id
stringlengths 1
8
| url
stringlengths 31
389
| title
stringlengths 1
250
| text
stringlengths 5
274k
|
---|---|---|---|
24492
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/X%C3%ADch%20Markov
|
Xích Markov
|
Trong toán học, chuỗi Markov là một quá trình ngẫu nhiên mô tả một dãy các biến cố khả dĩ trong đó xác suất của mỗi biến cố chỉ phụ thuộc vào trạng thái của biến cố trước đó. Một dãy vô hạn đếm được, trong đó xích thay đổi trạng thái theo từng khoảng thời gian rời rạc, cho ta một xích Markov thời gian rời rạc (DTMC). Một quá trình diễn ra trong thời gian liên tục được gọi là xích Markov thời gian liên tục (CTMC). Chúng được đặt tên theo nhà toán học người Nga Andrey Markov.
Xích Markov có được ứng dụng rộng rãi làm mô hình thống kê của nhiều quá trình đời thực, như là nghiên cứu hệ thống điều khiển hành trình trong các xe motor, hàng đợi hay hàng người đến sân bay, tỉ giá hối đoái tiền tệ và sự biến đổi của dân số quần thể.
Quá trình Markove là cơ sở cho phương pháp mô phỏng ngẫu nhiên xích Markov Monte Carlo, được dùng để mô phỏng việc lấy mẫu từ một phân bố xác suất phức tạp, và có ứng dụng trong thống kê Bayes, nhiệt động lực học, cơ học thống kê, vật lý, hóa học, kinh tế, tài chính, xử lý tín hiệu, lý thuyết thông tin và trí tuệ nhân tạo.
Giới thiệu
Định nghĩa
Một quá trình Markov là một quá trình ngẫu nhiên thỏa mãn tính chất Markov (đôi khi được gọi là "tính không ghi nhớ"). Nói đơn giản, nó là một quá trình mà các kết quả ở tương lai có thể được dự đoán chỉ dựa trên trạng thái hiện tại và—quan trọng hơn—dự đoán ấy tốt bằng dự đoán dựa trên toàn bộ lịch sử của quá trình đó. Nói cách khác, dựa trên trạng thái hiện tại của hệ thống, những trạng thái quá khứ và tương lai là độc lập.
Một xích Markov là một loại quá trình Markov có không gian trạng thái rời rạc hoặc tập chỉ số rời rạc (thường biểu diễn thời gian), tuy nhiên không có định nghĩa chính xác thống nhất. Thông thường, một xích Markov còn được định nghĩa là một quá trình Markov trong thời gian liên tục hoặc rời rạc với không gian trạng thái đếm được (tức thời gian bất kỳ), nhưng cũng có định nghĩa khác coi xích Markov có thời gian rời rạc trong không gian trạng thái đếm được hoặc liên tục (tức không gian trạng thái bất kỳ).
Các loại xích Markov
Không gian trạng thái và hệ số thời gian của hệ thống cần được xác định rõ ràng. Bảng sau đưa ra cái nhìn tổng quan về các loại quá trình Markov khác nhau dựa trên các mức độ không gian trạng thái và thời gian rời rạc hoặc liên tục:
Để ý rằng không có sự thống nhất trong việc dùng các thuật ngữ để chỉ trường hợp đặc biệc của quá trình Markov. Thường cụm từ "xích Markov" dùng để chỉ xích Markov thời gian rời rạc (DTMC), nhưng một số tác giả dùng "quá trình Markov" để chỉ một xích Markov thời gian liên tục (CTMC) mà không nói cụ thể. Ngoài ra, có một số mở rộng của quá trình Markov nằm ngoài bốn loại trên nhưng không có tên gọi đặc biệt nào (xem mô hình Markov). Hơn nữa, chỉ số thời gian không nhất thiết phải là số thực; giống như không gian trạng thái, có những quá trình di chuyển qua tập chỉ số của những cấu trúc toán học khác.
Trong khi tham số thời gian thường là rời rạc, không gian trạng thái của một chuỗi Markov không có quy tắc thống nhất chung nào. Tuy nhiên, nhiều ứng dụng của chuỗi Markov thường dùng không gian trạng thái hữu hạn hoặc vô hạn đếm được, cho phép phân tích thống kê đơn giản hơn. Ngoài số chỉ thời gian và không gian trạng thái, còn có nhiều biến thể, mở rộng và tổng quát khác. Để đơn giản, phần lớn bài viết tập trung vào trường hợp thời gian rời rạc, không gian trạng thái rời rạc, trừ khi được nói rõ.
Chuyển đổi
Sự biến đổi trạng thái của hệ thống được gọi là sự chuyển trạng thái hay chuyển đổi (). Xác suất của các khả năng chuyển trạng thái khác nhau được gọi là xác suất chuyển đổi. Một quá trình được xác định bởi một không gian trạng thái, một ma trận xác suất chuyển đổi mô tả xác suất của các chuyển đổi, và một trạng thái ban đầu (hay phân bố ban đầu) trên không gian trạng thái. Theo thông lệ, ta coi tất cả trạng thái và chuyển đổi khả dĩ được tính trong quá trình, nên luôn có một trạng thái tiếp theo, và quá trình không dừng lại.
Một quá trình ngẫu nhiên thời gian rời rạc gồm một hệ thống ở một trạng thái nhất định vào một bước nào đó, và trạng thái của hệ thay đổi giữa các bước. Các bước này thường được coi là khoảnh khắc trong thời gian, nhưng cũng có thể là khoảng cách vật lý hay những đại lượng khác. Về mặt toán học, các bước này được biểu diễn bằng số nguyên hoặc số tự nhiên. Tính chất Markov nói rằng phân bố xác suất có điều kiện của hệ ở bước tiếp theo (và tất cả các bước trong tương lai) chỉ phụ thuộc vào trạng thái hiện tại của hệ, chứ không phụ thuộc vào trạng thái của hệ ở những bước trước.
Do hệ thay đổi ngẫu nhiên, không thể đoán chính xác được trạng thái của xích Markov ở một thời điểm trong tương lai. Tuy nhiên, các tính chất thống kê của hệ có thể được dự đoán.
Lịch sử
Nhà toán học Nga Andrey Markov nghiên cứu quá trình Markov từ đầu thế kỷ 20, đăng tải bài báo đầu tiên về vấn đề này năm 1906. Quá trình Markov trong thời gian liên tục được phát hiện trước đó từ lâu dưới dạng quá trình Poisson. Markov bắt đầu quan tâm đến việc nghiên cứu một mở rộng của dãy ngẫu nhiên độc lập sau một bất đồng với Pavel Nekrasov, người khẳng định tính độc lập là cần thiết để luật số lớn yếu đúng. Trong bài báo đầu tiên về xích Markov xuất bản năm 1906, Markov chỉ ra rằng trong một số điều kiện nhất định, kết quả trung bình của một xích Markov sẽ hội tụ về một vectơ các giá trị cố định, chứng minh quy luật số lớn yếu mà không cần điều kiện độc lập, vốn thường được coi là điều kiện cần thiết để luật số lớn vẫn đúng. Markov sau đó dùng chuỗi Markov để nghiên cứu sự phân bố nguyên âm trong Yevgeny Onegin của nhà văn Aleksandr Pushkin, và chứng minh một định lý giới hạn trung tâm cho những chuỗi đó.
Năm 1912 Henri Poincaré nghiên cứu chuỗi Markov trên nhóm hữu hạn nhằm hiểu rõ hơn việc xáo lá bài. Những ứng dụng ban đầu khác của chuỗi Markov bao gồm mô hình khuếch tán, giới thiệu bởi Paul và Tatyana Ehrenfest năm 1907, và một quá trình rẽ nhánh, đưa ra bởi Francis Galton và Henry William Watson năm 1873, trước nghiên cứu của Markov. Sau khi kết quả của Galton và Watson được công bố, người ta phát hiện rằng quá trình rẽ nhánh đã được nghiên cứu độc lập từ ba thập kỉ trước đó bởi Irénée-Jules Bienaymé. Từ năm 1928, Maurice Fréchet bắt đầu quan tâm đến chuỗi Markov, và đến năm 1938 ông xuất bản một bài báo nghiên cứu chi tiết về quá trình ngẫu nhiên này.
Andrei Kolmogorov viết một bài báo năm 1931 phát triển phần lớn lý thuyết về quá trình Markov thời gian liên tục. Kolmogorov một phần được truyền cảm hứng bởi nghiên cứu năm 1900 của Louis Bachelier về sự thay đổi của thị trường chứng khoán cũng như những kết quả của Norbert Wiener về mô hình chuyển động Brown của Einstein. Ông đưa ra và nghiên cứu một nhóm các quá trình Markov cụ thể được biết với tên gọi quá trình khuếch tán, và suy ra các phương trình vi phân mô tả những quá trình đó. Độc lập với những nghiên cứu của Kolmogorov, trong một bài viết năm 1928, nhà toán học Sydney Chapman đưa ra một phương trình, nay gọi là phương trình Chapman–Kolmogorov, trong lúc nghiên cứu chuyển động Brown. Những phương trình vi phân đó nay gọi là phương trình Kolmogorov hoặc phương trình Kolmogorov–Chapman. Những nhà toán học khác có đóng góp quan trọng cho cơ sở của quá trình Markov bao gồm William Feller từ những năm 1930, và Eugene Dynkin từ những năm 1950.
Ví dụ
Bước đi ngẫu nhiên trên số nguyên và bài toán sai lầm của con bạc là những ví dụ của quá trình Markov. Một số biến thể của những quá trình này đã được nghiên cứu từ hàng trăm năm trước trong ngữ cảnh biến số độc lập. Hai ví dụ quan trọng của quá trình Markov là quá trình Wiener, còn gọi là quá trình chuyển động Brown, và quá trình Poisson, được coi là những quá trình quan trọng nhất trong lý thuyết quá trình ngẫu nhiên. Hai quá trình này là quá trình Markov trong thời gian liên tục, còn bước đi ngẫu nhiên trên số nguyên và bài toán sai lầm của con bạc là quá trình Markov trong thời gian rời rạc.
Một chuỗi Markov nổi tiếng là "bước đi của kẻ say", một bước đi ngẫu nhiên trên trục số mà ở mỗi bước, vị trí có thể thay đổi +1 hoặc −1 với xác suất ngang nhau. Từ mỗi vị trí có hai chuyển đổi khả dĩ: đến số nguyên liền trước hoặc liền sau. Xác suất chuyển đổi chỉ phụ thuộc vào vị trí hiện tại, không phụ thuộc vào cách ta đến vị trí đó. Ví dụ, xác suất chuyển đổi từ 5 về 4 và từ 5 lên 6 đều là 0,5, và tất cả những xác suất chuyển đổi khác từ 5 bằng 0. Những xác suất này độc lập với trạng thái trước đó của hệ, bất kể là 4 hay 6.
Một ví dụ khác là thói quen ăn uống của một sinh vật chỉ ăn nho, táo, hoặc cam, và tuân theo các quy luật sau đây:
Nó ăn một lần một ngày.
Nếu hôm nay nó ăn táo, ngày mai có ăn nho hoặc cam với cùng khả năng.
Nếu hôm nay nó ăn nho, ngày mai nó sẽ ăn nho với xác suất 1/10, ăn táo với xác suất 4/10, và ăn cam với xác suất 5/10.
Nếu hôm nay nó ăn cam, thì ngày mai nó sẽ ăn nho với xác suất 4/10 hoặc ăn táo với xác suất 6/10.
Thói quen ăn của sinh vật này có thể được biểu diễn bằng một chuỗi Markov vì lựa chọn của nó vào ngày mai chỉ phụ thuộc vào thứ nó ăn hôm nay, mà không phải thứ nó ăn hôm qua hay bất kỳ thời điểm nào khác trong quá khứ. Một tính chất thống kê có thể tính được là tỉ lệ số ngày kỳ vọng, xét trên một khoảng thời gian dài, mà sinh vật đó ăn một món nhất định.
Một chuỗi các biến cố độc lập (ví dụ như một chuỗi tung đồng xu) thỏa mãn định nghĩa của một chuỗi Markov. Tuy nhiên, mô hình xích Markov thường chỉ được áp dụng khi phân bố xác suất của bước tiếp theo phụ thuộc vào trạng thái hiện tại.
Định nghĩa chính xác
Xích Markov thời gian rời rạc
Một xích Markov thời gian rời rạc là một dãy các biến ngẫu nhiên , , , ... với tính chất Markov, tức xác suất chuyển sang trạng thái tiếp theo chỉ phụ thuộc vào trạng thái hiện tại chứ không phụ thuộc vào những trạng thái trước đó:
nếu cả hai xác suất có điều kiện này có nghĩa, tức là nếu
Những giá trị khả dĩ của tạo thành một tập đếm được gọi là không gian trạng thái của xích.
Biến thể
Xích Markov thời gian đồng nhất là những quá trình mà
với mọi . Nói cách khác, xác suất chuyển trạng thái độc lập với .
Xích Markov dừng là những quá trình mà
với mọi và . Mọi chuỗi Markov dừng đều là chuỗi Markov thời gian đồng nhất theo định lý Bayes.
Điều kiện cần và đủ để một chuỗi Markov thời gian đồng nhất là chuỗi dừng là phân bố của là một phân bố dừng của chuỗi Markov đó.
Một chuỗi Markove có trí nhớ (hoặc chuỗi Markov cấp )
trong đó là số nguyên dương, là một quá trình thỏa mãn
Nói cách khác, trạng thái tương lai phụ thuộc vào trạng thái quá khứ. Có thể thiết lập từ một chuỗi mang tính chất Markov bằng cách xét không gian trạng thái là các bộ sắp thứ tự gồm giá trị , tức .
Xích Markov thời gian liên tục
Một xích Markov thời gian liên tục được định nghĩa bởi một không gian trạng thái hữu hạn hoặc đếm được , một ma trận tốc độ chuyển đổi với các chiều bằng với chiều của không gian trạng thái, và một phân bố xác suất ban đầu trên không gian trạng thái đó. Với , phần tử không âm và diễn tả tốc độ của quá trình khi chuyển từ trạng thái sang trạng thái . Các phần tử được chọn sao cho mỗi hàng của ma trận tốc độ chuyển đổi có tổng bằng 0.
Có ba định nghĩa tương đương nhau của quá trình này.
Định nghĩa vô cùng bé
Gọi là biến ngẫu nhiên mô tả trạng thái của quá trình tại thời gian , và giả sử quá trình ở trạng thái ở thời điểm . Khi ấy, với điều kiện thì độc lập với các giá trị trước , và khi với mọi và thì
,
trong đó là hàm delta Kronecker, sử dụng ký hiệu o nhỏ. Các có thể được coi là biểu diễn tốc độ chuyển đổi từ trạng thái sang trạng thái .
Định nghĩa xác suất chuyển đổi
Với mọi và các thời điểm có chỉ số không quá : và tất cả trạng thái ở những thời điểm này , ta có
trong đó là nghiệm của phương trình vi phân cấp một
Với điều kiện ban đầu là ma trận đơn vị.
Không gian trạng thái hữu hạn
Nếu không gian trạng thái là hữu hạn, phân bố xác suất chuyển đổi có thể được biểu diễn bằng một ma trận, gọi là ma trận chuyển đổi , sao cho các phần tử của bằng
Khi ấy mỗi hàng của có tổng bằng 1 và tất cả phần tử đều không âm, tức là một ma trận ngẫu nhiên phải.
Phân phối dừng
Một phân phối dừng là một vectơ hàng, có các phần tử không âm có tổng bằng 1, không bị thay đổi khi thực hiện phép toán ma trận chuyển đổi lên nó. Nói cách khác, nó thỏa mãn
Định nghĩa này có liên quan đến vectơ riêng, và thực chất là vectơ riêng bên trái của với giá trị riêng bằng 1 được chuẩn hóa:
Với một xích Markov ta thường quan tâm đến một trạng thái dừng là giới hạn của dãy phân bố xác suất đối với một phân bố ban đầu nhất định.
Các giá trị của vectơ phân phối dừng thỏa mãn , tức tích vô hướng của với vectơ đơn vị là một, do đó nằm trên một đơn hình.
Các tính chất của xích Markov
Đặc điểm của một xích Markov được biểu diễn bởi phân bố điều kiện
đó là xác suất chuyển dịch của quy trình.
Nó đôi khi còn được gọi là xác suất chuyển dịch "một-bước".
Xác suất của một chuyển dịch trong hai, ba, hoặc nhiều bước hơn được rút ra từ xác suất chuyển dịch một bước và thuộc tính Markov:
Tương tự,
Các công thức này tổng quát hóa tới các thời điểm n + k tùy ý trong tương lai bằng cách nhân các xác suất chuyển dịch và lấy tích phân k − 1 lần.
Xác suất biên (marginal distribution) P(Xn) là phân bố trên các trạng thái tại thời điểm n. Phân bố ban đầu là P(X0). Sự tiến hóa của quy trình qua một bước được mô tả bằng công thức
Đây là một phiên bản của phương trình Frobenius-Perron.
Có thể tồn tại một hoặc nhiều phân bố trạng thái π sao cho
trong đó Y chỉ là một cái tên thuận tiện cho biến tích phân (variable of integration).
Phân bố π như vậy được gọi là một phân bố ổn định (stationary distribution) hoặc phân bố trạng thái ổn định.
Một phân bố ổn định là một hàm riêng (eigenfunction) của hàm phân bố điều kiện, gắn với giá trị riêng (eigenvalue) là 1.
Việc có phân bố ổn định hay không, và nó có là duy nhất hay không (nếu tồn tại), là phụ thuộc vào từng thuộc tính cụ thể của quá trình.
Bất khả quy nghĩa là mọi trạng thái đều có thể truy xuất từ mỗi trạng thái khác. Một quá trình là tuần hoàn nếu tồn tại ít nhất một trạng thái mà quá trình sẽ trả về trạng thái đó sau một khoảng thời gian cố định (lớn hơn một). Phi tuần hoàn (aperiodic) nghĩa là không tồn tại trạng thái nào như vậy cả.
Hồi qui dương (positive recurrent) nghĩa là thời gian được kì vọng trở lại trạng thái ban đầu là một giá trị dương cho mọi trạng thái.
Nếu chuỗi Markov là hồi qui dương, thì tồn tại một phân bố ổn định.
Nếu chuỗi Markov là hồi qui dương và không thể tối giản được nữa, thì tồn tại một phân bố ổn định duy nhất.
Xích Markov trong không gian trạng thái rời rạc
Nếu không gian trạng thái là hữu hạn, phân bố xác suất chuyển trạng thái có thể được biểu diễn dưới dạng một ma trận, gọi là ma trận chuyển đổi (transition matrix), với thành phần thứ (i, j) bằng với
Với không gian trạng thái rời rạc, tích phân của xác suất chuyển đổi ở bước thứ k là phép tổng, và có thể được tính bằng lũy thừa bậc k' của ma trận chuyển đổi. Nghĩa là, nếu P là ma trận chuyển đổi 1-bước, thì Pk là ma trận chuyển đổi k-bước.
Phân bố ổn định là một vector thỏa mãn phương trình
.
Như vậy, phân bố ổn định là một vectơ riêng của ma trận chuyển đổi, được gắn với giá trị riêng 1.
Nếu ma trận chuyển đổi P là không thể tối giản được, và phi tuần hoàn, thì Pk hội tụ từng giá trị thành phần về một ma trận trong đó mỗi cột là phân bố ổn định duy nhất , với
,
độc lập với phân bố ban đầu . Điều này được phát biểu trong Định lý Perron-Frobenius.
Ma trận chuyển đổi mà dương (nghĩa là mọi thành phần của ma trận là dương) thì ma trận là không thể tối giản và phi tuần hoàn. Một ma trận là một ma trận ngẫu nhiên thống kê (stochastic matrix) khi và chỉ khi nó là ma trận của các xác suất chuyển đổi của một chuỗi Markov nào đó.
Trường hợp đặc biệt, nếu xác suất chuyển đổi là độc lập với quá khứ thì được gọi là một sắp xếp Bernoulli (Bernoulli scheme). Một Bernoulli scheme chỉ với 2 trạng thái thì gọi là một quá trình Bernoulli (Bernoulli process).
Các ứng dụng khoa học
Các hệ thống Markovian xuất hiện nhiều trong vật lý, đặc biệt là cơ học thống kê (statistical mechanics), bất cứ khi nào xác suất được dùng để biểu diễn các chi tiết chưa được biết hay chưa được mô hình hóa của một hệ thống, nếu nó có thể giả định rằng thời gian là bất biến và không có mối liên hệ trong quá khứ cần nghĩ đến mà không bao gồm sự miêu tả trạng thái. Xích Markov có thể dùng để mô hình hóa nhiều quá trình trong lý thuyết hàng đợi và thống kê. Bài báo nổi tiếng của Claude Shannon năm 1948 A mathematical theory of communication, là một bước trong việc tạo ra lãnh vực lý thuyết thông tin, mở ra bằng cách giới thiệu khái niệm của entropy thông qua mô hình hóa Markov của ngôn ngữ tiếng Anh. Mỗi mô hình đã lý tưởng hóa có thể nắm bắt được nhiều hệ thống được thống kê đều đặn. Thậm chí không cần miêu tả đầy đủ cấu trúc, giống như là những mô hình tín hiệu, hiệu quả trong việc giải mã dữ liệu thông qua kỹ thuật viết code entropy. Nó cũng hiệu quả trong việc ước lượng trạng thái và xác định mẫu. Hệ thống điện thoại di động trên thế giới dùng giải thuật Viterbi để sửa lỗi (error-correction), trong khi các mô hình Markov ẩn (với xác suất chuyển đổi Markov ban đầu là không được biết và phải được ước lượng từ dữ liệu) được dùng rất nhiều trong nhận dạng tiếng nói và trong tin sinh học, chẳng hạn để mã hóa vùng/dự đoán gene.
PageRank của một trang web dùng bởi Google được định nghĩa bằng một xích Markov. Nó là xác suất để đến được trang i trong phân bố ổn định (stationary distribution) dựa vào xích Markov của mọi trạng (đã biết). Nếu N là số lượng trang web đã biết, và một trang i có ki liên kết thì nó có xác suất chuyển tới là (1-q)/ki + q/N cho mọi trang mà có liên kết tới và q/N cho mọi trang mà không có liên kết tới. Tham số q thường được chọn là khoảng 0.15.
Phương pháp chuỗi Markov cũng trở nên rất quan trọng trong việc sinh ra những chuỗi số từ những số ngẫu nhiên để phản ánh một cách chính xác những phân bố xác suất phức tạp - tiến trình MCMC là 1 ví dụ. Trong những năm gần đây, phương pháp này đã cách mạng hóa tính khả thi của phương pháp Bayes.
Chuỗi markov cũng có nhiều ứng dụng trong mô hình sinh học, đặc biệt là trong tiến trình dân số- một tiến trình tương tự như tiến trình sinh học.
Một ứng dụng của chuỗi Markov gần đây là ở thống kê địa chất. Đó là: chuỗi Markov được sử dụng trong mô phỏng 3 chiều của giá trị có điều kiện riêng phần. Ứng dụng này được gọi là "chuỗi markov thống kê địa chất", cũng giống như ngành thống kê địa chất. Hiện nay phương pháp này vẫn còn đang phát triển.
Chuỗi Markov cũng có thể ứng dụng trong nhiều trò chơi game. Nhiều loại game của trẻ em (Chutes and Ladders, Candy Land), là kết quả chính xác điển hình của chuỗi Markov. Ở mỗi vòng chơi, người chơi bắt đầu chơi từ trạng thái định sẵn, sau đó phải có lợi thế gì đó mới có thể vượt qua được bàn kế.
Trong ngành quản lý đất đai: người ta còn ứng dụng GIS, RS và chuỗi Markov vào phân tích sự thay đổi sử dụng đất (land use change), từ đó dự báo được tình hình sử dụng đất trong giai đoạn kế tiếp.
Xem thêm
Mô hình Markov ẩn
Ví dụ về xích Markov
Quá trình Markov
Quá trình quyết định Markov
Shift of finite type
Mark V Shaney
Markoff Chaney
Xích Markov thời gian liên tục
Tham khảo
A.A. Markov. "Rasprostranenie zakona bol'shih chisel na velichiny, zavisyaschie drug ot druga". Izvestiya Fiziko-matematicheskogo obschestva pri Kazanskom universitete, 2-ya seriya, tom 15, pp 135–156, 1906.
A.A. Markov. "Extension of the limit theorems of probability theory to a sum of variables connected in a chain". reprinted in Appendix B of: R. Howard. Dynamic Probabilistic Systems, volume 1: Markov Chains. John Wiley and Sons, 1971.
Leo Breiman. Probability. Original edition published by Addison-Wesley, 1968; reprinted by Society for Industrial and Applied Mathematics, 1992. ISBN 0-89871-296-3. (See Chapter 7.)
J.L. Doob. Stochastic Processes. New York: John Wiley and Sons, 1953. ISBN 0-471-52369-0.
Liên kết ngoài
(pdf) Markov Chains chapter in American Mathematical Society's introductory probability book
Google Pagerank
Markov Chains
Generating Text (About generating random text using a Markov chain.)
The World's Largest Matrix Computation (Google's PageRank as the stationary distribution of a random walk through the Web.)
Disassociated Press in Emacs approximates a Markov process
Markov chains used to produce semi-coherent English.
List of Markov chains-related resources
Lý thuyết xác suất
Quá trình ngẫu nhiên
Mô hình Markov
|
24493
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/El%20Hierro
|
El Hierro
|
El Hierro, cũng được gọi là Isla del Meridiano (nghĩa là hòn "Đảo Kinh tuyến"), là một hòn đảo nằm xa nhất về phía Nam cũng như về phía Tây thuộc quần đảo Canaris của Tây Ban Nha.
Lịch sử
Tên đảo có xuất xứ từ tiếng địa phương của những người dân nguyên bản, người Guancis, sống tại đây. Ban đầu họ gọi tên đảo là Hero; sau khi bị Tây Ban Nha thôn tính nhiều lần cuối cùng thành ra El Hierro, tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là "sắt". Tiếng Latinh gọi sắt là ferrum vì thế trong những ngôn ngữ khác như tiếng Pháp, tiếng Đức và tiếng Đan Mạch, cũng như trên các bản đồ có minh họa bằng tiếng Latinh thì tên của đảo còn được dùng một cách song song là Ferro.
Địa hình
Đây là một hòn đảo đá và núi đá, có độ cao lớn nhất là 1.501 m nằm ở phần giữa đảo (Malpaso), có diện tích 278 km², và dân số khoảng 10.162 người (theo thống kê từ năm 2003).
Động, Thực vật
Đảo El Hierro là nơi xuất xứ của một số loài động thực vật hiếm (Gallotia simonyi). Một số thông tin thêm về thực vật và đời sống của chúng ở trên đảo có thể tìm thấy trên trang www.hierro-flora.de
Du lịch
Cũng như trên các đảo khác trong quần đảo Canaris, đảo El Hierro là điểm đến cho nhiều du khách. Tại đó có một phi trường nhỏ (ở Valverde) và được giao thông với Tenerife.
Tổ chức hành chính
El Hierro là đảo thuộc huyện, Santa Cruz của Tenerife, Tây Ban Nha.
Tham khảo
Liên kết ngoài
El Hierro (trang chính)
Trang không chính thức
Trang không chính thức
Cỏ cây trên đảo
Quần đảo Canaria
Khu dự trữ sinh quyển Tây Ban Nha
|
24498
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bi%E1%BB%83n%20Ch%E1%BA%BFt
|
Biển Chết
|
Biển Chết (tiếng Ả Rập: البحر الميت, tiếng Hebrew: ים המלח) là một hồ nước mặn nằm trên biên giới giữa Bờ Tây, Israel và Jordan trên thung lũng Jordan. Khu vực chứa nước bị hãm kín này có thể coi là một hồ chứa nước có độ mặn cao nhất trên thế giới.
Biển Chết dài 76 km, chỗ rộng nhất tới 18 km và chỗ sâu nhất là 400 m, bề mặt biển Chết nằm ở 417,5 m (1.369 ft) dưới mực nước biển (số liệu năm 2005).
Biển Chết có sức lôi cuốn đặc biệt và các du khách từ các khu vực xung quanh Địa Trung Hải trong hàng nghìn năm qua. Nó là nơi nương tựa của Vua David, một trong các nơi nghỉ ngơi đầu tiên trên thế giới của Herod Đại đế, và là nguồn cung cấp các sản phẩm khác nhau như nhựa thơm cho việc ướp xác của người Ai Cập cho tới bồ tạt để làm phân bón.
Từ nguyên
Trong tiếng Hebrew, biển Chết được gọi là Yam ha-Melah – có nghĩa là "biển muối" hay Yam ha-Mavet – có nghĩa là "biển chết". Trong quá khứ nó còn có tên gọi là "biển Đông" hay "biển Arava". Trong tiếng Ả Rập biển Chết được gọi là Al Bahr al Mayyit – có nghĩa là "biển Chết" – hay ít phổ biến hơn là Bahr Lūţ - có nghĩa là "biển của Lot". Trong lịch sử thì tên gọi theo tiếng Ả Rập khác là "biển Zoar", lấy theo tên gọi của khu đô thị gần đó. Đối với người Hy Lạp thì biển Chết là "hồ Asphaltites".
Lịch sử tự nhiên
Biển Chết nằm trong đứt gãy Biển Chết, nó là một phần của vết nứt dài trên bề mặt Trái Đất có tên gọi Đại Thung Lũng. Đại Thung Lũng dài 6.000 km (3.700 dặm) kéo dài từ dãy núi Taurus ở Thổ Nhĩ Kỳ tới thung lũng Zambezi ở miền nam châu Phi. Đại Thung Lũng được hình thành từ thời kỳ thế Miocen (5,3-23 triệu năm trước trong Phân đại đệ tam) do kết quả của sự chuyển dịch của đĩa kiến tạo Arabia về phía bắc và sau đó về phía đông ra xa khỏi châu phi.
Khoảng 3 triệu năm trước thì cái mà ngày nay là thung lũng sông Jordan, biển Chết và Wadi Arabah/Nahal Arava đã liên tục bị tràn ngập nước từ Địa Trung Hải. Nước đã tạo ra một vịnh hẹp và quanh co, thông ra biển cả bằng cái mà ngày nay là thung lũng Jezreel. Các trận ngập lụt ở thung lũng này lên và xuống phụ thuộc vào các thay đổi khí hậu trong một thời gian dài. Hồ bị chiếm giữ bởi đứt gãy Biển Chết có tên gọi là "hồ Sodom", tạo ra các lớp muối trầm tích mà cuối cùng dày tới 3 km (2 dặm).
Theo thuyết địa chất, khoảng 2 triệu năm trước các vùng đất nằm giữa Đại Thung Lũng và Địa Trung Hải được nâng lên đến mức mà đại dương không còn khả năng gây ngập úng cho khu vực này nữa. Vì thế, vịnh dài đã trở thành một hồ dài.
Hồ thời tiền sử này có tên gọi "hồ Gomorrah". Hồ Gomorrah đã từng là hồ nước ngọt hay nước lợ dài ít nhất 80 km (50 dặm) vè phía nam của phần kết thúc hiện tại của biển Chết và 100 km (60 dặm) về phía bắc, vượt qua cả vùng đất lún Hula ngày nay. Khi khí hậu trở nên khô cằn hơn, hồ Samra co lại và trở nên mặn hơn. Hồ lớn chứa nước mặn là tiền nhiệm của biển Chết có tên gọi là "hồ Lisan".
Trong thời tiền sử một lượng lớn trầm tích đã tích tụ lại dưới đáy hồ Gomorrah. Các trầm tích này nặng hơn so với muối trầm tích và ép cho các trầm tích muối trồi lên trên vào cái ngày nay gọi là bán đảo Lisan và đỉnh Sedom (ở phía tây nam của hồ). Các nhà địa chất giải thích hiệu ứng này theo kiểu thùng bùn trong đó các tảng đá phẳng lớn được xếp đặt và ép bùn to lên trên theo các vách của thùng". Khi đáy biển Chết tụt xuống sâu hơn nữa do các lực kiến tạo thì các đỉnh núi chứa muối ở Lisan và đỉnh Sedom đã nằm tại các khu vực trên các vách đá cao. (Xem các đồi muối)
Thời kỳ khoảng 23.000 đến 18.000 năm trước là một thời kỳ rất khô hạn và mức nước bề mặt của hồ Lisan tụt xuống tới điểm còn thấp hơn cả bề mặt biển Chết ngày nay. Ở mức thấp nhất của hồ này thì bề mặt của nó đã nằm ở cao độ dưới 600 m (2.100 ft) so với mực nước biển.
Khoảng 12.000 năm trước thì mức nước trong hồ Lisan nhỏ bé đó bắt đầu dâng lên. Khoảng vài ngàn năm trước thì biển Chết đã chỉ lớn bằng khoảng khu vực lòng chảo phía bắc ngày nay của nó. Khu vực lòng chảo phía nam đã không tồn tại cho đến tận cuối thời Trung cổ.
Phần phía bắc của biển Chết nhận được chỉ khoảng 100 mm (4 inch) nước mưa trong một năm. Phần phía nam còn ít hơn (50 mm hay 2 inch). Sự khô cằn của khu vực biển Chết là do hiệu ứng chặn mưa của dãy núi Judea. Khu vực cao nguyên ở phía đông biển Chết nhận được lượng mưa lớn hơn so với biển Chết.
Các dãy núi ở phía tây – dãy núi Judea – có độ dốc đứng từ phía biển Chết thấp hơn so với các dãy núi ở phía đông. Các dãy núi phía đông cũng cao hơn. Dọc theo phía đông nam của hồ là dãy đồi cao 210 m (700 ft) chứa muối gọi là "đỉnh Sedom".
Thành phần hóa học và hiệu ứng sức khỏe
Cho đến tận mùa đông năm 1978–1979, biển Chết bao gồm hai lớp nước phân tầng có nhiệt độ, tỷ trọng, niên đại và độ mặn phân biệt. Khoảng 35 m trên cùng (hoặc cao độ khác tương tự) của biển Chết có độ mặn nằm trong khoảng 30-40% và nhiệt độ nằm trong khoảng 19 °C (66 °F) và 37 °C (98 °F). Phía dưới lớp chuyển tiếp thì nước biển Chết có nhiệt độ ổn định khoảng 22 °C (72 °F) và bão hòa natri clorua (NaCl). Do nước ở gần đáy là bão hòa nên muối lắng đọng ra khỏi dung dịch vào lớp đáy biển.
Từ đầu những năm thập niên 1960 nước chảy vào biển Chết từ sông Jordan đã giảm đi do kết quả của việc thủy lợi hóa lớn và do có ít mưa nói chung. Vào năm 1975 thì lớp nước trên cùng của biển Chết trên thực tế còn mặn hơn so với lớp thấp hơn. Tuy nhiên lớp nước trên cùng vẫn lơ lửng phía trên lớp dưới do nước của nó ấm hơn và vì thế nhẹ hơn. Khi lớp nước trên bị lạnh đi đến mức tỷ trọng của nó lớn hơn so với lớp dưới thì nước của biển Chết, sau nhiều thế kỷ, cuối cùng đã trộn lẫn và hồ nước này là một khối nước đồng nhất. Kể từ đó, sự phân tầng bắt đầu được quy hoạch lại.
Hàm lượng khoáng chất trong nước của biển Chết là khác đáng kể so với nước của các đại dương, nó chứa khoảng 53% chloride magiê (MgCl2), 37% chloride kali (KCl) và 8% chloride natri (NaCl, muối ăn) với phần còn lại (khoảng 2%) là dấu vết của các nguyên tố khác.
Nồng độ các ion SO4 là rất thấp, và nồng độ các ion brom là cao nhất so với các nguồn nước khác trên Trái Đất. Các ion chloride trung hòa phần lớn các ion calci trong biển Chết và xung quanh nó. Trong khi tại các khu vực biển khác và trong đại dương thì NaCl chiếm khoảng 97% thành phần khoáng chất, còn tại biển Chết thì lượng NaCl chỉ chiếm khoảng 12–18%. Nhiệt độ nước tăng từ 19 °C (tháng Hai) tới 31 °C (tháng Tám).
Nước biển Chết chứa khoảng 21 khoáng chất, bao gồm magiê, calci, brom và kali. 12 trong số các khoáng chất này không tìm thấy trong các biển/đại dương khác, và một số trong chúng được ghi nhận là có ảnh hưởng tới cảm giác thư giãn, bổ dưỡng da, trị các vấn đề về da (như: chàm, vảy nến, hắc hào, ghẻ lỡ, và mụn), hoạt động của hệ tuần hoàn và làm giảm nhẹ bệnh thấp khớp cũng như các rối loạn trao đổi chất. So sánh thành phần hóa học của biển Chết với các hồ/đại dương khác chỉ ra rằng nồng độ muối của biển Chết là 31,5% (có dao động). Do độ cao bất thường về độ mặn của nó nên người ta có thể nổi trong biển Chết khá dễ dàng nhờ tác dụng của sức nổi. Trong ngữ cảnh này thì biển Chết là tương tự như Hồ Muối Lớn (Great Salt Lake) ở Utah, Hoa Kỳ.
Nước biển Chết gây ra cảm giác trơn nhờn. Nước này tạo ra cảm giác cay và có thể gây ra thương tích khi lọt vào mắt.
Một trong các thuộc tính bất thường của biển Chết là sự tiết ra nhựa đường. Từ các độ sâu, biển Chết liên tục phun ra các cục nhỏ chất màu đen này. Sau các trận động đất, các tảng nhựa đường to như các ngôi nhà có thể được tạo ra.
Khu vực biển Chết đã trở thành một trung tâm nghiên cứu sức khỏe và điều trị lớn vì một số lý do. Hàm lượng khoáng chất của nước, tỷ lệ rất thấp của các loại phấn hoa và các chất gây dị ứng khác trong không khí, tỷ lệ bức xạ tia cực tím thấp trong ánh nắng Mặt Trời và áp suất khí quyển cao ở độ sâu lớn này có các tác động đặc biệt tới sức khỏe. Ví dụ những người bị suy giảm các chức năng thuộc hệ hô hấp do các loại bệnh như xơ hóa u nang dường như thu được lợi ích nhờ áp suất khí quyển cao.
Quần thể động thực vật
Biển Chết được gọi là "Chết" do độ mặn quá cao của nó làm cho cá hay các thủy sinh vật lớn khác không thể sinh sống trong lòng hồ của nó, tuy nhiên, một lượng rất nhỏ vi khuẩn và nấm mốc có thể tồn tại.
Cá theo sông Jordan bơi vào biển Chết sẽ chết rất nhanh khi nước ngọt bị trộn lẫn với nước siêu mặn của biển Chết. Tuy nhiên, quá trình pha trộn này không diễn ra ngay lập tức và đôi khi nước ngọt có thể nổi vô hạn định trên bề mặt biển Chết. Vì thế, đôi khi cá có thể sống ngay trong lớp nước phía trên cùng của bề mặt của biển Chết trong vài ngày, mặc dù không bao giờ chúng có thể sống trong biển Chết "thực thụ".
Trong thời gian ngập lụt thì nồng độ muối của biển Chết có thể tụt từ mức thông thường của nó là 35% xuống 30% hay thấp hơn. Trong các mùa đông nhiều mưa thì biển Chết nhất thời cũng có sự sống. Năm 1980, sau một mùa đông có mưa như thế, biển Chết thông thường có màu xanh sẫm đã chuyển thành màu đỏ. Các nghiên cứu của Đại học Hêbrơ phát hiện ra rằng biển Chết có rất nhiều tảo gọi là Dunaliella. Dunaliella trong lượt mình lại nuôi các loại vi khuẩn ưa muối có chứa sắc tố màu đỏ chứa carotenoid mà sự có mặt của chúng là nguyên nhân gây ra sự thay đổi màu. Kể từ năm 1980 thì khu vực biển Chết là rất khô và tảo cũng như vi khuẩn đã không thể xuất hiện với số lượng lớn như vậy.
Nhiều loài động vật sinh sống trong các dãy núi xung quanh biển Chết. Người ta có thể nhìn thấy các con lạc đà, dê rừng, thỏ, chó rừng, cáo và thậm chí cả báo hoa mai. Cả Jordan và Israel đã thành lập các khu bảo tồn xung quanh biển Chết. Có hàng trăm loài chim cũng sinh sống trong khu vực này.
Vùng châu thổ sông Jordan khi xưa đã từng là một rừng rậm nhiệt đới của cói và cọ. Flavius Josephus đã miêu tả Jericho như là "nơi màu mỡ nhất ở Judea". Trong thời kỳ La Mã và Byzantin thì các loại cây như mía, lá móng và sung dâu đã mọc dày dặc trong vùng hạ lưu thung lũng Jordan. Một trong các sản phẩm có giá trị được sản xuất ở Jericho là nhựa của cây linh sam, mà từ đó người ta đã sản xuất ra nước hoa.
Vào thế kỷ 19 thì sự màu mỡ của Jericho đã là chuyện của quá khứ.
Lịch sử loài người
Lịch sử loài người của khu vực biển Chết theo mọi cách nhìn đều dẫn đến thời cổ đại xa xưa. Ngay phía bắc của biển Chết là Jericho, khu vực đô thị cổ nhất liên tục có người sinh sống trên thế giới. Ở một nơi nào đó, có lẽ nào bên bờ phía đông nam của biển Chết, là các đô thị đã được đề cập tới trong cuốn Chúa sáng tạo ra thế giới, và đã bị hủy diệt trong thời đại của Abraham: Sodom và Gomorra và ba "thành phố của Đồng bằng" khác. Vua David đã trốn tránh khỏi sự truy đuổi của Saul tại Ein Gedi ở gần đó.
Những người Hy Lạp cổ đại gọi biển Chết là "hồ Asphaltites", do nhựa đường xuất hiện một cách tự nhiên. Aristotle đã viết về vùng nước khác thường này. Trong thời kỳ xâm chiếm của người Ai Cập người ta tin rằng Nữ hoàng Cleopatra đã có các đặc quyền để xây dựng các xưởng sản xuất mỹ phẩm và dược phẩm trong khu vực. Sau này, người Nabatea đã phát hiện ra giá trị của bitum thu được từ biển Chết là cần thiết đối với người Ai Cập để ướp các xác ướp của họ.
Vua Herod Đại Đế, Giê-su và John Baptêm đã có các mối liên hệ gần gũi với biển Chết và các khu vực xung quanh nó. Trong thời kỳ La Mã thì Essenes định cư ở Qumran trên bờ phía bắc biển Chết. Ở đây, trong các vùng núi đá macnơ mềm thì họ đã đục khoét các hang động lưu trữ cho thư viện của mình. Hai nghìn năm sau thư viện của họ đã được tìm thấy và được đặt tên là "các cuốn sách Biển Chết".
Vua Herod đã xây dựng một vài cung điện ở bờ tây Biển Chết. Nổi tiếng nhất là Masada, mà vào khoảng thời gian những năm 66–70 thì một nhóm nhỏ những người cuồng tín Do Thái nổi loạn đã đầu hàng trước sức mạnh của quân đoàn La Mã.
Sự cách biệt của khu vực đã hấp dẫn các thầy tu của Chính thống giáo Hy Lạp kể từ kỷ nguyên Byzantin. Các tu viện của họ như Saint George ở Wadi Kelt và Mar Saba trong sa mạc Judea là các điểm hành hương. Các bộ lạc Bedouin đã sống liên tục trong khu vực này và các nhà thám hiểm và các nhà khoa học gần đây đã tới để phân tích các khoáng chất và thực hiện các nghiên cứu trong khí hậu độc nhất vô nhị này. Kể từ những năm thập niên 1960, các du khách từ nhiều nơi trên thế giới cũng đã thám hiểm khu vực biển Chết.
Vào nửa đầu thế kỷ 20, biển Chết cũng bắt đầu thu hút sự quan tâm của các nhà công nghiệp hóa chất, những người thấy rằng biển Chết là mỏ tự nhiên của bồ tạt và brom.
Bảo vệ biển Chết
Biển Chết hiện đang nhanh chóng co lại. Mặc dù nó không bao giờ biến mất hoàn toàn (do sự bay hơi bị chậm lại khi diện tích giảm xuống và độ mặn tăng lên), nhưng biển Chết như chúng ta biết hiện nay có thể trở thành quá khứ.
Do một điều không hiện thực là giảm nhu cầu sử dụng sông Jordan cho các nhu cầu của con người nên một ý tưởng để bảo vệ biển Chết là đưa nước từ Địa Trung Hải hay Hồng Hải vào thông qua các đường hầm hay kênh đào. Mặc dù đường nối ra Địa Trung Hải có thể là ngắn hơn, nhưng Israel hiện nay đang xem xét việc xây dựng kênh đào nối ra Hồng Hải chiều theo nhu cầu của Jordan. Kế hoạch là bơm nước theo đường hầm lên cao 400 ft (120 m) tới Arava/Arabah tại Aqaba hay Eilat, dưới điểm cao nhất của thung lũng Arava/Arabah, và sau đó dẫn nước theo kênh đào để nó chảy từ độ cao 1700 ft (520 m) vào biển Chết. Nhà máy khử mặn có thể xây dựng tại Jordan.
Vào ngày 9 tháng 5 năm 2005, Jordan,Israel và Palestine đã ký một thỏa thuận để bắt đầu các nghiên cứu tính khả thi của dự án - được biết một cách chính thức như là "Kênh đào hai biển". Kế hoạch này dự tính sản xuất 870 triệu mét khối nước ngọt trên năm và 550 megawatt điện năng. Ngân hàng thế giới ủng hộ dự án này.
Chú thích
Liên kết ngoài
Tiếng Anh:
Dead Sea PhotoGeography and Explication
Ảnh chụp Biển Chết
Tranh vẽ Biển Chết
Trang chủ về Biển Chết của Israeli
Công việc tại Biển Chết Trang của (Israel Chemical Ltd)
Tiếng Việt:
Biển Chết sẽ biến mất vào năm 2050
Vì sao người ngã xuống Biển Chết không chìm?
Biển Chết đang lún dần
Biển Chết-1 trong số những điều thú vị về Trái Đất
Biển Chết sẽ được thông với biển Đỏ?
Biển Chết - cái rốn của địa cầu
Khởi động kế hoạch cứu biển Chết
Tắm ở Biển Chết
Vẫn có sinh vật sống trong biển Chết
Hồ nội lưu châu Á
Điểm cực Trái Đất
Thủy vực Jordan
Hồ thuộc Thung lũng tách giãn Lớn
Hồ Israel
Địa điểm hành hương Công giáo
Hồ linh thiêng
Hồ thu hẹp
Địa lý Kinh Thánh Hebrew
Hồ thuộc Bờ Tây
Hồ nước mặn
Điểm thấp nhất
Biên giới Israel-Jordan
Biên giới Bờ Tây
Hồ quốc tế châu Á
|
24500
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BA%A9m%20Gi%C3%A0ng
|
Cẩm Giàng
|
Cẩm Giàng (錦江) là một huyện thuộc tỉnh Hải Dương, Việt Nam.
Địa lý
Huyện Cẩm Giàng nằm ở phía tây của tỉnh Hải Dương, nằm cách thành phố Hải Dương khoảng 7 km, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 48 km, có vị trí địa lý:
Phía đông giáp thành phố Hải Dương và huyện Nam Sách
Phía tây giáp thị xã Mỹ Hào và huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên và thị xã Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh
Phía nam giáp huyện Bình Giang và huyện Gia Lộc
Phía bắc giáp huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh.
Hành chính
Huyện Cẩm Giàng có 17 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 2 thị trấn: Lai Cách (huyện lỵ), Cẩm Giang và 15 xã: Cẩm Điền, Cẩm Đoài, Cẩm Đông, Cẩm Hoàng, Cẩm Hưng, Cẩm Phúc, Cẩm Văn, Cẩm Vũ, Cao An, Định Sơn, Đức Chính, Lương Điền, Ngọc Liên, Tân Trường, Thạch Lỗi.
Lịch sử
Cẩm Giàng là một trong những huyện lâu đời nhất của tỉnh Hải Dương. Ban đầu tên của huyện vốn là Cẩm Giang, sau lại kiêng húy của Uy Nam vương Trịnh Giang nên đọc chệch âm là Cẩm Giàng.
Năm 1968, tỉnh Hải Dương sáp nhập với tỉnh Hưng Yên thành tỉnh Hải Hưng, huyện Cẩm Giàng thuộc tỉnh Hải Hưng.
Ngày 11 tháng 3 năm 1974, giải thể xã Cẩm Sơn cũ (nằm ngoài đê sông Thái Bình), địa bàn sáp nhập vào xã Thái Tân (huyện Nam Sách) và hai xã Đức Chính, Cẩm Vân (huyện Cẩm Giàng); thành lập xã Cẩm Sơn mới (nằm trong đê) trên cơ sở một phần diện tích và dân số của các xã Cẩm Hoàng, Cẩm Định, Kim Giang, Tân Trường, Thạch Lỗi.
Ngày 11 tháng 3 năm 1977, huyện Cẩm Giàng sáp nhập với huyện Bình Giang thành huyện Cẩm Bình.
Ngày 6 tháng 11 năm 1996, huyện Cẩm Bình thuộc tỉnh Hải Dương vừa được tái lập.
Ngày 17 tháng 2 năm 1997, huyện Cẩm Giàng được tái lập từ huyện Cẩm Bình cũ. Khi mới tách ra, huyện Cẩm Giàng có thị trấn Cẩm Giàng và 18 xã: Cẩm Điền, Cẩm Định, Cẩm Đoài, Cẩm Đông, Cẩm Hoàng, Cẩm Hưng, Cẩm Phúc, Cẩm Sơn, Cẩm Văn, Cẩm Vũ, Cao An, Đức Chính, Kim Giang, Lai Cách, Lương Điền, Ngọc Liên, Tân Trường, Thạch Lỗi. Tuy nhiên, thị trấn Cẩm Giàng không phải là huyện lỵ huyện Cẩm Giàng, các cơ quan hành chính huyện đóng tại xã Lai Cách.
Ngày 24 tháng 9 năm 1998, thành lập thị trấn Lai Cách - thị trấn huyện lị huyện Cẩm Giàng - trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của xã Lai Cách.
Ngày 16 tháng 10 năm 2019, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 788/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã thuộc tỉnh Hải Dương (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 12 năm 2019). Theo đó:
Hợp nhất xã Kim Giang và thị trấn Cẩm Giàng thành thị trấn Cẩm Giang
Hợp nhất hai xã Cẩm Định và Cẩm Sơn thành xã Định Sơn.
Sau khi sắp xếp, huyện Cẩm Giàng có 2 thị trấn và 15 xã như hiện nay.
Kinh tế
Huyện Cẩm Giàng có vị trí địa lý, giao thông thuận lợi (quốc lộ 5A và đường sắt Hà Nội - Hải Phòng chạy qua) để phát triển kinh tế. Có tiềm năng phát triển nông nghiệp với nhiều nông sản (lúa đặc sản, hành tây, dưa chuột, cà rốt, ớt, cà chua...). Huyện có các khu công nghiệp như: Phúc Điền, Tân Trường, Đại An và có một số nhà máy lớn như Công ty giày Cẩm Bình, Nhà máy lắp ráp ôtô Ford, Công ty may Venture, Công ty chế biến rau quả thực phẩm Vạn Đắc Phúc,...
Nghề truyền thống: chạm khắc gỗ mỹ nghệ Đông Giao, rượu Phú Lộc, giết mổ trâu bò Văn Thai, xay xát gạo...
Hiện nay huyện Cẩm Giàng đang triển khai đầu tư xây dựng khu đô thị TNR Star Tân Trường nằm trên địa bàn xã Tân Trường.
Cẩm Giàng là huyện có nhiều lợi thế để phát triển với vị trí chỉ cách thủ đô hơn 20 km.
Di tích lịch sử
Cẩm Giàng có nhiều di tích về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật có giá trị quý theo dòng thời gian. Huyện có tới 2 di tích cấp quốc gia đặc biệt là Văn miếu Mao Điền, cụm di tích đền Xưa - đền Bia - chùa Giám. Tiêu biểu một số di tích:
Văn miếu Mao Điền ở xã Cẩm Điền là một trong những văn miếu đầu tiên của Việt Nam.
Đền Bia ở xã Cẩm Văn là một di tích thờ Đại danh y thiền sư Tuệ Tĩnh nổi tiếng.
Đền Xưa ở xã Cẩm Vũ thờ danh y Tuệ Tĩnh.
Chùa Giám ở xã Cẩm Sơn được xây dựng vào thời Hậu Lê, là nơi danh y Tuệ Tĩnh sống và nghiên cứu về y dược.
Đình Hộ Vệ là di tích lịch sử văn hóa lâu đời trên địa bàn xã Cẩm Hưng. Đình Hộ Vệ thờ tướng nhà Đinh có tên là Đinh Hùng Lực, người có công theo giúp Vua Đinh Tiên Hoàng đánh dẹp loạn mười hai sứ quân.
Đình Thạch Lỗi là một di tích thờ tướng quân Lý Quốc Bảo - một vị tướng ở thời Tiền Lý.
Làng nghề
Các làng nghề, làng có nghề, công việc, nghề phụ tại các địa phương trong huyện như:
Nghề nấu rượu ở thôn Phú Lộc (Cẩm Vũ)
Giết mổ gia súc ở Văn Thai (Cẩm Văn)
Làng mộc chạm khắc Bến Đông Giao (Lương Điền)
Làm bột lọc ở thôn Quý Dương (Tân Trường)
Trồng và muối dưa kiệu (Ngọc Liên)
Nghề mộc, chạm khắc Ngọc Quyết (Ngọc Liên)
Nghề làm nón ở thôn Nghĩa Phú (Cẩm Vũ)
Một số làm nghề sắt vụn ở Tràng Kênh (thị trấn Cẩm Giang)
Nghề mộc, chạm khắc ở Đông Giao (Lương Điền)
Nghề mộc ở thôn Lê Xá (Cẩm Phúc)
Cà rốt (Đức Chính)
Thợ mộc, nề, lao động, chăn nuôi, lao động ngoài nước...
Giao thông
Cẩm Giàng nằm ở gần giữa hai thành phố là Hà Nội và Hải Phòng có hệ thống giao thông khá thuận lợi. Huyện lỵ cách trung tâm thành phố Hà Nội 48 km về phía đông và cách trung tâm thành phố Hải Dương 7 km về phía tây theo quốc lộ 5A. Một số đường giao thông chính:
- Đường bộ: Quốc lộ 5 (qua các xã, thị trấn Cẩm Điền, Cẩm Phúc, Tân Trường, Lai Cách và đi qua các khu dân cư chính như Mao, Ghẽ, Lai Cách), tuyến đường đi qua huyện có cầu Ghẽ là cây cầu vượt sông tại lý trình km39 + 831; Quốc lộ 38 (qua các xã Cẩm Hưng, Ngọc Liên, Lương Điền). Ngoài ra còn có các trục đường tỉnh, huyện lộ như 394, 394B, 394C, 5B...
- Đường sắt: Tuyến đường sắt Hà Nội - Hải Phòng chạy qua với ga Cẩm Giàng và ga Cao Xá.
- Đường sông: một phần hữu ngạn sông Thái Bình thuộc các xã Cẩm Văn, Đức Chính.
Tham khảo
Món ăn đặc sản: Mướp đắng chấm mắm tôm
|
24512
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20v%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20th%E1%BA%BF%20gi%E1%BB%9Bi%201982
|
Giải vô địch bóng đá thế giới 1982
|
Giải bóng đá vô địch thế giới 1982 (tên chính thức là 1982 Football World Cup - Spain / Copa del Mundo de Fútbol - España 82) là giải vô địch bóng đá thế giới lần thứ mười hai và đã được tổ chức từ ngày 13 tháng 6 đến ngày 11 tháng 7 năm 1982 ở Tây Ban Nha. Đây là lần thứ 7 giải vô địch bóng đá thế giới được tổ chức tại châu Âu sau các năm 1934 tại Ý, 1938 tại Pháp, 1954 tại Thụy Sĩ, 1958 tại Thụy Điển, 1966 tại Anh và 1974 tại Tây Đức và là lần đầu tiên được tổ chức tại một quốc gia thuộc bán đảo Iberia.
Linh vật chính thức của giải đấu là Naranjito, là một quả cam, một loại trái cây đặc trưng của Tây Ban Nha, mặc đồng phục của Đội tuyển bóng đá quốc gia Tây Ban Nha. Tên của quả cam xuất phát từ naranja trong tiếng Tây Ban Nha và có nghĩa là "quả cam", cùng với tiếp vị ngữ thân mật "-ito".
Sau 52 trận đấu, Ý lần thứ 3 đoạt chức vô địch bóng đá thế giới.
Vòng loại
105 đội bóng tham dự vòng loại và được chia theo năm châu lục để chọn ra 22 đội vào vòng chung kết cùng với nước chủ nhà Tây Ban Nha và đội đương kim vô địch thế giới Argentina.
Các sân vận động
17 sân vận động tại 14 thành phố đăng cai các trận đấu của giải:
Trọng tài
AFC
Ibrahim Youssef Al-Doy
Chan Tam Sun
Abraham Klein
CAF
Benjamin Dwomoh
Yousef El-Ghoul
Belaid Lacarne
CONCACAF
Rómulo Méndez
David Socha
Luis Paulino Siles
Mario Rubio Vázquez
CONMEBOL
Gilberto Aristizábal
Luis Barrancos
Juan Daniel Cardellino
Arnaldo Cézar Coelho
Gastón Castro
Arturo Ithurralde
Enrique Labo Revoredo
Héctor Ortiz
UEFA
Paolo Casarin
Vojtech Christov
Charles Corver
Bogdan Dotchev
Walter Eschweiler
Erik Fredriksson
Bruno Galler
António Garrido
Alojzy Jarguz
Augusto Lamo Castillo
Henning Lund-Sørensen
Damir Matovinović
Malcolm Moffat
Károly Palotai
Alexis Ponnet
Adolf Prokop
Nicolae Rainea
Miroslav Stupar
Michel Vautrot
Bob Valentine
Clive White
Franz Wöhrer
OFC
Tony Boskovic
Đội hình
Phân nhóm
Vòng bảng
Bảng 1
Bảng 2
Bảng 3
Bảng 4
Bảng 5
Bảng 6
Vòng 2
Bảng A
Bảng B
Bảng C
Bảng D
Vòng đấu loại trực tiếp
Bán kết
Tranh hạng ba
Chung kết
Vô địch
Danh sách cầu thủ ghi bàn
6 bàn
Paolo Rossi
5 bàn
Karl-Heinz Rummenigge
4 bàn
Zico
Zbigniew Boniek
3 bàn
Falcão
Alain Giresse
László Kiss
Gerry Armstrong
2 bàn
Salah Assad
Daniel Bertoni
Diego Maradona
Daniel Passarella
Walter Schachner
Éder
Serginho
Sócrates
Antonín Panenka
Trevor Francis
Bryan Robson
Bernard Genghini
Michel Platini
Dominique Rocheteau
Didier Six
László Fazekas
Tibor Nyilasi
Gábor Pölöskei
Marco Tardelli
Billy Hamilton
John Wark
Klaus Fischer
Pierre Littbarski
1 bàn
Lakhdar Belloumi
Tedj Bensaoula
Rabah Madjer
Osvaldo Ardiles
Ramón Díaz
Reinhold Hintermaier
Hans Krankl
Bruno Pezzey
Ludo Coeck
Alexandre Czerniatynski
Erwin Vandenbergh
Júnior
Oscar
Grégoire M'Bida
Juan Carlos Letelier
Gustavo Moscoso
Miguel Ángel Neira
Luis Ramírez
Paul Mariner
Maxime Bossis
Alain Couriol
René Girard
Gérard Soler
Marius Trésor
Eduardo Laing
Héctor Zelaya
Lázár Szentes
József Tóth
József Varga
Alessandro Altobelli
Antonio Cabrini
Bruno Conti
Francesco Graziani
Abdullah Al-Buloushi
Faisal Al-Dakhil
Steve Sumner
Steve Wooddin
Rubén Toribio Díaz
Guillermo La Rosa
Andrzej Buncol
Włodzimierz Ciołek
Janusz Kupcewicz
Grzegorz Lato
Stefan Majewski
Włodzimierz Smolarek
Andrzej Szarmach
Steve Archibald
Kenny Dalglish
Joe Jordan
David Narey
John Robertson
Graeme Souness
Andriy Bal
Sergei Baltacha
Oleg Blokhin
Aleksandre Chivadze
Yuri Gavrilov
Khoren Oganesian
Ramaz Shengelia
Juanito
Roberto López Ufarte
Enrique Saura
Jesús María Zamora
Paul Breitner
Horst Hrubesch
Uwe Reinders
Ivan Gudelj
Vladimir Petrović
phản lưới nhà
Jozef Barmoš (trận gặp Anh)
Danh sách các cầu thủ nhận thẻ đỏ của trận đấu
Américo Gallego
Diego Maradona
Ladislav Vízek
Gilberto Yearwood
Mal Donaghy
Giải thưởng
Quả bóng vàng: Paolo Rossi
Chiếc giày vàng: Paolo Rossi
Bảng xếp hạng giải đấu
Tham khảo
Liên kết ngoài
1982 FIFA World Cup Spain ™ , FIFA.com
Chi tiết tại RSSSF
FIFA Technical Report (1) , (Phần 2) và (Phần 3)
Giải thưởng "Quả bóng vàng" World Cup 1982
Bóng đá năm 1982
Giải vô địch bóng đá thế giới theo năm
|
24529
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BA%ADt%20kh%E1%BA%A9u
|
Mật khẩu
|
Mật khẩu, đôi khi được gọi là mật mã, là một bí mật được ghi nhớ, thường là một chuỗi ký tự, được sử dụng để xác nhận danh tính của người dùng. Sử dụng thuật ngữ của Nguyên tắc nhận dạng kỹ thuật số NIST, bí mật được ghi nhớ bởi một bên gọi là nguyên đơn trong khi bên xác minh danh tính của nguyên đơn được gọi là người xác minh. Khi nguyên đơn thể hiện thành công kiến thức về mật khẩu cho người xác minh thông qua giao thức xác thực được thiết lập, người xác minh có thể suy ra danh tính của nguyên đơn.
Nói chung, một mật khẩu là một chuỗi các ký tự tùy ý bao gồm chữ cái, chữ số, hoặc các biểu tượng khác. Nếu các ký tự cho phép bị ràng buộc là số, thì bí mật tương ứng đôi khi được gọi là số nhận dạng cá nhân (personal identification number - PIN).
Mật khẩu không cần phải là một từ thực tế; thật vậy, một từ không tồn tại (theo nghĩa từ điển) có thể khó đoán hơn, đó là một thuộc tính mong muốn của mật khẩu. Một bí mật ghi nhớ bao gồm một chuỗi các từ hoặc văn bản khác được phân tách bằng dấu cách đôi khi được gọi là cụm mật khẩu. Một cụm mật khẩu tương tự như mật khẩu trong cách sử dụng, nhưng cụm mật khẩu thường dài hơn để tăng cường bảo mật.
