id
stringlengths
1
8
url
stringlengths
31
389
title
stringlengths
1
250
text
stringlengths
5
274k
25579
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%A1m%20m%C3%A2y%20Oort
Đám mây Oort
Đám mây Oort (), đôi khi được gọi là đám mây Öpik – Oort, là một đám mây giả thuyết chủ yếu bao gồm các vi thể hành tinh băng giá được cho là bao quanh Mặt Trời ở khoảng cách từ 2.000 đến 200.000 au (0,03 đến 3,2 năm ánh sáng) và được nhà thiên văn học người Hà Lan Jan Oort mô tả lần đầu tiên vào năm 1950. Nó được chia thành hai vùng: đám mây Oort bên trong có hình đĩa (hay đám mây Hills) và đám mây Oort bên ngoài hình cầu. Cả hai khu vực đều nằm ngoài nhật quyển và nằm trong không gian giữa các vì sao. Hai hồ chứa thiên thể bên ngoài Sao Hải Vương khác là Vành đai Kuiper và đĩa phân tán có khoảng cách so với Mặt Trời lớn chưa đầy một phần nghìn so với đám mây Oort. Rìa bên ngoài của đám mây Oort xác định ranh giới vũ trụ của Hệ Mặt Trời và phạm vi của quyển Hill của Mặt Trời. Đám mây Oort bên ngoài chỉ liên kết lỏng lẻo với Hệ Mặt Trời, và do đó dễ dàng bị ảnh hưởng bởi lực hấp dẫn của cả những ngôi sao đi qua và của chính Dải Ngân Hà. Những lực này đôi khi đánh bật các sao chổi ra khỏi quỹ đạo của chúng trong đám mây và đưa chúng về phía bên trong Hệ Mặt Trời. Dựa trên quỹ đạo của chúng, hầu hết các sao chổi chu kỳ ngắn có thể đến từ đĩa phân tán, nhưng một số khác vẫn có thể có nguồn gốc từ đám mây Oort. Các nhà thiên văn phỏng đoán rằng vật chất tạo nên đám mây Oort được hình thành gần Mặt Trời hơn và bị phân tán ra xa vào không gian do tác động hấp dẫn của các hành tinh khổng lồ trong quá trình tiến hóa của Hệ Mặt Trời. Mặc dù chưa thực hiện quan sát trực tiếp nào được xác nhận về đám mây Oort, nhưng nó có thể là nguồn gốc của tất cả các sao chổi thời kỳ dài và sao chổi loại Halley đi vào bên trong Hệ Mặt Trời, và cũng của nhiều sao chổi thuộc họ Sao Mộc và centaur. Giả thuyết Có hai loại sao chổi chính: sao chổi chu kỳ ngắn (còn gọi là sao chổi hoàng đạo) và sao chổi chu kỳ dài (còn gọi là sao chổi gần đẳng hướng). Sao chổi hoàng đạo có quỹ đạo tương đối nhỏ, dưới 10 au, và đi theo mặt phẳng hoàng đạo, cùng một mặt phẳng mà các hành tinh nằm trên. Tất cả các sao chổi chu kỳ dài đều có quỹ đạo rất lớn, xấp xỉ hàng nghìn au, và xuất hiện từ mọi hướng trên bầu trời. Vào năm 1907, AO Leuschner cho rằng nhiều sao chổi được cho là có quỹ đạo parabol và do đó chỉ ghé qua Hệ Mặt Trời một lần thì thực ra là có quỹ đạo hình elip và sẽ quay trở lại sau một thời gian rất dài. Vào năm 1932, nhà thiên văn học người Estonia Ernst Öpik đã công nhận rằng các sao chổi chu kỳ dài có nguồn gốc từ một đám mây quay quanh quỹ đạo ở rìa ngoài cùng của Hệ Mặt Trời. Nhà thiên văn học người Hà Lan Jan Oort đã hồi sinh lại ý tưởng này một cách độc lập vào năm 1950 và coi nó là một cách để giải quyết một nghịch lý: Trong quá trình tồn tại của Hệ Mặt Trời, quỹ đạo của các sao chổi không ổn định, và cuối cùng động lực học quyết định rằng một sao chổi phải va chạm với Mặt Trời hoặc một hành tinh hoặc bị đẩy ra khỏi Hệ Mặt Trời do nhiễu loạn hành tinh. Hơn nữa, do có thành phần dễ bay hơi nên mỗi khi chúng tiếp cận Mặt Trời thì bức xạ Mặt Trời dần dần sẽ làm sôi các chất bay hơi cho đến khi sao chổi bị tách ra hoặc phát triển một lớp vỏ cách nhiệt ngăn chặn quá trình bốc hơi ra ngoài. Oort lý luận rằng, chính vì vậy mà một sao chổi không thể hình thành khi đang ở trong quỹ đạo hiện tại của nó mà phải được giữ trong một hồ chứa phía ngoài trong hầu hết toàn bộ thời gian tồn tại của nó. Ông lưu ý rằng sao chổi chu kỳ dài có viễn điểm quỹ đạo (khoảng cách xa nhất của chúng so với Mặt Trời) khoảng 20.000 au có số lượng lớn nhất trong số các sao chổi chu kỳ dài, điều này gợi ra rằng có tồn tại một hồ chứa ở khoảng cách đó với một sự phân bố hình cầu, đẳng hướng. Những sao chổi tương đối hiếm có quỹ đạo khoảng 10.000 au có lẽ đã đi qua một hoặc nhiều quỹ đạo qua Hệ Mặt Trời và quỹ đạo của chúng bị lực hấp dẫn của các hành tinh hút vào trong. Cấu trúc và thành phần Đám mây Oort được cho là chiếm một không gian rộng lớn từ khoảng cho tới xa nhất là tính từ Mặt Trời. Một số ước tính đặt ranh giới bên ngoài vào khoảng từ . Nó có thể được chia thành đám mây Oort hình cầu bên ngoài rộng khoảng , và đám mây Oort bên trong hình xuyến có kích thước . Đám mây bên ngoài chỉ liên kết yếu với Mặt Trời và cung cấp các sao chổi chu kỳ dài (và có thể là loại Halley) vào bên trong quỹ đạo của Sao Hải Vương. Đám mây Oort bên trong còn được gọi là đám mây Hills, được đặt theo tên của Jack G. Hills, người đã đề xuất sự tồn tại của nó vào năm 1981. Các mô hình dự đoán rằng đám mây bên trong phải có nhiều hạt nhân sao chổi gấp hàng chục hoặc hàng trăm lần quầng bên ngoài; nó được coi là một nguồn khả thi các sao chổi mới nhằm tiếp tế cho đám mây bên ngoài mỏng manh khi số lượng của đám mây này đang dần cạn kiệt. Đám mây Hills giải thích sự tồn tại tiếp tục của đám mây Oort sau hàng tỷ năm. Đám mây Oort bên ngoài có thể có hàng nghìn tỷ vật thể lớn hơn , và hàng tỷ với cấp sao tuyệt đối sáng hơn 11 (tương ứng với đường kính khoảng ), với các vật thể lân cận cách nhau hàng chục triệu km. Không rõ tổng khối lượng của nó, nhưng giả sử rằng Sao chổi Halley là một nguyên mẫu thích hợp cho các sao chổi bên trong đám mây Oort bên ngoài thì khối lượng tổng hợp là , nói cách khác là gấp năm lần Trái đất. Trước đây, nó được cho là có khối lượng lớn hơn (tới 380 lần khối lượng Trái đất) nhưng do kiến thức về sự phân bố kích thước của các sao chổi chu kỳ dài được cải thiện dẫn đến một con số ước tính thấp hơn. Chưa có bất kỳ công bố nào về ước tính khối lượng của đám mây Oort bên trong. Nếu phân tích của sao chổi là đại diện cho toàn bộ thì phần lớn các vật thể trong đám mây Oort có thành phần là các chất dễ bay hơi chẳng hạn như nước, mêtan, etan, cacbon monoxit và axit xianhidric. Tuy nhiên, việc phát hiện ra vật thể - một vật thể có bề ngoài phù hợp với tiểu hành tinh loại D trên quỹ đạo điển hình của một sao chổi chu kỳ dài - đã thúc đẩy các nghiên cứu lý thuyết cho rằng quần thể đám mây Oort bao gồm khoảng một đến hai phần trăm tiểu hành tinh. Phân tích tỷ lệ đồng vị cacbon và nitơ trong cả sao chổi chu kỳ dài và sao chổi họ Sao Mộc cho thấy có ít sự khác biệt giữa hai loại, mặc dù vùng xuất xứ của chúng được cho là rất tách biệt. Điều này cho thấy rằng cả hai đều có nguồn gốc từ đám mây tiền cực ban đầu, và kết luận này cũng được hỗ trợ bởi các nghiên cứu về kích thước hạt trong sao chổi đám mây Oort và bởi nghiên cứu tác động gần đây của sao chổi Tempel 1 thuộc họ Sao Mộc. Nguồn gốc Đám mây Oort được cho là đã phát triển sau khi hình thành các hành tinh từ đĩa tiền hành tinh nguyên thủy khoảng 4,6 tỷ năm trước. Giả thuyết được chấp nhận rộng rãi nhất là các vật thể của đám mây Oort ban đầu liên kết lại gần Mặt Trời hơn nhiều và là một phần của quá trình hình thành các hành tinh và tiểu hành tinh. Sau khi hình thành, các tương tác hấp dẫn mạnh với các hành tinh khí khổng lồ chẳng hạn như Sao Mộc đã làm phân tán các vật thể thành các quỹ đạo hình elip hoặc parabol cực rộng, sau đó bị nhiễu loạn từ các ngôi sao đi ngang qua và các đám mây phân tử khổng lồ biến đổi thành các quỹ đạo tồn tại lâu dài tách ra khỏi phạm vi của các hành tinh khí khổng lồ. Nghiên cứu gần đây của NASA đặt giả thuyết rằng một số lượng lớn các vật thể trong đám mây Oort là sản phẩm của sự trao đổi vật chất giữa Mặt Trời và các ngôi sao anh chị em của nó khi chúng hình thành và tách rời nhau và người ta cho rằng nhiều —có thể là phần lớn— vật thể đám mây Oort không hình thành ở gần Mặt Trời. Các mô phỏng về sự tiến hóa của đám mây Oort từ thuở sơ khai của Hệ Mặt Trời cho đến nay đã cho thấy khối lượng của đám mây đạt đỉnh vào khoảng 800 hàng triệu năm sau khi hình thành, khi tốc độ bồi tụ và va chạm chậm lại và sự cạn kiệt bắt đầu vượt quá nguồn cung. Mô hình của Julio Ángel Fernández gợi ý rằng đĩa phân tán, nguồn cấp chính cho các sao chổi tuần hoàn trong Hệ Mặt Trời, cũng có thể là nguồn cấp chính cho các vật thể đám mây Oort. Theo các mô hình thì khoảng một nửa số vật thể phân tán di chuyển ra ngoài về phía đám mây Oort, trong khi đó một phần tư dịch chuyển vào trong quỹ đạo của Sao Mộc và một phần tư bị đẩy ra trong một quỹ đạo hình hypebol. Đĩa phân tán có thể vẫn cung cấp nguyên liệu cho đám mây Oort. Một phần ba số lượng vật thể đĩa phân tán có khả năng kết thúc tại trong đám mây Oort sau 2,5 tỷ năm. Hiệu ứng thủy triều Hầu hết các sao chổi được nhìn thấy ở gần Mặt Trời dường như đã đến vị trí hiện tại của chúng thông qua sự nhiễu loạn hấp dẫn của đám mây Oort bởi lực thủy triều gây ra bởi Dải Ngân Hà. Cũng giống như lực thủy triều của Mặt trăng làm biến dạng các đại dương của Trái Đất và khiến thủy triều lên xuống thì thủy triều thiên hà cũng làm biến dạng quỹ đạo của các thiên thể trong Hệ Mặt Trời bên ngoài. Trong các vùng được lập biểu đồ của Hệ Mặt Trời thì những tác động này là không đáng kể so với lực hấp dẫn của Mặt Trời, nhưng ở vùng ngoài của hệ mà lực hấp dẫn của Mặt Trời yếu hơn thì gradient trường hấp dẫn của Dải Ngân Hà có những tác động đáng kể. Lực thủy triều thiên hà kéo căng đám mây dọc theo một trục hướng về trung tâm thiên hà và nén nó dọc theo hai trục còn lại; những nhiễu loạn nhỏ này có thể dịch chuyển quỹ đạo trong đám mây Oort để đưa các vật thể đến gần Mặt trời. Điểm mà lực hấp dẫn của Mặt Trời chịu ảnh hưởng của nó đối với thủy triều thiên hà được gọi là bán kính cắt ngắn thủy triều. Nó nằm ở bán kính từ 100.000 đến 200.000 au, và đánh dấu ranh giới bên ngoài của đám mây Oort. Một số học giả đặt giả thuyết rằng thủy triều thiên hà có thể đã góp phần vào sự hình thành của các đám mây Oort bằng cách làm tăng cận điểm quỹ đạo (khoảng cách nhỏ nhất đến Mặt Trời) của vi thể hành tinh với viễn điểm quỹ đạo lớn (khoảng cách lớn nhất đến Mặt Trời). Tác động của thủy triều thiên hà khá phức tạp và phụ thuộc nhiều vào hành vi của các vật thể riêng lẻ trong một hệ hành tinh. Tuy nhiên, về tổng thể, nó có thể có ảnh hưởng khá đáng kể: tới 90% tất cả các sao chổi có nguồn gốc từ đám mây Oort có thể là kết quả của thủy triều thiên hà. Các mô hình thống kê về quỹ đạo quan sát được của các sao chổi chu kỳ dài lập luận rằng thủy triều thiên hà là phương tiện chính khiến quỹ đạo của chúng bị xáo trộn về phía bên trong Hệ Mặt Trời. Ghi chú Tham khảo Liên kết ngoài Hồ sơ đám mây Oort bởi Khám phá Hệ Mặt trời của NASA Thiên thể bên ngoài Sao Hải Vương Lịch sử Hệ Mặt Trời Sao chổi Tiểu hành tinh Hành tinh nhỏ Đám mây Oort
25583
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C3%81p%20su%E1%BA%A5t
Áp suất
Trong vật lý học, áp suất (tiếng Anh: Pressure) (thường được viết tắt là p) là một đại lượng vật lý, được định nghĩa là lực trên một đơn vị diện tích tác dụng theo chiều vuông góc với bề mặt của vật thể. Trong hệ SI, đơn vị của áp suất bằng Newton trên mét vuông (N/m²), nó được gọi là Pascal (Pa) mang tên nhà toán học và vật lý người Pháp Blaise Pascal thế kỉ thứ 17. Áp suất 1 Pa là rất nhỏ, nó xấp xỉ bằng áp suất của một đồng đô la tác dụng lên mặt bàn. Thường áp suất được đo với tỉ lệ bắt đầu bằng 1kPa = 1000Pa. Phương trình miêu tả áp suất: p = F / S Trong đó: p là áp suất, F là áp lực tác dụng lên mặt bị ép có diện tích tiếp xúc là S. Đơn vị của áp suất Trong hệ SI: N/ hay còn gọi là Pa: 1Pa=1N/ p=d*h NBA Ngoài ra còn một số đơn vị khác: atmosphere (1atm=101325 Pa), Torr, mmHg (1torr=1mmHg=1/760atm=133,3Pa), at (atmosphere kỹ thuật 1at=0,98. Pa) Đổi đơn vị đo áp suất Áp suất chất lỏng Áp suất chất lỏng là áp suất ở một vài điểm trong chất lỏng như là nước hay không khí. Áp suất chất lỏng xuất hiện ở một trong 2 tình huống sau: Điều kiện hở, gọi là "dòng trong kênh hở" - như bề mặt đại dương, bể bơi, không khí... Điều kiện đóng - trong đường ống dẫn khí, dẫn nước... Cũng như chất khí, chất lỏng truyền đi nguyên vẹn áp suất theo mọi phương. Phương trình Bernoulli có thể được sử dụng để xác định áp suất tại bất kì một điểm trong chất lỏng. Chất lỏng được giả thiết là chất lỏng lý tưởng và không nén được. Chất lỏng lý tưởng là chất lỏng không tồn tại nội ma sát trong lòng chất lỏng, có độ nhớt bằng không. Phương trình được viết giữa hai điểm a và b bất kì trong một hệ thống chỉ tồn tại 1 chất lỏng. với: p = áp suất của chất lỏng γ = ρg = mật độ·gia tốc trọng trường = trọng lượng riêng của chất lỏng. /> v = vận tốc của chất lỏng g = gia tốc trọng trường z = độ cao = chiều cao cột áp (pressure head) = vận tốc cột áp (velocity head) hay độ cao thủy lực Trên cùng một mặt phẳng nằm ngang trong lòng chất lỏng thì tất cả các điểm đều có áp suất như nhau. Áp suất ở những điểm có độ cao khác nhau thì áp suất cũng khác nhau Công thức tính áp suất chất lỏng: , Trong đó : là trọng lượng riêng của chất lỏng là độ sâu tính từ điểm áp suất tới mặt thoáng của chất lỏng. Nguyên lý Pascal Độ tăng áp suất lên một chất lỏng chứa trong bình kín được truyền nguyên vẹn cho mọi điểm của chất lỏng và của thành bình. Công thức Pascal: p=png + pgh png là áp suất ngoài. Ứng dụng của áp suất chất lỏng Nguyên lý Pascal ứng dụng trong nhiều lĩnh vực như máy nén thủy lực, máy nâng vật với trọng lực lớn, phanh thủy lực trong xe mô tô, ô tô, phanh ABS nổi tiếng trên các xe ô tô cũng như xe máy đời mới. . Tham khảo Xem thêm Áp suất khí quyển Đo áp suất Liên kết ngoài Pressure at Hyperphysics, Georgia State University Đại lượng vật lý Lực Diện tích Khái niệm vật lý Thủy lực Cơ học chất lưu Nhiệt động lực học Động lực học chất lưu
25599
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%B7%20l%E1%BB%87%20gi%E1%BB%9Bi%20t%C3%ADnh
Tỷ lệ giới tính
Trong thống kê giới tính ở sinh vật, tỷ số giới tính là thương số giữa số lượng giống đực (nam giới khi nói về dân số của người) và số lượng giống cái (nữ giới khi nói về dân số của người) hoặc ngược lại. Ở người, khi lấy thống kê trên diện rộng, tỷ lệ này xấp xỉ bằng 1:1, thay đổi tùy theo độ tuổi. Ronald Fisher là người đầu tiên giải thích tỷ lệ giới tính 1:1 ở người. Khi độ tuổi tăng, tỷ lệ này nghiêng về nữ giới. Tỷ số giới tính thay đổi theo tuổi, thường vào khoảng 1,05 lúc sinh, 1,00 lúc 18 tuổi, sau đó <1 do giới nam bị chết nhiều hơn nữ. Ở một số loài sinh vật, tỷ lệ này rất khác với 1:1. Tham khảo R.A. Fisher (1930) The Genetical Theory of Natural Selection'' Clarendon Press, Oxford. Dân số Thống kê Tiến hóa sinh học Giới tính (xã hội học) Nhân khẩu học Giới tính
25601
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%B4ng
Lông
Lông là những sợi cấu tạo từ chất sừng, được mọc ở trên da của loài động vật có vú. Lông được đặt các tên gọi khác nhau tùy thuộc vào vị trí mọc. Trên đầu, nó được gọi là tóc để bảo vệ đầu. Ở mặt nam giới trưởng thành, nó được gọi là râu. Lông có thể có nhiều màu tùy thuộc chủng tộc hay cá nhân; bao gồm màu đen, màu vàng, màu nâu. Những người già thường có tóc hay râu chuyển sang màu trắng, gọi là tóc bạc hay râu bạc. Cấu trúc Tóc là cấu trúc sừng hình sợi dài, dẫn xuất của biểu bì da, bao phủ da đầu của người. Tóc có thành phần chủ yếu là chất sừng keratin chiếm trên 70%, calci, giàu biotin, kẽm, lưu huỳnh và nitơ. Màu và dạng của tóc chính là một dấu hiệu nhân chủng học quan trọng. Tóc có thể mang màu đen, nâu, vàng, hung, bạch kim, đỏ... có thể thẳng, xoăn, uốn sóng... Màu sắc tóc Màu sắc tóc do sắc tố melanin có trong tóc quyết định và mang tính chất di truyền. Với thời gian, lượng sắc tố đó sẽ giảm đi và phân số các hạt sắc tố cũng có sự biến đổi. Đây chính là lý do tóc bị bạc. Cũng có trường hợp tóc bị mất sắc số, như những người bị bệnh bạch tạng. Tóc mọc dài do các tế bào nang tóc sinh sản thường xuyên. Những sợi tóc chỉ tồn tại một thời gian rồi rụng, với nam giới trung bình 2 năm, ở nữ giới lâu hơn, khoảng 4 đến 5 năm. Ở mỗi người, trung bình khoảng 50 đến 100 sợi tóc rụng mỗi ngày. Vòng đời của tóc Có ba giai đoạn chính: Giai đoạn tăng trưởng (anagen): tóc được hình thành và nhú ra khỏi đầu thoát của tuyến dầu quanh nang tóc. Thân tóc xuất hiện và hoàn thiện quá trình sừng hóa phía ngoài. Giai đoạn tăng trưởng kéo dài 2-4 năm ở đàn ông và 3-7 năm ở phụ nữ. Tóc mọc 0,3-0,4mm một ngày và tối đa là 1 cm trong một tháng. Giai đoạn dừng tăng trưởng (catagen): trong suốt giai đoạn này, tóc trải qua hàng loạt những thay đổi. Tất cả mọi hoạt động tăng trưởng trong tế bào bầu tóc ngừng lại và co về phía trước. Sự tổng hợp melanin cũng dừng lại. Phần sâu nhất của nang tóc sẽ thoái hóa trong từ 2 đến 3 tuần. Giai đoạn thoái hóa (telogen): kéo dài 2-4 tháng. Nang tóc giờ đây chỉ còn là một bộ phận không hoạt động. Bộ phận sinh trưởng nằm sâu dưới lớp da,chân tóc tách khỏi nang bây giờ đã co lại, bắt đầu rụng đi và nhường chỗ cho giai đoạn tăng trưởng của sợi tóc mới, vòng đời mới của tóc bắt đầu. Chất dinh dưỡng cần cho tóc Biotin: được biết tới như vitamin H – rất quan trọng đối với việc phát triển tóc mới, tạo chân tóc khoẻ mạnh và hỗ trợ quá trình tạo tế bào tóc nhanh. Vitamin B: bao gồm vitamin B1, B2, B3, B5, B6, B12. B3 và B6 giúp giảm rụng tóc, B5 tăng độ ẩm của tóc, giúp tóc mềm mại. Vitamin B còn có khả năng giúp cơ thể giảm bớt tác hại của stress lên tóc Silica: hay silcon là chất dinh dưỡng cần cho cơ thể, đặc biệt là tóc và móng. Có thể bổ sung silica từ các loại đậu, rau quả Sắt: giúp cho tóc mọc nhanh Kẽm: giúp tóc mọc dày, sợi tóc khỏe, giúp các tế bào ở nang tóc nhận biết sự có mặt của các hormone kích thích tóc tăng trưởng Vitamin E Vitamin D Bệnh thường gặp ở tóc Rụng tóc Việc rụng tóc xảy ra trong giai đoạn này có thể diễn ra liên tục hay kèm theo việc nhường chỗ cho một sợi tóc mới phát triển phía dưới. Ngay cả một lực kéo rất nhẹ có thể nhổ tóc được mà không hề gây đau đớn, hoàn toàn ngược lại với tóc khi đang ở trong giai đoạn tăng trưởng. Thông thường mỗi người có khoảng 100.000 sợi tóc trên da đầu của mình và tốc độ rụng tóc tương đồng với tốc độ mọc tóc nên số lượng tóc trên đầu gần như duy trì nguyên vẹn. Tham khảo Sách chuyên khảo Iyengar, B. (1998). The hair follicle is a specialized UV receptor in human skin? Bio Signals Recep, 7(3), 188–194. Jablonski, N.G. (2006). Skin: a natural history. Berkley, CA: University of Califiornia Press. Rogers, Alan R.; Iltis, David & Wooding, Stephen (2004), "Genetic variation at the MC1R locus and the time since loss of human body hair", Current Anthropology 45 (1): 105–108. Tishkoff, S.A. (1996). Global patterns of linkage disequilibrium at the CD4 locus and modern human origins. Science. 271(5254), 1380–1387. Liên kết ngoài How to measure the diameter of your own hair using a laser pointer Instant insight Answers to several questions related to hair from curious kids How to measure the diameter of your own hair using a laser pointer Instant insight outlining the chemistry of hair from the Royal Society of Chemistry Wiktionary "hairsbreadth" Tại sao tóc lại bạc Lớp Thú Lông Lông và tóc người
25604
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%B3m%20nit%C6%A1
Nhóm nitơ
Nhóm nitơ, còn được IUPAC giới thiệu như là nhóm nguyên tố 15, là bất kỳ nguyên tố hóa học thuộc nhóm 15 của bảng tuần hoàn. Các nguyên tố thuộc nhóm này là nitơ (N), phosphor (P), arsenic (As), antimon (Sb), bismuth (Bi) và moscovi (Mc). Nhóm này có các đặc trưng xác định là mọi nguyên tố thành phần đều có 5 electron ở lớp vỏ electron ngoài cùng, trong đó 2 electron thuộc phân lớp s và 3 electron thuộc phân lớp p. Vì thế, trong trạng thái không bị ion hóa, chúng thiếu 3 electron để có thể lấp đầy lớp vỏ ngoài cùng. Nguyên tố quan trọng nhất trong nhóm này là nitơ (N), nguyên tố này trong dạng phân tử là thành phần cơ bản của khí quyển Trái Đất. Đặc điểm Hóa học Giống như các nhóm khác, các nguyên tố thuộc nhóm này thể hiện các kiểu cấu hình electron tương tự nhau, đặc biệt là ở lớp vỏ ngoài cùng, dẫn đến xu hướng hoạt động hóa học tương tự nhau. Nhóm này có đặc điểm xác định là tất cả các nguyên tố thành viên đều có 5 electron ở lớp vỏ ngoài cùng, tức là 2 electron ở phân lớp s và 3 electron độc thân ở phân lớp p. Do đó, chúng còn thiếu 3 electron để lấp đầy lớp vỏ electron ngoài cùng ở trạng thái không bị ion hóa. Tham khảo Pnicogen Nhóm nguyên tố hóa học Bảng tuần hoàn
25628
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BA%ADp%20tr%C3%ACnh%20m%C3%A1y%20t%C3%ADnh
Lập trình máy tính
Lập trình máy tính hay lập chương trình máy tính, thường gọi tắt là lập trình (, hay programming), là việc lập ra chương trình làm việc cho máy có bộ xử lý, nói riêng là máy tính, để thực thi nhiệm vụ xử lý thông tin nào đó. Chương trình này gồm dãy các chỉ thị (hay lệnh) hợp lý để máy thực hiện theo trình tự thời gian. Lập trình phải thực hiện cho tất cả các hệ thống xử lý thông tin, từ các dàn máy điện toán lớn, máy tính cá nhân (PC), đến các chip điều khiển lập trình được trong các khối điều khiển thiết bị các loại như trong máy đo đạc phân tích, vũ khí có điều khiển, máy giặt, lò vi sóng, v.v... và trong các thiết bị ngoại vi của máy tính như chip điều khiển ở card màn hình, cổng giao tiếp, v.v... Dạng chương trình duy nhất mà máy tính có thể thực thi trực tiếp là ngôn ngữ máy hay mã máy, có dạng dãy các số nhị phân. Lập trình trực tiếp ở dạng mã máy là công việc tốn sức, khó kiểm tra và lệ thuộc phần cứng cụ thể. Vì thế giới lập trình phát triển ra các ngôn ngữ lập trình với hệ thống ký hiệu, từ khóa và cú pháp cụ thể để lập trình viên dễ viết mã nguồn ở dạng văn bản mà không quá lệ thuộc vào phần cứng, sau đó biên dịch (compile) ra mã máy. Ngày nay lập trình ứng dụng trên các máy điện toán được hỗ trợ bằng các thư viện, các công cụ AI bot như chatgpt github codepilot cùng với nhiều AI bot khác, khả năng liên kết mã phát sinh từ các ngôn ngữ khác nhau cũng như viết mã lệnh tự động, và đặc biệt là sử dụng biểu tượng trực quan (visual) cho lập trình. Trong kỹ thuật điện toán việc lập ra bộ chương trình thường được gọi là phát triển phần mềm. Lập trình có các thành tố nghệ thuật, khoa học, toán học, và kỹ nghệ. Các ngôn ngữ lập trình Dạng chương trình duy nhất mà máy tính có thể thực thi trực tiếp là ngôn ngữ máy hay mã máy. Nó có dạng dãy các số nhị phân, thường được ghép nhóm thành byte 8 bit cho các hệ xử lý 8/16/32/64 bit. Nội dung byte thường biểu diễn bằng đôi số hex. Để có được bộ mã này ngày nay người ta dùng ngôn ngữ lập trình để viết ra chương trình ở dạng văn bản và dùng trình dịch để chuyển sang mã máy. Mã máy Khi kỹ thuật điện toán ra đời chưa có ngôn ngữ lập trình dạng đại diện nào, thì phải lập trình trực tiếp bằng mã máy. Dãy byte viết ra được đục lỗ lên phiếu đục lỗ (punched card) và nhập qua máy đọc phiếu tới máy tính. Sau đó chương trình có thể được ghi vào băng/đĩa từ để sau này nhập nhanh vào máy tính. Ngôn ngữ máy được gọi là "ngôn ngữ lập trình thế hệ 1" (1GL, first-generation programming languages). Lúc đó có nhiều hãng sản xuất máy tính và mã máy chưa hoàn toàn thống nhất, nên lập trình gắn liền với máy của hãng. Hợp ngữ Sau đó các mã lệnh được thay thế bằng các tên gợi nhớ và trình được lập ở dạng văn bản (text) rồi dịch sang mã máy. Hợp ngữ (assembly languages) ra đời, là "ngôn ngữ lập trình thế hệ 2" (2GL, second-generation programming languages). Lập trình thuận lợi hơn, khi dịch có thể liên kết với thư viện chương trình con ở cả dạng macro (đoạn chưa dịch) và lẫn mã đã dịch. Dẫu vậy người lập trình phải nắm chắc về hoạt động của hệ thống xử lý, về các thanh ghi (register), con trỏ (pointer) và vai trò của chúng thì mới tránh được lỗi. Lúc này bắt đầu có sự thống nhất quốc tế về các tập lệnh cần thiết trong kỹ thuật điện toán. Trong kỹ thuật điện toán hợp ngữ hiện được dùng là ngôn ngữ bậc thấp (low-level programming languages) để tinh chỉnh ngôn ngữ bậc cao thực hiện truy nhập trực tiếp phần cứng cụ thể trong việc lập trình hệ thống, hoặc định tạo các hiệu ứng đặc biệt cho chương trình của mình. Hợp ngữ hiện là phương tiện lập trình các vi điều khiển trong bảng/khối điều khiển thiết bị điện tử các loại, từ các máy đo, vũ khí, thiết bị dân sinh như máy giặt, lò vi sóng, v.v... Bảng lệnh của vi điều khiển này khác với của máy điện toán, nên hợp ngữ vi điều khiển cũng khác, và đơn giản hơn. Lập trình mã máy và hợp ngữ cho ra chương trình chạy nhanh nhất trên cùng máy tính, vì nó chứa rất ít chỉ thị thừa hay chỉ thị rác, và giảm lượng mã nhờ việc đặt giá trị các thanh ghi được làm tắt. Các ngôn ngữ bậc cao khi dịch phải bố trí nhiều chỉ thị máy đảm bảo tính khái quát cao nhất, cùng với những câu lệnh thừa của người lập trình mà khi sửa chữa chưa kịp xóa đi. Ngôn ngữ bậc cao Ngôn ngữ bậc cao (high-level programming languages) hay "ngôn ngữ lập trình thế hệ 3" (3GL, third-generation programming languages) ra đời vào những năm 1950. Đây là các ngôn ngữ hình thức, dùng trong lập trình máy điện toán và không lệ thuộc vào hệ máy tính cụ thể nào. Nó giải phóng người lập trình ứng dụng làm việc trong hệ điều hành xác định mà không phải quan tâm đến phần cứng cụ thể. Các ngôn ngữ được phát triển liên tục với các dạng và biến thể mới, theo bước phát triển của kỹ thuật điện toán. Những ngôn ngữ bậc cao thời kỳ đầu có FORTRAN lập ra năm 1954, COBOL năm 1959, BASIC năm 1963, Pascal năm 1970, C năm 1970, v.v... Chúng có sự khác nhau về từ khóa, ký hiệu, cú pháp, và cả về tổ chức các segment dữ liệu trong bộ nhớ. Sự phát triển lập trình dẫn đến ngôn ngữ C có những ưu việt trong lập trình và quản lý dữ liệu, nên được dùng nhiều, được phát triển tiếp và thành nền ý tưởng cho phát triển nhiều ngôn ngữ mới. Những ngôn ngữ được dùng phổ biến hiện có ActionScript, C, C++, MATLAB, C#, Haskell, Java, JavaScript, Objective-C, Perl, PHP, Python, Ruby, Smalltalk, SQL, Visual Basic, và nhiều nữa. Ngày nay các ngôn ngữ lập trình đều cung cấp môi trường soạn thảo mã nguồn, có yểm trợ cao về kiểm tra cú pháp. Một số ngôn ngữ lưu mã nguồn ở dạng văn bản. Song một số khác, thay vì được dịch ra mã máy, lại được lưu ở dạng mã gọi là Bytecode (hoặc Portable code), và có trình thông dịch tương ứng để thực thi dạng mã này. Bytecode được sử dụng trong ngôn ngữ lập trình Java của Sun Microsystems cũng như họ ngôn ngữ lập trình .NET gần đây của Microsoft và Visual Basic trước phiên bản .NET. Các ngôn ngữ lập trình khác nhau hỗ trợ các phong cách lập trình khác nhau (còn gọi là các phương pháp lập trình). Một phần của công việc lập trình là việc lựa chọn một trong những ngôn ngữ phù hợp nhất với bài toán cần giải quyết. Các ngôn ngữ lập trình khác nhau đòi hỏi lập trình viên phải xử lý các chi tiết ở các mức độ khác nhau khi cài đặt các thuật toán. Thông thường, điều này dẫn tới thỏa hiệp giữa thuận lợi cho việc lập trình và hiệu quả của chương trình, hay thỏa hiệp giữa "thời gian lập trình" và "thời gian tính toán". Phát triển phần mềm Phần mềm là danh từ chỉ một gói gồm các chương trình máy tính và dữ liệu. Tài liệu đi kèm và bản quyền phần mềm cũng được coi là một phần quan trọng của phần mềm, mặc dù chúng không liên quan đến việc lập trình. Quy trình xây dựng phần mềm bao gồm các công việc chính: Phân tích yêu cầu (requirements analysis) Đặc tả (specification) Thiết kế (design and architecture) Lập trình (coding) Biên dịch (compilation) Kiểm thử (testing) Viết tài liệu (documentation) Bảo trì (maintenance) Chỉ dẫn Tham khảo Liên kết ngoài TechBookReport – reviews of books on computer programming Công nghệ phần mềm Khoa học thông tin Khoa học máy tính Máy tính
25629
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BA%A1m%20%C4%90%C3%ACnh%20Ch%C6%B0%C6%A1ng
Phạm Đình Chương
Phạm Đình Chương (1929 – 1991) là một nhạc sĩ tiêu biểu của nền tân nhạc Việt Nam. Ông còn là một ca sĩ với nghệ danh Hoài Bắc. Cuộc đời Phạm Đình Chương sinh ngày 14 tháng 11 năm 1929 tại phường Bạch Mai, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Quê nội ông ở Hà Nội và quê ngoại ở Sơn Tây. Ông xuất thân trong một dòng họ mà hầu hết đều làm văn nghệ. Chú ông là nhà văn Trúc Khê, nhạc sĩ Phạm Ngọc Cẩn. Cô là nghệ sĩ Song Kim, dượng là nhà thơ Thế Lữ. Anh ông là họa sĩ Phạm Văn Đôn và nhạc sĩ Phạm Văn Chung. Cha của Phạm Đình Chương là ông Phạm Đình Phụng. Người vợ đầu của ông Phụng sinh được 2 người con trai: Phạm Đình Sỹ và Phạm Đình Viêm. Phạm Đình Sỹ lập gia đình với nữ kịch sĩ Kiều Hạnh và có con gái là ca sĩ Mai Hương. Còn Phạm Đình Viêm là ca sĩ Hoài Trung của ban hợp ca Thăng Long. Người vợ sau của ông Phạm Đình Phụng có 3 người con: Trưởng nữ là Phạm Thị Quang Thái (ca sĩ Thái Hằng, vợ Phạm Duy). Con trai thứ là nhạc sĩ Phạm Đình Chương. Và cô con gái út Phạm Thị Băng Thanh (ca sĩ Thái Thanh). Phạm Đình Chương theo học trường Bưởi đến trung học thì nghỉ học, gia nhập đoàn ca kịch lưu diễn ở nông thôn vào năm 1946. Năm 1951, ông về Hà Nội lập ra ban hợp ca Thăng Long nổi tiếng. Năm 1953, ông lập gia đình với ca sĩ Khánh Ngọc (sinh năm 1937, tên thật là Hàn Thị Lan Anh) rồi chuyển vào Sài Gòn sống. Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, ông định cư tại California, Hoa Kỳ. Ông mất 22 tháng 8 năm 1991 tại California. Sự nghiệp âm nhạc Phạm Đình Chương được nhiều người chỉ dẫn nhạc lý nhưng phần lớn vẫn là tự học. Trong những năm đầu kháng chiến, ông cùng các anh em Phạm Đình Viêm, Phạm Thị Quang Thái và Phạm Thị Băng Thanh gia nhập ban văn nghệ Quân đội ở Liên Khu IV. Phần nhiều những tác phẩm của Phạm Đình Chương thường được xếp vào dòng tiền chiến bởi mang phong cách trữ tình lãng mạn. Hai sáng tác đầu tiên Ra đi khi trời vừa sáng và Hò leo núi đều có không khí hào hùng, tươi trẻ. Năm 1951, ông về thành. Với nghệ danh Hoài Bắc, ông cùng các anh em Hoài Trung, Thái Thanh, Thái Hằng lập ban hợp ca Thăng Long danh tiếng, du ca khắp các thành phố lớn của Nam Việt Nam lúc đó. Thời kỳ này, các sáng tác của ông thường mang âm hưởng của miền Bắc như nói lên tâm trạng hoài hương của mình: Khúc giao duyên, Được mùa, Tiếng dân chài... Thời gian sau, ông viết nhiều bản nhạc vui tươi hơn: Xóm đêm, Ly rượu mừng, Đón xuân... Khi cuộc hôn nhân với ca sĩ Khánh Ngọc tan vỡ, ông bắt đầu sáng tác tình ca. Ông đem tâm trạng đau thương vào bốn ca khúc da diết, đau nhức, buốt giá tâm can: Đêm cuối cùng, Thuở ban đầu, Người đi qua đời tôi, Nửa hồn thương đau. Phạm Đình Chương cũng phổ nhạc từ thơ. Nhiều bản nhạc phổ thơ của ông đã trở thành những bài bất hủ, có một sức sống riêng như: Đôi mắt người Sơn Tây (thơ Quang Dũng), Mộng dưới hoa (thơ Đinh Hùng), Nửa hồn thương đau (thơ Thanh Tâm Tuyền), Đêm nhớ trăng Sài Gòn (thơ Du Tử Lê)... Phạm Đình Chương cũng đóng góp cho tân nhạc Việt Nam bài trường ca bất hủ Hội Trùng Dương nói về ba con sông đại diện cho ba miền: sông Hồng, sông Hương và sông Cửu Long. Tác phẩm Chú thích Sinh năm 1929 Mất năm 1991 Nhạc sĩ Việt Nam Nhạc sĩ tiền chiến Nhạc sĩ tình khúc 1954–1975 Nhạc sĩ hải ngoại Người Mỹ gốc Việt Người Hà Nội Ca sĩ nhạc tiền chiến Việt Nam Nhạc sĩ Việt Nam Cộng hòa
25636
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20V%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20Qu%E1%BB%91c%20gia%20Vi%E1%BB%87t%20Nam
Giải bóng đá Vô địch Quốc gia Việt Nam
Giải bóng đá Vô địch Quốc gia Việt Nam (tiếng Anh: V.League 1, hay còn gọi là Night Wolf V.League 1 vì lý do tài trợ) là giải đấu bóng đá chuyên nghiệp cấp câu lạc bộ cao nhất Việt Nam, do Công ty cổ phần Bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam (VPF) điều hành. Giải đấu bao gồm 14 đội thi đấu theo thể thức đấu vòng tròn sân nhà và sân khách. Đội bóng đứng đầu bảng ở cuối mùa giải được dự AFC Champions League mùa sau. Đội đứng thứ hai hoặc thứ ba sẽ tham gia trận play-off AFC Champions League. Giải đấu ra mắt vào năm 1980 dưới tên gọi Giải bóng đá A1 toàn quốc, với nhà vô địch đầu tiên là đội Tổng cục Đường sắt. Tính đến năm 2023, giải đấu đã trải qua 40 mùa giải (năm 1988 không tổ chức, năm 1999 chỉ có Giải tập huấn mùa Xuân và năm 2021 bị hủy do COVID-19). Giải đấu đã tồn tại dưới 6 tên gọi khác nhau và trải qua 3 lần thay đổi thể thức thi đấu. Hai đội bóng thành công nhất trong lịch sử giải là Hà Nội và Thể Công - Viettel với cùng 6 chức vô địch mỗi đội. Giải chuyển sang cơ chế chuyên nghiệp từ mùa 2000/01 nhằm cho phép các câu lạc bộ lựa chọn các cầu thủ nước ngoài tham gia thi đấu. Với sự ra đời của VPF vào năm 2012, quyền tổ chức chuyển từ Liên đoàn bóng đá Việt Nam (VFF) sang VPF. Lịch sử Cơ sở hình thành Hệ thống giải thi đấu bóng đá cấp quốc gia của Việt Nam bắt đầu hình thành từ năm 1955 với giải Hòa Bình (được đổi tên thành Giải hạng A miền Bắc vào năm 1956), ngay từ khi bắt đầu đã phân làm hai hạng A và B. Đội Thể Công là nhà vô địch đầu tiên của cả hai cấp độ với hai đội A và B. Giải đấu được liên tục tổ chức bất chấp tình hình đất nước đang gặp phải chiến tranh. Tuy hệ thống thi đấu Cúp Quốc gia chưa hình thành nhưng các câu lạc bộ lúc đó vẫn tham gia các kỳ Đại hội Thể dục Thể thao toàn quốc. Sau khi đất nước thống nhất, hệ thống giải Vô địch Quốc gia của Việt Nam bắt đầu từ năm 1976 được tổ chức theo các khu vực: miền Bắc với giải Hồng Hà, miền Trung với giải Trường Sơn và miền Nam với giải Cửu Long. Các đội vô địch ở mỗi khu vực sẽ gặp nhau ở Vòng chung kết tại Hà Nội để chọn đội vô địch; các đội đứng cuối ở các giải đấu cũng sẽ gặp nhau để tìm đội xuống hạng, thường gọi là "Vòng chung kết ngược". Thời điểm này, tổng cộng có 40 đội tham gia ở hạng cao nhất, trong đó: Giải Hồng Hà gồm 16 đội: Câu lạc bộ Quân đội (Thể Công), Quân khu Thủ đô, Tổng cục Đường sắt, Công an Hà Nội, Quân khu 3, Phòng không - Không quân, Cảng Hải Phòng, Công nhân Xây dựng Hà Nội, Tổng cục Bưu điện, Công an Hải Phòng, Dệt Nam Định, Than Quảng Ninh, Công nhân Xây dựng Hải Phòng, Điện Hải Phòng, Công nghiệp Hà Nam Ninh, Thanh niên Hà Nội. Giải Trường Sơn gồm 8 đội: Thanh niên Bình Định, Phú Khánh, Công nhân Quảng Nam - Đà Nẵng, Lâm Đồng, Bình Trị Thiên, Thanh niên Thanh Hoá, Sông Lam Nghệ Tĩnh, Gia Lai - Kon Tum. Giải Cửu Long gồm 16 đội: Hải Quan, Cảng Sài Gòn, Sở Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh, Công nghiệp Thực phẩm, Tây Ninh, An Giang, Tiền Giang, Đồng Tháp, Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Ngân hàng, Công nhân Hoá chất, Tổng cục Vật tư, Sông Bé, Long An, Đồng Nai, Thanh niên Hậu Giang, Vĩnh Long. Nhận thấy hệ thống thi đấu theo các khu vực có quá nhiều hạn chế sau hai mùa tổ chức vào các năm 1977 và 1978, hệ thống giải Vô địch Quốc gia của Việt Nam có sự thay đổi lớn vào năm 1979. Giải năm 1979 được coi là Giải phân hạng để tiến hành sắp xếp lại hệ thống thi đấu. 8 đội mạnh nhất của giải Hồng Hà, 2 đội của giải Trường Sơn và 8 đội của giải Cửu Long được chọn để thi đấu ở hạng A1; các đội còn lại đá ở hạng A2. Tuy nhiên, tại mùa giải đầu tiên do Hội bóng đá Việt Nam (tiền thân của VFF) tổ chức vào năm 1980, đội bóng Câu lạc bộ Quân đội đã xin rút lui để chấn chỉnh nội bộ nên chỉ có 17 đội tham dự. Đây chính là tiền đề để xây dựng Giải bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam sau này. 1980–2000: Hình thành và phát triển Trong giai đoạn đầu mới tổ chức, giải đấu liên tục phải thay đổi thể thức khi không thể thức nào tồn tại quá 2 năm. Trong đó, các đội được chia bảng theo khu vực địa lý và thi đấu vòng tròn tính điểm; các đội đứng đầu mỗi bảng sẽ tranh tài ở vòng chung kết để tranh chức vô địch, các đội đứng cuối sẽ thi đấu vòng chung kết ngược để chọn ra đội xuống hạng. Sau 2 mùa giải liên tục vào các năm 1986, 1987 không có đội xuống hạng, Tổng cục Thể dục Thể thao tạm ngừng tổ chức giải năm 1988 để chấn chỉnh toàn bộ hệ thống thi đấu và tạo điều kiện cho các các đội bóng củng cố lực lượng. Một năm sau đó, giải được tổ chức phân hạng lại với tổng cộng 32 đội tham dự để chọn ra 18 đội mạnh nhất; hạng A1 còn 11 đội và 3 đội xếp dưới xuống thi đấu ở hạng A2. Sang năm 1990, giải đổi tên thành Giải bóng đá Vô địch Các đội mạnh toàn quốc, với sự góp mặt của 18 đội đứng đầu của mùa giải 1989 (gọi là các "đội mạnh"), nhưng thể thức chia bảng và đấu loại trực tiếp của giải A1 tiếp tục được kế thừa. Mùa giải năm 1996 tiến gần hơn với thể thức hiện tại, khi các đội thi đấu vòng tròn 2 lượt và phân nhóm tranh vô địch và tranh suất trụ hạng. Từ năm 1997, giải đấu mang tên Giải bóng đá Vô địch hạng Nhất Quốc gia. Thời điểm này, tình trạng móc ngoặc, tiêu cực đã xuất hiện phổ biến trong giải đấu, và đến mùa giải thứ hai với tên gọi mới thì tình hình đã trở nên nghiêm trọng khi có đến 5 trận đấu có biểu hiện dàn xếp tỷ số phải hủy bỏ kết quả. Do không có biện pháp xử lý triệt để, mùa giải hạng Nhất năm 1999 đã không được tổ chức mà chỉ có giải Tập huấn vào đầu năm đó. Mùa giải 1999/2000 là mùa giải hạng Nhất cuối cùng để chọn ra các đội thi đấu ở giải chuyên nghiệp mùa sau cùng các đội xuống hạng thi đấu ở giải hạng Nhất mới (chuyển đổi từ giải hạng Nhì Quốc gia). 2000–2011: Chuyển sang chuyên nghiệp Từ mùa giải 2000/01, bóng đá Việt Nam chuyển sang cơ chế chuyên nghiệp, giải vô địch quốc gia chính thức mang tên V-League với sự cho phép các cầu thủ nước ngoài và cầu thủ nhập tịch tham gia thi đấu. Số lượng các đội tham dự giải giai đoạn này không thường xuyên ổn định. Trong 2 mùa giải chuyên nghiệp đầu tiên (2000–01 và 2001–02), chỉ có 10 đội góp mặt tại giải đấu. Bước sang mùa giải 2003, số lượng câu lạc bộ tranh tài ở V-League tăng lên 12 đội. Con số này giữ nguyên đến mùa giải 2006, khi được tăng lên thành 13 đội (con số này đã là 14 nếu như Ngân hàng Đông Á không mất quyền tham dự do dính vào vụ hối lộ trọng tài ở giải hạng Nhất 2005). Một năm sau, lần đầu tiên V-League chứng kiến 14 đội bóng cùng tranh tài ở giải đấu hạng cao nhất của bóng đá Việt Nam. 2012–nay: Sự thành lập và điều hành giải đấu của VPF Sau một mùa giải gây tranh cãi bởi vấn đề trọng tài và công tác điều hành giải của Liên đoàn bóng đá Việt Nam (VFF), một số câu lạc bộ (bao gồm Đồng Tâm Long An, Hoàng Anh Gia Lai, Hà Nội ACB, Vissai Ninh Bình, Khatoco Khánh Hòa và Lam Sơn Thanh Hóa) đồng loạt bày tỏ ý định rút lui khỏi giải đấu và thành lập một giải đấu hoàn toàn mới cho mùa giải 2012. Câu lạc bộ có động thái mạnh mẽ nhất trong số này là Hà Nội ACB, đội phải xuống hạng từ V-League. Tại cuộc họp tổng kết mùa giải bóng đá chuyên nghiệp 2011 của VFF, chủ tịch đội bóng Nguyễn Đức Kiên đã lên tiếng chỉ trích những vấn đề tồn đọng trong khâu tổ chức mùa giải, đồng thời cho biết có đến 6 đội bóng chuẩn bị bỏ giải đấu để lập ra giải đấu mới theo kiểu Super Liga. Sau cuộc họp ngày 29 tháng 9 giữa đại diện VFF và các bóng từ V-League và hạng Nhất, một công ty mới được thành lập, lấy tên là Công ty cổ phần Bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam (VPF) để quản lý các giải đấu bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam, bao gồm V-League. Quyền tổ chức giải đấu cũng được chuyển từ VFF sang VPF. Mùa giải đầu tiên do VPF tổ chức vào năm 2012 có tên gọi là Giải bóng đá Ngoại hạng (Super League). Tuy nhiên, chỉ sau 5 vòng đấu đầu tiên, giải lấy lại tên là Giải vô địch quốc gia Việt Nam (V-League). Sang mùa giải 2013, VPF thay đổi tên viết tắt của giải thành V.League 1. Năm 2013, V.League 1 chỉ còn 12 đội sau khi hàng loạt đội bóng bị giải thể hoặc chuyển giao. Theo dự kiến ban đầu, số lượng đội bóng tham dự V.League 1 mùa giải 2014 quay trở lại con số 14, tuy nhiên Kienlongbank Kiên Giang không đủ kinh phí để đăng ký tham dự giải nên chỉ còn là 13 đội. Tới mùa giải 2015, số đội tham dự mỗi mùa giải là 14. Mùa giải năm 2021, đến lượt Than Quảng Ninh dừng hoạt động vì không còn kinh phí trước tác động của dịch bệnh COVID-19 mặc dù đang đứng thứ 4 trên bảng xếp hạng. Thể thức thi đấu Từ mùa giải 1980 đến 1995: các đội bóng được chia thành các bảng theo khu vực địa lý. Trong mỗi bảng các đội thi đấu vòng tròn hai lượt tính điểm. Các đội đứng đầu mỗi bảng lọt vào vòng chung kết để tranh chức vô địch, các đội đứng cuối thi đấu vòng chung kết ngược để chọn đội xuống hạng. Mùa giải 1996, các đội bóng thi đấu vòng tròn hai lượt, 2 đội cuối bảng xuống hạng. Sau đó, 6 đội đầu bảng chia thành 2 nhóm thi đấu vòng tròn hai lượt để chọn 2 đội xếp đầu mỗi nhóm tranh chức vô địch. Từ mùa giải 1997 đến 2019 (trừ giải tập huấn năm 1999): các đội thi đấu vòng tròn hai lượt. Thể thức này được áp dụng lại ở mùa giải 2022. Mùa giải 2020, sau khi các đội đấu vòng tròn 1 lượt xong, 8 đội xếp trên sẽ đá vòng tròn 1 lượt để tìm ra nhà vô địch, 6 đội còn lại sẽ đá vòng tròn 1 lượt để chọn ra 1 suất xuống hạng. Thể thức này được áp dụng lại ở mùa giải 2023, mùa giải cuối cùng tổ chức thi đấu trong 1 năm dương lịch. Mùa giải 2021 (mùa giải bị hủy vì dịch COVID-19) có thể thức tương tự năm 2020, nhưng với sự thay đổi về cách phân nhóm (6 đội tranh vô địch, 8 đội tránh xuống hạng). Từ mùa giải 2023–24, các đội thi đấu vòng tròn hai lượt từ năm trước sang năm sau. Cách thức tính điểm Từ mùa giải 1995 trở về trước, hệ thống điểm là 2-1-0 (tương ứng với mỗi trận thắng-hòa-thua). Tuy nhiên có một số ngoại lệ: Mùa giải 1985 và 1986: Ở vòng 1, trận hoà thứ tư của mỗi đội không được tính điểm; ở vòng 2, nếu 2 đội hoà nhau sau 90 phút sẽ đá luân lưu 11m để chọn đội thắng. Mùa giải 1987: Ở vòng 1, trận hoà thứ năm của mỗi đội không được tính điểm; ở vòng 2, nếu 2 đội hoà nhau sau 90 phút sẽ đá luân lưu 11m để chọn đội thắng. Mùa giải 1993–94 và 1996: Nếu 2 đội hoà nhau sau 90 phút sẽ đá luân lưu 11m để chọn đội thắng. Từ mùa giải 1996 trở đi, hệ thống điểm là 3-1-0. Cách thức xếp hạng Xếp chung cuộc theo thứ tự sau: Điểm số đạt được của các đội (theo thứ tự từ cao đến thấp) Nếu có 2 hoặc nhiều đội bằng điểm nhau thì xếp theo thứ tự qua các chỉ số phụ: Kết quả đối đầu trực tiếp Hiệu số bàn thắng thua Tổng số bàn thắng Tuy nhiên, trong một số năm trước đây, tiêu chí hiệu số bàn thắng thua và tổng số bàn thắng được ưu tiên hơn kết quả đối đầu. Quy định số lượng cầu thủ ngoại và nhập tịch Giải bắt đầu cho phép sử dụng cầu thủ ngoại từ mùa giải 2000-01. Hiện nay, mỗi câu lạc bộ được phép đăng ký 3 cầu thủ ngoại, 1 cầu thủ nhập tịch còn cầu thủ gốc Việt Nam có quốc tịch được coi như cầu thủ nội. Đối với các đội dự giải châu lục thì được phép có thêm một cầu thủ ngoại quốc tịch châu Á. Trường hợp câu lạc bộ bị loại ở giải cấp châu lục trong giai đoạn 1 thì số lượng cầu thủ ngoại và nhập tịch ở giai đoạn 2 được áp dụng như các câu lạc bộ không tham gia giải châu lục. Từ mùa giải 2023, các đội được đăng ký thêm một cầu thủ Việt kiều chưa có quốc tịch Việt Nam (suất cầu thủ này không ảnh hưởng đến suất ngoại binh của câu lạc bộ). Câu lạc bộ Các đội bóng có thành tích cao nhất từng mùa giải Vô địch Quốc gia Mùa giải 1999 chỉ là giải tập huấn nên không trao các danh hiệu tập thể và cá nhân. Danh sách đội vô địch Kỷ lục, thống kê Loại bóng thi đấu và trang phục chính thức của trọng tài Bóng thi đấu và trang phục chính thức của trọng tài được Tập đoàn Thể thao Động Lực (Việt Nam) tài trợ. Các hãng cung cấp bóng thi đấu Nhà tài trợ chính của giải đấu Kể từ mùa giải 2000-01, giải Vô địch Quốc gia gắn mình với tên và logo của nhà tài trợ chính, mở đầu là công ty tiếp thị thể thao Strata. Phía Strata đề nghị mua tên giải V-League, cộng 12 biển quảng cáo trên sân với giá khoảng 400.000 USD và cả Cúp quốc gia với giá 100.000 USD. Sau hai mùa giải, Strata rút lui khỏi V-League. Mùa giải tiếp theo, V-League 2003, có tên là Sting V-League, được đặt theo tên của một sản phẩm mới sắp ra mắt thị trường thời điểm đó của nhà tài trợ tên giải Công ty Nước giải khát Suntory PepsiCo Việt Nam. Công ty cổ phần Kinh Đô trở thành nhà tài trợ chính thức của giải đấu. Dù vậy tiền thưởng cho mùa giải này bị cắt giảm khi đội vô địch chỉ nhận được khoản tiền thưởng bằng một nửa mùa trước là 500 triệu đồng. Cái tên Sting V-League cũng chỉ tồn tại sau một mùa giải và tới mùa giải 2004, Kinh Đô V-League xuất hiện. Theo một số nguồn tin, Liên đoàn bóng đá Việt Nam nhận khoảng 8 tỷ đồng từ Kinh Đô trong mùa giải này. Dù vậy lời hứa từ Kinh Đô sẽ độc quyền tài trợ cho V.League trong 3 mùa không trở thành hiện thực khi ở những mùa giải tiếp theo, V.League lần lượt gắn với cái tên Number One V-League và Eurowindow V-League. Sự xuất hiện của Tổng Công ty khí thuộc Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam năm 2007 đã giúp cho V.League có khoảng thời gian dài nhất gắn với tên nhà tài trợ (trong 4 mùa giải liên tiếp) và giúp cho giải đấu có nguồn tài chính ổn định, trước khi được thay thể bởi Eximbank vào năm 2011. Cho đến mùa giải 2014, số tiền mà Eximbank tài trợ cho một mùa bóng của V.League 1 cao nhất đã lên tới gần 40 tỷ đồng. Tuy nhiên, trường hợp của Eximbank cũng là ngoại lệ bởi gói tài trợ của đơn vị này bao gồm hậu thuẫn từ Chủ tịch VFF Lê Hùng Dũng, người cũng là Chủ tịch Hội đồng quản trị Eximbank và là Phó Chủ tịch Hội đồng quản trị VPF. Mùa giải 2015, công ty Toyota Việt Nam trở thành nhà tài trợ chính thức cho giải đấu, và đến mùa giải 2017 thì chính thức chia tay sau 3 năm tài trợ với tổng số tiền 120 tỉ đồng. Sau Toyota, NutiFood với thương hiệu Nuti Café là cái tên tiếp theo gắn bó với V.League 1 trong mùa giải 2018. Năm 2019, Masan với thương hiệu Wake-up 247 đã trở thành nhà tài trợ chính cho giải Vô địch Quốc gia mùa giải 2019. Masan đã đồng ý tài trợ cho V.League trong 5 mùa giải nhưng cuối cùng chỉ có thể tài trợ trong 1 mùa giải, bởi ngay sau đó, ngày 6 tháng 2 năm 2020, Tập đoàn LS Holdings đã ký kết hợp tác tài trợ chính tại hai giải bóng đá V.League 1 và V.League 2. Tập đoàn này cũng chính thức là nhà tài trợ trong bốn mùa giải từ 2020 đến 2023. Tuy nhiên, ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 kéo dài khiến cho V.League 2021 phải hủy bỏ giữa chừng, dẫn đến việc LS rút tài trợ cho giải đấu. Năm 2022, Công ty Cổ phần Sâm Ngọc Linh Kon Tum chính thức tài trợ cho V.League trong 3 mùa giải liên tiếp. Giải đấu cũng có tên gọi mới là Night Wolf V.League 1. Các giải thưởng Cúp Chiếc cúp dành cho đội vô địch V.League là chiếc Cúp đồng, với phiên bản hiện tại được giới thiệu từ năm 2013. Trong trường hợp có nhiều hơn một đội cùng cạnh tranh nhau chức vô địch trong ngày thi đấu cuối cùng của mùa giải, sẽ có một số lượng cúp tương ứng được chuẩn bị để trao cho nhà vô địch. Chiếc cúp V.League hiện tại bao gồm thân cúp làm từ đồng tấm nguyên chiếc và phần đế làm từ gỗ. Được chế tác tại một làng nghề thủ công truyền thống của Việt Nam, chiếc cúp cao khoảng 80 cm và nặng hơn 10 kg. Thân cúp đươc mạ nickel và vàng 24K, với các chi tiết tinh xảo được chạm, khắc nổi ở nhiệt độ cao. Dải ruy băng ở hai bên tay cầm được thay đổi theo tên giải đấu ở từng mùa giải. Năm 2017, đội vô địch V.League còn được nhận thêm một chiếc cúp sứ do công ty Minh Long sản xuất. Cúp sứ mang màu vàng cung đình truyền thống, với các chi tiết trang trí bằng vàng 24K. Nổi bật trên chiếc cúp là hình ảnh đôi linh vật đầu rồng mỏ phượng ngậm ngọc với đuôi sen cách điệu; chầu trên miệng cúp tượng trưng cho nòi giống rồng tiên với ý nghĩa nối kết, tôn vinh, mang đến một vẻ đẹp văn hóa Việt Nam hiện đại. Giải thưởng tháng và giải thưởng chung cuộc Giải thưởng tháng Hàng tháng V.League có các giải thưởng dành cho đội bóng, cầu thủ, huấn luyện viên xuất sắc nhất và bàn thắng đẹp nhất. Hiện tại, hai giải thưởng đầu tiên và giải thưởng cuối cùng do các phóng viên bình chọn, giải thưởng thứ ba do các huấn luyện viên bình chọn. Những đề cử chiến thắng của tháng sẽ nhận được một kỷ niệm chương (trước đây là tiền mặt). Giải thưởng chung cuộc Sau mỗi mùa giải, ban tổ chức sẽ tiến hành tổng kết và trao các danh hiệu và giải thưởng cho các cá nhân, tập thể đạt thành tích tại 3 giải đấu quan trọng nhất thuộc hệ thống thi đấu của VFF - V.League, hạng Nhất, Cúp Quốc gia (bao gồm các cầu lạc bộ, huấn luyện viên, cầu thủ, trọng tài xuất sắc nhất của mùa bóng). Từ năm 2012, các giải thưởng này sẽ được vinh danh tại Gala tổng kết các giải bóng đá chuyên nghiệp Quốc gia (còn có tên là V.League Awards kể từ năm 2019) do VPF tổ chức vào cuối mùa giải. Một số vấn đề gây tranh cãi Một ông chủ nhiều đội bóng Những nghi ngại của dư luận về vấn đề này đã xuất hiện kể từ khi Hà Nội (với tên Hà Nội T&T) lên thi đấu tại V-League năm 2009, trong khi SHB Đà Nẵng vốn là đội bóng Đà Nẵng được chuyển giao cho Ngân hàng Sài Gòn – Hà Nội (SHB) năm 2008; cả hai câu lạc bộ lúc đó đều do ông Đỗ Quang Hiển quản lý. Mặc dù ông Hiển khẳng định mình chỉ xuất hiện ở SHB Đà Nẵng với tư cách là nhà tài trợ chứ không phải là chủ sở hữu (không vi phạm Quy chế bóng đá chuyên nghiệp), và dù thanh tra của VFF đã từng vào cuộc và khẳng định điều đó, nhưng giới bóng đá vẫn ngầm hiểu được sự liên hệ giữa hai câu lạc bộ này với bầu Hiển. Sang những mùa giải tiếp theo, tình trạng này tiếp tục trở thành nỗi bức xức của nhiều người làm bóng đá và các giới chủ, thậm chí có thời điểm bầu Hiển được cho là sở hữu đến 5 câu lạc bộ trong tay. Năm 2012, sau khi Sài Gòn Xuân Thành không thể lên ngôi vương khi bị Hà Nội T&T cầm chân ở vòng đấu cuối cùng để SHB Đà Nẵng vô địch, ông bầu Nguyễn Đức Thụy đã tuyên bố sẽ bỏ bóng đá vì có quá nhiều bất công và chèn ép; và đến mùa 2013 thì chính thức giải thể đội bóng. Chủ tịch Tập đoàn FLC Trịnh Văn Quyết sau khi ngừng tài trợ Thanh Hóa năm 2018 cũng từng ám chỉ rằng “không thể vô địch khi chỉ có 1 đội bóng”. Năm 2019, chủ tịch câu lạc bộ Hoàng Anh Gia Lai Đoàn Nguyên Đức đã dùng đến hình tượng "năm thằng ốm đánh một thằng mập" để ám chỉ sự thâu tóm của ông Hiển. Bên cạnh đó, bầu Hiển cũng gây ra nhiều tranh cãi khi đích thân xuống động viên, tặng tiền các đội bóng của mình trong những trận đấu giữa các đội có liên quan đến bầu Hiển với nhau, như với Sài Gòn, Quảng Nam, hay SHB Đà Nẵng. Việc một ông chủ quản lý hay sở hữu nhiều đội bóng trở thành vấn nạn khiến không ít người hâm mộ lo lắng, đặc biệt về tính minh bạch, sòng phẳng khi các đội bóng này cùng thi đấu trong một giải đấu. Không ít người hâm mộ mong muốn VPF cần có những biện pháp mạnh tay, quy định cụ thể về việc cấm một người nắm giữ chức vụ quản lý hay cổ phiếu, vốn góp tại nhiều hơn 1 đội bóng ở cùng 1 giải đấu để cho V.League trở nên công bằng, trong sạch hơn và cải thiện tính cạnh tranh của giải đấu. Dàn xếp tỷ số Trong nhiều năm trở lại, hiện tượng "xin điểm và cho điểm" đã trở thành vấn đề gây đau đầu với các nhà tổ chức, khi giải đấu được cho là đã xuất hiện một số liên minh giữa các đội bóng với nhau. Tình trạng "dồn điểm" để một câu lạc bộ vô địch hoặc trụ hạng thường xuyên xảy ra ở V.League, trong đó công thức "3 đi – 3 về" trở nên phổ biến để các đội trong một liên minh tối đa hóa điểm số cho nhau. Ngoài dồn điểm, các đội trong liên minh còn dồn sức để cản đối thủ của ứng cử viên vô địch thuộc liên minh của mình. Nhiều trận đấu diễn ra với những biểu hiện bất thường đã gây bức xúc cho các cổ động viên bởi tinh thần thi đấu được cho là bạc nhược, không hết mình của cầu thủ. Ban tổ chức giải đấu cũng nhiều lần đưa ra các biện pháp xử phạt, như trừ điểm các đội bóng trong những trận đấu thiếu tích cực, nhưng tình trạng "cho nhường điểm" vẫn tiếp diễn. Báo Công an nhân dân nhận định vấn nạn dàn xếp tỷ số được cho là cũng có liên quan đến vấn đề "một ông chủ nhiều đội bóng". Năm 2017, dư luận từng đặt ra nhiều hoài nghi khi Hà Nội đang tràn trề hy vọng vô địch bất ngờ để Than Quảng Ninh cầm hòa 4-4 trong trận đấu mà đội bóng thủ đô đã dẫn trước 2 bàn. Đáng nói, tỉ số ấy vừa đủ để Quảng Nam lần đầu tiên lên ngôi vương. Thống kê mùa 2019 cho thấy Thành phố Hồ Chí Minh chỉ giành được 23% điểm từ các đội Đà Nẵng, Sài Gòn, Quảng Nam và Quảng Ninh, trong khi Hà Nội nhận được 13 trên 15 điểm tối đa trước các đội này. Mùa 2017, FLC Thanh Hóa mất 22 điểm trước nhóm "anh em" trong khi Quảng Nam mất 9 điểm. Để theo dõi và kiểm soát các trận đấu bị nghi ngờ, VPF đã từng hợp tác Sportradar - công ty chuyên kiểm soát cá cược bóng đá, và sau đó là công ty Genius Sports (có trụ sở chính tại Singapore và mạng lưới trên toàn cầu) kể từ mùa giải 2019. VPF trong một thông báo ở mùa giải 2022 đã phải đề nghị các đội bóng thi đấu hết mình, không nhường điểm cho nhau. Công tác trọng tài Vấn đề trọng tài đã diễn ra ở giải đấu trong nhiều năm và gây nhiều bức xúc trong dư luận. Nhiều quyết định gây tranh cãi, thậm chí là sai lầm của các trọng tài khiến niềm tin của các đội bóng và người hâm mộ vào các nhà tổ chức bị suy giảm, hình ảnh của giải đấu theo đó cũng bị ảnh hưởng. Huấn luyện viên Vũ Tiến Thành (TP.HCM) trong một phát biểu ở mùa giải 2023 cho biết có một nhóm trọng tài bị thao túng, một số trọng tài làm xấu đi hình ảnh của lực lượng trọng tài. Ông Thành cũng đặt câu hỏi về tư tưởng của trọng tài khi làm việc. Công tác phân công trọng tài điều khiển các trận đấu của giải cũng bị đặt nhiều dấu hỏi. Điều này dẫn đến sự thất vọng của người hâm mộ khi một số trọng tài không đáp ứng được tiêu chuẩn thường được phân công bắt những trận đấu quan trọng. Thậm chí, có người đặt nghi vấn trọng tài "không tiêu cực thì yếu chuyên môn" khi có quá nhiều sai sót diễn ra liên tiếp. Một trong những giải pháp tạm thời được đưa ra để giải quyết tình trạng này là thuê trọng tài nước ngoài điều khiền một số trận đấu của giải. Do công tác trọng tài liên tục xảy ra những sai sót liên tiếp, gây ảnh hưởng đến kết quả của các trận đấu nên việc trang bị VAR cho V.League trở thành đòi hỏi ngày càng bức thiết để nâng cao chất lượng giải đấu. Từ cuối năm 2022, VPF đã bắt đầu tiến hành những thủ tục cần thiết để sớm áp dụng VAR tại V.League. VPF kỳ vọng VAR sẽ bắt đầu được triển khai thí điểm ngay từ giai đoạn 2 của mùa giải 2023, trước khi được áp dụng chính thức từ mùa giải 2023-2024. Xung đột lợi ích liên quan đến nhà tài trợ Trong điều lệ của V.League thường có quy định các câu lạc bộ không được khai thác tài trợ với các nhãn hàng và ngành hàng cạnh tranh với nhà tài trợ chính kể từ ngày điều lệ giải được ban hành hoặc khi có thông báo của ban tổ chức. Tuy nhiên, nếu đội bóng đã có nhà tài trợ chính hoạt động cùng ngành hàng với nhà tài trợ chính của giải từ trước đó hoặc có chủ sở hữu (cổ đông) nắm giữ số cổ phần cao nhất có hoạt động kinh doanh cùng ngành hàng với nhà tài trợ chính của giải thì quyền lợi của họ vẫn được bảo toàn. Trường hợp của Hoàng Anh Gia Lai (HAGL) năm 2018 với VPMilk và năm 2022 với Red Bull là những ví dụ điển hình cho ngoại lệ này. Nhưng đến trước thềm mùa giải 2023, khi VPF có thông báo tới HAGL về việc nhà tài trợ mới của đội bóng này (tập đoàn Carabao) xung đột quyền lợi với nhà tài trợ chính của giải đấu và yêu cầu đội bóng phố Núi không được sử dụng các hình ảnh của nhà tài trợ mới trong phạm vi giải đấu, tranh cãi đã xảy ra. Quy định của VPF đã vấp phải sự phán ứng dữ dội của các cổ động viên khi bị cho là gây khó dễ cho các CLB, làm cản trở sự phát triển của bóng đá Việt Nam. Phía HAGL cũng cho rằng quyết định của VPF là "hoàn toàn vô lý và không tạo điều kiện cho CLB phát triển", và dọa sẽ ngừng tham gia V.League nếu VPF không cho họ quảng cáo cho nhà tài trợ mới. Bản quyền truyền hình Bản quyền truyền hình cũng là một trong những vấn đề nhức nhối suốt nhiều năm ở giải đấu cấp câu lạc bộ hàng đầu Việt Nam. Lần đầu tiên V.League “bán” được bản quyền truyền hình là ở mùa giải 2005. Tuy nhiên, giá trị hợp đồng được ký giữa VFF và các đài truyền hình ở thời điểm đó không thực sự đáng kể. Để một trận đấu được phát sóng trực tiếp, VFF và các CLB phải trả một khoản tiền và lo cả chi phí lưu trú, di chuyển, bồi dưỡng cho nhà đài. Cuối năm 2010, bản quyền phát sóng V.League được VFF bán cho Truyền hình An Viên (AVG) trong 20 năm với giá 6 tỷ đồng cho năm đầu tiên và sau đó mỗi năm tăng lũy tiến 10%. Thế nhưng, sau khi VPF thành lập, công ty này đã lấy lại hợp đồng bản quyền truyền hình V.League từ tay AVG và cam kết khai thác tối thiểu 50 tỉ đồng mỗi năm từ bản quyền truyền hình. Mặc dù vậy, thương vụ đã đổ bể phút chót sau khi bầu Kiên bị bắt. Nhờ thỏa thuận giữa VPF với các đài truyền hình, hầu hết các trận đấu của V.League đều được phát sóng trực tiếp và kể từ mùa giải 2017 thì con số này là 100%, nhưng các đài truyền hình gần như không bán được quảng cáo khi phát trực tiếp V.League, dù là trước trận hay giữa trận, nên thu nhập từ bản quyền truyền hình vẫn là con số vô cùng khiêm tốn. Việc bán bản quyền truyền hình V.League hiện tại vẫn đơn thuần là trao đổi bằng thời lượng quảng cáo - chủ yếu cho các nhà tài trợ của giải - nhằm thắt chặt mối quan hệ. Một số ít cũng đến từ các doanh nghiệp khác nhưng kinh phí thu được cũng rất nhỏ nhoi. Cuối năm 2016, Công ty cổ phần Giải pháp Truyền hình Thế hệ mới (Next Media) ký hợp đồng với VPF để sở hữu toàn bộ bản quyền truyền hình của 3 giải bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam (V.League, hạng Nhất, Cúp Quốc gia) trong 6 mùa giải, từ mùa giải 2017 đến mùa giải 2022. Theo đó, mỗi năm VPF sẽ thu được 2 tỷ đồng tiền mặt từ Next Media cộng với khoản tiền thu được từ việc quảng cáo trên truyền hình, ước tính lên đến 65,5 tỉ đồng. Tuy nhiên, ngay trước khi mùa giải 2018 khởi tranh, tranh chấp bản quyền truyền hình một lần nữa nổ ra khi VPF tuyên bố hủy hợp đồng của lãnh đạo nhiệm kỳ trước ký với Next Media (có thời hạn đến năm 2022). Theo lý giải của VPF, Next Media đã không thực hiện nghiêm túc các điều khoản đã cam kết, trong đó có việc không cung cấp chính xác số liệu hạch toán, chia lợi nhuận từ việc khai thác bản quyền truyền hình V.League 2017. Hơn nữa, trong quá trình rà soát lại các hợp đồng mới, hội đồng quản trị mới của VPF đã phát hiện có sự bất cập về mặt thời gian trong hợp đồng mà hội đồng quản trị cũ đã ký với đối tác này. Tranh chấp có lúc lên đến đỉnh điểm khi cả hai khẳng định sẵn sàng đưa ra toà để giải quyết; các đài truyền hình cũng tuyên bố chỉ sản xuất và phát sóng V.League khi nào VPF và Next Media giải quyết xong vụ tranh chấp bản quyền. Cuối cùng, sau một thời gian đàm phán, VPF và Next Media đã đi đến thống nhất thanh lý hợp đồng cũ và ký bản hợp đồng mới phù hợp hơn. Vấn đề này cũng gây nhiều tranh cãi khi VPF có cung cách làm việc thiếu chuyên nghiệp, việc chia tỷ lệ bản quyền thiếu minh bạch và không công bằng với các CLB. Tỷ lệ chia tiền bản quyền truyền hình hoàn toàn do VPF áp đặt mà không tham khảo ý kiến các CLB dẫn đến việc CLB không thể thu lợi tối đa từ tiền bản quyền giải đấu. Vào tháng 10 năm 2022, VPF đã đạt được thỏa thuận bản quyền truyền hình với Công ty cổ phần viễn thông FPT (FPT Telecom) trong 5 mùa giải, từ mùa giải 2023 đến mùa giải 2026–27. Thỏa thuận này đảm bảo việc mỗi năm FPT Telecom sẽ trả 2,5 triệu USD cho một mùa giải, gấp 20 lần hợp đồng trước đó và trung bình mỗi CLB sẽ nhận vài tỉ đồng tiền bản quyền truyền hình trong 1 mùa giải. Bạo lực sân cỏ Vấn nạn bạo lực ở V.League không phải là mới khi các cầu thủ thi đấu quyết liệt trên mức cần thiết. Tuy nhiên các nhà tổ chức vẫn chưa có giải pháp triệt để cho vấn đề này. Một số pha phạm lỗi đã khiến cầu thủ bị chấn thương nặng, thậm chí dẫn đến từ giã sự nghiệp. Công bằng và minh bạch tài chính Vấn đề công bằng và minh bạch tài chính chưa bao giờ được thực hiện một cách nghiêm túc ở V.League. Trong đó, VPF và các câu lạc bộ chưa bao giờ công khai báo cáo tài chính cho công chúng mà chỉ thực hiện trong nội bộ. Việc một số nhà tài trợ của giải có liên quan đến ông bầu hoặc một câu lạc bộ đã làm dấy lên nghi ngờ về tính công bằng của giải đấu. Đồng thời, việc không có minh bạch tài chính dẫn tới việc không thể làm rõ quan hệ giữa những đội bóng được cho là "anh em một nhà". Đòi hỏi về minh bạch tài chính từ nhiều câu lạc bộ đối với VPF vẫn chưa được thực hiện, điều đó cho thấy sự thiếu chuyên nghiệp của giải đấu. Việc chưa có cơ chế về công bằng và minh bạch tài chính đã khiến cho tình trạng các câu lạc bộ "cướp quân" của nhau diễn ra phức tạp. Ngân sách giữa các đội bóng có sự chênh lệch lớn và thiếu minh bạch trong quản lý tài chính dẫn đến gia tăng nguy cơ các câu lạc bộ "đi đêm" với cầu thủ. Một số câu lạc bộ không thỏa mãn các tiêu chí cấp phép từ AFC Từ năm 2012, Liên đoàn Bóng đá châu Á (AFC) yêu cầu các liên đoàn bóng đá thành viên, trong đó có VFF, mỗi năm phải thực hiện việc rà soát các câu lạc bộ trong nước (cụ thể là V.League) và các CLB này phải đáp ứng 5 tiêu chí của AFC mới được VFF cấp phép thi đấu ở mùa giải kế tiếp và được tham dự các giải đấu do AFC tổ chức, gồm: tiêu chí thể thao, cơ sở vật chất, tổ chức - nhân sự, pháp lý và tài chính. Mặc dù một số đội của Việt Nam không đạt đủ các tiêu chí nhưng vẫn được AFC đồng ý cho đấu giải trong nước. Nhưng từ năm 2018, AFC đã tỏ ra cứng rắn hơn, chỉ cần không đáp ứng được 1 trong 5 tiêu chí nói trên thì dù CLB đó có đoạt chức vô địch giải quốc nội cũng không được phép dự các giải CLB ở đấu trường châu Á do AFC tổ chức. Tại mùa giải 2019, vì không cử đội tham dự giải U-15 quốc gia, CLB Hà Nội đã không đạt tiêu chí thể thao nên không thể tham dự vòng loại AFC Champions League lẫn AFC Cup 2020 dù là đương kim vô địch cả V.League và Cúp Quốc gia. Mùa giải 2023, 8/14 đội bóng tham dự giải đã đạt chuẩn của AFC. Vì nhiều lý do, AFC đã quyết định đặc cách cho CLB Hải Phòng dự các cúp châu Á trong năm 2023, dù ban đầu CLB này không đủ điều kiện dự các giải đấu châu lục do thiếu đội trẻ. Cải tổ VPF Sau khi mùa giải 2021 bị hủy bỏ, một loạt các CLB gồm Hoàng Anh Gia Lai, Bình Dương, Hải Phòng, Sông Lam Nghệ An, Nam Định, Quảng Nam đã có yêu cầu cải tổ VPF và thay đổi lãnh đạo cấp cao vì lãnh đạo hiện tại không đủ năng lực, nhằm mục đích tăng cường dân chủ trong quan hệ giữa VPF và các CLB, nhất là liên quan đến bản quyền và việc xin ý kiến của CLB trước khi ra quyết định. Đánh giá Chuyên gia Nguyễn Văn Vinh phát biểu năm 2011 Bầu Kiên của CLB bóng đá Hà Nội phát biểu năm 2011 Chủ tịch Vũ Tiến Thành (Phố Hiến F.C.) năm 2021: Tham khảo Xem thêm Lịch sử bóng đá Việt Nam Giải bóng đá Cúp Quốc gia Siêu cúp bóng đá Việt Nam Giải bóng đá Hạng Nhất Quốc gia (V.League 2) Giải bóng đá Hạng Nhì Quốc gia Giải bóng đá Hạng Ba Quốc gia Liên kết ngoài Liên đoàn bóng đá Việt Nam Giải Hạng nhất Quốc gia - Liên đoàn bóng đá Việt Nam Giải bóng đá Hạng nhất Quốc gia - Công ty Cổ phần Bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam Giải bóng đá Cúp Quốc gia - Công ty Cổ phần Bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam Siêu Cúp quốc gia - Liên đoàn bóng đá Việt Nam Việt Nam 1 Giải thể thao thành lập năm 1980 Việt Nam năm 1980
25639
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20V%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20Qu%E1%BB%91c%20gia%202005
Giải bóng đá Vô địch Quốc gia 2005
Giải bóng đá Vô địch Quốc gia 2005, tên gọi chính thức là Giải bóng đá Vô địch Quốc gia Number One 2005 hay Number One V-League 2005 vì lý do tài trợ, là mùa giải thứ 22 và là mùa giải chuyên nghiệp thứ 5 của Giải bóng đá Vô địch Quốc gia. Giải đấu khởi tranh vào ngày 30 tháng 1 và kết thúc vào ngày 11 tháng 8 năm 2005 với 12 câu lạc bộ tham dự. Thay đổi đội bóng Đến V-League Thăng hạng từ giải Hạng Nhất 2004 Thép Miền Nam Cảng Sài Gòn Hòa Phát Hà Nội Rời V-League Xuống hạng đến giải Hạng Nhất 2005 Thể Công Ngân hàng Đông Á Thép Pomina Các đội bóng Sân vận động Nhân sự, nhà tài trợ và áo đấu Thay đổi huấn luyện viên Cầu thủ nước ngoài Mỗi đội được đăng kí 5 cầu thủ nước ngoài, nhưng chỉ được sử dụng tối đa 3 cầu thủ nước ngoài cùng lúc trên sân. Bảng xếp hạng Lịch thi đấu và kết quả Đấu play-off Trận đấu play-off năm 2005 diễn ra vào ngày 17 tháng 8 năm 2005 giữa 2 đội: LG.HN.ACB (xếp thứ 11 giải VĐQG Number One 2005 và THS Cần Thơ (xếp thứ 4 giải Hạng Nhất Quốc gia Majesty/Bird 2005). Thống kê mùa giải Cầu thủ ghi bàn hàng đầu Dưới đây là danh sách cầu thủ ghi bàn của giải đấu. Tổng số khán giả Theo vòng đấu Theo đội bóng Các giải thưởng Giải thưởng tháng Vì lý do cắt giảm tài trợ, chỉ có hai danh hiệu xuất sắc của tháng được trao dành cho đội bóng và cầu thủ hay nhất của tháng. Tất cả giải thưởng sẽ được ban tổ chức phối hợp cùng báo Bóng đá tổ chức trao giải. Giải thưởng chung cuộc Vô địch: Gạch Đồng Tâm Long An Vua phá lưới: Kesley Alves (Bình Dương) – 21 bàn Cầu thủ xuất sắc nhất: Kesley Alves (Bình Dương) Huấn luyện viên xuất sắc nhất: cặp Giám đốc Kỹ thuật Henrique Calisto (Bồ Đào Nha) - Huấn luyện viên Huỳnh Ngọc San (Gạch Đồng Tâm Long An) Thủ môn xuất sắc nhất: Fabio Santos (Gạch Đồng Tâm Long An) Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất: Hoàng Ngọc Linh (Sông Đà Nam Định) Giải phong cách: Gạch Đồng Tâm Long An Xem thêm Cúp bóng đá Việt Nam 2005 Giải vô địch bóng đá hạng nhất Việt Nam 2005 Siêu cúp bóng đá Việt Nam 2004 Tham khảo Liên kết ngoài Thể thao - Việt Nam Net Những cái nhất của V-League 2005 2005 Bóng đá, chuyên nghiệp
25642
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A1i%20Thanh%20%28ca%20s%C4%A9%29
Thái Thanh (ca sĩ)
Thái Thanh (5 tháng 8 năm 1934 – 17 tháng 3 năm 2020) tên khai sinh Phạm Thị Băng Thanh – là một nữ ca sĩ người Việt Nam, được xem như một trong những giọng ca tiêu biểu của tân nhạc Việt Nam. Bà đi hát và thành danh từ năm 14 tuổi trong vùng kháng chiến, nổi tiếng cùng ban hợp ca Thăng Long của gia đình, trước khi chính thức lấy nghệ danh Thái Thanh từ thập niên 1950. Bà thường được coi như là "Đệ Nhất danh ca" của dòng nhạc tiền chiến cũng như nhạc tình miền Nam giai đoạn 1954 – 1975, và tên tuổi của bà gắn liền với các nhạc phẩm của nhạc sĩ Phạm Duy. Mặc dù không theo học một lớp nhạc chuyên nghiệp nào, chỉ tự luyện giọng từ nhỏ theo các lối dân ca của đồng bằng Bắc Bộ và các sách nhạc tiếng Pháp, Thái Thanh đã tạo ra một trường phái riêng hòa trộn giữa tính chất opera Tây Phương với dân nhạc Việt Nam, ảnh hưởng tới nhiều nữ ca sĩ của thế hệ sau như Mai Hương, Quỳnh Giao, Ánh Tuyết... Sau 1975, bà ở lại Việt Nam cho đến năm 1985 thì chuyển sang định cư ở Hoa Kỳ. Tại đây bà tiếp tục trình diễn và thâu thanh cho đến khi giải nghệ vào năm 2002. Bà mất vào ngày 17 tháng 3 năm 2020 tại Quận Cam, California, Hoa Kỳ. Tiểu sử Phạm Thị Băng Thanh sinh năm 1934 tại làng Bạch Mai, Hà Nội trong một gia đình có truyền thống văn nghệ. Cha của bà là Phạm Đình Phụng, có 2 vợ, vợ trước sinh ra Phạm Đình Sỹ và Phạm Đình Viêm, vợ sau sinh ra Phạm Thị Quang Thái (Thái Hằng), Phạm Đình Chương và con út là Phạm Thị Băng Thanh. Năm 1946, Băng Thanh tản cư cùng gia đình vào Chợ Đại, Thanh Hóa vùng kháng chiến nơi bà bắt đầu hát lúc 14 tuổi. Cũng năm này Thái Hằng cưới nhạc sĩ Phạm Duy. Năm 1951 thì gia đình Phạm Duy về Hà Nội rồi chuyển vào Sài Gòn sống, Thái Thanh cũng đi theo. Năm 1956, Thái Thanh kết hôn với tài tử Lê Quỳnh tại Sài Gòn. Bà sống ở khu vực gần chợ Thái Bình. Năm 1965 bà ly dị Lê Quỳnh sau khi đã có chung với nhau ba con gái và hai con trai. Bà ở lại Việt Nam cho đến năm 1985 thì sang Hoa Kỳ định cư. Ca sĩ Thái Thanh đã qua đời vào lúc 11h50 ngày 17/03/2020 tại Orange, Nam California, Hoa Kỳ, hưởng thọ 86 tuổi. Gia đình bà đã quyết định không tổ chức tang lễ để tránh tụ tập đông người do dịch COVID 19. Gia đình Gia đình Thái Thanh có nhiều người thành danh trong lĩnh vực âm nhạc, ngoài Thái Thanh ra, thì chị Phạm Thị Quang Thái cũng là ca sĩ nổi tiếng với nghệ danh Thái Hằng. Phạm Đình Chương, anh bà cũng là một nhạc sĩ lớn của tân nhạc Việt Nam và cũng là một ca sĩ với nghệ danh Hoài Bắc. Người anh cùng cha khác mẹ Phạm Đình Viêm được biết đến nhiều với nghệ danh Hoài Trung. Thái Thanh, Thái Hằng, Hoài Bắc, Hoài Trung đều hát trong ban hợp ca Thăng Long nổi tiếng thời bấy giờ. Thái Thanh trở thành em vợ của nhạc sĩ Phạm Duy sau khi ông lấy Thái Hằng làm vợ, nên cũng là dì của các ca sĩ Duy Quang, Thái Hiền, Thái Thảo sau này. Ngoài ra bà còn là cô ruột của ca sĩ Mai Hương, con gái Phạm Đình Sỹ và kịch sĩ Kiều Hạnh. Thái Thanh có với tài tử Lê Quỳnh 5 người con: con cả là Lê Thị Ý Lan sinh năm 1958, Lê Xuân Việt sinh năm 1959, Lê Thị Quỳnh Dao (nghệ danh Quỳnh Hương) sinh năm 1960, Lê Thị Thanh Loan sinh năm 1962 và Lê Đại sinh năm 1964. Trong số đó, Lê Thị Ý Lan sau này trở thành ca sĩ nổi tiếng Ý Lan, còn Lê Thị Quỳnh Dao cũng đi hát với nghệ danh Quỳnh Hương. Các cháu ngoại của bà cũng có nhiều người đi theo con đường ca hát như Mai Linh, Ý Thi, Thanh Hương, Quỳnh Trang. Sự nghiệp Phạm Thị Băng Thanh bắt đầu sự nghiệp ca hát từ năm 14 tuổi với các nghệ danh Băng Thanh, Thái Thanh. Bà sở hữu một giọng hát cũng như lối hát đặc biệt, mang tính chất opera nhưng chịu nhiều ảnh hưởng của Chầu văn, quan họ, chèo là những bộ môn nghệ thuật được bà tự rèn luyện, học tập từ thuở nhỏ tại quê hương miền Bắc. Do lúc đó Việt Nam chưa có trường âm nhạc, bà tự học nhạc bằng cách đặt mua các sách luyện thanh bằng tiếng Pháp từ Pháp. Giọng hát của bà có âm vực rộng, nằm giữa nữ trung và nữ cao, nên thể loại nhạc bà hát cũng rất đa dạng, phong phú. Thời kỳ đầu, bà thường hát chung với ca sĩ Thái Hằng ở các chiến khu Việt Minh và nổi tiếng với các bài tân nhạc thời kỳ đầu, hay các bài dân ca mới của Phạm Duy. Tuy rằng ở vùng kháng chiến, nhưng tiếng hát của bà và Thái Hằng vẫn được phát sóng ở đô thị như trường hợp bài Quê em miền trung du của Nguyễn Đức Toàn, trên đài Pháp Á, và được đông đảo người yêu thích. Đến năm 1951, khi chuyển về Nam sinh sống, bà chính thức lấy nghệ danh Thái Thanh cho giống người chị Thái Hằng. Năm 1951, bà theo gia đình Phạm Duy vào Sài Gòn lập nghiệp trong gánh hát Thăng Long. Lúc ấy bà 16 tuổi, được Phạm Duy huấn luyện, chỉ bảo tận tình về nhạc lý và kỹ thuật, đồng thời cũng tự luyện tập, trau dồi kỹ năng xướng âm của mình. Tại đây bà tiếp tục đi hát với các chủ đề về quê hương và tình cảm đôi lứa. Giọng hát của bà tỏ ra rất thích hợp với các loại nhạc đa dạng của nhạc sĩ Phạm Duy, từ những bài nhạc kháng chiến, nhạc quê hương, nhạc tình, nhạc xã hội, cho tới các bản trường ca đều được bà để lại một dấu ấn lớn. Bên cạnh đó, bà cũng là ca sĩ hát thành công rất nhiều ca khúc tiền chiến xưa, hay nhạc tình đương thời của các nhạc sĩ trẻ hơn. Bà thật sự nổi tiếng trong thập niên 1950, được rất nhiều giới yêu thích từ giới trí thức cho tới bình dân. Bà được coi như một diva tầm cỡ nhất của Việt Nam thời đó. Tiếng hát của bà ngự trị trên khắp các chương trình ca nhạc truyền thanh, truyền hình của Việt Nam Cộng Hòa. Trong giai đoạn đầu thập niên 1970, bà cùng với ban hợp ca Thăng Long thường xuyên biểu diễn tại vũ trường ăn khách Đêm màu hồng.. Sau ngày Giải phóng miền Nam 30 tháng 4 năm 1975, Thái Thanh ở lại Việt Nam. Ban đầu, bà được chính quyền mời biểu diễn các ca khúc cách mạng, Thái Thanh không chấp nhận. Bà phát biểu: "Sau khi họ mời tôi không được thì tôi "được" họ cấm hát, thế thì tốt quá. Họ nói tiếng hát Thái Thanh là của "Ngụy" chứ không phải của họ..." Năm 1985, Thái Thanh sang Hoa Kỳ định cư cùng với gia đình. Tại đây bà tiếp tục đi diễn, thâu âm, tham gia những đêm nhạc lớn cho mình. Bà là khách mời danh dự của nhiều đêm nhạc hội lớn của Paris By Night. Bà cũng được mời thu thanh trên nhiều CD của trung tâm Diễm xưa. Tại quận Cam, bà cùng với nhạc sĩ Nghiêm Phú Phi từng mở ra một lớp dạy hát, đào tạo ra một số ca sĩ trẻ. Năm 2000 Thái Thanh bị tai biến mạch máu não phải vào bệnh viện. Sau tuy hồi phục nhưng năm 2002, bà chính thức tuyên bố giải nghệ sau một đêm diễn cùng với các con cháu. Tuy nhiên khoảng thời gian sau đó, thỉnh thoảng bà vẫn tham gia giọng hát của mình vào các đêm diễn với vai trò đặc biệt. Năm 2005, một đêm nhạc thính phòng nhằm mang tên "Vinh danh Thái Thanh, tiếng hát vượt thời gian" được tổ chức tại Montreal, Canada, với sự tham gia của Thái Thanh cùng nhiều ca sĩ nổi tiếng của thế hệ sau như Tuấn Ngọc, Ý Lan, Trần Thu Hà,... Trong đêm nhạc này màn trình diễn của bà được đánh giá là xuất sắc, dù trước đó đã có nhiều nghi ngờ về tuổi tác, cũng như sức khỏe của bà.. Năm 2006, bà trở lại là nhân vật chính trong đêm nhạc "Thái Thanh và ba thế hệ". Năm 2007, bà làm Ban Giám khảo cho Talent Show 2007 Giải Chung Kết do trung tâm Thúy Nga tổ chức. Đó là cuốn Paris By Night 87. Cùng với các giám khảo là: nhạc sĩ Nhật Ngân, ca nhạc sĩ Đức Huy, giám đốc sản xuất Huỳnh Thi và Shanda Sawyer. Đánh giá Giọng ca Thái Thanh được giới nghiên cứu đánh giá cao, và cũng là đề tài ca ngợi của giới văn nghệ sĩ tại miền Nam trước 1975 và tại hải ngoại sau 1975. Nhạc sĩ Phạm Duy, người song hành với Thái Thanh trong phần lớn các ca khúc của mình, từng cho rằng không ai có thể thay thế được Thái Thanh trong sự diễn tả những sáng tác của ông. Nhà văn Nguyễn Đình Toàn là tác giả của nhiều bài viết về Thái Thanh, phần lớn là những bài phát biểu cảm tưởng. Theo ông, trường hợp của Thái Thanh là một "trường hợp hãn hữu", và "Máu lửa, chiến tranh, bom đạn, chia cắt, người sống, người chết, nước mắt, mồ hôi, thấm nhập vào âm nhạc của chúng ta như thế nào, đều được phản ánh qua tiếng hát Thái Thanh." Bên cạnh đó, nhiều nhà phê bình, văn nghệ sĩ cũng có những bài nhận định về Thái Thanh, những bài này thường mang tính ca ngợi, như Thái Thanh - tiếng hát trên trời của Thụy Khuê, Thái Thanh - tiếng mẹ sinh từ lúc nằm nôi của Đỗ Việt Anh, Nụ tầm thanh của Hoàng Hải Thủy... Giọng hát Thái Thanh được nhà văn Mai Thảo tặng cho một biệt danh mà sau này thường được người ta nhắc đến, một cách trân trọng, bên nghệ danh của bà: Tiếng hát vượt thời gian. Một số trích dẫn Băng đĩa đã thu âm Trước 1975 Từ khoảng cuối thập niên 1950 đến 1975, Thái Thanh thu âm rất nhiều trên đĩa than 78 vòng, đĩa nhựa 45 vòng, băng reel của các hãng đĩa Việt Nam, Tân Thanh, Sóng Nhạc, Sơn Ca, Shotguns, Thanh Thúy, Phạm Mạnh Cương, Trường Sơn, Cỏ May, Continental, Premier, Diễm Ca, Song Ngọc, Nhật Trường, Trường Hải, Nghệ thuật – Tâm Anh, Nhã Ca, Thương Ca, Trần Ngọc Đức, Bảo Thu, Thùy Dương, Hoàng Trọng, Siêu Âm, Mây Hồng. 01. Mây Hồng 6: Ngợi Ca Tình Yêu (28-03-1970) nhạc Phạm Đình Chương, trình bày Ban hợp ca Thăng Long 02. Mười bài Đạo Ca (05-05-1971) Phạm Duy thực hiện Pháp Thân Đại Nguyện Chàng Dũng Sĩ và Con Ngựa Vàng Một Cành Mai Lời ru Bú mớm Nâng niu Qua Suối Mây Hồng Giọt Chuông Cam Lộ Chấp Tay Hoa Tâm Xuân 03. Băng nhạc Selection: Tiếng Hát Thái Thanh (31-07-1971) 04. Jo Marcel đặc biệt: Thái Thanh - Julie (31-07-1971) 05. Tơ Vàng 4: Thái Thanh - Tiếng Hát Vượt Thời Gian (08-1971) 06. Shotguns 20: Tứ Quý (09-10-1971) 07. Thanh Thúy 7: Tiếng hát Thái Thanh (17-06-1972) 08. Sơn Ca 10: Tiếng hát Thái Thanh và Ban hợp ca Thăng Long (02-1975) Nguyễn Văn Đông thực hiện Phát hành sau 1975 09. Tứ Quý (1978) Trung tâm Khánh Ly phát hành 10. Shotguns 10: Tiếng hát Thái Thanh (1980) CDs sưu tập lại các bản ghi âm cũ của các Băng nhạc sản xuất trước 1975 bởi Trung tâm Hương Xưa Sau 1975 Thu âm từ 1985 đến 2003: 11. Ngày xưa Hoàng Thị (1986) 12. Quê hương và kỷ niệm (1987) 13. Đêm màu hồng (1988). Thái Thanh, Ý Lan, Thanh Loan, Quỳnh Hương, Lê Đại 14. Chiều về trên sông (1988) 15. Đêm nhớ trăng Sài Gòn (1990) 16. Hội trùng dương (1993) 17. Dòng thời gian – Thái Thanh và 3 thế hệ (2004) Xem thêm Thái Hằng Phạm Duy Hoài Bắc Ý Lan Tham khảo Liên kết ngoài Georges Etienne Gauthier, Nghĩ Về Nghệ thuật Của Thái Thanh , 1972 Thái Thanh tại Phố Xưa T Ca sĩ hải ngoại Ca sĩ nhạc Phạm Duy Người Hà Nội Nghệ sĩ người Mỹ gốc Việt Nhạc sĩ người Mỹ gốc Việt Người Mỹ gốc Việt Nữ ca sĩ Việt Nam Ca sĩ Việt nổi tiếng trước 1975 Nữ ca sĩ Việt Nam Cộng hòa Phật tử Việt Nam Nữ ca sĩ nhạc pop Mỹ Người Việt di cư tới Mỹ Ca sĩ pop Việt Nam
25649
https://vi.wikipedia.org/wiki/Giao%20di%E1%BB%87n%20%C4%91%E1%BB%93%20h%E1%BB%8Da%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20d%C3%B9ng
Giao diện đồ họa người dùng
Giao diện đồ họa người dùng (tiếng Anh: graphical user interface, viết tắt là GUI) là một dạng giao diện người dùng cho phép giao tiếp với máy tính hay các thiết bị điện tử bằng hình ảnh và chữ viết thay vì chỉ là các dòng lệnh đơn thuần. GUI được sử dụng phổ biến trong máy tính, các thiết bị cầm tay, các thiết bị đa phương tiện, hoặc các linh kiện điện tử trong văn phòng, nhà ở,... Phạm vi sử dụng thuật ngữ GUI hầu như chỉ được giới hạn trong các thiết bị có màn hình 2 chiều. Nó ít được sử dụng trong các thiết bị với giao diện có độ phân giải thấp như một số thiết bị chơi game (HUD được sử dụng nhiều hơn). GUI được các nhà nghiên cứu tại Xerox PARC phát triển trong thập niên 1970. Ngày nay hầu hết các hệ điều hành máy tính nhiều người dùng đều sử dụng giao diện này. Cha đẻ của GUI Douglas Englebart hiện được xem là cha đẻ của giao diện người dùng đồ họa lúc còn sơ khai. Sau khi tốt nghiệp ngành kĩ thuật điện vào năm 1948, Douglas làm việc tại Viện NACA (NACA Institute, tiền thân của NASA hiện giờ). Sau đó, với mong muốn được làm công việc có thể mang lại lợi ích cho toàn nhân loại, ông đã nghĩ đến việc xây dựng một chiếc máy có thể làm tăng trí tuệ con người. Trong giai đoạn chiến tranh, Douglas làm việc với vai trò là một kiểm soát viên rađa để có thể hình dung ra một thiết bị hiển thị được xây dựng xoay quanh các ống tia cathode mà qua đó người dùng có thể xây dựng các mô hình thông tin một cách trực quan thông qua đồ họa, và họ có thể tương tác với bất cứ những gì họ nhìn thấy. Để có thể thực hiện được ý tưởng này, ông phải tìm nguồn tài trợ. Song, đó không phải là việc dễ dàng mà có thể thực hiện được trong thời gian ngắn. Năm 1955, Douglas đạt được học vị tiến sĩ và vào làm việc tại Học viện Nghiên cứu Stanford (Standford Research Institute), và tại đó ông đã đạt được nhiều bằng sáng chế về "các thành phần tiểu hóa máy tính" (miniaturizing computer components). 1959, ông đã thuyết phục được Không quân Hoa Kỳ (United States Air Force) hỗ trợ quỹ cho ý tưởng của ông. 1962, ông cho xuất bản luận văn Augmenting Human Intellect với nội dung chính là các ý tưởng mà ông đã ấp ủ. Qua luận văn này, ông khẳng định "máy tính không phải để thay thế trí tuệ con người, mà là để cải thiện nó". Một trong những ví dụ mà ông sử dụng trong luận văn này là một kiến trúc sư sử dụng một công cụ nào đó tương tự các phần mềm CAD ngày nay để thiết kế nên các tòa nhà. Douglas và các cộng sự của ông tiếp tục làm việc để phát triển các ý tưởng và công nghệ này. Và vào năm 1968, một sự trình diễn công khai được thực hiện trước hơn 1000 các chuyên gia máy tính về những thành quả từ những ý tưởng ban đầu của ông. Lịch sử Tiền thân Tiền thân của GUI được khai sinh bởi những nhà nghiên cứu tại Standford Research Institute - được dẫn đầu bởi Douglas Engelbart. Khi đó, họ phát triển việc sử dụng những siêu liên kết (hyperlinks) dựa trên chữ cho hệ thống trực tuyến (On-Line System), trong đó các liên kết được thao tác với một con chuột. Khái niệm siêu liên kết sau đó đã được các nhà nghiên cứu tại Xerox PARC mở rộng sang phạm vi đồ họa. 1963, Sketchpad, một hệ thống dựa trên con trỏ (pointer) được phát triển bởi Ivan Sutherland. Hệ thống này sử dụng một cây bút phát sáng để thao tác việc tạo và thao tác với các đối tượng trong các bản vẽ kĩ thuật. Giao diện người dùng PARC Giao diện người dùng PARC gồm các thành phần đồ họa như cửa sổ (window), thực đơn (menu), nút kiểm tròn (radio button), ô kiểm vuông (check box) và các biểu tượng (icon). Tiến hóa Dựa trên hệ thống tiền thân, lần lượt các hệ thống đồ họa được ra đời. Năm 1981, mô hình điều hành máy tính dựa trên GUI đầu tiên được ra đời là Xerox 8010 Star Information System. Tiếp theo đó là Apple Lisa năm 1983, Macintosh 128K của Apple năm 1984, Atari ST và Commodore Amiga năm 1985. Việc điều khiển đồ họa bằng lệnh (command) được khai sinh khi IBM cho ra đời Common User Access (1987), trong đó các chuỗi lệnh khác nhau sẽ được áp dụng cho các chương trình khác nhau như: phím F3 sẽ kích hoạt chế độ hỗ trợ trong WordPerfect, nhưng nó sẽ đóng chương trình trong các ứng dụng khác của IBM. Tiếp nối sự phát triển của các hệ thống GUI là sự ra đời của các keyboard overlays (tạm dịch, bàn phím cho phép điều chỉnh bố cục chức năng). Đó là những mảnh giấy hay plastic được đặt trong những chỗ trống giữa các phím, nó có nhiệm vụ cung cấp cho người dùng chức năng của các phím khác nhau của các ứng dụng đã được xác định. Có thể hình dung những bàn phím như vậy với những keystroke ngày nay như: Control-Alt-Delete sẽ mở Task Manager trong hệ điều hành Windows, còn trong các hệ thống Unix thì sẽ tắt máy tính. Các hệ thống GUI phổ biến ngày nay là Microsoft Windows, Mac OS X, X Window System trên các PC (Personal Computer), laptop. Ngoài ra còn có sự góp mặt của các thiết bị di động như Symbian, BlackBerry OS, Android, iOS. Các hệ thống này đều được phát triển dựa trên những ý tưởng ban đầu của Xerox, cho nên chúng gần như có các khái niệm tương tự nhau (như button, radio button, menu...) Các thành phần trong GUI Một hệ thống GUI là sự kết hợp của các công nghệ, thiết bị để cung cấp cho người dùng một nền tảng cho phép người sử dụng có thể tương tác với nó. Một chuỗi các thành phần của GUI tuân theo một ngôn ngữ trực quan (visual language) để biểu diễn thông tin được lưu trữ trong các máy tính. Thông dụng nhất khi kể đến sự kết hợp các thành phần như vậy là mô hình WIMP (window, icon, menu, pointing device) trong các máy tính cá nhân. Xem thêm Các thành tố điều khiển dùng trong GUI Tham khảo Giao diện máy tính Giao diện đồ họa người dùng Phát minh của Hoa Kỳ
25651
https://vi.wikipedia.org/wiki/Audrey%20Hepburn
Audrey Hepburn
Audrey Hepburn (; tên khai sinh Audrey Kathleen Ruston; 4 tháng 5 năm 1929 – 20 tháng 1 năm 1993) là một nữ diễn viên người Anh. Là biểu tượng của điện ảnh và thời trang, Hepburn hoạt động trong thời Hoàng kim của Hollywood. Bà xếp ở vị trí thứ 3 trong danh sách những huyền thoại vĩ đại nhất lịch sử chiếu bóng Hoa Kỳ do Viện phim Mỹ bình chọn và được vinh danh tại Đại lộ Danh vọng Hollywood. Sinh ra tại Ixelles, một quận của Brussels, Hepburn trưởng thành tại Bỉ, Anh và Hà Lan, bao gồm khu vực Arnhem bị Đức chiếm đóng trong Chiến tranh thế giới thứ hai, nơi bà làm việc chuyển phát nhanh trong cuộc kháng chiến chống Đức và hỗ trợ gây quỹ. Tại Amsterdam, bà theo học bộ môn kịch múa với Sonia Gaskell, trước khi chuyển đến Luân Đôn vào năm 1948 để tiếp tục chương trình luyện tập cùng Marie Rambert và hát bè tại các chương trình nhạc kịch West End. Sau khi tham gia nhiều vai phụ trong các bộ phim, Hepburn được tiểu thuyết gia người Pháp Colette chú ý và sắm vai chính trong vở kịch Broadway Gigi (1951). Bà bứt phá bằng vai chính trong Roman Holiday (1953), đem lại cho bà giải Oscar, giải Quả cầu vàng và giải BAFTA. Cùng năm đó, Hepburn thắng giải Tony cho "Nữ diễn viên chính kịch xuất sắc nhất" với diễn xuất trong Ondine. Bà tiếp tục xuất hiện trong nhiều bộ phim thành công, như Sabrina (1954), The Nun's Story (1959), Breakfast at Tiffany's (1961), Charade (1963), My Fair Lady (1964) và Wait Until Dark (1967). Bà lập kỷ lục khi thắng 3 giải BAFTA cho "Nữ diễn viên chính Anh Quốc xuất sắc nhất". Trong sự nghiệp điện ảnh, bà được vinh danh bằng Giải BAFTA Thành tựu trọn đời, giải Quả cầu vàng Cecil B. DeMille, giải thưởng Thành tựu trọn đời của Hội Diễn viên Điện ảnh và giải thưởng Tony đặc biệt. Bà là một trong số ít nghệ sĩ đã giành giải Oscar, Emmy, Grammy và Tony. Hepburn sau này ít tham gia diễn xuất mà cống hiến nhiều hơn cho UNICEF. Dù đóng góp cho tổ chức này từ năm 1954, bà chỉ mới làm việc tại những cộng đồng khó khăn nhất tại châu Phi, Nam Phi và châu Á giữa năm 1988 và năm 1992. Bà được phong tặng Huân chương Tự do Tổng thống để ghi nhận đóng góp dưới cương vị của một Đại sứ Thiện chí của UNICEF vào tháng 12 năm 1992. Một tháng sau, Hepburn qua đời vì căn bệnh ung thư ruột thừa tại nhà riêng ở Thụy Sĩ, hưởng thọ 63 tuổi. Cuộc đời và sự nghiệp 1929–38: Gia đình và những năm đầu đời Hepburn tên thật là Audrey Kathleen van Heemstra Ruston, sinh ngày 4 tháng 5 năm 1929 tại số 48 Rue Keyenveld, quận Ixelles, vùng nói hai ngôn ngữ và là một quận thuộc thủ đô Bruxelles của Bỉ. Cha của bà, Joseph Victor Anthony Ruston (1889–1980) là một người Anh sinh tại Úžice, Bohemia, trong gia đình của Anna Ruston (nhũ danh Wels), mang dòng máu Áo; và Victor John George Ruston, có gốc gác từ Anh Quốc và Áo. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, Joseph được lãnh sự Anh chỉ định tại Đông Ấn Hà Lan; trước khi kết hôn với mẹ của Hepburn, ông từng có một cuộc hôn nhân với Cornelia Bisschop, một nhà thừa kế người Hà Lan. Dù sinh tại Ruston, ông lại lấy họ Hepburn-Ruston "mang tính quý tộc" hơn, nhầm lẫn mình là hậu duệ của James Hepburn, người chồng thứ ba của Mary I của Scotland. Hepburn giữ quốc tịch Anh Quốc thông qua cha của bà. Mẹ của Hepburn, Nữ Nam tước Ella van Heemstra (1900–1984), là một quý tộc người Hà Lan, con gái của Nam tước Aarnoud van Heemstra, thị trưởng của Arnhem từ năm 1910 và 1920 và là Thống đốc của Suriname thuộc Hà Lan từ năm 1921 đến 1928. Mẹ của Ella là Elbrig Willemine Henriette, nữ Nam tước van Asbeck (1873–1939), là cháu gái của Bá tước Dirk van Hogendorp. Năm 19 tuổi, Ella kết hôn với nhà quý tộc Hendrik Gustaaf Adolf Quarles van Ufford, một nhà điều hành dầu mỏ tại Batavia, Dutch East Indies, nơi họ sinh sống sau đó. Họ có hai người con trai, Jonkheer Arnoud Robert Alexander Quarles van Ufford (1920–1979) và Jonkheer Ian Edgar Bruce Quarles van Ufford (1924–2010), trước khi ly hôn vào năm 1925. Cha mẹ của Hepburn kết hôn tại Batavia vào tháng 9 năm 1926. Lúc đó, Ruston làm việc tại một công ty giao dịch, nhưng không lâu sau khi kết hôn, hai người chuyển đến châu Âu, nơi ông làm việc tại một công ty cho vay. Sau 1 năm ở Luân Đôn, họ dời về Brussels, nơi ông được giao một văn phòng chi nhánh. Họ trải qua thêm 3 năm bôn ba giữa Brussels, Arnhem, The Hague và Luân Đôn, trước khi định cư tại khu đô thị Linkebeek vào năm 1932. Thuở thơ ấu của Hepburn rất êm đềm và được chiều chuộng. Nhờ xuất thân đa quốc gia và phải đi lại nhiều vì công việc của cha mình, Hepburn biết nói đến 5 ngôn ngữ: tiếng Hà Lan và tiếng Anh từ gia đình; sau đó bà học thêm tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha và tiếng Ý. Để trau dồi thêm Anh ngữ, Hepburn theo học tại một trường nội trú ở Elham, Kent khi lên 5 tuổi. Cha mẹ của Hepburn là thành viên của Liên minh Phát xít Anh vào giữa những năm 1930, trong khi cha của bà trở thành một người ủng hộ Đức Quốc xã thực thụ. Joseph đột ngột thoát ly khỏi gia đình vào năm 1935 và ly hôn với Ella vào năm 1938; tính cực đoan gia tăng, những cáo buộc của cha vợ rằng ông là người vô trách nhiệm về tài chính, sự bất trung, và nghiện rượu được cho là những nguyên nhân gây nên sự đứt đoạn hôn nhân. Ella là người nhận nuôi Hepburn và cho dù Joseph—người định cư tại Luân Đôn lúc bấy giờ—có quyền đến thăm nuôi, ông lại không dùng đến quyền lợi này. Hepburn sau này khẳng định sự thiếu vắng bóng hình của người cha là "sự kiện đau thương nhất đời tôi". Vào thập niên 1960, Hepburn liên lạc lại với cha mình sau khi biết ông đang ở Dublin thông qua Hội Chữ thập đỏ; dù ông còn lạnh nhạt với bà, Hepburn vẫn trợ cấp tài chính cho ông cho đến cuối đời. Sau khi ly hôn, Ella bắt đầu đến thăm Kent thường xuyên hơn. 1939–45: Thời niên thiếu trong Chiến tranh thế giới thứ hai Sau khi Anh tuyên bố chiến tranh tại Đức vào tháng 9 năm 1939, mẹ của Hepburn dắt con gái về sống tại Arnhem, với hy vọng trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Hà Lan sẽ không bị ảnh hưởng từ các cuộc tấn công của Đức. Tại đó, Hepburn theo học Nhạc viện Arnhem từ năm 1939 đến 1945. Bà bắt đầu tham gia các khóa học kịch múa trong những năm học nội trú cuối cùng và tiếp tục khổ luyện ở Arnhem dưới sự giám sát của Winja Marova, trở thành "học trò xuất sắc" của bà. Sau khi Đức xâm lược Hà Lan vào năm 1940, Hepburn lấy họ Edda van Heemstra, vì cái tên gốc Anh có thể gây nguy hiểm cho bà dưới sự chiếm đóng của Đức Quốc xã. Gia đình của bà bị ảnh hưởng một cách sâu sắc bởi cuộc chiếm đóng, Hepburn chia sẻ "nếu biết mình bị chiếm giữ trong 5 năm thì chúng tôi có lẽ đã tự sát. Chúng tôi nghĩ mọi chuyện sẽ chấm dứt trong một tuần... sáu tháng... một năm... đó là cách chúng tôi vượt qua". Vào năm 1942, chú của bà, Otto van Limburg Stirum (chồng của dì Miesje) bị tử hình vì tội phá hoại bởi phong trào kháng chiến; dù không liên quan đến vụ việc, ông vẫn bị theo dõi vì sự nổi tiếng của gia đình trong cộng đồng Hà Lan. Người anh em kế của Hepburn, Ian, bị đày đến một trại lao động tại Berlin, trong khi Alex, một người anh em kế khác, cũng phải ở ẩn để tránh bị lưu đày đi nơi khác. Sau khi chú của bà qua đời, Hepburn, Ella và Miesje rời bỏ Arnhem để đến gần Velp, sống cùng ông là Baron Aarnoud van Heemstra. Trong thời gian này, Hepburn tham gia cuộc kháng chiến Hà Lan, làm liên lạc, giao thư và bưu kiện, trong khi trình diễn kịch múa tại những sự kiện gây quỹ bí mật. Ngoài những sự kiện đau thương khác, bà phải chứng kiến cuộc di chuyển của những người Do Thái Hà Lan đến trại tập trung, bà kể lại "Tôi nhiều lần thấy đoàn tàu chở người Do Thái tại trạm, nhìn tất cả những gương mặt trên đỉnh toa xe. Tôi nhớ rất rõ, có một cậu bé đứng cùng cha mẹ mình trên xe, trông cậu ấy nhợt nhạt cùng mái tóc vàng hoe, mặc một chiếc áo khoác quá cỡ và bước lên đoàn tàu. Tôi nhìn thấy cậu bé trong lúc mình còn là một đứa trẻ." Sau khi quân Đồng minh hạ cánh vào ngày 6 tháng 6 năm 1944, điều kiện sinh sống trở nên tệ hơn và Arnhem sau đó bị phá hủy trong Chiến dịch Market Garden. Trong lúc nạn đói tại Hà Lan kéo dài đến mùa Đông năm 1944, quân Đức chặn lộ trình tiếp tế thực phẩm và nhiên liệu đến người dân Hà Lan. Hepburn và nhiều người khác tham gia làm bánh quy từ bột mì và bóng đèn tulip; cơ thể bà bị thiếu máu cấp tính, gặp các vấn đề về hô hấp và phù nề, là kết quả của căn bệnh suy dinh dưỡng. Gia đình The van Heemstra cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng về tài chính bởi cuộc chiếm đóng, trong đó, nhiều tài sản của họ—bao gồm nguồn bất động sản chính tại Arnhem—bị phá hủy và thiếu hụt trầm trọng. Quân Đồng minh giải phóng Hà Lan vào tháng 5 năm 1945; Liên hiệp Quốc về Quản trị cứu trợ và phục hồi chức năng bắt đầu cung cấp thức ăn và các yếu phẩm khác. 1945–52: Kịch múa và khởi nghiệp diễn xuất Sau khi chiến tranh kết thúc vào năm 1945, Hepburn chuyển đến ở cùng mẹ và anh chị em tại Amsterdam, nơi bà bắt đầu luyện tập kịch múa cùng Sonia Gaskell, một biểu tượng hàng đầu trong thể loại kịch múa Hà Lan và Olga Tarassova. Khi tài sản của gia đình bị thất lạc trong chiến tranh, Ella bươn chải bằng việc trở thành đầu bếp và quản gia cho một gia đình giàu có. Hepburn lần đầu tiên tham gia điện ảnh năm 1948, vào vai tiếp viên hàng không trong Dutch in Seven Lessons, một bộ phim giáo dục du lịch do Charles van der Linden và Henry Josephson thực hiện. Cuối năm đó, bà chuyển đến Luân Đôn để nhận học bổng kịch múa cùng Ballet Rambert, sau này diễn ra tại Notting Hill. Bà tự nuôi bản thân bằng công việc người mẫu bán thời gian và bỏ họ "Ruston". Sau khi Rambert bảo rằng tuy Hepburn rất tài năng, chiều cao và thể trạng yếu ớt (hậu quả của căn bệnh suy dinh dưỡng trong thời chiến) có thể khiến bà không thể đạt đến danh hiệu prima ballerina, bà quyết định tập trung vào sự nghiệp diễn xuất. Khi Ella phải làm nhiều công việc hèn mọn để hỗ trợ gia đình, Hepburn hát bè tại nhiều vở nhạc kịch tại nhà hát West End như High Button Shoes (1948) ở London Hippodrome và Sauce Piquante (1950) ở Nhà hát Cambridge. Trong lúc tham gia kịch nghệ, bà theo học nhiều khóa diễn thuyết cùng diễn viên Felix Aylmer để cải thiện giọng nói. Sau khi được một đạo diễn tuyển vai chú ý lúc trình bày trong Sauce Piquante, Hepburn trở thành một nữ diễn viên tự do của hãng Associated British Picture Corporation. Bà xuất hiện trong nhiều vai nhỏ trong những bộ phim năm 1951 One Wild Oat, Laughter in Paradise, Young Wives' Tale và The Lavender Hill Mob, trước khi sắm vai phụ đầu tiên trong The Secret People (1952) của Thorold Dickinson, nơi bà vào vai một nữ vũ công kịch múa phi thường và tự mình trình diễn tất cả các phân đoạn khiêu vũ. Hepburn sau đó nhận một vai nhỏ trong bộ phim sử dụng cả tiếng Anh và Pháp, Monte Carlo Baby (Nous Irons à Monte Carlo) (1951), ghi hình tại Monte Carlo. Tình cờ thay, tiểu thuyết gia người Pháp Colette đang ở Hôtel de Paris tại Monte Carlo trong lúc quay và quyết định tuyển Hepburn vào vai chính trong vở kịch Broadway Gigi. Hepburn đến tập dượt và yêu cầu huấn luyện riêng. Khi Gigi mở màn tại Nhà hát Fulton ngày 24 tháng 11 năm 1951, bà nhận nhiều lời khen ngợi cho diễn xuất của mình, cho dù phiên bản sân khấu bị chê trách so với phiên bản tiếng Pháp. Life gọi bà là "một cú hích mạnh" trong khi The New York Times khẳng định "khí chất của bà thành công đến mức khiến bà là điểm sáng của đêm diễn". Bà còn nhận thêm Giải Nhà hát thế giới cho vai diễn này. Vở kịch diễn ra trong 219 suất, hạ màn vào ngày 31 tháng 5 năm 1952, trước khi trở lại lưu diễn từ ngày 13 tháng 10 năm 1952 tại Pittsburgh và ghé qua Cleveland, Chicago, Detroit, Washington D.C. và Los Angeles. Chương trình kết thúc ngày 16 tháng 5 năm 1953 tại San Francisco. Vào năm 1952, Hepburn đính hôn với James Hanson, Baron Hanson, người quen biết với bà từ những ngày đầu ở Luân Đôn. Bà gọi đó là "tình yêu ngay từ ánh nhìn đầu tiên", nhưng sau khi đặt váy cưới và hẹn ngày, bà quyết định hủy hôn ước vì sự nghiệp diễn xuất có thể khiến họ xa cách lâu dài. Bà xuất bản một thông báo chính thức về quyết định của mình, nói rằng "Khi tôi kết hôn, tôi muốn mình thực sự kết hôn". Vào đầu những năm 1950, bà còn hẹn hò với nhà sản xuất Hair, Michael Butler. 1953–60: Roman Holiday và bứt phá Vai chính diện điện ảnh đầu tiên của Hepburn là nàng Công chúa Anne trong Roman Holiday (1953), người bỏ trốn khỏi cuộc sống hoàng gia và phải lòng một phóng viên người Mỹ (Gregory Peck). Nhà sản xuất của phim ban đầu muốn Elizabeth Taylor cho vai diễn, nhưng đạo diễn William Wyler lại ấn tượng với buổi thử vai của Hepburn đến nỗi tuyển bà cho bộ phim này. Wyler nói rằng, "Cô ấy có tất cả những gì tôi tìm kiếm: Duyên dáng, ngây thơ và tài năng. Cô ấy còn rất khôi hài và hết sức tuyệt vời! Chúng tôi đã nói: Đây chính là cô ấy! Họ cũng chỉ muốn đưa tên của Gregory Peck phía trên tựa đề, với dòng chữ "Giới thiệu Audrey Hepburn" in nhỏ bên dưới. Dù vậy, Peck muốn Wyler đưa tên của bà cùng kích cỡ và vị trí với ông, khi cả hai nhận số tiền như nhau: "Bạn phải thay đổi điều đó vì cô ấy sẽ là một ngôi sao lớn còn tôi sẽ trông như một gã đểu." Bộ phim đạt thành công rực rỡ tại phòng vé và đem về cho Hepburn nhiều lời khen ngợi, bất ngờ chiến thắng giải Oscar cho "Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất", giải BAFTA cho "Nữ diễn viên chính Anh Quốc xuất sắc nhất" và giải Quả cầu vàng cho "Nữ diễn viên phim chính kịch xuất sắc nhất" năm 1953. Trong bài nhận xét trên tờ The New York Times, A. H. Weiler viết rằng nhân vật Công chúa Anne "là một vẻ đẹp mảnh mai, tinh nghịch và đượm buồn, xen kẽ nét vương giả và nghịch ngợm trong sự mới mẻ, niềm vui đơn giản và tình yêu. Dù mỉm cười mạnh mẽ khi biết cuộc tình kia chấm dứt, cô vẫn là hình tượng cô độc một cách đáng thương phải đối diện với tương lai ngột ngạt." Hepburn ký kết một hợp đồng gồm 7 bộ phim cùng hãng Paramount với 12 tháng nghỉ ngơi giữa các bộ phim để bà dành thời gian cho tác phẩm sân khấu. Bà xuất hiện trên bìa tạp chí Time vào ngày 7 tháng 9 năm 1953, trở nên nổi tiếng bởi phong cách cá nhân của bà. Sau thành công của Roman Holiday, Hepburn đóng trong bộ phim hài lãng mạn dựa trên câu chuyện của Lọ Lem–Sabrina (1954), nơi hai anh em giàu có (Humphrey Bogart và William Holden) ganh đua để lấy lòng cô con gái ngây thơ của người tài xế (Hepburn). Với vai diễn này, bà giành đề cử cho "Nữ diễn viên xuất sắc nhất" tại lễ trao giải Oscar lần thứ 27 và thắng giải BAFTA cho "Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất" trong cùng một năm. Bosley Crowther của The New York Times khẳng định bà là "một quý cô trẻ tuổi với phạm vi biểu hiện sự nhạy cảm và cảm động phi thường chỉ trong một khung hình yếu đuối và mảnh mai. Bà còn tỏa sáng với vai con gái của người tài xế hơn hình tượng nàng công chúa vào năm ngoái và không thể nói được gì hơn." Hepburn còn trở lại sân khấu năm 1954, vào vai một vị thần nước trong vở kịch Broadway giả tưởng Ondine. Một nhà phê bình trên New York Times có viết "bằng một cách nào đó, Quý cô Hepburn đã truyền tải sự mơ hồ sang ngôn ngữ của sân khấu mà không hề giả dối. Phần trình diễn của bà vô cùng duyên dáng và mê hoặc". Với vai diễn, bà giành giải Tony cho "Nữ diễn viên chính kịch xuất sắc nhất", cùng năm bà thắng giải Oscar cho Roman Holiday. Tại một bữa tiệc dạ hội do Gregory Peck tổ chức, bà gặp nam diễn viên người Mỹ Mel Ferrer và cả hai quyết định hợp tác trong Ondine. Trong giai đoạn sản xuất vở kịch, hai người nảy sinh tình cảm và kết hôn 8 tháng sau đó, vào ngày 25 tháng 9 năm 1954, tại Bürgenstock, Thụy Sĩ. Dù không xuất hiện trong bộ phim mới nào vào năm 1955, Hepburn vẫn giành giải Quả cầu vàng cho "Phim yêu thích thế giới" năm đó. Trở thành một trong những diễn viên bội thu tại phòng vé, bà tiếp tục diễn trong hàng loạt phim thành công ở nửa sau thập kỷ, bao gồm vai diễn Natasha Rostova—giành đề cử giải BAFTA và Quả cầu vàng—trong War and Peace (1956), một phiên bản chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết của Tolstoy lấy bối cảnh trong cuộc chiến tranh Napoleon, với sự góp mặt của Henry Fonda và người chồng Mel Ferrer. Năm 1957, bà phô bày kỹ năng khiêu vũ trong phim nhạc kịch Funny Face (1957), nơi Fred Astaire, một nhiếp ảnh gia thời trang, biến một cô nhân viên bán hàng sách thành người mẫu thời trang. Cùng năm đó, bà góp mặt trong phim lãng mạn hài, Love in the Afternoon, bên cạnh Gary Cooper và Maurice Chevalier. Hepburn diễn vai nữ tu Luke trong The Nun's Story (1959), tập trung vào những tranh đấu của nhân vật để trở thành một nữ tu sĩ, với sự góp mặt của Peter Finch. Vai diễn mang về đề cử giải Oscar thứ ba cho Hepburn và giúp bà đoạt giải BAFTA lần thứ hai. Một đánh giá của Variety có viết "Hepburn đã giành được vai diễn điện ảnh khắt khe nhất và có màn diễn xuất hoàn hảo nhất", trong khi Films in Review khẳng định diễn xuất của bà "sẽ khiến bất kỳ ai nghĩ bà không phải là một diễn viên mà chỉ là một biểu tượng tinh vi của tuổi thơ/một người phụ nữ phải im lặng mãi mãi. Vai Sư cô Luke là một trong những màn diễn xuất hay nhất trên màn ảnh." Theo báo cáo, bà dành nhiều giờ liền trong tu viện với những thành viên của Nhà thờ để khiến vai diễn trở nên trung thực hơn, khẳng định bà "tập trung nhiều thời gian, năng lượng và suy nghĩ nhiều hơn những vai diễn khác." Sau The Nun's Story, Hepburn nhận nhiều đánh giá ảm đạm với diễn xuất cùng Anthony Perkins trong phim lãng mạn ly kỳ Green Mansions (1959). Bà vào vai Rima, một cô gái rừng xanh phải lòng một du khách người Venezuela và The Unforgiven (1960), bộ phim miền Viễn tây duy nhất của bà, với sự xuất hiện của Burt Lancaster và Lillian Gish trong một câu chuyện về phân biệt chủng tộc với một nhóm người Mỹ bản địa. 1961–67: Breakfast at Tiffany's và tiếp tục thành công Hepburn đóng vai một cô gái vô công rỗi nghề chuyên quyến rũ đàn ông trong Breakfast at Tiffany's (1961) của Blake Edwards, dựa trên quyển tiểu thuyết cùng tên của Truman Capote. Capote không đồng ý với nhiều thay đổi trong phiên bản chuyển thể điện ảnh này và muốn chọn Marilyn Monroe vào vai chính, dù ông vẫn khẳng định Hepburn "đã nhập vai một cách tuyệt vời". Holly Golightly được xem là một trong những nhân vật biểu tượng của nền điện ảnh Hoa Kỳ và là vai diễn quyết định của Hepburn. Chiếc váy mà bà mặc trong đoạn mở đầu phim được xem là một biểu tượng của thế kỷ XX và có thể là "chiếc đầm đen nhỏ" nổi tiếng nhất mọi thời đại. Hepburn khẳng định đây là vai diễn "vui nhộn nhất sự nghiệp của tôi" và thú nhận: "Tôi là người hướng nội. Đóng một phụ nữ sôi nổi là điều khó nhất tôi từng làm." Cùng năm đó, Hepburn còn góp mặt trong bộ phim chính kịch nhiều tranh cãi của William Wyler The Children's Hour (1961), nơi bà và Shirley MacLaine vào vai những giáo viên sống trong rắc rối sau khi một học sinh cáo buộc họ là người đồng tính nữ. Vì những định kiến lúc bấy giờ, bộ phim và diễn xuất của Hepburn phần lớn bị phớt lờ, cả về thương mại lẫn phê bình. Bosley Crowther của The New York Times cho rằng bộ phim "có diễn xuất không quá nổi bật", ngoại trừ Hepburn khi "mô tả cảm xúc nhạy cảm và thuần khiết", trong khi tạp chí Variety khen ngợi "nét nhạy cảm nhẹ nhàng", với "sự bổ sung hoàn hảo" của Hepburn và MacLaine. Hepburn vào vai một người phụ nữ góa phụ trong phim hài ly kỳ Charade (1963), bên cạnh nam diễn viên Cary Grant. Grant lúc đó 59 tuổi, từng từ chối diễn xuất cùng Audrey trong Roman Holiday và Sabrina vì khoảng cách tuổi với Hepburn, khi phải diễn nhiều cảnh thân mật với nữ diễn viên chỉ 34 tuổi. Để giải tỏa lo lắng của ông, các nhà làm phim đồng ý đổi kịch bản sao cho nhân vật của Hepburn là người theo đuổi tình cảm của ông. Bộ phim là một trải nghiệm tích cực của ông, khẳng định "Tất cả những gì tôi muốn cho lễ Giáng sinh là một phim khác cùng Audrey." Vai diễn mang về cho Hepburn giải BAFTA cuối cùng trong sự nghiệp và một đề cử nữa cho giải Quả cầu vàng. Hepburn tái hợp với diễn viên William Holden trong Paris When It Sizzles (1964), một bộ phim hài kịch điên ("screwball comedy"), nơi bà hóa thân vào một trợ lý biên kịch Hollywood trẻ tuổi. Quá trình sản xuất phim gặp nhiều rắc rối: Holden không thể nối lại sự lãng mạn với Hepburn và chứng nghiện rượu của ông bắt đầu ảnh hưởng đến công việc. Sau khi phim bắt đầu khởi quay, bà yêu cầu sa thải nhà quay phim Claude Renoir vì cảm thấy những đoạn phim thô không tốt. Bà còn đề nghị sử dụng phòng trang điểm số 55 vì đó là con số may mắn của bà và yêu cầu Givenchy, nhà tạo mẫu lâu năm của bà, đề cập đến dòng nước hoa của bà trong đoạn giới thiệu cuối phim. Các nhà phê bình chỉ trích bộ phim, nhưng không quá khắt khe với diễn xuất của Hepburn, mô tả bà là "một tạo hóa độc đáo và mới mẻ trong kỷ nguyên của những đường cong phóng đại". Bộ phim thứ hai của Hepburn vào năm 1964 là chuyển thể điện ảnh của vở nhạc kịch My Fair Lady, do George Cukor đạo diễn và phát hành vào tháng 11. Soundstage viết rằng "chưa có bộ phim nào gây nhiều hứng thú đến công chúng như My Fair Lady kể từ Gone with the Wind." Phần tuyển vai cho nhân vật Eliza Doolittle gây nhiều tranh cãi. Julie Andrews, người thể hiện nhân vật này trên phiên bản sân khấu, không được mời vì nhà sản xuất Jack L. Warner nghĩ rằng Hepburn hay Elizabeth Taylor là những lựa chọn "sinh lời" hơn Hepburn ban đầu nhờ Warner đưa vai diễn này cho Andrews nhưng bà mới là người được chọn. Nhiều xung đột diễn ra khi—cho dù Hepburn từng hát trong Funny Face và trải qua thời gian luyện giọng cho vai diễn trong My Fair Lady—giọng hát của nhân vật này lại do Marni Nixon đảm nhận vì những bài hát không được sáng tác cho quãng giọng của Hepburn. Hepburn rất tức giận và rời khỏi trường quay khi biết tin. Giới truyền thông thêu dệt nên câu chuyện ganh đua giữa Hepburn và Andrews, khi Andrews giành giải Oscar cho Mary Poppins tại lễ trao giải lần thứ 37 nhưng Hepburn không được đề cử, dù My Fair Lady tích lũy 8 trên 12 giải thưởng. Dù vậy, các nhà phê bình vẫn khen ngợi màn trình diễn "tinh tế" của Hepburn. Crowther viết rằng "điều hạnh phúc nhất về [My Fair Lady] là Audrey Hepburn đã chứng minh quyết định sáng suốt của Jack Warner khi tuyển bà vào vai chính." Gene Ringgold của Soundstage viết "Mọi người đều đồng ý nếu Julie Andrews không xuất hiện trong bộ phim thì Audrey Hepburn là sự lựa chọn hoàn hảo nhất." Trong một thập kỷ tới, Hepburn xuất hiện trong nhiều bộ phim theo thể loại khác nhau, bao gồm phim hài How to Steal a Million (1966), nơi bà đóng vai cô con gái của một nhà sưu tầm tranh nổi tiếng, cùng với diễn viên Peter O'Toole. Tiếp đến vào năm 1967, bà góp mặt trong hai bộ phim. Đầu tiên là Two for the Road, một bộ phim hài chính kịch kể về một cuộc hôn nhân đầy rắc rối. Đạo diễn Stanley Donen phát biểu ông thấy Hepburn tự do và hạnh phúc chưa từng thấy cùng nam diễn viên Albert Finney. Bộ phim còn lại thuộc thể loại ly kỳ mang tên Wait Until Dark, khi Hepburn hóa thân vào một người phụ nữ mù bị tấn công. Phim ghi hình vào lúc bà đứng trên bờ vực ly hôn và người chồng lúc bấy giờ, Mel Ferrer là nhà sản xuất của phim. Bộ phim là một khó khăn với Hepburn—bà tụt mất 15 pound do căng thẳng, nhưng nhận được lời động viên của diễn viên Richard Crenna và đạo diễn Terence Young. Hepburn nhận đề cử giải Oscar cuối cùng trong sự nghiệp cho "Nữ diễn viên xuất sắc nhất". Bosley Crowther viết rằng đây là một "vai diễn chua cay" và Hepburn "vô cùng chân thật" trong những cảnh cuối cùng. Hepburn bị sảy thai hai lần, lần đầu vào tháng 3 năm 1955 và một lần nữa vào năm 1959, khi bà bị ngã trên lưng ngựa trong lúc ghi hình The Unforgiven (1960). Lúc mang thai lần thứ ba, bà nghỉ ngơi cả năm để tránh ảnh hưởng đến thai nhi; con trai của họ, Sean Hepburn Ferrer, hạ sinh ngày 17 tháng 7 năm 1960. Bà bị sảy thai thêm hai lần nữa vào năm 1965 và 1967. Dù có nhiều đồn đoán về cuộc hôn nhân, Hepburn khẳng định bà và Ferrer vẫn hạnh phúc và không thể tách rời, nhưng vẫn thú nhận ông thường hay nổi nóng. Ferrer bị đồn là một người kiểm soát thái quá và thường được nhắc đến là "Svengali" của Hepburn—một cáo buộc khiến Hepburn phì cười. William Holden từng nói rằng "Audrey khiến Mel nghĩ ông ta mang những ảnh hưởng lớn lao đến bà ấy." Sau cuộc hôn nhân kéo dài 14 năm, cả hai ly hôn ngày 5 tháng 12 năm 1968. 1968–93: Tạm vắng bóng và những dự án cuối cùng Sau năm 1967, Hepburn quyết định dành nhiều thời gian cho gia đình và ít diễn xuất trong nhiều thập niên sau đó. Bà gặp gỡ người chồng thứ hai, nhà tâm lý học người Ý Andrea Dotti trên con tàu Mediterranean cùng bạn bè vào tháng 6 năm 1968. Họ kết hôn ngày 18 tháng 1 năm 1969; con trai của họ, Luca Dotti, sinh ngày 8 tháng 2 năm 1970. Trong lúc mang thai Luca vào năm 1969, bà cẩn thận hơn và nghỉ dưỡng nhiều tháng trước khi hạ sinh đứa bé theo phương pháp mổ lấy thai. Bà muốn có thêm một đứa con nữa, nhưng lại bị sảy thai năm 1974. Bà quyết định trở lại điện ảnh vào năm 1976, đồng diễn xuất với Sean Connery trong bộ phim lịch sử đạt thành công vừa phải, Robin and Marian. Năm 1979, Hepburn tái hợp với đạo diễn Terence Young trong bộ phim sản xuất quốc tế Bloodline, cùng với Ben Gazzara, James Mason và Romy Schneider. Bộ phim là một thất bại về doanh thu. Trên phim trường, bà và diễn viên Gazzara có mối quan hệ tình cảm ngắn ngủi. Cuộc hôn nhân của Dotti-Hepburn kết thúc năm 1982. Sau khi ly hôn, bà chỉ nói chuyện với Dotti hai lần lúc còn sống và vẫn giữ liên lạc với ông. Vai diễn chính diện cuối cùng của Hepburn nằm trong bộ phim They All Laughed (1981) của đạo diễn Peter Bogdanovich. Bộ phim bị lu mờ bởi cái chết của một trong những diễn viên chính, Dorothy Stratten và chỉ phát hành giới hạn. Sáu năm sau, Hepburn đồng diễn xuất với Robert Wagner trong bộ phim truyền hình Love Among Thieves (1987). Sau khi đóng vai diễn điện ảnh cuối cùng vào năm 1988—một vai nhỏ là một thiên thần trong bộ phim Always của Steven Spielberg—Hepburn chỉ kịp hoàn thiện hai dự án giải trí khác: loạt phim tài liệu PBS Gardens of the World with Audrey Hepburn, được ghi hình tại 7 quốc gia vào mùa Xuân và Hè năm 1990. Một tập phim dài 1 tiếng trình chiếu vào tháng 3 năm 1991, trong khi toàn bộ loạt phim lên sóng một ngày sau khi bà mất, ngày 21 tháng 2 năm 1993. Cho tập phim đầu tiên, Hepburn giành giải Emmy cho "Thành tựu cá nhân nổi bật" sau khi mất. Dự án còn lại là một album kể chuyện mang tên Audrey Hepburn's Enchanted Tales, bao gồm nhiều câu chuyện thiếu nhi kinh điển do bà thu âm vào năm 1992. Album giành giải Grammy "Album kể chuyện trẻ em xuất sắc nhất" sau khi bà mất. Từ năm 1980 đến khi mất, Hepburn giữ mối quan hệ tình cảm với diễn viên người Hà Lan Robert Wolders, là chồng cũ của diễn viên Merle Oberon. Bà gặp Wolders thông qua một người bạn trong những năm cuối cùng của cuộc hôn nhân thứ hai. Năm 1989, bà gọi chín năm chung sống với ông là quãng thời gian hạnh phúc nhất đời. Họ sống tại làng La Paisible, Tolochenaz-sur-Morges, Thụy Sĩ và không làm đám cưới. Hoạt động xã hội Hepburn là Đại sứ Thiện chí của Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF). Nhiệm vụ đầu tiên của Hepburn tại UNICEF là đến Ethiopia năm 1988. Bà đến thăm một trại mồ côi đang nuôi dưỡng 500 trẻ em ở Mek'ele và phân phát thức ăn cùng UNICEF. Trong chuyến đi, bà phát biểu rằng "Trái tim tôi đau khổ. Tôi cảm thấy tuyệt vọng." Vào tháng 8 năm 1988, Hepburn đến Thổ Nhĩ Kỳ trong một chiến dịch tiêm chủng. Bà gọi quốc gia này là "ví dụ đáng yêu nhất" trong khả năng của UNICEF." Vào tháng 10, Hepburn đến Nam Phi. Tại Venezuela và Ecuador, Hepburn kể với Quốc hội Hoa Kỳ rằng, "Tôi thấy những ngôi làng và khu ổ chuột nhỏ bé gần núi lần đầu tiên nhận được hệ thống cấp nước bởi một phép màu – và phép màu đó là UNICEF. Tôi nhìn những chàng trai tự xây trường học bằng gạch và xi-măng của UNICEF cung cấp." Hepburn chu du khắp miền Trung Mỹ vào tháng 2 năm 1989 và gặp nhiều lãnh tụ tại Honduras, El Salvador và Guatemala. Tháng 4, bà đến thăm Sudan và Wolders trong chuyến đi mang tên "Operation Lifeline". Vì cuộc nội chiến mà thức ăn tại các trung tâm y tế bị thiếu hụt. Chiến dịch mang thức ăn đến vùng nam Sudan. Hepburn phát biểu, "Tôi thấy một sự thật hiển nhiên: Đây không là thiên tai mà là thảm họa nhân tạo vì vậy chỉ có một cách khắc phục bởi nhân loại — hòa bình." Vào tháng 10, Hepburn và Wolders đến Bangladesh. John Isaac, một nhiếp ảnh gia của UN, nói rằng "Thường thì bọn trẻ dính đầy ruồi nhặng, nhưng bà vẫn đến ôm chúng. Tôi chưa bao giờ thấy điều tương tự. Những người khác có một khoảng cách do dự nhất định, nhưng bà ấy thì cứ tóm lấy chúng. Những đứa trẻ cứ chạy đến vòng tay của bà, chạm vào bà — bà hệt như Pied Piper vậy." Vào tháng 10 năm 1990, Hepburn đến Việt Nam, nhằm kết hợp với chính quyền cho chương trình tiêm chủng và tuyên truyền sử dụng nước sạch của UNICEF. Bà phát biểu "Tôi muốn đưa lại nhiều bức hình về đất nước - con người Việt Nam để người dân trên khắp thế giới có thể hiểu hơn về nơi đây, hiểu rằng Việt Nam có nhiều điều để họ tìm hiểu, chứ không chỉ có một cuộc chiến tranh. Chiến tranh là một con quỷ và con quỷ đó đã đến lúc cần phải nằm xuống." Tháng 9 năm 1992, 4 tháng trước khi mất, Hepburn đến Somalia. Bà kể lại, "Tôi như bước vào một cơn ác mộng. Tôi từng thấy nạn đói ở Ethiopia và Bangladesh, nhưng chưa bao giờ chứng kiến điều gì như thế này — còn tồi tệ hơn những gì tôi có thể tưởng tượng. Tôi chưa sẵn sàng cho chuyện này." Dù sợ hãi, Hepburn vẫn còn nhiều hy vọng: "Chăm sóc trẻ em không liên quan đến chính trị. Tôi nghĩ có lẽ với thời gian [...] rồi chính trị sẽ được nhân đạo hóa." Công nhận Tổng thống Mỹ George H. W. Bush trao cho bà Huân chương Tự do Tổng thống để ghi nhận những đóng góp của bà với UNICEF và Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh trao cho bà Giải thưởng Nhân đạo Jean Hersholt cho những cống hiến của bà với nhân loại, do con trai của Hepburn nhận thay. Cảm thấy bản thân may mắn sau cuộc chiếm đóng của quân Đức khi còn nhỏ, bà dành phần còn lại của đời mình để giúp đỡ những trẻ em khó khăn tại những quốc gia nghèo đói nhất. Dù đóng góp cho tổ chức này từ năm 1954, kể từ năm 1954 với sự hỗ trợ phát thanh, bà bắt đầu làm việc tại những cộng đồng khó khăn nhất. Vào năm 2002, tại "Tọa đàm đặc biệt về trẻ em" của Liên hiệp Quốc, UNICEF vinh danh nỗ lực nhân đạo của Hepburn bằng việc khánh thành một bức tượng mang tên "The Spirit of Audrey" tại trụ sở của UNICEF ở New York. Dịch vụ cho trẻ em của bà cũng được công nhận thông qua "Audrey Hepburn Society" của Quỹ Hoa Kỳ UNICEF. Qua đời Khi trở về từ Somalia đến Thụy Sĩ vào cuối tháng 9 năm 1992, Hepburn bắt đầu có những dấu hiệu đau dạ dày. Trong lúc những khám nghiệm tại Hà Lan đưa ra kết quả không rõ ràng, một cuộc mổ nội soi diễn ra tại Trung tâm Y tế Cedars-Sinai, Los Angeles vào đầu tháng 11 cho thấy một dạng ung thư ruột hiếm thấy—mang tên pseudomyxoma peritonei— đang phát triển. Do phát triển chậm trong nhiều năm, căn bệnh đã di căn thành một lớp mỏng bao phủ trên ruột non của bà. Sau khi phẫu thuật, Hepburn bắt đầu hóa trị. Một cuộc phẫu thuật vào đầu tháng 12 cho thấy căn bệnh đã lan quá rộng và đang trong giai đoạn cuối. Hepburn và gia đình trở về quê nhà tại Thụy Sĩ để ăn mừng lễ Giáng sinh cuối cùng. Vì vẫn còn hồi phục sau cuộc phẫu thuật, bà không thể sử dụng máy bay thương mại thông thường. Người bạn lâu năm của bà, Hubert de Givenchy, sắp xếp cùng Rachel Lambert "Bunny" Mellon để đưa bà từ Los Angeles đến Genève trên một chiếc phản lực Gulfstream riêng và chất đầy hoa. Bà dành những ngày cuối cùng tại nhà riêng ở Tolochenaz, Vaud và đủ khỏe để đi bộ trong vườn nhưng cuối cùng lại trở nên yếu dần và nằm nghỉ trên giường. Đêm 20 tháng 1 năm 1993, Hepburn qua đời trong giấc ngủ tại nhà. Sau khi mất, Gregory Peck xuất hiện trước máy quay và xúc động đọc lại bài thơ yêu thích của bà, "Unending Love" của Rabindranath Tagore. Lễ tang diễn ra tại nhà thờ địa phương ở Tolochenaz vào ngày 24 tháng 1 năm 1993. Maurice Eindiguer, mục sư trong lễ cưới của Hepburn và Mel Ferrer, cũng là người làm lễ rửa tội cho con trai Sean của bà năm 1960, đã làm chủ tọa cho lễ tang, trong khi Prince Sadruddin Aga Khan của UNICEF đọc bài điếu văn. Nhiều thành viên gia đình và bạn bè đến dự lễ tang, bao gồm những người con trai của bà, người tình Robert Wolders, anh kế Ian Quarles van Ufford, những người chồng cũ Andrea Dotti và Mel Ferrer, chủ tịch UNICEF, Hubert de Givenchy và các diễn viên Alain Delon và Roger Moore. Gregory Peck, Elizabeth Taylor và gia đình hoàng gia Hà Lan đã gửi hoa đến buổi lễ. Cuối ngày hôm đó, Hepburn an táng tại Nghĩa trang Tolochenaz. Di sản Di sản ở cương vị một nữ diễn viên và tính cách của Audrey Hepburn vẫn kéo dài sau khi bà mất. Viện phim Mỹ liệt Hepburn ở vị trí thứ 3 trong danh sách những nữ ngôi sao điện ảnh vĩ đại nhất. Bà là một trong những ngôi sao giải trí hiếm hoi giành giải Oscar, Emmy, Grammy và Tony. Trong những năm cuối đời, bà vẫn hiện hữu trong thế giới điện ảnh. Hiệp hội điện ảnh của Trung tâm Lincoln năm 1991 có tưởng nhớ đến bà và bản thân Hepburn thường xuyên giới thiệu tại các lễ trao giải Oscar. Sau khi qua đời, đã có nhiều bộ phim tiểu sử về Hepburn, trong đó có bộ phim chính kịch The Audrey Hepburn Story (2000) do Jennifer Love Hewitt và Emmy Rossum đóng. Ngôi sao của Hepburn trên Đại lộ Danh vọng Hollywood nằm ở số 1652, Vine Street, đặt ngày 8 tháng 2 năm 1960. Sean Ferrer thành lập Quỹ Trẻ em của Audrey Hepburn để tưởng nhớ mẹ mình không lâu sau khi bà mất. Quỹ Hoa Kỳ UNICEF cũng thành lập nên Audrey Hepburn Society do Luca Dotti làm chủ tịch. Ferrer cũng là người bảo trợ cho Quỹ từ thiện Pseudomyxoma Survivor, hỗ trợ những bệnh nhân mắc căn bệnh ung thư hiếm thấy mà Hepburn trải qua pseudomyxoma peritonei và đại diện cho European Organisation for Rare Diseases năm 2015. Sau khi mất, hình ảnh của Audrey Hepburn vẫn tiếp tục sử dụng rộng rãi. Năm 2003, Bưu điện Hoa Kỳ đã phát hành con tem Audrey Hepburn, được thiết kế bởi Michael J. Deas. Tại Đức, một con tem tưởng niệm Audrey Hepburn được dự định phát hành vào năm 2001. Sau đó kế hoạch đã bị hủy bỏ vì lý do hình ảnh con tem, Audrey trong Breakfast at Tiffany's với điếu thuốc lá trên môi, bị con trai bà phản đối. Nhưng có vài bản mẫu đã được đóng dấu, gửi đi trong khoảng 2003 tới 2004. Ngay lập tức chúng được các nhà sưu tầm chú ý, trở nên nổi tiếng và đắt giá. Một trong số đó đã được bán đấu giá ngày 7 tháng 10 năm 2005 tại Düsseldorf với giá 135 nghìn euro. Tại Nhật Bản, thượng hiệu Kirin cũng dùng các hình cảnh của Roman Holiday cho chiến dịch quảng bá sản phẩm trà đen. Ở Mỹ, nhãn hiệu thời trang Gap Inc. phát hành một video dựng từ những cảnh trong phim Funny Face vào cuối năm 2006. Cùng với chiến dịch này, Gap cũng đã ủng hộ cho Quỹ Trẻ em của Audrey Hepburn. Biểu tượng thời trang Hepburn được ghi nhận bởi những lựa chọn thời trang và diện mạo độc đáo của bà; nhà báo Mark Tungate mô tả bà là một thương hiệu dễ nhận biết. Khi nổi tiếng với vai diễn trong Roman Holiday (1953), công chúng xem Hepburn là một hình tượng nữ tính lý tưởng, hấp dẫn với phụ nữ hơn là đàn ông, so với những vẻ đẹp đẫy đà và gợi cảm hơn của Marilyn Monroe, Grace Kelly và Elizabeth Taylor. Với kiểu tóc ngắn, lông mày rậm, cơ thể gầy và vẻ ngoài hơi "nam tính", bà đại diện cho diện mạo mà giới nữ trẻ dễ dàng sao chép hơn những ngôi sao điện ảnh lộng lẫy khác. Năm 1954, nhiếp ảnh gia thời trang Cecil Beaton gọi Hepburn là "hiện thân của lý tưởng nữ giới mới mẻ trong lòng công chúng" từ tạp chí Vogue. Phiên bản Anh Quốc của tạp chí này thường xuyên báo cáo về phong cách của bà trong suốt một thập kỷ kế đến. Cùng với người mẫu Twiggy, Hepburn được cho là một trong những hình tượng công chúng chủ chốt đưa vẻ đẹp gầy trở nên thời thượng. Được Danh sách mặc đẹp quốc tế xướng tên vào năm 1961, Hepburn chọn phong cách nhỏ gọn, thường mặc trang phục đơn giản nhấn mạnh vào cơ thể gầy của bà, mang màu sắc tối giản và thi thoảng đeo những phụ kiện nổi bật. Học giả Rachel Moseley cho rằng "những chiếc quần đen nhỏ, hài đế bằng theo kiểu ba-lê và áo nịt len đen" là các trang phục nổi tiếng của bà, ngoài bộ đầm đen, nhận thấy phong cách này mới mẻ vào thời điểm đó, khi phụ nữ vẫn mặc váy và giày cao gót hơn là quần và giày đế bằng. Hepburn có liên quan mật thiết đến nhà thiết kế thời trang người Pháp Hubert de Givenchy, người lần đầu được thuê thiết kế trang phục trên màn ảnh cho bà trong bộ phim Hollywood thứ hai, Sabrina (1954) khi Hepburn vẫn còn là một diễn viên vô danh và ông chỉ là một thợ may trẻ tuổi bắt đầu xây dựng sự nghiệp. Dù ban đầu thất vọng khi biết "Quý cô Hepburn" không phải là Katharine Hepburn như ông vẫn nghĩ, Givenchy và Hepburn đã xây dựng một tình bạn lâu dài. Bà trở thành nàng thơ của ông và hai người thân thiết đến mức học giả Jayne Sheridan khẳng định "chúng ta có thể hỏi 'Liệu Audrey Hepburn tạo nên Givenchy hay ngược lại?'". Ngoài Sabrina, Givenchy còn thiết kế phục trang cho bà trong Love in the Afternoon (1957), Breakfast at Tiffany's (1961), Funny Face (1957), Charade (1963), Paris When It Sizzles (1964) và How to Steal a Million (1966), cũng như trong đời thường. Theo Moseley, thời trang đóng một vai trò quan trọng trong nhiều bộ phim của Hepburn, khẳng định "trang phục không gắn liền với nhân vật, mà hoạt động 'một cách thầm lặng' theo bối cảnh, nhưng 'thời trang' lại trở thành sức hút thẩm mỹ theo một hướng rất riêng". Hepburn khẳng định Givenchy "tạo nên vẻ ngoài, thể loại, đề bật cho tôi. Ông vẫn và sẽ luôn là người tuyệt nhất. Vì ông ấy giữ nguyên phong cách mà tôi yêu thích." Bà còn là gương mặt cho sản phẩm nước hoa đầu tiên của Givenchy, L'Interdit năm 1957. Ngoài Givenchy, Hepburn còn được xem là người tăng doanh số cho chiếc áo khoác Burberry khi mặc một lần trong phim Tiffany's và liên quan đến hãng giày dép Ý Tod's. Trong đời sống riêng tư, Hepburn thường mặc những bộ quần áo giản dị và dễ chịu, khác với những trang phục may đo cao cấp bà mặc trong những sự kiện công chúng và trên màn ảnh. Dù được ngưỡng mộ bởi vẻ đẹp của mình, Hepburn chưa bao giờ xem mình là một người quyến rũ, khẳng định "bạn có thể nói rằng tôi ghét bản thân mình trong một thời gian nhất định." Ảnh hưởng của Hepburn dưới vai trò của một biểu tượng phong cách tiếp tục diễn ra trong nhiều thập kỷ sau khi bà đạt đến đỉnh cao sự nghiệp trong những năm 50, những năm 60. Moseley nhận thấy sau khi qua đời năm 1993, bà được người đời tôn vinh như một biểu tượng của thời trang, khi những tạp chí thường đưa ra lời khuyên đến người đọc để tái tạo vẻ ngoài của bà, trong khi các nhà tạo mẫu xem bà như một nguồn cảm hứng. Năm 2004, Hepburn được vinh danh là "người phụ nữ đẹp nhất mọi thời đại" và "người phụ nữ đẹp nhất thế kỷ XX" theo những cuộc bình chọn công khai của Evian và QVC. Năm 2015, Samsung bình chọn bà là "người Anh phong cách nhất mọi thời đại". Những trang phục của bà mang về số tiền lớn trong nhiều buổi đấu giá: Một trong những chiếc đầm đen nhỏ do Givenchy thiết kế cho Breakfast at Tiffany's được nhà đấu giá Christie's bán với giá tiền kỷ lục 467.200 bảng Anh vào năm 2006. Sự nghiệp diễn xuất Roman Holiday (1953) Sabrina (1954) War and Peace (1956) Love in the Afternoon (1957) Funny Face (1957) Green Mansions (1959) The Nun's Story (1959) The Unforgiven (1960) Breakfast at Tiffany's (1961) The Children's Hour (1961) Charade (1963) Paris When It Sizzles (1964) My Fair Lady (1964) How to Steal a Million (1966) Two for the Road (1967) Wait Until Dark (1967) Robin and Marian (1976) Bloodline (1979) They All Laughed (1981) Always (1989) Xem thêm Danh sách người giành giải Oscar, Emmy, Grammy và Tony Con tem Audrey Hepburn Đầm Givenchy đen của Audrey Hepburn Moon River Tham khảo Ghi chú Chú thích Thư mục Đọc thêm Liên kết ngoài của Hepburn và Quỹ Trẻ em Audrey Hepburn Audrey Hepburn Society trên U.S. Fund for UNICEF Sinh năm 1929 Mất năm 1993 Nữ diễn viên Vương quốc Liên hiệp Anh thế kỷ 20 Nữ diễn viên Hà Lan thế kỷ 20 Phim và người giành giải Oscar cho nữ diễn viên xuất sắc nhất Phim và người giành giải Quả cầu vàng cho Nữ diễn viên phim chính kịch xuất sắc nhất Nữ diễn viên điện ảnh Vương quốc Liên hiệp Anh Người giành giải Quả cầu vàng Cecil B. DeMille Quý tộc Hà Lan Người đoạt giải Emmy Người đoạt giải Grammy Người đoạt Huy chương Tự do Tổng thống Người giành giải Tony Người của UNICEF Nhà nhân đạo Vương quốc Liên hiệp Anh Đại sứ thiện chí của UNICEF
25657
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bo%20m%E1%BA%A1ch%20%C3%A2m%20thanh
Bo mạch âm thanh
Bo mạch âm thanh (Tiếng Anh:sound card, Phiên âm: Saocạt) trong máy tính là một bo mạch mở rộng các chức năng về âm thanh (và một số chức năng khác về giải trí, kết nối...) trên máy tính, thông qua các phần mềm nó cho phép ghi lại âm thanh (đầu vào) hoặc trích xuất âm thanh (đầu ra) thông qua các thiết bị chuyên dụng khác. Sơ lược về bo mạch âm thanh Lịch sử và sự phát triển Bo mạch âm thanh xuất hiện từ khi máy tính ra đời bởi các hệ thống máy tính cá nhân (IBM-PC) đầu tiên được phát triển với sự trú trọng vào cấu trúc và sự định hướng của bộ vi xử lý. "Âm thanh" trên máy tính khi này chỉ là những tiếng "bíp" với chức năng chính để báo lỗi trong quá trình khởi động hệ thống (POST) hoặc các lỗi tràn bộ đệm của bàn phím.. Với những máy Macintosh, ngay từ khi ra đời (khoảng năm 1984) chúng đã có các chức năng âm thanh có chất lượng khá tốt, nhưng với các dòng máy PC của IBM, chức năng mở rộng âm thanh chỉ được phát triển sau những năm 1980 bởi những công ty (và phòng thí nghiệm) như AdLib, Roland, Creative Lab. Chính sự cạnh tranh của các công ty này và các công ty phát triển phần cứng về sau này đã tạo ra sự phát triển của bo mạch âm thanh. Cho đến nay các bo mạch âm thanh đã được cải tiến rất nhiều với rất nhiều tính năng mở rộng, các bộ xử lý âm thanh còn có số transistor nhiều hơn các dòng CPU thời trước, chất lượng và các tính năng mở rộng của bo mạch âm thanh đã vượt khỏi chuẩn truyền thống khiến người sử dụng có một cách nhìn khác hơn về công nghệ giải trí trên máy tính. Chức năng chính Mọi hoạt động của bo mạch âm thanh phải được điều khiển bằng phần mềm hoặc trình điều khiển (driver) trên máy tính. Các hoạt động của bo mạch âm thanh có thể là: Trích xuất các tín hiệu âm thanh dạng tín hiệu tương tự (analog) hoặc tín hiệu số (digital) tới các loa để phát ra âm thanh mà con người nghe được. Ghi lại về âm thanh để lưu trữ (hoặc phục vụ xử lý) âm thanh trong: tiếng nói, âm thanh tự nhiên, âm nhạc, phim...thông qua các ngõ đầu vào. Xử lý và phát lại âm thanh từ các thiết bị khác: Phát âm thanh trực tiếp từ các ổ đĩa quang, thiết bị phát MIDI. Kết nối với các bộ điều khiển game (joytick) Là thiết bị kết nối trung gian: (Cổng IEEE-1394) Phân loại bo mạch âm thanh Phân loại theo bus sử dụng, bo mạch âm thanh có các thể loại sau: Bo mạch âm thanh sử dụng bus ISA: Là loại bo mạch âm thanh cổ điển nhất, sử dụng các bus ISA thông qua các khe cắm ISA trên máy tính. Bo mạch âm thanh sử dụng bus PCI: Loại bo mạch âm thanh thông dụng hiện nay đang sử dụng, chúng sử dụng bus PCI thông qua các khe cắm PCI mở rộng trong máy tính. Bo mạch âm thanh sử dụng bus USB: Sử dụng các cổng USB với các bo mạch âm thanh gắn ngoài thùng máy đối với máy tính cá nhân hoặc đối với các máy tính xách tay Phân loại bo mạch âm thanh theo các kiểu loa hỗ trợ: Cách phân loại này thông dụng hơn cách phân loại trên bởi nó phù hợp hơn đối với các loa sử dụng với bo mạch âm thanh hơn. Bo mạch âm thanh chỉ sử dụng với loa 2.0 Bo mạch âm thanh sử dụng với loa X.1: Chỉ hỗ trợ đến tối đa X loa vệ tinh (X được hiểu là một số nào đó cụ thể tuỳ từng loại loa) Phân loại bo mạch âm thanh theo dạng thức vật lý: Bo mạch âm thanh rời: là một phần tách rời khỏi bo mạch chủ. Bo mạch âm thanh liền (onboard): được tích hợp sẵn trên bo mạch chủ. Các kiểu kết nối vào/ra trong bo mạch âm thanh Các đường kết nối vào/ra (I/O) mặt sau của bo mạch âm thanh bao gồm các loại như sau: Đường Line in: Đường nối tín hiệu đầu vào cho bo mạch âm thanh, sử dụng phi muốn phối trộn âm thanh (mix) hoặc ghi âm từ nguồn âm thanh của các bên ngoài (ti vi, radio, CD/DVD player...). Đường Speaker-out: Đường công suất cho loa hoặc các tai nghe (headphone). Trong một số bo mạch âm thanh đường Speaker-out được tích hợp chung với đường line-out. Đường Line out: Đường tín hiệu cho đầu ra cho loa (được gắn sẵn bộ khuếch đại công suất âm thanh) hoặc các thiết bị âm thanh khác. Đường line out có thể được sử dụng chung với nhiều đường khác nếu đầu ra cho các loại loa hỗ trợ X.1. Line out 1: Cho các tín hiệu đầu ra các loa phía trước (front) Line out 2: Cho các tín hiệu đầu ra các loa phía sau (rear) Line out 3: Cho tín hiệu đầu ra với loa giữa và loa trầm (center and subwoofer) Line out 4: Thường dùng cho các loại loa 7.1 Đường Micro in: Sử dụng cho micro cắm vào bo mạch âm thanh. Đường Game/MIDI: Sử dụng cho các bộ điều khiển phục vụ chơi game (joystick) hoặc các thiết bị có kết nối chơi nhạc MIDI (như các loại đàn organ) Ngoài các đường kết nối mặt sau, trên bo mạch âm thanh rời hoặc tích hợp trên bo mạch chủ còn có thể có các cổng kết nối sau: Đường AUX: Đường tín hiệu đầu vào bo mạch âm thanh: Thường sử dụng với một nguồn âm thanh khác sẵn có trên máy tính, ví dụ bo mạch thu sóng ti vi/FM (khi sử dụng cần kết nối đầu ra audio với đường AUX hoặc Line in để phát âm thanh trên loa. Đường CD-in: kết nối với CD Out của ổ CD/DVD, thường là tín hiệu tương tự. TAD: kết nối với các thiết bị truyền thông lắp trong, như modem lắp trong. PC-SPK: kết nối với loa máy tính, thường có 2 chân cắm (chỉ có trong các bo mạch âm thanh rất cũ, đa số các bo mạch chủ đều có đường âm thanh riêng cho các loa phát tín hiệu trong quá trình POST của máy tính) Đường tín hiệu số S/PDIF in hoặc out: dùng cho cáp quang hoặc cáp đồng trục. Những yêu cầu về bo mạch âm thanh tuỳ thuộc mục đích sử dụng Do có rất nhiều loại bo mạch âm thanh khác nhau do các hãng sản xuất để đáp ứng nhu cầu của người sử dụng với chất lượng, giá thành rất khác nhau. Tuỳ theo từng nhu cầu của những người sử dụng khác nhau mà có các lựa chọn bo mạch âm thanh riêng cho phù hợp. Để đáp ứng mọi mục đích sử dụng, thị trường có sẵn các loại bo mạch âm thanh cao cấp, tuy nhiên giá thành của chúng rất cao. Để lựa chọn hợp lý theo mục đích sử dụng, đáp ứng mức ở mức độ đạt yêu cầu từng mục đích cụ thể, có thể có các yêu cầu riêng như sau: Nhu cầu thông thường Mọi bo mạch âm thanh thường đáp ứng các nhu cầu đơn giản nhất luôn có tối thiểu 2 đường tín hiệu âm thanh đầu ra; 01 đường line in; 01 đường micro. Với các mức độ tối thiểu này có thể đáp ứng hầu hết các như cầu của người sử dụng nhưng chất lượng chỉ đạt ở mức tối thiểu, với một số ứng dụng đòi hỏi cấu hình cao các bo mạch loại này có thể không được chấp nhận. Chơi game Bo mạch âm thanh phục vụ cho việc chơi game thông dụng hiện nay cần có các yêu cầu sau: Phải có các đường âm thanh phía sau (rear), tức là tối thiểu phải thuộc loại 4.0 để đảm bảo có thể phát đầy đủ âm thanh trong môi trường khi chơi game. Phần xử lý của bo mạch âm thanh hỗ trợ âm thanh ba chiều (3D sound); hỗ trợ tăng tốc âm thanh (audio acceleration) giúp hệ thống không cần xử lý nhiều trên CPU. Hỗ trợ tốt cho micro đầu vào (đây cũng là yêu cầu tối thiểu) để phục vụ việc hội thoại khi chơi game theo chế độ từng nhóm đội ở các vị trí khác nhau. Hỗ trợ bộ điều khiển chơi game (Gaming controller), nhưng chức năng này có thể sử dụng các giao tiếp USB trên bo mạch chủ Nghe nhạc, xem phim chất lượng cao Bộ xử lý âm thanh 24bit. Hỗ trợ Dolby 5.1, 6.1, 7.1 (phần mềm sử dụng cần có khả năng giải mã MPEG/DVD) Thiết lập chế độ làm việc của bo mạch âm thanh Thiết lập chế độ làm việc của bo mạch âm thanh bao gồm hai phần, thiết lập phần cứng và các thiết lập khi sử dụng bằng phần mềm. Các chế độ thiết lập nhằm đảm bảo cho bo mạch âm thanh hoạt động đúng thiết kế và cho kết quả tốt nhất đối với người sử dụng. Thiết lập phần cứng Phần cứng các bo mạch âm thanh loại rời là bo mạch stereo (Bo mạch 3D) và kể cả loại onboard (Bo mạch Mono) giả lập âm thanh nổi có thể sử dụng các "cầu đấu chuyển mạch" (jump) hoặc mở rộng các cổng kết nối nhập/xuất trong thùng máy để lựa chọn các chế độ làm việc phù hợp nhất hoặc thuận tiện đối với người sử dụng.Đều phải cài đặt driver, mặc dù có bo mạch rời stereo nhưng do không được cài đặt thủ công thì âm thanh đầu ra cũng chỉ là giả lập âm thanh nổi. Lựa chọn kiểu tín hiệu đầu ra Thông dụng nhất là các cầu đấu chuyển mạch để chuyển chế độ tín hiệu đầu ra trong các bo mạch âm thanh sử dụng chung đường speaker-out và line-out. Thông thường mọi bo mạch âm thanh đều có thể đưa ra tín hiệu có công suất nhỏ để sẵn sàng sử dụng với các loại tai nghe (headphone) nên bo mạch âm thanh luôn có một IC khuếch đại công suất có công suất nhỏ (vài chục mW đến một vài W). Mạch khuếch đại công suất này thường gây nhiễu vào tín hiệu đầu ra tạo ra các tiếng sôi nhỏ làm giảm chất lượng âm thanh. Để đảm bảo chất lượng âm thanh tốt nhất với các loa công suất lớn có gắn liền công suất hoặc các hệ thống (dàn) âm thanh dân dụng, người sử dụng nên chọn đường line-out. Trên một số bo mạch âm thanh có các cầu đấu chuyển mạch cho phép chuyển đổi qua lại giữa các loại tín hiệu đầu ra (lựa chọn giữa thể loại tín hiệu đơn thuần và đường âm thanh công suất). Người sử dụng nên đọc kỹ hướng dẫn sử dụng của bo mạch âm thanh để thực hiện sự chuyển đổi này cho phù hợp. Đối với bo mạch âm thanh loại tích hợp trên bo mạch chủ cũng có thể có sự chuyển đổi này, người sử dụng nên đọc kỹ tài liệu về bo mạch chủ trước khi thực hiện. Thiết lập các đường Line-in, AUX-in Khi hệ thống máy tính sử dụng một modem lắp trong (hoặc modem ngoài), các tính năng tự động trả lời, ghi âm cuộc thoại... nếu sử dụng mà modem đó không có chức năng điều hợp âm thanh thì có thể cắm các đường speaker hoặc line-out trên modem với đường AUX-in hoặc line-in của bo mạch âm thanh. Tương tự đối với các bo mạch bắt sóng ti vi/FM, cũng có thể sử dụng như với modem. Thiết lập các dây nối với các ngõ xuất phía trước thùng máy Các vỏ máy tính hiện nay đa số đều có các ngõ xuất/nhập (I/O) để thuận tiện cho người sử dụng, các ngõ này thường bao gồm một đường speaker-out, một đường mic-in và hai giao tiếp USB, IEEE-1394. Để các ngõ xuất/nhập này hoạt động được, cần sử dụng các đầu cắm của chúng để cắm vào bo mạch chủ (đối với loại bo mạch âm thanh tích hợp) hoặc trên bo mạch âm thanh rời. Không có một hướng dẫn cụ thể nào phù hợp với mọi bo mạch âm thanh, cần đọc tài liệu kèm theo bo mạch âm thanh hoặc bo mạch chủ. Thiết lập trên trình điều khiển hoặc các phần mềm đi kèm Bo mạch âm thanh khi làm việc trên các hệ điều hành mới đây đều phải sử dụng các trình điều khiển (driver) cũng giống như các thiết bị khác. Để hệ thống làm việc đúng cần cài đặt trình điều khiển ngay sau khi lắp đặt bo mạch âm thanh vào hệ thống. Việc thiết lập trình điều khiển ngoài các cách cài đặt thông thường, cần thiết lập chú ý đến: Chế độ làm việc: 16bit hoặc 24bit: Chế độ thiết lập mặc định của driver và các phần mềm đi kèm theo bo mạch âm thanh thường thiết lập tại chế độ 16 bit. Để các phần mềm phát DVD hoạt động tốt hơn, cho chất lượng âm thanh cao hơn, cần thiết lập theo chế độ 24bit (Bit depth = 24 bit). Việc thiết lập này đa phần trên các phần mềm cài đặt kèm theo bo mạch âm thanh, chúng có thể xuất hiện tại thư mục cài đặt riêng hoặc trong Control Panel. Điều chỉnh âm sắc (equalizer), môi trường giả lập (enviroment, EAX...)...: Lựa chọn chế độ âm thanh theo sở thích của người sử dụng. Thiết lập quy ước các cổng xuất nhập trên phần mềm: Một số bo mạch âm thanh tích hợp sẵn trên bo mạch chủ có thể lựa chọn các cổng xuất/nhập dựa trên phần mềm, khi này chúng thường có các bộ cảm biến để nhận biết mỗi sự kết nối (hoặc bằng cách đo điện trở và so sánh), người sử dụng cần xác nhận lại sự chính xác của các thiết bị kết nối (đặc biệt là cần thiết đối với thứ tự các loa theo đúng thứ tự). Đối với thể loại bo mạch chủ này, không có sự tuyệt đối giữa các cổng xuất/nhập (ví dụ: đường mic-in cũng có thể được lựa chọn thành line-out qua cách thiết lập phần mềm) Những thiết bị kết nối đầu vào và đầu ra của bo mạch âm thanh Kết nối đầu vào Micro độc lập hoặc được gắn kèm với tai nghe. Ti vi, đầu phát đĩa CD/DVD dùng để ghi lại âm thanh hoặc sử dụng vào các mục đích biên tập video, nén âm thanh... Kết nối đầu ra Đầu ra của bo mạch âm thanh có thể bao gồm các thiết bị sau: Loa có kèm bộ khuếch đại công suất. Tai nghe (headphone) dùng cho nghe âm thanh gọn nhẹ hoặc không làm ồn đến môi trường xung quanh. Các loại dàn âm thanh giải trí dân dụng cùng hệ thống loa của nó. Các thiết bị ghi âm. Tham khảo Scott Mueller; Upgrading and Repairing Pcs, 17th Edition. Xem thêm Loa máy tính Tham khảo Card âm thanh
25660
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%B9i%20B%E1%BA%B1ng%20%C4%90o%C3%A0n
Bùi Bằng Đoàn
Bùi Bằng Đoàn (chữ Hán: 裴鵬摶, 11 tháng 9 năm 1889 – 13 tháng 4 năm 1955) là Thượng thư bộ Hình triều Nguyễn (1933-1945), Trưởng ban Thanh tra đặc biệt của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Trưởng ban Thường trực Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khóa I (1946–1955). Ông cũng đã từng là tri huyện ở Nghĩa Hưng - Nam Định, tri huyện Thanh Ba - Phú Thọ, Đại Từ - Thái Nguyên, Tiên Du - Bắc Ninh, tri phủ Xuân Trường - Nam Định. Tiểu sử Bùi Bằng Đoàn sinh ngày 19 tháng 9 năm 1889, tại xã Liên Bạt, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Nội (nay thuộc thành phố Hà Nội) trong một gia đình truyền thống Nho học. Ông nội là Tiến sĩ Bùi Tuấn, hàm Thái tử Thiếu bảo, từng làm Giám khảo các kỳ thi Hương, giữ chức Tả Tham tri Bộ Binh kiêm Tổng đốc tỉnh Bắc Ninh đánh dẹp giặc Ngô Côn. Cha là Bùi Tập từng giữ chức Tuần phủ tỉnh Hưng Hóa. Cha mẹ đều mất sớm, cả sáu anh em được người chú dượng là Dương Lâm (tức cụ Thiếu bảo Vân Đình lúc đó làm Tham tri Nha Kinh lược Bắc kỳ) đưa về nuôi dưỡng và dạy học chữ Hán. Khoa thi năm Bính Ngọ 1906, ba anh em Bùi Bằng Phấn, Bùi Bằng Thuận và Bùi Bằng Đoàn đều ứng thí. Kết quả, Bùi Bằng Phấn đỗ Tú tài, còn Bùi Bằng Thuận và Bùi Bằng Đoàn cùng đỗ Cử nhân. Ba anh em được mệnh danh là Hà đông tam bằng. Về sau Bùi Bằng Thuận còn đỗ Tiến sĩ khoa thi năm 1916 cùng với Bùi Bằng Phấn đều làm quan Nam triều đến hàng Tuần phủ, về hưu trước năm 1945. Thời gian làm quan Nam triều Quan lộ của ông hanh thông năm 1907 thi vào trường Hậu Bổ tại Hà Nội. Ông thông thạo cả Pháp văn và Hán văn. Năm Tân Hợi (1911), ông tốt nghiệp, được bổ làm Tri huyện, sau đó làm Tri phủ Xuân Trường (tỉnh Nam định), Án sát tỉnh Bắc Ninh; Tuần phủ các tỉnh Cao Bằng, Ninh Bình; rồi làm đến Thượng thư bộ Hình của triều đình Huế, trong nội các của Phạm Quỳnh năm 1933, hàm Thái tử Thiếu bảo. Khi làm quan ông nổi tiếng là vị quan đức độ, thanh liêm, chính trực, chăm dân. Trên công đường ở những nơi ông làm quan, đều có treo một bảng thông báo "không nhận quà biếu". Với người nhà, ông rất nghiêm khắc, cấm tiệt việc nhận quà, nếu lỡ nhận rồi thì phải mang đi trả lại. Lúc làm Tri phủ Xuân Trường (Nam Định) ông đã đề xuất và thực hiện việc đắp đê Bạch Long ngăn nước mặn, tạo lập được một vùng lúa, dâu rộng lớn. Ghi công đức ông, dân địa phương đã làm lễ tế sống vị "phụ mẫu chi dân" trẻ tuổi ngay nơi nhậm chức. Năm 1925, trước việc báo chí lên án cảnh phu đồn điền ở miền Nam bị bóc lột dã man, Chính phủ Nam triều đã cử Bùi Bằng Đoàn vào Nam bộ thanh tra các đồn điền cao su của Pháp. Ông đã tiến hành thanh tra thấu đáo, viết một bản báo cáo dày đến 100 trang bằng tiếng Pháp nêu bật lên những điều vô lý trong chính sách đối với phu đồn điền. Những kiến nghị xác đáng của bản báo cáo đã được nhà đương cục chấp nhận, giảm thiếu những chế độ hà khắc đối với công nhân đồn điền cao su thời đó. Năm 1925, mặc dù đang làm tri phủ Nghĩa Hưng (tỉnh Nam định) nhưng ông vẫn được mời lên Hà Nội làm thông ngôn cho phiên tòa đại hình xử vụ án cụ Phan Bội Châu. Với tính cách cương trực, bênh vực lẽ phải, Bùi Bằng Đoàn đã thông dịch rõ ràng, trung thực những lời nói, lý lẽ đanh thép của cụ Phan Bội Châu để rồi sau đó tòa án đã không khép được cụ Phan vào án chung thân mà giảm xuống hình thức "an trí ở Huế". Đầu năm 1933 ông được bổ nhiệm làm Tuần phủ tỉnh Ninh Bình, không lâu sau đó khi Phạm Quỳnh tổ chức Nội các ông được bổ nhiệm làm Thượng thư bộ Hình. Trong mười hai năm ở kinh đô Huế ông trông nom việc xử kiện tại tất cả các tỉnh Trung Kỳ, chỉ đạo việc soạn thảo các luật cho Trung Kỳ đều bằng tiếng Pháp, tiếng Việt và dịch ra chữ Hán. Tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, Hoàng đế Bảo Đại tuyên bố Đế quốc Việt Nam độc lập. Bản tuyên bố ngoài chữ ký của Bảo Đại còn có chữ ký của 6 vị thượng thư, trong đó có Bùi Bằng Đoàn. Cơ mật viện giải tán để chuẩn bị thành lập Nội các mới. Bùi Bằng Đoàn cáo quan về quê nhưng được Chính phủ Nam triều giao cho giữ chức Chánh nhất Tòa Thượng thẩm Hà Nội. Ở thời điểm "đêm trước" của cách mạng, tổ chức Việt Minh đã tiếp xúc và mời ông làm Hội trưởng Hội bảo vệ tù chính trị. Tham gia bộ máy chính quyền cách mạng • Ngày 17 tháng 11 năm 1945 Hồ Chủ tịch mời ông tham gia Ban cố vấn Chủ tịch nước, thành viên Ủy ban nghiên cứu kế hoạch kiến thiết đất nước. Trong bức thư đề ngày gửi là 17-11-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: • Ngày 6 tháng 1 năm 1946 ông ra ứng cử đại biểu Quốc hội Việt Nam DCCH tại tỉnh Hà Đông và trúng cử, đồng thời được Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ cử ông làm Trưởng ban Thanh tra đặc biệt của Chính phủ, (tương đương với chức Tổng Thanh tra Chính phủ). • Ngày 2 tháng 3 năm 1946, ông được bầu vào Ban Thường trực Quốc hội, tham gia thành lập Hội liên hiệp quốc dân. • Ngày 8 tháng 11 năm 1946, ông được cử làm Trưởng ban Thường trực Quốc hội thay cho ông Nguyễn Văn Tố. Những năm 1947 và 1948, ông làm việc ở chiến khu Việt Bắc. • Cuối năm 1948, ông bị bệnh bán thân bất toại ở Việt Bắc, Hồ chủ tịch trực tiếp chỉ thị tổ chức đưa ông về Liên khu 3 để chữa bệnh. • Từ tháng 10 năm 1948, tại Việt Bắc (thủ đô của kháng chiến), ông được Quốc hội cử giữ chức Quyền Trưởng ban Thường trực Quốc hội để điều hành Quốc hội. • Hòa bình lập lại, ông trở về Hà Nội để dưỡng bệnh. • Ngày 13 tháng 4 năm 1955, ông qua đời tại Hà Nội. Gia đình Vợ ông là bà Đoàn Thị Đức. Ông bà có tám người con gái và hai người con trai là: • Đại tá, nhà báo Bùi Tín (nhân vật bất đồng chính kiến với Đảng Cộng sản Việt Nam). • Doanh nhân Bùi Nghĩa - Chủ tịch Câu lạc bộ Doanh nghiệp họ Bùi Việt Nam. Cuối năm 1948 Hồ Chủ tịch và Trung ương đã quyết định đưa ông về xuôi để dưỡng bệnh. Khi về gần đến nhà thì gặp lính Pháp đang càn quét ở Vân Đình, ông phải lánh đi. Khi đó, một mình bà Đoàn Thị Đức ở nhà, đang cất giấu tài liệu thì bị giặc Pháp ập vào và bắn chết. Sự hy sinh của bà mãi tới năm 1955, khi về thăm nhà ông mới được biết. Tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhất Huy chương Kháng chiến hạng Nhất Vinh danh, kỉ niệm • Tên ông được đặt cho một con phố tại phường Nguyễn Trãi, quận Hà Đông, Hà Nội. Một phố cạnh trường Đại học sư phạm kỹ thuật Nam Định, tại Thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định và một phố ở trong khu đô thị Phú Mỹ Hưng, quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh • Ngày 16/9/2019, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và thành phố Hà Nội chủ trì tổ chức Lễ kỷ niệm 130 năm Ngày sinh của ông. Thơ ca Ông còn nổi tiếng về việc xướng họa thơ từ với Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1948. Hồ Chủ tịch đã tặng ông bài thơ bằng chữ Hán: Ông đã họa lại như sau: Chú thích Liên kết ngoài Bùi Bằng Đoàn (Kỷ Sửu 1889 - Ất Mùi 1955) trên trang Quốc hội Việt Nam Chủ tịch Quốc hội Việt Nam Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I Người Hà Tây Quan lại nhà Nguyễn Tổng Thanh tra Chính phủ Việt Nam Huân chương Kháng chiến Huân chương Độc lập hạng Nhất Mất năm 1955 Sinh tại Hà Đông
25662
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%BAng
Súng
