với Crunchyroll, Funimation ký hết hợp tác với Hulu. Tháng 3 năm 2019, Crunchyroll chia sẻ cấp phép phát sóng anime trên truyền hình Toonami của Adult Swim vào tối thứ bảy.
Mỹ Latinh
Anime bắt đầu được phân phối ở Mỹ Latinh trong thập niên 1970 tại México, Peru, Chile, Argentina, Brasil, Costa Rica, Panama, Colombia (Heidi, Cô bé đến từ vùng núi Alps, Ribon no Kishi, Mach GoGoGo, Candy Candy). Thập niên 1980, phân phối anime mở rộng sang Venezuela, Guatemala, Cộng hòa Dominica, Colombia, Puerto Rico với mecha (Mazinger Z, Robotech, UFO Robot Grendizer, Voltron) và phim chuyển thể (Remi, Sư tử trắng Kimba, Mitsubachi Māya no Bōken). Thập niên 1990, anime bùng nổ tại Mỹ Latinh khi phát sóng liên tục các loạt phim Saint Seiya, Ranma ½, Tsubasa Giấc mơ sân cỏ, Thủy thủ Mặt Trăng, Dragon ball, Slam Dunk, Pokémon. Thập niên 2000, anime hiện diện liên tục theo thời gian trên các đài truyền hình quốc gia Mỹ La tinh, truyền hình cáp, truyền hình vệ tinh (Locomotion, Animax, Cartoon Network, Magic Kids, Fox Kids, ETC) với các phim như Cardcaptor Sakura, InuYasha, Giả kim thuật sư, Shin Seiki Evangelion, Naruto. Phân phối các tựa anime mới trên truyền hình Mỹ Latinh giảm từ năm 2006 (Toonami của Cartoon Network dừng năm 2007, Animax dừng năm 2011, ZAZ dừng năm 2012, Cloverway Inc. giải thể năm 2007), phân phối trực tuyến gia tăng (Netflix, Crunchyroll). México phát sóng Astroboy trên Canal 5 thuộc Televisa vào năm 1974, TV Azteca và Televisa phát sóng anime trong thập niên 1970 (Heidi, Cô bé đến từ vùng núi Alps, Ribon no Kishi, Mach GoGoGo, Candy Candy). Sự ảnh hưởng của anime tại México thập niên 1980 nhờ thị trường mô hình nhân vật anime phát triển (Ultraman, Robotech, Mazinger Z) và nhiều đức tính của Nhật Bản được tìm thấy trong anime. México thập niên 1990 xuất hiện các fanzine, buôn bán vật phẩm hình thành; fanzine đầu tiên tại México là 'Figuras en Movimiento' năm 1992, sau đó phân tách thành Animanga và Domo vào năm 1994. Anime bùng nổ tại México trong thập niên 1990: Thủy thủ Mặt Trăng thúc đẩy chủ nghĩa nữ quyền cho phụ nữ México thập niên 1990 và khám phá người đồng tính nữ, Tsubasa Giấc mơ sân cỏ, Saint Seiya, Dragon ball. Crunchyroll phát trực tuyến tại Brasil vào năm 2012 và hợp tác với Rede Brasil phát sóng anime trên truyền hình vào năm 2018.
Úc và New Zealand
Úc bắt đầu nhập khẩu anime từ thập niên 1960 với Astro Boy và Sư tử trắng Kimba, người Úc ấn tượng mạnh mẽ về sự khác biệt giữa anime với hoạt hình Hoa Kỳ. Anime bùng nổ tại Úc vào cuối thập niên 1980-1990 với sự thành công lớn trong doanh thu chiếu rạp (Akira, Ghost in the Shell) và sự phổ biến trên truyền hình (Pókemon, Shin Seiki Evangelion, Ranma ½, Thủy thủ Mặt Trăng), dần được người hâm mộ tại Úc gắn kết với biểu hiện của 'châu Á mới' và 'nữ quyền châu Á mới'. Úc và New Zealand từ thập niên 1990 đã trở thành nhà nhập khẩu lớn của hoạt hình Nhật Bản với các hoạt động phát hành đĩa phim tại gia của Madman Entertainment và kênh Animax dành cho điện thoại di động.
Châu Phi
Đầu thập niên 1980, Ai Cập bắt đầu nhập khẩu mecha tác động đến văn hóa đại chúng (Astroganga, UFO Robot Grendizer, Mazinger Z, Tsubasa Giấc mơ sân cỏ). Heidi, Cô bé đến từ vùng núi Alps trở thành hiện tượng văn hóa đại chúng với nhiều thế hệ tại Nam Phi năm 1979, giai đoạn phân biệt chủng tộc apartheid và quy định thời gian phát sóng tiếng Anh và Afrikaans bằng nhau; phiên bản Heidi, Cô bé đến từ vùng núi Alps lồng tiếng Afrikaans như một biểu tượng gợi nhắc xung đột người Afrikaner-châu Âu và quan niệm người Afrikaner tại Nam Phi ngang hàng với Đức Quốc Xã. Thập niên 1980 và thập niên 1990, thời đại hoàng kim của anime tại Maroc với Taigā Masuku, Tsubasa Giấc mơ sân cỏ, Fushigi no Umi no Nadia, Voltron, UFO Robot Grendizer, Nhóc Maruko, Purinsesu Sēra. Hoạt hình Nhật Bản tiến vào thị trường châu Phi từ năm 2000, truyền hình Nam Phi bắt đầu nhập khẩu một số phim hướng đến trẻ em (Dragonball Z, Naruto, Pokémon). Năm 2007, Sony ra mắt kênh truyền hình vệ tinh Animax tại một số quốc gia châu Phi như Nam Phi, Namibia, Kenya, Botswana, Zambia, Mozambique, Lesotho, Zimbabwe.
Các vấn đề có liên quan
Toàn cầu hóa
Anime đã thu được lợi nhuận thương mại tại phương Tây, được chứng minh bằng thành công thương mại rất sớm của các phim chuyển thể anime tại phương Tây như Astro Boy và Mach GoGoGo. Các phim chuyển thể anime tại Hoa Kỳ trong thập niên 1960 giúp Nhật Bản mở rộng vào sâu bên trong thị trường châu Âu lục địa; đầu tiên với các sản phẩm hướng đến đối tượng trẻ em tại châu Âu và Nhật Bản như Heidi, Cô bé đến từ vùng núi Alps, Vicky the Vicking hay Barbapapa được phát sóng tại nhiều quốc gia. Đặc biệt Ý, Tây Ban Nha và Pháp gia tăng một sự quan tâm với xuất khẩu anime của Nhật Bản, do giá bán rẻ và số lượng sản xuất lớn. Ý nhập khẩu nhiều anime nhất tại thị trường bên ngoài Nhật Bản. Việc nhập khẩu số lượng lớn đã tạo ảnh hưởng văn hóa đại chúng anime tại thị trường Nam Mỹ, thế giới Ả Rập, Đức và Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Irelannd.
Từ năm 1980 đã chứng kiến các loạt anime dài tập Nhật Bản tiến sâu vào văn hóa người Mỹ. Thập niên 1990, hoạt hình Nhật Bản dần dần đạt được tính phổ biến đại chúng tại Hoa Kỳ. Nhiều công ty truyền thông như Viz Media hay Mixx Entertainment bắt đầu xuất bản và phát hành anime bên trong thị trường Hoa Kỳ. Phim Akira năm 1988 được công nhận có ảnh hưởng rất lớn tới đại chúng hóa anime tại thế giới phương Tây trong đầu thập niên 1990, trước khi anime được phổ biến văn hóa đại chúng hơn qua các loạt phim như Pokémon, Dragon Ball và Ghost in the Shell cuối thập niên 1990. Sự phát triển của Internet cung cấp cho khán giả phương Tây một cách thức truy cập dễ dàng hơn tới nội dung Nhật Bản. Điều này càng đặc biệt khi có các dịch vụ trực tuyến như Netflix và Crunchyroll. Như kết quả tất yếu, nhiều sự quan tâm xoay quanh Nhật Bản đã tăng lên. Anime được coi như phương tiện quảng bá văn hóa Nhật Bản trong chính sách Cool Japan của chính phủ Nhật Bản với thế giới, đóng vai trò ngoại giao công chúng và ngoại giao văn hóa của Nhật Bản.
Phản ứng của người hâm mộ Các câu lạc bộ anime phát triển thành các hội chợ anime trong thập niên 1990 với tên gọi "anime boom", một giai đoạn đánh dấu sự gia tăng văn hóa đại chúng của anime. Những hội chợ này được dành riêng cho anime, manga và bao gồm các yếu tố như thi cosplay hay những khách mời từ công nghiệp anime. Cosplay là từ kết hợp giữa "costume play, hóa thân vào trang phục", không chỉ có duy nhất mỗi anime mà cosplay đã phổ biến trong các cuộc thi và dạ hội giả trang tại nhiều hội chợ anime. Ngôn ngữ và văn hóa Nhật Bản đã đi sâu vào cách dùng tiếng Anh qua truyền thông đại chúng, bao gồm otaku - một thuật ngữ tiếng Nhật không tốt và thường được sử dụng trong tiếng Anh để chỉ một người hâm mộ manga và anime. Một từ khác xuất hiện để miêu tả những người hâm mộ tại Hoa Kỳ là wapanese, nghĩa là những người da trắng mong muốn là người Nhật; hoặc sau này được biết như weeaboo để chỉ những người thể hiện một sự quan tâm mạnh mẽ trong tiểu văn hóa anime Nhật Bản, thuật ngữ này được bắt nguồn từ nội dung sỉ nhục trong các bài viết được đăng trên bảng tin công khai từ 4chan. Trong tiếng Tây Ban Nha từ thập niên 2010, gafotaku miêu tả nhóm người hâm mộ không theo thị hiếu đại chúng và hứng thú với các tác phẩm chất lượng. Tiểu văn hóa ACG (đôi khi gọi 'dongman zu' hoặc 'harizu) hình thành tại Trung Quốc vào thập niên 1980, tại Đài Loan sau giải trừ luật giới nghiêm năm 1987 và bùng nổ mạnh mẽ khi dỡ bỏ hạn chế nhập khẩu nội dung Nhật Bản vào năm 1994, tại Hồng Kông từ thập niên 1990. Những người hâm mộ thường tạo ra fan fiction và fan art, bao gồm bản vẽ đồ họa máy tính và video âm nhạc anime; ô tô itasha hoặc chế biến lại các công thức ẩm thực trong anime. Kể từ thập niên 2010, nhiều người hâm mộ sử dụng diễn đàn trực tuyến hay cơ sở dữ liệu như MyAnimeList để thảo luận anime và đánh dấu tiến trình xem phim của riêng họ. Cộng đồng người hâm mộ thường sử dụng thuật ngữ riêng, tên sách tranh hoặc tựa hoạt hình ưa thích, các bài luận hoặc phê bình điện ảnh phổ biến, sự hiểu biết tiểu văn hóa độc đáo này khiến người bên ngoài mang cảm giác của người mù chữ. 'Niềm vui anime' của người hâm mộ thường liên quan đến phá vỡ giới hạn chủ đề tính dục và niềm vui đối kháng từ văn hóa giới trẻ nhằm trải nghiệm sự tự do tạm thời, trốn tránh tạm thời các quy phạm xã hội. Anime ảnh hưởng mạnh mẽ bởi "sự sụp đổ các siêu tự sự và những lời hứa xã hội hiện đại, xã hội đã bị bỏ lại một khoảng trống giá trị"; anime lấp khoảng trống đó "để trấn an những người trẻ bị cô lập ngày nay, cung cấp một nơi ẩn náu cho chủ nghĩa hư vô và chủ nghĩa yếm thế hậu hiện đại". Tiếp cận sakuga qua các họa sĩ diễn hoạt khung chính, người hâm mộ tìm kiếm những phân đoạn hoạt họa tuyệt vời hơn là coi anime như một diễn giải về Nhật Bản (hoặc xã hội Nhật Bản), thừa nhận tính xuyên quốc gia của những người hoạt động trong công nghiệp anime.
Fansub hình thành tại Hoa Kỳ vào thập niên 1980, chia sẻ phim qua thư điện tử và câu lạc bộ anime vào thập niên 1990; sau đó bùng nổ tải xuống từ website, mạng ngang hàng và IRC khi băng thông rộng xuất hiện. Các nội dung chia sẻ thường được thu lại từ truyền hình Nhật Bản hoặc từ đĩa phim Blu-ray hoặc từ dịch vụ stream bản quyền; sau đó đính kèm phụ đề vào phim và tải lên internet qua mạng ngang hàng. Nhiều người hâm mộ chọn bản sao từ fansub và không mua đĩa phim từ các nhà phân phối dù biết vi phạm bản quyền do chi phí băng đĩa tại gia, giá cước vận chuyển quốc tế, tựa anime chưa được cấp phép, yếu tố bản dịch chính xác. Sản phẩm của fansub và tác phẩm nguyên tác là quan hệ hàng hóa bổ sung: sản phẩm của fansub giúp phổ biến tác phẩm nguyên tác và cạnh tranh với tác phẩm nguyên tác. Nhiều người hâm mộ từ fansub đã trở thành dịch giả tại các hãng phân phối anime. Khảo sát năm 2005 của Thời báo Hoàn Cầu và Sina với 8.782 người Trung Quốc sinh sau thập niên 1980 quan tâm đến Nhật Bản, 82,81% tiếp xúc hàng ngày với anime và manga. Theo thống kê của iResearch Consulting Group từ 33.000 người tại Trung Quốc năm 2016, 82% thường xuyên xem anime. Khảo sát năm 2015 từ 339 người hâm mộ tại Nhật Bản của Mynavi cho rằng anime truyền cảm hứng nghề nghiệp và để lại ấn tượng tích cực lâu dài, nhưng cũng có thể khiến cuộc sống một số tệ đi. Tháng 3 năm 2019, Crunchyroll trình chiếu loạt phim tài liệu "Fan Chronicles [Biên niên sử người hâm mộ]" nói về cuộc sống của những người hâm mộ tiêu biểu được truyền cảm hứng từ anime.
Hành hương anime
Đầu thập niên 1990, người hâm mộ Nhật Bản và du khách nước ngoài du lịch văn hóa đại chúng đến các địa điểm được hoạt hình Nhật Bản lấy bối cảnh. Xu hướng hành hương anime thập niên 2000 được cho là bắt đầu từ phim Onegai ☆ Teacher (dựa trên bối cảnh khu dân cư tại thành phố Hamamatsu thuộc tỉnh Shizuoka và nhiều người hâm mộ đã đến thăm địa điểm này, một đề nghị kiềm chế hành hương đã được đăng trên các tạp chí và fansite năm 2005), sau đó gia tăng với Lucky Star, Suzumiya Haruhi, K-On!, Kem đá, Love Live!, Your Name – Tên cậu là gì?. Hành hương anime hình thành do các xưởng phim hoạt hình Nhật Bản sử dụng hình ảnh kỹ thuật số các địa điểm thực tế cho hậu cảnh trong anime từ thập niên 2000. Những thường say mê tìm kiếm địa điểm thực tế và cố gắng xác định chính xác từng cảnh trong anime; việc tìm kiếm bối cảnh trong anime thường dựa vào các thảo luận blog cá nhân, bảng thông báo, dịch vụ mạng xã hội, bình luận trong đĩa Blu-ray, công cụ truy vấn dữ liệu. Cộng đồng butaitanbou (BTC) tăng từ sáu thành viên ban đầu lên tới vài trăm người trong 11 năm, tổ chức nhiều cuộc gặp mặt đều đặn và ghi nhận nỗ lực của thành viên bằng các giải thưởng. Người hâm mộ thường đăng các bài viết so sánh góc nhìn giống nhau giữa hình chụp màn hình anime và địa điểm bối cảnh thực tế; trong mỗi chuyến tham quan thường để lại lưu niệm như ema, ema có thể trở thành công cụ giao tiếp giữa các cá nhân với nhân vật anime và chính những người hành hương. Nhiều sự kiện truyền thống được tạo ra từ anime như "lễ hội Bonbori [lễ hội Đèn lồng giấy]" tại Yuwaku Onsen thuộc Kanazawa được tổ chức hàng năm dựa theo phim Hanasaku Iroha năm 2011, đạo diễn phim cho biết chính quyền thành phố đã đề nghị hãng phim tạo một lễ hội giả tưởng nhằm thúc đẩy kinh tế khu vực sau những thiệt hại từ đợt mưa vào năm 2008. Silver Spoon dựa theo bối cảnh đua ngựa Ban’ei và lịch sử nông nghiệp vùng Hokkaidō, được Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản trao tặng giải thưởng lớn tại 'Giải Nội dung Văn hóa Ẩm thực Nhật Bản', giúp thúc đẩy chiến lược 'Thung lũng ẩm thực Tokachi' từ năm 2011. Năm 2010, Cơ quan Xúc tiến Du lịch Nhật Bản (JNTO) đã xuất bản ấn phẩm 'hướng dẫn du lịch anime Nhật Bản' giới thiệu các địa điểm liên quan đến anime. Năm 2013, công ty DIP ra mắt ứng dụng "bản đồ hành hương" với 2.000 địa điểm bối cảnh, Sony ra mắt ứng dụng Butai Meguri hướng dẫn tham quan 70 địa điểm kết hợp thực tế tăng cường (AR) và hệ thống định vị toàn cầu (GPS). Tựa sách 'Anime Tanbou: Seichi Junrei Guide' [Du lịch anime: Hướng dẫn hành hương thánh địa] xuất bản năm 2014, sách tổng hợp các địa điểm tại Nhật Bản được minh họa trong 150 anime. Năm 2016, Hiệp hội Du lịch Anime thành lập dựa trên sự hợp tác của Kadokawa Dwango, JTB Corp, Japan Airlines, Tập đoàn Sân bay quốc tế Narita nhằm lựa chọn 88 địa điểm hành hương anime thông qua kết quả khảo sát từ người hâm mộ, 88 địa điểm hành hương anime được mô phỏng theo 88 ngôi đền trong hành hương Shikoku. Kết quả bầu chọn "88 địa điểm hành hương anime" năm 2017 từ Nhật Bản và 60% từ nước ngoài bị chỉ trích thiếu minh bạch, kết quả năm 2019 được bầu chọn từ 75% nước ngoài (Đài Loan, Trung Quốc, Hồng Kông, Hàn Quốc, Thái Lan). Tính đến năm 2019, Hiệp hội Du lịch Anime đã thành lập ba trung tâm thông tin tại Tokyo nhằm giới thiệu các địa điểm hành hương anime: tầng 88 Tòa nhà chính phủ Tokyo Metropolitan, cửa số 1 Sân bay quốc tế Narita, tầng hai tòa nhà Kadokawa Fujimi. Ngày 17 tháng 3 năm 2018, Kodokawa Shoten phát hành một sách hướng dẫn chính thức về 88 địa điểm hành hương anime của năm 2018. Du khách quốc tế hành hương văn hóa tới Nhật Bản phản ánh sự hình thành bản sắc xuyên quốc gia và giao thoa văn hóa, cho thấy du lịch quốc tế và bản sắc có liên quan chặt chẽ. Người hâm mộ liên tục đắm mình trong văn hóa đại chúng Nhật Bản, cảm giác quen thuộc với văn hóa Nhật Bản tạo nên mong muốn hoài niệm và thúc đẩy họ đi du lịch trải nghiệm Nhật Bản 'thực sự'. Địa điểm tham quan có thể được liên kết với văn hóa manga (Bảo tàng Ghibli, Comiket, Bảo tàng Manga quốc tế Kyoto), văn hóa giới trẻ (Akihabara, Harajuku, Shibuya) hoặc nơi người hâm mộ đã quen thuộc (tháp Tokyo, Đại học Tōkyō, Lumine).
Tác động văn hóa
Truy cập và phân phối nội dung do người dùng tạo từ anime cùng với sự phát triển của web 2.0 đã hình thành văn hóa tham gia, trong đó việc lạm dụng phụ đề (chú thích văn hóa Nhật Bản hoặc lộng ngữ tiếng Nhật trong anime) của fansub và các hãng phân phối thương mại được miêu tả như "một sản phẩm mã hóa của một nền văn hóa được giải mã bởi một nền văn hóa rất khác biệt". Lạm dụng phụ đề được khuyến khích bởi công nghệ băng đĩa, xu hướng hãng phân phối phát hành thương mại đồng thời các phiên bản địa phương hóa và phiên bản nguyên tác tiếng Nhật, vai trò trung tâm của người hâm mộ trong nhu cầu tìm hiểu văn hóa Nhật Bản. Ngày 19 tháng 3 năm 2008, bộ trưởng Bộ ngoại giao Nhật Bản Kōmura Masahiko bổ nhiệm nhân vật Doraemon là đại sứ anime. Trong bối cảnh chính trị tương đối khép kín của Trung Quốc (hòa hợp xã hội và tuân theo chính quyền), giới trẻ Trung Quốc tiêu thụ các sản phẩm văn hóa Nhật Bản đã thúc đẩy sự hình thành các ý thức hệ và giá trị mới (tự do, công lý, du lịch Nhật Bản, học tiếng Nhật) nhưng vẫn giữ quan điểm dân tộc trong quan hệ Nhật Bản–Trung Quốc. Tiếng Trung Quốc có các từ mượn gốc tiếng Nhật bắt nguồn từ anime thông qua dịch vụ mạng xã hội dần trở nên phổ biến trên truyền hình, đài phát thanh, báo chí, các phương tiện truyền thông, đời sống hàng ngày; từ mượn tiếng Nhật giúp giới trẻ Trung Quốc thách thức truyền thống và làm nổi bật sự tồn tại của họ, xu hướng bắt kịp thị hiếu, đa dạng thẩm mỹ và giới tính. Địa phương hóa toàn cầu anime tại Trung Quốc thể hiện qua tạo hình châm biếm nhân hóa moe Nương Đập Lục () của người dùng internet đối với phần mềm kiểm soát nội dung internet trên máy tính Hộ tống Thanh niên Đập Lục () năm 2009, giễu nhại bằng cách sử dụng văn hóa đại chúng Nhật Bản mà chính phủ Trung Quốc đang cố kiềm chế. Các trò chơi có chủ đề anime mới phát hành chiếm gần 40% doanh thu công nghiệp trò chơi Trung Quốc trong quý ba năm 2018. Dựa vào dữ liệu của Trung tâm khảo sát xã hội tổng hợp Nhật Bản (JGSS) giai đoạn 2000-2012 cho thấy xu hướng cha mẹ người Nhật nhiều khả năng xem anime cho dù không hứng thú khi họ có con dưới 12 tuổi. Cục giao thông thành phố Kyōto sử dụng hình ảnh linh vật anime trên hệ thống tàu điện ngầm Kyoto vào năm 2011 và mở rộng toàn bộ Nhật Bản vào năm 2013 nhằm tăng số lượng hành khách, một tiểu thuyết và một anime được truyền cảm hứng từ hình ảnh các linh vật. Toyo Suisan sử dụng mã âm thanh hướng dẫn nấu ăn được seiyū lồng tiếng theo phong cách anime in trên mặt sau gói ramen thô vào năm 2014 và năm 2015, doanh số bán ramen thô của Toyo Suisan năm 2015 tăng 7% so với cùng kỳ và trái ngược với mức giảm 7% của thị trường; Snow Brand Milk Products minh họa nhân vật anime lên gói cà phê Yukijirushi từ năm 2013 giúp chấm dứt suy giảm doanh số 3-4% mỗi năm trước khi chiến lược bắt đầu; Lotte xây dựng chiến lược "Gum Kare" với hình minh họa nhân vật anime trên kẹo cao su nhằm tìm kiếm ảnh hưởng trên truyền thông đại chúng. Nhiều công ty có xu hướng xúc tiến chiến lược truyền thông thương hiệu bằng các đoạn phim quảng cáo theo phong cách anime hoặc chọn linh vật nhân hóa moe phong cách anime như Microsoft (Aizawa Inori, Aizawa Hikaru). Ngày 4 tháng 5 năm 2018, Coca-Cola bán chai minh họa các nhân vật của anime Ohenro' tại Shikoku. Hoa hậu Hoàn vũ Nhật Bản Kato Yuumi tại Hoa hậu Hoàn vũ 2018 trình diễn trang phục dân tộc kunoichi màu đỏ truyền thống và sau đó biến đổi thành nữ chiến binh Thủy thủ Mặt Trăng. Tháng 11 năm 2018 đến tháng 5 năm 2019, Bảo tàng Phong cách sống thời kỳ Chiêu Hòa tổ chức triển lãm mô phỏng lại lối sống và bối cảnh xã hội Nhật Bản trong Góc khuất của thế giới. Văn hóa kawaii trong anime dẫn đến góc nhìn sai khác về nữ sinh Nhật Bản nhút nhát, ngây thơ, trẻ con trong văn hóa đại chúng phương Tây.
Hoạt hình phong cách anime
Một trong những điểm chính làm anime khác biệt so với một số ít hoạt hình phương Tây là tiềm năng thể hiện nội dung cảm xúc. Một sự kỳ vọng các khía cạnh hấp dẫn thị giác hoặc hoạt họa chỉ dành cho trẻ em được đặt qua một bên, khán giả có thể nhận được các chủ đề bao gồm bạo lực, khổ sở, tính dục, đau đớn, cái chết có thể trở thành các yếu tố kể chuyện được dùng trong anime nhiều như các loại hình truyền thông khác. Tuy nhiên, khi chính việc anime trở lên ngày càng phổ biến, phong cách anime chắc chắn là chủ đề của các tác phẩm sáng tạo nghiêm túc và châm biếm. Các tập phim Chinpokomon và Good Times with Weapons của South Park, Perfect Hair Forever của Adult Swim, Kappa Mikey của Nickelodeon là những ví dụ miêu tả châm biếm trào phúng về văn hóa Nhật Bản và anime, nhưng các dụ pháp anime cũng bị châm biếm bởi một số anime như KonoSuba.
Truyền thống chỉ quan niệm các tác phẩm Nhật Bản mới được coi là anime, nhưng một vài tác phẩm đã làm dấy lên tranh luận về sự xóa nhòa ranh giới giữa anime và hoạt hình Hoa Kỳ, ví dụ như sản xuất theo phong cách anime người Mỹ là Avatar: The Last Airbender và The Boondocks. Các tác phẩm mang phong cách anime này dần được định nghĩa như hoạt hình chịu ảnh hưởng từ anime trong một nỗ lực phân loại tất cả phim phong cách anime mà không có nguồn gốc từ Nhật Bản. Một số tác giả của những tác phẩm tham chiếu đến anime như một nguồn cảm hứng, ví dụ như nhóm nhà làm phim người Pháp chuyển đến Tokyo để hợp tác với một nhóm nhà làm phim người Nhật nhằm thực hiện Ōban Star-Racers. Khi anime được định nghĩa như một 'phong cách' hơn là một sản phẩm quốc gia, mở ra khả năng anime sẽ được sản xuất tại các quốc gia khác. Định nghĩa anime như phong cách đã gây ra tranh luận giữa những người hâm mộ; Oppliger John cho rằng "Việc nhấn mạnh tham chiếu đến nghệ thuật gốc Hoa Kỳ giống như 'anime' hoặc 'manga' Nhật Bản cướp đi những tác phẩm mang bản sắc văn hóa của nó", ý kiến khác cho rằng anime là hoạt hình được sản xuất, trình chiếu và định hướng tới khán giả người Nhật.
Một bộ phim truyền hình hợp tác sản xuất giữa Philippines-U.A.E là Torkaizer, được lồng tiếng như 'anime đầu tiên của Trung Đông', hiện đang trong quá trình sản xuất và tìm kiếm nguồn tài trợ. Phim truyền hình hợp tác Philippines-Nhật Bản (TV Asahi thiết kế nhân vật và giám sát, Synergy88 viết kịch bản và chế tác) là Barangay 143 được coi như 'anime đầu tiên của Philippines' nhằm hướng đến thị trường Philippines. Netflix đã sản xuất nhiều anime truyền hình khi hợp tác với các xưởng phim hoạt hình Nhật Bản, do đó đang đưa ra một kênh phân phối nhiều tiếp cận hơn cho thị trường phương Tây.
Loạt phim RWBY phát hành trên website do công ty Rooster Teeth có trụ sở tại Texas sản xuất theo phong cách nghệ thuật anime và được miêu tả là 'anime' theo nhiều nguồn. Ví dụ trong tiêu đề ở một trong các bài báo của Adweek đã miêu tả loạt phim là "anime làm bởi người Mỹ", trong tiêu đề khác của HuffPost đã miêu tả loạt phim đơn giản là 'anime' mà không đề cập đến nguồn gốc quốc gia của loạt phim. Năm 2013, tác giả của RWBY là Monty Oum nói 'một số người chỉ tin rằng thứ giống Scotland cần được làm tại Scotland, một công ty Mỹ không thể làm anime. Tôi nghĩ rằng đó là một cách hẹp hòi để nhìn nó. Anime là một hình thức nghệ thuật, việc nói rằng chỉ duy nhất một quốc gia có thể làm được nghệ thuật này là sai lầm'. RWBY đã được phát hành tại Nhật Bản với một phiên bản lồng tiếng Nhật, tổng giám đốc điều hành công ty Rooster Teeth là Matt Hullum bình luận 'đây là lần đầu tiên bất kỳ anime làm bởi người Mỹ được bán ra tại Nhật Bản. Nó chắc chắn thường thực hiện theo cách thức khác xung quanh, chúng tôi thực sự hài lòng về điều đó'.
Nhượng quyền truyền thông
Trong giải trí và văn hóa Nhật Bản, truyền thông hỗn hợp là một chiến lược phân tán nội dung qua nhiều đại diện: truyền thông phát sóng khác nhau, công nghệ trò chơi, điện thoại di động, đồ chơi, công viên giải trí và các cách thức khác. Đó là một thuật ngữ tiếng Nhật để chỉ một nhượng quyền đa truyền thông. Thuật ngữ này được lưu hành vào cuối thập niên 1980, nhưng khởi nguồn của chiến lược có thể được bắt nguồn từ thập niên 1960 với sự tăng trưởng nhanh của anime kết hợp của truyền thông cùng hàng hóa thường dùng.
Một số nhượng quyền truyền thông anime đạt được sự nổi tiếng toàn cầu đáng kể và thuộc danh sách nhượng quyền truyền thông có doanh thu cao nhất. Pokémon là nhượng quyền truyền thông có doanh thu cao nhất mọi thời đại, cao hơn Chiến tranh giữa các vì sao và vũ trụ điện ảnh Marvel. Các nhượng quyền truyền thông anime khác cũng thuộc nhóm 20 nhượng quyền truyền thông có doanh thu cao nhất toàn cầu bao gồm Hello Kitty, Gundam, Dragon Ball, trong nhóm 30 bao gồm Hokuto no Ken, Yu-Gi-Oh!, Shin Seiki Evangelion.
Điện ảnh toàn cầu
Phong cách anime được sử dụng trong điện ảnh Hoa Kỳ như Kill Bill, The Animatrix. Ma trận được thừa nhận ảnh hưởng từ hoạt hình Nhật Bản Ninja Scroll và Akira, đặc biệt chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ Ghost in the Shell. Ghost in the Shell được thừa nhận tạo nguồn cảm hứng cho James Cameron trong Avatar; hoặc được tham chiếu trong A.I. Artificial Intelligence của Steven Spielberg và Surrogates của Jonathan Mostow. Perfect Blue của Kon Satoshi đã được thừa nhận ảnh hưởng đáng kể đến Aronofsky Darren (đạo diễn của Thiên nga đen và Nguyện cầu cho một giấc mơ); một số nhà phê bình điện ảnh và học giả đã tranh luận rằng Inception bị ảnh hưởng từ Paprika của Kon Satoshi bởi cốt truyện tương đồng, nhân vật tương đồng, các phân cảnh tương đồng. Stranger Things được thừa nhận chịu ảnh hưởng từ Akira và Elfen Lied. Một số phim chuyển thể từ anime của điện ảnh Hoa Kỳ trở thành bom xịt (như 7 viên ngọc rồng, Death Note, Vỏ bọc ma) trái ngược với những chuyển thể thành công (Vua tốc độ, Alita: Thiên thần chiến binh), nguyên nhân một phần bởi các nhà làm phim người Mỹ không thực sự hiểu đầy đủ những điều hấp dẫn của nguyên tác và phóng tác cốt truyện, khác biệt về thanh điệu và diễn xuất cường điệu của anime. Blade Runner năm 1982 của Ridley Scott được Anime News Network cho rằng có ảnh hưởng đến nhiều loạt phim anime như Baburugamu Kuraishisu, Tenkū no Esukafurōne, Ghost in the Shell, Ergo Proxy, Witchi Hantā Robin, các phim của Watanabe Shinichirō.
Tại Việt Nam
Vào những năm 2000, anime được phát sóng chủ yếu trên các kênh truyền hình như HTV3, VTV2. Có một số bộ gắn liền với tuổi thơ của nhiều người Việt như Doraemon chú mèo máy đến từ tương lai, Thám tử lừng danh Conan, Lovely Complex - Rắc rối đáng yêu, Sakura - Thủ lĩnh thẻ bài,.... Hiện nay anime đã được phát trên nhiều nền tảng như FPT Play, Muse Việt Nam,...
Xem thêm
Light novel
Manga
Kính ngữ tiếng Nhật
Điện ảnh Nhật Bản''
Chú thích
Thư mục
Liên kết ngoài Tiếng Nhật Hiệp hội Hoạt hình Nhật Bản (AJA)
Hội Hoạt hình học Nhật Bản (JSAS)
Hiệp hội Tác giả hoạt hình Nhật Bản (JAniCA)
Hiệp hội Phần mềm Video Nhật Bản (JVA)
Tăng tốc Thương mại hoạt hình Tokyo
Japanese Anime Staff Wiki. Danh sách nhà làm phim hoạt hình Nhật Bản.
Sakuga Wiki. Bảng tra cứu hoạt họa sakuga tại Nhật Bản.Tiếng Anh'''
Anime News Network Encyclopedia. Bách khoa toàn thư danh sách anime của Anime News Network.
Animators Corner . Bách khoa từ điển danh sách tra cứu các họa sĩ diễn hoạt Nhật Bản.
Sakugabooru. Bách khoa tra cứu trích đoạn ngắn về kỹ thuật hoạt họa sakuga.
Bài cơ bản dài
Giới thiệu năm 1917
Anime
Phát minh của Nhật Bản
Thuật ngữ anime và manga
|
26447
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90i%E1%BB%87n%20Bi%C3%AAn%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
Điện Biên (định hướng)
|
Điện Biên là một tỉnh thuộc vùng Tây Bắc Bộ Việt Nam. Ngoài ra, tên gọi Điện Biên còn có thể chỉ:
Thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên
Huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên
Phường Điện Biên, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội
Phường Điện Biên, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa
Phủ Điện Biên: một phủ thuộc tỉnh Hưng Hóa dưới thời nhà Nguyễn; nay tương ứng với tỉnh Điện Biên và một phần các tỉnh Lai Châu, Sơn La
Thị trấn cũ Điện Biên, thị trấn huyện lỵ huyện Điện Biên, tỉnh Lai Châu; nay tương ứng với một phần thành phố Điện Biên Phủ
Xem thêm
Điện Biên Phủ (định hướng)
Huyện Điện Biên Đông
Thị trấn Điện Biên Đông
|
26448
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BB%95%20Long
|
Cổ Long
|
Cổ Long (1938 - 1985; tiếng Trung: 古龍) là nhà văn Đài Loan viết tiểu thuyết võ hiệp nổi tiếng. Ông cũng là nhà biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn. Các tác phẩm của ông đã được chuyển thể nhiều lần trên phim truyền hình cũng như điện ảnh.
Tiểu sử
Cổ Long tên thật là Hùng Diệu Hoa (熊耀華). Có tài liệu nói ông sinh tại Hồng Kông, có tài liệu nói ông sinh ở Trung Hoa lục địa. Tuy nhiên, quê quán (tổ tịch) của ông là ở Giang Tây (江西, Jiangxi), Trung Quốc. Ông là một tác giả tiểu thuyết kiếm hiệp nổi tiếng mọi thời đại, là người khởi nguồn cho dòng tiểu thuyết kiếm hiệp tân phái.
Năm 1952, Cổ Long theo cha mẹ di cư sang Đài Loan sinh sống. Thời thơ ấu, Cổ Long luôn cảm thấy lẻ loi, cô độc. Do hoàn cảnh khó khăn, ông thường phải chứng kiến cảnh cha mẹ bất hòa, gây gổ với nhau. Sau đó, gia đình tan vỡ, cha mẹ chính thức ly dị. Bởi lý do đó mà ông bỏ nhà, sống một mình tại trấn Thụy Phương, ở ngoại ô quận Đài Bắc (台北縣瑞芳鎮), tự lực tìm cách sinh nhai và học hành. Ngay từ thuở nhỏ, Cổ Long đã đọc và rất yêu thích các tác phẩm võ hiệp cổ điển của Trung Quốc. Sau đó mấy năm, ông còn đọc thêm các bộ tiểu thuyết cận đại của Nhật Bản, các tác phẩm văn học của Tây phương.
Cổ Long bắt đầu viết văn từ rất sớm. Từ khi học năm thứ hai ở Bộ Sơ trung, Trường Cao cấp Trung học, thuộc Đại học Sư phạm Đài Loan 師大附中初中部 (tương đương lớp 7 ở Việt Nam), ông đã bắt đầu phiên dịch các tác phẩm văn học ngắn của Tây phương. Bản dịch đầu tiên của ông gửi đăng ở tạp chí Thanh niên Tự do (自由青年) và kiếm được một ít nhuận bút. Tuy nhiên, sự nghiệp văn chương của Cổ Long chính thức bắt đầu là vào thời gian cuối cấp II. Năm 1956, Cổ Long đã viết bài văn "Từ miền Bắc đến miền Nam" (從北國到南國) gửi đăng ở tạp chí "Ánh mai" (tức "Thần quang" 晨光) do Ngô Khải Vân chủ biên (吳凱雲主編) và nhận được khoản nhuận bút kha khá. Bắt đầu từ đó, Cổ Long tiếp tục viết thêm nhiều bộ tiểu thuyết và văn xuôi, tuy nhiên các tác phẩm thuở ấy chỉ thuần về văn học và chủ yếu là viết về tình yêu nam nữ.
Sau khi tốt nghiệp Cấp III tại trường Trung học Thành Công (成功中學), năm 1957, Cổ Long thi đậu vào Trường Cao đẳng dân lập chuyên khoa Anh ngữ "Đạm Giang" (淡江私立高等英語專科學校, trường này thành lập từ năm 1950, đến 1980 được nâng cấp thành Trường Đại học Đạm Giang, 淡江大學). Tuy nhiên, sang năm thứ hai thì Cổ Long nghỉ học, chính thức sống bằng nghề viết văn.
Năm 1960, qua sự động viên và ủng hộ của bạn bè, Cổ Long đã viết bộ Thương khung thần kiếm (蒼穹神劍). Đây là bộ truyện mở đầu cho sự nghiệp tiểu thuyết võ hiệp của ông, vì vậy, kỹ thuật viết không hay, nó giống như là thuật lại sơ lược một câu chuyện.
Trong thời gian 1960-1964, Cổ Long viết được hơn chục bộ truyện võ hiệp nhưng hầu hết đều ở mức trung bình. Chỉ đến năm 1965 thì sự nghiệp mới bắt đầu chín mùi, lúc đó ông có thể viết cùng lúc hai ba bộ tiểu thuyết với nội dung đặc sắc và luôn giao bản thảo sớm hơn thời gian quy định. Mười năm sau, không biết có phải sức khoẻ suy thoái do tửu sắc mà các tác phẩm võ hiệp của ông dần dần mất đi những ý tưởng độc đáo (năm 1977 ông đã phát hiện mình mắc bệnh viêm gan, sức khoẻ ngày càng suy giảm nhưng vẫn cứ tiếp tục uống rượu). Năm 1980, trong khi ăn tiệc ở nhà hàng "Ngâm Tùng Các" (吟松阁), không biết ông gây xích mích rồi ẩu đả như thế nào mà bị người ta chém. Vết thương khá nặng, làm cho ông mất máu khá nhiều, nghe nói đến 2 lít. Khoảng thời gian đó đến cuối đời, Cổ Long bắt đầu sa sút, luôn nhận tiền nhuận bút trước của các nhà xuất bản nhưng thường giao bản thảo trễ hạn. Hoặc tác phẩm mở đầu thì khá nhưng về sau có lẽ do viết tháu để nộp bài cho kịp, vì vậy mà câu chuyện đầu voi đuôi chuột (Hổ đầu xà vĩ). Có đôi lúc Cổ Long lại bỏ dỡ nửa chừng, nhà xuất bản buộc phải tìm những Sinh viên Đại học có khả năng để viết tiếp phần cuối. Lúc ấy trên lĩnh vực tiểu thuyết võ hiệp xuất hiện bút danh "Thượng Quan Đỉnh" (上官鼎), đó tuyệt không phải là bút danh của một nhà văn nào mà chính là nhiều sinh viên Đài Loan, người này tiếp nối người kia để viết bổ sung cho tác phẩm của Cổ Long. Việc làm này đưa đến một sự kiện dở khóc dở cười là ở tác phẩm "Kiếm độc Mai Hương" (劍毒梅香), Thượng Quan Đỉnh viết phần cuối càng về sau càng trật bản lề, dẫn đến việc độc giả lo âu nghiêm trọng. Ngay cả Cổ Long, khi xem lại phần viết thêm của Thượng Quan Đỉnh cũng cảm thấy muốn té xỉu. Để sửa sai, Cổ Long phải chấp bút viết lại phần cuối của bộ sách này.
Trong suốt cuộc đời của Cổ Long, có lẽ bị ảnh hưởng từ gia đình mà ông rất sợ cô độc. Bởi thiếu thốn tình yêu thương trong gia đình, ông giao thiệp với bạn bè rất rộng và đối xử với họ rất tốt. Ông uống rượu nhiều và thường kết giao với bạn bè qua bàn rượu, vì vậy mà quan hệ bạn bè của Cổ Long khá phức tạp. Những người bạn cùng học với ông ở Trường chuyên khoa Anh ngữ "Đạm Giang" kể lại rằng ông có quan hệ tốt với bạn học và cũng rất quý trọng tình bạn. Vì vậy mà trong rất nhiều tác phẩm của Cổ Long, tên của các bạn học thời ấy đã được Cổ Long sử dụng làm tên nhân vật, thậm chí là mô tả tướng mạo, tính cách đều rất sát với con người thật.
Cổ Long yêu gái đẹp và quan hệ với rất nhiều cô. Ngay từ thời học sinh đã sống chung với vũ nữ Trịnh Lợi Lợi (鄭莉莉), có với cô này một đứa con trai. Rồi ông lại say mê vũ nữ Diệp Tuyết (葉雪), cũng có với cô này một đứa con trai. Sau đó, ông kết hôn với Mai Bảo Châu, là nữ sinh học Cấp III (高中生梅寶珠). Do không chịu được tính khí của Cổ Long, dù đã có với ông một đứa con trai, Mai Bảo Châu đã ly hôn với ông. Cuối cùng, Cổ Long kết hôn với Vu Tú Linh (于秀玲) và ở với nhau cho đến cuối đời. Ngoài những mối tình chính thức kể trên, Cổ Long cũng âm thầm quan hệ với nhiều người phụ nữ khác.
Tương truyền bút danh "Cổ Long" của ông cũng có liên quan đến một người con gái. Trong khi theo học tại Trường chuyên khoa Anh ngữ "Đạm Giang", lớp của ông có tất cả là 36 học sinh, tuy nhiên trong số đó chỉ có 4 nữ. Trong số 4 nữ sinh ấy, có một cô tên "Cổ Phụng" là đẹp nhất nhưng lại tỏ ra cô độc, rất hiếm khi chuyện trò với các bạn cùng học. Các bạn trai trong lớp thường hay trêu chọc cô gái này, họ đã đặt cho cô ta biệt hiệu là "Chim" (鳥). Hùng Diệu Hoa cảm thấy yêu thích Cổ Phụng, vì vậy mà chủ động tiếp cận, làm quen. Tuy nhiên, với vóc người lùn thấp (khoảng 1,56 mét), đầu thì to như quả dưa, miệng rộng, mắt hí (các bạn học đặt cho Hùng Diệu Hoa biệt hiệu "Đầu to" 大頭), Cổ Phụng không thèm để mắt đến anh chàng này. Sau đó một thời gian, cha của Cổ Phụng qua đời. Hùng Diệu Hoa hay được tin, mặc dù lúc ấy đang mưa to như thác đổ, cũng vội tìm đến nhà Cổ Phụng để an ủi. Lúc Hùng Diệu Hoa đến nhà thăm viếng, vì Cổ Phụng không có người thân nào bên cạnh nên rất xúc động, sà vào lòng của anh ta mà khóc nức nở. Hùng Diệu Hoa cũng liên tưởng đến hoàn cảnh đáng thương của gia đình mình nên cùng khóc theo cô nàng. Lát sau, Cổ Phụng bớt đi đau thương thì chợt thấy mình đang tựa vào lòng của Hùng Diệu Hoa, vì vậy mà vội xê người ra và lên tiếng mời Hùng Diệu Hoa rời khỏi nhà mình. Hùng Diệu Hoa cố gắng giãi bày, nói rõ tình cảm của mình đối với Cổ Phụng là chân thành và sâu sắc, tuy nhiên Cổ Phụng vẫn không chấp nhận. Hùng Diệu Hoa bèn lập lời thề là nếu không được sống chung với Cổ Phụng, ông sẽ làm cho cô ta mãi mãi nhớ đến mình. Từ đó, Hùng Diệu Hoa bắt đầu sử dụng bút danh "Cổ Long" (Không rõ có phải vì câu chuyện này mà Hùng Diệu Hoa bỏ học vào năm thứ hai ở Trường chuyên khoa Anh ngữ "Đạm Giang").
Khoảng thời gian 1984-1985, sức khoẻ của Cổ Long sa sút trầm trọng. Ông mất vào lúc 18 giờ 3 phút ngày 21 tháng 9 năm 1985 vì biến chứng của bệnh xơ gan, làm giãn vỡ tĩnh mạch thực quản, gây xuất huyết trầm trọng. Trong đám tang của Cổ Long, những người phụ nữ từng quen biết hoặc quan hệ với ông trước đây đều không có ai đến viếng (Người ta kể rằng: câu nói cuối cùng của Cổ Long trước lúc qua đời là "Sao chẳng có người bạn gái nào đến thăm tôi cả?"). Lúc hạ huyệt, bạn bè của ông lần lượt đem rượu đến đặt bên quan tài. Có lẽ họ đã bàn bạc với nhau từ trước, vì vậy mà người ta đếm được có tất cả 48 chai rượu loại XO (là loại rượu Cổ Long thích uống nhất khi còn sống), tương ứng với số tuổi mà Cổ Long hưởng dương (dựa theo chi tiết này thì Cổ Long sinh vào năm 1937).
Tác phẩm
Có tài liệu nói Cổ Long đã viết 82 tác phẩm, tuy nhiên con số này bao gồm cả những truyện "giả" Cổ Long (của tác giả khác nhưng lấy bút danh Cổ Long), hoặc Cổ Long nhờ người khác viết cho kịp giao nhà xuất bản. Khi biên tập bộ Cổ Long tác phẩm tập, Hội Văn học võ hiệp Trung Quốc đã xác định con số 69 tác phẩm.
Tiểu thuyết của ông mang phong cách hiện đại, tính triết lý sâu sắc, rất khác biệt với các võ hiệp tiểu thuyết gia cùng thời và trước đó. Truyện của ông hoàn toàn hư cấu về thời gian và không gian nhưng tâm lý và quan hệ của các nhân vật trong truyện lại rất thật. Cổ Long không miêu tả kỹ về xuất thân và võ công mà xoay quanh nội tâm của các nhân vật, thường thì họ không phải những mẫu anh hùng điển hình toàn diện, mà là một con người có những mâu thuẫn, có tốt có xấu, có lúc sai có lúc đúng, ham mê tửu sắc giống như bản thân Cổ Long. Kết thúc truyện của ông đôi khi rất dở dang nhưng chính sự dở dang đó đã để lại nhiều suy nghĩ trong lòng người đọc, giúp chúng ta hiểu ra được nhiều điều. Bản niêu biểu truyện Cổ Long được trích từ "Cổ Long tác phẩm tập" của nxb Chu Hải.
Sự nghiệp sáng tác của ông tạm chia ra làm 3 giai đoạn đó là:
Cổ Long thời kỳ đầu (1960-1964): giai đoạn này Cổ Long còn chưa định hình được phong cách, không có gì đặc biệt.
Thời kỳ đỉnh cao (1965-1979): Giai đoạn này ông viết rất sung sức, có những tác phẩm, những nhân vật tuyệt vời đưa Cổ Long lên ngang hàng với Kim Dung trở thành 2 tác giả lớn nhất của làng tiểu thuyết võ hiệp.
Giai đoạn cuối (1980 đến cuối đời): Lúc này sức khoẻ của ông đã rất kém, hậu quả của lối sống phóng túng. Ông viết không còn nhiều ý tưởng, ảm đạm và thường không còn viết được trọn một tác phẩm nào.
(1960) Nguyệt dị tinh tà, 月異星邪 Yue Yi Xing Xie (Strange Moon, Evil Star) (Tên xuất bản trước 1975: Dị Kiếm khách)
(1960) Thương khung thần kiếm 蒼穹神劍 Cang Qiong Shen Jian'(Divine Sky Sword) - 10 hồi
(1960) Kiếm khí thư hương 劍氣書香 Jian Qi Shu Xiang (The Aura of the Sword and the Fragrance of the Book) (Tên xuất bản trước 1975: Đoạn kiếm thù) (1960) Tương phi kiếm 湘妃劍 Xiang Fei Jian Madame Xiang's Sword (1960) Kiếm độc mai hương 劍毒梅香 Jian Du Mei Xiang (The Poisonous Sword and the Fragrant Plum Blossom) (1960) Cô tinh truyện 孤星傳 Gu Xing Chuan (Lone Star Story) (1961) Thất hồn dẫn, 失魂引 Shi Hun Yin (Guide to Lost Souls) (1961) Du hiệp lục 遊俠錄 You Xia Lu (Wandering Hero) - 8 hồi
(1962) Hộ hoa linh, 護花鈴 Hu Hua Ling, tên cũ: Bất tử thần long, tên mới: Hộ hoa kiếm khách (1962) Thái hoàn ca 彩環曲 Cai Huan Qu - 12 hồi
(1962) Tàn kim khuyết ngọc Can Jin Que Yu (Broken Gold and Incomplete Jade) (1963) Phiêu hương kiếm vũ 飄香劍雨 Piao Xiang Jian Yu (Fragrant Sword Rain) (1963) Kiếm huyền lục Jian Xuan Lu (The Tale of a Remarkable Sword) (1963) Kiếm khách hạnh 劍客行 Jian Ke Hang (Swordsman's Honor) (1964) Hoán hoa tẩy kiếm lục 浣花洗劍錄 Huan Hua Xi Jian Lu (Sword Bathed in Flowers) (Tên xuất bản trước 1975: Ân thù kiếm lục) (1964) Tình nhân tiễn 情人箭 Qing Ren Jian (Lover's Arrow) (Tên xuất bản trước 1975: Xuyên tâm lịnh) (1965) Đại kì anh hùng truyện 大旗英雄傳 Da Qi Ying Xiong Chuan (The Legend of the Hero's Banner) - 44 hồi
(1965) Võ lâm ngoại sử 武林外史 Wu Lin Wai Shi (The Legend of Wulin) - 44 hồi (Tên xuất bản trước 1975: Võ lâm tuyệt địa) (1966) Danh kiếm phong lưu 名劍風流 Ming Jian Feng Liu (The Sword and the Exquisiteness) - 40 hồi (Tên xuất bản trước 1975: Huyết sử võ lâm) (1967) Tuyệt đại song kiêu 絕代雙嬌 Jue Dai Shuang Jiao (The Legendary Twins) (Tên xuất bản trước 1975: Giang hồ thập ác & Tuyệt đại song hùng) Sở Lưu Hương hệ liệt 楚留香系列 Chu Liu Xiang Xi Lie (The Adventures of Chu Liu Xiang) - viết trong thời gian 1968 - 1979
(1968) Huyết hải phiêu hương, 血海飄香 Xie Hai Piao Xiang (Fragrance in the Sea of Blood) - 27 hồi
(1969) Đại sa mạc, 大沙漠 Da Sha Mo (Vast Desert) - 36 hồi
(1970) Họa mi điểu, 畫眉鳥 Hua Mei Niao (The Thrush) - 36 hồi
(1970) Quỷ luyến hiệp tình, 鬼戀傳奇 Gui Lian Chuan Ji (The Legend of the Ghost Lover) - 12 hồi
(1971) Biên bức truyền kỳ 蝙蝠俠 Bian Fu Chuan Ji (Legend of the Bat) - 23 hồi
(1972) Đào hoa truyền kỳ, 桃花傳奇 Tao Hua Chuan Ji (Legend of the Peach Blossom) - 15 hồi
(1978) Tân Nguyệt truyền kỳ, 新月傳奇 Xin Yue Chuan Ji (Legend of the New Moon) - 12 hồi
(1979) Ngọ dạ lan hoa, 午夜蘭花 Wu Ye Lan Hua (Midnight-Blooming Orchid) - 14 hồi
Tiểu Lý Phi Đao hệ liệt: là nhóm truyện có chung các nhân vật: Lý Tầm Hoan, Diệp Khai, Phó Hồng Tuyết... gồm có
Đa tình kiếm khách vô tình kiếm, 多情劍客無情劍 Duo Qing Jian Ke Wu Qing Jian (Sentimental Swordsman, Ruthless Sword); 89 hồi
Biên thành lãng tử,邊城浪子 Bian Cheng Lang Zi
Cửu nguyệt ưng phi, Jiu Yue Ying Fei (Nine Moons, Flying Eagle)
Thiên nhai - Minh nguyệt - Đao, 天涯‧明月‧刀 Tian Ya Ming Yue Dao (Midnight, Bright Moon, Saber)
Biên thành đao thanh, Bian Cheng Dao Sheng (The Sound of the Sabre in a Border Town)
(1971) Hoan lạc anh hùng Huanle Yingxiong (A Merry Hero) (Tên xuất bản trước 1975: Giang hồ tứ quái)
(1971) Đại nhân vật, 大人物 Da Ren Wu (Great Hero) - 32 hồi (Tên xuất bản trước 1975: Cát bụi giang hồ)
(1973) Lưu tinh, hồ điệp, kiếm, 流星.蝴蝶.劍 Liu Xing. Hu Die. Jian (Meteor. Butterfly. Sword) - 29 hồi
(1973) Tiêu thập nhất lang, 蕭十一郎 Xiao Shi Yi Lang (The Eleventh Son)
(1976) Hoả Tính Tiêu thập nhất lang Huopin Xiao Shiyi Lang (The Sequel to The Deer-Carving Sabre aka Treasure Raiders)
(1975) Thất sát thủ, 七殺手 Qi Sha Shou (Seven Murderous Hands)
(1975) Kiếm, hoa, yên vũ, Giang Nam Jian, Hua, Yianyu, Jiang Nan (Sword, Flower, Misty Rain, South of the Yangzi River)
(1975) Tuyệt bất đê đầu 絕不低頭 Jue Bu Di Tou (The Proud)
(1975) Tam thiếu gia đích kiếm, 三少爺的劍 San Shao Ye De Jian (Third Young Master's Swords)
Thất chủng vũ khí hệ liệt, 七種武器系列 Qi Zhong Wu Qi Xi Lie' (The Seven Weapon Series) (1974) Trường sinh kiếm, 長生劍 Chang Sheng Jian (Immortal Sword) (1974) Bích ngọc đao, 碧玉刀 Bi Yu Dao (Jasper Saber) (1974) Khổng tước linh, 孔雀翎 Kong Que Ling (Peacock Tail Feathers) (1974) Đa tình hoàn, 多情環 Duo Qing Huan Passionate Ties (1975) Bá vương thương, 霸王槍 Ba Wang Qiang (The Overlord's Spear) (1976) Ly biệt câu 離別鉤 Li Bie Gou (Farewell, Enticement) (1978) Quyền đầu 拳頭 Quan Tou (Knucklehead) Lục Tiểu Phụng hệ liệt 陸小鳳系列 Liu Xiao Feng Xi Lie (The Adventures of Liu Xiao Feng) - viết trong thời gian 1976 - 1981
(1976) Lục Tiểu Phụng truyền kỳ 陸小鳳傳奇 Liu Xiao Feng Chuan Ji (The Legend of Liu Xiao Feng) (Tên xuất bản trước 1975: Lục Tiểu Phụng) (1976) Tú hoa đại đạo 繡花大盜 Xiu Hua Da Dao (Embroidery Bandit) (Tên xuất bản trước 1975: Phượng gáy trời nam) (1976) Quyết chiến tiền hậu 決戰前後 Jue Zhan Qian Hou (Before and After the Duel) (Tên xuất bản trước 1975: Tiền chiến, Hậu chiến) (1977) Ngân câu đổ phường 銀鉤賭坊 Yin Gou Du Fang (The Silver Hook Gambling House) (1977) U Linh sơn trang 幽靈山莊 You Ling Shan Zhuang (Stealth Mountain Village) (1978) Phụng vũ cửu thiên 鳳舞九天 Feng Wu Jiu Tian (The Phoenix Dances for Nine Days) (1981) Kiếm thần nhất tiếu 劍神一笑 Jian Shen Yi Xiao (Laughter of the Sword God) (1976) Bạch ngọc lão hổ 白玉老虎 Bai Yu Lao Hu (House of White Jade and Tigers) - 9 hồi
(1981) Bạch ngọc điêu long Bai Yu Diao Long (White-Jade Carved Dragon) (1976) Huyết anh vũ 血鸚鵡 Xie Ying Wu (Blood Parrot) (1976) Đại địa phi ưng 大地飛鷹 Da Di Fei Ying (Flight of the Great Eagle) (1977) Viên Nguyệt Loan Đao Yuan Yue Wan Dao (Full Moon Curved Sabre) (1977) Phi đao, hựu kiến phi đao 飛刀,又見飛刀 Fei Dao, You Jian Fei Dao (Flying Dagger, Again Meet Flying Dagger) - 12 hồi
(1977) Bích huyết tẩy ngân thương 碧血洗銀槍 Bi Xue Xi Yin Qiang (Silver Spear Cleansed in Blood), 1977 - 39 hồi
(1978) Anh hùng vô lệ 英雄無淚 Ying Xiong Wu Lei (Hero without Tears) (1978) Thất tinh long vương 七星龍王 Qi Xing Long Wang (Seven Star Dragon King) (1980) Phong linh trung đích đao thanh 風鈴中的刀聲 Feng Ling Zhong De Dao Sheng (Wind Chimes and the Sound of Saber) - 25 hồi
(1982) Nộ Kiếm Cuồng Hoa Nu Jian Kuang Hua (Furious Sword and Mad Flowers) (1982) Na nhất kiếm đích phong tình, 那一劍的風情 Na Yi Jian De Feng Qing (Swordplay) - 31 hồi
(1984) Đổ cục hệ liệt 賭局系列 Du Ju Xi Lie (Gambling House Series) - 34 hồi
Nhân vật
Thám hoa Lý Tầm Hoan
Tứ mi mao Lục Tiểu Phụng
Đạo soái Sở Lưu Hương
Tiêu Thập Nhất Lang
Tiểu Ngư nhi
Phim ảnh
Biên kịch
Độc Tí Song Hùng, Hồng Kông 1977 - Vương Vũ, Khương Đại Vệ Quyền Thương Quyết Đấu, Đài Loan 1977 - Vương Vũ Hồn Đao, Đài Loan 1977 - Mạnh Phi, Long Quân Nhi Hiệp Cốt Nhu Tình, Hồng Kông 1978 - Nhạc Hoa, Phan Nghinh Tử, Văn Giang Long Lãng Tử Nhất Chiêu, Hồng Kông 1978 - Trần Tinh, Chu Giang, Mao Anh Linh Lung Ngọc Thủ Kiếm Linh Lung, Đài Loan 1978 - Trương Linh, Điền Bằng Phỉ Thí Hồ Ly, Đài Loan 1979 - Hoàng Nhất Long, Lâm Y Oa Lãng Tử Khoái Đao, Đài Loan 1979 - Điền Bằng, Vương Quan Hùng Huyết Kỳ Biến, Đài Loan 1980 - Lưu Vĩnh, Tỉnh Lỵ, Từ Thiếu Cường Hàn Kiếm Cô Tinh, Hồng Kông 1980 - Hứa Thánh Vũ Thiên Nhai Quái Khách, Hồng Kông 1981 - La Liệt, Yến Nam Hi Tái Thế Anh Hùng, Đài Loan 1981 - Lưu Đức Khải, Lý Liệt Tình Nhân Khán Đao, Đài Loan 1984 - Trịnh Thiếu Thu, Lâm Thanh Hà, Nhĩ Đông Thăng Tiểu Lý Phi Đao hệ liệt
Truyền hình
Tiểu Lý Phi Đao, TVB 1978 - Chu Giang, Hoàng Nguyên Thân, Hoàng Hạnh Tú Tiểu Lý Phi Đao, Đài Loan 1982 - Vệ Tử Vân, Long Truyện Nhân Đa Tình Kiếm Khách, Trung Quốc 1990 - Vu Kiện, An Di. Tiểu Lý Phi Đao, TVB 1994 - Quan Lễ Kiệt, Phó Minh Hiến Tiểu Lý Phi Đao, Trung Quốc 1999 - Tiêu Ân Tuấn, Ngô Kinh Phi Đao Vấn Tình, Trung Quốc 2000 - Tiêu Ân Tuấn, Trương Diên Phi Đao Hựu Kiến Phi Đao, Trung Quốc 2003 - Trương Trí Lâm, Lâm Tâm Như Tiểu Lý Phi Đao, Trung Quốc 2007 - Hoàng Tử Đằng, Trần Hi Phi Đao Hựu Kiến Phi Đao, Trung Quốc 2015 - Lưu Khải Uy, Dương Dung, Nghiêm Khoan Điện ảnh
Đa Tình Kiếm Khách Vô Tình Kiếm, Shaw Brothers 1977 - Địch Long, Nhĩ Đông Thăng Ma Kiếm Hiệp Tình, Shaw Brothers 1982 - Địch Long, Nhĩ Đông Thăng, Phó Thanh Phi Đao Hựu Kiến Phi Đao, Shaw Brothers 1982 - Khương Đại Vệ, Từ Thiếu Cường Tiểu Lý Phi Đao, 1984 - Lăng Vân, Lý Tu Hiền, Lục Tiểu Phân Tiểu Lý Phi Đao Ngoại Truyện, 2000 - Vương Kiệt, Lê Tư Sở Lưu Hương hệ liệt
Truyền hình
Hiệp Đạo Phong Lưu, ATV 1979 - Phan Chí Văn, La Lạc Lâm, Vạn Tử Lương, Văn Tuyết Nhi, Ngụy Thu Hoa Sở Lưu Hương, TVB 1979 - Trịnh Thiếu Thu, Triệu Nhã Chi, Uông Minh Thuyên Tân Nguyệt Truyền Kỳ, Đài Loan 1982 - Trương Xung, Hiệp Văn Sở Lưu Hương: Biến Bức Truyền Kỳ, TVB 1984 - Miêu Kiều Vỹ, Ông Mỹ Linh, Nhậm Đạt Hoa Sở Lưu Hương Tân Truyện, Đài Loan 1985 - Trịnh Thiếu Thu, Mễ Tuyết, Cao Hùng Hương Soái Truyền Kỳ, Đài Loan 1995 - Trịnh Thiếu Thu, Dương Lệ Thanh Tây Môn Vô Hận, Hợp Tác 2000 - Tiêu Anh Tuấn, Lưu Ngọc Đình, Lưu Đức Khải Tân Sở Lưu Hương, Hợp Tác (Đài Loan - TVB) 2001 - Nhậm Hiền Tề, Lê Tư, Lâm Tâm Như Sở Lưu Hương Truyền Kỳ, Trung Quốc (CCTV) 2007 - Chu Hiếu Thiên, Hồ Tĩnh Sở Lưu Hương Tân Truyện, Trung Quốc (ChinaTV) 2012 - Trương Trí Nghiêu, Phàn Thiếu Hoàng Điện ảnh
Sở Lưu Hương, Shaw Brothers 1977 - Địch Long, Lăng Vân, Nhạc Hoa Biên Bức Truyền Kỳ, Shaw Brothers 1978 - Địch Long, Lăng Vân, Nhĩ Đông Thăng Chiết Kiếm Truyền Kỳ, Đài Loan 1979 - Điền Bằng, Dương Quân Quân Sở Lưu Hương Truyền Kỳ, Đài Loan 1980 - Lưu Đức Khải, Quy Á Lôi Sở Lưu Hương Và Hồ Thiết Hoa, Đài Loan 1980 - Lưu Đức Khải, Lý Kiếm Bình Tân Nguyệt Truyền Kỳ, Đài Loan 1980 - Mạnh Phi, Lăng Vân, Dương Quân Quân Hiệp Ảnh Lưu Hương, Đài Loan 1980 - Mạnh Phi, Long Quân Nhi
Đào Hoa Truyền Kỳ, Đài Loan 1980 - Mạnh Phi, Dương Quân Quân Trung Nguyên Nhất Điểm Hồng, Đài Loan 1980 - Lăng Vân, Long Quân Nhi, Bối Đế Sở Lưu Hương: U Linh Sơn Trang, Shaw Brothers 1982 - Địch Long, Cố Quán Trung Đạn Chỉ Thần Công, Đài Loan 1982 - Mạnh Phi, Triệu Nhã Chi, Khương Đại Vệ Phong Linh Trung Đích Đao Thanh, Đài Loan 1983 - Điền Bằng, Khương Đại Vệ, Triệu Nhã Chi Ngọc Kiếm Lưu Hương, Hồng Kông 1983 - Trịnh Thiếu Thu, Dư An An Sở Lưu Hương Đại Kết Cục, Đài Loan 1983 - Trịnh Thiếu Thu, Từ Thiếu Cường Ngọ Dạ Lan Hoa, Đài Loan 1983 - Trịnh Thiếu Thu, Lâm Thanh Hà Tiếu Hiệp Sở Lưu Hương, Hồng Kông 1993 - Quách Phú Thành, Khâu Phục Trinh, Trương Mẫn Tây Môn Vô Hận, Đài Loan 1993 - Mạnh Phi, Dương Quân Quân Đạo Soái Lưu Hương, Hồng Kông 2004 - Trương Đạt Minh, Mã Đức Chung Lục Tiểu Phụng hệ liệt
Truyền hình
Lục Tiểu Phụng, TVB 1976 - Lưu Tùng Nhân, Hoàng Nguyên Thân, Trịnh Thiếu Thu Lục Tiểu Phụng, Đài Loan 1984 - Vệ Tử Vân Lục Tiểu Phụng: Phụng Vũ Cửu Thiên, TVB 1986 - Vạn Tử Lương, Trần Tú Châu Lục Tiểu Phụng, Hợp Tác 2000 - Lâm Chí Dĩnh, Đào Hồng Lục Tiểu Phụng: Phụng Vũ Cửu Thiên, Hợp Tác 2001 - Tôn Diệu Uy, Lê Tư Lục Tiểu Phụng, Trung Quốc 2007 - Trương Trí Lâm, Trương Trí Nghêu Lục Tiểu Phụng Và Hoa Mãn Lâu, Trung Quốc 2014 - Lâm Phong, Trương Mông Điện ảnh
Tú Hoa Đại Đạo, Shaw Brothers 1978 - Lưu Vĩnh, Lăng Vân, Tỉnh Lỵ, Nhạc Hoa Quyết Chiến Tiền Hậu, Shaw Brothers 1981 - Lưu Vĩnh, Nhạc Hoa, Bạch Bưu Kiếm Thần Nhất Tiếu, Hồng Kông 1981 - Lưu Đức Khải Phụng Vũ Cửu Thiên, Đài Loan 1981 - Mạnh Phi, Dương Quân Quân Phụng Vũ Cửu Thiên, Đài Loan 1986 - Mạnh Phi, Dương Thu Sanh Quyết Chiến Tử Cấm Thành, Hồng Kông 2000 - Lưu Đức Hoa, Trịnh Y Kiện, Trương Gia Huy Tuyệt Đại Song Kiêu
Truyền hình
Tuyệt Đại Song Kiêu, Đài Loan 1977 - Hạ Linh Linh, Giang Minh, Bối Đế Tuyệt Đại Song Kiêu, TVB 1979 - Hoàng Nguyên Thân, Thạch Tú, Hoàng Hạnh Tú, Mễ Tuyết Tân Tuyệt Đại Song Kiêu, Đài Loan1986 - Dương Phán Phán, Hoàng Hương Liên Tuyệt Đại Song Kiêu, TVB 1988 - Lương Triều Vỹ, Lê Mỹ Nhàn, Ngô Đại Dung Tuyệt Đại Song Kiêu, Đài Loan 1999 - Lâm Chí Dĩnh, Tô Hữu Bằng Tuyệt Thế Song Kiêu, Đài Loan 2002 - Lâm Chí Dinh, Đường Thần Vũ Tiểu Ngư Nhi Và Hoa Vô Khuyết, Trung Quốc 2004 - Tạ Đình Phong, Trương Vệ Kiện, Phạm Băng BăngTân Tuyệt Đại Song Kiêu, Trung Quốc 2020 - Hồ Nhất Thiên, Trần Triết Viễn Điện ảnh
Ngọc Diện Hiệp, Shaw Brothers 1971 - Hà Lị Lị, Cao Viễn, Phan Nghinh Tử Tuyệt Đại Song Kiêu, Shaw Brothers 1979 - Phó Thanh, Ngũ Vệ Quốc, Văn Tuyết Nhi Tuyệt Đại Song Kiêu, Hồng Kông 1992 - Lưu Đức Hoa, Lâm Thanh Hà, Trương Mẫn Tiêu Thập Nhất Lang
Truyền hình
Tiêu Thập Nhất Lang, TVB 1978 - Tạ Hiền, Lý Tư Kỳ, Hoàng Thục Nghi Tiêu Thập Nhất Lang, TVB 2001 - Huỳnh Nhật Hoa, Hướng Hải Lam, Thiệu Mỹ Kỳ Tiêu Thập Nhất Lang, Hợp Tác 2002 - Ngô Kỳ Long, Chu Ân, Vu Ba Tiêu Thập Nhất Lang, Trung Quốc 2014 (Nghiêm Khoan, Can Đình Đình, Lý Y Hiểu, Chu Nhất Long) Điện ảnh
Tiêu Thập Nhất Lang, Shaw Brothers 1971 - Vi Hoằng, Kim Phi Tiêu Thập Nhất Lang, Shaw Brothers 1978 - Địch Long, Tỉnh Lỵ, Lưu Vĩnh Đại Kỳ Anh Hùng Truyện (Thiết Huyết Đại Kỳ Môn)
Truyền hình
Thiết Huyết Đại Kỳ Môn, Đài Loan 1986 - Mạnh Phi, Dương Lệ Tinh, Quan Thông Thiết Huyết Đại Kỳ Môn, TVB 1989 - Thạch Tú, Lưu Thanh Vân Đại Kỳ Anh Hùng Truyện, Trung Quốc 2007 - Đỗ Thuần, Thôi Âm Điện ảnh
Đại Kỳ Anh Hùng Truyện, Shaw Brothers 1982 - Địch Long, La Mãng, Liệu Lệ Linh Võ Lâm Ngoại Sử
Truyền hình
Võ Lâm Ngoại Sử, ATV 1977 - Vệ Tử Vân, Mễ Tuyết, Lưu Giang, Văn Tuyết Nhi Minh Nhật Thiên Nhai, Đài Loan 1983 - Giang Bân, Sử Lan Hoa, Tần Vỹ Võ Lâm Ngoại Sử, Đài Loan 1986 - Mạnh Phi, Trần Ngọc Mai, Lý Đại Lâm Võ Lâm Ngoại Sử, Trung Quốc 2001 - Huỳnh Hải Băng, Vương Diễm, Trương Diễm Diễm Điện ảnh
Khổng Tước Vương Triều, SB 1979 - Khương Đại Vệ, Tỉnh Lỵ, Dư An An Hoán Hoa Tẩy Kiếm Lục (Ân Thù Kiếm Lục)
Truyền hình
Hoán Hoa Tẩy Kiếm Lục, ATV 1979 - Trương Quốc Vinh, Văn Tuyết Nhi Kiếm Khiếu Giang Hồ, ATV 1996 - Lưu Tùng Nhân, Trang Tịnh Nhi, Từ Thiếu Cường Hoán Hoa Tẩy Kiếm Lục, Hợp Tác 2008 - Kiều Chấn Vũ, Tạ Đình Phong (người áo trắng), Chung Hân Đồng (Châu Nhi) Điện ảnh
Hoán Hoa Tẩy Kiếm Lục, Shaw Brothers 1982 - Lưu Vĩnh, Huỳnh Hạnh Tú, Nhạc Hoa, La Liệt Tình kiếm, Trung Quốc 2015 - Kiều Chấn Vũ, Tạ Đình Phong, Chung Hân Đồng Lưu Tinh Hồ Điệp Kiếm
Truyền hình
Liên Hoa Tranh Bá, 1993 - Lý Nam Tinh Lưu Tinh Hồ Điệp Kiếm, Trung Quốc 2003 - Trịnh Thiếu Thu, Đinh Tử Tuấn Lưu Tinh Hồ Điệp Kiếm, Trung Quốc 2010 - Trần Sở Hà, Vương Diễm, Trần Ý Hàm Điện ảnh
Lưu Tinh Hồ Điệp Kiếm, Shaw Brothers 1976 - Nhạc Hoa, Cốc Phong, Tỉnh Lỵ Tân Lưu Tinh Hồ Điệp Kiếm, Hồng Kông 1993 - Lương Triều Vỹ, Dương Tử Quỳnh, Chung Tử Đan Tam Thiếu Gia Đích Kiếm
Truyền hình
Tam Thiếu Gia Đích Kiếm, ATV 1977 - Vạn Tử Lương, Từ Thiếu Cường Tam Thiếu Gia Đích Kiếm, Trung Quốc 2000 - Hà Trung Hoa, Du Phi Hồng Điện ảnh
Tam Thiếu Gia Đích Kiếm, Shaw Brothers 1977 - Nhĩ Đông Thăng, Lăng Vân, Dư An An Thần kiếm (2016): đạo diễn Nhĩ Đông Thăng, sản xuất Từ Khắc, diễn viên Lâm Canh Tân, Giang Nhất Yến, Hà Nhuận Đông, Tưởng Mộng Tiệp
Danh Kiếm Phong Lưu
Danh Kiếm Phong Lưu, TVB 1979 - Hạ Vũ, Phan Nghinh Tử, Hoàng Mẫn Nghi Danh Kiếm Phong Lưu, Đài Loan 1981 - Vương Quan Hùng, Vu San Danh Kiếm Phong Lưu, Đài Loan 1985 - Dương Hoài Dân, Hiệp Phi, Trần Lệ Lệ Đại Nhân vật
Hồng Phấn Động Giang Hồ, Shaw Brothers 1981 - Mễ Tuyết, Trần Quan Thái Phàm Nhân Dương Đại Đầu, Hợp Tác 2003 - Ngô Kinh, Quý CầnĐại Nhân vật, Trung Quốc 2008 - Tạ Đình Phong, Nghiêm Ngật Khoan Anh Hùng Vô Lệ
Anh Hùng Vô Lệ, TVB 1979 - Hoàng Thụ Đường, Tạ Hiền Anh Hùng Vô Lệ, Shaw Brothers 1980 - Phó Thanh, Nhĩ Đông Thăng, Triệu Nhã Chi Anh Hùng Vô Lệ, TVB 1984 - Miêu Kiều Vỹ, Lưu Gia Linh Anh Hùng Vô Lệ, Trung Quốc 1995 - Tu Khánh, Lý Diễm Thu Lệ Ngân Kiếm, Hợp Tác 2006 - Tiêu Ân Tuấn, Thái Thiếu Phân Biên Thành Lãng Tử - Cửu Nguyệt Ưng Phi - Thiên Nhai Minh Nguyệt Đao
Truyền hình
Thiên Nhai Minh Nguyệt Đao, ATV 1985 - Phan Chí Văn, La Lạc Lâm Cửu Nguyệt Ưng Phi, ATV 1986 - Lưu Tùng Nhân, Trần Phục Sanh, Ngụy Thu Hoa Biên Thành Lãng Tử, TVB 1988 - Ngô Đại Dung, Tạ Ninh, Trương Thiệu Huy Thiên Nhai Minh Nguyệt Đao, Trung Quốc 2012 - Chung Hán Lương, Trần Sở Hà, Trương Mông, Khương Đại Vệ Tân Biên Thành Lãng Tử, Trung Quốc 2015 - Chu Nhất Long, Trương Hinh Dư Điện ảnh
Thiên Nhai Minh Nguyệt Đao, Shaw Brothers 1976 - Địch Long, La Liệt, Tỉnh Lỵ Nguyệt Dạ Trảm, Điện ảnh Đài Loan 1980 - Lăng Vân, Phan Nghinh Tử, Vương Quan Hùng Biên Thành Lãng Tử, Hồng Kông 1993 - Địch Long, Trần Huân Kỳ, Viên Vịnh Nghi, Trần Ngọc Liên, Viên Khiết Oánh, Trương Trí Lâm Viên Nguyệt Loan Đao
Viên Nguyệt Loan Đao, Shaw Brothers 1979 - Nhĩ Đông Thăng, Uông Minh Thuyên, Lâm Kiến Minh Đao Thần, TVB 1979 - Lưu Tùng Nhân, Triệu Nhã Chi, Hàn Mã Lợi Viên Nguyệt Loan Đao, TVB 1997 - Cổ Thiên Lạc, Ôn Bích Hà, Lương Tiểu Băng Tân Viên Nguyệt Loan Đao, Trung Quốc 2012 - Trương Trí Nghiêu, Dương Tuyết, Đường Quốc Cường Đại Địa Phi Ưng
Đại Địa Phi Ưng, Điện ảnh Đài Loan 1978, Vương Quan Hùng, Lăng Vân Đại Địa Phi Ưng, TVB 1992 - Ngô Trấn Vũ, Lê Mỹ Nhàn, Lưu Gia Huy Tác phẩm Khác
Tuyệt Bất Đê Đầu, Shaw Brothers 1977 - Tông Hoa, Lưu Vĩnh, Miêu Khả Tú Kiếm Hoa Yên Vũ Giang Nam, Điện ảnh Hồng Kông 1977 - Thành Long, Từ Phong, Đông Lâm Phiêu Hương Kiếm Vũ, Điện ảnh Đài Loan 1978 - Điền Bằng, Bạch Ưng Ly Biệt Câu, Điện ảnh Đài Loan 1980 - Vệ Tử Vân, Dư An An Kiếm Khí Tiêu Tiêu Khổng Tước Linh, Điện ảnh Đài Loan 1980 - Điền Hạc, Tôn Gia Lâm Huyết Anh Vũ, Shaw Brothers 1981 - Bạch Bưu, Lương Trân Ni, Lưu Vĩnh Du Hiệp Trương Tam Phong (Đại Nhân vật Cải Biên), ATV 1981 - Vạn Tử Lương, Trần Tú Văn, Trương Quốc Vinh Bích Huyết Tẩy Ngân Thương, TVB 1984 - Đào Đại Vũ, Trần Phục Sanh Đại Nội Thần Bộ (Thất Sát Thủ Cải Biên), Điện ảnh Hồng Kông 1987 - Cố Quán Trung, Liên Vỹ Kiện Thất Tinh Bích Ngọc Đao, Điện ảnh Trung Quốc 1991 - Triệu Dương, Lý Điện Phương Sách Mã Khiếu Tây Phong, Trung Quốc 2001 - Ngô Kinh, Du Phi Hồng Thất Chủng Binh Khí: Khổng Tước Sơn Trang, Trung Quốc 2010 - Thích Tiểu Long, Mục Đình ĐìnhNhững số liệu thống kê
Nhân vật có biệt hiệu dài nhất: Kim Cung Ngân Đạn Trảm Hổ Đao Truy Vân Tróc Nguyệt Thủy Thượng Phiêu Lệ Thanh Phong
Theo bài của N. Tuyết Lan "Cổ Long-cuộc đời và tác phẩm", mục những cái nhất trong tác phẩm Cổ Long có liệt kê:
Xem thêm
Kim Dung
Ngoạ Long Sinh
Thiếu Hạo (nhà văn)
Dựa Kim Dung
Giả Cổ Long
Trần Thanh Vân
Gia Cát Thanh Vân
Nam Cung Thạch
Ưu Đàm Hoa
Lương Vũ Sinh
Ôn Thụy An
Thư mục
Trần Mặc, Võ hiệp ngũ đại gia'', Nguyễn Thị Bích Hải dịch, Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Trẻ, 2003 (Phần 3: Cổ Long và tác phẩm Đa tình kiếm khách vô tình kiếm)
Liên kết ngoài
Diễn đàn Cổ Long
Wuxiapedia
Các tác phẩm nguyên văn chữ Hán của Cổ Long
Nhà văn Đài Loan
C
|
26452
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%A1p%20b%E1%BA%A3o%20%C4%91%C3%A0n%20kinh
|
Pháp bảo đàn kinh
|
Pháp bảo đàn kinh (zh. 法寶壇經) là một bộ ngữ lục, 1 quyển, do Lục tổ Huệ Năng thuyết, nên còn gọi là Lục tổ đàn kinh (六祖壇經). Lúc Lục tổ Huệ Năng ở chùa Bảo Lâm, Tào Khê có Thứ sử Thiều Châu là Vi Cừ thỉnh Tổ vào chùa Đại Phạm để diễn giảng pháp Ma-ha-bát-nhã-ba-la-mật. Bài giảng của Huệ Năng được đệ tử là Pháp Hải ghi lại thành sách, về sau gọi là Đàn kinh. Trải qua nhiều lần sửa chữa thêm thắt, xuất hiện hơn 10 bản khác nhau, nhưng đại khái có thể phân làm bốn bản quan trọng hơn cả:
Bản Đôn Hoàng (敦煌本), gọi đủ là Nam tông đốn giáo tối thượng đại thừa ma-ha-bát-nhã-ba-la-mật kinh Lục tổ Huệ Năng Đại sư ư Thiều Châu Đại Phạm tự thí pháp đàn kinh (南宗頓教最上大乘摩呵般若波羅蜜經六祖惠能大師于韶州大梵寺施法壇經). Bản này gồm có 57 tiết, chẳng chia phẩm mục, chữ nghĩa chất phác, được xem là bản có sớm nhất. Bản này hiện được xếp vào Đại Chính tạng tập 48, số hiệu 2007, trang 337.
Bản của Huệ Hân (惠昕), tên Lục tổ đàn kinh (六祖壇經), chia làm 2 quyển thượng và hạ, gồm 11 môn, khoảng hơn 14.000 chữ, ít hơn bản Đôn Hoàng 1.000 chữ. Bài tựa của Huệ Hân viết: Bản xưa văn rườm rà được đệ tử xem qua, trước vui sau chán. Có thể thấy rằng bản này đã được lược bớt chút ít.
Bản của Khế Tung, gọi đủ là Lục tổ đại sư pháp bảo đàn kinh Tào Khê nguyên bản (六祖大師法寶壇經曹溪原本), gọi tắt là Tào Khê nguyên bản, gồm 1 quyển, 10 phẩm, hơn 20.000 chữ, do sư Khế Tung biên sửa lại vào khoảng niên hiệu Chí Hoà (1054-1056) đời nhà Tống.
Bản của Tông Bảo, gọi đủ là Lục tổ đại sư pháp bảo đàn kinh (六祖大師法寶壇), 1 quyển, 10 phẩm, hơn 20.000 chữ, do sư Tông Bảo (宗寶) biên tập lại vào niên hiệu Chí Nguyên thứ 28 (1291) đời nhà Nguyên, đây là bản thường thấy lưu hành, được xếp vào Đại Chính tạng tập 48, số hiệu 2008, trang 345.
Các bản ở trên không ghi chép trung thực về lời giảng ban đầu của Tổ Huệ Năng mà có sự trộn lẫn, sửa đổi về cuộc đời của Tổ cho đến những lý giải về Thiền tông. Nội dung chủ yếu của Đàn kinh bản Đôn Hoàng đại khái chia làm 3 phần:
Thuật lại quá trình Ngũ tổ Hoằng Nhẫn trao truyền y pháp cho Huệ Năng.
Huệ Năng giảng pháp cho đệ tử và các lời ứng đối của Ngài với người hỏi pháp.
Những lời dặn dò đệ tử trước khi Tổ Huệ Năng thị tịch.
Kinh này nói về pháp Ma-ha-bát-nhã và phát triển thành Đốn giáo "Nhất siêu trực nhập". Đem lý luận "Vô niệm", "Vô tướng" và "Vô trụ" trong kinh Kim cương kết hợp lại, rồi đề xướng "Vô niệm là tông", "Vô tướng là thể" và "Vô trụ là bản" làm phương pháp thực tu của Thiền tông. Lại có cách giải thích mới về thiền định: "Ngoài lìa các tướng là thiền, trong không loạn là định", tức là chỉ cần đạt đến vô niệm thì chính đó là thiền định. Tóm lại Thiền tông sau Lục tổ Huệ Năng phát triển rất nhiều tư tưởng đặc sắc, như Tự tính cụ túc, kiến tính thành Phật, tự tâm đốn ngộ, trực chỉ nhân tâm, và chúng đều được phản ánh trong Đàn kinh. Có thể nói Đàn kinh đặt nền tảng cho sự phát triển của Thiền tông phương Nam.
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Dumoulin, Heinrich:
Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985.
Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.
Từ điển Thiền Tông Hán Việt. Hân Mẫn & Thông Thiền biên dịch. Thành phố Hồ Chí Minh 2002.
Thiền tông
Thiền ngữ
|
26458
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Guild%20Wars
|
Guild Wars
|
Guild Wars là một MMORPG thay đổi phá cách được phát hành bởi hãng NCSoft và phát triển bởi ArenaNet từ ngày 26 tháng 4 năm 2005. Guild Wars nhận được nhiều sự khen ngợi vì tính phá cách đó. Thoạt tiên là việc đóng phí, hầu như các game hay trên thế giới hiện nay đều đóng 15 đô la Mỹ một tháng. Tuy nhiên, để chơi Guild Wars người chơi chỉ cần mua đĩa bản quyền (50–60 đô la một đĩa) và không cần phải đóng tiền giờ chơi hàng tháng nữa.
Sau thành công khá vang dội của Lineage 2. Mặc dù LA nhận được không ít lời phàn nàn từ người chơi ở khu vực châu Âu và Mỹ nhưng bù lại NCSoft đã thắng lớn ở châu Á. Trên tinh thần đó, NCSoft quyết định tung ra thêm Guild Wars nhằm chứng tỏ vị trí đứng của mình trong ngành công nghiệp giải trí khổng lồ.
Khi tung ra Guild Wars, NC Soft không ngờ rằng sản phẩm mới của mình lại tiến xa vượt bậc so với sản phẩm trước đó. Thực vậy, số lượng client tung ra được tiêu thụ với số lượng khổng lồ khiến cho Guild Wars lập tức nằm trong "Bảng đánh giá game có thứ hạng cao nhất" do nhiều người chơi game bình chọn và tuyệt nhiên qua mặt được đại gia World of Warcraft.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang chủ Guild Wars
Thương hiệu trò chơi điện tử
Thương hiệu của Nintendo
Trò chơi nhập vai trực tuyến nhiều người chơi
|
26462
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A1m%20v%C5%A9%20tr%E1%BB%A5%20Qu%E1%BB%91c%20t%E1%BA%BF
|
Trạm vũ trụ Quốc tế
|
Trạm vũ trụ Quốc tế hay Trạm Không gian Quốc tế (, viết tắt: ISS, , МКС, , SSI) là một tổ hợp công trình quốc tế nhằm nghiên cứu không gian trên quỹ đạo tầm thấp của Trái Đất, nhờ sự hợp tác của năm cơ quan không gian: NASA (Hoa Kỳ), RKA (Nga), JAXA (Nhật Bản), CSA (Canada) và 10 trong 17 nước thành viên của ESA (châu Âu).
Trạm vũ trụ Quốc tế ISS được xây dựng dựa trên sự hợp tác giữa nhiều quốc gia, được vận hành bởi sự đóng góp hàng năm của các nước tham gia dự án. Theo Russia Beyond, 15 quốc gia đang tham gia vào dự án Trạm vũ trụ Quốc tế (ISS). Hơn 20 năm hoạt động của nó tiêu tốn đến 160 tỷ USD. NASA là đại diện quản lý các hoạt động trên trạm. Trong 160 tỷ USD được sử dụng cho các sứ mệnh trên ISS thì Mỹ chi tới 100 tỷ USD, theo đó mỗi năm NASA phải bỏ ra từ 3-4 tỷ USD để vận hành trạm. Con số này của châu Âu chỉ khoảng 1 tỷ USD/năm và Nga là 500 triệu USD/năm. Trạm vũ trụ Quốc tế ISS tuy được xây dựng dựa trên sự hợp tác giữa nhiều quốc gia. Cơ chế ra quyết định cho các hoạt động trên ISS được quy định trong các thỏa thuận gọi là 'Biên bản ghi nhớ' (MOU). MOU chỉ định NASA là đại diện quản lý các hoạt động trên trạm, do vậy phòng điều hành bay của cả trạm được đặt tại trung tâm vũ trụ Lyndon B. Johnson ở Texas (Mỹ).
Trạm vũ trụ Quốc tế được là kết quả của sự hợp nhất hai dự án lớn, nhưng thiếu kinh phí để có thể thực hiện riêng biệt là Trạm vũ trụ Tự do (Freedom) của Hoa Kỳ và Trạm vũ trụ Hòa Bình 2 (Mir-2) của Nga. Ngoài các mô-đun của Hoa Kỳ và của Nga đã được lên kế hoạch, các mô-đun Columbus của Châu Âu (kế hoạch) và mô-đun thí nghiệm của Nhật Bản cũng sẽ được ghép vào trạm. Cơ quan không gian Brasil (AEB, Brasil) tham gia dự án này thông qua một hợp đồng riêng với NASA. Cơ quan Không gian Ý cũng có vài hợp đồng tương tự cho nhiều hoạt động, nằm ngoài khuôn khổ các nhiệm vụ của ESA trong dự án ISS (Ý cũng là một thành viên trong ESA). Có thông tin cho rằng, Trung Quốc cũng thể hiện sự quan tâm của họ đối với dự án, đặc biệt nếu họ được phép hợp tác với RKA, tuy nhiên Trung Quốc vẫn chưa được mời tham gia.
Do quỹ đạo của Trạm vũ trụ Quốc tế trùng với quỹ đạo tầm thấp của Trái Đất (còn gọi là Quỹ đạo LEO - Low Earth Orbit), độ cao cách mặt đất chỉ trong khoảng từ 400 km, trạm có các tấm pin mặt trời rộng, phản chiếu tốt ánh sáng Mặt Trời nên có thể quan sát ISS từ mặt đất. ISS di chuyển trong không gian với vận tốc trung bình là 27.743,8 km/giờ, ứng với 15,79 lần bay quanh Trái Đất mỗi ngày.
Theo kế hoạch, Trạm vũ trụ Quốc tế sẽ hoàn thành vào năm 2011 và sẽ hoạt động đến năm 2016. Từ năm 2007, ISS đã trở thành vệ tinh nhân tạo lớn nhất trong quỹ đạo Trái Đất, lớn hơn bất kỳ trạm vũ trụ nào khác. Trạm vũ trụ Quốc tế là trạm vũ trụ duy nhất có người thường trực, thực hiện các công việc nghiên cứu. Phi hành đoàn không gian Expedition 1 là nhóm phi hành gia đầu tiên tới Trạm vũ trụ Quốc tế vào ngày 2 tháng 11 năm 2000, đây là bước đi đầu tiên trong kế hoạch đưa người làm việc lâu dài trong không gian của ISS. Hiện tại ở trên trạm là phi hành đoàn Expedition 66. Expedition 66 tới trạm vào tháng 10 năm 2021 và dự kiến trở về Trái Đất vào tháng 3 năm 2022. Trạm vũ trụ được cung cấp các nhu yếu phẩm, thiết bị cần thiết từ tàu vũ trụ Soyuz, Tàu vận tải Tiến bộ (Progress) của Nga và các phi thuyền con thoi của Mỹ (đã ngừng hoạt động vào năm 2011). Hiện nay trạm có thể chứa được 3 người. Những người đến trạm đầu tiên đều là các nhà du hành thuộc chương trình không gian của Nga và Hoa Kỳ. Phi hành gia người Đức, Thomas Reiter, đã đến trạm trong nhóm các nhà du hành thuộc Expedition 13 vào tháng 7 năm 2006, trở thành người đầu tiên từ cơ quan không gian khác đến trạm. Thành phần của phi hành đoàn Expedition 16 đã đại diện cho cả năm cơ quan không gian, để củng cố quan hệ cộng tác của dự án ISS. Đến nay, ISS đã đón các phi hành gia từ 14 nước khác nhau, trong đó có năm khách du lịch vũ trụ.
Đầu tiên, trạm được đề nghị đặt tên là "Аlpha" nhưng bị Nga bác bỏ vì ký tự Hi Lạp α thường được dành cho những cái đầu tiên, trong khi trạm vũ trụ quốc tế đầu tiên lại là Hòa bình của Nga. Khi Roskosmos (Роскосмос, Cơ quan Vũ trụ Liên bang, Nga) đề nghị tên "Аtlant" thì lại bị Hoa Kỳ bác bỏ vì sự nhầm lẫn với Tàu con thoi Аtlantis.
Lịch sử
Năm 1984, tổng thống Hoa Kỳ Ronald Reagan thông báo việc bắt đầu xây dựng trạm quỹ đạo của Hoa Kỳ. NASA dự định sẽ đưa các mô-đun của trạm quỹ đạo này với tên Trạm vũ trụ Tự do, được coi là bản sao của trạm vũ trụ Salyut và Mir của Liên Xô lên quỹ đạo bằng tàu con thoi. Tuy nhiên, dự án bị hủy bỏ sau sự kiện Liên Xô sụp đổ, đi liền với việc kết thúc Chiến tranh Lạnh và cả cuộc chạy đua vào không gian. Các quan chức trong ngành không gian của Hoa Kỳ nhanh chóng tiến hành đàm phán với các đối tác quốc tế, bao gồm Châu Âu, Nga, Nhật Bản và Canada, nhằm xây dựng một trạm vũ trụ quốc tế vào đầu thập niên 1990. Dự án này được công bố lần đầu tiên vào năm 1993 và được gọi là Trạm vũ trụ Alpha. Dự án lập kế hoạch liên kết tất cả các dự kiến xây dựng trạm vũ trụ của các cơ quan không gian: Trạm vũ trụ Tự do của NASA, Mir-2 (trạm kế thừa của Trạm vũ trụ Hòa Bình, với trọng tâm là mô-đun Zvezda (Ngôi sao), hiện nay là một trong các mô-đun của ISS) của Nga, và Columbus của ESA. Hiện nay, có kế hoạch phát triển Columbus thành một phóng thí nghiệm không gian độc lập.
Bộ phận đầu tiên, Khối chức năng hàng hóa Zarya (Bình minh), được phóng lên quỹ đạo vào tháng 11 năm 1998 bằng tên lửa Proton-M của Nga. Hai bộ phận tiếp theo (Mô-đun Unity và Mô-đun dịch vụ Zvezda) cũng được phóng lên quỹ đạo, trước chuyến bay của phi hành đoàn đầu tiên Expedition 1. Expedition 1 gồm một phi hành gia người Mỹ, William Shepherd và hai phi hành gia người Nga là Yuri Pavlovich Gidzenko và Sergei Konstantinovich Krikalyov đã kết nối thành công với ISS vào ngày 2 tháng 11 năm 2000.
Tóm tắt quá trình hình thành ISS:
17 tháng 6 năm 1992 - Nga và Hoa Kỳ ký kết thỏa thuận về hợp tác trong nghiên cứu vũ trụ. Theo đó Cơ quan Vũ trụ Nga (Российское космическое агентство, viết tắt là РКА hay RKA trong ký tự Latin) và NASA chuẩn bị chương trình hợp tác "Hòa bình-Tàu con thoi". Từ đây, ý tưởng hợp nhất các chương trình quốc gia của việc xây dựng các trạm quỹ đạo đã nảy sinh.