Lịch sử
Mật khẩu đã được sử dụng từ thời cổ đại. Quân lính sẽ yêu cầu những người muốn vào một khu vực phải cung cấp mật khẩu hoặc khẩu hiệu và chỉ cho phép một người hoặc một nhóm vượt qua nếu họ biết mật khẩu. Polybius mô tả hệ thống phân phối khẩu hiệu trong quân đội La Mã như sau: Cách thức mà họ đảm bảo trao đổi các khẩu hiệu cho đêm là như sau: từ trung đội thứ mười của từng loại bộ binh và kỵ binh, các trung đội được đóng trại vào nửa cuối của đường phố, một người đàn ông được chọn không phải làm nhiệm vụ canh gác, và anh ta tham dự mỗi ngày vào lúc hoàng hôn tại lều của tribune, và nhận được một khẩu hiệu, đó là một chiếc bảng bằng gỗ có chữ khắc trên đó - sau đó anh ta rời đi, và trở về trại của anh ta, nói khẩu hiệu trên trước các nhân chứng cho chỉ huy của người kế tiếp, người này sẽ lần lượt chuyển nó cho người bên cạnh. Tất cả đều làm như vậy cho đến khi nó đạt đến các thao tác đầu tiên, những người bị có doanh trại gần lều của các bộ lạc. Những người sau này có nghĩa vụ giao bảng chứa mật khẩu cho các bộ lạc trước khi trời tối. Vì vậy, nếu tất cả những gì được ban hành được trả lại, bộ lạc biết rằng khẩu hiệu đã được trao cho tất cả các đơn vị quân, và đã chuyển qua tất cả trên đường trở về với anh ta. Nếu bất kỳ bảng mật khẩu trong số họ bị mất tích, anh ta sẽ điều tra ngay lập tức, vì anh ta biết được các dấu hiệu từ khu vực nào mà bảng mật khẩu không quay trở lại, và bất cứ ai chịu trách nhiệm cho việc giữ lại bảng mật khẩu đều phải chịu hình phạt mà anh ta đáng phải chịu.
Mật khẩu trong sử dụng quân sự được phát triển để bao gồm không chỉ mật khẩu, mà cả mật khẩu và phản mật khẩu; ví dụ như trong những ngày khai mạc trận Normandy, lính dù của Airborne Division 101 Mỹ sử dụng một mật khẩu flash -mà được trình bày như là một thách thức, và cần được trả lời với từ thunder. Thử thách và câu trả lời đúng được thay đổi ba ngày một lần. Lính nhảy dù Mỹ cũng nổi tiếng sử dụng một thiết bị được gọi là "cricket" trong D-Day thay cho hệ thống mật khẩu như một phương pháp nhận dạng tạm thời duy nhất; một lần nhấp bằng miếng kim loại được do thiết bị tạo ra, thay cho mật khẩu người đáp lại cần đáp ứng bằng hai lần nhấp để trả lời.
Mật khẩu đã được sử dụng với máy tính từ những ngày đầu tiên của máy tính. Hệ thống chia sẻ thời gian tương thích (CTSS), một hệ điều hành được giới thiệu tại MIT vào năm 1961, là hệ thống máy tính đầu tiên thực hiện đăng nhập mật khẩu. CTSS có lệnh LOGIN yêu cầu mật khẩu người dùng. "Sau khi nhập PASSWORD, hệ thống sẽ tắt cơ chế in, nếu có thể, để người dùng có thể nhập mật khẩu của mình với quyền riêng tư." Đầu những năm 1970, Robert Morris đã phát triển một hệ thống lưu trữ mật khẩu đăng nhập dưới dạng băm như một phần của hệ điều hành Unix. Hệ thống này dựa trên một máy mật mã cánh quạt Hagelin mô phỏng và lần đầu tiên xuất hiện trong phiên bản Unix phiên bản thứ 6 vào năm 1974. Một phiên bản sau của thuật toán của anh ta, được gọi là crypt(3), đã sử dụng salt 12 bit và gọi một dạng sửa đổi của thuật toán DES 25 lần để giảm nguy cơ tấn công từ điển được tính toán trước.
Trong thời hiện đại, tên người dùng và mật khẩu thường được mọi người sử dụng trong quá trình đăng nhập kiểm soát quyền truy cập vào hệ điều hành máy tính được bảo vệ, điện thoại di động, bộ giải mã truyền hình cáp, máy rút tiền tự động (ATM), v.v. Một người dùng máy tính thông thường có mật khẩu cho nhiều mục đích: đăng nhập vào tài khoản, truy xuất e-mail, truy cập ứng dụng, cơ sở dữ liệu, mạng, trang web và thậm chí đọc báo buổi sáng trực tuyến.
Chọn một mật khẩu an toàn và dễ nhớ
Thông thường, mật khẩu dễ nhớ hơn đối với chủ sở hữu có nghĩa là kẻ tấn công sẽ dễ đoán hơn. Tuy nhiên, mật khẩu khó nhớ cũng có thể làm giảm tính bảo mật của hệ thống vì (a) người dùng có thể cần ghi lại hoặc lưu trữ mật khẩu điện tử, (b) người dùng sẽ cần đặt lại mật khẩu thường xuyên và (c) người dùng có nhiều khả năng sử dụng lại cùng một mật khẩu trên các tài khoản khác nhau. Tương tự, các yêu cầu mật khẩu càng nghiêm ngặt, chẳng hạn như "có sự pha trộn giữa chữ hoa và chữ thường và chữ số" hoặc "thay đổi hàng tháng", mức độ mà người dùng sẽ lật đổ hệ thống càng lớn. Những người khác tranh luận mật khẩu dài hơn cung cấp bảo mật hơn (ví dụ: entropy) so với mật khẩu ngắn hơn với nhiều loại ký tự.
Trong Khả năng ghi nhớ và bảo mật của mật khẩu, Jeff Yan et al. kiểm tra hiệu quả của lời khuyên dành cho người dùng về một lựa chọn tốt về mật khẩu. Họ phát hiện ra rằng mật khẩu dựa trên suy nghĩ của một cụm từ và lấy chữ cái đầu tiên của mỗi từ cũng đáng nhớ như mật khẩu được chọn một cách ngây thơ và khó bị bẻ khóa như mật khẩu được tạo ngẫu nhiên.
Kết hợp hai hoặc nhiều từ không liên quan và thay đổi một số chữ cái thành ký tự hoặc số đặc biệt là một phương pháp tốt khác, nhưng một từ trong từ điển thì không. Có một thuật toán được thiết kế cá nhân để tạo mật khẩu tối nghĩa là một phương pháp tốt khác.
Tuy nhiên, yêu cầu người dùng nhớ mật khẩu bao gồm "kết hợp các ký tự viết hoa và viết thường" tương tự như yêu cầu họ nhớ một chuỗi bit: khó nhớ và chỉ khó hơn một chút để bẻ khóa (ví dụ khó hơn 128 lần bẻ khóa mật khẩu 7 chữ cái, ít hơn nếu người dùng chỉ cần viết hoa một trong các chữ cái). Yêu cầu người dùng sử dụng "cả chữ cái và chữ số" thường sẽ dẫn đến những sự thay thế dễ đoán như 'E' → '3' và 'I' → '1', những sự thay thế được biết đến với những kẻ tấn công. Tương tự gõ mật khẩu trên một một hàng bàn phím cao hơn để thay đổi chữ là một mẹo mật khẩu mà những kẻ tấn công cũng biết.
Vào năm 2013, Google đã công bố danh sách các loại mật khẩu phổ biến nhất, tất cả đều được coi là không an toàn vì chúng quá dễ đoán (đặc biệt là sau khi nghiên cứu một cá nhân trên phương tiện truyền thông xã hội):
Tên của vật nuôi, trẻ em, thành viên gia đình hoặc quan trọng khác
Ngày kỷ niệm và sinh nhật
Nơi sinh
Tên của một kỳ nghỉ yêu thích
Một cái gì đó liên quan đến một đội thể thao yêu thích
Từ "password", "mật khẩu"
Các yếu tố trong bảo mật của hệ thống mật khẩu
Tính bảo mật của hệ thống được bảo vệ bằng mật khẩu phụ thuộc vào một số yếu tố. Hệ thống tổng thể phải được thiết kế để bảo mật tốt, với khả năng bảo vệ chống lại virus máy tính, các cuộc tấn công trung gian và tương tự. Các vấn đề an ninh vật lý cũng là một mối quan tâm, từ việc ngăn chặn việc lướt vai cho đến các mối đe dọa vật lý phức tạp hơn như máy quay video và người đánh hơi bàn phím. Mật khẩu nên được chọn sao cho kẻ tấn công khó đoán và kẻ tấn công khó phát hiện bằng cách sử dụng bất kỳ kế hoạch tấn công tự động có sẵn nào. Xem độ mạnh của mật khẩu và bảo mật máy tính để biết thêm thông tin.
Ngày nay, thông thường các hệ thống máy tính sẽ ẩn mật khẩu khi chúng được gõ. Mục đích của biện pháp này là để ngăn người ngoài đọc mật khẩu; tuy nhiên, một số ý kiến cho rằng cách làm này có thể dẫn đến sai lầm và căng thẳng, khuyến khích người dùng chọn mật khẩu yếu. Thay vào đó, người dùng nên có tùy chọn hiển thị hoặc ẩn mật khẩu khi họ nhập chúng.
Các điều khoản kiểm soát truy cập hiệu quả có thể buộc các biện pháp cực đoan đối với tội phạm tìm cách lấy mật khẩu hoặc mã thông báo sinh trắc học. Các biện pháp cực đoan hơn bao gồm tống tiền, phân tích ống cao su và tấn công kênh bên.
Một số vấn đề quản lý mật khẩu cụ thể dưới đây phải được xem xét khi suy nghĩ, lựa chọn và xử lý mật khẩu.
Tần suất kẻ tấn công có thể thử đoán mật khẩu
Tốc độ mà kẻ tấn công có thể gửi mật khẩu đoán cho hệ thống là yếu tố chính trong việc xác định bảo mật hệ thống. Một số hệ thống áp dụng thời gian chờ vài giây sau một số lượng nhỏ (ví dụ: ba) lần thử nhập mật khẩu không thành công. Trong trường hợp không có lỗ hổng khác, các hệ thống như vậy có thể được bảo mật hiệu quả với mật khẩu tương đối đơn giản, nếu chúng được lựa chọn tốt và không dễ đoán.
Nhiều hệ thống lưu trữ một mật mã băm của mật khẩu. Nếu kẻ tấn công có quyền truy cập vào tệp đoán mật khẩu băm có thể được thực hiện ngoại tuyến, hãy nhanh chóng kiểm tra mật khẩu ứng viên dựa trên giá trị băm của mật khẩu thật. Trong ví dụ về máy chủ web, kẻ tấn công trực tuyến chỉ có thể đoán ở tốc độ mà máy chủ sẽ phản hồi, trong khi kẻ tấn công ngoại tuyến (có quyền truy cập vào tệp) chỉ có thể đoán ở tốc độ giới hạn bởi phần cứng của máy đang tấn công.
Mật khẩu được sử dụng để tạo khóa mật mã (ví dụ: để mã hóa ổ đĩa hoặc bảo mật Wi-Fi) cũng có thể bị đoán với tốc độ cao. Danh sách các mật khẩu phổ biến có sẵn rộng rãi và có thể làm cho các cuộc tấn công mật khẩu rất hiệu quả. (Xem Bẻ khóa mật khẩu) Bảo mật trong các tình huống như vậy phụ thuộc vào việc sử dụng mật khẩu hoặc cụm mật khẩu có độ phức tạp đầy đủ, khiến cho một cuộc tấn công như vậy không thể tính toán được cho kẻ tấn công. Một số hệ thống, chẳng hạn như PGP và Wi-Fi WPA, áp dụng hàm băm chuyên sâu tính toán cho mật khẩu để làm chậm các cuộc tấn công như vậy. Xem kéo dài khóa.
Giới hạn về số lần đoán mật khẩu
Một cách khác để giới hạn tốc độ mà kẻ tấn công có thể đoán được mật khẩu là giới hạn tổng số lần đoán có thể được thực hiện. Mật khẩu có thể bị vô hiệu hóa, yêu cầu đặt lại, sau một số ít dự đoán sai liên tiếp (giả sử là 5); và người dùng có thể được yêu cầu phải thay đổi mật khẩu sau số lần đoán sai tích lũy lớn hơn (giả sử 30), để ngăn kẻ tấn công tạo ra một số lượng lớn các dự đoán sai tùy ý bằng cách xen kẽ chúng giữa các dự đoán tốt do chủ sở hữu mật khẩu hợp pháp đưa ra. Kẻ tấn công có thể sử dụng kiến thức về giảm thiểu này để thực hiện một cuộc tấn công từ chối dịch vụ chống lại người dùng bằng cách cố ý khóa người dùng khỏi thiết bị của họ; sự từ chối dịch vụ này có thể mở ra những con đường khác để kẻ tấn công thao túng tình hình thành lợi thế của chúng thông qua kỹ thuật xã hội.
Hình thức mật khẩu được lưu trữ
Một số hệ thống máy tính lưu trữ mật khẩu người dùng dưới dạng văn bản thô, dựa vào đó để so sánh các nỗ lực đăng nhập của người dùng. Nếu kẻ tấn công giành được quyền truy cập vào kho lưu trữ mật khẩu nội bộ như vậy, thì tất cả mật khẩu và tất cả các tài khoản người dùng sẽ bị xâm phạm. Nếu một số người dùng sử dụng cùng một mật khẩu cho các tài khoản trên các hệ thống khác nhau, những hệ thống đó cũng sẽ bị xâm phạm.
Các hệ thống an toàn hơn lưu trữ từng mật khẩu ở dạng được bảo vệ bằng mật mã, do đó, việc truy cập vào mật khẩu thực tế sẽ vẫn khó khăn đối với một kẻ rình mò có quyền truy cập nội bộ vào hệ thống, trong khi vẫn có thể xác thực các nỗ lực truy cập của người dùng. Các hệ thống an toàn nhất không lưu trữ mật khẩu, mà chỉ có dẫn xuất một chiều, chẳng hạn như đa thức, mô đun hoặc hàm băm nâng cao. Roger Needham đã phát minh ra cách tiếp cận phổ biến hiện nay là chỉ lưu trữ một dạng "băm" của mật khẩu văn bản gốc. Khi người dùng nhập mật khẩu trên một hệ thống như vậy, phần mềm xử lý mật khẩu sẽ chạy qua thuật toán băm mật mã và nếu giá trị băm được tạo từ mục nhập của người dùng khớp với hàm băm được lưu trữ trong cơ sở dữ liệu mật khẩu, người dùng được phép truy cập. Giá trị băm được tạo bằng cách áp dụng hàm băm mật mã cho một chuỗi bao gồm mật khẩu được gửi và, trong nhiều triển khai, một giá trị khác được gọi là muối (salt). Một giá trị muối ngăn chặn kẻ tấn công dễ dàng xây dựng một danh sách các giá trị băm cho mật khẩu phổ biến và ngăn chặn các nỗ lực bẻ khóa mật khẩu trên tất cả người dùng. MD5 và SHA1 là các hàm băm mật mã được sử dụng thường xuyên nhưng chúng không được khuyến nghị để băm mật khẩu trừ khi chúng được sử dụng như một phần của cấu trúc lớn hơn như trong PBKDF2.
Tham khảo
An ninh
Giấy tờ tùy thân
Xác thực mật khẩu
|
24536
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20v%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20th%E1%BA%BF%20gi%E1%BB%9Bi%201986
|
Giải vô địch bóng đá thế giới 1986
|
Giải bóng đá vô địch thế giới 1986 (tên chính thức là 1986 Football World Cup - Mexico / Mexico 86) là giải vô địch bóng đá thế giới lần thứ 13 và đã được tổ chức từ 31 tháng 5 đến 29 tháng 6 năm 1986 tại México. Đây là lần thứ hai México đăng cai giải đấu này (lần trước là vào kỳ World Cup 1970) và México trở thành quốc gia đầu tiên trên thế giới hai lần đăng cai giải đấu.
Linh vật chính thức của giải đấu là Pique, là trái ớt jalapeño, một món đặc thù trong ẩm thực Mexico, với ria mép và đang đội mũ vành. Tên của nó đến từ picante, trong tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là "ớt" và "cay".
Sau 52 trận đấu, Argentina lần thứ hai đoạt chức vô địch bóng đá thế giới. Giải vô địch lần này chứng kiến sự tỏa sáng rực rỡ của Diego Maradona với sự dẫn dắt toàn đội tuyển tiến đến chức vô địch và tỏa sáng trên phương diện cá nhân với những bàn thắng vĩ đại, đậm chất kỹ thuật trong bóng đá mà điển hình là Bàn tay của Chúa và Bàn thắng thế kỷ.
Vòng loại
119 đội bóng tham dự vòng loại và được chia theo năm châu lục để chọn ra 22 đội vào vòng chung kết cùng với nước chủ nhà Mexico và đội đương kim vô địch thế giới Ý.
Các sân vận động
Maroc và Bồ Đào Nha thi đấu ở Guadalajara, còn Tây Ban Nha và Algérie thi đấu ở Monterrey.
Trọng tài
Châu Phi
Ali Bin Nasser
Edwin Picon-Ackong
Idrissa Traoré
Châu Á
Fallaj Al-Shanar
Jamal Al Sharif
Takada Shizuo
Châu Âu
Luigi Agnolin
Horst Brummeier
Valeri Butenko
Vojtech Christov
George Courtney
André Daina
Bogdan Dotchev
Erik Fredriksson
Ioan Igna
Jan Keizer
Siegfried Kirschen
Lajos Németh
Zoran Petrović
Alexis Ponnet
Joël Quiniou
Volker Roth
Victoriano Sánchez Arminio
Carlos Silva Valente
Alan Snoddy
Bắc và Trung Mỹ
Rómulo Méndez
Antonio Márquez Ramírez
David Socha
Berny Ulloa Morera
Châu Đại Dương
Chris Bambridge
Nam Mỹ
Romualdo Arppi Filho
Jesús Díaz
Carlos Espósito
Gabriel González Roa
José Luis Martínez Bazán
Hernán Silva
Đội hình
Phân nhóm
Vòng bảng
Bảng A
Bảng B
Bảng C
Bảng D
Bảng E
Bảng F
Thứ tự các đội xếp thứ ba
Vòng đấu loại trực tiếp
Sơ đồ khái quát
Vòng 16 đội
Tứ kết
Bán kết
Tranh hạng ba
Chung kết
Vô địch
Giải thưởng
Chi tiết:
Danh sách cầu thủ ghi bàn
6 bàn
Gary Lineker
5 bàn
Diego Maradona
Careca
Emilio Butragueño
4 bàn
Jorge Valdano
Preben Elkjær Larsen
Alessandro Altobelli
Igor Belanov
3 bàn
Jan Ceulemans
Nico Claesen
Jesper Olsen
Rudi Völler
2 bàn
Jorge Burruchaga
Enzo Scifo
Josimar
Sócrates
Jean-Pierre Papin
Michel Platini
Yannick Stopyra
Fernando Quirarte
Abderrazak Khairi
Roberto Cabañas
Julio César Romero
Ramón Calderé
Klaus Allofs
1 bàn
Djamel Zidane
José Luis Brown
Pedro Pasculli
Oscar Ruggeri
Stéphane Demol
Erwin Vandenbergh
Franky Vercauteren
Daniel Veyt
Edinho
Plamen Getov
Nasko Sirakov
John Eriksen
Michael Laudrup
Søren Lerby
Peter Beardsley
Manuel Amoros
Luis Fernández
Jean-Marc Ferreri
Bernard Genghini
Dominique Rocheteau
Jean Tigana
Lajos Détári
Márton Esterházy
Ahmed Radhi
Luis Flores
Manuel Negrete
Hugo Sánchez
Raúl Servín
Abdelkrim Merry
Colin Clarke
Norman Whiteside
Włodzimierz Smolarek
Carlos Manuel
Diamantino
Gordon Strachan
Choi Soon-Ho
Huh Jung-Moo
Kim Jong-Boo
Park Chang-Sun
Sergei Aleinikov
Oleg Blokhin
Vasyl Rats
Sergey Rodionov
Pavlo Yakovenko
Ivan Yaremchuk
Oleksandr Zavarov
Eloy
Andoni Goikoetxea
Julio Salinas
Juan Antonio Señor
Antonio Alzamendi
Enzo Francescoli
Andreas Brehme
Lothar Matthäus
Karl-Heinz Rummenigge
phản lưới nhà
László Dajka (trong trận gặp )
Cho Kwang-rae (trong trận gặp )
Bảng xếp hạng giải đấu
Tham khảo
Liên kết ngoài
1986 FIFA World Cup Mexico ™ , FIFA.com
World Cup 1986 trên RSSSF
FIFA Technical Report (Phần 1) , (Phần 2) , (Phần 3) và (Phần 4)
Bóng đá năm 1986
Giải vô địch bóng đá thế giới theo năm
|
24538
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20v%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20th%E1%BA%BF%20gi%E1%BB%9Bi%201990
|
Giải vô địch bóng đá thế giới 1990
|
Giải vô địch bóng đá thế giới 1990 (tên chính thức là 1990 Football World Cup - Italy, tên gọi ngắn gọn: Italia '90) là giải vô địch bóng đá thế giới lần thứ 14, diễn ra từ ngày 8 tháng 6 đến ngày 8 tháng 7 năm 1990 tại Ý. Đây là lần thứ hai Ý đăng cai giải đấu này (lần trước là vào năm 1934) trở thành quốc gia thứ hai trên thế giới (sau México) và quốc gia đầu tiên của châu Âu 2 lần đăng cai giải đấu.
Bài hát chính thức của giải đấu là "Un'estate italiana (To Be Number One)" của nhạc sĩ Giorgio Moroder, do hai ca sĩ Gianna Nannini và Edoardo Bennato thể hiện.
Linh vật chính thức của giải đấu là Ciao, cầu thủ hình cây gậy, với đầu là trái banh và thân là lá cờ tam tài của Ý. Biểu tượng được đặt tên theo câu chào của người Ý.
Sau 52 trận đấu, Tây Đức lần thứ 3 đoạt chức vô địch thế giới. Đây là giải đấu cuối cùng có sự góp mặt của một đội tuyển đến từ Tây Đức, với việc đất nước được thống nhất với Đông Đức vài tháng sau đó, cũng như các đội tuyển Liên Xô và Tiệp Khắc trước khi Chiến tranh Lạnh kết thúc năm 1991. Costa Rica, Ireland và UAE lần đầu tiên góp mặt trong vòng chung kết.
World Cup 1990 được coi là một trong những kỳ World Cup nghèo nàn nhất về mặt chuyên môn với trung bình 2,2 bàn thắng mỗi trận - mức thấp kỷ lục cho đến nay - và kỷ lục 16 thẻ đỏ, bao gồm cả thẻ đỏ đầu tiên trong một trận chung kết. Chiến thuật phòng ngự quá chặt chẽ đã dẫn đến sự ra đời của quy tắc chuyền ngược vào năm 1992 và ba điểm cho một chiến thắng thay vì hai, nhằm khuyến khích lối chơi tấn công, làm tăng sự quan tâm của khán giả đối với môn thể thao này.
World Cup 1990 trở thành một trong những sự kiện được theo dõi nhiều nhất trong lịch sử truyền hình, ước tính thu về 26,69 tỷ lượt người xem trong suốt giải đấu. Đây cũng là kỳ World Cup đầu tiên có các trận đấu được ghi hình và phát sóng chính thức theo định dạng HDTV, với sự phối hợp giữa hai đài truyền hình RAI của Ý và NHK của Nhật Bản.
Vòng loại
114 đội bóng tham dự vòng loại và được chia theo sáu châu lục để chọn ra 22 đội vào vòng chung kết cùng với nước chủ nhà Ý và đội đương kim vô địch thế giới Argentina.
Các đội tuyển vượt qua vòng loại
AFC (2)
CAF (2)
OFC (0)
Không có
CONCACAF (2)
CONMEBOL (4)
UEFA (14)
(chủ nhà)
Các sân vận động
Đội hình
Trọng tài
41 trọng tài đến từ 34 quốc gia tham gia điều khiển các trận đấu của giải vô địch bóng đá thế giới 1990.
CAF
Mohamed Hansal ()
Neji Jouini ()
Jean-Fidèle Diramba ()
AFC
Jamal Al Sharif ()
Jassim Mandi ()
Takada Shizuo ()
UEFA
Luigi Agnolin ()
Emilio Soriano Aladrén ()
George Courtney ()
Pietro D'Elia ()
Erik Fredriksson ()
Siegfried Kirschen (Đông Đức)
Helmut Kohl ()
Tullio Lanese ()
Michał Listkiewicz ()
Rosario Lo Bello ()
Carlo Longhi ()
Pierluigi Magni ()
Peter Mikkelsen ()
Pierluigi Pairetto ()
Zoran Petrović ()
Joël Quiniou ()
Kurt Röthlisberger ()
Aron Schmidhuber ()
Carlos Silva Valente ()
George Smith ()
Alan Snoddy ()
Aleksey Spirin ()
Marcel Van Langenhove ()
Michel Vautrot ()
CONCACAF
Edgardo Codesal ()
Vincent Mauro ()
Berny Ulloa Morera ()
OFC
Richard Lorenc ()
CONMEBOL
Juan Daniel Cardellino ()
Armando Pérez Hoyos ()
Elías Jácome ()
Juan Carlos Loustau ()
Carlos Maciel ()
Hernán Silva ()
José Roberto Wright ()
Phân nhóm
Vòng bảng
Giờ thi đấu tính theo giờ Trung Âu (UTC+2).
Bảng A
Bảng B
Bảng C
Bảng D
Bảng E
Bảng F
Thứ tự các đội xếp thứ ba
Vòng đấu loại trực tiếp
Vòng 16 đội
Tứ kết
Bán kết
Tranh hạng ba
Chung kết
Vô địch
Danh sách cầu thủ ghi bàn
6 bàn
Salvatore Schillaci
5 bàn
Tomáš Skuhravý
4 bàn
Roger Milla
Gary Lineker
Míchel
Lothar Matthäus
3 bàn
David Platt
Andreas Brehme
Jürgen Klinsmann
Rudi Völler
2 bàn
Claudio Caniggia
Careca
Müller
Bernardo Redín
Michal Bílek
Roberto Baggio
Gabi Balint
Marius Lăcătuș
Davor Jozić
Darko Pančev
Dragan Stojković
1 bàn
Andreas Ogris
Gerhard Rodax
Jorge Burruchaga
Pedro Monzón
Pedro Troglio
Jan Ceulemans
Lei Clijsters
Michel De Wolf
Marc Degryse
Enzo Scifo
Patrick Vervoort
Eugène Ekéké
Emmanuel Kundé
François Omam-Biyik
Freddy Rincón
Carlos Valderrama
Juan Cayasso
Róger Flores
Rónald González
Hernán Medford
Ivan Hašek
Luboš Kubík
Milan Luhový
Magdi Abdelghani
Mark Wright
Giuseppe Giannini
Aldo Serena
Ruud Gullit
Wim Kieft
Ronald Koeman
Niall Quinn
Kevin Sheedy
Mo Johnston
Stuart McCall
Kwan Hwang-Bo
Igor Dobrovolski
Oleh Protasov
Oleksandr Zavarov
Andrei Zygmantovich
Alberto Górriz
Julio Salinas
Tomas Brolin
Johnny Ekström
Glenn Strömberg
Khalid Ismaïl
Ali Thani Jumaa
Paul Caligiuri
Bruce Murray
Pablo Bengoechea
Daniel Fonseca
Uwe Bein
Pierre Littbarski
Robert Prosinečki
Safet Sušić
Giải thưởng
Đội hình toàn sao
Bảng xếp hạng giải đấu
Tham khảo
Liên kết ngoài
1990 FIFA World Cup Italy ™ , FIFA.com
Chi tiết trên RSSSF
FIFA Technical Report (Phần 1) , (Phần 2) , (Phần 3) , (Phần 4) , (Phần 5) và (Phần 6)
Planet World Cup – Italy 1990
Bóng đá năm 1990
Giải vô địch bóng đá thế giới theo năm
Giải đấu bóng đá quốc tế tổ chức bởi Ý
|
24539
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20v%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20th%E1%BA%BF%20gi%E1%BB%9Bi%201994
|
Giải vô địch bóng đá thế giới 1994
|
Giải vô địch bóng đá thế giới 1994 (tên chính thức là 1994 Football World Cup - USA / World Cup 94) là Giải vô địch bóng đá thế giới lần thứ 15 và đã được tổ chức từ ngày 17 tháng 6 đến ngày 17 tháng 7 năm 1994 tại Hoa Kỳ. Đây là kỳ World Cup lần thứ 3 được tổ chức tại Bắc Mỹ sau kỳ World Cup 1970 và World Cup 1986 đều tại México.
Bài hát chính thức của giải đấu là "Gloryland" do Charlie Skarbek và Rick Blaskey sáng tác và do Daryl Hall và Sounds of Blackness thể hiện.
Linh vật chính thức của giải đấu là Striker, một chú chó mặc đồng phục cầu thủ bóng đá đỏ, trắng và xanh với dòng chữ "USA 94".
Sau 52 trận đấu, Brasil lần thứ 4 đoạt chức vô địch bóng đá thế giới.
Vòng loại
144 đội bóng tham dự vòng loại và được chia theo 6 châu lục để chọn ra 22 đội vào vòng chung kết cùng nước chủ nhà Hoa Kỳ và đội đương kim vô địch thế giới Đức.
Các sân vận động
Trọng tài
CAF
Lim Kee Chong ()
Neji Jouini ()
AFC
Jamal Al Sharif ()
Ali Bujsaim ()
UEFA
Fabio Baldas ()
Manuel Díaz Vega ()
Philip Don ()
Bo Karlsson ()
Hellmut Krug ()
Peter Mikkelsen ()
Leslie Mottram ()
Pierluigi Pairetto ()
Sándor Puhl ()
Joël Quiniou ()
Kurt Röthlisberger ()
Mario van der Ende ()
CONCACAF
Arturo Angeles ()
Rodrigo Badilla ()
Arturo Brizio Carter ()
CONMEBOL
José Torres Cadena ()
Ernesto Filippi ()
Francisco Oscar Lamolina ()
Renato Marsiglia ()
Alberto Tejada ()
Đội hình
Phân nhóm
Vòng bảng
Giờ thi đấu tính theo giờ địa phương (từ UTC−4 đến UTC-7)
Bảng A
|}
Bảng B
|}
Bảng C
|}
Bảng D
|}
Bảng E
|}
Bảng F
|}
Thứ tự các đội xếp thứ ba
Vòng đấu loại trực tiếp
Vòng 16 đội
Tứ kết
Bán kết
Tranh hạng ba
Chung kết
Vô địch
Danh sách cầu thủ ghi bàn
6 bàn
Hristo Stoichkov
Oleg Salenko
5 bàn
Romário
Roberto Baggio
Jürgen Klinsmann
Kennet Andersson
4 bàn
Gabriel Batistuta
Florin Răducioiu
Martin Dahlin
3 bàn
Bebeto
Dennis Bergkamp
Gheorghe Hagi
José Luis Caminero
Tomas Brolin
2 bàn
Claudio Caniggia
Philippe Albert
Yordan Letchkov
Adolfo Valencia
Rudi Völler
Dino Baggio
Hong Myung-Bo
Luis García
Wim Jonk
Daniel Amokachi
Emmanuel Amuneke
Ilie Dumitrescu
Fuad Amin
Ion Andoni Goikoetxea
Adrian Knup
1 bàn
Abel Balbo
Diego Maradona
Marc Degryse
Georges Grün
Erwin Sánchez
Branco
Márcio Santos
Raí
Daniel Borimirov
Nasko Sirakov
David Embé
Roger Milla
François Omam-Biyik
Hernán Gaviria
John Harold Lozano
Lothar Matthäus
Karl-Heinz Riedle
John Aldridge
Ray Houghton
Daniele Massaro
Hwang Sun-Hong
Seo Jung-Won
Mohammed Chaouch
Hassan Nader
Marcelino Bernal
Alberto García Aspe
Bryan Roy
Gaston Taument
Aron Winter
Finidi George
Samson Siasia
Rashidi Yekini
Kjetil Rekdal
Dan Petrescu
Dmitri Radchenko
Fahad Al-Ghesheyan
Sami Al-Jaber
Saeed Al-Owairan
Txiki Begiristain
Pep Guardiola
Fernando Hierro
Luis Enrique
Julio Salinas
Henrik Larsson
Roger Ljung
Håkan Mild
Georges Bregy
Stéphane Chapuisat
Alain Sutter
Earnie Stewart
Eric Wynalda
phản lưới nhà
Andrés Escobar (trận gặp Hoa Kỳ)
Giải thưởng
Đội hình toàn sao
Bảng xếp hạng giải đấu
Tham khảo
Liên kết ngoài
1994 FIFA World Cup USA ™ , FIFA.com
World Cup 1994 trên RSSSF
FIFA Technical Report (Phần 1) , (Phần 2) , (Phần 3) và (Phần 4)
Bóng đá năm 1994
1994
Hoa Kỳ năm 1994
Bóng đá Hoa Kỳ năm 1994
Giải đấu bóng đá quốc tế tổ chức bởi Hoa Kỳ
Thể thao Hoa Kỳ năm 1994
Thể thao Stanford, California
|
24540
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20v%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20th%E1%BA%BF%20gi%E1%BB%9Bi%201998
|
Giải vô địch bóng đá thế giới 1998
|
Giải vô địch bóng đá thế giới 1998 (tên chính thức là 1998 Football World Cup - France / Coupe du Monde - France 98) là giải vô địch bóng đá thế giới lần thứ 16 và đã được tổ chức từ 10 tháng 6 đến 12 tháng 7 năm 1998 tại Pháp. Đây là lần thứ 2 Pháp đăng cai giải đấu này (lần trước là vào năm 1938) và Pháp trở thành quốc gia thứ hai của châu Âu 2 lần đăng cai giải (sau Ý). Đây cũng là kỳ World Cup đầu tiên tăng số đội tham dự lên 32 đội.
Bài hát chính thức của giải đấu là "La Copa de la Vida (The Cup of Life)" do Desmond Child và Robi Rosa sáng tác và do Ricky Martin thể hiện.
Linh vật chính thức của giải đấu là Footix, một chú gà trống xanh dương, biểu tượng tiêu biểu cho nước Pháp, với dòng chữ "FRANCE 98" trên ngực. Thân của gà trống hầu như toàn màu xanh dương, giống như màu áo của Đội tuyển bóng đá quốc gia Pháp và được đặt tên theo từ kết hợp của "football" (bóng đá) và tiếp vị ngữ "-ix" từ Astérix, một nhân vật hoạt hình nổi tiếng.
Chủ nhà Pháp đoạt chức vô địch sau khi vượt qua Brasil ở trận chung kết với tỉ số 3 - 0.
Vòng loại
170 đội bóng tham dự vòng loại và được chia theo sáu châu lục để chọn ra 30 đội vào vòng chung kết cùng với nước chủ nhà Pháp và đội đương kim vô địch thế giới Brasil.
Các đội giành quyền tham dự
AFC (4)
(42)
(12)
(34)
(20)
CAF (5)
(49)
(13)
(74)
(24)
(21)
OFC (0)
Không có đại diện (Úc thua Iran ở play-off liên lục địa)
CONCACAF (3)
(30)
(11)
(14)
CONMEBOL (5)
(6)
(1) (đương kim vô địch)
(9)
(10)
(29)
UEFA (15)
(31)
(36)
(35)
(19)
(27)
(5)
(18) (chủ nhà)
(2)
(14)
(25)
(7)
(22)
(41)
(4)
(8)
Các sân vận động
Mười sân vận động được sử dụng trong giải đấu này:
Trọng tài
CAF
Gamal Al-Ghandour ()
Said Belqola ()
Lucien Bouchardeau ()
Lim Kee Chong ()
Ian McLeod ()
AFC
Masayoshi Okada ()
Abdul Rahman Al-Zeid ()
Pirom Un-Prasert ()
Ali Bujsaim ()
UEFA
Günter Benkö ()
Kim Milton Nielsen ()
Paul Durkin ()
Marc Batta ()
Bernd Heynemann ()
László Vágner ()
Pierluigi Collina ()
Mario van der Ende ()
Rune Pedersen ()
Ryszard Wójcik ()
Vítor Melo Pereira ()
Nikolai Levnikov ()
Hugh Dallas ()
José Garcia Aranda ()
Urs Meier ()
CONCACAF
Arturo Brizio Carter ()
Ramesh Ramdhan ()
Esfandiar Baharmast ()
OFC
Edward Lennie ()
Mikey Kokupaloon (Tuvalu)
CONMEBOL
Javier Castrilli ()
Márcio Rezende de Freitas ()
Mario Sanchez Yanten ()
John Toro Rendon ()
Epifanio González ()
Alberto Tejada ()
Đội hình
Vòng chung kết
Vòng bảng
Giờ thi đấu tính theo giờ địa phương (UTC+2)
Bảng A
Bảng B
Bảng C
Bảng D
Bảng E
Bảng F
Bảng G
Bảng H
Vòng đấu loại trực tiếp
Tóm tắt
Vòng 16 đội
Tứ kết
Bán kết
Tranh hạng ba
Chung kết
Vô địch
Các cầu thủ ghi bàn
6 bàn
Davor Šuker
5 bàn
Gabriel Batistuta
Christian Vieri
4 bàn
Ronaldo
Marcelo Salas
Luis Hernández
3 bàn
Bebeto
César Sampaio
Rivaldo
Oliver Bierhoff
Jürgen Klinsmann
Dennis Bergkamp
Thierry Henry
2 bàn
Michael Owen
Alan Shearer
Ariel Ortega
Marc Wilmots
Slobodan Komljenović
Robert Prosinečki
Brian Laudrup
Phillip Cocu
Ronald de Boer
Patrick Kluivert
Theodore Whitmore
Salaheddine Bassir
Abdeljalil Hadda
Ricardo Peláez
Shaun Bartlett
Emmanuel Petit
Lilian Thuram
Zinedine Zidane
Viorel Moldovan
Fernando Hierro
Fernando Morientes
Roberto Baggio
1 bàn
Sami Al-Jaber
Yousuf Al-Thunayan
Darren Anderton
David Beckham
Paul Scholes
Andreas Herzog
Toni Polster
Ivica Vastić
Claudio López
Mauricio Pineda
Javier Zanetti
Luc Nilis
Emil Kostadinov
Patrick M'Boma
Pierre Njanka
José Luis Sierra
Léider Preciado
Siniša Mihajlović
Predrag Mijatović
Dragan Stojković
Robert Jarni
Mario Stanić
Goran Vlaović
Thomas Helveg
Martin Jørgensen
Michael Laudrup
Peter Møller
Allan Nielsen
Marc Rieper
Ebbe Sand
Andreas Möller
Edgar Davids
Marc Overmars
Pierre van Hooijdonk
Boudewijn Zenden
Ha Seok-Ju
Yoo Sang-Chul
Brian McBride
Hamid Estili
Robbie Earle
Mehdi Mahdavikia
Mustapha Hadji
Cuauhtémoc Blanco
Alberto García Aspe
Dan Eggen
Håvard Flo
Tore André Flo
Kjetil Rekdal
Benni McCarthy
Nakayama Masashi
Mutiu Adepoju
Tijani Babangida
Victor Ikpeba
Sunday Oliseh
Wilson Oruma
Celso Ayala
Miguel Ángel Benítez
José Cardozo
Laurent Blanc
Youri Djorkaeff
Christophe Dugarry
Bixente Lizarazu
David Trezeguet
Adrian Ilie
Dan Petrescu
Craig Burley
John Collins
Kiko
Luis Enrique
Raúl
Skander Souayah
Luigi Di Biagio
Phản lưới nhà
Georgi Bachev (gặp Tây Ban Nha)
Youssef Chippo (gặp Na Uy)
Tom Boyd (gặp Brasil)
Pierre Issa (gặp Pháp)
Andoni Zubizarreta (gặp Nigeria)
Siniša Mihajlović (gặp Đức)
Các giải thưởng
Danh sách các cầu thủ nhận thẻ đỏ của giải đấu
Ariel Ortega
Gert Verheyen
Anatoli Nankov
Raymond Kalla
Lauren
Rigobert Song
Miklos Molnar
Morten Wieghorst
David Beckham
Laurent Blanc
Marcel Desailly
Zinedine Zidane
Christian Wörns
Darryl Powell
Ha Seok-ju
Pável Pardo
Ramón Ramírez
Patrick Kluivert
Arthur Numan
Mohammed Al-Khilaiwi
Craig Burley
Alfred Phiri
Đội hình toàn sao
Bảng xếp hạng giải đấu
Tham khảo
Liên kết ngoài
1998 FIFA World Cup France ™ , FIFA.com
World Cup 1998 trên RSSSF
Vòng loại World Cup 1998 trên RSSSF
trên BBC
Bóng đá năm 1998
Giải vô địch bóng đá thế giới theo năm
1998
|
24541
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20thu%E1%BA%ADt%20Euclid
|
Giải thuật Euclid
|
Trong toán học, giải thuật Euclid (hay thuật toán Euclid) là một giải thuật để tính ước chung lớn nhất (ƯCLN) của hai số nguyên, là số lớn nhất có thể chia được bởi hai số nguyên đó với số dư bằng không. Giải thuật này được đặt tên theo nhà toán học người Hy Lạp cổ đại Euclid, người đã viết nó trong bộ Cơ sở của ông (khoảng năm 300 TCN). Nó là một ví dụ về thuật toán, một chuỗi các bước tính toán theo điều kiện nhất định và là một trong số những thuật toán lâu đời nhất được sử dụng rộng rãi.
Giải thuật Euclid dựa trên nguyên tắc là ước chung lớn nhất của hai số nguyên không thay đổi khi thay số lớn hơn bằng hiệu của nó với số nhỏ hơn. Chẳng hạn, 21 là ƯCLN của 252 và 105 (vì 252 = 21 × 12 và 105 = 21 × 5) và cũng là ƯCLN của 105 và 252 − 105 = 147. Khi lặp lại quá trình trên thì hai số trong cặp số ngày càng nhỏ đến khi chúng bằng nhau, và khi đó chúng là ƯCLN của hai số ban đầu. Bằng cách đảo ngược lại các bước, ƯCLN này có thể được biểu diễn thành tổng của hai số hạng, mỗi số hạng bằng một trong hai số đã cho nhân với một số nguyên dương hoặc âm (đồng nhất thức Bézout), chẳng hạn, 21 = 5 × 105 + (−2) × 252.
Dạng ban đầu của giải thuật như trên có thể tốn nhiều bước thực hiện phép trừ để tìm ƯCLN nếu một trong hai số lớn hơn rất nhiều so với số còn lại. Một dạng khác của giải thuật rút ngắn lại các bước này, thay vào đó thế số lớn hơn bằng số dư của nó khi chia cho số nhỏ hơn (dừng lại khi số dư bằng không). Dạng thuật toán này chỉ tốn số bước nhiều nhất là năm lần số chữ số của số nhỏ hơn trên hệ thập phân. Gabriel Lamé chứng minh được điều này vào năm 1844, đánh dấu sự ra đời của lý thuyết độ phức tạp tính toán. Nhiều phương pháp khác để tăng hiệu quả của thuật toán cũng đã được phát triển trong thế kỷ 20.
Giải thuật Euclid có rất nhiều ứng dụng trong lý thuyết và thực tế. Nó được dùng để rút gọn phân số về dạng tối giản và thực hiện phép chia trong số học module. Thuật toán cũng là một thành phần then chốt trong giao thức mật mã để bảo mật kết nối Internet và được dùng để phá vỡ hệ thống mật mã này qua phân tích số nguyên. Nó cũng được áp dụng để giải phương trình Diophantine, chẳng hạn như tìm một số thỏa mãn nhiều biểu thức đồng dư theo định lý số dư Trung Quốc, để xây dựng liên phân số hay tìm xấp xỉ gần đúng nhất cho số thực. Cuối cùng, nó là công cụ cơ bản để chứng minh nhiều định lý trong lý thuyết số như định lý bốn số chính phương của Lagrange và tính duy nhất của phân tích số nguyên ra thừa số nguyên tố. Thuật toán Euclid ban đầu chỉ được giới hạn về số tự nhiên và độ dài hình học (số thực), nhưng đến thế kỷ 19 đã được mở rộng cho nhiều dạng số khác như số nguyên Gauss và đa thức một biến, dẫn đến các khái niệm về đại số trừu tượng như miền Euclid.
Ý tưởng
Giải thuật Euclid dùng để tính ước chung lớn nhất (ƯCLN) của hai số tự nhiên a và b. Ước chung lớn nhất g là số lớn nhất chia được bởi cả a và b mà không để lại số dư và được ký hiệu là ƯCLN(a, b) hoặc (a, b).
Nếu ƯCLN(a, b) = 1 thì a và b được gọi là hai số nguyên tố cùng nhau. Tính chất này không khẳng định a và b là số nguyên tố. Chẳng hạn, 6 và 35 đều không phải là số nguyên tố vì chúng đều có thể được phân tích thành tích của các thừa số nguyên tố: 6 = 2 × 3 và 35 = 5 × 7. Tuy nhiên, 6 và 35 nguyên tố cùng nhau vì chúng không có một thừa số chung nào.
Gọi g = ƯCLN(a, b). Vì a và b đều là bội của g nên chúng có thể được viết thành a = mg và b = ng, và không tồn tại số G > g nào để các biểu thức trên đúng. Hai số tự nhiên m và n phải nguyên tố cùng nhau vì không thể phân tích bất kỳ thừa số chung nào lớn hơn 1 từ m và n để g lớn hơn. Do đó, một số c bất kỳ được chia bởi a và b cũng được chia bởi g. Ước chung lớn nhất g của a và b là ước chung (dương) duy nhất của chúng có thể chia được bởi một ước chung c bất kỳ.
ƯCLN có thể được minh họa như sau. Xét một hình chữ nhật có kích thước là a × b và một ước chung c bất kỳ có thể chia được hết cả a và b. Cả hai cạnh của hình chữ nhật có thể được chia thành các đoạn thẳng bằng nhau có độ dài là c để chia hình chữ nhật thành các hình vuông có cạnh bằng c. Ước chung lớn nhất g chính là giá trị lớn nhất của c để điều này có thể xảy ra. Chẳng hạn, một hình chữ nhật có kích thước 24 × 60 có thể được chia thành các hình vuông có cạnh là 1, 2, 3, 4, 6 hoặc 12, nên 12 là ước chung lớn nhất của 24 và 60, tức là hình chữ nhật trên có hai hình vuông nằm trên một cạnh (24/12 = 2) và năm hình vuông nằm trên cạnh còn lại (60/12 = 5).
Ước chung lớn nhất của hai số a và b là tích của các thừa số nguyên tố chung của hai số đã cho, trong đó một thừa số có thể được nhân lên nhiều lần, chỉ khi tích của các thừa số đó chia được cả a và b. Chẳng hạn, ta phân tích được 1386 = 2 × 3 × 3 × 7 × 11 và 3213 = 3 × 3 × 3 × 7 × 17 nên ước chung lớn nhất 1386 và 3213 bằng 63 = 3 × 3 × 7 (là tích của các thừa số nguyên tố chung). Nếu hai số không có một thừa số nguyên tố chung nào thì ước chung lớn nhất của chúng bằng 1 (một trường hợp của tích rỗng), hay nói cách khác chúng nguyên tố cùng nhau. Một ưu điểm quan trọng của giải thuật Euclid là nó có thể tính được ƯCLN đó mà không cần phân tích ra thừa số nguyên tố. Bài toán phân tích các số nguyên lớn là rất khó và tính bảo mật của nhiều giao thức mật mã phổ biến được dựa trên tính chất này.
Một định nghĩa khác của ƯCLN rất hữu ích trong toán cao cấp, đặc biệt là lý thuyết vành. Ước chung lớn nhất g của hai số a và b khác không là tổ hợp tuyến tính tích phân nhỏ nhất, tức là số nhỏ nhất với dạng ua + vb với u và v là số nguyên. Tập hợp tất cả các tổ hợp tuyến tính tích phân của a và b thực chất giống với tập hợp tất cả các bội của g (mg với m là số nguyên). Trong ngôn ngữ toán học hiện đại, ideal tạo bởi a và b chính là ideal tạo bởi g (một ideal tạo bởi một phần tử duy nhất được gọi là ideal chủ yếu và tất cả ideal của số nguyên đều là ideal chủ yếu). Từ đó, một số tính chất của ƯCLN có thể được nhận ra dễ dàng hơn, ví dụ như bất kỳ ước chung nào của a và b cũng chia được bởi ƯCLN (cả hai số hạng trong ua + vb). Tính thống nhất của định nghĩa này với các định nghĩa khác được mô tả dưới đây.
ƯCLN của ba số trở lên bằng tích của các thừa số nguyên tố chung của cả ba số đã cho, nhưng nó cũng có thể được tính bằng cách tìm ƯCLN của từng cặp số trong ba số đó. Chẳng hạn,
Vì vậy, giải thuật Euclid, vốn dùng để tính ƯCLN của hai số nguyên cũng có thể được áp dụng để tính ƯCLN của một số lượng số nguyên bất kỳ.
Mô tả
Thuật toán
Giải thuật Euclid gồm một dãy các bước mà trong đó, đầu ra của mỗi bước là đầu vào của bước kế tiếp. Gọi k là số nguyên dùng để đếm số bước của thuật toán, bắt đầu từ số không (khi đó bước đầu tiên tương ứng với k = 0, bước tiếp theo là k = 1,...)
Mỗi bước bắt đầu với hai số dư không âm rk−1 và rk−2. Vì thuật toán giúp đảm bảo số dư luôn giảm dần theo từng bước nên rk−1 nhỏ hơn rk−2. Mục tiêu của bước thứ k là tìm thương qk và số dư rk thỏa mãn phương trình
và 0 ≤ rk < rk−1. Nói cách khác, từ số lớn hơn rk−2, trừ đi bội của số nhỏ hơn rk−1 đến khi phần dư rk nhỏ hơn rk−1.
Ở bước đầu tiên (k = 0), số dư r−2 và r−1 bằng a và b, hai số cần tìm ƯCLN. Đến bước kế tiếp (k = 1), hai số dư lần lượt bằng b và số dư r0 ở bước đầu tiên,... Do đó, thuật toán có thể được viết thành một dãy các phương trình
Nếu a nhỏ hơn b thì thuật toán đảo ngược vị trí của hai số. Chẳng hạn, nếu a < b thì thương q0 bằng không và số dư r0 bằng a. Do đó, rk luôn nhỏ hơn rk−1 với mọi k ≥ 0.
Vì các số dư luôn giảm dần theo từng bước nhưng không thể là số âm nên số dư sau cùng rN phải bằng không và thuật toán dừng lại tại đó. Số dư khác không cuối cùng rN−1 chính là ước chung lớn nhất của a và b. Số N không thể là vô hạn vì chỉ có một số lượng hữu hạn các số nguyên dương nằm giữa số dư ban đầu r0 và số không.
Chứng minh tính đúng đắn
Tính đúng đắn của giải thuật Euclid có thể được chứng minh qua hai bước lập luận. Bước thứ nhất, cần chứng minh số dư khác không cuối cùng rN−1 chia được cả a và b. Vì rN−1 là một ước chung nên nó phải nhỏ hơn hoặc bằng với ước chung lớn nhất g. Bước thứ hai, cần chứng minh rằng bất kỳ ước chung nào của a và b, trong đó có g cần phải chia được rN−1; từ đó, g phải nhỏ hơn hoặc bằng rN−1. Hai kết luận trên là mâu thuẫn trừ khi rN−1 = g.
Để chứng tỏ rN−1 chia được cả a và b, cần biết rN−1 chia được số dư liền trước rN−2:
vì số dư cuối cùng rN bằng không. rN−1 cũng chia được số dư rN−3:
vì nó chia được cả hai số hạng trong vế phải của phương trình. Chứng minh tương tự, rN−1 cũng chia được tất cả số dư liền trước nó kể cả a và b. Không có số dư liền trước rN−2, rN−3,... chia bởi a và b cho số dư bằng không. Vì rN−1 là ước chung của a và b nên rN−1 ≤ g.
Trong bước thứ hai, một số tự nhiên c bất kỳ chia được cả a và b (là ước chung của a và b) cũng chia được số dư rk. Theo định nghĩa thì a và b có thể được viết thành bội của c: a = mc và b = nc với m và n là các số tự nhiên. Ta có r0 = a − q0b = mc − q0nc = (m − q0n)c nên c là một ước của số dư ban đầu r0. Chứng minh như bước thứ nhất, ta thấy c cũng là ước của các số dư liền sau r1, r2,... Từ đó, ước chung lớn nhất g là ước của rN−1 hay g ≤ rN−1. Kết hợp hai kết luận thu được, ta có g = rN−1. Vậy g là ước chung lớn nhất của tất cả cặp số liền sau:
Ví dụ
Áp dụng giải thuật Euclid để tính ƯCLN của a = 1071 và b = 462. Đầu tiên, ta trừ bội của 462 từ 1071 thì được thương q0 = 2 và số dư là 147:
Tiếp tục trừ bội của 147 từ 462 thì được thương q1 = 3 và số dư là 21:
Tiếp tục trừ bội của 21 từ 147 thì được thương q2 = 7 và số dư là 0:
Vì số dư cuối cùng bằng 0 nên thuật toán kết thúc với 21 là ƯCLN của 1071 và 462, bằng với ƯCLN có được từ phép phân tích ra thừa số nguyên tố như trên. Các bước được tóm tắt thành bảng sau:
Minh họa
Giải thuật Euclid có thể được minh họa dựa vào bài toán hình chữ nhật tương tự như trên. Giả sử ta cần dùng hình vuông để lấp đầy một hình chữ nhật có kích thước là a × b với a là số lớn hơn. Đầu tiên, ta đặt các hình vuông b × b lên trên đó thì còn lại phần hình trống là một hình chữ nhật b × r0 với r0 < b. Tiếp theo, ta đặt các hình vuông r0 × r0 lên phần hình trống đó thì còn lại phần hình trống thứ hai r1 × r0 mà ta cần phải đặt lên đó các hình vuông r1 × r1,... Toàn bộ quá trình chỉ kết thúc khi không còn phần hình trống nào, và khi đó, độ dài cạnh hình vuông nhỏ nhất chính là ƯCLN của độ dài hai cạnh hình chữ nhật ban đầu. Chẳng hạn, hình vuông nhỏ nhất trong hình bên là 21 × 21 (màu đỏ), và 21 là ƯCLN của 1071 và 462, độ dài hai cạnh của hình chữ nhật ban đầu (màu xanh lá).
Phép chia có dư
Tại mỗi bước k, giải thuật Euclid tính một thương qk và số dư rk từ hai số rk−1 và rk−2:
trong đó rk không âm và nhỏ hơn giá trị tuyệt đối của rk−1. Định lý làm nền tảng cho phép chia có dư cho thấy luôn tồn tại duy nhất một thương và số dư như vậy.
Trong dạng ban đầu của giải thuật, thương và số dư được tìm bằng cách lặp lại phép trừ, nghĩa là trừ rk−1 từ rk−2 và lặp lại đến khi phần dư rk nhỏ hơn rk−1, sau đó hoán đổi chúng cho nhau rồi lại lặp lại quá trình này. Phép chia có dư hiệu quả hơn nhiều khi giảm đi số bước giữa hai hoán đổi còn một bước duy nhất. Hơn nữa, ta còn có thể thay phép chia có dư bằng phép toán modulo, vốn chỉ cho kết quả số dư. Như vậy, dạng lặp của giải thuật Euclid trở thành
Chương trình
Giải thuật Euclid có thể được biểu diễn bằng mã giả. Chẳng hạn, dạng phép chia của nó có thể được lập trình thành
function gcd(a, b)
while b ≠ 0
t:= b
b:= a mod b
a:= t
return a
Ở đầu vòng lặp k, biến b mang giá trị số dư rk−1, trong khi biến a mang giá trị số dư liền trước rk−2. Bước b := a mod b giống với công thức đệ quy như trên rk ≡ rk−2 mod rk−1. Biến tạm thời t mang giá trị rk−1 khi tính số dư liền sau rk. Cuối vòng lặp, biến b mang giá trị rk, trong khi biến a mang giá trị số dư liền trước rk−1.
Trong dạng phép trừ (dạng ban đầu của thuật toán), bước b := a mod b được thay bằng phép trừ lặp lại. Trái ngược với dạng phép chia cho phép đầu vào là một số nguyên bất kỳ, dạng phép trừ chỉ cho phép đầu vào là một số nguyên dương và dừng lại khi a = b:
function gcd(a, b)
while a ≠ b
if a > b
a:= a − b
else
b:= b − a
return a
Biến a và b luân phiên mang giá trị của các số dư liền trước rk−1 và rk−2. Giả sử a > b ở đầu một vòng lặp thì a bằng rk−2 vì rk−2 > rk−1. Trong vòng lặp, a được trừ đi bởi bội của số dư liền trước b đến khi a nhỏ hơn b, khi đó a trở thành số dư liền sau rk. Sau đó, b được trừ đi bởi bội của a đến khi nó nhỏ hơn a và phần còn lại trở thành số dư rk+1,...
Dạng đệ quy dựa trên tính chất ƯCLN của các cặp số dư liên tiếp là bằng nhau và điều kiện dừng lại là ƯCLN(rN−1, 0) = rN−1.
function gcd(a, b)
if b = 0
return a
else
return gcd(b, a mod b)
Sử dụng dạng này, ƯCLN(1071, 462) được tính từ ƯCLN(462, 1071 mod 462) = ƯCLN(462, 147). ƯCLN sau cùng được tính từ ƯCLN(147, 462 mod 147) = ƯCLN(147, 21), vốn được tính từ ƯCLN(21, 147 mod 21) = ƯCLN(21, 0) = 21.
Phương pháp số dư tuyệt đối nhỏ nhất
Trong một dạng khác của giải thuật Euclid, thương thu được qua mỗi bước được tăng thêm 1 đơn vị nếu giá trị tuyệt đối của phần dư âm nhỏ hơn so với giá trị tuyệt đối của phần dư dương. Điều kiện của phương trình
là . Tuy nhiên, có thể tính số dư âm bởi
nếu hoặc
nếu .
Nếu thay bằng với thì ta có một dạng khác của giải thuật Euclid sao cho trong mỗi bước,
Leopold Kronecker chứng minh được rằng dạng này tốn số bước ít nhất trong tất cả các dạng của giải thuật Euclid. Tổng quát hơn, người ta chứng minh được rằng với mọi số đầu vào a và b, số bước tính ƯCLN là nhỏ nhất khi và chỉ khi được chọn sao cho với là tỷ lệ vàng.
Lịch sử phát triển
Giải thuật Euclid là một trong những thuật toán lâu đời nhất được sử dụng rộng rãi. Nó xuất hiện trong bộ Cơ sở của Euclid (khoảng 300 TCN), đặc biệt là ở cuốn 7 (mệnh đề 1–2) và cuốn 10 (mệnh đề 2–3). Trong cuốn 7, thuật toán được phát biểu cho số nguyên, còn trong cuốn 10, nó được phát biểu cho độ dài của đoạn thẳng. (Ngày nay, ta có thể nói thuật toán được phát biểu cho số thực. Nhưng độ dài, diện tích và thể tích, vốn được đo bằng số thực trong thời kỳ hiện đại, lại không có cùng đơn vị đo và cũng không có đơn vị đo tự nhiên nào cho chúng; người xưa lúc bấy giờ vẫn chưa hiểu rõ khái niệm số thực.) Thuật toán trong cuốn 10 mang tính hình học: ƯCLN của hai độ dài a và b là độ dài lớn nhất g có thể làm đơn vị đo chung cho a và b; nói cách khác, độ dài a và b là bội số của độ dài g.
Có lẽ giải thuật trên không phải do Euclid trực tiếp tìm ra (ông là người đã sưu tầm các công trình của các nhà toán học khác và tổng hợp lại trong bộ Cơ sở). Nhà toán học và sử học B. L. van der Waerden cho rằng cuốn 7 xuất phát từ một cuốn sách giáo khoa về lý thuyết số được viết bởi các nhà toán học trong trường của Pythagoras. Giải thuật có thể đã được biết bởi Eudoxus của Cnidus (khoảng 375 TCN), hoặc thậm chí có thể đã có từ trước thời của ông, dựa trên thuật ngữ ἀνθυφαίρεσις (anthyphairesis, phép trừ nghịch đảo) trong một số công trình của Euclid và Aristotle.
Nhiều thế kỷ sau, giải thuật Euclid được tìm ra một cách độc lập tại Ấn Độ và Trung Quốc, chủ yếu để giải phương trình Diophantine vốn nảy sinh trong thiên văn học và làm lịch chính xác. Vào cuối thế kỷ 5, nhà toán học và thiên văn người Ấn Độ Aryabhata đã gọi giải thuật là một "máy nghiền", có thể là vì tính hiệu quả của nó trong việc giải phương trình Diophantine. Mặc dù một trường hợp đặc biệt của định lý số dư Trung Quốc đã được mô tả trong cuốn Sunzi Suanjing, lời giải tổng quát được Tần Cửu Thiều xuất bản trong cuốn Shushu Jiuzhang (數書九章, Giáo trình Toán học trong 9 chương) năm 1247. Giải thuật Euclid lần đầu tiên được mô tả và truyền bá tại châu Âu trong cuốn Problèmes plaisants et délectables (ấn bản thứ hai) của Bachet năm 1624. Tại châu Âu, nó cũng được sử dụng để giải phương trình Diophantine và lập liên phân số. Giải thuật Euclid mở rộng được cho là do Roger Cotes tìm ra và được Nicholas Saunderson xuất bản như là một cách để tính nhanh liên phân số.
Đến thế kỷ 19, giải thuật Euclid đã dẫn đến sự ra đời và phát triển của các hệ thống số học mới, chẳng hạn như số nguyên Gauss và số nguyên Eisenstein. Năm 1815, Carl Gauss sử dụng giải thuật này để chứng minh tính duy nhất của sự phân tích các số nguyên Gauss, mặc dù công trình của ông chỉ được xuất bản lần đầu năm 1832. Gauss trước đó cũng từng nhắc đến giải thuật trong cuốn Disquisitiones Arithmeticae (xuất bản 1801) liên quan đến liên phân số. Peter Gustav Lejeune Dirichlet có thể là người đầu tiên mô tả giải thuật như là một cơ sở của phần lớn lý thuyết số. Lejeune Dirichlet nhận thấy rằng nhiều hệ quả của lý thuyết số là đúng với bất kỳ hệ thống số học nào mà giải thuật Euclid có thể áp dụng được. Những bài giảng của Dirichlet về lý thuyết số đã được biên tập và mở rộng bởi Richard Dedekind, người đã ứng dụng giải thuật để nghiên cứu số đại số nguyên, một dạng số tổng quát mới. Chẳng hạn, Dedekind là người đầu tiên chứng minh được định lý Fermat về tổng của hai số chính phương qua sự phân tích duy nhất số nguyên Gauss. Ông cũng định nghĩa khái niệm miền Euclid, một hệ thống số mà trong đó một dạng tổng quát của giải thuật Euclid có thể được xác định. Những năm cuối thế kỷ 19, giải thuật Euclid dần bị lu mờ bởi lý thuyết tổng quát của Dedekind về ideal.