Súng là một loại vũ khí sử dụng lực đẩy của thuốc súng để bắn đạn qua nòng súng nhằm gây sát thương hoặc tiêu diệt hoàn toàn mục tiêu. Súng được trang bị cho cá nhân hoặc một nhóm sử dụng. Loại vũ khí có nguyên tắc cấu tạo như súng nhưng lớn hơn về kích thước nòng, đạn, tầm bắn, phương pháp xạ kích... được gọi là pháo. Theo quy ước của phương Tây, trong kỹ thuật vũ khí, cỡ nòng của vũ khí nhỏ hơn 20 mm thì được gọi là súng, còn lớn hơn gọi là pháo. Tuy nhiên vẫn có một số trường hợp ngoại lệ, ví dụ như các súng chống tăng (như RPG-2 (B40), RPG-7 (B41) hay súng cối (súng cối bộ binh), chúng tuy có cỡ nòng lớn hơn 20mm từ 1.5 đến cả chục lần, nhưng vẫn được gọi là súng. Súng được phân loại theo nhiều tiêu chuẩn khác nhau, mỗi tiêu chuẩn sẽ do mỗi quân đội của mỗi nước khác nhau quy định. Có thể kể đến như: kích thước (ngắn, dài, lớn, vừa, nhỏ); số lượng nòng (súng đơn nòng, súng đa nòng); kết cấu nòng (súng nòng trơn và súng nòng khương tuyến); đặc tính cấu tạo; mức độ tự động hoá (súng tự động, súng bán tự động, súng không tự động,...); tính năng tác dụng (súng trường, súng máy,...); loại đạn sử dụng (7.62, 5.56, 5.45,...); .... Trước đây, người ta dùng nỏ và cung để bắn tên hay đạn đến mục tiêu, tuy nhiên, ngày nay nhiều thứ nỏ vẫn được gọi là súng, như "súng cao su", hay các ống phụt dùng làm công cụ cũng được gọi là súng, như "súng bắn đinh". Loại dùng trong quân sự như súng phun lửa (chúng phun hỗn hợp lửa và vật liệu cháy để gây sát thương hoặc tiêu diệt đối phương) có lúc cũng không phải là súng đúng nghĩa. Hiện nay, có nhiều loại súng khác nhau đã được chế tạo, nhưng nhiều hơn cả là loại súng sử dụng đạn có vỏ và đầu đạn bằng kim loại, sử dụng thuốc súng để đạn qua một cái ống. Cái ống đó được gọi là "nòng". Nòng súng là bộ phận có tác dụng chắn khí áp cao và định hướng đạn bắn chính xác về phía mục tiêu. Nòng súng vì phải làm việc trong môi trường có nhiệt độ cao, áp suất lớn và độ mài mòn mạnh nên chúng đòi hỏi chi phí (vật liệu, công nghệ, nhân công) và thời gian gia công rất tốn kém để có độ bền cao hơn. Phân loại Theo nguồn năng lượng sinh công khi bắn, có súng hỏa khí, súng hơi, súng cơ và súng điện tử. Theo đặc điểm kết cấu và tính năng hoạt động, có: Súng ngắn, súng trường, cácbin, tiểu liên, súng máy (bao gồm tiểu liên, trung liên, đại liên), súng phóng lựu... Theo kết cấu nòng súng, có: Súng nòng trơn và súng nòng có rãnh xoắn. Theo đối tượng trang bị, có: Súng bộ binh, súng trên máy bay, súng trên xe chiến đấu... Theo biên chế sử dụng, có: Súng cá nhân và súng tập thể. Theo phương pháp sử dụng, có Súng cầm tay và súng có giá. Theo đối tượng tác chiến, có: Súng chống bộ binh, súng chống tăng, súng máy phòng không... Theo mức độ tự động hóa, có: Súng không tự động, súng bán tự động (tự động nạp đạn) và súng tự động. Theo số nòng, có: Súng một nòng, súng hai nòng và súng nhiều nòng... Súng có thể bắn ra các loại đạn (đạn súng thông thường, đạn chì, đạn ghém, đạn lựu phóng, đạn chống tăng...) hoặc phương tiện sát thương khác (như chất cháy, mũi tên...). Đạn có thể nạp từ đuôi hay đầu nòng, từng viên hay nhiều viên chứa trong các hộp, băng... Các kiểu súng đầu tiên xuất hiện từ thế kỷ XIII - XIV ở nhiều nước, trong đó có Việt Nam. Từ giữa thế kỷ XVI về trước chủ yếu sử dụng súng hỏa mai, Súng kíp ra đời cuối thế kỷ XV và được dùng rộng rãi đến giữa thế kỷ XIX. Sau đó xuất hiện súng có rãnh xoắn, phát hỏa bằng kim hỏa. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX xuất hiện súng tự động - loại súng phổ biến nhất hiện nay. Nguồn gốc súng Từ thế kỷ 10, trong bích họa ở Đôn Hoàng đã có những hình ảnh về những "ống" phụt ra lửa đầu tiên. Trong tác phẩm "Thủ Thành Lục" 守城錄 đầu thế kỷ 12, vị quan nhà Nam Tống là Trần Qui 陳規 đã nhắc đến việc sử dụng Hỏa Thương 火鎗 ("giáo lửa") trong chiến trận: "lại lấy thuốc trong hỏa pháo tạo Hỏa Thương cán dài hơn hai mươi cây... đều dùng hai người cùng cầm một cây" (又以火炮藥造下長竹竿火鎗二十餘條... 皆用兩人共持一條). Đó là những cây thương có đầu gắn ống tre hoặc kim loại, nhồi thuốc súng và đạn hoặc mảnh vỡ. Khi điểm hỏa, thuốc cháy, đạn và mảnh văng ra để gây sát thương. Trên thế giới, nòng súng bắn đạn bằng kim loại cổ nhất tìm được đến nay mà có thể chắc chắn về niên đại là khẩu Thượng Đô hỏa súng 上都火銃 (Thượng Đô là kinh đô của nhà Nguyên), với văn khắc trên thân súng cho biết năm chế tác là năm Đại Đức 大德 thứ hai (1298). Ở Trung Quốc, danh xưng Hỏa Súng 火銃 cũng xuất hiện lần đầu trong văn bản ghi chép về năm 1287 (cùng năm diễn ra cuộc chiến Nguyên - Việt lần thứ 3): "‘tụ tập tráng đinh người Miêu, các “thập” và “ngũ” cầm hỏa súng liên tiếp" (糾集丁壯苗軍,火銃什伍相聯). Phần đông các phương tiện truyền thông hiện nay gọi Hồ Nguyên Trừng là ông tổ súng pháo của Việt Nam. Tuy nhiên, văn bia Thần Từ Cổ Tích, phụ lục Lịch Đại Gia Ban do Trương Hán Siêu soạn năm 1312 đã nhắc đến súng đạn: "bắt giữ kẻ trái mệnh tên là Chế Chí, thu hoạch voi ngựa, khí giới, súng đạn 擒獲逆俘名制至,收獲象馬器械銃磾". Như vậy từ 1312 nhà Trần đã biết đến súng và đạn. Thời điểm đó là 25 năm sau sự kiện đầu tiên nhắc đến hỏa súng trong Nguyên sử, 15 năm sau niên đại của khẩu Thượng Đô hỏa súng- súng kim loại cổ nhất tìm được từ trước đến nay, khoảng 30 năm trước những minh họa sớm nhất về súng trong sách châu âu, 62 năm trước khi Hồ Nguyên Trừng sinh ra, 78 năm trước trận phục kích sông Luộc khi Trần Khát Chân dùng hỏa súng bắn thuyền Chế Bồng Nga. Về danh xưng, súng 銃 và pháo 砲/炮/礮/礟 là hai danh xưng đại trà nhất xuyên suốt các thời kỳ cho súng nói chung. Về từ nguyên, theo cuốn từ điển Quảng Vận thời Bắc Tống, Súng 銃, trong Hán văn thế kỷ 11 chưa có nghĩa là hỏa khí, mà nghĩa chính là lỗ tra cán rìu. Chỉ sau khi hỏa khí trở nên phổ dụng ở thế kỷ 13, súng mới bắt đầu có nghĩa chính như ta biết ngày nay. Cả hai từ súng và pháo đều không phân biệt súng lớn hay súng nhỏ. Nhà Nguyễn sử dụng danh xưng Pháo 礮 cho cả các loại súng nhỏ, giống với quy cách của nhà Thanh, chẳng hạn Tiểu Thạch Cơ Mã Pháo là súng ngắn điểm hỏa bằng đá lửa cho kỵ binh. Ngày nay trong tiếng Việt, "pháo" chỉ "súng lớn", nghĩa đó cũng thường được gọi bằng từ Hán-Việt "đại bác". Đồng thời, chữ "pháo" hiện đại cũng chỉ những liều nổ giải trí, như "pháo hoa", "băng pháo"..., vậy đó là hai từ khác nhau cùng nguồn gốc và đồng âm. "Súng" trong ngôn ngữ thường nói hay dùng để chỉ súng cầm tay. Trong khoa học quân sự, hiện có rất nhiều môn nghiên cứu về súng như: Nguyên lý kết cấu Vũ khí có nòng, nguyên lý máy tự động vũ khí.... Khoa học nghiên cứu về chuyển động của đạn, gọi là "thuật phóng", bao gồm các môn nhỏ hơn là "thuật phóng trong" mô tả chuyển động của đạn trong nòng và "thuật phóng ngoài" mô tả chuyển động của đạn ngoài nòng, thuật phóng trung gian nghiên cứu chuyển động từ khi đạn ra khỏi nòng đến khi nó đạt vận tốc lớn nhất, có thể coi thuật phóng trung gian là một phần của thuật phóng ngoài. Súng trong hệ Nato cũng được chia thành rất nhiều loại, ví dụ Assault Rifles (Súng trường tiến công), Pistols (Súng ngắn), Machineguns (súng máy)... Thuật phóng Trong lịch sử, thuật phóng trong được xây dựng qua ba giai đoạn, theo khả năng tính toán tăng lên, người ta tăng khối lượng tính. Ban đầu, các nhà bác học coi tốc độ cháy của thuốc phóng là nhanh tức thời, khí cháy không có tỷ khối, áp suất trong nòng luôn đồng đều. Điều này có thể mô tả gần đúng những súng yếu thời cổ nhồi thuốc nổ đen, chỉ cần tính toán đơn giản. Tiếp theo, đầu thế kỷ XX, người ta đã biết cắt lớp khối khí thuốc và mô tả dược tốc độ cháy, điều này chứng minh được áp suất và tốc độ khí thuốc không đồng đều trong nòng, đặc biệt quan trọng khi lượng thuốc nhồi tăng, lớn gấp nhiều lần khối lượng đầu đạn. Mức thuật phóng này cũng đã mô tả được gần đúng ống phóng không giật và cho ra đời các súng chống tăng phản lực như B41, ĐKZ, mô tả được biến đổi áp suất và tốc độ khí thuốc không đồng đều ở các đoạn khác nhau trong nòng. Ban đầu, thuật phóng được mô tả thành các bài toán song song, cho hàng nhiều người tính thủ công một lúc, người Nga có nhưng đơn vị tính toán lớn. Giai đoạn 3, hiện nay chạy được trên máy tính, băm nhỏ khí thuốc ra thành những phần tử nhỏ. Điều này mô tả được các hiện tượng cuộn, thắt dòng và những hiện tượng khác liên quan đến áp suất và tốc độ không đồng đều trên mặt cắt nòng, chứng minh được ảnh hưởng của kết cấu buồng nổ, đưa ra những phương án nòng hay ống phóng ưu việt nhất. (Đoạn mang tính chất tham khảo) Hiện nay (2016), khoa học về súng, pháo tại Việt Nam đã gần như hoàn thiện, các bộ môn đã nghiên cứu khá toàn diện các vấn đề vũ khí nói chung và súng pháo nói riêng. Hoàn toàn có thể tính toán thiết kế các loại súng khác nhau, tuy nhiên do hạn chế về công nghệ luyện kim nên việc sản xuất chế tạo còn nhiều hạn chế. Trong lịch sử, ngoài việc Hồ Nguyên Trừng làm rạng danh đại bác Việt Nam thì năm 1947, ông Trần Đại Nghĩa cũng chế dược bazooka kiểu 1944 Mỹ, góp phần quan trọng vào chiến công thắng Pháp. Trong Khởi nghĩa Hương Khê cuối thế kỷ XIX, lãnh tụ Cao Thắng cũng chế được súng trường kiểu Pháp, tuy nhiên chưa có khương tuyến (rãnh xoắn). Thế kỷ XIX Thế kỷ XX Pháo (đại bác) Pháo (còn gọi là đại bác) là loại súng/vũ khí cộng đồng có cỡ nòng lớn từ 20 mm trở lên để phóng hoặc bắn các loại đạn nhằm tiêu diệt sinh lực và phương tiện của đối phương. Ngoài ra, nó cũng được dùng cho các nhiệm vụ khác (tạo khói, chiếu sáng...). Trong lịch sử, đại bác có sự phát triển đi trước các loại súng cá nhân và cộng đồng khác. Ở phương Đông, bản thân từ đại bác dùng để chỉ loại pháo cỡ lớn. Từ pháo trong thuật ngữ quân sự cũng khác với từ pháo trong dân gian dùng để chỉ các loại quả nổ bằng giấy quấn quanh một liều thuốc nổ (hoặc thuốc cháy) nhỏ để sử dụng cho mục đích giải trí. Pháo là vũ khí cơ bản của binh chủng pháo binh, có mặt trong các quân chủng: Hải quân (pháo binh hải quân), lục quân (pháo mặt đất, pháo bờ biển), phòng không (pháo cao xạ), binh chủng đặc biệt (pháo laser). Pháo được chia làm nhiều loại: Theo môi trường và đối tượng tác chiến có pháo mặt đất, pháo bờ biển, pháo phòng không (cao xạ), pháo hạm, pháo tăng, pháo chống tăng. Theo tính năng: pháo lựu, pháo nòng dài, pháo cối, pháo không giật Theo cách thức dẫn đạn: Pháo có nòng, pháo phản lực Theo cấu tạo mặt trong của nòng: pháo có nòng rãnh xoắn, pháo nòng trơn. Theo khả năng cơ động: pháo cố định (thường đặt trong pháo đài), pháo xe kéo, pháo tự hành, pháo mang vác (pháo nhẹ, sơn pháo). Cơ cấu hãm lùi, đẩy lên Khi bắn, tỷ lệ khối lượng giữa nòng pháo và đạn càng cao thì càng ít giật, do tỷ lệ động năng tác động vào pháo giảm. Do giá pháo của Thần cơ thương pháo còn tồi nên đúc nòng rất nặng, ví dụ Hải pháo Thế kỷ XIX trên, thừa kế các pháo nòng dày cổ đại. Điều này làm pháo thì nặng mà bắn đạn thì nhẹ. Điều này được cải tiến trong Thế kỷ XX, cùng với việc dùng những hợp kim mới cho phép nòng mỏng, dài mà chịu được áp lực lớn. Pháo nhẹ mà ít giật. Pháo bắn thẳng và lựu pháo có thêm khối lùi, nhờ đó lực tác dụng lên đất giảm đi, ít thay đổi vị trí giá súng, ảnh hưởng đến độ chính xác. Giá súng có bánh xe và càng, đầu càng có cày chống giật. Hoặc súng được đặt trên giá ba chân. Nòng súng đặt trong máng súng, máng súng đặt trên bộ ngõng ngáng. Bộ ngõng ngáng lắp vào giá súng, cho phép thay đổi góc bắn, quay và ngỏng lên xuống. Nòng súng trượt trong máng súng được bôi trơn bằng mỡ súng. Mỗi phát bắn, nòng thụt về sau, tốc độ được hãm bằng hãm lùi thủy lực, nòng trở về vị trí cũ sau khi lùi bằng đẩy về. Đẩy về làm bằng lò xo hay khí nén. Tuy là máng nhưng của Nga và Đức là ống tròn, đến giờ thì các pháo hầu như ống tròn. Thông thường có ba loại máy đẩy về và hãm lùi. Các lựu pháo dùng máy hỗn hợp, dùng khoang chứa dầu không đầy hoặc piston trôi, một máy chung hai chức năng. Các pháo bắn chính xác như pháo chống tăng dùng máy lùi và máy đẩy về riêng, có cơ chế lùi tự do khi đang bắn. Pháo trên xe tăng trước đây là pháo giá cứng, dùng toàn bộ khối lượng xe hãm pháo. Các xe tăng hiện đại dùng lùi ngắn (T-80, T-90 lùi 300mm). Đạn, liều và khóa nòng. Thuốc phóng đựng trong vỏ đạn chống bắt lửa gọi là liều, đạn và liều của đại bác bắn thẳng nhồi ở sau, một số loại súng cối đơn giản nhồi miệng nòng. Sau khi nạp đạn và liều vào nòng, người ta đậy đáy nòng lại bằng khóa nòng. Đến đầu thế kỷ XX vẫn dùng chủ yếu khóa nòng quay gờ nhỏ (tương tự như vặn bu lông vào ốc ren), khóa nòng ren cắt. Sau này, súng dùng khoá nòng xoay gờ lớn hay khóa nòng then xoay. Ở tâm đáy vỏ đạn, có hạt nổ. Đây là khối thuốc dễ phát nổ được đặt giữa một tấm mỏng để che và một tấm dày làm đe, kim hỏa từ khóa nòng đập qua tấm mỏng vào, ép hạt nổ lên đe kích nổ đạn. Những súng nhỏ dùng đạn liền khối vỏ đạn-đầu đạn-liều phóng-hạt nổ, còn súng lớn một số dùng liều rời, nhiều liều. Hệ thống cơ khí nạp đạn, quay tầm hướng, tháo vỏ đạn... và hệ thống điện tử đóng vai trò quan trọng, đặc biệt trong các hệ thống đối kháng dùng súng như xe tăng hay thiết giáp hạm (đúng hơn là "tàu chiến đấu"). Các hệ thống đối kháng dùng súng này chuyên để diệt nhau, có hai nhiệm vụ lớn nhất là bắn loại súng diệt nhau và chống lại đạn. Nòng xoắn, thuốc phóng ổn định và đạn xuyên phá Ba cải tiến quan trọng trong thế kỷ XIX là: nòng xoắn, thuốc cháy chậm và đạn xuyên phá. Nhờ nòng xoắn có các rãnh xoắn trong thành nòng, viên đạn xoáy như con quay trong không khí, luôn chống lại các lệch lạc, viên đạn quay tác dụng với không khí luôn hướng tâm khí động về phía trước tâm khối lượng. (Có thể hình dung như con quay đồ chơi, luôn lộn ngược trên đinh). Nhờ đó, giảm tản mát đạn, có thể làm đạn dài nặng mà vẫn hẹp, ít lực cản, thay cho đạn cầu. Những nòng xoắn đầu tiên có từ thế kỷ XV, nhưng nhồi thuốc miệng nòng dùng nòng xoắn rất khó. Các thuốc phóng mới có độ bền cơ học cao, không vỡ khi phóng đạn, được đúc thành các ống trụ rỗng. Khi cháy, các ống này ít thay đổi diện tích mặt ngoài nên cháy ổn định hơn, cháy lâu hơn. Nhờ điều khiển được phản ứng cháy, người ta nhồi được nhiều thuốc phóng hơn trong pháo nòng dài, tăng tầm bắn mà giảm khối lượng lựu pháo, nòng dày của pháo hạm vì thế dần được thay bằng nòng mỏng như M-46. Đạn xuyên phá được đúc bằng thép tốt, nhồi thuốc nổ ổn định, khi đập vào giáp không kích nổ mà xuyên vào trong. Thuốc nổ cháy chậm và ổn định cùng đạn xuyên được người Đức phát triển ứng dụng đầu thế kỷ XX (khoảng năm 1902). Đến giữa thế kỷ XX, súng lớn cũng được đặt trên các xe cơ giới bọc thép, trở thành "pháo tự hành" và "xe tăng". Súng cũng được đặt trên các tàu biển bọc thép lớn, hệ thống diệt tàu trên biển này được gọi là tàu chiến đấu (battle ship), tuy nhiên, dịch theo Hán-Việt là thiết giáp hạm hơi khác. Súng ngắn Các súng cầm tay nhỏ gọn nòng ngắn gọi chung là "súng ngắn", tiếng Anh là pistol. Những súng cầm tay nòng ngắn mạnh thường sử dụng đạn ngắn nhưng đường kính lớn, giảm hạn chế do chiều dài nòng gây ra. Súng ngắn có ổ xoay còn được gọi trong tiếng Anh là revolver. Súng ngắn bắn phát một Tuy từ "súng ngắn" trong khoa học quân sự chỉ chung các loại súng cầm tay nòng ngắn nhưng dùng trong ngôn ngữ thông thường hơi khác, loại súng cầm tay nòng ngắn gọn nhỏ bắn phát một được gọi là súng ngắn. "Súng ngắn" gọn nhỏ chứa ít đạn, bắn phát một dùng cho sĩ quan hay cảnh sát. Súng này còn hay được gọi là "súng lục", "súng sáu". Súng ngắn có từ thời súng kíp, để tăng số lượng đạn nạp sẵn, người ta làm 2 nòng. Khẩu Colt-1851 Mỹ hồi giữa thế kỷ XIX dùng ổ quay 6 buồng đốt, đạn vỏ giấy, có lẽ là súng dùng đạn có vỏ đầu tiên, vì nó mà có tên "súng lục". Đến đầu thế kỷ XX các súng ngắn phát một dùng băng xoay vẫn phổ biến, như Browning, Nagant M1895. Ví dụ về súng ngắn ngày nay (còn gọi là súng ngắn tự động) như Fedor Tokarev TT-33 thế chỗ Nagant M1895. (Tokarev-Tula kiểu 33, Tokarev ở Tula, hay được gọi tên tiếng Việt là K-54), khẩu này ban đầu bắn đạn 7,63 x 25mm, các phiên bản hiện đại (vẫn sản xuất) dùng cỡ đạn 9mm. Colt M1911 cũng thay thế cho các súng ổ xoay. Thời đó hàng là FN M1900 John Browning (1896). Makarov là đời thay thế cho TT-33. Thay cho ổ xoay là khóa nòng lùi. Trong hồ sơ thuế, hải quan của Việt Nam phân biệt súng ngắn và súng ổ xoay-để tương thích với tài liệu tư pháp nước ngoài. Nhưng trong ngôn ngữ dùng chung vẫn thường gọi là súng ngắn. Súng máy nhỏ Loại súng máy dùng chung đạn với các súng ngắn gọi là "súng máy nhỏ", ví dụ PPSh-41 hồi thế chiến 2 (tên Việt Nam là K-50). Khẩu súng máy nhỏ nổi tiếng ngày nay là Uzi của Israel, thiết kế đầu những năm 1950, đến năm 1951 được chấp nhận trang bị, năm 1956 tham chiến lần đầu tạo thành công lớn. Súng Uzi dùng cỡ đạn 9x19mm Parabellum, cải tiến từ khẩu CZ Model 25 của Tiệp Khắc. Các súng trường và súng liên thanh nhỏ đều có những ưu thế riêng. Súng liên thanh nhỏ có uy lực rất mạnh ở tầm gần. Tuy nhiên, cũng rất khó sử dụng chúng ở tầm 200 mét như các thông báo. MP7 mang đạn đường kính nhỏ 4,6x30mm nên gọn hơn, nặng 2 kg đầy đủ băng 40 viên. Một số súng cạc bin tính năng không khác nhiều súng ngắn bắn nhanh, như AK-74U (AK-74 nòng ngắn) nặng 2,71 kg. Các súng ngắn bắn liên thanh có thể dùng khóa nòng lùi với trích khí thẳng hoặc trích khí ngang (MP7). Nhiều người hay nhầm submachine gun (súng máy cỡ nhỏ) là súng tiểu liên. Vũ khí cá nhân chính Súng trường, đọc tiếng Việt đúng là súng dài, tuy nhiên trong tiếng châu Âu ngày nay, súng trường được gọi là rifle, tức là nòng xoắn, đây là thói quen nói tắt súng dài nòng xoắn. Thực ra các súng hỏa mai, súng kíp nòng trơn đã phân ra súng nòng dài làm vũ khí chính của bộ binh, súng nòng ngắn dắt lưng cho gọn, súng trung bình là cạc bin (súng kỵ sĩ). Khác với đại bác, súng trường được thiết kế sao cho gọn nhẹ, tin cậy, chính xác nhưng tầm bắn hiệu quả thấp. Những súng trường nòng xoắn đầu tiên xuất hiện trước thế kỷ XIX, nhưng đến hết thế kỷ này mới phổ biến súng trường có vỏ đạn và nòng xoắn. Do lượng thuốc nổ nhỏ nên không dùng viên trụ rỗng và dùng miếng thuốc dẹt. Người ta cũng thấm các chất làm chậm tốc độ cháy lên bề mặt thuốc, để khi giảm diện tích bề mặt, tốc độ thuốc cháy ăn sâu nhanh lên, điều hòa tốc độ cháy. Vỏ đạn có gờ hay khe phía sau cùng để một cái móc trên khóa nòng móc vào, kéo vỏ đạn ra khỏi nòng. Gờ dần thay bằng khe tin cậy hơn. Súng trường trợ chiến Đầu thế kỷ XIX, trong khi châu Á vẫn mải mê với đại bác thì châu Âu đã phát triển và trang bị nhiều súng trường, từ đó, súng này trở thành vũ khí chính. Cuối thế kỷ XIX, súng trường bắn phát một có các loại khóa nòng then xoay, đòn bẩy, bơm, khối quay. Tên gọi súng trường trợ chiến do tính năng ban đầu của nó chưa ưu việt, thời gian nạp thuốc đạn, đạn, ngắm bắn, khai hỏa tương đối dài, tốc độ bắn rất chậm (như pháo), nên chỉ được dùng để hỗ trợ cho các loại vũ khí lạnh khác đang thông dụng như đao, kiếm, lưỡi lê. Để thống nhất, người ta chọn ra một mẫu súng trường, lấy làm tiêu chuẩn cho quân đội mỗi nước trong một thời kỳ. Súng đó sẽ được gọi là "súng trường trợ chiến". Điều này làm thuận tiện việc huấn luyện, hậu cần, trang bị...đảm bảo huy động sức mạnh tối đa của đất nước khi có chiến tranh. Loại súng được chọn sẽ được chế tạo và đưa vào sử dụng hàng loạt sau khi đăng ký bản quyền. Từ bản quyền được cấp, các hãng sẽ duyệt mẫu súng riêng với chủ bản quyền như quân đội, từ đó nhận hợp đồng chế tạo và súng sẽ hơi khác ở mỗi hãng. Sau Nga và Đức, mãi đến gần Thế chiến 2 các nước khác mới đặt ra yêu cầu trang bị súng trường trợ chiến nhưng ở mức độ phổ cập hơn. Ví dụ như Mỹ, họ chỉ đặt ra yêu cầu trang bị lại cho quân đội từ kiếm và súng ngắn sang trang bị phổ biến là súng trường. (trừ cấp chỉ huy vẫn giữ kiếm và súng ngắn như cũ) Gewehr 1888 (G88), Mosin và Mauser Đây là tên thường gọi của hai loại súng trường phục vụ của Nga và Đức. Chúng ra đời thập niên 189x. Các súng này ra đời cùng với việc xuất hiện đạn có vỏ, đáy vỏ dày, có gờ hay rãnh móc, đầu đạn có vỏ mềm. Mosin và Mauser đều là tên hai nhà thiết kế, sản xuất súng. Mosin thường được phương Tây gắn chữ Mosin Nagant để kể công, nhưng thật ra cái bộ phận Nagant trong đó đã biến mất từ lâu. Mosin và Mauser là hai súng trường được sản xuất nhiều và dùng lâu nhất thế giới. Hàng trăm triệu các súng này đã được làm và dùng cho đến nay, gấp hàng chục lần các súng trường hạng nặng khác. Chúng đều không phải là một khẩu cụ thể, mà là một tập hợp các tiêu chuẩn về hình học, vật liệu, công nghệ, tính năng, sử dụng...được sản xuất ở nhiều nước, nhiều hãng khác nhau trong các điều kiện rất khác nhau. Mosin và Mauser là những súng trường trợ chiến điển hình, trong khi đó, ở các nước Anh-Mỹ-Pháp không có khái niệm súng trường trợ chiến hoàn chỉnh như chúng. Khác với các súng khác, bản quyền Mosin và Mauser được nhà nước nắm giữ và đặt hàng rộng rãi. Chúng được thiết kế để sản xuất ở nhiều điều kiện khác nhau. Trong khi đó, các súng trường Mỹ chỉ sản xuất trong điều kiện của một hãng nào đó. Phần công cộng duy nhất là trang bị, chứ không phải thiết kế và sản xuất. Các súng Mosin và Mauser đều được ra đời trong một cuộc thi tuyển thiết kế rộng và lâu, rồi một quá trình cải tiến cũng lâu dài. Kết quả của những cuộc thiết kế đó là hai khẩu súng có chất lượng, số lượng sản xuất, thời gian và khu vục sử dụng vượt xa so với tất cả các loại súng trường cùng thời khác. Thời gian và không gian sản xuất các súng này cũng vậy, những cải tiến Mauser mới nhất được Trung Hoa Dân quốc sản xuất dập theo mẫu có sẵn trong các công xưởng được trang bị rất thô sơ. Cả hai khẩu ban đầu đều được thiết kế trên hai phiên bản súng trường và cạc-bin, nhưng sau những năm 1930, chỉ còn phiên bản cạc-bin của chúng được sản xuất. Mauser là súng trường trang bị chính trong quân chủ lực Việt Minh thời trước Cách mạng tháng Tám. Nguồn cung chủ yếu là chiến lợi phẩm lấy từ Pháp và Trung Hoa Dân quốc, sau đó là từ viện trợ. Thời đầu kháng chiến chống Pháp, cũng có một ít súng Mosin đến tay Việt Minh từ người Nhật, nhưng lại là phiên bản rất cổ do quân đội Nhật thu được từ chiến tranh Nga - Nhật (1904-1905). Cuối cuộc kháng chiến, người ta nhận được một số phiên bản Mosin chính hãng từ nguồn viện trợ. Nhưng do không thống nhất về loại đạn có thể sử dụng nên QĐNDVN chuyển giao cho các đơn vị quân địa phương và dân quân du kích. Đến thời kỳ kháng chiến chống Mỹ thì kiểu súng Mauser được loại bỏ khỏi biên chế vũ khí bộ binh của QĐNDVN sau Kế hoạch Z. Phần lớn số súng còn được dùng để huấn luyện tân binh, dân quan du kích hoặc cho vào lò luyện thép. Vào năm 1882, người Nga đã đặt ra yêu cầu thiết kế súng có hộp đạn trong. Ban đầu là những cải tiến của khẩu súng Berdan cũ đang dùng. Tuy nhiên, người Nga nhanh chóng phát hiện ra rằng, cần phải thay đổi hoàn toàn bằng một loại súng mới. Họ tổ chức một cuộc thi tuyển thiết kế súng trên quy mô toàn châu Âu trong nhiều năm, năm 1888, thành lập Hội đồng thử nghiệm súng có băng đạn. Sergei Ivanovich Mosin thiết kế một khẩu súng năm 1889. Đến năm 1891, trong cuộc chọn chung kết, Mosin thắng với một điều kiện là sử dụng tay kéo khóa nòng của Nagant. Tiền bản quyền được Hội đồng trả tiền cho Nagant và Mosin được tổ chức sản xuất súng. Ban đầu, có 3 phiên bản, phiên bản dành cho bộ binh nặng, phiên bản dành cho long kỵ binh và phiên bản dành cho kỵ binh nhẹ (còn gọi là Kỵ binh Cosack) ngắn hơn, phù hợp với việc tác chiến trên lưng ngựa. Đến năm 1930, phiên bản Mosin 1891/30 ngắn theo các bản dành cho kỵ binh Cosack được gọi là cạc-bin. Phiên bản Mosin 1891/44 ra đời năm 1944 khá hoàn thiện và được dùng nhiều ở Việt Nam (tên Việt Nam là K-44). Trong cơ chế nạp đạn, hất vỏ đạn cũ ra, người Nga chọn loại đạn gờ móc, lạc hậu nhưng thích hợp với công nghệ bậc thấp của Nga lúc đó. Điều này về sau cản trở việc phát triển súng máy Nga mà rất khó bỏ. Mauser hoạt động êm, đỡ giật hơn nhưng Mosin khỏe hơn, kích thước và trọng lượng của nó thích hợp với người Nga nhưng lại nặng và dài so với các loại súng khác. Mosin có khả năng sản xuất hàng loạt hơn do cấu tạo đơn giản, nguyên vật liệu phổ biến gồm chủ yếu là thép và gỗ thông. Mauser ra đời dần dần. Tiến bộ hơn Nga, từ những năm 1870 Đức đã có những súng trường tiên tiến nội địa, Mauser đã dẫn đầu về thiết kế súng và ông hoàn thiện nó liên tục. Cũng như Nga, cuối những năm 1880 Đức đặt ra Hội đồng Súng cầm tay. Không hiểu sao, Mauser đã không tham gia hội đồng. Hội đồng nhanh chóng tiếp cận hàng loạt những tiến bộ kỹ thuật mới: công nghệ dập vỏ đạn, công nghệ bọc đầu đạn, sản xuất súng... đặc biệt là chấm dứt việc sử dụng thuốc nổ đen. Gewehr 1888 (bộ binh 1888, G88) là khẩu súng trường trợ chiến đầu tiên được chấp nhận. G88 cũng có bản cạc bin, nó được sản xuất ít vì phiên bản Mauser ra liền theo. Khẩu này thiết kế không có đóng góp của Mauser và được gọi là Súng theo kiểu 88. Tuy vậy, G-88 thừa kế rất nhiều đặc điểm của các khẩu Mauser trước đó. Xem thêm G88. Mauser nhanh chóng nhận thấy vai trò của Hội đồng và đem kỹ thuật của mình đóng góp, hãng hoàn thiện G88 và cho ra các Model 1889/90/91, đã hình thành nên cấu tạo súng Mauser. Nhưng chỉ đến năm 1898, khi loại đạn mới hoàn chỉnh, Mauser 1891/98 mới giống các súng sau này. Khoảng những năm 1930, phiên bản cạc bin mới được hoàn thiện và được sản xuất lớn ở rất nhiều nước. Đạn hoàn toàn không có gờ móc, hết sức tiên tiến lúc đó và thuận lợi sau này. Năm 1898, hình thành Mauser báng cải tiến ngắn Model 98k (k=kurz ngắn). Phiên bản cạc bin báng ngắn có ký hiệu Karabiner 98k K98k. Cũng có người viết G98, nội bộ Đức hay dùng cách viết súng bộ binh 98. Trung Hoa Dân quốc đã sao chép khẩu Mauser để sản xuất ngay từ những ngày đầu tiên lập quốc ở Quảng Đông. Không thể thống kê được, nhưng chỉ tính trước Thế chiến II đã có hàng chục triệu khẩu Mauser chỉ tính riêng loại do Trung Hoa Dân quốc sản xuất theo mẫu. Tốc độ sản xuất của Mosin cũng đáng kinh ngạc không kém, trong điều kiện công nghiệp kỹ thuật rất thấp kém mà đến 1904, Nga đã có gần 4 triệu khẩu. Ví dụ về các súng trường không đạt hoàn toàn khái niệm phục vụ là Springfield Model 1903. Mỹ thuê Mauser thiết kế Springfield Model 1903 để thay thế Springfield Model 1892 (sao chép súng trường Krag. Tuy nhiên, Springfield Model 1903 không có khóa an toàn kim hỏa đặc trưng của Mauser. Springfield Model 1903 có đạn giống Mauser, cỡ đạn 0,308inch (hơi to hơn đạn Mosin 7,62mm do quy định rãnh xoắn), nhưng đạn sùng thuốc súng Cordic Mỹ. Loại đạn 30-03 đầu tù được thay bởi 30-06 năm 1907 với kiểu đầu đạn nhọn nặng đuôi (giống đạn Mauser và Mosin năm 1898). Việc chọn kích thước viên đạn không hợp lý (thuốc phóng ít, đầu đạn nặng) và Springfield Model 1903 trở nên yếu kém hơn Mauser và Mosin. Springfield Model 1903 cũng không bao giờ được chấp nhận trong biên chế vũ khí của quân Hoa Kỳ và được rút ra khỏi vai trò súng trường chủ lực vào những năm 1930. Mauser Mauser Mauser Mauser Súng trường không tự động Đầu thế kỷ XX, thường người ta sử dụng súng trường có khóa nòng then xoay điều khiển tay. Mỗi lần bắn phải nạp đạn lại. Để nạp đạn, người bắn xoay cần gạt để mở hãm khóa nòng, kéo cần gạt về sau, vỏ đạn va phải một gờ nhô ra, bật ra khỏi súng. Sau đó, người ta chế ra băng đạn trong súng, đạn dự trữ sẵn trong súng 5-10 viên, mỗi lần bắn xong chỉ cần kéo cần gạt là tháo vỏ và nạp đạn lại được. Khóa nòng có mấu gạt móc đạn từ trong băng. Các viên đạn còn lại được lò xo đẩy vào khoảng trống. Các khẩu Mosin và Mauser đều là Súng trường không tự động. Súng trường hạng nặng Khẩu Winchester Model 70, bắt đầu sản xuất từ 1936, nay vẫn được cải tiến và sản xuất, đây là loại súng trường hạng nặng. Đầu thế kỷ XX, những súng trường hạng nặng còn dược gọi là "súng trường chiến đấu", có nòng dài nhất và đường kính đạn cũng lớn. "Súng trường hạng nặng" đầu thế kỷ XX là vũ khí chính của bộ binh, nay hay dùng cho mục đích đặc biệt, như bắn tầm xa, bắn tỉa, bắn chính xác... ví như VSSK Vychlop 12,7mm KSVK 12,7mm Hai khẩu Mosin và Mauser đều nằm trong nhóm Súng trường hạng nặng. Lúc đó, cỡ súng này là vũ khí chính. Ban đầu Mosin và Mauser đều có phiên bản cạc bin, sau 1930, chúng đều được cải tiến làm ngắn gọn tiếp và đầu Thế chiến II, vẫn là súng chủ lực. Súng trường bán tự động Sau những súng trường không tự động còn lại của thế kỷ XIX, đến đầu thế kỷ XX xuất hiện súng trường bán tự động. Có nhiều cơ chế vận hành súng tự động, lấy năng lượng từ phát đạn. Ví dụ: lùi dài, lùi ngắn, lùi dùng khối quán tính, trích khí hành trình, trích khí xung. Súng trường bán tự động dùng năng lượng phát nổ để tháo vỏ, nạp viên khác và lên cò, nhưng chỉ bắn phát một. Khẩu Fedorov Avtomat bắn đạn 8,5 g đi 860 m/s, thiết kế năm 1911, đến thế chiến 1 dùng băng đạn tháo được, nhưng sản xuất rất ít (25 ngàn khẩu) do những khó khăn về đạn, tuy vậy, nó vẫn là khẩu súng trường tự động đầu tiên được chấp nhận quy mô lớn. Fedorov Avtomat dùng cơ chế lùi ngắn. Sau này, súng trường tự động thường dùng trích khí, khóa nòng xoay. Hồi đầu Thế chiến 2 có SVT-38, SVT-40. Phía Mỹ có khẩu M1 Garand khóa dùng nòng trích khí then xoay, nhưng vẫn dùng kẹp đạn, thiết kế đầu những năm 1930, đưa vào trang bị 1937. Phần lớn các Súng trường bán tự động sau Thế chiến II đều có cấu tạo và tính năng lai súng trường cỡ lớn-trung liên và thường có trong biên chế cấp tiểu đội. Nhưng trong Chechnya-1999, Nga có xun hướng tách riêng các chức năng này. Nguyên nhân chính là do súng cá nhân AK-74 có cỡ đạn quá nhỏ (5,54 mm) khó thống nhất với Tiểu liên cỡ lớn (còn được NATO gọi là "súng trường tấn công") như AK-47 và AKM, trong khi chức năng bắn tỉa hiện đại lại yêu cầu tăng kích thức đạn lên đến cỡ trọng liên 12,7mm. Ví dụ: VSSK Vychlop 12,7mm và KSVK 12,7mm Súng cạc-bin, súng trường nòng ngắn Khẩu súng trường nòng ngắn đầu tiên là khẩu Remington, xuất hiện trong Chiến tranh miền Tây Hoa Kỳ, được trang bị cho quân đội (trong đó, kỵ binh được trang bị nhiều nhất), cảnh sát và cả dân thường. Tuy nhiên, nó vẫn chưa có được tính ưu việt của các khẩu cạc-bin sau này do vẫn phải lên đạn bằng tay, mặc dù cơ cấu kéo khóa nòng đã được nhất thể hoá với vòng cò, làm cho xạ thủ lên đạn nhanh và dễ dàng hơn. Súng cạc-bin ra đời đầu thế kỷ XX có chiều dài nhỏ súng trường, có thể dùng cùng loại đạn với súng trường gọi là cạc-bin, trong tiếng Việt từ này xuất xứ tiếng Pháp. Sau "súng trường cỡ lớn" thì cạc-bin lên ngôi làm vũ khí chính của bộ binh do nó gọn nhẹ hơn, người lính mang được nhiều đạn hơn và đặc biệt là bắn nhanh hơn nhời cơ cấu nạp đạn và điểm hỏa bán tự động. Hồi đầu thế chiến 2, những súng trường tự động và súng máy nhỏ xuất hiện nhiều, tỏ ra ưu thế. Khẩu Cạc-bin M1, sau được cải tiến thành Cạc-bin M2 và Cạc-bin M3. Khẩu Cạc-bin M4, phiên bản nhỏ gọn của súng trường M16A2) là những ví dụ về súng cạc-bin. Tiểu liên, trung liên Tiểu liên Có tên tiếng Anh là: Sub-machine gun (Súng máy cỡ nhỏ - SMG); là vũ khí cá nhân tầm gần, thuộc họ súng máy; tầm bắn lý thuyết có thể đến 500 m (K-50, Thompson, M3, Tull) nhưng cự li sát thương có hiệu quả không quá 300 m, có loại chỉ 100 m (M3); cỡ nòng từ 5,56 mm (M16) đến 12 mm (M3), phổ biến nhất là hai cỡ nòng 5,56 mm (tiêu chuẩn NATO) và 7,62 mm (tiêu chuẩn khối Vacsava). Do cấu tạo trích khí gián tiếp hoặc trực tiếp để lùi khóa nòng phối hợp với lò xo đẩy đạn, lò xo hồi khóa nòng để nạp đạn tự động, tiểu liên có thể bắn từng phát hoặc bắn liên tục. Tốc độ bắn trong thử nghiệm súng có thể đạt 600 phát/phút. Tốc độ bắn trong thực tế chiến đấu khoảng 100 phát/phút. Hộp tiếp đạn có thể chứa từ 20 đến 40 viên. Một số loại tiểu liên cỡ lớn (AK-47) có thể lắp lưỡi lê để có thể giáp lá cà. Trong chiến đấu, tiểu liên tạo mật độ hỏa lực cao khi tấn công bằng cách bắn rải, bắn quét. Trong phòng ngự, tiểu liên phát huy độ chính xác khá cao khi bắn điểm xạ (2 đến 3 phát liên tục). Tiểu liên cỡ lớn Có tên tiếng Anh: Light Machine Gun (Súng máy hạng nhẹ - LMG), là vũ khí cá nhân chủ yếu của bộ binh, được NATO gọi là "Súng trường tấn công" (do tên lóng bằng tiếng Anh là assault rifle). Tên này được nước Đức đặt ra, yêu cầu của họ là người bộ binh có hỏa lực mạnh. Do có uy lực gần bằng súng trường và sử dụng được đạn súng trường nên người ta còn gọi nó là súng trường tự động. Trong các súng bộ binh thì súng này có nòng dài, chỉ ngắn hơn súng trường bán tự động và súng trường hạng nặng một chút, kết hợp các ưu thế của súng trường và súng máy nhỏ, tầm bắn hiệu quả đến 400 mét. Những súng trường trước đây có thể sát thương ở rất xa, nhưng hiệu quả xạ kích thấp, ngay cả ở tầm bắn gần do tốc độ bắn chậm. Đến sau thế chiến 2, tiểu liên cỡ lớn đã hoàn thiện. Lúc này đã có vỏ đạn hình côn chống tắc, dùng khe móc thay cho gờ móc với băng đạn cong tháo lắp nhanh, khóa nòng then xoay và lên đạn tự động bằng trích khí (trích một dòng khí từ nòng đẩy piston máy nạp đạn). Để phát bắn đầu tiên chính xác, các súng trường tấn công đều bắn khi nòng đã khóa, người thiết kế phải tính cân bằng súng để ổn định khi bắn. Để tiết kiệm đạn, súng cho phép chọn giữa các chế độ bắn: AK có hai chế độ chọn bắn từng phát và liên thanh, M16 có chế độ chọn bắn 3 viên và liên thanh. Do điều kiện tác chiến, bộ binh Việt Nam đã hoàn thiện chế độ bắn hai viên liên tiếp cho súng AK, được gọi là kỹ năng điểm xạ, dựa vào kỹ thuật bóp và nhả cò nhanh và vừa đủ của xạ thủ. Các tiểu liên cỡ lớn đều có thể thay băng đạn nhanh chóng. Bằng kinh nghiệm chiến tranh, người Đức chế ra MP44, còn gọi là StG 44 (súng bão 44). Năm 1943, người thợ làm súng ba đời Kalashnikov kết hợp với kinh nghiệm chiến trường chế ra hai mẫu AK-1 và AK-2 khi ông bị thương và đang nằm viện. Đến năm 1947, ông hoàn thiện và trình làng khẩu Avtomat Kalashnikov 1947 (AK-47). Khẩu súng đã được Hội đồng quốc phòng Liên Xô duyệt và trang bị cho Quân đội Xô Viết từ năm 1949. Sau đó, người Mỹ đưa ra M16. Sau này, M16 có nhiều cải tiến cho ra đời khẩu AR-15 (tiểu liên cực nhanh), có một số chế độ làm việc giống với ưu thế của AK-47, như bắn tiết kiệm đạn, ổn định, tin cậy. Thời điểm diễn ra những cải tiến này khoảng 1970. Tuy nhiên, không khẩu súng nào thành công như AK-47. Người Đức đã thiết kế STG45 ngay trong Thế chiến 2 nhưng không kịp trang bị, sau này Tây Ban Nha mua bản quyền STG45 chế ra khẩu CETME những năm 1950, khẩu SIG 510 Thụy Sĩ cũng theo mẫu này nhưng dùng vật liệu mới. Các súng này dùng cơ chế làm chậm lùi hãm cho khóa nòng. Cơ chế lùi khóa nòng này dùng đòn bẩy tăng tốc dộ khối lùi, giảm khối lượng. Kỹ sư Youriy Alexandrov người Nga đưa ra mẫu khóa nòng mới là Balanced Automatics Recoil System (BARS, hệ thống lùi tự động cân bằng) đầu những năm 1970. Hệ thống này gọn nhẹ, bắn nhanh, êm, ít thay đổi hướng súng khi bắn liên thanh, dần dần thay cho kiểu khóa nòng trích khí ngang của AK-47. Khẩu súng đầu tiên dùng kiểu này là AL-7 nhưng không được duyệt sử dụng, AK-107 dùng khóa nòng lùi này. Ngày nay, tiểu liên cỡ lớn phát triển theo xu hướng dùng đạn đường kính nhỏ, tăng sơ tốc, tăng tốc độ bắn vừa phải, hoạt động cân bằng ổn định. Nhờ đó tăng khả năng sát thương và bắn trúng, tăng uy lực súng mà giảm được khối lượng súng đạn bộ binh mang theo. Cỡ đạn hay dùng là 5,45x39 mm Nga; 5,8×42 Trung Quốc; 5,56x45 mm NATO. Những đại diện của súng trường tấn công ngày nay là AK-107 đạn Nga, AK-108 đạn NATO (giống hệt AK-107), M16 Mỹ, các phiên bản M16A2, M16A3 M16A4, SIG 510 Thụy Sĩ xuất xứ từ STG45, FAMAS của Pháp (dùng khối lùi đòn bẩy làm chậm cũng làm cho súng nhẹ hơn như khối lùi then ngang làm chậm) và QBZ-95 Trung Quốc, sao chép FAMAS Pháp, bắn đạn Trung Quốc. M4 cạc bin Mỹ, tức M16A2 phiên bản nhỏ gọn, là loại cạc bin được sử dụng như súng trường tấn công. Trong các súng trường tấn công hiện đại đó, ngày nay chỉ còn người Mỹ giữ khóa nòng xoay trích khí. Các tiêu chuẩn đặt ra cho tiểu liên cỡ lớn ngày nay là: Tầm bắn hiệu quả từ 300 mét trở lên. Chọn 2 đến 3 chế độ bắn. Tiết kiệm đạn ở chế độ bắn chậm. Uy lực mạnh ở chế độ bắn nhanh. Xạ thủ mang được nhiều đạn. Độ tin cậy cao, bền, dễ sử dụng khi chiến đấu. Trung liên Có tên tiếng Anh là Medium Machine Gun (Súng máy hạng trung - MMG); là vũ khí cá nhân tầm trung, thuộc họ súng máy, có chân chống đỡ nòng súng hình chữ A có thể gập lại dọc thân súng; cự li sát thương có hiệu quả đến 1000 m, tầm bắn lý thuyết có thể đạt 3000 m; cỡ nòng từ 5,56 mm đến 8 mm. Trọng lượng trung liên lớn hơn tiểu liên, thông thường từ 6 đến 10 kg. Khi trang bị cho bộ binh, trung liên chỉ cần một người sử dụng. Nó cũng có thể được gắn trên mô tô, ô tô, xe bọc thép, máy bay, trực tăng chiến đấu nhưng không phổ biến vì tầm hỏa lực hạn chế. Trung liên chỉ bắn liên thanh, không thể bắn từng phát (trừ trường hợp người bắn nạp đạn từng viên bằng tay). Riêng loại RPK có chế độ bắn giống như AK-47. Tốc độ bắn tối đa trong thử nghiệm đạt 750 phát/phút. Tốc độ bắn trong thực tế chiến đấu từ 150 đến 250 phát/phút. Với mật độ hỏa lực cao, trung liên được sử dụng phổ biến tạo hỏa lực yểm hộ cấp tiểu đội, trung đội. Mẫu súng trung liên M1918 (thường gọi là V-3) là một trong các mẫu đầu tiên. Nó được trang bị cho quân đội Hoa Kỳ trong chiến tranh thế giới thứ hai để dùng làm súng hỏa lực cấp trung đội. Khi mới ra đời, các mẫu súng trung liên đều có loại đạn riêng. Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, để nhất thể hóa các cỡ đạn dùng cho các loại súng bộ binh cá nhân, các loại trung liên dùng chung đạn với súng trường và súng tiểu liên lần lượt ra đời. Các loại RPD, RPK của Liên Xô dùng chung đạn với AK-47, CKC và K-63. Đặc biệt, RPK và AK-47 có thể dùng chung hộp đạn (cả tròn và dài) mà không càn chuyển đạn do cấu tạo của cụm gắn kết hộp đạn - thân súng giống hệt nhau. Súng bắn tỉa Súng bắn tỉa được chế tạo công phu, chính xác. Vì kỹ thuật phát triển mà ngày nay súng trường và súng bắn tỉa đi theo hai hướng ngược nhau, súng bắn tỉa thì đạn to, súng trường ngược lại đạn nhỏ. Trước đây, thường hay lấy súng trường chiến đấu làm súng bắn tỉa. Ví dụ là khẩu súng nổi tiếng của chiến tranh Việt Nam SVD, bất kể là ta hay địch, đều quý khẩu này như vàng và vồ lấy mỗi khi gặp. SVD bắn đạn 7.62×54mmR. Một ưu thế nổi bật của SVD là duy trì độ chính xác rất cao kể cả trong điều kiện dã chiến lâu ngày, cũng như việc hiệu chỉnh súng dễ dàng. SVD trong thực tế cho thấy một hiện tượng lạ, nữ bắn tỉa tốt hơn nam. Sau này, các LMG (súng máy hạng nhẹ) có chức năng bắn phát một kiêm chức súng trường chiến đấu, súng bắn tỉa cấp tiểu đội. Súng trường chiến đấu, súng bắn tỉa kiểu này còn được gọi là súng trường tầm xa (viễn tân bộ thương). Ví dụ như trung liên RPK, hiểu chính xác hơn đây là súng đa năng kiêm chức hỏa lực tiểu đội + súng trường tầm xa + súng trường chiến đấu. Tuy nhiên, khi cải tiến dùng đạn nhỏ như AK-74. Cuộc chiến đấu của súng bắn tỉa là cuộc chiến đấu cuối của những súng trường chiến đấu. Các xạ thủ tránh bị phát hiện trong khi đó lại ra sức phát hiện trước đối thủ, ngắm bắn cẩn thận và trang bị súng tầm xa. Một hướng nữa là thiết kế các súng bắn tỉa tàng hình, không phát âm thanh và hồng ngoại. Sau Chechnya 1999, Nga phát triển kiểu súng bắn tỉa công nghệ cao, súng bắn tỉa VSSK Vykhlop 12,7mm không phát âm thanh và hồng ngoại, tốc độ đầu đạn dưới âm 290/s, đầu đạn rất nặng (56gram và 76gram-1170grain) xuyên 16mm thép ở 200 mét, xuyên qua giáp bảo vệ bộ binh cấp 5 Nga ở 100 mét. Súng chỉ dùng cho FSB vì quân khủng bố săn lùng nó gắt gao. Vũ khí của nhóm bộ binh, súng máy Hồi thế kỷ XIX người ta cũng đưa ra nhiều loại súng máy. Loại súng máy Gatling có nhiều nòng, động cơ quay các nòng chuyển giữa các máy nạp đạn, nổ đạn, tháo vỏ (ban đầu quay tay). Một loại súng máy thả đáy nòng lùi tự do làm thành khối lùi, dùng năng lượng này chạy máy nạp đạn. Một số súng máy lại dùng khóa nòng hoạt động bằng trích khí, khóa nòng xoay thay then chống. Loại súng máy này cỡ nhỏ, bán đạn súng trường, dùng cho bộ binh hay được gọi là "tiểu liên", thường được dùng cùng chức năng với súng trường tấn công, sau này bỏ đi. Loại súng máy nữa có cấu tạo như súng trường tấn công liên thanh như khẩu đại liên PKMS, trung liên RPK của Nga (cơ cấu khóa nòng xoay giống AK-47). Một loại súng máy trích khí dùng khóa nòng then chống như trung liên RPD, ngày nay dần dần bỏ. Gatling là súng máy dùng động cơ ngoài, ngày nay được cải tiến dùng trích khí, nhiều nòng. Gatling có hậu duệ là khẩu GAU-8 30mm, có thể bắn đạn xuyên giáp mật độ cao, được trang bị cho máy bay chống tăng A-10 (trang bị năm 1975, 1976) nhưng sau đó được thay bởi tên lửa có điều khiển. Trong Chiến tranh Việt Nam có khẩu M61 Vulcan 20mm và M134 7.62mm lắp trên trực thăng. Loại Gatling đặt trên phương tiện vận chuyển còn được gọi là Minigun, do cỡ đạn quá nhỏ so với cỡ súng. Ví dụ, khẩu cối 82mm chỉ nặng bằng khẩu Galing 20mm. Năm 1862, Gatling ở Mỹ đưa ra mẫu súng Gatling, nhưng chỉ đến 1890, khi vỏ đạn hoàn thiện thì súng máy Gatling mới thực sự là khẩu súng máy. Hiram Maxim đưa ra súng máy dùng năng lượng phát bắn cuối thế kỷ XIX. Đại liên, Trọng liên Đại liên: có tên tiếng Anh là Heavy Machine Gun (Súng máy hạng nặng), là vũ khí cộng đồng tầm xa, thuộc họ súng máy, được đặt trên giá đỡ ba chân, giá đỡ có bánh xe hoặc gắn trên các phương tiện chiến đấu như mô tô, ô tô, xe bọc thép, xe tăng, trực thăng, máy bay chiến đấu. Trọng lượng toàn bộ từ 20 đến dưới 50 kg, cỡ nòng từ 7,62 mm đến 12,7 mm. Tầm bắn tối đa đến 5000 m, cực ly sát thương có hiệu quả từ 1500m đến 3000 m tùy theo loại súng. Súng chỉ bắn liên tục, không bắn được từng phát một. Tốc độ bắn tối đa trong thử nghiệm đạt 800 phát phút, tốc độ bắn trong thực tế chiến đấu từ 150 đến 300 phát phút. Khi sử dụng cho bộ binh, mỗi khẩu đại liên thường cần ít nhất 2 người vận hành. Khi gắn trên các phương tiện chiến đấu, chỉ cần một người vận hành hoặc được tự động hoá vận hành bởi người điều khiển phương tiện. Do có hỏa lực mạnh ở mật độ cao, đại liên thường được dùng làm vũ khí hỏa lực yểm hộ từ cấp trung đội đến cấp tiểu đoàn. Trọng liên: Vũ khí cộng đồng tầm xa, cỡ lớn, thuộc họ súng máy; thường gắn trên giá đỡ ba chân, giá đỡ có bánh xe, trên xe kéo (rơ moóc) hoặc trên các phương tiện chiến đấu cơ giới trên bộ, trên mặt nước hoặc phương tiện bay. Trọng lượng toàn bộ từ 28 đến trên 50 kg. Mỗi khẩu có từ 1 đến 4 nòng có thể phát hỏa cùng lúc. Riêng loại M61 Vulcan của Hoa Kỳ có 6 nòng xoay tròn quanh trục thay nhau phát hoả. Cỡ nòng từ 12,7 mm đến 23 mm (trên 23 mm được coi là pháo). Tầm bắn xa nhất có thể đạt 5000m, tầm bắn có hiệu quả từ 2000 đến 4000 m. Tốc độ bắn trong thử nghiệm đạt 550 đến 1000 phát/phút mỗi nòng. Tốc độ bắn trong thực tế từ 100 đến 300 phát/phút mỗi nòng. Đại liên cơ động. Súng máy gọn nhẹ. Gọi là súng máy lớn tiếng Anh General purpose machine gun (súng máy đa chức năng) vì đây có lẽ là súng máy lớn mà bộ binh mang được khi đi bộ. Trang bị cho tiểu đội hay trung đội khi đi xe, trang bị cho đại đội khi đi bộ. Súng đại liên PKMS được mang vác bởi một người nhưng vẫn trang bị cho tổ 3 người, mang thêm đạn, nòng thay thế và cảnh giới. Súng này cũng hạn chế tốc độ bắn 1200 phát phút vì bộ binh đi bộ không mang được nhiều đạn. Súng được lắp trên một số xe như hỏa lực chống bộ binh. Ứng dụng rộng rãi trên vai lính đi bộ. Một đại đội bộ binh di bộ Việt Nam trang bị 2 khẩu, do hai tổ 3 người sử dụng. Trước đây người ta phân ra hai loại LMG và HMG (súng máy nhẹ và súng máy nặng). LMG là các trung liên như trung liên RPK và trung liên RPD, súng máy nặng như đại liên M1910 Maxim, đại liên DS-38, hay trọng liên DShK 1938 12,7mm. Từ Thế chiến I, người ta thường làm chức năng trung liên LMG chung với súng trường mạnh. Các đơn vị mạnh của Việt Nam những năm 199x hiện đại hóa dần theo hướng Nga. Trung liên RPD trước đây dùng ở trung đội nay bỏ đi, thay vào mỗi tiểu đội một RPK, kiêm chức năng súng trường tấn công tầm xa và trung liên. Tuy nhiên, RPK-74 mang đạn nhỏ và gây ra cuộc tranh cãi bên Nga về chức năng súng trường tấn công, nhất là với bộ binh đi bộ. Ở Chechnya 1999, thấy Nga dùng nhiều súng bắn tỉa KSVK 12,7mm. Tuy nhiên, ở đây là bộ binh cơ giới, vấn đề mỗi lính mang một vài súng không quan trọng. VSSK Vychlop 12,7mm được chế tạo trên kinh nghiệm Chechnya, một súng trường chiến đấu điển hình, giảm âm giảm nhiệt, có vẻ như Nga đã tách chức năng súng máy ra hoàn toàn. Minigun. Súng máy hạng nặng. Trọng liên HMG. HMG viết tắt của Heavy Machine Gun, súng máy hạng nặng, trọng liên. Trọng liên cơ giới-Minigun Là súng máy đặt giá cố định. Súng này thoải mái tăng khối lượng súng và tốc độ bắn. M61 Vulcan bắn hỏng được xe cộ nhỏ, tầm xa, bắn nhanh có thể xuyên qua giáp thép dày 2 cm. Súng này chỉ được lắp trên xe, thường sử dụng động cơ điện. Súng Gatling cồng kềnh phức tạp cần chăm sóc nhiều, lực giật rất mạnh do nhịp bắn quá cao không dùng được cho bộ binh. Nó có cỡ nòng quá nhỏ so với khối lượng súng. Súng cũng không có khả năng xạ kích điểm vì 0,5 giây đầu nó bắn rất chậm cho dù tốc độ chung 4000 phát/phút. Ưu thế của kiểu máy này là động cơ điện và nhiều nòng, tốc độ bắn cao, có thể áp dụng làm mát cưỡng bức, bắn nhiều cỡ đạn... thích hợp cho phương tiện cơ giới. Nga sản xuất các loại bắn đạn 7,62mmx54R và 12,7mm tốc độ bắn lên đến 10000 phát/phút. Tuy vậy, các kiểu máy trích khí vấn được áp dụng cho bộ nòng xoay, gọi là Gatling lai, cho khả năng hoạt động tin cậy và tốc độ khởi động tức thời, khắc phục những nhược điểm của máy Gatling. Kiểu súng này cũng hay được áp dụng cho các pháo phòng không nhỏ bắn nhanh như AK-130 30mm. GSh-6-23M là loại pháo bắn nhanh nhất thế giới, 23mm, một vạn phát phút, máy trích khí. Những súng này được dùng trê các hệ thống phòng không tầm ngắn và cực ngắn, ngày nay có vai trò quan trọng trong chống đạn tự hành, tạo thành giáp điện tử của tàu chiến và đội hình bộ binh. Nhiều khẩu G-8 đặt trên máy bay hạng nặng C-130, được hỗ trợ bởi các phương tiện định vị dẫn đường điện tử, có tác dụng như pháo hạm (cũng được gọi là gun ship). Hệ thống này mang được hàng chục tấn đạn dược từ hậu phương trút dữ dội vào mục tiêu. Đây là hệ thống sử dụng trọng liên lớn nhất được chế tạo. Tuy nhiên, số lượng chế tạo không được nhiều và lịch sử tham chiến không mấy vinh quang. Súng có biệt danh Minigun vì cỡ đạn quá nhỏ so với khối lượng súng. Ví dụ, khẩu Gatling 20mm có khối lượng bằng cối 120mm. Trọng liên bộ binh, 12,7mm Ví dụ về 12,7mm: Degtyarev DP-27 LMG 1929, DShK, DShKM-46, NSV-12,7 "Utes", Kord 12,7, Browning M2HB, General Dynamics 12.7mm /.50 XM312. Các súng 12,7mm thường dùng khóa nòng trích khí hay lùi có làm chậm, một số dùng lùi tự do. Khác với Galing, những khẩu này chỉ có một nòng, tuy khá nặng, cần có tổ 2 đến 3 người mang vác khi hành quân và tác chiến trên bộ. Uư điểm của nó là có thể tháo nòng súng và thay nòng dự bị rất nhanh chóng. Trọng liên 12,7mm có tầm bắn tối đa đến 7–8 km, tầm bắn hiệu quả đến 5 km, bắn được xuyên qua các vỏ xe, kể cả một số loại xe có giáp ở tầm hàng km. Súng cũng bắn xuyên qua vỏ nhiều loại công sự. các loại trọng liên dòng Degtyarev thường được sử dung để bắn máy bay tầm thấp. Trọng liên 12,7mm thường được dùng làm hỏa lực cấp đại đội và tiểu đoàn bộ binh và lính thủy đánh bộ. Khi súng được lắp trên các xe cơ giới, nó cần ít phương tiện bảo đảm. Đây là mặt ưu việt hơn nhiều so với Gatling có cấu tạo phức tạp và phải có nguồn điện để điểm hoả. Các xe tăng Liên Xô, Nga và phương Tây đa phần sử dụng 12,7mm làm súng phụ gắn trên tháp pháo hoặc súng đồng trục với pháo tăng được bắn từ trong tháp pháo. Khẩu DShK (bên phải) và các hậu duệ của nó được dùng nhiều ở Việt Nam. Ngoài ra, người Việt Nam còn sử dụng nhiều súng Browning chiến lợi phẩm. Về cuối cuộc chiến, người Việt Nam còn được viện trợ và sử dụng khẩu Degtyarov - Shpagin DShKM 12,7 mm có khóa nòng kiểu trống xoay, phần khóa nòng giống Gatling nhưng dùng chung một nòng cho nhẹ. Một số loại súng nhỏ thông dụng. Súng ngắn bắn nhanh, tiểu liên, trung liên. Súng ngắn gọn nhẹ nhưng năng lực yếu, thường dùng cho sĩ quan hay cảnh sát. Hiện nay, loại súng ngắn phản lực đã thay thế súng ổ quay. Súng máy nhỏ SMG, Sub-Machine gun, súng ngắn bắn nhanh, có kích thước nhỏ, uy lực tầm gần lớn, hay dùng cho đặc nhiệm. Nó hay bị nhầm với tiểu liên, là súng máy cá nhân trước đây biên chế trong tiểu đội, khi mà các súng chủ lực là súng trường bắn phát một hoặc cạc bin, ví dụ về tiểu liên là AR-16 và M-16. Tiểu liên ngày nay thường được chỉ các súng trường tấn công. Súng máy nhẹ LMG, Light Sub Machine gun, thường được dùng như là súng hỏa lực cấp trung đội trước đây, này được dùng ở cấp tiểu đội và tổ. Súng này thường được dùng với tên cũ súng liên thanh trung đội, trung liên. SMG dùng đạn súng ngắn còn LMG dùng đạn súng trường. Nhiều khẩu cạc bin của súng trường như AK-74U, cạc bin của AK-74, tác dụng rất giống SMG. Súng chống tăng và Súng trường chống tăng:Là vũ khí dùng hỏa lực mạnh mục đích phá hủy giáp của xe tăng cũng như tiêu diệt các đơn vị tăng thiết giáp của đối phương. Hay phá hủy công sự hay đồn bốt của đối phương hay tiêu diệt sinh lực địch với sức công phá mạnh. Súng phóng lựu: là súng dùng để phóng lựu đạn thay vì dùng tay ném lựu đạn. súng cối: là một loại trong bốn loại hoả pháo cơ bản của pháo binh (pháo nòng dài, lựu pháo, pháo phản lực và súng cối). Cơ cấu dạng súng trong bom nguyên tử Bom nguyên tử có cấu tạo cơ bản gồm 2 khối kim loại phóng xạ được làm giàu có khối lượng mỗi khối thấp hơn khối lượng tới hạn. Để kích nổ bom nguyên tử, người ta dùng hai cơ cấu có dạng như súng để bắn một trong hai khối này nhập làm một với khối kia, làm cho khối lượng toàn bộ kim loại phóng xạ đó lớn hơn khối lượng tới hạn, phản ứng hạt nhân bắt đầu diễn ra và bom nguyên tử phát nổ. Vai trò Đến nay, súng vẫn là vũ khí chính trên chiến trường. Súng giành được điều đó từ đầu Thế kỷ XIX, thay thế vai trò của thương, giáo. Ngày nay, tên lửa và đạn tự hành xuất hiện nhiều. Có những vị trí đạn tự hành hoàn toàn ưu thế so với súng như chống tàu biển, chống máy bay, mang đầu đạn chiến lược, bắn từ máy bay... Nhưng vũ khí chủ yếu hiện nay vẫn là súng. Xem thêm Súng lục Súng ngắn phản lực Súng shotgun Súng trường Súng tay Súng cối Súng tiểu liên Súng trung liên Súng đại liên Súng máy Súng chống tăng Súng phóng lựu Phản ứng hạt nhân Bom nguyên tử Danh sách các loại súng Tham khảo Vũ khí Phát minh của Trung Quốc
25663
https://vi.wikipedia.org/wiki/15%20th%C3%A1ng%2010
15 tháng 10
Ngày 15 tháng 10 là ngày thứ 288 trong lịch Gregory (thứ 289 trong các năm nhuận). Còn 77 ngày trong năm. Sự kiện 869 – Quân của triều đình Đường chiếm được Bành thành, kết thúc biến loạn của các binh sĩ Từ châu, tức ngày Tân Dậu (7) tháng 9 năm Kỉ Sửu. 1582 – Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Liên bang Ba Lan–Litva, và nhiều quốc gia Ý trở thành các quốc gia đầu tiên thay thế lịch Julius bằng lịch Gregory. 1894 – Trong Vụ Dreyfus, Alfred Dreyfus, một pháo thủ gốc Do Thái trong quân đội Pháp, bị bắt giữ bất công vì tội mưu phản. 1923 – Nguyễn An Ninh đọc bài diễn thuyết "L’ideál de la Jeunesse Annamite" bằng tiếng Pháp (thường được dịch là "Cao vọng của thanh niên An Nam") tại Hội khuyến học Nam Kỳ, kêu gọi lý tưởng thanh niên Việt Nam đối với vận mệnh nước nhà. 1949 – Hiệp định Hợp nhất Tripura có hiệu lực, Tripura gia nhập Liên bang Ấn Độ. 1951 – Khánh thành Air Viet Nam. 1956 – Thành lập Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam. Từ ngày 8 đến ngày 15 tháng 10 năm 1956, Đại hội thành lập Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam toàn quốc lần thứ I được khai mạc tại Nhà hát lớn Thủ đô Hà Nội, gồm 420 đại biểu chính thức, 300 đại biểu dự thính trong và ngoài nước, miền Nam và miền Bắc, có cả đại biểu Liên đoàn Thanh niên Dân chủ Thế giới tham gia. 1967 – Tượng đài Mẹ Tổ quốc kêu gọi được khánh thành tại Volgograd, Liên Xô, là tượng cao nhất thế giới tại thời điểm đó. 1990 – Nhà lãnh đạo Liên Xô Mikhail Gorbachyov được trao giải Nobel Hòa bình vì những nỗ lực của ông nhằm làm dịu đi căng thẳng trong Chiến tranh Lạnh và mở cửa đất nước. 2003 – CHND Trung Hoa phóng lên Thần Châu 5, chuyến bay vũ trụ đầu tiên có người lái của nước này, chở phi hành gia Dương Lợi Vĩ. 2006 – Trung tâm Hội nghị Quốc gia Việt Nam được khánh thành tại Hà Nội sau gần hai năm xây dựng. Sinh 70 TCN – Virgil, nhà thơ lớn của La Mã cổ đại (m. 19 TCN) 1065 – Minh Không, thiền sư, Quốc sư, danh y trong thời Lý, ông Tổ nghề đúc đồng Việt Nam. 1542 – Akbar Đại đế, Hoàng đế Ấn Độ (m. 1605) 1608 – Evangelista Torricelli, nhà toán học, nhà vật lý người Ý (m. 1647) 1726 – Ngô Thì Sĩ, nhà sử học, nhà văn, nhà thơ ở thế kỷ 18 tại Việt Nam (m. 1780) 1814 – Mikhail Yuryevich Lermontov, nhà thơ Nga (m. 1841) 1840 – Nguyễn Phúc Trinh Nhu, phong hiệu Mỹ Trạch Công chúa, công chúa con vua Minh Mạng (m. 1902) 1872 – Nguyễn Văn Trình, danh sĩ Nho học Việt Nam (m. 1949) 1884 – Friedrich Nietzsche, nhà triết học người Phổ (m. 1900) 1900 – Mervyn LeRoy, đạo diễn, diễn viên người Mỹ (m. 1987) 1914 – Lâm Hữu Phúc, chính trị gia người Singapore (m. 1984) 1919 – Dzoãn Mẫn, nhạc sĩ nhạc tiền chiến người Việt Nam (m. 2007) 1920 – Mario Puzo, nhà văn, nhà biên kịch người Mỹ gốc Ý (m. 1999) 1923 – Italo Calvino, nhà văn Ý (m. 1985) 1926 – Michel Foucault, triết gia Pháp (m. 1984) 1955 – Tanya Roberts, diễn viên người Mỹ (m. 2021) 1968 – Didier Deschamps, cựu cầu thủ bóng đá Pháp 1969 – Vítor Baía, cựu cầu thủ bóng đá Bồ Đào Nha 1971 – Andy Cole, cầu thủ bóng đá Anh 1974 – Lâm Chí Dĩnh, diễn viên, tay đua F1 Đài Loan 1976 – Minh Tuyết, ca sĩ người Việt Nam 1976 – Việt Hương, diễn viên, đạo diễn, dẫn chương trình truyền hình, giám khảo người Việt Nam 1977 – David Trezeguet, cầu thủ bóng đá Pháp 1981 – Elena Dementieva, vận động viên quần vợt chuyên nghiệp người Nga 1986 – Donghae, ca sĩ Super Junior Hàn Quốc 1988 – Mesut Özil, cầu thủ bóng đá Đức–Thổ Nhĩ Kỳ 1990 – Kiko Mizuhara, người mẫu, diễn viên Nhật Bản 1992 – Vincent Martella, diễn viên lồng tiếng Phineas Flynn trong phim hoạt hình Phineas and Ferb (Mỹ) Mất 1917 – Mata Hari, vũ nữ người Hà Lan, điệp viên nhị trùng cho Pháp và Đức trong Chiến tranh thế giới thứ nhất (s. 1876) 1934 – Raymond Poincaré, chính khách Pháp (s. 1860) 1946 – Hermann Göring, chính khách người Đức, một trong những người đứng đầu Đảng Đức Quốc xã (s. 1893) 1964 – Nguyễn Văn Trỗi, người đã thực hiện cuộc đánh bom không thành nhằm vào Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Robert McNamara (s. 1940) 2000 – Konrad Emil Bloch, nhà hóa sinh người Mỹ, từng đoạt Giải Nobel Sinh lý và Y khoa (s. 1912) 2023 – Tùng Lâm, kịch sĩ (s. 1934) Những ngày lễ và kỷ niệm Tham khảo Tháng mười Ngày trong năm
25664
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%B9i%20%28h%E1%BB%8D%29
Bùi (họ)
Bùi () là một họ người thuộc vùng Văn hóa Đông Á gồm: Việt Nam, Trung Quốc, Triều Tiên. Tại Việt Nam họ Bùi phổ biến đứng hàng thứ 9 trong hơn 200 dòng họ, chiếm 2% dân số ở Việt Nam. Ở Trung Quốc họ Bùi phổ biến ở các tỉnh phía bắc Trung Quốc. Việt Nam • Họ Bùi Việt Nam là một họ bản địa, có gốc trên đất Việt từ xa xưa đến thời các vua Hùng dựng nước. - Theo "Lịch sử Việt Nam" của các nhà sử học Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh, trước thời các vua Hùng thì người Việt bản địa đã có mặt từ lâu. Bởi vậy chưa có bằng chứng nào để nói rằng tổ tiên họ Bùi có gốc tích từ Trung Quốc. Về điểm này cũng phải làm rõ một thực tế lịch sử: Người Hán vốn gốc ở lưu vực sông Hoàng Hà. Còn từ sông Trường Giang trở về phía Nam xưa kia là đất sinh tụ của người Bách Việt. Qua quá trình chinh phục và đồng hoá, các tộc Việt khác đều bị Hán hoá, chỉ còn các tộc  Âu Việt và Lạc Việt làm nền tảng cho triều đại Hùng Vương. • Họ Bùi có một tỉ lệ cao là người Mường được xem như người Việt cổ. Nay nhiều nhà nghiên cứu đã phát hiện trong các phong tục, tập quán của người Mường khác hẳn của người Hán (có truyền thuyết cũng như nhiều tư liệu cho thấy "Tản Viên Sơn Thánh" cũng là người Mường), chứng minh họ Bùi vốn có gốc từ người bản địa. Nhân chủng học, ngôn ngữ học… đều phù hợp với điều đó. • Dân tộc Mường ở miền Bắc Việt Nam có tỷ lệ cao mang họ Bùi, sống tập trung ở các tỉnh: Hòa Bình, Thanh Hóa, Phú Thọ, Sơn La, Ninh Bình. Thời đại Hùng Vương và Văn minh Đại Việt Theo tư liệu của Bộ Lễ, triều Lê Anh Tông, do đại thần "Hàn lâm lễ viện Đông các đại học sĩ" Nguyễn Bính soạn, có đầu đề "Ngọc Phả cổ lục đức Đổng Sóc xung thiên Đại thánh Thần Vương triều nhà Hùng, họ Việt Thường. Phiên thần thượng đẳng, bộ chi cẩn". Bản gốc còn lưu lại Viện Hán - Nôm, ngoài bì có đóng dấu bầu dục của Viễn đông Bác Cổ thời Pháp thuộc" thì: Từ thời Hùng Vương thứ 6 được ghi nhận có niên đại từ 1401 đến 1121 TCN, trong thời gian đó xảy ra sự kiện Phù Đổng đánh giặc  Ân, sự kiện đã được dân gian huyền thoại hoá, nhưng qua những chứng cứ, tư liệu về trang Khê Đầu ghi rõ có cụ Bùi Cẩn và Phạm Thị Hoà sinh ra bà Bùi Thị Dung, mẹ của Thánh Gióng . - Trong bài vị biên chép về lịch sử của vua Lê Đại Hành trong đó có ghi: "vào năm 257 trước Công nguyên, nhà Thục xâm chiếm nước ta, có 4 dòng họ gồm: Ngô tộc, Bùi tộc, Lê tộc, Trần tộc được vua Hùng (Duệ Vương) triệu tập 4 vị Đại Thần cùng 5000 binh mã đã đánh thắng trận đầu, giặc bị tiêu diệt máu chảy thành sông vang dội núi sông." • Thời Hai Bà Trưng có 2 danh tướng là Bùi Thạch Đa và Bùi Thạch Đê mà lăng mộ hiện vẫn tồn tại suốt gần 2.000 năm nay trên vùng đất tổ Hùng Vương, ở Tam Nông, Phú Thọ. •Thời vua Đinh Tiên Hoàng (968-979) có khai quốc công thần Trình Quốc công Bùi Quang Dũng. • Bùi Mộc Đạc là một danh thần đời nhà Trần, vốn tên thật là Phí Mộc Lạc nhưng vì vua Trần Nhân Tông cho là Mộc Lạc là tên xấu, mang điềm chẳng lành (Mộc Lạc trong tiếng Hán nghĩa là cây đổ, cây rụng), vua còn cho họ Phí hiếm gặp, nên đổi tên Phí Mộc Lạc thành Bùi Mộc Đạc với nghĩa Mộc Đạc là cái mõ đánh vang. Bùi Mộc Đạc làm đại thần trải 3 triều vua Trần. Theo Đại Việt sử ký toàn thư: "Sau này, nhiều người họ Phí trong nước hâm mộ danh tiếng của Mộc Đạc, đua nhau đổi làm họ Bùi". Chắt nội Bùi Mộc Đạc (Phí Mộc Lạc) tên là Bùi Quốc Hưng là người tham gia hội thề Lũng Nhai và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Sau khi Lê Lợi lên ngôi, phong ông là Nhập nội Thiếu úy, tước Hương thượng hầu, sau thăng Nhập nội Tư đồ, được vua ban Quốc tính họ Lê, nên đổi là Lê Quốc Hưng. Theo gia phả của nhánh họ Bùi gốc Phí ở Nam Sách (Hải Dương) thì một trong số hậu duệ của cụ Bùi Mộc Đạc là Bùi Thị Hý chính là người đã khai sinh ra làng gốm Chu Đậu, được thờ là tổ nghề của làng gốm Chu Đậu. • Thời Lê sơ có các nhân vật Bùi Bị, Bùi Ư Đài, Bùi Cầm Hổ, Bùi Xương Trạch. Con gái Bùi Cẩm Hổ là Bùi Quý phi, vợ của vua Lê Thái Tông, sinh ra cung vương Lê Khắc Xương. Bùi Xương Trạch quê gốc ở xã Cát Xuyên, huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá chuyển sang làng Định Công, Hà Nội, sau đó chuyển sang Thịnh Liệt sinh sống, lập nghiệp, lập nên gia tộc họ Bùi làng Thịnh Liệt, còn được gọi là Sơn Nam vọng tộc. Về sau dòng họ có các nhân vật như Bùi Huy Bích. • Thế kỷ XVI có Bùi Tá Hán là một cận thần của đại thần Nguyễn Kim (cha của Nguyễn Hoàng) lập Lê Trang Tông. Đến thế kỷ XVIII có Bùi Thế Đạt làm trấn thủ trông coi cả vùng biển Đông thuộc Bắc Trung bộ ngày nay. Bùi Dương Lịch là đại thần ba triều Lê, Tây Sơn, Nguyễn. Hay thời cận đại có nhà cải cách hải quân Bùi Viện... • Tại Văn Miếu-Quốc Tử Giám, mở khoa thi đầu tiên (năm 1075) lấy 4 vị tiến sĩ thì có 1 vị họ Bùi. Từ đó đến cuối triều nhà Nguyễn, trải qua 10 thế kỉ về khoa bảng, họ Bùi có đến 76 vị tiến sĩ, trong đó có 4 vị là bảng nhãn và một vị thủ khoa Nho học là Bùi Quốc Khái (đỗ triều Lý Cao Tông). Những nhân vật tiêu biểu: Khoa bảng Bùi Quốc Khái (1141-1234) thủ khoa Tiến sĩ thời vua Lý Cao Tông. Bùi Đình Viên, Thượng thư Đại học sĩ thời nhà Lê Bùi Xương Trạch (1451 - 1529) Thượng thư Trưởng Lục bộ thời Lê Thánh Tông. Bùi Khắc Nhất (1533 - 08/11/1609) Bảng nhãn đời vua Lê Anh Tông- Hộ bộ thượng thư, tước bá. Tiến sĩ: Bùi Mộng Hoa (1353) Bùi Dục Tài (1502) Bùi Sĩ Tiêm (1715) Bùi Ngọc Quỹ(1829) Bùi Tuấn (1841) Bùi Duy Phan (1841) Bùi Văn Phan (1844) Bùi Thức Kiên (1848) Bùi Ước (1868) Bùi Thức (1898) Bùi Hữu Tụy (1910) Bùi Bằng Thuận (1916) Bùi Hữu Hưu (1919) Phó bảng: Bùi Sĩ Tuyến (1848) Bùi Thố (1849) Bùi Văn Quế (1865) Bùi Văn Dị (1865) Bùi Kỷ (1888) Bùi Hữu Thứ (1919) Đại thần thời Phong kiến Bùi Mộc Đạc, đại thần 3 triều vua Trần (tên thật là Phí Mộc Lạc, sau được vua Trần đổi tên thành Bùi Mộc Đạc) Bùi Quốc Hưng, văn thần tham gia Khởi nghĩa Lam Sơn. Bùi Cầm Hổ, đại thần nhà Lê sơ. Bùi Ư Đài, đại thần nhà Lê sơ. Bùi Bỉnh Uyên, đại thần nhà Lê trung hưng. Bùi Huy Bích (1744 - 1818), Tham tụng nhà Lê-Trịnh. Bùi Đắc Tuyên, Thái sư dưới triều vua Cảnh Thịnh trong lịch sử Việt Nam. Bùi Văn Dị, quan đại thần triều Nguyễn Bùi Viện, nhà cải cách, nhà ngoại giao thời Nguyễn. Bùi Dương Lịch (1757 - 1828), nhà văn hóa, nhà nghiên cứu và danh sĩ Việt Nam thời Lê mạt, Tây Sơn và nhà Nguyễn. Bùi Hữu Nghĩa (1807 - 1872), hay Thủ Khoa Nghĩa, là nhà Văn hoá Việt Nam, triều thần nhà Nguyễn. Quân sự Tướng Bùi Minh Trí Bùi Đình Chấn Bùi Thiên Quý Bùi Văn Thốn Hai danh tướng Bùi Thạch Đa và Bùi Thạch Đê (thời Hai Bà Trưng) Bùi Quang Dũng, tướng thời Đinh Tiên Hoàng. Bùi Bá Kỳ, tướng nhà Trần (sau này đã dẫn giặc Minh vào xâm lược Việt Nam). Bùi Bị, tướng nhà Lê sơ. Bùi Tá Hán, tướng thời Lê Trung Hưng. Bùi Thị Xuân, Bùi Thị Nhạn: Tây Sơn ngũ phụng thư thời Tây Sơn. Bùi Điền, nghĩa sĩ phong trào Cần Vương. Thời đại Hồ Chí Minh Bà mẹ Việt Nam anh hùng tiêu biểu Bà mẹ VNAH Bùi Thị Mè (Năm Mè) 1928-2014, nguyên Thứ trưởng Bộ Y tế - Xã hội và Thương binh Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam VN, có 3 con là Liệt sĩ . Bùi Thị Thêm (bí danh Ba Bé) sinh năm 1924, quê huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang có chồng và 2 con là liệt sĩ. Mẹ là “Nữ kiện tướng đánh tàu trên sông Cái Lớn”. Mẹ đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu: Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân và danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng . 3 Bà mẹ VNAH là 3 chị em ruột họ Bùi: Bùi Thị Hai, Bùi Thị Dị, Bùi Thị Sáu (quê ở Hàm Chính - Hàm Thuận - Bình Thuận): Bà Hai có chồng và 4 con là liệt sĩ; bà Dị có 3 con là liệt sĩ; bà Sáu có 4 con là liệt sĩ. Con dâu họ Bùi: Liệt sỹ Đoàn Thị Nghiệp (Tám Nghiệp), nguyên Tỉnh đội phó Tỉnh Mỹ Tho - vợ đồng chí Bùi Văn Thôn (Tám Thôn), quê: Cai Lậy, Tiền Giang có 2 con là 2 Nhà báo Liệt sĩ (Bùi Văn Thưởng, Bùi Văn Tấn). Bà Tám Nghiệp được Nhà nước truy phong danh hiệu: Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân (1978) và danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng (1995) . Bùi Thị Con - quê tại Gio Hải, Gio Linh, Quảng Trị. gia đình Mẹ có 7 liệt sĩ, gồm: chồng (ông Trần Văn Trình), 4 người con trai (Trần Văn Tự , Trần văn Niên , Trần văn Hải, trần văn Tiềm) và 2 người con dâu (Võ thị Mai , Hồ thị Ơn). Mẹ Bùi Thị Con được Nhà nước trao danh hiệu Bà mẹ VNAH. Quốc phòng, an ninh Trần Quý Hai họ tên thật: Bùi Chấn (1913-1985), Trung tướng, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Phó Tổng Tham mưu trưởng QĐNDVN; Đảng viên Đảng Cộng sản năm 1930, Ủy viên DK Xứ uỷ Trung kỳ; Ủy viên Trung ương Đảng khoá III (Chính thức từ 12/1963) - Huân chương Hồ Chí Minh và Huân chương Sao vàng (truy tặng 2008). Bùi Thiện Ngộ (1929-2006) Thượng tướng, nguyên Bộ trưởng Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) - Ủy viên Trung ương Đảng khoá VI, Ủy viên Bộ Chính trị khóa VII. Đại biểu Quốc hội khóa IX - Huân chương Hồ Chí Minh (2006). Bùi Phùng (1920-1999), Thượng tướng, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Phó Chủ nhiệm Ủy ban KHNN, Ủy viên Trung ương Đảng khoá IV, V. Đại biểu Quốc hội khoá VII, VIII - Huân chương Hồ Chí Minh (1993) . Bùi Văn Huấn (sinh 1945)- Thượng tướng, nguyên Phó Chủ nhiệmTổng cục Chính trị, Ủy viên  BCH Trung ương Đảng khoá VIII, XI, X - Huân chương Độc lập hạng Nhì. Bùi Nam Hà (1924-2019)- Thiếu tướng, nguyên Phó Tổng thanh tra Quân đội Phó Giám đốc Học viện Quốc phòng, Giám đốc Học viện Hậu cần. - Huân chương Độc lập hạng Nhất. Bùi Như Nho (1924-1988) - Thiếu tướng, Nguyên Phó Chính uỷ Quân khu 9 - Huân chương Độc lập hạng Nhất. Bùi Thanh Vân (1927-1994), Trung tướng, nguyên Phó Tư lệnh cách quân phía tây (232) trong chiến dịch Hồ Chí Minh 1975. Tư lệnh Quân khu 7.; Ủy viên Trung ương Đảng khoá VII. Huân chương Độc lập hạng Nhì. Bùi Công Ái (1928 - 1994) Trung tướng. Nguyên Phó Viện trưởng Viện Lịch sử Quân sự. Huân chương Độc lập hạng Nhì. Bùi Đức Tạm (1923 - 2016) - Thiếu tướng, nguyên Phó Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật BQP. Huân chương Độc lập hạng Nhì. Bùi Sỹ Vui (Sinh 1948), Trung tướng, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Quân ủy Trung ương. Bùi Xuân Chủ (Sinh 1948), Trung tướng, nguyên Chính ủy Tổng cục Hậu cần. Bùi Văn Tâm (Sinh 1957), Trung tướng, nguyên Chính ủy Học viện Quốc phòng. Bùi Thị Cúc - họ tên thật là Trần thị Lan (1930 - 1950), đã được Hồ Chủ tịch truy tặng sáu chữ: "Sống anh dũng, chết vẻ vang". Anh hùng LLVT nhân dân (truy tặng năm 1995).. Bùi Văn Nhỏ - là một trong 5 người tham gia trực tiếp bắt sống tướng De Castries trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Bùi Ngọc Dương (1943 - 1968) - Liệt sĩ, anh hùng LLVT nhân dân. Ông được xem là La Văn Cầu trong kháng chiến chống Mỹ. Bùi Ngọc Đủ (1942 - 2017), Anh hùng LLVT nhân dân, người dũng sỹ diệt Mỹ gắn với bài hát “Ơi con suối La La”. Bùi Văn Tùng (sinh 1930), đại tá, Chính uỷ Lữ đoàn Xe tăng 203. Ông là nhân vật của lịch sử trong Sự kiện lịch sử 30 tháng 4 năm 1975, người đã thảo văn bản đầu hàng vô điều kiện cho Đại tướng Dương Văn Minh- Tổng thống VNCH đọc trêny Đài phát thanh Sài Gòn. Đồng thời ông cũng thay mặt Quân Giải phóng tuyên bố tiếp nhận đầu hàng của Chính quyền Việt Nam Cộng hòa, chấm dứt Chiến tranh Việt Nam. Bùi Quang Thận (1948-2012) - Anh hùng LLVT nhân dân, người lính Quân giải phóng đầu tiên cắm lá cờ chiến thắng của Mặt trận Giải phóng miền Nam Việt Nam trên nóc dinh Độc Lập vào lúc 11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975 . Bùi Văn Nam (sinh 1955)-Thượng tướng, Thứ trưởng Bộ Công an - 2 Huân chương Quân công hạng Nhì (2010, 2020). Bùi Quang Bền (sinh 1955) -Thượng tướng, nguyên Thứ trưởng Bộ Công an - Huân chương Quân công hạng Nhất. Bùi Xuân Sơn (sinh 1956), Trung tướng, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Hậu cần - kỹ thuật Bộ CA. Bùi Bá Định (sinh 1958), Trung tướng, nguyên. Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Chính trị Bộ CA. Bùi Mậu Quân (sinh 1960), Trung tướng, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh Bộ CA. Bùi Văn Thành (sinh 1958) từng là Trung tướng, Thứ trưởng Bộ Công an; ông bị cách chức Đảng và chính quyền, giáng cấp hàm xuống Đại tá và lĩnh án 30 tháng tù giam ). Bùi Quốc Huy (sinh 1945), từng là Trung tướng, Thứ trưởng Bộ Công an, Ủy viên BCH Trung ương Đảng, từng được tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND. Trong Vụ án Năm Cam và đồng phạm , ông đã bị cách chức Đảng và chính quyền, bị tước quân hàm và danh hiệu Anh hùng LLVTND, bị Toà tuyên phạt 4 năm tù giam. Chính trị, tôn giáo Bùi Bằng Đoàn (1889 - 1955), nguyên Thượng thư bộ Hình triều Nguyễn (1933-1945), Trưởng ban Thanh tra đặc biệt của Chính phủ nước Việt Nam DCCH, Trưởng ban Thường trực (Chủ tịch) Quốc hội khoá I nước Việt Nam DCCH (1946–1955) - Huân chương Độc lập hạng Nhất. Bùi Quang Chiêu (1873-1945) là một trí thức yêu nước, một chính trị gia nổi tiếng của Nam Kỳ tranh đấu đòi tự trị cho Việt Nam vào đầu thế kỷ XX. Bùi Trình Khiêm (1880 - 1951) nguyên Đại biểu Quốc hội khoá I nước Việt Nam DCCH (1946 - 1951). Bùi Hữu Diên (1903-1935), nhà hoạt động cách mạng. Năm 1930 ông bị kết án mười năm khổ sai đày đi Côn Đảo, sau đó bị lưu đày sang Guyane (Nam Mỹ), năm 1935, ông hy sinh trong tù khi mới 32 tuổi. Bùi Lâm, tên khai sinh: Nguyễn Văn Dị (1905-1974) nhà lão thành cách mạng, một chính khách Việt Nam, nguyên Ủy viên thường vụ Xứ uỷ Nam Kỳ, Chánh án Toà án Quân sự đặc biệt; Viện trưởng Viện Công tố Trung ương nước Việt Nam DCCH; Đại biểu Quốc hội nước Việt Nam DCCH khóa II (1960-1965). Bùi Quang Tạo (1913-1995), nguyên Bộ trưởng Bộ Kiến trúc, Bí thư Thành ủy Hải phòng, Chủ nhiệm Ủy ban Thanh tra Chính phủ. 4 khoá là Ủy viên Trung ương Đảng (II, III, IV, V) và 6 khoá là đại biểu Quốc hội (II, III, IV, V, VI, VII). Huân chương Hồ Chí Minh. Bùi Đăng Chi (1913-1990), nhà hoạt động cách mạng. Bùi San (1914 - 2003) lão thành cách mạng, Đảng viên cộng sản năm 1930, nguyên Ủy viên Xứ ủy Trung Kỳ; Trưởng Tiểu ban Dân tộc Trung ương (nay là Ủy ban Dân tộc). Nguyễn Đức Thuận (1916 – 1985), tên khai sinh là: Bùi Phong Tư, nguyên Phó Bí thư Xứ ủy Nam Bộ, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Tác giả cuốn tự truyện "Bất khuất". Anh hùng LLVTND. Bùi Thanh Khiết (1924-1984), nguyên Trưởng Ban Khoa giáo Trung ương. Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Quốc hội, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đạo tạo, nguyên Phó Chủ nhiệm Chính trị Quân giải phóng miền Nam. Huân chương Hồ Chí Minh. Phạm Hưng (1927 – 2018), tên thật Bùi Văn Tường, nguyên Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao. Huân chương Độc lập hạng Nhất, Bùi Danh Lưu (1935 - 2010), Giáo sư, Tiến sĩ, nguyên Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải. Huân chương Độc lập hạng nhất. Bùi Xuân Nhật, nguyên Đại sứ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại Liên hợp quốc. Bùi Quang Vinh, sinh 1953, nguyên Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Ủy viên Trung ương Đảng khoá X, XI. ĐB Quốc hội khoá XIII. Bùi Xuân Khu, sinh 1950; nguyên Thứ trưởng Thường trục Bộ Công thương (nghỉ hưu từ 9/2014), hiện là Chủ tịch HĐQT Ngân hàng TMCP Việt Nam thương tín (VIETBANK) . Bùi Hồng Lĩnh, nguyên Thứ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. Bùi Sỹ Lợi (sinh 1959) là đại biểu Quốc hội Việt Nam liên tục 4 khoá 11, 12, 13 và 14. Phó Chủ nhiệm Thường trực Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội. Bùi Thanh Sơn (sinh: 1962), Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Ủy viên Trung ương Đảng khoá XII, XIII; Ủy viên Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội khóa XIV. Bùi Thị Minh Hoài (sinh 1965), Bí thư Trung ương Đảng khóa XIII; Trưởng Ban Dân vận Trung ương; Ủy viên Trung ương Đảng khóa X (dự khuyết), XI, XII, XIII. Bùi Văn Cường (sinh 1965) Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, đại biểu Quốc hội khoá XIII, XIV. Ủy viên Trung ương Đảng khoá XI (dự khuyết), XII, XIII. Bùi Huyền Mai (sinh 1975), Ủy viên Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội, Trưởng Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội (nhiệm kì 2020 - 2025) , Ủy viên Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội khoá XIV. Bùi Công Trừng (1905-1977) nguyên Bí thư xứ ủy Nam Kỳ Đảng cộng sản Đông Dương, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước, nguyên Thứ trưởng Bộ Kinh tế Chính phủ Việt Nam DCCH. Bùi Tín (1927-2018) bút danh: Thành Tín - là một nhân vật bất đồng chính kiến, từng là Phó Tổng biên tập của báo Nhân dân, Đại tá Quân đội NDVN. Ông là con trai lớn cụ Bùi Bằng Đoàn. Năm 1990, khi được cử sang Pháp công tác, ông đã đào nhiệm và xin tị nạn chính trị tại Pháp, rồi ở đó đến khi qua đời. Bùi Diễm (sinh 1923) là Đảng viên Đảng Đại Việt; nguyên Bộ trưởng Phủ Thủ tướng VNCH (1965); từ 1967 là Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Hoa Kỳ. Ông là con trai cụ Bùi Kỷ; Từ sau 30-4-1975, ông tị nạn tại Hoa Kỳ. Tôn giáo: Đình Tây tên thật là Bùi Văn Tây (1826 – 1914) cao đồ của Phật Thầy Tây An. Thiền gia Pháp chủ Thích Thanh Hanh , tên thật Bùi Thanh Đàm (1840 - 1936) là vị Pháp chủ đầu tiên trong giai đoạn Chấn hưng Phật giáo Việt Nam. Phaolô Bùi Chu Tạo (1909 - 2001), Giám mục chính tòa Tiên khởi Giáo phận Phát Diệm. Thích Phổ Tuệ tên thật là Bùi Văn Quý (1917-2021) là Đệ tam Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam - Huân chương Hồ Chí Minh. Gioan Baotixita Bùi Tuần (sinh 1927), Giám mục chính tòa Giáo phận Long Xuyên (1997 - 2003) Phaolô Bùi Văn Đọc (1944 - 2018), Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam nhiệm kỳ 2013 - 2016 ; Tổng giám mục ,Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh (khi qua đời) Khoa học, kinh tế Bùi Huy Đáp (1919-2004), giáo sư nông học. Nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước. Giải thưởng Hồ Chí Minh (1996). Bùi Thanh Liêm (1949-1981), nhà du hành vũ trụ, phi hành gia dự bị trong chuyến bay Soyuz 37 trong chương trình Intercosmos của Liên Xô. - Huân chương Hồ Chí Minh (1980). Bùi Công Ái (1928 - 1994), Trung tướng, Phó Viện trưởng Viện Lịch sử Quân sự, QĐND-VN. Huân chương Độc lập hạng Nhì. Bùi Cát Vũ, tên thật là Bùi Văn Bê (1924-2019), Thiếu tướng QĐND, Tiến sĩ khoa học Quân sự chuyên ngành Pháo binh, nguyên Phó Tư lệnh Quân khu 7 . Ông còn có các biệt danh: ‘’Trùm đại bác Đông Dương’’ hay ‘’Võ Tòng chiến khu Đ’’. Bùi Đại (sinh 1924) Thiếu tướng,  Anh hùng LLVT nhân dân, Giáo sư, TSKH, Viện sĩ viện hàn lâm khoa học New York , Thày thuốc Nhân dân, nguyên Phó Giám đốc Học viện Quân Y, Giám đốc Bệnh viện Trung ương Quân đội 108- Giải thưởng Nhà nước và Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học Y dược, Huân chương Độc lập hạng Ba. Bùi Phan Kỳ (sinh 1926)- Thiếu tướng, Phó Giáo sư , nguyên Trưởng Ban nghiên cứu KHQS thuộc Viện Chiến lược BQP - Huân chương Độc lập hạng Ba. Bùi Trọng Liễu (1934 - 2010), Tiến sĩ nhà nước về khoa học, ngành Toán. Bùi Huy Đường (1937 - 2013), Viện sĩ Viện hàn lâm khoa học Pháp. Bùi Tường Phong (1942 - 1975), nhà tin học, tác giả của thuật toán tô bóng Phong (Phong shading). Bùi Thị An (sinh 1943), PGS.TS. Viện Trưởng Viện Tài nguyên môi trường, Phó Chủ tịch hội Hoá học VN, Đại biểu Quốc hội khoá XIII - Ủy viên Ủy ban Khoa học, công nghệ và môi trường Quốc hội. PGS.TS. Bùi Nhật Quang (sinh năm 1975), Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng khóa XII, Ủy viên Trung ương Đảng khóa XIII. Kinh tế: Bùi Thị Hý, quê tại huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, là bà tổ nghề Gốm Chu Đậu, cũng là nữ doanh nhân tài hoa đầu tiên của Việt Nam, bà nổi danh từ thế kỷ 15 khi đưa Gốm Chu đậu của Việt Nam rạng danh khắp nơi trên Thế giới . Bùi Kiến Thành (sinh 1932), nhà tài chính người Mỹ gốc Việt. Bùi Thành Nhơn (sinh 1958), Chủ tịch Tập đoàn Novaland . Kỹ sư Bùi Quang Độ (1946-2021), cựu giảng viên Đại học Bách Khoa (Hà Nội), cựu Tổng Giám đốc Công ty Liên doanh Tin học (Gen Pacific), đồng Sáng lập viên, Chủ tịch HĐQT trường Đại học dân lập Văn Lang . Tiến sĩ Bùi Quang Ngọc (sinh 1956), Phó Chủ tịch- nguyên TGĐ Tập đoàn FPT . Doanh nhân Bùi Mạnh Lân (sinh năm 1957), Chủ tịch HĐQT kiêm TGĐ Tập đoàn Hưng Thịnh. Huân chương Lao động hạng Nhất, Nhì, Ba. Văn hoá, nghệ thuật Bùi Kỷ (1888–1960), là nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam, một nhân sĩ trí thức yêu nước tham gia thành viên của chính phủ Việt Nam DCCH, ông được cử làm Trưởng ban Bình dân học vụ toàn quốc. Ủy viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Huân chương kháng chiến hạng Nhất. Bùi Xuân Phái (1920 - 1988), họa sĩ nổi tiếng Việt Nam và quốc tế, Giải thưởng Hồ Chí Minh (1996). Bùi Trang Chước (1915-1992) là họa sĩ nổi tiếng Việt Nam, với tác phẩm để đời: "Quốc huy Việt Nam" . Hoàng Cầm, tên thật Bùi Tằng Việt (1922 – 2010) là tác giả bài thơ "Lá Diêu bông". Bùi Sơn Tùng, (bút danh Sơn Tùng), sinh 1928, nhà văn với nhiều tác phẩm về lãnh tụ Hồ Chí Minh và các danh nhân cách mạng, danh nhân văn hóa Việt Nam, tiêu biểu là tiểu thuyết “Búp sen xanh”. Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới. Bùi Đình Hạc, (sinh 1934) Cục trưởng Cục Điện ảnh Việt Nam. Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt III (2007) và danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân đợt 1 (1984). Phương Lựu, tên thật là Bùi Văn Ba, sinh năm 1936, là Giáo sư, Tiến sĩ khoa học, nhà văn - Nhà giáo Nhân dân (2002). Ông là một trong những trường hợp hiếm hoi ở Việt Nam vừa đồng thời được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về Khoa học Công nghệ và Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật.. Nhà thơ cận-hiện đại: Bùi Lão Kiều (Huyền Kiêu-tiền chiến) Bùi Tằng Việt (Hoàng Cầm) Bùi Đình Diệm (Quang Dũng) Bùi Giáng (1926-1998), là nhà thơ, dịch giả và là nhà nghiên cứu văn học của Việt Nam. Nhà văn cận-hiện đại: Bùi Đức Ái (Nhà văn Anh Đức) Bùi Hiển (1919 - 2009) Bùi Nhật Tiến (hải ngoại) Bùi Ngọc Tấn (đương đại). Bùi Huy Phồn, nhà thơ, nhà văn, nhà báo Việt Nam. Bùi Hạnh Cẩn (1919 - 2020), nhà báo, nhà thơ (là con trai của cụ Bùi Trình Khiêm, đại biểu QH khoá I; là bố của Bùi Thị An, đại biểu QH khoá XIII). Bùi Phụng, tác giả cuốn Từ điển Việt-Anh. Bùi Ý, nhà nghiên cứu ngôn ngữ, nhà biên dịch Việt Nam. Bùi Hiền, nhà nghiên cứu ngôn ngữ và giảng viên tiếng Nga, người đề xuất cải tiến chữ quốc ngữ năm 2017. Bùi Văn Bảo, nhà giáo và soạn giả. Bùi Công Kỳ, nhạc sĩ Tuyết Mai tên thật: Bùi Thị Thái (1925-3/2022), ca sĩ, phát thanh viên Đài Tiếng nói Việt Nam, danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân (năm 1993). Bùi Ngọc Bảo (ca sĩ tài tử Ngọc Bảo): 1925-2006. Châu Loan (Bùi Thị Loan) 1926-1972, ca sỹ, Nghệ sĩ Nhân dân Bùi Gia Tường (sinh 1937), là Giáo sư, Nghệ sĩ Nhân dân. Bùi Đình Thảo, nhạc sĩ Bùi Cường sinh 1947, với vai diễn để đời "Chí Phèo", ông được truy tặng danh hiệu NSND (2019). Bùi Đắc Sừ (1948-2020), nguyên Giám đốc Nhà hát Chèo Việt Nam, -Nghệ sĩ Nhân dân (2007), Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật (2012). Bùi Quang Tuấn (1953 - 2020) Nhạc sỹ, tác giả của "Tộc ca HỌ BÙI VIỆT NAM". Bùi Bài Bình (sinh 1956), Nghệ sĩ nhân dân. Trung Anh (tên khai sinh là Bùi Trung Anh), sinh năm 1961, diễn viên, Nghệ sĩ Nhân dân (2019). Bùi Thế Thông (Thế Thông), nhạc sĩ Bùi Thị Oanh (Lệ Thu)- (1943-2021), ca sĩ. Bùi Thương Tín, diễn viên điện ảnh Bùi Xuân Hinh (sinh 1960), Nghệ sĩ Ưu tú, là nam Diễn viên hài, hề chèo cổ Việt Nam. Bùi Thị Phương Thanh (ca sĩ Phương Thanh), Giải thưởng Âm nhạc Cống hiến. Thanh Bùi (Bùi Vũ Thanh) sinh: 1983, ca sĩ. Bùi Anh Tuấn, ca sĩ Bùi Bích Phương, Hoa hậu Báo Tiền phong 1988 (tên cũ của cuộc thi Hoa hậu Việt Nam), là Hoa hậu đầu tiên từ khi Việt Nam thống nhất. Bùi Phương Nga, Á hậu 1 Hoa hậu Việt Nam 2018, đại diện Việt Nam tại Hoa hậu Hòa bình Quốc tế 2018. Bùi Đình Hoài Sa, Á hậu 2 Hoa hậu Chuyển giới Việt Nam 2018, đại diện Việt Nam tại Hoa hậu Chuyển giới Quốc tế 2020. Bùi Quỳnh Hoa, Giải Vàng Siêu mẫu Việt Nam 2018, Quán quân Siêu mẫu Quốc tế 2022, Miss Universe Việt Nam 2023. Thể thao Bùi Lương (sinh 2-2-1939): 9 lần vô địch giải Việt dã toàn quốc và Marathon - Giải thưởng “Thành tựu cống hiến trọn đời” - Cúp chiến thắng năm 2016 . Bùi Tử Liêm (sinh 1925): Nguyên Nguyên Tổng thư ký (đầu tiên) Uỷ ban Ô-lim-pích Việt Nam; Vụ trưởng Vụ thể thao thành tích cao - Giải thưởng “Thành tựu cống hiến trọn đời” - Cúp Chiến thắng năm 2019 Bùi Thị Thu Thảo (sinh 1992): vận động viên điền kinh. Bùi Tiến Dũng, (sinh 28-2-1997) người Mường, thủ môn bóng đá. Bùi Tiến Dụng, người Mường, em trai thủ môn Bùi Tiến Dũng, chơi ở vị trí hậu vệ. Bùi Tiến Dũng, người Kinh, cầu thủ bóng đá chơi ở vị trí hậu vệ. Đại võ sư Bùi Công Hóa (1894-1958), Sáng lập và là Chưởng môn võ phái Nội Quyền -Tây Sơn Nhạn . Bùi Yến Ly (sinh 1995) nữ vận động viên giành huy chương Vàng thế giới môn Muay Thái ở hạng cân 51 kg, tại World Games (Đại hội Thể thao Thế giới - năm 2017) Bùi Phan Duy Hiển, (sinh 09 - 11 - 2002 ) người Kinh chơi ở vị trí Bi-a Thủ Bùi Ngọc Duy ( 2004 ) người Kinh lãnh đạo vị trí Bi-a lỗ 10 Trung Quốc Theo Thông chí của Trịnh Tiều thời Tống, mục Thị tộc lược, tổ tiên họ Bùi là dòng dõi Bá Ích, con trai của Tần Hoàn Công là Hậu Tử Châm. Tộc nhân họ Bùi thời Hán cư trú chủ yếu tại lưu vực Hoàng Hà, xuất hiện một chi nổi bật ở huyện Văn Hỷ, tức Văn Hỷ Bùi gia, tạo nên thuyết Thiên hạ vô nhị Bùi. Qua thời Ngụy và Tấn, họ Bùi dần dần lớn mạnh, trở thành thế lực chính trị lớn xưng Hà Đông Bùi thị, nắm nhiều quyền hành thời Đường. Nhân vật Quân sự Bùi Khải, tướng nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc, cháu họ Bùi Tiềm. Bùi Quả, đại tướng nhà Tây Ngụy. Bùi Thúc Nghiệp, đại tướng nhà Bắc Tề. Bùi Thúy, đại tướng nhà Nam Lương. Bùi Văn Cử, tướng nhà Bắc Chu. Bùi Khoan, tướng nhà Bắc Chu. Bùi Quả, tướng nhà Bắc Chu. Bùi Nhân Cơ, danh tướng thời Tùy mạt Đường sơ. Bùi Hành Nghiễm, danh tướng thời Tùy mạt Đường sơ. Bùi Độ, tướng lĩnh thời Đường Hiến Tông. Bùi Hoài Lượng, Thượng tướng Quân giải phóng nhân dân Trung Hoa. Chính trị Bùi Tiềm, đại thần nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc. Bùi Tuấn, đại thần nhà Thục Hán thời Tam Quốc, em trai Bùi Tiềm. Bùi Tú, đại thần nhà Tây Tấn. Bùi Giai, đại thần nhà Tây Tấn. Bùi Bá Mậu, quan nhà Bắc Ngụy. Bùi Chiêu Minh, đại thần triều Bắc Tề. Bùi Hiệp, quan Bắc Chu. Bùi Tịch, đại thần nhà Tùy và nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Bùi Củ, đại thần ba triều Bắc Chu, Tùy, Đường. Bùi Chính, luật học gia thời Tùy. Bùi Viêm, đại thần nhà Đường. Văn hóa Bùi Kính Hiến, quan nhà Bắc Ngụy. Bùi Tùng Chi, nhà sử học Đông Tấn, đồng tác giả Tam quốc chí chú. Bùi Nhượng Chi, quan nhà Bắc Tế. Bùi Văn Trung, nhà khảo cổ học Trung Quốc. Bùi Diễm Linh, diễn viên Trung Quốc. Nhân vật hư cấu Bùi Nguyên Thiệu, nhân vật trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa. Bùi Nguyên Khánh, nhân vật trong tiểu thuyết Thuyết Đường diễn nghĩa. Bùi Thúy Vân, nhân vật trong tiểu thuyết Thuyết Đường diễn nghĩa, con gái Bùi Nhân Cơ, vợ Trình Giảo Kim. Bùi Tuyên, nhân vật tiểu thuyết trong Thủy Hử. Triều Tiên Những nhân vật tiêu biểu mang họ Bùi tại Triều Tiên: Bùi Đạt Tuấn (Bae Tal-jun), nguyên Chủ tịch Ủy ban Xây dựng Nhà nước, hiện tại là Bộ trưởng Bộ Xây dựng Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên và Chủ tịch Ủy ban Trung ương Liên hiệp Kiến trúc sư Triều Tiên. Bùi Cát Chu (Pae Gil-su), vận động viên Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, Huy chương Vàng Thế vận hội 1992. Bùi Anh Chu (Bae Young-soo), vận động viên bóng chày Hàn Quốc. Bùi Dong Vận (Bae Yong-kyun), nhà làm phim Hàn Quốc. Bùi Dũng Tuấn (Bae Yong-jun), diễn viên điện ảnh Hàn Quốc, đóng phim Mối tình đầu, Bản tình ca mùa đông,... Bùi Sắt Kỳ (Bae Seul-ki), ca sĩ Hàn Quốc. Bùi Tông Ngọc (Bae Jong-ok), nữ diễn viên Hàn Quốc. Bùi Hải Dân (Bae Hae-min), cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp Hàn Quốc. Bùi Khởi Chung (Bae Ki-jong), cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp Hàn Quốc. Suzy tên thật là Bae Soo-ji (Bùi Tú Trí), ca sĩ Hàn Quốc, thành viên nhóm nhạc Miss A Bae Sang-moon (Bùi Thượng Mưu), vận động viên golf chuyên nghiệp Hàn Quốc. Irene tên thật là Bae Joo-hyun (Bùi Châu Hiền), thành viên nhóm nhạc Red Velvet Bae Woohee, ca sĩ, người mẫu Hàn Quốc, thành viên nhóm nhạc Dal Shabet. Bae Jin Young, ca sĩ, người Hàn Quốc, thành viên nhóm nhạc Wanna One Yubin tên thật là Bae Yoo-bin (Bùi Hữu Bân), thành viên nhóm nhạc Oh My Girl. Bae tên thật là Bae Jinsol, ca sĩ, thành viên nhóm nhạc NMIXX Khác Mark Pae, giáo mục Anh giáo ở Hàn Quốc, quốc tịch Mỹ. Xem thêm Họ người Việt Nam (Wikipedia) Họ (một phần của họ tên người) Danh sách một số họ phổ biến trên thế giới Chú thích Tham khảo Quyết định 107/HĐBT năm 1986 đặc cách công nhận Giáo sư, Phó Giáo sư trong lĩnh vực khoa học quân sự Kế thừa môn phái "Tây Sơn Nhạn" . Di tích Phù Đổng Thiên Vương Huyền Thiên Đại Thánh báo ân Mẹ. Họ Bùi về định cư tại vùng đất Cái Sơn - Vĩnh Long . TÓM TẮT LỊCH SỬ TỘC BÙI VĂN Ông Bùi Văn Thành - không còn là Thứ trưởng Bộ Công an Ngụy thư, Quyển 51, Liệt truyện 32 - Bùi Thúc Nghiệp, Thôi Tuệ Cảnh, Trương Hân Thái truyện. Ngụy thư, Quyển 85, Liệt truyện 73 - Văn uyển truyện: Viên Dược, Bùi Kính Hiến, Lư Quán, Phong Túc, Hình Tang, Bùi Bá Mậu, Hình Hân, Ôn Tử Thăng truyện. Bắc Tề thư, Quyển 35, Liệt truyện 27 - Bùi Nhượng Chi, Hoàng Phủ Hòa, Lý Cấu, Trương Yến Chi, Lục Ngang, Vương Tùng Niên, Lưu Y truyện. Chu thư, Quyển 34, Liệt truyện 25 - Triệu Thiện, Nguyên Định, Dương Phiếu, Bùi Khoan, Dương Phu truyện. Chu thư, Quyển 35, Liệt truyện 27 - Trịnh Hiếu Mục, Thôi Khiêm, Thôi Du, Bùi Hiệp, Tiết Đoan, Tiết Thiện truyện. Chu thư, Quyển 36, Liệt truyện 28 - Trịnh Vỹ, Dương Toản, Đoạn Vĩnh, Vương Sỹ Lương, Thôi Ngạn Mục, Lệnh Hồ Chỉnh, Tư Mã Duệ, Bùi Quả truyện. Chu thư, Quyển 37, Liệt truyện 29 - Khấu Tuấn, Hàn Bao, Triệu Túc, Trương Quỹ, Lý Ngạn, Quách Ngạn, Bùi Văn Cử truyện. Liên kết ngoài Trang Web. Họ Bùi Việt Nam Quyết định 107/HĐBT năm 1986 đặc cách công nhận Giáo sư, Phó Giáo sư trong lĩnh vực khoa học quân sự Thể loại: Người Hà Nội (Họ Bùi) Trang Web. của Trung tâm Unesco nghiên cứu văn hóa các dòng họ và gia đình Việt Nam Trang Web. Cộng đồng Họ Bùi Nghệ An Bùi Tiến Dũng trao giải thưởng hay nhất cho Ivan Perisic Họ người Trung Quốc Họ người Triều Tiên Họ người Việt Nam Họ tên
25666
https://vi.wikipedia.org/wiki/Casablanca%20%28phim%29
Casablanca (phim)
Casablanca là một bộ phim chính kịch lãng mạn của Hoa Kỳ năm 1942. Phim do đạo diễn Michael Curtiz dàn dựng, dựa trên kịch bản sân khấu Everybody Comes to Rick's của Murray Burnett và Joan Alison. Phim có diễn xuất của Humphrey Bogart, Ingrid Bergman, Paul Henreid, Claude Rains, Conrad Veidt, Sydney Greenstreet, Peter Lorre và Dooley Wilson. Lấy bối cảnh giai đoạn đầu Chiến tranh thế giới thứ hai, Casablanca đề cập tới một người đàn ông bị giằng xé bởi lựa chọn khó khăn giữa tình yêu dành cho một người phụ nữ và trách nhiệm giúp cô cùng chồng—là một lãnh tụ kháng chiến người Tiệp Khắc—thoát khỏi Maroc, lúc này thuộc quyền quản lý của chính quyền Vichy Pháp thân Đức Quốc xã. Nhà dựng phim Irene Diamond đã thuyết phục nhà sản xuất Hal B. Wallis mua lại tác quyền vở kịch vào tháng 1 năm 1942. Hai anh em Julius và Philip G. Epstein ban đầu được chỉ định viết kịch bản cho bộ phim. Đầu năm 1942, họ rời bỏ dự án để hợp tác trong Why We Fight của Frank Capra. Howard E. Koch đảm nhận kịch bản này cho tới khi anh em nhà Epsteins trở lại một tháng sau đó. Casey Robinson viết lại kịch bản trong ba tuần, nhưng không được ghi nhận. Curtiz trở thành đạo diễn của bộ phim sau khi William Wyler, lựa chọn đầu tiên của Wallis, không thể tham gia. Quá trình ghi hình chính bắt đầu từ ngày 25 tháng 5 năm 1942, kết thúc ngày 3 tháng 8; hầu hết bộ phim quay tại Warner Bros. Studios, Burbank, với chỉ một cảnh quay ở Sân bay Van Nuys, Los Angeles. Mặc dù là một bộ phim hạng A với dàn diễn viên nhiều ngôi sao cùng đội ngũ sản xuất tên tuổi, không ai trong đoàn làm phim tin rằng nó sẽ trở thành một sản phẩm vượt trội so với hàng chục bộ phim Hollywood khác được sản xuất cùng năm. Được đưa ra rạp công chiếu sớm nhằm tận dụng sự kiện quân Đồng minh tấn công Bắc Phi, phim công chiếu lần đầu tiên vào ngày 26 tháng 11 năm 1942 tại Thành phố New York và ra mắt tại Mỹ vào ngày 23 tháng 1 năm 1943. Tại phòng vé, phim thu về 3.7 triệu USD trong lần phát hành gốc, là phim có doanh thu cao thứ 7 của năm 1943. Tại giải Oscar lần thứ 16, phim chiến thắng 3 hạng mục: "Phim hay nhất", "Đạo diễn xuất sắc nhất" (Curtiz) và "Kịch bản chuyển thể xuất sắc nhất" (anh em nhà Epsteins và Koch). Trải qua thời gian, bộ phim tiếp tục được đánh giá cao và nó được coi là một trong những tác phẩm kinh điển của điện ảnh Hollywood với nhiều câu thoại, hình tượng nhân vật và phần nhạc phim đã trở thành mẫu mực trong lịch sử điện ảnh. Hơn 60 năm sau ngày công chiếu đầu tiên, Casablanca vẫn thường xuyên đứng ở nhóm đầu trong các bảng xếp hạng những bộ phim hay nhất trong lịch sử. Nội dung Rick Blaine (Humphrey Bogart) là một người Mỹ lưu vong sống tại thành phố biển Casablanca của Maroc thuộc Pháp. Anh là ông chủ của một quán bar sang trọng kiêm sòng bạc nổi tiếng có tên "Rick's Café Américain", nơi tập trung đủ mọi thành phần của thành phố, từ những viên chức Vichy Pháp hay sĩ quan Đức Quốc xã cho tới những người tị nạn bị mắc kẹt tại thành phố cảng trên đường chạy trốn cuộc chiến đang lan rộng ở châu Âu. Có vẻ ngoài lạnh lùng và không bao giờ tiếp rượu khách tới quán bar, Rick thực tế lại là một người Mỹ nhiệt huyết từng chiến đấu bên cạnh những người Cộng hòa trong cuộc Nội chiến Tây Ban Nha chống lại phe phát xít của Francisco Franco. Một buổi tối, Ugarte (Peter Lorre), vốn kiếm sống bằng những mánh khóe lặt vặt và là khách quen của Rick, tới Rick's Café Américain với hai tờ giấy thông hành mà gã lấy được sau khi giết chết hai nhân viên đưa thư người Đức. Đây là những giấy tờ có giá trị cực lớn đối với những người bị mắc kẹt ở Casablanca vì nó cho phép người mang chúng được phép đi lại tự do trong vùng của Đức Quốc xã kiểm soát tại châu Âu, đồng nghĩa với việc họ có thể đặt chân tới Lisboa, Bồ Đào Nha để rồi từ đó bay tới Mỹ và thoát khỏi sự tàn khốc của cuộc chiến. Dự định bán lại hai tờ thông hành với giá cao của Ugarte không thành khi gã bị viên đại úy cảnh sát Louis Renault bắt ngay tại quán cà phê. Nhưng Renault và các sĩ quan Đức Quốc xã không biết rằng trước khi bị bắt Ugarte đã kịp giao lại hai tờ thông hành cho Rick. Cùng thời điểm với vụ bắt giữ Ugarte, Rick gặp hai người khách mà anh không hề mong đợi, đó là người yêu cũ của anh, Ilsa Lund (Ingrid Bergman) cùng chồng của cô là Victor Laszlo (Paul Henreid). Laszlo vốn là một lãnh tụ kháng chiến người Tiệp Khắc đã từng chạy thoát khỏi trại tập trung của Đức Quốc xã và đang tìm cách vượt khỏi Casablanca tới Mỹ nhằm tiếp tục tổ chức cuộc kháng chiến tại châu Âu. Ilsa Lund tìm thấy người bạn là nhạc sĩ dương cầm Sam và yêu cầu chơi bản "As Time Goes By." Sau cuộc nói chuyện với ông Ferrari (Sydney Greenstreet), chủ quán bar cạnh tranh với Rick Blaine, Victor Laszlo tin rằng Rick đang có hai tờ thông hành trong tay và quyết định thuyết phục Rick nhượng chúng lại cho mình. Trước lời đề nghị của Laszlo, Rick thẳng thừng từ chối với lời giải thích đơn giản rằng Laszlo hãy về hỏi lý do từ người vợ của mình. Trong lúc đó bên ngoài quán bar, các viên sĩ quan Đức đang hát vang bài hát mà họ rất tự hào là "Die Wacht am Rhein", để đáp trả, Laszlo đề nghị ban nhạc của quán chơi bản quốc ca của Pháp "La Marseillaise" và bắt nhịp cho toàn bộ khách trong quán hát theo át lời người Đức. Hành động của Laszlo khiến viên thiếu tá Strasser của Đức Quốc xã tức giận tới mức ông ta buộc đại úy cảnh sát người Pháp Renault đóng cửa ngay lập tức cơ sở kinh doanh của Rick. Đêm hôm đó, đích thân Ilsa tới gặp Rick tại quán cà phê sau khi Laszlo phải tham gia một cuộc họp bí mật của những người kháng chiến. Một lần nữa Rick từ chối giao lại hai tờ thông hành khiến Ilsa phải rút súng ra đe dọa, tuy nhiên cô nhanh chóng thừa nhận rằng mình không thể bắn anh và rằng cô vẫn còn rất yêu anh. Ilsa giải thích với Rick rằng khi hai người phải lòng nhau ở Paris trong những ngày trước khi thành phố rơi vào tay người Đức, cô không biết rằng người chồng tưởng như đã chết trong trại tập trung của cô thực tế vẫn còn sống và thậm chí đã thoát được về ngoại ô thành phố. Đứng trước trách nhiệm chăm sóc người chồng bị thương, cô buộc phải ở lại thành phố mà không thể tới ga tàu cùng Rick như lời ước hẹn. Mặc dù còn tỏ ra chua cay vì mối tình tan vỡ, Rick vẫn hứa giúp chồng Ilsa chạy thoát để rồi sau đó anh cùng cô có thể một lần nữa sống bên nhau. Tại quán Rick's Café Américain, Laszlo tới gặp Rick để tiết lộ rằng mình đã biết về tình cảm của Ilsa với Rick và anh đề nghị Rick dùng những tờ thông hành để đưa vợ mình tới nơi an toàn. Ngay lúc này Renault ập tới bắt Laszlo khi đang giao dịch giấy thông hành với Rick, với tội danh dính líu tới giấy tờ bị đánh cắp. Lúc này Rick trở mặt với kế hoạch vạch sẵn ban đầu vốn để lừa Renault, rút súng buộc ông thả Laszlo và đưa cả hai vợ chồng Ilsa tới sân bay để bắt chuyến bay đêm tới Lisboa. Tại sân bay Rick bộc lộ kế hoạch thực sự của mình, đó là cho cả hai vợ chồng Ilsa chạy trốn vì theo Rick, Ilsa không thể ở lại sống cùng anh bởi cô là một phần quan trọng trong cuộc chiến đấu của Laszlo sau này. Sau đó anh còn tiếp tục giết viên sĩ quan Strasser khi ông ta tìm cách ngăn cản chuyến bay của hai người. Chiếc máy bay chở Ilsa cùng Laszlo cất cánh cùng lúc Renault quyết định rời bỏ Casablanca để cùng Rick tới vùng do Chính phủ tự do Pháp quản lý ở Brazzaville. Cả hai bước vào màn sương mù dày đặc với câu thoại cuối cùng của Rick: "Louis, tôi nghĩ rằng đây là sự bắt đầu của một tình bạn đẹp." ("Louis, I think this is the beginning of a beautiful friendship.") Diễn viên Trong vở kịch, diễn viên có tổng cộng 16 đoạn hội thoại và nhiều cảnh bổ sung; kịch bản phim mở rộng thành 22 đoạn hội thoại và hàng trăm cảnh bổ sung. Dàn diễn viên của Casablanca đa dạng về quốc tịch, chỉ có 3 trong số các diễn viên được giới thiệu là người Mỹ. Ngoài các diễn viên chính là Paul Henreid, Conrad Veidt và Peter Lorre, nhiều vai diễn quần chúng chủ yếu là các diễn viên châu Âu phải rời bỏ quê hương để chạy trốn chế độ Đức Quốc xã, như Louis V. Arco, Trude Berliner, Ilka Grünig, , Richard Ryen, Ludwig Stössel, Hans Twardowski và Wolfgang Zilzer. Một nhân chứng tại buổi quay cảnh phim "song đấu" giữa hai bài La Marseillaise và Die Wacht am Rhein kể lại rằng rất nhiều diễn viên đã khóc và "nhận ra họ chính là những người tị nạn thật sự". Theo Aljean Harmetz thì các diễn viên lưu vong đã đem lại cho Casablanca sự am hiểu và cảm xúc tuyệt vọng mà nếu chỉ tuyển các diễn viên thông thường thì bộ phim sẽ không bao giờ có. Diễn viên hài Jack Benny đã có thể tham gia vào một vai phụ, như lời dẫn xuất hiện trong quảng cáo báo chí và quyển sách thông cáo của Casablanca. Trong mục "Movie Answer Man", nhà phê bình Roger Ebert trả lời, "Có thể là anh ấy. Tôi chỉ nói được đến vậy." Sau này, ông nói thêm "Đúng vậy đấy. Câu lạc bộ hâm mộ Jack Benny giờ đây có thể được thanh minh rồi." Diễn viên chính Humphrey Bogart trong vai Rick Blaine. Vốn là ngôi sao của các bộ phim hình sự, Rick là vai diễn lãng mạn đầu tiên của Bogart. Theo một số thông tin thì vai diễn này từng được hãng phim nhắm cho Ronald Reagan nhưng thực tế thì hãng Warner Bros khi đó đã biết rằng ngôi sao này phải nhập ngũ, vì vậy họ chưa từng thực sự có ý định để Reagan đóng vai Rick Blaine. Ingrid Bergman trong vai Ilsa Lund. Theo trang web chính thức của Bergman thì Ilsa là vai diễn nổi tiếng và có sức sống lâu bền nhất của ngôi sao người Thụy Điển. Vốn khởi đầu sự nghiệp ở Hollywood từ năm 1939 với Intermezzo, Casablanca là thành công lớn đầu tiên của Bergman. Theo ý kiến của nhà phê bình Roger Ebert, Ingrid Bergman đã thực sự tỏa sáng và đóng cặp rất ăn ý với ngôi sao lớn Humphrey Bogart. Trước Bergman, một số nữ diễn viên từng được thử vai Ilsa là Ann Sheridan, Hedy Lamarr, Michèle Morgan, bản thân Bergman cũng chỉ có thể tham gia bộ phim sau khi Wallis cho David O. Selznick mượn lại một ngôi sao khác là Olivia de Havilland. Paul Henreid trong vai Victor Laszlo. Henreid vốn là một diễn viên Áo rời quê hương từ năm 1935, ông chỉ miễn cưỡng nhận vai Laszlo sau khi được hứa trả khoản thù lao cao hơn cả hai Bogart và Bergman. Quan hệ giữa Henreid và hai diễn viên chính còn lại cũng không thực sự tốt trong quá trình quay phim, ông coi Bogart là một diễn viên "tầm thường" ("mediocre"), ngược lại Bergman cũng nhận xét rằng Henreid là một người khó tính và hay giận dỗi. Diễn viên phụ Claude Rains trong vai Đại úy Louis Renault. Rains là một diễn viên Anh từng cộng tác với Curtiz trong Những cuộc phiêu lưu của Robin Hood. Peter Lorre trong vai Ugarte. Lorre là một diễn viên gốc Hungary phải rời Đức sang Mỹ năm 1933. Sydney Greenstreet trong vai Ngài Ferrari. Greenstreet là đồng hương của Rains, ông đã từng đóng chung với Lorre và Bogart trong bộ phim nổi tiếng The Maltese Falcon (1941). Conrad Veidt trong vai Thiếu tá Heinrich Strasser. Veidt vốn là một diễn viên Đức từng tham gia tác phẩm huyền thoại của điện ảnh Đức The Cabinet of Dr. Caligari (1920) trước khi phải chạy trốn chế độ Quốc xã. Diễn viên khác Dooley Wilson trong vai Sam. Wilson là một trong số rất ít các diễn viên Mỹ tham gia Casablanca. Vốn là một tay trống, ông không hề biết chơi piano và mãi đến sau khi hoàn thành bộ phim, nhà sản xuất Wallis vẫn có ý định lồng tiếng diễn viên khác thay cho tiếng của Wilson trong các bài hát. Vai diễn Sam cũng từng được Hal Wallis dự kiến là một vai nữ mà trong số các ứng cử viên có sự góp mặt của Hazel Scott và Ella Fitzgerald. Joy Page trong vai Annina Brandel. Tuy vào vai một phụ nữ lưu vong người Bulgaria nhưng Page lại là người Mỹ, cô là con gái của ông chủ hãng Warner Bros. Jack Warner. S. Z. Sakall trong vai Carl. Cũng giống như đạo diễn Curtiz và Peter Lorre, Sakall là một diễn viên người Hungary chạy trốn chế độ Đức Quốc xã. Sakall là bạn của Curtiz từ ngày hai người còn làm việc tại Budapest, ông có ba người thân thiệt mạng trong các trại tập trung của Đức Quốc xã. Curt Bois trong vai kẻ móc túi. Bois là diễn viên người Do Thái gốc Đức. Sự nghiệp điện ảnh của ông kéo dài từ năm 1907 tới năm 1987. Leonid Kinskey trong vai Sascha, tay pha chế người Nga đã say đắm Yvonne. Ông sinh trong một gia đình người Do Thái tại Nga và chuyển tới Hoa Kỳ. Ông chia sẻ với Aljean Harmetz, tác giả cuốn Round Up the Usual Suspects: The Making of Casablanca, rằng vì ông là bạn rượu của Bogart nên mới giành được vai diễn này. Leo Mostovoy là lựa chọn đầu tiên cho vai này, nhưng bị cho là không đủ hài hước. Madeleine LeBeau trong vai Yvonne, cô bạn gái bị Rick từ chối. LeBeau kết hôn với đồng nghiệp trong Casablanca Marcel Dalio cho đến khi ly hôn năm 1942. Bà là diễn viên còn sống cuối cùng của đoàn làm phim, trước khi qua đời ngày 1 tháng 5 năm 2016. John Qualen trong vai Berger. Ông sinh ra tại Canada, nhưng lớn lên ở Hoa Kỳ. Ông xuất hiện trong nhiều bộ phim của John Ford. Sản xuất Kịch bản Kịch bản gốc của Casablanca là kịch bản sân khấu chưa được sản xuất của Murray Burnett và Joan Alison có tựa đề Everybody Comes to Rick's. Vở kịch này dựa trên cảm hứng từ chuyến đi châu Âu năm 1938 của Murray Burnett, lúc ông đã tới Viên chỉ một thời gian ngắn sau khi sự kiện Anschluss xảy ra và tận mắt chứng kiến sự phân biệt đối xử của chính quyền Đức quốc xã. Tiếp đó, nhà biên kịch còn tới một hộp đêm ở miền Nam nước Pháp nơi ông gặp những khách hàng đến từ nhiều quốc gia trên thế giới và một nhạc công mà ông lấy làm hình mẫu cho nghệ sĩ người da đen Sam trong phim sau này. Trong kịch bản sân khấu gốc, nhân vật Ilsa là một cô gái Mỹ có tên Lois Meredith, cô không biết Laszlo cho tới sau khi kết thúc cuộc tình với Rick, vốn là một luật sư, ở Paris. Để tăng tính chân thực về động cơ của Rick, Wallis, Curtiz và các tác giả đã quyết định đưa bối cảnh bộ phim về sau khi Trận Trân Châu Cảng diễn ra. Trên The Guardian, Paul Fairclough khẳng định Cinema Vox ở Tangier là niềm cảm hứng cho Rick's Cafe trong Casablanca. Đây là công trình lớn nhất tại châu Phi khi khánh thành năm 1935, sức chứa 2.000 chỗ ngồi và có một mái vòm kéo. Sau khi đọc kịch bản, nhà phân tích của hãng Warner Bros. là Stephen Karnot cho rằng đây là một "kịch bản sáo rỗng nhưng tinh tế" ("sophisticated hokum"), với kết quả là biên tập viên Irene Diamond thuyết phục nhà sản xuất Hal Wallis mua lại bản quyền kịch bản Everybody Comes to Rick's với giá 20.000 USD, số tiền lớn nhất từng được trả cho một kịch bản sân khấu chưa bao giờ công diễn. Sau khi mua lại kịch bản sân khấu, các nhà sản xuất đổi tên dự án thành Casablanca nhằm bắt chước tựa đề của bộ phim ăn khách Algiers (1938). Các biên kịch đầu tiên được giao chuyển thể tác phẩm sân khấu này là anh em Julius và Philip Epstein. Đầu năm 1942, họ rời bỏ dự án này và chuyển sang hợp tác trong Why We Fight theo yêu cầu Frank Capra tại Washington, DC. Người thứ ba tham gia nhóm chuyển thể là nhà biên kịch Howard Koch, đã viết nên 30 tới 40 trang trong lúc anh em nhà Epstein văng mặt. Khi anh em nhà Epstein trở lại khoảng một tháng sau đó, đóng góp của Koch bị loại bỏ—ngược lại những gì Kock khẳng định trong 2 cuốn sách của mình. Theo lượng kinh phí cuối cùng mà hãng Warner Bros. chi trả cho bộ phim, anh em nhà Epsteins nhận 30.416 USD, trong khi Koch chỉ được trả 4.200 USD. Tuy không được nhắc tới trong thành phần biên kịch, Casey Robinson cũng đóng góp cho kịch bản chuyển thể của Casablanca trong 3 tuần, tham gia chỉnh sửa những cuộc gặp gỡ của Rick và Ilsa ở quán bar. Curtiz quyết định ưu tiên các trường đoạn lãng mạn của bộ phim và những cảnh phim hồi tưởng của Rick và Ilsa về giai đoạn hai người còn ở Paris. Kock lại đề nghị nhấn mạnh yếu tố chính trị và tình cảm lãng mạn của kịch bản gốc. Mặc dù trải qua tay nhiều biên kịch với những ý đồ chuyển thể khác nhau, Ebert vẫn xem đây là một kịch bản "hết sức chặt chẽ và thống nhất". Còn theo Koch nhận xét sau này thì chính sức ép giữa ý đồ chuyển thể của ông và của Curtiz đã giúp kịch bản phim có được sự thống nhất đó. Tuy không hoàn toàn tán thành với kịch bản chuyển thể cuối cùng, Julius Epstein cũng thừa nhận rằng dù sao thì bộ phim được hoàn thành suôn sẻ vẫn là điều tốt nhất. Kịch bản chuyển thể Casablanca còn gặp rắc rối ở cơ quan kiểm duyệt của Hollywood là Production Code Administration khi Joseph Breen phản đối chi tiết viên đại úy Renault tìm cách tống tiền những người mắc kẹt ở Casablanca hay chi tiết Rick và Ilsa từng ngủ cùng nhau ở Paris. Một số thay đổi nhỏ trong kịch bản được thực hiện tuy nhiên thực tế thì cả hai chi tiết này đều vẫn được giữ nguyên trong kịch bản cuối cùng. Do quy định của luật điện ảnh Mỹ (Hays Code) thời đó nên Casablanca không thể kết thúc với việc một người đàn bà đã có chồng bỏ đi với người đàn ông khác, vì vậy vấn đề của kịch bản chuyển thể không phải là Ilsa có ra đi cùng Laszlo hay không mà là sự kiện đó sẽ diễn ra thế nào. Vì vậy Casey Robinson đã đề nghị với Hal Wallis về một đoạn kết có nút thắt với việc Rick giả như sẽ giữ Ilsa ở lại cùng mình trong khi thực tế thì anh quyết định sẽ để cả hai người cùng ra đi. Theo Casey thì đoạn kết này sẽ giải quyết được mối tình tay ba trong phim cũng như nêu bật được ý nghĩa của cuộc chiến đấu chống phát xít vốn có vị trí quan trọng nhất vào thời điểm chiến tranh này. Quay phim Bộ phim được khởi quay ngày 25 tháng 5 năm 1942 và hoàn thành chưa đầy ba tháng sau, vào ngày 3 tháng 8, với kinh phí 1.039.000 đô la Mỹ (vượt dự toán 75.000 USD), đây là một số tiền không phải quá lớn nhưng cũng vượt hơn kinh phí trung bình của một bộ phim Hollywood thời bấy giờ. Lựa chọn đầu tiên của Wallis cho vị trí đạo diễn Casablanca là William Wyler, tuy nhiên đạo diễn nổi tiếng này không thể tham gia dự án, và Wallis quyết định quay sang người bạn thân của mình là Michael Curtiz, một đạo diễn vốn là người Do Thái gốc Hungary di cư tới Mỹ trong thập niên 1920 và có một số người thân phải tị nạn tới Mỹ để tránh chính quyền Đức Quốc xã. Một số nhà phê bình cho rằng cách làm phim của Curtiz không đóng góp nhiều về mặt cốt truyện cho Casablanca trong khi đó một số khác lại đánh giá cao phong cách đạo diễn của Michael Curtiz, ví dụ Sidney Rosenzweig đã đánh giá Casablanca là điển hình cho phong cách nhấn mạnh vào những xung đột về đạo đức của Curtiz. Bên cạnh nhóm làm phim chính của Curtiz, một tổ quay phụ cũng được thành lập dưới sự chỉ đạo của đạo diễn Don Siegel để thực hiện những cảnh quay về người tị nạn ở Casablanca và cảnh quân Đức tiến vào Paris. Tất cả phân cảnh của Casablanca được quay trong trường quay, trừ cảnh thiếu tá Strasser lái xe tới sân bay, vốn được quay trực tiếp tại Sân bay Van Nuys. Các đường phố phục vụ cho phần ngoại cảnh Casablanca vốn vừa được xây dựng trước đó cho bộ phim The Desert Song, các nhà sản xuất chỉ cần thay đổi sửa chữa lại để chúng phù hợp với những đường phố Paris nơi Rick và Ilsa trải qua những giờ phút hạnh phúc. Quán bar của Rick được thiết kế gồm ba phần riêng biệt để thuận lợi cho các góc quay khác nhau. Ở trường đoạn cuối cùng của phim, chiếc máy bay Lockheed Model 12 Electra Junior được làm ở dạng mô hình và để che lấp những khiếm khuyết của nó người ta đã tận dụng tới sương mù. Mặc dù vậy, công viên chủ đề Disney's Hollywood Studios ở Orlando, Florida sau này lại mua hẳn một chiếc Lockheed 12A thật và tuyên bố rằng chiếc máy bay này đã được sử dụng để quay Casablanca. Theo nhà phê bình Roger Ebert, nhà sản xuất Wallis là "một động lực sáng tạo chính" của Casablanca khi ông quan tâm tới từng chi tiết nhỏ của bộ phim, ông buộc người trong đoàn làm phim phải kiếm cho bằng được một con vẹt thật để phục vụ cho bối cảnh quán bar Blue Parrot (Quán Con vẹt xanh). Vị trí quay phim của Casablanca được giao cho nhà quay phim Arthur Edeson, người từng tham gia quay nhiều bộ phim kinh điển như Frankenstein (1931) và The Maltese Falcon (1941). Edeson đặc biệt chú trọng tới các cảnh quay có sự xuất hiện của nữ diễn viên Ingrid Bergman, cô thường được quay từ phía bên trái ưa thích, các khung hình của Bergman thường được lấy nét mềm và bố trí ánh sáng sao cho đôi mắt của nữ diễn viên này trở nên lấp lánh, giúp cho nhân vật Ilsa có được vẻ đẹp buồn bã, nhẹ nhàng và mang chút hoài cổ. Nhiều cảnh quay trong Casablanca dùng biểu tượng bóng cột dài đổ trên nhân vật tạo cảm giác họ bị cầm tù, những dải bóng ngang dọc cũng để ám chỉ Chữ thập Lorraine, biểu tượng của Chính phủ Tự do Pháp cũng như các xung đột về tinh thần của nhân vật. Theo Rosenzweig, những hiệu quả hình ảnh này là chi tiết kinh điển trong các bộ phim của Curtiz bên cạnh cách di chuyển máy bay và sử dụng bối cảnh phim để phân đoạn. Một rắc rối trong quá trình quay Casablanca là sự chênh lệch về chiều cao giữa Bergman và Bogart, nữ diễn viên gốc Thụy Điển cao hơn bạn diễn chừng 5 cm nên cô thường đề nghị Curtiz cho Bogart đứng ở tầm cao hơn hoặc ngồi trong các cảnh quay cùng cô. Câu thoại cuối cùng ("Louis, tôi nghĩ rằng đây là sự bắt đầu của một tình bạn đẹp") được Wallis nghĩ ra sau khi đoàn làm phim đã đóng máy, vì vậy mãi một tháng sau Bogard mới được mời lại để lồng tiếng cho câu cuối cùng này. Người ta còn có dự định quay thêm một cảnh phim mô tả Renault và những binh lính của chính phủ Pháp Tự do tham gia cuộc tấn công Bắc Phi của quân Đồng minh, tuy nhiên việc mời lại Claude Rains là quá khó khăn và đạo diễn nổi tiếng David O. Selznick cũng cho rằng thay đổi cái kết có sẵn của Casablanca sẽ là một "sai lầm tồi tệ" ("terrible mistake"). Nhạc phim Phần nhạc phim của Casablanca được giao cho nhà soạn nhạc nổi tiếng Max Steiner, người vào năm 1939 đã sáng tác phần nhạc cho bộ phim bất hủ Cuốn theo chiều gió (Gone with the Wind). Bài hát chủ đề của phim, "As Time Goes By" do Herman Hupfeld sáng tác đã được Burnett chọn ngay từ kịch bản sân khấu. Steiner vốn dự định bỏ "As Time Goes By" để thay mới hoàn toàn bằng nhạc của ông, tuy nhiên do Bergman vừa cắt tóc ngắn cho vai diễn María trong Chuông nguyện hồn ai (For Whom the Bell Tolls) nên cô không thể quay lại các cảnh có xuất hiện giai điệu của As Time Goes By và kết quả là Max Steiner quyết định dựa trên bài hát này cùng bản quốc ca Pháp "La Marseillaise" để viết nhạc phim cho phù hợp với sự thay đổi tâm trạng nhân vật. Trong cảnh quay đáng nhớ khi Laszlo bắt nhịp khách hàng trong quán hát La Marseillaise át tiếng sĩ quan Đức đang hát Die Wacht am Rhein, bài hát Đức ban đầu được chọn là "Horst Wessel Lied", tác phẩm được coi là quốc ca thứ hai của Đức Quốc xã, tuy nhiên các nhà làm phim đã không thể sử dụng bài hát này do nó vẫn còn hạn bản quyền. Một số bài hát khác được sử dụng trong Casablanca, chủ yếu thông qua tiếng hát của người nhạc công da đen Sam, là "It Had to Be You" (1924, nhạc của Isham Jones, lời của Gus Kahn), "Knock on Wood" (nhạc của M.K. Jerome, lời của Jack Scholl) và "Shine" (1910, nhạc của Ford Dabney, lời của Cecil Mack và Lew Brown). Từ năm 1999, As Time Goes By được Warner Bros. dùng làm nhạc hiệu mở đầu cho hãng. Chiếc đàn dương cầm trong những cảnh phim hồi tưởng tại Paris được chào mua tại hệ thốg Sotheby's, Thành phố New York vào ngày 14 tháng 12 với giá 600.000 USD. Chiếc dương cầm của Sam tại quán Rick's Café Américain được Turner Classic Movies và Bonhams đấu giá tại New York vào tháng 11 năm 2014, với số tiền 3.4 triệu USD. Danh sách bài hát Phát hành Bộ phim được công chiếu chính thức tại Hollywood Theater ở Thành phố New York ngày 26 tháng 11 năm 1942, trùng với dịp quân Đồng minh tấn công Bắc Phi và chiếm Casablanca. Casablanca sau đó được công chiếu rộng rãi từ ngày 23 tháng 1 năm 1943 nhằm tận dụng tiếng vang của Hội nghị Casablanca, một hội nghị cấp cao của phe Đồng minh với sự xuất hiện của cả thủ tướng Anh Winston Churchill và tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt. Cơ quan thông tin chiến tranh Hoa Kỳ (United States Office of War Information) đã ngăn việc chiếu Casablanca cho binh lính ở Bắc Phi vì họ sợ bộ phim sẽ khiến những người ủng hộ chính phủ Vichy Pháp tức giận. Tiếp nhận Trong nhà hát Hollywood gồm 1.500 ghế ngồi, bộ phim thu về 255.000 USD sau hơn 10 tuần. Bộ phim đem lại cho các nhà sản xuất 3.7 triệu đô la Mỹ trong lần đầu công chiếu ở Hoa Kỳ, đây là bộ phim ăn khách thứ 7 ở nước này trong năm 1943. Phần lớn ý kiến phê bình trong thời gian Casablanca ra mắt lần đầu đều là tích cực. Bên cạnh diễn xuất của Bogart và Bergman, tờ Variety còn khen ngợi phim là một tác phẩm tuyên truyền chống phe Trục tuyệt vời, về đánh giá này Koch sau đó đã nhận xét: "đó là một bộ phim khán giả cần... có những giá trị... đáng để người ta hy sinh. Và nó được kể một cách hết sức hấp dẫn". Bài phê bình phim trên tờ The New York Times cho rằng bộ phim là một tác phẩm cảm động tới "sởn gai ốc" và rằng các nhà làm phim đã kết hợp rất tốt các yếu tố tình cảm, hài hước và cảm động; NY Times cũng đánh giá cao chất lượng kịch bản và diễn xuất của dàn diễn viên trong phim. Không phải toàn bộ ý kiến phê bình đều đánh giá cao Casablanca, tờ The New Yorker chỉ đánh giá bộ phim là "tạm được" ("pretty tolerable"). Còn theo Pauline Kael thì bộ phim còn lâu mới có thể coi là một tác phẩm lớn mà chỉ là một bộ phim lãng mạn rẻ tiền. Tương tự Kael, Umberto Eco đánh giá "theo bất cứ tiêu chuẩn phê bình chính xác nào thì Casablanca cũng là một bộ phim hết sức tầm thường" với tuyến nhân vật không phải phức tạp mà là đầy sự mâu thuẫn. Bộ phim có một số sai sót về mặt lịch sử và lôgic. Ví dụ tờ thông hành trong phim theo lời Ugarte là nó có chữ ký của cả Weygard, toàn quyền Vichy Pháp tại các thuộc địa Bắc Phi, và De Gaulle, lãnh tụ chính phủ Pháp Tự do lưu vong, trong khi thực tế thì tòa án quân sự của chính quyền Vichy Pháp đã kết án vắng mặt De Gaulle tội phản quốc với án chung thân vào ngày 2 tháng 8 năm 1940, vì vậy một tờ thông hành có chữ ký của De Gaulle thì hoàn toàn vô giá trị trong lãnh thổ do Vichy Pháp quản lý. Theo Harmetz thì tờ thông hành này được Joan Allison nghĩ ra cho kịch bản sân khấu và nó chưa bao giờ bị đặt dấu hỏi về mức độ chính xác về mặt lịch sử. Một chi tiết không hợp lý khác là việc Laszlo được đi lại tự do ở Casablanca sau khi trốn khỏi trại tập trung Đức Quốc xã vì "đây vẫn là vùng chưa bị chiếm đóng của nước Pháp", chi tiết này hoàn toàn không hợp lý vì chính quyền Vichy Pháp quản lý thành phố vốn có quan hệ cực kỳ chặt chẽ với Đức Quốc xã và chắc chắn Laszlo phải bị bắt ngay khi xuất hiện trước mặt cảnh sát Pháp. Một câu thoại của Renault cũng đề cập tới chi tiết ông từng "đi cùng người Mỹ khi họ tiến về Berlin năm 1918", thực tế thủ đô nước Đức chưa bao giờ bị chiếm đóng trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, việc Renault bị các sĩ quan Đức giám sát trực tiếp cũng là vô lý vì quân đội Đức không hề chính thức có mặt ở Casablanca suốt Chiến tranh thế giới thứ hai. Casablanca còn gặp một số lỗi về tính liên tục trên phim, điển hình là cảnh Rick ướt sũng khi tới ga tàu để rời Paris nhưng khi anh lên tàu thì chiếc áo khoác lại khô cong, theo lời Michael Curtiz thì những lỗi về tính liên tục Casablanca gặp phải là do ông "làm bộ phim quá nhanh và chẳng ai để ý". Di sản Casablanca sau khi ra đời đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử điện ảnh Mỹ. Murray Burnett đã nhận xét rằng bộ phim luôn "chân thực với ngày hôm qua, hôm nay và cả ngày mai". Nhân dịp kỉ niệm lần thứ 50 ngày Casablanca được công chiếu lần đầu, tờ Los Angeles Times nhận xét rằng bộ phim đã đạt được sự cân bằng gần như hoàn hảo của cả ba thể loại phim ly kì, tình cảm và hài hước, tờ LA Times cho rằng sức sống lâu bền của bộ phim chính là tinh túy của các bộ phim Hollywood giai đoạn hoàng kim. Theo nhà phê bình Roger Ebert thì Casablanca có lẽ là bộ phim nằm trong nhiều danh sách Phim hay nhất hơn tất cả các bộ phim khác, kể cả Công dân Kane: Công dân Kane "xuất sắc hơn" nhưng Casablanca "được yêu thích hơn". Ebert cho rằng sự phổ biến của bộ phim đến từ cách xây dựng hình ảnh nhân vật vô cùng đẹp đẽ trong phim, theo sự phát triển của tình tiết phim, các nhân vật càng bộc lộ sự tốt đẹp của mình tuy rằng một số nhân vật như Laszlo được sáng tạo quá hoàn hảo tới mức thiếu thực tế. Ảnh hưởng Sức ảnh hưởng của Casablanca được thể hiện qua nhiều chi tiết của bộ phim được tái hiện trong các tác phẩm điện ảnh ra đời sau nó. Năm 1944, bộ phim Passage to Marseille tập hợp gần như toàn bộ dàn diễn viên chính của Casablanca với Bogart, Rains, Curtiz, Greenstreet và Lorre. Riêng Humphrey Bogart đã có thêm hai bộ phim có rất nhiều điểm tương tự với Casablanca, đó là To Have and Have Not (1944) và Sirocco (1951). Casablanca còn được gợi lại qua nhiều bộ phim khác như A Night in Casablanca (1946) của anh em nhà Marx, The Cheap Detective (1978) của Neil Simon, Brazil (1985) của Terry Gilliam, Barb Wire (1996) hay Out Cold (2001). Steven Soderbergh trong bộ phim The Good German (2006) đã tái sử dụng rất nhiều kỹ thuật quay và chi tiết phim của Casablanca để tưởng nhớ tới bộ phim, The Good German nói về một vụ giết người xảy ra tại Berlin thời hậu Chiến tranh thế giới thứ hai, tác phẩm được hoàn toàn quay bằng phim đen trắng và kết thúc bằng cảnh hai nhân vật chính (do George Clooney và Cate Blanchett thủ vai) ở sân bay, tương tự với cảnh kết của Casablanca, thậm chí áp phích của bộ phim cũng được thiết kế tương tự với áp phích nổi tiếng của Casablanca. Nhiều bộ phim còn tưởng nhớ tới Casablanca thông qua chính tựa đề của nó, ví dụ bộ phim Play It Again, Sam (1972) của Woody Allen gợi tới câu thoại "Play it, Sam. Play As Time Goes By!" còn The Usual Suspects (1995) của Bryan Singer lại sử dụng câu thoại ở phần kết của Casablanca là "Round up the usual suspects". Bộ phim Caboblanco (1980) thì thậm chí gần như là một tác phẩm làm lại Casablanca với bối cảnh Nam Mỹ. Bản thân hãng Warner Bros. vào năm 1995 cũng cho làm một bộ phim nhái lại Casablanca với tựa đề Carrotblanca, đây là một tập phim hoạt hình thuộc loạt Bugs Bunny. Trên truyền hình, ảnh hưởng của Casablanca có thể thấy rõ qua cốt truyện của bộ phim Overdrawn at the Memory Bank (1983) hay tập phim Casablanca của loạt Moonlighting trong đó hai nhân vật chính có tên "Rick" (Curtis Armstrong) và "Agnes" (Allyce Beasley). Trò chơi máy tính được đánh giá cao năm 1998 Grim Fandango cũng chịu nhiều ảnh hưởng của bộ phim, cụ thể rõ nhất là ở cảnh II, Rubacava, khi các nhân vật chính của game là Manny Calavera và Glottis mặc trang phục giống Rick Blaine và Sam. Tại Hoa Kỳ, Casablanca luôn được chiếu lại trong tuần kiểm tra cuối kì của Đại học Harvard, truyền thống này đã được nhiều trường đại học Mỹ khác bắt chước. Trong khi nhiều bộ phim sản xuất thập niên 1940 dần bị quên lãng theo thời gian thì Casablanca cho tới năm 1977 vẫn là tác phẩm điện ảnh được chiếu lại nhiều nhất trên truyền hình Mỹ. Năm 1982 trong một bài báo trên tờ American Film, Chuck Ross đã tuyên bố rằng ông vừa thử nghiệm việc đánh máy lại kịch bản Casablanca, chỉ thay lại tựa đề thành Everybody Comes to Rick's và thay tên nghệ sĩ chơi piano thành Dooley Wilson rồi gửi nó tới 217 đại diện môi giới. Trong số 85 đại diện đọc nó thì 38 đại diện thẳng thừng từ chối kịch bản này, 33 nhận ra được nó là kịch bản cũ (tuy chỉ có 8 là xác định được đây là kịch bản Casablanca), 3 nhận xét rằng nó có khả năng thương mại hóa, và 1 thì đề nghị chuyển kịch bản thành tiểu thuyết. Giải thưởng và xếp hạng Tại lễ trao giải Oscar lần thứ 16 (1942), Casablanca giành tổng cộng 8 đề cử giải Oscar. Bộ phim chiến thắng tại 3 hạng mục quan trọng là Phim hay nhất (cho Hal B. Wallis), Đạo diễn xuất sắc nhất (cho Michael Curtiz) và Kịch bản chuyển thể hay nhất (cho Julius J. Epstein, Philip G. Epstein và Howard Koch). Đây là giải Oscar đầu tiên của đạo diễn Michael Curtiz sau 3 lần đề cử vào các năm 1942 và 1938. Với Curtiz và Hal B. Wallis, đây đều là chiến thắng duy nhất của họ ở giải thưởng này. Với vai diễn xuất sắc của mình, Humphrey Bogart cũng có một đề cử ở hạng mục Vai nam chính xuất sắc nhất tuy nhiên tượng vàng cuối cùng lại được trao cho Paul Lukas, một đồng hương người Hungary của đạo diễn Curtiz, với vai diễn trong bộ phim Watch on the Rhine (tên tiếng Anh của bài hát Die Wacht am Rhein được nhắc tới trong trường đoạn nổi tiếng của Casablanca). Tuy là người được đứng tên nhận giải phim hay nhất nhưng Wallis lại không được giữ giải thưởng vì ông chủ hãng phim Jack Warner đã giữ lại tượng vàng, tức giận vì hành động này của Warner, Wallis đã cắt hợp đồng với hãng phim ngay tháng 4 cùng năm. Năm 1989, bộ phim đã được Viện lưu trữ phim quốc gia của Mỹ chọn vào danh sách bảo tồn của viện ngay trong đợt đầu tiên. Trong các danh sách xếp hạng phim hay nhất trong lịch sử điện ảnh, Casablanca thường xuyên được lựa chọn, ví dụ trong danh sách 100 phim hay nhất của Viện phim Mỹ, Casablanca đứng thứ 2 trong bảng xếp hạng 1998 và thứ 3 trong bảng xếp hạng 2007. Những câu thoại nổi tiếng của bộ phim cũng thường được nhắc tới trong các danh sách câu thoại nổi tiếng, Danh sách 100 câu thoại đáng nhớ trong phim của Viện phim Mỹ có tới 6 câu thoại trích từ bộ phim: "Here's looking at you, kid." ("Nhìn em kìa, cô bé") (thứ 5), "Louis, I think this is the beginning of a beautiful friendship." ("Louis, tôi nghĩ rằng đây là sự bắt đầu của một tình bạn đẹp") (thứ 20), "Play it, Sam. Play 'As Time Goes By.'" (thứ 28), "Round up the usual suspects." (thứ 32), "We'll always have Paris." (Trong chúng ta luôn có Paris) (thứ 43) và "Of all the gin joints in all the towns in all the world, she walks into mine." ("Trong vô vàn những quán rượu ở mọi thành phố trên khắp thế giới này, cô ấy lại tới đúng chỗ của tôi") (thứ 67). Với 6 câu thoại, Casablanca là bộ phim có nhiều câu thoại đứng trong danh sách nhất, đứng trên Cuốn theo chiều gió và The Wizard of Oz. Trong số 6 câu thoại thì "Here's looking at you, kid" không hề nằm trong kịch bản gốc mà nó xuất phát từ một câu nói ngẫu hứng của Bogart khi ông dạy Bergman chơi bài poker trong thời gian nghỉ giữa các cảnh quay. Chuyển thể Sau khi bộ phim đạt được thành công lớn cả về nghệ thuật và doanh thu, các nhà sản xuất đã lập tức dự định về một phần tiếp theo của Casablanca. Phần kết này được dự định lấy tên Brazzaville, tên thành phố mà viên cảnh sát Renault nhắc tới ở cảnh cuối cùng, tuy vậy Brazzaville chưa bao giờ được đưa vào sản xuất thực sự. Cũng từng có những dự án làm lại bộ phim tuy nhiên không có dự án nào được hiện thực hóa, đạo diễn nổi tiếng người Pháp François Truffaut vào năm 1974 đã từ chối một dự án như vậy vì theo ông bộ phim đã trở thành một tác phẩm được sinh viên Mỹ tôn thờ. Ở bên ngoài Hollywood, một nhà làm phim Ấn Độ của Bollywood là Rajeev Nath vào năm 2007 cũng đưa ra một dự án làm lại Casablanca như một cách tưởng nhớ tới bộ phim nổi tiếng. Đã có hai bộ phim truyền hình ngắn được sản xuất dựa trên Casablanca, chúng đều được coi là những phần trước của bộ phim. Loạt phim truyền hình đầu tiên được hãng ABC phát sóng trong hai năm 1955 và 1956 với Charles McGraw thủ vai Rick và Marcel Dalio thủ vai Renault. Đây là một trong các tác phẩm của chương trình Warner Bros. Presents với tổng thời lượng các tập là 10 tiếng. Loạt phim thứ hai có tổng thời lượng 5 tiếng do đài NBC phát sóng năm 1983 với David Soul vào vai Rick còn Ray Liotta vào vai Sacha. Casablanca còn được chuyển thể thành kịch truyền thanh nhiều lần trong đó đáng chú ý có vở kịch dài 30 phút phát trên The Screen Guild Theater vào ngày 26 tháng 4 năm 1943 với sự góp mặt của cả Bogart, Bergman và Henreid, hay phiên bản chuyển thể dài 1 tiếng phát trên Lux Radio Theater vào ngày 24 tháng 1 năm 1944 với Alan Ladd vào vai Rick còn Hedy Lamarr vào vai Ilsa. Biên kịch Casablanca là Julius Epstein từng hai lần dự định chuyển thể bộ phim lên sân khấu Broadway vào các năm 1951 và 1967 nhưng cả hai lần dự định của Epstein đều không thành hiện thực. Vở kịch gốc của Casablanca là Everybody Comes to Rick's cũng từng được công diễn ở Newport, Rhode Island vào tháng 8 năm 1946 và Luân Đôn tháng 4 năm 1991 nhưng đều không phải là những vở diễn thành công. Casablanca được hãng Warner Bros. cho phép nhà văn Michael Walsh chuyển thể thành tiểu thuyết với tựa đề As Time Goes By, tác phẩm được xuất bản năm 1998. Ngoài những tình tiết có trong phim, tiểu thuyết còn đề cập tới nhiều chi tiết khác không có trong Casablanca như quá khứ bí ẩn của Rick ở Mỹ. Tuy nhiên không giống như bộ phim gốc, tiểu thuyết As Time Goes By không phải là một tác phẩm thành công. Dạng phát hành khác Trong thập niên 1980, Casablanca từng được chuyển thành phim màu trong một dự án gây nhiều tranh cãi. Phiên bản màu này được phát sóng trên truyền hình và phát hành dưới dạng băng VHS tuy nhiên chúng không được người xem đón nhận. Con trai của Humphrey Bogart là Stephen đã nhận xét về dự án màu hóa bộ phim này như sau: "Nếu các ngài định màu hóa Casablanca thì tại sao không thêm tay cho Tượng thần Vệ Nữ?". Casablanca được Warner Home Video phát hành dưới dạng đĩa lade vào năm 1991 và băng VHS vào năm 1992. Tới năm 1997, bộ phim được hãng MGM phát hành dưới dạng đĩa DVD kèm theo đoạn phim giới thiệu và một phim tài liệu ngắn nói về quá trình sản xuất. Năm 2003 phiên bản DVD Casablanca đặc biệt gồm 2 đĩa được ra mắt công chúng, phiên bản này ngoài nội dung phim với hình ảnh được phục chế còn có phần bình luận và các phim tài liệu đính kèm. Ngày 14 tháng 11 năm 2006, Casablanca được phát hành dưới dạng HD DVD với phần nội dung tương tự bản DVD năm 2003. Phiên bản này được khen ngợi vì phần hình ảnh phim có chất lượng rất tốt. Tới năm 2008, tới lượt phiên bản Blu-ray của Casablanca xuất hiện với một số phần kèm thêm mới. Tham khảo Chú thích Thư mục Liên kết ngoài Casablanca tại Viện phim Mỹ Audio truyền tiếp Casablanca tại Screen Guild Theater: 26 tháng 4 năm 1943 Casablanca tại Lux Radio Theater: 24 tháng 1 năm 1944 Casablanca tại Theater of Romance: 19 tháng 12 năm 1944 Phim năm 1942 Phim chính kịch Mỹ Phim chính kịch lãng mạn Mỹ Phim tiếng Anh Phim trắng đen của Mỹ Phim về Thế chiến II Phim dựa theo kịch Phim chính kịch thập niên 1940 Phim lấy bối cảnh năm 1940 Phim lấy bối cảnh năm 1941 Phim lấy bối cảnh ở Paris Phim quay tại California Phim giành giải Oscar cho phim hay nhất Phim có đạo diễn giành giải Oscar cho Đạo diễn xuất sắc nhất Phim có biên kịch giành giải Oscar cho kịch bản chuyển thể xuất sắc nhất Phim của Warner Bros. Phim được lưu trữ tại Cơ quan lưu trữ phim Quốc gia Hoa Kỳ Phim tuyên truyền Mỹ
25667
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20V%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20Qu%E1%BB%91c%20gia%202006
Giải bóng đá Vô địch Quốc gia 2006
Giải bóng đá Vô địch Quốc gia 2006, có tên chính thức là Giải bóng đá Vô địch Quốc gia Eurowindow 2006 hay Eurowindow V-League 2006 vì lý do tài trợ, là mùa giải thứ 23 và là mùa giải chuyên nghiệp thứ 6 của Giải bóng đá Vô địch Quốc gia. Giải đấu khởi tranh vào ngày 15 tháng 1 và kết thúc vào ngày 20 tháng 8 năm 2006 với 13 câu lạc bộ tham dự. Công ty Eurowindow trở thành nhà tài trợ chính thức của giải đấu kể từ vòng đấu thứ 10. Đây là lần đầu tiên, giải đấu có 13 đội cùng tranh tài. Câu lạc bộ thứ 14 là Ngân hàng Đông Á mất quyền tham dự vì bê bối hối lộ trọng tài tại giải Hạng Nhất 2005 (mùa giải này Đông Á xếp thứ 3). Các đội bóng sẽ thi đấu vòng tròn 2 lượt. Đội vô địch, thứ 2 và thứ 3 lần lượt được thưởng 700, 350 và 150 triệu đồng. Đội xếp thứ 13 sẽ phải xuống chơi tại giải Hạng Nhất, trong khi đội xếp thứ 12 sẽ đá play-off với đội xếp thứ 3 giải Hạng Nhất 2006. Thay đổi trước mùa giải Thay đổi đội bóng Các đội bóng Sân vận động Nhân sự, nhà tài trợ và áo đấu Thay đổi tên gọi Thay đổi huấn luyện viên Cầu thủ nước ngoài Mỗi đội được đăng kí 5 cầu thủ nước ngoài, nhưng chỉ được sử dụng tối đa 3 cầu thủ nước ngoài cùng lúc trên sân. Bảng xếp hạng Truyền hình Các trận đấu của Eurowindow V-League 2006 được lựa chọn và tường thuật trực tiếp trên VTV3, VCTV, HTV, BTV và một số đài truyền hình địa phương khác. Ngoài ra, Truyền hình kỹ thuật số VTC cũng trực tiếp một trận mỗi vòng kể từ lượt về. Lịch thi đấu và kết quả Đấu play-off Trận đấu play-off diễn ra giữa đội xếp thứ 12 giải chuyên nghiệp và đội xếp thứ 3 giải hạng nhất. Tổng số khán giả Theo vòng đấu Theo câu lạc bộ Số khán giả cao nhất Các giải thưởng Giải thưởng tháng Do chậm trễ trong việc tìm kiếm nhà tài trợ nên bắt đầu từ tháng 4 mới có các giải thưởng hằng tháng dành cho đội bóng, cầu thủ, HLV xuất sắc nhất và bàn thắng đẹp nhất. Danh hiệu Bàn thắng đẹp nhất được xác định dựa trên kết quả bình chọn của khán giả qua tin nhắn điện thoại đến hệ thống VTC Mobile. Tất cả giải thưởng đến từ nhà tài trợ VTC. Giải thưởng chung cuộc Vô địch: Gạch Đồng Tâm Long An Vua phá lưới: Elenildo De Jesus (Brasil, TMN.CSG) – 18 bàn Cầu thủ xuất sắc nhất: Lê Công Vinh (Sông Lam Nghệ An) Huấn luyện viên xuất sắc nhất: Huỳnh Ngọc San và Henrique Calisto (Gạch Đồng Tâm Long An) Thủ môn xuất sắc nhất: Cầu thủ trẻ U-23 xuất sắc nhất: Giải phong cách: Khatoco Khánh Hòa Đội hình tiêu biểu: Xem thêm Cúp bóng đá Việt Nam 2006 Giải vô địch bóng đá hạng nhất Việt Nam 2006 Siêu cúp bóng đá Việt Nam 2005 Tham khảo Liên kết ngoài Thể thao - Việt Nam Net Những con số về V-League 2006 2006 2006
25697
https://vi.wikipedia.org/wiki/Phosphor
Phosphor
Phosphor hay phốt pho theo phiên âm tiếng Việt (từ tiếng Hy Lạp: phôs có nghĩa là "ánh sáng" và phoros nghĩa là "người/vật mang"), là một nguyên tố hóa học trong bảng tuần hoàn có ký hiệu P và số nguyên tử 15. Là một phi kim đa hóa trị trong nhóm nitơ, phosphor chủ yếu được tìm thấy trong các loại đá phosphat vô cơ và trong các cơ thể sống. Do độ hoạt động hóa học cao, không bao giờ người ta tìm thấy nó ở dạng đơn chất trong tự nhiên. Nó phát xạ ra ánh sáng nhạt khi bị phơi ra trước oxy (vì thế có tên gọi của nó trong tiếng Latinh để chỉ "ngôi sao buổi sáng", từ tiếng Hy Lạp có nghĩa là "ánh sáng" và "mang"), và xuất hiện dưới một số dạng thù hình. Nó cũng là nguyên tố thiết yếu cho các cơ thể sống. Sử dụng quan trọng nhất trong thương mại của nó là để sản xuất phân bón. Nó cũng được sử dụng rộng rãi trong các loại vật liệu nổ, diêm, pháo hoa, thuốc trừ sâu, kem đánh răng và chất tẩy rửa. Các đặc trưng nổi bật Dạng phổ biến của phosphor là chất rắn dạng sáp có màu trắng có mùi đặc trưng khó ngửi tương tự như tỏi. Dạng tinh khiết của nó là không màu và trong suốt. Phi kim này không hòa tan trong nước nhưng hòa tan trong carbon disulfide. Phosphor tinh khiết bắt cháy ngay trong không khí và tạo ra khói trắng chứa phosphor pentoxide P2O5. Thù hình Phosphor tồn tại dưới ba dạng thù hình cơ bản có màu: trắng, đỏ và đen. Các dạng thù hình khác cũng có thể tồn tại. Phổ biến nhất là phosphor trắng và phosphor đỏ, cả hai đều chứa các mạng gồm các nhóm phân bổ kiểu tứ diện gồm 4 nguyên tử phosphor. Các tứ diện của phosphor trắng tạo thành các nhóm riêng; các tứ diện của phosphor đỏ liên kết với nhau thành chuỗi. Phosphor trắng cháy khi tiếp xúc với không khí hay khi bị tiếp xúc với nguồn nhiệt và ánh sáng. Phosphor cũng tồn tại trong các dạng ưa thích về mặt động học và nhiệt động lực học. Chúng được tách ra ở nhiệt độ chuyển tiếp -3,8 °C. Một dạng gọi là dạng "alpha", dạng kia gọi là "beta". Phosphor đỏ là tương đối ổn định và thăng hoa ở áp suất 1 atm và 170 °C nhưng cháy do va chạm hay nhiệt do ma sát. Thù hình phosphor đen tồn tại và có cấu trúc tương tự như graphit – các nguyên tử được sắp xếp trong các lớp theo tấm lục giác và có tính dẫn điện. Ứng dụng Acid phosphoric đậm đặc, có thể chứa tới 70% - 75% P2O5 là rất quan trọng đối với ngành nông nghiệp do nó được dùng để sản xuất phân bón. Nhu cầu toàn cầu về phân bón đã dẫn tới sự tăng trưởng đáng kể trong sản xuất phosphat (PO43-) trong nửa sau của thế kỷ XX. Các sử dụng khác còn có: Các phosphat được dùng trong sản xuất các loại thủy tinh đặc biệt được sử dụng trong các loại đèn hơi natri. Tro xương, calci phosphat, được sử dụng trong sản xuất đồ sứ. Natri triphosphat được sản xuất từ acid phosphoric được sử dụng trong bột giặt ở một số quốc gia, nhưng lại bị cấm ở một số quốc gia khác. Acid phosphoric được sản xuất từ phosphor nguyên tố được sử dụng trong các ứng dụng như các đồ uống chứa soda. Acid này cũng là điểm khởi đầu để chế tạo các phosphat cấp thực phẩm. Các hóa chất này bao gồm calci phosphat được dùng trong bột nở và natri triphosphat và các phosphat khác của natri. Trong số các ứng dụng khác, các hóa chất này được dùng để cải thiện các đặc trưng của thịt hay pho mát đã chế biến. Người ta còn dùng nó trong thuốc đánh răng. natri phosphat được dùng trong các chất làm sạch để làm mềm nước và chống ăn mòn cho các đường ống/nồi hơi. Phosphor được sử dụng rộng rãi để sản xuất các hợp chất hữu cơ chứa phosphor, thôngqua các chất trung gian như phosphor pentachloride và phosphor sulfide. Các chất này có nhiều ứng dụng, bao gồm các chất làm dẻo, các chất làm chậm cháy, thuốc trừ sâu, các chất chiết và các chất xử lý nước. Nguyên tố này cũng là thành phần quan trọng trong sản xuất thép, trong sản xuất đồng thau chứa phosphor và trong nhiều sản phẩm liên quan khác. Phosphor trắng được sử dụng trong các ứng dụng quân sự như bom lửa, tạo ra các màn khói như trong các bình khói và bom khói, và trong đạn lửa. Phosphor đỏ được sử dụng để sản xuất các vỏ bao diêm an toàn, pháo hoa và nhất là methamphetamin (C10H15N). Với một lượng nhỏ, phosphor được dùng như là chất thêm vào cho các loại bán dẫn loại n. Phosphor P32 và phosphor P33 được dùng như là các chất phát hiện dấu vết phóng xạ trong các phòng thí nghiệm hóa sinh học (xem Đồng vị dưới đây) Vai trò sinh học Phosphor là nguyên tố quan trọng trong mọi dạng hình sự sống đã biết. Phosphor vô cơ trong dạng phosphat PO43- đóng một vai trò quan trọng trong các phân tử sinh học như DNA và RNA trong đó nó tạo thành một phần của phần cấu trúc cốt tủy của các phân tử này. Các tế bào sống cũng sử dụng phosphat để vận chuyển năng lượng tế bào thông qua adenosin triphosphat (ATP). Gần như mọi tiến trình trong tế bào có sử dụng năng lượng đều có nó trong dạng ATP. ATP cũng là quan trọng trong phosphat hóa, một dạng điều chỉnh quan trọng trong các tế bào. Các phospholipid là thành phần cấu trúc chủ yếu của mọi màng tế bào. Các muối calci phosphat được các động vật dùng để làm cứng xương của chúng. Trung bình trong cơ thể người chứa khoảng gần 1 kg phosphor, và khoảng ba phần tư số đó nằm trong xương và răng dưới dạng apatit. Một người lớn ăn uống đầy đủ tiêu thụ và bài tiết ra khoảng 1-3 g phosphor trong ngày trong dạng phosphat. Theo thuật ngữ sinh thái học, phosphor thường được coi là chất dinh dưỡng giới hạn trong nhiều môi trường, tức là khả năng có sẵn của phosphor điều chỉnh tốc độ tăng trưởng của nhiều sinh vật. Trong các hệ sinh thái sự dư thừa phosphor có thể là một vấn đề, đặc biệt là trong các hệ thủy sinh thái, xem thêm sự dinh dưỡng tốt và bùng nổ tảo. Lịch sử Phosphor (từ tiếng Hy Lạp phosphoros, có nghĩa là "vật mang ánh sáng" và nó cũng là tên gọi cổ đại của Sao Kim) đã được nhà giả kim thuật người Đức là Hennig Brand tình cờ phát hiện ra năm 1669 thông qua việc điều chế (ông đã chưng cất 60 xô nước tiểu) nước tiểu để biến chúng thành vàng. Làm việc ở Hamburg, Brand đã cố gắng chưng cất các muối bằng cách cho bay hơi nước tiểu, và trong quá trình đó ông đã thu được một khoáng chất màu trắng phát sáng trong bóng đêm và cháy sáng rực rỡ. Kể từ đó, từ lân quang, liên quan đến các ánh sáng lân tinh của phosphor, đã được sử dụng để miêu tả các chất phát sáng trong bóng tối mà không cần cháy. Tuy nhiên bản chất vật lý của hiện tượng lân quang không trùng với cơ chế phát sáng của phosphor: Brand đã không nhận ra rằng thực tế phosphor cháy âm ỉ khi phát sáng. Các loại diêm đầu tiên sử dụng phosphor trắng trong thành phần của chúng, nó là nguy hiểm do độc tính của phosphor trắng. Các trường hợp giết người, tự sát và các vụ ngộ độc ngẫu nhiên là hậu quả của việc sử dụng chất này. Ngoài ra, sự phơi nhiễm trước hơi phosphor đã làm cho nhiều công nhân bị mắc chứng bệnh hoại tử xương hàm. Khi phosphor đỏ được phát hiện, khả năng cháy kém hơn cũng như độc tính thấp hơn của nó đã làm cho dạng phosphor này được nhanh chóng chấp nhận như là một chất thay thế cho phosphor trắng trong sản xuất diêm. Sự phổ biến Do độ hoạt động hóa học cao đối với oxy trong không khí và các hợp chất chứa oxy khác nên phosphor trong tự nhiên không tồn tại ở dạng đơn chất, mà nó phân bổ rộng rãi trong các loại khoáng chất khác nhau. Các loại đá phosphat, trong đó một phần cấu tạo là apatit (khoáng chất chứa calci phosphat dạng không tinh khiết) là một nguồn quan trọng về mặt thương mại của nguyên tố này. Các mỏ apatit lớn có ở Nga, Maroc, Florida, Idaho, Tennessee, Utah v.v. Tại Việt Nam có mỏ apatit tại Lào Cai. Tuy nhiên, đang có các e ngại là các mỏ apatit sẽ nhanh chóng cạn kiệt. Hoa Kỳ sẽ không còn các mỏ apatit vào khoảng năm 2035. Trung Quốc và Maroc sở hữu các mỏ apatit lớn nhất đã biết hiện nay, nhưng rồi chúng cũng sẽ cạn kiệt. Cùng với sự cạn kiệt các mỏ này thì sẽ nảy sinh các vấn đề nghiêm trọng đối với việc sản xuất lương thực, thực phẩm của thế giới do phosphor là một thành phần cơ bản trong các loại phân bón. Thù hình màu trắng của phosphor có thể được sản xuất theo nhiều cách khác nhau. Trong một quy trình, phosphat tricalci thu được từ các loại đá phosphat, được nung nóng trong các lò nung với sự có mặt của carbon và silica. Phosphor dạng nguyên tố sau đó được giải phóng dưới dạng hơi và được thu thập lại dưới dạng acid phosphoric. Phòng ngừa Đây là nguyên tố có độc tính với 50 mg là liều trung bình gây chết người (phosphor trắng nói chung được coi là dạng độc hại của phosphor trong khi phosphat và orthophosphat lại là các chất dinh dưỡng thiết yếu). Thù hình phosphor trắng cần được bảo quản dưới dạng ngâm nước do nó có độ hoạt động hóa học rất cao với oxy trong khí quyển và gây ra nguy hiểm cháy và thao tác với nó cần được thực hiện bằng kẹp chuyên dụng do việc tiếp xúc trực tiếp với da có thể sinh ra các vết bỏng nghiêm trọng. Ngộ độc mãn tính phosphor trắng đối với các công nhân không được trang bị bảo hộ lao động tốt dẫn đến chứng chết hoại xương hàm. Nuốt phải phosphor trắng có thể sinh ra tình trạng mà trong y tế gọi là "hội chứng phân bốc khói". Các hợp chất hữu cơ của phosphor tạo ra một lớp lớn các chất, một số trong đó là cực kỳ độc. Các ester florophosphat thuộc về số các chất độc thần kinh có hiệu lực mạnh nhất mà người ta đã biết. Một loạt các hợp chất hữu cơ chứa phosphor được sử dụng bằng độc tính của chúng để làm các thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, thuốc diệt nấm v.v. Phần lớn các phosphat vô cơ là tương đối không độc và là các chất dinh dưỡng thiết yếu. Khi phosphor trắng bị đưa ra ánh sáng Mặt Trời hay bị đốt nóng thành dạng hơi ở 250 °C thì nó chuyển thành dạng phosphor đỏ, và nó không tự cháy trong không khí, do vậy nó không nguy hiểm như phosphor trắng. Tuy nhiên, việc tiếp xúc với nó vẫn cần sự thận trọng do nó cũng có thể chuyển thành dạng phosphor trắng trong một khoảng nhiệt độ nhất định và nó cũng tỏa ra khói có độc tính cao chứa các phosphor oxide khi bị đốt nóng. Khi bị phơi nhiễm phosphor, trong quá khứ người ta đề nghị rửa bằng dung dịch chứa 2% sulfat đồng CuSO4 để tạo ra một hợp chất không độc có thể rửa sạch. Tuy nhiên, theo báo cáo của Hải quân Mỹ gần đây thì "...đồng(II) sulfat có độc tính và việc sử dụng nó sẽ được dừng lại. Sulfat đồng có thể gây độc cho thận và não cũng như phá hủy hồng cầu trong mạch máu." Hướng dẫn này cũng đề xuất thay thế là "dung dịch bicarbonat để trung hòa acid phosphoric...". Có thể tìm thêm tài liệu về xử lý ngộ độc phosphor tại Emergency War Surgery NATO Handbook: Phần I: Types of Wounds and Injuries: Chương III: Burn Injury: Chemical Burns And White Phosphorus injury. Đồng vị Các đồng vị phóng xạ của phosphor bao gồm: P32: chất tạo bức xạ beta (1,71 MeV) với chu kỳ bán rã 14,3 ngày. Nó được dùng trong các phòng thí nghiệm khoa học nghiên cứu về sự sống, chủ yếu để tạo ra các mẫu DNA và RNA đánh dấu phóng xạ, ví dụ để sử dụng trong các phương pháp đánh dấu Northern hay đánh dấu Southern. Do các hạt beta cao năng lượng được tạo ra thâm nhập qua da và giác mạc, và do bất kỳ lượng P32 nào được đi vào cơ thể theo các đường tiêu hóa, hô hấp hay hấp thụ qua các đường khác đều kết hợp lại trong xương và các acid nucleic, OSHA yêu cầu là mọi người làm việc với P32 bắt buộc phải dùng quần áo bảo hộ, găng tay và kính bảo hộ, và phải tránh sự tiến hành công việc trên các thùng chứa hở để bảo vệ mắt. OSHA cũng yêu cầu phải có sự giám sát cá nhân, quần áo và bề mặt bị phơi nhiễm. Ngoài ra, do năng lượng cao của các hạt beta, thông thường người ta hay sử dụng các vật liệu nặng để che chắn (chẳng hạn chì), nhưng điều này lại tạo ra bức xạ thứ cấp các tia X, thông qua một tiến trình được biết đến như là Bremsstrahlung, có nghĩa là bức xạ phanh. Vì thế, các tấm che phải kèm theo với các vật liệu nhẹ như plexiglas, acrylic, lucit, chất dẻo, gỗ hay nước . P33; chất tạo bức xạ beta (0,25 MeV) với chu kỳ bán rã 25,4 ngày. Nó được dùng trong các phòng thí nghiệm khoa học về sự sống trong các ứng dụng mà bức xạ beta thấp năng lượng là ưu thế hơn, ví dụ trong sắp xếp chuỗi DNA. Hợp chất Amoni phosphat ((NH4)3PO4) Phosphin (PH3) Diphosphan (P2H4) Calci phosphat (Ca3(PO4)2) Supephosphat (Ca(H2PO4)2) Calci phosphide (Ca3P2) Sắt(III) phosphat (FePO4) Sắt(II) phosphat (Fe3(PO4)2) Acid hypophosphorơ (H3PO2) Thuốc thử Lawesson (C14H14O2P2S4) Parathion (C10H14NO5PS) Acid phosphoric (H3PO4) Acid phosphorơ (H3PO3) Phosphor pentabromide (PBr5) Phosphor pentoxide (P2O5) Phosphor tribromide (PBr3) Phosphor trichloride (PCl3) Phosphor triiodide (PI3) Sarin (C4H10FO2P) Somon Kali biphosphat (KH2PO4) Natri phosphat (Na3PO4) VX (C11H26NO2PS) Tham khảo Phòng thí nghiệm quốc gia Los Alamos National, Hoa Kỳ – Phosphor Liên kết ngoài WebElements.com – Phosphor Entrez PubMed - Ngộ độc cấp tính phosphor vàng Phi kim Pnictogen Nguyên tố hóa học Chất khoáng dinh dưỡng
25698
https://vi.wikipedia.org/wiki/Natri%20triphosphat
Natri triphosphat
Natri triphosphat, hay natri tripolyphosphat (công thức phân tử: Na5P3O10) là một muối của natri với axit photphoric. Hợp chất rắn màu trắng tan trong nước này có nhiều ứng dụng khác nhau. Trong tiếng Anh, nó được viết tắt là STPP. Ứng dụng Nó được sử dụng trong nhiều ứng dụng, chẳng hạn làm chất bảo quản thực phẩm cho các loại hải sản, thịt gia súc và gia cầm. Nó cũng được sử dụng trong thuốc đánh răng và là chất cấu tạo trong xà phòng hay bột giặt để làm tăng tính tẩy rửa của các sản phẩm này, nó làm giảm độ cứng của nước do tạo thành những phức chất calci, magie, sắt dưới dạng hòa tan và ngăn cản không cho chất bẩn bám trở lại vải. Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ liệt kê STPP "nói chung được công nhận là an toàn", cùng với muối ăn, giấm, bột nở và natri glutamat (thành phần chính của mì chính). Tuy nhiên, một lượng dư thừa của STPP trong thực phẩm sẽ là bất lợi cho người tiêu dùng do các sản phẩm này thường chứa nhiều nước hơn so với các sản phẩm không có STPP. Tham khảo Phụ gia thực phẩm Hợp chất natri Hợp chất phospho Muối phosphat Phosphat
25705
https://vi.wikipedia.org/wiki/In%20l%E1%BB%A5a
In lụa
In lụa là một dạng trong kỹ thuật in ấn. In lụa là tên thông dụng do giới thợ đặt ra xuất phát từ lúc bản lưới của khuôn in làm bằng tơ lụa. Sau đó, khi mà bản lưới lụa có thể thay thế bởi các vật liệu khác như vải bông, vải sợi hóa học, lưới kim loại để làm thì tên gọi được mở rộng như là in lưới. In lụa thực hiện theo nguyên lý giống như in mực dầu trên giấy nến theo nguyên lý chỉ một phần mực in được thấm qua lưới in, in lên vật liệu in bởi trước đó, một số mắt lưới khác đã được bịt kín bởi hóa chất chuyên dùng. Kỹ thuật này có thể áp dụng cho nhiều vật liệu cần in như nilông, vải, thủy tinh, mặt đồng hồ, mạch điện tử, một số sản phẩm kim loại, gỗ, giấy... hoặc sử dụng thay cho phương pháp vẽ dưới men trong sản xuất gạch men. Lịch sử Kỹ thuật này được Châu Âu sử dụng vào năm 1925 với việc in trên giấy, bìa, thủy tinh, tấm kim loại, vải giả da.... Nhưng, hơn 1000 năm trước "người ta phát minh ra rằng sợi tơ khi kéo căng trên một khung gỗ, với hình ảnh khuôn tô gắn phía dưới khung bằng keo hồ có thể dùng để sao chép các hình ảnh nhiều lần trên nhiều vật liệu khác nhau bằng cách phết mực xuyên qua các lỗ tròn khuôn tụ". Những công trình nghiên cứu sử dụng vải tơ làm lưới in sau đó được tiến hành tại Pháp và Đức trong khoảng thập niên 1870. Sau đó tại Anh Quốc, vào năm 1907, Samuel Simon đã sáng chế ra quá trình làm lưới bằng các sợi tơ. Năm 1914, tại San Francisco, California, phương pháp in lưới nhiều màu được John Pilsworth phát triển. Phân loại kỹ thuật in lụa Theo cách thức sử dụng khuôn in, có thể gọi tên in lụa theo các kiểu sau: In lụa trên bàn in thủ công In lụa trên bàn in có cơ khí hóa một số thao tác In lụa trên máy in tự động Theo hình dạng khuôn in, có thể phân làm hai loại: In dùng khuôn lưới phẳng In dùng khuôn lưới tròn kiểu thùng quay Theo phương pháp in, có tên gọi: In trực tiếp: là kiểu in trên sản phẩm có màu nền trắng hoặc màu nhạt, màu nền không ảnh hưởng đến màu in In phá gắn: là kiểu in trên sản phẩm có nền màu, mực in phải phá được màu của nền và gắn được màu cần in lên sản phẩm, và In dự phòng: là in trên sản phẩm có màu nhưng không thể dùng kiểu in phá gắn được Kỹ thuật Cho dù in thủ công, bán thủ công hay thực hiện bằng máy thì kỹ thuật in lụa cũng bao gồm những công đoạn chính như sau: làm khuôn in; chế tạo bàn in, dao gạt; pha chế chất tạo màu, hồ in; và in. Làm khuôn in Khuôn in có thể làm bằng gỗ hay kim loại, trên đó được căng tấm lưới đã tạo những lỗ trống để mực in có thể chảy qua trong quá trình in. Quá trình tạo những lỗ trống được gọi là "chuyển hình ảnh cần in" lên khuôn lưới. Thời gian đầu thợ in thường dùng phương pháp chuyển trực tiếp bằng cách vẽ lên lớp nến trắng, vẽ trên lớp đất sét hay vẽ lên lớp dầu bóng nhưng về sau người ta thường dùng hơn với phương pháp gián tiếp như là vẽ trên giấy nến hoặc là ngày nay đa số đều dùng phương pháp cảm quang. Vẽ trên lớp nến trắng là kỹ thuật tạo lỗ trống của lưới in bằng cách dùng bút gỗ hoặc tre khắc hoa văn lên một tấm lưới đã được nhúng vào dung môi nến nóng chảy và làm nguội. Vẽ trên lớp đất sét là kỹ thuật tạo lỗ trống của lưới in bằng cách dùng bút gỗ, tre hoặc kim nhọn khắc, đục lỗ theo hình dạng hoa văn trên một tấm lưới đã được nhúng vào hồ đất sét đã làm khô. Vẽ trên lớp dầu bóng là kỹ thuật tạo lỗ trống của lưới in bằng cách dùng bút lông vẽ hình dạng hoa văn trên một tấm lưới đã được quét một lớp dầu bóng và làm khô. Sau khi vẽ nhiều lần sẽ tạo những lỗ trống cần thiết trên bề mặt lưới. Vẽ trên giấy nên là phương pháp gián tiếp để tạo những lỗ trống trên bề mặt lưới in. Dùng dao "khắc" hình trên giấy nến để tạo những khoảng trống cần thiết, úp mặt giấy nến đã khắc lên lưới và dùng bản ủi làm nóng chảy nến. Sau khi để nguội, những chỗ không cần thiết sẽ được nến bít lại. Ngày nay, phương pháp cảm quang được xem như là phương pháp tiến bộ trong việc chế tạo bản in. Với phương pháp này có thể sao chép lại các tác phẩm nghệ thuật mà vẫn giữ được tính chân thực về đường nét của nó. Những bản in được họa sĩ vẽ mẫu thiết kế, thiết kế trên máy tính hoặc tách màu từ một tấm ảnh trên máy tính rồi in ra trên giấy can, mỗi màu được tách sẽ làm một phim tương ứng, phim sau đó được chuyển tải lên tấm lưới. Thao tác đó gọi là chụp bản. Công đoạn chụp bản được tiến hành trong buồng tối, phim đặt lên bản lưới cùng chiều với mẫu in thật, rọi đèn. Ánh sáng của đèn sẽ xuyên qua phim và đập lên lưới. Vì lưới trước đó đã được quét phủ dung dịch cảm quang nên chỉ những chỗ không bị cản bởi mực sẽ đóng rắn dưới tác dụng ánh sáng. Khi mang bản đi rửa, những chỗ không bị chiếu sáng sẽ bị rửa trôi tạo thành những khoảng trống, khi in mực in sẽ lọt qua những chỗ trống này và bắt vào sản phẩm cần in. Việc lựa chọn lưới in đóng vai trò quyết định đến chất lượng in ấn, nhất là độ mịn độ nét của hình ảnh cần in. Các thông số quan trong của lưới là độ mịn của lưới (ký hiệu N(chỉ số) hay T(chỉ số)) và tỷ lệ đường kính sợi lưới và chiều rộng mắt lưới. Thí dụ lưới ký hiệu T40 hay N40 có nghĩa là lưới này có 40 sợi/cm và 1600lỗ/cm². Khi in trên giấy, thông thường chọn lưới có ký hiệu T90 - T140; khi in bao bì PVC: T120-T180; khi in vải T30-T100... Những dung dịch cảm quang thường dùng trong in lưới đó là dung dịch keo Crom-Gelatin hoặc dung dịch Crom-PVA: Dung dịch Keo Crom-Gelatin được chế tạo từ NH4)2Cr2O7 (amoni đicromat) hoặc K2Cr2O7 (kali đicromat) nồng độ 3,5% được pha với keo gelatin nồng độ 20% theo tỷ lệ 1:1. Dung dịch Crom-PVA được chế tạo với polyvinyl acetates 12% thêm vào dung dịch bao gồm (NH4)2Cr2O7 hoặc K2Cr2O7 (1,5g); nước (20ml) và C2H5OH:96% (7ml) theo tỷ lệ 1:1. Những dung dịch trên sau khi chế tạo phải được bảo quản ở nơi thích hợp vì nó là chất nhạy sáng. Bàn in, dao gạt Bàn in làm từ kim loại hoặc gỗ. Bàn in đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo nét in được in chính xác, đều và đạt độ nét cao. Yêu cầu quan trọng nhất đối với bàn in là phẳng, chắc và có độ đàn hồi nhất định để khuôn in có thể tiếp xúc đều với mặt sản phẩm in. Trong những trường hợp khác nhau, bàn in có thể nằm ngang hay nghiêng góc để người thợ thao tác dễ dàng hơn. Dao gạt hồ in là công cụ dùng để đẩy, phết mực màu khiến mực thấm qua lưới in, chuyển mực lên sản phẩm cần in. Gọi là dao theo thuật ngữ của thợ nhưng nó có thể làm bằng bọt biển, con lăn cao su hay đơn giản là một miếng gạt cao su. Chất nhuộm màu và hồ in Những chất nhuộm màu trong in lụa là những hợp chất mà khi tiếp xúc với vật liệu khác thì có khả năng bắt màu và giữ màu trên vật liệu bằng các lực liên kết lý học hay hoá học. In lụa thường sử dụng các chất tạo màu là các hợp chất màu hữu cơ. Có thể phân làm hai loại tan và không tan trong nước. Chất nhuộm màu trong nước có thể là: thuốc nhuộm trực tiếp, thuốc nhuộm axit, thuốc nhuộm hoạt tính, thuốc nhuôm base-cation... Chất nhuộm màu không tan trong nước có thể là: thuốc nhuộm hoàn nguyên không tan, thuốc nhuộm lưu huỳnh, pigmen, thuốc nhuộm azo không tan... Hồ in sau khi pha trộn với thuốc nhuộm được gọi là mực in, sau khi in sẽ được gắn vào sản phẩm cần in. Do đó, tuỳ loại nhóm vật liệu cần in phải có những công thúc pha chế khác nhau. Nhóm vật liệu in được phân các loại sau: vật liệu xenlulo, vật liệu tơ tằm, len; sợi hoá học và xơ tổng hợp; nhựa; gốm sứ; kim loại; thủy tinh...Nhung cho dù in trên chất liệu gì, hồ in cũng phải đáp ứng những yêu cầu sau: Phải đồng nhất về thành phần và lượng màu thích hợp để đạt cường độ màu mong muốn Độ đặc, đột nhớt, độ dính phải bảo đảm để dính được vào vật liệu in và cho hoạ tiết sắc nét Hồ phải tương đối bền khi bảo quản Một số hồ in cho vải cần có tính dễ trương nở khi hấp để "nhả" thuốc nhuộm cho vải, và Không chứa các chất có thể làm hại lưới in In ấn Sau khi định vị khuôn in lên bàn in, vật liệu cần in đặt dưới lưới in. Cho mực in thích hợp với một lượng cần thiết vào khuôn in, sau đó dùng dao gạt để mực thấm qua lưới và ăn vào sản phẩm cần in. Điều chỉnh lượng mực in, tốc độ gạt để đạt kết quả tốt nhất. Sau khi in, mực in chỉ mới cố định cơ học tạm thời trên vật liệu nên cần có quy trình xử lý để gắn màu cố định cho hình in. Tùy loại mực in, vật liệu in để có những cách xử lý thích hợp, như là: sấy, hấp, gia nhiệt khô, hiện màu ướt (trong dung dịch axit loãng), hay hiện màu theo phương pháp ngâm ép, cuộn ủ lạnh... Một số kiểu in đặc biệt Có thể dùng những loại mực in khác nhau, hoặc những nguyên liệu đặc biệt để tạo ra những hiệu ứng khác nhau, ví dụ như in chuyển, tạo chữ nổi, in bắn cắm lông... In chuyển: còn gọi là in nhiệt, in nhiệt khô, in nhiệt chuyển, in chuyển hay là in thăng hoa. Nguyên tắc chung của phương pháp này là không in trực tiếp lên sản phẩm mà in trung gian qua một lớp giấy nền, sau đó ép nóng để thuốc mực in nhả từ giấy nền bắt vào vật liệu in. In nổi: Trong mực in, có các chất gây nở để tạo hình nổi. Sau khi in và sấy, sản phẩm được hấp ở 130-150 °C bằng hơi nước bão hoà. Mực sẽ chuyển thành màng xốp, có hình nổi trên sản phẩm. In bắn cắm lông: Lông nhiều màu có chiều dài 0,3mm được đựng vào những hộp riêng. Lông được bắn qua những lỗ trên lưới in và dính vào vải đã quét nhựa bán đa tụ, quá trình này được thực hiện trong điện trường 6000V và không dùng dao gạt. Kết quả là những tấm vải có nhiều màu bằng lông mịn như tuyết nhung và nổi trên mặt vải. Văn chương Парыгин А.Б. Искусство шелкографии. ХХ век (история, феноменология. техники, имена). — СПб, 2010. — 304 с. (nga). Bigeleisen J. I. Screen Printing: A Contemporary Guide. – New-York, 1972. (anh). Caza M. La Sérigraphie – Genève: Bonvent, 1973. (pháp). Chú thích Xem thêm In thạch bản In phun In offset In màu In laser Liên kết ngoài Kỹ thuật in lụa của Quang Bạch, Nhà xuất bản Thanh Niên, 2001. Lịch sử của lụa Искусство шелкографии. ХХ век. (nga). Who’s Who in Screenprinting In ấn Thủ công Văn hóa DIY
25707
https://vi.wikipedia.org/wiki/Washington%2C%20D.C.
Washington, D.C.