Tháng 3 năm 1993 - Tổng giám đốc RKA Yuri Коptev và Tổng công trình sư Tổ hợp Khoa học Sản xuất Năng lượng (NPO Energia, НПО Энергия) Yuri Semenov đề nghị với Giám đốc NASA Daniel Goldin xây dựng Trạm vũ trụ Quốc tế.
1 tháng 11 năm 1993 - RKA và NASA ký "Kế hoạch chi tiết các công việc cho Trạm vũ trụ Quốc tế."
Tháng 11 năm 1994 - tại Moskva, các buổi góp ý kiến đầu tiên của các cơ quan vũ trụ của Nga và Hoa Kỳ được tổ chức. Hợp đồng với các công ty tham gia dự án, Boeing, Mc Donnell-Douglas, General Electric, Rockwell và Công ty tên lửa vũ trụ Năng lượng mang tên Коrоlyov (RKK Energia, РКК Энергия им. С. П. Королева), được ký kết.
Tháng 3 năm 1995 - tại Trung tâm Không gian Lyndon B. Johnson ở Houston, mô hình phác thảo của trạm được phê chuẩn.
1996 - cấu hình của trạm được phê chuẩn. Nó gồm 2 phần: Nga (phương án hiện đại hóa của "Mir-2") và Hoa Kỳ (với sự tham gia của Canada, Nhật, Ý, Cơ quan Vũ trụ châu Âu và Brasil).
20 tháng 11 năm 1998 - Nga phóng thành phần đầu tiên của trạm: khối chức năng hàng hóa Zarya (Заря).
7 tháng 12 năm 1998 - Tàu con thoi Endeavour đưa lên và gắn vào trạm mô-đun NODE-1 (Unity) của Hoa Kỳ.
26 tháng 7 năm 2000 - mô-đun dịch vụ Zvezda (Звезда) được gắn vào khối chức năng hàng hóa Zarya.
2 tháng 11 năm 2000 - tàu vận tải "Soyuz ТМ-31" đưa lên trạm phi hành đoàn đầu tiên.
18 tháng 4 năm 2005 - Giám đốc NASA Michael D. Griffin trong khi điều trần trước Ủy ban Thượng viện về Không gian và Khoa học, đã tuyên bố về sự cần thiết của việc cắt giảm tạm thời các nghiên cứu khoa học ở phần trạm của Hoa Kỳ. Điều này là cần thiết, nhằm giải phóng các nguồn lực để tập trung vào xây dựng CEV - phương tiện thám hiểm có người lái (bảo đảm việc xây dựng đến năm 2010, và không muộn hơn 2014). CEV là cần thiết để đảm bảo việc đi lên trạm của Mỹ không bị phụ thuộc (vốn bị tạm ngưng sau tai nạn tàu con thoi Columbia năm 2003). Như vậy đến năm 2010 có kế hoạch kết thúc việc sử dụng hạm đội "Tàu con thoi không gian."
19 tháng 6 năm 2008 - Trạm vũ trụ Quốc tế được đưa lên cao thêm 7 km để bảo đảm an toàn cho trạm.
Lắp ghép
Zarya (Bình minh), mô-đun đầu tiên của ISS, được phóng lên bởi một tên lửa Proton vào tháng 11 năm 1998. Sau đó hai tuần, sứ mệnh STS-88 được tiến hành mang theo Unity, một trong ba mô-đun nút, và kết nối nó với Zarya. Hai mô-đun hạt nhân tối thiểu này vận hành tự động trong một năm rưỡi, cho đến tháng 6 năm 2000, khi mô-đun Zvezda (Ngôi sao) của Nga được kết nối thêm vào, cho phép một phi hành đoàn tối thiểu ba người lưu lại lâu dài trên ISS. Từ năm 2000 đến năm 2006, mô-đun điều áp chính duy nhất được thêm vào trạm là Mô-đun phòng thí nghiệm Destiny, do STS-98 mang lên vào năm 2001.
Khi việc lắp ráp hoàn thành, ISS sẽ có thể tích được điều áp khoảng chừng 1.000 m³, với trọng lượng khoảng 400.000 kg (400 tấn), có thể tạo ra xấp xỉ 100 kilowatt năng lượng, chiều dài toàn bộ giàn đỡ là 108,4 m, chiều dài tất cả mô-đun là 74 m, và chứa được 6 phi hành gia. Việc xây dựng trạm đầy đủ sẽ cần đến hơn 40 chuyến bay lắp ráp. Trong số những chuyến bay này, hiện có 33 chuyến dự định dùng tàu con thoi để vận chuyển thiết bị, với 28 chuyến bay đã thực hiện và 5 chuyến trong khoảng từ nay tới 2010. Các chuyến bay lắp ráp khác gồm có những mô-đun được phóng lên bởi tên lửa Proton của Nga hoặc bằng tên lửa Soyuz (Liên hiệp) như trường hợp của bộ phận Nút thông khí Pirs.
Ngoài những chuyến bay lắp ráp và hậu cần, khoảng 30 chuyến bay sẽ được thực hiện bằng Tàu vận tải Tiến bộ để cung cấp đầy đủ nhu yếu phẩm cho đến năm 2010. Thiết bị thí nghiệm, nhiên liệu và những thứ tiêu dùng khác sẽ được gửi đến trên mọi phương tiện ghé thăm trạm ISS gồm: tàu con thoi, tàu Tiến bộ, ATV của châu Âu (đã có chuyến bay đầu tiên vào tháng 3 năm 2008), và HTV của Nhật Bản (dự kiến vào cuối năm 2009).
Trạm ISS khi được hoàn thành sẽ gồm các mô-đun điều áp gắn kết với nhau nối với một Giàn cấu trúc hợp nhất, trên đó gắn bốn cặp mô-đun tế bào quang điện PV - photovoltaic lớn (các tấm pin mặt trời). Mô-đun điều áp và giàn đỡ sẽ được đặt vuông góc với nhau: giàn đỡ mở rộng từ mạn phải đến mạn trái và khu vực có người ở trải dài tiếp tục ở phần trục hai đầu của trạm. Dù trong thời gian xây dựng góc nghiêng của trạm có thể thay đổi, nhưng khi tất cả bốn cặp mô-đun tế bào quang điện được đặt đúng vị trí ở hai đầu của trạm, nó sẽ nằm đúng theo hướng di chuyển.
Tổng cộng có 10 mô-đun điều áp (Zarya, Zvezda, mô-đun phòng thí nghiệm Destiny, mô-đun Unity (Node 1), mô-đun Harmony (Node 2), Node 3, mô-đun phòng thí nghiệm Columbus, mô-đun thí nghiệm Nhật Bản Kibo, PMM và RM), đã được lên danh sách để thực hiện lắp ráp. Đây là những thành phần của ISS theo dự kiến sẽ hoàn thành vào năm 2010. Một số những bộ phận điều áp nhỏ sẽ được thêm vào như tàu vũ trụ Soyuz (2 tàu như tàu cứu hộ - thay đổi luân phiên trong 6 tháng), tàu vận tải Progress (2 hoặc hơn), mô-đun thông khí Quest và Pirs, cũng như Mô-đun hậu cần đa mục đích định kỳ, Tàu vận tải không người lái ATV và Tàu vận tải H-II).
Thảm họa Columbia và những thay đổi trong kế hoạch xây dựng
Thảm họa và hậu quả
Thảm họa Phi thuyền con thoi Columbia 1 tháng 2 năm 2003, tiếp đó là hai năm rưỡi đình chỉ Chương trình tàu con thoi của Hoa Kỳ, cùng với hàng loạt vấn đề trong việc tiếp tục cho các tàu con thoi hoạt động trở lại vào năm 2005, đem đến một tương lai không chắc chắn cho ISS đến tận năm 2006.
Chương trình tàu con thoi của NASA tiếp tục vào ngày 26 tháng 7 năm 2005, với sứ mệnh Bay trở lại STS-114 của tàu Discovery. Nhiệm vụ của tàu Discovery là đến ISS để kiểm tra những biện pháp an toàn mới kể từ thảm họa Columbia và cung cấp đồ tiếp tế cho trạm. Dù nhiệm vụ đã thành công an toàn, nhưng không phải là không có sự rủi ro; người ta vẫn lo ngại về những tấm cách nhiệt ốp ở thùng nhiên liệu ngoài có thể bị rơi ra bất kỳ lúc nào và gây ra thảm họa, khiến cho lãnh đạo NASA phải tuyên bố tạm ngưng các chuyến bay cho đến khi vấn đề này được giải quyết.
Trong thời gian giữa thảm họa Columbia và bắt đầu lại việc phóng tàu con thoi, những sự thay đổi phi hành đoàn trên ISS đều do tàu vũ trụ Soyuz của Nga chuyên chở. Bắt đầu từ Expedition 7, chỉ có hai phi hành gia được phóng lên ISS, trong khi trước đây có đến ba phi hành gia. Vì ISS không được tàu con thoi cung cấp nhu yếu phẩm trong một thời gian dài, một số lớn những vật phẩm trong kế hoạch đã không được sử dụng thích hợp, khiến cho hoạt động của trạm bị cản trở tạm thời vào năm 2004. Tuy nhiên các tàu vận tải Tiến bộ và chuyến bay con thoi STS-114 đã giải quyết vấn đề này.
Những thay đổi trong kế hoạch xây dựng
Việc xây dựng ISS đã kéo dài hơn nhiều so với kế hoạch dự kiến hoàn thành vào năm 2004 hoặc 2005. Nguyên nhân của sự chậm trễ này là do các quan chức NASA lưỡng lự trong việc ra quyết định về các chuyến bay của tàu con thoi sau khi xảy ra Thảm họa Columbia vào đầu năm 2003. Một lý do khác cũng phải kể đến là việc cơ quan vũ trụ của Nga cũng bị cắt giảm ngân sách hoạt động cho chương trình ISS. Trong thời gian hoãn phóng tàu con thoi, việc xây dựng ISS được tạm dừng và các thí nghiệm khoa học được tiến hành trên tàu cũng bị hạn chế vì phi hành đoàn lúc bấy giờ chỉ còn lại 2 người.
Kể từ đầu năm 2006, có nhiều thay đổi so với kế hoạch dự kiến ban đầu, thậm chí cả kế hoạch trước thảm họa Columbia. Những mô-đun và các kết cấu khác bị hủy bỏ hoặc thay thế, số lượng các chuyến bay của tàu con thoi đến ISS cũng giảm bớt về số lượng so với kế hoạch trước đây. Theo thông báo mới nhất về tiến độ xây dựng trạm ISS, 80% kết cấu phần cứng của trạm đã được hoàn thành và đang hoạt động trên quỹ đạo, dự kiến trạm sẽ được hoàn thành vào năm 2010. Số thành viên phi hành đoàn sẽ trên trạm sẽ tăng từ 3 lên 6 người vào khoảng tháng 5 năm 2009, sau khi tàu con thoi thực hiện 12 chuyến bay xây dựng tiếp theo sứ mệnh Bay trở lại thứ hai mang tên STS-121. Các sứ mệnh STS-126 và STS-119 đã giúp chuẩn bị cho trạm sẵn sàng cho sự tăng số thành viên này. Để đáp ứng được số lượng phi hành gia đông như thế, trạm cần phải đáp ứng được các yêu cầu bao gồm việc tăng cường hỗ trợ môi trường trên ISS, một tàu Soyuz cố định thứ hai trên trạm với chức năng như một "tàu cứu hộ" thứ hai, các chuyến bay thường xuyên hơn của tàu Tiến bộ để cung cấp gấp đôi lượng hàng hóa cần dùng trên trạm, tăng thêm nhiên liệu để nâng cao sự vận động của trạm trên quỹ đạo, và cung cấp đủ các thiết bị thí nghiệm.
Các thành phần mô-đun lắp ráp hiện này
Trạm ISS hiện nay gồm có 7 mô-đun điều áp chính gồm 2 mô-đun của Nga mang tên Zarya (Bình minh) và Zvezda (Ngôi sao), 3 mô-đun của Hoa Kỳ mang tên Destiny (Vận mệnh), Unity (Thống nhất) và Harmony (Hòa hợp), module Columbus của châu Âu và KIBO (Hi vọng) của Nhật Bản. Các bộ phận điều áp khác trong cấu trúc trạm hiện nay là Quest Joint Airlock, Gian nối Pirs và module hậu cần điều áp của KIBO. Tàu vũ trụ kết nối với ISS cũng góp phần mở rộng thể tích điều áp trong trạm. Luôn có ít nhất một tàu vũ trụ Soyuz được nối với trạm như một "tàu cứu hộ" và cứ 6 tháng một lần được thay thế bởi một tàu Soyuz khác cùng với sự thay đổi phi hành đoàn.
Mặc dù không kết nối thường xuyên với ISS, một bộ phận của ISS là Mô-đun Hậu cần Đa mục đích (MPLM) thường được mang theo trong các chuyến bay của tàu con thoi. MPLM được kết nối với Unity và được sử dụng để cung cấp phần hậu cần cho các chuyến bay.
Kể từ tháng 4 năm 2016 trạm gồm có các mô-đun và bộ phận sau:
{| class="wikitable" style="clear: both"
|-
! Bộ phận/Mô-đun!! Chuyến bay!! Phương tiện phóng!! Ngày phóng(UTC)
!Cấu hình trạm sau khi gắn mô-đun
!Ảnh bộ phận/Mô-đun
!Ảnh trạm sau khi lắp ghép mô-đun/bộ phận
|-
| Mô-đun Khối Hàng hóa Chức năng FGB Zarya/ФГБ Заря (Functional Cargo Block)
| 1 A/R
| Tên lửa Proton
| style="text-align:center;"| 20 tháng 11 năm 1998
|
|
|
|-
| Mô-đun Unity (Node 1)
| 2A - STS-88
| Endeavour
| style="text-align:center;"| 4 tháng 12 năm 1998
|
|
|
|-
| Mô-đun dịch vụ Zvezda/Звезда (Service Module)
| 1R
| Tên lửa Proton-K
| style="text-align:center;"| 12 tháng 7 năm 2000
|
|
|
|-
| Giàn (Truss) Z1
| 3A - STS-92
| Discovery
| style="text-align:center;"| 11 tháng 10 năm 2000</tt>
|
|
|
|-
| Giàn P6, tấm pin năng lượng mặt trời*
| 4A - STS-97
| Endeavour
| style="text-align:center;"| 30 tháng 11 năm 2000</tt>
|
|
|
|-
| Mô-đun Phòng Thí nghiệm Destiny
| 5A - STS-98
| Atlantis
| style="text-align:center;"| 7 tháng 2 năm 2001
|
|
|
|-
|Nền chất hàng bên ngoài (External Stowage Platform) (ESP-1)
|5A.1 - STS-98
|Atlantis
| style="text-align: center;| 7 tháng 2 năm 2001
|
|
|
|-
| Cánh tay rô bốt Canadarm2 (Mobile Servicing System/MSS)
| 6A - STS-100
| Endeavour
| style="text-align:center;" | 19 tháng 4 năm 2001
|
|
|
|-
| Mô-đun khóa khí (airlock) Quest/Joint
| 7A - STS-104
|Atlantis
| style="text-align:center;" | 12 tháng 7 năm 2001
|
|
|
|-
| Mô-đun cập bến, khóa khí Pirs/Пирс (Docking Comparment/Airlock)
| 4R
|Soyuz-U
| style="text-align:center;" | 14 tháng 9 năm 2001
|
|
|
|-
| Giàn S0
| 8A - STS-110
| Atlantis
| style="text-align:center;" | 8 tháng 4 năm 2002
|
|
|
|-
|Hệ thống nền di động (Mobile Base System) của Canadarm2 (gắn trên giàn S0)
| UF-2 - STS-111
| Endeavour
| style="text-align:center;" | 5 tháng 6 năm 2002
|
|
|
|-
| Giàn S1
| 9A - STS-112
| Atlantis
| style="text-align:center;" | 7 tháng 10 năm 2002
|
|
|
|-
| Giàn P1
| 11A - STS-113
| Endeavour
| style="text-align:center;" | 24 tháng 11 năm 2002
|
|
|
|-
| Nền chất hàng bên ngoài (External Stowage Platform) (ESP-2)
| LF 1 - STS-114
| Discovery
| style="text-align:center;" | 26 tháng 7 năm 2005
|
|
|
|-
|Giàn P3/P4, tấm pin năng lượng mặt trời
| 12A - STS-115
| Atlantis
| style="text-align:center;" | 9 tháng 9 năm 2006
|
|
|
|-
|Giàn P5
| 12A.1 - STS-116
| Discovery
| style="text-align:center;" | 10 tháng 12 năm 2006
|
|
|
|-
|Giàn S3/S4, tấm pin năng lượng mặt trời
| 13A - STS-117
| Atlantis
| style="text-align:center;" | 8 tháng 6 năm 2007
|
|
|
|-
|Giàn S5
| rowspan="2" |13A.1 -
STS-118
| rowspan="2" |Endeavour
| rowspan="2" |8 tháng 6 năm 2007
| rowspan="2" |
|
| rowspan="2" |
|-
|Nền chất hàng bên ngoài (External Stowage Platform) (ESP-3)
|
|-
|Mô-đun Harmony (Node 2)
| 10A - STS-120
| Discovery
| style="text-align:center;" | 23 tháng 10 năm 2007
|
|
|
|-
|Mô-đun Phòng Thí nghiệm Châu Âu Columbus
| 1E - STS-122
| Atlantis
| style="text-align:center;" | 6 tháng 12 năm 2007
|
|
|
|-
|Mô-đun Hậu cần thí nghiệm Nhật Bản (Japanese Logistics Module) (JEM-ELM-PS)
| 1J/A - STS-123
| Endeavour
| style="text-align:center;" | 11 tháng 3 năm 2008
|
|
|
|-
|Bàn tay rô bốt Dextre (Special Purpose Dexterous Manipulator/SPDM)
| 1J/A - STS-123
| Endeavour
| style="text-align:center;" | 11 tháng 3 năm 2008
|
|
|
|-
|Mô-đun có áp suất Nhật Bản (Japanese Pressurized Module) (JEM-PM)
| 1J - STS-124
| Discovery
| style="text-align:center;" |31 tháng 5 năm 2008
|
|
|
|-
|Cánh tay rô bốt của Mô-đun Thí nghiệm Nhật Bản (Japanese Experiment Module Remote Manipulator System/JEM-RMS)
| 1J - STS-124
| rowspan="2" |Discovery
| style="text-align:center;" |31 tháng 5 năm 2008
|
|
|
|-
|Giàn S6, tấm pin năng lượng mặt trời
| 15A - STS-119
| style="text-align:center;" |15 tháng 3 năm 2009
|
|
|
|-
|Cơ sở bên ngoài (Exposed Facility/JEM-EF)
|2J/A -
STS-127
|Endeavour
|15 tháng 7 năm 2009
|
|
|
|-
|Mô-đun Thí nghiệm mini 2 Poisk/Поиск (Mini-Research Module/MRM-2)
|5R
|Soyuz-U
|10 tháng 11 năm 2009
|
|
|
|-
|Nền chứa hậu cần ExPRESS (ExPRESS Logistics Carrier/ELC) (ELC-1,2)
|ULF3 -
STS-129
|Atlantis
|16 tháng 11 năm 2009
|
|
|
|-
|Mô-đun Tranquility (Node 3)
| rowspan="2" |20A -
STS-130
| rowspan="2" |Endeavour
| rowspan="2" |8 tháng 2 năm 2010
| rowspan="2" |
|
|
|-
|Mô-đun quan sát Cupola
|
|
|-
|Mô-đun Thí nghiệm mini 1 Rassvet/Рассвет (Mini-Research Module/MRM-1)
|ULF4 -
STS-132
|Atlantis
|14 tháng 5 năm 2010
|
|
|
|-
|Mô-đun đa mục đích vĩnh viễn Leonardo
| rowspan="2" |ULF-5 -
STS-133
| rowspan="2" |Discovery
| rowspan="2" |24 tháng 2 năm 2011
| rowspan="2" |
|
| rowspan="2" |
|-
|Nền chứa hậu cần ExPRESS (ELC-4)
|
|-
|Máy đo phổ từ Alpha (Alpha Magnetic Spectrometer)
| rowspan="2" |ULF-6 -
STS-134
| rowspan="2" |Endeavour
| rowspan="2" |16 tháng 5 năm 2011
| rowspan="2" |
|
| rowspan="2" |
|-
|Nền chứa hậu cần ExPRESS (ELC-3)
|
|-
|Mô-đun hoạt động có thể mở rộng Bigelow (Bigelow Expandable Activity Module)
|SpaceX CRS-8
|Falcon 9/Cargo Dragon
|8 tháng 4 năm 2016
|
|
|
|-
|Mô-đun khóa khí Nanoracks(Nanoracks Airlock Module)
|SpaceX CRS-21
|Falcon 9 Block 5
|6 tháng 12 năm 2020
|
|
|
|-
|Mô-đun phòng thí nghiệm đa mục đích Nauka/Наука (Multipurpose Laboratory Module-Upgrade MLM-U)
| rowspan="2" |3R
| rowspan="2" |Proton-M
| rowspan="2" |21 tháng 7 năm 2021
| rowspan="2" |
|
|
|-
|Cánh tay rô-bốt Châu Âu (European Robotic Arm)
|
|
|-
|Mô-đun nút (node) Prichal/Узловой (Prichal Module/UM)
|
|Tên lửa Soyuz-2.1b
|24 tháng 11 năm 2021
|
|
|
|}
*Giàn đỡ P6 đã được di chuyển từ vị trí tạm thời trên giàn Z1 tới vị trí cuối cùng cạnh giàn đỡ P5 trong sứ mệnh STS-120.
Các thành phần sẽ được phóng
Những hệ thống chính trên ISS
Hệ thống cung cấp năng lượng
Nguồn điện năng cho ISS là từ Mặt Trời - ánh sáng được chuyển đổi thành điện qua những tấm pin mặt trời. Trước khi chuyến bay lắp ráp 4A (sứ mệnh tàu con thoi STS-97, 30 tháng 11 năm 2000) được thực hiện, nguồn năng lượng duy nhất trên trạm là từ những tấm pin mặt trời của Nga được gắn trên mô-đun Zarya và Zvezda - khu vực của Nga trên trạm sử dụng 28 vôn điện thế của dòng một chiều (giống như tàu con thoi). Trong phần còn lại của trạm, điện được cung cấp bởi những tấm pin mặt trời gắn tại một giàn đỡ cung cấp dòng điện một chiều có hiệu điện thế từ 130-180 vôn. Năng lượng được ổn định và phân phối tới các bộ phận ở điện áp là 160 vôn và sau đó được chuyển đổi đến điện áp sử dụng là 124 vôn. Năng lượng có thể được chia sẻ giữa 2 khu vực trên trạm qua những bộ biến đổi, và đặc tính này rất quan trọng một khi người ta hủy bỏ bộ phận mô-đun Science Power Platform của Nga - khu vực của người Nga sẽ phải phụ thuộc vào việc xây dựng các tấm pin mặt trời của Hoa Kỳ để cung cấp năng lượng.
Mô-đun 'Zarya' của Nga là mô-đun đầu tiên được phóng lên quỹ đạo, nó do do Cơ quan hàng không vũ trụ Mỹ đặt hàng và chi tiền ngân sách chế tạo. Trên lý thuyết nó là tài sản của nước Mỹ, nhưng Nga với tư cách là bên chế tạo vẫn có quyền vận hành Zarya.
Hệ thống hỗ trợ sự sống
Hệ thống hỗ trợ sự sống và kiểm soát môi trường của trạm ISS sẽ cung cấp hay kiểm soát những yếu tố như áp suất không khí, mức ôxy, nước, và dập tắt lửa nếu có hỏa hoạn, và vài thứ khác. Hệ thống Elektron sinh ra ôxy trên trạm. Ưu tiên cao nhất cho hệ thống hỗ trợ sự sống là không khí trong trạm ISS, nhưng hệ thống cũng kiểm soát mức tiêu dùng các yếu tố như nước và không khí từ phi hành đoàn, đồng thời tiến hành tái chế lại nước và không khí được thải đi. Ví dụ, hệ thống sẽ tái chế lại chất lỏng từ các bồn nước trên trạm, vòi tắm, nước tiểu, và ngưng tụ. Những bộ lọc bằng than hoạt tính là phương pháp chủ yếu để loại bỏ những sản phẩm phụ trong sự trao đổi chất của con người từ không khí.
Hệ thống điều hướng
Hướng đi của trạm được duy trì bởi 2 cơ chế. Thông thường, có một hệ thống sử dụng vài con quay hồi chuyển mômen điều khiển (CMG - Control Moment Gyroscope) để giữ cho trạm đi đúng hướng, có nghĩa là với mô-đun Destiny ở phía trước của Unity, giàn đỡ P ở bên cạnh trái và Pirs ở phía hướng về Trái Đất (điểm thấp nhất). Khi hệ thống CMG trở nên bão hòa, nó có thể mất khả năng điều hướng cho trạm. Nếu điều này xảy ra, hệ thống điều khiển trạng thái của Nga có thể lấy lại sự định hướng cho trạm, nó sử dụng những lực đẩy để duy trì trạng thái của trạm và cho phép hệ thống CMG khử được sự bão hòa. Hệ thống này sẽ tự động khởi động như một biện pháp an toàn, chẳng hạn như trong thời gian diễn ra chuyến bay Expedition 10. Khi tàu con thoi cập vào trạm, nó có cũng được sử dụng để duy trì trạng thái của trạm. Quy trình này cũng được sử dụng trong lúc STS-117 nối vào trạm như giàn đỡ S3/S4.
Nghiên cứu khoa học
Một trong những mục đích chính của ISS là cung cấp một địa điểm để giám sát thực hiện các thí nghiệm và đòi hỏi một hoặc nhiều điều kiện đặc biệt hiện nay trên trạm cho công việc này. Những lĩnh vực nghiên cứu chính bao gồm sinh học (gồm nghiên cứu y sinh và công nghệ sinh học), vật lý (gồm vật lý chất lỏng, khoa học vật liệu, và cơ học lượng tử), thiên văn học (bao gồm vũ trụ học), và khí tượng học. Kể từ năm 2007, những thí nghiệm nhỏ khác như nghiên cứu những ảnh hưởng lâu dài của hiện tượng không trọng lượng tới con người đã được tiến hành trên trạm. Với 4 mô-đun nghiên cứu mới được bố trí để hoàn thành trên ISS vào năm 2010, những thí nghiệm khoa học sẽ được diễn ra nhiều hơn và chất lượng hơn, với những mô-đun nghiên cứu như vậy, nhiều nghiên cứu chuyên dụng đã được mong đợi để được bắt đầu.
Mô-đun khoa học trên ISS
Mô-đun phòng thí nghiệm Destiny là phương tiện nghiên cứu chính hiện thời trên trạm ISS. Nó được sản xuất bởi NASA và được phóng vào tháng 2 năm 2001, đây là một phương tiện nghiên cứu cho những thí nghiệm chung. Mô-đun Columbus là một phương tiện nghiên cứu khác được thiết kế bởi Cơ quan vũ trụ châu Âu (ESA) cho trạm ISS. Mục đích của nó là tạo những điều kiện thuận lợi cho những thí nghiệm khoa học và đã được phóng vào không gian bằng tàu con thoi trong một sứ mệnh mang tên STS-122 vào ngày 6 tháng 12 năm 2007. Columbus cung cấp một phòng thí nghiệm chung cũng như một trong số những thiết kế đặc biệt dành cho sinh học, nghiên cứu y sinh và vật lý chất lỏng. Có một số mở rộng dự kiến sẽ được thực hiện để tạo công cụ cho sự nghiên cứu Cơ học lượng tử và vũ trụ học. vào tháng 2 năm 2008, tàu con thoi Atlantis mang theo một mô dun để lắp vào ISS, đây sẽ là mô đun đầu tiên thuộc quyền sở hữu của Cơ quan vũ trụ châu Âu.
Mô-đun Thí nghiệm Nhật Bản, cũng còn được biết đến với tên gọi Kibō, được dự kiến hoàn thành sau sứ mệnh STS-127 vào tháng 6 năm 2009. Được phát triển bởi Cơ quan thám hiểm không gian Nhật Bản (JAXA), mô-đun này sẽ có chức năng như một đài quan sát thiên văn và đo các dữ liệu thiên văn khác nhau. Dự án ExPRESS Logistics Carrier, được phát triển bởi NASA, đây là dự án với các mô-đun hàng hóa vận chuyển lên trạm ISS, các mô-đun sẽ được phóng bằng tàu con thoi trong sứ mệnh mang tên STS-129, người ta hy vọng sẽ thực hiện sứ mệnh này trước 11 tháng 9 năm 2009. Nó sẽ cho phép những cuộc thí nghiệm được tiến hành và điều khiển trong chân không, cung cấp lượng điện năng cần thiết, và tính toán xử lý dữ liệu cục bộ cho các cuộc thí nghiệm. Mô-đun phòng thí nghiệm vạn năng, được chế tạo bởi Cơ quan Vũ trụ Liên bang Nga (RKA), nó được trông đợi sẽ phóng lên ISS vào cuối năm 2009. Mô-đun này sẽ cung cấp những tài nguyên thích hợp cho thí nghiệm chung về môi trường không trọng lực.
Hai trong số những mô-đun nghiên cứu trong kế hoạch đã bị hủy bỏ, đó là Mô-đun Điều tiết Máy ly tâm (được sử dụng để tạo ra các mức trọng lực nhân tạo khác nhau trong trạm) và Mô-đun Nghiên cứu Nga (được sử dụng cho những thí nghiệm chung). Một vài cuộc thí nghiệm đã được lên kế hoạch trước, như Phổ từ kế Alpha cũng đã bị hủy bỏ.
Những lĩnh vực nghiên cứu
Có một số kế hoạch nghiên cứu sinh vật học trên ISS. Mục đích thứ nhất là để nâng cao sự hiểu biết của chúng ta về sự ảnh hưởng lâu dài của môi trường không trọng lực trong không gian đến cơ thể con người. Những vấn đề như teo cơ, loãng xương và những thay đổi về chất lỏng được nghiên cứu với mục đích sử dụng những dữ liệu này phục vụ cho cuộc sống của con người trong không gian và du lịch vũ trụ dài ngày, nếu chúng được ứng dụng thành công thì những chuyến bay của con người dài ngày trong vũ trụ sẽ khả thi hơn. Những ảnh hưởng của tình trạng mất trọng lượng trong sự tiến hóa, sự phát triển và sự tăng trưởng, những quá trình bên trong thực vật và động vật cũng được nghiên cứu. Những dữ liệu kết quả nghiên cứu mới đây đã đưa ra giả thiết rằng vi trọng lực cho phép sự tăng trưởng của các mô trong cơ thể con người tăng lên gấp 3 lần và các tinh thể protein đặc biệt có thể được hình thành trong không gian, NASA tỏ ra rất mong muốn được điều tra nghiên cứu những hiện tượng này.
NASA cũng quan tâm nghiên cứu đến những vấn đề nổi bật trong vật lý. Vật lý chất lỏng trong môi trường vi trọng lực vẫn chưa được hiểu biết hoàn toàn, và những nhà nghiên cứu muốn tìm một cách nào đó để tìm ra được mô hình chính xác của chất lỏng trong tương lai. Đồng thời, vì những chất lỏng trong không gian có thể kết hợp gần như hoàn toàn bất chấp tỷ trọng của chúng, các nhà nghiên cứu đang quan tâm đến việc nghiên cứu sự kết hợp của những chất lỏng không có tính pha trộn tốt khi thực hiện ở Trái Đất, những chất lỏng này sẽ được thí nghiệm trong không gian để tìm hiểu về sự kết hợp trong môi trường vi trọng lực. Bằng việc nghiên cứu những phản ứng được làm chậm bởi trọng lực và nhiệt độ thấp, những nhà khoa học cũng hy vọng tìm kiếm được sự hiểu biết mới sâu sắc hơn liên quan đến những trạng thái của vật chất (đặc biệt trong hiện tượng siêu dẫn).
Đồng thời, các nhà khoa học cũng hy vọng nghiên cứu sự cháy trong môi trường trọng lực bé hơn ở Trái Đất. Bất kỳ kết quả tìm kiếm nào liên quan đến hiệu quả của sự đốt cháy hay tạo thành những sản phẩm phụ đều có thể cải thiện quá trình sản xuất năng lượng, mà đây là vấn đề được quan tâm hàng đầu trong ngành kinh tế và môi trường. Kế hoạch của các nhà khoa học là sử dụng ISS để nghiên cứu khí dung, ôzôn, hơi nước và ôxy trong bầu khí quyển của Trái Đất cũng như tia vũ trụ, bụi vũ trụ, phản vật chất và vật chất tối trong vũ trụ.
Những mục đích dài hạn của các nghiên cứu này sẽ được áp dụng để pháp triển công nghệ cần thiết cho nhiều lĩnh vực như: xây dựng căn cứ trong không gian, thám hiểm các hành tinh và sự có mặt lâu dài của con người trong không gian (bao gồm những hệ thống hỗ trợ sự sống, hệ thống an toàn, kiểm tra môi trường trong không gian,...), những cách mới để điều trị các căn bệnh, những phương pháp hiệu quả hơn trong sản xuất vật chất, những kết quả đo lường chính xác hơn mà không thể đạt được nếu làm trên Trái Đất.
Những biến cố chính
Thảm họa Columbia năm 2003
Sau thảm họa tàu Columbia vào 1 tháng 2 năm 2003, người Mỹ đã đình chỉ Chương trình tàu con thoi hai năm rưỡi, sau đó là các vấn đề trong việc nối lại hoạt động của các chuyến bay vào năm 2005, từ những sự cố đó, người ta không chắc chắn về tương lai của trạm ISS đến năm 2006. Trong khoảng thời gian giữa thảm họa Columbia và bắt đầu tiếp tục việc phóng tàu con thoi, những chuyến bay thay đổi phi hành đoàn trên ISS đều do tàu vũ trụ Soyuz của Nga thực hiện. Bắt đầu với Expedition 7, chỉ có 2 số với con số 3 nhà du hành được phóng lên trong những lần trước. Điều này là do ISS không có sự cung cấp nhu yếu phẩm thường xuyên bởi tàu con thoi trong một thời gian dài, đa số các kế hoạch đã bị hủy bỏ, tạm thời gây cản trở đến hoạt động của trạm vào năm 2004. Tuy nhiên tàu vận chuyển Tiến bộ và chuyến bay của tàu con thoi trong sứ mệnh mang tên STS-114 đã giải quyết vấn đề này của trạm.
Sự cố khói năm 2006
Vào ngày 18 tháng 9 năm 2006, phi hành đoàn trong cuộc hành trình thứ 13 mang tên Expedition 13 đã kích hoạt báo động cháy trong khu vực của Nga trên Trạm vũ trụ Quốc tế, khi khói từ một trong số 3 máy cung cấp ôxy thoát ra, nó đã gây ra một sự sợ hãi trong chốc lát do lo sợ lửa có thể bùng cháy trong mô-đun. Kỹ sư trên chuyến bay là Jeffrey Williams đã thông báo một mùi khác thường, nhưng những quan chức đã nói rằng không có lửa trong mô-đun và phi hành đoàn không phải chịu bất kỳ sự nguy hiểm nào.
Phi hành đoàn đã thông báo giải thích về khói và mùi phát ra trong cabin của mô-đun về trung tâm điều khiển sau khi tìm hiểu vụ việc. Nguyên nhân là do một sự rò rỉ Kali hydroxide từ một lỗ thông ôxy. Thiết bị này ngay lập tức đã bị dừng hoạt động. Kali hydroxide không có mùi, và mùi mà Williams nói đã ngửi thấy là do một tấm đệm bằng cao su đã bị đốt nóng gây ra mùi khét trong hệ thống Elektron.
Trong bất kỳ trường hợp nào, hệ thống thông hơi của trạm sẽ bị tắt để ngăn ngừa khói hoặc các chất ô nhiễm khác lan ra các khu vực khác của phòng thí nghiệm liên hợp. Một bộ lọc không khí bằng than đã được đặt ở trong trạm để làm sạch không khí nếu như xảy ra hiện tường rò rỉ khói kali hydroxide dù là nhỏ nhất ở trên trạm ISS. Giám đốc chương trình trạm vũ trụ nói rằng phi hành đoàn chưa bao giờ phải mang mặt nạ phòng độc, nhưng trong biện pháp phòng ngừa, người ta vẫn yêu cầu các phi hành gia mang găng tay và mặt nạ phòng độc để ngăn ngừa sư tiếp xúc với bất kỳ chất gây ô nhiễm nào.
Vào ngày 2 tháng 11 năm 2006, các bộ phận thiết bị thay thế được Tàu vũ trụ Progress số hiệu M-58 của Nga mang lên trạm, cho phép phi hành đoàn sửa chữa Elektron bằng phụ tùng thay thế.
Sự cố hỏng hóc máy tính năm 2007
Vào ngày 14 tháng 6 năm 2007, trong thời gian diễn ra cuộc hành trình mang tên Expedition 15 và ngày thứ 7 của sứ mệnh STS-117 trên trạm ISS, một máy tính đã bị trục trặc dẫn đến ngừng hoạt động trong khu vực của Nga lúc 06:30 UTC làm cho phần bên trái của trạm không có lực ép, mất sự cung cấp ôxy, máy lọc carbon dioxide ngừng hoạt động, và các hệ thống kiểm soát môi trường khác cũng ngừng hoạt động, nguyên nhân dẫn đến máy tính bị hỏng là do nhiệt độ tăng quá cao. Khi máy tính khởi động lại thành công đã dẫn đến một báo động hỏa hoạn sai, báo động này đã đánh thức phi hành đoàn vào lúc 11:43 UTC. Hai hệ thống máy tính (chỉ huy và dẫn đường) từng hệ thống bao gồm 3 máy tính kết nối. Mỗi máy tính được gán như một Lane.
Ngày 15 tháng 6, máy tính chính của Nga được kết nối trực tuyến trở lại và việc liên lạc với phần khu vực của Hoa Kỳ trên trạm đã phải sử dụng đường dây khác. Những hệ thống phụ chưa kết nối trực tuyến và làm các công việc cần giải quyết khác. NASA có những chọn lựa để gia hạn hoạt động của STS-117 nếu những vấn đề không thể được giải quyết và họ đã định "lựa chọn để từ giã" nếu ít nhất một trong số những máy tính trên trạm không được kiểm soát ổn định và 3 thành viên phi hành đoàn phải ngay lập tức quay trở lại Trái Đất bằng tàu con thoi Atlantis. Nếu không có máy tính để kiểm soát mức ôxy, trạm ISS chỉ có 56 ngày sử dụng số ôxy dự trữ còn lại.
Vào buổi chiều ngày 16 tháng 6, giám đốc chương trình ISS là Michael Suffredini đã xác nhận tất cả sáu máy tính chính trong hệ thống điều khiển và dẫn đường, bao gồm cả hai chiếc máy tính có khả năng suy nghĩ đã bị hỏng, khu vực của Nga trên trạm đã được kết nối trực tuyến trở lại và sẽ được kiểm tra bên trong vào khoảng thời gian từ 1 đến 2 ngày sau. Hệ thống làm lạnh là hệ thống đầu tiên được kết nối lại. NASA tin tưởng những mạch bảo vệ dòng siêu tải được thiết kế sẽ bảo vệ mỗi máy tính khỏi sự cố đột biến năng lượng và giúp máy tính tránh được hiện tượng giao thoa tăng lên, hay "tạp nhiễu", từ môi trường plasma của trạm có liên quan đến sự bổ sung của giàn đỡ bên phải và các tấm pin năng lượng mặt trời. Sự phân tích những hỏng hóc liên tiếp trong hệ thống máy tính trên trạm ISS, sẽ giúp cho Mô-đun phòng thí nghiệm Columbus và tàu vận tải không người lái ATV của ESA tránh được các hỏng hóc tương tự như trên ISS, do hầu hết các hệ thống máy tính đều cùng được cung cấp bởi công ty EADS Astrium Space Transportation. Theo giám đốc của chương trình ISS của NASA là Michael Suffredini, giả thiết về trường plasma gây ra hỏng hóc cho trạm đã bị bác bỏ khi hình dạng của trạm thay đổi do thêm vào các đoạn giàn đỡ mới hay "khi trạm càng lớn, điện thế sẽ tiếp tục tăng lên" và "người Nga đã lưu ý đến những thay đổi trong hệ thống của họ khi mà chúng ta đang phát triển."
Các tàu vũ trụ đã kết nối với ISS
Phi thuyền con thoi - phương tiện chuyên chở bộ phận lắp ráp, hậu cần và luân chuyển các phi hành đoàn (đã được nghỉ hưu vào đầu năm 2011).
Tàu vũ trụ Soyuz - luân chuyển phi hành đoàn và làm phương tiện cứu hộ khẩn cấp, được thay thế 6 tháng một lần.
Tàu vận tải Tiến bộ - phương tiện chuyên chở hàng hóa.
Tàu vận tải tự hành (Automated Transfer Vehicle - ATV) của cơ quan không gian châu Âu (ESA) là tàu vũ trụ không người lái cung cấp đồ tiếp tế (gồm cả các giá đựng (rack)) cho trạm ISS (phóng lên lần đầu vào tháng 3 năm 2008).
Các tàu trong kế hoạch
Tàu vận tải H-II (HTV) của Nhật Bản (JAXA), dùng để mang hàng hóa và thiết bị (sẽ phóng vào cuối năm 2009).
Tàu Orion có thể dùng để luân chuyển phi hành đoàn và cung cấp khả năng vận tải (dự kiến bắt đầu hoạt động vào năm 2014 thay cho tàu con thoi).
Các tàu trong đề án
SpaceX Dragon được sử dụng cho chương trình Dịch vụ vận chuyển quỹ đạo thương mại của NASA (lên kế hoạch phóng vào năm 2009).
Rocketplane Kistler Phương tiện K-1 được sử dụng cho chương trình Dịch vụ vận chuyển quỹ đạo thương mại của NASA (lên kế hoạch phóng vào năm 2009).
Phi thuyền con thoi của Nga mang tên Kliper có thể được dùng để vận chuyển phi hành đoàn và cung cấp khả năng chuyên chở (lên kế hoạch phóng vào năm 2012).
Hệ thống vận chuyển người vào không gian Soyuz được bắt đầu bằng sự hợp tác giữa Nga-Châu Âu để luân chuyển phi hành đoàn và vận chuyển hàng hóa (lên kế hoạch phóng vào năm 2014).
Các cuộc hành trình lên ISS
Mọi phi hành đoàn đến trạm ISS thường xuyên đều được mang tên là "Expedition N", ở đây N là số thứ tự của chuyến hành trình đến ISS. Các chuyến hành trình thường kéo dài trong khoảng nửa năm.
Trong lịch sử Trạm vũ trụ Quốc tế phần lớn các chuyến viếng thăm trạm là do các tàu vũ trụ thực hiện. Kể từ 11 tháng 9 năm 2006, đã có 159 lượt người (không phân biệt rõ ràng) đặt chân đến trạm ISS. Trạm Mir có 137 lượt người (không phân biệt rõ ràng) đặt trên đến trạm (Xem Trạm vũ trụ). Số lượng người được xác định đến trạm ISS để làm nhiệm vụ là 124 người (xem Danh sách người đến thăm Trạm vũ trụ Quốc tế).
Những khía cạnh pháp luật
Thỏa thuận
Kết cấu pháp lý đã quy định việc xây dựng trạm vũ trụ được phân thành nhiều phần. Phần đầu tiên được soạn thảo nhằm mục đích thiết lập những trách nhiệm và quyền lợi giữa những đối tác xây dựng trạm ISS theo Hiệp định Tồn tại Trạm vũ trụ (IGA), một hiệp ước quốc tế được ký vào ngày 28 tháng 1 năm 1998 bởi 15 chính phủ có liên quan đến dự án Trạm vũ trụ. Gồm có Hoa Kỳ, Canada, Nhật Bản, Liên bang Nga và 11 thành viên khác thuộc Cơ quan Vũ trụ châu Âu (Bỉ, Đan Mạch, Pháp, Đức, Ý, Hà Lan, Na Uy, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ và Anh). Điều 1 đã thảo ra những nét chính của mục đích dự án:
"Hiệp định này là một khung hợp tác quốc tế dài hạn trên cơ sở của quan hệ đối tác xác thực, đối với thiết kế chi tiết, sự phát triển, hoạt động, và sử dụng trạm vũ trụ dân sự có người ở lâu dài với mục đích hòa bình, theo luật pháp quốc tế."
Phần thứ hai của hiệp định IGA đặt ra giai đoạn hợp tác giữa những thành viên ký hiệp định được đề cập với tên gọi "Biên bản ghi nhớ" (Memoranda of Understanding - MOU), nêu ra 4 vấn đề hợp tác giữa NASA và mỗi đối tác trong 4 đối tác khác. Không có biên bản giữa ESA, Roskosmos, CSA và JAXA vì thực tế NASA được coi như là "giám đốc" của dự án ISS. MOU được sử dụng để miêu tả những vai trò và trách nhiệm của những đối tác chi tiết hơn.
Phần thứ 3 gồm có sự thay đổi những thỏa thuận bằng hợp đồng hay dịch vụ thương mại trong quyền lợi và nhiệm vụ của các đối tác, bao gồm thỏa thuận khung thương mại giữa NASA và Roskosmos vào năm 2005, nó có 4 điều khoản và điều kiện theo sau, trong đó NASA sẽ sử dụng khả năng vận chuyển phi hành đoàn, hàng hóa của tàu vũ trụ Soyuz và tàu không người lái Tiến bộ để chuyên chở lên trạm ISS.
Phần pháp lý thứ 4 là những thỏa thuận thi hành và bổ sung, gồm 4 Biên bản ghi nhớ nữa. Đáng chú ý trong số đó là luật lệ quản lý ISS, được đặt ra để các quy định về quyền xét xử người phạm tội, chống quấy nhiễu và một số hành vi khác liên quan đến phi hành đoàn trên ISS.
Phân chia quyền lợi sử dụng
Không có tỷ lệ phần trăm cố định trong quyền sở hữu đối cho toàn bộ trạm vũ trụ. Điều 5 của hiệp định IGA đã chỉ ra điều đó: "mỗi đối tác sẽ được giữ quyền hạn và quyền kiểm soát đối với các yếu tố được đăng ký và đối với nhân sự trong hoặc trên trạm vũ trụ thuộc quốc gia của mình." Bởi vậy, mỗi mô-đun của ISS chỉ có duy nhất một quốc gia có quyền sở hữu. Còn những thỏa thuận để sử dụng những phương tiện trên trạm vũ trụ phức tạp hơn rất nhiều.
Ba mô-đun trong kế hoạch của người Nga là Zvezda, Mô-đun Phòng thí nghiệm Vạn năng và Mô-đun Nghiên cứu Nga, chúng đều được chế tạo và sở hữu bởi Liên bang Nga, và chúng sẽ vẫn do Nga sở hữu trong thời điểm hiện nay và tương lai (Zarya, dù được thiết kế chế tạo và phóng lên không gian bởi Nga, nhưng kinh phí lại do NASA chi trả, do đó chính thức thì Zarya thuộc về quyền sở hữu của NASA). Để sử dụng những bộ phận của Nga trên trạm, những đối tác khác sẽ phải sử dụng hiệp ước song phương (phần thứ 3 và 4 trong kết cấu pháp lý). Phần còn lại của trạm, (môđun điều áp của Hoa Kỳ, châu Âu và Nhật Bản cũng như những giàn đỡ, các tấm pin năng lượng mặt trời và 2 cánh tay máy) đã được thỏa thuận sử dụng theo tỷ lệ sau (tỷ lệ % phụ thuộc thời gian mà mỗi kết cấu có thể được sử dụng bởi mỗi đối tác):
Columbus: 51% cho ESA, 49% cho NASA và CSA (CSA đã thỏa thuận với NASA để sử dụng 2,3% công trình không thuộc sở hữu của Nga trên ISS).
Kibo: 51% cho JAXA, 49% cho NASA và CSA (2,3%).
Phòng thí nghiệm Destiny: 100% cho NASA và CSA (2,3%).
Thời gian phi hành đoàn lưu lại và năng lượng từ kết cấu pin mặt trời, cũng như quyền lợi liên quan đến dịch vụ hỗ trợ (dịch vụ tải lên/tải xuống dữ liệu và thông tin liên lạc) 76,6% cho NASA, 12.8% cho JAXA, 8,3% cho ESA và 2,3% cho CSA.
Chi phí xây dựng
Chi phí để xây dựng trạm ISS tính đến hiện nay đã vượt xa những tính toán trước đây. ESA đánh giá chi phí toàn bộ từ khi bắt đầu dự án vào cuối thập niên 1980 đến khi trạm hoàn thành vào năm 2010 sẽ vào khoảng 130 tỷ USD (100 tỷ euro).
Rất khó để xác định chính xác chi phí xây dựng trạm ISS: ví dụ, khó có thể xác định được những khoản đóng góp của Nga trong chương trình ISS hay có bao nhiêu khoản đóng góp của Nga đã được thực hiện đều đặn, cũng do những chi phí của Cơ quan Vũ trụ Nga thấp hơn khi đổi sang USD so với các đối tác khác.
NASA
Tổng quan
Phần lớn toàn bộ những chi phí do NASA bỏ ra đều được dùng để duy trì hoạt động của các chuyến bay và toàn bộ chi phí cho việc quản lý toàn bộ trạm ISS. Những chi phí ban đầu là chế tạo các phần của mô-đun ISS, cấu trúc ngoài ở tại mặt đất và xây dựng trong không gian, cũng như huấn luyện phi hành đoàn và những chuyến bay tiếp tế tới ISS, sao cho chi phí ít hơn so với chi phí hoạt động chung khi dự toán.
NASA không tính chi phí chương trình Phi thuyền con thoi vào tổng chi phí xây dựng chương trình ISS, dù Tàu con thoi đã được chỉ định sử dụng riêng cho việc xây dựng và tiếp tế cho ISS từ tháng 12 năm 1998 (từ năm 2002 chỉ có 2 sứ mệnh STS-107 và STS-125 là không liên quan tới ISS).
Ngân sách chi phí cho các hạng mục của ISS trong những năm từ 1994 đến 2005 của NASA (không tính chi phí về tàu con thoi) là 25,6 tỷ USD. Từ năm 2005 đến 2006, khoảng 1,7 đến 1,8 tỷ USD đã được giải ngân cho chương trình ISS. Chi phí hàng năm sẽ tăng thêm cho đến năm 2010 khi ngân sách một năm dành cho ISS sẽ đạt là 2,3 tỷ USD và dừng lại ở mức ngân sách này, tuy nhiên chi phí sẽ được điều chỉnh theo lạm phát, cho đến năm 2016, thời điểm kết thúc chương trình. NASA đã cấp từ 300 đến 500 triệu USD gọi là chi phí cho "sự đóng cửa" chương trình vào năm 2017.
Ngân sách dành cho ISS năm 2005
Có 1,8 tỷ USD đã được chi trong năm 2005 gồm các phần:
Phát triển những phần cứng mới: 70 triệu USD đã được chi cho những sự phát triển trọng tâm, ví dụ như phát triển hệ thống dẫn đường, hỗ trợ dữ liệu hay môi trường.
Hoạt động của trạm vũ trụ: 800 triệu USD gồm có 125 triệu USD cho toàn bộ phần mềm, hệ thống hoạt động bên ngoài tàu, hậu cần và bảo dưỡng. 150 triệu USD bổ sung được chi dùng cho các chuyến bay, hệ thống điện tử hàng không và phi hành đoàn. 250 triệu USD được sử dụng cho việc quản lý toàn bộ ISS.
Hoạt động phóng và sứ mệnh của tàu con thoi: Mặc dù chi phí phóng tàu con thoi không nằm trong ngân sách của ISS, nhưng các sứ mệnh và sứ mệnh hợp nhất của những tàu con thoi vẫn chiếm 300 triệu USD, hỗ trợ y học 25 triệu USD và sửa chữa địa điểm phóng tàu con thoi chiếm 125 triệu USD trong ngân sách của ISS.
Chương trình hợp nhất hoạt động: 350 triệu USD đã được chi cho việc giữ gìn và duy trì các chuyến bay, nền phần cứng, phần mềm để bảo đảm sự toàn vẹn trong thiết kế và liên tục mở rộng của trạm ISS.
Hàng hóa/phi hành đoàn trên ISS: 140 triệu USD được dành cho việc cung cấp hàng tiếp tế, hàng hóa, phi hành đoàn lên trạm bằng các chuyến bay trên tàu vũ trụ Progress và Soyuz.
Chi phí dành cho tàu con thoi như một phần trong chi phí của ISS
Chỉ có chi phí cho các sứ mệnh, sứ mệnh hợp nhất và chuẩn bị bệ phóng cho 33 chuyến bay của tàu con thoi phục vụ trong chương trình ISS là thuộc vào chi phí cho dự án của NASA. Những chi phí cơ bản của chương trình tàu con thoi, như đề cập ở trên, không phải là một phần được xem xét trong toàn bộ những chi phí bởi NASA cho chương trình ISS, vì chương trình tàu con thoi được coi là một chương trình độc lập đối với trạm ISS. Từ tháng 12 năm 1998 tàu con thoi, tuy nhiên, gần như chỉ sử dụng dành riêng cho các chuyến bay lên trạm ISS (kể từ chuyến bay đầu tiên lên ISS vào tháng 12 năm 1998, đến tháng 12 năm 2006, chỉ có 5 chuyến bay của tàu con thoi ngoài 25 chuyến bay khác là không dùng cho chương trình ISS, và chỉ có kế hoạch bảo dưỡng Kính viễn vọng Hubble dự kiến sẽ diễn ra vào năm 2009 (xem STS-125) là không liên quan đến ISS, trong khi có tới 14 kế hoạch phóng tàu dành cho ISS cho đến khi kết thúc chương trình tàu con thoi vào năm 2010).
Chi phí của chương trình tàu con thoi trong thời gian ISS hoạt động từ năm 1999 đến năm 2005 (không tính đến chuyến bay đầu tiên lên ISS vào tháng 12 năm 1998) đã có giá trị xấp xỉ khoảng 24 tỷ USD (năm 1999: 3.028,0 triệu USD, năm 2000: 3.011,2 triệu USD, năm 2001: 3.125,7 triệu USD, năm 2002: 3.278,8 triệu USD, năm 2003: 3.252,8 triệu USD, năm 2004: 3.945,0 triệu USD, năm 2005: 4.319,2 triệu USD). Trong những chi phí liên quan đến ISS, những chi phí của các chuyến bay không liên quan đến ISS cần phải trừ đi, con số này chiếm khoảng 20% trong tổng số hay gần 5 tỷ USD. Trong khoảng thời gian 2006-2011, NASA dự kiến sẽ chi khoảng 20,5 tỷ USD cho chương trình tàu con thoi (2006: 4.777,5 triệu USD, năm 2007: 4.056,7 triệu USD, năm 2008: 4.087,3 triệu USD, năm 2009: 3.794,8 triệu USD, năm 2010: 3.651,1 triệu USD, năm 2011: 146,7 triệu USD). Nếu sứ mệnh bảo dưỡng Hubble được loại trừ khỏi những chi phí đó, thì chi phí cho các chuyến bay của tàu con thoi liên quan đến ISS sẽ xấp xỉ khoảng 19 tỷ USD từ năm 2006 đến 2011. Tổng cộng, chi phí chương trình tàu con thoi liên quan đến ISS sẽ xấp xỉ khoảng 38 tỷ USD.
Tổng chi phí của NASA cho ISS
Giả sử NASA chi trung bình 2,5 tỷ USD từ năm 2011 đến 2016 và đến khi kết thúc việc chi tiền cho trạm ISS vào năm 2017 (khoảng 300-500 triệu USD) sau khi kết thúc dự án vào năm 2016, thì tổng chi phí dự án ISS của NASA kể từ khi công bố chương trình vào năm 1993 đến khi kết thúc là vào khoảng 53 tỷ USD (25,6 tỷ cho giai đoạn từ 1994-2005 và khoảng 27 đến 28 tỷ cho giai đoạn từ 2006-2017).
Ở đây cũng phải kể đến những chi phí đáng kể để thiết kế Trạm vũ trụ Tự do vào thập niên 1980 và đầu những năm 1990, trước khi chương trình ISS bắt đầu vào năm 1993. Những kế hoạch của Trạm vũ trụ Tự do được sử dụng lại cho Trạm vũ trụ Quốc tế.
Tính tổng cộng, mặc dù chi phí hiện nay của NASA cho trạm ISS được công bố trên các phương tiện truyền thông là khoảng 50 tỷ USD, nhưng nếu còn tính cả chi phí cho chương trình tàu con thoi và thiết kế trạm vũ trụ Tự do thì tổng chi phí mà một mình NASA phải chi ra là trên 100 tỷ USD.
ESA - Cơ quan Vũ trụ châu Âu
ESA tính toán rằng đóng góp của họ trong 30 năm tồn tại của dự án sẽ là 8 tỷ €. Chi phí cho Phòng thí nghiệm Columbus tổng cộng sẽ hơn 1 tỷ € (euro), chi phí phát triển cho ATV (tàu vận tải tự hành) là hơn 100 triệu € và khi dùng tên lửa Ariane 5 phóng lên không gian thì chi phí sẽ hết khoảng 150 triệu € mỗi lần phóng, mỗi tàu ATV phóng lên sẽ phải chi thêm một khoản ngân sách nữa. Ngoài ra ESA đã xây dựng một trạm điều khiển mặt đất ở miền Nam nước Đức để điều khiển Phòng thí nghiệm Columbus.
JAXA - Cơ quan Thám hiểm Không gian Nhật Bản
Việc phát triển Phòng thí nghiệm Kibo chính là sự đóng góp chính của JAXA cho sự án ISS, nó có giá trị khoảng 350 tỷ Yên (khoảng 2.8 tỷ USD) Vào năm 2005, JAXA đã chi khoảng 40 tỷ Yên (khoảng 350 triệu USD) cho chương trình ISS. Những chi phí vận hành hàng năm của Kibo tổng cộng khoảng từ 350 đến 400 triệu USD. Ngoài ra JAXA đã cam kết tự mình phát triển và phóng tàu vận tải-HTV, do đó tổng chi phí là gần 1 tỷ USD. Như vậy trong vòng 24 năm tồn tại của chương trình ISS, JAXA sẽ đóng góp trên 10 tỷ USD cho chương trình này.
Roskosmos - Cơ quan Vũ trụ Liên bang Nga
Một phần đáng kể ngân sách của Cơ quan Vũ trụ Nga được sử dụng cho ISS. Từ năm 1998 đã có trên 24 chuyến bay của các tàu vũ trụ Soyuz và Progress, chủ yếu được sử dụng để chuyên chở phi hành đoàn, và vận chuyển hàng hóa từ năm 2003. Một câu hỏi được đặt ra là Nga đã chi bao nhiêu cho trạm quốc tế (tính ra USD), tuy nhiên không dễ dàng đối với câu trả lời. Hai mô-đun hiện thời trong quỹ đạo đều bắt nguồn từ chương trình Mir và bởi vậy những chi phí cho phát triển là thấp hơn nhiều so với những mô-đun khác. Ngoài ra, tỷ giá hối đoái giữa đồng rúp và USD không tương xứng, và nó không đủ chính xác để đưa ra một sự so sánh thực sự cho những chi phí mà Nga đã thực sự chi trả.
CSA - Cơ quan Không gian Canada
Đóng góp chính của Canada cho trạm ISS là Canadarm2 (hệ thống bảo dưỡng lưu động), trong khoảng thời gian 20 năm qua, Canada đã đóng góp gần 1,4 tỷ đô la Canada cho kinh phí của trạm ISS.
ISS nhìn từ Trái Đất
Có thể quan sát Trạm vũ trụ Quốc tế từ mặt đất bằng mắt thường bởi vì trạm có kích thước lớn và trạm có các tấm pin mặt trời có khả năng phản chiếu ánh sáng mạnh. ISS là vật thể sáng thứ 3 có thể quan sát được trên bầu trời. Một khi trạm trong quỹ đạo Trái Đất, thì còn cần cả góc Mặt Trời và vị trí người quan sát cũng trùng khớp thì mới có thể nhìn thấy trạm, nó chỉ rõ ràng trong một thời gian ngắn.
NASA cung cấp dữ liệu để có thể nhìn thấy trạm ISS từ mặt đất thông qua trang web Sightings , và tại trang web của Cơ quan Vũ trụ châu Âu.
Những chuyện ngoài lề
Đám cưới và du lịch trong vũ trụ
Tính đến năm 2007, đã có 5 khách du lịch đến thăm trạm ISS. Để lên tới đây bằng tàu vũ trụ của Nga, mỗi người phải trả từ 20 đến 25 triệu USD.
Trên ISS cũng đã tổ chức hôn lễ cho nhà du hành vũ trụ Yuri Ivanovich Malenchenko với Ekaterina Dmitrieva trong khi cô dâu đang ở tại bang Texas, Hoa Kỳ. Hôn lễ diễn ra vào ngày 10 tháng 8 năm 2003, giờ Texas.
Đánh golf vòng quanh thế giới là một sự kiện đặc biệt diễn ra trên trạm, trong một chuyến đi bộ không gian, một quả bóng golf đặc biệt, trang bị một thiết bị theo dõi, đã được đánh đi từ trạm và nhắm vào quỹ đạo thấp của trạm, chi phí do một công ty chuyên trang bị dụng cụ golf của Canada chi trả cho Cơ quan Hàng không Liên bang Nga để họ thực hiện công việc này. Nhiệm vụ này ban đầu dự định thực hiện trong chuyến bay Expedition 13, nhưng đã bị hoãn lại, rồi được thực hiện trên Expedition 14.
Vi trọng lực
Trên độ cao của trạm ISS, trọng lực của Trái Đất đã giảm mất 88% so với ở trên mặt đất. Trạng thái mất trọng lượng xảy ra do trạm rơi vào hiện tượng rơi tự do, nó tuân theo nguyên lý tương đương, ở đây trọng lượng đã biến mất. Tuy nhiên, vì (1) còn có lực kéo từ khí quyển, (2) dao động gia tốc do hệ thống máy móc và phi hành đoàn trên ISS, (3) sự hiệu chỉnh quỹ đạo trên trạm ISS do con quay hồi chuyền hoặc lực đẩy, và (4) sự tình trạng chia cắt không gian từ khối tâm của ISS, môi trường trên trạm thường được mô tả là môi trường vi trọng lực, với mức trọng lực từ 2 đến 1000 phần 1 triệu của g (giá trị sẽ thay đổi nếu tần số nhiễu loạn thay đổi; giá trị thấp xảy ra ở tần số dưới 0,1 Hz, giá trị lớn xảy ra ở tần số 100 Hz hoặc hơn).
Xem thêm
Danh sách người đến thăm Trạm vũ trụ Quốc tế
Danh sách các chuyến đi bộ ngoài không gian trên ISS được thực hiện do các nhà du hành bước ra ngoài khoảng không từ trạm ISS hoặc từ tàu vũ trụ đến trạm
Danh sách các chuyến bay do người điều khiển đến ISS, đây là một danh sách theo thứ tự thời gian các tàu vũ trụ do người lái đã đến ISS, bao gồm các phi hành đoàn trên từng chuyến bay
Danh sách các chuyến bay không người lái đến ISS — Tàu Tiến bộ cung cấp các chuyến bay và tự động kết nối vào mô-đun của trạm ISS
Những bài khác
Trạm vũ trụ
Tàu vũ trụ Soyuz
Tàu vận tải Tiến bộ
Mir
Salyut
Skylab
X-38
Transhab
Kliper
Thang máy không gian Lunar
Thiết bị mô phỏng bay chuyến bay không gian
Chinh phục vũ trụ
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang web của các cơ quan không gian tham gia và liên quan đến dự án ISS
Trạm vũ trụ Quốc tế trên trang web của NASA
[http://asc-csa.gc.ca/eng/iss/ Trạm vũ trụ Quốc tế trên trang web của CSA]
Trạm vũ trụ Quốc tế trên trang web của Energia
Trạm vũ trụ Quốc tế trên trang web của ESA
Trạm vũ trụ Quốc tế trên trang web của JAXA
Missoes cientificas - Trạm vũ trụ Quốc tế trên trang web của AEB 10/7/2008
Trạm vũ trụ Quốc tế trên trang web của ASI
Các links khác liên quan đến ISS
CNN page with 3D model
NASA Space Station Gallery
NASA Scale Model Drawing Package
ISS Expedition Experiment List - Danh sách các cuộc thí nghiệm được thực hiện trên ISS được sắp xếp theo các chuyến hành trình.
Experiment List - Alphabetical - Danh sách các cuộc thí nghiệm trên ISS được sắp xếp tên gọi của
ISS Familiarization and Training Manual - NASA July 1998 (PDF format)
Current ISS Vital Statistics
International Space Station từ Bách khoa toàn thư Ngành vũ trụ (quá hạn)
See the ISS from your home town
Space Station Newsgroup - sci.space.station
ISS Fanclub
ISS safety report
Detailed list of cancelled components
International Space Station
04/16/07: Consolidated Launch Manifest: Space Shuttle Flights and ISS Assembly Sequence.
[http://forum.nasaspaceflight.com/index.php#c6 NASAspaceflight.com ISS forum]
Quỹ đạo Trạm vũ trụ Quốc tế được điều chỉnh cao thêm 7 km
ПУТЕШЕСТВИЕ ПО БЛОКО-МОДУЛЯМ СТАНЦИИ ВНУТРИ
Chuyến bay không gian hiện nay
Chuyến bay không gian của con người
Tàu vũ trụ có người lái
Khoa học vũ trụ
Vệ tinh nhân tạo trong quỹ đạo Trái Đất hiện nay
Khởi đầu năm 1998
|
26471
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%ACnh%20Th%E1%BB%A7y
|
Bình Thủy
|
Bình Thủy là một quận nội thành thuộc thành phố Cần Thơ, Việt Nam.
Địa lý
Quận Bình Thủy nằm ở khu vực trung tâm của thành phố Cần Thơ, có vị trí địa lý:
Phía đông và phía bắc giáp huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long
Phía tây giáp quận Ô Môn
Phía nam giáp quận Ninh Kiều và huyện Phong Điền.
Quận có diện tích 67,20 km², dân số năm
2019 là 142.164 người, mật độ dân số đạt 2.014 người/km²
Lịch sử
Nguồn gốc địa danh Bình Thủy và Long Tuyền
Ban đầu, Bình Thủy chỉ là tên một thôn và sau đó là làng thuộc địa bàn tỉnh Cần Thơ cũ. Đến năm 1906, làng Bình Thủy đổi tên thành làng Long Tuyền và sau năm 1956, làng Long Tuyền lại đổi thành xã Long Tuyền. Từ đó, địa danh Bình Thủy chỉ còn được dùng để chỉ tên một ngôi chợ và tên vùng đất quanh khu vực gần cầu Bình Thủy và Đình Bình Thủy (lúc bấy giờ còn gọi là Long Tuyền Cổ miếu). Tuy nhiên, dưới thời Việt Nam Cộng hòa, địa danh Bình Thủy lại được sử dụng nhiều để chỉ tên gọi các phi trường và khu vực căn cứ quân sự ở vùng đất này.
Sau năm 1975, xã Long Tuyền được tách ra để thành lập mới phường Bình Thủy. Trong giai đoạn 1975-2003, Bình Thủy chỉ là tên một phường thuộc thành phố Cần Thơ (lúc bấy giờ còn là thành phố trực thuộc tỉnh). Từ năm 2004, khi Cần Thơ trở thành thành phố trực thuộc trung ương, địa danh Bình Thủy chính thức được dùng cho cả hai đơn vị hành chính: phường Bình Thủy và quận Bình Thủy. Hiện nay, trung tâm hành chính quận Bình Thủy được đặt ở phường Bình Thủy.
Thuở xa xưa, Long Tuyền có tên là Bình Hưng, sau đổi lại là Bình Phó. Nguồn nước sông trong lành suốt khu vực từ Cồn Linh cho đến xã Thới Bình, sông sâu mà không có sóng to gió lớn. Theo tư liệu tại Bảo tàng Hậu Giang (Cần Thơ), trào Tự Đức thứ 5 (1852), quan Khâm sai đại thần Huỳnh Mẫn Đạt đi tuần thú trên một chiếc hải thuyền vừa đến Cồn Linh thì gặp một trận cuồng phong dữ dội, cả thuyền ai nấy hoảng sợ. Quan khâm sai cho thuyền nấp vào con rạch yên ổn, qua cơn sóng to gió lớn, quan đại thần bèn mở cuộc vui chơi ba ngày cùng dân làng và đổi tên nơi nầy là Bình Thủy.
Đổi tên gọi Bình Thủy vì quan Khâm sai Huỳnh Mẫn Đạt nhận xét thấy địa thế nầy tốt đẹp, yên lành; ngọn rạch thường yên lặng, không hề có sóng to gió lớn, hoa màu thịnh vượng, dân lạc nghiệp an cư.
Năm Giáp Thìn 1906, trong một buổi họp mời đông đủ thân hào nhân sĩ tại công sở bàn việc đổi tên làng, Tri phủ Nguyễn Đức Nhuận (người làng Bình Thủy) đã đề nghị: Cuộc đất chúng ta đang ở rất tốt. Con rạch thì nguồn nước chảy uốn khúc như rồng nằm, miệng ngậm trái châu là cồn án ngang rạch. Lại có bốn chân: hai chân trước là hình thế rạch Ngã Tư lớn và Ngã Tư bé ngang nhau; hai chân sau là rạch Miếu Ông và rạch Cái Tắc ngang nhau. Cái đuôi uốn khúc nằm vắt qua làng Giai Xuân. Địa hình địa cuộc đã trổ ra như thế, tôi muốn đặt tên làng lại là Long Tuyền.... Cai tổng Lê Văn Noãn phụ họa: chữ Long Tuyền thật đầy ý vị. Nhưng hai chữ Bình Thủy cũng khá hay. Ý tôi muốn giữ lại cái tên Bình Thủy cho chợ nầy, và dùng chữ Long Tuyền để chỉ toàn xã thì chẳng gì bằng....
Mọi người có mặt vỗ tay đồng ý. Và vùng đất nầy mang tên Bình Thủy - Long Tuyền mãi đến sau nầy.
Về sau, do tình hình phát triển mở rộng thành phố Cần Thơ, và do dân cư đông đúc, địa giới hành chánh được phân bổ lại nên Long Tuyền - Bình Thủy được tách ra và lập nên phường xã riêng: Phường Bình Thủy và xã Long Tuyền.
Vùng đất Long Tuyền - Bình Thủy xưa kia hiện nay tương ứng với các phường An Thới, Bình Thủy, Bùi Hữu Nghĩa, Long Hòa, Long Tuyền. Riêng các phường Thới An Đông, Trà An và Trà Nóc trước đây cùng thuộc địa bàn làng Thới An Đông (sau năm 1956 là xã Thới An Đông).
Thời phong kiến
Vào thời nhà Nguyễn độc lập, vùng đất quận Bình Thủy ngày nay chính là địa bàn thôn Bình Thủy và thôn Thới An Đông. Hai thôn này ban đầu cùng thuộc tổng Định Thới, huyện Vĩnh Định, phủ Tân Thành, tỉnh An Giang. Năm Minh Mạng thứ 20 (1839), hai thôn Bình Thủy và Thới An Đông vẫn thuộc tổng Định Thới, tuy nhiên lại chuyển sang thuộc sự quản lý của huyện Phong Phú, phủ Tuy Biên, tỉnh An Giang.
Thời Pháp thuộc
Sau khi chiếm hết được các tỉnh Nam Kỳ vào năm 1867, thực dân Pháp dần xóa bỏ tên gọi tỉnh An Giang cùng hệ thống hành chính phủ huyện cũ thời nhà Nguyễn, đồng thời đặt ra các hạt Thanh tra. Ngày 1 tháng 1 năm 1868, Thống đốc Nam Kỳ là Bonard quyết định đặt huyện Phong Phú thuộc hạt Sa Đéc, đồng thời lập Toà Bố tại Sa Đéc. Hạt Sa Đéc (phủ Tân Thành) đặt lỵ sở tại Sa Đéc gồm có 3 huyện: Vĩnh An, An Xuyên và Phong Phú. Vào thời điểm này ở huyện Phong Phú có 5 chợ chính là: Cần Thơ, Ô Môn, Bình Thủy, Trà Niềng và Cái Răng.
Ngày 30 tháng 4 năm 1872, Thống đốc Nam Kỳ ra Nghị định sáp nhập huyện Phong Phú với vùng Bắc Tràng (thuộc phủ Lạc Hóa, tỉnh Vĩnh Long trước đây) để lập thành hạt mới lấy tên là hạt Trà Ôn, đặt Toà Bố tại Trà Ôn. Một năm sau, Toà Bố từ Trà Ôn lại dời về Cái Răng. Ngày 5 tháng 1 năm 1876, các thôn đổi thành làng. Ngày 23 tháng 2 năm 1876, Thống đốc Nam Kỳ ra Nghị định mới lấy huyện Phong Phú và một phần huyện An Xuyên và Tân Thành để lập hạt tham biện Cần Thơ với thủ phủ là Cần Thơ.
Ngày 1 tháng 1 năm 1900, tất cả các hạt tham biện ở Đông Dương điều thống nhất gọi là "tỉnh", trong đó có tỉnh Cần Thơ. Tổng Định Thới ban đầu trực thuộc tỉnh Cần Thơ. Năm 1906, làng Bình Thủy lại đổi tên thành làng Long Tuyền. Mặc dù không còn được dùng chính thức trong các tên gọi đơn vị hành chính, tuy nhiên địa danh "Bình Thủy" vẫn được giữ lại để chỉ tên ngôi chợ trong địa phận làng, gần khu vực cầu Bình Thủy và Đình Bình Thủy.
Năm 1918, thực dân Pháp thành lập quận Ô Môn thuộc tỉnh Cần Thơ. Từ đó, tổng Định Thới trực thuộc quận Ô Môn. Về sau, làng Long Tuyền cũng được giao về cho tổng Định Bảo thuộc quận Châu Thành cùng thuộc tỉnh Cần Thơ quản lý, riêng làng Thới An Đông vẫn thuộc tổng Định Thới, quận Ô Môn như cũ.
Giai đoạn 1956-1976
Việt Nam Cộng hòa
Sau năm 1956, các làng gọi là xã. Ngày 22 tháng 10 năm 1956, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đổi tên tỉnh Cần Thơ thành tỉnh Phong Dinh. Ban đầu, Ô Môn vẫn là tên quận thuộc tỉnh Phong Dinh. Đến ngày 16 tháng 10 năm 1958, quận Ô Môn đổi tên thành quận Phong Phú. Sau năm 1965, cấp tổng bị giải thể, các xã trực thuộc quận. Thời Việt Nam Cộng hòa, xã Long Tuyền vẫn thuộc quận Châu Thành; xã Thới An Đông vẫn thuộc quận Ô Môn và sau đó là quận Phong Phú như cũ.
Thời Việt Nam Cộng hòa, mặc dù cũng không được dùng chính thức trong các tên gọi đơn vị hành chính cấp xã hoặc quận, tuy nhiên địa danh "Bình Thủy" cũng được sử dụng rộng rãi để chỉ tên gọi vùng đất thuộc địa bàn ấp Bình Lạc, xã Long Tuyền. Bên cạnh đó, địa danh "Trà Nóc" được dùng để chỉ tên gọi vùng đất gần khu vực cầu Trà Nóc và Khu kỹ nghệ Tây Đô (ngày nay là Khu công nghiệp Trà Nóc) vốn thuộc địa bàn xã Thới An Đông.
Ngày 30 tháng 9 năm 1970, theo Sắc lệnh số 115-SL/NV của Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa Trần Thiện Khiêm, thị xã Cần Thơ được chính thức tái lập và là thị xã tự trị trực thuộc chính quyền Trung ương Việt Nam Cộng hòa, đồng thời kiêm tỉnh lỵ tỉnh Phong Dinh. Khi đó, ấp Bình Nhựt thuộc xã Long Tuyền được giao cho thị xã Cần Thơ quản lý và được đổi lại thành phường An Thới thuộc quận 1 (quận Nhứt), thị xã Cần Thơ. Các ấp còn lại vẫn thuộc xã Long Tuyền, quận Châu Thành, tỉnh Phong Dinh cho đến năm 1975.
Chính quyền Cách mạng
Tuy nhiên phía chính quyền Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam cùng với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không công nhận tên gọi tỉnh Phong Dinh mà vẫn gọi theo tên cũ là tỉnh Cần Thơ, đồng thời vẫn duy trì tên gọi huyện Ô Môn trực thuộc tỉnh Cần Thơ như cũ trong giai đoạn 1956-1976. Lúc bấy giờ, phía chính quyền Cách mạng cũng gọi vùng đất quận Châu Thành thuộc tỉnh Phong Dinh bằng danh xưng là huyện Châu Thành thuộc tỉnh Cần Thơ, còn quận Phong Phú thuộc tỉnh Phong Dinh thì gọi là là huyện Ô Môn thuộc tỉnh Cần Thơ.
Về phía chính quyền Cách mạng, huyện Ô Môn ban đầu vẫn quản lý xã Thới An Đông như cũ. Về sau, xã Thới An Đông lại được giao về cho huyện Châu Thành cùng thuộc tỉnh Cần Thơ quản lý.
Tháng 8 năm 1972, Thường vụ Khu ủy Khu 9 của phía chính quyền Cộng hòa Miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quyết định hình thành thành phố Cần Thơ trực thuộc Khu 9, là đơn vị hành chính cấp tỉnh ngang bằng với tỉnh Cần Thơ. Đồng thời, chính quyền Cách mạng vẫn duy trì các đơn vị hành chính cấp quận, phường và khóm bên dưới giống như phía chính quyền Việt Nam Cộng hòa cho đến đầu năm 1976.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ vẫn duy trì hai đơn vị hành chính cấp tỉnh ngang bằng nhau là tỉnh Cần Thơ và thành phố Cần Thơ cho đến đầu năm 1976. Lúc này, ở khu vực thành phố Cần Thơ, chính quyền Cách mạng cho thành lập mới phường Bình Thủy, đồng thời giải thể phường An Thới cũ và sáp nhập vào địa bàn phường Bình Thủy.
Giai đoạn 1976-2003
Theo Nghị định số 03/NĐ-76 ngày 24 tháng 2 năm 1976 và Quyết định số 17/QĐ-76 ngày 24 tháng 3 năm 1976, Chính phủ Việt Nam quyết định hợp nhất ba đơn vị hành chính cấp tỉnh ngang bằng nhau là tỉnh Cần Thơ, tỉnh Sóc Trăng và thành phố Cần Thơ để thành lập tỉnh mới: tỉnh Hậu Giang. Đồng thời, quận 1 (quận Nhứt) cũng bị giải thể, các phường xã trực thuộc thành phố do thành phố Cần Thơ lúc này chuyển thành thành phố trực thuộc tỉnh Hậu Giang.
Ngày 21 tháng 4 năm 1979, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 174-CP về việc chia một số phường xã thuộc thành phố Cần Thơ, tỉnh Hậu Giang. Lúc này vùng đất Long Tuyền - Bình Thủy có những thay đổi như sau:
Chia phường Bình Thủy thành 2 phường: Bình Thủy và An Thới (gồm cả Cồn Sơn).
Chia xã Long Tuyền thành 2 xã: Long Hoà và Long Tuyền.
Sáp nhập xã Mỹ Khánh, xã Giai Xuân và ấp Thới Thuận, ấp Thới Hoà, ấp Thới Ngươn của xã Thới An Đông thuộc huyện Châu Thành vào thành phố Cần Thơ.
Sau này, vùng đất ven sông Hậu thuộc xã Thới An Đông cũng được tách ra để thành lập mới phường Trà Nóc trực thuộc thành phố Cần Thơ, đồng thời toàn bộ phần đất còn lại của xã Thới An Đông cũng được sáp nhập vào thành phố Cần Thơ.
Ngày 26 tháng 12 năm 1991, Quốc hội Việt Nam ban hành Nghị quyết chia tỉnh Hậu Giang thành tỉnh Cần Thơ và tỉnh Sóc Trăng, thành phố Cần Thơ khi đó đóng vai trò là tỉnh lỵ tỉnh Cần Thơ cho đến cuối năm 2003.
Từ năm 2004 đến nay
Ngày 26 tháng 11 năm 2003, Quốc hội Việt Nam thông qua Nghị quyết số 22/2003/QH11, về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh. Theo đó, chia tỉnh Cần Thơ thành thành phố Cần Thơ trực thuộc trung ương và tỉnh Hậu Giang.
Đầu năm 2004, quận Bình Thủy được thành lập khi thành phố Cần Thơ chính thức tách ra khỏi tỉnh Cần Thơ và trở thành thành phố trực thuộc Trung ương.
Ngày 02 tháng 1 năm 2004, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 05/2004/NĐ-CP về việc thành lập các quận Ninh Kiều, Bình Thủy, Cái Răng, Ô Môn, các huyện Phong Điền, Cờ Đỏ, Vĩnh Thạnh, Thốt Nốt và các xã, phường, thị trấn thuộc thành phố Cần Thơ trực thuộc Trung ương. Nội dung về việc thành lập quận Bình Thủy và các phường trực thuộc theo Nghị định như sau:
Thành lập quận Bình Thủy trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên, dân số của các phường: Bình Thủy, An Thới, Trà Nóc và các xã: Long Hoà, Long Tuyền và Thới An Đông (thuộc thành phố Cần Thơ cũ). Quận Bình Thủy có 6.877,69 ha diện tích tự nhiên và 86.279 nhân khẩu.
Thành lập phường Long Hoà trên cơ sở toàn bộ 1.395,08 ha diện tích tự nhiên và 13.471 nhân khẩu của xã Long Hoà (thuộc thành phố Cần Thơ cũ).
Thành lập phường Long Tuyền trên cơ sở toàn bộ 1.413,55 ha diện tích tự nhiên và 13.250 nhân khẩu của xã Long Tuyền (thuộc thành phố Cần Thơ cũ).
Thành lập phường Thới An Đông trên cơ sở toàn bộ 1.167,56 ha diện tích tự nhiên và 9.438 nhân khẩu của xã Thới An Đông (thuộc thành phố Cần Thơ cũ).
Quận Bình Thủy sau khi được thành lập có 6.877,69 ha diện tích tự nhiên và 86.279 nhân khẩu; có 6 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm các phường: Bình Thủy, An Thới, Trà Nóc, Long Hoà, Long Tuyền và Thới An Đông.
Ngày 06 tháng 11 năm 2007, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 162/2007/NĐ-CP, về việc điều chỉnh địa giới hành chính xã, phường để thành lập xã, phường thuộc quận Bình Thủy, quận Ô Môn, huyện Thốt Nốt và huyện Vĩnh Thạnh, thành phố Cần Thơ. Nội dung về việc thành lập các phường thuộc quận Bình Thủy như sau:
Thành lập phường Bùi Hữu Nghĩa trên cơ sở điều chỉnh 637,12 ha diện tích tự nhiên và 11.185 nhân khẩu của phường An Thới. Phường Bùi Hữu Nghĩa có 637,12 ha diện tích tự nhiên và 11.185 nhân khẩu.
Thành lập phường Trà An trên cơ sở điều chỉnh 565,67 ha diện tích tự nhiên và 5.339 nhân khẩu của phường Trà Nóc. Phường Trà An có 565,67 ha diện tích tự nhiên và 5.339 nhân khẩu.
Quận Bình Thủy có 7.059,31 ha diện tích tự nhiên với 97.051 nhân khẩu, có 8 đơn vị hành chính phường trực thuộc, bao gồm các phường: Trà Nóc, Trà An, An Thới, Bùi Hữu Nghĩa, Thới An Đông, Bình Thủy, Long Tuyền và Long Hoà.
Hành chính
Quận Bình Thủy có 8 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 8 phường: An Thới, Bình Thủy, Bùi Hữu Nghĩa, Long Hòa, Long Tuyền, Thới An Đông, Trà An và Trà Nóc.
Đường phố
Bùi Hữu Nghĩa
Cách Mạng Tháng Tám
Đặng Thị Nhường
Đặng Thùy Trâm
Đặng Văn Dầy
Đinh Công Chánh
Đỗ Trọng Văn
Đồng Ngọc Sứ
Đồng Văn Cống
Hồ Trung Thành
Huỳnh Mẫn Đạt
Huỳnh Phan Hộ
Lạc Long Quân
Lê Hồng Phong
Lê Thị Hồng Gấm
Lê Văn Bì
Lê Văn Sô
Nguyễn Chánh Tâm
Nguyễn Chí Thanh
Nguyễn Đệ
Nguyễn Thanh Sơn
Nguyễn Thị Tạo
Nguyễn Thị Tính
Nguyễn Thị Tồn
Nguyễn Thông
Nguyễn Truyền Thanh
Nguyễn Văn Linh
Nguyễn Viết Xuân
Phạm Hữu Lầu
Phạm Ngọc Hưng
Phạm Thị Bang
Rạch Ông Đội
Rạch Ông Kính
Tạ Thị Phi
Thái Thị Nhạn
Tô Vĩnh Diện
Trần Quang Diệu
Trần Văn Nghiêm
Võ Văn Kiệt
Vườn Mận
Xóm Lưới
Xuân Hồng
Kinh tế - xã hội
Quận Bình Thủy là quận có đóng góp lớn vào tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ cho thành phố Cần Thơ: Toàn quận hiện nay có 2 cảng lớn là Cảng Trà Nóc và Cảng Hoàng Diệu. Hiện nay Cảng Trà Nóc: Tiếp nhận tàu 5.000 – 10.000 DWT; Năng lực thông qua đạt 1,0 – 1,5 triệu tấn/năm; dự kiến năm 2020 đạt 2,5 -3,0 triệu tấn/năm và cảng Hoàng Diệu: Tiếp nhận tàu đến 10.000 DWT; Năng lực thông qua đạt 2,0 – 2,5 triệu tấn/năm; dự kiến năm 2020 đạt 3,0 triệu tấn/năm. 2 khu công nghiệp gồm KCN Hưng Phú I và KCN Trà Nóc I. Trong đó KCN Trà Nóc I hiện đã thu hút hơn 123 dự án đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đăng ký lên đến 340 triệu USD.
Ngoài ra quận có một hệ thống sông rạch chi chít, sông liền sông, vườn nối vườn. Với môi trường xanh, sạch, đẹp cùng với việc bảo tồn những nét văn hoá đặc trưng, truyền thống, du lịch Bình Thủy mang một sắc thái riêng, độc đáo và hấp dẫn.
Ngoài ra, quận Bình Thủy còn có sân bay quốc tế Cần Thơ lớn nhất vùng Đồng bằng sông Cửu Long có các chuyến bay đi trong nước và quốc tế với thành phố.
Quận Bình Thủy là một phần đô thị truyền thống Ninh Kiều - Bình Thủy về các công trình mang tính lịch sử thuộc khu đô thị trung tâm thành phố. Hiện nay quận đóng vai trò như một đầu mối giao thông quan trọng của thành phố liên vận quốc tế về đường hàng không lẫn đường thủy như sân bay Cần Thơ, cảng Hoàng Diệu, cảng Trà Nóc và cùng với đó là các trường Đại học, Cao đẳng và các cơ quan quan trọng của chính phủ và thành phố Cần Thơ.
Giáo dục
Một số trường Đại học, Cao đẳng, trung cấp đóng trên địa bàn quận Bình Thủy:
Đại học Công nghệ - Kỹ thuật (cơ sở 2)
Đại học Cảnh sát Nhân dân III
Cao đẳng Kinh tế Đối ngoại (cơ sở Cần Thơ)
Cao đẳng Y dược Pasteur (cơ sở Cần Thơ)
Cao đẳng Kinh tế Kỹ thuật TPCT (khu vực C)
Cao đẳng Văn hoá - Nghệ Thuật TP.Cần Thơ
Cao đẳng Nghề Cần Thơ
Cao đẳng Đại Việt
Trung cấp Công an nhân dân
Trung cấp Y Dược Mekong
Trung cấp Quốc tế Mekong
Trung cấp Hồng Hà cùng với các trường bậc phổ thông của quận.
Y tế
Hiện nay trên địa bàn quận có Bệnh viện Đa khoa quận Bình Thủy, Bệnh viện Chỉnh hình và Phục hồi chức năng, Bệnh viện Tâm Minh Đức, Trung tâm Y tế dự phòng, Trạm y tế Phường Bình Thủy, Trung tâm chỉnh hình và Phục hồi chức năng, Phòng Khám Chuyên Khoa Nhi
Văn hóa
Thơ ca về quận Bình Thủy
Di tích
Công sở
Một số cơ quan thuộc chính phủ và thành phố trên địa bàn quận Bình Thủy
• Phòng Tài Nguyên & Môi Trường Thành Phố Cần Thơ
• Cục Hải Quan Thành Phố Cần Thơ
• Cảng Vụ Hàng Hải Thành Phố Cần Thơ
• Cục Dự Trữ Nhà Nước Khu Vực Tây Nam Bộ
• Cục Thú Y - Chi Cục Thú Y Vùng 7
• Cục Quản Lý Chất Lượng Nông Lâm Sản & Thủy Sản Vùng 6
• Chi Cục Hải Quan Tây Đô
• Sân Vận Động Quân Khu 9
• Bộ Tư Lệnh Quân Khu 9
• Cảng Vụ Đường Thủy Nội Địa Khu Vực 4
• Cơ Quan Điều Tra Hình Sự Thành phố Cần Thơ
• Cơ Quan Điều Tra Hình Sự Khu Vực 5 Quân Khu 9
• Đài Thông Tin Duyên Hải Thành phố Cần Thơ
• Trung Tâm Tần Số Vô Tuyến Điện Kvh
• Cục Tần Số Vô Tuyến Điện Thành phố Cần Thơ
• Chi Cục Kiểm Dịch Thực Vật Vùng IX
• Trạm Quan Trắc Khí Tượng Nông Nghiệp Lắng Động AXIT ĐBSCL
• Trung Tâm Quan Trắc Môi Trường Thành phố Cần Thơ
Giao thông
Các tuyến đường chính
Cách mạng Tháng 8 (quốc lộ 91 đi qua các phường An Thới và Bùi Hữu Nghĩa)
Lê Hồng Phong (quốc lộ 91 đi qua các phường Bình Thủy, Trà An và Trà Nóc)
Nguyễn Văn Linh (quốc lộ 91B đi qua các phường Long Hòa, Long Tuyền và Thới An Đông)
Võ Văn Kiệt (đi qua các phường An Thới, Bình Thủy và Long Hòa)
Bùi Hữu Nghĩa (tỉnh lộ 918 đi qua các phường Bình Thủy, Long Hòa và Long Tuyền)
Nguyễn Chí Thanh (tỉnh lộ 917 đi qua các phường Trà Nóc và Thới An Đông)
Tỉnh lộ 920 (đi qua phường Trà Nóc)
Tỉnh lộ 922 (đi qua phường Thới An Đông)
Đường địa phương
Phường An Thới: Đồng Ngọc Sứ, Đồng Văn Cống, Lê Văn Bì, Lê Quang Chiểu, Lê Văn Sô, Nguyễn Đệ, Nguyễn Thông, Nguyễn Việt Dũng, Phạm Hữu Lầu, Phạm Ngọc Hưng, Thái Thị Nhạn, Trần Quang Diệu, Trần Văn Nghiêm
Phường Bùi Hữu Nghĩa: Đặng Thị Nhường, Huỳnh Mẫn Đạt, Nguyễn Thị Tính
Phường Bình Thủy: Đặng Văn Dầy, Đỗ Trọng Văn, Huỳnh Phan Hộ, Nguyễn Chánh Tâm, Nguyễn Truyền Thanh, Lạc Long Quân
Phường Trà An: Hồ Trung Thành, Huỳnh Phan Hộ, Lê Thị Hồng Gấm, Nguyễn Viết Xuân
Phường Long Hòa: Đinh Công Chánh, Nguyễn Thanh Sơn, Nguyễn Thị Tạo
Phường Long Tuyền: Đinh Công Chánh, Lê Thị Phỉ, Nguyễn Văn Trường, Đặng Xuân Hồng.
Phường Thới An Đông: Nguyễn Viết Xuân, Phạm Thị Ban.
Các trục sẽ hình thành mới
Huỳnh Phan Hộ (đi qua các phường Trà An, Long Hoà) giai đoạn 1 và giai đoạn 2 đi qua (phường Thới An Đông).
Đường nối 918 - CMT8 (đi qua các phường An Thới, Long Hoà và Long Tuyền) qua 3 giai đoạn.
Vành đai sân bay (đi qua phường Trà An, Long Hoà, Thới An Đông) giai đoạn 2. Đã hình thành giai đoạn 1, quy mô toàn tuyến dài 5km.
Trục vành đai phía Tây (đi qua các phường Thới An Đông, Long Tuyền).
Trục ĐT918 mới (Thới An Đông).
ĐT922 mới (Thới An Đông) đã hình thành.
Đặng Văn Dày giai đoạn 3 đi qua 3 phường (Bình Thủy, Long Hoà, Long Tuyền).
Trần Hoàng Na nối dài với chiều dài 7,6km đi qua các phường ( Long Hoà, Long Tuyền).
Trần Bạch Đằng ( nối khu đô thị Cửu Long phường Long Hoà với phường An Khánh, quận Ninh Kiều )
Nguyễn Tri Phương ( đi qua phường Long Hoà )
Hạ tầng
Các dự án đã và đang triển khai và kêu gọi đầu tư trên địa bàn quận
Hạ tầng đô thị
• Khu đô thị 2 bên Võ Văn Kiệt khu 1 quy mô 280ha.
• Khu đô thị 2 bên Võ Văn Kiệt khu 2 quy mô 249ha.
• Khu đô thị 2 bên Võ Văn Kiệt khu 3 quy mô 300ha.
• Khu đô thị mới hai bên đường Võ Văn Kiệt phân khu 4 quy mô 12ha.
• Khu đô thị mới 2 bên đường Võ Văn Kiệt phân khu 5 quy mô 85,35ha.
• Khu đô thị mới hai bên đường Võ Văn Kiệt phân khu 9 phường An Thới và phường An Hoà, quận Ninh Kiều quy mô 30ha.
• Khu đô thị - tái định cư Cửu Long 54ha ( Phường Long Hoà ) đã hình thành
• Khu đô thị Stella Mega City 150ha ( Phường Bình Thủy ) đã hình thành.
• Khu tái định cư số 1 quy mô 18,5ha ( Long Tuyền ) khu Long Hoà 3.
• Khu tái định cư số 12 ( Ô Môn - Bình Thủy ) 215ha. Trong đó 42ha/215ha tại phường Thới An Đông.
• Khu tái định cư số 13 quy mô 89ha tại phường Thới An Đông.
• Khu tái định cư Long Hoà 1 quy mô 4ha ( Trà An - Long Hoà ) đã hình thành.
• Khu tái định cư Long Hoà 2 quy mô 10ha, chuẩn bị cho công tác đầu tư.
Hạ tầng kỹ thuật xã hội khác
• Trung tâm huấn luyện thể dục thể thao phường Long Tuyền quy mô 42,46ha.
• Dự án trường cao đẳng văn hoá Nghệ Thuật thành phố Cần Thơ 7,72ha tại phường Long Tuyền.
• Dự án trường Đại học Kỹ Thuật - Công Nghệ cơ sở 2 tại phường Long Tuyền quy mô 17,22ha.
• Cụm CN Bình Thủy quy mô 75ha tại phường Thới An Đông.
• Mở rộng sân bay Cần Thơ về hướng Nam quận quy mô 728,9 ha tại các phường Trà An, Long Hoà và Thới An Đông.
• Trung tâm logistics chuyên dụng hàng không kết nối với hàng không quốc tế Cần Thơ quy mô 100ha.
• Trung tâm liên kết sản xuất chế biến và tiêu thụ nông sản phẩm khu 2 diện tích 50ha.
Hình ảnh
Chú thích
Xem thêm
|
26489
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Whisky
|
Whisky
|
Whisky (tiếng Anh, tiếng Pháp: Whisky) và phần lớn nước Mỹ là Whiskey là một loại đồ uống có chứa cồn được sản xuất từ ngũ cốc bằng cách lên men và chưng cất. Từ Whisky được nhắc đến lần đầu tiên vào năm 1736 xuất phát từ usisge beatha trong tiếng Gaelic tại Scotland hay từ uisce beatha trong tiếng Gaelic tại Ireland và có nghĩa là "nước của cuộc sống" (uisge/uisce: "nước", beatha: "sống"). Khái niệm này đã phổ biến ngay từ thế kỷ 16-thế kỷ 17 nhưng thời đấy người ta hiểu đấy không chỉ riêng là Whisky mà còn là những loại rượu chưng cất khác có thêm đồ gia vị.