Nhiều ứng dụng khác của giải thuật Euclid cũng đã được phát triển trong thế kỷ 19. Năm 1829, Charles Sturm cho thấy rằng giải thuật này có ích trong phương pháp chuỗi Sturm dùng để đếm số nghiệm thực của đa thức trong một khoảng bất kỳ.
Giải thuật Euclid là thuật toán liên hệ số nguyên đầu tiên dùng để tìm mối liên hệ số nguyên giữa các số thực tương xứng. Nhiều thuật toán khác như vậy cũng đã được phát triển, chẳng hạn như thuật toán của Helaman Ferguson và R.W. Forcade (1979) hay thuật toán LLL.
Năm 1969, Cole và Davie đã tạo ra một trò chơi hai người dựa trên giải thuật Euclid có tên là The Game of Euclid. Trò chơi này có một chiến lược chơi tối ưu. Mỗi người chơi bắt đầu với hai đống đá chứa a và b viên đá, lần lượt loại bỏ m bội của đống nhỏ hơn so với đống lớn hơn. Như vậy, khi a lớn hơn b thì người tiếp theo có thể giảm số lượng viên đá trong đống lớn từ a xuống a − mb viên. Người chiến thắng là người đầu tiên có một đống không còn viên đá nào.
Xem thêm
Giải thuật Euclid mở rộng
Ghi chú
Chú thích
Tham khảo
Liên kết ngoài
Demonstrations of Euclid's algorithm
Euclid's Algorithm tại cut-the-knot
The Euclidean Algorithm tại MathPages
Music and Euclid's algorithm [Âm nhạc và giải thuật Euclid]
Thuật toán lý thuyết số
|
24542
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Su%E1%BB%91i%20m%C6%A1
|
Suối mơ
|
Bài hát "Suối mơ" là một tác phẩm thuộc dòng nhạc tiền chiến, do nhạc sĩ Văn Cao sáng tác.
Điệp khúc viết bằng âm giai thứ, tới phiên khúc chuyển sang âm giai trưởng. Bài hát mở đầu bằng âm giai thứ tạo một cảm giác lâng lâng rồi chuyển sang âm giai trưởng với một niềm vui chợt thoáng trước khi trở lại với âm giai thứ để kết thúc trong một nỗi buồn man mác. Văn Cao đã tài tình chuyển đổi âm giai với lời hát như thơ đưa người nghe đi từ cảm xúc lâng lâng trong sáng tới niềm hạnh phúc thoáng chốc dạt dào trước khi trở về với nỗi buồn muôn thủa của mối tình êm đềm ngàn đời theo ta của con suối rừng thu cuối mùa trút lá.
Hoàn cảnh ra đời
Một người thân của nhạc sĩ Văn Cao kể lại: Bài Suối mơ được sáng tác với cảm hứng từ dòng suối bên đền Cấm, ở thị trấn Đồng Mỏ, Chi Lăng, Lạng Sơn. Thị trấn Đồng Mỏ là 1 thị trấn sầm uất, là nơi nhiều văn sĩ thời tiền chiến lên chơi. Quả thật, từ năm 1968, khi người Trung Quốc vào làm đường Quốc lộ 1 đã làm hỏng mất cảnh quan khu vực này và sau đó, dân ta làm hỏng nốt những gì còn lại của khu vực đền Cấm và sân vận động (được xây từ những năm 1930). Khu vực đền ngày xưa yên tĩnh, mát dịu với những gốc xoài và vải rừng cổ thụ 2 người ôm. Ở khu vực đền thì chỉ 3 giờ chiều là không có ánh nắng do dãy núi đá Cai Kinh che ở phía tây. Dòng suối sau khi chảy qua bên cạnh bia "hạ mã" thì mở rộng ra cạnh sân vận động với gờ tường ngang ngực rồi lượn vòng quanh các vườn rau. Không khí luôn nhẹ nhàng, mát dịu và gió nhẹ. Giờ cũng chỉ còn một vài khu vườn giữ được nét yên tĩnh, thanh thản của ngày xưa.
Ca sĩ trình bày thành công
Ánh Tuyết, Thái Thanh, Lệ Thu,...
Các Album
Hát cho tuổi thơ 2 (Khánh Ly)
Lá thư (Thanh Lam)
Xin mặt trời ngủ yên (Mỹ Linh)
Ca khúc Văn Cao (Ánh Tuyết)
Tình khúc vang bóng - Dư âm
Cung đàn xưa (Thu Hà)
Hoà tấu ghi ta (Văn Vượng)
Những tình khúc vượt thời gian (Quang Dũng)
Tình khúc Văn Cao (Nhạc tiền chiến 4) (Mai Hương và Quỳnh Giao) (1995)
Còn chút gì để nhớ (Sĩ Phú)
Tham khảo
Nhạc Văn Cao
Nhạc Phạm Duy
Bài hát nhạc tiền chiến
Bài hát tiếng Việt
|
24548
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BA%A5t%20%C4%91i%E1%BB%83m
|
Chất điểm
|
Chất điểm hoặc khối điểm là một khái niệm vật lý lý thuyết chỉ những vật có khối lượng đáng kể nhưng kích thước có thể bỏ qua trong quá trình khảo sát các tính chất vật lý của chúng. Chất điểm là một đối tượng của vật lý, khác với "điểm" trong toán học vì ngoài tính chất hình học như một điểm, nó còn gắn với các tính chất vật lý như khối lượng. Khối điểm có khối lượng riêng lớn vô hạn.
Chuyển động vật rắn
Chuyển động tổng quát của vật rắn luôn là chồng chập của hai chuyển động:
chuyển động tịnh tiến, tương đương với chuyển động của chất điểm có khối lượng bằng khối lượng của vật rắn, nằm tại tâm khối của vật rắn.
chuyển động quay của vật rắn quay tâm khối.
Việc coi một vật rắn như là một chất điểm nhằm mục đích đơn giản hóa các miêu tả trên lý thuyết về chuyển động của nó, chỉ xem xét tới chuyển động tịnh tiến của vật rắn mà bỏ qua chuyển động quay của vật rắn quanh khối tâm (hoặc coi chuyển động quay như là một tính chất, ví dụ spin, của chất điểm).
Ví dụ
Khối điểm trong vật lý thường là sự lý tưởng hóa một vật hoặc một hệ vật, mà trong đó kích thước của hệ có thể bỏ qua khi so với các khoảng cách, con đường mà nó đi. Tùy thuộc vào từng hoàn cảnh mà chất điểm có thể là mô hình xấp xỉ của các vật thể trong các bài toán lý thuyết như:
Hòn đá được ném theo một phương nào đó so với mặt đất – kích thước của nó là không đáng kể so với khoảng cách mà nó đạt được, cũng như so với sai số trong đo đạc.
Con tàu trên biển – kích thước của nó là không đáng kể so với kích cỡ của biển.
Trái Đất quay trên quỹ đạo quanh Mặt Trời – thì kích thước của nó (bán kính khoảng 6370 km) cũng không đáng kể so với bán kính của quỹ đạo (150 triệu km).
Hình cầu đồng nhất
Trong những bài toán mà vật rắn ở dạng hình cầu đồng nhất, tương tác với các vật thể khác bằng lực là chồng chập của lực gây ra bởi từng thành phần rất nhỏ - đủ nhỏ để coi là chất điểm - trên vật rắn này, mà lực tương tác phụ thuộc vào nghịch đảo bình phương khoảng cách (như lực hấp dẫn, lực tĩnh điện,...), thì có thể chứng minh được là vật rắn này hành động như một khối điểm nằm tại khối tâm của nó.
Điện tích điểm
Nếu chất điểm có điện tích, nó được gọi là điện tích điểm. Nếu điện tích điểm được sử dụng trong một thí nghiệm, có thể là thí nghiệm tưởng tượng trên lý thuyết, thì nó được gọi là điện tích thử. Trong nhiều thí nghiệm tưởng tượng, có thể không cần quan tâm đến khối lượng của điện tích điểm mà chỉ cần quan tâm đến điện tích của nó. Điện tích điểm có mật độ điện tích khối lớn vô hạn.
Xem thêm
Nguyên lý bất định
Tham khảo
Liên kết ngoài
Khối lượng
|
24549
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chuy%E1%BB%83n%20%C4%91%E1%BB%99ng%20quay
|
Chuyển động quay
|
Chuyển động quay của vật rắn là một chuyển động mà trong đó có hai điểm bất kỳ của vật luôn luôn cố định trong suốt quá trình chuyển động. Đường thẳng nối 2 điểm này gọi là trục quay, tất cả các điểm nằm trên trục quay đều cố định, các điểm nằm ngoài trục quay sẽ quay trên các quỹ đạo tròn nằm trong mặt phẳng vuông góc với trục quay và có tâm nằm trên trục quay. Ví dụ: chuyển động của Trái Đất quanh trục của mình; hay một điểm trên một bánh xe đang lăn, một điểm trên cánh quạt điện. Đây là một chuyển động phức, bao gồm chuyển động tịnh tiến của trọng tâm vật thể và chuyển động quay quanh một trục nào đó. Khối tâm của vật thể có thể được coi như một chất điểm.
Công thức
Nhiều các khái niệm trong chuyển động tịnh tiến có thể được mở rộng để áp dụng cho chuyển động quay. Ví dụ, định luật 2 Newton trong chuyển động quay có dạng:
Mà:
M là mômen lực đối với một điểm cho trước (tâm quay)
L là - động lượng quay đối với tâm quay.
Nếu chuyển động quay của vật mà có trục quay cố định, thì định luật 2 Newton cho chuyển động này có thể viết như sau:
Mà:
M là mômen lực
I là mômen quán tính đối với trục quay của vật.
Mômen quán tính I của một chất điểm có khối lượng là m, cách trục quay một khoảng là r, được xác định bằng công thức như sau:
Nếu không có mômen của ngoại lực (M=0), thì từ phương trình ta có định luật bảo toàn động lượng quay như sau:
Chuyển động vừa tịnh tiến vừa quay - chuyển động song phẳng
Đôi khi một lực có thể gây ra một chuyển động vừa tịnh tiến, vừa quay (ví dụ: một quả bóng đá khi bị sút lệch tâm, thì nó sẽ chuyển động vừa tịnh tiến, vừa xoay – theo một đường cong). Khi đó chia cả hai vế của phương trình trên cho r (r - bán kính quay), đồng thời cộng thêm vào vế phải thành phần biểu diễn chuyển động tịnh tiến, thì ta sẽ có định luật 2 Newton ở dạng mở rộng hơn:
Tham khảo
be-x-old:Вярчальны рух
Cơ học
Chuyển động quay
Cơ học thiên thể
Xoay tròn
id:Gerak melingkar
su:Gerak muter
be:Вярчальны рух
ca:Moviment circular
cs:Pohyb po kružnici
da:Jævn cirkelbevægelse
et:Ringliikumine
el:Κυκλική κίνηση
en:Circular motion
es:Movimiento circular
gl:Movemento circular
ko:등속 원운동
is:Hringhreyfing
it:Moto circolare
he:תנועה מעגלית
lv:Līklīnijas kustība
hu:Körmozgás
ml:വര്ത്തുളചലനം
pl:Ruch obrotowy
pt:Movimento circular
ru:Круговое движение
sc:Movimentu in caminu chirculare
sk:Pohyb po kružnici
sl:Kroženje
fi:Ympyräliike
zh:圓周運動
|
24550
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C6%B0%E1%BB%9Dng%20tr%C3%B2n
|
Đường tròn
|
Trong hình học phẳng, đường tròn (hoặc vòng tròn) là tập hợp của tất cả những điểm trên một mặt phẳng, cách đều một điểm cho trước bằng một khoảng cách nào đó. Điểm cho trước gọi là tâm của đường tròn, còn khoảng cho trước gọi là bán kính của đường tròn.
Đường tròn tâm O bán kính R ký hiệu là (O;R)
Đường tròn là một hình khép kín đơn giản chia mặt phẳng ra làm 2 phần: phần bên trong và phần bên ngoài. Trong khi "đường tròn" ranh giới của hình, "hình tròn" bao gồm cả ranh giới và phần bên trong.
Đường tròn cũng được định nghĩa là một hình elíp đặc biệt với hai tiêu điểm trùng nhau và tâm sai bằng 0. Đường tròn cũng là hình bao quanh nhiều diện tích nhất trên mỗi đơn vị chu vi bình phương.
Một số thuật ngữ
Cung: một đoạn đóng bất kì trên đường tròn. Cung AB ký hiệu là
Dây cung (gọi tắt là dây): đoạn thẳng có 2 đầu mút nằm trên đường tròn.
Tâm: điểm cách đều tất cả các điểm trên đường tròn.
Chu vi hình tròn: độ dài đường biên giới hạn hình tròn.
Bán kính: là đoạn thẳng (hoặc độ dài đoạn thẳng) nối tâm với một điểm bất kì trên đường tròn và bằng một nửa đường kính. Kí hiệu
Đường kính: đoạn thẳng (hoặc độ dài đoạn thẳng) có 2 đầu mút nằm trên đường tròn và là dây cung đi qua tâm, hoặc khoảng cách dài nhất giữa 2 điểm trên đường tròn. Đường kính là dây cung dài nhất của đường tròn và bằng 2 lần bán kính. Kí hiệu
Cát tuyến: đường thẳng trên mặt phẳng cắt đường tròn tại 2 điểm.
Tiếp tuyến: đường thẳng tiếp xúc với đường tròn tại một điểm duy nhất.
Hình tròn: phần mặt phẳng giới hạn bởi đường tròn.
Hình khuyên (hình nhẫn hoặc hình vành khăn): vùng bị giới hạn bởi 2 đường tròn đồng tâm và có bán kính khác nhau.
Hình quạt tròn: phần hình tròn giới hạn bởi hai bán kính và cung tròn bị chắn bởi hai bán kính này.
Hình viên phân: phần bị giới hạn bởi cung tròn và dây căng cung.
Hình bán nguyệt: cung căng đường kính. Thông thường, thuật ngữ này còn bao gồm đường kính, cung căng đường kính và phần bên trong, tức nửa hình tròn.
Đường tròn ngoại tiếp đa giác là đường tròn đi qua tất cả các đỉnh của đa giác đó. Khi đó gọi là đa giác nội tiếp đường tròn
Đường tròn nội tiếp đa giác là đường tròn tiếp xúc với tất cả các cạnh của đa giác đó. Khi đó gọi là đa giác ngoại tiếp đường tròn
Sự xác định đường tròn
Một đường tròn được xác định khi biết tâm và bán kính của nó, hoặc khi biết một đoạn thẳng là đường kính của nó.
Qua 3 điểm không thẳng hàng, ta có thể vẽ được một và chỉ một đường tròn.
Hình tròn
Trong hình học phẳng, đường tròn và hình tròn là hai khái niệm khác nhau. Hình tròn là tập hợp tất cả các điểm nằm trong và nằm trên đường tròn hay tập hợp các điểm cách tâm một khoảng nhỏ hơn hoặc bằng bán kính. Đường tròn không có diện tích như hình tròn.
Lịch sử
Từ circle có nguồn gốc từ tiếng Hy Lap κίρκος/κύκλος (kirkos/kuklos), nghĩa là "vòng" hay "nhẫn".
Đường tròn đã được biết đến từ trước khi lịch sử ghi nhận được. Những hình tròn trong tự nhiên hẳn đã được quan sát, ví dụ như Mặt Trăng, Mặt Trời... Đường tròn là nền tảng để phát triển bánh xe, mà cùng với những phát minh tương tự như bánh răng, là thành phần quan trọng trong máy móc hiện đại. Trong toán học, việc nghiên cứu đường tròn đã dẫn đến sự phát triển của hình học, thiên văn học và vi tích phân.
Khoa học sơ khai, đặc biệt là hình học, thiên văn học và chiêm tinh học, thường được nhiều học giả thời trung cổ kết nối với thánh thần, và nhiều người tin rằng có gì đó "thiêng liêng" và "hoàn hảo" ở hình tròn.
Một số dấu mốc trong lịch sử đường tròn:
Năm 1700 trước Công nguyên– Bản giấy cói Rhind đưa ra phương pháp để tính diện tích hình tròn. Kết quả tương đương với 256/81 (3.16049...) như một giá trị xấp xỉ của .
Năm 300 trước Công nguyên – Quyển 1, Quyển 3 của bộ sách Cơ sở của Euclid đưa ra định nghĩa và bàn về những tính chất của đường tròn.
Trong Bức thư thứ bảy của Plato có một định nghĩa chi tiết và giải thích về đường tròn. Plato viết về một đường tròn hoàn hảo, và sự khác biệt của nó với bất kì hình vẽ, giải thích hay định nghĩa nào khác.
Năm 1880 – Lindemann chứng minh được là số siêu việt, giải quyết trọn vẹn bài toán cầu phương hình tròn sau hơn một thiên niên kỷ.
Đặc điểm
Độ dài đường tròn (chu vi hình tròn)
Tỉ số của độ dài đường tròn với đường kính của nó là (pi), một hằng số vô tỉ có giá trị xấp xỉ bằng 3.141592654, vậy chu vi của hình tròn (còn được gọi là viên chu), là độ dài của đường tròn, bằng tích của pi với đường kính hoặc 2 lần pi nhân với bán kính. Công thức:
Diện tích bao kín
Trong bản luận "Sự đo đạc của một hình tròn" của Archimedes, diện tích hình tròn A bằng diện tích của tam giác có cạnh đáy bằng chu vi đường tròn và đường cao bằng bán kính hình tròn, tức A bằng nhân cho bình phương bán kính:
Tương tự, ký hiệu đường kính là d,
tức khoảng 79% diện tích hình vuông ngoại tiếp đường tròn (với độ dài cạnh là d). Đường tròn cũng là hình phẳng bao kín nhiều diện tích nhất với chu vi cho trước.
Phương trình
Hệ tọa độ Descartes
Trong hệ tọa độ Descartes, vòng tròn có tâm tại (a, b) và bán kính r là tập hợp tất cả các điểm (x, y) thỏa mãn:
Phương trình này, được biết là Phương trình đường tròn, xuất phát từ Định lý Pytago áp dụng cho một điểm trên đường tròn: Như trong hình bên, bán kính là cạnh huyền của một tam giác vuông với 2 cạnh góc vuông |x − a| và |y − b|. Nếu tâm đường tròn nằm ở gốc tọa độ (0, 0), thì phương trình được thu gọn thành:
Phương trình có thể viết dưới dạng tham số sử dụng các hàm lượng giác sin và cosin như sau
với t là tham số trong khoảng từ 0 đến 2, một cách hình học, t tương đương với góc tạo bởi tia đi qua (a, b), (x, y) và trục x dương.
Một phương trình tham số khác của đường tròn là:
Tuy nhiên ở sự tham số hóa này, t không chỉ chạy qua tất cả số thực mà còn chạy tới vô hạn, nếu không thì điểm dưới cùng của đường tròn sẽ không được thể hiện.
Trong hệ tọa độ đồng nhất, mỗi đường conic với phương trình của đường tròn có dạng:
Hệ tọa độ cực
Trong hệ tọa độ cực phương trình của một đường tròn là:
với a là bán kính của đường tròn, là tọa độ cực của một điểm trên đường tròn, và là tọa độ cực của tâm đường tròn (tức r0 là khoảng cách từ gốc tọa độ đến tâm, và φ góc ngược chiều kim đồng hồ từ trục hoành đường thẳng đi qua tâm và gốc tọa độ). Với đường tròn có tâm ở gốc tọa độ, tức r0 = 0, thì được đơn giản hóa còn . Khi , hay gốc tọa độ nằm trên đường tròn thì phương trình trở thành:
Trong trường hợp tổng quát, ta có thể giải phương trình cho r
Chú ý rằng nếu không có dấu ±, trong một số trường hợp phương trình chỉ mô tả nửa đường tròn.
Mặt phẳng phức
Trong mặt phẳng phức, một đường tròn có tâm tại c và bán kính (r) có phương trình . Ở dạng tham số hóa: .
Phương trình tổng quát cho các số thực p, q và số phức g đôi khi được gọi là đường tròn tổng quát. Phương trình này trở thành phương trình ở trên với , vì . Không phải đường tròn tổng quát nào cũng là đường tròn thực sự: đường tròn tổng quát hoặc là đường tròn thực sự hoặc là một đường thẳng.
Đường tiếp tuyến
Đường tiếp tuyến qua một điểm P trên đường tròn vuông góc đường kính đi qua P. Nếu và đường tròn có tâm (a, b) và bán kính r, thì tiếp tuyến vuông góc với đường thẳng đi qua (a, b) và (x1, y1), nên nó có dạng . Tính với (x1, y1) xác định giá trị của c và kết quả phương trình của đường tiếp tuyến là:
hay
Nếu thì độ dốc của đường thẳng là
Kết quả này cũng có thể được suy ra sử dụng đạo hàm hàm ẩn.
Nếu tâm đường tròn nằm ở gốc tọa độ thì phương trình tiếp tuyến là và độ dốc của nó là
Tính chất
Tính chất chung
Đường tròn là hình có diện tích lớn nhất với chu vi cho trước. (Xem Bất đẳng thức đẳng chu)
Đường tròn có tính đối xứng cao: tâm của đường tròn là tâm đối xứng và các đường kính là các trục đối xứng
Mọi đường tròn đều đồng dạng.
Chu vi đường tròn tỉ lệ thuận với bán kính theo hằng số 2π.
Diện tích hình tròn tỉ lệ thuận với bình phương bán kính theo hằng số π.
Đường tròn có tâm tại gốc tọa độ và bán kính là 1 gọi là đường tròn đơn vị.
Đường tròn lớn của hình cầu đơn vị là đường tròn Riemann.
Tập hợp tất cả các điểm nhìn đoạn thẳng dưới 1 góc vuông là đường tròn có đường kính là đoạn thẳng đó
Dây cung
Dây cung cách đều tâm khi và chỉ khi chúng dài bằng nhau.
Trong cùng một đường tròn, dây càng dài thì càng gần tâm.
Đường kính vuông góc với dây cung tại trung điểm của dây cung đó
Đường kính đi qua trung điểm của một dây không đi qua tâm thì vuông góc với dây.
Đường kính là dây cung dài nhất trong đường tròn
Nếu giao điểm hai dây cung cắt nhau chia một dây thành hai đoạn a và b, chia dây cung kia thành c và d, thì ab = cd (gọi là phương tích của điểm đó).
Nếu giao điểm hai dây cung cắt nhau chia một dây thành hai đoạn a và b, chia dây cung kia thành m và n, thì a2 + b2 + m2 + n2 = d2 (với d là đường kính).
Tổng bình phương chiều dài 2 dây cung vuông góc tại một điểm cố định không đổi và bằng 8r2 – 4p2 (với r là bán kính đường tròn, p là khoảng cách từ tâm đường tròn đến giao điểm đó).
Khoảng cách từ một điểm trên đường tròn đến một dây cung nhân với đường kính bằng tích của khoảng cách điểm đó đến 2 đầu mút của dây cung.
2 cung nhỏ của một đường tròn hoặc 2 đường tròn bằng nhau căng 2 dây bằng nhau thì 2 cung đó bằng nhau và ngược lại
Với 2 cung nhỏ của một đường tròn hoặc 2 đường tròn bằng nhau, cung nào căng dây lớn hơn(hoặc bé hơn) thì cung đó lớn hơn(hoặc bé hơn) và ngược lại.
Tiếp tuyến
Đường thẳng vuông góc với bán kính tại đầu mút của bán kính nằm trên đường tròn là một đường tiếp tuyến với đường tròn.
Đường thẳng vuông góc với tiếp tuyến tại điểm tiếp xúc với đường tròn thì đi qua tâm.
Từ một điểm nằm ngoài đường tròn luôn vẽ được hai tiếp tuyến với đường tròn.
Nếu hai tiếp tuyến tại A và B với đường tròn tâm O cắt nhau tại P thì
.
PA=PB
Tia OP là phân giác của góc và tia PO là phân giác
Nếu AD tiếp xúc với đường tròn tại A và AQ một dây cung của đường tròn, thì .
Định lý
Định lý dây cung phát biểu nếu hai dây cung, CD và EB, cắt nhau tại A thì AC.AD = AB.AE.
Nếu hai cát tuyến, AE và AD, cắt đường tròn lần lượt tại B và C thì AC.AD = AB.AE. (Hệ quả của định lý dây cung)
Một tiếp tuyến có thể coi như một giới hạn của cát tuyến với đầu mút trùng nhau. Nếu tiếp tuyến từ điểm A nằm ngoài đường tròn cắt đường tròn tại F và một cát tuyến từ A cắt đường tròn lần lượt tại C và D thì AF2 = AC.AD. (Định lý tiếp tuyến-cát tuyến)
Góc nằm giữa một dây cung và tiếp tuyến tại một đầu dây cung bằng một nửa góc ở tâm bị chắn bởi dây cung đó.
Nếu góc ở tâm bị chắn bởi dây cung là góc vuông thì ℓ = r√2, với ℓ là độ dài dây cung và r là bán kính đường tròn.
Nếu hai cát tuyến cắt đường tròn như bên thì góc A bằng nửa hiệu hai cung tạo thành (DE và BC), tức , với O là tâm đường tròn. Đây là định lý 2 cát tuyến với đường tròn.
Sagitta
Sagitta (còn được biết là versine) là đoạn thẳng vuông góc với dây cung, đi qua trung điểm của dây cung và cung mà dây đó chắn.
Cho độ dài y của dây và độ dài x sagitta, ta có thể dùng định lý Pytago để tính bán kính của đường tròn duy nhất vừa với 2 đoạn thẳng:
Một chứng minh khác của kết quả này sử dụng tính chất hai dây cung như sau: Cho dây cung có độ dài y và sagitta có độ dài x, vì sagitta đi qua trung điểm của dây cung, nó phải là một phần đường kính. Do đường kính dài gấp đôi bán kinh, phần "bị thiếu" của đường kính có độ dài (). Do một phần của một dây cung này nhân phần kia không đổi khi dây quay quanh giao điểm, ta tìm được . Giải tìm r, ta nhận được kết quả như trên.
Dựng hình
Có nhiều phép dựng hình bằng thước kẻ và compa cho ra đường tròn.
Đơn giản và căn bản nhất là phép dựng hình đã biết tâm đường tròn và một điểm nằm trên đường tròn. Đặt chân trụ của com-pa trên tâm, chân xoay lên điểm trên đường tròn và quay com-pa.
Dựng đường tròn với đường kính cho trước
Dựng trung điểm của đường kính.
Dựng đường tròn với tâm đi qua một đầu mút của đường kính (nó cũng sẽ qua đầu mút còn lại).
Dựng đường tròn đi qua ba điểm không thẳng hàng
Gọi ba điểm đó là , và ,
Dựng đường trung trực của đoạn .
Dựng đường trung trực của đoạn .
Gọi giao điểm hai đường trung trực là . (Chúng cắt nhau vì các điểm không thẳng hàng collinear).
Dựng đường tròn tâm đi qua một trong các điểm , hay (nó cũng sẽ qua hai điểm còn lại).
Dựng tiếp tuyến đi qua một điểm nằm ngoài đường tròn
Cho điểm A nằm ngoài đường tròn tâm O, vẽ đường tròn đường kính AO cắt đường tròn O tại 2 điểm, khi đó 2 điểm đó là tiếp điểm của 2 tiếp tuyến đi qua điểm A.
Đường tròn của Apollonius
Apollonius của Pergaeus chỉ ra rằng đường tròn còn có thể định nghĩa là tập hợp các điểm trên mặt phẳng có tỉ số không đổi (khác 1) của khoảng cách tới hai tiêu điểm, A và B. (Nếu tỉ số là 1 thì tập hợp ấy là đường trung trực của đoạn thẳng AB.)
Chứng minh gồm hai phần. Đầu tiên ta cần chứng minh, cho hai tiêu điểm A và B một tỉ số, bất kì điểm P thỏa mãn tỉ số phải nằm trên một đường tròn nhất định. Gọi C là một điểm thỏa mãn tỉ số và nằm trên đoạn thẳng AB. Từ định lý đường phân giác suy ra PC sẽ chia đôi góc trong APB:
Tương tự, đoạn thẳng PD qua điểm D trên đường thẳng AB chia đôi góc ngoài BPQ với Q nằm trên tia AP kéo dài. Do góc ngoài và góc trong bù nhau, góc CPD phải bằng 90 độ. Tập hợp các điểm P sao cho góc CPD là góc vuông tạo thành một đường tròn với CD là đường kính.
Thứ hai, xem để chứng minh rằng các điểm trên đường tròn vừa tạo thỏa mãn tỉ số.
Tỉ số kép
Một tính chất của đường tròn liên quan đến hình học của tỉ số kép của các điểm trên mặt phẳng phức. Nếu A, B, và C cho như trên thì đường tròn của Apollonius của ba điểm là tập hợp các điểm P sao cho giá trị tuyệt đối của tỉ số kép bằng 1:
Nói cách khác, P là điểm trên đường tròn của Apollonius khi và chỉ khi tỉ số kép (A,B;C,P) nằm trên đường tròn đơn vị trên mặt phẳng phức.
Đường tròn tổng quát
Nếu C là trung điểm của đoạn AB thì tập hợp các điểm P thỏa mãn điều kiện Apollonius
không tạo thành một đường tròn mà thành một đường thẳng.
Vậy nên nếu A, B, C là các điểm phân biệt trên mặt phẳng thì quỹ tích điểm P thỏa mãn phương trình trên gọi là "đường tròn tổng quát". Nó có thể là một đường tròn hoặc một đường thẳng. Trong trường hợp này, một đường thẳng là một đường tròn tổng quát có bán kính vô hạn.
Đường tròn nội tiếp hay ngoại tiếp
Trong mỗi tam giác, một đường tròn duy nhất, gọi là đường tròn nội tiếp nếu nó tiếp xúc với ba cạnh tam giác.
Với mọi tam giác một đường tròn duy nhất, gọi là đường tròn ngoại tiếp, nếu nó đi qua ba đỉnh của tam giác.
Một đa giác ngoại tiếp là một đa giác lồi bất kỳ mà một đường tròn có thể nội tiếp được và tiếp xúc với các cạnh của đa giác. Tất cả đa giác đều và tam giác đều là một đa giác ngoại tiếp.
Một đa giác nội tiếp, ví dụ tứ giác nội tiếp, là một đa giác lồi bất kỳ mà một đường tròn có thể bao quanh, đi qua tất các các đỉnh. Một trường hợp được nghiên cứu kỹ càng là tứ giác nội tiếp. Tất cả đa giác đều và tam giác đều là một đa giác nội tiếp. Một đa giác vừa ngoại tiếp vừa nội tiếp được gọi là đa giác lưỡng tâm.
Bất kỳ đa giác đều nào cũng đều có đúng 1 đường tròn ngoại tiếp và có đúng 1 đường tròn nội tiếp
Một đường cong hypocycloid là đường cong nằm trong một đường tròn, vẽ bằng cách theo dấu một điểm cố định trên một đường tròn nhỏ hơn lăn trong đường tròn đã cho và tiếp xúc với nó..
Vị trí tương đối
Vị trí tương đối giữa đường thẳng và đường tròn
Cho đường tròn tâm O bán kính R và đường thẳng d. Gọi H là hình chiếu vuông góc của O lên đường thẳng d. Ta có bảng sau:
Vị trí tương đối giữa 2 đường tròn
Cho đường tròn tâm O bán kính R và đường tròn tâm I bán kính r. Ta có bảng sau:
Đường tròn dưới dạng đặc biệt của những hình khác
Đường tròn có thể xem là một trường hợp giới hạn của một số hình khác:
Một đường cong Decartes là tập hợp các điểm sao cho tổng trọng số của khoảng cách từ điểm đó đến hai điểm cố định (tiêu điểm) là một hằng số. Một elíp là trường hợp các trọng số bằng nhau. Một đường tròn là một elíp có độ lệch tâm bằng 0, nghĩa là hai tiêu điểm trùng nhau tạo thành tâm đường tròn. Một đường tròn cũng là một đường cong Descartes đặc biệt với một trọng số bằng 0.
Một siêu elíp (hay đường cong Lamé) có phương trình dạng với a, b, n dương. Một siêu đường tròn có . Một đường tròn là trường hợp đặc biệt của siêu đường tròn với .
Một đường oval Cassini là tập hợp các điểm sao cho tích khoảng cách từ điểm đó đến hai điểm cố định là một hằng số. Khi hai tiêu điểm trùng nhau, một đường tròn hình thành.
Một đường cong có chiều rộng không đổi là một hình có chiều rộng, định nghĩa bằng giữa hai đường thẳng song song phân biệt tiếp xúc với hình đó, không thay đổi bất kể hướng của hai đường thẳng đó. Đường tròn là ví dụ đơn giản nhất cho đường cong này.
Góc với đường tròn
Góc ở tâm - số đo cung
2 cạnh của góc ở tâm cắt nhau tại 2 điểm, chia đường tròn thành 2 cung:
Phần cung nằm bên trong góc với được gọi là cung nhỏ. Số đo góc được gọi là số đo của cung nhỏ. Phần cung nhỏ này được gọi là cung bị chắn của góc ở tâm.
Phần còn lại được gọi là cung lớn. Số đo của cung này bằng
Góc bẹt là góc ở tâm chắn nửa đường tròn. Số đo của nửa đường tròn là
Khi 2 đầu của cung trùng nhau, ta có cung không có số đo và cả đường tròn có số đo
Trong cùng một đường tròn hoặc trong các đường tròn bằng nhau, 2 cung có số đo bằng nhau thì bằng nhau.
Cho điểm C nằm trên cung AB và chia cung AB thành 2 cung là cung AC và cung CB. Khi đó số đo của cung AB bằng tổng số đo cung AC và cung CB.
Góc nội tiếp
Số đo góc nội tiếp bằng nửa số đo cung bị chắn
Góc nội tiếp là góc nhọn hoặc góc vuông thì bằng nửa góc ở tâm cùng chắn cung đó.
Các góc nội tiếp cùng chắn một cung và nằm cùng phía với dây căng cung đó thì bằng nhau.
Hai góc nội tiếp cùng chắn một cung nằm khác phía với dây căng cung đó thì bù nhau.
Góc nội tiếp chắn nửa đường tròn là góc vuông (định lý Thales).
Góc hợp bởi tia tiếp tuyến và dây cung
Góc giữa tia tiếp tuyến và dây cung là góc có 1 cạnh là dây của đường tròn, cạnh kia tạo bởi tia tiếp tuyến của đường tròn và đỉnh là tiếp điểm của tiếp tuyến với đường tròn.
Số đo của góc hợp bởi tia tiếp tuyến và dây cung thì bằng nửa số đo cung bị chắn.
Góc hợp bởi tia tiếp tuyến và dây cung thì bằng góc nội tiếp cùng chắn cung đó
Tính chất của góc có đỉnh nằm trong hoặc ngoài đường tròn
Số đo của góc có đỉnh nằm trong đường tròn bằng nửa tổng số đo 2 cung bị chắn.
Góc có đỉnh nằm ngoài đường tròn và chắn trên đường tròn đó 2 cung thì số đo của góc đó bằng nửa hiệu số đo 2 cung bị chắn.
Cầu phương hình tròn
Cầu phương hình tròn là bài toán đưa ra bởi các nhà hình học cổ đại, yêu cầu dựng một hình vuông có diện tích bằng diện tích một hình tròn đã cho trong hữu hạn bước bằng thước thẳng và com-pa.
Năm 1882, bài toán được chứng minh là không thể thực hiện được, như một hệ quả của định lý Lindemann–Weierstrass chứng minh rằng pi () là một số siêu việt, chứ không phải là một số đại số vô tỉ; nghĩa là nó không phải là nghiệm của bất cứ đa thức với hệ số hữu tỉ.
Xem thêm
Hình cầu afin
Hình nhẫn
Apeirogon
Công thức các hình
Hình cầu
Định lý Cramer
Phép tịnh tiến hệ tọa độ
Đường tròn với tên đặc biệt
Đường tròn đơn vị
Đường tròn của Apollonius
Đường tròn chromatic
Đường tròn Ford
Đường tròn Carlyle
Đường tròn Bankoff
Đường tròn Archimedes
Đường tròn Johnson
Đường tròn Scoch
Đường tròn Woo
Của tam giác
Đường tròn Mandart
Đường tròn Spieker
Đường tròn Euler
Điểm đối trung
Đường tròn ngoại tiếp
Đường tròn nội tiếp
Đường tròn bàng tiếp
Đường tròn Lester
Đường tròn Malfatti
Đường tròn Brocard
Đường tròn đường kính trực tâm trọng tâm
Đường tròn van Lamoen
Điểm Parry (hình học tam giác)
Đường tròn cực (hình học)
Của tứ giác nhất định
Tứ giác ngoại tiếp
Tứ giác nội tiếp
Của đa giác nhất định
Đường tròn ngoại tiếp
Đường tròn nội tiếp
Của hình cầu
Đường tròn lớn
Đường tròn Riemann
Của một hình xuyến
Đường tròn Villarceau
Tham khảo
Liên kết ngoài
Mặt cắt hình nón
Đường cong bậc hai
Pi
Đường cong
Đường tròn
|
24551
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%C3%A1i%20ni%E1%BB%87m
|
Khái niệm
|
Khái niệm là một đối tượng, một hình thức cơ bản của tư duy (bao gồm một ý tưởng, một ý nghĩa của một tên gọi chung trong phạm trù lôgic, hoặc một sự suy diễn) phản ánh những thuộc tính chung, bản chất của các đối tượng sự vật, quá trình, hiện tượng trong tâm lý học và mối liên hệ cơ bản nhất các đối tượng trong hiện thực khách quan.
Khái niệm (triết học)
Immanuel Kant đã chia các khái niệm ra thành: khái niệm aprioric (sản phẩm của trí tuệ) và khái niệm aposterioric (được tạo ra từ quá trình trừu tượng hóa kết quả thực nghiệm).
Khái niệm (tâm lý học)
Việc tạo ra một khái niệm là một chức năng cơ bản của sự cảm nhận và suy nghĩ. Các khái niệm cho phép ta hệ thống hóa hiểu biết của ta về thế giới.
Hai dạng khái niệm cơ bản:
Khái niệm cổ điển (dập khuôn, mang tính Aristoteles) – với các giới hạn rõ rệt, dựa vào các định nghĩa chính xác, có mang các điều kiện cần và đủ, để đối tượng cho trước có thể được coi như là một đại diện xứng đáng trong một thể loại cho trước;
Khái niệm tự nhiên (mờ, nhòe) – thay vì dựa vào các định nghĩa và các điều kiện cần và đủ, thì lại dựa vào sự đồng dạng so với những đối tượng tiêu bản đã được lưu lại trong trí nhớ.
Thuộc tính của Khái niệm
Một khái niệm có hai thuộc tính là ngoại hàm (hay ngoại trương hay ngoại diên) và nội hàm.
Xem thêm
Ý tưởng
Tranh luận về universali
Khái niệm luận
Khái niệm phổ biến
Phạm trù
Định nghĩa
Tham khảo
Liên kết ngoài
Tâm lý cảm nhận
Logic
Thuật ngữ triết học
Tư duy
Khoa học nhận thức
Khái niệm
Ngữ nghĩa học
Quan niệm trong siêu hình học
Bản thể học
Triết lý ngôn ngữ
Trừu tượng
|
24552
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%E1%BB%91i%20l%E1%BA%ADp%20ph%C6%B0%C6%A1ng
|
Khối lập phương
|
Khối lập phương là một khối đa diện đều ba chiều có 6 mặt đều là hình vuông, có 12 cạnh bằng nhau, 8 đỉnh, cứ 3 cạnh gặp nhau tại 1 đỉnh, có 4 đường chéo cắt nhau tại một điểm. Khối lập phương là tập hợp những điểm nằm bên trong và các điểm nằm trên các mặt, cạnh, đỉnh này.
Khối lập phương là khối 6 mặt đều duy nhất và là 1 trong 5 khối đa diện đều, với 9 mặt đối xứng.
Khối lập phương cũng là hình khối lục diện vuông, hình hộp chữ nhật có các cạnh bằng nhau, hoặc hình khối mặt thoi vuông.
Công thức
Nếu cạnh của khối lập phương là :
Xem thêm
Khối lồi
Khối không lồi
Khối đa diện
Khối đa diện đều
Ellipsoid
Hình cầu
Mặt cầu
Hyperboloid
Paraboloid
Khối tròn xoay
Lập phương Rubik
Khối túc phương
Tham khảo
Liên kết ngoài
Lập phương
Hình học không gian
Hình thể hình học
Đa diện đều
Thể tích
|
24554
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Lu%E1%BA%ADt%20La%20M%C3%A3
|
Luật La Mã
|
Luật La Mã là hệ thống pháp luật của La Mã cổ đại, phát triển qua nghìn năm luật học, từ Thập nhị Bảng (khoảng năm 449 TCN), đến bộ luật Pháp điển Dân sự (529 CN) do Hoàng đế Đông La Mã Justinianus I ban hành. Luật La Mã tạo nên khuôn khổ cơ bản cho luật dân sự, hệ thống luật được sử dụng phổ biến nhất hiện nay.
Trong khi rất nhiều thành tựu của thời kỳ Cổ đại có nguồn gốc từ người Hy Lạp và chỉ được người La Mã tiếp nhận thì Luật La Mã là một sáng tạo nguyên thủy của người La Mã không có gương mẫu Hy Lạp. Thế nhưng việc sử dụng các khái niệm và mẫu mực lý luận từ triết học Hy Lạp trong phát triển của ngành luật học La Mã đã đóng một vai trò quan trọng.
Luật La Mã thời Cổ đại
Đầu tiên, Luật La Mã là luật được hình thành từ việc hành luật lâu năm theo tập quán không có luật viết. Một trong những tác phẩm luật ra đời sớm nhất là Bộ luật 12 bảng (tiếng La Tinh: lex duodecim tabularum), thành hình vào khoảng năm 450 trước Công Nguyên.
Ngành luật học La Mã đạt đến đỉnh cao nhất trong những thế kỷ đầu tiên của thời kỳ đế quốc (thế kỷ thứ 1 đến thế kỷ thứ 3). Trong thời gian cuối của thời Cổ đại các học thuyết của ngành luật học cổ điển này có nguy cơ bị lãng quên. Để chống lại xu hướng đó Hoàng đế Justinian I đã ra lệnh sưu tập lại các bản văn luật cũ. Tác phẩm luật mà sau này được biết đến dưới tên Corpus Iuris Civilis bao gồm các quyển sách dạy về luật (công bố năm 533), tập san các bài văn của các luật gia La Mã (tiếng La Tinh: digesta hay pandectae), các đạo luật do hoàng đế ban hành (Codex Iustinianus, công bố năm 534) và các đạo luật đã được sửa đổi bổ sung (novellae).
Thời kỳ Trung Cổ và Hiện đại
Trong Đế quốc Byzantine bộ luật của Justinian vẫn là cơ sở cho việc thực thi luật pháp. Trong thế kỷ thứ 9 Hoàng đế Leo VI (886–912) cho ra đời bộ luật Byzantine mà về cơ bản là từ bản dịch ra tiếng Hy Lạp của Codex Iustinianus và các digesta.
Thế nhưng Luật La Mã đã đi vào lãng quên trong Tây Âu trong thời gian đầu của thời Trung cổ. Đặc biệt là người ta không còn biết đến các digesta nữa. Vào khoảng năm 1050 các bản văn này được tái khám phá. Bắt đầu từ thời điểm này các luật gia người Ý là những người đầu tiên tiếp tục dựa vào Luật La Mã mà trường luật của họ tại Bologna đã phát triển thành một trong những trường đại học đầu tiên của châu Âu. Những người bình chú dân luật (glossator) diễn giải và hiệu chỉnh lại các bài văn theo nhu cầu và phương pháp đương thời. Sau đấy những người bình luận (commentator) biên soạn các bài văn về luật thành thành những tác phẩm mang tính thực tiễn.
Khi chính thể chuyên chế và thời kỳ Khai sáng bắt đầu, luật tự nhiên lại chiếm vị trí nổi bật. Vào đầu thế kỷ 19, cùng với Trường phái Luật lịch sử mà người đại diện nổi bật là Friedrich Karl von Savigny, người ta lại bắt đầu quay lại với Luật La Mã. Ngay các bộ luật dân sự hiện đại - như Bộ luật Dân sự Đức và Bộ luật Dân sự Áo trong văn bản đầu tiên – cũng thành hình trước tiên là từ Luật La Mã.
Chủ thể
- Chủ thể của luật La Mã rất hạn chế. Địa vị pháp lý của chủ thể là không bình đẳng. Chủ thể của luật La Mã trực tiếp tham gia vào các quan hệ mà bản thân của họ có các quyền và nghĩa vụ và đồng thời họ phải gánh chịu trách nhiệm trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó.
Năng lực pháp luật
- Chủ thể của luật La Mã phải là:
+ Công dân La Mã
+ Phải là người tự do
+ Gia chủ (người chủ gia đình)
Năng lực hành vi
- Năng lực hành vi là năng lực của cá nhân, căn cứ vào dộ tuổi và khả năng nhận thức. Luật La Mã quy định các mức độ năng lực hành vi:
+ Không có năng lực hành vi: là những người dưới 7 tuổi và những người điên. Những người này không được phép tham gia vào các quan hệ kể cả các quan hệ mang lại lợi ích cho họ ngoại trừ thừa kế.
+ Năng lực hành vi một phần: Nữ từ 7 đến 12 tuổi, nam từ 7 đến 14 tuổi và không bị điên: Những người này được tham gia vào tất cả giao dịch dân sự cho riêng mình, có lợi cho mình mà không phải gánh chịu nghĩa vụ. Nhưng đối với các giao dịch làm phát sinh hay chấm dứt một quyền tài sản thì phải có sự chứng nhận của người giám hộ.
+ Năng lực hành vi đầy đủ: Nữ đủ 12 tuổi, nam đủ 14 tuổi và không bị điên: Những người này có năng lực hành vi đầy đủ nhưng nếu họ vẫn con phụ thuộc vào người giám hộ thì đối với những quan hệ làm giảm tài sản tăng nghĩa vụ phải có sự chứng nhận của người giam hộ. Tất cả những người trên 25 tuổi được tham gia vào tất cả các quan hệ.
Địa vị pháp lý của công dân La Mã
Công dân La Mã là những người có quốc tịch La Mã. Quốc tịch La Mã được xác lập trong các trường hợp sau:
- Được sinh ra từ công dân La Mã
- Trả tự do cho nô lệ từ công dân La Mã
- Tặng danh hiệu công dân La Mã cho người nước ngoài.
Những người có quốc tích La Mã có đầy đủ các quyền tài sản, nhân thân ngoài các quyền chính trị. Quốc tịch La Mã có thể bị tước bỏ trong các trường hợp: Những người phạm trọng tội, những người bị kết án tù chung thân hay tử hình, những người bị xung làm nô lệ, bị bắt làm tù binh.
Người Latinh, người ngoại quốc: Người La tinh và người La Mã sống gần nhau, nhưng Nhà nước của người La Mã hình thành sớm hơn. Thế kỉ I TCN, chiến tranh giữa La Mã và người Phổ nổ ra, người La Mã và người La tinh cùng với ngoại quốc sống trên lãnh thổ đả liên kết với nhau. Dần dần sau đó, Nhà nước La Mã cho phép người La tinh và người ngoại quốc được gia
nhập quốc tịch La Mã.
Từ thế kỉ III, SCN nhà nước La Mã ban hành luật Jusgentium ap dụng cho tất ca mọi người.
Nông nô, tá điền:
Về nguyên tắc, nông nô, tá điền là những người tự do,tá điền là những người có nhà cửa nhưng không có ruộng đất nên phải thuê đất và phải nộp thuế. Nô lệ là những người không có nhà cửa và cũng không có ruộng đất nên họ phải làm thuê cho chủ và phải hoàn toàn phụ thuộc vào chủ cũ, họ không được thưa kiện và phải cấp dưỡng cho chủ cũ trong trường hợp chủ cũ bị phá sản. Nông nô, tá điền về nguyên tắc bình đẳng với các chủ thể khác nhưng trên thực tế tham gia vào các quan hệ rất hạn chế vì họ không có tài sản.
Pháp nhân: Sự phát triển rực rỡ về kinh tế - văn hóa của người La Mã đã làm xuất hiện nhiều nghề nghiệp mới cùng với sự xuất hiện của đạo Thiên Chúa trên lãnh thổ La Mã, làm xuất hiện nhiều nhà thờ và các công trình khác như rạp hát, rạp xiếc, nhà trò, các tập đoàn mai táng, các tổ chức có tài sản riêng,nhân danh mình vào các quan hệ.
Vật quyền
1, Khái niệm: Tài sản hay vật (res) là những vật chất đáp ứng nhu cầu của con người và có ý nghĩa kinh tế - xã hội. Quyền tài sản là quyền yêu cầu chứ không phải là tài sản.
2, Phân loại:
a, Động sản và bất động sản.
- Động sản (res mobiles) là những vật có thể bị di chuyển được trong không gian hoặc bản thân có thể tự di chuyển được mà không ảnh hưởng đến giá trị và suy suyển đặc tính của nó. ví dụ: gia súc, gia cầm.
- Bất động sản (res immobiles) là những vật không thể di chuyển được trong không gian mà không ảnh hưởng đến giá trị và đặc tính sử dụng của vật, bất động sản cơ bản nhất là đất đai và những vật gắn chặt với nó.. Ví dụ: nhà cửa, cây cối.
, Ý nghĩa của sự phân loại này là: Để xây dựng phương pháp thủ đắc, đối với bất động sản thì việc di dời thì phải tuân theo trình tự luật định và phải có đăng ký quyền sở hữu. Sự phân loại này có ý nghĩa khi xuất hiện quy định super ficies solo cedit, theo đó, tất cả những gì có trên trái đất đều thuộc sở hữu của chủ sở hữu của mãnh đất cho dù chúng thuộc về ai đó.
b, Vật chia được và không chia được
- Vật chia được (res divisible): là những vật khi phân chia thành các phần, các phần ấy không bị giảm giá trị tài sản chung và chức năng sử dụng.
- Vật không chia được là những vật ngược lại khi chia thành các phần thì giá trị của chúng bị ảnh hưởng và suy giảm chức năng sử dụng.
c, Vật tiêu hao và không tiêu hao.
- Vật tiêu hao là vật qua một lần sử dụng bị mất hoặc không giữ được hình dạng, số lượng, đặc tính, công dụng ban đầu.
- Vật không tiêu hao là những vật qua nhiều lần sử về cơ bản không thay đổi về đặc tính, số lượng, công dụng ban đầu.
,Ý nghĩa của việc phân chia này: Nhằm xây dựng đối tượng cho các loại hợp đồng, vật tiêu hao không thể là đối tượng trong các quan hệ thuê, mượn.
d, Vật đặt định và vật thay thế:
- Vật đặt định là những vật phân biệt với những vật khác về hình dáng, màu sắc, đặc tính, chức năng, những vật này là những vật ở thể đơn nhất về mặt tự nhiên hay do tính chất vật lý (hòn đá, chiếc cốc, ngôi nhà).
- Vật thay thế là những vật tương tự nhau và hình dạng, màu sắc, đặc tính, công dụng.
,Ý nghĩa của sự phân loại: Liên quan đến nghĩa vụ giao tài sản. Đối với những vật đặt định thì phải giao đúng vật đó, còn đối với những vật thay thế, chúng có thể thay thế nhau nhưng với điều kiện cùng chất liệu.
Khái niệm và phân loại vật quyền:
1, Khái niệm:
- Vật quyền là quyền của một chủ thể bằng hành vi của mình tác động lên tài sản theo ý chí của mình mà không phụ thuộc vào người khác để nhằm thỏa mãn lợi ích của cá nhân mình.
- Trái qưyền là quyền của chủ thể bằng hành vi của người khác để thỏa mãn lợi ích của bản thân mình.
+, Phân loại vật quyền:
- Quyền sở hữu
- Quyền chiếm hữu
- Quyền đối với tài sản của người khác
a, Quyền chiếm hữu:
Chiếm hữu là nắm giữ, chi phối tài sản theo ý chí của mình mà không phụ thuộc vào ý chí người khác.Coi tài sản đó như là của mình. Chiếm hữu bao gồm:
+ Chiếm hữu hợp pháp
+ Chiếm hữu bất hợp pháp.
- Chiếm hữu bất hợp pháp được chia thành:
Bất hợp pháp ngay tình: Việc chiếm hữu là bất hợp pháp nhưng người chiếm hữu không biết hoặc không thể biết.
Bất hợp pháp không ngay tình: Việc chiếm hữu là bất hợp pháp, người chiếm hữu biết hoặc buộc phải biết việc chiếm hữu tài sản đó là bất hợp pháp nhưng vẫn có tình chiếm hữu.
b, Quyền đối với tài sản của người khác:
- Khái niệm: là quyền của chủ thể không phải là chủ sở hữu của tài nhưng có quyền sử dụng và hưởng những lợi ích mà tài sản đó mang lại.
- Phân loại:
+ Quyền dụng ích đất đai (praediorum) đất đai ở đây bao gồm đất nông nghiệp và đất ở, các quyền này bao gồm: quyền có lối đi lại, qyền chăn dắt gia súc đi qua, quyền dẫn nước, thoát nước, quyền được lấy ánh sáng không khí, quyền được lợi dụng nhà của người khác để xây nhà mình, quyền được sử dụng bóng râm của người khác, quyền được sang đất của người khác để thu lượm hoa quả.
+ Quyền dụng ích cá nhân (pesonarum) hay quyền sử dụng tài sản của người khác suốt đời, các bên có thể thỏa thuận một bên có thể sử dụng tài sản cho đến chết, người đó được hưởng hoa lợi, lợi tức do tài sản mang lại nhưng không được để lại thửa kế. Pháp luật cũng quy định một số người không có quyền sở hữu tài sản nhưng có quyền sử dụng tài sản đó cho đến chết.
Tham khảo
Max Kaser/Rolf Knütel: Römisches Privatrecht (Luật La Mã), 17. Auflage, München 2003. ISBN 3-406-41796-5
Detlef Liebs: Römisches Recht (Luật La Mã), 6. Auflage, Stuttgart 2004. ISBN 3-8252-0465-0
Fritz Schulz: Prinzipien des römischen Rechts (Các nguyên tắc của Luật La Mã), München/Leipzig 1934
Mario Bretone: Geschichte des Römischen Rechts (Lịch sử của Luật La Mã), München 1992. ISBN 3-406-36589-2
Wolfgang Waldstein, J. Michael Rainer: Römische Rechtsgeschichte (Lịch sử Luật La Mã), 10. Auflage, München 2005. ISBN 3-406-53341-8
Stephan Meder: Rechtsgeschichte (Lịch sử luật), Köln/Weimar/Wien 2002 (mehrere Auflagen). ISBN 3-8252-2299-3
Uwe Wesel: Geschichte des Rechts (Lịch sử luật), 2. Auflage, Berlin 2000. ISBN 3-406-47543-4
Wolfgang Kunkel/Martin Schermaier, Römische Rechtsgeschichte (Lịch sử Luật La Mã), 13. Aufl., Köln/Weimar/Wien 2001. ISBN 3-8252-2225-X
Liên kết ngoài
A very good collection of resources maintained by professor Ernest Metzger.
The Roman Law Library by Professor Yves Lassard and Alexandr Koptev
Informationsquellen zum römischen Recht
Phát minh của Ý
|
24559
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Trung%20%C4%90%E1%BB%8Ba
|
Trung Địa
|
Trung Địa (tiếng Anh: Middle-earth) là vùng đất hư cấu trong hệ thống tác phẩm Legendarium của nhà văn J.R.R.Tolkien. Trung Địa là nơi diễn ra hầu hết các sự kiện trong các tác phẩm của Tolkien như Chúa tể những chiếc nhẫn (Lord of the Rings), Anh chàng Hobbit (The Hobbit), Huyền sử Silmarillion (The Silmarillion)...
Theo Tolkien, Trung Địa là lục địa chính trong các lục địa trên Trái Đất (Arda) được hình thành từ khoảng một thời gian dài từ trước khi nhân loại thức dậy (Kỷ Đệ Nhất) và là nơi sinh sống của nhiều sinh vật khác nhau: thần thánh (Valar), tiên (Elf), loài người, người lùn (Dwarf), người Hobbit, người cây (Ents), phù thủy... cũng như các sinh vật, thế lực hắc ám như rồng, quỷ Orc hay chúa tể hắc ám (Melkor, Sauron). Phần lớn những sự kiện đều tập trung chủ yếu ở phía Tây Bắc của Trung Địa (tương đương với Châu Âu - vùng phía Tây Bắc của cựu thế giới, vùng Shire gợi ra vùng West Midlands nước Anh). Ngoài ra, nơi đây còn diễn ra những sự kiện chính trong suốt bốn niên đại của loài người như Chiến tranh Báu vật, Nhẫn chiến... Theo một số ý tưởng của Tolkien, Trung Địa dần dần phát triển trở thành thế giới ngày nay của con người.
Tên gọi
Thuật ngữ "Middle-earth" có nguồn gốc từ Midgard trong thần thoại Bắc Âu (Old Norse) hay Middangeard từ một số tác phẩm viết bằng tiếng Anh cổ như sử thi Beowulf.
Bản dịch "Trung Địa" được xuất bản lần đầu tiên trong phần phim cuối tuần trên VTV3 của Đài truyền hình Việt Nam.
Xem thêm
Legendarium
Chúa tể những chiếc nhẫn (loạt phim)
Tham khảo
Vũ trụ giả tưởng
Giới thiệu năm 1937
Lục địa
J. R. R. Tolkien
|
24566
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%B9a%20L%C3%A1ng
|
Chùa Láng
|
Chùa Láng, hay còn gọi là Chiêu Thiền tự (Chữ Hán: 昭禪寺), là một ngôi chùa ở làng Láng, Láng Thượng, quận Đống Đa, Hà Nội. Tên chùa có ý nghĩa rằng: "Vì có điều tốt rõ rệt nên gọi là Chiêu. Đây là nơi sinh ra Thiền sư Đại Thánh nên gọi là Thiền". Người Pháp gọi là Pagode des Dames.
Lịch sử
Chùa tương truyền được xây dựng từ thời vua Lý Anh Tông (trị vì từ 1138 đến 1175). Chùa thờ Thiền sư Từ Đạo Hạnh. Theo truyền thuyết, nhà sư này đã đầu thai làm con trai một nhà quý tộc Sùng Hiền hầu, em vua Lý Nhân Tông. Vì vua Lý Nhân Tông (trị vì từ 1072 đến 1127) không có con, nên con trai của ông Sùng Hiền hầu được nối ngôi, tức vua Lý Thần Tông (trị vì từ 1128 đến 1138). Do sự tích ấy mà con của Lý Thần Tông là Lý Anh Tông đã cho xây cất chùa Chiêu Thiền để thờ vua cha và tiền thân của Người là thiền sư Từ Đạo Hạnh. Chùa đã được trùng tu nhiều lần, những lần quan trọng nhất là vào các năm 1656, 1901 và 1989.
Kiến trúc
Cổng chùa ngoài cùng bao gồm bốn cột vuông với ba mái cong không chùm lên cột mà gắn vào sườn cột, mái giữa cao hơn hai mái bên, hơi giống kiến trúc cổng ở cung vua phủ chúa ngày xưa, trên cổng có tấm hoành phi lớn đề chữ " Thiền Thiên Khải Thánh ". Qua cổng là một sân lát gạch Bát Tràng, giữa sân là chiếc sập đá, nơi đặt kiệu trong các ngày lễ hội. Cuối sân có cửa tam quan. Từ đây có con đường lát gạch, hai bên là hàng muỗm cổ thọ cả gần ngàn tuổi dẫn đến cổng thứ ba.
Qua cổng này ở giữa có ngôi nhà bát giác nơi đặt tượng của Từ Đạo Hạnh. Qua nhà bát giác này mới đến các công trình chính trong chùa: bái đường, nhà thiêu hương, thượng điện, các dãy hành lang, nhà tổ và tăng phòng...
Động thập điện Diêm Vương ở hai đầu đốc tòa tiền đường khá đẹp, miêu tả những hình phạt ở các tầng địa ngục.
Đây là một trong những ngôi chùa có số lượng tượng thờ nhiều nhất Hà Nội và cả Việt Nam, gồm 198 pho tượng. Cơ Bản gồm có: Khuyến thiện, Trừng Ác, Tứ Đại thiên Vương, Chuẩn đề, Phạm thiên, Đế Thích, Cửu Long Phún Thủy, Thập bát La hán, Lịch Đại Tổ Sư, Tam Tòa Thánh Mẫu, Tứ Vị Vua Bà,...
Ngoài các tượng Phật ở thượng điện, trong hậu cung còn có tượng nhà sư Từ Đạo Hạnh và tượng vua Lý Thần Tông. Tượng Từ Đạo Hạnh làm bằng mây đan phủ sơn còn tượng Lý Thần Tông làm bằng gỗ mít.
Vì được trùng tu nhiều lần, trong chùa không còn dấu tích của các kiến trúc di vật cổ. Tấm bia cổ nhất còn lại ở đây được dựng năm Thịnh Đức thứ 4 (1656) nhà Hậu Lê. Văn bia do tiến sĩ Nguyễn Văn Trạc viết.
Vẻ bề thế của quần thể kiến trúc hài hòa, cân xứng với không gian thoáng đãng khiến cho chùa Láng đã từng được coi là "đệ nhất tùng lâm" ở phía Tây kinh thành Thăng Long xưa.
Hội chùa
Hội chùa Láng cử hành vào ngày mồng bảy tháng ba âm lịch, là ngày sinh của Thiền sư Từ Đạo Hạnh. Trong ngày hội, kiệu của Từ Đạo Hạnh được rước đến chùa Hoa Lăng ở xã Dịch Vọng, nơi thờ bố mẹ ông.
Chùa Láng là dạng chùa "Tiền Phật, Hậu Thánh ", một đặc trưng khác biệt tại chùa là do Từ Đạo Hạnh vừa là sư vừa là Thánh của làng nên người dân ở đây dâng cả rượu, thịt cho Ngài trong ngày lễ hội.
Chùa Thầy ở Quốc Oai (Hà Nội) cũng thuộc hệ thống chùa thờ Từ Đạo Hạnh nên dân gian có câu rằng:
Nhớ ngày mồng bảy tháng ba,
Trở về hội Láng, trở ra hội Thầy.
Hình ảnh
Tham khảo
Sổ tay Văn hóa Việt Nam, Đặng Đức Siêu, Nhà xuất bản Lao Động, 2006.