Washington, D.C., tên chính thức là Đặc khu Columbia (), còn được gọi là Washington hoặc D.C., là thủ đô và là đặc khu liên bang duy nhất của Hoa Kỳ. Nó tọa lạc trên bờ đông sông Potomac, tạo thành vùng biên giới phía tây nam và phía nam với tiểu bang Virginia, và có chung đường biên giới trên bộ ở các phía còn lại với tiểu bang Maryland. Thành phố được đặt theo tên của George Washington, một Người lập quốc và là tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ, và đặc khu liên bang được đặt theo tên của Columbia, một hiện thân nữ của quốc gia. Là nơi đặt trụ sở của chính phủ liên bang Hoa Kỳ và một số tổ chức quốc tế khác, thành phố là một thủ đô chính trị quan trọng của thế giới. Đây là một trong những thành phố được ghé thăm nhiều nhất ở Hoa Kỳ, với hơn 20 triệu du khách vào năm 2016. Hiến pháp Hoa Kỳ quy định một đặc khu liên bang thuộc thẩm quyền riêng của Quốc hội; do đó, đây không phải là một phần của bất kỳ tiểu bang nào của Hoa Kỳ (kể cả tiểu bang của chính nó). Đạo luật cư trú được ký kết vào ngày 16 tháng 7 năm 1790, phê duyệt việc thành lập một quận thủ đô nằm dọc theo sông Potomac gần bờ biển phía Đông của đất nước. Thành phố Washington được thành lập vào năm 1791 với vai trò là thủ đô quốc gia và Quốc hội đã tổ chức kỳ họp đầu tiên tại đây vào năm 1800. Năm 1801, vùng lãnh thổ, trước đây là một phần của Maryland và Virginia (bao gồm những khu dân cư ở Georgetown và Alexandria), chính thức được công nhận là đặc khu liên bang. Năm 1846, Quốc hội trao trả lại vùng đất ban đầu do Virginia nhượng lại, bao gồm cả thành phố Alexandria; vào năm 1871, nó đã thành lập một chính quyền thành phố duy nhất cho phần còn lại của đặc khu. Kể từ thập niên 1880, đã có nhiều nỗ lực để đưa thành phố trở thành một tiểu bang, phong trào này đã tăng trưởng mạnh trong những năm gần đây, và Hạ viện đã thông qua một dự luật thành lập bang vào năm 2021. Thành phố được chia ra thành bốn phần, lấy Điện Capitol làm trung tâm, và có đến 131 khu phố. Theo Điều tra dân số năm 2020, Washington có dân số 689.545 người, khiến nó trở thành thành phố đông dân thứ 20 ở Hoa Kỳ, thành phố đông dân thứ ba ở cả vùng Trung-Đại Tây Dương và Đông Nam, và có dân số lớn hơn hai tiểu bang là Wyoming và Vermont. Những người đi làm từ các vùng ngoại ô Maryland và Virginia lân cận đã nâng dân số ban ngày của thành phố này lên hơn một triệu người trong tuần làm việc. Vùng đô thị Washington, lớn thứ sáu ở Hoa Kỳ (bao gồm một phần của Maryland, Virginia và Tây Virginia), có dân số ước tính vào năm 2019 là 6,3 triệu người. Ba nhánh của chính phủ liên bang Hoa Kỳ tập trung ở đặc khu: Quốc hội (lập pháp), Tổng thống (hành pháp) và Tòa án tối cao (tư pháp). Washington là nơi có nhiều di tích và bảo tàng quốc gia, chủ yếu nằm trên hoặc xung quanh National Mall. Thành phố có 177 đại sứ quán nước ngoài cũng như là trụ sở của nhiều tổ chức quốc tế, công đoàn, tổ chức phi lợi nhuận, nhóm vận động hành lang và hiệp hội nghề nghiệp, bao gồm Nhóm Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Tổ chức các quốc gia châu Mỹ, AARP, Hội Địa lý Quốc gia, Chiến dịch Nhân quyền, Tổ chức Tài chính Quốc tế và Hội Chữ thập đỏ Hoa Kỳ. Một thị trưởng được bầu chọn ở địa phương và một hội đồng gồm 13 thành viên đã điều hành đặc khu này từ năm 1973. Quốc hội duy trì quyền lực tối cao trong thành phố và có quyền vô hiệu hóa các điều lệ do hội đồng thành phố thông qua. Cử tri D.C. bầu ra một dân cử đại diện cho toàn đặc khu vào Hạ viện nhưng dân cử đó không có quyền biểu quyết, và đặc khu này cũng không có đại biểu tại Thượng viện. Cử tri đặc khu chọn ra ba đại cử tri phù hợp với Tu chính án thứ 23 của Hiến pháp Hoa Kỳ, được phê chuẩn vào năm 1961. Lịch sử Khi những người châu Âu đầu tiên đến đây vào thế kỷ XVII, một sắc dân Algonquia với tên gọi Nacotchtank đã cư trú ở khu vực quanh sông Anacostia trong vùng Washington ngày nay. Tuy nhiên, phần lớn những người Mỹ bản thổ đã rời bỏ khu vực này vào đầu thế kỷ XVIII. Năm 1751, Georgetown được tỉnh Maryland cấp phép thành lập trên bờ bắc sông Potomac. Thị trấn này là một phần của lãnh thổ liên bang mới được thành lập gần 40 năm sau đó. Thành phố Alexandria, Virginia, thành lập năm 1749, ban đầu cũng nằm trong đặc khu. Trong bài phát biểu mang tên Federalist No. 43 vào ngày 23 tháng 1 năm 1788, James Madison, vị tổng thống tương lai, đã giải thích sự cần thiết của một đặc khu liên bang. Madison cho rằng thủ đô quốc gia cần phải là một nơi rõ ràng khác biệt, không phụ thuộc vào bất cứ tiểu bang nào để dễ quản lý và gìn giữ an ninh. Vụ tấn công chống quốc hội của một nhóm binh sĩ nổi giận tại thành phố Philadelphia, được biết với tên gọi vụ nổi loạn Pennsylvania năm 1783, đã cho chính phủ thấy cần thiết phải xem xét về vấn đề an ninh của chính mình. Vì thế, quyền thiết lập một thủ đô liên bang đã được ghi rõ trong Điều khoản một, phần 8 của Hiến pháp Hoa Kỳ, cho phép lập một "Đặc khu (không quá mười dặm vuông) như có thể, bằng phần đất nhượng lại của các tiểu bang nào đó, và được Quốc hội nhận lấy để trở thành nơi đặt trụ sở của chính phủ Hoa Kỳ". Tuy nhiên Hiến pháp Hoa Kỳ không định rõ vị trí cho thủ đô mới. Trong một thỏa hiệp mà sau này được biết đến là "thỏa hiệp năm 1790", James Madison, Alexander Hamilton, và Thomas Jefferson đã đi đến một đồng thuận rằng chính phủ liên bang sẽ lãnh hết nợ chiến tranh mà các tiểu bang đã thiếu với điều kiện là thủ đô quốc gia mới sẽ được đặt tại miền nam Hoa Kỳ. Ngày 16 tháng 7 năm 1790, Đạo luật Dinh cư (Residence Act) đã cho ra đời một thủ đô mới vĩnh viễn được đặt trên bờ sông Potomac, ngay tại khu vực mà Tổng thống George Washington đã chọn lựa. Như đã được Hiến pháp Hoa Kỳ cho phép, hình dạng ban đầu của đặc khu liên bang là một hình vuông, mỗi cạnh dài 10 dặm Anh (16 km), tổng diện tích là 100 dặm vuông (260 km²). Trong suốt thời gian từ năm 1791–1792, Andrew Ellicott và một số phụ tá trong đó có Benjamin Banneker đã thị sát các ranh giới giữa đặc khu với cả Maryland và Virginia. Cứ mỗi một dặm Anh, họ đặt đá làm mốc ranh giới mà nhiều cột trong số đó vẫn còn lại cho đến ngày nay. Một "thành phố liên bang" mới sau đó được xây dựng trên bờ bắc sông Potomac, kéo dài về phía đông tại Georgetown. Ngày 9 tháng 9 năm 1791, thành phố liên bang được đặt tên để vinh danh George Washington và đặc khu được đặt tên Lãnh thổ Columbia. Columbia cũng là tên thi ca để chỉ Hoa Kỳ được dùng vào thời đó. Ngày 17 tháng 11 năm 1800, Quốc hội mở phiên họp đầu tiên tại Washington. Đạo luật tổ chức Đặc khu Columbia năm 1801 (District of Columbia Organic Act of 1801) chính thức tổ chức Đặc khu Columbia và đưa toàn bộ lãnh thổ liên bang, bao gồm các thành phố Washington, Georgetown và Alexandria, dưới sự kiểm soát đặc biệt của Quốc hội Hoa Kỳ. Thêm vào đó, lãnh thổ chưa hợp nhất nằm trong Đặc khu được tổ chức thành hai quận: Quận Washington trên bờ bắc sông Potomac, và Quận Alexandria trên bờ nam. Theo đạo luật này, các công dân sống trong đặc khu không còn được xem là cư dân của Maryland hoặc Virginia, vì thế họ không có đại diện của mình tại quốc hội. Vào ngày 24–25 tháng 8 năm 1814, trong một cuộc càn quét mang tên vụ đốt phá Washington, các lực lượng Anh xâm nhập thủ đô để trả đũa vụ đốt phá thành phố York, tức Toronto ngày nay. Tòa Quốc hội Hoa Kỳ, Bộ Ngân khố Hoa Kỳ, và Tòa Bạch Ốc bị đốt cháy và phá hủy trong suốt cuộc tấn công. Phần lớn các dinh thự chính phủ được nhanh chóng sửa chữa trừ tòa nhà quốc hội. Lúc đó tòa quốc hội phần lớn còn đang xây dựng và chưa hoàn thành cho đến năm 1868. Kể từ năm 1800, cư dân của đặc khu đã liên tiếp chống đối việc họ thiếu đại diện biểu quyết tại quốc hội. Để sửa đổi, nhiều đề nghị đã được đưa ra nhằm trả lại phần đất được Maryland và Virginia nhượng lại để thành lập đặc khu. Diễn tiến này được biết đến với tên Hồi trả Đặc khu Columbia. Tuy nhiên, những nỗ lực tương tự đều thất bại trong việc giành lấy đủ sự ủng hộ cho đến thập niên 1830, khi quận miền nam là Alexandria của đặc khu lâm vào suy thoái kinh tế với sự thờ ơ của Quốc hội. Alexandria cũng là thị trường chính trong giao thương buôn bán nô lệ ở Mỹ, và có nhiều tin đồn được truyền đi khắp nơi rằng những người theo chủ nghĩa bãi nô tại quốc hội đang tìm cách chấm dứt chế độ nô lệ tại đặc khu; một hành động như vậy sẽ khiến cho nền kinh tế của Alexandria thêm suy thoái. Vào năm 1840, do không hài lòng với việc quốc hội kiểm soát Alexandria, dân chúng trong quận bắt đầu thỉnh cầu trao trả lãnh thổ miền nam của đặc khu về bang Virginia. Lập pháp tiểu bang Virginia đồng ý việc lấy lại Alexandria vào tháng 2 năm 1846, một phần vì việc trở lại của Alexandria sẽ cung cấp thêm hai đại diện ủng hộ chế độ nô lệ tại Hội đồng lập pháp Virginia. Ngày 9 tháng 7 năm 1846, quốc hội đồng ý giao trả lại tất cả lãnh thổ của đặc khu nằm ở phía nam sông Potomac về Khối thịnh vượng chung Virginia. Đúng như những người Alexandria ủng hộ chế độ nô lệ lo lắng, Thỏa hiệp năm 1850 đã đưa đến việc đặt giao thương buôn bán nô lệ ngoài vòng pháp luật (mặc dù chưa bãi bỏ chính thức chế độ nô lệ) tại đặc khu. Năm 1860, khoảng 80% cư dân người Mỹ gốc châu Phi của thành phố là người da đen tự do. Việc bùng phát cuộc Nội chiến Hoa Kỳ năm 1861 đã mang đến sự phát triển dân số đáng kể trong đặc khu vì sự mở rộng hoạt động của chính phủ liên bang và một làn sóng di cư ồ ạt của những người nô lệ tự do mới đến. Năm 1862, Tổng thống Abraham Lincoln ký Đạo luật giải phóng và bồi thường nô lệ (Compensated Emancipation Act), kết thúc chế độ nô lệ tại Đặc khu Columbia và giải thoát khoảng 3.100 người đang bị cầm giữ làm nô lệ, vào 9 tháng trước khi Tuyên ngôn giải phóng nô lệ (Emancipation Proclamation) ban bố. Năm 1870, dân số của đặc khu phát triển lên đến gần 132.000 người. Mặc dù thành phố phát triển nhưng Washington vẫn còn các con đường đất và thiếu nền tảng vệ sinh căn bản. Tình hình tồi tệ đến nỗi một số thành viên quốc hội đã đề nghị di chuyển thủ đô đến một nơi khác. Bằng một đạo luật tổ chức đặc khu năm 1871, quốc hội đã thiết lập ra một chính quyền mới cho toàn bộ lãnh thổ liên bang. Đạo luật này có hiệu lực kết hợp các thành phố Washington, Georgetown, và Quận Washington thành một đô thị tự quản duy nhất có tên là Đặc khu Columbia. Mặc dù thành phố Washington chính thức kết thúc sau năm 1871 nhưng cái tên của nó vẫn tiếp tục được sử dụng và toàn bộ thành phố bắt đầu được biết đến rộng rãi là Washington, D.C.. Trong cùng đạo luật đó, quốc hội cũng bổ nhiệm một ban công chánh lo về việc hiện đại hóa thành phố. Năm 1873, Tổng thống Grant bổ nhiệm thành viên có ảnh hưởng nhất trong ban là Alexander Shepherd vào vị trí thống đốc mới. Năm đó, Shepherd chi ra 20 triệu đô la (tương đương 357 triệu đô la năm 2007) vào công chánh, để hiện đại hóa Washington nhưng cũng làm cho thành phố bị khánh kiệt. Năm 1874, quốc hội bãi bỏ văn phòng của Shepherd để trực tiếp quản lý. Các dự án khác nhằm thay hình đổi dạng thành phố cũng không được thực hiện cho đến khi có Kế hoạch McMillan năm 1901. Dân số đặc khu tương đối vẫn không mấy thay đổi cho đến thời Đại khủng hoảng trong thập niên 1930, khi chương trình cải tổ kinh tế mới gọi là New Deal của Tổng thống Franklin D. Roosevelt đã mở rộng bộ máy chính quyền tại Washington. Chiến tranh thế giới thứ hai làm gia tăng thêm hoạt động của chính phủ và kết quả là tăng thêm số nhân viên liên bang làm việc tại thủ đô; Vào năm 1950, dân số của đặc khu lên đến đỉnh điểm là 802.178 người. Tu chính án 23 Hiến pháp Hoa Kỳ được chấp thuận vào năm 1961, cho phép đặc khu ba phiếu bầu trong đại cử tri đoàn. Sau vụ ám sát nhà lãnh đạo tranh đấu cho nhân quyền, tiến sĩ Martin Luther King, Jr. ngày 4 tháng 4 năm 1968, các vụ bạo loạn bùng phát tại đặc khu, chủ yếu ở các hành lang ở Đường U, Đường số 14, Đường số 7 và Đường H. Đây là những khu trung tâm thương mại và khu vực cư ngụ của người da đen. Các vụ bạo động kéo dài khoảng ba ngày cho đến khi trên 13.000 binh sĩ liên bang và binh sĩ thuộc vệ binh quốc gia của Đặc khu Columbia được phái đến dẹp loạn. Nhiều cửa tiệm và tòa nhà khác bị thiêu cháy; đa số vẫn còn bị để hoang tàn và không được tái thiết cho đến cuối thập niên 1990. Năm 1973, quốc hội ban hành Đạo luật Nội trị Đặc khu Columbia (District of Columbia Home Rule Act), cho phép đặc khu được bầu lên một thị trưởng dân cử và một hội đồng thành phố. Năm 1975, Walter Washington trở thành thị trưởng dân cử đầu tiên và cũng là thị trưởng da đen đầu tiên của đặc khu. Tuy nhiên, trong suốt thời kỳ từ cuối thập niên 1980 và cả thập niên 1990, các chính quyền của thành phố bị chỉ trích vì sai phạm quản lý và hoang phí. Năm 1995, quốc hội thành lập Ban Giám sát Tài chính Đặc khu Columbia (District of Columbia Financial Control Board) để trông coi tất cả việc chi tiêu của và cải tổ chính quyền thành phố. Đặc khu lấy lại quyền kiểm soát tài chính của mình vào tháng 9 năm 2001 và các hoạt động của Ban giám sát bị đình chỉ. Ngày 11 tháng 9 năm 2001, một nhóm khủng bố cướp chuyến bay 77 của American Airlines và đâm thẳng chiếc máy bay vào Ngũ Giác Đài nằm ở thành phố Arlington, Virginia lân cận. Chuyến bay 93 của United Airlines, theo lộ trình đến Washington, D.C., rơi xuống Pennsylvania do nỗ lực ngăn chặn của hành khách. Địa lý Đặc khu Columbia có tổng diện tích là 68,3 dặm vuông (177 km²), trong đó diện tích mặt đất chiếm 61,4 dặm vuông (169 km²) và phần còn lại, 6,9 dặm vuông (18 km²) hay 10,16% là mặt nước. Do phần phía nam lãnh thổ đã được trao trả lại cho Thịnh vượng chung Virginia vào năm 1846, Washington, D.C. ngày nay không còn diện tích 100 dặm vuông (260 km²) như ban đầu. Vùng đất còn lại hiện tại của đặc khu chỉ là khu vực được tiểu bang Maryland nhượng lại. Vì thế Washington bị bao quanh bởi các tiểu bang Maryland ở phía đông nam, đông bắc, tây bắc và Virginia ở phía tây nam. Washington, D.C. có ba dòng chảy thiên nhiên chính là: sông Potomac, sông Anacostia và lạch Rock. Sông Anacostia và lạch Rock là các nhánh của sông Potomac. Lạch Tiber, một dòng chảy trước kia đi ngang qua Khu dạo chơi Quốc gia (National Mall), đã hoàn toàn bị san lấp trong thập niên 1870. Washington không được xây trên những vùng đất lấn đầm lầy. Trong lúc vùng đất ngập nước bao phủ những khu vực dọc theo hai con sông và các suối thiên nhiên khác, phần lớn lãnh thổ của đặc khu bao gồm đất nông nghiệp và những ngọn đồi có cây. Địa điểm tự nhiên cao nhất của Đặc khu Columbia nằm tại Tenleytown, cao 409 ft (125 mét) so với mực nước biển. Điểm thấp nhất là mặt biển tại sông Potomac. Trung tâm địa lý của Washington nằm gần ngã tư Đường số 4 và Đường L Tây-Bắc (tên đường phố ở Hoa Kỳ thường gồm có tên khu định hướng như Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc). Khoảng 19,4% diện tích Washington, D.C. được dành cho công viên, đồng hạng với New York về tỉ lệ đất công viên cao nhất trong số các thành phố Hoa Kỳ có mật độ dân cư cao. Cục Công viên Quốc gia Hoa Kỳ quản lý phần lớn những môi trường sống thiên nhiên tại Washington, D.C., gồm có Công viên Rock Creek, Công viên Lịch sử Quốc gia Kênh Chesapeake và Ohio, Khu dạo chơi Quốc gia, Đảo Theodore Roosevelt, và Công viên Anacostia. Khu vực môi trường sống thiên nhiên nổi bật duy nhất không do Cục Công viên Quốc gia Hoa Kỳ quản lý là Vườn Thực vật Quốc gia Hoa Kỳ (United States National Arboretum), do Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ điều hành. Thác Lớn của sông Potomac nằm trên phía thượng nguồn (tức phía tây bắc) Washington. Trong thế kỷ XIX, Kênh Chesapeake và Ohio bắt đầu từ Georgetown được dùng để cho phép các xà lan đi qua con thác. Khí hậu Washington có khí hậu ôn đới hải dương, ẩm ướt (Phân loại khí hậu Köppen: Cfa), đây là khí hậu đặc trưng của khu vực các tiểu bang giữa duyên hải Đại Tây Dương (Mid-Atlantic states), có bốn mùa rõ rệt. Đặc khu nằm trong vùng chịu đựng nhiệt độ (Hardiness zone) cấp 8a gần trung tâm thành phố, và vùng chịu đựng nhiệt độ cấp 7b ở những nơi khác trong thành phố. Điều này chứng tỏ Washington, D.C. có một khí hậu ôn hòa. Mùa xuân và mùa thu khí hậu dịu, ít ẩm ướt trong khi mùa đông mang đến nhiệt độ khá lạnh và lượng tuyết rơi trung bình hàng năm là 16,6 inch (420 mm). Nhiệt độ thấp trung bình vào mùa đông là quanh 30 °F (-1 °C) từ giữa tháng 12 đến giữa tháng 2. Những cơn bão tuyết gây ảnh hưởng cho Washington trung bình xảy ra cứ mỗi bốn đến sáu năm một lần. Những cơn bão mạnh nhất được gọi là "nor'easter" (bão đông bắc) thường có đặc điểm là gió mạnh, mưa nhiều và đôi khi có tuyết. Những cơn bão này thường ảnh hưởng đến phần lớn vùng ven biển Đông Hoa Kỳ. Mùa hè có chiều hướng nóng và ẩm, nhiệt độ trung bình hàng ngày trong tháng 7 và tháng 8 vào khoảng 80-89 °F (khoảng 26,7-31,7 °C). Sự kết hợp giữa nóng và ẩm trong mùa hè mang đến những cơn bão kèm sấm chớp rất thường xuyên. Một số cơn bão lớn đôi khi tạo ra lốc xoáy trong khu vực. Trong khi đó các cơn bão nhiệt đới (hurricane), hay tàn dư của nó, đôi khi hoành hành trong khu vực vào cuối hè và đầu thu. Thường thì chúng bị yếu dần khi đến Washington, một phần vì vị trí của thành phố nằm bên trong đất liền. Tuy nhiên lụt lội trên sông Potomac do sự kết hợp của thủy triều cao, sóng biển dâng lên cao lúc có bão được biết đến là đã nhiều lần gây thiệt hại tài sản nặng nề tại Georgetown. Nhiệt độ cao nhất kỷ lục tại Washington, D.C. là 106 °F (41 °C) được ghi nhận vào ngày 20 tháng 7 năm 1930 và ngày 6 tháng 8 năm 1918, trong khi nhiệt độ thấp nhất kỷ lục là −15 °F (−26.1 °C) được ghi nhận vào trong trận bão tuyết ngày 11 tháng 2 năm 1899. Trung bình, mỗi năm thành phố có 36,7 ngày nóng trên 90 °F (32 °C), và 64,4 đêm dưới độ đóng băng. Cảnh quan thành phố Washington, D.C. là một thành phố được quy hoạch ngay từ khi khởi thủy. Thiết kế cho thành phố phần lớn là công trình của Pierre Charles L’Enfant, một kỹ sư, kiến trúc sư và nhà quy hoạch đô thị người Pháp. Pierre Charles L’Enfant đến Vùng các thuộc địa Mỹ trong vai trò của một kỹ sư công binh cùng với Hầu tước Lafayette vào thời Cách mạng Hoa Kỳ. Năm 1791, Tổng thống Washington giao L'Enfant nhiệm vụ thiết kế thành phố thủ đô mới. Bản quy hoạch của L'Enfant dựa trên mẫu kiểu Baroque, theo đó các đường phố rộng hội tụ tại các điểm hình chữ nhật và hình tròn, tạo nên cảnh quan với nhiều khoảng không gian trống. Vào tháng 3 năm 1792, Tổng thống Washington bãi nhiệm L'Enfant vì ông nhất định theo dõi sát việc điều hành quy hoạch thành phố, gây ra xung đột với ba ủy viên do Washington bổ nhiệm giám sát xây dựng thủ đô. Andrew Ellicott, người từng làm việc với L'Enfant thị sát thành phố, được giao nhiệm vụ để hoàn thành các dự án sau đó. Tuy Ellicott có chỉnh sửa các bản quy hoạch gốc, trong đó bao gồm việc sửa đổi một số hình thể đường phố, nhưng L'Enfant vẫn được ghi nhận là người đã thiết kế tổng thể thành phố Washington, D. C. Ngày nay, thành phố Washington được giới hạn bởi Đường Florida ở phía bắc, lạch Rock ở phía tây, và sông Anacostia ở phía đông. Sang đầu thế kỷ XX, viễn cảnh của L'Enfant về một thủ đô có những công viên mở và đài tưởng niệm quốc gia lớn đã bị những căn nhà ổ chuột và các tòa nhà mọc ngang nhiên làm hoen ố, trong đó có trạm xe lửa trên National Mall (Khu dạo chơi Quốc gia). Năm 1900, quốc hội thành lập một ủy ban hỗn hợp dưới sự lãnh đạo của thượng nghị sĩ James McMillan, có trách nhiệm làm đẹp phần trung tâm nghi lễ của thành phố Washington. Dự án mang tên McMillan được hoàn thành vào năm 1901. Dự án đã tái phối trí quang cảnh khu vực đồi Capitol và Nation Mall, xây dựng các tòa nhà liên bang và đài tưởng niệm, san bằng các nhà ổ chuột, cũng như thiết lập một hệ thống công viên thành phố mới. Các kiến trúc sư do ủy ban tuyển mộ đã giữ mô hình gốc của thành phố và công việc của họ được xem như sự hoàn thành chính của bản đồ án mà L'Enfant dự định. Sau khi Tòa nhà Chung cư Cairo 12 tầng được xây dựng vào năm 1899, quốc hội thông qua Đạo luật về chiều cao của nhà cao tầng vào năm 1910 (Heights of Buildings Act of 1910) trong đó tuyên bố không có tòa nhà nào được phép xây cao hơn Tòa Quốc hội Hoa Kỳ. Đạo luật này được sửa đổi lại vào năm 1910 nhằm hạn chế chiều cao của nhà cao tầng bằng với độ rộng của đường phố gần bên cạnh cộng thêm 20 ft (6,1 mét). Ngày nay, đường chân trời của thành phố vẫn thấp và trải dài, giữ đúng ước nguyện của Thomas Jefferson: muốn biến Washington thành một "Paris của nước Mỹ" với các tòa nhà "thấp và tiện lợi" bên trên những đường phố "sáng sủa và thoáng khí". Kết quả là Tượng đài Washington vẫn là tòa kiến trúc cao nhất đặc khu. Tuy nhiên, việc hạn chế chiều cao các tòa nhà của Washington, D.C. đã bị chỉ trích như một lý do chính khiến thành phố có ít nhà ở giá phải chăng, kèm theo các vấn đề về giao thông vì đô thị phải mở rộng ra xa. Để tránh hạn chế về chiều cao của đặc khu, các tòa nhà cao tầng gần trung tâm thành phố thường được xây cất bên kia sông Potomac tại Rosslyn, Virginia, không thuộc Washington D.C.. Thành phố Washington được chia thành bốn khu định hướng không đồng đều: Tây Bắc (NW); Đông Bắc (NE); Đông Nam (SE); và Tây Nam (SW). Các trục chia cắt khu định hướng tỏa ra từ Tòa nhà Quốc hội Hoa Kỳ. Tất cả tên các đường phố đều gồm có tên viết tắt khu định hướng để chỉ vị trí của nó trong thành phố. Trong phần lớn thành phố, các đường phố được ấn định theo định dạng đường kẻ ô với đường phố nằm theo trục đông-tây sẽ mang tên bằng mẫu tự (thí dụ như C Street SW có nghĩa là Đường C, khu tây nam) và đường phố năm theo trục bắc-nam sẽ mang tên bằng số (thí dụ 4th Street NW có nghĩa là Đường số 4, khu tây bắc). Các con đường tỏa ra từ các vòng quanh lưu thông từ ban đầu đã được đặt tên của các tiểu bang; tất cả 50 tiểu bang cũng như Puerto Rico và cả đặc khu đều được dùng làm tên đường trong thành phố. Một số đường phố của Washington đáng được chú ý đặc biệt như Đại lộ Pennsylvania nối Nhà Trắng với Tòa nhà Quốc hội Hoa Kỳ, và Đường K có nhiều văn phòng của nhiều nhóm vận động hành lang. Washington tiếp nhận 173 đại sứ quán ngoại quốc, 57 trong số đó nằm trên một đoạn của Đại lộ Massachusetts, có tên không chính thức là "Embassy Row" hay dãy phố đại sứ quán. Kiến trúc Thành phố Washington có một kiến trúc rất đa dạng. Sáu trong số mười tòa nhà xếp hạng đầu trong danh sách kiến trúc yêu thích nhất năm 2007 của Viện Kiến trúc sư Mỹ nằm trong Đặc khu Columbia, trong đó có: Tòa Bạch Ốc; Thánh đường Quốc gia Washington; Nhà tưởng niệm Thomas Jefferson; Tòa Quốc hội Hoa Kỳ; Nhà tưởng niệm Lincoln; và Đài tưởng niệm Cựu chiến binh tại Việt Nam. Các hình thái kiến trúc tân cổ điển, george, gothic, và hiện đại, tất cả được phản ánh trong sáu công trình kiến trúc đó và trong nhiều công trình kiến trúc nổi bật khác tại Washington. Những hình thái kiến trúc ngoại lệ nổi bật gồm có các tòa nhà được xây theo kiểu Đệ Nhị đế chế Pháp như Tòa Cựu văn phòng Hành chánh (Old Executive Office Building) và Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ. Bên ngoài trung tâm Washington, các kiểu kiến trúc thậm chí càng đa dạng hơn. Những tòa nhà lịch sử được thiết kế chính yếu theo kiểu kiến trúc Nữ hoàng Anne, Châteauesque, Richardsonian Romanesque, phục hưng George, Beaux-Arts, và đa dạng các kiểu Victoria. Loại nhà phố liền căn đặc biệt nổi bật trong những khu phát triển sau nội chiến và điển hình theo những kiểu thiết kế chủ nghĩa liên bang và cuối thời Victoria. Vì Georgetown được thành lập trước thành phố Washington, khu dân cư này có đặc điểm kiến trúc xưa cổ nhất trong đặc khu. Tòa nhà Old Stone của Georgetown được xây dựng năm 1765 là tòa nhà còn tồn tại lâu đời nhất trong thành phố. Tuy nhiên phần lớn nhà cửa hiện tại trong khu dân cư được xây vào thập niên 1870 và phản ánh kiểu thiết kế cuối thời Victoria. Đại học Georgetown được xây dựng vào năm 1789 khá khác biệt so với khu dân cư này và mang đặc điểm tổng hợp giữa hai nền kiến trúc Roman và kiến trúc Gothic Phục hưng. Tòa nhà Ronald Reagan là tòa nhà lớn nhất trong đặc khu với tổng diện tích khoảng 3,1 triệu ft² (288.000 m²). Nhân khẩu Năm 2018, Cục Thống kê Dân số Hoa Kỳ ước tính dân số của đặc khu là 702.455 người, tiếp tục chiều hướng gia tăng dân số trong thành phố kể từ cuộc điều tra dân số năm 2000, thời điểm dân số thành phố đạt 604.453 người. Tuy nhiên trong suốt tuần làm việc, số người ra vào thành phố từ các khu ngoại ô lân cận đã làm cho dân số của đặc khu tăng cao, ước tính khoảng 79,2% trong năm 2010, khiến số người tại thành phố vào ban ngày lên đến trên 1,1 triệu. Vùng đô thị Washington bao gồm các quận xung quanh nằm trong hai tiểu bang Maryland và Virginia là vùng đô thị lớn thứ sáu tại Hoa Kỳ với hơn 6,1 triệu người. Khi kết hợp với Baltimore cùng các khu ngoại ô của nó, Vùng đô thị Baltimore-Washington có dân số vượt hơn 9,6 triệu người, lớn thứ tư tại Hoa Kỳ. Năm 2017, thành phần dân số của thành phố gồm có 47.1% người Mỹ da đen, 45.1% người Mỹ da trắng, 4.3% người Mỹ da vàng, 0.6% người Mỹ da đỏ (gồm có người bản thổ Mỹ, người bản thổ Alaska, người bản thổ Hawaii, và người Mỹ gốc đảo Thái Bình Dương), 11% người nói tiếng Tây Ban Nha (tất cả chủng tộc) và 2,7% hợp chủng (hai hoặc ba chủng tộc). Cũng có khoảng ước tính 74.000 di dân ngoại quốc sống tại Washington, D.C. trong năm 2007. Nguồn gốc di cư chính là từ El Salvador, Việt Nam, và Ethiopia. Trong đó những di dân từ Salvador sống tập trung tại khu dân cư Mount Pleasant. Duy nhất trong các thành phố có tỉ lệ cao người Mỹ gốc Phi, Washington có tỷ lệ dân số người da đen cao ngay từ khi thành lập thành phố. Đây là kết quả của việc giải phóng nô lệ tại nửa phía bắc miền Nam Hoa Kỳ (gọi là Upland South) sau Chiến tranh Cách mạng Mỹ. Dân số da đen tự do trong vùng vọt lên từ con số ước tính 1% trước chiến tranh đến 10% vào năm 1810. Trong đặc khu, cư dân da đen chiếm khoảng 30% dân số giữa năm 1800 và 1940. Dân số người da đen của Washington còn đạt tới 70% dân số thành phố vào năm 1970. Tuy nhiên kể từ đó dân số người Mỹ gốc Phi của Washington, D.C. dần hạ xuống vì có nhiều người rời thành phố để đến các khu ngoại ô lân cận. Một số cư dân cao tuổi hơn đã trở về miền Nam vì có sự liên hệ gia đình và chi phí nhà cửa thấp hơn. Cũng khoảng thời gian đó, dân số người da trắng của thành phố dần tăng lên, một phần vì sự ảnh hưởng của việc dời cư của người da màu tại những khu dân cư truyền thống của người da đen tại Washington. Đây là bằng chứng của sự sụt giảm 7,3% dân số người da đen, và sự gia tăng 17,8% dân số người da trắng kể từ năm 2000. Tuy nhiên, một số người Mỹ gốc Phi, đặc biệt là những sinh viên đại học vừa tốt nghiệp và những người trong giới chuyên gia trẻ, đang di chuyển đến thành phố từ các tiểu bang miền bắc và trung tây. Chiều hướng này được mệnh danh là "New Great Migration" (có nghĩa là cuộc đại di cư mới). Washington, D.C. là một điểm đến hàng đầu cho những người da đen như thế vì có nhiều cơ hội việc làm ngày gia tăng. Điều tra dân số năm 2000 cho thấy con số ước tính 33.000 người lớn trong Đặc khu Columbia nhận mình là đồng tính hoặc song tính, chiếm khoảng 8,1% dân số trưởng thành của thành phố.. Một thống kê cho biết có 4.822 cặp đồng giới ở Đặc khu Columbia vào năm 2010 . Một đạo luật cho phép kết hôn đồng giới đã được thông qua vào năm 2009 . Năm 2017, thu nhập trung bình hộ gia đình trung bình ở Washington DC là 77.649 USD; cũng trong năm 2017, cư dân WWashington DC có thu nhập cá nhân trên đầu người là 50.832 USD (cao nhất trong số 50 tiểu bang) . Tuy nhiên, 19% cư dân Washington sống dưới mức nghèo trong năm 2005, cao hơn bất kỳ tiểu bang nào ngoại trừ Mississippi. Năm 2019, tỷ lệ nghèo đạt mức 14,7% dân số . Về tôn giáo, theo thống kê năm 2010 thì 17% dân số theo Đạo Baptist, 13% theo Công giáo La Mã, 6% theo Tin lành Phúc âm, 3% theo Do Thái giáo, 2% theo Chính thống giáo, 1% theo Hồi giáo, 1% theo Phật giáo, 1% theo Ấn Độ giáo . Một báo cáo năm 2007 cho thấy khoảng một phần ba cư dân của thành phố Washington bị mù chữ chức năng, so với tỉ lệ quốc gia là khoảng một phần năm. Điều này một phần là do các di dân không rành tiếng Anh. Một cuộc nghiên cứu năm 2005 cho thấy rằng 85,16% cư dân Washington, D.C. trên năm tuổi chỉ nói tiếng Anh ở nhà và 8,78% nói tiếng Tây Ban Nha. Tiếng Pháp là ngôn ngữ nói xếp thứ ba với 1,35%. Ngược lại tỉ lệ mù chữ cao, gần 46% cư dân Đặc khu Columbia có ít nhất một bằng cấp đại học bốn năm. Tội phạm Trong khoảng thời gian của làn sóng tội phạm bạo lực đầu thập niên 1990, Washington, D.C. được biết đến như là thủ đô của các vụ giết người ở Hoa Kỳ và thường được xếp ngang tầm với New Orleans về số lượng các vụ sát nhân. Con số các vụ giết người lên đỉnh điểm vào năm 1991 với 482 vụ, nhưng mức độ bạo lực giảm đáng kể trong suốt thập niên 1990. Năm 2006, con số các vụ giết người hàng năm tại thành phố giảm xuống còn 169 vụ. Tổng cộng, tội phạm bạo lực giảm gần 47% kể từ 1995 đến 2007. Tội phạm xâm phạm bất động sản gồm có trộm cắp, cướp bóc giảm chừng 48% trong cùng giai đoạn này. Cũng giống như đa số các thành phố lớn khác, các vụ phạm tội xảy ra nhiều nhất tại các khu vực có liên quan đến băng đảng và buôn bán ma túy. Các khu dân cư giàu có hơn của Tây Bắc Washington có mức độ tội phạm thấp nhưng phạm vi ảnh hưởng của tội phạm càng gia tăng khi đi xa về phía đông. Từng bị tội phạm hoành hành, hiện nay các khu dân cư của Đặc khu Columbia như Columbia Heights và Logan Circle đang dần trở nên các khu vực an toàn và nhộn nhịp vì ảnh hưởng của việc tái phân bố dân cư. Kết quả là tội phạm trong đặc khu đang có chiều hướng đi xa về phía đông và về phía bên kia ranh giới vào trong Quận Prince George của Maryland. Ngày 26 tháng 6 năm 2008, Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ ra phán quyết vụ Đặc khu Columbia đối đầu với Heller rằng luật cấm súng ngắn năm 1976 của thành phố đã vi phạm tu chính án 2 quyền sở hữu súng. Tuy nhiên, phán quyết này không cấm tất cả các hình thức kiểm soát súng; những luật bắt buộc đăng ký súng vẫn có hiệu lực cũng như luật cấm vũ khí loại tấn công của thành phố. Vào năm 2012, số vụ giết người ở Washington đã giảm xuống còn 88, mức thấp nhất kể từ năm 1961 . Trong năm 2016, cảnh sát thành phố ghi nhận 135 vụ giết người, tăng 53% so với năm 2012 nhưng giảm 17% so với năm 2015 . Kinh tế Washington có một nền kinh tế phát triển đa dạng với khuynh hướng thiên về dịch vụ thương mại và nghiệp vụ. Tổng sản phẩm nội địa của đặc khu năm 2018 là 141 tỷ đô la . Năm 2008, chính phủ liên bang là nguồn cung cấp khoảng 27% việc làm tại Washington, D.C. Người ta cho rằng Washington không bị ảnh hưởng của cuộc suy thoái kinh tế quốc gia vì chính phủ liên bang vẫn tiếp tục các hoạt động thậm chí trong suốt những thời khủng hoảng. Tuy nhiên vào tháng 1 năm 2017, những nhân công liên bang tại vùng Washington chỉ chiếm 25% tổng số lực lượng lao động của chính phủ liên bang . Nhiều tổ chức như các hãng luật, những cơ sở làm việc theo hợp đồng độc lập (tính cả quốc phòng và dân sự), các tổ chức bất vụ lợi, các nhóm vận động hành lang, liên đoàn lao động, các nhóm trao đổi công nghiệp, và các hội đoàn nghiệp vụ có tổng hành dinh của họ bên trong hoặc gần Đặc khu Columbia để gần bên chính phủ liên bang. Cho đến năm 2011, Vùng đô thị Washington có một tỉ lệ thất nghiệp 6,2%, là một tỉ lệ thấp thứ hai trong số 49 vùng đô thị lớn nhất tại Hoa Kỳ. Tỉ lệ này cũng thấp hơn tỉ lệ thất nghiệp trung bình của quốc gia trong cùng kỳ thời điểm là 6,5%. Riêng Đặc khu Columbia có tỉ lệ thất nghiệp 9,8% trong cùng khoảng thời gian.Washington cũng có những ngành công nghiệp phát triển không liên quan trực tiếp đến chính phủ, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục, tài chính, chính sách công cộng, và nghiên cứu khoa học. Đại học George Washington, Đại học Georgetown, Trung tâm Bệnh viện Washington, Đại học Howard, và ngân hàng cho vay Fannie Mae là những nơi thuê mướn nhân công trong thành phố, không có liên hệ đến chính phủ. Có năm công ty nằm trong nhóm Fortune 1000 đóng tại Washington, và hai trong số này thuộc Fortune 500. Washington D.C. đã trở thành một trong những nơi hàng đầu về lĩnh vực đầu tư bất động sản trên thế giới, xếp sau Luân Đôn, New York, và Paris. Năm 2006, tờ Expansion Magazine xếp Đặc khu Columbia trong số 10 khu vực hàng đầu ở Hoa Kỳ hấp dẫn mở rộng thương nghiệp. Washington có trung tâm thành phố lớn thứ ba tại Hoa Kỳ tính theo sức chứa văn phòng thương mại, đứng ngay sau New York và Chicago. Mặc dù khủng hoảng kinh tế quốc gia và giá nhà hạ giảm nhưng Washington được xếp thứ hai trên danh sách những thị trường nhà ở tốt nhất tại Hoa Kỳ của Forbes. Du lịch cũng là một ngành kinh tế mũi nhọn của Washington. Khoảng 18,9 triệu du khách đã đóng góp ước tính 4,8 tỷ USD cho nền kinh tế của thành phố vào năm 2012 . Đặc khu cũng là nơi tọa lạc của 200 đại sứ quán nước ngoài và cũng là nơi đặt trụ sở của các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF). Những nỗ lực di dời dân cư đang được tiến hành tại Washington D.C., đáng nói là tại các khu dân cư Logan Circle, Shaw, Columbia Heights, hành lang Đường U, và Đường 14. Quá trình này đã diễn ra tại một số khu dân cư nhờ vào việc xây dựng tuyến đường xanh (green line) thuộc hệ thống xe điện ngầm "Metrorail" của Washington, nối liền các khu dân cư này với các khu vực của trung tâm thành phố vào cuối thập niên 1990. Tháng 3 năm 2008, một trung tâm bán hàng mới được mở cửa tại Columbia Heights, trở thành trung tâm bán lẻ lớn đầu tiên tại đặc khu trong vòng 40 năm. Như tại nhiều thành phố, sự di dời dân cư đang làm sống lại nền kinh tế của Washington, nhưng những lợi ích của nó không được phân bố đều trong thành phố và không trực tiếp giúp ích cho người nghèo..Từ năm 2009 đến năm 2016, GDP bình quân đầu người ở Washington đã liên tục được xếp hạng cao nhất trong số các tiểu bang của Hoa Kỳ. Năm 2016, ở mức 160.472 USD, GDP bình quân đầu người của đặc khu cao gần gấp ba lần so với tiểu bang đứng thứ hai là Massachusetts . Văn hóa Những địa điểm lịch sử và viện bảo tàng Trong trung tâm thành phố, khu công viên National Mall, có nghĩa Khu dạo chơi Quốc gia, mở rộng với Tượng đài Washington giữa. Cũng nằm trong khu vực này còn có Nhà tưởng niệm Lincoln, Đài tưởng niệm Quốc gia Chiến tranh thế giới thứ hai nằm ở cuối phía đông Hồ phản chiếu Tưởng niệm Lincoln, Đài tưởng niệm Cựu chiến binh Chiến tranh Triều Tiên, Đài tưởng niệm Cựu chiến binh Chiến tranh Việt Nam, và Đài tưởng niệm Albert Einstein. Cơ quan Quản lý Văn khố Quốc gia (National Archives and Records Administration) cất giữ hàng ngàn tài liệu quan trọng đối với lịch sử Mỹ trong đó có bản Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ, Hiến pháp Hoa Kỳ và Đạo luật nhân quyền Hoa Kỳ. Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ là tổ hợp thư viện lớn nhất thế giới với bộ sưu tập hơn 147 triệu cuốn sách, bản thảo cùng với vô số tài liệu khác. Nằm ngay phía nam khu dạo chơi National Mall là Tidal Basin, một vịnh nước nhỏ, một phần do nhân tạo, có trồng những hàng cây hoa anh đào do Nhật Bản tặng cho thành phố. Khu tưởng niệm Franklin Delano Roosevelt, Khu tưởng niệm Martin Luther King, Nhà tưởng niệm Jefferson, và Đài tưởng niệm Chiến tranh Đặc khu Columbia nằm gần Tidal Basin. Viện Smithsonian là một cơ sở giáo dục được Quốc hội Hoa Kỳ ban hành hiến chương vào năm 1846 để trông coi, bảo quản phần lớn các phòng triển lãm nghệ thuật và viện bảo tàng chính thức của quốc gia tại Washington D.C. Chính phủ Hoa Kỳ tài trợ một phần cho viện, vì thế các hiện vật trưng bày của viện được mở cửa cho công chúng xem miễn phí. Bảo tàng có nhiều người thăm viếng nhất trong số các bảo tàng của Viện Smithsonian trong năm 2007 là Bảo tàng Quốc gia Lịch sử Tự nhiên nằm trên Khu dạo chơi Quốc gia National Mall. Các viện bảo tàng và triển lãm khác của Smithsonian nằm trên khu dạo chơi National Mall là: Bảo tàng Quốc gia Không gian và Hàng không; Bảo tàng Quốc gia Nghệ thuật Phi châu; Bảo tàng Quốc gia Lịch sử Mỹ; Bảo tàng Quốc gia Người bản thổ Mỹ; Phòng triển lãm Arthur M. Sackler và Phòng triển lãm Nghệ thuật Freer. Cả hai phòng triển lãm này tập trung về văn hóa và nghệ thuật châu Á; Bảo tàng Hirshhorn và Vườn Điêu khắc; Tòa nhà Công nghiệp và Nghệ thuật; Trung tâm S. Dillon Ripley; và Tòa nhà Viện Smithsonian, cũng còn được biết tên là "The Castle", phục vụ với vai trò như tổng hành dinh của viện. Bảo tàng Nghệ thuật Mỹ Smithsonian (trước đây tên là Bảo tàng Quốc gia Nghệ thuật Mỹ) và Phòng triển lãm Hội họa Quốc gia nằm trong cùng tòa nhà, đó là Trung tâm Donald W. Reynolds, gần phố Tàu của Washington. Trung tâm Reynolds cũng còn được biết đến là "Old Patent Office Building". Phòng triển lãm Renwick chính thức là một phần của Bảo tàng Nghệ thuật Mỹ Smithsonian nhưng nằm trong một tòa nhà khác gần Tòa Bạch Ốc. Các viện bảo tàng và phòng triển lãm của Viện Smithsonian còn có: Bảo tàng Anacostia nằm ở đông nam Washington, Bảo tàng Bưu điện Quốc gia gần Trạm Union, và Công viên Vườn thú Quốc gia Smithsonian trong Công viên Woodley. Phòng triển lãm Nghệ thuật Quốc gia nằm trên Khu vui chơi Quốc gia gần Tòa Quốc hội Hoa Kỳ nhưng không phải là một phần của Viện Smithsonian. Thay vào đó nó do chính phủ Hoa Kỳ làm chủ hoàn toàn; do đó phòng triển lãm này cũng cho vào cửa tự do. Cánh tây của phòng triển lãm có chứa bộ sưu tập quốc về nghệ thuật châu Âu và Mỹ xuyên suốt thế kỷ XIX. Cánh đông của phòng, do kiến trúc sư I. M. Pei thiết kế, có các tác phẩm nghệ thuật hiện đại. Bảo tàng Nghệ thuật Mỹ Smithsonian và Phòng triển lãm Hội họa Quốc gia thường bị lầm lẫn với Phòng triển lãm nghệ thuật Quốc gia trong khi chúng thực sự hoàn toàn là những cơ sở riêng biệt. Bảo tàng Xây dựng Quốc gia nằm gần Quảng trường Công Lý (Judiciary Square) được Quốc hội Hoa Kỳ bảo trợ, có triển lãm các hiện vật tạm thời và các hiện vật được luân chuyển. Có nhiều bảo tàng nghệ thuật tư nhân trong Đặc khu Columbia trình bày các hiện vật và bộ sưu tập lớn, mở cửa cho công chúng như: Bảo tàng Quốc gia Phụ nữ trong Nghệ thuật, Phòng triển lãm Nghệ thuật Corcoran là bảo tàng tư nhân lớn nhất tại Washington và Bảo tàng Sưu tập Phillips (The Phillips Collection) ở Dupont Circle là bảo tàng nghệ thuật hiện đại đầu tiên tại Hoa Kỳ. Những bảo tàng tư nhân khác tại Washington còn có Newseum, Bảo tàng Điệp vụ Quốc tế, bảo tàng Hội Địa lý Quốc gia Hoa Kỳ, và Bảo tàng Khoa học Marian Koshland. Bảo tàng Tưởng niệm Holocaust Hoa Kỳ (United States Holocaust Memorial Museum) nằm gần Khu dạo chơi Quốc gia lưu giữ các hiện vật, tài liệu và các di vật có liên quan đến Holocaust. Âm nhạc và nghệ thuật trình diễn Washington, D.C. là một trung tâm nghệ thuật quốc gia. Trung tâm Nghệ thuật Trình diễn John F. Kennedy là nơi biểu diễn của Dàn nhạc Giao hưởng Quốc gia, Nhạc kịch Quốc gia Washington và Đoàn múa Ba lê Washington. Giải thưởng vinh dự Trung tâm Kennedy (Kennedy Center Honors) được trao tặng mỗi năm cho những người hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật trình diễn mà đã góp phần to lớn đến đời sống nghệ thuật của Hoa Kỳ. Tổng thống và Đệ Nhất Phu nhân thường khi tham dự buổi lễ vinh danh này vì Đệ Nhất Phu nhân là chủ tịch danh dự của Ban ủy thác Trung tâm Kennedy. Washington cũng có một truyền thống kịch nghệ độc lập địa phương. Các đoàn kịch như Arena Stage, Đoàn kịch Shakespeare và "Studio Theatre" trình diễn các tác phẩm cổ điển và kịch mới Mỹ. Hành lang Đường U trong vùng tây-bắc Đặc khu Columbia thường được biết đến như "Washington's Black Broadway" (có nghĩa là sân khấu Broadway da đen của Washington) là nơi tập trung các khu trình diễn nghệ thuật như Bohemian Caverns và Nhà hát Lincoln với các tài năng âm nhạc như Duke Ellington (s. trưởng tại Washington D.C.), John Coltrane, và Miles Davis. Những nơi trình diễn nhạc jazz khác có biểu diễn nhạc blues hiện đại như Madam's Organ Blues Bar tại Adams Morgan và Blues Alley tại Georgetown. Đặc khu Columbia có thể loại nhạc bản xứ của mình có tên là go-go. Người biểu diễn thành công nhất là trưởng nhóm ban nhạc D.C. là Chuck Brown. Ông đã mang nhạc go-go đến sát bờ công nhận quốc gia với album năm 1979 của ông mang tên Bustin' Loose. Washington cũng là một trung tâm quan trọng cho văn hóa và âm nhạc indie tại Hoa Kỳ. Hãng thu âm đĩa hát Dischord Records, do Ian MacKaye thành lập, là một trong những hãng thu âm đĩa hát độc lập quan trọng nhất đối với thể loại nhạc punk thập niên 1980 và dần dần là thể loại nhạc indie rock trong thập niên 1990. Lịch sử thu âm thể loại nhạc indie của Washington có thể kể tới các hãng TeenBeat Records, Dischord Records, Simple Machines, và ESL Music trong số nhiều hãng thu âm khác. Các tụ điểm âm nhạc indie và rock hiện đại như The Black Cat và 9:30 Club gần Đường U mang những hoạt động thân thiết đến với công chúng. Truyền thông Washington, D.C. là một trung tâm nổi bật đối với truyền thông quốc gia và quốc tế. Nhật báo The Washington Post, thành lập năm 1877, là nhật báo địa phương có nhiều độc giả nhất và lâu đời nhất tại Washington. Có lẽ tờ báo này được biết tới nhiều nhất nhờ đăng tải các đề tài nói về chính trị quốc tế và quốc gia cũng như từng phơi bày vụ bê bối chính trị Watergate. The Post, tên thường gọi của The Washington Post, tiếp tục chỉ phát hành ba phiên bản chính, mỗi phiên bản cho một khu vực là Đặc khu Columbia, Maryland và Virginia. Mặc dù không có phiên bản mở rộng ra ngoài, tờ báo này đứng hạng sáu về số lượng phát hành của tất các nhật báo tại Hoa Kỳ tính đến năm 2011. USA Today, nhật báo lớn nhất quốc gia tính theo số lượng phát hành có tổng hành dinh đặt gần McLean, Virginia. Từ năm 2003 đến năm 2019, Công ty Washington Post phát hành nhật báo miễn phí dành cho người di chuyển ra vào thành phố hàng ngày mang tên là Express. Tờ báo này tóm tắt các sự kiện, thể thao và giải trí cũng như tờ báo tiếng Tây Ban Nha El Tiempo Latino. Một nhật báo địa phương khác là tờ The Washington Times, và tờ tuần báo Washington City Paper cũng có số độc giả đáng kể trong vùng Washington. Một số tờ báo chuyên đề và cộng đồng tập trung vào các vấn đề văn hóa và khu dân cư gồm có: tuần báo Washington Blade và Metro Weekly tập trung về các vấn đề đồng tính, dị tính; tờ Washington Informer và The Washington Afro American điểm qua các đề tài đáng quan tâm của cộng đồng người da đen; và các tờ báo khu dân cư được phát hành bởi The Current Newspapers. Các tờ báo The Hill và Roll Call đặc biệt tập trung vào các vấn đề có liên quan đến quốc hội và chính phủ liên bang. Vùng đô thị Washington là thị trường truyền thông truyền hình lớn thứ 9 tại Hoa Kỳ với con số 2.308.290 hộ, chiếm 2,05% dân số Hoa Kỳ. Một số công ty truyền thông và kênh truyền hình cáp có tổng hành dinh trong khu vực, có thể kể đến C-SPAN; Black Entertainment Television; National Geographic Channel; Hệ thống Smithsonian; XM Satellite Radio; National Public Radio; Travel Channel (tại Chevy Chase, Maryland); Discovery Channel (tại Silver Spring, Maryland); và PBS (tại Arlington, Virginia). Tổng hành dinh của Tiếng nói Hoa Kỳ được đặt gần Tòa Quốc hội Hoa Kỳ ở tây nam Washington. Vùng Đặc khu Columbia cũng là nơi đóng bản doanh của Radio One, tập đoàn phát thanh và truyền hình người Mỹ gốc Phi lớn nhất Hoa Kỳ do đại gia truyền thông Cathy Hughes thành lập. Thể thao Washington, D.C. là sân nhà của năm đội nam thể thao nhà nghề. Đội Washington Wizards thuộc Hội Bóng rổ Quốc gia và đội Washington Capitals thuộc Liên đoàn Khúc côn cầu Quốc gia đều chơi tại Trung tâm Verizon trong khu phố Tàu. Trung tâm có tên Nationals Park, được mở cửa ở đông nam Đặc khu Columbia năm 2008, là sân nhà của đội Washington Nationals thuộc liên đoàn bóng chày tên Major League Baseball. Đội D.C. United thuộc liên đoàn bóng đá có tên Major League Soccer chơi ở Sân vận động Tưởng niệm Robert F. Kennedy. Đội Washington Redskins thuộc Liên đoàn Bóng bầu dục Quốc gia (NFL) chơi gần FedExField ở Landover, Maryland. Vùng Washington cũng là sân nhà của một số đội thể thao nhà nghề của nữ. Đội Washington Mystics thuộc Hội Nữ Bóng rổ Quốc gia chơi ở Trung tâm Verizon. Đội Washington Freedom tái xuất vào mùa xuân năm 2009 thuộc liên đoàn nữ bóng đá nhà nghề. Washington là một trong chỉ 13 thành phố tại Hoa Kỳ có các đội nhà nghề của bốn môn thể thao chính của nam: bóng bầu dục, bóng rổ, bóng chày và khúc côn cầu trên băng. Khi bóng đá được đưa vào, Washington là một trong tám thành phố có tất cả năm môn thể thao nhà nghề của nam. Các đội thể thao nhà nghề của Đặc khu Columbia đã giành được một con số tổng cộng là 11 giải quán quân: Đội bóng đá D.C. United đoạt được bốn giải (nhiều nhất trong lịch sử giải bóng đá "Major League Soccer" tại Hoa Kỳ); Đội Washington Redskins thắng ba; Đội Washington Bayhawks thắng hai; và đội Washington Wizards và đội Washington Glory mỗi đội thắng một lần duy nhất giải quán quân. Trung tâm Quần vợt William H.G. FitzGerald ở Công viên Rock Creek là nơi tổ chức giải Legg Mason Tennis Classic. Giải chạy Marathon của Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ và giải Marathon Quốc gia được tổ chức hàng năm tại Washington. Khu vực Đặc khu Columbia là nơi có một hệ thống truyền hình thể thao vùng tên là Comcast SportsNet có bản doanh tại Bethesda, Maryland. Chính quyền Điều I, Đoạn 8 của Hiến pháp Hoa Kỳ đã dành cho Quốc hội quyền lực tối cao trên Washington, D.C. Đặc khu Columbia đã từng không có chính quyền dân cử thành phố cho đến khi Đạo luật Nội trị Đặc khu Columbia được quốc hội phê chuẩn vào năm 1973. Đạo luật này trao một số quyền lực của quốc hội trên Đặc khu Columbia cho một chính quyền địa phương được một thị trưởng dân cử, hiện tại là Adrian Fenty, và Hội đồng Đặc khu Columbia gồm 13 thành viên điều hành. Tuy nhiên, quốc hội vẫn giữ quyền xem xét và bãi bỏ các luật lệ mà hội đồng thành phố lập ra và cũng như có quyền can thiệp vào các vấn đề địa phương. Mỗi trong số tám phân khu của thành phố bầu lên một thành viên hội đồng duy nhất. Năm thành viên hội đồng khác kể cả chủ tịch hội đồng được cả thành phố bầu lên. Có 37 ủy ban tham vấn khu dân cư (Advisory Neighborhood Commission) được các khu dân cư bầu lên. Ủy ban tham vấn khu dân cư theo truyền thống có rất nhiều ảnh hưởng và chính quyền thành phố theo thường lệ nhận những lời khuyến nghị của họ một cách nghiêm túc. Thị trưởng và hội đồng trông coi ngân sách địa phương nhưng phải được quốc hội chấp thuận. Các thứ thuế địa phương, thuế bán hàng và thuế bất động sản cung ứng khoảng 67% tiền thu nhập để chi cho các dịch vụ và các ban ngành chính quyền thành phố. Giống như 50 tiểu bang, Đặc khu Columbia nhận được sự trợ giúp liên bang cho các chương trình trợ cấp như chăm sóc sức khỏe. Quốc hội cũng chi tiền thích ứng cho chính quyền thành phố để giúp bù lại một số khoản chi phí dành cho an ninh của thành phố; số tiền này tổng cộng lên đến 38 triệu đô la năm 2007, khoảng 0,5% ngân sách của thành phố. Chính phủ liên bang điều hành hệ thống tòa án của đặc khu. Tất cả cơ quan duy trì pháp luật liên bang, rõ ràng nhất là Cảnh sát Công viên Hoa Kỳ, có thẩm quyền tại thành phố và cũng giúp giữ an ninh cho thành phố. Tất cả các tội đại hình địa phương đều do biện lý Hoa Kỳ đặc trách Đặc khu Columbia xét xử. Các biện lý Hoa Kỳ do tổng thống bổ nhiệm và được Bộ Tư pháp Hoa Kỳ tài trợ. Tổng cộng, chính phủ liên bang cung cấp 28% tổng số tiền thu nhập của đặc khu. Tính theo trung bình, quỹ liên bang cung cấp khoảng 30% tiền thu nhập của mỗi tiểu bang trong năm 2007. Chính quyền thành phố, đặc biệt là dưới thời của thị trưởng Marion Barry, đã bị chỉ trích vì quản lý sai lầm và hoang phí. Barry được bầu làm thị trưởng năm 1978, phục vụ ba nhiệm kỳ bốn năm liên tiếp. Tuy nhiên, sau khi ở tù 6 tháng vì phạm tội có liên quan đến ma túy vào năm 1990, Barry không ra tái tranh cử. Năm 1991, Sharon Pratt Kelly trở thành phụ nữ da đen đầu tiên lãnh đạo một thành phố lớn của Hoa Kỳ. Barry được bầu lại vào năm 1994, và đến năm sau đó thì thành phố gần như khánh kiệt. Thị trưởng Anthony A. Williams thắng cứ năm 1998. Chính quyền của ông chứng kiến một thời kỳ thịnh vượng lớn hơn, thay đổi bộ mặt đô thị, và dư thừa ngân sách. Kể từ khi được bầu làm thị trưởng năm 2006, Adrian Fenty ưu tiên đặt trọng tâm vào việc cải cách giáo dục. Ngay sau khi nhậm chức, ông được hội đồng thành phố tán đồng cho phép trực tiếp điều hành và dẹp bỏ hệ thống trường công không hữu hiệu của thành phố. Washington, D.C. tôn trọng tất cả các ngày lễ liên bang. Đặc khu cũng tổ chức mừng ngày giải phóng nô lệ 16 tháng 4, là ngày kỷ niệm ký Đạo luật giải phóng và bồi thường nô lệ của tổng thống Abraham Lincoln năm 1862. Washington, DC có truyền thống ủng hộ Đảng Dân chủ. Các ứng cử viên Đảng Dân chủ đã luôn giành được đa số phiếu bầu tại đây kể từ năm 1964. Kể từ năm 1972, các ứng cử viên tổng thống thuộc đảng Cộng hòa chưa bao giờ nhận được quá 20% số phiếu bầu của cư dân tại đây. Hôn nhân đồng giới đã được hợp pháp hóa kể từ năm 2010, và trị liệu chuyển đổi đã bị cấm kể từ năm 2015. Một đạo luật hợp pháp hóa trợ tử đã được ký thông qua bởi thị trưởng Muriel Bowser vào năm 2016 và sẽ có hiệu lực vào năm 2017, biến Washington DC trở thành khu vực tài phán thứ bảy tại Hoa Kỳ hợp pháp hóa việc trợ tử, cùng với Washington, Oregon, California, Colorado, Hawaii, Montana và Vermont. Thuế và đại biểu liên bang Công dân của Đặc khu Columbia không có đại diện biểu quyết tại Quốc hội Hoa Kỳ. Họ chỉ có một đại biểu không quyền biểu quyết (non-voting delegate) tại Hạ viện Hoa Kỳ. Đại biểu duy nhất này có thể ngồi họp với các ủy ban trong quốc hội, tham gia tranh luận, và giới thiệu một dự luật nhưng không thể tham gia biểu quyết tại hạ viện. Đặc khu Columbia không có đại diện tại Thượng viện Hoa Kỳ. Không như các vùng quốc hải của Hoa Kỳ như Puerto Rico hay Guam cũng có các đại biểu không quyền biểu quyết, công dân của Đặc khu Columbia phải chịu các thứ thuế liên bang Hoa Kỳ trong khi công dân các vùng quốc hải thì không. Trong năm tài chánh 2007, các doanh nghiệp và cư dân Đặc khu Columbia đã trả 20,4 tỉ thuế liên bang; nhiều tiền thuế thu được hơn từ 19 tiểu bang gộp lại và đứng cao nhất tỉ lệ thu thuế liên bang tính theo đầu người. Một cuộc thăm dò năm 2005 cho thấy 78% người Mỹ không biết là các cư dân của Đặc khu Columbia có ít quyền đại diện tại Quốc hội Hoa Kỳ hơn cư dân của 50 tiểu bang. Những nỗ lực kêu gọi sự chú ý của mọi người về vấn đề này gồm có những chiến dịch vận động của các tổ chức tự nhóm lại cũng như việc đưa ra một khẩu hiệu không chính thức của thành phố là "Đóng thuế nhưng không có đại diện" (Taxation Without Representation) được in trên các bảng số đăng ký xe. Có bằng chứng cho thấy sự ủng hộ trên phạm vi quốc gia về quyền biểu quyết của Đặc khu Columbia; nhiều cuộc thăm dò khác nhau cho thấy 61 đến 82% người Mỹ tin rằng Đặc khu Columbia nên có đại diện có quyền biểu quyết tại quốc hội. Mặc dù có sự ủng hộ của công chúng, nhiều nỗ lực nhằm tranh thủ quyền có đại diện biểu quyết vẫn không thành công. Các nỗ lực nói trên gồm có Phong trào đòi quyền trở thành tiểu bang của Đặc khu Columbia và đề nghị một Tu chính án về quyền biểu quyết của Đặc khu Columbia. Một số ý kiến khác đề xuất sáp nhập Đặc khu Columbia vào tiểu bang Maryland. Những người phản đối quyền biểu quyết của Đặc khu Columbia cho rằng những nhân vật lập quốc của Hoa Kỳ chưa bao giờ có ý cho cư dân của đặc khu một phiếu bầu tại Quốc hội Hoa Kỳ vì Hiến pháp Hoa Kỳ có nói rõ là đại diện phải là từ các tiểu bang. Những người chống đối biến Đặc khu Columbia thành một tiểu bang cho rằng một hành động như thế sẽ phá vỡ khái niệm về một thủ đô quốc gia riêng biệt và rằng việc đặc khu thành một tiểu bang sẽ không công bằng khi nó có được đại diện trong Thượng viện Hoa Kỳ trong lúc chỉ là một thành phố đơn độc. Y tế Với 16 trung tâm y tế và bệnh viện, Washington, D.C. là một trung tâm chăm sóc bệnh nhân và nghiên cứu y tế quốc gia. Viện Y tế Quốc gia nằm trong Bethesda, Maryland lân cận. Trung tâm Bệnh viện Washington (WHC), khu bệnh viện lớn nhất trong đặc khu, vừa là bệnh viện bất vụ lợi lớn nhất và bệnh viện tư lớn nhất trong vùng Washington. Gần ngay Trung tâm Bệnh viện Washington là Trung tâm Nhi khoa Quốc gia. Đây là một trong những bệnh viện nhi khoa xếp hạng cao nhất tại Hoa Kỳ theo tạp chí U.S. News and World Report. Nhiều trường đại học nổi tiếng của thành phố trong đó có George Washington, Georgetown, và Howard có trường y khoa và bệnh viện dành cho giảng dạy. Trung tâm Quân y Walter Reed nằm ở tây bắc Washington và cung ứng dịch vụ y tế cho các quân nhân về hưu, quân nhân tại ngũ và những thân nhân phụ thuộc của họ. Giao thông Washington, D.C. thường được nói đến với những ùn tắc và lưu thông tồi tệ Nhất Hoa Kỳ. Năm 2010, những người ra vào thành phố làm việc (commuter) phải tốn mất trung bình 70 giờ một năm ngồi chờ đợi trên đường. Điều này khiến thành phố bị xếp hạng lưu thông tồi tệ nhất nước Mỹ cùng với Chicago.. Tuy nhiên, 37,7% người ra vào thành phố làm việc ở Washington dùng phương tiện công cộng để đi làm, đứng hạng hai tỉ lệ cao nhất ở Hoa Kỳ. Cơ quan quản lý liên vận vùng đô thị Washington (Washington Metropolitan Area Transit Authority, WMATA) điều hành hệ thống trung chuyển nhanh của thành phố trong đó có Metrorail (thường được gọi nhất là the Metro) cũng như Metrobus. Hệ thống xe buýt và xe điện ngầm phục vụ cả Đặc khu Columbia và các khu ngoại ô lân cận nằm bên Maryland và Virginia. Metrorail khai trương vào ngày 27 tháng 3 năm 1976 và hiện thời có 86 trạm và 106,3 dặm (171,1 km) đường ray. Với trung bình 950.000 chuyến mỗi tuần làm việc năm 2008, Metrorail là hệ thống trung chuyển nhanh bận rộn thứ hai tại Hoa Kỳ, chỉ đứng sau hệ thống xe điện ngầm New York City Subway của Thành phố New York. Cơ quan quản lý liên vận Vùng đô thị Washington hiện kỳ vọng sẽ có trung bình một triệu người dùng hệ thống Metrorail mỗi ngày vào năm 2030. Nhu cầu gia tăng công suất phục vụ đã giúp tái tục các kế hoạch để tăng thêm 220 toa xe điện vào hệ thống và điều chỉnh lại các chuyến xe điện để đối phó với vấn đề quá tải tại các trạm bận rộn nhất. Sự phát triển dân số trong vùng đã làm sống lại những lời đề nghị trước đây xây thêm hai tuyến đường Metro phục vụ vùng phụ cận, cũng như một hệ thống xe điện nội thành mới nối các khu dân cư của thành phố. Tuyến xe điện nội thành đầu tiên được trông đợi mở vào cuối năm 2009. Các thẩm quyền khu vực lân cận trong vùng Washington có những hệ thống xe buýt như hệ thống Ride On của Quận Montgomery, Maryland bù khuyết những dịch vụ do Cơ quan quản lý liên vận vùng đô thị Washington phục vụ. Metrorail, Metrobus và tất cả các hệ thống xe buýt công cộng địa phương nhận thẻ thông minh tên SmarTrip, là thẻ thông hành trung chuyển có thể được nạp thêm tiền phí vào. Trạm Union là trạm xe lửa bận rộn thứ hai tại Hoa Kỳ sau Trạm Pennsylvania tại New York. Nó phục vụ như trạm miền nam cuối cùng của tuyến đường hành lang đông bắc và tuyến đường tốc hành Acela của hệ thống xe lửa Amtrak. Các xe điện dành cho người di chuyển hàng ngày vào thành phố như MARC Train của Maryland và Virginia Railway Express của Virginia, và tuyến đỏ của Metroline cũng có phục vụ đến Trạm Union. Dịch vụ xe buýt nội thành do xe buýt Greyhound, xe buýt Peter Pan, BoltBus, Megabus và nhiều tuyến xe buýt của người Hoa phục vụ. Được tiến hành kể từ năm 2010, Washington DC sở hữu một trong những hệ thống xe đạp chia sẻ công cộng lớn nhất trong cả nước với hơn 4.351 xe đạp và hơn 395 trạm cung cấp xe đạp, tất cả đều được điều hành bởi PBSC Urban Solutions . Ba sân bay chính, một tại Maryland và hai tại Virginia, phục vụ Washington, D.C. Sân bay Quốc gia Ronald Reagan Washington, nằm trong Quận Arlington, Virginia ở phía bên kia sông Potomac từ trung tâm D.C., là sân bay duy nhất của vùng Washington có trạm xe điện Metrorail. Do nằm sát thành phố nên Sân bay Quốc gia Reagan có thêm nhiều quan tâm lưu ý về mặt an ninh bắt buộc vì đây là vùng nhận dạng phòng không D.C., cũng như giới hạn thêm về tiếng ồn. Sân bay Reagan không có Cục Quan thuế và Biên phòng Hoa Kỳ và vì thế chỉ có thể phục vụ các chuyến bay quốc tế đến các sân bay ngoại quốc cho phép Cục Quan thuế và Biên phòng của Hoa Kỳ kiểm tra trước trong đó có các điểm tại Canada và vùng Caribbe. Các chuyến bay quốc tế chính đến và đi từ Sân bay Quốc tế Washington Dulles, nằm cách thành phố khoảng 26,3 dặm (42,3 km) về phía tây trong quận Fairfax và Loudoun của Virginia. Sân bay Dulles là sân bay trung chuyển chính ở duyên hải miền đông của hãng hàng không United Airlines. Sân bay Thurgood Marshall Quốc tế Baltimore-Washington, nằm cách thành phố 31,7 dặm (51.0 km) về phía đông bắc trong Quận Anne Arundel, Maryland là một sân bay trung chuyển của các hãng hàng không Southwest Airlines và Airtran Airways. Giáo dục Đặc khu Columbia có tổng cộng 123 trường K-12 và trung tâm giáo dục thuộc hệ thống công lập. Kể từ năm 1999, số học sinh của hệ thống trường công giảm đều đặn và năm học 2008–2009, có 46.208 học sinh ghi danh học trong hệ thống trường công lập.. Trong năm học 2010-2011, 46.191 học sinh đã ghi danh vào hệ thống trường công . Hệ thống trường công của đặc khu là một trong những hệ thống trường công lập tốn kém nhất nhưng ít hiệu quả nhất tại Hoa Kỳ cả về mặt cơ sở vật chất và chất lượng giảng dạy. Tổng giám hiệu của hệ thống trường công lập dưới quyền của thị trưởng Adrian Fenty là Michelle Rhee, đã tạo những thay đổi lớn lao trong hệ thống trường công bằng cách đóng cửa các trường học, thay thế thầy cô giáo, sa thải các hiệu trưởng và dùng các dịch vụ giáo dục tư nhân để giúp phát triển chương trình giáo dục. Vì hệ thống trường học công cộng của D.C. có nhiều vấn đề nên con số ghi danh theo học các trường bán công gia tăng 13% mỗi năm kể từ năm 2001. Ban đặc trách trường bán công Đặc khu Columbia quản lý 60 trường bán công trong thành phố. Tính đến mùa thu 2008, các trường bán công D.C. có tổng số học sinh ghi danh là 26.494. Đặc khu cũng là nơi có một số trường trung học tư thục hàng đầu quốc gia. Năm 2006, khoảng 18.000 học sinh trung học ghi danh trong 83 trường tư của thành phố. Washington là nơi có nhiều viện đại học nghiên cứu tư thục nổi tiếng trong đó có Đại học Georgetown (GU), Đại học George Washington (GW), Đại học Mỹ (AU), Đại học Công giáo Hoa Kỳ (CUA), Đại học Howard, Đại học Gallaudet, và Trường Nghiên cứu Quốc tế Cao cấp Paul H. Nitze (SAIS) thuộc Đại học Johns Hopkins. Đại học Đặc khu Columbia (UDC) là một đại học công lập với giáo dục bậc cử nhân và sau đại học. Các viện giáo dục cấp cao khác cũng có các chương trình giáo dục dành cho người lớn, giáo dục chuyển tiếp và giáo dục từ xa. Thành phố kết nghĩa Washington, D.C. có 15 thành phố kết nghĩa chính thức. Paris và Roma được công nhận là thành phố đối tác vì chính sách một thành phố kết nghĩa đặc biệt của hai thành phố. Băng Cốc, Thái Lan (1962, tái ký kết năm 2002 và 2012) Dakar, Senegal (1980, tái ký kết năm 2006) Bắc Kinh, Trung Quốc (1984, tái ký kết năm 2004 và 2012) Brussels, Bỉ (1985, tái ký kết năm 2002 và 2011) Athens, Hy Lạp (2000) Paris, Pháp (2000, tái ký kết năm 2005) Pretoria, Nam Phi (2002, tái ký kết năm 2008 và 2011) Seoul, Hàn Quốc (2006) Accra, Ghana (2006) Sunderland, Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland (2006, tái ký kết năm 2012) Roma, Ý (2011, tái ký kết năm 2013) Ankara, Thổ Nhĩ Kỳ (2011) Brasília, Brasil (2013) Addis Ababa, Ethiopia (2013) San Salvador, El Salvador (2018) Ghi chú Vào năm 1790, các tiểu bang miền nam phần lớn đã trả hết nợ ngoại quốc mượn thời Chiến tranh Cách mạng Mỹ. Các tiểu bang miền bắc thì chưa trả xong, và muốn chính phủ liên bang mới phải chịu lãnh nợ cho họ. Nếu như việc này thực hiện thì coi như các tiểu bang miền nam phải nhận chia sẻ một phần nợ của miền bắc. Đổi lại, miền nam vận động để có thủ đô liên bang được đặt gần họ hơn. Xem: Đạo luật Dinh cư cho phép tổng thống chọn lựa một vị trí trong tiểu bang Maryland xa về phía đông đến sông Anacostia. Tuy nhiên, Tổng thống Washington chuyển ranh giới lãnh thổ liên bang về phía đông nam để bao gồm thành phố Alexandria ở mũi phía nam của đặc khu. Năm 1791, Quốc hội Hoa Kỳ tu chính Đạo luật Dinh cư để chấp thuận vị trí mới trong đó có phần đất Virginia nhượng lại. Xem: Thuật từ lãnh thổ (territory) và đặc khu (district) được dùng thay thế nhau trong suốt thế kỷ XIX cho đến khi lãnh thổ được chính thức đặt tên lại là Đặc khu Columbia năm 1871. Xem: Dữ liệu lấy từ Cho đến năm 1890, Cục điều tra dân số Hoa Kỳ tính Thành phố Washington, Georgetown, và những phần đất chưa hợp nhất của Quận Washington như ba khu vực khác nhau. Dữ liệu được đưa ra trong bài này là từ trước năm 1890 được tính giống như Đặc khu Columbia là một đô thị tự quản như nó ngày nay. Để xem dữ liệu về dân số cho mỗi khu vực nào đó từ trước cho đến năm 1890, xin xem: Tham khảo Các tham khảo được ghi dưới đây đã được Việt hóa từ tiếng Anh. Tuy nhiên nội dung của các tài liệu tham khảo là bằng tiếng Anh và cũng có một số bằng tiếng Pháp. Liên kết ngoài Hướng dẫn đến Washington, D.C., tài liệu từ Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ Vùng thủ đô Thủ đô Bắc Mỹ Thủ đô quy hoạch Thành phố quy hoạch Hoa Kỳ Khởi đầu năm 1790 Khu dân cư trên sông Potomac Nam Hoa Kỳ Phân cấp hành chính Hoa Kỳ Vùng đô thị Washington Khởi đầu năm 1790 ở Hoa Kỳ Thành viên Tổ chức Nhân dân và Quốc gia chưa được đại diện Trung-Đại Tây Dương Đông Bắc Hoa Kỳ
25709
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cung%20Ti%E1%BA%BFn
Cung Tiến
Cung Tiến (sinh 27 tháng 11 năm 1938 - mất 10 tháng 5 năm 2022) là một nhạc sĩ Việt Nam nổi tiếng theo dòng nhạc tiền chiến. Ông được xem như nhạc sĩ trẻ nhất có sáng tác được phổ biến rộng với bài "Thu vàng" năm 14 tuổi, "Hoài cảm" năm 15 tuổi. Mặc dù Cung Tiến tự nhận là một người nghiệp dư trong âm nhạc và chỉ xem âm nhạc như một thú tiêu khiển nhưng ông đã để lại những nhạc phẩm rất giá trị như "Hương xưa" (viết năm 19 tuổi), "Hoài cảm", "Nguyệt cầm". Thân thế và đào tạo Ông tên thật là Cung Thúc Tiến, sinh tại Hà Nội. Thời kỳ trung học, Cung Tiến học xướng âm và ký âm với hai nhạc sĩ nổi tiếng Chung Quân và Thẩm Oánh. Trong khoảng thời gian 1957 đến 1963, Cung Tiến du học ở Úc ngành kinh tế và ông có theo tham dự các khóa về dương cầm, hòa âm, đối điểm, và phối cụ tại Âm nhạc viện Sydney. Trong những năm 1970 đến 1973, với một học bổng cao học của Hội đồng Anh (British Council) để nghiên cứu kinh tế học phát triển tại Cambridge, Anh, ông đã dự thêm các lớp nhạc sử, nhạc học, và nhạc lý hiện đại tại đó. Nhạc phẩm Về ca khúc, Cung Tiến sáng tác rất ít và phần lớn các tác phẩm của ông đều sau 1954 trừ các bài "Thu vàng", "Hoài cảm". Hai tác phẩm này được ông viết năm 1953 khi mới 14-15 tuổi, nhưng chúng thường được xếp vào dòng nhạc tiền chiến bởi cùng phong cách trữ tình lãng mạn. Tự nhận mình là một người nghiệp dư trong âm nhạc, viết nhạc như một thú tiêu khiển, Cung Tiến không chú ý tác quyền và lăng xê tên tuổi mình trong lĩnh vực âm nhạc. Các nhạc phẩm "Hoài cảm", "Hương xưa" của ông được xếp vào những ca khúc bất hủ của tân nhạc Việt Nam. Ra hải ngoại, ông làm việc trong lãnh vực tài chính ngân hàng nhưng hoạt động thêm về âm nhạc. Cung Tiến viết nhạc tấu khúc Chinh phụ ngâm năm 1987, soạn cho 21 nhạc khí, được trình diễn lần đầu vào ngày 27 tháng 3 năm 1988 tại San Jose, California với dàn nhạc thính phòng San Jose, và đã được giải thưởng Văn Học nghệ thuật quốc khánh 1988. Năm 1992, Cung Tiến hoàn thành tập Ta về, thơ Tô Thùy Yên, cho giọng hát, dẫn đọc, ngâm thơ và một đội nhạc cụ thính phòng. Năm 1993, với tài trợ của The Saint Paul Companies để nghiên cứu nhạc quan họ Bắc Ninh và các thể loại dân ca Việt Nam khác, ông đã soạn Tổ khúc Bắc Ninh cho dàn nhạc giao hưởng. Năm 1997, ca đoàn Dale Warland Singers, đã đặt ông một bản hợp ca nhân dịp kỷ niệm 25 năm thành lập ca đoàn nổi tiếng quốc tế này. Năm 2003, Cung Tiến đã trình làng một sáng tác nhạc đương đại "Lơ thơ tơ liễu buông mành" dựa trên một điệu dân ca Quan họ. Ông là hội viên của hội nhạc sĩ sáng tác ở Minneapolis, Minnesota, Hoa Kỳ. Ông qua đời tại Los Angeles, California, Hoa Kỳ, ở tuổi 83, Lễ tang và lễ hỏa táng của được cử hành ngày 2 tháng 6 năm 2022 tại California, Mỹ. Biên soạn Ngoài sáng tác, Cung Tiến còn đóng góp nhiều khảo luận và nhận định về nhạc dân gian Việt Nam cũng như nhạc Hiện đại Tây phương. Trong lãnh vực văn học, những thập niên 1950 và 1960, với bút hiệu Thạch Chương, Cung Tiến cũng đã từng đóng góp những sáng tác, nhận định và phê bình văn học, cũng như dịch thuật, cho các tạp chí Sáng Tạo, Quan điểm, và Văn. Hai trong số các truyện ngắn ông dịch và xuất bản ở Việt Nam là cuốn Hồi ký viết dưới hầm của Dostoievsky và cuốn Một ngày trong đời Ivan Denisovitch của Solzhenitsyn. Sau khi định cư tại Hoa Kỳ, ông có viết cho một số báo với bút danh Đăng Hoàng. Nhận định Nhà thơ Du Tử Lê viết về Cung Tiến như sau: "Nhiều người cùng giới với nhạc sĩ Cung Tiến cho rằng đa số ca khúc của họ Cung được viết trên căn bản bán cổ điển Tây phương, nên giai điệu rất sang trọng. Theo tôi, chúng ta có không ít nhạc sĩ xây dựng sáng tác của mình trên khung, nền bán cổ điển Tây phương. Nhưng rất ít người cho phần ca từ của họ nhiều hồn tính Đông phương như Cung Tiến". Tác phẩm Tổ khúc Bắc Ninh Nhạc tấu khúc Chinh phụ ngâm Ta Về Lơ thơ tơ liễu buông mành Tổ khúc Bắc Ninh Đĩa nhạc Cung Tiến art songs - với Camille Huyền, Walther Giger Ca khúc Đêm (thơ Thanh Tâm Tuyền) Đêm hoa đăng Đẹp xưa (thơ Huy Cận) (1954) Đôi bờ (thơ Quang Dũng) Hoài cảm (1953) Hoàng hạc lâu (thơ Thôi Hiệu - Vũ Hoàng Chương dịch) Hương xuân Hương xưa (1957, viết tặng Duy Trác) Kẻ ở (Mai chị về) (thơ Nguyễn Đình Tiên, thường bị nhầm là của Quang Dũng) Khói hồ bay (thơ Nguyễn Tường Giang) Lệ đá xanh (thơ Thanh Tâm Tuyền, viết tặng Phạm Đình Chương) Mắt biếc (khác bài mắt biếc của Ngô Thụy Miên) Mùa hoa nở Nguyệt cầm (ý thơ Xuân Diệu) Thu vàng (1953) Thuở làm thơ yêu em (thơ Trần Dạ Từ) Vang vang trời vào xuân (thơ Thanh Tâm Tuyền) Vết chim bay (thơ Phạm Thiên Thư) Tham khảo & Liên kết ngoài "Vết bay Cung Tiến, Hành trình mới của nhạc sĩ thần đồng xưa" theo Người Việt Nhạc Sĩ Cung Tiến Chú thích Người Hà Nội Người Mỹ gốc Việt Nhạc sĩ tình khúc 1954–1975 Nhạc sĩ tiền chiến Nhạc sĩ hải ngoại
25710
https://vi.wikipedia.org/wiki/Panathinaikos%20F.C.
Panathinaikos F.C.
Câu lạc bộ bóng đá Panathinaikos ( ), được biết đến là Panathinaikos, hoặc theo tên đầy đủ và tên của câu lạc bộ thể thao gốc của câu lạc bộ, Panathinaikos A.O. hoặc PAO (; Panathinaïkós Athlitikós Ómilos, "All-Athenian Athletic Club"), là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp Hy Lạp có trụ sở ở Athens, Hy Lạp. Thành tích Vô địch Hy Lạp: 20 1930, 1949, 1953, 1960, 1961, 1962, 1964, 1965, 1969, 1970 1972, 1977, 1984, 1986, 1990, 1991, 1995, 1996, 2004, 2010 Cúp bóng đá Hy Lạp: 18 1940, 1948, 1955, 1967, 1969, 1977, 1982, 1984, 1986, 1988, 1989, 1991, 1993, 1994, 1995, 2004, 2010, 2014 Siêu cúp bóng đá Hy Lạp: 3 1988, 1993, 1994 Cúp Balkan: 1 1977 Đội hình hiện tại Cầu thủ nổi tiếng Antonis Antoniadis, Stratos Apostolakis, Angelos Basinas, Dimitrios Domazos, Giorgos Donis, Kostas Eleftherakis, Panagiotis Fissas, Kostas Frantzeskos, Mike Galakos, Giorgos Georgiadis, Takis Ikonomopoulos, Ioannis Kalitzakis, Aristidis Kamaras, Giorgos Kapouranis, Anthimos Kapsis, Giorgos Karagounis, Ioannis Kirastas, Sotiris Kirjakos, Kostas Linoxilakis, Spiros Livathinos, Takis Loukanidis, Spiros Marangos, Angelos Messaris, Apostolos Nikolaidis, Antonios Nikopolidis, Nikos Nioplias, Nikos Sarganis, Dimitris Saravakos, Giourkas Seitaridis, Nikos Vamvakoulas Oscar Alvarez, Juan Jose Borelli, Juan Ramon Rotcha, Juan Ramon Veron Júlio César da Silva, Flávio Conceição Rene Henriksen, Jan Michaelsen Markus Münch, Karlheinz Pflipsen Aljoša Asanović, Robert Jarni, Goran Vlaovic, Velimir Zajec Eric Mykland Emmanuel Olisadebe, Josef Wantzik, Krzysztof Warzycha Paolo Sousa PAO 2006/2007 Tham khảo Câu lạc bộ bóng đá Hy Lạp Câu lạc bộ bóng đá thành lập năm 1908 io:Panathinaikos#Futbalo
25714
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C3%B4%20Th%E1%BB%A5y%20Mi%C3%AAn
Ngô Thụy Miên
{{Thông tin nghệ sĩ âm nhạc | background = nhạc sĩ không biểu diễn | image = | imagesize = | caption = | tên thật = Ngô Quang Bình | ngày sinh = | nơi sinh = Hải Phòng, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà | ngày mất = | nơi mất = | nghề nghiệp = Nhạc sĩ | dòng nhạc = Tình khúc 1954–1975 | ca khúc = Áo lụa Hà ĐôngNiệm khúc cuốiRiêng một góc trời | ca sĩ = Lệ Thu Khánh LyTuấn NgọcSĩ PhúDuy TrácElvis PhươngBằng Kiều }} Ngô Quang Bình (sinh ngày 26 tháng 9 năm 1948), nghệ danh là Ngô Thụy Miên, là một nhạc sĩ Việt Nam từ trước năm 1975. Tiểu sử Nhạc sĩ Ngô Thụy Miên sinh ngày 26 tháng 9 năm 1948 tại Hải Phòng, và là con thứ hai trong một gia đình 7 người con. Ông lớn lên trong môi trường sách vở và thơ văn, do gia đình ông có mở một nhà sách tên Thanh Bình ở Hải Phòng, và sau này ở trên đường Phan Đình Phùng (nay là đường Nguyễn Đình Chiểu) khi vào định cư ở Sài Gòn. Tại đây, ông học trường Trung học Nguyễn Trãi và sau đó là Trường Đại học Khoa học Sài Gòn. Trong thập niên 1960, Ngô Thụy Miên có theo học vĩ cầm với Giáo sư Đỗ Thế Phiệt, và nhạc pháp với Giáo sư Hùng Lân tại Trường Quốc gia Âm nhạc Sài Gòn. Thời gian học ở đây, ông quen biết với Đoàn Thanh Vân (con gái của diễn viên Đoàn Châu Mậu), và hai người đã có một mối tình. Từ năm 1970 đến 1975, Ngô Thụy Miên làm kiểm soát viên không lưu tại sân bay Tân Sơn Nhất. Cũng khoảng thời gian đó, ông là Trưởng ban nhạc Luân Phiên tại Đài phát thanh Quân đội. Năm 1963, ông bắt đầu viết nhạc. Tình khúc đầu tiên mà ông sáng tác là bài "Chiều nay không có em" hoàn tất vào tháng 2 năm 1965, được giới sinh viên học sinh lúc bấy giờ hưởng ứng rất nồng nhiệt. Vài năm sau, ông cho xuất bản một tập nhạc đầu tay lấy tựa "Tình khúc Đông Quân" (Đông Quân chính là bút hiệu đầu đời của ông trước khi đổi qua bút hiệu Ngô Thụy Miên bây giờ) in ronéo phát hành tại Sài Gòn năm 1969. Trong đó có nhiều bài đáng chú ý như: "Giáng ngọc", "Mùa thu này cho em" (sau đổi là "Mùa thu cho em"), "Gọi nắng" (sau đổi là "Giọt nắng hồng"), "Dấu vết tình yêu" (sau đổi là "Dấu tình sầu"), "Cho những mùa thu" (sau đổi là "Thu trong mắt em"), "Tình khúc tháng 6", "Mùa thu về trong mắt em" (sau đổi là "Mắt thu") và "Ngày mai em đi"... Tiếp theo, Ngô Thụy Miên có những nhạc phẩm phổ từ thơ của nhà thơ Nguyên Sa như: "Áo lụa Hà Đông", "Paris có gì lạ không em", "Tuổi 13"... Năm 1974, Ngô Thụy Miên thực hiện băng nhạc đầu tay Tình Ca Ngô Thụy Miên gồm 17 tình khúc đã được viết trong khoảng thời gian 1965 – 1972. Với sự góp mặt của các ca sĩ và nhạc sĩ như Khánh Ly, Duy Trác, Thái Thanh, Lệ Thu, Thanh Lan, Duy Quang,... Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông vượt biên đến tị nạn tại đảo Pulau Bidong của Malaysia, và chính thức ra mắt một sáng tác viết từ năm 1975 là bài "Em còn nhớ mùa xuân" gởi tặng riêng cho người yêu của ông là Đoàn Thanh Vân. Sau 6 tháng ở trại tị nạn, nhạc sĩ được nước thứ ba bảo lãnh cho sang Montréal (Canada) vào tháng 4 năm 1979. Từ San Diego (Hoa Kỳ), Đoàn Thanh Vân được tin người yêu đã đến được Canada, đã bay sang nối kết lại cuộc tình đã bị dở dang vì thời cuộc. Cùng năm 1979, cả hai qua sống tại San Diego rồi dời lên Quận Cam, California. Qua năm 1980, Ngô Thụy Miên bắt đầu đi làm về ngành điện toán cho trường UCLA, tại thành phố Olympia thuộc tiểu bang Washington. Trong thập niên 1990, nhạc sĩ tiếp tục sáng tác với những ca khúc mới như "Cần thiết", "Em về mùa thu", "Trong nỗi nhớ muộn màng",… và nhất là Riêng một góc trời (1996). Năm 2000, nhạc phẩm "Mưa trên cuộc tình tôi" của ông được khán thính giả đón nhận một cách đặc biệt. Tổng cộng đến nay, nhạc sĩ Ngô Thụy Miên đã sáng tác được trên 70 ca khúc, với khoảng 20 bài từ trong nước. Theo đánh giá của nhiều người, thì Ngô Thụy Miên chính là "một nhạc sĩ tài hoa đích thực"... Trung tâm Thúy Nga từng thực hiện chương trình vinh danh và những sáng tác của ông:Paris By Night 21 - Tình Ca Ngô Thụy MiênParis By Night 66 - Người Tình Và Quê Hương'' (cùng với hai nhạc sĩ Trần Trịnh và Nhật Ngân) Nói về việc bén duyên với các bản tình ca, nhạc sĩ Ngô Thuỵ Miên cho biết: "Với tôi, chiến tranh chỉ là giai đoạn. Tình yêu mới là vĩnh cửu. Từ khi bắt đầu viết nhạc, tôi đã chọn cho mình một hướng đi, đó là tình ca. Và trước tôi cũng như sau tôi đã có nhiều nhạc sĩ viết về chiến tranh, về quê hương, về thân phận… Tất cả chúng tôi đều đóng góp cho nền âm nhạc Việt Nam, mỗi người một khuynh hướng khác nhau. Tôi chỉ xin được nhớ đến như một người viết Tình Ca không hơn không kém. Tôi không viết nhạc để sống, mà tôi sống để viết nhạc… Nếu đời hay người đời chia sẻ được với tôi thì đó là một niềm vui". Sáng tác Ái xuân Áo lụa Hà Đông (thơ Nguyên Sa) Bản tình cuối Bài tình ca cho em Biết bao giờ trở lại Biển và em Bốn mùa quạnh hiu Cần thiết (thơ Nguyên Sa) Chiều nay không có em Chiều qua công viên Chiều xuống Paris Dấu tình sầu Dấu vết tình yêu Dốc mơ Em còn nhớ mùa xuân Em về mùa thu Giáng ngọc Giã từ em Cali Giọt buồn mùa đông Giọt nắng hồng Giọt nước mắt ngà Gọi tên anh Mắt biếc Mắt thu Mây bốn phương trời Miên khúc Một cõi tình phai Một đời quên lãng Mùa thu cho em Mùa thu xa em Nắng Paris, nắng Sài Gòn Người em sáng trong cô độc (thơ Nguyên Sa) Ngày mai em đi (1972) Niệm khúc cuối Nỗi đau muộn màng Nỗi đau từ đấy Ở nơi nào em còn nhớ Paris (thơ Nguyên Sa) Paris có gì lạ không em (thơ Nguyên Sa) Qua vùng biển nhớ Riêng một góc trời Tháng giêng và anh Tháng sáu trời mưa (thơ Nguyên Sa) Thu khóc trên ngàn Thu Sài Gòn Thu trong mắt em Tình cuối chân mây Tình khúc buồn Tình khúc mùa xuân Tình khúc tháng sáu Trong nỗi nhớ muộn màng Từ giọng hát em Tuổi mười ba (thơ Nguyên Sa) Tóc xưa (thơ Dương Văn Thiệt) Về soi bóng mình (thơ Hoài Linh Phương) Ghi chú Chú thích Liên kết ngoài Góc trời Ngô Thụy Miên Lời nhạc 70 tình ca Ngô Thụy Miên Người Hải Phòng Người Mỹ gốc Việt Nhạc sĩ Hải Phòng Nhạc sĩ tình khúc 1954–1975 Nhạc sĩ hải ngoại Nhạc sĩ Việt Nam Cộng hòa Người họ Ngô tại Việt Nam
25719
https://vi.wikipedia.org/wiki/Jeanne%20d%27Arc
Jeanne d'Arc
Jeanne d'Arc ( ; ;  – 30 tháng 5 năm 1431) là thánh quan thầy của nước Pháp, được tôn vinh vì vai trò trong cuộc vây hãm Orléans và sự kiên quyết của nàng trong việc trao ngôi miện cho Vua Charles VII của Pháp trong Chiến tranh Trăm Năm. Tự nhận là tuân theo chỉ dẫn của thánh thần, nàng đã trở thành một thủ lĩnh quân đội và được công nhận là cứu tinh của nước Pháp. Jeanne chào đời trong một nông gia hữu sản tại Domrémy, miền đông bắc Pháp. Năm 1428, nàng triều kiến trước thái tử Charles, làm chứng về việc nhìn thấy dị kiến từ Tổng lãnh thiên sứ Micae, Thánh Margaret, và Thánh Catarina, chỉ dẫn nàng cứu lấy Pháp khỏi quân xâm lược Anh nhân danh ngài. Bị thuyết phục trước sự chân thành và thuần khiết của Jeanne, Charles cử thiếu nữ mới 17 tuổi theo đoàn quân giải phóng Orléans. Nàng đặt chân tới thành phố vào tháng 4 năm 1429, mang theo hiệu kỳ và truyền cảm hứng cho binh lính nhụt chí cố thủ trong thành. Sau chín ngày, quân Anh bỏ thành và Jeanne thôi thúc quân Pháp rượt đuổi bằng được quân Anh trong Chiến dịch Loire, kết thúc với trận đại thắng tại Patay, mở đường cho Pháp chiếm lại Reims mà không đổ một giọt máu. Tại đây, Charles được suy tôn làm Vua nước Pháp bên cạnh Jeanne. Những chiến thắng này đã khôi phục nhuệ khí của người Pháp, góp phần dẫn tới thắng lợi cuối cùng của họ trong Chiến tranh Trăm Năm vài thập kỷ sau. Sau lễ đăng cơ của Charles, Jeanne can dự vào hai cuộc vây hãm bất thành, tại Paris vào tháng 9 năm 1429 và tại La Charité vào tháng 11. Hai biến cố này đã khiến lòng tin của triều đình giảm sút đáng kể. Đầu năm 1430, Jeanne tập hợp một đội lính tự nguyện nhằm phá vây Compiègne, khu vực đang bị chiếm cứ bởi đồng minh Bourgogne của Anh. Ngày 23 tháng 5 năm 1430, nàng rơi vào tay quân Bourgogne. Sau lần trốn chạy bất thành, nàng bị giao nộp cho quân Anh vào tháng 11, rồi bị khép tội dị giáo bởi Giám mục Pierre Cauchon với các cáo buộc như: báng bổ vì mặc quần áo đàn ông, hành động theo các dị kiến quỷ quái và từ chối chịu trách nhiệm cho lời khai của mình trước giáo hội. Ngày 30 tháng 5 năm 1431, nàng bị hỏa hình trên cọc khi mới 19 tuổi. Năm 1456, một phiên tòa dị giáo được tổ chức nhằm xét lại vụ xử Jeanne và lật trắng án, tuyên bố vụ án đã bị bài hoại bởi sự dối trá và lỗi tiến hành. Jeanne từ đó được tôn làm tử đạo và được nhìn nhận như người con gái tuân phục Giáo hội Công giáo La Mã, hay một nhà nữ quyền thuở sớm, tượng trưng cho độc lập tự do. Sau Cách mạng Pháp, nàng trở thành biểu tượng quốc gia của nước này. Năm 1920, Jeanne d'Arc được phong thánh bởi Giáo hội và được tuyên làm quan thầy của Pháp hai năm sau. Hình tượng Jeanne đã xuất hiện dưới nhiều hình thức văn hóa khác nhau như văn học, hội họa, âm nhạc, điêu khắc và kịch nghệ. Tên gọi Tên Jeanne d'Arc có nhiều biển thể khác nhau, không có sự thống nhất. Trước thế kỷ thứ 16, vẫn chưa có chuẩn chính tả cụ thể để viết tên nàng; tên cuối của nàng thường được viết là "Darc" mà không có dấu phẩy lược, song cũng có các biến thể như "Tarc", "Dart" hoặc "Day". Tên thân phụ của nàng được khai là "Tart" tại phiên tòa. Trong lá thư ban phù hiệu áo giáp năm 1429 gửi từ Charles VII, tên nàng được ghi là "Jeanne d'Ay de Domrémy". Bình sinh, Jeanne có lẽ chưa bao giờ nghe thấy cái tên "Jeanne d'Arc". Ghi chép đầu tiên chứa cái tên này có niên đại về năm 1455, tức 24 năm sau khi nàng mất. Jeanne hồi nhỏ không được học đọc hoặc viết, vì vậy phải nhờ người khác chép thư hộ. Về sau, nàng có lẽ đã học cách ký tên mình trong một số bức thư, thậm chí có lẽ đã lĩnh hội kỹ năng đọc. Jeanne tự xưng trong các bức thư là ("Jeanne Trinh nữ") hay ngắn gọn là ("Trinh nữ"), nhấn mạnh rằng nàng vẫn còn trinh, đồng thời ký tên là "Jehanne". Bước vào thế kỷ thứ 16, nàng bắt đầu được gọi bằng danh xưng "Trinh nữ xứ Orleans" [The Maid of Orleans]. Chào đời và bối cảnh lịch sử Jeanne d'Arc chào đời khoảng năm 1412 tại Domrémy, một ngôi làng nhỏ trong thung lũng Meuse nay thuộc tỉnh Vosges ở miền đông bắc nước Pháp. Không rõ sinh nhật của Jeanne là ngày nào và tuổi của nàng cũng khá mù mịt. Thân sinh của nàng là Jacques d'Arc và Isabelle Romée. Jeanne có ba anh em trai và một người chị hoặc em gái. Cha nàng, Jacques, là một nông dân sở hữu mảnh đất rộng , ngoài ra nhậm hương chức kiêm trương tuần, thúc thuế dân làng để kiếm thêm lương bổng. Nàng sinh ra vào thời kỳ Chiến tranh Trăm Năm giữa Anh và Pháp, cuộc chiến mà đã bắt đầu từ năm 1337, bắt nguồn từ tranh cãi về các lãnh thổ của Anh ở Pháp và người nối ngôi chính đáng của Pháp. Hầu như tất cả các chiến sự diễn ra trên đất Pháp, tàn phá nền kinh tế nước này. Vào thời điểm Jeanne chào đời, Pháp bị chia rẽ sâu sắc về mặt chính trị. Vua Charles VI đôi khi nổi cơn tâm thần và không có khả năng cai trị; điều này khiến hoàng huynh của ngài, Louis, Công tước xứ Orléans, và anh em thúc bá của ngài, Jean, Công tước xứ Bourgogne, tranh giành quyền nhiếp chính. Năm 1407, Công tước xứ Bourgogne sai người hạ sát Công tước xứ Orléans, nhen nhóm mồi lửa cho một cuộc nội chiến trong tương lai. Charles xứ Orléans nối gót thân phụ, trở thành công tước khi mới 13 tuổi nhưng bị tống giam bởi Bernard, Bá tước xứ Armagnac; những người ủng hộ ông ta được gọi là "phái Armagnac" còn những người ủng hộ Công tước xứ Bourgogne được gọi là "phái Bourgogne". Nhà vua tương lai của Pháp, Charles VII, được phong tước Dauphin (người kế vị ngai vàng) sau cái chết trước đó của bốn người anh và có quan hệ thân hữu với phái Armagnac. Henry V của Anh lợi dụng tình hình rối ren ở Pháp để phát động cuộc xâm lược nước này vào năm 1415. Năm 1418, phái Bourgogne chiếm đóng Paris. Năm 1419, Dauphin chiêu dụ một hòa ước với Công tước xứ Bourgogne, song vị này bị ám sát bởi những người Armagnac ủng hộ Charles tại buổi đàm phán. Công tước mới của Bourgogne, Philippe III, chọn liên minh với người Anh. Charles VI quở trách con trai vì giết hại Công tước xứ Bourgogne và tuyên bố vị Dauphin không còn đủ tư cách nối ngôi. Cuộc đời kỳ thủy Thuở nhỏ, Jeanne làm việc nhà, kéo sợi, phụ cha cày đồng và chăn gia súc. Thân mẫu Jeanne đảm bảo con gái được học tập tôn giáo tử tế. Phần lớn Domrémy lúc bấy giờ nằm trong Công quốc Bar, lãnh thổ mà vị thế phong kiến không rõ ràng; tuy bao quanh bởi các vùng đất theo phái Bourgogne, nhân dân nơi đây ủng hộ phái Armagnac. Tới năm 1419, chiến tranh đã lan tới khu vực này, và vào năm 1425, Domrémy bị tấn công và gia súc tại đây bị cướp. Dân làng từ đó rất căm phẫn người Anh. Jeanne nhìn thấy dị kiến đầu tiên sau sự kiện này. Jeanne có làm chứng rằng ,vào năm 13 tuổi, tức khoảng năm 1425, một hình nhân mà nàng cho là Thánh Micae bao quanh bởi thiên sứ đã hiện ra trong vườn nhà. Sau dị kiến ấy, đôi mắt Jeanne đẫm lệ vì nàng mong muốn các vị thiên sứ đưa mình theo. Xuyên suốt cuộc đời, nàng đã nhiều lần thấy Thánh Micae, quan thầy của Domrémy. Nàng khẳng định những dị kiến ấy diễn ra thường xuyên, nhất là vào những lúc chuông nhà thờ reo. Thánh Margaret và Thánh Catarina cũng hay xuất hiện trong những thị kiến ấy; tuy Jeanne không xác minh, hai vị thánh này có lẽ là Margaret thành Antioch và Catarina thành Alexandria nổi tiếng trong khu vực. Cả hai đều là những thánh trinh nữ chiến đấu chống lại kẻ thù mạnh mẽ, sau bị tra tấn và tử vì đạo, bảo tồn trinh tiết cho tới hơi thở cuối cùng. Jeanne làm chứng rằng nàng đã thề nguyện giữ trinh với những giọng nói ấy. Có lần một chàng trai trong làng cáo buộc Jeanne bội hôn ước với anh ta, Jeanne đáp rằng nàng chưa từng hứa hẹn gì với anh ta, và tòa án giáo hội địa phương bác bỏ cáo trạng ấy. Thuở thiếu thời của Jeanne, cư dân trong làng truyền tai nhau một lời đồn dựa trên dị kiến của , rằng một trinh nữ vận giáp sẽ nổi lên đánh đuổi quân xâm lược. Một lời tiên tri khác, được cho là của Merlin, khẳng định một thiếu nữ cầm hiệu kỳ sẽ chấm dứt sự khổ đau của nước Pháp. Jeanne ngụ ý nàng chính là trinh nữ trong lời tiên tri, rêu rao với những dân chúng xung quanh rằng, một ả đàn bà sẽ hủy hoại nước Pháp nhưng một trinh nữ sẽ chấn hưng đất nước. Tháng 5 năm 1428, Jeanne yêu cầu người cậu ngoại đưa tới Vaucouleurs, nơi nàng đòi chỉ huy quân đội địa phương, Robert de Baudricourt, hộ tống tới triều đình Armagnac tại Chinon. Baudricourt từ chối và gửi nàng về nhà. Vào tháng 7, Domrémy bị đột kích và thiêu đốt bởi quân Bourgogne, khiến mùa màng thất bát, buộc gia đình Jeanne và dân làng phải tản cư. Nàng quay lại Vaucouleurs vào tháng 1 năm 1429. Lời thỉnh cầu của nàng một lần nữa bị từ chối, song thu phục được cảm tình của hai người lính dưới trướng Baudricourt, Jean de Metz và Bertrand de Poulengy. Nàng được triệu tới Nancy dưới sự bảo lãnh của Charles II, Công tước xứ Lorraine, người mà đã nghe kể về Jeanne khi dừng chân tại Vaucouleurs. Vị công tước ốm yếu nghĩ rằng nàng ta sở hữu năng lực siêu nhiên có thể chữa khỏi bách bệnh. Lúc diện kiến, Jeanne không đưa ra phương thuốc nào mà thay vào đó khiển trách vị công tước vì chung chạ với tình nhân. Các hoàng đệ của Henry V, John của Lancaster, Đệ nhất Công tước xứ Bedford, và Humphrey, Công tước xứ Gloucester, tiếp nối cuộc xâm lược dang dở của anh trai. Hầu hết miền bắc Pháp, Paris, và một phần tây nam Pháp nằm dưới sự kiểm soát của liên quân Anh – Bourgogne. Quân Bourgogne chiếm đóng Reims, địa điểm làm lễ đăng cơ truyền thống của các đời vua Pháp; Charles chưa được trao ngôi miện và một lễ đăng cơ ở Reims sẽ củng cố tính chính danh của ông trong mắt nhân dân Pháp. Tháng 7 năm 1428, quân Anh bắt đầu bủa vây Orléans và gần như cắt đứt thị trấn này khỏi lãnh thổ do Charles kiểm soát bằng cách trấn giữ các cây cầy bắc qua sông Loire. Địa thế Orléans có ý nghĩa chiến lược vì nó án ngữ con đường rộng thênh thang dẫn vào lãnh thổ của Charles. Theo lời chứng về sau của Jeanne, dị kiến bấy giờ mách bảo nàng mau chóng rời Domrémy để cống hiến tài năng cho Dauphin Charles. Baudricourt đồng ý gặp mặt Jeanne lần thứ ba vào tháng 2 năm 1429, quanh thời điểm quân Anh bắt được một toán quân giải vây của phái Armagnac tại Trận Herrings trong Cuộc vây hãm Orléans. Hội thoại giữa hai người, cùng với sự ủng hộ của Metz và Poulengy, đã thuyết phục Baudricourt cho phép Jeanne đến Chinon yết kiến vị Dauphin. Sáu binh sĩ được cử đi để hộ tống nàng. Trước khi lên đường, Jeanne vận quần áo đàn ông do những người hộ tống và nhân dân Vaucouleurs chuẩn bị. Trên thực tế, Jeanne tiếp tục mặc trang phục đàn ông suốt phần đời còn lại. Cuộc đời và sự nghiệp Jeanne là con ông Jacques d'Arc và bà Isabelle Romée tại Domrémy, một làng khi đó thuộc lãnh địa quận công xứ Bar (về sau nhập vào tỉnh Lorraine và đổi thành Domrémy-la-Pucelle). Cha mẹ cô sở hữu 50 mẫu đất (0.2 km²), và để thêm thu nhập cha cô còn làm viên chức thu thuế trong làng, cũng như chỉ huy đội dân quân. Họ sống tại một vùng đất hẻo lánh thuộc vùng đông bắc còn trung thành với triều đình Pháp, dù nằm lọt thỏm trong lãnh địa của phe Burgundy. Khi cô còn nhỏ, thỉnh thoảng làng của cô bị đột kích và đốt phá. Jeanne cho biết cô 19 tuổi khi phiên tòa xử tội cô diễn ra, như vậy cô sinh năm 1412; cô sau này cho biết cô nhận được thiên khải đầu tiên vào khoảng năm 1424 lúc 12 tuổi, khi đó cô đang ở ngoài đồng một mình thì nghe thấy tiếng nói (của thiên sứ). Cô thuật lại là đã òa lên khóc khi họ biến mất vì họ quá sức đẹp đẽ. Cô cho biết Tổng thiên sứ Michael, Thánh nữ Catherine xứ Alexandria, và Thánh nữ Đồng trinh Margaret truyền cho cô đánh đuổi người Anh và đưa Dauphin đến Reims để lên ngôi vua. Khi 16 tuổi, cô nhờ một người họ hàng, Durand Lassois, đưa cô đến Vaucouleurs để thỉnh cầu chỉ huy đơn vị quân đóng tại đó là Bá tước Robert de Baudricourt cho phép tiếp kiến triều đình Pháp tại Chinon. Bá tước Baudricourt chế giễu cô, nhưng không làm cô nhụt chí. Tới tháng 1, cô lại trở lại, và lần này được hai nhân vật quan trọng ủng hộ Jean de Metz và Bertrand de Poulengy. Nhờ được họ bảo trợ, cô được gặp Bá tước lần thứ hai, và tiên đoán hết sức chính xác về việc quân Pháp thất trận Herrings gần Orléans. Thành công Robert de Baudricourt cấp một toán quân bảo vệ cô đến Chinon, sau khi nhận được tin tức từ mặt trận xác nhận lời tiên đoán của cô trước đó. Cô băng qua lãnh địa của phe đối nghịch Burgundy bằng cách cải nam trang. Tới triều đình, cô gây ấn tượng trong buổi hội đàm kín đến mức Charles VII phải hết sức kinh ngạc. Ông sau đó cho người thẩm tra lý lịch và giáo lý cô tại Poitiers. Cùng lúc đó, mẹ vợ Charles là Violant của Aragón bỏ tiền ra chuẩn bị một đạo quân cứu viện Orléans. Jeanne thỉnh cầu được gia nhập đoàn quân và vũ trang như một hiệp sĩ, với áo giáp trắng, ngựa, cờ, thị đồng đều do người ta quyên góp. Sử gia Stephen W. Richey cho biết cô là niềm hy vọng duy nhất của cả một vương triều sắp sụp đổ: Cô đến Orléans ngày 29 tháng 4 năm 1429, nhưng Jean de Dunois (tức Jean d'Orléans), trưởng dòng công tước xứ Orléans, ban đầu không để cô tham gia họp trong hội đồng quân sự, và cũng không thông báo cho cô biết khi quân Pháp giao chiến với địch quân. Tuy nhiên việc này không ngăn cản được cô có mặt tại hầu hết các cuộc họp và các trận giao tranh. Người ta vẫn còn tranh cãi về ảnh hưởng và quyền chỉ huy trên thực tế của cô, với các sử gia truyền thống như Édouard Perroy cho rằng cô chỉ có ý nghĩa tượng trưng, mang lại hiệu quả tinh thần là chính. Tuy nhiên sự phân tích này dựa trên bản chép phiên toà xét xử cô, khi cô tuyên bố ưa cầm cờ hơn là cầm kiếm. Các học giả hiện đại tập trung vào phiên toà phục hồi danh dự của cô, nhấn mạnh là các sĩ quan tùy tùng rất khâm phục cô như một chiến thuật gia cừ khôi và là một nhà chiến lược giỏi. Ví dụ như Stephen W. Richey cho biết: "Cô dẫn quân đội đến một loạt chiến thắng ngoạn mục, xoay chiều cuộc chiến." Dù thế nào đi chăng nữa, các sử gia cũng đồng ý là quân Pháp giành được nhiều thắng lợi vang dội trong thời kỳ sự nghiệp ngắn ngủi của cô. Chiến tranh xoay chiều Cô không lặp lại chiến thuật khi đó của ban chỉ huy Pháp vốn tỏ ra quá thận trọng. Trong vòng 5 tháng bị vây hãm, quân Pháp chỉ đột kích có đúng một lần, và thất bại thảm hại. Tới ngày 4 tháng 5, quân Pháp công kích và đánh chiếm được tòa thành ngoại vi Saint Loup. Thừa thắng, cô cho quân tiến đánh pháo đài thứ hai, gọi là Saint Jean le Blanc. Pháo đài này hóa ra bị bỏ trống, nên quân Pháp giành được thắng lợi mà chẳng bị tổn thất gì. Ngày tiếp theo, trong cuộc họp hội đồng quân sự, cô bác lại kế hoạch của Jean d'Orleans và đòi tiến hành một cuộc đột kích nữa vào địch quân. Jean D'Orleans hạ lệnh khóa cửa thành lại để ngăn không cho cô giao chiến với quân địch, nhưng cô triệu tập dân chúng và binh sĩ lại và đòi thị trưởng phải mở cửa thành. Chỉ có một viên cai đội hỗ trợ, cô dẫn quân tiến ra và đánh chiếm pháo đài Saint Augustins. Trong tối đó, cô được tin mình đã bị loại ra khỏi hội đồng quân sự, và các chỉ huy hội đồng đã quyết định chờ viện quân trước khi tiếp tục giao tranh. Bất chấp quyết định đó, cô vẫn cương quyết đòi tấn công cứ điểm chính của quân Anh là "les Tourelles" ngày 7 tháng 5. Người đương thời ghi nhận sự anh hùng của cô trong trận chiến, dù trúng một mũi tên vào cổ, cô vẫn quay trở lại chiến trường để dẫn quân xông lên trong đợt xung phong cuối cùng và hạ thành. Chiến thắng bất ngờ tại Orléans làm quân Pháp phấn chấn, rất nhiều người muốn tiến hành chiến dịch phản công quân Anh. Quân Anh dự tính quân Pháp có lẽ sẽ tìm cách đánh chiếm Paris hoặc mở cuộc tấn công vào Normandy. Sau chiến thắng tại Orleans, cô thuyết phục Charles VII giao quyền đồng chỉ huy quân đội cho cô và Công tước John II xứ Alençon và được nhà vua chấp thuận cho phép cô đánh chiếm các cây cầu bắc qua sông Loire để chuẩn bị tiến đánh Reims. Đây là một kế hoạch táo bạo, vì Reims nằm cách xa gấp đôi Paris, sâu trong lãnh thổ đối phương. Quân Pháp tái chiếm Jargeau ngày 12 tháng 6, đánh thắng trận Meung-sur-Loire ngày 15, rồi trận Beaugency ngày 17. Công tước Alençon chấp thuận tất cả các đề xuất của Jeanne. Các chỉ huy khác, bao gồm cả Jean d'Orléans vốn đã hết sức khâm phục cô kể từ trận Orléans, nay trở thành những người nhiệt thành ủng hộ cô. Alençon ghi công cô cứu mạng tại Jargeau, khi cô cảnh báo ông về một cuộc pháo kích bởi đại bác. Cũng trong trận này, cô trúng một viên đạn thần công bằng đá trúng mũ trụ khi đang leo lên thang đánh thành. Một đạo quân Anh cứu viện bất ngờ xuất hiện ngày 18 tháng 6 dưới quyền chỉ huy của Hầu tước John Fastolf. Trận Patay diễn ra và quân Pháp đại thắng, chiến thắng này có thể coi là bản sao ngược của trận Agincourt. Tiền quân Pháp xung trận trước khi xạ thủ Anh dùng trường cung kịp chuẩn bị trận địa phòng ngự, kết quả là quân Anh bị đánh tơi bời, rút chạy toán loạn. Quân Pháp truy kích và tiêu diệt phần lớn đạo quân này, phần lớn sĩ quan chỉ huy quân Anh bị bắt sống. Hầu tước Fastolf chạy thoát với một dúm quân, để trở thành con dê tế thần cho người Anh trút mối nhục chiến bại. Quân Pháp thắng trận mà chỉ tổn thất không đáng kể. Quân Pháp xuất phát từ Gien-sur-Loire, hướng về Reims ngày 29 tháng 6, chấp nhận đầu hàng từ thành phố Auxerre do phe Burgundy giữ ngày 3 tháng 7. Tất cả các thị trấn nằm trên đường tiến quân của họ đều hạ vũ khí quay về với vua Pháp. Thành Troyes, nơi ký kết hiệp định tước quyền thừa kế của Charles VII, qui hàng sau khi bị vây hãm có bốn ngày mà không cần giao chiến. Quân Pháp lúc tiến tới Troyes thì thiếu lương thực trầm trọng. Edward Lucie-Smith dùng việc này như một ví dụ rằng Jeanne may hơn khôn: trước đó một vị thầy tu lang thang tên là Tu sỹ Richard thuyết giáo về sự tận thế tại Troyes và thuyết phục dân chúng trồng đậu là một thứ cây lương thực ngắn ngày. Đạo quân đói khát đến nơi khi đậu vừa kịp thu hoạch. Theo lệ thường thì thân nhân có thể dùng tiền để chuộc lại tù binh. Không may là gia đình cô không có tiền. Nhiều sử gia lên tiếng chỉ trích vua Charles VII không làm gì cả để can thiệp. Cô mấy lần định vượt ngục, có lần nhảy từ tòa tháp cao 70 bộ (21 m) ở Vermandois xuống một cái hào khô, rồi sau đó bị chuyển đến thị trân Arras do quân Burgundy kiểm soát. Chính quyền Anh mua lại cô từ Công tước Philip xứ Burgundy. Giám mục Pierre Cauchon xứ Beauvais, một người thân Anh, đóng vai trò chính trong việc đàm phán mua lại cô và trong phiên tòa xét xử cô sau này. Phiên tòa xét xử Tòa án dị giáo này được thúc đẩy bởi lý do chính trị. Công tước Bedford thay mặt cho cháu trai của mình là Henry VI tranh giành ngai vàng của nước Pháp. Jeanne là người đã trợ giúp cho việc đăng quang của vị vua đối nghịch, do đó việc kết tội cô là một nỗ lực nhằm hạ bệ tính hợp pháp của lễ đăng quang của vua Charles VII. Các thủ tục pháp lý đã được tiền hành từ ngày 9 tháng 1 năm 1431 tại Rouen, thuộc khu vực kiểm soát của chính quyền Anh. Vụ xét xử này có một số điểm bất thường. Tóm tắt một vài vấn đề chính như sau: Theo luật của Giáo hội, Giám mục Cauchon thiếu thẩm quyền xét xử trường hợp này. Ngài được bổ nhiệm xét xử nhờ sự chống đỡ thiên vị của chính quyền Anh, và chính quyền Anh đã tài trợ cho cuộc xét xử này. Giáo sĩ công chứng viên Nicolas Bailly được bổ nhiệm đi thu thập lời chứng chống lại Jeanne nhưng đã không thể tìm thấy bất kỳ chứng cứ chống đối nào. Tòa án đã mở cuộc xét xử mà không hề có chứng cứ nào như thế. Tòa án cũng vi phạm luật của Giáo hội khi từ chối quyền được có cố vấn pháp lý của Jeanne. Trong cuộc thẩm tra công khai đầu tiên, Jeanne tố cáo rằng tất cả những người hiện diện lúc đó đều là những người theo phe Anh chống lại cô, và yêu cầu phải có những giáo sĩ của phía Pháp được mời. Nhiều viên chức tòa án sau này đã làm chứng rằng những phần quan trọng của bản ghi chép đã được sửa đổi nhằm chống lại cô. Nhiều giáo sĩ đã bị cưỡng bức tham gia, trong đó có cả quan tòa Jean Le Maitre, thậm chí một số người còn bị chính quyền Anh đe dọa giết. Theo những hướng dẫn dành cho tòa án dị giáo thì Jeanne phải được nhốt trong một nơi giam giữ thuộc Giáo hội dưới sự trông nom của những người canh gác thuộc nữ giới, nghĩa là các nữ tu. Nhưng không, chính quyền Anh đã giữ cô trong một nhà tù thế tục được canh gác bởi những người lính của họ. Giám mục Cauchon đã từ chối đơn kháng án của Jeanne lên Hội đồng Basel và Giáo hoàng vì điều này có thể ngừng việc xét xử của ông. Mười hai lời buộc tội tóm tắt bản tuyên án của tòa mâu thuẫn với hồ sơ tòa án đã bị sửa đổi. Bị cáo mù chữ dưới áp lực bị đe dọa tử hình ngay lập tức đã ký vào một văn kiện tuyên bố bội giáo mà cô không hiểu. Tòa án đã thay thế một lời tuyên bố bội giáo khác trong hồ sơ chính thức. Bị hành quyết Tội dị giáo chỉ bị kết án tử hình nếu đương sự liên tục phạm tội. Thoạt đầu Jeanne chấp nhận mặc quần áo phụ nữ, nhưng trong khi bị giam cầm, cô đã bị quấy rối tình dục. Vì thế nên cô mặc lại quần áo đàn ông để tự vệ khỏi bị quấy nhiễu, hoặc là theo lời chứng của Jean Massieu, vì quần áo của cô bị lấy trộm và cô không có đồ gì khác để mặc. Các nhân chứng kể lại cuộc hành quyết bằng cách thiêu sống trên dàn thiêu ngày 30 tháng 5 năm 1431. Bị trói trên một cây cọc cao tại Vieux-Marche ở Rouen, cô xin hai vị giáo sĩ, linh mục Martin Ladvenu và linh mục Isambart de la Pierre, nâng cây thánh giá trước mặt mình. Một người nông dân cũng làm một cây thập tự nhỏ mà cô dùng để gài trước áo. Sau khi cô chết, người Anh gạt đống tro ra, để lộ thân xác cháy thiêu của cô, để không ai có thể cho là cô đã trốn thoát, rồi lại đốt thi thể cô hai lần nữa để biến nó thành tro bụi, sao cho không ai có thể thu thập được mảnh thân xác nào làm thánh tích. Họ ném tro bụi xác cô xuống sông Seine. Viên đao phủ, Geoffroy Therage, về sau nói là ông ta "...khiếp sợ sẽ bị đày xuống địa ngục." Phục hồi danh dự Philippe-Alexandre Le Brun de Charmettes là sử gia đầu tiên viết một cuốn sách hoàn chỉnh về Jeanne d'Arc năm 1817, trong nỗ lực nhằm khôi phục danh tiếng của gia đình cô. Ông trở nên quan tâm về Jeanne khi nước Pháp vẫn còn phải nỗ lực tìm bản sắc của mình sau cuộc Cách mạng Pháp chiến tranh Napoleon. Đặc trưng quốc gia của Pháp khi ấy là tìm kiếm một anh hùng chân chính, không có tai tiếng. Với tư cách một người ủng hộ nhiệt thành nhà vua và đất nước, Jeanne d'Arc là một hình mẫu có thể chấp nhận được với những người theo đường lối bảo hoàng. Là một người yêu nước và là con gái của một gia đình bình dân, cô được xem như hình tượng ban đầu của những chiến sĩ tình nguyện thuộc tầng lớp dưới đáy của xã hội, (the soldats de l'an II), những người đã anh dũng chiến đấu và chiến thắng cho cuộc cách mạng Pháp năm 1802, và như vậy có thể được xem như hình tượng của một người Cộng hòa. Là một người tử vì đạo, cô rất được lòng giới giáo dân Công giáo mộ đạo. Cô được phong nữ Thánh năm 1920 bởi Đức giáo hoàng Bênêdictô XV. Cuốn Orleanide của De Charmette, ngày nay đã bị quên lãng, là một ví dụ về việc người ta tạo ra một "đặc trưng quốc gia", giống như các nhà văn Virgil (với cuốn Aeneid), hay Camoens (cuốn Lusiad) đã làm cho La Mã và Bồ Đào Nha. Đoạn kết cuộc chiến Cuộc chiến tranh trăm năm còn tiếp tục kéo dài thêm 22 năm kể từ ngày cô mất. Charles VII giữ được địa vị vua chính thống của Pháp, dù phe đối địch với ông làm lễ đăng quang cho Henry VI tháng 12 năm 1431, khi cậu bé tròn 10 tuổi. Trước khi nước Anh kịp tái tổ chức lực lượng chỉ huy và đạo quân cung thủ dùng trường cung, bị tiêu diệt năm 1429, họ mất đi đồng minh Bourgogne sau Hòa ước Arras năm 1435. Quận công Bedford cũng qua đời cùng năm đó, và Henry VI trở thành vị vua thiếu niên trẻ nhất của Anh cai trị không có nhiếp chính, và sự non yếu của ông có lẽ là lý do quan trọng nhất khiến cuộc chiến chấm dứt. Sử gia Kelly DeVries cho rằng chiến thuật tấn công bằng đại bác và tập kích vỗ mặt mà Jeanne d'Arc sử dụng có ảnh hưởng đến chiến thuật mà quân Pháp sử dụng cho tới hết chiến tranh. Minh oan và vinh danh Jeanne d'Arc trở thành một nhân vật gần như huyền thoại trong suốt bốn thế kỷ tiếp theo. Nguồn thông tin chính về cô đến từ các bản kỷ yếu, năm bản chép tay về phiên tòa xét xử cô được tìm thấy trong đống tư liệu cổ vào thế kỷ 19. Không lâu sau đó, các sử gia tìm được toàn bộ bản ghi về phiên tòa minh oan cho cô, trong đó bao gồm lời chứng từ 115 nhân chứng, và nguyên bản tiếng Pháp của bản thảo tiếng Latin của phiên tòa xét xử cô. Nhiều bức thư đương thời cũng được tìm thấy, ba trong số đó mang chữ ký "Jehanne", với nét chữ run run của một người đang tập viết. Nguồn tư liệu phong phú bất ngờ này là lý do để DeVries phải thốt lên, "Không có nhân vật nào từ thời Trung Cổ, đàn ông hay phụ nữ, lại được quan tâm nghiên cứu đến như thế". Jeanne d'Arc xuất thân từ một làng quê hẻo lánh, chỉ là một cô thôn nữ thất học mà nổi lên như một nhân vật xuất chúng khi còn chưa quá tuổi thiếu niên. Cuộc chiến tranh giành ngôi giữa vua Anh và vua Pháp dựa trên bộ luật Salic cổ kéo dài đằng đẵng, sự xuất hiện của cô mang lại ý nghĩa cho câu hỏi "Liệu có nên đuổi nhà vua khỏi vương quốc; và liệu chúng ta có trở thành người Anh?" Theo Stephen Richey, "Cô biến một cuộc chiến giành ngai vàng giữa hai triều đại, khiến nhân dân trở nên vô cảm vì mất mát, thành một cuộc chiến tranh ái quốc được nhân dân ủng hộ." Theo Richey: "Những người quan tâm đến cô trong suốt năm thế kỷ sau đó tìm cách gán cho cô đủ loại phẩm chất: cuồng tín ma quỷ, tâm linh huyền bí, ngây thơ và bị sử dụng một cách bi thảm bởi những kẻ có thế lực, người sáng lập và biểu tượng của chủ nghĩa ái quốc hiện đại, nữ anh hùng được yêu quý, nữ thánh. Cô kiên định, dù bị đe dọa tra tấn và chết trên giàn hỏa, rằng mình được dẫn dắt bởi giọng nói của Thượng đế. Dù có thế nào đi chăng nữa, thành quả mà cô gặt hái được khiến người nghe không khỏi lắc đầu kinh ngạc." Năm 1452, trong một cuộc điều tra, Nhà thờ tuyên bố một vở kịch tôn giáo để tưởng niệm cô tại Orléans có giá trị như một đặc ân hành hương tới đất thánh. Cô trở thành biểu tượng cho Liên minh Công giáo (Pháp) thời thế kỷ 16. Ngài Félix Dupanloup, Giám mục xứ Orléans từ 1849 tới 1878 là người đi đầu trong nỗ lực phong thánh cho cô, nhưng ông không còn sống để thấy điều đó trở thành hiện thực. Người Công giáo truyền thống tại Pháp và các nơi khác xem cô như biểu hiện của nguồn cảm hứng, và so sánh việc rút phép thông công Tổng Giám mục Marcel Lefebvre năm 1988 (người sáng lập ra Hội thánh Pius X và người bất đồng với các cải cách Vatican II) với việc cô bị rút phép thông công. Ba con tàu của Hải quân Pháp được đặt theo tên cô, gồm cả hàng không mẫu hạm cho máy bay trực thăng Jeanne d'Arc (R 97) nay vẫn còn hoạt động. Ảnh hưởng Đã từng có nhiều câu chuyện và những bộ phim truyền hình kể về cuộc đời của cô. Và cuộc đời đấu tranh và phục vụ cho nước Pháp của cô được thể hiện trong game chiến thuật dàn trận nổi tiếng Age of Empires II - The Age of Kings. Việt Nam Tại Thành phố Hồ Chí Minh, Nhà thờ Ngã Sáu còn được gọi là Nhà thờ Thánh Jeanne d'Arc Chú thích Tham khảo Trích dẫn Nguồn Sách Bài đăng tạp chí và luận văn Nguồn trực tuyến Nguồn sơ cấp Bản chép phiên xử gốc và phiên tái xử khôi phục danh dự của Jeanne d'Arc (Bản dịch tiếng Anh của phiên tòa xử Jeanne.) (Nguyên văn tiếng Latinh phiên tòa xử Jeanne.) (Nguyên văn tiếng Latinh phiên tòa khôi phục danh dự, phần I.) (Nguyên văn tiếng Latinh phiên tòa khôi phục danh dự, phần II.) Liên kết ngoài "The Siege of Orleans", thảo luận trên đài BBC Radio 4 với Anne Curry, Malcolm Vale & Matthew Bennett (In Our Time, 24 tháng 5 năm 2007) Thánh Công giáo Rôma Sinh năm 1412 Mất năm 1431
25724
https://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%E1%BA%A7n%20jean
Quần jean
Jeans (Miền Bắc Việt Nam gọi là quần bò) là một loại quần xuất xứ từ các nước phương Tây. Quần jeans là một loại quần, thường được làm từ vải denim hoặc dungaree. Thông thường thuật ngữ "quần jeans" đề cập đến một phong cách cụ thể của quần, được gọi là "quần jeans xanh", được phát minh bởi Jacob W. Davis hợp tác với Levi Strauss &Co. Quần jeans được cấp bằng sáng chế bởi Jacob W. Davis và Levi Strauss vào ngày 20 tháng 5 năm 1873. Quần jeans là một trong những biểu tượng của xã hội phương tây vào thế kỷ XX. Cụ thể, nó đã từng là biểu tượng cho tuổi trẻ, sự phản kháng, tự do và cho chủ nghĩa cá nhân của mọi tầng lớp nhân dân ở phương tây. Đây là phần y phục được bán nhiều nhất trên thế giới. Cả hai giới tính và mọi tầng lớp xã hội, thuộc nhiều nền văn hóa đều có thể mặc jeans. Lịch sử Levi Strauss được coi là cha đẻ của quần jeans. Ông sinh ra ngày 26 tháng 2 năm 1829, trong một gia đình nghèo khó ở Buttenheim, Đức. Hai năm sau khi người cha của Levi là Hirsch Strauss qua đời, bà góa phụ Rebecca đã cùng Levi lúc đó vừa đúng 18 tuổi và 2 cô con gái là Fanny và Mathilde quyết định di dân sang Mỹ vào năm 1847. Trạm định cư đầu tiên của gia đình Strauss là thành phố New York. Ba năm sau, 1850, cũng như bao gia đình nghèo khổ khác, Levi đã dời cư đến San Francisco, California theo cao trào tìm vàng. Califonia nằm ở trung tâm mỏ vàng nên hàng ngàn người đàn ông đến đó để đào vàng và Strauss đến để bán canvas cho những người thợ đào vàng. Canvas là loại vải dày nên Strauss nghĩ rằng những thợ đào vàng cần nó để che lều trại. Vào một ngày, Strauss nghe một người thợ mỏ than phiền rằng anh ta không thể tìm được loại vải nào đủ bền cho công việc mà anh đang làm. Từ đó, Strauss chợt nảy ra một ý tưởng. Ông nhanh chóng lấy một ít vải để may quần và những chiếc quần này đúng là những gì mà người thợ mỏ cần. Chỉ trong một ngày, Strauss đã bán hết toàn bộ những chiếc quần mà ông làm ra. Khi có tiền, ông muốn cải tiến chiếc quần tốt hơn. Ông mua một loại vải chéo mềm hơn nhưng có độ bền tương tự. Loại vải này có nguồn gốc từ Nîmes, một thành phố ở Pháp, còn được gọi là "Serge de Nîmes". Những người thợ mỏ thích loại vải này hơn và họ gọi nó là "denim" (từ de Nîmes). Tuy nhiên, vải denim không có màu, nhìn không hấp dẫn và dễ dàng bám bẩn. Để giải quyết vấn đề này, Strauss nhuộm vải chéo denim thành màu xanh và quần Jeans xanh ra đời từ đó. Dù mang tiếng là đi tìm vàng nhưng Levi Strauss không tìm ra được gì hết. Ông ta chỉ có nhận xét là các người đồng hành đi đào vàng với áo quần thật rách rưới trong khi chung quanh nơi sinh sống cắm trại thì lại có nhiều vải thô để dựng lều che mưa nắng. Từ nhận xét đó, Levi Strauss liền bắt tay vào việc. Từ những mảnh vải may lều, ông ta cắt may thành quần cho người đi đào mỏ vàng. Để cho quần được bảo đảm hơn nữa ở những mối chỉ may, qua sáng kiến của Jacob Davis, ông cho đóng những đinh tán vào đó. Ngày 20 tháng 5 năm 1873, Jacob và Levi nhận bằng sáng chế số #139,121, cho quần với các đinh tán của họ từ Phòng Bằng Sáng chế và Thương hiệu Hoa Kỳ; đây là ngày ra đời chính thức của quần jeans. Chiếc quần của Levi dần dần được các thợ mỏ vàng yêu chuộng vì không sờn rách như trước đây. Levi đặt tên cho chiếc quần của ông là "Waist overall". Những chiếc quần jeans bắt đầu còn là màu vàng nâu, sau qua màu xanh đậm. Từ loại vải thô dùng để căng lều, Levi đổi qua dùng loại vải dệt theo phương pháp "Serge de Nîmes" của Pháp. Cũng chỉ vài năm sau, Levi Strauss đã trở thành người giàu có. 1890 là năm ra đời Công ty "Levi Strauss & Company". Cơ sở đầu tiên của Công ty được đặt tại San Francisco. Chiếc quần "Waist overall" của Levi được đặt tên hiệu sản xuất là "501®". Quần dần dần được thêm thắt nho nhỏ nhưng mang đầy tính lịch sử như là 2 đường chỉ chạy cong vòng sau túi quần (arcuate). Tấm nhãn hiệu da với hình hai con ngựa (Two Horse Patch) cộng thêm nhãn hiệu màu đỏ của công ty (Red Tab). Cho đến năm 1920, "Waist overall" mới được đổi thành Blue Jeans. Quần vải thô màu xanh này xuất hiện tại châu Âu rất trễ so với thời gian lúc ra đời tại California. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, lính Mỹ đã du nhập loại quần này vào châu Âu. châu Âu dần dần bị Mỹ hóa đầu tiên qua áo quần. Vào thập niên 1960, thời gian của hippies và phản kháng, chiếc quần jean trở thành bộ đồng phục cho những người muốn sống tự do không ràng buộc. Thời gian này khi nói đến tự do, nói đến phản kháng, đến chối từ thì phải nói đến quần jean. Chỉ với quần jean, tuổi trẻ cảm nhận mình đã hơn người, mình "đã sống, đang sống và biết sống" hơn người. Sau khi cách mạng đời sống chấm dứt thì triết lý "quần jean" cũng tàn lụi theo. Jean trở thành loại quần áo cho tầng nhóm xã hội bình thường. Từ biểu tượng cho "tự do", nay Jeans trở thành chiếc quần của thời gian rảnh rỗi, qua đó biểu tượng của Jeans trở nên buồn chán. Jeans không còn "sôi nổi" nữa. Để chặn đứng tình trạng xuống dốc của quần Jeans, các nhà tạo mode đã thay đổi nhiều kiểu mẫu: lúc quần ống rộng, khi thì bó mông. Nhờ vào hóa chất acid và đá bọt, chiếc quần Jeans mới được bỏ vào trong máy giặt để trở thành loại "stone-washed", "double-stone-washed" cho đến "destroyed". Ai mà thích quần rách rưới thì có loại "Shotgun Denim" - vải quần được bắn nát với đạn Schrotflinte. Một số trong giới thanh niên thiếu nữ cho rằng quần càng hư hỏng rách rưới người mặc mới được xem là "ngầu". Quần Levi's đến thập niên 2000 vẫn còn giữ hàng đầu nhưng đã điêu đứng vì bị cạnh tranh bởi những nhà tạo mode may quần áo rất đắt từ Mailand cho đến New York. Một số tài tử Hollywood hoặc một số đông nhà triệu phú, trong số này có cả tổng thống Bush (của Hoa Kỳ) và tổng thống Putin (của Nga), vẫn thích mặc quần Jeans, trông trẻ trung hơn. Tác động môi sinh Ngoài những loại jean có "hiệu", hiện nay quần jean nam giá sỉ rẻ tiền may từ Viễn Đông cũng đang tràn ngập thị trường. Quần được may từ những xứ nghèo khổ. Người thợ may được trả lương một cách thảm thương lại còn bị hành hạ không được công đoàn bảo vệ như tại các nước Tây Âu. Cây bông để tạo ra vải hầu như hoàn toàn được trồng tại các quốc gia nghèo đang phát triển. Người thợ trồng bông cũng như môi trường tại đây hàng ngày phải đối đầu trực tiếp với chất bảo vệ thực vật độc hại được dùng để chống sâu rầy. Một phần tư số thuốc trừ sâu được sử dụng trên toàn thế giới nằm trên các ruộng trồng cây bông. Do đặc tính chung dễ phai màu trong dung dịch nước tẩy rửa nên việc giặt đồ jean cần tuân theo các quy tắc nhất định. Hầu hết các loại quần áo jeans co giãn đều có thể giữ được độ đàn hồi tốt, không cần thiết phải giặt sau mỗi lần mặc. Giặt quá nhiều có thể làm đổi màu đồ jeans của bạn. 4 -5 lần mặc/1 lần giặt là vừa đủ. Không cần thiết phải giặt đồ jean mới mua. Tham khảo Liên kết ngoài Quần Văn hóa phương Tây Lịch sử thời trang Phát minh của Hoa Kỳ
25726
https://vi.wikipedia.org/wiki/WYSIWYG
WYSIWYG
WYSIWYG (viết tắt của What You See Is What You Get trong tiếng Anh), thường được dịch là "những gì bạn đang thấy là những gì bạn sẽ nhận được" và hiểu như là "Giao diện tương tác tức thời - mắt thấy tay làm", thường được dùng trong các chương trình ứng dụng văn phòng, các chương trình biên soạn, thiết kế web... Các công cụ dùng giao diện này cho phép ta có thể thấy ngay những thay đổi mà người viết mã, hay một thiết kế viên web vừa thực hiện, nhằm tiết kiệm thời gian chỉnh sửa các lỗi hay những điểm không ưng ý một cách dễ dàng và nhanh chóng. Tại sao dùng các chương trình WYSIWYG? Một ví dụ đơn giản, HTML cho phép viết bằng bất cứ trình soạn thảo văn bản nào, từ đơn giản nhất (như Notepad) đến phức tạp, cao cấp hơn (như Microsoft Office Word, K-Word). Tuy nhiên, mọi chuyện sẽ vẫn ổn thỏa cho đến khi người viết mã, hay nhân viên thiết kế muốn vẽ lên những bảng biểu phức tạp bắt buộc phải có, khi đó những dòng mã sẽ cần phải phức tạp và các thẻ (tag) thường chồng chéo lên nhau. Dẫn việc giao diện càng đẹp, càng phức tạp, mã phát sinh nhiều và dày đặc, những sai sót sẽ xuất hiện. Người sử dụng bị chìm ngập trong mớ bòng bong ngổn ngang những mã lệnh mà không biết làm thế nào. Các trình biên soạn WYSIWYG sẽ tự động phát sinh và chèn các mã lệnh cần thiết vào đúng nơi mà người sử dụng mong muốn. Thêm vào đó, các trình biên soạn WYSIWYG cũng hiển thị cấu trúc, phân cấp các mã lệnh có hệ thống chặt chẽ và làm nổi bật chúng bằng nhiều màu sắc khác nhau. Dĩ nhiên, WYSIWYG cũng có nhược điểm trong một số trường hợp nhất định. Chẳng hạn việc biên soạn những văn bản có kích thước lớn, liên quan đến nhiều thao tác cắt, dán, chuyển chỗ những khối văn bản lớn hay các hình ảnh, các phần mềm WYSIWYG đều thực hiện rất chậm. Ngược lại nếu thao tác trên các file chữ sẽ không gặp khó khăn này. Các phương thức sử dụng phổ biến Với các ứng dụng văn phòng Các văn bản được mã hóa theo định dạng, sau đó có thể xuất bản ra dạng bản in để chuyển cho máy in in ra giấy. Với các trình thiết kế web Các văn bản sẽ được chuyển sang dạng mã HTML (tự động sinh mã theo đúng yêu cầu người viết). Xuất bản ra dạng HTML đầy đủ để người dùng có thể đưa nó lên web. Với các mục nhập trên web Đối với các mục nhập (Entry) trực tiếp, cũng giống như trình thiết kế web, sinh mã HTML. Khác biệt là không dùng phần mềm để chỉnh sửa mà dùng ngay chính trang web, với trình duyệt được hỗ trợ, để chỉnh sửa. Thường thì mã HTML dạng này đơn giản hơn và bị khóa một số thẻ HTML. Một số trình biên soạn web dùng WYSIWYG tiêu biểu Microsoft FrontPage (bản gần đây nhất là MS-FrontPage 2007 SP2) Microsoft Expression Web (Bản mới nhất là Expression Web 3) Adobe Dreamweaver (bản gần đây nhất là Adobe Dreamweaver CS6) Adobe Golive (mới nhất là Adobe Golive CS2) Netscape Composer (gần đây nhất là phiên bản 7.0) Các ứng dụng văn phòng Microsoft Office (bản mới nhất Microsoft Office 2021) OpenOffice.org (bản mới nhất là 4.1.1) Các trình soạn thảo tích hợp trên website CKeditor Spaw TinyMCE Tham khảo Liên kết ngoài Trang chủ của MS-FrontPage Trang chủ của Macromedia Dreamweaver 9.0 Trang chủ của Adobe Golive Tìm kiếm thông tin về nhiều trình WYSIWUG khác bằng Google Tìm kiếm thông tin về nhiều trình WYSIWUG khác bằng Bing Công nghệ web Giao diện người dùng Phần mềm trình diễn Trình soạn thảo
25730
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%BD%20Chi%C3%AAu%20Ho%C3%A0ng
Lý Chiêu Hoàng
Lý Chiêu Hoàng (chữ Hán: 李昭皇; 1218 - 1278), Chiêu Hoàng Đế (昭皇帝) hay Chiêu Thánh Hoàng Hậu (昭聖皇后) là Nữ Hoàng của đế quốc Đại Việt, cũng là Hoàng Đế cuối cùng của triều đại nhà Lý, trị vì từ năm 1224 đến năm 1225. Bà là Nữ Hoàng duy nhất trong lịch sử Việt Nam, nhưng không phải là vị vua nữ giới đầu tiên, vị nữ quân chủ đầu tiên là Nữ Vương Trưng Trắc. Bà được chính vua cha Lý Huệ Tông ra chỉ truyền ngôi, dù bên trong có khả năng do sự sắp đặt của Điện Tiền Chỉ Huy Sứ -Trần Thủ Độ, người đang nắm quyền lực trong triều, đồng thời cũng là cậu của bà. Năm 1225, Chiêu Hoàng được Trần Thủ Độ sắp xếp nhường ngôi cho Trần Cảnh (Trần Thái Tông), triều đại nhà Lý cai trị Đại Việt hơn 200 năm đã chính thức kết thúc. Sau khi nhượng vị, Chiêu Hoàng trở thành hoàng hậu của Thái Tông cho đến khi bị phế truất vào năm 1237 vì không sinh được con nối dõi. Thuận Thiên Công Chúa, người kế vị ngôi hoàng hậu sau đó, chính là chị ruột của bà. Sau năm 1258, ở tuổi 40, bà tái giá lấy Lê Phụ Trần, một viên tướng có công cứu giúp Trần Thái Tông khỏi bị truy kích trong lần quân Nguyên vào cướp. Hai người sống với nhau hơn 20 năm và sinh được 1 trai là Thượng Vị Hầu-Lê Tông và 1 gái là Ứng Thụy Công Chúa-Lê Ngọc Khuê. Bà qua đời ngay sau Thái Tông khoảng 1 năm. Cuộc đời của bà đầy phức tạp và bi kịch, khi trở thành một nhân vật chủ chốt trong cuộc biến chuyển triều đại đầy kịch tính giữa nhà Trần và nhà Lý. Vốn dĩ là công chúa, sau trở thành nữ hoàng đế, rồi lại trở thành hoàng hậu và bị giáng làm công chúa, cuộc đời của Lý Chiêu Hoàng khiến hậu thế đánh giá là một quá trình đầy phức tạp, cũng trở thành nguồn cảm hứng của rất nhiều tác phẩm thi, ca, nhạc, họa và điện ảnh. Thân thế Lý Chiêu Hoàng ban đầu có tên là Lý Phật Kim (李佛金), sau đổi theo tên húy là Lý Thiên Hinh (李天馨), là con gái thứ hai của Lý Huệ Tông-Lý Hạo Sảm - vị vua thứ 8 của triều đại nhà Lý. Mẹ của bà là Linh Từ Quốc Mẫu-Trần Thị, thường bị dã sử và người hiện đại gọi là "Trần Thị Dung", con gái của Trần Lý, sau trở thành hoàng hậu của Huệ Tông. Không rõ Lý Thiên Hinh sinh ngày bao nhiêu, chỉ biết bà được sinh vào khoảng tháng 9 (ÂL), năm Mậu Dần (1218), tức năm thứ 8 niên hiệu Kiến Gia, nơi bà được sinh ra có lẽ là tại kinh đô Thăng Long. Tước hiệu ban đầu là Chiêu Thánh Công Chúa (昭聖公主). Trên bà có một chị gái là Thuận Thiên Công Chúa, sau được gả cho Khâm Minh Đại Vương-Trần Liễu - con trai trưởng của Trần Thừa và là anh trưởng của Trần Thái Tông-Trần Cảnh. Vào thời điểm bà được sinh ra, Lý Huệ Tông đã sớm phát bệnh điên, triều đình hoàn toàn rơi vào tay họ Trần mà đại biểu là Trần Tự Khánh - khi ấy đang giữ chức vụ Thái Úy, quyền phụ chính. Trần Tự Khánh là anh thứ của Trần Thị Dung, tức là bác ruột của Chiêu Thánh. Một người bác khác của Chiêu Thánh là Trần Thừa, giữ chức "Nội Thị Phán Thủ" (内侍判首) - cai quản các quan nội thị phục vụ gần cho Lý Huệ Tông. Năm Nhâm Ngọ, tức năm Kiến Gia thứ 12 (1222), Huệ Tông đem các lộ trong nước đều chia cho hai cô công chúa con gái của mình (triều Lý có tổng 24 lộ), lấy các hoành nô thuộc lệ và quân nhân bản lộ, chia nhau làm giáp. Sau khi Trần Tự Khánh qua đời, Trần Thừa được dùng tiếp làm Thái Úy Phụ Chính, vào triều không xưng tên, một người cậu khác của Chiêu Thánh là Trần Thủ Độ lại được Huệ Tông giao cho nắm giữ chức Điện Tiền Chỉ Huy Sứ (殿前指揮使), quản lý các cơ cấu quân sự chủ chốt của hoàng cung. Hoàng đế cuối cùng Được nhường ngôi Năm Giáp Thân, Kiến Gia năm thứ 14 (1224), tháng 10, Lý Huệ Tông ra chỉ lập Chiêu Thánh làm Hoàng Thái Tử (皇太子) rồi truyền ngôi, đổi niên hiệu là Thiên Chương Hữu Đạo (天彰有道), tôn hiệu là Chiêu Hoàng (昭皇). Lý Huệ Tông xuất gia ở chùa Chân Giáo trong đại nội. Năm Ất Dậu, Thiên Chương Hữu Đạo năm thứ 2 (1225), họ Trần do nắm quyền hành, lần lượt được ban chức tước quan trọng cho con em trong họ, đáng kể nhất là rất nhiều con cháu họ Trần được tuyển vào cung để sung vào các chức vụ hầu trong đại nội, gần gũi với Chiêu Hoàng, bao gồm: "Lục Hỏa Thị Cung Ngoại" (六火侍宫外), "Chi Hầu" (祗侯) và "Nội Nhân Thị Nội" (内人侍内), thường thay nhau trực chầu hầu. Lúc này, chức vụ của Trần Thủ Độ đã bao quát đến nỗi "coi giữ mọi việc quân sự trong ngoài thành thị", trong các con em vào cung hầu Chiêu Hoàng thì có Trần Bất Cập là cháu gọi Trần Thủ Độ bằng chú - được phong "Cận Thị Thự Lục Cục Chi hậu" (近侍署六局祗候), ngoài ra còn có Trần Thiêm làm "Chi Ứng Cục" (祗應局) và Trần Cảnh làm "Chánh Thủ" (政首). Chánh Thủ-Trần Cảnh, là con trai thứ 2 của quan Thái Úy-Trần Thừa, mới 8 tuổi được đưa vào hầu gần Chiêu Hoàng, ban đầu chỉ là ở bên ngoài điện, sau đó phụ trách đưa nước rửa mặt cho Chiêu Hoàng nên vào hầu bên trong. Trần Cảnh cùng gần tuổi với Chiêu Hoàng, được Chiêu Hoàng gần gũi, yêu mến, hay trêu đùa. Trần Thủ Độ lấy dịp đó dựng nên cuộc hôn nhân giữa Chiêu Hoàng và Trần Cảnh rồi chuyển giao triều chánh bằng cách để Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng. Từ đó, nhà Trần được thành lập. Năm Ất Dậu (1225), ngày 21 tháng 10 (tức ngày 22 tháng 11 dương lịch), Chiêu Hoàng xuống chiếu nhường ngôi cho Trần Cảnh. Ngày 11 tháng 12 năm ấy (tức ngày 10 tháng 1 năm 1226), Chiêu Hoàng bỏ hoàng bào mời Trần Cảnh lên ngôi Hoàng đế ở điện Thiên An, dựng lên nhà Trần, sử gọi là Trần Thái Tông. Chiêu Hoàng được Thái Tông lập làm hoàng hậu, đổi gọi là Chiêu Thánh. Từ đây nhà Lý hoàn toàn chấm dứt sau 216 năm cai trị. Quá trình truyền ngôi Cuốn sách được xem là bộ biên niên sử sớm nhất của Việt Nam - Đại Việt Sử Lược - đã chép lại quá trình truyền ngôi cho dòng họ nhà Trần rất phức tạp. Theo như sách này ghi lại, Huệ Tông truyền ngôi xong vẫn giữ vai trò chính trị quan trọng, và ông đã chủ trương dàn xếp nhường ngôi, dưới sự góp phần không nhỏ của Thái Úy-Trần Thừa cùng Trần Thủ Độ (sách này chép Thủ Độ đang giữ tước "Thượng Phẩm Phụng Ngự" 上品奉御), sau khi truyền ngôi cho họ Trần thì Huệ Tông mới xuất gia. Quá trình mà Lý Chiêu Hoàng truyền ngôi cho họ Trần, thông tin từ sách Đại Việt sử ký toàn thư chép có ý khẳng định là do Trần Thủ Độ đứng sau và thao túng, vai trò của Trần Thừa và Lý Huệ Tông hoàn toàn bị lược bỏ đi: Theo đó, Lý Chiêu Hoàng lên ngôi vào tháng 6 năm Ất Dậu (năm 1225) và nhường ngôi vào tháng 11, chỉ vỏn vẹn gần nửa năm trên ngai vàng. Sự việc Phùng Tá Chu khuyên can không được ghi chi tiết ở Toàn thư mà chỉ ghi ở Sử lược, tuy nhiên khi ghi chép về sự việc nhường ngôi thì Ngô Sĩ Liên đã gián tiếp chứng thực câu chuyện Phùng Tá Chu khuyên Huệ Tông nhường ngôi họ Trần: "Các quan bấy giờ không ai nghĩ gì đến xã tắc, để cho Phùng Tá Chu viện dẫn việc Lữ hậu và Võ hậu làm cớ mà thành ra việc Chiêu Hoàng nhường ngôi cho họ Trần, ấy là người có tội với họ Lý". Điều này chứng tỏ thông tin Phùng Tá Chu ảnh hưởng chuyện Huệ Tông quyết định chọn Trần Cảnh làm rể từ Sử lược là chính xác. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục có lời nhận định rằng: Nửa đời sau Sau khi nhường ngôi, Lý Chiêu Hoàng được lập làm hoàng hậu, trở thành vị hoàng hậu trẻ tuổi nhất trong lịch sử, vì khi đó bà mới 8 tuổi. Bà chung sống với Trần Thái Tông hơn 10 năm, không có ghi chép gì cụ thể về bà trong suốt thời gian này. Năm Đinh Dậu, Thiên Ứng Chính Bình thứ 6 (1237), hơn 10 năm mà Thái Tông cùng Chiêu Thánh không có con, Thái Sư-Trần Thủ Độ cùng Thiên Cực công chúa lo sợ huyết thống hoàng gia bị đứt đoạn, nên ép Thái Tông phải bỏ Chiêu Thánh để lấy chị dâu là Thuận Thiên Công Chúa đang có thai 3 tháng. Trần Thái Tông cảm thấy chuyện này hổ thẹn, đang đêm trốn khỏi kinh thành để lên gặp sư Phù Vân ở Yên Tử nương nhờ. Trần Thủ Độ vừa dỗ vừa gây sức ép, cuối cùng Thái Tông cũng phải chịu nghe theo. Thuận Thiên Công Chúa được lập làm hoàng hậu thay thế, Chiêu Thánh bị giáng làm "công chúa" - tức hàng ngoại mệnh phụ. Vì chuyện này, Hoài Vương-Trần Liễu nổi loạn ở sông Cái, nhiều năm nhiều tháng không ngừng. Cuối cùng, Trần Liễu đến xin Thái Tông tha tội, hai anh em ôm nhau khóc thảm thiết. Sau đó, Liễu được đổi phong hiệu làm "An Sinh Vương" (安生王), được ban các vùng An Sinh, An Phụ, An Dưỡng, An Hưng, An Bang làm ấp thang mộc (nay thuộc hai huyện Đông Triều và Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh). Những tướng sĩ và quân lính đi theo Trần Liễu làm loạn đều bị xử tử. Từ ấy đến hơn 20 năm sau, chính sử không hề đề cập hành trạng của bà. Sách "Lý Chiêu Hoàng - Một đời sóng gió" của Lê Thái Dũng có đề cập về một truyền thuyết rằng Chiêu Thánh sau khi bị giáng đã xuất gia tại chùa Linh Tiên của làng Giao Tự (nay thuộc xã Kim Sơn, huyện Gia Lâm, Hà Nội), thế nhưng văn bản chứng minh rất mơ hồ. Năm Mậu Ngọ, Nguyên Phong năm thứ 8 (1258), sau cuộc chiến với quân đội Mông Cổ trong dịp người Nguyên vào cướp, Trần Thái Tông gả Chiêu Thánh cho quan Ngự Sử Trung Tướng- Lê Phụ Trần, vốn tên Lê Tần (黎秦), người Ái Châu, vì có công phò giúp nhà Vua nên được Thái Tông ban tên "Phụ Trần" (có nghĩa giúp họ Trần) và ban cho chức Ngự Sử Đại Phu, sách An Nam Chí Lược ghi Lê Phụ Trần được phong "Nhập Nội Phán Thủ" (入內判首) và còn được ban tước "Bảo Văn Hầu" (保文侯). Khi quyết định ban hôn, Thái Tông còn nói: "Trẫm không có khanh, thì đâu có ngày nay. Khanh hãy cố gắng để cùng được trọn vẹn về sau". Đầu năm Mậu Dần, niên hiệu Bảo Phù thứ 6 (1278), tháng 3, Chiêu Thánh Công Chúa- Lý thị qua đời, thọ 61 tuổi. Bà qua đời sau gần 1 năm tròn so với Trần Thái Tông (qua đời năm 1277). Khi bà Chiêu Thánh được gả cho Lê Phụ Trần thì bà đã ở vào khoảng năm 40 tuổi, hai người sống với nhau 20 năm, sinh ra con trai là Thượng Vị Hầu Lê Tông, con gái là Ứng Thụy Công Chúa tên là Khuê. Chính sử không chép nơi an táng và lễ nghi của bà Chiêu Thánh, và dù khi qua đời bà vẫn chỉ là "Chiêu Thánh Công chúa", nhưng hậu thế vẫn thường gọi bà theo tôn hiệu "Lý Chiêu Hoàng". Nhìn nhận Cuộc đời của Lý Chiêu Hoàng thường được nhìn nhận là bi kịch khi trở thành con rối chính trị lúc còn quá nhỏ. Có một số ý kiến việc đền Lý Bát Đế (tức Đền Đô) chỉ thờ 8 vị Hoàng đế nhà Lý là vì đổ tội Lý Chiêu Hoàng làm mất nhà Lý, đồng thời còn cho rằng người đương thời lên án và xem trách nhiệm hoàn toàn do Lý Chiêu Hoàng. Trước mắt, căn cứ vào cuốn sách chính sử hàng đầu của Việt Nam là Đại Việt sử ký toàn thư được soạn vào thời Lê sơ, người đời Lê nhận xét việc triều Lý mất hoàn toàn do số trời mà không phải là lỗi một cá nhân từ Lý Chiêu Hoàng. Sử gia Ngô Sĩ Liên khi bàn về việc này có nói: Bên cạnh đó, về việc tái hôn của Chiêu Hoàng mà tác giả là Trần Thái Tông, sách Toàn Thư chê trách nặng lời việc nhà Vua mang bà là vợ cũ, hơn nữa còn là Cựu Hoàng Đế, gả cho Lê Phụ Trần là bầy tôi. Ngô Sĩ Liên viết gay gắt: "Vua tôi nhà Trần coi thường đạo vợ chồng lại thấy ở đây lần nữa". Sự việc sau cái chết của Lý Chiêu Hoàng tiếp tục được đồn thổi với rất nhiều truyền thuyết. Sách Việt Sử Tiêu Án, một cuốn sử đời Lê Trung Hưng do Ngô Thì Sĩ soạn đã có chép lại thuyết dân gian rằng bà đã nhảy hồ tự sát. Nguyên văn: "Bà Chiêu Thánh mất. Bà đã bị giáng là Công Chúa, rồi gả cho Phụ Trần, khi ấy mất đã 61 tuổi. Hiện nay ở tỉnh Bắc Giang, có đầm Minh Châu, giữa đầm có phiến đá to, người ta truyền lại rằng bà Chiêu Thánh cắp hòn đá nhảy xuống đầm mà chết, trên bờ đầm có miếu Chiêu Hoàng. Đó là thổ dân nơi đó bênh vực hồi mộ cho bà Chiêu Hoàng mà đặt ra thuyết ấy! Bà Chiêu Hoàng nhất sinh ra là người dâm cuồng, lấy chồng không vừa lứa đôi, đâu còn trinh tiết như lời người ta truyền lại". Do thời đại đã trôi qua, thời kỳ Lê trung hưng đã có cái nhìn khắt khe hơn với chuyện về Lý Chiêu Hoàng, bên cạnh chê bai họ Trần như cũ thì cuốn sách này cũng phê phán Lý Chiêu Hoàng rất lớn trong việc tái giá này. Ngoài nhận định Chiêu Hoàng "nhất sinh là người dâm cuồng" như trên, thì còn có nhận xét khác: Học giả Lê Thái Dũng trong cuốn "Lý Chiêu Hoàng - Một đời sóng gió" có ghi lại một tương truyền rằng trước khi qua đời, bà Lý Chiêu Hoàng đã về thăm quê Cổ Pháp (Bắc Ninh) và qua đời tại đó. Khi mất, tóc bà vẫn đen nhánh, môi vẫn đỏ như son, má vẫn tươi như hoa đào, cũng vì những thông tin này mà trong sách còn đề cập một giả thiết rằng Lý Chiêu Hoàng được gả cho Lê Phụ Trần là một "thế thân", mà Lý Chiêu Hoàng thực tế vẫn còn ở trong cung, hoặc đã qua đời, hoặc đã xuất gia, tuy nhiên những điều trên mà Lê Thái Dũng ghi chép đều chỉ mang tính truyền miệng của dân gian, hoàn toàn không được xem là chứng cứ. Sau khi mất, chính sử không chép về nơi Lý Chiêu Hoàng được an táng, tuy nhiên không biết từ bao giờ mà có thông tin rằng Lý Chiêu Hoàng được an táng ở bìa rừng Báng, phía tây Thọ Lăng Thiên Đức (nơi an táng của các vị Vua nhà Lý), do vậy người đời sau lập đền thờ gọi là Long Miếu (đền Rồng) - hiện nay tại Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, (tỉnh Bắc Ninh). Cũng theo Lê Thái Dũng, sở dĩ Lý Chiêu Hoàng không được thờ chung tại đền Đô mà phải thờ riêng vì bà là người bị xem là có tội với dòng họ Lý khi để mất nhà Lý. Nhà thơ Tản Đà có bài thơ Vịnh Lý Chiêu Hoàng như sau: Quả núi Tiên Sơn có nhớ công Mà em đem nước để theo chồng Ấy ai khôn khéo tài dan díu Những chuyện hoa tình có biết không? Một gốc mận già thôi cũng phải Hai trăm năm lẻ thế là xong Hỏi thăm sư cụ chùa Chân Giáo Khách khứa nhà ai áo mũ đông. Ở Từ Sơn (Bắc Ninh) vẫn còn câu ca dao thác lời Chiêu Hoàng trách Trần Cảnh về việc này: Trách người quân tử bạc tình Chơi hoa rồi lại bẻ cành bán rao! Hậu duệ Với Trần Thái Tông Trần Cảnh (có nghi vấn): Hoàng thái tử Trần Trịnh (陳鄭), không ghi rõ là Chiêu Hoàng sinh ra ở bất kỳ sách sử nào. Trong sách Toàn thư, Thái tử Trịnh không được ghi năm sinh mà chỉ ghi hôm ấy mất, Ngô Sĩ Liên bèn nghĩ rằng "vừa sinh ra đã mất", chứ hoàn toàn không chắc chắn Thái tử là vừa sinh đã mất, càng không nói đến Thái tử do Chiêu Hoàng sinh ra. Với Bảo Văn Hầu-Thiếu Sư-Lê Phụ Trần: Lê Tông (黎琮), con trai duy nhất, được ban tước Thượng Vị Hầu. Có suy đoán đây là Bảo Nghĩa Vương-Trần Bình Trọng. Ứng Thụy Công Chúa, tên Khuê (珪), con gái duy nhất. Không rõ hành trạng. Tiểu thuyết của Lê Thái Dũng gọi là "Lý Chiêu Hoàng - Một đời sóng gió" có thông tin ghi trong "Niên biểu Lý Chiêu Hoàng" rằng công chúa lấy Trạng Nguyên-Trần Cố, quê ở xã Phạm Triền, huyện Thanh Miện, phủ Hạ Hồng, lộ Hải Đông (nay là thôn Phạm Lý, xã Ngô Quyền, huyện Thanh Miện, Hải Dương), đỗ Kinh trạng nguyên khoa Bính Dần. Hiện không rõ Lê Thái Dũng lấy thông tin này ở đâu. Quan hệ với Trần Bình Trọng Không có bất kì ghi chép lịch sử nào giữa Lý Chiêu Hoàng với Trần Bình Trọng có quan hệ ruột thịt gì hay không. Sách Toàn thư chỉ nói: "Vương (tức Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng) là dòng dõi Lê Đại Hành", và PGS. Tiến sĩ Trần Bá Chí trong cuốn "Bối cảnh định đô Thăng Long và sự nghiệp của Lê Hoàn" đã dựa vào "Lê triều miêu duệ" và "Cổ Mai bi ký" để giả định Trần Bình Trọng là con của Lê Phụ Trần, và Trần Bá Chí nhấn mạnh "nếu Phụ Trần chỉ lấy một mình Chiêu Thánh Công chúa" thì Trần Bình Trọng có thể là con của Lê Phụ Trần với Lý Chiêu Hoàng. Nếu đúng là như vậy, thì Lý Chiêu Hoàng là ngoại tổ mẫu nhiều đời của Trần Minh Tông-Trần Mạnh - cháu 4 đời của Trần Thái Tông, vì mẹ của Minh Tông là Chiêu Từ Hoàng Thái Hậu - con gái của Trần Bình Trọng. Trong văn hoá đại chúng Chú thích Tham khảo Nguồn tham khảo Trần Bá Chi (2005), Bối cảnh định đô Thăng Long và sự nghiệp của Lê Hoàn, NXB Hà Nội. Nguyễn Tường Phượng (1996), Tuyển tập Nguyễn Tường Phượng, NXB Văn học. Ghi chú Xem thêm Nhà Lý Nhà Trần Trần Thái Tông Trần Thủ Độ Lý Huệ Tông Hoàng hậu Thuận Thiên Lê Phụ Trần Linh Từ Quốc Mẫu Trần Liễu Liên kết ngoài Vụ đập nát để xây mới đền thờ Lý Chiêu Hoàng trên báo Thanh Niên, ra ngày 13 tháng 4 năm 2009. Chiêu Hoàng Vua Việt Nam Nữ hoàng Hoàng hậu nhà Trần Hoàng nữ Việt Nam Hoàng nữ Người Hà Nội Công chúa nhà Lý Công chúa nhà Trần Người Bắc Ninh Vua thiếu nhi Việt Nam
25735
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%8Bch%20s%E1%BB%AD%20ng%C3%A0nh%20tr%C3%AD%20tu%E1%BB%87%20nh%C3%A2n%20t%E1%BA%A1o
Lịch sử ngành trí tuệ nhân tạo
Đây là bài con của Trí tuệ nhân tạo, nội dung chú trọng vào sự phát triển và lịch sử ngành trí tuệ nhân tạo. Sự phát triển của lý thuyết trí tuệ nhân tạo Trí tuệ nhân tạo là đột phá công nghệ mới nhất, là ngành khoa học đang định hình lại xã hội của chúng ta. Đồng thời trí tuệ nhân tạo có tác động sâu sắc đến các ngành công nghiệp máy móc và công ty cung cấp năng lượng. Với sự phát triển nhanh chóng về kiến ​​thức và tiến bộ trong trí tuệ nhân tạo đang thúc đẩy mạnh mẽ nhu cầu về các dịch vụ kỹ thuật số mới để giúp khai thác công nghệ này với tiềm năng cao nhất. Cải thiện các sản phẩm đã có trên thị trường để tất cả chúng ta đưa vào sử dụng trong cuộc sống hàng ngày sẽ là cốt lõi cho tương lai của trí tuệ nhân tạo AI. Đa số trọng tâm của các nghiên cứu trí tuệ nhân tạo ban đầu được lấy từ cách tiếp cận bằng thực nghiệm của tâm lý học, và xem trọng cái gọi là "trí tuệ ngôn ngữ" - việc hiểu biết ngôn ngữ con người (xem Thử nghiệm Turing, Turing test). Các hướng nghiên cứu về trí thông minh nhân tạo không liên quan đến ngôn ngữ bao gồm ngành robotic và ngành thông minh tập thể (colective intelligence). Hai hướng tiếp cận này tập trung vào việc chủ động tác động lên môi trường hoặc việc đưa ra quyết định bằng đồng thuận về một vấn đề nào đó. Các hướng nghiên cứu này có nguồn gốc từ các mô hình thông minh xuất phát từ sinh học và chính trị học. Lý thuyết trí tuệ nhân tạo còn được rút ra từ các nghiên cứu về động vật, đặc biệt là côn trùng, do có thể dễ dàng được mô phỏng con trùng bằng robot (xem thêm sự sống nhân tạo (artificial life)) cũng như các động vật với nhận thức phức tạp hơn, ví dụ như loài khỉ, chúng có thể bắt chước con người trong nhiều trường hợp nhưng lại hạn chế về sự phát triển trong việc lập kế hoạch và nhận thức. Các nhà nghiên cứu về trí tuệ nhân tạo đưa ra kết luận rằng những loài động vật, có nhận thức đơn giản hơn con người, đáng ra có thể dễ dàng mô phỏng được. Tuy nhiên, đến giờ vẫn chưa có mô hình tính toán đủ tốt mô phỏng trí thông minh của động vật. Có những bài báo đưa ra khái niệm trí thông minh của máy (machine intelligence) như bài A Logical Calculus of the Ideas Immanent in Nervous Activity (Tính toán logic của các ý tưởng nội tại trong hoạt động thần kinh) (1943), do Warren McCulloch và Walter Pitts viết; On Computing Machinery and Intelligence (Về bộ máy tính toán và trí thông minh) (1950), được viết bởi Alan Turing; và Man-Computer Symbiosis viết bởi J.C.R. Licklider. Xem thêm phần điều khiển học (cybernetics) và Thử thách Turing. Trước đó cũng đã có các bài báo phủ nhận khả năng tồn tại trí thông minh của máy dựa vào các lý do logic hay triết học như Minds, Machines and Gödel (1961) của John Lucas . Với sự phát triển của các kỹ thuật thực hành dựa trên các nghiên cứu về trí tuệ nhân tạo, những người ủng hộ ngành trí tuệ nhân tạo đã cho rằng phe chống đối ngành này đã liên tục thay đổi lập trường của họ trong các vấn đề như máy tính chơi cờ hay nhận dạng tiếng nói, mà trước đây chúng đã từng được coi là thông minh, để phủ nhận các thành tựu của ngành trí tuệ nhân tạo. Bởi vậy, Douglas Hofstadter, trong cuốn Gödel, Escher, Bach, đã chỉ ra rằng chính sự chuyển dịch đó đã định nghĩa trí thông minh là bất cứ việc gì mà con người làm được còn máy móc thì không. John von Neumann (trích dẫn trong E.T. Jaynes) đã thấy trước được điều này vào năm 1948 khi trả lời một lời bình luận tại một buổi diễn thuyết cho rằng may móc không thể suy nghĩ: "Bạn nhất quyết rằng có một điều gì đó mà máy móc không thể làm được. Nếu bạn nói cho tôi một cách chính xác đó là điều gì, thì tôi sẽ luôn luôn làm được một cái máy mà sẽ chỉ thực hiện được điều đó!". Von Neumann được cho là đã có ý nói đến luận đề Church-Turing khi khẳng định rằng bất kì một thủ tục có hiệu lực nào cũng có thể được mô phỏng bởi một máy tính (tổng quát) nào đó. Vào năm 1969 McCarthy và Hayes đã bắt đầu thảo luận về bài toán khung (frame problem) với bài luận của họ, Some Philosophical Problems from the Standpoint of Artificial Intelligence (Một số vấn đề triết học từ điểm khởi đầu của trí tuệ nhân tạo). Nghiên cứu trí tuệ nhân tạo thực nghiệm Trí tuệ nhân tạo đã được bắt đầu nghiên cứu từ thập niên 1950 bởi những nhà tiên phong như Allen Newell và Herbert Simon, người sáng lập phòng thí nghiệm trí tuệ nhân tạo đầu tiên ở Đại học Carnegie Mellon, và John McCarthy và Marvin Minsky, người sáng lập phòng thí nghiệm trí tuệ nhân tạo tại MIT, MIT AI Lab, năm 1959. Họ đã cùng dự hội thảo về trí tuệ nhân tạo tại Đại học Dartmouth vào mùa hè năm 1956, do McCarthy, Minsky, Nathan Rochester của IBM và Claude Shannon tổ chức. Vào thời điểm đó, nghiên cứu trí tuệ nhân tạo gồm hai trường phái chính "ngăn nắp" và "bê bối". Trường phái trí tuệ nhân tạo "ngăn nắp" cổ điển hay biểu tượng thường sử dụng các biểu tượng và khái niệm phức tạp. Song song với nó là trường phái "bê bối" (scruffy hay connectionist). Ví dụ điển hình nhất của cách tiếp cận này là mạng thần kinh nhân tạo. Nó "tiến hóa" sự thông minh qua việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống bằng một quá trình tự động thay cho việc thiết kế cách thi hành nhiệm vụ một cách có hệ thống. Cả hai cách tiếp cận này đều xuất hiện sớm trong lịch sử trí tuệ nhân tạo. Trong thập niên 1960 và 1970, trường phái "bê bối" suy tàn, nhưng sau này đã được khôi phục vào thập niên 1980 khi những hạn chế của trường phái "ngăn nắp" bắt đầu xuất hiện. Dù vậy, những phương pháp hiện nay dùng cả hai cách tiếp cận này đều có những hạn chế nghiêm trọng. Nghiên cứu trí tuệ nhân tạo rất được chú trọng về kinh phí vào thập niên 1980 bởi Cơ quan các dự án nghiên cứu phòng vệ tiên tiến (Defense Advanced Research Projects Agency) của Mỹ và dự án máy tính thế hệ thứ năm ở Nhật. Các nghiên cứu được cấp kinh phí thời đó đã không thể cho ra kết quả tức thời. Do đó, bất chấp những dự tính quy mô của những nhà tiên phong, ngân sách chính phủ dành cho nghiên cứu đã bị cắt giảm mạnh vào cuối thập niên 1980, dẫn đến sự ngưng trệ trong nghiên cứu và tạo ra "mùa đông của trí tuệ nhân tạo". Trong thập niên tiếp theo, nhiều nhà nghiên cứu trí tuệ nhân tạo đã chuyển sang nghiên cứu những lĩnh vực tương tự như học máy, robot học (robotics) và computer vision, nghiên cứu về trí tuệ nhân tạo thuần túy chỉ còn ở mức độ thấp. AI hiện đại Việc nghiên cứu TTNT hiện đại chú trọng vào các nhiệm vụ thiên về kỹ thuật thực tế (Những người ủng hộ chiều hướng Trí tuệ nhân tạo mạnh có lẽ sẽ gọi nó là "Trí tuệ nhân tạo yếu".) Có một vài lĩnh vực của AI, một trong số đó là ngôn ngữ tự nhiên. Rất nhiều lĩnh vực thuộc "Trí tuệ nhân tạo yếu" có phần mềm hoặc những ngôn ngữ lập trình chuyên dụng được tạo riêng cho chúng. Ví dụ, một trong những chatterbot (ngôn ngữ tự nhiên gần ngôn ngữ con người nhất) là A.L.I.C.E., nó sử dụng một ngôn ngữ lập trình với tên gọi AIML để đặc tả các chương trình, và có một bản khác với tên gọi Alicebot. Tuy nhiên, A.L.I.C.E thực tế là vẫn dựa trên kỹ thuật đối sánh mẫu và chưa có bất cứ sự suy luận nào. Kỹ thuật này tương tự như kỹ thuật Eliza, một chatterbot đầu tiên, được sử dụng vào cuối năm 1966. Jabberwacky có một chút gần gũi với "Trí tuệ nhân tạo mạnh", khi nó học cách làm thế nào để cải thiện dần từ cơ bản lên mà chỉ dựa trên tương tác của người dùng. Mặc dù thế, kết quả có được thực tế là vẫn rất hạn chế, và có thể hợp lý mà nói rằng thực sự không có một trí tuệ nhân tạo nào mà có thể dùng cho đa mục đích được. Khi được xem xét với một độ hoài nghi vừa phải, TTNT có thể xem là "một tập các bài toán trong khoa học máy tính mà không có lời giải tốt vào thời điểm này". Khi mà một ngành con của TTNT ứng dụng tốt cho một công việc nào đó, nó sẽ thoát ra khỏi TTNT và có tên riêng. Một vài ví dụ là nhận dạng mẫu, xử lý ảnh, mạng neuron, xử lý ngôn ngữ tự nhiên, robot học và lý thuyết trò chơi. Trong khi cội rễ của các ngành này đều được thiết lập vững chắc từ TTNT, chúng bây giờ lại được xem là một cái gì đó tách biệt. Trong khi các nỗ lực để hướng tới một mục tiêu cuối cùng là có trí thông minh như con người càng trở nên chững lại, thì nhiều ngành con mới ra đời lại phát triển. Một vài ví dụ điển hình bao gồm các ngôn ngữ lập trình LISP và Prolog, được ra đời phục vụ cho việc nghiên cứu TTNT nhưng bây giờ lại dành cho các công việc không thuộc TTNT. Nền văn hóa của hacker ban đầu cũng xuất phát từ các phòng thí nghiệm TTNT, đặc biệt ở MIT AI Lab, ngôi nhà của nhiều ngôi sao sáng như McCarthy, Minsky, Seymour Papert (người đã phát triển Logo ở đó), Terry Winograd (người đã từ bỏ TTNT sau khi phát triển SHRDLU). Nhiều hệ thống hữu ích khác cũng đã được xây dựng dùng các kĩ thuật mà ít nhất một lần từng được dùng cho nghiên cứu TTNT. Một vài ví dụ bao gồm: Chinook được xem là Nhà vô địch thế giới Máy-Người trong thu tiền vào năm 1994. Deep Blue, máy tính chơi cờ vua, đã đánh bại Garry Kasparov trong một trận đấu nổi tiếng vào năm 1997. InfoTame, một động cơ tìm kiếm và phân tích văn bản được phát triển bởi KGB để tự động sắp xếp hàng triệu giấy tờ để có thể ngăn chặn giao tiếp khi cần thiết. Logic mờ, một kĩ thuật đưa ra suy luận khi không chắc chắn, được dùng rộng rãi trong các hệ thống điều khiển công nghiệp. Hệ chuyên gia vẫn đang được sử dụng ở một mức độ nào đó trong ngành công nghiệp. Machine translation systems such as SYSTRAN are widely used, although results are not yet comparable with human translators. Mạng neuron được dùng cho nhiều nhiệm vụ khác nhau, từ hệ thống chống xâm nhập đến trò chơi máy tính. Các hệ thống nhận dạng ký tự quang học có thể chuyển các tài liệu viết tay bằng tiếng châu Âu bất kì sang văn bản lưu trong máy. Nhận dạng chữ viết tay được sử dụng trong hàng triệu thiết bị PDA. Nhận dạng tiếng nói có các sản phẩm thương mại và được sử dụng rộng rãi. Computer algebra system, như Mathematica và Macsyma, là những điển hình. Các hệ thống Machine vision đã được sử dụng trong nhiều ứng dụng công nghiệp từ kiểm định phần cứng (hardware verification) tới các hệ thống bảo vệ. Các phương pháp lập kế hoạch TTNT đã được sử dụng để tự động lập phương án chuyển quân Mỹ trong Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất. Nhiệm vụ này có thể tiêu tốn thời gian tới nhiều tháng và tiền tới hàng triệu đô-la nếu làm bằng tay. Cơ quan nghiên cứu phòng vệ tiên tiến Mỹ đã tuyên bố rằng riêng lượng tiền tiết kiệm được nhờ ứng dụng này đã nhiều hơn tổng chi phí của họ cho các nghiên cứu TTNT trong vòng 30 năm qua. AlphaGo, máy tính chơi cờ vây, đã đánh bại Lee Sedol vào tháng 5 năm 2016. Viễn cảnh của TTNT thay thế sự tác động của con người đã có nhu cầu từ rất lâu trước đây, và ngày nay trong một số lĩnh vực chuyên biệt nơi mà các "hệ chuyên gia" được sử dụng hằng ngày để làm tăng thêm hay thay thế các quyết định của con người trong một số lĩnh vực kĩ thuật và y khoa. Một ví dụ về hệ chuyên gia là Clippy, cái kẹp giấy trong Microsoft Office. Nó cố gắng dự đoán những lời khuyên mà người dùng mong muốn. Trí tuệ nhân tạo thế giới nhỏ Thế giới thực đầy rẫy các chi tiết khó hiểu và làm mất tập trung: thông thường, khoa học phát triển bằng cách tập trung vào các mô hình nhân tạo đơn giản về thực tế (ví dụ, trong vật lý, các mặt phẳng không có ma sát và các vật thể hoàn toàn cố định). Năm 1970, Marvin Minsky và Seymour Papert, phòng thí nghiệm trí tuệ nhân tạo tại MIT, đề nghị rằng nghiên cứu trí tuệ nhân tạo cần tập trung vào việc phát triển các chương trình có khả năng thể hiện các hành vi thông minh trong các tình huống nhân tạo đơn giản được gọi là các thế giới nhỏ. Nhiều nghiên cứu đã tập trung vào cái gọi là thế giới khối, bao gồm các khối có màu sắc và các hình dạng kích thước khác nhau đặt trên một mặt phẳng. Micro-World AI Ứng dụng Xử lý ngôn ngữ tự nhiên Program synthesis Robotics Computer vision Ngôn ngữ, Phong cách lập trình và Văn hoá phần mềm Nghiên cứu trí tuệ nhân tạo cổ điển thường được thực hiện bằng các ngôn ngữ Lisp hoặc Prolog. Tính toán Bayes thường sử dụng Matlab hoặc ngôn ngữ lập trình Lush (một biến thể của Lisp). Các ngôn ngữ này kèm theo nhiều thư viện xác suất chuyên dụng. Các hệ thống thực, đặc biệt các hệ thống thời gian thực, thường sử dụng C++. Các lập trình viên trí tuệ nhân tạo thường là các nhà nghiên cứu và thường chú trọng vào việc phát triển nhanh (rapid development) và tạo nguyên mẫu (prototyping) hơn là các nguyên tắc kỹ nghệ phần mềm. Do đó, các ngôn ngữ thông dịch được sử dụng để có thể cho phép nhanh chóng thực hiện thực nghiệm và test dòng lệnh. Trong lịch sử, văn hóa trí tuệ nhân tạo gắn bó chặt chẽ với văn hóa Unix và văn hóa hacker, do chúng cùng chia sẻ nơi chôn rau cắt rốn tại MIT. Chương trình trí tuệ nhân tạo cơ bản nhất là một lệnh Nếu-Thì đơn, chẳng hạn "Nếu A, thì B". Nếu bạn gõ một chữ 'A', máy tính sẽ in cho bạn một chữ 'B'. Về cơ bản, bạn đang dạy máy tính làm một nhiệm vụ. Bạn cho dữ liệu vào là một thứ, máy tính sẽ đáp lại bằng một cái gì đó bạn bảo nó làm hoặc nói. Mọi chương trình đều có các điều kiện Nếu-Thì. Một ví dụ phức tạp hơn là: nếu bạn gõ từ "Xin chào", máy tính đáp lại "Bạn có khỏe không?" Phản ứng này không phải ý nghĩ của máy tính mà chẳng qua chỉ là một dòng lệnh bạn đã viết từ trước trong chương trình. Mỗi khi bạn gõ "Xin chào", máy tính sẽ luôn luôn trả lời "Bạn có khỏe không?". Nhìn qua thì có vẻ như máy tính đang sống và suy nghĩ, nhưng thực ra đó chỉ là một phản hồi tự động. Trí tuệ nhân tạo thường là một chuỗi dài các lệnh Nếu-Thì. Có thể dùng thêm một chút ngẫu nhiên để tạo hai hoặc nhiều hướng trả lời. Ví dụ, nếu bạn gõ từ "Xin chào", máy tính có thể đáp "Bạn có khỏe không?" hoặc "Hôm nay trời đẹp nhỉ?" hay "Công việc của bạn dạo này tốt chứ?". Bây giờ có thể có ba phản ứng (hay ba kiểu 'thì') thay vì chỉ có một. Một chương trình trí tuệ nhân tạo có thể có 1000 cách trả lời cùng một dữ liệu vào. Điều đó làm cho nó đỡ đoán trước được và gần với kiểu trả lời của một người bình thường hơn, vì một người bình thường sẽ trả lời một cách không đoán trước được. Nhiều trò chơi, chẳng hạn cờ và các trò chơi chiến lược, sử dụng các phản ứng bằng hành động, do đó, người có thể chơi với máy tính. Các robot với các bộ não trí tuệ nhân tạo cũng sẽ sử dụng các lệnh Nếu-Thì và các lựa chọn ngẫu nhiên để đưa ra các quyết định và nói. Tuy nhiên, dữ liệu vào có thể là các đối tượng trước mặt robot thay vì một dòng chữ "Xin chào", và phản ứng có thể là nhặt đối tượng lên thay vì in một dòng chữ ra màn hình. AI trong thương mại Theo Haag, Cummings (2004) có bốn kỹ thuật TTNT đã được sử dụng trong kinh doanh: Hệ chuyên gia áp dụng khả năng suy luận để đạt tới một kết luận. Một hệ chuyên gia có thể xử lý một lượng lớn thông tin đã biết và cung cấp các kết luận dựa trên các thông tin đó. Mạng nơ-ron là TTNT có khả năng tìm kiếm và phân biệt các mẫu. Các Phòng Cảnh sát sử dụng mạng nơ-ron để nhận dạng tham nhũng. Các Giải thuật di truyền được thiết kế để áp dụng quá trình đấu tranh sinh tồn để tạo các lời giải ngày càng tốt hơn cho bài toán. Các chuyên gia đầu tư sử dụng Giải thuật di truyền để tạo tổ hợp tốt nhất của các cơ hội đầu tư cho các khách hàng của họ. Một Agent thông minh là phần mềm hỗ trợ ta hoặc thay mặt ta thực hiện các công việc có liên quan tới máy tính. Ví dụ, chúng được sử dụng dưới dạng các chương trình khai phá dữ liệu và các agent kiểm soát và theo dõi. Lập trình Logic đã từng được coi là một ngành của TTNT, nhưng hiện giờ thì không. Tham khảo Trí tuệ nhân tạo là gì? Lịch sử phát triển Trí tuệ nhân tạo AI. Cổng thông tin điện tử đại học kỹ thuật hậu cần CAND Liên kết ngoài Chương trình mạng nơ ron đa lớp (Multi Layer Neural Network) và mạng nơ ron tự tổ chức (Self Organizing Maps) có giải thích bằng tiếng Việt. Sử dụng phần mềm mạng nơ ron 3 lớp Spice-MLP Sử dụng phần mềm mạng tự tổ chức Spice-SOM Hướng dẫn sử dụng mạng nơ ron trong các ứng dụng thực tế trong đó có minh họa phân loại ảnh khuôn mặt, ảnh người đi bộ, ảnh xe hơi, dự báo chứng khoán và một số ví dụ khác Trí tuệ nhân tạo Lịch sử ngành trí tuệ nhân tạo
25737
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mons
Mons
Mons là một thành phố, thủ phủ của tỉnh Hainaut, một trong 10 tỉnh của Vương quốc Bỉ. Vào năm 2005, dân số của Mons là 91.083, sống trên một diện tích khoảng 146,56 km². Mons nổi tiếng bởi lễ hội đánh rồng của Thánh Georges (Ducasse de Mons). Thị trưởng thành phố là ông Elio Di Rupo (đảng Xã hội - PS). Mons (đọc [mɔ̃s], tiếng Hà Lan Bergen, tiếng Picard Mont) là một thành phố nói tiếng Pháp, nằm ở vùng Wallonie của nước Bỉ. Cựu thủ đô của các Bá tước, thủ phủ của tỉnh Hainaut, thành phố chính của quận Mons, đây cũng là một trong năm trung tâm tòa thượng thẩm quốc gia. Cách thủ đô Bruxelles 50 km về hướng tây nam, cách Paris khoảng 200 km về hướng đông bắc, cách Lille 75 km về hướng đông và cách Aachen 150 km về hướng tây, thành phố Mons nằm ở nơi giao thoa của các nhánh đường cao tốc quan trọng: E19 (Paris-Bruxelles-Antwerpen-Amsterdam) và E42 (Lille-Charleroi-Liège-Frankfurt am Main). Đánh dấu bởi lịch sử và nhờ vào sự phong phú về kho tàng kiến trúc và văn hóa, Mons trở thành thủ đô văn hóa của vùng Wallonie từ 2002 và đang khao khát trở thành thủ đô văn hóa châu Âu vào năm 2015. Tham khảo Thành phố Bỉ Di sản thế giới tại Bỉ Đô thị của Hainaut
25738
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20H%E1%BA%A1ng%20Nh%E1%BA%A5t%20Qu%E1%BB%91c%20gia%202005
Giải bóng đá Hạng Nhất Quốc gia 2005
Giải vô địch bóng đá hạng nhất Việt Nam 2005 với tên gọi Giải hạng nhất quốc gia 2005 - Cúp Majesty/Bird vì lý do tài trợ, là mùa giải thứ 8 của Giải bóng đá hạng nhất quốc gia Việt Nam kể từ khi thành lập năm 1997. Mùa giải này, có 12 đội bóng tham dự: Tôn Hoa Sen-Cần Thơ, Bưu điện Hồ Chí Minh, Khatoco Khánh Hoà, Đá Mỹ Nghệ, Tiền Giang, Thể Công.Vietel, Halida-Thanh Hoá, Starta-Đồng Nai, Đông Á thép Pomina, Quảng Nam, An Giang và Huda-Huế. Với sự góp mặt của 12 đội bóng trên khắp cả nước tranh tài để xác định 2 suất thăng hạng lên chơi tại Giải bóng đá vô địch quốc gia và chỉ 1 suất xuống chơi tại Giải bóng đá hạng Nhì Quốc gia, đội bóng xếp thứ 4 đó là Tôn Hoa Sen-Cần Thơ phải xuất hạng vì hối lộ trọng tài, diễn ra từ 29 tháng 1 đến 30 tháng 7 2005. Danh sách các đội bóng tham dự Cầu thủ ngoại binh Mỗi CLB phải đăng ký 5 cầu thủ ngoại nhưng chỉ ra sân là 3 cầu thủ ngoại Bảng xếp hạng Lịch thi đấu và kết quả Thông tin thêm Sau khi phải xuống hạng nhì, câu lạc bộ bóng đá Bưu điện đã bị giải thể sau 3 năm tồn tại. Câu lạc bộ bóng đá Đông Á mất quyền lên hạng chuyên nghiệp vì đã hối lộ trọng tài. Huấn luyện viên trưởng Nguyễn Thành Vinh và Giám đốc Điều hành Vũ Tiến Thành bị bắt giam. Ngày 23 tháng 12, Đông Á được chuyển giao cho câu lạc bộ bóng đá Gạch Đồng Tâm Long An và mang tên mới Sơn Đồng Tâm Long An. Tôn Hoa Sen-Cần Thơ cũng bị buộc tội hối lộ trọng tài nên bị giáng xuống hạng nhì. Tổng kết mùa giải Vô địch: Khatoco Khánh Hoà Lên hạng chuyên nghiệp: Tiền Giang Xuống hạng nhì: Bưu điện và Tôn Hoa Sen-Cần Thơ (cũng bị buộc tội hối lộ trọng tài nên bị giáng xuống hạng nhì.) Chú thích Xem thêm Giải vô địch bóng đá Việt Nam 2005 Giải bóng đá hạng Nhì Quốc gia 2005 Cúp bóng đá Việt Nam 2005 Siêu cúp bóng đá Việt Nam 2005 Liên kết ngoài Lịch thi đấu giải Hạng Nhất Quốc gia 2005 Công ty cổ phần bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam (VPF) http://www.rsssf.com/ 2005 Bóng đá, hạng nhất
25743
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ngh%C4%A9a%20trang%20P%C3%A8re-Lachaise
Nghĩa trang Père-Lachaise
Nghĩa trang Père-Lachaise (tiếng Pháp: Cimetière du Père-Lachaise) là nghĩa trang lớn nhất của thành phố Paris, Pháp và là một trong những nghĩa trang nổi tiếng nhất thế giới. Nằm tại quận 20, nghĩa trang Père-Lachaise là một trong những địa điểm thu hút nhiều khách du lịch nhất tại Paris, mỗi năm hàng trăm ngàn lượt người đã đến đây để được thăm viếng những ngôi mộ nổi tiếng đã có từ 200 năm qua. Lịch sử Nghĩa trang Père-Lachaise nằm trên một trong bảy ngọn đồi cổ ở Paris. Thời kỳ Trung cổ, ngọn đồi có tên Champ-l'Evêque (vùng đất của Giám mục) vì nó thuộc về Tổng Giám mục Paris. Từ thế kỉ 12, vùng đất này thường được gọi là Mont-aux-Vignes (đồi nho) do người ta trồng nho ở đây. Năm 1430, một thương gia giàu có tên là Régnault de Wandonne đã mua lại mảnh đất này để xây dựng một folie - một ngôi biệt thự cực kì sang trọng (xuất phát từ danh từ folie trong tiếng Pháp có nghĩa là điên khùng, chi tiêu vô độ). Hai thế kỉ sau đó, những linh mục Dòng Tên đã mua lại ngôi biệt thự và mảnh đất để làm nơi nghỉ ngơi và dưỡng bệnh. Biệt thự đã từng là nơi nghỉ ngơi trong vài tiếng đồng hồ của vua Louis XIV, vì vậy ngọn đồi được đổi tên thành Mont-Louis (đồi vua Louis). Tuy vậy người ta thường biết đến ngọn đồi vì đây là nơi ở từ năm 1675 đến khi mất năm 1709 của linh mục François d'Aix de La Chaise (1624-1709), thường được gọi là le Père La Chaise (Cha La Chaise), giáo sĩ nghe xưng tội của vua Louis XIV, người đã tác động đến vua Louis XIV giúp hạn chế việc đàn áp những người theo Giáo lý Jansen (jansénisme). Bá tước de la Chaise, em trai của linh mục Lachaise, đã tổ chức nhiều buổi lễ hội trên vùng đất này để phô trương sự giàu có. Nhưng đến năm 1762, giáo hội Dòng Tên đã phải nhượng lại quả đồi để trả nợ cho Giám mục Jacy. Theo năm tháng, những khu vườn trên đồi bị bỏ hoang không ai chăm sóc, vì vậy ngày 9 tháng Thông gió năm XI (tức là ngày 28 tháng 2 năm 1803), những người thừa kế đã một lần nữa bán lại quả đồi cho Nicolas Frochot, tỉnh trưởng tỉnh Seine (Préfet de la Seine) để đổi lấy 180.000 franc. Ngày 1 tháng 12 năm 1780, nghĩa trang Những người vô tội (cimetière des Innocents) được lệnh đóng cửa theo luật cấm nghĩa trang trong nội đô Paris năm 1786 để bảo vệ sức khỏe người dân. Thành phố Paris bắt đầu lâm vào tình trạng thiếu nơi chôn cất, vì vậy để giải quyết quyền chôn cất cho những người không theo đạo, những người bị rút phép thông công, các diễn viên kịch và những người nghèo, Napoléon Bonaparte, lúc này là Quan tổng tài Pháp đã ra sắc lệnh: "chaque citoyen a le droit d'être enterré quelle que soit sa race ou sa religion" - "Mỗi công dân đều có quyền được chôn cất bất kể nguồn gốc hay tôn giáo" Từ đầu thế kỉ 19, một loạt nghĩa trang mới đã được thành lập tại ngoại vi Paris, đó là Nghĩa trang Montmartre ở phía bắc, Nghĩa trang Montparnasse ở phía nam, Nghĩa trang Passy ở phía tây và Nghĩa trang Đông. Chính quyền tỉnh Paris quyết định chuyển đổi 17,58 hécta (17.580 mét vuông) đất của đồi Mont-Louis thành Nghĩa trang Đông. Việc thiết kế nghĩa trang được giao cho kiến trúc sư theo trường phái tân cổ điển (néo-classique) Alexandre Théodore Brongniart vào năm 1803. Với cương vị Tổng giám sát các công trình công cộng của tỉnh Seine (département de la Seine) và thành phố Paris (ville de Paris), Brongniart đã lần đầu tiên thiết kế khu vườn của nghĩa trang theo kiểu Anh, với những lối đi không đều và rất nhiều loại cây bao quanh những khu mộ được điêu khắc cẩn thận. Ngày 1 tháng Đồng cỏ năm XII (tức ngày 21 tháng 5 năm 1804), nghĩa trang được chính thức khai trương bằng buổi lễ chôn cất một bé gái 5 tuổi tên là Adélaïde Paillard de Villeneuve, con gái của một người đánh chuông ở Faubourg Saint-Antoine. Phát triển Ban đầu nghĩa trang được thiết kế làm nơi chôn cất cho những người dân Paris ở một trong bốn quận ở bờ phải sông Seine (các quận 5, 6, 7 và 8 của Paris thời đó) trong các huyệt chung (fosse commune) hoặc các mảnh đất được nhượng vĩnh viễn (concession perpétuelle). Tuy vậy Père-Lachaise ít được người dân Paris chú ý vì họ chán ngấy cảnh phải làm lễ mai táng trên các quả đồi xa Paris, hơn thế lại còn trong một khu phố nghèo. Trong năm 1804, Nghĩa trang Père-Lachaise chỉ có 13 ngôi mộ, các năm sau cũng không khá hơn với 44 ngôi mộ năm 1805, 49 năm 1806, 62 năm 1807 và mãi đến năm 1812 cũng chỉ có 833 ngôi mộ. Vì vậy những người quản lý đã lập ra một kế hoạch quảng bá cho nghĩa trang bằng cách khuếch trương sự kiện di chuyển mộ của La Fontaine và Molière về Père-Lachaise năm 1804. Năm 1817, người ta lại một lần nữa quảng cáo cho nghĩa trang bằng việc di chuyển hài cốt của Pierre Abélard và Héloïse. Chiến lược quảng bá này đã đem lại hiệu quả khi người dân Paris bắt đầu tranh nhau giành quyền chôn cất tại Père-Lachaise bên cạnh những người nổi tiếng. Các ghi chép cho thấy, chỉ trong vòng vài năm, nghĩa trang đã phát triển từ con số vài chục năm 1804 lên tới hơn 33.000 ngôi mộ năm 1830. Trong thời kì này, Père-Lachaise đã năm lần được mở rộng vào các năm 1824, 1829, 1832, 1842 và 1850 với diện tích tăng từ 17 hécta ban đầu lên gần 44 hécta (43.930 mét vuông) với 70.000 ngôi mộ. Cho đến đầu thế kỉ 21, đã có hơn 1000.000 người được chôn cất tại Père-Lachaise, và còn nhiều người hơn nữa được cất giữ tro hỏa táng của họ ở nhà để tro của Père-Lachaise. Nghĩa trang Père-Lachaise thực sự là một bảo tàng các tác phẩm điêu khắc giá trị thế kỉ 19 của các tác giả nổi tiếng như Hector Guimard, Charles Garnier, Louis Visconti hay Barris. Nhà nguyện, cổng chính ở đại lộ Ménilmontant là tác phẩm của kiến trúc sư Étienne-Hippolyte Godde vào các năm 1823 và 1825. David d'Angers là người thiết kế phần lớn các đài tưởng niệm ở Khu thống chế (Quartier des Maréchaux d'Empire). Mãi đến cuối thế kỉ 19, năm 1894, nhà để tro (columbarium) và nơi hỏa táng (crématorium) trong nghĩa trang mới bắt đầu được xây dựng theo phong cách tân-byzantin (néo-byzantin) do Jean-Camille Formigé thiết kế. Bức tường Công xã (Mur des Fédérés) nổi tiếng cũng nằm trong phạm vi nghĩa trang Père-Lachaise ở phía nam. Đó là nơi 147 chiến sĩ Công xã Paris, những chiến sĩ tự vệ cuối cùng của khu Belleville, bị bắn chết vào ngày Chủ nhật, 28 tháng 5 năm 1871, ngày cuối cùng của "Tuần lễ đẫm máu" (Semaine Sanglante) và đánh dấu chấm hết cho sự tồn tại của Công xã Paris. Vì ý nghĩa đặc biệt của bức tường này, Père-Lachaise đã trở thành nghĩa trang được lựa chọn để chôn cất phần lớn các nhà lãnh đạo cánh tả của Pháp và là nơi làm lễ kỉ niệm hàng năm của những người cánh tả với số lượng lên từ vài trăm đến vài nghìn người (cá biệt năm 1936 có tới 600.000 người tham gia lễ kỉ niệm), các buổi lễ này được tổ chức bởi lãnh đạo của các đảng cánh tả và các tổ chức cánh tả khác. Tổ chức Nghĩa trang Père-Lachaise được thiết kế với chủ ý kiêm luôn chức năng của một công viên cho Paris. Hiện nay đây có thể coi là một trong những khu vực cây xanh rộng và đẹp nhất của thủ đô với diện tích trên 44 hécta và 5.300 cây xanh, nhiều nhất là cây thích, cây tần bì, cây trắc bách diệp và cây dẻ. Ngoài ra, đây cũng có thể coi là thiên đường của các loại chim, mèo hoang và thằn lằn. Ngày 1 tháng 4 năm 1986, nghĩa trang đã trở thành vườn bảo tồn (jardin du souvenir) của Paris và cho đến nay vẫn là khu vực cây xanh duy nhất của thủ đô nước Pháp có danh hiệu này. Hiện nay các ngôi mộ trong Nghĩa trang Père-Lachaise được chia thành 97 khu (division) khác nhau, trong đó riêng khu 87 là nhà để tro (columbarium) và nơi hỏa táng (crématorium). Ở trung tâm nghĩa trang, nằm ở khu 55 đối diện với cổng chính ở đại lộ Ménilmontant là một nhà thờ nhỏ (chapelle) và đài tưởng niệm những người đã khuất (monument aux morts). Ngoài ra còn có một số đài tưởng niệm khác: Đài tưởng niệm tháng 6 năm 1848 (monument juin 1848) nằm ở khu 6. Đài tưởng niệm chiến tranh 1870 (monument guerre 1870) nằm ở khu 54 và 72. Một loạt đài tưởng niệm các nạn nhân trại tập trung Đức Quốc xã (monuments aux déportés) nằm ở khu 97, đối diện với Bức tường Công xã. Khu 97 cũng là khu gần như dành riêng để chôn cất các chiến sĩ tình nguyện Pháp trong Nội chiến Tây Ban Nha, chiến sĩ kháng chiến Pháp trong Chiến tranh thế giới thứ hai và các nhà hoạt động cánh tả của Pháp. Ngoài khu 97 dành riêng cho các chiến sĩ kháng chiến và đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, khu 28, 29, 38 và 39 có thể được coi là khu thống chế khi rất nhiều mộ của các thống chế, đặc biệt là các thống chế nổi tiếng dưới thời Napoléon được chôn ở đây như "thống chế thép" Louis Nicolas Davout (khu 28), thống chế Joachim Murat (khu 39), "người dũng cảm nhất" (le Brave des Braves) Michel Ney (khu 29),... Những ngôi mộ nổi tiếng Guillaume Apollinaire (1880-1918), thi sĩ Honoré de Balzac (1799-1850), nhà văn, ông được chôn cất cùng nữ bá tước Ewelina Hańska, người tình lâu năm của Balzac, hai người cưới nhau chỉ 5 tháng trước khi Balzac qua đời. Fulgence Marie Auguste Bienvenüe (1852-1936), người khai sinh hệ thống tàu điện ngầm Paris. Georges Bizet (1838-1875), nhạc sĩ viết nhạc cổ điển, tác giả vở nhạc kịch Carmen nổi tiếng. Maria Callas (1923-1977), ca sĩ opéra người Hy Lạp, di hài của bà đã được hỏa táng và thả xuống Biển Égée, ngôi mộ ở Père-Lachaise chỉ là mộ giả Frédéric Chopin (1810-1849), nhà soạn nhạc vĩ đại người Ba Lan, ông được chôn cất tại Père-Lachaise theo đúng ý nguyện trước khi mất. Trái tim của Chopin sau này đã được chuyển về Ba Lan và được đặt trong Nhà thờ Thánh giá ở Warszawa. Paul Éluard (1895-1952), thi sĩ, đảng viên Đảng Cộng sản Pháp. Mộ của Éluard được đặt cạnh mộ của bí thư Đảng cộng sản Pháp là Maurice Thorez (1900-1964). Félix Faure (1841-1899), tổng thống Cộng hòa Pháp, chết đột ngột khi còn đang trong nhiệm kì. Ngôi mộ của Faure được trang trí bằng một bức tượng được điêu khắc theo đúng dáng nằm của ông khi mất. Jean de La Fontaine (1621-1695), thi sĩ nổi tiếng, tác giả của ngụ ngôn La Fontaine. Mộ của La Fontaine khá đơn giản so với các ngôi mộ khác và được đặt cạnh mộ của Molière (1622-1673), nhà soạn kịch nổi tiếng cùng thời. Di hài của hai người được chuyển về Nghĩa trang Père-Lachaise cùng một đợt và là hai trong số những ngôi mộ đầu tiên tại nghĩa trang này. Joseph Fourier (1768-1830), nhà toán học và vật lý. Jim Morrison (1943-1971), ca sĩ chính của ban nhạc The Doors, đây là ngôi mộ thu hút nhiều khách tham quan nhất trong khu vực nghĩa trang mặc dù nó nằm ở vị trí khá khuất và bị bao quanh bởi nhiều ngôi mộ lớn khác. Jean Moulin (1899-1943), nhà lãnh đạo phong trào kháng chiến trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Hài cốt của ông đã được chuyển vào Điện Panthéon Paris ngày 19 tháng 12 năm 1964. Sully Prudhomme (1839-1907), nhà văn, người đầu tiên được trao Giải Nobel Văn học. Claude Henri de Saint-Simon (1760-1828), nhà kinh tế học, một trong những người khai sinh ra kinh tế học hiện đại. Tuy vậy mộ của Saint-Simon trông rất cũ kĩ và có vẻ ít được quan tâm nếu so với những ngôi mộ của người nổi tiếng khác. Oscar Wilde (1854-1900), nhà văn và nhà biên kịch người Ireland. Ngôi mộ của Wilde có in dấu rất nhiều vết môi của những người hâm mộ nhà văn này. Hình ảnh Tham khảo Liên kết ngoài Giới thiệu nghĩa trang trên trang web chính thức của Paris (tiếng Pháp) Trang web tham quan nghĩa trang ảo (tiếng Pháp, tiếng Anh) Nghĩa trang Paris Không gian xanh Paris Quận 20, Paris