Lịch sử hình thành
Nguồn gốc
Vào thế kỷ thứ 5 các nhà tu Ki-tô giáo, mà trước tiên là thánh Saint Patrick của Ireland, bắt đầu truyền giáo trong xứ sở của người Celt và mang các dụng cụ kỹ thuật cũng như hiểu biết về cách chế tạo dược phẩm và nước hoa đến Ireland và Scotland. Theo truyền thuyết thì họ là những người đầu tiên đã chưng cất một chất lỏng trong suốt: aqua vitae hay uisge beatha. Sự hiểu biết này lan truyền trong các thế kỷ sau nhờ vào các tu viện được thành lập mà vào thời gian đó mà thường là trung tâm của các làng mạc và có mở quán rượu riêng.
Năm 1494 aquavite lần đầu tiên được nhắc đến trong các văn kiện thuế ở Scotland (Exchequer Rolls) khi nhà tu dòng Saint Benedict, John Cor, của tu viện Lindores (thuộc vùng đất phong bá tước Fife) mua 8 boll mạch nha tại thủ đô của Scotland lúc bấy giờ là Dunfermline. Boll là một đơn vị đo lường dùng để đong ngũ cốc cũ của Scotland, tương đương với 210,1 lít hay 62 kg). Lượng 8 boll tương đương với khoảng 500 kg, đủ để sản xuất vào khoảng 400 chai rượu Whisky.
Sau cuộc di dân đến châu Mỹ, Whisky cũng được thử sản xuất từ ngũ cốc. Vì cây lúa mạch (Hordeum) khó trồng ở đây nên những người nông dân ở Bắc Mỹ bắt đầu cho lên men các loại ngũ cốc tăng trưởng tốt ở đấy là lúa mạch đen (Secale) và lúa mì (Triticum). Các lò nấu rượu lâu đời nhất xuất hiện ở Việt Nam, Pennsylvania và Virginia. Vì không kiếm được than bùn nên không ứng dụng được công thức sản xuất Whisky cổ truyền và vì thế mà rượu nấu ra không được ngon. Thông qua việc đốt thành than vách các thùng đựng rượu người ta cố gắng mang lại hương khói quen thuộc vào phần cất. Mãi cho đến cuối thế kỷ 18 mới có những lò chuyên nấu rượu Whisky.
Thuế, đấu tranh và hợp thức hóa
Bắt đầu từ 1643 tại Ireland, và từ 1644 tại Scotland, Whisky bị đánh thuế chính thức. Nhưng vì không có ai thi hành nên Whisky bị cấm, đầu tiên ở Ireland vào năm 1661 và sau đấy cũng ở Scotland vào năm 1707, ngoại trừ trường hợp có giấy phép của chính phủ. Trong những năm sau đó đã có những cuộc đụng độ đẫm máu vì thuế giữa những người thu thuế và người buôn lậu.
Whisky cũng bị đánh thuế ở Mỹ: năm 1794 George Washington, người cũng có một lò nấu rượu, ra sắc lệnh thu thuế Whiskey vì nhu cầu tài chính cao của quốc gia trẻ sau khi chấm dứt cuộc chiến tranh giành độc lập. Thế nhưng những người di dân không chấp nhận loại thuế này và ở Pennsylvania đã có Cuộc nổi loạn Whiskey, chỉ được dập tắt bởi một đạo quân 13.000 người dưới quyền chỉ huy của Henry Lee. Những người nấu rượu Whiskey sau đấy tiếp tục đi về miền Tây đến các bang Kentucky và Tennessee, cho đến ngày nay phần lớn sản lượng đều xuất xứ từ những bang này.
Năm 1822 đạo luật về chưng cất trái phép (Illicit Destillation Act) của Scotland ra đời, đơn giản hóa các điều luật về thuế nhưng lại thêm quyền lợi cho đại điền chủ. Lại có những cuộc bạo động. Năm 1823 một đạo luật mới, Act of Excise, được thông qua, cho phép nấu rượu Whisky với lệ phí là 10 Pound Sterling cộng với một khoản tiền không đổi cho mỗi gallon Whisky. George Smith là người đầu tiên xây dựng lò nấu rượu Glenlivet của ông theo luật lệ mới. Nhờ vào đạo luật mới mà cuối cùng là việc sản xuất Whisky công khai bắt đầu mang lại lợi nhuận, trong vòng 10 năm hằng ngàn lò nấu lậu đã biến mất ở Scotland và Ireland.
Công nghiệp hóa
Năm 1826 Robert Stein đăng ký bản quyền phát minh một phương pháp chưng cất liên tục mới cũng có thể nấu từ hạt ngũ cốc không cần phải gây mạch. Năm 1832 phương pháp này được cải tiến bởi người Ireland là Aeneas Coffey. Với cách thức của Coffey (Coffey still) người ta có thể sản xuất một sản phẩm tinh khiết hơn. Thế nhưng người Ireland không thích loại Whiskey được sản xuất theo kiểu mới này và vì thế Coffey bỏ đi đến Scotland.
Năm 1856 một người Scot là Andrew Usher, Jr. sản xuất loại Blended Whiksy đầu tiên. Cha của ông đã chào mời "Old Vatted Glenlivet" từ năm 1844. Loại Blended đầu tiên với tên "Usher's Green Stripe" vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay trên thị trường. Các thương gia khác pha trộn Whisky từ mạch nha và lúa mì, loại mà có thể được sản xuất nhờ vào phương pháp của Coffey, thành "Blended Scotch". Loại Whisky mới này được tiêu thụ nhiều tại Anh và sau đó là trên toàn thế giới, một phần cũng là nhờ vào tai họa sâu của cây nho từ 1858 cho đến 1863, đã phá hủy gần như toàn bộ cây nho ở Pháp, và vì thế mà rượu vang, Cognac và Brandy trở thành khan hiếm và rất đắt.
Vì đạo luật cấm bán rượu (1920-1933) mà phần lớn các lò nấu rượu nhỏ ở Mỹ phải đóng cửa. Tại Scotland luật này cũng dẫn đến việc nhiều lò nấu rượu phải đóng cửa. Sau khi việc cấm rượu chấm dứt, những tập đoàn lớn kiểm soát việc sản xuất công khai mới. Ngay trong các nước xuất xứ cũng có sự tập trung ngày càng mạnh của các lò nấu rượu và vô chai vào các tập đoàn lớn hoạt động trên toàn thế giới. Chỉ còn riêng lẻ một vài hãng nhỏ là còn vận hành lò nấu rượu riêng.
Phương pháp sản xuất
Phương pháp chung
Các phương pháp sản xuất Whisky khác nhau rất nhiều, nhưng có một điều mà tất cả các phương pháp đều cùng chung đó là trước tiên ngũ cốc được xay thành hạt tấm và được trộn với nước ấm trong thùng kín (mash tun). Qua đó tinh bột được hóa đường. Tiếp theo đó nước mạch nha được trộn với men trong một thùng lên men (wash back hay fermenters) và được lên men.
Chất lỏng phát sinh có khoảng 5% đến 10% rượu, được gọi là wash, ale hay distiller's beer và quả thật là gợi nhớ đến bia. Trong các thiết bị chuyên môn, chất lỏng này được chưng cất nhiều lần. Hơi phát sinh (rượu, chất tạo hương vị) được ngưng tụ (new make). Sau khi được pha loãng với một ít nước, new make được trữ trong thùng gỗ nhiều năm. Mỗi năm có vào khoảng 2,5% rượu bốc hơi ra khỏi các thùng gỗ đã được đóng kín, được gọi là phần của thiên thần (angels share hay angels'dram). Sau quá trình này thường thì Whisky được pha trộn (blend), làm loãng, lọc (ở loại Whisky đặc biệt thì được bỏ qua giai đoạn này) và đóng vào chai.
Các phương pháp đặc biệt
Để sản xuất loại Malt-Whisky, lúa mạch được chế biến thành mạch nha bằng cách làm cho ẩm và cho nảy mầm. Nhờ vậy enzyme được tạo thành và tạo khả năng hóa đường tinh bột sau đó. Sau 5 đến 8 ngày mạch nha xanh được hong khô. Tại Scotland người ta dùng một loại lò cổ truyền (kiln) và đốt một lượng than bùn nhất định trong lò. Việc này mang lại hương khói đặc trưng của một số Whisky Scotland. Mặc dầu là phương pháp này vẫn còn được sử dụng lác đác, việc gây mạch nha ngày nay được tiến hành trong các nhà máy lớn chuyên môn.
Để sản xuất Malt-Whisky của Scotland và Pot-Still-Whiskey của Ireland "bia" được chưng cất trong những bình bằng đồng có hình giống củ hành (pot still) có cổ phía trên giống như cổ của thiên nga (swan neck). Phần cất có nồng độ rượu từ 60% đến 75%. Tất cả các thử nghiệm thay thế đồng bằng các kim loại ít bị rỉ sét, dễ gia công và rẻ tiền hơn đều thất bại vì hương vị không đạt của Whisky được sản xuất. Việc chưng cất được tiến hành gián đoạn vì bao giờ cũng chỉ có thể gia công được một phần wash nhất định.
Các loại Whisky khác phần lớn được chưng cất bằng cột chưng cất (patent still, column still hay Coffey still). Loại cột này do một người Scot là Robert Stein phát minh và thử nghiệm vào năm 1826 và được người Ireland là Aeneas Coffey cải tiến trong những năm sau đó. Bằng những cột chưng cất này, phần cất được sản xuất có nồng độ rượu tối đa là 94,8%. Loại cột này làm việc liên tục và đây cũng là một ưu điểm lớn về mặt phí tổn.
Kiểu Lomond (Lomond still) do Alistair Cunningham và Arthur Warren phát triển vào năm 1955, một phương pháp pha trộn giữa pot still và column still với một ống xi lanh có nhiều tấm bằng đồng di động bên trong, không đột phá được. Tuy đã được sử dụng trong nhiều lò nấu rượu, ngày nay phương pháp này chỉ còn được sử dụng tại hãng nấu rượu Whisky Scapa.
Trong Liên minh châu Âu Whisky phải đạt được những tiêu chuẩn được quy định trong chỉ thị số 1576/89 ngày 29 tháng 5 năm 1989:
Được sản xuất bằng cách chưng cất từ nước mạch nha của ngũ cốc.
Được chưng cất đến nồng độ rượu ít hơn 94,8 phần trăm thể tích.
Được lưu trữ ít nhất là 3 năm trong thùng gỗ có thể chứa 700 lít hay ít hơn.
Có nồng độ rượu ít nhất là 40 phần trăm thể tích.
Nếu như sản phẩm không đáp ứng được những yêu cầu tối thiểu trên thì không được bán trong Liên minh châu Âu như là Whisky.
Các nước khác có những quy định khác đối với những tiêu chuẩn trên, thí dụ như tại Uruguay thời gian lưu trữ ngắn nhất được quy định là 2 năm.
Tên gọi
Phân loại theo loại ngũ cốc
Whisky được bán trên thị trường dưới nhiều tên khác nhau, trong đó một phần là tên loại ngũ cốc được dùng để sản xuất Whisky:
Malt là loại Whisky được làm từ mạch nha.
Grain là tên loại Whisky được sản xuất từ lúa mạch mà thông thường là sử dụng thiết bị chưng cất cột được gọi là "kiểu Coffey".
Rye là tên gọi loại Whisky chủ yếu được sản xuất từ lúa mạch đen, ít nhất là 51%.
Bourbon là tên gọi loại Whisky chủ yếu được sản xuất từ bắp (ít nhất là 51%) và được chưng cất với tối đa là 81 phần trăm thể tích rượu, đổ vào thùng chứa với tối đa là 63 phần trăm thể tích rượu.
Phân loại theo quy trình sản xuất
Mặt khác tên gọi một phần cũng thể hiện rõ quy trình sản xuất của từng loại Whisky:
Single là loại Whisky có nguồn gốc chỉ từ một lò nấu rượu riêng lẻ (thường dùng cho Whisky của Scotland: Single-Malt-Whisky).
Straight cũng là loại Whisky có nguồn gốc chỉ từ một lò nấu rượu riêng lẻ (thường dùng cho Whiskey của Mỹ)
Blend là một loại Whisky đã được pha trộn. Trong lúc sản xuất (blending) nhiều loại Whisky khác nhau từ nhiều lò nấu rượu khác nhau được pha vào với nhau. Trong một số sản phẩm có đến 70 loại Whisky khác nhau.
Pot Still là loại Whisky được sản xuất chỉ dùng loại bình nấu cổ điển (thường dùng cho một số loại Whiskey của Ireland).
Pure Pot Still là loại Whisky được sản xuất chỉ dùng mạch nha trong các bình nấu rượu cổ điển (thường dùng cho một số loại Whiskey riêng lẻ của Ireland).
Trước năm 2005 các tên Vatted (pha trộn Malt-Whisky từ nhiều lò nấu rượu khác nhau) hay Pure (tên không thống nhất có nghĩa là Blend hay Vatted) vẫn còn thông dụng.
Các tên khác
cask strength (độ mạnh thùng): Sau khi được trữ trong thùng người ta không cho thêm nước vào Whisky nữa để đạt đến một nồng độ rượu nhất định. Nồng độ rượu của những loại Whisky này khác nhau vì thay đổi tùy theo thời gian trữ, điều kiện môi trường, chất lượng của thùng chứa và nồng độ rượu của phần cất nguyên thủy.
vintage (năm sản xuất): Loại Whisky được sử dụng có nguồn gốc từ năm được ghi chú.
single cask (thùng riêng lẻ): Loại Whisky này có nguồn gốc từ một thùng rượu riêng lẻ (thường dùng cho Whisky của Scotland).
single barel (thùng riêng lẻ): Loại Whisky này có nguồn gốc từ một thùng rượu riêng lẻ (thường dùng cho Whisky của Mỹ).
Các tên gọi Scotch, Irish hay American tất nhiên là thể hiện xuất xứ của sản phẩm. Một số tên gọi xuất xứ này được luật pháp bảo vệ và gắn liền với một số điều kiện nhất định (thí dụ như tuổi tối thiểu).
Xuất xứ
Whisky Scotland
Hiện nay Whisky Scotland được sản xuất trong khoảng 90 lò nấu rượu tại Scotland (thời điểm tháng 10 năm 2005). Ngoài ra trong thời gian gần đây còn có hằng trăm lò nấu rượu khác đang ngưng hoạt động hay không còn tồn tại nữa. Để có được một cái nhìn tổng quát, các lò nấu rượu riêng lẻ và các loại Whisky được sản xuất từ các lò nấu rượu này được phân chia theo vùng. Các loại Whisky riêng lẻ của từng vùng cũng được cho là có cùng một khẩu vị đặc trưng. Cho đến nay người ta không đi đến được một cách phân chia thống nhất có sự đồng thuận theo vùng địa phương:
Vùng Highlands trải dài ở phía Bắc của đường thẳng tưởng tượng giữa Edinburgh và Glasgow. Vùng này lại thường được tiếp tục chia ra thành Central Highlands, Northern Highlands, Western Highlands và Eastern Highlands. Các loại Whisky ở đây được cho là mạnh.
Speyside được hiểu là vùng đất dọc theo sông Spey trong các vùng đất bá tước Morayshire và Banffshire và như vậy thật ra là lại nằm trong vùng Highlands. Vùng này được coi là vùng trung tâm của Whisky Scotland với trên 50 lò nấu rượu tập trung trong một diện tích hẹp.
Vùng Lowlands nằm ở phía Nam của đường tưởng tượng giữa Edinburgh và Glasgow. Whisky được sản xuất ở đây "mềm" và nhẹ.
Whisky xuất xứ từ đảo Islay thông thường được xem là "đặc biệt mạnh" bất chấp là có hương khói và hương than nhiều hay ít.
Ngược lại, Whisky từ các đảo khác như Arran, Mull, Jura, Skye, Orkney, và có thể là lúc nào đó cũng từ Shetland, thì đúng ra là không có đặc trưng chung.
Việc chia Campbeltown ra thành một vùng riêng biệt với chỉ còn 3 lò nấu rượu tồn tại thật ra chỉ còn tính chất lịch sử, vì thế mà vùng này cũng được xếp vào vùng Highlands hay vùng đảo.
Bên cạnh các doanh nghiệp là chủ của các lò nấu rượu còn có nhiều hãng đóng chai độc lập bán Whisky trên thị trường. Các hãng này mua từ các nhà sản xuất phần nhiều là các loại Whisky đặc biệt còn trong thùng và bán đi sau khi vô chai dưới nhãn hiệu riêng. Nổi tiếng là các loại chai Whisky của Teacher's, Macallan, Highland Park hay Laphroaig và nhiều hãng khác. Nhưng chủ nhân của các lò nấu rượu, các tập đoàn rượu mạnh lớn, cũng chào bán trên thị trường các xê ri rượu của các năm sản xuất hay của các lò nấu rượu đã được lựa chọn. Các xê ri có tiếng thí dụ như là xê ri Teacher's Single Malt hay Blend Scotch Teacher's 25yo.
Phần cất từ mạch nha là nền tảng của Malt-Whisky từ Scotland mà trong đó mạch nha thường còn được hun khói bằng than bùn. Lúa mạch đã nảy mầm được hong khô trong một lò gọi là kiln. Nếu được hong khô bằng cách dùng than bùn Whisky có phảng phất hương khói. Độ hương khói được biểu thị bằng nồng độ ppm (parts per million) của phênol. Các loại Whisky như của hãng Lagavulin (khoảng 30 ppm) hay của hãng Laphroaig (trên 30 ppm) là các loại Whisky có nồng độ phênol cao. Whisky có hương khói than bùn nhiều nhất là Octomore của lò nấu rượu Bruichladdich, được cho là có trên 80 ppm phênol. Những người trong cuộc còn nói là có cả những mẫu của phần cất với nồng độ phênol lên đến 300 ppm.
Một phần cất được phép gọi là Scotch Whisky khi được sản xuất trong một lò chưng cất tại Scotland, có ít nhất 40 phần trăm thể tích rượu và được trữ ít nhất là 3 năm tại Scotland trong những thùng làm từ gỗ sồi có niêm phong của thuế quan. Thời gian trữ thông thường là 8 đến 12 năm nhưng cũng có thể kéo dài đến 15, 20, 25, 30 và 50 năm. Tùy theo lò nấu rượu, sau nhiều năm trữ khác nhau mà Whisky đạt đến được một tối ưu cân bằng giữa đặc tính chưng cất và ảnh hưởng của thời gian lưu trữ. Ở tại đa số các loại Whisky thời gian này nằm giữa 12 và 15 năm. Các Whisky lâu đời thì đặc biệt là hay "mềm" và "nhẹ" nhưng lại trả giá bằng tính chất riêng biệt vì ảnh hưởng của thùng ngày càng chiếm ưu thế. Vì thế quan niệm phổ biến cho rằng Whisky càng lâu đời càng tốt chỉ đúng có giới hạn.
Ngược với Mỹ, gần như không bao giờ những thùng gỗ sồi còn mới được sử dụng để trữ mà chỉ những thùng trước đó chứa Bourbon hay Sherry, trong vài trường hợp riêng lẻ là những thùng chứa rượu Porto hay Rum (trường hợp ngoại lệ duy nhất: "Glenfiddich Solera Reserve" – một phần của loại Whisky này được trữ chín mùi trong một thời gian ngắn trong các thùng mới). Được sử dụng chủ yếu là các thùng gỗ sồi (Quercus alba) từ Mỹ mà vừa trữ Whiskey Mỹ xong. Đầu tiên xuất phát từ nguyên do phí tổn, ngày nay việc này trở thành một phần quan trọng trong truyền thống của Whisky vì việc này mang lại cho tất cả các loại Whisky một phần lớn vị đặc trưng của chúng. Ngoài ra việc trữ trong các thùng mới không khuyến khích đặc tính riêng biệt của một Single-Malts vì vị vanill-caramel đặc trưng của Bourbon Whiskey sẽ phủ trùm lên các tính chất này. Nguyên nhân phí tổn vẫn còn đóng một vai trò quan trọng: giá một thùng từ Mỹ vào khoảng 30 Euro trong khi thùng từ Tây Ban Nha là 300 Euro. Các thùng đã chứa Sherry từ Tây Ban Nha (Quercus robur) rất thích hợp cho loại Whisky "ngọt" của Speyside trong khi loại thùng gỗ sồi Mỹ đã chứa Bourbon được dùng cho Whisky của các đảo vì hương khói. Hãng làm thùng Speyside Cooperage tại Craigellachie đóng hằng năm khoảng 100.000 thùng gỗ sồi và sửa chữa thùng cho những lò nấu rượu lân cận. Trong năm 2004 vào khoảng 18 triệu thùng Whisky được trữ tại Scotland.
Whisky trong thùng, tùy theo độ mạnh lúc vô chai và thời gian trữ theo lệ thường có đến 70 phần trăm thể tích, được pha loãng với nước đến nồng độ uống. Loại vô chai không pha loãng, trực tiếp vô chai với độ mạnh của thùng và vì vậy hay có mùi thơm nồng hơn, ngày càng được ưa chuộng.
Scotland xuất khẩu hằng năm 700 triệu chai Whisky, chủ yếu là sang Mỹ, Pháp, Tây Ban Nha và Nhật.
Whiskey Ireland
Nhiều yếu tố khác nhau trong quá khứ đã dẫn đến sự tập trung cao độ trong ngành sản xuất Whiskey trên toàn đảo Ireland. Hiện nay người ta chỉ còn sản xuất đáng kể gần 100 loại khác nhau tại 3 địa điểm. Irish Distellers Group, từ 1987 thuộc về nhóm Pernod Ricard của Pháp, sản xuất trong một nhà máy công nghiệp hiện đại tại Midleton, quận Cork ở miền Nam của Cộng hòa và song song với nhà máy này là tại quận Antrim ở Bắc Ireland. Antrim là địa điểm của lò nấu rượu nổi tiếng Old Bushmills, được thành lập năm 1608 hay 1784, là lò nấu rượu lâu đời nhất vẫn còn sản xuất trên thế giới.
Tại Midleton nhiều loại Whiskey John Jameson khác nhau được sản xuất từ năm 1780, thí dụ như Paddy và nhiều thương hiệu nhỏ hơn khác cho thị trường Ireland như John Power và Tullamore Dew là nhãn hiệu đặc biệt được biết đến nhiều tại Đức và Đan Mạch. Cooley Distillery, độc lập và sáng tạo, vừa được thành lập năm 1987 tại Riverstown gần Bắc Ireland đóng một vai trò đặc biệt và mới đây vừa qua nhiều thương hiệu cũng được sản xuất tại hãng này.
Khách tham quan có thích thú về Whiskey Ireland có thể đến tham quan lò chưng cất biểu diễn Old Jameson tại Midleton cũng như bắt đầu từ năm 1997 là trong trung tâm thành phố Dublin, tại Smithfield Village, Bow Street. Bên cạnh đó cũng có thể tham quan Lockes Distillery tại Kilbeggan. Các thiết bị lịch sử được trưng bày và thông tin về lịch sử của Whiskey được cung cấp trong lò nấu rượu đã ngưng hoạt động từ năm 1953 này.
Theo lệ thường thì lửa than bùn không được sử dụng cho Whiskey Ireland, vì thế mà Whiskey Ireland nhẹ (gần như ngọt) hơn các Whisky Schottland phần nhiều có hương khói. Whiskey Ireland được chưng cất theo truyền thống 3 lần. Ngược với Whisky Scotland, ngoại trừ một ít trường hợp ngoại lệ, nói chung là được chưng cất 2 lần. Ngược với việc sử dụng cái gọi là Coffey-Still cho việc sản xuất Grain-Whisky, các lượng cần thiết để pha trộn được sử dụng trong những Pot-Stills tại Ireland.
Whiskey Ireland phần nhiều là blend, thế nhưng trong thời gian vừa qua Single Malts cũng được chào mời nhiều hơn. Pure Pot Still là tên gọi chất lượng thêm miêu tả việc sử dụng duy nhất một thiết bị chưng cất pot still.
Việc pha trộn (blend) Whiskey Ireland khác với việc pha trộn Whisky Scotland trước tiên là ở chỗ thông qua việc kết hợp nhiều quy trình làm chín mùi khác nhau trong nhiều loại thùng khác nhau (thùng Sherry, Bourbon, rượu vang Porto để có ảnh hưởng đến khẩu vị. Vì thế mà người ta cũng gọi blend ở Ireland là vatting (từ vat trong tiếng Anh, có nghĩa là "thùng trộn").
Các blend nổi tiếng là:
Crested Ten
Inishowen
Jameson
Midleton Very Rare
Paddy
Tullamore Dew
John Power & Son
Các Single Malt nổi tiếng là:
Bushmills
Connemara
Locke's 8 Year Old
Tyrconnell
Red Breast
Whiskey Mỹ
Whiskey Mỹ được sản xuất từ lúa mạch đen, bắp, lúa mạch hay hiếm hơn là lúa mì, thành phần của các loại ngũ cốc khác nhau tùy theo vùng.
Bourbon là loại Whiskey phải được sản xuất từ ít nhất là 51% bắp, thường được dùng là một thành phần bắp khoảng 65% đến 75% trong nước ủ rượu. Ngoài ra còn có thời gian lưu trữ được quy định theo pháp luật là 2 năm trong những thùng mới từ gỗ sồi trắng, bên trong được đốt thành than. Việc sử dụng thùng gỗ sồi mới mang lại một phần lớn vị ngon cho Bourbon thật ra không được dùng vì lý do khẩu vị mà là vào đầu thế kỷ 20 chính phủ muốn giúp đỡ kinh tế cho những vùng kém phát triển có nhiều rừng (thí dụ như Arkansas). Bourbon Whiskey có được độ chín mùi chỉ sau vài năm nhờ vào gỗ mới của thùng và điều kiện khí hậu của vùng sản xuất. Tên gọi xuất phát từ quận Bourbon ở Kentucky.
Rye Whiskey hay đơn giản chỉ là Rye là anh em của Bourbon được nhiều người sành điệu diễn tả là mạnh hơn và thơm hơn, nước ủ rượu của Rye phải chứa ít nhất là 51% lúa mạch đen. Rye là Whisky khởi đầu trên toàn Bắc Mỹ. Chỉ đến cuối thời kỳ cấm rượu Rye mới bị Bourbon hay Tennessee Whisky vượt qua về mức độ ưa chuộng và ngày nay gần như là một loại hiếm.
Tennessee Whiskey từ Tennessee có nguồn gốc ít nhất là 51% từ bắp và ít nhất là 20% từ lúa mạch đen, lúa mì hay lúa mạch. Trước khi được đưa vào thùng trữ Tennessee Whiskey được lọc qua than gỗ làm cho Whiskey này rất êm dịu. Phương pháp này được gọi là charcoal mellowing, leaching hay chính xác là Lincoln County Process. Than gỗ này được sản xuất từ cây gỗ thích (Acer)
Corn Whiskey là Whiskey làm từ bắp với ít nhất là 80% phần bắp trong nước ủ rượu. Whiskey được phép chưng cất tối đa đến 80% và phải trữ ít nhất là 2 năm trong thùng gỗ sồi mới hay đã qua sử dụng, không được đốt thành than.
Những hiệu nổi tiếng:
Jim Beam (Bourbon, Rye)
Wild Turkey (Bourbon, Rye)
Bernheim (Bourbon, Rye)
Four Roses (Bourbon)
Buffalo Trace (Bourbon, trước đây là Ancient Age)
Labrot & Graham (Bourbon)
Van Winkel (Bourbon)
Jack Daniel's (Tennessee Whiskey)
George Dickel (Tennessee Whisky)
Maker's Mark (Kentucky Straight Bourbon Whisky)
Maker’s Mark được sản xuất từ năm 1953 ở gần Loretto, Kenticky, từ gia đình nấu rượu Samuels với số lượng tương đối nhỏ (20 đến 40 thùng một ngày). Trong giới những người yêu thích thì đây là loại Bourbon "thanh lịch" nhất.
Southern Comfort, thỉnh thoảng được gọi là Whiskey, thuộc vào các rượu mùi-Whiskey. Đây là một sự pha trộn từ Bourbon và rượu mùi làm từ trái đào có thêm trái đào, chanh và gia vị. Năm 1874 người đứng bar Martin Wilkes Heron ở New Orleans phát minh ra một loại cocktail với tên Cuffs and Buttons như là loại tương phản với Hats and Tails đang được ưa chuộng lúc bấy giờ và bán trên thị trường từ năm 1889 một cải tiến loại cocktail này dưới tên Southern Comfort.
Yếu tố kinh tế Whisky
Tại Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland trong năm 2004 có trên 11.000 người làm việc trong ngành công nghiệp Whisky, thêm vào đó còn khoảng 57.000 người trong công nghiệp cung cấp phụ thuộc trực tiếp. Trên 953 triệu chai Whisky đã được bán, trong đó là 55 triệu chai Single Malt và mang lại cho quốc gia vào khoảng 800 triệu Bảng Anh) thu nhập từ thuế rượu. Doanh thu từ xuất khẩu Whisky là hơn 2 tỉ Bảng Anh, trên 90% là từ Blended Whisky.
Thưởng thức Whisky
Whisky như là một hình thức đặc biệt của rượu mạnh thông thường được uống để thưởng thức. Đóng góp vào đó trước tiên là những chất mang lại vị và hương thơm có bên trong. Vì thế mà nhiều phương pháp khác nhau có thể tham gia vào việc tăng độ thưởng thức của Whisky bằng cách tăng cường giải phóng những chất này.
Có thể đạt đến bằng cách pha loãng với nước. Phần nhiều các Whisky trên thị trường với 40 hay 43 phần trăm thể tích đã được pha loãng với nước trước đó đến độ mạnh có thể uống được. Việc giảm thêm nồng độ rượu trong ly đến khoảng 35% hay được khuyên nhủ, điều mà đặc biệt là tiếp tục giải phóng thêm hương thơm. Các loại Whisky được đong vào chai với độ mạnh của thùng (trong khoảng 60 phần trăm thể tích) thường quá mạnh để có thể uống không thêm nước. Qua việc cho thêm nước độ mạnh của rượu được giảm đi và những chất thơm của Whisky được giải phóng. Ngay người Scot và người Ireland cũng thường uống Whisky của họ với tỉ lệ pha loãng vào khoảng 1:1, việc phục vụ Whisky với một ly/bình nước là bắt buộc ở đấy.
Ngoài ra Whisky cũng thường được uống có thêm nước đá (Whisky on the rocks). Điều này thông thường làm giảm hương thơm vì một phần lớn các chất cho hương thơm (rượu trung bình, este, phênol) bị lắng xuống do nhiệt độ lạnh, Whisky trở nên đục thấy rõ.
Người ta nên dùng Whisky ngon để pha chế cocktail nhưng Single Malts thì gần như là quá phí. Các Whisky này chỉ thích hợp một phần vì đặc tính có mùi khói. Các loại nhẹ hơn như Whisky Canada thích hợp tốt hơn. Bourbon Whisky được sử dụng trong cocktail chua (sour) vì vị những Whisky khác hài hòa không tốt với phụ gia chua.
Tham khảo
Dillmann, Clemens: W wie Whisky (W như Whisky).
Dillmann, Clemens: W wie Whiskey - Irish Whiskey (W như Whisky –Whisky Ireland).
Gabanyi, Stefan: Schumann's Whisk(e)y Lexikon (Thuật ngữ Whisk(e)y của Schumann). Collection Rolf Heyne, Oktober 2002.
Jackson, Michael: Malt Whisky. Heyne-Verlag 2004.
Jackson, Michael: Whisky - Für Genießer und Sammler (Whisky – Dành cho người thưởng thức và người sưu tầm). Verlagsgruppe Weltbild 2005.
Kirsch, Harald: Harry's (in)complete Guide to independent Bottlers of Single Malt Scotch Whisky.
Lüning, Theresia: Das elektronische Whisky-Buch (Sách Whisky điện tử), Seeshaupt 2004.
McLean, Charles: Malt Whisky. Collection Rolf Heyne 2003.
Murray, Jim: Classic Bourbon, Tennessee & Rye Whiskey. Hädecke Verlag 1998.
Murray, Jim: Die großen Whiskys der Wel (Các Whisky lớn của thế giới), Weltbild Verlag 1998
Schobert, Walter: Das Whisky Lexikon (Thuật ngữ Whisky). Verlagsgruppe Weltbild 2004
Schobert, Walter: Single Malt Notebook. Walter Hädecke Verlag 2003.
Setter, Jürgen: Whisk(e)y World Wide. Verlag Friesland 2004.
Xem thêm
Cô nhắc
Vodka
Sâm panh
Rượu vang
Cocktail
Chứng nghiện rượu
Liên kết ngoài
Whisky, by Ulf Buxrud (tiếng Anh)- Trang Web của một nhà sưu tầm người Thụy Điển
Scotland: Hãng rượu và Whisky (tiếng Anh/tiếng Pháp)
Whisky Magazine Online (Tiếng Anh) -- Whiskies of the world...
Rượu Cognac - Brandy
Nói thêm về Rượu
Ngày Xuân kể chuyện Rượu
Văn hóa uống rượu của người Trung Quốc
Whisky
Từ gốc Anh
|
26494
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90a-la
|
Đa-la
|
Tara (zh. 多羅, sa. tārā, Tara, Drolma, bo. sgrol-ma སྒྲོལ་མ་) từ tiếng Phạn Tārā, là tên của một vị nữ Bồ Tát thường gặp trong Phật giáo Tây Tạng. Tên này dịch ý là Độ Mẫu (zh. 度母), Cứu Độ Mẫu (zh. 救度母), là "người mẹ cứu độ chúng sinh". Lục Độ Mẫu (vị cứu độ mẫu thực hành Lục độ ba la mật, chữ "lục " này là 6 khác với chữ "lục " là xanh để chỉ vị đại diện là Tara Xanh, tóm lại khi Lục Độ Mẫu là 21 vị Tara khi đó lục có nghĩa là 6, khi chỉ riêng mình Tara xanh thì lục là màu xanh lá cây.)
Biểu tượng
Bổn Tôn Tara biểu hiện là một vị Bổn Tôn trẻ đẹp, có khả năng hóa thân. Ngài có thể hiện ra trong màu xanh, màu trắng, đỏ, hay màu của vàng. Mỗi màu đều có ý nghĩa riêng. Phía sau đầu của Bổn Tôn Tara là ánh sáng của trăng tròn, là biểu tượng của áng sáng soi sáng trái đất. Ánh sáng đem lại sự mát lành, xóa tan đau khổ của vòng luân hồi. Ngài ngồi trên một tòa sen nở và một chiếc đĩa tròn. Vòng quanh thần là một vòng lửa màu vàng, mà lời kinh cầu nguyện số 21 nói rằng: "như lửa cháy ở cuối thời đại này".
Trên mỗi bàn tay, Ngài nhẹ nhàng cầm một cành hoa dài màu xanh trắng, hoa utpala, một loại hoa có mùi hương thơm ngọt giống như hoa sen, loại hoa mọc trên bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Hoa utpala là sự trong sạch tự nhiên, mà theo Gehlek Rinpoche nói "để có thể là người trong sạch, hãy hành động một cách trong sạch".
Ba ngón tay của tay trái Ngài chỉ lên để biểu hiện ba thứ quý giá, đó là: Đức Bụt, Pháp Bụt và Giác Ngộ, hay sự tự giải phóng (tự tại). Tay phải duỗi ra, ngửa bàn tay về phía trước với một cử chỉ mời gọi. Genlek Rinpoche nói "Bổn Tôn Tara nói với những người bị mất hi vọng và không có ai giúp đỡ, rằng: hãy lại đây, ta đang ở đây. Y áo có những sợi lụa mềm được trang điểm bằng những hạt châu báu, dái tai dài và thanh nhã. Trên thực tế, các Đức Bụt thì không đeo châu báu, nhưng Bổn Tôn Tara lại mang châu báu. Những châu báu này sáng lấp lánh như sự cảnh báo về những đau khổ trên trần thế.
21 Thánh Độ Mẫu
Cứu Độ Tốc Dũng Mẫu
Bách Thu Lãng Nguyệt Mẫu
Lam Kim Cứu Độ Mẫu
Như Lai Đỉnh Kế Mẫu
TARA Tự mẫu TUTARA HUNG
Thích Phạm Hỏa Thiên Mẫu
Trát Phét Cứu Độ Phật Mẫu
Ture Phẫn Nộ Mẫu
Tam Bảo Nghiêm Ấn Mẫu
Uy Đức Hoan Hỷ Mẫu
Thủ Hộ Chúng Địa Mẫu
Đỉnh Quan Nguyệt Tướng Mẫu
Như Tận Kiếp Hỏa Mẫu
Thủ Án Đại Địa Mẫu
An Thiện Tĩnh Tịch Mẫu
Phổ Biến Cực Hỷ Mẫu
Ture Đốn Túc Mẫu
Cụ Hải Thâm Tướng Mẫu
Chư Thiên Vân Tập Mẫu
Nhật Nguyệt Quảng Viên Mẫu
Cụ Tam Bảo Tướng Mẫu.
Một danh sách danh hiệu 21 Độ Mẫu tương tự như sau:
Lục Độ Mẫu
Cứu Tai Nạn Độ Mẫu
Cứu Thủy Tai Độ Mẫu
Cứu Địa Tai Độ Mẫu
Cứu Hỏa Tai Độ Mẫu
Cứu Phong Tai Độ Mẫu
Tăng Phúc Tuệ Độ Mẫu
Cứu Thiên Tai Độ Mẫu
Cứu Binh Tai Độ Mẫu
Cứu Ngục Nạn Độ Mẫu
Cứu Đạo Nạn Độ Mẫu
Tăng Uy Quyền Độ Mẫu
Cứu Ma Nạn Độ Mẫu
Cứu Súc Nạn Độ Mẫu
Cứu Thú Nạn Độ Mẫu
Cứu Độc Nạn Độ Mẫu
Phục Ma Độ Mẫu
Dược Vương Độ Mẫu
Trường Thọ Độ Mẫu
Bảo Nguyện Độ Mẫu
Như Ý Độ Mẫu
Các Câu Chuyện Cảm ứng
Tara Cứu Độ Mẫu là đối tượng cầu nguyện của đại đa số phật tử theo truyền thống Kim Cương thừa - Đại thừa bởi bản nguyện của ngài nên bất kỳ ai chân thành cầu nguyện đều dễ dàng Thành tựu mọi tâm nguyện thế gian hoặc xuất thế gian. Có thể cầu nguyện tới Ngài bằng cách tán tụng bài 21 lục Độ Mẫu hoặc trì chân ngôn của ngài " OM TARE TUTTARE TURE SOHA"
ở Ấn Độ có người rất nghèo, khi thấy tượng Độ mẫu liền quỳ xuống cầu khẩn, chợt thấy tượng chỉ tới nơi tháp, người ấy tới đào lên thấy bình tràn đầy châu báu. Lẽ ra người ấy phải chịu 7 đời nghèo khổ, nhưng từ đây nghiệp nghèo khổ của 7 đời tan hết, đời đời được sinh làm người giàu có.
ở Ấn Độ có vị sadi đang đi đường thấy nơi thờ cúng thiên thần, vị sadi liền bước qua. Thiên thần nổi giận dùng sấm sét để giết, sadi sợ hãi kêu cầu Độ mẫu rồi quay về thỉnh 500 người cùng trì tụng chân ngôn Độ Mẫu, sấm sét chẳng thể hại được.
Lại có người nương theo bóng đêm dùng lửa đốt nhà kè thù, trong nhà chỉ có cô gái yếu đuối bị lửa bức bách. Cô lớn tiếng kêu cứu Độ mẫu, đột nhiên có vị Độ Mẫu màu vàng xuất hiện đứng trên lửa tuôn mưa xuống như trút nước, nhờ vậy lửa bị dập tắt.
Lại có 100 vị tăng đi qua sông, bị nước cuốn đến giữa dòng sông, bèn niệm Độ Mẫu. Đột nhiên thấy tượng Độ Mẫu đang được thờ cúng trên bờ sống đi ra cứu giúp. Về sau tượng Độ Mẫu này được gọi là Phong Thủy Cứu Độ Mẫu.
Lại có 5000 người nương theo thuyền lớn vào biển tìm báu vật. Đến xứ Đại Tử Đàn, Long vương chẳng thích. Lúc quay về bỗng gặp gió lớn đưa thuyền qua vô số biển có nhiều màu sắc. Mọi người kêu gọi Nhật, Nguyệt, Thượng đế đều vô hiệu. Dây cột buồm lại đứt nguy hiểm vạn phần tính như hơi thở ra thở vào. Bỗng trong chúng có người tụng chú Độ Mẫu, đột nhiên gió thổi ngược chiếc thuyền quay trở lại. Qua một đếm chiếc thuyền chở đầy châu báu và mọi người trở về nhà an toàn.
Lại có vị tăng chủ mắc bệnh rụng lông mày, 5 vị tăng khác cũng bị bệnh này. Thịt rụng lông mày rơi chẳng có thuốc trị không ai dám đến gần sợ bị truyền nhiễm. Trên đường đi khất thực các vị thấy tảng đá khắc chữ Độ Mẫu và tượng của Độ Mẫu liền khóc lóc cầu khẩn. Trên tay tượng bỗng tuôn ra chất nước có dạng như thuốc. Các vị ấy lấy rửa thì bệnh khỏi tướng mạo lại đẹp đẽ trang nghiêm như người Thiên Giới.
Tại Ấn Độ có tháp Bồ Đề trên tháp có tượng Độ Mẫu, một vị tăng nói đùa với tượng rằng " hướng mặt vào trong tháp đừng hướng ra ngoài tháp há chẳng tiện hơn sao ? " nói xong bỗng nghe bức tượng đáp " ông đã không vừa ý ta quay thân như thế nào đây ? ". Tượng đó liền quay thân hướng mặt vào bên trong. Đang lúc quay ngược thân thì cửa tháp và tượng đều tùy theo thân tượng quay ngược lại. Đến nay còn được gọi là Phản Thân Độ mẫu.
Vùng Đông Bắc Ấn Độ có vị tỳ kheo ở gần nơi cấp nước. Xứ đó có tảng đá khắc tượng Độ Mẫu mà xứ này tu theo. Vị tỳ kheo tiểu thừa thấy kinh điển Đại thừa liền thiêu đốt lại rất ghét Mật Tông, hay phá tượng Mật Tông. Đức Vua nổi giận liền muốn bắt vị tỳ kheo để trừng phạt. Tỳ kheo này bỗng quỳ xuống trước tượng Độ Mẫu cầu cứu. Đột nhiên nghe Độ Mẫu nói chuyện " khi ngươi vô sự chẳng cầu ta sao ?" bèn chỉ nằm trong cái rãnh nước kia thì có thể thoát. Vị tỳ kheo thấy cái rãnh nước dưới bậc thềm nhỏ như cái bát liền nghĩ " làm sao có thể nằm được ? thật khó quá ! ". Độ Mẫu thúc dục " nằm mau xuống, người đi bắt đến cửa rồi ". Vị tỳ kheo sợ hãi không kịp suy nghĩ liền nằm xuống. Nhà vua chẳng bắt được bèn tha cho.
Thời A DỤC Vương ở Ấn Độ có vị trưởng lão rất giàu, nhà vua khởi tâm ác muốn hại nên ra lệnh bắt vị trưởng lão. Vị ấy sợ hãi liền kêu cứu với Độ Mẫu. Khi chân mới đạp lên bậc cửa thềm thì cửa thêm liền biến thành vàng, vị ấy liền dâng cho vua. Lúc trong ngục hư không lại tuôn châu báu như mưa, vị trưởng lão lại đem dâng vua. Khi ấy cây khô héo hóa ra cây đầy quả trái, vua vui thích liền cho vị trưởng lão làm đại thần.
Tham khảo
Phật giáo Tây Tạng
Bồ Tát
Nữ thần
Phật
Đại thừa
|
26510
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Loveless%20%28anime%29
|
Loveless (anime)
|
Loveless (tiếng Nhật: ラブレス) là một anime shonen-ai được dựa trên manga cùng tên của Kouga Yun. Anime này gồm 12 tập, mỗi tập 23 phút. Anime Loveless được J.C.Staff và Nanatsu no Tsuki sản xuất. Âm nhạc anime do Nakanishi Nobuaki thực hiện và đạo diễn anime là Kou Yuu. Loveless Anime đã được phát sóng trên TV Asahi từ tháng 4 năm 2005. Hiện anime đã được hãng Media Blaster của Mĩ mua bản quyền, dự kiến sẽ ra trong năm 2006.
Tóm lược
Aoyagi Ritsuka, một cậu bé 12 tuổi đã gặp Agatsuma Soubi trong ngày đầu chuyển trường. Lúc đầu, Soubi nói rằng anh là bạn của anh trai cậu – Seimei Aoyagi, người đã chết vài năm trước. Thân phận thật của Soubi đã bị Ritsuka khám phá khi 2 người bị 1 cặp Fighter và Sacrifice là Ai và Midori tấn công. Sự thực về kẻ giết chết Seimei lộ ra, Seimei bị tổ chức Seven Moon (ななつの月) ám sát, còn Ai và Midori là thành viên của tổ chức đó. Soubi thực ra là Fighter của Seimei và giờ đây, anh trở thành Fighter của Ritsuka. Từ đó dần dần hiện ra sự thực về tổ chức Seven Moon và lý do cái chết của Seimei ngày một rõ hơn.
Nhân vật của anime
Aoyagi Ritsuka
Lồng tiếng bởi Minagawa Junko
dù chỉ là một cậu bé lớp 6 nhưng có lẽ cái cuộc sống quanh cậu không được như bao người khác. Từ sau cái chết của Seimei, mẹ cậu trở nên điên loạn và lâu lâu lại muốn giết cậu. Bản thân cậu cũng không còn ký ức về quá khứ xưa. Tự cô lập và tách mình khỏi bạn bè. Nhưng điều này đã thay đổi khi Soubi xuất hiện. Trong trường học Seven Moons, cậu được gọi là Loveless (nghĩa là "không có tình yêu").
Agatsuma Sōbi
Lồng tiếng bởi Konishi Katsuyuki
vốn là fighter của Seimei – anh trai của Ritsuka. Thường thì khi một sacrifice chết, fighter của họ sẽ chết theo nhưng Soubi đã theo những lời để lại của Seimei và tìm đến bảo vệ Ritsuka. Trên cổ anh khắc chữ Beloved và đó cũng là tên của Seimei.
Aoyagi Seimei
Lồng tiếng bởi Narita Ken
dù không xuất hiện nhiều trong anime nhưng nếu không có anh thì cậu chuyện này không tồn tại. Anh bị giết bởi tổ chức Seven Moon nhưng thực sự thế nào thì không ai hay biết. Một con người mang đầy những bí ẩn.
Shinonome Hitomi
Lồng tiếng bởi Mamiko Noto
là giáo viên ở trường của Ritsuka, Yayoi và Yuiko. Cô không thực sự đóng vai trò lớn trong anime nhưng với Ritsuka, cô cũng như một người bạn. Cô thầm yêu Soubi, nhưng vì rất ngây thơ và không biết chuyện giữa Ritsuka và Soubi, mà cô đã bị Soubi từ chối thẳng thừng. Khi gặp Youji, cô đã bị trêu vì đến năm 23 tuổi vẫn có tai.
Ai và Midori
Lồng tiếng bởi Koshimizu Ami và Takagi Motoki
Ai là fighter và Midori là sacrifice. Hai người còn gọi là Breathless. Đay là nhóm đầu tiên mà Seven Moon gửi đi để bắt Ritsuka nhưng đã thất bại và quay về.
Youji và Natsuo
Lồng tiếng bởi Yoshino Hiroyuki và Saiga Mitsuki
Nhóm thứ 2 được gửi đến. Hai người gọi là "Zero" (số không). Điều đã làm Sōbi khó khắn lắm mới chiến thằng được nhóm này là đúng với cái tên Zero là họ không có cảm giác đau đớn về thể xác. Nhưng sau khi Soubi thắng thì họ lại không thể quay về vì với Nagisa-sensei thì thất bại là điều không được chấp nhận. Họ đã lưu lại nhà Kaido Kio, bạn của Soubi. Đây là một cặp Shounen ai.
Kouya và Yamato
Nhóm cuối cùng và cũng mang tên Zero. Hai người này là thành phẩm hoàn hảo của Nagisa vì cái lỗi lớn nhất của nhóm Zero là nhiệt lạnh thì ở nhóm Zero này đã được sửa chữa. Sau thất bại, bản chất họ không thể quay về. Nhưng với Nagisa thì bà ta chỉ cần Kouya còn Yamato sẽ bị thay thế. Hai người họ đã theo chân nhóm trước và không quay về. Đây là một cặp Shoujo ai.
Kaidō Kio
Lồng tiếng bởi Ken Takeuchi
là bạn cùng học của Sōbi. Anh ta gặp khá nhiều rắc rối về Sōbi và có vẻ như cũng biết khá nhiều vè chuyện Soubi và Seimei. Anh yêu Sōbi dù biết anh là fighter của một người đã chết và giờ là một thằng bé 12 tuổi. Tính tình vui vẻ, hoạt bát và nói nhiều.
Ritsu-sensei và Nagisa-sensei
Lồng tiếng bởi Koyasu Takehito và Kobayashi Sanae
Ritsu là người đã đào tạo ra tài năng của Soubi hiện nay. Anh còn là một người khá lạnh lùng và có hứng thú với bướm (butterfly). Trái ngược với Ritsu, Nagisa luôn khoác lên mình vẻ trẻ con ngây thơ nhưng thực tế cô ta là một người tàn độc và bất chấp thủ đoạn.
Yayoi và Yuiko Hawatari
Lồng tiếng bởi Fukuyama Jun và Ueda Kana
Hai con người vui vẻ và trẻ con với đúng với cái tuổi 12. Yayoi thích Yuiko nhưng Yuiko lại hướng về Ritsuka. Nói chung là một cặp đôi khá quái đản và hài hước.
Âm nhạc trong Anime
Một điều quan trọng thảo ra thành công của anime là âm nhạc. Và nếu chấm thang điểm trên 10 thì Loveless được khoảng 8 đến 9. Ngoài mở đầu và kết thúc khá ấn tượng. OST của Loveless cũng thực sự tạo được sự thu hút lớn.
Mở đầu: "Tsuki no Curse" do Okina Reika trình bày
Kết thúc: "Michiyuki" do Kaori Hikita trình bày
Fighter và Sacrifice
Đây là một điểm đặc biệt của anime này.
Fighter ở đây theo đúng nghĩa của nó là người chiến đấu, Fighter sử dụng những câu thần chú (spell), hay những lời nói hoa mỹ làm vũ khí tấn công. Có thể xem tốc độ phản ứng và cách sử dụng từ ngữ là thước đo khả năng của Fighter. Phản ứng càng nhanh, từ ngữ càng phong phú thì Fighter đó được coi là mạnh.
Sacrife là người được Fighter bảo vệ. Mỗi lần Fighter của đối phương tấn công, Sacrife sẽ là người hứng trọn các đòn tấn công đó cho Fighter của mình. Mục đích của việc tấn công Sacrife là bắt giữ hoàn toàn Sacrifice ấy (restrain).
Trong ep9 có xuất hiện một luật: nếu Fighter tự đầu hàng (bỏ cuộc) trong một trận đấu, thì Fighter đó sẽ mất tư cách và trở thành người bình thường. Chưa rõ luật này có áp dụng cho Sacrife hay không
Người tai mèo
Mọi người trong anime này khi sinh ra đều có tai mèo. Nhưng nếu họ đã có quan hệ với một người khác thì tai và đuôi sẽ rụng. Vì lý do đó nên những người khá lớn tuổi mà vẫn còn tai và đuôi thì có nghĩa là họ vẫn còn chưa có quan hệ với ai.
Tên các tập
Breathless
Memoryless
Bondless
Friendless
Sleepless
Painless
Tearless
Trustless
Skinless
Nameless
Warless
Endless
Tham khảo
Liên kết ngoài
Website chính thức của anime Loveless (tiếng Nhật)
Light novel
Manga năm 2002
Manga dài tập
Tiểu thuyết năm 2008
|
26525
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/D%C3%A2y%20s%E1%BB%91ng
|
Dây sống
|
Dây sống là một trong những đặc trưng của ngành động vật có dây sống, gồm các lớp bò sát, chim, cá sụn v.v... mà không ngành nào khác có được.
Dây sống, với nhiệm vụ là bộ xương trong của những loài động vật này, nâng đỡ chúng trong việc di chuyển và bảo vệ những cơ quan quan trọng như hệ thần kinh, phổi...
Cấu tạo
Trong giải phẫu động vật, dây sống là một dây linh hoạt với cấu tạo rắn và xốp (gần giống như sụn), có nguồn gốc từ nội bì gồm toàn những tế bào có không bào lớn. Dây sống nằm dọc theo cơ thể từ đầu đến đuôi, thường là gần với lưng hơn so với bụng của động vật.
Dây sống được cho là có lợi thế (cả trong bối cảnh tiến hóa và phát triển) bởi vì nó cung cấp cấu trúc chắc chắn để gắn cơ, nhưng vẫn linh hoạt.
Ở các nhóm động vật có mức độ tiến hóa thấp, dây sống vẫn tồn tại trong suốt cuộc đời như sự hỗ trợ trục chính của cơ thể, trong khi ở hầu hết các động vật bốn chân nó trở thành lõi nhân của đĩa đệm.
Ở các loài động vật có xương sống tiến hóa cao (như bò sát, chim, thú) dây sống chỉ tồn tại ở giai đoạn phôi thai, sau đó bị các tế bào xương sống chèn ép làm cho thoái hoá chỉ để lại vết tích ở trung tâm thân đốt sống hoặc thoái hoá không để lại vết tích gì.
Tham khảo
Liên kết ngoài
|
26538
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%C3%A3%20h%C3%B3a%20%C3%A2m%20thanh%20ti%C3%AAn%20ti%E1%BA%BFn
|
Mã hóa âm thanh tiên tiến
|
Mã hóa âm thanh tiên tiến hay Advanced Audio Coding (viết tắt: AAC) - (ISO 14496-3) là một định dạng âm thanh đa năng nén kiểu lossy được định nghĩa theo tiêu chuẩn MPEG-2 và được phát triển bởi liên minh Fraunhofer, Dolby, Sony và AT&T. AAC được phát triển nhằm thay thế cho định dạng âm thanh đã quá nổi tiếng MP3 để tích hợp trong container MP4-một container của MPEG-4 tiêu chuẩn hỗ trợ đầy đủ các tính năng phụ (xem thêm phần MPEG-4).
Dạng định này được phát triển để xóa đi những chỗ yếu của MP3 và nâng cao phương pháp mã hóa đã có. Do vậy những tín hiệu thu của âm thanh hay tiếng động sẽ được nhận biết và mã hóa một cách hiệu quả hơn hoặc những vấn đề của Pre-Echo sẽ giảm thấp xuống nhiều.
AAC có thể tích hợp tới 48 kênh âm thanh (có sample rate tới 96KHz) cộng thêm 15 kênh âm thanh tần số thấp (Low Frequency Enhancement-LFE) giới hạn sample rate ở 120 Hz.
Một số Profile của AAC (HE-AAC, LC-AAC, LD-AAC, AAC, SSR.AAC)
Đây là một vài profile của MPEG-4 AAC tiêu chuẩn.
Low Complexity (LC) nghĩa là “ít phức tạp”. Ở mức độ Bitrate trung bình đến cao, được sử dụng trong hệ thống mua bán nhạc trực tuyến của Apple và RealNetWorks hoặc được cài sẵn trong phần cứng.
High Efficiency (HE) nghĩa là “hiệu quả cao”. HE-AAC cũng được hiểu theo cách khác là AACPlus, AAC+ hay AAC SBR(Spectral Band Replication)... HE-AAC được phát triển nhằm sử dụng trong việc mã hóa với bitrate thấp – đặc biệt có tác dụng với tập tin âm thanh đa kênh (multichannel).
Low Delay (LD) nghĩa là "Thời gian trễ thấp". Được sử dụng cho thời gian dật nhỏ (khoảng 20ms) ở mức Bitrate trung bình đến mức độ cao. Được sử dụng trong lĩnh vực liên lạc, ví dụ như trong hệ thống Video Họp.
Main Profile - Profile chính
Scalable Sample Rate (SSR) - dành cho "Streaming" hay "coi trực tuyến". Nó cho phép đưa lại dự liệu liên tục mà không bị vấp bằng cách giảm độ Bitrate, nếu như băng thông đường truyền không cho phép, hoặc độ băng thông cho phép bỗng nhiên giảm mạnh.
Ý nghĩa của AAC
AAC là dạng định nén âm có tiêu hao về chất lượng, được sử dụng rộng rãi qua các kênh mua bán nhạc trực tuyến như iTunes Store, Real Music Store, LiquidAudio được gắn kèm với hệ thống chống sao chép DRM (ví dụ như FairPlay của Apple).
Trên máy iPod của Apple hay máy điện thoại di động của Nokia, Samsung, Sony Ericsson, Siemens bạn có thể chơi những dữ liệu dạng AAC này. AAC đem lại độ nén cao hơn so với những dạng định khác với mức nén có thể tới 1:16. Ví vậy ngay ở mức 64 kbit/sec/chanel audio thì đã đạt được mức chất lượng khá, ở mức 192 kbit/sec/chanel audio thì có thể ngang với chất lượng CD.
Như :
352,8Kbps, 16bit/44100Hz = CD Quality.
384Kbps,16bit/48000Hz = DVD Quality (tương đương Hi-Res Audio).
Weblinks
Apple với MPEG-4 - AAC Audio (english)
Thông số kỹ thuật Knowledge Base and Open Source AAC Codecs của AudioCoding.com (englisch)
Thông tin bản quyền: Via Licensing Corporation - patent licensing services - MPEG-4 AAC (englisch)
1 Trang khá hay về chủ đề Nén dữ liệu: Ultimate compression resources catalog: AAC (englisch)
Tham khảo
Định dạng tập tin âm thanh
|
26541
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BA%BF%20v%C3%B4%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng
|
Thế vô hướng
|
Trong giải tích, vật lý học hay kỹ thuật, trường thế vô hướng, thường được gọi tắt là thế vô hướng, trường thế hay thế, là một trường vô hướng mà trái dấu của gradient của nó là một trường vectơ.
Giả sử có một trường vector v, thế vô hướng φ của v là một trường vô hướng có trái dấu gradient của nó là v:
(1)
Mọi trường thế vô hướng đều có trường vectơ tương ứng. Nhưng chỉ có các trường vectơ bảo toàn, v, với đạo hàm riêng liên tục mới có trường thế tương ứng φ, định nghĩa bằng tích phân đường, so với điểm mốc r0:
(2)
Ở đây, là vectơ vị trí trong tích phân.
Hai phương trình (1) và (2) là tương đương, theo định lý cơ bản của giải tích. Ứng với mỗi trường vectơ bảo toàn v có vô số trường thế φ thỏa mãn (1). Theo (2), việc chọn điểm mốc r0 giúp cố định φ cụ thể, phụ thuộc vào φ(r0). Tuy nhiên trong kết quả của (2), khi φ(r0) có thể thay đổi tùy lựa chọn, giá trị của trường vectơ tương ứng vẫn không đổi.
Trường thế vô hướng có nhiều ứng dụng trong vật lý. Mở rộng cho đại lượng có hướng của trường thế vô hướng là trường thế vectơ.
Ví dụ
Trường thế có thể được định nghĩa cho nhiều trường vectơ bảo toàn trong vật lý:
Trường thế của trường điện gọi là điện thế
Trường thế của trường lực bảo toàn gọi là thế năng
Trường thế của lực hấp dẫn gọi là thế năng hấp dẫn
Xem thêm
Trường thế vectơ
Định lý cơ bản của giải tích vectơ
Thế Yukawa
Tham khảo
Giải tích toán học
Cơ học
Điện từ học
Giải tích vectơ
fr:Champ de vecteurs#Champ de gradient
|
26544
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90i%E1%BB%87n%20th%E1%BA%BF
|
Điện thế
|
Trong điện học, điện thế là trường thế vô hướng của điện trường; tức là gradien của điện thế là vectơ ngược hướng và cùng độ lớn với điện trường.
Cũng như mọi trường thế vô hướng, điện thế có giá trị tùy theo quy ước điện thế của điểm lấy mốc. Trong kỹ thuật điện và điện tử học, khái niệm hiệu điện thế hay điện áp thường được dùng khi so sánh điện thế giữa hai điểm, hoặc nói về điện thế của một điểm khi lấy điểm kia là mốc có điện thế bằng 1.
Ký hiệu và đơn vị đo lường điện thế
Trong hệ đo lường quốc tế, điện thế đo bằng Volt (viết tắt là v) và có ký hiệu V.
Hiệu điện thế giữa 2 điểm
Trong điện học, điện thế là trường thế vô hướng của điện trường; tức là gradien của điện thế là vectơ ngược hướng và cùng độ lớn với điện trường.
Cũng như mọi trường thế vô hướng, điện thế có giá trị tùy theo quy ước điện thế của điểm lấy mốc. Trong kỹ thuật điện và điện tử học, khái niệm hiệu điện thế hay điện áp thường được dùng khi so sánh điện thế giữa hai điểm, hoặc nói về điện thế của một điểm khi lấy điểm kia là mốc có điện thế bằng 1.
Như mọi trường vectơ có dạng tỷ lệ nghịch với bình phương khoảng cách (ví dụ lực hấp dẫn), trường véctơ cường độ điện trường là một trường vectơ bảo toàn. Điều này nghĩa là mọi tích phân đường của vectơ cường độ điện trường E từ vị trí r0 đến r:
Đều có giá trị không phụ thuộc vào đường đi cụ thể từ r0 đến r.
Như vậy tại mỗi điểm r đều có thể đặt giá trị gọi là điện thế:
Với
Φ(r0) là giá trị điện thế quy ước ở mốc r0.
Hiệu điện thế giữa 2 điểm
Điện thế không đổi theo thời gian sẽ có công thức
Điện thế biến đổi đều theo thời gian sẽ có công thức
Điện thế biến đổi không đều theo thời gian sẽ có công thức
Điện thế của dẫn điện
Điện tích điểm
2 Điện tích điểm âm dương
Với 2 điện tích khác loại có cùng điện lượng, điện thế được tính như sau
Với
Tụ điện
Với một tụ điện tạo từ 2 bề mặt song song với nhau, điện thế được tính như sau
Điện trở
Với một điện trở tạo từ một cộng dây thẳng dẫn điện , điện thế được tính như sau
Cuộn từ
Phân loại
Việc phân loại hiệu điện thế phụ thuộc vào ứng dụng cụ thể và quy ước của từng quốc gia.
Trong truyền tải điện công nghiệp ở Việt Nam, EVN quy ước:
Nguồn điện lưới nhỏ hơn 1 kV là hạ thế
Từ 1kV đến 66kV là trung thế
Lớn hơn 66kV là cao thế
Cụ thể theo , lưới truyền tải điện ở Việt Nam năm 1993 là:
Cao thế có 4 mức: 66kV, 110kV, 220kV và 500kV
Trung thế có 5 mức: 6kV, 10kV, 15kV, 22kV và 35 kV
Hạ thế có 2 mức: 0,4kV và 0,2kV
Trong mục tiêu đồng bộ lưới điện đến năm 2010, tại Việt Nam sẽ có:
Cao thế có 4 mức: 66kV, 110kV, 220kV và 500kV
Trung thế có 2 mức: 22kV và 35 kV
Hạ thế có 1 mức: 0,4kV
Theo , hành lang an toàn lưới điện ở Việt Nam có quy định lớn hơn 1000V là cao thế.
Đối với đồ điện dân dụng, trong bóng hình tivi, điện thế 15-22kV được gọi là cao áp.
Tham khảo
Điện từ học
Đại lượng vật lý
Tĩnh điện học
Tham số điện
de:Elektrostatik#Potential und Spannung
|
26545
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%BFt%20Nguy%C3%AAn%20ti%C3%AAu
|
Tết Nguyên tiêu
|
Tết Nguyên Tiêu (Chữ Nho: 節元宵)Tết Thượng Nguyên, Rằm Tháng Giêng là ngày lễ hội truyền thống của Việt Nam và Trung Quốc . Lễ hội trăng rằm từ giữa đêm 14 (đêm trước trăng rằm) trọn ngày 15 (ngày rằm) cho đến nửa đêm 15 (đêm trăng rằm) của tháng giêng Âm lịch.
Tại Việt Nam
Ở Việt Nam, ngày rằm Tháng Giêng là dịp dân chúng lên chùa cúng sao giải hạn, ước nguyện điều lành, tuy kinh điển nhà Phật không nói đến. Các chùa thường tụng kinh Dược Sư và khuyên các Phật tử cùng tụng niệm và hồi hướng công đức để thế giới được an lành.
Lễ hội đêm trăng rằm hiện được nhiều nơi Việt Nam khôi phục truyền thống văn hóa cổ, tổ chức đêm Nguyên tiêu của Ngày thơ Việt Nam, hiện nay đã thành nếp thường xuyên ở nhiều địa phương. Đặc biệt ở những nơi có đông cộng đồng người Hoa sinh sống như Chợ Lớn, Hội An, lễ hội trăng rằm có nhiều sinh hoạt đặc biệt. Tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày và đêm rằm Tháng Giêng thường được cộng đồng người Việt gốc Hoa tổ chức ở khu Chợ Lớn, quận 5 và dân gian có câu thành ngữ "Giao thừa ra quận Nhất, Nguyên tiêu về quận 5".
Tết Nguyên tiêu của người Hoa ở Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh với phần lễ, hội đa dạng, đặc sắc và phong phú tại các Hội quán, gia đình như: các nghi thức lễ, diễn hành đường phố thể hiện phong tục tập quán của các nhóm ngôn ngữ người Hoa như nghệ thuật xiếc, bát tiên đi cà kheo..., múa lân sư rồng, trình diễn ca kịch cổ truyền, đố chữ, thư pháp, thư họa, trình diễn âm nhạc (Đại la cổ Triều Châu, Nhạc lễ Phúc Kiến), đốt nhang vòng, dán giấy cầu an, lì xì, đố đèn, dâng dầu đèn, chui bụng ngựa, trò chơi dân gian, lễ hội ẩm thực với đa dạng các món ăn Việt - Hoa như phở, bún bò, hủ tiếu, mì, gỏi cuốn, dimsum, há cảo, mì trường thọ, xá xíu, chè… được chế biến và biểu diễn, hướng dẫn thực hiện từ những chuyên gia ẩm thực, đầu bếp chuyên nghiệp; đã được Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch Việt Nam đưa vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia từ năm 2020. Sau Tết Nguyên Tiêu, người dân sẽ tháo tất cả các trang trí Xuân Tết để chấm dứt không khí lễ hội với hy vọng sẽ chú tâm vào một năm làm việc mới đầy thành công và hiệu quả.
Tập tục và lễ hội ở Trung Quốc
Ở Trung Quốc và Đài Loan, Tết Nguyên Tiêu là Tết Thượng Nguyên, hay Tết Trạng nguyên, ngày xưa là dịp nhà vua hội họp các ông Trạng để thết tiệc và mời vào Vườn Thượng Uyển thăm hoa, ngắm cảnh, làm thơ. Theo sách Trung Hoa, lễ Thượng Nguyên không phải là một ngày lễ Phật. Hiện nay, Tết Nguyên Tiêu (rằm tháng giêng, đêm rằm đầu tiên của năm mới) được coi là ngày lễ thiêng liêng nhất đầu năm mới và còn được gọi là “Lễ hội đèn hoa” hoặc “Hội hoa đăng”, có thể bắt nguồn từ tục cúng tế thời Hán Vũ Đế, với tập tục trưng đèn trên cây nêu trước cửa nhà, đốt đèn, chơi lồng đèn ngũ sắc, có thể kéo dài từ 13 đến 17 tháng giêng. Những lồng đèn có hình thù rồng, phượng hoặc những nhân vật cổ trong truyền thuyết, được yêu chuộng.
Ngoài ra còn những tập tục khác như cúng tế cầu an cầu phước, ăn bánh trôi (gọi là “thang viên” – viên tròn trong nước), thi đoán hình thù trên lồng đèn, ngâm thơ. Người Đài Loan còn ghi những câu ước nguyện của mình vào đèn lồng và thả bay lên trời. Nhiều người còn coi đây là mùa Valentine phương Đông, tương tự như lễ Thất Tịch. Thơ Đường xưa đã viết: Nguyên tiêu chi dạ hoa lộng nguyệt, mùa trăng tròn lung linh sắc màu hoa đăng rực rỡ cũng là dịp Ngưu Lang Chức Nữ gặp gỡ se duyên.
Lễ cúng rằm tháng Giêng có thể xuất phát từ Đạo giáo. Theo thuyết tam nguyên của Đạo giáo, rằm tháng giêng là ngày kính Thiên Quan đại đế trong Tam quan đại đế của Đạo giáo, còn gọi là Thượng Nguyên. Các bản sớ cúng rằm tháng Giêng tiêu biểu thường ghi rõ ngày này là "Thiên Quan tứ phúc" (nghĩa là ngài Thiên Quan ban phúc).
Rằm tháng Giêng tại các quốc gia khác
Tại Hàn Quốc, rằm tháng Giêng là lễ Daeboreum (대보름), người dân chơi các trò chơi truyền thống là Samulnori (쥐불 놀이) đêm trước Daeboreum (còn có tên là Lễ hội lửa Jeongwol Daeboreum). Họ đốt cỏ khô, rơm hoặc đống cành cây (gọi là Daljip, xếp thành hình tam giác, để tạo ra một "ngôi nhà" cho mặt trăng mọc; một cánh cửa nhỏ được đặt ở phía đông để mặt trăng đi vào) trên rặng núi giữa cánh đồng lúa và nhảy muá xung quanh để để xua đuổi tà ma; trong khi trẻ em xoay những cái lon có đục nhiều lỗ và có than lửa cháy đỏ bên trong. Tại nông thôn, người dân leo núi, bất chấp thời tiết lạnh, cố gắng để thành người đầu tiên nhìn thấy mặt trăng mọc, qua đó sẽ gặp may mắn cả năm hoặc một mong muốn sẽ được thành tựu. Buổi sáng, họ thường ăn Ogokbap (오곡밥 / 五穀 밥), một loại cơm nấu bằng năm loại ngũ cốc và ăn Yaksik, một thức ăn ngọt làm từ gạo nếp. Đồ uống được lựa chọn cho lễ Daeboreum là rượu Gwibalgisul. Đây là một loại rượu gạo được ướp lạnh.
Tại Nhật Bản, rằm tháng Giêng âm lịch là lễ 小 正月 (Koshōgatsu), ngày nay được cử hành vào ngày 15 tháng 1 dương lịch. Các sự kiện chính của Koshōgatsu là nghi lễ và thực hành cầu nguyện cho một vụ mùa bội thu, và cháo gạo với đậu đỏ (小 豆粥 azuki gayu?) thường ăn vào buổi sáng. Ngoài ra, những thứ trang trí năm mới được hạ xuống và tháo dỡ, và một số đền đài tổ chức các sự kiện.
Ở Philippines, có lễ hội diễu hành truyền thống vào ngày rằm tháng Giêng, đánh dấu khởi đầu năm mới. Trong dịp này, bầu không khí ở Binondo cực kỳ sôi động: Đám đông ở Quận Binondo, thủ đô Manila vây quanh những người múa lân, múa rồng, các chính trị gia địa phương và những người nổi tiếng đi xe hơi sang trọng đến phát kẹo hoặc đồ trang sức may mắn miễn phí cho người dân, trong tiếng trống rộn ràng, tiếng pháo nổ vang. Dọc đường phố bày bán đầy ắp thức ăn, đồ chơi bằng nhựa và bùa may mắn hứa hẹn sẽ mang lại sự thịnh vượng trong năm mới.
Thành ngữ
Lễ Phật quanh năm không bằng Rằm tháng Giêng
Giỗ tết cả năm không bằng ngày rằm tháng Giêng
Ăn chay niệm Phật cả năm, Không bằng dự hội ngày Rằm tháng Giêng
Giao Thừa ra quận Nhất, Nguyên Tiêu về quận Năm
Tham khảo
Liên kết ngoài
Tết Nguyên Đán
Chùm ảnh Tết Nguyên Đán ở châu Á
Nguyên tiêu
Lễ hội Trung Quốc
Lễ hội Việt Nam
Ngày lễ và Ngày Hành động trong tháng Hai
|
26547
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hi%E1%BB%87u%20%C4%91i%E1%BB%87n%20th%E1%BA%BF
|
Hiệu điện thế
|
Hiệu điện thế hay điện áp (ký hiệu , thường được viết đơn giản là U, có đơn vị là đơn vị của điện thế: V, kV, mV, ...) là sự chênh lệch về điện thế giữa hai cực của 1 nguồn. Hiệu điện thế giữa hai điểm trong điện trường tĩnh là đại lượng đặc trưng cho khả năng thực hiện công của điện trường khi có một điện tích di chuyển giữa hai điểm đó. Hiệu điện thế có thể đại diện cho nguồn năng lượng (lực điện), hoặc sự mất đi, sử dụng, hoặc năng lượng lưu trữ (giảm thế). Hiệu điện thế có thể được sinh ra bởi các điện trường tĩnh, dòng điện chạy qua từ trường, các trường từ thay đổi theo thời gian, hoặc sự kết hợp của 3 nguồn trên. Dụng cụ để đo hiệu điện thế là: vôn kế, tĩnh điện kế...
Xem thêm
Điện thế
Tham khảo
Liên kết ngoài
Elementary explanation of voltage at NDT Resource Center
Điện từ học
Hệ thống điện
Đại lượng vật lý
Điện áp
|
26552
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90i%E1%BB%87n%20cao%20th%E1%BA%BF
|
Điện cao thế
|
Điện cao thế (hay còn gọi là điện thế cao) là dòng điện có điện áp đủ lớn để gây hại đến sinh vật sống. Thiết bị và các dây dẫn mang dòng điện cao cần phải bảo đảm các yêu cầu và quy trình an toàn. Trong các ngành công nghiệp, điện cao thế nghĩa là dòng điện cao hơn một ngưỡng nào đó. Điện cao thế được dùng chủ yếu trong việc phân phối điện năng, trong ống phóng tia cathode, sản sinh tia X và các chùm hạt để thể hiện hồ quang điện, cho sự xẹt điện, trong đèn nhân quang điện, và các đèn điện tử chân không máy khuếch đại năng lượng cao và các ứng dụng khoa học và công nghệ khác.
Xem thêm
Kỹ thuật điện
Điện thế thấp
Cuộn dây Tesla
Tham khảo
High Voltage Engineering - Dr M S Naidu & Dr V Kamaraju, Publisher: McGraw-Hill
Liên kết ngoài
NFPA 70E: Electrical Safety in the Workplace, USA
High Voltage Safety Testing at up to 300,000V
HV Safety Testing Video
Điện học
Kỹ thuật điện
An toàn điện
Nguy hiểm
|
26556
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kid%C5%8D%20Senshi%20Gundam%20SEED
|
Kidō Senshi Gundam SEED
|
là bộ anime thuộc series Gundam của Nhật Bản do Fukuda Mitsuo đạo diễn và được sản xuất bởi công ty Sunrise. Tương tự như các loạt phim Gundam đi trước, tuy vẫn lấy bối cảnh Trái Đất, cốt truyện của Gundam SEED xảy ra trong một thời đại hoàn toàn khác biệt có tên là Cosmic Era. Truyện phim xoay quanh nhân vật Kira Yamato và cuộc chiến giữa hai giống người: Người tự nhiên (Natural) và người chuyển gen (Coordinator).
Bộ anime kéo dài 50 tập, được trình chiếu ở Nhật trong gần một năm từ ngày 5 tháng 10 năm 2002 đến 27 tháng 9 năm 2003 trên các đài thuộc hệ thống truyền hình JNN là TBS và MBS. Nó đã được chuyển thể thành một bộ manga do nhà xuất bản Kodansha ấn hành, ra mắt lần đầu vào 17 tháng 2, 2003. Gundam SEED được tiếp nối bởi .
Hãng Bandai Entertainment cấp phép cho bộ anime Gundam SEED vào tháng 2 năm 2004, và nó được ra mắt tại Mỹ và Canada lần lượt vào các năm 2004 và 2005.
Kidō Senshi Gundam SEED đã đoạt giải Animage Anime Grand Prix lần thứ 25 vào năm 2002. Đây là bộ anime thứ hai trong loạt phim Gundam giành giải thưởng trên, sau Kidō Senshi Gundam. Trong lần trao giải thứ 26 năm 2003, Gundam SEED rơi xuống vị trí thứ 2, kém vị trí thứ nhất Fullmetal Alchemist 1800 phiếu bầu .
Ở Nhật, cái tên Kidō Senshi Gundam SEED có tầm ảnh hưởng rộng lớn. Loạt phim đã đạt nhiều giải thưởng và có doanh số bán đĩa nhạc phim và DVD rất cao. Phần hình ảnh và phát triển nhân vật của phim nhận được nhiều lời khen ngợi, tuy nhiên những chi tiết quá giống với các loạt phim Gundam đi trước cũng làm dấy lên nhiều so sánh và chỉ trích trong cộng đồng người hâm mộ.
Khái quát nội dung
Trở nên hoàn hảo là ước mơ muôn đời của con người từ ngày xưa đến nay. Chuyện tưởng chừng như khoa học không làm được đã xảy ra, nhưng con người lai gien với sức khỏe tốt hơn, thông minh hơn những con người bình thường đã ra đời và được gọi là "Coordinator". Điều này cũng là sự bắt đầu cho Cosmic Era. Mọi người đổ xô đi cấy gien, lai tạo gien để tạo ra những đứa con Coordinator cho mình mà không hề nghĩ đến một cuộc chiến tranh sẽ đến trong tương lai. Và cũng chẳng cần chờ lâu, ghen tị - cái bản chất vốn ăn sâu trong máu thịt con người đã nổi dậy. Những con người bình thường hay còn được gọi là "Natural" cho rằng sự hiện diện của các Coordinator là đi ngược lại với tự nhiên vì họ trở nên tốt hơn nhờ máy móc chứ không phải bẩm sinh và điều này là không công bằng khi các Coordinator luôn luôn làm tốt hơn Natural.
Các Natural theo chủ trường chống Coordinator đã xuống tay hạ sát hàng loạt Coordinator. Một số chính phủ dần dần đồng tình và Coordinator bị xua đuổi. Khi bị dồn vào đường cùng, bản năng sinh tồn trỗi dậy và họ đã rời Trái Đất và đi ra ngoài vũ trụ, tạo ra nhóm vệ tinh PLANT - nơi các Coordinator sinh sống mà không phải lo sợ bị Natural tấn công. Những tưởng đó đã là một cái kết, nhưng Natural không bỏ cuộc. Ngày 14 tháng 2 năm C.E 70, họ gửi bom hạt nhân đến tấn công Junius Seven, một trong các vệ tinh của PLANT. Hậu quả là gần như toàn bộ cư dân Junius Seven chết, hành tinh bị hủy diệt, thảm kịch này còn được gọi là Bloody Valentine Day (ngày lễ tình nhân đẫm máu).
Sự việc nói trên đã châm ngòi cho những cuộc chiến nhỏ và các mâu thuẫn vốn có giữa PLANT và Trái Đất. Hai bên liên tục tấn công lẫn nhau, gây thương vong chết chóc vô số. Các hành tinh và các nước trung lập dần dần hình thành. Ở nơi đó, không có sự phân biệt Natural hay Coordinator, những người ở đây có chung một ý nguyện là tránh xa cuộc chiến.
Cậu thanh niên 16 tuổi Kira Yamato cũng là một trong số đó. Cậu sống ở Heliopolis, một vệ tinh nhỏ gần Trái Đất. Vài năm trước, người bạn thân nhất của Kira là Athrun Zala đã về PLANT khi cuộc chiến giữa Trái Đất và PLANT trở nên căng thẳng. Thời gian trôi đi, mọi chuyện chỉ còn là ký ức. Vào vài năm sau khi Athrun đi, Kira vẫn ở lại Heliopolis và cậu cũng đã có được những người bạn ở đây. Nhưng không may khi chính quyền nơi này lại giúp Trái Đất chuyển vũ khí mới "Gundam" và con tàu "Archangel". ZAFT - lực lượng quân đội của PLANT đã sớm biết chuyện này và gửi một nhóm qua đánh cướp những vũ khí mới này. Hai bên có một số trận đánh nhỏ và Kira vô tình bị dính vào đó. Cậu gặp lại Athrun - người bạn cũ giờ đây đã trở thành một thành viên của ZAFT. Tiếc thay, giờ Kira lại phải về phe Trái Đất để bảo vệ những người bạn khác của mình. Thế là hai người bạn thân từ thuở nào nay lại là kẻ thủ địch. Đây cũng là bắt đầu cho những nỗi đau.
Phát triển
Kidō Senshi Gundam SEED được đạo diến bởi Fukuda Mitsuo với phần âm nhạc do Sahashi Toshihiko đảm nhận . Phim lần đầu được thông báo tới khán giả vào tháng 6 năm 2002, phần trailer ra mắt vào tháng 9 cùng năm trên trang web chính thức của xê-ri. Có tổng cộng 8 biên kịch làm việc cho bộ anime này. Phần thiết kế nhân vật được giao cho Hisashi Hirai, trong khi nhiệm vụ thiết kế máy móc thuộc về Kunio Ohkawara và Kimitoshi Yamane. Koichi Inoue, nhà quản lý sản xuất của Kidō Senshi Gundam cho biết đoàn làm phim Gundam SEED là một đội ngũ trẻ và sẽ còn tiếp tục thực hiện các loạt phim Gundam sau đó. Bản thân Inoue sẽ chỉ tham gia thực hiện các dự án anime dựa theo bộ Gundam đầu tiên. Theo đạo diễn Fukuda, ban đầu câu chuyện Gundam SEED được kể dưới góc nhìn cá nhân của Kira, tuy nhiên về sau góc nhìn này được chuyển sang các nhân vật khác. Mục tiên lớn nhất của ông với xê-ri này là giúp khán giả giải trí, do đó cao trào kịch tính của bộ anime sẽ được phát triển xuyên suốt theo chiều hướng tương tự với các loạt Gundam tiền nhiệm. Cốt truyện là phần đầu tiên được hoàn thành, sau đó mới đến các cảnh hành động, và các nhân vật người trong phim được chú trọng đầu tư hơn là các cỗ máy chiến đấu. Đạo diễn Fukuda cho rằng mong muốn đấu tranh của nhân vật Kira là điều tất yếu, phát sinh từ khao khát bảo vệ bạn bè của anh. Fukuda đã cân nhắc quyết định những hành động của Kira dựa trên nền tảng lối suy nghĩ truyền thống của người Nhật Bản.
Phát hành
Anime
Gundam SEED bắt đầu được công chiếu lần đầu trên hai kênh MBS and TBS, vào lúc 18 giờ thứ 7 hàng tuần sau khi bộ tokusatsu Ultraman Cosmos kết thúc.. Các khách hàng sử dụng dịch vụ phía đông và tây của công ty viễn thông Nippon Telegraph and Telephone với trình duyệt Windows media hoặc Real có thể thoải mái xem xê-ri phim trên internet vào ngày hôm sau. Từ ngày 28 tháng 3 năm 2003 đến 26 tháng 3 năm 2004, loạt anime được phát hành tại Nhật dưới dạng 13 đĩa DVD tổng hợp. Tập OVA dài 5 phút "After Phase: In the Valley of Stars" xuất hiện trong đĩa DVD thứ 13, cũng là DVD cuối cùng.. Ngày 23 tháng 10 năm 2010, bộ đĩa DVD tổng hợp của xê-ri được tung ra thị trường. Loạt anime tiếp nối của Gundam SEED là Kidō Senshi Gundam SEED Destiny sau đó được trình chiếu tại Nhật từ ngày 9 tháng 10 năm 2004 đến ngày 1 tháng 10 năm 2005. Câu chuyện trong Gundam SEED Destiny diễn ra 2 năm sau Gundam SEED với nhân vật chính Shinn Asuka.
Phiên bản tái xử lý HD của Gundam SEED được công bố vào tháng 8 năm 2011, tuy nhiên theo lời đạo diễn Fukuda, thông tin này đã bị lọt ra ngoài sớm hơn vài ngày so với dự định thông báo chính thức. Tháng 11 cùng năm, hãng Bandai thông báo sẽ phát hành lại xê-ri dưới dạng 3 đĩa Blu-ray tổng hợp trong vòng từ tháng 3 đến tháng 9 năm 2012. Tháng 12 năm 2011, tập phim đầu tiên của phiên bản này xuất hiện trên trang web của kênh Bandai và bắt đầu lên sóng truyền hình từ tháng 1 năm 2012.
Phần lồng tiếng Anh ngữ của Gundam SEED được thực hiện và thu âm bởi Ocean Studios tại Vancouver, Canada. Xê-ri phim lần lượt được phát hành thành 10 đĩa DVD với hai thứ tiếng Nhật - Anh trong khoảng thời gian từ ngày 10 tháng 8, 2004 đến ngày 20 tháng 5, 2005. Tuy nhiên, OVA "After Phase: In the Valley of Stars" không xuất hiện trong số 10 đĩa DVD này, do Sunrise không ủy quyền cho Bandai; tuy nhiên nó đã xuất hiện trong DVD cuối cùng phát hành tại thị trường châu Âu. Từ ngày 13 tháng 6 năm 2005 đến ngày 6 tháng 3 năm 2006, hãng Beez Entertainment cũng phát hành xê-ri này dưới dạng 10 đĩa DVD. Phiên bản DVD 2 phần mang tên "Anime Legends Edition" ra mắt vào hai ngày 8 tháng 1, 2008 và 4 tháng 3 2008, mỗi phần gồm 5 đĩa DVD.
Phim tổng hợp
Bộ phim tổng kết gồm 3 phần của Gundam SEED đã được phát hành dưới cái tên Gundam SEED: Special Edition . Mỗi phần phim kéo dài 90 phút, kể lại nội dung của xê-ri Gundam SEED với các cảnh mới hoặc cảnh vẽ lại, giống như cách thức các nhà làm phim đã làm với xê-ri Gundam đời đầu Kidō Senshi Gundam. Các phần phim nói trên được phát hành dưới dạng DVD từ ngày 27 tháng 8 đến 22 tháng 10 năm 2004. Tháng 2 năm 2010, chúng cũng được phát hành lại đồng thời với 4 phần phim tổng hợp tương tự của Gundam SEED Destiny. Gundam SEED: Special Edition được Bandai Entertainment cấp phép tại thị trường Bắc Mỹ và ra mắt DVD Anh ngữ từ ngày 11 tháng 7 đến 22 tháng 11 năm 2005. Một bộ DVD gồm 3 phần phim này được Bandai phát hành ngày 26 tháng 11 năm 2008 với tiêu đề "Kidō Senshi Gundam SEED Complete Feature Collection". Dưới đây là danh sách các phim tổng hợp của loạt anime Gundam SEED:
Kidō Senshi Gundam SEED Movie I: The Empty Battlefied
Kidō Senshi Gundam SEED Movie II: The Far-Away Dawn
Kidō Senshi Gundam SEED Movie III: The Rumbling Sky
Nhạc phim
Phần âm nhạc của xê-ri do nhạc sĩ Sahashi Toshihiko đảm nhiệm với sự trợ giúp của Kajiura Yuki, các đĩa nhạc được hãng Victor Entertainment phát hành. Các nghệ sĩ nổi bật tham gia hát cho loạt phim bao gồm nữ ca sĩ trẻ Nami Tamaki, ban nhạc See-Saw, và T.M. Revolution, người đồng thời cũng lồng tiếng cho nhân vật Miguel Aiman. Tổng cộng có 4 đĩa nhạc phim ra mắt từ ngày 4 tháng 12 năm 2002 đến 16 tháng 12 năm 2004. Các đĩa này bao gồm phần nhạc nền, các ca khúc mở đầu, kết thúc và đi kèm trong toàn bộ xê-ri. Tháng 5 năm 2004, đĩa nhạc Symphony SEED -Symphonic Suit Kidō Senshi Gundam SEED- phát hành với 10 chương nhạc phim Gundam SEED do Dàn nhạc giao hưởng London trình bày. Một đĩa DVD tổng hợp bao gồm 4 video clip của 4 ca khúc trong Gundam SEED và Gundam SEED Destiny, cũng ra mắt vào ngày 24 tháng 5 năm 2006 dưới tựa đề Kidō Senshi Gundam SEED & SEED DESTINY Clipping 4 Songs.
5 đĩa CD nhân vật với các ca khúc do các diễn viên lồng tiếng trình bày lần lượt phát hành từ ngày 21 tháng 3 đến 23 tháng 7 năm 2003. Ngoài ra còn có một album tổng hợp là Kidō Senshi Gundam SEED COMPLETE BEST gồm 13 ca khúc, phát hành ngày 22 tháng 11 năm 2006
Kidō Senshi Gundam SEED ~ SEED DESTINY BEST "THE BRIDGE" Across the Songs from Gundam SEED & SEED DESTINY là bộ đĩa tổng hợp gồm 2 CD, bao gồm tất cả các bài hát mở đầu, kết thúc, đi kèm, và các ca khúc nhân vật trong Gundam SEED và Gundam SEED Destiny. Ngoài ra, toàn bộ những ca khúc trong Gundam SEED và Gundam SEED Destiny do T.M.Revolution trình bày còn được tổng hợp trong đĩa CD riêng của anh mang tựa đề X42S-REVOLUTION, phát hành ngày 24 tháng 3 năm 2010. Phiên bản đặc biệt số lượng giới hạn của đĩa này bao gồm một đĩa DVD với phần video âm nhạc sử dụng hình ảnh từ hai loạt anime.
Manga
Bản manga Gundam SEED do họa sĩ Masatsugu Iwase vẽ, gồm 5 tập tankōbon được nhà xuất bản Kodansha phát hành rải rác từ 20 tháng 3 năm 2003 đến 21 tháng 1 năm 2005 Ở thị trường Bắc Mỹ, Del Rey Manga giữ quyền xuất bản bản dịch tiếng Anh và đã lần lượt cho ra mắt độc giả toàn bộ loạt truyện trong khoảng thời gian từ ngày 27 tháng 4 năm 2004 đến 20 tháng 8 năm 2005 . Bộ manga cũng được phát hành tại Singapore bởi nhà xuất bản Chuang Yi .
Trong thời gian từ ngày 28 tháng 4 năm 2004 đến 26 tháng 2 năm 2005, bộ manga ngoại truyện mang tiêu đề Kidō Senshi Gundam SEED Astray do tác giả Chiba Tomohiro lên kịch bản và họa sĩ Tokita Kōichi đảm nhận phần minh họa cũng được Kadokawa Shoten phát hành ở Nhật dưới dạng 3 cuốn tankōbon. Tháng 12 năm 2003, độc giả Bắc Mỹ được thông báo loạt truyện sẽ được xuất bản tại thị trường này thông qua TOKYOPOP , thời gian phát hành là từ ngày 11 tháng 5 tới ngày 9 tháng 11 năm 2004.
Ngoài ra, còn hai ngoại truyện khác là Kidō Senshi Gundam SEED Astray R và Kidō Senshi Gundam SEED X Astray . Tokita Kouichi vẫn là họa sĩ minh họa cho Kidō Senshi Gundam SEED X Astray, còn trong Kidō Senshi Gundam SEED Astray R, vai trò này thuộc về Toda Yasunari. Kidō Senshi Gundam SEED Astray R xoay quanh câu chuyện về hoa tiêu Lowe Guele của Red Flame cùng các đồng đội trong hội Junk Guild trong suốt cuộc chiến Bloody Valentine. Bộ manga gồm 4 tập, được phát hành rải rác từ tháng 3 năm 2003 đến tháng 8 năm 2004. Từ tháng 2 đến tháng 11 năm 2005, bản dịch tiếng Anh do TokyoPop ấn hành cũng ra mắt độc giả. Trong khi đó, nhân vật chính của Gundam SEED X Astray là Canard Pars, một thử nghiệm thất bại do chương trình Ultimate Coordinator tạo ra. Canard luôn nuôi hi vọng tìm kiếm và đánh bại Kira Yamato, sản phẩm thành công duy nhất của chương trình, nhằm chứng minh rằng mình không phải là "phế phẩm". Hai tập truyện của bộ manga đã được lần lượt phát hành vào tháng 5 và tháng 10 năm 2005 tại Nhật, trong khi ấn bản tiếng Anh ra mắt vào tháng 10 năm 2006 và tháng 2 năm 2007.
Tháng 8 năm 2005, một ngoại truyện dưới dạng "tiểu thuyết hình ảnh" mang tên Kidō Senshi Gundam SEED Astray B do Toda Yasunari thực hiện được phát hành. Câu chuyện xoay quanh nhân vật chính Gai Murakumo và nhóm hoa tiêu đánh thuê Serpent Tail mà anh lãnh đạo.
là bộ manga ngoại truyện của tác giả Azu Maria nói về các nhân vật trong xê-ri anime Gundam SEED và phần tiếp theo của nó, Gundam SEED Destiny. Đây là loạt truyện tranh mang phong cách hài hước, nội dung mỗi truyện thường nằm gọn trong 4 khung tranh (yonkoma). Loạt truyện được tổng hợp thành ba phần với bản quyền thuộc về Kadokawa Shoten. Phần đầu ra mắt vào tháng 8 năm 2005. Phần 2 và phần 3 (phát hành lần lượt vào tháng 8 năm 2006 , và tháng 9 năm 2007 ) bao gồm cả các nhân vật trong Seed Destiny.
Tiểu thuyết
Phiên bản chuyển thể light novel của xê-ri ra đời dưới ngòi bút của tác giả Goto Riu, nguyên bản do Ogasawara Tomofumi minh họa in trên phụ trang của tạp chí Kadokawa Sneaker Bunko. Sau này tiểu thuyết được chia thành 5 tập, do Kadokawa Shoten ấn hành. Tập đầu tiên ra mắt vào tháng 3 năm 2003 và tập cuối cùng phát hành vào tháng 1 năm 2004. Từ 11 tháng 10 năm 2005 đến ngày 9 tháng 5 năm 2006, Tokyopop cũng lần lượt cho ra mắt ấn bản Anh ngữ của 3 tập đầu. Hai tập light novel chuyển thể từ xê-ri ngoại truyện Kidō Senshi Gundam SEED Astray do tác giả Chiba Tomohiro chắp bút được Kadokawa phát hành vào ngày 1 tháng 9 năm 2003 và ngày 1 tháng 7 năm 2004.
Video games
Đã có rất nhiều game được sản xuất dựa theo nội dung của loạt anime, tiêu biểu là game arcade Gundam SEED: Federation vs. Z.A.F.T. II, và Gundam SEED: Battle Assault trên hệ máy Game Boy Advance, Gundam SEED: Federation vs. Z.A.F.T., Kidō Senshi Gundam SEED, Kidō Senshi Gundam SEED: Never Ending Tomorrow, Kidō Senshi Gundam SEED Destiny: Generation of CE,và Gundam SEED: Federation vs. Z.A.F.T. 2 Plus cho PlayStation 2. Ngoài ra còn có một game PlayStation Portable mang tên Gundam SEED: Federation vs. Z.A.F.T. Portable cùng một game cho điện thoại di động, Kidō Senshi Gundam SEED Phase-Act Delivery.
Nhân vật của Gundam SEED cũng từng nhiều lần xuất hiện trong các game của loạt anime Gundam, chẳng hạn như Kidō Senshi Gundam: Gundam vs. Gundam Next, loạt game SD Gundam G cùng một vài game trong loạt Gundam Battle Assault, Dynasty Warriors: Gundam 2, andvà Dynasty Warriors: Gundam 3. Bên cạnh đó, có thể kể thêm nhiều game khác như xê-ri Super Robot Wars, Another Century's Episode 3 và Another Century's Episode: R.
Sản phẩm khác
Có rất nhiều sách xuất bản ăn theo nội dung Gundam SEED, tiêu biểu là cuốn ra mắt ngày 10 tháng 7 năm 2003 do Kodansha ấn hành. Ngày 18 tháng 7 năm 2003, Kadokawa Shoten tung ra thị trường Nhật Bản hai cuốn sách hướng dẫn chính thức, đó là và tập trung chủ yếu vào hai nhân vật chính Kira Yamato và Athrun Zala. Cũng trong tháng này, loạt sách giới thiệu nhân vật của xê-ri cũng ra mắt người hâm mộ Nhật Bản dưới cái tên chung "Official File" ("Hồ sơ chính thức"). Một tập sách có tựa đề được phát hành vào ngày 19 tháng 4 năm 2004, bao gồm các bài phân tích tỉ mỉ về cốt truyện cũng như nhân vật của bộ anime. Một cuốn sách khác, , chứa các bài viết chi tiết về nhân vật, công nghệ và bối cảnh trong Gundam SEED, ra mắt tháng 3 năm 2006. Ngày 26 tháng 7 năm 2004, tập artbook mang tên chính thức phát hành.