Xem thêm
Danh sách chùa Hà Nội
Tham khảo
Liên kết ngoài
Thư viện Hoa Sen
Láng
Đống Đa
Di tích tại Hà Nội
Nhà bát giác
|
24567
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%B9a%20Qu%C3%A1n%20S%E1%BB%A9
|
Chùa Quán Sứ
|
Chùa Quán Sứ (舘使寺) là một ngôi chùa ở số 73 phố Quán Sứ, phường Trần Hưng Đạo, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. Trước đây, địa phận này thuộc thôn An Tập, phường Cổ Vũ, tổng Tiền Nghiêm (sau đổi là tổng Vĩnh Xương), huyện Thọ Xương.
Lịch sử
Chùa Quán Sứ được xây dựng vào thế kỷ 15. Nguyên xưa ở phường Cổ Vũ chưa có chùa, chỉ có mấy gian nhà tranh ở phía Nam, dân làng dùng làm chỗ tế thần cầu yên gọi là xóm An Tập. Theo sách Hoàng Lê Nhất Thống Chí, vào thời vua Lê Thế Tông, các nước Chiêm Thành, Ai Lao thường cử sứ giả sang triều cống Việt Nam. Nhà vua cho dựng một tòa nhà gọi là Quán Sứ để tiếp đón các sứ thần đến Thăng Long. Vì sứ thần các nước này đều sùng đạo Phật nên lại dựng thêm một ngôi chùa cũng nằm trong khuôn viên Quán Sứ để họ có điều kiện hành lễ. Thời gian đã xóa đi dấu khu nhà Quán Sứ nhưng ngôi chùa thì vẫn tồn tại.
Theo bài văn của Tiến sĩ Lê Duy Trung khắc trên tấm bia dựng năm 1855, vào đầu đời Gia Long (1802-1819) chùa gần đồn Hậu Quân. Đến năm 1822, chùa được sửa sang để làm chỗ lễ bái cho quân nhân ở đồn này. Khi quân ở đồn này rút đi, chùa được trả lại cho dân làng. Nhà sư Thanh Phương trụ trì ở chùa lúc đó mới làm thêm các hành lang, tô tượng, đúc chuông. Tiền đường của chùa thờ Phật, còn hậu đường thờ vị quốc sư Minh Không thời Nhà Lý.
Năm 1934, Tổng hội Phật giáo Bắc Kỳ thành lập, chùa Quán Sứ được chọn làm trụ sở trung ương. Năm 1942 chùa đã được xây dựng lại theo bản thiết kế của hai kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Ngoạn và Nguyễn Xuân Tùng do chính Tổ Vĩnh Nghiêm duyệt.
Kiến trúc
Tam quan của chùa có ba tầng mái, nằm giữa là lầu chuông. Qua tam quan là một sân rộng lát gạch, bước lên 11 bậc thềm là tới chánh điện cao, hình vuông, xung quanh có hành lang. Điện Phật được bài trí trang nghiêm, các pho tượng đều khá lớn và thếp vàng lộng lẫy. Phía trong cùng, thờ ba vị Tam thế Phật trên bậc cao nhất. Bậc kế tiếp thờ tượng Phật A-di-đà ở giữa, hai bên có tượng Quan Thế Âm và Đại Thế Chí. Bậc dưới đó, ở giữa thờ Phật Thích ca, hai bên là A-nan-đà và Ca-diếp. Bậc thấp nhất, ở ngoài cùng có tòa Cửu Long đứng giữa tượng Quan Âm và Địa Tạng. Gian bên phải chánh điện thờ Lý Quốc Sư (tức Thiền sư Minh Không) với hai thị giả, gian bên trái thờ tượng Đức Ông và tượng Châu Sương, Quan Bình.
Phía Đại Hùng Bảo Điện là nhà thờ Tổ, nơi thời Lịch Đại Tổ Sư của Phật giáo Việt Nam. Đây là ngôi chùa hiếm có trên đất bắc Việt Nam, tuy xây từ lâu đời nhưng luôn gìn giữ chính pháp và đặc biệt " không thờ mẫu tam tứ phủ " trong chùa vì đây là một dạng tín ngưỡng bản địa không thuộc Phật giáo.
Hai bên và đằng sau sân là các dãy nhà dùng làm thư viện, giảng đường, nhà khách và tăng phòng.
Chùa Quán Sứ có lẽ là một trong rất ít ngôi chùa ở Việt Nam mà tên chùa cũng như nhiều câu đối đều được viết bằng chữ quốc ngữ. Phải chăng vì ngôi chùa được xây dựng lại vào giữa thế kỷ 20 và vì chùa đã trở thành trụ sở trung tâm của Tổng hội Phật giáo Bắc Việt, nay là của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, ngôi Quốc tự chung của các thiện nam tín nữ trên đất Việt. Phân viện Nghiên cứu Phật học thuộc Giáo hội và văn phòng tổ chức Phật giáo Châu Á vì hòa bình (ở Việt Nam) cũng đặt ở đây.
Nửa thế kỷ nay, chùa Quán Sứ đã chứng kiến nhiều hoạt động quan trọng của Phật giáo Việt Nam, trong đó có sự thống nhất tổ chức Phật giáo trong nước và sự hòa nhập của Phật giáo Việt Nam với Phật giáo thế giới. Chính nơi đây vào ngày 13 tháng 5 năm 1951 (mồng 8 tháng 4 năm Tân Mão) lần đầu tiên lá cờ Phật giáo thế giới do Thượng tọa Thích Tố Liên mang về từ Colombo đã xuất hiện trên bầu trời Hà Nội.
Danh Tăng Tổ Đình
Trường Cao Cấp Phật Học Trung Ương
Năm 1981 sau khi thống nhất các tổ chức Phật giáo và thành lập Giáo Hội Phật giáo Việt Nam, nhiệm vụ cấp bách khi đó là đào tạo tăng tài nên giáo hội đã thành lập Trường Cao Cấp Phật Học Trung Ương tại Hà Nội có cơ sở là Chùa Quán Sứ. Đây chính là tiền thân của Học Viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội sau này. Trường tổ chức chiêu sinh khóa 1 (1981-1985), khi đó tăng sinh đều là con em của các tổ đình lớn đất bắc và sau đó trở thành các nhà lãnh đạo của giáo hội hiện nay như:
Hòa Thượng Thích Thanh Thiền, chùa Quán Sứ.
Hòa Thượng Thích Mật Hựu.
Hòa Thượng Thích Viên Thành (1950 - 2002), Phó ban Giáo dục Tăng Ni Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Phó Ban Văn hóa Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Trưởng Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Phú Thọ, Phó Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Hà Tây,.... Trụ trì Chùa Hương, Chùa Thầy, Chùa Vạn Niên.
Hòa Thượng Thích Thanh Nhiễu (1952). Phó chủ tịch thường trực Hội đồng trị sự TƯ GHPGVN, trụ trì chùa Quán Sứ.
Hòa Thượng Thích Thanh Nhã (1950), Chánh văn phòng Hội đồng chứng minh, Phó ban trị sự PG Hà Nội, Trụ trì chùa Trấn Quốc. (Chủ Tịch Hội Cựu Tăng Ni Sinh)
Hòa Thượng Thích Thanh Lương (1949), Chứng minh ban trị sự Nam Định.
Hòa thượng Thích Thanh Duệ (1951), Trưởng Ban trị sự PG tỉnh Vĩnh Phúc.
Hòa Thượng Thích Gia Quang (1954), Phó chủ tịch Hội đồng trị sự, Trưởng ban thông tin truyền thông, trụ trì chùa liên Phái.
Hòa thượng Thích Bảo nghiêm (1956), Phó chủ tịch hội đồng trị sự, trưởng ban trị sự PG Hà Nội, trụ trì chùa Lý Triều Quốc Sư.
Hòa Thượng Thích Quảng Tùng (1953), Phó chủ tịch hội đồng trị sự, Trưởng ban trị sự PG Hải phòng, trụ trì chùa Dư Hàng.
Hòa Thượng Thích Thanh Điện (1958), Phó tổng thư ký Hội đồng trị sư, Chánh văn phòng I TƯ, trụ trì chùa Duệ Tú.
Hòa Thượng Thích Thanh Giác (1957), phó ban trị sự PG hải Phòng, trụ trì chùa Phổ Chiếu.
Hòa Thượng Thích Thanh Đạt (1955), Nguyên Viện Trưởng Học viện PG VN tại Hà Nội.
Hòa Thượng Thích Thanh Hưng (1952), Uỷ viên thừong trực Hội đồng trị sự, trụ trì chùa Thiên Phúc.
Thượng Tọa Thích Nguyên Hạnh (1957), Trưởng ban trị sự PG quận Tây Hồ, Hà Nội, trụ trì chùa tảo Sách.
Thượng Tọa Thích Thanh Phúc (1954), Phó trưởng ban trị sự PG Hà Nội, trụ trì Chùa Châu long.
Thượng Tọa Thích Thanh Phương (1960 - 2013), Chánh Thư Ký Ban Trị Sự PG Tỉnh Thái Bình, Trụ Trì Chùa Vĩnh Quang.
Ni trưởng Thích Đàm Nghiêm, Phó trưởng phâ ban thường trực phân ban ni giới Trung ương.
Ni sư Thích Đàm Lan (1956), Phó trưởng phân ban ni giới TƯ, trụ trì chùa Bồ Đề.
Ni sư Thích Đàm Khoa (1959), Trụ trì chùa Trăm Gian.
Ni sư Thích Diệu Hương, Chùa Phong Hanh, Hải Dương.
Xem thêm
Danh sách chùa Hà Nội
Tham khảo
Liên kết ngoài
Chùa Quán Sứ Tìm Một Góc Bình Yên - Thông Tin Thêm Về Chùa Quán Sứ
Quán Sứ
Hoàn Kiếm
Chùa Việt Nam
|
24595
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%ACnh%20tr%C3%B2n
|
Hình tròn
|
Trong hình học, một hình tròn là vùng trong mặt phẳng giới hạn bởi một vòng tròn. Một hình tròn được cho là đóng nếu nó chứa đường tròn tạo thành ranh giới của nó và mở nếu không.
Công thức
Trong hệ tọa độ Descartes, hình tròn mở tâm và bán kính R được thể hiện theo công thức
trong khi hình tròn đóng có cùng tâm và bán kính được thể hiện bằng
Diện tích của một hình tròn đóng hoặc mở có bán kính R là πR 2 (xem diện tích hình tròn).
Tính chất
Hình tròn có tính đối xứng tròn.
Hình tròn mở và hình tròn đóng không tương đương topo (không đồng phôi), vì chúng có tính chất topo khác nhau. Chẳng hạn, mọi hình tròn đóng đều compact trong khi mọi hình tròn mở không compact. Tuy nhiên, từ quan điểm của topo đại số, chúng có chung nhiều thuộc tính: cả hai đều có thể co rút và do đó, đồng luân với một điểm duy nhất. Điều này ngụ ý rằng các nhóm cơ bản của chúng là không đáng kể, và tất cả các nhóm tương đồng là không đáng kể ngoại trừ nhóm thứ 0, là đẳng cấu của Z. Đặc tính Euler của một điểm (và do đó cũng là của một hình tròn đóng hoặc mở) là 1.
Mỗi hàm liên tục từ hình tròn đóng đến chính nó đều có ít nhất một điểm cố định (không yêu cầu hàm phải song ánh hoặc toàn ánh); đây là trường hợp n = 2 của định lý điểm cố định Brouwer. Tuyên bố là sai với hình tròn mở:
Xem ví dụ hàm ánh xạ mọi điểm của hình tròn đơn vị mở sang một điểm khác trên hình tròn đơn vị mở ở bên phải của điểm đã cho. Nhưng đối với hình tròn đơn vị đóng, nó sửa mọi điểm trên nửa vòng tròn
Xem thêm
Quả cầu
Đường tròn đường kính trực tâm trọng tâm
Tham khảo
Hình học Euclid
|
24597
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%A1n%20k%C3%ADnh
|
Bán kính
|
Trong hình học cổ điển, bán kính của một đường tròn hay của mặt cầu là khoảng cách từ một điểm bất kỳ của đường tròn/mặt cầu đến tâm của nó. Từ bán kính được sử dụng lần đầu tiên trong tiếng La Tinh là radius với nghĩa tia hoặc cũng có thể là nan hoa của bánh xe ngựa.
Bán kính thường được ký hiệu bằng chữ r hoặc R. Độ dài của bán kính đường tròn bằng một nửa đường kính d của đường tròn đó.
Nếu đối tượng đề cập tới không có tâm, khái niệm này có thể đề cập tới bán kính của đường tròn ngoại tiếp hoặc mặt cầu ngoại tiếp đối tượng đó. Trong cả hai trường hợp, bán kính này có thể dài hơn một nửa khoảng cách lớn nhất giữa hai điểm bất kì của đối tượng đó. Ngoài ra, khái niệm bán kính này cũng có thể được sử dụng cho đường tròn nội tiếp - đường tròn lớn nhất có thể nằm trong một đa giác cho trước.
Bán kính của đường tròn có chu vi C là:
Tham khảo
Mặt cắt hình nón
Đường tròn
|
24603
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%A1i%20tu%E1%BA%A7n%20ho%C3%A0n%20kh%C3%AD%20th%E1%BA%A3i
|
Tái tuần hoàn khí thải
|
Tái tuần hoàn khí thải là một kỹ thuật làm giảm thiểu các oxide của nitơ được dùng trong phần lớn các động cơ xăng, động cơ diesel, tuốc bin hơi. Việc giảm thiểu rất cần thiết, đặc biệt là tại các động cơ đốt trong nhằm giới hạn các chất độc hại này nằm trong giới hạn cho phép.
Tại vòng tua nhỏ thì lượng oxy trong luồng khí nạp vẫn dư để tái tuần hoàn nạp vào buồng đốt cho chu kỳ sau, mặt khác nhiệt lượng của khí tái tuần hoàn được tận dụng nhằm nâng cao hiệu suất động cơ, đồng thời cho phép nhiên liệu cháy tốt
Tại vòng tua cao hơn thì lượng khí cần nhiều hơn, các van tuần hoàn sẽ tùy theo tua động cơ và tải sẽ được điều chỉnh để mang lại hiệu suất cao nhất.
Ngoài ra việc tái tuần hoàn như vậy cho phép đốt triệt để nhiên liệu giảm thiểu sự ô nhiễm môi trường.
Tham khảo
Động cơ đốt trong
Kĩ thuật động cơ
|
24604
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Inkscape
|
Inkscape
|
Inkscape là một trình soạn thảo đồ họa vector miễn phí và mã nguồn mở. Phần mềm này có thể được sử dụng để tạo hoặc chỉnh sửa đồ họa vector như minh họa, sơ đồ, nghệ thuật vẽ đường, biểu đồ, logo và các bức tranh phức tạp. Định dạng đồ họa vector chính của Inkscape là Đồ họa vector có thể mở rộng (SVG); tuy nhiên, nhiều định dạng khác có thể được nhập và xuất.
Inkscape được bắt đầu vào năm 2003, phỏng theo phần mềm xử lý đồ họa vector Sodipodi. Tuy Inkscape vẫn chưa có được nhiều tính năng như các phần mềm xử lý đồ họa vector thương mại, nhưng hiện nay nó có thể được dùng trong nhiều ứng dụng. Inkscape chưa hỗ trợ đầy đủ SVG và CSS. Nó chưa có các hiệu ứng lọc SVG, hoạt hình, và phông chữ SVG. Inkscape hiện đang được phát triển mạnh, và ngày càng có nhiều tính năng mới.
Tính năng
Inkscape quản lý bản vẽ theo các lớp và cho phép chuyển giữa các lớp một cách linh hoạt.
Chức năng nhân bản đối tượng (clone) rất có ích khi cần sao chép với số lượng lớn hay tạo ra các họa tiết.
Inkscape hiện đang phát triển tính năng nhận diện hình: đổi từ ảnh bitmap ra các đường nét.
Cho phép xuất ra nhiều định dạng, Inkscape có thể tạo ra các file EPS, EMF, và các định dạng ảnh bitmap (PNG, JPEG, v.v...)
Các đối tượng hình vẽ gồm có một số loại đặc biệt: hình sao, đường cong Bézier, gradient màu.
Kĩ thuật phần mềm
Inkscape được xây dựng dựa trên bộ công cụ GTK+. Mặc dù chạy tốt trên Linux và gần như suôn sẻ trên Windows, vấn đề tương thích với Mac OS X còn đang được khắc phục. Đối với Windows kích thước của file cài đặt khi tải xuống lớn hơn đáng kể so với Linux, vốn hỗ trợ mặc định cho GTK+ nếu sử dụng giao diện GNOME.
Xem thêm
SVG
Tham khảo
Liên kết ngoài
Inkscape Wiki
Hình ứng dụng Inkscape
Trang trừng bày các tác phẩm tạo ra với Inkscape
Trang so sánh Inkscape và Sodipodi
Hướng dẫn sử dụng Inkscape (tiếng Anh)
Giải trí với Inkscape và SVG
Hướng dẫn tạo ra đồ họa vector với Inkscape (tiếng Anh)
Phần mềm đồ họa vec tơ
Phần mềm đồ họa tự do
Dự án ở SourceForge
GTK
Phần mềm đồ họa vector
Phần mềm năm 2003
|
24606
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kinh%20tuy%E1%BA%BFn
|
Kinh tuyến
|
Kinh tuyến là một nửa đường tròn trên bề mặt Trái Đất, nối liền hai Địa cực, có độ dài khoảng 20.000 km, chỉ hướng bắc-nam và cắt thẳng góc với đường xích đạo. Mặt phẳng của kinh tuyến 0° (chạy qua đài quan sát thiên văn tại Greenwich thuộc Luân Đôn) và kinh tuyến 180°, chia Trái Đất ra làm hai bán cầu – Bán cầu đông và Bán cầu tây.
Các kinh tuyến nối liền các cực từ là các kinh tuyến từ, những kinh tuyến nối liền các Địa cực thì gọi là các kinh tuyến địa lý, còn các đường kinh tuyến vẽ trên bản đồ – là các kinh tuyến họa đồ. Kinh tuyến này còn được gọi là kinh tuyến địa lý, để phân biệt với kinh tuyến địa từ là giao tuyến giữa bề mặt Trái Đất và mặt phẳng đi qua đường thẳng nối các cực địa từ Bắc và Nam.
Kinh tuyến gốc 0 độ đi qua đài thiên văn Greenwich ở ngoại ô thủ đô Luân Đôn nước Anh. Có 360 kinh tuyến, người ta dựa vào kinh tuyến để chia Trái Đất thành 12 múi giờ.
Xem thêm
Hệ tọa độ địa lý
Vĩ tuyến
Hải lý
Kính lục phân
Sao Bắc cực
Tham khảo
Liên kết ngoài
The Principal Meridian Project (US)
Resources page of the U.S. Department of the Interior, Bureau of Land Management
Khảo sát
Kinh tuyến
|
24609
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thu%E1%BB%99c%20t%C3%ADnh%20Markov
|
Thuộc tính Markov
|
Trong lý thuyết xác suất, một quá trình mang tính ngẫu nhiên có thuộc tính Markov nếu phân bố xác suất có điều kiện của các trạng thái tương lai của quá trình, khi biết trạng thái hiện tại, phụ thuộc chỉ vào trạng thái hiện tại đó, ví dụ. nó là độc lập điều kiện với các trạng thái trong quá khứ (trong đường đi của quá trình) khi biết trạng thái hiện tại. Một quá trình với thuộc tính Markov thường được gọi là quá trình Markov, và có thể được miêu tả là Markovian.
Về mặt toán, nếu X(t), t > 0, là một quá trình ngẫu nhiên, thuộc tính Markov khẳng định rằng
Các quá trình Markov thường được gọi là đồng nhất hay thuần nhất (theo thời gian) nếu
và ngược lại gọi là không đồng nhất (thời gian).
Các quá trình Markov đồng nhất, thường đơn giản hơn các quá trình không đồng nhất, tạo thành lớp quan trọng nhất của các quá trình Markov.
Trong một số trường hợp, một cách rõ ràng các quá trình không phải Markovian có thể vẫn có các dạng biểu diễn Markov, được tạo thành bằng cách mở rộng khái niệm của trạng thái 'hiện tại' và 'tương lai'. Cho X là một quá trình không phải Markovian. Thì chúng ta định ra một quá trình Y, mà mỗi trạng thái của Y biểu diễn một khoảng thời gian của các trạng thái của X, ví dụ: về mặt toán
Nếu Y có thuộc tính Markov, thì nó là một biểu diễn Markovian của X. Trong trường hợp này, X còn được gọi là một quá trình Markov bậc 2. Các quá trình Markov bậc cao được định nghĩa một cách giống nhau.
Một ví dụ của một quá trình không phải Markovian với dạng biểu diễn Markov là moving average time series.
Các quá trình Markov nổi tiếng nhất là các xích Markov, nhưng có nhiều quá trình khác, bao gồm chuyển động Brown, là Markovian.
Xem thêm
Ví dụ về xích Markov
Không có trí nhớ (Memorylessness)
Semi-Markov process
Andrey Markov
Quá trình Markov
Tham khảo
Quá trình ngẫu nhiên
Mô hình Markov
|
24613
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%B9a%20Tr%E1%BA%A5n%20Qu%E1%BB%91c
|
Chùa Trấn Quốc
|
Chùa Trấn Quốc (鎮國寺) nằm trên một hòn đảo phía Đông Hồ Tây (quận Tây Hồ). Chùa có lịch sử gần 1500 năm và được coi là lâu đời nhất ở Thăng Long - Hà Nội. Dưới thời nhà Lý và nhà Trần, chùa Trấn Quốc là trung tâm Phật giáo của kinh thành Thăng Long.
Kiến trúc chùa có sự kết hợp hài hoà giữa tính uy nghiêm, cổ kính với cảnh quan thanh nhã giữa nền tĩnh lặng của một hồ nước mênh mang. Với những giá trị về lịch sử và kiến trúc, chùa Trấn Quốc nổi tiếng là chốn cửa Phật linh thiêng, là điểm thu hút rất nhiều tín đồ Phật tử và khách tham quan, du lịch trong ngoài Việt Nam.
Lịch sử
Theo Từ điển Di tích Văn hóa Việt Nam (Hà Nội, 1993), thì chùa Trấn Quốc nguyên là chùa Khai Quốc, dựng từ thời Tiền Lý (Lý Nam Đế, 541-547), tại thôn Y Hoa, gần bờ sông Hồng. Đến đời Lê Trung Hưng (1615), chùa được dời vào trong đê Yên Phụ, dựng trên nền cũ cung Thúy Hoa (thời nhà Lý) và điện Hàn Nguyên (thời nhà Trần). Trong các năm 1624, 1628 và 1639, chùa tiếp tục được trùng tu, mở rộng. Trạng nguyên Nguyễn Xuân Chính đã soạn bài văn bia dựng ở chùa vào năm 1639 về công việc tôn tạo này. Đầu đời nhà Nguyễn, chùa lại được trùng tu, đúc chuông, đắp tượng. Năm 1821, vua Minh Mạng đến thăm chùa, ban 20 lạng bạc để tu sửa. Năm 1842, vua Thiệu Trị đến thăm chùa, ban 1 đồng tiền vàng lớn và 200 quan tiền, cho đổi tên chùa là Trấn Bắc. Nhưng tên chùa Trấn Quốc có từ đời vua Lê Hy Tông đã được nhân dân quen gọi cho đến ngày nay.
Cảnh quan và kiến trúc
Chùa Trấn Quốc toạ lạc trên một hòn đảo duy nhất của một hồ nước ngọt lớn nhất ở Hà Nội. Vào thời Hai Bà Trưng (40 - 43), khu vực xung quanh Hồ Tây dân cư rất thưa thớt, có các hang động vừa và nhỏ và rừng cây bao phủ, trong rừng còn có cả một số loài thú quý hiếm sinh tồn. Cùng trải qua thời gian hàng nghìn năm tồn tại của ngôi chùa, cảnh quan nơi đây bây giờ được đổi khác hoàn toàn. Bờ hồ có đường lớn bao quanh, những ngôi nhà biệt thự và công trình hiện đại hình thành... Một mặt thể hiện sự hoàn thiện tổng thể kiến trúc của thành phố, nhưng mặt khác vô tình phá vỡ cảnh quan lịch sử và tâm linh trong quan niệm sống của số dân cư bản địa.
Phía trên cửa chùa có ghi ba chữ Phương Tiện môn và câu đối hai bên viết bằng chữ Nôm:
Vang tai xe ngựa qua đường tục/ Mở mặt non sông đứng cửa thiền
Giống hầu hết những ngôi chùa khác ở Việt Nam, kết cấu và nội thất chùa Trấn Quốc có sự sắp xếp trình tự và theo nguyên tắc khắt khe của Phật giáo. Gồm nhiều lớp nhà với ba ngôi chính là Tiền đường, nhà thiêu hương và thượng điện nối thành hình chữ Công (工).
Tiền đường hướng về phía Tây. Hai bên nhà thiêu hương và thượng điện là hai dãy hành lang. Sau thượng điện là gác chuông. Gác chuông chùa là một ngôi ba gian, mái chồng diêm, nằm trên trục sảnh đường chính.
Bên phải là nhà tổ và bên trái là nhà bia. Trong chùa hiện nay đang lưu giữ 14 tấm bia. Trên bia khắc năm 1815 có bài văn của tiến sĩ Phạm Quý Thích ghi lại việc tu sửa lại chùa sau một thời gian dài đổ nát. Công việc này bắt đầu vào năm 1813 và kết thúc vào năm 1815.
Phía sau chùa có một số mộ tháp cổ từ đời Vĩnh Hựu và Cảnh Hưng (thế kỉ 18).
Khuôn viên chùa có Bảo tháp lục độ đài sen được xây dựng năm 1998. Bảo tháp lớn gồm 11 tầng, cao 15m. Mỗi tầng tháp có 6 ô cửa hình vòm, trong mỗi ô đặt một pho tượng Phật A Di Đà bằng đá quý. Đỉnh tháp có đài sen chín tầng (được gọi là Cửu phẩm liên hoa) cũng bằng đá quý. Bảo tháp này được dựng đối xứng với cây bồ đề lớn do Tổng thống Ấn Độ tặng khi ông đến thăm Hà Nội năm 1959. Thượng toạ Thích Thanh Nhã, Uỷ viên Hội đồng trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Trụ trì chùa Trấn Quốc, đã giải thích sự đối xứng đó là: "Hoa sen tượng trưng cho Phật tính chân, như tính sinh ở dưới bùn mà không bị ô uế. Bồ đề là trí giác, trí tuệ vô thượng. Tất cả đều hàm ý nghĩa bản thể và hiện tượng của các pháp".
Chùa được công nhận là Di tích Lịch sử Văn hoá cấp quốc gia vào năm 1989.
Tuy nhiên, do nhiều lần trùng tu, sửa chữa nên kiến trúc chùa đã không khỏi bị pha tạp phong cách kiến trúc của các thời kỳ:
Trong các năm 1624, 1628 và 1639 (thời Chúa Trịnh), chùa được trùng tu, mở rộng.
Trải qua thời Tây Sơn, trong bối cảnh tranh chấp quyền lực cuối thời Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam ngôi chùa bị rơi vào cảnh hoang phế, khi đó cư dân địa phương đã xin được tu sửa lại chùa. Lần trùng tu lớn nhất là vào năm Ất Hợi, niên hiệu Gia Long 14 (trên văn bia Tái tạo Trấn Quốc tự bi do Tiến sĩ khoa 1779 Phạm Lập Trai soạn văn) .
Năm 2010, tu bổ để chào mừng Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội và Hội nghị Thượng đỉnh Phật giáo Thế giới lần thứ 6 tổ chức tại Việt Nam vào tháng 11/2010. Dự toán kinh phí của đợt tu bổ này là 15 tỷ đồng .
Trong văn bia "Tái tạo Trấn Quốc tự bi" do Tiến sĩ khoa Kỷ Hợi năm Cảnh Hưng thứ 40 soạn, đã ca ngợi: ''"Đứng trên cao ngắm cảnh chùa, mây lồng đáy nước, mặt hồ ánh xanh xanh khiến du khách lâng lâng. Tiếng chuông chùa gọi ai tỉnh mộng trần tục..."
Vinh danh
Năm 2016, báo Daily Mail ở Anh xếp chùa vào trong số 16 ngôi chùa đẹp nhất thế giới. Năm 2017, trang web du lịch wanderlust.co.uk xếp vào vị trí thứ ba trong 10 ngôi chùa "đẹp nhất trên toàn thế giới" vì hài hòa với môi trường xung quanh.
Các đời trụ trì
Thiền Sư Vân phong
Tăng Thống Khuông Việt
Quốc Sư Thảo Đường
Thiền Sư Thông Biện
Thiền sư Viên Học
Thiền sư Tịnh Không
Dòng Tào Động
Viên Dung Hòa Thượng, Thiền Sư Tịnh trí Giác Quán (dòng Tào Động), sư thuộc thế hệ thứ 4 chùa Hòe Nhai sang trụ trì chùa Trấn Quốc.
Quảng Tế Thiền Sư húy Hải Ngạn
Trung Nghĩa Hòa Thượng, Bí Hóa Thiền Sư húy Khoan Nhạ
Minh Lãnh Thiền Sư, Phương Trượng Tỷ Kheo, húy Giác Khoan.
Phổ Tế Thiền Sư, Hương Lâm Tháp Thanh Từ Sa Môn, húy Khoan Nhân.
Đạo Sinh Thiền Sư, Tinh Thông Hòa thượng, Thanh Hải tỳ Kheo.
Sinh Tín Thiền Sư, húy Thanh Tuyền.
Thích Dương Dương thiền sư, húy Thanh uyên - Đạo Sùng.
Quang Lư Thiền sư, Hồng Phúc Sa Môn, Thích Đường Đường.
Mẫn Tiệp thiền sư, húy Chính Tiến.
Phúc Hòa Thiền Sư, húy Tâm Lợi, thế danh Đặng Văn Lợi.
Mã Đạo Hòa Thượng, húy Chân Nghĩa.
Dòng Tào Động chùa Cả Nam Định
Hoà Thượng Kim Cương tử (1914 - 2001) hiệu Thúy Đồ Ba Thành Luật Sư, Phó chủ tịch thường trực Hội đồng trị sự TƯ GHPGVN, sư về trụ trì năm 1983, sau khi các sư dòng Tào Động nam tiến từ thập niên 1953
Hoà thượng Thích thanh Nhã, sinh năm 1950,
Các khách thăm đặc biệt
Dưới triều vua Lý Nhân Tông, Thái hậu Ỷ Lan đã nhiều lần đến chùa cùng các vị cao tăng để đàm đạo.
Năm Kỷ Mão (1639) chúa Trịnh Tráng cho sửa và trồng sen quanh chùa, biến nơi thờ cúng thành hành cung riêng của nhà Chúa.
Năm 1821, Vua Minh Mạng đến thăm, ban 20 lạng bạc để tu sửa chùa.
Năm 1842, Vua Thiệu Trị đến thăm chùa, ban 1 đồng tiền vàng lớn và 200 quan tiền để tu sửa chùa.
Ngày 24 tháng 3 năm 1959, Tổng thống Ấn Độ Rajendra Prasad đến thăm chùa và tặng cây bồ đề trồng trước cửa tòa Tam bảo .
Ngày 28 tháng 11 năm 2008, Tổng thống Ấn Độ Pratibha Patil đến thắp hương và tham quan nhân dịp trong chuyến công du Việt Nam .
Ngày 31 tháng 10 năm 2010, Tổng thống LB Nga Dmitry Medvedev đến tham quan trong dịp đến Hà Nội dự Hội nghị Cấp cao không thường niên ASEAN - LB Nga lần thứ hai .
Hình ảnh chùa Trấn Quốc
Xem thêm
Danh sách chùa Hà Nội
Phật giáo Việt Nam
Phật giáo Tiểu thừa
Phật giáo Đại thừa
Chú thích
Liên kết ngoài
Chùa Trấn Quốc, danh thắng chốn kinh kỳ Chính Tâm, Ban Tôn giáo Chính phủ
Trấn Quốc
Tây Hồ (quận)
|
24615
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%C6%B0ng%20H%C3%A0
|
Hưng Hà
|
Hưng Hà là một huyện nằm ở phía tây bắc tỉnh Thái Bình, Việt Nam.
Vị trí địa lý
Huyện Hưng Hà nằm ở phía tây bắc của tỉnh Thái Bình, nằm cách thành phố Thái Bình khoảng 28 km về phía tây bắc, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 82 km về phía đông nam, cách trung tâm thành phố Hải Phòng khoảng 67 km về phía đông bắc, có vị trí địa lý:
Phía đông giáp huyện Đông Hưng và huyện Quỳnh Phụ
Phía tây giáp huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam và thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên
Phía nam giáp huyện Vũ Thư
Phía bắc giáp huyện Tiên Lữ và huyện Phù Cừ thuộc tỉnh Hưng Yên.
Hưng Hà có ba mặt giáp sông Hồng (phía tây) cùng hai phân lưu của nó là sông Luộc (phía bắc) và sông Trà Lý (phía nam). Xã Tân Lễ là cực Tây của cả huyện lẫn tỉnh Thái Bình, nằm tại ngã ba sông giữa sông Hồng và sông Luộc. Cực Nam của huyện là xã Hồng Minh, nằm tại ngã ba sông Hồng và sông Trà Lý (tên cổ là cửa Tuần Vườn). Cực Đông là xã Bắc Sơn, nằm tại ngã ba ranh giới với hai huyện Quỳnh Phụ và Đông Hưng. Cực bắc là thôn Ngũ Đông, xã Điệp Nông hữu ngạn sông Luộc. Sông Tiên Hưng lấy nước sông Luộc tại cống Nhâm Lang, xã Tân Tiến chảy qua giữa huyện theo hướng Tây Bắc - Đông Nam hòa vào sông Diêm Hộ. Ngoài ra huyện có một mạng lưới các con sông nhỏ, kênh rạch nhỏ, nối thông với các sông Hồng, Luộc, Trà Lý.
Địa hình, địa mạo
Huyện Hưng Hà thuộc vùng châu thổ sông Hồng, địa hình tương đối bằng phẳng với độ dốc nhỏ hơn 1% (trên 1 km), cao trình biến thiên từ 1 - 2m so với mặt nước biển. Nhìn chung, địa bàn huyện có độ cao bình quân lớn nhất tỉnh, hướng đất thấp dần từ Bắc xuống Nam. Đất Hưng Hà thuộc khu vực phía Bắc sông Trà Lý được hình thành sớm và chịu ảnh hưởng của phù sa sông Hồng và sông Luộc nên là vùng đất tương đối cao hơn, độ cao trung bình từ 1,3 - 3,5 m so với mực nước biển (ở khu vực trong đê).
Khí hậu
Huyện Hưng Hà nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa nóng ẩm, và có sự ảnh hưởng của biển. Đặc điểm khí hậu thời tiết của huyện như sau:
Nhiệt độ: Nhiệt độ trung bình năm từ 23,5 °C, cao nhất là 39 °C, nhiệt độ thấp nhất là 4 °C.
Chế độ mưa: Lượng mưa trung bình năm xấp xỉ 2.000mm, biên độ giao động 1.200 - 3.000mm, phân bố theo mùa rõ rệt: mùa mưa kéo dài 6 tháng (tháng 5 đến tháng 10).
Độ ẩm không khí: Độ ẩm tương đối trung bình hàng năm thường trên 80%, mùa mưa độ ẩm cao có thể đạt tới mức bão hòa.
Nắng: Tổng số giờ nắng trung bình trong năm khoảng 1.600 - 1650 giờ.
Gió: Hướng gió thịnh hành mùa đông là gió Đông Bắc từ tháng 11 đến tháng 4; về mùa hạ gió Đông Nam thổi tháng 5 đến tháng 9, trong đó giai đoạn đầu mùa hạ (tháng 5 đến tháng 7) thường xuất hiện xen kẽ với những đợt gió Tây khô nóng. Tốc độ gió trung bình năm là 3,9 m/s, trung bình tháng lớn nhất là 4,9 m/s, trung bình tháng nhỏ nhất là 3,1 m/s.
Thủy văn
Huyện Hưng Hà chịu ảnh hưởng chủ yếu của các sông là sông Hồng, sông Luộc và sông Trà Lý.
Sông Hồng chảy ven theo địa giới hành chính các xã Tân Lễ, TT Hưng Nhân, Tiến Đức, Hồng An, Minh Tân, Độc Lập, Hồng Minh; với chiều dài khoảng 14 km. Vào mùa mưa từ tháng 6 đến tháng 10 mực nước sông lên nhanh và cao hơn mặt ruộng từ 2 - 5m. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 5 năm sau mực nước sông xuống thấp hơn mặt ruộng từ 2 - 3m. Sông Hồng đóng vai trò rất quan trọng trong việc cung cấp nước sinh hoạt và sản xuất, đồng thời cũng cung cấp lượng phù sa không nhỏ phục vụ việc cải tạo đồng ruộng.
Sông Luộc là một nhánh của sông Hồng chảy qua địa bàn huyện bắt đầu từ xã Tân Lễ đến xã Điệp Nông qua địa phận các xã: Tân Lễ, Canh Tân, Cộng Hòa, Hòa Tiến, Tân Tiến, Điệp Nông có chiều dài 21 km. Lưu lượng dòng chảy phụ thuộc vào lượng mưa hàng năm. Sông Luộc cũng góp phần tích cực vào việc tưới, tiêu và bồi đắp phù sa cho đồng ruộng.
Sông Trà Lý là một nhánh của sông Hồng chảy qua địa bàn huyện bắt đầu từ xã Hồng Minh đến xã Chí Hòa (qua địa phận 2 xã: Hồng Minh, Chí Hòa); có chiều dài 4,5 km. Lưu lượng dòng chảy phụ thuộc vào lượng mưa hàng năm.
Tài nguyên đất
Theo kết quả điều tra thổ nhưỡng, đất đai huyện Hưng Hà được chia làm 3 nhóm chính:
Nhóm đất phù sa, diện tích 11.440,37 ha chiếm 93% diện tích đất điều tra. Là nhóm đất có thành phần cơ giới từ thịt nhẹ đến thịt nặng, với khả năng hấp thu các chất hữu cơ khá cao.
Nhóm đất cát, diện tích 723.58 ha, khả năng giữ nước kém, nghèo chất dinh dưỡng.
Nhóm đất phèn, diện tích 66,45 ha nằm xen kẽ rải rác ở các xã.
Ngoài ra còn có nguồn đất sét, nguồn tài nguyên cát lòng sông rất phong phú để phục vụ sản xuất, khai thác vật liệu xây dựng.
Tài nguyên nước
Nước mặt: Bao gồm nước mưa và nước trong hệ thống sông ngòi, ao, hồ, trên địa bàn nhưng chủ yếu là nguồn nước sông Hồng, sông Luộc, sông Trà Lý,... Nhìn chung nguồn nước mặt khá phong phú, đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế và sinh hoạt của nhân dân trong giai đoạn phát triển. Tuy nhiên, nguồn nước mặt ở Hưng Hà đang bị ô nhiễm.
Nước ngầm: Theo tư liệu dự án Quy hoạch nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn Thái Bình đến năm 2020 cho biết nguồn nước ngầm ở Hưng Hà có 2 tầng
đặc trưng:
Tầng chứa nước Thái Bình: Đây là tầng phát triển không đồng đều, rất mỏng ở phía Bắc với chiều dày tầng chứa nước lớn nhất đạt tới 25 m, trung bình 5 – 10 m và lưu lượng từ 0,1 - 0,7 l/s, mực nước giao động từ 1 - 2m.
Tầng chứa nước Hải Hưng được ngăn cách với tầng chứa nước Thái Bình bởi lớp sét, có chiều sâu gặp từ 2 - 40m, chiều dày phát triển không đều. Tầng được tạo bởi nhiều nguồn gốc trầm tích Sông - Biển; Biển - Đầm lầy, đất đá chủ yếu là sét, bột cát, bột - sét lẫn cát, nhiều vỏ sò sinh vật biển. Tầng có lưu lượng từ 0,025 - 0,59 l/s, mực nước giao động từ 0,5 - 1m.
Nguồn nước nóng ở xã Duyên Hải: Theo tư liệu của Bộ môn Sinh hóa Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội cho biết tại vùng đất xã Duyên Hải ở độ sâu 50m có nguồn nước nóng 50 °C; ở độ sâu 178m có nguồn nước nóng 72 °C. Tuy trữ lượng chưa được xác định nhưng 6 năm gần đây chính quyền xã Duyên Hải đã đưa vào quản lý giao cho tư nhân khai thác bằng máy khoan bơm điện, bể chứa xử lývới mục đích cung cấp nước nóng phục vụ ngành thủy sản nuôi giữ cá bố mẹ qua
đông và đẻ sớm, đã góp phần cung cấp lượng cá giống cho khu vực.
Lịch sử
Huyện Hưng Hà được thành lập ngày 17 tháng 6 năm 1969 trên cơ sở hợp nhất 2 huyện: Duyên Hà, Hưng Nhân và 5 xã: Bắc Sơn, Đông Đô, Tây Đô, Hòa Bình, Chi Lăng của huyện Tiên Hưng cũ.
Trước khi hợp nhất, huyện Hưng Nhân có 28 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 28 xã: Canh Tân, Cấp Tiến, Chí Hòa, Cộng Hòa, Độc Lập, Hiệp Hòa, Hoàng Đức, Hồng An, Hồng Hà, Hồng Lĩnh, Hồng Phong, Kim Trung, Lam Sơn, Liên Hiệp, Minh Hòa, Minh Hồng, Minh Khai, Minh Tân, Phạm Lễ, Phúc Khánh, Tân Mỹ, Tân Sơn, Tân Tiến, Tân Việt, Thái Hưng, Thái Thịnh, Tiến Dũng, Trần Phú, Văn Lang. Huyện Duyên Hà có 10 xã: An Đình, An Đồng, Dân Chủ, Đoan Hùng, Duyên Hải, Hùng Dũng, Tam Điệp, Tam Nông, Thống Nhất và Văn Cẩm.
Sau khi hợp nhất 2 huyện nói trên và sáp nhập 5 xã của huyện Tiên Hưng cũ về huyện Hưng Hà mới thành lập để quản lý, ban đầu, huyện Hưng Hà có 43 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 43 xã: An Đình, An Đồng, Bắc Sơn, Canh Tân, Cấp Tiến, Chí Hòa, Chi Lăng, Cộng Hòa, Dân Chủ, Đoan Hùng, Độc Lập, Đông Đô, Duyên Hải, Hiệp Hòa, Hòa Bình, Hoàng Đức, Hồng Hà, Hồng Lĩnh, Hồng Phong, Hùng Dũng, Kim Trung, Lam Sơn, Liên Hiệp, Minh Hòa, Minh Hồng, Minh Khai, Minh Tân, Phạm Lễ, Phúc Khánh, Tam Điệp, Tam Nông, Tân Mỹ, Tân Sơn, Tân Tiến, Tân Việt, Tây Đô, Thái Hưng, Thái Thịnh, Thống Nhất, Tiến Dũng, Trần Phú, Văn Cẩm và Văn Lang.
Ngày 18 tháng 12 năm 1976, sáp nhập xã An Đình vào xã Thống Nhất.
Ngày 23 tháng 2 năm 1977, Phủ Thủ tướng ban hành Quyết định số 618-VP18.Theo đó:
Hợp nhất 2 xã: Minh Hồng và Hồng Phong thành xã Hồng Minh.
Hợp nhất 2 xã: Tiến Dũng và Hoàng Đức thành xã Tiến Đức.
Hợp nhất 2 xã: Phạm Lễ và Tân Mỹ thành xã Tân Lễ.
Hợp nhất 2 xã: Tam Điệp và Tam Nông thành xã Điệp Nông.
Hợp nhất 2 xã: Lam Sơn và Trần Phú thành xã Phú Sơn.
Hợp nhất 2 xã: Hòa Bình và Chi Lăng thành xã Bình Lăng.
Hợp nhất 2 xã: Tân Việt (gồm 3 thôn: Điềm, Gạo, Hà) và Hồng Hà thành xã Hồng An.
Hợp nhất 2 xã: Tân Việt (phần còn lại của thôn Phương La) và Thái Thịnh thành xã Thái Phương.
Hợp nhất 2 xã: Hiệp Hòa (gồm 4 thôn: Bùi Tịp, Nguộn, Tư Nam, Phú Lâm) và Cấp Tiến thành xã Hòa Tiến.
Hợp nhất 2 xã: Hiệp Hòa (phần còn lại của 2 thôn: Lương và Me) và Tân Sơn thành xã Tân Hòa.
Lúc này, 2 xã: Hiệp Hòa và Tân Việt bị giải thể.
Ngày 21 tháng 6 năm 1989, thành lập thị trấn Hưng Hà-thị trấn huyện lỵ của huyện Hưng Hà trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của xã An Đồng.
Ngày 16 tháng 5 năm 2005, thành lập thị trấn Hưng Nhân trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của xã Phú Sơn, chia lại xã Bình Lăng thành 2 xã: Hòa Bình và Chi Lăng.
Huyện Hưng Hà có 2 thị trấn và 33 xã như hiện nay.
Hành chính
Huyện Hưng Hà có 35 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 2 thị trấn: Hưng Hà (huyện lỵ), Hưng Nhân và 33 xã: Bắc Sơn, Canh Tân, Chí Hòa, Chi Lăng, Cộng Hòa, Dân Chủ, Điệp Nông, Đoan Hùng, Độc Lập, Đông Đô, Duyên Hải, Hòa Bình, Hòa Tiến, Hồng An, Hồng Lĩnh, Hồng Minh, Hùng Dũng, Kim Trung, Liên Hiệp, Minh Hòa, Minh Khai, Minh Tân, Phúc Khánh, Tân Hòa, Tân Lễ, Tân Tiến, Tây Đô, Thái Hưng, Thái Phương, Thống Nhất, Tiến Đức, Văn Cẩm, Văn Lang.
Kinh tế - xã hội
Kinh tế ổn định và tăng trưởng khá. Tổng giá trị sản xuất (giá cố định năm 2010) ước đạt 20329,4 tỷ đồng, đạt 101,58% kế hoạch năm, tăng 10,15% so với cùng kỳ năm 2019; Tốc độ tăng trưởng dự kiến đạt 12,22%; Trong đó: Nông, lâm nghiệp, thủy sản ước đạt 3.699,6 tỷ đồng, đạt 99,96% kế hoạch năm, tăng 1,46% so với cùng kỳ; công nghiệp – TTCN và xây dựng ước đạt 13.302,1 tỷ đồng, đạt 103,5% kế hoạch năm, tăng 15,7% so với cùng kỳ; thương mại, dịch vụ ước đạt 3.537 tỷ đồng, đạt 100,07% kế hoạch năm, tăng 7,64% so với cùng kỳ.
Cơ cấu kinh tế: Nông, lâm nghiệp, thủy sản: 19,4%; công nghiệp và xây dựng: 61,9%; thương mại, dịch vụ: 18,7%.
Nông nghiệp
Sản xuất nông nghiệp, thủy sản đạt kết quả khá. Giá trị sản xuất ước đạt 3.699,6 tỷđồng, tăng 1,58% so với 2019. Tổng diện tích gieo trồng lúa cả năm đạt 19.269 ha, giảm 250,47 ha so với năm 2019. Sản xuất lúa xuân, lúa mùa được chỉ đạo quyết liệt, chặt chẽ; cơ cấu giống lúa và phương thức gieo cấy tiếp tục chuyển dịch tích cực; huyện đã ban hành kịp thời cơ chế hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp; công tác phòng trừ sâu bệnh, chăm sóc bảo vệ lúa được chỉ đạo thực hiện có hiệu quả. Do vậy sản
xuất lúa năm 2019 thắng lợi, năng suất ước đạt 132,45 tạ/ha. Giá trị sản xuất ngành trồng trọt ước đạt 1.582,8 tỷ đồng tăng 2,21% so với năm 2018. Sản xuất vụ đông đạt kết quả tích cực, có sự chuyển biến mạnh mẽ sang sản xuất hàng hóa, mở rộng diện tích cây trồng có giá trị kinh tế cao, có hợp đồng bao tiêu sản phẩm (ngô ngọt, dưa chuột xuất khẩu, bí củ lạc, bắp cải tím,...) diện tích cây màu vụ đông đạt 6.101,23 ha.
Cây màu vụ xuân, vụ hè và hè thu sinh trưởng và phát triển tốt, diện tích gieo trồng đạt 4390 ha.
Chăn nuôi: Giá trị ngành chăn nuôi ước đạt 625,242 tỷ đồng, đạt 98,45% kế hoạch năm, tăng 2,45% so với cùng kỳ 2019. Không phát sinh dịch bệnh, không để tái bùng phát dịch tả lợn Châu Phi; tình hình chăn nuôi có xu hướng phát triển trở lại theo hướng phát triển chăn nuôi gia trại, trang trại gắn với an toàn sinh học.
Nuôi trồng thủy sản được duy trì phát triển. Giá trị sản xuất ước đạt 209,2 tỷ đồng, đạt 98,45% kế hoạch năm, tăng 3,43% so với cùng kỳ. Vùng nuôi trồng thủy sản tập trung tại xã Độc Lập và xã Tân Lễ; Người chăn nuôi được quan tâm và đầu tư theo
hướng thâm canh, bán thâm canh cho hiệu quả kinh tế cao; Công tác cải tạo ao, đầm được quan tâm; Phong trào nuôi cá lồng trên sông tiếp tục được phát triển; Toàn huyện hiện có 154 lồng cá tại 5 xã (Hồng An; Điệp Nông; Độc Lập; Tân lễ, TT. Hưng Nhân), tăng 13 lồng so với năm 2019.
Làng nghề
Là một huyện nằm trong một tỉnh bốn bề là sông chia cắt nhưng Hưng Hà lại có rất nhiều làng nghề nổi tiếng và là huyện có nhiều làng nghề của tỉnh Thái Bình. Chính vì có nhiều làng nghề nên Hưng Hà được coi là huyện khá giả nhất nhì của tỉnh:
Nghề dệt chiếu ở làng Hới (xã Tân Lễ)
Nghề dệt vải ở làng Mẹo (Thái Phương)
Nghề làm mộc ở làng Diệc (Tân Hòa)
Nghề đan mành ở làng Tây Xuyên (thị trấn Hưng Nhân)
Nghề mây tre đan ở làng Mải (xã Tây Đô)
Nghề dệt ở Tiền Phong (Hưng Nhân)
Nghề làm hương ở làng Văn Quan (Duyên Hải)
Nghề làm mì bánh đa ở làng Me (Tân Hòa)
Nghề làm đậu phụ làng Kênh (Tây Đô)
Nghề làm bún bánh ở Việt Yên (Điệp Nông)
Nghề trồng dâu nuôi tằm ở Hồng An
Nghề mộc ở làng Vế (Canh Tân)
Một số có nghề mộc ở Liên Hiệp.
Công nghiệp
Sản xuất công nghiệp - TTCN giảm mạnh do ảnh hưởng của dịch Covid 19, giá trị sản xuất ước đạt 3.785 tỷ đồng, đạt 36,9% kế hoạch năm, tăng 1,84% so với cùng kỳ năm 2019. Năm 2019; Một số lĩnh vực phát triển khá như sản xuất nước sạch; chếbiến lương thực thực phẩm; chế biến đồ nhựa. Đến nay toàn huyện có 6 cụm công nghiệp đã quy hoạch chi tiết, với tổng diện tích đất quy hoạch 229,7 ha, có 01 CCN đang lập quy hoạch (CCN Đức Hiệp 70ha); Tổ chức cắm mốc ngoại thực địa cụm công nghiệp Hưng Nhân (Phần mở rộng); hoàn thiện hồ sơ, cắm mốc CCN Hưng
Nhân, CCN Đồng Tu I,...
Công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch được chỉ đạo và tổ chức thực hiện nghiêm túc, nề nếp. Phê duyệt điều chỉnh tổng thể quy hoạch chung xây dựng nông thôn mới xã Minh Tân, Liên Hiệp giai đoạn 2020 – 2030; quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/500 khu trung tâm xã Thái Phương, hoàn thiện hồ sơ điều chỉnh quy hoạch chung 2 thị trấn, tiếp nhận hồ sơ dự án sân golf. Giá trị ngành xây dựng ước đạt 2.400 tỷ đồng, đạt 99,65% kế hoạch năm, tăng 10,68% so cùng kỳ 2019.
Dịch vụ
Các hoạt động thương mại, dịch vụ phát triển, đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống của nhân dân; từng bước phát huy tiềm năng, lợi thế của huyện. Giá trị sản xuất thương mại, dịch vụ bình quân ước đạt 2.889,9 tỷ đồng/năm, tăng 7,43%/năm. Hạ tầng thương mại được đầu tư phát triển. Mạng lưới thương mại rộng khắp, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển. Các thương hiệu sản phẩm hàng hoá truyền thống được chú trọng. Các loại hình dịch vụ vận tải, bưu chính viễn thông, tín dụng, ngân hàng phát triển nhanh và hoạt động hiệu quả. Công tác xúc tiến thương mại; xây dựng các thương hiệu sản phẩm hàng hoá truyền thống được quan tâm chỉ đạo thường xuyên. Hoạt động du lịch gắn với lễ hội, di tích có bước phát triển.
Giáo dục - đào tạo
Năm 2019, toàn huyện đã có 149 cơ sở giáo dục với 53.985 học sinh, có 21/36 trường mầm non, 38/38 trường tiểu học, 30/34 trường THCS và 02 trường THPT đạt chuẩn quốc gia. Có 100% cán bộ, giáo viên đạt trình độ chuẩn. Chất lượng giáo dục ngày càng được nâng cao, chất lượng học sinh giỏi có chuyển biến tích cực.
Y tế
Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân được quan tâm đúng mức. Công tác y tế dự phòng có nhiều cố gắng trong giám sát và quản lý tốt dịch bệnh; Bệnh viện tuyến huyện đã khám chữa bệnh kịp thời cho nhân dân. Mạng lưới y tế cơ sở xã, thôn không ngừng được củng cố; các chương trình y tế quốc gia triển khai có hiệu quả.
Dân số
Dân số của huyện Hưng Hà là 290.750 người (2015), trong đó dân số trong độ tuổi lao động là 149.587 người.
Huyện Hưng Hà có diện tích là 200,42 km², dân số năm 2019 là 253.272 người. Trong đó, dân số thành thị là 23.270 người, dân số nông thôn là 230.000 người, mật độ dân số đạt 1.264 người/km².
Huyện Hưng Hà có diện tích là 210,28 km², dân số năm 2020 là 253.849 người, mật độ dân số đạt 1.207 người/km².
Văn hóa
Văn hóa tên làng
Đây là vùng đất còn nhiều nét cổ, mỗi làng đều có một hay nhiều tên gọi khác nhau, liên quan mật thiết đến phong tục, tập quán, lối sống, tín ngưỡng, sở thích của cả cộng đồng. Làng đều có tên Nôm và tên Hán Việt (tên chữ) kèm theo. Tên Nôm có thể có trước, còn tên Hán Việt thường có sau, khi chữ Hán và văn hoá Hán có quá trình giao thoa sâu hơn với văn hoá Việt. Trong đó, tên Nôm có kết cấu 1 tiếng, 1 chữ còn tên Hán Việt có kết cấu 2 tiếng, 2 chữ. Ví dụ làng Diệc tên Hán Việt là Mĩ giặc, nhưng cả hai nghĩa đều là ĐẸP.
Nghệ thuật: Nét đẹp nghề làm chiếu
Từ xa xưa nghề làm chiếu có nguồn gốc từ Trung Quốc do tiến sỹ Phạm Đôn Lễ làm quan thời Lê Thánh Tông (1460 - 1497), người gốc làng Hải Triều (Hới) thuộc huyện Hưng Hà ngày nay. Ông đi sứ sang Trung Quốc và đã học được nghề ở vùng Ngọc Hồ, nay thuộc tỉnh Quảng Tây. Sau khi trở về Phạm Đôn Lễ đã truyền nghề cho dân làng Hới.
Trải qua nhiều thế kỷ cho tới ngày nay, nghề làm chiếu đã phát triển rộng khắp đến nhiều nơi cả về quy mô, chất lượng và chủng loại sản phẩm như: chiếu cải, chiếu đậu, chiếu đót, chiếu trơn, chiếu cạp điều, chiếu trải giường, xa lông... với nhiều họa tiết in, trang trí.
Người Việt Nam từ xa xưa đến nay đều dùng chiếu để trải giường, bởi giường trải chiếu mát về mùa hạ còn mùa đông lại ấm áp giặt cũng mau khô với cũng rất vệ sinh.
Ngày nay nhiều vùng có nghề dệt chiếu nổi tiếng như ở phía nam Hải Phòng, Kim Sơn (Ninh Bình), Nga Sơn (Thanh Hóa)... Trong đó chiếu làng Hới vẫn nổi tiếng được ca ngợi bằng câu thành ngữ:
Ăn cơm Hom, nằm giường Hòm, đắp chiếu Hới.
Giao thông
Giao thông đường bộ
Quốc lộ 39 chạy qua với tổng chiều dài 19,5 km, đi qua Triều Dương nối với Hưng Yên. Hiện trạng đường thuộc đường cấp IV, V. Hiện tuyến đường này đã cơ bản được mở rộng, cải tạo. Quốc lộ 39 chạy từ thành phố Hưng Yên, qua cầu Triều Dương bắc qua sông Luộc, vào địa bàn huyện rồi chạy xuyên qua giữa huyện sang huyện Đông Hưng. Từ cầu Triều Dương đi khoảng 40 km nữa chúng ta sẽ tới TP Thái Bình.
Tuyến đường BOT nối Thái Bình – Hà Nam (bao gồm cầu Thái Hà qua khu vực xã Tiến Đức) hoàn thiện và đưa vào sử dụng năm 2017, dài gần 20 km.
Đường tỉnh: Có 4 tuyến với tổng chiều dài 44,1 km, bao gồm tỉnh lộ 452, 453, 454, 455. Các tuyến tỉnh lộ thuộc đường cấp IV và V. Các tuyến tỉnh lộ:
Tỉnh lộ 452: nối huyện Vũ Thư với huyện Quỳnh Phụ qua các xã Dân Chủ, Hùng Dũng, Đoan Hùng... đến xã Chí Hòa.
Tỉnh lộ 453: nối thị trấn Hưng Nhân với tỉnh lộ 452 tại Chí Hòa.
Tỉnh lộ 454: nối thị trấn Hưng Hà với huyện Vũ Thư đi qua Minh Khai, Văn Lăng, Minh Hòa, Hồng Minh.
Tỉnh lộ 455: đi qua Tây Đô, Đông Đô, Bắc Sơn.
Đường huyện: Có 22 tuyến với tổng chiều dài 79,5 km, do huyện quản lý. Các tuyến đường thuộc đường cấp IV và V.
Hệ thống đường xã: có tổng chiều dài 234,7 km.
Hệ thống đường thôn xóm: có tổng chiều dài 59 km.
Giao thông đường thủy
Mạng lưới giao thông đường thủy trong huyện gồm
có: 3 tuyến sông lớn: Sông Hồng, sông Luộc, sông Trà Lý có tổng chiều dài là 40,1 km. Sông do tỉnh quản lý có 9 tuyến với tổng chiều dài 96,4 km (sông Tiên Hưng 16,5 km, sông Sa Lung 12,4 km, sông Việt Yên 5 km, sông Đô Kỳ 10 km, sông Đào Thành 4,1 km, sông Lão Khê 5,1 km, sông 224, 223 và sông Tà Sa).
Hệ thống bến cảng trên các tuyến sông có 11 bến cảng, hầu hết các bến cảng này đều có quy mô nhỏ, tự phát chưa có quy hoạch. Lượng tàu thuyền đi lại tương đối lớn, chủ yếu là vận chuyển hàng hóa.
Danh nhân
Hưng Hà là một trong những quê hương của các vua nhà Trần, nhà bác học Lê Quý Đôn, là thủ đô kháng chiến của triều đình nhà Trần, trong các cuộc cuộc kháng chiến chống Nguyên. Ngoài ra còn có các danh nhân như Nguyễn Thị Lộ, Phạm Đôn Lễ, Phạm Kính Ân,...
Tham khảo
|
24618
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BB%B1c
|
Cực
|
Cực là một nơi, mà trong một khía cạnh nào đấy, nó mang những đặc tính quá thái tột đỉnh (cực đoan).
Cực cũng có thể là:
Khoa học
Thiên văn học
Thiên cực, bao gồm thiên cực bắc và thiên cực nam
Sao cực, một ngôi sao có thể nhìn thấy được gần như thẳng hàng với trục quay của một thiên thể
Sao Bắc Cực, ngôi sao nằm gần thiên cực trên thiên cầu bắc
Sao Nam Cực, ngôi sao nằm gần thiên cực trên thiên cầu nam
Địa lý
Địa cực, các khu vực của Trái Đất bao quanh các cực địa lý của nó (cực Bắc và Nam)
Cực địa từ
Cực bất khả tiếp cận, các điểm nằm trên bề mặt Trái Đất với vị trí đặc biệt rất khó chinh phục
Cực lạnh giá
Bắc Cực, còn gọi là cực Bắc
Nam Cực, còn gọi là cực Nam
Vật lý
Điện cực
Từ cực
Toán học
Cực hàm giải tích
|
24619
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C6%B0%E1%BB%9Dng%20tr%C3%B2n%20%C4%91%C6%A1n%20v%E1%BB%8B
|
Đường tròn đơn vị
|
Trong toán học, đường tròn đơn vị hay vòng tròn đơn vị là đường tròn với bán kính là 1 đơn vị. Thông thường, đặc biệt là trong lượng giác, vòng tròn đơn vị là hình tròn có bán kính 1 với tâm tại gốc tọa độ (0,0) trong không gian 2 chiều. Nó thường được ký hiệu là S1.
Phương trình định nghĩa đường tròn đơn vị
Có nhiều cách định nghĩa đường tròn đơn vị.
Trên mặt phẳng R2, đường tròn đơn vị có thể định nghĩa bằng một trong những phương trình sau:
V.v...
Trên mặt phẳng phức C, đường tròn đơn vị có thể định nghĩa bằng phương trình:
Dĩa đơn vị
Dĩa đơn vị là phần mặt phẳng bên trong (tức là bên có chứa gốc tọa độ) đường tròn đơn vị. Nói cách khác, trên mặt phẳng thực:
V.v.
Trên mặt phẳng phức C:
Đường tròn đơn vị trong lượng giác
Đường tròn đơn vị có vị trí đặc biệt trong lượng giác vì từ đó có thể tính được tất cả các hàm lượng giác.
Nếu A là một điểm trên đường tròn đơn vị, là góc giữa trục và đường OA (trong hình) thì:
= giá trị điểm A chiếu xuống trục , là đoạn OC trong hình.
= giá trị điểm A chiếu xuống trục , là đoạn AC trong hình.
= chiều dài đường tiếp tuyến từ A kéo tới trục , là đoạn AE trong hình.
= chiều dài đường tiếp tuyến từ A kéo tới trục , là đoạn AF trong hình.
(secant) = chiều dài từ tâm theo trục tới đường tan, là đoạn OE trong hình.
(cosecant) = chiều dài từ tâm theo trục tới đường cotan, là đoạn OF trong hình.