25759
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C6%B0%E1%BB%9Dng%20ph%C3%A1i%20%E1%BA%A5n%20t%C6%B0%E1%BB%A3ng
Trường phái ấn tượng
Ấn tượng (tiếng Pháp: Impressionnisme; tiếng Anh: Impressionism) là một trào lưu nghệ thuật bắt đầu tại Paris (Pháp) vào cuối thế kỷ 19. Trường phái ấn tượng đánh dấu một bước tiến quan trọng của hội họa. Cái tên "ấn tượng" do các nhà phê bình gọi theo một bức tranh nổi tiếng của Claude Monet: Impression, soleil levant (Ấn tượng mặt trời mọc). Tổng quan Khoảng năm 1862, có những họa sĩ trẻ cho rằng nghệ thuật đã xơ cứng do các quy tắc quá cứng nhắc được giảng dạy ở trường Mỹ thuật và họ kết hợp với nhau ở Paris quanh Claude Monet. Trên con đường được Eugène Boudin và Johan Barthold Jongkind vạch ra trong những năm 1850-60, họ vẽ tranh ngoài trời, theo mẫu sống, và tìm cách thu tóm những biểu hiện thoáng qua của bầu khí quyển. Bằng cách tránh xưởng vẽ và những giá trị giả tạo của nó, họ thu nhận những cảm giác thị giác từ phong cảnh, vẽ ánh sáng và những tác động của nó. Các họa sĩ được đào tạo trong các xưởng vẽ tư nhân và tự do (xưởng vẽ Gleyre, trường Mỹ thuật Thụy Sĩ) và trao đổi ý tưởng ở quán cà phê Guerbois. Mỹ học ấn tượng, do William Turner bố cáo, tiếp nhận ảnh hưởng của Gustave Courbet và trường phái hiện thực. Các "môn đồ" tôn sùng Delacroix là người thử nghiệm trước họ sự phân chia sắc độ, các màu bổ túc và các tương phản màu sắc. Họ cũng thăm dò những nguồn cảm hứng mới, tranh thủ ấn họa Nhật Bản và nhiếp ảnh mới được phát minh năm 1839. Bị các Phòng trưng bày từ chối và bị coi là những kẻ "bôi bác", các nghệ sĩ sống trong cảnh khốn cùng nên tìm cách làm cho người ta biết đến mình bằng những cuộc triển lãm riêng. Sự biểu lộ đầu tiên diễn ra ở Paris vào năm 1874 trong xưởng làm việc của nhà nhiếp ảnh Félix Nadar, đường Capucines. Dịp này nhà báo Louis Leroy của tờ Charivari đã khai sinh từ "chủ nghĩa ấn tượng" bằng cách mỉa mai nhan đề bức tranh nổi tiếng "Ấn tượng, mặt trời mọc" của Claude Monet. Bảy cuộc triển lãm khác nối tiếp nhau cho tới năm 1886. Từ thời điểm này nhóm bắt đầu chia nhỏ rồi tan rã. Từ những năm 1880-1890, phong trào liên lạc với các nghệ sĩ nước ngoài, nhưng chủ yếu là mở đường cho những phản ứng mỹ học phóng khoáng. Bất chấp sự thù nghịch của nhiều người, Émile Zola và nhà buôn tranh Paul Durand-Ruel ủng hộ hội họa ấn tượng nay đã chuyển qua một thế giới êm ả trong đó không xuất hiện các khó khăn xã hội, chính trị và kinh tế của thời đại. Nhà báo và phê bình nghệ thuật Thédore Duret mua tranh và xuất bản quyển Lịch sử Ấn tượng vào năm 1904. Lịch sử Trường phái ấn tượng hình thành từ Paris hiện đại. Đó là chất xúc tác, là nơi xuất phát và là chủ đề của trường phái ấn tượng. Trong thập niên 1850, Paris vẫn còn là một thành phố thời Trung cổ với những con đường quanh co, nhỏ hẹp, thiếu vệ sinh và thiếu cả ánh sáng. Vào khoảng thập niên 1870, thời hoàng kim của trường phái ấn tượng, thành phố cũ già nua này đã bị phá bỏ thành bình địa để từ đó xây dựng lại một thủ đô với những đại lộ dài, với hàng dãy tiệm cà phê, nhà hàng, và nhà hát. Đặc điểm của trường phái ấn tượng Những bức tranh thuộc trường phái ấn tượng được vẽ bằng những nét cọ mảnh, nhỏ, song vẫn có thể nhìn thấy rõ, bố cục thoáng, kèm theo sự pha trộn không hạn chế giữa các màu với nhau và nhấn mạnh độ miêu tả chính xác về sự thay đổi chất lượng của ánh sáng trong tranh (thường để làm nổi bật rõ ảnh hưởng của dòng thời gian),vật mẫu đời thường, và góc nhìn khác lạ. Hai ý tưởng đáng chú ý trong trường phái này là: bức tranh được vẽ rất nhanh với mục đích là ghi lại một cách chính xác tổng quan của khung cảnh. Tiếp theo sau là thể hiện một cái nhìn mới,nhanh và không định kiến; khác với trường phái hiện thực,tự nhiên. Một vài tác phẩm tiêu biểu Mary Cassalt (1844 -1926) Các họa sĩ tiêu biểu Mary Cassatt Paul Cezanne (tuy sau này đã rời bỏ phong trào) Edgar Degas Max Liebermann Édouard Manet (tuy Manet không xem mình thuộc phong trào) Claude Monet Berthe Morisot Camille Pissarro Pierre-Auguste Renoir Zinaida Yevgenyevna Serebryakova Alfred Sisley Vincent van Gogh Các nghệ sĩ ấn tượng Xem thêm Tham khảo Liên kết ngoài Các họa sĩ nổi tiếng và những tác phảm nghệ thuật hội họa Nghệ thuật Pháp Hội họa Pháp Trào lưu nghệ thuật
25760
https://vi.wikipedia.org/wiki/Claude%20Monet
Claude Monet
Claude Monet (, , 14 tháng 11 năm 1840 – 5 tháng 12 năm 1926) là họa sĩ nổi tiếng người Pháp, một trong những người sáng lập trường phái ấn tượng và là họa sĩ nhất quán và nhiều tác phẩm nhất của phong trào triết học miêu tả những nhận thức của con người trước thiên nhiên, đặc biệt khi được áp dụng để vẽ phong cảnh ngoài trời. Thuật ngữ trường phái ấn tượng (impressionism) được bắt nguồn từ tên một tác phẩm ông Impression, soleil levant (Ấn tượng mặt trời mọc), tác phẩm được trưng bày năm 1874 trong buổi triển lãm độc lập đầu tiên của ông được tổ chức bởi Monet và những đồng nghiệp như một sự thay thế cho Salon de Paris (tên một nơi tổ chức triển lãm nghệ thuật). Những tham vọng của Monet về việc ghi lại nông thôn nước Pháp đã đưa ông tới như là một đại diện của một phương pháp vẽ quang cảnh nhiều lần giống nhau để bắt được sự thay đổi của ánh sáng và qua các mùa. Từ năm 1883, Monet đã sống trong Giverny, nơi ông đã mua một ngôi nhà và bất động sản và đã bắt đầu một dự án phong cảnh lớn bao gồm những cây hoa súng mà có thể đã trở thành những đề tài của những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông. Ông đã bắt đầu vẽ hoa súng trong năm 1899, những quang cảnh dọc đầu tiên với một chiếc cầu Nhật Bản như một nét đặc trưng và sau đó trong một loạt những bức tranh quy mô lớn mà đã ảnh hưởng liên tục cho 20 năm tiếp theo của cuộc đời ông. Tiểu sử Thời thơ ấu Claude Monet sinh ngày 14 tháng 11 năm 1840 trên tầng 5 của số 45 đường rue Laffitte, quận 9 của Paris . Ông là con thứ hai của Claude Adolphe Monet và Louise Justine Aubrée Monet, cả hai đều là người Paris hai đời. Ngày 20 tháng 5 năm 1841, ông được báp-têm (rửa tội) trong nhà thờ địa phương, Notre-Dame-de-Lorette (Đức Bà vùng Loreto), tên thánh là Oscar-Claude, nhưng cha mẹ ông đơn giản gọi ông là Oscar. Mặc dù được làm phép báp-têm bởi Công giáo, Monet sau này là một người vô thần . Năm 1845, gia đình ông chuyển đến Le Havre ở Normandy. Cha của ông muốn ông tham gia kinh doanh tạp hóa và xếp-dỡ hàng tàu bè của gia đình , nhưng Monet lại muốn trở thành một họa sĩ. Mẹ ông là một ca sĩ, và đã ủng hộ mong muốn của Monet cho một sự nghiệp nghệ thuật . Vào ngày 1 tháng 4 năm 1851, Monet vào Trường Trung học nghệ thuật Le Havre. Người dân địa phương thì đã biết rõ ông qua những bức biếm hoạ bằng chì than của ông, thường thì ông sẽ bán từ 10 đến 20 franc. Monet có được các bài học đầu tiên của mình từ Jacques-François Ochard, cựu sinh viên của Jacques-Louis David. Trên bãi biển Normandy vào khoảng năm 1856, ông gặp Eugène Boudin, người đã trở thành người thầy của ông và dạy ông sử dụng sơn dầu. Boudin đã dạy cho Monet "en plein air" (ngoài trời) và các kỹ thuật vẽ tranh. Cả hai đều chịu ảnh hưởng của Johan Barthold Jongkind. Ngày 28 tháng 1 năm 1857, mẹ ông qua đời. Năm 16 tuổi, ông rời trường học và sống cùng với người cô góa chồng, không có con, Marie-Jeanne Lecadre. Paris và Algeria Khi Monet đi du lịch đến Paris để thăm Bảo tàng Louvre, ông đã chứng kiến ​​các họa sĩ sao chép từ các bậc thầy cổ điển. Có mang sơn và vài công cụ vẽ khác, ông đã ngồi bên cạnh một cửa sổ và vẽ những gì ông thấy thay vì đi loanh quanh. Monet đã ở Paris trong nhiều năm và gặp gỡ các họa sỹ trẻ khác, bao gồm Édouard Manet và một vài người khác, sau này họ trở thành bạn bè và thành những họa sĩ Ấn tượng khác. Sau khi rút ra một lá phiếu thấp vào tháng 3 năm 1861, Monet được đưa vào Trung đoàn I Khinh kỵ binh Châu Phi (Chasseurs d'Afrique) ở Algeria trong bảy năm nghĩa vụ quân sự. Người cha giàu có của ông đáng lẽ có thể cho Monet không phải đi quân đội, nhưng lại không làm như vậy khi con trai quyết định không từ bỏ nghiệp vẽ. Tại Algeria, Monet chỉ có một vài phác thảo những cảnh casbah, (Thủ phủ ở Bắc Phi) một bức phong cảnh đơn lẻ, và một vài bức chân dung của các sĩ quan, tất cả nay đều bị thất lạc. Trong một cuộc phỏng vấn của Le Temps năm 1900, ông nhận xét rằng màu sắc tươi sáng và sống động của Bắc Phi "chứa mầm mống các tìm tòi tương lai của tôi" . Sau khoảng một năm đóng quân ở Algiers, Monet đã trúng bệnh sốt thương hàn và được vắng mặt trong một thời gian ngắn mà không cần nghỉ phép. Sau khi hồi phục, cô của Monet đã can thiệp để đưa ông ra khỏi quân đội nếu Monet đồng ý hoàn thành một khóa học tại một trường nghệ thuật. Có thể là họa sĩ người Hà Lan Johan Barthold Jongkind, người mà Monet quen, có thể đã thúc giục cô của Monet về vấn đề này. Năm 1862, Monet trở thành sinh viên của Charles Gleyre ở Paris, nơi ông gặp Pierre-Auguste Renoir, Frédéric Bazille và Alfred Sisley. Họ cùng nhau chia sẻ những phương pháp tiếp cận mới với nghệ thuật, vẽ ra các hiệu ứng ánh sáng en plein air (ngoài trời) nhẹ nhàng với màu sắc vỡ và với những cú đánh bút nhanh, những cái mà sau này được gọi là trường phái Ấn tượng. Vào tháng 1 năm 1865, Monet đã làm việc cho một phiên bản của Le déjeuner sur l'Herbe (Ăn trưa trên bãi cỏ), nhằm trưng bày tại Salon, để thay cho bức Le déjeuner sur l'herbe của Manet hai năm trước . Tranh của Monet rất lớn và không thể hoàn thành kịp thời (bây giờ nó được chia ra, và trưng bày ở nhiều triển lãm các mảnh khác nhau). Monet trình một bức tranh thay thế, Camille hay Người phụ nữ trong trang phục màu xanh (La femme à la robe verte), một trong nhiều tác phẩm sử dụng người vợ tương lai của ông là Camille Doncieux, làm hình mẫu. Cả hai bức tranh này và một bức tranh cảnh quan nhỏ đã được treo. Năm sau, Monet sử dụng Camille để làm mẫu cho Women in the Garden (Người phụ nữ trong vườn), và On the Bank of the Seine (Bên dòng sông Seine), Bennecourt vào năm 1868. Camille đã mang thai và sinh đứa con đầu lòng của họ, Jean, vào năm 1867. Monet và Camille kết hôn vào ngày 28 tháng 6 năm 1870, ngay trước khi Chiến tranh Pháp-Phổ nổ ra,, và sau chuyến đi London và Zaandam, họ chuyển đến Argenteuil vào tháng 12 năm 1871. Trong thời gian này Monet vẽ nhiều tác phẩm khác nhau của cuộc sống hiện đại. Ông và Camille sống trong cảnh bần hàn trong phần lớn thời gian này. Sau khi triển lãm thành công một số bức tranh hàng hải và chiến thắng Huy chương Bạc tại Le Havre, bức tranh của Monet đã bị các chủ nợ tịch thu, và từ đó chủ nợ lại bán lại cho một thương gia, Gaudibert, người cũng là người bảo trợ cho Boudin. Trường phái Ấn tượng Từ cuối thập niên 1860, Monet và các họa sỹ có cùng tư tưởng khác đã bị gạt ra khỏi Académie des Beaux-Arts (Học viện Mỹ thuật) bảo thủ, cũng chính là Học viện tổ chức triển lãm hàng năm tại Salon de Paris. Trong nửa sau của năm 1873, Monet, Pierre-Auguste Renoir, Camille Pissarro và Alfred Sisley đã tổ chức Société anonyme des artistes peintres, sculpteurs et graveurs (Hiệp hội Vô danh gồm các Họa sĩ, Thợ khắc và Thợ trổ) để trưng bày tác phẩm của họ một cách độc lập. Tại triển lãm đầu tiên của họ, tổ chức vào tháng 4 năm 1874, Monet đã trưng bày bức tranh mà cái tên đã ghi một dấu son trên tiến trình Hội họa của nhân loại. Ông được truyền cảm hứng bởi phong cách và chủ đề của các họa sỹ hiện đại trước đó là Camille Pissarro và Edouard Manet . Đó chính là bức "Ấn tượng mặt trời mọc" (Impression, soleil levant) danh giá, được vẽ vào năm 1872, mô tả cảnh quan cảng Le Havre. Từ cái tên của bức tranh, nhà phê bình nghệ thuật Louis Leroy, trong bài báo "L'Exposition des Impressionnistes" (Sự trưng bày ấn tượng) in trên tờ Le Charivari, đã đặt ra thuật ngữ "Ấn tượng" (Impressionism) . Thuật ngữ được dự định đặt ra như một sự nhạo báng nhưng các nhà họa sĩ mới đã sử dụng luôn thuật ngữ cho chính họ. (Impressionists - Nhà Họa sĩ Ấn tượng) Chiến tranh Pháp - Phổ và Argenteuil Sau cuộc chiến tranh Pháp-Phổ (19 tháng 7 năm 1870), Monet và gia đình ông đã trú ẩn tại Anh vào tháng 9 năm 1870 , nơi ông nghiên cứu các tác phẩm của John Constable và Joseph Mallord William Turner, những tranh phong cảnh của cả hai người đã truyền cảm hứng cho sự đổi mới của Monet trong nghiên cứu về màu sắc. Vào mùa xuân năm 1871, tác phẩm của Monet đã bị từ chối cấp quyền triển lãm, bao gồm cả ở Viện Hoàng gia . Tháng 5 năm 1871, ông rời London để sống ở Zaandam, Hà Lan , nơi ông đã vẽ được 25 bức tranh (và cảnh sát nghi ngờ ông có dính líu đến hoạt động "cách mạng") . Ông cũng đi chuyến thăm đầu tiên đến gần Amsterdam. Tháng 10 hoặc tháng 11 năm 1871, ông trở về Pháp. Từ tháng 12 năm 1871 đến năm 1878, ông sống ở Argenteuil, một ngôi làng bên bờ sông Seine gần Paris, một điểm đến "cuối tuần" nổi tiếng của người Paris, nơi đây, ông đã vẽ một số tác phẩm nổi tiếng nhất của mình. Năm 1873, Monet mua một chiếc thuyền nhỏ được trang bị để sử dụng như một studio nổi. Từ studio nổi, Monet vẽ tranh phong cảnh và vẽ cả chân dung của Édouard Manet và vợ; Manet đến lượt miêu tả bức tranh Monet trên chiếc thuyền, cùng với Camille vào năm 1874. Năm 1874, ông quay trở lại Hà Lan một thời gian ngắn. Hội họa Ấn tượng Triển lãm Ấn tượng được tổ chức lần đầu tiên vào năm 1874 tại 35 boulevard des Capucines, Paris, từ ngày 15 tháng 4 đến ngày 15 tháng 5. Mục đích chính của những người tham gia không phải là để thúc đẩy một trường phái mới, mà còn để thoát khỏi những kìm ép, gượng gạo của Salon de Paris. Triển lãm, mở cho bất cứ ai sẵn sàng trả 60 franc, cho phép các nghệ sỹ cơ hội thể hiện tác phẩm của họ mà không có sự can thiệp của hội thẩm tra . Renoir chủ trì hội đồng và tự làm hầu hết công việc một mình, vì những thành viên khác không thể trình diện được . Ngoài "Ấn tượng mặt trời mọc", Monet trình bày bốn bức tranh sơn dầu và bảy bức với tông pastels - dịu nhẹ, vừa mắt. Trong số những bức tranh ông trưng bày là The Luncheon (Bữa trưa) (1868), miêu tả Camille Doncieux và Jean Monet, và từng bị Salon de Paris từ chối năm 1870. Cũng trong triển lãm này, một bức tranh có tên Boulevard des Capucines [tên một con phố], một bức tranh vẽ cảnh đại lộ được hoàn thành tại căn hộ số 35 của Nadar - một nhiếp ảnh gia. 35. Monet đã vẽ bức tranh này hai lần, và không biết rõ bức nào (một bức bây giờ ở Bảo tàng Pushkin ở Moscow, bức còn lại trong Bảo tàng Nghệ thuật Nelson-Atkins ở Kansas City) là bức tranh trưng bày vào năm 1874, mặc dù gần đây bức tranh Moscow có vẻ xác thực hơn . Tổng cộng đã có 165 tác phẩm được trưng bày tại triển lãm, bao gồm 4 sơn dầu, 2 màu pastels và 3 màu nước bởi Morisot; 6 sơn dầu và 1 pastel của Renoir; 10 tác phẩm của Degas; 5 của Pissarro; 3 của Cézanne; và 3 bởi Guillaumin. Vài tác phẩm được cho mượn, bao gồm Modern Olympique của Cézanne, bức Hide and Seek (Trốn tìm) của Morisot (thuộc sở hữu của Manet) và 2 bức tranh phong cảnh của Sisley đã được mua bởi Durand-Ruel . Tổng số người tham dự ước tính là 3.500 và một số tác phẩm đã bán, mặc dù một số nhà triển lãm đã đặt giá quá cao. Pissarro đã yêu cầu 1000 franc cho The Orchard (Vườn cây trái) và Monet tương tự cho Ấn tượng mặt trời mọc, cả hai đều không được bán. Renoir cũng thất bại trong việc cố bán với giá 500 franc mà anh yêu cầu cho La Loge (Hộp chiếu bóng), nhưng sau đó đã bán nó cho 450 franc cho Père Martin, đại lý và người ủng hộ của nhóm. Tác phẩm trong những năm 1858 - 1872 Camille qua đời Năm 1876, Camille Monet bị bệnh lao. Con trai thứ hai của họ, Michel, sinh ngày 17 tháng 3 năm 1878. Đứa con thứ hai này càng làm suy yếu sinh lực đang phai dần của cô. Vào mùa hè năm đó, gia đình chuyển đến làng Vétheuil, nơi họ ở chung với gia đình của Ernest Hoschedé, một chủ cửa hiệu giàu có và người bảo trợ nghệ thuật. Năm 1878, Camille Monet được chẩn đoán mắc ung thư tử cung Bà qua đời ngày 5 tháng 9 năm 1879 ở tuổi ba mươi hai Monet đã nghiên cứu về sơn dầu từ người vợ quá cố. Nhiều năm sau, Monet thú nhận với người bạn là Georges Clemenceau rằng nhu cầu của ông là phân tích màu mà chứa đựng cả niềm vui và sự đau khổ của cuộc đời ông. Ông đã giải thích:Một ngày nọ tôi thấy mình nhìn gương mặt người vợ yêu dấu quá cố của tôi và một cách có hệ thống, tôi,theo phản xạ tự động, chú ý đến các màu sắc!John Berger mô tả tác phẩm như một "cơn bão tuyết của màu trắng, xám, sắc tía ảm đạm... một trận bão tuyết khổng lồ của sự mất mát sẽ xóa nhòa dấu vết của cô. Trên thực tế, có rất ít bức tranh vẽ giường-người-chết được cảm thấy dữ dội hoặc biểu lộ chủ quan như vậy. " Vétheuil Sau vài tháng khó khăn sau cái chết của Camille, Monet bắt đầu tạo ra một số bức tranh đẹp nhất của mình vào thế kỷ 19. Vào đầu những năm 1880, Monet vẽ một số nhóm cảnh quan và cảnh biển trong những gì ông coi là nhiệm vụ để ghi lại vùng nông thôn Pháp. Những bức tranh này bắt đầu phát triển thành một sê-ri các bức họa, trong đó ông ghi lại cùng một cảnh nhiều lần để nắm bắt sự thay đổi của ánh sáng và dòng chảy của các mùa trong năm. Một người bạn của Monet là Ernest Hoschedé bị phá sản, và rời bỏ Pháp vào năm 1878 đến Bỉ. Sau cái chết của Camille Monet vào tháng 9 năm 1879, và trong khi Monet tiếp tục sống trong ngôi nhà ở Vétheuil, Alice Hoschedé đã giúp Monet nuôi hai con trai ông, Jean và Michel. Cô đưa họ đến Paris để sống cùng với sáu đứa con của mình, Blanche (sau này kết hôn với Jean Monet), Germaine, Suzanne, Marthe, Jean-Pierre, và Jacques. Vào mùa xuân năm 1880, Alice Hoschedé và tất cả các trẻ em rời Paris và đến ở cùng Monet tại Vétheuil. Năm 1881, tất cả họ chuyển đến Poissy, nơi mà Monet không ưa lắm. Tháng 4 năm 1883, khi nhìn ra cửa sổ xe lửa nhỏ đang đi giữa vùng Vernon và Gasny, ông đã phát hiện ra một nơi thật tuyệt vời, Giverny vùng Normandy Monet, Alice Hoschedé cùng những đứa trẻ chuyển đến Vernon, rồi đến ngôi nhà tại Giverny, nơi ông trồng một khu vườn rộng lớn và là nơi ông vẽ trong phần còn lại của cuộc đời. Sau cái chết của người chồng xa lạ của mình, Alice Hoschedé cưới Monet năm 1892. Tác phẩm những năm 1873 - 1879 Giverny Nhà vườn của Monet Monet thuê và cuối cùng mua một căn nhà (chính xác hơn là biệt thự) và những khu vườn ở Giverny. Vào đầu tháng 5 năm 1883, Monet và đại gia đình thuê ngôi nhà và 2 mẫu Anh (0,81 ha) từ một chủ đất địa phương. Ngôi nhà nằm gần con đường chính nối giữa các thị trấn của Vernon và Gasny ở Giverny. Có một cái nhà kho, được chia đôi để làm một phòng vẽ tranh, một khu vườn cây ăn trái và một khu vườn nhỏ. Ngôi nhà cũng gần trường học địa phương để các con nhỏ tham dự, và cảnh quan xung quanh gợi nên nhiều đề tài phù hợp cho nghề vẽ của Monet. Gia đình đã làm việc và xây dựng các khu vườn, và số phận bắt đầu mỉm cười với Monet vì người bán tranh của ông, Paul Durand-Ruel, đã càng ngày càng thành công trong việc bán các bức tranh. Vào tháng 11 năm 1890, Monet đã thịnh vượng đủ để mua ngôi nhà, vài tòa xung quanh và khu vườn của mình. Trong những năm 1890, Monet xây dựng một nhà kính và một studio thứ hai, một tòa nhà rộng rãi được thắp sáng bởi một cái giếng trời. Monet đã viết chỉ dẫn hàng ngày cho người làm vườn của mình, thiết kế chính xác và bố cục để trồng cây, và hoá đơn mua hoa và bộ sưu tập sách thực vật học của ông. Khi tài sản của Monet tăng lên, khu vườn ngày càng phong phú. Ông vẫn là kiến trúc sư chính, ngay cả sau khi ông thuê bảy người làm vườn . Monet đã mua thêm đất với một bãi cỏ nước. Năm 1893 ông bắt đầu một dự án "bài trí" lại cảnh quan với quy mô lớn bao gồm" ao súng nước, mà sau này đã trở thành đối tượng trên các kiết tác nổi tiếng nhất của ông. Các hoa súng trắng của Pháp được trồng cùng với các giống nhập từ Nam Mỹ và Ai Cập, tạo ra một dải màu sắc bao gồm vàng, xanh dương và màu hồng của bông súng trắng già. Vào năm 1899, ông bắt đầu vẽ những cây hoa súng nước, đầu tiên là nhìn trực diện với một cây cầu Nhật Bản như là một điểm chính trung tâm, và sau đó là hàng loạt các bức tranh quy mô lớn ròng rã, liên tục trong 20 năm tiếp theo. Phong cảnh này, với ánh sáng luân phiên và ánh-phản-chiếu- gương, đã trở thành một phần không thể tách rời trong tranh của ông. Vào giữa những năm 1910 Monet đã có được:một phong cách hoàn toàn mới, mềm mại, và có phần táo bạo trong bức tranh, trong đó ao hoa súng đã trở thành điểm xuất phát cho một hành trình nghệ thuật đến với trừu tượng- Gary Tinterow Gary Tinterow, Modern Europe, Metropolitan Museum of Art (New York, N.Y.), 1 tháng 1 năm 1987Chùm tranh vườn của Monet Những năm cuối đời Giảm thị lực Người vợ thứ hai của Monet, Alice, qua đời năm 1911, và con trai cả, cũng là đứa con mà Monet quý nhất: Jean (đã cưới con gái của Alice, Blanche) qua đời năm 1914. Sau khi Alice qua đời, Blanche chăm sóc Monet. Chính trong thời gian này Monet bắt đầu phát triển các dấu hiệu đầu tiên của bệnh đục thủy tinh thể . Trong Thế chiến thứ nhất, trong đó con trai nhỏ của ông Michel đi nghĩa vụ và người bạn và cũng là người ngưỡng mộ ông, ông Georges Clemenceau, đang lãnh đạo quốc gia Pháp, Monet đã vẽ một loạt tranh các cây liễu rủ ảm đạm để tỏ lòng tôn kính đối với những người lính Pháp đã ngã xuống. Năm 1923, ông đã trải qua hai lần phẫu thuật để loại bỏ chứng đục thủy tinh thể của mình. Các bức tranh được thực hiện trong giai đoạn thị lực giảm sút của ông có một tông màu phớt đỏ chung, cũng là một đặc điểm tầm nhìn khi bị đục thủy tinh thể. Cũng có thể là sau phẫu thuật, ông có thể nhìn thấy các bước sóng cực tím nhất định của ánh sáng (mắt người khỏe mạnh không thể thấy được); điều này có thể đã có ảnh hưởng đến màu sắc mà ông cảm nhận. Sau khi phẫu thuật, ông thậm chí còn sơn lại một số bức tranh, với bông hoa súng "xanh" hơn trước. Qua đời Monet mất vì ung thư phổi ngày 5 tháng 12 năm 1926, thọ 86 tuổi. Ông được chôn cất trong nghĩa trang nhà thờ Giverny . Monet từng nhấn mạnh rằng tang lễ phải thật đơn giản; do đó chỉ có khoảng năm mươi người tham dự hôm đó. Nhà của ông, khu vườn và hồ hoa súng, đã được truyền qua con trai Michel, người thừa kế duy nhất của ông, đến Học viện Mỹ thuật Pháp (một phần của Institut de France) vào năm 1966. Thông qua Fondation Claude Monet, ngôi nhà và vườn được mở cửa cho khách du lịch thăm vào năm 1980, sau khi phục chữa. Ngoài những vật lưu niệm của Monet và các kỉ vật khác trong cuộc đời, ngôi nhà còn có bộ sưu tập các bản khắc gỗ của Nhật Bản. Tòa biệt thự và sân vườn, cùng với Bảo tàng Ấn tượng, là điểm thu hút chính trong Giverny, nơi đón khách du lịch từ khắp nơi trên thế giới. Những bức vẽ muộn của Monet Phương pháp của Monet Monet được mô tả là "động lực thúc đẩy của Trường phái Ấn tượng" . Điều quan trọng nhất đối với nghệ thuật của các họa sỹ theo phong cách Ấn tượng là hiểu những ảnh hưởng của ánh sáng đối với màu xung quanh của vật thể, và hiệu ứng của các màu sắc xếp cạnh nhau . Phần lớn sự nghiệp của Monet với tư cách là một họa sĩ được dùng để theo đuổi mục tiêu này. Năm 1856, cuộc gặp gỡ với Eugene Boudin, một hoạ sỹ vẽ cảnh bãi biển nhỏ, thế giới Monet mở ra với hội họa và kỹ thuật "ngoài trời". Từ thời điểm đó, trừ một khoảng gián đoạn ngắn cho nghĩa vụ quân sự, ông đã tự mình tìm kiếm và phát triển các phương pháp mới cho sự biểu hiện "thật hội họa". Để đạt được mục tiêu này, khi còn là một thanh niên, ông đã đến Salon de Paris và làm quen với những tác phẩm của các họa sỹ lớn tuổi, và kết bạn với các nghệ sĩ trẻ khác. Năm năm mà ông trải qua ở Argenteuil, dành nhiều thời gian trên sông Seine trong một studio nhỏ, đã hình thành nên những nghiên cứu của ông về những hiệu ứng ánh sáng và sự phản chiếu. Ông bắt đầu suy nghĩ về màu và hình chứ không phải là cảnh và vật. Ông sử dụng màu sắc tươi sáng trong cú chấm nhẹ, những nét lướt và những nét cong. Sau khi từ chối những lời dạy hàn lâm của studio Gleyre, ông tự giải phóng mình khỏi lý thuyết, và nói rằng "Tôi thích vẽ như một con chim đang hót." Năm 1877, một loạt các bức tranh tại Bến tàu St-Lazare, Monet đã để tâm đến khói và hơi nước và cách chúng ảnh hưởng đến màu sắc và khả năng hiển thị, đôi khi đôi khi thì mờ đục nhưng đôi khi lờ mờ. Ông đã tiếp tục sử dụng những quan sát này trong bức tranh về những ảnh hưởng của sương mù và mưa trên cảnh quan. Tìm hiểu ảnh hưởng của không gian khiến ông đã vẽ một loạt các bức tranh, trong đó Monet đã vẽ lại cùng một đối tượng trong các ánh sáng khác nhau vào những giờ khác nhau trong ngày, và thông qua sự thay đổi của thời tiết và mùa. Những loạt tranh kiểu như vậy được bắt đầu vẽ từ những năm 1880 và tiếp tục cho đến khi cuộc đời ông khép lại năm 1926. Bộ tranh đầu tiên của ông được trưng bày, ví dụ như tập Đống cỏ khô, "Haystacks", được vẽ từ các điểm nhìn khác nhau và vào các thời điểm khác nhau trong ngày. Mười lăm bức tranh được trưng bày tại Galerie Durand-Ruel năm 1891. Năm 1892, ông đã tạo ra bộ tranh có lẽ là nổi tiếng nhất của ông, hai mươi sáu góc nhìn của Nhà thờ chính tòa Rouen . Trong những bức tranh này, Monet đã phá vỡ các truyền thống vẽ tranh, bằng cách chia nhỏ đối tượng để chỉ có một phần mặt tiền được nhìn thấy trên tấm canvas. Các bức tranh không tập trung vào tòa nhà Trung cổ, mà là sự xoay vần của sáng và tối trên bề mặt của nó, kiến trúc tòa nhà tưởng là khối thuần nhất mà hóa ra không thuần nhất . Những bộ trang khác bao gồm Cây dương "Poplars", Buổi sáng trên sông Seine "Mornings on the Seine", và Hoa súng nước "Water Lilies" được vẽ tại nhà của ông ở Giverny. Từ năm 1883 đến năm 1908, Monet đã đi đến Địa Trung Hải, nơi ông vẽ các địa danh, cảnh quan và cảnh biển, và bao gồm một loạt các bức tranh ở Venice. Tại London, ông đã vẽ bốn chuỗi tranh:  Tòa nghị viện Luân Đôn "The Houses of Parliament", Luân Đôn "London", Cầu Charing Cross "Charing Cross Bridge", Cầu Waterloo Waterloo Bridge, và Cảnh quan cầu Westminster "Views of Westminster Bridge". Helen Gardner viết:"Monet, với một độ chính xác khoa học, đã cho chúng ta một bản thu vô tiền khoáng hậu ghi lại bước đi của thời gian, qua chuyển động của ánh sáng trên những hình mẫu giống hệt nhau." Một vài bức được trích từ các tập tranh của ông Danh tiếng Năm 2004, bức Tòa nghị viện Luân Đôn, mặt trời qua sương mù (1904), bán được với giá 20,1 triệu đô la Mỹ . Năm 2006, tạp chí Tiến trình của hội Hoàng gia "Proceedings of the Royal Society" cho đăng một bài báo cho thấy rằng tranh được sơn ngay tại Bệnh viện St Thomas qua sông Thames. Bức Vách đá gần Dieppe ( Falaises près de Dieppe ) đã bị đánh cắp trong hai lần riêng biệt: một lần vào năm 1998 (trong đó người quản lý bảo tàng đã bị kết tội trộm cắp và bị bỏ tù trong 5 năm và hai tháng cùng với hai kẻ đồng lõa) và gần đây nhất vào tháng 8 năm 2007. Nó được tìm thấy vào tháng 6 năm 2008. Bức Le Pont du chemin de fer à Argenteuil của Monet, một bức tranh sơn dầu vẽ một cây cầu đường sắt bắc qua sông Seine gần Paris, đã được mua bởi một nhà cung cấp điện thoại nặc danh với mức giá kỷ lục là 41,4 triệu đô la Mỹ trong cuộc bán đấu giá Christie ở New York hồi 6 tháng 5 năm 2008. Kỷ lục trước đó là 36,5 triệu đô la . Chỉ vài tuần sau đó, Le bassin aux nymphéas (từ bộ tranh Hoa súng nước) được bán tại cuộc đấu giá Christie vào ngày 24 tháng 6 năm 2008 tại London, lô 19, với giá 36.500.000 bảng ($ 71.892.376,34) (giá chốt hạ) hoặc £ 40,921,250 ($ 80,451,178) với các phí phụ, nâng gấp đôi giá kỷ lục của họa sĩ và ghi tên vào một trong 20 cái giá cao nhất được trả cho một bức tranh ở thời điểm đó. Tham khảo Tiểu sử Claude Monet Tiếng Anh Tiểu sử Claude Monet Tiếng Anh Claude Monet Tiếng Anh Tiểu sử Monet Tiếng Anh Claude MONET Tiếng Anh Liên kết ngoài Những tác phẩm của Claude Monet Claude Monet: A Virtual Art Gallery Claude Monet by himself Claude Monet paintings, media & interactive timeline Claude Monet's cataract Comparison of reproductions of Monet Life of Monet a timeline of Monet's life Monet at Giverny www.Claude-Monet.com The Unknown Monet exhibition - view sketchbooks Union List of Artist Names, Getty Vocabularies. ULAN Full Record Display for Claude Monet. Getty Vocabulary Program, Getty Research Institute. Los Angeles, California. Họa sĩ Pháp Họa sĩ trường phái ấn tượng Người Paris Người Le Havre Sinh năm 1840 Mất năm 1926 Chết vì ung thư phổi Nghệ sĩ từ Paris
25768
https://vi.wikipedia.org/wiki/Michael%20Curtiz
Michael Curtiz
Michael Curtiz (24 tháng 12 năm 1886 – 10 tháng 4 năm 1962) là một đạo diễn điện ảnh nổi tiếng. Tiểu sử và sự nghiệp Michael Curtiz tên thật là Manó Kertész Kaminer, sinh ra trong một gia đình Hungary gốc Do Thái. Ông được đánh giá là đạo diễn hàng đầu của Warner Bros và là bậc thầy của nhiều thể loại điện ảnh mà không có đạo diễn của Hollywood nào có thể sánh kịp. Phim đã thực hiện Casablanca Các cuộc phiêu lưu của Robin Hood Xem thêm Giải Oscar cho đạo diễn xuất sắc Đạo diễn điện ảnh Mỹ Đạo diễn phim Hungary Người Budapest Tử vong vì ung thư ở California
25803
https://vi.wikipedia.org/wiki/G%E1%BB%91m%20B%C3%A1t%20Tr%C3%A0ng
Gốm Bát Tràng
Gốm Bát Tràng là tên gọi chung của các loại đồ gốm Việt Nam được sản xuất tại làng Bát Tràng, thuộc xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Theo nghĩa Hán Việt, chữ Bát (鉢) là bát ăn của nhà sư (tiếng Phạn là Patra), chữ Tràng (場, còn đọc là Trường) nghĩa là "cái sân lớn", là mảnh đất dành riêng cho chuyên môn. Như vậy, tên gọi Bát Tràng có thể hiểu là "cái sân lớn chuyên sản xuất bát". Tuy nhiên, theo một số tài liệu khác, tên gọi Bát Tràng có thể bắt nguồn từ tên gọi Bạch Thổ Phường, nghĩa là "phường đất sét trắng". Vị trí Xã Bát Tràng (社鉢場) gồm hai thôn là Bát Tràng và Giang Cao, thuộc huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. Làng Bát Tràng được hình thành từ khi nhà Lý dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long, người dân làng Bồ Bát (xã Bồ Xuyên và trang Bạch Bát thuộc tổng Bạch Bát, huyện Yên Mô, phủ Trường Yên, trấn Thanh Hóa ngoại, nay là hai thôn của xã Yên Thành, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình), theo vua Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư ra khu vực gần Thăng Long lập nên ngôi làng này. Khi những người dân Bạch Bát đến vùng đất bồi trên bờ sông Hồng, Họ đã lập phường làm nghề gốm; lúc đầu thôn Bát Tràng được gọi là Bạch Thổ Phường, sinh sống chủ yếu bằng nghề làm gốm sứ và buôn bán , làm quan. Năm 1958, nhà nước thực hiện đào sông Bắc Hưng Hải - Đại thủy nông Bắc Hưng Hải làm thủy lợi tưới tiêu cho một vùng đồng ruộng rộng lớn của 3 tỉnh: Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, tạo ra thêm một con đường mới đi vào xã Bát Tràng, vì vậy từ Hà Nội, có thể theo đường thủy từ bến Chương Dương hoặc bến Phà Đen, xuôi sông Hồng đến bến Bát Tràng, cũng có thể theo đường bộ qua sông Hồng rồi theo đê sông Hồng đến dốc Giang Cao rẽ xuống Bát Tràng (khoảng 15 km) hoặc theo quốc lộ số 5 đến Trâu Quỳ rẽ về phía tay phải theo đường liên huyện qua xã Đa Tốn đến Bát Tràng (khoảng hơn 20 km). Ngày nay việc đến Bát Tràng rất thuận lợi vì từ năm 2006, công ty vận tải Hà Nội đã mở tuyến xe buýt 47 về đến Chợ Gốm Làng cổ Bát Tràng là điểm cuối bến. Lịch sử Theo Đại Việt sử ký toàn thư và Dư địa chí của Nguyễn Trãi, làng gốm Bát Tràng được hình thành từ thời Lý. Khi Vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long, 5 dòng họ làm nghề gốm nổi tiếng của làng Bồ Bát, huyện Yên Mô, phủ Trường Yên (nay thuộc huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình) là Trần, Vương, Nguyễn, Lê, Phạm đã quyết định đưa các nghệ nhân làm gốm và gia đình dời làng di cư về kinh thành Thăng Long tìm đất lập nghiệp. Đến Bạch Thổ phường thuộc huyện Gia Lâm, phủ Thuận An (nay là xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm, Hà Nội) - nơi có nguồn nguyên liệu tốt để làm đồ gốm là đất sét trắng, 5 dòng họ đã kết hợp với dòng họ Nguyễn ở đây mở lò sản xuất gốm, lập nên làng gốm Bát Tràng. Theo ký ức và tục lệ dân gian thì trong số các dòng họ ở Bát Tràng, có dòng họ Nguyễn Ninh Tràng. Có ý kiến cho rằng Nguyễn Ninh Tràng là họ Nguyễn ở trường Vĩnh Ninh, một lò gốm ở Ninh Bình, nhưng chưa có tư liệu xác nhận. Gia phả một số dòng họ ở Bát Tràng như họ Lê, Vương, Phạm, Nguyễn... ghi nhận rằng tổ tiên xưa từ Bồ Bát di cư ra đây (Bồ Bát là Bồ Xuyên và Bạch Bát). Vào thời Hậu Lê khoảng cuối thế kỉ thứ 14 - đầu thế kỉ 15 và đầu thời Nguyễn, xã Bồ Xuyên và trang Bạch Bát thuộc tổng Bạch Bát, huyện Yên Mô, phủ Trường Yên, trấn Thanh Hoá Ngoại. Ngày nay, Bồ Xuyên và Bạch Bát là hai thôn của xã Yên Thành, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, vùng này có loại đất sét trắng rất thích hợp với nghề làm gốm. Theo truyền thuyết và gia phả một số họ như họ Vũ ở Bồ Xuyên, ngày xưa cư dân Bồ Bát chuyên làm nghề gốm từ lâu đời. Điều này được xác nhận qua dấu tích của những lớp đất nung và mảnh gốm ken dày đặc tìm thấy nhiều nơi ở vùng này. Năm 1010, vua Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long, Thăng Long trở thành trung tâm chính trị của nước Đại Việt. Do nhu cầu phát triển của kinh thành, nhiều thương nhân, thợ thủ công từ các nơi tìm về Thăng Long hành nghề và lập nghiệp. Sự ra đời và phát triển của Thăng Long đã tác động mạnh đến hoạt động kinh tế của các làng xung quanh, trong đó có làng Bát Tràng. Đặc biệt vùng này lại có nhiều đất sét trắng, một nguồn nguyên liệu tốt để sản xuất đồ gốm. Một số thợ gốm Bồ Bát đã di cư ra đây cùng họ Nguyễn Ninh Tràng lập lò gốm, gọi là Bạch Thổ phường (phường Đất Trắng). Những đợt di cư tiếp theo đã biến Bát Tràng từ một làng gốm bình thường đã trở thành một trung tâm gốm nổi tiếng được triều đình chọn cung cấp đồ cống phẩm cho nhà Minh. Cũng ở thời nhà Lý, có ba vị Thái học sinh là Hứa Vinh Kiều (hay Cảo), Đào Trí Tiến và Lưu Phương Tú (hay Lưu Vĩnh Phong) được cử đi sứ Bắc Tống. Sau khi hoàn tất sứ mệnh, trên đường trở về nước qua Thiều Châu (Quảng Đông) (hiện nay tại Triều Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc) gặp bão, phải nghỉ lại. Ở đây có lò gốm nổi tiếng, ba ông đến thăm và học được một số kỹ thuật đem về truyền bá cho các làng nghề gốm Việt Nam. Hứa Vĩnh Kiều truyền cho Bát Tràng nước men rạn trắng. Đào Trí Tiến truyền cho Thổ Hà (thị xã Việt Yên, tỉnh Bắc Giang) nước men sắc màu vàng đỏ. Lưu Phương Tú truyền cho Phù Lãng (huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh) nước men màu đỏ màu vàng thẫm. Thế kỉ 15–16 Chính sách của nhà Mạc đối với công thương nghiệp trong thời gian này là cởi mở, không chủ trương "ức thương" như trước nên kinh tế hàng hoá có điều kiện phát triển thuận lợi hơn; nhờ đó, sản phẩm gốm Bát Tràng được lưu thông rộng rãi. Gốm Bát Tràng thời Mạc có nhiều sản phẩm có minh văn ghi rõ năm chế tạo, tên người đặt hàng và người sản xuất. Qua những minh văn này cho thấy người đặt hàng bao gồm cả một số quan chức cao cấp và quý tộc nhà Mạc như công chúa Phúc Tràng, phò mã Ngạn quận công, Đà quốc công Mạc Ngọc Liễn, Mĩ quốc công phu nhân... Người đặt hàng trải ra trên một không gian rộng lớn bao gồm nhiều phủ huyện vùng đồng bằng Bắc Bộ và bắc Trung Bộ. Thế kỉ 16–17 Sau những phát kiến địa lý vào cuối thế kỉ 15, nhiều nước phát triển của Tây Âu tràn sang phương Đông. Các nước Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp... bắt đầu thành lập công ty, xây dựng căn cứ ở phương Đông để buôn bán. Hoạt động mậu dịch hàng hải khu vực Đông Nam Á vốn có lịch sử lâu đời càng trở nên sôi động, lôi cuốn các nước trong khu vực vào hệ thống buôn bán châu Á và với thị trường thế giới đang hình thành. Sau khi thành lập, nhà Minh (Trung Quốc) chủ trương cấm tư nhân buôn bán với nước ngoài làm cho việc xuất khẩu gốm sứ nổi tiếng của Trung Quốc bị hạn chế đã tạo điều kiện cho đồ gốm Bát Tràng mở rộng thị trường ở vùng Đông Nam Á. Khi nhà Minh (Trung Quốc) bãi bỏ chính sách bế quan toả cảng (1567) nhưng vẫn cấm xuất khẩu một số nguyên liệu và mặt hàng quan trọng sang Nhật Bản, đã tạo cho quan hệ buôn bán giữa Việt Nam và Nhật Bản đặc biệt phát triển, qua đó nhiều đồ gốm Bát Tràng được nhập cảng vào Nhật Bản. Năm 1644 nhà Thanh (Trung Quốc) tái lập lại chính sách cấm vượt biển buôn bán với nước ngoài, cho đến năm 1684 sau khi giải phóng Đài Loan. Trong thời gian đó, một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam, trong đó có đồ gốm Bát Tràng không bị hàng Trung Quốc cạnh tranh nên lại có điều kiện phát triển mạnh. Thế kỉ 15–17 là giai đoạn phát triển mạnh mẽ của ngành sản xuất gốm xuất khẩu Việt Nam, trong đó ở phía bắc có hai trung tâm quan trọng và nổi tiếng là Bát Tràng và Chu Đậu-Mỹ Xá (các xã Minh Tân, Thái Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương). Lúc bấy giờ, Thăng Long (Hà Nội) và Phố Hiến (nay thuộc tỉnh Hưng Yên) là hai đô thị lớn nhất và cũng là hại trung tâm mậu dịch đối ngoại thịnh đạt nhất của Đàng Ngoài. Bát Tràng có may mắn và thuận lợi lớn là nằm bên bờ sông Nhị (sông Hồng) ở khoảng giữa Thăng Long và Phố Hiến, trên đường thủy nối liền hai đô thị này và là cửa ngõ thông thương với thế giới bên ngoài. Qua thuyền buôn Trung Quốc, Nhật Bản, các nước Đông Nam Á và các nước phương Tây, đồ gốm Việt Nam được bán sang Nhật Bản và nhiều nước Đông Nam Á, Nam Á. Các công ty phương Tây, nhất là Công ty Đông Ấn của Hà Lan, trong phương thức buôn bán "từ Ấn Độ (phương Đông) sang Ấn Độ", đã mua nhiều đồ gốm Việt Nam bán sang thị trường Đông Nam Á và Nhật Bản. Cuối thế kỉ 17& đầu thế kỉ 18 Việc xuất khẩu và buôn bán đồ gốm Việt Nam ở Đông Nam Á bị giảm sút nhanh chóng vì sau khi Đài Loan được giải phóng (1684) và triều Thanh bãi bỏ chính sách cấm vượt biển buôn bán với nước ngoài. Từ đó, gốm sứ chất lượng cao của Trung Quốc tràn xuống thị trường Đông Nam Á và đồ gốm Việt Nam không đủ sức cạnh tranh. Nhật Bản, sau một thời gian đóng cửa để bảo vệ các nguyên liệu quý như bạc, đồng, đã đẩy mạnh được sự phát triển các ngành kinh tế trong nước như tơ lụa, đường, gốm sứ... mà trước đây phải mua sản phẩm của nước ngoài. Thế kỉ 18–19 Một số nước phương Tây đi vào cuộc cách mạng công nghiệp với những hàng hoá mới cần thị trường tiêu thụ rộng lớn. Tình hình kinh tế đó cùng với chính sách hạn chế ngoại thương của các chính quyền Trịnh, Nguyễn trong thế kỉ 18 và của nhà Nguyễn trong thế kỉ 19 đã làm cho quan hệ mậu dịch đối ngoại của Việt Nam sa sút và việc xuất khẩu đồ gốm cũng bị suy giảm. Đó là lý do khiến một số làng nghề gốm bị gián đoạn sản xuất (như làng gốm Chu Đậu-Mỹ Xá). Gốm Bát Tràng tuy có bị ảnh hưởng, nhưng vẫn giữ được sức sống bền bỉ nhờ có một thị trường tiêu thụ rộng rãi trong nước với những đồ gia dụng, đồ thờ, đồ trang trí và gạch xây rất cần thiết cho mọi tầng lớp xã hội từ quý tộc đến dân thường. Trong giai đoạn này, gốm Bát Tràng xuất khẩu giảm sút, nhưng làng gốm Bát Tràng vẫn là một trung tâm sản xuất gốm truyền thống có tiếng trong nước. Thế kỉ 19 đến nay Trong thời Pháp thuộc, các lò gốm Bát Tràng tuy bị một số xí nghiệp gốm sứ và hàng ngoại nhập cạnh tranh nhưng vẫn duy trì được hoạt động bình thường. Sau Chiến tranh Đông Dương (1945–1954), năm 1957, 10 cá nhân là địa chủ, con địa chủ của thôn Giang Cao (sau cải cách ruộng đất năm 1955) góp vốn thành lập công ty gốm Trường Thịnh, để sản xuất gốm sứ dân dụng phục vụ xã hội, đây là nền tảng khởi đầu cho Xí nghiệp sứ Bát Tràng. Năm 1958 nhà nước làm công tư hợp doanh, chuyển đổi công ty gốm Trường Thịnh thành Xí nghiệp sứ Bát Tràng, thuê công nhân thôn Bát Tràng vào làm việc. Với cơ sở vật chất đầy đủ, nhân công Bát Tràng được thử nghiệm, thực hành, sáng tạo trên cơ sở sự chịu khó, cần cù đã tạo nên được một thế hệ có tay nghề gốm vững chãi. Cùng lúc đó một số hợp tác xã như Hợp Thành (1962), đóng ở phần đất gần với xã Đa Tốn, Hưng Hà (1977), Hợp Lực (1978), Thống Nhất (1982), Ánh Hồng (1984) và Liên hiệp ngành gốm sứ (1984)Xí nghiệp X51, X54 (1988)... Các cơ sở sản xuất trên cung cấp hàng tiêu dùng trong nước, một số hàng mĩ nghệ và một số hàng xuất khẩu. Những nghệ nhân nổi tiếng như của Bát Tràng như Đào Văn Can, Nguyễn Văn Khiếu, Lê Văn Vấn, Lê Văn Cam,Trần Hợp... đào tạo được nhiều thợ gốm trẻ cung cấp cho các lò gốm mới mở ở các tỉnh. Sau năm 1986 làng gốm Bát Tràng có sự chuyển biến lớn theo hướng kinh tế thị trường. Các hợp tác xã lần lượt giải thể hoặc chuyển thành công ty cổ phần, những công ty lớn được thành lập nhưng vẫn còn tồn tại nhiều tổ sản xuất và phổ biến là những đơn vị sản xuất nhỏ theo hộ gia đình. Xã Bát Tràng nay đã trở thành một trung tâm gốm lớn. Hiện nay, sản phẩm gốm Bát Tràng càng ngày càng phong phú và đa dạng. Ngoài các mặt hàng truyền thống, các lò gốm Bát Tràng còn sản xuất nhiều sản phẩm mới đáp ứng yêu cầu tiêu dùng trong Việt Nam như các loại ấm chén, bát đĩa, lọ hoa... kiểu mới, các vật liệu xây dựng, các loại sứ cách điện... và các sản phẩm xuất khẩu theo đơn đặt hàng của nước ngoài. Sản phẩm Bát Tràng có mặt trên thị trường cả nước và được xuất khẩu sang nhiều nước châu Á, châu Âu. Bát Tràng cuốn hút nhiều nhân lực từ khắp nơi về sáng tác mẫu mã mới và cải tiến công nghệ sản xuất. Một số nghệ nhân đã bước đầu thành công trong việc khôi phục một số đồ gốm cổ truyền với những kiểu dáng và nước men đặc sắc thời Lý, Trần, Lê, Mạc... Quy trình sản xuất gốm sứ Bát Tràng Để làm ra đồ gốm người thợ gốm phải qua các khâu chọn, xử lý và pha chế đất, tạo dáng, tạo hoa văn, phủ men, và cuối cùng là nung sản phẩm. Kinh nghiệm truyền đời của dân làng gốm Bát Tràng là "Nhất xương, nhì da, thứ ba dạc lò". Người thợ gốm quan niệm hiện vật gốm không khác nào một cơ thể sống, một vũ trụ thu nhỏ trong đó có sự kết hợp hài hòa của Ngũ hành (五行) là kim (金), mộc (木), thủy (水), hoả (火) và thổ (土). Sự phát triển của nghề nghiệp được xem như là sự hanh thông của Ngũ hành mà sự hanh thông của Ngũ hành lại nằm trong quá trình lao động sáng tạo với những quy trình kĩ thuật chặt chẽ, chuẩn xác. Quá trình tạo cốt gốm Chọn đất Điều quan trọng đầu tiên để hình thành nên các lò gốm là nguồn đất sét làm gốm. Những trung tâm sản xuất gốm thời cổ thường là sản xuất trên cơ sở khai thác nguồn đất tại chỗ. Làng gốm Bát Tràng cũng vậy, sở dĩ dân làng Bồ Bát chọn khu vực làng Bát Tràng hiện nay làm đất định cư phát triển nghề gốm vì trước hết họ đã phát hiện ra mỏ đất sét trắng ở đây. Đến thế kỉ 18, nguồn đất sét trắng tại chỗ đã cạn kiệt nên người dân Bát Tràng buộc phải đi tìm nguồn đất mới. Không giống như tổ tiên, dân Bát Tràng vẫn định cư lại ở các vị trí giao thông thuận lợi và thông qua dòng sông bến cảng, dùng thuyền toả ra các nơi khai thác các nguồn đất mới. Từ Bát Tràng ngược sông Hồng lên vùng Sơn Tây, Phúc Yên, rẽ qua sông Đuống, xuôi dòng Kinh Thầy đến Đông Triều, khai thác đất sét trắng ở Hồ Lao, Trúc Thôn. Đất sét Trúc Thôn có độ dẻo cao, khó tan trong nước, hạt mịn, màu trắng xám, độ chịu lửa ở khoảng 1650°C. Thành phần hoá học (tính trung bình theo % trọng lượng) của đất sét Trúc Thôn như sau: Al203: 27,07; Si02: 55,87; Fe203 1,2; Na2O 0,7; CaO 2,57; MgO 0,78; K2O: 2,01; Ti02: 0,81. Tuy là loại đất tốt được người thợ gốm Bát Tràng ưa dùng nhưng sét Trúc Thôn cũng có một số hạn chế như chứa hàm lượng oxide sắt khá cao, độ ngót khi sấy khô lớn và bản thân nó không được trắng. Xử lý, pha chế đất Trong đất nguyên liệu thường có lẫn tạp chất, ngoài ra tuỳ theo yêu cầu của từng loại gốm khác nhau mà có thể có những cách pha chế đất khác nhau để tạo ra sản phẩm phù hợp. Ở Bát Tràng, phương pháp xử lý đất truyền thống là xử lý thông qua ngâm nước trong hệ thống bể chứa, gồm 4 bể ở độ cao khác nhau. Bể thứ nhất ở vị trí cao hơn cả là "bể đánh" dùng để ngâm đất sét thô và nước (thời gian ngâm khoảng 3-4 tháng). Đất sét dưới tác động của nước sẽ bị phá vỡ kết cấu hạt nguyên thủy của nó và bắt đầu quá trình phân rã (dân gian gọi là ngâm lâu để cho đất nát ra). Khi đất đã "chín" (cách gọi dân gian), đánh đất thật đều, thật tơi để các hạt đất thực sự hoà tan trong nước tạo thành một hỗn hợp lỏng. Sau đó tháo hỗn hợp lỏng này xuống bể thứ hai gọi là "bể lắng" hay "bể lọc". Tại đây đất sét bắt đầu lắng xuống, một số tạp chất (nhất là các chất hữu cơ) nổi lên, tiến hành loại bỏ chúng. Sau đó, múc hồ loãng từ bể lắng sang bể thứ ba gọi là "bể phơi", người Bát Tràng thường phơi đất ở đây khoảng 3 ngày, sau đó chuyển đất sang bể thứ tư là "bể ủ". Tại bể ủ, ôxyt sắt (Fe2O3) và các tạp chất khác bị khử bằng phương pháp lên men (tức là quá trình vi sinh vật hoá khử các chất có hại trong đất). Thời gian ủ càng lâu càng tốt. Nhìn chung, khâu xử lý đất của người thợ gốm Bát Tràng thường không qua nhiều công đoạn phức tạp. Trong quá trình xử lý, tuỳ theo từng loại đồ gốm mà người ta có thể pha thêm cao lanh ở mức độ nhiều ít khác nhau. Tạo dáng Phương pháp tạo dáng cổ truyền của người làng Bát Tràng là làm bằng tay trên bàn xoay. Trong khâu tạo dáng, người thợ gốm Bát Tràng sử dụng phổ biến lối "vuốt tay, be chạch" trên bàn xoay, trước đây công việc này thường vẫn do phụ nữ đảm nhiệm. Thợ ngồi trên một cái ghế cao hơn mặt bàn rồi dùng chân quay bàn xoay và tay vuốt đất tạo dáng sản phẩm. Đất trước khi đưa vào bàn xoay được vò cho thật nhuyễn, cuốn thành thoi rồi ném ("bắt nẩy") để thu ngắn lại. Sau đó người ta đặt vào mà giữa bàn xoay, vỗ cho đất dính chặt rồi lai nén và kéo cho đất nhuyễn dẻo mới "đánh cử" đất và "ra hương" chủ yếu bằng hai ngón tay bên phải. Sau khi quá trình kéo đất bằng tay và bằng sành tới mức cần thiết người thợ sẽ dùng sành dan để định hình sản phẩm. Sản phẩm "xén lợi" và "bắt lợi" xong thì được cắt chân đưa ra đặt vào "bửng". Việc phụ nữ sử dụng bàn xoay vuốt tạo dáng ban đầu của sản phẩm là công việc khá phổ biến ở mỗi lò gốm cổ Việt Nam (không chỉ riêng Bát Tràng) nhưng lại rất xa lạ đối với một số người thợ gốm bên phương Tây. Tuy thế, kĩ thuật này đã mất dần và hiện nay không còn mấy người thợ gốm Bát Tràng còn có thể làm được công việc này nữa. "Be chạch" cũng là một hình thức vuốt sản phẩm trên bàn xoay nhẹ đà và chủ yếu do thợ đàn ông đảm nhiệm. Người thợ "đắp nặn" gốm là người thợ có trình độ kĩ thuật và mĩ thuật cao. Có khi họ đắp nặn một sản phẩm gốm hoàn chỉnh, nhưng cũng có khi họ đắp nặn từng bộ phận riêng rẽ của một sản phẩm và sau đó tiến hành chắp ghép lại. Hiện nay theo yêu cầu sản xuất gốm công nghiệp hay mĩ nghệ, nghệ nhân gốm có thể đắp nặn một sản phẩm mẫu để đổ khuôn thạch cao phục vụ cho việc sản xuất hàng loạt. Việc tạo hình sản phẩm gốm theo khuôn in (khuôn thạch cao hay khuôn gỗ) được tiến hành như sau: đặt khuôn giữa bàn xoay, ghim chặt lại, láng lòng khuôn rồi ném mạnh đất in sản phẩm giữa lòng khuôn cho bám chắc chân, vét đất lên lợi vành, quay bàn xoay và kéo cán tới mức cần thiết đề tạo sản phẩm. Ngày nay người làng gốm Bát Tràng sử dụng phổ biến kĩ thuật "đúc" hiện vật. Muốn có hiện vật gốm theo kĩ thuật đúc trước hết phải chế tạo khuôn bằng thạch cao. Khuôn có cấu tạo từ đơn giản đến phức tạp. Loại đơn giản là khuôn hai mang, loại phức tạp thì thường cớ nhiều mang, tuỳ theo hình dáng của sản phẩm định tạo. Cách tạo dáng này trong cùng một lúc có thể tạo ra hàng loạt sản phẩm giống nhau, rất nhanh và giản tiện. Ngoài ra người ta còn dùng phương pháp đổ rót: đổ "hồ thừa" hay "hồ đầy" để tạo dáng sản phẩm. Phơi sấy và sửa hàng mộc Tiến hành phơi sản phẩm mộc sao cho khô, không bị nứt nẻ, không làm thay đổi hình dáng của sản phẩm. Biện pháp tối ưu mà xưa nay người Bát Tràng vẫn thường sử dụng là hong khô hiện vật trên giá và để nơi thoáng mát. Ngày nay phần nhiều các gia đình sử dụng biện pháp sấy hiện vật trong lò sấy, tăng nhiệt độ từ từ để cho nước bốc hơi dần dần. Sản phẩm mộc đã định hình cần đem "ủ vóc" và sửa lại cho hoàn chỉnh. Người thợ gốm đặt sản phẩm vào mà trên bàn xoay nhẹ đà rồi vừa xoay bàn xoay vừa đẩy nhẹ vào chân vóc cho cân, dùng dùi vỗ nhẹ vào chân "vóc" cho đất ở chân "vóc" chặt lại và sản phẩm tròn trở lại (gọi là "lùa"). Người thợ gốm tiến hành các động tác cắt, gọt chỗ thừa, bồi đắp chỗ khuyết, chắp các bộ phận của sản phẩm (như vòi ấm, quai tách...), khoan lỗ trên các sản phẩm, tỉa lại đường nét hoa văn và thuật nước cho mịn mặt sản phẩm. Những sản phẩm sửa lại mà không dùng bàn xoay thì gọi là "làm hàng bộ", phải dùng bàn xoay thì gọi là "làm hàng bàn". Theo yêu cầu trang trí, có thể đắp thêm đất vào một vài vùng nào đó trên sản phẩm rồi cắt tỉa để tạo hình (đắp phù điêu), có khi phải khắc sâu các hoạ tiết trang trí trên mặt sản phẩm... Quá trình trang trí hoa văn và phủ men Kỹ thuật vẽ Thợ gốm Bát Tràng dùng bút lông vẽ trực tiếp trên nền mộc các hoa văn hoạ tiết. Thợ vẽ gốm phải có tay nghề cao, hoa văn họa tiết phải hài hoà với dáng gốm, các trang trí hoạ tiết này đã nâng nghề gốm lên mức nghệ thuật, mỗi cái là một tác phẩm. Thợ gốm Bát Tràng cũng đã dùng rất nhiều hình thức trang trí khác, có hiệu quả nghệ thuật như đánh chỉ, bôi men chảy màu, vẽ men màu... Gần đây, Bát Tràng xuất hiện kĩ thuật vẽ trên nền xương gốm đã nung sơ lần 1 hoặc kĩ thuật hấp hoa, một lối trang trí hình in sẵn trên giấy decal, nhập từ nước ngoài. Hai kiểu này tuy đẹp nhưng không phải là truyền thống của Bát Tràng. Những loại này không được coi là nghệ thuật và sáng tạo trong di sản gốm Bát Tràng, cũng như gốm Việt Nam nói chung. Chế tạo men Men tro là men đặc sắc của gốm Bát Tràng, ngoài ra còn có men màu nâu, thành phần loại men này bao gồm men tro cộng thêm 5% đá thối (hỗn hợp oxide sắt và oxide mangan lấy ở Phù Lãng, Hà Bắc). Từ thế kỉ 15 thợ gốm Bát Tràng đã từng chế tạo ra loại men lam nổi tiếng. Loại men này được chế từ đá đỏ (có chứa oxide côban) đá thối (chứa oxide mangan) nghiền nhỏ rồi trộn với men áo. Men lam phát màu ở nhiệt độ 1250 °C. Đầu thế kỉ 17 người Bát Tràng dùng vôi sống, tro trấu và cao lanh chùa Hội (thuộc Bích Nhôi, Kinh Môn, Hải Dương) có màu hồng nhạt điều chế thành một loại men mới là men rạn. Thợ gốm Bát Tràng thường quen sử dụng cách chế tạo men theo phương pháp ướt bằng cách cho nguyên liệu đã nghiền lọc kĩ trộn đều với nhau rồi khuấy tan trong nước đợi đến khi lắng xuống thì bỏ phần nước trong ở trên và bã đọng ở dưới đáy mà chỉ lấy các "dị" lơ lửng ở giữa, đó chính là lớp men bóng để phủ bên ngoài đồ vật. Trong quá trình chế tạo men người thợ gốm Bát Tràng nhận thấy để cho men dễ chảy hơn thì phải chế biến bột tro nhỏ hơn nhiều so với bột đất, vì thế mà có câu "nhỏ tro to đàn". Tráng men Khi sản phẩm mộc đã hoàn chỉnh, người thợ gốm có thể nung sơ bộ sản phẩm ở nhiệt độ thấp rồi sau đó mới đem tráng men hoặc dùng ngay sản phẩm mộc hoàn chỉnh đó trực tiếp tráng men lên trên rồi mới nung. Người thợ gốm Bát Tràng thường chọn phương pháp tráng men trực tiếp lên trên sản phẩm mộc hoàn chỉnh. Sản phẩm mộc trước khi đem tráng men phải được làm sạch bụi bằng chổi lông. Những sản phẩm mà xương gốm có màu trước khi tráng men phải có một lớp men lót để che bớt màu của xương gốm, đồng thời cũng phải tính toán tính năng của mỗi loại men định tráng lên từng loại xương gốm, nồng độ men, thời tiết và mức độ khó của xương gốm... Kĩ thuật tráng men có nhiều hình thức như phun men, dội men lên bề mặt cốt gốm cỡ lớn, nhúng men đối với loại gốm nhỏ nhưng thông dụng nhất là hình thức láng men ngoài sản phẩm, gọi là "kìm men", và khó hơn cả là hình thức "quay men" và "đúc men". Quay men là hình thức tráng men bên trong và bên ngoài sản phẩm cùng một lúc, còn đúc men thì chỉ tráng men trong lòng sản phẩm. Đây là những thủ pháp tráng men của thợ gốm Bát Tràng, vừa là kĩ thuật vừa là nghệ thuật, được bảo tồn qua nhiều thế hệ, thậm chí đã từng là bí quyết trong nghề nghiệp ở đây. Sửa hàng men Người thợ gốm tiến hành tu chỉnh lại sản phẩm lần cuối trước khi đưa vào lò nung. Trước hết phải xem kĩ từng sản phẩm một xem có chỗ nào khuyết men thì phải bôi quệt men vào các vị trí ấy. Sau đó họ tiến hành "cắt dò" tức cạo bỏ những chỗ dư thừa men, công việc này gọi là "sửa hàng men". Quá trình nung Khi công việc chuẩn bị hoàn tất thì đốt lò trở thành khâu quyết định sự thành công hay thất bại của một mẻ gốm. Vì thế giờ phút nhóm lò trở nên thiêng liêng trọng đại với người thợ gốm. Người thợ cả cao tuổi nhất thắp ba nén hương và thành kính cầu mong trời đất và thần lửa phù giúp. Việc làm chủ ngọn lửa theo nguyên tắc nâng dần nhiệt độ để lò đạt tới nhiệt độ cao nhất và khi gốm chín thì lại hạ nhiệt độ từ từ chính là bí quyết thành công của khâu đốt lò. Trước đây người thợ gốm Bát Tràng chuyên sử dụng các loại lò như lò ếch (hay lò cóc), lò đàn và lò bầu để nung gốm, sau này, xuất hiện thêm nhiều loại lò nung khác, càng ngày càng hiện đại và đơn giản trong việc thao tác hơn. Lò nung Lò ếch là kiểu lò gốm cổ nhất được sử dụng một cách phổ biến ở khắp mọi nơi, hiện nay mất hết dấu tích nhưng qua các nguồn tư liệu gián tiếp vẫn có thể hình dung được lò có hình dáng giống như một con ếch dài khoảng 7 mét, bề ngang chỗ rộng nhất khoảng 3-4 mét, cửa lò rộng khoảng 1,2 mét, cao 1 mét. Đáy lò phẳng nằm ngang, vòm lò cao khoảng từ 2 mét đến 2,7 mét. Bên hông lò có một cửa ngách rộng 1 mét, cao 1,2 mét phục vụ cho việc chồng lò và dỡ sản phẩm. Lò có 3 ống khói thẳng đứng cao 3-3,5 mét. Trong mỗi bầu lò người ta chia thành 5 khu vực xếp sản phẩm là: hàng dàn, hàng gáy, hàng giữa, hàng chuột chạy và hàng mặt. Trong quá trình lâu dài sử dụng lò ếch, để khắc phục nhược điểm của lớp đất gia cố bên trong và sàn lò, người ta thay vào đó lớp gạch mộc và vữa ghép lại. Lò đàn xuất hiện vào giữa thế kỉ 19. Lò đàn có bầu lò dài 9 mét, rộng 2,5 mét, cao 2,6 mét được chia thành 10 bích bằng nhau. Vị trí phân cách giữa các bích là hai nống (cột). Cửa lò rộng 0,9 mét, cao l mét. Bích thứ 10 gọi là bích đậu thông với buồng thu khói qua 3 cửa hẹp. Để giữ nhiệt, bích lò kéo dài và ôm lấy buồng thu khói. Lớp vách trong ghép gạch Bát Tràng, lớp vách ngoài xây bằng gạch dân dụng. Mặt dưới của cật lò gần như bằng phẳng còn mặt trên hình vòng khum. Hai bên cật lò từ bích thứ 2 đến bích thứ 9 người ta dấu mở hai cửa nhỏ hình tròn, đường kính 0,2 mét gọi là các lỗ giòi để ném nhiên liệu vào trong bích. Riêng bích đậu người ta mở lỗ đậu (lỗ giòi rộng hơn nửa mét). Nhiệt độ lò đàn có thể đạt được 1250–1300 °C. Lò bầu, hay lò rồng, xuất hiện vào đầu thế kỉ 20. Lò bầu chia ra làm nhiều ngăn, thường có từ 5 đến 7 bầu (cũng có khi đến 10 bầu). Bầu lò có vòm cuốn liên tiếp vuông góc với trục tiêu của lò tựa như những mảnh vỏ sò úp nối với nhau. Người ta dùng gạch chịu lửa đề xây dựng vòm cuốn của lò. Lò dài khoảng 13 mét cộng với đoạn để xây ống khói ở phía đuôi dài 2 mét thì toàn bộ độ dài của lò tới 15 mét. Độ nghiêng của trục lò khoảng 12-15⁰. Nhiệt độ của lò bầu có thể đạt tới 1300 °C. Lò hộp hay lò đứng: Khoảng năm 1975 trở lại đây người Bát Tràng chuyển sang xây dựng lò hộp để nung gốm. Lò thường cao 5 mét rộng 0,9 mét, bên trong xây bằng gạch chịu lửa giống như xây tường nhà. Lò mở hai cửa, kết cấu đơn giản, chiếm ít diện tích, chi phí xây lò không nhiều, tiện lợi cho quy mô gia đình. Vì thế hầu như gia đình nào cũng có lò gốm, thậm chí mỗi nhà có đến 2, 3 lò. Nhiệt độ lò có thể đạt 1250 °C. Lò con thoi (hay lò gas), lò tuynen (lò hầm, lò liên tục): Trong những năm gần đây, Bát Tràng xuất hiện thêm những kiểu lò hiện đại là lò con thoi, hoặc lò tuynen, với nhiên liệu là khí đốt hoặc dầu. Trong quá trình đốt, nhiệt độ được theo dõi qua hỏa kế, việc điều chỉnh nhiệt độ mà thực chất là quá trình tăng giảm nhiên liệu được thực hiện bán tự động hoặc tự động, công việc đốt lò trở nên đơn giản hơn nhiều. Tuy nhiên, đây không phải là những lò truyền thống của Bát Tràng. Bao nung Trước đây, các lò gốm Bát Tràng dùng một loại gạch vuông ghép lại làm bao nung. Loại gạch này sau hai ba lần sử dụng trong lò đạt đến độ lửa cao và cứng gần như sành (đó chính là gạch Bát Tràng nổi tiếng). Gần đây bao nung thường được làm bằng đất sét chịu lửa có màu xám sẫm trộn đều với bột gạch hoặc bao nung hỏng nghiền nhỏ (gọi là sa mốt) với tỉ lệ 25–35% đất sét và 65–75% sa mốt. Người ta dùng một lượng nước vừa đủ để trộn đều và đánh nhuyễn chất hỗn hợp này rồi đem in (dập) thành bao nung hay đóng thành gạch ghép ruột lò. Bao nung thường hình trụ để cho lửa có điều kiện tiếp xúc đều với sản phẩm. Tuỳ theo sản phẩm mà bao nung có kích thước không giống nhau nhưng phổ biến hơn cả là loại có đường kính từ 15 đến 30 cm, dày 2–5 cm và cao từ 5 đến 40 cm. Một bao nung có thể dùng từ 15 đến 20 lần. Nếu sản phẩm được đốt trong lò con thoi hoặc lò tuynen, thường không cần dùng bao nung. Nhiên liệu Đối với loại lò ếch có thể dùng các loại rơm, rạ, tre, nứa để đốt lò, sau đó Bát Tràng dùng kết hợp rơm rạ với các loại "củi phác" và "củi bửa" và sau nữa thì củi phác và củi bửa dần trở thành nguồn nhiên liệu chính cho các loại lò gốm ở Bát Tràng. Củi bửa và củi phác sau khi đã bổ được xếp thành đống ngoài trời, phơi sương nắng cho ải ra rồi mới đem sử dụng. Đối với loại lò đàn, tại bầu, người ta đốt củi phác còn củi bửa được dùng để đưa qua các lỗ giòi, lỗ đậu vào trong lò. Khi chuyển sang sử dụng lò đứng, nguồn nhiên liệu chính là than cám còn củi chỉ để gầy lò. Than cám đem nhào trộn kĩ với đất bùn theo tỷ lệ nhất định có thể đóng thành khuôn hay nặn thành bánh nhỏ phơi khô. Nhiều khi người ta nặn than ướt rồi đập lên tường khô để tường hút nước nhanh và than chóng kết cứng lại và có thể dùng được ngay. Chồng lò Sản phẩm mộc sau quá trình gia công hoàn chỉnh được đem vào lò nung. Việc xếp sản phẩm trong lò nung như thế nào là tuỳ theo sản phẩm và hình dáng kích, cỡ của bao nung trên nguyên tắc vừa sử dụng triệt để không gian trong lò vừa tiết kiệm được nhiên liệu mà lại đạt hiệu nhiệt cao. Bởi cấu tạo của mỗi loại lò khác nhau nên việc chồng lò theo từng loại lò cũng có những đặc điểm riêng. Đối với loại lò ếch, người ta xếp sản phẩm từ gáy lò ra tới cửa lò, còn đối với loại lò đàn thì người ta xếp sản phẩm từ bích thứ 2 đến bích thứ 10 (riêng bích thứ 10 vì lửa kém nên sản phẩm thường để trần không cần có bao nung ở ngoài). Ở bầu cũi lợn (bầu đầu tiên) nơi dành để đốt nhiên liệu, có nhiệt độ cao nên đôi khi người ta xếp các loại sản phẩm trong các bao ngoại cỡ. Sản phẩm được xếp trong lò bầu giống như lò đàn. Riêng đối với lò hộp, tất cả các sản phẩm đều được đặt trong các bao nung hình trụ không đậy nắp và xếp chồng cao dần từ đáy lên nóc, xung quanh tường lò và chỗ khoảng trống giữa các bao nung đều được chèn các viên than. Làng Bát Tràng xưa có các phường Chồng Lò, mỗi phường thường gồm 7 người (3 thợ cả, 3 thợ đệm và 1 thợ học việc). Họ chia thành 3 nhóm trong đó mỗi nhóm có 1 thợ cả và 1 thợ đệm, còn thợ học việc có nhiệm vụ bưng bao nung và sản phẩm mộc phục vụ cho cả ba nhóm trên. Nhóm thứ nhất có nhiệm vụ chồng đáy (xếp bao nung và sản phẩm ba lớp từ đáy lên), nhóm thứ hai có nhiệm vụ chồng giữa (xếp ba lớp giữa), còn nhóm thứ ba là nhóm gọi mặt (xếp ba lớp cuối cùng ở vị trí cao nhất trong lò). Phường Chồng Lò ở Bát Tràng chủ yếu tập hợp những người thợ gốm ở Sài Sơn (Quốc Oai, Hà Tây) và Vân Đình (Mỹ Đức, Hà Tây) chuyên phục vụ chơ các lò gốm Bát Tràng. Đốt lò Nhìn chung đối với các loại lò ếch, lò đàn, lò bầu thì quy trình đốt lò đều tương tự nhau và với kinh nghiệm của mình, người "thợ cả" có thể làm chủ được ngọn lửa trong toàn bộ quá trình đốt lò. Ở lò đàn khoảng một nửa ngày kể từ khi nhóm lửa người ta đốt nhỏ lửa tại bầu cũi lợn để sấy lò và sản phẩm trong lò. Sau đó người ta tăng dần lửa ở bầu cũi lợn cho đến khi lửa đỏ lan tới bích thứ tư thì việc tiếp củi ở các bầu cũi lợn được dừng lại. Tiếp tục ném củi bửa qua các lỗ giòi. Người xuất cả bằng kinh nghiệm của mình kiểm tra kỹ các bích và ra lệnh ngừng ném củi bửa vào bích nào khi biết sản phẩm ở bích đó đã chín. Càng về cuối sản phẩm chín càng nhanh. Khi sản phẩm trong bích đậu đã sắp chín thì người thợ cả quyết định ném dồn dập trong vòng nửa tiếng khoảng 9-10 bó củi bửa qua lỗ đậu rồi kết thúc việc tiếp củi. Trong phường đốt lò, người phường trưởng (xuất cả) phụ trách chung về kỹ thuật, hai người thợ đốt ở cửa lò (đốt dưới), bốn người chuyên ném củi bửa qua các lỗ giòi (đốt trên). Sau khi nung xong người ta bịt hết các cửa lò, lỗ giòi, lỗ xem lửa để làm nguội từ từ. Quá trình làm nguội trong lò kéo dài 2 ngày 2 đêm, sau đó mới mở cửa lò và để tiếp 1 ngày 1 đêm nữa rồi mới tiến hành ra lò. Đối với lò đứng, việc đốt lò trở nên đơn giản hơn nhiều vì khi hoàn tất khâu chồng lò cũng có nghĩa là đã kết thúc việc nạp nhiên liệu. Thế nhưng do đặc điểm của lò, người thợ đốt lò dù có dày dạn kinh nghiệm cũng rất khó có thể làm chủ được ngọn lửa, đây thực sự là vấn ra khó khăn nhất trong khâu kĩ thuật ở làng Bát Tràng. Người ta dùng gạch chịu lửa bịt cửa lò lại rồi nhóm lò bằng củi. Lửa cháy bén vào than và bốc từ dưới lên. Than trong lò cháy hết cũng là lúc kết thúc công việc đốt lò. Thời gian đốt lò kể từ lúc nhóm lửa đến khi hoàn toàn tắt lửa kéo dài khoảng 3 ngày 3 đêm. Sau khi lò nguội, sản phẩm ra lò được đánh giá phân loại và sửa chữa lại các khuyết tật (nếu có thể được) trước khi đem ra phân phối sử dụng. Những đặc điểm của gốm Bát Tràng Căn cứ vào những đặc điểm chung về xương gốm, màu men, đề tài trang trí và đặc biệt nhờ các dòng minh văn, có thể rút ra những đặc điểm cơ bản của gốm cổ Bát Tràng. Loại hình Hầu hết, đồ gốm Bát Tràng được sản xuất theo lối thủ công, thể hiện rõ rệt tài năng sáng tạo của người thợ lưu truyền qua nhiều thế hệ. Do tính chất của các nguồn nguyên liệu tạo cốt gốm và việc tạo dáng đều làm bằng tay trên bàn xoay, cùng với việc sử dụng các loại men khai thác trong nước theo kinh nghiệm nên đồ gốm Bát Tràng có nét riêng là cốt đầy, chắc và khá nặng, lớp men trắng thường ngả màu ngà, đục. Bát Tràng cũng là làng gốm có các dòng men riêng từ loại men ngọc cùng với nâu và trắng cho đến men rạn với cốt gốm xốp có màu xám nâu. Dựa vào ý nghĩa sử dụng, có thể phân chia loại hình của đồ gốm Bát Tràng như sau: Đồ gốm gia dụng: Bao gồm các loại đĩa, chậu hoa, âu, thạp, ang, bát, chén, khay trà, ấm, điếu, nậm rượu, bình vôi, bình, lọ, choé và hũ. Đồ gốm dùng làm đồ thờ cúng: Bao gồm các loại chân đèn, chân nến, lư hương, đỉnh, đài thờ, mâm gốm và kiếm. Trong đó, chân đèn, lư hương và đỉnh là những sản phẩm có giá trị đối với các nhà sưu tầm đương đại vì lẽ trên nhiều chiếc có minh văn cho biết rõ họ tên tác giả, quê quán và năm tháng chế tạo, nhiều chiếc còn ghi khắc cả họ và tên của những người đặt hàng. Đó là một nét đặc biệt trong đồ gốm Bát Tràng. Đồ trang trí: Bao gồm mô hình nhà, long đình, các loại tượng như tượng nghê, tượng ngựa, tượng Di Lặc, tượng Kim Cương, tượng hổ, tượng voi, tượng người ba đầu, tượng đầu khỉ mình rắn và tượng rồng. Trang trí Thế kỉ 14–15: Hình thức trang trí trên gốm Bát Tràng bao gồm các kiểu như khắc chìm, tô men nâu theo kĩ thuật gốm hoa nâu thời Lý–Trần, kết hợp với chạm nổi và vẽ men lam. Khoảng thời gian này đánh dấu sự ra đời của dòng gốm hoa lam đồng thời xuất hiện những đồ gốm hoa nâu vẽ theo gốm hoa lam. Đề tài trang trí còn giới hạn trong các đồ án hoa lá, tiếp nối gốm hoa nâu thời Trần. Thế kỉ 16, cùng với việc xuất hiện những chân đèn, lư hương có kích thước lớn hơn, kĩ thuật trang trí chạm nổi kết hợp vẽ men lam đạt đến trình độ tinh xảo. Đề tài trang trí phổ biến có các loại: rồng, phượng, xen kẽ cụm mây, ngựa có cánh, hoạt cảnh người, cánh sen đứng, hoa dây, lá đề, phong cảnh sơn thủy... Trang trí vẽ men lam còn giữ được nhịp độ phát triển, nhiều loại văn hình học và hoa lá còn thấy gần gũi với đồ gốm hoa lam xuất hiện cùng thời ở Chu Đậu, (Hải Dương). Thế kỉ 17, kĩ thuật chạm khắc, đắp nổi trên gốm Bát Tràng càng tinh tế, cầu kì, gần gũi với chạm đá và gỗ. Đề tài trang trí tiếp nối thế kỉ 16, đồng thời xuất hiện các đề tài trang trí mới: bộ tứ linh, hổ phù, nghê, hạc... Những đề tài chạm nổi, để mộc điển hình khác như bông cúc hình ôvan, bông hoa 8 cánh, bông cúc tròn, cánh hoa hình lá đề, cánh sen vuông, các chữ Vạn-Thọ (chữ Hán)... Việc sử dụng men lam kém dần, tuy đề tài trang trí vẽ tương đồng với chạm nổi. Thế kỉ 17 xuất hiện dòng gốm men rạn với sự kết hợp trang trí đề tài nổi bật như rồng, tứ linh, hoa lá, cúc-trúc-mai. Trong khoảng thời gian này còn xuất hiện loại gốm nhiều màu, nổi trội nhất là màu ngọc với các đề tài trang trí độc đáo: hoa sen, chim, nghê, hình người... Thế kỉ 18, trang trí chạm nổi gần như chiếm chủ đạo thay thế hẳn trang trí vẽ men lam trên gốm Bát Tràng. Các kỹ thuật đúc nổi, dán ghép, chạm khắc nổi đã thích ứng với việc sử dụng men đơn sắc (men trắng xám và men rạn). Đề tài trang trí ngoài bộ tứ linh, rồng, nghê còn thể hiện các loài cây tượng trưng cho bốn mùa. Ngoài đề tài sen, trúc, chim và hoa lá còn thấy xuất hiện các loại văn bát quái, lá lật... Hoa văn đường diềm phát triển manh các nền gấm, chữ vạn, cánh sen nhọn, hồi văn, sóng nước... Thế kỉ 19, gốm hoa lam Bát Tràng phục hồi và phát triển phong cách kết hợp sử dụng nhiều loại men vào trang trí. Bên cạnh các đề tài đã có, Bát Tràng còn xuất hiện thêm các đề tài du nhập từ nước ngoài theo các điển tích Trung Quốc như Ngư ông đắc lợi, Tô Vũ chăn dê, Bát tiên quá Hải, Ngư ông kéo lưới... Đối với các nhà khảo cổ, các nhà sưu tầm đổ cổ và các nhà nghiên cứu mỹ thuật, chủ đề rồng thể hiện qua các thời kì được nhiều người quan tâm nhất vì nó có những sự thay đổi đáng kể. Rồng là đề tài thường được trang trí trên nhiều loại hình, đặc biệt trên chân đèn và lư hương. Thế kỉ 16, rồng được đắp nổi hoặc để mộc như trên đồ gốm thời Nguyên (Trung Quốc) hay vẽ men lam, rồng có đôi cánh mọc ra từ chân trước, cong như cánh bướm. Rồng cùng với phượng mở ra cấu trúc trang trí rồng bay phượng múa. Đầu thế kỉ 17, rồng vẫn giữ nhiều nét tương đồng rồng thế kỉ 16, nhưng sau đó được cách điệu với 4 khúc không đều nhau, mở ra một kiểu rồng mới, khác lạ. Rồng bố cục theo chiều ngang, dáng rồng ngắn, thân uốn hình cánh cung, tay trước nắm râu. Rồng chạm nổi trong hình khánh hay thấu kính có thân nhỏ và đều có những dải mấy lửa kiểu đao mác. Nửa sau thế kỉ 17 lại xuất hiện dáng rồng gần gũi với rồng điêu khắc trên gỗ. Đuôi rồng từ bên trái trườn qua bên phải, đầu quay vào giữa. Mặt rồng tả chính diện, tay trước nắm râu. Xung quanh rồng có nhiều dải mây nổi vẽ men lam. Một kiểu rồng nữa được thể hiện trên lư hương, đế nghê, mô hình nhà là rồng nổi, đuôi vút lên trên, hai chân trước chống, đầu uốn lên, bố cục trong hình chữ nhật. Thế kỉ 18, rồng thân dài, đắp nổi theo dạng phù điêu, đầu nghiêng, hai mắt lồi, sừng và râu cong, bờm gáy dày, vây cá nhọn, vảy rắn, xung quanh rồng có những dải mây nổi hình 3 ngọn lửa. Sau đó, rồng ổ xuất hiện bao gồm một rồng mẹ và 6 rồng con, xen kẽ các dải mây hình khánh. Rồng được thể hiện trên bình con voi, lư hương hoặc trên bao kiếm thờ...Với rồng đắp nổi, chỉ thể hiện đầu rồng chính diện, hai chân trước dang rộng, lộ mũi hẹp, mắt lồi, miệng ngậm vòng tròn hay chữ Thọ kiểu triện còn được thể hiện trên những chiếc đỉnh. Thế kỉ 19, rồng lại được thể hiện theo phong cách tượng tròn với thân ngắn, mình tròn, đầu rồng có miệng rộng, mũi cao, vây cá, vảy tròn và được trang trí theo kiểu đắp nổi hoặc vẽ men lam trên đỉnh gốm hoặc trên bình men rạn vẽ nhiều màu. Ngoài ra, còn có đầu rồng với mặt nhìn chính diện, hai chân xoè ngang năm hai dải mây, miệng ngậm vòng... Các dòng men Gốm Bát Tràng có 5 dòng men đặc trưng được thể hiện qua mỗi thời kì khác nhau để tạo nên những sản phẩm đặc trưng khác nhau: men lam xuất hiện khởi đầu ở Bát Tràng với những đồ gốm có sắc xanh chì đến đen sẫm; men nâu thể hiện theo phong cách truyền thống và được vẽ theo kĩ thuật men lam; men trắng ngà sử dụng trên nhiều loại hình đồ gốm từ thế kỉ 17 đến thế kỉ 19, men này mỏng, màu vàng ngà, bóng thích hợp với các trang trí nổi tỉ mỉ; men ngọc được dùng kết hợp với men trắng ngà và nâu tạo ra một đòng Tam thái rất riêng của Bát Tràng ở thế kỉ 16–17 và men rạn là dòng men chỉ xuất hiện tại Bát Tràng từ cuối thế kỉ 16 và phát triển liên tục qua các thế kỉ 17–19. Men lam Đây là loại men sớm nhất được sử dụng tại Bát Tràng từ thế kỉ 14. Men lam là men gốm được cộng thêm với gốc màu là oxide côban. Thợ Bát Tràng sử dụng men lam đồng thời với kĩ thuật dùng bút lông làm công cụ vẽ trên đồ gốm. Men lam không để để trần như men nâu mà bao giờ cũng được phủ lớp men màu trắng bóng, có độ thủy tinh hoá cao sau khi nung. Men lam có sắc độ từ xanh chì đến xanh sẫm. Bên cạnh điểm tương đồng với các loại bình gốm hoa lam sản xuất ở lò Chu Đậu (Hải Dương), gốm hoa lam Bát Tràng ngay ở thời kì đầu đã có những nét riêng về dáng và về hoạ tiết trang trí. Những bát, âu, lọ, chân đèn gốm hoa lam của Bát Tràng thế kỉ 14–15 có nét chung dễ nhận là lối vẽ phóng bút, dù là vẽ phong cảnh, hoa dây lá hay vẽ rồng. Gốm hoa lam Bát Tràng thế kỉ 16, có sắc xanh đen. Men lam dùng để vẽ mây kết hợp với trang trí hình rồng nổi để mộc, vẽ cánh sen, các băng đường diềm các cặp chân đèn ngoài ra men lam dùng vẽ vào các hình trang trí nổi rồng, hoa dây và cánh sen của chân đèn và lư hương. Thế kỉ 17 là một thời kì men lam kém phát triển tại Bát Tràng. Trên một số các chân đèn, lư hương, hũ, tượng gốm Bát Tràng (thế kỉ 17) hiện còn, lớp men vẽ trang trí màu nâu ở những chỗ men phủ màu trắng ngà rạn bị bong tróc, chỗ còn men phủ, màu nâu có sắc xanh chì, đặc biệt là chân đèn và lư hương, các hình vẽ men lam kém chau chuốt và tình trạng khá phổ biến men lam chảy nhoè, không nhận ra các họa tiết. Trong khi đó khắc chạm nổi, để mộc rất tỉ mỉ, đạt tới đỉnh cao. Cuối thế kỉ 18, trong đỉnh cao về men rạn, Bát Tràng xuất hiện lối kết hợp trang trí nổi với vẽ lam như trên chân đèn, men lam được khôi phục trở lại trên đồ gốm Bát Tràng. Thế kỉ 19, men lam được vẽ trang trí trên lư, choé, bình, lọ, bát hương, nậm rượn phủ men rạn trắng ngà hoặc đỉnh gốm, bình gốm men nhiều màu. Nét biểu hiện đặc trưng của men lam gốm Bát Tràng là sắc màu và lối vẽ, nhìn chung có sắc trầm. Dùng men lam vẽ phong cảnh sơn thủy, nhà cửa, lâu đài, nhân vật khá thành công trên bình. Men lam có sắc tươi dùng tô vẽ trang trí nồi trên đỉnh có thể là một trong số những tiêu bản gốm hoa lam đẹp nhất của gốm Bát Tràng ở cuối thế kỉ 19. Trong xu hướng ảnh hưởng kiểu dáng, đề tài và cạnh tranh thị trường với gốm sứ Trung Quốc, đồ gốm Bát Tràng ở thế kỉ 19 còn có nhiều trường hợp dùng nhiều màu men. Chẳng hạn, để thể hiện đê tài Bát Tiên quá hải người thợ Bát Tràng dùng men nâu và men lam tô lên các hình trang trí nồi sau đó phủ men trắng rạn. Men lam cùng với men trắng vẽ các đề tài mã liễu, tiêu tượng, tùng lộc trên lư gốm men nâu, men lam vẽ cành liễu, khóm lan, bụi cỏ trong bức tranh nổi Tô Vũ chăn dê, men lam cùng với men nâu sắc sẫm và nhạt tạo nên chiếc đỉnh gốm men nhiều màu đồ sộ. Đó cũng là bằng chứng sinh động về bàn tay tài khéo của nhiều đời thợ gốm Bát Tràng được kế thừa và không ngừng tiến triển. Men nâu Một trong số các loại men sử dụng đầu tiên ở Bát Tràng là men nâu, sắc độ màu của men phụ thuộc nhiều vào xương gốm (xương gốm Bát tràng dày và thường có màu nâu xám). Trên các đồ gốm có niên đại thế kỉ 14 đầu thế kỉ 15, men nâu được dùng tô lên các đồ án trang trí kết hợp với men nền màu trắng ngà bao gồm chân đèn, thạp, chậu, âu, đĩa...Men nâu có sắc độ đỏ nâu hay gọi là màu bã trầu (chocolate), men này không bóng, trên bề mặt men thường có vết sần. Men nâu còn được dùng phủ toàn bộ rồi cạo bỏ phần men tạo thành đồ án hoa văn mộc. Thế kỉ 14, thợ gốm Bát Tràng đã biết hạn chế sự ảnh hưởng màu men nâu do mộc bằng cách vẽ men nâu trên lớp men trắng ngà để chuyển men nâu đỏ sang vàng nâu. Trong các loại hình của nhóm đồ gốm men nhiều mâu thế kỉ 16–17, men nâu được dùng xen lẫn với men ngọc, men ngà, tạo ra các sắc độ khác nhau. Men nâu giữ vị trí các đường chỉ chia băng, tô lên hoa sen hoặc các hình rồng, đối với lư hương chữ nhật men nâu tô lên phần chân đế... Các đồ gốm thế kỉ 18 tiếp tục sử dụng men nâu nhiều theo cách thức cổ truyền, một số nghệ nhân tìm tòi phát huy thêm để làm phong phú màu men này, đặc biệt trên cặp tượng hổ chế tạo khoảng năm 1740, men nâu dưới lớp men rạn tạo nên bộ da hổ có màu sắc đa dạng hơn. Thế kỉ 19, men nâu dùng làm nền cho các trang trí men trắng và xanh. Những bình, lọ men rạn ngà, thể hiện đề tài trang trí: Ngư ông đắc lợi, tùng hạc, Tô Vũ chăn dê, Bát tiên quá hải... men nâu dùng để tô trên những thân cây tùng, cây liễu hoặc điểm thêm vào các dải mây, tà áo của Bát tiên. Thế kỉ 19 là thời điểm đánh dấu men nâu đã chuyển sắc thành một loại men bóng (thường gọi là men da lươn), sử dụng rộng rãi ở Bát Tràng cho tới tận ngày nay. Men trắng (ngà) Đây là loại men trắng, nhiều trường hợp ngả màu vàng ngà, bóng khi nhiệt độ nung đạt độ cao nhưng cũng nhiều trường hợp có màu trắng xám, trắng sữa, đục. Cùng với kiểu dáng và trang trí, men trắng ngà cũng tạo nên một nét riêng biệt của đồ gốm Bát Tràng. Men trắng ngà đã thấy sử dụng phủ lên trang trí men lam hay men nâu, nhưng trong rất nhiều đồ gốm Bát Tràng chỉ thấy dùng men trắng ngà. Gốm Bát Tràng thế kỉ 17 đạt đỉnh cao trong kĩ thuật trang trí nổi với hầu hết các thủ pháp kĩ thuật chạm trổ, dán ghép. Men trắng ngà được sử dụng trên các lư hương để phủ trên các rìa, ước và đường viền ngoài phần trang trí nổi, rất ít khi phủ lên hình trang trí. Vì men trắng mỏng, xương gốm được lọc luyện kĩ và độ nung cao nên có chất lượng tốt, một số sản phẩm men trắng ngà phủ lên trang trí nổi dày vẫn có vết rạn men. Thế kỉ 18, men trắng ngà còn thấy sử dụng trên một số loại hình khác nhau cùng trang trí nổi để mộc. Những lư hương tròn được đắp nổi hình rồng và mặt nguyệt, phần còn lại phủ men trắng ngà. Vào thế kỉ 19, gốm Bát Tràng chưa mất hẳn kiểu trang trí nổi để mộc, men ngà còn thấy sử dụng trên các loại bình, lọ, lư hương, tượng tròn. Bình gốm có nắp có các hình rồng mây và lục bảo trang trí nổi để mộc, phần còn lại phủ men trắng ngà. Trên các loại bình, lư hương quai tùng, lư hương chữ Thọ; cặp tượng đầu khỉ thân rắn, tượng rồng trang trí kiến trúc, tượng ba đầu, tượng Phật Bà Quan Âm ngồi trên toà sen đều thấy sử dụng men ngà, xám. Men ngọc Thế kỉ 14–19 men ngọc được dùng khá nổi trội cùng với men trắng ngà và nâu. Men ngọc, men ngà và nâu tạo ra loại Tam thái riêng của gốm Bát Tràng thế kỉ 16–17. Trên chân đèn men ngọc tô lên những bông sen nổi, băng hoa tròn của dải cánh sen các bông hoa tròn hình bánh xe, các hình rồng, các bông hoa nổi đường diềm quanh vai. Men ngọc còn dùng vẽ mây, tô lên nhiều góc mảng diềm, đế và các cột dọc của long đình; men rêu sắc sẫm ở các cột vuông mô hình nhà 2 tầng hay một số mảng đường diềm lư hương chữ nhật. Men ngọc, sắc nhạt, trên chân đèn, đế nghê. Trên lư hương tròn men ngọc thấy điểm vào 4 hình chữ S nổi giữa thân và chân cùng một đôi chỗ trên bụng. Men ngọc sắc sẫm còn thấy tô trên một số mảng trang trí nổi, hình nghê của lư tròn và trên diềm trang trí nổi chân trước tượng nghê. Men ngọc, dù ở các sắc độ khác nhau nhưng sự xuất hiện của nó mang ý nghĩa rất lớn vì chỉ thấy trên đồ gốm Bát Tràng thế kỉ 16–17 và có thể xem đây là một dữ kiện đoán định niên đại khá chắc chắn cho các đồ gốm Bát Tràng trên nhiều loại hình khác nhau. Men rạn Đây là một loại men độc đáo tạo ra do sự chênh lệch về độ co giữa xương gốm và men. Cho đến nay các tài liệu gốm men cổ ở Việt Nam xác nhận mang men rạn chỉ được sản xuất tại lò gốm Bát Tràng từ khoảng cuối thế kỉ 16 và kéo dài tới đầu thế kỉ 20. Lư hương khắc minh văn, do gia đình Đỗ Phủ sản xuất vào cuối thế kỉ 16 thể hiện lớp men rạn trên 2 phần dưới của lư hương tròn có thể xem là tiêu bản gốm men rạn sớm nhất. Men rạn có sắc ngà xám các vết rạn chạy dọc và ngang chia ra nhiều hình tam giác, tứ giác. Cặp chân đèn do "Đỗ phủ xã Bát Tràng" tạo tạo khoảng năm 1600–1618, trong đó men rạn phủ toàn bộ từ miệng tới chân, có màu vàng ngà, rạn trong men, đường chỉ rạn màu đen. Những cặp hiện vật men rạn này rêu có trang trí nổi, ngoài men rạn ra không còn loại men nào khác, đó là những tiêu bản men rạn chuẩn mực của Bát Tràng vào thế kỉ 17. Thế kỉ 18 Bát Tràng còn được sản xuất nhiều loại đồ gốm men rạn có ghi niên đại. Đỉnh gốm men rạn được chế tạo vào năm 1736, men rạn có màu trắng xám. Một đỉnh gốm men rạn khác, có nắp, thân và đế, chế tạo vào khoảng năm 1740–1768 lại dùng men rạn có màu vàng ngà... Men rạn còn được sù dụng trên các loại hình như: chân nến trúc hoá long; ấm có nắp, đài thờ các nắp, cặp tượng nghê. Thế kỉ 19, các đồ gốm dòng men rạn còn tiếp tục phát triển, bên cạnh việc sử dụng kết hợp men rạn với trang trí vẽ lam. Trên các đồ gốm, thợ Bát Tràng còn đắp nổi, khắc chìm hoặc không trang trí, men rạn có màu trắng xám. Minh văn Gốm Bát Tràng nhiều trường hợp có minh văn, thể hiện bằng khắc chìm hay viết bằng men lam dưới men trắng. Một số minh văn cho biết rõ năm sản xuất, họ tên quê quán tác giả chế tạo cùng họ tên, có khi là cả chức tước của người đặt hàng. Thế kỉ 15, một minh văn khắc trên phần dưới chân đèn có ghi: Thuận An phủ, Gia Lâm huyện, Bát Tràng xã tín thí Hoàng Li tỉnh thê Nguyễn Thị Bảo. Trên đai tô nâu giũa phần dưới chân đèn có viết bằng men 6 chữ Hán: Thời Trung xã, Hoàng Phúc tạo. Hoặc cặp phần dưới chân đèn minh văn cho biết: Tác giả: Vũ Ngộ Trên, Bùi Thị Đỗ, Hoàng Thị Vệ, Bùi Huệ, và Trần Thị Ngọ; Thời gian chế tạo: niên hiệu Diên Thành. Có minh văn ghi rõ người đặt hàng như cặp chân đèn hai phần: Người đặt hàng: Lê Thị Lộc, ở Vân Hoạch, Xuân Canh huyện Đông Ngạn. Thời gian chế tạo: Năm Diên Thành thứ 2. Một cặp chân đèn khác có khắc minh văn dài, một bên khắc 3 dòng và một bên 14 dòng, cho biết: Tác giả: Bùi Huệ và Bùi Thị Đỗ; thời gian chế tạo: ngày 25 tháng 11 năm Diên Thành thứ 3; những người đặt hàng: gia đình họ Lưu cùng họ Nguyễn, Lê, Đinh... Trong đớ, họ Lưu, tước Ninh Dương Bá, làm việc ở Thanh Tây vệ, Ti Đô chỉ huy sứ, Đô chỉ huy kiểm sự. Quê quán nhà họ Lưu: xã Lai Xá, huyện Đan Phượng, Phủ Quốc Oai... Và còn rất nhiều sản phẩm có ghi minh văn, những sản phẩm này một số đang được trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, một số tại các bảo tàng nước ngoài, một số hiện được sở hữu bởi các nhà sưu tầm đồ cổ, một số lưu lạc trong dân gian và một số còn chìm sâu trong lòng đất. Hình ảnh sản phẩm Chú thích Tham khảo Gốm Bát Tràng thế kỉ 14–19. Phan Huy Lê, Nguyễn Đình Chiến, Nguyễn Quang Ngọc. Xem thêm Gốm Việt Nam Gốm Chu Đậu Gốm Phù Lãng Đình Bát Tràng Đền Bát Tràng Kim Trúc Tự - Chùa Bát Tràng Xã Bát Tràng Liên kết ngoài Gốm sứ Bát Tràng trên đất Nhật Nghệ nhân Bát Tràng "biến đất thành hoa" Thăm chợ gốm Bát Tràng Một ngày với Bát Tràng Gốm Bát Tràng ra thị trường thế giới Gốm Việt Nam Làng nghề Hà Nội Văn hóa Việt Nam Sơ khai Hà Nội
25806
https://vi.wikipedia.org/wiki/Lu%E1%BA%ADn%20thuy%E1%BA%BFt%20trung%20t%C3%A2m
Luận thuyết trung tâm
Luận thuyết trung tâm hay học thuyết trung tâm, giáo lý trung tâm (central dogma) là một học thuyết sinh học (chủ yếu trong di truyền học và sinh học phân tử) cho rằng DNA là trung tâm của tính di truyền: chính DNA là vật chất mang thông tin di truyền của mọi sinh vật, từ đó quy định các tính trạng của cơ thể thông qua vai trò trung gian của RNA tổng hợp nên prôtêin (hình 1). Khái niệm này dịch từ thuật ngữ tiếng Anh: central dogma được đề xuất bởi một trong các người khai sinh ra sinh học phân tử là Francis Crick vào khoảng năm 1955, sau khi phát hiện vĩ đại của thế kỷ XX là "mô hình DNA" được công bố ít lâu. Nội dung tóm tắt nhất của luận thuyết này là sơ đồ sau đây mà mọi học sinh phổ thông Việt Nam đều đã được học: DNA RNA Prôtêin. Sơ đồ này cần được hiểu là: DNA tạo ra RNA, còn RNA tạo ra Prôtêin, từ đó quy định các tính trạng của sinh vật (trích từ ý của F.Crick: "DNA makes RNA, RNA makes proteins, proteins make us."). Khi mới hình thành, luận thuyết này mới như là một tiên đoán, chứ chưa phải là một học thuyết (theory) khoa học thực sự, do đó mới gọi là dogma ("lý luận" hay "giáo lý"). Từ khoảng những năm 1970 đến nay, luận thuyết được công nhận là đúng đắn hoàn toàn về mặt khoa học. Nó phản ánh dòng thông tin di truyền trong cơ thể sống theo 2 giai đoạn chính là phiên mã ("transcription" ở hình 1), dịch mã tạo nên prôtêin. Tuy nhiên, cũng từ khoảng những năm 1970 trở đi, do sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ, các nhà nghiên cứu còn nhận ra rằng mô hình F. Crick đã nêu là chưa đầy đủ - điều này là tất yếu đối với bất kỳ nha khoa học nào, do ai cũng bị hạn chế bởi thời đại của mình. Do đó, ở dạng tóm tắt nhất, mô hình thể hiện dòng thông tin trong cơ thể sống đầy đủ hơn như sơ đồ hình 2. Phiên mã Phiên mã là quá trình mà tại đó thông tin di truyền chứa trong đoạn DNA được chuyển sang cho RNA thông tin (pre-mRNA) mới được tổng hợp. Tuy nhiên, chuỗi DNA có chứa cả intron và exon, trong đó chỉ có exon có vai trò chứa thông tin mã hóa cho protein. Nên phân tử RNA tạo ra được gọi là pre-mRNA. Nó cần phải được loại bỏ các intron không cần thiết. Quá trình này gọi là cắt xén. Cắt xén Trong tế bào eukaryote hay các tế bào đa nhân khác, sản phẩm của phiên mã (pre-mRNA) cần được tinh giản. Cụ thể là các (intron) bị loại bỏ. Bên cạnh việc loại bỏ các intron, cơ chế cắt xén này cho phép tạo ra các phân tử mRNA hoàn thiện khác nhau, vì trong phân tử RNA có nhiều exon và việc xuất hiện nhiều exon cho phép biểu hiện thành nhiều protein liên quan nhau, tạo ra sự đa dạng về số lượng protein tạo thành. Ví dụ là protein fibronecitin. Tuy nhiên, không phải mọi tế bào sống đều có quá trình cắt xén; việc cắt xén không có trong prokaryote. Điều này cũng dễ hiểu vì chiều dài của mRNA hoặc DNA trong vi khuẩn rất ngắn, nên việc loại bỏ sự tồn tại của các intron là cần thiết. Nó giúp làm tăng số lượng gene có thể mã hóa lên. Dịch mã Cuối cùng, mRNA trưởng thành sẽ đi ra ngoài nhân và tìm đường đến ribosome, tại đó nó sẽ được dịch mã. Trong các tế bào prokaryotic, nơi không có màng ngăn nhân, ngay khi đầu 5' cap của mRNA ló ra ngoài vị trí tổng hợp của RNA polymerase thì ribosome sẽ tiếp cận và bắt đầu quá trình dịch mã. Vì thế trong vi khuẩn, quá trình phiên mã và dịch mã là đồng thời. Trong các tế bào eukaryotic, do có màng nhân ngăn cách, việc phiên mã (trong nhân) diễn ra tách biệt với việc dịch mã (trong tế bào chất). Vì thế mRNA phải được vận chuyển ra ngoài nhân tới tế bào chất, đến ER thô (rough endoplasmic reticulum), nơi mà phân tử RNA có thể kết hợp với ribosome. Tại đó, mRNA được đọc bởi ribosome dưới dạng mã bộ ba (thuật ngữ tiếng Anh là codon). Và bộ ba mở đầu (start codon) đánh dấu bắt đầu một gene là AUG. Các bộ ba kết thúc (stop codon) đánh dấu kết thúc một gene là UAG, UGA, UAA. Ngoại lệ liên quan đến luận thuyết trung tâm Phiên mã ngược Người ta đã phát hiện ra sự tồn tại của quá trình phiên mã ngược, tại đó thông tin di truyền được truyền từ RNA trở lại DNA. Các phát hiện được tìm thấy trên retrovirus, cụ thể là HIV, và ở một số eukaryote, trong quá trình tổng lợp telomere và retrotransposon. Nhân đôi RNA Nhân đôi từ một RNA thành một RNA mới. Rất nhiều virus làm theo cách này khi mà cơ sở di truyền là RNA chứ không phải DNA. Dịch mã trực tiếp từ DNA sang protein Điều này đã có thể thực hiện được trong môi trường ống nghiệm, dùng các chiết xuất từ E.Coli có chứa ribosomes, nhưng không phải trong môi trường tế bào. Các phân mảnh của tế bào này có thể biểu hiện ra thành một protein từ một DNA template ngoại lai, và neomycin là chất kháng sinh được xem là hỗ trợ quá trình này. Prion Prion là loại protein có khả năng làm thay đổi cấu trúc 3D của các phân tử protein cùng loại. Điều này làm thay đổi chức năng của protein. Trong nấm, nó có thể truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, tức là có sự truyền tải di truyền từ protein → protein. Mặc dù đây cũng là một biểu hiện của sự truyền tải thông tin, nhưng nó không được xem là một ngoại lệ của luận thuyết trung tâm vì cấu trúc chuỗi trong protein vẫn được giữ nguyên. Nhưng nếu xem DNA là trung tâm của luận thuyết thì đây lại được xem là 1 ngoại lệ vì trong luận thuyết trung tâm, protein chỉ có thể được tổng hợp, không thể được nhân lên từ một protein khác. Phê bình việc sử dụng luận thuyết trung tâm làm chiến lược nghiên cứu Một số nhà nghiên cứu trong lĩnh vực sinh học hệ thống cho rằng các nhà khoa học thường sai lầm khi dùng luận thuyết trung tâm là mục tiêu nghiên cứu. Họ cho rằng việc đọc luận thuyết trung tâm mà thiếu óc nhận xét có thể làm cản trở sự hiểu biết vè sự phát triển của cơ thể đa bào cũng như bệnh tật trong cơ thể đa bào; và rằng luận thuyết trung tâm thường được dùng làm mục tiêu nghiên cứu từ thấp lên, cố gắng giải thích các hiện tượng sinh học ở mức tế bào. Nguồn trích dẫn 1958 Crick, F.H.C., On Protein Synthesis. in Symp. Soc. Exp. Biol. XII, 139-163. (pdf, early draft of original article) 1970 Crick, F., Central Dogma of Molecular Biology. Nature 227, 561-563. 2005 Werner, E., Genome Semantics, In Silico Multicellular Systems and the Central Dogma , FEBS Letters 579, pp 1779–1782 (21 tháng 3 năm 2005). Liên kết ngoài Central Dogma: Article from Knowmed Article Repository: A history of the development of the dogma, listing a few key experiments Sinh học phân tử Di truyền phân tử
25812
https://vi.wikipedia.org/wiki/John%20Thomas%20Romney%20Robinson
John Thomas Romney Robinson
John Thomas Romney Robinson (23 tháng 4 năm 1792 – 28 tháng 2 năm 1882) là nhà thiên văn và nhà vật lý người Ireland. Robinson sinh tại Dublin. Ông học tại trường Trinity College, Dublin, và nhận được học bổng năm 1814; ông làm phó giáo sư khoa học tự nhiên vài năm, cho đến năm 1821 ông nhận được trợ cấp của trường Enniskillen. Năm 1823 ông được chỉ định làm nhà thiên văn học tại đài quan sát Armagh, nơi mà ông nhận thêm được trợ cấp của Carrickmacross (từ năm 1824), nhưng ông luôn cư ngụ tại đài quan sát, tiến hành các nghiên cứu liên quan đến thiên văn học và vật lý cho đến khi ông mất năm 1882. Robinson có nhiều bài báo khoa học, và hàng ngàn sao quan sát được trong danh mục sao của Armagh từ năm 1828 đến 1854 tại Đài quan sát Armagh, Dublin, (1859). Ông được biết đến nhiều nhất nhờ phát minh máy đo gió dạng chén để đo vận tốc gió. Tham khảo Liên kết ngoài Chân dung và thơ của Robinson Robinson, John Thomas Romney Robinson, John Thomas Romney Nhà thiên văn Anh Sinh năm 1792 Hội viên Hội Hoàng gia Nhà thiên văn Vương quốc Liên hiệp Anh Nhà vật lý Vương quốc Liên hiệp Anh Mất năm 1882 Nhà thiên văn học Vương quốc Liên hiệp Anh thế kỷ 19 Thành viên Hiệp hội Hoàng gia Edinburgh
25814
https://vi.wikipedia.org/wiki/G%C3%B3c
Góc
Trong hình học Euclid, góc là những gì nằm giữa hai đường thẳng cắt nhau tại một điểm. Hai đường thẳng được gọi là cạnh của góc. Giao điểm của chúng gọi là đỉnh của góc. Khi hai đường thẳng song song với nhau, không cắt nhau tại điểm nào (hoặc cũng có thể hiểu là cắt nhau tại vô cực), góc giữa chúng bằng không và không có đỉnh xác định (hoặc đỉnh ở vô cực). Nếu lấy một vòng tròn đơn vị có tâm tại giao điểm O của hai đường thẳng và hai đường thẳng cắt vòng tròn đơn vị tại A1, A2 và B1, B2. Góc giữa hai đường thẳng sẽ là độ dài cung nối giữa Ai và Bj, với i và j bằng 1 hoặc 2 tùy theo quy ước, chia cho đơn vị độ dài để loại bỏ thứ nguyên và nhân với hằng số tỷ lệ tùy thuộc vào đơn vị đo góc. Trong không gian ba chiều, góc giữa hai mặt phẳng (còn được gọi là góc khối) là phần không gian giới hạn bởi hai mặt phẳng đó, được đo bằng góc giữa hai đường thẳng trên hai mặt phẳng cùng trực giao với giao tuyến của hai mặt phẳng. Khái niệm góc cũng được mở rộng cho đại số tuyến tính. Để loại bỏ rắc rối trong quy ước tính góc, có thể thay các đường thẳng bằng các véctơ thể hiện không chỉ độ nghiêng mà còn cả hướng. Khi tịnh tiến các véctơ về cùng tâm O và lấy một vòng tròn đơn vị tại tâm này, các véctơ sẽ chỉ cắt vòng tròn này tại hai điểm A và B. Độ lớn góc giữa hai véctơ sẽ là độ dài cung trên vòng tròn nối A và B chia cho đơn vị độ dài. Dụng cụ đo góc Thước đo góc Người ta thường dùng thước đo góc để đo góc. Trên thước ghi các số đo từ 0 đến 180 theo 2 vòng cung ngược nhau để việc đo góc được thuận tiện. Giác kế Giác kế ngang Giác kế ngang dùng để đo góc trên mặt đất. Nó gồm một đĩa tròn được đặt nằm ngang trên giá 3 chân. Mặt đĩa tròn được chia độ sẵn. Trên mặt đĩa có thanh quay xung quanh tâm đĩa; 2 đầu thanh quay có gắn 2 tấm thẳng đứng, mỗi tấm có một khe hở, 2 khe ở và tâm của đĩa luôn thẳng hàng. Để đo một góc trên mặt đất, ta đặt giác kế sao cho mặt đĩa tròn nằm ngang và tâm của nó nằm trên đường thẳng đứng đi qua đỉnh của góc cần đo. Sau đó: Điều chỉnh thanh quay về vị trí 0, rồi đồng thời điều chỉnh mặt đĩa và thanh quay sao cho cạnh thứ nhất của góc thẳng hàng với 2 khe hở. Giữ cố định mặt đĩa và đưa thanh quay sao cho cạnh thứ hai của góc thẳng hàng với 2 khe hở. Số đo góc cần tìm chính là vị trí mà thanh quay chỉ vào sau bước này. Giác kế đứng Giác kế đứng dùng để đo góc theo phương thẳng đứng. Bộ phận chính của giác kế đứng là thước đo góc có thể quay quanh trục O cắm vuông góc với cọc PQ đặt ở vị trí thẳng đứng. Ở 2 đầu của thước ngắm có gắn 2 chiếc đinh tại A và B. Tại O có treo dây dọi OF (trong hình b, E là vạch ứng với điểm 0 trên thước đo góc. Ta có góc hợp bởi OE và OF là góc tạo bởi phương ngắm và phương nằm ngang) Đơn vị đo lường của góc Radian Trong hệ đo lường quốc tế, góc được đo bằng radian. Một góc bẹt bằng π radian. Độ Độ lớn của một góc cũng được đo bằng đơn vị thông dụng là độ, có ký hiệu là °. Một góc bẹt bằng 180 độ. Độ được chia thành các đơn vị thấp hơn là phút và giây 1 Độ = 60 phút. Phút kí hiệu là ' 1 Phút = 60 giây. Giây kí hiệu là " Vòng Vòng là một đơn vị đo có độ lớn bằng 1 đường tròn (360 độ). Các loại góc Đại số tuyến tính Trong đại số tuyến tính; góc g; nằm giữa hai véctơ, v1 và v2, được định nghĩa qua phép nhân vô hướng của hai véctơ: Với "." là phép nhân vô hướng hai vecto |vi| là độ lớn của véctơ cos(g) là hàm cos của góc g. Khi hai véctơ trực giao, góc giữa chúng là góc vuông, thì: v1. v2 = 0 Tia phân giác Tia phân giác của góc là tia nằm giữa hai cạnh của góc và tạo với hai cạnh ấy hai góc bằng nhau. Nó là quỹ tích của các điểm cách đều hai cạnh của góc. Bất kỳ điểm nào nằm trên tia phân giác đều cách đều hai tia đó. Biến thay thế góc Giống như giá trị số, số đo góc cũng đó biến thế: α (alpha), β (beta), γ (gamma), δ (delta), ε (epsilon), ζ (zeta), η (eta), θ (theta), ι (iota), κ (kappa), Λ (lambda), μ (mu), ν (nu), ξ (xi), ο (omicron), ρ (rho), τ (tau), υ (upsilon), φ (phi), χ (chi), ψ (psi) và ω (omega). Các tính chất của góc Một tia cũng là một góc và có số đo là 0 độ. Nếu tia OA nằm giữa Oz và Oy thì A nằm trong góc zOy. Nếu tia Oa nằm giữa Ox và Oy thì: xOa + aOy = xOy. Tia phân giác Oa của góc xOy khi: - Oa nằm giữa Ox và Oy (xOa + aOy = xOy) - Hai góc được chia ra bởi tia bằng nhau (xOa = aOy). Hai góc kề nhau là hai góc có cạnh chung, hai cạnh còn lại nằm trên hai nửa mặt phẳng đối nhau. Hai góc phụ nhau có tổng số đo bằng một góc vuông. Hai góc bù nhau có tổng số đo bằng một góc bẹt. Hai góc kề bù là hai góc vừa kề nhau vừa bù nhau, có số đo bằng 1 góc bẹt Hai tia đối nhau tạo thành một góc bẹt. - Các đường thẳng đồng quy tại 1 điểm sẽ tạo ra các cặp 2 góc đối đỉnh nhau. 2 góc đối đỉnh nhau thì có cùng số đo. Xem thêm Góc khối Bài toán chia ba một góc Liên kết ngoài Chú thích Bài cơ bản sơ khai
25816
https://vi.wikipedia.org/wiki/Arsenide
Arsenide
Các ion arsenide là các nguyên tử asen với ba điện tử dư thừa và có điện tích -3. Các hợp chất arsenide là các hợp chất với asen trong trạng thái oxy hóa -3. Ví dụ Natri arsenide (Na3As) Gali(III) arsenide (GaAs) Platin arsenide (PtAs2) là khoáng chất có tên gọi sperrylit Xem thêm Khoáng chất arsenide Tham khảo Khoáng vật phosphat Anion Hợp chất arsenic
25817
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%8Dc%20Kinh%20t%E1%BA%BF%20Th%C3%A0nh%20ph%E1%BB%91%20H%E1%BB%93%20Ch%C3%AD%20Minh
Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh ( – UEH), còn được gọi là Đại học UEH, là một đại học công lập đa ngành trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo, nằm trong nhóm đại học trọng điểm quốc gia. Đây là đại học đầu ngành về đào tạo kinh tế, kinh doanh và quản lý ở miền Nam Việt Nam; là một trụ cột trong hệ thống giáo dục bậc cao của Việt Nam và cũng là trung tâm nghiên cứu các chính sách kinh tế, quản lý cho chính phủ và các doanh nghiệp lớn. Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh nổi danh là nơi đào tạo ra nhiều lãnh đạo cao cấp nhất ở các tập đoàn đa quốc gia nổi tiếng của Việt Nam và thế giới. Năm 1976, trường được thành lập với tên gọi là Trường Đại học Kinh tế trực thuộc Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp. Đến năm 1996, Trường Đại học Kinh tế (cũ) sáp nhập cùng với 2 đơn vị khác trở thành Trường Đại học Kinh tế trực thuộc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2000, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh thay đổi cơ cấu, tách Trường Đại học Kinh tế ra thành trường độc lập và trở thành Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo. Đến tháng 10 năm 2021, ban lãnh đạo nhà trường quyết định tái cấu trúc, thành lập nhiều trường thành viên và phát triển theo hướng đại học đa ngành, đa lĩnh vực. Kể từ tháng 10 năm 2023, Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh đã được chính thức chuyển thành Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. Hiện nay trường đang hoạt động với 10 cơ sở giảng dạy chính tại Thành phố Hồ Chí Minh, một phân hiệu tại Vĩnh Long, 3 ký túc xá sinh viên và một số khuôn viên trường khác. Trụ sở chính của trường hiện nay được đặt tại địa chỉ 59C đường Nguyễn Đình Chiểu, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh. Trải qua gần một nửa thế kỷ tồn tại, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh đã đào tạo nhiều thế hệ cán bộ, công viên chức phục vụ trong bộ máy nhà nước, nhiều doanh nhân thành đạt và nhiều chính trị gia, lãnh đạo chính phủ nổi tiếng, đáp ứng nguồn cung nhân lực chất lượng cao cho quá trình đổi mới, phát triển đất nước. Trường thường được đánh giá là một trong những trường đại học chuyên ngành kinh tế - kinh doanh đứng đầu khu vực và thế giới theo nhiều tổ chức xếp hạng uy tín, chẳng hạn như QS, Eduniversal và U-Multirank. Hàng năm, nhà trường tổ chức nhiều phong trào, chiến dịch tình nguyện, các hoạt động của Đoàn Thanh niên – Hội Sinh viên và một loạt cuộc thi học thuật nổi tiếng trong cộng đồng sinh viên cả nước. CYM Group - một câu lạc bộ học thuật của sinh viên trường, là nhóm sinh viên đầu tiên của Việt Nam thiết lập Kỷ lục Thế giới Guinness vào năm 2011. Lịch sử Quá trình hình thành và phát triển Phiên hiệu của trường được thành lập theo Quyết định số 426/TTg ngày 27 tháng 10 năm 1976 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, trên cơ sở sáp nhập Trường Đại học Luật khoa (nay là Cơ sở A đường Nguyễn Đình Chiểu, Quận 3 của trường) thuộc Viện Đại học Sài Gòn và các Trường Đại học Kinh tế khác của miền Nam trước 1975, trực thuộc Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp, nay là Bộ Giáo dục và Đào tạo. Ngày 23 tháng 11 năm 1976, khoá học đầu tiên của trường khai giảng. Năm 1986, Khoa Triết - Kinh tế thuộc Trường Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh được tách thành Khoa Triết và Khoa Kinh tế. Trong đó, Khoa Kinh tế có chức năng đào tạo đại học, sau đại học và tổ chức nghiên cứu khoa học về lĩnh vực kinh tế và quản trị kinh doanh, đặc biệt ở chuyên ngành Kinh tế chính trị và Kinh tế học. Từ năm 1990, khoa đào tạo bậc cử nhân theo các chuyên ngành: Kinh tế học, Kinh tế đối ngoại và Quản trị kinh doanh; đào tạo bậc sau đại học chuyên ngành Kinh tế học. Cơ sở II của Trường Đại học Kế toán Hà Nội tại Thành phố Hồ Chí Minh được thành lập vào tháng 10 năm 1988. Ngày 15 tháng 10 năm 1988, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 155/HĐBT công nhận chính thức việc thành lập Trường Đại học Tài chính - Kế toán Thành phố Hồ Chí Minh trực thuộc Bộ Tài chính. Ngày 27 tháng 1 năm 1995, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định 16/CP về việc thành lập Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Sau đó, ngày 9 tháng 7 năm 1996, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Quyết định số 2819/GD-ĐT ngày 9 tháng 7 năm 1996 thành lập Trường Đại học Kinh tế thuộc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh trên cơ sở hợp nhất 3 đơn vị gồm Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh (cũ), Trường Đại học Tài chính – Kế toán Thành phố Hồ Chí Minh và Khoa Kinh tế thuộc Trường Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. Đến ngày 10 tháng 10 năm 2000, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 118/2000/QĐ-TTg, thay đổi tổ chức của Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, trong đó tách Trường Đại học Kinh tế ra khỏi Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, trở thành Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh trọng điểm quốc gia trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo. Thực hiện mục tiêu đào tạo, nghiên cứu và tư vấn của UEH tại Đồng bằng sông Cửu Long, ngày 4 tháng 12 năm 2019, Phân hiệu Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh tại tỉnh Vĩnh Long được thành lập theo Quyết định số 4650/QĐ-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo trên cơ sở sáp nhập Trường Cao đẳng Kinh tế - Tài chính Vĩnh Long. Phân hiệu đi vào hoạt động từ tháng 1 năm 2020. Nâng cấp và mở rộng trường Tháng 10 năm 2015, UEH đã tổ chức khánh thành công trình cải tạo Cơ sở C tại số 91 Đường 3/2, Quận 10. Đây là cơ sở dành cho Trung tâm Pháp - Việt Đào tạo về Quản lý (CFVG) tại Thành phố Hồ Chí Minh. Cuối năm 2019, Cơ sở B1 tại 279 Nguyễn Tri Phương của trường đã được hoàn tất xây dựng, mở rộng khu giảng đường và văn phòng làm việc. Dự án là một tòa nhà hiện đại với 15 tầng nổi, 2 tầng hầm, 5 thang máy và cầu đi bộ kết nối với tòa nhà B2, xây dựng trên khu đất có diện tích là 1.015 m2. Công trình chính thức đi vào hoạt động từ tháng 1 năm 2020. Tháng 1 năm 2021, dự án Cơ sở N - đường Nguyễn Văn Linh, huyện Bình Chánh chính thức đi vào hoạt động sau hơn 2 năm thi công. Cơ sở mới có diện tích quy hoạch 11.1 ha, với tòa nhà trung tâm cao 10 tầng, khu giảng đường 5 tầng và khu vực công viên, quảng trường lớn. Trong tương lai, dự án còn được xây thêm một khu ký túc xá cho sinh viên lưu trú. Trong năm 2021 và 2022, Nhà trường cũng đã mở rộng, nâng cấp cơ sở vật chất tại Cơ sở A 59C Nguyễn Đình Chiểu, Quận 3; Cơ sở H 1A Hoàng Diệu, Quận Phú Nhuận; và khánh thành Cơ sở D của Viện ISB tại 196 Trần Quang Khải, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Những cải tiến này là một phần của quá trình tái cơ cấu và nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập, nghiên cứu, cải tiến cơ sở vật chất của Nhà trường. Tái cấu trúc Ngày 27 tháng 10 năm 2021, như một phần của lộ trình tái cấu trúc của Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, lãnh đạo nhà trường đã công bố đổi tên trường thành Đại học UEH - Đa ngành và Bền vững với 3 trường thành viên là Trường Kinh doanh UEH; Trường Kinh tế, Luật và Quản lý nhà nước UEH; và Trường Công nghệ và thiết kế UEH. Các trường thành viên được thành lập trên cơ sở hợp nhất các khoa cùng lĩnh vực. Trường Kinh doanh UEH được thành lập từ các khoa: Kinh doanh, Marketing, Quản trị chuỗi cung ứng, Tài chính - Ngân hàng - Bảo hiểm, Kế toán - Kiểm toán và Du lịch - Khách sạn. Trường Kinh tế, Luật và Quản lý nhà nước UEH được tạo nên từ các khoa: Kinh tế và hành vi, Tài chính công, Quản lý nhà nước, Pháp luật, Môi trường, Chính sách nông nghiệp và Sức khoẻ. Trường Công nghệ và thiết kế UEH hình thành từ các lĩnh vực gồm: Toán - Thống kê, Hệ thống thông tin kinh tế, Công nghệ - Máy tính, Đổi mới sáng tạo, Kiến trúc - Quy hoạch thông minh, Thiết kế đa phương tiện. Ngày 4 tháng 10 năm 2023, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà đã ký Quyết định 1146/QĐ-TTg về việc chuyển đổi Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh thành Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, chính thức đưa trường trở thành cơ sở giáo dục đại học thứ 7 tại Việt Nam hoạt động theo mô hình "đại học đa ngành, đa lĩnh vực", đồng nhất và hội nhập với hệ thống các đại học tiên tiến trên thế giới. Các đời hiệu trưởng PGS.TS Đào Công Tiến (1990 - 1995) NGND - GS.TS. Nguyễn Thanh Tuyền (1995 - 2001) PGS.TS. Phạm Văn Năng (2001 - tháng 6 năm 2011) GS.TS. Nguyễn Đông Phong (tháng 6 năm 2011 - tháng 9 năm 2020) GS.TS. Sử Đình Thành (tháng 9 năm 2020 - nay) Khuôn viên trường và phân hiệu trực thuộc Các cơ sở tại Thành phố Hồ Chí Minh Đại học Kinh tế đang hoạt động với 10 cơ sở tại Thành phố Hồ Chí Minh: Cơ sở A (trụ sở chính): 59C Nguyễn Đình Chiểu, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3 Cơ sở B, gồm tòa nhà B1 và B2: 279 Nguyễn Tri Phương, Phường 5, Quận 10 Cơ sở C: Trụ sở của Trung tâm Pháp Việt Đào tạo về Quản lý (CFVG), 91 Ba Tháng Hai, Phường 11, Quận 10 Cơ sở D: 196 Trần Quang Khải, Phường Tân Định, Quận 1 Cơ sở E: 54 Nguyễn Văn Thủ, Phường Đa Kao, Quận 1 Cơ sở H: 1A Hoàng Diệu, Phường 10, quận Phú Nhuận Cơ sở I: 17 Phạm Ngọc Thạch, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3 Cơ sở N: Đường Nguyễn Văn Linh, Khu chức năng số 15, Khu đô thị mới Nam thành phố, xã Phong Phú, huyện Bình Chánh Cơ sở V: Viện Đổi mới sáng tạo (UII - UEH Institute of Innovation), Viện Đô thị thông minh và Quản lý (ISCM) và Khách sạn UEH (UEH Boutique Hotel): 232/6 Võ Thị Sáu, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3 Trung tâm thể dục thể thao UEH: 144 Phạm Đức Sơn, Phường 16, Quận 8 Khách sạn UEH tại Cơ sơ V được thành lập năm 2020 trên cơ sở chuyển đổi từ Nhà khách UEH của trường, đạt tiêu chuẩn tương đương 3 sao, với mục đích học thuật là giúp sinh viên các ngành du lịch, khách sạn thực hành kiến thức nghề nghiệp. Khách sạn có 35 phòng ngủ, được xây dựng trên diện tích 500 m2, với 1 tầng trệt và 3 lầu. Khách sạn đủ điều kiện và tiêu chuẩn để thực hiện các hoạt động lễ tân, đón tiếp, phục vụ lưu trú cho các chuyên gia, nhà khoa học trong nước và quốc tế đến thăm, làm việc, nghiên cứu tại trường. Để thuận tiện cho việc di chuyển của người học giữa các cơ sở, từ tháng 2 năm 2022, trường chính thức triển khai dịch vụ xe buýt nhanh mang tên UEH Shuttle Bus, chuyên phục vụ cho cả cán bộ, giảng viên và sinh viên của trường. Dịch vụ hỗ trợ việc di chuyển giữa các cơ sở A, B, N và các ký túc xá, mỗi ngày 10 chuyến, vé xe được đặt trước thông qua ứng dụng trên thiết bị di động. Đây là trường đại học đầu tiên ở Thành phố Hồ Chí Minh mở dịch vụ này. Phân hiệu trực thuộc Từ cuối năm 2019, UEH sáp nhập và quản lý Phân hiệu UEH tại Vĩnh Long, tại địa chỉ 1B Nguyễn Trung Trực, Phường 8, TP Vĩnh Long, Vĩnh Long. Nhà trường cũng đang chuẩn bị khởi động dự án Phân hiệu UEH tại Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Thư viện Trường hiện đang có 2 thư viện, được đặt tại các Cơ sở B và N, với tổng sức chứa của phòng đọc là hơn 1000 chỗ ngồi. Thư viện thông minh UEH tại Cơ sở B gồm 15 phòng đọc với tổng diện tích là 1.315 m². Hiện nay, tổng số sách được lưu trữ tại Thư viện là 398.000 đầu sách thuộc các lĩnh vực kinh tế, trong đó có 600 đầu sách đến từ Harvard. Đồng thời thư viện kết nối cơ sở dữ liệu với hơn 90 nhà xuất bản các trường đại học như: Đại học Oxford, Đại học Cambridge, Đại học Harvard, v.v. Đây là một thư viện chuyển đổi số, được đầu tư hạ tầng hiện đại và tự động hóa trong tất cả các khâu. Người dùng có thể tìm sách, mượn sách đặt phòng với 1 chiếc điện thoại thông minh kết nối internet. Không gian bên trong thư viện được thiết kế theo phong cách hiện đại, trang bị nhiều camera, cảm biến điện tử và thiết bị thu thập thông tin khác như bụi mịn, nhiệt độ, độ ẩm, tiếng ồn và cường độ ánh sáng. Nhờ ứng dụng công nghệ IoT, các thông số như số lượng người đang tập trung ở trong thư viện, chất lượng không khí được hệ thống thu thập để đưa ra những điều chỉnh phù hợp. Trường còn tòa 1 thư viện riêng đặt tại khuôn viên Cơ sở N đang trong quá trình chuẩn bị xây dựng. Ký túc xá Trường có 2 ký túc xá tại khu vực trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh với tổng diện tích là 6.376 m², gồm 227 phòng, sức chứa xấp xỉ 1.600 sinh viên (3,8 m²/sinh viên): Ký túc xá 135 Trần Hưng Đạo, phường Cầu Ông Lãnh, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, có tổng sức chứa là 765 sinh viên, diện tích mỗi phòng khoảng 25–30 m². Ký túc xá 43-45 Nguyễn Chí Thanh, Phường 9, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh, có tổng sức chứa là 804 sinh viên, diện tích mỗi phòng 30 m². Phân hiệu UEH tại Vĩnh Long quản lý 1 ký túc xá tại địa chỉ 1B Nguyễn Trung Trực, Phường 8, Thành phố Vĩnh Long, với tổng sức chứa 414 sinh viên. Hệ thống quản lý và đào tạo Hội đồng Đại học, Giám đốc và Phó Giám đốc Đại học Chủ tịch Hội đồng Đại học: GS. TS. NGƯT. Nguyễn Đông Phong Giám đốc Đại học: GS. TS. Sử Đình Thành Phó Giám đốc: PGS. TS. Bùi Quang Hùng, GS. TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo, TS. Đinh Công Khải Chủ tịch Hội đồng Tư vấn chiến lược và chính sách: PGS. TS. Phan Thị Bích Nguyệt Tổng biên tập Tạp chí JABES: GS. TS. Nguyễn Trọng Hoài Đội ngũ giảng viên Năm 2022, UEH có gần 800 giảng viên. Trong đó, có 25 giáo sư, 53 phó giáo sư, 175 tiến sĩ, 335 thạc sĩ, 126 giảng viên cao cấp và 150 chuyên gia người nước ngoài. Trường có 7 cá nhân là nhà giáo nhân dân và 35 nhà giáo ưu tú. Các đơn vị trực thuộc Hiện nay, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh được tổ chức thành các trường trực thuộc, phân viện và phân hiệu sau: Trường Kinh doanh Ban Giám hiệu: Quyền Hiệu trưởng là GS.TS. Sử Đình Thành và Phó Hiệu trưởng phụ trách là PGS.TS. Bùi Thanh Tráng, Phó Hiệu trưởng là TS. Đinh Thị Thu Hồng. Khoa Quản trị Khoa Kinh doanh quốc tế - Marketing Khoa Tài chính Khoa Ngân hàng Khoa Kế toán Khoa Du lịch Trung tâm Đào tạo ngắn hạn (phát triển từ Viện nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực) Phòng tổng hợp Trường hiện đào tạo 13 ngành bậc Cử nhân: Quản trị kinh doanh, Kinh doanh quốc tế, Marketing, Kinh doanh thương mại, Tài chính - Ngân hàng, Tài chính quốc tế, Bảo hiểm, Kế toán, Kiểm toán, Quản trị dịch vụ du lịch & lữ hành, Quản trị khách sạn, Logistics & Quản lý chuỗi cung ứng, Quản lý bệnh viện và 04 ngành bậc Thạc sĩ và Tiến sĩ: Quản trị kinh doanh, Kinh doanh thương mại, Tài chính - Ngân hàng, Kế toán. Trường Kinh tế - Luật - Quản lý nhà nước Tổ chức: Quyền Hiệu trưởng là GS.TS. Sử Đình Thành, Phó Hiệu trưởng phụ trách là PGS. TS. Phạm Khánh Nam. Khoa Kinh tế Khoa Tài chính công Khoa Luật Khoa Quản lý nhà nước Viện Nghiên cứu kinh tế phát triển Viện Chính sách công Viện Kinh tế môi trường Đông Nam Á Viện Nghiên cứu chính sách nông nghiệp và sức khỏe Viện Tài chính bền vững Trung tâm Đào tạo ngắn hạn Phòng tổng hợp Trường đào tạo 12 ngành bậc Cử nhân: Kinh tế, Kinh tế đầu tư, Kinh tế Chính trị, Bất động sản, Tài chính công, Quản lý Thuế, Quản trị Hải quan & Ngoại thương, Quản trị nhân lực, Quản lý công, Kinh doanh nông nghiệp, Luật, Luật Kinh tế; 08 ngành bậc Thạc sĩ: Quản trị nhân lực, Quản lý kinh tế, Kinh tế Chính trị, Tài chính công, Quản lý công, Chính sách công, Luật Hiến pháp & Luật Hành chính, Luật Kinh tế; và 04 ngành bậc Tiến sĩ: Kinh tế phát triển, Kinh tế Chính trị, Tài chính công, Luật Kinh tế. Trường Công nghệ và Thiết kế Tổ chức: Quyền Hiệu trưởng là GS. TS. Sử Đình Thành, Hiệu trưởng danh dự là TS. Park Young June (Hàn Quốc), Phó Hiệu trưởng là PGS. TS. Trịnh Thùy Anh và TS. Thái Kim Phụng. Khoa Toán - Thống kê Khoa Công nghệ thông tin kinh doanh Viện Đô thị thông minh và Quản lý Viện Đổi mới sáng tạo Viện Toán ứng dụng Viện Công nghệ thông minh và tương tác Phòng tổng hợp Trường đào tạo 08 ngành bậc Cử nhân: Toán Kinh tế, Thống kê Kinh tế, Hệ thống thông tin quản lý, Thương mại điện tử, Kỹ thuật phần mềm, Khoa học dữ liệu, Kiến trúc và thiết kế Đô thị thông minh, Công nghệ & Đổi mới sáng tạo; 05 ngành bậc Thạc sĩ: Toán Kinh tế, Thống kê Kinh tế, Hệ thống thông tin quản lý, Toán ứng dụng, Quản lý đô thị thông minh & sáng tạo; và 01 ngành bậc Tiến sĩ: Thống kê. Các đơn vị đào tạo khác Viện Đào tạo quốc tế (ISB): Đào tạo Chương trình Cử nhân tài năng – ISB BBUS (hoàn toàn bằng tiếng Anh) và các chương trình Cử nhân, Thạc sĩ và Tiến sĩ liên kết với các đối tác nước ngoài với tên gọi là Global Pathways. Viện Đào tạo Sau đại học Khoa Lý luận chính trị Khoa Ngoại ngữ Ban Giáo dục thể chất Đơn vị tham gia quản lý và phục vụ đào tạo Thư viện thông minh (Smart Library) Phòng Chăm sóc và Hỗ trợ người học (DSA) Trung tâm Phát triển khởi nghiệp Nhà xuất bản Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh Trạm Y tế Đơn vị Khoa học công nghệ – Thông tin kinh tế Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á Viện Ngôn ngữ – Quốc tế học (ILACS) Viện Nghiên cứu kinh doanh Trung tâm Dữ liệu – Phân tích kinh tế Trung tâm Nghiên cứu và phát triển quản trị (CEMD) Hội đồng tư vấn Hội đồng Khoa học và đào tạo Hội đồng Tư vấn chiến lược và chính sách Hội đồng Đảm bảo chất lượng Các Hội đồng tư vấn khác Phân hiệu UEH tại Vĩnh Long Tổ chức: Giám đốc là PGS. TS. Bùi Quang Hùng và Phó Giám đốc thường trực là ThS. Nguyễn Thị Thý Liễu. Khoa Kế toán Khoa Tài chính - Ngân hàng Khoa Quản trị Khoa Công nghệ thông tin Khoa Cơ bản Trung tâm Đào tạo quốc tế Mekong Hoạt động Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh được biết đến không chỉ là nơi đào tạo các doanh nhân thành đạt, mà còn là môi trường mang lại cho sinh viên những kỹ năng sống, những hoạt động thiết thực, khẳng định bản thân và phát triển tài năng. UEH nổi tiếng là một trong những trường đại học có những phong trào hoạt động Đoàn – Hội mạnh nhất trong cả nước. Các hoạt động thường niên như Hội thao cấp trường, cấp ký túc xá, khoa, viện, Hội diễn văn nghệ, Hoạt động Nối vòng tay lớn, Sức trẻ Kinh tế, Phong trào Mùa hè xanh, và nhiều cuộc thi học thuật nổi tiếng trong cộng đồng sinh viên cả nước. Hoạt động văn hóa Hằng năm, nhà trường tổ chức chương trình Nối vòng tay lớn để chào đón các tân sinh viên. Chương trình được chia hai phần Ngày hội và Đêm hội với các gian hàng các khoa, ký túc xá; Câu lạc bộ/Đội/Nhóm sinh viên trực thuộc tổ chức hoạt động giới thiệu truyền thống, lịch sử hoạt động của mình đến tân sinh viên thông qua các trò chơi và các tiết mục văn nghệ. Một sự kiện truyền thống thường niên khác nằm trong chuỗi hoạt động kỷ niệm ngày thành lập Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là Sức trẻ kinh tế. Đây là sự kiện văn hóa nổi bật của Trường, cung cấp môi trường học hỏi, trao đổi kinh nghiệm giữa các sinh viên. Các hoạt động bao gồm ngày hội và đêm hội với các trò chơi vận động, trò chơi dân gian và gian hàng ẩm thực. Ngày 24 và 25 tháng 2 năm 2022, Hội Sinh viên UEH đã tổ chức Ngày hội Sinh viên 5 tốt với mục đích tạo cơ hội cho sinh viên tìm hiểu và khám phá về danh hiệu "Sinh viên 5 tốt", góp phần thúc đẩy phong trào Sinh viên 5 tốt của Hội Sinh viên Việt Nam. Hoạt động học thuật UEH tổ chức một số cuộc thi học thuật cho sinh viên trong và ngoài trường. Bên cạnh những cuộc thi thường niên, trường cũng thường xuyên tổ chức cuộc thi mới để đáp ứng nhu cầu hội nhập và sự biến động của nền kinh tế. Nhà trường đã được đánh giá rất cao cho những nỗ lực đổi mới, sáng tạo, nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học và tiên phong trong hội nhập. Các cuộc thi nổi bật bao gồm Cuộc thi Olympic các môn khoa học Marx-Lenin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Cuộc thi CPA tiềm năng, Tìm kiếm CEO tương lai, Kiến thức thuế – Vận dụng trong kinh doanh, Bản lĩnh Giám đốc tài chính CFO, ... đã và đang thu hút rất nhiều thí sinh tham dự. Hoạt động tình nguyện Hằng năm, UEH triển khai các chương trình tình nguyện và công tác xã hội dưới sự chỉ đạo của Đoàn Thanh niên và Khoa, Viện. Chiến dịch Hiến máu tình nguyện được biết đến như là hoạt động thiện nguyện nổi bật nhất của trường. Hàng năm, Hội Sinh viên Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh đều tổ chức Tuần lễ hiến máu tình nguyện thu hút được nhiều sinh viên tham gia, đồng thời gây quỹ học bổng Điểm sáng Tương lai của Hội Sinh viên trường dành cho các sinh viên có hoàn cảnh khó khăn. Hằng năm, Đoàn - Hội các Khoa thường tổ chức các chiến dịch tình nguyện như Vui hội trăng rằm, nằm trong chuỗi hoạt động Chiến dịch Tình nguyện Sinh viên Kinh tế diễn ra vào mùa hè, với mục tiêu mang đến cho trẻ em nhỏ tại các khu vực vùng sâu, vùng xa một mùa Tết Trung Thu trọn vẹn. Các hoạt động khác Nhà trường thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo, tọa đàm với những vị khách mời chuyên môn cao cho sinh viên tiếp cận kiến thức, kinh nghiệm thực tế từ những doanh nhân, nhà đầu tư thành công. Bên cạnh đó, các cuộc thi tài năng như Hoa khôi UEH, Miss and Mr UEH thu hút rất nhiều sinh viên tham dự. Một chương trình được thành lập năm 2016, bởi những cựu sinh viên Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, mang tên UEH Mentoring, với mục đích giúp đỡ cho hàng nghìn sinh viên trên khắp Việt Nam. UEH Mentoring thực hiện nhiệm vụ là tư vấn và hỗ trợ cho sinh viên các vấn đề liên quan đến nghề nghiệp, cung cấp kinh nghiệm cần thiết để phát triển bản thân. Chương trình tạo ra một môi trường tích cực gồm các nhà cố vấn và người được cố vấn, với các hoạt động giúp cung cấp kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm cần có đến các sinh viên. Đồng thời, các cựu sinh viên cũng có thể kết nối, giúp đỡ những người đang đi học hoặc mới ra trường. Từ năm 2022, Chương trình Vietnam Alumni Mentoring (VAM) hoạt động dưới sự bảo trợ của Cộng đồng Cựu sinh viên Kinh tế (UEH Alumni) và sự hỗ trợ của Your Study Support. Ngày 17 tháng 11 năm 2022, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh đã ký kết hợp tác với Sân khấu Kịch Hồng Vân, dưới sự dẫn dắt của NSND Hồng Vân ra mắt sân khấu kịch học đường UEH Theatre, với hoạt động đầu tiên là vở kịch "Quyền lực và tình yêu", đã diễn ra vào tối 20 tháng 11. Với mục tiêu thúc đẩy hoạt động lan tỏa và truyền cảm hứng nghệ thuật trên cơ sở phát huy thế mạnh của hai bên. Dự án được NSND Hồng Vân ấp ủ với mong muốn học sinh, sinh viên có một mô hình sân khấu kịch học đường, nhằm tạo nên một thế hệ người trẻ văn minh, tri thức, biết thưởng thức và trân trọng các giá trị nghệ thuật. Theo Nghệ sĩ Hồng Vân, UEH Theatre ngoài trình việc diễn các vở diễn còn triển khai các khóa đào tạo nghệ thuật ngắn hạn. Đồng hành cùng trong dự án còn có Nghệ sĩ Hoàng Sơn, Ốc Thanh Vân, Ngọc Tưởng, Kim Huyền, Quốc Thuận, đạo diễn Thanh Hiệp,... Không chỉ tham gia diễn, họ còn hỗ trợ dìu dắt học trò trong các khóa dạy đài từ, hóa trang. Nghiên cứu khoa học Đóng góp khoa học Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh là đại học đầu ngành về khối kinh tế, kinh doanh và quản lý của Việt Nam nói chung và khu vực phía Nam nói riêng. Đây là một trụ cột trong hệ thống giáo dục bậc cao và là trung tâm nghiên cứu các chính sách kinh tế, quản lý, đầu tư phát triển cho chính phủ và các doanh nghiệp lớn. Nhóm các nhà nghiên cứu của trường đã và đang nghiên cứu và đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm triển khai hiệu quả ứng dụng công nghệ cao vào phát triển kinh tế – xã hội ở các tỉnh thành phía Nam và đã đạt được những thành tựu nhất định. Năm 2022, Tổ chức xếp hạng U-Multirank công bố kết quả đánh giá bao gồm tỉ lệ trích dẫn, số lượng công bố quốc tế cùng với đồng tác giả quốc tế của Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh đạt điểm A và trường được đánh giá là "Đại học Tốt nhất Việt Nam" và nằm trong top 66 đại học hàng đầu châu Á, trong số 467 trường được xếp hạng. Tạp chí JABES Tạp chí JABES, trước đây là tạp chí Phát triển Kinh tế với ấn phẩm tiếng Việt đầu tiên xuất bản năm 1990. Ấn phẩm tiếng Anh đầu tiên xuất bản năm 1994 với tên gọi Economic Development Review, sau đó đổi thành Journal of Economic Development từ năm 2012. Kể từ tháng 1 năm 2018, tạp chí chính thức đổi tên thành Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh châu Á (Journal of Asian Business and Economic Studies - JABES), bao gồm hai phiên bản: tiếng Việt (JABES-V) và tiếng Anh (JABES-E). JABES-V xuất bản 12 số mỗi năm, được Hội đồng Giáo sư Nhà nước tính điểm cao nhất trong các tạp chí xuất bản tại Việt Nam. JABES-E xuất bản 4 số mỗi năm trên hệ thống Nhà xuất bản Emerald từ tháng 5 năm 2018. Đây cũng là tạp chí khối kinh tế và khoa học xã hội - nhân văn đầu tiên của Việt Nam được liệt kê vào danh mục trích dẫn ESCI và Scopus. Câu lạc bộ, đội, nhóm sinh viên UEH được biết đến là một trường đại học có nhiều câu lạc bộ, đội, nhóm sinh viên và hoạt động tích cực trong thành phố. Hiện nay, UEH có khoảng 30 câu lạc bộ, đội, nhóm, từ các lĩnh vực chuyên ngành đào tạo, sở thích/năng khiếu, đến các câu lạc bộ học tập, nghiên cứu khoa học và hỗ trợ sinh viên. Ngày 25 tháng 9 năm 2011, Câu lạc bộ Kỹ năng Tư duy (CYM Group) của Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, dẫn đầu bởi Tiến sĩ Đỗ Kiên Trung, đã xác lập Kỷ lục Thế giới Guinness về "bức tranh ghép hình nhiều mảnh nhất thế giới". Bức tranh ghép mô tả một bông hoa sen với sáu cánh đại diện cho sáu lĩnh vực kiến thức, được thể hiện bằng phương pháp sơ đồ tư duy. Kích thước bức tranh là 14.85 x 23.20 m, diện tích phần ghép bằng tay là 345 m2, bao gồm 551.232 mảnh ghép, kích thước mỗi mảnh là 2,5x2,5 cm. Công trình được thực hiện bởi hơn 1.600 sinh viên trong 17 giờ và đã phá Kỷ lục Guinness trước đó là 212.323 mảnh, được lập bởi Singapore vào năm 2002. Đồng thời, bức tranh cũng phá kỷ lục về tổng diện tích của bức tranh bản đồ tư duy lớn nhất thế giới, với tổng diện tích là 660 m2, vượt qua kỷ lục của Trung Quốc thiết lập vào năm 2010 là 600 m2. Các chương trình hợp tác đào tạo quốc tế Các chương trình liên kết quốc tế, học tập tại Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, cấp bằng của trường đại học nước ngoài. Chương trình Victoria Wellington (New Zealand): Bậc đào tạo: Đại học. Bằng cấp: Cử nhân Thương mại và Quản trị Chương trình Fulbright (Mỹ): Bậc đào tạo: Thạc sĩ. Bằng cấp: Thạc sĩ Chính sách công Chương trình Cao học Hà Lan: Bậc đào tạo: Thạc sĩ. Bằng cấp: Thạc sĩ Kinh tế Phát triển Chương trình CFVG (Pháp): Bậc đào tạo: Thạc sĩ. Bằng cấp: MBA, Thạc sĩ Kinh tế, Thạc sĩ Ngân hàng và Tài chính, Thạc sĩ Marketing Chương trình Western Sydney (Úc): Bậc đào tạo: Thạc sĩ. Bằng cấp: Thạc sĩ Quản trị kinh doanh và Thương mại Bậc đào tạo: Nghiên cứu sinh. Bằng cấp: Tiến sĩ Kinh tế (Nghiên cứu sinh học giai đoạn 1 tại Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, giai đoạn 2 tại Đại học Western Sydney) Thành tích và xếp hạng Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã trao tặng nhà trường: Danh hiệu Anh hùng Lao động vào năm 2006; Huân chương Độc lập hạng Nhì cho nhà trường vào năm 2010; 6 Huân chương Lao động hạng Nhất, Nhì, Ba cho nhà trường vào các năm 1986, 1991 và 1996; 3 Huân chương Lao động hạng Nhất, Nhì, Ba cho Công đoàn trường vào các năm 1996, 2001 và 2006; 2 Huân chương Lao động hạng Nhì và Ba cho Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh của nhà trường vào các năm 1997 và 2002; Huân chương Lao động hạng Ba cho Hội Sinh viên Việt Nam của nhà trường vào năm 2006; Huân chương Lao động hạng Ba cho nhà trường về thành tích đền ơn đáp nghĩa và công tác xã hội từ thiện vào năm 2000. Huân chương Độc lập hạng nhất năm 2021 Vị trí trên các bảng xếp hạng quốc tế: Top 49 trong BXH của SCImagoir về các cơ sở nghiên cứu về Kinh tế - Tài chính Khu vực châu Á; Top 1000 Trường đào tạo kinh doanh tốt nhất thế giới (Theo BXH Eduniversal) từ năm 2014; Top 551+ trong BXH các Trường Đại học tốt nhất Châu Á (Theo BXH QS châu Á) (2022); Top 25 đại học tốt nhất thế giới đóng góp cho sự phát triển nghề nghiệp suốt đời (Theo BXH U-Multirank) (2016, 2017, 2018 2020); Top 100 Trường đào tạo Thạc sĩ tốt nhất thế giới (Theo BXH Eduniversal) (2018); Top 01 trong các trường kinh tế, kinh doanh và Top 10 trường đại học tốt nhất Việt Nam (Theo BXH Webometrics) (07/2021); Top 10 trường đại học công bố quốc tế uy tín nhiều nhất Việt Nam (2019); Top 05 trường đại học công bố quốc tế uy tín nhiều nhất Việt Nam (2020); Top 01 trường đại học công bố quốc tế uy tín nhiều nhất Việt Nam trong lĩnh vực kinh tế, kinh doanh (2020); Top 01 các trường đại học tốt nhất Việt Nam theo Bảng xếp hạng U-Multirank (2022). Sự cố Từ ngày 10 đến 25 tháng 6 năm 1989 xảy ra sự cố xô xát giữa tự vệ phường Nguyễn Cư Trinh với sinh viên ở Ký túc xá 135 Trần Hưng Đạo tại Quận 1, xuất phát từ một vụ va quẹt xe. Khi hay tin sinh viên cùng trường là người va quẹt xe bị tự vệ của phường đánh, 200 sinh viên trường đã kéo đến trụ sở phường, sau đó hai bên xảy ra xô xát. Vào ngày hôm sau 11 tháng 6, sinh viên viết văn bản kiến nghị chính quyền giải quyết vụ đánh sinh viên. Năm 2017, một giảng viên của trường đã đăng tải trên Facebook cá nhân và group Tư vấn tuyển sinh UEH-K43 những bài viết mang tính chất chê bai, hạ nhục các trường Đại học đào tạo về lĩnh vực Kinh tế lân cận (cụ thể là trường Đại học Ngoại thương và Trường Đại học Kinh tế - Luật, ĐHQG TP.HCM cùng 1 số trường Đại học tư thục khác). Chuỗi bài viết và bình luận của giảng viên này đã gây ra sự phẫn nộ và kích động cho hàng ngàn sinh viên ở các trường Đại học được nhắc tên. Sau khi tiến hành điều tra, nhà trường xác nhận Facebook đăng tải các bài viết đúng là của giảng viên UEH và đăng tải thông cáo báo chí, yêu cầu giảng viên trực tiếp xin lỗi các đối tượng liên quan, đồng thời cho biết sẽ có các phương án kỷ luật nội bộ đối với giảng viên này về việc đăng tải các thông tin chưa được kiểm chứng với lời lẽ kích động, gây tranh cãi Năm 2018, một giảng viên trẻ của nhà trường đã bị tố cáo có những hành vi không đứng đắn với sinh viên và bị nghi ngờ sửa điểm nhiều bài thi. Tuy nhiên, các điều tra sau đó chứng minh rằng giảng viên trên chấm sai cơ cấu điểm của bài thi. Nhà trường đã ra quyết định kỷ luật giảng viên này với hình thức kỷ luật là cảnh cáo 12 tháng vì vi phạm về tác phong, lời nói, hành động không phù hợp với môi trường giáo dục. Ngày 10 tháng 10 năm 2021, Ký túc xá 43-45 Nguyễn Chí Thanh, Quận 5 đã xảy ra vụ cháy tại một phòng ở tầng 4. Vào thời điểm cháy, chỉ có 60 sinh viên ở tại đây, do trong thời gian giãn cách xã hội của Đại dịch COVID-19. Đám cháy không gây thiệt hại về người nhưng có thiệt hại về một số tài sản trong phòng. Cựu sinh viên nổi bật Những nhân vật nổi bật từng học tập tại Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh: Nguyễn Thị Kim Ngân, Nguyên Chủ tịch Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa XIII, XIV nhiệm kỳ 2016-2021. Trần Thanh Mẫn, Ủy viên Bộ chính trị, Phó Chủ tịch Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam. Nguyễn Phú Cường, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính – Ngân sách Quốc hội. Lê Minh Khái, Phó Thủ tướng Chính phủ. Nguyễn Văn Giàu, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Nguyễn Phước Thanh, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Trần Minh Tuấn, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Nguyễn Hồng Hà, Tổng Giám đốc Kho bạc Nhà nước. Nguyễn Hữu Chí, Thứ trưởng Bộ Tài chính. Nguyễn Nam Hải, Thứ trưởng Bộ Công Thương. Nguyễn Văn Hiếu, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Huỳnh Thị Nhân, Thứ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội. Đặng Ngọc Tùng, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Trần Hoàng Ngân, Đại biểu Quốc hội, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh Đặng Công Huẩn, Phó Tổng Thanh tra Chính phủ. Phan Văn Mãi, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Nguyễn Thành Phong, Nguyên Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Khóa XIII, nguyên Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, nguyên Phó Trưởng ban Thường trực Ban Kinh tế Trung ương. Cao Thị Ngọc Dung, Chủ tịch Công ty cổ phần Vàng bạc Đá quý Phú Nhuận (HoSE: PNJ). Phạm Hồng Hải, Tổng Giám đốc Ngân hàng HSBC (Việt Nam). Nguyễn Văn Lê, Tổng Giám đốc Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn-Hà Nội (HoSE: SHB). Võ Minh Tuấn, Chủ tịch HĐQT Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á. Nguyễn Hữu Đặng, Tổng Giám đốc Ngân hàng thương mại cổ phần Phát triển Thành phố Hồ Chí Minh (HoSE: HDB). Nguyễn Đức Tài, sáng lập và Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc tại Tập đoàn Thegioididong.com (HoSE: MWG). Trần Mộng Hùng, sáng lập và hiện đang làm thành viên Hội đồng quản trị tại Ngân hàng thương mại Cổ phần Á Châu (HoSE: ACB). Đặng Thị Hoàng Yến, sáng lập Tập đoàn Công nghiệp Tân Tạo (HoSE: ITA). Nguyễn Văn Huynh, Phó Chủ tịch Hội đồng Quản trị LienVietPostBank (HoSE: LPB), Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Thẩm định giá và dịch vụ Tài chính Sài Gòn. Phạm Thị Kim Dung, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Quảng cáo Thương mại Sen Vàng Lê Thy Ngọc (MisThy), nữ streamer, YouTuber và diễn viên người Việt Nam. Nguyễn Phương Hoa, Top 30 Nữ sinh Duyên dáng Việt Nam 2016 cùng giải phụ Nữ sinh Hùng biện Tiếng Anh, Top 45 Hoa hậu Hoàn vũ Việt Nam 2017, Top 15 Hoa hậu Siêu quốc gia Việt Nam 2018 cùng giải phụ Người đẹp Tri thức, Top 25 Hoa hậu Thế giới Việt Nam 2019 cùng giải phụ Người đẹp Thể thao. Trần Minh Hiếu (HIEUTHUHAI), nam rapper, nhạc sĩ và diễn viên người Việt Nam. Xem thêm CYM Group - Một câu lạc bộ học thuật của trường, từng lập Kỷ lục Guinness Danh sách trường đại học công lập tại Việt Nam Đại học trọng điểm quốc gia Việt Nam Ghi chú Tham khảo Chú thích Sách (tiếng Anh) Liên kết ngoài Website chính thức của Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh Website chính thức của Đoàn Thanh niên - Hội Sinh viên Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh Trang thông tin trên Facebook chính thức của Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh Đại học và cao đẳng kinh tế Việt Nam Đại học nghiên cứu Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh Trường đại học và cao đẳng tại Thành phố Hồ Chí Minh Đại học và cao đẳng công lập tại Việt Nam
25819
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sperrylit
Sperrylit
Sperrylit là một khoáng chất platin asenua. Về mặt hóa học, nó được gọi là platin điasenua, công thức của nó là PtAs2. Nó là khoáng chất có màu trắng đục giống thiếc kim loại, nó kết tinh trong hệ tinh thể cùng kích thước, cấu trúc như nhóm pyrit. Nó tạo thành các tinh thể lập phương, bát giác hay tương tự như pyrit. Nó có độ cứng Mohs khoảng 6–7 và có tỷ trọng riêng rất cao, khoảng 10,6. Khoáng chất này đã được Francis Louis Sperry, một nhà hóa học người Mỹ phát hiện năm 1889 ở Sudbury. Nguồn phổ biến nhất của sperrylit là trong các quặng niken ở thung lũng Sudbury ở Ontario, Canada. Nó cũng xuất hiện trong các lớp đá mácma ở khu vực Bushveld thuộc Nam Phi và mỏ đồng-niken Oktyabrskoye ở khu vực miền đông Siberi, Liên bang Nga. Tham khảo Liên kết ngoài Thư viện khoáng chất Mindat Webmineral Khoáng vật phosphat Khoáng vật asenua Khoáng vật platin Hợp chất arsenic Hợp chất platin
25821
https://vi.wikipedia.org/wiki/Abraham%20Lincoln
Abraham Lincoln
Abraham Lincoln (; 12 tháng 2 năm 1809 – 15 tháng 4 năm 1865) là một chính khách và luật sư người Mỹ, tổng thống thứ 16 của Hoa Kỳ từ năm 1861 cho đến khi bị ám sát vào năm 1865. Trong suốt nhiệm kỳ tổng thống của mình, Lincoln đã lãnh đạo đất nước vượt qua cuộc Nội chiến Hoa Kỳ, khủng hoảng đạo đức, văn hóa, hiến pháp và chính trị lớn nhất của quốc gia này. Bên cạnh đó, ông cũng là người đã góp phần trong việc bảo vệ Liên bang, xóa bỏ chế độ nô lệ, củng cố chính phủ liên bang và hiện đại hóa nền kinh tế Hoa Kỳ. Lincoln sinh ra trong một gia đình làm nghề khai hoang nghèo khó và chủ yếu lớn lên ở vùng biên giới Indiana. Ông đã tự học và trở thành một luật sư, lãnh đạo Đảng Whig, nhà lập pháp bang Illinois, và Nghị sĩ Hoa Kỳ đến từ Illinois. Năm 1849, ông trở lại hành nghề luật sư nhưng đã trở nên phẫn nộ với việc mở thêm các vùng đất khác cho chế độ nô lệ do Đạo luật Kansas–Nebraska. Ông trở lại chính trường vào năm 1854 và trở thành một nhà lãnh đạo của Đảng Cộng hòa, ông tham gia vào một cuộc tranh luận năm 1858 với Stephen Douglas. Lincoln tranh cử Tổng thống năm 1860, giành chiến thắng toàn diện tại miền Bắc. Các phần tử ủng hộ chế độ nô lệ ở miền Nam đã đánh đồng chiến thắng của ông với việc miền Bắc từ chối quyền thực thi chế độ nô lệ, và các bang miền Nam bắt đầu ly khai khỏi liên bang. Nhằm đảm bảo nền độc lập, Liên minh miền Nam đã tấn công Pháo đài Sumter, một pháo đài của Hoa Kỳ ở miền Nam, Lincoln đã kêu gọi các lực lượng để trấn áp cuộc nổi dậy và thiết lập lại Liên bang. Là nhà lãnh đạo ôn hòa thuộc Đảng Cộng hòa, Lincoln điều hướng một loạt các phe phái gây chia rẽ với đồng minh và đối thủ từ cả hai đảng Dân chủ và Cộng hòa. Đảng Dân chủ Chiến tranh đã tập hợp một nhóm lớn những người từng là đối thủ vào phe ôn hòa của ông, nhưng những người Cộng hòa Cấp tiến đã phản đối họ và yêu cầu đối xử hà khắc hơn với Liên minh miền Nam. Những người theo Đảng Dân chủ chống chiến tranh (được gọi là "Copperheads") căm ghét ông, và các phần tử ủng hộ Liên bang không thể hòa giải đã âm mưu ám sát ông. Lincoln quản lý các phe phái bằng việc lợi dụng sự thù địch lẫn nhau của họ, phân công các chức vụ chính trị, kêu gọi sự ủng hộ của người dân Hoa Kỳ. Bài diễn văn Gettysburg của ông trở thành một lời kêu gọi lịch sử cho chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa cộng hòa, quyền bình đẳng, tự do và dân chủ. Lincoln đã xem xét kỹ lưỡng các chiến lược và chiến thuật trong cuộc chiến, bao gồm cả việc lựa chọn các tướng lĩnh và dùng hải quân phong tỏa thương mại ở miền Nam. Ông đình chỉ habeas corpus và ngăn cản sự can thiệp của người Anh. Ông chính thức chấm dứt chế độ nô lệ bằng Tuyên ngôn giải phóng nô lệ. Ông cũng khuyến khích các tiểu bang biên giới cấm chế độ nô lệ và thúc đẩy Tu chính án thứ mười ba của Hiến pháp Hoa Kỳ, cấm chế độ nô lệ trên toàn quốc. Lincoln đã giám sát chiến dịch tái tranh cử thành công của mình. Ông tìm cách hàn gắn quốc gia bị chiến tranh tàn phá thông qua hòa giải. Vào ngày 14 tháng 4 năm 1865, chỉ vài ngày sau khi chiến tranh kết thúc tại Appomattox, Lincoln đang xem một vở kịch tại Nhà hát Ford cùng với người vợ Mary thì ông bị ám sát bởi John Wilkes Booth. Lincoln được nhớ đến như là một vị anh hùng dân tộc của Hoa Kỳ và luôn được xếp hạng là một trong những tổng thống vĩ đại nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Gia cảnh và tuổi thơ Thiếu thời Abraham Lincoln sinh ngày 12 tháng 2 năm 1809, là con thứ hai của Thomas Lincoln và Nancy Lincoln (nhũ danh Hanks), trong một căn nhà gỗ một phòng ở Nông trại Sinking Spring rộng 348 acre (1.4 km²) ở phía đông nam Quận Hardin, Kentucky, khi ấy còn bị coi là biên giới (nay là một phần của Quận LaRue, ở Nolin Creek, cách Hodgenville 3 dặm (5 km). Cậu được đặt theo tên của ông nội, người đã dời gia đình từ Virginia đến Quận Jefferson, Kentucky, tại đó ông bị thiệt mạng trong một trận phục kích của người da đỏ năm 1786 trước sự chứng kiến của các con, trong đó có cha của Lincoln, Thomas. Sau đó, Thomas một mình tìm đường đến khu biên thùy. Mẹ của Lincoln, Nancy, là con gái của Lucy Hanks, sinh tại một địa điểm nay là Quận Mineral, West Virginia, khi ấy thuộc bang Virginia. Lucy đem Nancy đến Kentucky. Nancy Hanks kết hôn với Thomas, lúc ấy Thomas đã là một công dân khả kính trong cộng đồng. Gia đình gia nhập một nhà thờ Baptist chủ trương tuân thủ nghiêm nhặt các chuẩn mực đạo đức, chống đối việc uống rượu, khiêu vũ, và chế độ nô lệ. Cha mẹ Lincoln là những nông dân thất học và mù chữ. Khi Lincoln đã trở nên nổi tiếng, những nhà báo và những người viết truyện đã thổi phồng sự nghèo khổ và tối tăm của ông khi ra đời. Tuy nhiên, Thomas Lincoln là một công dân khá có ảnh hưởng ở vùng nông thôn Kentucky. Ông đã mua lại Trang trại Sinking Spring vào tháng 12 năm 1808 với giá $200 tiền mặt và một khoản nợ. Trang trại này hiện được bảo tồn như một phần của Địa điểm di tích lịch sử quốc gia nơi sinh Abraham Lincoln. Thomas được chọn vào bồi thẩm đoàn, và được mời thẩm định giá trị các điền trang. Vào thời điểm con trai của ông Abraham sinh, Thomas sở hữu hai nông trang rộng , vài khu đất trong thị trấn, bầy gia súc và ngựa. Ông ở trong số những người giàu có nhất trong hạt. Tuy nhiên, đến năm Thomas bị mất hết đất đai trong một vụ án vì sai sót trong việc thiết lập chủ quyền điền thổ. Ba năm sau khi mua trang trại, một người chủ đất trước đó đưa hồ sơ ra trước Toà án Hardin Circuit buộc gia đình Lincoln phải chuyển đi. Thomas theo đuổi vụ kiện cho tới khi ông bị xử thua năm 1815. Những chi phí kiện tụng khiến gia cảnh càng khó khăn thêm. Năm 1811, họ thuê được 30 mẫu Anh (0.1 km²) trong trang trại Knob Creek rộng 230 mẫu Anh (0.9 km²) cách đó vài dặm, nơi họ sẽ chuyển tới sống sau này. Nằm trong lưu vực Sông Rolling Fork, đó là một trong những nơi có đất canh tác tốt nhất vùng. Khi ấy, cha Lincoln là một thành viên được kính trọng trong cộng đồng và là một nông dân cũng như thợ mộc tài giỏi. Hồi ức sớm nhất của Lincoln bắt đầu có ở trang trại này. Năm 1815, một nguyên đơn khác tìm cách buộc gia đình Lincoln phải rời trang trại Knob Creek. Nản chí trước sự kiện tụng cũng như không được các toà án ở Kentucky bảo vệ, Thomas quyết định đi tới Indiana, nơi đã được chính phủ liên bang khảo sát, nên quyền sở hữu đất đai cũng được bảo đảm hơn. Có lẽ những giai đoạn tuổi thơ ấy đã thúc đẩy Abraham theo học trắc địa và trở thành một luật sư. Gia đình băng qua sông Ohio để dời đến một lãnh thổ không có nô lệ và bắt đầu cuộc sống mới ở Hạt Perry, Indiana. Tại đây, năm 1818 khi Lincoln lên chín, mẹ cậu qua đời vì bệnh nhiễm độc sữa do bò ăn phải loại cỏ độc. Sarah, chị của Lincoln, chăm sóc cậu cho đến khi ông bố tái hôn năm 1820; về sau Sarah chết ở lứa tuổi 20 trong lúc sinh nở. Vợ mới của Thomas Lincoln, Sarah Bush Johnston, nguyên là một góa phụ, mẹ của ba con. Lincoln rất gần gũi với mẹ kế, gọi bà là "Mẹ". Khi còn bé, Lincoln không thích nếp sống lao động cực nhọc ở vùng biên thùy, thường bị người nhà và láng giềng xem là lười biếng. Nhưng khi đến tuổi thiếu niên, cậu tình nguyện đảm trách tất cả việc nhà, trở thành một người sử dụng rìu thành thục khi xây dựng hàng rào. Cậu cũng được biết tiếng nhờ sức mạnh cơ bắp và tính gan lì sau một trận đấu vật quyết liệt với thủ lĩnh một nhóm côn đồ gọi là "the Clary's Grove boys". Cậu cũng tuân giữ tập tục giao hết cho cha toàn bộ lợi tức cậu kiếm được cho đến tuổi 21. Giáo dục tiểu học cậu bé Lincoln tiếp nhận chỉ tương đương một năm học do các giáo viên lưu động giảng dạy, hầu hết là do cậu tự học và tích cực đọc sách. Trên thực tế Lincoln là người tự học, đọc mọi cuốn sách có thể mượn được. Cậu thông thạo Kinh Thánh, các tác phẩm của William Shakespeare, lịch sử Anh, lịch sử Mỹ, và học được phong cách trình bày giản dị trước thính giả. Lincoln không thích câu cá và săn bắn vì không muốn giết hại bất cứ một con vật nào kể cả để làm thực phẩm dù cậu rất cao và khoẻ, cậu dành nhiều thời gian đọc sách tới nỗi những người hàng xóm cho rằng cậu cố tình làm vậy để tránh phải làm việc chân tay nặng nhọc. Năm 1830, để tránh căn bệnh nhiễm độc sữa mới vừa bùng nổ dọc theo sông Ohio, gia đình Lincoln di chuyển về hướng tây và định cư trên khu đất công ở Hạt Macon, Illinois, một tiểu bang không có nô lệ. Năm 1831, Thomas đem gia đình đến Hạt Coles, Illinois. Lúc ấy, là một thanh niên đầy khát vọng ở tuổi 22, Lincoln quyết định rời bỏ gia đình để tìm kiếm một cuộc sống tốt hơn. Cậu đi xuồng xuôi dòng Sangamon đến làng New Salem thuộc Hạt Sangamon. Mùa xuân năm 1831, sau khi thuê mướn Lincoln, Denton Offutt, một thương nhân ở New Salem, cùng một nhóm bạn, vận chuyển hàng hóa bằng xà lan từ New Salem theo sông Sangamon và Mississippi đến New Orleans. Tại đây, lần đầu tiên chứng kiến tận mắt tệ nạn nô lệ, Lincoln đi bộ trở về nhà. Trong một tự truyện, Lincoln miêu tả mình trong giai đoạn này - ở lứa tuổi 20, rời bỏ vùng rừng núi hẻo lánh để tìm đường tiến vào thế giới – như là "một gã trai kỳ dị, không bạn bè, không học thức, không một xu dính túi". Hôn nhân và con cái Năm 1840, Lincoln đính hôn với Mary Todd, con gái của một gia đình giàu có sở hữu nô lệ ở Lexington, Kentucky. Họ gặp nhau lần đầu ở Springfield, Illinois vào tháng 12 năm 1839, rồi đính hôn vào tháng 12 năm sau. Hôn lễ được sắp đặt vào ngày 1 tháng 1, 1841, nhưng bị Lincoln đề nghị hủy bỏ. Sau này họ lại gặp nhau và kết hôn ngày 4 tháng 11 năm 1842, hôn lễ tổ chức tại ngôi biệt thự của người chị của Mary ở Springfield. Ngay cả khi đang chuẩn bị cho hôn lễ, Lincoln vẫn cảm thấy lưỡng lự. Khi được hỏi cuộc hôn nhân này sẽ dẫn ông đến đâu, Lincoln trả lời, "Địa ngục, tôi nghĩ thế." Năm 1844, hai người mua một ngôi nhà ở Springfield gần văn phòng luật của Lincoln. Mary Todd Lincoln là người vợ đảm đang, chu tất việc nội trợ như đã từng làm khi còn sống với cha mẹ ở Kentucky. Cô cũng giỏi vén khéo với đồng lương ít ỏi chồng cô kiếm được khi hành nghề luật. Robert Todd Lincoln sinh năm 1843, kế đó là Edward (Eddie) trong năm 1846. Lincoln "đặc biệt yêu thích lũ trẻ", và thường tỏ ra dễ dãi với chúng. Robert là người con duy nhất còn sống cho đến tuổi trưởng thành. Edward mất ngày 1 tháng 1, 1850 ở Springfield do lao phổi. "Wille" Lincoln sinh ngày 21 tháng 12 năm 1850 và mất ngày 20 tháng 2 năm 1862. Đứa con thứ tư của Lincoln, "Tad" Lincoln, sinh ngày 4 tháng 4 năm 1853, và chết vì mắc bệnh tim ở tuổi 18 (16 tháng 7 năm 1871). Cái chết của những cậu con trai đã tác động mạnh trên cha mẹ chúng. Cuối đời, Mary mắc chứng u uất do mất chồng và các con, có lúc Robert Todd Lincoln phải gửi mẹ vào viện tâm thần trong năm 1875. Abraham Lincoln thường khi vẫn "u sầu, phiền muộn", ngày nay được coi là triệu chứng của bệnh trầm cảm. Robert có ba con và ba cháu. Không một ai trong số cháu của ông có con, vì thế dòng dõi Lincoln chấm dứt khi Robert Beckwith (cháu trai của Lincoln) chết ngày 24 tháng 12 năm 1985. Khởi nghiệp Năm 1832, ở tuổi 23, Lincoln cùng một đối tác mua chịu một cửa hàng tạp hóa ở New Salem, Illinois. Mặc dù kinh tế trong vùng đang phát triển, doanh nghiệp của họ phải vất vả để tồn tại, cuối cùng Lincoln phải sang nhượng cổ phần của ông. Tháng 3 năm ấy, Lincoln bắt đầu sự nghiệp chính trị bằng cách tranh cử vào Nghị viện Illinois. Ông giành được thiện cảm của dân địa phương, thu hút nhiều đám đông ở New Salem bằng biệt tài kể chuyện đầy hóm hỉnh, mặc dù ông thiếu học thức, thân hữu có thế lực, và tiền bạc, là những yếu tố có thể khiến ông thất cử. Khi tranh cử, ông chủ trương cải thiện lưu thông đường thủy trên sông Sangamon. Trước cuộc bầu cử, Lincoln phục vụ trong lực lượng dân quân Illinois với cấp bậc đại úy suốt trong Chiến tranh Black Hawk (một cuộc chiến ngắn ngủi chống lại người da đỏ). Sau chiến tranh, ông trở lại vận động cho cuộc bầu cử ngày 6 tháng 8 vào Nghị viện Illinois. Với chiều cao , Lincoln cao và "đủ mạnh để đe dọa bất kỳ đối thủ nào." Ngay từ lần diễn thuyết đầu tiên, khi nhìn thấy một người ủng hộ ông trong đám đông bị tấn công, Lincoln liền đến "túm cổ và đáy quần gã kia" rồi ném hắn ra xa. Lincoln về hạng tám trong số mười ba ứng cử viên (chỉ bốn người đứng đầu được đắc cử). Lincoln quay sang làm trưởng bưu điện New Salem, rồi đo đạc địa chính; suốt thời gian ấy ông vẫn say mê đọc sách. Cuối cùng ông quyết định trở thành luật sư, bắt đầu tự học bằng cách nghiền ngẫm quyển Commentaries on the Laws of England của Blackstone, và những sách luật khác. Về phương pháp học, Lincoln tự nhận xét về mình: "Tôi chẳng học ai hết." Lincoln thành công khi ra tranh cử lần thứ hai năm 1834. Ông vào viện lập pháp tiểu bang. Sau khi được nhận vào Đoàn Luật sư Hoa Kỳ năm 1836, ông dời đến Springfield, Illinois bắt đầu hành nghề luật dưới sự dẫn dắt của John T. Stuart, một người anh em họ của Mary Todd. Dần dà, Lincoln trở thành một luật sư tài năng và thành đạt. Từ năm 1841 đến 1844, ông cộng tác với Stephen T. Logan, rồi với William Herndon, ông đánh giá Herndon là "một thanh niên chuyên cần". Năm 1841, Lincoln hành nghề luật cùng William Herndon, một người bạn trong Đảng Whig. Năm 1856, hai người tham gia Đảng Cộng hoà. Sau khi Lincoln chết, Herndon bắt đầu sưu tập các câu chuyện về Lincoln từ những người từng biết ông ở Illinois, và xuất bản chúng trong cuốn Lincoln của Herndon. Trong kỳ họp 1835-1836, ông bỏ phiếu ủng hộ chủ trương mở rộng quyền bầu cử cho nam giới da trắng, dù có sở hữu đất đai hay không. Ông nổi tiếng với lập trường "free soil" chống chế độ nô lệ lẫn chủ trương bãi bỏ nô lệ. Lần đầu tiên trình bày về chủ đề này trong năm 1837, ông nói, "Định chế nô lệ được thiết lập trên sự bất công và chính sách sai lầm, nhưng tuyên bố bãi nô chỉ làm gia tăng thay vì giảm thiểu tội ác này." Ông theo sát Henry Clay trong nỗ lực ủng hộ việc trợ giúp những nô lệ được tự do đến định cư tại Liberia ở châu Phi. Ông phục vụ bốn nhiệm kỳ liên tiếp ở Viện Dân biểu tiểu bang Illinois, đại diện cho Hạt Sangamon. Nghị trường Liên bang Từ đầu thập niên 1830, Lincoln là thành viên kiên trung của đảng Whig, tự nhận mình là "một đảng viên Whig bảo thủ, một môn đệ của Henry Clay". Đảng Whig ủng hộ hiện đại hóa nền kinh tế trong các lĩnh vực ngân hàng, dùng thuế bảo hộ để cung ứng ngân sách cho phát triển nội địa như đường sắt, và tán thành chủ trương đô thị hóa. Năm 1846, Lincoln đắc cử vào Viện Dân biểu Hoa Kỳ, phục vụ một nhiệm kỳ hai năm. Ông là đảng viên Whig duy nhất trong đoàn đại biểu đến từ Illinois, ông sốt sắng bày tỏ lòng trung thành với đảng của mình trong các cuộc biểu quyết và phát biểu ủng hộ chủ trương của đảng. Cộng tác với Joshua R. Giddings, một dân biểu chủ trương bãi nô, Lincoln soạn thảo một dự luật nhằm bãi bỏ chế độ nô lệ tại Hạt Columbia, nhưng ông phải từ bỏ ý định vì không có đủ hậu thuẫn từ trong đảng Whig. Về chính sách ngoại giao và quân sự, Lincoln lớn tiếng chống cuộc chiến Mễ-Mỹ, chỉ trích Tổng thống James K. Polk là chỉ lo tìm kiếm "thanh danh về quân sự - một ảo vọng nhuốm máu". Bằng cách soạn thảo và đệ trình Nghị quyết Spot, Linconln quyết liệt bác bỏ quan điểm của Polk. Cuộc chiến khởi phát do người México sát hại binh sĩ Mỹ ở vùng lãnh thổ đang tranh chấp giữa México và Hoa Kỳ; Polk nhấn mạnh rằng binh sĩ México đã "xâm lăng lãnh thổ chúng ta" và làm đổ máu đồng bào chúng ta ngay trên "đất của chúng ta". Lincoln yêu cầu Polk trình bày trước Quốc hội địa điểm chính xác nơi máu đã đổ và chứng minh địa điểm đó thuộc về nước Mỹ. Quốc hội không chịu thảo luận về nghị quyết, báo chí trong nước phớt lờ nó, và Lincoln bị mất hậu thuẫn chính trị ngay tại khu vực bầu cử của ông. Một tờ báo ở Illinois gán cho ông biệt danh "spotty Lincoln". Về sau, Lincoln tỏ ra hối tiếc về một số phát biểu của ông, nhất là khi ông tấn công quyền tuyên chiến của tổng thống. Nhận thấy rằng Clay không thể thắng cử, Lincoln, năm 1846 đã cam kết chỉ phục vụ một nhiệm kỳ tại Viện Dân biểu, ủng hộ Tướng Zachary Taylor đại diện đảng Whig trong cuộc đua năm 1848 tranh chức tổng thống. Khi Taylor đắc cử, Lincoln hi vọng được bổ nhiệm lãnh đạo Tổng cục Địa chính (General Land Office), nhưng chức vụ béo bở này lại về tay một đối thủ của ông, Justin Butterfield, người được chính phủ đánh giá là một luật sư lão luyện, nhưng theo Lincoln, Butterfield chỉ là một "tảng hóa thạch cổ lỗ". Chính phủ cho ông giải khuyến khích là chức thống đốc Lãnh thổ Oregon. Vùng đất xa xôi này là căn cứ địa của đảng Dân chủ, chấp nhận nó đồng nghĩa với việc chấm dứt sự nghiệp chính trị và luật pháp của ông ở Illinois, Lincoln từ chối và quay trở lại nghề luật. Luật sư vùng Thảo nguyên Lincoln trở lại hành nghề luật ở Springfield, xử lý "mọi loại công việc dành cho luật sư vùng thảo nguyên". Hai lần mỗi năm trong suốt mười sáu năm, mỗi lần kéo dài hai tuần, ông phải có mặt tại quận lỵ nơi tòa án quận có phiên xét xử. Lincoln giải quyết nhiều vụ tranh chấp trong lĩnh vực giao thông ở miền Tây đang mở rộng, nhất là việc điều vận xà lan sông qua gầm cầu đường hỏa xa mới được xây dựng. Lúc đầu, Lincoln chỉ nhận những vụ ông thích, về sau ông làm việc cho bất cứ ai chịu thuê mướn ông. Ông dần được biết tiếng, và bắt đầu xuất hiện trước Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ, tranh luận trong một vụ án liên quan đến một chiếc thuyền bị chìm do va chạm cầu. Năm 1849, ông được cấp bằng sáng chế về phương tiện đường thủy ứng dụng cho việc lưu thông thuyền trên dòng nước cạn. Dù ý tưởng này chưa từng được thương mại hóa, Lincoln là vị tổng thống duy nhất từng được cấp bằng sáng chế. Lincoln xuất hiện trước Tòa án Tối cao bang Illinois trong 175 vụ án, 51 vụ ông là luật sư biện hộ duy nhất cho thân chủ, trong đó có 31 phán quyết của tòa có lợi cho ông. Vụ án hình sự nổi bật nhất của Lincoln xảy ra năm 1858 khi ông biện hộ cho William "Duff" Armstrong, bị xét xử vì tội danh sát hại James Preston Metzker. Vụ án nổi tiếng do Lincoln sử dụng một sự kiện hiển nhiên để thách thức sự khả tín của một nhân chứng. Sau khi một nhân chứng khai trước tòa rằng đã chứng kiến vụ án diễn ra dưới ánh trăng, Lincoln rút quyển Niên lịch cho nhà nông, chỉ ra rằng vào thời điểm ấy Mặt Trăng còn thấp nên giảm thiểu đáng kể tầm nhìn. Dựa trên chứng cứ ấy, Armstrong được tha bổng. Hiếm khi Lincoln phản đối trước tòa; nhưng trong một vụ án năm 1859, khi biện hộ cho Peachy Harrison, một người anh em họ, bị cáo buộc đâm chết người, Lincoln giận dữ phản đối quyết định của thẩm phán bác bỏ một chứng cứ có lợi cho thân chủ của ông. Thay vì buộc tội Lincoln xúc phạm quan tòa, thẩm phán là một đảng viên Dân chủ đã đảo ngược phán quyết của ông, cho phép sử dụng chứng cứ và tha bổng Harrison. Đảng Cộng hòa 1854 – 1860 "Một nhà tự chia rẽ" Trong thập niên 1850, chế độ nô lệ được xem là hợp pháp tại các tiểu bang miền Nam trong khi ở tiểu bang miền Bắc như Illniois nó bị đặt ngoài vòng pháp luật. Lincoln chống chế độ nô lệ và việc mở rộng chế độ nô lệ đến những vùng lãnh thổ mới ở miền Tây. Vì muốn chống đối Đạo luật Kansas-Nebraska (1854) ông đã trở lại chính trường; đạo luật này được thông qua để hủy bỏ Thỏa hiệp Missouri hạn chế chế độ nô lệ. Thượng Nghị sĩ lão thành Stephen A. Douglas của Illinois đã liên kết quyền phổ thông tự quyết vào Đạo luật. Điều khoản của Douglas mà Lincoln bác bỏ là cho những người định cư quyền tự quyết cho địa phương của họ công nhận chế độ nô lệ trong những vùng lãnh thổ mới của Hoa Kỳ. Foner (2010) phân biệt quan điểm của nhóm chủ trương bãi nô cùng nhóm Cộng hòa cấp tiến ở vùng Đông Bắc là những người xem chế độ nô lệ là tội lỗi, với các đảng viên Cộng hòa bảo thủ chống chế độ nô lệ vì họ nghĩ rằng nó làm tổn thương người da trắng và kìm hãm sự tiến bộ của đất nước. Foner tin rằng Lincoln theo đường lối trung dung, ông phản đối chế độ nô lệ vì nó vi phạm các nguyên lý của chế độ cộng hòa xác lập bởi những nhà lập quốc, nhất là với quyền bình đằng dành cho mọi người và quyền tự quyết lập nền trên các nguyên tắc dân chủ đã được công bố trong bản Tuyên ngôn Độc lập. Ngày 16 tháng 10 năm 1854, trong "Diễn văn Peoria", Lincoln tuyên bố lập trường chống nô lệ dọn đường cho nỗ lực tranh cử tổng thống. Phát biểu với giọng Kentucky, ông nói Đạo luật Kansas "có vẻ vô cảm, song tôi buộc phải nghĩ rằng ẩn chứa trong nó là một sự nhiệt tình thực sự dành cho nỗ lực phổ biến chế độ nô lệ. Tôi không thể làm gì khác hơn là căm ghét nó. Tôi ghét nó bởi vì sự bất công đáng ghê tởm của chế độ nô lệ. Tôi ghét nó bởi vì nó tước đoạt ảnh hưởng công chính của hình mẫu nền cộng hòa của chúng ta đang tác động trên thế giới..." Cuối năm 1854, Lincoln ra tranh cử trong tư cách đảng viên đảng Whig đại diện Illinois tại Thượng viện Hoa Kỳ. Lúc ấy, viện lập pháp tiểu bang được dành quyền bầu chọn thượng nghị sĩ liên bang. Sau khi dẫn đầu trong sáu vòng bầu cử đầu tiên tại nghị viện Illinois, hậu thuẫn dành cho Lincoln suy yếu dần, ông phải kêu gọi những người ủng hộ ông bầu phiếu cho Lyman Trumbull, người đã đánh bại đối thủ Joel Aldrich Matteson. Đạo luật Kansas gây ra sự phân hóa vô phương cứu chữa trong nội bộ đảng Whig. Lôi kéo thành phần còn lại của đảng Whig cùng những người vỡ mộng từ các đảng Free Soil, Tự do, Dân chủ, ông hoạt động tích cực trong nỗ lực hình thành một chính đảng mới, Đảng Cộng hòa. Tại đại hội đảng năm 1856, Lincoln là nhân vật thứ hai trong cuộc đua giành sự đề cử của đảng cho chức vụ phó tổng thống. Trong khoảng 1857-58, do bất đồng với Tổng thống James Buchanan, Douglas dẫn đầu một cuộc tranh đấu giành quyền kiểm soát Đảng Dân chủ. Một số đảng viên Cộng hòa cũng ủng hộ Douglas trong nỗ lực tái tranh cử vào Thượng viện năm 1858 bởi vì ông chống bản Hiến chương Lecompton xem Kansas là tiểu bang chấp nhận chế độ nô lệ. Tháng 3 năm 1857, khi ban hành phán quyết trong vụ án Dred Scott chống Sandford, Chánh án Roger B. Taney lập luận rằng bởi vì người da đen không phải là công dân, họ không được hưởng bất kỳ quyền gì quy định trong Hiến pháp. Lincoln lên tiếng cáo giác đó là âm mưu của phe Dân chủ, "Các tác giả của bản Tuyên ngôn Độc lập không ‘nói mọi người bình đẳng trong màu da, thể hình, trí tuệ, sự phát triển đạo đức, khả năng xã hội’, song họ ‘thực sự xem mọi người sinh ra đều bình đẳng trong những quyền không thể chuyển nhượng, trong đó có quyền sống, tự do, và mưu cầu hạnh phúc.’" Sau khi được đại hội bang Đảng Cộng hòa đề cử tranh ghế tại Thượng viện năm 1858, Lincoln đọc bài diễn văn Một nhà tự chia rẽ, gợi ý từ Phúc âm Mác trong Kinh Thánh: Bài diễn văn đã tạo dựng được một hình ảnh sinh động liên tưởng đến hiểm họa phân hóa đất nước gây ra bởi những bất đồng về chế độ nô lệ, và là lời hiệu triệu tập hợp đảng viên Cộng hòa khắp miền Bắc. Tranh luận giữa Lincoln và Douglas Năm 1858 chứng kiến bảy cuộc tranh luận giữa Lincoln và Douglas khi diễn ra cuộc vận động tranh cử vào Thượng viện, đây là những cuộc tranh luận chính trị nổi tiếng nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Lincoln cảnh báo rằng chế độ nô lệ đang đe dọa những giá trị của chủ thuyết cộng hòa, và cáo buộc Douglas là bẻ cong các giá trị của những nhà lập quốc về nguyên lý mọi người sinh ra đều bình đẳng, trong khi Douglas nhấn mạnh đến quyền tự quyết của cư dân địa phương xem họ có chấp nhận chế độ nô lệ hay không. Các ứng cử viên Cộng hòa giành nhiều phiếu phổ thông hơn, nhưng những người Dân chủ chiếm được nhiều ghế hơn trong viện lập pháp tiểu bang. Viện Lập pháp đã tái bầu Douglas vào Thượng viện Hoa Kỳ. Dù bị thất bại cay đắng, khả năng hùng biện của Lincoln mang đến cho ông danh tiếng trên chính trường quốc gia. Diễn văn Cooper Union Ngày 27 tháng 2 năm 1860, giới lãnh đạo đảng ở New York mời Lincoln đọc diễn văn tại Liên minh Cooper, trước một cử tọa gồm những nhân vật có thế lực trong đảng Cộng hòa. Lincoln lập luận rằng những nhà lập quốc không mấy quan tâm đến quyền tự quyết phổ thông, nhưng thường xuyên tìm cách kìm chế chế độ nô lệ. Ông nhấn mạnh rằng nền tảng đạo đức của người Cộng hòa đòi hỏi họ phải chống lại chế độ nô lệ, và mọi sự "cám dỗ chấp nhận lập trường trung dung giữa lẽ phải và điều sai trái." Việc phô bày khả năng lãnh đạo đầy trí tuệ đã đưa Lincoln vào nhóm những chính trị gia hàng đầu của đảng và dọn đường cho ông trong nỗ lực giành sự đề cử của đảng tranh chức tổng thống. Nhà báo Noah Brooks tường thuật, "Chưa từng có ai tạo được ấn tượng mạnh mẽ như thế như lần đầu tiên ông hiệu triệu một cử tọa ở New York." Donald miêu tả bài diễn văn là "một động thái chính trị siêu đẳng cho một ứng cử viên chưa tuyên bố tranh cử, xuất hiện ở chính tiểu bang của đối thủ (William H. Seward), ngay tại một sự kiện do những người trung thành với đối thủ thứ hai (Salmon P. Chase) bảo trợ, mà không cần phải nhắc đến tên của họ trong suốt bài diễn văn." Chiến dịch Tranh cử Tổng thống năm 1860 Đại hội tiểu bang Đảng Cộng hòa tổ chức tại Decatur trong hai ngày 9 và 10 tháng 5 năm 1860. Lincoln nhận được ủng hộ để ra tranh cử tổng thổng. Ngày 18 tháng 5, tại Đại hội Toàn quốc Đảng Cộng hòa năm 1860, tổ chức ở Chicago, ở vòng bầu phiếu thứ ba, Lincoln giành được sự đề cử, một người từng là đảng viên Dân chủ đến từ Maine, Hannibal Hamlin, được chọn đứng cùng liên danh với ông để tạo thế cân bằng. Thành quả này có được là nhờ danh tiếng của ông như là một chính trị gia có lập trường ôn hòa về vấn đề nô lệ cũng như sự ủng hộ mạnh mẽ của ông dành cho các chương trình của Đảng Whig cải thiện các vấn đề trong nước và bảo hộ hàng nội địa. Trong suốt thập niên 1850, Lincoln không tin sẽ xảy ra cuộc nội chiến, những người ủng hộ ông cũng bác bỏ việc ông đắc cử sẽ dẫn đến khả năng chia cắt đất nước. Trong lúc ấy, Douglas được chọn làm ứng cử viên cho Đảng Dân chủ. Những đoàn đại biểu từ 11 tiểu bang ủng hộ chế độ nô lệ bỏ phòng họp vì bất đồng với quan điểm của Douglas về quyền tự quyết phổ thông, sau cùng họ chọn John C. Breckinridge làm ứng cử viên. Lincoln là ứng cử viên duy nhất không đọc diễn văn tranh cử, nhưng ông theo dõi sát sao cuộc vận động và tin cậy vào bầu nhiệt huyết của đảng viên Cộng hòa. Họ di chuyển nhiều và tạo lập những nhóm đa số khắp miền Bắc, in ấn và phổ biến một khối lượng lớn áp-phích, tờ rơi, và viết nhiều bài xã luận trên các nhật báo. Có hàng ngàn thuyết trình viên Cộng hòa quảng bá cương lĩnh đảng và những trải nghiệm sống của Lincoln, nhấn mạnh đến tuổi thơ nghèo khó của ông. Mục tiêu của họ là trình bày sức mạnh vượt trội của quyền lao động tự do, nhờ đó mà một cậu bé quê mùa lớn lên từ nông trại nhờ nỗ lực bản thân mà trở thành một chính trị hàng đầu của xứ sở. Phương pháp quảng bá hiệu quả của Đảng Cộng hòa đã làm suy yếu các đối thủ; một cây bút của tờ Chicago Tribune viết một tiểu luận miêu tả chi tiết cuộc đời Lincoln, bán được khoảng từ 100 đến 200 ngàn ấn bản. Sự nghiệp tổng thống Bầu cử năm 1860 Ngày 6 tháng 11 năm 1860, Lincoln đắc cử để trở thành tổng thống thứ mười sáu của Hoa Kỳ. Ông vượt qua Stephen A. Douglas của Đảng Dân chủ, John C. Breckinridge của Đảng Dân chủ miền Nam, và John Bell của Đảng Liên minh Hiến pháp mới được thành lập năm 1860. Lincoln là đảng viên Cộng hòa đầu tiên đảm nhận chức vụ tổng thống. Chiến thắng của ông hoàn toàn dựa trên sự ủng hộ ở miền Bắc và miền Tây. Không có phiếu bầu cho Lincoln tại mười trong số mười lăm tiểu bang miền Nam sở hữu nô lệ; ông chỉ về đầu ở 2 trong số 996 hạt trên tất cả các tiểu bang miền Nam. Lincoln nhận được 1.866.452 phiếu bầu, trong khi Douglas có 1.376.957 phiếu, Breckinridge 849.781 phiếu, và Bell được 588.789 phiếu. Ly khai Khi kết quả bầu cử đã rõ ràng, những người chủ trương ly khai nói rõ ý định của họ là sẽ tách khỏi Liên bang trước khi Lincoln nhậm chức vào tháng 3 tới. Ngày 20 tháng 12 năm 1860, tiểu bang South Carolina dẫn đầu bằng cách chấp nhận luật ly khai; ngày 1 tháng 2 năm 1861, Florida, Mississippi, Alabama, Georgia, Louisiana, và Texas tiếp bước. Sáu trong số các tiểu bang này thông qua một bản hiến pháp, và tuyên bố họ là một quốc gia có chủ quyền, Liên minh miền Nam. Các tiểu bang Delaware, Maryland, Virginia, North Carolina, Tennessee, Kentucky, Missouri, và Arkansas có lắng nghe nhưng không chịu ly khai. Tổng thống đương nhiệm Buchanan và Tổng thống tân cử Lincoln từ chối công nhận Liên minh, tuyên bố hành động ly khai là bất hợp pháp. Ngày 9 tháng 2 năm 1861, Liên minh miền Nam chọn Jefferson Davis làm Tổng thống lâm thời. Khởi đầu là những nỗ lực hòa giải. Thỏa hiệp Crittenden mở rộng thêm những điều khoản của Thỏa hiệp Missouri năm 1820, phân chia thành các vùng tự do và vùng có nô lệ, điều này trái ngược với cương lĩnh của Đảng Cộng hòa. Bác bỏ ý tưởng ấy, Lincoln phát biểu, "Tôi thà chết còn hơn chấp nhận... bất cứ sự nhượng bộ hoặc sự thỏa hiệp nào để có thể sở hữu chính quyền này, là chính quyền chúng ta có được bởi quyền hiến định." Tuy nhiên, Lincoln ủng hộ Tu chính Corwin được Quốc hội thông qua nhằm bảo vệ quyền sở hữu nô lệ tại những tiểu bang đã có sẵn chế độ nô lệ. Chỉ vài tuần lễ trước khi xảy ra chiến tranh, Lincoln đi xa đến mức viết một bức thư gởi tất cả thống đốc kêu gọi họ ủng hộ việc thông qua Tu chính Corwin, ông xem đó như là nỗ lực tránh nguy cơ ly khai. Trên đường đến lễ nhậm chức bằng tàu hỏa, Lincoln diễn thuyết trước những đám đông và các viện lập pháp khi ông băng ngang qua lãnh thổ phương Bắc. Ở Baltimore, nhờ Allen Pinkerton, trưởng toán cận vệ, dùng thân mình che Tổng thống tân cử mà ông thoát chết. Ngày 23 tháng 2 năm 1861, Lincoln phải ngụy trang khi đến Washington, D.C., trong sự bảo vệ của một toán binh sĩ. Nhắm vào dân chúng miền Nam, trong bài diễn văn nhậm chức lần thứ nhất, Lincoln tuyên bố rằng ông không có ý định hủy bỏ chế độ nô lệ ở các tiểu bang miền Nam: Kết thúc bài diễn văn, Tổng thống kêu gọi dân chúng miền Nam: "Chúng ta không phải là kẻ thù, nhưng là bằng hữu. Không thể nào chúng ta trở thành kẻ thù của nhau... Sợi dây đàn màu nhiệm của ký ức, trải dài từ những bãi chiến trường và mộ phần của những người yêu nước đến trái tim của mỗi người đang sống, đến chỗ ấm cúng nhất của mỗi mái ấm gia đình, khắp mọi nơi trên vùng đất bao la này, sẽ làm vang tiếng hát của ban hợp xướng Liên bang, khi dây đàn ấy được chạm đến một lần nữa, chắc chắn sẽ như thế, bởi phần tốt lành hơn trong bản chất của chúng ta." Chiến tranh Chỉ huy trưởng Đồn Sumter ở tiểu bang South Carolina, Thiếu tá Robert Anderson, yêu cầu tiếp liệu từ Washington, và khi Lincoln chỉ thị đáp ứng yêu cầu ấy, phe ly khai xem đó là hành động gây chiến. Ngày 12 tháng 4 năm 1861, lực lượng Liên minh tấn công doanh trại Sumter, buộc họ phải đầu hàng. Chiến tranh bùng nổ. Sử gia Allen Nevins cho rằng tổng thống vừa nhậm chức đã tính toán nhầm khi tin rằng ông có thể duy trì Liên bang. William Tecumseh Sherman, viếng thăm Linconln trong tuần lễ diễn ra lễ nhậm chức, đã "thất vọng trong đau buồn" vì thấy Lincoln không thể nhận ra sự thật là "đất nước đang ngủ mê ngay trên ngọn núi lửa", và miền Nam đang chuẩn bị cho chiến tranh. Donald đúc kết, "Chính nỗ lực của Lincoln nhiều lần cố tránh va chạm trong thời gian giữa lễ nhậm chức và trận Đồn Sumter chỉ ra rằng ông trung thành với lời hứa sẽ không phải là người khởi phát cuộc huynh đệ tương tàn. Mặt khác, ông cũng thề hứa không chịu để các đồn binh bị thất thủ. Giải pháp duy nhất cho phe Liên minh là họ phải khai hỏa trước; và họ đã hành động." Ngày 15 tháng 4, Lincoln kêu gọi các tiểu bang gởi 75.000 binh sĩ tái chiếm các đồn binh, bảo vệ Washington, và "duy trì Liên bang", theo ông, vẫn đang còn nguyên vẹn bất kể hành động của những bang ly khai. Lời kêu gọi này buộc các tiểu bang phải quyết định dứt khoát. Virginia tuyên bố ly khai, liền được ban thưởng để trở thành thủ đô của Liên minh. Trong vòng hai tháng, North Carolina, Tennessee, và Arkansas cũng biểu quyết ly khai. Cảm tình ly khai phát triển ở Missouri và Maryland, nhưng chưa đủ mạnh để chiếm ưu thế, trong khi Kentucky cố tỏ ra trung lập. Binh sĩ di chuyển về hướng nam đến Washington để bảo vệ thủ đô, đáp lời kêu gọi của Lincoln. Ngày 19 tháng 4, những đám đông chủ trương ly khai ở Baltimore chiếm đường sắt dẫn về thủ đô. George William Brown, Thị trưởng Baltimore, và một số chính trị gia khả nghi khác ở Maryland bị cầm tù mà không cần trát lệnh, Lincoln đình chỉ quyền công dân được xét xử trước tòa. John Merryman, thủ lĩnh nhóm ly khai ở Maryland, thỉnh cầu Chánh án Tối cao Pháp viện Roger B. Taney ra phán quyết cho rằng vụ bắt giữ vụ bắt giữ Merryman mà không xét xử là vi phạm pháp luật. Taney ra phán quyết, theo đó Merryman phải được trả tự do, nhưng Lincoln phớt lờ phán quyết. Từ đó, và trong suốt cuộc chiến, Lincoln bị chỉ trích dữ dội, thường khi bị lăng mạ, bởi những đảng viên Dân chủ chống chiến tranh. Hành xử quyền lực trong thời chiến Sau khi Đồn Sumter bị thất thủ, Lincoln nhận ra tầm quan trọng của việc trực tiếp nắm quyền chỉ huy nhằm kiểm soát cuộc chiến và thiết lập chiến lược toàn diện để trấn áp phe nổi loạn. Đối đầu với cuộc khủng hoảng chính trị và quân sự chưa từng có, Lincoln, với tư cách là Tổng Tư lệnh Quân lực, sử dụng quyền lực chưa từng có. Ông mở rộng những quyền đặc biệt trong chiến tranh, áp đặt lệnh phong tỏa trên tất cả thương cảng của Liên minh, ra lệnh cầm tù không qua xét xử hàng ngàn người bị nghi là ủng hộ Liên minh. Quốc hội và công luận miền bắc ủng hộ ông. Hơn nữa, Lincoln phải đấu tranh để củng cố sự ủng hộ mạnh mẽ từ những tiểu bang có nô lệ ở vùng biên, và phải kiềm chế cuộc chiến không trở thành một cuộc tranh chấp quốc tế. Nỗ lực dành cho cuộc chiến chiếm hết thời gian và tâm trí của Lincoln cũng như khiến ông trở nên tâm điểm của sự dèm pha và miệt thị. Nhóm phản chiến trong Đảng Dân chủ chỉ trích Lincoln không chịu thỏa hiệp trong vấn đề nô lệ, trong khi nhóm cấp tiến trong Đảng Cộng hòa phê phán ông hành động quá chậm trong nỗ lực bãi nô. Ngày 6 tháng 8 năm 1861, Lincoln ký ban hành Luật Tịch biên, cho phép tịch biên tài sản và giải phóng nô lệ của những người ủng hộ Liên minh trong cuộc chiến. Trong thực tế, dù ít khi được áp dụng, luật này đánh dấu sự ủng hộ chính trị dành cho nỗ lực bãi bỏ chế độ nô lệ. Lincoln mượn từ Thư viện Quốc hội quyển Elements of Military Art and Science của Henry Halleck để đọc và nghiên cứu về quân sự. Lincoln nhẫn nại xem xét từng báo cáo gởi bằng điện tín từ Bộ Chiến tranh ở Washington D. C., tham vấn các thống đốc tiểu bang, một số tướng lãnh được tuyển chọn dựa trên thành tích của họ. Tháng 1 năm 1862, sau nhiều lời than phiền về sự thiếu hiệu quả cũng như những hành vi vụ lợi ở Bộ Chiến tranh, Lincoln bổ nhiệm Edwin Stanton thay thế Cameron trong cương vị Bộ trưởng. Stanton là một trong số nhiều đảng viên Dân chủ bỏ sang đảng Cộng hòa dưới quyền lãnh đạo của Lincoln. Mỗi tuần hai lần, Lincoln họp với Nội các. Ông học hỏi từ Tướng Henry Halleck về sự cần thiết kiểm soát các điểm chiến lược, như sông Mississippi; ông cũng biết rõ tầm quan trọng của thị trấn Vicksburg, và hiểu rằng cần phải triệt tiêu sức mạnh quân sự của đối phương chứ không chỉ đơn giản là chiếm được lãnh thổ. Tướng McClellan Năm 1861, Lincoln bổ nhiệm Thiếu tướng George B. McClellan làm tổng tham mưu trưởng quân lực Liên bang thay thế tướng Winfield Scott về hưu. Tốt nghiệp Trường Võ bị West Point, từng lãnh đạo công ty đường sắt, và đảng viên Dân chủ từ Pensylvania, McClellan phải mất đến vài tháng để lập kế hoạch cho chiến dịch Penisula nhằm chiếm Richmond để tiến về thủ đô của Liên minh. Sự chậm trễ này đã gây bối rối cho Lincoln và Quốc hội. Tháng 3 năm 1862, Lincoln bãi chức McClellan và bổ nhiệm Henry Wager Halleck thay thế. Trên biển, chiến hạm CSS Virginia gây thiệt hại ba chiến hạm của Liên bang ở Norfolk, Virginia trước khi bị chiến hạm USS Monitor đánh bại. Trong lúc tuyệt vọng, Lincoln phải mời McClellan trở lại lãnh đạo lực lượng vũ trang khu vực Washington. Hai ngày sau, lực lượng của Tướng Lee băng qua sông Potomac tiến vào Maryland, đánh với Liên bang trong trận Antietam tháng 9 năm 1862. Đây là một trong những trận đánh đẫm máu nhất trong lịch sử nước Mỹ dù chiến thắng thuộc về Liên bang, và cũng là cơ hội để Lincoln công bố bản Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ nhằm tránh những đồn đoán cho rằng Lincoln phải công bố bản tuyên ngôn vì đang ở trong tình thế tuyệt vọng. McClellan chống lại lệnh của tổng thống yêu cầu truy đuổi Tướng Lee, trong khi đồng đội của ông, Tướng Don Carlos Buell không chịu động binh đánh quân nổi dậy ở phía đông Tennessee. Lincoln bổ nhiệm William Rosecrant thay thế Buell; sau cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ, ông chọn Ambrose Burnside thay thế McClellan. Hai nhà lãnh đạo quân sự mới đều có quan điểm chính trị ôn hòa và đều ủng hộ vị Tổng tư lệnh quân lực. Tháng 12, do vội vàng mở cuộc tấn công băng qua sông Rappahannock, Burnside bị Lee đánh bại trong trận Fredericksburg khiến hàng ngàn binh sĩ bất mãn và đào ngũ trong năm 1863. Lincoln thay thế Burnside bằng Joseph Hooker, mặc dù Hooker là người luôn khăng khăng yêu cầu thành lập một chế độ độc tài quân sự. Trong cuộc bầu cử giữa kỳ năm 1862, đảng Cộng hòa mất nhiều ghế ở Viện Dân biểu do cử tri bất bình với chính phủ vì không thể kết thúc sớm cuộc chiến, và vì nạn lạm phát, tăng thuế, những đồn đại về tham ô, và nỗi e sợ thị trường lao động sẽ sụp đổ nếu giải phóng nô lệ. Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ được công bố vào tháng 9 đã giúp đảng Cộng hòa giành phiếu bầu ở các khu vực nông thôn vùng New England và phía bắc vùng Trung Tây, nhưng mất phiếu ở các đô thị và phía nam vùng Tây Bắc. Đảng Dân chủ được tiếp thêm sức mạnh và hoạt động tốt ở Pennsylvania, Ohio, Indiana, và New York. Tuy nhiên, đảng Cộng hòa vẫn duy trì thế đa số ở Quốc hội và các tiểu bang quan trọng ngoại trừ New York. Theo tờ Cincinnati, cử tri "thất vọng vì thấy cuộc chiến tiếp tục kéo dài, cũng như sự cạn kiệt tài nguyên quốc gia mà không có sự tiến bộ nào." Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ Lincoln hiểu rằng quyền lực của Chính phủ liên bang để giải phóng nô lệ đang bị hạn chế bởi Hiến pháp, mà hiến pháp, từ trước năm 1865, đã dành quyền này cho các tiểu bang. Lúc bắt đầu cuộc chiến, Lincoln cố thuyết phục các tiểu bang chấp nhận giải phóng nô lệ có bồi thường (nhưng chỉ được Washington, D. C. áp dụng) Ông bác bỏ các đề nghị giới hạn việc giải phóng nô lệ theo khu vực địa lý. Ngày 19 tháng 6 năm 1862, với sự ủng hộ của Lincoln, Quốc hội thông qua luật cấm chế độ nô lệ trên toàn lãnh thổ liên bang. Tháng 7, dự luật thứ hai được thông qua, thiết lập trình tự tài phán để tiến hành giải phóng nô lệ của những chủ nô bị kết án ủng hộ phe phiến loạn. Dù không tin Quốc hội có quyền giải phóng nô lệ trong lãnh thổ các tiểu bang, Lincoln phê chuẩn dự luật để bày tỏ sự ủng hộ dành cho ngành lập pháp. Ông cảm nhận rằng tổng thống trong cương vị Tổng tư lệnh quân lực có thể sử dụng quyền hiến định hành động trong tình trạng chiến tranh để thực thi luật pháp, và ông lập kế hoạch hành động. Ngay trong tháng 6, Lincoln thảo luận với Nội các nội dung bản Tuyên ngôn, trong đó ông viết, "như là một biện pháp quân sự cần thiết và thích đáng, từ ngày 1 tháng 1, 1863, mọi cá nhân bị xem là nô lệ trong các tiểu bang thuộc Liên minh, từ nay và vĩnh viễn, được tự do." Trong chỗ riêng tư, Lincoln khẳng quyết rằng không thể chiến thắng mà không giải phóng nô lệ. Tuy nhiên, phe Liên minh và thành phần chống chiến tranh tuyên truyền rằng giải phóng nô lệ là rào cản đối với nỗ lực thống nhất đất nước. Lincoln giải thích rằng mục tiêu chính của ông trong cương vị tổng thống là bảo vệ sự thống nhất của Liên bang: Công bố ngày 22 tháng 9 năm 1862, bản Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 1863, tuyên bố giải phóng nô lệ trong 10 tiểu bang ngoài vòng kiểm soát của Liên bang, với sự miễn trừ dành cho những khu vực trong hai tiểu bang thuộc Liên bang. Quân đội Liên bang càng tiến sâu về phía Nam càng có nhiều nô lệ được tự do cho đến hơn ba triệu nô lệ trong lãnh thổ Liên minh được giải phóng. Lincoln nhận xét về bản Tuyên ngôn, "Chưa bao giờ trong đời tôi tin quyết về những gì tôi đang làm là đúng như khi tôi ký văn kiện này." Sau khi ban hành Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ, tuyển mộ cựu nô lệ vào quân đội là chủ trương chính thức của chính phủ. Lúc đầu còn miễn cưỡng, nhưng từ mùa xuân năm 1863, Lincoln khởi xướng chương trình "Tuyển mộ đại trà binh sĩ da đen". Trong thư gởi Andrew Johnson, thống đốc quân sự Tennessee, Lincoln viết, "Chỉ cần quang cảnh 50.000 chiến binh da đen được huấn luyện và trang bị đầy đủ cũng có thể chấm dứt cuộc nổi loạn ngay lập tức." Cuối năm 1863, theo chỉ đạo của Lincoln, Tướng Lorenzo Thomas tuyển mộ 20 trung đoàn da đen từ Thung lũng Mississippi. Frederick Douglass có lần nhận xét: "Khi gặp Lincoln, chưa bao giờ tôi nhớ đến xuất thân thấp hèn, hoặc màu da không được ưa thích của mình." Diễn văn Gettysburg Tháng 7 năm 1863, Binh đoàn Potomac dưới quyền tướng George Meade thắng lớn trong trận Gettysburg. Trên chính trường, nhóm Copperheads bị thất bại trong kỳ tuyển cử mùa thu ở Ohio, nhờ đó Lincoln duy trì sự ủng hộ bên trong đảng cùng vị thế chính trị vững chãi đủ để tái thẩm định cuộc chiến. Tình thế thuận lợi cho Lincoln vào thời điểm ông đọc bài diễn văn tại nghĩa trang Gettysburg. Trái với lời tiên đoán của Lincoln, "Thế giới không quan tâm, cũng chẳng nhớ những gì chúng ta nói ở đây," thì bài diễn văn của ông đã trở nên một trong những diễn từ được trích dẫn nhiều nhất trong lịch sử Mỹ Quốc. Diễn văn Gettysburg được đọc trong lễ cung hiến Nghĩa trang Liệt sĩ Quốc gia tại Gettysburg, Pennsylvania, vào chiều thứ Năm, ngày 19 tháng 11 năm 1863. Chỉ với 271 từ, trong bài diễn văn kéo dài ba phút này, Lincoln nhấn mạnh rằng đất nước được sản sinh, không phải năm 1789, mà từ năm 1776, "được thai nghén trong Tự do, được cung hiến cho niềm xác tín rằng mọi người sinh ra đều bình đẳng." Ông định nghĩa rằng chiến tranh là sự hi sinh đấu tranh cho nguyên tắc tự do và bình đẳng cho mọi người. Giải phóng nô lệ là một phần của nỗ lực ấy. Ông tuyên bố rằng cái chết của các chiến sĩ dũng cảm là không vô ích, rằng chế độ nô lệ sẽ thất bại và cáo chung, tương lai của nền dân chủ sẽ được bảo đảm, và "chính quyền của dân, do dân, vì dân sẽ không lụi tàn khỏi mặt đất." Lincoln đúc kết rằng cuộc nội chiến có một mục tiêu cao quý – sản sinh một nền tự do mới cho dân tộc. Tướng Grant Sự kiện Meade không thể khống chế đạo quân của Lee khi ông này triệt thoái khỏi Gettysburg cùng với sự thụ động kéo dài của Binh đoàn Potomac khiến Lincoln tin rằng cần có sự thay đổi ở vị trí tư lệnh mặt trận. Chiến thắng của Tướng Ulysses S. Grant trong trận Shiloh và trong chiến dịch Vicksburg tạo ấn tượng tốt đối với Lincoln. Hồi đáp những lời chỉ trích Grant sau trận Shiloh, Lincoln từng nói: "Tôi rất cần người này. Ông ta chiến đấu." Vào năm 1864, Grant phát động Chiến dịch Overland đẫm máu thường được mô tả là chiến tranh tiêu hao, khiến phía Liên bang thiệt hại nặng nề trong các mặt trận như Wilderness và Cold Harbor. Dù được hưởng lợi thế của phía phòng thủ, quân đội Liên minh cũng bị tổn thất không kém. Do không có nguồn lực dồi dào, đạo quân của Lee cứ hao mòn dần qua mỗi trận chiến, bị buộc phải đào hào phòng thủ bên ngoài Petersburg, Virginia trong vòng vây của quân đội Grant. Linconln cho phép Grant phá hủy cơ sở hạ tầng của Liên minh như nông trang, đường sắt, và cầu cống nhằm làm suy sụp tinh thần cũng như làm suy yếu khả năng kinh tế của đối phương. Di chuyển đến Petersburg, Grant chặn ba tuyến đường sắt từ Richmond, Virginia về phía nam tạo điều kiện cho Tướng Sherman và Tướng Philip Sheridan hủy phá các nông trang và các thị trấn ở Thung lũng Shenandoah thuộc Virginia. Vào ngày 1 tháng 4 năm 1865, Grant thọc sâu vào sườn của lực lượng của Lee trong trận Five Forks và bao vây Petersburg, chính phủ Liên minh phải di tản khỏi Richmond. Lincoln đến thăm thủ đô của Liên minh khi vừa bị thất thủ, người da đen được tự do chào đón ông như một vị anh hùng trong khi người da trắng tỏ vẻ lạnh lùng với tổng thống của phe chiến thắng. Vào ngày 9 tháng 4 năm 1865, tại làng Appomattox Court House, Lee đầu hàng trước Grant, kết thúc cuộc nội chiến. Năm 1864, tái tranh cử Là chính trị gia lão luyện, Lincoln không chỉ có khả năng đoàn kết tất cả phe phái chính trong đảng Cộng hòa mà còn thu phục những người Dân chủ như Edwin M. Stanton và Andrew Johnson. Ông dành nhiều giờ trong tuần để đàm đạo với các chính trị gia đến từ khắp đất nước, và sử dụng ảnh hưởng rộng lớn của ông để tạo sự đồng thuận giữa các phe nhóm trong đảng, xây dựng hậu thuẫn cho các chính sách của ông, và đối phó với nỗ lực của nhóm cấp tiến đang cố loại ông khỏi liên danh năm 1864. Đại hội đảng năm 1864 chọn Andrew Johnson đứng cùng liên danh với Lincoln. Nhằm mở rộng liên minh chính trị hầu lôi cuốn các đảng viên Dân chủ và Cộng hòa, Lincoln tranh cử dưới danh nghĩa của Đảng Liên hiệp Quốc gia tân lập. Khi các chiến dịch mùa xuân của Grant đi vào bế tắc trong khi tổn thất tiếp tục gia tăng, sự thiếu vắng các chiến thắng quân sự phủ bóng trên triển vọng đắc cử của Tổng thống, nhiều đảng viên Cộng hòa trên khắp nước e sợ Lincoln sẽ thất cử. Khi cánh chủ hòa trong đảng Dân chủ gọi cuộc chiến là một "thất bại" thì ứng cử viên của đảng, Tướng George B. McClellan, ủng hộ chiến tranh và lên tiếng bác bỏ luận cứ của phe chủ hòa. Lincoln cấp thêm lính cho Grant, đồng thời vận động đảng của ông tăng cường hỗ trợ cho Grant. Trong tháng 9, Thắng lợi của Liên bang khi Sherman chiếm Atlanta và David Farragut chiếm Mobile dập tắt mọi hoài nghi; Đảng Dân chủ bị phân hóa trầm trọng, một số nhà lãnh đạo và phần lớn quân nhân quay sang ủng hộ Lincoln. Một mặt, Đảng Liên hiệp Quốc gia đoàn kết chặt chẽ hỗ trợ cho Lincoln khi ông tập chú vào chủ đề giải phóng nô lệ; mặt khác, các chi bộ Cộng hòa cấp tiểu bang nỗ lực hạ giảm uy tín phe chủ hòa. Lincoln thắng lớn trong cuộc tuyển cử, giành được phiếu bầu của tất cả ngoại trừ ba tiểu bang. Ngày 4 tháng 3 năm 1865, trong bài diễn văn nhậm chức lần thứ hai, Lincoln bày tỏ rằng sự tổn thất lớn lao từ hai phía là do ý chỉ của Thiên Chúa. Sử gia Mark Noll xếp diễn từ này vào trong "một số ít các văn bản hàm chứa tính thiêng liêng, nhờ đó người dân Mỹ ý thức được vị trí của mình trên thế giới." Tái thiết Thời kỳ tái thiết đã khởi đầu ngay từ lúc còn chiến tranh, khi Lincoln và các phụ tá của ông tính trước phương cách giúp các tiểu bang miền nam tái hội nhập, giải phóng nô lệ, và quyết định số phận của giới lãnh đạo Liên minh. Không lâu sau khi Tướng Lee đầu hàng, khi được hỏi nên đối xử với phe thất trận như thế nào, Lincoln trả lời, "Hãy để họ thoải mái". Trong nỗ lực tiến hành chính sách hòa giải, Lincoln nhận được sự ủng hộ của nhóm ôn hòa, nhưng bị chống đối bởi nhóm cấp tiến trong đảng Cộng hòa nhự Dân biểu Thaddeus Stevens, các Thượng Nghị sĩ Charles Summer và Benjamin Wade, là những đồng minh chính trị của ông trong các vấn đề khác. Quyết tâm tìm ra giải pháp hiệp nhất dân tộc mà không thù địch với miền Nam, Lincoln thúc giục tổ chức bầu cử sớm theo các điều khoản phóng khoáng. Tuyên cáo Ân xá của tổng thống ngày 8 tháng 12 năm 1863 công bố không buộc tội những ai không có chức vụ trong Liên minh, chưa từng ngược đãi tù binh Liên bang, và chịu ký tuyên thệ trung thành với Liên bang. Sự chọn lựa nhân sự của Lincoln là nhằm giữ hai nhóm ôn hòa và cấp tiến cùng làm việc với nhau. Ông bổ nhiệm Salmon P. Chase thuộc nhóm cấp tiến vào Tối cao Pháp viện thay thế Chánh án Taney. Sau khi Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ có hiệu lực, dù không được áp dụng trên tất cả tiểu bang, Lincoln gia tăng áp lực yêu cầu Quốc hội ra một bản tu chính đặt chế độ nô lệ ngoài vòng pháp luật trên toàn lãnh thổ. Lincoln tuyên bố rằng một bản tu chính như thế sẽ "giải quyết dứt điểm toàn bộ vấn đề". Tháng 6 năm 1864, một dự luật tu chính được trình Quốc hội nhưng không được thông qua vì không đủ đa số hai phần ba. Việc thông qua dự luật trở thành một trong những chủ đề vận động trong cuộc bầu cử năm 1864. Ngày 13 tháng 1, 1865, sau một cuộc tranh luận dài ở Viện Dân biểu, dự luật được thông qua và được gửi đến các viện lập pháp tiểu bang để phê chuẩn để trở thành Tu chính án thứ mười ba của Hiến pháp Hoa Kỳ vào ngày 6 tháng 12 năm 1865. Khi cuộc chiến sắp kết thúc, kế hoạch tái thiết của tổng thống tiếp tục được điều chỉnh. Tin rằng chính phủ liên bang có một phần trách nhiệm đối với hàng triệu nô lệ được giải phóng, Lincoln ký ban hàng đạo luật Freedman’s Bureau thiết lập một cơ quan liên bang đáp ứng các nhu cầu của những cựu nô lệ, cung ứng đất thuê trong hạn ba năm với quyền được mua đứt cho những người vừa được tự do. Tái định nghĩa khái niệm cộng hòa và chủ nghĩa cộng hòa Những sử gia đương đại như Harry Jaffa, Herman Belz, John Diggins, Vernon Burton, và Eric Foner đều nhấn mạnh đến nỗ lực tái định nghĩa các giá trị cộng hòa của Lincoln. Từ đầu thập niên 1850 khi các luận cứ chính trị đều hướng về tính thiêng liêng của Hiến pháp, Lincoln đã tập chú vào bản Tuyên ngôn Độc lập, xem văn kiện này là nền tảng của các giá trị chính trị của nước Mỹ mà ông gọi là "thành lũy" của chủ nghĩa cộng hòa. Sự kiện bản Tuyên ngôn nhấn mạnh đến quyền tự do và sự bình đẳng dành cho mọi người, trái ngược với Hiến pháp dung chịu chế độ nô lệ, đã làm thay đổi chiều hướng tranh luận. Luận điểm của Lincoln đã gây dựng được ảnh hưởng vì ông làm sáng tỏ nền tảng đạo đức của chủ nghĩa cộng hòa, thay vì chỉ biết tuân thủ hiến pháp. Các đạo luật Lincoln trung thành với chủ thuyết của đảng Whig về chức vụ tổng thống, theo đó Quốc hội có trách nhiệm làm luật và nhánh hành pháp thực thi luật pháp. Chỉ có bốn dự luật đã được Quốc hội thông qua đã bị Lincoln phủ quyết. Năm 1862, ông ký ban hành đạo luật Homestead bán cho người dân với giá rất thấp hàng triệu héc-ta đất chính phủ đang sở hữu. Đạo luật Morrill Land-Grant Colleges ký năm 1862 cung ứng học bổng chính phủ cho các trường đại học nông nghiệp tại mỗi tiểu bang. Đạo luật Pacific Railway năm 1862 và 1864 dành sự hỗ trợ của liên bang cho công trình xây dựng đường sắt xuyên lục địa hoàn thành năm 1869. Lincoln cũng mở rộng ảnh hưởng kinh tế của chính phủ liên bang sang các lãnh vực khác. Đạo luật National Banking cho phép thành lập hệ thống ngân hàng quốc gia cung ứng mạng lưới tài chính dồi dào trên toàn quốc, cũng như thiết lập nền tiền tệ quốc gia. Năm 1862, Quốc hội đề xuất và tổng thống phê chuẩn việc thành lập Bộ Nông nghiệp. Năm 1862, Lincoln cử Tướng John Pope bình định cuộc nổi dậy của bộ tộc Sioux. Tổng thống cũng cho lập kế hoạch cải cách chính sách liên bang đối với người da đỏ. Lincoln là nhân tố chính trong việc công nhận Lễ Tạ ơn là quốc lễ của Hoa Kỳ. Trước nhiệm kỳ tổng thống của Lincoln, Lễ Tạ ơn là ngày lễ phổ biến ở vùng New England từ thế kỷ XVII. Năm 1863, Lincoln tuyên bố thứ Năm lần thứ tư của tháng 11 là ngày cử hành Lễ Tạ ơn. Tối cao Pháp viện Lincoln bổ nhiệm năm thẩm phán cho tòa án tối cao. Noah Haynes Swayne, được đề cử ngày 21 tháng 1, 1862 và bổ nhiệm ngày 24 tháng 1, 1862; ông là luật sư, chống chế độ nô lệ và ủng hộ Liên bang. Samuel Freeman Miller, được đề cử và bổ nhiệm ngày 16 tháng 7 năm 1862; ông ủng hộ Lincoln trong cuộc bầu cử năm 1860, và là người chủ trương bãi nô. David Davis, được đề cử ngày 1 tháng 12 năm 1862 và bổ nhiệm ngày 8 tháng 12 năm 1862; ông là người điều hành chiến dịch tranh cử năm 1860 của Lincoln, từng là thẩm phán tòa phúc thẩm liên bang ở Illinois. Stephen Johnson Field, được đề cử ngày 6 tháng 3 năm 1863 và bổ nhiệm ngày 10 tháng 3 năm 1863; từng là thẩm phán tòa tối cao bang California. Cuối cùng là Bộ trưởng Ngân khố của Lincoln, Salmon P. Chase, được đề cử và bổ nhiệm trong ngày 6 tháng 12 năm 1862 vào chức vụ Chánh án Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ. Lincoln tin Chase là một thẩm phán có khả năng, sẽ hỗ trợ công cuộc tái thiết trong lĩnh vực tư pháp, và sự bổ nhiệm này sẽ liên kết các nhóm trong đảng Cộng hòa. Các Tiểu bang gia nhập Liên bang Ngày 20 tháng 6 năm 1863, tiểu bang West Virginia xin gia nhập Liên bang, bao gồm những hạt cực tây bắc từng tách khỏi tiểu bang sau khi bang này rút lui khỏi Liên bang. Nevada, tiểu bang thứ ba thuộc vùng viễn tây được gia nhập ngày 31 tháng 10 năm 1864. Ám sát John Wilkes Booth, một diễn viên nổi tiếng và cũng là gián điệp của Liên minh đến từ Maryland. Mặc dù chưa bao giờ gia nhập quân đội Liên minh, Booth có mối quan hệ với mật vụ Liên minh. Năm 1864, Booth lên kế hoạch bắt cóc Lincoln để đòi thả tù binh Liên minh. Nhưng sau khi dự buổi diễn thuyết của Lincoln vào ngày 11 tháng 4 năm 1865, Booth giận dữ thay đổi kế hoạch và quyết định ám sát tổng thống. Dò biết Tổng thống, Đệ Nhất Phu nhân, và Tướng Ulysses S. Grant, nhân dịp ăn mừng việc chấm dứt chiến tranh, sẽ đến Nhà hát Ford, Booth cùng đồng bọn lập kế hoạch ám sát Phó Tổng thống Andrew Johnson, Bộ trưởng Ngoại giao William H. Seward, và Tướng Grant. Ngày 14 tháng 4, Lincoln đến xem vở kịch "Our American Cousin" mà không có cận vệ chính Ward Hill Lamon đi cùng. Đến phút chót, thay vì đi xem kịch, Grant cùng vợ đến Philadelphia. Trong lúc nghỉ giải lao, John Parker, cận vệ của Lincoln, rời nhà hát cùng người đánh xe đến quán rượu Star kế cận. Booth lợi dụng cơ hội lúc Tổng thống ngồi trong lô danh dự mà không có cận vệ bên cạnh, khoảng 10 giờ tối, hắn ta lẻn vào và bắn vào sau đầu của Tổng thống từ cự ly gần. Thiếu tá Henry Rathbone đã thấy và chụp bắt Booth nhưng hung thủ đâm trúng Rathbone và trốn thoát. Sau mười ngày đào tẩu, người ta tìm thấy Booth tại một nông trang ở Virginia, khoảng phía nam Washington D. C. Ngày 26 tháng 4, sau một cuộc đụng độ ngắn, Booth bị binh sĩ Liên bang giết chết. Sau cơn hôn mê kéo dài chín giờ, Lincoln từ trần lúc 7 giờ 22 phút sáng ngày 15 tháng 4. Mục sư Phineas Densmore Gurley thuộc Giáo hội Trưởng Lão được mời cầu nguyện sau khi Bộ trưởng Chiến tranh Stanton chào tiễn biệt và nói, "Nay ông thuộc về lịch sử." Thi thể của Lincoln được phủ quốc kỳ và được các sĩ quan Liên bang hộ tống dưới cơn mưa về Tòa Bạch Ốc trong tiếng chuông nhà thờ của thành phố. Phó Tổng thống Johnson tuyên thệ nhậm chức lúc 10:00 sáng ngay trong ngày Tổng thống bị ám sát. Suốt ba tuần lễ, đoàn tàu hỏa dành cho tang lễ Tổng thống mang thi thể ông đến các thành phố trên khắp miền Bắc đến các lễ tưởng niệm có hàng trăm ngàn người tham dự, trong khi nhiều người khác tụ tập dọc theo lộ trình giăng biểu ngữ, đốt lửa, và hát thánh ca. Niềm tin tôn giáo Giới học giả viết nhiều về các chủ đề liên quan đến đức tin và triết lý sống của Lincoln. Ông thường sử dụng hình ảnh và ngôn ngữ tôn giáo để trình bày đức tin cá nhân hoặc để thuyết phục cử tọa, phần lớn trong số họ là tín hữu Kháng Cách theo trào lưu Tin Lành. Dù chưa bao giờ chính thức gia nhập giáo hội nào, Lincoln rất gần gũi với Kinh Thánh, thường xuyên trích dẫn và tán dương Kinh Thánh. Trong thập niên 1840, Lincoln ngả theo "Học thuyết Tất yếu" tin rằng tâm trí con người ở dưới sự kiểm soát của một quyền lực cao hơn. Đến thập niên 1850, Lincoln thừa nhận "ơn thần hựu" theo cách chung, nhưng hiếm khi sử dụng ngôn ngữ và hình ảnh tôn giáo của người Tin Lành. Ông dành sự tôn trọng cho chủ nghĩa cộng hòa của những nhà lập quốc gần như là niềm tin tôn giáo. Song, khi đau khổ vì cái chết của con trai ông, Edward, Lincoln thường xuyên nhìn nhận rằng ông cần phải trông cậy Thiên Chúa. Khi một con trai khác của Lincoln, Willie, lìa đời trong tháng 2 năm 1862, ông càng hướng về tôn giáo để tìm câu giải đáp và sự an ủi. Quan điểm về chủng tộc Có ý kiến cho rằng tuy Abraham Lincoln ủng hộ việc bãi bỏ chế độ nô lệ, nhưng ông làm điều này vì ông cho là chế độ nô lệ làm rạn vỡ sự thống nhất của nước Mỹ chứ không phải vì ông ủng hộ quyền bình đẳng của người da đen. Trong buổi tranh luận với Nghị sỹ Douglas được tổ chức tại Charleston, South Carolina, Abraham Lincoln đã có những tuyên bố phân biệt chủng tộc rõ ràng, và ông không ủng hộ quyền bình đẳng giữa người da trắng và da đen. Ông cho rằng người da trắng và da đen có những khác biệt về mặt sinh học, nên sự bình đẳng giữa 2 chủng tộc là không thể xảy ra: "...Tôi sẽ nói sau đó rằng tôi không, cũng như không bao giờ, ủng hộ việc mang lại bất kỳ điều gì về bình đẳng xã hội và chính trị giữa các chủng tộc da trắng và da đen - [khán giả vỗ tay]... và tôi sẽ nói thêm rằng có một sự khác biệt về thể chất giữa các chủng tộc da trắng và da đen mà tôi tin rằng sẽ mãi mãi ngăn hai chủng tộc được bình đẳng với nhau về mặt xã hội và chính trị... và tôi cũng như bất kỳ người đàn ông nào khác có vai trò thượng đẳng được giao cho chủng tộc da trắng." Tuy nhiên, khi phản đối phán quyết Douglas của tòa án tối cao Mỹ (phán quyết năm 1856, theo đó không cấm chế độ nô lệ), Lincoln đã tuyên bố rằng: "Không có lý do gì trên thế giới này khiến cho người da đen không được hưởng tất cả các quyền được liệt kê trong Tuyên ngôn Độc lập - quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc. Họ cần được hưởng ngang bằng những người da trắng." Trong bài diễn văn tại Cincinnati, Ohio vào ngày 17 tháng 12 năm 1859, Lincoln đã nói: "Tôi nghĩ rằng chế độ nô lệ là sai trái, cả về mặt đạo đức lẫn chính trị. Tôi mong rằng nó sẽ không lan rộng hơn nữa tại Hoa Kỳ, và tôi sẽ không phản đối nếu nó dần dần chấm dứt trong toàn bộ Liên minh" . Trong một bức thư gửi tới Albert G. Hodges vào năm 1864, Lincoln đã từng viết rằng: "Tôi là người chống chế độ nô lệ một cách tự nhiên. Nếu chế độ nô lệ không phải là sai trái, thì không có gì là sai trái cả." Tư tưởng phân biệt chủng tộc của Abraham Lincoln bắt đầu được khơi lên từ cuối thập niên 1960, khi những sử gia như Lerone Bennett xem xét lại quan điểm của Lincoln liên quan đến các vấn đề chủng tộc. Năm 1968, Bennett gây chấn động dư luận khi gọi Lincoln là người chủ trương "chủng tộc da trắng là thượng đẳng". Những người ủng hộ Lincoln như Dirk và Cashin thì phản bác rằng thái độ phân biệt chủng tộc của Lincoln dù sao vẫn nhẹ hơn hầu hết các chính trị gia Mỹ thời ấy. Theo nhà sử học Eric Foner thì trước khi nội chiến Mỹ nổ ra, Lincoln thực hiện các biện pháp xóa bỏ chế độ nô lệ nhưng rất chậm, bởi vì ông là người mang tư tưởng phân biệt chủng tộc. Kaplan lập luận: Lincoln miễn cưỡng hành động dứt khoát chống lại chế độ nô lệ, điều đó phản ánh sự thỏa hiệp giữa cả hai mặt cá nhân của ông – một sự tận tâm mạnh mẽ đối với Hiến pháp và sự thống nhất của Liên bang, và sự do dự bởi tư tưởng phân biệt chủng tộc: Lincoln tin rằng nước Mỹ "đã và luôn luôn là quốc gia của một người da trắng". Lincoln chắc chắn đã có rất nhiều định kiến chủng tộc mà người trong thời đại của ông thường có. Tuy nhiên, khi nội chiến Mỹ diễn ra, quan điểm về chủng tộc của Lincoln đã dần thay đổi. Mặt khác, nhu cầu của chiến tranh buộc ông phải dứt khoát xóa bỏ chế độ nô lệ để có thể tuyển thêm binh lực từ người da đen. Trong sự nghiệp của mình, Lincoln thực sự nói rất ít về vấn đề chủng tộc. Không giống như nhiều người đương thời, ông đã không đưa ra nền tảng về vinh quang của chủng tộc da trắng. Lincoln cũng là tổng thống đầu tiên gặp người da đen ở Nhà Trắng. Đến cuối nhiệm kỳ, ông ủng hộ quyền bầu cử cho một bộ phận những người da đen "có học thức" hoặc từng tham gia quân đội. Tuy nhiên, Lincoln bị ám sát và những kế hoạch trao quyền cho người da đen vào thời kỳ Tái thiết sau đó đã sớm chấm dứt. Nhưng nếu Lincoln không bị ám sát thì cũng sẽ không có sự khác biệt, bởi Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc ảnh hưởng quá sâu đậm trong xã hội Mỹ thời đó. Vinh danh Theo bảng Xếp hạng Tổng thống trong Lịch sử Hoa Kỳ được thực hiện từ thập niên 1940, Lincoln luôn có tên trong ba người đứng đầu, thường khi là nhân vật số 1. Trong phần lớn các cuộc khảo sát bắt đầu thực hiện từ năm 1948, Lincoln được xếp vào hàng đầu: Schlesinger 1948, Schlesinger 1962, 1982 Murray Blessing Survey, Chicago Tribune 1982 poll, Schlesinger 1996, CSPAN 1996, Ridings-McIver 1996, Time 2008, and CSPAN 2009. Đại thể, những tổng thống chiếm ba vị trí đầu là 1) Lincoln; 2) George Washington; và 3) Franklin D. Roosevelt, mặc dù đôi khi cũng có sự đảo ngược vị trí với nhau giữa Lincoln và Washington, Washington và Roosevelt. Lincoln sở hữu tính cách điềm tĩnh cần thiết cho một chính khách, nhất là trong tình thế phức tạp. Suốt trong năm 1862, không có ngày nào trôi qua mà không có một bài diễn thuyết kêu gọi tổng thống chấp nhận những quyết sách táo bạo nhằm chống lại nạn nô lệ và Tướng McClellan, nhưng Lincoln vẫn bất động. Ông cần phải cân nhắc cho từng bước đi để thuyết phục chính mình và giới cử tri ôn hòa ở phía Bắc rằng ông đã thử hết mọi phương cách. Ngay cả sau khi cách chức Tướng McClellan và giải phóng nô lệ, ông vẫn kiên nhẫn chờ đợi đến thời điểm thích hợp. Sự mòn mỏi chờ đợi một chiến thắng để có thể công bố bản Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ có lẽ là giai đoạn nhạy cảm nhất trong nhiệm kỳ tổng thống của Lincoln. Thời kỳ chuyển tiếp là cần thiết bởi vì Lincoln biết rằng trong những lúc đất nước đang bị phân hóa nghiêm trọng thì lập trường trung dung là con đường dẫn đến thành công cho nhà lãnh đạo. Một ngày mùa hè năm 1862, một nhóm các nhân vật tiếng tăm chủ trương bãi nô từ vùng New England đến gặp Lincoln nhằm yêu cầu ông phải chống nạn nô lệ triệt để hơn. Sau một lúc im lặng, Lincoln hỏi xem họ còn nhớ sự kiện Blondin đi dây ngang qua thác Niagara không. Dĩ nhiên là họ nhớ. Một người trong số họ thuật lại lời của Tổng thống, "Giả sử toàn bộ giá trị vật chất trên đất nước vĩ đại này của chúng ta, từ Đại Tây Dương đến Thái Bình Dương – sự giàu có, thịnh vượng, những thành quả của nó trong hiện tại và cả niềm hi vọng cho tương lai – được tập trung lại và giao cho Blondin đem chúng băng qua thác trong chuyến đi kinh khủng này;" và giả sử "bạn đang đứng trên bờ thác khi Blondin đi trên dây, khi anh đang cẩn thận dò dẫm từng bước chân và đang cố giữ thăng bằng với thanh ngang trên tay bằng kỹ năng tinh tế của mình để băng qua thác nước khổng lồ đang gầm rú bên dưới. Bạn sẽ gào thét, ‘Blondin, qua phải một bước!’ ‘Blondin, qua trái một bước!’ hay là bạn lặng lẽ đứng yên, nín thở và cầu nguyện xin Đấng Toàn Năng hướng dẫn và giúp anh ấy vượt qua cơn thử thách?" Khi nghe tin Liconln từ trần, Walt Whitman viết bài thơ O Captain! My Captain! gọi ông là thuyền trưởng lèo lái con thuyền qua những vùng biển động để đến bến bờ bình yên, nhưng khi sắp đến nơi thì người thuyền trưởng đã không còn. Trong khi người da trắng xem Lincoln như là nhà lãnh đạo có công duy trì nền thống nhất của đất nước thì người Mỹ da đen vinh danh ông như một nhà giải phóng. Trong chuyến viếng thăm Richmond, Lincoln được người dân ở đây chào đón như một người cha. Họ còn ví sánh ông với Moses trong Kinh Thánh, người giải phóng dân Do Thái và dẫn dắt họ trên đường đến Đất Hứa nhưng từ trần trước khi dân tộc ông đặt chân vào vùng đất này. Ngay cả Frederick Douglass, người thường chỉ trích Lincoln trong suốt nhiệm kỳ tổng thống, sau khi Lincoln bị ám sát đã gọi ông là "vị Tổng thống Hoa Kỳ đầu tiên chết vì chính nghĩa," và ca ngợi tính cách của Lincoln, "Với Abraham Lincoln, niềm tin vào chính mình và lòng tin dành cho đồng bào của ông thật vĩ đại và đáng kinh ngạc, thật sáng suốt và vững chắc. Ông hiểu rõ người dân Mỹ hơn cả chính họ, và chân lý của ông được lập nền trên sự hiểu biết này". Douglass cũng liệt kê những phẩm chất của một nhà lãnh đạo mà ông tìm thấy ở Lincoln, "Mặc dù ở địa vị cao trọng, những người thấp hèn nhất có thể tìm đến ông và cảm thấy thoải mái khi gặp ông. Mặc dù sâu sắc, ông rất trong sáng; mặc dù mạnh mẽ, ông rất dịu dàng; mặc dù quyết đoán trong xác tín, ông khoan hòa đối với những ai khác quan điểm, và kiên nhẫn lắng nghe lời chỉ trích." Chính là bởi vì vụ ám sát mà Lincoln được xem là vị anh hùng xả thân vì dân tộc. Trong mắt của những người chủ trương bãi nô, ông là nhà tranh đấu cho quyền tự do của con người. Đảng viên Cộng hòa liên kết tên tuổi ông với đảng của họ. Ở miền Nam, nhiều người, tuy không phải tất cả, xem ông là một tài năng kiệt xuất. Theo Schwartz, cuối thế kỷ XIX thanh danh của Lincoln tiến triển chậm cho mãi đến Giai đoạn Phát triển (1900 – thập niên 1920) ông mới được xem như là một trong những vị anh hùng được tôn kính nhất trong lịch sử Hoa Kỳ, ngay cả trong vòng người dân miền Nam. Đỉnh điểm của sự trọng vọng này là vào năm 1922 khi Đài Tưởng niệm Lincoln được cung hiến tại Washington. Trong thời kỳ New Deal, những người cấp tiến ca tụng Lincoln không chỉ như là người tự lập thân hoặc vị tổng thống vĩ đại trong chiến tranh, mà còn là nhà lãnh đạo quan tâm đến thường dân là những người có nhiều cống hiến cho chính nghĩa của cuộc chiến. Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, hình ảnh của Lincoln được tôn cao như là biểu tượng của tự do, là người mang hi vọng đến cho những người bị áp bức. Trong thập niên 1970, Lincoln được những người có chủ trương bảo thủ trong chính trị dành cho sự ngưỡng mộ đặc biệt do lập trường dân tộc, chủ trương hỗ trợ doanh nghiệp, tập chú vào nỗ lực chống nô lệ, và nhiệt tâm của ông đối với các nguyên lý của những nhà lập quốc. James G. Randall nhấn mạnh đến tính bao dung và thái độ ôn hòa của Lincoln trong "sự chú tâm của ông đối với sự tăng trưởng trong trật tự, sự nghi ngờ đối với những hành vi khích động nguy hiểm, và sự miễn cưỡng của ông đối với các kế hoạch cải cách bất khả thi." Randall đúc kết, "ông là người bảo thủ khi ông triệt để bác bỏ cái gọi là "thuyết cấp tiến" chủ trương bóc lột miền Nam, căm ghét chủ nô, thèm khát báo thù, âm mưu phe phái, và những đòi hỏi hẹp hòi muốn các định chế của miền Nam phải được thay đổi cấp tốc bởi tay người bên ngoài." Đến cuối thập niên 1960, những người cấp tiến như sử gia Lerone Bennett, xem xét lại sự việc, đặc biệt là quan điểm của Lincoln liên quan đến các vấn đề chủng tộc. Năm 1968, Bennett gây chấn động dư luận khi gọi Lincoln là người chủ trương người da trắng là chủng tộc thượng đẳng. Ông nhận xét rằng Lincoln thích gièm pha chủng tộc, chế giễu người da đen, chống đối sự công bằng xã hội, và đề nghị gởi nô lệ được tự do sang một đất nước khác. Những người ủng hộ Lincoln như các tác gia Dirk và Cashin, phản bác rằng Lincoln còn tốt hơn hầu hết các chính trị gia thời ấy; rằng ông là người đạo đức có viễn kiến đã làm hết sức mình để thăng tiến chủ nghĩa bãi nô. Hình tượng Lincoln cũng thường được khắc họa rất tích cực trên màn ảnh của Hollywood. Tưởng niệm Nhiều thị trấn, thành phố, và quận hạt mang tên Lincoln, trong đó có thủ phủ bang Nebraska. Tượng đài đầu tiên được dựng lên để tưởng niệm Lincoln đặt trước Tòa Thị chính Hạt Columbia năm 1868, ba năm sau khi ông bị ám sát. Tên và hình ảnh của Lincoln xuất hiện tại nhiều địa điểm khác nhau như Đài Tưởng niệm Lincoln ở Washington D. C. và tượng điêu khắc Lincoln trên Núi Rushmore. Người ta cũng thiết lập những công viên lịch sử tại các địa điểm liên quan đến những giai đoạn khác nhau trong cuộc đời của Lincoln như: nơi ông sinh (Abraham Licoln Birthplace National Historical Park) ở Hodgenville, Kentucky, chỗ ông trải qua thời niên thiếu (Lincoln Boyhood National Memorial) tại Lincoln City, Indiana, nơi ông trưởng thành (Lincoln’s New Salem) ở Illinois, và nơi ông khởi nghiệp (Lincoln Home National Historic Site) tại Springfield, Illinois. Nhà hát Ford và tòa nhà Petersen (nơi Lincoln từ trần) được giữ lại làm viện bảo tàng, cũng như Thư viện và Bảo tàng Tổng thống Abraham Lincoln ở Springfield. Phần mộ Lincoln trong Nghĩa trang Oak Ridge ở Springfield, Illinois, là nơi chôn cất Lincoln, vợ ông Mary cùng ba trong số bốn con trai của ông, Edward, William, và Thomas. Ngay trong năm Lincoln từ trần, hình ảnh của ông được gởi đi khắp thế giới qua những con tem bưu điện. Hình ảnh của ông cũng xuất hiện trên tờ năm đô-la, và đồng xu Lincoln, đây là đồng tiền đầu tiên của Hoa Kỳ có đúc hình một nhân vật. Ngày 28 tháng 7 năm 1920 một pho tượng Lincoln được đặt tại một địa điểm gần Điện Westminster, Luân Đôn. Hải quân Hoa Kỳ đã đặt tên ông cho một số chiến hạm, trong đó có hàng không mẫu hạm USS Abraham Lincoln và tiềm thủy đỉnh SSBN Abraham Lincoln. Mặc dù ngày sinh của Lincoln, 12 tháng 2, chưa bao giờ được công nhận là quốc lễ, nó từng được cử hành tại 30 tiểu bang. Từ năm 1971 khi Ngày Tổng thống trở thành quốc lễ, trong đó có ngày sinh của Lincoln kết hợp với ngày sinh Washington, được cử hành thay thế lễ kỷ niệm ngày sinh của ông. Xem thêm Nội chiến Mỹ Frederick Douglass: Diễn văn Tưởng niệm Abraham Lincoln Chú thích The Greatest Stories Never Told - 100 tales from history to astonish, bewilder, and stupefy_Rick Beyer. Đọc thêm Liên kết ngoài The Collected Works of Abraham Lincoln Lincoln Studies Center at Knox College Photographs of Abraham Lincoln The Lincoln Institute Digitized books about Abraham Lincoln from the University of Illinois at Urbana-Champaign Library Mr. Lincoln's Virtual Library Poetry written by Abraham Lincoln Lincoln quotes collected by Roger Norton The Abraham Lincoln Presidential Library and Museum Springfield, Illinois President Lincoln's Cottage —Manner of Buoying Vessels—A. Lincoln—1849 National Park Service Abraham Lincoln birthplace (includes good early history) National Endowment for the Humanities Spotlight – Abraham Lincoln The Abraham Lincoln Bicentennial Commission Lincoln Memorial Washington, DC Lincoln/Net: Abraham Lincoln Historical Digitization Project, Northern Illinois University Libraries Lincoln Home National Historic Site: A Place of Growth and Memory, lesson plan Lincoln Boyhood National Memorial: Forging Greatness during Lincoln's Youth, lesson plan Abraham Lincoln: A Resource Guide from the Library of Congress Essay on Abraham Lincoln and shorter essays on each member of his cabinet and First Lady from the Miller Center of Public Affairs The Entire Writings of Lincoln including an introduction by Theodore Roosevelt Văn kiện điện tử Project Gutenberg List of includes major (and minor) state papers, but not speeches or letters to 1856; coverage of national politics. (1832 to 1901); covers 1856 to early 1861; coverage of national politics; part of 10 volume "life and times" by Lincoln's aides (1866 to 1954) ; popular ; a solid scholarly biography ; popular ; popular Tổng thống Hoa Kỳ Tổng thống Hoa Kỳ của Đảng Cộng hòa Nhân vật nội chiến Mỹ Biểu tượng văn hóa Mỹ Người bị ám sát Chính khách Illinois Thành viên Nghị viện Illinois Thành viên Hạ viện Hoa Kỳ từ Illinois Người Kentucky Đảng Whig Hoa Kỳ Lịch sử Hoa Kỳ Bài cơ bản dài Người Mỹ gốc Anh Chính khách Mỹ thế kỷ 19 Ứng cử viên tổng thống của Đảng Cộng hòa (Hoa Kỳ)
25823
https://vi.wikipedia.org/wiki/San%20Marino
San Marino
San Marino, có tên đầy đủ là Cộng hòa Đại bình yên San Marino (tiếng Ý: Serenissima Repubblica di San Marino), là một trong những nước nhỏ nhất trên thế giới, nằm ở Châu Âu, và hoàn toàn nằm trong lãnh thổ nước Ý cùng với Vatican. Lịch sử Theo truyền thuyết, San Marino được thành lập vào thế kỷ IV bởi một người thợ khắc đá Công giáo tên là Marinus từ vùng Dalmatia đến đây lánh nạn tránh cuộc truy lùng, bách hại đạo dưới triều Hoàng đế Diocletianus. Nền độc lập của San Marino được Giáo hoàng Urbanô VIII thừa nhận năm 1631. Có lẽ đây là một trong những quốc gia cộng hòa độc lập lâu đời nhất trên thế giới. Năm 1862, San Marino và Ý ký hiệp ước thuế quan và hiệp ước hữu nghị, hiệp ước được ký kết lại theo định kì. San Marino tuyên chiến với Đức trong Thế chiến thứ nhất, nhưng lại cố gắng duy trì tính trung lập trong Thế chiến thứ hai. San Marino gia nhập Liên Hợp Quốc năm 1992. San Marino trong thế kỷ XX Trong Thế chiến thứ nhất, khi Ý tuyên chiến với Đế quốc Áo-Hung ngày 23 tháng 5 năm 1915, San Marino vẫn thái độ trung lập và Ý đã có một cái nhìn thù địch về tính trung lập của San Marino, nghi ngờ rằng San Marino có thể là gián điệp Áo. Ý đã cố gắng để buộc San Marino thành lập một đội quân gọi là Carabinieri và sau đó Ý đã cắt đường dây điện thoại của San Marino khi nước này đã từ chối yêu cầu của Ý. Hai nhóm người gồm 10 tình nguyện viên đã tham gia vào lực lượng quân đội của Ý trong cuộc chiến trên mặt trận Ý, đây là các chiến binh San Marino đầu tiên và lần thứ hai như là một hoạt động quân đoàn y tế một bệnh viện Chữ thập đỏ để cứu chữa cho lính Ý. Sự tồn tại của bệnh viện này sau đó làm cho Đế quốc Áo-Hung đình chỉ quan hệ ngoại giao với San Marino. Từ năm 1923 đến 1943, San Marino được cai trị bởi đảng phát xít San Marino (PFS). Trong Thế chiến thứ hai, San Marino vẫn trung lập, dù đã tuyên chiến với Vương quốc Anh ngày 17 tháng 9 năm 1940. Ba ngày sau sự sụp đổ của Benito Mussolini ở Ý, Mỹ cai trị Ý và San Marino sau sự sụp đổ này và chính phủ mới của San Marino tuyên bố trung lập trong cuộc xung đột. Nhóm phát xít giành lại quyền lực vào ngày 1 tháng 4 năm 1944 nhưng vẫn giữ thái độ trung lập. Mặc dù vậy, vào ngày 26 tháng 6 năm 1944, San Marino đã bị đánh bom bởi quân Hoàng gia Anh, do nhầm lẫn tin rằng San Marino đã bị tàn phá bởi quân Đức và San Marino đã được sử dụng thành nơi để tích lũy đạn dược cho quân Phát xít Đức. Ít nhất 35 người đã thiệt mạng trong hoạt động không kích của không quân Anh. San Marino chấp nhận hàng ngàn người tị nạn dân sự khi các lực lượng Đồng minh đã đi qua vùng Gothic. Trong tháng 9 năm 1944, San Marino đã nhanh chóng bị Đức chiếm đóng, tuy nhiên quân Đức đã bị tấn công bởi lực lượng Đồng Minh ở mặt trận San Marino. Quân Đồng minh rút khỏi San Marino trong thời gian ngắn sau đó. San Marino đã có một chính phủ cộng sản đầu tiên được bầu dân chủ trên thế giới, từ năm 1945 và năm 1957 và giữa năm 2006 và 2008. San Marino là quốc gia nhỏ thứ năm thế giới. San Marino đã trở thành một thành viên của Hội đồng châu Âu vào năm 1988 và của Liên Hợp Quốc vào năm 1992. Nó không phải là một thành viên của Liên minh châu Âu. Chính trị San Marino là nước cộng hòa dân chủ đại diện và đa đảng: với hai vị Nhiếp chính là người đứng đầu của nhà nước và chính phủ, Vị nhiếp chính thứ nhất đứng đầu Chính phủ kiêm nhiệm vị trí Bộ trưởng Ngoại giao, lo về các vấn đề chính trị của đất nước. Vị nhiếp chính thứ hai lãnh đạo Nhà nước. Quyền hành pháp thuộc về chính phủ. Quyền lập pháp thuộc cả chính phủ và Hội đồng nhân dân (quốc hội). Tư pháp độc lập với hành pháp và cơ quan lập pháp. San Marino ban đầu được dẫn dắt bởi các Arengo, hình thành từ người đứng đầu của mỗi gia đình. Trong thế kỷ XIII, quyền lực đã được trao cho Hội đồng nhân dân. Năm 1243, hai vị nhiếp chính đầu tiên đã được đề cử bởi Hội đồng. Đến năm 2010, phương pháp được đề cử vẫn còn sử dụng. Cơ quan lập pháp của nền cộng hòa San Marino Hội đồng nhân dân (Consiglio grande e Generale). Hội đồng này là một cơ quan lập pháp đơn viện với 60 thành viên. Có cuộc bầu cử năm năm một lần đại diện tỷ lệ trong tất cả chín huyện hành chính. Các quận, huyện (thị trấn) tương ứng với các giáo xứ cũ của nền cộng hòa. Công dân từ 18 tuổi trở lên có đủ điều kiện để bỏ phiếu. Bên cạnh pháp luật nói chung, Hội đồng nhân dân còn có quyền phê duyệt ngân sách và bầu các vị nhiếp chính, người đứng đầu Hội đồng nhân dân, Hội đồng 12 người (mà hình thức \ là chi nhánh tư pháp trong cơ quan lập pháp của Hội đồng), các Ủy ban Tư vấn, và Chính phủ Liên hiệp. Hội đồng cũng có quyền phê chuẩn các điều ước quốc tế với các nước khác. Hội đồng được chia thành năm Ủy ban Tư vấn khác nhau bao gồm mười lăm thành viên hội đồng để kiểm tra, đề xuất và thảo luận về việc thực hiện pháp luật mới trên các cuộc đề nghị của Hội đồng. Mỗi 6 tháng, Hội đồng nhân dân lại bầu hai nhiếp chính là người đứng đầu của nhà nước và chính phủ. Nhiếp chính được lựa chọn từ các bên đối lập để có một sự cân bằng quyền lực giữa các đảng phái. Họ phục vụ một nhiệm kỳ sáu tháng. Lễ tuyên thệ nhậm chức của hai vị nhiếp chính diễn ra vào ngày 1 tháng 4 và ngày 1 tháng 10 hàng năm. Sau khi nhậm chức, công dân có ba ngày để khiếu nại về hoạt động của hai vị nhiếp chính. San Marino là một nước cộng hòa dân chủ đa đảng. Hai đảng chính là Đảng Dân chủ Kitô giáo San Marino (PDC) và Đảng Xã hội Dân chủ PSD (đảng này một sự hợp nhất của Đảng Xã hội San Marino và Đảng Cộng sản San Marino). Chưa có bất kỳ đảng nào giành thắng lợi tuyệt đối để tự thành lập chính phủ, và hầu hết các chính phủ San Marino được điều hành bởi liên minh giữa hai đảng này. Trong cuộc bầu cử năm 2006, PSD đã giành được 20 ghế trong Hội đồng nhân dân và hiện đang điều chỉnh việc liên minh với đảng Dân chủ Kitô giáo San Marino. Ý là quốc gia chịu trách nhiệm về quốc phòng và cung cấp các viện trợ về nhiều mặt hàng năm cho San Marino. Quân đội Quân đội San Marino là một trong những lực lượng quân sự nhỏ nhất trên thế giới. Quân đội nước này có các ngành khác nhau với chức năng đa dạng, bao gồm: thực hiện nhiệm vụ nghi lễ, tuần tra biên giới, bảo vệ các tòa nhà chính phủ và cảnh sát hình sự. Cảnh sát không có trong quân đội của San Marino. Quân đoàn Crossbow Mặc dù được xem là trung tâm của quân đội San Marino, nhưng Quân đoàn Crossbow bây giờ chỉ là một lực lượng nghi lễ với khoảng 80 tình nguyện viên. Kể từ 1295, Quân đoàn Crossbow đã cung cấp đội bắn nỏ tại lễ hội. Mặc dù một đơn vị quân sự theo luật định, nhưng ngày nay Quân đoàn Crossbow không có chức năng quân sự. Lực lượng Rock Lực lượng Rock là một đơn vị trong quân đội San Marino, lực lượng này có nhiệm vụ tuần tra biên giới và bảo vệ dân chúng. Trong vai trò của họ như là đội Fortress, họ chịu trách nhiệm về bảo vệ các tòa nhà của chính phủ ở thành phố San Marino. Trong vai trò này họ là lực lượng có thể nhìn thấy hầu hết các khách du lịch, và được biết đến với buổi lễ đầy màu sắc của họ về thay đổi lực lượng Cảnh sát. Theo quy chế năm 1987, Lực lượng Rock được ghi danh là cảnh sát hình sự (ngoài vai trò quân sự của họ) và hỗ trợ cảnh sát điều tra tội phạm. Quân phục thống nhất của Lực lượng Rock là quần màu đỏ đặc biệt và áo màu xanh lá cây. Lực lượng bảo vệ Hội đồng nhân dân và nhiếp chính Lực lượng bảo vệ Hội đồng nhân dân thường được gọi là Lực lượng Cảnh sát của Hội đồng hoặc địa phương quân Guard của nhà quý tộc, được hình thành năm 1740, là một đơn vị tình nguyện với nhiệm vụ nghi lễ. Do màu xanh nổi bật, màu trắng, và đồng phục vàng, nó có lẽ là phần nổi tiếng nhất của quân đội San Marino, và xuất hiện vô số lần trên tấm bưu thiếp của San Marino. Các chức năng của lực lượng này là để bảo vệ Nhiếp chính, để bảo vệ Hội đồng và bảo vệ các phiên họp chính thức của Hội đồng. Lực lượng dân quân tự vệ địa phương Trong thời gian trước đây, tất cả các gia đình San Marino đều phải có hai hay nhiều người thành niên là nam giới được yêu cầu phải ghi danh cho một nửa trong số họ trong Lực lượng dân quân tự vệ địa phương. Đơn vị này vẫn là lực lượng chiến đấu cơ bản của Quân đội San Marino, nhưng phần lớn là nghi lễ. Được trở thành thành viên của lực lượng này là một niềm tự hào dân sự đối với nhiều người San Marino, và tất cả các công dân với ít nhất là sáu năm cư trú ở San Marino mới có thể tham gia lực lượng. Quân phục thống nhất của Lực lượng dân quân tự vệ địa phương là màu xanh đậm, với một mũ kepi mang chùm lông màu xanh và trắng. Lực lượng Ensemble Lực lượng này chính thức là một phần của quân đội San Marino, và là ban nhạc nghi lễ quân sự của San Marino. Nó bao gồm khoảng 50 nhạc sĩ. Lực lượng hiến binh Được thành lập năm 1842, Lực lượng hiến binh của San Marino là một cơ quan thực thi pháp luật quân sự. Lực lượng hiến binh có trách nhiệm bảo vệ công dân và tài sản, và bảo đảm quyên thực thi pháp luật và an ninh trật tự của quốc gia. Địa lý Với diện tích 61 km², San Marino là quốc gia nhỏ nằm ở khu vực Nam Âu, và nằm hoàn toàn trong lãnh thổ của Ý. Phía Bắc, Tây và Đông giáp tỉnh Rimini, phía Nam giáp tỉnh Pesaro và Urbino. San Marino nằm gần biển Adriatic phía đông nước Ý. Hầu hết lãnh thổ quốc gia trải dài trên sườn núi Titano. San Marino có khí hậu Địa Trung Hải với mùa đông ẩm và mát, mùa hè nóng và khô. Hành chính San Marino được chia thành 9 thành phố, được biết đến với từ ngữ địa phương là Castelli (có nghĩa là "lâu đài"). Chín thành phố của San Marino là: San Marino Acquaviva Borgo Maggiore Chiesanuova Domagnano Faetano Fiorentino Montegiardino Serravalle Ngoài 9 thành phố San Marino còn được chia nhỏ thành 43 thôn trong các thành phố là: Cà Berlone, Cà Chiavello, Cà Giannino, Cà Melone, Cà Ragni, Cà Rigo, Cailungo, Caladino, Calligaria, Canepa, Capanne, Casole, Castellaro, Cerbaiola, Cinque Vie, Confine, Corianino, Crociale, Dogana, Falciano, Fiorina, Galavotto, Gualdicciolo, La Serra, Lesignano, Molarini, Montalbo, Monte Pulito, Murata, Pianacci, Piandivello, Poggio Casalino, Chiesanuova Poggio, Ponte Mellini, Rovereta, San Giovanni sotto le Penne, Santa Mustiola, Spaccio Giannoni, Teglio, Torraccia, Valdragone, Valgiurata và Ventoso. Kinh tế San Marino là nước có nền kinh tế công nghiệp, dịch vụ và du lịch phát triển. Kinh tế chủ yếu dựa vào nguồn tài nguyên truyền thống (nho, đá xây dựng), phát hành tem thư và nhất là du lịch. Ngành du lịch đóng góp hơn 50% tổng sản phẩm quốc nội của San Marino. Năm 1997, có hơn 3,3 triệu du khách đến San Marino. Các ngành dịch vụ và công nghiệp chính gồm có: ngân hàng, dệt may, điện tử và đồ gốm. Nông nghiệp chiếm tỷ trọng nhỏ trong nền kinh tế. Các sản phẩm nông nghiệp chính gồm có ngô, lúa mì, nho, ô liu; ngựa, bò, lợn, pho mát, da thuộc. Tính đến năm 2016, GDP của San Marino đạt 1.556 tỷ USD, đứng thứ 171 thế giới và đứng thứ 46 châu Âu. Dân cư - tôn giáo Dân số San Marino hiện nay là khoảng 34.090 người, gồm 2 dân tộc chính là người Sammarin và người Italia. Ngôn ngữ chính thức là tiếng Italia. San Marino là một nhà nước có đa số dân theo Công giáo Rôma - hơn 97% dân số tuyên xưng đức tin Công giáo Rôma, nhưng nó không phải là tôn giáo của quốc gia. Khoảng một nửa trong số những người xưng là Công giáo thực hành đức tin, không thấy Giám mục ở San Marino. Trong lịch sử, các giáo xứ khác nhau ở San Marino đã được phân chia giữa hai giáo phận Ý, chủ yếu trong giáo phận Montefeltro, và một phần trong giáo phận Rimini. Năm 1977, biên giới giữa Montefeltro và Rimini đã được điều chỉnh để tất cả các giáo xứ ở San Marino tách khỏi giáo phận Montefeltro. Các Giám mục Montefeltro-San Marino nằm ở Pennabilli, Ý. Tuy nhiên, có một quy định về thuế thu nhập mà đối tượng nộp thuế có quyền yêu cầu phân bổ 0,3% thuế thu nhập của họ với Giáo hội Công giáo Rôma hoặc các tổ chức từ thiện khác. Các nhà thờ khác bao gồm hai giáo phái của Kitô giáo là Giáo hội Waldensian và Nhân Chứng Giê-hô-va. Sự hiện diện của Do Thái giáo ở San Marino đã có ít nhất là 600 năm qua được đề cập đến đầu tiên bởi người Do Thái ở San Marino cuối thế kỷ XIV, trong các văn bản chính thức có ghi lại các giao dịch kinh doanh của người Do Thái. Có nhiều tài liệu trong suốt thế kỷ XV và thế kỷ XVII mô tả các giao dịch của người Do Thái và xác minh sự hiện diện của một cộng đồng Do Thái ở San Marino. Người Do Thái đã được yêu cầu đeo phù hiệu đặc biệt và sống cách biệt với người Công giáo, nhưng cũng được phép có sự bảo vệ chính thức của chính phủ. Giao thông Có 220 km đường bộ trong cả nước, tuyến đường chính là Xa lộ San Marino. Các nhà chức trách cấp giấy phép cho các phương tiện tư nhân với biển số San Marino đặc biệt, có màu trắng với các hình màu xanh và quốc huy, thường là một chữ cái theo sau là tối đa bốn số. Nhiều xe cũng mang mã nhận dạng xe quốc tế (màu đen trên nhãn dán hình bầu dục màu trắng), đó là "RSM". Không có sân bay công cộng nào ở San Marino, nhưng có một đường băng tư nhân nhỏ nằm ở Torraccia và một sân bay trực thăng quốc tế nằm ở Borgo Maggiore. Hầu hết khách du lịch đến bằng đường hàng không đều hạ cánh tại Sân bay quốc tế Federico Fellini gần thành phố Rimini, sau đó di chuyển bằng xe buýt. Có hai con sông chảy qua San Marino, nhưng không có phương tiện giao thông đường thủy chính, và không có bến cảng. Tham khảo Liên kết ngoài Chief of State and Cabinet Members Secretary of State for External Relations and Politics San Marino from UCB Libraries GovPubs San Marino—San Marino Tourism Site Meteo San Marino National Center Of Meteorology and Climatology of San Marino, Local Forecast and Webcams Musei di Stato della Repubblica di San Marino History of San Marino: Primary Documents from EUdocs Renata Tebaldi International Voice Competition San Marino from allcountries.eu Visit San Marino—Official San Marino Tourism Site Contrada Omagnano General information of San Marino: Politics, Institutions and very other San Marino: excerpt from a 1769 Guidebook Score San Marino Soccer — Score live San Marino Cộng hòa Quốc gia châu Âu Quốc gia nội lục Quốc gia thành viên Ủy hội châu Âu Quốc gia thành viên của Liên Hợp Quốc Quốc gia Nam Âu Quốc gia và vùng lãnh thổ nói tiếng Ý Quốc gia và vùng lãnh thổ Rôman
25824
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%99ng%20v%E1%BA%ADt
Động vật
{{Bảng phân loại | color = rgb(235,235,210) | name = Động vật | fossil_range = Kỷ Ediacara – gần đây | image = | image_width = 250 | image_caption = | domain = Eukaryota | unranked_regnum = Opisthokonta | regnum = Animalia | regnum_authority = Linnaeus, 1758 | subdivision_ranks = Các siêu ngành/ngành/phân ngành/phân giới /nhánh/không phân hạng | subdivision = Ngành Agmata (Không xác định liên ngành hoặc phân giới) Phân giới/Siêu ngành Vendobionta † Petalonamae † Proarticulata † Trilobozoa † Medusoid †Phân giới Parazoa Placozoa Archaeocyatha Porifera Calcarea Silicarea Hexactinellida Homoscleromorpha Demospongiae StromatoporoideaPhân giới Eumetazoa Radiata (không phân hạng) Ctenophora (Sứa lược) Cnidaria (Sứa lông châm) Trilobozoa † (có lẽ) Bilateria (không phân hạng) Xenacoelomorpha Acoelomorpha Xenoturbellida Nhánh Nephrozoa Siêu ngành Deuterostomia Chordata (Dây sống) Cephalochordata Nhánh Olfactores Tunicata Vertebrata Nhánh Ambulacraria Hemichordata (Bán dây sống) Echinodermata (Không phân hạng) Cambroernida † Vetulicolia † Saccorhytida † (Không phân hạng) Protostomia Siêu ngành Ecdysozoa Lớp Palaeoscolecida † Nhánh Cycloneuralia Nhánh Scaplidophora Kinorhyncha Loricifera Priapulida Nhánh Nematoida Nematoda Nematomorpha (Không phân hạng) Panarthropoda Chi Sialomorpha † Lobopodia † Onychophora Nhánh Tactopoda Tardigrada Arthropoda (Không phân hạng) Spiralia Platytrochozoa Siêu ngành Platyzoa Nhánh Rouphozoa Platyhelminthes Gastrotricha Nhánh Gnathifera Rotifera Acanthocephala Gnathostomulida Micrognathozoa Cycliophora Siêu ngành Lophotrochozoa Cycliophora Annelida Sipuncula Mollusca Nhánh Kryptotrochozoa Nhánh Lophophorata Nhánh Bryozoa s.l. Bryozoa Entoprocta Nhánh Brachiopoda Phoronida Brachiopoda Hyolitha † (Không phân hạng) Mesozoa Monoblastozoa Orthonectida Dicyemida |superdomain=Neomura}}Động vật là một nhóm sinh vật đa bào, nhân chuẩn, được phân loại là giới Động vật (Animalia, đồng nghĩa: Metazoa''') trong hệ thống phân loại 5 giới. Cơ thể của chúng lớn lên khi phát triển. Hầu hết động vật có khả năng di chuyển một cách tự nhiên và độc lập. Hầu hết các ngành động vật được biết đến nhiều nhất đã xuất hiện hóa thạch vào thời kỳ Bùng nổ kỷ Cambri, khoảng 542 triệu năm trước. Động vật được chia thành nhiều nhóm nhỏ, một vài trong số đó là động vật có xương sống (chim, động vật có vú, lưỡng cư, bò sát, cá); động vật thân mềm (trai, hàu, bạch tuộc, mực, và ốc sên); động vật Chân khớp (cuốn chiếu, rết, côn trùng, nhện, bọ cạp, tôm hùm, tôm); giun đốt (giun đất, đỉa); bọt biển và sứa. Từ nguyên Từ "animal" xuất phát từ tiếng Latin animalis'', có nghĩa là "có thở". Trong sử dụng ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày, từ "động vật" thường bị sử dụng dương vật để phối giống - từ "động vật" đó dùng để chỉ tất cả các thành viên của giới Animalia trừ con người. Theo nghĩa sinh học , "động vật" dùng để chỉ tất cả các thành viên của giới Animalia, bao gồm cả con người. Đặc điểm Động vật có vài đặc điểm riêng tách chúng ra khỏi các sinh vật sống khác. Động vật là sinh vật nhân chuẩn và đa bào, giúp phân biệt chúng với vi khuẩn và hầu hết sinh vật đơn bào. Động vật sống dị dưỡng, tiêu hóa thức ăn trong cơ thể, giúp phân biệt chúng với thực vật và tảo. Chúng cũng khác biệt với thực vật ở chỗ thiếu thành tế bào cứng (thành cellulose). Tất cả động vật có thể di chuyển, ít nhất là trong một giai đoạn sống. Ở hầu hết động vật, phôi trải qua giai đoạn phôi nang (blastula), một giai đoạn riêng biệt đặc trưng ở động vật. Cấu trúc Trừ vài ngoại lệ, như là bọt biển (ngành Porifera) và Placozoa, động vật có cơ thể được chia thành các mô. Chúng có cơ bắp, dùng để thực hiện và kiểm soát vận động, các mô thần kinh, dùng để gửi và xử lý tín hiệu. Thông thường, cơ thể có một hệ tiêu hóa, với một miệng (như thủy tức) hay cả miệng và hậu môn (như cá). Tất cả động vật có tế bào nhân chuẩn. Sinh sản và phát triển Gần như tất cả động vật trải qua một số hình thức sinh sản hữu tính. Chúng có những tế bào nhỏ có chức năng sinh sản, di chuyển được như tinh trùng hay lớn hơn, không di chuyển được như trứng. Tình trùng và trứng sẽ kết hợp để tạo thành hợp tử, hợp tử phát triển để tạo thành cá thể mới. Nhiều loài động vật cũng có khả năng sinh sản vô tính. Việc này có thể xảy ra thông qua trinh sản, trứng được tạo ra mà không cần giao phối, phân chồi, hay phân mảnh. Hợp tử ban đầu phát triển thành một khối tế bào hình cầu rỗng, được gọi là phôi nang, sau sẽ được sắp xếp lại. Ở bọt biển, ấu trùng phôi nang bơi đến một vị trí mới và phát triển thành một con bọt biển mới. Trong các nhóm khác, phôi nang trải qua những sắp xếp phức tạp hơn. Nguồn gốc và hóa thạch Loài động vật đầu tiên thường được coi là tiến hóa từ một loại trùng roi có tế bào nhân chuẩn. Họ hàng gần gũi nhất được biết đến của chúng là Choanoflagellatea. Nghiên cứu phân tử đặt động vật trong một siêu nhóm được gọi là Opisthokonta (sinh vật lông roi sau), cùng với choanoflagellate, nấm và một số sinh vật nguyên sinh ký sinh nhỏ. Tên này đến từ vị trí của roi trong tế bào có thể chuyển động, như tinh trùng ở hầu hết động vật, trong khi các sinh vật nhân chuẩn khác có lông roi trước. Những hóa thạch đầu tiên được cho có thể là động vật xuất hiện ở thành hệ Trezona, tây Central Flinders, Nam Úc. Những hóa thạch này được xem là loài bọt biển đầu tiên. Chúng được tìm thấy trong lớp đá 665 triệu năm tuổi. Hóa thạch tiếp theo có thể là động vật cổ nhất được tìm thấy vào thời kỳ Tiền Cambri, khoảng 610 triệu năm trước. Hóa thạch này khó mà liên quan đến các hóa thạch sau nó. Tuy nhiên, hóa thạch này có thể đại diện cho động vật tiền thân của động vật ngày nay, nhưng chúng cũng có thể là một nhóm tách biệt hoặc thậm chí không phải động vật thực sự. Lịch sử phân loại Aristotle chia sinh vật sống ra làm động vật và thực vật, Carolus Linnaeus (Carl von Linné) cũng làm theo cách này trong lần phân loại thứ bậc đầu tiên. Kể từ đó các nhà sinh học đã bắt đầu nhấn mạnh mối quan hệ tiến hóa, ví dụ sinh vật đơn bào ban đầu được xem là động vật bởi khả năng di chuyển của chúng, nhưng nay được tách riêng. Trong sơ đồ ban đầu của Linnaeus, động vật là một trong ba giới, phân chia thành các lớp Vermes, Insecta, Pisces, Amphibia, Aves, và Mammalia. Kể từ đó, bốn lớp cuối được gộp thành một ngành duy nhất, Chordata, trong khi hai lớp còn lại bị tách ra. Đa dạng sinh học Xem thêm Động vật học Cá Côn trùng Bò sát Chim Nhánh (phân loại học) Phân loại giới Động vật Súc sinh Tham khảo Liên kết ngoài Những nhà vô địch trong thế giới động vật Thứ ba, 4/7/2006 | 10:59 GMT+7 Bài cơ bản dài trung bình Động vật học Nhóm loài do Carl Linnaeus đặt tên
25827
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20V%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20Qu%E1%BB%91c%20gia%202004
Giải bóng đá Vô địch Quốc gia 2004
Giải bóng đá Vô địch Quốc gia 2004, tên gọi chính thức là Giải bóng đá Vô địch Quốc gia Kinh Đô 2004 hay Kinh Đô V-League 2004 vì lý do tài trợ, là mùa giải thứ 21 của Giải bóng đá Vô địch Quốc gia và là mùa giải chuyên nghiệp thứ tư của V-League. Giải khởi tranh vào ngày 4 tháng 1 và kết thúc vào ngày 20 tháng 6 năm 2004 với 12 câu lạc bộ tham dự. Các đội bóng thi đấu vòng tròn hai lượt tính điểm, hai đội xếp cuối sẽ xuống thi đấu tại giải hạng Nhất mùa giải sau. Thay đổi trong mùa giải Thay đổi đội bóng Đến V-League Thăng hạng từ giải Hạng Nhất 2003 Bình Dương Hải Phòng Rời V-League Xuống hạng đến giải Hạng Nhất 2004 Cảng Sài Gòn LG-ACB Đã chuyển giao Hàng không Việt Nam Câu lạc bộ LG-ACB xếp cuối mùa giải trước nhưng vẫn tiếp tục tham dự giải bằng cách sáp nhập với Hàng không Việt Nam và đổi tên thành LG Hà Nội ACB. Các đội bóng Sân vận động Nhân sự, nhà tài trợ và áo đấu Đổi tên Thay đổi huấn luyện viên Cầu thủ nước ngoài Thể Công là đội duy nhất trong số 12 đội tham dự không sử dụng ngoai binh. In đậm cho biết tên cầu thủ đã được đăng ký chuyển nhượng giữa mùa. Bảng xếp hạng Lịch thi đấu và kết quả Lịch thi đấu Vòng 1 Vòng 2 Vòng 3 Vòng 4 Vòng 5 Vòng 6 Vòng 7 Vòng 8 Vòng 9 Vòng 10 Vòng 11 Vòng 12 Vòng 13 Vòng 14 Vòng 15 Vòng 16 Vòng 17 Vòng 18 Vòng 19 Vòng 20 Vòng 21 Vòng 22 Tiến trình mùa giải Vị trí các đội qua các vòng đấu Thống kê mùa giải Theo câu lạc bộ Theo cầu thủ Cầu thủ ghi bàn hàng đầu Phản lưới nhà Ghi hat-trick Giữ sạch lưới Bùi Quang Huy (Sông Đà Nam Định): 509 phút Kỷ lục Toàn thắng tất cả các trận đấu sân nhà: Hoàng Anh Gia Lai Các giải thưởng Giải thưởng tháng Vì một số lý do, ban tổ chức giải đấu chỉ có thể trao các giải thưởng hàng tháng bắt đầu từ tháng 2 mùa giải này. Giải thưởng chung cuộc Lễ trao các giải thưởng chung cuộc được tổ chức vào ngày 20 tháng 7 năm 2004 tại Nhà thi đấu Quân khu 7, TP. Hồ Chí Minh. Vua phá lưới: Amaobi (Nam Định) – 15 bàn thắng Cầu thủ xuất sắc nhất giải: Kiatisuk Senamuang (Hoàng Anh Gia Lai) Huấn luyện viên xuất sắc nhất giải: Nguyễn Ngọc Hảo (Sông Đà Nam Định) Thủ môn xuất sắc nhất giải: Bùi Quang Huy (Sông Đà Nam Định) Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất giải: Phan Văn Tài Em (Gạch Đồng Tâm Long An) Đội hình tiêu biểu: Xem thêm Cúp bóng đá Việt Nam 2004 Giải bóng đá hạng nhất Việt Nam 2004 Siêu cúp bóng đá Việt Nam 2003 Tham khảo Liên kết ngoài Trang chủ Công ty Cổ phần Bóng đá Chuyên nghiệp Việt Nam (VPF) Trang chủ Liên đoàn bóng đá Việt Nam (VFF) Trang chủ flashscore.pl 2004 2004
25828
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ariel%20Sharon
Ariel Sharon
Ariel Sharon (; tên thật là Ariel Scheinermann, ‎; 26 tháng 2 năm 1928 – 11 tháng 1 năm 2014) là vị tướng quân đội, chính trị gia và là thủ tướng thứ 11 của Israel từ tháng 3 năm 2001 đến tháng 4 năm 2006. Sharon là chỉ huy trong quân đội Israel kể từ khi đội quân này thành lập vào năm 1948 và từng tham gia chiến tranh giành độc lập của Israel. Ông có công lập ra Đơn vị 101, từng tham gia chiến tranh kênh đào Suez năm 1956, chiến tranh Sáu ngày năm 1967, chiến tranh Tiêu hao (1969 – 1970), chiến tranh Yom Kippur năm 1973 và chỉ huy chiến tranh Liban năm 1982. Suốt quãng đời binh nghiệp, Sharon được xem là sĩ quan chỉ huy thực địa vĩ đại nhất trong lịch sử Israel và là một trong số các chiến lược gia quân sự vĩ đại nhất từ trước đến nay của đất nước. Sau cuộc đột kích bán đảo Sinai trong chiến tranh Sáu ngày và cuộc bao vây quân Ai Cập trong chiến tranh Yom Kippur, Israel đã tặng cho ông biệt danh "Vua Israel" và "Sư tử của Chúa trời". Sau khi giải ngũ, Sharon gia nhập đảng Likud và từng giữ vai trò bộ trưởng của nhiều bộ trong các chính phủ do Likud lãnh đạo giai đoạn 1977 – 1992 và 1996 – 1999. Ông lên chức lãnh đạo đảng Likud vào năm 2000 và nắm cương vị Thủ tướng Israel nhiệm kỳ 2001 – 2006. Giai đoạn 2004 – 2005, Thủ tướng Sharon đề ra kế hoạch đơn phương di cư người Do Thái khỏi dải Gaza, khiến bản thân ông phải hứng chịu sự chống đối khắc nghiệt trong nội bộ Likud. Tháng 11 năm 2005, Sharon rời Likud để lập đảng mới Kadima. Theo dự đoán, ông sẽ chiến thắng cuộc bầu cử lần tới và được cho là đang vạch kế hoạch rút người Do Thái khỏi hầu hết lãnh thổ Bờ Tây. Tuy nhiên, ông bất ngờ bị tai biến mạch máu não vào ngày 4 tháng 1 năm 2006 và rơi vào trạng thái sống thực vật cho đến ngày ông từ trần. Tiểu sử Ariel Sharon ra đời tại làng Kfar Malal (Lãnh thổ ủy trị Palestine thuộc Anh) trong một gia đình người Belarus gốc Do Thái. Cha mẹ ông gặp nhau trong thời gian cả hai đang theo học tại Đại học Nhà nước Tbilisi, Gruzia. Khi các lực lượng Bolshevik tiến về Gruzia (độc lập), cả hai bèn di cư sang Lãnh thổ ủy trị Palestine thuộc Anh. Năm lên 10, Ariel Sharon gia nhập phong trào thanh niên phục quốc Do Thái Hassadeh. Khi còn là thiếu niên, ông bắt đầu tham gia đội tuần tra ban đêm có vũ trang tại ngôi làng nơi ông ở. Năm 1942, ông gia nhập lực lượng bán quân sự bí mật Haganah của người Do Thái. Dần dần, ông trở thành chỉ huy đơn vị bộ binh rồi chỉ huy lực lượng tình báo miền Bắc và Trung Israel. 1973, ông là tư lệnh thiết giáp trong chiến dịch tại bán đảo Sinai (Ai Cập); được bầu vào Quốc hội Israel. 1977-1981, làm Bộ trưởng Nông nghiệp. 1981-1983, giữ chức Bộ trưởng Quốc phòng. Trong thời gian này, ông đã cho quân đội tấn công Liban. Ông bị coi là phải chịu trách nhiệm trong cuộc thảm sát hàng trăm thường dân Palestin tại các trại tị nạn do lực lượng dân quân Phalanges người Liban liên minh với Israel tiến hành. 1999, được bầu làm Chủ tịch đảng Likud. 2001, được bầu làm Thủ tướng Israel. Từ đó đến nay, ông đã có những quyết định lịch sử trong mối quan hệ giữa Israel và Palestin là xóa bỏ các khu định cư Do Thái ở dải Gaza và một phần khu Bờ Tây. 2005, rời bỏ đảng Likud, thành lập đảng ôn hòa Kadima. Đầu tháng 1 năm 2006, bị xuất huyết não, phải mổ 2 lần liên tiếp và đã ở trong tình trạng nguy kịch. 11 tháng 4, 2006, Thủ tướng Sharon bị tuyên bố mất khả năng lãnh đạo vĩnh viễn, do ông ở trong tình trạng hôn mê kéo dài và khó có khả năng hồi phục. Cùng ngày, Ehud Olmert được bầu thay thế giữ chức Thủ tướng. Đời tư Ông có hai đời vợ (hai chị em, đều đã mất) và ba người con trai (một người mất năm 1967). Chú thích Liên kết ngoài Ariel Sharon's Biography — Detailed account of his military and political career The Sabra and Shatila Massacres (16–ngày 18 tháng 9 năm 1982) Timeline of key events in Sharon's life Ariel Sharon Profile on YnetNews Phonecall  — An authentic recording of Ariel Sharon talking to a soldier positioned at one of the Suez Channel bunkers at the beginning of the Yom Kippur War. Sharon's speech on 30th anniversary of Yom Kippur War Booknotes interview with Sharon on Warrior: An Autobiography, ngày 17 tháng 9 năm 1989. Ariel Sharon's Confusing Legacy — slideshow by Der Spiegel Sharon, Ariel Thành viên Knesset Lịch sử Israel
25832
https://vi.wikipedia.org/wiki/Fern%C3%A3o%20de%20Magalh%C3%A3es
Fernão de Magalhães
Fernão de Magalhães hay thường được biết đến rộng rãi với tên tiếng Anh Ferdinand Magellan (; 4 tháng 2 năm 1480 – 27 tháng 4 năm 1521) (tiếng Việt: Phơ-đi-nan Ma-gien-lăng) là một nhà thám hiểm và nhà hàng hải người Bồ Đào Nha. Ông sinh ra tại Sabrosa, miền bắc Bồ Đào Nha, nhưng sau đó đã từ bỏ quốc tịch Bồ Đào Nha để nhập quốc tịch Tây Ban Nha nhằm mục đích phục vụ cho Vua Carlos I của Tây Ban Nha trong việc khai phá các tuyến thương mại đường biển đến "Quần đảo Gia vị" (ngày nay là quần đảo Maluku ở Indonesia) và Ấn Độ bằng cách đi về hướng Tây qua Thái Bình Dương. Chuyến hải trình trong khoảng thời gian 1519–1522 của Magellan đã đi vào lịch sử như là chuyến đi đầu tiên bằng đường biển của con người từ Đại Tây Dương đến Thái Bình Dương (cái tên có nghĩa "biển bình yên" này được đặt bởi Magellan; nơi tiếp nối giữa hai đại dương được đặt là eo biển Magellan), và là chuyến đi đầu tiên băng qua Thái Bình Dương. Chuyến đi này cũng đánh dấu sự kiện con người lần đầu tiên thành công trong việc đi vòng quanh Trái Đất, mặc dù chính bản thân Magellan đã không thể hoàn thành chuyến hành trình sau khi bị giết trong một trận chiến ở đảo Mactan, Philippines. Tuy nhiên, Magellan đã từng đi theo hướng đông đến Bán đảo Mã Lai trong một chuyến hải hành trước đó, nên ông trở thành nhà thám hiểm đầu tiên đi qua tất cả đường kinh tuyến của địa cầu. Trong số 237 thủy thủ khởi hành trên năm con tàu, chỉ còn lại 18 người hoàn thành chuyến đi và xoay xở để quay trở về Tây Ban Nha vào năm 1522, dưới sự dẫn dắt của nhà hàng hải xứ Basque Juan Sebastián Elcano, người đã nhận trách nhiệm chỉ huy thủy thủ đoàn sau cái chết của Magellan. Mười bảy thủy thủ nữa sau đó cũng về được Tây Ban Nha bao gồm mười hai người bị Bồ Đào Nha bắt ở Cape Verde trong khoảng thời gian giữa năm 1525 và 1527 và năm người sống sót còn lại trở về trên con tàu Trinidad. Tên của Magellan cũng được đặt cho loài Chim cánh cụt Magellan, vốn được ông lần đầu tiên ghi chép lại, và Đám mây Magellan, ngày nay được biết đến là một thiên hà lùn. Thời niên thiếu và những chuyến đi Magellan sinh vào khoảng năm 1480 tại Sabrosa, gần Vila Real, tỉnh Trás-os-Montes, Bồ Đào Nha. Cha ông là Rui de Magalhães (ông nội là Pedro Afonso de Magalhães và bà nội Quinta de Sousa) và mẹ Alda de Mesquita, gia đình ông có các anh em Duarte de Sousa, Diogo de Sousa và Isabel de Magalhães. Sau khi ba mẹ mất vào năm ông lên mười, ông trở thành cậu bé giúp việc cho Hoàng hậu Leonor trong triều đình Hoàng gia Bồ Đào Nha theo truyền thống của gia đình. Vào tháng 3, 1505, ở tuổi 25, Magellan gia nhập hạm đội gồm 22 tàu, đứng đầu là Francisco de Almeida Phó Vương đầu tiên của Ấn Độ thuộc Bồ Đào Nha. Mặc dù tên của ông không được tìm thấy trong biên niên sử các cuộc chiến tranh ở Ấn Độ, những điều còn lại người ta biết về ông là ông đã trải qua tám năm ở Goa, Cochin và Quilon. Ông đã tham dự một vài trận đánh, bao gồm trận Cannanore năm 1506, nơi ông đã bị thương. Năm 1509, ông dự trận đánh Diu và sau đó đi cùng thủy thủ đoàn của Diogo Lopes de Sequeira với tư cách Sứ thần đầu tiên của Bồ Đào Nha đến Malacca. Trong thủy thủ đoàn còn có bạn ông và có thể là người anh em họ Francisco Serrão. Tháng 9, sau khi đến Malacca, chuyến đi trở thành thảm họa khi họ rơi vào một âm mưu tấn công và phải rút lui. Trong dịp này Magellan đóng một vai trò then chốt giúp cho đoàn hải hành không bị tiêu diệt hoàn toàn, ông đã cảnh báo Sequeira và chiến đấu dũng cảm cứu Francisco Serrão, người vốn đã lên bờ trước cuộc tấn công. Sau đó, ông được chú ý tới và thăng chức. Năm 1511, dưới quyền của vị Thống sứ mới là Afonso de Albuquerque, Magellan và Serrão tham gia vào cuộc chinh phục bán đảo Malacca, đồng thời phục hận cho thất bại của Sequeira. Sau cuộc chiến họ chia tay: Magellan được thăng cấp, kèm một số tiền lớn. Cùng với một thổ dân Malay ông đã nhận và rửa tội với cái tên Enrique của Malacca, ông trở về Bồ Đào Nha trong năm 1512. Serrão khởi hành trong chuyến thám hiểm đầu tiên đi tìm "Quần đảo Spice "trong vùng Moluccas, và sau đó ở lại luôn tại vùng đất đó. Serrão kết hôn với một người phụ nữ vùng Amboina và trở thành một cố vấn quân sự cho Sultan của vùng Ternate, Bayan Sirrullah. Serrão đã viết nhiều thư cho Magellan và cung cấp thông tin về các vùng đất xa xôi trồng cây gia vị, khiến ông quyết định đi thám hiểm chúng. Chuyến thám hiểm cuối cùng Trong các năm 1505-1512 ông tham gia các chuyến hải hành của Bồ Đào Nha đến Ấn Độ Dương, 2 lần đến Malacca (nay là Malaysia) trong các năm 1509 và 1511. Thiết lập dự án bơi bằng con đường phía Tây đến quần đảo Molucca (nay thuộc Indonesia), nhưng ông bị loại bởi vua Bồ Đào Nha, do chuyến hải hành của Vasco da Gama, một con đường phía đông gần hơn đã được lập nên. Trong năm 1517, dự án này đã được nhận bởi vua Tây Ban Nha, vào ngày 20 tháng 9 năm 1519, 5 chiếc tàu với hải đoàn 237 người dưới sự lãnh đạo của Magalhães khởi hành từ cảng San Lucar de Barrameda (những con sông nhỏ Guadalquivir) đi tìm eo biển Tây Nam từ Đại Tây Dương đến "biển Nam", khám phá bởi Vasco Nunes de Balboa. Ngoài ra theo chỉ đạo của vua Carlos I: Đoàn tàu của Magalhães gồm những tàu sau Trinidad (110 tấn, 55 người) dưới sự điều khiển của Magalhães; San Antonio (120 tấn, 60 người) dưới sự điều khiển của Juan de Cartegena; Concepción (90 tấn, 45 người) dưới sự điều khiển của Gomez; Victoria (85 tấn, 42 người) dưới sự điều khiển của Gaspar de Quesada; và Santiago (75 tấn, 32 người) dưới sự điều khiển của Luis de Mendoza. Vinh danh Tên ông được đặt cho: Thiên văn: đám Mây Magellan Nhỏ và lớn Địa lý: Vùng đất Magellan và Chilean Antarticta Chú thích Sách tham khảo Đọc thêm Các nguồn chính (orig. Primer viaje en torno del globo Retrieved on 2009-04-08) Maximilianus Transylvanus, De Moluccis insulis, 1523, 1542 The First Voyage Round the World, by Magellan, full text, English translation by Lord Stanley of Alderley, London: Hakluyt, [1874] – six contemporary accounts of his voyage , English translation by Peter Schreurs from the original Portuguese manuscript in the University Library of Leiden, The Netherlands. Các nguồn thứ cấp Các nguồn trực tuyến Liên kết ngoài Magellan's untimely demise on Cebu in the Philippines Danh sách các thủy thủ: 107 people The 18 arriving on Victoria Encyclopaedia Britannica Ferdinand Magellan A picture of the 1522 disembarkment with names of the 18 Nhà thám hiểm Bồ Đào Nha Bài cơ bản dài trung bình Mất năm 1521 Sinh năm 1480
25834
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%ADch%20Qu%E1%BA%A3ng%20%C4%90%E1%BB%A9c
Thích Quảng Đức
Thích Quảng Đức, thế danh Lâm Văn Tuất, (1897 — 11 tháng 6 năm 1963) là một nhà sư Phật giáo Đại thừa người Việt Nam. Ông là người đã tẩm xăng tự thiêu tại ngã tư đường Lê Văn Duyệt và Phan Đình Phùng, Sài Gòn (nay là ngã tư đường Cách Mạng Tháng Tám và Nguyễn Đình Chiểu, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh) vào ngày 11 tháng 6 năm 1963 nhằm phản đối sự đàn áp Phật giáo của chính quyền Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm. Tấm ảnh chụp ông tự thiêu đã được truyền đi khắp thế giới và gây nên sự chú ý đặc biệt tới chính sách của chế độ Ngô Đình Diệm. Phóng viên Malcolm Browne đã giành Giải thưởng Ảnh Báo chí Thế giới năm 1963 nhờ một bức hình chụp cảnh Thích Quảng Đức tự thiêu, và nhà báo David Halberstam, một người sau được trao giải Pulitzer, cũng đã có bản tường thuật sự kiện. Sau khi chết, thi hài của ông đã được hỏa táng, nhưng trái tim của ông thì vẫn còn nguyên. Đây được coi là xá lợi biểu tượng của lòng từ bi, dẫn đến việc giới Phật tử suy tôn ông thành một vị Bồ Tát. Hành động của ông đã làm tăng sức ép của quốc tế đối với chính quyền Ngô Đình Diệm, dẫn tới việc Tổng thống Diệm phải tuyên bố đưa ra một số cải cách nhằm xoa dịu giới Phật tử. Tuy nhiên, những cải cách như đã hứa đó lại được thực hiện một cách chậm chạp hoặc không hề được thực hiện, khiến tình hình càng trở nên xấu hơn. Khi phong trào phản kháng vẫn tiếp tục dâng cao, Lực lượng đặc biệt trung thành với cố vấn Ngô Đình Nhu, em trai Tổng thống, đã tiến hành nhiều cuộc tấn công bố ráp chùa chiền trên cả nước. Một số nhà sư khác cũng đã tự thiêu. Cuối cùng, cuộc đảo chính quân sự vào tháng 11 đã lật đổ chính quyền và giết chết anh em Ngô Đình Diệm. Hành động tự thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức được coi như một bước ngoặt trong cuộc khủng hoảng Phật giáo Việt Nam, dẫn tới việc xóa bỏ nền Đệ Nhất Cộng hòa tại miền Nam Việt Nam. Hành trang Hòa thượng Thích Quảng Đức sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, xã Vạn Khánh, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa, thuộc miền Trung Việt Nam, trong một gia đình có bảy anh chị em, cha là Lâm Hữu Ứng và mẹ là Nguyễn Thị Nương. Năm lên bảy tuổi, cậu bé Lâm Văn Tức xuất gia tu học với hòa thượng Thích Hoằng Thâm, vừa là thầy bản sư, vừa là cậu ruột. Cậu được hòa thượng Hoằng Thâm nhận làm con chính thức, nên lấy tên là Nguyễn Văn Khiết. Năm mười lăm tuổi Lâm Văn Tuất thọ giới Sa Di, năm hai mươi tuổi thụ Tỳ Kheo giới pháp danh Thị Thủy (是水), pháp tự Hạnh Pháp (行法), pháp hiệu Quảng Đức (廣德) nối pháp đời thứ 42 thiền tông Lâm Tế thế hệ thứ 9 của phái Chúc Thánh. Thọ giới xong hòa thượng vào một ngọn núi tên là Hòn núi Đất thị xã Ninh Hòa - Khánh Hòa phát nguyện tịnh tu ba năm, về sau ông đã trở lại ngọn núi này để thành lập một ngôi chùa lấy hiệu là Thiên Lộc. Sau quãng thời gian sống biệt lập, ông bắt đầu du hành khắp miền Trung để giảng pháp. Sau 2 năm ông trở lại nhập thất tại chùa Sắc Tứ Thiên Tứ tại xã Ninh Lộc, thị xã Ninh Hòa, gần thành phố Nha Trang. Năm 1932, ông được bổ nhiệm làm chức kiểm tăng tại chi hội Phật giáo Ninh Hòa, sau đó nhận nhiệm vụ kiểm tăng trong tỉnh Khánh Hòa. Trong suốt thời gian ở miền Trung Việt Nam, ông đã tiến hành kiến tạo và trùng tu 14 ngôi chùa. Năm 1934, rời Khánh Hòa vào miền Nam để giáo hóa, ông cũng từng đến Campuchia hai năm để học hỏi và nghiên cứu kinh điển theo truyền thống Theravada. Cũng như ở miền Trung, hai mươi năm hành đạo ở miền Nam, ông đã khai sơn và trùng tu 17 ngôi chùa. Như vậy, ông đã có công xây dựng hoặc trùng tu tất cả 31 ngôi chùa. Ngôi chùa cuối cùng là nơi ông trụ trì là chùa Quan Thế Âm ở xã Phú Nhuận, Gia Định, nay con đường này đã đổi thành chính tên của ông là Thích Quảng Đức. Ông đã từng giữ chức vụ Phó trị sự và Trưởng ban nghi lễ của Giáo hội Tăng già Nam Việt trong một thời gian khá lâu. Trước đó, ông có lúc đã nhận nhiệm vụ trụ trì chùa Phước Hòa, trụ sở đầu tiên của Hội Phật học Nam Việt. Khi trụ sở này dời về chùa Xá Lợi, ông xin thôi việc để có đủ thời gian an tâm tu niệm. Bối cảnh tôn giáo Tại một đất nước mà 70-90% dân số tôn thờ đạo Phật mặc dù họ có thể vô tôn giáo chứ không phải là tín đồ chính thức của đạo Phật trong khi Tổng thống Ngô Đình Diệm lại là con chiên của Công giáo, chính quyền đã theo đuổi những chính sách mà các nhà sử học cho là rất thiên vị. Cụ thể, chính phủ Việt Nam Cộng hoà đã thiên vị Công giáo về các mặt dịch vụ công cộng cùng với các vị trí trong quân đội cũng như cắt đất, sắp đặt thương mại và giảm thuế. Một lần, Tổng thống Diệm đã nói với một quan chức cấp cao của mình mà quên mất rằng (mẹ) ông ta theo đạo Phật: "Hãy đặt những cấp dưới theo đạo vào các vị trí nhạy cảm. Họ có thể tin được". Nhiều sĩ quan trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã cải sang đạo Thiên Chúa vì nghĩ rằng viễn cảnh quân đội sẽ phụ thuộc vào tôn giáo này. Thêm vào đó, vũ khí dành cho lực lượng dân quân trong ấp chiến lược chống cộng thì chỉ được phát cho những người theo đạo Thiên Chúa. Một số cha xứ thậm chí còn có quyền chỉ huy quân đội riêng của mình, và đã có những cưỡng bức cải đạo cũng như cướp bóc và tấn công chùa chiền tại một số khu vực trong khi chính phủ cố tình làm ngơ. Một số ngôi làng mà phần đông dân cư theo Phật giáo phải cải đạo hoặc bị cưỡng ép tái định cư. "Tình trạng riêng" được áp đặt đối với Phật giáo từ thời Pháp cai trị, vốn bắt buộc phải có sự cho phép chính thức từ chính quyền mới được tổ chức các hoạt động Phật giáo nơi công cộng, nay vẫn không được Tổng thống Diệm bãi bỏ. Giáo dân trên thực tế là những người được miễn thuế (mặc dù không chính thức) và họ được nhận phần lớn viện trợ từ đồng minh Hoa Kỳ. Nhà thờ là những địa chủ lớn nhất cả nước và đất đai sở hữu bởi nhà thờ cũng được miễn thuế. Lá cờ vàng-trắng của Vatican được treo ở nơi công cộng trong suốt các sự kiện lớn ở miền Nam Việt Nam. Năm 1959, Tổng thống Diệm cung hiến đất nước mình cho Đức mẹ Maria với niềm tôn kính Đức mẹ Maria. Sự bất bình của giới Phật tử bắt đầu nổ ra sau lệnh cấm treo cờ tôn giáo nơi công cộng ban hành đầu tháng 5 năm 1963 trước lễ Phật Đản 2 ngày trong khi chỉ vài ngày trước đó, giáo dân được cho phép treo cờ Vatican trong một buổi lễ tấn phong Tổng giám mục xứ đạo Huế của Ngô Đình Thục, anh trai Ngô Đình Diệm. Ở Huế, ngày 7 tháng 5, trước sự phản đối của giới Phật tử, Tỉnh trưởng Huế đã đồng ý cho phép treo cờ và đèn Phật giáo, nhưng Lãnh đạo Tổng hội Phật giáo Miền Trung nhận định chính quyền Ngô Đình Diệm vẫn không từ bỏ chính sách kỳ thị Phật giáo nên vẫn tiếp tục hành động đối phó chính quyền. Sau đó, ngày 8 tháng 5, các Phật tử đã tụ tập và diễu cờ Phật giáo nhân dịp Phật đản năm 1963 tại đài phát thanh Huế và kéo theo đó là một vụ nổ súng. Diễn biến vụ nổ súng này được nhiều nguồn mô tả khác nhau như sau: Theo giáo sư lịch sử người Mỹ Seth Jacobs thì có một đám đông Phật tử phản đối lệnh cấm, bất chấp chính phủ bằng việc diễu hành ngoài trụ sở đài phát thanh với cờ Phật giáo trên tay, kêu gọi bình đẳng tôn giáo. Các lực lượng chính quyền đã bắn vào đám đông biểu tình và làm 9 người thiệt mạng. Theo nhà nghiên cứu lịch sử Phật giáo Việt Nam là Nguyễn Hiền Đức, khi Phật tử tập trung tại đài phát thanh Huế để chờ nghe chương trình phát thanh lại lễ Phật đản diễn ra tại chùa Từ Đàm. Bỗng có 2 tiếng nổ lớn sau đó quân đội bắt đầu nổ súng. Có tám người thiệt mạng trong sự kiện này. Bác sĩ Erich Wulff chứng kiến sự việc tại đài phát thanh Huế và sau đó đến nhà xác quan sát các thi thể khẳng định có 5 trong 8 nạn nhân bị xe bọc thép bắn mất đầu. Phản ứng lại vụ nổ súng này, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã chối bỏ trách nhiệm của chính quyền về thương vong và quy trách nhiệm cho "Việt Cộng" khiến cho sự phản kháng càng dữ dội. Các lãnh đạo Phật giáo đưa ra bản yêu sách gồm các điểm: Chính phủ bỏ lệnh cấm treo cờ Phật giáo Được tự do hành đạo như Công giáo Xem xét lại dụ số 10 để không coi tôn giáo như một hiệp hội Chấm dứt khủng bố đàn áp Phật giáo Bồi thường cho các nạn nhân vụ đài phát thanh Huế và trừng trị kẻ gây đổ máu Tự thiêu vì đạo Trong thời kỳ đấu tranh quyết liệt này, những tu sỹ Phật giáo đã chọn cách tự thiêu để phát động phong trào đấu tranh chống lại chính sách kỳ thị tôn giáo của chính quyền. Theo tác phẩm Việt Nam Phật giáo sử luận của tác giả Nguyễn Lang, ngày 27 tháng 5 năm 1963, Hòa thượng Thích Quảng Đức đã viết một lá thư cho Giáo hội Tăng Già Toàn Quốc tình nguyện tự thiêu để phản đối chính quyền. Ý định này của ông đã bị Giáo hội từ chối. Theo một nguồn khác, các chư tăng họp tại Chùa Ấn Quang đã quyết định để Hòa thượng Thích Quảng Đức lãnh sứ mệnh quan trọng này. Ngày 10 tháng 6, phát ngôn viên của giới Phật tử tiết lộ cho các nhà báo Mỹ biết rằng "một cái gì đó quan trọng" sẽ xảy ra sáng hôm sau bên ngoài đại sứ quán Campuchia ở Sài Gòn. Phần lớn phóng viên đều không đếm xỉa đến lời nhắn và ngày hôm sau, rất ít nhà báo xuất hiện. Trong số đó có David Halberstam của tờ New York Times và Malcolm Browne, lúc đó đang làm trưởng đại diện hãng thông tấn AP tại Sài Gòn. Thầy Thích Quảng Đức xuất hiện trong một đám diễu hành bắt đầu từ một ngôi chùa gần đó. Khoảng 350 hòa thượng và ni cô dẫn đầu bởi một chiếc Austin Westminster chia làm hai nhánh giương cao khẩu hiệu bằng cả tiếng Việt và tiếng Anh. Họ lên án chính quyền Ngô Đình Diệm vì chính sách kỳ thị Phật giáo và đòi bình đẳng tôn giáo. Ý định tự thiêu đã xuất hiện ở một nhà sư nhưng cuối cùng hòa thượng Thích Quảng Đức mới là người thực hiện. Sự việc diễn ra tại ngã tư đại lộ Phan Đình Phùng và phố Lê Văn Duyệt (nay là ngã tư phố Nguyễn Đình Chiểu và đường Cách mạng tháng Tám). Thầy Thích Quảng Đức đi ra từ chiếc ô tô cùng với hai nhà sư khác. Một người đặt một tấm nệm xuống đường còn người kia mở cabin xe và lấy ra một bình xăng dung tích 5 gallon. Vì đoàn diễu hành đang tạo thành nhiều lớp vòng tròn xung quanh mình, thầy Thích Quảng Đức bình tĩnh ngồi thiền trên tấm đệm. Hai nhà sư cùng đi bắt đầu trút xăng lên đầu ông. Hòa thượng Thích Quảng Đức lần tràng hạt và bắt đầu niệm: "Nam Mô A Di Đà Phật" trước khi Hòa thượng tự mình châm lửa. Lửa nhanh chóng thiêu rụi áo cà sa và da thịt của vị hòa thượng, khói đen bốc lên từ cơ thể đang cháy bùng của ông. Sau đây là trích toàn văn lời tâm nguyện của Hòa thượng Thích Quảng Đức trước lúc tự thiêu: Cảnh sát đã cố ngăn vụ tự thiêu nhưng không thể xuyên qua được đám đông Phật tử đang vây quanh Hòa thượng Thích Quảng Đức. Một cảnh sát phi mình vào và phủ phục trước hòa thượng nhằm tỏ lòng kính trọng. Những người chứng kiến phần lớn sửng sốt trong yên lặng, số khác thì khóc và bắt đầu cầu nguyện. Nhiều nhà sư và ni cô cũng như người qua đường đã quỳ lạy trước vị hòa thượng đang cháy bừng. Một nhà sư tuyên bố nhiều lần qua một micrô bằng cả tiếng Anh và tiếng Việt: "Một nhà sư đã tự thiêu. Một nhà sư đã trở thành con người tử vì đạo". Chừng 10 phút sau thì lửa tàn, Hòa thượng Thích Quảng Đức đổ gục xuống đường. Một nhóm sư sãi đã bọc thi hài ông bằng áo cà sa vàng và đặt vào một chiếc áo quan bằng gỗ, nhưng không thể gập được tứ chi cho vừa khít. Một cánh tay của Hòa thượng thò ra ngoài trong lúc áo quan được chở đến chùa Xá Lợi gần đó. Lúc 13:30, khoảng 1000 nhà sư tập trung trong chùa để họp trong khi bên ngoài, đám đông sinh viên ủng hộ Phật giáo tập trung giương biểu ngữ: "Một hòa thượng đã tự thiêu vì 5 yêu cầu của chúng tôi" và dàn thành hàng rào xung quanh ngôi chùa. Cuộc họp nhanh chóng kết thúc và các nhà sư quay trở lại ngã tư nơi Thầy Thích Quảng Đức tự thiêu. Khoảng 18:30, 30 ni cô và 6 nhà sư đã bị bắt vì tội tổ chức cầu nguyện trên phố bên ngoài chùa Xá Lợi. Cảnh sát lúc đó đã bao vây ngôi chùa và chặn đứng sự tiếp xúc với bên ngoài. Những người chứng kiến cảm thấy rằng một cuộc đàn áp vũ trang sắp xảy ra. Chiều ngày hôm đó, hàng nghìn người dân Sài Gòn khẳng định rằng họ đã thấy ảo cảnh trên trời như khuôn mặt Đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Họ cho rằng Phật tổ đang nhỏ lệ. Tang lễ Sau vụ Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu, phía Hoa Kỳ gia tăng sức ép buộc Việt Nam Cộng hòa tiếp tục thương lượng và hòa giải với phía Phật giáo. Lúc 11:30 ngày 11 tháng 6, Tổng thống Diệm triệu tập nội các để họp khẩn cấp bàn về vấn đề khủng hoảng Phật giáo. Thế nhưng sau cái chết của Hòa thượng Thích Quảng Đức, ông đã hủy cuộc họp và gặp riêng với các bộ trưởng của mình. Đại sứ Mỹ William Trueheart đã cảnh báo Nguyễn Đình Thuận, thư ký của Diệm, rằng tình hình hiện rất nhạy cảm và đặt hy vọng Tổng thống sẽ sớm đáp ứng những yêu sách của giới Phật tử. Tại Mỹ, ngoại trưởng Dean Rusk cũng cảnh báo đại sứ quán Sài Gòn rằng Nhà Trắng sẽ công khai công bố bản yêu sách đó "tự nó sẽ không liên quan" gì đến chính quyền nếu sự việc đã không xảy ra. Bản thông cáo chung có ý nhượng bộ Phật tử được ký ngày 16 tháng 6. 15 tháng 6 được chọn làm ngày tổ chức lễ tang cho Thầy Thích Quảng Đức. Ngày hôm đó đã có hơn 4.000 người tập trung bên ngoài chùa Xá Lợi nhưng buổi lễ lại bị hoãn. Đến ngày 19, linh cữu của hòa thượng được chở đến một nghĩa trang cách trung tâm thành phố 16 km (10 dặm) về phía Nam để hỏa táng lại. Theo như bản thông cáo chung vừa được ký kết trước đó vài ngày trong đó có sự đồng thuận giữa các chức sắc Phật giáo và cảnh sát thì số người tham dự lễ tang được giới hạn khoảng 400 người. Trái tim xá lợi Tuy thi hài Thầy Thích Quảng Đức đã được hỏa táng lại nhưng trái tim của ông thì không cháy và vẫn còn nguyên, về sau được đặt trên một chiếc ly thủy tinh tại chùa Xá Lợi. Giới Phật tử coi đây là một điều thiêng, một biểu tượng của lòng từ bi và suy tôn ông thành một vị Bồ tát. Đám tang chưa phải là sự kiện cuối cùng liên quan đến thi hài Hòa thượng Thích Quảng Đức. Ngày 21 tháng 8, lực lượng đặc biệt của Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã tấn công chùa Xá Lợi và một vài ngôi chùa khác trên khắp cả nước. Cảnh sát mật định cướp bình đựng tro của Thích Quảng Đức nhưng hai nhà sư đã kịp trốn thoát trước đó theo lối rào sau chùa. Tuy nhiên lính của ông Nhu cũng đã lấy được trái tim xá lợi. Trái tim mà lực lượng quốc gia lấy được khi đó, có người cho là trái tim giả. Địa điểm được chọn làm nơi tự thiêu, trước cổng đại sứ quán Campuchia tại Sài Gòn, đã làm dấy lên những nghi vấn liệu đó chỉ là sự ngẫu nhiên hay còn có ý gì khác. Trueheart và nhân viên sứ quán cảm thấy rằng địa điểm này được chọn như để bày tỏ tình đoàn kết với chính phủ Campuchia của Hoàng thân Norodom Sihanouk. Quan hệ giữa Việt Nam Cộng hòa và Campuchia lúc đó đang căng thẳng. Ngày 22 tháng 5, Sihanouk buộc tội Diệm đã bạc đãi người Việt và Phật tử thiểu số người Khmer. Tờ Thời báo Việt Nam cho in một bài viết số ra ngày 9 tháng 6 khẳng định rằng các nhà sư bên Campuchia đang đứng về phía Phật giáo để phản đối chính quyền. Tờ báo này cũng cho rằng đây là một phần trong kế hoạch của Campuchia nhằm mở rộng chính sách ngoại giao trung lập vào Nam Việt Nam. Floweree cho biết Tổng thống Diệm đang "háo hức và sẵn sàng trông bàn tay của Campuchia nhúng vào tất cả các hoạt động có tổ chức của Phật giáo". Phản ứng của chính quyền Ngô Đình Diệm Lúc 19 giờ cùng ngày Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu, Tổng thống Ngô Đình Diệm đọc một bài diễn văn trên sóng phát thanh rằng ông "hết sức lo ngại" về vụ việc và khẩn khoản kêu gọi "đồng bào bình tâm". Ông cũng thông báo rằng tiến trình đàm phán đang tiến triển tốt. Ông Diệm cho biết chính tình hình tôn giáo căng thẳng như thế này đã làm nổi bật vai trò của thuyết nhân cách trong Thiên chúa giáo đối với các luật lệ của ông. Ngô Đình Diệm còn cho rằng những người có tư tưởng cực đoan đã bóp méo sự thật và khẳng định rằng các Phật tử có thể: "tin tưởng vào Hiến pháp, hay nói cách khác là tin tưởng ở tôi". Quân lực Việt Nam Cộng hòa hưởng ứng lời kêu gọi của Tổng thống, bày tỏ sự đoàn kết với nhau đằng sau Ngô Đình Diệm để cô lập các sĩ quan chống đối. 30 quan chức cấp cao đứng đầu bởi tướng Lê Văn Tỵ đã khẳng định quyết tâm thực thi mọi nhiệm vụ giao phó cho quân đội để bảo vệ hiến pháp và nền cộng hòa. Bản tuyên bố thực ra là vỏ bọc che đậy cho kế hoạch lật đổ Ngô Đình Diệm. Một số người tham gia ký kết về sau có dính líu trực tiếp tới cuộc đảo chính và ám sát Diệm tháng 11 năm đó. Các tướng Dương Văn Minh và Trần Văn Đôn, cố vấn quân sự của Tổng thống và là người sẽ lãnh đạo cuộc lật đổ, lúc đó đang ở nước ngoài và không phải tham gia màn kịch ký kết. Trần Lệ Xuân, vợ của Ngô Đình Nhu và em dâu Tổng thống, lúc đó được mệnh danh là Đệ Nhất Phu nhân Việt Nam Cộng hòa vì Tổng thống sống độc thân, đã phát biểu: "Tôi sẽ vỗ tay khi thấy một vụ nướng sư khác" (I would clap hands at seeing another monk barbecue show) và "nếu ai thiếu xăng dầu tôi sẽ cho". Trả lời phỏng vấn của ký giả tờ New York Times, Trần Lệ Xuân nói: "Tôi còn thách mấy ông sư thêm mười lần nữa. Phương pháp giải quyết vấn đề Phật giáo là phớt lờ, không cần biết tới". Những phát biểu thiếu cân nhắc và quá khích của bà như rót thêm nước sôi vào tình hình căng thẳng lúc đó. Cuối tháng 6, chính phủ Ngô Đình Diệm cáo buộc rằng Hòa thượng Thích Quảng Đức "đã bị chích thuốc" trước khi bị ép tự vẫn. Chính quyền cũng buộc tội Browne đã hối lộ nhà sư để ông tự thiêu. Nhưng về sau, Trần Lệ Xuân đã tìm cách từ chối một số các phát biểu thiếu trách nhiệm này. Tác động chính trị và truyền thông Những bức ảnh của Browne chụp cảnh tự thiêu nhanh chóng truyền đi bằng các phương tiện điện tín và lên trang nhất của nhiều tờ báo khắp thế giới. Việc một hòa thượng tự thiêu tại một đất nước mà phần đông dân số theo đạo Phật đã được ghi nhận là bước ngoặt trong cuộc khủng hoảng Phật giáo và dẫn đến sự sụp đổ của chính quyền Ngô Đình Diệm. Mặc dù sự suy yếu của chính phủ bắt đầu lộ rõ từ trước nhưng vụ việc vẫn được coi là bước then chốt trong tình hình hỗn loạn lúc bấy giờ. Nhà sử học Seth Jacobs khẳng định Hòa thượng Thích Quảng Đức đã "đốt cuộc thử nghiệm Diệm của nước Mỹ ra tro" và "không có lời bào chữa nào có thể gỡ gạc lại được danh tiếng của Ngô Đình Diệm" một khi những bức ảnh của Browne đã hằn vào tâm trí của công chúng thế giới. Ellen Hammer mô tả rằng sự kiện đã gợi lên những hình ảnh đen tối về sự đàn áp và ghê rợn, tương ứng với một thực tại rất châu Á mà người phương Tây vốn không hiểu". William Colby, giám đốc CIA vùng Viễn Đông cho rằng Ngô Đình Diệm "đã xử trí cuộc khủng hoảng rất dở và đã để cho nó tiến triển. Nhưng thực sự tôi không nghĩ rằng có nhiều cơ hội để họ giải quyết vấn đề một khi đã có một thầy tu tự thiêu". Tổng thống Hoa Kỳ John F. Kennedy, người đứng đầu chính phủ đồng minh với Việt Nam Cộng hòa, biết được thông tin về vụ một nhà sư tự thiêu tại Nam Việt Nam khi đọc báo tin tức buổi sáng, trong khi ông đang ngồi trên giường và nói chuyện với em trai Robert F. Kennedy, viên chưởng lý Hoa Kỳ. Tổng thống đã cắt ngang cuộc đàm thoại về tình hình tại bang Alabama và thốt lên: "Lạy Chúa Giê-su!". Về sau ông nhận xét rằng "trong lịch sử không có một bức hình thời sự nào lại gây nên nhiều xúc cảm trên khắp thế giới như vậy". Thượng nghị sĩ Frank Church, thành viên Ủy ban Quan hệ Quốc tế, đã phát biểu: "Người ta chưa từng chứng kiến những cảnh tượng hãi hùng như thế này kể từ khi các vị thánh tử vì đạo dắt tay nhau vào đấu trường La Mã nộp mình". Tại châu Âu, bức ảnh được bày bán hàng loạt trên đường phố như những tấm bưu thiếp trong suốt thập niên 1960. Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã in bức ảnh ra hàng triệu bản và phân phát khắp châu Á và châu Phi như một minh chứng về "chủ nghĩa đế quốc Mỹ". Một trong những tấm ảnh Browne chụp cảnh tượng kinh hoàng vẫn còn dán trên chiếc xe mà Thích Quảng Đức lái tới ngã tư nơi ông tự thiêu. Về phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng bày tỏ sự khâm phục trước hành động tự thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức qua hai câu đối: Vị pháp vong thân vạn cổ hùng uy Thiên Nhật Nguyệt/Lưu danh bất tử bách niên chính khí Địa Sơn Hà. Đối với Browne và hãng thông tấn AP, những bức ảnh là một thành công trong tiếp thị. Ray Herndon, nhà báo hãng thông tấn UPI (United Press International) đã quên không mang máy ảnh ngày hôm đó nên bỏ lỡ cơ hội chụp cảnh một hòa thượng tự thiêu, sau đã bị cấp trên la rầy. UPI ước lượng rằng có 5.000 độc giả ở Sydney, một thành phố lúc đó có khoảng 1,5 đến 2 triệu dân, đã chuyển sang lấy tin từ các nguồn của hãng AP. Về phía chính quyền Ngô Đình Diệm, tờ Times of Vietnam, cơ quan ngôn luận bằng tiếng Anh, đã gia tăng sự công kích đối với các nhà báo Mỹ và giới Phật tử. Những dòng tít kiểu như "Giới chức chùa Xá Lợi đưa ra lời hăm dọa mới" hay "Sư sãi âm mưu ám sát" xuất hiện trên mặt báo. Một bài báo hoài nghi về mối quan hệ giữa các nhà sư và báo chí với việc đặt một câu hỏi tại sao "rất nhiều cô gái trẻ ra vào chùa Xá Lợi vào buổi sáng sớm" và sau đó cho rằng họ đã được đưa vào trong đó vì mục đích tình dục cho các phóng viên. Tấm ảnh đoạt giải của Browne đã được giới truyền thông đại chúng sử dụng lại trong nhiều thập niên. Năm 1992, ban nhạc rock Rage Against the Machine sử dụng một tấm ảnh làm bìa cho album và đĩa đơn đầu tay của họ. Trong tập 408 bộ phim hoạt hình South Park, "Chef Goes Nanners", nhân vật Chef đã dùng đến tấm ảnh tự thiêu của Browne trước khi đổ xăng và đốt cháy một nhà sư để phản kháng lại lá cờ phân biệt chủng tộc của thị trấn. Ngày 22/8/1963, thống chế Sarit Thanarat, thủ tướng Thái Lan, đề nghị triệu tập một hội nghị sơ bộ gồm các nước Phật giáo trước lúc đưa vấn đề Phật giáo Việt Nam ra Liên Hợp Quốc. Bốn ngày sau đó Đại tá Mutukhan, Phó giám đốc nha Tôn giáo thuộc bộ Giáo dục, đã khuyến cáo chính phủ Ngô Đình Diệm bằng những lời gay gắt và như một tiên tri: “Vì đã đàn áp Phật tử Việt Nam, Tổng thống Ngô Đình Diệm sẽ phải hứng chịu hết những tai hoạ dưới đủ mọi hình thức, hiểu theo giáo lý nhà Phật, kể cả diệt vong và đọa địa ngục...” Tiền lệ và ảnh hưởng Mặc dù công chúng phương Tây rất bàng hoàng về sự kiện hòa thượng Thích Quảng Đức, việc các nhà sư Việt Nam tự thiêu không phải hiện tượng hiếm. Nhiều trường hợp tự thiêu đã được ghi nhận từ hàng thế kỷ trước, với lý do thường là để tỏ lòng tôn kính với Đức Phật. Trường hợp gần nhất trước Hòa thượng Thích Quảng Đức được ghi nhận ở miền Bắc Việt Nam vào năm 1950. Sau khi xâm chiếm Việt Nam vào thế kỷ XIX, thực dân Pháp đã cố bài trừ những hành động này nhưng không thực sự thành công. Thập niên 1920, họ đã thành công trong việc ngăn chặn một nhà sư ở Huế tự thiêu, nhưng cuối cùng nhà sư này đã tuyệt thực cho đến chết. Trong những năm 1920 và 1930, báo chí Sài Gòn đã đưa tin về các trường hợp hòa thượng tự thiêu như thể những chuyện bình thường. Điều tương tự cũng diễn ra ở thành phố Cáp Nhĩ Tân, tỉnh Hắc Long Giang của Trung Quốc. Năm 1948, một hòa thượng ngồi theo tư thế hoa sen, bên dưới là mùn cưa và dầu đậu nành và tự thiêu để phản đối chính sách ngược đãi Phật giáo của những người cộng sản do Mao Trạch Đông đứng đầu. Trái tim của vị hòa thượng này vẫn còn nguyên như trái tim của Hòa thượng Thích Quảng Đức. Sau Hòa thượng Thích Quảng Đức, 5 thành viên hội Tăng lữ Việt Nam cũng tử vì đạo cho đến tận tháng 10 năm 1963, khi phong trào phản kháng của Phật giáo lên cao. Ngày 1 tháng 11, Quân lực Việt Nam Cộng hòa thực hiện cuộc đảo chính lật đổ Tổng thống. Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu bị ám sát ngày hôm sau. Người Mỹ tại Sài Gòn thường thấy những hành động tự thiêu rất kỳ quặc, họ sử dụng các kiểu chơi chữ ví dụ như "bonze fires" hay "hot cross bonzes", gần như để trốn khỏi tình trạng hoang mang, Trong một trường hợp, một cậu bé con một quan chức người Mỹ ở đại sứ quán Mỹ tại Sài Gòn đã đổ dầu hỏa lên người mình và châm lửa. Đến khi lửa được dập thì cậu đã bị bỏng rất nặng. Về sau, cậu chỉ giải thích về hành động của mình rằng: "Con chỉ muốn thử xem nó như thế nào". Trường hợp tự thiêu cũng xảy ra ít nhất hai lần tại Mỹ trong các cuộc phản đối Chiến tranh Việt Nam. Ngày 2 tháng 11 năm 1965, Norman Morrison, một tín đồ Quaker yêu chuộng hòa bình, đã tự thiêu bằng dầu hỏa bên dưới cửa sổ tầng 3 Lầu Năm Góc, nơi Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara làm việc. Cũng năm đó, Alice Herz, một phụ nữ 82 tuổi, đã tự thiêu ở Detroit, Michigan. Xem thêm Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất Tham khảo Ghi chú Chú thích Thư mục Liên kết ngoài Trang mạng thông tin về Hòa thượng Thích Quảng Đức Tăng sĩ Việt Nam Người Khánh Hòa Người tự thiêu Biến cố Phật giáo, 1963 Bài Việt Nam chọn lọc Ngày sinh không rõ Người tự sát ở Việt Nam Tín hữu Phật giáo được đặt tên đường ở Việt Nam
25839
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C3%B4%20Gia%20T%E1%BB%B1
Ngô Gia Tự
Ngô Gia Tự (3 tháng 12 năm 1908 – 1935) là một đảng viên đảng Cộng sản Việt Nam. Ông sinh tại làng Tam Sơn, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh (nay là phường Tam Sơn, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh). Năm 1927, ông tham gia lớp huấn luyện chính trị do Nguyễn Ái Quốc tổ chức tại Quảng Châu, Trung Quốc, được Kỳ bộ Bắc kỳ Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội chỉ định vào Tỉnh bộ Bắc Ninh để gây dựng cơ sở ở địa phương. Năm 1928, Ngô Gia Tự được đưa về hoạt động tại Kỳ bộ Bắc kỳ. Ngày 1 tháng 5 năm 1929, Đại hội toàn quốc của Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội họp ở Hương Cảng. Đoàn đại biểu miền Bắc mà vai trò kiên quyết Ngô Gia Tự đưa ra đề nghị giải tán Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội, thành lập đảng cộng sản. Sau đó thực hiện chủ trương "vô sản hóa" Ngô Gia Tự đã vào Sài Gòn làm phu đẩy xe than, làm công nhân khuân vác ở các bến tàu. Qua công việc, ông đã giác ngộ được nhiều công nhân lao động về con đường Cách mạng sau đó. Tháng 3 năm 1929, ông giúp thành lập chi bộ cộng sản đầu tiên ở Việt Nam. Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, ông được bầu làm Bí thư Xứ ủy lâm thời của Đảng bộ Nam Kỳ. Dưới sự lãnh đạo của Bí thư Xứ ủy Ngô Gia Tự, Đảng bộ đã chọn nhà máy Ba Son, đồn điền Phú Riềng, xã Vĩnh Kim (Mỹ Tho) làm cơ sở phát triển cách mạng. Đặc biệt ở những khu lao động nghèo vùng Thị Nghè đã được Ngô Gia Tự chọn làm nơi trú ngụ và hoạt động trong những tháng ngày thực hiện chủ trương "Vô sản hóa" của Đảng. Đến cuối năm 1930, ông bị thực dân Pháp bắt tại Sài Gòn. Sau hơn 2 năm bị giam giữ, ngày 2 tháng 5 năm 1933, thực dân Pháp đưa Ngô Gia Tự, cùng Phạm Hùng, Lê Văn Lương và nhiều đảng viên khác ra phiên tòa "đại hình đặc biệt", và đày ra Côn Đảo vào tháng 5 năm 1933. Ông bị mất tích trong một chuyến vượt ngục đầu năm 1935 cùng với các bạn tù khác. Ngày nay tại Việt Nam đang có những con đường, phố và ngôi trường mang tên ông. Sự nghiệp Cách mạng Tháng 7/1929, một bước ngoặt lớn trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Ngô Gia Tự diễn ra khi ông được Trung ương Đông Dương Cộng sản Đảng cử vào Nam Kỳ vận động các tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên Nam Kỳ chuyển thành các Chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng. Ông trực tiếp làm công nhân tại nhiều cơ sở công nghiệp để tranh thủ mọi điều kiện, mọi cơ hội tuyên truyền giác ngộ cho công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động. Ngay sau khi thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng Nam Kỳ, Ngô Gia Tự đã chỉ đạo chọn nhà máy Ba Son (Sài Gòn), đồn điền Phú Riềng (Bình Dương), xã Vĩnh Kim (Tiền Giang) làm điểm để xây dựng chi bộ Đảng Cộng sản; việc lựa chọn 3 cơ sở gồm cả thành thị và nông thôn, đồng bằng và trung du miền núi, công nhân và nông dân để đúc rút kinh nghiệm xây dựng Đảng, phát triển phong trào cách mạng đã thể hiện sự lãnh đạo toàn diện và khoa học của Đông Dương Cộng sản Đảng Nam Kỳ. Đầu năm 1930, 5.000 công nhân đồn điền Phú Riềng bãi công. Thực dân Pháp huy động hàng trăm lính có vũ trang đến đàn áp, nhưng đứng trước biển người được giác ngộ giai cấp, siết chặt đội ngũ, đã phải nhượng bộ, chấp thuận yêu sách của công nhân. Dưới sự lãnh đạo của Đông Dương Cộng sản Đảng Nam Kỳ, phong trào cách mạng ở Nam Kỳ phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng. Các cuộc đấu tranh của công nhân và nông dân Nam Kỳ giai đoạn này từng bước có sự biến đổi từ mục tiêu kinh tế sang mục tiêu chính trị, lực lượng công nhân dần dần trở thành lực lượng chính trị to lớn trong sự nghiệp đấu tranh chống thực dân Pháp, giải phóng dân tộc. Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, sự kiện chính trị trọng đại đó đã tạo ra bước ngoặt lịch sử đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam. Ngày 24/2/1930, Ngô Gia Tự được Hội nghị thống nhất các tổ chức Cộng sản ở Nam Kỳ bầu làm Bí thư Chấp uỷ lâm thời Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam ở Nam Kỳ. Chấp hành quyết nghị của Hội nghị thành lập Đảng về việc thống nhất các tổ chức cộng sản ở Nam Bộ, ông đã ký quyết nghị chấp nhận Đông Dương Cộng sản Liên đoàn gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Ở cương vị lãnh đạo chủ chốt – Bí thư Xứ uỷ Nam Kỳ, ông thường xuyên đi xuống cơ sở mở lớp bồi dưỡng ngắn ngày cho cán bộ, đảng viên để nâng cao nhận thức chính trị, cổ vũ tinh thần quyết tâm chiến đấu, hướng dẫn cho cán bộ, đảng viên về công tác xây dựng Đảng, vận động quần chúng. Ông nói: “Đảng viên phải vì Đảng, vì cách mạng mà hy sinh, đừng vì ta để Đảng và cách mạng phải tổn hại”. Trong giai đoạn đầu thành lập Đảng, giữa lúc phong trào đấu tranh của quần chúng ở Nam Kỳ đang cần có sự chỉ đạo sâu sắc hơn nữa, tối 31/5/1930, Ngô Gia Tự bị địch bắt trong lúc đang viết truyền đơn tại một cơ sở cách mạng ở Phú Am trên sông Thị Nghè (Sài Gòn). Biết ông là cán bộ cấp cao của Đảng, kẻ địch hết dụ dỗ, mua chuộc lại dùng cực hình tra tấn dã man, để khuất phục, nhưng cuối cùng chúng đã phải bất lực trước ý chí sắt đá kiên trung của ông. Trong lao tù của thực dân Pháp, phẩm chất cách mạng Ngô Gia Tự lại tiếp tục thể hiện rõ ý chí quật cường của người cộng sản. Thực dân Pháp đưa ông cùng các đồng chí Phạm Hùng, Lê Văn Lương ra phiên toà “đại hình đặc biệt”. Ngô Gia Tự và các chiến sĩ cộng sản đã biến phiên toà thành diễn đàn lên án thực dân Pháp. Ba năm giam giữ, bốn lần xét xử, thực dân Pháp đã khép Ngô Gia Tự một bản án tử hình, ba bản án khổ sai chung thân và bí mật đưa đi đày ở nhà tù Côn Đảo. Ở Côn Đảo - địa ngục trần gian, người “tù chính trị hạng đặc biệt nguy hiểm” chịu mọi cực hình tra tấn, đày ải dã man của kẻ thù, Ngô Gia Tự vẫn kiên cường chiến đấu, tham gia tuyệt thực chống lại chế độ nhà tù hà khắc. Ông được cử vào Ban chi uỷ chi bộ nhà tù. Thực hiện “biến nhà tù thành trường học cộng sản”, Ngô Gia Tự đã cùng với Hà Huy Giáp và một số đồng chí khác dịch nhiều cuốn sách kinh điển của Chủ nghĩa Mác – Lênin: Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, Tư bản, Làm gì?… tổ chức viết báo, nghiên cứu những đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam, rút kinh nghiệm về đường lối lãnh đạo của Đảng. Ông thường nói với các bạn tù: “Phải biến nhà tù thành trường học, không nên bỏ phí thì giờ. Bất kỳ ở đâu, chúng ta cũng có thể hoạt động cho chủ nghĩa cộng sản được”. Nhờ được trang bị lý luận đấu tranh cách mạng nên các cuộc đấu tranh của các chiến sĩ cộng sản trong tù diễn ra có tổ chức, có phương pháp, có sự thống nhất cao về tư tưởng và hành động. Trong lao tù, tấm gương dũng cảm, kiên cường, không khuất phục trước kẻ thù của đồng chí Ngô Gia Tự và các chiến sĩ cộng sản đã cảm hoá được một số người ở đảng phái khác nhận ra lý tưởng cộng sản, tự nguyện gia nhập và chiến đấu dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cuối năm 1934, chi bộ nhà tù Côn Đảo quyết định cử Ngô Gia Tự cùng 7 chiến sĩ cộng sản khác vượt biển về đất liền hoạt động. Nhưng không may ông và các chiến sỹ trong đoàn đã mất tích và anh dũng hy sinh giữa biển khơi. Năm ấy, Ngô Gia Tự mới 26 tuổi, độ tuổi tràn đầy sức lực, đang nở rộ tài năng. Sự hy sinh cao đẹp của Ngô Gia Tự cùng các chiến sĩ cộng sản và của nhiều thế hệ người dân Việt Nam yêu nước đã góp phần làm cho “cây cách mạng khai hoa, kết quả”, Tổ Quốc đã thống nhất, non sông thu về một mối, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đánh giá về công lao sự nghiệp cách mạng cao cả của Ngô Gia Tự và nhiều cán bộ khác đã anh dũng hy sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Trong Đảng ta, các đồng chí Trần Phú, Ngô Gia Tự, Lê Hồng Phong, Nguyễn Văn Cừ, Hoàng Văn Thụ, Nguyễn Thị Minh Khai và nhiều đồng chí khác đã vì dân, vì Đảng mà oanh liệt hy sinh, đã nêu gương chói lọi của đạo đức cách mạng chí công vô tư cho tất cả chúng ta học tập”. Chú thích Liên kết ngoài Tem bổ sung của Bưu chính Việt Nam về Ngô Gia Tự Nhà cách mạng Việt Nam Người Bắc Ninh Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ Học sinh trường Bưởi
25847
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nam%20Th%E1%BA%ADp%20T%E1%BB%B1
Nam Thập Tự
Chòm sao Nam Thập Tự (南十字) (hay Nam Tào, Chữ Thập Phương Nam, Nam Thập, tiếng Latinh: Crux, ngược lại với Bắc Thập hay Thiên Nga) gồm 4 ngôi sao khá sáng xếp thành hình chữ thập. Chòm sao Nam Thập ở vào khoảng giữa chòm sao Bán Nhân Mã (Centaurus) và Thương Dăng (Musca), là những ngôi sao sáng và rõ, cho nên chòm Nam Thập rất dễ nhận diện. Tuy là nhỏ nhất trong số 88 chòm sao hiện đại, tuy nhiên nó lại là một trong những chòm sao nổi tiếng nhất. Bao quanh ba phía của nó là chòm sao Bán Nhân Mã (Centaurus) và ở phía nam của nó là chòm sao Thương Dăng (Musca, tức Con Ruồi). Nó là chòm sao sáng nhất trên bầu trời, với độ sáng tổng thể là 29,218. Vì vị trí của Việt Nam nằm ở Bắc Bán Cầu nên người ta chỉ có thể thấy chòm sao Nam Thập vào chập tối trong khoảng tháng 5 đến tháng 7 hàng năm. Các đặc điểm nổi bật Do thiếu vắng một ngôi sao Nam Cực có độ sáng đáng kể trên bầu trời phía nam (sao Sigma Octantis gần cực Nam nhất, nhưng nó quá mờ để có thể trở thành có ích cho con người định hướng), hai trong số các ngôi sao của chòm Nam Thập (Alpha và Gamma, hay Acrux và Gacrux) nói chung được sử dụng để định hướng cực nam địa lý. Kéo dài đường thẳng được tạo ra từ hai ngôi sao này khoảng 4,5 lần khoảng cách giữa chúng sẽ tới điểm sát với Nam cực của bầu trời. Ngoài ra, nếu dựng một đường trung trực tạo ra bởi Alpha Centauri và Beta Centauri, thì điểm giao nhau của đường nói trên và đường này sẽ là điểm đánh dấu Nam cực của bầu trời. Trái với suy nghĩ của nhiều người, vị trí của chòm sao này không phải là đối diện với chòm sao Đại Hùng qua tâm Trái Đất. Trên thực tế, ở vùng nhiệt đới cả hai chòm sao Nam Thập (thấp ở phía nam) và Đại Hùng (thấp ở phía bắc) có thể cùng xuất hiện trên bầu trời từ tháng Tư cho đến tháng Sáu. Vị trí của chòm sao này chính xác là đối diện với vị trí của chòm sao Tiên Hậu (Cassiopeia) trên bầu trời, và vì thế chúng không thể cùng xuất hiện trên bầu trời trong cùng một thời gian. Đối với các khu vực nằm về phía nam của 34° vĩ nam thì Nam Thập luôn luôn ở trên bầu trời suốt cả đêm. Trong chiêm tinh học của người Hindu cổ đại, cái được nói đến như là 'trishanku' chính là chòm sao 'Nam Thập' hiện đại. Các thiên thể nổi bật Tinh vân Bao Than (Coalsack) là tinh vân tối nổi bật nhất trên bầu trời, dễ dàng nhìn thấy bằng mắt thường như là một vết đốm lớn sẫm màu ở phần phía nam của dải Ngân Hà. Các thiên thể khác trong phạm vi chòm sao Nam Thập là Quần sao mở NGC 4755, được biết đến nhiều hơn qua tên gọi Quần sao Hộp Châu Báu (Jewel Box) hay Kappa Crucis, được Nicolas Louis de Lacaille phát hiện vào khoảng những năm 1751-1752. Nó nằm ở khoảng cách chừng 7.500 năm ánh sáng và chứa khoảng 100 ngôi sao trên một khu vực khoảng 20 năm ánh sáng. Lịch sử Do tuế sai của điểm phân, các ngôi sao tạo thành chòm sao Nam Thập đã được nhìn thấy từ khu vực Địa Trung Hải trong thời Cổ đại, vì thế các ngôi sao này cũng đã được các nhà thiên văn người Hy Lạp biết đến. Tuy nhiên, chúng đã không được coi như là một chòm sao riêng biệt, mà được coi là một phần của chòm sao Bán Nhân Mã. Sự phát hiện ra Nam Thập như là một chòm sao riêng rẽ nói chung được coi là của nhà thiên văn người Pháp Augustin Royer năm 1679. Tuy vậy, nó đã được biết đến với hình dạng như vậy từ trước đó rất lâu. Năm ngôi sao sáng nhất của Nam Thập (α, β, γ, δ và ε Crucis) xuất hiện trên các lá cờ của Úc, Brasil, New Zealand (bỏ đi sao epsilon), Papua New Guinea và Samoa, cũng như trên cờ của các bang và vùng lãnh thổ của Úc như Victoria, Lãnh địa thủ đô Úc, Northern Territory và cờ của Khu vực Magallanes, Chile và trên một số cờ và biểu trưng của các tỉnh thuộc Argentina. Lá cờ của khu vực thương mại Mercosur có bốn ngôi sao sáng nhất (bỏ đi sao epsilon). Nam Thập cũng xuất hiện trên quốc huy Brasil. Phiên bản cách điệu hóa của Nam Thập xuất hiện trên cờ Eureka. Chòm sao này cũng được sử dụng trên phù hiệu nền lam thẫm của Sư đoàn America thuộc quân đội Mỹ, cũng như trên phù hiệu hình thoi màu tím nhạt của sư đoàn Hải quân đánh bộ số 1, Hoa Kỳ. Hình ảnh trên đá của chòm sao này cũng đã được tìm thấy trong khu vực khảo cổ Macchu Picchu, Peru. Các ngôi sao Các sao với tên gọi chính xác: (α1,2 Cru) – sao đôi 0,77 và 1,73 Acrux (β Cru) 1,25 Becrux hay Mimosa (γ Cru) – sao đôi 1,59 và 6,42 Gacrux (δ Cru) 2.79; Decrux [Delcrux] Các sao với danh pháp Bayer: ε Cru 3,59; ζ Cru 4,06; θ1 Cru 4,32; θ2 Cru 4,72; η Cru 4,14; ι Cru 4,69; κ Cru 5,89; λ Cru 4,62; μ1 Cru 4,03; μ2 Cru 5,08 Các sao đáng chú ý khác: HD 108147 7,00 – có hành tinh. Tham khảo Liên kết ngoài và tham khảo Thư của Andrea Corsali 1516-1989: với các tư liệu bổ sung ("miêu tả và minh họa đầu tiên về chòm sao Nam Thập, với các nghiên cứu về Úc...") được Thư viện Quốc gia Úc số hóa. Hướng dẫn ảnh cho các chòm sao: Nam Thập The Cambridge Guide to the Constellations, Michael E. Bakich, Cambridge University Press, 1995, trang. 85 Biểu tượng quốc gia Úc Biểu tượng quốc gia Brasil Biểu tượng quốc gia New Zealand Biểu tượng quốc gia Papua New Guinea Biểu tượng quốc gia Samoa Chòm sao phương nam Chòm sao IAU
25848
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1o%20%C4%90%E1%BB%A9c%20Thi%C3%AAn%20T%C3%B4n
Đạo Đức Thiên Tôn
Thái Thượng Lão Quân (太上老君) là tôn hiệu một vị thần tiên tối cao trong Đạo giáo Trung Quốc, là một trong Tam Thanh. Thông thường Thái Thượng Lão Quân được đồng nhất với Lão Tử, tuy nhiên trong Đạo giáo thì Lão Tử chỉ là một hoá thân giáng trần của Thái Thượng Lão Quân. Thần thoại Trong thần thoại Đạo giáo, thì Thái Thượng Lão Quân có trước cả trời đất, chính là nguyên khí thời hỗn mang ngưng kết mà thành, chỉ sau Nguyên Thủy Thiên Vương mà thôi. Thái Thượng Lão Quân giáng sinh vào đời Chu chính là Lão Tử, viết Đạo Đức Kinh, được Đạo giáo tôn là Giáo chủ, Đạo tổ. Thái Thượng Lão Quân ở tại cung Đâu Suất, tại tầng trời thứ 33. Trong cung Đâu Suất có lò Bát quái là nơi luyện các loại tiên đơn thánh thủy để trường sinh bất tử. Trong Tam Thanh, thì Thái Thượng Lão Quân ở ngôi vị Thái Thanh. Tôn hiệu Đạo Đức Thiên Tôn (Đây là tôn hiệu chính thức trong Tam Thanh) Vô cực chí tôn Vô cực lão tổ Hỗn Nguyên Lão Quân Thái Thanh Đại đế Hàng Sinh Thiên Tôn Thái Thanh Cao Thánh Hư Vô Chí Tôn Thái Thượng Ngọc Thần Nguyên Hoàng Đại Đạo Quân Cõi của Thái Thượng Lão Quân ngự gọi là Thanh Cảnh. Trong tạo hình Tạo hình Thái Thượng Lão Quân trong điện thờ là một ông già râu bạc, tay cầm cây quạt ba tiêu, hoặc một đồ hình Bát quái. Thái Thượng Lão Quân ngồi bên trái của Nguyên Thủy Thiên Tôn, bên kia là Linh Bảo Thiên Tôn. Pháp Bảo Thái Thượng Lão Quân Quạt Ba Tiêu Dây Thừng Hoàng Kim Hồ Lô Tử Kim Ngọc Tịnh Bình Kim Cương Trát Thất Tinh Kiếm Lò Bát Quái Trong văn học Hình tượng Thái Thượng Lão Quân được biết đến trong nhiều tác phẩm như Phong thần diễn nghĩa, Tây du ký... đặc biệt là tác phẩm phim truyền hình Tây du kí 1986, theo đó ông là một vị thần tiên tối cao của Thiên đình có nhiều bảo vật cũng như phép thần thông tuy nhiên ông cũng sơ ý như để Tôn Ngộ Không ăn trộm hết linh đơn, đẩy đổ lò bát quái... và các đệ tử của ông cũng nhiều lần trốn xuống trần gian gây cản trở cho bốn thầy trò Đường Tăng. Tham khảo Đạo Đức Kinh Lão Tử http://baike.baidu.com/view/30000.htm Thần tiên Đạo giáo Nhân vật Phong thần diễn nghĩa Nhân vật Tây du ký Đạo giáo
25850
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n%20T%C6%B0%E1%BB%9Dng%20Tam
Nguyễn Tường Tam
Nguyễn Tường Tam (chữ Hán: hay ; 1906 - 7 tháng 7 năm 1963) là một nhà văn, nhà báo với bút danh Nhất Linh (), Tam Linh, Bảo Sơn, Lãng du, Tân Việt, Đông Sơn (khi vẽ); và cũng là chính trị gia nổi tiếng của Việt Nam trong thế kỷ 20. Ông là người thành lập Tự Lực văn đoàn và là cây bút chính của nhóm, và từng là Chủ bút tờ tuần báo Phong Hóa, Ngày Nay. Về sau, ông còn là người sáng lập Đại Việt Dân chính Đảng, từng làm Bí thư trưởng của Việt Nam Quốc dân Đảng (khi Đại Việt Dân chính Đảng hợp nhất với Việt Nam Quốc dân Đảng và Đại Việt Quốc dân Đảng) và giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao trong Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến. Thân thế Ông sinh ra tại phố huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Nguyên quán của ông là làng Cẩm Phô, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ông nội Nguyễn Tường Tam là Nguyễn Tường Tiếp, làm tri huyện Cẩm Giàng, gọi là Huyện Giám, rồi về hưu tại đây. Cụ có người con trai duy nhất là Nguyễn Tường Chiếu (húy Nhu) làm Thông phán, nên được gọi là Thông Nhu, hay Phán Nhu. Ông Nhu mất năm 1918 khi mới 37 tuổi. Ông lập gia đình với bà Lê Thị Sâm, và có được 7 người con, trong đó có 6 con trai và 1 con gái: Nguyễn Tường Thụy, tổng giám đốc bưu điện Nguyễn Tường Cẩm, kỹ sư canh nông Nguyễn Tường Tam, tức nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Long, tức nhà văn Hoàng Đạo Nguyễn Thị Thế Nguyễn Tường Lân, tức nhà văn Thạch Lam Nguyễn Tường Bách, bác sĩ. Gia đình Nguyễn Tường Tam sống ở Cẩm Giàng, một huyện nhỏ. Cha ông mất sớm, cả nhà lâm vào cảnh khó khăn. Từ bé, anh em Nguyễn Tường Tam đã tiếp xúc với những người nông dân nghèo khổ, điều đó ảnh hưởng đến văn học của Nhất Linh và Thạch Lam sau này. Cuộc đời và sự nghiệp Thời niên thiếu Thuở nhỏ, Nguyễn Tường Tam theo học tiểu học ở Cẩm Giàng, học trung học tại trường Bưởi ở Hà Nội. Năm 16 tuổi, Nguyễn Tường Tam làm thơ đăng báo Trung Bắc Tân Văn, và năm 18 tuổi ông có bài "Bình Luận Văn Chương về Truyện Kiều" trên Nam Phong tạp chí . Cuối năm 1923 ông đậu bằng Cao tiểu. Nhưng vì chưa đến tuổi vào trường cao đẳng, nên ông làm thư ký ở sở tài chính Hà Nội. Ông làm quen với Tú Mỡ và viết cho tờ Nho Phong. Thời gian đó, ông lập gia đình với bà Phạm Thị Nguyên. Năm 1924, ông tiếp tục học ngành Y và Mỹ thuật, nhưng chỉ một năm rồi bỏ. Năm 1926, Nguyễn Tường Tam vào Nam, gặp Trần Huy Liệu và Vũ Đình Di định cùng làm báo. Nhưng vì tham dự đám tang Phan Chu Trinh nên hai người này bị bắt, Nguyễn Tường Tam phải trốn sang Campuchia, sống bằng nghề vẽ và tìm đường đi du học. Năm 1927, Nguyễn Tường Tam sang Pháp du học. Ở nơi ấy, ông vừa học khoa học, vừa nghiên cứu về nghề báo và nghề xuất bản. Năm 1930, ông đậu bằng Cử nhân Khoa học Giáo khoa (Lý, Hóa) và trở về nước trong năm đó. Hoạt động văn chương Trở về nước, Nguyễn Tường Tam xin ra tờ báo trào phúng "Tiếng cười", nhưng lần nào hỏi thăm đều nghe Sở Báo chí của Phủ Thống sứ bảo rằng "chờ xét". Trong thời gian chờ đợi giấy phép ra báo, ông xin dạy học tại trường Tư thục Thăng Long. Ở đó ông quen biết với thầy giáo dạy Việt văn là Trần Khánh Giư (tức Khái Hưng). Năm 1932, Nguyễn Tường Tam mua lại tờ tuần báo Phong Hóa của Phạm Hữu Ninh và Nguyễn Xuân Mai, và trở thành Giám đốc kể từ số 14, ra ngày 22 tháng 9 năm 1932. Ông chủ trương dùng tiếng cười trào phúng để đả kích các hủ tục phong kiến, hô hào "Âu hóa", đề cao chủ nghĩa cá nhân.... Trong năm ấy, ông và các cộng sự quyết định thành lập Tự Lực văn đoàn trên nguyên tắc "dựa vào sức mình, theo tinh thần anh em một nhà. Tổ chức không quá 10 người để không phải xin phép Nhà nước, chỉ nêu ra trong nội bộ mục đích tôn chỉ, anh em tự nguyện tự giác noi theo". Về sau, tính chuyện lâu dài, văn đoàn này mới chính thức tuyên bố thành lập ngày 2 tháng 3 năm 1934 (báo Phong Hóa số 87). Tháng 6 năm 1935, báo Phong Hóa bị nhà cầm quyền ra lệnh đóng cửa ba tháng vì loạt bài "Đi xem mũ cánh chuồn " châm biếm Tổng đốc Hà Đông Hoàng Trọng Phu. Sau đó ra tiếp được hơn một năm, thì bị đóng cửa vĩnh viễn (số cuối 190 ra ngày 5 tháng 6 năm 1936) cũng vì tội "chế nhạo". Tờ tuần báo Ngày Nay, trước ra kèm với Phong Hóa, tiếp tục và kế tiếp Phong Hóa. Tháng 12 năm 1936, trên báo Ngày Nay, Nguyễn Tường Tam cùng nhóm Tự Lực văn đoàn phát động phong trào Ánh Sáng, một tổ chức từ thiện với mục đích cải tạo nếp sống ở thôn quê, trong đó có việc làm nhà hợp vệ sinh cho dân nghèo... Hoạt động chính trị Năm 1938, Nguyễn Tường Tam thành lập Đảng Hưng Việt, rồi đổi tên là Đại Việt Dân chính Đảng năm 1939 mà ông làm Tổng Thư ký. Hoạt động chống Pháp của nhóm Tự Lực trở thành công khai. Năm 1940, Hoàng Đạo, Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí bị thực dân Pháp bắt và đày lên Sơn La, đến năm 1943 mới được thả. Trong thời gian này, Thạch Lam và Nguyễn Tường Bách tiếp tục quản trị tờ Ngày Nay. Tháng 9 năm ấy, báo Ngày Nay bị đóng cửa sau khi ra số 224. Năm 1942 Nhất Linh chạy sang Quảng Châu. Thạch Lam mất tại Hà Nội vì bệnh lao. Đại Việt Dân chính Đảng thì đã gần như tan rã. Trong thời gian từ 1942 đến 1944, ông học Anh Văn và Hán văn. Tại Quảng Châu và Liễu Châu ông gặp Nguyễn Hải Thần và Hồ Chí Minh mới ở tù ra. Nguyễn Tường Tam cũng bị giam bốn tháng ở Liễu Châu, được Nguyễn Hải Thần bảo lãnh mới được Trương Phát Khuê thả ra. Nguyễn Tường Tam hoạt động trong Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội, rồi về Côn Minh hoạt động trong hàng ngũ Việt Nam Quốc dân đảng, tá túc với Vũ Hồng Khanh. Tháng 3 năm 1944, tại Liễu Châu, Nguyễn Tường Tam được bầu làm ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội, tức Việt Cách. Giữa năm 1945, Nguyễn Tường Tam trở về Hà Giang cùng quân đội, nhưng rồi lại quay lại Côn Minh và đi Trùng Khánh. Giai đoạn này đã được phản ánh trong tiểu thuyết Giòng sông Thanh Thủy. Theo lệnh của Nhất Linh từ Trung Quốc gửi về, báo Ngày Nay, với Hoàng Đạo, Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí và Nguyễn Tường Bách, lại tục bản, khổ nhỏ, ngày 5 tháng 3 năm 1945 và trở thành cơ quan ngôn luận của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Tháng 5 năm 1945, tại Trùng Khánh, Đại Việt Dân chính đảng sáp nhập với Việt Nam Quốc dân đảng, đồng thời Việt Nam Quốc dân Đảng liên minh với Đại Việt Quốc dân Đảng. Nguyễn Tường Tam làm Bí thư Trưởng của Việt Nam Quốc dân Đảng. Cuối năm 1945, Đại Việt Quốc dân Đảng và Việt Nam Quốc dân Đảng thành lập Mặt trận Quốc dân Đảng. Sau khi quân Tưởng vào Việt Nam, đầu năm 1946 Nguyễn Tường Tam trở về Hà Nội, tổ chức hoạt động đối lập chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, xuất bản báo Việt Nam. Tháng 3 năm 1946, sau khi đàm phán với chính phủ, ông giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao trong Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến. Ông cũng tham gia Quốc hội khóa I đặc cách không qua bầu cử. Nguyễn Tường Tam được cử làm Trưởng đoàn Việt Nam dự Hội nghị trù bị Đà Lạt đàm phán với Pháp, mặc dù trên thực tế Võ Nguyên Giáp là người lãnh đạo phái đoàn. Theo đại tướng Võ Nguyên Giáp, do bất đồng Tam đã không tham gia hầu hết các phiên họp còn theo sử gia David G. Marr Tam là người phát ngôn có năng lực và giúp giải quyết một số tranh cãi về chiến thuật đàm phán trong đoàn. Ông được cử đứng đầu Phái đoàn Việt Nam dự Hội nghị Fontainebleau nhưng cáo bệnh không đi mà rời bỏ Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến, lưu vong sang Trung Quốc tháng 5 năm 1946 và ở lại Hồng Kông cho tới 1951. Sau đó xảy ra sự kiện vụ án phố Ôn Như Hầu, lực lượng công an khám xét các của cơ sở của Việt Nam Quốc dân Đảng và Đại Việt Quốc dân Đảng, bắt giữ nhiều đảng viên hai đảng này, và tịch thu được nhiều vũ khí truyền đơn khẩu hiệu chống chính quyền. Khi Nguyễn Tường Tam rời bỏ chính phủ, chính phủ đã tuyên bố ông đào nhiệm và biển thủ công quỹ, tiền chi phí cho phái đoàn sang Pháp đàm phán. Tuy nhiên, theo sử gia David G. Marr, việc biển thủ công quỹ này khó xảy ra, vì ông khó lòng được giao trách nhiệm giữ tiền của phái đoàn. Năm 1947, Nguyễn Tường Tam cùng Trần Văn Tuyên, Phan Quang Đán, Nguyễn Văn Hợi, Nguyễn Hải Thần, Lưu Đức Trung thành lập Mặt trận Thống nhất Quốc gia Liên hiệp ủng hộ giải pháp Bảo Đại thành lập Quốc gia Việt Nam, chống cả Việt Minh lẫn Pháp, nhưng đến năm 1950 thì mặt trận này giải thể. Năm 1951, ông từ Hồng Kông về nước, mở nhà xuất bản Phượng Giang, tái bản sách của Tự Lực văn đoàn, và tuyên bố không tham gia các hoạt động chính trị nữa. Năm 1953, Nguyễn Tường Tam lên sống tại Đà Lạt. Tuy nhiên trong Quốc dân Đảng vẫn tồn tại phái Nguyễn Tường Tam, cạnh tranh với hai phái khác. Năm 1958, ông rời Đà Lạt về Sài Gòn, ông mở giai phẩm Văn hóa Ngày Nay ở Sài Gòn, phát hành được 11 số thì bị đình bản. Năm 1960 ông thành lập Mặt trận Quốc dân Đoàn kết, ủng hộ cuộc đảo chính của Đại tá Nguyễn Chánh Thi và Trung tá Vương Văn Đông. Đảo chính thất bại, ông bị chính quyền Ngô Đình Diệm giam lỏng tại nhà riêng. Ông bị chính phủ Ngô Đình Diệm gọi ra xử ngày mùng 8 tháng 7 năm 1963. Đêm 7 tháng 7, tại nhà riêng, nghe tin sẽ bị đưa ra tòa xét xử, Nguyễn Tường Tam dùng thuốc độc quyên sinh để phản đối chính quyền độc tài của Ngô Đình Diệm, để lại phát biểu nổi tiếng: Gia đình Vợ ông là bà Phạm Thị Nguyên (1909-1981), quê làng Phượng Dực, Thường Tín, tỉnh Hà Đông (nay thuộc ngoại thành Hà Nội). Tuy là người Tây học, nhưng cuộc hôn nhân này do cha mẹ ông quyết định. Vợ ông trước năm 1945 là chủ hiệu buôn cau khô có tiếng ở Hà Nội mang tên Cẩm Lợi ở số 15 phố Hàng Bè. Bà mất tại Pháp ngày 6 tháng 5 năm 1981. Ông và bà Phạm Thị Nguyên có bảy người con, gồm năm con trai (Nguyễn Tường Việt, Nguyễn Tường Triệu, Nguyễn Tường Thạch, Nguyễn Tường Thiết, Nguyễn Tường Thái) và hai con gái (Nguyễn Kim Thư, Nguyễn Kim Thoa). Nơi an nghỉ Đêm 7 tháng 7 năm 1963, Nhất Linh đã quyên sinh bằng rượu pha thuốc độc. Theo lệnh của nhà cầm quyền lúc bấy giờ, gia đình phải chôn ông gấp tại nghĩa trang chùa Giác Minh ở Gò Vấp, không cho đợi người con cả của ông ở Pháp về dự lễ tang. Năm 1975, Nguyễn Tường Thạch (con trai Nhất Linh) đã hỏa thiêu di cốt của cha, rồi gửi bình tro tại chùa Kim Cương, đường Trần Quang Diệu, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1981, vợ ông sang Pháp đoàn tụ với các con, rồi qua đời và an táng tại đó. Năm 2001, các con của ông quyết định đưa di cốt của cha mẹ và của chị gái lớn là Nguyễn Kim Thư về trong khu mộ của dòng họ Nguyễn Tường tại Hội An (Quảng Nam). Tác phẩm Tiểu thuyết Gánh hàng hoa (cùng Khái Hưng, 1934), 13 chương Đời mưa gió (cùng Khái Hưng, 1934), 3 chương Nắng thu (1934) Đoạn tuyệt (1934-1935), 28 chương Lạnh lùng (1935-1936), 7 chương Đôi bạn (1936-1937), 19 chương Bướm trắng (1938-1939), 9 chương Con đường sáng (cùng Hoàng Đạo, 1940), 19 chương Xóm cầu mới (1949-1957), trường thiên, viết dở dang, 24 chương Giòng sông Thanh Thủy (1960-1961). Trường thiên, tác phẩm cuối cùng, gồm ba tập: Ba người bộ hành (1960), 13 chương Chi bộ hai người (1960), 13 chương Vọng quốc (1961), 12 chương Tập truyện Nho phong (1924) Người quay tơ (1926), 11 truyện Anh phải sống (cùng Khái Hưng, 1932 - 1933), 13 truyện Đi Tây (1935) Tối tăm (1936) Hai buổi chiều vàng (1934-1937), 6 truyện Thế rồi một buổi chiều (1934-1937) Thương chồng (1961), 6 truyện Những ngày diễm áo (1973) Tiểu luận Viết và đọc tiểu thuyết (1952-1961), 5 bài Dịch phẩm Đỉnh gió hú của Emily Bronte (đăng báo 1960, xuất bản 1974) Di cảo Đời làm báo Hội họa Mặc dầu thời gian theo học Trường Mỹ thuật không lâu, Nhất Linh cũng đã để lại một số tranh vẽ trong đó có bức Scène de Marché de rue Indochinois (Cảnh Phố Chợ Đông Dương) vẽ trên lụa thực hiện khoảng 1926-1929. Bức tranh này năm 2010 được hãng Sotheby's bán đấu giá ở Hương Cảng với giá 596.000 Đô la Hồng Kông, tương đương với 75.000 Mỹ kim. Chú thích Xem thêm Tự Lực văn đoàn Báo Phong Hóa Báo Ngày Nay Liên kết ngoài Giòng sông Thanh Thủy - Nhất Linh Nhất Linh, cha tôi - Nguyễn Tường Thiết Tự Lực văn đoàn Nhà văn Việt Nam thời Pháp thuộc Nhà văn Việt Nam thời kỳ 1945–1975 Nhà báo Việt Nam thời kỳ 1945-1975 Tổng biên tập Việt Nam Học sinh trường Bưởi Người Hải Dương Người Quảng Nam Nguyễn Tường Tam Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I Nguyễn Tường Tam Nhà văn Việt Nam Người tự sát ở Việt Nam Chính khách Việt Nam chết do tự sát Nhà văn Việt Nam chết do tự sát Nhà báo Việt Nam chết do tự sát Người tự sát bởi sử dụng chất độc Người họ Nguyễn tại Việt Nam Nhà ngoại giao Việt Nam
25851
https://vi.wikipedia.org/wiki/Video%20Graphics%20Array
Video Graphics Array
Video Graphics Array (VGA) là một bộ điều khiển hiển thị video và tiêu chuẩn đồ họa de facto đi kèm, được giới thiệu lần đầu với dòng máy tính cá nhân IBM PS/2, sau đó trở nên phổ biến trong các máy PC trong vòng ba năm. Thuật ngữ ngày này được dùng để chỉ tiêu chuẩn hiển thị nói trên, hay là đầu nối DB-15 thường thấy, hoặc độ phân giải 640x480 đặc trưng của phần cứng VGA. VGA là tiêu chuẩn đồ họa cuối cùng của IBM mà các phần lớn nhà sản xuất PC tuân thủ, biến nó thành chuẩn chung tối thiểu được cài đặt trong hầu như mọi phần cứng đồ họa PC sau năm 1990. IBM muốn thay thế VGA bởi chuẩn Extended Graphics Array (XGA) nhưng thất bại. Thay vào đó, VGA được mở rộng bởi nhiều nhà sản xuất bên thứ ba, gọi chung là Super VGA (SVGA). Ngày nay hầu hết các video card vẫn cài đặt các chế độ VGA thông thường hoặc sử dụng giao diện VGA. Chuẩn tín hiệu analog của VGA được mở rộng để hỗ trợ các độ phân giải lên tới 2048x1536. Thiết kế phần cứng Phần RAM chứa bảng màu và bộ chuyển đổi DAC tương ứng được tích hợp thành một chip duy nhất, gọi là RAMDAC, còn bộ điều khiển CRT được tích hợp trong chip VGA chính. Ngoài ra VGA chỉ cần thêm VRAM và tinh thể thạch anh. Điều này làm cho thiết kế trở nên tinh giản, thay vì sử dụng nhiều IC rời trên các card đồ họa trước đó. Số lượng linh kiện đủ nhỏ của VGA cho phép IBM tích hợp nó trên bo mạch chủ của PS/2, thay vì cần có một card hiển thị riêng biệt lắp đặt vào khe cắm để kết nối với màn hình. Không giống như các tiêu chuẩn hiển thị trước đó có dạng card hiển thị rời, phiên bản thương mại hóa đầu tiên của VGA là một bộ phận tích hợp trong PS/2, kèm với 256 KB bộ nhớ và một đầu nối mới DE-15 thay cho đầu nối cũ DE-9 sử dụng trong các card trước nó. Sau đó, IBM phát hành phiên bản VGA độc lập, IBM PS/2 Display Adapter, dành cho các máy tính không có sẵn VGA. Khả năng hiển thị VGA hỗ trợ tất cả các chế độ đồ họa mà MDA, CGA, EGA hỗ trợ, cũng như nhiều chế độ mới. Các chế độ đồ họa chuẩn 640x480, với 16 màu hoặc đơn sắc 640x350 hoặc 640x200 với 16 màu hoặc đơn sắc (chế độ tương thích CGA/EGA) 320x200 với 256 màu (chế độ 13h) 320x200 với 4 màu hoặc 16 màu (chế độ tương thích CGA) Các chế độ 640x480 16 màu và 320x200 256 màu cho phép bảng màu được tùy chọn, với mỗi màu được chọn từ một gam 18 bit (262144 màu). Các chế độ khác mặc định sử dụng lệnh và bảng màu tương thích trong EGA/CGA, nhưng vẫn có thể thay đổi bảng màu thông qua các lệnh đặc biệt của VGA. Chế độ đồ họa 640x480 Chế độ 640x480, 16 màu là tiêu chuẩn de facto chung nhỏ nhất của các card đồ họa. Cho đến giữa thập niên 90, các hệ điều hành PC như Windows 95 và OS/2 Warp 3.0 yêu cầu card đồ họa có một chế độ 640x480x16 sử dụng các thông số của VGA về bộ nhớ và thanh ghi. Các độ phân giải hay độ sâu bit thấp hơn, hay các bố trí bộ nhớ và thanh ghi khác sẽ không được hỗ trợ nếu như không có driver. Sau 2000, ngay cả khi tiêu chuẩn VESA cho card đồ họa đã trở nên phổ biến, "chế độ VGA" vẫn là tùy chọn tương thích của các hệ điều hành PC. Các chế độ văn bản chuẩn 80x25, phông 9x16 40x25, phông 9x16 80x43 hay 80x50, phông 8x8 Chi tiết kỹ thuật Không giống các card đồ họa tiền nhiệm sử dụng tín hiệu TTL khi xuất ra màn hình, VGA sử dụng tín hiệu tuơng tự RGB với biên độ điện thế 0,7 V. Với việc sử dụng RAMDAC 18 bit (6 bit cho mỗi màu), tín hiệu này tạo ra một gam 262144 màu, còn được gọi là SRGB. Một số tiêu chuẩn VGA gốc như sau: Đồng hồ pixel chủ 25,175 MHz hay 28,322 MHz Độ phân giải ngang tối đa 640 pixel (chế độ đồ họa) hay 720 pixel (chế độ văn bản) Tối đa 480 đường Tốc độ refresh 60 Hz hoặc 70 Hz Chế độ planar hỗ trợ lên tới 16 màu (4 mặt phẳng) Chế độ chunky hỗ trợ lên tới 256 màu (còn gọi là chế độ 13h) Hỗ trợ cuộn trơn trong phần cứng Mục đích sử dụng thường gặp của một số chế độ chọn lọc 640x400 @ 70 Hz là chế độ đồ họa truyền thống sử dụng để khởi động các máy tính x86 với đồ họa tương thích VGA, còn khởi động trong chế độ văn bản sử dụng 720x400 @ 70 Hz. Tuy nhiên quy ước này dần bị bỏ qua trong những năm gần đây, khi các màn hình BIOS và POST sử dụng các độ phân giải cao hơn, lợi dụng dữ liệu EDID để tự động điều chỉnh theo độ phân giải của màn hình. 640x480 @ 60 Hz là chế độ đồ họa mặc định của các phiên bản Windows từ Windows 2000 trở về trước (thường với 16 màu). Nó vẫn là một tùy chọn trong Windows XP và các phiên bản sau này thông qua tùy chọn boot menu "low resolution video" và trong tùy chọn chế độ tuơng thích của mỗi ứng dụng, mặc dù Windows bây giờ có độ phân giải mặc định là 1024x768 và thường không cho phép chọn bất cứ độ phân giải nào thấp hơn 800x600. Sự cần thiết phải có các chế độ tương thích dự phòng như vậy đã giảm đi đáng kể kể từ thiên niên kỷ mới, khi ngày càng ít màn hình VGA hay adaptor chỉ hiển thị được độ phân giải gốc. 320x200 @ 70 Hz là chế độ thịnh hành nhất trong các game trên PC thời VGA. Đầu nối Đầu nối chuẩn VGA là một đầu nối D-sub 15 chân, ký hiệu là ""HD-15", "DE-15" hoặc "DB-15". Các nhà sản xuất Một số công ty sản xuất các mạch đồ họa tương thích với VGA: ATI: Graphics Solution Plus, Wonder series, Mach series S3 Graphics: S3 911, 911A, 924, 801, 805, 805i, 928, 805p, 928p, S3 Vision series, S3 Trio series Matrox: MAGIC RGB Plantronics: Colorplus Paradise Systems (đã ngừng hoạt động): PEGA 1, PEGA 1a, PEGA 2a Tseng Labs: ET3000, ET4000, ET6000 Cirrus Logic: CL-GD400, CL-GD500 and CL-GD5000 series Trident Microsystems: TVGA 8000 series, TVGA 9000 series, TGUI9000 series IIT NEC Chips and Technologies SiS Tamerack Realtek Oak Technology LSI Hualon Cornerstone Imaging Winbond AMD Western Digital Intergraph Texas Instruments Gemini (đã ngừng hoạt động) Genoa (đã ngừng hoạt động) Tham khảo Đọc thêm Liên kết ngoài VGA pinout and signals descriptions Card đồ họa Phát minh của Hoa Kỳ Tiêu chuẩn hiển thị máy tính
25857
https://vi.wikipedia.org/wiki/Di%20t%C3%ADch%20%E1%BB%9F%20Ninh%20B%C3%ACnh
Di tích ở Ninh Bình
Ninh Bình là một vùng đất cổ nằm ở vị trí cửa ngõ cực nam của tam giác châu thổ sông Hồng và miền Bắc. Vùng đất này còn nhiều dấu tích liên quan trực tiếp đến các nền minh cổ ở Việt Nam như văn hóa Tràng An, văn hóa Hòa Bình, văn hóa Đa Bút, văn hóa Đông Sơn. Nơi đây có cố đô Hoa Lư từng là kinh đô của ba Triều đại nhà Đinh, Tiền Lê và Hậu Lý. Địa bàn hiểm trở ở vùng núi Ninh Bình là căn cứ quân sự của các Triều đại nhà Trần và Tây Sơn. Trong kháng chiến chống ngoại xâm nơi đây có phòng tuyến Tam Điệp, chiến khu Quỳnh Lưu, hành cung Vũ Lâm và là địa bàn trọng yếu của chiến dịch Hà Nam Ninh lịch sử. Những đặc điểm về lịch sử, văn hóa, tự nhiên và con người đã tạo cho vùng đất Ninh Bình một hệ thống các di tích phong phú và đa dạng góp phần phát triển ngành du lịch Ninh Bình. Quần thể danh thắng Tràng An bao gồm rất nhiều di tích với những giá trị nổi bật về thiên nhiên và văn hóa đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới hỗn hợp. Tổng quan Tính đến năm 2020, Ninh Bình có 1.821 di tích, trong đó 447 đền, 343 ngôi chùa, 263 đình, 98 miếu, 51 phủ, 165 nhà thờ công giáo, 255 nhà thờ họ. Trong số đó khoảng 1000 di tích thuộc loại di tích hỗn hợp giữa thắng cảnh, khảo cổ, cách mạng, lịch sử và kiến trúc., Có 3 di tích cấp quốc gia đặc biệt quan trọng là khu du lịch sinh thái Tràng An-Tam Cốc - Bích Động; Cố đô Hoa Lư và Núi Non Nước. Quần thể danh thắng Tràng An là di sản thiên nhiên, văn hóa thế giới. Ngoài các kiến trúc tín ngưỡng tôn giáo, di tích khảo cổ và danh lam thắng cảnh, các di tích ở Ninh Bình nổi bật lên với tín ngưỡng thờ Vua, thờ Thánh, thờ Thần và chiếm số lượng lớn di tích liên quan đến hai Triều đại nhà Đinh - Tiền Lê. Tín ngưỡng thờ Vua: Các di tích ở Ninh Bình nổi bật với việc thờ các vị Vua mà đứng đầu là Vua Đinh Tiên Hoàng với ít nhất 27 nơi thờ và hàng trăm di tích liên quan tập trung ở các huyện Hoa Lư, Nho Quan, Gia Viễn thường nằm ở phía bắc tỉnh (xem bài Quần thể di tích thờ Vua Đinh ở Ninh Bình). Vị Vua thứ hai là Vua Lê Đại Hành với 15 di tích thờ vài chục di tích liên quan nằm ở các huyện Hoa Lư, Thành phố Ninh Bình, Yên Khánh, Yên Mô, Kim Sơn thuộc nửa phía nam tỉnh. Riêng khu vực Tam Điệp thì nổi trội với hệ thống di tích trong phòng tuyến Tam Điệp liên quan hoàng đế Quang Trung. Một vị Vua khác cũng được rất nhiều nơi ở 3 huyện ven biển lập đền thờ là Triệu Việt Vương gắn với tín ngưỡng của người dân lấn biển nơi Vua tự vẫn. Các vua khác như Phùng Hưng, Lý Thái Tông, Trần Thái Tông, cũng được nhiều nơi thờ. Tín ngưỡng thờ Thánh: rất nhiều di tích thờ Đức thánh Nguyễn Minh Không với hơn 40 đền thờ và nhiều chùa phối thờ, Đức Thánh Trần với 12 nơi thờ chính và 30 nơi phối thờ. Các di tích khác thờ các vị tổ nghề. Tín ngưỡng thờ Thần: chủ yếu là các vị thần ở Hoa Lư tứ trấn như thần Thiên Tôn, thần Cao Sơn và thần Quý Minh. Tín ngưỡng thờ Mẫu: Ninh Bình có những di tích quan trọng trong hệ thống tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam là đền Dâu, đền Quán Cháo, phủ Đồi Ngang, đền Cô Đôi, phủ Châu Sơn... Rất nhiều chùa ở Ninh Bình có cấu trúc theo kiểu "tiền Phật hậu Mẫu". Các di tích thời Đinh và liên quan đến thời Đinh Lê chiếm áp đảo với số lượng gần 300 di tích, gồm các di tích liên quan đến kinh đô Hoa Lư, các nhân vật lịch sử thời Đinh - Tiền Lê. Lịch sử - Địa lý Ninh Bình nằm ở vị trí ranh giới 3 khu vực địa lý: Tây Bắc, châu thổ sông Hồng và Bắc Trung Bộ. Phía bắc giáp với Hòa Bình, Hà Nam, phía đông giáp Nam Định qua sông Đáy, phía tây giáp Thanh Hóa, phía đông nam giáp biển (vịnh Bắc Bộ). Trung tâm tỉnh là thành phố Ninh Bình cách thủ đô Hà Nội 93 km về phía nam. Ninh Bình xưa thuộc bộ Quân Ninh, nước Văn Lang. Qua thời thuộc Hán, Lương, vùng đất này thuộc Giao Chỉ, thời thuộc Đường, bắt đầu hình thành Trường Châu. Năm 968, vua Đinh Tiên Hoàng dẹp xong loạn 12 sứ quân lên ngôi hoàng đế đóng đô tại Hoa Lư và đổi tên gọi Trường Châu thành Trường An. Năm 1010, Lý Thái Tổ dời kinh đô về Thăng Long, Ninh Bình nằm trong phủ Trường An, sau đổi là châu Đại Hoàng vào cuối thế kỷ 12. Đời nhà Trần đổi thành lộ, rồi lại đổi thành trấn Thiên Quan. Đời Lê Thái Tông, Ninh Bình sáp nhập vào Thanh Hóa; đời vua Lê Thánh Tông trở thành thủ phủ trấn trấn Sơn Nam xong rồi lại thuộc về Thanh Hóa cho tới đời vua Minh Mạng nhà Nguyễn. Thời nhà Nguyễn, địa bàn Ninh Bình là 2 phủ Trường Yên và Thiên Quan. Năm 1831, Ninh Bình trở thành một trong số 13 tỉnh ở Bắc Kỳ với 6 huyện Yên Khánh, Nho Quan, Kim Sơn, Gia Khánh, Gia Viễn và Yên Mô, thuộc Liên khu 3. Ngày 27 tháng 12 năm 1975, Ninh Bình hợp nhất với các tỉnh Nam Định và Hà Nam thành tỉnh Hà Nam Ninh rồi lại tái lập ngày 12 tháng 8 năm 1991. Ở vị trí điểm mút của cạnh đáy tam giác châu thổ sông Hồng, Ninh Bình bao gồm cả ba loại địa hình. Vùng đồi núi và bán sơn địa ở phía tây bắc có đỉnh Mây Bạc với độ cao 648 m là đỉnh núi cao nhất Ninh Bình. Vùng đồng bằng ven biển ở phía đông nam thuộc 2 huyện Kim Sơn và Yên Khánh. Xen giữa 2 vùng lớn là vùng chiêm trũng chuyển tiếp. Rừng ở Ninh Bình có đủ cả rừng sản xuất và rừng đặc dụng các loại. Có 4 khu rừng đặc dụng gồm rừng Cúc Phương, rừng môi trường Vân Long, rừng văn hóa lịch sử môi trường Hoa Lư và rừng phòng hộ ven biển Kim Sơn. Ninh Bình có bờ biển dài 18 km. Bờ biển Ninh Bình hàng năm được phù sa bồi đắp lấn ra trên 100m. Vùng ven biển và biển Ninh Bình đã được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới. Hiện 2 đảo thuộc Ninh Bình là đảo Cồn Nổi và Cồn Mờ. Văn hóa Ninh Bình nằm ở vùng giao thoa giữa các khu vực: Tây Bắc, đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ. Đặc điểm đó đã tạo ra một nền văn hóa Ninh Bình tương đối năng động, mang đặc trưng khác biệt trên nền tảng văn minh châu thổ sông Hồng. Đây là vùng đất phù sa cổ ven chân núi có con người cư trú từ rất sớm. Các nhà khảo cổ học đã phát hiện trầm tích có xương răng đười ươi và các động vật trên cạn ở núi Ba (Tam Điệp) thuộc nền văn hóa Tràng An sơ kỳ đồ đá cũ; động Người Xưa (Cúc Phương) và một số hang động ở Tam Điệp, Nho Quan có di chỉ cư trú của con người thời văn hoá Hoà Bình. Sau thời kỳ văn hoá Hoà Bình, vùng đồng bằng ven biển Ninh Bình là nơi định cư của con người thời đại đồ đá mới Việt Nam. Di chỉ Đồng Vườn (Yên Mô) đã được định niên đại muộn hơn di chỉ Gò Trũng. Cư dân cổ di chỉ Đồng Vườn đã phát triển lên cư dân cổ di chỉ Mán Bạc (Yên Thành, Yên Mô) ở giai đoạn văn hoá đồ đồng từ cuối Phùng Nguyên đến đầu Đồng Đậu. Vùng đất Ninh Bình là kinh đô Hoa Lư của Việt Nam thế kỷ X, mảnh đất gắn với sự nghiệp của 6 vị vua thuộc ba Triều đại Đinh - Lê – Lý với các dấu ấn lịch sử: Thống nhất giang sơn, đánh Tống - dẹp Chiêm và phát tích quá trình định đô Hà Nội. Do ở vào vị trí chiến lược ra Bắc vào Nam, vùng đất này đã chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử oai hùng của dân tộc mà dấu tích lịch sử còn để lại trong các đình, chùa, đền, miếu, từng ngọn núi, con sông. Đây còn là vùng đất chiến lược để bảo vệ Thăng Long của Triều đại Tây Sơn với phòng tuyến Tam Điệp, là căn cứ để nhà Trần 2 lần chiến thắng giặc Nguyên - Mông với hành cung Vũ Lâm, đất dựng nghiệp của nhà Hậu Trần với đế đô ở Yên Mô... Thế kỷ XVI - XVII, đạo Thiên Chúa được truyền vào Ninh Bình, dần dần hình thành trung tâm Thiên chúa giáo Phát Diệm, nay là giáo phận Phát Diệm đặt tại Kim Sơn với 60% tổng số giáo dân toàn tỉnh. Bên cạnh văn hoá của cư dân Việt cổ, Ninh Bình còn có "văn hoá mới" của cư dân ven biển. Dấu ấn về biển tiến còn in đậm trên đất Ninh Bình. Những địa danh cửa biển như: Phúc Thành, Đại An, Con Mèo Yên Mô, cửa Càn, cửa biển Thần Phù cùng với các con đê lịch sử như đê Hồng Đức, đê Hồng Lĩnh, đê Đường Quan, đê Hồng Ân, đê Hoành Trực, đê Văn Hải, đê Bình Minh I, đê Bình Minh II... Cho đến nay vùng đất Ninh Bình vẫn tiến ra biển mỗi năm gần 100 m. Ninh Bình là một tỉnh mở rộng không gian văn hoá Việt xuống biển Đông, đón nhận các luồng dân cư, các yếu tố văn hoá từ Bắc vào Nam, từ biển vào. Kinh tế biển đóng vai trò quan trọng nổi bật như nghề đánh bắt cá biển, nuôi tôm sú, tôm rảo, nuôi cua... Nếp sống của cư dân lấn biển mang tính chất động trong vùng văn hoá môi trường đất mở. Danh thắng Dãy núi đá vôi ngập nước tạo ra nhiều hang động kỳ thú như: Tam Cốc, Bích Động, động Vân Trình, động Tiên, động Thiên Hà, Tràng An, động Mã Tiên... Bích Động được mệnh danh là "Nam thiên đệ nhị động", Địch Lộng là "Nam thiên đệ tam động". Ở phía nam thành phố Ninh Bình có một quả núi giống hình một người thiếu nữ nằm ngửa nhìn trời gọi là núi Ngọc Mỹ Nhân. Một yếu tố khác vô cùng quan trọng, góp phần không nhỏ làm nên diện mạo đa dạng, phong phú của văn hoá Ninh Bình, đó là sự lưu lại dấu ấn văn hoá của các tao nhân mặc khách khi qua vùng sơn thanh thủy tú này. Các đế vương, công hầu, khanh tướng, danh nhân văn hoá lớn như Trương Hán Siêu, Trần Thái Tông, Lê Thánh Tông, Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Tản Đà, Xuân Quỳnh về đây, xếp gương, đề bút, sông núi hoá thành thi ca. Nhân cách bác học và phẩm cách văn hoá lớn của các danh nhân đó đã thấm đẫm vào tầng văn hoá địa phương, được nhân dân tiếp thụ, sáng tạo, làm giàu thêm sắc thái văn hoá Ninh Bình. Danh nhân Vùng đất Ninh Bình còn là quê hương của nhiều danh nhân đất Việt tiêu biểu như: Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn, Trương Hán Siêu, Lý Quốc Sư, Vũ Duy Thanh, Lương Văn Tụy, Ninh Tốn, Nguyễn Bặc, Đinh Điền... Hệ thống các di tích lịch sử - văn hóa ở Ninh Bình gắn liền với tín ngưỡng của vùng đất sinh Vua, sinh Thánh, sinh Thần thông qua các đền thờ Vua (đặc biệt là các Vua Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Trần Thái Tông, Quang Trung và Triệu Quang Phục với số lượng vài chục đền thờ mỗi vị); thờ Thánh (Nguyễn Minh Không và các tổ nghề); thờ Thần (phổ biến là các vị thần Thiên Tôn, thần Cao Sơn và thần Quý Minh trong không gian văn hóa Hoa Lư tứ trấn). Một số di tích tiêu biểu Di tích lịch sử văn hóa Khu di tích lịch sử văn hoá Cố đô Hoa Lư được công nhận là di tích quốc gia đặc biệt quan trọng với 47 di tích trong đó nổi bật là: Đền Vua Đinh Tiên Hoàng, lăng mộ Vua Đinh, đền thờ và lăng mộ Vua Lê Đại Hành, nhà bia tưởng niệm Vua Lý Thái Tổ, đền thờ Công chúa Phất Kim, đền thờ thần Quý Minh, phủ Khống, phủ Đột, động Hoa Lư, núi Mã Yên, bia Câu Dền, sông Sào Khê, phủ Đông Vương, phủ Vườn Thiên, hệ thống chùa cổ Hoa Lư... Khu di tích lịch sử phòng tuyến Tam Điệp gắn liền với Triều đại Tây Sơn có các địa danh đèo Ba Dội, Kẽm Đó, lũy Quang Trung, núi Cắm Gươm, núi Cắm Cờ, núi Chong Đèn, núi Hầu Vua, Vương Ngự, đền Dâu, đền Quán Cháo, luỹ Quèn Thờ, đền Quèn Thờ, động Trà Tu, hồ Yên Thắng, hồ Mừng, hồ Đoòng Đèn. Hệ thống các di tích thờ Vua Đinh Tiên Hoàng ở Nho Quan, Gia Viễn, Hoa Lư nằm ở phía bắc tỉnh, gắn với các giai thoại tuổi thơ và sự nghiệp lên ngôi, lập đô kinh đô Hoa Lư của Vua. Hệ thống các đền thờ Vua Lê Đại Hành ở Hoa Lư, Thành phố Ninh Bình, Yên Mô, Kim Sơn phía nam tỉnh, gắn với sự kiện lập đô và những dòng sông nơi Vua đánh giặc đi qua. Hệ thống các đền thờ Vua Triệu Quang Phục ở Yên Khánh, Kim Sơn, Yên Mô gắn với sự kiện Vua tự vẫn ở cửa biển những vẫn hiển linh giúp đỡ nhân dân. Hệ thống các đền thờ danh nhân khác: Nguyễn Công Trứ, đền Thái Vi, cửa Thần Phù, v.v. Di tích quốc gia đặc biệt Núi Non Nước với đền thờ Trương Hán Siêu, chùa Non Nước, núi Non Nước là tổ hợp di tích lịch sử và thắng cảnh tiêu biểu của thành phố Ninh Bình. Di tích lịch sử cách mạng: Khu căn cứ cách mạng Quỳnh Lưu, di tích chiến dịch Hà Nam Ninh, hành cung Vũ Lâm.v.v. Di tích kiến trúc nghệ thuật Đền Vua Đinh Tiên Hoàng và Đền Vua Lê Đại Hành là những công trình kiến trúc nổi tiếng với nghệ thuật trạm khắc đá. Khu văn hóa tâm linh núi chùa Bái Đính mới với 5 toà lớn hội tụ nhiều kỷ lục châu Á và Việt Nam dọc theo sườn núi. Quần thể nhà thờ Phát Diệm với 9 nhà thờ có kiến trúc độc đáo kết hợp hài hoà giữa truyền thống và hiện đại được ví như kinh đô công giáo của Việt Nam, là kỳ quan thiên chúa giáo hấp dẫn ở Ninh Bình. Di tích tâm linh nho giáo: chùa Bích Động, chùa Nhất Trụ, chùa Đồng Đắc, chùa Địch Lộng, chùa Bàn Long, chùa Bái Đính, chùa Kim Ngân, chùa Duyên Ninh, chùa Non Nước v.v. Quần thể kiến trúc nhà cổ Cố Viên Lầu với nhiều ngôi nhà cổ đặc trưng ở đồng bằng Bắc Bộ. Di tích thắng cảnh Khu du lịch Tam Cốc - Bích Động với nhiều tuyến du thuyền trên sông và các điểm hang động, di tích lịch sử như Tam Cốc, chùa Bích Động, đền Thái Vi, động Thiên Hà... Khu du lịch sinh thái Tràng An với hệ thống rừng đặc dụng trên núi đá vôi, các hang động và hệ thống hồ, đầm. Các ngọn núi, hang động đẹp: núi Ngọc Mỹ Nhân, núi Non Nước, núi Kỳ Lân, động Địch Lộng, động Vân Trình, động Thiên Hà, động Nham Hao, động Thiên Thanh, động Mã Tiên, động Bích Động, động Tam Giao, động Vái Giời, động Tiên Cá, động Trà Tu, động Thiên Tôn, động Tiên, hang Sinh Dược, hang Múa... Các di tích khảo cổ Ninh Bình là địa bàn có nhiều di tích khảo cổ học thuộc các thời kỳ văn hóa Tràng An, Hòa Bình, Bắc Sơn, Đa Bút và Đông Sơn: Di chỉ núi Ba (Bắc Sơn - Tam Điệp) là nơi xuất lộ những khối trầm tích cổ sinh cách đây khoảng 30.000 năm thuộc nền văn hóa Tràng An cùng một số hang động có dấu ấn của cư dân văn hóa Hòa Bình cách ngày nay trên dưới 10.000 năm. Di chỉ Thung Lang (Nam Sơn - Tam Điệp) tại đây đã tìm thấy răng người Homo Erectus cách đây khoảng 30.000 năm thuộc nền văn hóa Tràng An cùng một số dấu ấn cho thấy có sự xuất hiện của cư dân văn hóa Hòa Bình cách đây trên dưới 10.000 năm. Di chỉ hang Đắng hay còn gọi là động Người Xưa thuộc vườn quốc gia Cúc Phương nơi đây là một di chỉ cư trú thuộc giai đoạn văn hóa Hòa Bình cách đây từ 7.000 đến 8.000 năm. Di chỉ hang Đáo (Đông Sơn - Tam Điệp) nơi đây có tìm thấy những công cụ đồ đá của cư dân văn hóa Hòa Bình. Di chỉ hang Yên Ngựa (Trung Sơn - Tam Điệp) xuất lộ dấu ấn cư dân văn hóa Hòa Bình. Di chỉ động Mã Tiên xuất lộ tầng vỏ nhuyễn thể cùng công cụ cuội thuộc Văn hóa Hòa Bình. Di chỉ hang Bói thuộc khu hang động Tràng An nằm giáp ranh giữa hai xã Trường Yên và Gia Sinh nơi đây có dấu ấn của cư dân cổ văn hóa Tràng An sống cách đây từ 5.000 năm đến 30.000 năm. Di chỉ hang Bụt, động Nham Hao (Lạc Vân - Nho Quan) là địa điểm cư trú của con người cổ sống cách đây từ 2.000 đến 10.000 năm. Di chỉ hang Dẹ (Nam Sơn - Tam Điệp) có dấu ấn của cư dân văn hóa Hòa Bình ở giai đoạn sớm trên 10.000 năm. Di chỉ núi hang Sáo (Quang Sơn - Tam Điệp) với nhiều hang động và mái đá có dấu ấn của cư dân văn hóa Hòa Bình và cư dân văn hóa Đa Bút sống cách ngày nay từ 5.000 đến 10.000 năm. Di chỉ Mái đá Thung Bình (Gia Sinh - Gia Viễn) xuất lộ dấu tích cư dân văn hóa Hòa Bình. Cụm di chỉ hang Ốc; Núi Ốp (Yên Sơn - Tam Điệp) xuất lộ dấu ấn cư dân văn hóa Đa Bút và cư dân văn hóa Đông Sơn. Cụm di chỉ hang Mo; hang Cò; hang Trâu; hang Hũ Ngoài; hang Hũ Trong; mái đá Thung Bình (hang động Tràng An) có dấu ấn văn hóa Hòa Bình, văn hóa Tràng An và văn hóa Đa Bút. Di chỉ hang Khỉ (Đông Sơn - Tam Điệp) xuất lộ một số mảnh gốm cùng vỏ nhuyễn thể trên bề mặt nơi đây có dấu ấn văn hóa Đa Bút. Di chỉ Đồng Vườn (Yên Thành - Yên Mô) là một di chỉ thuộc thời đại văn hóa Đa Bút. Đây là di chỉ cư trú ngoài trời ở Ninh Bình. Di tích hang Chợ Ghềnh hay còn gọi là hang Núi Một (Bắc Sơn - Tam Điệp) thuộc nền văn hóa Đông Sơn cách đây từ 2.000 đến 3.000 năm. Di chỉ núi Hai (Bắc Sơn - Tam Điệp) xuất lộ rất nhiều gốm và xương động vật thuộc nền văn hóa Đông Sơn cách đây khoảng 3.000 năm. Di chỉ Mán Bạc (Yên Thành - Yên Mô) là một làng của người cổ sống cách đây từ 3.000 đến 4.000 năm thuộc nền văn hóa Phùng Nguyên. Nơi đây con lưu giữ được nhiều di cốt của tiền nhân còn nguyên vẹn được các nhà nhân chủng học hết sức chú ý. Di chỉ mái đá Hang Chợ (Ninh Hải - Hoa Lư) thuộc quần thể hang động Tràng An có tầng văn hóa Hòa Bình cách đây trên 10.000 năm. Danh sách di tích Di sản thế giới Quần thể danh thắng Tràng An là một địa danh du lịch tổng hợp gồm các di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới đã được UNESCO công nhận ở Ninh Bình, Việt Nam. Nhiều di tích danh thắng nơi đây đã được Chính phủ Việt Nam xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt quan trọng như Khu du lịch sinh thái Tràng An, khu du lịch Tam Cốc - Bích Động, chùa Bái Đính, cố đô Hoa Lư... Liên kết giữa các khu du lịch này là khu rừng đặc dụng Hoa Lư trên núi đá vôi và hệ thống sông, hồ, đầm với diện tích khoảng 12.000 ha. Quần thể danh thắng Tràng An nằm ở khu vực ranh giới giữa huyện Hoa Lư với các huyện Gia Viễn, Nho Quan, thành phố Tam Điệp và thành phố Ninh Bình. Về mặt hành chính, Tràng An nằm trên 12 xã: Trường Yên, Ninh Hải, Ninh Hòa, Ninh Xuân, Ninh Vân (Hoa Lư); Ninh Nhất, phường Tân Thành (Tp Ninh Bình); Gia Sinh (Gia Viễn); Yên Bình, Yên Sơn (Tam Điệp) và Sơn Hà, Sơn Lai, (Nho Quan) nhưng Tràng An không bao trùm hoàn toàn lên 1 xã nào. Vùng lõi Tràng An có diện tích hơn 4.000 ha, là vùng bảo vệ đặc biệt của danh thắng. Vùng bảo vệ đặc biệt này nằm trọn trong quy hoạch khu du lịch Tràng An với diện tích 12.000 ha. Quần thể danh thắng Tràng An nằm gần các Quốc lộ 1, QL38B, QL12B và trong tứ giác nước được giới hạn bởi các sông: sông Hoàng Long ở phía Bắc; sông Chanh ở phía Đông; sông Hệ ở phía Nam và sông Bến Đang ở phía Tây. Di tích quốc gia đặc biệt Ninh Bình có 3 di tích được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt, bao gồm: Danh lam, thắng cảnh Tràng An - Tam Cốc - Bích Động: nằm trải rộng trên địa bàn nhiều xã thuộc Hoa Lư, Gia Viễn và Thành phố Ninh Bình. Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Cố đô Hoa Lư: gồm 47 di tích thuộc xã Trường Yên, huyện Hoa Lư. Di tích lịch sử và danh lam, thắng cảnh núi Non Nước: gồm núi Non Nước, Chùa Non Nước và đền Trương Hán Siêu Di tích cấp quốc gia Dưới đây là danh sách các di tích được xếp hạng cấp quốc gia, bao gồm cả các di tích thuộc Quần thể di sản thế giới Tràng An: Di tích cấp tỉnh Ninh Bình hiện có 279 di tích cấp tỉnh. Dưới đây là danh sách chưa đầy đủ các di tích cấp tỉnh ở Ninh Bình: Các chùa ở Ninh Bình Hoa Lư - Ninh Bình là kinh đô của Việt Nam dưới thời nhà Đinh (968-980) và nhà Tiền Lê (980-1009). Sau khi đã là kinh đô, Hoa Lư dần trở thành trung tâm Phật giáo. Theo các thư tịch và dấu vết còn sót lại, vào thế kỷ 10, tại đây đã có khá nhiều chùa tháp. Theo chính sử, Vua Đinh Tiên Hoàng là người đầu tiên đặt chức tăng thống Phật giáo trong lịch sử mà quốc sư đầu tiên của Việt Nam là Khuông Việt. Ninh Bình cũng là quê hương của quốc sư triều Lý Nguyễn Minh Không, ông đã sáng lập ra ở quê hương mình khá nhiều chùa tháp như: chùa Bái Đính, chùa Địch Lộng, động chùa Am Tiên, chùa Non Nước... Ở Việt Nam có 3 chùa động được mệnh danh là "Nam thiên đệ nhất động" là chùa Hương, chùa Bích Động, chùa Địch Lộng thì 2 trong số đó nằm ở Ninh Bình. Điều độc đáo ở đây là có khá nhiều chùa được xây dựng trong các hang núi đá vôi, dựa vào núi đá hoặc tận dụng hẳn núi đá làm chùa mà tiêu biểu là các động chùa: Hoa Sơn, Thiên Tôn, Bích Động, Địch Lộng, Bái Đính, Linh Cốc… Tổng quan Tỉnh Ninh Bình hiện có 343 ngôi chùa, phân bố như sau: Yên Mô: 66 chùa, Yên Khánh: 55 chùa, Gia Viễn: 50 chùa, Hoa Lư: 57 chùa, Nho Quan: 49 chùa, thành phố Ninh Bình 42 chùa, Kim Sơn: 17 chùa, Tam Điệp: 8 chùa. Chỉ riêng trên địa bàn xã Trường Yên, Hoa Lư hiện có 8 ngôi chùa cổ thuộc cố đô Hoa Lư là chùa Nhất Trụ, chùa Kim Ngân, chùa Duyên Ninh, chùa Am Tiên, chùa Cổ Am, chùa Bà Ngô, chùa Am Thong Bái, chùa Bi Yên Hạ đều được xếp hạng di tích. Về niên đại xây dựng, chủ yếu các chùa thuộc vùng cố đô Hoa Lư được xây dựng từ thời Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành; rất nhiều chùa được xây dựng thời Trần và Hậu Lê. Một số chùa nổi tiếng như: Chùa Bái Đính là chùa lớn nhất Ninh Bình đồng thời cũng là chùa lớn nhất Việt Nam. Chùa Bích Động được mệnh danh là "Nam thiên đệ nhị động" Chùa Địch Lộng được mệnh danh là "Nam thiên đệ tam động" Chùa Duyên Ninh là ngôi chùa cầu duyên được xếp vào danh sách 4 đền, chùa cầu duyên linh thiêng nổi tiếng Việt Nam Chùa Nhất Trụ là ngôi chùa cổ kính nằm trong quần thể di tích cố đô Hoa Lư. Một số chùa tiêu biểu Chùa Bích Động: Chùa Bích Động là một ngôi chùa cổ được xây dựng trên dãy núi đá vôi Trường Yên thuộc xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư tỉnh Ninh Bình. Đây là một di tích lịch sử văn hóa thuộc khu du lịch quốc gia là Tam Cốc - Bích Động. Chùa Bích Động nguyên có tên "Bạch Ngọc Thanh Sơn Đồng"- Mang ý nghĩa một ngôi chùa bằng đá đẹp và trong trắng như ngọc ở chốn thâm sơn cùng cốc. Đây là một kiểu động làm chùa phổ biến ở Ninh Bình, động Bích Động là một trong những thắng cảnh nổi tiếng được mệnh danh là "Nam Thiên đệ nhị động", có nghĩa là động đẹp thứ nhì của trời Nam sau động Hương Tích. Chùa gồm có 3 toà: Hạ, Trung và Thượng Chùa Bái Đính: Chùa Bái Đính là một quần thể chùa gắn với nhiều danh nhân Việt Nam như Lý Quốc Sư, Đinh Bộ Lĩnh và Quang Trung. Khu chùa Bái Đính mới được xây dựng tại đồi Ba Rau, gần chùa Bái Đính cổ, đây là khu chùa lớn nhất Đông Nam Á Đây cũng là một dự án lớn để chào mừng kỷ niệm 1000 năm Hoa Lư – Thăng Long – Hà Nội. Chùa Địch Lộng: Chùa Địch Lộng nằm trên núi Kẽm Trống, thuộc xã Gia Thanh, Gia Viễn. Chùa ở lưng chừng núi Địch Lộng, có hang động đẹp nên được mệnh danh là "Nam thiên đệ tam động". Chùa Địch Lộng hàng năm đều tổ chức lễ hội vào thời gian từ ngày 6 đến 10 tháng giêng Âm lịch, kéo dài đến hết tháng 3. Chùa Đồng Đắc: Chùa Đồng Đắc thuộc xã Đồng Hướng, huyện Kim Sơn. Là chùa lớn nhất ở vùng công giáo huyện Kim Sơn.. Kiến trúc tôn giáo sớm nhất ở Kim Sơn là chùa Đồng Đắc, nó có trước quần thể kiến trúc nhà thờ đá Phát Diệm mấy chục năm. Chùa Đồng Đắc kiến trúc theo kiểu chữ Đinh, phần ngang là tiền đường, phần dọc là chính điện. Chùa Nhất Trụ: Chùa Nhất Trụ (Còn gọi là chùa Một Cột) là ngôi chùa cổ thuộc khu di tích Cố đô Hoa Lư. Chùa có tên như vậy là do trước chùa có một cột đá cao hơn 3 m, có 8 mặt, trên các mặt khắc bài thần chú trong Kinh Lăng Nghiêm và một số bài kệ. Cột đá này được dựng khoảng năm 995. Trên cột đá còn thấy các chữ "Đệ tử Thăng Bình hoàng đế tả tạo". (Hoàng đế Thăng Bình tức vua Lê Hoàn). Chùa Bà Ngô: Chùa Bà Ngô được xây từ thời nhà Đinh. Nằm bên phải bờ sông Hoàng Long thuộc khu vực ngoại vi thành Hoa Lư xưa. Tấm bia đá dựng ở chùa, niên đại 1877 có đoạn: "Chùa Bà Ngô trong ấp ta là một danh lam của đô cũ Đại Việt trước. Vốn là một danh thắng nhưng do thế đại chuyển dời, phong quang thay đổi, am ngọc quạnh quẽ dưới ánh dương tà, chùa báu điêu tàn trơ trọi trong ánh trăng đêm". Tương truyền là nơi hoàng hậu mẹ Ngô Nhật Khánh tu hành. Trong chùa có bức đại tự thời Nguyễn ghi 3 chữ Bà Sa tự. Theo từ điển Hán Việt, Sa có nghĩa là nhiều khổ não. Chùa Bà Ngô ở thế kỷ thứ X chính là nơi tiến hành nghi thức sám hối, rửa sạch mọi tội lỗi nghiệp chướng trần gian. Tại đây còn khai quật được ngôi mộ cổ thời Hán – Đường. Khi khai quật khảo cổ học khu cố đô Hoa Lư, các nhà khảo cổ đã tìm thấy khu mộ Hán cạnh chùa Bà Ngô bên dòng sông Hoàng Long. Đây là cơ sở nêu lên một nhận định nơi đây hẳn là trụ sở của Trường Châu thời nhà Đường, vì theo sách Đất nước Việt Nam qua các đời của Đào Duy Anh thì đất Ninh Bình thời Đường thuộc về Trường Châu; còn ở Thăng Long Hà Nội vốn là thành Đại La do Cao Biền xây đúng như sử sách ghi chép. Chùa Duyên Ninh: Chùa Duyên Ninh là ngôi chùa cổ được hình thành dưới thời Đinh Tiên Hoàng. Chùa hiện nằm ở thôn Chi Phong, xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, trên đường nối Tràng An tới chùa Bái Đính. Nơi đây xưa thuộc thành Tây kinh đô Hoa Lư. Tương truyền, Chùa Duyên Ninh xưa là nơi vui chơi của các công chúa, nơi đây Lý Thái Tổ và công chúa Lê Thị Phất Ngân đã thề hẹn ở đó mà sinh ra Lý Thái Tông. Sau khi kinh đô được dời về Thăng Long, Hoàng hậu Lê Thị thường lui về đây để tác hợp cho các đôi lứa nên duyên. Từ đó chùa Duyên Ninh trở thành ngôi chùa cầu duyên ở Hoa Lư. Nhà thờ công giáo ở Ninh Bình Địa bàn Ninh Bình thuộc Giáo phận Phát Diệm, vốn là một giáo phận Công giáo Rôma tại Việt Nam. Đây là giáo phận đầu tiên ở Việt Nam được ủy thác cho hàng giáo sĩ Việt Nam cai quản thay cho các giáo sĩ truyền giáo ngoại quốc, vì thế mà nơi đây được ví như "kinh đô của Công giáo" ở Việt Nam.. Địa giới giáo phận Phát Diệm rộng 1.787 km². Năm 2004, giáo phận Phát Diệm có khoảng 144.721 giáo dân (15,9% dân số), 31 linh mục và 76 giáo xứ. Nhà thờ Đức mẹ Mân Côi (còn gọi là nhà thờ đá Phát Diệm) ở thị trấn Phát Diệm, huyện Kim Sơn tỉnh (Ninh Bình) được chỉ định làm nhà thờ chính tòa của giáo phận. Mặc dù giáo phận Phát Diệm nằm trên diện tích rộng 1.787 km², bao gồm toàn bộ tỉnh Ninh Bình và vùng phía nam tỉnh Hòa Bình nhưng mật độ giáo dân lại tập trung nhiều ở huyện Kim Sơn với 80.000 giáo dân và 32 giáo xứ, chiếm 55% tổng số giáo dân của giáo phận mặc dù diện tích chỉ chiếm 11,6% tổng diện tích giáo phận. Do đó, các nhà thờ công giáo ở Ninh Bình tập trung dày đặc ở huyện Kim Sơn. Bảo tồn di tích Hoạt động tu bổ Lễ hội Ninh Bình Ninh Bình là vùng đất phong phú các lễ hội văn hóa đặc sắc như Lễ hội cố đô Hoa Lư, lễ hội chùa Bái Đính, lễ hội đền Nguyễn Công Trứ, lễ hội đền Thái Vi... Các lễ hội khác: Lễ hội Báo bản làng Nộn Khê, lễ hội Yên Cư, hội thôn Tập Minh, lễ hội động Hoa Lư, đền Thánh Nguyễn, đền Dâu, hội vật Yên Vệ, lễ hội đền Trần Ninh Bình... Ninh Bình là đất tổ của nghệ thuật hát Chèo, là quê hương các làn điệu hát xẩm, ca trù và của nhiều làng nghề truyền thống như nghề điêu khắc đá Ninh Vân - Hệ Dưỡng, Xuân Vũ, nghề mộc Phúc Lộc, nghề thêu ren Văn Lâm, nghề chiếu cói ở Kim Sơn... Theo thống kê, Ninh Bình có 443 lễ hội truyền thống, trong đó quản lý cấp tỉnh 2 lễ hội, cấp huyện 13 lễ hội, cấp xã 428 lễ hội. Các lễ hội văn hóa ở Ninh Bình chủ yếu diễn ra ở mùa xuân, trừ số ít các lễ hội tưởng niệm ngày mất của các vị danh nhân. Lễ hội chùa Bái Đính (Gia Viễn): bắt đầu chiều ngày mùng 1 tết âm lịch, khai hội ngày mùng 6 tháng 1 đến hết tháng 3 âm lịch hàng năm, phần lễ tổ chức dâng hương, tưởng nhớ các vị danh nhân như Lý Quốc Sư, Đinh Bộ Lĩnh, thần Cao Sơn, bà chúa Thượng Ngàn và tín ngưỡng thờ Phật. Phần hội diễn ra sôi động với các trò chơi dân gian. Lễ hội đình Vật ở làng Bồ Vi là lễ hội đấu vật lớn nhất ở Ninh Bình, diễn ra tại thị trấn Yên Thịnh, Yên Mô vào ngày 4 tết hàng năm. Lễ hội làng Bồ Vi suy tôn đức thánh Nguyễn và tinh thần thượng võ của người dân Yên Mô. Lễ hội làng Yên Vệ cũng có hội thi đấu vật, diễn ra ngày mùng 4 tết âm lịch ở làng Yên Vệ xã Khánh Phú, Yên Khánh tại đền Thượng thờ Nguyễn Minh Không và chùa Phúc Long. Lễ hội làng Ngọc Lâm được tổ chức vào ngày mùng 5 tết hàng năm tại làng Ngọc Lâm, xã Yên Lâm, huyện Yên Mô. Lễ hội đền Áp Lãng - cửa Thần Phù diễn ra ngày 6 tết âm lịch tại xã Yên Lâm, Yên Mô. Lễ hạ cây nêu của cộng đồng người Mường xã Cúc Phương, Nho Quan diễn ra vào ngày mùng 7 tháng giêng hàng năm. Lễ hội đền thờ họ Trương Việt Nam diễn ra vào ngày 9 tháng giêng hàng năm. Lễ hội đền Năn - chùa Quảng Thượng - đền núi Hầu diễn ra vào ngày mồng 10 tháng giêng hàng năm ở làng Quảng Thượng, xã Yên Thắng, Yên Mô suy tôn các vị tướng thời Hùng Vương. Lễ hội đình Hàng Tổng - chợ Xanh diễn ra ngày 10 tháng giêng hàng năm tại xã Khánh Thiện, Yên Khánh. Lễ hội động Hoa Lư tổ chức tại 4 địa điểm: Đình Trai, chùa Hưng Quốc, động Thung Lau, đền Thung Lá đều thuộc xã Gia Hưng, Gia Viễn; diễn ra từ ngày 10 đến ngày 13 tháng giêng để tri ân Đinh Tiên Hoàng Đế, Thái hậu Dương Vân Nga, Quốc sư Nguyễn Minh Không. Lễ hội báo bản làng Nộn Khê: vào hai ngày 13, 14 tháng giêng hằng năm tại xã Yên Từ, Yên Mô. Lễ hội đền Hậu Trần: Diễn ra từ ngày 13 đến 15 tháng giêng ở thôn La Phù, xã Yên Thành, Yên Mô, tưởng nhớ hai vị Vua thời Hậu Trần là Giản Định Đế và Trùng Quang Đế. Lễ hội đình Mống Lá diễn ra 15 tháng giêng hàng năm tại đình, chùa Mống Lá xã Yên Quang, Nho Quan. Lễ hội đền Dâu: là lễ hội lớn ở Tam Điệp, diễn ra 15 tháng giêng đến hết tháng 3 âm lịch hàng năm tại phường Nam Sơn, thành phố Tam Điệp. Lễ hội đình Phúc Lộc ngày 9-11 tháng 2 âm lịch tại làng nghề mộc Phúc Lộc, Ninh Phong, thành phố Ninh Bình. Lễ hội phủ Đồi Ngang tổ chức từ ngày 10 đến ngày 20 tháng 2 âm lịch tại xã Phú Long. Lễ hội làng Xuân Vũ ngày 12 tháng 2 âm lịch hàng năm tại xã Ninh Vân, huyện Hoa Lư. Lễ hội đền Sầy tổ chức vào 12 tháng 2 âm lịch tại xã Sơn Thành. Lễ hội chùa Dầu vào ngày 29 tháng 2 âm lịch trong 3 ngày ở các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu tại xã Khánh Hòa, Yên Khánh. Lễ hội đền Thượng Thái Sơn ngày 3 tháng 3 âm lịch suy tôn công chúa Nhồi Hoa và truyền thống tốt đẹp hai dân tộc Việt - Lào tại xã Sơn Lai, Nho Quan. Lễ hội chùa Địch Lộng (Gia Viễn): ngày 6 và 7 tháng 3 âm lịch. Phần lễ có dâng hương lễ phật như ở các chùa khác, phần hội thường tổ chức các trò chơi dân gian, múa rồng, cờ tướng, viết chữ nho. Lễ hội Hoa Lư (huyện Hoa Lư): thường diễn ra vào các ngày 6, 7, 8, 9, 10 tháng 3 âm lịch tại quảng trường lễ hội cố đô Hoa Lư. Lễ hội đền Thánh Nguyễn từ ngày 8 đến ngày 10 tháng 3 âm lịch tại di tích đền đức Thánh Nguyễn, thuộc địa bàn hai xã Gia Thắng và Gia Tiến, huyện Gia Viễn. Lễ hội tôn vinh Lý Quốc Sư Nguyễn Minh Không. Lễ hội đền Quảng Phúc: từ ngày 10 đến 15/3 âm lịch tại thôn Quảng Phúc, xã Yên Phong, Yên Mô tưởng nhớ các vị thần Cao Sơn, thần Quý Minh. Lễ hội làng Khương Dụ diễn ra từ ngày 10 ngày 12 tháng 3 âm lich hàng năm tại xã Yên Phong, huyện Yên Mô. Lễ hội đền Thái Vi (Hoa Lư): từ ngày 14 đến ngày 16/3 âm lịch để tưởng nhớ công lao của các vị vua Trần. Lễ hội Tràng An và Lễ hội đền Trần (Tràng An - Thành phố Ninh Bình) suy tôn thần Quý Minh trấn cửa ngõ phía nam kinh đô Hoa Lư diễn ra ngày 18/3 âm lịch hàng năm. Lễ hội Kỳ Phúc (hay Hội làng Hà Thanh) diễn ra từ 16 đến 18 tháng 3 âm lịch tại làng Hà Thanh, xã Yên Nhân, huyện Yên Mô. Lễ hội Yên Cư: Thường tổ chức vào 20 tháng 8 hàng năm ở xã Khánh Cư, huyện Yên Khánh, nơi thờ Trần Hưng Đạo cùng các quận chúa. Phần lễ có lễ rước kiệu qua sông Đáy tới làng Phú Hào. Lễ hội đình Tân Phong (xã Lạng Phong) tổ chức vào rằm tháng giêng và 22 tháng 8 âm lịch hàng năm. Lễ hội đình Voi đá Ngựa đá diễn ra vào ngày 12/10 âm lịch tại phường Ninh Khánh, thành phố Ninh Bình. Lễ hội phủ Châu Sơn: Diễn ra vào ngày 12 tháng 11 âm lịch hàng năm tại xã Phú Sơn, huyện Nho Quan nhằm tưởng nhớ Sơn Tinh công chúa giáng sinh xuống đất Ninh Bình ngày nay học đạo phép để giúp dân. Lễ hội đền Nguyễn Công Trứ (Kim Sơn): từ 13 đến 15 tháng 11 âm lịch. Lễ hội tưởng nhớ công lao người đã chiêu dân khai sinh ra huyện Kim Sơn. Lễ hội Giáng sinh trung tâm giáo phận Phát Diệm diễn ra vào 25/12 dương lịch hàng năm tại nhà thờ Phát Diệm, là nhà thờ chính tòa của giáo phận Phát Diệm bao trùm địa bàn tỉnh Ninh Bình. Lễ hội Đầu Xuân (xã Kỳ Phú) tổ chức từ 27-12 đến 7-1 âm lịch. Xem thêm Du lịch Ninh Bình Cố đô Hoa Lư Quần thể danh thắng Tràng An Chùa Bái Đính Liên kết ngoài Ninh Bình công nhận thêm 12 Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh Lên núi Bái Đính, xem chùa lớn nhất nước Nam Ghi chú Văn hóa Ninh Bình Di tích tại Ninh Bình