Đánh giá và giải thưởng
Gundam SEED được đánh giá là một trong những xê-ri Gundam nổi tiếng nhất tại Nhật Bản, với chỉ số người xem rất cao và doanh số bán DVD khổng lồ. Theo số liệu hãng Bandai Visual công bố, tính đến tháng 4 năm 2004, đã có một triệu đĩa DVD Gundam SEED được tiêu thụ tại thị trường Nhật Bản, trong đó đĩa DVD đầu tiên đã vượt ngưỡng 100,000 bản Các đĩa nhạc phim cũng gặt hái nhiều thành công thương mại, bài hát kết thúc đầu tiên của xê-ri, Anna ni Issho Datta no ni trở thành một trong những đĩa nhạc bán chạy nhất năm 2002 ở Nhật. Cho đến thời điểm tháng 7 năm 2004, đã có hơn 10 triệu mô hình nhựa của Gundam SEED được bán ra trên toàn thế giới. Cũng trong tháng này, Jerry Chu, giám đốc marketing của Bandai Entertainment đưa ra thông báo về phản ứng tích cực của khán giả đối với bộ anime, và Gundam SEED đã phá vỡ kỉ lục về số lượng người xem trong lần đầu ra mắt. Ông Chu cho biết, đây là bộ anime của Bandai nhận được sự ủng hộ nồng nhiệt nhất trong vòng 6 năm qua tại thị trường Bắc Mỹ . Theo nhận định của nhà phê bình John Oppliger từ AnimeNation, Gundam SEED là xê-ri Gundam đầu tiền mà thành công không chỉ giới hạn trong "Những người hâm mộ Gundam và các otaku" mà cả với những "khán giả xem truyền hình Nhật Bản bình thường". Năm 2003, Gundam SEED đã chiến thắng ở hạng mục TV Feature tại giải Animation Kobe và giải Grand Prix tại lễ trao giải Otaku Nhật Bản . Trước đó, vào năm 2002, Gundam SEED cũng đoạt giải Anime Grand Prix của tạo chí Animage, đồng thời hai nhân vật chính của xê-ri là Kira Yamato và Lacus Clyne lần lượt đứng đầu danh sách bình chọn nhân vật nam và nữ của năm . Bộ anime từng giành vị trí quán quân trong bảng xếp hạng anime năm 2004 do độc giả tạp chí Newtype bình chọn. Tuy nhiên, xê-ri phim không được các khán giả lớn tuổi đánh giá cao. Tháng 2 năm 2004, chủ tịch Sunrise, ông Takayuki Yoshii, cho rằng lý do của việc này là bởi Gundam SEED kết hợp nhiều yếu tố của các phim truyền hình nhiều tập. Thay vì tập trung vào các mẫu robot như các phim Gundam trước, xê-ri phim này tập trung nhiều hơn vào các nhân vật của mình.. Mặt khác, theo báo cáo của Bandai Visual vào tháng 4 cùng năm, Gundam SEED có phổ khán giả rộng lớn và sức hút mạnh mẽ đối với người xem ở lứa tuổi trưởng thành.
Gundam SEED được khen ngợi bởi vị trí nổi bật của nó trong hàng loạt xê-ri của chuỗi anime Gundam . Về mặt phát triển cốt truyện, xê-ri được đánh giá cao bởi các cảnh chiến đấu cũng như khai thác chiều sâu nhân vật đều tạo ấn tượng tốt và không làm lu mờ lẫn nhau. Diễn biến câu chuyện trong Gundam SEED có xu hướng chậm dần với phần phát triển nhân vật gắn liền với chủ đề chính trị xuyên suốt, gây hứng thú cho khán giả. Trong phần đầu của xê-ri, mối quan hệ giữa các nhân vật được đề cập khá nhiều. Đặc biệt, mối quan hệ giữa hai nhân vật nam chính Kira Yamato và Athrun Zala nhận được nhiều lời tán dương bởi những cảnh hành động chiến đấu gay cấn giữa hai bên cũng như gợi trí tó mò của người xem về việc liệu hai người có sát cánh bên nhau trong các tập phim về sau. Cao trào của xê-ri được nhận xét là đem lại nhiều bất ngờ cả về diễn biến của cuộc chiến cũng như vai trò của nhân vật. Nhìn chung, các nhà phê bình có cùng một nhận xét rằng Gundam SEED là sự pha trộn nhiều yếu tố từ những loạt Gundam đi trước nhưng lại được đẩy nhanh tốc độ, bởi vậy vừa có sức hấp dẫn đối với khán giả trẻ tuổi mà vẫn giữ được những khán giả quen thuộc trung thành với chuỗi anime Gundam Tác giả Carl Kimlinger từ trang web Anime News Network khẳng định, Gundam SEED đã chuyển thể nổi dung của xê-ri gốc Kidō Senshi Gundam năm 1979 đến với khán giả đương đại theo cách thức tương tự như Kidō Senshi Gundam 00 làm với Kidō Senshi Gundam Wing sau này. Theo Bamboo Dong, một tác giả khác của Anime News Network, tuy điều này là một trong mục tiêu chỉ trích của nhiều anti-fan, song nó không thể ngăn cản Gundam SEED trở thành một xê-ri anime đáng xem và thu hút thêm nhiều người hâm mộ đến với thế giới Gundam.
Bàn về chất lượng đồ họa của xê-ri, tác giả Derrick L. Tucker trên trang THEM Anime Reviews viết "(Gundam SEED) là xê-ri Gundam đỉnh cao nhất từ trước đến nay". Bên cạnh đó, phần nhạc phim cũng rất được ưa chuộng do có sự góp giọng của nhiều nghệ sĩ J-pop có tiếng tăm như Tamaki Nami và T.M. Revolution. Việc mời được nhiều diễn viên lồng tiếng tài năng như Tanaka Rie, Seki Tomokazu và Kuwashima Houko tham gia đã đáp ứng được nhu cầu chiều sâu cảm xúc mà các nhân vật cần có . Bản lồng tiếng Anh ngữ nhìn chung để lại ấn tượng tốt, song đôi lúc vẫn để lộ rõ nhược điểm so với bản gốc tiếng Nhật, đặc biệt trong quá trình khắc họa nhân vật chính Kira Yamato.
Tranh cãi
Tập thứ 16 của Gundam SEED xuất hiện một cảnh phim với Kira Yamato, người hùng 16 tuổi của xê-ri, đang mặc lại quần dài sau khi ra khỏi chiếc giường nơi nhân vật 15 tuổi Flay Allster đang ngủ, trên người không mặc quần áo; ám chỉ một mối quan hệ bao gồm cả quan hệ tình dục. Ủy ban hành động vì Chất lượng truyền hình Nhật Bản (Japanese Commission for Better Broadcasting) đã có báo cáo về việc nhiều khán giả than phiền về cảnh phim trên bởi xê-ri được phát sóng vào lúc 6 giờ chiều khi có cả khán giả là trẻ em theo dõi. Tuy nhiên Mecha Anime HQ nhận định rằng cảnh phim nói trên là phù hợp với toàn bộ nội dung của xê-ri. Cảnh này còn được kéo dài thêm trong bản phim tổng hợp.
Phần nối tiếp
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang chủ chuỗi sản phẩm Gundam SEED
Trang chủ anime Gundam SEED
Seed Genesis
AniDB
Anime-Source
Gundam hobby Việt Nam
Cosmic Era
Gundam
Manga dài tập
Anime và manga lãng mạn
Shōnen manga
Manga năm 2003
Chương trình Tokyo Broadcasting System
|
26571
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BB%8Bnh%20H%C3%B2a
|
Trịnh Hòa
|
Trịnh Hòa (phồn thể: 鄭和; giản thể: 郑和; Hán ngữ bính âm: Zhèng Hé; Wade-Giles: Cheng Ho), tên khai sinh: Mã Tam Bảo (馬三寶 /马三宝; pinyin: Mǎ Sānbǎo tên Ả Rập: Hajji Mahmud Shams), 1371–1433, là nhà hàng hải và nhà thám hiểm người Trung Quốc nổi tiếng nhất. Ông chính là người đã chỉ huy các chuyến thám hiểm được gọi chung là các chuyến đi của "Tam Bảo Thái giám hạ tây dương" (三保太監下西洋) hay "Trịnh Hòa đến đại dương phía tây" từ năm 1405 đến năm 1433. Tạp chí Life xếp Trịnh Hòa đứng thứ 14 trong số những người quan trọng nhất trong thiên niên kỷ vừa qua. Ông là người Hồi.
Tiểu sử
Trịnh Hòa là một người Hồi và phục vụ bên cạnh hoàng đế thứ ba của nhà Minh - Minh Thành Tổ (trị vì từ 1403 đến 1424). Theo tiểu sử của ông trong Minh sử, ông có tên thật là Mã Tam Bảo (馬 三保) và quê ở Côn Dương (昆阳, ngày nay là Tấn Ninh (晋宁)), tỉnh Vân Nam. Ông có 4 chị-em và một người anh. Gia đình ông là người Hồi. Trịnh Hòa thuộc về đẳng cấp Semur và theo Hồi giáo (gia đình ông theo đạo Hồi). Ông là hậu duệ đời thứ sáu của Sayyid Ajjal Shams al-Din Omar, một viên quan cai trị tỉnh Vân Nam thời nhà Nguyên và đến từ Bukhara, ngày nay thuộc Uzbekistan. Họ "Mã" của ông có từ người con thứ năm của Shams al-Din là Masuh. Cả ông nội và cha của ông, Charameddin và Mir Tekin, đều đã hành hương tới thánh địa Mecca, và một điều không còn nghi ngờ là ông đã được nghe ông và cha mình kể lại các câu chuyện về các chuyến đi tới những vùng đất lạ. Ông có một phần vai trò quan trọng trong việc xây dựng mối quan hệ giữa Trung Quốc và các quốc gia Hồi Giáo. Sau khi quân đội nhà Minh chiếm đóng Vân Nam, ông đã bị bắt giữ khi còn là một cậu bé con và bị hoạn, vì thế ông đã trở thành một thái giám phục vụ cho hoàng đế. Tên gọi Trịnh Hòa do vua Minh Thành Tổ đặt cho ông để thưởng công giúp đảo chính lật đổ vua Minh Huệ Đế. Ông học tại Nam Kinh Thái học.
Các sứ mệnh của ông đã chỉ ra một minh chứng đầy ấn tượng về khả năng tổ chức và sức mạnh công nghệ, nhưng đã không dẫn tới các hoạt động thương mại đáng kể, vì Trịnh Hòa là một quan chức và người chỉ huy của thủy quân chứ không phải là một nhà buôn. Có những lời đồn cho rằng ông cao ít nhất 2 mét (7 ft).
Trịnh Hòa vượt biển tới Malacca vào thế kỷ 15. Vào giữa thế kỷ 15, công chúa Trung Hoa là Hán Lệ Bảo được gả cho quốc vương Malacca, vua Mansur Shah. Công chúa đi cùng với đoàn tùy tùng của mình - gồm 500 con trai của các quan vài trăm cung nữ. Đoàn người này cuối cùng định cư tại Bukit Cina ở Malacca. Hậu duệ của những người này, sinh ra từ các cuộc hôn nhân với dân bản xứ, ngày nay được biết đến như là những người Peranak: Baba (tước hiệu của đàn ông) và Nyonya (tước hiệu của đàn bà). (MP)
Năm 1424 Minh Thành Tổ chết. Người kế nghiệp là hoàng đế Minh Nhân Tông (trị vì từ năm 1424 đến năm 1425), đã quyết định hạn chế ảnh hưởng của nội cung. Trịnh Hòa cũng đã thực hiện một chuyến đi nữa dưới thời trị vì của Minh Tuyên Tông (trị vì từ năm 1426 đến năm 1435), nhưng sau đó những chuyến tàu đi tìm của cải của người Trung Quốc đã chấm dứt do chính sách đóng cửa một thời gian của Chính phủ Trung Quốc.
Các chuyến đi
"Tây dương" chỉ những khu vực ở châu Á và châu Phi mà Trịnh Hòa đã thám hiểm, bao gồm:
Đông Nam Á
Sumatra
Java
Tích Lan (Ceylon)
Ấn Độ
Có thể là châu Mỹ
Ba Tư
Vịnh Ba Tư
Bán đảo Ả Rập,
Hồng Hải tới xa nhất là Ai Cập và
Xa nhất về phía Nam tới eo biển Mozambique
Đài Loan, 7 lần
Đảo Darwin, Bắc Úc
Số lượng chuyến đi của ông tới Tây dương tùy vào cách phân chia, nhưng ông và hạm đội đã "Tây dương" không dưới 7 lần. Ông đã đưa về Trung Quốc nhiều chiến lợi phẩm và các phái viên từ ít nhất 30 vương quốc - bao gồm cả vua Alagonakkara của Tích Lan (Ceylon) đến Trung Quốc để tạ lỗi các hoàng đế Trung Hoa.
Một số suy đoán rằng hạm đội của Trịnh Hòa có thể đã vượt qua mũi Hảo Vọng. Cụ thể, một tu sĩ và một nhà lập bản đồ người Venezia là Fra Mauro đã miêu tả trong bản đồ Fra Mauro năm 1457 các chuyến đi của các con "thuyền lớn từ Ấn Độ" tới 2.000 dặm vào Đại Tây Dương năm 1420.
Bản thân Trịnh Hòa viết về các chuyến đi của mình như sau:
"Chúng tôi đã vượt qua hơn 100.000 lý (50.000 km) các vùng nước mênh mông và ngắm nhìn thấy trên đại dương các con sóng khổng lồ tương tự như các trái núi sừng sững ở phía chân trời, và chúng tôi đã ngắm nhìn các khu vực hoang dã ẩn xa trong làn sương khói màu xanh lam, trong khi các con thuyền của chúng tôi, kiêu ngạo giương cánh buồm giống như các đám mây ngày và đêm, vẫn tiếp tục cuộc hành trình của chúng (rất nhanh) giống như các vì sao, vượt qua các con sóng hung dữ này như thể là chúng tôi đang đi trên một con đường lớn..."
Bảy chuyến đi
Hạm đội
Theo các nguồn sử liệu Trung Quốc thì hạm đội của Trịnh Hòa gồm 30.000 người và có trên 300 thuyền buồm vào lúc cao điểm nhất.
Chuyến thám hiểm năm 1405 bao gồm 27.800 người và 317 thuyền, trong đó có:
Các "thuyền châu báu" (bảo thuyền), được dùng cho chỉ huy và các phó chỉ huy của hạm đội, có chín cột buồm, dài khoảng 120 mét (400 ft) và rộng khoảng 50 m (160 ft).
Các "thuyền chở ngựa", chở cống phẩm và vật liệu sửa chữa cho hạm đội, có tám cột buồm, dài khoảng 103 m (339 ft) và rộng khoảng 42 m (138 ft).
Các "thuyền hậu cần", chuyên chở lương thực và thực phẩm cho thủy thủ đoàn, có bảy cột buồm, dài khoảng 78 m (257 ft) và rộng khoảng 35 m (115 ft).
Các "thuyền chở quân lính", sáu cột buồm, dài khoảng 67 m (220 ft) và rộng khoảng 25 m (83 ft).
Các "thuyền chiến Phú Xuyên", năm cột buồm, dài khoảng 50 m (165 ft).
Các "thuyền tuần tra", có tám mái chèo, dài khoảng 37 m (120 feet).
Các "thuyền chở nước", để đảm bảo cấp nước ngọt trong vòng một tháng.
Các đặc trưng phong phú của tàu thuyền Trung Quốc vào thời kỳ đó đã được các nhà thám hiểm châu Âu trước đó gián tiếp xác nhận, chẳng hạn như Ibn Battuta và Marco Polo. Theo Ibn Battuta, người đã đến Trung Quốc vào năm 1347 thì:
...Chúng tôi dừng lại trên cảng Calicut, trong khi ấy đã có 13 con thuyền của người Trung Quốc đang bốc dỡ hàng. Trên biển Trung Hoa việc đi lại chỉ có thể có được nhờ các con thuyền Trung Hoa, vì thế chúng tôi sẽ miêu tả các sắp xếp của chúng. Các tàu thuyền Trung Quốc có ba loại: loại thuyền lớn được gọi là thuyền mành, loại trung bình gọi là thuyền buồm và loại nhỏ là kakam. Loại lớn có thể có từ 3 đến 12 buồm, được làm từ các thanh tre gắn kết lại như cái mành. Chúng không bao giờ bị hạ xuống, nhưng xoay theo hướng gió; khi bỏ neo thì chúng được thả để tự do xoay theo gió.
Một thuyền có thể chở tới cả ngàn người, sáu trăm người trong số đó là các thủy thủ và bốn trăm người được trang bị vũ khí, bao gồm các cung thủ, những người mang mộc và nỏ để bắn các loại tên có lửa. Ba thuyền nhỏ hơn,..., đi kèm theo thuyền lớn. Các thuyền này được đóng ở Tuyền Châu và Quảng Châu. Thuyền có 4 khoang và chứa các phòng, cabin và phòng lớn cho các thương nhân; trong cabin có các phòng và buồng vệ sinh, và nó có thể đóng lại khi có người sử dụng... (Ibn Battuta).
Liên quan với lịch sử Trung Quốc đế quốc cận đại
Một niềm tin phổ biến cho rằng sau các chuyến đi của Trịnh Hòa thì Trung Quốc lại xa rời biển cả và đi vào thời kỳ trì trệ về công nghệ. Mặc dù các nhà lịch sử như John Fairbank và Joseph Needham đã phổ biến quan điểm này trong thập niên 1950, nhưng phần lớn các nhà sử học hiện đại của Trung Quốc đều đặt câu hỏi về tính chính xác của nó. Họ cho rằng thương mại đường biển của Người Trung Quốc đã không bị dừng lại sau thời Trịnh Hòa, và các con thuyền Trung Quốc vẫn tiếp tục ngự trị trong thương mại vùng Đông Nam Á cho đến tận thế kỷ 19 và các hoạt động ngoại thương tích cực của Trung Quốc với Ấn Độ và Đông Phi vẫn tiếp tục một thời gian dài sau thời Trịnh Hòa. Các chuyến đi của các thuyền buồm lớn của Trung Quốc như Kì Anh tới Hoa Kỳ và Anh trong khoảng thời gian từ 1846 đến 1848 đã chứng tỏ sức mạnh của tàu thuyền Trung Quốc cho đến tận thế kỷ 19.
Mặc dù nhà Minh đã cấm vận chuyển bằng tàu thuyền trên đại dương trong vài chục năm bằng chỉ dụ Hải cấm, nhưng cuối cùng họ cũng đã bãi bỏ lệnh cấm này. Quan điểm khác viện dẫn thực tế là bằng lệnh cấm tàu thuyền này thì nhà Minh (và sau này là nhà Thanh) đã làm gia tăng số lượng người buôn lậu trên chợ đen. Điều này làm giảm nguồn thu thuế của chính quyền và làm gia tăng nạn hải tặc. Sự thiếu vắng của hải quân trên biển đã làm cho Trung Hoa dễ bị tổn thương bởi nạn hải tặc uy khấu (wakou) đã hoành hành vùng bờ biển Trung Quốc trong thế kỷ 16.
Có một điều chắc chắn. Đó là các sự hỗ trợ của chính quyền cho hoạt động hàng hải đã suy giảm nghiêm trọng sau các chuyến đi của Trịnh Hòa. Từ đầu thế kỷ 15 Trung Quốc đã phải chịu áp lực ngày càng tăng từ các bộ lạc Mông Cổ mới trỗi dậy ở phía bắc. Năm 1421 vua Minh Thành Tổ đã dời đô từ Nam Kinh về Bắc Kinh như là một sự thừa nhận sự hiện hữu của mối đe dọa này cũng như là để gần với khu vực quyền lực của dòng họ. Từ kinh đô mới ông có thể kiểm soát tốt hơn các cố gắng nhằm bảo vệ biên cương phía bắc. Với phí tổn đáng kể, Trung Quốc hàng năm tiến hành các cuộc viễn chinh nhằm làm suy yếu người Mông Cổ. Các phí tổn cho các chiến dịch trên bộ này đã cạnh tranh trực tiếp với ngân sách cần thiết dành cho các chuyến thám hiểm hàng hải.
Năm 1449 kỵ binh Mông Cổ đã phục kích cuộc hành quân do đích thân hoàng đế Minh Anh Tông chỉ huy chưa đầy một ngày sau khi đội quân này rời khỏi cổng kinh thành. Trong trận chiến pháo đài Thổ Mộc, người Mông Cổ đã đánh bại quân đội nhà Minh và bắt sống hoàng đế Trung Hoa. Trận chiến này có hai ảnh hưởng nổi bật. Thứ nhất, nó minh chứng một cách rõ ràng mối đe dọa của các bộ lạc miền bắc. Thứ hai, người Mông Cổ đã gây ra khủng hoảng chính trị tại Trung Quốc khi họ trả tự do cho Anh Tông sau khi người em cùng cha khác mẹ là Chu Kì Ngọc tự xưng làm vua với niên hiệu Cảnh Thái. Sự ổn định về chính trị chỉ trở lại vào năm 1457 khi Anh Tông trở lại ngai vàng. Sau khi ông trở lại nắm quyền thì Trung Quốc đã từ bỏ chiến lược thám hiểm các vùng đất mới hàng năm và thay vào đó là bắt tay vào việc củng cố và mở rộng Vạn Lý Trường Thành vô cùng tốn kém. Trong hoàn cảnh đó, ngân khố dành cho các chuyến thám hiểm hàng hải đơn giản không tồn tại nữa.
Một cách cơ bản hơn, không giống như các chuyến thám hiểm sau này của các quốc gia châu Âu, các tàu thuyền chở của cải của người Trung Quốc dường như bị hao hụt dần đến cạn kiệt sau các chuyến đi dài, do các chuyến đi này thiếu động cơ kinh tế. Chúng chủ yếu để làm tăng uy thế của hoàng đế và các chi phí cho chuyến đi cũng như tặng phẩm cho các vị vua chúa và sứ giả nước ngoài còn lớn hơn cả các món lợi thu được từ các cống phẩm. Vì thế khi tài chính của nhà nước chịu áp lực (giống như các quốc gia thời Trung cổ đã làm), thì ngân sách dành cho các chuyến thám hiểm hàng hải không được cấp nữa. Trái lại, vào thế kỷ 16, phần lớn các chuyến thám hiểm của người châu Âu có lãi từ các hoạt động thương mại cũng như từ việc chiếm đoạt các nguồn tài nguyên/đất của thổ dân để có thể tự trang trải, cho phép họ có thể tiếp tục thám hiểm mà không phải sử dụng đến ngân khố quốc gia.
Khía cạnh văn hóa
Một giả thuyết gây mâu thuẫn gần đây (giả thuyết 1421) được Gavin Menzies đưa ra trong cuốn sách của ông đã giả thiết rằng Trịnh Hòa đã đi vòng quanh thế giới và phát hiện ra châu Mỹ trong thế kỷ 15 trước cả Ferdinand Magellan và Christopher Columbus.
Những thương nhân trong đoàn thám hiểm Thanh Hà (青河) được nói bóng gió trong truyện khoa học viễn tưởng A Fire Upon the Deep của Vernor Vinge (và sau đó được tưởng tượng rõ nét hơn trong A Deepness in the Sky) phản ánh tên của Trịnh Hòa. Các chuyến đi của Trịnh Hòa và sự từ bỏ thám hiểm hàng hải sau đó của các hoàng đế Trung Hoa đã trở thành biểu tượng trong cộng đồng ủng hộ chương trình thăm dò vũ trụ về các thành công và sự hủy bỏ của chương trình Apollo.
Hình tượng của Trịnh Hòa cũng được miêu tả trong cuốn sách của Kim Stanley Robinson The Years of Rice and Salt.
Một số nhà sử học cũng như trong bài viết gần đây của National Geographic về Trịnh Hòa, cho rằng thuyền trưởng Sindbad (từ tiếng Ả Rập السندباد-As-Sindibad) và tập hợp các câu chuyện về thám hiểm hàng hải đã tạo ra Bảy chuyến đi của thuyền trưởng Sindbad, được tìm thấy trong Nghìn lẻ một đêm chịu ảnh hưởng sâu nặng của các câu chuyện được tích lũy trong nhiều người đi biển đã từng theo, buôn bán và làm việc trong các tàu thuyền hỗ trợ khác nhau cho hạm đội của nhà Minh. Niềm tin này được hỗ trợ một phần bằng sự tương tự trong tên của Sindbad và các diễn giải khác nhau của tên gọi của Trịnh Hòa trong tiếng Ả Rập và tiếng Trung (phồn thể: 鄭和; giản thể: 郑和; Hán ngữ bính âm: Zhèng Hé; Wade-Giles: Cheng Ho; tên khai sinh: Mã Tam Bảo (馬三寶 /马三宝; pinyin: Mǎ Sānbǎo tên Ả Rập: Hajji Mahmud Shams) cùng với sự tương tự trong số lần (7) và các khu vực giống nhau trong các chuyến đi của Sindbad và Trịnh Hòa.
Tháng 1 năm 2006, BBC News và The Economist cả hai cùng có bài viết mới liên quan đến triển lãm bản đồ hàng hải Trung Quốc, được cho là có từ năm 1763, trong đó có thông tin là nó được sao chép từ một bản đồ khác vẽ năm 1418. Bản đồ có các miêu tả chi tiết về cả các thổ dân châu Mỹ và Australia. Theo chủ sở hữu của bản đồ, ông Lưu Cương-một luật sư Trung Quốc và là một nhà sưu tập đồ cổ, ông đã mua bản đồ này với giá 500 USD từ một người ở Thượng Hải năm 2001.
Sau khi Lưu Cương đọc cuốn sách 1421:The Year China discovered the World (1421: Năm Trung Quốc phát hiện ra Thế giới) của Gavin Menzies, ông nhận ra tầm quan trọng của bản đồ này. Tấm bản đồ này hiện đang được kiểm tra để xác định tuổi của mực và giấy dùng để vẽ nó, với kết quả sẽ có trong tháng 2 năm 2006. Nếu như bản đồ được xác nhận là vẽ vào năm 1763, thì câu hỏi còn lại là nó có phải bản sao chính xác của tấm bản đồ sớm hơn vào năm 1418 hay không, hay chỉ đơn giản là sự sao chép cùng thời của các bản đồ của người châu Âu.
Một số học giả về lịch sử Trung Quốc đặt câu hỏi về tính xác thực của tấm bản đồ này. Một số đề cập tới việc sử dụng kiểu ánh xạ tương tự như kiểu Mercator, chính xác là liên quan tới kinh độ và định hướng theo hướng Bắc. Không có đặc trưng nào trong số này đã được sử dụng trong các tấm bản đồ tốt nhất được vẽ ra ở châu Á hay châu Âu trong thời kỳ này (ví dụ, xem Cương lý đồ (năm 1410) và Fra Mauro (1459)). Người ta cũng đề cập tới sự miêu tả sai đảo California, một lỗi phổ biến thường bị lặp lại trong các bản đồ của người châu Âu từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18.
Geoff Wade ở Viện nghiên cứu châu Á của trường Đại học Quốc gia Singapore đã tranh cãi kịch liệt về tính xác thực của tấm bản đồ này và cho rằng nó hoặc là đồ giả mạo ở thế kỷ 18 hoặc thế kỷ 21. Ông cũng chỉ ra một số điểm sai lầm xuất hiện trên bản đồ và các chú giải của nó. Ví dụ, trong đoạn văn bản bên cạnh Đông Âu được dịch ra như sau "Người ở đây phần lớn tin Chúa Trời và tôn giáo của họ được gọi là 'Jing'", Wade lưu ý rằng từ Trung Quốc để chỉ Chúa Trời của người Thiên chúa giáo là "Thượng đế", việc sử dụng từ Jing là do các nhà truyền giáo phương Tây đặt ra vào khoảng thế kỷ 16.
Trịnh Hòa trong văn hóa hiện đại
Trịnh Hòa xuất hiện trong loạt phim truyền hình "郑和下西洋" (dịch: "Trịnh Hòa hạ tây dương") do CCTV vào tháng 4 năm 2009, La Gia Lương trong vai Trịnh Hòa và Đường Quốc Cường trong vai Minh Thành Tổ.
Năm 2011, trong bộ phim "Hồng Vũ tam thập nhị" do TVB sản xuất, nhân vật Trịnh Hòa thời trẻ xuất hiện với tên gọi Mã Tam Bảo do Trần Kiện Phong thủ vai bên cạnh Minh Thành Tổ do Mã Đức Chung đóng.
Ngày Hàng hải
Tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, 11 tháng 7 là ngày Hàng hải Trung Quốc (中国航海日) để tưởng nhớ chuyến hành trình đầu tiên của Trịnh Hòa.
Thư viện ảnh
Xem thêm
Hạm đội nhà Minh
Trương Khiên
Ban Siêu
Pháp Hiển
Đường Huyền Trang
Chu Mãn
Ghi chú
Chú thích
Đọc thêm
Louise Levathes, When China Ruled the Seas: The Treasure Fleet of the Dragon Throne, 1405-1433, Oxford University Press, 1997, sách bìa mềm, ISBN 0-19-511207-5
Gavin Menzies, 1421: The Year the Chinese Discovered the World, Morrow/Avon, 2003, bìa cứng, 576 trang, ISBN 0-06-053763-9. (Các học giả coi cuốn sách này thiếu các nền tảng thực tế về việc người Trung Quốc phát hiện ra châu Mỹ; Bài điểm báo 1421 của biên tập viên khoa học của New York Times)
Trung Quốc có nhà hàng hải cổ đại để nói với bạn
Deng, Gang (2005). Chinese Maritime Activities and Socioeconomic Development, c. 2100 BC - 1900 AD. Greenwood Press. ISBN 0-313-29212-4.
Dreyer, Edward L. (2007). Zheng He: China and the Oceans in the Early Ming, 1405–1433 (Library of World Biography Series). Longman. ISBN 0-321-08443-8.
Levathes, Louise (1996). When China Ruled the Seas: The Treasure Fleet of the Dragon Throne, 1405–1433. Oxford University Press, trade paperback. ISBN 0-19-511207-5.
Mills, J. V. G. (1970). Ying-yai Sheng-lan, The Overall Survey of the Ocean's Shores (1433), translated from the Chinese text edited by Feng Ch'eng Chun with introduction, notes and appendices by J. V. G. Mills. White Lotus Press. Reprinted 1970, 1997. ISBN 974-8496-78-3.
Ming-Yang, Dr Su. 2004 Seven Epic Voyages of Zheng He in Ming China (1405–1433)
Viviano, Frank (2005). "China's Great Armada." National Geographic, 208(1):28–53, July.
Shipping News: Zheng He's Sexcentenary - China Heritage Newsletter, June 2005, ISSN 1833-8461. Published by the China Heritage Project of The Australian National University.
Fairbank, John King and Merle Goldman (1992). China: A New History; Second Enlarged Edition (2006). Cambridge: MA; London: The Belknap Press of Harvard University Press. ISBN 0-674-01828-1
Levathes (1994). When China Ruled the Seas. New York: Simon & Schuster. ISBN 0-671-70158-4.
Needham, Joseph (1986). Science and Civilization in China: Volume 4, Physics and Physical Technology, Part 2, Mechanical Engineering. Taipei: Caves Books Ltd.
Needham, Joseph (1986). Science and Civilization in China: Volume 4, Physics and Physical Technology, Part 3, Civil Engineering and Nautics. Taipei: Caves Books Ltd.
Sastri, Nilakanta, K.A. The CōĻas, University of Madras, Madras, 1935 (Reprinted 1984).
Shen, Fuwei (1996). Cultural flow between China and the outside world. Beijing: Foreign Languages Press. ISBN 7-119-00431-X.
Sivin, Nathan (1995). Science in Ancient China: Researches and Reflections. Brookfield, Vermont: VARIORUM, Ashgate Publishing.
Sun, Guangqi (1989). History of Navigation in Ancient China. Beijing: Ocean Press. ISBN 7-5027-0532-5.
Wang, Zhongshu. (1982). Han Civilization. Translated by K.C. Chang and Collaborators. New Haven and London: Yale University Press. ISBN 0-300-02723-0.
Liên kết ngoài
Economist: Có lẽ Trung Quốc đánh bại Columbus (12/1/2006)
BBC Bản đồ mới của Trung Quốc cho rằng họ tìm ra châu Mỹ (13/1/2006)
Phản bác bài của Economist của Geoff Wade, Viện nghiên cứu châu Á, Đại học quốc gia Singapore
Trao đổi giữa Liu Gang và Geoff Wade
Laputan Logic: Tấm bản đồ Vinland của Trung Quốc Tấm bản đồ của Liu Gang, Bản đồ học Trung Quốc và chuyện tưởng tượng về đảo California.
National Geographic-Bài viết về "hạm đội lớn của Trung Quốc" (7/2005)
TIME- Bài viết về Trịnh Hòa (8/2001)
Nhà hàng hải Trung Quốc vĩ đại Trịnh Hòa (tóm tắt tiểu sử với bản đồ và hình ảnh)
Nhà thám hiểm Trung Quốc-người 'đánh bại Columbus trong tìm kiếm châu Mỹ'
Website chính thức của Gavin Menzies với nghiên cứu của ông về Trịnh Hòa
Bản đồ của Google về các chuyến đi của Trịnh Hòa
Singapore Tourism Board - Triển lãm "1421: The Year China Discovered The World"
1421
Anh hùng của biển cả trong Der Spiegel, của Andreas Lorenz, 29 tháng 8 năm 2005
Triển lãm ảo của elibraryhub.com về Trịnh Hòa
Nhà thám hiểm Trung Quốc
Nhà thám hiểm châu Á
Tín hữu Hồi giáo Trung Quốc
Thám hiểm tiền Columbus
Thủy sư Trung Quốc
Nhà địa lý
Người nhà Minh
Người Vân Nam
Hoạn quan Trung Quốc
Mất năm 1433
Người Hồi
Họ Mã
|
26572
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/2006
|
2006
|
Nó được chỉ định là:
Năm Sa mạc và Sa mạc hóa quốc tế
Năm Rembrandt, kỷ niệm sinh nhật thứ 400 của họa sĩ Hà Lan Rembrandt Harmenszoon van Rijn
Năm Mozart, kỷ niệm sinh nhật thứ 250 của nhà soạn nhạc Áo Wolfgang Amadeus Mozart
Năm Tesla, kỷ niệm sinh nhật thứ 150 của nhà kỹ thuật điện Nikola Tesla
Năm Asperger quốc tế, kỷ niệm sinh nhật thứ 100 của bác sĩ Hans Asperger, người nhận ra Chứng Asperger
Năm đi Du học (do nghị quyết của Thượng Nghị viện Hoa Kỳ)
Năm Bảo Bình, người chở nước trong chiêm tinh phương Tây
Sự kiện
Tháng 1
20 tháng 1: Tổ chức Cúp bóng đá châu Phi 2006 tại Ai Cập.
Tháng 2
Ủy ban Hành động Hồi giáo (MAC) được thành lập.
Tháng 3
10 tháng 3: Tổ chức giải vô địch điền kinh trong nhà thế giới 2006 tại Moskva (Nga).
Tháng 4
Ngày 2 tháng 4, 2006: Tổng thống Georgia Eduard Shevardnadze từ chức sau cuộc biểu tình và bạo động ở thủ đô Tbilisi.
Ngày 6 tháng 4, 2006: Cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ 2006 diễn ra tại Los Angeles, Hoa Kỳ, và cuộc thi này đã đánh dấu chiến thắng của Zuleyka Rivera từ Puerto Rico.
Ngày 14 tháng 4, 2006: Trạm không gian quốc tế ISS (International Space Station) được gắn kết với tàu thám hiểm Discovery, đánh dấu sự kết nối giữa Mỹ và Nga trong vấn đề không gian.
Ngày 26 tháng 4, 2006: Tại Làng Thế vận hội Mùa hè 2006 tại Torino, Ý, lễ bế mạc diễn ra.
Ngày 27 tháng 4, 2006: Ngày này, tòa án Liên bang Mỹ tại San Francisco quyết định rằng cấm hôn nhân đồng giới ở California vi phạm Hiến pháp Hoa Kỳ.
Ngày 28 tháng 4,2006: Google dịch được ra mắt bởi chủ sở hữu Google
Tháng 5
2 tháng 5: Tổ chức Giải vô địch bóng đá trong nhà Đông Nam Á 2006 tại Băng Cốc (Thái Lan).
Tháng 6
9 tháng 6: Tổ chức Cúp bóng đá Thế giới năm 2006 tại Đức
26 tháng 6: Nguyễn Phú Trọng được bầu làm Chủ tịch Quốc hội Việt Nam
Tháng 7
11 tháng 7: Microsoft chính thức ngừng hỗ trợ mọi kĩ thuật cho các hệ điều hành Windows 98, Windows ME.
Tháng 8
Tháng 9
1 tháng 9: Roblox được ra mắt trong cộng đồng
Tháng 10
Tháng 11
4 tháng 11: Tổ chức Giải vô địch bi-a 9 bi thế giới 2006 tại Manila (Philippines).
18 tháng 11 đến 20 tháng 11: Hội nghị lãnh đạo kinh tế APEC diễn ra tại Hà Nội.
Tháng 12
1 tháng 12: ASIAD 2006 được tổ chức tại Doha (Qatar).
10 tháng 12: Tổ chức Giải vô địch bóng đá thế giới các câu lạc bộ 2006 tại Nhật Bản.
30 tháng 12: Tổng thống Iraq Saddam Hussein bị treo cổ tại Baghdad.
Sinh
Tháng 1
Tháng 2
Tháng 3
10 tháng 3: Hồ Thanh Ân, vận động viên Taekwondo người Việt Nam
10 tháng 3: Robert Biden II, cháu trai của Tổng thống Mỹ Joe Biden
20 tháng 3: Barron Trump, con trai của cựu Tổng thống Mỹ Donald Trump
Tháng 4
27 tháng 4: Ruby Bảo An (Nguyễn Ngọc Bảo An), nữ ca sĩ người Việt Nam
Tháng 5
15 tháng 5: Haerin, ca sĩ, thành viên nhóm nhạc NewJeans
Tháng 6
3 tháng 6: Leonore Marie Irene Enrica, Nữ bá tước xứ Oranje-Nassau
18 tháng 6: Nữ bá tước Zaria của Orange - Nassau
25 tháng 6: Mckenna Grace, nữ diễn viên nhí người Mỹ
30 tháng 6: Trịnh Nhật Minh, ca sĩ người Việt Nam, quán quân Giọng hát Việt nhí 2016
Tháng 7
Tháng 8
Tháng 9
6 tháng 9: Hoàng tử Hisahito, đứng thứ 3 trong danh sách kế vị ngai vàng Nhật Bản
Tháng 10
Tháng 11
16 tháng 11: Trần Danh Quang Huy, youtuber, vũ công người Việt Nam
Tháng 12
Mất
Tháng 1
1 tháng 1 – Harry Magdoff, nhà kinh tế học Mỹ (sinh 1913)
4 tháng 1 – Irving Layton, thi sĩ Canada, tác giả (sinh 1912)
4 tháng 1 – Jacques Charby, diễn viên Pháp (sinh 1920)
5 tháng 1 – Lord Merlyn Rees, chính trị gia Anh (sinh 1920)
7 tháng 1 – Gabor Zavadszky, cầu thủ bóng đá Hungary (sinh 1974)
7 tháng 1 – Urano Teixeira da Matta Bacellar, tướng Brasil (sinh 1948)
8 tháng 1 – Tony Banks, chính trị gia Anh (sinh 1943)
8 tháng 1 – Manfred Bofinger, nghệ sĩ tạo hình Đức, họa sĩ biếm họa (sinh 1941)
8 tháng 1 – Elson Becerra, cầu thủ bóng đá (sinh 1978)
9 tháng 1 – Andy Caldecott, người đua mô tô Úc (sinh 1964)
9 tháng 1 – Mimmo Rotella, nghệ nhân Ý (sinh 1918)
11 tháng 1 – Eric Namesnik, vận động viên bơi lội Mỹ (sinh 1970)
12 tháng 1 – Brendan Cauldwell, diễn viên Ireland (sinh 1922)
12 tháng 1 – Günther Landgraf, nhà vật lý học Đức (sinh 1928)
12 tháng 1 – Udo Thomer, diễn viên Đức (sinh 1945)
12 tháng 1 – Meinrad Schütter, nhà soạn nhạc Thụy Sĩ (sinh 1910)
14 tháng 1 – Shelley Winters, nữ diễn viên Mỹ, Giải Oscar (sinh 1920)
14 tháng 1 – Jacques Faizant, họa sĩ biếm họa Pháp (sinh 1918)
14 tháng 1 – Henri Colpi, đạo diễn Thụy Sĩ (sinh 1921)
14 tháng 1 – Rolf von der Laage, nhà báo Đức (sinh 1932)
18 tháng 1 – Jan Twardowski, nhà thơ trữ tình Ba Lan (sinh 1915)
19 tháng 1 – Franz Seitz, đạo diễn phim Đức, nhà sản xuất, tác giả kịch bản (sinh 1921)
19 tháng 1 – Wilson Pickett, ca sĩ nhạc soul Mỹ (sinh 1941)
20 tháng 1 – Pio Taofinu'u, Hồng y Giáo chủ (sinh 1923)
20 tháng 1 – Anthony Franciosa, diễn viên Mỹ (sinh 1928)
21 tháng 1 – Ibrahim Rugova, tổng thống của Kosovo (sinh 1944)
21 tháng 1 – Karlheinz Liefers, đạo diễn phim Đức (sinh 1941)
22 tháng 1 – Gerhard Funke, triết gia Đức (sinh 1914)
22 tháng 1 – Thomas Christian David, nhà soạn nhạc Áo (sinh 1925)
23 tháng 1 – Josef-Severin Ahlmann, nhà phát minh Đức, doanh nhân (sinh 1924)
24 tháng 1 – Chris Penn, diễn viên Mỹ (sinh 1965)
24 tháng 1 – Nicholas Shackleton, nhà khoa học Anh (sinh 1937)
27 tháng 1 – Johannes Rau, chính trị gia Đức, tổng thống Cộng hòa Liên bang Đức 1999–2004 (sinh 1931)
29 tháng 1 – Nam June Paik, nghệ nhân Hàn Quốc (sinh 1932)
30 tháng 1 – Wendy Wasserstein, nữ soạn kịch Mỹ (sinh 1950)
30 tháng 1 – Feng Xiliang, nhà báo Trung Hoa (sinh 1920)
30 tháng 1 – Otto Lang, nhà sản xuất phim Mỹ (sinh 1908)
31 tháng 1 – Moira Shearer, nữ diễn viên Anh, nữ nghệ sĩ múa (sinh 1926)
Tháng 2
1 tháng 2 – Jean-Philippe Maitre, chính trị gia Thụy Sĩ (sinh 1949)
1 tháng 2 – Otto Wiesner, nhà văn Đức (sinh 1910)
3 tháng 2 – Romano Mussolini, nhạc sĩ jazz Ý, họa sĩ (sinh 1927)
3 tháng 2 – Tilo Medek, nhà soạn nhạc Đức (sinh 1940)
3 tháng 2 – Reinhart Koselleck, nhà sử học Đức (sinh 1923)
3 tháng 2 – Al Lewis, diễn viên Mỹ (sinh 1910)
4 tháng 2 – Marquard Bohm, diễn viên Đức (sinh 1941)
4 tháng 2 – Betty Friedan, nhà văn nữ Mỹ (sinh 1921)
4 tháng 2 – Ulrich Klöti, nhà chính trị học Thụy Sĩ (sinh 1943)
4 tháng 2 – Hellmut Kalbitzer, chính trị gia Đức (sinh 1913)
6 tháng 2 – Karin Struck, nhà văn nữ Đức (sinh 1947)
8 tháng 2 – Akira Ifukube, nhạc sĩ Nhật Bản (sinh 1914)
8 tháng 2 – Larry Black, vận động viên điền kinh Mỹ (sinh 1951)
9 tháng 2 – Freddie Laker, doanh nhân Anh (sinh 1922)
9 tháng 2 – Ron Greenwood, huấn luyện viên bóng đá Anh (sinh 1921)
9 tháng 2 – Ibolya Csák, nữ vận động viên điền kinh Hungary (sinh 1915)
10 tháng 2 – Phil Brown, diễn viên Mỹ (sinh 1916)
10 tháng 2 – Dionis Bubani, nhà văn Albania (sinh 1926)
11 tháng 2 – Ken Fletcher, vận động viên quần vợt Úc (sinh 1940)
11 tháng 2 – Peter Benchley, tác giả Mỹ (sinh 1940)
12 tháng 2 – Otto Paetz, họa sĩ Đức, nghệ sĩ tạo hình (sinh 1914)
12 tháng 2 – Rudi Geil, chính trị gia Đức (sinh 1937)
12 tháng 2 – Wolfgang Mittmann, tác giả Đức (sinh 1939)
13 tháng 2 – Charles Ortega, họa sĩ Pháp (sinh 1925)
13 tháng 2 – Andreas Katsulas, diễn viên Mỹ (sinh 1946)
15 tháng 2 – Andrei Petrow, nhà soạn nhạc Nga (sinh 1930)
17 tháng 2 – Jorge Pinto Mendonça, cầu thủ bóng đá Brasil (sinh 1954)
17 tháng 2 – William Cowsill, nam ca sĩ Mỹ (sinh 1948)
18 tháng 2 – Richard Bright, diễn viên Mỹ (sinh 1937)
18 tháng 2 – Hans Heinz Hahnl, nhà văn Áo (sinh 1923)
19 tháng 2 – Otto Kery, đạo diễn phim Áo, diễn viên (sinh 1923)
20 tháng 2 – Luca Coscioni, chính trị gia Ý (sinh 1967)
21 tháng 2 – Paul Casimir Marcinkus, tổng giám mục Mỹ (sinh 1922)
21 tháng 2 – Gennadi Ajgi, nhà văn Nga (sinh 1934)
22 tháng 2 – Angelica Adelstein-Rozeanu, nữ vận động viên thể thao Romania (sinh 1921)
22 tháng 2 – Hilde Domin, nhà văn nữ Đức (sinh 1909)
23 tháng 2 – Telmo Zarraonandia, (Zarra), cầu thủ bóng đá Tây Ban Nha (sinh 1921)
23 tháng 2 – Frederick Busch, nhà văn Mỹ (sinh 1941)
23 tháng 2 – Benno Besson, diễn viên Thụy Sĩ, đạo diễn phim (sinh 1922)
24 tháng 2 – Don Knotts, diễn viên Mỹ (sinh 1924)
25 tháng 2 – Darren McGavin, diễn viên Mỹ (sinh 1922)
25 tháng 2 – Robert Royston Amos Coombs, nhà nghiên cứu miễn dịch Anh (sinh 1921)
27 tháng 2 – Octavia E. Butler, nhà văn nữ Mỹ (sinh 1947)
27 tháng 2 – Ferenc Bene, cầu thủ bóng đá Hungary (sinh 1944)
28 tháng 2 – Arno Wallaard, tay đua xe đạp Hà Lan (sinh 1979)
28 tháng 2 – Owen Chamberlain, nhà vật lý học Mỹ (sinh 1920)
Tháng 3
1 tháng 3 – Jack Wild, diễn viên Anh (sinh 1952)
1 tháng 3 – Peter Osgood, cầu thủ bóng đá Anh (sinh 1947)
2 tháng 3 – Leopold Gratz, chính trị gia Áo (sinh 1929)
6 tháng 3 – Dana Reeve, nữ diễn viên Mỹ (sinh 1961)
10 tháng 3 – Anna Moffo, nữ ca sĩ opera Mỹ (sinh 1932)
11 tháng 3 – Slobodan Milošević, chính trị gia (sinh 1941)
14 tháng 3 – Eugen Oker, nhà văn Đức (sinh 1919)
17 tháng 3 – Ray Meyer, huấn luyện viên bóng rổ Mỹ (sinh 1913)
18 tháng 3 - Dan Gibson, nhiếp ảnh gia, nhà điện ảnh và nhà ghi âm Canada (sinh 1922)
21 tháng 3 – Bernard Lacoste, nhà thiết kế y phục thời trang Pháp (sinh 1931)
25 tháng 3 – Tom Toelle, đạo diễn phim Đức (sinh 1931)
27 tháng 3 – Paul Dana, đua xe Mỹ (sinh 1975)
27 tháng 3 – Stanisław Lem, nhà văn khoa học giả tưởng Ba Lan (sinh 1921)
28 tháng 3 – Wilfried Baasner, diễn viên Đức (sinh 1940)
Tháng 4
12 tháng 4 – William Sloane Coffin, nhà thần học Mỹ (sinh 1924)
12 tháng 4 – Christiane Maybach, nữ diễn viên Đức (sinh 1932)
15 tháng 4 – Schnuckenack Reinhardt, nhà soạn nhạc (sinh 1921)
20 tháng 4 – Albert Scott Crossfield, phi công lái máy bay thử nghiệm Mỹ (sinh 1921)
20 tháng 4 – Maurice de Gandillac, triết gia Pháp (sinh 1906)
20 tháng 4 – Wolfgang Unzicker, người đánh cờ Đức (sinh 1925)
27 tháng 4 – Branko Sbutega, linh mục Công giáo (sinh 1952)
29 tháng 4 – John Kenneth Galbraith, nhà kinh tế học, tác giả, nhà ngoại giao (sinh 1908)
30 tháng 4 – Corinne Rey-Bellet, nữ vận động viên chạy ski Thụy Sĩ (sinh 1972)
25 tháng 4 – Ho Viet Trung, triết gia Viet Nam (sinh 1985)
Tháng 5
3 tháng 5 – Karel Appel, họa sĩ Hà Lan (sinh 1921)
3 tháng 5 – Wolfgang Schwenke, nhà động vật học Đức, nhà lâm học (sinh 1921)
5 tháng 5 – Franz-Josef Steffens, diễn viên Đức (sinh 1924)
14 tháng 5 – Stanley Kunitz, nhà thơ trữ tình Mỹ (sinh 1905)
14 tháng 5 – Günther Nenning, nhà báo Áo, tác giả (sinh 1921)
15 tháng 5 – Eberhard Esche, diễn viên Đức (sinh 1933)
15 tháng 5 – Klaus Dahlen, diễn viên Đức (sinh 1938)
17 tháng 5 – Eva-Maria Bauer, nữ diễn viên Đức (sinh 1923)
22 tháng 5 – Balduin Baas, diễn viên Đức (sinh 1922)
22 tháng 5 - Lee Jong-wook, người Hàn Quốc, Tổng giám đốc Tổ chức Y tế thế giới (sinh năm 1945)
23 tháng 5 – Kazimierz Górski, cầu thủ bóng đá Ba Lan, huấn luyện viên (sinh 1921)
25 tháng 5 – Otto Matthäus Zykan, nhà soạn nhạc Áo (sinh 1935)
Tháng 6
8 tháng 6 – Mykola Kolessa, nhà soạn nhạc, người điều khiển dàn nhạc (sinh 1903)
9 tháng 6 – Drafi Deutscher, nhà sản xuất, nhà soạn nhạc Đức (sinh 1946)
10 tháng 6 – Hubertus Czernin, nhà báo Áo, nhà xuất bản (sinh 1956)
12 tháng 6 – György Ligeti, nhà soạn nhạc (sinh 1923)
13 tháng 6 - Charles Haughey, Thủ tướng Ireland (sinh 1925)
14 tháng 6 – Jean Roba, họa sĩ vẽ tranh cho truyện comic Bỉ (sinh 1930)
18 tháng 6 – Markus Zimmer, nhạc sĩ Đức, nam ca sĩ (sinh 1964)
30 tháng 6 – Robert Gernhardt, họa sĩ Đức, nhà thơ trữ tình (sinh 1937)
Tháng 7
1 tháng 7 –
Chu Huy Mân, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam (sinh 1913)
Hashimoto Ryūtarō, Thủ tướng thứ 53 của Nhật Bản (sinh 1937)
7 tháng 7 – Syd Barrett, nhạc sĩ nhạc pop Anh (Pink Floyd)(sinh 1946)
8 tháng 7 – June Allyson, nữ diễn viên Mỹ (sinh 1917)
10 tháng 7 - Shamil Basayev, thủ lĩnh quân chống đối chính phủ Chechnya (sinh 1965)
10 tháng 7 – Fred Wander, nhà văn Áo (sinh 1917)
17 tháng 7 – Elfriede Kuzmany, nữ diễn viên Áo (sinh 1915)
20 tháng 7 – Charles Bettelheim, nhà kinh tế học Pháp (sinh 1913)
20 tháng 7 – Philipp von Bismarck, chính trị gia Đức
21 tháng 7 - Ta Mok, thủ lĩnh quân đội Khơme Đỏ (sinh năm 1926)
21 tháng 7 – Makoto Iwamatsu, diễn viên Nhật Bản (sinh 1933)
25 tháng 7 – Karin Hübner, nữ diễn viên Đức (sinh 1936)
26 tháng 7 – Vojtech Zamarovský, nhà sử học Slovakia, nhà văn, dịch giả (sinh 1919)
27 tháng 7 – Elisabeth Volkmann, nữ diễn viên Đức (sinh 1936)
28 tháng 7 – Rut Brandt, vợ thứ nhì của thủ tướng Đức Willy Brandt (sinh 1920)
Tháng 8
2 tháng 8 – Holger Börner, chính trị gia Đức, thủ tướng bang Hessen (sinh 1931)
3 tháng 8 – Arthur Lee, nam ca sĩ của ban nhạc rock Love (sinh 1945)
5 tháng 8 – Daniel Schmid, đạo diễn phim Thụy Sĩ (sinh 1941)
5 tháng 8 – Hugo Schiltz, chính trị gia Bỉ (sinh 1927)
9 tháng 8 – James van Allen, nhà vật lý học Mỹ (sinh 1914)
9 tháng 8 – Jenny Gröllmann, nữ diễn viên Đức (sinh 1947)
10 tháng 8 – Yasuo Takei, doanh nhân Nhật Bản (sinh 1930)
10 tháng 8 – Irving São Paulo, diễn viên Brasil (sinh 1964)
13 tháng 8 – Payao Poontarat, võ sĩ quyền Anh người Thái Lan (sinh 1957)
14 tháng 8 – Bruno Kirby, diễn viên Mỹ (sinh 1949)
14 tháng 8 – John Jahr junior, nhà xuất bản Đức (sinh 1933)
16 tháng 8 – Alfredo Stroessner, tổng thống của Paraguay (sinh 1912)
21 tháng 8 – Klaus Höhne, diễn viên Đức (sinh 1927)
24 tháng 8 – Herbert Hupka, nhà báo Đức, chính trị gia (sinh 1915)
24 tháng 8 – John Weinzweig, nhà soạn nhạc Canada (sinh 1913)
26 tháng 8 – Rainer Barzel, chính trị gia Đức (sinh 1924)
30 tháng 8 – Glenn Ford, diễn viên Mỹ (sinh 1916)
Tháng 9
2 tháng 9 – Bob Mathias, vận động viên điền kinh Mỹ, huy chương Thế Vận Hội (sinh 1930)
3 tháng 9 – Annemarie Wendl, nữ diễn viên Đức (sinh 1914)
4 tháng 9 – Giacinto Facchetti, cầu thủ bóng đá Ý (sinh 1942)
4 tháng 9 – Steve Irwin ("Kẻ săn cá sấu"), nhà nghiên cứu tự nhiên người Úc (sinh 1962)
9 tháng 9 - Matt Gadsby, cầu thủ bóng đá Anh (sinh 1979)
9 tháng 10 - Paul Hunter, vận động viên snooker người Anh (sinh năm 1978)
11 tháng 9 – Joachim C. Fest, nhà sử học Đức, nhà báo, tác giả (sinh 1926)
12 tháng 9 – Leo Navratil, bác sĩ tâm thần Áo (sinh 1921)
17 tháng 9 – Patricia Kennedy-Lawford, chị em của John F. Kennedy (sinh 1924)
20 tháng 9 – Don Walser, nhạc sĩ country Mỹ (sinh 1934)
27 tháng 9 – Bruni Löbel, nữ diễn viên Đức (sinh 1920)
Tháng 10
4 tháng 10 – Oskar Pastior, nhà văn (sinh 1927)
5 tháng 10 – Friedrich Karl Flick, tỉ phú Đức (sinh 1927)
7 tháng 10 – Anna Politkovskaya, nữ nhà báo Nga (sinh 1958)
9 tháng 10 – Klaus Renft, nhạc sĩ Đức (sinh 1942)
15 tháng 10 – Eddy Blay, võ sĩ quyền Anh (sinh 1942)
20 tháng 10 – Maxi Herber, nữ vận động viên trượt băng nghệ thuật Đức (sinh 1920)
26 tháng 10 – Pontus Hultén, sử gia về nghệ thuật Thụy Điển, triết gia, giáo sư đại học (sinh 1924)
27 tháng 10 – Ghulam Ishaq Khan, cựu tổng thống của Pakistan (sinh 1915)
28 tháng 10 – Arnold Jacob Auerbach, huấn luyện viên bóng rổ Mỹ (sinh 1917)
31 tháng 10 – Pieter Willem Botha, tổng thống của Cộng hòa Cộng hòa Nam Phi từ 1984 đến 1989 (sinh 1916)
Tháng 11
3 tháng 11 - Paul Mauriat, nhạc sĩ người Pháp (sinh năm 1925)
5 tháng 11 – Bülent Ecevit, chính trị gia Thổ Nhĩ Kỳ (sinh 1925)
6 tháng 11 – Francisco Fernández Ochoa, cựu vận động viên chạy ski Tây Ban Nha (sinh 1950)
7 tháng 11 – Jean-Jacques Servan-Schreiber, nhà báo Pháp, nhà văn tiểu luận, chính trị gia (sinh 1924)
8 tháng 11 – Annette Rogers, nữ vận động viên điền kinh Mỹ, người đoạt huy chương Thế Vận Hội (sinh 1913)
10 tháng 11 – Hans-Peter Minetti diễn viên Đức (sinh 1926)
10 tháng 11 – Willy Knupp, nhà báo về thể thao (sinh 1936)
17 tháng 11 - Ferenc Puskás, cầu thủ bóng đá người Hungary (sinh năm 1927)
19 tháng 11 – Francis Girod, nhà sản xuất Pháp, tác giả kịch bản, diễn viên (sinh 1944)
19 tháng 11 – Horst Michael Neutze, diễn viên Đức (sinh 1923)
20 tháng 11 – Robert Altman, đạo diễn phim Mỹ, nhà sản xuất phim (sinh 1925)
21 tháng 11 – Pierre Amine Gemayel, chính trị gia (sinh 1972)
23 tháng 11 – Philippe Noiret, diễn viên Pháp (sinh 1930)
28 tháng 11 – Max Merkel, cầu thủ bóng đá đội tuyển quốc gia Đức, huấn luyện viên bóng đá (sinh 1918)
29 tháng 11 – Allen Carr, nhà văn Anh (sinh 1934)
29 tháng 11 – Leon Niemczyk, diễn viên Ba Lan (sinh 1923)
30 tháng 11 – Shirley Walker, nhà soạn nhạc Mỹ, nghệ sĩ dương cầm, nhà sản xuất (sinh 1945)
Tháng 12
1 tháng 12 – Claude Jade, nữ diễn viên Pháp (sinh 1948)
2 tháng 12 – Mariska Veres, nữ ca sĩ Hà Lan (sinh 1947)
2 tháng 12 – Kurt Wasserfallen, chính trị gia Thụy Sĩ (sinh 1947)
4 tháng 12 – Wolfram Kistner, mục sư Nam Phi, nhà thần học (sinh 1923)
4 tháng 12 – Lenard "Len" Sutton, đua xe Mỹ (sinh 1925)
5 tháng 12 – Peter Blake, kiến trúc sư Mỹ, tác giả (sinh 1920)
6 tháng 12 – Gernot Jurtin, cầu thủ bóng đá Áo (sinh 1955)
7 tháng 12 – Jeane Kirkpatrick, nhà nữ chính trị học Mỹ (sinh 1926)
8 tháng 12 – Heinrich Riethmüller, nhạc sĩ Đức, nhà soạn nhạc (sinh 1921)
10 tháng 12 – Augusto Pinochet (sinh 1915)
10 tháng 12 – Wigand của Salmuth, doanh nhân Đức (sinh 1931)
11 tháng 12 – Nguyễn Văn Đạo, nhà cơ học hàng đầu Việt Nam (sinh 1937)
12 tháng 12 – Peter Boyle, diễn viên Mỹ (sinh 1935)
12 tháng 12 – Oscar Klein, nhạc sĩ nhạc jazz Áo (sinh 1930), khánh thành cầu Thị Nại ở Quy Nhơn
12 tháng 12 – Cor van của Hart, cầu thủ bóng đá Hà Lan, huấn luyện viên (sinh 1928)
13 tháng 12 – Peter Dienel, nhà thần học Đức (sinh 1923)
13 tháng 12 – Loyola de Palacio, nữ chính trị gia Tây Ban Nha (sinh 1950)
13 tháng 12 – Robert Long, nhà soạn nhạc Hà Lan (sinh 1943)
14 tháng 12 – Gerhard Heintze, nhà thần học Đức (sinh 1912)
14 tháng 12 – Sivuca, nhạc sĩ jazz Brasil (sinh 1930)
17 tháng 12 – Albert Hetterle, diễn viên Đức, đạo diễn phim (sinh 1918)
18 tháng 12 – Joseph Barbera, nhà làm phim hoạt hình người Mỹ (sinh năm 1911)
18 tháng 12 – Ruth Bernhard, nữ nhiếp ảnh gia (sinh 1905)
21 tháng 12 – Sydney Wooderson, vận động viên điền kinh Anh (sinh 1914)
25 tháng 12 – James Brown, nam ca sĩ Mỹ (sinh 1933)
26 tháng 12 – Gerald R Ford, tổng thống thứ 38 của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ (sinh 1913).
26 tháng 12 – Chris Brown, cầu thủ bóng chày Mỹ (sinh 1961)
26 tháng 12 – John Heath-Stubbs, thi sĩ Anh, dịch giả (sinh 1918)
30 tháng 12 – Saddam Hussein (sinh 1937)
31 tháng 12 – Liese Prokop, nữ vận động viên thể thao Áo, nữ bộ trưởng (sinh 1941)
Giải Nobel
Hóa học - Roger D. Kornberg
Hòa bình - Muhammad Yunus và Ngân hàng Grameen
Kinh tế - Edmund Phelps
Văn học - Orhan Pamuk
Vật lý - John C. Mather, George F. Smoot
Y học - Andrew Z. Fire, Craig C. Mello
Xem thêm
Tham khảo
2006
06
|
26586
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n%20Hi%E1%BA%BFn%20L%C3%AA
|
Nguyễn Hiến Lê
|
Nguyễn Hiến Lê (ngày 8 tháng 1 năm 1912 – ngày 22 tháng 12 năm 1984) là học giả, nhà văn, dịch giả, nhà ngôn ngữ học, nhà giáo dục và hoạt động văn hóa độc lập Việt Nam, có 120 tác phẩm sáng tác, biên soạn và dịch thuật thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như giáo dục, văn học, ngữ học, triết học, lịch sử, du ký, gương danh nhân, chính trị, kinh tế, v.v.
Cuộc đời
Nguyễn Hiến Lê sinh ngày 8 tháng 1 năm 1912, quê ở làng Phương Khê, phủ Quảng Oai, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc xã Phú Phương, huyện Ba Vì, Hà Nội). Thân phụ ông tên Nguyễn Văn Bí, hiệu Đặc Như, là con trai út của một nhà Nho. Thân mẫu ông tên Sâm, làng Hạ Đình (nay là phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân, Hà Nội). Xuất thân từ một gia đình nhà Nho, ông học tại Hà Nội, trước ở trường Yên Phụ, sau lên trường Bưởi.
Năm 1934, ông tốt nghiệp trường Cao đẳng Công chính Hà Nội rồi vào làm việc tại các tỉnh miền Tây Nam Bộ, bắt đầu quãng đời nửa thế kỷ gắn bó với Nam bộ, gắn bó với Hòn ngọc Viễn Đông. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, ông thôi làm ở sở, đi dạy học ở Long Xuyên. Năm 1952 chuyển lên Sài Gòn mở nhà xuất bản và biên dịch sách, sáng tác, viết báo.
Những năm trước 1975 và cả trong thời gian sau này, Nguyễn Hiến Lê luôn là một cây bút có tiếng, viết miệt mài và là một nhân cách lớn. Trong đời cầm bút của mình, đến trước khi mất, ông đã xuất bản được hơn một trăm bộ sách, về nhiều lĩnh vực: văn học, ngôn ngữ học, triết học, tiểu luận phê bình, giáo dục, chính trị, kinh tế, gương danh nhân, du ký, dịch tiểu thuyết, học làm người... Tính ra, số bộ sách của ông được xuất bản gần gấp 1,5 lần số tuổi của ông và tính từ năm ông bắt đầu có sách in (đầu thập niên 1950), trung bình mỗi năm ông hoàn thành ba bộ sách với 800 trang bản thảo có giá trị gửi tới người đọc.
Trong một số tác phẩm của mình, Nguyễn Hiến Lê đề bút danh Lộc Đình. Ông kể: "gần ngõ Phất Lộc có một cái đình không biết thờ vị thần nào mà kiến trúc rất đơn sơ. Hai cánh cửa gỗ luôn đóng kín, trên mái cổng tam quan có đắp một bầu rượu khá lớn nằm giữa hai con rồng uốn khúc châu đầu vào. Thuở bé, tôi được theo bà ngoại vào đình mấy lần, tôi thấy bên trong là một khoảng sân rộng vắng ngắt. Tuy vậy, mà quang cảnh lạnh lẽo trầm mặc thâm u của ngôi đình bỗng nhiên len sâu trong tâm tư tôi những khi ngồi học trong lớp, hoặc những khi tôi đến chơi nơi nào đông vui là tôi lại chạnh nghĩ đến ngôi đình, nhớ đến bà ngoại tôi. Nhất là sau ngày cha tôi và bà ngoại tôi vĩnh viễn ra đi trong cái ngõ hẹp tối tăm ấy..." và "Bút danh Lộc Đình tôi dùng ký dưới một bài văn ngắn từ hồi trẻ... Lộc là ngõ Phất Lộc, còn Đình là cái đình ấy."
Năm 1980 ông về lại Long Xuyên. Cùng năm ông bắt đầu viết Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, đến tháng 9 năm 1980 thì hoàn thành. Đồng thời ông tách những đoạn nói về văn nghiệp ra riêng, sửa chữa, bổ sung và biên tập lại thành cuốn sách Đời viết văn của tôi. Tác phẩm này được sửa chữa xong vào năm 1981, sau đó sửa chữa thêm và hoàn chỉnh vào năm 1983.
Ông qua đời lúc 8 giờ 50 phút ngày 22 tháng 12 năm 1984 khi đang điều trị tại Bệnh viện An Bình, Chợ Lớn, Thành phố Hồ Chí Minh, hưởng thọ 72 tuổi. Linh cữu của ông được hỏa thiêu vào ngày 24 tháng 12 năm 1984 tại đài thiêu Thủ Đức.
Việc hỏa táng và làm tang lễ, ma chay đơn giản là ý nguyện của Nguyễn Hiến Lê lúc sinh thời. Trong một bức thư gửi nhà thơ Bàng Bá Lân đề ngày 18 tháng 7 năm 1981 ông từng viết:
Sau khi hỏa thiêu, tro cốt của ông được an táng ngay trong khuôn viên nhà bà Nguyễn Thị Liệp (người vợ thứ hai của ông) ở thành phố Long Xuyên. Năm Kỷ Mão (1999), bà Liệp tạ thế và được an táng trong khuôn viên chùa Phước Ân ở Rạch Cai Bường (thuộc xã Vĩnh Thạnh, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp), thì ông vẫn được an táng ngay trên phần mộ của bà.
"Tự bạch"
Đời tôi có thể tóm tắt trong hai chữ HỌC và VIẾT. Hai việc đó liên quan mật thiết với nhau gần suốt đời, tôi VIẾT ĐỂ HỌC và HỌC ĐỂ VIẾT - "Lời mở đầu" của tác phẩm "Đời viết văn của tôi".
Trong hồi ký của mình Nguyễn Hiến Lê cũng đã viết lại nhân sinh quan như sau:
Đời sống tự nó vô ý nghĩa, trừ ý nghĩa truyền chủng, nhưng mình phải tạo cho nó một ý nghĩa. Từ hồi ăn lông ở lỗ đến nay, nhân loại đã tiến về nhiều phương diện. Chúng ta được hưởng công lao, di sản của biết bao thế hệ thì phải duy trì di sản đó và cải thiện nó tùy khả năng mỗi người.
Chúng ta làm điều phải vì tin nó là điều phải chứ không phải vì ý muốn của Thượng đế hay một vị thần linh nào, cũng không phải vì mong chết rồi được lên Niết bàn hay Thiên đàng.
Quan niệm thiện ác thay đổi tùy nơi, tùy thời. Cái gì ích lợi cho một xã hội vào một thời nào đó thì được xã hội đó cho là thiện, cũng cái đó qua thời khác không còn ích lợi nữa mà hóa ra có hại thì bị coi là ác. Ví dụ đạo tòng phu, tòng tử của phụ nữ có lợi cho gia đình, xã hội thời nông nghiệp; tới thời kỹ nghệ không còn lợi cho gia đình, xã hội nên mất giá trị. Khi sản xuất được ít, đức tiết kiệm được đề cao; ngày nay ở Âu Mỹ, sản xuất vật dụng thừa thãi quá, nên sự phung phí gần thành một bổn phận đối với xã hội. Tuy nhiên vẫn có một số giá trị vĩnh cửu, từ hồi loài người bắt đầu văn minh, dân tộc nào cũng trọng, như đức nhân, khoan hồng, công bằng, tự do, tự chủ,...
Đạo nào cũng phải hợp tình, hợp lý (bất viễn nhân) thì mới gọi là đạo được. Tôi không tin rằng hết thảy loài người chỉ thấy đời toàn là khổ thôi; cũng không tin rằng hết thảy loài người thích sống tập thể, không có của riêng.
Đạo Khổng thực tế nhất, hợp tình hợp lý nhất, đầy đủ nhất, xét cả về việc tu thân, trị gia, trị quốc. Vậy mà tới nay lý tưởng của ông, nhân loại vẫn chưa theo được. Về tu thân, ba đức nhân, trí, dũng, luyện được đủ tình cảm, trí tuệ và nghị lực của con người.
Nên trọng dư luận nhưng cũng không nên nhắm mắt theo dư luận. Biết đắc nhân tâm, nhưng cũng có lúc phải tỏ nỗi bất bình của mình mà không sợ thất nhân tâm.
Mỗi người đã phải đóng một vai trò trong xã hội thì tôi lựa vai trò thư sinh. Sống trong một gia đình êm ấm giữa sách và hoa, được lòng quý mến, tin cậy của một số bạn và độc giả, tôi cho là sướng hơn làm một chính khách mà được hàng vạn người hoan hô, mà còn có phần giúp ích cho xã hội được nhiều hơn bạn chính khách nữa. Nhưng làm nhà văn thì phải độc lập, không nhận một chức tước gì của chính quyền.
Ghi được một vẻ đẹp của thiên nhiên, của tâm hồn, tả được một nỗi khổ của con người khiến cho đời sau cảm động, bấy nhiêu cũng đủ mang danh nghệ sĩ rồi.
Văn thơ phải tự nhiên, cảm động, có tư tưởng thì mới hay. Ở Trung Hoa, thơ Lý Bạch, văn Tô Đông Pha hay nhất. Ở nước ta, thơ Nguyễn Du tự nhiên, bình dị mà bài nào cũng có giọng buồn man mác.
Tôi khuyên con cháu đừng làm chính trị, nhưng nếu làm thì luôn luôn phải đứng về phía nhân dân.
Một xã hội văn minh thì nhà cầm quyền không đàn áp đối lập, cùng lắm chỉ có thể ngăn cản họ để họ đừng gây rối thôi; tuyệt nhiên không được tra tấn họ. Phải tuyệt đối tôn trọng chính kiến của một người.
Một xã hội mà nghề cầm bút, nghề luật sư không phải là nghề tự do thì không gọi là xã hội tự do được.
Khi nghèo thì phải tận lực chiến đấu với cảnh nghèo vì phải đủ ăn mới giữ được sự độc lập và tư cách của mình. Nhưng khi đã đủ ăn rồi thì đừng nên làm giàu, phải để thì giờ làm những việc hữu ích mà không vì danh và lợi. Giá trị của ta ở chỗ làm được nhiều việc như vậy hay không.
Chỉ nên hưởng cái phần xứng đáng với tài đức của mình thôi. Nếu tài đức tầm thường mà được phú quý hoặc được nhiều người ngưỡng mộ thì sẽ mang họa vào thân.
Hôn nhân bao giờ cũng là một sự may rủi. Dù sáng suốt và chịu tốn công thì cũng không chắc gì kiếm được người hợp ý mình; phải chung sống năm ba năm mới rõ được tính tình của nhau. Từ xưa tới nay tôi thấy cuộc hôn nhân của ông bà Curie là đẹp nhất, thành công nhất cho cả cá nhân ông bà lẫn xã hội. Hiện nay ở Mỹ có phong trang kết hôn thử, tôi cho rằng chưa chắc đã có lợi cho cá nhân mà có thể gây nhiều xáo trộn cho xã hội.
Có những hoa hữu sắc vô hương mà ai cũng quý như hoa hải đường, hoa đào; nhưng đàn bà nếu chỉ có sắc đẹp thôi, mà không được một nét gì thì là hạng rất tầm thường. Chơi hoa tôi thích nhất loại cây cao; có bóng mát, dễ trồng và có hương quanh năm như ngọc lan, hoàng lan. Ở đâu tôi cũng trồng hai loại đó.
Rất ít khi con người rút được kinh nghiệm của người trước. Ai cũng phải tự rút kinh nghiệm của mình rồi mới khôn, vì vậy mà thường vấp té. Nhưng phải như vậy thì loài người mới tiến được.
Cơ hồ không thay đổi được bản tính con người: người nóng nảy thì tới già vẫn nóng nảy, người nhu nhược thì tới già vẫn nhu nhược. Nhưng giáo dục vẫn có ích. Không nên cho trẻ sung sướng quá. Phải tập cho chúng có quy củ, kỷ luật, biết tự chủ và hiểu rằng ở đời có những việc mình không thích làm nhưng vẫn phải làm; và làm thì phải làm ngay, làm đàng hoàng, làm cho xong.
Thay đổi bản tính con người như Mặc Tử, như Karl Marx muốn là chuyện không dễ một sớm một chiều. Thế giới còn những nước nhược tiểu nhiều tài nguyên thì còn bọn thực dân họ chỉ thay đổi chính sách thôi. Thực dân nào cũng vậy. Khi họ khai thác hết trên mặt đất, trong lòng đất thì họ sẽ khai thác biển, đáy biển, Họ còn sống lâu. Tuy nhiên cũng phải nhận rằng sự bóc lột trong một nước tân tiến thời nay đã giảm nhiều, thì sau này sự bóc lột các dân tộc nhược tiểu cũng sẽ giảm đi lần lần.
Xã hội bao giờ cũng có người tốt và kẻ xấu. Như Kinh Dịch nói, lúc thì âm (xấu) thắng, lúc thì dương (tốt) thắng; mà việc đời sau khi giải quyết xong việc này thì lại sinh ra việc khác liền; sau quẻ Ký tế (đã xong) tiếp ngay quẻ Vị tế (chưa xong). Mình cứ làm hết sức mình thôi, còn thì để lại cho các thế hệ sau.
Hồi trẻ, quan niệm của tôi về hạnh phúc là được tự do, độc lập, làm một công việc hữu ích mà mình thích, gia đình êm ấm, con cái học được, phong lưu một chút chứ đừng giàu quá. Nhưng hồi năm mươi tuổi tôi thấy bấy nhiêu chưa đủ, cần thêm điều kiện này nữa: sống trong một xã hội lành mạnh, ổn định và tương đối thịnh vượng.
Nhận xét
Người thầy Nguyễn Hiến Lê trước 1975, Nguyễn Hiến Lê không giấu diếm điều này, và chính phủ Việt Nam Cộng Hòa không bắt ông vì quan điểm chính trị của ông. Dù là người có quan điểm thiên cộng nhưng ông vẫn dám nói thật, viết thẳng theo tinh thần "phú quí bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất". Sau 30-04-1975, Nguyễn Hiến Lê viết:
{{cquote|Người ta nhận định sai về tình trạng miền Nam. Trước ngày 30-4-75, miền Nam rất chia rẽ: nhiều giáo phái, đảng phái nhưng tiến bộ hơn miền Bắc nhiều về mức sống, kĩ thuật, nghệ thuật, văn hoá; nhờ ngôn luận được tương đối tự do, nhờ được đọc sách báo ngoại quốc, biết tin tức thế giới, du lịch ngoại quốc, tiếp xúc với người ngoại quốc…; cả về đạo đức nữa: vì đủ ăn, người ta ít thèm khát mọi thứ, ít gian tham (tôi nói số đông), ít chịu làm cái việc bỉ ổi là tố cáo người hàng xóm [Một thím làm tổ phó lo về đời sống, được công an phường gọi đi học tập. Mới hết buổi đầu, thấy công an chỉ dạy cách dò xét, tố cáo đồng bào (ăn uống ra sao, chỉ trích chính phủ không, khách khứa là hạng người nào…), thím ta xin thôi liền, về nói với bạn: "Tôi không làm công việc thất đức đó được". Lớp học đó bỏ luôn] chứ đừng nói người thân, nói chung là không có hành động nhơ nhớp như nhiều cán bộ ở Bắc tôi đã kể ở trên. Tôi còn nhận thấy vì người Nam bị coi là nguỵ hết, nên càng đoàn kết với nhau, thương nhau: cùng là nguỵ với nhau mà !"|||Nguyễn Hiến Lê|}}
Tác phẩm
Bản quyền các tác phẩm của Nguyễn Hiến Lê đang được Công ty cổ phần Sách BIZBooks nắm giữ.
Văn học - Tiểu thuyếtHương sắc trong vườn văn (2 quyển) - 1962Đại cương văn học sử Trung Quốc (3 quyển) - 1955Cổ văn Trung Quốc - 1966Chiến Quốc sách (viết chung với Giản Chi) - 1968Sử Ký Tư Mã Thiên (viết chung với Giản Chi) - 1970Tô Đông Pha - 1970Nhân sinh quan và thơ văn Trung Hoa (dịch) - 1970Kiếp người (dịch Somerset Maugham) - 1962Mưa (tuyển dịch nhiều tác giả) - 1969Chiến tranh và hoà bình (dịch Lev Nikolayevich Tolstoy) - 1968Khóc lên đi ôi quê hương yêu dấu (dịch Alan Paton) 1969Quê hương tan rã (dịch C. Acheba) - 1970Cầu sông Drina (dịch I. Andritch) - 1972Bí mật dầu lửa (dịch Gaillard) - 1968Con đường thiên lý - (Xuất bản 1990)Mùa hè vắng bóng chim (dịch Hansuyn)Những quần đảo thần tiên (dịch Somerset Maugham) - (Xuất bản 2002)
Kinh DịchĐắc Nhân Tâm (dịch Dale Carnegie) - (Xuất bản 1951)
Triết họcNho giáo một triết lý chính trị - 1958Đại cương triết học Trung Quốc (viết chung với Giản Chi) - 1965Nhà giáo họ Khổng - 1972Liệt tử và Dương tử - 1972
Một lương tâm nổi loạn - 1970Thế giới ngày mai và tương lai nhân loại - 1971
Mạnh Tử - 1975
Trang Tử - (Xuất bản 1994)
Hàn Phi Tử - (Xuất bản 1994)
Tuân Tử - (Xuất bản 1994)Mặc học - (Xuất bản 1995)
Lão Tử - (Xuất bản 1994)
Luận ngữ - (Xuất bản 1995)
Khổng Tử - (Xuất bản 1992)
Kinh Dịch, đạo của người quân tử - (Xuất bản 1990)
Lịch sửLịch sử thế giới (viết với Thiên Giang) - 1955
Đông Kinh Nghĩa Thục - 1956Bài học Israel - 1968Bán đảo Ả Rập - 1969Lịch sử văn minh Ấn Độ (dịch Will Durant) - 1971Bài học lịch sử (dịch Will Durant) - 1972Nguồn gốc văn minh (dịch Will Durant) - 1974Văn minh Ả Rập (dịch Will Durant) - 1975Lịch sử văn minh Trung Quốc (dịch Will Durant) - (Xuất bản 1997)Sử Trung Quốc (3 tập) 1982
Giáo dục – giáo khoa của Nguyên Hiến LêThế hệ ngày mai - 1953Thời mới dạy con theo lối mới - 1958Tìm hiểu con chúng ta - 1966Săn sóc sự học của con em - 1954Tự học để thành công - 195433 câu chuyện với các bà mẹ - 1971Thế giới bí mật của trẻ em - 1972Lời khuyên thanh niên - 1967Kim chỉ nam của học sinh - 1951Bí quyết thi đậu - 1956Để hiểu văn phạm - 1952Luyện văn I (1953), II & III (1957)Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam (viết với T. V. Chình) - 1963Tôi tập viết tiếng Việt - 1990Muốn giỏi toán hình học phẳng - 1956Muốn giỏi toán hình học không gian - 1959Muốn giỏi toán đại số - 1958
Chính trị - Kinh tếMột niềm tin - 1965Xung đột trong đời sống quốc tế - 1962
Gương danh nhânGương danh nhân - 1959Gương hi sinh - 1962Gương kiên nhẫn - 1964Gương chiến đấu - 1966Ý chí sắt đá - 197140 gương thành công - 1968Những cuộc đời ngoại hạng - 196915 gương phụ nữ - 1970Einstein - 1971Bertrand Russell - 1972Đời nghệ sĩ - (Xuất bản 1993)Khổng Tử - (Xuất bản 1995)Gogol - (Xuất bản 2000)Tourgueniev - (Xuất bản 2000)Tchekhov - (Xuất bản 2000)
Khảo luận – tùy bút – du kýĐế Thiên Đế Thích – 1968Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười - 1954Nghề viết văn - 1956Vấn đề xây dựng văn hoá - 1967Chinh phục hạnh phúc (dịch Bertrand Russell) - 1971Sống đẹp - 1964Thư ngỏ tuổi đôi mươi (dịch André Maurois) - 1968Chấp nhận cuộc đời (dịch L. Rinser) - 1971Làm con nên nhớ (viết với Đông Hồ) - 1970Hoa đào năm trước - 1970Con đường hoà bình - 1971Cháu bà nội tội bà ngoại - 1974
Ý cao tình đẹp - 1972Thư gởi người đàn bà không quen (dịch André Maurois) - 197010 câu chuyện văn chương - 1975Đời viết văn của tôi - (Xuất bản 1996)Hồi ký Nguyễn Hiến Lê - (Xuất bản 1992)Để tôi đọc lại - (Xuất bản 2001)
Tự luyện – Học làm ngườiTương lai trong tay ta - 1962Luyện lý trí - 1965
Rèn nghị lực - 1956Sống 365 ngày một năm - 1968Nghệ thuật nói trước công chúng - 1953Sống 24 giờ một ngày (dịch Arnold Bennett) - 1955
Luyện tình cảm (dịch F. Thomas) - 1951Luyện tinh thần (dịch Dorothy Carnegie) - 1957
Đắc nhân tâm (dịch Dale Carnegie) - 1951
Quẳng gánh lo đi và vui sống (dịch Dale Carnegie) - 1955Giúp chồng thành công (dịch Dorothy Carnegie) - 1956Bảy bước đến thành công (dịch G. Byron) - 1952Cách xử thế của người nay (dịch Ingram) - 1965Xây dựng hạnh phúc (dịch Aldous Huxley) - 1966Sống đời sống mới (dịch Powers) - 1965Thẳng tiến trên đường đời (dịch Lurton) - 1967Trút nỗi sợ đi (dịch Coleman) - 1969Con đường lập thân (dịch Ennever) - 1969Sống theo sở thích (dịch Steinckrohn) - 1971Giữ tình yêu của chồng (dịch Kaufmann) - 1971Tổ chức gia đình - 1953
Các bài đăng trên tạp chí của Nguyễn Hiến Lê,có
242 bài trên tạp chí Bách Khoa, 50 bài trên các tạp chí Mai, Tin Văn, Văn, Giáo dục Phổ Thông, Giữ Thơm Quê Mẹ''. Ngoài ra ông còn viết lời giới thiệu cho 23 quyển sách.
Chú thích
Tham khảo
Liên kết ngoài
Quỹ Nguyễn Hiến Lê
Lãng quên tượng đài văn hoá Nguyễn Hiến Lê
Tiểu sử Nguyễn Hiến Lê
Nguyễn Hiến Lê – bài viết trên vietsciences.free.fr
Nguyễn Hiến Lê - hai mươi năm, một trăm cuốn sách
Dịch giả Việt Nam
Nhà ngôn ngữ học Việt Nam
Nhà văn Việt Nam thời kỳ 1945–1975
Nhà văn Việt Nam Cộng hòa
Nhà sử học Việt Nam Cộng hòa
Học sinh trường Bưởi
Người Sơn Tây
|
26594
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%ADnh%20ph%E1%BB%A7%20Vi%E1%BB%87t%20Nam
|
Chính phủ Việt Nam
|
Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (gọi tắt là Chính phủ Việt Nam hay đơn giản hơn là Chính phủ) là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, cơ quan chấp hành của Quốc hội. Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước.
Trước khi có tên là Chính phủ, cơ quan này được gọi với tên là Hội đồng Chính phủ trong giai đoạn 1959-1980 và Hội đồng Bộ trưởng trong giai đoạn 1980-1992.
Lịch sử
Hiến pháp 1946, bản Hiến pháp đầu tiên thông qua ngày 9 tháng 11 năm 1946 lần đầu tiên quy định về Chính phủ. Thiết chế nhà nước ở thời điểm này có sự khác biệt, khi mà Chủ tịch nước đồng thời là người đứng đầu Chính phủ, giúp việc cho Chủ tịch nước có Nội các do Thủ tướng đứng đầu cùng các Bộ trưởng, Thứ trưởng, Phó Thủ tướng.
Hiến pháp 1959, có hiệu lực từ ngày 31 tháng 12 năm 1959, gọi với tên gọi Hội đồng Chính phủ. Từ bản Hiến pháp này, thiết chế của nhánh hành pháp trở về Thủ tướng đứng đầu Chính phủ như hiện tại thay vì là Chủ tịch nước như bản Hiến pháp 1946.
Hiến pháp 1980, có hiệu lực từ ngày 18 tháng 12 năm 1980, gọi là Hội đồng Bộ trưởng.
Hiến pháp 1992, có hiệu lực từ ngày 15 tháng 4 năm 1992 được đổi lại là Chính phủ.
Hiến pháp 2013, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2014 vẫn giữ nguyên tên gọi Chính phủ.
Nhiệm kì
Hiến pháp 2013, Điều 97 quy định:
"Nhiệm kỳ của Chính phủ theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chính phủ tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khóa mới thành lập Chính phủ".
Trong đó, Điều 71 quy định nhiệm kì của mỗi khóa Quốc hội là 5 năm.
Thành phần
Hiến pháp 2013, Điều 95 Mục 1 có quy định:
"Chính phủ gồm Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
Cơ cấu, số lượng thành viên Chính phủ do Quốc hội quyết định.
Chính phủ làm việc theo chế độ tập thể, quyết định theo đa số."
Nhiệm vụ và quyền hạn
Hiến pháp 2013, Điều 96 quy định:
"Chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
Tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước;
Đề xuất, xây dựng chính sách trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định hoặc quyết định theo thẩm quyền để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Điều này; trình dự án luật, dự án ngân sách nhà nước và các dự án khác trước Quốc hội; trình dự án pháp lệnh trước Ủy ban thường vụ Quốc hội;
Thống nhất quản lý về kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, thông tin, truyền thông, đối ngoại, quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; thi hành lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và các biện pháp cần thiết khác để bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm tính mạng, tài sản của Nhân dân;
Trình Quốc hội quyết định thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ; thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; trình Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
Thống nhất quản lý nền hành chính quốc gia; thực hiện quản lý về cán bộ, công chức, viên chức và công vụ trong các cơ quan nhà nước; tổ chức công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước; lãnh đạo công tác của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp; hướng dẫn, kiểm tra Hội đồng nhân dân trong việc thực hiện văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; tạo điều kiện để Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do luật định;
Bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước và xã hội, quyền con người, quyền công dân; bảo đảm trật tự, an toàn xã hội;
Tổ chức đàm phán, ký điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước theo ủy quyền của Chủ tịch nước; quyết định việc ký, gia nhập, phê duyệt hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ, trừ điều ước quốc tế trình Quốc hội phê chuẩn quy định tại khoản 14 Điều 70; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích chính đáng của tổ chức và công dân Việt Nam ở nước ngoài;
Phối hợp với Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình."
Trách nhiệm
Chính phủ chịu sự giám sát của Chủ tịch nước và Quốc hội. Chính phủ phải chấp hành:
Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội,
Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội,
Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước.
Chính phủ phải chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Chủ tịch nước, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Chức năng, nhiệm vụ, tổ chức, cách thức hoạt động của Chính phủ được quy định tại: Chương VII Hiến pháp 2013, Luật Tổ chức Chính phủ 2015 (sửa đổi 2019), và Nghị định Ban hành Quy chế làm việc của Chính phủ 2016.
Nghị định của Chính phủ và quyết định của Thủ tướng Chính phủ là văn bản quy phạm pháp luật dưới luật ở Việt Nam.
Danh sách các cơ quan trong bộ máy Chính phủ
Chính phủ hiện nay có 18 Bộ, 4 cơ quan ngang Bộ, 8 đơn vị trực thuộc và 2 Đại học.
Các Bộ:
Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Bộ Y tế
Bộ Tư pháp
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Bộ Công Thương
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội
Bộ Giao thông vận tải
Bộ Xây dựng
Bộ Giáo dục và Đào tạo
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Bộ Thông tin và Truyền thông
Bộ Ngoại giao
Bộ Tài nguyên và Môi trường
Bộ Công an
Bộ Khoa học và Công nghệ
Bộ Tài chính
Bộ Nội vụ
Bộ Quốc phòng
Các Cơ quan ngang Bộ :
Văn phòng Chính phủ
Thanh tra Chính phủ
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Ủy ban Dân tộc
Các Đơn vị thuộc Chính phủ :
Đài Truyền hình Việt Nam
Đài Tiếng nói Việt Nam
Thông tấn xã Việt Nam
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Bảo hiểm Xã hội Việt Nam
Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh
Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp
Đại học thuộc Chính phủ
Đại học Quốc gia Hà Nội
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Ngoài ra Chính phủ Việt Nam còn tổ chức các Ủy ban Quốc gia về nhiều lĩnh vực . Các Ủy ban Quốc gia không phải là một cơ quan hay bộ máy riêng biệt, mà thành phần gồm có các Phó Thủ tướng, Bộ trưởng hoặc Thứ trưởng từ các Bộ và cơ quan khác liên quan. Các Ủy ban Quốc gia đóng vai trò là cơ quan cố vấn cho Thủ tướng Chính phủ về các chính sách, cũng như tổ chức phối hợp liên ngành và liên Bộ, cho nên không có quyền lực hành pháp hoặc hành chính. Các Ủy ban Quốc gia được thành lập và kết thúc sứ mạng tùy thuộc vào tình hình thực tế. Hiện tại có 9 Ủy ban Quốc gia:
Ủy ban Quốc gia Đổi mới Giáo dục và Đào tạo
Ủy ban Quốc gia về Chuyển đổi số
Ủy ban Quốc gia về Biến đổi Khí hậu
Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia
Ủy ban Quốc gia Phòng chống AIDS và Phòng chống Tệ nạn Ma túy, Mại dâm
Ủy ban Quốc gia Ứng phó sự cố, thiên tai và Tìm kiếm Cứu nạn
Ủy ban An ninh Hàng không Dân dụng Quốc gia
Ủy ban Quốc gia về Người cao tuổi
Ủy ban Quốc gia về Hợp tác Kinh tế Quốc tế
Sơ đồ tổ chức Chính phủ Việt Nam
Nhiệm vụ của Thủ tướng và các Phó Thủ tướng trong Chính phủ
Thủ tướng Chính phủ
1- Thủ tướng Chính phủ, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban cán sự đảng Chính phủ
a) Lãnh đạo, quản lý toàn diện mọi hoạt động thuộc chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ.
b) Trực tiếp chỉ đạo, điều hành các lĩnh vực công tác sau đây:
- Chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước.
- Chiến lược, chính sách tài chính, tín dụng, tiền tệ quốc gia.
- Chiến lược quốc phòng, an ninh, đối ngoại và công tác bảo đảm quốc phòng, an ninh.
- Công tác cán bộ; tổ chức bộ máy; cải cách hành chính; địa giới hành chính; những vấn đề chung về công tác thi đua, khen thưởng.
- Quan hệ phối hợp giữa Chính phủ với các cơ quan Đảng, Quốc hội, Chủ tịch nước, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội.
c) Theo dõi và chỉ đạo: Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Thông tấn xã Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh.
d) Làm nhiệm vụ: Chủ tịch Ủy ban Chỉ đạo nhà nước về Biển Đông - Hải đảo; Chủ tịch Ủy ban quốc gia về Chính phủ điện tử, Chủ tịch Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương; Trưởng Ban Chỉ đạo An toàn, An ninh mạng quốc gia; Trưởng Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ; Chủ tịch một số Hội đồng, Ủy ban quốc gia và Trưởng các Ban Chỉ đạo khác.
Phó Thủ tướng Chính phủ phụ trách Nội chính, Ngoại giao
a) Thay mặt Thủ tướng Chính phủ trực tiếp theo dõi, chỉ đạo các lĩnh vực công tác:
- Công tác xây dựng thể chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; cải cách tư pháp.
- Ngoại giao và quan hệ đối ngoại (bao gồm đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại Nhân dân).
- Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vận động vốn vay ưu đãi; viện trợ phi Chính phủ nước ngoài, các tổ chức phi Chính phủ nước ngoài.
- Hội nhập quốc tế; theo dõi, chỉ đạo đàm phán và thực hiện các cam kết quốc tế song phương, đa phương; cơ chế một cửa ASEAN, cơ chế một cửa quốc gia và tạo thuận lợi thương mại; xử lý tranh chấp, khiếu kiện quốc tế.
- Đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI), đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài.
- Quan hệ của Việt Nam với các tổ chức quốc tế và khu vực; công tác biên giới và các vấn đề Biển Đông - Hải đảo.
- Công tác người Việt Nam ở nước ngoài và các vấn đề người nước ngoài ở Việt Nam. Các vấn đề về nhân quyền.
- Công tác dân tộc, tôn giáo; xóa đói giảm nghèo, những vấn đề thường xuyên về thi đua khen thưởng.
- Bảo đảm trật tự, an toàn giao thông.
- Phòng, chống tội phạm; phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại.
- Đặc xá.
- Phối hợp công tác giữa Chính phủ với Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
b) Thay mặt Thủ tướng Chính phủ theo dõi và chỉ đạo Bộ Ngoại giao, Bộ Nội Vụ, Bộ Tư pháp, Ủy ban Dân tộc, Văn phòng Chính phủ, Ngân hàng Chính sách xã hội.
c) Làm nhiệm vụ: Trưởng Ban Chỉ đạo quốc gia về hội nhập quốc tế, Chủ tịch Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam - Trung Quốc; Phụ trách Ủy ban Liên Chính phủ Việt Nam - Lào; Trưởng Ban Chỉ đạo nhà nước về phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền; Trưởng Ban Chỉ đạo về Nhân quyền; Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương thực hiện 03 Chương trình mục tiêu Quốc gia: xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025, giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030; Trưởng Ban Chỉ đạo phòng chống tội phạm; Trưởng Ban Chỉ đạo Quốc gia chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả; Chủ tịch Ủy ban chỉ đạo quốc gia về Cơ chế một cửa ASEAN, Cơ chế một cửa quốc gia và tạo thuận lợi thương mại; Chủ tịch Ủy ban An toàn giao thông quốc gia; Chủ tịch Ủy ban An ninh hàng không dân dụng quốc gia; Chủ tịch các Hội đồng, Ủy ban quốc gia, Trưởng các Ban Chỉ đạo khác theo lĩnh vực liên quan.
d) Các công việc khác theo sự phân công, ủy nhiệm của Thủ tướng Chính phủ.
Phó Thủ tướng Chính phủ phụ trách Kinh tế tổng hợp, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo.
a) Thay mặt Thủ tướng Chính phủ trực tiếp theo dõi, chỉ đạo các lĩnh vực công tác:
- Khối kinh tế tổng hợp, bao gồm: kế hoạch; tài chính, giá cả; tiền tệ, ngân hàng; thị trường vốn, thị trường chứng khoán; các nguồn đầu tư tài chính; dự trữ Nhà nước; dự báo và chính sách điều hành kinh tế vĩ mô.