Có hai hàm lượng giác ít dùng nhưng rất dễ thấy trong đường tròn đơn vị, là và .
Hàm tức versed sine là đoạn còn lại trên trục từ sau điểm tới hết đường bán kính.
Còn hàm tức coversed sine hay coversin tương đương như vậy, trên trục : Đoạn còn lại trên trục từ sau điểm tới hết đường bán kính.
Hai hàm này có phần hữu dụng như sau:
Đường cycloid
Lấy một đường tròn bán kính = 1, đặt nó lên trục . Lấy một điểm A cố định trên đường tròn đó. Khi đường tròn lăn (không trượt) trên trục , điểm A quay/lăn theo và sẽ vẽ một hình cung, mang tên đường cycloid.
Nếu thay vì lấy một điểm trên đường tròn mà lấy một điểm bên trong đường tròn, sẽ được đường gọi tên là curtate cycloid.
Năm 1658 Christopher Wren chứng minh rằng nếu đường tròn có đường kính thì một chu kỳ đường cycloid có chiều dài .
Xem thêm
Hình tròn
trục sin
trục cosin
trục tang
trục cotang
Chú thích
Tham khảo
Lượng giác
Mặt cắt hình nón
Hình học giải tích
|
24622
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C6%A1n%20v%E1%BB%8B%20%E1%BA%A3o
|
Đơn vị ảo
|
Trong giải tích phức, đơn vị ảo, thường viết tắt là i (hay thỉnh thoảng là j hoặc chữ cái Hy Lạp iota), là căn bậc hai của −1.
Nó cho phép mở rộng các số thực , thành các số phức . Số này có nhiều định nghĩa, phụ thuộc vào cách mở rộng từ trường số thực ra số phức.
Trong lịch sử toán học, mục tiêu gây dựng số phức là vì có nhiều phương trình đa thức không có nghiệm là số thực. Ví dụ , vì nếu chúng ta trừ cả hai vế với 1 thì ta sẽ có: .Điều này là không thể, vì một số âm không có căn bậc hai. Nếu đặt một loại số mới là nghiệm của phương trình trên, thì tất cả các phương trình đa thức đều sẽ có nghiệm.
Vậy muốn tìm căn bậc hai của một số thực bất kì, ta nhân căn bậc hai của số đối của nó với :
Ví dụ:
Xem thêm
Số ảo
Số thực
Số phức
Mặt phẳng phức
Định lý cơ bản của đại số
Tham khảo
Liên kết ngoài
Đơn vị ảo tại MathWorld.
Giải tích phức
Số nổi tiếng
Số đại số
Số phức
|
24623
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%B3ng%20th%E1%BB%A9c%20l%C6%B0%E1%BB%A3ng%20gi%C3%A1c
|
Đẳng thức lượng giác
|
Trong toán học, các đẳng thức lượng giác là các phương trình chứa các hàm lượng giác, đúng với một dải lớn các giá trị của biến số.
Các đẳng thức này hữu ích cho việc rút gọn các biểu thức chứa hàm lượng giác. Ví dụ trong việc tính tích phân với các hàm không phải là lượng giác: có thể thay chúng bằng các hàm lượng giác và dùng các đẳng thức lượng giác để đơn giản hóa phép tính.
Định nghĩa
Tuần hoàn, đối xứng và tịnh tiến
Các đẳng thức sau có thể dễ thấy trên vòng tròn đơn vị:
Đẳng thức sau cũng đôi khi hữu ích:
với
Đẳng thức Pytago
Các đẳng thức sau dựa vào định lý Pytago.
Đẳng thức thứ 2 và 3 có thể suy ra từ đẳng thức đầu bởi chia nó cho cos²(x) và sin²(x).
Công thức cộng trừ lượng giác
Xem thêm Định lý Ptolemy
Cách chứng minh nhanh các công thức này là dùng công thức Euler.
với
và
Công thức góc bội
Bội hai
Các công thức sau có thể suy ra từ các công thức trên. Cũng có thể dùng công thức de Moivre với n = 2.
Công thức góc kép có thể dùng để tìm bộ ba Pytago. Nếu (a, b, c) là bộ ba Pytago thì (a2 − b2, 2ab, c2) cũng vậy.
Bội ba
Cơ bản
Ví dụ của trường hợp n = 3:
Nâng cao
Công thức hạ bậc
Giải các phương trình ở công thức bội cho cos2(x) và sin2(x), thu được:
Công thức góc chia đôi
Thay x/2 cho x trong công thức trên, rồi giải phương trình cho cos(x/2) và sin(x/2) để thu được:
Dẫn đến:
Nhân với mẫu số và tử số 1 + cos x, rồi dùng định lý Pytago để đơn giản hóa:
Tương tự, lại nhân với mẫu số và tử số của phương trình (1) bởi 1 − cos x, rồi đơn giản hóa:
Suy ra:
Nếu
thì:
Phương pháp dùng t thay thế như trên hữu ích trong giải tích để chuyển các tỷ lệ thức chứa sin(x) và cos(x) thành hàm của t. Cách này giúp tính đạo hàm của biểu thức dễ dàng.
Biến tích thành tổng
Dùng công thức tổng và hiệu góc bên trên có thể suy ra.
Biến tổng thành tích
Thay x bằng (x + y) / 2 và y bằng (x – y) / 2, suy ra:
Hàm lượng giác ngược
Dạng số phức
với
Tích vô hạn
Trong các ứng dụng với hàm đặc biệt, các tích vô hạn sau có ích:
Đẳng thức số
Cơ bản
Richard Feynman từ nhỏ đã nhớ đẳng thức sau:
Tuy nhiên nó là trường hợp riêng của:
Đẳng thức số sau chưa được tổng quát hóa với biến số:
.
Đẳng thức sau cho thấy đặc điểm của số 21:
Một cách tính pi có thể dựa vào đẳng thức số sau, do John Machin tìm thấy:
hay dùng công thức Euler:
Một số giá trị lượng giác thông dụng:
Dùng tỷ lệ vàng φ:
-
-
Nâng cao
Giải tích
Các công thức trong giải tích sau dùng góc đo bằng radian
Các đẳng thức sau có thể suy ra từ trên và các quy tắc của đạo hàm:
Các biểu thức về tính tích phân có thể tìm tại danh sách tích phân với hàm lượng giác và danh sách tích phân với hàm lượng giác ngược.
Hàm lượng giác nghịch đảo
Các hàm lượng giác tuần hoàn, do vậy để tìm hàm nghịch đảo, cần giới hạn miền của hàm. Dươi đây là định nghĩa các hàm lượng giác nghịch đảo:
Các hàm nghịch đảo có thể được ký hiệu là sin−1 hay cos−1 thay cho arcsin và arccos. Việc dùng ký hiệu mũ có thể gây nhầm lẫn với hàm mũ của hàm lượng giác.
Các hàm lượng giác nghịch đảo cũng có thể được định nghĩa bằng chuỗi vô hạn:
Chúng cũng có thể được định nghĩa thông qua các biểu thức sau, dựa vào tính chất chúng là đạo hàm của các hàm khác.
Công thức trên cho phép mở rộng hàm lượng giác nghịch đảo ra cho các biến phức:
Một số đẳng thức
Xem thêm Danh sách tích phân với hàm lượng giác, Danh sách tích phân với hàm lượng giác ngược
Xem thêm
Lượng giác
Hàm lượng giác
Chú thích
Tham khảo
Lượng giác
Danh sách toán học
|
24630
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%B3ng%20ch%C3%A0y%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20%C4%90%C3%B4ng%20Nam%20%C3%81%202005
|
Bóng chày tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2005
|
Bộ môn Bóng chày tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2005, được thi đấu tại khu liên hợp thể thao Rezal Memorial ở thủ đô Manila, Philippines, từ ngày 28 tháng 11 cho đến ngày 4 tháng 12 năm 2005 tranh một bộ huy chương ở nội dung dành cho nam. Bóng chày không phải là môn thể thao thường được thi đấu tại SEA Games, lần này có mặt trong nội dung thi đấu do là một môn thể thao rất phổ biến và được hâm mộ của nước chủ nhà Philippines.
Bảng thành tích
Tham khảo
Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2005
Giải đấu bóng chày
|
24631
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Billiards%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20%C4%90%C3%B4ng%20Nam%20%C3%81%202005
|
Billiards tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2005
|
Bộ môn Billiards và Snooker tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2005 được thi đấu tại Makati Coliseum, thành phố Makati, Philippines từ ngày 27 tháng 11 cho đến ngày 4 tháng 12 năm 2005. Các vận động viên tranh tài ở 14 nội dung, 12 dành cho nam và 2 dành cho nữ.
(Nội dung Billiards Snooker đôi nam chưa được thống kê vào bảng trên)
Bảng thành tích
Nội dung Billiards Snooker đơn nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngIssara Kachaiwong<TD> Thái Lan</TD>
BạcNitiwat Kanjanasari Thái Lan
ĐồngMoh Keen Hoo Malaysia
</TABLE>
Nội dung Billiards Snooker đồng đội nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngAlex Pagulayan, Joven Alba, Leonardo Andam<TD> Philippines</TD>
BạcNitiwat Kanjanasari, Phaithoon Phonbun, Supoj Saenla Thái Lan
ĐồngRudy Sulaeman, Bambang Saputra Indonesia
</TABLE>
Nội dung Billiards Carom đơn nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngNguyễn Thanh Bình<TD> Việt Nam</TD>
BạcLê Phước Lợi Việt Nam
ĐồngReynaldo Grandea Philippines
</TABLE>
Nội dung Billiards Anh đơn nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngNguyễn Thanh Long<TD> Việt Nam</TD>
BạcU Kyaw Oo Myanma
ĐồngHasan Manfaluti Indonesia
</TABLE>
Nội dung Billiards Anh đôi nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngU Kyaw Oo và U Aung San Oo<TD> Myanma</TD>
BạcPraput Chaithanasakun và Attasit Mahitthi Thái Lan
ĐồngLean Kam Beng và Roslan Yurnalis Malaysia
</TABLE>
Nội dung Billiards 8 bóng đơn nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngAlex Pagulayan<TD> Philippines</TD>
BạcLee Van Corteza Philippines
ĐồngTey Choon Kiat Singapore
</TABLE>
Nội dung Billiards 8 bóng đôi nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngLee Van Corteza và Antonio Gabica<TD> Philippines</TD>
BạcNguyễn Phúc Long và Nguyễn Thanh Nam Việt Nam
ĐồngTey Choon Kiat và Chan Keng Kwang Singapore
</TABLE>
Nội dung Billiards 9 bóng đơn nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngChan Keng Kwang<TD> Singapore</TD>
BạcLương Chí Dũng Việt Nam
ĐồngOoi Fook Yuen Malaysia
</TABLE>
Nội dung Billiards 9 bóng đôi nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngAlex Pagulayan và Dennis Orcullo<TD> Philippines</TD>
BạcLương Chí Dũng và Nguyễn Thanh Nam Việt Nam
ĐồngToh Lian Han và Chan Keng Kwang Singapore
</TABLE>
Nội dung Billiards 15 bóng đơn nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngRonato Alcano<TD> Philippines</TD>
BạcAntonio Gabica Philippines
ĐồngMuhamad Junarto Indonesia
</TABLE>
Nội dung Billiards 15 bóng đôi nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngRonato Alcano và Leonardo Andam<TD> Philippines</TD>
BạcTepwin Arunnath và Amnuayporn Chotipong Thái Lan
ĐồngIbrahim Amir và Ooi Fook Yuen Malaysia
</TABLE>
Nội dung Billiards 8 bóng đơn nữ
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngRubilen Amit<TD> Philippines</TD>
BạcHoe Shu Wah Singapore
ĐồngCharlene Chai Zeet Huey Singapore
</TABLE>
Nội dung Billiards 9 bóng đơn nữ
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngRubilen Amit<TD> Philippines</TD>
BạcSuhana Dewi Sabtu Malaysia
ĐồngHoe Shu Wah Singapore
</TABLE>
Tham khảo
Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2005
|
24634
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB%83%20h%C3%ACnh%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20%C4%90%C3%B4ng%20Nam%20%C3%81%202005
|
Thể hình tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2005
|
Bộ môn Thể Hình tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2005 được thi đấu tại nhà hát Government Service Insurance System, thành phố Pasay, Philippines trong hai ngày 27 tháng 11 và 28 tháng 11 năm 2005. Các vận động viên tranh tài ở 6 hạng cân dành cho nam.
Bảng thành tích
Hạng 55 kg
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngPhạm Văn Mách<TD> Việt Nam</TD>
BạcZaw Wan Myanmar
ĐồngVincent Ng Han Cheng Singapore
</TABLE>
Hạng 60 kg
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngIbrahim Bin Sihat<TD> Singapore</TD>
BạcSomsri Turinthaisong Thái Lan
ĐồngAsrelawandi Indonesia
</TABLE>
Hạng 65 kg
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngMichael Borenaga<TD> Philippines</TD>
BạcSazali bin Abd Samad Malaysia
ĐồngThongpan Lammana Thái Lan
</TABLE>
Hạng 70 kg
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngSimon Chua Ling Fung<TD> Singapore</TD>
BạcAung Khaing Win Myanmar
ĐồngCao Quốc Phú Việt Nam
</TABLE>
Hạng 75 kg
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngAlfredo Trazona<TD> Philippines</TD>
BạcGiáp Trí Dũng Việt Nam
ĐồngPanupong Prapteep Thái Lan
</TABLE>
Hạng 80 kg
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngSitthi Charoenrith<TD> Thái Lan</TD>
BạcMin Zaw Oo Myanmar
ĐồngLý Đức Việt Nam
</TABLE>
Tham khảo
Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2005
|
24636
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Quy%E1%BB%81n%20Anh%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20%C4%90%C3%B4ng%20Nam%20%C3%81%202005
|
Quyền Anh tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2005
|
Bộ môn Quyền Anh tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2005 được thi đấu tại nhà thi đấu của Đại học St. La Salle, thành phố Bacolod, Philippines từ ngày 1 tháng 12 cho đến ngày 4 tháng 12 năm 2005. Khác với ở Thế Vận Hội khi Quyền Anh thường chỉ được dành cho phái mạnh, tại SEA Games lần này rất nhiều hạng cân thi đấu có nội dung dành cho nữ.
Bảng thành tích
Hạng cân trên 46 kg nữ
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngAlice Kate Aparri<TD> Philippines</TD>
BạcKyu Kyu Thi Myanmar
ĐồngRanjana Thongtaisong Thái Lan
ĐồngSein Gereta Indonesia
</TABLE>
Hạng cân trên 48 kg nữ
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngUsanakorn Thawilsuwayang<TD> Thái Lan</TD>
BạcNaw Mu Chay Myanmar
ĐồngAnaliza Cruz Philippines
ĐồngRumyris Simarmata Indonesia
</TABLE>
Hạng cân trên 50 kg nữ
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngAnnie Albania<TD> Philippines</TD>
BạcVũ Thị Hải Yến Việt Nam
ĐồngNilar Myanmar
ĐồngVeronica Nicolas Indonesia
</TABLE>
Hạng cân trên 54 kg nữ
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngJouvilet Chilem<TD> Philippines</TD>
BạcTạ Thị Minh Nghĩa Việt Nam
ĐồngMarivone Phimsompttu Lào
ĐồngEliza Wati Indonesia
</TABLE>
Hạng cân trên 60 kg nữ
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngMitchel Martinez<TD> Philippines</TD>
BạcRatree Kruake Thái Lan
ĐồngĐinh Thị Phương Thanh Việt Nam
ĐồngAgnes Datunsolung Indonesia
</TABLE>
Hạng cân trên 45 kg nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngJuanito Magliquian Jr.<TD> Philippines</TD>
BạcZaw Myo Min Myanmar
ĐồngKeanuv Pangpayun Thái Lan
ĐồngSikham Vongphaoune Lào
</TABLE>
Hạng cân trên 48 kg nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngHarry Tañamor<TD> Philippines</TD>
BạcKyan Shan Aung Myanmar
ĐồngRomando Butar-Butar Indonesia
ĐồngZamzadi Azizi Bin Mohammad Malaysia
</TABLE>
Hạng cân trên 51 kg nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngSomjit Jongjohor<TD> Thái Lan</TD>
BạcTrần Quốc Việt Việt Nam
ĐồngDastena Moniaga Indonesia
ĐồngWarlito Parrenas Philippines
</TABLE>
Hạng cân trên 54 kg nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngJoan Tipon<TD> Philippines</TD>
BạcTangtong Klongjian Thái Lan
ĐồngDadan Amanda Indonesia
ĐồngSayyalak Chatasone Lào
</TABLE>
Hạng cân trên 57 kg nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngWorapoj Pethkum<TD> Thái Lan</TD>
BạcJoegin Ladon Philippines
ĐồngNguyễn Trung Kiên Việt Nam
ĐồngEddey Kalai Malaysia
</TABLE>
Hạng cân trên 60 kg nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngGenebert Basadre<TD> Philippines</TD>
BạcMiftah Rifai Lubis Indonesia
ĐồngĐỗ Đức Thành Việt Nam
ĐồngPaunandes Bin Paulus Malaysia
</TABLE>
Hạng cân trên 64 kg nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngPechai Sayota<TD> Thái Lan</TD>
BạcRomeo Brin Philippines
ĐồngCao Văn Trường Việt Nam
ĐồngAung Thura Myanmar
</TABLE>
Hạng cân trên 69 kg nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngNon Boomjumnong<TD> Thái Lan</TD>
BạcMark Jason Melligen Philippines
ĐồngMin Saiheng Campuchia
ĐồngToar Sompotan Indonesia
</TABLE>
Hạng cân trên 75 kg nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngSuriya Prasathinphimai<TD> Thái Lan</TD>
BạcReynaldo Galido Philippines
ĐồngAth Samreth Campuchia
ĐồngBara Gommies Indonesia
</TABLE>
Chú thích
Tham khảo
Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2005
2005
|
24638
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%E1%BA%ADn%205%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
Quận 5 (định hướng)
|
Quận 5 là danh xưng đơn vị hành chính cấp quận của một số địa phương sau:
Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam.
Quận 5, Paris, Pháp.
Quận 5, Lyon, Pháp.
Quận 5, Marseille, Pháp.
Quận 5, Québec, Canada.
Quận 5, Roma, Ý.
|
24653
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thi%E1%BB%81n%20L%C3%A3o
|
Thiền Lão
|
Thiền Lão (hay Thiền Nguyệt) là một trong ba vị Thiền sư thuộc thế hệ thứ 6 dòng Pháp của Thiền sư Vô Ngôn Thông. Sư tu chùa chùa Trùng Minh, núi Thiên Phúc, Tiên Du.
Cơ duyên và hành trạng
Thuở đầu Thiền Lão đến tham bái Thiền sư Đa Bảo tại chùa Kiến Sơ, lãnh được tâm yếu rồi đến trác tích tại chùa Trùng Minh.
Gió thiền càng nổi, Phật tử càng đông làm cho chùa thêm thịnh vượng.
Vua Lý Thái Tông, khoảng niên hiệu Thông Thụy (1034-1038), một sáng mùa xuân tìm vào núi viếng thăm Thiền sư Thiền Lão. Với 4 câu thơ, đáp lời hai câu hỏi của nhà vua, Thiền sư đã lưu lại cho những câu thơ tuyệt bích trong thi ca Thiền học về không gian và thời gian.
Khi vua hỏi: Hòa Thượng đến tu núi này được bao lâu rồi?, Thiền sư đáp:
但知今日月
誰識舊春秋
Đãn tri kim nhật nguyệt
Thùy thức cựu Xuân Thu
Dịch thơ:
Sống ngày nay biết ngày nay
Còn Xuân Thu trước ai hay làm gì!
Vua lại hỏi tiếp: Như vậy hằng ngày Hòa Thượng làm việc gì?
Thiền sư đáp:
翠竹黃花非外境
白雲明月露全真
Thúy trúc hoàng hoa
phi ngoại cảnh
Bạch vân minh nguyệt lộ toàn chân
Dịch thơ:
Trúc biếc hoa vàng đâu cảnh khác
Trăng trong mây bạc hiện toàn chân'
Vua hỏi: Có ý chỉ gì?Sư đáp: Lắm lời không ích về sau.
Vua liền tỉnh ngộ.
Sau đó, khi vua sắp cho người rước Sư về triều làm cố vấn, thì Sư đã viên tịch. Vua rất buồn tiếc, làm thơ thương khóc, sai trung sứ ban nhiều lễ hậu, lập đàn trà tỳ, thu linh cốt, xây tháp ở cửa núi, lại sửa sang rộng rãi chùa Sư, đặt môn đồ lo việc hương hỏa.
Nguyên bản chữ Hán
𠎣逰天福峰重明寺禪老禪師初參建初多寶領得心要尋就慈山卓錫禪風日震學者千数欎為叢林之盛通瑞年間李太宗常幸其寺問師云和尚住山來㡬時對曰
但知今日月誰識舊春秋
帝云日過作麽生事
對曰
翠竹黃花非外境
白雲明月露全真帝云有何意旨
對曰詞多無後益帝豁然有得將遣使迎師赴闕顧問而師先以㱕寂帝深悼惜御製詩哀挽勑中使厚齊贈禮結壇闍維收靈骨塔于山門又廣修其寺置徒以香火焉
Chú thíchThúy trúc hoàng hoa: Cách ngữ của thiền nhằm chỉ chân lý không nằm đâu xa, nó nằm ngay trước mặt, ý nghĩa rút từ câu nói của Thiền sư Đại Châu Huệ Hải: Trúc biếc xanh xanh, đều là pháp thân, hoa vàng dờn dợn, chẳng gì là chẳng phải Bát nhã.
Căn cứ vào Thiền Uyển Tập Anh thì Thiền sư Thiền Lão viên tịch dưới thời Lý Thái Tông. Nhưng Truyện của Quảng Trí lại cho rằng: Năm đầu Chương Thánh Gia Khánh (1059) Sư bỏ đời đến tham học với Thiền Lão ở Tiên du.. Như vậy Thiền sư không thể viên tịch dưới triều Lý Thái Tông được, bởi Chương Thánh Gia Khánh là niên hiệu của vua Lý Thánh Tông, mà vua Lý Thái Tông mất năm 1054.
Tham khảo
Lê Mạnh Thát: Nghiên cứu về Thiền Uyển Tập Anh'', Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh 1999.
Thiền Uyển Tập Anh - Bản tiếng Việt
Thiền Uyển Tập Anh - Bản chữ Hán
Thiền sư Việt Nam
Thiền phái Vô Ngôn Thông
|
24655
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%B9a%20Ph%E1%BA%ADt%20T%C3%ADch
|
Chùa Phật Tích
|
Chùa Phật Tích (Phật Tích tự 佛跡寺) còn gọi là chùa Vạn Phúc (Vạn Phúc tự 萬福寺) là một ngôi chùa nằm ở sườn phía Nam núi Phật Tích (còn gọi núi Lạn Kha, non Tiên), xã Phật Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Trong chùa có tượng đức Phật bằng đá thời nhà Lý lớn nhất Việt Nam. Chùa Phật Tích được xếp hạng Di tích Lịch sử- Văn hóa tại Quyết định số 313/VH-VP, ngày 28 tháng 4 năm 1962 của Bộ Văn hóa và được Thủ tướng chính phủ ký và xếp hạng 62 Di tích quốc gia đặc biệt của Việt Nam
Lịch sử
Theo tài liệu cổ thì chùa Phật Tích được khởi dựng vào năm Long Thụy Thái Bình thứ 4 (1057) với nhiều tòa ngang dãy dọc. Chùa được xây dựng vào thời nhà Lý do Lý Thánh Tông xây dựng nên
Năm 1066, vua Lý Thánh Tông lại cho xây dựng một cây tháp cao. Sau khi tháp đổ mới lộ ra ở trong đó bức tượng Phật A-di-đà bằng đá xanh nguyên khối được dát ngoài bằng vàng. Để ghi nhận sự xuất hiện kỳ diệu của bức tượng này, xóm Hỏa Kê (gà lửa) cạnh chùa đổi tên thành thôn Phật Tích.
Văn bia Vạn Phúc Đại Thiền Tự Bi năm Chính Hòa thứ bảy (1686) ca ngợi vẻ đẹp của cảnh chùa: "Đoái trông danh thắng đất Tiên Du, danh sơn Phật Tích, ứng thế ở Càn phương (hướng Nam) có núi Phượng Lĩnh bao bọc, phía tả Thanh Long nước chảy vòng quanh. Phía hữu Bạch Hổ núi ôm, trên đỉnh nhà khai bàn đá..."
Năm 1071, vua Lý Thánh Tông đi du ngoạn khắp vùng Phật Tích và viết chữ "Phật" dài tới 5 m, sai khắc vào đá đặt trên sườn núi. Bà Nguyên phi Ỷ Lan có đóng góp quan trọng trong buổi đầu xây dựng chùa Phật Tích.
Thời bấy giờ vua Trần Nhân Tông đã cho xây tại chùa một thư viện lớn và cung Bảo Hoa. Sau khi khánh thành, vua Trần Nhân Tông đã sáng tác tập thơ "Bảo Hoa dư bút" dày tới 8 quyển. Vua Trần Nghệ Tông đã lấy Phật Tích làm nơi tổ chức cuộc thi Thái học sinh (thi Tiến sĩ).
Vào thời nhà Lê, năm Chính Hòa thứ bảy đời vua Lê Hy Tông, năm 1686, chùa được xây dựng lại với quy mô rất lớn, có giá trị nghệ thuật cao và đổi tên là Vạn Phúc tự. Người có công trong việc xây dựng này là Bà Chúa Trần Ngọc Am - đệ nhất cung tần của Chúa Thanh Đô Vương Trịnh Tráng, khi Bà đã rời phủ Chúa về tu ở chùa này. Bia đá còn ghi lại cảnh chùa thật huy hoàng: "... Trên đỉnh núi mở ra một tòa nhà đá, bên trong sáng như ngọc lưu ly. Điện ấy đã rộng lại to, sáng sủa lại kín. Trên bậc thềm đằng trước có bày mười con thú lớn bằng đá, phía sau có Ao Rồng, gác cao vẽ chim phượng và sao Ngưu, sao Đẩu sáng lấp lánh, lầu rộng và tay rồng với tới trời sao,cung Quảng vẽ hoa nhụy hồng...". Đời vua Lê Hiển Tông (1740-1786), một đại yến hội đã được mở ở đây.
Nhưng rồi vẻ huy hoàng và sự thịnh vượng của chùa Phật Tích cũng chỉ tồn tại sau đó được gần 300 năm. Kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ và chùa bị tàn phá nhiều. Chùa đã bị quân đội Pháp đốt cháy hoàn toàn vào năm 1947.
PGS Tống Trung Tín, Viện trưởng Viện Khảo cổ Việt Nam cho biết: "Theo tài liệu của trường Viễn đông Bác cổ Pháp để lại thì khoảng trước năm 1945, KTS nổi tiếng của Pháp là Louis Bezacier đã tiến hành trùng tu ngôi chùa Phật tích. Trước khi trùng tu, theo yêu cầu của viện Viễn đông bác cổ, ông đã tiến hành khai quật nền chùa, đã phát hiện ra nền của ngôi tháp thời Lý còn nằm nguyên vẹn dưới lòng chùa, cùng rất nhiều di vật tiêu biểu cho nghệ thuật xây chùa Phật Tích, cũng là nghệ thuật xây dựng đặc sắc thời Lý. Theo các tài liệu chúng tôi đọc được, ông đã nghiên cứu, đo vẽ rất cẩn thận, rồi giữ nguyên trạng di tích và lấp đi. Mọi hoạt động trùng tu chỉ diễn ra trên mặt đất nên không đụng gì đến lòng chùa nữa".
Khi hòa bình lập lại (1954) đến nay, chùa Phật Tích được khôi phục dần. Năm 1959, Bộ Văn hóa cho tái tạo lại 3 gian chùa nhỏ làm nơi đặt pho tượng A-di-đà bằng đá quý giá. Tháng 4 năm 1962, nhà nước công nhận chùa Phật Tích là di tích lịch sử-văn hoá.
Kiến trúc
Nền móng
Nền móng chân tháp có hình vuông, với kích thước chân tháp 9,1m x 9,1m, tường tháp mỗi cạnh dày trung bình 2,4m, lòng tháp rộng 82,81 m2, chân tháp được xây bằng gạch thời Lý, kỹ thuật xây móng nền tháp có thể so sánh với các móng nền gạch kiến trúc Lý ở Hoàng thành Thăng Long. Những viên gạch xây tháp có đề chữ: “Lý gia đệ tam đế Long Thụy Thái Bình tứ niên tạo” (Vua thứ ba đời Lý, năm Long Thụy Thái Bình thứ 4 xây dựng) hoặc "Chương Thánh Gia Khánh".
Ba cấp nền chùa
Chùa được kiến trúc theo kiểu Nội công ngoại quốc (giống với lối kiến trúc tại chùa Vĩnh Nghiêm, một ngôi chùa nổi tiếng khác ở xứ Kinh Bắc), sân chùa là cả một vườn hoa mẫu đơn rực rỡ. Bên phải chùa là Miếu thờ Đức chúa tức bà Trần Thị Ngọc Am là đệ nhất cung tần của chúa Trịnh Tráng tu ở chùa này nên có câu đối "Đệ nhất cung tần quy Phật địa. Thập tam đình vũ thứ tiên hương". Bà chẳng những có công lớn trùng tu chùa mà còn bỏ tiền cùng dân 13 thôn dựng đình. Bên trái chùa chính là nhà tổ đệ nhất thờ Chuyết chuyết Lý Thiên Tộ. Ông mất tại đây năm 1644 thọ 55 tuổi; hiện nay chùa còn giữ được pho tượng của Chuyết công đã kết hỏa lúc đang ngồi thiền.
Cho tới nay, chùa Phật Tích có 7 gian tiền đường để dùng vào việc đón tiếp khách, 5 gian bảo thờ Phật, đức A di đà cùng các vị Tam thế Phật, 8 gian nhà tổ và 7 gian nhà thờ thánh Mẫu.
Ngôi chùa có kiến trúc của thời Lý, thể hiện qua ba bậc nền bạt vào sườn núi. Các nền hình chữ nhật dài khoảng 60 m, rộng khoảng 33 m, mặt ngoài bố trí các tảng đá hình khối hộp chữ nhật.
Theo tương truyền, bậc nền thứ nhất là sân chùa với vườn hoa mẫu đơn, nơi xảy ra câu truyện Từ Thức gặp tiên: "...Từ Thức đi xem hội hoa mẫu đơn, gặp Giáng Tiên bị bắt trói vì tội hái trộm hoa. Từ Thức bèn cởi áo xin tha cho tiên nữ. Sau Từ Thức từ quan đi du ngoạn các danh lam thắng cảnh, đến động núi ở cửa biển Thần Phù gặp lại Giáng Tiên..." Do tích này, trước đây chùa Phật Tích mở hội Hoa Mẫu Đơn hàng năm vào ngày mồng bốn tháng giêng để nhân dân xem hoa và các văn nhân thi sĩ bình thơ.
Bậc nền thứ hai là nơi có các kiến trúc cổ ngày nay không còn được thấy. Khi đào xuống nền ngôi chùa này, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy nhiều di vật điêu khắc thời nhà Lý và nền móng của một ngôi tháp gạch hình vuông, mỗi cạnh dài 8,5 m.
Nền thứ ba cao nhất, có Long Trì (Ao Rồng) là một cái ao hình chữ nhật, đã cạn nước.
Khu Bảo tháp
Sau sân nền có 32 ngọn tháp xây bằng gạch và đá là nơi cất giữ xá lị của các nhà sư từng trụ trì ở đây, phần lớn được dựng vào thế kỷ 17.
Ngọn tháp lớn nhất là Tháp Phổ Quang, cao 5,10 m gồm đế, khám thờ, hai tầng diềm và mái mui luyện với chóp tròn.
Điêu khắc đá
Nhiều tác phẩm điêu khắc thời nhà Lý còn được giữ tại chùa cho đến nay. Ngay ở bậc thềm thứ hai, có 10 tượng thú bằng đá cao 10 m, gồm sư tử, voi, tê giác, trâu, ngựa, mỗi loại hai con, nằm trên bệ hoa sen tạc liền bằng những khối đá lớn.
Quan trọng nhất là pho tượng Phật A-di-đà bằng đá xanh đang ngồi thiền định trên tòa sen,bức tượng cao 1,86 m; thêm phần bệ thì đạt 2,69 m.. Trên bệ và trong những cánh sen, có những hình rồng và hoa lá, một nét đặc trưng của mỹ thuật thời Lý.
Ở chùa còn có những di vật thời Lý khác như đá ốp tường, đấu kê...trên đó chạm khắc các hình Kim Cương, Hộ pháp, thần điểu, các nhạc công, vũ nữ v.v...
Văn học và văn hóa dân gian
Trong Ức Trai Thi Tập, Nguyễn Trãi có bài thơ vịnh cảnh chùa Phật Tích:
(Đào Duy Anh dịch)
Hàng năm vào ngày 4 tết Nguyên Đán, nhân dân Phật Tích thường mở hội truyền thống để tưởng nhớ công lao các vị tiền bối đã khai sinh và tu tạo chùa. Trong những ngày xuân tưng bừng ấy, khách thập phương về đây lễ Phật, hái hoa mẫu đơn, thưởng ngoạn cảnh đẹp vùng Kinh Bắc hoặc tham dự các trò chơi ngày hội như đấu vật, chơi cờ, đánh đu, hát quan họ...
Chùa Phật tích cũng là nơi được cho là địa điểm mà Từ Thức gặp tiên nữ Giáng Hương trong một dịp đầu xuân khi mọi người nô nức xem hoa mẫu đơn.
Di cốt của sư tổ
Năm 1988, đã xảy ra một vụ trộm tại khu tháp này: Kẻ gian đã nạy cửa tháp Báo Nghiêm để kiếm vàng và đồ cổ. Chúng đã vứt ra một vại sành trong đó có chứa di cốt người và những mảnh bó cốt có cấu tạo giống như mảnh bồi của tượng nhà sư chùa Đậu.
Phó tiến sĩ Nguyễn Lân Cường cho biết: "Rất tiếc, vị sư trụ trì của chùa đã mất từ trước khi vụ trộm xảy ra cách đó 8 năm. Khi đến thôn Rao Mộc, cách chùa 15 km, chúng tôi gặp cụ Nguyễn Chí Triệu vốn là sư bác ở chùa 45 năm về trước. Theo lời cụ Triệu, trước đây, trong khán thờ có một pho tượng của sư tổ, chân xếp bằng tròn theo thế ngồi thiền, hai tay đặt trước bụng, lòng bàn tay ngửa."
Ngày nay, các nhà khoa học đã xác định đây là di cốt của thiền sư Chuyết Chuyết, đã viên tịch tại chùa Phật Tích.
Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy tất cả 133 mảnh xương và 209 mảnh bồi. Trong số này có đốt sống, xương đùi, xương chày, một phần xương hàm trên, đặc biệt có một xương hàm dưới, một phần xương trán cùng hốc mắt phải đính với hai mũi. Dựa vào các xương chi, các nhà khoa học tính toán chiều cao của nhà sư khoảng 1,6 m. Qua phân tích cấu tạo của khuyết hông và khớp mu, các nhà khoa học khẳng định đây là di hài của một nhà sư nam khoảng hơn 50 tuổi.
Khi nghiên cứu những mảnh bồi, các nhà nghiên cứu đã tìm thấy một đoạn dây đồng đã gỉ màu xanh. Điều này chứng tỏ: Sau khi cải táng, người ta lấy xương của nhà sư đã tịch, đem dựng khung tạo thành hình ngồi thiền, rồi mới bồi ra bên ngoài để tạo tượng. Điều này khác với kỹ thuật tạo tượng nhà sư Vũ Khắc Minh ở chùa Đậu.
Với mong muốn phục nguyên di hài thiền sư ở chùa Phật Tích, nhóm các nhà khoa học do PTS Nguyễn Lân Cường chỉ đạo đã áp dụng phương pháp Guerasimov phục hồi mặt theo xương sọ.
Ngày 12 tháng 1 năm 1993, các nhà khoa học bắt tay tiến hành phục nguyên di hài. Trước hết, họ dựng tượng nhà sư bằng đất sét theo phương pháp Guerasimov; đổ khuôn thạch cao tạo các mảnh khuôn rồi gỡ các mảnh khuôn, phá tượng đất đi. Sau đó, họ bôi sơn ta, lót vải màn, rắc mạt cưa trộn sơn ta và gắn xương vào đúng vị trí. Để thành tượng, các nhà khoa học phá tiếp khuôn thạch cao, gỡ các mảnh bó cốt và gắn lại. Cuối cùng, họ đem thếp bạc rồi quang dầu lên tượng. Sau khi tượng được hoàn thành, tại khu vực này đã diễn ra lễ rước tượng về chùa Phật Tích với sự tham dự của hàng nghìn người dân. Đây là lần đầu tiên Việt Nam phục nguyên thành công một pho tượng theo phương pháp Guerasimov kết hợp với sơn ta cổ truyền của dân tộc.
Phá dỡ và phục dựng
Theo Vietnamnet, ngày 23 tháng 11 năm 2008 khi các đoàn khảo cổ học quốc tế về Hoàng thành Thăng Long, gồm các chuyên gia Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Pháp, Bỉ do Viện Khoa học Xã hội Việt Nam tổ chức đến tham quan nghiên cứu chùa Phật Tích, thì chứng kiến một thực trạng tan hoang tại nơi đây. Nền chùa cổ đã bị đào phá bằng máy xúc và đang xây mới, các hiện vật quý bị vứt ngổn ngang khắp nơi.
Hiện nay, rất nhiều tượng Phật cổ tại chùa đã được chuyển đến bảo quản tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.
Khai quang Phật ngọc
Tối 16 tháng 5 năm 2009, tượng Phật ngọc được làm từ khối ngọc thạch 18 tấn. Nhân dân địa phương và một số tỉnh xa cùng về chiêm bái. Sân khấu nơi đặt tượng đã được hoàn tất và sẵn sàng cho đại lễ diễn ra vào buổi tối. 800 ghế cho các đại biểu đã được ban tổ chức bố trí trong khuôn viên chùa ngay phía trước bức tượng Phật Ngọc
Di vật
Hình ảnh một số tượng Phật cổ và hiện vật tại chùa đang được bảo quản tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.
Lễ hội
Lễ hội chùa Phật Tích, xã Phật Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh diễn ra hàng năm sau dịp Tết Nguyên Đán với ngày hội chính vào ngày mùng 4 tháng Giêng.
Tham khảo
Xem thêm
Liên kết ngoài
Bảo tồn di tích Phật Tích: Đây là vấn đề nhạy cảm…
Tu bổ chùa Phật Tích: Sai vì nhận thức kém!
Dầm mưa chen nhau xem tượng Phật Ngọc
Thư viện Hoa Sen
10 kỷ lục văn hóa Phật giáo Việt Nam
Phật Tích
Tiên Du
Du lịch Bắc Ninh
|
24656
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%B9a%20D%C3%A2u
|
Chùa Dâu
|
Chùa Dâu, còn có tên là Diên Ứng (延應寺), Pháp Vân (法雲寺), hay Cổ Châu, là một ngôi chùa nằm ở phường Thanh Khương, thị xã Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, cách Hà Nội khoảng 30 km. Đây là trung tâm Phật giáo cổ xưa nhất của Việt Nam. Chùa còn được người dân gọi với những tên gọi khác nhau như chùa Cả, Cổ Châu tự, Diên Ứng tự, Thiền Định tự. Đây là ngôi chùa được coi là có lịch sử hình thành sớm nhất Việt Nam mặc dù các dấu tích vật chất không còn, nó đã được xây dựng lại.. Chùa là một danh lam bậc nhất của xứ kinh Bắc xưa nay. Đây cũng là một di tích quốc gia đặc biệt của Việt Nam được xếp hạng đợt 4. Chùa Dâu được xem là ngôi chùa cổ nhất Việt Nam.
Chùa nằm ở vùng Dâu, thời thuộc Hán gọi là Luy Lâu. Tại vùng Dâu có năm ngôi chùa cổ: chùa Dâu thờ Pháp Vân (法雲寺, "thần mây"), chùa Đậu thờ Pháp Vũ (法雨寺, "thần mưa"), chùa Tướng thờ Pháp Lôi (法雷寺, "thần sấm"), chùa Dàn thờ Pháp Điện (法電寺 "thần chớp") và chùa Tổ thờ Man Nương là mẹ của Tứ Pháp. Năm chùa này ngoài thờ Phật còn thờ Tứ Pháp.
Chùa Đậu tại vùng Dâu đã bị phá hủy trong chiến tranh nên pho tượng Bà Đậu được thờ chung trong chùa Dâu.
Trong Tứ Pháp thì Pháp Vân đứng đầu, Thạch Quang Phật (tảng đá trong cây Dung thụ) luôn ở bên Pháp Vân và Pháp Vân đại diện cho cả Tứ Pháp, mỗi khi triều đình thỉnh tượng về kinh đô cầu đảo, có thể rước cả bốn tượng hoặc chỉ mình Pháp Vân. Có thể nói Tứ Pháp thì Pháp Vân, Pháp Vũ được thờ cúng rộng rãi hơn cả nhưng Pháp Vân là trọng tâm, nên Chùa Dâu đã trở thành trung tâm của tín ngưỡng này ở cả vùng Dâu lẫn cả nước.
Lịch sử
Chùa được xây dựng vào buổi đầu Công Nguyên. Các nhà sư Ấn Độ đầu tiên đã từng đến đây. Vào cuối thế kỷ 6, nhà sư Tì-ni-đa-lưu-chi từ Trung Quốc đến chùa này, lập nên một phái Thiền ở Việt Nam. Chùa được khởi công xây dựng năm 187 và hoàn thành năm 226, là ngôi chùa lâu đời nhất và gắn liền với lịch sử văn hóa, Phật giáo Việt Nam, được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử ngày 28 tháng 4 năm 1962.
Chùa Dâu gắn liền với sự tích Phật Mẫu Man Nương thờ tại chùa Tổ ở làng Mèn, Mãn Xá cách chùa Dâu 1 km.
Chùa được xây dựng lại vào năm 1313 và trùng tu nhiều lần qua các thế kỷ tiếp theo. Vua Trần Anh Tông đã sai trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi về kiến thiết lại chùa Dâu thành chùa trăm gian, tháp chín tầng, cầu chín nhịp. Hiện nay, ở tòa thượng điện, chỉ còn sót lại vài mảng chạm khắc thời nhà Trần và thời nhà Lê.
Truyền thuyết / Sự tích
Truyền thuyết Mạc Đinh Chi
Mạc Đinh Chi là người hết lòng yêu thương mẹ nhưng mẹ ông bị bắt giam. Khi các quan phủ yêu cầu xây một ngôi chùa tháp chín tầng, cầu chín nhịp, chùa trăm gian, ông đã làm ngay bằng vàng mã. Cuối cùng mẹ ông được thả, ăn mừng ông đã xây dựng chùa như nay.
Truyền thuyết Man Nương
Man Nương hay nàng Mèn là một người con gái rất sùng đạo, năm 10 tuổi đến theo học đạo ở chùa Linh Quang, nay là huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Tại chùa có thiền sư Khâu Đà La là một vị cao tăng đầu tiên sang Việt Nam truyền đạo tại đây.
Một hôm, thiền sư đi vắng và dặn Man Nương trông coi chùa cẩn thận. Tối đến Man Nương ngủ ở thềm, Khâu Đà La về và bước qua người, sau đó bà thụ thai. Cha mẹ Man Nương trách cứ thì Khâu Đà La dặn rằng đó là con Phật, không phải lo phiền.
Hai mươi tháng sau, Man Nương sinh hạ một người con gái vào ngày 8 tháng Tư (âm lịch), đem đến chùa trả lại Thiền sư. Ông dùng cây tầm xích (gậy tích trượng) gõ vào cây Dung Thụ (dâu) ở cạnh chùa; cây dâu tách ra, thiền sư để đứa trẻ vào trong, cây lại khép vào. Khâu Đà La trao cho Man Nương cây gậy và dặn khi nào hạn hán thì đem gậy cắm xuống đất để cứu nhân dân. Khi vùng Dâu bị hạn hán ba năm liền, nhớ đến lời dặn của ông, Man Nương đã đem cây gậy thần cắm xuống đất. Ngay lập tức nước phun lên, cây cối, ruộng đồng lại tươi tốt và chúng sinh thoát nạn hạn hán.
Tiếp đó có trận mưa to, cây dâu bị gió bão quật đổ xuống sông Thiên Đức (sông Dâu) rồi trôi về Luy Lâu. Khi đó, Thái thú Sĩ Nhiếp cho quân lính vớt lên để làm nóc điện Kính Thiên, nhưng không ai lay chuyển nổi. Man Nương đi qua liền xuống sông, buộc dải yếm vào và bảo "Có phải con mẹ thì đi lên theo mẹ" lập tức kéo cây lên dễ dàng. Sĩ Nhiếp thấy thế kính sợ, tuyển mười người họ Đào tạc tượng Tứ pháp là Pháp Vân - Pháp Vũ - Pháp Lôi - Pháp Điện tượng trưng cho Mây, Mưa, Sấm, Chớp để thờ. Bốn bức tượng phật đó được đặt ở bốn ngôi chùa khác nhau ở trên cùng một khu vực là Chùa Dâu, Chùa Đậu, Chùa Dàn, Chùa Tướng. Khi thợ tạc tượng gặp trong thân cây một khối đá bèn vứt xuống sông. Đến đêm thấy lòng sông rực sáng, Sĩ Nhiếp cho người vớt nhưng không tài nào vớt được. Man Nương liền đi thuyền ra giữa sông thì khì khối đá tự nhiên nhảy vào lòng. Khối đá ấy được gọi là Thạch Quang Phật (Phật đá tỏa sáng).
Kiến trúc
Cũng như nhiều chùa chiền trên đất Việt Nam, chùa Dâu được xây dựng theo kiểu "nội công ngoại quốc". Bốn dãy nhà liên thông hình chữ nhật bao quanh ba ngôi nhà chính: tiền đường, thiêu hương và thượng điện. Tiền đường của chùa Dâu đặt tượng Hộ pháp, tám vị Kim Cương; Gian thiêu hương đặt tượng Cửu Long, hai bên có tượng các vị Diêm Vương, Tam châu Thái tử, Mạc Đĩnh Chi. Thượng điện để tượng Bà Dâu (Pháp Vân), Bà Đậu (Pháp Vũ), và các hầu cận. Các pho tượng Bồ tát, Tam thế, Đức ông, Thánh tăng được đặt ở phần hậu điện phía sau chùa chính.
Một trong những ấn tượng khó có thể quên được ở nơi đây là những pho tượng thờ. Ở gian giữa chùa có tượng Bà Dâu, hay nữ thần Pháp Vân, uy nghi, trầm mặc, màu đồng hun, cao gần 2 m được bày ở gian giữa. Tượng có gương mặt đẹp với nốt ruồi to đậm giữa trán gợi liên tưởng tới những nàng vũ nữ Ấn Độ, tới quê hương Tây Trúc. Ở hai bên là tượng Kim Đồng và Ngọc Nữ. Phía trước là một hộp gỗ trong đặt Thạch Quang Phật là một khối đá, tương truyền là em út của Tứ Pháp.
Do chùa Đậu (Bắc Ninh) bị phá huỷ thời kháng chiến chống Pháp, nên tượng Bà Đậu (Pháp Vũ) cũng được đưa về thờ ở chùa Dâu. Tượng Pháp Vũ với những nét thuần Việt, đức độ, cao cả. Những tượng này đều có niên đại thế kỷ 18.
Bên trái của thượng điện có pho tượng thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi, tượng được đặt trên một bệ gỗ hình sư tử đội tòa sen, có thể có niên đại thế kỷ 14.
Giữa sân chùa trải rộng là cây tháp Hòa Phong. Tháp xây bằng loại gạch cỡ lớn ngày xưa, được nung thủ công tới độ có màu sẫm già của vại sành. Thời gian đã lấy đi sáu tầng trên của tháp, nay chỉ còn ba tầng dưới, cao khoảng 17 m nhưng vẫn uy nghi, vững chãi thế đứng ngàn năm. Mặt trước tầng 2 có gắn bảng đá khắc chữ "Hòa Phong tháp". Chân tháp vuông, mỗi cạnh gần 7 m. Tầng dưới có 4 cửa vòm. Trong tháp, treo một quả chuông đồng đúc năm 1793 và một chiếc khánh đúc năm 1817. Có 4 tượng Thiên Vương cao 1,6 m ở bốn góc. Trước tháp, bên phải có tấm bia vuông dựng năm 1738, bên trái có tượng một con cừu đá dài 1,33 m, cao 0,8 m. Tượng này là dấu vết duy nhất còn sót lại từ thời nhà Hán.
Có câu thơ lưu truyền dân gian:.
Dù ai đi đâu về đâu
Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về.
Dù ai buôn bán trăm nghề
Nhớ ngày mồng tám thì về hội Dâu.
Ngày hội chùa Dâu được tổ chức rất long trọng và quy mô, tuyến hành hương về nơi đất Phật còn mở rộng tới chùa Phúc Nghiêm - chùa Tổ - nơi thờ Phật Mẫu Man Nương.
Các cao tăng liên quan
Trụ trì:
Tì-ni-đa-lưu-chi
Chi Cương Lương
Khương Tăng Hội
Pháp Hiền
Thiền Sư Sùng Phạm 1004 - 1087
Sư Tính Mộ (1706 - 1775)
Sư Tuyên Chiếu ? 1793?
Lễ hội
Lễ hội chùa Dâu diễn ra vào ngày 8 tháng Tư âm lịch hàng năm và là lễ hội gắn liền với Phật giáo. Ngoài ra trong lễ hội còn có nhiều nghi thức và các trò chơi dân gian.
Hình ảnh
Chú ý: hãy nháy chuột vào các ảnh để xem ảnh cỡ lớn và rõ trong Wikimedia commons.
Tham khảo
Xem thêm
Tứ pháp
Chùa Tổ
Chùa Đậu
Chùa Tướng
Chùa Dàn
Chùa Nành
Chùa Keo
Liên kết ngoài
Thư viện Hoa Sen
10 kỷ lục văn hóa Phật giáo Việt Nam
Chùa Pháp Vân (chùa Dâu) tại Thư viện Hoa Sen
Hình ảnh chùa Dâu trên trang http://vietsciences.free.fr
Tọa độ không có sẵn trên Wikidata
Dâu
Thuận Thành
Du lịch Bắc Ninh
Kiến trúc cổ Việt Nam
Năm 226
Chùa Việt Nam
Phật giáo Việt Nam
Tứ Pháp
|
24657
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%E1%BB%B1%20ki%E1%BB%87n%2011%20th%C3%A1ng%209
|
Sự kiện 11 tháng 9
|
Sự kiện 11 tháng 9, còn được gọi là vụ khủng bố ngày 11 tháng 9, cuộc tấn công ngày 11 tháng 9 hay đơn giản là 11/9 (; ở Hoa Kỳ thường được gọi là 9/11), là một loạt bốn cuộc tấn công khủng bố có sự tham gia của nhóm khủng bố Hồi giáo Al-Qaeda nhằm chống lại Hoa Kỳ diễn ra vào sáng Thứ Ba, ngày 11 tháng 9 năm 2001.
Vào sáng thứ Ba ngày 11 tháng 9 năm 2001, bốn máy bay thương mại từ Đông Bắc Hoa Kỳ được lên kế hoạch hạ cánh xuống California. Khi những chiếc máy bay này đang trong lộ trình bay, chúng đã bị cướp bởi 19 tên khủng bố al-Qaeda. Hai trong số đó, chuyến bay 11 của American Airlines và chuyến bay 175 của United Airlines, lần lượt đâm vào tòa tháp Bắc và Nam của khu phức hợp Trung tâm Thương mại Thế giới ở Hạ Manhattan. Trong vòng 1 giờ 42 phút, cả hai tòa tháp 110 tầng đều sụp đổ. Sự sụp đổ của Trung tâm Thương mại Thế giới đã mở đầu cho sự sụp đổ của cấu trúc các tòa Trung tâm Thương mại Thế giới khác bao gồm Trung tâm Thương mại Thế giới số 7 và làm hư hại đáng kể những tòa nhà xung quanh. Chuyến bay thứ ba, chuyến bay 77 của American Airlines, khởi hành từ Sân bay Quốc tế Dulles đã bị cướp khi bay qua Ohio. Lúc 9:37 sáng, chuyến bay 77 đã đâm vào phía tây Lầu Năm Góc (trụ sở của quân đội Mỹ) ở quận Arlington, Virginia, làm sụp đổ một phần. Chuyến bay thứ tư và cũng là cuối cùng, chuyến bay 93 của United Airlines, ban đầu bay về hướng Washington, D.C. nhưng đã rơi xuống một cánh đồng ở Xã Stonycreek, Pennsylvania, gần Shanksville, lúc 10:03 sáng, sau cuộc giằng co giữa hành khách và không tặc. Các nhà điều tra xác định rằng mục tiêu của chuyến bay 93 là Điện Capitol hoặc Nhà Trắng.
Ngay sau khi các cuộc tấn công xảy ra, mọi mối nghi ngờ nhanh chóng đổ dồn về phía Al-Qaeda. Hoa Kỳ chính thức đáp trả bằng việc phát động Cuộc chiến chống khủng bố và đưa quân vào Afghanistan nhằm hạ bệ Taliban, vốn không tuân theo yêu cầu của Mỹ về việc trục xuất Al-Qaeda ra khỏi Afghanistan và dẫn độ thủ lĩnh Osama bin Laden. Nhiều quốc gia đã tăng cường ban hành các pháp lệnh chống khủng bố, mở rộng quyền hạn của những cơ quan thực thi pháp luật và cơ quan tình báo để ngăn chặn các cuộc tấn công khủng bố. Mặc dù ban đầu bin Laden phủ nhận bất kỳ sự liên quan nào, nhưng vào năm 2004, ông chính thức thừa nhận trách nhiệm về các vụ tấn công. Al-Qaeda và bin Laden cho rằng sự ủng hộ của Hoa Kỳ đối với Israel, sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ ở Ả Rập Xê-út và các biện pháp trừng phạt nhằm vào Iraq là nguyên do chính. Sau khi sống ẩn dật trong gần một thập kỷ, bin Laden bị ám sát trong một cuộc đột kích của quân đội Mỹ ở Pakistan vào năm 2011.
Việc Trung tâm Thương mại Thế giới và cơ sở hạ tầng lân cận bị phá hủy đã làm tổn thất nghiêm trọng đến nền kinh tế của thành phố New York và gây ra một cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu. Không phận dân sự của Hoa Kỳ và Canada đã phải đóng cửa cho đến ngày 13 tháng 9, trong khi phiên giao dịch trên Phố Wall bị ngừng trệ cho đến ngày 17 tháng 9. Nhiều nơi đóng cửa, sơ tán và dỡ bỏ diễn ra sau đó nhằm bày tỏ sự thương tiếc hoặc lo ngại về các cuộc tấn công tiếp theo. Việc dọn dẹp khu vực Trung tâm Thương mại Thế giới được hoàn thành vào tháng 5 năm 2002 và Lầu Năm Góc đã được sửa chữa lại trong vòng một năm. Các cuộc tấn công đã khiến 2.977 người thiệt mạng, hơn 25.000 người bị thương và hậu quả sức khỏe kéo dài, cùng với thiệt hại về cơ sở hạ tầng và tài sản ít nhất 10 tỷ USD. Đây vẫn là vụ tấn công khủng bố đẫm máu nhất trong lịch sử nhân loại và là vụ việc gây chết chóc nhất đối với lính cứu hỏa và nhân viên thực thi pháp luật trong lịch sử Hoa Kỳ, với 340 và 72 người thiệt mạng. Việc xây dựng Trung tâm Thương mại Thế giới số Một bắt đầu vào tháng 11 năm 2006 và tòa nhà mở cửa vào tháng 11 năm 2014. Nhiều đài tưởng niệm đã được xây dựng, bao gồm Đài tưởng niệm & Bảo tàng Quốc gia ngày 11 tháng 9 ở Thành phố New York, Đài tưởng niệm Lầu Năm Góc ở Quận Arlington, Virginia và Đài tưởng niệm Quốc gia Chuyến bay 93 tại hiện trường vụ tai nạn ở Pennsylvania.
Bối cảnh
Al Qaeda
Nguồn gốc của Al-Qaeda có thể được bắt nguồn từ năm 1979 khi Liên Xô xâm chiếm Afghanistan. Osama bin Laden đã tới Afghanistan và lãnh đạo các nhóm vũ trang người Ả Rập mujahideen để chống lại chính quyền cộng sản Afghanistan và Liên Xô. Dưới sự hướng dẫn của Ayman al-Zawahiri, bin Laden trở nên cấp tiến hơn. Năm 1996, bin Laden đã đưa ra fatwā đầu tiên của mình, kêu gọi lính Mỹ rút khỏi Ả Rập Saudi.
Trong một fatwā thứ hai vào năm 1998, bin Laden đã bày tỏ sự phản đối của y về chính sách đối ngoại của Mỹ đối với Israel, cũng như sự hiện diện liên tục của quân đội Mỹ ở Ả Rập Xê Út sau Chiến tranh vùng Vịnh. Bin Laden đã sử dụng các kinh sách của Hồi giáo để khuyến khích người Hồi giáo tấn công Mỹ cho đến khi những bất bình đã nêu được đảo ngược. Các học giả pháp lý Hồi giáo "trong suốt lịch sử Hồi giáo, có sự đồng ý nhất trí rằng thánh chiến là nghĩa vụ cá nhân nếu kẻ thù rắp tâm phá hủy các quốc gia Hồi giáo", theo bin Laden.
Osama bin Laden
Bin Laden đã dàn dựng các cuộc tấn công và ban đầu phủ nhận sự liên quan nhưng sau đó đã rút lại những tuyên bố không liên can của mình. Al Jazeera đã phát đi một tuyên bố của bin Laden vào ngày 16 tháng 9 năm 2001, nói rằng: "Tôi nhấn mạnh rằng tôi đã không thực hiện hành động này, mà dường như nó được các cá nhân với động lực riêng của họ thực hiện." Vào tháng 11 năm 2001, các lực lượng Hoa Kỳ đã phục hồi một cuốn băng video từ một ngôi nhà bị phá hủy ở Jalalabad, Afghanistan. Trong video, bin Laden được nhìn thấy đang nói chuyện với Khaled al-Harbi và thừa nhận sự biết trước về các cuộc tấn công. Vào ngày 27 tháng 12 năm 2001, một video bin Laden thứ hai đã được phát hành. Trong video, bin Laden nói:
nhưng ông ta đã không thừa nhận trách nhiệm cho các cuộc tấn công. Lời nói đề cập nhiều lần đến Hoa Kỳ đặc biệt nhắm mục tiêu đến người Hồi giáo.
Khalid Sheikh Mohammed
Nhà báo Yosri Fouda của kênh truyền hình Ả Rập Al Jazeera đưa tin rằng vào tháng 4 năm 2002, Khalid Sheikh Mohammed thừa nhận có liên quan đến các vụ tấn công, cùng với Ramzi bin al-Shibh. Báo cáo của Ủy ban 9/11 xác định rằng sự thù địch đối với Hoa Kỳ mà Mohammed, kiến trúc sư chính của vụ tấn công 11/9, xuất phát từ "sự bất đồng bạo lực với chính sách đối ngoại của Mỹ ủng hộ Israel". Mohammed cũng là một cố vấn và tài chính của vụ đánh bom Trung tâm Thương mại Thế giới năm 1993 và là chú của Ramzi Yousef, kẻ đánh bom chính trong vụ tấn công đó.
Mohammed bị bắt vào ngày 1 tháng 3 năm 2003, tại Rawalpindi, Pakistan, bởi các quan chức an ninh Pakistan làm việc với CIA. Sau đó Mohammed bị giam giữ tại nhiều nhà tù bí mật của CIA và Vịnh Guantanamo, nơi anh ta bị thẩm vấn và tra tấn bằng các phương pháp bao gồm cả trấn nước. Trong các phiên điều trần của Hoa Kỳ tại Vịnh Guantanamo vào tháng 3 năm 2007, Mohammed một lần nữa thú nhận trách nhiệm của mình đối với các cuộc tấn công, nói rằng mình "chịu trách nhiệm cho chiến dịch 9/11 từ A đến Z" và tuyên bố của anh ta không phải do sự cưỡng bức.
Một lá thư được các luật sư của Khaleds Sheikh Mohammed đưa ra tại Tòa án quận Hoa Kỳ, Manhattan vào ngày 26 tháng 7 năm 2019, chỉ ra rằng thủ phạm bị cáo buộc quan tâm đến việc làm chứng chống lại vai trò của Ả Rập Saudi trong vụ tấn công 9/11 và giúp đỡ các nạn nhân và gia đình của nạn nhân ngày 9/11. Tuy nhiên, theo như bức thư, thỏa thuận của Mohammed cũng giống như nói là trong thời gian hiện tại, không có gì chắc chắn. James Kreindler, một trong những luật sư của nguyên đơn cũng đưa ra câu hỏi về sự hữu ích của Mohammed.
Tấn công
Sáng sớm ngày 11 tháng 9 năm 2001, 19 không tặc cướp quyền kiểm soát bốn chiếc máy bay dân dụng thương mại (hai chiếc Boeing 757 và hai chiếc Boeing 767) trên đường tới California (ba chiếc tới LAX tại Los Angeles, và một chiếc tới SFO tại San Francisco) sau khi cất cánh từ Sân bay quốc tế Logan tại Boston (Massachusetts); Sân bay quốc tế Newark Liberty tại Newark, New Jersey và Sân bay quốc tế Washington Dulles tại các quận Loudoun và Fairfax ở Virginia. Các không tặc chọn các máy bay lớn có đường bay dài vì chúng sẽ được nạp đầy nhiên liệu.
Bốn chuyến bay bao gồm:
Chuyến bay 11 của American Airlines: một chiếc máy bay Boeing 767, rời Sân bay Logan vào lúc 7:59 sáng trên đường tới Los Angeles với 11 thành viên phi hành đoàn và 76 hành khách, chưa bao gồm 5 không tặc. Các không tặc lái chiếc máy bay đâm vào tòa Tháp Bắc của Trung tâm Thương mại Thế giới tại Thành phố New York lúc 8:46 sáng.
Chuyến bay 175 của United Airlines: một chiếc máy bay Boeing 767, rời Sân bay Logan vào lúc 8:14 sáng trên đường tới Los Angeles với 9 thành viên phi hành đoàn và 51 hành khách, chưa bao gồm 5 không tặc. Các không tặc lái chiếc máy bay đâm vào Tháp Nam của Trung tâm Thương mại Thế giới tại Thành phố New York lúc 9:03 sáng.