25861
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%93i
Đại hồi
Cây đại hồi hay đại hồi hương hoặc bát giác hồi hương hoặc đơn giản chỉ là cây hồi hay tai vị hoặc hoa hồi, danh pháp khoa học Illicium verum, (tiếng Trung: 八角, pinyin: bājiǎo, có nghĩa là "tám cánh") là một loài cây gia vị có mùi thơm tương tự như cây tiểu hồi, thu được từ vỏ quả hình sao của Illicium verum, một loại cây xanh quanh năm có nguồn gốc ở Trung Quốc và đông bắc Việt Nam. Các quả hình sao được thu hoạch ngay trước khi chín. Nó được sử dụng rộng rãi trong ẩm thực Trung Hoa và ở mức độ ít hơn ở vùng Đông Nam Á và Indonesia. Đại hồi là một thành phần của ngũ vị hương truyền thống trong cách nấu ăn của người Trung Quốc. Nó cũng là một thành phần được sử dụng trong nấu nước dùng cho món phở của người Việt Nam. Đại hồi chứa anethol (C10H12O), cùng thành phần tương tự để tạo ra mùi vị như cây tiểu hồi vốn không có quan hệ họ hàng gì. Gần đây, đại hồi được người phương Tây sử dụng như là chất thay thế rẻ tiền hơn cho tiểu hồi trong việc nướng bánh cũng như trong sản xuất rượu mùi. Đại hồi cũng được sử dụng trong trà như là liệu pháp chữa đau bụng và thấp khớp, và các hạt của nó đôi khi cũng được nhai sau bữa ăn để giúp tiêu hóa. Tây y dùng hồi làm thuốc trung tiện, giúp tiêu hóa, lợi sữa, làm dịu đau, dịu co bóp, được dùng trong đau dạ dày, đau ruột và những trường hợp dạ dày và ruột co bóp quá mạnh. Ngoài ra, nó còn được dùng làm rượu mùi, làm thơm thuốc đánh răng. Tuy nhiên, nếu dùng nhiều và liều quá cao sẽ gây ngộ độc với hiện tượng say, run chân tay, sung huyết não và phổi; trạng thái này có khi dẫn tới co giật như động kinh. Theo tài liệu cổ và Giáo sư Đỗ Tất Lợi thì đại hồi vị cay, tính ôn, có tác dụng đuổi hàn kiện tỳ, khai vị, dùng chữa nôn mửa, đau bụng, bụng đầy chướng, giải độc thịt cá. Những người âm hư, hỏa vượng không dùng được. Hiện nay, đại hồi thường được dùng làm thuốc trợ giúp tiêu hóa, ăn uống không tiêu, nôn mửa, đau nhức tê thấp. Mỗi ngày dùng 4-8 g dưới dạng thuốc sắc. Dùng ngoài ngâm rượu xoa bóp chữa đau nhức, tê thấp xem ở đây . Mặc dù được sản xuất trong các sinh vật tự dưỡng, nhưng đại hồi là nguồn công nghiệp quan trọng nhất để sản xuất axít shikimic, thành phần quan trọng cơ bản để sản xuất thuốc điều trị bệnh cúm Tamiflu. Tamiflu hiện đang được coi là dược phẩm có triển vọng nhất để làm giảm tác hại của bệnh cúm gia cầm (H5N1); tuy nhiên, các báo cáo cũng đã chỉ ra rằng một số dạng của virus này đã kháng thuốc Tamiflu. Sự thiếu hụt của đại hồi là một trong những lý do quan trọng nhất giải thích tại sao hiện nay thế giới đang thiếu Tamiflu nghiêm trọng (thời điểm năm 2005). Đại hồi chỉ mọc ở bốn tỉnh của Trung Quốc là Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến, Vân Nam và các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn của Việt Nam (Các tỉnh như Hà Giang, Tuyên Quang, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Quảng Ninh) có trồng song diện tích và sản lượng không đáng kể), quả hồi (dân gian gọi là hoa hồi) được thu hoạch trong khoảng thời gian từ tháng 7-9 hay tháng 11-12. Axít shikimic được chiết ra từ hạt trong công nghệ sản xuất 10 công đoạn. Các báo cáo chỉ ra rằng 90% sản lượng thu hoạch đã được nhà sản xuất dược phẩm Thụy Sĩ là Roche dùng để sản xuất Tamiflu, nhưng một số báo cáo khác lại cho rằng vẫn còn rất nhiều sản lượng của gia vị này trong các khu vực trồng chủ yếu - Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây và Vân Nam. Hồi Nhật Bản (Illicium anisatum) và hồi núi ( Illicium griffithii) là các loại cây tương tự, nhưng không ăn được do chúng có độc tính cao; thay vì thế, chúng được sử dụng để đốt như là hương. Các trường hợp ngộ độc, như "các tổn thương thần kinh nghiêm trọng, chẳng hạn chứng co giật", được báo cáo sau khi sử dụng trà có chứa đại hồi có thể là do bị lẫn các loại hồi này. Hồi Nhật Bản chứa anisatin, là chất gây ra các chứng viêm sưng nghiêm trọng đối với thận, đường tiết niệu và các cơ quan tiêu hóa. Liên kết ngoài Đại hồi trên Saigonnet.vn Đại hồi trên VnExpress.net ITIS 505892 Bài tư vấn của FDA về "trà" đại hồi Tham khảo V Cây thuốc Cây gia vị Gia vị Cây thuốc châu Á Thực vật Trung Quốc Thực vật Việt Nam Thực vật được mô tả năm 1888 Ẩm thực Trung Quốc Ẩm thực Việt Nam
25874
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%B9a%20C%E1%BA%A7u
Chùa Cầu
Chùa Cầu là một cây cầu cổ trong khu phố cổ Hội An, tỉnh Quảng Nam, Việt Nam. Cầu còn có tên gọi Cầu Nhật Bản hay Lai Viễn Kiều. Lịch sử Chiếc cầu này được các thương nhân người Nhật Bản góp tiền xây dựng vào khoảng thế kỷ 17, nên đôi khi người ta còn gọi là cầu Nhật Bản. Theo truyền thuyết, ngôi chùa được coi như là một thanh kiếm đâm xuống lưng con quái vật Namazu, khiến nó không quẫy đuôi, gây ra những trận động đất. Sau đó, người ta dựng thêm phần chùa, nối liền vào lan can phía Bắc, nhô ra giữa cầu, từ đó người địa phương gọi là Chùa Cầu. Năm 1719, chúa Nguyễn Phúc Chu thăm Hội An, đặt tên cho chiếc cầu là Lai Viễn Kiều, với ý nghĩa là "Cầu đón khách phương xa". Theo niên đại được ghi lại ở xà nóc và văn bia còn lại ở đầu cầu thì chiếc cầu đã được dựng lại vào năm 1817. Ngôi chùa có lẽ cũng được dựng lại vào thời gian này. Chùa được trùng tu vào các năm 1817, 1865, 1915, 1986 và dần mất đi các yếu tố kiến trúc Nhật Bản, thay vào đó là kiến trúc mang đậm phong cách Việt, Trung. Ngày 17 tháng 2 năm 1990, Chùa Cầu được cấp bằng Di tích Lịch sử – Văn hóa quốc gia. Hiện nay, Chùa Cầu đang bị xâm thực bởi kênh nước thải hôi thối bên dưới cầu và có nguy cơ bị lún nghiêng. Kiến trúc Chiếc cầu làm bằng gỗ trên những trụ cầu bằng gạch đá, dài khoảng 18 m, có mái che, vắt cong qua lạch nước chảy ra sông Thu Bồn giáp ranh giữa hai đường Nguyễn Thị Minh Khai và Trần Phú. Chùa Cầu là một trong những di tích có kiến trúc khá đặc biệt. Mái chùa lợp ngói âm dương che kín cả cây cầu. Trên cửa chính của Chùa Cầu có một tấm biển lớn chạm nổi 3 chữ Hán là Lai Viễn Kiều. Chùa và cầu đều bằng gỗ sơn son chạm trổ rất công phu, mặt chùa quay về phía bờ sông. Hai đầu cầu có tượng thú bằng gỗ đứng chầu, một đầu là tượng chó, một đầu là tượng khỉ, (thần khỉ và thần chó là 2 vị thần trấn giữ namazu trong truyền thuyết dân gian của người Nhật). Tương truyền đó là những con vật mà người Nhật sùng bái thờ tự từ cổ xưa. Tuy gọi là chùa nhưng bên trong không có tượng Phật. Phần gian chính giữa (gọi là chùa) thờ một tượng gỗ Bắc Đế Trấn Võ - vị thần bảo hộ xứ sở, ban niềm vui hạnh phúc cho con người, thể hiện khát vọng thiêng liêng mà con người muốn gửi gắm cùng trời đất nhằm cầu mong mọi điều tốt đẹp. Ảnh hưởng văn hóa Có câu thơ về Chùa Cầu: Ai đi phố Hội Chùa Cầu Để thương để nhớ để sầu cho ai Để sầu cho khách vãng lai Để thương để nhớ cho ai chịu sầu. Hình Cầu Chùa có trên mặt sau tờ bạc 20.000 nghìn đồng bằng polyme của Việt Nam. Hình ảnh Phiên bản chùa Cầu Hội An tại Thanh Hóa Nhân dịp lễ kỷ niệm 55 năm ngày hai thành phố kết nghĩa theo Phong trào kết nghĩa Bắc-Nam (12/02/1960 - 12/02/2015), mô hình Chùa Cầu cùng hai trụ biểu được Thành phố Hội An tặng thành phố Thanh Hóa phục vụ nhân dân Thanh Hóa tham quan mô hình của biểu tượng Hội An - Di sản văn hóa thế giới. Đây là phiên bản thu nhỏ với chiều dài 10m, rộng 4m, lòng cầu 2,2m. Bên cạnh cầu cũng có một khóm thờ diện tích 3x3m thờ Bắc Đế Trấn Võ - thần trị thủy hệt nguyên bản chùa Cầu. Xem thêm Hội An Quảng Nam Tham khảo Liên kết ngoài Chùa Cầu Hội An - Di sản văn hóa thế giới Nguyễn Phước Tương, Đôi điều về Chùa Cầu Chùa Cầu đang bị xâm hại Chùa Cầu Cầu tại Quảng Nam Cầu gỗ Phố cổ Hội An Cầu mái che tại Việt Nam Quan hệ Nhật Bản – Việt Nam
25875
https://vi.wikipedia.org/wiki/Anethol
Anethol
Anethol (hay trans-anethol) là một hợp chất thơm tạo ra mùi đặc trưng của tiểu hồi, thì là và đại hồi. Nó cũng có thể coi như là p-prôpenylanisol, long não hồi, isoestragol, hay tinh dầu hồi. Nó không có quan hệ gì với axít glycyrrhizic, hợp chất làm cho các loại rượu mùi có vị ngọt. Tên hóa học đầy đủ của nó là trans-1-mêthôxy-4-(prôp-1-enyl) benzen. Cấu trúc hóa học của nó được thể hiện ở bên phải. Về mặt hóa học, nó là một ête thơm, chưa bão hòa. Anethol xuất hiện dưới dạng các tinh thể màu trắng ở nhiệt độ phòng. Điểm nóng chảy của nó là 21 °C, và điểm sôi là 234 °C. Nó có công thức hóa học là C10H12O, và nó rất giống với estragol, một hợp chất thơm tìm thấy trong cây ngải giấm và húng quế. Anethol là một chất có vị ngọt cũng như là có mùi thơm, và độ ngọt của nó là gấp 13 lần của đường. Tuy nhiên, nó vẫn cho cảm giác ngọt dễ chịu thậm chí ở nồng độ cao. Nó có độc tính nhẹ, và có thể có tác động như một chất kích thích khi ở số lượng lớn. Nó có thể kích thích sự phục hồi chức năng gan ở chuột, và cũng có thể sinh ra các hoạt động chống co thắt khi ở liều cao. Nó là tiền chất để điều chế p-MeOamphêtamin (PMA), là chất được bán dưới dạng thuốc lắc (ma túy tổng hợp) và là nguyên nhân của một số trường hợp tử vong do lạm dụng. Xem thêm Anisol, hợp chất không có nhóm prôpenyl. Estragol, một đồng phân liên kết đôi. Tham khảo Liên kết ngoài MSDS cho anethol Mô hình phân tử ở OUC: Anethol Seattle Weely: Hỏi Dr. Food: Tất cả về Trans-Anethol Ether Hợp chất thơm Tinh dầu Hương liệu Chất ngọt
25880
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thi%C3%AAn%20Thai%20%28tr%C6%B0%E1%BB%9Dng%20ca%29
Thiên Thai (trường ca)
"Thiên Thai" là một bài hát trữ tình của nhạc sĩ Văn Cao. Ông viết bài hát này vào năm 1941, khi mới 18 tuổi, phỏng theo thơ của Hoàng Thoại. Bản Thiên thai dài tới gần 100 ô nhịp với những chuyển câu chuyển điệu tài tình cùng với những lời ca tuyệt diệu. Có thể nói Thiên thai là một trường ca với nhiều nhạc cảnh biến đổi tuần tự giống như một bản giao hưởng hay một vở opera. Nguồn gốc Theo U minh lục: Lưu Thần và Nguyễn Triệu cùng vào núi hái thuốc gặp một con suối lớn, hai bên bờ suối có hai người con gái tư chất tươi đẹp -hai nàng tiên- đã lưu hai người lại trong nửa năm. Cả hai đều nhớ quê hương bèn từ biệt các tiên nữ ra về. Về đến nơi, anh em bà con đã phiêu bạt đi đâu, nhà cửa cũng không còn. Hỏi thì không ai nhận ra họ vì họ đã có con cháu đến 7 đời. Ngay câu đầu bài nhạc, Văn Cao đã nhắc đến sự tích này: Tiếng ai hát chiều nay vang lừng trên sóng Nhớ Lưu Nguyễn ngày xưa lạc tới Đào nguyên... Hoàn cảnh ra đời Văn Cao viết "Thiên Thai" từ ám ảnh sông Hương xứ Huế mà ông có dịp tới thăm mùa thu năm 1940 và ấn tượng khi đi thuyền trên sông Phi Liệt (Thủy Nguyên, Hải Phòng) và nghe ca trù năm 1941. Năm 1944, Văn Cao đã viết lời tựa cho bài "Thiên Thai": "... Ảnh hưởng sông nước khúc Thiên Thai cổ trong khung cảnh huyền diệu của Đường Thi với hai truyện Thiên Thai và Đào Nguyên. Người Sông Ngự đã lạc cảm xúc rồi..." Khe cây, lối đá nhận đường vào Hoa cỏ không vương mảy bụi nào ...... Nhìn bóng dáng mây quên việc trước Trông chiều cây nước ngỡ chiêm bao Muốn biết về đâu, non nước ấy Hỏi thăm, nên tới suối Hoa Đào... Nhận xét Một số bản thu Ca khúc này đã được thu âm trong một số album sau: Tiếng Tơ Đồng 2 - với Thái Thanh (1974) Phạm Mạnh Cương 24 - Dạ Khúc với Mai Hương (trước 1975) Chiều mưa biên giới - với Hà Thanh Tình khúc Văn Cao (Nhạc tiền chiến 4) với Mai Hương và Quỳnh Giao (1995) Ca khúc Văn Cao - với Ánh Tuyết (2002) The Quiet American (Original Motion Picture Soundtrack) - Craig Armstrong với Hồng Nhung (2002) Thiên Thai - với Thu Giang Tình khúc Vang Bóng - Dư Âm với Cao Minh Cung đàn xưa - với Ánh Tuyết Suối mơ đến Thiên Thai - với Ánh Tuyết (2005) Nói với tôi một lời - với Lâm Nhật Tiến (2006) Tiếng hát Trương Chi - với Đức Tuấn (2008) Tùng Dương hát tình ca - với Tùng Dương (2012) Chú thích Liên kết ngoài Nghe MC Vĩnh Lạc giới thiệu và Ái Vân hát bài này trong chương trình Hát Cho Tuổi Thơ 2, chất lượng kém Nhạc Văn Cao Bài hát nhạc tiền chiến Bài hát tiếng Việt Trường ca (âm nhạc)
25884
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%93i%20Nh%E1%BA%ADt%20B%E1%BA%A3n
Hồi Nhật Bản
Hồi Nhật Bản (danh pháp khoa học: Illicium anisatum) là loài cây bụi cao từ 3,0-4,6 mét tương tự như hồi Trung Quốc. Nó có độc tính cao, vì thế nó không thể ăn được; thay vì thế, nó được dùng để đốt như hương ở Nhật Bản, tại đây nó được gọi là sikimi và là gốc của từ axit shikimic. Các trường hợp ngộ độc, như "các tổn thương thần kinh nghiêm trọng, chẳng hạn chứng co giật", được báo cáo sau khi sử dụng trà có chứa đại hồi có thể là do bị lẫn các loại hồi này. I. anisatum có nguồn gốc ở Nhật Bản. Nó là tương tự như I. verum, nhưng quả của nó nhỏ hơn và có mùi yếu hơn, và người ta cho rằng mùi của nó giống như mùi của quả bạch đậu khấu nhiều hơn là giống với hồi. Do độc tính của nó nên nó không thích hợp trong sử dụng để điều trị các bệnh nội khoa. Trong y học cổ truyền Trung Quốc người ta dùng nó để điều trị một số bệnh ngoài da. Hồi Nhật Bản chứa anisatin, shikimin và sikimitoxin, là các chất hây ra các thương tổn nghiêm trọng cho thận, đường tiết niệu và các cơ quan tiêu hóa. Các hợp chất khác tồn tại trong các loài có độc tính của chi Illicium là safrol và eugenol, các chất này không có trong đại hồi (I. verum) và chúng được sử dụng để xác định việc làm giả đại hồi. Anisatin và các dẫn xuất của nó bị nghi là có các phản ứng như là các chất gây ức chế GABA (Axít gama-aminobutyric) mạnh. Không thể phân biệt đại hồi với hồi Nhật Bản trong các dạng khô hay đã chế biến chỉ theo biểu hiện bề ngoài của chúng, do sự tương tự về hình thái giữa các loài này. Liên kết ngoài Bài tư vấn của FDA về "trà" đại hồi Các độc tính đối với trẻ vị thành niên khi sử dụng trà đại hồi Tham khảo A Dược chất Cây độc Thực vật được mô tả năm 1759 Thực vật Đài Loan Thực vật Nhật Bản Thực vật Hàn Quốc
25885
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%B9a%20M%C3%ADa
Chùa Mía
Chùa Mía (tên chữ: Sùng Nghiêm tự, 崇嚴寺) là một ngôi chùa ở xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội. Xưa kia, vùng này là Cam Giá, tên Nôm là Mía, nên chùa này được quen gọi là chùa Mía. Đây là ngôi chùa lưu giữ nhiều tượng nghệ thuật nhất Việt Nam (287 tượng). Lịch sử Ban đầu, chùa có quy mô nhỏ, được xây dựng từ xa xưa. Năm 1632, Phi tần trong phủ chúa Trịnh Tráng là Ngô Thị Ngọc Diệu (còn có tên là Nguyễn Thị Ngọc Dong) thấy miếu bị hoang phế điêu tàn nên đã cùng cha mẹ và người dân các làng thuộc tổng Cam Giá (tức Tổng Mía) cùng nhau tôn tạo lại. Phi tần Ngọc Dong vốn là người làng Nam Nguyễn (Nam An) trong Tổng Mía, nên được người mến mộ gọi là "Bà Chúa Mía", đồng thời đã tạc tượng đưa vào phối thờ ở chùa và còn có đền thờ riêng. Về sau chùa được tu bổ nhiều lần, song đến nay quy mô tôn tạo thời Bà chúa Mía dường như vẫn được bảo tồn nguyên vẹn. Kiến trúc Gác chuông của chùa là ngôi nhà 3 gian làm theo kiểu chồng diêm 2 tầng 8 mái. Các góc mái đều gắn đao triện. Sàn nhà bằng gỗ, ở tầng gác có hàng lan can tiện. Các ván long, xà nách đều được bào xoi cạnh và chạm trang trí đề tài hoa lá. Trên gác treo một quả chuông đúc năm Cảnh Hưng thứ 4 (1743) và một khánh đồng đúc năm Thiệu Trị thứ 6 (1864). Gần gác chuông và cây đa cổ thụ là tòa bảo tháp Cửu phẩm Liên Hoa cao 13 m thờ vọng Xá Lợi đức Phật. Trong tiền đường, ở gian phải có tấm bia khắc năm 1634, nói về việc trùng tu chùa năm 1632. Bia trang trí đẹp, cao hơn 1,6 m, rộng 1,2 m, dựng trên lưng một con rùa. Gian trái tiền đường có bàn thờ công chúa Liễu Hạnh. Sau tiền đường là chùa Trung, tiếp theo là chùa Thượng - hậu đường. Có hai dãy hành lang nối chùa Trung và chùa Thượng, bao quanh lấy Phật điện ở giữa. Chùa Trung và chùa Thượng còn giữ được bộ khung gỗ mà có nhiều phần điêu khắc có từ thế kỷ 17. Chùa Mía khá nổi tiếng với số tượng có ở đây: có đến 287 pho tượng lớn, nhỏ, trong đó có 6 pho tượng đồng, 106 pho tượng gỗ và 174 pho tượng bằng đất luyện được sơn son thếp vàng. Ở chùa Trung có hai pho tượng Hộ pháp lớn và 8 pho tượng Kim Cương. Mỗi pho tượng là hình tượng một võ tướng đang trong tư thế chuẩn bị chiến đấu để trừ tà bảo vệ phật pháp. Hình khối, bố cục vững chắc, thân hình cân đối, đường nét thoải mái và khỏe. Tại chùa Thượng, người ta còn thấy các động bằng đất đắp. Trong và xung quanh các động có khá nhiều tượng. Trong một động có cả tượng Phật Thích Ca nhập Niết bàn. Pho tượng Tuyết Sơn cao 0,76 m và Quan Âm Tống Tử cao 0,76 m ở đây cũng rất đẹp. Tượng Quan Âm thường được gọi là tượng Bà Thị Kính. Tượng này diễn tả một người phụ nữ thùy mị, có duyên, vẻ mặt hơi buồn nhưng rất hiền từ nhân hậu, ẵm một đứa bé bụ bẫm kháu khỉnh. Đường nét chạm khắc mềm mại, trau truốt. Người làng Mía có câu ca dao về pho tượng: Nổi danh chùa Mía làng ta, Có pho Tống Tử Phật Bà Quan Âm Với những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc và kiến trúc độc đáo, với quy mô bề thế và đẹp. Chùa Mía đã được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật. Hình ảnh Chú thích Liên kết ngoài 10 kỷ lục văn hóa Phật giáo Việt Nam Mía Sơn Tây (thị xã)
25887
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C6%B0%E1%BB%9Dng%20ca%20S%C3%B4ng%20L%C3%B4
Trường ca Sông Lô
Trường ca Sông Lô được nhạc sĩ Văn Cao viết sau chiến thắng sông Lô năm 1947. Đây là bản trường ca được nhiều người đánh giá là một đỉnh cao ghi dấu sự trưởng thành của nền tân nhạc non trẻ của Việt Nam ở thời điểm tiếp thu một các sáng tạo âm nhạc Tây phương và giữ gìn truyền thống âm nhạc Việt Nam. Hoàn cảnh ra đời Tháng 10 năm 1947, Văn Cao được cử lên Việt Bắc tham gia kháng chiến chống Pháp. Đúng lúc đó quân Pháp nhảy dù xuống Bắc Kạn, tấn công Việt Bắc. Trên đường đi kháng chiến, Văn Cao qua Phú Thọ, rồi men theo dọc bờ sông Lô để tìm đường lên Chiến khu Việt Bắc. Ngày 24 tháng 10 năm 1947, bộ đội pháo binh của Quân đội Nhân dân Việt Nam, đã chiến thắng trận Đoan Hùng trên sông Lô: bắn cháy 2 tàu chiến và bắn hỏng 2 chiếc tàu chiến khác của Pháp, tiêu diệt hàng trăm lính Pháp, cắt đứt hoàn toàn tuyến vận tải thủy theo đường sông Lô của Pháp. Buộc Pháp phải tiếp tế cho cánh quân của họ ở Tuyên Quang bằng đường không (thả dù) và phải cho quân rút lui khỏi Việt Bắc. Khi thua trận phải rút chạy quân Pháp đã cướp bóc, tàn phá và đốt trụi các làng xóm dọc hai bờ sông Lô. Quân Pháp vừa rút đi thì cũng là lúc Văn Cao đi ngược dòng Lô giang, trên đường đi ông đã tận mắt thấy các cảnh: xóm làng bị đốt trụi "nền nhà trơ than xám", cảnh "thây giặc trôi trở về ngập bờ", cảnh dân đôi bờ hân hoan chiến thắng, bắt tay vào dựng lại xóm làng, cảnh "đoàn quân thời chinh chiến" trên đường chiến thắng trở về chiến khu, cảnh dòng sông bao la hùng vĩ, chảy về xuôi. Khi lên tới chiến khu, Văn Cao đã tìm gặp người sĩ quan pháo binh Doãn Tuế, vừa tham gia chỉ huy các trận đánh: Khoan Bộ (tại hai xã Phương Khoan (Lập Thạch) và Bình Bộ (Phù Ninh)), Đoan Hùng (tại xã Chí Đám (Đoan Hùng)) và Khe Lau (Yên Sơn, Tuyên Quang) trong chuỗi chiến thắng sông Lô, để nghe kể lại diễn biến trận đánh. Doãn Tuế đã dẫn Văn Cao đi dọc bờ sông nơi chiến trường vừa im tiếng pháo, và qua lời kể của Doãn Tuế cảm hứng cho giai điệu bản trường ca ra đời. Trường ca sông Lô được Văn Cao sáng tác rất nhanh và đăng báo Văn nghệ số tháng 3 năm 1948. Đánh giá và ảnh hưởng Nhạc sĩ Phạm Duy có nói về Trường ca Sông Lô trong hồi ký của mình: Bài Trường ca Sông Lô của Văn Cao là một tác phẩm vĩ đại. Thằng bạn này vẫn là một kẻ khai phá. Nó là cha đẻ của loại trường ca. Về hình thức, bài của nó chẳng thua gì bất cứ một tuyệt phẩm nào của loại nhạc cổ điển Tây Phương. Nét nhạc của trường ca rất mạnh khỏe, rất tươi sáng. Nhịp điệu vô cùng phong phú với những chuyển đoạn rất tài tình. Bài này đánh dấu sự trưởng thành của Tân nhạc... Phạm Duy cho rằng: "Trường ca sông Lô phải là đỉnh cao nhất của nhạc kháng chiến nói riêng, của tân nhạc Việt Nam nói chung"''. Giai điệu của ca khúc này đã cuốn hút nhiều nhạc sĩ, ca sĩ Việt Nam biểu diễn và chuyển thể cho nhạc cụ: Hòa tấu cho dàn nhạc giao hưởng (Đỗ Hồng Quân chỉ huy); co Đơn ca như Quang Thọ, Lê Dung, Trọng Tấn, Ánh Tuyết, v.v; Độc tấu guitar như Văn Vượng, Nguyễn Văn Phúc; Độc tấu phong cầm của PGS.NSƯT. Nguyễn Xuân Tứ. Xem thêm Văn Cao Sông Lô Chú thích Liên kết ngoài Về "Trường ca sông Lô" của Hội nhạc sĩ Việt Nam: https://hoinhacsi.vn/khi-nhac/truong-ca-song-lo Quang Thọ biểu diễn "Sông Lô" cùng dàn nhạc giao hưởng và múa phụ họa: https://www.youtube.com/watch?v=PtrG6v5XQ7A Trần Ngọc Lan đơn ca "Sông Lô": https://www.youtube.com/watch?v=I--XqVN6yJA Trọng Tấn đơn ca có hợp ca phụ họa: https://www.youtube.com/watch?v=JhRyrW-dAwk Văn Vượng độc tấu "Sông Lô" bằng guitar: https://www.youtube.com/watch?v=q0Q2NFToFQo Văn học quê nhà - Văn Cao hào hùng và Văn Cao lãng mạn; Văn Cao-nhạc sĩ của những người lính Nhạc Văn Cao Trường ca (âm nhạc) Bài hát nhạc đỏ Bài hát tiếng Việt
25896
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%20%C4%90%C6%B0%C6%A1ng%20quy
Chi Đương quy
Chi Đương quy hay chi Bạch chỉ (danh pháp khoa học: Angelica) là một chi của khoảng 104 loài cây thân thảo cao sống hai năm hay lâu năm trong họ Apiaceae, có nguồn gốc ở vùng ôn đới và cận cực của Bắc bán cầu, chúng phổ biến cao về phía bắc tới tận Iceland và Lapland. Chúng cao từ 1 đến 2 mét, với các lá hình lông chim kép lớn và các tán hoa kép lớn có màu trắng hay trắng ánh lục. Các loài Angelica acutiloba - Đương quy Nhật Bản Angelica ampla - Bạch chỉ khổng lồ Angelica amurensis - Đương quy Amur Angelica anomala - Đương quy lá hẹp Angelica archangelica - Bạch chỉ cảnh Angelica arguta - Bạch chỉ Lyall Angelica atropurpurea - Bạch chỉ thân tía, Bạch chỉ Alexanders Angelica breweri - Bạch chỉ Brewer Angelica californica - Bạch chỉ California Angelica callii - Bạch chỉ Call Angelica canbyi - Bạch chỉ Canby Angelica cincta - Đương quy Hồ Bắc Angelica dahurica - bạch chỉ Angelica dawsonii - Bạch chỉ Dawson Angelica decursiva - Tiền hồ hoa tím Angelica dentata - Bạch chỉ ven biển Angelica glabra - Bạch chỉ Angelica genuflexa - Bạch chỉ quỳ Angelica gigas - Đương quy Triều Tiên Angelica grayi - Bạch chỉ xám Angelica grosserrata - Độc hoạt Angelica hendersonii - Bạch chỉ Henderson Angelica kingii - Bạch chỉ vua Angelica lineariloba - Bạch chỉ độc Angelica lucida - Bạch chỉ bờ biển Angelica morii - Phúc sâm Angelica nitida - Đương quy Thanh Hải Angelica omeiensis - Đương quy Nga Mi Angelica pachyacarpa Angelica palustris Angelica pinnata - Bạch chỉ lá nhỏ Angelica pubescens - Độc hoạt Angelica roseana - Bạch chỉ hồng Angelica sinensis - Đương quy Angelica scabrida - Bạch chỉ núi Charleston Angelica setchuensis - Đương quy Tứ Xuyên Angelica sylvestris - Bạch chỉ hoang Angelica tomentosa - Bạch chỉ lông tơ Angelica triquinata - Bạch chỉ màng Angelica tsinlingensis - Đương quy Tần Lĩnh Angelica valida - Đương quy Kim Sơn Angelica venenosa - Bạch chỉ tóc Angelica wheeleri - Bạch chỉ Utah Nuôi trồng và sử dụng Một số loài được trồng để làm chất tạo mùi vị cũng như sử dụng các tính chất y học của chúng. Đáng chú ý nhất trong số này là Bạch chỉ cảnh (A. archangelica) được biết rộng rãi nhất như là Bạch chỉ. Thổ dân ở Lapland sử dụng các rễ to làm thực phẩm và thân cây làm thuốc. Các thân cây non và gân lá (gân giữa) có màu xanh lục và được bán như là đồ trang trí và tạo mùi vị cho kẹo. Rễ và hạt đôi khi được dùng để tạo mùi cho rượu gin. Bạch chỉ bờ biển (A. lucida) đã được dùng để ăn như là một loại "cần tây hoang dại". A. sylvestris và một số loài khác bị một số ấu trùng của một vài loài Lepidoptera ăn. Chú thích Tham khảo Bài này lấy dữ liệu từ phạm vi công cộng của Bách khoa toàn thư Grocer. Liên kết ngoài Chi Angelica Cây thuốc
25901
https://vi.wikipedia.org/wiki/Anisol
Anisol
Anisol, còn được biết đến với tên gọi mêtôxybenzen, là một chất lỏng trong suốt, không màu có mùi dễ chịu tương tự như mùi của hạt tiểu hồi. Anisol được sử dụng trong công nghiệp sản xuất nước hoa, trong tổng hợp hóa học và trong pheromon của các côn trùng. Xem thêm Ête Phenol 2,4,6-Tricloroanisol (mùi nút bần thối) Anethol Tham khảo Liên kết ngoài Pherobase Cơ sở dữ liệu về pheromon Ether Pheromone Hương liệu
25902
https://vi.wikipedia.org/wiki/Adriano%20Leite%20Ribeiro
Adriano Leite Ribeiro
Adriano Leite Ribeiro (sinh ngày 17 tháng 2, 1982 tại Rio de Janeiro), được biết đến nhiều nhất với tên Adriano, là một cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Brasil gốc Cabo Verde. Sự nghiệp cấp câu lạc bộ Thuở đầu Adriano bắt đầu sự nghiệp bóng đá vào năm 1999 tại đội tuyển trẻ của Flamengo, anh mau chóng được đưa vào đội hình chính thức vào một năm sau đó. Sau hai năm chơi bóng cho Flamengo, anh chuyển sang Inter Milan, và ghi bàn thắng đầu tiên của mình cho Inter trong trận giao hữu gặp Real Madrid. Parma Mùa bóng 2001-2002, Adriano được Inter cho Fiorentina mượn, trước khi cùng đồng đội Matteo Ferrari chuyển sang chơi cho Parma với một hợp đồng cho mượn khác. Tại đây, anh nhanh chóng trở thành một trong những chân sút nguy hiểm của Serie A với 22 bàn thắng sau 36 lần ra sân. Trở về Inter Adriano trở lại San Siro vào năm 2004 với một hợp đồng 4 năm và ghi liền 15 bàn thắng sau 16 lần ra mắt tại mùa bóng '04-05. Từ 11 tháng 6 năm 2004 tới 25 tháng 7 năm 2005, anh ghi tất cả 40 bàn thắng trên 2 mặt trận cấp câu lạc bộ và cấp quốc gia. Vào tháng 12 năm 2005, Inter đã thành công trong việc gia hạn hợp đồng với anh đến năm 2010. Sau khi ký kết hợp đồng mới, sự nghiệp của Adriano tại Inter đã trở nên ảm đạm trong suốt 3 mùa bóng. Anh thường có những thể hiện kém thuyết phục, ngoài ra lại thường lao vào những cuộc ăn chơi thâu đêm suốt sáng bên ngoài sân cỏ. Anh bị Dunga, huấn luyện viên trưởng đội Brasil loại ra khỏi danh sách thi đấu trong trận giao hữu với Ecuador vào ngày 10 tháng 10 năm 2006. Dunga khuyên anh "nên thay đổi thái độ" và "cần chú trọng vào bóng đá". Vào ngày 18 tháng 2 năm 2007, vì mải mê với tiệc sinh nhật kéo dài của mình, anh vắng mặt trong một buổi tập quan trọng của đội, khiến cho huấn luyện viên của Inter Roberto Mancini quyết định phạt anh ngồi ngoài sân trong trận đấu với Valencia tại Champions League, và trận đấu với Catania tại giải nội địa. Mùa bóng 2008-09 Ngày 14 tháng 12 năm 2008, Adriano được ra sân trong đội hình chính thức trong trận gặp Panathinaikos, và anh đã ghi một bàn thắng đẹp từ tình huống đối diện với thủ môn Mario Calinovic. Anh tiếp tục thể hiện phong độ tốt trong trận tiếp theo gặp Torino, khi cùng 2 cầu thủ Brasil khác là Maicon và Mancini giúp Inter giành chiến thắng 3-1. Sau trận đấu, anh được Sky Sports bầu làm "cầu thủ của trận". Ở một vòng đấu khác tại Serie A, anh đã có bàn thắng thứ 100 của mình, tính riêng trong các giải vô địch quốc gia Brasil và Italia: bàn thắng từ một tình huống đá phạt đền do đồng đội Zlatan Ibrahimovic mang lại. Ngày 22 tháng 10 năm 2008, Adriano ghi bàn giúp đội đánh bại Anorthosis Famagusta 1-0. Với bàn thắng này, anh đã nâng số lần lập công của mình tại Champions League lên con số 18. Flamengo Adriano ký hợp đồng với CLB Flamengo của Brazil vào ngày 6 tháng 5 năm 2009,câu lạc bộ mà anh đã bắt đầu sự nghiệp của mình.Bắt đầu sự nghiệp ở Flamengo,vào ngày 31 tháng 8 năm 2009,anh đã lập một cú hat-trick giúp Flamengo thắng 4-0 trước Internacional ở Brazilian Serie A. Vào ngày 31 tháng 1 năm 2010, Adriano đã lập được hat-trick thứ hai,lần này trong chiến thắng trân lượt về 5-3 trước Fla Flu trong giải Rio de Janeiro State năm 2010 A.S. Roma Ngày 8 tháng 6 năm 2010,Adriano đã ký hợp đồng với câu lạc bộ A.S. Roma ở Serie A,có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 với mức lương 5 triệu €.Sáu đó anh xuất hiện trước báo chí với số áo 8.Nhưng vào ngày 8 tháng 3 năm 2011,anh bị sa thải sau 7 tháng ở Serie A. Corinthians Vào ngày 25 tháng 3 năm 2011,anh ký hợp đồng thỏa thuận 1 năm với Corinthians.Vào ngày 19 tháng 4,anh bị đứt gân chân.Sau khi phẫu thuật,anh phải bỏ ra 6 tháng để phục hồi.Sau khi phục hồi,anh đã chơi trân đầu tiên cho Corinthians vào ngày 09 tháng 10 năm 2011 khi CLB của anh đánh bại Atletico Goianiense 3-0.Mục tiêu đầu tiên của Corinthians là đánh bại Atlético Mineiro vào ngày 20 tháng 10.và Corinthians đã chiến thắng với tỉ số 2-1 và dẫn 2 điểm khi chỉ còn 2 trận nữa là kết thúc mùa giải. Ngày 12 tháng 3 năm 2012, anh đã bị sa thải sau khi xuất hiện những triệu chứng thiếu tập trung. Trở lại Flamengo Ngày 24 tháng 8 năm 2012,CLB Flamengo thông báo đã hoàn tất việc ký kết hợp đồng với Adriano đến cuối năm 2012. Sự nghiệp quốc tế Adriano, với 27 bàn sau 41 trận đấu cho tuyển quốc gia, đã từng được hy vọng sẽ là người kế thừa của Ronaldo tại đội Brasil. Cho tới kỳ 2005 FIFA Confederations Cup, Adriano được trao danh hiệu "Cầu thủ của giải đấu" và Chiếc giày vàng với 5 bàn thắng. Trong trận chung kết, anh góp phần giúp Brasil đánh bại Argentina 4-1 chiến thắng khi ghi 2 bàn thắng. Anh được gọi vào đội hình tham dự World Cup 2006, và ghi bàn thắng đầu tiên tại giải này vào ngày 18 tháng 7 năm 2006, trong trận gặp đội Úc. Bàn thắng thứ 2 trong trận gặp Ghana tại vòng 1/16. Với 2 bàn thắng và 5 cú sút trong suốt giải đấu, anh bị đánh giá là có sự thể hiện kém thuyết phục. Hai năm sau khi Dunga về làm huấn luyện viên trưởng tuyển Brasil, Adriano chỉ được ra sân một trận. Đó là trận giao hữu mà Brasil đã để thua Bồ Đào Nha hai bàn không gỡ vào ngày 6 tháng 2 năm 2007. Đến ngày 15 tháng 5 năm 2008, anh mới được gọi lại đội tuyển trong các trận giao hữu với Canada và Venezuela. Danh hiệu Câu lạc bộ Rio State Championship: 2000, 2001 Brazilian Champions' Cup: 2001 Serie A: 2006, 2007, 2008 Coppa Italia: 2005, 2006 Italian Super Cup: 2005, 2006 Quốc tế Copa América: 2004 Confederations Cup: 2005 FIFA U-17 World Cup: 1999 South American Youth Championship: 2001 Cá nhân Copa América: 2004 - Golden Ball for The Best Player of the Tournament and The Golden Shoe For Top Scorer Confederations Cup: 2005 - Golden Ball for The Best Player of the Tournament and The Golden Shoe For Top Scorer Thống kê sự nghiệp |- |2000||rowspan="2"|Flamengo||rowspan="2"|Série A||19||7||colspan="2"|-|||8||1||321||101 |- |2001||colspan="2"|-||4||1|||2||0||142||22 |- |2001-02||Internazionale||Serie A||8||1||1||0||5||0||14||1 |- |2001-02||Fiorentina||Serie A||15||6||colspan="2"|-||colspan="2"|-||15||6 |- |2002-03||rowspan="2"|Parma||rowspan="2"|Serie A||28||15||1||0||2||2||31||17 |- |2003-04||9||8||2||0||2||1||13||9 |- |2003-04||rowspan="5"|Internazionale||rowspan="5"|Serie A||16||9||2||3||colspan="2"|-||18||12 |- |2004-05||30||16||3||2||9||10||42||28 |- |2005-06||30||13||6||0||11||6||47||19 |- |2006-07||23||5||4||1||3||0||30||6 |- |2007-08||4||1||colspan="2"|-||colspan="2"|-||4||1 |- |2008||São Paulo||Série A||colspan="2"|-||colspan="2"|-|||10||6||283||173 |- |2008-09||Internazionale||Serie A||10||3||2||2||4||2||13||5 19||7||4||1|||20||7||744||294 174||75||20||6||38||19||231||100 238||100||20||6||37||9||295||125 |} <div id="1">1Including 3 matches và 1 goal in São Paulo-Rio Tournament 2000 và 2 other friendly matches (1 goal) <div id="2">2Including 7 matches và 1 goal in Rio de Janeiro State Championship 2001 và 1 match in São Paulo-Rio Tournament 2001 <div id="3">3Including 18 matches và 11 goals in São Paulo State Championship 2008 <div id="4">4See123 Chú thích Liên kết ngoài adrianoleiteribeiro.com adriano-online.com inter.it CBF footballdatabase.com sambafoot Cầu thủ bóng đá nam Brasil Cầu thủ bóng đá São Paulo FC Cầu thủ bóng đá Flamengo Cầu thủ bóng đá ACF Fiorentina Cầu thủ bóng đá Parma Calcio 1913 Cầu thủ bóng đá Inter Milan Cầu thủ bóng đá Serie A Cầu thủ bóng đá A.S. Roma Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Brasil Sinh năm 1982 Tiền đạo bóng đá nam Nhân vật còn sống Vận động viên Rio de Janeiro Cầu thủ Cúp Liên đoàn các châu lục 2003 Cầu thủ Cúp Liên đoàn các châu lục 2005 Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2006 Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Ý
25909
https://vi.wikipedia.org/wiki/Estragole
Estragole
Estragole, hay estragol, p-allylanisol, methyl chavicol, là một hợp chất hữu cơ nguồn gốc tự nhiên. Cấu trúc hóa học của nó bao gồm một vòng benzen được thay thế bởi một nhóm mêtôxy và một nhóm prôpenyl. Estragol là đồng phân liên kết đôi của anethol. Ở điều kiện bình thường, nó là một chất lỏng từ không màu tới vàng nhạt. Nó là thành phần chủ yếu của tinh dầu ngải giấm và chiếm từ 60-75% tinh dầu của cây này. Nó cũng được tìm thấy trong tinh dầu thông và nhựa thông. Estragol được sử dụng trong sản xuất nước hoa và phụ gia thực phẩm để tạo mùi. Xem thêm Anethol, đồng phân liên kết đôi Chavicol, chất dẫn xuất từ phenol tương tự Safrol, chất dẫn xuất từ mêtylenđiôxy tương tự Tham khảo Hợp chất thơm Alken Phụ gia thực phẩm Công nghiệp nước hoa Vật liệu sản xuất nước hoa
25919
https://vi.wikipedia.org/wiki/Adriano
Adriano
Adriano là một cái tên nam giới khá thông dụng trong các ngôn ngữ Ý, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Nó được cho là có nguồn gốc từ từ Hadrianus trong tiếng Latin. Một biến thể của nó trong tiếng Anh là Adrian. Adriano Banchieri, nhà soạn nhạc Ý Adriano Bernareggi, giám mục Công giáo Ý Adriano Castellesi, Hồng y và nhà văn Ý Adriano Celentano, nghệ sĩ Ý Adriano Correia de Oliveira, ca sĩ Bồ Đào Nha Adriano Espaillat, chính khách Mỹ gốc Dominica Adriano Galliani, doanh nhân Ý Adriano Garrido, vận động viên bóng chuyền Brasil Adriano Olivetti, doanh nhân Ý Adriano Panatta, vận động viên quần vợt Ý Adriano Rigoglioso, cầu thủ bóng đá Anh Adriano Sofri, chính khách Ý Adriano Visconti, tướng không quân Ý Adrian Willaert, nhà soạn nhạc Vlaanderen, gọi thân mật là "Adriano" Cầu thủ Brasil Adriano một phần hoặc toàn bộ nghệ danh Adriano, Adriano Leite Ribeiro (sinh 1982), tiền đạo Adriano Correia, Adriano Correia (sinh 1984), hậu vệ Adriano Gabiru, Carlos Adriano de Souza Vieira (sinh 1977), tiền vệ Adriano Alves, Adriano Alves (sinh 1976), tiền đạo Adriano Basso, Adriano Basso (sinh 1975), thủ môn Adriano, Adriano Silva Francisco (sinh 1969), thủ môn Adriano, Adriano Vieira Louzada (sinh 1979), tiền đạo Adriano Pereira, Adriano Pereira da Silva (sinh 1982), hậu vệ Adriano, Adriano Pimenta (sinh 1982), tiền vệ Adriano, Adriano Fabiano Rossato (sinh 1977), hậu vệ Adriano, Adriano Bispo dos Santos (sinh 1987), tiền vệ Adriano Adriano Gerlin da Silva (sinh 1974), tiền đạo Adriano Duarte, Adriano Duarte Mansur da Silva (sinh 1984), trung vệ Luiz Adriano, Luiz Adriano de Souza da Silva (sinh 1987), tiền đạo Adriano, Carlos Adriano de Sousa Cruz (sinh 1987), tiền đạo Adriano, Adriano Ferreira Silvestre (sinh 1979), tiền vệ Tên riêng Fabiano Rossato, Adriano Fabiano Rossato (sinh 1977), hậu vệ Spadoto, Adriano Luís Spadoto (sinh 1977) Ferreira Pinto, Adriano Ferreira Pinto (sinh 1979), tiền đạo
25920
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%E1%BB%A9c%20c%C4%83ng%20b%E1%BB%81%20m%E1%BA%B7t
Sức căng bề mặt
Sức căng bề mặt (còn gọi là năng lượng bề mặt hay ứng suất bề mặt, thường viết tắt là σ hay γ hay T) hiểu một cách nôm na là đại lượng đánh giá độ đàn hồi hay độ bền của mặt liên diện giữa hai pha. Tính đàn hồi của mặt lên diện giữa hai pha có được trên cơ sở lực hút phân tử trong mỗi pha và giữa các phân tử của hai pha tiếp giáp mặt liên diện. Ví dụ tại bề mặt liên diện giữa hai pha: nước (pha lỏng) và không khí (pha khí), sức căng ở bề mặt giọt nước và không khí được hình thành do lực hút giữa các phân tử nước mạnh hơn nhiều lực hút giữa chúng và các phân tử khí cũng như lực hút giữa các phân tử khí với nhau. Do đó giọt nước trong không khí có xu hướng co cụm lại sao cho diện tích bề mặt nhỏ nhất có thể. Nếu độ lớn của lực trọng trường nhỏ hơn, các lực xung quanh giọt nước sẽ cân bằng và nó sẽ có hình cầu. HIện tượng dính ướt và không dính ướt: Hiện tượng dính ướt xảy ra khi có sự tiếp xúc giữa 3 pha: hai pha lỏng (hoặc một pha lỏng và một pha khí) trên bề mặt pha rắn. Ví dụ khi giọt nước nằm trên một bề mặt rắn ưa nước, do lực hút giữa các phân tử ở bề mặt rắn với các phân tử nước lớn hơn nhiều lực hút giữa các phân tử nước với nhau, giọt nước sẽ có xu hướng trải ra tăng diện tích mặt liên diện giữa nước và pha rắn. Bề mặt rắn càng ưa nước thì diện tích nước trải ra càng lớn. Có thể quan sát hiện tượng này trên một số chảo chống dính. Ngược lại nếu một giọt nước (pha lỏng) nằm trên bề mặt rắn không ưa nước (pha rắn), nó sẽ có xu hướng co cụm lại sao cho diện tích bề mặt liên diện nước-không khí (pha khí) và diện tích mặt liên diện nước-bề mặt rắn nhỏ nhất có thể. Chúng ta có thể dễ dàng quan sát hiện tượng này khi nhìn những giọt sương trên lá vào buổi sáng. Một trong những bề mặt không ưa nước dễ nhận thấy là bề mặt lá sen và lá khoai. Hiện tượng mao dẫn: Khi cắm ống mao quản (làm bằng vật liệu ưa nước) vào nước chúng ta cũng có hệ 3 pha gồm: nước (pha lỏng), thành ống mao quản (pha rắn) và không khí (pha khí). Tại mặt liên diện giữa nước và thành ống mao quản, nước sẽ có xu hướng dâng lên, trải ra làm tăng diện tích mặt liên diện hai pha. Tại mặt liên diện giữa nước và không khí, lực hút giữa các phân tử nước mạnh hơn so với giữa nước và không khí làm cho nước có xu hướng co cụm giảm diện tích liên diện, giúp mực nước nâng lên gần bằng với các phân tử nước ở gần thành ống mao quản. Mao quản có đường kính càng nhỏ, vật liệu thành ống mao quản càng ưa nước, áp suất trong pha khí càng thấp, lực trọng trường càng yếu thì mực nước càng dâng cao. Thực tế trong cốc nước bình thường có đường kính tương đối lớn mực nước ở thành cốc cũng vẫn cao hơn so với mực nước ở xa thành nhưng bằng mắt thường khó có thể nhận ra. Sức căng bề mặt và hiện tượng mao dẫn đã giúp giải thích một số quá trình như nước vận chuyển từ rễ lên đến lá, tại sao nhện nước bò trên mặt nước, trạng thái cân bằng của nhũ tương cũng như tác dụng tẩy rửa của xà phòng nói riêng hay hoạt tính nói chung của chất hoạt hóa bề mặt,... Định nghĩa Sức căng bề mặt giữa hai pha là công cơ học thực hiện khi lực căng làm cho diện tích mặt liên diện thay đổi một đơn vị diện tích. Như vậy nó cũng là mật độ diện tích của năng lượng; ý nghĩa này mang lại tên gọi năng lượng bề mặt cho đại lượng vật lý này. Như vậy, trong hệ đo lường quốc tế, đơn vị đo sức căng bề mặt tương đương Jun trên mét vuông. Sức căng bề mặt giữa hai pha phụ thuộc vào tính chất các phân tử của từng pha và các điều kiện môi trường như nhiệt độ, áp suất... Phương pháp đo Các phương pháp đo sức căng bề mặt bao gồm: Vòng Du Noüy Tấm Wilhelmy Phương pháp giọt xoay tròn Phương pháp giọt pêđan Phương pháp áp suất bọt. Phương pháp thể tích giọt. Xem thêm Hiện tượng mao dẫn Độ nhớt Tham khảo Liên kết ngoài Theory of surface tension measurements Cơ học chất lưu Lực điện từ Khái niệm vật lý Lực tương tác giữa các phân tử Động lực học chất lưu
25943
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hector%20Malot
Hector Malot
Hector Malot (20/05/1830 - 17/07/1907) là nhà văn nổi tiếng người Pháp, các tiểu thuyết của ông được nhiều thế hệ độc giả trên thế giới yêu mến. Ông sinh tại La Bouille, miền Tây nước Pháp. Tác phẩm đầu tay "Những người tình" của ông xuất bản năm 1859 đã gây được tiếng vang lớn. Trong sự nghiệp của mình ông đã viết trên 70 tác phẩm. Tác phẩm Trong gia đình (1893) và đặc biệt là Không gia đình (1878) được các bạn nhỏ tuổi yêu thích. Ông mất tại Fontenay sous Bois. Các tác phẩm Sans Famille (1878) En Famille (1893) Sinh năm 1830 Mất năm 1907
25945
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%C3%B4ng%20gia%20%C4%91%C3%ACnh
Không gia đình
Không gia đình (tiếng Pháp: Sans famille), có thể được xem là tiểu thuyết nổi tiếng nhất của nhà văn Pháp Hector Malot, được xuất bản năm 1878. Tác phẩm đã nhận được giải thưởng của Viện Hàn lâm Văn học Pháp. Nhiều nước trên thế giới đã dịch lại tác phẩm và xuất bản nhiều lần. Từ một trăm năm nay, Không gia đình đã trở nên quen thuộc đối với thiếu nhi Pháp và thế giới. Kiệt tác này đã được xuất hiện nhiều lần trên phim ảnh và truyền hình. Nhân vật chính Tác phẩm phác họa nhiều nhân vật, dù quan trọng nhiều hay ít, đã giúp đỡ cậu bé Rémi trên hành trình của cậu cũng như trong cuộc sống của cậu, đặc biệt là đi tìm gia đình thật của cậu. Rémi (tiếng Việt: Rê-mi): cậu bé bị bỏ rơi sau khi ông Barberin bán cậu lại cho ông Vitalis. Sau đó, cậu bắt đầu cuộc hành trình trên đường thiên lý cùng ông cụ. Trải qua biết bao biến cố mà cuộc đời gieo rắc nỗi bất hạnh lên cậu, cuối cùng Rémi cũng tìm thấy gia đình của mình và hạnh phúc giữa những người đã giúp đỡ cậu. Vitalis (tiếng Việt: Vi-ta-li): người hát dạo, đã mua lại Rémi từ bố nuôi Jérôme Barberin của cậu. Ông đã dạy học cũng như kinh nghiệm sống cho Rémi khi cả hai đi lưu diễn khắp nước Pháp. Ông là người Ý và đã từng có thời huy hoàng lúc còn trẻ. Ông xem Rémi như con trai mình cũng như Rémi xem ông là người cha vĩ đại mà cậu hằng mong muốn. Sau cùng, ông đã qua đời trong cảnh lang thang giữa mùa đông lạnh giá. Mattia (tiếng Việt: Mát-chi-a): cậu bạn của Rémi, biết chơi tất cả các nhạc cụ và chu du khắp nước Pháp cùng Rémi để mua con bò sữa trả ơn má Barberin và sau đó là đi tìm gia đình thật của Rémi. Cậu có em gái là Cristana sống ở Ý- quê hương của cậu. Arthur (tiếng Việt: A-thơ): con của bà Milligan, là một cậu bé tật nguyền đã chống lại bệnh tật để sống sót. Hình tượng của lòng dũng cảm, cậu dành cho Rémi một tình cảm lớn. Hai người gặp nhau lần đầu tiên trên con thuyền Le Cygne của người mẹ Arthur, sau khi Rémy đang lang thang sau khi ông Vitalis bị bắt ở Toulouse. Joli-Cœur, Capi, Zerbino và Dolce (tiếng Việt: Giô-li-cơ, Ca-pi, Déc-bi-nô và Đôn-xơ): những con vật trong gánh hát dạo của cụ Vitalis (tên đầu tiên là một con khỉ và sau là ba con chó). Đặc biệt là Capi, chú chó đã gắn bó với Rémi suốt cuộc đời. Jérôme Barberin (tiếng Việt: Giê-rôm Bác-bơ-ranh): người cha nuôi đã bán Rémi cho ông cụ Vitalis - một người hát rong và chủ gánh xiếc. Một người độc ác sau khi bị giày vò bởi nỗi bất hạnh của cuộc đời vì không có tiền mà hám lợi. Sau đó, ông đã cố gắng tìm lại Rémi cho "gia đình thật" ở Anh để nhận tiền chăm sóc cho cậu suốt bấy lâu (mà phần lớn là công nuôi dưỡng của má Barberin). Bà Barberin (tiếng Việt: Má Bác-bơ-ranh): mẹ nuôi của Rémi đã cưu mang cậu từ nhỏ, khi cậu bị bỏ rơi ở làng Chavanon. Bà rất yêu thương cậu bé như con đẻ của mình nhưng rất sợ chồng. Madame Milligan (tiếng Việt: bà Mi-li-gơn): người Anh, mẹ của Arthur, sống với con trai trên con du thuyền Le Cygne, để ngắm những dòng sông ở nước Pháp cũng như tạo điều kiện chữa bệnh cho Arthur. Giữa bà và Rémi có mối liên hệ ruột thịt với nhau mà cả hai chưa biết. Lise (tiếng Việt: Li-dơ)  : cô bé út của gia đình Accquin- gia đình nông dân đã cưu mang Rémi. Cô bị câm sau một cơn sốt lúc còn nhỏ, nhưng cô bé rất thông minh và hiểu chuyện. Lise yêu thương tất cả mọi người trong gia đình, đặc biệt là Rémi sau khi cậu dạy cho Lise đọc sách và chơi vĩ cầm trong 2 năm gắn bó. Sau này Lise và Rémi đã kết hôn và sống chung với nhau. Nội dung Nội dung chính Không gia đình kể chuyện một cậu bé tên là Rémi bị bỏ rơi từ nhỏ rồi bị bỏ lại ở 1 góc đường, cậu được 1 gia đình khác nhận nuôi. Rémi được chăm sóc trong vòng tay yêu thương của má Barberin. Cho đến một ngày người chồng của má làm việc ở Paris bị tai nạn và tàn phế trở về, và bán Rémi cho ông cụ Vitalis, sau đó Rémi đi theo gánh xiếc của cụ Vitalis để làm thuê. Hai người đã đi lang thang khắp mọi miền nước Anh và Pháp trình diễn xiếc để kiếm sống, sau đó bị tù ở Anh, cuối cùng tìm thấy mẹ và em. Em bé Rémi ấy đã lớn lên trong gian khổ. Em đã chung đụng với mọi hạng người, sống khắp mọi nơi, "Nơi thì lừa đảo, nơi thì xót thương". Em đã lao động lấy mà sống, lúc đầu dưới quyền điều khiển của một ông già từng trải và đạo đức, cụ Vitalis, về sau thì tự lập và không những lo cho mình, còn bảo đảm việc biểu diễn và sinh sống cho cả một gánh hát rong. Đã có khi em và cả đoàn lang thang suốt mấy ngày không có chút gì trong bụng. Đã có khi em mắc oan, bị giải ra trước toà án và bị ở tù. Và cũng có khi em được nuôi nấng đàng hoàng, no ấm. Nhưng dù ở đâu, trong cảnh ngộ nào, em vẫn noi theo nếp rèn dạy của ông già Vitalis giữ phẩm chất làm người, nghĩa là ngay thẳng, gan dạ, tự trọng, thương người, ham lao động, không ngửa tay xin xỏ, không dối trá, gian giảo, nhớ ơn nghĩa, luôn luôn muốn làm người có ích. Bên cạnh Rémi có chú bé nghệ sĩ Mattia khôn ngoan, linh lợi, tháo vát, tận tình với bạn, một tài hoa nghệ thuật nở sớm cộng với tấm lòng vàng, con chó Capi khôn như người và rất có nghĩa, con khỉ Joli-Cœur liến láu và đáng thương... Những con người và con vật ấy ở đây được dựng lên linh hoạt như sống, gây nhiều hứng thú cho bạn đọc nhỏ tuổi. Cuối cùng em cũng tìm được gia đình thật sự của mình và sống hạnh phúc cùng với Lise sau này Nhận định chung Qua câu chuyện phiêu lưu hết sức hấp dẫn của chú bé Rémi, người ta thấy quyển sách ca ngợi lao động, ca ngợi tinh thần tự lập và tự tin của tuổi trẻ, phát huy ý thức chịu đựng gian khổ và tập quán xoay xở tháo vát, đề cao nghệ thuật, khuyến khích tình bạn chân chính. Nó phản ánh cảnh lao động và sinh hoạt bấp bênh, nguy hiểm, đầy đe dọa của những người thợ mỏ và của nhân dân lao động thành phố trong xã hội. Đồng thời nó thể hiện cái thực tế là tình thương người, lòng biết ơn, tình đùm bọc lẫn nhau giữa những người cùng hoàn cảnh. Quyển sách lại diễn tả nhiều cảnh nông thôn và thành thị, giúp bạn đọc thêm phần hứng thú trong khi theo dõi câu chuyện, lại có thể mở rộng tầm hiểu biết. Bản dịch tiếng Việt Vô gia đình, Hà Mai Anh dịch. Không gia đình, Huỳnh Lý dịch Ngoài ra, tác phẩm Cay đắng mùi đời được Hồ Biểu Chánh viết phỏng theo Không gia đình. Phim 2018 - Remi, Nobody's Boy của Antoine Blosser - Pháp 2018 Phim chiều rạp, khởi chiếu ngày 24/12/2018 (Việt Nam) 2000 - Sans famille của Jean-Daniel Verhaeghe, với Pierre Richard, Jules Sitruk, Stefano Dionisi, Veronica Ferres, Marianne Sägebrecht, Claude Jade, Bernard Fresson, Marcel Dossogne, Philippe Nahon, Frederic Deban, Rose Thiery... 1984 - Không gia đình (phim truyền hình Liên Xô) 1981 - Sans famille, chương trình TV 1977 - Rittai anime ie naki ko Remi, chương trình hoạt họa TV, tiếng Nhật 1965 - Théâtre de la jeunesse: Le Sans famille, đạo diễn Yannick Andréi, với Bernard Jeantet, Michel Vitold, Andrée Tainsy, Marcel Pérès... 1958 - Sans famille, đạo diễn André Michel, với Gino Cervi, Joël Flateau, Simone Renant, Paulette Dubost, Maurice Teynac... 1946 - Senza famiglia, đạo diễn Giorgio Ferroni, với Luciano De Ambrosis, Erminio Spalla, Bianca Doria, Elio Steiner..., tiếng Ý 1934 - Sans famille, đạo diễn Marc Allégret, với Jeanne Bérangère, Aimé Clariond, Pierre Darteuil... 1925 - Sans famille, phim câm, đạo diễn Georges Monca và Maurice Kéroul 1913 - Sans famille, phim câm, đạo diễn Georges Monca Xem thêm Trong gia đình cũng của tác giả Hector Malot Oliver Twist của Charles Dickens Tham khảo Liên kết ngoài Tác phẩm của Hector Malot tại Project Gutenberg Hector Malot Tiểu thuyết Pháp Văn học thiếu nhi Pháp Truyện thiếu nhi Tiểu thuyết năm 1878
25954
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%E1%BA%ADt%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
Nhật (định hướng)
Từ Nhật trong tiếng Việt có nhiều nghĩa: Nhật Bản, quốc gia ở Đông Á Một từ Hán-Việt có nghĩa là Mặt Trời hay ngày (日, bính âm: rì), được dùng trong các cụm từ như nhật thực, nhật ký Hình chữ nhật, theo chữ Hán
25959
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BB%9D%20t%C6%B0%E1%BB%9Bng
Cờ tướng
Cờ tướng hay Cờ tướng Trung Quốc (; , âm Hán-Việt: Tượng kỳ, ), là một trò chơi trí tuệ đối kháng dành cho hai người có nguồn gốc từ Trung Hoa. Đây là loại cờ phổ biến tại các nước như Trung Quốc đại lục, Hồng Kông, Ma Cao, Đài Loan, Singapore, Malaysia và Việt Nam nằm trong cùng một thể loại cờ với cờ vua, shogi, janggi, makruk,... Trò chơi này mô phỏng cuộc chiến giữa hai quốc gia, với mục tiêu là bắt được Tướng của đối phương. Các đặc điểm khác biệt của cờ tướng so với các trò chơi cùng họ là: các quân đặt ở giao điểm các đường thay vì đặt vào ô, quân Pháo phải nhảy qua 1 quân khi ăn quân, các khái niệm sông và cung nhằm giới hạn các quân Tướng, Sĩ và Tượng. Cờ tướng với phiên bản hiện đại mà chúng ta biết ngày nay có từ thời Nam Tống. Giới thiệu Mục đích của ván cờ Ván cờ được tiến hành giữa hai người, một người cầm quân Đỏ đi trước, một người cầm quân Đen (hoặc Xanh lam hoặc Xanh lục hoặc Trắng) đi sau. Mục đích của mỗi người là tìm mọi cách đi quân trên bàn cờ theo đúng luật để chiếu bí hay bắt Tướng (hay Soái) của đối phương. Bàn cờ và quân cờ Bàn cờ là hình chữ nhật do 9 đường dọc và 10 đường ngang cắt nhau vuông góc tại 90 điểm hợp thành. Một khoảng trống gọi là sông nằm ngang giữa bàn cờ, chia bàn cờ thành hai phần đối xứng bằng nhau. Mỗi bên có một Cửu cung hình vuông do 4 ô hợp thành tại các đường dọc 4, 5, 6 kể từ đường ngang cuối của mỗi bên, trong 4 ô này có vẽ hai đường chéo nhằm hạn chế nước đi của các quân Tướng (hay Soái) và Sĩ. Theo quy ước, khi bàn cờ được quan sát chính diện, phía dưới sẽ là quân Đỏ, phía trên sẽ là quân Đen (Xanh lam hoặc Xanh lục hoặc Trắng). Các đường dọc bên Đỏ được đánh số từ 1 đến 9 từ phải qua trái. Các đường dọc bên Đen (Xanh lam hoặc Xanh lục hoặc Trắng) được đánh số từ 9 tới 1 từ phải qua trái. Mỗi ván cờ lúc bắt đầu phải có 32 quân cờ chia đều cho mỗi bên gồm 16 quân Đỏ và 16 quân Đen (Xanh lam hoặc Xanh lục hoặc Trắng), gồm bảy loại quân. Tuy tên quân cờ của mỗi bên có thể viết khác nhau (ký hiệu theo chữ Hán) nhưng giá trị và cách đi quân của chúng lại giống nhau hoàn toàn. bảy loại quân có ký hiệu và số lượng cho mỗi bên như sau: Lịch sử Các loại cờ cổ theo kiểu mô phỏng chiến trận và chiến thuật đã có tại Trung Hoa vào thời Chiến Quốc. Theo Murray thì một trò chơi có tên gọi "tượng kỳ" đã được đề cập đến ở thời Chiến Quốc; theo tài liệu ở thế kỷ I TCN có tên Thuyết Uyển (說苑), đây là một thú vui của Mạnh Thường Quân. Tuy nhiên không thấy mô tả luật của trò chơi này và cũng không có gì đảm bảo nó có quan hệ với cờ tướng hiện đại. Bắc Chu Vũ Đế viết một cuốn sách vào năm 569 có tên Tượng kinh. Cuốn sách đó mô tả luật của một trò chơi dựa trên thiên văn học có tên tượng kỳ hoặc tượng hí (象戲). Vì những lý do đó, Murray đưa ra giả thuyết "tại Trung Quốc [cờ tướng] đã chiếm lấy bàn cờ và tên gọi một trò chơi có tên tượng kỳ với nghĩa là 'trò chơi thiên văn học', đại diện cho những chuyển động rõ ràng của các vật thể thiên văn học có thể nhìn được bằng mắt trần trên bầu trời đêm và những tài liệu Trung Quốc cổ xưa đề cập đến tượng kỳ với nghĩa trò chơi thiên văn học chứ không phải cờ tướng". Tuy nhiên, sự liên hệ giữa tượng và thiên văn học không thật sự đáng kể và sự nảy sinh việc các chòm sao được gọi là "hình tượng" trong ngữ cảnh thiên văn học cũng ít có khả năng hơn; cách sử dụng này có thể khiến một số tác giả Trung Hoa cổ đưa ra giả thuyết rằng tượng kỳ băt đầu là mô phỏng của thiên văn học. Để củng cố cho luận điểm của mình, Murray dẫn ra một nguồn Trung Hoa cổ nói rằng trong cờ tướng cổ (cờ tướng hiện đại có thể đã sử dụng một số luật của nó) những quân cờ có thể xáo trộn được. Đặc điểm này không có ở cờ tướng hiện đại. Murray cũng viết rằng Trung Hoa cổ có nhiều hơn một trò chơi với tên tượng kỳ. Theo một giả thuyết khác, sự phát triển của cờ tướng được bắt nguồn từ Saturanga, một loại cờ cổ được phát minh ở Ấn Độ từ thế kỷ V đến thế kỷ VI (trước cờ tướng khoảng 200 năm). Saturanga được phát minh từ Ấn Độ, sau đó đi về phía Tây, trở thành cờ vua và đi về phía Đông trở thành cờ tướng. Loại cờ hiện đại có từ khoảng thế kỷ VII ở Trung Quốc. Cờ tướng cổ đại không có quân Pháo và sông. Các nhà nghiên cứu đều thống nhất là quân Pháo được bổ sung từ cuối thời nhà Đường và hoàn thiện như ngày hôm nay vào thời nhà Tống bởi cho tới thời đó, con người mới tìm ra vũ khí pháo để sử dụng trong chiến tranh. Tuy nhiên, người Trung Hoa đã cải tiến bàn cờ Saturanga như sau: Họ không dùng "ô", không dùng hai màu để phân biệt ô, mà họ chuyển sang dùng "đường" để đặt quân và đi quân. Chỉ với động tác này, họ đã tăng thêm số điểm đi quân từ 64 của Saturanga lên 81. Đã là hai quốc gia đối kháng thì phải có biên giới rõ ràng, từ đó, họ đặt ra "hà", tức là sông. Khi "hà" xuất hiện trên bàn cờ, 9 điểm đặt quân nữa được tăng thêm. Như vậy, bàn cờ tướng bây giờ đã là 90 điểm so với 64, đó là một sự mở rộng đáng kể. Tuy nhiên, diện tích chung của bàn cờ hầu như không tăng mấy (chỉ tăng thêm 8 ô) so với số điểm tăng lên tới một phần ba. Đã là quốc gia thì phải có cung cấm (宮) và không thể đi khắp bàn cờ như kiểu Saturanga được. Thế là "Cửu cung" đã được tạo ra. Điều này thể hiện tư duy phương Đông hết sức rõ ràng. Bàn cờ Saturanga có hình dáng quân cờ là những hình khối, nhưng cờ Tướng thì quân nào trông cũng giống quân nào, chỉ có mỗi tên là khác nhau, lại được viết bằng chữ Hán. Đây có thể là lý do khiến cờ tướng không được phổ biến bằng cờ vua, chỉ cần liếc qua là có thể nhận ra đâu là Vua, đâu là Hoàng hậu, kỵ sĩ, v.v. Tuy nhiên, đối với người Trung Hoa thì việc thuộc mặt cờ này là không có vấn đề gì khó khăn. Gần đây ngày càng có nhiều ý kiến đề nghị cải cách hình dáng các quân cờ tướng và trên thực tế người ta đã đưa những phác thảo của những bộ quân mới bằng hình tượng thay cho chữ viết, nhất là khi cờ tướng được chơi ở những nước không sử dụng tiếng Trung. Với sự thay đổi bố cục bàn cờ, người Trung Hoa đã phải có những điều chỉnh để lấy lại sự cân bằng cho bàn cờ. Đó chính là những ngoại lệ mà người chơi phải tự nhớ. (Xem thêm phần Mã, Tướng). Xuất xứ tên gọi Người Trung Hoa đặt tên cho cờ này là Tượng kỳ (象棋) với ý nghĩa cờ hình tượng (theo chữ Hán) chứ không phải vì có quân tượng (voi) trên bàn cờ. Cũng có một số tài liệu lý giải rằng, vì Trung Hoa trước thời nhà Nguyên (1271-1368)... thì không có voi, khi họ tiếp nhận Saturanga thấy trong các quân cờ có quân voi lạ nên người Trung Hoa bèn gọi là "tượng kỳ" để kỷ niệm một loại cờ lạ có con voi. Như thế có người suy ra "tượng kỳ" có nghĩa là cờ voi. Trong tiếng Việt, từ trước tới nay trò chơi này được gọi là cờ tướng do trong bàn cờ quân Tướng là quan trọng nhất. Các quân cờ Tướng/Soái (帥/將) Quân Tướng đi từng ô một, đi ngang hoặc dọc và luôn luôn ở trong phạm vi cung, không được ra ngoài. Tuy nhiên trong nhiều tình huống, đặc biệt khi cờ tàn đòn "lộ mặt tướng" lại tỏ ra rất mạnh (Tướng có thể ăn Tướng đối phương nếu Tướng đối phương để lộ mặt). Tướng được chốt chặt trong cung và có tới 2 Sĩ và Tượng canh gác hai bên. Sĩ (仕/士) Quân Sĩ đi chéo 1 ô mỗi nước và luôn luôn phải ở trong cung. Như vậy, quân Sĩ có 5 giao điểm có thể đứng hợp lệ và là quân cờ yếu nhất. Sĩ có vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ Tướng, mất Sĩ sẽ là nguy hiểm khi đối phương còn đủ 2 Xe. Người biết chơi thường hay dùng 1 Pháo đổi 2 Sĩ rồi dùng 2 Xe hoặc Xe kết hợp với Mã, Tốt để tấn công là đòn chiến thuật thường thấy. Khi cờ tàn còn Pháo thì phải chú ý bảo vệ Sĩ vì Sĩ còn được dùng để làm ngòi cho Pháo tấn công. Tượng/Tịnh (相/象) Quân Tượng đi chéo đúng 2 ô mỗi nước và không được phép đi qua sông. Vì vậy, trên bàn cờ mỗi bên có 7 vị trí mà quân Tượng có thể đi được. Tượng sẽ không thể đi được nếu có một quân cờ nằm giữa nước đi của Tượng, khi đó gọi là Tượng bị cản và vị trí cản được gọi là "mắt Tượng". Tượng có vai trò bảo vệ Tướng từ xa, mất Tượng sẽ là nguy hiểm khi đối phương còn đủ 2 Pháo. Người biết chơi thường hay dùng 1 Mã đổi 2 Tượng rồi dùng 2 Pháo hoặc Pháo kết hợp với Xe, Tốt để tấn công cũng là đòn chiến thuật thường thấy. Khả năng phòng thủ của Tượng nhỉnh hơn Sĩ. Xe/Xa (俥/車) Quân Xe đi ngang hoặc dọc trên bàn cờ và không được phép nhảy qua đầu các quân khác. Xe được coi là quân cờ mạnh nhất. Giá trị của Xe thường tính là bằng 2 Pháo hoặc Pháo Mã. Khai cuộc hai bên thường tranh thủ đưa các quân Xe ra các đường dọc thông thoáng, dễ phòng thủ và tấn công. Pháo (炮/砲) Quân Pháo đi ngang và dọc giống như Xe. Điểm khác biệt là Pháo muốn ăn quân thì nó phải nhảy qua đúng 1 quân nào đó (gọi là ngòi). Trừ trường hợp trên, Pháo cũng không được phép nhảy qua đầu các quân khác khi không ăn. Cờ tướng cổ đại không có quân Pháo. Các nhà nghiên cứu đều nhất trí là quân Pháo được bổ sung từ cuối thời nhà Đường. Đây là quân cờ ra đời muộn nhất trên bàn cờ tướng vì tới thời đó, pháo được sử dụng trong chiến tranh với hình thức là máy bắn đá. Bấy giờ, từ Pháo (砲) trong chữ Hán được viết với bộ "thạch", nghĩa là đá. Cho đến đời nhà Tống, khi loại pháo mới mang thuốc nổ được phát minh thì từ Pháo (炮) được viết với bộ "hỏa". Hiện nay, có nhiều bộ cờ tướng thiết kế quân Pháo không có bộ "thạch" hoặc bộ "hỏa" (包). Do đặc điểm phải có ngòi khi tấn công, Pháo thường dùng Tốt của quân mình để tấn công trong khai cuộc, hoặc dùng chính Sĩ hay Tượng của mình làm ngòi để chiếu hết tướng đối phương trong tàn cuộc. Trên thực tế thì có tới 70% khai cuộc là dùng Pháo đưa vào giữa dọa bắt tốt đầu của đối phương, gọi là thế Pháo đầu hay Trung pháo. Đối phương có thể dùng Pháo đối lại cũng vào giữa. Nếu bên đi sau đưa Pháo cùng bên với bên đi trước thì khai cuộc gọi là trận Thuận Pháo, đi Pháo vào ngược bên nhau gọi là trận Nghịch Pháo (hay Liệt Pháo). Mã (傌/馬) Quân Mã đi ngang (hay dọc) 1 ô và chéo (theo cùng hướng đi trước đó) 1 ô. Nếu có quân cờ nào đó nằm ngay trên đường đi thì Mã bị cản, không được đi đường đó. Mã do không đi thẳng, lại có thể bị cản nên mức độ cơ động của quân này kém hơn Xe và Pháo. Khi khai cuộc, Mã kém hơn Pháo. Khi tàn cuộc, Mã trở nên mạnh hơn Pháo. Tốt/Binh (兵/卒) Quân Tốt đi 1 bước. Nếu Tốt chưa qua sông, nó chỉ được đi thẳng. Nếu Tốt đã qua sông thì được đi ngang hoặc thẳng, không được đi lùi. Khi đi đến đường biên ngang cuối cùng bên phần sân đối phương, lúc này, chúng được gọi là Tốt lụt, và chỉ có thể đi ngang theo hàng ngang đó 1 bước. Trong khai cuộc, việc thí Tốt là chuyện tương đối phổ biến. Ngoại trừ việc phải bảo vệ Tốt đầu, các quân Tốt khác thường xuyên bị xe pháo mã ăn mất. Việc mất mát một vài Tốt ngay từ đầu cũng được xem như việc thí quân. Đến cờ tàn, giá trị của Tốt tăng nhanh và số lượng Tốt khi đó có thể đem lại thắng lợi hoặc chỉ hòa cờ. Khi đó việc đưa được Tốt qua sông và tới gần cung Tướng của đối phương trở nên rất quan trọng. Tốt khi đến tuyến áp đáy, ép sát cung Tướng thì Tốt mạnh như Xe. Các luật khác Lộ mặt Tướng: Hai quân Tướng không được đối mặt nhau trên cùng một cột. Luôn luôn phải có ít nhất một quân nào đó nằm ở giữa để che mặt. Nước đi để hai Tướng đối mặt là không hợp lệ và bị xem như phạm lỗi kỹ thuật. An toàn của Tướng: Tướng không được phép di chuyển tới các ô mà đối phương đang có quyền kiểm soát hoặc ăn quân có bảo vệ của đối phương. Nước đi để Tướng bị ăn mất trong nước tiếp theo là không hợp lệ. Mã bị cản theo đường thẳng hướng đi của 1/2 hình tam giác, tượng bị cản theo hướng đường chéo đầu tiên trong hai đường chéo đi đến. Khác với cờ vua, khi một bên hết nước đi hợp lệ, thì bên còn lại thắng (bức tử) . Khi cả hai bên hết khả năng chiếu hết Tướng của đối phương, ván cờ sẽ được xử hoà. Khi cả hai bên lặp đi lặp lại những nước cờ giống nhau mà không có lỗi vi phạm (bất biến), ván cờ sẽ được xử hoà (trừ khi một bên có biến hoá mới). Khác với cờ vua, khi một bên chiếu mãi Tướng của đối phương mà không thay đổi nước đi thì bên đó vi phạm luật chơi và bị xử thua. Tuy nhiên nếu một bên áp dụng 'nhất chiếu nhất cách' (chiếu Tướng một lần sau đó lại đi một nước khác nước chiếu Tướng, và cứ liên tục như vậy) thì ván cờ sẽ được xử hoà (nếu không phát sinh thêm biến hoá mới). Luật bắt quân liên tục (luật trường tróc): Trừ Tướng ra thì việc dùng một hay nhiều mẫu quân để dọa bắt quân của đối phương liên tục khi quân đó không thể bắt lại quân của mình hoặc quân đó chưa có quân khác bảo vệ là vi phạm luật chơi. Trường hợp quân bị dọa bắt là quân Tốt chưa sang sông thì không vi phạm. Ký hiệu các vị trí trên bàn cờ .Để ký hiệu vị trí trên bàn cờ, người ta đánh số từ 1 đến 9 cho đường dọc, và đặt tên cho đường ngang gọi là các tuyến cho hai bên người chơi, Đường dọc (Lộ) Vị trí của đường dọc được ký hiệu bằng các chữ số Ả rập hoặc chữ số Trung Quốc từ 9 đến 1 từ phải qua trái theo hướng nhìn của mỗi người chơi. Đường ngang (Tuyến) Vị trí đường ngang được ký hiệu bằng tên các tuyến mỗi bên gồm có 5 tuyến từ tuyến hà đến tuyến đáy. Cách ghi nước đi Trong các thế cờ, để ghi lại vị trí và sự dịch chuyển quân cờ, người ta thường ghi lại các nước đi như sau: Dấu chấm (.) là tấn Dấu gạch ngang (–) là bình Dấu gạch chéo (/) là thoái Các quân cờ được viết tắt như sau: Tướng là Tg Sĩ là S Tượng là T (trước đây là V (Voi)) Xe là X Pháo là P Mã là M Tốt hoặc Binh là B Hệ thống 1: The Chess of China của Dennis A. Leventhal Các đường ngang của bàn cờ được đánh số từ 1 đến 10 từ gần nhất đến xa nhất, theo sau là một chữ số 1 đến 9 cho các đường dọc từ phải sang trái cho mỗi bên. Mỗi nước được ghi theo thứ tự: số thứ tự nước đi, tên quân cờ, vị trí đường ngang cũ, vị trí đường dọc cũ, vị trí đường ngang mới, vị trí đường dọc mới. Ví dụ, nước đầu, Đỏ đi Pháo từ (3; 2) đến (3; 5), bên Đen Mã từ (1; 8) đến (3; 7) thì ghi: P(32)–35 M(18)–37 Nước thứ hai, Đỏ đưa Pháo từ (3; 8) đến (2; 8), Đen đưa Tốt từ (4; 7) đến (5; 7) P(38)–28 B(47)–57 Hệ thống 2: A Manual of Chinese Chess của Charles Fred Wilkes Đây là hệ thống ghi chép được dùng phổ biến ở Việt Nam. Mỗi nước được ghi theo thứ tự: số thứ tự nước đi, tên quân cờ, vị trí cũ, hướng dịch chuyển và số bước di chuyển/vị trí mới. Ví dụ, nước đầu, Đỏ đi Pháo 2 bình 5, bên Đen mã 8 tấn 7 thì ghi: P2–5 M8.7 Nước thứ hai, Đỏ đưa Pháo ở cột 8 lùi 1 bước, Đen đưa Tốt cột 7 lên một bước. P8/1 B7.1 Nếu 2 Pháo (hay Mã, Xe) nằm trên một đường thì ghi Pt (hoặc Mt, Xt) là Pháo trước (hoặc Mã trước, Xe trước), Ps (hoặc Ms, Xs) là Pháo sau (hoặc Mã sau, Xe sau). Trong trường hợp cả 5 quân Tốt (Binh) nằm trên cùng một cột thì ký hiệu: Tốt trước/Binh trước (Bt) Tốt trước giữa/Binh trước giữa (Btg) Tốt giữa/Binh giữa (Bg) Tốt sau giữa/Binh sau giữa (Bsg) Tốt sau/Binh sau (Bs) Hệ thống 3: Trước năm 1955 và các giải đấu dành cho các đấu thủ không phải là gốc Hoa và gốc Việt Ký hiệu của một quân cờ được lấy là chữ cái đầu của tên các quân cờ, riêng quân Tốt thì không lấy chữ cái nào cả. Quy tắc thống nhất đối với tất cả các nước: đặt tên các cột từ a đến i từ bên tay trái sang bên phải theo phía người cầm quân Trắng, đánh số các hàng từ 1 đến 10 (từ phía quân Trắng sang quân Đen). Tên một ô là sự kết hợp tên một cột với số của một hàng. Mỗi nước được ghi theo thứ tự: tên quân cờ, ô xuất phát, ô đến. Ví dụ, nước đầu, Đỏ đi Pháo từ h3 đến e3, bên Đen Mã từ h9 đến g8 thì ghi: Ph3–e3 Mh9–g8 hay Phe3 Mg8 Ví dụ về trường hợp chiếu hết chỉ sau 4 nước: Pbe3 Phe8 Ph6? Pb4? Pxe7+? Pexe4?? Phe6# Nước ăn quân thường được ký hiệu bằng dấu nhân (x). Nước chiếu Tướng có ký hiệu là dấu cộng (+), nước chiếu đôi (hai quân cùng chiếu Tướng) có ký hiệu là hai dấu cộng (++) và chiếu hết có ký hiệu là dấu thăng (#). Các giai đoạn của một ván cờ Người ta thường chia ván cờ ra làm ba giai đoạn: khai cuộc, trung cuộc và tàn cuộc. Khai cuộc Thường khai cuộc được tính trong khoảng 5-12 nước đầu tiên. Các nghiên cứu mới cho biết khai cuộc đóng góp rất quan trọng vào khả năng thắng của một ván cờ. Khai cuộc có thể đóng góp đến 40% trong khi trung cuộc và tàn cuộc đóng góp 30% mỗi giai đoạn. Có rất nhiều dạng khai cuộc khác nhau, nhưng nói chung, có thể chia khai cuộc thành hai loại chính: khai cuộc Pháo đầu và khai cuộc không Pháo đầu. Khai cuộc Pháo đầu Tên của các khai cuộc được đặt tuỳ theo cách đi của bên đi sau, chỉ nêu vài loại chính: Khai cuộc không Pháo đầu Trung cuộc Khai cuộc và tàn cuộc do có vị trí và số lượng quân cờ có thể quy chung về một số dạng chính nên người ta đã nghiên cứu và tổng kết được các dạng như trên. Còn ở trung cuộc, thế cờ lúc này theo kiểu "trăm hoa đua nở" nên chủ yếu vận dụng các chiến thuật cơ bản như: Lưỡng chiếu: 2 quân cờ chiếu cùng lúc Bắt đôi: cùng một lúc đuổi bắt hai quân. Nội kích: đánh từ phía trong. Kích thẳng vào Tướng. Tả hữu giáp công: kích vào cả hai cánh cùng một lúc. Chiếu tướng bắt quân. Điệu hổ ly sơn: làm cho một quân hay Tướng phải rời vị trí của nó. Dẫn dụ: đây là đòn thu hút quân đối phương đến vị trí dễ bị công kích hoặc bị vây hãm, sau đó kết hợp với chiến thuật bịt chắn lối đi, đường rút của đối phương. Tạo ách tắc: dùng chiến thuật thí quân để gây ách tắc, hết đường cựa của đối phương. Ngăn trở, chia cắt: đòn này thường dùng cách thí quân để làm sự liên lạc giữa các quân bị cắt đứt. Khống chế: chiến thuật này ngằm ngăn trở tầm hoạt động và sự cơ động của đối phương. Dịch chuyển: chiến thuật này chú ý đến sự linh hoạt của các quân. Bao vây. Trợ sức: các quân trợ sức cho nhau để cùng chiếu. Vu hồi: đánh vòng từ phía sau. Qua lại: chiến thuật này dùng để thủ thế hay công sát. Quấy nhiễu. Vây điểm diệt viện: vây chặt quân nào đó của đối phương rồi đánh quân tới cứu viện. Nước đợi chờ: đi nước không có tác dụng để nhường đối phương, làm đối phương hết nước đi mà thua cờ. Giam quân: khi một bên đang trong tình thế nguy hiểm, nhưng sử dụng một nước khéo léo giam quân mạnh của đối phương (có thể dùng cách thí quân), sau đó dùng các quân còn lại để gỡ bí. Vừa đỡ vừa chiếu lại. Vừa đỡ vừa trả đòn. Trung tàn Trung tàn là giai đoạn giữa Trung cuộc sắp chuyển sang giai đoạn Tàn cuộc, ở giai đoạn này hai bên thường bị mất một hoặc hai xe, khi hai người chơi đều đổi cả hai quân xe thì các kỳ thủ thường gọi vui là Cờ đi bộ vì khi đó ván cờ sẽ chơi theo đường dài. Tàn cuộc Tàn cuộc là giai đoạn tổng số quân cờ, đặc biệt là quân tấn công (Xe, Pháo, Mã, Tốt) cả hai bên còn rất ít. Tàn cuộc chia làm ba loại, 1, Cờ tàn thực dụng loại cờ tàn mà thắng thua được các chuyên gia nghiên cứu và giải thích rõ ràng, 2, Cờ tàn thực chiến loài này đa biến phức tạp và thắng thua khó có thể phân định được rõ ràng, 3, Cờ tàn nghệ thuật loài này được gọi là Cờ thế nó cũng được coi là cờ tàn nhưng được sắp xếp các quân cờ thành những dạng độc đáo và thường có tính chất nghệ thuật cao. Sát cuộc Sát cuộc là một giai đoán kết thúc của ván cờ, khi người chơi sử dụng một hoặc nhiều quân để chiếu hết (chiếu bí) tướng của đối phương. Các hình thức chơi cờ tướng khác Cờ bỏi Cờ bỏi cũng là một hình thức đánh cờ, nhưng bàn cờ sẽ là một cái sân rộng có kẻ ô, các quân cờ được ghi lên các tấm biển bằng gỗ, gắn vào các cột dài chừng 1 mét có đế được đặt lên các vị trí trên sân. Người chơi phải tự nhấc quân cờ để đi, trước khi đi quân, phải có hiệu lệnh bằng trống bỏi. Từng đôi một vào thi đấu ở sân cờ. Thực chất đây là một bàn cờ lớn và nhiều người có thể cùng xem được. Cờ người Trong các lễ hội dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ, cờ người là một trong những cuộc thi đấu thu hút được rất nhiều người đến xem và cổ vũ. Thông thường, nơi diễn ra trận cờ người là sân đình của làng. Quân cờ là những nam thanh nữ tú được làng kén chọn, vừa phải đẹp người, vừa phải đẹp nết. Tướng được phục trang như sau: đội mũ tướng, soái, mặc triều phục bá quan văn võ, chân đi hài thêu, lọng che. Sĩ đội mũ cánh chuồn có tua vàng. Mỗi người trong đội cờ cầm một chiếc trượng phía trên có gắn biểu tượng quân cờ được trạm trổ tinh xảo, sơn son thếp vàng lộng lẫy. Đội nam mặc áo đỏ, đội nữ mặc áo vàng với thắt lưng theo lối xưa. Trước khi vào vị trí của mỗi người trên sân cờ, cả đội cờ múa theo tiếng trống, đàn, phách. Sau khi quân cờ đã vào các vị trí, một hồi trống dài nổi lên, hai đấu thủ cờ mặc áo dài, khăn xếp xuất hiện để được giới thiệu danh tính, mỗi người cầm một cây cờ đuôi nheo ngũ sắc nhỏ để chỉ huy trận đánh. Quanh sân, hàng trong thì khán giả ngồi, hàng ngoài đứng, chăm chú thưởng thức ván cờ và bàn tán râm ran. Khi cờ đến hồi gay cấn, cả sân xôn xao, một nước xuất thần, cả sân đều ồ lên khoái trá. Nếu quân cờ nào đó đi hơi chậm là có tiếng trống bỏi lanh canh vui tai nhắc nhở "cắc...tom tom". Bên lề sân có một cái trống to thỉnh thoảng được gióng lên một hồi điểm cho những nước đi. Khi Tướng bị chiếu, tiếng trống dồn dập, đám đông lại càng đông hơn, đã náo nhiệt lại càng náo nhiệt thêm. Đặc biệt hơn trong một số lễ hội, thỉnh thoảng người ta còn đọc những lời thơ ứng khẩu bình những nước đi trong sân trên chiếc loa ở sân. Cờ tưởng Cờ tưởng là hình thức đánh cờ bằng trí tưởng tượng, không nhìn bàn cờ thật. Các đối thủ không cần phải quay lưng lại với bàn cờ mà ngồi trước một bàn cờ trống (bàn cờ thật được để bên cạnh có ngăn cách). Ngồi đối diện sau những tấm kính, hai kỳ thủ đấu trí với nhau trên bàn cờ tưởng tượng trong trí nhớ rồi viết lên một tờ giấy đưa cho đối thủ xem, sau đó trao cho trọng tài. Mỗi nước đi của vận động viên được ghi lại trên giấy, được thông báo cho đối thủ sau đó đối thủ sẽ truyền cho trọng tài ngồi ở bàn bên cạnh để thực hiện nước đi đó trên bàn cờ cho khán giả thưởng thức. Do bàn trọng tài đặt bên cạnh bàn đấu (có rèm che bàn vận động viên), nên vận động viên không được rời bàn với bất kỳ lý do gì vì sợ họ nhìn lén các nước đã đi của mình. Quốc tế đại sư Tưởng Xuyên của Trung Quốc hiện đang giữ kỷ lục thế giới về cờ tưởng. Cờ chấp Chấp quân: Quân bị chấp sẽ được bỏ ra ngoài bàn cờ ngay từ đầu. Thường là chấp Xe, Pháo, 2 Mã và 1 Mã. Chấp nước đi: Người được chấp sẽ được đi một vài nước trước, rồi mới đến lượt người chấp. Quân đi trước sẽ không được ăn quân hoặc qua sông. Thông thường chấp 1-2-3 nước đi trước, từ chuyên dùng gọi là chấp 1-2-3 tiên. Trên thực tế có thể phối hợp cả hai loại chấp trên, như chấp Mã và đi trước 2 nước (Mã 2 tiên). Cờ úp Cờ úp là hình thức đánh cờ khi mà 15 quân mỗi bên được úp ngược và sắp xếp ngẫu nhiên trừ quân tướng. Khi sắp cờ các quân cờ của mỗi bên xáo trộn ngẫu nhiên, bị úp sau đó sắp theo thế trận cờ tướng thông thường. Nước đi đầu tiên của quân cờ úp phải tuân theo luật đi của quân cờ tại vị trí mà nó đang chiếm giữ. VD: quân bị úp đang ở vị trí của quân tốt thì phải đi theo nước của quân tốt. Sau khi đi một quân cờ úp thì quân đó sẽ lật ngửa và người chơi sẽ biết được nó là quân nào và từ đó trở đi quân đó đi theo luật của quân cờ ngửa. Luật bổ sung: Quân Sĩ không bị giới hạn trong cấm cung mà có thể đi khắp bàn cờ theo luật đi chéo của nó. Quân Tượng không bị giới hạn bên phần "sân nhà" mà có thể đi sang lãnh thổ đối phương. Quân Tốt (chốt) có thể xuất phát từ dưới đường biên ngang bên phần sân nhà và đi thẳng lên, đến khi qua sông thì được đi ngang. So với cờ tướng thì cờ úp có nước đi phong phú và đa dạng hơn, vì cờ tướng úp có thêm Sĩ và Tượng chiếu bắt tướng được. Trong tình huống nguy cấp, có thể chỉ cần mở đúng quân cờ sẽ làm thay đổi cục diện ván đấu. Cờ Tam quốc Là loại cờ dành cho 3 người chơi, luật chơi và số quân của mỗi bên như nhau, không khác gì với cờ tướng bình thường. Bàn cờ thường là hình lục giác, bên nào bị mất Tướng trước thì quân bên đó sẽ được sáp nhập vào quân đã chiếm quân đó, nước bị chiếm sẽ bị người chơi của nước chiếm điều khiển tùy ý (tức là một người chơi sẽ có 2 tướng, 4 xe,...). Sau khi có 1 nước chiếm được một nước rồi thì quân bên kia sẽ chơi thế trận 1 chọi 2, bên quân chiếm được hai nước nếu bị chiếm một nước thì vẫn có thể sử dụng nước mình đã chiếm mà chơi tiếp. Cờ thế Chơi cờ thế là hình thức chơi cờ mà bàn cờ lúc ban đầu đã có sẵn các thế cờ, quân cờ đang ở các vị trí như trong một ván cờ dang dở, mức độ thế cờ từ dễ đến khó và người chơi phải thắng hoặc hòa sau một số nước đi được yêu cầu từ trước. Cờ thế hay được thấy ở các lễ hội dân gian. Cờ tướng Mãn Châu Cờ tướng bảy người chơi Thành ngữ trong cờ tướng Cờ tàn, Pháo hoàn. Khuyết Sĩ kỵ song Xa. Khuyết Tượng kỵ Pháo. Nhất Sĩ chòi góc, cóc sợ Mã công. Mã nhập cung Tướng khốn cùng. Nhất Xe sát vạn. Cờ bí dí Tốt. Được thế bỏ Xe cũng tốt, mất tiên khí tử toi công. Nhất tốt độ hà, bán xa chi lực. (Một tốt qua sông sức mạnh bằng nửa Xe) Pháo đầu Xuất tướng Xe đâm thọc. Pháo đầu, Mã đội, Tốt lên hà. Mất Xe không bằng què Tượng. Quan kỳ bất ngữ. Hạ thủ bất hoàn. Khuyết Sĩ kỵ Tốt đâm thọc. Nhất mã chiếu vô cùng Mã nhật, Tượng điền, Xe liền, Pháo cách. Tướng mất Sĩ như đĩ mất váy... Xe mười Pháo bảy Mã ba. Các câu đối và thơ về cờ tướng Câu đối: Thơ: Quan kỳ bất ngữ chân quân tử Hạ thủ vô hồi đại trượng phu (Xem cờ không nói mới thật quân tử. Nhấc tay không hoãn mới đúng trượng phu) Đừng quen pháo mạnh vọt ngang cung,  Mệnh tướng truyền ra sĩ vẫy vùng.  Voi ngự thân chinh mang mở nước,  Binh triều ngự giá giục sang sông.  Xe liên vạn sát kinh tài cả,  Mã nhựt song trì mặc sức tung.  Sau trước trong tay rành rỏi nước,  Cờ cao Hán Tổ dễ đua cùng. (Vịnh bàn cờ thắng - Trần Cao Vân) Kỷ lục cờ tướng Chơi cờ tưởng: Ngày 27 tháng 1 năm 2013 Quốc tế Đại sư Trung Quốc Tưởng Xuyên đã thi đấu cờ tưởng với 22 kỳ thủ có đẳng cấp. Kết quả, sau gần 8 giờ đồng hồ (từ 8h30 phút đến 16h12 phút) anh đã thắng 16 và hoà 6, không thua ván nào. Chơi cờ đồng loạt: Ngày 30 tháng 5 năm 1996, Từ Thiên Hồng, danh thủ cờ tướng Trung Quốc, một mình đấu cùng lúc với 100 đối thủ. Cuộc đấu cờ dài 9 giờ 28 phút với kết quả: ông thắng 83 ván, hoà 16 ván và thua 1 ván. Các giai thoại về cờ tướng Giai thoại "Thua cờ mất Hoa Sơn": Hoa Sơn là một quả núi cao ở Trung Quốc. Ván cờ được chơi giữa một bên là Triệu Khuông Dẫn (Tống Thái Tổ) và một bên là Hy di Đạo sĩ Trần Đoàn. Giai thoại "Chuyện ở Bích Mai Trang": Bích Mai Trang là ngôi biệt thự ở bên bờ con sông đào phía bắc kinh thành Huế xưa. Ván cờ được chơi giữa một bên là cụ Trịnh, chủ ngôi biệt thự trên, một lão kỳ thủ trứ danh với cô Trà Hương, một nữ kỳ thủ trẻ. Giai thoại "Chu Tấn Trinh đánh cờ": Chu Tấn Trinh là một kỳ thủ trứ danh người Trung Quốc vào thời nhà Minh, ông đã chơi một ván cờ nổi tiếng với vị sư trụ trì ngôi chùa cổ. Giai thoại "Ván cờ giữa Cao Bá Quát và vua Tự Đức". Xem thêm Các loại cờ khác Cờ thế Cờ tam quốc Cờ úp Cờ vua Shogi Janggi Saturanga Cờ vây Cờ ca-rô Cờ gánh Cờ toán Việt Nam Cờ tư lệnh Tic-tac-toe Cờ đam Cờ tướng 7 người Long kì Các danh thủ cờ tướng Kỳ thủ nam Việt Nam: Mai Thanh Minh, Trềnh A Sáng, Nguyễn Thành Bảo, Uông Dương Bắc, Nguyễn Hoàng Lâm, Lại Lý Huynh, Nguyễn Vũ Quân... Kỳ thủ nữ Việt Nam: Lê Thị Hương, Ngô Lan Hương, Hoàng Hải Bình, Lê Thị Kim Loan, Châu Thị Ngọc Giao, Phạm Thu Hà,... Kỳ thủ nam Trung Quốc: Dương Quan Lân, Vương Gia Lương, Lý Nghĩa Đình, Hồ Vinh Hoa, Liễu Đại Hoa, Hứa Ngân Xuyên, Từ Thiên Hồng, Triệu Quốc Vinh, Vương Thiên Nhất, Tưởng Xuyên, Mạnh Phồn Duệ, Trịnh Duy Đồng... Kỳ thủ nữ Trung Quốc: Đường Đan, Lang Kỳ Kỳ... Tham khảo Liên kết ngoài Liên đoàn Cờ Việt Nam Rules, openings, strategy, ancient manuals An Introduction to Xiangqi for Chess Players Presentation, rules, history and variants of xiangqi Chơi cờ tướng Cờ (trò chơi) Phát minh của Trung Quốc Trò chơi trên bàn cổ điển Trò chơi Trung Quốc Biến thể cờ
25963
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ngh%C3%A8o
Nghèo
Nghèo diễn tả sự thiếu cơ hội để có thể sống một cuộc sống tương ứng với các tiêu chuẩn tối thiểu nhất định. Thước đo các tiêu chuẩn này và các nguyên nhân dẫn đến nghèo nàn thay đổi tùy theo địa phương và theo thời gian. Tổ chức Y tế Thế giới định nghĩa nghèo theo thu nhập. Theo đó một người là nghèo khi thu nhập hàng năm ít hơn một nửa mức thu nhập bình quân trên đầu người hàng năm (Per Capita Incomme, PCI) của quốc gia. Các định nghĩa Nghèo tuyệt đối Để có một cái nhìn tổng quan về các vấn đề của các nước đang phát triển, Robert McNamara, khi là giám đốc của Ngân hàng Thế giới, đã đưa ra khái niệm nghèo tuyệt đối. Ông định nghĩa khái niệm nghèo tuyệt đối như sau: "Nghèo ở mức độ tuyệt đối... là sống ở ranh giới ngoài cùng của tồn tại. Những người nghèo tuyệt đối là những người phải đấu tranh để sinh tồn trong các thiếu thốn tồi tệ và trong tình trạng bỏ bê và mất phẩm cách vượt quá sức tưởng tượng mang dấu ấn của cảnh ngộ may mắn của giới trí thức chúng ta." Ngân hàng Thế giới xem thu nhập 1 đô la Mỹ/ngày theo sức mua tương đương của địa phương so với (đô la thế giới) để thỏa mãn nhu cầu sống như là chuẩn tổng quát cho nạn nghèo tuyệt đối. Trong những bước sau đó các trị ranh giới nghèo tuyệt đối (chuẩn) cho từng địa phương hay từng vùng được xác định, từ 2 đô la cho khu vực Mỹ La tinh và Carribean đến 4 đô la cho những nước Đông Âu cho đến 14,40 đô la cho những nước công nghiệp. (Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc 1997). Đối với Việt Nam, Chính phủ Việt Nam đã 4 lần nâng mức chuẩn nghèo trong thời gian từ 1993 đến cuối năm 2005. Theo Quyết định số 143/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 27 tháng 9 năm 2001, trong đó phê duyệt "Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói và giảm nghèo giai đoạn 2001-2005", thì những hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người ở khu vực nông thôn miền núi và hải đảo từ 80.000 đồng/người/tháng (960.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực nông thôn đồng bằng những hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người từ 100.000 đồng/người/tháng (1.200.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực thành thị những hộ có thu nhập bình quân đầu người từ 150.000 đồng/người/tháng (1.800.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo. Theo Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 8 tháng 7 năm 2005 về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006-2010 thì ở khu vực nông thôn những hộ có mức thu nhập bình quân từ 200.000 đồng/người/tháng (2.400.000 đồng/người/năm)trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực thành thị những hộ có thu nhập bình quân từ 260.000 đồng/người/tháng (dưới 3.120.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo. Tiêu chuẩn nghèo tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2004 là thu nhập bình quân đầu người dưới 330.000 đồng/tháng hoặc 4.000.000 đồng/năm (tương ứng 284USD/năm thấp hơn tiêu chuẩn 360 USD/năm của quốc tế). Nghèo tương đối Trong những xã hội được gọi là thịnh vượng, nghèo được định nghĩa dựa vào hoàn cảnh xã hội của cá nhân. Nghèo tương đối có thể được xem như là việc cung cấp không đầy đủ các tiềm lực vật chất và phi vật chất cho những người thuộc về một số tầng lớp xã hội nhất định so với sự sung túc của xã hội đó. Nghèo tương đối có thể là khách quan, tức là sự hiện hữu không phụ thuộc vào cảm nhận của những người trong cuộc. Người ta gọi là nghèo tương đối chủ quan khi những người trong cuộc cảm thấy nghèo không phụ thuộc vào sự xác định khách quan. Bên cạnh việc thiếu sự cung cấp vật chất (tương đối), việc thiếu thốn tài nguyên phi vật chất ngày càng có tầm quan trọng hơn. Việc nghèo đi về văn hóa-xã hội, thiếu tham gia vào cuộc sống xã hội do thiếu hụt tài chính một phần được các nhà xã hội học xem như là một thách thức xã hội nghiêm trọng. Ranh giới nghèo tương đối Ranh giới cho nạn nghèo tương đối dựa vào nhiều số liệu thống kê khác nhau cho một xã hội. Một con số cho ranh giới của nạn nghèo được dùng trong chính trị và công chúng là 50% hay 60% của thu nhập trung bình. Vì thế từ năm 2001 trong các nước thành viên của Liên minh châu Âu những người được coi là nghèo khi có ít hơn 60% trị trung bình của thu nhập ròng tương đương. Lý luận của những người phê bình cho rằng con số này trên thực tế cho biết rất ít về chuẩn mực cuộc sống của con người. Những ai hiện tại có ít hơn 50% của thu nhập trung bình thì cũng vẫn có ít hơn 50% của trung bình khi tất cả các thu nhập đều tăng gấp 10 lần. Vì thế những người đó vẫn còn là nghèo tương đối. Và khi những người giàu bỏ đi hay mất tiền của thì sẽ giảm trung bình của thu nhập đi và vì thế làm giảm thiểu nghèo tương đối trong một nước. Ngược lại nghèo tương đối sẽ tăng lên khi một người không nghèo có thể tăng được thu nhập ngay cả khi những người có thu nhập khác vẫn không có thay đổi. Người ta còn phê bình là ranh giới nghèo trộn lẫn vấn đề nghèo với vấn đề phân bố thu nhập. Vì một sự phân chia rõ ràng giữa nghèo và giàu trên thực tế không có nên khái niệm ranh giới nguy cơ nghèo cũng hay được dùng cho ranh giới nghèo tương đối. Ngược với ranh giới nghèo tương đối, các phương án tính toán ranh giới nghèo tuyệt đối đã đứng vững. Các ranh giới nghèo tuyệt đối được tính toán một cách phức tạp bằng cách lập ra những giỏ hàng cần phải có để có thể tham gia vào cuộc sống xã hội. Các ranh giới nghèo tương đối và nghèo tuyệt đối đều không có thể xác định được nếu như không có trị số tiêu chuẩn cho trước. Việc chọn lựa một con số phần trăm nhất định từ thu nhập trung bình và ngay cả việc xác định một giỏ hàng đều không thể nào có thể được giải thích bằng các giá trị tự do. Vì thế mà chúng được quyết định qua những quá trình chính trị. Định nghĩa theo tình trạng sống Cái gọi là định nghĩa tình trạng sống lưu ý đến những khía cạnh khác ngoài thu nhập khi định nghĩa "nghèo con người", thí dụ như cơ hội đào tạo, mức sống, quyền tự quyết định, ổn định về luật lệ, khả năng ảnh hưởng đến những quyết định chính trị và nhiều khía cạnh khác. Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc cũng đã đưa ra chỉ số phát triển con người (tiếng Anh: human development index–HDI). Các chỉ thị cho HDI bao gồm tuổi thọ dự tính vào lúc mới sinh, tỷ lệ mù chữ, trình độ học vấn, sức mua thực trên đầu người và nhiều chỉ thị khác. Trong "Báo cáo phát triển thế giới 2000" Ngân hàng Thế giới đã đưa ra bên cạnh các yếu tố quyết định khách quan cho sự nghèo là những yếu tố chủ quan như phẩm chất và tự trọng. Nguyên nhân Những nguyên nhân chính dẫn đến nghèo được liệt kê ra là chiến tranh, cơ cấu chính trị (thí dụ như chế độ độc tài, các quy định thương mại quốc tế không công bằng), cơ cấu kinh tế (phân bố thu nhập không cân bằng, tham nhũng, nợ quá nhiều, nền kinh tế không có hiệu quả, thiếu những nguồn lực có thể trả tiền được), thất bại quốc gia, tụt hậu về công nghệ, tụt hậu về giáo dục, thiên tai, dịch bệnh, dân số phát triển quá nhanh và không có bình đẳng nam nữ. Yếu tố nguy hiểm chính cho sự nghèo tương đối là thất nghiệp và thiếu việc làm. Ngoài ra những yếu tố nguy hiểm khác là phân bố thu nhập quá mất cân bằng, thiếu giáo dục và bệnh tật mãn tính. Cho đến thế kỷ 19 sự nghèo nàn phần lớn không được xem như là có nguyên nhân từ xã hội mà là do lỗi lầm cá nhân hay "trời muốn". Cùng với công nghiệp hóa và các tranh cãi chung quanh "câu hỏi xã hội" tại châu Âu, quan điểm cho rằng hiện tượng nghèo nàn phổ biến là kết quả của sự thất bại của thị trường và có thể được làm giảm thiểu bằng các biện pháp quốc gia. Thí dụ như ở Liên hiệp Anh, việc chống nghèo chính là khởi điểm của một chính sách xã hội hiện đại. Thế nhưng trong thời gian gần đây hiệu quả của việc chống nghèo bằng chính sách xã hội tại nhiều nước công nghiệp đã bị đặt câu hỏi vì nhiều hình thức nghèo mới xuất hiện. Mức độ Nghèo trên toàn thế giới Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới thì trong năm 2001 trên toàn thế giới có 1,1 tỉ người (tương ứng với 21% dân số thế giới) có ít hơn 1 đô la Mỹ tính theo sức mua địa phương và vì thế được xem là rất nghèo. (Năm 1981 là 1,5 tỉ người, vào thời gian đó là 40% dân số thế giới, năm 1987 là 1,227 tỉ người tương ứng 30% và năm 1993 là 1,314 tỉ người tương đương với 29%). Phần lớn những người này sống tại châu Á, thế nhưng thành phần những người nghèo trong dân cư tại châu Phi lại còn cao hơn nữa. Các thành viên của Liên Hợp Quốc trong cuộc họp thượng đỉnh thiên niên kỷ năm 2000 đã nhất trí với mục tiêu cho đến năm 2015 giảm một nửa số những người có ít hơn 1 đô la Mỹ. (Điểm 1 của những mục đích phát triển thiên niên kỷ). Theo thông tin của Ngân hàng Thế giới vào tháng 4 năm 2004 thì có thể đạt được mục đích này nhưng không phải ở tất cả các nước. Trong khi nhờ vào tăng trưởng kinh tế tại nhiều vùng của châu Á, tỷ lệ người nghèo giảm xuống rõ rệt (từ 58% xuống còn 16% tại Đông Á) thì con số những người nghèo nhất lại tăng lên ở châu Phi (gần gấp đôi từ 1981 đến 2001 phía Nam sa mạc Sahara). Tại Đông Âu và Trung Á con số những người nghèo nhất đã tăng lên đến 6% dân số. Nếu như đặt ranh giới nghèo là 2 đô la Mỹ mỗi ngày thì có tổng cộng là 2,7 tỉ người nghèo, gần một nửa dân số thế giới. Nếu xếp theo thu nhập bình quân đầu người thì các nước sau có tỉ lệ người nghèo cao nhất: Malawi, Tanzania, Guiné-Bissau, Burundi và Yemen Bên cạnh nguyên nhân chính trị, nghèo đói cũng là một nguyên nhân lớn của hiện tượng dân di cư từ vùng núi về đồng bằng, từ nông thôn về thành thị, từ các nước thứ ba về các nước phát triển gây nên hiện tượng thuyền nhân. Nạn nghèo tại Áo Theo số liệu của Bộ Xã hội ("Báo cáo về tình trạng xã hội 2003–2004") thì trong năm 2003 có hơn 1 triệu người ở Áo (13,2% dân cư) có nguy cơ nghèo. Trong năm 2002 là 900.000 hay 12%, năm 1999 là 11%. Ranh giới nguy cơ nghèo là 60% của thu nhập trung bình. Theo đó thì cứ mỗi 8 người thì có một người là có thu nhập ít hơn 785 Euro/tháng. Phụ nữ có tỷ lệ nguy cơ nghèo cao hơn (14%). Bên cạnh nghèo về thu nhập như là chỉ số cho tình trạng tài chính của một gia đình, ở Áo còn có „nghèo nguy kịch" khi ngoài việc thiệt thòi về tài chính còn có thiếu thốn hay hạn chế nhất định trong những lãnh vực sống cơ bản. Trong năm 2003 có 467.000 người (5,9% dân số) nghèo nguy kịch. Trong năm trước còn là 300.000 người hay 4%. Theo một bản báo cáo của hội nghị về nạn nghèo, lần đầu tiên có số liệu về cái gọi là "working poor": tại Áo có 57.000 người nghèo mặc dầu là có việc làm. Ngoài ra mức độ nguy cơ nghèo phụ thuộc vào công việc làm: Những người làm việc cho đến 20 tiếng hằng tuần có nguy cơ nghèo gấp 3 lần, những người làm việc từ 21 đến 30 tiếng có nguy cơ nghèo gấp đôi những người làm việc từ 31 đến 40 tiếng. Nạn nghèo tại Đức Thu nhập tương đương sau thuế hằng tháng do Cục Thống kê Liên bang tính toán vào năm 2002 là 1.217 Euro trong các tiểu bang cũ và 1.008 Euro trong các nước tiểu bang mới. Theo các tiêu chí của Liên minh châu Âu cho ranh giới nghèo (60%) thì như vậy ranh giới nghèo nằm vào khoảng 730,20 Euro cho phía Tây và 604,80 Euro cho phía Đông của nước Đức. Theo lệ thường thì mức sống xã hội văn hóa tối thiểu được định nghĩa bằng trợ cấp xã hội còn ở dưới ranh giới này. Theo số liệu từ "Báo cáo giàu và nghèo lần thứ hai" do chính phủ liên bang đưa ra trong tháng 3 năm 2005 thì trong năm 2003 có 13,5% dân số là nghèo. Năm 2002 cũng theo các số liệu này thì con số đó còn là 12,7%, năm 1998 là 12,1%. Hơn 1/3 những người nghèo là những người nuôi con một mình và con của họ. Vợ chồng có nhiều hơn ba con chiếm 19%. Trẻ em và thanh niên ở Đức có nguy cơ nghèo cao. 15% trẻ em dưới 15 tuổi và 19,1% thanh niên từ 16 đến 24 tuổi thuộc vào diện này. Số trẻ em sống nhờ vào trợ cấp xã hội ở Đức tăng thêm 64.000, lên đến 1,08 triệu trong năm 2003 và đạt đến 1,45 triệu trong thời gian 2004/2005. Theo UNICEF, trẻ em nghèo ở Đức tăng nhanh hơn so với phần lớn các nước công nghiệp. Thêm vào đó nghèo có ảnh hưởng lớn đến cơ hội giáo dục theo nghiên cứu của Hiệp hội Từ thiện Công nhân (Arbeiterwohlfahrt). Ngược lại thì nạn nghèo ở người già tại Đức giảm đi từ 13,3% năm 1998 xuống 11,4% trong năm 2003. Thế nhưng nạn nghèo ở đây được dự đoán là sẽ tăng vì những người thất nghiệp, làm việc nửa ngày và những người thu nhập ít hiện đang có nhiều sẽ có tiền hưu ít và thêm vào đó là mức tiền hưu của tất cả những người về hưu trong tương lai (tức là tất cả những người làm việc hiện nay) sẽ bị giảm đi theo các cải tổ. Theo một nghiên cứu của Deutsches Institut für Altersvorsorge thì 1/3 công dân liên bang có nguy cơ bị nghèo đi trong tuổi già. Nguyên nhân bên cạnh việc tăng tuổi thọ là các cải tổ về chế độ hưu của năm 2001 và 2004 giảm mức độ tiền hưu theo luật pháp xuống khoảng 18% và việc nhiều công dân liên bang không sẵn sàng tự lo trước cho tuổi già vì không muốn hay không có khả năng (khoảng 60%). Nạn nghèo ở Mỹ Theo số liệu từ bản báo cáo của Cục điều tra dân số tháng 8 năm 2005 thì ở Mỹ con số những người có thu nhập dưới ranh giới nghèo đã liên tiếp tăng đến lần thứ tư. Có 12,7% dân số hay 37 triệu người nghèo và đã tăng 0,2% so với năm trước đó. Một gia đình 4 người được coi là nghèo khi chỉ có thể chi tiêu ít hơn 19.310 đô la Mỹ trong một năm. Đối với những người độc thân thì ranh giới này ở vào khoảng 9.650 đô la. Nạn nghèo ở Việt Nam Theo số liệu của Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc ở Việt Nam, vào năm 2004 chỉ số phát triển con người của Việt Nam xếp hạng 112 trên 177 nước, chỉ số phát triển giới (tiếng Anh: Gender Development Index-GDI) xếp 87 trên 144 nước và chỉ số nghèo tổng hợp (tiếng Anh: Human Poverty Index-HPI) xếp hạng 41 trên 95 nước. Cũng theo số liệu của Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc, vào năm 2002 tỷ lệ nghèo theo chuẩn quốc gia của Việt Nam là 12.9%, theo chuẩn thế giới là 29% và tỷ lệ nghèo lương thực (%số hộ nghèo ước lượng năm 2002) là 10.87%. Vào đầu thập niên 1990, chính phủ Việt Nam đã phát động chương trình Xóa đói giảm nghèo cùng với lời kêu gọi của Ngân hàng thế giới. UNDP cho rằng mặc dù Việt Nam đã đạt được tăng trưởng kinh tế bền vững và kết quả rất ấn tượng giảm tỷ lệ nghèo, song vẫn còn tồn tại tình trạng nghèo cùng cực ở một số vùng. Để đạt được các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDG), Việt Nam cần phải giải quyết tình trạng nghèo cùng cực. Cho đến năm 2009, theo chuẩn nghèo trên, cả nước Việt Nam hiện có khoảng 2 triệu hộ nghèo, đạt tỷ lệ 11% dân số. Tuy nhiên, trên diễn đàn Quốc hội Việt Nam, rất nhiều đại biểu cho rằng tỷ lệ hộ nghèo giảm không phản ánh thực chất vì số người nghèo trong xã hội không giảm, thậm chí còn tăng do tác động của lạm phát (khoảng 40% kể từ khi ban hành chuẩn nghèo đến nay) và do là suy giảm kinh tế . Chuẩn nghèo quốc gia của Việt Nam hiện nay là gồm những hộ có mức thu nhập bình quân từ 400.000 đến 650.000 đồng/người/tháng (QĐ 09/2011/QD-TTg). Mặc dù vậy, nhiều hộ gia đình vừa thoát nghèo vẫn rất dễ rớt trở lại vào cảnh nghèo đói. Trong thập kỷ tới đây nỗ lực của Việt Nam trong việc hội nhập với nền kinh tế toàn cầu sẽ tạo ra nhiều cơ hội cho sự tăng trưởng, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức đối với sự nghiệp giảm nghèo. Nghèo và môi trường Trong nhiều khu vực trên thế giới nạn nghèo là một trong những nguyên nhân chính đe dọa và phá hủy môi trường. Các vấn đề có nguyên do từ nạn nghèo làm cản trở các tiến bộ trong bảo vệ môi trường. Phương tiện tài chính cần thiết để bảo vệ môi trường không thể có được tại các vùng có nạn nghèo cao. Klaus Töpfer, lãnh đạo cơ quan môi trường của Liên Hợp Quốc UNEP đã gọi nghèo "là chất độc lớn nhất của môi trường", chống nghèo là điều kiện tiên quyết để có thành tựu trong việc bảo vệ môi trường. Ghi chú Tham khảo Werner Rügemer: Arm und reich (Nghèo và giàu). Transcript Verlag, Bielefeld 2003. Eike Roth: Globale Umweltprobleme - Ursachen und Lösungsansätze (Những vấn đề môi trường toàn cầu - Nguyên nhân và phương cách giải quyết). Friedmann Verlag, München 2004 Jared Diamond: Arm und reich. Die Schicksale menschlicher Gesellschaften (Nghèo và giàu. Các số phận của những xã hội con người). Fischer Taschenbuch Verlag, Frankfurt 1999. Đọc thêm Tham nhũng Giàu Công bằng xã hội Working poor Bất bình đẳng kinh tế Ăn xin Thất nghiệp Đình công Lạm phát Khủng hoảng kinh tế Thâm hụt ngân sách Ăn cắp, ăn trộm Ăn cướp hệ số gini Liên kết ngoài Xóa đói giảm nghèo và phát triển nông thôn tại Việt Nam – Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc Chương trình chống nghèo của UNESCO (tiếng Anh) Eldis Poverty Resource Guide - Tài liệu trực tuyến tự do về nạn nghèo tại châu Phi, châu Á và châu Mỹ La tinh (tiếng Anh) Kinh tế học phát triển Viện trợ
25986
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thanh%20ni%C3%AAn%20Ti%E1%BB%81n%20phong
Thanh niên Tiền phong
Thanh niên Tiền phong là một tổ chức chính trị - xã hội hoạt động chủ yếu tại Nam Kỳ trong năm 1945. Được thành lập nhằm mục đích tập hợp thanh niên để đảm đang nhiệm vụ cần đến sức mạnh trong giai đoạn giải phóng nước nhà. Siết chặt hàng ngũ đặng chiến đấu thật sự - chiến đấu để giải phóng cả một dân tộc bị nô lệ từ tám chục năm qua, chiến đấu để tạo ra một xã hội mới, kiến thiết một quốc gia độc lập. Đó mới là nhiệm vụ chính của Thanh Niên Tiền Phong Đây là tổ chức có đoàn thể mạnh nhất và là lực lượng chính của một số tỉnh thành ở miền Nam Việt Nam tham dự sự kiện Cách mạng Tháng Tám. Việc tổ chức của Thanh Niên Tiền Phong chia ra: một thủ lãnh, nhiều tráng trưởng và nhiều thiếu trưởng phụ lực Tráng trưởng trông coi tráng sinh từ 18 tuổi trở lên, dầu bốn mươi cũng được gia nhập. Thiếu trưởng trông coi thiếu sinh từ 13 tới 18 tuổi. Tráng trưởng và thiếu trưởng do sinh viên đảm nhận. Họ chịu sự chỉ huy trực tiếp của ba người: Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Văn Thủ và Kiều Công Cung Khi gia nhập phải ghi tên họ, chức nghiệp, chỗ ở và cam kết 5 điều Thanh Niên Tiền Phong sẵn sàng hiến thân cho Tổ Quốc. Thanh Niên Tiền Phong là người danh dự. Thanh Niên Tiền Phong trọng kỉ luật. Thanh Niên Tiền Phong hào hiệp hay giúp người. Thanh Niên Tiền Phong trong sạch từ tư tưởng, lời nói đến việc làm. Lời thề có 2 câu: "Thanh Niên Tiền Phong luôn luôn hết lòng hy sinh cho Tổ Quốc. Thanh Niên Tiền Phong luôn luôn hành động theo luật danh dự của Thanh Niên Tiền Phong". Đoàn kỳ: lá cờ nền vàng với sao đỏ ở giữa (màu sắc đảo ngược từ cờ Việt Minh) Đoàn ca: Lên đàng Sinh hoạt ca: Tiếng gọi Thanh niên Lịch sử Khởi đầu tổ chức là tập hợp của các hội sinh viên Nam Kỳ cuối thập niên 1930, về sau phát triển trong bộ phận sinh viên của Tổng hội Sinh viên Đông Dương. Đây chính là nơi tập hợp các hạt nhân thanh niên trí thức yêu nước, có tinh thần dân tộc, tổ chức các hoạt động xã hội, giáo dục truyền thống yêu nước, bí mật hoạt động chính trị và chống Pháp. Sau khi Pháp thất trận ở chính quốc và quân đội Nhật xâm nhập Đông Dương, nhằm tranh thủ sự ủng hộ của dân bản xứ, tháng 12 năm 1941, Toàn quyền Đông Dương Jean Decoux đã cử Trung tá Maurice Ducoroy tổ chức các phong trào xã hội và nới lỏng một số quyền tự do cho dân bản xứ. Tuy nhiên, các phong trào này đều được các cán bộ Việt Minh nhanh chóng thâm nhập và sớm định hướng mục tiêu gây ảnh hưởng trong quần chúng và giáo dục truyền thống yêu nước, tuy tránh đả động đến chính quyền. Bên cạnh đó, các giáo phái được Nhật hỗ trợ cũng phát triển phong trào chính trị của họ mạnh mẽ. Cao Đài đông hàng triệu người, tỉnh nào cũng có, họ tập trung ở Sài Gòn đến mấy vạn làm công nhân và làm binh lính. Lực lượng Cao Đài có Đảng Phục Quốc của Trần Quang Vinh. Hòa Hảo đông hàng chục vạn người, nhiều nhất là ở Hậu Giang, tập trung tại Sài Gòn đến vài ngàn. Hòa Hảo có chính đảng là Dân Xã Đảng. Giáo phái Tịnh độ cư sĩ có hàng vạn quần chúng, họ không tập trung lên Sài Gòn, nhưng làm cơ sở quần chúng cho Quốc gia Đảng. Phe Trotskyist không có đông quần chúng nhưng một cánh Trotskyist là cánh Hồ Vĩnh Ký, Huỳnh Văn Phương cầm đầu Sở Mật thám và Sở Cảnh sát Nam Kỳ tạo thế cho các cánh khác hoạt động. Nhiều tổ chức khác có năm, bảy trăm, vài ba ngàn người hợp tác với Sở Sen đầm Kempeitai của Nhật. Sau khi Nhật đảo chính Pháp ngày 9 tháng 3 năm 1945, để tranh thủ lực lượng quần chúng đông đảo ở Nam Kỳ, Thống đốc Nam Kỳ Minoda Fujio và Tổng lãnh sự Nhật Ida mời bác sĩ Phạm Ngọc Thạch và kỹ sư Ngô Tấn Nhơn tổ chức thanh niên ở Nam Kỳ. Phong trào Thanh niên Tiền phong được thành lập vào ngày 21 tháng 4 năm 1945. Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch (trước đó đã được Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ Trần Văn Giàu bí mật kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam), được cử làm Chủ tịch Hội đồng quản trị Phong trào. Xứ ủy Nam Kỳ do ông Trần Văn Giàu đứng đầu theo đề nghị của Trần Văn Giàu và Hà Huy Giáp đồng ý cho Phạm Ngọc Thạch đứng ra công khai tổ chức phong trào Thanh niên. Khi đó ở Nam Bộ có hai Xứ ủy, một do ông Trần Văn Giàu làm Bí thư. Một do bà Nguyễn Thị Thập làm Bí thư Xứ ủy, tổ chức Thanh niên Giải phóng và lấy cờ đỏ sao vàng của Việt Minh làm cờ tổ chức. Mục tiêu của Xứ ủy Nam Kỳ là "...Phải tìm một số hình thức tổ chức và hoạt động công khai – không nhất thiết phải là hợp pháp – hợp với ý đồ của ta, mang tính chất động viên chính trị cao, trước hết là cho thanh niên, động viên được hàng vạn, hàng chục vạn, hàng triệu người dân, đưa họ xuống đường theo khẩu hiệu cách mạng giải phóng dân tộc... Nói cho rõ hơn, nếu hồi 1942, 1943 mà Nhật lật đổ Pháp, tuyên bố Việt Nam độc lập, lúc ấy uy thế Nhật lên cao, Nhật đang thắng, chiến tranh đang mở rộng, nếu lúc bấy giờ mà Nhật mời bác sĩ Phạm Ngọc Thạch đứng ra tập hợp thanh niên, làm thủ lĩnh thanh niên, thì Xứ ủy chắc không tán thành đâu. Còn như vào giữa năm 1945, Ý, Đức đầu hàng, Nhật Bản trơ trọi, chết tới nơi, ta rất có thể và cần phải đứng ra lợi dụng công khai để huy động hàng chục vạn, hàng trăm vạn nhân dân làm lực lượng chính trị giành chính quyền khi thời cơ chín muồi, khi quân phiệt Nhật sụp đổ. Ở Nam Kỳ mà không làm như vậy thì cô độc, không tranh nổi với các đảng quốc gia, và giáo phái, tức là không có cách mạng thắng lợi...". Ban đầu phong trào Thanh niên Tiền phong được thành lập dựa trên nòng cốt tổ chức Hướng đạo Việt Nam và Tổng hội Sinh viên Đông Dương. Khi đó chính phủ của Trần Trọng Kim không có Bộ Quốc phòng, nhưng Phan Anh khi đó Bộ trưởng thanh niên tổ chức các lực lượng thanh niên dưới sự bảo trợ của Nhật (Một nhóm "Đại Việt trẻ" (Thanh niên tiền tuyến) của Tạ Quang Bửu thành lập ở ở miền nam và trung, sau lực lượng của Phan Anh và Tạ Quang Bửu hợp nhất với lực lượng của Võ Nguyên Giáp ở Bắc kỳ). Lá cờ của Thanh niên Tiền phong có nền vàng, chính giữa có ngôi sao đỏ mang ý nghĩa cách mạng dân tộc vì màu vàng là màu của dân tộc còn màu đỏ là màu cách mạng. Lá cờ này là một trong số các lá cờ huy động các thanh niên ái quốc Việt Nam đấu tranh với Pháp. Đến ngày 16 tháng 8 năm 1945 Thanh niên Tiền phong tuyên bố gia nhập Việt Minh. Trước đó tổ chức này tham gia Mặt Trận Quốc gia Thống Nhất. Việc hai Xứ ủy và nhóm lãnh đạo Thanh niên Tiền phong lấy cờ vàng sao đỏ làm lá cờ của tổ chức gây nhiều tranh cãi sau này. Thanh niên Tiền phong tuyên bố "Ngày nay đối với phong trào giải phóng đang bồng bột khắp thế giới, dửng dưng lặng lẽ là chết, an phận là chết. Phải tiêu diệt tinh thần ươn hèn ấy, để tạo nên một tinh thần mới, chính đáng hơn, vững bền hơn. Tinh thần mới tức là tinh thần thiết thực, khoa học, luôn luôn tìm hiểu để vượt lên cao... Cuộc phục hưng của dân Việt Nam sau này thành hay bại là do nơi thanh niên. Muốn làm tròn cái sứ mạng ấy, Thanh niên Tiền phong trước hết bẻ gãy cái ranh giới giai cấp đã chia rẽ lực lượng thanh niên… Thanh niên Tiền phong sẽ được huấn luyện kỹ lưỡng, dự bị chu đáo cho công cuộc vĩ đại của lịch sử, xứng đáng cho đời họ." Lời hiệu triệu của Thanh Niên Tiền Phong ''Các bạn sống rời rạc, đeo đẳng một nỗi khổ tâm, chờ một tổ chức. Thì đây "Thanh Niên Tiền Phong" đã thành lập. Hiện nay các bạn làm gì, hoạt động trong một phạm vi nào, đeo đuổi theo một chí hướng nào, Thanh Niên Tiền Phong cũng không cần biết. Thanh Niên Tiền Phong cũng không cần biết bạn ở trong giai cấp nào, tôn giáo nào. Thanh Niên Tiền Phong chỉ biết các bạn là một thanh niên Việt Nam và chỉ mong ở các bạn: Một thanh niên với tất cả tấm lòng cương quyết. Một thanh niên dám giương mắt nhìn vào thực trạng của xã hội. Một thanh niên không sợ thấy, không sợ hiểu và không sợ hi sinh. Vì có thế, các bạn mới là một thanh niên sáng suốt cho thời đại. Hỡi các bạn thanh niên! Các bạn hãy vượt qua ranh giới giai cấp, gia nhập vào một đoàn thể rộng rãi, quang đãng... Các bạn còn quyết luyến làm chi với những khuôn khổ tai hại bế tắc sự giao thông giữa các giới thanh niên. Những ranh giới được săc sóc, nâng niu trong vòng mấy mươi năm, nay chỉ có một mục đích: chia rẽ thanh niên ra nhiều ngành, nhiều giới... tiêu diệt tinh thần đoàn thể. Các bạn chỉ có một đẳng cấp: ĐẲNG CẤP CỦA THANH NIÊN. Các bạn chỉ có một nhiệm vụ: NHIỆM VỤ CỦA THANH NIÊN. Các bạn chỉ có một mục đích: GIẢI PHÓNG DÂN TỘC. Điều cần nhứt là các bạn chớ quá bi quan. Khi dòng máu đang bồng bột trong huyết quản, khi nguồn sống đang trào mạnh, chúng ta phải tự tin. Nhu nhược hờ hững là phản lại thiên nhiên. Sao ta mãi ỷ lại vu vơ, nằm yên trong trong bỏ trưởng giả? Hãy vứt bỏ tinh thần cũ, một thứ tinh thần giả hiệu. Hãy rèn đúc lấy một tinh thần mới, hoàn toàn mới. Không khuất phục trước một tư tưởng cổ truyền nào, luôn luôn tìm hiểu để vượt lên cao. Tin tưởng ở những phương pháp khoa học, dựa vào những điều kiện chắc chắn. Hãy phá tan cái tính thụ động của người mình. Tóm lại, chúng ta phải luyện lấy một tinh thần cải tổ mãnh liệt. Thanh Niên Tiền Phong sẽ giúp các bạn đoạt mục đích đầu tiên ấy. Và sau một thời kỳ huấn luyện chặt chẽ, các bạn sẽ được thực hành nhiệm vụ. Thanh Niên Tiền Phong sẽ đưa các bạn vào tiếp xúc với xã hội. Xã hội đang chờ chúng ta với biết bao nhu cầu tha thiết, chưa được nêu ra ánh sáng, quyền lợi, địa vị, công bằng. Các bạn hãy nghĩ đến đáp người mênh mông đang chờ các bạn. Và họ lại sẵn sàng làm hậu thuẫn chống đỡ các bạn, họ là một lực lượng tranh đấu vô tận. Tóm lại, các bạn sẽ có tất cả những điều kiện để đi đến thành công. Hỡi các bạn thanh niên! Thanh Niên Tiền Phong chờ các bạn: mạnh mẽ, các bạn hãy mãnh mẽ hơn lên, tin tưởng, các bạn hãy tin tưởng hơn lên. Hoạt động, các bạn hãy hoạt động hơn lên. Thế là các bạn đã đảm bảo cho tiền đồ Tổ Quốc." Theo hồi ký của Nguyễn Kỳ Nam thì lời hiệu triệu này được phổ biến sâu rộng, nên dân chúng rất là kích thích. Đi ngoài đường, ngồi trong tiệm nước, hễ gặp nhau là nói chuyện gia nhập Thanh Niên Tiền Phong. Sau lời hiệu triệu này phát ra 24 giờ thì anh em thanh niên khắp nơi hãy đến trụ sở chính để đăng ký ghi tên. Đoàn viên Thanh niên Tiền phong đội nón bàng, mặc quần soọc màu xanh hay đen, sơ mi tay ngắn, giày sandal quai tréo, đeo dây thừng ở thắt lưng, bên cạnh một con dao găm bọc da, về sau thêm một cây gậy tầm vông. Đoàn viên gặp nhau hay họp mặt thì chào nhau bằng cách đưa tay trái sè ra, ngang vai, hô: “Thanh niên, tiến!”... Khi gia nhập Thanh niên Tiền phong, đoàn viên phải thề “phục vụ Tổ quốc, đấu tranh cho độc lập dân tộc”, “giữ danh dự cho cá nhân và đoàn thể, thân ái với đồng đội, can đảm trong mọi trường hợp, chống mọi sự bất công của kẻ cậy quyền thế, sẵn sàng giúp đỡ người bị hoạn nạn, chấp nhận sự phê bình thân ái của đồng đội, phục tùng đoàn thể”. Phong trào Thanh niên tiền phong đã nhanh chóng tổ chức các hoạt động cứu trợ nạn nhân do các cuộc oanh tạc của Đồng Minh và giúp đỡ tải gạo cho đồng bào miền Bắc đang bị nạn đói lúc đó. Do tôn chỉ xã hội rộng rãi, không phân biệt chính trị tôn giáo nên Thanh niên Tiền phong nhanh chóng trở thành phong trào mạnh nhất ở Nam Kỳ và lan rộng đến Trung Kỳ. Chính phủ Trần Trọng Kim đã có Phan Anh giữ bộ Thanh Niên đưa lên cho nhà vua biết qua lực lượng của thanh niên ở Nam Kỳ, nên ngày 3 tháng 7, vua Bảo Đại tiếp 38 sinh viên đại diện cho trường Huấn Luyện Thanh Niên Tiền Phong. Cuộc tiếp rước đơn giản mà trọng thể tại lầu Kiến Trung, nhà vua không tiếc lời ban khen nồng nhiệt và nhắc nhở trách vụ của thanh niên trong giai đoạn giành độc lập, và kiến thiết quốc gia. Do đề nghị của chánh phủ Trần Trọng Kim, vua Bảo Đại chuẩn cho Phạm Ngọc Thạch sung chức xứ trưởng thanh niên và đại diện bộ trưởng thanh niên Phan Anh ở Nam Kỳ. Sau 2 tháng vận động, ngày 1 tháng 6 năm 1945, tổ chức Thanh niên Tiền phong chính thức ra mắt. Các thủ lĩnh phong trào gồm có bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát, nha sĩ Nguyễn Văn Thủ, luật sư Thái Văn Lung, bác sĩ Hồ Văn Nhựt, Trần Văn Khéo... và các sinh viên Huỳnh Văn Tiểng, Mai Văn Bộ, Lưu Hữu Phước, Trần Bửu Kiếm... Ban quản trị Thanh niên Tiền phong gồm: Lê Văn Huấn, Kha Vạng Cân, Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Văn Thủ, Thái Văn Lung, Tạ Bá Tòng, Huỳnh Tấn Phát, Huỳnh Văn Tiểng, Kiều Công Cung, Hồ Văn Nhựt... Chỉ riêng tại Sài Gòn, phong trào đã có hơn 20 vạn người tham gia và phát triển hơn 1 triệu đoàn viên trong toàn cõi Nam Kỳ. Trong thời gian Cách mạng Tháng Tám, nhiều nơi lực lượng Thanh niên Tiền phong cùng với các lực lượng quần chúng khác sử dụng cờ Việt Minh, hay cờ đảng cộng sản. Sau Cách mạng tháng Tám một thời gian, lực lượng này bị phân hóa. Thanh niên tiền phong theo lệnh chính phủ lâm thời đổi tên là Thanh niên Cứu quốc. Một số nhỏ lãnh đạo của Thanh niên Tiền phong gia nhập các tổ chức chính trị khác. Xem thêm Hướng đạo Việt Nam Thanh niên Giải phóng, một tổ chức thanh niên thuộc Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam, sau năm 1975 sát nhập với Đoàn Thanh niên Lao động ở miền bắc Thanh niên Tiền tuyến Thanh niên Khất thực Thanh niên Cứu quốc, một tổ chức thanh niên thuộc Việt Minh, năm 1955 đổi tên thành Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam, năm 1970 đổi tên thành Đoàn Thanh niên Lao động Hồ Chí Minh, nay là Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Phụ nữ Tiền phong Tham khảo Liên kết ngoài Những ngày cách mạng tháng 8 năm 1945 ở Sài Gòn Cách mạng tháng Tám tại Sài Gòn Tổng khởi nghĩa tháng Tám ở Sài Gòn - Nhớ Thanh niên Tiền phong Ta người Việt Nam Thư mục Tổ chức thành lập năm 1945 Đảng Cộng sản Việt Nam Đảng cộng sản ở Việt Nam Tổ chức chính trị Việt Nam thời Pháp thuộc Phong trào cộng sản Việt Nam Tổ chức thanh thiếu niên Việt Nam
25987
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%B1%20L%E1%BB%B1c%20v%C4%83n%20%C4%91o%C3%A0n
Tự Lực văn đoàn
Tự Lực văn đoàn (chữ Hán: , tiếng Pháp: ) là tổ chức văn học mang tính hội đoàn, một nhóm nhà văn đã tạo nên một trường phái văn học, một phong trào cách tân văn học (và trên nhiều lĩnh vực, đồng thời là một phong trào cách tân văn hóa, cải cách xã hội) Việt Nam hiện đại, khởi đầu là một tổ chức văn bút do Nhất Linh Nguyễn Tường Tam khởi xướng vào năm 1932, nhưng đến thứ sáu ngày 2 tháng 3 năm 1934 mới chính thức trình diện (theo tuần báo Phong Hóa số 87). Cho tới nay, Tự Lực văn đoàn được nhiều nhà nghiên cứu đánh giá là hội nhóm sáng tác văn nghệ (do tư nhân sáng lập và điều hành) có sức ảnh hưởng văn hóa sâu rộng nhất không chỉ trong thời hiện đại mà còn trong cả lịch sử văn học viết khoảng chừng một nghìn năm của Việt Nam. Trong thời kỳ hưng thịnh của Tự Lực văn đoàn, họ có thanh thế rất mạnh cả ở lĩnh vực văn chương và báo chí. Riêng trong địa hạt văn học, các cây bút văn xuôi của nhóm đã góp sức cùng nhau tạo nên cả một trường phái hoặc ở mức độ rộng hơn là phát động cả một trào lưu sáng tác văn chương nghiêng nhiều về khuynh hướng lãng mạn gắn liền với tên gọi của văn đoàn mà về sau mới có những khái niệm phổ biến trong giới nghiên cứu như “trường phái văn chương Tự Lực” hay cụ thể hơn nữa là “trường phái tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn”. Giải thưởng văn chương Tự Lực Văn Đoàn (do các thành viên chính thức của nhóm đề xuất tiêu chí trao giải, tự đứng ra tổ chức, gây quỹ, xét duyệt và trao tặng cho các cây bút sáng tác văn chương bên ngoài văn đoàn) cũng được nhiều người xem là một ý tưởng đột phá, một dấu ấn văn hóa có tầm quan trọng đối với cả tiến trình lịch sử văn học Việt Nam chứ không chỉ riêng trong thời hiện đại. Dù thế mạnh của Tự Lực văn đoàn nghiêng hẳn về văn xuôi (đặc biệt trong tiểu thuyết và truyện ngắn) nhưng họ cũng được xem rộng rãi là tổ chức văn chương chuyên nghiệp quan trọng nhất đương thời có vai trò đỡ đầu, bảo trợ, cổ vũ cho phong trào Thơ mới của Việt Nam ngay từ buổi đầu sơ khai tới trọn thập niên 1930. Trong danh sách thành viên của họ thường có hai tên tuổi của phong trào Thơ mới là Thế Lữ và Xuân Diệu. Tính cho tới những thập niên đầu thế kỷ 21, Tự Lực văn đoàn cũng là hội nhóm sáng tác văn chương thu hút giới nghiên cứu phê bình một cách toàn diện và sôi nổi nhất trong lịch sử văn học Việt Nam (xem chi tiết ở mục tài liệu nghiên cứu, phê bình về Tự Lực văn đoàn trong phần cuối bài viết). Bên cạnh địa hạt chính là văn chương, Tự Lực văn đoàn cũng có chỗ đứng rất nổi bật trong lịch sử báo chí - truyền thông đại chúng (thông qua hai tờ tuần báo Phong Hóa và Ngày Nay) cũng như xuất bản (thông qua An Nam xuất bản cục và nhà xuất bản Đời Nay) của Việt Nam. Tuy nhiên, Tự Lực văn đoàn cũng đồng thời có thể là hội nhóm sáng tác văn nghệ gây nhiều tranh cãi nhất, hứng chịu nhiều chỉ trích - phê phán gay gắt nhất trong lịch sử Việt Nam tới nay, mà một trong những nguyên nhân chính có thể do khuynh hướng chính trị cùng hoạt động đảng phái gia tăng của họ (cụ thể hơn là của bộ ba Nhất Linh – Hoàng Đạo – Khái Hưng) trong giai đoạn cuối trước khi dần tan rã. Ngay cả số lượng tối đa thành viên chính thức suốt lịch sử của văn đoàn là 7 ("thất tinh") hay 8 ("bát tú"), rồi danh sách cụ thể các thành viên (vấn đề thêm người nào hay bớt người nào và vấn đề tư cách thành viên chính thức hay dự bị) cũng như mức độ chính xác thời điểm thành lập và giải tán thực sự của văn đoàn tới giờ vẫn là những chủ đề tranh luận chưa có hồi kết của giới nghiên cứu lịch sử văn học cũng như báo chí Việt Nam. Trong thời của họ, Tự Lực Văn Đoàn đã có không ít đối thủ cạnh tranh công kích lẫn nhau cả trong làng báo lẫn làng văn. Một vài nguyên nhân quan trọng nữa khiến họ (chính xác hơn là bộ ba Nhất Linh – Hoàng Đạo – Khái Hưng) nhận được không mấy thiện cảm, quan tâm từ đại bộ phận giới nghiên cứu, phê bình, giảng dạy và sáng tác văn chương trong nước suốt nhiều thập kỷ kể từ sau năm 1945 là hoàn cảnh xuất thân, hoạt động chính trị - xã hội, rồi khuynh hướng sáng tác "bị gắn mác" như “trưởng giả” - “(tiểu) tư sản” - “lãng mạn” - “ủy mị” - “bế tắc” - “ảo tưởng” - “ru ngủ” - “thiếu tinh thần cách mạng” - “thiếu tính đấu tranh giai cấp” theo khuôn định của hệ thống giáo dục xã hội chủ nghĩa được thiết lập một cách độc tôn chính thức ở miền Bắc Việt Nam từ đầu thập niên 1950 trở đi. Với cả nhóm nói chung cũng như từng thành viên nói riêng, cách đánh giá của giới nghiên cứu Việt Nam (cả trong nước lẫn hải ngoại) cho tới nay phần lớn vẫn còn tương đối dè dặt và không nhất quán. Lấy một thí dụ tiêu biểu, trong số các cây bút (đồng thời là thành viên chính thức) chuyên về văn xuôi của nhóm thì Thạch Lam có lẽ là người có được sự tiếp nhận nồng nhiệt, ưu ái hơn cả từ giới nghiên cứu, phê bình và giảng dạy trong nước đặc biệt kể từ đầu thời kỳ Đổi Mới tới nay. Trong khi đó, hành trạng chính trị - xã hội cũng như tác phẩm văn chương lẫn báo chí của bộ ba Nhất Linh – Hoàng Đạo – Khái Hưng vẫn là những đối tượng phê phán và chỉ trích (thậm chí lên án) chủ yếu của đại bộ phận giới phê bình, giảng dạy "chính thống" trong nước mỗi khi cần đề cập tương đối chi tiết đến lịch sử văn đoàn. Đặc điểm nổi bật Cho đến nay, nhiều nhà nghiên cứu (bao gồm Vu Gia, một trong những học giả hàng đầu về văn phái Tự Lực) xem Tự Lực văn đoàn là tổ chức tư nhân làm văn chương và sống bằng văn chương (sáng tác văn học cũng như làm báo chí) một cách thực sự chuyên nghiệp và hiện đại đầu tiên ở Việt Nam. Họ là những người “tự lực” về nhiều mặt, đúng với tên gọi của văn đoàn. Dù thu nhập của họ có thể không cao hơn mấy so với mặt bằng trung bình của xã hội Việt Nam thời đó nhưng họ không cần phải qua con đường khoa cử thời cũ để tiến thân như cha ông họ cách đó chừng một thế hệ (so sánh với trường hợp của Tú Xương), cũng không cần nhờ vào hỗ trợ tài chính của chính quyền bảo hộ Pháp (như trường hợp Phạm Quỳnh) và cũng không đến nỗi phải sống lay lắt với nghiệp văn chương như thế hệ giao thời trước họ không lâu (như trường hợp Tản Đà “khi làm chủ báo, lúc viết mướn, hai chục năm dư cảnh khốn cùng”). So với những nhóm sáng tác thơ văn từng tồn tại trước đó trong lịch sử Việt Nam (chẳng hạn như Tao đàn nhị thập bát tú, Tao đàn Chiêu Anh Các, Tùng Vân thi xã) hay một vài nhóm sáng tác văn học tư nhân đương thời với Tự Lực văn đoàn thì chỉ có nhóm Tự Lực mới hội tụ gần như đầy đủ tất cả những đặc tính cơ bản của một trường phái văn học (đặc biệt là trường phái tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn) hay một văn phái theo định nghĩa nghiêm ngặt của từ này. Đây là thứ khác biệt rõ ràng giữa Tự Lực văn đoàn với một vài nhóm sáng tác văn học Việt Nam ra đời trước họ và được gọi là văn phái như “Ngô gia văn phái” hay “Hồng Sơn văn phái”. Bởi vì so với tất cả các nhóm sinh hoạt văn nghệ đã tồn tại trước họ và hầu hết các nhóm văn bút trong lịch sử Việt Nam tính cho tới cuối thế kỷ 20 thì Tự Lực Văn Đoàn có ý thức tổ chức cao hơn hẳn (có cơ quan báo chí - ngôn luận chính thức và cơ quan xuất bản riêng của văn đoàn), quy chế thành viên tương đối chặt chẽ (số lượng thành viên chính thức suốt lịch sử của văn đoàn luôn chỉ dao động tối đa từ 7 đến 8, phụ thuộc vào quan điểm phân loại của giới nghiên cứu), cương lĩnh hoạt động, tuyên ngôn tư tưởng rõ ràng, một khuynh hướng nghệ thuật định hình cùng phong cách sáng tác tập thể mang đặc trưng cao (đặc biệt trong thể loại tiểu thuyết). Ngay cả 'Thi phái Bình Định' (với những tên tuổi như Hàn Mặc Tử, Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên, Bích Khê) hay nhóm văn nghệ 'Sáng Tạo' (với những thành viên chủ chốt như Trần Thanh Hiệp, Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Sỹ Tế, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên) một thời nổi tiếng tại miền Nam trong giai đoạn cuối thập niên 1950 đầu thập niên 1960 hay một vài nhóm sáng tác thơ văn tư nhân ra đời sau này cũng chưa có nhóm nào cho tới nay từng vươn tới mức độ ảnh hưởng sâu rộng trong lịch sử văn hóa Việt Nam nói chung như Tự Lực Văn Đoàn đã tạo nên trong khoảng chưa đầy một thập kỷ hoạt động ngắn ngủi nhưng sôi nổi, đa dạng của họ (1932–1942). Và một thực tế lịch sử nữa là chưa từng có nhóm sáng tác văn học nào ở Việt Nam từ trước tới nay thu hút giới nghiên cứu phê bình một cách toàn diện như Tự Lực Văn Đoàn. Đối tượng nghiên cứu ở đây không chỉ là sự nghiệp sáng tác của từng thành viên cụ thể trong nhóm mà còn là thành tựu sáng tác, phong cách viết, lịch sử hoạt động của cả văn đoàn nói chung (xem chi tiết ở mục “Tài liệu nghiên cứu, phê bình về Tự Lực văn đoàn” trong phần cuối bài viết). Một đặc điểm quan trọng không nên bỏ qua khi nghiên cứu về Tự Lực văn đoàn là hầu hết những thành viên trụ cột của nhóm như Khái Hưng Trần Khánh Giư, Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long, Thạch Lam Nguyễn Tường Lân (nếu không kể thêm Trần Tiêu, em ruột Khái Hưng) đều có gốc gác xứ Đông hay trấn Hải Đông cũ, một tiểu vùng văn hóa cổ mà vành đai trung tâm nằm trong hai tỉnh thành Hải Dương và Hải Phòng ngày nay, ngoài ra cũng bao gồm một phần của Hưng Yên và Quảng Ninh. Yếu tố văn hóa vùng miền (xứ Đông) cùng với các mối quan hệ truyền thống trong trật tự gia đình lẫn xã hội kiểu cũ có ảnh hưởng rất rõ nét đến sáng tác văn chương của Khái Hưng và Nhất Linh, hai cây bút "đàn anh" giữ vai trò định hình cho “trường phái văn chương Tự Lực” suốt thập niên 1930 tới đầu thập niên 1940. Riêng bộ ba Nhất Linh – Hoàng Đạo – Khái Hưng thường được xem là những cây bút trụ cột giúp tạo dựng và khẳng định chỗ đứng cho “trường phái tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn” trong lịch sử văn học Việt Nam. Những thành tựu của Tự Lực văn đoàn vì thế cũng có thể xem là những đóng góp nổi bật của văn học xứ Đông trong lịch sử văn chương Việt Nam. Trước đó, từng có một thời kỳ — thời kỳ văn hóa Lê-Mạc (1428–1592) — mà xứ Đông đóng vai trò tiên phong dẫn đường đối với việc sáng tạo thơ văn Việt Nam, với những đại diện tiêu biểu như Nguyễn Trãi, Nguyễn Dữ (cũng đôi khi được gọi là Nguyễn Dư hay Nguyễn Tự), Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cần nhớ rằng việc sáng tác thơ văn bằng chữ Nôm của người Việt đã có những bước đi chập chững đáng ghi nhận ở thời kỳ Lý-Trần (1009–1400) nhưng chỉ thực sự tạo ra những bước đột phá vững chắc đầu tiên trong thời đại Lê-Mạc với 2 tập thơ Nôm của các tác gia gốc xứ Đông là Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi và Bạch Vân quốc ngữ thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đây thực sự là những thành tựu có ý nghĩa rất trọng đại với nền văn học dân tộc bởi vì như nhà nghiên cứu văn hóa Vũ Khiêu (1985) đã nhận xét rằng "suốt bao nhiêu thế kỷ học chữ Hán và làm thơ bằng chữ Hán, các nhà trí thức Việt Nam trước những khó khăn về ngôn từ và thể loại đã lẩn tránh việc cố gắng làm thơ bằng tiếng mẹ đẻ." Bởi vậy nếu so sánh không quá khập khiễng, với tư cách là các tác gia xứ Đông ưu tú trong lịch sử sáng tác thơ văn của người Việt Nam, vai trò của những thành viên trụ cột của Tự Lực văn đoàn (điển hình là Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam) trong việc định hình một nền văn xuôi tiếng Việt giàu tính nghệ thuật (đặc biệt là về truyện ngắn và tiểu thuyết) sử dụng chữ Quốc ngữ ở thời kỳ hiện đại là không ít quan trọng hơn bao nhiêu so với vai trò tiên phong xét trên tổng thể của Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm trong việc tạo dựng diện mạo cho một nền thơ ca tiếng Việt sử dụng chữ Nôm ở thời kỳ trung đại. Trong khoảng 10 năm tồn tại, thông qua nhiều hình thức sinh hoạt văn hóa mà Tự Lực văn đoàn đã thổi một luồng gió khai phóng vào xã hội Bắc Trung Kỳ, ít nhiều thoát khỏi sự ràng buộc của những lề thói đã không còn thích ứng được với nhu cầu thời đại và tìm ra hướng tiếp cận xu thế hoàn cầu. Cho đến những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21 đã có không ít nghiên cứu hệ thống, phê bình chuyên sâu, nhận định thẳng thắn của cả những nhà nghiên cứu trong nước và hải ngoại về vai trò lịch sử của Tự Lực văn đoàn. Ở đây có thể dẫn ra tổng kết ngắn gọn của học giả danh tiếng Hoàng Xuân Hãn (đăng trên Tạp chí Sông Hương, số 37, 1989) rằng trong lịch sử văn học Việt Nam thì "nhóm Tự Lực không phải là nhóm duy nhất nhưng là nhóm quan trọng nhất và là nhóm cải cách đầu tiên của nền văn học hiện đại." Nhà phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc (2013) nhận định về vai trò của nhóm không chỉ trong lịch sử văn học mà còn trong lịch sử văn hóa của Việt Nam nói chung: "Trong lịch sử Việt Nam, giới cầm bút ít có thói quen sinh hoạt theo nhóm... Nhìn lại văn học trung đại, từ cuối thế kỷ 19 trở về trước, chúng ta chỉ biết tên được một số tổ chức được gọi là tao đàn hay văn thi xã, như Tao đàn nhị thập bát tú của vua Lê Thánh Tông ở cuối thế kỷ 15, Chiêu Anh Các của Mặc Thiên Tích ở thế kỷ 18, Tùng Vân thi xã của Tùng Thiện Vương ở thế kỷ 19. Chỉ có hai nhóm đầu là có quy mô lớn và hoạt động tương đối tích cực... Nhưng về tầm vóc, cả hai, so với Tự Lực Văn Đoàn, hoàn toàn không đáng kể. Có thể nói, không có nhóm văn học nào, của tư nhân, từ xưa cũng như đến tận ngày nay, có tổ chức chặt chẽ, hoạt động đa dạng và sôi nổi như nhóm Tự Lực Văn Đoàn cả. Về phương diện tổ chức, họ có hội viên, có quy định về việc kết nạp hội viên, và đặc biệt, có cả cương lĩnh hoạt động rõ ràng. Về hoạt động, họ bao trùm rất nhiều lãnh vực: văn học, xã hội (phong trào Ánh Sáng) và về sau, từ năm 1939, cả chính trị nữa. Riêng trong lãnh vực văn học, họ không phải chỉ biết sáng tác mà còn ra báo (Phong Hóa và Ngày Nay), lập nhà xuất bản (Đời Nay), mở nhà in, và tổ chức các giải thưởng văn học. Trừ lãnh vực chính trị, trong mọi lãnh vực họ hoạt động, họ đều thành công rực rỡ. Trương Chính nhận định: “trong vòng tám năm, từ 1932 đến 1940, Tự Lực Văn Đoàn chiếm ưu thế tuyệt đối trên văn đàn công khai; sách báo họ in đẹp nhất, bán chạy nhất.” Chỉ với bảy người và chỉ trong khoảng một thời gian ngắn ngủi, họ làm được nhiều việc hơn bất cứ một nhóm văn học tư nhân nào khác trong cả lịch sử văn học Việt Nam từ trước đến nay... Đó không phải là nhóm lớn nhất hay quan trọng nhất trong “nền văn học hiện đại” hay trong giai đoạn 1930-1945 mà là trong suốt cả lịch sử kéo dài hơn một ngàn năm của văn học Việt Nam nói chung." Tuy nhiên đó cũng là "một nhóm văn học chịu nhiều oan khuất nhất trong nửa sau thế kỷ 20 như là hậu quả của những tranh chấp về chính trị và ý thức hệ tại Việt Nam trong suốt cả hai cuộc chiến tranh kéo dài từ 1945 đến 1975 cũng như cả giai đoạn gọi là “bao cấp” sau đó nữa... Với cả nhóm, cách đánh giá của giới nghiên cứu Việt Nam phần lớn vẫn còn khá rụt rè." Lịch sử Trong khoảng thời gian sống tại Pháp, ngoài việc học khoa học, Nguyễn Tường Tam còn chuyên tâm nghiên cứu về nghề báo, và ông nhận thấy loại báo trào phúng là khá thích hợp với sở thích của nhiều người. Năm 1930, ông đỗ bằng Cử nhân khoa học, và trở về Hà Nội để thực hiện ước vọng của mình. Nguyễn Tường Tam nộp đơn xin Sở Báo chí cho phép ra báo Tiếng cười, và chuẩn bị bài vở cho số báo đầu tiên. Tuy nhiên, lần nào hỏi thăm đều nghe người của sở ấy bảo rằng "chờ xét". Trong thời gian đợi giấy phép ra báo, Nguyễn Tường Tam xin dạy học tại trường tư thục Thăng Long. Tại đây, ông quen biết với hai đồng nghiệp là Trần Khánh Giư (Khái Hưng) và Phạm Hữu Ninh. Khi biết ông Ninh cùng Nguyễn Xuân Mai đang làm chủ tờ tuần báo Phong Hóa, đã ra 13 số báo, nhưng sắp sửa phải đình bản vì không có gì mới mẻ để bạn đọc chú ý. Chớp thời cơ, Nguyễn Tường Tam ngỏ ý mua lại. Sau đó, ông Tam, với vai trò giám đốc (Directeur) tờ báo, liền cùng với một nhóm anh em bạn hữu gồm có: Khái Hưng (Trần Khánh Giư, vốn là cây bút cốt cán giữ nhiều mục quan trọng trên báo Phong Hóa suốt từ số 1 cho đến số 14), Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu), Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long), Thạch Lam (Nguyễn Tường Lân), tạo thành một ban biên tập hoàn toàn mới. Bắt đầu ngày 22 tháng 9 năm 1932, báo Phong Hóa số 14 ra 8 trang khổ lớn, và được đánh giá là "một quả bom nổ giữa làng báo". Sau khi tờ báo "bán chạy như tôm tươi ngay từ những số đầu", Nguyễn Tường Tam cùng với các cộng sự quyết định thành lập một bút nhóm lấy tên là Tự Lực văn đoàn. Một thành viên của bút nhóm là Tú Mỡ kể lại (lược trích): ...Tất cả những gì dự định cho báo "Tiếng cười", anh Tam dồn cả cho báo "Phong Hóa mới"...Báo làm ăn phát đạt, và mặc dù anh em làm việc quên mình, không vụ lợi, nhưng anh Tam vẫn phải chạy tiền khá chật vật để mỗi tuần kịp trả đủ cho nhà in và tiền mua giấy... Cuối năm đó (1932), tính sổ mới ngã ngửa ra: lời lãi chia theo số vốn, phần lớn chui vào két của nhà tư sản... Anh Tam bèn họp bàn với anh em, và đồng ý với nhau rằng: Không thể chơi với nhà tư sản được. Quyết định thành lập "Tự lực văn đoàn" trên nguyên tắc làm ăn dựa vào sức mình, theo tinh thần anh em một nhà; tổ chức không quá 10 người nên không phải xin phép Nhà nước; không cần có văn bản điều lệ: lấy lòng tin nhau làm cốt, chỉ nêu ra trong nội bộ mục đích tôn chỉ, anh em tự giác tuân theo... Về sau, khi điều kiện đã tốt hơn để mở rộng tầm hoạt động, bút nhóm ấy mới chính thức tuyên bố thành lập, với một tôn chỉ gồm 10 điều trên tuần báo Phong Hóa số 87 ra ngày thứ sáu, 2 tháng 3 năm 1934. Theo GS. Nguyễn Văn Xuân, mặc dù Tự Lực văn đoàn "ra đời trong thời kỳ khó khăn mọi mặt: nghèo tiền, không thế lực, tinh thần quốc gia dao động, thực dân Pháp chèn ép đủ mặt; vậy mà các thành viên vẫn hợp tác được để dẫn dắt nhau ngang nhiên tiến bộ"... Diễn biến của Tự lực văn đoàn có thể chia thành hai giai đoạn: 1934 - 1936 Mặc dù Tự Lực văn đoàn chính thức tuyên bố thành lập vào tháng 3 năm 1934, song nó đã hình thành từ cuối năm 1932. Với cơ quan ngôn luận là báo Phong Hóa, họ làm một cuộc cải cách xã hội bằng tiếng cười trào phúng. Họ đem những thói hư tật xấu và những hành vi đáng cười của những nhân vật "tai to mặt lớn" trong nhiều giới ra chế giễu. Nhân vật Lý Toét, Xã Xệ và Bang Bạnh như là ba kiểu người điển hình của mọi thứ tệ lậu này. Bên cạnh đó, các khuynh hướng sáng tác (như khuynh hướng lãng mạn, khuynh hướng hiện thực,...) đều đã có mặt, nhưng khuynh hướng luận đề chống phong kiến là nổi trội hơn cả. Theo GS. Dương Quảng Hàm, tác phẩm tiêu biểu nhất của khuynh hướng này là cuốn Đoạn tuyệt (1934) và Lạnh lùng (1936). Làm báo Phong Hóa được khoảng 2 năm, Nguyễn Tường Tam bèn xin phép ra thêm tờ tuần báo Ngày Nay (số đầu tiên ra ngày 30 tháng 1 năm 1935) nhưng để Nguyễn Tường Cẩm (là một công chức, anh của ông Tam) đứng tên. Ban đầu, báo không có mục trào phúng, nhưng có mục "phóng sự điều tra với nhiều hình ảnh có tính cách mỹ thuật". Đây là sự mới lạ đối với độc giả lúc bấy giờ, nên rất được hoan nghênh. Nhưng vì ấn loát tốn kém quá, lại phải chia sức ra, nên báo Ngày Nay chỉ ra được 13 số thì phải đình bản. Sau khi báo Phong Hóa bị đóng cửa (số cuối 190 ra ngày 5 tháng 6 năm 1936), báo Ngày Nay lại ra thay. Tục bản, báo chỉ có hai phần chính là "tiểu thuyết" và "trông tìm", không có phần "trào phúng", vì nó là nguyên nhân khiến tờ Phong Hóa bị rút giấy phép. Tuy nhiên, đến cuối năm ấy (1936), vì thời cuộc thay đổi (nổ ra phong trào lập kiến nghị để chờ đón Ủy ban điều tra của Chính phủ bình dân Pháp phái sang), khiến Tự Lực văn đoàn lại cho mở mục trào phúng nhưng giảm bớt so với trước, gọi là "cười nửa miệng" thôi. 1936 - 1942 Bước sang những năm 1937- 1939, tờ Ngày Nay lại trở thành một cơ quan chính trị hẳn hoi, với những bài xã luận đanh thép của Hoàng Đạo, đề cập đến những vấn đề cấp thiết của thời đại. Ngoài ra, đây cũng là nơi Tự Lực văn đoàn cổ động cho phong trào Ánh Sáng (mục đích cải tạo nếp sống ở nông thôn) của họ... Văn đoàn ở giai đoạn này, cũng đã mở rộng cửa ra hơn, để đón nhận thêm nhiều văn nghệ sĩ có tài khác như: Vi Huyền Đắc, Đoàn Phú Tứ, Thanh Tịnh, Xuân Diệu, Huy Cận,... Sau số 224 (ra ngày 07 tháng 9 năm 1940), báo Ngày Nay bị nhà cầm quyền đóng cửa (chưa biết lý do). Hầu hết những khuynh hướng văn học đã có đều được văn đoàn tiếp tục ở giai đoạn này, tuy nhiên tiếng cười hài hước không còn tràn lan như trước. Có phần nổi đậm là khuynh hướng nghiêng về những người nghèo khổ. Ngoài ra cũng có một khuynh hướng mới, bắt đầu hé lộ những miền khuất tối, không thể nhận biết của cái "tôi", kể cả trên quá trình phân thân, tự hủy (như trong Bướm trắng, 1939; Băn khoăn, 1942). Không những thế, như trên đã nói, từ lĩnh vực văn chương, văn đoàn còn chuyển sang hoạt động xã hội. Sau nhiều năm tháng chuẩn bị, ngày 16 tháng 8 năm 1937, Hội Ánh sáng của Tự Lực văn đoàn ra đời. Đây là một hình thức tổ chức "cải cách xã hội một cách êm thấm trong phạm vi luật pháp" (lời Hoàng Đạo), nhằm tập họp đông đảo những người có từ tâm trong nước, cùng nhau góp một phần công của để triệt phá dần những nhà ổ chuột, xây dựng những ngôi nhà kiểu mới hợp vệ sinh giá rẻ cho dân nghèo, đồng thời tiến hành các hoạt động cứu tế xã hội,... Từ khoảng năm 1937, không khí của Chiến tranh thế giới thứ hai tác động mạnh đến đời sống xã hội Việt Nam. Năm 1940, khi Nhật vào Đông Dương, Nguyễn Tường Tam và một số thành viên trong nhóm chuyển sang hoạt động chính trị. Cuối năm 1940, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Nguyễn Gia Trí...bị thực dân Pháp bắt giam rồi đày lên Sơn La. Năm 1942, Nguyễn Tường Tam trốn sang Trung Quốc, Thạch Lam mất vì bệnh lao phổi tại Hà Nội. Theo một số nhà nghiên cứu văn học sử thì Tự Lực văn đoàn đã cơ bản tan rã từ khi ấy (tự giải tán vì "sẩy đàn tan nghé", nhưng không tuyên bố). Tóm lại, theo GS. Phạm Thế Ngũ, thì: Sự đàn áp thẳng tay của nhà cầm quyền Pháp nhiều năm (nhất là sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái năm 1930) đã gây một không khí hoang mang kinh sợ, hay buồn bã hoài nghi khắp nơi. Họ muốn trấn an, muốn lấy lại lòng tin nên cho mở hội chợ ở Sài Gòn, ở Hà Nội...để người ta vui, người ta quên...Trong không khí ấy, nhóm Tự Lực văn đoàn tung ra cái tôn chỉ "cười", và chủ nghĩa "lãng mạn lý tưởng xinh tươi" sau đó thật là hợp thời... Đến năm 1936 và những năm tiếp theo, thì cuộc diện đã khác. Ở Pháp, đảng Xã hội lên cầm quyền, mở đầu cho những hoạt động chính trị diễn ra công khai ở Đông Dương. Theo đó, nhóm văn đoàn ấy cũng xoay qua hoạt động chính trị, xã hội... Cây bút Hoàng Đạo thì tố cáo những thối nát của chính quyền, những lầm than của dân chúng dưới chế độ thực dân phong kiến. Nguyễn Tường Tam thì chủ xướng chiến dịch Ánh Sáng, chống nhà ổ chuột, cổ động cho phong trào truyền bá quốc ngữ,... Đối với nhóm Tự Lực văn đoàn, thì những gì "xinh tươi ngày trước" đã phai nhiều... Chủ trương Trong tuần báo Phong Hóa số 87 ra ngày 2 tháng 3 năm 1934, có in lời tuyên ngôn và tôn chỉ (10 điều) của Tự Lực văn đoàn như sau: Tuyên ngôn Tự lực văn đoàn họp những người đồng chí trong văn giới; người trong đoàn đối với nhau cốt có liên lạc về tinh thần, cùng nhau theo đuổi một tôn chỉ, hết sức giúp nhau để đạt được mục đích chung, hết sức che chở nhau trong những công cuộc có tính cách văn chương. Người trong Văn đoàn có quyền để dưới tên mình chữ Tự Lực văn đoàn và bao nhiêu tác phẩm của mình đều được Văn đoàn nhận và đặt dấu hiệu. Những sách của người ngoài, hoặc đã xuất bản, hoặc còn bản thảo, gửi đến Văn đoàn xét, nếu hai phần ba người trong Văn đoàn có mặt ở Hội đồng xét là có giá trị và hợp với tôn chỉ thì sẽ nhận đặt dấu hiệu của Đoàn và sẽ tùy sứ cổ động giúp. Tự Lực văn đoàn không phải là một hội buôn xuất bản sách. Sau này nếu có thể được, Văn đoàn sẽ đặt giải thưởng gọi là giải thưởng Tự Lực văn đoàn để thưởng những tác phẩm có giá trị và hợp với tôn chỉ của Đoàn. Tôn chỉ 1. Tự sức mình làm ra những sách có giá trị về văn chương chứ không phiên dịch sách nước ngoài nếu những sách này chỉ có tính cách văn chương thôi: mục đích là để làm giàu thêm văn sản trong nước. 2. Soạn hay dịch những cuốn sách có tư tưởng xã hội. Chú ý làm cho người và xã hội ngày một hay hơn. 3. Theo chủ nghĩa bình dân, soạn những sách có tính cách bình dân và cổ động cho người khác yêu chủ nghĩa bình dân. 4. Dùng một lối văn giản dị, dễ hiểu, ít chữ nho, một lối văn thật có tính cách An Nam. 5. Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, có chí phấn đấu và tin ở sự tiến bộ. 6. Ca tụng những nết hay vẻ đẹp của nước mà có tính cách bình dân, khiến cho người khác đem lòng yêu nước một cách bình dân. Không có tính cách trưởng giả quý phái. 7. Trọng tự do cá nhân. 8. Làm cho người ta biết rằng đạo Khổng không hợp thời nữa. 9. Đem phương pháp khoa học thái tây ứng dụng vào văn chương Việt Nam. 10. Theo một trong 9 điều này cũng được miễn là đừng trái ngược với những điều khác. Theo GS. Nguyễn Huệ Chi, qua 10 điều ấy, có thể thấy văn đoàn đã đề ra 4 chủ trương lớn, đó là: Về văn học: Nhắm tới 3 mục tiêu lớn: -1. Dấy lên một phong trào sáng tác làm cho văn học Việt Nam vốn đang nghèo nàn có cơ hưng thịnh. -2. Xây dựng một nền văn chương tiếng Việt đại chúng. -3. Tiếp thu phương pháp sáng tác của châu Âu hiện đại để hiện đại hóa văn học dân tộc. Về xã hội: Đề cao chủ nghĩa bình dân và bồi đắp lòng yêu nước trên cơ sở lấy tầng lớp bình dân làm nền tảng. Về tư tưởng: Vạch trần tính chất lỗi thời của những tàn dư Nho giáo đang ngự trị trong xã hội. Về con người: Lấy việc giải phóng cá nhân làm trung tâm điểm của mọi sáng tác. Cơ cấu Cơ quan ngôn luận của Tự Lực văn đoàn là tuần báo Phong Hóa (kể từ số 14 ra ngày 22 tháng 9 năm 1932, số cuối 190 ra ngày 5 tháng 6 năm 1936), và từ năm 1935 thêm tuần báo Ngày nay (số đầu tiên ra ngày 30 tháng 1 năm 1935, số cuối 224 ra ngày 7 tháng 9 năm 1940). Ngoài ra, văn đoàn còn có nhà xuất bản Đời Nay để tự xuất bản sách của mình. Trụ sở chính của văn đoàn đặt ở nhà số 80 phố Quán Thánh, Hà Nội. Đây vừa là tòa soạn báo Phong Hóa, Ngày Nay; vừa là trụ sở nhà xuất bản Đời Nay. Ban đầu, bút nhóm chỉ có 6 thành viên, gồm: – Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh), là Trưởng văn đoàn và cũng là Giám đốc báo Phong Hóa. – Khái Hưng – Hoàng Đạo – Thế Lữ – Thạch Lam – Tú Mỡ Về sau, kết nạp thêm Xuân Diệu. Bên cạnh đó còn có những cộng sự viên khác (không ở trong tòa soạn báo Phong Hóa và Tự Lực văn đoàn), gồm: Các nhà văn, nhà thơ: Huy Cận, Trọng Lang, Đoàn Phú Tứ, Đỗ Đức Thu, Trần Tiêu, Thanh Tịnh, Phạm Cao Củng, Nguyễn Khắc Hiếu, Tô Hoài, Nguyên Hồng, Đinh Hùng, Nguyễn Công Hoan, Vi Huyền Đắc, Nguyễn Tường Bách (1916–2013),... Các họa sĩ: Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Cát Tường, Lê Minh Đức (tạo ra nhân vật Xã Xệ),... Một số văn nghệ sĩ kể trên, về sau đều thành danh, ít nhiều là nhờ người đứng đầu văn đoàn là Nguyễn Tường Tam. Theo GS. Nguyễn Huệ Chi, thì người đứng đầu ấy vốn là người có tài, có tâm và có tầm nhìn, biết đoàn kết cả nhóm trong một ý hướng chung, lại biết khơi gợi đúng thiên hướng của từng người mỗi tác giả trở thành một cây bút chuyên biệt nổi danh về một thể loại. Như Khái Hưng được ông khuyến khích chuyển từ lối viết luận thuyết trên các báo Văn học tạp chí, Duy tân (dưới bút danh Bán Than) sang viết tiểu thuyết; Tú Mỡ được ông gợi ý chuyên làm thơ trào phúng; Trọng Lang được ông cổ vũ đi hẳn vào phóng sự; còn Thế Lữ dưới con mắt Nguyễn Tường Tam phải là người mở đầu cho "thơ mới",... Thành tựu Ấn phẩm Khá nhiều tác phẩm của văn đoàn đã gây được tiếng vang, ở đây chỉ nêu ra một số như: Hồn bướm mơ tiên xuất bản ngày 27 tháng 5 năm 1933. Đây là cuốn tiểu thuyết đầu tay của Khái Hưng và cũng là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của văn đoàn. Nửa chừng xuân (tiểu thuyết, 1934) của Khái Hưng. Thừa tự (tiểu thuyết, 1938) của Khái Hưng. Đoạn tuyệt (tiểu thuyết, 1934), Lạnh lùng (tiểu thuyết, 1936), Đôi bạn (tiểu thuyết, 1937). Cả ba quyển đều của Nhất Linh. Con đường sáng (tiểu thuyết, 1940) của Hoàng Đạo. Mấy vần thơ (tập thơ, 1935) của Thế Lữ. Gió đầu mùa (tập truyện ngắn, 1937) của Thạch Lam. Dòng nước ngược (thơ trào phúng, 1943) của Tú Mỡ. Thơ thơ (tập thơ, 1938) của Xuân Diệu,... Giải thưởng Không chỉ sáng tác văn học, Tự Lực văn đoàn còn trao các giải thưởng cho các nhà văn không thuộc nhóm. Giải thưởng đã được xét trao cả thảy ba lần: 1935, 1937 và 1939. Đây là một giải thưởng uy tín, một bảo chứng danh giá cho sự nghiệp văn chương của những người đoạt giải: Ðỗ Ðức Thu, Phan Văn Dật, Vi Huyền Đắc, Nguyên Hồng, Anh Thơ, Tế Hanh... Thoạt nhìn đã có thể thấy, đây là một giải thưởng có tính phát hiện cao. Hầu hết các tác phẩm được giải là tác phẩm đầu tay, và nhiều tác phẩm trong số đó lúc ra mắt qua giải thưởng Tự lực văn đoàn, như Bỉ vỏ của Nguyên Hồng, Bức tranh quê của Anh Thơ... đã thành "hiện tượng" trong đời sống văn học. Và thật thú vị, những nhà văn chủ trì Tự lực văn đoàn, vốn được coi thuộc khuynh hướng lãng mạn, lại chọn biểu dương những cây bút gần như ngược hẳn với mình, đậm chất hiện thực xã hội, nhiều khi đến gay gắt. Có thể điều này rất quan trọng: giải thưởng do đó khêu gợi và quy tụ cả một dàn đồng ca rộn rã phong phú đa dạng như chưa từng có những tài năng mới, trẻ, góp phần tạo nên "cả một thời đại mới trong văn học" như cách nói của Hoài Thanh. Dấu ấn Dưới đây là một vài nhận xét khái quát, mang tính tham khảo, của: Hoàng Xuân Hãn: Nhóm Tự Lực văn đoàn không phải là nhóm duy nhất, nhưng là nhóm quan trọng nhất và là nhóm cải cách đầu tiên của nền văn học hiện đại. Dương Quảng Hàm: Công việc của Tự Lực văn đoàn đã có ảnh hưởng về đường xã hội và đường văn học: - Về đường xã hội, cái biệt tài trào phúng của phái ấy, cả trong thơ văn và trong các bức hí họa, đã làm rõ cái dở, cái rởm, cái buồn cười, cái giả dối trong các hủ tục, thiên kiến của ta. Tuy nhiên, phái ấy không khỏi có những điều thiên lệch. Có những tục không đáng công kích mà cũng công kích... - Về đường văn học, phái ấy đã gây nên cái phong trào "thơ mới" và làm cho thể văn tiểu thuyết được đắc thắng. Phái ấy lại có công trong việc làm cho văn quốc ngữ trở nên sáng sủa, bình giản, khiến cho nhiều người thích đọc... Phạm Thế Ngũ (Việt Nam văn học sử giản ước tân biên): ...Nói đến Tự lực văn đoàn, người ta không thể không trước hết nói đến Nguyễn Tường Tam người đã hầu như một mình sáng lập ra nó. ...Đọc Nhất Linh dường như lúc nào ta cũng thấy ông chỉ phản ánh tâm hồn mình, kể lể những băn khoăn của mình, theo đuổi một giấc mộng của mình. Khái Hưng khác thế, là một cây viết đi nhặt nhạnh truyền người, một thứ gương pha lê hướng ra cuộc đời lắm vẻ và dung nạp một cách trung thực và khoan hóa những tâm tư và hình thái của cả một xã hội chung quanh ông. Dương Nghiễm Mậu: ...Trong thời đại của họ, họ đã gây được một ảnh hưởng lớn trong đời sống, đặc biệt là với thanh niên. Với tiểu thuyết, Tự lực văn đoàn đã tạo thành một mẫu người thanh niên mới cho thời đại của họ, nói rõ hơn đó là lớp thanh niên trí thức do nền giáo dục Tây phương tạo thành. ...Nhìn lại văn chương tiền chiến, cho đến nay những nhà phê bình văn học đều nói đến một chỗ đứng rất lớn lao của Tự lực văn đoàn, họ đã làm thành một biến cố, ghi dấu một thời đại, văn chương Tự lực văn đoàn thực đã là một giai đoạn có thật trong văn học sử. Nguyễn Huệ Chi (Từ điển văn học): Trong lĩnh vực văn học, đóng góp của Tự lực văn đoàn có vai trò đáng kể. Chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Việt Nam hiện đại thực sự hình thành và ghi được những thành tựu cơ bản nhất thông qua hoạt động của văn đoàn này. Phải bắt đầu từ đây, thơ và tiểu thuyết mới đi vào thế giới bên trong nhân vật, giúp người đọc khám phá trực diện vẻ đẹp của cái "tôi" và tạo ra cách đọc "phản tỉnh", tức là nhìn sâu vào cõi lòng mình. Về hình thức, tiểu thuyết của văn đoàn đã vượt ra khỏi phạm trù văn học "giao thời" (30 năm đầu thế kỷ 20), có cấu trúc mới mẻ, trong đó quy luật tâm lý thay cho lối trần thuật một giọng của người kể chuyện. Câu văn trong văn xuôi đã trở nên trong sáng, chuẩn mực, giàu khả năng biểu cảm tuy có lúc còn đơn điệu. Cùng với việc đào sâu tâm lý nhân vật, thiên nhiên cũng trở thành một đối tượng thẩm mỹ... Nguyễn Huệ Chi (Thử định vị Tự lực văn đoàn, 2009): Tự lực văn đoàn là tổ chức văn học đầu tiên của nước ta mang đầy đủ tính chất một hội đoàn sáng tác theo nghĩa hiện đại. Hội đoàn ấy bắt đầu bằng một tờ báo, đấy là tờ Phong Hóa bộ mới mà số đầu tiên phát hành vào ngày 8 tháng Chín năm 1932 - tức số 13 - đã lập tức biến một tờ báo vốn đang ế ẩm thành một hiện tượng đột xuất trong làng báo Hà Nội lúc ấy. Theo Nguyễn Vỹ, ngay số đầu tiên, tờ báo đã “bán chạy như tôm tươi” (Văn thi sĩ tiền chiến) báo hiệu một cái gì thật mới mẻ đang xuất hiện trên đất Hà thành. ...Cái hội đoàn do Nguyễn Tường Tam thành lập rõ ràng đã hiện ra trong tư cách một trường phái văn học hoàn chỉnh, khu biệt với mọi kiểu tổ chức văn học xuất hiện trước mình. Trở về trước, các thi xã truyền thống trong lịch sử thường phải dựa vào thế lực của một tầng lớp bên trên như vua quan, hay lãnh chúa một vùng, chẳng hạn Hội Tao đàn của Lê Thánh Tông, Chiêu Anh các của Mạc Thiên Tích. Hoặc là tập hợp của một đám thượng lưu quý tộc, chẳng hạn Mặc Vân thi xã của anh em Miên Thẩm. Các loại thi xã đó đều lấy việc ngâm vịnh văn chương để chơi làm mục đích, nên rất ít mở rộng ảnh hưởng ra ngoài thi xã. Tính khép kín là đặc điểm hiển nhiên của chúng. Tự lực văn đoàn trái lại, là sự tập hợp những con người không có quan tước, cũng không có thế lực nào bảo trợ. Họ gồm 7 người là Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Tú Mỡ, Thế Lữ, Xuân Diệu (không có Trần Tiêu). Đứng về mặt xã hội phải nói họ đều là “chân trắng”. Nhưng họ lại tập hợp nhau lại vì một lý tưởng muốn cống hiến cho văn học, thông qua văn học mà đóng góp cho xã hội, và cùng chung sức nhau xã hội hóa hoạt động sáng tác của họ, trong sự vận hành của cơ chế thị trường văn học nghệ thuật đang dấy lên từ Nam ra Bắc thuở bấy giờ. Nghĩa là họ chấp nhận sự cạnh tranh để sống còn bằng nghề văn của mình. Họ không chỉ biết đến tiểu thuyết, thơ ca mà còn ràng buộc với nhau trong việc sống nhờ vào hai tờ báo và một nhà xuất bản. Họ không hy sinh mục đích văn chương cao quý cho việc kiếm kế sinh nhai bằng mọi giá, nhưng việc kiếm kế sinh nhai lại chính là điều kiện để họ giữ vững thiên chức văn học như một “mục đích tự thân”, điều mà có lẽ, từ 1945 đến nay, chưa một văn đoàn nào trên đất Việt làm nổi và có ý thức, có gan làm (còn nhớ cách đây vài năm, khi có ý kiến đề xuất chuyển các hội sáng tác văn học nghệ thuật trở về đời sống dân sự đúng nghĩa, bỏ hẳn cơ chế “xin cho”, thì chính các vị lãnh đạo ở các hội ấy đã đồng loạt lên tiếng khẩn thiết đòi bảo vệ quyền thiêng liêng của mình là... vẫn được sống dựa vào Nhà nước). Cũng khác với các ông Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, để có thể tổ chức được một nhóm cầm bút với mục đích truyền bá cái mới của Âu Tây cũng như bước đầu xây dựng nền văn chương quốc ngữ, đều không tránh khỏi phải núp bóng Nhà nước Bảo hộ, Tự lực văn đoàn là một đoàn thể văn học hoàn toàn mang tính chất tư nhân, không ve vãn, nhân nhượng bộ máy đương quyền và không hề phát ngôn cho quyền lực dù lâm vào tình huống o ép khó xử nhất. Như vậy, có thể nói, Tự lực văn đoàn là tổ chức văn học chưa có tiền lệ trong văn học Việt Nam. Những mặt ưu trội kể trên đưa lại cho nó một sức hấp dẫn đặc biệt, không tiền và nếu tính đến nay thì cũng là khoáng hậu, đẩy nó lên địa vị gần như tuyệt đối trên văn đàn trong vòng 8 năm nó tồn tại trên thực tế. Sự ra đời của nó có tác dụng kích thích phong trào sáng tác văn học của cả nước như là một tất yếu, một nhu cầu nội tại, với tư cách một sự tìm kiếm và tự thực hiện của khát vọng tự do. Đó là phương diện chủ chốt vạch rõ sự khác biệt bản chất giữa nó với các hội đoàn văn học từ 1945 về sau mà ta không thể mượn tiêu chí này kia làm những cột mốc so sánh. Vu Gia, một học giả hàng đầu tại Việt Nam về các thành viên trong Tự Lực văn đoàn (2011): ...Nếu soạn một bộ lịch sử văn học thiếu nhi cho nước nhà, tôi nghĩ vị trí của Khái Hưng không nhỏ. Với tôi, Khái Hưng cũng như một số thành viên Tự Lực văn đoàn là những người có công khai phá “mảnh đất” này, và để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn đọc nhỏ tuổi nhiều thế hệ, ít ra là thế hệ chúng tôi ở miền Nam trước ngày giải phóng. ...Bây giờ, người đọc vẫn còn nhắc “văn chương Tự Lực văn đoàn”, “tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn”; trên các quầy sách suốt chiều dài đất nước không thiếu những tác phẩm văn chương của Tự Lực văn đoàn. Do đó, nếu không có chút giá trị nào thì văn chương Tự Lực văn đoàn không thể tồn tại lâu như thế. Còn các nhà văn VN hiện nay chia sẻ như thế nào, tôi xin mượn lời phát biểu của nhà văn Nguyên Ngọc trong một bài viết về tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn: “Phải đến Tự Lực văn đoàn tiểu thuyết mới thật sự có hình thức hiện đại của nó. Và từ đấy cho đến nay, tiểu thuyết đã phát triển qua nửa thế kỷ với nhiều đổi thay nhưng về cơ bản chưa thoát ra khỏi mô hình tiểu thuyết do Tự Lực văn đoàn tạo ra”. ...Khi nghiên cứu từng tác giả cụ thể trong Tự Lực văn đoàn, tôi thấy mỗi người một hoàn cảnh và tự biết vượt qua khỏi “cái rào cản” chính mình để khẳng định mình chứ chẳng dựa dẫm vào ai. Họ làm việc cật lực với mục đích rõ ràng: “Làm giàu văn sản trong nước”, chứ không chỉ hô hào cho sướng miệng... Nguyễn Hưng Quốc (Đánh giá lại Tự Lực Văn Đoàn, 2013): ...Trong lịch sử Việt Nam, giới cầm bút ít có thói quen sinh hoạt theo nhóm. Có. Nhưng ít. Nhìn lại văn học trung đại, từ cuối thế kỷ 19 trở về trước, chúng ta chỉ biết tên được một số tổ chức được gọi là tao đàn hay văn thi xã, như Tao đàn nhị thập bát tú của vua Lê Thánh Tông ở cuối thế kỷ 15, Chiêu Anh Các của Mặc Thiên Tích ở thế kỷ 18, Tùng Vân thi xã của Tùng Thiện Vương ở thế kỷ 19. Chỉ có hai nhóm đầu là có quy mô lớn và hoạt động tương đối tích cực. Tao đàn Nhị thập bát tú có 28 hội viên, hoạt động chủ yếu theo lối xướng họa giữa vua và quần thần, để lại một tập thơ chung mang nhan đề Quỳnh uyển cửu ca. Chiêu Anh Các có đến 72 hội viên và để lại bảy tác phẩm, vừa Hán vừa Nôm, trong đó, có Hà Tiên thập cảnh, Hà Tiên vịnh vật thi tuyển, Thu Đức Hiên tứ cảnh hồi văn, Minh Bột du ngư thi thảo… Nhưng về tầm vóc, cả hai, so với Tự Lực Văn Đoàn, hoàn toàn không đáng kể. Có thể nói, không có nhóm văn học nào, của tư nhân, từ xưa cũng như đến tận ngày nay, có tổ chức chặt chẽ, hoạt động đa dạng và sôi nổi như nhóm Tự Lực Văn Đoàn cả. Về phương diện tổ chức, họ có hội viên, có quy định về việc kết nạp hội viên, và đặc biệt, có cả cương lĩnh hoạt động rõ ràng. Về hoạt động, họ bao trùm rất nhiều lãnh vực: văn học, xã hội (phong trào Ánh Sáng) và về sau, từ năm 1939, cả chính trị nữa. Riêng trong lãnh vực văn học, họ không phải chỉ biết sáng tác mà còn ra báo (Phong Hóa và Ngày Nay), lập nhà xuất bản (Đời Nay), mở nhà in, và tổ chức các giải thưởng văn học. Trừ lãnh vực chính trị, trong mọi lãnh vực họ hoạt động, họ đều thành công rực rỡ. Trương Chính nhận định: “trong vòng tám năm, từ 1932 đến 1940, Tự Lực Văn Đoàn chiếm ưu thế tuyệt đối trên văn đàn công khai; sách báo họ in đẹp nhất, bán chạy nhất.” Chỉ với bảy người và chỉ trong khoảng một thời gian ngắn ngủi, họ làm được nhiều việc hơn bất cứ một nhóm văn học tư nhân nào khác trong cả lịch sử văn học Việt Nam từ trước đến nay. ...Nói một cách tóm tắt, trước thập niên 1930, trong suốt cả lịch sử văn học Việt Nam, chưa hề có một nhóm văn học nào hoạt động đa dạng, sôi nổi và thành công như Tự Lực Văn Đoàn. Từ thập niên 1930 về sau, cũng không hề có. Cùng thời với Tự Lực Văn Đoàn, người ta hay nhắc đến nhóm Tân Dân với những tên tuổi như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Lan Khai, Lê Văn Trương, Vũ Bằng, Nam Cao, Tô Hoài, v.v.. Nhưng Tân Dân, thật ra, không phải là một tổ chức văn học đúng nghĩa. Họ đến với nhau một cách khá tình cờ chung quanh nhà xuất bản Tân Dân của Vũ Đình Long. Giữa họ với nhau không hề có một liên kết hay cam kết nào khác ngoài lãnh vực thương mại, nhưng trong thương mại, quan hệ của họ với Vũ Đình Long cũng chỉ là quan hệ giữa người viết thuê và chủ mà thôi, một thứ quan hệ đầy tính chất con buôn, thậm chí, gian trá. Sau này, có một số nhóm văn học được nhắc nhở nhiều, như nhóm Xuân Thu nhã tập của Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Văn Hạnh và Nguyễn Xuân Sanh, nhóm Dạ Đài của Trần Dần, Trần Mai Châu và Vũ Hoàng Địch. Cả hai đều khao khát đổi mới văn học, nhưng tác phẩm, hoạt động cũng như ảnh hưởng của họ rất giới hạn. Với nhóm Dạ Đài, chỉ có “Bản tuyên ngôn tượng trưng” công bố vào năm 1946; với nhóm Xuân Thu nhã tập, chỉ có một tập sách mong mỏng, vừa tuyên ngôn vừa thơ và triết lý được xuất bản vào năm 1942. Ngay các nhóm văn học nổi tiếng ở miền Nam trước năm 1975, như Sáng Tạo của Mai Thảo, Trình Bày của Thế Nguyên, Quan Điểm của Nghiêm Xuân Hồng và Vũ Khắc Khoan… cũng không thể so sánh được với Tự Lực Văn Đoàn về bất cứ phương diện nào cả. Trên tạp chí Sông Hương ở Huế, số 37, ra vào tháng 4, 1989, Hoàng Xuân Hãn nhận định: “nhóm Tự Lực không phải là nhóm duy nhất nhưng là nhóm quan trọng nhất và là nhóm cải cách đầu tiên của nền văn học hiện đại.” Trong bài “Tự Lực Văn Đoàn và Thơ Mới sau hơn nửa thế kỷ nhìn lại”, viết năm 2012, Phong Lê cũng nhận định tương tự: “Tự Lực Văn Đoàn là tổ chức văn học lớn nhất và duy nhất quy tụ được những tên tuổi tài năng, có các nguyên tắc tổ chức vừa chặt chẽ, vừa rộng rãi trong đời sống văn học 1930-1945.” Tôi đồng ý với cả hai. Nhưng tôi chỉ muốn nhấn mạnh thêm: Đó không phải là nhóm lớn nhất hay quan trọng nhất trong “nền văn học hiện đại” hay trong giai đoạn 1930-1945 mà là trong suốt cả lịch sử kéo dài hơn một ngàn năm của văn học Việt Nam nói chung. ...Trước thế kỷ 20, văn học gắn liền với học đường và thi cử, do đó, vừa nặng tính học thuật vừa nặng tính công thức; từ đầu thế kỷ 20, văn học bắt đầu gắn liền với báo chí và xuất bản, nhưng trong mấy thập niên đầu, cả báo chí lẫn xuất bản đều mới manh nha, còn rất yếu ớt, phần lớn phải dựa vào sự tài trợ của chính phủ Pháp (như trường hợp của Nam Phong) hoặc do người Pháp đứng làm chủ (như trường hợp của Đông Dương tạp chí). Chỉ từ đầu thập niên 1930, mọi sinh hoạt văn học mới thực sự châu tuần chung quanh các tờ báo và các nhà xuất bản, trong đó Tự Lực Văn Đoàn, với hai tờ Phong Hóa – Ngày Nay và nhà xuất bản Đời Nay, là những người đi tiên phong và cũng là những người thành công hơn cả. Dựa trên báo chí và xuất bản, Tự Lực Văn Đoàn trở thành những người đầu tiên sống hẳn bằng ngòi bút một cách tương đối thoải mái. Trước họ, Tú Xương, thi cử thất bại, phải sống nhờ vào sức lao động của vợ, người “quanh năm buôn bán ở mom sông / nuôi đủ năm con với một chồng”; gần họ hơn, Tản Đà đã bắt đầu sống bằng ngòi bút nhưng sống một cách nhọc nhằn, hay như chính lời ông nhìn nhận: “Khi làm chủ báo lúc viết mướn / Hai chục năm dư cảnh khốn cùng”. Có thể nói, với Tự Lực Văn Đoàn, công việc viết văn và làm thơ (chứ không phải chỉ là làm báo) đã thực sự trở thành một nghề đàng hoàng. Biến thành một nghề, công việc viết lách dần dần được chuyên nghiệp hóa, giới cầm bút có thể tập trung hẳn vào sáng tác, do đó, số lượng tác phẩm tăng lên; họ cũng phải quan tâm đến việc đáp ứng thị hiếu của độc giả, do đó, hình ảnh của độc giả, vốn là những thị dân, từ một công chức đến một cô hàng xén, từ một anh đạp xích lô đến một cô gái điếm, dần dần được đưa vào văn học, thành những nhân vật trung tâm của văn học, thay thế cho các tiểu thư và các nho sinh ngày trước. Cuối cùng, do nhu cầu nghề nghiệp, giới cầm bút bắt buộc phải tìm kiếm và khẳng định phong cách độc đáo của mình, hơn nữa, không ngừng đa dạng hóa phong cách ấy để vừa thu hút vừa giữ gìn sự chú ý và hâm mộ của độc giả. ...Bởi vậy, từ góc độ văn học, không có gì quá đáng nếu nói tiểu thuyết hiện đại Việt Nam chỉ bắt đầu từ Tự Lực Văn Đoàn và với Tự Lực Văn Đoàn. Là những người đầu tiên, các nhà văn trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn, đặc biệt Nhất Linh, Khái Hưng và Thạch Lam, đã chứng tỏ tài năng kiệt xuất của họ khi viết những cuốn tiểu thuyết được xem là kinh điển trong trào lưu lãng mạn của Việt Nam. Nhưng là những người đầu tiên, họ vấp phải không ít vụng về và sai lầm mà sau này chính Nhất Linh đã thừa nhận trong cuốn Viết và đọc tiểu thuyết. Tuy nhiên, ở đây, lại có mấy điểm cần phải chú ý. Thứ nhất, phần lớn các nhà văn trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn hiểu khá rõ những khuyết điểm trong công cuộc khai phá của họ nên họ không ngừng tìm tòi để tự hoàn thiện, hệ quả là, trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn, những người trưởng thành sau thường vượt hơn hẳn những người đi trước: về thơ, Xuân Diệu viết hay hơn Thế Lữ, và về truyện, đặc biệt truyện ngắn, Thạch Lam viết hay hơn cả Khái Hưng lẫn Nhất Linh và Hoàng Đạo; trong những người thuộc lớp trước, như trường hợp của Nhất Linh và Khái Hưng, những tác phẩm về sau thường hoàn chỉnh và đặc sắc hơn những tác phẩm ban đầu... Trong khi Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng hay Nguyễn Tuân hầu như chết gí trong một phong cách, một kỹ thuật và một quan điểm thẩm mỹ cũng như xã hội nhất định, các cây bút trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn không ngừng thay đổi, họ đi từ tiểu thuyết luận đề sang tiểu thuyết tâm lý, từ tiểu thuyết lý tưởng sang tiểu thuyết phong tục, từ chủ nghĩa lãng mạn sang chủ nghĩa hiện thực, từ những ám ảnh về nhân sinh đến những ám ảnh ít nhiều mang tính vị nghệ thuật, từ những ưu tư về thế sự đến những ưu tư có tính chất siêu hình. Có thể nói chỉ trong vòng chưa tới mười năm, các cây bút trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn đã thử ứng dụng hầu hết các phát hiện chính về kỹ thuật và tư duy nghệ thuật của tiểu thuyết Pháp trong vòng một trăm năm, từ đầu thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20. ...Cái gọi là “phương pháp khoa học Thái Tây” này, theo tôi, bao gồm cả phương pháp sáng tác lẫn phương pháp cấu trúc câu văn. Nhờ chủ trương ấy cũng như nhờ tài năng thiên phú của họ, các cây bút Tự Lực Văn Đoàn đã xây dựng được một nền văn xuôi nghệ thuật thực sự có tính nghệ thuật, nghĩa là vừa thoát khỏi giai đoạn khẩu ngữ ngô nghê vừa thoát khỏi ảnh hưởng của văn biền ngẫu lổn nhổn từ Hán Việt ngày trước. Cứ so sánh câu văn của bất cứ người nào trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn với các câu văn của các nhà văn từ thập niên 1920 trở về trước, kể cả những tài năng xuất sắc của thời ấy, từ Tản Đà đến Phạm Quỳnh, từ Hoàng Ngọc Phách đến Hồ Biểu Chánh, chúng ta sẽ thấy khác hẳn. Câu văn của họ, nói chung, gọn gàng, nhẹ nhàng, trong sáng, linh động và duyên dáng hơn hẳn. ...Đánh giá công lao của nhóm Tự Lực Văn Đoàn trong lãnh vực tiểu thuyết, tôi cho nhận định của Lại Nguyên Ân rất hợp lý và công bình: “từng bước một, tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn chinh phục được công chúng, trở nên quen thuộc với họ, nhất là lớp công chúng thị dân. Và khi các nhà tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn đã đi hết chặng đường sáng tạo của họ, thì ‘kiểu dáng’ tiểu thuyết do họ tạo dựng đã trở thành cái nền, thành điểm tựa để nhiều nhà văn thuộc các xu hướng khác tiếp nhận để đi tới những thành tựu cao hơn.” Nói như vậy cũng có nghĩa là muốn nói công lao của Tự Lực Văn Đoàn trong lãnh vực tiểu thuyết không phải chỉ được nhìn thấy từ những tác phẩm của chính họ mà còn ở cả những tác phẩm khác của những người khác trong suốt thập niên 1930-40 và cả sau đó nữa. ...Với năm đóng góp kể trên (hình thành lớp nhà văn kiểu mới; hoàn chỉnh thể loại tiểu thuyết; đưa phong trào Thơ mới đến toàn thắng; cổ vũ cho chủ nghĩa cá nhân và nâng tiếng Việt lên thành một ngôn ngữ nghệ thuật, đặc biệt trong lãnh vực văn xuôi), không có gì đáng ngạc nhiên khi hầu hết những nhà phê bình và nghiên cứu công tâm từ trước đến nay đều nhìn nhận vị trí và vai trò của Tự Lực Văn Đoàn: thứ nhất, họ đều là những cây bút hàng đầu của Việt Nam trong suốt thế kỷ 20; thứ hai, họ là những người đi tiên phong và có công nhất trong nỗ lực hiện đại hóa văn học Việt Nam; và thứ ba, họ tạo được một nền tảng vững chắc trong cả hai lãnh vực, báo chí và văn học, trong văn học, gồm cả hai thể loại chính là truyện và thơ, để các thế hệ sau tiếp tục vun đắp. Sau này, một số nhà văn và nhà thơ đòi “chôn Thơ Mới” (như nhóm Nhân Văn Giai Phẩm ở miền Bắc vào giữa thập niên 1950) hay vượt qua Tự Lực Văn Đoàn (như nhóm Sáng Tạo ở miền Nam), và thành thực mà nói, đã có một số người làm điều đó, hơn nữa, chúng ta cũng mong muốn càng ngày càng có nhiều người làm được điều đó, nhưng ngay cả như vậy, tất cả những người vượt qua được Tự Lực Văn Đoàn đều mắc nợ Tự Lực Văn Đoàn. Thế đứng cao ngất của họ được hình thành một phần, thậm chí, phần lớn, nhờ họ đứng trên đôi vai vạm vỡ và lực lưỡng của Tự Lực Văn Đoàn. Xin được nhấn mạnh: ngay cả khi bị vượt qua, tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn cũng còn lại và sẽ còn lại mãi. Những gì đã trở thành cổ điển thì không bao giờ bị mất đi cả. Thế hệ trẻ hiện nay có thể sẽ không còn say mê Tự Lực Văn Đoàn. Nhưng họ vẫn phải đọc Tự Lực Văn Đoàn. Không đọc Tự Lực Văn Đoàn là một thiệt thòi, ít nhất về phương diện kiến thức: người ta bị hụt mất một trong những mảng màu đẹp nhất và nổi bật nhất trong bức tranh văn học Việt Nam. ...