- Chi ngân sách nhà nước, sử dụng dự phòng ngân sách Nhà nước, Quỹ dự trữ tài chính, Quỹ dự trữ ngoại hối và các Quỹ khác của Nhà nước; phát hành công trái, trái phiếu Chính phủ.
- Chính sách tiền lương và bảo hiểm xã hội.
- Phát triển các loại hình doanh nghiệp.
- Kinh tế tập thể, hợp tác xã.
- Sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước.
- Thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo; phòng, chống tham nhũng.
b) Thay mặt Thủ tướng Chính phủ theo dõi và chỉ đạo: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Thanh tra Chính phủ, Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia, Ngân hàng Phát triển Việt Nam, Bảo hiểm tiền gửi.
c) Làm nhiệm vụ: Chủ tịch Hội đồng tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và ưu đãi người có công; Trưởng Ban Chỉ đạo đổi mới phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã; Trưởng Ban Chỉ đạo Đổi mới và Phát triển doanh nghiệp; Trưởng Ban Chỉ đạo xử lý các tồn tại, yếu kém của một số dự án và doanh nghiệp chậm tiến độ, kém hiệu quả thuộc ngành Công Thương; Chủ tịch các Hội đồng, Ủy ban quốc gia, Trưởng các Ban Chỉ đạo khác theo lĩnh vực liên quan.
d) Các công việc khác theo sự phân công, ủy nhiệm của Thủ tướng Chính phủ.
Phó Thủ tướng Chính phủ phụ trách Khoa giáo - Văn xã
a) Thay mặt Thủ tướng Chính phủ trực tiếp theo dõi, chỉ đạo các lĩnh vực công tác:
- Giáo dục, đào tạo và dạy nghề.
- Khoa học và công nghệ.
- Lao động, việc làm và các vấn đế xã hội.
- Thông tin và truyền thông.
- Văn hóa; du lịch; thể dục, thể thao.
- Y tế, dân số, gia đình và trẻ em.
b) Thay mặt Thủ tướng Chính phủ theo dõi và chỉ đạo: Bộ Giáo dục và Đào tạo; Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Thông tin và Truyền thông; Bộ Khoa học và Công nghệ; Bộ Y tế; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam; Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam; Đại học Quốc gia Hà Nội; Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
c) Làm nhiệm vụ: Chủ tịch Hội đồng quốc gia giáo dục và Phát triển nhân lực; Chủ tịch Hội đồng Giáo dục quốc phòng - an ninh Trung ương; Chủ tịch Hội đồng quốc gia về phát triển bền vững và nâng cao năng lực cạnh tranh; Trưởng Ban Chỉ đạo nhà nước về du lịch; Trưởng Ban Chỉ đạo liên ngành Trung ương về vệ sinh an toàn thực phẩm; Chủ tịch Ủy ban quốc gia phòng, chống AIDS và phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm; Chủ tịch các Hội đồng, Ủy ban quốc gia, Trưởng các Ban Chỉ đạo khác theo lĩnh vực liên quan.
d) Các công việc khác theo sự phân công, ủy nhiệm của Thủ tướng Chính phủ.
Phó Thủ tướng Chính phủ phụ trách Kinh tế ngành
a) Thay mặt Thủ tướng Chính phủ trực tiếp theo dõi, chỉ đạo các lĩnh vực công tác:
- Công nghiệp, nông nghiệp và phát triển nông thôn, thương mại – xuất nhập khẩu, xây dựng, giao thông vận tải, tài nguyên và môi trường.
- Chiến lược ứng phó với biến đổi khí hậu.
- Quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh.
- Chỉ đạo bảo đảm năng lượng, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.
- Các công trình trọng điểm quốc gia; các dự án đầu tư xây dựng cơ bản theo phân cấp của pháp luật.
- Các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất...
- Công tác phòng, chống lụt bão, tìm kiếm cứu nạn.
b) Thay mặt Thủ tướng Chính phủ theo dõi và chỉ đạo: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Bộ Công Thương; Bộ Xây dựng; Bộ Giao thông vận tải, Bộ Tài nguyên và Môi trường.
c) Làm nhiệm vụ: Chủ tịch Hội đồng quy hoạch quốc gia; Chủ tịch Hội đồng quốc gia về tài nguyên nước; Trưởng Ban Chỉ đạo quốc gia về phát triển điện lực; Trưởng Ban Chỉ đạo Nhà nước các Dự án trọng điểm về dầu khí; Trưởng Ban Chỉ đạo Nhà nước các công trình, dự án trọng điểm ngành giao thông vận tải; Trưởng Ban Chỉ đạo điều phối phát triển các Vùng kinh tế trọng điểm; Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống thiên tai; Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về chính sách nhà ở và thị trường bất động sản; Chủ tịch phân ban Việt Nam trong Ủy ban liên Chính phủ Việt Nam - Liên bang Nga; Chủ tịch các Hội đồng, Ủy ban quốc gia, Trưởng các Ban Chỉ đạo khác theo lĩnh vực liên quan.
d) Các công việc khác theo sự phân công, ủy nhiệm của Thủ tướng Chính phủ.
Hình thức hoạt động
Hình thức hoạt động tập thể của Chính phủ là các phiên họp Chính phủ. Những vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền của Chính phủ được thảo luận tập thể và quyết định theo đa số (trong trường hợp biểu quyết có tỷ lệ là 50-50 thì kết quả theo bên có Thủ tướng Chính phủ).
Theo ông Nguyễn Văn Phúc, nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Việt Nam, trước đây, Chính phủ Việt Nam hầu như chỉ trình các báo cáo lên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam trước mà không trình Quốc hội Việt Nam. Chỉ sau khi Bộ Chính trị kết luận thì báo cáo mới được trình Quốc hội. Trong một vài khóa Quốc hội Việt Nam gần đây (trước khóa 14), Bộ Chính trị cho phép Đảng đoàn Quốc hội hoặc Ủy ban kinh tế của Quốc hội có ý kiến trước đối với những vấn đề liên quan.
Ban cán sự đảng Chính phủ
Xem thêm: Ban Cán sự Đảng Chính phủ Việt Nam
Nhiệm vụ và quyền hạn của Ban cán sự đảng Chính phủ
Lãnh đạo Chính phủ thực hiện đúng đắn đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thực hiện các nghị quyết của Đảng về tổ chức, cán bộ; quyết định những vấn đề về tổ chức, cán bộ theo sự phân công, phân cấp của Bộ Chính trị.
Kiểm tra việc thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng trong hoạt động của Chính phủ.
Chịu trách nhiệm trước Bộ Chính trị, Ban Bí thư về những đề xuất và quyết định của Ban cán sự đảng.
Phối hợp với Đảng ủy khối và Đảng ủy cơ quan xây dựng Đảng bộ cơ quan Văn phòng Chính phủ trong sạch, vững mạnh.
Tổ chức của Ban cán sự đảng Chính phủ
Ban cán sự đảng có từ 7 đến 9 ủy viên, gồm các đồng chí đảng viên là Thủ tướng, các Phó Thủ tướng và một số đồng chí Bộ trưởng.
Bí thư, Phó Bí thư và các ủy viên Ban cán sự đảng do Bộ Chính trị chỉ định.
Ban cán sự đảng chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Ban cán sự đảng có con dấu.
Thành viên Ban cán sự đảng Chính phủ hiện gồm: Thủ tướng, các Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an; thành viên khác (nếu có) do Ban cán sự đảng đề nghị, Bộ Chính trị quyết định. Thủ tướng Chính phủ làm Bí thư Ban cán sự Đảng Chính phủ, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ làm Phó Bí thư Ban cán sự Đảng Chính phủ.
Những vấn đề thuộc thẩm quyền của Bộ Chính trị, Ban cán sự đảng Chính phủ đề xuất hoặc trình
Tình hình đặc biệt về kinh tế – xã hội nổi lên trong năm và các giải pháp cần tập trung chỉ đạo khắc phục theo yêu cầu của Bộ Chính trị hoặc khi thấy cần thiết.
Về việc xét tặng thưởng Huân chương Sao vàng cho cá nhân.
Kiến nghị xử lý trách nhiệm cá nhân cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị quản lý khi có vi phạm trong hoạt động của Chính phủ.
Những vấn đề khác Ban cán sự đảng Chính phủ thấy cần xin ý kiến Bộ Chính trị.
Những vấn đề thuộc thẩm quyền của Ban Bí thư, Ban cán sự đảng Chính phủ đề xuất hoặc trình
Về việc xét tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh cho cá nhân.
Kiến nghị xử lý trách nhiệm cá nhân cán bộ thuộc diện Ban Bí thư quản lý khi có vi phạm trong hoạt động của Chính phủ. (trích Quy định (Bổ sung) số 216-QĐ/TW ngày 01 tháng 4 năm 2009'')
Bí thư Ban cán sự Đảng Chính phủ: Phạm Minh Chính
Phó Bí thư Ban cán sự Đảng Chính phủ: Lê Minh Khái
Chính phủ hiện nay
Các chính phủ trong lịch sử Việt Nam
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Chính phủ Việt Nam 1976 – 1981
Chính phủ Việt Nam 1981 – 1987
Chính phủ Việt Nam 1987 – 1992
Chính phủ Việt Nam 1992 – 1997
Chính phủ Việt Nam 1997 – 2002
Chính phủ Việt Nam 2002 – 2007
Chính phủ Việt Nam 2007 – 2011
Chính phủ Việt Nam 2011 – 2016
Chính phủ Việt Nam 2016 – 2021
Chính phủ Việt Nam 2021 – 2026
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Chính phủ Cách mạng Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (28/8/1945 - 31/12/1945)
Chính phủ Liên hiệp Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1/1/1946 - 2/3/1946)
Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (2/3/1946 - 3/11/1946)
Chính phủ Liên hiệp Quốc dân Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (3/11/1946 - 22/9/1955)
Chính phủ Mở rộng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (22/9/1955 – 1960)
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1960 – 1964)
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1964 – 1971)
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1971 – 1975)
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1975 – 1976)
Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Cộng hòa Miền Nam Việt Nam
Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (6/6/1969 - 2/7/1976)
Việt Nam Cộng hòa
Chính phủ Đệ nhất Cộng hòa (1955 - 1963)
Chính phủ quân quản (1963 - 1967)
Chính phủ Đệ nhị Cộng hòa (1967 - 1975)
Quốc gia Việt Nam
Chính phủ Quốc gia Việt Nam (1949 - 1955)
Chính phủ Trung ương Lâm thời Việt Nam (1948 - 1949)
Cộng hòa Tự trị Nam Kỳ
Chính phủ Lâm thời Nam Kỳ (1946)
Chính phủ Cộng hòa Tự trị Nam Kỳ (1946 - 1947)
Chính phủ Lâm thời Nam Phần (1947 - 1948)
Đế quốc Việt Nam
Chính phủ Đế quốc Việt Nam (1945)
Tham khảo
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam qua các thời kỳ
Liên kết ngoài
Trang chủ của Chính phủ Việt Nam
Chính phủ nhiệm kỳ quốc hội khóa xiii (2011-2016)
Danh sách nhân vật Việt Nam
Chính phủ Việt Nam
|
26628
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BA%BF%20n%C4%83ng
|
Thế năng
|
Trong vật lý học, thế năng (Tiếng Anh: potential energy, nghĩa đen: năng lượng tiềm tàng) là năng lượng được giữ bởi một vật do vị trí của nó so với các vật khác, các lực nén bên trong bản thân, điện tích hoặc các yếu tố khác.
Các dạng thế năng phổ biến bao gồm thế năng hấp dẫn của một vật phụ thuộc vào khối lượng của nó và khoảng cách của nó với trọng tâm của một vật khác, thế năng đàn hồi của lò xo kéo dãn và thế năng của điện tích trong một điện trường. Đơn vị đo năng lượng trong Hệ đo lường quốc tế (SI) là jun, có ký hiệu J.
Thuật ngữ năng lượng tiềm năng được đưa ra bởi kỹ sư và nhà vật lý người Scotland ở thế kỷ 19 William Rankine, mặc dù nó có liên quan đến khái niệm về tiềm tàng của nhà triết học Hy Lạp Aristotle. Thế năng liên quan tới các lực tác dụng lên một cơ thể mà tổng công do các lực này thực hiện lên thể chỉ phụ thuộc vào vị trí ban đầu và vị trí cuối cùng của cơ thể trong không gian. Những lực này, được gọi là lực bảo toàn, có thể được biểu diễn tại mọi điểm trong không gian bằng vectơ được biểu thị dưới dạng các bậc của một hàm vô hướng nhất định được gọi là potential. Hiểu một cách chính xác hơn thì trong cơ học, thế năng là trường thế vô hướng của trường véctơ lực bảo toàn.
Vì công của các lực tiềm tàng tác dụng lên một vật thể chuyển động từ vị trí đầu đến vị trí cuối chỉ được xác định bởi hai vị trí này, và không phụ thuộc vào đường của cơ thể đó, nên có một hàm được gọi là potential có thể được xác định tại hai vị trí đó để xác định công này.
Cũng như mọi trường thế vô hướng, thế năng có giá trị tùy theo quy ước thế năng của điểm lấy mốc. Đôi khi, khái niệm hiệu thế năng thường được dùng khi so sánh thế năng giữa hai điểm, hoặc nói về thế năng của một điểm khi lấy điểm kia là mốc có thế năng bằng 0.
Với mọi trường véctơ lực bảo toàn, tích phân đường của véctơ lực E từ vị trí r0 đến r:
đều có giá trị không phụ thuộc vào đường đi cụ thể từ r0 đến r.
Như vậy tại mỗi điểm r đều có thể đặt giá trị gọi là thế năng:
với φ(r0) là giá trị thế năng quy ước ở mốc r0.
Thế năng hấp dẫn
Thế năng hấp dẫn (thế năng trọng trường) của một vật là dạng năng lượng tương tác giữa Trái Đất và vật; nó phụ thuộc vào vị trí của vật trong trọng trường.
Lực hấp dẫn là một lực bảo toàn, và thế năng trong trường hợp này gọi là thế năng hấp dẫn, còn gọi là thế năng trọng trường.
Ví dụ, tại một điểm nhỏ trên bề mặt hành tinh lớn, có thể coi lực hấp dẫn lên vật thể (trọng lực) không đổi:
F = m g
với tại bề mặt, vật. Lúc đó nếu lấy mốc thế năng của vật tại bề mặt bằng 0 thì thế năng tại độ cao h so với bề mặt (h rất nhỏ so với bán kính của hành tinh) là:
φ = m |g| z
Khi ở trên mặt đất thế năng trọng trường có công thức: Wt = mgz đơn vị Jun
m là khối lượng đơn vị kg
g là vectơ gia tốc trọng trường. Là hằng số 9,81
z là độ cao đơn vị là m
Thế năng tĩnh điện
Lực tĩnh điện là một lực bảo toàn, và thế năng trong trường hợp này là thế năng tĩnh điện.
Lực tĩnh điện F là:
F = q E
với q là điện tích của hạt mang điện, E là cường độ điện trường.
Trong khi đó, điện thế, V, lại là trường thế vô hướng ứng với trường véc tơ cường độ điện trường:
Suy ra:
φ = q V
nghĩa là thế năng tĩnh điện bằng điện thế nhân với điện tích.
Thế năng đàn hồi
Thế năng đàn hồi là dạng năng lượng của một vật chịu tác dụng của lực đàn hồi.
Lực đàn hồi của lò xo lý tưởng là lực bảo toàn, và thế năng trong trường hợp này gọi là thế năng đàn hồi.
Nếu lò xo tuân theo định luật Hooke với lực đàn hồi, F, tỷ lệ với biến dạng, x:
|F| = k x
Thì thế năng đàn hồi của lò xo là:
φ = k x2/2
Có thể lấy mốc thế năng bằng 0 khi lò xo không bị biến dạng.
Tham khảo
Cơ sở vật lý phần Cơ học, của Halliday, Walker và Resnick, dịch sang tiếng Việt bởi Ngô Quốc Quýnh, Nhà xuất bản Giáo dục, 1998.
Cơ học
Năng lượng
Lực hấp dẫn
Dạng năng lượng
|
26629
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BA%BF%20n%C4%83ng%20h%E1%BA%A5p%20d%E1%BA%ABn
|
Thế năng hấp dẫn
|
Năng lượng hấp dẫn hay thế năng hấp dẫn là thế năng mà một vật thể khối lượng lớn có được liên quan tới một vật thể khối lượng lớn khác do lực hấp dẫn. Nó là thế năng có quan hệ với trọng trường, được giải phóng (chuyển thành động năng) khi các vật rơi về phía nhau. Thế năng trọng trường tăng khi đưa hai vật ra xa nhau.
Đối với hai điểm tương tác theo cặp, thế năng hấp dẫn được xác định bởi
trong đó và là khối lượng của hai điểm, là khoảng cách giữa chúng và là hằng số hấp dẫn.
Ở gần bề mặt Trái đất, trường hấp dẫn xấp xỉ không đổi và thế năng hấp dẫn của một vật giảm xuống còn
trong đó là khối lượng của vật thể, là lực hấp dẫn của Trái đất và là chiều cao của trọng tâm của vật thể trên một mức tham chiếu đã chọn.
Chú thích
|
26659
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%C3%A3%20Tam%20B%E1%BA%A3o
|
Mã Tam Bảo
|
Mã Tam Bảo có thể là:
Mã Tam Bảo, tướng lĩnh khai quốc nhà Đường.
Mã Tam Bảo, tức Trịnh Hòa, thái giám, nhà hàng hải Trung Quốc thời Minh.
|
26676
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/In%20%E1%BA%A5n
|
In ấn
|
In ấn hay ấn loát là một quá trình tái tạo hàng loạt văn bản và hình ảnh bằng cách sử dụng biểu mẫu hoặc mẫu chính. Các sản phẩm không phải giấy sớm nhất liên quan đến in ấn bao gồm con dấu hình trụ và các vật thể như Cyrus Cylinder và Cylinders of Nabonidus. Hình thức in ấn sớm nhất được biết đến áp dụng cho giấy là in khắc gỗ, xuất hiện ở Trung Quốc trước năm 220 sau Công nguyên. Những phát triển sau này trong công nghệ in bao gồm loại có thể di chuyển được Tất Thăng phát minh vào khoảng năm 1040 sau Công nguyên và máy in do Johannes Gutenberg phát minh vào thế kỷ 15. Công nghệ in đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của thời kỳ Phục hưng và cuộc cách mạng khoa học, đồng thời đặt cơ sở vật chất cho nền kinh tế tri thức hiện đại và sự truyền bá học tập đến quần chúng.
Hình thức sớm nhất của in ấn là in bằng âm bản khắc gỗ, với các nghiên cứu hiện tại thì in ấn đã xuất hiện ở Trung Quốc có niên đại từ trước năm 220 trước Công nguyên và Ai Cập vào thế kỷ IV. Phát triển sau này trong in ấn được lan rộng, đầu tiên được phát triển ở Trung Quốc, đặc biệt trở thành một công cụ hiệu quả hơn cho các ngôn ngữ phương Tây với bảng chữ cái hạn chế của họ, được phát triển bởi Johannes Gutenberg vào thế kỷ XV.
Lịch sử
In mộc bản
In mộc bản là một kỹ thuật in văn bản, hình ảnh hoặc hoa văn đã được sử dụng rộng rãi khắp Đông Á. Nó có nguồn gốc từ thời cổ đại ở Trung Quốc như một phương pháp in trên vải và sau đó là giấy. Là một phương pháp in trên vải, các ví dụ sớm nhất của in mộc bản còn sót lại từ Trung Quốc có niên đại trước năm 220 sau Công nguyên.
Ở Đông Á
Những mảnh vỡ in khắc gỗ sớm nhất còn sót lại là từ Trung Quốc. Chúng được làm bằng lụa in hoa ba màu từ thời nhà Hán (trước năm 220 sau Công Nguyên). Chúng là ví dụ sớm nhất về in khắc gỗ trên giấy và xuất hiện vào giữa thế kỷ thứ bảy ở Trung Quốc.
Vào thế kỷ thứ chín, việc in trên giấy đã bắt đầu phát triển, và cuốn sách in hoàn chỉnh đầu tiên còn tồn tại có ghi niên đại của nó là Kinh Kim Cương (Thư viện Anh) năm 868. Đến thế kỷ thứ mười, 400.000 bản in một số kinh điển và tranh ảnh, và các tác phẩm kinh điển của Nho giáo đã được in. Một thợ in lành nghề có thể in tới 2.000 tờ chứa hai trang mỗi ngày.
Việc in ấn sớm lan rộng đến Hàn Quốc và Nhật Bản, những quốc gia cũng sử dụng logogram, nhưng kỹ thuật này cũng được sử dụng ở Turpan và Việt Nam bằng cách sử dụng một số chữ viết khác. Kỹ thuật này sau đó lan sang Ba Tư và Nga. Kỹ thuật này được truyền đến châu Âu thông qua thế giới Hồi giáo, và vào khoảng năm 1400 đã được sử dụng trên giấy cho các bản in chủ cũ và chơi bài. Tuy nhiên, người Ả Rập không bao giờ sử dụng điều này để in Kinh Qur'an vì những giới hạn áp đặt bởi học thuyết Hồi giáo.
Trong thế giới Hồi giáo
In khối, được gọi là tarsh trong tiếng Ả Rập, được phát triển ở Ả Rập Ai Cập trong thế kỷ thứ chín và thứ mười, chủ yếu để in nội dung cầu nguyện và làm bùa hộ mệnh. Có một số bằng chứng cho thấy những khối in này được làm từ vật liệu không phải gỗ, có thể là thiếc, chì hoặc đất sét. Tuy nhiên, các kỹ thuật được sử dụng là không chắc chắn, và chúng dường như có rất ít ảnh hưởng bên ngoài thế giới Hồi giáo. Mặc dù châu Âu đã áp dụng cách in khắc gỗ từ thế giới Hồi giáo, ban đầu cho vải, kỹ thuật in khối kim loại vẫn chưa được biết đến ở châu Âu. In khối sau đó đã không còn được sử dụng trong thời kỳ Phục hưng Timurid của Hồi giáo. Thời kỳ Hoàng kim của Hồi giáo chứng kiến việc in ấn các văn bản, bao gồm cả các đoạn từ Kinh Qur'an và Hadith, thông qua thủ công làm giấy của Trung Quốc, đã phát triển nó và áp dụng nó rộng rãi trong thế giới Hồi giáo, dẫn đến sự gia tăng đáng kể trong việc sản xuất các văn bản viết tay. Kỹ thuật in ở Ai Cập đã được chấp nhận sao chép các văn bản trên các dải giấy và cung cấp chúng thành các bản sao khác nhau để đáp ứng nhu cầu.
Ở châu Âu
In khối lần đầu tiên đến Châu Âu như một phương pháp in trên vải, nơi nó phổ biến vào năm 1300. Hình ảnh in trên vải cho mục đích tôn giáo có thể khá lớn và công phu. Khi giấy trở nên tương đối dễ dàng, vào khoảng năm 1400, kỹ thuật này đã chuyển rất nhanh chóng sang các hình ảnh tôn giáo khắc gỗ nhỏ và chơi bài in trên giấy. Những bản in này được sản xuất với số lượng rất lớn từ khoảng năm 1425 trở đi.
Vào khoảng giữa thế kỷ 15, sách đóng khối, sách khắc gỗ có cả văn bản và hình ảnh, thường được chạm khắc trong cùng một khối, nổi lên như một sự thay thế rẻ hơn cho các bản thảo và sách in bằng con chữ di động. Đây đều là những tác phẩm ngắn được minh họa nhiều, bán chạy nhất trong ngày, được lặp lại trong nhiều phiên bản sách khối khác nhau: Ars moriendi và Biblia pauperum là phổ biến nhất. Vẫn còn một số tranh cãi giữa các học giả về việc liệu sự ra đời của chúng có trước hay, theo quan điểm của đa số, theo sau sự ra đời của con chữ di động, với phạm vi niên đại ước tính là từ khoảng 1440 đến 1460.
In kiểu con chữ di động
Con chữ có thể di chuyển là hệ thống in ấn và kiểu chữ sử dụng các mảnh kim loại có thể di chuyển được, được tạo ra bằng cách đúc từ các ma trận được đánh bằng máy dập lỗ. Con chữ có thể di chuyển cho phép thực hiện các quy trình linh hoạt hơn nhiều so với sao chép tay hoặc in khối.
Khoảng năm 1040, hệ thống loại có thể di chuyển được đầu tiên được biết đến đã được Tất Thăng phát minh ra ở Trung Quốc bằng sứ. Bi Sheng sử dụng loại đất sét, loại dễ vỡ, nhưng vào năm 1298, Vương Trinh đã phát minh ra một loại chạm khắc bền hơn từ gỗ. Ông cũng phát triển một hệ thống phức tạp gồm các bảng quay vòng và liên kết số với các ký tự Trung Quốc được viết ra để giúp việc sắp chữ và in ấn hiệu quả hơn. Tuy nhiên, phương pháp chính được sử dụng ở đó vẫn là in khắc gỗ (xylography), phương pháp "được chứng minh là rẻ hơn và hiệu quả hơn để in tiếng Trung Quốc, với hàng nghìn ký tự".
Kiểu in di động bằng đồng bắt nguồn từ Trung Quốc vào đầu thế kỷ 12. Nó được sử dụng trong việc in tiền giấy với quy mô lớn do triều đại Bắc Tống phát hành. Loại có thể di chuyển được lan sang Hàn Quốc trong triều đại Goryeo.
Vào khoảng năm 1230, người Triều Tiên đã phát minh ra loại máy in di động bằng kim loại sử dụng đồng. Jikji, xuất bản năm 1377, là cuốn sách in bằng kim loại sớm nhất được biết đến. Kiểu đúc đã được sử dụng, phỏng theo phương pháp đúc tiền xu. Nhân vật được cắt bằng gỗ dẻ gai, sau đó được ép vào đất sét mềm để tạo thành khuôn, và đổ đồng vào khuôn, và cuối cùng là loại được đánh bóng. Hình thức di chuyển bằng kim loại của Triều Tiên được học giả người Pháp Henri-Jean Martin mô tả là "cực kỳ giống với của Gutenberg".
Máy in
Khoảng năm 1450, Johannes Gutenberg giới thiệu hệ thống in loại có thể di chuyển đầu tiên ở Châu Âu. Ông đã cải tiến những cải tiến trong kiểu đúc dựa trên ma trận và khuôn tay, thích ứng với máy ép vít, sử dụng mực gốc dầu, và tạo ra một loại giấy mềm hơn và thấm hút hơn. Gutenberg là người đầu tiên tạo ra các mảnh ghép loại của mình từ hợp kim của chì, thiếc, antimon, đồng và bismuth - những thành phần tương tự vẫn được sử dụng cho đến ngày nay. Johannes Gutenberg bắt đầu làm việc trên máy in của mình vào khoảng năm 1436, hợp tác với Andreas Dritzehen - người trước đây ông đã hướng dẫn cắt đá quý - và Andreas Heilmann, chủ sở hữu của một nhà máy giấy.
So với in mộc bản, thiết lập trang con chữ di động và in bằng máy in nhanh hơn và bền hơn. Ngoài ra, các mảnh kim loại cứng hơn và chữ đồng đều hơn, dẫn đến kiểu chữ và phông chữ. Chất lượng cao và giá cả tương đối thấp của Kinh thánh Gutenberg (1455) đã tạo nên ưu thế của loại có thể di chuyển đối với các ngôn ngữ phương Tây. Máy in nhanh chóng lan rộng khắp châu Âu, dẫn đến thời kỳ Phục hưng, và sau đó là trên toàn thế giới.
Những đổi mới của Gutenberg trong lĩnh vực in dùng con chữ di chuyển được gọi là phát minh quan trọng nhất của thiên niên kỷ thứ hai.
Máy in quay vòng
Máy in quay vòng được phát minh bởi Richard March Hoe vào năm 1843. Nó sử dụng các lần hiển thị cong quanh một hình trụ để in trên các cuộn giấy dài liên tục hoặc các chất nền khác. In trống quay sau đó đã được cải tiến đáng kể bởi William Bullock. Có nhiều loại công nghệ in xoay vẫn được sử dụng ngày nay: in offset, in ống đồng và in flexo.
Công suất in
Bảng liệt kê số trang tối đa mà các máy in khác nhau có thể in mỗi giờ.
Công nghệ in thông thường
Tất cả quá trình in đều liên quan đến hai loại khu vực trên đầu ra cuối cùng:
Vùng hình ảnh (vùng in)
Vùng không hình ảnh (vùng không in)
Sau khi thông tin đã được chuẩn bị cho quá trình sản xuất (bước chuẩn bị), mỗi quy trình in ấn có các biện pháp dứt khoát để tách hình ảnh khỏi các vùng không phải hình ảnh.
In thông thường có bốn loại quy trình:
Planographics, trong đó các khu vực in và không in nằm trên cùng một bề mặt phẳng và sự khác biệt giữa chúng được duy trì về mặt hóa học hoặc tính chất vật lý, ví dụ như: in thạch bản offset, in keo và in lụa.
Relief, trong đó các khu vực in nằm trên một bề mặt phẳng và các khu vực không in nằm dưới bề mặt, ví dụ: flexography và letterpress.
Intaglio, trong đó vùng không in nằm trên một bề mặt phẳng và vùng in được khắc hoặc khắc bên dưới bề mặt, ví dụ: khắc khuôn thép, ống đồng
Porous, trong đó các khu vực in nằm trên màn lưới mịn mà qua đó mực có thể xâm nhập và các khu vực không in là một lớp giấy nến trên màn hình để chặn dòng chảy của mực trong các khu vực đó, ví dụ: in lụa, trình sao chép giấy nến.
Kỹ thuật in ấn hiện đại
Sách báo ngày nay thường được in bằng kĩ thuật in ốp sét - offset. Các kĩ thuật in phổ biến khác gồm in nổi (dùng chủ yếu trong các cuốn ca ta lốc), in lụa, in quay, in phun và in la de. Nhà in thương mại và công nghiệp lớn nhất trên thế giới là Montréal, ở Quebec, Quebecor World.
In kĩ thuật số phần lớn sử dụng hiện tượng tĩnh điện để chuyển đặt mực in lên trên chất nền. Công nghệ này phát triển nhanh chóng trong những năm gần đây với các sản phẩm đa dạng từ các máy sao chép (copier) màu hay đen trắng cho tới các máy in màu hiện đại như Xerox iGen3, Kodak Nexpress, hay loạt máy HP Indigo. iGen3 và Nexpress sử dụng trống mực còn Indigo dùng mực lỏng.
In tẩy màu
In tẩy màu (Discharge printing) là kỹ thuật in được ứng dụng rộng rãi ngày nay, đặc biệt là in trên chất liệu vải, áo thun.
Sự khác biệt giữa chính giữa in gốc nước và in tẩy là bước cuối cùng bao gồm một phụ gia tẩy màu được nhuộm nguyên thủy trên vải, và thay thế nó bằng màu sắc mong muốn. In tẩy Discharge là một sự lựa chọn tối ưu khi in trên chất liệu vải tối màu bởi khả năng loại bỏ màu nền của nó. Màu thay thế vùng bị tẩy sẽ trông rất nổi và không bị ám màu như khi in chồng lên màu nền của vải. In tẩy màu Dischard sẽ giúp mức độ chi tiết tăng lên rõ rệt hơn hẳn in sol dẻo. Bằng việc lựa chọn và thiết kế kỹ càng, in tẩy còn có thể giúp vải lụa nhân tạo trở nên rực rỡ hơn.
Điểm yếu của in tẩy màu là kỹ thuật phức tạp hơn rất nhiều so với các loại in khác.
In gốc nước
In gốc nước (water-based printing): chủ yếu in trên mực in gôc nước. Có độ bóng khá cao nên thường được sử dụng trong các ấn phẩm cao cấp
Xem thêm
Khắc gỗ
Typography
Scriptorium
In thạch bản
Đồ họa in ấn
Nghệ thuật in mộc bản Nhật Bản và Ukiyo-e
Mộc bản triều Nguyễn
Ấn phẩm
In offset
Cc
Chú thích
Xem thêm
Máy in
In màu
In lụa
Liên kết ngoài
Centre for the History of the Book
Children of the Code - Online Video: The DNA of Science, The Alphabet and Printing.
Planet Typography - history of printing - selection of international sites dedicated to the history of printing.
Printwiki
The development of book and printing. English website of the Gutenberg-Museum Mainz (Germany)
BPSnet British Printing Society
Taiwan Culture Portal: Ri Xing Type Foundry- preserving the true character of Chinese type
International Printing Museum Web site
Lịch sử in ấn
Bài cơ bản sơ khai
Văn bản
|
26690
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%AD%20h%C3%ACnh
|
Tử hình
|
Tử hình, án tử hình hay án tử (Tiếng Anh: death sentence, death penalty) là việc hành quyết một người theo một quy trình luật pháp. Những người bị án tử hình bị gọi là Tử tù.
Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã thông qua, trong năm 2007, 2008, 2010, 2012 và năm 2014, các nghị quyết không ràng buộc kêu gọi đình chỉ tử hình toàn cầu, nhằm cuối cùng bãi bỏ. Tại các quốc gia thành viên EU, theo Hiệp ước Lisbon, Điều 2 của Hiến chương các Quyền Căn bản của Liên minh châu Âu cấm hình phạt tử hình. Ngoài ra, hội đồng châu Âu, mà có 47 quốc gia thành viên, cấm các quốc gia thành viên áp dụng luật tử hình. Ngược lại, nhiều quốc gia như Trung Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc... vẫn sẽ duy trì án tử hình với mục đích tạo hình phạt đủ sức răn đe với các loại tội phạm nghiêm trọng, nhằm đảm bảo an ninh chung cho xã hội. Hơn 65% dân số thế giới sống tại các quốc gia nơi có án tử hình, và bốn quốc gia đông dân nhất thế giới (Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, Ấn Độ, Hoa Kỳ và Indonesia) vẫn đang áp dụng hình phạt tử hình và sẽ không xoá bỏ nó trong một tương lai gần.
Tính đến đầu năm 2016, 65 quốc gia vẫn còn hình phạt tử hình, 103 quốc gia đã hoàn toàn bãi bỏ hình phạt này, 6 nước bãi bỏ cho những tội thông thường (chỉ tuyên tử hình với những tội đặc biệt như tội phạm chiến tranh, tội phản quốc, giết người hàng loạt), và 30 nước vẫn còn án tử hình nhưng đã lâu không áp dụng.
Thuật ngữ
Chữ "tử hình" có nguồn gốc từ Hán Việt 死刑 (pinyin: sǐxíng), có nghĩa là hình phạt chết.
Một số cách tử hình
Xử bắn
Đóng đinh
Thiêu sống
Đun sôi
Xử trảm
Chôn sống
Treo cổ
Ghế điện
Ném đá
Phanh thây
Phòng hơi ngạt
Tiêm thuốc độc
Thả trôi sông
Tùng xẻo
Voi giày
Tứ mã phanh thây/Ngũ mã phanh thây
Xẻ đôi người (theo chiều dọc)
Lột da
Cung hình
Tru di
Chém ngang lưng
Án tử hình trên thế giới
Tính đến đầu năm 2016, 65 quốc gia vẫn còn luật tử hình, 103 quốc gia đã hoàn toàn bãi bỏ án phạt này, 6 nước bãi bỏ cho những tội thông thường (chỉ duy trì án tử hình trong những trường hợp đặc biệt như tội ác chiến tranh, phản quốc), và 30 còn án tử hình nhưng đã lâu không áp dụng trong thực tế.
Trong một số các quốc gia có án tử hình, nó chỉ được dùng cho tội giết người và tội liên quan đến chiến tranh. Trong một số quốc gia khác, như Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Indonesia, Malaysia, Singapore, Ả Rập Xê Út, Việt Nam... nó còn được áp dụng cho các tội bất bạo động như buôn lậu ma túy và tham nhũng... Nói chung, việc quy định án tử hình dành cho tội danh nào tùy thuộc vào nhu cầu an ninh và mức nghiêm trọng của các loại tội danh tại quốc gia đó.
Ví dụ như Singapore có những quy định tử hình rất nghiêm khắc đối với tội phạm ma túy. Cụ thể những đối tượng mang theo các chất sau với khối lượng tương ứng sẽ bị kết án tử hình: heroin (từ 15 gr trở lên), cocaine (từ 30 gr trở lên), morphine (từ 30 gr trở lên), hashish (từ 200 gr trở lên), methamphetamine (từ 250 gr trở lên), cần sa (từ 500 gr trở lên) và thuốc phiện (từ 1.200 gr trở lên). Với những quy định nghiêm khắc bậc nhất thế giới về kiểm soát ma túy, người Singapore tự hào với tỉ lệ nghiện ma túy tại nước họ thấp hơn rất nhiều so với các quốc gia khác.
Tranh luận
Tổ chức Ân xá quốc tế khuyến khích các quốc gia bãi bỏ án tử hình, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã thông qua, trong năm 2007, 2008, 2010, 2012 và năm 2014, các nghị quyết không ràng buộc kêu gọi đình chỉ tử hình toàn cầu, nhằm cuối cùng bãi bỏ. Tại các quốc gia thành viên EU, theo Hiệp ước Lisbon, Điều 2 của Hiến chương các Quyền Căn bản của Liên minh châu Âu cấm hình phạt tử hình. Ngoài ra, hội đồng châu Âu, mà có 47 quốc gia thành viên, cấm các quốc gia thành viên áp dụng luật tử hình.
Ngược lại, nhiều quốc gia tuyên bố sẽ duy trì án tử hình với mục đích tạo hình phạt đủ sức răn đe với các loại tội phạm nghiêm trọng, nhằm đảm bảo an ninh chung cho xã hội. Lập luận này dựa trên các phân tích sau:
Nếu dựa vào Điều 3 "Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền" (rằng "Mọi người đều có quyền sống, tự do và được bảo vệ an toàn") để diễn giải rằng việc sử dụng hình phạt tử hình là vi phạm nhân quyền thì diễn giải đó là vô lý. Bởi vì, nếu tử hình một ai đó tức là "vi phạm quyền sống" và phải xóa bỏ bản án này, thì đồng thời chính phủ các nước cũng phải xóa bỏ các trại giam tội phạm vì khi giam giữ một ai đó cũng là sự vi phạm "quyền tự do".
Mặt khác, khoản 2 Điều 6 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 quy định: "Ở những quốc gia chưa xóa bỏ hình phạt tử hình thì chỉ được phép áp dụng đối với những tội nghiêm trọng nhất…". Điều này cho thấy, công ước thừa nhận ở những quốc gia khác nhau, tùy theo điều kiện cụ thể mà có thể duy trì hình phạt tử hình "với những tội nghiêm trọng nhất", và thế nào là "những tội nghiêm trọng nhất" cũng không có khái niệm cụ thể mà đó là nội bộ mỗi quốc gia tự quyết định.
Tính nhân đạo của pháp luật phải dung hòa lợi ích của xã hội và lợi ích của người phạm tội. Việc đề cao lợi ích của người phạm tội mà quên đi lợi ích của toàn xã hội không thể xem là thỏa mãn nguyên tắc nhân đạo của pháp luật. Một người phạm tội rất nghiêm trọng, gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng và còn tiếp tục đe dọa đến sự an toàn của xã hội, thì việc nhân đạo đối với tội phạm chính là vô nhân đạo đối với toàn thể cộng đồng xã hội.
Tại Việt Nam
Hiện nay, tại Việt Nam Nghị định 82, có hiệu lực từ ngày 1/11/2011, bãi bỏ hình thức xử bắn mà thay bằng tiêm thuốc độc. Tuy nhiên nghị định này quy định rõ ba loại thuốc sử dụng cho thi hành án tử hình (Natri thiopental gây mê, Kali chloride ngưng tim, Pancuronium bromide liệt thần kinh và cơ bắp), nhưng đều là thuốc mà Việt Nam chưa sản xuất được. Các nước phương Tây lại từ chối bán thuốc độc cho Việt Nam khi biết mục đích là để thi hành án tử hình. Vì vậy, Việt Nam đã tự sản xuất thuốc sử dụng cho thi hành án tử hình từ năm 2014.
Tuy nhiên, Nghị định 82 đã hết hiệu lực vào ngày 15/04/2020 và đã được thay thế bằng Nghị định 43/2020/NĐ-CP. Nghị định 43 đã quy định rõ thuốc tiêm để sử dụng cho thi hành án tử hình bao gồm 03 loại thuốc sau:
- Thuốc làm mất tri giác;
- Thuốc làm liệt hệ vận động;
- Thuốc làm ngừng hoạt động của tim.
Tại Việt Nam, án tử hình chỉ áp dụng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, gồm: Tội xâm phạm an ninh quốc gia/phản quốc, tội giết người, tội hiếp dâm trẻ em, tội phạm về ma túy, tội tham nhũng và tội phạm chiến tranh. Nếu được ân giảm thì chuyển thành tù chung thân. Người chưa đủ 18 tuổi khi gây án, người quá 75 tuổi sẽ không bị tuyên án tử hình.
Nhận xét
Nhà chính trị học Nga Vladimir Kolotov, Trưởng bộ môn lịch sử các nước Viễn Đông Đại học Tổng hợp St. Petersburg, cho rằng phương Tây đang lợi dụng việc "bãi bỏ án tử hình" để can thiệp vào nội bộ các nước, nhằm làm suy yếu luật pháp và an ninh các nước đó. Ông ủng hộ việc Nhà nước Việt Nam duy trì án tử hình với các loại tội phạm nghiêm trọng:
"Tại Việt Nam, pháp luật nhà nước nghiêm khắc đang chứng minh tính hiệu quả. Không có tội phạm có tổ chức, không có khủng bố. Buôn bán ma túy tuy hiện diện ở Việt Nam như ở tất cả các nước Đông Nam Á, nhưng không có quy mô khổng lồ, ví dụ như Philippines là nơi gần 1/3 dân số là người nghiện. Nhưng khi tổng thống Philippines kiên quyết tuyên chiến với những kẻ buôn lậu ma túy thì phương Tây lại hô hào "bảo vệ quyền con người"... Giờ đây, người Anh, người Úc, người Mỹ đang lo lắng cho "quyền con người" ở Việt Nam, đặc biệt là quyền của những kẻ buôn ma túy thường bị kết án tử hình. Cần nhắc rằng, chính người Anh đã đem nha phiến vào Trung Quốc và biến quốc gia này thành con nghiện khổng lồ, còn sản xuất ma túy ở Afghanistan đã tăng gấp nhiều lần sau khi người Mỹ đem quân đánh đổ chính quyền Taliban tại đây...
Việt Nam cần tiến hành chính sách bảo vệ an ninh quốc gia và trừng phạt nghiêm khắc những tội phạm nghiêm trọng theo Luật Hình sự được Quốc hội thông qua. Chấp nhận để phương Tây dẫn dắt và bãi bỏ án tử hình, Việt Nam lập tức sẽ đối đầu với sự gia tăng tổn thất sinh mạng do tội phạm hình sự, làn sóng tội phạm ma túy và tham nhũng, là thực tế mà chúng ta đã chứng kiến ở nhiều quốc gia và đáng tiếc là cả ở Nga"
Luật pháp Việt Nam quy định không tuyên án tử hình với người dưới 18 tuổi hoặc người trên 75 tuổi. Hiện nay, sau một số vụ trọng án nhưng không bị tuyên án tử hình do chưa đủ 18 tuổi (ví dụ như Vụ án Lê Văn Luyện giết 3 người), có nhiều dư luận tại Việt Nam đề nghị cần hạ độ tuổi không bị tuyên án tử hình.
Tường thuật 2017
Tổ chức Ân xá Quốc tế tường thuật, năm 2016, có 1.032 vụ tử hình được ghi nhận, nhưng con số thực sự sẽ cao hơn nhiều (do nhiều nước không công bố số liệu hoặc thống kê không đầy đủ), con số này giảm 37% so với năm trước. Benin và Nauru hủy bỏ luật tử hình. Tổng cộng 141 nước đã hủy bỏ luật tử hình hoặc đã lâu không thi hành nó nữa. Việt Nam theo Bộ Công an từ tháng 8 năm 2013 đến 30 tháng 6 năm 2016 có 429 người bị xử tử hình, và như vậy trở thành nước có số án tử hình nhiều thứ 3 sau Trung Quốc và Iran.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Có nên giữ án tử hình?: BBC Việt ngữ
Chương 26: Thi hành hình phạt tử hình Luật số 19/2003/QH11 của Quốc hội: Bộ luật Tố tụng Hình sự, ban hành ngày 10/12/2003
Tranh cãi đạo đức tư pháp
Chính sách xã hội
Hệ thống hình sự
|
26697
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C3%B2ng%20tr%C3%B2n%20%C4%91%E1%BB%93ng%20ru%E1%BB%99ng
|
Vòng tròn đồng ruộng
|
Vòng tròn đồng ruộng (tiếng Anh: crop circle) là một khu vực trồng ngũ cốc hay cây trồng nói chung bị san phẳng một cách có hệ thống thành nhiều mẫu hình học khác nhau.
Dù nhiều chuyên gia tự phong quy nguyên nhân cho những hiện tượng thiên nhiên huyền bí hay người ngoài hành tinh, có sự đồng thuận khoa học rằng hầu như tất cả các trường hợp là do con người. Tuy nhiên hầu như không có nghiên cứu khoa học nghiêm túc nào về hiện tượng này. Chỉ có ba bài báo có bình duyệt được đăng, hai trong số đó là của TS Levengood, ủng hộ giả thuyết phi nhân tạo.
Năm 1991, Bower và Chorley tuyên bố là tác giả của nhiều vòng trong khắp nước Anh và một trong những vòng tròn của họ đã được chứng nhận là không thể tạo ra bởi con người bởi một nhà điều tra vòng tròn trước các nhà báo.
Lịch sử
Hiện tượng vòng tròn đồng ruộng được ghi nhận sớm trong lịch sử, bức tranh khắc gỗ "Mowing-Devil" vào thế kỷ 14, miêu tả một kẻ kỳ lạ đang tạo nên vòng tròn trên cánh đồng ngô.
Bower và Chorley
Năm 1991, Doug Bower và Dave Chorley đã nổi tiếng khi tự thú nhận đã khởi động hiện tượng này năm 1978 bằng những công cụ đơn giản bao gồm một tấm ván gỗ, dây thừng, và một chiếc mũ bóng chày đựng một cuộn dây để giúp họ đi thẳng. Để chứng minh, họ tạo một vòng tròn trước mặt các nhà báo; một "cereologist" (người cổ vũ cách lý giải siêu nhiên), Pat Delgado, đã nghiên cứu vòng tròn và xác định nó là thật trước khi người ta bật mí nó là một trò lừa. Lấy cảm hứng từ những câu chuyện về vòng tròn đồng ruộng ở Úc từ 1966, Bower và Chorley nói họ chịu trách nhiệm cho tất cả các vòng tròn trước 1987 và hơn 200 cái trong khoảng 1978-1991 (với khoảng 1000 cái khác không phải của họ). Sau tuyên bố của họ, hai người trình diễn việc tạo ra một vòng tròn đồng ruộng. Theo giáo sư Richard Taylor, "những hình họ vẽ đã truyền cảm hứng cho lan sóng thứ hai của những nghệ sĩ đồng ruộng. Hoàn toàn không xẹp xuống, các vòng tròn đồng ruộng tiến triển thành một hiện tượng quốc tế, với hàng trăm hình vẽ phức tạp xuất hiện hàng năm khắp địa cầu."
Tạp chí Smithsonian viết:
Từ khi các vòng tròn của Bower và Chorley xuất hiện, các thiết kế hình học đã tăng tiến về quy mô và độ phức tạp, khi mỗi năm những nhóm vô danh đặt bẫy những du khách New Age.
Tham khảo
Liên kết ngoài
The Beautiful World of Crop Circles
Trò lừa bịp UFO
New Age
UFO
Nghiên cứu về UFO
Đường tròn
Ngụy khoa học
Phá hoại
Bí ẩn Trái Đất
|
26698
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/La%20H%E1%BB%91i
|
La Hối
|
La Doãn Chánh (1920 – 1945), nghệ danh La Hối, là một nhạc sĩ Việt Nam, chiến sĩ chống phát xít Nhật và tác giả nhạc phẩm nổi tiếng Xuân và tuổi trẻ.
Tiểu sử
La Hối sinh năm 1920 tại Hội An (Quảng Nam) trong một gia đình gốc Quảng Đông (Trung Quốc) đã định cư nhiều đời tại Việt Nam. Ngay từ nhỏ ông đã thể hiện năng khiếu về âm nhạc. Trong những năm 1936–1938, La Hối học ở Sài Gòn, thời gian này ông có dịp học hỏi, trau dồi âm nhạc cổ điển phương Tây.
Năm 1939, La Hối và các bạn thành lập Hội Hiếu nhạc (Société Philharmonique) do ông làm hội trưởng. Một số nhạc sĩ nổi tiếng bây giờ như Dương Minh Ninh (tác giả ca khúc Gấm vàng), Lê Trọng Nguyễn (tác giả Nắng chiều), Lan Đài (tác giả Chiều tưởng nhớ)... đã từng được ông hướng dẫn âm nhạc.
Năm 1945, La Hối gia nhập và trở thành một trong những người lãnh đạo một tổ chức chống phát xít Nhật. Ông cùng các đồng chí in truyền đơn, nổ bom, phá đường, phá cầu, tập kích quân đội Nhật. Tháng 5 năm 1945, La Hối và 10 đồng chí bị hiến binh Nhật bắt. Sau khi bị tra tấn tàn nhẫn, tất cả bị xử bắn, chôn chung một mộ tại chân núi Phước Tường, Đà Nẵng, nay đã được cải táng về Nghĩa trang chống phát xít Nhật ở Hội An. Khi ấy ông vừa mới 25 tuổi.
Nhạc phẩm Xuân và tuổi trẻ của ông vốn do Diệp Truyền Hoa đặt lời tiếng Hoa. Sau khi ông mất, nhà thơ Thế Lữ đến Quảng Nam, biết được gương hy sinh dũng cảm của ông, đã xúc động mà đặt lời Việt cho ca khúc. Ngoài Xuân và tuổi trẻ, La Hối còn có một ca khúc khác là Xuân sắc quê hương.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Nhạc sĩ La Hối trên trang Nhịp cầu âm nhạc
Nhạc sĩ tiền chiến
Người Quảng Nam
Người Việt gốc Hoa
Họ La
|
26702
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chelsea%20F.C.
|
Chelsea F.C.
|
Câu lạc bộ bóng đá Chelsea () là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp của Anh có trụ sở tại Fulham, London. Được thành lập vào năm 1905, câu lạc bộ hiện đang thi đấu tại Premier League, giải đấu hàng đầu của bóng đá Anh. Chelsea là một trong những câu lạc bộ thành công nhất nước Anh, giành được hơn 30 danh hiệu, bao gồm 6 chức vô địch quốc gia và 7 danh hiệu châu Âu. Sân nhà của họ là Stamford Bridge.
Chelsea giành được danh hiệu lớn đầu tiên, chức vô địch Football League vào năm 1955. Câu lạc bộ đã giành được Cúp FA lần đầu tiên vào năm 1970 và danh hiệu châu Âu đầu tiên của họ, Winners' Cup, vào năm 1971. Sau một thời gian sa sút vào cuối những năm 1970 và 1980, câu lạc bộ đã hồi sinh vào những năm 1990 và gặt hái được nhiều thành công hơn trong các giải đấu cúp. Hai mươi lăm năm qua là giai đoạn thành công nhất trong lịch sử của Chelsea: họ giành được năm chức vô địch Premier League, bảy FA Cup, bốn League Cup, một FIFA Club World Cup, hai UEFA Champions League và hai UEFA Europa League. Chelsea là một trong năm câu lạc bộ đã vô địch cả ba giải đấu cấp câu lạc bộ chính của UEFA, là câu lạc bộ Anh đầu tiên giành được cú ăn ba giải đấu của UEFA và là câu lạc bộ London duy nhất vô địch Champions League.
Màu sắc trang phục sân nhà của Chelsea là áo sơ mi màu xanh hoàng gia và quần đùi với tất trắng. Huy hiệu của câu lạc bộ có hình một con sư tử chồm hung hăng cầm cây quyền trượng. Câu lạc bộ là đội bóng kình địch với Arsenal, Tottenham Hotspur và Leeds United. Dựa trên số liệu tham khảo, câu lạc bộ có lượng người hâm mộ lớn thứ sáu ở Anh. Xét về giá trị câu lạc bộ, Chelsea là câu lạc bộ bóng đá có giá trị lớn thứ sáu trên thế giới, đáng giá 2,13 tỷ bảng Anh (2,576 tỷ đô la) và là câu lạc bộ bóng đá có thu nhập cao thứ tám trên thế giới, với thu nhập hơn 428 triệu euro trong mùa giải 2017–18. Kể từ năm 2022, Chelsea thuộc sở hữu của tỷ phú người Mỹ Todd Boehly.
Lịch sử
Giai đoạn đầu
Năm 1904, Gus Mears mua lại sân vận động thể thao Stamford Bridge với mục đích biến nó trở thành một sân bóng đá. Lời đề nghị cho câu lạc bộ ở gần đó Fulham thuê sân đã bị từ chối, vì thế Mears tự làm chủ một câu lạc bộ để sử dụng sân bóng đá. Do đã có đội bóng mang tên Fulham ở trong quận, tên của quận lân cận Chelsea được lựa chọn cho câu lạc bộ mới; các tên như Kensington FC, Stamford Bridge FC và Luân Đôn FC cũng đã được xem xét chọn lựa. Chelsea được thành lập ngày 10 tháng 3 năm 1905 tại quán rượu The Rising Sun (nay là The Butcher's Hook), đối diện với lối vào chính của sân vận động ngày nay nằm trên đường Fulham Road, và được lựa chọn vào Football League ngay sau đó.
Câu lạc bộ lên First Division ngay trong mùa giải thứ hai của họ, và lên xuống hạng thường xuyên giữa First và Second Divisions trong những năm đầu thành lập. Họ vào tới Chung kết FA Cup 1915, nơi đã để thua Sheffield United trên sân Old Trafford, và kết thúc ở vị trí thứ ba tại First Division năm 1920, thành tích tốt nhất của câu lạc bộ tại giải quốc gia thời điểm đó. Chelsea thu hút một lượng đông đảo khán giả tới sân và tạo được danh tiếng vì ký được hợp đồng với những cầu thủ có tên tuổi, nhưng thành công vẫn lẩn trốn câu lạc bộ những năm giữa hai cuộc chiến.
Cựu tiền đạo trung tâm của Arsenal và tuyển Anh Ted Drake trở thành huấn luyện viên trưởng năm 1952 và tiến hành hiện đại hóa câu lạc bộ. Ông đã cho bỏ biểu trưng người hưu trí Chelsea, cải thiện hệ thống đào tạo trẻ và phương pháp luyện tập, tái xây dựng đội bóng với những cầu thủ từ các giải đấu thấp hơn và nghiệp dư, ông đã dẫn dắt Chelsea giành được danh hiệu lớn đầu tiên – chức vô địch quốc gia – mùa giải 1954–55. Mùa giải sau đó UEFA tạo ra European Champions' Cup, nhưng do sự phản đối từ The Football League và FA Chelsea đã bị buộc thuyết phục rút lui khỏi giải đấu từ trước khi nó khởi tranh. Chelsea đã thất bại trong việc duy trì thành công và chỉ kết thúc ở khu vực giữa bảng xếp hạng trong những năm 1950 sau đó Tommy Docherty lên làm huấn luyện viên kiêm cầu thủ.
Docherty xây dựng đội bóng mới xung quanh một nhóm các cầu thủ trẻ tài năng đang nổi từ hệ thống đào tạo trẻ của câu lạc bộ, Chelsea luôn nằm trong nhóm tranh chấp danh hiệu suốt những năm 1960, tuy nhiên đều không thành công. Mùa giải 1964–65 họ có cơ hội giành cú ăn ba League, FA Cup và League Cup đến những vòng đấu cuối cùng, tuy nhiên họ chỉ giành được League Cup và thất bại ở hai giải đấu còn lại. Trong ba mùa giải đội bóng để thua ở ba trận bán kết của các giải đấu lớn và một lần giành á quân FA Cup. Dưới thời người kế nhiệm Docherty, Dave Sexton, Chelsea giành chức vô địch FA Cup năm 1970, đánh bại Leeds United 2–1 trong trận đá lại chung kết. Chelsea cũng giành danh hiệu châu Âu đầu tiên, UEFA Cup Winners' Cup, năm sau đó, trong một trận đá lại khác, lần này là trước Real Madrid ở Athens.
Cuối những năm 1970 đến những năm 1980 là một thời kỳ hỗn loạn của Chelsea. Do tham vọng mở rộng Stamford Bridge đã đe dọa đến tình hình tài chính của câu lạc bộ, các cầu thủ ngôi sao bị bán đi còn đội bóng thì xuống hạng. Vấn đề khác nữa là các nhóm hooligan khét tiếng ở trong cổ động viên, làm đau đầu câu lạc bộ hàng thập kỷ. Năm 1982, Chelsea đã gặp may trong giai đoạn đen tối nhất khi được thu mua lại bởi Ken Bates với giá tượng trưng một bảng Anh, mặc dù lúc đó quyền sử dụng sân Stamford Bridge đã bị bán cho các nhà phát triển bất động sản, điều đó có nghĩa câu lạc bộ phải đối mặt với nguy cơ mất sân nhà. Trên sân cỏ, đội bóng có cải thiện theo chiều hướng tốt hơn, từ việc đối mặt với nguy cơ xuống Third Division lần đầu tiên, nhưng đến năm 1983 huấn luyện viên John Neal đã tạo nên một đội bóng mới ấn tượng với kinh phí hạn hẹp. Chelsea giành chức vô địch Second Division mùa 1983–84 và trụ vững tại giải đấu cao nhất, trước khi xuống hạng một lần vào năm 1988. Câu lạc bộ ngay lập tức trở lại sau khi vô địch Second Division mùa 1988–89.
Sau một thời gian dài đấu tranh pháp lý, Bates giành lại quyền sử dụng sân cho câu lạc bộ vào năm 1992 với thỏa thuận với ngân hàng chủ nợ của công ty bất động sản, công ty bị phá sản do sụp đổ thị trường. Thành tích của Chelsea khi thi đấu tại giải đấu Premier League mới là tương đối thuyết phục, mặc dù họ chỉ vào đến Chung kết FA Cup 1994 với Glenn Hoddle. Cho đến khi bổ nhiệm Ruud Gullit với tư cách cầu thủ kiêm huấn luyện viên năm 1996, số phận câu lạc bộ thay đổi. Ông mang về những cầu thủ quốc tế hàng đầu, câu lạc bộ vô địch FA Cup năm 1997 và một lần nữa trở lại với vị thế của một trong những câu lạc bộ hàng đầu nước Anh. Gullit được thay thế bởi Gianluca Vialli, người đưa đội bóng giành chức vô địch League Cup, UEFA Cup Winners' Cup và UEFA Super Cup năm 1998, FA Cup năm 2000 và lần đầu tham dự UEFA Champions League. Vialli bị sa thải và được thay bởi Claudio Ranieri, người đưa Chelsea tới Chung kết FA Cup 2002 và vòng loại Champions League mùa 2002–03.
Thời chủ tịch Roman Abramovich (2003-2022)
Nhiệm kỳ đầu của Mourinho (2004-2007)
Tháng 6 năm 2003, Bates bán Chelsea cho tỉ phú người Nga Roman Abramovich với giá 140 triệu bảng Anh. Trong năm đầu làm chủ tịch Chelsea, Roman Abramovich đã chi ra tổng cộng gần 111 triệu bảng Anh để tái thiết lại Chelsea. Những tân binh được mua về bao gồm Hernán Crespo, Adrian Mutu, Claude Makélélé hay Damien Duff. Với số tiền đã bỏ ra, Chelsea được mong đợi trở thành một ông lớn, tuy nhiên dưới sự dẫn dắt của huấn luyện viên Claudio Ranieri, niềm hi vọng đó bị dập tắt khi Chelsea không giành được bất kì một danh hiệu nào, họ xếp sau Arsenal tại Giải ngoại hạng, và bị đối thủ này loại ở Cúp FA. Ở UEFA Champions League năm 2004, Chelsea cũng đã lọt vào vòng bán kết trước khi dừng bước trước AS Monaco. Với việc trắng tay trên tất cả các giải đấu, Ranieri đã bị sa thải sau đó.
Sang mùa giải tiếp theo, Chelsea đã mời được huấn luyện viên người Bồ Đào Nha, ông José Mourinho về dẫn dắt The Blues. Mùa hè năm ấy, Chelsea đã có những sự bổ sung lực lượng quan trọng sau một mùa giải trắng tay như thủ môn Petr Čech, tiền đạo Didier Drogba hay hậu vệ Ricardo Carvalho. Mùa giải ấy Chelsea đã lật đổ sự thống trị của Arsenal và Manchester United khi đăng quang ngôi vô địch Giải Ngoại hạng Anh cùng điểm số kỷ lục 95 điểm với 29 trận thắng, hòa 8 trận và chỉ thua duy nhất 1 trận. Ngoài ra họ cũng giành được một danh hiệu khác là Cúp liên đoàn Anh sau chiến thắng kịch tính 3-2 sau 120 phút thi đấu tại trận chung kết với câu lạc bộ Liverpool. Tại Cup châu Âu năm ấy, Chelsea của Người Đặc Biệt José Mourinho dễ dàng vượt qua vòng bảng với thành tích xếp thứ nhất. Tại vòng 1/16, The Blues tiếp đón gã khổng lồ xứ Catalan, câu lạc bộ Barcelona. Mặc dù để thua 1-2 ở trận lượt đi trên sân Camp Nou, nhưng với chiến thắng bằng phong độ xuất sắc với tỷ số 4-2 ở trận lượt về diễn ra trên sân Stamford Bridge đã giúp Chelsea tiến vào vòng tứ kết. Đối thủ tiếp theo của Chelsea là câu lạc bộ số một nước Đức, Bayern Munich. Trận lượt đi diễn ra vào tháng 4 năm 2005, Chelsea đã đánh bại đại diện đến từ Đức với tỷ số 4-2. Mặc dù ở trận lượt về sau khi dẫn trước 2-1, Chelsea đã để Bayern ghi liền 2 bàn thắng và sau đó để thua 2-3, nhưng vẫn đủ để giúp The Blues giành vé vào vòng 4 đội mạnh nhất. Ở vòng 4 đội, Chelsea đón tiếp một đối thủ cũng đến từ nước Anh là câu lạc bộ Liverpool. Mặc dù đã cầm hòa được Lữ đoàn Đỏ ở trận lượt đi trên sân nhà, nhưng với "Bàn thắng ma" ở trận lượt về đã khiến đoàn quân của Mourinho đành dừng bước.
Mùa giải 2005-06 của Chelsea mở đầu bằng trận tranh Cúp FA Community Shield với đối thủ cùng thành phố Arsenal. Kết quả Chelsea đã vượt qua kình địch thành Luân Đôn với cú đúp của tiền đạo Didier Drogba, qua đó giành lấy danh hiệu đầu tiên của mùa giải. Tuy nhiên mùa giải 2005-06 chỉ có thể xem là tạm chấp nhận được khi Chelsea chỉ giành được 1 chức vô địch quốc gia. Tại giải Ngoại hạng Anh, họ tiếp tục vô địch với thành tích 29 trận thắng như mùa trước, hòa 4 và thua 5 trận. Đáng chú ý là trận thắng 3-0 của The Blues trước câu lạc bộ Manchester United. Tại Cup Liên Đoàn Anh, Chelsea bất ngờ trở thành cựu vương khi để thua 1 câu lạc bộ được đánh giá thấp hơn đến từ giải hạng dưới, Charlton Athletic. Dù được thi đấu trên sân nhà, nhưng Chelsea vẫn bị Charlton cầm chân 1-1 dẫn đến loạt sút luân lưu. Trên chấm phạt đền, hậu vệ Robert Huth đã đá hỏng trong khi 5 cầu thủ bên phía Charlton đều thực hiện thành công, qua đó khiến Chelsea bị loại. Còn tại Cúp FA, câu lạc bộ dừng chân trước đối thủ Liverpool sau khi để đối thủ này nhanh chóng dẫn trước 2-0, dù gỡ được 1 bàn nhờ công của Drogba nhưng Chelsea đành chấp nhận thất bại 1-2 và bị loại. Tại cúp châu Âu, một lần nữa The Blues lại gặp đối thủ Barcelona. Những lần này người bị loại lại là Chelsea sau khi để thua 1-2 trên sân nhà ở trận lượt đi, và chỉ có kết quả hòa 1-1 trên sân Camp Nou.
Mùa hè năm 2006, Chelsea đã ký hợp đồng với tiền đạo Andriy Shevchenko với mức phí 30 triệu bảng, nhưng đây là một bản hợp đồng có thể bị xem là hớ khi Shevchenko không thể tỏa sáng và mờ nhạt trước khi bị Mourinho cho dự bị. Mùa giải 2006-07 mở đầu khi đội bóng áo xanh để thua trận tranh Siêu cúp nước Anh trước Liverpool với tỉ số 1-2. Tiếp theo, đây cũng là mùa giải Chelsea không thể bảo vệ thành công ngôi vô địch Giải Ngoại hạng Anh. Câu lạc bộ xếp vị trí thứ 2 chung cuộc sau Manchester United. Mặc dù mất ngôi vô địch vào tay đối thủ đến từ Manchester nhưng Chelsea của Mourinho vẫn có thêm 2 danh hiệu từ Cúp FA và Cup Liên Đoàn Anh. Đối thủ tại 2 trận chung kết ấy chính là kình địch lâu năm của The Blues, câu lạc bộ Arsenal và tân vương Manchester United. Tại trận chung kết Cúp Liên Đoàn diễn ra tại Sân vận động Thiên niên kỷ ở Cardiff, Arsenal sớm có bàn thắng vượt lên dẫn trước nhờ bàn thắng của Theo Walcott nhưng với cú đúp của chân sút tốt nhất của Chelsea những mùa giải gần đây, Didier Drogba đã giúp Chelsea lật ngược thế cờ và giành được danh hiệu đầu tiên của mùa giải. Còn trận chung kết FA Cup tiếp đón Manchester United diễn ra trên Sân vận động Wembley, vẫn là bàn thắng của tiền đạo Drogba đã giúp Chelsea vượt qua MU để có được danh hiệu thứ 2 trong mùa giải. Tại UEFA Champions League năm 2007, Chelsea một lần nữa lọt vào vòng tứ kết, nhưng họ lại tiếp tục dừng bước trước đối thủ quen thuộc Liverpool. Cả hai lượt trận khép lại tổng tỉ số hòa 1-1 với chiến thắng 1-0 cho mỗi đội, trong loạt sút luân lưu, Chelsea với 2 pha đá hỏng ăn của Arjen Robben và Geremi Njitap đã giúp cho Liverpool có chiến thắng còn Chelsea bị loại.
Mùa giải 2007-08 được xem là mùa giải cuối cùng mà José Mourinho dẫn dắt Chelsea. Truyền thông đã đưa tin rằng Người đặc biệt đang có xích mích với ông chủ người Nga, Roman Abramovich về việc Mourinho ép tiền đạo Andriy Shevchenko phải ngồi dự bị. Chelsea khởi đầu mùa giải bằng trận thua trước Manchester United tại trận tranh Siêu cúp nước Anh. Sau 120 phút với tỉ số hòa 1-1, 2 đội tiến đến loạt sút luân lưu và danh hiệu đã thuộc về MU sau khi 3 cầu thủ bên phía Chelsea là Frank Lampard, Claudio Pizarro và Shaun Wright-Philipps đá hỏng. Khi Giải ngoại hạng Anh diễn ra, Chelsea khởi đầu khá thuận lợi sau 4 trận đầu giành được 10 điểm. Nhưng tại vòng 5 họ bất ngờ bị Aston Villa đánh bại với tỉ số 2-0, và sau đó để Blackburn Rovers cầm hòa trên sân nhà, cộng với việc mối quan hệ bất đồng giữa huấn luyện viên Mourinho và chủ tịch Abramovich thì vào ngày 20 tháng 9, Mourinho chính thức bị sa thải, thay thế ông là Avram Grant. Nhưng Avram Grant cũng chỉ có thể giúp Chelsea giành ngôi á quân tại giải vô địch quốc gia, sau đó là trận thua 1-2 trước câu lạc bộ Tottenham Hotspur tại trận chung kết Cúp Liên Đoàn. Và cay đắng hơn, năm đó Chelsea đã lọt vào trận Chung kết UEFA Champions League 2008 gặp Manchester United. Sau 120 phút hòa nhau 1-1, thì trong loạt sút luân lưu, tưởng chừng chức vô địch đã thuộc vể Chelsea sau pha đá hỏng của Cristiano Ronaldo, nhưng bất ngờ trung vệ John Terry lại trượt chân trong loạt sút của mình dẫn đến quả bóng bay chạm cột dọc và ra ngoài, sau đó pha đá của Nicolas Anelka bị thủ môn Edwin van der Sar cản phá dẫn đến thất bại của Chelsea. Với việc phải về nhì cả ba lần, khi mùa giải kết thúc, Avram Grant phải ra đi.
Thời hậu Mourinho
Trước khi mùa giải 2008-09 khởi tranh, Chelsea đã bổ nhiệm huấn luyện viên Luiz Felipe Scolari, người từng vô địch World Cup 2002 để dẫn dắt đội bóng. Scolari đã giúp Chelsea dẫn đầu bảng xếp hạng sau 13 vòng đấu trước khi phải xuống vị trí thứ 2 sau trận hòa 0-0 với Newcastle United. Sau đó câu lạc bộ lần lượt để thua các đổi thủ lớn như Arsenal, Manchester United và Liverpool. Tại Cúp Liên Đoàn, Chelsea còn để thua mất mặt trước Burnley trên sân nhà và phải bị loại sớm. Đến đầu tháng 2, Chelsea đã rơi xuống vị trí thứ 4 trên bảng xếp hạng sau trận hòa thất vọng trước Hull City trên sân nhà Stamford Bridge. Hệ quả sau đó Scolari bị sa thải, và thay thế ông là huấn luyện viên tạm quyền người Hà Lan, Guus Hiddink. Mặc dù Hiddink không thể giúp Chelsea giành ngôi vô địch nhưng vị trí thứ ba của Chelsea trên bảng xếp hạng cũng giúp ông chiếm được cảm tình từ phía người hâm mộ, trong đó có trận thắng đậm đà 4-1 trên sân của kình địch cùng thành phố Arsenal. Tại Cúp châu Âu, Chelsea cũng vào đến vòng bán kết gặp Barcelona. Lượt đi Chelsea đã có lợi thế khi không để thua trước Barca và cầm chân đối thủ trên sân Camp Nou. Lượt về tại Stamford Bridge, Chelsea có khởi đầu tốt khi Michael Essien lập công đưa Chelsea vượt lên dẫn trước. Tuy nhiên trong cả trận đấu, The Blues đã bị trong tài từ chối 5 quả Penalty và kết quả vào phút 90+3, tiền vệ Andres Iniesta bên phía Barca với 1 cú sút xa thành bàn để cân bằng tỉ số 1-1, qua đó Chelsea bị loại bởi luật bàn thắng trên sân khách. Danh hiệu duy nhất mà Hiddink giúp Chelsea có được là chiếc Cúp FA. Trong trận chung kết gặp Everton, Louis Saha đã ghi bàn đưa đội bóng thành phố cảng vượt lên dẫn trước, để rồi sau đó Didier Drogba và Frank Lampard lần lượt lập công giúp Chelsea đánh bại Everton và thoát khỏi một mùa giải trắng tay. Sau đó Guus Hiddink đã chia tay câu lạc bộ sau khi hết hạn hợp đồng, người thay thế ông là Carlo Ancelotti, cựu huấn luyện viên của AC Milan.
Mùa giải 2009-10, huấn luyện viên Ancelotti đã làm rất tốt công việc của mình khi ông giúp Chelsea đánh bại Man Utd ở trận tranh Siêu Cúp nước Anh, ngoài ra đưa đội bóng lên ngôi vô địch Giải Ngoại hạng Anh lần thứ 4 trong lịch sử. Đây được xem là mùa giải kịch tính nhất của đội bóng. Bởi cho đến vòng đấu thứ 32, Chelsea vẫn đang xếp sau Manchester United với 2 điểm ít hơn. Và tại vòng đấu thứ 33 được xem là trận chung kết để quyết định ngôi vương khi Chelsea tiếp đón Man United trên sân Old Trafford của đối thủ. Mặc dù thi đấu trên sân của đối phương và chịu sức ép từ phía cổ động viên của đối thủ, nhưng Chelsea đã giành được chiến thắng với tỉ số 2-1 qua đó vượt lên chính MU để lên ngôi nhất bảng. Cả Chelsea lẫn Man Utd còn cạnh tranh nhau cho đến vòng đấu cuối cùng bởi cách biệt chỉ là 1 điểm. Kết quả vòng thứ 38, Chelsea đại thắng Wigan Athletic với tỉ số 8-0 trong đó có cú hattrick của Didier Drogba, qua đó chấm dứt hi vọng của Manchester United và lần thứ 4 lên ngôi vô địch. Ancelotti còn giúp Chelsea đăng quang 1 đấu trường khác là Cúp FA. Đội bóng áo xanh đã vượt qua những đối thủ khó chịu để đến với trận chung kết. Một lần nữa tiền đạo Drogba tỏa sáng với một pha sút phạt ghi bàn vào lưới Portsmouth để ấn định tỉ số 1-0 cho Chelsea. Ở Cúp Liên Đoàn, Chelsea tiến đến trận đấu thứ 3 trước khi thất bại 3-4 trong loạt sút luân lưu với Blackburn Rovers. Còn tại UEFA Champions League mùa giải 2009-10, Chelsea cũng đã vượt qua vòng bảng với vị trí nhất bảng đấu. Đối thủ của họ tại vòng 1/16 là câu lạc bộ Inter Milan đang được dẫn dắt bởi một người cũ José Mourinho. Chelsea đành dừng cuộc chơi sau khi để thua 1-2 ở lượt đi và 0-1 ở lượt về. Mặc dù không thể giúp Chelsea vô địch Cúp châu Âu, nhưng cú đúp danh hiệu ngay trong mùa đầu tiên dẫn dắt cũng là một sự thành công của Ancelotti và đội bóng.
Sang mùa giải tiếp theo, mùa giải 2010-11 được xem là một năm thi đấu thất bại của Chelsea. Đầu tiên là thất bại 1-3 ở trận tranh Siêu Cúp đầu mùa, sau đó họ bị Manchester United bỏ xa trên bảng xếp hạng, đồng thời để mất điểm trong một số những trận cầu lớn khi đối đầu với Liverpool, Manchester City, hay Everton và Arsenal. Câu lạc bộ nhanh chóng bị loại khỏi Cúp Liên Đoàn khi thua trên sân nhà 3-4 trong một trận cầu có 7 bàn thắng được ghi trước câu lạc bộ Newcastle United. Khi nhận thấy tiền đạo Didier Drogba đã có tuổi, đồng thời hàng hậu vệ thường mắc những sai lầm, nên vào kì chuyển nhượng mùa đông năm 2011, Chelsea đã ký hợp đồng với tiền đạo Fernando Torres của Liverpool với mức phí 50 triệu bảng Anh, kỉ lục của câu lạc bộ, đồng thời mua hậu vệ David Luiz của Benfica để bổ sung hàng thủ. Nhưng Torres đã đánh mất phong độ kể từ khi chuyển sang Chelsea, một mình David Luiz thì không đủ để giúp Chelsea tránh những bàn thua. Mãi đến gần cuối mùa giải, phong độ của Chelsea mới được hồi phục bằng 8 trận thắng và hòa 1 trận. Tuy nhiên trận thua 1-2 trước Manchester United đã khiến Chelsea đành chấp nhận trở thành cựu vương, trực tiếp trao chức vô địch cho đối thủ. Còn ở Cúp FA, Chelsea cũng phải dừng bước trước Everton dù được thi đấu trên sân nhà. Sau khi hòa nhau 1-1 qua 120 phút, ở loạt sút luân lưu, 2 cầu thủ bên phía Chelsea là Nicolas Anelka và Ashley Cole đã đá hỏng, qua đó dẫn đến thất bại 3-4 trong loạt sút khiến Chelsea bị loại. Ở Cúp châu Âu mùa giải ấy, Chelsea đã tiến đến vòng tứ kết, và một lần nữa họ lại bị đối thủ ở nước Anh của mình là Manchester United loại khi đã để thua ở cả hai lượt trận (0-1 lượt đi và 1-2 lượt về). Với kết quả trắng tay sau một mùa giải, Chelsea đã có một cuộc họp đi đến quyết định sa thải huấn luyện viên Carlo Ancelotti.
Giai đoạn vô địch châu Âu
Sang mùa hè năm 2011, Chelsea đã tìm được người thay thế huấn luyện viên Ancelotti, đó là một người Bồ Đào Nha, ông André Villas-Boas, một huấn luyện viên trẻ vừa giúp Porto đăng quang ngôi vô địch UEFA Europa League mùa giài trước, đồng thời được mệnh danh là Mourinho đệ Nhị. Được kỳ vọng rất nhiều, nhưng Villas-Boas không thể giúp Chelsea khẳng định được mình tại Giải ngoại hạng Anh. Đầu tiên là việc Chelsea để thua Manchester United 1-3 vào tháng 9 năm 2011, sau đó là trận thua mất mặt 3-5 trên sân nhà trước kình địch cùng thành phố Arsenal và thất bại 1-2 trước Liverpool ở cả giải vô địch quốc gia và 0-2 ở Cúp Liên Đoàn. Đến tháng 3 năm 2012, sau trận thua 0-1 trên sân của West Brom, sự kiên nhẫn của Abramovich đã đạt giới hạn, ngay sau trận thua, Chelsea đã ra phương án sa thải huấn luyện viên người Bồ, và thay thế ông là trợ lý Roberto Di Matteo. Di Matteo sau đó đã giúp Chelsea thi đấu cực kỳ thăng hoa. Từ chỗ họ đã để thua 1-3 tại UEFA Champions League bởi đại diện đến từ Ý, Napoli, câu lạc bộ đã thi đấu cực kì xuất sắc ở trận lượt về, và đánh bại đối thủ 4-1 để tiến vào vòng tứ kết một cách thuyết phục. Sau đó đối thủ của Chelsea là Benfica. Chelsea đã không gặp khó khăn khi đánh bại câu lạc bộ của Bồ Đào Nha với tổng tỉ số 3-1 sau 2 lượt trận (1-0 lượt đi và 2-1 lượt về) để vào vòng 4 đội mạnh nhất. Tại bán kết Chelsea gặp đối thủ duyên nợ của mình là Barcelona. Lượt đi diễn ra trên sân Stamford Bridge, từ 1 pha phản công cuối hiệp 1, Chelsea đã có được 1 bàn thắng nhờ công của Drogba, đó cũng là bàn thắng duy nhất của trận đấu. Tại trận lượt về ở Camp Nou, mặc dù để Barca nhanh chóng dẫn 2-0, nhưng Chelsea vẫn tìm được 1 bàn thắng rút ngắn tỉ số còn 1-2 trước khi Fernando Torres có một pha đi bóng qua thủ môn và ấn định tỉ số hòa 2-2, đưa Chelsea vào chung kết. Đối thủ cuối cùng của họ là câu lạc bộ Bayern Munich, cũng là chủ nhà đăng cai trận chung kết. Tại trận Chung kết UEFA Champions League 2012, tưởng chừng như Chelsea lại lỡ hẹn với chức vô địch châu Âu khi Thomas Müller đánh đầu mở tỉ số vào phút thứ 85, nhưng chỉ vài phút sau đó, Didier Drogba cũng một pha đánh đầu đưa bóng vào lưới của thủ môn Manuel Neuer cân bằng tỉ số 1-1. Trận đấu bước vào hiệp phụ và Bayern Munich có cơ hội đánh bại Chelsea khi Arjen Robben bị phạm lỗi và Chelsea phải chịu một quả 11m. Nhưng thủ môn Petr Čech đã đoán được hướng bóng và cản phá thành công. Trận đấu phải phân định thắng thua trên loạt sút luân lưu, khó khăn lại đến với Chelsea khi tiền vệ Juan Mata đá hỏng quả đầu tiên trong loạt sút của mình, nhưng may mắn đã thuộc về đội bóng áo xanh khi lần lượt Ivica Olić và Bastian Schweinsteiger bên phía Bayern thực hiện không thành công, tạo cơ hội cho Didier Drogba sút tung lưới của Neuer ấn định chiến thắng 4-3 sau loạt luân lưu đồng thời mang chiếc cúp bạc về cho Chelsea. Đây là danh hiệu vô địch châu Âu lần đầu tiên trong lịch sử và cũng là đội bóng thành Luân Đôn đầu tiên giành chức vô địch ở UEFA Champions League. Ngoài Cúp châu Âu ra, Di Matteo còn giúp Chelsea có được một danh hiệu khác là chiếc cúp FA. Trong trận chung kết gặp Liverpool, Chelsea đã vượt lên dẫn trước 2-0 ở đầu hiệp 2, mặc dù Liverpool đã có 1 bàn gỡ, nhưng chiến thắng vẫn thuộc về The Blues.
Sau chức vô địch UEFA Champions League, Chelsea trở thành bến đỗ lý tưởng của nhiều cầu thủ. Với số tiền kiếm được từ mùa giải trước, Chelsea đã có được những chữ ký mới trong đội hình như ngôi sao mới nổi của bóng đá Bỉ Eden Hazard, Oscar dos Santos hay César Azpilicueta, đồng thời Roberto Di Matteo được trao một bản hợp đồng chính thức sau những thành tích mùa giải vừa qua. Chelsea khởi đầu mùa giải với thảm bại 1-4 trước Atletico Madrid tại SIêu cúp Châu âu 2012. Sau đó Chelsea cũng thua Manchester City 2-3 ở trận tranh Siêu Cúp Anh. Mặc cho thành tích đầu mùa kém cỏi, nhưng Di Matteo giúp Chelsea mở đầu mùa giải tại ngoại hạng Anh một cách thuận lợi khi thắng 7 và hòa 1 trong 8 vòng đầu tiên. Tuy nhiên sau trận thua 2-3 trước Man United, Chelsea trải qua chuỗi 6 trận không thắng tại Giải ngoại hạng Anh. Đồng thời Chelsea bị loại ở Cúp châu Âu ngay từ vòng bảng sau trận thua 0-3 trước Juventus, và trở thành đội bóng có thời gian giữ chức vô địch ngắn nhất trong lịch sử Champions League. Với thành tích tệ hại đó, Roberto Di Matteo bị sa thải, thay thế ông là Rafael Benítez. Mặc dù bị sa thải, nhưng Di Matteo vẫn được ghi tên vào lịch sử Chelsea khi là vị huấn luyện viên đầu tiên đưa câu lạc bộ lên ngôi vô địch Champions League. Khi Benitez lên dẫn dắt Chelsea, ông cũng không giúp đội bóng chiến thắng tại hai giải cúp quốc nội là Cúp FA sau khi để thua Manchester City 1-2 tại bán kết, và thất bại 0-2 trước Swansea City ở Cúp Liên Đoàn, cùng với đó là để Corinthians đánh bại trong trận chung kết FIFA Club World Cup 2012. Sau khi xuống chơi tại UEFA Europa League, Benitez với biệt danh "Vua đấu cúp" đã giúp câu lạc bộ này tiến thẳng đến trận chung kết để gặp lại Benfica, đối thủ mà Chelsea đã loại ở Champions League mùa giải trước. Tại trận chung kết, sau hiệp 1 không có bàn thắng, thì từ một pha phát bóng lên của thủ môn Petr Čech, tiền đạo Fernando Torres đã đỡ bóng khôn ngoan trước khi thực hiện 1 pha đi bóng qua thủ môn sở trường của mình để mở tỉ số cho Chelsea. Sau đó Benfica cũng có 1 bàn gỡ nhờ công của Óscar Cardozo trên chấm 11m. Khi trận đấu diễn ra đến phút bù giờ thứ 3, từ một pha đá phạt góc, trung vệ Branislav Ivanović bật cao đánh đầu đưa bóng vào lưới của Benfica, ấn định chiến thắng 2-1, mang về danh hiệu vô địch châu Âu cho Chelsea. Đây là danh hiệu châu Âu thứ hai của Chelsea trong vòng 2 mùa giải, và câu lạc bộ cũng trở thành đội bóng đầu tiên vô địch UEFA Europa League sau khi đã vô địch UEFA Champions League mùa giải trước.
2013–2015: Nhiệm kỳ thứ 2 của Mourinho
Ngày 3 tháng 6 năm 2013, Chelsea thông báo bổ nhiệm José Mourinho lần thứ 2 với bản hợp đồng 4 năm, ông mở đầu nhiệm kỳ bằng trận tranh siêu cup Châu Âu với nhà vô địch UEFA Champions League 2012–13 Bayern Munich, họ cầm hòa 2-2 sau trong thời gian đấu chính thức và hiệp phụ, nhưng để thua 4-5 trên chấm phạt đền, trong mùa giải đầu tiên, Chelsea trắng tay lần đầu tiên kể từ mùa giải 2010–11, khi kết thúc Ngoại hạng anh tại vị trí thứ 3, dừng bước tại bán kết UEFA Champions League khi để thua Atlético Madrid 1-3 sau 2 lượt trận, nhưng Mourinho nói đó là mùa giải chuyển giao của câu lạc bộ.
Trong mùa giải tiếp theo, Chelsea giành chức vô địch Premier League thứ 4 khi đạt 87 điểm, bỏ xa 8 điểm nhiều hơn đội á quân Manchester City, Mourinho cũng giúp Chelsea vô địch League Cup khi đánh bại Tottenham Hotspur 2-0 tại chung kết, nhưng đổi lại họ dừng bước trước PSG tại vòng 16 đội UEFA Champions League, cũng như thua Bradford City tại vòng 4 FA cup.
Mùa giải 2015–16 bắt đầu bằng trận thua 0-1 trước Arsenal tại Siêu cup Anh, sau đó là phong độ tệ hại của nhà vô địch Premier League, cùng với đó là "vụ lùm xùm" của Mourinho với Eva Carneiro. Từ tháng 8 tới tháng 12, Chelsea chỉ thắng 5 trong số 19 trận, và tới ngày 17 tháng 12, Mourinho bị câu lạc bộ sa thải sau khi để thua 1-2 trước Leicester City.
Hậu nhiệm kỳ thứ 2 của Mourinho
Sau khi sa thải Mourinho, Guus Hiddink được mời về làm huấn luyện viên tạm quyền trong phần còn lại của mùa giải 2015–16. Đội bóng có được chuỗi 12 trận bất bại kể từ sau khi Mourinho bị sa thải, với 6 trận thắng và 6 trận hòa. Chuỗi trận kết thúc ngày 16 tháng 2 năm 2016 sau khi Chelsea để thua Paris Saint-Germain trong trận đấu lượt đi vòng 16 đội Champions League. Chelsea sau đó thua trong trận lượt về 2–1 trên sân nhà qua đó bị loại khỏi giải đấu vào ngày 9 tháng 3. Sau đó Chelsea tiếp tục bị loại khỏi FA Cup ngày 12 tháng 3 sau trận thua 2–0 trước Everton. Thành tích tại giải quốc nội được cải thiện khi từ vị trí thứ 16 với 1 điểm hơn nhóm xuống hạng đã leo lên vị trí thứ 8 sau màn ngược dòng khó tin với tỉ số 1–2 trên sân khách trước Southampton.
Thành tích đội bóng bắt đầu đi xuống trận hòa 1–1 thất vọng trên sân nhà trước Stoke City, và 2–2 cũng trên sân nhà trước West Ham, kết quả là Chelsea tụt xuống vị trí thứ 10. Chelsea có chiến thắng 4–1 trên sân của AFC Bournemouth, với lần đầu Eden Hazard ghi bàn trong mùa giải tại giải quốc gia, và sau đó là màn ngược dòng từ tỉ số 0–2 trước đối thủ Tottenham, để có trận hòa 2–2, Hazard một lần nữa ghi bàn để dập tắt hy vọng vô địch của Tottenham tại giải Premier League. Chelsea hòa 1–1 trên sân của Liverpool và hòa 1-1 trên sân nhà trước Leicester City, tại đây Claudio Ranieri– cựu huấn luyện viên của Chelsea, đã được xếp hàng chào danh dự tại vòng cuối. Cựu huấn luyện viên Juventus và huấn luyện viên đương nhiệm của đội tuyển Italia khi đó Antonio Conte được xác nhận là huấn luyện viên trưởng của Chelsea vào tháng 4 năm 2016.
2016–2018: Thời kỳ Antonio Conte
Antonio Conte bắt đầu công việc của mùa giải 2016–17 sau khi Italia hoàn thành UEFA Euro 2016, trong mùa giải đầu tiên Conte giúp Chelsea giành chức vô địch Premier League thứ 5 khi đạt 93 điểm, đồng thời đưa đội vào chung kết FA cup nhưng thua Arsenal 1-2. Trong mùa giải tiếp theo, dù mang về Álvaro Morata từ Real Madrid với mức giá 58 triệu bảng, nhưng Chelsea mở đầu mùa giải khi hòa 1-1 trước Arsenal sau đó thua 1-4 trên chấm phạt đền tại Siêu cup Anh, sau đó Chelsea thi đấu thiếu ổn định cả mùa và trở thành cựu vương khi chỉ đứng thứ 5 với 70 điểm, qua đó mất suất dự Champions League, dù sau đó ông giúp Chelsea đánh bại Man United 1-0 để giành chức vô địch FA Cup, Chelsea đã quyết định sa thải Conte sau khi ông vô địch FA Cup. Như vậy, sau 2 năm dẫn dắt Chelsea, Conte ra đi với 1 danh hiệu Ngoại hạng Anh và 1 FA Cup. Người kế nhiệm Conte nhiều khả năng là Maurizio Sarri.
2018–2019: Thời kỳ Maurizio Sarri
Vào hôm 14/7/2018, Chelsea thông báo ký hợp đồng 3 năm với cựu HLV của Napoli Maurizio Sarri, Sarri mang về Jorginho - trò cưng của ông ở Napoli với mức giá vào khoảng 57 triệu £, cùng thủ môn đắt giá nhất thế giới Kepa Arrizabalaga với mức giá 71 triệu £, ông mở đầu nhiệm kỳ bằng trận thua 0-2 trước Manchester City tại Siêu cup Anh, Sarri giúp đội bóng có 12 trận bất bại đầu muà trước khi thua Tottenham Hotspur 1-3 ở vòng 13, Chelsea kết thúc mùa 2018-19 khi đứng thứ 3 với 72 điểm, Sarri đồng thời đưa đội vào chung kết League Cup nhưng để Manchester City giành chiến thắng 4–3 trên chấm phạt đền sau khi hòa 0-0 cả trận, trong trận Maurizio Sarri muốn thực hiện quyền thay người để đưa Caballero - lão tướng dày dặn kinh nghiệm bắt penalty vào sân thay Kepa. Tuy nhiên, thủ môn người Tây Ban Nha đã kiên quyết từ chối ra sân khiến HLV Sarri rất bực tức.Tuy chỉ gắn bó 1 mùa nhưng ông đã giúp Chelsea vô địch UEFA Europa League lần thứ 2 với tỉ số 4–1 trước Arsenal trong trận chung kết và cũng là danh hiệu đầu tiên của ông trong sự nghiệp cầm quân
2019–2021: Thời kỳ Frank Lampard
Vào ngày 4 tháng 7 năm 2019, Lampard được bổ nhiệm làm huấn luyện viên trưởng mới tại câu lạc bộ cũ Chelsea theo hợp đồng 3 năm, trở thành HLV người Anh đầu tiên của CLB trong hơn 2 thập kỷ. Trong trận đấu đầu tiên của Lampard với Chelsea, câu lạc bộ đã thua 4-0 trước Manchester United vào ngày khai mạc mùa giải Premier League 2019-20. Đó là thất bại lớn nhất đối với một HLV Chelsea trong trận đấu đầu tiên của họ kể từ khi đội bóng của Daniel Blanchflower bị Middlesbrough đánh bại vào ngày 7 tháng 2 năm 1978. Trong trận đấu thứ hai của Lampard với Chelsea, họ đã thua một lần nữa, lần này trước Liverpool ở UEFA Super Cup khi hòa 1-1 cả trận và thua 5-4 trên chấm phạt đền. Vào ngày 24 tháng 8 năm 2019, Lampard có được chiến thắng đầu tiên với tư cách là huấn luyện viên Chelsea tại Premier League trước Norwich City, trong chiến thắng 2-3 trên sân khách. Vào ngày 25 tháng 9 năm 2019, Chelsea đã giành chiến thắng trên sân nhà đầu tiên của họ dưới thời của Lampard khi đánh bại đội bóng Hạng 2 Anh Grimsby Town 7-1 trong EFL Cup. Đội hình trận đấu của Lampard với Grimsby có mười cầu thủ tốt nghiệp học viện, với Marc Guehi, Reece James, Tino Anjorin và Ian Maatsen đều được ra sân cho câu lạc bộ, cùng với đó là suất đá chính ngay từ đầu của Billy Gilmour cho Chelsea. Lampard đã giành giải thưởng Huấn luyện viên của tháng tại Premier League vào tháng 10 năm 2019 sau khi kỷ lục giành chiến thắng 100% của Chelsea trong tháng đó. Anh trở thành người thứ ba đã từng nhận cả giải thưởng Cầu thủ xuất sắc nhất tháng và HLV xuất sắc nhất tháng sau Gareth Southgate và Stuart Pearce. Lampard giúp Chelsea về thứ 4 cuối mùa, đồng thời đưa đội vào chung kết FA cup nhưng thua Arsenal 1-2, còn tại Champions League, Chelsea để thua nhà vô địch cuối mùa Bayern Munich 1-7 tại vòng 16 đội.
Ngày 25 tháng 1 năm 2021, Chelsea sa thải Lampard vì thành tích yếu kém của đội bóng, chưa đầy một ngày sau khi thắng Luton 3-1 ở Cup FA, ông đã bị sa thải sau khi Chelsea trải qua chuỗi trận tồi tệ ở giải Ngoại hạng khi thua 5/8 vòng đấu gần nhất – kết quả khiến đội bóng này tụt xuống tận thứ 9 trên bảng xếp hạng.
2021–2022: Thời kỳ Thomas Tuchel
Thomas Tuchel ký hợp đồng 18 tháng, có tùy chọn gia hạn thêm 1 năm với Chelsea 1 ngày sau khi Lampard bị sa thải, truóc đó Tuchel bị PSG sa thải đúng Giáng sinh, dù nửa năm trước giúp đội bóng Pháp lần đầu vào chung kết Champions League. Tuchel giúp đội có chuỗi 14 trận bất bại, nhưng kết thúc sau thất bại thảm hại 2-5 ngay trên sân nhà trước đội áp chót West Bromwich Albion vào ngày 3 tháng 4. Tuchel đã đưa Chelsea lọt vào trận chung kết FA Cup, nhưng để thua 0-1 trước Leicester City, cũng như đưa Chelsea về thứ 4 cuối mùa tại Ngoại hạng Anh. Tuchel cũng đã giúp Chelsea lọt vào Chung kết Champions League sau khi lần lượt vượt qua Atletico Madrid, Porto và Real Madrid, qua đó trở thành huấn luyện viên đầu tiên lọt vào 2 trận chung kết Champions League liên tiếp với 2 câu lạc bộ khác nhau. Cuối cùng, ông đã đưa Chelsea vô địch Champions League lần thứ 2 với chiến thắng 1–0 trước Manchester City trong trận chung kết. Chỉ 6 ngày sau khi vô địch Champions League, Chelsea thông báo gia hạn hợp đồng với Thomas Tuchel đến hè 2024. Chelsea thắng Villarreal CF 6–5 trên chấm luân lưu sau khi hòa 1–1 sau hiệp phụ để có danh hiệu Siêu cúp châu Âu thứ 2. Chelsea sau đó đánh bại Palmeiras 2-1 sau hiệp phụ ở trận tranh ngôi vô địch FIFA Club World Cup 2021 diễn ra tại UAE để có lần đầu đạt danh hiệu này. Dù vậy, đội đã trở thành cựu vương tại Champions League khi thua Real Madrid 5-4 tại tứ kết, cũng như 2 lần thất bại trước Liverpool tại chung kết Cup Liên đoàn & FA Cup đều sau loạt sút phạt đền, và kết thúc mùa giải ở vị trí thứ 3 tại Ngoại hạng Anh.