Chuyến bay 77 của American Airlines: một chiếc máy bay Boeing 757, rời Sân bay quốc tế Washington Dulles vào lúc 8:20 sáng trên đường tới Los Angeles với 6 thành viên phi hành đoàn và 53 hành khách, chưa bao gồm 5 không tặc. Các không tặc lái chiếc máy bay đâm vào Lầu Năm Góc tại Quận Arlington, Virginia, lúc 9:37 sáng.
Chuyến bay 93 của United Airlines: một chiếc máy bay Boeing 757, rời Sân bay quốc tế Newark vào lúc 8:42 sáng trên đường tới San Francisco, với 7 thành viên phi hành đoàn và 33 hành khách, chưa bao gồm 4 không tặc. Sau khi các hành khách cố gắng khống chế các không tặc, chiếc máy bay đâm vào một cánh đồng tại Xã Stonycreek gần Shanksville, Pennsylvania, lúc 10:03 sáng.
Truyền thông đưa tin trong suốt và sau vụ tấn công, bắt đầu không lâu sau vụ đâm máy bay đầu tiên vào Trung tâm Thương mại Thế giới.
Diễn biến
Vào lúc 8:46 sáng, năm không tặc lái Chuyến bay 11 của American Airlines đâm vào tầng 93 đến 99 tại mặt phía bắc của Tháp Bắc Trung tâm Thương mại Thế giới (1 WTC), vào lúc 9:03 sáng, năm không tặc khác lái Chuyến bay 175 của United Airlines đâm vào tầng 77 đến 85 tại mặt phía nam của Tháp Nam (2 WTC). Năm không tặc lái Chuyến bay 77 của American Airlines đâm vào Lầu Năm Góc vào lúc 9:37 sáng. Một chuyến bay thứ tư, Chuyến bay 93 của United Airlines, bị kiểm soát bởi bốn không tặc, bị đâm xuống gần Shanksville, Pennsylvania, đông nam Pittsburgh, vào lúc 10:03 sáng, sau khi các hành khách chống lại các không tặc. Mục tiêu của Chuyến bay 93 được tin có thể là Điện Capitol hoặc Nhà Trắng. Dữ liệu thu âm buồng lái của Chuyến bay 93 tiết lộ rằng phi hành đoàn và hành khách đã cố đoạt lại quyền kiểm soát máy bay từ các không tặc sau khi biết được qua điện thoại rằng các Chuyến bay 11, 77, và 175 đã đâm vào các tòa nhà sáng hôm đó. Sau khi nhận thấy các hành khách có khả năng chiếm đoạt lại chiếc máy bay, các không tặc đã lộn vòng máy bay và cố tình đâm nó.
Một số hành khách và thành viên phi hành đoàn gọi điện từ máy bay bằng dịch vụ điện thoại trong cabin cung cấp các chi tiết: một vài không tặc đã lên máy bay trên mỗi chuyến bay; họ sử dụng hóa chất xịt mace, hơi cay, hay bình xịt cay để vượt qua các tiếp viên; và một số người trên máy bay đã bị đâm. Các báo cáo cho thấy các không tặc đã đâm và giết chết các phi công, tiếp viên, cùng với một hoặc một vài hành khách. Theo báo cáo cuối cùng của Ủy ban 9/11, các không tặc trước đó đã mua các công cụ bằng tay đa chức năng và các loại dao tiện ích loại Leatherman với lưỡi dao khóa, lúc đó không bị cấm mang lên máy bay, nhưng sau đó được tìm thấy trong số đồ dùng của các không tặc bị bỏ lại. Một tiếp viên trên Chuyến bay 11, một hành khách trên Chuyến bay 175, và các hành khách trên Chuyến bay 93 nói rằng các không tặc có bom, nhưng một trong số hành khách nói rằng anh ta nghĩ những quả bom là giả. FBI không tìm thấy dấu vết của các chất nổ tại khu vực tai nạn, và Ủy ban 9/11 kết luận rằng những quả bom có thể là giả.
Ba tòa nhà của Trung tâm Thương mại Thế giới sụp đổ do đám cháy đã làm kết cấu bị yếu đi. Tòa Tháp Nam sụp đổ lúc 9:59 sáng sau khi bốc cháy trong vòng 56 phút gây ra bởi vụ va chạm với Chuyến bay 175 của United Airlines và nhiên liệu của chiếc máy bay phát nổ. Tòa Tháp Bắc sụp đổ lúc 10:28 sáng sau khi bốc cháy trong vòng 102 phút. Khi Tháp Bắc sụp đổ, các mảnh vụn đã rơi xuống tòa nhà Trung tâm Thương mại Thế giới số 7 gần đó (7 WTC), làm hư hại nó và gây cháy. Các đám cháy này diễn ra nhiều giờ, làm tổn hại tới cấu trúc nguyên vẹn của tòa nhà, và 7 WTC sụp đổ lúc 5:21 chiều. Mặt phía tây của Lầu Năm Góc phải chịu thiệt hại đáng kể.
Vào lúc 9:42 sáng, Cơ quan Hàng không Liên bang (FAA) ra lệnh cấm tất cả máy bay dân dụng tại Hoa Kỳ lục địa, và các máy bay dân dụng đã cất cánh được yêu cầu hạ cánh ngay lập tức. Tất cả các chuyến bay dân dụng quốc tế hoặc phải quay lại hoặc phải đổi hướng sang các sân bay tại Canada hoặc México, và bị cấm hạ cánh xuống lãnh thổ Hoa Kỳ trong ba ngày. Vụ tấn công gây ra sự lúng túng lớn giữa các hãng tin tức và các đài kiểm soát không lưu. Trong số các báo cáo tin tức chưa được xác nhận và thường mâu thuẫn được đưa trong suốt cả ngày, phổ biến nhất là tin một chiếc xe chứa bom đã được kích nổ tại trụ sở Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ ở Washington, D.C. Một chiếc máy bay khác—Chuyến bay 1989 của Delta Air Lines—bị nghi ngờ đã bị không tặc, nhưng chiếc máy bay đã phản hồi lại đài kiểm soát không lưu và hạ cánh an toàn tại Cleveland, Ohio.
Trong một buổi phỏng vấn tháng 4 năm 2002, Khalid Sheikh Mohammed và Ramzi bin al-Shibh, những người được tin là đã tổ chức vụ tấn công, nói rằng mục tiêu ban đầu của Chuyến bay 93 là Điện Capitol Hoa Kỳ, chứ không phải Nhà Trắng. Trong quá trình lên kế hoạch vụ tấn công, Mohamed Atta, không tặc và là người lái của Chuyến bay 11, nghĩ rằng Nhà Trắng có lẽ là một mục tiêu quá khó khăn và đã tham khảo ý kiến từ Hani Hanjour (người đã cướp và lái Chuyến bay 77). Mohammed nói al-Qaeda ban đầu định nhằm vào các cơ sở hạt nhân hơn là Trung tâm Thương mại Thế giới và Lầu Năm Góc, nhưng đã quyết định không chọn nó, do lo sợ rằng mọi chuyện có thể "vượt tầm kiểm soát". Các quyết định cuối cùng về mục tiêu, theo Mohammed, được giao trong tay những người lái máy bay.
Thương vong
Vụ tấn công khiến cho 2.996 người thiệt mạng và hơn 6.000 người khác bị thương. Con số thiệt mạng bao gồm 265 người trên bốn chiếc máy bay (không còn ai trên những chiếc máy bay này sống sót), 2.606 người trong Trung tâm Thương mại Thế giới và khu vực xung quanh, và 125 người tại Lầu Năm Góc. Gần như tất cả những người thiệt mạng là dân thường ngoại trừ 343 lính cứu hỏa, 72 sĩ quan hành pháp, 55 sĩ quan quân sự, và 19 tên khủng bố cũng đã thiệt mạng trong vụ tấn công. Sau New York, New Jersey là tiểu bang mất nhiều công dân nhất, trong đó thành phố Hoboken có nhiều công dân thiệt mạng nhất trong vụ tấn công. Hơn 90 quốc gia có công dân bị thiệt mạng trong vụ tấn công 11 tháng 9. Vụ tấn công 11 tháng 9 năm 2001 đã trở thành vụ tấn công khủng bố tồi tệ nhất lịch sử thế giới nói chung và tàn khốc nhất lịch sử Hoa Kỳ nói riêng (trước đó là vụ đánh bom thành phố Oklahoma năm 1995). Đây cũng là vụ tấn công từ nước ngoài chết người nhất trên lãnh thổ Hoa Kỳ kể từ vụ tấn công vào Trân Châu Cảng ngày 7 tháng 12 năm 1941.
Tại Quận Arlington, Virginia, 125 nhân viên Lầu Năm Góc mất mạng khi Chuyến bay 77 đâm vào mặt phía tây của tòa nhà. Trong đó, 70 người là dân thường và 55 người là sĩ quan quân sự, nhiều người trong số làm việc cho Quân đội Hoa Kỳ hoặc Hải quân Hoa Kỳ. Quân đội Mỹ đã mất 47 nhân viên dân sự, 6 nhân viên thầu dân sự, và 22 binh lính, trong khi Hải quân mất 6 nhân viên dân sự, 3 nhân viên thầu dân sự và 33 thủy thủ. Bảy nhân viên dân sự của Cơ quan Tình báo Quốc phòng (DIA) cũng nằm trong số người thiệt mạng trong vụ tấn công, cùng với một nhân viên thầu của Văn phòng Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (OSD). Trung tướng Timothy Maude, một Phó Chánh văn phòng Quân đội, là sĩ quan quân đội có cấp bậc cao nhất thiệt mạng tại Lầu Năm Góc.
Tại Thành phố New York, hơn 90% nhân viên và du khách thiệt mạng trong hai tòa tháp đang làm việc và tham quan tại các tầng bị va chạm hoặc cao hơn. Tại Tòa tháp Bắc, 1.355 người đang ở phía trên hoặc ngay vùng va chạm hoặc là đã chết do ngạt khói, hoặc đã ngã hay nhảy khỏi tòa nhà để tránh khói và lửa, hoặc đã chết khi tòa nhà đổ sập. Sự va chạm mạnh của Chuyến bay 11 đã làm hư hỏng tất cả ba cầu thang bộ, khiến bất cứ ai ở phía trên vùng va chạm không thể thoát ra. 107 người phía dưới đó cũng đã thiệt mạng.
Tại Tòa tháp Nam, một cầu thang bộ, Cầu thang A, còn sử dụng được sau khi Chuyến bay 175 đâm vào, giúp 14 người tại tầng va chạm (gồm cả một người đàn ông đã chứng kiến chiếc máy bay bay tới chỗ ông) và bốn người nữa phía trên thoát ra ngoài. Các nhân viên điều phối tổng đài 911 của Thành phố New York nhận được các cuộc gọi của những người bên trong tòa tháp đã không nắm bắt được chính xác thông tin tình hình đang diễn ra, nên họ đã khuyên những người gọi điện không nên tự thoát ra khỏi tòa tháp. Trong tống cộng 630 người thiệt mạng trong hai tòa tháp, gần một nửa là từ Tòa tháp Bắc. Số thương vong tại Tòa tháp Nam được giảm đi đáng kể do trước đó nhiều người đã sơ tán khi Tòa tháp Bắc bị va chạm.
Ít nhất 200 người đã thiệt mạng do nhảy hoặc rơi xuống khỏi tòa tháp (một ví dụ nổi bật là bức ảnh The Falling Man), rơi xuống đường phố và nóc các tòa nhà lân cận hàng chục tới hàng trăm mét bên dưới. Một số người ở phía trên vùng va chạm đã lên tới được nóc để xin cứu trợ qua trực thăng, nhưng cửa để lên nóc đã bị khóa. Không hề có một kế hoạch giải cứu trực thăng nào được đề ra, và các trực thăng cũng không thể tiếp cận tòa nhà do thiếu dụng cụ trên nóc, khói dày đặc và nhiệt độ cao do lửa.
Tổng cộng 411 nhân viên cứu hộ đã thiệt mạng khi cố gắng giải cứu người mắc kẹt và dập lửa. Sở Cứu hỏa Thành phố New York (FDNY) đã mất 343 lính cứu hỏa, bao gồm một tuyên úy và hai nhân viên y tế. Sở Cảnh sát Thành phố New York (NYPD) cũng mất 23 sĩ quan. Sở Cảnh sát Quản lý Cảng (PAPD) mất 37 sĩ quan. Tám kỹ thuật viên y tế khẩn cấp (EMT) và nhân viên y tế từ các đơn vị dịch vụ y tế khẩn cấp tư nhân cũng đã thiệt mạng.
Cantor Fitzgerald L.P., một ngân hàng đầu tư có trụ sở làm việc trên các tầng 101–105 của Tòa tháp Bắc, đã mất 658 nhân viên, nhiều hơn đáng kể so với bất kỳ công ty nào khác. Marsh Inc., nằm ngay dưới Cantor Fitzgerald trên các tầng 93–100, mất 358 nhân viên, và 175 nhân viên của Aon Corporation cũng đã thiệt mạng. Viện Tiêu chuẩn và Kỹ thuật quốc gia (NIST) ước tính khoảng 17.400 dân thường đang ở trong khu phức hợp Trung tâm Thương mại Thế giới vào thời điểm tấn công. Số lượng đếm được từ cửa xoay của Quản lý Cảng cho thấy 14.154 người đang ở trong Tòa Tháp Đôi cho tới 8:45 sáng. Hầu hết những người phía bên dưới vùng va chạm đã rời khỏi tòa nhà an toàn.
Vài tuần sau vụ tấn công, con số thiệt mạng được ước tính sẽ vượt quá 6.000, nhiều hơn gấp đôi số lượng người chết được xác nhận sau đó. Thành phố chỉ nhận dạng được thi thể của khoảng 1.600 nạn nhân Trung tâm Thương mại Thế giới. Văn phòng pháp y đã thu thập được "khoảng 10.000 mẩu xương và các phần mô chưa thể xác nhận là phù hợp với danh sách tử vong". Các mẩu xương vẫn còn được tìm thấy sau đó vào năm 2006 khi các công nhân đang chuẩn bị phá hủy Tòa nhà Deutsche Bank bị hư hại. Vào năm 2010, một nhóm các nhà nhân chủng học và nhà khảo cổ học đã tìm kiếm các thi thể và vật dụng cá nhân tại Bãi thải Fresh Kills, nơi mà thêm 72 phần thi thể nữa được khôi phục, đưa tổng số thi thể được tìm thấy lên 1.845. Quá trình giám định DNA vẫn được tiếp tục để nhận dạng thêm các nạn nhân. Các thi thể đang được lưu trữ tại Công viên Tưởng niệm, bên ngoài văn phòng Pháp y Thành phố New York. Các thi thể được dự kiến sẽ được di chuyển vào năm 2013 tới một kho chứa đằng sau một bức tường tại bảo tàng 11/9. Vào tháng 7 năm 2011, một nhóm các nhà khoa học tại Văn phòng Trưởng Pháp y vẫn đang cố gắng nhận dạng các thi thể, hi vọng rằng các công nghệ cải tiến sẽ giúp họ nhận dạng các nạn nhân khác. Vào ngày 20 tháng 3 năm 2015, nạn nhân thứ 1.640 được nhận dạng. Hiện vẫn còn 1.113 nạn nhân khác chưa được nhận dạng.
Thiệt hại
Cùng với hai Tòa Tháp Đôi 110 tầng, nhiều tòa nhà khác tại khu vực Trung tâm Thương mại Thế giới cũng bị phá hủy hoặc hư hại nặng, bao gồm các tòa nhà WTC từ số 3 tới 7 và Nhà thờ Hy Lạp Chính thống St. Nicholas. Tòa tháp Bắc, Tòa tháp Nam Khách sạn Marriott (3 WTC), và 7 WTC bị phá hủy hoàn toàn. Nhà Hải quan Hoa Kỳ (Trung tâm Thương mại Thế giới số 6), Trung tâm Thương mại Thế giới số 4, Trung tâm Thương mại Thế giới số 5, cùng với hai cầu đi bộ nối các tòa nhà bị hư hại nặng nề. Tòa nhà Deutsche Bank ở số 130 Phố Liberty bị hư hại một phần và bị cho tháo dỡ vài năm sau đó, bắt đầu từ năm 2007. Hai tòa nhà của Trung tâm Tài chính Thế giới cũng bị hư hại.
Tòa nhà Deutsche Bank trên Phố Liberty phía đối diện khu phức hợp Trung tâm Thương mại Thế giới sau đó được coi là khu vực không thể sinh sống do khí độc bên trong tòa nhà, và đã được tháo dỡ. Hội trường Fiterman của trường Cao đẳng Cộng đồng Quận Manhattan tại số 30 Phố West Broadway cũng bị phong tỏa do hư hại sau vụ tấn công, và hiện đang được xây lại. Các tòa nhà xung quanh khác (bao gồm 90 West Street và Tòa nhà Verizon) cũng bị hư hại lớn nhưng đã được sửa chữa. Các tòa nhà Trung tâm Tài chính Thế giới, One Liberty Plaza, Millenium Hilton, và 90 Church Street chịu hư hại không lớn và cũng đã được sửa chữa. Các thiết bị liên lạc trên Tòa tháp Bắc cũng bị phá hủy, nhưng các đài truyền thông đã nhanh chóng chuyển tín hiệu sang các tuyến khác và phát sóng trở lại.
Lầu Năm Góc bị thiệt hại nặng nề do va chạm với Chuyến bay 77 của American Airlines và đám cháy sau đó, khiến một đoạn của tòa nhà sụp đổ. Khi đâm vào Lầu Năm Góc, cánh của máy bay đã làm đổ nhiều cột đèn và động cơ phải của nó đã đâm vào một máy phát điện trước khi đâm vào cạnh tây của tòa nhà. Phần trên của thân máy bay đã bị nghiền nát khi va chạm, trong khi phần giữa và đuôi tiếp tục di chuyển thêm vài phần giây nữa. Mảnh vỡ từ phần đuôi đã thâm nhập sâu nhất vào tòa nhà, xuyên qua của ba trong số năm vòng của tòa nhà.
Nỗ lực cứu hộ
Sở Cứu hỏa Thành phố New York đã huy động 200 đơn vị (hơn một nửa tổng số) tới Trung tâm Thương mại Thế giới. Họ được trợ giúp thêm bởi nhiều lính cứu hỏa khác không có nhiệm vụ và các kỹ thuật viên y tế khẩn cấp. Sở Cảnh sát Thành phố New York đã cử Đơn vị Dịch vụ Khẩn cấp và các sĩ quan cảnh sát khác, cùng với đơn vị hàng không của Sở. Khi tới hiện trường, FDNY, NYPD, và PAPD đã không phối hợp mà thực hiện nhiều đợt tìm kiếm người dân đầy chậm chạp. Khi tình hình trở nên xấu đi, đơn vị hàng không của NYPD đã truyền các thông tin cho các chỉ huy cảnh sát, những người đã ra lệnh các sĩ quan sơ tán khỏi hai tòa nhà; hầu hết các sĩ quan NYPD đã rời khỏi hai tòa nhà an toàn trước khi sập. Với nhiều lệnh khác nhau được đưa ra cùng với liên lạc radio không tương thích giữa các cơ quan, các cảnh báo đã không tới được các chỉ huy FDNY.
Sau khi tòa tháp thứ nhất sụp đổ, các chỉ huy FDNY đã ra lệnh sơ tán; tuy nhiên, do khó khăn về kỹ thuật với hệ thống tiếp sóng radio đã bị hư hại, nhiều lính cứu hỏa không thể nghe thấy lệnh sơ tán. Các điều phối viên 9-1-1 nhận được thông tin từ người gọi đã không thể đưa được chúng tới những người chỉ huy tại hiện trường. Sau vụ tấn công vài giờ, một chiến dịch tìm kiếm và giải cứu lớn được bắt đầu. Sau vài tháng làm việc liên tục, khu vực Trung tâm Thương mại Thế giới được dọn sạch vào cuối tháng 5 năm 2002.
Tác động
Chính phủ Hoa Kỳ qui trách nhiệm cho tổ chức khủng bố al-Qaeda về vụ tấn công 11/9. Tổ chức này từng nhận đã tấn công các mục tiêu quân sự và dân chính của Hoa Kỳ tại châu Phi và Trung Đông. Osama bin Laden, bác bỏ mọi dính líu cũng không nhận mình đã biết trước cuộc tấn công. Trước đó, bin Laden đã tuyên bố thánh chiến chống lại Hoa Kỳ. Sau thảm hoạ này, chính phủ Hoa Kỳ công bố Al-Qaeda và bin Laden là thủ phạm chính.
Tháng 11 năm 2001, lực lượng Hoa Kỳ cho phục hồi một băng video tìm thấy trong một căn nhà bị phá huỷ tại Jalalabad, Afghanistan, cuộn băng cho thấy Osama bin Laden đang nói chuyện với Khaled al-Harbi. Trong cuộn băng, bin Laden thừa nhận đã lập kế hoạch cho cuộc tấn công. Trong thế giới Hồi giáo, người ta tỏ vẻ hoài nghi về tính xác thực của cuộn băng này: "Phóng viên tại Trung Đông của đài BBC, Frank Gardner, nói rằng trên đường phố trong thế giới Ả Rập, nhiều người tin rằng đây chỉ là một thủ thuật tuyên truyền của chính phủ Mỹ". Cuốn băng được phát sóng trên nhiều mạng tin tức khác nhau trong tháng 12 năm 2001.
Ngày 16 tháng 9 năm 2001, Osama bin Laden đáp trả bằng cách đọc một bản tuyên bố, "Tôi nhấn mạnh rằng tôi không tiến hành điều này, nó được thực hiện bởi các cá nhân với mục tiêu riêng của họ". Bản tuyên bố được phát sóng trên kênh vệ tinh Al Jazeera của Qatar, cũng được phát sóng trên mạng lưới tin tức của Hoa Kỳ và thế giới. Phản ứng thứ hai của bin Laden xuất hiện vào ngày 28 tháng 11 trên Daily Ummat, một tờ nhật báo của Pakistan, "Tôi đã nói rằng tôi không dính líu đến các cuộc tấn công 11 tháng 9 tại Mỹ. Là một người Hồi giáo, tôi cố làm hết sức mình để khỏi phải nói dối. Tôi không biết gì về vụ tấn công, cũng không hề xem việc tàn sát phụ nữ và trẻ em vô tội, cùng những nhân mạng khác là một hành động thích đáng. Hồi giáo nghiêm cấm việc gây tổn hại cho phụ nữ, trẻ em vô tội và những người khác. Một hành vi như thế bị cấm đoán ngay cả khi đang ở trong thời chiến".
Tuy nhiên, không lâu sau cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 2004, trong một thông báo ghi âm sẵn, bin Laden công khai thừa nhận sự dính líu của Al-Qaeda vào vụ tấn công, và nhận có quan hệ trực tiếp với vụ tấn công. Ông ta nói rằng cuộc tấn công được thực hiện bởi vì "chúng tôi là một dân tộc tự do không chịu chấp nhận bất công, và chúng tôi muốn giành lại tự do cho dân tộc chúng tôi".
Ngày 27 tháng 9 năm 2001, FBI thông báo hình ảnh của 19 không tặc, cùng các thông tin liên quan đến quốc tịch và bí danh của nhiều nghi can. Mười lăm không tặc đến từ Ả Rập Xê Út, hai từ Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất, một từ Ai Cập, và một từ Liban. Khác với nhân thân thường thấy của những kẻ đánh bom cảm tử, họ đều là những người trưởng thành và có học thức.
Theo kết luận của Ủy ban 9/11 trong bản tường trình ngày 22 tháng 6 năm 2004, cuộc tấn công được lập kế hoạch và tiến hành bởi các đặc vụ của al-Qaeda. Ủy ban cho rằng al-Qaeda chi một khoản tiền từ 400.000 USD – 500.000 USD để lập kế hoạch và tiến hành vụ tấn công, nhưng nguồn gốc số tiền trên vẫn chưa được xác minh.
Nguyên nhân
Theo nguồn tin chính thức từ chính phủ Hoa Kỳ, vụ tấn công 11 tháng 9 là phù hợp với những gì Al-Qaeda tự nhận là sứ mạng của mình. Al-Qaeda bị nghi ngờ dính líu vào những vụ đánh bom các sứ quán Mỹ tại Kenya và Tanzania, tổ chức này cũng nhận trách nhiệm vụ tấn công khu trục hạm USS Cole của Hải quân Hoa Kỳ tại Yemen năm 2000.
Theo Hoa Kỳ, sự kiện 11/9 là một phần trong kế hoạch "giết người Mỹ ở tất cả những nơi nào trên thế giới có thể" mà bin Laden đưa ra. Chiến dịch khủng bố này lợi dụng niềm tin tôn giáo và khởi phát từ một giáo lệnh (fatwa) ban hành năm 1998 bởi bin Laden, Ayman al-Zawahiri, Abu-Yasir Rifa'i Ahmad Taha, Shaykh Mir Hamzah, và Fazlur Rahman. Giáo lệnh này mở đầu với phần trích dẫn kinh Koran, "hãy giết những kẻ ngoại giáo bất cứ nơi nào ngươi tìm thấy chúng", và đi đến kết luận "nghĩa vụ của mỗi người Hồi giáo" là "giết người Mỹ ở khắp mọi nơi.". Họ cáo buộc Hoa Kỳ:
Bóc lột nguồn tài nguyên vùng bán đảo Ả Rập.
Lũng đoạn nền chính trị của các quốc gia trong vùng.
Ủng hộ những chế độ và các vương triều bóc lột người dân trong khu vực Trung Đông, tức là áp bức nhân dân.
Đặt các căn cứ quân sự tại bán đảo Ả Rập, tức là xâm phạm đất thánh của người Hồi giáo, nhằm mục tiêu đe doạ các nước Hồi giáo láng giềng.
Âm mưu tạo mối bất hoà giữa các quốc gia Hồi giáo để làm suy yếu sức mạnh chính trị của khối này.
Ủng hộ Israel và nỗ lực hướng sự quan tâm của quốc tế khỏi việc chiếm đóng Palestine.
Cuộc chiến Vùng Vịnh, kế đó là lệnh cấm vận và các vụ oanh tạc Iraq thực hiện bởi Hoa Kỳ, gần đây được trích dẫn như là chứng cớ cho những cáo buộc của bản giáo lệnh. Ngược lại với thái độ bất đồng của những người Hồi giáo ôn hoà, giáo lệnh này sử dụng các văn bản Hồi giáo nhằm biện minh cho những hành động bạo lực chống lại quân đội và công dân Mỹ cho đến khi tình hình được thay đổi: tuyên bố rằng "toàn thể chức sắc suốt trong dòng lịch sử Hồi giáo hoàn toàn đồng ý rằng thánh chiến (jihad) là bổn phận của mỗi cá nhân khi kẻ thù tìm cách hủy diệt các quốc gia Hồi giáo".
Những thông báo của Al-Qaeda ghi nhận được từ sau 11 tháng 9 hỗ trợ cho sự suy đoán này. Trong một băng video năm 2004, bin Laden rõ ràng là thừa nhận trách nhiệm trong vụ tấn công và nói rằng những hành động này là để "phục hồi sự tự do cho dân tộc chúng ta", để "trừng phạt kẻ xâm lược" và để phá hoại nền kinh tế nước Mỹ. bin Laden tuyên bố rằng mục tiêu kéo dài của cuộc thánh chiến là "làm chảy máu nước Mỹ đến khi nước này kiệt sức".
Cả Hoa Kỳ và Al-Qaeda đều cố trình bày cuộc tranh chấp này là cuộc chiến giữa Thiện và Ác.
Bản báo cáo của Ủy ban 9/11 khẳng định rằng thái độ thù nghịch của Khalid Shaikh Mohamed, người được xem là "kiến trúc sư trưởng" của vụ tấn công 9/11, xuất phát từ "sự bất đồng dữ dội với chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ ủng hộ Israel". Động cơ tương tự cũng được quy cho tên không tặc lái máy bay đâm vào toà tháp đôi WTC: Mohamed Atta được miêu tả bởi Ralph Bodenstein – người từng du hành, làm việc và nói chuyện với anh ta – như là "hoàn toàn tin rằng Hoa Kỳ muốn bảo vệ Israel".
Tuy nhiên, giáo lệnh năm 1998 của bin Laden được ban hành vào thời điểm ra đời thoả hiệp Oslo về Israel và Palestine, khi các bên tin rằng cuộc tranh chấp đang đến lúc chấm dứt bằng các thỏa hiệp.
Ngược lại, chính phủ Bush cho rằng Al-Qaeda bị thúc đẩy bởi lòng căm thù tinh thần tự do và dân chủ thể hiện bởi nước Mỹ, trong khi những nhà phân tích độc lập cho rằng động cơ chính của Al-Qaeda là khuyến khích tinh thần đoàn kết Hồi giáo bằng cách tập chú vào một kẻ thù chung, như thế về lâu về dài giúp dọn đường cho sự hình thành một trật tự thế giới mới theo cung cách Hồi giáo quá khích.
Hậu quả
Vụ tấn công 11/9 đã ngay lập tức gây ra những phản ứng khác nhau, bao gồm những phản ứng trong nước, các tội phạm thù ghét, những phản ứng của người Hồi giáo trước sự kiện, những phản ứng của cộng đồng quốc tế với vụ việc, và các phản ứng của quân đội. Một chương trình bồi thường lớn đã nhanh chóng được bắt đầu bởi Quốc hội sau vụ việc để bồi thường cho các nạn nhân và gia đình của họ trong vụ tấn công.
Phản ứng trực tiếp
Vào lúc 8:32 sáng, FAA được thông báo Chuyến bay 11 đã bị không tặc và đã chuyển thông tin cho Bộ Chỉ huy Phòng không Bắc Mỹ (NORAD). NORAD đã điều hai chiếc F-15s từ Khu căn cứ Phòng không Otis tại Massachusetts và cả hai xuất phát lúc 8:53 sáng. Do liên lạc từ FAA bị chậm và không chắc chắn, NORAD chỉ chú ý tới Chuyến bay 11 trong vòng 9 phút, và không biết thêm thông tin gì về các chuyến bay khác trước khi chúng va chạm. Tới khi cả hai tòa tháp đã bị đâm thì mới có thêm chiến sĩ từ Khu căn cứ Không quân Langley tại Virginia vào lúc 9:30 sáng. Vào lúc 10:20 sáng, Phó Tổng thống Dick Cheney ra lệnh bắn hạ bất cứ máy bay dân dụng nào có khả năng được xác định là bị không tặc. Tuy nhiên, những mệnh lệnh này đã không tới kịp các chiến sĩ đang làm nhiệm vụ. Một số chiến sĩ lên đường xuất phát mà không được trang bị đạn dược, biết rằng để ngăn không tặc tấn công mục tiêu đã định sẵn, các phi công có thể sẽ phải can thiệp và đâm máy bay của mình vào các máy bay bị không tặc, và có thể sẽ phải thoát ra những giây cuối cùng.
Lần đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ, Kế hoạch Kiểm soát An ninh Không phận và Không lưu (SCATANA) được kích hoạt, khiến hàng chục nghìn hành khách bị kẹt lại sân bay trên khắp thế giới. FAA đã đóng cửa không phận Mỹ với tất cả các chuyến bay quốc tế, khiến khoảng năm trăm chuyến bay phải quay lại hoặc chuyển hướng sang các quốc gia khác. Canada đã tiếp nhận 226 chuyến bay chuyển hướng và phải bắt đầu Chiến dịch Ruy băng Vàng để giải quyết số lượng lớn máy bay và hành khách bị kẹt lại tại đây.
Vụ tấn công 11/9 ngay lập tức tác động lên người dân Mỹ. Các sĩ quan cảnh sát và cứu hộ khắp đất nước cho dù đang trong ngày nghỉ, đã tới Thành phố New York để giúp nhận dạng các thi thể từ trong đống đổ nát của Tòa Tháp Đôi. Các hoạt động hiến máu khắp nước Mỹ cũng trở nên sôi động trong tuần sau vụ tấn công.
Hơn 3.000 trẻ em có cha hoặc mẹ thiệt mạng trong vụ tấn công. Các nghiên cứu sau đó đã ghi lại được phản ứng của những đứa trẻ về những mất mát và nỗi lo mất mất mạng sống, môi trường chăm sóc sau vụ tấn công và ảnh hưởng lên những người chăm sóc còn sống sót.
Phản ứng trong nước
Sau vụ tấn công, tỷ lệ ủng hộ Tổng thống Bush tăng vọt lên 90%. Vào ngày 20 tháng 9 năm 2001, ông phát biểu trước toàn thể người dân và Quốc hội về sự kiện ngày 11 tháng 9 và những nỗ lực giải cứu và tái thiết trong chín ngày sau đó, và nói về những dự định của ông để phản ứng lại trước vụ tấn công. Vai trò to lớn của Thị trưởng Thành phố New York Rudy Giuliani đã giúp ông được khen ngợi không chỉ ở New York mà trên toàn quốc.
Nhiều quỹ ủng hộ được lập nên nhanh chóng để hỗ trợ các nạn nhân, với nhiệm vụ chính nhằm hỗ trợ về mặt tài chính cho những người sống sót sau vụ tấn công và các gia đình nạn nhân. Cho đến hạn chót ngày 11 tháng 9 năm 2003, 2.833 đơn xin bồi thường từ các gia đình nạn nhân đã được gửi đi.
Các phương án khẩn cấp để duy trì hoạt động của chính phủ và sơ tán các lãnh đạo cấp cao được triển khai ngay sau vụ tấn công. Tuy nhiên, Quốc hội vẫn chưa được thông báo về tình trạng tiếp tục hoạt động của chính phủ cho tới tháng 2 năm 2002.
Trong một nỗ lực tái cơ cấu chính phủ Hoa Kỳ lớn nhất trong lịch sử đương thời, Hoa Kỳ thực thi Đạo luật An ninh Nội địa vào năm 2002, thành lập nên Bộ An ninh Nội địa. Quốc hội cũng thông qua Đạo luật USA PATRIOT, cho rằng nó sẽ giúp phát hiện và truy tố các hành vi khủng bố và tội phạm khác. Các nhóm tự do dân sự đã chỉ trích Đạo luật PATRIOT, cho rằng nó cho phép cơ quan hành pháp xâm phạm vào sự riêng tư của công dân và loại bỏ đi quyền quản lý về mặt pháp lý các cơ quan hành pháp và tình báo trong nước. Trong một nỗ lực nhằm chống lại các hành động khủng bố trong tương lai, Cơ quan An ninh Quốc gia (NSA) được trao thêm quyền hạn. NSA đã bắt đầu giám sát không cần cho phép các phương tiện viễn thông, việc làm đôi khi bị chỉ trích vì cho phép cơ quan này "nghe lén điện thoại và liên lạc thư điện tử giữa Hoa Kỳ và những người ở hải ngoại mà không có sự đồng ý". Phản hồi trước những yêu cầu bởi nhiều cơ quan tình báo, Tòa án Giám sát Tình báo Nước ngoài Hoa Kỳ đã cho phép chính phủ Hoa Kỳ được mở rộng quyền hạn trong việc tìm kiếm, thu thập và chia sẻ thông tin từ công dân Hoa Kỳ cũng như những người nước ngoài trên toàn thế giới.
Tội phạm thù ghét
Một thời gian ngắn sau vụ tấn công, Tổng thống Bush đã có buổi xuất hiện công chúng tại Trung tâm Hồi giáo lớn nhất Washington và thừa nhận "sự cống hiến cực kỳ giá trị" mà hàng triệu người Hồi giáo Mỹ đã làm cho đất nước và kêu gọi họ nên được "đối xử với sự tôn trọng".
Tuy nhiên, hàng loạt vụ việc quấy rối và tội phạm thù ghét chống lại người Hồi giáo và Nam Á đã được báo cáo trong những ngày sau vụ tấn công. Những người Sikh cũng bị nhằm vào vì nam giới theo đạo Sikh thường đeo khăn turban, loại khăn thường bị cho là có liên quan tới người Hồi giáo. Người ta đã báo cáo về những vụ tấn công tại các nhà thờ cùng với những địa điểm tôn giáo khác (bao gồm một vụ đánh bom tại một ngôi đền Hindu), và những vụ tấn công người, trong đó có một vụ sát hại: Balbir Singh Sodhi, một người Sikh bị nhầm là theo đạo Hồi, bị bắn chết vào ngày 15 tháng 9 năm 2001 ở Mesa, Arizona.
Theo một nghiên cứu học thuật, những người được coi là từ Trung Đông có khả năng trở thành nạn nhân của những vụ tội phạm thù ghét chống lại người theo đạo Hồi trong thời gian này. Nghiên cứu cũng cho thấy sự gia tăng tương tự các tội phạm thù ghét chống lại những người được coi là người Hồi giáo, Ả Rập và những người khác bị cho là có nguồn gốc Trung Đông. Một báo cáo của một nhóm vận động những người Mỹ gốc Nam Á có tên là South Asian Americans Leading Together, đã ghi lại những bài viết truyền thông về 645 vụ việc tấn công thù ghét những người Mỹ gốc Nam Á hoặc Trung Đông từ ngày 11 tới 17 tháng 9. Nhiều loại tội phạm như phá hoại, cố ý đốt nhà, tấn công, xả súng, hành hung và đe dọa ở nhiều nơi đã được ghi lại.
Phản ứng của người Hồi giáo Mỹ
Các tổ chức Hồi giáo tại Mỹ đã nhanh chóng lên án vụ tấn công và kêu gọi "người Mỹ Hồi giáo bằng khả năng và nguồn lực của mình giúp làm dịu đi nổi đau của những người và gia đình bị ảnh hưởng". Các tổ chức này bao gồm Cộng đồng Hồi giáo Bắc Mỹ (Islamic Society of North America), Liên minh Hồi giáo Mỹ (American Muslim Alliance), Hội đồng Hồi giáo Mỹ (American Muslim Council), Hội đồng Quan hệ Mỹ-Hồi giáo (Council on American-Islamic Relations), Nhóm Hồi giáo Bắc Mỹ (Islamic Circle of North America) và Hiệp hội Học giả Shari'a Bắc Mỹ (Shari'a Scholars Association of North America). Cùng với việc quyên góp tiền, nhiều tổ chức Hồi giáo còn tham gia hiến máu, trợ giúp về y tế, thức ăn và chỗ ở cho các nạn nhân.
Phản ứng quốc tế
Vụ tấn công đã bị lên án mạnh mẽ bởi giới truyền thông và các chính phủ trên toàn cầu. Hầu hết các quốc gia khắp thế giới đã bày tỏ sự đồng cảm và mong muốn hỗ trợ cho nước Mỹ, kể cả những nước có quan hệ thù địch với Mỹ vào thời điểm đó như Cuba, Iran, Libya và Bắc Triều Tiên.. Các nước Albania, Ireland, Israel, Canada, Croatia, Hàn Quốc và Cộng hòa Séc đã tuyên bố quốc tang một ngày.
Các hoạt động tưởng niệm đã diễn ra ở rất nhiều nước trên thế giới, kể cả các hoạt động có tổ chức lẫn các hoạt động tự phát. Ở Thụy Điển, Na Uy và Phần Lan, những chiếc xe điện và xe buýt đi trên đường đã tạm dừng lại để bày tỏ lòng thương tiếc, và ở Nga, các đài truyền hình và đài phát thanh đã giành một phút im lặng để tưởng nhớ những người chết vô tội. Ở Hungary, lính cứu hỏa buộc những chiếc ruy băng đen vào xe cứu hỏa của họ để tưởng niệm các nạn nhân trong vụ khủng bố. Ở Azerbaijan, Nhật Bản, Greenland, Bulgaria và Tajikistan, mọi người tập trung đông đảo tại các quảng trường, cùng nhau thắp nến cầu nguyện và thì thầm những lời chúc tốt đẹp. Trên đường phố thủ đô Pretoria của Nam Phi, những đứa trẻ ngồi trên vai của cha mẹ chúng, trên tay vẫy những lá cờ Mỹ. Hàng ngàn người dân ở Indonesia tập trung trên một bãi biển để cầu nguyện cho những người xấu số. Ở Moscow, đã ghi lại hình ảnh những người phụ nữ Nga không biết nói tiếng Anh và chưa từng đến Mỹ đang khóc nức nở trước một khu vực tưởng niệm tạm bợ trên vỉa hè dành cho các nạn nhân của vụ tấn công. Tại Bắc Kinh, hàng chục ngàn người đã đến thăm Đại sứ quán Hoa Kỳ, để lại hoa, thiệp, vòng hoa tang lễ và những lá thư viết tay chia buồn. Ở Bỉ, mọi người nắm tay nhau, tạo thành một hàng dài người trước Trung tâm Thương mại Thế giới Brussels, cùng với đó là hàng trăm ngàn người ở Canada, Albania và Sierra Leone đã diễu hành trên đường phố nhằm thể hiện sự đoàn kết với người dân Mỹ .
Ở Pháp, tiếng chuông huyền thoại của nhà thờ Đức Bà vang vọng khắp thủ đô Paris để tưởng nhớ tất cả những người đã thiệt mạng trong vụ khủng bố. Tờ báo Pháp Le Monde xuất bản một bài viết đăng lên trang nhất với tựa đề: "ngày hôm nay, tất cả chúng ta đều là người Mỹ" .
Cả thế giới cùng hướng về nước Mỹ: người Cuba cung cấp vật tư y tế, người Kyrgyzstan, Turkmenistan, Uzbekistan và Kazakhstan cung cấp hỗ trợ hàng không, người Israel và Kuwait xếp hàng tham gia hiến máu, cùng với đó là hàng chục nhà lãnh đạo thế giới khác tuyên bố sát cánh với nước Mỹ trong cuộc chiến chống khủng bố . Giáo hoàng John Paul II đọc một bài diễn văn tại Quảng trường Thánh Peter, trong đó ông gọi vụ khủng bố là "một cuộc tấn công kinh hoàng chống lại nền hòa bình" và "một cuộc tấn công khủng khiếp chống lại phẩm giá con người": "Tôi cầu xin Chúa ban cho người dân Mỹ sức mạnh và lòng can đảm mà họ cần vào thời khắc đau buồn và đầy thử thách này" .
Các nhà lãnh đạo ở hầu hết các quốc gia Trung Đông và thậm chí cả chính quyền Taliban ở Afghanistan cũng đã lên án vụ tấn công. Riêng Iraq là một ngoại lệ, với một tuyên bố chính thức của nhà lãnh đạo Saddam Hussein rằng: "những gã cao bồi Mỹ đang hứng chịu hậu quả tội ác của họ chống lại nhân loại".. Tuy vậy, vài tháng sau đó, Saddam Hussein cũng đã gửi email cho một công dân Mỹ để gửi lời chia buồn cá nhân về vụ tấn công ngày 11 tháng 9 . Chính phủ Ả Rập Xê Út đã chính thức phản đối vụ tấn công, mặc dù một số người ở đây ủng hộ động cơ của bin Laden. Mặc dù Tổng thống Chính quyền Palestine (PA) Yasser Arafat cũng đã lên tiếng phản đối, người ta đã báo cáo về một số buổi ăn mừng tại Bờ Tây, Dải Gaza và Đông Jerusalem—các phóng viên đã quay lại được cảnh 3.000 người Palestine đang nhảy múa trên đường phố và phân phát kẹo ở Nablus bất chấp các cảnh báo của PA rằng họ không thể đảm bảo sự an toàn của các nhà báo tác nghiệp tại đây. Các sự kiện tương tự cũng diễn ra tại Amman, Jordan, nơi có nhiều người gốc Palestine. Giống như tại Hoa Kỳ, vụ tấn công đã làm gia tăng căng thẳng giữa các nước Hồi giáo và các nước khác.
Nghị quyết 1368 của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đã lên án vụ tấn công, và bày tỏ sự sẵn sàng chuẩn bị các bước cần thiết nhằm đáp trả và đấu tranh với mọi loại hình khủng bố theo như Hiến chương của họ. Nhiều nước đã đưa ra các luật chống khủng bố và đóng băng các tài khoản ngân hàng nghi là có dính líu tới al-Qaeda. Các cơ quan hành pháp và tình báo ở một số nước đã bắt giữ các tên khủng bố bị tình nghi.
Thủ tướng Anh Tony Blair cho biết nước Anh "sát cánh" cùng với Hoa Kỳ. Một vài ngày sau đó, Blair đã bay tới Washington để khẳng định sự đoàn kết của Anh với Hoa Kỳ. Trong một bài phát biểu trước Quốc hội chín ngày sau vụ tấn công, khi đó Blair đã tới dự với tư cách khách mời, Tổng thống Bush tuyên bố "Nước Mỹ không có người bạn nào đích thực hơn Anh." Sau đó, Thủ tướng Blair đã bắt đầu hai tháng ngoại giao kêu gọi quốc tế hành động quân sự; ông đã tổ chức 54 cuộc hợp với các nhà lãnh đạo thế giới và đã di chuyển hơn 60.000 km.
Hàng chục ngàn người đã tìm cách thoát khỏi Afghanistan sau vụ tấn công do lo sợ bị Hoa Kỳ đáp trả. Pakistan, đã là nơi ở của nhiều người Afghanistan tỵ nạn từ các cuộc xung đột trước đó, đã phải đóng cửa biên giới với Afghanistan vào ngày 17 tháng 9 năm 2001. Khoảng một tháng sau vụ tấn công, Hoa Kỳ dẫn đầu một liên minh quân sự quốc tế nhằm lật đổ lực lượng Taliban khỏi Afghanistan do đã che giấu cho al-Qaeda. Mặc dù chính quyền Pakistan ban đầu không tham gia vào khối liên minh với Hoa Kỳ chống lại Taliban, họ vấn cho phép đổ bộ vào các căn cứ quân sự của họ, và đã bắt giữ và bàn giao cho Hoa Kỳ hơn 600 người bị tình nghi là thành viên của al-Qaeda.
Hoa Kỳ đã dựng lên trại giam Vịnh Guantanamo nhằm giữ những tù binh được xác định là "binh sĩ địch bất hợp pháp". Tính hợp pháp của những trại giam này đã bị Liên minh châu Âu và các tổ chức nhân quyền đặt dấu hỏi.
Vào ngày 25 tháng 9 năm 2001, Tổng thống thứ năm của Iran, Mohammad Khatami trong cuộc gặp với Ngoại trưởng Anh Jack Straw đã nói: "Iran hoàn toàn hiểu được cảm giác của người Mỹ về các cuộc tấn công khủng bố tại New York và Washington vào ngày 11 tháng 9." Ông nói rằng mặc dù chính quyền Mỹ dù đã không có quan tâm tới các chiến dịch khủng bố tại Iran (từ năm 1979), người Iran vẫn có cảm nhận khác và đã bày tỏ sự đồng cảm với các gia đình nạn nhân ở Mỹ trong thảm kịch tại hai thành phố này. Ông cũng nói rằng "Các quốc gia không nên bị trừng phạt, mà là những kẻ khủng bố." Theo trang web của Radio Farda, khi tin tức về vụ tấn công được phát đi, một số công dân Iran đã tụ tập trước cửa Đại sứ quán Thụy Sỹ tại Tehran, là cơ quan đại diện cho quyền lợi của Hoa Kỳ tại Iran, để bày tỏ sự cảm thông và một số người còn thắp những ngọn nến để tỏ lòng tiếc thương. Bài viết này trên trang web của Radio Farda cũng cho biết vào năm 2011, vào ngày kỷ niệm vụ tấn công, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã đăng tải một bài viết trên trang blog của Bộ, cảm ơn sự cảm thông của người dân Iran và nói rằng họ sẽ không bao giờ quên lòng tốt của người Iran trong những ngày khó khăn ấy. Sau vụ tấn công, cả Tổng thống và Lãnh tụ Tối cao của Iran đã lên án vụ tấn công này. BBC và tạp chí Time đã xuất bản các tin bài về những buổi thắp nến tưởng niệm cho các nạn nhân vụ tấn công bởi những người dân Iran trên trang web của họ. Theo Politico Magazine, sau vụ tấn công, Sayyed Ali Khamenei, Lãnh tụ Tối cao Iran, đã tạm thời "ngừng câu khẩu hiệu 'Cái chết cho nước Mỹ' ở những buổi cầu nguyện Thứ Sáu".
Trung tâm thương mại thế giới sụp đổ
Có nhiều ý kiến xung quanh sự sụp đổ của toà tháp đôi, những cuộc tranh luận sôi nổi bàn về nguyên nhân của sự sụp đổ thu hút nhiều kỹ sư về cấu trúc, kiến trúc sư và các cơ quan hữu quan thuộc chính phủ liên bang. Thiết kế của toà tháp đôi chứa đựng nhiều phát kiến mới khác với các tòa nhà chọc trời được xây dựng trước đó. Mặc dù lực va chạm khi máy bay phản lực đâm vào và các đám cháy bùng phát sau đó là chưa từng xảy ra trong lịch sử thảm hoạ ngành xây dựng, một số kỹ sư tin quyết rằng những toà nhà chọc trời được xây dựng theo thiết kế truyền thống (như Empire State Building ở thành phố New York và toà tháp đôi Petronas của Malaysia) sẽ chịu đựng tốt hơn trong một tình huống như thế, có lẽ vẫn có thể tồn tại. Nếu lập luận trên là đúng, thì các toà nhà chọc trời khác có cùng một kiểu thiết kế với toà tháp đôi WTC (như Tháp Sears và Trung tâm John Hancock ở Chicago) đang bị nguy cơ sụp đổ hoàn toàn tự nhiên hoặc vì một vài đám cháy nho nhỏ như Trung tâm thương mại thế giới số 7 cao 186 mét (610 feet) sụp đổ vào 5 giờ 20 chiều ngày 11 tháng 9 năm 2001 trong không đầy 7 giây và được người dẫn chương trình của kênh CBS Dan Rather nhận xét trong chương trình truyền hình trực tiếp là lần thứ 3 ngày hôm nay, các vụ sụp đổ này (bao gồm 3 vụ ngày hôm đó, WTC1 và WTC2 vào buổi sáng và WTC7 vào buổi chiều) trông rất giống những vụ nổ có kiểm soát được thấy nhiều trên truyền hình khi người ta kích nổ những khối thuốc nổ được đặt chính xác từ trước để làm sập chúng.
Một cuộc điều tra cấp liên bang về an toàn phòng cháy và kỹ thuật xây dựng được tiến hành bởi Học viện Định chuẩn và Kỹ thuật Quốc gia thuộc Bộ Thương mại Hoa Kỳ, hoàn tất ngày 6 tháng 4 năm 2005, thanh tra về công trình xây dựng, vật liệu và các điều kiện kỹ thuật đã góp phần gây ra thảm hoạ WTC. Cuộc thanh tra được tiến hành nhằm phục vụ các mục tiêu sau:
Cải thiện phương pháp thiết kế, xây dựng, bảo dưỡng và sử dụng các toà nhà.
Cải thiện dụng cụ và phương pháp hướng dẫn dành cho các viên chức thuộc các ngành chức năng về an toàn và công nghiệp.
Chỉnh sửa và xây dựng bộ luật, định chuẩn và thực hành phòng cháy chữa cháy.
Cải thiện An toàn công cộng.
Bản tường trình kết luận rằng khả năng chịu lửa của cấu trúc thép tòa tháp đôi đã mất tác dụng ngay khi máy bay va chạm toà nhà, nếu điều này không xảy ra chắc chắn tòa nhà vẫn còn trụ được. Hơn nữa, bản tường trình cũng khẳng định cầu thang của toà nhà đã không được gia cố đúng mức hầu có thể cung ứng lối thoát cho những người ở bên trên điểm va chạm.
Chiến tranh chống Khủng bố
Nhiều người Mỹ cho rằng vụ tấn công khủng bố 11/9 "đã vĩnh viễn làm thay đổi thế giới": Nước Mỹ đang bị đặt trong nguy cơ bị tấn công khủng bố mà trước đây đất nước này chưa từng bị. Hoa Kỳ tuyên chiến chống khủng bố với mục tiêu đem Osama bin Laden ra trước công lý và ngăn chặn sự xuất hiện của những mạng lưới khủng bố khác. Các mục tiêu này sẽ được thực hiện bằng những phương tiện như cấm vận kinh tế và quân sự đối với các quốc gia được xem là dung dưỡng thành phần khủng bố, cùng lúc gia tăng các biện pháp giám sát toàn cầu và chia sẻ thông tin tình báo. Liên minh quân sự do Hoa Kỳ dẫn đầu tiến hành tấn công Taliban tại Afghanistan. Cùng với Hoa Kỳ, các quốc gia khác đang phải đối phó với các hoạt động khủng bố như Philippines và Indonesia cũng gia tăng sự chuẩn bị về mặt quân sự. Tổng thống Bush cũng nhận được sự ủng hộ lớn của nhiều quốc gia trên thế giới, kể cả Nga (cũng bị khủng bố bởi các nhóm Hồi giáo cực đoan) và Trung Quốc, trong việc hợp tác chống khủng bố toàn cầu.
Nhiều nước khác, trong đó có Anh, Đức, Pháp, Trung Quốc, Nga, Indonesia, Pakistan, Jordan, Mauritius, Uganda và Zimbabwe thông qua luật "chống khủng bố" và cho đóng băng các tài khoản ngân hàng của các doanh nghiệp hoặc cá nhân bị tình nghi có liên quan đến al-Qaeda. Các cơ quan tình báo và thi hành pháp luật tại một số quốc gia như Ý, Malaysia, Indonesia và Philippines bắt giữ nhiều nghi can khủng bố với mục đích đập tan những nhóm vũ trang trên toàn thế giới. Chiến dịch này dấy lên nhiều tranh cãi khi những người chỉ trích như Ủy ban Bill of Rights Defense cho rằng những hạn chế truyền thống trên các hoạt động theo dõi của liên bang nay đã bị bãi bỏ bởi Đạo luật PATRIOT; các tổ chức quyền tự do công dân như American Civil Liberties Union (ACLU) và Liberty cho rằng một số quyền con người đang bị nguy cơ hủy bỏ. Hoa Kỳ cho thiết lập một trại giam tại vịnh Guantanamo, Cuba để cầm giữ những "binh sĩ thù địch bất hợp pháp". Tính hợp pháp của các trại giam này hiện đang bị tra vấn bởi một số quốc gia thành viên của Liên minh châu Âu, Tổ chức các quốc gia châu Mỹ và Tổ chức Ân xá Quốc tế.
Bên trong nước Mỹ, Tổng thống Bush tiến hành một đợt tái cấu trúc cơ cấu chính phủ lớn nhất trong lịch sử đương đại của đất nước này với quyết định thành lập Bộ An ninh Nội địa. Quốc hội thông qua đạo luật USA PATRIOT (Uniting and Strengthening America by Providing Appropriate Tools Required to Intercept and Obstruct Terrorism – Thống nhất và Củng cố nước Mỹ bằng cách Cung ứng những Phương tiện Thích ứng Cần có để Ngăn chặn Khủng bố), giải thích rằng đạo luật này sẽ giúp dò tìm và truy tố những phần tử khủng bố và tội phạm khác trong tương lai.
Các nhóm bảo vệ quyền tự do của công dân phê phán đạo luật PATRIOT, nói rằng đạo luật này cho phép các cơ quan thi hành pháp luật xâm phạm sự riêng tư của công dân và hạn chế quyền giám sát tư pháp trên các cơ quan thi hành pháp luật và trên công tác thu thập tin tình báo. Chính phủ Bush viện dẫn biến cố 11/9 như là lý do để tiến hành một chiến dịch bí mật của Cơ quan An ninh Quốc gia nhằm "theo dõi các liên lạc bằng điện thoại và thư điện tử giữa Hoa Kỳ và nước ngoài mà không cần sự cho phép của tòa án".
Biến cố 9/11 đã đem lại nhiều ủng hộ trong dư luận người Mỹ cho chính sách cứng rắn của Tổng thống Bush. Sau ngày vụ khủng bố xảy ra, sự ủng hộ của dân chúng Mỹ và uy tín của Tổng thống Bush, đang từ ở mức trung bình trên 50% dân chúng Mỹ ủng hộ, bỗng vọt lên ở mức cao trên 90%, đây là mức uy tín cao nhất trong lịch sử của dân chúng Mỹ dành cho một vị tổng thống. Tuy nhiên, chỉ số uy tín này đã giảm đáng kể, khi thu-chi ngân sách bị thâm hụt nghiêm trọng và quân đội Mỹ sa lầy và thất bại trong việc bình định tại Iraq, đến năm 2005, mức ủng hộ của dân chúng dành cho TT Bush có lúc xuống còn 34%. Chính sách cứng rắn của Mỹ, mặc dù vì lợi ích chung là chống khủng bố nhưng đã tạo hình ảnh xấu và đã gây mâu thuẫn với đồng minh. Lần đầu tiên, các đồng minh then chốt của Mỹ trong khối NATO mâu thuẫn với Mỹ rất gay gắt và tìm cách tạo 1 thế đối trọng khác trong khu vực. Hoa Kỳ nhận thức rõ điều này và đã bắt đầu có những điều chỉnh trong các chính sách ngoại giao.
Tái thiết
Ngay sau khi xảy ra vụ tấn công, Thị trưởng New York, Rudy Giuliani, tuyên bố, "Chúng ta sẽ xây dựng lại. Từ biến cố này chúng ta sẽ trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết, mạnh mẽ hơn về chính trị, mạnh mẽ hơn về kinh tế. Đường chân trời sẽ được hàn gắn lại." Đến tháng 5 năm 2002, đống đổ nát được dọn sạch, tuy vẫn có những lời chỉ trích rằng nỗ lực không tương xứng với ngân quỹ khổng lồ dành cho công tác này.
Khu vực bị hư hại của Lầu Năm Góc đã được tái thiết chỉ một năm sau khi bị tấn công.
Ngay tại địa điểm của những tòa nhà đổ nát, người ta xây dựng những kiến trúc mới. Tại địa điểm trước là tòa nhà số 7 của WTC nay là tòa cao ốc văn phòng hoàn tất vào ngày 23 tháng 5 năm 2006. One World Trade Center (1 WTC) được xây dựng có độ cao 1,776 ft (541 m) tương ứng với năm nước Mỹ giành độc lập (năm 1776), trở thành tòa nhà cao nhất Tây Bán Cầu, và là cao ốc cao thứ ba trên thế giới. Đến tháng 11 năm 2014, công trình này chính thức đi vào hoạt động. Tòa nhà Four World Trade Center (4 WTC) đã được khai trương vào ngày 13 tháng 11 năm 2013, còn Three World Trade Center (3 WTC) được khánh thành vào ngày 11 tháng 6 năm 2018.
Tưởng niệm
Trong những ngày sau khi xảy ra vụ tấn công, nhiều buổi tưởng niệm và canh thức được tổ chức trên khắp thế giới. Còn ngay tại Bình địa, ảnh của các nạn nhân xuất hiện khắp mọi chỗ. Một người có mặt ở đó thuật lại rằng "không có cách nào tránh khỏi những khuôn mặt của các nạn nhân vô tội. Ảnh của họ hiện diện khắp mọi nơi, tại trạm điện thoại, đính vào trụ đèn đường, trên tường trạm xe điện ngầm. Mọi thứ ở đây khiến tôi liên tưởng đến một đám tang vĩ đại, mọi người buồn bã và lặng lẽ, nhưng rất thân ái với nhau. Trước đó, New York cho tôi cảm giác lạnh lẽo, nhưng bây giờ mọi người tìm đến giúp đỡ lẫn nhau."
Tại Lầu Năm Góc, khu tưởng niệm được khánh thành ngày 11 tháng 9 năm 2008, với một công viên thoáng đãng có 184 chiếc ghế dài hướng về Lầu Năm Góc. Sau khi được sửa chữa trong năm 2001-2002, người ta xây dựng một nhà nguyện và một tượng đài ngay tại địa điểm chuyến bay 77 đâm xuống tòa nhà.
Thiết kế cho Đài tưởng niệm Quốc gia Chuyến bay 93 được gọi là Crescent of Embrace gây ra tranh cãi vì thiết kế một hình trăng lưỡi liềm (crescent) lớn màu đỏ hướng đến Mecca. Do áp lực của công chúng, người ta cho biết đài tưởng niệm này sẽ được thiết kế lại để tránh sự nhầm lẫn với biểu trưng của Hồi giáo.
Bản thiết kế của Michael Arad cho đài tưởng niệm Reflecting Absence được tuyển chọn vào tháng 8 năm 2006 qua một cuộc thi, với hai hồ phản chiếu đặt tại chân của hai tòa tháp, bao quanh bởi tên của các nạn nhân ghi chìm dưới đất.
Bên cạnh việc xây dựng các đài tưởng niệm, một số người thân và bạn bè của những nạn nhân vụ tấn công ngày 11 tháng 9 thành lập quỹ tưởng niệm, quỹ học bổng và các chương trình từ thiện nhằm tôn vinh những người thân yêu đã mất.
Hiện trường, nơi trước kia tọa lạc Tháp đôi tại New York nay được gọi là Ground Zero (Khu vực số không), nơi đây đã tiến hành xây cất tòa nhà One World Trade Center cao 541 m và 3 tòa nhà chọc trời được xây trên một hình bán nguyệt xung quanh khu tưởng niệm các nạn nhân trong vụ khủng bố, công trình hoàn thành vào năm 2014.
Trong văn hoá đại chúng
Vở kịch "The Guys" của Anne Nelson hướng vào hồi ức và cảm xúc của một người sống sót, một sĩ quan thuộc lực lượng cứu hoả, một nhà văn đã tìm đến để giúp anh viết những bài điếu văn dành cho các đồng đội đã thiệt mạng trong thảm họa. Vở kịch được công diễn lần đầu vào ngày 4 tháng 12 năm 2001.
Extremely Loud and Incredibly Close, tiểu thuyết của Jonathan Safran Foer xuất bản năm 2005, là một trong những tác phẩm đầu tiên viết về vụ khủng bố. Cuốn sách được dẫn dắt theo lời kể của một cậu bé chín tuổi, Oskar Schell, cha của cậu đang ở trên tầng cao của Trung tâm Thương mại Thế giới khi hai chiếc máy bay phản lực đâm vào toà tháp đôi. Để kìm chế nỗi buồn khôn nguôi và đè nén những tưởng tượng kinh hoàng về thảm họa mà cha cậu phải gánh chịu, Oskar dấn mình vào một cuộc phiêu lưu trong tâm trí để truy tìm ra điều mà cậu hy vọng là sự bí mật của cha cậu. Trong cuộc phiêu lưu của trí tưởng tượng này Oskar vượt qua những nỗi sợ hãi vô căn cứ và an ủi nhiều linh hồn đau thương.
Tác phẩm điện ảnh của Oliver Stone, Trung tâm Thương mại Thế giới, là câu chuyện kể về hai nhân viên thuộc Cơ quan quản lý cảng biển, John McLoughlin (Nicolas Cage) và Will Jimeno (Michael Pena), là những người tham gia vào công tác cứu hộ sau cùng còn sống sót và được toán cứu hộ đem ra khỏi khu bình địa (ground zero). Cuốn phim được trình bày như là một câu chuyện cảm động về những cư dân bình thường của thành phố New York tìm cách giúp đỡ lẫn nhau ngay giữa một cơn thảm họa khủng khiếp. Cuốn phim được bắt đầu trình chiếu trên toàn quốc (Hoa Kỳ) ngày 9 tháng 8 năm 2006.