Đó là một nhóm văn học chịu nhiều oan khuất nhất trong nửa sau thế kỷ 20 như là hậu quả của những tranh chấp về chính trị và ý thức hệ tại Việt Nam trong suốt cả hai cuộc chiến tranh kéo dài từ 1945 đến 1975 cũng như cả giai đoạn gọi là “bao cấp” sau đó nữa... Với cả nhóm, cách đánh giá của giới nghiên cứu Việt Nam phần lớn vẫn còn khá rụt rè. Trong cuốn Về Tự Lực Văn Đoàn, cuốn sách nghiên cứu đầu tiên về Tự Lực Văn Đoàn được xuất bản sau phong trào Đổi Mới, Nguyễn Trác và Đái Xuân Ninh nhận định chung về Tự Lực Văn Đoàn: “Đóng góp ít, hạn chế nhiều”. Ngay cả Vương Trí Nhàn, một nhà phê bình khá có thiện chí ở Hà Nội, trong cuốn Nhà văn tiền chiến và quá trình hiện đại hoá trong văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX cho tới 1945 do NXB Đại học Quốc gia Hà Nội ấn hành năm 2005, cũng chỉ tập trung phân tích các tác giả như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Vũ Trọng Phụng, Lê Văn Trương, Nam Cao, Vũ Bằng, Dương Quảng Hàm và Đinh Gia Trinh chứ không hề có phần nào dành cho Nhất Linh và Khái Hưng cả. Đối với từng tác giả, trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn, không kể những người sau năm 1945, theo Việt Minh và sau năm 1954, ở lại miền Bắc (như Tú Mỡ, Thế Lữ và Xuân Diệu), trong bốn người còn lại (Khái Hưng và ba anh em nhà Nguyễn Tường), Thạch Lam là người được xuất bản nhiều nhất và cũng là người được đánh giá một cách ưu ái nhất. Ngoài lý do truyện của Thạch Lam, nhất là truyện ngắn, có giá trị nghệ thuật cao còn hai lý do này nữa: thứ nhất, truyện ông thường đề cập đến người nghèo khổ, rất phù hợp với quan điểm giai cấp của đảng Cộng sản; và thứ hai, quan trọng hơn, ông mất sớm, từ năm 1942, hoàn toàn không tham gia vào chính trị và cũng không có ân oán gì với đảng Cộng sản. Riêng với Nhất Linh, Hoàng Đạo và Khái Hưng, ba người từng công khai phát biểu cũng như hoạt động chống lại họ, trong đó có một người bị họ giết chết (Khái Hưng), cho đến nay, công việc tái bản sách của họ cũng như đánh giá về họ vẫn còn khá ít ỏi và dè dặt. Lại Nguyên Ân (Tự lực văn đoàn, một "nhóm lợi ích" trong đời sống văn nghệ, 2014): Ngay Phan Khôi, cùng thế hệ Tản Đà, người đã rất sớm nhận ra và lên tiếng khen giọng điệu báo chí mới mẻ của Phong Hóa, nhưng đáp lại, Phong Hóa luôn dùng lối diễu cợt để giữ khoảng cách, để dứt khoát gạt Phan Khôi về phái già. Bỏ qua rất nhiều trò chọc ghẹo vốn là đương nhiên khó tránh khỏi của thể tài hài báo, ít ra vẫn có một sai lạc không thể biện hộ, ấy là việc Phong Hóa và TLVĐ tạo ra thành ngữ “lý luận Phan Khôi” với hàm ý chế nhạo. Trong khi tư duy lô-gích là cái thiếu nhất ở người Việt, trong khi Phan Khôi là nhà báo thể hiện sự cố gắng nhiều hơn hết để nghĩ mới về mọi sự mọi việc, trong khi chính TLVĐ cũng hướng tới cái mới, duy lý, tiến bộ cho văn hóa xã hội Việt, thì chính họ lại dựng lên thành ngữ này, hùa theo luồng định kiến thông tục cũ kỹ trong giới cầm bút vốn đặc trưng cho xu thế thù ghét lý tính, bài xích lý luận của số đông với tâm thế gia trưởng thủ cựu; ở phương diện này, Nhất Linh (nếu ông là tác giả chính của thành ngữ này) chỉ đứng ngang với những cây bút tầm thường, và tỏ ra thấp hơn Phan Khôi rõ rệt. Nhưng khi đó Nhất Linh và các thành viên TLVĐ đã hành động theo lợi ích nhóm, mà chiến lược là hạ uy tín của những “đàn anh” trong báo giới văn giới, bất kể là ai. ...Các nhà văn trong TLVĐ từng khiến giới viết truyện đương thời cảm phục và gắng sức đua theo, vì kiểu tiểu thuyết luận đề là do họ đề xướng và cho ra mắt những sản phẩm đầu tiên. Song, mô hình tiểu thuyết luận đề chỉ có thể là điểm xuất phát chứ chưa thể là giải pháp cho mọi vấn đề của sáng tác văn xuôi tự sự bằng tiếng Việt ở thời đại mới. Những tiểu thuyết luận đề đầu tiên ra mắt chừng vài ba năm là đã thấy xuất hiện các sáng tác cùng kiểu thức ấy của những cây bút ngoài TLVĐ. Quá trình văn học diễn ra trong chưa đầy 20 năm đã làm xuất hiện một nền tiểu thuyết khá phong phú với rất nhiều tác giả và tác phẩm. Tuy vậy, điều đáng nói lại là, nếu như các cây bút văn xuôi trong TLVĐ đã in dấu vào mô hình thể tài tự sự này ở điểm khởi đầu, thì chính họ lại không có sản phẩm nào nằm trong sự kết tinh của cả quá trình phát triển ấy. Quả thật, không có tác phẩm nào đáng gọi là kiệt tác trong số các tiểu thuyết TLVĐ. Bởi nếu nói đến kiệt tác ở văn xuôi tự sự hư cấu giai đoạn ấy, người ta chỉ kể được Số đỏ (của Vũ Trọng Phụng) và Chí Phèo (của Nam Cao), hai tác phẩm của hai nhà văn ngoài văn đoàn Tự Lực. ...Chẳng hạn, về ngôn ngữ, họ chủ trương và thực hành việc viết bằng một thứ tiếng Việt trong sáng, giản dị, dễ hiểu, song họ hầu như không để ý đến việc những người viết văn đương thời thể nghiệm hoặc xử lý ra sao đối với chất liệu đời sống Việt Nam hoặc chất liệu ngôn ngữ tiếng Việt. Hoặc, họ có hầu như ngay từ đầu những ý tưởng về nhu cầu thoát khỏi chế độ đại gia đình để tìm đến kiểu gia đình hạt nhân, vốn phù hợp với sự phát triển con người cá nhân của một lớp thanh niên mới xuất hiện trong xã hội thuộc địa Âu hóa những năm 1920-30; song họ có khá ít sự hiểu biết về các tầng lớp dưới, ở cả thôn quê lẫn đô thị cũng đương thời ấy. Thế nhưng họ lại xem thường những khảo sát về những lớp người ấy do các nhà văn nhà báo bên ngoài văn phái họ thực hiện. ...Trong khi đó, có vẻ như các tác gia trong TLVĐ hầu như đứng ngoài sự nghiên cứu đời sống, đứng ngoài hoạt động miêu tả ngôn ngữ. Mấy tác gia hàng đầu của tiểu thuyết TLVĐ như Nhất Linh, Khái Hưng dường như quá tự tín khi đưa ra các luận đề mà họ cho là các vấn đề chính của xã hội và con người Việt Nam đương thời. Cố nhiên họ đã có lý – và đã đắc thắng – trong một thời gian nhất định. Song việc coi thường những đồng nghiệp “học vấn sơ học” tìm tòi ra sao trên những vấn đề của đời sống Việt, và cả những màu sắc ngôn từ, ở những vùng miền cụ thể, đã khiến những sáng tác về sau của họ yếu dần về độ sâu sắc của các vấn đề đời sống con người, nhạt nhòa dần về màu vẻ của ngôn từ nghệ thuật. Các tiểu thuyết của họ có văn phong sáng sủa, mực thước, nhưng cả tác giả, người kể chuyện lẫn các nhân vật trong truyện đều nói cùng một giọng, mọi nhân vật đều nói như nhau, hầu như không cho thấy các sắc thái giọng nói. Đấy chỉ là một trong số những dấu hiệu về sự khác biệt, song lại là khác biệt về “bí kíp” của sự nhạt nhẽo ngày càng lộ rõ trong ngôn ngữ của các tác gia văn xuôi TLVĐ, so với những sắc giọng đậm và mặn, có khi thô lỗ, có khi tục tằn, in dấu khẩu ngữ, biệt ngữ, phương ngữ trong mạch văn của không ít tác gia ngoài TLVĐ. Sách Ngữ văn lớp 11 (tập 1): Từ khoảng năm 1930, đã thực sự xuất hiện trào lưu lãng mạn chủ nghĩa với những thành tựu nổi bật được kết tinh ở Thơ mới, tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn, truyện ngắn trữ tình của Thạch Lam (trong Tự lực văn đoàn), Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh, Nguyễn Tuân...Trong khoảng thời gian ấy, nhóm Tự lực văn đoàn với những tác phẩm xuất sắc của Nhất Linh, Khái Hưng… đã đẩy cuộc cách tân tiểu thuyết lên một bước mới: cách dựng truyện tự nhiên, tổ chức kết cấu linh hoạt, tính cách nhân vật được xem là trung tâm của tác phẩm, đời sống của nhân vật được chú trọng và được phân tích, diễn tả tinh vi. Ngôn ngữ tiểu thuyết Tự lực văn đoàn giản dị, trong sáng, có khả năng diễn tả chính xác, tinh tế từ ý nghĩ, tình cảm, cảm xúc đến cảm giác mong manh, mơ hồ nhất, tuy về sau lại trở thành kiểu cách, sáo mòn. Vinh danh Bản số hóa toàn bộ báo Phong Hóa và báo Ngày Nay của Tự Lực văn đoàn từ những năm 1930 - 1940 được công bố và cho tải về miễn phí tại nhiều Website. Ðây là công trình được bà Phạm Thảo Nguyên (định cư ở Hoa Kỳ, con dâu của nhà văn Thế Lữ) cùng các cộng sự thực hiện từ đầu năm 2011. Tại thị trấn Cẩm Giang thuộc huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương có Nơi lưu niệm Tự Lực văn đoàn hướng ra tuyến đường sắt xưa cũ mà nhà văn Thạch Lam viết tác phẩm Hai đứa trẻ . Tháng 2 năm 2012, quy hoạch chi tiết công viên Tự Lực văn đoàn được UBND tỉnh Hải Dương phê duyệt. Kèm theo là dự án xây dựng quần thể khu biểu trưng văn hóa, nhà văn hóa, thư viện, hội trường, nhà khách, nhà ẩm thực và các công trình phụ trợ, trên diện tích gần 2,4 ha (toàn bộ khu vườn và khu vực lân cận) với tổng vốn gần 60 tỉ đồng. Tuy nhiên vì nhiều lý do mà dự án trên vẫn chưa xây dựng cho đến nay. Vấn đề liên quan đến văn bản gốc Trong những năm qua (đặc biệt kể từ đầu thời kỳ Đổi Mới tới nay) đã có không ít phản ánh của các nhà nghiên cứu trong nước lẫn hải ngoại về việc các tác phẩm của văn đoàn khi được tuyển chọn và in lại bởi các cơ sở xuất bản trong nước (trong đó có cả Nhà xuất bản Hội Nhà văn, cơ quan trực thuộc Hội Nhà văn Việt Nam) đã để xảy ra tình trạng khác biệt nội dung đáng kể so với văn bản gốc được phát hành trước năm 1945 bởi Nhà xuất bản Đời Nay trực thuộc văn đoàn. Nguyên nhân chủ yếu được cho là thuộc về trách nhiệm của những người làm công tác biên soạn trong nước khi tuyển chọn và cho tái bản đã tùy tiện cắt xén, biên tập làm thay đổi nội dung văn bản gốc (dù hấu hết là các tác phẩm văn chương thuần túy, không liên quan đến các vấn đề chính trị hay kiểm duyệt đương thời). Điều này dù vô tình hay cố ý đã tạo nên quá trình biến đổi từ từ về cấu trúc văn bản gốc (trong nguyên tác) theo thời gian. Do đó đã có những ý kiến cho rằng đây là quá trình "ngụy tạo" văn bản một cách có ý thức, dẫn tới kết quả "ngụy tạo" tác phẩm. Đồng thời qua đó những người làm công tác biên soạn trong trường hợp nói trên đã cho thấy sự thiếu tôn trọng thực sự đối với tác giả cũng như người đọc. Xem thêm Phong Hóa Ngày Nay Đời Nay (nhà xuất bản) Hội Ánh sáng (Phong trào Nhà Ánh Sáng) Thơ mới (phong trào) Bang Bạnh - Xã Xệ - Lý Toét Đại Việt Dân chính Đảng Giải thưởng văn chương Tự Lực Văn Đoàn Tham khảo Tài liệu nghiên cứu, phê bình Bởi Tự Lực văn đoàn Khái Hưng, Kỷ vật đầu tay và cuối cùng, 2 cuốn (Nguyễn Thạch Kiên biên tập). California: NXB Phượng Hoàng, 1997–1998 Khái Hưng, Truyện ngắn Khái Hưng, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 2018 Nhất Linh, Truyện ngắn Nhất Linh Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 2018 Nhất Linh & Khái Hưng, Tuyển tập Nhất Linh - Khái Hưng, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 2018 Thạch Lam, Tuyển tập Thạch Lam, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 2016 Về Tự Lực văn đoàn Sách, luận văn Chu Đăng Sơn, Luận đề về Đoạn tuyệt, Nửa chừng xuân, Mười điều tâm niệm, Nhà xuất bản Thăng Long, Sài Gòn, 1960 Doãn Quốc Sỹ, Tự-Lực Văn Đoàn, Nhà xuất bản Hồng Hà, Sài Gòn, 1960 Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu. Trung tâm học liệu xuất bản (bản in lần thứ 10), Sài Gòn, 1968 Dương Thị Hương, Nghệ thuật miêu tả tâm lý trong tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn, Luận án Tiến sĩ Văn học, Đại học Sư phạm Hà Nội, 2001 Đặng Ngọc Hùng, Tìm hiểu yếu tố hiện thực trong văn xuôi Tự Lực văn đoàn, Luận văn Thạc sĩ Văn học, Đại học Sư phạm TP. HCM, 2002 Đặng Thị Hồng Mai, Tiếp nhận tác phẩm Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam trong Tự Lực văn đoàn ở miền Nam (1954-1975), Luận văn Thạc sĩ Lý luận Văn học, Đại học Sư phạm TP. HCM, 2016 Đỗ Hồng Đức, Nhân vật nữ trong tiểu thuyết của Nhất Linh và Khái Hưng, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội, 2010 Hà Minh Đức (chủ biên), Tự Lực văn đoàn, trào lưu và tác giả, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 2007 Huỳnh Thị Hoa, Vấn đề tiếp nhận văn xuôi Tự Lực Văn Đoàn, Luận văn Thạc sĩ Văn học, Đại Học Sư Phạm TP.HCM, 2006 Khúc Hà Linh, Anh em Nguyễn Tường Tam Nhất Linh - Ánh sáng và bóng tối, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội, 2017 Lê Cẩm Hoa (biên soạn), Nhất Linh, con người và tác phẩm, Nhà xuất bản Văn Học, Hà Nội, 2000 Lê Hữu Mục, Khảo luận về Khái Hưng (Nửa chừng xuân, Hồn bướm mơ tiên), Nhà xuất bản Trường Thi, Sài Gòn 1958 Lê Hữu Mục, Khảo luận về Đoạn tuyệt, Nhà xuất bản Khai Trí, Sài Gòn, 1960 Lê Thanh Hải, Phong cách nghệ thuật truyện ngắn Thạch Lam, Luận văn Thạc sĩ Văn học, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010 Lê Thị Dục Tú, Quan niệm về con người trong tiểu thuyết của Tự Lực Văn Đoàn qua ba tác giả Nhất Linh - Khái Hưng - Hoàng Đạo, Luận án PTSKH Ngữ văn, Viện Văn học, Hà Nội, 1994 Lê Thị Dục Tú, Quan niệm về con người trong tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội, 2003 Lê Thị Quỳnh, Ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh trong các sáng tác trước năm 1945, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Đại học Thái Nguyên, 2009 Lương Văn Dương, Yếu tố trữ tình trong văn xuôi Thạch Lam, Luận văn Thạc sĩ Văn học, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2013 Mai Hương (tuyển chọn và biên soạn), Tự Lực Văn Đoàn trong tiến trình văn học dân tộc, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2000 Mai Hương (tuyển chọn và biên soạn), Nhất Linh, cây bút trụ cột của Tự Lực Văn Đoàn, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2000 Mai Thị Thanh Dung, Vấn đề giải phóng cá nhân trong sáng tác của Khái Hưng​, Luận văn Thạc sĩ Văn học, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014 Ngô Văn Thư, Bàn về tiểu thuyết Khái Hưng, Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội, 2006 Nguyễn Bá Lương, Luận đề về Nhất Linh (Đoạn tuyệt), Nhà xuất bản Tao Đàn, Sài Gòn, 1960 Nguyễn Duy Diễn; Bằng Phong, Luận đề về Khái Hưng, Nhà xuất bản Khai Trí, Sài Gòn, 1960 Nguyễn Duy Diễn; Bằng Phong, Luận đề về Tự Lực Văn Đoàn, Nhà xuất bản Thăng Long, Sài Gòn, 1967 Nguyễn Đăng Vy, Truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng trong văn xuôi nghệ thuật Tự Lực Văn Đoàn​, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Đại Học Sư Phạm TP.HCM, 2010 Nguyễn Đăng Vy, Tiểu thuyết, truyện ngắn Khái Hưng từ góc nhìn trần thuật, Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam, Đại Học Sư Phạm TP.HCM, 2016 Nguyễn Hải Châu, Người kể chuyện trong tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn, Luận văn Thạc sĩ Lý luận văn học, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011 Nguyễn Hiền Trang, Những cách tân về nghệ thuật của tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn trên con đường hiện đại hoá, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001 Nguyễn Huệ Chi, mục từ "Tự lực văn đoàn" trong Từ điển văn học (bộ mới), Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội, 2004 Nguyễn Quốc Linh, Tiểu thuyết luận đề của Khái Hưng, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Đại học Thái Nguyên, 2018 Nguyễn Thành Thi, Đặc trưng nghệ thuật của truyện ngắn Thạch Lam, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1999 Nguyễn Thành Thi, Phong cách văn xuôi nghệ thuật Thạch Lam, Luận án Tiến sĩ Ngữ Văn, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM, 2001 Nguyễn Thành Thi, Thạch Lam, văn và người, Nhà xuất bản Trẻ, TP. HCM, 2005 Nguyễn Thành Thi, Phong cách văn xuôi nghệ thuật Thạch Lam, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2006 Nguyễn Thao (tuyển chọn), Khái Hưng, nhà tiểu thuyết có biệt tài trong công cuộc canh tân văn học, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2013 Nguyễn Thị Hảo, Đặc điểm truyện ngắn Thế Lữ trong văn học giai đoạn 1932–1945, Luận văn Thạc sĩ Văn học, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014 Nguyễn Thị Hoàng Mai, Tiểu thuyết Nhất Linh với việc hiện thực hoá chủ trương canh tân văn hoá, văn học của Tự Lực Văn Đoàn, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Vinh, 2022 Nguyễn Thị Quỳnh, Thể loại tiểu thuyết luận đề của Tự Lực văn đoàn (qua Nửa chừng xuân, Đoạn tuyệt, Bướm trắng), Luận văn Thạc sĩ Văn học, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2017 Nguyễn Thị Thế, Hồi ký về gia đình Nguyễn Tường. Chuyện nhà của những văn nhân trụ cột Tự Lực Văn Đoàn, Nhà Xuất Bản Phụ Nữ Việt Nam, Hà Nội, 2021 Nguyễn Thị Thơm, Báo Phong Hóa với vấn đề đổi mới văn hóa Việt Nam từ năm 1932 đến năm 1936, Luận văn Thạc sĩ Báo chí, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2017 Nguyễn Thị Tuyến, Mô hình tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội, 2004 Nguyễn Thị Xuân Quỳnh, Văn xuôi Thạch Lam dưới góc nhìn văn hóa, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2016 Nguyễn Trác & Đái Xuân Ninh, Về Tự Lực văn đoàn, Nhà xuất bản TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh, 1989 Nguyễn Tường Bách, Việt Nam một thế kỷ qua, 2 cuốn. California: Thạch Ngữ, 1999–2000 Nguyễn Tường Thiết, Nhất Linh, cha tôi (hồi ký), Nhà xuất bản Phụ Nữ Việt Nam, Hà Nội, 2020 Nguyễn Văn Xung, Bình giảng về Tự Lực Văn Đoàn, Nhà xuất bản Tân Việt, Sài Gòn, 1958 Nhiều tác giả, Khái Hưng, thân thế và tác phẩm, Nhà xuất bản Nam Hà, Sài Gòn, 1972 Nhiều tác giả (Phạm Phú Minh biên tập), Kỷ yếu triển lãm và hội thảo về báo Phong Hóa - Ngày Nay và Tự Lực Văn Đoàn, Nhà xuất bản Người Việt, California, 2014 Nhiều tác giả, Phong Hóa thời hiện đại - Tự Lực văn đoàn trong tình thế thuộc địa ở Việt Nam đầu thế kỷ 20, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, Hà Nội, 2020 Nhiều tác giả, Tự Lực văn đoàn với vấn đề phụ nữ ở nước ta, Nhà xuất bản Phụ Nữ Việt Nam, Hà Nội, 2021 Nhật Thịnh, Chân dung Nhất Linh hay thân thế sự nghiệp Nguyễn Tường Tam, Nhà xuất bản Sống Mới, Sài Gòn, 1971 Phan Cự Đệ, Tự Lực văn đoàn - Con người và văn chương, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1990 Phạm Thanh Hùng, Tính nhân văn qua hình tượng người phụ nữ trong tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn, Luận văn Thạc sĩ Văn học, Đại học Quốc gia TP. HCM, 1999 Phạm Thảo Nguyên, Áo dài Lemur và bối cảnh Phong Hóa & Ngày Nay, Nhà xuất bản Hồng Đức, Hà Nội, 2018 Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (tập 3), Sài Gòn, 1965 Phạm Thị Minh Tuyến, Đề tài phong tục Việt Nam trong tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lý luận Văn học, Đại học Sư phạm TP. HCM, 2009 Phạm Thị Thu Hà, Hình tượng người phụ nữ trong tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn, Luận văn Thạc sĩ Lý luận văn học, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010 Phan Trọng Thưởng; Nguyễn Cừ (tuyển chọn và giới thiệu), Văn chương Tự Lực Văn Đoàn (3 tập), Nhà xuất bản Giáo Dục, Hà Nội, 1999 Thanh Lãng, Bảng lược đồ văn học Việt Nam (quyển hạ), Nhà xuất bản Trình bày, Sài Gòn, 1967 Thế Phong, Lược sử văn nghệ Việt Nam: Nhà văn tiền chiến 1930–1945, Nhà xuất bản Vàng Son, Sài Gòn, 1959 Trần Đỗ Lan Anh, Đặc điểm nhân vật trong tiểu thuyết Khái Hưng,Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Đại học Đà Nẵng, 2015 Trần Hoài Vũ, Yếu tố hiện thực và yếu tố lãng mạn trong sáng tác của Khái Hưng và Nhất Linh thuộc nhóm Tự Lực Văn Đoàn, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Đại học Sư phạm TP. HCM, 2010 Trần Thị Thu, Văn xuôi Thế Lữ trong Tự Lực Văn Đoàn, Luận văn Thạc sĩ Văn học, Đại học Sư phạm TP. HCM, 2012 Trịnh Hồ Khoa, Những đóng góp của Tự lực văn đoàn cho việc xây dựng một nền văn xuôi Việt Nam hiện đại, Luận án PTS. Văn học Việt Nam, Đại học Quốc gia Hà Nội, 1996 Trương Chính, Dưới mắt tôi (phê bình văn học), Nhà xuất bản Thụy Ký, Hà Nội, 1939 Trương Chính, Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam, Nhà xuất bản Xây Dựng, Hà Nội, 1957 Vu Gia, Khái Hưng, nhà tiểu thuyết, Nhà xuất bản Văn hoá, Hà Nội, 1993 Vu Gia, Thạch Lam, thân thế và sự nghiệp, Nhà xuất bản Văn hoá, Hà Nội, 1994 Vu Gia, Nhất Linh trong tiến trình hiện đại hóa văn học, Nhà xuất bản Văn hóa, Hà Nội, 1995 Vu Gia, Hoàng Đạo, nhà báo, nhà văn, Nhà xuất bản Văn hoá, Hà Nội, 1997 Vu Gia, Trần Tiêu, nhà văn độc đáo của Tự Lực văn đoàn, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội, 2006 Vu Gia, Tú Mỡ, người gieo tiếng cười, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội, 2008 Vu Gia, Thế Lữ, một khách tình si, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội, 2009 Vu Gia, Khái Hưng, người đổi mới văn chương, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội, 2011 Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại, 4 tập (1942–1945) Vũ Thanh Việt, Truyện ngắn Tự Lực Văn Đoàn qua hai tác giả tiêu biểu Khái Hưng và Thạch Lam, Luận văn Thạc sĩ Văn học, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2008 Bài viết (tạp chí chuyên ngành) Dương Nghiễm Mậu, Nhân nghĩ về Khái Hưng, Tạp chí Văn, số 22-1964 Đào Văn A, Tự lực văn đoàn trên sách báo miền Nam trước đây, Tạp chí Văn học, số 5-1981. Đinh Quang Tốn, Thạch Lam và quê hương sáng tác, Tạp chí Văn học, số 6-1992, tr.20. Đỗ Đức Hiểu, Đọc Bướm trắng của Nhất Linh, Tạp chí Văn học, số 1-1997, tr.15. Đỗ Đức Hiểu, Đọc Đôi bạn của Nhất Linh, Tạp chí Văn học, số 1-1997, tr.15. Hà Minh Đức, Hoàng Đạo (1907-1948), Nghiên cứu Văn học, số 8-2006, tr.75. Hồ Hữu Tường, Khái Hưng, người thứ nhứt muốn làm nguyên soái “văn chương sáng giá”, Văn, số 22, Sài Gòn, 15-11-1964, tr.27 Hồ Thị Xuân Quỳnh, Tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn - Một thái độ ứng xử thẩm mỹ đối với lớp trẻ giai đoạn 1930–1945, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ [Phần C: Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục: 41 (2015): 19–24] Hồ Thị Xuân Quỳnh, Một số phương pháp tạo ấn tượng thẩm mỹ trong việc dạy học văn chương Tự Lực Văn Đoàn, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, 55 (Số chuyên đề: Khoa học Giáo dục): 96–104, 2019 Lê Dục Tú, Tìm hiểu truyện ngắn Khái Hưng, Nghiên cứu Văn học, số 3-2005, tr.106. Lê Kim Vinh, Thạch Lam, Tạp chí Văn học, số 3-1990, tr.5. Lê Minh Tuyên, Những nét tương đồng và khác biệt trong truyện ngắn Nguyễn Tuân và Thạch Lam, Tạp chí Văn học, số 12-2003, tr.69. Lê Thị Đức Hạnh, Trần Tiêu có phải là thành viên trong tổ chức Tự lực văn đoàn không?, Tạp chí Văn học, số 5-1990, tr.17. Lê Thị Đức Hạnh, Thêm mấy ý kiến đánh giá Tự lực văn đoàn, Tạp chí Văn học, số 3-1991, tr.76. Lê Thị Đức Hạnh, Tự lực văn đoàn và Phong trào Thơ Mới, Tạp chí Văn học, số 2-1993, tr.24. Ngô Văn Thư, Nửa chừng xuân – bước tiến của nghệ thuật tiểu thuyết, tạp chí Văn học, số 11-2001, tr.64. Ngô Văn Thư, Quan niệm văn chương của Khái Hưng, Nghiên cứu Văn học, số 3-2005, tr.117. Ngô Văn Thư, Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Khái Hưng, Nghiên cứu Văn học, số 6-2009, tr.43 Nguyễn Đăng Vy; Lê Dinh Dinh, Ngôn ngữ truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng trong xu hướng phát triển ngôn ngữ văn xuôi nghệ thuật của Tự Lực văn đoàn – từ góc nhìn trần thuật học, Tạp chí Khoa học- Trường Đại học Phú Yên, Tập. 3 Số. 05 (2014) Nguyễn Kim Hồng, Xu hướng hiện thực tâm lý qua các tác phẩm viết về làng quê của Thạch Lam, Tạp chí Văn học, số 12-2001, tr.53. Nguyễn Hữu Hiếu, Mấy suy nghĩ về nhà văn Nhất Linh – Nguyễn Trường Tam, Tạp chí Văn học, số 4-1994, tr.50. Nguyễn Mạnh Trí, Giá trị truyền thống và hiện đại của kiến trúc Nhà Ánh Sáng, Tạp chí Khoa học công nghệ Xây dựng – Trường Đại học Xây dựng số 9(4):57–63, 2015 Nguyễn Thanh Hồng, Truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam, Tạp chí Văn học, số 3-1990, tr.7. Nguyễn Thành Thi, Thạch Lam từ quan niệm về cái đẹp đến những trang văn Hà Nội ba sáu phố phương, Tạp chí Văn học, số 10-2000, tr.58. Nguyễn Thị Hoàng Mai, Hình tượng “nhân vật nữ nổi loạn” trong tiểu thuyết của Nhất Linh (thời kì Tự Lực văn đoàn), Tạp chí Khoa học - Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh, Tập. 18 Số. 7, 2021 Nguyễn Thị Hoàng Mai, Văn chương Tự Lực Văn Đoàn trong chương trình giáo dục phổ thông ở miền Nam (1955–1975), Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(3):1166–1171, 2021 Oh Eun Chol, Vấn đề gia đình trong tiểu thuyết Gia đình của Khái Hưng (Việt Nam) và tiểu thuyết Ba thế hệ của Yom Sang Sop (Hàn Quốc), Tạp chí Văn học, số 11-2000, tr.69. Phan Quốc Lữ, Tính chất phi cốt truyện trong văn xuôi Thạch Lam, Xuân Diệu, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh, Tạp chí Văn học, số 6-2003, tr.55. Phan Trọng Thưởng, Cuối thế kỷ nhìn lại việc nghiên cứu, đánh giá văn chương Tự lực văn đoàn, Tạp chí Văn học, số 2-2000, tr.51. Phạm Đình Ân, Thế Lữ trong Tự lực văn đoàn, Tạp chí Văn học, số 8-2003, tr.64. Phạm Thị Thu Hương, Quan niệm nghệ thuật về con người trong truyện ngắn Thạch Lam, Tạp chí Văn học, số 3-1993, tr.16. Phong Lê, Thạch Lam trong Tự lực văn đoàn, Tạp chí Văn học, số 2-1988, tr.103. Trần Văn Toàn, Nam tính hoá nữ tính – đọc Đoạn tuyệt của Nhất Linh dưới góc nhìn giới tính, Nghiên cứu Văn học, số 9-2011, tr.86. Trương Chính, Vấn đề đánh giá Tự Lực văn đoàn, Tạp chí Văn học số 3+ 4, 1988, tr.21-30 Trương Chính, Nhìn lại vấn đề giải phóng phụ nữ trong tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn, Tạp chí Văn học, số 5-1990, tr.3 Văn Tạo, Nên có nhà lưu niệm Tự lực văn đoàn, Nghiên cứu Văn học, số 3-2006, tr.127. Vu Gia, Một ít tư liệu chung quanh Thạch Lam, Tạp chí Văn học, số 8-1994, tr.53. Vũ Khánh Dần, Nhìn nhận tiểu thuyết Nhất Linh hơn nửa thế kỷ qua, Tạp chí Văn học, số 3-1997, tr.81. Vũ Tuấn Anh, Thạch Lam – văn chương và cái đẹp, Tạp chí Văn học, số 6-1992, tr.13. Vương Trí Nhàn, Cốt cách của ngòi bút Thạch Lam, Tạp chí Văn học, số 5-1990, tr.10. Nguồn khác (báo, tạp chí điện tử) Đỗ Quý Toàn, Phong trào Nhà Ánh Sáng của Tự Lực Văn Đoàn. (Diễn Đàn Thế Kỷ, 13/7/2013) Đỗ Quý Toàn, Phong trào Nhà Ánh Sáng của Tự Lực Văn Đoàn (tiếp theo và hết). (Diễn Đàn Thế Kỷ, 14/7/2013) Hà Thanh Vân, Thơ mới và tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn trong sự tiếp nhận của độc giả trẻ Việt Nam hiện nay (Tham luận đọc tại Hội thảo Phong trào Thơ mới và văn xuôi Tự lực văn đoàn - 80 năm nhìn lại, 2012) Kawaguchi Kenichi, Tự Lực Văn Đoàn và văn học hiện đại Việt Nam, 2012 Khuất Bình Nguyên, Trở lại với Thạch Lam . (Tạp chí Văn hóa Nghệ An, 06/8/2017) Lã Nguyên, Lý luận tiểu thuyết trong “Theo giòng” của Thạch Lam . (Tạp chí Văn hóa Nghệ An, 10/1/2011) Lại Nguyên Ân, Tự lực văn đoàn, một "nhóm lợi ích" trong đời sống văn nghệ . (Tạp chí Văn hóa Nghệ An, 18/2/2014) Mặc Lâm, Aki Tanaka – Một người bạn của “Tự Lực Văn Đoàn”. (Đài Á Châu Tự Do – RFA, 05/09/2015) Nguyên Ngọc, Đôi chút về giải thưởng Tự lực văn đoàn. (Tạp chí Tia Sáng, 16/08/2012) Nguyễn Công Lý, Văn chương Tự Lực Văn Đoàn và Thơ Mới trong chương trình trung học môn Văn ở miền Nam trước năm 1975. (Khoa Văn học và Ngôn ngữ - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia TP. HCM, 30/10/2012) Nguyễn Đăng Mạnh, Tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn và Phong trào Thơ mới (1932–1945) - nhìn lại và suy nghĩ (Tham luận đọc tại Hội thảo Phong trào Thơ mới và văn xuôi Tự lực văn đoàn - 80 năm nhìn lại, 2012) Nguyễn Huệ Chi, Thử định vị Tự lực văn đoàn . (Tạp chí Văn hóa Nghệ An, 08/12/2009) Nguyễn Hưng Quốc, Đánh giá lại Tự Lực Văn Đoàn. (Tạp chí văn chương Da Màu, 22/07/2013) Nguyễn Thị Phương Thuý, Ảnh hưởng của tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn đến tiểu thuyết ở đô thị Nam Bộ 1945-1954. (Tham luận tại Hội thảo Phong trào Thơ mới và văn xuôi Tự lực văn đoàn - 80 năm nhìn lại, 28/10/2012) Phan Mạnh Hùng, Tiếp nhận Khái Hưng ở miền Nam trước 1975 (Tham luận tại Hội thảo Phong trào Thơ mới và văn xuôi Tự lực văn đoàn - 80 năm nhìn lại). (Diễn Đàn Thế Kỷ, 26/5/2013) Tanaka Aki, Một cách nhìn mới về “Băn khoăn” của Khái Hưng . (Tạp chí Văn hóa Nghệ An, 29/10/2017) Thụy Khuê, Tự Lực văn đoàn, văn học và cách mạng Trần Hoài Anh, Tự lực văn đoàn trong cái nhìn của lý luận – phê bình văn học ở miền nam 1954 – 1975 (Vanchuongviet.org, 10/2/2013) Trần Thị Thanh Xuân, Truyện ngắn Thạch Lam: Nhìn từ lý thuyết mô hình văn bản nghệ thuật của Iu.Lotman . (Tạp chí Văn hóa Nghệ An, 08/1/2012) Văn hóa xứ Đông Văn hóa Hà Nội Văn học chữ Quốc ngữ Văn học lãng mạn Việt Nam Phong trào văn học Việt Nam Phong trào văn hóa Việt Nam Phong trào cải cách văn học Phong trào cải cách văn hóa Hội thơ văn Việt Nam Lịch sử văn học Việt Nam Lịch sử báo chí Việt Nam
25990
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ho%C3%A0ng%20Gi%C3%A1c
Hoàng Giác
Hoàng Giác (1924 – 2017) là nhạc sĩ và ca sĩ nhạc tiền chiến nổi tiếng của nền Tân nhạc Việt Nam. Ông sáng tác không nhiều, song lại sở hữu một số tác phẩm nổi tiếng được biết đến rộng rãi. Tiểu sử Hoàng Giác sinh năm 1924; quê gốc của ông là làng Chèm, nay thuộc phường Thụy Phương, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội. Cha của Hoàng Giác là một người chơi đàn bầu rất hay nhưng lại ham mê môn quyền anh, từng giữ chức Chủ tịch Liên đoàn Quyền anh Bắc Kỳ. Bản thân Hoàng Giác cũng là người say mê thể thao. Thuở nhỏ, ông học trường Bưởi. Từ khi còn là học sinh, ông đã tìm tòi học hỏi nhạc theo các tài liệu sáng tác cũng như hòa thanh của Pháp. Năm 1945 ông viết ca khúc đầu tay "Mơ hoa". Trong thời gian kháng chiến chống Pháp, Hoàng Giác cùng gia đình sơ tán lên chiến khu Việt Bắc. Cuối năm 1946, ông sáng tác bài hát "Ngày về" khi còn là một đội viên trong đoàn tuyên truyền của cách mạng được trở về thăm gia đình sau những chuyến đi công tác. Theo Hoàng Giác, đây chính là ca khúc ông ưng ý nhất. Bài này đã được nhiều ca sĩ thu âm như tài tử Ngọc Bảo, Ái Vân, Mai Hoa, Anh Thơ,... Năm 1948, Hoàng Giác trở lại Hà Nội và là một ca sĩ được nhiều người yêu mến. Hoàng Giác sáng tác không nhiều, chỉ khoảng 20 ca khúc. Trong số đó, có những bài hát nổi tiếng và vượt thời gian như "Mơ hoa", "Ngày về", "Lỡ cung đàn",...Ông khiêm tốn: "Tôi sáng tác không nhiều và so với các nhạc sĩ cùng thời thì đóng góp của tôi cho nền âm nhạc nước nhà không được bao nhiêu." Hoàng Giác chuyên sử dụng nhạc cụ là đàn Ghi-ta Hawaii (còn gọi là Hạ Uy cầm) và từng nhiều năm làm giảng viên ghi-ta tại Trường Sư phạm Nhạc – Họa Trung ương và Trường Âm nhạc dân lập. Hoàng Giác lập gia đình với bà Kim Châu vào năm 1951. Từ khoảng nửa sau thập niên 1960, gia đình ông rơi vào cảnh sống cơ cực ở miền Bắc Việt Nam bởi nhà cầm quyền Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam sử dụng nhạc bản "Ngày về" của ông để làm nhạc hiệu cho chương trình "Chiêu hồi". Hai ông bà có người con trai là nhà thơ Hoàng Nhuận Cầm. Ngày 14 tháng 9 năm 2017, Hoàng Giác qua đời tại nhà riêng ở Hà Nội do tuổi cao sức yếu, hưởng thọ 94 tuổi. Một số tác phẩm Anh sẽ về Binh sếu Bóng ngày qua Giờ vui tàn Hương lúa đồng quê Khúc hát thương binh Lỗi hẹn Lỡ cung đàn Mơ hoa Ngày đi Ngày về Quê hương Viết lời cho ca khúc của Nguyễn Thiện Tơ: Qua bến năm xưa Tiếng hát biên thùy Trên đường về Tham khảo Liên kết ngoài Nghe giai điệu của "Mơ hoa" và "Ngày về", Trang web của Đài Tiếng nói Việt Nam Nhạc sĩ tiền chiến Ca sĩ nhạc tiền chiến Việt Nam Người Hà Nội
25991
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bismuth
Bismuth
Bismuth là một nguyên tố hóa học trong bảng tuần hoàn có ký hiệu Bi và số nguyên tử 83. Nó là một kim loại yếu giòn, nặng, kết tinh màu trắng ánh hồng, có hóa trị chủ yếu là +3 và có các tính chất hóa học tương tự như asen và antimon. Trong số các kim loại thì nó là chất có độ nghịch từ lớn nhất và chỉ có thủy ngân là có độ dẫn nhiệt thấp hơn. Các hợp chất của bismuth không lẫn chì đôi khi được sử dụng trong mỹ phẩm và một số ứng dụng y học. Các đặc trưng nổi bật Nó là một kim loại giòn với sắc hồng và các vết xỉn óng ánh nhiều màu. Trong số các kim loại nặng, bismuth là bất thường do độ độc tính của nó thấp hơn nhiều so với của các nguyên tố cận kề trong bảng tuần hoàn như chì, tali và antimon. Thông thường, nó cũng được coi là nguyên tố có đồng vị ổn định nặng nhất, nhưng hiện nay người ta đã biết rằng điều này không hoàn toàn đúng (xem dưới đây). Không có kim loại nào là nghịch từ tự nhiên nhiều hơn bismuth (khác với tính siêu nghịch từ). Điều này diễn ra trong dạng tự nhiên của nó và nó có trở kháng cao. Trong số các kim loại, nó có độ dẫn nhiệt kém, chỉ hơn thủy ngân và là kim loại có hiệu ứng Hall cao nhất. Khi cháy với oxy, bismuth cháy với ngọn lửa màu xanh lam và oxide của nó tạo ra khói màu vàng. Đã từ lâu, trên cơ sở lý thuyết người ta cho rằng bismuth là không ổn định, nhưng chỉ đến năm 2003 thì điều này mới được chứng minh khi các nhà nghiên cứu tại Institut d'Astrophysique Spatiale ở Orsay, Pháp đã đo đạc được chu kỳ bán rã theo phân rã alpha của Bi209 là 1,9 × 1019 năm, điều này có nghĩa là bismuth là một chất phóng xạ rất chậm, với chu kỳ bán rã gấp cả hàng tỷ lần tuổi vũ trụ mà hiện nay người ta đã ước tính. Do chu kỳ bán rã quá lớn này, bismuth có thể coi là ổn định và không phóng xạ. Các thực phẩm thông thường, cũng như cơ thể của chúng ta chứa một lượng đáng kể C14 có tính phóng xạ gấp hàng nghìn lần so với bismuth. Tuy nhiên, tính phóng xạ là sự quan tâm của giới khoa học do bismuth là một trong ít các nguyên tố mà tính phóng xạ đã được dự báo trước trên lý thuyết, trước khi được phát hiện trong phòng thí nghiệm. Ứng dụng Oxyclorua bismuth được sử dụng nhiều trong mỹ phẩm. Subnitrat bismuth và subcacbonat bismuth được sử dụng trong y học. Subsalicylat bismuth (Pepto-Bismol®) được dùng làm thuốc chống bệnh tiêu chảy. Một số ứng dụng khác là: Nam châm vĩnh cửu mạnh có thể được làm ra từ hợp kim bismanol (MnBi). Nhiều hợp kim của bismuth có điểm nóng chảy thấp và được dùng rộng rãi để phát hiện cháy và hệ ngăn chặn của các thiết bị an toàn cháy nổ. Bismuth được dùng để sản xuất thép dễ uốn. Bismuth được dùng làm chất xúc tác trong sản xuất sợi acrylic. Nó cũng dược dùng trong cặp nhiệt điện (bismuth có độ âm điện cao nhất). Vật chuyên chở các nhiên liệu U235 hay U233 cho các lò phản ứng hạt nhân. Bismuth cũng được dùng trong các que hàn. Một thực tế là bismuth và nhiều hợp kim của nó giãn nở ra khi chúng đông đặc lại làm cho chúng trở thành lý tưởng cho mục đích này. Subnitrat bismuth là thành phần của men gốm, nó tạo ra màu sắc óng ánh của sản phẩm cuối cùng. Bismuth đôi khi được dùng trong sản xuất các viên đạn. Ưu thế của nó so với chì là nó không độc, vì thế nó là hợp pháp tại Anh để săn bắn các loại chim vùng đầm lầy. Những năm đầu thập niên 1990, các nghiên cứu bắt đầu đánh giá bismuth là sự thay thế không độc hại cho chì trong nhiều ứng dụng: Như đã nói trên đây, bismuth được sử dụng trong các que hàn; độc tính thấp của nó là đặc biệt quan trọng cho các que hàn dùng trong các thiết bị chế biến thực phẩm. Một thành phần của men gốm sứ. Một thành phần trong đồng đỏ. Thành phần trong thép dễ cắt cho các chi tiết có độ chính xác cao của máy móc. Một thành phần của dầu hay mỡ bôi trơn. Vật liệu nặng thay chì trong các chì lưới của lưới đánh cá. Tinh thể Mặc dù không được nhìn thấy nhiều trong tự nhiên, nhưng bismuth có độ tinh khiết cao có thể tạo thành các tinh thể phễu đặc trưng. Các vật tạo ra trong phòng thí nghiệm đầy màu sắc này nói chung được bán cho những người có sở thích sưu tập đồ kỳ dị. Lịch sử Bismuth (tiếng Latinh bisemutum từ tiếng Đức Wismuth, có lẽ là từ weiße Masse, "khối màu trắng") trong thời kỳ đầu đã bị nhầm lẫn với thiếc và chì do sự tương tự của chúng. Claude Geoffroy le Jeune (Claude Geoffroy trẻ) năm 1753 đã chỉ ra rằng kim loại này là khác hẳn chì. Sự phổ biến Các quặng bismuth quan trọng nhất là bismuthhinit và bitmit. Canada, Bolivia, Nhật Bản, México và Peru là các nhà sản xuất chính. Bismuth sản xuất tại Hoa Kỳ là sản phẩm phụ thu được từ sản xuất đồng, vàng, bạc, thiếc và đặc biệt là chì. Năm 2000, giá trung bình của bismuth là 7,70 USD trên 1 kg. Tham khảo Phòng thí nghiệm quốc gia Los Alamos, Hoa Kỳ - Bitmut Liên kết ngoài WebElements.com - Bitmut Chu kỳ bán rã của bitmut trong phân rã alpha Nguyên tố hóa học Nhóm nitơ Kim loại yếu Khoáng vật hệ ba phương
25994
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB%A7%20d%C3%A2m
Thủ dâm
Thủ dâm (tiếng lóng: tự sướng, quay tay) là hình thức kích thích cơ quan sinh dục bằng tay để tạo khoái cảm, thường đạt tới mức cực khoái. Đây được xem là hành vi tình dục không thâm nhập. Sự kích thích có thể được thực hiện bằng bàn tay, ngón tay, vật dụng hàng ngày, đồ chơi tình dục như máy rung, hoặc sự kết hợp của tất cả những cái trên. Thủ dâm có thể là sự kích thích tự thực hiện hay bởi một người khác (xem thủ dâm lẫn nhau), nhưng thường thì thuật ngữ này để chỉ những hành động được thực hiện một mình. Thủ dâm là một trong nhiều hành động được gọi là tự thỏa mãn tình dục (tiếng Anh: autoeroticism), bao gồm cả việc sử dụng những dụng cụ hỗ trợ tình dục (sex toy) và kích thích ngoài bộ phận sinh dục. Cũng có những máy thủ dâm được sử dụng để kích thích sự giao hợp. Thủ dâm và giao hợp là hai hình thức hoạt động tình dục phổ biến nhất của con người, nhưng chúng không loại trừ lẫn nhau (ví dụ, nhiều người thấy việc đối tác của mình thủ dâm là một hành động rất gợi tình). Một số người chỉ có thể đạt cực khoái thông qua thủ dâm chứ không phải giao hợp. Thủ dâm có thể diễn ra thường xuyên ở cả hai giới cũng như ở mọi lứa tuổi. Một thái độ lành mạnh đối với hoạt động tình dục nói chung và thủ dâm nói riêng được chứng minh đem lại nhiều lợi ích y học và tâm lý khác nhau. Không có mối quan hệ nhân quả nào được biết đến giữa thủ dâm và bất kỳ dạng rối loạn tâm thần hoặc thể chất nào. Trong thế giới phương Tây, thủ dâm một mình hoặc với bạn tình thường được coi là một phần bình thường và lành mạnh của việc hưởng thụ tình dục. Thủ dâm đã được mô tả trong nghệ thuật từ thời tiền sử, và được đề cập và thảo luận trong các tác phẩm văn học rất sớm. Trong thế kỷ 18 và 19, một số nhà thần học và bác sĩ châu Âu đã mô tả thủ dâm là "ghê tởm", "đáng trách" và "gớm ghiếc", nhưng trong thế kỷ 20, những điều cấm kỵ nói chung đã giảm. Đã có sự gia tăng trong các cuộc thảo luận và miêu tả về thủ dâm trong nghệ thuật, âm nhạc, truyền hình, phim ảnh và văn học. Ngày nay, các tôn giáo vẫn còn các quan điểm khác nhau về thủ dâm; một số tôn giáo coi nó như một thực hành không có lợi về mặt tâm linh, một số tôn giáo không coi thủ dâm bất lợi về mặt tâm linh, và một số tôn giáo khác lại có quan điểm thay đổi tùy theo tình huống. Tình trạng pháp lý của hành vi thủ dâm cũng thay đổi qua lịch sử và thủ dâm ở nơi công cộng là bất hợp pháp ở hầu hết các quốc gia. Thủ dâm ở động vật đã được quan sát thấy ở nhiều loài có vú cả trong tự nhiên và trong tình trạng bị giam giữ. Từ nguyên Từ masturbation ("thủ dâm" trong tiếng Anh) được tin là có nguồn gốc ở từ mezea của tiếng Hy Lạp(μεζεα, "dương vật") và từ turbare ("nhiễu loạn") của tiếng Latin. Một từ nguyên khác dựa trên tiếng Latin manu stuprare ("để cưỡng dâm bằng tay") được Từ điển tiếng Anh Oxford coi là một "phỏng đoán cũ". Từ đồng nghĩa và ít được sử dụng manustupration cũng có nguồn gốc tương tự từ manus stuprare. Một từ khác cũng được sử dụng là onanism, xuất phát từ tên một nhân vật trong Sách Sáng Thế của Kinh Thánh Cựu Ước là ông Onan (Ônan). "Ông Judas (Giuđa) cưới cho Er (E), con trai đầu lòng của ông, một người vợ tên là Tamar (Tama). Er, con đầu lòng ông Judas, làm mất lòng Đức Chúa, nên Đức Chúa khiến cậu chết. Ông Judas bảo Onan: "Con hãy ăn ở với chị dâu con, hãy chu toàn nhiệm vụ của một người em chồng, và làm cho anh con có người nối dõi. Onan biết rằng dòng dõi sinh ra sẽ không phải là của mình, nên khi ăn ở với chị dâu, thì cậu lại cho tinh trùng rơi xuống đất, để không cho anh cậu có người nối dõi". (St 38,6-9) Trong tiếng Việt, từ thủ dâm có gốc từ chữ Hán 手淫, có nghĩa là "hành dâm bằng tay". Các kỹ thuật thủ dâm Các cách thức thủ dâm thông thường đối với mọi người ở cả hai giới tính là ấn hay cọ xát vùng bộ phận sinh dục bằng các ngón tay hay bằng một vật như một cái gối; nhét những ngón tay hay một vật vào trong hậu môn (xem thủ dâm hậu môn); và kích thích dương vật hay âm hộ/âm vật bằng máy rung chạy điện, cũng có thể được nhét vào bên trong âm đạo hay hậu môn. Cả nam lẫn nữ đều có thể thích việc chạm, cọ xát, hay mơn trớn núm vú hay những vùng kích thích tình dục khác khi thủ dâm. Cả hai giới thỉnh thoảng sử dụng dầu bôi trơn để làm tăng cảm giác. Đọc hay xem sách báo khiêu dâm hoặc tưởng tượng về tình dục là những hành động phụ thêm thông thường của thủ dâm ở thanh niên và mới trưởng thành. Các hoạt động thủ dâm thường được trình tự hóa. Phụ nữ Đối với phụ nữ còn trinh, vùng kín chưa bị thâm nhập, hoặc mới bắt đầu thủ dâm thì kích thích âm vật và núm vú sẽ được khuyến khích và an toàn hơn kích thích âm đạo, sau này thủ dâm kết hợp với kích thích âm đạo hoặc quan hệ tình dục sẽ tạo cảm giác cực khoái co thắt âm đạo (cực khoái mạnh nhất) (dậy thì và sau dậy thì đến những năm 20). Các kỹ thuật thủ dâm của nữ giới thường rất nhiều và có lẽ có nhiều kiểu hơn nam giới. Chúng thường bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố và những sở thích cá nhân. Các kỹ thuật gồm vuốt ve hay miết âm hộ, đặc biệt là âm vật, bằng ngón tay giữa hay ngón tay trỏ. Thỉnh thoảng một hay nhiều ngón có thể được nhét vào trong âm đạo và liên tục vuốt ve phần phía trước của âm hộ nơi có điểm G, nhưng thủ dâm một tay là tốt nhất để an toàn và tránh tạo nhiều tế bào chết ở vùng quanh âm đạo gây thâm đen bộ phận sinh dục. Những dụng cụ hỗ trợ thủ dâm gồm máy rung, dương vật giả hay Ben Wa balls có thể được sử dụng để kích thích âm đạo và âm vật. Nhiều phụ nữ mơn trớn hai bầu vú hay kích thích núm vú bằng tay kia. Thủ dâm hậu môn cũng được một số người ưa thích vì hàng nghìn dây thần kinh cảm giác nằm ở vị trí đó. Dầu bôi trơn thỉnh thoảng cũng được sử dụng khi thủ dâm, đặc biệt là khi có thâm nhập, nhưng nó không phải là dành cho tất cả mọi người và nhiều phụ nữ thấy rằng dịch âm đạo của họ là đã đủ dùng – một số thậm chí còn ra nhiều dịch âm đạo khi thủ dâm hơn là khi có bạn tình, mặc dù những lý do giải thích việc này thì chủ yếu là về tâm lý. Phụ nữ có thể thủ dâm trong bồn tắm, chỗ vòi tắm hoa sen, chậu tắm nóng, hay thỉnh thoảng gồm cả sử dụng nước ấm đang chảy để kích thích âm vật. Những vị trí thông thường là nằm ngửa hay sấp trên sàn, ngồi, ngồi xổm, hay thậm chí là đứng. Nằm sấp thì có thể dạng chân lên một cái gối, ở góc hay cạnh giường, một chân của đối tác hay một vài thứ quần áo quấn lại và "cọ" âm hộ và âm vật vào đó. Khi đứng thẳng, góc một thứ gì đó hay một đồ đạc trong nhà, hay thậm chí là máy giặt, có thể sử dụng để kích thích âm vật thông qua môi âm hộ và quần áo. Một số chạm tới bộ phận sinh dục đơn giản bằng cách bắt chéo chân thật chặt và ghì chặt các cơ ở chân, tạo ra lực ép vào bộ phận sinh dục. Nó có thể được tiến hành ở nơi công cộng mà không sợ bị phát hiện. Một số người chỉ thích sử dụng lực ép, áp vào âm vật mà không tiếp xúc trực tiếp, ví dụ ép lòng bàn tay hay quả bóng vào đồ lót hay một thứ quần áo khác. Một số ít phụ nữ có thể tự động đạt cực khoái sau khi đã có hoạt động gợi dục trước đó, vì việc vận dụng đầu óc kích thích một mình, có thể nghe một số bản nhạc. Thường, quá trình đó thường đi kèm với nhiều khoảnh khắc kích động và cực khoái trước đó. Một số phụ nữ cho rằng có thể tự đạt cực khoái nhờ tưởng tượng một mình, nhưng khả năng đó, nếu có tồn tại, không được chính xác coi là thủ dâm vì không có hành động kích thích thân thể. Những người khó đạt tới cực khoái thông qua giao hợp có thể dễ dàng đạt tới nó thông qua thủ dâm. Một số phụ nữ chỉ có thể đạt được cực khoái khi thủ dâm mà không thể khi giao hợp. Nhiều nhà trị liệu tình dục người Mỹ như Victoria Zdrok khuyến khích phụ nữ cảm thấy cực khoái khi họ thủ dâm, đặc biệt nếu họ chưa bao giờ có thủ dâm. Nam giới Các kỹ thuật thủ dâm của nam giới cũng bị ảnh hưởng bởi một số yếu tố và những ý thích cá nhân. Các kỹ thuật có thể khác biệt tùy theo đàn ông có cắt bao quy đầu hay không, và một số kỹ thuật có thể thích hợp với người này nhưng lại tỏ ra khá đau đớn đối với người khác. Kỹ thuật thông thường nhất là đơn giản nắm lấy dương vật nhẹ nhàng và sau đó đưa tay lên xuống dọc thân dương vật đến khi đạt tới cực khoái. Khi không cắt bao quy đầu, kích thích dương vật có thể bằng cách đưa bao quy đầu lên xuống. Động tác trượt này của bao quy đầu làm giảm sự chà xát. Khi đã cắt bao quy đầu sự kích thích thỉnh thoảng là tiếp xúc trực tiếp với tay. Nhiều sự xoa bóp (một số sử dụng dầu bôi trơn cá nhân để giảm chà xát) các tuyến. Ngoài ra, còn có thể thủ dâm bằng hình thức se dương vật. Một kỹ thuật khác là đặt ngón trỏ và ngón cái quanh dương vật ở khoảng giữa và làm cho da chuyển động lên xuống. Một biến thể của kiểu này là đặt các ngón và ngón cái quanh dương vật giống như đang thổi sáo và sau đó đưa chúng lên xuống. Có một cách là nằm ngửa trên sàn nhà. Nằm duỗi thẳng hai chân với cánh tay đặt ở hai bên, chụm hai chân lại kẹp nhẹ hai chân với dương vật khi cương lên. Duỗi thẳng chân đến khi bàn chân chỉ thẳng lên trần nhà. Hướng bàn chân lên trên và nâng chân lên chậm nhất có thể. Đưa chân xuống sâu tối đa có thể, đồng thời giữ lưng dưới tiếp xúc với mặt sàn. Khi đó, dương vật càng cương cứng để kích thích tinh trùng và massage dương vật; làm liên tục 20 lần để tinh dịch trào ra khỏi dương vật. Có thể mặc quần lót khi thực hiện hoặc không. Một kiểu ít thông dụng hơn là nằm úp mặt xuống một bề mặt dễ chịu như đệm hay gối và cọ xát dương vật vào nó đến khi đạt cực khoái. Một số người cho rằng kiểu thủ dâm này có thể gây đau đớn, kích thích quá mức hay trầy xước nếu thực hiện quá mạnh. Các kỹ thuật khác gồm nam giới mặc đồ lót nằm sấp, dưới lót đệm hay gối cọ xát nhẹ dương vật hay khi dương vật cương lên, khép hai chân với dương vật vào rồi mở ra liên tục hoặc sử dụng âm đạo giả để thủ dâm. Nhiều người mơn trớn tinh hoàn, đầu vú hay một số phần khác trên người bằng tay còn lại trong khi thủ dâm. Một số có thể sử dụng máy rung hay những dụng cụ sinh lý khác thường được dùng đối với phụ nữ. Tuyến tiền liệt là một trong những cơ quan góp phần tạo ra chất dịch cho tinh dịch. Vì tuyến tiền liệt có cảm giác, một số người kích thích trực tiếp nó bằng ngón tay có bôi dầu trơn hay dương vật giả được nhét qua hậu môn vào trực tràng. Kích thích tuyến tiền liệt từ bên ngoài qua sức ép vào đáy chậu, cũng mang lại cảm giác. Sự xuất tinh thỉnh thoảng được kiểm soát bằng cách sử dụng bao cao su hay xuất tinh vào một thứ khác. Một kỹ thuật kiểm soát xuất tinh khác còn đang bị tranh cãi là ép vào đáy chậu, ở khoảng giữa bìu và hậu môn, ngay trước khi xuất tinh. Tuy nhiên, việc này có thể khiến tinh dịch đi vào bàng quang và kỹ thuật này có thể gây hại về lâu dài vì áp lực ép vào các dây thần kinh và mạch máu ở đáy chậu. Một kiểu cực khoái khô là khi đạt đến cực khoái mà không xuất tinh. Những người đề xuất tantra sex nói rằng đó là một kỹ thuật có thể học được và có thể làm ngắn giai đoạn nghỉ. Các loại thuốc, như prolactin inhibitors, cũng có thể làm ngắn giai đoạn này cho đàn ông. Một ví dụ là đơn thuốc Dostinex. Những người đàn ông có thể chạm tới và kích thích dương vật bằng lưỡi hay môi của mình được cho là có thể tự thủ dâm. Về mặt lịch sử, một số đã thấy mối quan hệ giữa sự cắt bao quy đầu và tần số thủ dâm thường xuyên, đây vẫn là một chủ đề gây tranh luận. Trong một cuộc khảo sát 1.410 người đàn ông ở Hoa Kỳ năm 1992 thấy rằng: "Có 47% đàn ông cắt bao quy đầu trả lời là thủ dâm ít nhất một lần một tháng và 34% không cắt bao quy đầu có cùng câu trả lời". Tần suất thủ dâm, độ tuổi và giới tính Tần suất thủ dâm được xác định bởi nhiều yếu tố, như khả năng chống lại sự tăng cảm giác tình dục thoáng qua, mức độ hormone ảnh hưởng tới kích thích, và thái độ của một người với hành động thủ dâm do văn hóa tạo ra. (E. Heiby and J. Becker examined the latter.) "Bốn mươi tám sinh viên nữ trong trường đại học được yêu cầu hoàn thành một bảng những câu hỏi về thái độ trong đó có câu hỏi về tần suất thủ dâm. Hai mươi bốn phụ nữ (nhóm thực nghiệm) sau đó đã xem từng người một bộ phim nói thẳng về thủ dâm nữ. Một tháng sau, tất cả mọi người lại được yêu cầu trả lời bảng câu hỏi đó. Những người trong nhóm thực nghiệm cũng trả lời thêm câu hỏi đánh giá các khía cạnh của bộ phim. Kết quả chỉ ra rằng nhóm thực nghiệm trả lời tăng hơn về tần suất thủ dâm trung bình hàng tháng, so với nhóm kia. Tuy nhiên cũng nhóm này trả lời rằng bộ phim không có ảnh hưởng tới thái độ hay hành động của họ". Có ý kiến cho rằng đa số mọi người bắt đầu thủ dâm khi đạt tới tuổi trưởng thành. Nhiều nghiên cứu có tính học thuật và lâm sàng đã được thực hiện về vấn đề này, và nhiều cuộc điều tra chính thức đã đưa ra câu hỏi. Một cuộc điều tra năm 2004 của tạp chí NOW ở Toronto đã được hàng nghìn người trả lời. Kết quả cho thấy rằng có một đa số tuyệt đối đàn ông — 81% — đã bắt đầu thủ dâm ở tuổi từ 10 đến 15 hoặc có người từ ngày 6,7 tuổi đã biết thủ dâm. Trong số phụ nữ, độ tuổi cũng như vậy nhưng với đa số nhỏ hơn 55% (lưu ý rằng các cuộc điều tra về hoạt động tình dục thường thiên về khuynh hướng tự lựa chọn). Tuy nhiên ít gặp trường hợp bắt đầu muộn hơn, và điều này hay xảy ra ở nữ giới hơn: 18% đã bắt đầu khi họ lên 10, và 6% thậm chí khi họ lên 11. Là hành động chính của bản năng tình dục trẻ em, thủ dâm đã được quan sát thấy ở nhiều em rất nhỏ. Trong cuốn sách Tình dục loài người: Tính đa dạng trong nước Mỹ ngày nay, của Strong, Devault và Sayad, các tác giả đã chỉ ra, "Một chú bé có thể cười trong cũi khi nghịch với bộ phận sinh dục của mình (dù không xuất tinh). Các cô bé thỉnh thoảng lắc lư người theo điệu, đa số là khá mạnh, có vẻ đang thử nghiệm cực khoái". Theo cuộc điều tra của tạp chí NOW của Canada, các độc giả đã cho thấy ở trên, tần suất thủ dâm giảm bớt sau tuổi 17. Tuy nhiên, đa số đàn ông thủ dâm hàng ngày hay thậm chí còn nhiều hơn nữa khi họ ở độ tuổi 20 và thỉnh thoảng là sau độ tuổi đó. Sự giảm bớt này còn lớn hơn ở phụ nữ, và giảm từ từ hơn ở nam giới. Trong khi phụ nữ ở độ tuổi 13-17 thủ dâm tính trung bình hầu như mỗi ngày một lần (và hầu như cũng ngang bằng với nam giới ở độ tuổi đó), phụ nữ lớn tuổi chỉ thủ dâm 8-9 lần mỗi tháng, so với 18-22 trong số đàn ông. Cũng thấy rõ rằng khả năng suy giảm thủ dâm theo độ tuổi. Những người trẻ tuổi mới thành niên nói rằng có thể thủ dâm và phóng tinh sáu hay thậm chí là nhiều lần hơn trong ngày, trong khi đàn ông ở tuổi trung niên khó có thể xuất tinh thậm chí một lần một ngày. Cuộc điều tra không đưa ra một sự phân chia theo nhân khẩu học về các câu trả lời, họ là những độc giả vùng thành thị Toronto, có thể không đại diện cho toàn bộ dân chúng. Một phần điều này vì sự thực là phụ nữ thường không có nhiều khả năng thủ dâm trong khi đã có quan hệ tình dục hơn đàn ông. Cả hai giới đều thỉnh thoảng thực hiện hành vi này, tuy nhiên, thậm chí trong cả những hoạt động quan hệ tình dục. Nói chung, mọi người tin rằng các cá nhân ở cả hai giới không thường có quan hệ tình dục thì hay có khuynh hướng thủ dâm thường xuyên hơn so với những người có quan hệ tình dục; tuy nhiên trong đa số trường hợp điều này là không đúng bởi vì thủ dâm một mình hay với bạn tình là một đặc điểm của một mối quan hệ khỏe mạnh. Sức khỏe và những ảnh hưởng tâm lý Trong nhiều phạm vi sức khỏe tinh thần có nói rằng thủ dâm có thể làm dịu sự phiền muộn và mang lại cảm giác cao hơn về giá trị bản thân (Hurlbert & Whittaker, 1991). Thủ dâm cũng có thể đặc biệt hữu ích khi một người bạn tình có nhiều nhu cầu tình dục hơn người kia — trong trường hợp đó thủ dâm giúp có được một ảnh hưởng cân bằng và vì thế là một mối quan hệ hòa điệu hơn. Cả từ quan điểm tránh mang thai không mong muốn và tránh các bệnh lây truyền qua đường tình dục, thủ dâm là cách thực hiện tình dục an toàn nhất. Không có cơ sở khoa học đáng tin cậy hay bằng chứng y tế cho thấy việc thủ dâm bằng tay là gây hại tới sức khỏe thể chất và tinh thần. Ngày 16 tháng 7 năm 2003, một đội nghiên cứu Úc của Hội ung thư do Graham Giles lãnh đạo đã xuất bản một nghiên cứu y học kết luận rằng thủ dâm thường xuyên ở đàn ông có thể giúp ngăn chặn ung thư tiền liệt tuyến. Cuộc nghiên cứu cũng cho thấy rằng nó có ích hơn việc xuất tinh khi giao hợp bình thường bởi vì giao hợp có thể dẫn tới lây truyền các bệnh có nguy cơ ung thư. Thủ dâm khi có cả nam và nữ có thể dẫn tới mang thai chỉ khi tinh trùng tiếp xúc với âm hộ. Bất kỳ việc thủ dâm nào với một bạn tình về lý thuyết có thể gây ra lây truyền bệnh qua đường tình dục bởi sự tiếp xúc với chất dịch cơ thể, và sự tiếp xúc như vậy có thể tránh được với bất kỳ một bạn tình nào mà chưa chắc chắn được về tình trạng sức khỏe của họ. Những vật được đưa vào bên trong âm đạo hay hậu môn phải sạch và là loại không thể gây xước hay đại loại như vậy. Cần lưu ý không nhét hết bất kỳ vật gì vào trong hậu môn - bất kỳ vật nào được sử dụng phải có chỗ gồ lên hay có đế mép - nếu không việc lấy ra có thể đòi hỏi phải tới phòng cấp cứu. Đa số các dương vật giả và vật đưa vào hậu môn hiện đại được thiết kế với các đặc tính như vậy. Một người đàn ông có dương vật đã phải chịu "một quá trình thực thi, bị tổn thương hay tổn hại khi giao hợp" có thể cả phần đời còn lại sẽ phải chịu đựng bệnh Peyronie. Một số hiếm trường hợp tác động làm gãy dương vật có thể xảy ra. Chứng hẹp bao quy đầu là "một phần da bao quy đầu hẹp (mà) có thể gây ra khó chịu vì làm đau đớn khi cố gắng kéo bao quy đầu về phía sau". Trong những trường hợp đó, việc dùng tay kéo mạnh dương vật quá mức có thể gây vấn đề. Thủ dâm có xu hướng ép buộc có thể là một phần của hội chứng nghiện sex. Hiện nay trên thế giới xuất hiện trào lưu NoFap (Không sử dụng các văn hóa phẩm đồi trụy và thủ dâm), bắt nguồn từ một bài viết của Alexander Rhodes trên Reddit. Người tham gia ghi nhận họ có thay đổi tích cực đáng kể về cả thể chất và tinh thần. Số lượng người tham gia ngày càng đáng kể và càng có nhiều ghi nhận về tác động tích cực của việc NoFap. Và phong trào nhanh chóng xuất hiện ở Việt Nam, dù cộng đồng không lớn mạnh như thế giới. Thủ dâm trong lịch sử và xã hội Thời xưa Có những miêu tả thủ dâm nam thời tiền sử trên các bức tranh đá khắp thế giới, mặc dù chúng hoàn toàn là những chủ đề diễn dịch. Đa số người nguyên thủy kết nối tình dục của con người với sự phong phú của thiên nhiên (tín ngưỡng phồn thực). Một bức tượng đất sét nhỏ ở niên đại thiên niên kỷ thứ 4 trước Công nguyên từ một ngôi đền trên đảo Malta, miêu tả một phụ nữ đang thủ dâm. Tuy nhiên, những bức hình miêu tả nam giới thủ dâm trên thế giới dường như hiếm hơn rất nhiều. Thủ dâm nam đã trở thành một hình ảnh thậm chí quan trọng hơn trong Ai Cập cổ đại: khi nó được thực hiện bởi một vị thần nó có thể coi là một sự sáng tạo hay hành động ma thuật: vị thần Atum được tin là đã tạo ra vũ trụ khi thủ dâm để xuất tinh, và thời kỳ nước rút và nước lên của sông Nil cũng được gắn với tần số xuất tinh của ông. Người Hy Lạp cổ có một thái độ tự nhiên hơn đối với thủ dâm so với người Ai Cập, coi hành động đó là một hành động thay thế tự nhiên và khỏe mạnh cho các hình thức tìm kiếm khoái cảm tình dục khác. Họ coi thủ dâm là một cái van an toàn để chống lại sự vỡ mộng có tính hủy diệt của tình dục. Người Hy Lạp cũng thể hiện thủ dâm nữ trong cả nghệ thuật và những bản ghi chép của họ. Tôn giáo Trong nhiều tôn giáo, như các hình thức Tin lành, Công giáo, Mormon, Do Thái giáo và Hồi giáo, thủ dâm bị coi là một hành động không trong sạch, tuy nhiên cũng không phải là phi đạo đức. Phật giáo Trong truyền thống Phật giáo, một cư sĩ thì không nên thèm khát tình dục kiểu đó nhưng không có sự ngăn cấm bởi Ngũ giới, nhưng đối với Phật tử tại gia giữ Bát quan trai giới thì phải tuyệt đối kiêng tình dục. Đối với một tu sĩ Tỳ-kheo, thì thiên Tăng tàn trong Tứ phần luật (bộ luật dành cho Tỳ-kheo), Phật chế định rằng: "Tỳ-kheo không được phép tự làm bản thân xuất tinh dưới mọi hình thức, nếu làm, phạm tội Tăng-già-bà-thi-sa". Do Thái giáo Do Thái giáo ngăn cấm thủ dâm, vì nó dẫn tới sự xuất tinh không cần thiết, hay những ý nghĩ không trong sạch từ phía những người khác. Sự ngăn cấm này bắt nguồn từ lời kể trong Kinh thánh của Onan (Talmud Niddah 13a). Đoạn đó trong cuốn kinh so sánh hành động giết người và sự sùng bái thần tượng. Có một sự không nhất trí giữa poskim (người quyết định luật Do Thái) việc thủ dâm là một hành động xuất tinh không thể chấp nhận được cho sự gieo hạt giống nhân tạo hay thụ tinh nhân tạo. Công giáo Theo sách Giáo Lý Hội Thánh Công giáo số 2352 thì: "Thủ dâm là cố tình kích thích cơ quan sinh dục", "dựa theo truyền thống ngàn đời và bất biến, huấn quyền cũng như cảm thức luân lý của các tín hữu không ngần ngại khẳng định rằng, thủ dâm tự bản chất là một hành động sai trái nghiêm trọng", vì "tự ý sử dụng khả năng tình dục ngoài quan hệ vợ chồng bình thường, dù với động lực nào đi nữa, cũng là sai mục đích". Làm như vậy, người ta hưởng thụ khoái lạc tình dục bên ngoài "quan hệ tình dục hợp luật luân lý là quan hệ thực hiện một sự hiến dâng trọn vẹn cho nhau và thực hiện việc truyền sinh trong khuôn khổ của tình yêu đích thực". Để phán đoán đúng về trách nhiệm luân lý của đương sự là thủ dâm có tội hay không "cần lưu ý đến tình trạng thiếu trưởng thành tình cảm, áp lực của thói quen, tâm trạng lo âu cũng như những yếu tố khác về tâm lý xã hội. Các nhân tố này có thể làm trách nhiệm luân lý của đương sự được giảm khinh ngay cả đến mức tối thiểu". Và vì thế, một cách chủ quan, không phải thủ dâm lúc nào cũng là tội trọng. Đạo Tin lành Những nhà thần học Tin lành chỉ bắt đầu sửa đổi những lời dạy bảo trước đó từ thế kỷ 20 với một số quan điểm hiện nay vẫn đang sử dụng về ủng hộ thủ dâm. Thủ dâm, tuy nhiên, vẫn bị một số người coi là một hành động tự thỏa mãn và một tội lỗi nhục dục, làm nó vẫn bị tranh cãi cho tới ngày nay. Theo Rolling Stone, một số nhỏ tín đồ Cơ Đốc giáo cánh hữu ở Bắc Mỹ khuyến khích mọi người công nhận thủ dâm để chứng tỏ một sự tiết chế về thủ dâm. Hồi giáo Ở nghĩa hiểu rộng nhất các học giả Hồi giáo coi thủ dâm là hành động bị cấm đoán (haraam), ngoại trừ trong những tình huống giảm nhẹ. Tình huống giảm nhẹ: Thủ dâm có thể được cho phép vì mục đích thử nghiệm y học, hay nếu là cần thiết về mặt y tế. Trong mọi trường hợp, các bác sĩ sẽ đưa ra quyết định dựa trên sự cần thiết của nó, chứ không phải các học giả. Ví dụ Sistani có đề cập tới những tình huống thử nghiệm khả năng sinh sản, "Khi đó vẫn chưa phải là một hành động tuyệt đối cần thiết, thủ dâm bị cấm". Đối với những người Hồi giáo, việc có quan hệ tình dục ngoài hôn nhân là một tội lỗi to lớn, khiến người phạm tội bị trừng phạt trong cả cuộc sống hiện tại và cả Qiyama. Tuy thế, nhưng nếu sự thèm muốn của một người mạnh tới mức có thể khiến họ phạm phải một tội lỗi nặng hơn là có quan hệ tình dục ngoài hôn nhân thì thủ dâm trở thành được phép với tư cách là một nhu cầu cần thiết: "Và những người không có gia đình cần cố gắng sống trong sự trinh bạch, cho tới khi Thượng đế ban ơn huệ cho họ" (Qur'an, 24:33). Giống như bất kỳ một hình thức tình dục nào trong đó xuất hiện tinh dịch hay dịch âm đạo, thủ dâm sẽ là hình thức vi phạm luật lệ trong mùa ăn chay nếu được thực hiện trong khoảng thời gian ban ngày và cần phải tiến hành một lễ wudu (thanh tẩy) lớn nếu tinh dịch hay dịch âm đạo xuất hiện. Theo Sheikh Hamed Al-Ali: "Thủ dâm ban ngày trong thời gian thánh lễ Ramadan sẽ là hành động vi phạm luật lệ, dựa theo Hadith quy định rằng người Hồi giáo phải không được ăn, uống và có thèm muốn tình dục. Bởi thủ dâm là một loại mong muốn tình dục, một người Hồi giáo trong mùa chay phải cố tránh nó. Vì thế, thủ dâm là một hành động vi phạm cũng như ăn uống và bởi nó là một trong những tội lỗi mà nếu một người nào đó phạm phải thì cũng là sự vi phạm tới tính thiêng liêng của tháng chay đó". Trong văn hóa đại chúng Giới trẻ còn gọi thủ dâm ở nam là "sóc lọ", "quay tay", "thẩm du" (đọc lái), "FAP",... Thủ dâm trong nghệ thuật Có khá nhiều tác phẩm văn học nói đến hay có các cảnh thủ dâm. Trong rất nhiều bộ phim Mỹ có cảnh thủ dâm. Phim Little Children (2006) có Kate Winslet đóng vai Sarah Pierce - vợ của một công chức chuyên thủ dâm cả ở nơi làm việc và ở nhà dù có vợ rất đẹp. Thủ dâm ở các loài động vật khác Thói quen thủ dâm hiện đã được ghi lại ở rất nhiều loài động vật. Các cá thể ở một số loài đã được phát hiện thấy biết cách tạo các dụng cụ dùng cho mục đích thủ dâm. Xem thêm NoFap Handjob Làm tình qua điện thoại Búp bê tình dục Mộng tinh Bắn tinh Máy tình dục Ngày quốc tế thủ dâm Tham khảo Thói quen Hành vi tính dục Hoạt động giải trí
25997
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%ADnh%20d%E1%BB%A5c%20%E1%BB%9F%20lo%C3%A0i%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di
Tính dục ở loài người
Tính dục ở loài người là năng lực giới tính, thể chất, tâm lý, và sinh dục, bao gồm mọi khía cạnh đặc trưng của nam giới và nữ giới. Tình dục là một khái niệm có nội hàm rộng, vừa phản ánh mối quan hệ giới tính, vừa chứa đựng những yếu tố hữu hình và ẩn giấu của cá nhân. Trong tiếng Việt, tính dục, đặc biệt khi chỉ đề cập tới mối quan hệ giới tính, còn được gọi là tình dục. Khái niệm tính dục bao hàm: Nhận thức và cảm giác về cơ thể mình và cơ thể người khác Tính chất tâm lý bên trong và hành vi ứng xử bên ngoài Cảm xúc, suy nghĩ và nhu cầu ân ái, gần gũi về tình cảm với một ai đó. Cảm giác hấp dẫn tình dục với người khác Các tiếp xúc tình dục: từ động chạm cơ thể đến giao hợp Các cẩm nang về tình dục đã có từ thời cổ đại, tuy nhiên chuyên ngành nghiên cứu tình dục học được coi là mới xuất hiện từ cuối thế kỷ 19. Phân loại xu hướng tính dục Về xu hướng tính dục có thể chia ra thành: Dị tính luyến ái. Đồng tính luyến ái. Song tính luyến ái. Toàn tính luyến ái. Vô tính luyến ái. Sự phát triển Xu hướng tính dục Có nhiều bằng chứng ủng hộ các nguyên nhân bẩm sinh của xu hướng tính dục hơn so với những nguyên nhân học được được, đặc biệt là đối với nam giới. Bằng chứng này bao gồm mối tương quan văn hóa giữa đồng tính luyến ái và sự phi định chuẩn giới thời thơ ấu, ảnh hưởng di truyền vừa phải ở các nghiên cứu về sinh đôi, bằng chứng về tác động nội tiết tố trước khi sinh đối với tổ chức não, hiệu ứng thứ tự sinh sản anh em, và phát hiện rằng trong một số hiếm trường hợp khi trẻ sơ sinh trai được nuôi dưỡng như con gái do biến dạng thể chất, họ vẫn bị thu hút bởi phụ nữ. Các nguyên nhân xã hội giả thuyết chỉ được hỗ trợ bởi bằng chứng yếu, bị bóp méo bởi nhiều yếu tố gây nhiễu. Bằng chứng đa văn hóa cũng nghiêng nhiều hơn về các nguyên nhân phi xã hội. Các nền văn hóa rất khoan dung với đồng tính luyến ái không có tỷ lệ cao hơn đáng kể. Hành vi đồng tính luyến ái tương đối phổ biến giữa các bé trai trong các trường nội trú đơn giới ở Anh, nhưng những người Anh trưởng thành theo học các trường này không còn xu hướng thực hiện hành vi đồng tính luyến ái hơn những người không theo học. Trong một trường hợp đặc biệt, theo nghi thức người Sambia yêu cầu các bé trai thực hiện hành vi đồng tính luyến ái trong thời niên thiếu trước khi họ có bất kì sự tiếp cận với phụ nữ, nhưng hầu hết các bé trai đều trở thành người dị tính. Người ta không hoàn toàn hiểu tại sao gen quy định đồng tính luyến ái vẫn tồn tại trong nhóm gen. Một giả thuyết liên quan đến việc chọn lọc dòng dõi, cho thấy rằng người đồng tính đầu tư đủ nhiều vào người thân của họ để bù đắp chi phí cho việc không trực tiếp sinh sản. Giả thuyết này không được ủng hộ bởi các nghiên cứu ở các nền văn hóa phương Tây, nhưng một số nghiên cứu ở Samoa đã tìm thấy một số hỗ trợ cho giả thuyết này. Một giả thuyết khác liên quan đến các gen đối kháng tính dục gây ra đồng tính luyến ái khi được biểu hiện ở nam giới nhưng tăng khả năng sinh sản khi biểu hiện ở phụ nữ. Các nghiên cứu ở cả các nền văn hóa phương Tây và phi phương Tây đã tìm thấy sự hỗ trợ cho giả thuyết này. Sự đa dạng về giới Thuyết tâm lý tồn tại liên quan đến sự phát triển và biểu hiện của sự đa dạng giới trong tính dục của con người. Một số trong đó (bao gồm các lý thuyết tân phân tích, lý thuyết sinh học xã hội, lý thuyết học tập xã hội, lý thuyết vai trò xã hội và lý thuyết kịch bản) đồng tình trong việc dự đoán rằng nam giới có vẻ chấp thuận quan hệ tình dục bình thường (tình dục xảy ra ngoài luồng một mối quan hệ ổn định, ràng buộc như hôn nhân) và cũng có vẻ bừa bãi hơn (có số lượng bạn tình nhiều hơn) so với phụ nữ. Những lý thuyết này chủ yếu phù hợp với sự khác biệt được thấy trong thái độ của nam giới và phụ nữ đối với quan hệ tình dục bình thường trước hôn nhân ở Hoa Kỳ. Các khía cạnh khác của tính dục con người, chẳng hạn như thỏa mãn tình dục, tần suất quan hệ tình dục bằng miệng, thái độ đối với đồng tính luyến ái và thủ dâm cho thấy giữa nam và nữ có ít nhất hoặc không có sự khác biệt hiện hữu. Sự đa dạng giới liên quan đến số lượng bạn tình là khiêm tốn, với nam giới có xu hướng có hơi nhiều hơn nữ giới. Các khía cạnh sinh lý và sinh học Cũng như nhiều loài có vú khác, loài người được xếp vào nhóm giới tính nam hay giới tính nữ, với một số nhỏ (khoảng 1% hoặc 0,018%) là các cá nhân liên giới tính mà phân loại giới tính có thể không rõ ràng. Các khía cạnh sinh học của tính dục con người liên quan đến hệ thống sinh sản, chu kỳ phản ứng tình dục và các yếu tố ảnh hưởng đến các khía cạnh này. Chúng cũng liên quan tới ảnh hưởng của các yếu tố sinh học đến các khía cạnh khác của tính dục, chẳng hạn như phản ứng hữu cơ và thần kinh, tính di truyền, vấn đề nội tiết tố, vấn đề giới tính và rối loạn chức năng tình dục. Giải phẫu và chức năng sinh sản Con đực và con cái đều tương tự nhau về mặt giải phẫu; điều này mở rộng đến một mức độ nào đó đối với sự phát triển của hệ thống sinh sản. Khi trưởng thành, chúng có các cơ chế sinh sản khác nhau để thực hiện các hành vi tình dục và để sinh sản. Đàn ông và phụ nữ phản ứng với các kích thích tình dục theo kiểu giống nhau với những một số khác biệt nhỏ. Phụ nữ có chu kỳ sinh sản hàng tháng, trong khi đó chu kỳ sản xuất tinh trùng của nam giới liên tục hơn. Não bộ Vùng dưới đồi là phần quan trọng nhất của não cho hoạt động tình dục. Đây là một vùng nhỏ ở đáy não bao gồm một số nhóm cơ quan tế bào thần kinh nhận đầu vào từ hệ viền. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng ở động vật thí nghiệm, phá hủy một số khu vực nhất định của vùng dưới đồi gây ra sự loại bỏ hành vi tình dục. Vùng dưới đồi quan trọng vì mối quan hệ của nó với tuyến yên nằm bên dưới nó. Tuyến yên tiết ra các hormone được sản xuất tại vùng dưới đồi và ở chính nó. Bốn hormone tình dục quan trọng là oxytocin, prolactin, hormone kích thích nang trứng và hormone tạo thể vàng. Oxytocin (đôi khi được gọi là "hormone tình yêu") được giải phóng ở cả hai giới tính khi đạt được cực khoái trong lúc giao hợp. Oxytocin được coi là quan trọng đối với những suy nghĩ và hành vi cần có để duy trì các mối quan hệ chặt chẽ. Hormone này cũng được giải phóng ở phụ nữ khi họ sinh con hoặc đang cho con bú. Cả prolactin và oxytocin đều kích thích tiết sữa ở phụ nữ. Hormone kích thích nang trứng (FSH), chịu trách nhiệm rụng trứng ở phụ nữ, hoạt động bằng cách kích hoạt sự trưởng thành của trứng; ở nam giới nó kích thích sản xuất tinh trùng. Hormone tạo thể vàng (LH) kích hoạt quá trình rụng trứng, đó là sự phóng thích của trứng trưởng thành. Giải phẫu hệ sinh dục nam Con đực cũng có cơ quan sinh dục bên trong và bên ngoài chịu trách nhiệm sinh sản và giao hợp. Quá trình sản xuất tinh trùng cũng theo chu kỳ, nhưng khác với chu kỳ rụng trứng của phụ nữ, chu kỳ này liên tục sản xuất hàng triệu tinh trùng mỗi ngày. Giải phẫu cơ quan sinh dục bên ngoài ở nam Bộ phận sinh dục của nam giới là dương vật và bìu. Dương vật cung cấp một lối đi cho tinh trùng và nước tiểu. Một dương vật có kích thước trung bình ở trạng thái chưa cương có chiều dài khoảng và đường kính . Khi cương cứng, dương vật trung bình có chiều dài từ đến và đường kính . Cấu trúc bên trong của dương vật bao gồm trục, quy đầu và gốc. Trục dương vật bao gồm ba thân hình trụ bằng mô xốp chứa đầy các mạch máu dọc theo chiều dài của nó. Hai trong số này nằm cạnh nhau ở phần trên của dương vật được gọi là thể hang. Ống thứ ba, được gọi là thể xốp, một ống nằm ở chính giữa bên dưới những ống khác và mở rộng ở cuối để tạo thành đầu dương vật (quy đầu). Vành nâng lên ở biên giới của trục và quy đầu được gọi là chuỗi tràng hạt dương vật. Niệu đạo chạy qua trục, cung cấp lối ra cho tinh trùng và nước tiểu. Gốc bao gồm các đầu mở rộng của các thể hang, quạt ra ngoài tạo thành mấu và gắn vào xương mu và đầu nở ra của thể xốp (củ). Gốc được bao bọc bởi hai cơ; cơ hành và cơ háng, giúp đi tiểu và xuất tinh. Dương vật có bao quy đầu che kín quy đầu; đôi khi được loại bỏ bằng cách cắt bao quy đầu vì lý do y tế, tôn giáo hoặc văn hóa. Trong bìu, tinh hoàn được giữ cách xa cơ thể, một lý do khả dĩ giải thích điều này là để tinh trùng có thể được sản xuất trong môi trường hơi thấp hơn nhiệt độ cơ thể bình thường. Giải phẫu cơ quan sinh dục bên trong ở nam Cấu trúc sinh sản bên trong của nam giới là tinh hoàn, hệ thống ống dẫn, tuyến tiền liệt, túi tinh, và tuyến Cowper. Tinh hoàn (tuyến sinh dục nam), là nơi sản xuất tinh trùng và nội tiết tố nam. Hàng triệu tinh trùng được sản xuất hàng ngày trong vài trăm ống sinh tinh. Các tế bào được gọi là tế bào Leydig nằm giữa các ống; chúng tạo ra các hormone được gọi là androgen; bao gồm testosterone và inhibin. Tinh hoàn được giữ bởi thừng tinh, là một cấu trúc dạng ống chứa các mạch máu, dây thần kinh, ống dẫn tinh và một cơ giúp nâng cao và hạ thấp tinh hoàn để phản ứng với sự thay đổi nhiệt độ và hưng phấn tình dục, trong đó tinh hoàn được kéo gần cơ thể hơn. Tinh trùng được vận chuyển qua hệ thống ống dẫn bốn đoạn. Đoạn đầu tiên của hệ thống này là mào tinh hoàn. Các tinh hoàn tụ lại để tạo thành các ống sinh tinh, ống cuộn ở đầu và sau của mỗi tinh hoàn. Đoạn thứ hai của hệ thống ống dẫn tinh là một ống cơ bắt đầu ở đầu dưới của mào tinh hoàn gọi là ống dẫn tinh. Ống dẫn tinh đi lên dọc theo mặt bên của tinh hoàn để trở thành một phần của thừng tinh. Đoạn cuối mở rộng là ống tinh, nơi lưu trữ tinh trùng trước khi xuất tinh. Đoạn thứ ba của hệ thống ống là ống phóng tinh dài đi qua tuyến tiền liệt - nơi sản xuất tinh dịch. Tuyến tiền liệt là một cơ quan cứng, hình hạt dẻ, bao quanh phần đầu của niệu đạo, có chức năng dẫn nước tiểu và tinh dịch. Tương tự như điểm G của phụ nữ, tuyến tiền liệt cũng cho khoái cảm tình dục và có thể dẫn đến cực khoái thông qua quan hệ tình dục đường hậu môn. Tuyến tiền liệt và túi tinh sản xuất tinh dịch trộn với tinh trùng để tạo ra tinh dịch. Tuyến tiền liệt nằm dưới bàng quang và phía trước trực tràng, bao gồm hai vùng chính: vùng bên trong sản xuất dịch tiết để giữ ẩm cho niêm mạc đạo nam giới và vùng bên ngoài sản xuất dịch tinh đểt tạo điều kiện cho tinh dịch đi qua. Các túi tinh tiết ra fructose để kích hoạt và huy động tinh trùng, các prostaglandin để gây ra các cơn co thắt tử cung giúp di chuyển qua tử cung và các base giúp trung hòa độ axit trong âm đạo. Các tuyến Cowper, hay tuyến hậu môn, là hai cấu trúc có kích thước bằng hạt đậu bên dưới tuyến tiền liệt. Giải phẫu hệ sinh dục nữ Giải phẫu cơ quan sinh dục bên ngoài ở nữ Mon veneris - Mu, hay còn được gọi là Gò Vệ Nữ, là một lớp mô mỡ mềm bao lấy xương mu. Đến tuổi dậy thì, kích cỡ của mu sẽ có sự phát triển. Đây cũng là điểm tận cùng của nhiều dây thần kinh; vì vậy, vùng này rất nhạy cảm đối với sự kích thích. Labia minora và labia majora cùng được gọi là môi âm đạo. Labia majora - môi lớn là hai nếp gấp được kéo dài của da, trải dài từ mu đến tầng sinh môn. Sau dậy thì, bề mặt bên ngoài của môi lớn sẽ được che phủ bởi lông. Ở giữa hai cánh môi lớn là labia minora, tức môi nhỏ, gồm hai nếp da nhẵn, không có lông. Hai cánh môi nhỏ khép lại tại điểm phía trên âm vật, tạo thành mũ âm vật - cơ quan vô cùng nhạy cảm khi bị chạm phải. Khi có kích thích tình dục, máu dồn xuống làm cho môi nhỏ căng lên, chuyển sang sắc đỏ và trở nên cương cứng. Môi nhỏ được cấu thành từ các mô liên kết, các mô này lại liên tục được dẫn máu, trao đổi chất bởi hệ thống mạch máu; điều này tạo sắc hồng thường thấy ở cơ quan này. Gần về phía hậu môn, môi lớn và môi nhỏ sẽ nhập lại với nhau. Khi ở trạng thái không có kích thích, môi nhỏ sẽ che phủ cửa vào âm đạo và lỗ niệu, nhằm bảo vệ hai cơ quan trên. Tại đáy của môi nhỏ, tuyến Bartholin có nhiệm vụ tiết một lượng nhỏ dung dịch kiềm vào trong âm đạo thông qua các ống; vì tinh trùng không thể sống trong môi trường axit nên lượng dung dịch kiềm này sẽ giúp trung hòa tính axit của âm hộ và âm đạo. Tương tự dương vật, âm vật được cấu tạo từ các mô phôi; do âm vật hay đầu của âm vật cũng chứa nhiều đầu dây thần kinh giống như (thậm chí là nhiều hơn trong một số trường hợp) dương vật hay quy đầu dương vật ở con người nên cơ quan này vô cùng nhạy cảm khi bị chạm phải. Tuy đầu âm vật có kích thước nhỏ nhưng với cấu trúc đặc biệt, cơ quan này có thể tự kéo dài và trở nên cương cứng. Chức năng duy nhất được ghi nhận của đầu âm vật chính là khoái cảm tình dục, đây là nguồn chính tạo nên sự cực khoái ở phụ nữ. Một điểm cần lưu ý, âm vật cũng là nơi mà bựa sinh dục, chất dịch dạng sệt, màu trắng ngà, tích tụ lại. Chỉ có thể nhìn thấy lỗ vào âm đạo và lỗ niệu đạo khi hai cánh môi nhỏ tách ra. Cả lỗ vào âm đạo và lỗ niệu đạo đều có nhiều đầu dây thần kinh nên cũng vô cùng nhạy cảm với sự đụng chạm. Ngoài ra, hai cơ quan trên cũng được bao bọc bằng một vòng gồm các cơ thắt, gọi là cơ hành xốp. Bên dưới cơ hành xốp, ở hai bên của lối vào âm đạo, chính là hành tiền đình. Trong quá trình giao hợp hay ở điều kiện có kích thích, khơi gợi, máu cũng sẽ dồn xuống hành tiền đình khiến cho nó căng lên, giúp âm đạo ép chặt dương vật. Bên trong lỗ vào âm đạo là màng trinh, một tấm màng mỏng che chắn một phần lối vào âm đạo của nhiều trinh nữ. Theo quan niệm trước, việc rách màng trinh đồng nghĩa người đó đã mất đi sự trinh trắng. Tuy nhiên, đối với các tiêu chuẩn hiện đại, mất đi trinh tiết đánh dấu lần quan hệ tình dục đầu tiên của một cá nhân. Ngoài ra, màng trinh có thể bị rách do các hoạt động khác, không nhất thiết đến từ tác động của việc quan hệ tình dục. Thông qua niệu đạo, lỗ niệu đạo được nối với bàng quang, giúp bàng quang bài tiết nước tiểu. Lỗ niệu đạo nằm ngay dưới âm vật và ở phía trên lối vào âm đạo. Vú là các cơ dưới da, nằm ở phía trước ngực của nữ giới. Mặc dù, trên lý thuyết, vú không nằm trong giải phẫu tình dục của phụ nữ, nhưng cơ quan này vẫn có chức năng trong việc đem lại khoái cảm tình dục lẫn việc sinh sản. Vú là tuyến mồ hôi được hiệu chỉnh và được cấu thành từ các mô sơ cùng mỡ. Không chỉ có vai trò trong cấu tạo, mỡ và mô xơ còn giúp nâng đỡ vú, cũng như chứa các đầu dây thần kinh, mạch máu và mạch bạch huyết. Chức năng chính của vú là sản sinh ra sữa cho trẻ sơ sinh giai đoạn đầu của sự phát triển. Trong quá trình dậy thì, vú sẽ có sự phát triển do sự tác động từ việc hormone estrogen tăng lên. Ở một người trường thành, vú thường chứa 15 đến 20 tuyến vú có chức năng sản sinh sữa. Các tuyến này được cấu thành từ các tiểu thùy với hình dạng bất quy tắc; mỗi tiểu thùy sẽ có các tuyến phế nang và ống dẫn sữa chạy tới núm vú. Ngăn cách giữa các tiểu thùy là các mô liên kết dày với nhiệm vụ nâng đỡ tuyến vú và cố định tuyến này với các mô nằm trên cơ ngực lớn. Ngoài ra, các mô liên kết khác đan lại với nhau tạo thành các sợi, được gọi là dây chằng treo vú Cooper, bắt đầu từ dưới lớp da, kéo dài đến các mô ngực để nâng đỡ trọng lượng của vú. Yếu tố di truyền và số lượng mô mỡ quyết định kích thước của vú. Đàn ông thường cảm thấy bị hấp dẫn bới vú của nữ giới và điều này vẫn đúng ở nhiều nền văn hoá khác nhau. Ở phụ nữ, sự kích thích đầu vú dường như sẽ dẫn đến sự kích hoạt vùng cảm giác đối với các cơ quan sinh dục ở vỏ não (tương tự, khi kích thích âm vật, âm đạo, và cổ tử cung thì vùng cảm giác này của não cũng sẽ được kích hoạt). Điều này có thể trả lời cho câu hỏi tại sao nhiều phụ nữ cảm thấy hưng phấn khi được kích thích đầu vú và lý giải cho việc chỉ cần thông qua kích thích đầu vú, một số phụ nữ đã có thể đạt đến cực khoái. Giải phẫu cơ quan sinh dục bên trong ở nữ Các cơ quan sinh sản bên trong của nữ giới bao gồm: âm đạo, tử cung, ống dẫn trứng và buồng trứng. Âm đạo là một đường ống giống dạng vỏ dao, kéo dài từ âm hộ đến cổ tử cung. Âm đạo tiếp nhận dương vật trong giao hợp; đồng thời, đây cũng là nơi mà tinh trùng lưu lại. Âm đạo còn là đường sinh con tự nhiên; trong quá trình chuyển dạ và sinh nở, âm đạo có thể giãn nở tới . Âm đạo nằm giữa bàng quang và trực tràng. Thông thường, âm đạo sẽ khép, thu hẹp lại. Tuy nhiên khi có hưng phấn tình dục, âm đạo sẽ mở ra, dài ra và sản sinh ra dịch bôi trơn để cho phép đưa dương vật tiến vào. Thành âm đạo được cấu thành từ ba lớp; các vi khuẩn tự nhiên bên trong âm đạo ngăn chặn sự sinh sôi của nấm men.  Điểm G, được đặt theo tên của tiến sĩ Ernst Gräfenberg - người đầu tiên công bố về vị trí này vào năm 1950, có khả năng nằm ở thành âm đạo phía trên và có thể gây ra cực khoái tình dục. Tùy vào cơ địa của từng người, vùng này có thể có khác biệt về kích thước, thậm chí vị trí; và vẫn có ngoại lệ không có điểm G ở một số phụ nữ. Nhiều nhà khoa học vẫn tranh cãi cũng như hoài nghi về cấu trúc và sự tồn tại của điểm G, hoặc cho rằng đây chỉ là một phần mở rộng của âm vật. Tử cung hay dạ con là một cơ quan rỗng, được cấu thành tử các cơ. Đây là nơi mà trứng (noãn) đã được thụ tinh sẽ làm tổ và phát triển thành bào thai. Tử cung nằm trong khoang chậu giữa bàng quang và ruột, phía trên âm đạo. Tử cung thường ở tư thế nghiêng 90 độ ra phía trước, mặc dù ở khoảng 20% phụ nữ có cơ quan này nghiêng về phía sau. Tử cung có ba lớp; lớp trong cùng chính là là niêm mạc tử cung, nơi hợp tử được làm tổ. Trong thời kỳ rụng trứng (phóng noãn), lớp niêm mạc tử cung sẽ dày lên, sẵn sàng cho việc trứng thụ tinh (hợp tử) làm tổ. Nếu việc thụ thai không diễn ra, tử cung sẽ loại bỏ lớp niêm mạc này thông qua kì kinh nguyệt. Cổ tử cung là đoạn hẹp nhất và thấp nhất của tử cung. Phần vòm rộng của tử cung được gọi là đáy tử cung. Trong thời kỳ rụng trứng (phóng noạn), noãn (trứng) sẽ được di chuyển từ ống dẫn trứng xuống tử cung. Từ hai bên tử cung, các ống dẫn trứng này có độ dài khoảng . Đoạn cuối của ống dẫn trứng là các tua như những ngón tay; các tua này vươn tới, quét qua buồng trứng để hứng lấy noãn (trứng) được giải phóng. Sau đó, các noãn (trứng) mất từ ba đến bốn ngày để di chuyển xuống tử cung. Sau khi quan hệ tình dục, tinh trùng bơi từ tử cung lên để gặp trứng tại phần phễu của ống dẫn trứng. Lớp niêm mạc và dịch được tiết ra của ống dẫn trứng giúp duy trì sự tồn tại của noãn (trứng) và tinh trùng, thúc đẩy sự thụ tinh diễn ra, cũng như nuôi dưỡng noãn (trứng) xuống đến tử cung. Sau khi được thụ tinh, nếu noãn (trứng) tách thành hai thì sinh đôi cùng trứng (sinh đôi giống hệt nhau) sẽ được tạo nên. Trong trường hợp hai noãn (trứng) khác nhau được thụ tinh bởi hai tinh trùng khác nhau, người mẹ sẽ sinh hạ sinh đôi khác trứng (sinh đôi không giống nhau) hay còn gọi là sinh đôi anh em. Tương tự tinh hoàn, buồng trứng (tuyến sinh dục nữ) cũng phát triển từ các mô phôi. Buồng trứng được treo cố định bằng các dây chằng; các noãn cũng được lưu trữ và phát triển ở đây trước khi đến kì rụng trứng. Buồng trứng cũng sản sinh ra các hormone nữ là progesterone và estrogen. Trong buồng trứng, mỗi noãn (trứng) sẽ được bao bọc bởi các loại tế bào khác; tất cả chứa trong một lớp vỏ được gọi là nang trứng (noãn) sơ cấp. Khi đến tuổi dậy thì, sẽ có một hoặc nhiều hơn một nang được kích hoạt để phát triển hàng tháng, trở thành nang trưởng thành.  Hệ sinh sản nữ không tạo ra các noãn (trứng). Khi vừa sinh ra, bé gái có khoảng 60.000 noãn (trứng), nhưng chỉ 400 noãn (trứng) trong số đó sẽ trưởng thành trong suốt quãng đời của người phụ nữ. Sự rụng trứng dựa trên một chu kỳ hàng tháng, ngày thứ 14 sẽ là ngày dễ thụ thai nhất. Từ ngày thứ nhất đến ngày thứ 4, kinh nguyệt và sự sản sinh hormone estrogen and progesterone giảm dần, lớp niêm mạc tử cung cũng mỏng đi. Trong 3 đến 6 ngày tiếp theo, niêm mạc tử cung sẽ dần bong ra và bị đào thải khỏi cơ thể. Khi kinh nguyệt kết thúc, chu kỳ lại lặp lại với sự gia tăng mạnh của hormone kích thích nang trứng (FSH) được tiết ra từ tuyến yên. Giai đoạn tiền rụng trứng (phóng noãn) sẽ rơi vào ngày thứ 5 đến ngày thứ 13. Trong giai đoạn này, tuyến yên sẽ tiết ra hormone kích thích nang trứng (FSH). Lúc này, sự ức chế ngược diễn ra khi nang noãn được kích thích, tiết ra hormone estrogen ngăn FSH được tiết ra. Do nồng độ FSH bị hạ xuống mức cực thấp, chỉ có một nang noãn "sở hữu" được nhiều FSH mới có thể tiếp tục phát triển, trở thành nang trưởng thành (nang de Graaf); điều này giới hạn số lượng noãn được phóng ra. Không chỉ giúp lớp niêm mạc tử cung dày lên, hormone estrogen còn tác động đến tuyến yên, khiến tuyến yên phóng thích ra một lượng lớn hormone luteinizing (LH) - kích thích sự rụng trứng (phóng noãn) diễn ra. Vào ngày thứ 14, nồng độ LH đạt đến ngưỡng cực đỉnh khiến cho nang noãn trưởng thành (nang de Graaf) trồi lên khỏi bề mặt buồng trứng. Nang noãn vỡ ra và noãn (trứng) chín được phóng vào khoang bụng. Các tua ở phía cuối của ống dẫn trứng bắt lấy noãn. Khi này, dịch nhầy của cổ tử cung cũng sẽ có sự thay đổi để giúp tinh trùng dịch chuyển dễ dàng hơn. Từ ngày thứ 15 đến ngày thứ 28, diễn ra giai đoạn hậu rụng trứng (phóng noãn), phần còn lại nang noãn trở thành hoàng thể và tiếp tục sản sinh ra estrogen. Bên cạnh estrogen, một hormone đặc hữu của hoàng thể cũng được tiết ra, chính là progesterone. Sự tăng lên của lượng progesterone ức chế lượng LH được tiết ra. Niêm mạc tử cung dày lên sẵn sàng cho hợp tự làm tổ; lúc này, noãn (trứng) cũng sẽ di chuyển từ ống dẫn trứng xuống tử cung. Trong trường hợp noãn (trứng) không được thụ tinh và làm tổ, kỳ kinh nguyệt sẽ bắt đầu. Chu kỳ đáp ứng tình dục ở con người Chu kỳ đáp ứng tình dục là một mô hình được dùng để miêu tả các phản ứng sinh lý xảy ra trong hoạt động tình dục của con người. Mô hình này được xây dựng bởi William Masters và Virginia Johnson.. Theo quan điểm của Masters và Johnson, chu kỳ đáp ứng tình dục bao gồm 4 giai đoạn: hưng phấn (excitement), cao trào (plateau, hay còn được gọi là "cao nguyên"), cực khoái (orgasm), và hồi phục (resolution, hay còn được gọi là "phân giải"); ngoài ra, chu kỳ đáp ứng tình dục còn được biết đến với tên gọi Mô hình EPOR. Trong giai đoạn hưng phấn, cá nhân đạt được các động lực thiết yếu thúc đẩy việc quan hệ tình dục. Sau giai đoạn hưng phấn, trước giai đoạn cực khoái chính là cao trào. Trong giai đoạn này, ở nam sẽ diễn ra các biến đổi về sinh học là chủ yếu. Giai đoạn này ở nữ đa số sẽ là các biến đổi về tâm lý. Giai đoạn cực khoái chính là sự giải phóng các hưng phấn, khoái cảm tình dục đã được tích luỹ; và giai đoạn hồi phục chính là trạng thái không còn các kích thích, cơ thể thư giãn để trở về điểm trước khi chu kỳ bắt đầu. Chu kỳ đáp ứng tình dục ở nam giới bắt đầu ở giai đoạn hưng phấn; lúc này, trung khu thần kinh chịu trách nhiệm điều khiển sự cương cứng. Hiện tượng co mạch máu trong dương vật xuất hiện, nhịp tim tăng lên, bìu dái dày lên, thừng tinh co ngắn lại, và máu dồn xuống khiến tinh hoàn căng lên, trở nên cương cứng. Đến giai đoạn cao trào, đường kính của dương vật sẽ tăng lên, tinh hoàn trở nên căng cứng hơn, và tuyến hành niệu đạo (Cowper) sẽ tiết ra dịch nhờn trước xuất tinh. Giai đoạn cực khoái, cùng với các cơn co thắt diễn ra nhịp nhàng mỗi 0.8 giây, bao gồm 2 kỳ nhỏ hơn. Trong kỳ lan tỏa, các cơn co thắt diễn ra ở ống dẫn tinh, tuyến tiền liệt, và túi tinh; điều này kích thích diễn ra sự xuất tinh - kỳ thứ hai của giai đoạn cực khoái. Xuất tinh còn được gọi là kỳ giải phóng; một người chỉ có thể xuất tinh khi đã đạt đến cực khoái. Trong giai đoạn hồi phục, nam giới ở trong trạng thái thư giãn, không còn các kích thích. Trước khi chu kỳ phản ứng tình dục mới bắt đầu, cá nhân phải trải qua thời gian trơ (thời kỳ chịu lửa) - một phần của giai đoạn hồi phục. Độ tuổi càng lớn thì thời gian trơ cần cho việc phục hồi càng kéo dài. Ở nữ giới, giai đoạn hưng phấn cũng là giai đoạn đầu tiên của chu kỳ đáp ứng tình dục và có thể kéo dài từ vài phút đến vài giờ đồng hồ. Đặc trưng của giai đoạn này chính là sự gia tăng nhịp tim, nhịp thở, và huyết áp. Da sẽ ửng hồng hoặc các đốm đỏ có thể xuất hiện trên ngực và lưng; kích cỡ của ngực tăng nhẹ, núm vú trở nên cứng và cương lên. Sự căng các mô của cơ thể diễn ra khiến cho âm vật, môi nhỏ, và âm đạo sưng lên. Các cơ vòng xung quanh lỗ vào âm đạo cũng sẽ căng chặt lại, tử cung nâng lên và có sự phát triển về kích thước. Thành âm đạo bắt đầu tiết ra dịch bôi trơn. Giai đoạn thứ hai sẽ là giai đoạn cao trào; đặc trưng của giai đoạn này là sự tiếp nối và tăng cường các biến đổi đã diễn ra ở giai đoạn hưng phấn. Cực khoái không chỉ là kết quả của giai đoạn cao trào  mà còn là mở đầu của giai đoạn hồi phục - sự đảo ngược của các biến đổi đã xuất hiện ở giai đoạn hưng phấn ban đầu. Trong giai đoạn cực khoái, nhịp tim, huyết áp, sự căng cơ, và nhịp thở đạt đến giá trị cực đỉnh. Ở cơ chậu gần âm đạo, cơ vòng hậu môn, và tử cung xảy ra sự co thắt. Mặc dù âm vật là tâm điểm hình thành sự cực khoái nhưng sự co cơ ở khu vực âm đạo cũng tạo nên vui sướng cực độ. Rối loạn chức năng tình dục và các vấn đề tình dục thường gặp Theo DSM-IV-TR (Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê các Rối loạn tâm thần), rối loạn tình dục là các chướng ngại hiện hữu trong ham muốn tình dục và các biến đổi tâm sinh lý. Biểu lộ sự đặc trưng thông chu kỳ đáp ứng tình dục, các rối loạn tình dục sẽ gây ra các cơn đau, sự lo lắng, nỗi buồn rõ rệt cũng như khó khăn trong việc tương tác giữa các cá nhân. Rối loạn chức năng tình dục là hệ quả của các rối loạn thể chất lẫn tâm lý. Các tác nhân về thể chất bao gồm mất cân bằng hormone, tiểu đường, các bệnh tim mạch, v. v. Các tác nhân về tâm lý gồm có căng thẳng, lo âu, trầm cảm, v. v. Rối loạn chức năng tình dục có thể xuất hiện ở cả nam và nữ. Ở phụ nữ, có bốn loại rối loạn tình dục chính: rối loạn ham muốn tình dục, rối loạn hưng phấn tình dục, rối loạn cực khoái tình dục, và rối loạn đau khi quan hệ tình dục. Rối loạn ham muốn tình dục xuất hiện trong trường hợp cá nhân suy giảm ham muốn tình dục, mức độ ham muốn thấp hoặc không có; nguyên nhân của tình trạng có thể đến từ sự thay đổi hormone, trầm cảm, hoặc mang thai. Rối loạn hưng phấn tình dục cũng là một loại rối loạn chức năng tình dục chính ở phụ nữ. Rối loạn này xảy ra khi âm đạo không tiết đủ chất nhờn hoặc cá nhân gặp phải các vấn đề về lưu thông máu. Một rối loạn chức năng tình dục khác thường thấy ở phụ nữ chính là chính là rối loạn cực khoái tình dục, hay khó hoặc không đạt được cực khoái tình dục. Có thể bắt gặp rối loạn khoái cảm tình dục tình dục ở những phụ nữ mắc các vấn đề về rối loạn tâm lý, ví dụ như chịu đựng cảm giác tội lỗi và lo âu do họ từng là nạn nhân của tấn công tình dục. Rối loạn tình dục cuối cùng chính là cảm thấy đau khi quan hệ tình dục. Các tác nhân có thể kể đến của tình trạng này gồm: sưng vùng chậu, sẹo sau chấn thương, các bệnh lây truyền qua đường tình dục (STDs), v. v. Ở nam giới, có ba loại rối loạn tình dục thường gặp, bao gồm: rối loạn ham muốn tình dục, rối loạn xuất tinh, và rối loạn cương dương. Sự thiếu ham muốn tình dục ở nam giới là kết quả của việc mất đi các ham muốn, động lực để quan hệ tình dục, cũng như nồng độ testosterone thấp. Ngoài ra, các tác nhân tâm lý như lo âu, và trầm cảm cũng có thể góp phần dẫn đến tình trạng trên. Chứng rối loạn tình dục phổ biến tiếp theo là rối loạn xuất tinh; rối loạn này có 3 trường hợp điển hình, gồm: xuất tinh ngược, xuất tinh chậm, và xuất tinh sớm. Và rối loạn cương dương xảy ra trong trường hợp dương vật không thể cương cứng hoặc không thể duy trì sự cương cứng trong lúc quan hệ tình dục. Khía cạnh tâm lý học Là một dạng hành vi, những khía cạnh tâm lý của các biểu hiện tính dục đã được nghiên cứu trong bối cảnh liên quan đến tình cảm, bản dạng giới, sự tương tác gần gũi mật thiết giữa các cá nhân với nhau và hiệu quả sinh sản theo thuyết Darwin. Tính dục ở con người tạo ra những phản ứng tâm lý và tình cảm sâu sắc. Một số nhà lý luận học xác định tính dục là nguồn gốc trung tâm của nhân cách con người. Các nghiên cứu tâm lý về tính dục tập trung vào những yếu tố tâm lý ảnh hưởng đến hành vi và trải nghiệm tình dục. Các phân tích tâm lý ban đầu được thực hiện bởi Sigmund Freud, người tin vào phương pháp phân tâm học. Ông cũng đề xuất các khái niệm về sự phát triển tâm lý và phức cảm Oedipus, và một số các lý thuyết khác. Bản dạng giới là sự tự nhận thức của một người về giới của chính họ, cho dù là nam, nữ hay phi nhị nguyên giới.<ref name="MorrowMessinger2">Xu hướng tính dục và thể hiện giới trong thực hành công tác xã hội, do Deana F. Morrow và Lori Messinger chủ biên (2006, ),tr. 8: "Bản dạng giới đề cập đến cảm nhận cá nhân của một người về sự nhận dạng như nam tính hoặc nữ tính, hoặc một số sự kết hợp giữa chúng."</ref> Bản dạng giới có thể tương đồng với giới tính được chỉ định khi sinh hoặc có thể khác với giới tính đó. Tất cả các xã hội đều có một tập hợp các phạm trù giới có thể làm cơ sở hình thành bản sắc xã hội của một người trong mối quan hệ với những người khác trong xã hội. Hành vi tình dục và các mối quan hệ thân mật bị ảnh hưởng mạnh bởi xu hướng tính dục cá nhân. Xu hướng tính dục là sự hấp dẫn lâu dài về mặt tình cảm hoặc tình dục (hoặc cả hai) đối với những người khác giới, cùng giới hoặc cả hai giới. Những người dị tính bị thu hút về mặt tình cảm/tình dục với các thành viên khác giới, những người đồng tính nam và đồng tính nữ bị thu hút về tình cảm/tình dục với những người cùng giới tính, và những người song tính bị thu hút về tình cảm/tình dục đối với cả hai giới. Quan niệm sai lầm rằng đồng tính luyến ái hệ quả của sự đảo lộn vai trò giới được củng cố bởi các phương tiện truyền thông khi họ miêu tả đồng tính nam là yếu ớt ẻo là và đồng tính nữ là nam tính. Tuy nhiên, sự hợp hay không hợp với định kiến giới của một người không phải lúc nào cũng thể hiện đúng về xu hướng tình dục của họ. Xã hội tin rằng nếu một người đàn ông nam tính thì anh ta là người dị tính, và nếu một người đàn ông nữ tính thì anh ta là đồng tính. Không có bằng chứng chắc chắn rằng xu hướng đồng tính hoặc song tính phải gắn liền với các vai trò giới không điển hình. Đến đầu thế kỷ 21, đồng tính không còn được coi là một bệnh lý nữa. Các lý thuyết đã liên kết các yếu tố, bao gồm di truyền, giải phẫu, thứ tự sinh và hormone trong môi trường trước khi sinh, với xu hướng đồng tính. Ngoài nhu cầu sinh sản, còn có nhiều lý do khác khiến người ta quan hệ tình dục. Theo một nghiên cứu được thực hiện trên sinh viên đại học (Meston & Buss, 2007), bốn lý do chính cho các hoạt động tình dục là: sự hấp dẫn thể chất, cách để kết thúc một tình trạng (một tình huống/tình trạng nào đó), để tăng kết nối cảm xúc và giảm bớt sự bất an. Giới tính và độ tuổi Tình dục ở trẻ em Trước khi Sigmund Freud xuất bản Ba tiểu luận về Lý thuyết tính dục vào năm 1905, trẻ em thường được cho là vô tính, không có khái niệm về tình dục cho đến khi trưởng thành sau này. Sigmund Freud là một trong những nhà nghiên cứu đầu tiên coi trọng vấn đề tính dục ở trẻ em. Những ý tưởng của ông, chẳng hạn như sự phát triển tâm lý và phức cảm Oedipus, đã gây ra nhiều tranh luận nhưng thừa nhận sự tồn tại của tính dục ở trẻ em là một bước phát triển quan trọng. Freud cho rằng tính dục đóng một vai trò quan trọng trong cuộc sống, hành động và hành vi của con người; ông cho biết ham muốn tình dục tồn tại và có thể được nhận thấy ở trẻ em ngay từ khi mới sinh. Ông giải thích điều này trong lý thuyết về tình dục ở trẻ sơ sinh của mình và nói rằng ham muốn tình dục là động lực thúc đẩy quan trọng nhất trong cuộc sống của người trưởng thành. Freud đã viết về tầm quan trọng của mối quan hệ giữa các cá nhân đối với sự phát triển tình dục và cảm xúc của một người. Ngay từ khi sinh ra, mối liên hệ của người mẹ với trẻ sơ sinh đã ảnh hưởng đến sự thích thú và gắn bó sau này của trẻ. Freud đã mô tả hai dòng chảy của đời sống tình cảm; một là dòng tình cảm, bao gồm mối quan hệ của chúng ta với những người quan trọng trong cuộc sống; và một dòng khoái cảm, bao gồm các mong muốn của chúng ta để thỏa mãn những nhu cầu tình dục. Trong thời kỳ niên thiếu, một người trẻ thường cố gắng dung hòa hai dòng cảm xúc này. Alfred Kinsey cũng đã nghiên cứu về tình dục ở trẻ em trong Báo cáo Kinsey của mình. Trẻ em bẩm sinh tò mò về cơ thể và chức năng tình dục của chúng. Ví dụ, chúng tự hỏi em bé đến từ đâu, chúng nhận thấy sự khác biệt giữa nam và nữ, và tò mò về bộ phận sinh dục, điều này thường bị nhầm lẫn với thủ dâm. Trò chơi tính dục ở trẻ em, còn được gọi là chơi bác sĩ, bao gồm quan sát hoặc kiểm tra bộ phận sinh dục. Nhiều trẻ em tham gia một số trò chơi liên quan đến tính dục, thường là với anh chị em hoặc bạn bè. Điều này thường giảm khi trẻ lớn dần, nhưng sau đó chúng có thể bắt đầu có thu hút tình cảm với bạn bè cùng lứa. Mức độ tò mò vẫn cao trong những năm này, nhưng sự gia tăng hứng thú vượt bực về tình dục thường xảy ra ở tuổi vị thành niên. Tính dục ở tuổi trưởng thành Tính dục của người trưởng thành đã hình thành từ thời thơ ấu. Tuy nhiên, cũng như nhiều năng lực khác của con người, tính dục không cố định mà tự trưởng thành và phát triển. Định kiến phổ biến liên quan đến người lớn tuổi là họ có xu hướng mất hứng thú và khả năng quan hệ tình dục khi đến tuổi trung niên. Quan niệm sai lầm này được củng cố bởi văn hóa đại chúng phương Tây, vốn thường chế nhạo những người lớn tuổi cố gắng tham gia vào các hoạt động tình dục. Tuổi tác không phải lúc nào cũng ảnh hưởng đến nhu cầu hoặc mong muốn quan hệ tình dục. Một số cặp vợ chồng trong một mối quan hệ lâu dài cho thấy rằng tần suất hoạt động tình dục của họ giảm dần theo thời gian và cách thể hiện sự ham muốn cũng có thể thay đổi, nhưng nhiều cặp vợ chồng khác lại cảm thấy sự gần gũi và tình cảm giữa hai người tăng lên. Khía cạnh tâm lý xã hội Tính dục của con người có thể được hiểu là một phần của đời sống xã hội loài người, và bị chi phối bởi các quy tắc ứng xử và hiện trạng xã hội. Điều này làm thu hẹp tầm nhìn của các nhóm trong xã hội. Bối cảnh văn hóa xã hội, bao gồm các tác động của chính trị và các phương tiện truyền thông đại chúng, ảnh hưởng và hình thành các chuẩn mực xã hội. Trong suốt lịch sử, các chuẩn mực xã hội luôn thay đổi và sẽ tiếp tục thay đổi nhờ vào các phong trào như: cách mạng tính dục và sự trỗi dậy của nữ quyền. Giáo dục giới tính Độ tuổi và cách để dạy trẻ em về các vấn đề tính dục luôn là một vấn đề của giáo dục giới tính. Hệ thống trường học ở hầu hết các nước phát triển đều có một số hình thức giáo dục giới tính, nhưng bản chất của các vấn đề được đề cập rất khác nhau. Ở một số quốc gia, chẳng hạn như Úc và phần lớn các nước châu Âu, giáo dục giới tính phù hợp với lứa tuổi thường bắt đầu ở lứa tuổi mẫu giáo, trong khi các quốc gia khác giáo dục giới tính bắt đầu từ lứa tuổi thanh thiếu niên. Giáo dục giới tính bao gồm nhiều chủ đề như các khía cạnh thể chất, tinh thần và xã hội của hành vi tình dục. Vị trí địa lý cũng đóng một vai trò trong quan điểm của xã hội về độ tuổi thích hợp để trẻ em tìm hiểu về tình dục. Theo tạp chí TIME và CNN, 74% thanh thiếu niên ở Hoa Kỳ báo cáo rằng những kiến thức về tình dục họ nhận được chủ yếu là từ bạn bè và các phương tiện thông tin, chỉ có 10% nhận được những kiến thức này từ cha mẹ hoặc một khóa học giáo dục giới tính. Tại Hoa Kỳ, hầu hết các chương trình giáo dục giới tính đều khuyến khích tiết chế, kiềm chế bản thân trước những hoạt động tình dục. Ngược lại, mục đích chính của giáo dục giới tính toàn diện là khuyến khích học sinh tự chịu trách nhiệm về hành vi tình dục của mình và biết cách quan hệ tình dục an toàn, lành mạnh và thoải mái khi các em sẵn sàng làm điều đó. Những người ủng hộ giáo dục giới tính tiết chế tin rằng việc giảng dạy một chương trình toàn diện sẽ khuyến khích thanh thiếu niên quan hệ tình dục, trong khi những người ủng hộ giáo dục giới tính toàn diện cho rằng nhiều thanh thiếu niên sẽ quan hệ tình dục bất chấp và cần được trang bị kiến thức về cách quan hệ tình dục có trách nhiệm. Theo dữ liệu từ cuộc Điều tra dọc quốc gia về thanh thiếu niên, nhiều thanh thiếu niên có ý định tiết chế nhưng không thành, và khi những thanh thiếu niên này quan hệ tình dục, họ thường không sử dụng các biện pháp tình dục an toàn như biện pháp tránh thai. Tình dục theo dòng lịch sử Tính dục là một phần quan trọng, thiết yếu với sự tồn tại của con người trong suốt lịch sử. Dù ở nền văn minh nào, tính dục cũng đều bị chi phối thông qua những chuẩn mực, các đại diện, và hành vi. Trước khi phát triển nông nghiệp, các nhóm săn bắt/hái lượm (H/G) và dân du mục đã sinh sống trên thế giới. Trong các nhóm này, một số tác động của chế độ phụ quyền đã tồn tại, nhưng có những dấu hiệu cho thấy phụ nữ là những người tham gia tích cực vào các hoạt động tình dục, với khả năng thương lượng của riêng họ. Nhóm người săn bắt/hái lượm này có những tiêu chuẩn tình dục ít bị hạn chế, chủ yếu tập trung đến khoái cảm và sự hưởng thụ, nhưng vẫn có những quy tắc và ràng buộc nhất định. Một số sự tập tục cơ bản hoặc các tiêu chuẩn quan trọng đối mặt với sức ép giữa việc thừa nhận khoái cảm, sự ham muốn hay chỉ vì nhu cầu sinh nở để duy trì trật tự xã hội và nòi giống. Các biểu tượng tình dục được sáng tạo và tôn thờ bởi nhóm người này. Hai căng thẳng thường gặp trong xã hội H/G được thể hiện qua nghệ thuật của họ, trong đó nhấn mạnh đến tình dục và sức mạnh của nam giới, với xu hướng phổ biến là làm mờ ranh giới của giới trong các vấn đề tình dục. Một trong những ví dụ về khắc họa chế độ phụ quyền là thần thoại sáng tạo của người Ai Cập, trong đó thần mặt trời Atum thủ dâm dưới nước, tạo ra sông Nile. Trong thần thoại của người Sumer, tinh dịch của các vị thần đã lấp đầy con sông Tigris.   Khi các xã hội nông nghiệp xuất hiện, khuôn khổ tình dục đã thay đổi theo những cách mà vẫn tiếp tục tồn tại trong nhiều thiên niên kỷ sau ở phần lớn châu Á, châu Phi, châu Âu và một phần châu Mỹ. Một đặc điểm chung mới của các xã hội này là sự giám sát tập thể đối với các hành vi tình dục do đô thị hóa, sự gia tăng dân số và mật độ dân số. Trẻ em thường chứng kiến cảnh cha mẹ quan hệ tình dục vì nhiều gia đình ở chung chỗ ngủ. Do quyền sở hữu đất đai, việc xác định cha của những đứa trẻ trở nên quan trọng, xã hội và cuộc sống gia đình chuyển sang chế độ phụ hệ. Những thay đổi này trong tư tưởng tình dục được sử dụng để kiểm soát tính nữ và để phân biệt các tiêu chuẩn theo giới tính. Với những hệ tư tưởng này, tính chiếm hữu và sự gia tăng ghen tuông đã xuất hiện. Việc thuần hóa các loài động vật tạo thời cơ cho hiện tượng quan hệ tình dục với động vật nảy sinh. Hành vi tình dục này chủ yếu diễn ra ở nam giới và nhiều xã hội đã áp dụng các quy luật nghiêm khắc để chống lại nó. Những hành vi này cũng giải thích cho những hình tượng các sinh vật thần thoại nửa người, nửa động vật, và các trò thể thao giữa các nam thần và nữ thần với động vật. Trong khi vẫn giữ những tiền lệ của các nền văn minh trước đó, mỗi nền văn minh cổ điển đã thiết lập những cách tiếp cận khác biệt với vấn đề giới tính, qua nghệ thuật thể hiện vẻ đẹp tình dục và các hành vi đồng tính. Sự khác biệt này được miêu tả trong sách hướng dẫn tính dục, vốn khá phổ biến ở các nền văn minh ở Trung Quốc, Hy Lạp, La Mã, Ba Tư và Ấn Độ; mỗi quốc gia đều có lịch sử về tính dục riêng. Trước thời Trung kỳ Trung cổ, các hành vi đồng tính dường như đã được các nhà thờ Thiên chúa giáo bỏ qua hoặc dung túng. Trong suốt thế kỷ 12, các hành vi thù địch đối với người đồng tính bắt đầu lan rộng khắp các cơ sở tôn giáo và thế tục. Vào cuối thế kỷ 19, nó được xem như một bệnh lý. Trong thời kì đầu của cuộc cách mạng công nghiệp thế kỷ 18 và 19, nhiều thay đổi về tiêu chuẩn tình dục đã xảy ra. cuộc cách mạng công nghiệp thế kỷ 18 và 19, nhiều thay đổi về tiêu chuẩn tình dục đã diễn ra. Các thiết bị tránh thai nhân tạo mới, ấn tượng, như bao cao su và màng ngăn đã được ra mắt. Các bác sĩ bắt đầu có một vai trò mới trong các vấn đề tình dục, đặc biệt lời khuyên của họ là rất quan trọng đối với đạo đức và sức khỏe tình dục. Ngành công nghiệp phim khiêu dâm ngày càng phát triển và Nhật Bản đã thông qua bộ luật đầu tiên phản đối người đồng tính. Với các xã hội phương Tây, định nghĩa về đồng tính liên tục thay đổi; ảnh hưởng của phương Tây đến các nền văn hóa khác trở nên phổ biến hơn. Sự giao thoa mới đã hình thành những vấn đề nghiêm trọng xung quanh tính dục và truyền thống tình dục. Cũng có những thay đổi lớn trong hành vi tình dục. Trong thời kỳ này, tuổi dậy thì bắt đầu xảy ra ở lứa tuổi nhỏ hơn so với trước kia, do đó, hình thành sự quan tâm mới đến tuổi vị thành niên - một thời điểm dễ có nhầm lẫn và những nguy cơ mới về tình dục. Cũng có sự thay đổi mới về mục đích của hôn nhân; nó ngày càng được coi là minh chứng của tình yêu hơn là chỉ vì kinh tế và duy trì nòi giống. Havelock Ellis và Sigmund Freud đã đưa ra nhiều quan điểm hơn về người đồng tính; Ellis nói rằng đồng tính là bẩm sinh và do đó không phải là hành vi vô đạo đức. Freud lại nói rằng tất cả mọi người đều có thể là dị tính hoặc đồng tính; xu hướng tính dục không phải là bẩm sinh. Theo Freud, xu hướng tính dục của một người phụ thuộc vào độ phân giải của phức cảm Oedipus. Ông cho biết đồng tính nam xảy ra khi một cậu bé có một người cha độc đoán, lạnh nhạt với người mẹ và chuyển sang muốn nhận được tình yêu và sự chú ý từ người cha, và sau đó là nam giới nói chung. Ông nói rằng đồng tính nữ hình thành khi một cô gái yêu người mẹ và đồng nhất hóa bản thân với người cha, và ngày càng trở nên gắn bó ở giai đoạn đó. Alfred Kinsey đã khởi xướng kỷ nguyên nghiên cứu tính dục hiện đại. Ông thu thập dữ liệu từ các bảng câu hỏi đưa ra cho các sinh viên của mình tại Đại học Indiana, nhưng sau đó chuyển sang phỏng vấn cá nhân về các hành vi tính dục. Kinsey và các đồng nghiệp của ông đã làm thống kê với 5.300 nam giới và 5.940 phụ nữ. Ông phát hiện ra rằng hầu hết mọi người đều thủ dâm, nhiều người quan hệ tình dục bằng miệng, phụ nữ có khả năng đạt cực khoái nhiều lần, và nhiều người đàn ông đã từng trải qua một số kiểu quan hệ tình dục đồng giới trong đời. Nhiều người tin rằng ông là người có ảnh hưởng lớn trong việc thay đổi thái độ của xã hội thế kỷ 20 về tình dục. Viện Nghiên cứu Tình dục, Giới tính và Sinh sản Kinsey tại Đại học Indiana hiện vẫn là một trung tâm chính cho việc nghiên cứu tình dục của con người. Trước William Masters, một bác sĩ, và Virginia Johnson, một nhà khoa học hành vi, nghiên cứu về giải phẫu và sinh lý của giới tính vẫn chỉ giới hạn trong các thí nghiệm với động vật. Masters và Johnson đã bắt đầu trực tiếp quan sát và ghi lại những phản ứng thể chất ở người tham gia vào hoạt động tình dục trong môi trường phòng thí nghiệm. Họ đã quan sát 10.000 lần quan hệ tình dục giữa 312 đàn ông và 382 phụ nữ. Điều này đã giúp tìm ra các phương pháp điều trị các vấn đề lâm sàng và bất thường. Masters và Johnson đã mở phòng khám trị liệu tính dục đầu tiên vào năm 1965. Năm 1970, họ mô tả các kỹ thuật trị liệu của mình trong cuốn sách của họ, Human Sexual Inadequacy. Trong ấn bản đầu tiên của Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn tâm thần của Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ đã phân loại đồng tính là một bệnh tâm thần, và cụ thể hơn là "rối loạn nhân cách chống đối xã hội". Quan niệm này vẫn được cho là cách hiểu khoa học nhất về đồng tính cho đến năm 1973 khi Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ loại bỏ đồng tính khỏi danh sách chẩn đoán rối loạn tâm thần của họ. Thông qua nghiên cứu của mình về những người đàn ông dị tính và đồng tính, Evelyn Hooker tiết lộ rằng không có bất kì mối tương quan nào giữa đồng tính và sự bất ổn về tâm lý, và phát hiện của Evelyn Hooker đóng một vai trò quan trọng trong việc thay đổi quan điểm của cộng đồng khoa học rằng đồng tính là bệnh cần phải được điều trị hoặc chữa khỏi. Tính dục, chủ nghĩa thực dân và chủng tộc Các thực dân xâm lược từ châu Âu biết tới những khái niệm tính dục mới vượt xa khỏi tiêu chuẩn thông thường của họ lần đầu vào năm 1516, khi nhà thám hiểm người Tây Ban Nha Vasco Nunez de Balboa tiếp xúc với những người bản xứ có các tập quán như vậy ở Trung Mỹ. Balboa gặp những người đàn ông trong trang phục phụ nữ, và hậu quả là ông đã để bầy chó của mình lấy mạng 40 người đàn ông như vậy chỉ vì sự khác biệt trong tính dục của họ. Ở Bắc Mỹ và Hoa Kỳ, những người châu Âu cũng sử dụng việc khiếu nại về sự phóng túng trong tính dục để biện minh cho hành vi phân biệt đối xử của họ đối với các nhóm chủng tộc và sắc tộc thiểu số. Các học giả cũng tiến hành nghiên cứu về ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dân tới khái niệm tính dục như hiện nay, và đưa ra giả thiết rằng khái niệm này đã bị thay đổi hoàn toàn so với thứ tồn tại trước khi bị tác động bởi nạn phân biệt chủng tộc và chế độ nô lệ. Trong cuốn sách của mình, Kiến thức về tình dục và quyền lực hoàng gia: Giới, Chủng tộc và Đạo đức ở các nước thuộc địa châu Á (Carnal Knowledge and Imperial Power: Gender, Race, and Morality in Colonial Asia), Laura Stoler đã tiến hành nghiên cứu về cách thực dân Hà Lan kiểm soát quan hệ tình dục cũng như ra các sắc lệnh giới hạn việc quan hệ theo giới nhất định nhằm phân biệt giữa tầng lớp cai trị và bị trị, từ đó áp dụng chế độ chế độ thuộc địa lên người dân Indonesia. Tại Mỹ, theo thống kê có khoảng 155 bộ lạc bản địa thừa nhận có những người hai tâm hồn trong bộ lạc của họ, tuy nhiên con số thực tế có thể còn nhiều hơn những gì được ghi chép. Những người này đã và vẫn luôn được coi là thành viên của các cộng đồng không nằm trong ranh giới phân giới nam - nữ của phương Tây, mà thiên về phạm trù của "giới thứ ba". Hệ thống phân giới này mâu thuẫn với cả hệ nhị phân về giới lẫn định kiến rằng giới và giới tính phải đồng nhất với nhau. Thay vì tuân theo các vai trò truyền thống của nam giới và phụ nữ, hai tinh thần lấp đầy một vị trí đặc biệt trong cộng đồng của họ. Ví dụ, những người hai tâm hồn này thường được tôn trọng do có sở hữu trí tuệ và linh lực siêu phàm. Những người hai tâm hồn cũng được quyền kết hôn, bao gồm cả hôn nhân một vợ một chồng lẫn đa hôn. Trong lịch sử, những người khai hoang tới từ châu Âu từng coi các mối quan hệ của những người hai tâm hồn là quan hệ đồng giới, và do đó, họ tin rằng đạo đức của người bản địa là hạ đẳng hơn. Để thể hiện quan điểm của mình, họ bắt đầu áp đặt tín ngưỡng và thường thức của mình lên những người bản xứ, xóa bỏ vai vế của những người hai tâm hồn trong văn hóa bản địa. Cùng với việc đưa người bản xứ vào những khu bảo tồn khép kín, Bộ luật Tội phạm Tôn giáo ra đời đã đặc biệt "đả kích kịch liệt các phong tục tập quán về tình dục và hôn nhân của người bản xứ". Mục đích của những hành động này là nhằm đồng hóa người dân bản địa với những tư tưởng Âu - Mỹ về gia đình, tính dục, thể hiện giới, v.v. Các nhà khoa học cũng đã nghiên cứu về mối quan hệ giữa ý nghĩa được định hình của tình dục với hệ tư tưởng của chủng tộc đó. Theo Joane Nagel, ý nghĩa của tình dục được định hình nhằm duy trì những ranh giới giữa các chủng tộc - sắc tộc - dân tộc bằng việc hạ thấp các nhóm "khác" và bằng các quy tắc về hành vi tình dục bên trong nội bộ nhóm. "Việc tuân thủ lẫn làm trái lại các cách hành xử đã được chấp thuận này, đều góp phần định nghĩa và củng cố cho các thể chế về chủng tộc, sắc tộc, và dân tộc", Nagel viết. Ở Mỹ, những người da màu cũng chịu ảnh hưởng của chế độ thực dân theo nhiều cách khác nhau với những khuôn mẫu điển hình như người vú em và người đàn bà dâm loạn Jazebel đối với phụ nữ da đen; hoa sen, rồng nữ với phụ nữ châu Á; và khuôn mẫu phụ nữ Latin "nóng bỏng". Những khuôn mẫu này đối nghịch với những chuẩn mực bảo thủ về tính dục, tạo ra một sự phân cực mà trong đó, các nhóm trong khuôn mẫu bị miêu tả theo cách thiếu tính "người" và nhiều tính "con" hơn. Một ví dụ về khuôn mẫu mang đầy đủ các tính chất từ phân biệt chủng tộc, phân chia giai cấp tới phân biệt giới tính có thể kể đến là nguyên mẫu về "nữ hoàng phúc lợi". Cathy Cohen miêu tả cách khuôn mẫu "nữ hoàng phúc lợi" tạo nên hình tượng quỷ hóa người phụ nữ da đen đơn thân, do họ đi chệch khỏi những quy ước thông thường về cấu trúc gia đình. Quyền về sinh sản và tình dục Quyền về sinh sản và tình dục bao trùm các khái niệm về việc áp dụng nhân quyền cho các vấn đề liên quan tới sinh sản và tính dục. Đây là một khái niệm khá mới mẻ, và còn gây tranh cãi do nó có liên hệ, trực tiếp và gián tiếp, tới các vấn đề như phòng tránh thai, quyền LGBT, nạo phá thai và giáo dục giới tính, quyền tự do khi chọn bạn đời, quyền tự do quyết định có tham gia vào hoạt động tình dục hay không, quyền toàn vẹn cơ thể, quyền lựa chọn có con hay không, và khi nào thì có con. Đây là những vấn đề mang tính toàn cầu, chúng tồn tại ở mọi nền văn hóa ở những mức độ nhất định, tuy vậy, sự hiện diện của chúng là khác nhau, tùy theo các bối cảnh khác nhau. Trích lời chính phủ Thụy Điển, "quyền về tính dục bao hàm quyền cho phép mỗi người được quyền đưa ra những quyết định liên quan tới thân thể và tính dục của bản thân", đồng thời, "quyền sinh sản bao gồm quyền cho phép cá nhân được quyết định số lượng con cái họ sẽ có và thời điểm chúng ra đời". Những quyền này không hoàn toàn được thừa nhận ở mọi nền văn hóa, khi mà trên thế giới vẫn còn tồn tại phổ biến các hệ tư tưởng như tội danh hóa những hành vi như tình dục dưới sự đồng thuận (bao gồm nhưng không giới hạn các hoạt động tình dục đồng giới hoặc khác giới ngoài hôn nhân), chấp thuận hôn nhân cưỡng bức và tảo hôn, không tội danh hóa các hành vi tình dục không có sự đồng thuận (ví dụ như cưỡng hiếp trong hôn nhân), cắt âm vật, hoặc cản trở khả năng phòng tránh thai. Thành kiến đối với việc phòng tránh thai Vào năm 1915, Emma Goldman và Margaret Sanger, người đứng đầu phong trào về kiểm soát sinh sản, đã thực hiện tuyên truyền thông tin liên quan tới việc ngừa thai nhằm phản đối lại các bộ luật đương thời có ý quỷ hóa hành vi này, chẳng hạn như bộ luật Comstock. Một trong những mục đích chính của họ là nhằm khẳng định rằng phong trào kiểm soát sinh sản sẽ góp phần giúp lấy lại quyền tự quyết của phụ nữ về vấn đề sinh nở và tài chính, đặc biệt với những ai không có đủ khả năng nuôi con, hoặc đơn giản hơn, không có ý định có con. Goldman và Sanger nhận thấy sự cần thiết của việc giáo dục người dân trước tình trạng các biện pháp tránh thai nhanh chóng bị rêu rao như một chiến thuật nhằm kiểm soát dân số do vốn là một chính sách có khả năng hạn chế việc sinh đẻ, bất chấp việc sự giới hạn này không ảnh hưởng tới hệ sinh thái, chính trị hay cục diện kinh tế. Sự thành kiến này nhắm vào phụ nữ thuộc những tầng lớp thấp, những người có nhu cầu tiếp cận với các biện pháp tránh thai nhất. Sự bài trừ đối với kiểm soát sinh sản bắt đầu được nới lỏng vào năm 1936, khi tòa án phán xử vụ Hoa Kỳ và Một lô hàng tuyên bố rằng việc kê đơn thuốc tránh thai không còn là bất hợp pháp theo luật Comstock nếu như điều ấy nhằm cứu mạng người hoặc nhằm đảm bảo sức khỏe người đó. Mặc dù khi ấy vẫn tồn tại những ý kiến trái chiều về việc phụ nữ có nên được tiếp cận với các biện pháp kiểm soát sinh nở hay không, tới năm 1938, tại Mỹ đã có tới 347 phòng khám đảm nhiệm công việc này. Tuy nhiên, việc quảng cáo cho hoạt động này khi ấy vẫn là bất hợp pháp. Sự phản đối này đã giảm nhanh chóng khi Đệ nhất Phu nhân Eleanor Roosevelt công khai thể hiện sự ủng hộ của bà đối với việc kiểm soát sinh sản xuyên suốt 4 nhiệm kỳ đương nhiệm của chồng bà (1933-1945). Tuy vậy, phải tới năm 1966, chính phủ Liên bang mới chính thức chi ngân sách cho hoạt động kế hoạch hóa gia đình và kiểm soát sinh sản, dưới lệnh của Tổng thống Lyndon B. Johnson. Việc cung cấp ngân sách này kéo dài tới sau năm 1970, theo chương trình Dịch vụ Kế hoạch hóa Gia đình và Đạo luật Nghiên cứu Dân số. Ngày nay, mọi gói bảo hiểm đề xuất bởi các Thương trường Bảo hiểm Y tế (Health Insurance Marketplace) đều bắt buộc phải bao trọn tất cả các biện pháp phòng tránh thai, bao gồm cả quy trình triệt sản, theo quy định của Đạo luật Chăm sóc Sức khỏe Hợp túi tiền thông qua bởi Tổng thống Barack Obama vào năm 2010. Sự tuyên truyền tiêu cực và tích cực trong cuộc khủng hoảng AIDS Năm 1981 đánh dấu các ca bệnh AIDS đầu tiên được các bác sĩ chẩn đoán tại châu Phi. Dịch bệnh này đặc biệt gây ảnh hưởng về tạm thời lẫn lâu dài cho những người đồng tính và song tính nam, đặc biệt là những người da đen và Latinh trong cộng đồng. Chính quyền Reagan đã bị chỉ trích do sự thờ ơ trước đại dịch AIDS, và các đoạn ghi âm còn tiết lộ rằng thư ký báo chí của Ronald Reagan, Larry Speakes, còn nhìn nhận cơn đại dịch như một trò đùa, và thể hiện sự mỉa mai bằng cách gọi đó là "Bệnh dịch đồng tính nam". Cơn khủng hoảng này cũng kéo theo những sự kỳ thị nhất định dưới sự ảnh hưởng của tôn giáo. Ví dụ, Cardinal Krol từng lên tiếng rằng AIDS là "một sự trừng phạt đối với tội ác đồng tính luyến ái", làm rõ ý nghĩa cụ thể đằng sau việc Giáo hoàng nhắc tới "căn nguyên trong mặt đạo đức của AIDS". Những tiếng nói tích cực xung quanh cuộc khủng hoảng AIDS tập trung vào việc đẩy mạnh tuyên truyền về quan hệ tình dục an toàn, từ đó nâng cao nhận thức rằng dịch bệnh này là có thể ngăn chặn được. Chiến dịch "Safe Sex is Hot Sex" (Tình dục an toàn là tình dục nóng bỏng) nhằm khuyến khích sử dụng bao cao su khi quan hệ là một ví dụ. Các chiến dịch của chính phủ Mỹ, ngược lại, lại có phần xa rời khỏi khuynh hướng ủng bộ quan hệ tình dục an toàn. Vào năm 1987, Quốc hội Hoa Kỳ thậm chí còn từ chối cung cấp ngân sách liên bang cho các chiến dịch về nhận thức mà "[thúc đẩy] hoặc [khuyến khích] các hành vi tình dục đồng giới, bất kể trực tiếp hay gián tiếp". Thay vào đó, các chiến dịch của chính phủ chủ yếu dựa theo chiến thuật gây hoang mang, từ đó nhằm duy trì nỗi sợ ở những người nam quan hệ với nam. Bên cạnh các chiến dịch ngăn chặn, các nhà hoạt động cũng tìm cách chống lại những câu chuyện dẫn đến "cái chết xã hội" cho những người mắc bệnh AIDS. Những người đồng tính nam ở San Francisco và thành phố New York đã soạn thảo Bộ quy tắc ứng xử Denver, một bộ tài liệu đặt nền móng cho việc đấu tranh giành lại quyền lợi, quyền tự quyết, và phẩm giá cho người sống chung với AIDS. Trong bài báo của mình mang tên "Sự xuất hiện của định danh đồng tính nam và các phong trào xã hội vì người đồng tính nam ở các nước đang phát triển" ("Emergence of Gay Identity and Gay Social Movements in Developing Countries"), Matthew Roberts đã bàn luận về cách các chiến dịch xuyên quốc gia về ngăn chặn AIDS đã giúp tạo cơ hội cho những người đồng tính nam được tương tác một cách cởi mở với những người đồng tính nam ở các nước khác. Chính sự tương tác này là tiền đề cho phép "văn hóa" đồng tính phương Tây được giới thiệu tới những người đồng tính nam ở những đất nước nơi mà đồng tính luyến ái chưa được coi là một sự định danh quan trọng. Nhờ đó, những người đứng ra thành lập nhóm cũng tự gắn mác bản thân là đồng tính nam nhiều hơn, tạo nền móng cho sự phát triển sâu rộng hơn của nhận thức về đồng tính tại các quốc gia khác nhau trên toàn thế giới. Hành vi tình dục Tổng quan về các hành vi và sức khỏe Ở loài người, việc quan hệ tình dục lẫn các hoạt động tình dục nói chung đều được chứng minh là có lợi cho sức khỏe, chẳng hạn như cải thiện khả năng khứu giác, giảm căng thẳng và huyết áp,Light, K.C. et al., "More frequent partner hugs and higher oxytocin levels are linked to lower blood pressure and heart rate in premenopausal women." Biological Psychology, April 2005; vol 69: pp 5–21. tăng cường hệ miễn dịch, và làm giảm nguy cơ mắc ung thư tuyến tiền liệt.Leitzmann MF, Platz EA, Stampfer MJ, Willett WC, Giovannucci E. Ejaculation Frequency and Subsequent Risk of Prostate Cancer. JAMA. (2004);291(13):1578–1586. Sự tiếp xúc về mặt tình dục và trạng thái cực khoái giúp tăng lượng oxytocin, hormone giúp gây dựng niềm tin giữa người với người.Riley AJ. Oxytocin and coitus. Sexual and Relationship Therapy (1988);3:29–36 Một nghiên cứu lâu năm trên 3,500 người trong độ tuổi từ 30 tới 101, thực hiện bởi bác sĩ tâm lý học thần kinh lâm sàng David Weeks, tiến sĩ ngành Y học, trưởng khoa Tâm lý học người cao tuổi tại Bệnh viện Hoàng gia Edinburgh ở Scotland, báo cáo rằng ông đã phát hiện "tình dục giúp bạn trông trẻ ra từ bốn tới bảy tuổi", dựa theo đánh giá khách quan về ảnh chụp của các đối tượng. Tuy nhiên, không rõ rằng đây có phải nhân tố duy nhất hay không, và những lợi ích này cũng có thể chỉ chịu ảnh hưởng gián tiếp từ tình dục và trực tiếp từ sự giảm thiểu căng thẳng, cảm giác thỏa mãn, cũng như khả năng ngủ ngon giấc hơn mà tình dục mang lại. Quan hệ tình dục cũng có thể là một con đường truyền bệnh. Có 19 triệu trường hợp mới mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục (STD) hàng năm ở Mỹ, Tại Mỹ, mỗi năm có khoảng 19 triệu ca nhiễm mới mắc các bệnh lây qua đường tình dục (STD), trong khi con số này trên toàn thế giới là hơn 340 triệu ca. Hơn nửa số ca trong đó có bệnh nhân là thanh thiếu niên (từ 15 tới 24 tuổi). Cứ 4 cô gái ở tuổi vị thành niên ở Mỹ thì có ít nhất 1 người mắc một bệnh lây qua đường tình dục.Sex Infections Found in Quarter of Teenage Girls. The New York Times. ngày 12 tháng 3 năm 2008. Ở Mỹ, khoảng 30% số người trong độ tuổi từ 15 tới 17 đã từng quan hệ tình dục, nhưng chỉ 80% số người từ 15 tới 19 tuổi báo cáo rằng họ có sử dụng bao cao su cho lần quan hệ đầu tiên của mình. Một nghiên cứu cho thấy, hơn 75% phụ nữ trẻ trong độ tuổi từ 18 tới 25 cảm thấy họ có nguy cơ thấp bị mắc bệnh lây qua đường tình dục. Tạo dựng mối quan hệ Trong vô thức lẫn một cách có chủ ý, con người luôn tìm cách hấp dẫn những người mà họ thấy có thể tạo dựng mối quan hệ sâu sắc. Hành động này có thể nhằm tìm kiếm sự đồng hành, duy trì nòi giống, hoặc nhằm tìm kiếm mối quan hệ thân mật lâu dài. Công việc này cần tới một quá trình tương tác mà ở đó, con người tìm và thu hút nửa kia lý tưởng, và duy trì mối quan hệ đó. Những quá trình này bao gồm việc hấp dẫn một hay nhiều bạn đời và duy trì sự hứng thú về mặt tình dục, và có thể bao gồm: Tán tỉnh, hành động thu hút sự chú ý của người khác về mặt tính dục nhằm thúc đẩy mối quan hệ tình cảm hoặc tình dục.Nó có thể bao gồm ngôn ngữ cơ thể, trò chuyện, bông đùa, hoặc tiếp xúc cơ thể nhẹ. Tán tỉnh là một phương pháp thu hút bạn đời được xã hội chấp nhận. Có rất nhiều cách thức tán tỉnh khác nhau, và hầu hết mọi người thường sẽ có một cách tán tỉnh khiến họ thấy thoải mái nhất. Khi tán tỉnh, con người có thể lịch sự, bông đùa, hay có nhu cầu tiếp xúc cơ thể, v.v. Đôi khi cũng rất khó để có thể nhận biết được một người thực sự có hứng thú hay không. Phong cách tán tỉnh cũng khác nhau qua các nền văn hóa. Các nền văn hóa khác nhau có những chuẩn mực xã giao khác nhau. Một vài ví dụ cho điều này là thời gian giao tiếp bằng mắt, hoặc khoảng cách đứng giữa hai người. Quyến rũ, quá trình một người chủ tâm lôi kéo người khác tham gia vào hoạt động tình dục. Người bạn đang quyến rũ thường sẽ không có những hành động này, trừ phi bị kích thích tình dục. Việc quyến rũ có thể được coi là tích cực lẫn tiêu cực. Do từ "quyến rũ" trong tiếng Anh (seduction) có nghĩa Latin là "làm cho lạc lối", từ ngữ này có thể mang nghĩa tiêu cực. Hấp dẫn tình dục Sự hấp dẫn tình dục là sự hấp dẫn trên cơ sở ham muốn tình dục hoặc đặc trưng của sự khơi gợi sự hứng thú. Sự hấp dẫn về mặt tình dục hoặc sự thích thú giới tính là khả năng bị hấp dẫn về mặt tình dục hoặc cảm xúc của một cá nhân đối với người khác, và là một yếu tố trong sự lựa chọn tình dục hoặc lựa chọn bạn đời. Sự thu hút có thể là về thể chất phẩm chất hoặc đặc điểm khác của một người, hoặc những phẩm chất mà họ bộc lộ trong từng hoàn cảnh. Sự thu hút có thể đối với ngoại hình hoặc hành động, giọng nói hay mùi hương của một người, bên cạnh những yếu tố khác. Sự thu hút có thể được tăng lên bởi trang sức, quần áo, nước hóa, độ dài tóc và kiểu tóc của một người, và bất cứ điều gì khác có thể thu hút sự hấp dẫn tình dục của người khác. Nó cũng có thể chịu ảnh hưởng bởi di truyền, tâm lý hoặc các yếu tố văn hóa của một người, hoặc đối với một số người, đó là những phẩm chất vô hình của một người. Sự hấp dẫn tình dục cũng là sự phản hồi phụ thuộc vào sự kết hợp giữa người sở hữu các phẩm chất và tiêu chí của người bị hấp dẫn. Thêm vào đó, có những vô tính, họ không trải nghiệm sự hấp dẫn tình dục với cả hai giới, mặc dù họ có thể bị thu hút về mặt tình cảm (đồng ái, song ái hoặc dị ái). Sự hấp dẫn giữa cá nhân bao gồm những yếu tố như thể chất và sự đồng điệu về mặt tinh thần, sự thân quen hoặc việc sở hữu những ưu thế của những đặc điểm phổ biến hoặc quen thuộc, giống nhau, sự bù đắp, xu hướng thích người mình thích (reciprocal liking) và sự củng cố. Khả năng dùng thể chất và những tiêu chí khác của một người để tạo sự hấp dẫn tình dục với người khác là cơ sở để họ sử dụng quảng cáo, video ca nhạc, ấm phẩm khiêu dâm, phim ảnh những phương tiện truyền thông hình ảnh khác, cũng như làm người mẫu, lao động tình dục và các nghề khác. Vấn đề pháp lý Trên cầu hóa, các bộ luật quy định về tính dục con người theo một số cách, bao gồm hình sự hóa những hành vi tình dục đặc biệt, cho phép những cá nhân quyền riêng tư và quyền tự chủ để quyết định về tính dục của họ, bảo vệ cá nhân liên quan tới sự bình đẳng và không phân biệt đối xử, công nhận và bảo vệ những quyền cá nhân khác, cũng như các vấn đề về lập pháp liên quan đến hôn nhân và gia đình, và việc xây dựng pháp luật để bảo vệ những cá nhân khỏi bạo lực, quấy rối, và áp bức. Ở Mỹ, có hai cách tiếp cận cơ bản khác nhau, áp dụng cho các bang khác nhau, liên quan đến cách pháp luật được sử dụng để kiểm soát tình dục một người. "Bức thư đen" tiếp cận đến luật tập trung vào nghiên cứu án lệ, và nỗ lực để cung cấp khuôn khổ rõ ràng về những quy tắc trong đó luật sư và những người khác có thể làm việc. Ngược lại, sự tiếp cận về mặt xã hội - pháp lý tập trung rộng hơn vào mỗi quan hệ giữa luật pháp và xã hội, và cung cấp góc nhìn bối cảnh hơn của mối quan hệ giữa sự thay đổi của pháp lý và xã hội. Những vấn đề liên quan đến tính dục ở con người và xu hướng tính dục ở con người đã được đặt lên hàng đầu trong luật pháp của phương Tây trong nửa sau của thế kỉ 20, như một phần của sự ủng hộ phong trào giải phóng đồng tính khuyến khích những cá nhân LGBT công khai xu hướng tính dục và tham gia vào hệ thống pháp luật, chủ yếu thông qua tòa án. Vì vậy, nhiều vấn đề liên quan đến tính dục ở người và pháp luật được tìm thấy trong các quan điểm của tòa án. Quyền riêng tư tình dục Trong khi vấn đề về sự quyền riêng tư đã trở nên hữu ích cho các tuyên bố về quyền tình dục, một số học giả đã chỉ trích tính hữu dụng của nó, cho rằng góc nhìn này là quá hạn hẹp và hạn chế. Pháp luật thường can thiệp chậm vào một số hình thức nhất định của hành vi cưỡng chế mà có thể hạn chế sự tự kiểm soát tình dục cá nhân (như cắt bỏ bộ phận sinh dục nữ, cưỡng hôn hay thiếu sự tiếp cận với chăm sóc sức khỏe sinh sản). Nhiều trong số những bất công này thường được gây ra một phần hoặc hoàn toàn bởi những cá nhân hơn là cơ quan nhà nước, và như một hệ quả, một cuộc tranh luận đang tiếp diễn về mức độ của trách nhiệm nhà nước trong việc phòng tránh các hành vi có hại và điều tra những hành vi đó khi chúng xảy ra. Các hệ thống pháp luật xung quanh mại dâm là một chủ đề gây tranh cãi. Những người ủng hộ việc hình sự hóa cho rằng mại dâm là một hành vi trái đạo đức không nên được chấp nhận, trong khi những người ủng hộ việc hợp pháp hóa chỉ ra hình sự hóa gây hại nhiều hơn là có lợi như thế nào. Trong phạm vi phong trào nữ quyền, cũng có một cuộc tranh luận về việc liệu lao động tình dục vốn mang tính phản cảm và bóc lột hay liệu những người hành nghề mại dâm có được phép bán dâm như một dịch vụ hay không. Khi lao động tình dục bị hình sự hóa, người bán dâm không có sự hỗ trợ của cơ quan thực thi pháp luật khi họ trở thành nạn nhân của bạo lực. Trong một cuộc khảo sát năm 2003 về những người hành nghề mại dâm trên đường phố ở NYC, 80% cho biết họ từng bị đe dọa hoặc bị bạo lực, và nhiều người nói rằng cảnh sát không giúp được gì. 27% cho biết họ đã từng bị cảnh sát bạo hành. Những đặc điểm nhận dạng khác nhau như da đen, chuyển giới hoặc nghèo có thể khiến một người có nhiều khả năng bị cảnh sát lập hồ sơ hình sự. Ví dụ, ở New York, có luật chống "lảng vảng nhằm thu hút mại dâm", được đặt biệt danh là luật "walking while trans" vì phụ nữ chuyển giới thường bị cho là hành nghề mại dâm và bị bắt giữ chỉ vì bước ra nơi công cộng. Phẩm hạnh tôn giáo về tình dục Trong một số tôn giáo, hành vi tình dục được coi chủ yếu về tâm linh. Ở những người khác, nó được coi là chủ yếu về thể chất. Một số người cho rằng hành vi tình dục chỉ mang tính tâm linh trong một số loại mối quan hệ nhất định, khi được sử dụng cho các mục đích cụ thể hoặc khi được kết hợp vào nghi lễ tôn giáo. Trong một số tôn giáo không có sự phân biệt giữa vật chất và tinh thần, trong khi một số tôn giáo xem tình dục của con người như một cách để lấp đầy khoảng trống tồn tại giữa tinh thần và thể chất. Nhiều người tôn giáo bảo thủ, đặc biệt là những người theo tôn giáo Do Thái giáo và Cơ đốc giáo nói riêng, Do Thái giáo và Cơ đốc giáo nói riêng, có xu hướng xem tính dục dưới góc độ hành vi (tức là đồng tính luyến ái hay dị tính luyến ái là việc mà một người thực hiện) và một số tính dục nhất định như song tính luyến ái có xu hướng bị bỏ qua như một hệ quả của điều này Những người bảo thủ này có xu hướng thúc đẩy chủ nghĩa độc thân cho những người đồng tính, và cũng có thể có xu hướng tin rằng tình dục có thể được thay đổi thông qua liệu pháp đồng tính hoặc cầu nguyện để trở thành một người đã-từng-đồng-tính. Họ cũng có thể coi đồng tính luyến ái là một dạng bệnh tâm thần, một thứ đáng bị hình sự hóa, sự ghê tởm vô đạo đức, gây ra bởi việc nuôi dạy con cái không hiệu quả và coi hôn nhân đồng tính là một mối đe dọa cho xã hội. Mặt khác, hầu hết những người theo chủ nghĩa tự do tôn giáo định nghĩa các nhãn liên quan đến tình dục dưới góc độ hấp dẫn tình dục và tự nhận diện bản thân. Họ cũng có thể coi hành vi tình dục đồng giới là trung lập về mặt đạo đức và được chấp nhận về mặt pháp lý như hành vi tình dục khác giới, không liên quan đến bệnh tâm thần, do di truyền hoặc môi trường gây ra (nhưng không phải là kết quả của việc nuôi dạy con xấu) và đã được cố định. Họ cũng có xu hướng ủng hộ hôn nhân đồng giới hơn. Do Thái giáo Theo Do Thái giáo,tình dục giữa đàn ông và phụ nữ trong hôn nhân là linh thiêng và đáng được tận hưởng; chủ nghĩa độc thân được coi là có tội. Thiên chúa giáo Giáo hội Công giáo La Mã Giáo hội Công giáo La Mã dạy rằng tình dục là "cao quý và xứng đáng" nhưng nó phải được sử dụng phù hợp với quy luật tự nhiên. Vì lý do này, tất cả các hành vi tình dục phải diễn ra trong bối cảnh hôn nhân giữa đàn ông và phụ nữ, và không được ly hôn vì có khả năng thụ thai. Hầu hết các hình thức quan hệ tình dục không có khả năng thụ thai về bản chất đều bị coi là rối loạn và tội lỗi, chẳng hạn như sử dụng các biện pháp tránh thai, thủ dâm và hành vi đồng tính luyến ái. Anh giáo Giáo hội Anh giáo rằng tình dục của con người là một món quà từ Đức Chúa Trời yêu thương, được thiết kế để giữa một người nam và một người nữ trong hôn nhân một vợ một chồng chung thủy trọn đời. Nó cũng xem sự độc thân và chủ nghĩa độc thân tận tụy giống như Đấng Christ. Nó nói rằng những người có sự hấp dẫn đồng giới được Đức Chúa Trời yêu thương và được hoan nghênh như là chi thể trọn vẹn của Thân thể Đấng Christ, trong khi ban lãnh đạo Giáo hội có nhiều quan điểm khác nhau về sự sắp đặt và biểu hiện đồng tình. Một số biểu hiện của tình dục bị coi là tội lỗi bao gồm "lăng nhăng, mại dâm, loạn luân, khiêu dâm, ấu dâm, hành vi tình dục lạm dụng và bạo dâm (tất cả đều có thể là dị tính và đồng tính luyến ái), ngoại tình, bạo lực với vợ và cắt bộ phận sinh dục của phụ nữ". Giáo hội lo ngại về những áp lực buộc giới trẻ tham gia vào hoạt động tình dục và khuyến khích sự tiết chế. Tin lành Về vấn đề tình dục, một số nhà thờ Tin lành khuyến khích lời thề nguyện đồng trinh giữa các Cơ đốc nhân Tin lành trẻ tuổi, những người được mời cam kết trong một buổi lễ công khai tiết chế tình dục cho đến khi kết hôn theo đạo Cơ đốc. Lời thề này thường được tượng trưng bằng một chiếc nhẫn thanh khiết. Trong các giáo hội Tin Lành, thanh niên và các cặp đôi chưa kết hôn được khuyến khích kết hôn sớm để được có cuộc sống tình dục theo ý muốn của Đức Chúa Trời. Mặc dù một số giáo hội tỏ ra thận trọng về chủ đề này, nhưng các giáo hội Tin Lành khác ở Hoa Kỳ và Thụy Sĩ nói về sự thỏa mãn tình dục như một món quà từ Chúa và là một thành phần của hôn nhân Cơ đốc hòa hợp, trong các thông điệp trong các buổi thờ phượng hoặc hội nghị.Emma Green, The Warrior Wives of Evangelical Christianity, theatlantic.com, USA, ngày 9 tháng 11 năm 2014 Nhiều sách và trang web Tin Lành chuyên về chủ đề này. Các quan niệm về đồng tính luyến ái trong các Giáo hội Tin lành rất đa dạng. Họ từ tự do đến ôn hòa đến bảo thủ.William Henard, Adam Greenway, Evangelicals Engaging Emergent, B&H Publishing Group, USA, 2009, p. 20 Đạo hồi Trong Hồi giáo, ham muốn tình dục được coi là một sự thôi thúc tự nhiên không nên bị kìm hãm, mặc dù khái niệm tình dục tự do không được chấp nhận; những ham muốn này nên được thực hiện một cách có trách nhiệm. Hôn nhân được coi là một hành động tốt; nó không cản trở  con đường tâm linh. Thuật ngữ được sử dụng cho hôn nhân trong Kinh Qur'an là nikah, nghĩa đen có nghĩa là quan hệ tình dục. Mặc dù tình dục Hồi giáo bị hạn chế thông qua luật tình dục Hồi giáo, nó nhấn mạnh đến khoái cảm tình dục trong hôn nhân. Người đàn ông có thể có nhiều hơn một người vợ, nhưng anh ta phải chăm sóc những người vợ đó về thể chất, tinh thần, tình cảm, tài chính và linh hồn. Người Hồi giáo tin rằng quan hệ tình dục là một hành vi tôn thờ đáp ứng các nhu cầu về tình cảm và thể chất, và rằng sinh ra con cái là một cách mà con người có thể đóng góp vào sự sáng tạo của Chúa, và Hồi giáo không tán thành độc thân khi một cá nhân đã kết hôn. Tuy nhiên, đồng tính bị nghiêm cấm trong Hồi giáo, và một số luật sư Hồi giáo đã đề nghị rằng những người đồng tính nên bị xử tử. Mặt khác, một số lập luận rằng Hồi giáo có một cách tiếp cận cởi mở và vui tươi đối với tình dục miễn là trong hôn nhân, không có dâm ô, gian dâm và ngoại tình. Ấn Độ giáo Ấn Độ giáo nhấn mạnh rằng tình dục chỉ thích hợp giữa chồng và vợ, trong đó việc thỏa mãn những ham muốn tình dục thông qua khoái cảm tình dục là nghĩa vụ quan trọng của hôn nhân. Bất kỳ quan hệ tình dục nào trước hôn nhân đều được coi là cản trở sự phát triển trí tuệ, đặc biệt là trong độ tuổi từ sơ sinh đến 25 tuổi, được cho là brahmacharya và điều này nên tránh. Kama (thú vui nhục dục) là một trong bốn mục tiêu của cuộc sống ((dharma) pháp, (artha) sự giàu có, kama (thú nhục dục) và moksha (sự giải thoát)). Kama Hindu đề cập một phần đến quan hệ tình dục; nó không chỉ là một tác phẩm tình dục hoặc tôn giáo. Đạo Sikh Đạo Sikh coi trinh tiết là quan trọng, vì người Sikh tin rằng tia sáng thần thánh của Waheguru hiện diện bên trong cơ thể của mỗi cá nhân, do đó, điều quan trọng là người ta phải giữ mình sạch sẽ và thanh khiết. Hoạt động tình dục chỉ giới hạn ở các cặp vợ chồng đã kết hôn và quan hệ tình dục ngoài hôn nhân bị cấm. Hôn nhân được coi là một cam kết với Waheguru'' và nên được xem như một phần của tình bạn thiêng liêng, thay vì chỉ là quan hệ tình dục, và chế độ một vợ một chồng được nhấn mạnh sâu sắc trong đạo Sikh. Bất kỳ cách sống nào khác đều không được khuyến khích, bao gồm độc thân và đồng tính luyến ái. Tuy nhiên, so với các tôn giáo khác, vấn đề tình dục trong đạo Sikh không được coi là một trong những điều tối quan trọng. Xem thêm Tình yêu Giới tính Chú thích Tham khảo thêm Liên kết ngoài Giới tính Sinh dục Tình cảm
26002
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BB%A7%20ngh%C4%A9a%20t%C6%B0%20b%E1%BA%A3n
Chủ nghĩa tư bản
Chủ nghĩa tư bản (Tiếng Anh: capitalism) là một hệ thống kinh tế dựa trên quyền sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất và hoạt động sản xuất vì lợi nhuận. Các đặc điểm đặc trưng của chủ nghĩa tư bản bao gồm: tài sản tư nhân, tích lũy tư bản, lao động tiền lương, trao đổi tự nguyện, một hệ thống giá cả và thị trường cạnh tranh. Trong nền kinh tế thị trường tư bản, việc điều hành và đầu tư được quyết định bởi chủ sở hữu tài sản, tư liệu sản xuất hoặc khả năng sản xuất trong thị trường tài chính, trong khi giá cả, phân phối hàng hóa và dịch vụ chủ yếu được quyết định bởi sự cạnh tranh trong thị trường hàng hóa và dịch vụ. Chủ nghĩa tư bản xuất hiện đầu tiên tại châu Âu và phát triển từ trong lòng xã hội phong kiến châu Âu và chính thức được xác lập như một hình thái xã hội tại Hà Lan và Anh ở thế kỷ XVII. Sau cách mạng Pháp cuối thế kỷ XVIII, hình thái chính trị của "nhà nước tư bản chủ nghĩa" dần dần chiếm ưu thế hoàn toàn tại châu Âu và loại bỏ dần hình thái nhà nước của chế độ phong kiến, quý tộc. Và sau này hình thái chính trị – kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa lan ra khắp châu Âu và thế giới. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản (với tư cách một hình thái kinh tế) từ chủ nghĩa phong kiến không do một lý thuyết gia nào xây dựng. Tuy nhiên Adam Smith là người có đóng góp to lớn nhất xây dựng một hệ thống lý luận tương đối hoàn chỉnh về chủ nghĩa tư bản tự do hay tự do kinh tế. Chủ nghĩa tư bản không đồng nhất với chủ nghĩa tự do dù nền tảng là kinh tế tư hữu, nói cách khác chủ nghĩa tư bản là một trong các hình thái kinh tế của sản xuất tư hữu và đối lập với chủ nghĩa xã hội trên nền tảng sở hữu công cộng, sở hữu tập thể. Các chính sách an sinh xã hội trong nền kinh tế tư bản không phải là thành tố của chủ nghĩa tư bản, và cũng không phải biểu hiện đặc trưng của chủ nghĩa xã hội. Chính xác hơn là nó là một biểu hiện của một nền kinh tế được điều chỉnh ít nhiều bởi nhà nước. Các nhà kinh tế, nhà kinh tế chính trị, nhà xã hội học và nhà sử học đã áp dụng những quan điểm khác nhau trong các phân tích về chủ nghĩa tư bản và đã công nhận nhiều hình thức tư bản có trong thực tế, bao gồm laissez-faire hay chủ nghĩa tư bản thị trường tự do, chủ nghĩa tư bản phúc lợi và chủ nghĩa tư bản nhà nước. Các hình thức khác nhau của chủ nghĩa tư bản có mức độ khác nhau ở thị trường tự do, sở hữu công cộng, trở ngại cho cạnh tranh tự do và các chính sách xã hội bị nhà nước xử phạt. Mức độ cạnh tranh trên thị trường, vai trò can thiệp và điều tiết và phạm vi sở hữu nhà nước khác nhau giữa các mô hình chủ nghĩa tư bản khác nhau. Hầu hết các nền kinh tế tư bản hiện tại là các nền kinh tế hỗn hợp kết hợp các yếu tố của thị trường tự do với sự can thiệp của nhà nước và trong một số trường hợp là hoạch định kinh tế. Các nền kinh tế thị trường đã tồn tại dưới nhiều hình thức của chính phủ và ở nhiều thời điểm, địa điểm và nền văn hóa khác nhau. Các xã hội tư bản hiện đại, được đánh dấu bằng sự phổ cập các quan hệ xã hội dựa trên đồng tiền, một nhóm công nhân lớn và toàn hệ thống phải làm việc để kiếm tiền, và một tầng lớp tư bản sở hữu các phương tiện sản xuất được phát triển ở Tây Âu trong một quá trình dẫn đến cuộc cách mạng công nghiệp. Các hệ thống tư bản với mức độ can thiệp trực tiếp khác nhau của chính phủ đã trở nên chiếm ưu thế trong thế giới phương Tây và tiếp tục lan rộng ra thế giới. Theo thời gian, tất cả các nước tư bản đã trải qua sự tăng trưởng kinh tế nhất quán và sự nâng cao mức sống của con người. Các nhà phê bình chủ nghĩa tư bản cho rằng hệ thống chủ nghĩa tư bản thiết lập quyền lực trong tay một tầng lớp tư bản thiểu số tồn tại thông qua sự bóc lột giai cấp công nhân đa số và lao động của họ; nó ưu tiên lợi nhuận hơn lợi ích xã hội, tài nguyên thiên nhiên và môi trường, chủ nghĩa tư bản là một động cơ của bất bình đẳng, tham nhũng và bất ổn kinh tế. Trong khi những người ủng hộ chủ nghĩa tư bản lập luận rằng nó cung cấp các sản phẩm tốt hơn và đổi mới thông qua sự cạnh tranh, thúc đẩy đa nguyên và phân cấp quyền lực, phân tán sự giàu có cho tất cả những người sản xuất sau đó đầu tư vào các doanh nghiệp hữu ích dựa trên nhu cầu thị trường, cho phép hệ thống khuyến khích linh hoạt trong đó ưu tiên hiệu quả và bền vững. vốn, tạo ra sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ và mang lại năng suất và sự thịnh vượng có lợi cho xã hội. Lịch sử Chủ nghĩa tư bản đã bắt đầu tồn tại trên quy mô nhỏ trong nhiều thế kỷ xuất hiện dưới dạng các hoạt động buôn bán, cho thuê và cho vay và đôi khi là ngành công nghiệp quy mô nhỏ với một số lao động làm công ăn lương. Đã có một lịch sử rất dài trong trao đổi hàng hóa đơn giản và sản xuất hàng hóa đơn giản, đó là nền tảng ban đầu cho sự phát triển của tư bản từ trao đổi thương mại. "Thời kỳ chủ nghĩa tư bản" theo Karl Marx có từ các thương gia thế kỷ 16 và các thành phố đô thị nhỏ. Marx biết rằng lao động tiền lương đã tồn tại trên một quy mô nhỏ trong nhiều thế kỷ trước khi ngành công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Các nước Hồi giáo đã sớm ban hành chính sách kinh tế tư bản, di cư sang châu Âu thông qua các đối tác thương mại từ các thành phố như Venice. Chủ nghĩa tư bản trong hình thức hiện đại có thể được bắt nguồn từ sự xuất hiện của chủ nghĩa tư bản nông nghiệp và chủ nghĩa trọng thương trong thời kỳ Phục hưng. Các hình thức tư bản và trao đổi thương mại đã tồn tại nhiều năm trong phần lớn lịch sử, nhưng nó không dẫn đến sự công nghiệp hóa hay chi phối quá trình sản xuất của xã hội. Do nó đòi hỏi rất nhiều các điều kiện, bao gồm các công nghệ cụ thể về sản xuất hàng loạt, khả năng độc lập, tư nhân và buôn bán phương tiện sản xuất, một tầng lớp công nhân sẵn sàng bán sức lao động của mình để kiếm sống, khung pháp lý thúc đẩy thương mại, cơ sở vật chất cho phép lưu thông hàng hóa một quy mô lớn và an ninh cho sự tích lũy cá nhân. Nhiều điều kiện trong số này không tồn tại ở nhiều nước thế giới thứ ba, mặc dù có nhiều vốn và lao động. Những trở ngại cho sự phát triển của thị trường tư bản do đó ít kỹ thuật và xã hội, văn hóa và chính trị hơn.. Chủ nghĩa tư bản nông nghiệp Nền tảng kinh tế của hệ thống nông nghiệp phong kiến bắt đầu thay đổi ở Anh thế kỷ 16 khi hệ thống trang ấp đã bị phá vỡ và đất đai bắt đầu trở nên tập trung trong tay một số địa chủ với lượng bất động sản ngày càng lớn. Thay vì một hệ thống nông nô dựa trên lao động, người lao động ngày càng được sử dụng như một phần của một nền kinh tế dựa vào trên nhuận. Hệ thống này gây áp lực lên cả địa chủ và người thuê đất để tăng năng suất nông nghiệp tạo ra lợi nhuận; sự suy yếu quyền lực cưỡng chế của tầng lớp quý tộc để trích xuất dư thừa nông dân khuyến khích họ thử các phương pháp sản xuất tốt hơn; và những người thuê đất cũng có động lực để cải thiện phương pháp của họ để phát triển mạnh trong một thị trường lao động cạnh tranh. Điều khoản thuê đất đã trở thành đối tượng của lực lượng kinh tế thị trường chứ không phải là hệ thống phong kiến trì trệ trước đây. Đến đầu thế kỷ 17, nước Anh là một nhà nước kinh tế tập trung, trong đó phần lớn các luật phong kiến Trung cổ châu Âu đã bị loại bỏ. Sự tập trung này được xây dựng bởi một hệ thống đường sá tốt và một thành phố thủ đô lớn, London. Thủ đô đóng vai trò là trung tâm thị trường trung tâm của cả nước, tạo ra một thị trường nội bộ rất lớn cho hàng hóa, tương phản với những cổ phần phong kiến bị phân tán chiếm ưu thế ở hầu hết các vùng của lục địa. Chủ nghĩa trọng thương Các học thuyết kinh tế hiện hành từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18 thường được gọi là chủ nghĩa trọng thương. Giai đoạn này, còn gọi thời kỳ khám phá, được kết hợp với cuộc thăm dò địa lý của các vùng đất nước ngoài của các thương nhân buôn bán, đặc biệt là từ Anh và các nước khác. Chủ nghĩa trọng thương là một hệ thống thương mại vì lợi nhuận, mặc dù hàng hóa vẫn chủ yếu sản xuất bằng phương pháp phi tư bản chủ nghĩa. Hầu hết các học giả đều coi kỷ nguyên của chủ nghĩa tư thương gia và chủ nghĩa trọng thương là nguồn gốc của chủ nghĩa tư bản hiện đại, mặc dù Karl Polanyi cho rằng dấu hiệu của chủ nghĩa tư bản là việc thành lập thị trường tổng quát cho những gì ông gọi là "hàng giả", ví dụ: đất đai, lao động và tiền bạc. Theo đó, ông lập luận rằng "không cho là đến năm 1834 một thị trường lao động cạnh tranh thành lập ở Anh, do đó chủ nghĩa tư bản công nghiệp như một hệ thống xã hội không thể cho là đã tồn tại trước ngày đó". Anh đã bắt đầu một phương pháp tiếp cận tích hợp và quy mô lớn đến chủ nghĩa trọng thương trong kỷ nguyên Elizabethan (1558–1603). Một lời giải thích có hệ thống và mạch lạc về sự cân bằng thương mại đã được công bố thông qua tranh luận Kho báu của nước Anh của Thomas Mun bởi Forraign Trade, và cuốn The Balance of our Forraign Trade is The Rule of Our Treasure. Nó được viết vào những năm 1620 và xuất bản năm 1664. Các thương gia châu Âu, được hỗ trợ bởi các nhà quản lý nhà nước, trợ cấp và độc quyền, kiếm được nhiều lợi nhuận nhất bằng cách mua và bán hàng hóa. Theo lời của Francis Bacon, mục đích của chủ nghĩa trọng thương là "sự mở cửa và cân bằng thương mại, sự trân trọng của các nhà sản xuất, loại bỏ sự biếng nhác, hạn chế chất thải và tránh lãng phí, cải thiện và chất lượng của đất; các quy định về giá [...]". Công ty Đông Ấn của Anh và Công ty Đông Ấn Hà Lan đã khánh thành một kỷ nguyên mở rộng của thương mại và trao đổi mua bán. Các công ty này được đặc trưng bởi việc đánh chiếm thuộc địa của họ, các quốc gia thuộc địa đã trao cho họ nhiều quyền lực. Trong thời kỳ này, các thương gia, người đã giao dịch dưới sân khấu trước đó của chủ nghĩa trọng thương, vốn đầu tư trong công ty Đông Ấn và các thuộc địa khác, tìm kiếm một lợi nhuận đến từ đầu tư. Thế kỷ XVIII-XIX là thời kỳ chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh nhất, thúc đẩy sự phát triển khoa học kỹ thuật và tăng năng suất lao động, đã biến nhiều quốc gia trở thành các cường quốc kinh tế. Tuy nhiên nó cũng gây ra sự phân hóa xã hội sâu sắc, kể cả sự bóc lột nhân công thường thấy, chủ nghĩa thực dân ra đời cùng sự xâm chiếm thuộc địa và buôn bán nô lệ. Karl Marx viết: "Việc tìm thấy những mỏ vàng, mỏ bạc ở châu Mỹ, việc biến người dân bản xứ thành nô lệ, việc chôn vùi họ vào các hầm mỏ hoặc tuyệt diệt họ đi, những buổi đầu của cuộc chinh phục và cướp bóc ở Đông Ấn, việc biến châu Phi thành một vùng đất cấm thương mại dành riêng cho việc săn bắt người da đen, đấy là những biện pháp tích lũy nguyên thủy có tính chất báo hiệu bình minh của thời đại tư bản chủ nghĩa" Bên cạnh việc bóc lột nhân công trong nước, các nhà tư bản cũng tăng cường bóc lột kinh tế các nước thuộc địa. Nhà kinh tế học nổi tiếng Utsa Patnaik, dựa trên dữ liệu chi tiết về thuế và mậu dịch thương mại trong gần hai thế kỷ, đã tính toán và đưa đến kết luận rằng, thực dân Anh đã bóc lột khoảng 45.000 tỷ USD (theo thời giá năm 2017) của Ấn Độ trong giai đoạn 1765 đến 1938, lớn gấp 17 lần GDP của nước Anh năm 2017. Sự bòn rút của Anh được thực hiện thông qua hệ thống độc quyền thương mại tại Ấn Độ do công ty Đông Ấn (East India Company) của Anh nắm quyền kiểm soát. Người dân Ấn Độ đã phải cung phụng để nước Anh phát triển. Cuộc cách mạng công nghiệp tại Anh phụ thuộc phần lớn vào những phi vụ chiếm đoạt có hệ thống ở Ấn Độ. Trong toàn bộ lịch sử 200 năm cai trị của Anh tại Ấn Độ, hầu như không có sự gia tăng thu nhập bình quân đầu người. Trong nửa cuối thế kỷ 19, thu nhập bình quân của dân Ấn Độ đã giảm một nửa, tuổi thọ trung bình của người Ấn giảm 20% từ năm 1870 đến 1920. Hàng chục triệu người đã chết đói do chính sách mà thực dân Anh gây ra. Chủ nghĩa tư bản công nghiệp Vào giữa thế kỷ 18, một nhóm các nhà lý thuyết kinh tế mới, do David Hume lãnh đạo và Adam Smith, thách thức học thuyết trọng thương cơ bản, tin rằng sự giàu có của thế giới vẫn không đổi và một nhà nước chỉ có thể làm tăng sự giàu có của nó với chi phí của một nước khác. Trong cuộc Cách mạng công nghiệp, công nghiệp thay thế các thương gia như một nhân tố chi phối trong hệ thống tư bản chủ nghĩa và ảnh hưởng sự suy giảm của các kỹ năng thủ công mỹ nghệ truyền thống của các nghệ nhân và người làm thuê. Cũng trong giai đoạn này, thặng dư được tạo ra bởi sự phát triển của thương mại nông nghiệp khuyến khích tăng cơ giới hóa nông nghiệp. Chủ nghĩa tư bản công nghiệp đánh dấu sự phát triển của hệ thống sản xuất của nhà máy, đặc trưng bởi một bộ phận lao động phức tạp giữa và trong quá trình làm việc và các công việc thường ngày; và cuối cùng đã thiết lập sự thống trị toàn cầu của chế độ tư bản sản xuất. Anh cũng từ bỏ chính sách bảo hộ của mình như là chấp nhận bởi chủ nghĩa trọng thương. Trong thế kỷ 19, Richard Cobden và John Bright, người dựa niềm tin của họ trên trường Manchester, đã khởi xướng một phong trào để giảm thuế. Vào những năm 1840, Anh đã áp dụng chính sách bảo hộ ít hơn, với việc bãi bỏ Luật Ngô và Đạo luật Điều hướng. Anh giảm thuế quan và hạn ngạch, phù hợp với sự ủng hộ của David Ricardo đối với thương mại tự do. Chủ nghĩa tư bản hiện đại Chủ nghĩa tư bản đã được mở rộng ra thế giới bởi các quá trình toàn cầu hóa và đến cuối thế kỷ 18 đã trở thành hệ thống kinh tế chiếm ưu thế. Sau đó trong thế kỷ 20, chủ nghĩa tư bản đã vượt qua thách thức của các nền kinh tế kế hoạch tập trung và hiện là hệ thống bao trùm toàn cầu, với nền kinh tế hỗn hợp là hình thức thống trị của nó trong thế giới công nghiệp hóa phương Tây. Công nghiệp hóa cho phép sản xuất hàng loạt các mặt hàng gia dụng giá rẻ theo quy mô kinh tế trong khi dân số tăng nhanh tạo ra nhu cầu bền vững cho hàng hóa. Toàn cầu hoá trong giai đoạn này bắt đầu được định hình bởi chủ nghĩa đế quốc ở thế kỷ 18. Sau cuộc chiến tranh nha phiến lần thứ nhất và thứ hai (1839–1860) và việc hoàn thành cuộc chinh phục Ấn Độ của Anh, quần thể rộng lớn của các khu vực này đã trở thành người tiêu dùng sẵn sàng xuất khẩu châu Âu. Cũng trong giai đoạn này, các khu vực của châu Phi cận Sahara và các đảo Thái Bình Dương được đưa vào hệ thống thế giới. Trong khi đó, cuộc chinh phục các khu vực mới trên thế giới, đặc biệt là châu Phi cận Sahara, châu Á mang lại nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá như cao su, kim cương và than và giúp đầu tư và thương mại nhiên liệu giữa các cường quốc châu Âu, các thuộc địa của họ và Hoa Kỳ: Cư dân của London có thể gọi bằng điện thoại, nhấm nháp trà buổi sáng, các sản phẩm khác nhau trên thế giới, và mong đợi sớm giao hàng ngay trước cửa nhà mình. Chủ nghĩa quân phiệt và chủ nghĩa đế quốc của sự cạnh tranh chủng tộc và văn hóa ít hơn nhiều so với những thú vui của tờ báo hàng ngày của ông. Thật là một tập phim đặc biệt trong phát triển kinh tế của con người là tuổi mà đã kết thúc trong tháng 8 năm 1914. Trong giai đoạn này, hệ thống tài chính toàn cầu chủ yếu gắn liền với bản vị vàng. Vương quốc Anh lần đầu tiên chính thức thông qua tiêu chuẩn này vào năm 1821. Ngay sau đó là Canada vào năm 1853, Newfoundland năm 1865, Hoa Kỳ và Đức (de jure) năm 1873. Các công nghệ mới, chẳng hạn như điện báo, cáp xuyên Đại Tây Dương, điện thoại vô tuyến, tàu hơi nước và đường sắt cho phép hàng hóa và thông tin di chuyển khắp thế giới ở mức độ chưa từng có. Từ đầu thế kỷ XX trở đi, nhà nước tư bản chủ nghĩa từ chỗ hầu như không can thiệp vào nền kinh tế, thì lại can thiệp mạnh mẽ vào cơ chế thị trường, điều chỉnh thu nhập, sau đó là một quá trình quốc hữu hóa lớn diễn ra ở một số nước. Sự hình thành chủ nghĩa tư bản độc quyền do sự sáp nhập các doanh nghiệp tạo nên các tập đoàn kinh tế gần như không chịu sự cạnh tranh mang tính tự nhiên cũng là một đặc điểm trong giai đoạn thứ ba này. Thời kỳ này, theo nhận định của Lenin, chủ nghĩa tư bản đã trở thành chủ nghĩa đế quốc, tạo nguồn gốc cho cuộc xung đột toàn cầu đầu tiên là thế chiến thứ nhất. Trong giai đoạn sau cuộc khủng hoảng toàn cầu của những năm 1930, nhà nước đóng một vai trò ngày càng nổi bật trong hệ thống tư bản trên khắp thế giới. Sự bùng nổ sau chiến tranh đã kết thúc vào cuối những năm 1960 và đầu những năm 1970 và tình hình đã trở nên tồi tệ hơn do sự gia tăng của lạm phát. Chủ nghĩa tiền tệ, một bản sửa đổi của Kinh tế học Keynes tương thích hơn với laissez-faire, đã làm tăng uy tín lớn trên thế giới của tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là dưới sự lãnh đạo của Ronald Reagan tại Hoa Kỳ và Margaret Thatcher ở Vương quốc Anh trong những năm 1980. Lợi ích công cộng và chính trị bắt đầu chuyển từ cái gọi là quan điểm tập thể về chủ nghĩa tư bản được quản lý của Keynes tập trung vào lựa chọn cá nhân, được gọi là "chủ nghĩa tư bản tái cơ cấu". Theo học giả Harvard Shoshana Zuboff, một chi mới của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa tư bản giám sát, kiếm tiền từ dữ liệu thu được thông qua giám sát. Cô khẳng định nó lần đầu tiên được phát hiện và củng cố tại Google, nổi lên do sự "khớp nối của các cường quốc lớn của kỹ thuật số với sự thờ ơ triệt để và tự đại nội tại của chủ nghĩa tư bản tài chính và tầm nhìn tự do mới của nó đã thống trị thương mại trong vòng ít nhất ba thập kỷ, đặc biệt trong nền kinh tế Anglo" và phụ thuộc vào kiến trúc toàn cầu về hòa giải máy tính tạo ra một biểu hiện quyền lực mới được phân phối và phần lớn không được nhắc đến mà cô gọi là "Big Other". Nhà kinh tế học Dani Rodrik của Trường Harvard Kennedy đưa ra phân biệt giữa ba biến thể lịch sử của chủ nghĩa tư bản: Chủ nghĩa tư bản 1.0 trong thế kỷ 19 Hình thành thị trường tự do, nhà nước giữ vai trò tối thiếu trong nền kinh tế (ngoài việc bảo vệ quốc gia và bảo vệ quyền sở hữu) Chủ nghĩa tư bản 2.0 trong những năm sau Thế chiến thứ hai kéo theo chủ nghĩa Keynes, Nhà nước giữ vai trò quan trọng việc điều tiết thị trường và ban hành các hệ thống phúc lợi mạnh mẽ cho người dân. Chủ nghĩa tư bản 2.1 Sự kết hợp của các thị trường tự do, toàn cầu hóa và nghĩa vụ của các quốc gia với nhau. Nhìn chung bức tranh của chủ nghĩa tư bản hiện đại có thể là một quá trình đan xen nhau giữa tư hữu hóa ("tư bản hóa") hay quốc hữu hóa ("xã hội hóa", "Nhà nước hóa") ở các quốc gia, mà nguyên nhân từ sự lên cầm quyền của các lực lượng cánh tả ủng hộ chủ nghĩa xã hội, bao gồm cả những người tự do cánh tả, hay các lực lượng cánh hữu hay cánh tả thiên hữu nhưng các đặc điểm cơ bản của nó là tự do kinh doanh và cạnh tranh trên thị trường ("mạnh được yếu thua") và những người cánh tả ủng hộ - quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản từ khởi nguồn nguyên thủy thì luôn tồn tại trừ một số quốc gia trong một số giai đoạn. Sự xuất hiện các hình thức công ty cổ phần bao gồm cả cổ phần của Nhà nước, hay hình thức hợp tác cổ phần, ngày nay với xu hướng toàn cầu hóa các nước chủ nghĩa xã hội dần cải cách mở cửa kinh tế, chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường cùng với các hiệp định thương mại tự do làm cho sự phân biệt giữa chủ nghĩa tư bản hiện đại và chủ nghĩa xã hội trở nên mờ nhạt đi, không còn rạch ròi như trước. Mối quan hệ với dân chủ Mối quan hệ giữa dân chủ và chủ nghĩa tư bản là một lĩnh vực mang tính tranh cãi về lý thuyết và trong các phong trào chính trị phổ biến. Việc mở rộng quyền bầu cử phổ biến cho nam giới ở thế kỷ 19 ở Anh xảy ra cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản và dân chủ công nghiệp đã trở nên phổ biến đồng thời với chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa tư bản để tạo ra mối quan hệ nhân quả hoặc tương hỗ giữa họ. Tuy nhiên, theo một số tác giả trong chủ nghĩa tư bản thế kỷ 20 cũng đi kèm một loạt các thành phần chính trị khá khác biệt với các nền dân chủ tự do, bao gồm các chế độ phát xít, chế độ quân chủ tuyệt đối và các quốc gia độc đảng. Lý thuyết hòa bình dân chủ khẳng định rằng nền dân chủ hiếm khi chống lại các nền dân chủ khác, nhưng các nhà phê bình của lý thuyết đó cho rằng điều này có thể là do sự giống nhau về chính trị hay ổn định hơn là vì họ là dân chủ hay tư bản. Các nhà phê bình trung bình cho rằng mặc dù tăng trưởng kinh tế theo chủ nghĩa tư bản đã dẫn đến nền dân chủ trong quá khứ, nhưng không thể làm như vậy trong tương lai.. Một trong những người ủng hộ lớn nhất của ý tưởng rằng chủ nghĩa tư bản thúc đẩy tự do chính trị, Milton Friedman, lập luận rằng chủ nghĩa tư bản cạnh tranh cho phép quyền lực kinh tế và chính trị được tách biệt, đảm bảo rằng họ không đụng độ với nhau. Các nhà phê bình vừa phải đã thách thức điều này, nói rằng các nhóm vận động hành lang ảnh hưởng hiện tại đã có chính sách tại Hoa Kỳ là một mâu thuẫn, do sự chấp thuận của công dân United. Điều này đã khiến mọi người đặt câu hỏi về ý tưởng rằng chủ nghĩa tư bản cạnh tranh thúc đẩy tự do chính trị. Phán quyết về công dân United cho phép các công ty chi tiêu số tiền không được tiết lộ và không được kiểm soát về các chiến dịch chính trị, chuyển đổi kết quả thành lợi ích và phá hoại nền dân chủ thực sự. Như được giải thích trong các tác phẩm của Robin Hahnel, trung tâm của hệ thống thị trường tự do là khái niệm về tự do kinh tế và những người ủng hộ đó đánh đồng nền dân chủ kinh tế với tự do kinh tế và tuyên bố rằng chỉ có hệ thống thị trường tự do mới có thể cung cấp tự do kinh tế. Theo Hahnel, có một vài phản đối về tiền đề rằng chủ nghĩa tư bản cung cấp tự do thông qua tự do kinh tế. Những phản đối này được hướng dẫn bởi những câu hỏi quan trọng về ai hoặc quyết định nào mà quyền tự do của họ được bảo vệ nhiều hơn. Thông thường, câu hỏi về sự bất bình đẳng được đưa ra khi thảo luận về chủ nghĩa tư bản thúc đẩy nền dân chủ tốt như thế nào. Một lập luận có thể đứng là tăng trưởng kinh tế có thể dẫn đến sự bất bình đẳng vì vốn có thể thu được ở các mức độ khác nhau bởi những người khác nhau. Trong thủ đô của thế kỷ 21, Thomas Piketty thuộc trường Kinh tế Paris khẳng định rằng sự bất bình đẳng là hậu quả không thể tránh khỏi của tăng trưởng kinh tế trong nền kinh tế tư bản và sự tập trung kết quả của cải có thể làm mất ổn định xã hội dân chủ và làm suy yếu lý tưởng của công lý xã hội, nơi chúng được xây dựng. Các quốc gia có hệ thống kinh tế tư bản đã phát triển mạnh theo các chế độ chính trị được cho là độc tài hoặc áp bức. Singapore có một nền kinh tế thị trường mở thành công nhờ vào môi trường cạnh tranh, kinh doanh thân thiện và luật lệ mạnh mẽ của nó. Tuy nhiên, hệ thống chính trị Singapore thường được cho là: (1) Bị kiểm soát chặt chẽ bởi chính phủ, mặc dù trên danh nghĩa đó là nhà nước dân chủ và là một trong số những nước ít tham nhũng nhất, nó cũng hoạt động chủ yếu dưới sự cai trị của một đảng; và (2) Không bảo vệ quyền tự do ngôn luận một cách mạnh mẽ, vì báo chí do chính phủ kiểm soát, cũng như thiên hướng bảo vệ pháp luật bảo vệ hòa bình dân tộc và tôn giáo, nhân phẩm tư pháp và danh tiếng cá nhân. Cũng như vậy, khu vực tư nhân (tư bản) tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã phát triển theo cấp số nhân và phát triển mạnh kể từ khi thành lập, mặc dù có một chính phủ mà phương Tây cho là độc tài. Sự cai trị của nhà độc tài Augusto Pinochet ở Chile dẫn đến tăng trưởng kinh tế và mức độ bất bình đẳng cao bằng cách sử dụng các phương tiện độc tài để tạo môi trường an toàn cho đầu tư và chủ nghĩa tư bản. Tính đa dạng của chủ nghĩa tư bản Peter A. Hall và David Soskice lập luận rằng các nền kinh tế hiện đại đã phát triển hai hình thức chủ nghĩa tư bản khác nhau: nền kinh tế thị trường tự do (hoặc LME) (ví dụ như Hoa Kỳ, Anh, Canada, New Zealand và Ireland) và các nền kinh tế thị trường (CME) (ví dụ: Đức, Nhật Bản, Thụy Điển và Áo). Hai loại này có thể được phân biệt theo cách chính mà các công ty phối hợp với nhau và các tác nhân khác, chẳng hạn như công đoàn. Trong các LME, các công ty chủ yếu phối hợp các nỗ lực của họ bằng cách phân cấp và cơ chế thị trường. Các nền kinh tế thị trường phối hợp dựa nhiều hơn vào các hình thức tương tác phi thị trường trong việc phối hợp mối quan hệ của họ với các tác nhân khác (để mô tả chi tiết xem các giống chủ nghĩa tư bản). Hai hình thức tư bản này đã phát triển các quan hệ công nghiệp khác nhau, đào tạo nghề và giáo dục, quản trị doanh nghiệp, quan hệ giữa các công ty và quan hệ với nhân viên. Sự tồn tại của các hình thức chủ nghĩa tư bản khác nhau này có tác động xã hội quan trọng, đặc biệt là trong thời kỳ khủng hoảng và bất ổn. Từ đầu những năm 2000, số lượng người ngoài thị trường lao động đã phát triển nhanh chóng ở châu Âu, đặc biệt là trong giới trẻ, có khả năng ảnh hưởng đến sự tham gia của xã hội và chính trị. Sử dụng các lý thuyết tư bản chủ nghĩa, có thể giải quyết các ảnh hưởng khác nhau đến sự tham gia của xã hội và chính trị mà sự gia tăng của người ngoài thị trường lao động có nền kinh tế thị trường tự do và phối hợp (Ferragina và cộng sự, 2016). Sự bất ổn xã hội và chính trị, đặc biệt là trong giới trẻ, dường như rõ ràng hơn trong tự do hơn so với các nền kinh tế thị trường phối hợp. Điều này cho thấy một vấn đề quan trọng đối với nền kinh tế thị trường tự do trong thời kỳ khủng hoảng. Nếu thị trường không cung cấp cơ hội việc làm phù hợp (như trong những thập kỷ trước), những thiếu sót của các hệ thống an sinh xã hội tự do có thể làm giảm sự tham gia xã hội và chính trị hơn cả ở các nền kinh tế tư bản khác nhau. Đặc điểm kinh tế Đặc điểm đặc trưng nhất của chủ nghĩa tư bản là nhìn nhận quyền sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, quyền này được Nhà nước tư bản chủ nghĩa bảo vệ về mặt luật pháp. Trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa không loại trừ hình thức sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể và đôi khi ở một số nước tư bản chủ nghĩa, tại một số thời điểm tỷ trọng