Vào ngày 18 tháng 4 năm 2021, Chelsea được công bố là câu lạc bộ sáng lập của giải đấu ly khai ở châu Âu The Super League, tuy nhiên đã tuyên bố rút lui khỏi giải đấu sau đó dưới sức ép từ công chúng.
Roman Abramovich quyết định trao quyền Chủ tịch cho Quỹ từ thiện của CLB vào ngày 26/2/2022 trong bối cảnh Nga bị phản đối vì đưa quân vào Ukraine,tuy nhiên các ủy viên của Quỹ từ thiện vẫn chưa chấp nhận lời đề nghị tiếp quản Chelsea, vì họ thận trọng tỏ ra nghi ngờ về việc, liệu hoạt động với tư cách là người được ủy thác của một tổ chức từ thiện có tương thích với việc được giao quyền quản lý câu lạc bộ hay không, sự không chắc chắn về việc thay đổi vai trò sẽ liên quan đến đại diện trong Hội đồng quản trị và lo ngại họ có thể bị buộc tội "rửa thể thao". Sau đó vào đầu tháng 3, ông tuyên bố rao bán Chelsea sau 19 năm sở hữu, đồng thời cho biết tất cả thu nhập ròng từ việc bán Chelsea sẽ được quyên góp, ủng hộ cho các nạn nhân của chiến tranh tại Ukraine, cũng như xoá nợ số tiền 1,5 tỷ bảng ông đầu tư cho câu lạc bộ. Vào ngày 10 tháng 3, chính phủ Anh đã công bố các lệnh trừng phạt đối với Abramovich có liên quan đến Chelsea. Chelsea không thể bán vé, quần áo và sẽ không thể mua hay bán cầu thủ trên thị trường chuyển nhượng; tuy nhiên, câu lạc bộ đã được cấp một giấy phép đặc biệt để cho phép đội bóng có thể tiếp tục thi đấu các trận đấu, trả lương cho cầu thủ, nhân viên và cho phép những cổ động viên đã có vé đến xem các trận đấu. Đội bóng vẫn có thể nhận được tiền từ bản quyền phát sóng và tiền thưởng từ các giải đấu.
Vào ngày 7 tháng 5 năm 2022, Chelsea xác nhận rằng các điều khoản cho một nhóm sở hữu mới đã được chấp thuận, dẫn đầu bởi Todd Boehly, Clearlake Capital, Mark Walter và Hansjörg Wyss, để mua lại câu lạc bộ.
2022–nay: Kỷ nguyên Boehly–Clearlake
Vào ngày 25 tháng 5 năm 2022, chính phủ đã phê chuẩn việc tiếp quản Chelsea của tập đoàn do Boehly đứng đầu trị giá 4,25 tỷ bảng Anh. Vào ngày 30 tháng 5 năm 2022, vụ mua bán hoàn tất, chấm dứt 19 năm sở hữu câu lạc bộ của Abramovich. Câu lạc bộ sau đó đã thông báo vào ngày 20 tháng 6 rằng Bruce Buck, người giữ chức Chủ tịch từ năm 2003, sẽ thôi giữ vai trò của mình kể từ ngày 30 tháng 6 mặc dù ông sẽ tiếp tục làm việc với tư cách Cố vấn cấp cao. Tiếp đó là sự ra đi của giám đốc câu lạc bộ đã phục vụ lâu năm và giám đốc thể thao trên thực tế Marina Granovskaia vào ngày 22 tháng 6. Petr Čech rời vai trò Cố vấn Kỹ thuật và Phong độ 5 ngày sau đó.
Ở kỳ chuyển nhượng mùa hè 2022, Chelsea chi nhiều tiền trong một kỳ chuyển nhượng hơn bất kỳ câu lạc bộ nào khác trong lịch sử giải đấu. Đội đã chi hơn 250 triệu bảng cho những cầu thủ như: Raheem Sterling, Marc Cucurella, Kalidou Koulibaly và Pierre-Emerick Aubameyang. Tuy nhiên, sau khi bất ngờ để thua Dinamo Zagreb 0-1 trong ngày ra quân Champions League mùa giải 2022-2023, Chelsea đưa ra thông báo sa thải Thomas Tuchel vào ngày 7/9/2022, ông nhận được 13 triệu bảng tiền đền bù hợp đồng, bên cạnh đó, các trợ lý của ông cũng nhận được 2 triệu bảng. Chelsea sau đó bổ nhiệm Graham Potter từ Brighton với bản hợp đồng 5 năm. Trong kỳ chuyển nhượng mùa đông, Chelsea đã phá kỷ lục chuyển nhượng của Anh khi ký hợp đồng với Enzo Fernández với giá 120 triệu Euro, trước đó đội đã sở hữu Mykhaylo Mudryk từ Shakhtar Donetsk với mức phí 100 triệu euro. Bằng cách chi hơn 300 triệu bảng trong kỳ chuyển nhượng mùa đông, họ trở thành câu lạc bộ đầu tiên trong lịch sử chi tiêu nhiều hơn cả 4 giải đấu lớn cộng lại. Vào ngày 2 tháng 4 năm 2023, Chelsea thông báo chia tay Graham Potter, một ngày sau khi đội thua Aston Villa và rớt xuống nửa dưới bảng điểm. Frank Lampard trở lại Chelsea sau đó trong vai trò tạm quyền, theo hợp đồng đến tháng 6. Mùa giải đầu tiên dưới thời chủ tịch Boehly kết thúc khi Chelsea đứng thứ 12 tại Ngoại hạng Anh, và dừng bước tại tứ kết trước Real Madrid.
Trước khi mùa giải kết thúc, Chelsea công bố Mauricio Pochettino ký hợp đồng 3 năm, và bắt đầu dẫn Chelsea từ mùa giải 2023-2024.
Sân vận động
Chelsea chỉ có một sân nhà duy nhất, Stamford Bridge, nơi họ thi đấu từ những ngày đầu thành lập. Nơi đây được chính thức mở cửa vào 28 tháng 4 năm 1877 và trong 28 năm đầu tồn tại nó chủ yếu được sử dụng bởi London Athletic Club là nơi diễn ra các sự kiện thể thao mà không phải tất cả cho bóng đá. Năm 1904 sân được thu mua bởi doanh nhân Gus Mears và người em trai Joseph, họ cũng mua luôn cả khu đất rộng lớn gần đó (trước đó là một khu vườn chợ lớn) với mục đích là tổ chức các trận bóng đá trên khu đất rộng 12.5 mẫu Anh (51,000 m²). Stamford Bridge được thiết kế cho gia đình Mears là kiến trúc sư bóng đá có tiếng Archibald Leitch, người cũng thiết kế các sân Ibrox, Craven Cottage và Hampden Park. Phần lớn các câu lạc bộ được thành lập rồi mới tìm sân thi đấu, còn Chelsea được thành lập là vì Stamford Bridge.
Thiết kế ban đầu của sân như một chiếc bát mở với một mái che, Stamford Bridge có sức chứa vào khoảng 100.000 người. Đầu những năm 1930 phần khán đài phía nam được lắp mái che bao phủ một phần năm khán đài. Hiện nay nó được gọi là "Shed End", ngôi nhà của những cổ động viên có tiếng nói và trung thành nhất của Chelsea, đặc biệt là trong những năm 1960, 70 và 80..
Đầu những năm 1970, những người chủ của câu lạc bộ đưa ra thông báo hiện đại hóa Stamford Bridge với kế hoạch xây một sân vận động 50000 chỗ ngồi hiện đại nhất. Công việc bắt đầu ở Khán đài phía Đông năm 1972 nhưng dự án bị cản trở bởi nhiều vấn đề và không được hoàn thành; cái giá mà câu lạc bộ phải nhận là việc gần như bị phá sản, mà đỉnh điểm là việc bán quyền sử dụng cho các nhà phát triển bất động sản. Sau cuộc chiến pháp lý dài, phải đến giữa những năm 1990 tương lai của Chelsea tại sân mới được đảm bảo và kế hoạch cải tạo lại sân được tiếp tục. Khán đài phía bắc, tây và nam của sân được chuyển thành khán đài ngồi và đưa sát gần hơn với mặt sân, quá trình được hoàn thành vào năm 2001.
Khi Stamford Bridge được tái phát triển trong kỷ nguyên Bates nhiều điểm được đưa vào tổ hợp với hai khách sạn, căn hộ, quán bar, nhà hàng, Chelsea Megastore, và một địa điểm thu hút khách tham quan gọi là Chelsea World of Sport. Ý định của những cơ sở vật chất này là nhằm tăng thêm thu nhập để hỗ trợ việc kinh doanh trong bóng đá, nhưng nó không được thành công như mong đợi và tới trước khi Abramovich tiếp quản năm 2003 các khoản nợ là một gánh nặng với câu lạc bộ. Ngay sau khi tiếp quản một quyết định được đưa ra là bỏ đi thương hiệu "Chelsea Village" và tập trung vào Chelsea với tư cách là một câu lạc bộ bóng đá. Tuy nhiên sân vận động vẫn được coi là một phần của "Chelsea Village" hay "The Village".
Quyền sử dụng Stamford Bridge, mặt sân, cửa quay vào tên gọi Chelsea được sở hữu bởi Chelsea Pitch Owners, một tổ chức phi lợi nhuận mà các cổ động viên là cổ đông. CPO được tạo ra nhằm tránh việc sân có thể bị bán cho các nhà bất động sản một lần nữa. Một điều kiện để sử dụng tên Chelsea FC, câu lạc bộ phải thi đấu các trận đấu của đội một tại Stamford Bridge, điều đó có nghĩa nếu câu lạc bộ chuyển tới một sân vận động mới, họ phải đổi tên. Sân tập của Chelsea nằm ở Cobham, Surrey. Chelsea chuyển tới Cobham năm 2004. Trước đó sân tập họ nằm ở Harlington nơi được sử dụng bởi QPR từ năm 2005. Cơ sở vật chất ở Cobham được hoàn thiện năm 2007.
Stamford Bridge được sử dụng cho một vài sự kiện thể thao quan trọng từ năm 1905. Đây là nơi tổ chức Chung kết FA Cup từ 1920 tới 1922, mười trận bán kết FA Cup (gần nhất là năm 1978), mười trận FA Charity Shield (lần cuối 1970), và ba trận đấu quốc tế của Anh, lần cuối vào năm 1932; nơi đây cũng diễn ra một trận đấu thuộc Victory International năm 1946. Trận Chung kết UEFA Women's Champions League 2013 được diễn ra tại Stamford Bridge. Tháng Mười 1905 nơi đây diễn ra một trận đấu rugby union giữa All Blacks và Middlesex, và năm 1914 tổ chức một trận đấu bóng chày giữa New York Giants và Chicago White Sox. Đây từng là nơi diễn ra trận đấu quyền Anh giữa nhà vô địch thế giới hạng ruồi Jimmy Wilde và Joe Conn năm 1918. Đường chạy quanh sân từng diễn ra cuộc đua ô tô từ năm 1928 tới 1932, đua chó từ 1933 tới 1968, và đua xe cỡ nhỏ năm 1948. Năm 1980, Stamford Bridge tổ chức trận đấu cricket có đèn chiếu sáng đầu tiên ở Vương quốc Anh, giữa Essex và West Indies. Đây cũng là sân nhà của đội bóng bầu dục Mỹ London Monarchs mùa giải 1997.
Chủ sở hữu hiện tại của câu lạc bộ cho rằng một sân vận động lớn hơn là cần thiết để giúp Chelsea có thể cạnh tranh với các câu lạc bộ đối thủ có sân với sức chứa lớn hơn đáng kể như Arsenal và Manchester United. Do nằm cạnh một tuyến đường chính và hai đường xe lửa, các cổ động viên chỉ có thể vào sân thông qua đường Fulham Road, mà gặp khó khăn trong việc mở rộng do những quy định về an toàn và sức khỏe. Câu lạc bộ luôn khẳng định muốn giữ Chelsea ở lại sân hiện tại, nhưng vẫn có động thái để chuyển tới một vài địa điểm gần kề bao gồm Trung tâm triển lãm Earls Court, Trạm điện Battersea và Doanh trại Chelsea. Tháng Mười 2011, một lời đề xuất từ câu lạc bộ được đưa ra nhằm mua lại quyền sử dụng đất ở Stamford Bridge nhưng bị biểu quyết bác bỏ bởi các cổ đông Chelsea Pitch Owners. Tháng Năm 2012, câu lạc bộ đưa ra lời đề nghị chính thức mua Trạm điện Battersea, với mục đích làm địa điểm cho sân vận động mới, nhưng để thua một tập đoàn từ Malaysia. Câu lạc bộ sau đó đưa ra kế hoạch tái xây dựng Stamford Bridge thành một sân vận động có sức chứa 60000 chỗ ngồi.
Biểu trưng và màu sắc
Biểu trưng
Chelsea có bốn biểu trưng chính, mà tất cả đều đã qua những sự thay đổi nhỏ. Đầu tiên, được sử dụng từ những ngày đầu thành lập câu lạc bộ, là hình ảnh một người hưu trí Chelsea, những cựu chiến binh quân động sống gần Bệnh viện Hoàng gia Chelsea. Điều này góp phần tạo nên biệt danh ban đầu của câu lạc bộ "pensioner", và tiếp tục cho đến nửa thế kỷ sau, mặc dù nó chưa từng xuất hiện trên áo đấu của câu lạc bộ. Khi Ted Drake trở thành huấn luyện viên trưởng Chelsea năm 1952, ông bắt đầu hiện đại hóa câu lạc bộ. Tin rằng biểu trưng người hưu trí Chelsea đã lỗi thời, ông nhấn mạnh việc thay thế nó. Một huy hiệu có chữ viết tắt C.F.C. được sử dụng trong một năm. Năm 1953, biểu trưng của câu lạc bộ được thay đổi với một con sư tử xanh đứng thẳng ngoảnh đầu lại và trên tay cầm một cây gậy. Nó được dựa trên các chi tiết trong huy hiệu của Metropolitan Borough of Chelsea với "sư tử chồm lên" lấy từ huy hiệu của chủ tịch câu lạc bộ khi ấy Tử tước Chelsea và cây gậy từ Cha trưởng tu viện Westminster, cựu Chúa tể Lãnh địa Chelsea. Nó cũng có ba bông hồng đỏ, đại diện cho nước Anh, và hai quả bóng. Đây là biểu trưng đầu tiên của Chelsea được in lên áo đấu vào đầu những năm 1960.
Năm 1986, khi đó Ken Bates là chủ của đội bóng, biểu trưng của Chelsea lại được đổi một lần nữa nhằm hiện đại hóa vì hình ảnh sư tử đứng chồm không thể đăng ký thương hiệu. Biểu trưng mới là một con sư tử tự nhiên, bằng màu vàng không phải màu xanh, đứng trên từ viết tắt C.F.C.. Nó được sử dụng trong 19 năm tiếp theo, với một số thay đổi như việc sử dụng màu sắc khác nhau, bao gồm màu đỏ từ 1987 tới 1995, vàng từ 1995 tới 1999, trước khi trở lại màu trắng. Khi Roman Abramovich trở thành chủ mới của câu lạc bộ, và lễ kỷ niệm một trăm năm đến gần, kết hợp với nguyện vọng của các cổ động viên về việc khôi phục biểu trưng nổi tiếng vào những năm 1950, biểu trưng của câu lạc bộ lại được quyết định thay đổi một lần nữa năm 2005. Biểu trưng mới bắt đầu được sử dụng từ mùa giải 2005–06 và đánh dấu sự trở lại của thiết kế cũ, được sử dụng từ 1953 tới 1986, với một con sư tử xanh chồm lên cầm một cây gậy. Trong mùa giải kỷ niệm có kèm thêm dòng chữ '100 YEARS' và 'CENTENARY 2005–2006' ở lần lượt trên và dưới biểu trưng.
Màu sắc
Chelsea luôn luôn mặc áo màu xanh, mặc dù ban đầu họ sử dụng màu xanh nhạt hơn, được lấy từ màu xe ngựa của chủ tịch câu lạc bộ khi đó, Earl Cadogan, và được mặc với quần trắng, tất xanh đậm hoặc đen. Áo xanh nhạt được thay bằng màu xanh đậm vào khoảng năm 1912. Những năm 1960 huấn luyện viên Chelsea Tommy Docherty thay đổi một lần nữa, chuyển sang quần xanh (duy trì đến hiện tại kể từ đó) và tất trắng, vì tin rằng nó sẽ làm cho câu lạc bộ trở lên hiện đại và đặc biệt do thời đó chưa có câu lạc bộ nào sử dụng kiểu kết hợp đó; trang phục này lần đầu được mặc ở mùa giải 1964–65. Kể từ đó Chelsea luôn sử dụng tất trắng trong các trận đu sân nhà ngoài một thời gian ngắn từ 1985 tới 1992, khi tất xanh được sử dụng lại.Trang phục sân khách của Chelsea thường là màu vàng hoặc toàn trắng với những điểm xanh. Gần đây, câu lạc bộ có một số bộ sân khách màu đen hoặc xanh đậm. Cũng như nhiều đội khác, họ cũng có một số bộ khác thường. Theo chỉ thị của Docherty, tại bán kết FA Cup 1966 họ mặc áo màu xanh với sọc đen dựa theo áo của Inter Milan. Giữa những năm 1970, áo sân khách là áo trắng với sọc đỏ và xanh lá cây dựa trên cảm hứng của đội tuyển quốc gia Hungary những năm 1950. Những mẫu áo sân khách đáng nhớ khác bao gồm bộ ngọc bích giai đoạn 1986–89, kim cương đỏ và trắng giai đoạn 1990–92, màu quýt và chỉ giai đoạn 1994–96, vàng chói 2007–08. Bộ áo màu quýt và chì được liệt vào danh sách những trang phục bóng đá xấu nhất lịch sử.
Cổ động viên
Chelsea là một trong những câu lạc bộ có lượng cổ động viên đông đảo nhất thế giới. Họ là câu lạc bộ có lượng bình quân khán giả tới sân cao thứ sáu của bóng đá Anh với khoảng 40,000 cổ động viên tới sân Stamford Bridge; họ có số lượng cổ động viên cao thứ bảy trong các đội Premier League mùa 2013–14, với lượng trung bình khán giả tới sân là 41,572. Cổ động viên truyền thống của Chelsea đến từ tất cả các khu vực của Đại Luân Đôn bao gồm từ giai cấp công nhân của Hammersmith và Battersea, đến giới thượng lưu giàu có Chelsea và Kensington, và từ các home counties. Ngoài ra còn rất nhiều hội cổ động viên chính thức ở Vương quốc Anh và trên toàn thế giới. Giai đoạn 2007 tới 2012, Chelsea xếp thứ tư trên thế giới về doanh số bán áo hàng năm với bình quân 910.000 chiếc. Tài khoản Twitter chính thức của Chelsea có 6,29 triệu người theo dõi, xếp thứ năm trong các câu lạc bộ bóng đá.
Trong các trận đấu, các cổ động viên Chelsea hát những bài hát như "Carefree" (theo giai điệu của Lord of the Dance, lời bài hát có thể được viết bởi cổ động viên Mick Greenaway), "Ten Men Went to Mow", "We All Follow the Chelsea" (theo giai điệu của "Land of Hope and Glory"), "Zigga Zagga", và ăn mừng "Celery", kèm theo sau đó là nghi lễ ném cần tây. Rau quả bị cấm ở Stamford Bridge sau vụ việc liên quan tới tiền vệ Arsenal Cesc Fàbregas trong trận chung kết League Cup 2007.
Đặc biệt trong những năm 1970 và 1980, các cổ động viên Chelsea có liên quan tới hooligan bóng đá. "Hội" của câu lạc bộ, ban đầu được gọi là Chelsea Shed Boys, sau đó được biết đến với tên gọi Chelsea Headhunters, nổi tiếng toàn quốc với hành vi bạo lực, cùng với hội hooligan của các câu lạc bộ khác như Inter City Firm của West Ham United và Bushwackers của Millwall, trước, giữa và sau các trận đấu. So sự gia tăng hooligan những năm 1980 khiến chủ tịch Ken Bates đề xuất dựng lên một hàng rào điện để ngăn chặn họ xâm nhập vào sân, nhưng lời đề xuất bị Hội đồng Đại Luân Đôn bác bỏ.
Từ những năm 1990, đã có sự suy giảm đáng kể về những rắc rối trên khán đài, là kết quả của việc quản lý chặt chẽ hơn, CCTV được lắp trong sân và sự xuất hiện của khán đài ngồi. Năm 2007, câu lạc bộ khởi động chiến dịch 'Back to the Shed' nhằm cải thiện bầu không khí trong các trận đấu sân nhà, đạt được những thành công đáng chú ý. Theo số liệu từ Home Office, 126 cổ động viên Chelsea bị bắt vì liên quan đến bóng đá mùa 2009–10, cao thứ ba giải đấu, và 27 lệnh cấm được đưa ra, cao thứ năm.
Sự kình địch
Trong nước
Arsenal
Đối thủ chính của Chelsea là câu lạc bộ cùng thành phố Arsenal. Hai câu lạc bộ hàng đầu ở Luân Đôn luôn luôn có sự thù địch từ những năm 1930. Các trận đấu giữa họ thường sẽ thu hút một lượng khán giả lớn. Những người hâm mộ Chelsea đã trả lời khảo sát nói rằng họ coi Arsenal là đối thủ chính thực sự của họ, còn Tottenham và Queens Park Rangers là đối thủ truyền thống của họ.
Cuộc đối đấu đầu tiên giữa hai đội diễn ra vào ngày 09 tháng 11 năm 1907 tại sân Stamford Bridge. Đây là lần đầu tiên Giải Bóng đá hạng nhất Anh chứng kiến trận đấu giữa hai câu lạc bộ cùng thành phố Luân Đôn và đã thu hút một lượng cổ động viên đến sân xem thi đấu với kỷ lục 65.000 người. Một trận đấu giữa các câu lạc bộ tại Stamford Bridge vào năm 1935 đã thu hút người xem đến 82.905. Họ gặp nhau trong hai lần trong trận tranh FA Cup vòng bán kết vào năm 1950, kết quả Arsenal đều giành chiến thắng cả hai lần. Trong những năm 1960 Chelsea thống trị về thành tích đối đầu với 14 trận thắng, hai trận hòa và chỉ thua hai trận trong suốt thập kỷ.
Tại các giải tranh cup thể thức đấu loại trực tiếp, hai câu lạc bộ đã gặp nhau ở hai trận Chung kết Cúp FA 2002, khi đó Arsenal giành chiến thắng 2-0, và Cúp liên đoàn Anh năm 2007, Chelsea thắng 2-1. Hai đội cũng đã gặp nhau tại UEFA Champions League vòng tứ kết trong mùa giải 2003-04, ở lượt đi mặc dù bị cầm hòa 1-1 trên sân nhà Stamford Bridge, nhưng lượt về Chelsea đã thắng 2-1 tại Sân vận động Highbury để tiến vào vòng bán kết.
Trong năm 2006, vụ chuyển nhượng của Ashley Cole từ Arsenal sang Chelsea tiếp tục làm dấy lên sự cạnh tranh, bởi Ashley Cole đã bị bắt gặp khi đang đàm phán với Chelsea 1 tháng trước khi chính thức chuyển sang Stamford Bridge thi đấu.
Trận thua đậm nhất của Chelsea trước Arsenal là vào mùa giải 2011-12, Chelsea khi ấy dưới sự dẫn dắt của huấn luyện viên người Bồ Đào Nha, ông André Villas-Boas đã để thua với tỷ số 3-5, trong đó có 1 cú hat-trick của tiền đạo Robin van Persie bên phía Arsenal.
Còn trận thắng đậm nhất của Chelsea trước kình địch cùng thành phố Luân Đôn là nó diễn ra đúng vào ngày Arsène Wenger kỉ niệm 1000 trận dẫn dắt Arsenal vào năm 2014. Khi ấy Chelsea của José Mourinho, một người cũ vốn có những bất đồng với Wenger đã bất ngờ giành chiến thắng với tỷ số 6-0. Đó có thể coi là màn trả thù ngọt ngào của The Blues khi đã thua 3-5 vào năm 2011.
Tottenham Hotspur
Ngoài Arsenal ra, Tottenham được xem là đối thủ kình địch thứ hai của Chelsea. Hai câu lạc bộ ở Luân Đôn luôn có sự quyết liệt mạnh mẽ từ năm 1967. Trận đấu giữa họ thường sẽ thu hút khán giả lớn và đôi khi sẽ kết thúc trong các cuộc đụng độ bạo lực giữa những người ủng hộ. Theo một cuộc khảo sát năm 2004 của Planetfootball.com, Chelsea và Tottenham đều coi nhau là đối thủ thứ hai của họ, đứng đầu là câu lạc bộ Arsenal.
Trận đấu giải đấu đầu tiên giữa hai đội diễn ra vào ngày 18 Tháng 12 năm 1909 tại Stamford Bridge, Chelsea giành chiến thắng 2-1. Tuy nhiên, sự cạnh tranh bắt đầu diễn ra từ năm 1967 trong trận chung kết FA Cup, đó là trận chung kết đầu tiên của giải đấu chứng kiến một cuộc đối đầu nội bộ giữa giữa hai đội bóng đến từ Luân Đôn và vì thế trận đấu thường được mệnh danh là Cockney Cup. Tottenham khi ấy đã thắng 2-1 để lên ngôi vô địch. Đối với người hâm mộ Chelsea, đó là một cú sốc lớn khi họ nhìn thấy hai cựu cầu thủ của mình, Jimmy Greaves và Terry Venables lên ngôi vô địch cùng đối thủ Tottenham.
Sự cạnh tranh đã được tiếp tục bùng lên trong mùa giải 1974-1975. Khi đó cả Chelsea và Tottenham đang chiến đấu để thoát ra khỏi nhóm xuống hạng từ Giải hạng nhất. Trước khi trận đấu trực tiếp, Chelsea với một điểm nhiều hơn đang xếp phía trên Tottenham, và đối thủ của Chelsea đang ở trong khu vực xuống hạng. Tottenham cuối cùng giành chiến thắng 2-0. Sau đó, Chelsea không thể giành chiến thắng trong hai trận đấu còn lại của họ và cuối cùng bị xuống hạng từ giải hạng nhất còn Tottenham trụ hạng với 1 điểm nhiều hơn.
Từ những năm 1990, Chelsea đã thống trị trong các lần đối đầu với Tottenham, họ bất bại trước đối thủ của họ hơn một thập kỷ, mà đỉnh cao là chiến thắng 6-1 trên sân White Hart Lane của Tottenham. Đó cũng là trận thắng đậm nhất của Chelsea trước Tottenham, cũng là trận thắng đậm nhất trên sân của đối thủ. Vào ngày 5 tháng 11 năm 2006, Tottenham đánh bại Chelsea 2-1 trên sân White Hart Lane, kết thúc thời gian dài 16 năm mà không có nổi một chiến thắng trước The Blues.
Vào ngày 1 tháng 3 năm 2015, Chelsea đã giành Cúp Liên đoàn bóng đá Anh sau chiến thắng 2-0 trước Tottenham, hai bàn thắng được ghi bởi John Terry và Diego Costa. Sau trận đấu, các fan đã đụng độ trong một tàu điện ngầm.
Châu Âu
Barcelona
Tại châu Âu, đối đầu mà Chelsea gặp nhau nhiều nhất là câu lạc bộ đến từ Tây Ban Nha, Barcelona. The Blues đã chạm trán với đội bóng xứ Catalan tổng cộng 12 lần với thành tích 4 thắng, 3 thua và 5 hòa. Lần đầu tiên 2 đội gặp nhau tại Cup châu Âu là ở vòng tứ kết UEFA Champions League mùa giải 1999-2000, Chelsea khi ấy đã đánh bại được Barca ở trận lượt đi với tỉ số 3-1, nhưng lượt về họ bất ngờ để Barca đè bẹp 1-5 trên sân Camp Nou và bị loại.
Vào năm 2005, lá thăm đã đưa Chelsea khi ấy được dẫn dắt bởi José Mourinho gặp lại Barcelona tại vòng 1/16. Trận lượt đi trên đất Tây Ban Nha, dù đã mở tỉ số trước, nhưng Chelsea đã để đối thủ ghi liên tiếp 2 bàn trong vòng 10 phút và thất bại với tỉ số 1-2. Nhưng ở trận lượt về trên sân Stamford Bridge, sau 20 phút thi đấu, Chelsea đã vượt lên dẫn trước với tỉ số 3-0, dù đã để Ronaldinho bên phía Barca lập cú đúp rút ngắn tỉ số xuống còn 2-3, nhưng với pha lập công phút 76 của trung vệ John Terry cũng đủ để giúp Chelsea tiến vào vòng trong sau chiến thắng 4-2 ở trận lượt về và 5-4 sau cả hai lượt trận.
1 năm sau đó, duyên nợ lại đưa Chelsea gặp Barca tại vòng 1/16 UEFA Champions League mùa giải 2005/06. Lượt đi tại Stamford Bridge, Chelsea đã vượt lên dẫn trước nhờ pha phản lưới nhà của Thiago Motta, nhưng kịch bản trận lượt đi ở mùa trước lập lại, người hung một năm trước, John Terry đá phản lưới nhà giúp Barca cân bằng tỉ số 1-1 trước khi Samuel Eto'o ấn định chiến thắng 2-1 cho Barca trên sân khách. Và sau đó ở trận lượt về, dù Frank Lampard đã ghi bàn phút 90 giúp Chelsea cầm hòa 1-1 trên sân Camp Nou nhưng không đủ giúp Chelsea vượt qua vòng 1/16.
Mùa giải 2008/09, Chelsea dưới thời của Guus Hiddink tiếp tục gặp Barca tại vòng bán kết. Sau trận lượt đi hòa nhau 0-0 trên sân Camp Nou, Chelsea được thi đấu trận lượt về trên sân nhà. Cả trận đấu Chelsea đã bị cướp mất 5 quả Penalty khi trọng tài từ chối cho đội nhà được hưởng, đồng thời quyết định khó hiểu của trọng tài khi rút chiếc thẻ đỏ để đuổi tiền đạo Didier Drogba ra khỏi sân, hệ quả dù Chelsea bảo vệ tỉ số 1-0 nhưng đến phút bù giờ, Andres Iniesta ghi bàn giúp Barca cầm hòa 1-1 qua đó Chelsea bị loại bởi luật bàn thắng trên sân khách.
Năm 2012, hai đội gặp nhau tại bán kết Cup châu Âu năm đó. Trận lượt đi với lợi thế sân nhà, Chelsea đã đánh bại Barcelona với tỉ số 1-0 nhờ pha ghi bàn của tiền đạo Didier Drogba vào những phút cuối hiệp 1. Lượt về Barca nhanh chóng dẫn trước 2-0, dù trung vệ John Terry bị đuổi nhưng Chelsea đã gỡ được 1 bàn trước khi tiền đạo Fernando Torres từ 1 pha phản công đi bóng qua thủ môn để ấn định tỉ số hòa 2-2, đưa Chelsea vào trận chung kết gặp Bayern Munich.
Kỷ lục
Người có nhiều lần ra sân nhất cho Chelsea là cựu đội trưởng Ron Harris, người đã có 795 ra sân thi đấu chính thức trong giai đoạn 1961 tới 1980. Kỷ lục dành cho thủ môn Chelsea được nắm giữ bởi người đồng đội cùng thời với Harris, Peter Bonetti, người ra sân 729 trận (1959–79). Với 103 lần khoác áo đội tuyển quốc gia (101 khi ở câu lạc bộ), Frank Lampard của Anh là cầu thủ có số trận đấu quốc tế nhiều nhất trong các cầu thủ Chelsea.
Frank Lampard là cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất Chelsea trong lịch sử, với 211 bàn trong 648 trận (2001–2014); vượt qua người đã giữ vị trí này một thời gian dài Bobby Tambling vời 202 bàn tháng 5 năm 2013. Bảy cầu thủ khác cũng ghi hơn 100 bàn cho Chelsea bao gồm: George Hilsdon (1906–12), George Mills (1929–39), Roy Bentley (1948–56), Jimmy Greaves (1957–61), Peter Osgood (1964–74 và 1978–79), Kerry Dixon (1983–92) và Didier Drogba (2004–12 và 2014–2015). Greaves giữ kỷ lục ghi nhiều bàn thắng nhất trong một mùa (43 mùa 1960–61).
Chiến thắng đậm nhất của Chelsea trong một trận đấu chính thức là 13–0, khi gặp Jeunesse Hautcharage tại Cup Winners' Cup năm 1971. Chiến thắng đậm nhất tại giải đấu cao nhất nước Anh là chiến thắng 8–0 trước Wigan Athletic năm 2010, và với tỉ số tương tự năm 2012 với Aston Villa. Trận thua đậm nhất của Chelsea là trận thua 8–1 trước Wolverhampton Wanderers năm 1953. Theo thống kê chính thức, trận đấu mà Chelsea làm chủ nhà có đông khán giả đến sân nhất là 82.905 người trong một trận đấu First Division gặp Arsenal ngày 12 tháng 10 năm 1935. Tuy nhiên, ước tính có khoảng 100.000 người đã tới xem trận giao hữu với đội bóng Liên Xô Dinamo Moskva ngày 13 tháng 11 năm 1945. Với sự hiện đại hóa của Stamford Bridge những năm 1990 và việc đưa khán đài ngồi vào khiến cho kỷ lục này khó có thể bị phá trong tương lai. Sức chứa hiện tại của Stamford Bridge là 41.837. Tất cả các cầu thủ đá chính cho Chelsea trong 57 trận đấu của mùa giải 2013–14 là cầu thủ quốc tế – một kỷ lục mới của câu lạc bộ.
Chelsea giữ kỷ lục nước Anh với số điểm cao nhất giành được trong một mùa giải (95), để lọt lưới ít nhất trong một mùa giải (15), có nhiều trận thắng tại Premier League nhất trong một mùa giải (29), có tổng số trận giữ sạch lưới nhiều nhất trong một mùa giải Premier League (25) (tất cả đều được thiết lập trong mùa giải 2004–05), và giữ sạch lưới nhiều trận liên tiếp nhất kể từ đầu giải (6, ược thiết lập trong mùa giải 2005–06). Chiến thắng với tổng tỉ số 21–0 trước Jeunesse Hautcharage tại UEFA Cup Winners' Cup năm 1971 vẫn đang là kỷ lục của châu Âu. Chelsea giữ kỷ lục có chuỗi bất bại dài nhất trên sân nhà tại giải đấu cao nhất nước Anh, trải qua 86 trận từ 20 tháng 3 năm 2004 tới 26 tháng 10 năm 2008. Họ bắt đầu thiết lập kỷ lục vào ngày 12 tháng 8 năm 2007, vượt qua kỷ lục 63 trận bất bại của Liverpool giai đoạn 1978 tới 1980. Chelsea có chuỗi mười một trận thắng liên tiếp trên sân khách tại giải quốc gia, từ 5 tháng 4 năm 2008 tới 6 tháng 12 năm 2008, đây cũng là kỷ lục của giải đấu cấp cao nhất nước Anh.
Chelsea, cùng với Arsenal, là câu lạc bộ đầu tiên mang số áo thi đấu, vào ngày 25 tháng 8 năm 1928 trong trận đấu gặp Swansea Town. Họ cũng là đội bóng Anh đầu tiên sử dụng máy bay để di chuyển tới sân khách trong một trận đấu quốc nội, khi họ tới gặp Newcastle United ngày 19 tháng 4 năm 1957, và là đội bóng của First Division đầu tiên thi đấu vào ngày Chủ nhật, khi họ đối đầu với Stoke City ngày 27 tháng Giêng 1974. Ngày 26 tháng 12 năm 1999, Chelsea trở thành đội bóng đầu tiên của Anh cho ra sân đội hình chính thức với toàn cầu thủ nước ngoài (không cầu thủ Anh Quốc hoặc Ireland) trong một trận đấu tại Premier League gặp Southampton.
Tháng Năm 2007, Chelsea trở thành đội bóng đầu tiên vô địch FA Cup trên Sân vận động Wembley mới, họ cũng đồng thời là câu lạc bộ cuối cùng vô địch trên sân Wembley cũ. Họ là câu lạc bộ Anh đầu tiên xếp thứ nhất trong bảng xếp hạng năm năm của UEFA của thế kỷ XXI. Họ là đội bóng đầu tiên của Premier League ghi được hơn 100 bàn trong một mùa giải, chạm tới cột mốc này trong vòng đấu cuối cùng của mùa 2009–10. Chelsea là câu lạc bộ duy nhất của Luân Đôn vô địch UEFA Champions League, sau khi đánh bại Bayern Munich trong trận chung kết năm 2012. Khi họ giành UEFA Europa League 2012–13, Chelsea trở thành câu lạc bộ duy nhất của Anh vô địch cả bốn danh hiệu châu Âu và là câu lạc bộ duy nhất là đồng thời là đương kim vô địch của cả Champions League và Europa League.
Top 10 cầu thủ ghi bàn nhiều nhất cho Chelsea
Top 10 cầu thủ ra sân nhiều nhất cho Chelsea
Phong cách chuyển nhượng
Khi Roman Abramovich lên nắm quyền tại Chelsea, ông chủ người Nga này đã bỏ ra rất nhiều tiền nhằm xây dựng Chelsea trở thành đội bóng vĩ đại nhất xứ sở sương mù. Mùa giải đầu tiên khi Abramovich chính thức ngồi vào chiếc ghế chủ tịch Chelsea, ông đã bỏ ra số tiền hơn 111 triệu bảng Anh, để đem về những cầu thủ chất lượng. Có thể kể đến như Hernán Crespo từ Inter Milan giá 17 triệu bảng, Adrian Mutu với 16 triệu bảng hay ký hợp đồng với một trong những tiền vệ thu hồi bóng xuất sắc nhất thế giới, Claude Makélélé của Real Madrid với mức phí 16 triệu bảng. Tuy nhiên mùa giải này Chelsea không thể giành danh hiệu nào, khiến Abramovich không hài lòng.
Hệ quả sau đó, Chelsea đã có huấn luyện viên mới, một người Bồ Đào Nha, José Mourinho. Từ đó Abramovich ưu tiên mua những cầu thủ quốc tịch Bồ Đào Nha hay những cầu thủ mà Mourinho yêu cầu để dễ dàng làm việc với Người đặc biệt. Lần lượt Paulo Ferreira, Ricardo Carvalho, Michael Essien và chân sút xuất sắc sau này của Chelsea là Didier Drogba đều đến Luân Đôn chơi bóng. Với chiến lược chuyển nhượng hiệu quả, Chelsea mùa giải đó đã lên ngôi vô địch Ngoại hạng Anh sau hơn 50 năm và tiếp tục bảo vệ thành công chức vô địch 1 năm sau đó.
Tuy nhiên những năm sau, Abramovich bắt đầu nhúng tay vào chuyên môn gây ảnh hưởng đến thành tích của Chelsea. Ông ký hợp đồng với tiền đạo Andriy Shevchenko khi ấy đã 29 tuổi với mức phí cao ngất ngưỡng 30 triệu bảng. Có những tin đồn cho rằng Abramovich chiêu mộ chân sút người Ukraine chỉ vì Shevchenko có mối quan hệ bạn bè thân thiết với chủ tịch của Chelsea. Và sau đó Shevchenko thi đấu không thực sự thành công trong màu áo The Blues, liên tục bị Mourinho cho ngồi dự bị và dẫn đến sự rạn nứt giữa Người đặc biệt với ông chủ người Nga.
Sự can thiệp của Abramovich đã làm ngân sách Chelsea thu hẹp, dẫn đến việc chi tiêu lặt vặt vào thị trường chuyển nhượng khiến Chelsea mất vị thế ở Giải Ngoại Hạng. Vào kỳ chuyển nhượng mùa Đông năm 2011, Chelsea khi ấy đang là Đương kim vô địch của Giải đã thi đấu bết bát, hàng công mờ nhạt, hàng thủ chắp vá, Abramovich đã mang về sân Stamford Bridge tiền đạo Fernando Torres của Liverpool với mức giá kỷ lục của CLB là 50 triệu bảng Anh và trung vệ David Luiz của Benfica với 25 triệu bảng, Tuy nhiên chỉ một trong hai bản hợp đồng thi đấu thành công. Trong khi Luiz là thủ lĩnh hàng thủ thì Torres lại mờ nhạt trên hàng công. Điều này dẫn đến một mùa giải trắng tay của Chelsea.
Mùa giải tiếp theo, với mong muốn chinh phục UEFA Champions League, Chelsea đã chiêu mộ một trong những tiền vệ kiến thiết xuất sắc nhất ở Tây Ban Nha, Juan Mata với mức phí chuyển nhượng 24 triệu bảng. Và mong muốn của Abramovich đã thành hiện thực, Mata góp công lớn giúp Chelsea đăng quang chức vô địch vào cuối mùa giải đó. Mùa hè sang năm, với việc vô địch châu Âu, Stamford Bridge trở thành điểm đến của nhiêu ngôi sao trên thế giới. Chelsea tiếp tục ký hợp đồng với tiền vệ cánh Eden Hazard giá 32 triệu bảng và Oscar dos Santos với 23 triệu bảng. Mặc dù không thể bảo vệ ngôi vô địch tại đấu trường hạng nhất châu Âu, nhưng bộ đôi này cũng giúp The Blues đăng quang tại UEFA Europa League năm 2013.
Vào năm 2014, mùa giải thứ 2 trong nhiệm kỳ thứ hai của José Mourinho tại Chelsea, CLB đã lần lượt chia tay các công thần Frank Lampard, Ashley Cole, Fernando Torres ở cả ba tuyến và để chiều theo mong muốn của Mourinho, Abramovich đã chiêu mộ Diego Costa, Cesc Fabregas và Filipe Luís với tổng trị giá hơn 70 triệu bảng. Mùa giải đó, Diego Costa tỏ chứng tỏ giá trị của mình với 20 pha lập công, còn tiền vệ Cesc Fabregas đóng vai trò nhạc trưởng đã phát huy đúng sở trường của mình và sự đáp ứng về nhu cầu đó đã giúp Chelsea vô địch giải Ngoại hạng Anh vào cuối mùa, đồng thời đánh bại Tottenham Hotspur với tỉ số 2-0 trong đó có 1 bàn thắng của bản hợp đồng đầu mùa Diego Costa để giành lấy Cúp Liên Đoàn.
Mùa giải sau đó, Roman Abramovich chỉ đem về một bản hợp đồng lớn là Pedro Rodríguez từ Barcelona với mức phí khoảng 21 triệu bảng, còn lại là những cầu thủ trẻ, mà không bổ sung thêm bất cứ nhân sự nào, dẫn đến lối chơi của Chelsea bị bắt bài, kết quả mùa giải đó, Chelsea trắng tay trong khi José Mourinho đành bất lực và phải rời khỏi cương vị HLV. Nhận thấy cần sự đổi mới, ngay mùa hè 2016, Chelsea đã ký liền hợp đồng với ngôi sao mới nổi của bóng đá Bỉ, Michy Batshuayi với mức giá 33,2 triệu bảng Anh, qua đó trở thành bản hợp đồng đắt giá thứ 2 trong lịch sử CLB khi ấy, chỉ sau Fernando Torres. Đồng thời khi nhận thấy Nemanja Matic đã đánh mất phong độ của 1 tiền vệ đánh chặn, BLĐ của Chelsea đã thuyết phục được tiền vệ N'Golo Kanté, cầu thủ đã góp công lớn giúp Leicester lập kỳ tích vô địch Giải ngoại hạng mùa giải trước gia nhập đội bóng thành Luân Đôn khi trả cho "bầy cáo" 30 triệu bảng để lấy đi cầu thủ đánh chặn hay nhất của họ. Ngoài ra ông chủ người Nga này cũng đã mời gọi lại một người cũ, hậu vệ David Luiz từ Paris SG với số tiền phá vỡ hợp đồng là 30 triệu bảng đồng thời chiêu mộ 1 hậu vệ cánh người Tây Ban Nha, Marcos Alonso khi trả cho Fiorentina một khoản tiền lên đến 23 triệu bảng. Trong khi David Luiz và Marcos Alonso đóng vai trò thiết yếu trong sơ đồ 3-5-2 của tân huấn luyện viên Antonio Conte thì bản hợp đồng đắt giá Michy Batshuayi lại phải ngồi dự bị đã cho thấy chiến lược chuyển nhượng cho hàng tiền đạo của The Blues vẫn đang có vấn đề.
Những thương vụ mua đắt giá nhất
Những thương vụ bán đắt giá nhất
Chủ sở hữu và tài chính
Chelsea F.C. được thành lập bởi Gus Mears năm 1905. Sau khi qua đời năm 1912, những hậu duệ của ông tiếp tục làm chủ đội bóng tới năm 1982, khi Ken Bates mua lại từ cháu trai Mears Brian Mears bới giá £1. Bates mua lại cổ phần kiểm soát câu lạc bộ và đưa Chelsea lên sàn chứng khoán AIM tháng 3 năm 1996. Tháng 7 năm 2003, Roman Abramovich thu mua hơn 50% cổ phần của Chelsea Village plc, bao gồm 29.5% của Bates, với giá 30 triệu bảng và trong những tuần sau đó mua lại 35% của hầu hết trong số 12.000 cổ đông còn lại, hoàn thành vụ thu mua 140 triệu bảng. Các cổ đông khác vào thời điểm tiếp quản là bất động sản Matthew Harding (21%), BSkyB (9.9%) và một vài nhà ủy thác vô danh. Sau khi vượt qua ngưỡng 90% cổ phần, Abramovich đưa câu lạc bộ trở lại tư nhân, hủy bỏ niêm yết trên AIM ngày 22 tháng 8 năm 2003. Ông cũng chịu trách nhiệm trả số nợ 80 triệu bảng của câu lạc bộ một cách nhanh chóng.
Sau đó, Abramovich đổi tên công ty sở hữu thành Chelsea FC plc, thuộc công ty mẹ Fordstam Limited, được kiểm soát bởi ông. Chelsea được tài trợ thêm bởi Abramovich thông qua khoản vay mềm không lãi suất mà được chuyển qua từ công ty mà ông nắm giữ Fordstam Limited. Khoản vay tính tới tháng 12 năm 2009 là 709 triệu bảng, khi họ chuyển đổi tất cả sang cổ phần của Abramovich, giúp câu lạc bộ thanh toán hoàn toàn số nợ, mặc dù vẫn còn một vài khoản nợ với nợ với Fordstam. Kể từ năm 2008 câu lạc bộ không còn khoản nợ nào bên ngoài.
Chelsea không có lợi nhuận trong chín năm đầu Abramovich sở hữu, kỷ lục là để thua lỗ 140 triệu bảng tháng 6 năm 2005. Tháng 12 năm 2012, Chelsea công bố lợi nhuận 1,4 triệu bảng cho tài khóa kết thúc vào ngày 30 tháng 6 năm 2012, lần đầu tiên câu lạc bộ có lãi dưới thời Abramovich. Say khi để thua lỗ năm 2013 họ lại có lợi nhuận kỷ lục 18,4 triệu bảng năm 2014.
Chelsea được xem là một thương hiệu toàn cầu; một báo cáo năm 2012 của Brand Finance xếp Chelsea là thương hiệu bóng đá xếp thứ năm với giá trị $398 triệu đô la Mỹ – tăng 27% so với năm trước đó, hơn 10 triệu đô so với thương hiệu thứ sáu, đối thủ thành Luân Đôn Arsenal – và được xếp hạng thương hiệu AA (rất mạnh). Năm 2016, tạp chí Forbes xếp Chelsea là câu lạc bộ bóng đá giá trị thứ bảy thế giới với giá trị 1,15 tỉ bảng Anh (1,66 tỉ đô la Mỹ). Cũng trong năm 2016, Chelsea xếp thứ tám trong Deloitte Football Money League với doanh thu thương mại hàng năm đạt 322,59 triệu bảng.
Nhà tài trợ
Trang phục thi đấu của Chelsea đã được Nike sản xuất từ tháng 7 năm 2017. Trước đó, trang phục thi đấu này được sản xuất bởi Adidas, công ty ban đầu được ký hợp đồng cung cấp trang phục thi đấu của câu lạc bộ từ năm 2006 đến năm 2018. Mối quan hệ hợp tác này đã được gia hạn vào tháng 10 năm 2010 trong một thỏa thuận trị giá 160 triệu bảng trong hơn 8 năm. Thỏa thuận này một lần nữa được gia hạn vào tháng 6 năm 2013 trong một thỏa thuận trị giá 300 triệu bảng Anh trong 10 năm nữa. Vào tháng 5 năm 2016, Adidas thông báo rằng theo thỏa thuận chung, việc tài trợ trang phục thi đấu sẽ kết thúc sớm sáu năm vào ngày 30 tháng 6 năm 2017. Chelsea phải trả 40 triệu bảng tiền bồi thường cho Adidas. Vào tháng 10 năm 2016, Nike được công bố là nhà tài trợ trang phục thi đấu mới, trong một thỏa thuận trị giá 900 triệu bảng Anh trong 15 năm, cho đến năm 2032. Trước đây, bộ quần áo bóng đá này được sản xuất bởi Umbro (1975–81), Le Coq Sportif (1981–86), The Chelsea Collection (1986–87), Umbro (1987–2006) và Adidas (2006–2017).
Nhà tài trợ áo thi đấu đầu tiên của Chelsea là Gulf Air, được đồng ý trong mùa giải 1983–84. Câu lạc bộ sau đó được tài trợ bởi Grange Farms, Bai Lin Tea và Simod trước khi một thỏa thuận dài hạn được ký kết với Commodore International vào năm 1989; Amiga, một nhánh của Commodore, cũng xuất hiện trên áo sơ mi. Chelsea sau đó được tài trợ bởi bia Coors (1994–97), Autoglass (1997–2001), Emirates (2001–05), Samsung Mobile (2005–08), Samsung (2008–15) và Yokohama Tires (2015–20). Từ tháng 7 năm 2020, nhà tài trợ của Chelsea là Three, tuy nhiên, nó đã tạm thời ngừng tài trợ vào tháng 3 năm 2022 để đáp lại lệnh trừng phạt của chính phủ Vương quốc Anh đối với Abramovich. Nó khôi phục tài trợ của mình sau khi thay đổi quyền sở hữu của câu lạc bộ.
Sau khi giới thiệu các nhà tài trợ tay áo ở Premier League, Chelsea đã có Alliance Tires là nhà tài trợ tay áo đầu tiên trong mùa giải 2017–18, tiếp theo là Hyundai Motor Company trong mùa giải 2018–19. Bắt đầu từ mùa giải 2022–23, Tập đoàn Amber trở thành nhà tài trợ tay áo mới, với nền tảng tài sản kỹ thuật số hàng đầu WhaleFin xuất hiện trên tay áo của cả đội nam và nữ.
Câu lạc bộ cũng có nhiều nhà tài trợ và đối tác chính thức khác, bao gồm Cadbury, EA Sports, GO Markets, Hublot, Levy Restaurants, MSC Cruises, Parimatch, Singha, Trivago và Zapp.
Nhà cung cấp kit và nhà tài trợ áo đấu
Điều hành
Ban lãnh đạo
Chelsea FC plc là công ty sở hữu Chelsea. Công ty mẹ của Chelsea FC plc là Fordstam Limited và người kiểm soát Fordstam Limited là Roman Abramovich.
Ngày 22 tháng 10 năm 2014, Chelsea thông báo Ron Gourlay, sau mười năm thành công cùng câu lạc bộ trong đó có năm năm làm Giám đốc điều hành, rời Chelsea để theo đuổi cơ hội kinh doanh mới. Ngày 27 tháng 10 năm 2014, Chelsea công bố Christian Purslow sẽ gia nhập câu lạc bộ để điều hành các hoạt động thương mại toàn cầu và sau đó cũng không bổ nhiệm thêm bất cứ vị trí cấp cao nào khác khi Chủ tịch Bruce Buck và Giám đốc Marina Granovskaia đảm nhận trách nhiệm điều hành.
{|class="wikitable"
|-
!Vị trí
!Nhân sự
|-
|Chủ sở hữu||rowspan="2"| Todd Boehly
|-
|Chủ tịch
|-
|Chủ tịch danh dự|| Richard Attenborough (1923–2014)
|-
|Cố vấn cao cấp|| Bruce Buck
|-
|rowspan="8"|Giám đốc|| Behdad Eghbali
|-
| José E. Feliciano
|-
| Mark Walter
|-
| Hansjörg Wyss
|-
| Jonathan Goldstein
|-
| Barbara Charone
|-
| Daniel Finkelstein
|-
| James Pade
|-
|Giám đốc điều hành|| David Barnard
|-
|Giám đốc thể thao|| Todd Boehly (interim)
|-
|Đại sứ|| Carlo Cudicini
Ban huấn luyện
{|class="wikitable"
|-
!Vị trí
!Nhân sự
|-
|HLV trưởng|| Mauricio Pochettino
|-
|rowspan="1"|Trợ lý HLV trưởng|| Jesus Perez
|-
|rowspan="3"|Trợ lý huấn luyện|| Miguel D'Agostino
|-
| Björn Hamburg
|-
| Bruno Saltor
|-
|rowspan="3"|HLV thủ môn|| Henrique Hilário
|-
| Ben Roberts
|-
| James Russell
|-
|rowspan="2"|HLV thể lực|| Matt Birnie
|-
| Will Tullett
|-
|Trưởng nhóm tuyển trạch quốc tế|| Scott McLachlan
|-
|Giám đốc y tế|| Paco Biosca
|-
|Trưởng nhóm phát triển cầu thủ trẻ|| Neil Bath
|-
|HLV đội trẻ|| Andy Myers
|-
Trong văn hóa đại chúng
Năm 1930, Chelsea xuất hiện ở một trong những bộ phim về bóng đá sớm nhất, The Great Game. Cựu tiền đạo trung tâm của Chelsea, Jack Cock, khi ấy đang thi đấu cho Millwall, là ngôi sao của bộ phim với một vài cảnh được quay ở Stamford Bridge, bao gồm trên sân, phòng họp và phòng thay đồ. Bộ phim có sự góp mặt với vai trò khách mời bởi các cầu thủ Chelsea khi đó Andrew Wilson, George Mills, và Sam Millington. Do những tai tiếng của Chelsea Headhunters, một hội bóng đá có liên hệ với câu lạc bộ, Chelsea cũng xuất hiện trong các bộ phim về nạn hooligan bóng đá, bao gồm bộ phim năm 2004 The Football Factory. Chelsea cũng xuất hiện trong bộ phim tiếng Hindi Jhoom Barabar Jhoom. Tháng Tư 2011, chương trình hài của Montenegro Nijesmo mi od juče thực hiện một tập mà trong đó Chelsea thi đấu với FK Sutjeska Nikšić ở vòng loại UEFA Champions League.
Cho tới những năm 1950, câu lạc bộ đã có sự liên kết dài lâu với các ca vũ trường; họ thường cung cấp các nghệ sĩ hài như George Robey. Đỉnh điểm là khi nghệ sĩ hài Norman Long phát hành một ca khúc mới lạ năm 1933, với tiêu đề "On the Day That Chelsea Went and Won the Cup", lời bài há mô tả một loạt các điểm kỳ lạ và không thường xuyên xảy ra vào ngày mà Chelsea cuối cùng cũng giành được một danh hiệu. Trong bộ phim năm 1935 The 39 Steps của Alfred Hitchcock, Mr Memory tuyên bố lần cuối Chelsea giành Cup là vào năm 63 trước công nguyên, "trong chiều đại của Hoàng đế Nero." Một cảnh trong tập phim năm 1980 của Minder được ghi hình trong một trận đấu thật tại sân Stamford Bridge giữa Chelsea và Preston North End khi Terry McCann (do Dennis Waterman thủ vai) đứng trên nóc khán đài.
Ca khúc "Blue is the Colour" được cho ra mắt đĩa đơn để khơi gợi tinh thần trước trận chung kết League Cup 1972, khi tất cả các cầu thủ đội một Chelsea góp giọng hát; ca khúc đã đạt vị trí thứ năm tại UK Singles Chart. Bài hát sau đó được một số câu lạc bộ thể thao trên thế giới lựa chọn làm ca khúc của câu lạc bộ, bao gồm cả Vancouver Whitecaps (với tựa "White is the Colour") và Saskatchewan Roughriders (với tựa "Green is the Colour"). Để lên tinh thần cho Chung kết FA Cup 1997, ca khúc "Blue Day", được biểu diễn bởi Suggs và các thành viên Chelsea, đạt vị trí thứ 22 trong bảng xếp hạng Anh Quốc. Bryan Adams, một cổ động viên của Chelsea, dành riêng bài hát "We're Gonna Win" trong album 18 Til I Die cho câu lạc bộ.
Đội nữ Chelsea
Chelsea có một đội bóng đá nữ, Chelsea Women. Họ bắt đầu có liên kết với đội nam từ năm 2004 và là một phần trong chương trình phát triển cộng đồng của câu lạc bộ. Họ thi đấu các trận đấu sân nhà trên sân Wheatsheaf Park, sân nhà của câu lạc bộ Conference South Staines Town. Câu lạc bộ lên Premier Division lần đầu năm 2005 với tư cách đội vô địch Southern Division và từng giành Surrey County Cup các năm 2003–04, 2006–10, 2012, và 2013. Năm 2010 Chelsea Women trở thành một trong tám thành viên sáng lập FA Women's Super League. Năm 2015, Chelsea Women vô địch FA Women's Cup lần đầu tiên, đánh bại Notts County Ladies trên sân vận động Wembley, và một tháng sau giành chức vô địch FA Women's Super League để hoàn thành cú đúp danh hiệu. John Terry, cựu đội trưởng của đội nam Chelsea, là Chủ tịch của Chelsea Women.
Đội hình
Đội hình chính
Cho mượn
Đội trẻ và Học viện
Số áo vinh danh:
25: Gianfranco Zola
Cầu thủ xuất sắc nhất năm
Nguồn: Chelsea F.C.
Các huấn luyện viên nổi bật
Dưới đây là các huấn luyện viên giành ít nhất một danh hiệu khi dẫn dắt Chelsea:
Danh hiệu
Sau khi giành chức vô địch UEFA Europa League 2012–13, Chelsea trở thành đội thứ năm trong lịch sử giành đủ "Bộ ba cúp châu Âu" với European Cup/UEFA Champions League, European Cup Winners' Cup/UEFA Cup Winners' Cup, và UEFA Cup/UEFA Europa League sau Juventus, Ajax, Bayern Munich, Manchester United và cũng là câu lạc bộ Anh đầu tiên sở hữu cả ba danh hiệu lớn của UEFA.
Sau khi giành chức vô địch UEFA Europa League 2012–13, Chelsea trở thành đội thứ năm trong lịch sử giành đủ "Bộ ba cúp châu Âu" với European Cup/UEFA Champions League, European Cup Winners' Cup/UEFA Cup Winners' Cup, và UEFA Cup/UEFA Europa League sau Juventus, Ajax, Bayern Munich, Manchester United và cũng là câu lạc bộ Anh đầu tiên sở hữu cả ba danh hiệu lớn của UEFA.
Quốc nội
Giải quốc gia
First Division / Premier League
Vô địch (6): 1954–55, 2004–05, 2005–06, 2009–10, 2014–15, 2016–17Second Division / Championship Vô địch (2): 1983–84, 1988–89
Cúp
FA Cup
Vô địch (8): 1969–70, 1996–97, 1999–2000, 2006–07, 2008–09, 2009–10, 2011–12, 2017–18 Football League Cup Vô địch (5): 1964–65, 1997–98, 2004–05, 2006–07, 2014–15 FA Community Shield Vô địch (4): 1955, 2000, 2005, 2009
Full Members' Cup
Vô địch (2): 1985–86, 1989–90
Châu Âu
UEFA Champions League
Vô địch (2): 2011–12, 2020–21
UEFA Europa League
Vô địch (2): 2012–13, 2018–19 UEFA Cup Winners' Cup Vô địch (2): 1970–71, 1997–98
UEFA Super Cup
Vô địch (2): 1998, 2021
Giải thế giới
FIFA Club World Cup
Vô địch (1): 2021
Cú đúp
1997–98: League Cup và European Cup Winners' Cup
2004–05: League và League Cup
2006–07: FA Cup và League Cup
2009–10: Premier League và FA Cup
2011–12: FA Cup và UEFA Champions League
2014–15: Premier League và League Cup
Ghi chú
Chú thích
Tham khảo
Liên kết ngoài
Chelsea F.C. at Premier League
Câu lạc bộ bóng đá Anh
Vô địch Cúp FA
Câu lạc bộ Premier League
Câu lạc bộ bóng đá Luân Đôn
Khởi đầu năm 1905 ở Anh
Câu lạc bộ bóng đá thành lập năm 1905
Công ty thành lập năm 1905
Vô địch Cúp EFL
Câu lạc bộ English Football League
|
26706
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nishikawa%20Takanori
|
Nishikawa Takanori
|
Nishikawa Takanori (tiếng Nhật: 西川貴教; Hán-Việt: Tây Xuyên Quý Giáo; sinh ngày 19 tháng 9 năm 1970 tại Shiga, Nhật Bản) là một ca sĩ bắt đầu nghề nghiệp của mình từ việc hát nhạc cho các anime. Sau một khoảng thời gian dài, anh đã tạo dựng được sự nghiệp khá vững chắc của mình và cũng có được tiếng tăm ở Nhật Bản. Ngoài ra, anh lại còn được biết đến qua Gundam Seed và Gundam Seed Destiny. Hiện anh đang là ca sĩ của Sony Music Entertainment (Epic Records) ở Nhật Bản và Tofu Records ở Mỹ.
Nghệ danh của Nishikawa Takanori là T.M Revolution, viết tắt của "Takanori Makes Revolution" (Takanori tạo ra cách mạng).
Tham gia
Trình bày nhạc
Anime
Mobile Suit Gundam Seed (TV): trình bày bài mở đầu 1
Mobile Suit Gundam Seed Destiny (TV): trình bày bài mở đầu 1, Vestige và Meteor
Mobile Suit Gundam Seed MSV Astray (giới thiệu OAV): trình bày bài Zips
Mobile Suit Gundam Seed Special Edition: trình bày nhạc (Zips/Meteor/Invoke)
Rurouni Kenshin (TV): trình bày bài kết 3
Không thuộc anime
Game "Sengoku Basara": trình bày nhạc
Lồng tiếng
Anime
Mobile Suit Gundam Seed (TV) trong vai Miguel Aiman (tập 1-3); Dẫn chuyện (tập 26)
Mobile Suit Gundam Seed Destiny (TV) trong vai Heine Westenfluss; Miguel Aiman (tập 20)
Mobile Suit Gundam Seed Special Edition trong vai Miguel Ayman
Rurouni Kenshin (TV) trong vai Orochi no Ren
Không thuộc anime
Game "Mobile Suit Gundam SEED: Owaranai Asu e" trong vai Miguel Aiman
Live action "Beautiful Life" trong vai Satoru Kawamura
Game "Genshin Impact" trong vai Arataki Itto
Sở thích và khả năng
Màu sắc: Đen, xám, cam và màu bạc
Đồ ăn: đồ ăn Nhật
Game: Final Fantasy, Dragon Quest
Nhân vật Gundam: Miguel Aiman
Gundam Series: Gundam Seed (sau này) và Gundam I (từ khi còn nhỏ).
Manga: Monster, Berserk
Mobile Suit: Miguel Aiman's Ginn.
Âm nhạc: Thích gần hết các loại nhạc, đặc biệt là Rock với giai điệu mạnh.
Hoa: hoa hồng
Mùa: mùa thu
Diễn viễn: Yuusaku Matsuda
Ca sĩ: Michael Jackson, Joe, Prince [etc]
Câu nói: "Be kind to others, but kinder to yourself" (Tốt với mọi ngươi nhưng tốt hơn với bản thân)
Dạng người anh thán phục: người có thể tự chăm sóc mình
Việc thích làm: Game RPG, lái ô tô và Manga
Khả năng đặc biệt: Nói và hát khi ngủ
Danh sách đĩa nhạc
1996
Dokusai - Monopolize (Đĩa đơn) Ngày phát hành: 13/05/1996
hesosyukujo (臍淑女, hesosyukujo) -Venus-(Đĩa đơn) Ngày phát hành: 15/07/1996
Makes Revolution (Album) Ngày phát hành: 12/08/1996
Heart of Sword - Yoakemae (Đĩa đơn) Ngày phát hành: 11/11/1996
Live Revolution 1 - Makes Revolution (VHS Video) Ngày phát hành: 01/12/1996
1997
Restoration Level 3 (Album) Ngày phát hành: 21/02/1997
Level 4 (Đĩa đơn) Ngày phát hành: 21/08/1997
Video (Title Unknown) (VHS Video) Ngày phát hành: 21//05/1997
High Pressure (Đĩa đơn) Ngày phát hành: 01/07/1997
Live Revolution 2 - Ishin Level 3 (VHS Video) Ngày phát hành: 01/08/1997
White Breath (Single) Ngày phát hành: 22/10/1997
1998
triple joker (Album) Ngày phát hành: 21/01/1998
Aoi Hekireki (Đĩa đơn) Ngày phát hành: 15/02/1998
triple joker (VHS Video) Ngày phát hành: 01/031998
Hot Limit (Đĩa đơn) Ngày phát hành: 24/07/1998
Thunderbird (Đĩa đơn) Ngày phát hành: 07/10/1998
Burnin' X'mas (Đĩa đơn) Ngày phát hành: 28/10/1998
1999
Wild Rush (Đĩa đơn) Ngày phát hành: 03/02/1999
The Force (Album) Ngày phát hành: 10/03/1999
2000
Black or White? version 3 (Đĩa đơn) Ngày phát hành: 19/04/2000
Heat Capacity (Đĩa đơn) Ngày phát hành: ngày 24 tháng 5 năm 2000
Discordanza Try My Remix - Single Collections (Album) Ngày phát hành: 28/07/2000
Madan - Der Freischutz (Đĩa đơn) Ngày phát hành: 06/09/2000
progress (Album) Ngày phát hành: 12/10/2000
2001
Boarding (Đĩa đơn) Ngày phát hành: 07/02/2001
2002
Out of Orbit - Triple Zero (Đĩa đơn) Ngày phát hành: 20/02/2002
Out of Orbit - Triple Zero (Album) Ngày phát hành: 20/02/2002
B☆E☆S☆T (Album) Ngày phát hành: 01/07/2002
T.M. Revolution 0001 (DVD Video) Ngày phát hành: 01/07/2002
INVOKE (Đĩa đơn) Ngày phát hành: 30/10/2002
2003
coordinate (Album) Ngày phát hành: 26/03/2003
Sonic Warp the Visual Fields (DVD Video) Ngày phát hành: 19/11/2003
2004
Albireo (Đĩa đơn) Ngày phát hành: 25/02/2004
SEVENTH HEAVEN (Album) Ngày phát hành: 17/03/2004
2005
vertical infinity (Album) Ngày phát hành: 26/01/2005
vestige (Đĩa đơn) Ngày phát hành: 17/08/2005
2006
UNDER:COVER (Album) Ngày phát hành: 01/01/2006
2008
resonance (đĩa đơn) Ngày phát hành: 11/06/2008
Tham khảo
Liên kết
Trang chủ của T.M Revolution (bao gồm cả tiếng Anh và tiếng Nhật)
Sony Music tiếng Anh
Takanori Nashikawa Trang chủ dưới tên thật
Tofu Record
Turbo Web Trang chính dành cho các fan.
Nữ ca sĩ Nhật Bản
Nhạc sĩ Nhật Bản
Sinh năm 1970
Nam diễn viên lồng tiếng Nhật Bản
Nhân vật còn sống
Nghệ sĩ của Sony BMG
Người Shiga
|
26714
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Liverpool%20F.C.
|
Liverpool F.C.
|
Câu lạc bộ bóng đá Liverpool () là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp có trụ sở tại Liverpool, Anh, hiện đang thi đấu ở Premier League, giải đấu hàng đầu của hệ thống bóng đá Anh. Ở trong nước, câu lạc bộ đã giành được 19 chức vô địch Ngoại hạng Anh, 8 FA Cup, kỷ lục 10 League Cup và 16 FA Community Shield. Trong các giải đấu quốc tế, câu lạc bộ đã giành được sáu Cúp C1 Châu Âu, nhiều hơn bất kỳ một câu lạc bộ Anh nào khác, ba Cúp UEFA, bốn Siêu cúp UEFA và một FIFA Club World Cup.
Liverpool được thành lập vào ngày 3 tháng 6 năm 1892 bởi John Houlding và lên chơi tại giải cấp quốc gia trong năm kế tiếp. Đội đã sử dụng sân nhà Anfield từ khi thành lập cho đến nay. Đội thi đấu rất thành công trong thập niên 70 và 80, dưới thời các huấn luyện viên Bill Shankly và Bob Paisley, họ đã giành được 11 chức vô địch quốc gia cùng 7 danh hiệu châu Âu.
Liverpool có lượng cổ động viên hùng hậu và rất trung thành. Những kình địch lâu đời của họ là đội bóng hàng xóm Everton và đội Manchester United. Bài hát truyền thống của đội là "You'll Never Walk Alone" (tạm dịch: "Bạn sẽ không bao giờ bước đi đơn độc"). Cầu thủ Liverpool lần đầu mặc trang phục thi đấu toàn bộ đỏ vào năm 1964, khi huấn luyện viên Bill Shankly cho rằng màu đỏ sẽ gây tác động đến tâm lý đối phương.
Đội bóng có mặt trong hai sự kiện đáng buồn của bóng đá châu Âu. Đầu tiên là thảm họa tại sân Heysel vào năm 1985, nhiều cổ động viên Liverpool quá khích đã tấn công cổ động viên Juventus khiến một bức tường khán đài sập xuống, gây ra cái chết của 39 người. Năm 1989, đến lượt thảm họa thứ hai là Hillsborough khi 97 cổ động viên Liverpool đã thiệt mạng do bị xô đẩy dồn ép vào dải rào ngăn cách giữa khán đài và sân cỏ.
Lịch sử
Những mùa giải đầu tiên
Câu lạc bộ bóng đá Liverpool được thành lập sau một cuộc tranh cãi trong nội bộ ủy ban câu lạc bộ Everton. Everton thuê sân Anfield trong 8 năm bắt đầu từ năm 1884. Tới năm 1891, John Houlding, chủ tịch Everton đồng thời là người đứng tên hợp đồng thuê sân Anfield, mua lại và làm chủ sân này. Sau đó, vì có bất đồng với Houlding nên các thành viên còn lại của Everton đành di chuyển đến một sân vận động khác là Goodison Park, nằm ở phía bắc công viên Stanley. Chỉ còn lại ba cầu thủ và một sân bóng trống không, John Houlding quyết định tự thành lập cho mình một đội bóng vào ngày 15 tháng 3 năm 1892. Đội bóng đã giành được Giải Lancashire League trong mùa giải ra mắt của mình và gia nhập Giải hạng hai Football League vào đầu mùa giải 1893-94. Sau khi kết thúc ở vị trí đầu tiên, câu lạc bộ đã được thăng lên hạng Nhất và giành chiến thắng vào năm 1901 và một lần nữa vào năm 1906.
Câu lạc bộ Liverpool được thành lập và chơi tại sân Anfield đang bỏ trống. Tên ban đầu là Everton F.C. and Athletic Grounds, Ltd (gọi tắt là Everton Athletic), nhưng sau đó được đổi thành Liverpool Football Club vào tháng 3 năm 1892 do Liên đoàn bóng đá Anh từ chối công nhận cái tên Everton và được công nhận chính thức ba tháng sau đó.
Liverpool đã lọt vào chung kết FA Cup đầu tiên vào năm 1914, thua 1-0 trước Burnley. Câu lạc bộ vô địch Giải Hạng nhất hai năm liên tiếp vào các mùa 1921-22 và 1922-23, nhưng sau đó không vô địch danh hiệu nào cho tới 1946-47 khi họ vô địch giải quốc gia lần thứ năm dưới quyền của cựu trung vệ West Ham Utd, George Kay. Câu lạc bộ vào đến trận chung kết Cúp FA 1950 nhưng thua Arsenal. Liverpool bị xuống hạng Nhì vào mùa giải 1953-54. Trong giai đoạn này họ đã phải chịu một trận thua 2-1 ở Cúp FA trước đội bóng ít tên tuổi Worcester City, mùa 1958-59 thì Bill Shankly được bổ nhiệm làm HLV trưởng.
Dưới thời Bill Shankly và Bob Paisley
Không lâu sau kết quả mất mặt này, Bill Shankly được bổ nhiệm làm huấn luyện viên, lúc này Liverpool đang suy yếu, với trang thiết bị luyện tập cũ nát, đội ngũ ban huấn luyện kém cỏi. Ông đã sa thải 24 cầu thủ và thay đổi một phòng ở Anfield, ban đầu được dùng để khởi động thành một phòng gọi là Boot Room, nơi các cầu thủ cùng huấn luyện viên có thể bàn bạc chiến thuật và uống trà. Tại đây, Shankly cùng các thành viên ban đầu của Boot Room, gồm Joe Fagan, Reuben Bennett và Bob Paisley, bắt đầu cải tổ lại đội bóng.
Lên lại Giải Hạng nhất vào mùa giải 1961-62, và vô địch lần đầu tiên sau 17 năm vào mùa 1963-64. Mùa 1965-66, họ vô địch Giải Hạng nhất rồi đoạt Cúp FA đầu tiên, nhưng sau đó thua trước Borussia Dortmund trong trận chung kết Cúp các đội đoạt cúp. Mùa giải 1972-73 đội bóng vô địch Giải Hạng nhất, đoạt Cúp UEFA - đây là cúp châu Âu đầu tiên trong lịch sử đội bóng, và tiếp đó 1973-74 đoạt Cúp FA. Sau 15 năm dẫn dắt đạt được nhiều thành công, đưa Liverpool trở thành một trong những câu lạc bộ hàng đầu châu Âu, tháng 7 năm 1974, Shankly tuyên bố nghỉ hưu, ông rời đội bóng và trợ lý Bob Paisley lên thay.
Paisley thậm chí còn đạt được nhiều thành công hơn Shankly khi giúp đội bóng vô địch Giải Hạng nhất và Cúp UEFA ngay trong mùa giải 1975-76 - mùa thứ hai ông làm huấn luyện viên. Mùa tiếp đó, họ bảo vệ thành công danh hiệu vô địch Giải Hạng nhất, đoạt được cúp vô địch châu Âu (Cúp C1) đầu tiên trong lịch sử đội bóng, nhưng để thua trong trận chung kết Cúp FA, bỏ lỡ cơ hội đoạt cú ăn ba. Mùa 1977-78, Liverpool bảo vệ thành công ngôi vô địch Cúp C1 và vô địch Giải Hạng nhất lần nữa với số điểm 68, chỉ để thủng lưới 16 bàn trong 42 trận.
Trong 9 mùa bóng Paisley dẫn dắt đội bóng, Liverpool đã vô địch 21 danh hiệu, bao gồm: 3 Cúp C1, 1 Cúp UEFA, 6 chức vô địch Giải Hạng nhất, 3 Cúp Liên đoàn cùng nhiều danh hiệu khác. Danh hiệu duy nhất ông không giành được là Cúp FA. Kỉ nguyên của Paisley là kỉ nguyên của các ngôi sao lớn: Graeme Souness, Ian Rush, Alan Hansen và Kenny Dalglish.
Paisley rời băng ghế huấn luyện vào năm 1983 và (cũng giống như Shankly đã làm) để lại chiếc ghế huấn luyện cho thành viên của Boot Room, trợ lý huấn luyện viên Joe Fagan. Liverpool có được ngay 3 danh hiệu trong mùa giải 1983-84 - mùa đầu tiên Fagan tiếp quản, gồm: Giải Hạng nhất, Cúp Liên Đoàn và Cúp C1, trở thành đội bóng Anh đầu tiên giành được cú ăn ba trong một mùa giải. Liverpool chơi trận chung kết Cúp C1 lần nữa vào ngày 29 tháng 5 năm 1985, trận gặp Juventus trên sân vận động Heysel, thành phố Brussels, nước Bỉ.
Những thảm họa
Trước khi trận chung kết bắt đầu, nhiều cổ động viên Liverpool chủ động tấn công cổ động viên Juventus bằng chai lọ rồi tràn qua phần khán đài của họ. Kết quả nhiều cổ động viên Juventus bị dồn vào một bức tường khiến bức tường này đổ sập, giết chết 39 người trong số họ, hầu hết là cổ động viên người Ý. Trận đấu sau đó vẫn diễn ra và Liverpool thua 1-0 bởi bàn thắng phạt đền của Michel Platini ở phút 57. Các đội bóng Anh sau đó đã bị cấm thi đấu ở các giải châu Âu trong 5 năm, Liverpool nhận mức phạt 10 năm, sau đó được giảm xuống còn 6 năm. 14 cổ động viên Liverpool phải nhận mức án 3 năm tù cho tội ngộ sát. Thảm họa này được gọi là "Giờ đen tối nhất trong lịch sử các cuộc đấu UEFA".
Fagan từ chức ngay sau thảm hoạ và Kenny Dalglish được bổ nhiệm trên cương vị huấn luyện viên kiêm cầu thủ. Trong thời gian ông nắm quyền, đội bóng 3 lần vô địch Giải Hạng nhất và đoạt 2 Cúp FA, bao gồm một cú ăn hai vào mùa giải 1985-86.
Chỉ 4 năm sau thảm họa Heysel, năm 1989, thêm một thảm họa khác liên quan đến cổ động viên của Liverpool xảy ra. Trong trận bán kết Cúp FA gặp Nottingham Forest tại sân Hillsborough ngày 15 tháng 4 năm 1989, sân quá tải khiến nhiều người bị dồn ép vào hàng rào ngăn cách giữa khán đài và sân cỏ, giẫm đạp lên nhau trong vô vọng. 94 cổ động viên đã thiệt mạng vào ngày hôm đó. Bốn ngày sau, số người thiệt mạng là 95 khi một cậu bé 14 tuổi qua đời. Bốn năm sau, tới lượt cổ động viên thứ 96 qua đời trên giường bệnh sau một thời gian dài sống thực vật. Sau thảm họa này, chính quyền đã phải kiểm tra mức độ an toàn của các sân bóng. Theo như Báo cáo Taylor (Taylor Report), nguyên nhân chính của thảm hoạ là do sự quá tải dẫn tới việc cảnh sát không thể kiểm soát được tình hình.
Một luật lệ đã được ban hành và mọi sân vận động ở giải đấu vô địch nước Anh phải dỡ bỏ hàng rào ngăn cách giữa khán đài và sân cỏ, các khán đài phải được phủ kín bởi ghế ngồi. Mùa giải 1988-89 cũng chứng kiến Liverpool bị mất chức vô địch Hạng nhất một cách bất ngờ nhất kể từ khi giải đấu ra đời, khi câu lạc bộ mất danh hiệu bởi hiệu số bàn thắng-thua vào đúng phút cuối của mùa giải, trong trận thua trước chính nhà vô địch mùa đó là Arsenal.
Dưới thời Souness và Houllier
Ngày 22 tháng 2 năm 1991, Dalglish bất ngờ tuyên bố từ chức, người thay thế ông là Graeme Souness. Ngoại trừ Cúp FA vào năm 1992, Souness không giành thêm được thành công nào và bị thay thế bởi cựu thành viên Boot Room Roy Evans. Evans đạt được một chút thành công: chức vô địch Cúp Liên đoàn năm 1995 là danh hiệu duy nhất của ông. Điểm sáng nữa là chiến thắng 4-3 trước Newcastle United ở Anfield ngày 3 tháng 4 năm 1996 được đánh giá là trận đấu hay nhất của Giải Ngoại hạng trong 10 năm.
Trong giai đoạn này, Liverpool sử dụng nhiều cầu thủ trẻ do họ tự đào tạo và xây dựng một lối chơi tấn công đẹp mắt. Đặc biệt là bộ ba Spice Boys gồm: Steve McManaman, Jamie Redknapp và Robbie Fowler, sau đó được bổ sung thêm các nhân tố tấn công như Patrik Berger, Stan Collymore và đặc biệt là tiền đạo trẻ tuổi Michael Owen.
Trong khi họ thực hiện một số thách thức danh hiệu dưới thời Evans, kết thúc ở vị trí thứ ba vào năm 1996 và 1998 là điều tốt nhất họ có thể thực hiện, Gérard Houllier được bổ nhiệm là đồng huấn luyện viên cùng Roy Evans vào mùa giải 1998-99, nhưng được toàn quyền dẫn dắt sau khi Evans từ chức vào tháng 11 năm 1998. Trong năm 2001, Liverpool giành được giành được cú ăn ba gồm: Cúp FA, Cúp Liên đoàn và Cúp UEFA; cùng 2 danh hiệu khác là Siêu cúp châu Âu và Siêu cúp Anh. Houllier phải thực hiện một ca phẫu thuật tim trong mùa giải 2001-02 và Liverpool về đích vị trí thứ nhì tại Giải Ngoại hạng, sau Arsenal. Mùa 2002-03, họ giành được thêm Cúp Liên đoàn nhưng tới mùa sau đó thì không đoạt bất kì danh hiệu nào, và lối chơi trong giai đoạn này cũng không thuyết phục.
Thời hoàng kim Benítez và sau đó
Khi Benítez lên dẫn dắt đội bóng, hàng loạt cầu thủ Tây Ban Nha đã đến Anfield chơi bóng, có thể kể đến những tên tuổi như Xabi Alonso, Luis García. Tại Giải ngoại hạng Anh, Liverpool thi đấu không thực sự tốt, họ xếp thứ 5 chung cuộc trên bảng xếp hạng vào cuối mùa. Ở cúp FA, câu lạc bộ cũng lọt đến trận chung kết gặp Chelsea, nhưng thất bại 2-3 sau 120 phút thi đấu. Câu lạc bộ cũng sớm bị loại khỏi Cúp liên đoàn sau khi bất ngờ để thua Burnley với tỉ số 0-1. Cúp châu Âu là danh hiệu duy nhất mà họ giành được trong mùa giải. Ở vòng bảng Lữ đoàn Đỏ xếp thứ 2 sau câu lạc bộ AS Monaco. Sau đó Liverpool lần lượt vượt qua các đối thủ Bayer Leverkusen, Juventus, và trả được món nợ tại trận chung kết Cúp FA khi loại Chelsea để tiến vào trận chung kết gặp AC Milan. Trận chung kết diễn ra trên đất Thổ Nhĩ Kỳ. Đây được xem là đêm Istanbul huyền thoại, khi chỉ trong hiệp 1, Liverpool đã để lọt lưới 3 bàn, và trong hiệp 2, Đội bóng đến từ thành phố cảng đã gỡ hòa 3-3 với bàn thắng của Steven Gerrard, Vladimír Šmicer và Xabi Alonso, qua đó cầm chân Milan vào loạt sút luân lưu. Trên chấm luân lưu, Liverpool đã giành chiến thắng với tỉ số 3-2, qua đó lần thứ 5 lên ngôi vô địch châu Âu.
Mùa tiếp theo, Liverpool đứng vị trí thứ 3 với 82 điểm, số điểm cao nhất mà họ giành được kể từ năm 1988. Họ vô địch Cúp FA bằng việc đánh bại West Ham United 3-1 trên chấm luân lưu sau khi hiệp chính kết thúc với tỉ số 3-3.
Benitez đã thực hiện những cuộc cải cách khi giảm dần nhân tố Đông Âu trong đội hình của Liverpool bằng việc loại bỏ những cầu thủ như Milan Baros, Dudek, Vladimír Šmicer... thay vào đó ông chiêu mộ nhiều cầu thủ gốc La-tinh như Luis Garcia, Fabio Aurelio, Javier Mascherano, Xabi Alonso.... và đặc biệt là tiền đạo Fernando Torres; xây dựng lối chơi tấn công dựa trên bộ đôi Gerrard-Torres. Sự thay đổi này đã được báo giới đặt tên là Rafalution, một cách chơi chữ của từ revolution, nghĩa là cuộc cách mạng của Rafa.
Mùa giải 2006-07, đội bóng tìm kiếm những nguồn đầu tư mới và hai doanh nhân người Mĩ là George Gillet và Tom Hicks đã tới mua lại đội bóng với mức giá 218,9 triệu bảng. Năm đó, họ cũng vào tới trận chung kết Cúp C1, nhưng thua 2-1 trước đội bóng mà họ đã đánh bại trong trận chung kết Cúp C1 2005 AC Milan. Kết thúc mùa giải 2008-09, Liverpool đứng ở vị trí thứ nhì sau Manchester United, giành được 86 điểm - số điểm cao nhất mà họ từng giành được kể từ khi giải đấu mang tên Giải Ngoại hạng.
Giai đoạn này, Liverpool tuy không giành được nhiều danh hiệu nhưng họ đã chơi tốt tại đấu trường châu Âu. Họ có những trận đấu đẹp, kịch tích và những chiến thắng thuyết phục trước các đội bóng lớn của châu Âu và nước Anh, làm mưa làm gió trong giai đoạn này. Báo chí thường nhắc đến họ với cái tên "Vua đấu cúp".
Mùa giải 2009-10, câu lạc bộ không đoạt được bất kì danh hiệu nào và thất bại trong việc tìm một suất dự cúp C1 với vị trí thứ 7 Giải Ngoại hạng. Đây là nguyên nhân dẫn đến sự ra đi của Rafael Benitez vào sau mùa giải này. Roy Hodgson lên dẫn dắt, nhưng chiến thuật của ông không phù hợp khiến đội bóng liên tục nằm ở nửa dưới bảng xếp hạng và các chủ nợ của câu lạc bộ đã yêu cầu Tòa án tối cao cho phép bán câu lạc bộ, vượt qua mong muốn của Hicks và Gillett. Tháng 10 năm 2010 cũng đánh dấu các sự kiện: chia tay với nhà tài trợ Carlsberg sau nhiều năm hợp tác và John W. Henry chủ sở hữu của Boston Red Sox và của Fenway Sports Group mua lại câu lạc bộ.
Ngày 8 tháng 1 năm 2011, Roy Hodgson rời Liverpool bằng "thoả thuận đôi bên", người thay thế ông là Kenny Dalglish, đúng như nguyện vọng của nhiều cổ động viên. Dalglish giúp Liverpool chấm dứt chuỗi 6 năm không danh hiệu với việc vô địch Cúp Liên đoàn 2012. Tuy nhiên, sau khi đội bóng kết thúc Giải Ngoại hạng 2011-12 ở vị trí thứ 8, tệ nhất trong 18 năm, Dalglish bị sa thải vào tháng 5 năm 2012. Kết thúc cuộc tìm kiếm vị huấn luyện viên trưởng thay thế Kenny Dalglish, Brendan Rodgers được lựa chọn. Ông rất thành công với Swansea City mùa giải trước đó và hứa hẹn sẽ đưa lối chơi Tiqui-Taca dựa trên khả năng cầm giữ bóng tốt đến Liverpool. Mùa giải đầu tiên ông dẫn dắt, Liverpool kết thúc ở vị trí thứ 7 giải Ngoại hạng vào được vòng 32 đội ở đấu trường Europa League. Mùa tiếp đó, Liverpool có được bước tiến vượt bậc về thứ hạng khi họ cán đích chỉ ở sau nhà vô địch Manchester City và ghi được 101 bàn thắng, tốt nhất kể từ mùa giải 1895-1896 với 106 bàn, đồng thời họ có được suất dự cúp C1 lần đầu tiên sau nhiều năm chờ đợi.
Mùa giải 2014-15 là mùa giải thứ ba của Brendan Rodgers, Liverpool thi đấu không thật sự tốt khi bị loại ở vòng bảng UEFA Champions League khi kết thúc với vị trí thứ 3 và xuống chơi ở Europa League, câu lạc bộ cũng không mấy thành công. Còn ở giải ngoại hạng, Liverpool đứng ở vị trí thứ 6, đây là năm trắng tay thứ 3 liên tiếp. Niềm an ủi duy nhất với Lữ đoàn đỏ là chiếc vé dự Europa League thay cho nỗi buồn về thành tích thi đấu hay sự ra đi của huyền thoại đội trưởng Steven Gerrard.
Mùa giải 2015-16, mặc dù đã đổ vào thị trường chuyển nhượng hàng chục triệu bảng đem về những tân binh chất lượng như Roberto Firmino, Christian Benteke, nhưng kết quả vẫn nối tiếp sự thất vọng của mùa trước với những thành tích bạc nhược, sau 10 trận gần nhất chỉ thắng được 1, Brendan Rodgers đã bị sa thải ngay sau khi kết thúc trận đấu derby Merseyside ở vòng 8 với Everton. Thay thế ông là cựu huấn luyện viên của Dortmund, ông Jürgen Klopp.
2015-nay: "Kỷ nguyên" Jürgen Klopp
Ngày 9 tháng 10 năm 2015, trang chủ của Liverpool thông báo đội bóng đã bổ nhiệm chiến lược gia người Đức Jürgen Klopp làm huấn luyện viên trưởng sau khi sa thải HLV Brendan Rodgers trong 3 năm. Liverpool đã có những dấu hiệu khởi sắc dưới thời tân chiến lược gia người Đức. Họ đã tiến vào chung kết League Cup gặp Manchester City, đội hòa 1-1 cả trận nhưng thua 3-1 sau loạt phạt đền
Ngày 15 tháng 4 năm 2016, Liverpool tiếp đón Dortmund trong khuôn khổ lượt về tứ kết Europa League với lợi thế trận hòa 1-1 ở lượt đi. Trận đấu đầy cảm xúc làm gợi lại đêm Istanbul huyền diệu khi Liverpool đã lội ngược dòng thành công với tỉ số 4-3 sau khi bị dẫn trước 2-0 từ rất sớm, The Kop đã chơi một thứ bóng đá đầy cảm xúc, một trận đấu xứng đáng được ghi vào lịch sử CLB. Tại bán kết Liverpool gặp câu lạc bộ đến từ Tây Ban Nha, Villarreal. Tại trận lượt đi mặc dù thi đấu tốt nhưng The Kop phải đón nhận bàn thua ở những phút chót và đành chấp nhận thất bại 0-1. Tuy nhiên ở trận lượt về, Liverpool của Klopp đã thi đấu xuất sắc để lật ngược tình thế với chiến thắng cách biệt 3-0 để tiến vào trận chung kết trước khi để thua một câu lạc bộ khác của Tây Ban Nha là Sevilla với tỉ số 1-3. Dù thất bại ở 2 trận chung kết, nhưng Jürgen Klopp đã chiếm nhiều cảm tình từ phía người hâm mộ bằng một lối chơi kỷ luật và đầy máu lửa.
Vào tháng 7 năm 2016, Liverpool thông báo đã gia hạn với huấn luyện viên Jürgen Klopp thêm 6 năm, hợp đồng sẽ mãn hạn vào hè năm 2022. Trước đó, CLB đã sở hữu bản hợp đồng trị giá 30 triệu bảng từ Southampton, tiền đạo Sadio Mané. Mùa giải trọn vẹn đầu tiên của ông kết thúc khi đưa đội đứng thứ 4
Tháng 6 năm 2017, câu lạc bộ đã chiêu mộ thành công cầu thủ người Ai Cập Mohamed Salah từ A.S. Roma với mức giá chuyển nhượng 42 triệu Euro, cùng Virgil van Dijk với mức phí chuyển nhượng kỷ lục 75 triệu bảng vào mùa đông, và bán Philippe Coutinho cho FC Barcelona với mức giá 160 triệu Euro. Mùa giải 2017-18, nhờ sự xuất sắc của bộ ba Salah - Firmino - Mané, Liverpool đứng thứ 4 chung cuộc ở giải ngoại hạng. Còn ở đấu trường Champions League, đội bóng đã lần lượt vượt qua Porto, Man City và A.S. Roma để vào đến trận chung kết gặp Real Madrid. Tuy nhiên, The Kop để thua với tỉ số 1-3.
Đến mùa giải 2018-2019, Liverpool xuất sắc sau khi bỏ xa Manchester City tận 7 điểm để nắm chắc ngôi đầu nhưng sau đó là hàng loạt cú sẩy chân trong tháng 3 khiến họ rơi xuống vị trí thứ 2, chung cuộc Liverpool về nhì với 97 điểm, số điểm cao nhất trong lịch sử của đội bóng này nhưng vẫn ít hơn đội vô địch là Manchester City với 98 điểm. Tại Champions League, đội bóng lần lượt vượt qua Bayern Munich, Porto để vào bán kết gặp Barcelona. Trận gặp Barcelona tại lượt về bán kết Champions League là một trong những trận đấu ngược dòng kinh điển của lịch sử Champions League. Sau khi để thua lượt đi tại Camp Nou với tỉ số 3-0, đội bóng đã ngược dòng không tưởng tại trận lượt về tại Anfield với tỉ số 4-0 bởi cú đúp của Origi và Georginio Wijnaldum, qua đó kết thúc trận đấu với tỷ số 4-3 để vào đến trận chung kết gặp đối thủ cùng quốc gia là Tottenham. Ở trận chung kết diễn ra tại thành phố Madrid, với 2 pha lập công của Salah và Origi đã giúp Liverpool đánh bại đối thủ, qua đó mang về danh hiệu đầu tiên dưới thời Jürgen Klopp và là danh hiệu thứ 6 cho đội bóng tại đấu trường này. Sau đó, đội còn giành được thêm 2 danh hiệu quốc tế là UEFA Super Cup trước Chelsea và FIFA Club World Cup trước đại diện đến từ Brazil Flamengo để kết thúc một năm 2019 đầy rực rỡ.
The Kop bước sang năm 2020 với vị trí đầu bảng Giải bóng đá Ngoại hạng Anh,dẫn trước đội xếp thứ 2 là Manchester City tới 16 điểm. Tuy nhiên đại dịch COVID-19 ảnh hưởng đến tất cả các hoạt động thể thao trên thế giới, Ngoại hạng Anh cũng đồng thời bị hoãn. Liverpool đang dẫn đầu bảng xếp hạng Ngoại Hạng Anh với 82 điểm, bỏ xa đội thứ 2 Manchester City với 57 điểm. Ban tổ chức Ngoại hạng Anh đã lên kế hoạch trao cúp vô địch sớm cho Liverpool nhưng các đội bóng khác đã lên tiếng phản đối và yêu cầu hủy kết quả mùa giải, tiêu biểu là West Ham United và Tottenham.
Rạng sáng ngày 26 tháng 6 năm 2020, ở vòng 31, Chelsea đánh bại Man City 2-1. Cùng với việc Liverpool thắng Crystal Palace khiến khoảng cách giữa Man City và Liverpool được nới rộng lên thành 23 điểm. Vì Ngoại Hạng Anh chỉ còn 7 vòng đấu nữa là kết thúc nên thầy trò HLV Guardiola đã chính thức hết cơ hội bám đuổi Liverpool. Ngôi vương đã thuộc về Juergen Klopp và các học trò một cách đầy xứng đáng. Liverpool lập kỷ lục vô địch sớm 7 vòng đấu.
Rạng sáng ngày 5 tháng 10 năm 2020, ở vòng 5, Liverpool đã nhận cú sốc lớn khi để thua 2-7 trước Aston Villa. Cùng với chấn thương của các trụ cột, Liverpool thi đấu sa sút và chỉ kết thúc mùa giải ở vị trí thứ 3.
Sang mùa giải 2021-22, Liverpool đã 2 lần đánh bại Chelsea ở chung kết Carabao Cup, và FA Cup đều ở loạt luân lưu. Tuy nhiên, đội về nhì tại giải quốc nội với 92 điểm, đứng sau Manchester City với 1 điểm ít hơn, và nhận thất bại 0-1 tại chung kết Champions League trước Real Madrid.
Tóm tắt hoạt động
Màu áo và biểu trưng
Vào thời kì đầu, khi đội bóng tiếp quản sân Anfield từ tay Everton, họ dùng màu áo của Everton là xanh và trắng. Năm 1896, Liverpool chọn trang phục thi đấu chính thức là áo đỏ và quần trắng. Họ vẫn sử dụng nó trong hơn 60 năm tiếp theo. Màu tất đã được thay đổi nhiều lần trong những năm đó: từ đỏ, sang đen, tới trắng rồi trở lại đỏ. Biểu trưng con chim Liver bắt đầu được gắn trên ngực trái áo đấu vào năm 1955. Tới năm 1964, huấn luyện viên Bill Shankly quyết định để các cầu thủ mặc trang phục toàn bộ đỏ lần đầu tiên trong trận gặp R.S.C Anderlecht, và Ian St. John đã nói lại điều này trong cuốn tự truyện của ông: Shankly nghĩ rằng màu sắc sẽ tác động tới tâm lý - màu đỏ cho nguy hiểm, màu đỏ cho sức mạnh.