Xem thêm
Bối cảnh lịch sử Sự kiện 11 tháng 9
Vụ đánh bom Trung tâm Thương Mại Thế Giới năm 1993 - Vụ tấn công Trung tâm Thương Mại Thế Giới đầu tiên
Chuyến bay 103 của Pan Am - Vụ khủng bố chết chóc nhất nước Anh, số người thiệt mạng đa phần là người Mỹ
Chuyến bay 8969 của Air France
Chuyến bay 93 của United Airlines
Chuyến bay 182 của Air India
Todd Beamer
Khủng bố
Tháp Tự do
Trận Trân Châu Cảng
Ủy ban Quốc gia về vụ Khủng bố tại Hoa Kỳ (Ủy ban 11/9)
Thomas Kean, chủ tịch của Ủy ban 11/9
Đài kỷ niệm Trung tâm Thương mại Quốc tế
Trung tâm Thương mại Quốc tế số 7
Bản báo cáo của Ủy ban 11/9
Các giả thuyết về âm mưu 11 tháng 9
Phong trào đòi sự thật về vụ 11 tháng 9
Vụ đánh bom Luân Đôn ngày 7 tháng 7 năm 2005
Ghi chú
Chú thích
Tham khảo
Wayne Barrett and Dan Collins, Grand Illusion: The Untold Story of Rudy Giuliani and 9/11. New York, Harper Collins, (2006). ISBN 0-06-053660-8
National Commission on Terrorist Attacks, The 9/11 Commission Report: Final Report of the National Commission on Terrorist Attacks Upon the United States, W.W. Norton and Company, (2004), ISBN 0-393-32671-3
Phương tiện
Đọc thêm
Ryan, Allan A. The 9/11 Terror Cases: Constitutional Challenges in the War against Al Qaeda (University Press of Kansas, 2015). xxii, 218 pp.
Liên kết ngoài
National Commission on Terrorist Attacks Upon the United States official commission website
National September 11th Memorial and Museum – List of victims
ngày 11 tháng 9 năm 2001, Documentary Project from the U.S. Library of Congress, Memory.loc.gov
ngày 11 tháng 9 năm 2001, Web Archive from the U.S. Library of Congress, Minerva
The September 11th Sourcebooks from The National Security Archive
September 11 Digital Archive: Saving the Histories of ngày 11 tháng 9 năm 2001, from the Center for History and New Media and the American Social History Project/Center for Media and Learning
DoD: Khalid Sheikh Mohammed Verbatim Transcript of Combatant Status Review Tribunal Hearing for ISN 10024, From WikiSource
Đa phương tiện
Understanding 9/11 – A Television News Archive at Internet Archive
CNN.com – Video archive, including the first and second planes
Remembering 9/11 – National Geographic Society
Time.com – 'Shattered: a remarkable collection of photographs', James Nachtwey
ngày 11 tháng 9 năm 2001, Screenshot Archive – Database of 230 screenshots from news sites around the world
Archive of newspaper front page images for 2001-09-11 at the Newseum
Lịch sử Hoa Kỳ (1991–2008)
Thảm sát tại Hoa Kỳ
Hoa Kỳ năm 2001
Sự kiện tội ác căm thù
Chủ nghĩa bài Mỹ
Mất năm 2001
Quan hệ quốc tế năm 2001
Tranh cãi của chính quyền George W. Bush
Tranh cãi Hồi giáo
Hồi giáo và bạo lực
Jihad
Osama bin Laden
Nhiệm kỳ tổng thống George W. Bush
Quan hệ Ả Rập Xê Út-Hoa Kỳ
Trung tâm Thương mại Thế giới
|
24691
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%8Bnh%20H%C6%B0%C6%A1ng
|
Định Hương
|
Trưởng lão Định Hương tức Lã Định Hương (呂定香, ?-1050) tu tại chùa Cảm Ứng, Ba Sơn, phủ Thiên Đức, người Châu Minh, gia thế dòng tịnh hạnh. Trưởng lão là một trong ba người (một người khuyết lục) thuộc thế hệ thứ 6, dòng Vô Ngôn Thông.
Cơ duyên và hành trạng
Thuở nhỏ Định Hương thọ giáo với Thiền sư Đa Bảo tại chùa Kiến Sơ. Trải qua 24 năm, môn đồ của Thiền sư Đa Bảo có hơn trăm người nhưng chỉ có Sư cùng với Quốc Bảo Hòa được chọn làm thủ lĩnh, nhưng Sư thấu rõ nhất tông chỉ của Đa Bảo. Một hôm Sư hỏi Đa Bảo: Làm thế nào để thấy được chân tâm?
Đa Bảo dạy: Chính ngươi tự phát hiện.
Sư bỗng nhiên hiểu được yếu chỉ, liền thưa: Hết thảy đều như thế, chứ có riêng gì tôi.
Đa Bảo hỏi: Ngươi đã hiểu chưa?.
Sư đáp: Khi đệ tử hiểu rồi, cũng giống như lúc chưa hiểu.
Đa Bảo dạy: Nên đem tâm đó mà quyết chắc
Sư bưng tai, đứng quay lưng lại.
Đa Bảo liền quát: Đi. Sư sụp lạy.
Đa Bảo dạy: Từ nay ngươi hãy như một kẻ đui điếc trong việc tiếp người.
Đô tướng thành hoàng sứ là Nguyễn Tuân khâm phục tài đức của Sư, nên mời về chùa đó ở. Người học vân tập, dạy dỗ dắt dìu, công Sư không ít.
Ngày 3 tháng 3 năm Canh Dần nhằm niên hiệu Sùng Hưng Đại Bảo thứ 2 (1050) triều Lý Thái Tông, Sư nhuốm bệnh, họp chúng để từ biệt, đọc kệ:
Nói kệ xong, Sư lặng lẽ viên tịch.
Nguyên bản chữ Hán
□第六世三人一人鈌錄□□□□□□□□
定香長老
天德府芭山感應寺定香長老姓呂氏朱明人也世修淨行弱歲依{dư}建初多寶禪師踰二十四年寶門徒百餘惟師與國抱和為首𢮪(1)然師深得其奧一日問寶云如何得見真心寶云是汝自發師豁然領旨悟(2)云一切皆然非惟某甲寶云汝了也未師云弟子了時还同不了宝云須以此心保任師掩耳背立寶便喝去師禮宝云汝後还似一箇聾瞶接人在都將城隍使阮郇欽其名德延就此寺居焉學徒雲集教人演化功為不少李太宗崇興大寶三年庚寅三月三日疾會眾訣別說偈云
本來無處所
處所是真宗
真宗如是幻
幻有即空空
偈畢奄然而化□□□□□□□□□□□□□
𢮪 = 選
悟; Nguyễn, LMT = 語
Chú thích
Về ý và từ của bài thơ được rút ra từ định nghĩa Không Không trong Đại trí độ luận:
Hà đẳng vi Không Không? (Những gì là Không Không?)
Nhất thiết Pháp Không thời Không diệc Không, thị danh Không Không. (Tất cả mọi vật đều Không, cái Không ấy cũng Không nên gọi là Không Không)
Tham khảo
Lê Mạnh Thát: Nghiên cứu về Thiền Uyển Tập Anh, Nhà xuất bản TP HCM 1999.
Thiền Uyển Tập Anh - Bản tiếng Việt
Thiền Uyển Tập Anh - Bản chữ Hán
Thiền sư Việt Nam
Thiền phái Vô Ngôn Thông
|
24696
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Lux
|
Lux
|
Các ý nghĩa khác xem thêm Lux (định hướng).
Lux (ký hiệu: lx) là đơn vị đo độ rọi trong SI. Nó được sử dụng trong trắc quang học để đánh giá cường độ ánh sáng cảm nhận được. Đây là một đơn vị dẫn xuất trong SI, nghĩa là nó được định nghĩa từ các đơn vị "cơ bản" hơn. Cụ thể, đo độ rọi bằng quang thông trên diện tích:
1 lx = 1 lm/m²
Đơn vị đo quang thông trong SI, lumen, lại là một đơn vị dẫn xuất nên:
1 lx = 1 cd sr / m²)
Định nghĩa
1 lux là độ rọi có được của một bề mặt có diện tích 1 mét vuông có thông lượng chiếu sáng 1 lumen.
Các ước số-bội số trong SI
Các tiền tố kết hợp với đơn vị lux
Bảng chuyển đổi giá trị giữa các ước số-bội số khác nhau
Giải thích
Nó là tương đương với 1 lumen trên m².
Ánh sáng Mặt Trời trung bình trong ngày có độ rọi dao động trong khoảng 32.000 (32 klx) tới 100.000 lux (100 klx)
Các trường quay truyền hình được chiếu sáng với độ rọi khoảng 1.000 lux (1 klx)
Một văn phòng sáng sủa có độ rọi khoảng 400 lux
Vào thời điểm hoàng hôn và bình minh, ánh sáng ngoài trời cũng có độ rọi khoảng 400 lux (nếu trời trong xanh).
Ánh sáng phản chiếu từ Mặt Trăng có độ rọi khoảng 1 lux
Ánh sáng từ các ngôi sao có độ rọi khoảng 0,00005 lux (= 50 μlx)
Chú ý:Unicode có ký hiệu cho "lx": (㏓), nhưng nó chỉ là mã kế thừa để thích hợp với các trang mã cũ trong một số ngôn ngữ châu Á, và nó không được khuyến khích sử dụng trong bất kỳ ngôn ngữ nào ngày nay.
Lux và lumen
Khác biệt giữa lux và lumen là lux tính theo diện tích mà thông lượng chiếu sáng bao phủ. Ví dụ 1.000 lumen, tập trung trong một diện tích 1 m², sẽ chiếu sáng diện tích này với độ rọi 1.000 lux. Cùng 1.000 lumen này, khi trải rộng trên diện tích 10 m², sẽ tạo ra sự chiếu rọi mờ hơn, chỉ bằng 100 lux.
Việc đạt được độ rọi 500 lux là có thể trong nhà bếp với một ngọn đèn huỳnh quang đặt cố định có công suất 12.000 lumen. Để chiếu sáng sàn xí nghiệp với diện tích gấp hàng chục/trăm lần nhà bếp thì người ta cần phải có hàng chục/trăm đèn như vậy. Vì thế, việc chiếu sáng một diện tích lớn hơn mà có cùng một giá trị độ rọi thì cần phải có nhiều lumen hơn.
Quan hệ giữa độ rọi và công suất
Độ rọi không phải là phép đo trực tiếp của năng lượng ánh sáng, mà nó là sự cảm nhận của mắt người. Vì thế, hệ số chuyển đổi sẽ thay đổi theo thành phần bước sóng hay nhiệt độ màu của ánh sáng. Ở bước sóng 555 nm, khoảng trung gian của quang phổ thì 1 lux tương đương với 1,46 mW/m².
Các đơn vị trắc quang trong SI
Các đơn vị phi-SI của độ rọi
phút nến
phốt (=10 klx)
nox (=1 mlx)
Liên kết ngoài
Các câu hỏi thường gặp về bức xạ học và trắc quang học Trang các câu hỏi thường gặp về bức xạ học của giáo sư Jim Palmer (Đại học tổng hợp Arizona).
Lux meter
Đơn vị dẫn xuất trong SI
Đơn vị đo độ rọi
Trắc quang học
|
24709
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%ACnh%20ph%C6%B0%C6%A1ng%20t%E1%BB%91i%20thi%E1%BB%83u
|
Bình phương tối thiểu
|
Trong toán học, phương pháp bình phương tối thiểu ( Ordinary least square), còn gọi là bình phương nhỏ nhất hay bình phương trung bình tối thiểu, là một phương pháp tối ưu hóa để lựa chọn một đường khớp nhất cho một dải dữ liệu ứng với cực trị của tổng các sai số thống kê (error) giữa đường khớp và dữ liệu.
Phương pháp này giả định các sai số (error) của phép đo đạc dữ liệu phân phối ngẫu nhiên. Định lý Gauss-Markov chứng minh rằng kết quả thu được từ phương pháp bình phương tối thiểu không thiên vị và sai số của việc đo đạc dữ liệu không nhất thiết phải tuân theo, ví dụ, phân bố Gauss. Một phương pháp mở rộng từ phương pháp này là bình phương tối thiểu có trọng số.
Phương pháp bình phương tối thiểu thường được dùng trong khớp đường cong. Nhiều bài toán tối ưu hóa cũng được quy về việc tìm cực trị của dạng bình phương, ví dụ như tìm cực tiểu của năng lượng hay cực đại của entropy.
Phương pháp bình phương tối thiểu thường sử dụng để vinh danh Carl Friedrich Gauß (1795), nhưng nó được xuất bản lần đầu bởi Adrien-Marie Legendre (1805).
Diễn giải
Giả sử dữ liệu gồm các điểm (xi, yi) với i = 1, 2,..., n. Chúng ta cần tìm một hàm số f thỏa mãn
f(xi) ≈ yi
Giả sử hàm f có thể thay đổi hình dạng, phụ thuộc vào một số tham số pj với j = 1, 2,..., m.
f(x) = f(pj, x)
Nội dung của phương pháp là tìm giá trị của các tham số pj sao cho biểu thức sau đạt cực tiểu:
Nội dung này giải thích tại sao tên của phương pháp là bình phương tối thiểu.
Đôi khi thay vì tìm giá trị nhỏ nhất của tổng bình phương, người ta có thể tìm giá trị nhỏ nhất của bình phương trung bình:
Điều này dẫn đến tên gọi bình phương trung bình tối thiểu.
Giải quyết
Bài toán thường có lời giải đáng tin cậy khi số lượng các tham số pj nhỏ hơn số lượng các dữ liệu (m < n).
Trong trường hợp, f là hàm tuyến tính của các tham số pj, bài toán trở nên đơn giản hóa rất nhiều, rút gọn thành việc giải một hệ phương trình tuyến tính. Xem thêm bình phương tối thiểu tuyến tính.
Nếu f không là hàm tuyến tính của các tham số, bài toán trở thành một bài toán tối ưu hóa tổng quát. Bài toán tổng quát này có thể dùng các phương pháp như phương pháp tối ưu hóa Newton hay phương pháp trượt dốc. Đặc biệt thuật toán Gauss-Newton hay thuật toán Levenberg-Marquardt là thích hợp nhất cho bài toán bình phương tối thiểu tổng quát này.
Hồi quy tuyến tính
Trong hồi quy tuyến tính, người ta thay biểu thức:
f(xi) ≈ yi
bằng
f(xi) = yi + εi
với hệ số nhiễu ε là biến ngẫu nhiên có giá trị kỳ vọng bằng 0.
Trong biểu thức của hồi quy tuyến tính x được đo chính xác, chỉ có y chịu nhiễu loạn ε. Thêm nữa, hàm f tuyến tính với các tham số pj.
Nếu f không tuyến tính với các tham số thì có hồi quy phi tuyến, một bài toán phức tạp hơn nhiều hồi quy tuyến tính.
Xem thêm
Bình phương tối thiểu có trọng số
Hồi quy tuyến tính
Tham khảo
Liên kết ngoài
Least Squares Fitting (Regression) – Đại học Saint John's
ZunZun.com – tối ưu hóa dữ liệu 2D và 3D
General Least-Squares – Direct Solutions and Bundle Adjustments
Phân tích hồi quy
Tối ưu hóa (toán học)
|
24714
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%A7ng%20%C4%91%E1%BB%91i%20l%C6%B0u
|
Tầng đối lưu
|
Tầng đối lưu là phần thấp nhất của khí quyển của một số hành tinh. Phần lớn các hiện tượng mà con người gắn với thời tiết hàng ngày diễn ra ở tầng đối lưu. Đặc trưng của tầng này thể hiện ở các dòng đối lưu của không khí nóng từ bề mặt bốc lên cao và lạnh đi. Hiện tượng đối lưu đã mang lại tên gọi cho tầng này.
Trên Trái Đất
Tầng đối lưu bắt đầu từ bề mặt Trái Đất mở rộng ra đến cao độ 20 km (12 dặm) ở các vùng nhiệt đới, giảm tới khoảng 11 km ở các vĩ độ trung bình, ít hơn 7 km (4 dặm) ở các vùng cực về mùa hè còn trong mùa đông là không rõ ràng. Lớp khí quyển này chiếm khoảng 80% tổng khối lượng của toàn bộ khí quyển, gần như toàn bộ hơi nước và xon khí (aerosol). Trong khu vực tầng đối lưu thì không khí liên tục luân chuyển và tầng này là tầng có mật độ không khí lớn nhất của khí quyển Trái Đất. Nitơ và oxy là các chất khí chủ yếu có mặt trong tầng này. Tầng đối lưu nằm ngay phía dưới tầng bình lưu. Phần thấp nhất của tầng đối lưu, nơi ma sát với bề mặt Trái Đất ảnh hưởng tới luồng không khí, là lớp ranh giới hành tinh. Lớp này thông thường chỉ dày từ vài trăm mét tới 2 km (1,2 dặm), phụ thuộc vào địa mạo và thời gian của ngày. Ranh giới giữa tầng đối lưu và tầng bình lưu, được gọi là khoảng lặng đối lưu, là nghịch chuyển nhiệt độ.
Tầng đối lưu được chia thành 6 khu vực luồng luân chuyển theo đới, gọi là các quyển hoàn lưu. Các quyển hoàn lưu này chịu trách nhiệm cho hoàn lưu khí quyển và tạo ra các hướng gió thịnh hành.
Nguyên nhân các biến đổi nhiệt độ trong tầng đối lưu là do nhiệt độ được xác định bởi bức xạ nhiệt từ mặt đất ngược trở lại không khí. Mặc dù tia nắng Mặt Trời tiếp xúc với phần không khí ở trên cao trước, nhưng không khí khá trong suốt nghĩa là nó hấp thụ rất ít năng lượng của tia nắng. Đa phần năng lượng Mặt Trời rơi xuống mặt đất, tại đây, nó bị hấp thụ mạnh bởi mặt đất, và làm mặt đất nóng lên (nóng hơn không khí trên cao). Mặt đất nóng truyền nhiệt trực tiếp cho lớp không khí gần mặt đất; không khí gần mặt đất nóng lên và nở ra, nhẹ hơn phần không khí lạnh ở trên và bay lên cao nhờ lực đẩy Ácsimét. Khi không khí nóng bay lên cao, nó giãn nở đoạn nhiệt nghĩa là thể tích tăng và nhiệt độ giảm (giống như cách hoạt động của một số tủ lạnh, máy điều hòa). Càng lên cao, không khí càng nguội dần. Khi ra xa khỏi bề mặt Trái Đất thì nhiệt đối lưu có các hiệu ứng nhỏ hơn và không khí lạnh hơn. Ở các cao độ lớn hơn thì không khí loãng hơn và giữ nhiệt kém hơn, khiến cho nhiệt bị tản đi hết. Cứ mỗi khi độ cao tăng lên 1.000 mét thì nhiệt độ lại giảm trung bình khoảng 6,5 °C.
Mặc dù việc nhiệt độ giảm theo độ cao là xu hướng chung trong tầng đối lưu, thực tế đôi khi có ngoại lệ, gọi là hiện tượng nghịch nhiệt. Ví dụ ở châu Nam Cực, nhiệt độ tăng khi lên cao. Một ví dụ khác, hàng năm, xung quanh Hà Nội, Việt Nam, về đầu mùa đông có những đợt nghịch nhiệt về ban đêm, thường xảy ra vài ngày sau khi gió mùa đông bắc tràn về và kéo dài cho đến khi gió thịnh hành chuyển sang hướng đông nam và lặp lại khi có đợt gió mùa mới. Trong điều kiện nghịch nhiệt, khí thải từ hoạt động công nghiệp và nông nghiệp bị ứ đọng ở tầng thấp, không tỏa đi được, do chúng lạnh và nặng hơn các lớp khí bên trên.
Đỉnh tầng đối lưu đánh dấu giới hạn của tầng đối lưu và nó được nối tiếp bằng tầng bình lưu. Nhiệt độ ở phía trên đỉnh tầng đối lưu lại tăng lên chậm cho tới cao độ khoảng 50 km. Nói chung, các máy bay phản lực bay ở gần phần trên cùng của tầng đối lưu. Hiệu ứng nhà kính cũng diễn ra trong lớp trên cùng tầng đối lưu.
Áp suất và cấu trúc nhiệt độ
Thành phần
Thành phần hóa học của tầng đối lưu về cơ bản là đồng nhất, với ngoại lệ đáng chú ý nhất là hơi nước. Nguồn hơi nước nằm tại bề mặt thông qua quá trình bốc hơi nước và thoát hơi nước. Bên cạnh đó, do nhiệt độ không khí trong tầng đối lưu giảm đi theo độ cao và áp suất hơi bão hòa giảm mạnh theo nhiệt độ nên lượng hơi nước có thể tồn tại trong không khí cũng giảm mạnh theo độ cao. Vì thế tỷ lệ hơi nước thông thường là lớn nhất ở gần bề mặt và giảm theo độ cao.
Áp suất
Áp suất khí quyển là cao nhất tại mực nước biển và giảm theo độ cao. Điều này là do khí quyển rất gần với trạng thái cân bằng thủy tĩnh, vì thế áp suất là tương đương với trọng lượng của không khí phía trên điểm đang xét. Thay đổi về áp suất theo độ cao vì thế có thể tính toán theo mật độ bằng phương trình thủy tĩnh:
trong đó:
gn là gia tốc trọng trường (9,80665 m/s2)
ρ là mật độ
z là cao độ
p là áp suất
R là hằng số khí (8,314472(15) J • K−1 • mol−1)
T là nhiệt độ, tính theo kelvin
m là phân tử gam (trung bình)
Do nhiệt độ về nguyên lý cũng phụ thuộc vào độ cao, nên người ta cũng cần một phương trình nữa để xác định áp suất theo độ cao, như đề cập trong phần kế tiếp dưới đây.
Nhiệt độ
Nhiệt độ trong tầng đối lưu nói chung giảm khi độ cao tăng lên. Mức độ suy giảm nhiệt độ , được gọi là tỷ lệ giảm nhiệt. Nguyên nhân của sự suy giảm này là như sau:
Khi khối khí bốc lên, nó giãn nở, do áp suất thấp hơn tại các cao độ lớn hơn. Do khối khí giãn nở, nó ép vào không khí bao quanh nó, thực hiện công cơ học; nhưng nói chung nó không thu được nhiệt trong trao đổi từ môi trường của nó, do nó có tính dẫn nhiệt kém (quá trình như thế được gọi là quá trình đoạn nhiệt). Do khối khí sinh công nhưng không thu được nhiệt nên nó mất năng lượng và vì thế nhiệt độ của nó giảm xuống. Trật tự ngược lại cũng là đúng cho các khối khí chìm xuống.
Do trao đổi nhiệt dQ có liên quan tới thay đổi entropy dS theo phương trình dQ = T • dS, nên phương trình của nhiệt độ như một hàm số của độ cao cho khí quyển được trộn kỹ là
trong đó S là entropy. Tỷ lệ mà nhiệt độ giảm theo độ cao trong những điều kiện như thế được gọi là tỷ lệ giảm nhiệt độ đoạn nhiệt.
Đối với không khí khô, là gần giống như khí lý tưởng nên phương trình đoạn nhiệt cho khí lý tưởng
trong đó là suất nhiệt dung (=1,4 cho không khí) có thể áp dụng được. Kết hợp với phương trình cho áp suất, đưa ra Tỷ lệ giảm nhiệt độ đoạn nhiệt khô
Nếu không khí chứa hơi nước thì sự làm lạnh không khí có thể gây ra ngưng tụ nước và trạng thái của nó không còn giống như của khí lý tưởng nữa. Nếu không khí là bão hòa áp suất hơi thì tỷ lệ mà theo đó nhiệt độ giảm theo độ cao được gọi là Tỷ lệ giảm nhiệt độ đoạn nhiệt bão hòa. Tổng quát hơn, tỷ lệ thật sự mà nhiệt độ giảm theo độ cao được gọi là Tỷ lệ giảm nhiệt độ môi trường.
Trên thực tế, trong tầng đối lưu tỷ lệ giảm nhiệt độ môi trường trung bình là khoảng 6,5 °C cho mỗi km (1.000 m hay 3,567 °F trên mỗi 1.000 ft) gia tăng thêm về độ cao.
Tỷ lệ giảm nhiệt độ môi trường ( thực tế) thông thường không bằng tỷ lệ giảm nhiệt độ đoạn nhiệt (hay tương ứng là ). Nếu không khí phía trên là ấm hơn so với dự báo bởi tỷ lệ giảm nhiệt độ đoạn nhiệt () thì khi khối khí bốc lên và giãn nở, nó sẽ đạt tới độ cao mới với nhiệt độ thấp hơn so với môi trường quanh nó. Trong trường hợp này, khối khí là đặc hơn so với xung quanh nên nó có xu hướng bị chìm xuống tới độ cao ban đầu và không khí là ổn định để chống lại việc bị đẩy lên. Ngược lại, nếu không khí phía trên là lạnh hơn so với dự báo bởi tỷ lệ giảm nhiệt độ đoạn nhiệt () thì khi khối khí bốc lên tới độ cao mới nó sẽ có nhiệt độ cao hơn và mật độ thấp hơn so với xung quanh và nó sẽ tiếp tục được gia tốc lên phía trên.
Nhiệt độ giảm tại các vĩ độ trung bình từ trung bình khoảng 15 °C ở mực nước biển tới khoảng -55 °C ở cao độ bắt đầu khoảng lặng đối lưu. Tại các vùng cực, tầng đối lưu là mỏng hơn và nhiệt độ chỉ giảm tới khoảng -45 °C trong khi tại xích đạo thì nhiệt độ tại đỉnh tầng đối lưu có thể đạt tới -75 °C.
Khoảng lặng đối lưu
Khoảng lặng đối lưu là khu vực ranh giới giữa tầng đối lưu và tầng bình lưu.
Việc đo sự thay đổi nhiệt độ theo độ cao trong tầng đối lưu và tầng bình lưu giúp nhận ra vị trí của khoảng lặng đối lưu. Tại tầng đối lưu thì nhiệt độ giảm theo độ cao nhưng ngược lại, trong tầng bình lưu thì nhiệt độ ban đầu giữ ở mức không đổi rồi sau đó lại tăng lên theo độ cao. Khu vực của khí quyển mà tỷ lệ giảm nhiệt thay đổi dấu từ dương (tầng đối lưu) sang âm (tầng bình lưu) được xác định như là khoảng lặng đối lưu. Vì thế, khoảng lặng đối lưu là lớp nghịch nhiệt và ở đây chỉ có rấtít sự pha trộn giữa hai tầng của khí quyển.
Trên Sao Hỏa
Trên Sao Hỏa, tầng đối lưu cao đến 40 km với nhiệt độ giảm dần theo độ cao. Tại ranh giới giữa tầng đối lưu và bình lưu, nhiệt độ tương đối ổn định khoảng 120 K. Lượng bụi lớn trong khí quyển Sao Hỏa đã đẩy cao tầng đối lưu lên như vậy (so với khí quyển Trái Đất chỉ khoảng 10 đến 20 km).
Ở tầng đối lưu, hai thành phần chính quyết định cấu trúc khí quyển là CO2 và bụi khí quyển. CO2 bức xạ nhanh nhiệt ra không trung, tại điều kiện nhiệt độ của Sao Hỏa, làm nguội nhanh khí quyển vào ban đêm. Các hạt bụi hấp thụ tốt năng lượng Mặt Trời và phân phối đều nhiệt lượng trong tầng đối lưu. Trong những đợt bão bụi, ảnh hưởng của bụi càng rõ, làm thay đổi nhiệt độ ngày đêm đáng kể.
Sự thay đổi nhiệt độ ở tầng đối lưu, trên phạm vi toàn Sao Hỏa, tuân theo dao động ngày đêm đều đặn, đồng bộ với vị trí Mặt Trời, đôi khi gọi là "thủy triều nhiệt".
Trên Sao Mộc
Khí quyển Sao Mộc cũng có tầng thấp nhất là tầng đối lưu. Sự thay đổi nhiệt độ theo chiều thẳng đứng ở Sao Mộc tương tự như với khí quyển Trái Đất. Nhiệt độ của tầng đối lưu giảm với chiều cao cho đến khi đạt mức tối thiểu ở vùng đỉnh của tầng đối lưu, tại khoảng lặng đối lưu. Trên Sao Mộc, khoảng lặng đối lưu ở vào khoảng 50 km bên trên những đám mây có thể nhìn thấy được (ở khoảng mức áp suất 1 bar), tại đó áp suất và nhiệt độ là khoảng 0,1 bar và 110 K. Bên trên tầng đối lưu, từ tầng bình lưu trở lên, nhiệt độ lại tăng lên.
Khoảng lặng đối lưu của Sao Mộc chứa một cấu trúc mây phức tạp. Các đám mây ở trên cao, nằm trong phạm vi áp suất 0,6 đến 0,9 bar, chứa băng amonia. Bên dưới những đám mây băng amonia, những đám mây đặc hơn chứa amoni hydro sulfide hoặc amoni sulfide (nằm trong tầng áp suất 1 đến 2 bar) và nước (3 đến 7 bar) được cho là tồn tại. Không có mây mêtan do nhiệt độ quá cao để mêtan có thể ngưng tụ. Những đám mây hơi nước tạo thành tầng mây dày đặc nhất và có ảnh hưởng mạnh nhất đến động lực học của bầu khí quyển. Đây là hệ quả của nhiệt ngưng tụ cao của nước và hàm lượng nước cao hơn so với amonia và hydro sulfide (do oxy là nguyên tố hóa học phổ biến hơn nitơ hoặc lưu huỳnh).
Xem thêm
Khí quyển Trái Đất
Khí quyển Sao Hỏa
Khí quyển Sao Mộc
Liên kết ngoài
(bằng tiếng Việt)
Nghịch nhiệt và ô nhiễm ở Hà Nội
(bằng tiếng Anh)
Thành phần khí quyển, từ khoa Lý thuộc Đại học Tennessee.
Các phản ứng hóa học trong khí quyển
Troposphere - The Weather Blog Troposphere là blog trực tuyến được thiết kế để cung cấp các tin tức mới nhất về thời tiết, địa chất và môi trường từ mọi nơi trên thế giới.
Cấu trúc theo chiều đứng của khí quyển
Ghi chú
Các nguồn trích dẫn
Đối lưu, tầng
Nhiệt động lực học khí quyển
Khí quyển Trái Đất
|
24715
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%ACnh%20ph%C6%B0%C6%A1ng%20t%E1%BB%91i%20thi%E1%BB%83u%20c%C3%B3%20tr%E1%BB%8Dng%20s%E1%BB%91
|
Bình phương tối thiểu có trọng số
|
Trong các ngành thống kê và tối ưu hóa, bình phương tối thiểu có trọng số là một phương pháp mở rộng của bình phương tối thiểu.
Mục đích của phương pháp, tương tự như bình phương tối thiểu, là tìm hàm f(x) khớp nhất với các dư liệu đo đạc (xi, yi) với i = 1, 2,.., n:
f(xi) ≈ yi
Hàm f phụ thuộc vào các tham số pj với j = 1, 2,.., m. Tương tự như bình phương tối thiểu, nội dung của phương pháp là tìm các tham số pj để thu được một biểu thức thể hiện sai khác nhỏ nhất giữa f và dữ liệu. Khác với bình phương tối thiểu, trong phương pháp bình phương tối thiểu có trọng số, thay vì dùng:
Người ta thêm vào biểu thức các "trọng số" thể hiện độ tin cậy của từng điểm đo đạc:
Thông thường, wi được đặt bằng nghịch đảo phương sai của từng điểm đo:
Nghĩa là điểm đo đạc càng chính xác (phương sai càng nhỏ) thì có trọng số càng cao trong biểu thức.
Xem thêm
Kiểm định chi bình phương
Tham khảo
Phân tích hồi quy
Tối ưu hóa (toán học)
en:Least squares#Weighted least squares
|
24716
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ki%E1%BB%83m%20%C4%91%E1%BB%8Bnh%20chi%20b%C3%ACnh%20ph%C6%B0%C6%A1ng
|
Kiểm định chi bình phương
|
Trong thống kê, kiểm định chi bình phương hay kiểm tra chi-2 (đôi khi đọc là "khi bình phương") là một họ các phương pháp kiểm định giả thiết thống kê trong đó thống kê kiểm định tuân theo phân bố chi-2 nếu giả thuyết không là đúng. Chúng gồm:
Kiểm định chi bình phương Pearson
Kiểm định chi bình phương Yates
Kiểm định chi bình phương Mantel-Haenszel
...
Dạng thống kê kiểm định thông dụng nhất là:
Với o là dữ liệu đo đạc, e là giá trị dự đoán chính xác.
Phương pháp kiểm định chi bình phương giúp tìm ra các xu hướng có thực từ một đo đạc chứa nhiễu loạn ngẫu nhiên. Nó có thể áp dụng cho dữ liệu:
lấy ngẫu nhiên từ một tập hợp
các đo đạc là độc lập với nhau
...
Phương pháp này cũng kiểm tra tính độc lập thống kê và mức độ khớp của dữ liệu.
Ghi chú
Tham khảo
(bằng tiếng Việt)
(bằng tiếng Anh)
Chi square tutorial
Phân tích hồi quy
Kiểm định thống kê
|
24725
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kevin%20Mitnick
|
Kevin Mitnick
|
Kevin Mitnick (6 tháng 8 năm 1963 – 16 tháng 7 năm 2023) là một trong những hacker phạm tội nổi tiếng nhất thế giới. Những "thành tích" bất hảo của Kevin Mitnick làm cho anh ta trở nên nổi tiếng bao gồm nhiều lần xâm nhập vào các hệ thống tối mật của chính phủ Hoa Kỳ và một số ngân hàng danh tiếng. Năm 1999 Mitnick bị bắt giam và phải bồi thường một khoản tiền lớn cho những thiệt hại anh ta đã gây ra. Sau thời gian cải tạo, cảm thấy chưa yên tâm, chính quyền địa phương nơi Mitnick ở vẫn duy trì lệnh cấm anh chàng hacker này sử dụng các phương tiện thông tin như máy tính, Internet, điện thoại di động...
Mitnick là một trong những hacker nổi tiếng nhất của thế kỷ 20. Ông từng thâm nhập thành công vào mạng nội bộ và ăn cắp phần mềm của nhiều công ty danh tiếng, trong đó có Sun Microsystems và Motorola.
Từ hồi còn là một thiếu niên, Mitnick đã đột nhập vào mạng điện thoại trước khi chuyển sang máy tính. Dù vậy, ông không bao giờ ăn cắp tiền hay gây ra những thiệt hại nghiêm trọng mà chỉ muốn "trải nghiệm cảm giác ly kỳ".
Hiện nay, những doanh nghiệp từng bị Mitnick tấn công lại thuê ông phá vỡ hệ thống của họ để tìm ra khiếm khuyết bảo mật.
Tham khảo
Liên kết ngoài
2600 Live Mitnick interview , 2600 Magazine, Released tháng 1 năm 2003, Run time: 1 hr 18 min 5 sec
Mitnick Security Consulting (formerly known as Defensive Thinking), Kevin Mitnick's new company.
TAKEDOWN, truy cập May 7, 2006
A CNN Interview with Kevin Mitnick, truy cập September 15, 2006
Freedom Downtime, the 2600 documentary.
The Kevin Mitnick/Tsutomu Shimomura affair - lots of information on the case.
The missing Chapter 1 of Mitnick's book (or from a site where it appeared earlier , but in Microsoft Word format only.)
Mitnick interview February 5, 2003
Kevin Mitnick Buys Hacker Stories for Upcoming Book Titled The Art of Hacking
Bio of Kevin Mitnick from the Rotten Library
A Joy of Tech comic strip on Kevin ref TWiT Episode-40
Mitnick interview on Norwegian broadcasting (2006).
The interview for HACK.pl
Hacker
Tội phạm Mỹ
|
24726
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BA%A7n%20m%E1%BB%81m%20qu%E1%BA%A3ng%20c%C3%A1o
|
Phần mềm quảng cáo
|
Phần mềm quảng cáo hay nhu liệu quảng cáo thường đính kèm với những mẩu quảng cáo nhỏ, chúng thường được phân phát dưới hình thức phần mềm miễn phí hay phiên bản dùng thử. Và chỉ khi bạn trả tiền cho sản phẩm dùng thử đó, các quảng cáo sẽ "teo" nhỏ hoặc biến mất tùy theo chính sách (policy) của hãng phần mềm đó. Bên cạnh đó, phần mềm gián điệp (spyware) cũng là một trong các "biến thể" của phần mềm quảng cáo, chúng được bí mật cài vào máy tính người sử dụng khi họ đang duyệt web. Các spyware này sẽ theo dấu người dùng khi họ lang thang trên Internet và ghi lại chúng, sau đó gửi thông tin về một địa chỉ nào đó trên Internet. Phần lớn các spyware thường vô hại, tuy nhiên, ngày nay bắt đầu xuất hiện nhiều những spyware đính kèm virus, sâu (worm) hoặc "ngựa thành Troa" (Trojan horse) có thể gây tổn hại nghiêm trọng cho một hoặc một hệ thống máy tính.
Các Loại Phần Mềm Quảng Cáo
Phần mềm quảng cáo thường cố gắng xâm nhập vào máy tính hoặc các thiết bị khác mà không có sự đồng ý của người dùng. Đa số các chiến lược của phần mềm quảng cáo này đủ điều kiện được xem là các chương trình xâm nhập trình duyệt. Chúng thường thay đổi cài đặt trình duyệt mà người dùng không hề biết, bao gồm việc thay đổi trang chủ và các cài đặt tìm kiếm mặc định. Quảng cáo xuất hiện dưới dạng cửa sổ pop-up, tạo ấn tượng như là một phần của trang web đang được truy cập. Các phiên bản của phần mềm quảng cáo khác nhau tùy thuộc vào thiết bị và hệ điều hành. Ví dụ, có phần mềm quảng cáo dành cho thiết bị di động/Android, Mac hoặc Windows.
Lịch Sử Của Phần Mềm Quảng Cáo
Từ khoảng năm 1995, phần mềm hỗ trợ quảng cáo được xem là một phần của danh mục phần mềm gián điệp. Tuy nhiên, không lâu sau đó, các chuyên gia bảo mật bắt đầu phân biệt phần mềm quảng cáo với phần mềm gián điệp, xem chúng là một loại PUP (Potentially Unwanted Program) ít nguy hại hơn. Có thời điểm, phần mềm quảng cáo còn được coi là hợp pháp, do được phát triển bởi các doanh nghiệp có văn phòng và bảng lương chính thức.
Tuy nhiên, một số chi nhánh của những doanh nghiệp này phát tán phần mềm quảng cáo mà không tuân thủ các quy định pháp lý. Nếu không được kiểm soát, phần mềm quảng cáo có thể lây lan qua các trang web ngang hàng, mạng botnet, tin nhắn tức thời và các cuộc tấn công trình duyệt. Khoảng từ năm 2005 đến 2008, các nhà cung cấp phần mềm quảng cáo lớn bắt đầu đóng cửa các chi nhánh vi phạm và tách mình ra khỏi các hành vi sai trái. Gần đây, các trình duyệt đã tích hợp các chức năng chặn quảng cáo, giúp bảo vệ người dùng nhưng cũng ảnh hưởng đến doanh thu quảng cáo hợp pháp của các trang web.
Hiện nay, mặc dù vẫn còn tồn tại, phần mềm quảng cáo thường được xem như một loại PUP với mức độ đe dọa thấp. Trong nửa cuối năm 2018, phần mềm quảng cáo là một trong những loại phần mềm độc hại được phát hiện nhiều nhất, chỉ sau Trojan ngân hàng. Sự gia tăng của phần mềm quảng cáo có thể do sự phổ biến của thiết bị di động và việc chúng xâm nhập vào các ứng dụng di động. Các nhà sản xuất phần mềm quảng cáo hiện đại đang sử dụng các kỹ thuật tinh vi hơn, bao gồm việc ẩn trong các Trojan, kết hợp với các phần mềm lừa đảo hoặc thậm chí có khả năng rootkit, làm cho việc loại bỏ chúng trở nên khó khăn hơn.
Hoạt Động Của Phần Mềm Quảng Cáo
Phần mềm quảng cáo, hiệu quả trên hầu hết các trình duyệt web, thường theo dõi các trang web mà người dùng truy cập để sau đó hiển thị quảng cáo dựa trên loại trang web đã xem. Mặc dù đôi khi gây khó chịu và có tính xâm nhập, nhưng phần mềm quảng cáo thường không được xem là mối đe dọa nghiêm trọng đối với hệ thống máy tính. Nhiều người dùng máy tính không nhận thức rõ ràng về sự hiện diện của phần mềm quảng cáo trên thiết bị của họ. Phần mềm quảng cáo tạo ra doanh thu chủ yếu theo hai cách: hiển thị quảng cáo cho người dùng và nhận thanh toán dựa trên số lần nhấp chuột mà người dùng thực hiện trên các quảng cáo này.
Tham khảo
Quảng cáo trên Internet
Quảng cáo trực tuyến
|
24734
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C3%A0y%20qu%E1%BB%91c%20kh%C3%A1nh
|
Ngày quốc khánh
|
Ngày quốc khánh là ngày lễ quan trọng của một quốc gia. Nó đánh dấu một sự kiện lịch sử, chính trị hoặc văn hóa gắn liền với lịch sử Nhà nước hiện tại của quốc gia đó. Tại hầu hết các nước, ngày quốc khánh đánh dấu sự khai sinh của quốc gia: ngày giành được độc lập như ở Mỹ, lật đổ chế độ cũ như tại Pháp, ngày thông qua hiến pháp như ở Thổ Nhĩ Kỳ...
B
Bahamas: 10 tháng 7
Bahrain: 16 tháng 12
Ba Lan: 3 tháng 5 và 11 tháng 11
Bangladesh: 26 tháng 3
Barbados: 30 tháng 11
Belarus: 31 tháng 7
Bỉ: 21 tháng 7
Belize: 10 tháng 9 và 21 tháng 9
Bénin: 1 tháng 8
Bermuda: 24 tháng 5
Bhutan: 17 tháng 12
Bolivia: 6 tháng 8
Bonaire (Hà Lan) 6 tháng 9
Bosnia và Herzegovina: 1 tháng 3
Botswana: 30 tháng 9
Brasil: 7 tháng 9
Anh (11 tháng 6 Ngày nước Anh)
Quần đảo Virgin thuộc Anh 1 tháng 7
Bồ Đào Nha: 10 tháng 6
Brunei: 23 tháng 2
Bulgaria: 3 tháng 3
Burkina Faso: 4 tháng 8
Burundi: 1 tháng 7
C
Campuchia: 9 tháng 11
Cameroon: 20 tháng 5
Canada: 1 tháng 7
Cape Verde: 12 tháng 9
Catalonia (Tây Ban Nha) 11 tháng 9
Quần đảo Cayman thứ Hai đầu tiên của tháng 7
Cộng hoà Trung Phi: 1 tháng 12
Tchad: 11 tháng 8
Chile: 18 tháng 9
Trung Quốc 1 tháng 10
Colombia: 20 tháng 7
Comoros: 6 tháng 7
Quần đảo Cook: 4 tháng 8
Costa Rica: 15 tháng 9
Bờ biển Ngà: 7 tháng 8
Croatia: 25 tháng 6
Cuba: 1 tháng 1
Curaçao (Hà Lan) 2 tháng 7
Síp: 1 tháng 10
Cộng hoà Séc: 28 tháng 10 (ngày này của Cộng hòa Séc hơi phức tạp)
D
Cộng hoà Dân chủ Congo: 30 tháng 6
Đan Mạch: 5 tháng 6
Djibouti: 27 tháng 6
Dominica: 3 tháng 11
Cộng hòa Dominicana: 27 tháng 2 16 tháng 8
Đ
E
Đông Timor: 28 tháng 11
Ecuador: 10 tháng 8
Ai Cập: 23 tháng 7: 6 tháng 10
El Salvador: 15 tháng 9
Anh: 23 tháng 4
Guinea xích đạo: 12 tháng 10
Eritrea: 24 tháng 5
Estonia: 24 tháng 2
Eswatini: 6 tháng 9
Ethiopia: 28 tháng 5
F
Quần đảo Falkland: 14 tháng 6
Quần đảo Faroe (Đan Mạch) 29 tháng 7
Fiji: 10 tháng 10
Phần Lan: 6 tháng 12
Pháp: 14 tháng 7 (Ngày Fête de la Fédération)
Guyana thuộc Pháp (Pháp) 14 tháng 7
Polynesia thuộc Pháp (Pháp) 14 tháng 7
G
Gabon: 17 tháng 8
Gambia: 18 tháng 2
Gruzia: 26 tháng 5
Đức: 3 tháng 10
Ghana: 6 tháng 3
Gibraltar 10 tháng 9
Hy Lạp: 25 tháng 3 & 28 tháng 10
Greenland (Đan Mạch) 21 tháng 6 (Ngày dài nhất trong năm)
Grenada: 7 tháng 2
Guadeloupe (Pháp) 14 tháng 7
Guam (Hoa Kỳ) 21 tháng 7
Guatemala: 15 tháng 9
Guernsey and Dependencies: 9 tháng 5
Guinea: 3 tháng 4
Guinea-Bissau: 24 tháng 9
Guyana: 23 tháng 2
H
Haiti: 1 tháng 1
Herm: 9 tháng 5
Honduras: 15 tháng 9
Hong Kong: 1 tháng 7
Hungary: 15 tháng 3: 20 tháng 8 23 tháng 10
I
Iceland: 17 tháng 6
Ấn Độ: 26 tháng 1-Republic Day (Anniversary of India becoming the first republic in the British Commonwealth of Nations on 26 tháng 1 năm 1950); 15 tháng 8-Independence Day (Anniversary of India gaining independence from the British Empire on 15 tháng 8 năm 1947); 2 tháng 10-Birthday of Mahatma Gandhi, Father of the Nation.
Indonesia: 17 tháng 8
Iran: 1 tháng 4
Iraq: 3 tháng 10
Ireland: 17 tháng 3 (St. Patrick's Day)
Đảo Man: 5 tháng 7
Israel: 14 tháng 5 (around the --, according to Jewish calendar)
Ý: 2 tháng 6 (Festa della Repubblica)
Nhật Bản: 11 tháng 2 (National Foundation Day)
Jersey: 9 tháng 5
Jordan: 25 tháng 5
K
Kazakhstan: 25 tháng 10
Kenya: 16 tháng 12
Kiribati: 12 tháng 7
Kuwait: 25 tháng 2
Kyrgyzstan: 31 tháng 8
L
Lào: 2 tháng 12
Latvia: 18 tháng 11
Liban: 22 tháng 11
Lesotho: 4 tháng 10
Liberia: 26 tháng 7
Libya: 1 tháng 9
Liechtenstein: 15 tháng 8
Litva: 16 tháng 2
Luxembourg: 23 tháng 6
M
Macedonia: 8 tháng 9
Macau: 20 tháng 12
Madagascar: 26 tháng 6
Malawi: 6 tháng 7
Malaysia: 31 tháng 8
Maldives ngày đầu tiên của tháng thứ ba trong lịch Hồi giáo
Mali: 22 tháng 9
Malta: 21 tháng 9; 31 tháng 3; 8 tháng 9; 13 tháng 12; 7 tháng 6
Quần đảo Marshall: 1 tháng 5
Martinique (Pháp) 14 tháng 7
Mauritanie: 28 tháng 11
Mauritius: 12 tháng 3
Mayotte (Pháp) 14 tháng 7
México: 16 tháng 9
Liên bang Micronesia: 3 tháng 11 (Independence Day)
Moldova: 27 tháng 8
Monaco: 19 tháng 11
Mông Cổ: 11 tháng 7
Montenegro 13 tháng 7
Montserrat ngày thứ bảy của tuần thứ hai vào tháng 6
Maroc: 2 tháng 3
Mozambique: 25 tháng 6
Myanmar: 14 tháng 11
N
Namibia: 21 tháng 3
Nauru: 31 tháng 1
Nepal: 18 tháng 2: 28 tháng 12
Antille thuộc Hà Lan (Hà Lan) 30 tháng 4
Hà Lan (quốc gia) (Queensday) 30 tháng 4, (Bevrijdingsdag|Liberation Day) 5 tháng 5, 15 tháng 12
Nouvelle-Calédonie (Pháp) 14 tháng 7
New Zealand: 6 tháng 2 (Waitangi Day)
Nhật Bản: 11 tháng 2 (Ngày Kiến quốc)
Nicaragua: 15 tháng 9
Niger: 18 tháng 12
Nigeria: 1 tháng 10 và 29 tháng 5
Niue: 6 tháng 2
Đảo Norfolk (Úc) 8 tháng 6
Triều Tiên: 8 tháng 9.
Bắc Ireland: 17 tháng 3 (St. Patrick's Day) and 12 tháng 7 (Battle of the Boyne Day)
Quần đảo Bắc Mariana: 8 tháng 1
Na Uy: 17 tháng 5
O
Oman: 18 tháng 11
P
Pakistan: 28 tháng 1 (Pakistan day), 23 tháng 3 (Ngày Cộng Hoà), 14 tháng 8 (Ngày Độc Lập)
Palau: 9 tháng 7
Panama: 3 tháng 11
Papua New Guinea: 16 tháng 9
Paraguay: 14 tháng 5
Peru: 28 tháng 7
Philippines: 12 tháng 6
Quần đảo Pitcairn Thứ bảy của tuần thứ 2 trong tháng 6
Ba Lan: 3 tháng 5, Ngày Công bố hiến pháp, và 11 tháng 11, (Ngày Độc Lập)
Puerto Rico (Hoa Kỳ) 25 tháng 7 (Ngày công bố hiến pháp)
Q
Qatar, 18 tháng 12 (Official National Day)
Québec, 24 tháng 6 (Quebec's National Holiday)
R
Cộng hoà Congo: 15 tháng 8
Réunion (Pháp) 14 tháng 7
România: 1 tháng 12
Nga: 12 tháng 6
Rwanda: 1 tháng 7
S
Saba (Hà Lan) 3 tháng 12
Sint Eustatius (Hà Lan) 16 tháng 11
Saint Helena Ngày thứ bảy của tuần thứ 2 trong tháng 6
Saint Kitts và Nevis: 19 tháng 9
Saint Lucia: 13 tháng 12
Saint Maarten (Hà Lan) 11 tháng 11
Saint-Pierre và Miquelon (Pháp) 14 tháng 7
Saint Vincent và Grenadines: 27 tháng 10
Sami (Thuỵ Điển, Phần Lan, Na Uy, Nga) 6 tháng 2
Samoa: 1 tháng 6
San Marino: 3 tháng 9
São Tomé và Príncipe: 12 tháng 7
Sark: 9 tháng 5
Ả Rập Xê Út: 23 tháng 9
Scotland: 30 tháng 11 (St. Andrew's Day)
Sénégal: 4 tháng 4
Serbia: 15 tháng 2
Seychelles: 18 tháng 6
Sierra Leone: 27 tháng 4
Singapore: 9 tháng 8
Slovakia: 29 tháng 8: 1 tháng 9
Slovenia: 25 tháng 6
Quần đảo Solomon: 7 tháng 7
Somalia: 21 tháng 10
Nam Phi: 27 tháng 4
Quần đảo Nam Georgia và Nam Sandwich Ngày thứ 7 của tuần thứ 2 trong tháng 6
Hàn Quốc: 15 tháng 8
Tây Ban Nha: 12 tháng 10 (Hispanic Day)
Sri Lanka: 4 tháng 2
Sudan: 1 tháng 1
Suriname: 25 tháng 11
Thụy Điển: 6 tháng 6
Thụy Sĩ: 1 tháng 8
Syria: 17 tháng 4
T
Triều Tiên (Bắc Triều Tiên): 9 tháng 9
Tajikistan: 9 tháng 9
Trung Hoa Dân Quốc (thường gọi là Đài Loan): 10 tháng 10
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (thường gọi là Trung Quốc): 1 tháng 10
Tanzania: 26 tháng 4
Tartarstan: 30 tháng 8
Thái Lan: 5 tháng 12
Togo: 27 tháng 4
Tonga: 4 tháng 6
Transnistria: 2 tháng 9
Trinidad và Tobago: 31 tháng 8
Tunisia: 20 tháng 3
Thổ Nhĩ Kỳ: 29 tháng 10
Bắc Síp: 15 tháng 11
Turkmenistan: 27 tháng 10
Quần đảo Turks và Caicos: 30 tháng 8
Tuvalu: 1 tháng 10
U
Uganda: 9 tháng 10
Ukraina: 24 tháng 8
Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất: 2 tháng 12
Anh Quốc: 12 tháng 6
Hoa Kỳ: 4 tháng 7
Quần đảo Virgin thuộc Mỹ (Hoa Kỳ) 31 tháng 3
Uruguay: 25 tháng 8
Uzbekistan: 1 tháng 9
Uzupis: 1 tháng 4
V
Vanuatu: 30 tháng 7
Vatican: 24 tháng 4
Venezuela: 5 tháng 7
Việt Nam: 2 tháng 9
W
Wales 2 tháng 3 (St. David's Day)
Y
Yemen: 22 tháng 5
Nam Tư 29 tháng 11
Z
Zambia: 24 tháng 10
Tham khảo
Ngày lễ
Biểu tượng quốc gia
Ngày lễ quốc gia
Danh sách quốc gia
Ngày lễ và Ngày Hành động trong tháng Tư
Ngày lễ và Ngày Hành động trong tháng Tám
Ngày lễ và Ngày Hành động trong tháng Mười Hai
Ngày lễ và Ngày Hành động trong tháng Hai
Ngày lễ và Ngày Hành động trong tháng Một
Ngày lễ và Ngày Hành động trong tháng Bảy
Ngày lễ và Ngày Hành động trong tháng Sáu
Ngày lễ và Ngày Hành động trong tháng Ba
Ngày lễ và Ngày Hành động trong tháng Năm
Ngày lễ và Ngày Hành động trong tháng Mười Một
Ngày lễ và Ngày Hành động trong tháng Mười
Ngày lễ và Ngày Hành động trong tháng Chín
|
24751
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Albus%20Dumbledore
|
Albus Dumbledore
|
Albus Percival Wulfric Brian Dumbledore là một nhân vật hư cấu trong bộ truyện Harry Potter của J. K. Rowling. Trong hầu hết các phần của bộ truyện, ông là hiệu trưởng của trường phù thủy Hogwarts. Là một nhân vật quan trọng trong cốt truyện của Harry Potter, ông là người sáng lập và lãnh đạo của Hội Phượng hoàng, một tổ chức chuyên chiến đấu chống lại Chúa tể Voldemort, nhân vật phản diện chính của bộ truyện.
Dumbledore được Richard Harris thể hiện trong các bộ phim chuyển thể từ Harry Potter và Hòn đá phù thủy (2001) và Harry Potter và Phòng chứa Bí mật (2002), tuy nhiên Harris đã qua đời vì căn bệnh của Hodgkin vào tháng 8 năm 2002 trước khi phát hành Phòng chứa Bí mật ba tháng muộn hơn vào ngày 15 tháng 11. Sau cái chết của Harris, Michael Gambon đã đóng vai Dumbledore trong sáu bộ phim còn lại của Harry Potter từ năm 2004 đến năm 2011. Jude Law đóng vai cụ Dumbledore là một người đàn ông trung niên trong các bộ phim tiền truyện Sinh vật huyền bí: Tội ác của Grindelwald (2018) và Sinh vật huyền bí: Những bí mật của Dumbledore (2022).
Rowling cho biết bà đã chọn cái tên Dumbledore, một từ phương ngữ của "bumblebee", vì tình yêu âm nhạc của cụ Dumbledore: cô tưởng tượng ông đang đi xung quanh "ngâm nga một mình rất nhiều".
Thông tin chung
Albus Dumbledore sinh năm 1881, mất năm 1997 (116 tuổi).
Bề ngoài
Giáo sư Albus Dumbledore, được miêu tả với dáng người cao và ốm, với mái tóc và bộ râu bạc trắng dài đến thắt lưng. Gương mặt hằn lên những nếp nhăn với đôi mắt xanh đậm và chiếc mũi gãy (ít nhất ông đã hai lần bị đấm bể mũi, một trong hai lần là do em trai ông, Aberforth, gây ra tại tang lễ của cô em gái Ariana). Giáo sư thường đeo một cặp kính hình bán nguyệt (hình nửa vầng trăng) trễ xuống mũi. Thời còn trẻ, ông có mái tóc màu nâu vàng và không rõ lý do tại sao lại có một vết thẹo ở đầu gối trái. Vết sẹo đó là bản đồ cho thấy thế giới ngầm ở Luân Đôn. Ông thường mặc một bộ áo choàng dài quét đất có hoa văn là những họa tiết về Mặt Trăng và những vì sao. Những chi tiết cho thấy ông có những điểm tương đồng với vị phù thủy huyền thoại Merlin. Thần hộ mệnh của ông là một con phượng hoàng.
Tính cách
Giáo sư Dumbledore là một người có tri thức uyên thâm. Trong mọi trường hợp, ông bình tĩnh đến lạ thường. Dumbledore rất vui vẻ nhưng đôi khi đâm ra "tưng tửng". Tuy vậy, các học sinh trong trường rất thích tính cách này (trừ Draco Malfoy và một vài người trong nhà Slytherin). Ông cũng là người cao thượng, nhân hậu, tài giỏi và vui nhộn, cũng như các phù thủy thiện Merlin hay Gandalf (trong Chúa tể của những chiếc nhẫn của nhà văn J. R. R. Tolkien). Ông là một trong những người có ý nghĩa lớn nhất đối với Harry Potter, và là người duy nhất mà Chúa tể Hắc ám Voldemort còn e dè. Ông được mọi người tôn sùng là "Phù thủy vĩ đại nhất mọi thời đại".Và là hiệu trưởng vĩ đại nhất mà trường Hogwart từng có.
Xuyên suốt bộ truyện, giáo sư Albus Dumbledore luôn là một người có tư tưởng hiện đại, không phân biệt giữa dòng máu phù thủy thuần chủng và dân Muggle. Sau lần sai sót hồi trẻ với Grindelwald - người Albus Dumbledore yêu năm 18 tuổi, ông không quan trọng về cái được gọi là "máu thuần chủng". Ông cho rằng quyết định của mỗi cá nhân mới cho thấy tính cách của từng người, đúng hơn ngày sinh, dòng máu hay dòng họ của người đó. Ông nói rằng "không quan trọng việc một người sinh ở đâu mà quan trọng là họ lớn lên như thế nào”. Chúa tể Voldemort, rất tức giận, cho rằng ông là "kẻ bênh vực cho bọn Muggle và phù thủy Máu bùn". Không giống đa số những phù thủy khác, giáo sư Dumbledore không sợ phải gọi tên thật của Voldemort là Tom Riddle vì ông cho rằng "việc sợ hãi một cái tên chỉ càng gây thêm nỗi sợ về con người ấy". Ông thường gọi Voldemort là "Tom" trong mỗi lần đối mặt, mặc cho việc hắn có đồng ý hay không.
Điều được coi là điểm yếu trong tính cách của giáo sư Dumbledore là việc tin tưởng một người mà “khó được tin tưởng”. Sự tin tưởng này đôi khi bị những người xung quanh chỉ trích, nhưng với sự sáng suốt của ông thì đó không phải là một điều cần bàn đến. Ông luôn tỏ ra là một người có tài năng xuất chúng lỗi lạc, nhân hậu, hài hước nhưng đôi khi hơi kì lạ, thường là trong những cuộc chiến, đặc biệt là đối với những người chống lại ông. Giáo sư Dumbledore hiếm khi tỏ ra mất kiên nhẫn, luôn luôn bình tĩnh đến mức đáng ngạc nhiên trong bất kì tình huống nào, rất lịch sự thậm chí đối với những người ông coi là kẻ thù. Ông cũng là một người yêu thích âm nhạc, gọi nó là "một dạng ma thuật".
Sở thích
Giáo sư Dumbledore thích nhạc giao hưởng và trò ném ki mười chai. Ngoài ra, ông cũng là một người hảo ngọt. Trong lần đầu tiên xuất hiện ở phần một, giáo sư Minerva McGonagall thấy ông đang ăn loại kẹo sirô chanh (hay còn gọi là "giọt chanh") của dân Muggle. Tính thích đồ ngọt của ông còn thể hiện ở mật khẩu để vào văn phòng là "kẹo giọt chanh". Tuy nhiên, ông không thích kẹo dẻo đủ vị của thương hiệu Bertie Bott vì hồi còn trẻ ông đã ăn nhằm viên kẹo nhớ đời có vị "nôn mửa" và cuối tập truyện Harry Potter và hòn đá phù thủy ông lại một lần nữa ăn phải vị ráy tai trong khi hương vị ông yêu thích là quả mâm xôi. Vị mứt yêu thích của ông là vị dâu. Thời còn trẻ thì ông từng rất muốn thu thập đủ các Bảo bối Tử thần (the Deathly Hallows) cùng Gellert Grinderwald.
Đũa phép
Giáo sư Dumbledore là chủ nhân của Đũa phép Cơm nguội (The Elder Wand) hay còn gọi là Cây đũa của Vận mệnh (The Wand of Destiny), một trong những Bảo bối Tử thần. Cây đũa thần làm từ gỗ cây cơm nguội. Người chủ cũ của nó là tên phù thủy hắc ám lừng danh Gellert Grindelwald trước thời Chúa tể Voldemort. Giáo sư đã đánh bại Grindelwand và trở thành chủ nhân của cây đũa, cho phép ông bất khả chiến bại nhưng đồng thời cũng khó khăn trong việc kiểm soát được sức mạnh của nó. Khi ông chết, cây đũa cũng được chôn theo. Voldemort khi biết được vị trí cũng như sức mạnh của cây đũa đã đột nhập vào mộ của ông để lấy nó. Nhưng để thật sự làm chủ nó, Voldemort đã giết Severus Snape, người mà hắn cho là chủ nhân của cây đũa ấy. Nhưng thật ra, giáo sư Dumbledore đã bị Draco Malfoy giải giới trước khi bị Snape giết nên mặc dù không giết ông nhưng Draco gián tiếp trở thành chủ nhân chính thức của cây đũa. Harry Potter trong một lần giao chiến với Draco đã giải giới hắn và trở thành chủ nhân thật sự của Đũa phép Cơm nguội. Cây đũa đó có sức mạnh mà những cây đũa khác không làm được, như việc sửa lại cây đũa bị hỏng của Harry, điều mà người làm đũa phép - Ông Ollivander - đã không làm được. Nên sau khi trận chiến Hogwarts kết thúc, Harry đã dùng nó để phục hồi cây đũa phép của mình bị hỏng sau lần trốn chạy con rắn Nagini của chúa tể hắc ám Voldemort ở đầu tập 7 và để lại Cây đũa Cơm nguội về nơi nó đã xuất phát,
Trong phim, Đũa phép Cơm nguội có màu nâu và có những vật thể hình cầu gắn xuyên suốt trên thân đũa.