của các hình thức sở hữu này chiếm không nhỏ (hay còn gọi là mô hình kinh tế hỗn hợp), nhưng điều cơ bản phân biệt xã hội của chủ nghĩa tư bản với xã hội đối lập với nó là xã hội cộng sản chủ nghĩa là trong xã hội tư bản chủ nghĩa quyền tư hữu đối với phương tiện sản xuất được xã hội và pháp luật bảo vệ, sự chuyển đổi quyền sở hữu phải thông qua giao dịch dân sự được pháp luật và xã hội quy định. Còn chủ nghĩa cộng sản và phần lớn trường phái chủ nghĩa xã hội công nhận quyền sở hữu toàn dân, tập thể và nhà nước đối với các tư liệu sản xuất (ví dụ như đất đai và tài nguyên khoáng sản). Trong hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa các cá nhân dùng sở hữu tư nhân để tự do kinh doanh bằng hình thức các công ty tư nhân để thu lợi nhuận thông qua cạnh tranh trong các điều kiện của thị trường tự do: mọi sự phân chia của cải đều thông qua quá trình mua bán của các thành phần tham gia vào quá trình kinh tế. Các công ty tư nhân tạo thành thành phần kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế chủ yếu của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Có thể nói các yếu tố quyền tư hữu, thành phần kinh tế tư nhân, kinh doanh tự do, cạnh tranh, động cơ lợi nhuận, tính tự định hướng tự tổ chức, thị trường lao động, định hướng thị trường, bất bình đẳng trong phân phối của cải, phân hóa giàu - nghèo là các khái niệm gắn liền với nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Nói chung, chủ nghĩa tư bản như một hệ thống kinh tế và phương thức sản xuất có thể được tóm tắt bằng những điều sau đây: Tích lũy tư bản: sản xuất vì lợi nhuận và tích lũy vốn như mục đích ngầm của việc sản xuất, hạn chế hoặc loại bỏ sản xuất trước đây được thực hiện trên cơ sở hộ gia đình hoặc xã hội chung. Sản xuất hàng hóa: sản xuất để trao đổi trên thị trường; để tối đa hóa giá trị trao đổi thay vì sử dụng giá trị. Quyền sở hữu tư nhân các phương tiện sản xuất. Mức lương lao động cao. Đầu tư tiền và vốn để sinh lợi nhuận. Việc sử dụng cơ chế giá để phân bổ nguồn lực giữa các cạnh tranh lợi ích. Tạo môi trường tự do cho các nhà tư bản để hoạt động thuận lợi trong việc quản lý kinh doanh và đầu tư. Nền kinh tế thị trường Vì nền kinh tế được điều hành bởi cá nhân và các doanh nghiệp tư nhân định hướng đến quyền lợi cá nhân nên kinh doanh trong kinh tế tư bản chủ nghĩa về cơ bản là tự điều hành, tự phát sinh theo quy luật của thị trường tự do và quy luật cạnh tranh hay đó là nền kinh tế thị trường tự do (để phân biệt với nền kinh tế thị trường nhưng có sự can thiệp của Nhà nước - kinh tế hỗn hợp). Trong thị trường tự do và hình thức laissez-faire của chủ nghĩa tư bản, thị trường được áp dụng ít quy định hoặc không có quy định nào về cơ chế định giá. Trong các nền kinh tế hỗn hợp, nó gần như phổ biến ngày nay, thị trường tiếp tục đóng vai trò chi phối, nhưng được quy định ở một mức độ nào đó bởi chính phủ nhằm hạn chế các thất bại thị trường, thúc đẩy phúc lợi xã hội, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ quỹ và an toàn công cộng hoặc vì những lý do khác. Trong các hệ thống tư bản nhà nước, thị trường dựa vào ít nhất, với nhà nước dựa chủ yếu vào các doanh nghiệp nhà nước hoặc lập kế hoạch kinh tế gián tiếp để tích lũy vốn. Nguồn cung là lượng hàng hóa hoặc dịch vụ được sản xuất bởi một công ty và sẵn sàng để bán. Nhu cầu là số tiền mà mọi người sẵn sàng mua ở một mức giá cụ thể. Giá có xu hướng tăng khi nhu cầu vượt cung và giảm khi cung vượt cầu. Về mặt lý thuyết, thị trường có thể tự điều phối khi đạt được giá cân bằng và số lượng mới. Cạnh tranh phát sinh khi có nhiều hơn một nhà sản xuất đang cố gắng bán các sản phẩm tương tự hoặc tương tự cho cùng một người mua. Trong lý thuyết tư bản, cạnh tranh dẫn đến sự đổi mới và giá cả phải chăng hơn. Không cạnh tranh, độc quyền hoặc cartel có thể phát triển. Sự độc quyền xảy ra khi một công ty cung cấp tổng sản lượng trên thị trường, do đó công ty có thể tham gia thuê tìm kiếm các hành vi như hạn chế đầu ra và tăng giá vì không sợ cạnh tranh. Một cartel là một nhóm các công ty hoạt động với nhau theo cách độc quyền để kiểm soát sản lượng và giá cả. Những nỗ lực được thực hiện bởi chính phủ để ngăn chặn việc tạo ra độc quyền. Năm 1890, Đạo luật Anti-Trust Sherman trở thành luật đầu tiên được Quốc hội Hoa Kỳ thông qua nhằm hạn chế độc quyền. Động lực lợi nhuận Động lực lợi nhuận là một lý thuyết trong chủ nghĩa tư bản mà đặt ra rằng mục tiêu cuối cùng của một doanh nghiệp là kiếm tiền. Nói cách khác, lý do cho sự tồn tại của một doanh nghiệp là để kiến lợi nhuận. Động lực lợi nhuận hoạt động trên lý thuyết lựa chọn hợp lý, hoặc lý thuyết mà các cá nhân có xu hướng theo đuổi những gì có lợi ích riêng của họ. Theo đó, các doanh nghiệp tìm kiếm lợi ích bằng cách tối đa hóa lợi nhuận. Trong lý thuyết tư bản chủ nghĩa, Động lực lợi nhuận là đảm bảo rằng các nguồn lực đang được phân bổ hiệu quả. Ví dụ, nhà kinh tế người Áo Henry Hazlitt giải thích: "Nếu không có lợi nhuận trong việc đưa ra một bài báo, đó là dấu hiệu cho thấy lao động và vốn dành cho việc sản xuất của nó bị sai lệch: giá trị của tài nguyên phải được sử dụng trong việc đưa ra bài viết lớn hơn giá trị của bài viết ". Nói cách khác, lợi nhuận cho phép các công ty biết liệu một sản phẩm có đáng để sản xuất hay không. Về mặt lý thuyết, ở các thị trường tự do và cạnh tranh tối đa hóa lợi nhuận đảm bảo rằng các nguồn lực không bị lãng phí. Khác với nền sản xuất phong kiến là nền sản xuất lấy ruộng đất làm phương tiện sản xuất cơ bản và sở hữu ruộng đất là đặc quyền của vua, quý tộc và lãnh chúa, ngành kinh tế chính là nông nghiệp và thương mại. Kinh tế tư bản chủ nghĩa bác bỏ đặc quyền về ruộng đất hoặc bất cứ độc quyền của tầng lớp quý tộc, thượng lưu nào. Nền kinh tế tư bản chủ nghĩa là tự do kinh doanh lấy công nghệ, máy móc, và chất xám làm phương tiện sản xuất chính và là nền kinh tế định hướng sang công nghiệp, dịch vụ và thương mại. Sự định hướng này hoàn toàn do yếu tố lợi nhuận và thị trường điều phối. Do phương tiện sản xuất là công nghệ, tri thức nên nền sản xuất tư bản chủ nghĩa để có lợi nhuận tối đa luôn có xu hướng hướng đến "nền sản xuất lớn" với sự tái đầu tư mở rộng và gắn liền với cách mạng khoa học-công nghệ. Việc nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh là lợi ích sống còn của các chủ sở hữu doanh nghiệp trong cạnh tranh giành lợi nhuận. Sở hữu tư nhân Mối quan hệ giữa nhà nước, cơ chế chính thức và xã hội tư bản đã được tranh luận trong nhiều lĩnh vực lý thuyết xã hội và chính trị, với các cuộc thảo luận tích cực kể từ thế kỷ 19. Hernando de Soto là một nhà kinh tế học đương đại, người đã lập luận rằng một đặc tính quan trọng của chủ nghĩa tư bản là việc bảo vệ nhà nước về quyền tài sản trong một hệ thống tài sản chính thức, nơi quyền sở hữu và giao dịch được ghi nhận rõ ràng. Theo de Soto, đây là quá trình mà tài sản vật chất được chuyển thành vốn, từ đó có thể được sử dụng theo nhiều cách hơn và hiệu quả hơn nhiều trong nền kinh tế thị trường. Một số nhà kinh tế học Marxian đã lập luận rằng các hành vi bao vây ở Anh và các luật tương tự ở nơi khác là một phần không thể thiếu của sự tích lũy nguyên thủy tư bản và các khung pháp lý cụ thể về quyền sở hữu đất tư nhân đã không thể thiếu cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản. Trong giai đoạn phát triển đầu tiên tự do cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản thành phần kinh tế tư nhân chiếm toàn bộ nền kinh tế. Sau này cùng với mô hình kinh tế chủ nghĩa tư bản nhà nước với sự can thiệp điều phối của nhà nước vào quá trình kinh tế thì tỷ trọng của thành phần tư nhân có giảm xuống nhưng đối với một nền kinh tế tư bản đặc trưng nó luôn chiếm tỷ trọng là thành phần lớn nhất trong nền kinh tế. Thành phần kinh tế tư nhân đóng vai trò năng động, lực đẩy quyết định tính hiệu quả của nền kinh tế tư bản, còn thành phần kinh tế nhà nước chủ yếu để giải quyết các vấn đề xã hội đảm bảo công ăn việc làm cho lực lượng lao động, tránh gây xáo trộn lớn trong xã hội và để kinh doanh trong các ngành cần thiết nhưng khó sinh lời. Theo thời gian giữa hai thành phần này thỉnh thoảng lại có sự hiệu chỉnh bằng các quá trình tư nhân hoá hoặc quốc hữu hoá doanh nghiệp thông qua việc bán và mua các cổ phần của doanh nghiệp. Cạnh tranh thị trường Trong kinh tế tư bản, cạnh tranh thị trường là sự cạnh tranh giữa những người bán cố gắng đạt được các mục tiêu như tăng lợi nhuận, thị phần và khối lượng bán hàng bằng cách thay đổi các yếu tố của hỗn hợp tiếp thị: giá cả, sản phẩm, phân phối và khuyến mãi. Merriam-Webster định nghĩa cạnh tranh trong kinh doanh là "nỗ lực của hai hay nhiều bên hoạt động độc lập để đảm bảo hoạt động kinh doanh của bên thứ ba bằng cách đưa ra các điều kiện thuận lợi nhất". Nó được mô tả bởi Adam Smith trong cuốn Tìm hiểu về bản chất và nguồn gốc của cải của các quốc gia (1776) và sau này là các nhà kinh tế học khi phân bổ các nguồn lực sản xuất cho những mục đích sử dụng có giá trị cao nhất và có hiệu quả lớn. Smith và các nhà kinh tế học cổ điển khác trước Antoine Augustine Cournot đã đề cập đến sự cạnh tranh về giá cả và giá cả giữa các nhà sản xuất để bán hàng hóa của họ theo các điều khoản tốt nhất bằng cách đấu thầu người mua, không nhất thiết với một số lượng lớn người bán cũng như thị trường trong trạng thái cân bằng cuối cùng. Cạnh tranh được phổ biến rộng rãi trong suốt quá trình thị trường. Đó là điều kiện mà "người mua có xu hướng cạnh tranh với những người mua khác và người bán có xu hướng cạnh tranh với những người bán khác". Trong việc cung cấp hàng hóa để trao đổi, người mua cạnh tranh giá thầu để mua số lượng cụ thể của hàng hóa cụ thể có sẵn hoặc có thể có sẵn nếu người bán đã chọn cung cấp hàng hóa đó. Tương tự như vậy, người bán đấu giá với những người bán khác trong việc cung cấp hàng hóa trên thị trường, cạnh tranh để thu hút sự chú ý và trao đổi tài nguyên của người mua. Kết quả cạnh tranh từ sự khan hiếm - không bao giờ đủ để thỏa mãn mọi mong muốn con người có thể tưởng tượng được - và xảy ra "khi mọi người cố gắng đáp ứng các tiêu chí đang được sử dụng để xác định ai nhận được cái gì". Tăng trưởng kinh tế Trong lịch sử, chủ nghĩa tư bản có khả năng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế được đo bằng tổng sản phẩm quốc nội (GDP), sử dụng năng lực hoặc mức sống. Lập luận này là trung tâm, ví dụ, với sự ủng hộ của Adam Smith về việc cho phép sản xuất và giá cả thị trường tự do và phân bổ nguồn lực. Nhiều nhà lý thuyết đã lưu ý rằng sự gia tăng GDP toàn cầu này theo thời gian trùng với sự xuất hiện của hệ thống tư bản chủ nghĩa hiện đại trên thế giới. Từ năm 1000 đến năm 1820, nền kinh tế thế giới tăng gấp sáu lần, tốc độ nhanh hơn tốc độ tăng dân số, do đó, cá nhân được hưởng, trung bình, tăng 50% thu nhập. Từ năm 1820 đến năm 1998, kinh tế thế giới tăng gấp 50 lần, tốc độ nhanh hơn nhiều so với tốc độ tăng dân số, do đó, cá nhân được hưởng mức tăng thu nhập trung bình gấp 9 lần. Trong giai đoạn này, ở châu Âu, Bắc Mỹ và châu Úc, nền kinh tế tăng trưởng 19 lần / người, mặc dù các khu vực này đã có mức khởi đầu cao hơn; và ở Nhật Bản, vốn nghèo vào năm 1820, mức tăng của mỗi người là 31 lần. Trong thế giới thứ ba, đã có sự gia tăng, nhưng chỉ có 5 lần cho mỗi người. Mua bán sức lao động Trong thị trường lao động, đây là đặc điểm rất nổi bật của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Trong nền kinh tế phong kiến và các nền kinh tế kém phát triển lực lượng nhân công (nông dân, nông nô) bị phụ thuộc vào chủ đất (địa chủ, lãnh chúa) và quý tộc về mặt pháp lý, họ bị gắn chặt vào ruộng đất và ý chí của chủ đất và quý tộc. Còn nhân công (người lao động) trong kinh tế tư bản chủ nghĩa về mặt pháp lý là hoàn toàn bình đẳng với chủ sở hữu doanh nghiệp (người thuê lao động). Giữa người thuê lao động và người lao động ràng buộc kinh tế với nhau bằng hợp đồng lao động: người lao động và chủ doanh nghiệp mua bán sức lao động theo các yếu tố của thị trường. Công nhân có thể thanh lý hợp đồng lao động với người thuê lao động này và sang làm việc cho người thuê lao động khác và nếu muốn hoặc cũng có thể trở thành chủ doanh nghiệp. Cả xã hội tư bản là một thị trường lao động lớn và thường thì cung ứng lao động nhiều hơn yêu cầu lao động, do vậy trong xã hội tư bản chủ nghĩa thường tồn tại nạn thất nghiệp. Do vậy, người lao động thường bị "mua rẻ" sức lao động của mình, một phần giá trị thặng dư mà họ tạo ra bị nhà tư bản chiếm đoạt, dẫn đến tình trạng công nhân bị bóc lột trong xã hội tư bản. Mặt khác, các nhà tư bản cũng có xu hướng cắt giảm điều kiện làm việc của người lao động để tiết kiệm chi phí, khiến họ phải lao động vất vả hơn trong những điều kiện cực nhọc, ít an toàn hơn. Ở thời kỳ đầu thế kỷ 20, ngay cả ở các nước như Mỹ hoặc Tây Âu, việc người lao động phải làm việc suốt 12 - 14 giờ mỗi ngày, bị sa thải chỉ vì những lỗi nhỏ, bị tai nạn lao động là điều diễn ra phổ biến. Điều này bị những người cánh tả (xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa) lên án và đề nghị loại bỏ bằng việc áp dụng các chính sách về giờ lao động tối đa, mức lương tối thiểu, bảo hiểm, cấm sa thải tùy tiện, cấm lao động trẻ em... Tuy nhiên nguy cơ của nạn thất nghiệp cũng đóng vai trò kích thích người lao động nâng cao kỹ năng và kỷ luật lao động trong cuộc chạy đua bảo vệ chỗ làm việc. Lực lượng lao động dự bị Lực lượng lao động dự bị là người thất nghiệp và không có việc làm. Nó đồng nghĩa với "đội quân dự trữ công nghiệp" hoặc "dân số tương đối thặng dư", ngoại trừ người thất nghiệp có thể được định nghĩa là những người thực sự tìm kiếm công việc và dân số thặng dư tương đối cũng bao gồm những người không thể làm việc. Việc sử dụng từ "đội quân" đề cập đến các công nhân đang được ký kết và lập lại ở nơi làm việc trong một hệ thống phân cấp, dưới sự chỉ huy cao độ của nền kinh tế. Trước khi bắt đầu thời kỳ chủ nghĩa tư bản trong lịch sử nhân loại (tức là trước những năm 1500), tỷ lệ thất nghiệp về cấu trúc trên quy mô lớn hiếm khi tồn tại, ngoài việc gây ra bởi thiên tai và chiến tranh. Trong các xã hội cổ đại, tất cả những người có thể làm việc nhất thiết phải làm việc, nếu không họ sẽ chết đói; và do đó một nô lệ hoặc một nông nô theo định nghĩa không thể trở thành "thất nghiệp". Thường có rất ít khả năng "kiếm một lớp vỏ" mà không làm việc gì cả và thái độ bình thường đối với người ăn xin và người làm biếng là khắc nghiệt. Trẻ em bắt đầu làm việc từ rất sớm. Thật vậy, từ "việc làm" là ngôn ngữ một sản phẩm của thời đại tư bản. Mức độ thất nghiệp thường xuyên giả định một dân số lao động có mức độ phụ thuộc lớn vào tiền lương hoặc tiền lương để kiếm sống, không có phương tiện sinh kế khác cũng như quyền của doanh nghiệp thuê và sa thải nhân viên phù hợp với điều kiện kinh tế hoặc thương mại. Cụm từ "thất nghiệp" bằng tiếng Anh theo nghĩa "tạm thời mất việc" ngày trở lại những năm 1660; tham chiếu đến "người thất nghiệp" như một nhóm lần đầu tiên được thực hiện vào năm 1782; và tham chiếu đến "thất nghiệp" như một điều kiện chung đầu tiên được chứng thực vào năm 1888. Cuộc thảo luận được ghi chép đầu tiên về đội quân lao động dự bị là trong một bản thảo được viết bởi Karl Marx: Marx giới thiệu khái niệm trong chương 25 của tập đầu tiên của Das Kapital, trong đó nêu rõ: Lập luận của ông là khi chủ nghĩa tư bản phát triển, thành phần hữu cơ của vốn sẽ tăng lên, có nghĩa là khối lượng vốn không đổi tăng nhanh hơn khối lượng vốn biến đổi. Ít công nhân hơn có thể sản xuất tất cả những gì cần thiết cho các yêu cầu của xã hội. Ngoài ra, vốn sẽ trở nên tập trung và tập trung hơn trong tay ít hơn. Đây là xu hướng lịch sử tuyệt đối, một phần dân số làm việc sẽ có xu hướng trở nên thặng dư với các yêu cầu tích lũy vốn theo thời gian. Nghịch lý, sự giàu có của xã hội càng lớn thì quân đội dự trữ công nghiệp càng lớn. Marx gọi nó là "sự đối kháng của sự tích lũy vốn" và ông trích dẫn sự nghèo đói của ông về Triết học (Chương 2, Phần 1) để giải thích hiện tượng này liên quan đến quan hệ sản xuất. Người ta có thể thêm rằng sự giàu có của xã hội càng lớn thì càng có nhiều người có thể hỗ trợ những người không làm việc. Tuy nhiên, khi Marx phát triển thêm lập luận, nó cũng trở nên rõ ràng rằng tùy thuộc vào tình trạng của nền kinh tế quân đội dự bị lao động sẽ mở rộng hoặc hợp đồng, luân phiên bị hấp thụ hoặc trục xuất khỏi lực lượng lao động. Trong những năm gần đây, đã có nghiên cứu ngày càng tăng về khái niệm "Vô sản bấp bênh (precariat)" để mô tả sự phụ thuộc ngày càng tăng vào những người lao động tạm thời, bán thời gian với tình trạng bấp bênh, những người chia sẻ các khía cạnh của vô sản và quân đội dự bị lao động. Những người lao động bấp bênh làm việc bán thời gian hoặc toàn thời gian trong các công việc tạm thời, nhưng họ không thể kiếm đủ tiền để sống và phụ thuộc một phần vào bạn bè hoặc gia đình, hoặc lợi ích của nhà nước, để tồn tại. Thông thường, họ không trở thành thực sự "thất nghiệp", nhưng họ không có một công việc ổn định để đi đến một trong hai. Sự gia tăng của các người lao động tạm thời đã được quy cho sự xuất hiện của chủ nghĩa tự do toàn cầu. Mặc dù những người không làm việc không thể hoặc không quan tâm đến việc thực hiện công việc được trả lương hợp pháp không được coi là một trong số những người thất nghiệp, khái niệm "thất nghiệp kết nghĩa" được sử dụng trong kinh tế hiện nay. Các nhà kinh tế học thường phân biệt giữa thất nghiệp "ma sát" hoặc "chu kỳ" ngắn hạn và "thất nghiệp cơ cấu" dài hạn. Đôi khi có sự không phù hợp ngắn hạn giữa nhu cầu và cung lao động, vào những thời điểm khác, tổng nhu cầu lao động ít hơn nhiều so với nguồn cung trong một thời gian dài. Nếu không có khả năng để có được một công việc ở tất cả trong tương lai gần, tồn tại, nhiều người trẻ quyết định di cư hoặc di cư đến một nơi mà họ có thể tìm được việc làm. Thành phần của dân số thặng dư tương đối Marx thảo luận về lực lượng lao động và lực lượng dự bị tại thủ đô, Chương 25, Mục IV. Lực lượng lao động bao gồm những người làm việc ở mức lương trung bình hoặc cao hơn trung bình. Không phải mọi người trong tầng lớp lao động đều nhận được một trong những công việc này. Sau đó có bốn loại khác, nơi các thành viên của tầng lớp lao động có thể tìm thấy chính mình: "nhóm trì trệ", dự bị nổi, dự bị tiềm ẩn và cùng khổ. Cuối cùng, mọi người có thể rời lực lượng lao động và lực lượng dự bị bằng cách trở thành tội phạm và Marx đề cập đến những người này như là "vô sản lưu manh". Nhóm trì trệ bao gồm những người bị thiệt thòi với "việc làm cực kỳ bất thường". Loại công việc này được đặc trưng bởi mức lương dưới mức trung bình, điều kiện làm việc nguy hiểm, công việc mang tính tạm thời. Những người trong nhóm này có việc làm, vì vậy định nghĩa hiện đại về việc làm sẽ bao gồm cả lực lượng lao động cộng với nhóm trì trệ. Tuy nhiên, những người trong nhóm này liên tục tìm kiếm điều gì đó tốt hơn. Người thất nghiệp hiện đại được đề cập chủ yếu thuộc lực lượng dự bị nổi, những người từng có việc làm tốt, nhưng giờ đã mất việc. Họ hy vọng rằng tình trạng thất nghiệp của họ là tạm thời, nhưng họ nhận thức rõ rằng họ có thể rơi vào nhóm trì trệ hoặc tầng lớp cùng khổ của xã hội. Phần tiềm ẩn bao gồm phân khúc dân số chưa được tích hợp đầy đủ vào sản xuất tư bản. Trong thời của Marx, ông đề cập đến những người sống trong nền nông nghiệp tự cung tự cấp đang tìm kiếm việc làm được trả công trong ngành. Trong thời hiện đại, những người đến từ khu ổ chuột ở các nước đang phát triển, nơi họ sống chủ yếu bằng các phương tiện phi tiền tệ để phát triển các thành phố nơi họ làm việc để trả tiền có thể hình thành tiềm ẩn. Các bà nội trợ chuyển từ việc làm không lương sang trả lương cho một doanh nghiệp cũng có thể tạo thành một phần của dự trữ tiềm ẩn. Họ không thất nghiệp vì họ không nhất thiết phải tìm kiếm một công việc, nhưng nếu vốn cần thêm công nhân, nó có thể kéo họ ra khỏi dự trữ tiềm ẩn. Theo nghĩa này, tiềm ẩn tạo thành một lực lượng công nhân tiềm năng cho các ngành công nghiệp. Nhóm cùng khổ là nơi người ta có thể kết thúc. Người vô gia cư là thuật ngữ hiện đại cho người nghèo. Marx gọi họ là những người không thể thích nghi với sự thay đổi không bao giờ kết thúc của thủ đô. Đối với Marx, "tình trạng bần cùng", bao gồm cả những người vẫn có thể làm việc, trẻ em mồ côi và trẻ em nghèo; và "bị mất tinh thần và rách rưới" hoặc "không thể làm việc". Phương thức sản xuất Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được xác định bằng quyền sở hữu tư nhân của phương thức sản xuất, khai thác giá trị thặng dư của lớp sở hữu với mục đích tích lũy vốn, lao động dựa trên tiền lương và ít nhất là hàng hóa có liên quan đến thị trường. Chủ nghĩa tư bản trong hình thức hoạt động kiếm tiền đã tồn tại dưới hình thức thương nhân và người cho vay tiền đóng vai trò trung gian giữa người tiêu dùng và người sản xuất tham gia vào sản xuất hàng hóa đơn giản (do đó tham chiếu đến "chủ nghĩa tư bản thương gia"). Điều cụ thể về "chế độ tư bản sản xuất" là hầu hết các đầu vào và đầu ra của sản xuất được cung cấp thông qua thị trường (tức là chúng là hàng hóa) và về cơ bản tất cả sản xuất đều ở chế độ này. Ví dụ, trong phong kiến hưng thịnh hầu hết hoặc tất cả các yếu tố sản xuất bao gồm lao động thuộc sở hữu của lớp cai trị phong kiến hoàn toàn và các sản phẩm cũng có thể được tiêu thụ mà không có thị trường dưới bất kỳ hình thức nào, đó là sản xuất để sử dụng trong đơn vị xã hội phong kiến và hạn chế thương mại. Điều này có hệ quả quan trọng là toàn bộ tổ chức của quá trình sản xuất được định hình lại và tổ chức lại để phù hợp với tính hợp lý kinh tế như ràng buộc bởi chủ nghĩa tư bản, được thể hiện trong mối quan hệ giá giữa đầu vào và đầu ra (tiền lương, chi phí nhân tố phi lao động, bán hàng và lợi nhuận) chứ không phải là bối cảnh hợp lý lớn hơn mà xã hội phải đối mặt chung - tức là toàn bộ quá trình được tổ chức và tái định hình để phù hợp với "logic thương mại". Về cơ bản, tích lũy vốn đến để xác định tính hợp lý kinh tế trong sản xuất tư bản. Xã hội, khu vực hoặc quốc gia là tư bản chủ nghĩa nếu nguồn thu nhập và sản phẩm chủ yếu được phân phối là hoạt động tư bản, nhưng thậm chí điều này không có nghĩa là chế độ tư bản sản xuất chiếm ưu thế trong xã hội đó. Nguyên lý Cung - Cầu Trong các cấu trúc kinh tế tư bản, Cung cấp và Nhu cầu là mô hình kinh tế tiêu biểu để xác định giá cả hàng hóa trên thị trường. Trong một thị trường cạnh tranh, Giá cả của hàng hóa sẽ thay đổi thông qua sự điều chỉnh của thị trường, ở một điểm có mức giá cân bằng khi số lượng người tiêu dùng yêu cầu bằng với số lượng cung cấp của nhà sản xuất. Bốn nguyên lý cơ bản về cung và cầu là: Nếu nhu cầu tăng (đường cầu thay đổi về bên phải) và nguồn cung vẫn không đổi, thì tình trạng thiếu hụt xảy ra, dẫn đến giá cân bằng cao hơn. Nếu nhu cầu giảm (đường cầu dịch chuyển về bên trái) và nguồn cung vẫn không đổi, thì thặng dư xảy ra, dẫn đến giá cân bằng thấp hơn. Nếu cầu vẫn không thay đổi và cung tăng (đường cung dịch chuyển về bên phải), thì thặng dư xảy ra, dẫn đến giá cân bằng thấp hơn. Nếu cầu vẫn không thay đổi và cung giảm (đường cung dịch chuyển về bên trái), thì tình trạng thiếu hụt xảy ra, dẫn đến giá cân bằng cao hơn. Điểm cân bằng thị trường Trong bối cảnh cung và cầu, cân bằng kinh tế đề cập đến một trạng thái mà các lực lượng kinh tế như cung và cầu được cân bằng và trong trường hợp không có ảnh hưởng bên ngoài (cân bằng), giá trị của các biến kinh tế sẽ không thay đổi. Ví dụ, trong mô hình sách văn bản chuẩn của trạng thái cân bằng cạnh tranh hoàn hảo xảy ra tại điểm mà tại đó số lượng yêu cầu và số lượng được cung cấp bằng nhau. Cân bằng thị trường trong trường hợp này đề cập đến một điều kiện mà giá thị trường được thiết lập thông qua cạnh tranh sao cho lượng hàng hóa hoặc dịch vụ mà người mua tìm kiếm bằng với lượng hàng hóa hoặc dịch vụ do người bán tạo ra. Giá này thường được gọi là giá cạnh tranh hoặc giá bù trừ thị trường và có xu hướng không thay đổi trừ khi cầu hoặc cung thay đổi và số lượng được gọi là "số lượng cạnh tranh" hoặc số lượng thanh toán bù trừ thị trường. Cân bằng từng phần Cân bằng một phần, như tên cho thấy, chỉ xem xét một phần của thị trường để đạt được trạng thái cân bằng. Jain đề xuất (do George Stigler đề xuất): "Cân bằng một phần là dựa trên chỉ một dải dữ liệu hạn chế, ví dụ tiêu chuẩn là giá của một sản phẩm duy nhất, giá của tất cả các sản phẩm khác được cố định trong quá trình phân tích". Mô hình cung cầu là mô hình cân bằng một phần cân bằng kinh tế, nơi có khoảng trống trên thị trường của một số mặt hàng cụ thể được lấy độc lập với giá và số lượng tại các thị trường khác. Nói cách khác, giá của tất cả các sản phẩm thay thế và bổ sung cũng như mức thu nhập của người tiêu dùng là không đổi. Điều này làm cho việc phân tích đơn giản hơn nhiều so với mô hình cân bằng tổng quát bao gồm toàn bộ nền kinh tế. Đây là quá trình năng động là giá điều chỉnh cho đến khi cung bằng cầu. Nó là một kỹ thuật mạnh mẽ đơn giản cho phép người ta nghiên cứu trạng thái cân bằng, hiệu quả và so sánh. Tính nghiêm ngặt của các giả định đơn giản vốn có trong cách tiếp cận này làm cho mô hình đáng kể hơn, nhưng nó có thể tạo ra kết quả trong khi dường như chính xác không mô hình hóa các hiện tượng kinh tế thế giới thực. Ước tính thực nghiệm Các quan hệ cung cầu trên thị trường có thể được ước tính thống kê về giá, số lượng và các dữ liệu khác với đầy đủ thông tin trong mô hình. Điều này có thể được thực hiện với phương pháp ước lượng phương trình đồng thời trong toán kinh tế. Các phương pháp như vậy cho phép giải quyết các "hệ số cấu trúc" liên quan đến mô hình, các đối số đại số ước tính của lý thuyết. Vấn đề xác định tham số là một vấn đề phổ biến trong "ước tính cấu trúc". Thông thường, dữ liệu về các biến ngoại sinh (có nghĩa là, các biến khác ngoài giá cả và số lượng, cả hai biến là các biến nội sinh) là cần thiết để thực hiện ước lượng như vậy. Một giải pháp thay thế cho "ước tính cấu trúc" là ước lượng dạng giảm, điều này sẽ hồi quy từng biến nội sinh trên các biến ngoại sinh tương ứng. Sử dụng cung và cầu trong kinh tế vĩ mô Cung và cầu cũng đã được khái quát hóa để giải thích các biến kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế thị trường, bao gồm cả tổng sản lượng và mức giá chung. Mô hình cung cấp tổng hợp - Tổng cầu có thể là ứng dụng trực tiếp nhất về cung và cầu đối với kinh tế vĩ mô, nhưng các mô hình kinh tế vĩ mô khác cũng sử dụng cung và cầu. So với việc sử dụng và cung cấp vi mô, các cân nhắc lý thuyết khác nhau (và gây nhiều tranh cãi) áp dụng cho các đối tác kinh tế vĩ mô như tổng cầu và tổng cung. Cung và cầu cũng được sử dụng trong lý thuyết kinh tế vĩ mô để liên kết cung tiền và nhu cầu tiền với lãi suất và liên quan đến cung cầu lao động và nhu cầu lao động với mức lương. Vai trò của chính phủ Trong một hệ thống tư bản, chính phủ không cấm tài sản tư nhân hoặc ngăn chặn cá nhân làm việc tại nơi họ muốn. Chính phủ không ngăn cản các công ty xác định mức lương họ sẽ trả và giá nào họ sẽ tính cho sản phẩm của họ. Tuy nhiên, nhiều quốc gia có luật lương tối thiểu và tiêu chuẩn an toàn tối thiểu. Theo một số phiên bản của chủ nghĩa tư bản, chính phủ thực hiện một số chức năng kinh tế, chẳng hạn như phát hành tiền, giám sát các tiện ích công cộng và thực thi các hợp đồng tư nhân. Nhiều quốc gia có luật cạnh tranh ngăn cấm độc quyền và tập đoàn hình thành. Mặc dù luật chống độc quyền, các tập đoàn lớn có thể hình thành gần như độc quyền trong một số ngành công nghiệp. Các công ty như vậy có thể tạm thời giảm giá và chấp nhận tổn thất để ngăn chặn cạnh tranh xâm nhập vào thị trường và sau đó tăng giá lại khi mối đe dọa nhập cảnh giảm. Ở nhiều quốc gia, các tiện ích công cộng (ví dụ như điện, nhiên liệu sưởi ấm và thông tin liên lạc) có thể hoạt động độc quyền theo quy định của chính phủ do quy mô kinh tế cao. Các cơ quan chính phủ điều chỉnh các tiêu chuẩn dịch vụ trong nhiều ngành công nghiệp, chẳng hạn như các hãng hàng không và phát sóng cũng như tài trợ một loạt các chương trình. Ngoài ra, chính phủ quy định dòng vốn và sử dụng các công cụ tài chính như lãi suất để kiểm soát các yếu tố như lạm phát và thất nghiệp. Mối quan hệ với tự do chính trị Trong cuốn sách "Đường về nô lệ", Friedrich Hayek khẳng định rằng tự do kinh tế của chủ nghĩa tư bản là một điều kiện tiên quyết của tự do chính trị. Ông lập luận rằng cơ chế thị trường là cách duy nhất để quyết định những gì để sản xuất và làm thế nào để phân phối các mặt hàng mà không sử dụng cưỡng chế. Milton Friedman, Andrew Brennan và Ronald Reagan cũng ủng hộ quan điểm này. Friedman tuyên bố rằng các hoạt động kinh tế tập trung luôn đi kèm với sự đàn áp chính trị. Theo quan điểm của ông, các giao dịch trong nền kinh tế thị trường là tự nguyện và sự đa dạng rộng rãi mà giấy phép hoạt động tự nguyện là mối đe dọa cơ bản đối với các nhà lãnh đạo chính trị đàn áp và làm giảm đáng kể quyền lực của họ để ép buộc. Một số quan điểm của Friedman được chia sẻ bởi John Maynard Keynes, người tin rằng chủ nghĩa tư bản là rất quan trọng cho tự do để tồn tại và phát triển mạnh. Freedom House, một chuyên gia cố vấn Mỹ tiến hành nghiên cứu quốc tế và ủng hộ, dân chủ, tự do chính trị và nhân quyền, đã lập luận "có một mối tương quan có ý nghĩa thống kê giữa mức độ tự do chính trị được đo bởi Freedom House và chỉ số tự do kinh tế được đo bởi cuộc khảo sát của Wall Street Journal / Heritage Foundation. Các hình thái Có nhiều biến thể của chủ nghĩa tư bản tồn tại khác nhau tùy theo quốc gia và khu vực. Chúng thay đổi trong từng thể chế và theo chính sách kinh tế của mỗi quốc gia. Các đặc điểm chung của các hình thái chủ nghĩa tư bản là chúng đều dựa trên việc sản xuất hàng hóa và dịch vụ vì lợi nhuận, phần lớn phân bổ nguồn lực dựa trên thị trường và được kết cấu khi tích lũy vốn. Các hình thức chủ nghĩa tư bản chủ yếu được liệt kê dưới đây: Chủ nghĩa tư bản tiên tiến Chủ nghĩa tư bản tiên tiến là tình huống liên quan đến một xã hội mà trong đó mô hình tư bản đã được tích hợp và phát triển sâu và rộng rãi trong một thời gian dài. Nhiều nhà văn khác nhau xác định Antonio Gramsci là một nhà lý thuyết đầu tiên có ảnh hưởng của chủ nghĩa tư bản tiên tiến, ngay cả khi ông không sử dụng thuật ngữ đó. Trong các tác phẩm của mình, Gramsci tìm cách giải thích cách chủ nghĩa tư bản đã thích nghi để tránh sự lật đổ cách mạng mà dường như không thể tránh khỏi trong thế kỷ 19. Ttong lời giải thích của ông là sự suy giảm của sự ép buộc thô như một công cụ của quyền lực lớp, được thay thế bằng cách sử dụng các tổ chức xã hội dân sự để vận dụng ý thức hệ công chúng.. Jürgen Habermas là một người đóng góp chính cho việc phân tích các xã hội tư bản tiên tiến. Habermas quan sát bốn đặc điểm chung mô tả chủ nghĩa tư bản tiên tiến: Tập trung hoạt động công nghiệp tại một số doanh nghiệp lớn. Liên tục phụ thuộc vào nhà nước để ổn định hệ thống kinh tế. Một chính phủ dân chủ chính thức hợp pháp hoá các hoạt động của nhà nước và loại bỏ sự phản đối. Việc tăng sử dụng tiền lương danh nghĩa để làm hài lòng các lực lượng lao động. Chủ nghĩa tư bản tài chính Trong loạt các phê phán chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa Marx - Lenin nhấn mạnh vai trò của "Tư bản tài chính" là đã được cầm quyền quan tâm trong xã hội tư bản, đặc biệt là trong các giai đoạn sau này. Rudolf Hilferding đưa ra khái niệm "chủ nghĩa tư bản tài chính" trong nghiên cứu về tài chính vào năm 1910 về mối liên hệ giữa tín thác Đức, ngân hàng và độc quyền - một nghiên cứu được Vladimir Lenin đưa vào tác phẩm Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản (1916), trong đó ông phân tích quan hệ giữa các cường quốc trên thế giới. Đối với Comintern (thành lập năm 1919), cụm từ "chế độ độc tài chủ nghĩa tư bản tài chính" đã trở thành bình thường. Fernnand Braudel sau đó sẽ chỉ ra hai giai đoạn trước khi chủ nghĩa tư bản tài chính xuất hiện trong lịch sử loài người - với người Genova trong thế kỷ 16 và với người Hà Lan trong thế kỷ 17 và 18 - mặc dù ở những thời điểm đó, nó phát triển từ chủ nghĩa tư bản thương mại. Giovanni Arrighi mở rộng phân tích của Braudel cho thấy rằng ưu thế của chủ nghĩa tư bản tài chính là một hiện tượng định kỳ, dài hạn, bất cứ khi nào giai đoạn trước của việc mở rộng tư bản thương mại / công nghiệp đạt đến một cao nguyên. Chủ nghĩa trọng thương Chủ nghĩa trọng thương là một hình thức chủ nghĩa dân tộc của chủ nghĩa tư bản ra đời khoảng vào cuối thế kỷ thứ 16. Nó được đặc trưng bởi sự gắn bó giữa lợi ích kinh doanh quốc gia với lợi ích của nhà nước và chủ nghĩa đế quốc; và do đó, bộ máy nhà nước được sử dụng để thúc đẩy lợi ích kinh doanh quốc gia ở nước ngoài. Một ví dụ về việc này là những người sống tại Hoa Kỳ, những người chỉ được phép buôn bán và mua hàng hóa từ các quốc gia mẹ đẻ của họ (ví dụ: Anh, Bồ Đào Nha và Pháp). Chủ nghĩa trọng thương đã được thúc đẩy bởi niềm tin rằng sự giàu có của một quốc gia được tăng lên thông qua một sự cân bằng tích cực của thương mại với các quốc gia khác, nó tương ứng với giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa đôi khi được gọi là sự tích lũy vốn nguyên thủy. Kinh tế thị trường tự do Nền kinh tế thị trường tự do đề cập đến một hệ thống kinh tế tư bản nơi giá cả hàng hóa và dịch vụ được đặt tự do bởi lực cung và cầu và được phép đạt đến điểm cân bằng mà không có sự can thiệp của chính sách của chính phủ. Nó thường đòi hỏi sự hỗ trợ cho các thị trường cạnh tranh cao và sở hữu tư nhân của các doanh nghiệp sản xuất. Laissez-faire là một hình thức kinh tế thị trường tự do rộng lớn hơn, nơi vai trò của nhà nước bị hạn chế trong việc bảo vệ quyền sở hữu. Kinh tế thị trường xã hội Một nền kinh tế thị trường xã hội là hệ thống thị trường tự do danh nghĩa, nơi mà sự can thiệp của chính phủ vào việc hình thành giá được giữ ở mức tối thiểu, nhưng tiểu bang cung cấp các dịch vụ quan trọng trong lĩnh vực an sinh xã hội, trợ cấp thất nghiệp và công nhận quyền lao động thông qua thỏa thuận thương lượng tập thể quốc gia. Mô hình này nổi bật ở các nước phương Tây và Bắc Âu cũng như Nhật Bản, mặc dù có cấu hình hơi khác nhau. Phần lớn các doanh nghiệp thuộc sở hữu tư nhân trong mô hình kinh tế này. Chủ nghĩa tư bản Rhine đề cập đến mô hình hiện đại của chủ nghĩa tư bản và sự thích ứng của mô hình thị trường xã hội tồn tại ở lục địa Tây Âu ngày nay. Chủ nghĩa tư bản nhà nước Chủ nghĩa tư bản nhà nước là một nền kinh tế thị trường tư bản thống trị bởi các doanh nghiệp nhà nước, nơi mà các doanh nghiệp nhà nước tìm kiếm lợi nhuận. Thuật ngữ này đã được sử dụng rộng rãi trong suốt thế kỷ 20 để chỉ một số hình thức kinh tế khác nhau, từ sở hữu nhà nước trong nền kinh tế thị trường đến các nền kinh tế chỉ huy của Khối phía Đông cũ. Theo Aldo Musacchio, một giáo sư tại Trường Kinh doanh Harvard, chủ nghĩa tư bản nhà nước là một hệ thống mà chính phủ thực hiện một ảnh hưởng rộng rãi đến nền kinh tế thông qua quyền sở hữu trực tiếp hoặc trợ cấp khác nhau. Musacchio ghi nhận một số khác biệt giữa chủ nghĩa tư bản nhà nước ngày nay và những hình thức trước đó của nó. Theo ý kiến ​​của ông, không còn tồn tại việc các chính phủ chỉ định các quan chức để điều hành các công ty: các doanh nghiệp nhà nước lớn nhất thế giới hiện đang được giao dịch trên thị trường chứng khoán và được các tổ chức đầu tư lớn nắm giữ cổ phần. Chủ nghĩa tư bản nhà nước đương đại gắn liền với mô hình chủ nghĩa tư bản Đông Á, chủ nghĩa tư bản và nền kinh tế Na Uy. Ngoài ra, Merriam-Webster định nghĩa chủ nghĩa tư bản nhà nước là "một hệ thống kinh tế trong đó tư bản tư nhân được điều chỉnh bởi một mức độ khác nhau bởi quyền sở hữu và kiểm soát của chính phủ".Trong chủ nghĩa xã hội: Chủ nghĩa duy tâm và khoa học, Friedrich Engels lập luận rằng các doanh nghiệp nhà nước sẽ mô tả giai đoạn cuối cùng của chủ nghĩa tư bản, bao gồm quyền sở hữu và quản lý sản xuất và truyền thông quy mô lớn bởi nhà nước tư sản. Trong các tác phẩm của mình, Vladimir Lenin đã mô tả nền kinh tế của nước Nga Xô viết là tư bản nhà nước, tin rằng chủ nghĩa tư bản nhà nước là một bước tiến đầu tiên hướng tới sự phát triển của chủ nghĩa xã hội. Một số nhà kinh tế và học giả cánh tả bao gồm Richard D. Wolff và Noam Chomsky cho rằng nền kinh tế của Liên Xô và khối phía Đông đại diện cho một hình thức chủ nghĩa tư bản nhà nước bởi vì tổ chức nội bộ của họ trong doanh nghiệp và hệ thống lao động tiền lương vẫn còn nguyên vẹn. Thuật ngữ này không được các nhà kinh tế học ở Áo sử dụng để mô tả quyền sở hữu nhà nước đối với phương tiện sản xuất. Nhà kinh tế học Ludwig von Mises lập luận rằng việc chỉ định "chủ nghĩa tư bản nhà nước" đơn giản là một nhãn mới cho các nhãn hiệu cũ của "chủ nghĩa xã hội nhà nước" và "nền kinh tế kế hoạch" và chỉ khác với những yếu tố không cần thiết. Cuộc tranh luận giữa những người ủng hộ tư bản tư nhân so với chủ nghĩa tư bản chủ yếu xoay quanh những câu hỏi về hiệu quả quản lý, hiệu quả sản xuất và phân phối công bằng của cải. Chủ nghĩa tư bản độc quyền Chủ nghĩa tư bản của công ty là nền kinh tế thị trường tự do hoặc hỗn hợp đặc trưng bởi sự thống trị của các tập đoàn cấp bậc, quan liêu. Kinh tế hỗn hợp Một nền kinh tế hỗn hợp là một nền kinh tế dựa trên thị trường bao gồm cả sở hữu tư nhân và công cộng của các phương tiện sản xuất và can thiệp kinh tế thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô nhằm sửa chữa thất bại thị trường, giảm thất nghiệp và giữ lạm phát thấp. Mức độ can thiệp tại các thị trường khác nhau giữa các quốc gia khác nhau. Một số nền kinh tế hỗn hợp, chẳng hạn như Pháp theo dirigisme, cũng có một mức độ lập kế hoạch kinh tế gián tiếp trên một nền kinh tế chủ yếu dựa trên tư bản. Khác Các biến thể khác của chủ nghĩa tư bản bao gồm: Chủ nghĩa vô chính phủ Chủ nghĩa cộng đồng Chủ nghĩa tân tự do Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước chủ nghĩa Supercapitalism Chủ nghĩa tư bản Techno Chủ nghĩa tư bản phúc lợi Tích lũy tư bản Sự tích lũy tư bản đề cập đến quá trình "đầu tư kiếm tiền", hoặc tăng một khoản tiền ban đầu thông qua đầu tư vào sản xuất. Chủ nghĩa tư bản dựa trên sự tích lũy vốn, theo đó vốn tài chính được đầu tư để tạo ra lợi nhuận và sau đó tái đầu tư vào sản xuất tiếp tục trong một quá trình tích lũy liên tục. Trong học thuyết kinh tế Marxist, động lực này được gọi là định luật giá trị. Tích lũy tư bản là cơ sở của chủ nghĩa tư bản, nơi hoạt động kinh tế được cấu trúc xung quanh sự tích lũy vốn, được định nghĩa là đầu tư để thực hiện một lợi nhuận tài chính. Trong bối cảnh này, "vốn" được định nghĩa là tiền hoặc tài sản tài chính được đầu tư cho mục đích kiếm nhiều tiền hơn (cho dù dưới dạng lợi nhuận, tiền cho thuê, tiền lãi, tiền bản quyền, tăng vốn hoặc một số loại lợi nhuận khác). Trong kinh tế, kế toán và kinh tế học Marxian, tích lũy tư bản thường được cân bằng với đầu tư của thu nhập lợi nhuận hoặc tiết kiệm, đặc biệt là trong hàng hóa vốn thực. Sự tập trung và tập trung hóa là hai trong số các kết quả tích lũy như vậy. Trong kinh tế vĩ mô và kinh tế học hiện đại, cụm từ "hình thành vốn" thường được sử dụng ưu tiên "tích lũy", mặc dù Hội nghị Liên Hợp Quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD) đề cập đến ngày nay là "tích lũy". Cụm từ này đôi khi được sử dụng trong các tài khoản quốc gia. Nền tảng chung Tích lũy có thể được đo lường bằng giá trị tiền tệ của các khoản đầu tư, số tiền thu nhập được tái đầu tư hoặc thay đổi giá trị tài sản sở hữu (sự gia tăng giá trị của cổ phiếu vốn). Sử dụng bảng cân đối kế toán của công ty, dữ liệu thuế và khảo sát trực tiếp làm cơ sở, thống kê của chính phủ ước tính tổng đầu tư và tài sản cho mục đích tài khoản quốc gia, số dư thanh toán quốc gia và số liệu thống kê quỹ. Ngân hàng Dự trữ và Kho bạc thường cung cấp giải thích và phân tích dữ liệu này. Các chỉ số tiêu chuẩn bao gồm hình thành vốn, hình thành vốn cố định, vốn cố định, tài sản hộ gia đình và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các tổ chức như Quỹ Tiền tệ Quốc tế, UNCTAD, Nhóm Ngân hàng Thế giới, OECD và Ngân hàng Thanh toán Quốc tế đã sử dụng dữ liệu đầu tư quốc gia để ước tính xu hướng thế giới. Cục Phân tích Kinh tế, Eurostat và Văn phòng Thống kê Nhật Bản cung cấp dữ liệu về Hoa Kỳ, Châu Âu và Nhật Bản tương ứng. Các nguồn thông tin đầu tư hữu ích khác là các tạp chí kinh doanh như Fortune, Forbes, The Economist, Business Week và các tổ chức "cơ quan giám sát" và các ấn phẩm tổ chức phi chính phủ khác. Một tạp chí khoa học uy tín là Review of Income & Wealth. Trong trường hợp của Hoa Kỳ, các tài liệu "Quan điểm phân tích" (một phụ lục cho ngân sách hàng năm) cung cấp sự giàu có hữu ích và ước tính vốn áp dụng cho cả nước. Trong học thuyết kinh tế của Karl Marx, tích luỹ tư bản liên quan đến hoạt động nhờ đó lợi nhuận được tái đầu tư làm tăng tổng số vốn. Thủ đô được Marx xem như là giá trị mở rộng, nghĩa là một số vốn, thường được thể hiện bằng tiền, được chuyển đổi qua lao động của con người thành một giá trị lớn hơn, được trích ra dưới dạng lợi nhuận và được biểu thị bằng tiền. Ở đây, vốn được định nghĩa cơ bản là giá trị tài sản kinh tế hoặc thương mại để tìm kiếm giá trị bổ sung hoặc giá trị thặng dư. Điều này đòi hỏi các mối quan hệ bất động sản cho phép các đối tượng có giá trị được chiếm đoạt và sở hữu, và các quyền giao dịch được thiết lập. Tích lũy tư bản có một nguồn gốc kép, cụ thể là trong thương mại và trong việc chiếm đoạt, cả hai loại hợp pháp hoặc bất hợp pháp. Lý do là một cổ phiếu vốn có thể được tăng lên thông qua một quá trình trao đổi hoặc "giao dịch", nhưng cũng thông qua trực tiếp lấy một tài sản hoặc tài nguyên từ một người khác mà không cần bồi thường. David Harvey gọi sự tích lũy này bằng sự phân tán. Sự tiếp tục và quá trình tích lũy tư bản phụ thuộc vào việc loại bỏ các trở ngại cho việc mở rộng thương mại và điều này có lịch sử thường là một quá trình bạo lực. Khi thị trường mở rộng, ngày càng nhiều cơ hội mới phát triển để tích lũy vốn vì ngày càng nhiều loại hàng hoá và dịch vụ có thể được giao dịch. Tuy nhiên, tích lũy tư bản cũng có thể đối đầu với sức đề kháng khi mọi người từ chối bán hoặc từ chối mua (ví dụ: bởi nhà đầu tư hoặc công nhân, hoặc sức đề kháng của người tiêu dùng). Tập trung và tập trung hóa Theo Marx, vốn có xu hướng tập trung và tập trung hóa vào tay của những người giàu có. Marx giải thích: "Đó là sự tập trung tư bản đã được hình thành, phá hủy độc lập cá nhân của họ, chiếm đoạt tư bản của tư bản, biến đổi nhiều nhỏ thành vài thủ đô lớn. [...] Vốn phát triển ở một nơi với khối lượng khổng lồ trong một bàn tay, bởi vì nó đã ở một nơi khác đã bị mất bởi nhiều người. [...] Cuộc chiến cạnh tranh được chiến đấu bằng cách làm giảm giá trị hàng hóa. Nó sẽ tiếp tục được ghi nhớ rằng, với sự phát triển của chế độ tư bản sản xuất, có sự gia tăng số vốn tối thiểu của vốn cá nhân cần thiết để thực hiện một doanh nghiệp trong điều kiện bình thường của nó Các thủ đô nhỏ hơn, do đó, tập trung vào các lĩnh vực sản xuất mà ngành công nghiệp hiện đại chỉ có một cách không thường xuyên hoặc không hoàn toàn có được. Đây là những cuộc cạnh tranh gay gắt [...] Nó luôn kết thúc trong đống đổ nát của con người y nhỏ tư bản, có thủ đô một phần đi vào tay của những kẻ chinh phục của họ, một phần biến mất ". Tỷ lệ tích lũy Trong kinh tế học Marx, tỷ lệ tích luỹ được định nghĩa là (1) giá trị của sự gia tăng ròng thực sự trong vốn cổ phần trong một kỳ kế toán; và (2) tỷ lệ thặng dư giá trị thực hiện hoặc thu nhập lợi nhuận được tái đầu tư, thay vì tiêu thụ. Tỷ lệ này có thể được biểu thị bằng các tỷ lệ khác nhau giữa số vốn gốc, doanh thu thực hiện, giá trị thặng dư hoặc lợi nhuận và tái đầu tư (ví dụ: các tác phẩm của nhà kinh tế Michał Kalecki). Những thứ khác bằng nhau, số tiền thu nhập lợi nhuận được giải ngân nhiều hơn như thu nhập cá nhân và được sử dụng cho mục đích tiêu hao, tỷ lệ tiết kiệm càng thấp và tỷ lệ tích luỹ càng thấp. Tuy nhiên, thu nhập dành cho tiêu dùng cũng có thể kích thích nhu cầu thị trường và đầu tư cao hơn. Đây là nguyên nhân của những tranh cãi bất tận trong lý thuyết kinh tế về "bao nhiêu để chi tiêu, và bao nhiêu để tiết kiệm". Trong giai đoạn bùng nổ của chủ nghĩa tư bản, sự tăng trưởng của đầu tư được tích lũy, tức là một đầu tư dẫn đến một đầu tư khác, dẫn đến một thị trường không ngừng mở rộng, một lực lượng lao động mở rộng và tăng mức sống cho đa số người dân. Trong tình trạng suy thoái, chủ nghĩa tư bản suy đồi, quá trình tích lũy ngày càng hướng tới đầu tư vào lực lượng quân sự và an ninh, bất động sản, đầu cơ tài chính và tiêu dùng sang trọng. Trong trường hợp đó, thu nhập từ sản xuất giá trị gia tăng sẽ giảm trong lợi ích của lãi suất, tiền thuê nhà và thu nhập thuế, với một hệ quả là sự gia tăng mức độ thất nghiệp vĩnh viễn. Vốn càng có nhiều vốn thì càng có nhiều vốn. Nghịch đảo cũng đúng và đây là một yếu tố trong khoảng cách mở rộng giữa người giàu và người nghèo. Ernest Mandel nhấn mạnh rằng nhịp điệu tích lũy và tăng trưởng vốn phụ thuộc rất nhiều vào (1) sự phân chia sản phẩm xã hội của một xã hội giữa "sản phẩm cần thiết" và "sản phẩm dư thừa"; và (2) phân chia sản phẩm dư thừa giữa đầu tư và tiêu dùng. Đổi lại, mô hình phân bổ này phản ánh kết quả cạnh tranh giữa các nhà tư bản, cạnh tranh giữa chủ nghĩa tư bản và người lao động và cạnh tranh giữa người lao động. Do đó, mô hình tích lũy vốn có thể không bao giờ được giải thích đơn giản bởi các yếu tố thương mại vì nó cũng liên quan đến các yếu tố xã hội và các mối quan hệ quyền lực. Sự xoay vòng tích lũy tư bản từ sản xuất Nói đúng ra, vốn đã tích lũy chỉ khi thu nhập lợi nhuận thực hiện đã được tái đầu tư vào tài sản vốn. Như đã đề xuất trong tập đầu tiên của Marx 'Das Kapital, quá trình tích lũy vốn trong sản xuất có ít nhất bảy yếu tố riêng biệt nhưng được liên kết: Vốn đầu tư ban đầu (vốn có thể vay vốn) bằng phương tiện sản xuất và sức lao động. Sự chỉ huy trên thặng dư lao động và chiếm đoạt của nó. Việc định giá (tăng giá trị) vốn thông qua sản xuất các đầu ra mới. Việc chiếm đoạt sản lượng mới do nhân viên sản xuất, có chứa giá trị gia tăng. Việc thực hiện giá trị thặng dư thông qua doanh thu đầu ra. Việc trích lập giá trị thặng dư đã thực hiện thành thu nhập (lợi nhuận) sau khi khấu trừ chi phí. Tái đầu tư thu nhập lợi nhuận trong sản xuất. Tất cả những khoảnh khắc này không chỉ đơn giản là một quá trình "kinh tế" hay thương mại. Thay vào đó, họ cho rằng sự tồn tại của các điều kiện pháp lý, xã hội, văn hóa và kinh tế, mà không có sự sáng tạo, phân phối và lưu thông của cải mới không thể xảy ra. Điều này trở nên đặc biệt rõ ràng khi nỗ lực được tạo ra để tạo ra một thị trường không tồn tại hoặc nơi mọi người từ chối giao dịch. Tái tạo đơn giản và mở rộng Trong tập thứ hai của Das Kapital, Marx tiếp tục câu chuyện và cho thấy rằng với sự trợ giúp của vốn tín dụng ngân hàng để tìm kiếm sự tăng trưởng có thể ít nhiều biến đổi thuận lợi từ dạng này sang dạng khác, luân phiên lấy hình thức tiền vốn (tiền gửi, chứng khoán), vốn hàng hóa (sản phẩm có thể giao dịch, bất động sản và tương tự), hoặc vốn sản xuất (phương tiện sản xuất và sức lao động). Thảo luận của ông về việc tái tạo đơn giản và mở rộng các điều kiện sản xuất cung cấp một mô hình phức tạp hơn về các thông số của quá trình tích lũy nói chung. Tại sao chép đơn giản, một lượng vừa đủ được tạo ra để duy trì xã hội theo mức sống nhất định; cổ phiếu vốn vẫn không đổi. Khi sinh sản mở rộng, giá trị sản phẩm được tạo ra nhiều hơn là cần thiết để duy trì xã hội ở mức sống nhất định (một sản phẩm dư thừa); giá trị sản phẩm bổ sung có sẵn cho các khoản đầu tư mở rộng quy mô và đa dạng sản xuất. Tư sản cho rằng không có luật kinh tế theo vốn cần tái đầu tư vào việc mở rộng sản xuất, điều đó phụ thuộc vào khả năng sinh lời, kỳ vọng thị trường và nhận thức về rủi ro đầu tư. Những tuyên bố như vậy chỉ giải thích những trải nghiệm chủ quan của các nhà đầu tư và bỏ qua những thực tế khách quan có ảnh hưởng đến những ý kiến ​​như vậy. Như Marx tuyên bố về khối lượng thứ hai của Das Kapital, tái tạo đơn giản chỉ tồn tại nếu biến và vốn thặng dư được thực hiện bởi nhà sản xuất phương tiện sản xuất - chính xác bằng vốn liên tục của nhà sản xuất các mặt hàng tiêu thụ (p. 524). Sự cân bằng như vậy dựa trên các giả định khác nhau, chẳng hạn như nguồn cung lao động không đổi (không có tăng trưởng dân số). Sự tích lũy không hàm ý một sự thay đổi cần thiết trong tổng độ lớn của giá trị được tạo ra, nhưng có thể chỉ đơn giản đề cập đến một sự thay đổi trong thành phần của một ngành công nghiệp (tr. 514). Ernest Mandel đã đưa ra khái niệm bổ sung về tái sản xuất kinh tế theo hợp đồng, tức là giảm tích lũy, nơi hoạt động kinh doanh thua lỗ tăng trưởng kinh doanh, hoặc sinh sản kinh tế trên quy mô giảm, ví dụ do chiến tranh, thiên tai hoặc mất giá. Tăng trưởng kinh tế cân bằng đòi hỏi các yếu tố khác nhau trong quá trình tích lũy mở rộng theo tỷ lệ thích hợp. Tuy nhiên, bản thân các thị trường không thể tự tạo ra sự cân bằng đó và thực tế điều thúc đẩy hoạt động kinh doanh chính xác là sự mất cân bằng giữa cung và cầu: bất bình đẳng là động cơ tăng trưởng. Điều này phần nào giải thích tại sao mô hình tăng trưởng kinh tế trên toàn thế giới là rất không đồng đều và bất bình đẳng, mặc dù thị trường đã tồn tại hầu như ở khắp mọi nơi trong một thời gian rất dài. Một số người cho rằng nó cũng giải thích quy định của chính phủ về thương mại và bảo hộ thị trường. Tích lũy tư bản như quan hệ xã hội "Tích luỹ tư bản" đôi khi cũng đề cập đến các tác phẩm Marxist để tái tạo các quan hệ xã hội tư bản (các thể chế) trên quy mô lớn hơn theo thời gian, tức là mở rộng quy mô của vô sản và của cải của sở hữu tư sản. Cách giải thích này nhấn mạnh rằng quyền sở hữu vốn, được xác định trên chỉ huy lao động, là một mối quan hệ xã hội: sự tăng trưởng vốn ngụ ý sự tăng trưởng của tầng lớp lao động ("luật tích lũy"). Trong tập đầu tiên của Das Kapital, Marx đã minh họa ý tưởng này với ám chỉ đến học thuyết thuộc địa của Edward Gibbon Wakefield: Trong tập thứ ba của Das Kapital, Marx đề cập đến "chủ nghĩa tôn sùng tư bản" đạt điểm cao nhất với tư bản chịu lãi bởi vì bây giờ tư bản dường như phát triển theo cách riêng của nó mà không ai làm gì cả: Tiền công lao động Tiền công lao động liên quan đến việc bán sức lao động theo hợp đồng lao động chính thức hoặc không chính thức với nhà tuyển dụng. Những giao dịch này thường xảy ra trong thị trường lao động, nơi lương thị trường định giá. Cá nhân sở hữu và cung cấp vốn tài chính hoặc lao động cho các dự án sản xuất thường trở thành chủ sở hữu, hoặc cùng nhau (là cổ đông) hoặc cá nhân. Trong kinh tế Marxist, những chủ sở hữu phương tiện sản xuất và nhà cung cấp vốn này thường được gọi là tư bản. Bản mô tả vai trò của tư bản đã thay đổi, trước hết đề cập đến một trung gian vô dụng giữa các nhà sản xuất với một chủ nhân của các nhà sản xuất và cuối cùng là đề cập đến chủ sở hữu phương tiện sản xuất. Lao động bao gồm tất cả các nguồn nhân lực thể chất và tinh thần, bao gồm năng lực kinh doanh và kỹ năng quản lý, cần thiết để sản xuất sản phẩm và dịch vụ. Sản xuất là hành vi tạo ra hàng hóa hoặc dịch vụ bằng cách áp dụng sức lao động. Các nhà chỉ trích chế độ tư bản sản xuất xem lao động làm công ăn lương là một yếu tố chính, nếu không xác định, khía cạnh của các hệ thống công nghiệp phân cấp. Hầu hết các đối thủ của tổ chức hỗ trợ nhân viên tự quản lý và dân chủ kinh tế như là lựa chọn thay thế cho cả lao động tiền lương và chủ nghĩa tư bản. Trong khi hầu hết các đối thủ của hệ thống tiền lương đổ lỗi cho chủ sở hữu tư bản của các phương tiện sản xuất cho sự tồn tại của nó, hầu hết các chủ nghĩa vô chính phủ và các nhà xã hội chủ nghĩa tự do khác cũng giữ nguyên nhà nước như một công cụ được các nhà tư bản sử dụng để trợ cấp và bảo vệ tổ chức quyền sở hữu tư nhân của phương tiện sản xuất. Như một số đối thủ của lao động tiền lương có ảnh hưởng từ các đề xuất Marxist, nhiều người phản đối quyền sở hữu tư nhân, nhưng duy trì sự tôn trọng tài sản cá nhân. Phân loại Hình thức lao động tiền lương phổ biến nhất hiện nay là trực tiếp bình thường, hoặc "toàn thời gian", việc làm trong đó một công nhân tự do bán lao động của mình trong một thời gian không xác định (từ một vài năm đến toàn bộ sự nghiệp của công nhân) tiền lương, tiền lương và mối quan hệ thường xuyên với người sử dụng lao động mà không nói chung là nhà thầu hoặc nhân viên bất thường khác. Tuy nhiên, tiền lương lao động có nhiều hình thức khác và rõ ràng như trái ngược với ngầm định (tức là điều kiện của lao động địa phương và luật thuế) hợp đồng không phải là không phổ biến. Lịch sử kinh tế cho thấy nhiều cách thức khác nhau trong đó lao động được giao dịch và trao đổi. Sự khác biệt hiển thị dưới dạng: Tình trạng việc làm: một công nhân có thể làm việc toàn thời gian, bán thời gian, hoặc một cách bình thường. Ví dụ, anh ta hoặc cô ta có thể được sử dụng tạm thời cho một dự án cụ thể, hoặc thường xuyên. Lao động tiền lương bán thời gian có thể kết hợp với việc làm bán thời gian. Người lao động có thể được thuê làm người học việc. Tư cách dân sự (hợp pháp): công nhân có thể là công dân tự do, một lao động thụt lề, chủ thể lao động cưỡng bức (kể cả một số trại giam hoặc lao động quân đội); một công nhân có thể được chỉ định bởi các nhà chức trách chính trị cho một nhiệm vụ, họ có thể là một người bán nô lệ hoặc một người bị ràng buộc với đất được thuê trong một phần thời gian. Vì vậy, lao động có thể được thực hiện trên cơ sở tự nguyện nhiều hơn hoặc ít hơn, hoặc trên cơ sở không tự nguyện nhiều hơn hoặc ít hơn, trong đó có nhiều lần tăng dần. Phương thức thanh toán (thù lao hoặc bồi thường): công việc được thực hiện có thể được trả bằng tiền mặt (tiền lương) hoặc "bằng hiện vật" (thông qua nhận hàng hóa và/hoặc dịch vụ), hoặc dưới hình thức "mức giá" tiền lương phụ thuộc trực tiếp vào số lượng công nhân sản xuất. Trong một số trường hợp, người lao động có thể được thanh toán dưới hình thức tín dụng được sử dụng để mua hàng hóa và dịch vụ, hoặc dưới hình thức lựa chọn cổ phiếu hoặc cổ phiếu trong một doanh nghiệp. Phương thức tuyển dụng: người lao động có thể tham gia vào hợp đồng lao động theo sáng kiến riêng của mình, hoặc người đó có thể thuê lao động của họ như một phần của một nhóm. Tuy nhiên, họ cũng có thể thuê lao động của họ thông qua một trung gian (chẳng hạn như một cơ quan việc làm) cho một bên thứ ba. Trong trường hợp này, anh ta hoặc cô ta được người trung gian trả tiền, nhưng làm việc cho bên thứ ba trả tiền cho người trung gian. Trong một số trường hợp, lao động là hợp đồng phụ nhiều lần, với một số trung gian. Một khả năng khác là người lao động được một cơ quan chính trị giao hoặc đăng lên một công việc, hoặc một cơ quan thuê một công nhân cho một doanh nghiệp cùng với phương tiện sản xuất. Đọc thêm Batra, Ravi. The Downfall of Capitalism and Communism Luân Đôn, MacMillan Press, 1978. Braudel, Fernand. Civilization and Capitalism: 15th - 18th Century 3 vols. Chandler, Alfred D., Jr. The Visible Hand: The Managerial Revolution in American Business. Friedman, Milton. Capitalism and Freedom Friedman, Milton. Free to Choose Cambridge, Mass., and Luân Đôn: Belknap Press of Harvard University Press, 1977. Galbraith, John Kenneth. The New Industrial State, 4th ed., 1985. John Gray (LSE). False Dawn: The Delusions of Global Capitalism , Granta, 2002 ISBN 1862075301 Harvey, David. "The Political-Economic Transformation of Late Twentieth Century Capitalism." In Harvey, David. The Condition of Postmodernity. Cambridge, MA: Blackwell Publishers, 1990. ISBN 0-631-16294-1 Landes, David S. The Unbound Prometheus: Technological Change and Industrial Development in Western Europe from 1750 to the Present. Cambridge, U.K.: Cambridge University Press, 1969. Marx, Karl. Capital: A Critical Analysis of Capitalist Production, 3 vol., 1886–1909; first published in German as Das Kapital: Kritik der politischen Oekonomie, 1867–1894. Wood, Ellen Meiksins. The Empire of Capital, Verso, 2005. ISBN 1-84467-518-1 Wood, Ellen Meiksins. The Origin of Capitalism: A Longer View, Verso, 2002. ISBN 1-85984-392-1 Mills, C. Wright.: The Power Elite. (Random House), 2002 Norberg, Johan: In Defence of Global Capitalism. ISBDN 1930865473 Philips, Kevin: Wealth and Democracy: A Political History of the American Rich. Rand, Ayn. Capitalism: The Unknown Ideal ISBN 0-451-14795-2 Rostow, W. W. The Stages of Economic Growth: A Non-Communist Manifesto. Cambridge: Cambridge University Press, 1960. Rothbard, Murray. Man, Economy, and State: A Treatise on Economic Principles, (2 volumes.) 1962. Smith, Adam. An Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of Nations, 1776. Wall, Derek. An Babylon and Beyond: The Economics of Anti-capitalist, Anti-globalist and Radical Green Movements. Luân Đôn: Pluto. ISBN 0-7453-2390-1 Wallerstein, Immanuel: The Modern World System. Xem thêm Sách đen của chủ nghĩa tư bản Chủ nghĩa chống tư bản Phê phán chủ nghĩa tư bản Tập đoàn trị Tham khảo Liên kết ngoài "How the U.S. Economy Works" from U.S. Department of State Article from the U.S. Department of State says the U.S. is a mixed economy "Capitalism/Anticapitalism" On the origin and features of capitalism Protestantism and the Rise of Capitalism - by Max Weber Chủ nghĩa tư bản Hệ thống kinh tế Cấu trúc xã hội Xã hội Triết học xã hội Học thuyết kinh tế Kinh tế chính trị Kinh tế sản phẩm Lợi nhuận Văn hóa phương Tây
26004
https://vi.wikipedia.org/wiki/Khai%20s%C6%A1n
Khai sơn
Khai sơn (開山) có nghĩa là mở núi lấy đường đi. Chỉ công việc mở mang lúc đầu. Trong Phật giáo, từ khai sơn – cũng được gọi là Khai sơn lập tự (開山立寺) hoặc Khai sơn kiến tự (開山建寺) – chính là việc kiến lập một ngôi chùa, một thiền viện. Thời xưa, các đạo trường tu hành phần lớn đều được kiến lập ở những nơi nhàn tĩnh, trong núi rừng yên lặng nên người ta dùng chữ khai sơn. Ngày nay, phàm có khai sáng một tự viện người ta đều gọi là khai sơn cả. Cũng có lúc người mộ đạo khai sáng tự viện, nhưng sau đó lại mời một cao tăng đến để khai sơn. Phật Tổ thống kỉ (佛祖統紀) quyển 14, truyện Trạch Khanh (擇卿, Đại Chính 49.222a) ghi như sau: "Sau khi xây Thọ Thánh viện xong, họ thỉnh sư khai sơn." Vân Cư Sơn Chí (142, hạ) ghi: 遂立志開山弘法、立寺傳教、利己利他、濟人濟世。 Sư liền lập chí khai sơn hoằng pháp, cất chùa truyền giáo, lợi mình lợi người, cứu giúp mọi người. Ngoài ra, vị Khai Tổ của một tông phái cũng được gọi là Khai sơn, như trường hợp Đạo Nguyên Hi Huyền được gọi là Khai sơn Thiền sư, Thân Loan Thánh nhân được gọi là Khai sơn Thánh nhân. Tham khảo Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.) Từ điển Thiền Tông Hán Việt. Hân Mẫn & Thông Thiền biên dịch. TP HCM 2002. Phật học Tự viên Phật giáo
26005
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A2n%20Loan
Thân Loan
Thân Loan (zh. 親鸞, ja. shinran), 1173-1262, là Cao tăng người Nhật, sáng lập Tịnh độ chân tông (ja. jōdo-shin-shū) của Phật giáo Nhật Bản. Ông là học trò của Pháp Nhiên (zh. 法燃, ja. hōnen, Tịnh độ tông) nhưng có quan điểm khác thầy. Giáo pháp của tông này không còn giống Phật pháp nguyên thủy là bao nhiêu. Ba ngôi báu (Tam bảo, sa. triratna) được đơn giản hoá thành lời thệ nguyện của đức Phật A-di-đà (sa. amitābha) – nói chính xác hơn là lời nguyện thứ 18 trong 48 lời nguyện của Ngài. Ngôi báu thứ ba của Tam bảo là Tăng-già bị bác bỏ, các đệ tử của ông hoàn toàn là những Cư sĩ, chính ông lập gia đình. Theo Thân Loan thì sự tu tập thuần tuý theo Tự lực vô bổ. Ông quan niệm rằng, mọi người đều cần sự giúp đỡ từ bên ngoài (Tha lực) của đức A-di-đà và giải thoát chỉ có thể đạt được với sự giúp đỡ của Ngài. Ông quy tất cả các phương pháp tu hành về một: là Niệm Phật, niệm danh hiệu của Phật A-di-đà và cho rằng đó chính là sự báo ân đối với vị Phật này và ngay cả cách niệm Phật này cũng trở thành dư thừa nếu niềm tin của người niệm danh nơi Ngài đủ mạnh, vững chắc. Thân Loan quan niệm rằng người tu hành Phật đạo có thể sống tại gia. Ông bị Tăng-già tại Kinh Đô (kyōto) trục xuất và bị đày đi đến một tỉnh miền Bắc bởi vì sống chung với một phụ nữ. Theo yêu cầu của thầy, ông cưới vợ để chứng minh rằng Giới luật dành cho tăng chúng không phải là điều kiện chính yếu để đạt giải thoát. Việc này gây sự bất hoà và chia rẽ trong giới đệ tử của Pháp Nhiên vì đa số tăng sĩ muốn giữ giới độc thân. Sau đó Thân Loan sống bên lề xã hội, cùng với những kẻ mà theo ông là không biết phân biệt thiện ác. Thân Loan cho rằng Phật A-di-đà là vị sẵn sàng hơn cả cứu độ những người "kém cỏi" vì những người này không có gì khác hơn là lòng tin nơi A-di-đà. Còn những người "giỏi giang" hơn thì hay bị rơi vào ý nghĩ – theo ông là mê lầm – là nhờ thiện nghiệp hay Công đức tự tạo mà có thể đạt giải thoát. Ông chỉ biết đến thệ nguyện thứ 18 của Phật A-di-đà và vì vậy có nhiều khác biệt với Tịnh độ tông và Pháp Nhiên. Chú thích Tham khảo Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.) Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren, Bern 1986. Đại sư Phật giáo Tịnh độ tông Phật giáo Nhật Bản Sinh năm 1173
26009
https://vi.wikipedia.org/wiki/Xanh
Xanh
Xanh là một từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Việt. Từ này khi đứng riêng có nghĩa khá mơ hồ, có thể dùng để miêu tả nhiều dải màu khác nhau nhưng tựu trung mang một trong hai sắc thái chính là Màu lam (blue) và Màu lục (green). Chữ Hán 青 (thanh theo phiên âm Hán Việt, qīng theo pīnyīn) cũng thể hiện sự mơ hồ về màu sắc tương tự như vậy. Một số màu xanh cụ thể: Xanh Ba Tư Xanh berin Xanh cô ban Xanh crôm Xanh da trời Xanh lá cây Xanh lam Xanh lục bảo Xanh lơ Xanh nõn chuối Xanh Phổ Xanh Thổ Xanh thủy tinh Ngoài ra, xanh còn là một dụng cụ dùng để xào nấu thức ăn, thường bằng đồng, đáy bằng, thành đứng, có hai quai. Màu sắc
26014
https://vi.wikipedia.org/wiki/Albert%20Camus
Albert Camus
Albert Camus (; ngày 7 tháng 11 năm 1913 - ngày 4 tháng 1 năm 1960) là một nhà văn, triết gia, nhà báo người Pháp nổi tiếng. Các tác phẩm tiêu biểu của ông bao gồm: Người xa lạ, Dịch hạch, Huyền thoại Sisyphe, Con người phản kháng, Sa đọa. Albert Camus được trao tặng Giải Nobel Văn học năm 1957 "vì các sáng tác văn học của ông đã đưa ra ánh sáng những vấn đề đặt ra cho lương tâm loài người ở thời đại chúng ta". Về triết học, ông được biết đến vì những đóng góp cho chủ nghĩa phi lý. Mặc dù cũng được coi là một nhà triết học hiện sinh, nhưng ông thường bác bỏ điều này trong suốt cuộc đời mình. Tiểu sử Albert Camus sinh ngày 7 tháng 11 năm 1913 tại Mondovi, một làng ở Constantinois, gần Bône, Algérie. Cha ông, Lucien Camus, một công nhân sản xuất rượu nho vùng Mondovi cho một thương gia thành phố Alger. Khi Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra, Lucien Camus bị động viên vào tháng 9 năm 1914, bị thương trong trận chiến Marne và chết tại bệnh viện quân y Saint-Brieuc ngày 17 tháng 10 năm 1914. Về cha mình, Albert chỉ biết qua một bức ảnh duy nhất còn để lại. Gia đình của Albert sống ở thủ đô Alger và trong thời gian học tập ở đây, được sự động viên của giáo sư, triết gia Jean Grenier, ông bắt đầu tìm hiểu Friedrich Nietzsche. Albert Camus cầm bút từ rất sớm, những bài viết đầu tiên của ông xuất hiện trên tạp chí Sud vào năm 1932. Sau khi tốt nghiệp trung học, ông học triết học ở Đại học Alger. Albert định sẽ học tiếp cao học, nhưng bệnh lao phổi đã cản trở ý định của ông. Năm 1935, Albert bắt đầu viết tác phẩm L'Envers et l'Endroit (Bề trái và bề mặt) và xuất bản hai năm sau đó. Tại Alger, ông thành lập nhóm Théâtre du Travail và năm 1937 đổi tên thành Théâtre de l'Équipe. Thời gian đó, Albert rời bỏ đảng cộng sản mà ông là thành viên từ năm 1934. Năm 1938, ông viết quyển Noces (Giao cảm), tuy ca ngợi vẻ đẹp rực rỡ của mặt trời quê hương nhưng ông đã cho thấy sự bi quan sâu sắc về cuộc sống. Tiếp theo, ông làm việc cho tờ Front populaire của Pascal Pia, cuộc điều tra Misère de la Kabylie của ông đã gây được tiếng vang lớn. Năm 1940, chính phủ Algérie ra lệnh đóng cửa tờ báo và cũng với sự can thiệp của chính phủ, Abert Camus đã không thể tìm được việc làm ở Alger. Albert đến Paris làm biên tập cho tờ Paris-Soir. Năm 1942, ông phát hành cuốn tiểu thuyết L'Étranger (Người xa lạ) và tiểu luận Le Mythe de Sisyphe (Huyền thoại Sisyphe), trong đó ông đã trình bày những tư tưởng triết học của mình. Sisyphe là một nhân vật trong thần thoại Hy Lạp bị trừng phạt phải lăn một hòn đá lớn lên núi dốc, khi đến đỉnh hòn đá lại rơi trở xuống chân dốc, cứ thế Sisyphe tiếp tục lăn lên rồi rơi xuống theo một chu kỳ vĩnh cửu. Theo hệ sự phân loại của riêng Albert, các tác phẩm đó thuộc "thời kỳ phi lý" (cycle de l'absurde), cùng với các vở kịch Le Malentendu (Ngộ nhận, 1944) và Caligula (1945). Năm 1943, ông làm việc cho nhà xuất bản Gallimard rồi làm chủ biên tập báo Combat, cũng trong năm này ông gặp và làm quen với Jean-Paul Sartre. Những tác phẩm tiếp theo của Camus thuộc "thời kỳ nổi loạn" (cycle de la révolte), trong đó nổi tiếng hơn cả phải kể đến La Peste (Dịch hạch, 1947), kế đến L'État de siège (1948), Les Justes (Những người trung thực, 1949) và L'Homme révolté (Con người phản kháng, 1951). Trong quyển tiểu luận triết học L'Homme révolté, ông đã trình bày tất cả các hình thức nổi loạn (siêu hình, chính trị và nghệ thuật...) qua mọi thời đại. Ông miêu tả con người cảm nhận sâu sắc sự phi lý của cuộc sống, luôn muốn nổi dậy, chống lại nỗi khốn khổ của kiếp người, nhưng cuối cùng vẫn không có lối thoát, mọi cố gắng đều hoàn toàn vô ích. Tình bạn giữa Albert Camus và Jean-Paul Sartre rạn nứt vào năm 1952, sau khi trên tạp chí Les Temps modernes của Sartre, Henri Jeanson đã chê trách sự nổi loạn của Camus là "có suy tính". Năm 1956, tại Alger, Albert công bố "Appel pour la trêve civile". Cũng trong năm đó, cuốn La Chute (Sa đọa), tác phẩm quan trọng cuối cùng của Albert Camus được xuất bản. Ngày 4 tháng 1 năm 1960, tại Petit-Villeblevin vùng Yonne, Albert Camus mất trong một tai nạn giao thông. Trên chiếc xe Facel Véga khi đó còn có một người bạn của ông Michel Gallimard và người cháu Gaston. Albert Camus được chôn cất ở Lourmarin, vùng Vaucluse, nơi ông đã mua một căn nhà trước đó. Tác phẩm tiêu biểu Tiểu thuyết L'Etranger (Người xa lạ, 1942, còn được dịch thành Kẻ xa lạ, Người dưng, Kẻ ngoại cuộc) La Peste (Dịch hạch, 1947) La Chute (Sa đọa, 1956) La Mort heureuse (một văn bản sớm của L'Etranger, ấn bản sau khi chết, 1970) Le premier homme (chưa hoàn tất, ấn bản sau khi chết, 1995) Truyện ngắn L'exil et le royaume (Lưu đày và quê nhà, 1957), gồm có: La Femme Adultère (Người đàn bà ngoại tình) Le Renégat ou un esprit confus (Kẻ phản bội) Les Muets (Những người câm) L'Hôte Jonas, ou l'artiste au travail (Jonas hay công nghiệp người nghệ sĩ) La Pierre qui pousse (Đá mọc) Kịch Caligula (Hoàng đế La Mã Caligula, 1938) Le Malentendu (Ngộ nhận, 1944) L'État de siège (Tình trạng giới nghiêm, 1948) Les Justes (Những người trung thực, 1949) Les Possédés (phỏng theo tiểu thuyết cùng tên của Fyodor Dostoevsky, 1959) Requiem pour une nonne (phỏng theo tiểu thuyết cùng tên của William Faulkner, 1962) Phi hư cấu L'envers et l'endroit (Bề trái và bề mặt, 1937) Noces (Giao cảm, 1938, còn được dịch thành Hôn lễ, Đám cưới) Le Mythe de Sisyphe (Huyền thoại Sisyphe, 1942, còn được dịch thành Thần thoại Sisyphus) Lettres à un ami allemand (dưới bút hiệu Louis Neuville, 1948) L'Homme révolté (Con người phản kháng, 1951, còn được dịch thành Người nổi loạn) Carnets, 1935-1942 (1962) Carnets, 1942-1951 (1965) Carnets, 1951-1959 (1989) Correspondance inédite, 1944-1959 (Thư từ trao đổi giữa Albert Camus và María Casares, 2017) Các bản dịch tiếng Việt Tuy số lượng tác phẩm để lại không nhiều, nhưng Camus lại là một trong số nhà văn nước ngoài được dịch ở Việt Nam một cách kịp thời, nhanh chóng và tương đối đầy đủ, đặc biệt ở miền Nam trước thời điểm 1975 khi mà ảnh hưởng của nền văn chương hiện sinh đến từ phương Tây nói chung và từ nước Pháp nói riêng là rất lớn. Thư mục dịch thuật ở Việt Nam (thứ tự sắp xếp theo năm): Nguyễn Văn Trung dịch (1960), Người đàn bà ngoại tình, in trên số tháng 12, tuần báo Sáng tạo, Tập san Văn. Trần Phong Giao dịch (1963), Sứ mệnh văn nghệ hiện đại (Discours de Suède), NXB Giao Điểm, in lại bởi NXB An Tiêm (1974). Trần Thiện Đạo dịch (1964), Giao Cảm, NXB Giao điểm. Trần Phong Giao dịch (1965), Những người trung thực, Tập san Văn. Vương Trân Nam dịch, Bàn tay của tình thương (Les Justes), Tập san Văn học. Trần Phong Giao & Vũ Đình Lưu dịch (1965), Lưu đày và quê nhà, NXB Giao điểm. Dương Kiền & Bùi Ngọc Dung dịch (1965), Người xa lạ, NXB Đời Nay. Võ Lang dịch (1965), Người xa lạ, NXB Thời Mới. Hoàng Văn Đức dịch (1966), Dịch hạch, NXB Thời Mới. Bùi Giáng trích dịch (1966), Mùa hè (L'Été), Con người phản kháng, in trong Sương Tỳ Hải, NXB Phú Vang, in lại bởi NXB An Tiêm (1972), NXB Văn nghệ TP.HCM (2007). Trần Thiện Đạo dịch (1967), Bề trái và bề mặt, NXB Giao Điểm. Bùi Giáng dịch (1967), Con người phản kháng, NXB Võ Tánh. Bùi Giáng dịch (1967), Bạo chúa Caligula, NXB Võ Tánh. Nguyễn Thức dịch, Caligula, Tập san Gió Mới. Bùi Giáng dịch (1968), Mùa hè sa mạc (L’Été – Le Désert – Noces), NXB Võ Tánh. Bùi Giáng dịch (1969), Biển đông xe cát (Le Mythe de Sisyphe), NXB An Tiêm. Tuấn Minh dịch (1970), Kẻ xa lạ, NXB Sống Mới. Võ Văn Dung dịch (1971), Dịch hạch, NXB Dịch Giả, in lại bởi NXB Dân trí (2020). Bùi Giáng dịch (1972), Ngộ nhận, NXB An Tiêm, in lại bởi NXB Văn nghệ TP.HCM (2006). Bùi Giáng dịch (1972), Sổ ghi (Carnets), NXB An Tiêm. Trần Thiện Đạo dịch (1972), Sa đọa, NXB Giao Điểm, in lại bởi NXB Hội Nhà văn (1995). Lê Thanh Hoàng Dân & Mai Vi Phúc dịch (1973), Kẻ xa lạ, NXB Trẻ. Nguyễn Trọng Định dịch (1989), Dịch hạch, NXB Văn học. Vũ Đình Phòng dịch (1992), Nơi lưu đày và vương quốc (L'exil et le royaume), NXB Hội Nhà văn. Dương Tường dịch (1995), Người dưng, NXB Văn học. Vũ Đình Phòng dịch (1998), Người đàn bà ngoại tình, in trong tập Truyện ngắn nước ngoài chọn lọc, NXB Quân đội Nhân dân. Vũ Đình Phòng dịch (1998), Kẻ phản bội, Những người câm (Le Renégat ou un esprit confus – Les Muets), in trong Truyện ngắn chọn lọc tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà văn. Nguyễn Trần Sâm dịch (2000), Kẻ xa lạ, Blog Đào Hiếu. Nguyễn Văn Dân dịch (2002), Kẻ xa lạ, in trong Văn học phi lí, NXB Văn hóa Thông tin. Nguyễn Văn Dân dịch (2002), Một lập luận phi lí và huyền thoại Sisyphe, in trong Văn học phi lí, NXB Văn hóa Thông tin. Dương Linh dịch (2004), Người đàn bà ngoại tình, Jonas hay công nghiệp người nghệ sĩ (Jonas, ou l'artiste au travail), Đá mọc (La Pierre qui pousse), in trong Tuyển tập truyện ngắn tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà văn. Trần Thiện Đạo dịch (2004), Giao cảm & Bề trái và bề mặt, NXB Văn hóa Thông tin. An Nguyễn dịch (2005), Người xa lạ, NXB Antôn & Đuốc sáng. Lê Khắc Thành dịch (2006), Caligula, NXB Sân khấu. Trương Thị Hoàng Yến & Phong Sa dịch (2014), Thần Thoại Sisyphus, NXB Trẻ. Thanh Thư dịch (2017), Người xa lạ, NXB Hội Nhà văn. Liễu Trương dịch (2021), Kẻ ngoại cuộc, NXB Dân trí. Tham khảo Liên kết ngoài Albert Camus Bài viết của Thụy Khuê Biographie et citations d'Albert Camus Tiếng Pháp Biblioweb Tiếng Pháp Existentialism and Albert Camus Tiếng Anh Albert Camus Society UK Tiếng Anh Société des Études Camusiennes Fonds Albert Camus - Cité du livre d'Aix en Provence Albert Camus Tiếng Đức Người đoạt giải Nobel Văn học Nhà triết học Pháp Nhà văn Pháp Chủ nghĩa hiện sinh Người Pháp đoạt giải Nobel Nhà triết học vô thần Nhà viết kịch Pháp Sinh năm 1913 Mất năm 1960 Đảng viên Đảng Cộng sản Pháp Tử vong vì tai nạn giao thông ở Pháp Nhà văn Pháp ngữ
26015
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kurt%20G%C3%B6del
Kurt Gödel
Kurt Gödel (28 tháng 4 năm 1906 – 14 tháng 1 năm 1978) là một nhà toán học và logic học nổi tiếng người Áo, người đã được tờ tạp chí danh tiếng Time bình chọn là một trong 100 người có tầm ảnh hưởng nhất thế kỷ 20. Ông là tác giả của một định lý nổi tiếng trong toán học: "Định lý bất toàn" (incompleteness theorem), là một định lý được giới khoa học so sánh với thuyết tương đối của Einstein và nguyên lý bất định của Heisenberg. Định lý này khẳng định rằng bất kì một hệ tiên đề hình thức độc lập nào đủ mạnh để miêu tả số học cũng hàm chứa những mệnh đề không thể khẳng định mà cũng không thể phủ định. Được chứng minh vào năm 1930 và công bố một năm sau đó, định lý này đã đập tan niềm tin tuyệt đối của các nhà toán học vào sức mạnh của các công cụ hình thức vốn được đề xuất bởi David Hilbert và các cộng sự nhằm loại bỏ những mâu thuẫn và nghịch lý ra khỏi toán học. Tiểu sử Thời trẻ Ông sinh ngày 28 tháng 4 năm 1906 tại Brünn, một trung tâm công nghiệp của Đế quốc Áo-Hung (nay là thành phố Brno của Cộng hòa Séc). Tại Wien Tại Princeton Ông giảng dạy toán học ở Đại học Princeton (Hoa Kỳ) từ năm 1953. Cuối đời Ông sống rất sạch sẽ, thậm chí có tin đồn rằng ông mất năm 1978 vì ông sợ không dám ăn thức ăn trong bát đĩa mà ông nghi là chưa sạch. Gödel mắc bệnh hoang tưởng, luôn nghi ngờ có người âm mưu, đầu độc ông. Định lý Gödel Tác phẩm Über formal unentscheidbare Sätze der Principia Mathematica und verwandter Systeme, Monatshefte für Mathematik und Physik, vol. 38 (1931) The Consistency of the Axiom of Choice and of the Generalized Continuum Hypothesis with the Axioms of Set Theory. Princeton University Press, Princeton, NJ. (1940) Rotating Universes in General Relativity Theory (1950) Tham khảo thêm Dawson, John W. Logical dilemmas: The life and work of Kurt Gödel. A K Peters. ISBN 1-56881-025-3 Depauli-Schimanovich, Werner, & Casti, John L. Gödel: A life of logic. Perseus. ISBN 0-7382-0518-4 Goldstein, Rebecca (2005). Incompleteness: The Proof and Paradox of Kurt Godel (Great Discoveries). W. W. Norton & Company. ISBN 0-393-05169-2 Hofstadter, Douglas. Gödel, Escher, Bach. ISBN 0-465-02656-7 Nagel, Ernst, & Newman, James R. Gödel's Proof. New York University Press. ISBN 0-8147-5816-9 Wang, Hao (1996). A logical journey: From Gödel to philosophy. Cambridge, MA: MIT Press. Yourgrau, Palle (2004). A World Without Time: The Forgotten Legacy of Gödel and Einstein. Basic Books. ISBN 0-465-09293-4 Yourgrau, Palle (1999). Gödel Meets Einstein: Time Travel in the Gödel Universe. Open Court. ISBN 0-8126-9408-2 Liên kết ngoài Time Bandits: an article about the relationship between Gödel and Einstein by Jim Holt "Gödel and the limits of logic" by John W Dawson Jr. (June 2006) Notices of the AMS, April 2006, Volume 53, Number 4 Kurt Gödel Centenary Issue Paul Davies and Freeman Dyson discuss Kurt Godel "Gödel and the Nature of Mathematical Truth" Edge: A Talk with Rebecca Goldstein on Kurt Gödel. It's Not All In The Numbers: Gregory Chaitin Explains Gödel's Mathematical Complexities. Gödel photo g. National Academy of Sciences Biographical Memoir Xem thêm Giải Gödel, giải toán học mang tên của Kurt Gödel Gödel, Escher, Bach http://diendantoanhoc.net/forum/index.php?showtopic=68 http://diendantoanhoc.net/forum/index.php?showtopic=520 Tham khảo Liên kết ngoài Time Bandits: an article about the relationship between Gödel and Einstein by Jim Holt "Gödel and the limits of logic" by John W Dawson Jr. (June 2006) Notices of the AMS, April 2006, Volume 53, Number 4 Kurt Gödel Centenary Issue Paul Davies and Freeman Dyson discuss Kurt Godel "Gödel and the Nature of Mathematical Truth" Edge: A Talk with Rebecca Goldstein on Kurt Gödel. It's Not All In The Numbers: Gregory Chaitin Explains Gödel's Mathematical Complexities. Gödel photo g. National Academy of Sciences Biographical Memoir Godel, Kurt Godel, Kurt Nhà toán học thế kỷ 20 Godel, Kurt Giải thưởng Nhà nước về Khoa học, Hoa Kỳ Nhà triết học Mỹ Người Mỹ gốc Áo Nhà lý thuyết tập hợp Mất năm 1978 Triết gia thế kỷ 20 Chết vì đói khát Nhà bản thể học Người Brno Tín hữu Tin Lành Mỹ
26016
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%BD%20thuy%E1%BA%BFt%20%C4%91%E1%BB%93%20th%E1%BB%8B
Lý thuyết đồ thị
Trong toán học và tin học, lý thuyết đồ thị (tiếng Anh: graph theory) nghiên cứu các tính chất của đồ thị. Một cách không chính thức, đồ thị là một tập các đối tượng được gọi là các đỉnh (hoặc nút) nối với nhau bởi các cạnh (hoặc cung). Cạnh có thể có hướng hoặc vô hướng. Đồ thị thường được vẽ dưới dạng một tập các điểm (các đỉnh nối với nhau bằng các đoạn thẳng (các cạnh). Đồ thị biểu diễn được rất nhiều cấu trúc, nhiều bài toán thực tế có thể được biểu diễn bằng đồ thị. Ví dụ, cấu trúc liên kết của một website có thể được biểu diễn bằng một đồ thị có hướng như sau: các đỉnh là các trang web hiện có tại website, tồn tại một cạnh có hướng nối từ trang A tới trang B khi và chỉ khi A có chứa 1 liên kết tới B. Do vậy, sự phát triển của các thuật toán xử lý đồ thị là một trong các mối quan tâm chính của khoa học máy tính. Cấu trúc đồ thị có thể được mở rộng bằng cách gán trọng số cho mỗi cạnh. Có thể sử dụng đồ thị có trọng số để biểu diễn nhiều khái niệm khác nhau. Ví dụ, nếu đồ thị biểu diễn một mạng đường giao thông, các trọng số có thể là độ dài của mỗi con đường. Một cách khác để mở rộng đồ thị cơ bản là quy định hướng cho các cạnh của đồ thị (như đối với các trang web, A liên kết tới B, nhưng B không nhất thiết cũng liên kết tới A). Loại đồ thị này được gọi là đồ thị có hướng. Một đồ thị có hướng với các cạnh có trọng số được gọi là một lưới. Các lưới có nhiều ứng dụng trong khía cạnh thực tiễn của lý thuyết đồ thị, chẳng hạn, phân tích lưới có thể dùng để mô hình hoá và phân tích mạng lưới giao thông hoặc nhằm "phát hiện" hình dáng của Internet - (Xem thêm các ứng dụng đưới đây. Mặc dù vậy, cũng nên lưu ý rằng trong phân tích lưới, thì định nghĩa của khái niệm "lưới" có thể khác nhau và thường được chỉ ra bằng một đồ thị đơn giản.) Lịch sử Một trong những kết quả đầu tiên trong lý thuyết đồ thị xuất hiện trong bài báo của Leonhard Euler về Bảy cây cầu ở Königsberg, xuất bản năm 1736. Bài báo này cũng được xem như một trong những kết quả topo đầu tiên trong hình học, tức là, nó không hề phụ thuộc vào bất cứ độ đo nào. Nó diễn tả mối liên hệ sâu sắc giữa lý thuyết đồ thị và tôpô học. Năm 1845, Gustav Kirchhoff đưa ra Định luật Kirchhoff cho mạch điện để tính điện thế và cường độ dòng điện trong mạch điện. Năm 1852 Francis Guthrie đưa ra bài toán bốn màu về vấn đề liệu chỉ với bốn màu có thể tô màu một bản đồ bất kì sao cho không có hai nước nào cùng biên giới được tô cùng màu. Bài toán này được xem như đã khai sinh ra lý thuyết đồ thị, và chỉ được giải sau một thế kỉ vào năm 1976 bởi Kenneth Appel và Wolfgang Haken. Trong khi cố gắng giải quyết bài toán này, các nhà toán học đã phát minh ra nhiều thuật ngữ và khái niệm nền tảng cho lý thuyết đồ thị. Định nghĩa Cách vẽ đồ thị Đồ thị được biểu diễn đồ họa bằng cách vẽ một điểm cho mỗi đỉnh và vẽ một cung giữa hai đỉnh nếu chúng được nối bởi một cạnh. Nếu đồ thị là có hướng thì hướng được chỉ bởi một mũi tên. Không nên lẫn lộn giữa một đồ hình của đồ thị với bản thân đồ thị (một cấu trúc trừu tượng, không đồ họa) bởi có nhiều cách xây dựng đồ hình. Toàn bộ vấn đề nằm ở chỗ đỉnh nào được nối với đỉnh nào, và bằng bao nhiêu cạnh. Trong thực hành, thường rất khó để xác định xem hai đồ hình có cùng biểu diễn một đồ thị không. Tùy vào bài toán mà đồ hình này có thể phù hợp và dễ hiểu hơn đồ hình kia. Các cấu trúc dữ liệu đồ thị Có nhiều cách khác nhau để lưu trữ các đồ thị trong máy tính. Sử dụng cấu trúc dữ liệu nào thì tùy theo cấu trúc của đồ thị và thuật toán dùng để thao tác trên đồ thị đó. Trên lý thuyết, người ta có thể phân biệt giữa các cấu trúc danh sách và các cấu trúc ma trận. Tuy nhiên, trong các ứng dụng cụ thể, cấu trúc tốt nhất thường là kết hợp của cả hai. Người ta hay dùng các cấu trúc danh sách cho các đồ thị thưa (sparse graph), do chúng đòi hỏi ít bộ nhớ. Trong khi đó, các cấu trúc ma trận cho phép truy nhập dữ liệu nhanh hơn, nhưng lại cần lượng bộ nhớ lớn nếu đồ thị có kích thước lớn. Các cấu trúc danh sách Danh sách liên thuộc (Incidence list) - Mỗi đỉnh có một danh sách các cạnh nối với đỉnh đó. Các cạnh của đồ thị được có thể được lưu trong một danh sách riêng (có thể cài đặt bằng mảng (array) hoặc danh sách liên kết động (linked list)), trong đó mỗi phần tử ghi thông tin về một cạnh, bao gồm: cặp đỉnh mà cạnh đó nối (cặp này sẽ có thứ tự nếu đồ thị có hướng), trọng số và các dữ liệu khác. Danh sách liên thuộc của mỗi đỉnh sẽ chiếu tới vị trí của các cạnh tương ứng tại danh sách cạnh này. Danh sách kề (Adjacency list) - Mỗi đỉnh của đồ thị có một danh sách các đỉnh kề nó (nghĩa là có một cạnh nối từ đỉnh này đến mỗi đỉnh đó). Trong đồ thị vô hướng, cấu trúc này có thể gây trùng lặp. Chẳng hạn nếu đỉnh 3 nằm trong danh sách của đỉnh 2 thì đỉnh 2 cũng phải có trong danh sách của đỉnh 3. Lập trình viên có thể chọn cách sử dụng phần không gian thừa, hoặc có thể liệt kê các quan hệ kề cạnh chỉ một lần. Biểu diễn dữ liệu này thuận lợi cho việc từ một đỉnh duy nhất tìm mọi đỉnh được nối với nó, do các đỉnh này đã được liệt kê tường minh. Các cấu trúc ma trận Ma trận liên thuộc (Incidence matrix) - Đồ thị được biểu diễn bằng một ma trận kích thước p × q, trong đó p là số đỉnh và q là số cạnh, chứa dữ liệu về quan hệ giữa đỉnh và cạnh . Đơn giản nhất: nếu đỉnh là một trong 2 đầu của cạnh , bằng 0 trong các trường hợp khác. Ma trận kề (Adjaceny matrix) - một ma trận N × N, trong đó N là số đỉnh của đồ thị. Nếu có một cạnh nào đó nối đỉnh với đỉnh thì phần tử bằng 1, nếu không, nó có giá trị 0. Cấu trúc này tạo thuận lợi cho việc tìm các đồ thị con và để đảo các đồ thị. Ma trận dẫn nạp (Admittance matrix) hoặc ma trận Kirchhoff (Kirchhoff matrix) hay ma trận Laplace (Laplacian matrix) - được định nghĩa là kết quả thu được khi lấy ma trận bậc (degree matrix) trừ đi ma trận kề. Do đó, ma trận này chứa thông tin cả về quan hệ kề (có cạnh nối hay không) giữa các đỉnh lẫn bậc của các đỉnh đó. Các bài toán đồ thị Tìm đồ thị con Một bài toán thường gặp, được gọi là bài toán đồ thị con đẳng cấu (subgraph isomorphism problem), là tìm các đồ thị con trong một đồ thị cho trước. Nhiều tính chất của đồ thị có tính di truyền, nghĩa là nếu một đồ thị con nào đó có một tính chất thì toàn bộ đồ thị cũng có tính chất đó. Chẳng hạn như một đồ thị là không phẳng nếu như nó chứa một đồ thị hai phía đầy đủ (complete bipartite graph ) hoặc nếu nó chứa đồ thị đầy đủ . Tuy nhiên, bài toán tìm đồ thị con cực đại thỏa mãn một tính chất nào đó thường là bài toán NP-đầy đủ (NP-complete problem). Bài toán đồ thị con đầy đủ lớn nhất (clique problem) (NP-đầy đủ) Bài toán tập con độc lập (independent set problem) (NP-đầy đủ) Tô màu đồ thị Định lý bốn màu (four-color theorem) Định lý đồ thị hoàn hảo mạnh (strong perfect graph theorem) Bài toán Erdős-Faber-Lovász conjecture (hiện chưa ai giải được) Bài toán total coloring conjecture (hiện chưa ai giải được) Bài toán list coloring conjecture (hiện chưa ai giải được) Các bài toán đường đi Bài toán bảy cây cầu Euler (Seven Bridges of Königsberg) còn gọi là "Bảy cây cầu ở Königsberg" Cây bao trùm nhỏ nhất (Minimum spanning tree) Cây Steiner Bài toán đường đi ngắn nhất Bài toán người đưa thư Trung Hoa (còn gọi là "bài toán tìm hành trình ngắn nhất") Bài toán người bán hàng (Traveling salesman problem) (NP-đầy đủ) cũng có tài liệu (tiếng Việt) gọi đây là "Bài toán người đưa thư" Luồng Định lý luồng cực đại lát cắt cực tiểu Reconstruction conjecture Visibility graph problems Museum guard problem Các bài toán phủ Các bài toán phủ là các thể hiện cụ thể của các bài toán tìm đồ thị con. Chúng có quan hệ chặt chẽ với bài toán đồ thị con đầy đủ hoặc bài toán tập độc lập. Bài toán phủ tập (Set cover problem) Bài toán phủ đỉnh (Vertex cover problem) Các thuật toán quan trọng Thuật toán Bellman-Ford Thuật toán Dijkstra Thuật toán Ford-Fulkerson Thuật toán Kruskal Thuật toán láng giềng gần nhất Thuật toán Prim Các lĩnh vực toán học có liên quan Lý thuyết Ramsey Toán tổ hợp (Combinatorics) Ứng dụng Lý thuyết đồ thị được ứng dụng nhiều trong phân tích lưới. Có hai kiểu phân tích lưới. Kiểu thứ nhất là phân tích để tìm các tính chất về cấu trúc của một lưới, chẳng hạn nó là một scale-free network hay là một small-world network. Kiểu thứ hai, phân tích để đo đạc, chẳng hạn mức độ lưu thông xe cộ trong một phần của mạng lưới giao thông (transportation network). Lý thuyết đồ thị còn được dùng trong nghiên cứu phân tử. Trong vật lý vật chất ngưng tụ, cấu trúc ba chiều phức tạp của các hệ nguyên tử có thể được nghiên cứu một cách định lượng bằng cách thu thập thống kê về các tính chất lý thuyết đồ thị có liên quan đến cấu trúc tô pô của các nguyên tử. Ví dụ, các vành đường đi ngắn nhất Franzblau (Franzblau's shortest-path rings). Các lĩnh vực con Lý thuyết đồ thị rất đa dạng và có nhiều lĩnh vực con. Trong đó có: Lý thuyết đồ thị đại số (Algebraic graph theory) Lý thuyết đồ thị tô pô (Topological graph theory) Lý thuyết đồ thị hình học (Geometric graph theory) Lý thuyết đồ thị cực trị (Extremal graph theory) Lý thuyết đồ thị mê-tríc (Metric graph theory) Lý thuyết đồ thị xác suất (Probabilistic graph theory) Các nhà lý thuyết đồ thị quan trọng Frank Harary Denes König W.T. Tutte Sách trắng về lý thuyết đồ thị các nhà lý thuyết đồ thị khác và danh sách ấn bản phẩm của họ. Xem thêm Thuật ngữ lý thuyết đồ thị Cấu trúc dữ liệu cây có thứ tự – đồ thị có hướng phi chu trình, cây nhị phân, và các dạng đồ thị đặc biệt khác. Đồ thị phẳng Tham khảo Liên kết ngoài Sách trực tuyến về Lý thuyết đồ thị Hướng dẫn về lý thuyết đồ thị Bài giảng của một môn học về các thuật toán đồ thị Dữ liệu test chuẩn cho các bài toán đồ thị con đầy đủ lớn nhất (Maximum Clique), tập con độc lập lớn nhất (Maximum Independent Set), phủ đỉnh nhỏ nhất (Minimum Vertex Cover) và tô màu đỉnh (Vertex Coloring) Sưu tập ảnh số 1: một số mạng lưới thực Các tạp chí lý thuyết đồ thị Toán học rời rạc
26024
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%A1nh%20c%C4%83n
Bánh căn
Bánh căn là một loại bánh phổ biến của Ninh Thuận, Bình Thuận . Sau này được phát triển ở vùng Nam Trung Bộ, đặc biệt ở các tỉnh Khánh Hòa, Lâm Đồng, Bình Thuận. Bánh căn có hình dáng gần với bánh khọt ở các tỉnh phía Nam, nhưng cách làm hoàn toàn khác. Nếu như bánh khọt là loại bột gạo "chiên" (vì có dùng dầu mỡ) thì bánh căn là loại bột gạo "nướng". Làm bánh căn thường phải có khuôn đúc đặc biệt, thường làm bằng đất nung, và có nhiều lỗ tròn để đặt khuôn. Vì bánh căn nhỏ nên thường tính theo cặp chứ không theo cái, ở giữa có thể quét mỡ hành hoặc đổ trứng. Bánh căn thường ít được dọn cùng rau sống ăn lá, mà thường ăn kèm với xoài xanh, khế chua, dưa leo băm sợi. Nước chấm đi kèm theo thường là nước mắm pha loãng, tỏi, ớt... hoặc nước cá kho (thường là cá nục), khi dùng thường nhúng nguyên bánh vào nước chấm. Nước chấm có thể bỏ thêm xíu mại, mỡ hành để tăng thêm hương vị và dinh dưỡng. Lịch sử Không ai biết bánh căn có từ bao giờ, nhưng nguồn gốc là một món ăn của người Chăm . Qua thời gian, người Việt đã học hỏi và sáng tạo thêm nhiều cách thức mới, làm món ăn này thêm đặc sắc hơn, như ăn với nhiều loại nước chấm hơn, thêm vào bánh nào là tôm, mực, trứng... Thành phần Phần bánh: hỗn hợp gạo nước đã xay nhuyễn. (có thể trộn thêm trứng sống vào, bánh có trứng thường nở to hơn, thơm ngon nhưng cũng mau cháy hơn bánh thường). Phần nước chấm: nước mắm giã (nước mắm, tỏi, ớt, nước cốt chanh, muối, đường), nước cá kho, nước sốt cà, nước mắm nêm. Phần đồ ăn thêm: trứng luộc, chả cá, xíu mại, tóp mỡ. Ăn kèm thêm xoài sống, khế, dưa leo, đồ chua. (các thành phần trên có thể có hoặc không, tùy khẩu vị người ăn, hàng quán, địa phương) Chế biến Ngâm gạo khoảng chừng 6 tiếng, cho thêm ít cơm nguội rồi đem đi xay nhuyễn. Nướng bánh: Lò nướng bằng đất nung, phổ biến là loại 10 khuôn tròn nhỏ (chủ yếu là sản phẩm của gốm Bàu Trúc). Nhóm và quạt cho hừng lửa than. Đợi lò nóng mới cho khuôn lên, rồi thoa vào mỗi khuôn 1 lớp dầu mỡ (tùy người làm, có thể không cần dầu mỡ). Chờ khuôn thật nóng mới đổ bột vào. Đậy nắp lại, đợi một lúc cho mặt bánh rỗ, mùi bột bánh cháy xém thoảng lên, mặt dưới vàng giòn là chín. Người làm có thể thêm một ít hành lá xắt nhỏ lên trên, sau đó cạy bánh từ một khuôn khác úp vào cái bánh đã rải hành. Rồi cạy cả cặp bánh ra. Hoàn thành. (cách chế biến này có thể khác, tùy người làm, hàng quán, địa phương) Liên kết ngoài Tham khảo Căn Món mặn Việt Nam Ẩm thực miền Trung Việt Nam căn
26029
https://vi.wikipedia.org/wiki/Saturanga
Saturanga
Saturanga hay Chaturanga (chữ Phạn: चतुरङ्ग ) là một trò chơi cờ của Ấn Độ thời kỳ Gupta được cho là thủy tổ của các loại cờ như cờ vua, cờ tướng (Trung Quốc), shogi (Nhật Bản), janggi (Triều Tiên và Hàn Quốc), cờ ốc (Thái Lan, Malaysia và Campuchia), sittuyin (Miến Điện), cờ tư lệnh (Việt Nam),... Trò chơi này được phát triển trong thời kỳ Đế quốc Gupta, Ấn Độ vào khoảng thế kỷ 6. Đến thế kỷ 7, Saturanga được du nhập vào Vương quốc Sasanid với tên mới là Shatranj, và từ đó phổ biến đến châu Âu trong thời kỳ Hậu Trung Cổ. Giới thiệu Saturanga được chơi trên bàn cờ có 8 cột dọc và 8 hàng ngang giống với bàn cờ vua. Bàn cờ có 2 quân cờ mới là Sĩ và Tượng (yếu hơn). Sĩ đi chéo 1 ô theo 4 hướng như Sĩ trong cờ tướng nhưng có thể đi hết bàn cờ, Tượng đi chéo 2 ô theo 4 hướng vuông như Tượng trong cờ tướng nhưng có thể nhảy qua các quân cờ khác chứ không bị cản. Không có luật nhập thành và bắt Tốt qua đường. Tốt chỉ được tiến 1 ô nước đầu tiên chứ không được tiến 2 ô, khi xuống hàng ngang cuối của đối phương thì Tốt chỉ có thể phong cấp thành Sĩ chứ không thể phong thành những quân khác. Nếu bị chiếu hết, hết nước đi hoặc chỉ còn mỗi quân Vua sẽ thua. Luật chơi Xem thêm Shatranj Cờ tướng Cờ vua Shogi Janggi Makruk Sittuyin Cờ tư lệnh Tham khảo Tạp chí Người chơi Cờ. Lịch sử cờ vua Cờ (trò chơi) Trò chơi trên bàn cổ điển Biến thể cờ Phát minh của Ấn Độ
26047
https://vi.wikipedia.org/wiki/Beryli
Beryli
Beryli, berili hay thường được gọi ngắn là beri là một nguyên tố hóa học trong bảng tuần hoàn có ký hiệu Be và số nguyên tử bằng 4, nguyên tử khối bằng 9. Là một nguyên tố hóa trị hai có độc tính, beryli có màu xám như thép, cứng, nhẹ và giòn, và là kim loại kiềm thổ, được sử dụng chủ yếu như chất làm cứng trong các hợp kim. Các đặc trưng nổi bật Beryli là một trong số các kim loại nhẹ có điểm nóng chảy là 1.287 °C. Suất đàn hồi của beryli là lớn hơn của thép khoảng 33%. Nó có độ dẫn nhiệt tốt, không nhiễm từ và kháng lại sự tấn công của acid nitric đậm đặc. Nó cho tia X đi qua, và các neutron được giải phóng khi nó bị bắn phá bằng các hạt alpha từ các nguồn phóng xạ như radi hay poloni (khoảng 30 neutron/triệu hạt alpha). Ở điều kiện nhiệt độ và áp suất tiêu chuẩn beryli kháng lại sự oxy hóa khi bị phơi ra trước không khí (mặc dù khả năng cào xước mặt kính của nó có được có lẽ là do sự tạo thành một lớp mỏng oxide). Ứng dụng Beryli được sử dụng như là chất tạo hợp kim trong sản xuất beryli đồng. (Be có khả năng hấp thụ một lượng nhiệt lớn) Các hợp kim beryli-đồng được sử dụng rộng rãi trong nhiều ứng dụng do độ dẫn điện và độ dẫn nhiệt cao, sức bền và độ cứng cao, các thuộc tính không nhiễm từ, cùng với sự chống ăn mòn và khả năng chống mỏi tốt của chúng. Các ứng dụng bao gồm việc sản xuất các điện cực hàn điểm, lò xo, các thiết bị không đánh lửa và các tiếp điểm điện. Do độ cứng, nhẹ và độ ổn định về kích thước trên một khoảng rộng nhiệt độ nên các hợp kim beryli-đồng được sử dụng trong công nghiệp quốc phòng và hàng không vũ trụ như là vật liệu cấu trúc nhẹ trong các thiết bị bay cao tốc độ, tên lửa, tàu vũ trụ và vệ tinh liên lạc viễn thông. Các tấm mỏng beryli được sử dụng với các thiết bị phát hiện tia X để lọc bỏ ánh sáng và chỉ cho tia X đi qua để được phát hiện. Trong lĩnh vực in thạch bản tia X thì beryli được dùng để tái tạo các mạch tích hợp siêu nhỏ. Do độ hấp thụ neutron nhiệt trên thiết diện vuông của nó thấp nên công nghiệp sản xuất năng lượng hạt nhân sử dụng kim loại này trong các lò phản ứng hạt nhân như là thiết bị phản xạ và điều tiết neutron. Beryli được sử dụng trong các vũ khí hạt nhân vì lý do tương tự. Ví dụ, khối lượng tới hạn của khối plutoni được giảm đi đáng kể nếu nó được bao bọc trong vỏ beryli. Beryli đôi khi được sử dụng trong các nguồn neutron, trong đó beryli được trộn lẫn với các chất bức xạ alpha như Po210, Ra226 hay Ac227. Beryli cũng được dùng trong sản xuất các con quay hồi chuyển, các thiết bị máy tính khác nhau, lò xo đồng hồ và các thiết bị trong đó cần độ nhẹ, độ cứng và độ ổn định kích thước. Beryli oxide là có lợi trong nhiều ứng dụng cần độ dẫn nhiệt tốt cùng độ bền và độ cứng cao, với điểm nóng chảy cao, đồng thời lại có tác dụng như là một chất cách điện. Các hợp chất beryli đã từng được sử dụng trong các ống đèn huỳnh quang, nhưng việc sử dụng này đã bị dừng lại do bệnh phổi do nhiễm beryli trong số các công nhân sản xuất các ống này (xem dưới đây). Kính thiên văn vũ trụ James Webb (JWST) (Các chi tiết liên quan đến beryli có từ NASA ở đây) sẽ có 18 phần lục giác làm từ beryli trong các gương của nó. Do JWST sẽ tiếp xúc với nhiệt độ -240 °C (30 K) nên các gương phải làm bằng beryli là vật liệu có khả năng chịu được nhiệt độ rất thấp này. Beryli co lại và biến dạng ít hơn thủy tinh – và vì thế giữ được tính đồng nhất cao hơn trong các nhiệt độ như thế. Lịch sử Tên gọi beryli có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp beryllos tức berylin. Đã có thời beryli được nhắc đến như là glucinium (từ tiếng Hy Lạp glykys, ngọt), do vị ngọt của các muối của nó. Nguyên tố này được Louis Vauquelin phát hiện năm 1798 như là oxide trong berylin và trong ngọc lục bảo. Friedrich Wöhler và Antoine Alexandre Brutus Bussy, độc lập với nhau, đã cô lập được kim loại này năm 1828 bằng cách cho kali phản ứng với chloride beryli. Sự phổ biến Beryli là thành phần thiết yếu trong số 100 trên khoảng 4000 khoáng chất đã biết, quan trọng nhất trong số đó là bertrandit (Be4Si2O7(OH)2), berylin (Al2Be3Si6O18), chrysoberylin (Al2BeO4) và phenakit (Be2SiO4). Các dạng quý hiếm của berylin là ngọc aquamarin và ngọc lục bảo. Cùng với hiđrô, heli và lithi, một lượng nhỏ beryli cũng đã được tạo ra trong Vụ Nổ Lớn. Nguồn thương mại quan trọng nhất của beryli và các hợp chất của nó là berylin và bertrandit. Beryli kim loại đã không có sẵn cho đến tận năm 1957. Hiện nay, phần lớn sản lượng của kim loại này được thực hiện bằng cách khử fluoride beryli bằng magnesi kim loại. Giá của các thỏi beryli luyện trong chân không tại thị trường Hoa Kỳ là 338 USD trên một pound (hay 745 USD/kg) vào năm 2001. xem giá cả Cô lập BeF2 + Mg → MgF2 + Be Đồng vị Trong số 10 đồng vị của beryli thì chỉ có 9Be là ổn định.10Be nguồn gốc vũ trụ được tạo ra trong khí quyển Trái Đất nhờ sự phá vỡ hạt nhân oxy và nitơ bởi các tia vũ trụ. Do beryli có xu hướng tồn tại trong dung dịch có pH nhỏ hơn 5,5 (và phần lớn nước mưa có pH nhỏ hơn 5), nó sẽ đi vào trong dung dịch và được đưa tới mặt đất nhờ các trận mưa. Khi nước mưa trở nên kiềm hơn, Beryli sẽ thoát ra khỏi dung dịch.10Be nguồn gốc vũ trụ vì thế tích lũy trong lớp đất bề mặt, ở đây do chu kỳ bán rã tương đối lớn của nó (1,51 triệu năm) cho phép nó tồn tại lâu dài trước khi bị phân rã thành 10B.10Be và các sản phẩm con của nó được sử dụng để nghiên cứu xói mòn đất, sự hình thành đất từ regolit, sự phát triển và tiến hóa của các loại đất laterit, cũng như các thay đổi trong hoạt động của Mặt Trời và niên đại của các lõi băng. Một thực tế là 7Be và 8Be không ổn định có ý nghĩa vũ trụ học sâu sắc do nó có nghĩa là các nguyên tố nặng hơn beryli không thể sinh ra trong các phản ứng nhiệt hạch trong Vụ Nổ Lớn. Ngoài ra, các mức năng lượng hạt nhân của 8Be là đủ để carbon có thể được tạo ra trong các ngôi sao, vì thế làm cho sự sống trở thành có thể. (Xem Phương thức ba alpha và Tổng hợp hạt nhân trong Vụ Nổ Lớn). Đồng vị có thời gian tồn tại ngắn nhất đã biết của beryli là 13Be nó phân rã theo bức xạ neutron. Nó có chu kỳ bán rã 2,7 × 10−21 giây.6Be cũng có thời gian tồn tại rất ngắn với chu kỳ bán rã 5,0 × 10−21 giây. Phòng ngừa Beryli và các muối của nó là các chất có độc tính và có khả năng gây ung thư. Sự phơi nhiễm beryli kinh niên sẽ sinh ra các bệnh phổi và các bệnh u hạt trong cơ thể. Bệnh liên quan đến phơi nhiễm beryli cấp tính là viêm phổi do hóa chất đã được phát hiện lần đầu tiên ở châu Âu từ năm 1933 và tại Hoa Kỳ từ năm 1943. Các trường hợp bệnh liên quan đến phơi nhiễm kinh niên đã lần đầu tiên được miêu tả năm 1946 trong số các công nhân tại xí nghiệp sản xuất đèn huỳnh quang tại Massachusetts. Bệnh phổi do phơi nhiễm beryli kinh niên tương tự như sarcoidosis trong nhiều khía cạnh, và các chẩn đoán thường là rất khó phân biệt. Mặc dù việc sử dụng các hợp chất chứa beryli trong các ống đèn huỳnh quang đã bị dừng lại từ năm 1949, nhưng tiềm năng phơi nhiễm beryli vẫn tồn tại trong công nghiệp hạt nhân và vũ trụ và trong công nghiệp tinh luyện beryli kim loại và sản xuất các hợp kim chứa beryli, sản xuất các thiết bị điện và việc tiếp xúc với các vật liệu chứa beryli khác. Các nhà nghiên cứu đầu tiên đã nếm beryli và nhiều hợp chất khác nhau của nó để xác định độ ngọt nhằm kiểm tra sự hiện diện của nó. Các thiết bị chẩn đoán hiện đại không cần phải có thủ tục đầy nguy hiểm này. Beryli và các hợp chất của nó cần được tiếp xúc với một sự cẩn thận cao độ và các phòng ngừa đặc biệt phải được thực thi khi thực hiện bất kỳ một hoạt động nào mà kết quả là tạo ra bụi beryli (ung thư phổi là hoàn toàn có khả năng khi bị phơi nhiễm bụi beryli lâu dài). Các tác động tới sức khỏe Beryli có thể có tác hại nếu hít thở phải. Các tác động phụ thuộc vào thời gian phơi nhiễm. Nếu nồng độ beryli trong không khí là đủ cao (lớn hơn 1.000 μg/m³), thì các chứng bệnh do phơi nhiễm cấp tính có thể phát sinh, gọi là "bệnh beryli cấp tính", tương tự như bệnh viêm phổi. Các tiêu chuẩn về không khí nghề nghiệp và cộng đồng là có hiệu quả trong việc ngăn chặn phần lớn các thương tổn phổi cấp tính. Một số người (1-15%) rất nhạy cảm với beryli. Các cá nhân này có thể phát sinh các phản ứng viêm nhiễm trong hệ hô hấp. Các chứng bệnh này gọi là "bệnh beryli kinh niên" (CBD), và có thể xảy ra nhiều năm sau khi phơi nhiễm beryli nồng độ cao (lớn hơn 0,2 μg/m³). Bệnh này có thể sinh ra các triệu chứng như mệt mỏi, suy yếu, khó thở, biếng ăn, giảm cân và cũng có thể dẫn đến chứng to tim vè bên phải và bệnh tim trong các trường hợp nặng. Một số người tuy nhạy cảm với beryli nhưng có thể không có bất kỳ triệu chứng nào. Trong cộng đồng nói chung không có khả năng phát sinh các bệnh beryli cấp tính hay kinh niên do thông thường không khí xung quanh có nồng độ beryli rất thấp (0,00003-0,0002 μg/m&³). Việc nuốt phải beryli vẫn chưa có thông báo nào cho thấy có các tác động xấu tới sức khỏe con người do có rất ít beryli được hấp thụ thông qua dạ dày và ruột non. Các vết loét được phát hiện trong cơ thể chó khi trong khẩu phần ăn người ta cho thêm beryli vào. Beryli tiếp xúc với da bị xước hay bị rách có thể sinh ra các vết phát ban hay vết loét. Phơi nhiễm beryli kinh niên có thể tăng khả năng ung thư phổi. Bộ y tế Hoa Kỳ và IARC đã xác định rằng beryli là chất gây ung thư ở người. Cơ quan bảo vệ môi trường (EPA) Hoa Kỳ cũng xác định beryli là chất có khả năng gây ung thư ở người. EPA cũng ước tính sự phơi nhiễm trong thời gian sống 0,04 μg/m³ beryli có thể tăng khả năng bị ung thư trong 1 trên 1.000 thử nghiệm. Hiện vẫn chưa có nghiên cứu nào về các tác động của beryli tới sức khỏe của trẻ em. Có lẽ các tác động này cũng tương tự như ở người lớn. Cũng chưa rõ là trẻ em sẽ khác với người lớn như thế nào trong tính nhạy cảm với beryli. Hiện vẫn chưa rõ ràng là beryli có khả năng sinh ra quái thai ở người hay không. Beryli có thể được đo trong nước tiểu và máu. Lượng beryli trong máu hay nước tiểu có thể không phản ánh đúng thời gian và số lượng phơi nhiễm. Nồng độ beryli cũng có thể đo trong các mẫu thử phổi và da. Một thử nghiệm máu khác là thử nghiệm sự gia tăng lympho beryli trong máu (BeLPT), xác định sự nhạy cảm beryli và có giá trị dự báo cho các bệnh phơi nhiễm beryli kinh niên (CBD). Các mức thông thường của beryli mà các ngành công nghiệp liên quan thải ra khí quyển ở ngưỡng 0,01 μg/m³;, tính trung bình trong chu kỳ 30 ngày, hay 2 μg/m³ đối với không khí trong phòng làm việc trong thời gian 8 giờ làm việc. Tham khảo Phòng thí nghiệm quốc gia Los Alamos, Hoa Kỳ-Berili Chú thích Liên kết ngoài Hóa điện toán Wiki It's Elemental – Berili IARC Chuyên khảo "Berili và các hợp chất của berili" NPI - Berili và các hợp chất WebElements.com – Berili Nguyên tố hóa học Kim loại kiềm thổ Độc tính học Độc chất học An toàn và sức khỏe nghề nghiệp Vật liệu hạt nhân
26055
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20C%C3%BAp%20Qu%E1%BB%91c%20gia%202005
Giải bóng đá Cúp Quốc gia 2005
Giải bóng đá Cúp Quốc gia 2005, tên gọi chính thức là Giải bóng đá Cúp Quốc gia Vilube 2005 vì lý do tài trợ, là mùa giải thứ 13 của Giải bóng đá Cúp Quốc gia do Liên đoàn bóng đá Việt Nam (VFF) tổ chức. Diễn ra từ ngày 22 tháng 1 đến 21 tháng 8 năm 2005, giải đấu có tất cả 24 câu lạc bộ đến từ 2 giải chuyên nghiệp và hạng Nhất tham dự. Gạch Đồng Tâm Long An đã đi vào lịch sử bóng đá Việt Nam khi đoạt cả hai chức vô địch vô địch quốc gia và cúp quốc gia năm 2005. Thể thức thi đấu Khác với giải đấu trước, giải lần này không có vòng chung kết giữa 8 đội mạnh nhất, thay vào đó các đội được bốc thăm thi đấu theo thể thức đấu loại trực tiếp một lượt trận cho đến hết giải. Nếu sau 90 phút thi đấu chính thức có tỉ số hòa, sẽ tiến hành đá luân lưu để xác định đội thắng (trừ trận chung kết đá tiếp hai hiệp phụ, trước khi tiến hành sút luân lưu nếu vẫn hòa). Hai đội thua ở bán kết được coi là đồng giải ba. Vòng 1 11 đội hạng Nhất và 5 đội V-League có thứ hạng thấp ở mùa giải trước và mới lên hạng (Hải Phòng, Đà Nẵng, Delta Đồng Tháp, Hòa Phát Hà Nội và Thép Miền Nam Cảng Sài Gòn) sẽ thi đấu từ vòng này. Do đoạt danh hiệu Á quân Cúp Quốc gia 2004, Thể Công đã được đặc cách vào vòng 2. Vòng 2 Vòng tứ kết Vòng bán kết Trận chung kết Giải thưởng Chú thích Xem thêm Giải bóng đá vô địch quốc gia 2005 Giải bóng đá hạng nhất quốc gia Việt Nam 2005 Giải bóng đá hạng Nhì Quốc gia 2005 Giải bóng đá hạng Ba Quốc gia 2005 Siêu cúp bóng đá Việt Nam 2005 Cúp bóng đá Việt Nam Bóng đá, cúp
26056
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%99%20nghi%C3%AAng%20tr%E1%BB%A5c%20quay
Độ nghiêng trục quay
Trong thiên văn học và cơ học thiên thể, độ nghiêng trục quay của các hành tinh, vệ tinh tự nhiên hay thiên thể nói chung là góc giữa phương tự quay của thiên thể với phương trực tuyến Bắc của mặt phẳng quỹ đạo hay một mặt phẳng tham chiếu nào đó. Phương tự quay của thiên thể nằm song song với trục tự quay của thiên thể và có thể quy ước phụ thuộc vào chiều quay của thiên thể theo quy tắc bàn tay phải. Trong hệ Mặt Trời, để thể hiện một hành tinh tự quay theo chiều ngược, độ nghiêng trục quay sẽ có giá trị từ 90 đến 180 độ; vận tốc góc và chu kỳ quay sẽ có dấu trừ. Bảng sau cho biết độ nghiêng trục quay của một số thiên thể trong hệ Mặt Trời. Độ nghiêng trục quay của các hành tinh thay đổi chậm theo thời gian, do tương tác hấp dẫn từ các thiên thể xung quanh lên hành tinh, vốn có hình dạng không phải là hình elipsoit đơn giản, tạo nên mô men lực làm thay đổi hướng và độ lớn mô men động lượng (do đó phương của trục quay) của hành tinh. Trục quay của Trái Đất đã được quan sát là thay đổi độ nghiêng một cách gần tuần hoàn với chu kỳ 41.000 năm trong khoảng thời gian gần đây, với độ nghiêng dao động từ 21,5 đến 24,5° (hiện tại đang giảm với các giá trị 24,049° năm 3300 TCN, 23,443° năm 1973 và 23,439° năm 2000). Hơn nữa, hướng nghiêng của trục Trái Đất xoay vòng với chu kỳ 25.800 năm (hiện tượng tiến động hay tuế sai của điểm phân). Độ nghiêng này cũng dao động với các chu kỳ nhỏ hơn như 18,6 năm (hiện tượng chương động). Khi xét đến độ chính xác cao, sự thay đổi theo thời gian của độ nghiêng trục Trái Đất chứa các yếu tố nhiễu loạn khó dự báo. Lý do là tổng mômen lực hấp dẫn tác động từ bên ngoài lên Trái Đất phụ thuộc vào hình dáng và mật độ khối lượng của từng điểm trên hành tinh này, do đó phụ thuộc vào chuyển động của thạch quyển (như động đất lớn), thủy quyển (các dòng hải lưu),... Ví dụ như cơn động đất Ấn Độ Dương 2004 là kết quả của một sự lún sụt mạnh của thạch quyển, thay đổi tương tác hấp dẫn với thiên thể bên ngoài và làm cực Bắc của Trái Đất lệch khoảng 2,5 cm về phía 145 độ kinh Đông. Yếu tố nhiễu loạn còn đến từ quỹ đạo của các thiên thể xung quanh Trái Đất, và bản thân quỹ đạo (cùng mặt phẳng quỹ đạo) của Trái Đất. Hiện tượng tương tự xảy ra với mọi thiên thể khác trong hệ Mặt Trời. Giả thuyết về sự hình thành hệ Mặt Trời bằng một đĩa bụi tiền-Mặt Trời cho rằng, lúc mới hình thành, nói chung trục của các hành tinh và Mặt Trời đều nghiêng rất ít; đồng thời các hành tinh tự quay cùng chiều với chiều quay trên quỹ đạo quanh Mặt Trời (cũng như chiều tự quay của Mặt Trời). Theo thời gian, do các lực tương tác hấp dẫn mà trục của chúng nghiêng dần, có hành tinh bị lật ngang (Sao Thiên Vương), thậm chí bị lộn ngược (Sao Kim và Diêm Vương Tinh). Xem thêm Hiện tượng tự quay của Trái Đất Tham khảo Cơ học thiên thể Thuật ngữ thiên văn học Trái Đất Khoa học hành tinh
26062
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%A1p%20lu%C3%A2n
Pháp luân
Pháp luân (zh. 法輪, sa. dharmacakra, pi. dhammacakka) hay bánh xe pháp, là một biểu tượng được sử dụng rộng rãi trong các tôn giáo Ấn Độ như Ấn độ giáo, Kỳ Na giáo và đặc biệt là Phật giáo. Lịch sử và sử dụng Sử dụng và sự quan trọng trong Phật giáo Dhamma trong tiếng Pali (Nam Phạn) có nghĩa là Pháp Bảo, lời dạy từ Đức Phật. Trong đạo Phật, pháp luân tượng trưng cho giáo pháp của đức Phật, gồm Tứ diệu đế, Bát chính đạo, Trung đạo. Pháp luân thường được vẽ như một bánh xe tám nhánh, tượng trưng cho Bát chính đạo. Bánh xe Chuyển-Pháp-Luân gồm có 12 căm là sự luân chuyển theo tam-tuệ-luân: Trí-tuệ-học, trí-tuệ- hành, trí-tuệ-thành trong tứ Thánh-đế (3 x 4 = 12) là phần cốt lõi của Phật-giáo. Cho nên, bánh xe Chuyển-Pháp-Luân cũng là một biểu tượng của Phật-giáo. Sử dụng trong Kỳ Na giáo, Ấn độ giáo và Ấn độ hiện đại Các sử dụng khác và biểu tượng tượng tự Tham khảo Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-Guang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.) Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren, Bern 1986. Đọc thêm Liên kết ngoài Pháp luân (Dharmachakra) Biểu tượng Phật giáo Văn hóa Ấn Độ
26065
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%8Dc%20T%E1%BB%95ng%20h%E1%BB%A3p%20Mannheim
Đại học Tổng hợp Mannheim
Đại học Tổng hợp Mannheim (Universität Mannheim) là một trong những đại học mới thành lập tại nước Đức (1967), nhưng có truyền thống từ Học viện Khoa học Kurpfalz (Kurpfälzische Akademie der Wissenschaften) vốn có cơ sở tại Lâu đài Mannheim, do Tuyển hầu Karl Theodor thành lập năm 1763. Với hơn 12.000 sinh viên (15% là sinh viên nước ngoài), Đại học Tổng hợp Mannheim nổi tiếng về đào tạo các chuyên ngành kinh tế nên được coi như là Harvard của Đức. Tham khảo Mannheim Mannheim, Tổng hợp
26069
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mannheim
Mannheim
Mannheim, với dân số vào khoảng 320.000 người, là thành phố lớn thứ hai của bang Baden-Württemberg sau Stuttgart, nằm ở phía Tây nước Cộng hòa Liên bang Đức. Ngày nay Mannheim là trung tâm văn hóa và kinh tế của vùng đô thị châu Âu Tam giác Rhein Neckar. Là thành phố lớn từ năm 1900, Mannheim ngày nay vẫn là thành phố thương mại, một điểm giao thông quan trọng giữa Frankfurt và Stuttgart với ga nối toa tàu hỏa lớn thứ nhì châu Âu và một trong những cảng đường thủy nội địa quan trọng nhất châu Âu. Địa lý Mannheim nằm trong vùng phía bắc của Đồng bằng thượng Rhein (Oberrheinische Tiefebene), nơi sông Neckar đổ vào sông Rhein. Thành phố nằm trên hữu ngạn của sông Rhein, ở hai bên bờ sông Neckar. Thành phố nằm trong vùng đô thị châu Âu Tam giác Rhein Neckar, một khu vực tập trung 2,35 triệu dân cư bao gồm nhiều phần phía nam của bang Hessen và một phần của vùng Vorderpfalz trong bang Baden-Württemberg, có hai thành phố lớn là Mannheim và Heidelberg. Các thành phố lớn cạnh đó là Frankfurt am Main, khoảng 70 km về hướng bắc và Stuttgart, khoảng 95 km về phía đông nam Phân chia thành phố Mannheim được chia là 6 quận nội thành và 11 quận ngoại thành: Innenstadt/Jungbusch, Lindenhof, Neckarstadt-Ost/Wohlgelegen, Neckarstadt-West, Neuostheim/Neuhermsheim, Schwetzingerstadt/Oststadt cũng như là Feudenheim, Friedrichsfeld, Käfertal, Neckarau, Rheinau, Sandhofen, Seckenheim, Schönau, Vogelstang, Waldhof và Wallstadt Nội thành: Các "ô vuông" Đọc bài chính về Ô vuông Mannheim Nội thành hình móng ngựa của Mannheim giữa Rhein và Neckar được xây dựng theo dạng hình lưới với các khu nhà vuông góc, vì thế mà người ta gọi chúng là "ô vuông Mannheim". Kế hoạch xây dựng mạng lưới đường sá này bắt nguồn từ tuyển hầu Friedrich IV của Pflaz vào khoảng năm 1600 và vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Việc sắp đặt đường phố này tạo nên một địa vị thống trị trong kiến trúc tổng thể cho Lâu đài Mannheim - nơi ngự trị của các tuyển hầu – hình tượng của thể chế quân chủ. Nội thành được chia cắt bởi hai trục chính. Đường Kurpfalz (Kurpfalzstraße), cũng còn được gọi là "Đường Rộng" chạy từ Lâu đài Mannheim cho đến Cổng Neckar. Đường này gặp con đường mua sắn chính "Planken" tại Quảng trường Duyệt binh (Paradeplatz). Các con đường song song với hai trục đường chính này thường không có tên, thay vào đó các ô vuông nằm ở giữa được gọi theo một kết hợp từ mẫu tự và số. Khí hậu Nhờ vào địa thế trong Đồng bằng thượng Rhein được che chở bởi hai vùng đồi núi Pfälzer Wald và Odenwald nên Mannheim có một khí hậu rất ôn hòa. Tháng nóng nhất là tháng 7 với nhiệt độ trung bình là 19,9 °C, tháng lạnh nhất là tháng Giêng với 1,8 °C. Nhiệt độ trên 30 °C trong mùa hè không phải là việc hiếm có. Nhiệt độ cao nhất được đo tại Mannheim là 39,0 °C vào ngày 8 tháng 8 năm 2003 (Trong cùng ngày, một trạm khí tượng tư nhân của Deutsche Wetterdienst đã đo được nhiệt độ 40,1 °C tại khu Mannheim-Seckenheim). Lượng mưa trung bình trong một năm là 668 mm. Tháng có mưa nhiều nhất cũng là tháng 7. Được sông Rhein và Neckar tạo điều kiện thuận lợi nên đặc biệt là trong mùa thu thường hay có sương mù. Hai con sông này cũng mang lại độ ẩm không khí cao, đặc biệt là trong mùa hè có thể dẫn đến khí hậu nồng ẩm. Lịch sử Thuở ban đầu Làng Mannenheim được nhắc đến trong văn kiện lần đầu tiên vào năm 766 trong Lorsch Codex. Cả một thời gian dài là một làng đánh cá nhỏ không quan trọng, Mannheim nằm trong lãnh thổ của bá tước vùng Pflaz thuộc dòng họ Wittelsbach từ năm 1284. Mannheim có tầm quan trọng nhất định trong khu vực từ khi trạm thuế Eichelheim được xây dựng năm 1349 trên vùng đất Mannheim-Lindenhof ngày nay, buộc các tàu trên sông Rhein phải đóng thuế. Năm 1415, Giáo hoàng Antipope John XXIII buộc phải thoái vị đã bị giam cầm tại đây theo lệnh của hoàng đế Sigismund. Trong năm 1566, Mannheim với 700 dân cư là một trong những làng lớn nhất thuộc khu vực hành chánh Heidelberg. Trở thành thành phố Năm 1607 Mannheim nhận được các đặc quyền của một thành phố sau khi Tuyển hầu Friedrich IV của Pflaz đặt viên đá đầu tiên xây dựng pháo đài Friedrichburg. Kế hoạch xây dựng một hệ thống đường sá có hình dạng như một mạng lưới cho thành phố được liên kết với pháo đài này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Bị tàn phá lần đầu vào năm 1622 trong cuộc Chiến tranh 30 năm, Mannheim lại bị phá hủy bởi quân đội Pháp trong cuộc Chiến tranh kế thừa Pflaz vào năm 1689 nhưng lại được tái xây dựng sau đó. Vươn lên về chính trị và văn hóa Năm 1720 Tuyển hầu Karl Philipp dời nơi ngự trị từ Heidelberg về Mannheim và bắt đầu xây dựng Lâu đài Mannheim. Mannheim trở thành nơi ngự trị cho các tuyển hầu vùng Kurpflaz, bắt đầu một khoảng thời gian rực rỡ nhưng ngắn ngủi của thành phố lúc này đã có 25.000 dân cư. Các triều đại tuyển hầu vùng Kurpfalz khuyến khích nghệ thuật và âm nhạc, khoa học cũng như là thương mại. Goethe, Schiller và Lessing đã từng ở tại Manneim cũng như Mozart. Để có thể thừa kế Bayern, Karl Theodor phải dời nơi ngự trị về München vào năm 1778. Cùng với việc này là một suy sụp về kinh tế và văn hóa của thành phố. Lại bị người Pháp xâm chiếm vào năm 1795 và sau đó là quân đội Áo tái chiếm lĩnh, Mannheim cuối cùng đã mất đi vị thế chính trị trong năm 1803: Vùng Kurpfalz bị xóa bỏ và Mannheim thuộc về Baden, trở thành một thành phố vùng biên giới. Tăng trưởng kinh tế lần thứ nhì Thời kỳ nở rộ mới của Mannheim mang nhiều ảnh hưởng của giới tư bản đang lớn mạnh. Năm 1828 cảng Mannheim được khánh thành, sau đó là đường tàu hỏa từ Mannheim đi Heidelberg. Mannheim đã là trung tâm của phong trào cách mạng và chính trị của năm 1840 (Cách mạng tháng Ba). Năm 1865 Friedrich Engelhorn thành lập nhà máy BASF (Badische Anilin- und Soda-Fabrik - Nhà máy soda và aniline Baden) nhưng sau đó lại dời về Ludwigshafen. Ngày nay nhà máy này đã trở thành tập đoàn hóa chất lớn nhất thế giới. Carl Benz nộp đơn đăng ký bằng phát minh ô tô năm 1886 tại Mannheim. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất Heidrich Lanz AG (Công ty cổ phần Heidrich Lanz) giới thiệu chiếc máy cày đầu tiên hiệu "Bulldog". Từ Đế chế thứ ba cho đến nay Trong Đế chế thứ ba gần 2.000 người dân Mannheim có tín ngưỡng Do Thái đã bị đưa vào trại tập trung, thành phố gần như bị phá hủy hoàn toàn trong Chiến tranh thế giới thứ hai bởi các cuộc không kích. Cuộc tái kiến thiết sau chiến tranh được bắt đầu một cách khó nhọc. Lâu đài Mannheim và Tháp nước Mannheim được tái xây dựng; Nhà hát Quốc gia Mannheim được xây dựng tại ở vị trí mới. Rất nhiều vùng dân cư mới được quy hoạch do tình trạng thiếu nhà ở. Năm 1967 trường Đại học Tổng hợp Mannheim được thành lập. Cuộc Triển lãm Vườn Liên bang (Bundesgartenschau) năm 1975 tại Công viên Luise (Luisenpark) và Công viên Herzogenried (Herzogenriedpark) là một điểm sáng trong lịch sử thành phố. Một loạt công trình xây dựng được thực hiện: Tháp viễn thông Mannheim và một chiếc cầu thứ hai qua sông Rhein được xây dựng, đường Planken trở thành khu vực dành riêng cho người đi bộ, Rosengarten Mannheim được khánh thành. Trong thập niên 1980 và 1990 một loạt các dự án lớn cũng được tiến hành: Đài thiên văn Mannheim, mở rộng Hội trường Nghệ thuật, Viện bảo tàng Reiß mới, Tòa thị chính, nhà thờ đạo Do Thái, nhà thờ đạo Hồi, Viện bảo tàng tiểu bang về Kỹ thuật và Lao động và Sân vận động Carl Benz được khánh thành. Hướng đến việc kỷ niệm 400 năm ngày Mannheim trở thành thành phố vào năm 2007, một số dự án xây dựng thành phố đã được tiến hành: Sân vận động SAP (SAP-Arena), sửa chữa khu vực dành riêng cho người đi bộ Breite Straße, cải tạo hoàn toàn mới Alter Messplatz và xây dựng mới đoạn đường tàu hỏa thành phố Schafweide. Phát triển dân số Do dân số thành phố vượt qua ngưỡng 100.000 vào năm 1896, Mannheim trở thành thành phố lớn từ đấy. Năm 1905 thành phố có trên 160.000 người dân, đến 1961 con số này đã tăng lên gấp đôi. Năm 1970 dân số đạt đến mức cao nhất trong lịch sử thành phố là 333.000 người. Theo số liệu của Sở Thống kê bang Baden-Württemberg, trong quý 2 năm 2005 có tổng cộng 307.640 sống tại Mannheim. Trong đó có 151.206 người là đàn ông (49,15%) và 156.434 người là phụ nữ (50,58%). Tỷ lệ người nước ngoài là 22,5%. Tỷ lệ thất nghiệp trong tháng 8 năm 2005 là 12,6%. Trong thời gian từ 1993 đến 2004 tỷ lệ người trên 65 tuổi trên tổng số dân cư đã tăng từ 15,8% lên 18,2%. Tỷ lệ những người từ 18 đến 65 tuổi đã giảm đi tròn 2,5% trong cùng thời gian. Tôn giáo Tin Lành Tuyển hầu Ottheirich đưa Cải cách Kháng Cách vào vùng Kurpfalz vào năm 1556, sau khi người trước ông là Friedrich II đã có nhiều nỗ lực đáng kể về phương diện này 10 năm trước đó. Dưới thời của người kế thừa Ottheirich là Friedrich III, vùng Kurpfalz chuyển sang đạo Tin Lành từ năm 1561. Do thời gian thành lập thành phố Mannheim nằm trong thời kỳ của Cải cách Kháng Cách tại Kurpfalz nên thành phố mang nhiều ảnh hưởng của Tin Lành-Cải cách Kháng Cách. Công giáo Sau khi thành phố Mannheim được thành lập, giáo xứ Công giáo cũng tăng trưởng. Nhà thờ Công giáo lâu đời nhất là nhà thờ St.Sebastian ở tại Marktplatz, được hoàn thành trong năm 1723. Năm 1729 Tuyển hầu Karl III hiến 100.000 đồng tiền Gulden để xây dựng Nhà thờ Dòng Tên dùng làm nhà thờ của hoàng gia. Đạo Do Thái Nhà thờ đạo Do Thái đầu tiên ở Mannheim được xây dựng năm 1660. Nhằm để giúp thương mại và thủ công phát triển các tuyển hầu đã khuyến khích người Do Thái nhập cư với chính sách giảm thuế và cho đặc quyền về tự do nghề nghiệp, đặc biệt là sau khi thành phố bị tàn phá trong thế kỷ 17. Trong năm 1719, 10,6% dân số là người Do Thái. Đến năm 1895 cộng đồng Do Thái đã tăng lên đến 4.768 người. Thế nhưng dân số còn lại của Mannheim lại còn tăng trưởng nhanh hơn nên sau 1900 tỷ lệ người Do Thái chỉ còn vào khoảng 3%. Trong năm 1933 có 6.402 người Do Thái sống tại Mannheim, tạo thành cộng đồng người Do Thái lớn nhất của Baden. Vì nhiều đàn áp sau khi những người Đức Quốc xã lên nắm quyền, rất nhiều người Do Thái đã sớm rơi vào cảnh hoạn nạn. Ngay từ năm 1933, thị trưởng thuộc Đảng NSDAP đã cấm không cho phép giao hợp đồng về cho các doanh nghiệp Do Thái, các giảng viên đại học người Do Thái tại trường Đại học Thương mại bị cho nghỉ phép, Nhà hát Quốc gia sa thải các diễn viên là người Do Thái và các bác sĩ là người Do Thái không được phép làm việc theo phương thức thanh toán phí khám và chữa bệnh với các hãng bảo hiểm sức khỏe. Rất nhiều gia đình đã di dân ra nước ngoài, đặc biệt là đến Mỹ. Sau khi ba nhà thờ đạo Do Thái tại Mannheim bị tàn phá trong năm 1939, gần 2.000 người Do Thái, tức gần như tất cả những người Do Thái còn ở lại, bị đày về Gurs. Phần lớn những người này sau đó bị chuyển về trại tập trung ở Ba Lan và bị giết chết. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai chỉ có một ít những người di dân trở lại Mannheim. Mãi đến năm 1987 nhà thờ Do Thái mới được khánh thành. Trong năm 2005 có khoảng 600 người Do Thái cư ngụ tại Mannheim. Đọc thêm: Cuộc sống người Do Thái tại Mannheim Đạo Hồi Cùng với đợt công nhân khách thứ hai từ giữa thập niên 1960, nhiều người Thổ Nhĩ Kỳ, và vì thế lần đầu tiên có nhiều người theo đạo Hồi đến Mannheim. Số này tăng lên đến 20.827 người trong năm 2004, chiếm 7% dân số Mannheim. Vì thế, Nhà thờ đạo Hồi Yavuz Sultan Selim được xây dựng tại Mannheim, cho đến thời điểm đó là nhà thờ đạo Hồi lớn nhất Đức có sức chứa 2.500 người đến cầu nguyện. Chính trị Hội đồng thành phố có 48 ghế và được bầu trực tiếp 5 năm một lần. Đứng đầu bộ máy hành chánh thành phố và đồng thời cũng là trưởng hội đồng thành phố là thị trưởng (Oberbürgermeister). Thị trưởng được bầu trực tiếp 8 năm một lần. Bên cạnh thị trưởng là Phó thị trưởng thứ nhất (Erster Bürgermeister), đại diện cho thị trưởng và 4 phó thị trưởng khác. Họ được hội đồng thành phố bầu với nhiệm kỳ 8 năm. Mỗi một phó thị trưởng lãnh đạo một sở trong bộ máy hành chánh (tài chính, xã hội, văn hóa,...). Huy hiệu Trên nửa tấm khiên có nền vàng là một móc đôi (Wolfsangel), một mẫu tự của chữ Rune, trên nửa còn lại có nền đen là biểu tượng sư tử của vùng Kurpfalz. Huy hiệu do hội đồng thành phố quyết định vào năm 1896 và được Đại công tước vùng Baden công nhận. Biểu tượng chiếc móc đôi đã được tìm thấy trên một hòn đá là cột mốc biên giới từ thế kỷ 17. Con sư tử là con thú huy hiệu của các tuyển hầu vùng Kurpfalz. Các thành phố liên kết Kinh tế và hạ tầng cơ sở Kinh tế Trong số 158.021 người lao động trong năm 2004 có 34% làm việc trong các ngành sản xuất, 22,8% trong thương mại, ngành ăn uống và giao thông và 42,2% trong lãnh vực các dịch vụ khác. Tỷ lệ người thất nghiệp là 10,9% (tháng 8 năm 2006). Mặc dù chịu nhiều ảnh hưởng của cuộc biến đổi cơ cấu kinh tế bắt đầu từ thập niên 1970 với việc giảm lao động trong công nghiệp và tăng trưởng trong khu vực dịch vụ, công nghiệp hóa và kim loại vẫn còn hiện diện nhiều ở Mannheim. Công nghiệp chế tạo máy và điện là ngành công nghiệp lớn nhất ở Mannheim. Thuộc vào trong số các doanh nghiệp lớn nhất là DaimlerChrysler (động cơ), EvoBus (xe buýt), ABB (kỹ thuật tự động và kỹ thuật điện), Alstom (nhà máy điện), Bombardier Transportation (trang thiết bị điện cho xe điện), John Deere (máy nông nghiệp), Deutz AG (động cơ), WIMA (linh kiện điện tử) và York (kỹ thuật lạnh). Đại diện của công nghiệp hóa là Roche (dược phẩm), SCA Hygiene (sản phẩm giấy và sợi cellulose), Fuchs Petrolub (chất bôi trơn), Unilever (xà phòng Dove), Reckitt Benckiser (chất tẩy rửa gia dụng), Phoenix (buôn bán dược phẩm) và Deutsche Hutchison (sản phẩm cao su). Tuy không còn là nơi dẫn đầu về tài chính như trong khoảng thời gian 1900 nhưng Mannheim vẫn còn có tầm quan trọng nhất định. Có trụ sở chính ở Mannheim là Ngân hàng Baden-Württemberg, Công ty Bảo hiểm Mannheim, Công ty bảo hiểm Inter. Đại diện của ngành lương thực thực phẩm là Südzucker, Birkel, Nhà máy bia Eichbaum. Bilfinger Berger và Bauhaus thuộc về ngành xây dựng và thuộc về ngành công nghệ thông tin là Comparex và CEMA. Bibliographisches Institut & F. A. Brockhaus là một nhà xuất bản quan trọng có trụ sở tại Mannheim. Truyền thông đại chúng Bên cạnh nhật báo Mannheimer Morgen là các tuần báo SportWoche, Mannheimer Blick am Sonntag và Wochenblatt cũng như tạp chí Meier được xuất bản hằng tháng. Đài truyền hình địa phương là Rhein Neckar Fernsehen đặt trụ sở tại Mannheim. Ngoài ra Mannheim còn có studio của đài truyền hình Südwestrundfunk. Từ năm 2004 trung tâm châu Âu của đài phát thanh AFN phát chương trình đi từ Mannheim-Sandhofen. Cũng ở tại Mannheim là các đài phát thanh tư nhân big FM, Radio Regenbogen và từ 2006 là sunshine live. Đọc thêm: Truyền thông đại chúng trong Tam giác Rhein Neckar Cơ sở của quân đội Mỹ Một loạt cơ sở quân sự quan trọng của quân đội Mỹ và khối NATO được đặt tại Mannheim, trong đó có cơ quan chỉ huy của 5th Signal Command. Ở Mannheim có doanh trại sau đây của quân đội Mỹ: Funari Barracks (Käfertal) (5th Signal Command headquarters) Sullivan Barracks (Käfertal) (7th Signal Brigade headquarters) Benjamin Franklin Village (Käfertal) Turley Barracks (Käfertal) Taylor Barracks (Vogelstang) (2nd Signal Brigade headquarters) Spinelli Barracks (Feudenheim) Coleman Barracks (Sandhofen) (AFN, U.S. Army Confinement Facility Europe) Friedrichsfeld Quartermaster Depot (Friedrichsfeld) Giao thông Đường bộ Bao bọc hai thành phố Mannheim và Ludwigshafen là một vòng đai đường cao tốc. Đường cao tốc A 6 (Saarbrücken - Nürnberg) bao bọc thành phố về phía bắc và phía đông, đường cao tốc A 61 nối tiếp về phía tây và phía nam của Ludwigshafen, tạo thành vòng đai đường cao tốc. Về phía đông bắc của Mannheim là đường A 67 đi Darmstadt và Frankfurt, ở phía đông là A 656 đi Heidelberg và A 659 đến Weinheim. Chạy song song kế tiếp theo đó về phía đông là đường cao tốc A 5 (Frankfurt - Karlsruhe). Đường sắt Mannheim là điểm giao thông đường sắt lớn nhất trong miền tây nam nước Đức. Trong năm 2005 mỗi ngày có 185 chuyến tàu hỏa đi xa dừng tại Nhà ga chính Mannheim. Nhà ga nối toa tàu Mannheim là nhà ga lớn thứ hai của Đức sau Maschen (Hamburg). Trong năm 2005, mỗi ngày có 30 đoàn tàu quốc tế, 60 đoàn tàu trong nước và 440 đoàn tàu chở hàng trong vùng được kết nối tại đây. Bắt đầu từ năm 2003 có tuyến tàu S-Bahn Rhein-Neckar chạy xuyên khắp khu vực Rhein-Neckar cho đến vùng Pfalz, Odenwald và nam Hessen. Bắt đầu từ ngày 2 tháng 6 năm 1878 Mannheim đã có tàu điện phục vụ giao thông công cộng. Ngày nay Mannheim có 11 tuyến tàu điện và rất nhiều tuyến xe buýt do công ty TNHH Giao thông Rhein Neckar (Rhein-Neckar-Verkehr GmbH - RNV) vận hành. Tất cả các phương tiện giao thông công cộng đều có cùng chung một giá trong khu vực của Liên hiệp Giao thông Rhein Neckar (Verkehrsverbund Rhein-Neckar). Mạng lưới tàu điện ngầm Mannheim-Ludwigshafen tuy đã được bắt đầu trong những năm của thập niên 1970 nhưng chỉ được thực hiện một phần nhỏ vì lý do tài chính. Trạm ngầm duy nhất ở Mannheim là trạm Dalbergstraße. Hiện nay các kế hoạch xây dựng tàu điện ngầm đã bị đình chỉ. Đường thủy Do có điều kiện thuận lợi là ngã ba sông của Rhein và Neckar, Cảng Mannheim với diện tích 1.131 ha là một trong những cảng nội địa quan trọng nhất châu Âu. Trong năm 2005 có 8,1 triệu tấn hàng hóa được chuyển tải tại đây. Gần 500 doanh nghiệp với 20.000 việc làm tập trung chung quanh khu vực cảng. Đường không Bên cạnh một sân bay quân sự tại Mannheim-Sandhofen, thành có một sân bay dân sự City-Airport Mannheim (mã IATA: MHG) với các đường bay đến Berlin, Hamburg và Saarbrücken. Cảng hàng không Frankfurt chỉ cách Mannheim 30 phút tàu hỏa tốc hành ICE. Giáo dục và đào tạo Đại học Trên 24.000 sinh viên đăng ký học tập tại 10 trường đại học Mannheim: Đại học Tổng hợp Mannheim (Universität Mannheim): được thành lập năm 1907, khi đó là trường Đại học Thương mại. Các khoa Kinh tế và Khoa học Xã hội thường xuyên dẫn đầu trong các bảng xếp hạng trường đại học. Tròn 12.500 sinh viên học tập tại đây. Đại học Mannheim (Hochschule Mannheim). Là trường kỹ sư (Ingenieurschule) khi được thành lập năm 1898, từ 1971 là Đại học Thực hành Kỹ thuật. Được sáp nhập chung với trường Đại học Thực hành Tạo hình (1995) và Đại học Xã hội (2006). Ngày nay trường có 4.100 sinh viên đang học tập. Đại học Quốc gia Âm nhạc và Nghệ thuật biểu diễn Mannheim với khoảng 600 sinh viên Khoa Y học lâm sàng của trường Đại học Heidelberg (Universtät Heidelberg) với 800 sinh viên Học viện Nghề Mannheim (Berufsakademie Mannheim) đào tạo theo mô hình vừa học vừa làm Học viện nhạc Pop Baden-Württemberg (Popakademie Baden-Württemberg) thành lập năm 2003 là cơ sở duy nhất trên toàn nước Đức có các ngành học về kinh doanh âm nhạc (Musikbuniness) và thiết kế nhạc pop (Popmusikdesign) Đại học thực hành liên bang về quản lý hành chánh (Fachhochschule des Bundes für öffentliche Verwaltung), thành lập năm 1978. Tròn 1.200 sinh viên đăng ký học tại đây. Học viện liên bang về Quản lý trong quân đội và Kỹ thuật Quân sự (Bundesakademie für Wehrverwaltung und Wehrtechnik) thành lập năm 1961. Trường Quản lý hành chánh Quân đội I (Bundeswehrverwaltungsschule I) Đại học của Sở Lao động Liên bang Đại học sư phạm tư nhân đào tạo theo các nguyên tắc sư phạm Waldorf. Nghiên cứu Viện nghiên cứu về Luật Y tế, Luật Y học quốc tế, châu Âu và Đức là một trong những trung tâm nghiên cứu nổi tiếng nhất của Đức trong lãnh vực Luật Y tế, Luật Y học. Viện ngôn ngữ Đức, thành lập năm 1964 Hiệp hội Nghiên cứu về thiết bị điện và kinh tế điện Viện nghiên cứu về bầu cử (Forschungsgruppe Wahlen) Trung tâm Nghiên cứu Xã hội châu Âu Mannheim Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế châu Âu Văn hóa và thắng cảnh Nhà hát Nhà hát Quốc gia Mannheim đã có từ năm 1779 và vì thế là sân khấu cấp địa phương lâu đời nhất của Đức. Năm 1782 vở bi kịch Die Räuber (Các kẻ cướp) của Friedrich Schiller được trình diễn lần đầu tiên tại đây. Thêm vào đó là nhiều nhà hát nhỏ khác như Oststadt-Theater, Theater im G7, Nhà hát Oliv, Sân khấu Ngoài trời, Theater31, Nhà hát Impuls, Nhà hát Múa rối Mannheim và Sân khấu Klapsmühl’. Âm nhạc Trường Mannheim (Mannheimer Schule) được Johann Stamitz thành lập vào khoảng năm 1750 đầu tiên chỉ là một nhóm nhạc sĩ trong cung điện của tuyển hầu vùng Kurpfalz. Sau này đây là một trường soạn nhạc đã phát triển một phong cách mới, tạo cơ sở cho sự phát triển của Trường phái Cổ điển Wien. Trong những năm gần đây Mannheim đã gây được tiếng vang trong giới âm nhạc phổ biến. Viện nhạc Pop Baden-Württemberg là cơ sở đầu tiên của hình thức này tại Đức. Các nhạc sĩ và ban nhạc nổi tiếng của Mannheim bao gồm Joy Fleming, Jule Neigel, Xavier Naidoo và Söhne Mannheim, Laith Al-Deen cũng như là Wallis Bird. Viện bảo tàng Nhà Nghệ thuật Mannheim (Kunsthalle Mannheim) được thành lập nhân dịp kỷ niệm 300 ngày thành lập thành phố vào năm 1907. Trọng tâm truyền thống của bộ sưu tập là hội họa Pháp và Đức của thế kỷ 19 và thế kỷ 20 cũng như là điêu khắc quốc tế của thế kỷ 20. Viện bảo tàng Kỹ thuật và Lao động Tiểu bang (Landesmuseum für Technik und Arbeit) – khánh thành năm 1990 – trưng bày tài liệu về quá trình công nghiệp hóa của miền tây nam nước Đức. Các viện bảo tàng Reiss Engelhorn có nguồn gốc từ Học viện Khoa học Tuyển hầu. Ngày nay đấy là một cơ sở bao gồm nhiều viện bảo tàng và viện khác nhau: Viện bảo tàng D5 về khảo cổ và văn hóa thế giới Viện bảo tàng Zeughaus về lịch sử hát kịch, lịch sử thành phố và lịch sử nghệ thuật Viện bảo tàng Schhillerhaus Viện Lịch sử văn hóa và nghệ thuật Công trình xây dựng Quảng trường Friedrich (Friedrichsplatz) nằm trong vùng phía đông của nội thành. Trung tâm của quảng trường là biểu tượng của Mannheim: Tháp nước Mannheim cao 60 m. Tháp được xây dựng năm 1889 theo kiểu Tân Baroque (Neo-baroque), phía trên là tượng của nữ thần Amphitrite. Quảng trường chung quanh tháp được Bruno Schmidt kiến tạo theo phong cách Tân Nghệ thuật cho đến 1903. Nhà Nghệ thuật (Kunsthalle) được xây bằng sa thạch - do Hermann Billig xây dựng năm 1907 và được mở rộng năm 1983 – hòa hợp với các công trình xây dựng khác đã được xây dựng trước đó ở chung quanh Quảng trường Friedrich. Vườn Hồng Mannheim (Mannheimer Rosengarten) là một hội trường tổ chức lễ hội được khánh thành năm 1903. Ngày nay đó là một trung tâm tổ chức hội nghị. Từ Quảng trường Friedrich đi về phía tây, qua khu vực dành riêng cho người đi bộ Planken là quảng trường trung tâm của Mannheim: Quảng trường Duyệt binh Mannheim. Đầu tiên đây là nơi các tuyển hầu dùng để duyệt binh. Chính giữa quảng trường là tượng đài Grupello. Tượng đài này được Gabriel de Grupello xây dựng cho Tuyển hầu Johann Wilhelm vào năm 1711 và được dựng tại Vườn hoa lâu đài Düsseldorf. Karl Philipp cho mang tượng đài này về Mannheim năm 1743. Vào cuối thế kỷ 19 Quảng trường Duyệt binh được cải tạo mới với nhiều thảm cỏ được chia cắt bằng nhiều lối đi tỏa ra từ tượng đài là trung tâm của quảng trường. Ở mặt phía nam của quảng trường đầu tiên là một trung tâm mua sắm được xây năm 1746 và sau đấy từ 1909 là tòa thị chính. Sau khi bị phá hủy trong Chiến tranh thế giới thứ hai tòa nhà không được tái kiến thiết, thay vào đấy Nhà thành phố Mannheim (Stadthaus Mannheim) được xây dựng tại đây (1991), trong đó là nhiều cửa hàng, thư viện thành phố và nơi làm việc của hội đồng thành phố. Quảng trường Chợ (Marktplatz) nằm về phía bắc của Quảng trường Duyệt binh bên cạnh khu vực dành cho người đi bộ Đường Rộng (Breite Straße). Ở giữa là một đài phun nước từ năm 1719. Đài phun nước do Peter vanden Branden kiến tạo và được dựng trong vườn của Lâu đài Heidelberg. Tuyển hầu Karl Theodor tặng vòi phun này cho thành phố Mannheim vào năm 1767. Các biểu tượng trên đài kỷ niệm này lúc đầu tượng trưng cho đất, nước, không khí và lửa nhưng sau đó lại được tạo hình lại để trở thành biểu tượng cho Mannheim, thương mại, Rhein và Neckar. Về phía nam của Quảng trường Chợ là một công trình xây dựng đôi kiểu Baroque, có lẽ là căn nhà cũ nhất Mannheim vẫn còn tồn tại: Tòa thị chính cũ và Nhà thờ St. Sebastian Dưới (Untere Pfarrei St. Sebastian (Mannheim)), giữa hai căn nhà là một tháp chuông. Các tác phẩm điêu khắc khác nhau trên mặt tường bên ngoài miêu tả chức năng khác nhau của hai căn nhà: Ở Tòa thị chính Cũ là tượng nữ thần Justitia và thần Atlas, về phía nhà thờ là Pietà và các tượng thiên thần. Nhà thờ Dòng Tên (Jesuitenkirche) được xây dựng theo đồ án của Alessandro Galli da Bibiena để làm nhà thờ cho hoàng gia của các tuyển hầu cho đến năm 1760. Nhà nghiên cứu về lịch sử nghệ thuật Georg Dehio gọi đó là nhà thờ kiểu Baroque quan trọng nhất của vùng tây nam nước Đức. Các bức bích họa bên trong nhà thờ là của nghệ nhân München Egid Quirin Asam. Bàn thờ chính và 6 bàn thờ phụ ở hai bên là do Paul Egell và Peter Anton von Verschaffelt tạo hình trong thời gian cuối của Baroque và đầu Phong cách Cổ điển. Nhà thờ Christus (Christuskirche) hoàn thành năm 1911 là công trình tôn giáo tiêu biểu của nhà thờ Tin Lành, được xây dựng theo phong cách Baroque Mới với nhiều yếu tố của Tân Nghệ thuật. Đàn ống trong nhà thờ này là đàn ống lớn nhất Đức với 8.600 ống. Lâu đài Mannheim đã là nơi ngự trị của tuyển hầu vùng Pfalz. Được xây dựng trong thời gian 1720-1760, lâu đài này là công trình Baroque lớn thứ nhì châu Âu sau Lâu đài Versailles. Mặt trước nhìn về nội thành có chiều dài 440 m và là điểm cuối của bảy con đường song song. Ngoài những người khác, da Bibiena, Egell, Franz Wilhelm Rabaliatti, Nicolas de Pigage và Cosmas Damian Asam đã tham gia tạo dáng cho công trình này. Bị phá hủy hoàn toàn trong Chiến tranh thế giới thứ hai, lâu đài được tái kiến thiết năm 1968 dưới dạng đơn giản hơn. Cung điện Bretzenheim được xây dựng theo đồ án của Verschaffelt, hoàn thành vào năm 1788, được Tuyển hầu Karl Theodor tặng cho người tình của ông. Trong năm 1899 tòa nhà trở thành trụ sở của ngân hàng Eurohypo AG, từ năm 2004 là trụ sở của Tòa án Mannheim. Tháp truyền hình Mannheim với chiều cao 212,8 m là công trình kiến trúc cao nhất thành phố. Tháp được xây dựng năm 1975 theo đồ án của Erwin Heinle và Jörg Schlaich. Ở độ cao 125 m là một nhà hàng xoay và nơi để ngắm phong cảnh. Mannheim có 5 trong số 6 nhà cao nhất Baden-Württemberg. Tất cả đều được xây dựng ở phía ngoài vòng đai nội thành. Ba ngôi nhà chung cư và Collini-Center đều được xây năm 1975. Tháp Victoria được hoàn thành năm 2001 và là trung tâm văn phòng cao nhất thành phố. Tất cả năm ngôi nhà này đều có chiều cao đồng đều nhau, vào khoảng 95–97 m. Công viên và diện tích xanh Công viên Luise (Luisenpark) với 41 ha là công viên lớn nhất của thành phố. Công viên được thành lập năm 1903 và được mở rộng vào năm 1975 nhân dịp Triển lãm Vườn Liên bang. Nằm cạnh sông Neckar gần nội thành, công viên có nhiều điểm thu hút như nhà trưng bày thực vật, nhà bướm, thuyền du ngoạn và sân khấu trên hồ Công viên Herzogenried (Herzogenriedpark) cũng đã là một phần của cuộc Triển lãm Vườn Liên bang. Công viên rộng 22 ha và nằm về phía bắc của khu phố Neckarstadt. Đáng thăm viếng là các chuồng nuôi thú, vườn hồng và tòa nhà đa dụng với mái có kết cấu như một căn lều. Vườn hoa lâu đài trải dài từ phía sau của Lâu đài Mannheim cho đến sông Rhein và với 38 ha là công viên lớn thứ nhì của Mannheim. Đại công tước phu nhân Stéphanie de Beauharnais đã cho kiến tạo vườn Anh ở đây. Rất đáng tiếc là công viên đã mất đi nhiều tính hấp dẫn vì đường tàu hỏa được xây 1863-1867, đường xa lộ liên bang được xây từ năm 1959 cũng như là đường tàu hỏa thành phố đi Ludwigshafen đều chạy ngang qua đấy. Diện tích xanh đã bị đẩy lùi chỉ còn lại vài đảo giao thông trống trải, mặc dù vậy người dân Mannheim vẫn còn kiên quyết duy trì tên "Vườn hoa lâu dài". Công viên Rừng (Waldpark) với Đảo Reiß là một trong những vùng ngập nước tự nhiên lớn nhất cạnh sông Rhein. Bán đảo đã là sở hữu của Carl Reiß, người đã hiến vùng đất này cho thành phố dưới điều kiện phải bảo tồn trạng thái tự nhiên và tất cả người dân thành phố đều được phép đến du ngoạn. Rất nhiều loại chim quý hiếm có thể được quan sát trên Đảo Reiß. Thể thao Môn thể thao thu hút nhiều khán giả nhất ở Mannheim là khúc côn cầu trên băng. Đội Adler Mannheim đoạt giải vô địch liên bang Đức trong những năm 1980, 1997-1999 và 2001. Từ năm 2005 đội thi đấu trên sân nhà tại SAP-Arena. Vẫn còn được biết đến mặc dù các thời hoàng kim đã là quá khứ xa là hai câu lạc bộ bóng đá VfR Mannheim (vô địch Đức 1949) và SV Waldhof Mannheim (thi đấu Giải vô địch bóng đá Đức 1983-1990). Hai câu lạc bộ hiện thi đấu trong hạng tiểu bang Oberliga Baden-Württemberg. Từ 1958 Liên đoàn Bóng rỗ Đức (Deutscher Basketball Bund) tổ chức thi đấu thi Cúp Albert Schweitzer (Bóng rỗ Thiếu niên châu Âu) hai năm một lần vào mùa xuân tại Mannheim để tưởng niệm người bác sĩ đoạt giải thưởng Nobel Albert Schweitzer. Đây là một trong những giải bóng rỗ quan trọng nhất cho các đội thiếu niên. Câu lạc bộ điền kinh MTG Mannheim đã đào tạo nhiều vận động viên xuất sắc kể từ ngày thành lập. Đoạt nhiều thành tích quốc gia trong thời gian hiện nay là các nữ vận động viên chạy. Nhờ vào sự hiện diện đông đảo của quân đội Mỹ ở Mannheim mà môn bóng chày đã đoạt được nhiều thành tích lớn trong quá khứ. Các đội Knights, VfR, Amigos và Tornados của Mannheim đã đoạt Giải vô địch Bóng chày Đức tổng cộng 19 lần từ 1954 đến 1997. Thành công lớn trên trường đấu quốc tế ở các thập niên 1950 và 1960 và cho đến thập niên 1990 trên bình diện quốc gia là câu lạc bộ xe đạp RRC Endspurt Mannheim. Năm 2007 Mannheim sẽ là chặn cuối của giải đua xe đạp vòng quanh tiểu bang Tour de Ländle 2007, cũng còn được gọi là SWR-Radtour. Lễ hội và các sự kiện khác Tháng 2: Diễu hành hóa trang Tháng 3: Hội chợ âm nhạc Message Music Contest Tháng 4/ tháng 5: Lễ hội mùa Xuân Tháng 5: Lễ hội thành phố trong khu vực dành riêng cho người đi bộ Planken Tháng 7: Lễ hội Đức-Mỹ Tháng 7: Lễ hội Âm nhạc Arena of Pop trong khuôn viên của lâu đài Tháng 8: Christopher Street Day Lễ hội Kurpfalz trong Công viên Herzogenried Tháng 9: Lễ hội thiếu nhi trong Công viên Luise nhân Ngày Quốc tế Thiếu nhi Tháng 9 / tháng 10: Lễ hội mùa Thu Tháng 10: Giải cờ vây Aji Tháng 11: Lễ hội phim Mannheim-Heidelberg Tháng 11 / tháng 12: Chợ Giáng sinh Nhân vật nổi tiếng 1821: Friedrich Engelhorn (m. 1902): doanh nhân và là người thành lập tập đoàn BASF 1838: Wilhelm Reiß (m. 1908) nhà du lịch nghiên cứu và chuyên gia về núi lửa 1876: Hermann Müller (m. 1931) chính trị gia (SPD), Thủ tướng Đế chế 1920 và 1928-1930 1897: Sepp Herberger (m. 1977) huấn luyện viên đội tuyển bóng đá quốc gia Đức 1936-1964 ("Điều kỳ diệu ở Bern") 1905: Albert Speer (m. 1981) nhà kiến tạo đảng và quốc gia và Bộ trưởng Bộ vũ trang trong thời kỳ Đức Quốc xã, bị Tòa án Nürnberg tuyên xử là tội phạm chiến tranh. 1913: Hans Filbinger thủ hiến bang Baden-Würrtemberg (CDU) 1966-1978 1933: Gerhard Mayer-Vorfelder, Chủ tịch Liên đoàn Bóng đá Đức, cựu bộ trưởng trong bang Baden-Württemberg 1937: Rudi Altig vận động viên xe đạp, vô địch đường phố thế giới 1961, đoạt Áo Xanh trong Tour de France 1962 1969: Steffi Graf nữ vận động viên quần vợt Tuy không sinh ra tại Mannheim nhưng đã có nhiều ảnh hưởng tại thành phố này là: 1759: Friedrich von Schiller nhà thơ 1838: Heinrich Lanz nhà phát minh và sản xuất máy nông nghiệp, đầu máy xe lửa và máy kéo 1844: Carl Benz nhà phát minh ô tô Xem toàn bộ Danh sách những người con của Mannheim Inventions Made in Mannheim Tham khảo Manfred David: Mannheimer Stadtkunde. Edition Quadrat, Mannheim 1982, ISBN 3-87804-125-X Erich Keyser (Hrsg.): Badisches Städtebuch Band IV 2. Teilband aus Deutsches Städtebuch. Handbuch städtischer Geschichte - Im Auftrage der Arbeitsgemeinschaft der historischen Kommissionen und mit Unterstützung des Deutschen Städtetages, des Deutschen Städtebundes und des Deutschen Gemeindetages. Kohlhammer, Stuttgart 1959 Landesarchivdirektion Baden-Württemberg (Hrsg.): Das Land Baden-Württemberg - Amtliche Beschreibung nach Kreisen und Gemeinden, Band V. Kohlhammer, Stuttgart 1976, ISBN 3-17-002542-2 Stadtarchiv Mannheim und Mannheimer Architektur- und Bauarchiv e.V. Andreas Schenk (Hrsg.): Mannheim und seine Bauten 1907-2007, 5 Bände. Edition Quadrat, Mannheim 2000-2007 Andreas Schenk: Architekturführer Mannheim. Dietrich Reimer, Berlin 1999, ISBN 3-496-01201-3 Friedrich Walter: Mannheim in Vergangenheit und Gegenwart, 2 Bände. Mannheim 1907 Friedrich Walter: Schicksal einer deutschen Stadt, 2 Bände. Fritz Knapp, Frankfurt 1949-50 Hansjörg Probst: Kleine Mannheimer Stadtgeschichte. Friedrich Pustet, Regensburg 2005, ISBN 3-7917-1972-6 Der Brockhaus Mannheim. Lexikon zum 400-jährigen Stadtjubiläum. Brockhaus, Mannheim 2006, ISBN 3-7653-0181-7 Ulrich Nieß / Michael Caroli: Geschichte der Stadt Mannheim Band 1 1607–1801; Band 2 1801–1914; Band 3 1914–2007 jeweils ca. 600 Seiten mit farbigen Abb. erscheint von Frühjahr 2007 bis Herbst 2007; ISBN 978-3-89735-487-6 Liên kết ngoài Đi dạo ảo quanh Mannheim Bertha Benz Memorial Route (Mannheim-Pforzheim-Mannheim) Thành phố của bang Baden-Württemberg Karlsruhe (vùng) Cộng đồng Do Thái lịch sử Khu dân cư trên sông Rhein Địa điểm Holocaust ở Đức Lịch sử Pfalz
26078
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%A0nh%20T%E1%BB%95
Bành Tổ
Về vị tướng cùng tên nhà Tây Tấn, xem bài Vương Tuấn (Bành Tổ); về vị thủ lĩnh khởi nghĩa Bạch Liên giáo có xước hiệu là Bành Tổ, xem bài Bành Oánh Ngọc Bành Tổ (khoảng 1237/1214 TCN — khoảng 1100 TCN) tức Bành Khang, là một nhân vật trong truyền thuyết Trung Hoa được cho là sống lâu gần 800 tuổi. Sự tích Thời xưa, nhà nọ sinh được một bé trai kháu khỉnh, mặt mũi sáng sủa, đặt tên là Bành Nhi. Có một vị thầy bói đi qua thấy chú bé liền thất kinh nói rằng: "Tội nghiệp, thằng bé đĩnh ngộ thế mà 10 tuổi đã phải chết!" Cha mẹ cậu bé hoảng hốt, xin thầy cứu giúp. Thầy liền bảo cha mẹ cậu bé phải làm theo đúng các bước ông chỉ dẫn. Sáng hôm sau, Bành Nhi bèn bưng một mâm đào vừa to vừa ngon lên núi, tới nơi thầy bói dặn, thì thấy ở nơi đó suối chảy, hạc bay, mây vờn tùng bách, trên một tảng đá phẳng có hai ông tiên đang ngồi đánh cờ tướng. Bành Nhi rón rén lại gần, nhẹ nhàng đặt mâm đào xuống rồi vòng tay ngồi đợi. Hai ông tiên mải đánh cờ, thấy có đào ngon bèn cứ thế cầm lên, vừa đánh cờ vừa thưởng thức đào. Khi đánh xong ván cờ, hai vị tiên mới phát hiện ra chú bé dâng đào lấy làm thích lắm, bèn hỏi chuyện. Bành Nhi bèn kể hết mọi chuyện của cậu. Té ra hai vị tiên đó là Nam Tào và Bắc Đẩu, giữ sổ sinh tử trên Thiên đình. Giở sổ ra, hai ông thấy số tuổi của Bành Nhi đến số 10 là hết. Cả hai bèn bàn nhau thêm một nét phẩy lên trên chữ "thập", biến chữ "thập" (十) thành chữ "thiên" (千, hay nghìn). Thế là Bành Nhi được sống đến nghìn tuổi. Từ sự tích này mới có câu "Sống lâu như ông Bành Tổ". Theo một truyền thuyết khác Bành Tổ mồ côi cha từ khi còn trong bụng mẹ. Lên ba tuổi thì mẹ cũng qua đời. Từ đó Bành Khang lớn lên trong cảnh lang thang. Một hôm Bành Khang nấu một nồi canh gà rừng dâng lên Ngọc Hoàng. Ngọc Hoàng ưng ý, và để trọng thưởng liền bảo: "Nhà ngươi đếm xem trên mình gà rừng có bao nhiều sợi lông màu sắc rực rỡ, thì nhà ngươi sống được bấy nhiêu tuổi". Bành Khang tìm lại đống lông gà, đếm được 1000 sợi. Bành Tổ đã lẳng lặng đến một vùng hẻo lánh phía tây nước Lưu Sa , để lẩn tránh sự dò hỏi của mọi người về bí quyết sống lâu, sống nốt quãng đời còn lại của mình. Điển cố Văn học Bành Tổ: Chỉ người sống lâu. Theo "Thần tiên truyện" thì Bành Tổ là người họ Điền tên Khanh, là cháu 6 đời vua Chuyên Húc, con trai thứ ba của Lục Chung. Vua Nghiêu phong cho ông đất Đại Thành (tức Bành Thành - Từ châu) lập ra Đại Bành thị quốc, vì thế nên gọi ông là Bành Tổ. Trải qua nhà Hạ đến cuối nhà Ân, ông đã 767 tuổi mà vẫn còn khoẻ, được mời ra giữ chức Đại phu. Thuở nhỏ, ông thích điềm tĩnh, không thiết gì công danh phú quý, chủ việc dưỡng sinh. Khi phải ra làm quan, ông thường cáo ốm ở nhà không dự gì đến chính sự. Tương truyền ông có tới 49 lần góa vợ, có một huyền thoại khác kể về cái chết của Bành Tổ như sau: bấy giờ Ngọc Hoàng Thượng đế nghe Thiên Lý Nhãn và Thuận Phong Nhĩ tâu rằng dưới trần gian có một ông già ngồi câu cá ở bờ Vị Thủy rất lâu rồi, ngồi đến nỗi tảng đá lõm thành hình cái mông đít mà sao chẳng thấy ông ấy chết. Ngọc Hoàng bèn sai Nam Tào và Bắc Đẩu hóa thành người phàm đi tuần du chốn nhân gian, khi đến bờ sông Vị thấy một ông già ngồi câu cá bèn hỏi: "Thưa cụ, cụ ngồi đây có bao giờ thấy hiện tượng nước chảy xuôi hòn đá trôi ngược không ạ?". Bành Tổ cười lớn nói: "Ta ngồi câu cá ở đây đã 800 năm chưa bao giờ thấy có chuyện như thế cả, các anh định hỏi đùa ta chắc?". Nam Tào và Bắc Đẩu bèn hỏi: "Thưa cụ, vậy cụ tên gì ạ?". Sau khi Bành Tổ nói họ tên thì Nam Tào và Bắc Đẩu biến mất về tra lại sổ sinh tử thấy không có ai tên như vậy đoán chắc lúc người này sinh ra mình đang bận gì nên sót tên không ghi bèn viết tên Điền Khanh vào sổ sinh của Bắc Đẩu rồi lấy sổ tử của Nam Tào ra gạc đi, Bành Tổ ở dưới trần lăn đùng ra chết. Tư tưởng Đạo gia Theo Trang Tử: Thiên địa mạc đại vu thu hào chi mạt, nhi đại sơn vi tiểu; mạc thọ vu thương tử, nhi Bành Tổ vi yểu. Thiên địa dữ ngã tịnh sinh, vạn vật dữ ngã vi nhất.'' Dịch: Thiên hạ không có gì lớn bằng cái đầu chiếc lông của chim và thú vào mùa thu; còn núi Thái thì nhỏ. Không có gì sống lâu bằng đứa trẻ chết non; còn ông Bành Tổ thì chết yểu. Trời đất với ta cùng sinh ra; vạn vật với ta là một. Khái niệm khác Một số tài liệu có nhắc đến Bành Tổ như một tên gọi khác của Bàn Cờ, một người Việt. Họ Bàn đọc là Bàng (Hồng Bàng), nhưng theo lối đọc miền Nam mấy âm đó suýt soát nên đọc là Bành. Tương truyền mồ mả ông còn đâu đó trong miền rừng núi tỉnh Quảng Đông, ông mới được đưa vào Trung Hoa đời Tam Quốc trong quyển "Tam ngũ lược kỳ" của Từ Chỉnh và đến đời nhà Tống thì được đưa vào Triết. Xem thêm Lục Chung Sử Ký Tư Mã Thiên Tham khảo Liên kết ngoài Điển cố Văn học Tư tưởng Đạo gia Nguồn gốc văn hóa Việt Nhận diện chân tướng ông Bàn Cổ Người thời Tam Hoàng Ngũ Đế Người nhà Hạ Người nhà Thương Thần tiên Trung Hoa Cờ tướng Thần thoại Trung Hoa Đạo giáo
26086
https://vi.wikipedia.org/wiki/2005
2005
2005 được chỉ định là Năm Vật lý quốc tế, Ất Dậu trong lịch Trung Quốc, và Năm thánh thể quốc tế trong thế giới Công giáo. Sự kiện Tháng 1 4 tháng 1: Ai là triệu phú lên sóng số đầu tiên trên kênh VTV3 10 tháng 1: 360 độ thể thao lên sóng. Tháng 2 14 tháng 2: YouTube, trang web chia sẻ video nổi tiếng đã được thành lập bởi Google và hai nhân viên cũ của Paypal 21 tháng 2 - Avatar: The Last Airbender chính thức phát sóng trên Nickelodeon 22 tháng 2: Động đất tại Sarand (Iran), hơn 420 người chết, 1000 người bị thương Tháng 3 Tháng 4 19 tháng 4: Joseph Aloisius Ratzinger đắc cử Giáo hoàng thứ 265 của Giáo hội Công giáo Rôma, Thánh hiệu Biển Đức XVI 23 tháng 4: Me at the zoo — video đầu tiên được đăng tải lên YouTube. Tháng 5 Tháng 6 10 tháng 6: Vượt lên chính mình ra mắt lần đầu tiên, trên kênh HTV7 Tháng 7 13 tháng 7: Tai nạn tàu hỏa tại Pakistan, làm thiệt mạng ít nhất 120 người. Tháng 8 23 tháng 8: Tổng thống Turkmenistan Saparmurat Niyazov ra lệnh cấm hát nhép tại các sự kiện văn hoá và cho rằng hát nhép sẽ "ảnh hưởng tiêu cực tới việc phát triển nghệ thuật âm nhạc và ca hát" tại quốc gia Trung Á. Tháng 9 1 tháng 9: Trung Quốc đã ban hành lệnh cấm các ca sĩ hát nhép khi biểu diễn trên sân khấu Bão Talim giết chết khoảng 105 người tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Trung Hoa Dân Quốc Tháng 10 8 tháng 10: Động đất tại Kashmir, đông bắc của Islamabad (Pakistan), ít nhất 30.000 người chết Tháng 11 15 tháng 11, Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại. Tháng 12 ? Nhóm nhạc Việt Nam HKT chính thức ra mắt (tan rã năm 2018). Sinh Tháng 1 26 tháng 1: Shophia Rose, ca sĩ Mỹ 30 tháng 1: Vương tử Hashem bin Al Abdullah, con trai của vua Abdullah II và Vương hậu Rania của Jordan Tháng 2 23 tháng 2: Cao Lê Hà Trang, nữ ca sĩ người Việt Nam Tháng 3 21 tháng 3: Châu Ngọc Tuyết Sang, vận động viên Taekwondo Việt Nam 26 tháng 3: Emma Luana Ninette Sophie, con gái của Vương tử Friso và Mabel Wisse Smit Tháng 4 8 tháng 4: Leah Isadora Behn, con gái của Märtha Louise của Na Uy và Ari Behn 19 tháng 4: Thoại Nghi, nữ ca sĩ người Việt Nam Tháng 5 Tháng 6 26 tháng 6: Vương nữ Alexia Juliana Marcela Laurentien, con gái của Vua Willem-Alexander và Máxima, Vương hậu Hà Lan Tháng 7 23 tháng 7: Georgina Maximiliana Tatiana Maria, con gái của hoàng tử Constantin của Liechtenstein và Marie von Kalnoky 30 tháng 7: Carlos Morales y de Grecia, con trai của Alexia của Hy Lạp và Đan Mạch và Carlos Morales Quintana Tháng 8 Tháng 9 Tháng 10 4 tháng 10: Vương tử Emmanuel Léopold Guillaume François Marie, con trai của Quốc vương Philippe và Vương hậu Mathilde của Bỉ 15 tháng 10: Vương tử Christian Valdemar Henri John, con trai của thái tử Quốc vương Frederik X và Vương hậu Mary của Đan Mạch 31 tháng 10: Vương nữ Leonor de Todos los Santos de Borbón Ortiz, con gái của Quốc vương Felipe VI và Vương hậu Letizia của Tây Ban Nha Tháng 11 4 tháng 11: Camilla Maria Katharina, con gái của công chúa Tatjana và Philipp von Lattorf 27 tháng 11: Gia Khiêm, ca sĩ người Việt Nam Tháng 12 3 tháng 12: Vương tôn Sverre Magnus, con trai của Vương thái tử Haakon và Vương thái tử phi Mette-Marit của Na Uy 13 tháng 12: Vương tôn Nicolas Casimir Marie, con trai của Vương tử Laurent và Vương tử phi Claire của Bỉ Vương tôn Aymeric Auguste Marie, con trai của Vương tử Laurent và Vương tử phi Claire của Bỉ Mất Tháng 1 1 tháng 1: Willem Scholten, cựu bộ trưởng Hà Lan (sinh 1927) 17 tháng 1: Hansjoachim Walther, cựu bộ trưởng liên bang Đức (sinh 1939) 20 tháng 1: Per Borten, cựu thủ tướng Na Uy (sinh 1913) 25 tháng 1: Netty Witziers-Timmer, nữ vận động viên điền kinh Hà Lan, người đoạt huy chương Thế Vận Hội (sinh 1923) 27 tháng 1: Franz-Karl Effenberg, chính trị gia Áo (sinh 1948) Tháng 2 2 tháng 2: Max Schmeling, võ sĩ quyền anh hạng nặng Đức (sinh 1905) 5 tháng 2: Gnassingbé Eyadéma, tổng thống Togo (sinh 1935) 7 tháng 2: Nedžad Botonjič, cầu thủ bóng đá Slovenia (sinh 1979) 9 tháng 2: Dr. Heribert Klein, nhà báo Đức, nghệ sĩ đàn ống (sinh 1957) 10 tháng 2: Jean Cayrol, tác giả Pháp, nhà xuất bản (sinh 1911) 10 tháng 2: Arthur Miller, nhà văn Mỹ (sinh 1915) 16 tháng 2: Marcello Viotti, người điều khiển dàn nhạc Ý (sinh 1954) 20 tháng 2: Hunter S. Thompson, nhà văn Mỹ (sinh 1937) 19 tháng 2: Huy Cận, nhà thơ, chính khách Việt Nam. (s. 1919) Tháng 3 2 tháng 3: Ivan Parík, nhà soạn nhạc Slovakia (sinh 1938) 2 tháng 3: Peter Zvi Malkin, điệp viên của Mossad (sinh 1927) 3 tháng 3: Rinus Michels, huấn luyện viên bóng đá Hà Lan (sinh 1928) 3 tháng 3: Guylaine St-Onge, nữ diễn viên Canada (sinh 1965) 4 tháng 3: Jurij Krawtschenko, cựu bộ trưởng Bộ Nội vụ Ukraina (sinh 1951) 8 tháng 3: Brigitte Mira, nữ diễn viên Đức (sinh 1910) 10 tháng 3: Danny Joe Brown, nhạc sĩ Mỹ (sinh 1951) 24 tháng 3: Volker Bigl, nhà y học (sinh 1942) 26 tháng 3: James Callaghan, chính trị gia Anh, cựu thủ tướng (sinh 1912) Tháng 4 1 tháng 4: Thomas Kling, nhà thơ trữ tình Đức (sinh 1957) 2 tháng 4: Marie Louise Fischer, nhà văn nữ Đức (sinh 1922) 2 tháng 4: Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Giáo hoàng Giáo hội Công giáo Rôma (sinh 1920) 2 tháng 4: Alois Vogel, nhà văn Áo (sinh 1922) 3 tháng 4: Wolf Klaußner, nhà văn Đức, dịch giả (sinh 1930) 5 tháng 4: Saul Bellow, nhà văn Mỹ (sinh 1915) 6 tháng 4: Rainier III, hầu tước của Monaco (sinh 1923) 7 tháng 4: Grigoris Bithikotsis, nam ca sĩ Hy Lạp (sinh 1922) 7 tháng 4: Max von der Grün, nhà văn Đức (sinh 1926) 9 tháng 4: Elsbeth Janda, nữ tác giả Đức (sinh 1923) 9 tháng 4: Jerzy Grzegorzewski, đạo diễn sân khấu Ba Lan (sinh 1939) 11 tháng 4: Lucient Laurent, cựu cầu thủ đội tuyển Pháp, người ghi bàn thắng đầu tiên tại World cup (sinh 1907) 17 tháng 4: Hans Gruijters, cựu bộ trưởng Hà Lan (sinh 1931) 17 tháng 4: Volker Vogeler, đạo diễn phim Đức, tác giả kịch bản 21 tháng 4: Zhang Chunqiao, chính trị gia Trung Hoa (sinh 1917) 22 tháng 4: Dr. Erika Fuchs, nữ dịch giả Đức (sinh 1906) 26 tháng 4: Maria Schell, nữ diễn viên (sinh 1926) Tháng 5 2 tháng 5: Hoàng Kim Huy, cựu tổng thống của Singapore (sinh 1915) 5 tháng 5: Christian Speck, chính trị gia Thụy Sĩ (sinh 1937) 6 tháng 5: Jost Gross, chính trị gia Thụy Sĩ (sinh 1946) 8 tháng 5: Jean Carrière, nhà văn Pháp (sinh 1932) 10 tháng 5: Otto Steiger, nhà văn Thụy Sĩ (sinh 1909) 19 tháng 5: John Arthur, võ sĩ quyền Anh Nam Phi (sinh 1929) 24 tháng 5: Carl Amery, nhà văn Đức (sinh 1922) Tháng 6 1 tháng 6: George Mikan, cầu thủ bóng rổ Mỹ (sinh 1924) 5 tháng 6: Kurt Graunke, nhà soạn nhạc Đức, người điều khiển dàn nhạc (sinh 1915) 6 tháng 6: Anne Bancroft, nữ diễn viên Mỹ, giải Oscar (sinh 1931) 6 tháng 6: Dana Elcar, diễn viên Mỹ (sinh 1927) 13 tháng 6: Álvaro Barreirinhas Cunhal, chính trị gia Bồ Đào Nha (sinh 1913) 19 tháng 6: Adalbert Schmitt, doanh nhân Đức (sinh 1931) 25 tháng 6: Emiliano Molina, cầu thủ bóng đá Argentina (sinh 1988) 25 tháng 6: Hugo Cunha, cầu thủ bóng đá Bồ Đào Nha (sinh 1977) Tháng 7 1 tháng 7: Luther Vandross, ca sĩ nhạc soul Mỹ (sinh 1951) 7 tháng 7: Helmut Bläss, đạo diễn phim, diễn viên Đức (sinh 1926) 8 tháng 7: Peter Boenisch, nhà báo Đức (sinh 1927) 17 tháng 7: Geraldine Fitzgerald, nữ diễn viên sân khấu (sinh 1913) 19 tháng 7: Edward Bunker, nhà văn thể loại hình sự Mỹ (sinh 1933) 20 tháng 7: James Doohan, diễn viên Canada (sinh 1920) 21 tháng 7: Tamara Lund, nữ ca sĩ opera Phần Lan, nữ diễn viên (sinh 1941) 25 tháng 7: Albert Mangelsdorff, nhạc sĩ nhạc jazz Đức (sinh 1928) 31 tháng 7: Wim Duisenberg, tổng thống đầu tiên của Ngân hàng Trung ương châu Âu (sinh 1935) Tháng 8 1 tháng 8: Fahd bin Abdul Aziz al Saud, vua của Ả Rập Saudi (sinh 1923) 3 tháng 8: Gert Fritz Unger, nhà văn Đức (sinh 1921) 6 tháng 8: Robin Cook, chính trị gia Anh, bộ trưởng Bộ Ngoại giao (sinh 1946) 6 tháng 8: Ibrahim Ferrer, nam ca sĩ Cuba (Buena Vista Social Club) (sinh 1927) 7 tháng 8: Ilse Werner, nữ diễn viên, nữ ca sĩ (sinh 1921) 9 tháng 8: Colette Besson, nữ vận động viên điền kinh Pháp, người đoạt huy chương Thế Vận Hội (sinh 1946) 11 tháng 8: Manfred Korfmann, nhà khảo cổ học Đức (sinh 1942) 11 tháng 8: Alois Lugger, chính trị gia Áo (sinh 1912) 13 tháng 8: David Lange, chính trị gia New Zealand (sinh 1942) 16 tháng 8: Eva Renzi, nữ diễn viên Đức (sinh 1944) 16 tháng 8: Frère Roger Schütz, nhà thần học Thụy Sĩ (sinh 1915) 22 tháng 8: Dieter Wolf, luật gia Đức, chính trị gia (sinh 1925) 23 tháng 8: Brock Peters, diễn viên Mỹ, nam ca sĩ (sinh 1927) 25 tháng 8: Peter Glotz, chính trị gia Đức, nhà xuất bản (sinh 1939) 28 tháng 8: Hans Clarin, diễn viên Đức (sinh 1929) Tháng 9 1 tháng 9: R. L. Burnside, ca sĩ nhạc blues Mỹ (sinh 1926) 1 tháng 9: Nell I Mondy, nhà nữ hóa sinh Mỹ (sinh 1921) 3 tháng 9: Fernando Távora, kiến trúc sư Bồ Đào Nha (sinh 1923) 3 tháng 9: Ekkehard Schall, diễn viên Đức (sinh 1930) 4 tháng 9: Lloyd Avery II, diễn viên Mỹ (sinh 1969) 7 tháng 9: Ekkehard Schwartz, nhà lâm học Đức (sinh 1926) 10 tháng 9: Erich Kuby, nhà báo Đức, nhà văn (sinh 1910) 18 tháng 9: Luciano van den Berg, cựu cầu thủ bóng đá Hà Lan (sinh 1984) 20 tháng 9: Simon Wiesenthal, kiến trúc sư Áo, nhà xuất bản, nhà văn (sinh 1908) 20 tháng 9: Tobias Schneebaum, nhà văn Mỹ, nghệ nhân, nhà nhân loại học (sinh 1921) Tháng 10 3 tháng 10: Sarah Levy-Tanai, nhà soạn nhạc Israel, nữ biên đạo múa (sinh 1911) 24 tháng 10: José Simon Azcona Hoyo, tổng thống của Honduras (sinh 1927) Tháng 11 13 tháng 11: Eddie Guerrero, đô vật chuyên nghiệp Mỹ 15 tháng 11: Hanne Haller, nữ ca sĩ Đức (sinh 1950) 25 tháng 11: George Best, cầu thủ bóng đá Bắc Ireland (sinh 1946) 26 tháng 11: Dieter Krieg, nghệ nhân Đức (sinh 1937) 27 tháng 11: Franz Schönhuber, nhà báo Đức, chính trị gia (sinh 1923) Tháng 12 1 tháng 12: Mary Hayley Bell, nữ diễn viên Anh (sinh 1911) 7 tháng 12: Devan Nair, cựu tổng thống của Singapore (sinh 1923) 26 tháng 12: Vincent Schiavelli, diễn viên Mỹ (sinh 1948) Giải Nobel Vật Lý: Roy J. Glauber (phân nửa giải), John L. Hall (phần tư giải) và Theodor W. Hänsch (phần tư giải). Hóa học: Yves Chauvin, Richard Schrock, Robert Grubbs Sinh lý học hoặc Y học: Barry Marshall, Robin Warren Văn học: Harold Pinter Hòa bình: Mohammed el-Baradei, Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế Kinh tế: Robert Aumann, Thomas Schelling Xem thêm Thế giới trong năm 2005, tình trạng thế giới trong năm này Tham khảo 05
26104
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%A1nh%20kh%E1%BB%8Dt
Bánh khọt
Bánh khọt là loại bánh Việt Nam (chính xác là loại bánh đặc trưng của miền nam Việt Nam. Làm từ bột gạo hoặc bột sắn, có nhân tôm, được chiên và ăn kèm với rau sống, ớt tươi, thường ăn với nước mắm pha ngọt, rất ít khi chấm nước sốt mắm tôm (không phải mắm tôm hay mắm tôm chua). Quy trình thực hiện Trong cách làm bánh khọt, chế bột là công đoạn quan trọng nhất. Cần chọn loại gạo (hoặc sắn) ngon để làm bột bánh. Thành phần làm bột bánh gồm gạo xay bột ướt, gạo nấu thành cơm và làm bún để nguội rồi xay đặc. Các loại bột trộn với nhau theo một tỷ lệ mà phần nhiều dựa vào kinh nghiệm. Hoặc bạn có thể mua bột bánh khọt ngoài tiệm. Nhân bánh thường là loại tôm sắt tươi, to vừa phải, bóc vỏ. Chọn tôm và bóc vỏ tôm cho khéo để giữ màu sắc của con tôm cũng là công đoạn quan trọng. Mỡ để rán bánh là loại mỡ heo phi hành và lá hẹ cho thơm, nhưng cần chú ý để lá hành và lá hẹ không bị cháy quá. Để khuôn hình tròn vào chảo, lấy mỡ đã chế nóng tráng khuôn, đổ bánh vào trong khuôn, ấn con tôm vào giữa, đậy vung chờ bánh chín. Khi bánh chín, bột trở nên vàng, còn nhân tôm trở nên có màu đỏ. Lá hành và lá hẹ trong mỡ bám vào bánh tạo màu xanh. Nước chấm (nước mắm) được chế biến từ nước mắm có pha với nước ấm, tỏi và nước chanh. Bánh Khọt (màu trắng) ở Vũng Tàu nước chấm có để kèm đu đủ xanh thái lát mỏng hoặc/và ngó sen ngâm cho ngấm. Rau sống ăn kèm. Bánh khọt với sức khoẻ Theo một số chuyên gia tư vấn thì bánh khọt cũng như nhiều món ăn miền Nam khác như bánh tằm bì, bánh xèo, chè xôi, bánh ít, bánh nếp... có sử dụng nước cốt dừa. Đây là loại chất béo thực vật có hàm lượng a xít béo no rất cao, có thể làm tăng nguy cơ béo phì, rối loạn li pid máu, hội chứng chuyển hóa, tiểu đường loại 2... Dùng nhiều nước cốt dừa không có lợi cho sức khỏe.. Nhưng bên cạnh mặt có hại thì bánh khọt cũng có những mặt lợi như: Tôm và hành lá có trong bánh khọt cung cấp vitamin C, vitamin K và một số chất dinh dưỡng thiết yếu khác, giúp cho xương chắc khỏe. Bà bầu ăn bánh khọt sẽ giúp cho xương chắc khỏe cả mẹ lẫn bé, tránh tình trạng loãng xương. Chú thích Liên kết ngoài Bánh khọt (VnExpress) Khọt Ẩm thực miền Nam Việt Nam Món mặn Việt Nam Khọt
26110
https://vi.wikipedia.org/wiki/N%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t
Nước Việt
Nước Việt có thể chỉ đến một trong các khái niệm sau: Đại Việt-Việt Nam Nước Việt - một nước chư hầu nhà Chu ở vùng đất phía nam sông Dương Tử, ven biển Chiết Giang, Trung Quốc trong giai đoạn Xuân Thu