"Trận đấu đối đầu với Anderlecht tại Anfield đúng là một đêm đáng nhớ. Chúng ta đã lần đầu tiên được mang bộ đồng phục đỏ. Chúa ơi, những cầu thủ lớn. Và chúng ta cũng chơi theo kiểu cầu thủ lớn".
Trang phục sân khách từng được sử dụng nhiều hơn cả là áo trắng hoặc vàng với quần đen, nhưng cũng có một vài ngoại lệ. Bộ trang phục màu xám được giới thiệu lần đầu vào năm 1987, và họ sử dụng nó cho tới mùa giải kỉ niệm 100 năm thành lập câu lạc bộ 1991–92, nó bị thay thế bởi bộ trang phục kết hợp giữa hai màu xanh lá cây và trắng. Sau nhiều lần thay đổi màu sắc trong những năm 1990, bao gồm vàng và màu hải quân, vàng sáng, đen và xám, và xám - vàng nhạt. Câu lạc bộ đã luân phiên sử dụng những bộ trang phục sân khách màu vàng và trắng cho tới mùa giải 2008–09, khi trang phục màu xám được sử dụng lại. Trang phục phụ được thiết kế dành cho các giải châu Âu, nhưng đôi khi được dùng tại các giải đấu quốc nội khi màu trang phục sân khách trùng với màu của đội chủ sân. Tháng 1 năm 2012, câu lạc bộ công bố bản hợp đồng với hãng thể thao Warrior Sports để được nhận tài trợ 25 triệu £/1 mùa và sản xuất trang phục thi đấu trong vòng 6 năm, bắt đầu từ mùa giải 2012-13. Vào tháng 2 năm 2015, công ty mẹ của Warrior, New Balance tuyên bố sẽ tham gia vào thị trường bóng đá toàn cầu, với các đội được Warrior tài trợ hiện đang được New Balance trang bị. Trước đó, tài trợ trang phục là hãng Adidas từ năm 2006 đến năm 2012, hãng này cũng đã tài trợ trong giai đoạn 1985-1996. Giai đoạn 1973-1985, trang phục tài trợ bởi Umbro và giai đoạn 1996-2006 bởi Reebok.
Biểu trưng của Liverpool gồm hình con chim Liver bird (biểu trưng thành phố Liverpool, được chọn làm biểu trưng đội bóng vào năm 1901), được đặt bên trong hình một tấm khiên. Năm 1992, để kỉ niệm 100 năm thành lập, câu lạc bộ giới thiệu mẫu biểu trưng mới, thêm vào ở phía trên tấm khiên hình tượng trưng cho cánh cổng Shankly với dòng chữ "YOU'LL NEVER WALK ALONE" ("Bạn sẽ không bao giờ bước đi đơn độc"). Hai ngọn lửa tượng trưng cho đài tưởng niệm Hillsborough được thêm trong năm tiếp đó. Năm 2012, biểu trưng trên bộ trang phục mới do hãng Warrior Sports thiết kế đã loại bỏ tấm khiên và cánh cổng Shankly, trở về hình Liver bird giống những năm 1970; hai ngọn lửa được chuyển ra sau cổ áo, ở hai bên số 96, số người chết do thảm họa Hillsborough.
Trang phục từ năm 2000-nay
Nhà tài trợ
Liverpool là đội bóng chuyên nghiệp đầu tiên ở Anh in biểu trưng nhà tài trợ trên áo, sau khi họ đồng ý in tên hãng Hitachi vào năm 1979. Kể từ đó họ được tài trợ bởi Crown Paints, Candy, Carlsberg và hiện nay là ngân hàng Standard Chartered. Hợp đồng với Carlsberg được ký vào năm 1992 và kết thúc năm 2010 - là bản hợp đồng lâu nhất trong lịch sử bóng đá Anh.
Khoản tiền tài trợ trang phục
Sân vận động
Liverpool đã chơi trên sân Anfield từ khi được thành lập vào năm 1892. Anfield được xây năm 1884 trên mảnh đất gần công viên Stanley, ban đầu được sử dụng bởi Everton nhưng sau đó Everton chuyển câu lạc bộ đến công viên Goodison sau mối bất hòa với chủ sân Anfield. Họ rời khu đất vào năm 1892, rồi người chủ của Anfield là John Houlding, quyết định sẽ thành lập một đội bóng mới chơi trên sân này. Sức chứa của sân lúc đó là khoảng 20.000 người, mặc dù chỉ có khoảng 100 cổ động viên đến xem trận đấu đầu tiên của Liverpool tại sân.
Năm 1906, câu lạc bộ thuê kiến trúc sư Archibald Leitch để thiết kế xây dựng và nâng cấp lại sân Anfield. Khán đài ở cuối sân được đổi tên thành Spion Kop, theo tên một ngọn đồi ở KwaZulu-Natal, Nam Phi, ngọn đồi này là nơi diễn ra trận Spion Kop trong cuộc chiến tranh với người Nam Phi gốc Hà Lan lần thứ hai, khoảng 300 người vùng Lancashire đã tử trận vào ngày 24 tháng 1 năm 1900, phần lớn trong số họ đến từ thành phố Liverpool. Trong lịch sử, khán đài The Kop từng có thể chứa khoảng 28,000 chỗ ngồi và là một trong những khán đài lớn nhất thế giới. Nhiều sân vận động ở Anh khác cũng đặt tên khán đài mình là Spion Kop, nhưng khán đài của Anfield là lớn nhất thời điểm đó, thậm chí có thể chứa được nhiều khán giả hơn cả một số sân vận động. Khán đài này bị cắt giảm sức chứa để đảm bảo an toàn sau thảm hoạ Hillsborough. Nó được chuyển thành khán đài phủ kín chỗ ngồi vào năm 1994, và giảm sức chứa xuống còn 12.390 chỗ ngồi.
Anfield có thể chứa hơn 60.000 cổ động viên ở thời kỳ đỉnh cao và có sức chứa 55.000 cho đến những năm 1990. Báo cáo Taylor và các quy định của Premier League bắt buộc Liverpool phải chuyển Anfield thành một sân vận động với sức chứa xuống còn 45.276 cho mùa giải 1993-1994. Khán đài Anfield Road đối diện với The Kop, là nơi các cổ động viên đội khách ngồi. Được xây lại vào năm 1998 với sức chứa 9,074 chỗ ngồi, đó là khán đài mới nhất của Anfield. Hai khán đài còn lại là Main Stand có sức chứa 12,227 chỗ ngồi và Centenary Stand có sức chứa 11.762 chỗ. Khán đài Main Stand là khán đài cũ kỹ nhất sân Anfield, được hoàn thành vào năm 1982. Nó là nơi đặt phòng thay đồ của cầu thủ và phòng bình luận. Nằm ở phía giữa khán đài này, gần vạch kẻ sân là đường hầm ra sân và khu vực kỹ thuật - nơi ngồi của huấn luyện viên và các cầu thủ dự bị. Khán đài Centenary Stand trước đây là khán đài Kemlyn Road, đổi tên lại như hiện nay sau khi được xây thêm một tầng và đưa vào sử dụng vào ngày 1 tháng 9 năm 1992, nhân kỉ niệm 100 năm thành lập đội bóng. Một loạt các cột đỡ và cột hỗ trợ đã được chèn thêm để tạo thêm sự ổn định cho tầng trên cùng của khán đài sau khi có sự rung lắc được báo cáo vào đầu mùa 1999-2000.
Do hạn chế về sức chứa của Anfield, Liverpool công bố kế hoạch di chuyển đến một sân vận động mới tại công viên Stanley kề đó vào tháng 5 năm 2002. Cấp phép quy hoạch đã được cấp vào tháng 7 năm 2004 vào ngày 8 tháng 9 năm 2006, Hội đồng thành phố Liverpool chấp thuận việc xây sân, họ cũng đồng ý sẽ cấp cho Liverpool quyền sử dụng khu đất ở công viên Stanley với thời hạn 999 năm. Với việc hai vị đồng chủ tịch George Gillet và Tom Hicks tiếp quản đội bóng vào tháng 2 năm 2007, bản thiết kế của sân vận động mới được thay đổi. Vào tháng 11 năm 2007, bản thiết kế mới được phê chuẩn bởi Hội đồng thành phố, và chuẩn bị bắt đầu vào tháng 6 năm 2008. Tập đoàn HKS được giao nhiệm vụ xây sân mới. Sân dự kiến mở cửa vào tháng 8 năm 2011 với sức chứa 60.000 chỗ ngồi. Song đã không có công trình nào được xây bởi George Gillet và Tom Hicks đã không có đủ khả năng tài chính cho dự án.
Vào tháng 10 năm 2012, BBC Sport tường thuật rằng chủ sở hữu mới của Liverpool là Fenway Sports Group quyết định sẽ nâng cấp sân Anfield thay vì xây dựng sân Stanley Park. Theo kế hoạch đề ra, sức chứa của Anfield sẽ tăng từ 45,276 lên xấp xỉ 60,000 chỗ ngồi, và chi phí ước tính sẽ khoảng 150 triệu bảng Anh. Tháng 9 năm 2016, giai đoạn đầu việc nâng cấp được hoàn thành với việc khánh thành tầng thứ ba của khán đài Main, nâng sức chứa của sân lên 54,047 chỗ và việc này đã tốn chi phí khoảng 100 triệu bảng Anh. Huấn luyện viên Jurgen Klopp đã khen ngợi về sự ấn tượng sau khi nâng cấp khán đài Main. Giai đoạn nâng cấp tiếp theo sắp thực hiện sẽ là thêm 4,800 chỗ ngồi vào khán đài Anfield Road, nâng tổng sức chứa của sân lên khoảng 59,000 chỗ.
Sân tập
Melwood ở West Derby đã trở thành sân tập của Liverpool từ năm 1950. Nó không liên quan tới Học viện ở Kirby. Khu đất này trước đây thuộc về trường học địa phương St Francis Xavier.
Cổ động viên
Liverpool là một trong những câu lạc bộ sở hữu cổ động viên trung thành nhất thế giới, trung bình lượng cổ động viên tới sân thuộc hàng cao nhất châu Âu. Câu lạc bộ có hơn 200 hội cổ động viên chính thức ở hơn 30 quốc gia được Hiệp hội các chi nhánh quốc tế (Association of International Branches) công nhận. Các nhóm đáng chú ý bao gồm Spirit of Shankly. Với lợi thế lượng cổ động viên đông đảo, Liverpool thường xuyên tổ chức các tour du đấu quốc tế vào mùa hè, trong đó bao gồm chơi trước 101.000 cổ động viên ở Michigan, Hoa Kỳ và 95.000 cổ động viên ở Melbourne, Úc. Cổ động viên Liverpool thường thích tự gọi họ là những Kopites, điều này để nói tới những fan lúc đứng, lúc lại ngồi trên khán đài The Kop. Năm 2008, một nhóm người hâm mộ đã quyết định thành lập câu lạc bộ A.F.C. Liverpool.
Bài hát "You'll Never Walk Alone", ban đầu xuất hiện trong vở kịch Carousel của nhà Rodger và nhà Pacemaker, sau đó được thu âm bởi nhạc sĩ Gerry & The Pacemakers và được cổ động viên hát lên ở sân Anfield từ đầu những năm 1960. Nó đã trở nên phổ biến trong số người hâm mộ của các câu lạc bộ khác trên thế giới.Tên bài hát được viết trên cổng Shankly, được dựng lên vào ngày 2 tháng 8 năm 1982 nhằm tưởng nhớ huấn luyện viên huyền thoại Bill Shankly. Hàng chữ "You'll Never Walk Alone" trên cánh cổng Shankly cũng là tiêu ngữ của đội bóng.
Cổ động viên của câu lạc bộ cũng có mặt trong hai sự kiện đáng quên. Đầu tiên là Thảm họa Heysel xảy ra vào năm 1985 khi 39 cổ động viên thiệt mạng, hầu hết là người Ý. Họ bị các cổ động viên Liverpool dồn vào một bức tường, dưới sức ép của nhiều người, bức tường đổ sập. Vì những hành động trên, Liverpool đã bị UEFA cấm thi đấu ở các giải đấu châu Âu trong 5 năm. Liverpool đã bị cấm thêm một năm, ngăn không cho họ tham dự Cúp châu Âu 1990, mặc dù họ đã vô địch Cúp Liên đoàn năm 1990. 27 người đã bị bắt giữ, phần lớn trong số này đến từ Merseyside, một số người từng tham gia vào các vụ bạo lực bóng đá. Năm 1989, sau 5 tháng điều tra ở Bỉ, 14 cổ động viên Liverpool đã phải nhận mức án 3 năm tù vì tội ngộ sát.
Sự kiện đáng buồn thứ hai là trong trận bán kết cúp FA ngày 15 tháng 4 năm 1989, giữa Liverpool và Nottingham Forest trên sân Hillsborough của đội Sheffield Wednesday ở Sheffield. Việc sân quá tải dẫn đến chen lấn xô đẩy đã khiến tổng cộng 96 người thiệt mạng và 766 người bị thương (tất cả đều là cổ động viên Liverpool), đây được biết đến là thảm họa Hillsborough. Bốn ngày sau thảm họa, tờ báo The Sun trong một bài viết mang tiêu đề "Sự thật" đã tố cáo các cổ động viên Liverpool cướp bóc, tấn công cảnh sát và cả nhân viên cứu hộ khi họ đang cố gắng cứu sống các nạn nhân. Điều tra sau đó đã chứng minh những cáo buộc này là sai lầm và điều này đã dẫn đến một cuộc tẩy chay của toàn thành phố đối với tờ báo trong suốt 20 năm. Biên tập viên của The Sun là Kelvin MacKenzie đã phải xin lỗi công chúng. Nhiều tổ chức đã được thành lập như là một kết quả của thảm hoạ ở Sheffield như "Chiến dịch Tư pháp Hillsborough", đại diện cho các gia đình có người chết, người sống sót và những người ủng hộ, vận động công lý cho 96 người chết vì thảm họa.
Biệt danh
Liverpool hiện nay có các biệt danh như:
The Kop là tên gọi khác của Liverpool, hay nói cách khác đây là biệt danh mà những người hâm mộ dành cho Liverpool. Từ The Kop được bắt đầu từ những năm 1928. Trước đó ở mùa giải 1900-1901, Liverpool lần đầu tiên giành được danh hiệu vô địch. Tuy nhiên hai năm sau đó, Liverpool đã không duy trì được phong độ và để bị xuống hạng. Mùa giải 1904-1905, câu lạc bộ đã vươn lên giành chức vô địch lần hai. Sau khi nhận giải, Liverpool đã xây dựng khán đài Spion Kop, tên của một quả đồi ở Natal, nơi bị chịu tổn thất nặng nề trong một cuộc chiến Nam Phi (Cuộc chiến Boer), khi ấy rất nhiều người Liverpool đã hy sinh. Từ "Spion Kop" tiếng địa phương có ý nghĩa là "điểm thắng". Đến năm 1928, sân vận động Spion Kop đã được làm mái che và mở rộng hơn với sức chứa được khoảng hơn 30 nghìn người. Cũng trong thời gian này từ The Kop được hình thành. Có thể hiểu từ The Kop là Vua đấu Cúp vì từ "Kop" cũng có phát âm khá giống với từ "Cúp". Sau đó cũng có một số người gọi Liverpool là The King of Prizes (Vua của những danh hiệu) để thể hiện sức mạnh của đội bóng.
The Reds cũng là một biệt danh của đội bóng vùng Merseyside. Biệt danh này gắn với màu áo đỏ truyền thống của đội. Vào giai đoạn hoàng kim thập niên 60, Liverpool là nỗi khiếp sợ của toàn nước Anh cũng như Châu Âu, đội từng được gọi là Quỷ đỏ. Tuy nhiên những người Liverpool lại không thích cái tên này bằng tên "bông hồng nhung Liverpool", sau này được đổi thành The Reds để tránh nhầm lẫn với "Quỷ đỏ thành Manchester" hay Manchester United. Tại Việt Nam, những người hâm mộ đã Việt hóa biệt danh The Reds thành "Lữ đoàn đỏ".
Bài hát truyền thống
Bài hát truyền thống của câu lạc bộ là "You'll Never Walk Alone" ("Bạn sẽ không bao giờ bước đi đơn độc"), vốn là một ca khúc được viết cho một vở kịch mang tên Carousel tại sân khấu kịch Broadway vào năm 1945. Oscar Hammerstein II sáng tác phần lời và Richard Rodgers sáng tác phần nhạc.
Bài hát này cũng đã được dùng cho một chương trình ca nhạc cùng tên, nhằm quyên tiền ủng hộ các nạn nhân của thảm hoạ tại sân vận động Bradford vào năm 1985. Nó cũng xuất hiện trong những đợt vận động phòng chống bệnh AIDS tại Hoa Kỳ. Bài hát thường xuyên được người hâm mộ đội Liverpool ca lên khi ủng hộ đội nhà và cũng được hát phổ biến bởi cổ động viên của nhiều câu lạc bộ khác trên thế giới.
Trước "You'll Never Walk Alone", bài hát truyền thống của câu lạc bộ là "Hurrah for the Reds", được sáng tác bởi W.Seddon vào ngày 31 tháng 8 năm 1907, tức 15 năm sau khi câu lạc bộ được thành lập.
Kình địch
Everton
Đối thủ truyền kiếp của Liveprool là đội bóng hàng xóm Everton, đối thủ của họ trong những trận derby Merseyside. Ban đầu, câu lạc bộ bóng đá Liverpool được thành lập sau một cuộc tranh cãi trong nội bộ ủy ban câu lạc bộ Everton. Everton thuê sân Anfield trong 8 năm bắt đầu từ năm 1884. Tới năm 1891, ông John Houlding là chủ tịch Everton khi ấy đồng thời cũng là người đứng ra thuê sân Anfield đã mua lại và làm chủ sân này. Sau đó, vì có bất đồng với Houlding nên các thành viên còn lại của Everton đành di chuyển đến một sân vận động khác là Goodison Park, sân nhà của Everton ngày nay, nằm ở phía bắc công viên Stanley. Chỉ còn lại ba cầu thủ và một sân bóng trống không, John Houlding quyết định tự thành lập cho mình một đội bóng vào ngày 15 tháng 3 năm 1892. Ban đầu đội bóng có tên là Everton Athletic nhưng bị Hiệp hội bóng đá từ chối nên sau đó câu lạc bộ đã lấy tên mới là Liverpool Football Club và cái tên này đã tồn tại đến ngày nay. Những trận derby Merseyside luôn được bán hết vé. Các trận derby này có tổng số thẻ đỏ nhiều nhất trong lịch sử Giải Ngoại hạng. Đây là một trong số ít những trận "derby thân thiện" ("friendly derby") vì không bắt buộc tách cổ động viên hai đội ra. Kể từ giữa những năm 1980, sự ganh đua đã tăng cả trong và ngoài sân cỏ và kể từ khi bắt đầu Ngoại hạng Anh năm 1992, trận derby vùng Merseyside đã có nhiều cầu thủ bị đuổi hơn bất kỳ trận đấu nào khác ở Premier League. Nó đã được gọi là "Những trận đấu vô kỷ luật và bùng nổ nhất của Giải Ngoại hạng Anh". Các cổ động viên của Liverpool thường chế giễu câu lạc bộ Everton là sân sau của kình địch Manchester United vì đội bóng áo xanh thường xuyên bán các ngôi sao tài năng cho đội bóng đến từ Manchester và thu mua những cầu thủ đã hết thời của họ.
Manchester United
Liverpool cũng có mối thù với Manchester United. Nguyên nhân của điều này chủ yếu do sự thành công của hai đội bóng và sự cạnh tranh thương mại giữa hai thành phố Liverpool và Manchester trong cuộc cách mạng công nghiệp vào thế kỷ XIX. Sự kình địch giữa hai đội tăng lên từ những năm 1960, tuy Liverpool là đội bóng Anh đoạt nhiều cúp vô địch châu Âu nhất nhưng Manchester United lại là đội bóng Anh đoạt cúp này sớm nhất (vào năm 1968). Mặc dù có 39 chức vô địch và chín cúp châu Âu giữa họ, hai đối thủ hiếm khi thành công cùng một lúc - cuộc đua danh hiệu của Liverpool trong những năm 1970 và 1980 trùng với đáy thảm họa 26 năm của Manchester United và thành công của United trong Kỷ nguyên Premier League cũng trùng khớp với thảm họa đang diễn ra của Liverpool. Tuy nhiên, cựu huấn luyện viên của Manchester United, Alex Ferguson, nói vào năm 2002, "Thử thách lớn nhất của tôi là đánh bại Liverpool ngay lập tức" và cầu thủ cuối cùng được chuyển đến giữa hai câu lạc bộ là Phil Chisnall, người chuyển đến Liverpool từ Manchester United vào năm 1964.
Sở hữu và tài chính
Là chủ sở hữu Anfield và là người sáng lập Liverpool, John Houlding trở thành chủ tịch đầu tiên của câu lạc bộ, ông giữ cương vị này từ năm thành lập 1892 đến năm 1904. John McKenna tiếp quản vị trí này sau sự ra đi của Houlding. McKenna sau đó trở thành chủ tịch của giải bóng đá vô địch Anh. Vị trí chủ tịch được thay đổi nhiều lần trước khi John Smith, người có cha là cổ đông đội bóng, lên giữ vào năm 1973. Ông điều hành giai đoạn thi đấu thành công nhất của câu lạc bộ trước khi rời chức năm 1990. Sau đó, David Moores, người có gia đình là chủ sở hữu đội bóng trong hơn 50 năm, tiếp quản vị trí này. Chú ông, John Moores cũng là một cổ đông đội bóng và là chủ tịch của Everton trong giai đoạn từ năm 1961 đến năm 1973. Là người sở hữu 51% câu lạc bộ, năm 2004, David Moores bày tỏ việc muốn bán cổ phần của mình.
Ngày 6 tháng 2 năm 2007, Moores bán đội bóng cho hai doanh nhân người Mỹ là George Gillett và Tom Hicks. Thỏa thuận này bao gồm giá trị và khoản nợ chưa thanh toán của câu lạc bộ, tổng cộng là 218,9 triệu £ (Bảng Anh). Bộ đôi này đã trả 5.000 £ cho mỗi cổ phần, hoặc 174,1 triệu £ cho tổng số cổ phần và 44,8 triệu £ để trang trải các khoản nợ. Sau đó vì những bất đồng giữa Gillett và Hicks, cộng thêm sự phản đối từ người hâm mộ, khiến bộ đôi này tìm cách bán đội bóng. Martin Broughton nhận chức chủ tịch vào ngày 16 tháng 4 năm 2010 để giám sát việc bán. Tháng 5 năm 2010, tài khoản câu lạc bộ được công khai, gồm 350 triệu £ tiền nợ cùng 55 triệu £ tiền lỗ, được công ty kiểm toán KPMG xác nhận. Các chủ nợ của Liverpool, trong đó có Ngân hàng hoàng gia Scotland, đã đưa Gillett và Hicks ra tòa để buộc bộ đôi này nhường lại việc bán cho Hội đồng quản trị câu lạc bộ đảm trách. Một thẩm phán của toà án tối cao, ông Christopher Floyd, đã ra phán quyết có lợi cho những chủ nợ, mở đường cho Fenway Sports Group (tên lúc đó là New England Sports Ventures) mua lại đội bóng, dù Gillett và Hicks vẫn còn khả năng kháng cáo. Ngày 15 tháng 10 năm 2010, Liverpool được bán cho Fenway Sports Group với giá 300 triệu £.
Liverpool được xem như là một thương hiệu toàn cầu, một báo cáo năm 2010 định giá các thương hiệu của câu lạc bộ và tài sản trí tuệ liên quan ở mức 141 triệu bảng, tăng 5 triệu bảng vào năm trước. Liverpool được đánh giá hạng AA (Rất mạnh). Trong tháng 4 năm 2010, tạp chí Forbes xếp hạng Liverpool là đội bóng có giá trị thứ 6 thế giới, sau Manchester United, Real Madrid, Arsenal, Barcelona và Bayern Munich, giá trị câu lạc bộ vào khoảng 832 triệu $ (Đô la Mỹ), không bao gồm nợ. Kiểm toán Deloitte xếp Liverpool ở vị trí thứ 8 trong Deloitte Football Money League, xếp hạng các câu lạc bộ bóng đá thế giới về doanh thu. Liverpool kiếm được thu nhập 225,3 triệu € (Euro) trong mùa giải 2009-10.
Liverpool F.C. đối với truyền thông và văn hoá
Là một trong những đội bóng thành công nhất trong lịch sử bóng đá Anh, Liverpool là hình tượng trong đời sống văn hoá Anh khi nói về bóng đá và xuất hiện trong nhiều sự kiện đặc biệt của truyền thông. Đội bóng xuất hiện trong số đầu tiên của chương trình "Trận đấu của ngày" (Match of the Day) trên BBC, nói đến trận đấu với Arsenal ở Anfield vào ngày 22 tháng 4 năm 1964. Liverpool cũng xuất hiện trong buổi truyền hình bóng đá trên vô tuyến màu đầu tiên, đó là lần truyền hình trực tiếp trận gặp West Ham United vào tháng 3 năm 1967. Các cổ động viên Liverpool đã được ban nhạc Pink Floyd nhắc đến trong bài hát "Fearless", bài hát cũng trích một đoạn từ bài "You'll Never Walk Alone". Liverpool cho ra mắt bài hát với tên gọi "Anfield Rap" vào dịp trước trận chung kết Cúp FA gặp Wimbledon năm 1988. Trong bài này, John Barnes đã trình diễn rap cùng một số thành viên khác trong đội hình xuất phát.
Một bộ phim tài liệu về thảm hoạ Hillsborough, viết bởi Jimmy McGovern, đã được trình chiếu vào năm 1996. Diễn viên Christopher Eccleston đã vào vai Trevor Hicks, tâm điểm của những câu truyện được kể lại. Hicks, người đã mất hai cô con gái trong thảm hoạ, đã tham gia vào các hoạt động làm cho những sân vận động an toàn hơn và giúp đỡ những gia đình có người thân thiệt mạng trong thảm hoạ Hillsborough. Câu lạc bộ đã xuất hiện trong bộ phim The 51st State (hoặc Formula 51). Felix DeSouza (Robert Carlyle) là một cổ động viên nhiệt thành của đội bóng và cảnh cuối cùng của bộ phim được thực hiện trong một trận đấu giữa Liverpool và Manchester United. Đội bóng cũng xuất hiện trong một chương trình dành cho trẻ em với tên gọi Scully; nội dung xoay quanh một cậu bé, Francis Scully, người cố gắng để được đá thử một trận cùng Liverpool. Một số người nổi tiếng của Liverpool như Kenny Dalglish đã xuất hiện trong chương trình.
Đội hình
Đội hình chính
Cho mượn
Đội trẻ và học viện
Các cầu thủ trong lịch sử
Đội trưởng câu lạc bộ
Kể từ khi thành lập câu lạc bộ vào năm 1892, 45 cầu thủ đã thay nhau trở thành đội trưởng của câu lạc bộ Liverpool. Andrew Hannah trở thành đội trưởng đầu tiên của câu lạc bộ sau khi Liverpool tách khỏi Everton và thành lập câu lạc bộ của riêng mình. Alex Raisbeck từng là đội trưởng của câu lạc bộ từ năm 1899 đến 1909, là đội trưởng phục vụ lâu nhất trước khi bị Steven Gerrard vượt qua khi giữ chức đến 12 mùa với tư cách đội trưởng của Liverpool bắt đầu từ mùa giải 2003-04. Đội trưởng hiện tại là Jordan Henderson, anh đã thay thế Gerrard trong mùa giải 2015-16 sau khi Gerrard chuyển đến thi đấu cho LA Galaxy.
Cầu thủ xuất sắc nhất mùa giải
Quan chức, lãnh đạo
Chủ sở hữu: Fenway Sports Group
Chủ tịch danh dự: David Moores
Đại sứ: Ian Rush, Robbie Fowler, Michael Owen
Liverpool Football and Athletics Grounds Limited
Chính chủ: John W. Henry
Chủ tịch: Tom Werner
Phó chủ tịch: David Ginsberg
Tổng giám đốc điều hành quản lý: Peter Moore
Giám đốc thương mại: Billy Hogan
Giám đốc tài chính: Philip Nash
Nguồn:
Liverpool Football Club
Giám đốc: John W. Henry, Tom Werner, David Ginsberg, Michael Gordon, Michael Egan
Giám đốc danh dự: Kenny Dalglish
Giám đốc hoạt động: Andrew Parkinson
Giám đốc truyền thông: Susan Black
Lãnh đạo văn phòng truyền thông: Matthew Baxter
Giám đốc trông coi sân: Dave Fallows
Trưởng trông coi sân: Barry Hunter
Giám đốc kỹ thuật: Michael Edwards
Nhân viên trông coi sân chính: Dave McCulloch
Quản lý sân vận động: Ged Poynton
Nguồn:
Huấn luyện viên và nhân viên y tế
Huấn luyện viên trưởng: Jürgen Klopp
Trợ lý huấn luyện viên chính: Pepijn Lijnders, Peter Krawietz
Huấn luyện viên phát triển tính ưu tú: Vitor Matos
Huấn luyện viên thủ môn đội chuẩn: John Achterberg
Trợ lý huấn luyện viên thủ môn đội chuẩn: Jack Robinson
Huấn luyện viên thể chất: Conall Murtagh, Tom King
Trợ lý huấn luyện viên thể chất: Jordan Fairclough
Trưởng phòng thể hình & điều dưỡng: Andreas Kornmayer
Huấn luyện viên ném biên: Thomas Grønnemark
Trưởng vật lý trị liệu: Lee Nobes
Trợ lý sức lực & phục hồi chức năng: David Rydings
Trưởng phòng dịch vụ y tế: Andrew Massey
Huấn luyện viên phục hồi thể hình: Philipp Jacobsen
Xoa bóp: Paul Small, Sylvan Richardson
Chuyên gia vật lý trị liệu: Christopher Rohrbeck, Richie Partridge, Jose Luis Rodriguez, Joe Lewis
Nhà trị liệu thể thao: Pedro Philippou
Chuyên gia tư vấn dinh dưỡng: Mona Nemmer
Tư vấn khoa học trong thể thao: Barry Drust
Nhà phân tích hiệu suất: James French
Nhà phân tích tuyển trạch viên và tuyển dụng: Kyle Wallbanks
Điều phối viên quản lý: Lee Radcliffe, Graham Carter
Giám đốc học viện: Alex Inglethorpe
HLV U-23: Neil Critchley
Huấn luyện viên đội dự bị: Rodolfo Borrell
Theo dõi kỹ thuật - đối phương: Greg Mathieson
Phân tích trước trận: Mark Leyland
Nguồn:
Danh sách huấn luyện viên và những thành tích
Thống kê danh sách HLV và thành tích đạt được (không tính Giải hạng nhất)
Thành tích
Liverpool là một trong những câu lạc bộ giàu truyền thống nhất nước Anh xét trên bình diện quốc tế. Năm 1901, họ vô địch giải vô địch quốc gia lần đầu tiên, và chiếc cúp FA đầu tiên họ giành được là vào năm 1965. Ở thập niên 80, Liverpool đã gặt hái được rất nhiều thành công, như 6 Giải vô địch quốc gia, 2 Cup FA, 4 League Cup, 5 Siêu cúp Anh, 1 Football League Super Cup và 2 Cúp C1.
Liverpool được mệnh danh là "Vua đấu Cúp của nước Anh" bởi số danh hiệu CLB đạt được chỉ trong một mùa giải như cú ăn 2 FA Cup và League Cup năm 1986, vô địch quốc gia lẫn châu Âu vào năm 1977 và 1984. Liverpool cũng có vị trí kết thúc giải đấu trung bình cao nhất (3,3) trong giai đoạn 50 năm đến 2015 và vị trí kết thúc giải đấu trung bình cao thứ hai trong giai đoạn 1900-1999 sau Arsenal, với tỷ lệ trung bình là 8,7. Và đáng nói nhất là cú ăn ba đấu cúp vào năm 2001 khi câu lạc bộ giành chiến thắng ở ba đấu trường Cup FA, League Cup và UEFA Cup.
Với chức vô địch Champions League vào năm 2019, Hiện Liverpool tiếp tục giữ kỉ lục của nước Anh khi 6 lần vô địch châu Âu. Đội cũng đồng thời lập kỉ lục là đội bóng Anh thứ hai giành được 3 danh hiệu cấp độ châu lục, với chức vô địch UEFA Champions League, Siêu Cup châu Âu, FIFA Club World Cup sau Manchester United.
Quốc nội
Giải vô địch quốc gia
First Division/Premier League
Vô địch (19): 1900–01, 1905–06, 1921–22, 1922–23, 1946–47, 1963–64, 1965–66, 1972–73, 1975–76, 1976–77, 1978–79, 1979–80, 1981–82, 1982–83, 1983–84, 1985–86, 1987–88, 1989–90, 2019–20
Second Division
Vô địch (4): 1893–94, 1895–96, 1904–05, 1961–62
Lancashire League
Vô địch (1): 1892–93
Giải đấu cúp
Cúp FA Vô địch (8): 1964–65, 1973–74, 1985–86, 1988–89, 1991–92, 2000–01, 2005–06, 2021–22
Cúp Liên đoàn Anh/Cúp EFL Vô địch (10) - kỷ lục: 1980–81, 1981–82, 1982–83, 1983–84, 1994–95, 2000–01, 2002–03, 2011–12, 2021–22, 2023–24
Football League Super Cup Vô địch (1): 1985–86
FA Charity Shield/FA Community Shield Vô địch (16): 1964*, 1965*, 1966, 1974, 1976, 1977*, 1979, 1980, 1982, 1986*, 1988, 1989, 1990*, 2001, 2006, 2022 (* đồng danh hiệu)
Sheriff of London Charity Shield Vô địch (1): 1906
Châu Âu
Cúp C1 châu Âu/UEFA Champions League Vô địch (6): 1976–77, 1977–78, 1980–81, 1983–84, 2004–05, 2018–19
Cúp UEFA Vô địch (3): 1972–73, 1975–76, 2000–01
UEFA Super Cup Vô địch (4): 1977, 2001, 2005, 2019
Toàn cầu
FIFA Club World Cup Vô địch (1): 2019
Những cú ăn hai và ăn ba
Cú ăn hai: League và Cúp FA (1): 1985–86
League và Cúp Liên đoàn (2): 1981–82, 1982–83
League và Cúp C1 châu Âu (1): 1976–77
League và Cúp UEFA (2): 1972–73, 1975–76
Cúp Liên đoàn và Cúp C1 châu Âu (1): 1980–81
Cúp FA và Cúp Liên đoàn (1): 2021–22
Cú ăn ba: League, Cúp Liên đoàn và Cúp C1 châu Âu (1): 1983–84
Cúp FA, Cúp Liên đoàn và Cúp UEFA (1): 2000–01
Kỷ lục, thống kê và chuyển nhượng
Ian Callaghan giữ thành tích là người ra sân nhiều nhất cho Liverpool với 857 trận trong 19 mùa giải, từ năm 1958 tới năm 1978; và giữ kỉ lục ra sân ở giải vô địch quốc gia với 640 lần. Cầu thủ chơi nhiều thứ nhì cho đội bóng là Jamie Carragher, với 737 lần ra sân tính đến cuối tháng 5 năm 2013.
Người ghi nhiều bàn thắng nhất cho Liverpool trong lịch sử đó là Ian Rush, người ghi 346 bàn cho đội bóng trong giai đoạn 1980–1987 và 1988–1996. Rush đồng thời giữ kỉ lục người ghi nhiều bàn nhất trong một mùa giải với thành tích 47 bàn ở mùa 1983-84. Tuy nhiên, Rush không thể vượt qua Roger Hunt về thành tích ghi bàn tại giải vô địch quốc gia cho đội bóng, hiện là 245 bàn (của Rush là 229). Trong mùa giải 1961-62, Hunt ghi 41 bàn, đó là kỉ lục của đội bóng về số bàn ghi tại giải vô địch quốc gia trong một mùa. Gordon Hodgson - người ghi nhiều bàn thứ ba trong lịch sử đội bóng với 241 bàn; ông lập được 17 hattrick - một kỷ lục của đội bóng. Số bàn thắng nhiều nhất mà một cầu thủ ghi trong một trận đấu là 5; John Miller, Andy McGuigan, John Evans, Ian Rush và Robbie Fowler đều đã đạt được thành tích này. Fowler cũng giữ kỉ lục của đội bóng và Giải Ngoại hạng Anh về thời gian lập một cú hattrick: ông ghi 3 bàn trong 4 phút 32 giây, trong trận gặp Arsenal mùa giải 1994-95. Steven Gerrard là cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất cho Liverpool tại đấu trường châu Âu với 38 bàn.
Trận đấu chính thức đầu tiên của Liverpool là chiến thắng 8-0 tại Giải Lancashire League trước đối thủ Higher Walton. Chiến thắng đậm nhất của Liverpool là 11-0 trước Strømsgodset IF vào năm 1974. Trận thắng 10-1 trước Rotherham Town vào năm 1896 là trận thắng đậm nhất của họ tại giải vô địch quốc gia. Khoảng cách này được lập lại trong trận gặp Crystal Palace khi họ thắng 9-0 ở Anfield vào năm 1989. Trận thua đậm nhất của Liverpool là 1-9 trước Birmingham vào năm 1954. Chiến thắng 8-0 của Liverpool trước Beşiktaş J.K. ở Cúp C1 là chiến thắng đậm nhất trong lịch sử của giải đấu này.
Thống kê
Top 10 cầu thủ ra sân nhiều nhất
Top 10 cầu thủ ghi bàn nhiều nhất
Chuyển nhượng
Liverpool kể từ giai đoạn suy thoái sau chức vô địch UEFA Champions League vào năm 2005 thường bị đánh giá là một gã hề trên thị trường chuyển nhượng. Với việc quản lý kém cỏi, sự keo kiệt trong việc chi tiêu đầu tư và khoảng nợ lớn đến từ 2 ông chủ Tom Hicks và George Gilletl đã khiến đội bóng mất hút vào mỗi phiên chợ hè. Trong bối cảnh kình địch Manchester United mua sắm ồ ạt trên thị trường, còn Chelsea và Manchester City thì luôn được các ông chủ sở hữu giàu có bơm tiền để mang lại những vinh quang, thì Liverpool vẫn ngập lặn và chỉ có thể thu về những cầu thủ hạng trung không đủ sức cạnh tranh. Đã có thời điểm vào năm 2009, hàng thủ của câu lạc bộ Liverpool đang ở giai đoạn khủng hoảng khi trung vệ Daniel Agger dính chấn thương, huấn luyện viên của câu lạc bộ khi ấy là ông Rafael Benitez đã gặp BHL để yêu cầu mua thêm cầu thủ ở vị trí hàng thủ. Kết quả ông chỉ nhận được khoản tiền 1,5 triệu bảng để mang về hậu vệ vốn không mấy tên tuổi, Sotirios Kyrgiakos. Kể cả sau khi Liverpool đã chính thức đổi chủ sang Tập đoàn thể thao Fenway Sport Group, đội bóng vẫn liên t iếp mắc sai lầm trong việc mua bán. Sau khi bán đi tiền đạo Fernando Torres cho Chelsea với mức giá 50 triệu bảng vào năm 2011, đội bóng vùng Merseyside đã ký hợp đồng với 2 tiền đạo khác là Luis Suarez và Andy Carroll. Tuy nhiên chỉ một trong số đó tỏa sáng. Người đắt giá hơn, Andy Carroll (35 triệu bảng) đã không đóng góp vào lối chơi chung của đội bóng. Một ví dụ điển hình khác, sau khi kết thúc mùa giải 2013-14 với vị trí Á quân tại Premier League, do những scandal tại World Cup 2014, tiền đạo Luis Suarez đá được bán cho Barcelona với mức phí 75 triệu bảng. Tuy nhiên thay vì đầu tư vào những bản hợp đồng bom tấn khỏa lấp vị trí của tiền đạo người Uruguay để lại, Liverpool đã liên tục mắc sai lầm khi đem về hàng loạt những cầu thủ không mang lại chiều sâu cho đội bóng: Lazar Markovic, Mario Balotelli, Rickie Lambert với mức phí tổng cộng 40 triệu bảng. Sau đó những cầu thủ này đều phải cuốn gói khỏi sân Anfield sau những mùa bóng thất vọng.
Tuy nhiên mọi thứ chỉ thực sự thay đổi khi huấn luyện viện Jurgen Klopp đến sân Anfield và Michael Edwards được bổ nhiệm vào vị trí giám đốc thể thao. Tại đây những bản hợp đồng có chiều sâu mới thực sự nổ ra cùng với chiến lược mua bán thông minh. Sau khi kết thúc mùa giải 2015-16 với những khả quan nhất định: lọt vào chung kết League Cup và chung kết Europa League. Jurgen Klopp và giám đốc Edwards đã nhận thấy đội bóng cần những bản hợp đồng chất lượng hơn để vực dậy khỏi giai đoạn khủng hoảng hơn một thập kỷ. Tiền đạo Sadio Mane đã được mang về trước sự cạnh tranh của Manchester United. Bên cạnh đó, một phong cách chuyển nhượng mới của Liverpool được hình thành. Đó là rút ruột trụ cột của những đội bóng đã xuống hạng với mức phí hợp lý. Thương vụ đầu tiên điển hình là tiền vệ người Hà Lan, Georginio Wijnaldum. Anh vốn đóng vai trụ cột của Newcatsle United mùa giải trước đó, nhưng việc phải xuống chơi ở Giải hạng Nhất đã giúp cho Liverpool nhanh chóng lấy đi trung tâm tuyến giữa với mức phí rẻ bèo 23 triệu bảng. Trường hợp tiếp theo là hậu vệ trái Andy Robertson từ câu lạc bộ Hull City với giá trị 8 triệu bảng. Cùng với đội ngũ phân tích cùng hàng trăm bài báo cáo về hàng nghìn cầu thủ trên thế giới để tìm ra những nhân tố phù hợp cho lối chơi chung của câu lạc bộ. Trong mùa giải đó Liverpool đã bổ sung thêm 3 bản hợp đồng quan trọng khác là tiền đạo Mohamed Salah, tiền vệ Oxlade-Chamberlain và trung vệ Virgil van Dijk. Những sự bổ sung ấy đã giúp Liverpool lọt vào trận chung kết UEFA Champions League và chỉ thất bại trước Real Madrid. Việc Loris Karius mắc sai lầm khiến cho The Kop mất chức vô địch về tay đội bóng Madrid, Liverpool cần một vị trí gác đền mới. Thủ môn số một của đội tuyển Brazil, Alisson Becker đã được mang về cùng với một đồng hương khác, Fabinho thay thế cho Emre Can đã ra đi. Trước đó tiền vệ Fabinho vốn được báo chí rầm rộ rằng anh nhận được sự theo đuổi gắt gao từ Manchester United và không hề có một thông tin nào về việc Liverpool theo đuổi anh. Sau cùng giám đốc thể thao Michael Edwards đã mang anh về đội bóng trong sự ngỡ ngàng. Dưới sự huấn luyện của Jurgen Klopp, chất lượng của những bản hợp đồng mà Edwards đã mang lại cùng tài năng của các cầu thủ đã mang về chức vô địch châu Âu lần thứ 6 cho câu lạc bộ. Chỉ đúng 1 năm sau thất bại tại Kiev trước Real Madrid. Liverpool tiếp tục gặt hát vinh quang khi vô địch Premier League sau 30 năm chờ đợi mà không bổ sung nhiều vào mùa hè trước đó bởi chiều sâu đội hình vốn được đáp ứng. Mùa hè 2020, câu lạc bộ không thể mua được Jamal Lewis từ Norwich City khi đội bóng vừa xuống hạng yêu cầu mức phí 20 triệu bảng. Ngay lập tức The Kop đã mang về hậu vệ Tsimikas trong chưa đầy 48 tiếng khi bị từ chối. Trong bối cảnh dịch Covid khiến nhiều đội bóng lâm nguy về tài chính, tài năng đàm phán của Michael Edwards lại được thể hiện. Ông mang về tiền vệ nhạc trưởng Thiago Alcantara từ Bayern Munich với mức phí 20 triệu bảng dù đội đương kim vô địch châu Âu luôn thể hiện quan điểm cứng rắn, chỉ cho phép Thiago ra đi khi nhận đủ 30 triệu bảng. Sau khi mang về nhạc trưởng người Tây Ban Nha, Liverpool tiếp tục ra mắt tân binh Diogo Jota từ Wolverhampton dù chẳng có một thông tin hay tờ báo nào cho thấy Liverpool đang theo đuổi tiền đạo này cả. Cả hai bản hợp đồng Thiago Alcantara và Diogo Jota đều được thanh toán dưới hình thức trả góp. Với năm đầu Thiago là 5 triệu bảng và Diogo Jota trả trước 10% là 4.1 triệu bảng, như vậy Lữ đoàn đỏ chỉ tốn 9.1 triệu bảng để mang về những tân binh chất lượng cho việc bảo vệ ngôi vương.
Ngoài việc mua cầu thủ, Michael Edwards đã giúp câu lạc bộ cải thiện tình hình ngân sách đội bóng khi bán đi những cầu thủ không còn muốn cống hiến cho câu lạc bộ với mức giá cao. Điển hình là Philippe Coutinho (120 triệu bảng, số tiền đó đã dùng để tái đầu tư cho thương vụ Virgil van Dijk và Alisson), Dominic Solanke (19 triệu bảng), Danny Ings (20 triệu bảng), Ki-Jana Hoever (10 triệu bảng), Mamadou Sakho (24 triệu bảng), Christian Benteke (27 triệu bảng). Liverpool đã thu về tổng cộng 196 triệu bảng trong khi trước đó chỉ chi ra 70 triệu bảng để mang về các cầu thủ trên. Như vậy với việc thay đổi chiến lược mua sắm trên thị trường chuyển nhượng đã mang lại sự phục hưng cho câu lạc bộ và những vinh quang khác.
Kỷ lục mua cầu thủ
Kỉ lục bán cầu thủ
Những trận đấu
Những trận đầu tiên
Trận đầu tiên: Liverpool 7-1 Rotherham Town, trận giao hữu, 01 tháng 9 năm 1892.
Trận đầu tiên tại giải Lancashire League: Liverpool 8-0 Higher Walton, 03 tháng 9 năm 1892.
Trận đầu tiên tại giải quốc gia: Liverpool 2-0 Middlesbrough Ironopolis, giải giải hạng nhì Anh, 02 tháng 9 năm 1893.
Trận đầu tiên tại cúp FA: Liverpool 3-0 Grimsby Town, vòng 1, 27 tháng 1 năm 1894.
Trận đầu tiên tại cúp Liên đoàn Anh: Liverpool 1-1 Luton Town, vòng 2, 19 tháng 10 năm 1960.
Trận đầu tiên tại cúp châu Âu: Liverpool 6-0 KR Reykjavik, Cúp C1, vòng 1, 17 tháng 8 năm 1964.
Những trận thắng
Kỷ lục thắng đậm: 11-0 trận đấu với Strømsgodset tại cúp C2, 17 tháng 9 năm 1974.
Chiến thắng đậm nhất tại giải quốc gia: 10-1 trận đấu với Rotherham Town, giải hạng nhì Anh, 18 tháng 2 năm 1896.
Chiến thắng đậm nhất tại cúp C1: 8-0 trận đấu với Beşiktaş, 6 tháng 11 năm 2007.
Nhiều trận thắng nhất trong 1 mùa giải tại giải vô địch Anh: 30 trận thắng trong 42 trận, mùa giải 1978-79.
Ít trận thắng nhất trong 1 mùa giải tại giải vô địch Anh: 7 trận thắng trong tổng số 30 trận, mùa giải 1894-1895.
Những trận thua
Trận thua đậm nhất: 1-9 trận đấu với Birmingham City tại giải giải hạng nhì Anh, 11 tháng 12 năm 1954.
Trận thua đậm nhất tại Anfield: 2-6 trận đấu với Sunderland tại giải vô địch Anh, 19 tháng 4 năm 1930.
Trận thua có nhiều bàn thắng nhất: 2-9 trận đấu với Newcastle United tại giải vô địch Anh, 1 tháng 1 năm 1934.
Nhiều trận thua nhất trong một mùa giải: 24 trận thua trên 42 trận đấu, mùa giải 1953-54.
Ít trận thua nhất trong một mùa giải: bất bại 37 trận đấu, mùa giải 2018-19.
Những bàn thắng
Nhiều bàn thắng nhất tại giải quốc gia: 106 bàn trong 30 trận đấu, giải hạng nhì Anh mùa giải 1895-96.
Ít bàn thắng nhất tại giải quốc gia: 42 trong 34 và 42 trận đấu, giải vô địch Anh, mùa giải 1901-02 và 1970-71.
Nhiều bàn thua nhất tại giải quốc gia: 97 trong 42 trận đấu, giải vô địch Anh mùa giải 1953-54.
Ít bàn thua nhất tại giải quốc gia: 16 trong 42 trận đấu, giải vô địch Anh mùa giải 1978-79.
Những điểm số
Nhiều điểm nhất trong 1 mùa giải:
1 chiến thắng giành 2 điểm: 68 trong 42 trận đấu tại giải vô địch Anh, mùa giải 1978-79.
1 chiến thắng giành 3 điểm:
90 trong 42 trận đấu tại giải vô địch Anh, mùa giải 1987-88.
99 trong 38 trận đấu tại giải Ngoại Hạng Anh, mùa giải 2019-20.
Ít điểm nhất trong 1 mùa giải:
1 chiến thắng giành 2 điểm: 22 trong 30 trận đấu tại giải vô địch Anh, mùa giải 1894-95.
1 chiến thắng giành 3 điểm:
59 trong 42 trận đấu tại giải vô địch Anh, mùa giải 1992-93.
54 trong 38 trận đấu tại giải Ngoại hạng Anh, mùa giải 1998-99.
Khán giả tại Anfield
Lượng khán giả đông nhất trong 1 trận: 61.905 (trận đấu với Wolverhampton Wanderers, FA Cup vòng 5, mùa giải 1951-52).
Lượng khán giả đông nhất trong 1 trận giải quốc gia: 58.757 (trận đấu với Chelsea, giải vô địch Anh mùa giải 1949-50).
Lượng khán giả đông nhất trong 1 trận cúp Liên đoàn Anh: 50.880 (trận đấu với Nottingham Forest, mùa giải 1979-80).
Lượng khán giả đông nhất trong 1 trận cúp châu Âu: 55.104 (trận đấu với FC Barcelona, mùa giải 1975-76).
Lượng khán giả ít nhất trong 1 trận: 1.000 (trận đấu với Loughborough, giải hạng nhì mùa giải 1895-96).
Lượng khán giả ít nhất trong 1 trận cúp FA: 4.000 (trận đấu với Newton, mùa giải 1892-93).
Lượng khán giả ít nhất trong 1 trận cúp Liên đoàn Anh: 9.902 (trận đấu với Brentford, mùa giải 1983-84).
Lượng khán giả ít nhất trong 1 trận cúp châu Âu: 12.021 (trận đấu với Dundalk, mùa giải 1982-83).
Chú thích
Ghi chú
Đọc thêm
Liên kết ngoài Trang web chính thức''':
Website chính thức của Liverpool F.C.
Liverpool
Câu lạc bộ bóng đá thành lập năm 1892
Câu lạc bộ bóng đá Anh
Vô địch Cúp FA
Câu lạc bộ Premier League
Khởi đầu năm 1892 ở Anh
Vô địch Cúp EFL
Câu lạc bộ English Football League
Lancashire League (bóng đá)
|
26717
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%BAp%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20ch%C3%A2u%20Phi%202006
|
Cúp bóng đá châu Phi 2006
|
Cúp bóng đá châu Phi 2006 là Cúp bóng đá châu Phi lần thứ 25, được tổ chức tại Ai Cập từ ngày 20 tháng 1 đến ngày 10 tháng 2 năm 2006. Chủ nhà Ai Cập giành chức vô địch lần thứ 5 sau khi vượt qua Bờ Biển Ngà 4-2 trên chấm 11m sau 120 phút thi đấu chung kết với tỉ số không bàn thắng.
Vòng loại
Vòng loại của giải diễn ra từ 10 tháng 3 năm 2003 đến 8 tháng 10 năm 2005. Khác với những giải trước, giải này không có vòng sơ loại. Do đó vòng loại chia ra nhiều bảng hơn gồm 49 đội chia làm 5 bảng để chọn lấy 13 đội đầu bảng và đội thứ nhì có thành tích tốt nhất vào vòng chung kết cùng đương kim vô địch Cameroon và chủ nhà Tunisia. Vòng loại này cùng là vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2006.
Các đội tham dự
Cầu thủ tham dự
Địa điểm
Vòng bảng
Đội in màu xanh lục giành quyền vào tứ kết.
'Giờ thi đấu tính theo giờ địa phương (UTC+2)''
Bảng A
Bảng B
Bảng C
Bảng D
Vòng đấu loại trực tiếp
Tứ kết
Bán kết
Tranh hạng ba
Chung kết
Vô địch
Danh sách cầu thủ ghi bàn
5 bàn
Samuel Eto'o
4 bàn
Ahmed Hassan
Pascal Feindouno
Francileudo dos Santos
3 bàn
Emad Moteab
Flávio
Didier Drogba
2 bàn
Mohamed Aboutreika
Albert Meyong Ze
Ousmane Bangoura
Kaba Diawara
Obafemi Martins
Henri Camara
Mamadou Niang
1 bàn
Norberto Maurito
Geremi
Lomana LuaLua
Tresor Mputu
Arouna Koné
Bakari Koné
Yaya Touré
Hossam Hassan
Mido
Amr Zaki
Baba Adamu
Matthew Amoah
Sambégou Bangoura
Abdusalam Khames
Garba Lawal
John Obi Mikel
Victor Nsofor Obinna
Christian Obodo
Taye Ismaila Taiwo
Issa Ba
Souleymane Camara
Papa Bouba Diop
Mohamed Kader
Mamam Cherif Touré
Selim Ben Achour
Riadh Bouazizi
Karim Haggui
James Chamanga
Christopher Katongo
Elijah Tana
Benjani Mwaruwari
phản lưới nhà
Abdel-Zaher El-Saqua (trong trận gặp )
Issah Ahmed (trong trận gặp )
Đội hình tiêu biểu
Thủ môn
Essam El-Hadary
Hậu vệ
Emmanuel Eboué
Rigobert Song
Wael Gomaa
Taye Taiwo
Tiền vệ
Stephen Appiah
Mohamed Aboutreika
Ahmed Hassan
Pascal Feindouno
Tiền đạo
Didier Drogba
Samuel Eto'o
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang web chính thức của Cúp bóng đá châu Phi 2006
2006
|
26724
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%ADu%20xanh
|
Đậu xanh
|
{{Bảng phân loại
| image = Hoa đậu xanh.jpg
| image_caption = Cây đậu xanh đang trổ hoa và trái non
| image_width = 250px
| regnum = Plantae
| unranked_divisio = Angiospermae
| unranked_classis = Eudicots
| unranked_ordo = Rosids
| ordo = Fabales
| familia = Fabaceae
| subfamilia = Faboideae
| tribus = Phaseoleae
| subtribus = Phaseolinae
| genus = Vigna
| species = V. radiata
| binomial = Vigna radiata
| binomial_authority = (L.) R. Wilczek
| synonyms =
}}Đậu xanh hay đỗ xanh theo phương ngữ miền Bắc (danh pháp khoa học: Vigna radiata) là một loại đậu có kích thước hạt nhỏ, đường kính khoảng 2–2,5 mm. Ở Việt Nam, đậu xanh là loại đậu thường được sử dụng để làm xôi, làm các loại đồ ăn như: Bánh khọt, bánh đậu xanh, bánh ngọt, chè; hoặc được ủ cho lên mầm để làm thức ăn (giá đỗ).
Đặc điểm
Cây đậu xanh là loại cây thân thảo, mọc đứng, chiều cao khoảng 50 cm. Lá có lông ở cả 2 mặt. Hoa nở ở nách lá và có màu vàng lục. Quả đậu xanh hình trụ, mảnh và có lông, bên trong chứa nhiều hạt có hình trụ ngắn, màu xanh, ruột vàng và có mầm ở giữa.
Lá mọc kép 3 chia, có lông hai mặt. Hoa màu vàng lục mọc ở kẽ lá. Quả hình trụ thẳng, mảnh nhưng số lượng nhiều, có lông, trong chứa hạt hình tròn hơi thuôn, kích thước nhỏ, màu xanh, ruột màu vàng, có mầm ở giữa.
Loài Vigna radiata gồm các thứ:
V. radiata var. grandiflora;
V. radiata var. radiata
V. radiata var. sublobata
Giá trị dinh dưỡng
Theo một số phân tích hàm lượng, trong khoảng 202 gr đậu xanh luộc chứa các thành phần dinh dưỡng:
Calo: 212
Chất béo: 0,8g
Protein: 14,2g
Chất xơ: 15,4g
Folat (B9): 80% DV
Mangan: 30% DV
Magnesi: 24% DV
Vitamin B1: 22% DV
Phosphor: 20% DV
Sắt: 16% DV
Đồng: 16% DV
Kali: 15% DV
Kẽm: 11% DV
(DV (Daily Value): Lượng tiêu thụ khuyến nghị hằng ngày)
Ngoài các vitamin và khoáng chất trên, đậu xanh còn chứa nhiều vitamin B2, B3, B5, B6 , selen, flavonoid và carotenoid. Loại đậu này cũng chứa nhiều các loại axit amin thiết yếu như isoleucine, valine, lysine, phenylalanine, leucine, arginine, ...
Tác dụng
Đối với sức khỏe:
Giúp hạn chế sốc nhiệt
Đậu xanh vị ngọt, hơi tanh, tính hàn, không độc, bổ nguyên khí, thanh nhiệt mát gan. Nhờ những chất chống oxy hóa Vitexin và Isovitexin trong đậu xanh có thể giúp bảo vệ tế bào khỏi các tổn thương do sốc nhiệt. Thích hợp với các bệnh nhân bị say nắng, miệng khát, người nóng, thấp nhiệt, ung nhọt,...
Hỗ trợ giảm huyết áp, phòng ngừa bệnh tim
Kali và protein trong đậu xanh có thể ức chế các enzym làm tăng huyết áp một cách tự nhiên, từ đó giúp giảm huyết áp. Trong đậu xanh còn có thành phần chất xơ cao giúp làm giảm lượng cholesterol trong cơ thể bằng cách giảm bớt sự hấp thu chất béo, duy trì mức cholesterol trong mức cho phép. Nó còn giúp cho cơ thể phòng chống chứng xơ cứng động mạch và bệnh cao huyết áp, đồng thời có công hiệu bảo vệ gan và giải độc.
Ngăn ngừa một số bệnh mãn tính, ung thư, tăng cường hệ miễn dịch
Trong đậu xanh chứa nhiều chất chống oxy hóa lành mạnh như axit phenolic, flavonoid, axit caffeic, axit cinnamic... Các nghiên cứu trong ống nghiệm in vitro chỉ ra rằng các chất chống oxy hóa từ đậu xanh này có thể giảm sự phát triển ung thư ở phổi và dạ dày do gốc tự do; tăng cường hệ miễn dịch, giảm nguy cơ ung thư đại trực tràng, giảm tái phát u xơ tuyến tiền liệt. Hàm lượng chất xơ cao trong đậu xanh giúp hỗ trợ hệ thống tiêu hóa duy trì ổn định, giảm áp lực lên đường ruột, từ đó cũng phòng ngừa ung thư đại tràng và ung thư đường tiêu hóa.
Hỗ trợ hệ tiêu quá, dạ dày, giảm cân
Chất xơ trong đậu xanh có tác dụng hỗ trợ tăng tốc độ tiêu hóa thức ăn, giảm trào ngược axit dạ dày thực quản, trĩ, táo bón. Không những vậy, chất kháng tinh bột trong đậu xanh còn có ích cho lợi khuẩn đường ruột. Các lợi khuẩn này sẽ tiêu hóa kháng tinh bột và biến loại tinh bột này thành các axit béo chuỗi ngắn như butyrate có chức năng nuôi dưỡng các tế bào ruột già, tăng cường khả năng miễn dịch đường ruột và thậm chí làm giảm nguy cơ ung thư ruột già.
Đối với những người có mong muốn giảm cân, giữ dáng, khi ăn các loại đậu sẽ giúp cảm thấy no hơn 31% so với khi ăn mì ống hay bánh mì. Vậy nên, nhờ vào hàm lượng chất xơ cao của đậu xanh mà bạn có thể kiểm soát cơn đói và giảm lượng calo nạp vào, từ đó giảm cân dễ dàng hơn.
Trong đời sống hàng ngày
Đậu xanh được dùng làm rất nhiều món như nấu canh, chè, làm bánh, xay thành bột làm miến, rang vàng tán bột làm thực phẩm ngũ cốc dinh dưỡng. Hạt đậu xanh còn được làm giá đỗ. Lá đậu xanh có thể tận dụng làm dưa nhưng không phổ biến. Vỏ đậu xanh có tính nóng nên nhiều người thường nấu cả vỏ
Chữa tiêu chảy nôn mửa: Đậu xanh rang vàng 100g, muối rang 10g, hạt tiêu 50g. Tán bột trộn chung cho đều cất kín vào trong lọ. Người lớn mỗi lần uống 7g, cách nhau 3giờ
Giải say rượu: Nấu cháo đậu xanh để nguội, cho ăn liền vài bát hoặc nhai một nắm lá sống đã rửa sạch thật kỹ rồi nuốt
Trị trúng nắng: Đậu xanh vo sạch, cho vào nồi, đổ nước đun sôi qua, chắt lấy nước, để nguội rồi uống. Tác dụng của nước đậu sẽ kém đi nếu nấu quá đục..
Hỗ trợ điều trị đái tháo đường: Nấu canh đậu xanh 200g cùng 2 quả lê và củ cải 250g ăn hàng ngày trong một liệu trình 10 ngày liên tục
Phòng bệnh sởi: Đậu xanh 30g sắc cùng rễ cỏ tranh tươi 30g với 700ml nước, chia ra 3 phần uống trong ngày, dùng liên tục trong 3 ngày
Tác dụng phụ
Tuy không phải là tất cả nhưng một số người có thể gặp phải tác dụng phụ, hiện tượng dị ứng khi ăn đậu xanh.
Chất axit phytic liên kết với canxi, kẽm và các khoáng chất quan trọng khác và ngăn cản hấp thụ các chất này gây nên sự thiếu hụt dinh dưỡng
Lectin là các protein gắn kết carbohydrate tìm thấy trong nhiều loại thực phẩm nhưng thường có trong các loại đậu, có thể gây cảm giác khó tiêu khi dung nạp quá nhiều. Tương tự acid phytic, nên nấu chín, mềm đậu xanh để giảm lượng lectin
Đối với một số người, vỏ các loại đậu bao gồm cả đậu xanh, nếu không được nấu kỹ hoặc loại bỏ cũng gây ảnh hưởng không tốt tới hệ tiêu hóa
Một vài hình ảnh
Xem thêmCác loại đậu'''
Tham khảo
Những Phương Thuốc Hay "Rau Cỏ Trị Bệnh" (Tạ Duy Chân sưu tầm)
Kiến Thức Bồi Bổ Cơ Thể (Chu Nghĩa Hào, Y Tô Mai)
Món Ăn Bài Thuốc Hay (Hoa Hồng sưu tầm)
Thuốc Hay Quanh Vườn (Ngọc Nga)
Tham khảo
Liên kết ngoài
R
Đậu ăn hạt
Nguyên liệu thực phẩm
Đậu ăn được
Thực vật được mô tả năm 1753
|
26741
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Giao%20Ch%E1%BB%89
|
Giao Chỉ
|
Giao Chỉ (chữ Hán: 交趾) là địa danh một phần lãnh thổ Việt Nam trong lịch sử, từ thời Hùng Vương đến các kỳ thời Bắc thuộc. Nó cũng là tên Bắc Tống và Nam Tống gọi 3 nhà nước của nhà Đinh, nhà Tiền Lê, và nhà Lý từ 975 đến 1164.
Từ nguyên
Hiện có nhiều giả thuyết về nguồn gốc của địa danh Giao Chỉ. Sau đây là một số thuyết giải nghĩa dân gian (folk etymology) dựa trên các văn liệu, sử liệu thời cổ:
Theo thiên Vương Chế (王制) trong Lễ ký (禮記), hai chữ Giao Chỉ (交趾) được dùng để mô tả đặc điểm ngoại hình của các tộc Nam Man, và có thể được giải nghĩa là "chân trẹo hướng vào nhau" (James Legge) hoặc "ngón chân cái... bắt chéo" (James M. Hargett).
Hậu Hán Thư (後漢書) dẫn đoạn tương tự trong Lễ ký, nhưng lại giải nghĩa Giao Chỉ là phong tục tắm chung sông của nam nữ xứ đó.
Đỗ Hựu trong bộ Thông điển cho rằng: "Giao Chỉ là người Nam di, ngón chân cái toạc ra, đứng thẳng hai bàn chân thì ngón chân cái giao vào nhau, cho nên gọi là Giao Chỉ (chỉ là ngón chân cái)".
Bộ Thái bình ngự lãm (太平御覽) thời nhà Tống trích lời của sử gia Ưng Thiệu (應劭) trong Hán quan nghi (漢官儀) rằng: "Vũ Hoàng Đế nam bình Bách Việt [...] đặt Giao Chỉ (交阯) [...] khai thủy ở phương Bắc, toại giao (交) ở phương Nam, vì tử tôn cơ chỉ (阯) tại đó."
Dưới đây là một vài ý kiến của các học giả phương Tây về vấn đề từ nguyên Giao Chỉ:
Theo nhà ngôn học Michel Ferlus (2009), chữ Giao trong Giao Chỉ (交趾), tộc danh của người Lào (lǎo 獠), và người Cờ Lao (仡佬) có dạng từ nguyên được phỏng đoán là *k(ə)ra:w. Người Lào xưa gọi người Kinh là Keo/ Kæw kɛːwA1, hiện nay mang hàm ý hơi miệt thị sắc tộc. Người Pu Péo gọi người Tày (Thái Trung tâm) ở Bắc Việt Nam trong tiếng Pu Péo (thuộc chi Kra) là kew.
Nhà ngôn học nhân chủng Frederic Pain (2008) đề xuất rằng *k(ə)ra:w có nghĩa là "con người", và gốc rễ của từ này nằm trong ngữ hệ Nam Á: ông chỉ ra sự tương đồng của nó với căn tố địa phương *trawʔ , có nghĩa là củ taro. Căn tố tổ tiên này phái sinh thành nhiều từ khác nhau trong các nhánh Nam Á, chẳng hạn: nhánh Môn có krao của khẩu ngữ Môn và traw của tiếng Nyah Kur; nhánh Palaung có kraɷʔ của tiếng Tung-wa và klao của tiếng Sem; nhánh Cơ-Tu có raw của tiếng Ong và ʰraw của tiếng Souei. Theo Pain, điều này hàm ý "một phương thức canh tác cụ thể được áp dụng bởi các cộng đồng Môn-Khmer có nông nghiệp quy mô nhỏ — trái ngược với các xã hội trồng ngũ cốc phức tạp và tân tiến hơn.”
Chú ý rằng từ taro trong tiếng Anh vốn dĩ là một từ mượn của tiếng Maori Nam Đảo, và nó có thể được dịch sang tiếng Việt thành các loại củ khác nhau như khoai môn, khoai nước hoặc khoai sọ. Thành tố sọ trong khoai sọ đã được Mark Alves (2020) phục nguyên như sau:
Chuyên gia về ngôn ngữ Kra-Dai James R. Chamberlain (2016) cũng cho rằng chữ Giao và tộc danh Lào rất có thể là hai từ đồng nguyên (cognate). Chamberlain, đồng ý kiến với nhà nghiên cứu Joachim Schlesinger, cho rằng tiếng Việt ban đầu không phải là thổ ngữ của đồng bằng sông Hồng. Theo họ, vùng châu thổ sông Hồng vốn là nơi sinh sống của người Tai, và rằng khu vực này chỉ bắt đầu nói tiếng Việt từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ thứ 9 CN, hoặc thậm chí muộn hơn vào thế kỷ thứ 10, do người nói tiếng Việt di cư lên từ phía nam, tức là từ vùng Bắc Trung Bộ hiện đại. Theo ghi chép đời Hán-Đường, phía đông Giao Chỉ và bờ biển Quảng Đông, Quảng Tây là nơi cư trú của cộng đồng nói tiếng Tai-Kadai (người Trung Quốc đương thời gọi họ là 俚 và 獠). Catherine Churchman đề xuất rằng chữ 獠 là phiên âm rút gọn của một danh xưng bản địa; nhận thấy rằng các từ 鳩獠 Qiūlǎo, 狐獠 Húlǎo và 屈獠 Qūlǎo được phục nguyên ngữ âm lần lượt là *kɔ-lawʔ, *ɣɔ-lawʔ và *kʰut-lawʔ trong giai đoạn tiếng Hán trung cổ, bà phỏng đoán danh xưng giả định phiên âm bởi từ 獠 là *klao, có lẽ liên quan đến từ klao "người" trong các ngôn ngữ Kra, hoặc là hình vị ghép của tiền tố k- chỉ "người" với đại từ *rəu số nhiều ngôi nhất "chúng tôi" của tiếng Tai nguyên thủy, có nghĩa là "dân tộc chúng tôi". Mặc dầu vậy, Michael Churchman thừa nhận rằng "Chẳng có một sử liệu nào chép về sự biến chuyển dân số quy mô lớn, điều đó chứng tỏ một quần thể dân cư nói tiếng Nam Á tổ tiên của tiếng Việt đã tồn tại tương đối ổn định ở Giao Chỉ suốt thời Hán-Đường." Các bằng chứng khảo cổ cũng chứng tỏ người Việt mới là dân tộc kế thừa văn hóa Đông Sơn có phạm vi tại đồng bằng sông Hồng, và do vậy, tổ tiên người Việt đã sinh sống ở đồng bằng sông Hồng từ lâu.
Lịch sử
Thời Văn Lang
Giao Chỉ nguyên là tên gọi của một bộ trong số 15 bộ của nước Văn Lang thời xưa. Bộ Giao Chỉ thời Hùng Vương tương đương miền Hà Nội ngày nay và miền hữu ngạn sông Hồng.
Thời Bắc thuộc
Lần thứ nhất
Triệu Đà sau khi thôn tính Âu Lạc đã chia Âu Lạc thành 2 quận là Giao Chỉ và Cửu Chân.
Khi nhà Hán đô hộ Nam Việt vào năm 111 trước Công nguyên thì đất Nam Việt cũ bị chia thành 6 quận là Nam Hải, Uất Lâm, Thương Ngô, Hợp Phố, Giao Chỉ và Cửu Chân. Đứng đầu quận là thái thú. Quận Giao Chỉ (Giao Chỉ quận) nằm trong bộ Giao Chỉ (Giao Chỉ bộ). Đứng đầu bộ Giao Chỉ là một thứ sử. Thứ sử đầu tiên là Thạch Đái. Quận trị của quận Giao Chỉ có thể ban đầu đã đặt tại Mê Linh, sau này đặt tại Liên Lâu (nay thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Khi Chu Xưởng làm thái thú quận Giao Chỉ đã dời quận trị đến Long Biên.
Bộ Giao Chỉ là một cấp hành chính của nhà Tây Hán, bao trùm toàn bộ lãnh thổ cũ của nước Nam Việt cộng thêm 3 quận mới lập là Châu Nhai, Đạm Nhĩ và Nhật Nam, được đặt chính thức vào năm 106 TCN, gồm 9 quận là: Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam (Nhật Nam được thành lập sau khi nhà Tây Hán chiếm được thêm vùng đất phía nam quận Cửu Chân), Đạm Nhĩ, Châu Nhai (Đạm Nhĩ và Châu Nhai nay thuộc đảo Hải Nam), Nam Hải, Hợp Phố, Uất Lâm và Thương Ngô (nay thuộc Quảng Tây và Quảng Đông). Năm 203 nhà Đông Hán đổi bộ Giao Chỉ thành châu Giao trên cơ sở đề nghị của thứ sử Trương Tân và Sĩ Nhiếp, thái thú quận Giao Chỉ. Tên gọi của bộ Giao Chỉ tồn tại được 300 năm (106 TCN - 203).
Theo sách Tiền Hán thư, địa lý chí thì quận Giao Chỉ gồm có 10 huyện: Luy Lâu, An Định, Cẩu Lậu, Mê Linh, Khúc Dương (Dịch?), Bắc Đái, Kê Từ, Tây Vu, Long Biên và Chu Diên. Thời Tây Hán, trụ sở quận Giao Chỉ đặt tại huyện Luy Lâu, thời Đông Hán đặt tại Long Biên. Theo nhận định của Đào Duy Anh trong Đất nước Việt Nam qua các đời (Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, 2005) dựa vào các sách cổ thì quận Giao Chỉ phủ kín đất Bắc Bộ ngày nay, trừ vùng thượng lưu sông Đà và thượng lưu sông Mã, đồng thời ăn sang cả vùng tây nam Quảng Tây (Trung Quốc) ngày nay. Riêng góc tây nam tỉnh Ninh Bình là địa đầu của quận Cửu Chân (nay thuộc Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh). Sau này nhà Hán đặt thêm quận Nhật Nam ở phía nam quận Cửu Chân (khoảng từ đèo Ngang vào đến Bình Định).
Tích Quang sang làm thái thú quận Giao Chỉ từ đời vua Hán Bình Đế (năm 1 đến năm 5) nhà Tây Hán và Nhâm Diên làm thái thú quận Cửu Chân đời vua Hán Quang Vũ Đế đều là những viên quan cai trị tốt đối với dân chúng nên được nhiều người nể trọng.
Thời Hán mạt và Tam Quốc, nhân dân quận Giao Chỉ đã nhiều lần nổi lên giết chết các thứ sử Giao Châu là Chu Phù rồi Trương Tân. Sau đó nhà Hán đã phong cho thái thú Giao Chỉ là Sĩ Nhiếp làm Tuy Nam trung lang tướng, tổng đốc 7 quận. Năm 210, Tôn Quyền nước Đông Ngô sai Bộ Chất sang làm thứ sử Giao Châu thì Sĩ Nhiếp tuân phục.
Đời vua Hán Linh Đế (168-189), Lý Tiến là người bản xứ đầu tiên làm thứ sử bộ Giao Chỉ. Lý Tiến dâng sớ xin vua cho người Giao Chỉ được bổ làm quan như người Hán. Nhưng vua Hán chỉ cho những người đỗ Mậu Tài hoặc Hiếu Liêm làm một số chức nhỏ trong xứ Giao Chỉ mà thôi.
Lý Cầm, một lính túc vệ người Giao Chỉ (sau này làm tới chức Tư lệ Hiệu úy) ra sức kêu cầu nên người Giao Chỉ mới được làm quan ở cả nơi khác.
Đại Việt sử ký toàn thư chép:
"Bấy giờ người nước Việt ta là Lý Cầm làm túc vệ ở đài, bèn rủ người đồng hương là bọn Bốc Long 5, 6 người, giữa ngày đầu năm các nước triệu hội, đến quỳ lạy ở sân điện tâu rằng:
"Ơn vua ban không đều".
"Hữu ty hỏi vì cớ gì?"
Cầm nói: "Nước Nam Việt ở xa không được trời che đất chở, cho nên mưa ngọt không xuống, gió mát không đến".
Lời ý khẩn thiết đau đớn. Vua Hán xuống chiếu an ủi, lấy một người đỗ Mậu Tài nước ta đi làm Huyện lệnh huyện Hạ Dương, một người đỗ Hiếu Liêm đi làm Huyện lệnh huyện Lục Hợp. Sau Lý Cầm làm quan đến Tư lệ Hiệu úy, Trương Trọng làm Thái thú Kim Thành. Như thế nhân tài nước Việt ta được cùng tuyển dụng như người Hán là mở đầu từ Lý Cầm, Lý Tiến vậy."
Khởi nghĩa hai bà Trưng
Năm 40, Trưng Trắc và Trưng Nhị dấy binh đánh đuổi thái thú Tô Định tàn ác và xưng vương. Năm 43, Mã Viện được nhà Hán phái sang đánh bại Hai Bà Trưng, đã cho dựng một trụ đồng có khắc sáu chữ: Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt, nghĩa là trụ đồng đổ thì Giao Chỉ bị tuyệt diệt. Thấy thế, người Giao Chỉ qua đây, ai cũng bỏ thêm đất đá cho cột đồng càng chắc, nghe nói sau này phủ kín cả cột đồng, không biết nó ở chỗ nào nữa. Còn một cách giải thích khác là ai đi qua nhìn thấy cũng nổi lòng căm ghét, mỗi người ném một hòn đá vào cột, lâu ngày che đi.
Lần thứ hai
Sau khi Sĩ Nhiếp chết, năm 226, Đông Ngô đã chia Giao Châu ra làm 2 châu: Quảng Châu gồm các quận Nam Hải, Uất Lâm, Thương Ngô (trị sở tại Phiên Ngung, nay là thành phố Quảng Châu) và Giao Châu (mới) gồm các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố (trị sở tại Long Biên) và cử Sĩ Huy, con Sĩ Nhiếp làm thái thú quận Cửu Chân, nhưng Sĩ Huy không tuân lệnh mà dấy binh chiếm giữ quận Giao Chỉ. Thứ sử Giao Châu (mới) là Đới Lương (戴良) và thứ sử Quảng Châu là Lã Đại cùng hợp binh tiến đánh, dụ hàng rồi lừa giết chết mấy anh em Sĩ Huy. Khi đó Đông Ngô lại hợp nhất Quảng Châu với Giao Châu như cũ. Năm 264 lại tái lập Quảng Châu.
Năm 265, nhà Tấn cướp ngôi nhà Ngụy, cử Dương Tắc làm thái thú quận Giao Chỉ, Đổng Nguyên làm thái thú quận Cửu Chân. Năm 272, tướng Đông Ngô là Đào Hoàng đánh chiếm lại được Giao Chỉ và Cửu Chân, được làm thứ sử Giao Châu, sau này Tôn Hạo phong cho làm Giao Châu mục.
Quận Giao Chỉ lúc này có 14 huyện: Long Biên, Câu Lậu, Vọng Hải, Luy Lâu, Tây Vu, Vũ Ninh, Chu Diên, Khúc Dương, Ngô Hưng, Bắc Đái, Kê Từ, An Định, Vũ An và Quân Bình với 12.000 hộ.
Thời Lưu Tống, quận Giao Chỉ gồm 12 huyện và 4.233 hộ, là: Long Biên, Câu Lậu, Chu Diên, Ngô Hưng, Tây Vu, Định An, Vọng Hải, Hải Bình, Vũ Ninh, Luy Lâu, Khúc Dương, Nam Định (Vũ An cũ).
Thời Nam Tề, quận Giao Chỉ gồm 11 huyện: Long Biên, Vũ Ninh, Vọng Hải, Câu Lậu, Ngô Hưng, Tây Vu, Chu Diên, Nam Định, Khúc Dịch (Dương?), Hải Bình, Luy Lâu.
Lần thứ ba
Đến đời nhà Tùy, quận Giao Chỉ gồm 9 huyện: Tống Bình, Long Biên, Chu Diên, Long Bình, Bình Đạo, Giao Chỉ, Gia Ninh, Tân Xương và An Nhân.
Nhà Đường sau khi lên thay nhà Tùy, đã đặt ra phủ Giao Châu. Năm 679, Giao Châu đô đốc phủ đổi thành An Nam đô hộ phủ, chia làm 12 châu, trong đó có Giao Châu. Giao Châu mới bao gồm 8 huyện: Tống Bình, Long Biên, Chu Diên, Giao Chỉ, Bình Đạo, Vũ Bình, Nam Định, Thái Bình.
Huyện Giao Chỉ ra đời năm 622 do chia tách đất Tống Châu đặt ra hai huyện Giao Chỉ và Hoài Đức. Đến năm 627, đổi huyện Giao Chỉ thành Nam Từ Châu, nhập 3 huyện Giao Chỉ, Hoài Đức và Hoằng Giáo vào huyện Tống Bình.
Lần thứ tư
Nhà Minh vào đầu thế kỷ XV sau khi xâm chiếm Việt Nam thành lập Giao Chỉ thừa tuyên bố chính sứ ty, hay tỉnh Giao Chỉ. Lúc này tỉnh Giao Chỉ chính là nước Việt Nam thời nhà Hồ và được chia thành 15 phủ (sau tăng lên 17 phủ) và 5 châu lớn (năm 1407):
15 phủ: Giao Châu, Bắc Giang, Lạng Giang, Tam Giang, Kiến Bình (Kiến Hưng thời Hồ), Tân Yên (Tân Hưng thời Hồ), Kiến Xương, Phụng Hóa (Thiên Trường thời Hồ), Thanh Hóa, Trấn Man (Long Hưng thời Hồ), Lạng Sơn, Tân Bình, Diễn Châu, Nghệ An, Thuận Hóa.
5 châu đứng riêng: Thái Nguyên, Tuyên Hóa (Tuyên Quang thời Hồ), Gia Hưng, Quy Hóa, Quảng Oai.
Ngoài ra còn có các châu trực thuộc phủ, tổng cộng có 47 châu lớn nhỏ.
Sang năm 1408, châu Thái Nguyên và châu Tuyên Hóa được thăng làm phủ Thái Nguyên và phủ Tuyên Hóa, nâng tổng số phủ lên 17. Sau này lại bỏ phủ Diễn Châu, còn lại châu Diễn.
Như vậy phủ Giao Châu nằm trong quận Giao Chỉ (lúc này cấp phủ thấp hơn cấp quận).
Sau khi Lê Lợi đánh đuổi quân Minh lên làm vua, ông đã bỏ các đơn vị hành chính cũ và chia cả nước thành 5 đạo. Các tên gọi Giao Châu và Giao Chỉ với tư cách là những đơn vị hành chính chính thức đã chấm dứt từ đó.
Xem thêm
Các dân tộc Việt Nam
Giao Châu
Bắc thuộc
Nhà Triệu
Nam Việt
Triệu Đà
Lang Công
Tây Vu Vương
Chú thích
Dẫn nguồn
Báo học thuật
Sách tham khảo
Tiếng Việt
Ngoại văn
Zürcher, Erik (2002): "Tidings from the South, Chinese Court Buddhism and Overseas Relations in the Fifth Century AD." Erik Zürcher trong: A Life Journey to the East. Sinological Studies in Memory of Giuliano Bertuccioli (1923-2001). Biên tập bởi Antonio Forte và Federico Masini. Italian School of East Asian Studies. Kyoto. Essays: Quyển 2, tr. 21–43.
Liên kết ngoài
Hậu Hán Thư phần đề cập Giao Chỉ: 卷八十六·南蠻西南夷列傳第七十 hoặc https://ctext.org/dictionary.pl?if=gb&id=77629
G
G
G
G
G
G
G
Cựu quốc gia trong lịch sử Việt Nam
Lịch sử Việt Nam
Lịch sử Quảng Đông
Lịch sử Quảng Tây
Lịch sử Hải Nam
Bắc thuộc
Khu vực địa lý của Trung Quốc
Vùng của Việt Nam
|
26742
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Giao%20Ch%C3%A2u
|
Giao Châu
|
Giao Châu (chữ Hán: 交州) là một châu hoặc phủ thời xưa, bao trùm vùng đất miền Bắc Việt Nam ngày nay. Ban đầu Giao Châu còn bao gồm một phần đất Quảng Tây và Quảng Đông thuộc Trung Quốc ngày nay.
Nhà Đông Hán
Năm 203, Giao Châu được vua Hiến Đế nhà Đông Hán đổi tên từ bộ Giao Chỉ trên cơ sở đề nghị của Sĩ Nhiếp, thái thú quận Giao Chỉ và Trương Tân, thứ sử bộ Giao Chỉ.
Khi đó Giao Châu là một cấp hành chính (châu), gồm 9 quận là: Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Đam Nhĩ, Châu Nhai (Đam Nhĩ và Châu Nhai nay thuộc đảo Hải Nam), Nam Hải, Hợp Phố, Uất Lâm, Thương Ngô (nay thuộc Quảng Tây và Quảng Đông). Trị sở ban đầu đặt tại huyện Liên Lâu rồi dời sang huyện Quảng Tín (thành phố Ngô Châu thuộc Quảng Tây ngày nay), sau chuyển về Phiên Ngung (thành phố Quảng Châu thuộc tỉnh Quảng Đông ngày nay).
Thời Hán mạt và Tam Quốc, nhân dân Giao Chỉ đã nhiều lần nổi lên giết chết các thứ sử Giao Châu là Chu Phù rồi Trương Tân. Sau đó Nhà Hán đã phong cho thái thú quận Giao Chỉ là Sĩ Nhiếp làm Tuy Nam Trung lang tướng, tổng đốc 7 quận.
Tam Quốc
Năm 210, Tôn Quyền sai quan là Bộ Chất sang làm thứ sử Giao Châu, Thái thú Sĩ Nhiếp tuân phục nhà Đông Ngô, giữ chức Tả tướng quân.
Sau khi Sĩ Nhiếp mất (226), Đông Ngô đã chia Giao Châu ra làm hai châu: Quảng Châu gồm các quận Nam Hải, Uất Lâm, Thương Ngô cho Lữ Đại (Lã Đại) làm Thứ sử và Giao Châu (mới) gồm các quận Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam cho Đái Lương làm Thứ sử. Trần Thì làm Thái thú Giao Châu thay Sĩ Nhiếp. Sĩ Huy, con Sĩ Nhiếp làm thái thú quận Cửu Chân, nhưng Sĩ Huy không tuân lệnh mà dấy binh chiếm giữ quận Giao Chỉ. Thứ sử Giao Châu (mới) là Đới Lương và thứ sử Quảng Châu là Lã Đại cùng hợp binh tiến đánh, dụ hàng và giết chết mấy anh em Sĩ Huy. Sau đó Đông Ngô lại sáp nhập Quảng Châu với Giao Châu như cũ, phong Lã Đại làm thứ sử Giao Châu. Lã Đại tiến quân đến quận Cửu Chân tàn sát hàng vạn người. Giao Châu mới gồm có 7 quận: là 4 quận cũ: Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố và 3 quận mới: Tân Xương, Vũ Bình và Cửu Đức, bao gồm miền Bắc Việt Nam cộng thêm khu vực Khâm Châu (thuộc Quảng Tây) ngày nay và bán đảo Lôi Châu thuộc tỉnh Quảng Đông) ngày nay (ba quận mới được thành lập thời Tôn Hạo và giữ nguyên đến thời nhà Tấn).
Năm 248, cuộc khởi nghĩa của Triệu Thị Trinh (tức Bà Triệu) bị thứ sử Giao Châu là Lục Dận (Đông Ngô - cháu Lục Tốn) dập tắt.
Thái thú Tôn Tư (孫諝) cai trị Giao Châu tàn ác, dân chúng quận Giao Chỉ và Nhật Nam nổi dậy. Vua Đông Ngô là Tôn Hưu sai Đặng Tuân sang làm sát chiến để giám sát Tôn Tư nhưng cả hai lại cùng hợp tác vơ vét của cải nhân dân. Năm 263, Lã Hưng, viên quan ở quận Giao Chỉ, cùng hào kiệt nổi dậy giết chết Tư và Tuân, mang quận Giao Chỉ về hàng Tào Ngụy dù lúc đó bị ngăn cách về địa lý. Đến năm 264, trước hành động của Lã Hưng kèm theo nguy cơ mất cả Giao Châu, Ngô Cảnh Đế Tôn Hưu vội chia tách Giao châu thành hai châu Quảng Châu (trị sở tại Phiên Ngung, nay là thành phố Quảng Châu) và Giao Châu (trị sở tại Long Biên, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội). Giao châu mới chỉ gồm 4 quận còn lại phía nam là Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam.
Cuối năm 263, Tào Ngụy tiến hành chiến dịch tiêu diệt Thục Hán thành công. Năm 264, quyền thần nhà Ngụy là Tư Mã Chiêu nhân danh Ngụy Nguyên Đế phong cho Lã Hưng làm An Nam tướng quân, coi việc binh ở Giao châu và sai Hoắc Dặc (tướng cũ Thục Hán) làm Thứ sử Giao châu (nhưng vẫn ở Nam Trung, không trực tiếp sang Giao Châu). Cuối năm 264, Lã Hưng bị thủ hạ là công tào Lý Thống giết chết.
Năm 265, Nhà Tấn cướp ngôi nhà Ngụy, cử Dương Tắc làm thái thú Giao Chỉ, Đổng Nguyên làm thái thú Cửu Chân. Từ đây, Giao Châu thuộc quyền nước Tấn. Nước Đông Ngô tiến hành chiến tranh với Tấn để tranh giành Giao Châu và Quảng Châu.
Đào Hoàng, bề tôi của Đông Ngô đánh chiếm được Giao Chỉ và Cửu Chân, được làm thứ sử Giao Châu. Giao Châu lại thuộc Đông Ngô nhưng vẫn chia riêng với Quảng Châu. Sau này Tôn Hạo phong cho Đào Hoàng làm Giao Châu mục. Sau khi Tôn Hạo đầu hàng nhà Tấn (280) thì Đào Hoàng hàng phục nhà Tấn và được giữ nguyên chức cũ.
Năm 353, thứ sử Giao Châu là Nguyễn Phu (nhà Đông Tấn) đánh vua Lâm Ấp do nước này hay ra cướp phá hai quận Nhật Nam và Cửu Chân. Năm 413, vua Lâm Ấp là Phạm Hồ Đạt lại ra cướp phá Cửu Chân, bị thứ sử Đỗ Tuệ Độ đuổi đánh, chém được tướng Lâm Ấp bắt sống hơn 100 người.
Năm 471 (thời Nam Bắc triều), nhà Lưu Tống tách khu vực Hợp Phố ra khỏi Giao Châu và hợp với một số quận khác để lập ra Việt Châu. Khi đó Giao Châu chia ra thành 8 quận, bao gồm: Giao Chỉ, Vũ Bình, Cửu Chân, Cửu Đức, Nhật Nam, Nghĩa Xương, Tống Bình (Tống thư chỉ liệt kê tên gọi của 7 quận).
Thời Nam Tề (479-502), Giao Châu gồm 9 quận: Giao Chỉ, Cửu Chân, Vũ Bình, Tân Xương, Cửu Đức, Nhật Nam, Tống Bình, Nghĩa Xương, Tống Thọ (năm 480 cắt về Việt Châu). Khi Lý Bí nổi lên đánh đuổi thứ sử Tiêu Tư tàn ác, thì vua nhà Lương cử Dương Phiêu sang làm thứ sử Giao Châu, và sai Trần Bá Tiên đem quân đánh Lý Bí.
Phủ Giao Châu Nhà Đường
Năm Vũ Đức thứ 5 (622), Nhà Đường sau khi lên thay nhà Tùy, đã đặt ra tổng quản phủ Giao Châu (Giao Châu tổng quản phủ), quản lãnh 10 châu: Giao Châu, Phong Châu, Ái Châu, Tiên Châu, Diên Châu, Tống Châu, Từ Châu, Hiểm Châu, Đạo Châu, Long Châu, bao trùm miền Bắc Việt Nam. Quan đứng đầu phủ Giao Châu là đại tổng quản Khâu Hòa, vốn là thái thú Giao Chỉ.
Năm 679, Giao Châu đô đốc phủ đổi thành An Nam đô hộ phủ, chia làm 12 châu, trong đó có Giao Châu. Giao Châu mới bao gồm 8 huyện: Tống Bình, Long Biên, Chu Diên, Giao Chỉ, Bình Đạo, Vũ Bình, Nam Định, Thái Bình và chỉ là một phần nhỏ của miền Bắc Việt Nam. 11 châu còn lại là: Lục Châu, Phúc Lộc Châu, Phong Châu, Thang Châu, Chi Châu, Võ Nga Châu, Võ An Châu, Ái Châu, Hoan Châu, Diễn Châu, Trường Châu. Quan cai trị An Nam đô hộ phủ gọi là đô hộ.
Thời này xuất hiện nhà sư La Quý là 1 đaị sư nổi tiếng đã trồng cây gạo nối Long Mạch do Cao Biền trấn yểm, từ đó khai sinh ra Lý Công Uẩn (Triều Lý)
Tuy miền Bắc Việt Nam chính thức không còn gọi là Giao Châu nữa (đổi là An Nam, sau lại đổi là Tĩnh Hải), nhưng sử sách Trung Quốc vẫn quen gọi nơi đây là xứ Giao Châu.
Phủ Giao Châu Nhà Minh
Nhà Minh vào đầu thế kỷ XV sau khi xâm chiếm Việt Nam lại khôi phục phủ Giao Châu. Phủ Giao Châu là một trong 15 phủ (sau tăng lên 17 phủ), cùng với 5 châu lớn khác nằm trong tỉnh Giao Chỉ, tức địa bàn Việt Nam thời bấy giờ.
Sau khi Lê Lợi đánh đuổi quân Minh lên làm vua, ông đã bỏ các đơn vị hành chính cũ và chia cả nước thành 5 đạo. Các tên gọi Giao Châu và Giao Chỉ với tư cách là những đơn vị hành chính chính thức đã chấm dứt từ đó.
Địa Lý Phong Thủy
Từ xa xưa các Thái Thú nhà Hán đã tấu về Triều đình về các bùa phép của bộ tộc phương Nam có thể điều khiển thú rừng và đánh trận. Các thầy bùa có thể ban phép để quân sĩ hăng hái đánh trận.
Sau thời Cao Biền xuất hiện các đại sư La Quý, và đặc biệt sau này có sư Vạn Hạnh giỏi về Phong thủy đã xây dựng nên kinh đô Thăng Long
Thủ phủ Giao Châu qua các thời kỳ
Huyện Luy Lâu/Liên Lâu 羸婁 (111 TCN - 106 TCN)
Huyện Long Biên (thời Tây Hán)
Huyện Luy Lâu (thời Đông Hán)
Huyện Mê Linh (thời Đông Hán)
Huyện Quảng Tín 廣信 (106 TCN - 210 SCN)
Huyện Phiên Ngung/Phiên Ngu 番禺 (210 - 226)
Huyện Long Uyên 龍淵 (226; 264 - 544; 602 - 605)
Huyện Giao Chỉ 交趾 (605 - 627)
Huyện Tống Bình (từ năm 607)
Đại La
Xem thêm
Giao Chỉ
Tĩnh Hải quân
Quảng Châu (địa danh cổ)
Ghi chú
G
G
G
G
G
G
G
G
G
Vùng của Việt Nam
Khu vực địa lý của Trung Quốc
Lịch sử Việt Nam
Lịch sử Quảng Đông
Lịch sử Quảng Tây
Lịch sử Hải Nam
Cựu quốc gia trong lịch sử Việt Nam
|
26753
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/2001
|
2001
|
Nó được chỉ định là:
Trăm năm liên bang của Úc
Năm Người tình nguyện quốc tế
Năm Đối thoại giữa Văn minh Liên Hợp Quốc
Sự kiện
Tháng 1
1 tháng 1: Moritz Leuenberger trở thành Tổng thống Thụy Sĩ.
6 tháng 1:
Bầu cử quốc hội Thái Lan.
Ariel Sharon được bầu thành làm Thủ tướng Israel.
7 tháng 1: John Agyekum Kufuor trở thành Tổng thống Ghana.
9 tháng 1: iTunes được thành lập.
13 tháng 1: Động đất tại El Salvador khiến 852 người chết.
15 tháng 1: Ngày thành lập Wikipedia.
20 tháng 1: Gloria Macapagal Arroyo trở thành Tổng thống Philippines.
26 tháng 1: Động đất tại Gujarat, Ấn Độ, khoảng 20.000 người chết.
Tháng 2
2 tháng 2: José Maria Neves trở thành Thủ tướng Cabo Verde.
7 tháng 2: Ariel Scharon trở thành Thủ tướng Israel.
13 tháng 2: Động đất tại El Salvador làm 315 người chết.
18 tháng 2: Hyakujuu Sentai Gaoranger chính thức phát sóng.
25 tháng 2: Pedro Pires trở thành Tổng thống Cabo Verde.
Tháng 3
25 tháng 3: Na Uy trở thành thành viên của Hiệp ước Schengen.
Tháng 4
3 tháng 4: Cuộc thi Hoa hậu Trái Đất ra đời tại Philippines.
29 tháng 4: Bầu cử quốc hội Sénégal.
Tháng 5
8 tháng 5: Serbia và Montenegro trở thành thành viên Ngân hàng Thế giới
Tháng 6
7 tháng 6: Tony Blair tái đắc cử thủ tướng Anh.
17 tháng 6: Bầu cử quốc hội Bulgaria.
20 tháng 6: Pervez Musharraf trở thành nhà lãnh đạo quốc gia Pakistan.
24 tháng 6: Ilir Meta trở thành lãnh đạo chính phủ Albania.
Tháng 7
28 tháng 7: Alejandro Toledo Manrique trở thành Tổng thống Peru
Tháng 8
Tháng 9
10 tháng 9: Bầu cử quốc hội Na Uy.
11 tháng 9: Sự kiện 11 tháng 9 khiến gần 3000 người chết.
21 tháng 9: Arnold Rüütel trở thành Tổng thống Estonia.
21 tháng 9: Nổ tại thành phố Toulouse, Pháp khiến 31 người thiệt mạng.
23 tháng 9: Bầu cử quốc hội Ba Lan.
Tháng 10
19 tháng 10:
Kjell Magne Bondevik trở thành Thủ tướng Na Uy.
Leszek Miller trở thành lãnh đạo chính phủ Ba Lan.
25 tháng 10: Microsoft chính thức phát hành Windows XP.
Tháng 11
3 tháng 11: Bầu cử tại Singapore.
5 tháng 11: Bầu cử quốc hội Azerbaijan.
12 tháng 11: Chuyến bay 587 của American Airlines đang bay gặp phải sự cố ngay sau khi cất cánh vào khu phố cảng Harbor của Queens, một quận của New York. Tất cả 260 người trên máy bay (251 hành khách và 9 thành viên phi hành đoàn) đã thiệt mạng, cùng với 5 người dưới mặt đất.
Tháng 12
16 tháng 12:
Bầu cử quốc hội Chile.
Bầu cử tổng thống Madagascar.
31 tháng 12: Microsoft chính thức khai tử hàng loạt phiên bản Microsoft Windows từ Windows 1.0 đến Windows 95.
Sinh
Tháng 1
1 tháng 1: Winter (Kim Min-jeong) thành viên nhóm nhạc nữ aespa
Tháng 3
9 tháng 3: Jeon Somi (Ennik Somi Douma), nữ ca sĩ người Hàn Quốc, thành viên nhóm nhạc nữ I.O.I
14 tháng 3: Ziva Magnolya Muskitta, nữ ca sĩ, diễn viên người Indonesia
18 tháng 3: Quang Anh, ca sĩ người Việt Nam
Tháng 4
15 tháng 4: Anastasia Margriet Joséphine van Lippe-Biesterfeld van Vollenhoven, con gái của hoàng tử Maurits của Oranje-Nassau và Marilène van den Broek
Tháng 5
1 tháng 5: Đỗ Nhật Nam, sinh viên, người viết sách, dịch giả người Việt Nam
18 tháng 5: hoàng tử Alfons Constantin Maria, con trai của hoàng tử Maximilian của Liechtenstein và Angela Gisela Brown
Tháng 6
18 tháng 6: Lê Nguyễn Bảo Ngọc, Á hậu Thế giới Việt Nam 2022, Hoa hậu Liên lục địa 2022
Tháng 7
20 tháng 7: Đỗ Thị Hà, Hoa hậu Việt Nam 2020
Tháng 8
2 tháng 8: Changg (Nguyễn Huyền Trang), nữ ca sĩ người Việt Nam
Tháng 9
23 tháng 9:
Lại Quán Lâm (Eddie/Edward), ca sĩ người Đài Loan, thành viên nhóm nhạc Wanna One
Tiara Anugrah Eka Setyo Andini, nữ ca sĩ, diễn viên, nhạc sĩ, người mẫu, vũ công, dẫn chương trình người Indonesia, á quân Indonesian Idol 2020
Tháng 10
21 tháng 10: Bùi Xuân Hạnh, á quân Gương mặt người mẫu Việt Nam 2023, Hoa hậu Hoàn Vũ Việt Nam 2023
26 tháng 10: Elisabeth Thérèse Marie Hélène, con gái của Vua Philippe của Bỉ và Mathilde d'Udekem d'Acoz
Tháng 11
19 tháng 11: Wren Evans (Lê Phan), ca sĩ kiêm sáng tác nhạc, rapper, nhà sản xuất thu âm người Việt Nam
22 tháng 11: Vin Quốc Anh (Nguyễn Quốc Anh), ca sĩ kiêm sáng tác nhạc người Việt Nam
Tháng 12
1 tháng 12: Công chúa Aiko, con gái của Thái tử Naruhito của Nhật Bản và Owada Masako
12 tháng 12: Rosy (Mai Huyền My), nữ ca sĩ người Việt Nam, thành viên nhóm nhạc nữ LipB
18 tháng 12: Billie Eilish, nữ ca sĩ và nhạc sĩ người Mỹ
Mất
Tháng 1
1 tháng 1: Ray Walston, diễn viên Mỹ (s. 1914)
2 tháng 1: William P. Rogers, Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ (s. 1913)
12 tháng 1: Luiz Bonfá, nhạc công ghita, nhà soạn nhạc Brasil (s. 1922)
12 tháng 1: William Hewlett, nhà tư bản công nghiệp Mỹ, người thành lập tập đoàn Hewlett-Packard (s. 1913)
12 tháng 1: Adhemar Ferreira da Silva, vận động viên điền kinh Brasil (s. 1927)
12 tháng 1: Witold Szalonek, nhà soạn nhạc Ba Lan (s. 1927)
14 tháng 1: Karl Bednarik, họa sĩ, nhà văn Áo (s. 1915)
16 tháng 1: Laurent-Désiré Kabila, Tổng thống Cộng hòa Dân chủ Congo (s. 1939)
21 tháng 1: Ludwig Engelhardt, nhà điêu khắc Đức (s. 1924)
24 tháng 1: Eduard Schütz, nhà thần học Đức (s. 1928)
26 tháng 1: Ingeborg Bingener, nữ chính khách và tác gia Đức (s. 1922)
28 tháng 1: Hartmut Reck, diễn viên Đức (s. 1932)
28 tháng 1: Max Weiler, họa sĩ Áo (s. 1910)
31 tháng 1: Heinz Starke, chính khách Đức (s. 1911)
Tháng 2
4 tháng 2: J. J. Johnson, nhạc sĩ jazz Mỹ (s. 1924)
8 tháng 2: Giuseppe Casoria, Hồng y Giáo hội Công giáo La Mã (s. 1908)
8 tháng 2: Tisa voncủa Schulenburg, nữ nghệ nhân Đức (s. 1903)
11 tháng 2: Maurice Zermatten, nhà văn Thụy Sĩ (s. 1910)
12 tháng 2: Kristina Söderbaum, nữ diễn viên Thụy Điển (s. 1912)
13 tháng 2: Manuela, nữ ca sĩ Đức (s. 1943)
17 tháng 2: Richard Wurmbrand, nhà thần học Romania (s. 1909)
18 tháng 2: Balthus, họa sĩ (s. 1908)Dale Earnhardt, Mỹ NASCAR-Fahrer (s. 1951)
19 tháng 2: Charles Trenet, nam ca sĩ, nhà soạn nhạc, thi sĩ và họa sĩ Pháp (s. 1913)
19 tháng 2: Stanley Kramer, nhà sản xuất, đạo diễn điện ảnh Mỹ (s. 1913)
20 tháng 2: Karl Hasel, nhà lâm học Đức (s. 1909)
21 tháng 2: José Alí Lebrún Moratinos, Hồng y Giáo hội Công giáo La Mã (s. 1919)
22 tháng 2: Evelyn Holt, nữ diễn viên Đức (s. 1908)
24 tháng 2: Claude Elwood Shannon, nhà toán học Mỹ (s. 1916)
25 tháng 2: Paul Huber, nhà soạn nhạc Thụy Sĩ (s. 1918)
26 tháng 2: Jale Inan, nhà nữ khảo cổ học Thổ Nhĩ Kỳ (s. 1917)
26 tháng 2: Arturo Uslar Pietri, nhà văn, nhà ngoại giao và chính khách (s. 1906)
Tháng 3
4 tháng 3: Gerardo Barbero, kỳ thủ Argentina (s. 1961)
6 tháng 3: Ngọc Lan, ca sĩ hải ngoại (s. 1956)
12 tháng 3: Robert Ludlum, nhà văn, diễn viên và nhà sản xuất người Mỹ (s. 1927)
13 tháng 3: Alen Pivac, cầu thủ bóng đá người Thụy Sĩ (s. 1976)
22 tháng 3: William Hanna, đạo diễn, diễn viên lồng tiếng, nhạc sĩ và Nhà sản xuất,phim hoạt hình người Mỹ (s.1910)
31 tháng 3: Clifford Shull, nhà vật lý học Mỹ (s. 1915)
31 tháng 3: Gillian Dobb, nữ diễn viên Mỹ (s. 1929)
Tháng 4
1 tháng 4: nhạc sĩ Trịnh Công Sơn (s. 1939).
3 tháng 4: Martin Christoffel, kỳ thủ Thụy Sĩ (s. 1922)
7 tháng 4: Beatrice Straight, nữ diễn viên Mỹ (s. 1914)
15 tháng 4: Joey Ramone, nam ca sĩ Mỹ (s. 1951)
16 tháng 4: Klaus Kindler, diễn viên Đức (s. 1930)
20 tháng 4: Giuseppe Sinopoli, nhà soạn nhạc, nhạc trưởng, nhà y học và nhà khảo cổ học người Ý (s. 1946)
23 tháng 4: Albert Oeckl, giáo sư Đức (s. 1909)
25 tháng 4: Michele Alboreto, tay đua ô tô người Ý (s. 1956)
28 tháng 4: Evelyn Künneke, nữ ca sĩ, vũ công, diễn viên Đức (s. 1921)
28 tháng 4: Marie Jahoda, nhà nữ xã hội học Áo (s. 1907)
29 tháng 4: Andy Phillip, cầu thủ bóng rổ Mỹ (s. 1922)
30 tháng 4: Andreas Kupfer, cầu thủ bóng đá Đức (s. 1914)
Tháng 5
2 tháng 5: Heinz te Laake, nghệ nhân Đức (s. 1925)
2 tháng 5: Wolfgang Greese, diễn viên Đức (s. 1926)
4 tháng 5: Rudi Strahl, nhà thơ trữ tình, nhà soạn kịch người Đức (s. 1931)
9 tháng 5: Heinz Bethge, nhà vật lý học Đức (s. 1919)
9 tháng 5: Y Ngông Niê Kdăm, chính khách, Nhà giáo Nhân dân người dân tộc Êđê Việt Nam (s. 1922).
9 tháng 5: Johannes Poethen, nhà văn Đức (s. 1928)
9 tháng 5: Nikos Sampson, Tổng thống Cộng hòa Kypros (s. 1935)
10 tháng 5: Werner Schuster, chính khách Đức (s. 1930)
11 tháng 5: Douglas Adams, nhà văn Anh (s. 1952)
11 tháng 5: Klaus Schlesinger, nhà báo, nhà văn Đức (s. 1937)
12 tháng 5: Perry Como, nam ca sĩ Mỹ (s. 1912)
13 tháng 5: Jason Miller, nhà soạn kịch, diễn viên người Mỹ (s. 1939)
26 tháng 5: Alberto Korda, nhiếp ảnh gia Cuba (s. 1928)
28 tháng 5: Tony Ashton, nhạc sĩ nhạc rock Anh (s. 1944)
28 tháng 5: Francis Bebey, nhà văn, nhạc sĩ Pháp (s. 1929)
28 tháng 5: Francisco Varela, triết gia, nhà sinh vật học Chile (s. 1946)
Tháng 6
1 tháng 6: Birendra, vua của Nepal (s. 1945)
3 tháng 6: Anthony Quinn, diễn viên Mỹ (s. 1915)
4 tháng 6: Felicitas Kukuck, nhà soạn nhạc Đức (s. 1914)
4 tháng 6: John Hartford, nhà soạn nhạc Mỹ (s. 1937)
6 tháng 6: Douglas Lilburn, nhà soạn nhạc New Zealand (s. 1915)
11 tháng 6: Pierre Étienne Louis Eyt, Hồng y Tổng Giám mục Bordeaux (s. 1934)
13 tháng 6: Siegfried Naumann, nhà soạn nhạc Thụy Điển (s. 1919)
17 tháng 6: Thomas Joseph Winning, Hồng y Tổng Giám mục Glasgow (s. 1925)
21 tháng 6: John Lee Hooker, nhạc sĩ nhạc blues Mỹ (s. 1917)
25 tháng 6: Kurt Hoffmann, đạo diễn phim Đức (s. 1910)
27 tháng 6: Jack Lemmon, diễn viên Mỹ (s. 1925)
28 tháng 6: Emil Bücherl, nhà khoa học Đức (s. 1919)
28 tháng 6: Arno Reinfrank, nhà văn, nhà xuất bản và dịch giả Đức (s. 1934)
28 tháng 6: Joan Sims, nữ diễn viên Anh (s. 1930)
29 tháng 6: Silvio Angelo Pio Oddi, Hồng y Giáo hội Công giáo La Mã (s. 1910)
30 tháng 6: Chet Atkins, nhạc sĩ nhạc country Mỹ (s. 1924)
30 tháng 6: Joe Henderson, nhạc sĩ jazz Mỹ (s. 1937)
Tháng 7
3 tháng 7: Johnny Russell, nhà soạn nhạc, nhạc sĩ nhạc country Mỹ (s. 1940)
3 tháng 7: Mordecai Richler, nhà văn Canada (s. 1931)
5 tháng 7: Ernie K-Doe, nam ca sĩ Mỹ (s. 1936)
5 tháng 7: Hélène de Beauvoir, nữ họa sĩ Pháp (s. 1910)
8 tháng 7: Ernst Baier, vận động viên trượt băng nghệ thuật Đức (s. 1905)
8 tháng 7: Christl Haas, nữ vận động viên chạy ski Áo (s. 1943)
8 tháng 7: Ernst Baier, vận động viên trượt băng nghệ thuật Đức (s. 1905)
16 tháng 7: Morris, họa sĩ vẽ tranh cho truyện comic Bỉ, tác giả (Lucky Luke) (s. 1923)
21 tháng 7: Sivaji Ganesan, diễn viên Ấn Độ (s. 1927)
21 tháng 7: Einar Schleef, nhà văn, đạo diễn Đức (s. 1944)
21 tháng 7: Steve Barton, nam ca sĩ Mỹ (s. 1954)
25 tháng 7: Josef Klaus, chính khách Áo (s. 1910)
26 tháng 7: Giuseppe Maria Sensi, Hồng y Giáo hội Công giáo La Mã (s. 1907)
29 tháng 7: Wau Holland, nhà báo Đức, hacker (s. 1951)
31 tháng 7: Francisco da Costa Gomes, Thống chế, Tổng thống Bồ Đào Nha (s. 1914)
Tháng 8
5 tháng 8: Hans Holt, diễn viên Áo (s. 1909)
6 tháng 8: Jorge Amado, tác gia Brasil (s. 1912)
6 tháng 8: Dương Văn Minh, tổng thống cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa (s. năm 1916)
9 tháng 8: Otti Pfeiffer, nữ văn sĩ, thi sĩ trữ tình Đức (s. 1931)
10 tháng 8: Otto Schulmeister, nhà xuất bản Áo, tổng biên tập báo (s. 1916)
10 tháng 8: Werner Pirchner, nhà soạn nhạc Áo (s. 1940)
13 tháng 8: Út Trà Ôn, nghệ sĩ cải lương, được báo chí gọi là "Đệ Nhất Danh Ca" (s. 1919)
18 tháng 8: Roland Cardon, nhà soạn nhạc Bỉ, giáo sư (s. 1929)
19 tháng 8: Donald Woods, nhà báo, luật gia Nam Phi (s. 1933)
20 tháng 8: Fred Hoyle, nhà thiên văn học, nhà toán học, tác gia Anh (s. 1915)
22 tháng 8: Otto Borst, nhà sử học Đức (s. 1924)
23 tháng 8: Kathleen Freeman, nữ diễn viên Mỹ (s. 1919)
24 tháng 8: Bernard Heuvelmans, nhà động vật học (s. 1916)
24 tháng 8: Donald A. Prater, nhà văn, nhà ngoại giaoAnh (s. 1918)
25 tháng 8: Ken Tyrrell, tay đua xe người Anh (s. 1924)
25 tháng 8: Aaliyah, nữ ca sĩ nhạc R&B (s. 1979)
Tháng 9
2 tháng 9: Lothar Dombrowski, nhà báo Đức (s. 1930)
2 tháng 9: Christiaan Barnard, nhà y học Nam Phi (s. 1922)
7 tháng 9: Franz Muhri, chính khách Áo (s. 1924)
10 tháng 9: Alexei Suetin, kỳ thủ Nga (s. 1926)
12 tháng 9: Rudolf Pörtner, nhà văn, nhà sử học Đức (s. 1912)
13 tháng 9: Jaroslav Drobný, vận động viên khúc côn cầu trên băng (s. 1921)
13 tháng 9: Dorothy McGuire, nữ diễn viên Mỹ (s. 1916)
13 tháng 9: Charles Régnier, diễn viên Đức (s. 1914)
15 tháng 9: Herbert Burdenski, cầu thủ bóng đá Đức, huấn luyện viên bóng đá (s. 1922)
16 tháng 9: Samuel Z. Arkoff, nhà sản xuất, đạo diễn phim người Mỹ (s. 1918)
20 tháng 9: Marcos Pérez Jiménez, Tổng thống Venezuela (s. 1914)
20 tháng 9: Karl-Eduard von Schnitzler, nhà báo Đức (s. 1918)
23 tháng 9: nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ (s. 1929)
23 tháng 9: Bruno Wiefel, chính khách, nghị sĩ quốc hội liên bang Đức (s. 1924)
23 tháng 9: Henryk Tomaszewski, diễn viên kịch câm Ba Lan (s. 1919)
25 tháng 9: Herbert Klein, vận động viên bơi lội Đức (s. 1923)
27 tháng 9: Philip Rosenthal, chính khách, doanh nhân Đức (s. 1916)
29 tháng 9: Georg Schuchter, diễn viên Áo (s. 1952)
29 tháng 9: Nguyễn Văn Thiệu, cựu tổng thống Việt Nam Cộng hòa (s. năm 1923)
30 tháng 9: Gerhard Ebeling, nhà thần học Thụy Sĩ (s. 1912)
30 tháng 9: Jenny Jugo, nữ diễn viên Áo (s. 1905)
Tháng 10
9 tháng 10: Herbert Ross, biên đạo múa, đạo diễn phim người Mỹ (s. 1927)
14 tháng 10: David Lewis, triết gia Mỹ (s. 1941)
18 tháng 10: Micheline Ostermeyer, nữ vận động viên điền kinh, nghệ sĩ dương cầm người Pháp (s. 1922)
21 tháng 10: Anna Maria Jokl, nữ văn sĩ (s. 1911)
23 tháng 10: Ken Aston, trọng tài bóng đá Anh (s. 1915)
23 tháng 10: Ismat T. Kittani, nhà ngoại giao Iraq (s. 1929)
28 tháng 10: Dietmar Kamper, triết gia, nhà văn Đức (s. 1936)
31 tháng 10: Régine Cavagnoud, nữ vận động viên chạy ski Pháp (s. 1970)
Tháng 11
1 tháng 11: Juan Bosch, chính khách, lãnh đạo nhà nước, nhà văn (s. 1909)
4 tháng 11: Dirk Schneider, chính khách Đức (s. 1939)
6 tháng 11: Anthony Shaffer, tác gia kịch bản Anh (s. 1926)
12 tháng 11: Tony Miles, kiện tướng cờ vua Anh (s. 1955)
14 tháng 11: Oliver Hasenfratz, diễn viên Đức (s. 1966)
14 tháng 11: Lonzo Westphal, nhạc sĩ Đức (s. 1952)
15 tháng 11: Đoàn Chuẩn, nhạc sĩ Việt Nam (s. 1924)
23 tháng 11: Gerhard Stoltenberg, chính khách Đức, bộ trưởng liên bang (s. 1928)
24 tháng 11: Melanie Thornton, nữ ca sĩ nhạc pop Mỹ (s. 1967)
26 tháng 11: Grete von Zieritz, nhà soạn nhạc, nghệ sĩ dương cầm Áo (s. 1899)
26 tháng 11: Werner-Viktor Toeffling, họa sĩ Đức (s. 1912)
26 tháng 11: Regine Hildebrandt, nhà nữ sinh vật học, chính khách người Đức (s. 1941)
28 tháng 11: Hermann Barche, chính khách Đức (s. 1913)
29 tháng 11: George Harrison, nhạc sĩ Anh (The Beatles) (s. 1943)
Tháng 12
6 tháng 12: Alois Brügger, bác sĩ Thụy Sĩ (s. 1920)
6 tháng 12: Carla Hansen, nữ văn sĩ Đan Mạch (s. 1906)
8 tháng 12: Rolf Heyne, nhà xuất bản Đức (s. 1928)
13 tháng 12: Chuck Schuldiner, nhạc công ghita, ca sĩ người Mỹ (s. 1967)
14 tháng 12: W. G. Sebald, nhà văn Đức (s. 1944)
15 tháng 12: Rufus Thomas, nhạc sĩ blues Mỹ (s. 1917)
16 tháng 12: Stefan Heym, nhà văn Đức (s. 1913)
16 tháng 12: Christian Loidl, nhà văn Đức (s. 1957)
20 tháng 12: Léopold Sédar Senghor, thi sĩ, chính khách (s. 1906)
22 tháng 12: Angèle Durand, nữ ca sĩ, diễn viên Bỉ (s. 1925)
22 tháng 12: Grzegorz Ciechowski, nhạc sĩ nhạc rock Ba Lan (s. 1957)
30 tháng 12: Hans Hermsdorf, chính khách Đức (s. 1914)
31 tháng 12: Eileen Heckart, nữ diễn viên Mỹ (s. 1919)
Giải Nobel
Vật lý: Eric A. Cornell, Wolfgang Ketterle, Carl E. Wieman
Hóa học: William S. Knowles, Ryoji Noyori, K. Barry Sharpless
Y học: Leland H. Hartwell, R. Timothy Hunt, Paul M. Nurse
Văn học: V S. Naipaul
Hòa bình: Liên Hợp Quốc, Tổng thư ký Kofi Annan
Kinh tế học: George A. Akerlof, Michael Spence, Joseph E. Stiglitz
Xem thêm
Chú thích
Tham khảo
|
26755
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/2002
|
2002
|
Năm 2002 được chỉ định là:
Năm Du lịch sinh thái và Núi quốc tế
Năm vùng Xa xôi hẻo lánh ở Úc
Năm Khoa học quốc gia ở Vương quốc Anh
Năm Hiểu biết về Tự kỷ ở Vương quốc Anh
Sự kiện
Tháng 1
1 tháng 1:
Kaspar Villiger trở thành tổng thống của Thụy Sĩ.
Đồng Euro được đưa vào sử dụng.
2 tháng 1:
Levy Mwanawasa trở thành tổng thống Zambia.
Eduardo Duhalde trở thành tổng thống mới của Argentina.
Tháng 2
11 tháng 2: Bầu cử quốc hội tại Liechtenstein.
12 tháng 2: Đài Truyền hình Việt Nam phát sóng chính thức kênh VTV5.
24 tháng 2: Bầu cử quốc hội tại Lào.
Tháng 3
3 tháng 3: Ít nhất 166 người chết trong vụ Động đất tại vùng Hindu Kush, Afghanistan.
10 tháng 3: Bầu cử quốc hội tại Colombia.
17 tháng 3: Bầu cử quốc hội tại Bồ Đào Nha.
25 tháng 3: Động đất tại vùng Hindu Kush, Afghanistan khiến ít nhất khoảng 1000 người thiệt mạng.
Tháng 4
14 tháng 4: Bầu cử tổng thống Comoros.
Tháng 5
5 tháng 5: Jacques Chirac tái đắc cử tổng thống Pháp.
6 tháng 5: Marc Ravalomanana trở thành tổng thống Madagascar.
12 tháng 5: Amadou Toumani Touré trở thành tổng thống của Mali.
20 tháng 5: Đông Timor độc lập.
25 tháng 5: Bầu cử quốc hội tại Lesotho.
30 tháng 5: Bầu cử quốc hội tại Algérie.
31 tháng 5: Tổ chức Giải vô địch bóng đá thế giới 2002 tại Nhật Bản và Hàn Quốc.
Tháng 6
22 tháng 6: Động đất tại Iran, 261 người chết.
26 tháng 6: Hải chiến tại Yeonpeong lần 2, 6 người chết.
30 tháng 6: Bầu cử quốc hội tại Cameroon.
Tháng 7
25 tháng 7: Avul Pakir Jainulabdeen Abdul Kalam trở thành tổng thống Ấn Độ.
27 tháng 7: Fatos Nano trở thành lãnh đạo chính phủ tại Albania.
Tháng 8
7 tháng 8: Álvaro Uribe Vélez trở thành tổng thống của Colombia.
15 tháng 8: Michael Somare trở thành lãnh đạo chính phủ tại Papua Tân Guinea.
Tháng 9
10 tháng 9: Thụy Sĩ gia nhập Liên Hợp Quốc.
15 tháng 9: Bầu cử quốc hội tại Macedonia.
16 tháng 9: Ibrahim Boubacar Keïta trở thành thủ tướng của Mali.
27 tháng 9: Bầu cử quốc hội tại Maroc.
29 tháng 9: Đại hội Thể thao châu Á 2002 được tổ chức tại Busan (Hàn Quốc).
Tháng 10
5 tháng 10: Bầu cử quốc hội tại Latvia.
10 tháng 10: Bầu cử quốc hội tại Pakistan.
16 tháng 10: Khai trương Bibliotheca Alexandrina tại Cairo, Ai Cập.
29 tháng 10: Xảy ra vụ cháy Trung tâm thương mại quốc tế ITC tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh hơn 200 người chết, Đây được xem là vụ cháy kinh hoàng nhất làm chấn động cả Việt Nam thời điểm đó.
Tháng 11
7 tháng 11: Idrissa Seck trở thành thủ tướng của Sénégal.
21 tháng 11: Zafarullah Khan Jamali trở thành lãnh đạo chính phủ tại Pakistan.
27 tháng 11: Anders Fogh Rasmussen trở thành thủ tướng Đan Mạch.
Tháng 12
15 tháng 12: Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á 2002 tổ chức tại Indonesia và Singapore.
30 tháng 12: Mwai Kibaki trở thành tổng thống của Kenya.
Sinh
Tháng 1
11 tháng 1: Mỹ Anh, nữ ca sĩ người Việt Nam, con gái nữ ca sĩ Mỹ Linh và ca sĩ, nhạc sĩ Anh Quân
17 tháng 1: Kim Samuel, ca sĩ người Mĩ gốc Hàn Quốc
20 tháng 1: MiiNa (Phan Lê Mi), nữ ca sĩ người Việt Nam
Tháng 2
5 tháng 2 : Park Jisung, ca sĩ người Hàn, thành viên nhóm nhạc NCT.
24 tháng 2: Arietta Morales, con gái của công chúa Alexia của Hy Lạp và Carlos Morales
Tháng 3
Tháng 4
21 tháng 4: Nguyễn Phương Nhi, Á hậu Thế giới Việt Nam 2022
30 tháng 4: Miguel Urdangarín y de Borbón, con trai của Cristina của Tây Ban Nha và Iñaki Urdangarin
Tháng 5
13 tháng 5: Elisabeth Maria Angela Tatjana, con gái của công chúa Tatjana của Liechtenstein và Philipp của Lattorf
14 tháng 5: Isabella Lily Juliana van Vollenhoven, con gái của hoàng tử Bernhard van Oranien-Nassau, van Vollenhoven và công chúa Annette van Oranien-Nassau, van Vollenhoven, Sekreve
Tháng 6
8 tháng 6: Eloise Sophie Beatrix Laurence, con gái của hoàng tử Constantijn của Oranien-Nassau và công chúa Laurentien của Oranien-Nassau der Hà Lan
13 tháng 6
Nam Da-reum, diễn viên Người Hàn Quốc
Russell Horning (Backpack Kid), vũ công Mỹ.
18 tháng 6: Huỳnh Trần Ý Nhi, Á khôi Duyên dáng Sinh viên Bình Định 2023, Hoa hậu Thế Giới Việt Nam 2023
Tháng 7
1 tháng 7: Huỳnh Thị Thanh Thủy, Hoa hậu Việt Nam 2022
22 tháng 7: hoàng tử Felix Henrik Valdemar Christian của Đan Mạch, con trai của Prinz Joachim của Đan Mạch và Alexandra Manley
Tháng 8
Tháng 9
27 tháng 9: Jenna Ortega, diễn viên người Mỹ
Tháng 10
6 tháng 10: Nguyễn Thiện Nhân, ca sĩ Việt Nam
26 tháng 10: Lucas Maurits Pieter Henri van Lippe-Biesterfeld van Vollenhoven, con trai củan hoàng tử Maurits van Oranien-Nassau, van Vollenhoven và công chúa Mariléne van Oranien-Nassau, van Vollenhoven, van den Broek
Mất
Tháng 1
1 tháng 1: Paul Hubschmid, diễn viên sân khấu Thụy Sĩ (sinh 1917)
12 tháng 1: Cyrus Vance, chính trị gia Mỹ (sinh 1917)
17 tháng 1: Camilo José Cela, nhà văn Tây Ban Nha (sinh 1916)
19 tháng 1: Franz Innerhofer, nhà văn Áo (sinh 1944)
21 tháng 1: Peggy Lee, nữ ca sĩ nhạc jazz Mỹ (sinh 1920)
23 tháng 1: Pierre Bourdieu, nhà xã hội học Pháp (sinh 1930)
24 tháng 1: Franz Innerhofer, nhà văn Áo (sinh 1944)
27 tháng 1: Franz Meyers, chính trị gia Đức (sinh 1908)
27 tháng 1: Alain Vanzo, ca sĩ opera Pháp (sinh 1928)
28 tháng 1: Astrid Lindgren, nhà văn nữ người Thụy Điển (sinh 1907)
30 tháng 1: Inge Morath, nữ nhiếp ảnh gia Mỹ (sinh 1923)
Tháng 2
1 tháng 2: Hildegard Knef, nữ diễn viên Đức (sinh 1925)
6 tháng 2: Max Ferdinand Perutz, nhà hóa học Anh (sinh 1914)
8 tháng 2: Joachim Hoffmann, nhà sử học Đức (sinh 1930)
10 tháng 2: Dave Van Ronk, nhạc sĩ blues Mỹ (sinh 1936)
14 tháng 2: Abdul Rahman, chính trị gia (sinh 1953)
14 tháng 2: Günter Wand, người điều khiển dàn nhạc Đức (sinh 1912)
22 tháng 2: Barbara Valentin, nữ diễn viên Đức (sinh 1940)
22 tháng 2: Jonas Savimbi, chính trị gia Angola (sinh 1966)
22 tháng 2: Chuck Jones, họa sĩ vẽ tranh cho truyện comic Mỹ, đạo diễn phim (sinh 1912)
24 tháng 2: Eva Hoffmann-Aleith, nhà văn nữ người Đức (sinh 1910)
24 tháng 2: Leo Ornstein, nghệ sĩ dương cầm Nga, nhà soạn nhạc (sinh 1895)
27 tháng 2: Oskar Sala, nhà soạn nhạc Đức, nhà vật lý học (sinh 1910)
Tháng 3
4 tháng 3: Margarete Neumann, nhà văn nữ Đức (sinh 1917)
11 tháng 3: James Tobin, nhà kinh tế học Mỹ (sinh 1918)
11 tháng 3: Marion nữ bá tước Dönhoff, nữ nhà báo Đức, nhà nữ xuất bản (sinh 1909)
13 tháng 3: Hans-Georg Gadamer, triết gia Đức (sinh 1900)
13 tháng 3: Christian Graf von Krockow, nhà chính trị học Đức (sinh 1927)
17 tháng 3: Văn Tiến Dũng, Đại tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam, Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh 1975, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam (sinh 2 tháng 5 năm 1917)
18 tháng 3: Gösta Winbergh, nam ca sĩ (sinh 1943)
19 tháng 3: Marco Biagi, chính trị gia Ý, nhà khoa học, nhà xuất bản (sinh 1951)
27 tháng 3: Billy Wilder, đạo diễn phim Mỹ, tác giả kịch bản, nhà sản xuất (sinh 1906)
30 tháng 3: Elizabeth Bowes-Lyon, mẹ của Queen Elizabeth II (sinh 1900)
Tháng 4
1 tháng 4: Heinrich Popitz, nhà xã hội học Đức (sinh 1925)
3 tháng 4: Heinz Drache, diễn viên Đức (sinh 1923)
3 tháng 4: Frank Tovey, nhạc sĩ Anh (sinh 1956)
6 tháng 4: Martin Sperr, nhà văn Đức, diễn viên (sinh 1944)
13 tháng 4: Ivan Desny, diễn viên (sinh 1922)
16 tháng 4: Herbert Wernicke, đạo diễn phim Đức (sinh 1946)
18 tháng 4: Thor Heyerdahl, nhà nhân loại học Na Uy (sinh 1914)
19 tháng 4: Đào Duy Khương, Giáo sư, Bác sĩ (sinh 1927)
22 tháng 4: Victor Weisskopf, nhà vật lý học Áo (sinh 1908)
23 tháng 4: Manfred Bieler, nhà văn Đức (sinh 1934)
25 tháng 4: Lisa Lopes, nữ rapper, ca sĩ Mỹ (sinh 1971)
27 tháng 4: Hans-Heinrich Thyssen-Bornemisza, nhà tư bản công nghiệp Đức (sinh 1921)
30 tháng 4: Karel Milota, thi sĩ Séc, nhà văn, dịch giả (sinh 1937)
Tháng 5
1 tháng 5: Karel Ptáčník, nhà văn Séc (sinh 1921)
2 tháng 5: Richard Stücklen, chính trị gia Đức (sinh 1916)
5 tháng 5: Hugo Banzer Suárez, chính trị gia, tổng thống Bolivia (sinh 1926)
6 tháng 5: Pim Fortuyn, chính trị gia Hà Lan (sinh 1948)
10 tháng 5: Gabriele Mucchi, họa sĩ Ý (sinh 1899)
10 tháng 5: David Riesman, nhà xã hội học Mỹ (sinh 1909)
13 tháng 5: Walerij Lobanowskyj, huấn luyện viên bóng đá Ukraina (sinh 1939)
18 tháng 5: Wolfgang Eduard Schneiderhan, nhạc sĩ Áo (sinh 1915)
19 tháng 5: John Grey Gorton, thủ tướng Úc (sinh 1911)
20 tháng 5: Stephen Jay Gould, nhà cổ sinh vật học Mỹ, nhà địa chất (sinh 1941)
21 tháng 5: Niki de Saint Phalle, nữ điêu khắc gia Pháp, nữ họa sĩ (sinh 1930)
Tháng 6
13 tháng 6: Ralph Shapey, người điều khiển dàn nhạc Mỹ, nhà soạn nhạc (sinh 1921)
17 tháng 6: Fritz Walter, cầu thủ bóng đá Đức (sinh 1920)
20 tháng 6: Erwin Chargaff, nhà hóa sinh Mỹ, nhà văn (sinh 1905)
20 tháng 6: Martinus Osendarp, vận động viên điền kinh Hà Lan (sinh 1916)
23 tháng 6: Alice Stewart, nữ bác sĩ Anh
26 tháng 6: Alfred Lorenzer, nhà xã hội học Đức (sinh 1922)
27 tháng 6: John Entwistle, nhạc sĩ nhạc rock Anh, The Who (sinh 1944)
29 tháng 6: Alfred Dregger, chính trị gia Đức (sinh 1920)
29 tháng 6: Rosemary Clooney, nữ diễn viên, nữ ca sĩ Mỹ (sinh 1928)
Tháng 7
2 tháng 7: Jean-Yves Daniel-Lesur, nhà soạn nhạc Pháp, nghệ sĩ đàn ống (sinh 1908)
6 tháng 7: John Frankenheimer, đạo diễn phim Mỹ (sinh 1930)
9 tháng 7: Rod Steiger, diễn viên Mỹ (sinh 1925)
11 tháng 7: Rosco Gordon, nhạc sĩ blues Mỹ (sinh 1928)
16 tháng 7: Joseph Luns, chính trị gia Hà Lan (sinh 1911)
25 tháng 7: Johannes Joachim Degenhardt, Hồng y Giáo chủ Đức (sinh 1926)
26 tháng 7: Jutta Hecker, nhà văn nữ Đức (sinh 1904)
28 tháng 7: Archer John Porter Martin, nhà hóa học Anh, nhận Giải thưởng Nobel (sinh 1910)
30 tháng 7: Willy Mattes, nhà soạn nhạc Áo (sinh 1916)
Tháng 8
5 tháng 8: Francisco Coloane, nhà văn Chile (sinh 1910)
11 tháng 8: Jiří Kolář, thi sĩ Séc, nghệ nhân tạo hình (sinh 1914)
19 tháng 8: Eduardo Chillida, nhà điêu khắc (sinh 1924)
25 tháng 8: Karolina Lanckorońska, nữ sử gia về nghệ thuật Ba Lan, nhà văn nữ (sinh 1898)
27 tháng 8: Jane Tilden, nữ diễn viên Đức (sinh 1910)
29 tháng 8: Lance Macklin, đua xe Anh (sinh 1919)
31 tháng 8: Lionel Hampton, nhạc sĩ nhạc jazz Mỹ (sinh 1908)
Tháng 9
7 tháng 9: Eugenio Coseriu, nhà ngôn ngữ học Romania (sinh 1921)
8 tháng 9: Georges-André Chevallaz, chính trị gia Thụy Sĩ (sinh 1915)
22 tháng 9: Marga Petersen, nữ vận động viên điền kinh Đức (sinh 1919)
23 tháng 9: Eberhard Werner, nghệ nhân Đức, họa sĩ phong cảnh (sinh 1924)
30 tháng 9: Hans-Peter Tschudi, chính trị gia Thụy Sĩ (sinh 1913)
Tháng 10
6 tháng 10: Wolfgang Mischnick, chính trị gia Đức (sinh 1921)
12 tháng 10: Ray Conniff, nhạc sĩ, nhà soạn nhạc (sinh 1916)
19 tháng 10: Manuel Álvarez Bravo, nhiếp ảnh gia Mexico (sinh 1902)
21 tháng 10: Jesse Leonard Greenstein, nhà thiên văn học Mỹ (sinh 1909)
23 tháng 10: Marianne Hoppe, nữ diễn viên Đức (sinh 1909)
25 tháng 10: Richard Harris, diễn viên Ireland (sinh 1930)
25 tháng 10: René Thom, giáo sư Pháp về toán học (sinh 1923)
26 tháng 10: Siegfried Unseld, nhà xuất bản Đức (sinh 1924)
Tháng 11
7 tháng 11: Rudolf Augstein, nhà báo Đức, nhà xuất bản, nhà xuất bản (sinh 1923)
10 tháng 11: Gert Westphal, diễn viên Đức (sinh 1920)
17 tháng 11: Abba Eban, chính trị gia Israel, nhà ngoại giao (sinh 1915)
18 tháng 11: James Coburn, diễn viên Mỹ (sinh 1928)
24 tháng 11: John Rawls, triết gia Mỹ (sinh 1921)
25 tháng 11: Karel Reisz, đạo diễn phim Anh (sinh 1926)
29 tháng 11: Daniel Gélin, diễn viên Pháp (sinh 1921)
30 tháng 11: Hans Hartz, nhạc sĩ Đức, nhà soạn nhạc (sinh 1943)
Tháng 12
2 tháng 12: Ivan Illich, tác giả Áo, triết gia, nhà thần học (sinh 1926)
3 tháng 12: Klaus Löwitsch, diễn viên Đức (sinh 1936)
5 tháng 12: Bob Berg, nhạc sĩ nhạc jazz Mỹ (sinh 1951)
6 tháng 12: Gerhard Löwenthal, nhà báo Đức (sinh 1922)
9 tháng 12: Tố Hữu (sinh ngày 4 tháng 10 năm 1920),nhà thơ,chính trị gia nổi tiếng người Việt Nam
9 tháng 12: Mary Hansen, nữ nhạc sĩ Úc (sinh 1966)
10 tháng 12: Ian MacNaughton, đạo diễn phim Anh (sinh 1925)
21 tháng 12: José Hierro, nhà văn Tây Ban Nha
22 tháng 12: Joe Strummer, nhạc sĩ nhạc rock Anh (sinh 1952)
26 tháng 12: Herb Ritts, nhiếp ảnh gia Mỹ (sinh 1952)
27 tháng 12: George Roy Hill, đạo diễn phim Mỹ (sinh 1922)
Giải thưởng Nobel
Vật lý: Raymond Davis Jr., Masatoshi Koshiba, Riccardo Giacconi
Hóa học: Kurt Wüthrich, John B. Fenn, Koichi Tanaka
Y học: Sydney Brenner, H. Robert Horvitz, John E. Sulston
Văn học: Imre Kertész
Hòa bình: Jimmy Carter
Kinh tế học: Daniel Kahneman, Vernon L. Smith
Xem thêm
Tham khảo
|
26764
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BA%A3i%20qu%C3%A2n%20Qu%C3%A2n%20Gi%E1%BA%A3i%20ph%C3%B3ng%20Nh%C3%A2n%20d%C3%A2n%20Trung%20Qu%E1%BB%91c
|
Hải quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc
|
Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc hay Hải quân Trung Quốc () là lực lượng hải quân của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Quy mô tổ chức của Hải quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc là cấp Quân chủng trực thuộc Quân ủy Trung ương Trung Quốc thực hiện chức năng quản lý và xây dựng lực lượng hải quân trong thời bình và hiệp đồng phối hợp với các Chiến khu khi tác chiến trong thời chiến.
Trước thập niên 1980, Hải quân Trung Quốc đóng vai trò thứ yếu so với Lục quân. Từ thập niên 1980 đến nay, lực lượng hải quân được Trung Quốc được ưu tiên hiện đại hóa và phát triển nhanh chóng, đến nay bao gồm gần 600 tàu chiến, 35.000 lính Hải quân Biên phòng và 56.000 Thủy quân Lục chiến, cùng 56.000 quân thuộc Lực lượng Không quân Hải quân, với vài trăm chiến đấu cơ trên bờ và các trực thăng trên các chiến hạm. Xét về quy mô thì Hải quân Trung Quốc hiện đứng thứ 2 thế giới (sau Hải quân Hoa Kỳ).
Lịch sử
Năm 1949, Mao Trạch Đông tuyên bố "Để chống lại bọn đế quốc xâm lược, ta cần có một lực lượng hải quân hùng mạnh". Một năm sau, vào tháng 03 năm 1950, trường Sĩ quan Hải quân được thành lập tại Đại Liên với đa số giảng viên là người Nga. Tháng 09 cùng năm, Hải quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc chính thức thành lập, quân số khởi đầu chọn từ các lực lượng hải quân địa phương trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu tại Khương Yển (nay đặt tại Thái Châu, thuộc tỉnh Giang Tô). Lực lượng này thoạt đầu chỉ là một nhóm chiến hạm ô hợp tịch thu của Trung Hoa Quốc Dân đảng, và hai năm sau tăng cường thêm lực lượng không chiến. Giống như tổ chức quân đội chung, các chính ủy đều được đưa vào mỗi chiến hạm để nắm chắc các hạm trưởng.
Đến năm 1954, số cố vấn hải quân Liên Xô tăng lên đến 2.500 người – tỉ lệ một cố vấn Liên Xô cho 30 quân nhân hải quân Trung Quốc – và Liên Xô bắt đầu viện trợ các loại chiến hạm tối tân hơn. Với viện trợ của Liên Xô, năm 1954-1955, Hải quân Trung Quốc tổ chức lại thành ba hạm đội. Các chức vụ và cấp bậc sĩ quan hải quân cũng được thành lập từ đội ngũ sĩ quan lục quân. Ban đầu, việc chế tạo các chiến hạm nhờ vào sự giúp đỡ của Liên Xô, nhưng về sau, Trung Quốc tiến dần từ việc bắt chước chế tạo theo mẫu thiết kế các chiến hạm Liên Xô, đến có thể tự thiết kế và chế tạo chiến hạm các loại. Từng có một thời, quan hệ hai bên mật thiết đến độ có cả bàn tính dự định tổ chức một hạm đội chung cho cả hai lực lượng hải quân Xô-Trung.
Tuy cũng trải qua những biến động chính trị của thập niên 1950 và 1960, Hải quân Trung Quốc không bị ảnh hưởng nặng nề như Lục quân hoặc Không quân. Dưới thời lãnh đạo của Bộ trưởng Quốc phòng Lâm Bưu, Hải quân vẫn được đầu tư khá nhiều trong những năm nghèo đói sau Đại nhảy vọt. Trong Cách mạng Văn hóa, tuy một số chính ủy, tư lệnh đầu não bị truất quyền, và một số lực lượng hải quân được sử dụng để đàn áp cuộc bạo loạn tại Vũ Hán tháng 07 năm 1967, nhưng nói chung Hải quân Trung Quốc ít bị dính líu vào các biến động đang xảy ra trên toàn quốc vào thời điểm đó. Hải quân Trung Quốc vẫn tiếp tục công việc đóng thêm chiến hạm, huấn luyện thủy thủ và tu bổ các hạm đội. Tuy vậy, Hải quân Trung Quốc vẫn chủ yếu là một lực lượng bảo vệ bờ biển, hiếm khi triển khai lực lượng quá 100 dặm tính từ bờ biển.
Đến thập niên 1970, khi ngân sách quốc phòng dành cho hải quân lên đến 20% ngân sách quốc gia, thì Hải quân Trung Quốc phát triển vượt bực. Lực lượng tàu ngầm thông thường tăng vọt từ 35 đến 100 chiếc, các chiến hạm có khả năng bắn tên lửa tăng từ 20 lên đến 200 chiếc, và các chiến hạm loại lớn và các chiến hạm yểm trợ loại tuần dương cũng được chế tạo thêm. Hải quân Trung Quốc cũng đóng thêm tàu ngầm loại xung kích và loại chiến lược phóng tên lửa với động cơ chạy bằng năng lượng hạt nhân. Các tàu ngầm loại này đều có tầm hoạt động rất xa.
Đến thập niên 1980, dưới thời Tư lệnh Lưu Hoa Thanh, Hải quân Trung Quốc trở thành một lực lượng hải quân đáng kể trong khu vực, có khả năng tuần tiễu khá xa lãnh hải. Tuy nhiên, mức độ phát triển có phần chậm hơn thập niên trước đó. Các nỗ lực hiện đại hóa chú trọng nhiều hơn vào trình độ kỹ thuật và học vấn của thủy thủ. Đồng thời, sách lược hành quân biên phòng và cơ cấu lực lượng được chỉnh đốn và đặt trọng tâm vào các hoạt động tuần dương (blue-water operations) hơn tuần duyên (coastal defense), ngoài ra Hải quân Trung Quốc còn đẩy mạnh các chương trình huấn luyện hành quân hỗn hợp giữa các lực lượng tàu ngầm, chiến hạm, hải quân không chiến, và các lực lượng duyên phòng. Bằng chứng cho khả năng hoạt động tầm xa của Hải quân Trung Quốc đã tăng trưởng: (a) cuộc trục vớt một tên lửa liên lục địa (ICBM) năm 1980 do một hạm đội gồm 20 chiến hạm hành quân đến Tây Thái Bình Dương, (b) một số hành quân hải hành dài ngày trên biển Đông (Nam Hải) năm 1984 và 1985, (c) hai chiến hạm Trung Quốc có chuyến thăm giao hữu ba nước thuộc vùng Ấn Độ Dương năm 1985.
Năm 1979, Trung Quốc có hơn 140 tàu tên lửa, 53 tàu hộ tống, 12 khinh hạm, 11 tàu khu trục, 75 tàu ngầm và 15 tàu đổ bộ. Ngay cả khi đó, hầu hết các tàu vẫn ở mức lỗi thời, chỉ được trang bị các tên lửa và cảm biến đời cũ hơn khiến chúng không thể so sánh với các lực lượng hải quân lớn trên thế giới.
Đến thập niên 1980, dưới thời Tư lệnh Lưu Hoa Thanh, Hải quân Trung Quốc trở thành một lực lượng hải quân đáng kể trong khu vực, có khả năng tuần tiễu khá xa lãnh hải. Tuy nhiên, mức độ phát triển có phần chậm hơn thập niên trước đó. Các nỗ lực hiện đại hóa chú trọng nhiều hơn vào trình độ kỹ thuật và học vấn của thủy thủ. Đồng thời, sách lược hành quân biên phòng và cơ cấu lực lượng được chỉnh đốn và đặt trọng tâm vào các hoạt động tuần dương (blue-water operations) hơn tuần duyên (coastal defense), ngoài ra Hải quân Trung Quốc còn đẩy mạnh các chương trình huấn luyện hành quân hỗn hợp giữa các lực lượng tàu ngầm, chiến hạm, hải quân không chiến, và các lực lượng duyên phòng. Bằng chứng cho khả năng hoạt động tầm xa của Hải quân Trung Quốc đã tăng trưởng: (a) cuộc trục vớt một tên lửa liên lục địa (ICBM) năm 1980 do một hạm đội gồm 20 chiến hạm hành quân đến Tây Thái Bình Dương, (b) một số hành quân hải hành dài ngày trên biển Đông (Nam Hải) năm 1984 và 1985, (c) hai chiến hạm Trung Quốc thăm giao hữu ba nước thuộc vùng Ấn Độ Dương năm 1985.
Ngoài việc đẩy mạnh phát triển tầm hoạt động, Hải quân Trung Quốc cũng phát triển thêm về khả năng phóng tên lửa từ các chiến hạm và tàu ngầm. Năm 1982 Hải quân Trung Quốc bắn thử thành công một phi đạn bắn từ tàu ngầm. Hải quân Trung Quốc cũng chế tạo thành công một số tên lửa loại hạm-đối-hạm, hạm-đối-đất, đất-đối-hạm, và không-đối-hạm.
Hiện đại hóa
Kế hoạch và ưu tiên chiến lược
Trong vài năm gần đây, Hải quân Trung Quốc trở nên quan trọng vì có sự thay đổi trong tầm nhìn chiến lược của Trung Quốc. Các mối đe dọa chiến lược bao gồm giao tranh với Hoa Kỳ, hoặc tranh chấp với Nhật hay Đài Loan, hoặc giao tranh tại quần đảo Trường Sa. Trong sách lược hiện đại hóa hải quân nói chung, một trong những ưu tiên dài hạn là cải tổ và phát huy Hải quân Trung Quốc thành một Hải quân Viễn dương (远洋海军, blue-water navy).
Đầu những năm 1990, có nhiều nguồn tin cho rằng Hải quân Trung Quốc dự định chế tạo hoặc mua một hàng không mẫu hạm, nhưng ý tưởng này có vẻ không được ưu tiên so với những nhu cầu hiện đại hóa khác. Hầu hết các nhà nghiên cứu tin rằng nếu Trung Quốc không hiện đại hóa cả lực lượng hải quân, thì hàng không mẫu hạm không những có cũng vô dụng, mà còn tốn hao lây vào những chi phí khác của quân đội. Nhận định này có vẻ được sự đồng tình ủng hộ của các nhà lãnh đạo quân sự và chính trị. Năm 1998, Trung Quốc đã mua được hàng không mẫu hạm Varyag hạng Kuznetsov và kéo về cảng Đại Liên, đến năm 2012 họ đã hoàn tất việc tân trang và đưa nó vào hoạt động, chủ yếu dùng để huấn luyện phi công cất cánh và đáp trên biển.
Tháng 6 năm 2005, có nguồn tin trên mạng loan báo Hải quân Trung Quốc dự định sẽ chế tạo một hàng không mẫu hạm trị giá 30 tỉ nhân dân tệ (362 triệu US$), với trọng tải 78.000 tấn và do hãng đóng tàu Giang Nam đóng. Năm 2019, chiếc Hàng không mẫu hạm lớp 002 Sơn Đông với giãn nước tải 67.000 tấn được hạ thủy, đây là chiếc tàu sân bay đầu tiên do Trung Quốc tự đóng trong nước.
Thay đổi lớn trong thế kỷ 21
Hải quân Trung Quốc đã có bước nhảy vọt về chất lượng trong những năm 1990 khi họ quyết định mua loại khu trục hạm Sovremenny và mua tàu ngầm lớp Kilo của Nga. Các khu trục hạm Sovremenny được trang bị tên lửa chống chiến hạm loại SS-N-22, còn gọi là Tên lửa chống hạm vận tốc vượt âm 3M-80E. Theo các nhà nghiên cứu quốc phòng Tây phương, loại tên lửa này có khả năng tiêu diệt hàng không mẫu hạm, và nhiều chiến hạm trang bị loại tên lửa này đã được Trung Quốc tự đóng thêm.
Kỹ thuật đóng tàu của hải quân Trung Quốc ngày nay đã tiến rất xa qua sự giúp đỡ của Nga, và các khu trục hạm mới nhất của Trung Quốc sử dụng trang bị nội hóa có chất lượng không kém so với tiêu chuẩn phương Tây, với ra đa loại AEGIS và sườn tàu thiết kế kiểu chống ra-đa. Tiêu biểu là khu trục hạm lớp 055 được hạ thủy chiếc đầu tiên vào tháng 6/2017, nó có thể thực hiện phòng không tầm xa, tác chiến chống tàu mặt nước, tác chiến chống máy bay đối phương và cả tác chiến chống ngầm. Lớp Type 055 dài 180 mét, rộng 20 mét, là thiết kế phát triển từ lớp tàu khu trục tên lửa dẫn đường lớp Type 052D Lữ Dương III, nhưng giãn nước đạt tới gần 13.000 tấn. Với kích thước của nó, Bộ Quốc phòng Mỹ đã phân loại Type 055 là tàu tuần dương (CG) chứ không phải là tàu khu trục. Vũ khí chính của Type 055 bao gồm 112 hệ thống phóng thẳng đứng (VLS) có khả năng phóng các loại tên lửa đối không tầm xa, tên lửa chống hạm và tên lửa hành trình tấn công mặt đất, nó được xem là một trong những loại tàu chiến nổi có kích thước lớn và vũ trang mạnh nhất thế giới. Chỉ trong 4 năm (từ 2017 tới 2021), Trung Quốc đã hạ thủy 8 tàu Type 055.
Năm 2018, Hải quân Trung Quốc đã thực hiện các bước tiếp theo để mở rộng kế hoạch sản xuất hàng không mẫu hạm trong nước, đánh dấu sự phát triển nhanh chóng tham vọng hải quân nước xanh của Bắc Kinh. Năm 2020, Trung Quốc đã vận hành hai tàu sân bay với giãn nước mỗi chiếc khoảng 67.000 tấn: Chiếc Type 001 Liêu Ninh được đóng lại từ tàu lớp Kuznetsov được Trung Quốc mua từ Ukraine vào năm 1998; và chiếc tàu sân bay lớp 002 Sơn Đông là tàu sân bay đầu tiên được chế tạo trong nước, được chuyển giao cho Hạm đội Nam Hải vào năm 2019. Ngành đóng tàu của Trung Quốc đã chuẩn bị cho ra đời hàng không mẫu hạm tiếp theo, chiếc Type 003 với giãn nước khoảng 85.000 tấn và máy phóng điện từ, được cho là sẽ đi vào hoạt động năm 2023.
Trung Quốc có kế hoạch triển khai nhiều nhóm tác chiến tàu tàu sân bay (CSG), bao gồm tàu khu trục hạm tàng hình Type 055 mới, tàu khu trục phòng không Type 052D và một số tàu ngầm tấn công để hộ tống các tàu sân bay. Các tàu sân bay này dự kiến sẽ trang bị tiêm kích trên hạm Shenyang FC-31 mới, một máy bay chiến đấu tàng hình thế hệ thứ năm trên tàu sân bay. Trung Quốc được cho là đang có kế hoạch trang bị 6 tàu sân bay vào năm 2035. Một nguồn tin quân sự nói thêm rằng Trung Quốc có kế hoạch trang bị tổng cộng 10 tàu sân bay vào năm 2049.
Trong 11 năm (2008-2019), hải quân Trung Quốc đã đạt được tổng cộng gần 211 triệu giờ công lao động trong ngành đóng tàu và bảo dưỡng tàu, con số này tăng xấp xỉ 5 lần so với khoảng thời gian 11 năm trước đó. Riêng năm 2016, Hải quân Trung Quốc đã đưa 18 tàu chiến cỡ lớn vào hoạt động. Chất lượng tàu của Trung Quốc cũng đã được cải thiện: Theo ghi nhận của tổ chức RAND, hơn 70% hạm đội của Trung Quốc có thể được xếp vào loại hiện đại trong năm 2017, tăng so với mức dưới 50% trong năm 2010.
Hạm đội tàu ngầm của Hải quân Trung Quốc cũng có những bước tiến lớn. Các tàu ngầm lớp Kilo mua của Nga có khả năng hoạt động rất im lặng, và được trang bị hai loại vũ khí mới nhất: tên lửa chống chiến hạm loại 3M-54 Klub (biến thể xuất khẩu tầm bắn 220 km), và tên lửa thủy lôi loại VA-111 Shkval có tốc độ trên 320 km/giờ và tầm hoạt động 7,5 km. Các tàu ngầm loại mới của Hải quân Trung Quốc, kể cả loại Kilo, có thể được trang bị loại động cơ đẩy hoạt động không cần không khí, có nằm chờ rất lâu dưới biển để đột kích kẻ thù. Một số ước tính cho rằng năng lực tấn công tàu sân bay Mỹ của tàu ngầm Trung Quốc đã tăng khoảng hơn 20 lần từ năm 1996 đến năm 2017.
Năm 2020, Hải quân Trung Quốc đã trở thành lực lượng hải quân lớn nhất thế giới với 350 tàu chiến, so với 293 tàu của Hải quân Mỹ. Trong khi Hải quân Mỹ vẫn lớn hơn nhiều về tổng trọng tải tàu, lợi thế đó sẽ sớm bị san bằng do kế hoạch đóng tàu dày đặc của Trung Quốc. Một số chuyên gia nước ngoài đã dự báo đến năm 2035, hải quân Trung Quốc có thể sẽ sở hữu 430 tàu chiến hiện đại, bao gồm 270 tàu cỡ lớn (bao gồm 6 - 7 tàu sân bay) và 160 tàu cỡ nhỏ, chưa kể đến các loại tàu khác như tàu quét ngư lôi, tàu đổ bộ cỡ nhỏ và các tàu phụ trợ. Khi đó, hải quân Trung Quốc sẽ đạt đến quy mô lớn nhất thế giới, bất kể là đánh giá theo tiêu chí nào.
Hiện đại hóa vũ khí
Trong giai đoạn 1960 - 1980, vũ khí chống hạm của hải quân Trung Quốc chủ yếu được nhập khẩu hoặc sản xuất theo công nghệ mà Liên Xô chuyển giao. Tên lửa chống hạm chủ yếu của Trung Quốc thời kỳ này được chế tạo phỏng theo mẫu tên lửa P-15 Termit của Liên Xô, có tầm bắn 80 km và tốc độ cận âm.
Trong giai đoạn 1980 - 2000, tên lửa chống hạm chủ yếu của Trung Quốc được chế tạo phỏng theo mẫu tên lửa Exocet của Pháp, loại tên lửa này có tầm bắn khoảng 70 – 130 km (tùy theo phiên bản) và tốc độ cận âm. Năm 1997, Trung Quốc cũng nhập khẩu một số tên lửa Kh-31 vận tốc siêu âm của Nga để trang bị cho máy bay cũng như để nghiên cứu.
Từ thập niên 2000 trở đi, việc nghiên cứu chế tạo tên lửa chống hạm của Trung Quốc có bước tiến lớn về chất lượng, dần đạt mức hiện đại trên thế giới. Năm 2020, Trung Quốc có 3 loại tên lửa chống hạm chủ lực:
YJ-12 là tên lửa hành trình chống hạm vận tốc siêu âm có tầm bắn đạt tới 400 km, vận tốc Mach 3. YJ-12 giống như là 1 phiên bản phóng to của tên lửa Kh-31, nó là một mối đe dọa lớn đối với các tàu chiến hiện đại do tầm xa và tốc độ siêu âm.
YJ-18 là tên lửa hành trình chống hạm được phỏng theo nguyên mẫu 3M-54 Klub của Nga. Tên lửa đạt tốc độ Mach 0,8 ở giai đoạn bay hành trình đầu và giữa, sau đó phần đầu tên lửa tách ra và tăng tốc độ lên khoảng Mach 2,5-3 ở giai đoạn bay cuối gần 40 km. Giai đoạn bay siêu âm YJ-18 khiến đối phương còn rất ít thời gian để phản ứng với cuộc tấn công. Còn giai đoạn bay dưới âm giúp tiết kiệm nhiên liệu và tăng tầm tấn công. YJ-18 sử dụng hệ dẫn kết hợp quán tính, vệ tinh định vị Bắc Đẩu và đầu tự dẫn radar, mang phần chiến đấu kiểu nổ phá 300 kg hoặc kiểu chống radar/xung điện từ để phá hủy thiết bị điện tử trên tàu đối phương, có tầm bắn 220–540 km. Tín năng của YJ-18 đã gần đạt mức tương đương so với tên lửa 3M-54 Klub hiện đại của Nga.
DF-21 là tên lửa đạn đạo chống hạm phóng từ bệ phóng di động trên mặt đất, có tầm bắn trên 1.500 km, mang đầu đạn nặng khoảng 600 kg. Tên lửa được trang bị đầu dò radar chủ động nên có khả năng tấn công chính xác tàu sân bay đang di chuyển. Với tầm bắn trên 1.500 km của DF-21, Trung Quốc sẽ có khả năng ngăn chặn việc hàng không mẫu hạm của Mỹ tấn công vào lãnh thổ nước này hoặc vào eo biển Đài Loan. Phiên bản cải tiến mới nhất là DF-21D được trang bị thêm nhiều đầu đạn mồi để đánh lừa radar của tàu địch, ngoài ra, đầu đạn của DF-21D có thể lao xuống mục tiêu với tốc độ Mach 10, tương đương 12.000 km/giờ nên rất khó khăn cho việc đánh chặn. Theo truyền thông Mỹ, tới năm 2018, Trung Quốc đã trang bị ít nhất 10 lữ đoàn tên lửa Đông Phong-21 (mỗi lữ đoàn có 6 tiểu đoàn). 60 tiểu đoàn này có thể đồng thời phóng được 360 quả tên lửa đạn đạo DF-21, đủ để thực hiện cuộc tấn công đồng loạt đối với 3 đội tàu sân bay Mỹ (mỗi tàu sân bay sẽ bị tới 120 tên lửa nhắm vào, khiến các hệ thống phòng thủ của đội tàu sân bay Mỹ không kịp đánh chặn hết). Một giáo sư tại Học viện Hải quân Mỹ đã nhận định rằng với DF-21D, tàu sân bay Mỹ sẽ không còn vị thế độc tôn trên biển như đã từng có kể từ kết thúc Thế chiến II. Năm 2015, Trung Quốc tiếp tục phát triển mẫu DF-26 (Đông Phong-26). So với DF-21, DF-26 có tầm bắn lớn hơn nhiều, ước tính đạt tới 3.000 - 5.000 km. Với tầm bắn này, các bệ phóng ở miền đông Trung Quốc có thể tấn công tàu sân bay Mỹ ở tận căn cứ ở Guam. DF-26 cũng có thể mang đầu đạn nặng tới 1,2 - 1,8 tấn (gấp 2-3 lần so với DF-21D), đủ sức đánh chìm cả 1 tàu sân bay cỡ lớn chỉ với 1-2 quả trúng đích
Các hoạt động
Theo nguồn tin từ các chuyên gia quân sự Nga (được Interfax-ABN trích dẫn), Hải quân Trung Quốc đang có kế hoạch thành lập 2 hạm đội xuyên đại dương hùng mạnh trước năm 2050 với tên gọi: Kế hoạch Con rồng đỏ (Xích long). Hạm đội này có thể triển khai tác chiến ở bất kỳ khu vực nào trên Thái Bình Dương. Trung Quốc cũng có kế hoạch hiện đại hóa các "hạm đội nước vàng" (hạm đội ven bờ) của họ thành "hạm đội nước sâu" (hạm đội biển khơi) trước năm 2020 với 2 nhiệm vụ "Mạch đảo" nhiệm vụ kiểm soát đến các tuyến chiến lược:
Mạch đảo thứ nhất: phía Bắc đến Vladivostok (Nga), Hokkaido (bắc Nhật Bản), Nampo (thuộc Hàn Quốc), Ryuku (Trung Quốc gọi là Lưu Câu Kiều, quần đảo Điếu Ngư Đài (Trung Quốc đang tranh chấp với Nhật Bản), Quần đảo Trường Sa của Việt Nam, quần đảo Philippines; các vùng biển Hoàng hải, Đông Hải (tức biển Hoa Đông), Nam Hải (tức Biển Đông) đến eo biển Malacca (Singapore) và quần đảo Indonesia. Trọng điểm của giai đoạn "Mạch đảo thứ nhất" là Biển Đông (Trung Quốc gọi là biển Nam Trung Hoa)
Mạch đảo thứ hai: phía Bắc đến quần đảo Aleutians (Hoa Kỳ), qua các vùng đảo Kuril (quần đảo đang có sự tranh chấp Nga-Nhật), Mariana, Carolina (thuộc Mỹ) và New Guinea (Bắc Australia). Trọng điểm của giao đoạn "Mạch đảo thứ hai"" là khống chế Hawai và bờ Tây nước Mỹ.
Tháng 9 năm 2005, phát ngôn viên quân sự Bộ Quốc phòng Nhật thông báo một số chiến hạm Hải quân Trung Quốc gồm một tuần dương hạm trọng tải 23.000 tấn, một khu trục hạm hạng Sovremenny trọng tải 7.940 tấn, một hộ tống tên lửa trọng tải 6.000 tấn, hai hải phòng hạm hạng Giang Hồ I (江湖, Jianghu I-class) trọng tải 1.702 tấn đã có mặt tại khu dầu khí Chunxiao (người Nhật gọi Shirakaba). Đây là nơi từng xảy ra tranh chấp gay gắt giữa Trung Quốc và Nhật.
Từ ngày 16 đến ngày 23 tháng 11 năm 2007, Hải quân Trung Quốc tập trận tại khu vực Quần đảo Hoàng Sa. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam chính thức phản đối hoạt động này, do phía Trung Quốc đã không tôn trọng bộ Quy tắc ứng xử Biển Đông, và khu vực này thuộc lãnh hải của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Hoạt động trong biển Đông
Từ ngày 16 đến ngày 23 tháng 11 năm 2007, Hải quân Trung Quốc tập trận tại khu vực Quần đảo Hoàng Sa. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam chính thức phản đối hoạt động này, do phía Trung Quốc đã không tôn trọng bộ Quy tắc ứng xử Biển Đông, và khu vực này thuộc lãnh hải của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Hải quân Trung Quốc đã có những hành động mà phía Việt Nam cho là gây hấn như: bắt giữ các tàu cá của ngư dân, thậm chí bắn vào tàu đánh cá của ngư dân Việt Nam làm vỡ tàu, chết người trên vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam, đồng thời tịch thu toàn bộ phương tiện đánh bắt cá và sản phẩm đánh bắt của ngư dân Việt Nam rồi đưa ra tòa phạt vi cảnh, hoặc cho tàu cản trở hoạt động của Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam..
Lãnh đạo hiện nay
Tư lệnh: Đô đốc Đổng Quân
Chính ủy: Đô đốc Tần Sinh Tường
Tham mưu trưởng: Phó Đô đốc Trương Văn Đán
Lãnh đạo qua các thời kỳ
Tư lệnh
Tiêu Kính Quang(1/1950—1/1980)
Diệp Phi(1/1980—8/1982)
Lưu Hoa Thanh(8/1982—1/1988)
Trương Liên Trung(1/1988—11/1996)
Thạch Vân Sinh(11/1996—6/2003)
Trương Định Phát(6/2003—8/2006)
Ngô Thắng Lợi(8/2006—1/2017)
Thẩm Kim Long (1/2017—8/2021)
Chính ủy
Tô Chấn Hoa(2/1957—1/1967)
Lý Tác Bằng(5/1967—9/1971, Chính ủy đệ Nhất)
Vương Hoàng Khôn(5/1966—10/1977,Chính ủy đệ Nhị)
Tô Chấn Hoa(3/1973—2/1979,Chính ủy đệ Nhất)
Đỗ Nghĩa Đức(10/1977—1/1980,Chính ủy đệ Nhị)
Hiệp Phi(2/1979—1/1980)
Lý Diệu Văn(10/1980—4/1990)
Ngụy Kim Sơn(4/1990—12/1993)
Chu Khôn Nhân(12/1993—7/1995)
Dương Hoài Khánh(7/1995—6/2003)
Hồ Ngạn Lâm(6/2003—7/2008)
Lưu Hiểu Giang(7/2008—12/2014)
Miêu Hoa(12/2014—9/2017)
Tần Sinh Tường(9/2017—nay)
Các hạm đội
Lực lượng tác chiến của Hải quân Trung Quốc có ba hạm đội:
Hạm đội Bắc Hải
Bộ Tư lệnh Hạm đội đặt tại Thanh Đảo thuộc tỉnh Sơn Đông. Hạm đội này có khu vực trách nhiệm vùng vịnh Bột Hải và Hoàng Hải. Soái hạm của hạm đội nầy là khu trục hạm Cáp Nhĩ Tân, thuộc loại trang bị tên lửa có điều khiển (guided-missile destroyer - DDG).
Hạm đội Đông Hải
Bộ Tư lệnh Hạm đội đặt tại Ninh Ba, thuộc tỉnh Chiết Giang. Hạm đội nầy có khu vực trách nhiệm vùng Đông Hải. Soái hạm là tuần dương hạm J302 Sùng Minh Đảo.
Hạm đội Nam Hải
Bộ Tư lệnh Hạm đội đặt tại Trạm Giang thuộc tỉnh Quảng Đông. Hạm đội nầy có trách nhiệm kiểm soát vùng Nam Hải. Soái hạm là tuần dương hạm AOR/AK 953 Nam Xương. Hạm đội Nam Hải là lực lượng trực tiếp giao tranh với Hải quân Việt Nam trong những cuộc tranh chấp lãnh hải vào các thập niên 1970 và 1980.
Trang bị (năm 2020)
Tàu sân bay
1 Hàng không mẫu hạm Liêu Ninh
1 Hàng không mẫu hạm lớp 002 Sơn Đông
1 Hàng không mẫu hạm lớp 003 Phúc Kiến
Khu trục hạm (Destroyer)
4 Khu trục hạm 956/ 956EM Hạng Sovremenny; Trọng tải 7.940 tấn
1 Khu trục hạm 051B hạng Luhai (Lữ Hải); Trọng tải 6.100 tấn
2 Khu trục hạm 051C hạng Luzhou (Lữ châu):Trọng tải 7.100 tấn
2 Khu trục hạm 052B hạng Luyang (Lữ Dương): Trọng tải 6.500 tấn
6 Khu trục hạm 052C hạng Luyang II (Lữ Dương 2): Trọng tải 6.500 tấn
15 Khu trục hạm 052D hạng Luyang III (Lữ Dương 3): Trọng tải 7.500 tấn
5 Khu trục hạm 055 hạng Renhai: Trọng tải 13.000 tấn
Tổng cộng: 35 chiếc
Khinh hạm (Frigate)
2 tàu Loại 052 hạng Luhu (Lữ Hộ); Trọng tải: 4800 tấn
2 tàu Loại 054 Lớp Jiangkai I (Giang Khải I), Trọng tải: 4300 tấn
30 tàu Loại 054A Lớp Jiangkai II (Giang Khải II), Trọng tải: 4200 tấn
7 tàu Loại 053H3 Lớp Jiangwei II (Giang Vệ II), Trọng tải: 2400 tấn
7 tàu Loại 053H1/H1G Lớp Jianghu (Giang Hộ), Trọng tải: 2000 tấn
Tổng cộng: 48 chiếc
Tàu hộ vệ tên lửa (Corvette)
22 tàu Loại 056 Trọng tải: 1.500 tấn
40 tàu Loại 056A Trọng tải: 1.500 tấn
Tổng cộng: 62 chiếc
Tàu tên lửa cỡ nhỏ (Guided Missile Boats)
6 tàu Loại 037-II Lớp Houjian Trọng tải 520 tấn
9 tàu Loại 037IG Houxin (Hậu Tần) trọng tải 478 tấn
83 tàu Loại 022 Lớp Houbei (Hồ bắc) Trọng tải 220 tấn
tổng số: 98
Tàu ngầm
SSBN (Ballistic Missile Nuclear Submarine)
Loại 092 - Lớp Hạ Xia-class – 01 chiếc, trọng tải 8.000 tấn
Loại 094 - Lớp Tấn Jin-class – 06 chiếc, trọng tải 11.000 tấn
SSN (Nuclear Attack Submarine)
Loại 091 - Lớp Hán Han-class – 03 chiếc, trọng tải 5.500 tấn
Loại 093 - Lớp Thương Shang-class – 09 chiếc, trọng tải 7.000 tấn
SSK (Diesel-Electric Attack Submarine)
Loại 039 - Lớp Tống Song-class – 13 chiếc, gồm: 01 tàu loại 039 số hiệu 320 (dừng hoạt động năm 1998); 03 tàu loại 039G (314, 321 và 322); 10 tàu loại 039G1 (315, 316, 318, 323, 324, 325, 327,…).
Lớp Kilo – 12 chiếc, gồm: 02 tàu loại 877EKM (số hiệu: 364, 365); 02 tàu loại 636 (số hiệu: 366, 367); 08 tàu loại 636M – (số hiệu: 368, 369, 370, 371, 372, 373, 374, 375).
Loại 041 - Lớp Nguyên Yuan-class – 20 chiếc (số hiệu: 330,...).
Loại 031 -Lớp Golf -1 chiếc
Loại 033 - Lớp Romeo Romeo-class – 06 chiếc.
Loại 035G - Lớp Minh Ming-class – 12 chiếc.
SSG (Guided Missile Submarine) – phát triển từ loại 033 - 01 chiếc.
DSRV (Salvage Submarine) – 01 chiếc.
Trong nhiều tài liệu, tư liệu về Hải quân Trung Quốc trên phương tiện truyền thông, việc bố trí và số lượng các tàu ngầm của Hạm đội Đông Hải và Hạm đội Nam Hải hoàn toàn không thể hiện.
Tàu đổ bộ
LST
Loại 072 - Lớp Vũ Khang (Yukan) – 07 chiếc.
Loại 072-II - Lớp Vũ Đình (Yuting) – 11 chiếc.
Loại 072-III - Lớp Vũ Đình (Yuting) – 08 chiếc.
Lớp Sơn (Shan) LST-1 – 03 chiếc.
LSM
Loại 073-II - Lớp Vũ Đảo (Yudao) – 01 chiếc.
Loại 073-III - Lớp Vũ Đăng (Yudeng) – 01 chiếc.
APA (attack transport)
Lớp Hùng Sa (Qiongsha) – 04 chiếc.
Lớp Hùng Sa (Qiongsha AH) – 02 chiếc.
Loại 071 (LPD): 07 chiếc
Loại 075: đang đóng
Xem thêm
Varyag
Hải quân Đài Loan
Căn cứ tàu ngầm Hải Nam
Hạm đội Nam Hải
Tham khảo
Toàn cảnh cơ cấu tổ chức Lực lượng vũ trang Trung Quốc (File .pdf - 64 trang).
Liên kết ngoài
Video:Hải quân Trung Quốc tập trận 2005
PLAN – Chinese Defence Today
Chinese Military Aviation
PLA Daily – Jiefangjun Bao
People's Liberation Army Navy
Chú thích
Hải quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc
Đơn vị quân sự thành lập năm 1949
Khởi đầu năm 1949 ở Trung Quốc
|
26766
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BA%ADp%20ni%C3%AAn%202000
|
Thập niên 2000
|
Thập niên 2000 hay thập kỷ 2000 chỉ đến những năm từ 2000 đến 2009, kể cả hai năm đó. Không chính thức, nó cũng có thể bao gồm vài năm vào cuối thập niên trước hay vào đầu thập niên sau. Đây là thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21.
Sự kiện
Năm 2001
11 tháng 9: Sự kiện 11 tháng 9 tại Hoa Kỳ do Al-Qaeda thực hiện.
Tham khảo
Thế kỷ 20
|
26774
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Harry%20Potter%20v%C3%A0%20Ho%C3%A0ng%20t%E1%BB%AD%20lai
|
Harry Potter và Hoàng tử lai
|
Harry Potter và Hoàng tử lai (tiếng Anh: Harry Potter and the Half-Blood Prince) là quyển sách thứ sáu trong bộ sách giả tưởng nổi tiếng Harry Potter của tác giả J.K. Rowling. Cũng như các quyển trước, nó cũng trở thành một trong những best-seller (sách bán chạy nhất) của năm nó xuất bản. Quyển sách này được tung ra bản tiếng Anh cùng lúc trên toàn thế giới vào ngày 16 tháng 7 năm 2005, đặc biệt là ở Anh, Mỹ, Canada và Úc. Chỉ trong 24 giờ đầu tiên, nó đã bán được hơn 6,9 triệu quyển khắp nước Mỹ.
Cuộc phiêu lưu mới này gồm một loạt các khám phá về quá khứ của Chúa tể Voldemort, kèm theo những miêu tả sinh động về tuổi mới lớn với những xúc cảm ngây thơ, vui nhộn và nỗi căm hận đắng cay của Harry đối với "Hoàng tử Lai".
Tại Việt Nam, quyển truyện Harry Potter này được Nhà xuất bản Trẻ xuất bản theo bản dịch của dịch giả Lý Lan vào ngày 24 tháng 9 năm 2005. Cũng như quyển năm, bản dịch này được in trọn bộ thay vì chia ra thành nhiều tập như bản dịch các quyển 1-4.
Nội dung
Một thời đại tăm tối đã cận kề. Voldemort đã trở lại, và các Tử thần Thực tử ngang nhiên lộng hành. Chúng tàn phá Hẻm Xéo, sát hại rất nhiều người, thậm chí tàn phá cả thế giới Muggle. Một ngày nọ, cụ Dumbledore bất ngờ xuất hiện tại nhà Dursley và đưa Harry đến một ngôi làng, nơi họ gặp một vị giáo sư đã về hưu là Horace Slughorn, cựu giáo viên môn Độc dược và cũng là cựu Chủ nhiệm Nhà Slytherin. Ông hiện tại đang bị đám Tử Thần Thực Tử truy nã và phải thay đổi nơi ở liên tục. Mục đích của cụ Dumbledore là muốn Slughorn trở lại Hogwarts dạy học và canh chừng Harry, và Slughorn đã đồng ý. Cụ sau đó đưa Harry đến nhà Weasley. Cả Hermione và Fleur Delacour, giờ là bạn gái của Bill, con trai cả nhà Weasley, cũng đang ở đây. Ron cho biết cha mẹ cậu không muốn cậu và Ginny đến Hogwarts, và cha mẹ của Hermione cũng vậy. Harry trấn an cả hai rằng Hogwarts là nơi an toàn nhất, vì có cụ Dumbledore ở đó.
Trong một ngày mưa gió, Bellatrix Lestrange cùng chị gái là Narcissa Malfoy, mẹ của Draco đến nhà của Snape. Narcissa rất lo lắng vì mệnh lệnh mà Chúa tể Hắc ám giao cho Draco. Snape hứa với bà ta sẽ bảo vệ Draco và giúp nó hoàn thành nhiệm vụ. Bellatrix bắt cả hai phải lập lời thề Bất Khả Bội – lời thề mà kẻ làm trái sẽ chết ngay lập tức.
Hôm sau, Harry, Ron và Hermione đến Hẻm Xéo giờ đã thành đống đổ nát, ngoại trừ tiệm giỡn Wỉ Woái mà Fred và George mới lập ra. Bỗng cả bọn thấy Draco cùng mẹ của nó đang tham gia nghi lễ gì đó cùng với các Tử thần Thực tử tại tiệm Borgins & Burkes. Trong chuyến tàu đến Hogwarts, Harry dùng Áo choàng Tàng hình, trốn lên chỗ để hành lý của Draco để điều tra xem nó đang làm gì. Nhưng cậu lại bị Draco phát hiện. Nó dùng bùa Đông Cứng với cậu và dồn toàn bộ sự căm hận vào cú đá khiến cậu gãy mũi, vì từ chỗ ganh ghét, Draco chuyển sang căm hận Harry vì cậu là lý do khiến cha nó bị tống vào Azkaban. Harry nằm bất động với cái mũi bị gãy, rất may là Luna Lovegood đã ở đó để cứu cậu.
Trong buổi tiệc đầu năm, cụ Dumbledore thông báo sự thay đổi trong bộ máy giáo viên. Giáo sư Slughorn trở lại với môn Độc dược, và Snape phụ trách môn Phòng chống Nghệ thuật Hắc ám. Cụ cũng thông báo về việc an ninh của trường sẽ được thắt chặt, và dặn đám học sinh phải biết giữ mình, vì một học sinh tài giỏi, chăm chỉ như Tom Riddle cũng có thể trở thành Chúa tể Hắc ám.
Dù đối mặt với tương lai đen tối, năm học vẫn phải tiếp diễn như bình thường. Harry và Ron được đặc cách học lớp Độc dược của thầy Slughorn, dù điểm số môn này của cả hai trong kỳ thi năm ngoái không đủ để được tiếp tục học. Cả hai không chuẩn bị sách, và phải dùng những cuốn sách cũ trong tủ sách ở lớp. Thầy Slughorn yêu cầu cả lớp điều chế dung dịch Cái Chết Đang Sống, với phần thưởng là một lọ Phúc Lạc Dược. Harry vớ được cuốn sách với rất nhiều ghi chép chằng chịt trong đó, ghi lại cách điều chế khác hoàn toàn chỉ dẫn trong sách. Cậu làm theo những chỉ dẫn đó và đã điều chế thành công. Harry sau đó được gọi lên phòng Hiệu trưởng. Cụ Dumbledore gửi lời khen của thầy Slughorn đến cậu. Cụ cũng cho cậu biết lý do thật sự việc cụ muốn gặp riêng cậu là cho cậu xem ký ức về lần đầu tiên cụ gặp Tom Riddle, khi đó mới 10 tuổi. Chính cụ không ngờ rằng việc cho Tom đi học tại Hogwarts lại gián tiếp tạo ra một Chúa tể Hắc ám. Cụ cũng tiết lộ lý do thật sự của việc mời thầy Slughorn trở lại là do ông đang giữ một ký ức quan trọng về Tom Riddle, và yêu cầu Harry phải lấy được nó bằng mọi giá để có thể đánh bại Voldemort.
Về phần cuốn sách kỳ lạ kia, Harry vì cảm thấy hứng thú nên đọc ngấu nghiến mọi lúc mọi nơi khiến bạn bè của cậu khó chịu. Cậu cũng không thể giấu cuốn sách lâu hơn được nữa. Hóa ra nó từng thuộc về một học sinh có bí danh “Hoàng Tử Lai”. Ron hiện tại cũng được chỉ định trở thành Huynh trưởng của Nhà Gryffindor, và là thủ môn của đội Quidditch, còn có một fan cứng là Lavender Brown. Cô bé liên tục hò hét tên của Ron trong trận đấu khiến Hermione rất ngứa mắt và khó chịu.
Hôm sau, Harry, Ron và Hermione đến quán Ba Cây Chổi, và được thầy Slughorn mới đến dự bữa tiệc Giáng Sinh. Cả bọn thấy Ginny đang hẹn hò với Dean Thomas, khiến Ron điên tiết và Harry cảm thấy ghen tuông, vì cậu cũng có tình cảm với Ginny sau khi chia tay Cho Chang. Khi ra về, cả ba thấy một cảnh tượng kinh hoàng: một cô bé bị vong nhập và ngất xỉu, bên cạnh là một chiếc dây chuyền đã bị yểm bùa. Cả bọn cũng thấy Draco lảng vảng quanh quán nên đã nghi ngờ rằng nó là thủ phạm. Tối hôm đó, cả ba đến dự bữa tiệc Giáng Sinh của thầy Slughorn. Sau bữa ăn, Harry gặp riêng Slughorn để cố gắng moi móc thông tin về Tom Riddle năm xưa, nhưng bị ông đuổi đi ngay lập tức. Ron hôm sau đã trở thành người hùng của đội Quidditch, và chấp nhận lời tỏ tình của Lavender, để lại Hermione ghen tuông và tổn thương sâu sắc.
Harry trở về Trang trại Hang sóc trong kỳ nghỉ cùng gia đình Weasley, Hermione, thầy Lupin và Nymphadora Tonks. Nhưng một đêm, Bellatrix cùng đám Tử Thần Thực Tử xuất hiện và dụ Harry vào đầm lầy. Harry lập tức đuổi theo, khiến mọi người cũng phải bám theo cậu. Nhưng khi quay trở lại, mọi người thấy căn nhà đã bị thiêu rụi, khiến Harry rất hối hận.
Đến ngày trở lại trường, cụ Dumble lại gọi Harry lên phòng Hiệu trưởng để cho xem nốt những ký ức về Tom Riddle. Tom lúc này là một trong những học sinh xuất sắc nhất Hogwarts, và cũng được thầy Slughorn ưu ái. Sau bữa tiệc Giáng Sinh, Tom hỏi thầy Slughorn về Trường Sinh Linh Giá và cách tạo ra chúng, nhưng bị Slughorn mắng và đuổi đi. Cụ Dumbledore khẳng định những ký ức này đã bị chỉnh sửa, và Slughorn có lẽ đã quá nhục nhã về điều đó. Cụ yêu cầu Harry phải lấy được những ký ức thật sự.
Đến ngày Valentine, Ron bị trúng tình dược của Ronmilda, và Harry phải nhờ thầy Slughorn chữa trị. Nhưng khi uống một ngụm rượu của thầy, Ron liền lên cơn co giật. Hóa ra đã có kẻ đầu độc chai rượu mà Slughorn định tặng cho cụ Dumbledore. Sau khi hồi phục, Ron thì thầm tên Hermione, khiến Lavender rất tức giận và bỏ đi. Harry nghi ngờ Draco đã đầu độc chai rượu nên đã bám theo, và dồn được nó vào nhà vệ sinh. Cả hai đánh nhau, và Harry sử dụng câu thần chú “Sectumsempra” mà cậu học được từ cuốn sách của Hoàng Tử Lai. Nhưng nó lại khiến Draco bị thương nặng và mất máu rất nhiều. Rất may, Snape can thiệp kịp thời và cứu sống Draco. Sau chuyện đó, Ginny khuyên Harry không nên giữ cuốn sách nữa, và cất nó trong Phòng Yêu Cầu. Tại đây, hai người phát hiện ra một chiếc Tủ Biến Mất, nhưng không quan tâm đến nó cho lắm. Ginny cũng bày tỏ tình cảm với Harry, do cô bé đã chia tay Dean Thomas từ lâu. Cô bé tiến đến hôn Harry, trong khi lén giấu cuốn sách đi.
Hôm sau, Harry quyết định dùng Phúc Lạc Dược để có thể lấy thông tin từ Slughorn. Cả hai gặp nhau tại căn lều của Hagrid khi ông đang làm lễ tưởng niệm cho cái chết của Aaragog. Tại căn lều, Harry cuối cùng cũng thuyết phục thành công thầy Slughorn đưa cho cậu những ký ức thật sự. Ký ức cho thấy Slughorn đã giải thích tất cả cho Tom Riddle về Trường Sinh Linh Giá – những đồ vật mà người ta có thể cất giữ linh hồn của mình để giữ cho bản thân được sống sót, kể cả thân xác có bị phá hủy, nói cách khác là trở nên bất tử. Harry và cụ Dumbledore đều rất sốc khi biết Tom đã xé nhỏ linh hồn của hắn để tạo thành không chỉ một, mà là rất nhiều Trường Sinh Linh Giá. Cụ Dumbledore cho biết cuốn nhật ký của Tom và cả chiếc nhẫn gia truyền của mẹ hắn đều là những Trường Sinh Linh Giá. Cụ sau đó đưa Harry đến một hòn đảo hoang vắng, cũng là nơi cất giữ Trường Sinh Linh Giá, và yêu cầu Harry phải làm theo bất cứ điều gì cụ bảo. Trên đảo có một hang động dẫn đến một cái hồ, và ở giữa hồ là một chậu độc dược. Cụ Dumbledore nói rằng bên dưới cái chậu này là một Trường Sinh Linh Giá, và Harry sẽ phải ép cụ uống hết chỗ độc dược trong chậu để Trường Sinh Linh Giá hiện ra. Sau khi cụ uống hết chỗ độc dược và yếu dần đi, Harry tìm thấy Trường Sinh Linh Giá là chiếc mề đay của Salazar Slytherin. Ngay lúc đó, một đám Âm binh từ dưới hồ ngoi lên tấn công cậu. Nhưng cụ Dumbledore đã kịp bình phục, đuổi hết bọn chúng và cùng Harry quay trở lại Hogwarts.
Cả hai đáp xuống tháp Thiên Văn trong trường. Cụ Dumbledore lập tức bảo Harry đi tìm Snape, nhưng lại nghe thấy tiếng bước chân nên bảo cậu trốn xuống tầng dưới. Tiếng bước chân đó là Draco. Nó tiến đến, vung đũa lên định giết thầy, nhưng lại ngập ngừng, hét lên trong đau khổ rằng nếu nó không giết cụ, Chúa tể Hắc ám sẽ giết cả nhà nó. Hóa ra đây chính là nhiệm vụ mà Voldemort giao cho Draco, như một sự trừng phạt cho sự thất bại của Lucius. Draco thường xuyên trốn học để vào Phòng Yêu Cầu, sửa chiếc Tủ Biến Mất để đưa một đám Tử thần Thực tử vào trường thông qua một chiếc tủ khác tại Borgins & Burkes. Chính nó cũng đưa chiếc vòng cổ bị nguyền cho Katie Bell, khiến cô bé rơi vào trạng thái bị vong nhập, và đầu độc chai rượu của thầy Slughorn, khiến Ron suýt mất mạng. Snape cũng xuất hiện bên cạnh Draco. Cụ Dumbledore nói “Làm ơn” và Snape lập tức niệm lời nguyền Chết Chóc về phía cụ, khiến cụ rơi khỏi tòa tháp và mất mạng.
Snape, Draco cùng các Tử thần Thực tử rời trường. Harry đuổi theo, dùng câu thần chú “Sectumsempra” nhưng bị Snape phản ngược lại. Ông ta nói rằng mình chính là Hoàng Tử Lai, cũng là người tạo ra câu thần chú mà cậu vừa dùng.
Harry trở về trường và thấy mọi người đang thương tiếc cho cụ Dumbledore. Giáo sư McGonagall đến an ủi Harry, yêu cầu cậu mở lòng với bà nhưng Harry từ chối. Gặp lại những người bạn, Harry cho biết Trường Sinh Linh Giá mà cậu lấy được là đồ giả. Chiếc mề đay thật đã bị một người có bí danh R.A.B lấy đi, và người đó cũng đang tìm cách tiêu diệt Voldemort. Harry cũng bảo cậu sẽ không học năm cuối mà sẽ đi tìm và phá hủy Trường Sinh Linh Giá. Ron và Hermione nói rằng họ sẽ luôn ở bên cậu.
Các bản in
Hãng Bloomsbury (Anh, Canada, Úc):
ISBN 0-7475-8108-8 Bìa cứng
ISBN 0-7475-8110-X Bìa cứng (Bản dành cho người lớn)
Hãng Raincoast (Canada):
ISBN 1-55192-756-X Bìa cứng
ISBN 1-55192-760-8 Bìa cứng (Bản dành cho người lớn)
ISBN 0-7475-8152-5 Bìa cứng (Bản in chữ lớn)
Hãng Scholastic (Mỹ):
ISBN 0-439-78454-9 Bìa cứng
ISBN 0-439-79132-4 Bản đẹp, đắt tiền
Tham khảo
LA Times (Thời báo Los Angeles)
CBC (Công ty Truyền hình Quốc gia Canada)
BBC (Công ty Truyền hình Quốc gia Anh)
Veritaserum
Dumbledore chưa chết
6
Tiểu thuyết Anh
Tiểu thuyết kỳ ảo
Phim lấy bối cảnh ở Luân Đôn
Tiểu thuyết Vương quốc Liên hiệp Anh được chuyển thể thành phim
Tác phẩm giành giải BILBY
Harry Potter
|
26775
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BB%99c%20nh%C4%A9
|
Mộc nhĩ
|
Mộc nhĩ là tên chung để chỉ một trong ba loài sau, do chúng đều có hình dạng giống như tai và mọc trên thân cây:
Mộc nhĩ đen: Hai loài có họ hàng gần nhưng khác nhau của các loại nấm ăn được thuộc bộ Auriculariales, được sử dụng chủ yếu trong ẩm thực châu Á, đặc biệt là các nước phương Đông:
Auricularia auricula-judae: tức nấm mèo. Tên gọi mộc nhĩ đen để chỉ loài này có lẽ chính xác hơn để chỉ loài dưới.
Auricularia polytricha: tức mao mộc nhĩ hay vân nhĩ.
Mộc nhĩ trắng: Một loài nấm ăn được, có màu trắng, thuộc bộ Tremellales là Tremella fuciformis
|
26776
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mao%20m%E1%BB%99c%20nh%C4%A9
|
Mao mộc nhĩ
|
Mao mộc nhĩ (毛木耳, pinyin: máo mù ěr) hay vân nhĩ (云耳, pinyin: yún ěr), có nơi còn gọi chệch thành mâu mộc nhĩ (danh pháp khoa học: Auricularia polytricha) hay đơn giản chỉ là mộc nhĩ (木耳, pinyin: mù ěr) là một loài nấm. Nó có màu nâu xám sẫm, hình tai người và thường được sử dụng trong ẩm thực châu Á. Trong tiếng Nhật nó được gọi là kikurage. Nó cũng được gọi là mộc nhĩ đen, do khi phơi khô cũng có màu đen.
Loài mộc nhĩ này mọc trên các thân cây gỗ mục. Màu của nó nâu sẫm nhưng trong mờ. Nó thường được bán ở dạng đã sấy hay phơi khô và cần ngâm nước trước khi dùng. Nó gần như không có mùi vị, nhưng được đánh giá cao nhờ kết cấu tựa cao su, tương đối cứng và giòn cũng như một số tính chất y học có lợi cho sức khỏe, bao gồm cả tính chất chống đông tụ mới được phát hiện gần đây.
Auricularia auricula-judae, một loài có họ hàng gần, cũng được sử dụng trong ẩm thực châu Á.
Mộc nhĩ trắng, một loài nấm ăn được khác và có màu trắng, là một loài riêng có danh pháp khoa học Tremella fuciformis thuộc bộ Tremellales.
Chú thích
Xem thêm
Nấm mèo
Mộc nhĩ trắng
Mộc nhĩ
Tham khảo
Bằng tiếng Việt:
Mộc nhĩ đen
Bằng tiếng Anh:
Mộc nhĩ đen (Vân nhĩ)
Ẩm thực Trung Quốc - Vân nhĩ và các loài mộc nhĩ khác
Nấm ăn
Nấm đảm
P
P
Nấm trồng
|
26777
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/N%E1%BA%A5m%20m%C3%A8o
|
Nấm mèo
|
Nấm mèo hay mộc nhĩ đen (danh pháp khoa học: Auricularia auricula-judae) (Tiếng Anh: Wood-Ear Mushroom hoặc Tree ear)được biết đến do hình dạng tựa tai người, có màu nâu sẫm đến đen, mọc trên các thân cây mục. Nó có kết cấu tựa cao su, tương đối cứng và giòn.
Loài này được sử dụng trong ẩm thực châu Á. Tại Trung Quốc, nó gọi là 木耳 (pinyin: mù ěr -mộc nhĩ) hay 黑木耳 (pinyin: hēi mù ěr-hắc mộc nhĩ), và trong tiếng Nhật là kikurage. Auricularia polytricha (vân nhĩ), một loài có quan hệ họ hàng gần, cũng được sử dụng trong ẩm thực châu Á.
Mộc nhĩ trắng, một loài nấm ăn được khác, có màu trắng và hình dạng tương tự, là một loài khác với danh pháp khoa học Tremella fuciformis.
Thư viện ảnh
Chú thích
Tham khảo
Buczacki, Stefan (1982). Collins Gem Guide: Mushrooms and Toadstools.
Xem thêm
Mao mộc nhĩ
Mộc nhĩ trắng
Mộc nhĩ
Liên kết ngoài
Bằng tiếng Việt:
Mộc nhĩ đen
Kỹ thuật nuôi trồng nấm mèo
Bằng tiếng Anh:
http://www.hort.purdue.edu/newcrop/proceedings1996/V3-464.html#Auricularia%20spp.
Nấm ăn
Nấm châu Á
Nấm châu Âu
Nấm Úc
A
A
Nấm Bắc Mỹ
Nấm Nam Mỹ
Nấm trồng
Nấm châu Phi
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.