Thực ra Đũa phép Cơm nguội không phải cây đũa đầu tiên của Dumbledore. Ông từng dùng một cây đũa khác từ khi bắt đầu nhập học trường Hogwarts cho đến khi đánh bại Gellert Grindewald năm 1945.
Tại trường Hogwarts
Khi Albus nhập trường Hogwarts, ông làm bạn với Elphias Doge, người thường bị chế nhạo bởi bộ mặt xanh xao của mình, di chứng của bệnh đậu mùa trước đó. Trong suốt quá trình học ở Hogwarts, Dumbledore được biết đến là một sinh viên xuất chúng nhất đã từng học ở trường. Ông giành được nhiều giải thưởng và có mối liên hệ tốt với những pháp sư đáng chú ý nhất của thời đại. Những bản nghiên cứu và bài luận của ông đặt nền móng cho những bài báo như "Thuật biến hình ngày nay", "Sự thách thức của Bùa ngải" và "Độc dược Thực hành". Nhà của ông là Gryffindor, thông tin này được Hermione Granger cho Harry Potter biết trong phần một, Hòn đá phù thủy trên chuyến tàu đến Hogwarts.
Gia đình
Trong gia đình cụ có ba anh em mà cụ là anh cả. Hai người kia là em trai Aberforth kém ông 3 tuổi, một người có tính cách trái ngược cụ hoàn toàn (nhưng họ vẫn luôn sống hòa thuận, yêu thương lẫn nhau) và em gái Ariana (sau khi người em gái này mất do một tai nạn trong cuộc xung đột giữa hai người anh và Grindelwald, cụ Albus và cụ Aberforth bắt đầu xảy ra xung đột trực diện). Ba kẻ Muggle đã tấn công Ariana, khi đó mới 6 tuổi, sau khi nhìn thấy Ariana sử dụng phép thuật. Hậu quả là cô bé bị suy sụp về năng lực pháp thuật cũng như về mặt tinh thần trong suốt phần đời còn lại của mình. Bố của Albus, ông Percival Dumbledore, đã tấn công ba đứa trẻ Muggle để trả thù cho con gái, và sau đó đã bị tuyên án tù chung thân ở ngục Azkaban. Để tránh cho Ariana khỏi bị đưa vào Bệnh viện Thánh Mungo, mẹ của Albus là Kendra đã chuyển gia đình đến thung lũng Godric, và bệnh tật của cô bé thì được giấu đi. Trong một lần đụng độ với Grindelwald và Alberforth để định đoạt con đường Dumbledore sẽ đi, Ariana đã chết, cho tới nay, chưa ai biết được người giết Ariana thực sự là ai. Quyển sách bịa đặt viết về Dumbledore của Rita Skeeter cho rằng Ariana là một á phù thủy (Squib).
Thành tích
Ông đã đạt được huân chương Merlin đệ nhất đẳng, từng được đề cử cho chức Bộ trưởng pháp thuật nhưng ông từ chối vì gắn bó với trường Hogwarts, ông là người khám phá ra 12 công dụng của máu rồng và đạt thành tựu cao ở thuật giả kim với người cộng sự rất tài giỏi khác là cụ Nicolas Flamel. Ông là người duy nhất mà chúa tể Voldemort phải kiêng dè. Hình của ông được in trên tấm thẻ sôcôla ếch nhái và theo ông thì nếu có một điều thật sự tồi tệ thì đó chính là việc ông không còn có mặt trên mấy tấm thẻ nữa.
Khả năng
Dumbledore có tài sử dụng pháp thuật mà không cần đến đũa phép (thần chú không lời). Ông có khả năng biện luận sắc sảo và sự bình tĩnh nhờ vậy mà giúp cho Harry Potter không bị đuổi học trong phiên tòa hay thoát khỏi sự xâm nhập tâm trí của Voldemort trong tập Harry Potter và Hội Phượng hoàng. Ông có khả năng pháp thuật siêu phàm và là người mà Harry Potter kính trọng nhất.
Sở hữu
Ông sở hữu một cây đũa phép cơm nguội - The Elder Wand, cái Tắt-Sáng - Deluminator và con chim phượng hoàng Fawkes là chủ nhân chiếc lông đuôi trong hai cây đũa phép của Harry Potter và Voldemort và một cái chậu tưởng kí.
Cái chết của Albus Dumbledore
Vào năm học thứ sáu của Harry Potter, số học sinh bắt đầu thưa dần vì "thời đại của Voldemort đã trở lại". Ông thường hay rời trường một cách bí mật trong vài ngày. Và cũng trong năm học này, ông đã mở một lớp học riêng và đặc biệt dành cho Harry. Nội dung của buổi học là những "mảnh ghép" cuộc đời của Chúa tể Hắc ám Voldemort. Một đêm nọ, ông gởi thư gặp riêng Harry và cùng đi ra ngoài trường Hogwarts để phá hủy một Trường sinh linh giá. Để lấy được chiếc hộp đựng Trường sinh linh giá, ông phải uống cạn một loại nước độc. Và loại chất độc ấy làm cho ông yếu dần đi. Về đến trường, bọn Tử thần Thực tử đã lọt vào khuôn viên trường và thực hiện kế hoạch của mình. Draco Malfoy đã được Voldemort giao nhiệm vụ giết Dumbledore. Ông bắt Harry trùm chiếc áo tàng hình để được an toàn và ếm bùa Harry "Bùa bất động toàn thân", vì sử dụng thời cơ duy nhất để ếm bùa lên Harry nên ông mất cơ hội tự vệ và bị Draco tước mất vũ khí. Tuy vậy, Draco Malfoy vẫn không đủ can đảm giết Dumbledore - một phù thủy vĩ đại nhất mọi thời đại. Lúc đó, giáo sư Severus Snape xuất hiện (Snape đã thề với mẹ của Draco bằng "Lời thề bất khả bội" - Unbreakable Vow - là sẽ giúp Draco hoàn thành nhiệm vụ của chúa tể đã giao cho). Sức khỏe ông giảm hẳn vì loại độc dược bảo vệ Trường sinh linh giá vừa tìm được và một bàn tay của ông bị thương khi đi phá hủy một Trường sinh linh giá khác. Ông đã qua đời trong sự tiếc thương của tất cả các phù thủy thiện trên thế giới và là một điểm mốc để thời kì của Voldemort trở lại. Việc ông van xin Snape trước khi chết vẫn còn là một điều bí ẩn. Đó không hẳn là một sự cầu xin tha chết vì Dumbledore không bao giờ coi trọng cái chết cũng như chưa bao giờ van xin ai tha chết cho mình. Trong phần cuối, bí ẩn đã sáng tỏ rằng cái chết của ông là sự dàn xếp trước giữa ông và Severus Snape.
Những câu nói ấn tượng
Sự thật là một thứ vô cùng đẹp đẽ nhưng cũng rất nguy hiểm nên ta phải luôn luôn cảnh giác với nó.
Nói cho cùng thì đối với một đầu óc tổ chức tốt, cái chết cũng giống như một cuộc phiêu lưu vĩ đại khác.
Không quan trọng ta được sinh ra thế nào mà quan trọng là ta lớn lên thành người như thế nào.
Đừng chìm đắm vào những giấc mơ mà quên đi thực tại, hãy nhớ lấy điều đó.
Không chỉ nhờ vào sức lực của chúng ta không thôi, mà chính sự chọn lựa của chúng ta mới chứng tỏ chúng ta thực sự là ai.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Wikiquote: Những câu nói của Albus Dumbledore
Nhân vật trong Harry Potter
Nhân vật đồng tính nam giả tưởng
Người Anh giả tưởng
Hiệu trưởng giả tưởng
Nhân vật giả tưởng dùng phép thuật
de:Figuren der Harry-Potter-Romane#Albus Dumbledore
ml:ഹാരി പോട്ടർ#ആൽബസ് ഡംബിൾഡോർ
|
24752
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB%9Di%20%C4%91%E1%BA%A1i%20Kh%C3%A1m%20ph%C3%A1
|
Thời đại Khám phá
|
Thời đại Khám phá hay Thời đại Thám hiểm là cách gọi phổ thông về những khám phá địa lý của châu Âu vào khoảng thời kỳ cận đại, phần lớn trùng lặp với kỷ nguyên tàu buồm, khoảng từ đầu thế kỷ 15 đến thế kỷ 18 trong lịch sử châu Âu. Trong thời kỳ này, người châu Âu bắt đầu đi khám phá thế giới và mở mang chân trời địa lý của họ. Gần đây, một số sử gia gọi thời kỳ này là Thời kỳ Tiếp xúc (tiếng Anh: Contact Period) hay Thời đại bành trướng của châu Âu.
Các cuộc viễn chinh này của người châu Âu dẫn đến sự trỗi dậy của thương mại toàn cầu và các đế quốc thực dân châu Âu. Từ sự liên hệ giữa Cựu Thế giới (châu Âu, Á và Phi) và Tân Thế giới (châu Mỹ và Úc) mà tạo nên tuyến mậu dịch Columbus, trao đổi các loài thực vật, động vật, thực phẩm, quần thể người (bao gồm cả nô lệ), bệnh truyền nhiễm và văn hóa giữa bán cầu Đông và Tây. Các khám phá trong thời đại này và sau đó giúp ta có hoàn thiện bản đồ thế giới. Từ đó, một thế giới quan mới nảy sinh và các nền văn minh xa xôi tiếp xúc, tuy vậy, nó cũng dẫn đến sự lan truyền của những dịch bệnh làm suy giảm dân số và sự bóc lột, chinh phục quân sự và thống trị kinh tế của châu Âu đối với nhiều dân cư bản địa. Nó cũng cho phép sự mở rộng của Kitô giáo trên toàn thế giới: các hoạt động truyền giáo, cuối cùng khiến nó trở thành tôn giáo lớn nhất thế giới.
Khái niệm
Khái niệm về sự khám phá đã được xem xét kỹ lưỡng, phê phán lịch sử thuật ngữ cốt lõi trong thuyết sử học phân chia thời kỳ. Thuật ngữ "thời đại khám phá" đã xuất hiện trong nhiều sử liệu và vẫn được sử dụng khá phổ biến. Sử gia J. H. Parry gọi thời kỳ này là Thời đại Trinh sát (Age of Reconnaissance), lập luận rằng giai đoạn này không chỉ là những cuộc thám hiểm của người châu Âu tới các vùng đất lạ lẫm đối với họ, mà còn góp phần phát triển kiến thức địa lý và khoa học thực nghiệm. "Ta đã chứng kiến những thắng lợi quan trọng đầu tiên của câu hỏi thực nghiệm (empirical inquiry, nghĩa là học hỏi thông qua các thí nghiệm thực tế) trước kiến thức uy tín (authority, nghĩa là học hỏi từ người có uy tín, mà không cần xem xét rằng thông tin đó có đúng hay không), sự khởi đầu của liên kết chặt chẽ giữa khoa học, công nghệ và công việc hàng ngày, chính là một đặc điểm thiết yếu của thế giới phương Tây hiện đại." Nhà chính trị học Anthony Pagden rút ra từ công trình của học giả Edmundo O'Gorman, khẳng định rằng: "Đối với tất cả người châu Âu, các sự kiện vào tháng 10 năm 1492 đã tạo thành một 'sự khám phá'. Một thứ gì đó mà họ không hề biết trước đây đã đột nhiên xuất hiện trước mắt họ." O'Gorman thêm rằng cuộc gặp gỡ vật lý và địa lý với các vùng lãnh thổ mới ít quan trọng hơn nỗ lực của người châu Âu để tích hợp kiến thức mới này vào thế giới quan của họ, thứ mà ông gọi là "phát kiến châu Mỹ". Pagden xem xét nguồn gốc của các thuật ngữ "discovery" và "invention". Trong tiếng Anh, từ "discovery" và các dạng của nó trong các ngôn ngữ thuộc ngữ tộc Rôman (tiếng Pháp, Ý, v.v) bắt nguồn từ "disco-operio trong tiếng Latinh, có nghĩa là khám phá, tiết lộ, để lộ ra trước ánh nhìn" hàm ý rằng những gì được tiết lộ đã tồn tại trước đó. Rất ít người châu Âu bấy giờ sử dụng thuật ngữ "phát minh" cho các cuộc khám phá mới, ngoại lệ đáng chú ý là Martin Waldseemüller, người tạo ra tấm bản đồ đầu tiên sử dụng thuật ngữ "Americus" (tiếng Latinh cho America, nghĩa là Mỹ châu).
Tổng quan
Người Bồ Đào Nha đã bắt đầu khám phá bờ Đại Tây Dương từ năm 1418, dưới sự bảo trợ của Hoàng tử Henry. Loại thuyền nhẹ, linh hoạt và chống chọi được gió được phát triển dưới thời của ông. Năm 1488, Bartolomeu Dias đến được Ấn Độ Dương bằng tuyến đường này. Năm 1492 các Vua của Ca-tô của Castile và Aragon tài trợ cho kế hoạch của Christopher Columbus để đi về phía tây để đến Ấn Độ bằng cách băng qua Đại Tây Dương. Ông thay vào đó đáp xuống một lục địa chưa được khám phá gọi là châu Mỹ. Để tránh mâu thuẫn giữa Bồ Đào Nha và Castile (vương quốc mà Colombo phụng sự), Hiệp ước Tordesillas được ký kết, chia đôi thế giới giữa hai cường quốc.
Năm 1498, một cuộc thám hiểm Bồ Đào Nha do Vasco da Gama chỉ huy đến Ấn Độ bằng cách đi vòng quanh Châu Phi, mở cửa thương mại trực tiếp với châu Á . Trong khi các đoàn tàu thám hiểm khác đã được gửi từ Bồ Đào Nha sang Bắc Mỹ, trong những năm tiếp theo, Hạm đội Bồ Ấn cũng mở rộng tuyến đường về phía đông, tới tận Nam Mỹ và góp phần liên kết Tân Thế giới trực tiếp với Cựu thế giới (bắt đầu từ năm 1500, Pedro Alvares Cabral), và khám phá các hòn đảo Nam Đại Tây Dương và Nam Ấn Độ Dương. Chẳng bao lâu, người Bồ Đào Nha đi thuyền về phía đông, tới Quần đảo Gia Vị (Indonesia) trù phú năm 1512, cập bến tại Trung Quốc một năm sau đó. Năm 1513, Vasco Núñez de Balboa của Tây Ban Nha vượt eo Panama và phát hiện "biển khác" từ Thế giới Mới. Cuộc khai phá về phía Đông và Tây tụ họp vào năm 1522, khi cuộc thám hiểm của Tây Ban Nha do thuyền trưởng người Bồ Đào Nha Ferdinand Magellan và sau đó là Sebastián Elcano về phía tây hoàn thành chuyến đi đầu tiên vòng quanh thế giới, trong khi các conquistador Tây Ban Nha thâm nhập sâu hơn vào nội địa châu Mỹ, và một số hòn đảo ở Nam Thái Bình Dương.
Từ năm 1495, người Pháp, người Anh và người Hà Lan cũng vào cuộc khi nghe tin những khám phá thú vị và béo bở này, thách thức độc quyền của Iberia về thương mại hàng hải bằng cách tìm kiếm các hải tuyến mới. Bắt đầy bằng những cuộc khai phá sâu vào Bắc Mỹ (cuộc thám hiểm đầu tiên của John Cabot năm 1497 ở phía bắc, phụng sự Anh Quốc, tiếp đó là các cuộc thám hiểm của Pháp tới Nam Mỹ và sau đó đến Bắc Mỹ) và vào Thái Bình Dương quanh Nam Mỹ. Họ cũng theo chân người Bồ Đào Nha vòng qua Châu Phi vào Ấn Độ Dương; phát hiện Úc năm 1606, New Zealand vào năm 1642 và Hawaii vào năm 1778. Trong khi đó, từ năm 1580 đến năm 1640, người Nga đông tiến và chinh phục gần như toàn bộ Siberia và Alaska.
Bối cảnh
Kiến thức thời trung cổ của châu Âu về châu Á ngoài tầm với của Đế quốc Byzantine được thu thập từ các báo cáo lẻ tẻ từ thời Alexander Đại Đế và những người kế nhiệm ông, thường bị bóp méo bởi các huyền thoại. Một nguồn thông tin khác là từ mạng lưới buôn người Do Thái Radhanite của các thương gia đi lại giữa châu Âu và thế giới Hồi giáo trong thời gian của các quốc gia Thập tự chinh.
Sự trỗi dậy của giao thương Âu Châu
Giữa thế kỷ thứ XII và XIV, nền kinh tế châu Âu đột biến bởi sự liên kết các tuyến giao thương đường sông và đường biển, khiến châu Âu phát triển những mạng lưới thương mại phức tạp.
Trước thế kỷ XII, trở ngại chính cho hoạt động buôn bán của Tây Âu phía đông eo Gibraltar là các nhà nước Hồi giáo và độc quyền thương mại của các thành bang cộng hòa hàng hải như Venice và Genoa. Kinh tế Iberia tăng trưởng theo sau cuộc tái chiếm Al-Andalus và cuộc vây hãm Lisbon năm 1147. Sự suy giảm sức mạnh hải quân của Nhà Fatimid trước cuộc Thập tự chinh lần thứ nhất đã cho phép các thành bang Ý hàng hải là Venice, Genoa và Pisa, thống trị thương mại phía đông Địa Trung Hải. Các thương nhân Ý từ đó mà trở nên giàu có và lan tỏa tầm ảnh hưởng chính trị. Cuộc xâm lược Anh của người Norman vào cuối thế kỷ XI khiến Biển Bắc trở nên an toàn hơn cho các hoạt động giao thương. Liên minh Hanse, một liên hiệp các bang hội thương gia và thị trấn ở miền bắc nước Đức dọc Biển Bắc và Biển Baltic, góp phần không nhỏ cho sự phát triển kinh doanh tại khu vực. Vào thế kỷ thứ XII, vùng Flander, Hainault và Braband sản xuất hàng dệt chất lượng tốt nhất ở Bắc Âu, khuyến khích các thương nhân từ Genova và Venice giong buồm trực tiếp tới đó qua eo Gibraltar và men theo bờ Đại Tây Dương. Nicolozzo Spinola giong thuyền trực tiếp từ Genève đến Flanders vào năm 1277.
Công nghệ: Thiết kế tàu và la bàn
Những tiến bộ công nghệ quan trọng mở ra Thời đại Khám phá là các ứng dụng mới như la bàn từ tính và những cải tiến trong ngành thiết kế tàu.
La bàn là vật dụng hỗ trợ cho phương pháp hoa tiêu truyền thống dựa trên vị trí mặt trời và các ngôi sao. La bàn đã được sử dụng ở Trung Quốc vào thế kỷ XI và được các thương nhân Ả Rập ở Ấn Độ Dương áp dụng thuần thục. La bàn được truyền bá sang châu Âu vào cuối thế kỷ XII hoặc đầu thế kỷ XIII. Việc sử dụng la bàn ở Ấn Độ Dương được đề cập lần đầu tiên năm 1232. Việc sử dụng la bàn ở châu Âu được đề cập lần đầu tiền năm 1180. Người châu Âu sử dụng la bàn "khô", với một cây kim trên trục. Thẻ la bàn là một phát minh của châu Âu.
Để đi biển, người Mã Lai đã phát minh ra những cánh buồm junk làm từ thảm dệt gia cố bằng tre, vài trăm năm trước năm thứ 1 TCN. Thời nhà Hán (206 TCN-220 CN), người Trung Quốc sử dụng những cánh buồm junk lĩnh hội từ các thủy thủ Mã Lai cập bến bờ phía Nam Trung Quốc. Bên cạnh loại buồm này, họ cũng tạo ra những chiếc buồm hình thang (buồm tanja). Các loại buồm mới khiến các chuyến hải hành tại bờ phía tây châu Phi trở nên khả thi, bởi vì chúng có khả năng chống lại gió. Loại buồm này cũng đã truyền cảm hứng cho người Ả Rập phía Tây và Polynesia phía Đông của Mã Lai phát triển các loại buồm tam giác và buồm càng cua.
Người Java đóng loại tàu vượt đại dương gọi là po từ khoảng thế kỷ I CN. Nó dài 50 m và có phần nổi (khoảng cách từ mặt nước đến mép thuyền) tầm 4–7 mét. Po có khả năng chở 700 người cùng với hơn 10.000 "斛" (hộc) hàng hóa (250-1000 tấn tùy theo ước tính). Chúng được đóng từ nhiều tấm ván để chống bão và có 4 cánh buồm cộng thêm một cánh buồm căng chéo trước mũi. Người Java đã đến được Ghana vào thế kỷ thứ VIII.
Tàu bè sau này tăng kích thước, cần ít thủy thủ đoàn hơn và có thể đi được quãng đường dài hơn mà không cần dừng lại. Chi phí đi lại đường dài do vậy giảm thiểu vào thế kỷ thứ XIV. Tàu cog vẫn phổ biến cho thương mại do chi phí đóng thuyền thấp. Thuyến galê cũng được sử dụng trong thương mại.
Địa lí và bản đồ
Cẩm nang hàng hải Biển Erythraean, một tài liệu có niên đại từ những năm 40–60 CN, mô tả một hải tuyến mới được phát hiện thông qua Biển Đỏ đến Ấn Độ, rồi còn có các mô tả về các khu chợ ở các thị trấn dọc Biển Đỏ, Vịnh Ba Tư, Ấn Độ Dương và đường bờ biển phía đông châu Phi, chép rằng "xa hơn những nơi này, đại dương chưa được khám phá lặn về phía tây, chạy dọc theo các khu vực phía nam Aethiopia và Libya và Châu Phi, rồi hợp với biển tây (có thể đang nhắc đến Đại Tây Dương)". Kiến thức thời trung cổ ở châu Âu về châu Á ngoài tầm với của Đế quốc Byzantine được thu thập qua các báo cáo rời rạc, thường bị phóng đại bởi các truyền thuyết, có từ thời Alexander Đại đế và những người kế vị ông khi bành trướng về phía Đông.
Một nguồn khác là từ các mạng lưới thương mại của người Do Thái Radhanite lai vãng giữa châu Âu và thế giới Hồi giáo trong thời kì Thập tự chinh.
Năm 1154, nhà địa lý học Ả Rập Muhammad al-Idrisi tạo cuốn bản đồ thế giới với tựa là Tabula Rogeriana tại triệu đình vua Roger II xứ Sicily, nhưng các Kitô hữu, người Genova và người Venice, hoặc các thủy thủ Ả Rập, vẫn không có khái niệm hoàn hảo về châu Phi hay các vùng đất xa hơn về phía nam. Người châu Âu biết về sa mạc Sahara thông qua các khu định cư ở Nam Địa Trung Hải nhưng sự thống trị của các nước Ả Rập tại Bắc Phi đã ngăn cản việc thăm dò sâu hơn vào nội địa. Kiến thức bờ châu Phi ở Đại Tây Dương bị phân mảnh và chủ yếu chỉ được biết thông qua các bản đồ thời Hy La cũ dựa trên tư liệu của người Carthage, bao gồm cả cuộc khám phá Mauritania của người La Mã. Biển Đỏ hầu như nằm trong quên lãng và chỉ có liên kết thương mại với các nước cộng hòa Hàng hải, đặc biệt là Cộng hòa Venezia, mới có được kiến thức hàng hải chính xác.
Người Ả Rập chủ yếu đi lại giữa các tuyến thương mại ở Ấn Độ Dương. Giữa những năm 1405-1421, Minh Thành Tổ tài trợ một loạt các sứ mệnh ngoại giao hàng hải phương xa dưới sự chỉ huy của đô đốc Trịnh Hòa. Các đội tàu Trung Quốc đã đến thăm Ả Rập, Đông Phi, Ấn Độ, Đông Nam Á hải đảo và Thái Lan. Theo Mã Hoan, các chuyến công du này bị hoãn lại đột ngột sau cái chết của Thành Tổ. Nhà Minh sau đó thực hiện chính sách hải cấm (海禁), hạn chế buôn bán hàng hải.
Vào năm 1400, bản dịch tiếng Latinh của Geographia được truyền tới Ý từ Constantinople. Sự tái khám phá kiến thức địa lý La Mã là một sự mặc khải, cả trong ngành lập bản đồ và thế giới quan của Tây Âu, tuy vẫn có những kiến thức sai lệch như Ấn Độ Dương là một biển nội địa.
Các hành trình thời Trung Cổ (1241–1438)
Mở đầu cho Thời đại Khám phá là một loạt các cuộc thám hiểm châu Âu băng qua Á-Âu bằng đường bộ vào cuối thời Trung cổ. Đế quốc Mông Cổ thống nhất phần lớn lục địa Á-Âu và từ năm 1206 trở đi, thời kì Pax Mongolica cho phép các tuyến giao thương và đường liên lạc an toàn kéo dài từ tận Trung Đông đến Trung Quốc. Nhiều người châu Âu đã tận dụng thời kì này để đi về phía đông. Hầu hết là người Ý, vì thương mại giữa châu Âu và Trung Đông được kiểm soát chủ yếu bởi các nước cộng hòa hàng hải.
Có rất ít ghi chép về các thương nhân từ Bắc Phi và khu vực Địa Trung Hải buôn bán ở Ấn Độ Dương vào cuối thời Trung cổ.
Các sư thần Kitô giáo đã được gửi đến tận Karakorum trong cuộc xâm lược vùng Levant của Mông Cổ, từ đó mà họ hiểu rõ hơn về thế giới. Người đầu tiên trong số những lữ khách này là Giovanni da Pian del Carpine, được Giáo hoàng Innôcentê IV phái đến triều đình Đại Hãn, khứ hồi từ Mông Cổ trở về, từ năm 1241 đến năm 1247. Cũng trong khoảng thời gian này, hoàng tử Nga Yaroslav II của Vladimir và hai con trai của ông là Alexander Nevsky và Andrey II của Vladimir đến thăm thủ đô của Mông Cổ. Mặc dù mang ý nghĩa chính trị mạnh mẽ, không có ghi chép chi tiết nào về các sứ mệnh ngoại giao này. Ngoài ra, các cuộc du hành tới Trung Quốc bằng đường bộ của André de Longjumeau người Pháp và William của Rubruck người Flemish cũng phải được kể đến. Thương nhân người Venice tên Marco Polo, đã ghi chép rất nhiều về các chuyến đi khắp châu Á của ông từ năm 1271 đến 1295. Ông khẳng định rằng chính ông đã từng là một vị khách tại triều đình nhà Nguyên của Hốt Tất Liệt trong cuốn Marco Polo du ký.
Hạm đội Hồi giáo bảo vệ eo biển Gibraltar bị quân Genoa đánh tan năm 1291. Vào năm đó, nỗ lực thám hiểm Đại Tây Dương đầu tiên được thực hiện bởi hai anh em thương gia là Vadino và Ugolino Vivaldi từ Genoa với hai thuyền galê nhưng mất tích ngoài khơi Ma-rốc, tạo ra nỗi sợ hãi về các cuộc thám hiểm đại dương tại châu Âu. Từ năm 1325 đến 1354, học giả người Ma-rốc là Ibn Battuta, đã khởi hành từ Tangier băng qua Bắc Phi, sa mạc Sahara, Tây Phi, Nam Âu, Đông Âu, Sừng châu Phi, Trung Đông và châu Á, rồi sang tận Trung Quốc. Sau khi trở về, ông kể lại chuyến phiêu lưu này cho một học giả mà ông gặp ở Granada và chép lại trong cuốn Rihla ("Du ký"). Từ năm 1357 đến 1371, một cuốn sách về những chuyến du hành được cho là của John Mandeville nổi lên ở châu Âu. Mặc dù không đáng tin cậy và có nhiều phóng đại, cuốn sách vẫn được sử dụng làm tài liệu tham khảo về phương Đông, Ai Cập và vùng Levant nói chung, lan truyền kiến thức cổ hủ rằng Jerusalem là cái rốn của thế giới.
Trong thời kỳ quan hệ yên bình giữa Timurid và châu Âu khoảng năm 1439, Niccolò de' Conti cho xuất bản một ghi chép về chuyến đi của ông với tư cách là một thương nhân Hồi giáo đến Ấn Độ và Đông Nam Á, và sau đó vào năm 1466-1472, thương nhân người Nga tên là Afanasy Nikitin xứ Tver tới được Ấn Độ, rồi được ông kể lại trong cuốn Cuộc hành trình vượt Ba Biển.
Những chuyến đi trên đất liền này ít có ảnh hưởng sâu sắc. Đế quốc Mông Cổ sụp đổ gần như ngay sau khi nó hình thành và chẳng mấy chốc tuyến đường về phía đông trở nên khó khăn và nguy hiểm hơn. Hơn nữa, Cái chết Đen ở châu Âu vào thế kỷ XIV ngăn cản các cuộc lữ hành và thương mại. Sự trỗi dậy của Đế quốc Ottoman sau này càng hạn chế khả năng buôn bán đường bộ của châu Âu hơn.
Các sứ mệnh Trung Quốc (1405-1433)
Người Trung Quốc có mối liên hệ rộng rãi trong mạng lưới thương mại châu Á và đã giong thuyền đến Ả Rập, Đông Phi và Ai Cập kể từ thời nhà Đường (618-907). Từ năm 1405 đến 1421, Minh Thành Tổ tài trợ một loạt các nhiệm vụ lấy cống phẩm ở Ấn Độ Dương dưới sự chỉ huy của đô đốc Trịnh Hòa.
Một đội tàu lớn mới đã được chuẩn bị cho các cuộc thám hiểm ngoại giao quốc tế này. Chiếc thuyền lớn nhất trong số đó, gọi là Bảo Thuyền (tàu kho báu), có chiều dài lên tới 121 mét và chứa hàng ngàn thủy thủ. Chuyến thám hiểm đầu tiên xuất phát vào năm 1405. Ít nhất bảy cuộc thám hiểm được ghi chép rõ ràng, mỗi chuyến thám hiểm sau hoành tráng hơn và đắt đỏ hơn lần trước. Các hạm đội đã đến thăm Ả Rập, Đông Phi, Ấn Độ, Quần đảo Mã Lai và Xiêm La. Họ biếu quà bằng vàng, bạc, sứ và lụa; đổi lại là các sản vật quý hiếm địa phương như đà điểu, ngựa vằn, lạc đà, ngà voi và hươu cao cổ. Sau cái chết của hoàng đế, Trịnh Hòa đã dẫn đầu một đoàn thám hiểm cuối cùng khởi hành từ Nam Kinh vào năm 1431 và trở về Bắc Kinh vào năm 1433. Rất có khả năng chuyến thám hiểm cuối cùng này đã đến tận Madagascar. Các chuyến đi được báo cáo bởi Mã Hoan, một du khách và dịch giả Hồi giáo đi cùng với Trịnh Hòa ba trong số bảy chuyến thám hiểm, ghi chép của ông được xuất bản ra cuốn Doanh Nhai Thăng Lãm (Hán tự: 瀛涯胜览, nghĩa là: khảo sát tổng thể bờ biển) (1433).
Các chuyến đi có tác động đáng kể và lâu dài lên mạng lưới hải tuyến tơ lụa, sử dụng và tạo ra các nút và điểm chốt giao thương theo sau, từ đó làm tái cấu trúc các mối quan hệ và trao đổi văn hóa quốc tế. Điều này đặc biệt quan trọng vì không có chính thể nào khác có được sự thống trị hải quân đối với khu vực Ấn Độ Dương trước các chuyến đi này. Nhà Minh đã thúc đẩy các nút thay thế như một chiến lược để thiết lập quyền kiểm soát mạng lưới. Do các chuyến đi của Trung Quốc, các cảng như Malacca (ở Đông Nam Á), Cochin (trên Bờ biển Malabar) và Malindi (trên Bờ biển Swahili) trở thành các hải cảng then chốt thế chỗ các cảng quan trọng đã được thành lập trước đó. Sự xuất hiện của hạm đội kho báu nhà Minh đã tạo ra và tăng cường cạnh tranh giữa các chính thể tìm kiếm mối liên minh với nhà Minh.
Các chuyến công du này mang đến sự hội nhập khu vực và sự gia tăng lưu thông quốc tế về con người, lý tưởng và hàng hóa ở Tây Dương. Nó cũng cung cấp nền tảng cho các cuộc thảo luận chủ nghĩa thế giới, diễn ra tại các địa điểm như trên tàu của hạm đội Minh, thủ đô Nam Kinh cũng như Bắc Kinh, và tiệc chiêu đãi do triều đình nhà Minh tổ chức cho các đại diện nước ngoài. Các nhóm người đa dạng từ khắp các quốc gia hàng hải tụ tập, giao lưu và cùng nhau đi thăm thú khi hạm đội kho báu nhà Minh khi họ di chuyển qua lại vùng biển. Lần đầu tiên trong lịch sử, khu vực hàng hải từ Trung Quốc đến Châu Phi chịu sự thống trị của một cường quốc duy nhất và từ đó cho phép tạo ra một không gian chủ nghĩa thế giới.
Những hành trình đường dài này bị ngừng lại, vì nhà Minh thực hiện hải cấm, một chính sách cô lập, hạn chế thương mại hàng hải. Các chuyến viễn chinh bị hoãn lại đột ngột sau cái chết của hoàng đế. Người Trung Quốc mất hứng thú với những gì họ gọi là vùng đất man rợ bên ngoài, và các hoàng đế kế vị cảm thấy các chuyến thám hiểm này ảnh hưởng xấu đến quốc gia; Minh Nhân Tông chấm dứt các cuộc thám hiểm này và Minh Tuyên Tông bưng bít các thông tin liên quan đến các cuộc lữ hành của Trịnh Hòa.
Đại Tây Dương (1419-1507)
Từ thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ XV, Cộng hòa Venice và các nước cộng hòa hàng hải lân cận đã nắm giữ độc quyền thương mại châu Âu với Trung Đông. Việc buôn bán tơ lụa và gia vị, bao gồm hương, thảo mộc, thuốc và thuốc phiện, đã làm cho các quốc gia thành bang Địa Trung Hải này trở nên giàu có. Gia vị là một trong những sản phẩm đắt tiền và được đòi hỏi cao nhất thời Trung cổ, vì chúng được sử dụng trong y học, các nghi lễ tôn giáo, mỹ phẩm, nước hoa, cũng như phụ gia thực phẩm và chất bảo quản. Những mặt hàng này đều được nhập từ châu Á và châu Phi.
Các thương nhân Hồi giáo, chủ yếu là hậu duệ của các thủy thủ Ả Rập từ Yemen và Ô-man, thống trị các tuyến hàng hải trên khắp Ấn Độ Dương, khai thác các vùng nguồn ở Viễn Đông và vận chuyển các sản phẩm tại các khu thương điếm ở Ấn Độ, chủ yếu là Kozhikode, về phía tây đến Ormus ở Vịnh Ba Tư và Jeddah ở Biển Đỏ. Từ đây, các tuyến đường bộ dẫn đến bờ biển Địa Trung Hải. Các thương nhân Venice đã phân phối hàng hóa qua châu Âu cho đến khi Đế chế Ottoman trỗi dậy, dẫn đến sự sụp đổ của Constantinople năm 1453, ngăn cản người châu Âu sử dụng các tuyến đường bộ và trên biển.
Buộc phải sụt giảm các hoạt động của họ ở Biển Đen và chiến tranh với Venice, người Genoa chuyển sang buôn bán lúa mì, dầu ô liu và tìm kiếm vàng bạc. Châu Âu thâm hụt liên tục vàng bạc, vì tiền chỉ chảy ra ngoài, chỉ để chi tiêu cho thương mại phương Đông mà giờ đã bị cắt đứt. Một số mỏ ở châu Âu cạn kiệt, thiếu thỏi vàng dẫn đến sự phát triển của một hệ thống ngân hàng phức tạp để quản lý rủi ro trong thương mại (ngân hàng nhà nước đầu tiên, Banco di San Giorgio, được thành lập năm 1407 tại Genoa). Các cộng đồng Genoa sau đó được thành lập ở Bồ Đào Nha, kiếm lợi từ doanh nghiệp và chuyên môn tài chính của họ.
Thuyền buồm châu Âu chủ yếu buôn bán ven biển bằng hải đồ portolan. Những hải đồ này xác định các tuyến đường biển dựa trên các hải cảng ven bờ: các thủy thủ khởi hành từ một điểm đã biết, đi theo la bàn và cố gắng xác định vị trí của họ bằng các mốc gắn với đất liền. Đối với cuộc thám hiểm đại dương đầu tiên, người Tây Âu đã sử dụng la bàn và những tiến bộ mới trong phác bản đồ và thiên văn học. Các công cụ điều hướng của Ả Rập như thước trắc tinh và thước đo phần tư được sử dụng để xác đinh vị trí dựa trên thiên văn hàng hải.
Các khám phá của người Bồ Đào Nha
Năm 1297, cuộc reconquista kết thúc ở Bồ Đào Nha, vua Dinis xứ Bồ đã tỏ mối quan tâm đến ngành xuất khẩu và vào năm 1317, ông thỏa thuận với thủy thủ thương gia Genoa tên Manuel Pessanha (Pessagno), bổ nhiệm ông là đô đốc đầu tiên của hải quân Bồ Đào Nha với mục tiêu bảo vệ đất nước chống lại các cuộc tấn công cướp biển Hồi giáo. Sự bùng phát của bệnh dịch hạch đã dẫn đến sự sụt giảm dân số nghiêm trọng nửa sau thế kỷ XIV: chỉ có đường biển mới an toàn, với phần lớn cộng đồng định cư để đánh cá và buôn bán ven biển. Từ năm 1325-1357, Afonso IV xứ Bồ Đào Nha khuyến khích thương mại hàng hải và khơi mào những chuyến thám hiểm đầu tiên. Quần đảo Canary (đã được biết đến bởi người Genoa) được tuyên bố là phát hiện chính thức của Bồ Đào Nha, nhưng vào năm 1344, vương quốc Castile bắt đầu mở rộng cạnh tranh ở biển nên tranh chấp quần đảo này.
Để đảm bảo độc quyền về thương mại, người châu Âu (bắt đầu với người Bồ Đào Nha) đã cố gắng áp đặt một hệ thống thương mại địa trung hải sử dụng sức mạnh quân sự và đe dọa chuyển hướng thương mại qua các cảng mà họ kiểm soát; nơi hàng hóa có thể bị đánh thuế. Năm 1415, Ceuta bị chinh phục bởi Bồ Đào Nha nhằm kiểm soát bờ biển châu Phi. Hoàng tử trẻ Henrique Nhà hàng hải nhận thức được lợi nhuận trong các tuyến thương mại xuyên Sahara. Trong nhiều thế kỷ, các tuyến buôn bán nô lệ và vàng liên kết Tây Phi với Địa Trung Hải phải đi qua sa mạc Tây Sahara, kiểm soát bởi người Moors ở Bắc Phi.
Henry muốn biết lãnh thổ Hồi giáo ở Châu Phi kéo dài bao xa, hy vọng luồn qua được chúng và giao dịch trực tiếp với Tây Phi bằng đường biển. Ông muốn tìm kiếm các đồng minh ở vùng đất Kitô giáo huyền thoại về phía nam, như vương quốc Kitô giáo đã mất từ lâu của Prester John và để thăm dò xem liệu có thể đến Ấn Độ bằng đường biển hay không, nguồn gốc của tuyến buôn gia vị sinh lời. Ông đầu tư vào các chuyến đi xuống bờ biển Mauritanie, tập hợp một nhóm thương nhân, chủ tàu và người có quan tâm đến các hải tuyến mới. Chẳng bao lâu, họ tới được các đảo Madeira (1419) và Azores (1427) ở Đại Tây Dương. Người lãnh đạo đoàn thám hiểm João Gonçalves Zarco có công thiết lập các khu định cư trên đảo Madeira.
Thời bấy giờ, người châu Âu không biết những gì nằm xa hơn Mũi Non (Mũi Chaunar) trên bờ biển châu Phi và liệu có thể quay trở lại sau khi vượt qua nó. Các huyền thoại cảnh cáo về quái vật đại dương hoặc rìa của thế giới nhưng hành trình của Hoàng tử Henry đã thách thức những niềm tin như vậy: bắt đầu từ năm 1421, người Bồ đi thuyền vượt qua nó, đến Mũi Bojador khó khăn mà vào năm 1434, một trong những thuyền trưởng của Hoàng tử Henry, Gil Eanes, vượt qua được.
Một bước tiến lớn là sự ra đời của tàu ca-ra-ve vào giữa thế kỷ XV, một loại tàu nhỏ có khả năng đi ngược gió tốt hơn bất kỳ tàu nào khác ở châu Âu vào thời điểm đó. Phát triển từ các thiết kế tàu đánh cá, chúng là các con tàu đầu tiên có thể bớt sự phụ thuộc vào hải đồ và đi an toàn trên Đại Tây Dương. Để định hướng trên biển bằng thiên thể, người Bồ Đào Nha đã sử dụng Lịch thiên văn, trải qua một sự khuếch tán đáng chú ý trong thế kỷ XV. Đây là những biểu đồ thiên văn vẽ đồ thị vị trí của các ngôi sao trong một khoảng thời gian riêng biệt. Được xuất bản năm 1496 bởi nhà thiên văn học, nhà chiêm tinh và nhà toán học người Do Thái, Abraham Zacuto, cuốn Almanach Perpetuum bao gồm một số bảng miêu tả sự chuyển động của các ngôi sao. Các bảng này cách mạng hóa hoạt động hoa tiêu, cho phép tính toán vĩ độ. Kinh độ chính xác, tuy nhiên, vẫn khó nắm bắt trong nhiều thế kỷ. Sử dụng tàu ca-ra-ve, việc thăm dò có hệ thống tiếp tục ở phía nam xa hơn, tiến lên trung bình một độ mỗi năm. Bán đảo Sénégal và Mũi Verde đã được khám phá vào năm 1445 và năm 1446, Álvaro Fernandes đã tới tận Sierra Leone ngày nay.
Năm 1453, Constantinople rơi vào tay người Ottoman là một đòn giáng mạnh vào các Thiên chúa quốc và mối quan hệ kinh doanh được thiết lập liên kết với phương đông. Năm 1455, Giáo hoàng Nicôla V ban hành tông sắc Romanus Pontifex bổ sung Dum Diversas trước đó (1452), trao tất cả các vùng đất và biển được phát hiện ngoài Mũi Bojador cho vua Afonso V xứ Bồ Đào Nha và những người kế vị ông, cũng như buôn bán và chinh phục người Hồi giáo hay ngoại đạo, một chính sách Biển đóng ở Đại Tây Dương. Nhà vua, người đã tìm hiểu các chuyên gia Genova về một tuyến đường biển đến Ấn Độ, đã ủy thác bản đồ thế giới Fra Mauro, đưa tới Lisbon năm 1459.
Các khám phá sau Hoàng tử Henry
Năm 1460, Pedro de Sintra đặt chân đến Sierra Leone. Hoàng tử Henry qua đời vào tháng 11 năm đó. Do thu nhập ít ỏi, các cuộc thám hiểm được ủy thác cho thương nhân Fernão Gomes năm 1469, để đổi lấy độc quyền thương mại ở Vịnh Guinea ông này phải khám phá 100 dặm (161 km) mỗi năm trong vòng 5 năm. Với sự tài trợ của Gomes, các nhà thám hiểm như João de Santarém, Pedro Escobar, Lopo Gonçalves, Fernão do Pó và Pedro de Sintra đã vượt xa những mục tiêu đó. Họ đến Nam bán cầu và các đảo thuộc Vịnh Guinea, São Tomé và Príncipe và Elmina trên Bờ biển Vàng vào năm 1471 (Ở Nam bán cầu, họ đã sử dụng chòm Nam Thập Tự làm mốc cho việc định hướng hàng hải). Ở nơi ngày nay gọi là "Bờ biển vàng" Ghana, họ phát hiện một tuyến mậu dịch vàng thịnh vượng giữa dân bản địa và thương nhân Ả Rập-Berber.
Năm 1478 (trong Chiến tranh kế vị Castilia), ngoài khơi Elmina diễn ra một cuộc hải chiến giữa Hạm đội Castilia gồm 35 tàu ca-ra-vê và hạm đội Bồ Đào Nha để giành quyền bá chủ thương mại Guinea (vàng, nô lệ, ngà voi và hạt tiêu). Bồ Đào Nha thắng lợi và các Quốc vương Công giáo buộc phải công nhận các vùng lãnh thổ tranh chấp ở Tây Phi thuộc về Bồ Đào Nha theo Hiệp ước Alcáçovas, 1479. Đây là cuộc chiến tranh thuộc địa đầu tiên giữa hai cường quốc châu Âu.
Năm 1481, João II mới đăng cơ cho lập một thương điếm tại São Jorge da Mina. Năm 1482, Diogo Cão khám phá sông Congo, và tiếp tục khám phá Mũi Cross (Namibia hiện đại) vào năm 1486.
Bước đột phá quan trọng tiếp theo diễn ra vào năm 1488, khi Bartolomeu Dias đi vòng qua mũi phía nam châu Phi, nơi ông đặt tên là "Mũi bão" (Cabo das Tormentas). Ông neo đậu tại Vịnh Mossel rồi tiến sang phía đông đến tận cửa sông Great Fish, chứng minh rằng Ấn Độ Dương có thể được tiếp cận từ Đại Tây Dương. Đồng thời, nhà thám hiểm Pêro da Covilhã, được gửi đi dò la trên đất liền, tới được Ethiopia và thu thập nhiều thông tin quan trọng về Biển Đỏ và bờ biển Quenia. Không lâu sau, vua João II của Bồ Đào Nha truyền chỉ dụ đổi tên mũi đất đó thành "Mũi hảo vọng" (Cabo da Boa Esperança).
Tây Ban Nha vào cuộc: Columbus và Tây Ấn
Castile, kình địch lân bang của Bồ Đào Nha, bắt đầu thiết lập quyền cai trị trên quần đảo Canary ngoài khơi phía tây châu Phi vào năm 1402, nhưng bị kìm hãm bởi lục đục nội bộ tại chính quốc và các cuộc kháng chiến chống quân Hồi giáo thế kỷ XV. Chỉ vào cuối thế kỷ đó, sau khi thống nhất vương quốc Castile-Aragon và hoàn thành cuộc reconquista, Tây Ban Nha mới đổ công sức vào khám phá các tuyến thương mại đường biển. Vương miện Aragon từng là một cường quốc hàng hải quan trọng ở Địa Trung Hải, kiểm soát các vùng lãnh thổ ở miền đông Tây Ban Nha, Tây Nam nước Pháp, các đảo lớn như Sicily, Malta, và Vương quốc Naples và Sardinia, với cương thổ trải dài đến tận Hy Lạp. Năm 1492, các đồng cai trị đã chinh phục vương quốc Moorish của Granada, nước chư hầu công nạp cho Castile hàng hóa châu Phi, và quyết định tài trợ cho các cuộc thám hiểm của Christopher Columbus với hy vọng đánh đổ sự độc quyền của Bồ Đào Nha trên các tuyến đường biển phía tây châu Phi, để đến "Ấn Độ" (phía đông và nam Á) bằng cách đi về phía tây. Hai lần trước, vào năm 1485 và 1488, Columbus đã trình bày dự án cho vua John II xứ Bồ Đào Nha, người đã khước từ ông.
Vào tối ngày 3 tháng 8 năm 1492, Columbus rời bến từ Palos de la Frontera với ba chiếc tàu; một tàu carrack lớn, Santa María, biệt danh là Gallega, và hai tàu hộ tống nhỏ hơn, Pinta và Santa Clara, biệt danh là Niña. Columbus lần đầu tiên dặt chân lên Quần đảo Canary, nơi ông lấy nhu yếu phẩm cho chuyến đi dài năm tuần vượt đại dương, băng qua một phần của Đại Tây Dương được gọi là Biển Sargasso.
Họ nhìn thấy đất liền vào ngày 12 tháng 10 năm 1492 và Columbus gọi hòn đảo đó (nay là vùng Bahamas) là San Salvador, tưởng rằng đây là "Đông Ấn". Columbus cũng khám phá bờ biển phía đông bắc Cuba (đổ bộ vào ngày 28 tháng 10) và bờ bắc của Hispaniola vào ngày 5 tháng 12. Ông được vị cacique (thủ lĩnh) bản địa Guacanagari chấp thuận và cho phép một vài người trong đoàn ở lại.
Columbus để lại 39 người đàn ông và họ thành lập khu định cư La Navidad tại Haiti ngày nay. Trước khi hồi hương, ông bắt cóc khoảng 10-25 người bản địa để mang về Tây Ban Nha. Chỉ có 7-8 người trong số họ sống sót tới được Tây Ban Nha, và đã gây ấn tượng khá tốt với triều đình Sevilla.
Khi trở về, một cơn bão buộc ông phải cập cảng Lisbon vào ngày 4 tháng 3 năm 1493. Sau một tuần ở Bồ Đào Nha, ông lên đường sang Tây Ban Nha và vào ngày 15 tháng 3 năm 1493 đến Barcelona, nơi ông yết kiến Nữ hoàng Isabella và Vua Ferdinand. Tin tức về việc ông khám phá ra những vùng đất mới nhanh chóng lan rộng khắp châu Âu.
Columbus và các nhà thám hiểm Tây Ban Nha ban đầu thất vọng với những khám phá của họ, không giống như ở Châu Phi hay Châu Á, dân cư Ca-ri-bê có ít hàng hóa để trao đổi với đội tàu Castilla. Các hòn đảo này do vậy đã trở thành tâm điểm của các cuộc thực dân hóa. Chỉ đến khi toàn bộ lục địa châu Mỹ được khám phá, Tây Ban Nha mới tìm ra sự giàu có mà họ khao khát bấy lâu.
Hiệp ước Tordesillas (1494)
Ngay sau khi Columbus trở về từ nơi mà sau này được gọi là "Tây Ấn", một sự phân chia ảnh hưởng trở nên cần thiết để tránh xung đột giữa Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Vào ngày 4 tháng 5 năm 1493, hai tháng sau khi Columbus cập bến, các Quốc vương Công giáo nhận được tông sắc (Inter caetera) từ Giáo hoàng Alexanđê VI, lệnh rằng tất cả các vùng đất phía tây và phía nam của đường kẻ từ cực xuống cực cách 100 dặm về phía tây nam Quần đảo Açores hoặc Quần đảo Mũi Verd sẽ thuộc về Vương quốc Castilla. Tông sắc không đề cập đến Bồ Đào Nha, do vậy họ chưa thể thể tuyên bố chủ quyền đối với những vùng đất mới được phát hiện ở phía đông của đường kẻ đó.
Vua João II của Bồ Đào Nha không hài lòng với thỏa thuận này. Ông thương lượng trực tiếp với Vua Ferdinand và Nữ hoàng Isabella của Tây Ban Nha nhằm di chuyển giới tuyến về phía tây, và cho phép ông ta lấy được các vùng đất mới được khám phá về phía đông.
Hiệp ước Tordesillas được chấp thuận bởi hai vương quốc, chia đôi vùng ảnh hưởng thành hai nửa địa cầu. Trong hiệp ước này, người Bồ Đào Nha nhận được mọi thứ bên ngoài châu Âu ở phía đông của một đường cắt chạy 370 dặm phía tây quần đảo Cape Verde (thuộc về Bồ Đào Nha) và những hòn đảo được Christopher Columbus phát hiện trong chuyến đi đầu tiên (được tuyên bố là thuộc Castilla), được đặt tên là Cipangu và Antilia (Cuba và Hispaniola). Điều ước này cho họ quyền kiểm soát tuyệt đối với Châu Phi, Châu Á và miền đông Nam Mỹ (Brazil). Người Tây Ban Nha (Castilla) lấy được mọi tấc đất ở phía tây đường kẻ này.
Một thế giới mới: Châu Mỹ
Bắc Mỹ
John Cabot được ban giấy chứng nhận đặc quyền từ Vua Henry VII của Anh. Đi thuyền từ Bristol, có lẽ được hỗ trợ bởi Hiệp hội các thương nhân địa phương, Cabot vượt Đại Tây Dương trên phía bắc với hy vọng chuyến đi đến "Tây Ấn" sẽ ngắn hơn và cập bến tại một nơi nào đó ở Bắc Mỹ, có thể là Newfoundland. Năm 1499, João Fernandes Lavrador được Vua Bồ cấp phép và ông ra khơi cùng với Pêro de Barcelos. Họ là người khám phá ra Labrador, được nhượng và đặt theo tên João. Sau khi trở về, ông có thể đã cập bến Bristol để lấy danh nghĩa khám phá của nước Anh. Giữa năm 1499-1502, anh em Gaspar và Miguel Corte Real khám phá và đặt tên cho đường bờ biển Greenland và Newfoundland. Cả hai cuộc thám hiểm đều được ghi nhận trong bản đồ thế giới Cantino năm 1502.
"Ấn Độ thực sự" và Brazil
Năm 1497, Quốc vương Manuel I xứ Bồ Đào Nha gửi một hạm đội thám hiểm về phía đông, hoàn tất sứ mệnh của những tiền nhân tìm đường đến Ấn Độ. Vào tháng 7 năm 1499, tin tức lan truyền rằng người Bồ Đào Nha đã tới được "Ấn Độ thật", vì vua Bồ đã gửi một bức thư báo tin vui đến Quốc vương Công giáo Tây Ban Nha một ngày sau khi đoàn tàu trở về.
Hành trình thứ ba của Columbus vào năm 1498 mở màn cho cuộc xâm chiếm thuộc địa thành công đầu tiên ở Tây Ấn, trên đảo Hispaniola. Mặc dù bị hoài nghi, Columbus vẫn bảo thủ rằng ông đã đến được Ấn Độ. Trong chuyến đi, ông phát hiện ra cửa sông Orinoco ở bờ biển phía bắc Nam Mỹ (nay là Venezuela) và nghĩ rằng lượng nước ngọt khổng lồ đổ ra biển chỉ có thể bắt nguồn từ một khối đất liền, mà ông đinh ninh là châu Á lục địa.
Khi giao thương giữa Seville và Tây Ấn phát triển, kiến thức về các đảo Caribbean, Trung Mỹ và bờ biển phía bắc của Nam Mỹ càng ngày mở rộng. Đội tàu Tây Ban Nha của Alonso de Ojeda và Amerigo Vespucci năm 1499–1500 đã đặt chân lên bờ biển của Guyana ngày nay. Vespucci đi thuyền về phía nam, khám phá cửa sông Amazon vào tháng 7 năm 1499, và đạt 6° Nam, ở phía đông bắc Brazil ngày nay, trước khi quay lại.
Vào đầu năm 1500, đoàn của Vicente Yáñez Pinzon bị một cơn bão làm chệch hướng và đi lạc đến tận bờ biển phía đông bắc của Brazil vào ngày 26 tháng 1 năm 1500, họ từ đó do thám xuống phía nam tới bang Pernambuco ngày nay. Hạm đội của ông là những người đầu tiên đi vào cửa sông Amazon mà họ đặt tên là Río Santa María de la Mar Dulce (Sông Saint Mary của Biển nước ngọt). Tuy vậy, vùng đất quá xa về phía đông để người tây Ban Nha có thể lấy được do Hiệp ước Tordesillas, nhưng phát hiện này đã khiến người Tây Ban Nha càng hứng thú hơn về miền đất này, với chuyến đi thứ hai của Pinzon vào năm 1508 (một chuyến khảo sát dọc bờ biển phía bắc đến bờ biển Trung Mỹ đại lục, để tìm kiếm một lối đi về phía Đông) và một chuyến đi vào năm 1515-1516 bởi một hoa tiêu của đoàn thám hiểm 1508, Juan Díaz de Solís. Cuộc thám hiểm năm 1515-1516 được thúc đẩy bởi các báo cáo về người Bồ Đào Nha trong khu vực (xem bên dưới). Cuộc thám thính kết thúc khi de Solís và một số thủy thủ đoàn của ông mất tích trong lúc khám phá Sông La Plata trên một chiếc thuyền, nhưng những gì họ tìm thấy và kể lại đã khơi dậy sự tò mò của Tây Ban Nha và công cuộc thuộc địa hóa châu Mỹ dần bắt đầu vào năm 1531.
Vào tháng 4 năm 1500, Hạm đội Bồ Ấn thứ hai, dẫn đầu bởi Pedro Álvares Cabral và gồm nhiều vị thuyền trưởng kỳ cựu như Bartolomeu Dias và Nicolau Coelho, cập bến Brazil sau khi thực hiện một "volta do mar" để tránh bị kẹt trong Vịnh Guinea do gió không thuận lợi. Vào ngày 21 tháng 4 năm 1500, họ trông thấy một ngọn núi và đặt tên nó là Monte Pascoal, rồi vào ngày 22 tháng 4, Cabral lên bờ. Vào ngày 25 tháng 4, toàn bộ hạm đội đổ bộ ở cảng mà họ đặt tên là Porto Seguro (Cảng an toàn). Cabral nhận thấy rằng vùng đất mới nằm ở phía đông của đường kẻ Tordesillas và gửi một phái viên về Bồ Đào Nha cùng với thông tin về vùng đất mới này cùng với một bức thư của Pero Vaz de Caminha miêu tả rất chân thực về Brazil trước năm 1500. Tin rằng nơi này là một hòn đảo, ông đặt tên cho nó là Ilha de Vera Cruz. Một số sử gia cho rằng người Bồ Đào Nha có thể đã thấy vùng đất Nam Mỹ này trước khi thực hiện "volta do mar", điều đó sẽ lý giải cho sự kiên quyết của vua John II trong việc di chuyển đường kẻ về phía tây vào năm 1494, vì vậy việc ông cập bến Brazil có lẽ không hoàn toàn là tình cờ. Tuy vậy, cũng không loại trừ khả năng động cơ của John chỉ đơn thuần là tăng cơ hội lấy những vùng đất mới ở Đại Tây Dương. Từ bờ biển phía đông, hạm đội sau đó quay về hướng đông để tiếp tục hành trình đến mũi phía nam của châu Phi và Ấn Độ. Cabral là thuyền trưởng đầu tiên tới cả bốn châu lục, dẫn đầu đoàn thám hiểm đầu tiên kết nối và thống nhất châu Âu, châu Phi, châu Mỹ và châu Á.
Theo lời mời của Vua Manuel I, Amerigo Vespucci— một người Florentine từng làm việc cho một chi nhánh của Ngân hàng Medici ở Seville từ năm 1491 — phù hợp với các chuyến thám hiểm đại dương và từng đi đến The Guianas hai lần với Juan de la Cosa phụng sự Tây Ban Nha — ban cho ông tư cách là hoa tiêu trong các hành trình đến bờ biển phía đông Nam Mỹ. Các cuộc thám hiểm này đã được biết đến rộng rãi ở châu Âu sau khi hai ghi chép được cho là của ông, được xuất bản từ năm 1502 đến 1504, cho rằng những vùng đất mới được phát hiện không phải là Ấn Độ mà là "Thế giới mới", Mundus novus, tựa tiếng Latinh của một tài liệu đương đại dựa trên những bức thư của Vespucci gửi cho Lorenzo di Pierfrancesco de 'Medici. Người ta nhận ra rằng Columbus chưa từng đặt chân đến Châu Á mà đã phát hiện một lục địa mới hoàn toàn, Châu Mỹ. Châu Mỹ được đặt tên vào năm 1507 bởi các nhà vẽ bản đồ Martin Waldseemüller và Matthias Ringmann, có lẽ sau Amerigo Vespucci.
Khoảng năm 1501–1502, một trong những cuộc thám hiểm của Bồ Đào Nha, dẫn đầu bởi Gonçalo Coelho (và/hoặc André Gonçalves hoặc Gaspar de Lemos), giong buồm về phía nam ven bờ Nam Mỹ đến vịnh Rio de Janeiro ngày nay. Ghi chép của Amerigo Vespucci kể rằng đoàn thám hiểm đã đạt đến vĩ độ "Nam cực cao 52°Nam", ở vĩ độ "lạnh" của vùng phía nam Patagonia (có thể gần Eo biển), trước khi quay trở lại. Vespucci viết rằng họ đi về phía tây nam và nam, dọc "một bờ biển dài, không ngoằn ngoèo" (trùng khớp với bờ biển phía Nam Nam Mỹ). Điều này có vẻ không chính xác, vì ông đã chỉnh sửa một phần mô tả của mình trong bức thư tiếp theo, nêu rõ một sự thay đổi, từ khoảng 32°Nam (Nam Brazil), về phía nam-đông nam, ra biển rộng; tuy nhiên, vẫn khẳng định là đoàn của ông đã đạt tới 50°/52°Nam (Đây có thể là do quyết định của chính ông hoặc bởi người kiểm duyệt D. Manuel, vị này có thể đã gây áp lực buộc Vespucci phải thay đổi ghi chép do lo ngại rằng họ đã tiết lộ quá nhiều với Lorenzo de 'Medici và công chúng).
Năm 1503, Binot Paulmier de Gonneville thách thức chính sách mare clausum của Bồ Đào Nha và dẫn đầu một trong những cuộc thám hiểm Normand và Breton sớm nhất của Pháp tới Brazil. Ông định đi thuyền đến Đông Ấn, nhưng gần Mũi Hảo Vọng, con tàu của ông bị lệch hướng về phía tây bởi một cơn bão và đáp đất ở bang Santa Catarina (miền nam Brazil) ngày nay ngày 5 tháng 1 năm 1504.
Vào khoảng 1511–1512, thuyền trưởng người Bồ João de Lisboa và Estevão de Fróis tiến vào cửa Sông La Plata ở Uruguay và Argentina ngày nay và đã đi xa xuống phía nam tới Vịnh San Matias ngày nay ở 42°Nam (được ghi trong Newen Zeytung auss Pressilandt có nghĩa là "Tin tức mới từ vùng đất Brazil"). Đoàn thám hiểm gặp một mũi đất kéo dài từ bắc xuống nam mà họ gọi là Mũi của "Santa Maria" (Punta del Este, giữ tên Mũi gần đó); và sau 40 °Nam, họ tìm thấy một "Mũi" hoặc "một điểm hoặc một địa điểm kéo dài ra biển" và một "Vịnh" (vào tháng Sáu và tháng Bảy). Sau khi rong ruổi gần 300 km (186 dặm) để đi vòng qua mũi này, họ lại nhìn thấy lục địa ở phía bên kia, rồi đi về phía tây bắc, nhưng một cơn bão đã ngăn họ tiến tiếp. Bị Tramontane hoặc gió bắc cuốn đi, họ đành rút lui. Đoàn thám hiểm mang về những tin tức đầu tiên kể về một vị Vua Trắng và "người dân vùng núi" sâu trong nội địa (Đế quốc Inca) và một chiếc rìu bạc được biếu tặng bởi người bản địa Charrúa khi quay trở về ("gần bờ biển hoặc bên bờ của Brazil ") và "về phía Tây "(dọc theo bờ biển và cửa sông La Plata), dâng cho vua Manuel I. Christopher de Haro, một người Flemish gốc Sephardic (một trong những nhà tài trợ cuộc thám hiểm cùng với D. Nuno Manuel), người sẽ phụng sự Tây Ban Nha sau năm 1516, tin rằng các nhà hàng hải đã phát hiện ra một eo biển phía nam sang được châu Á.
Năm 1519, một đoàn thám hiểm được gửi đi từ Tây Ban Nha để tìm đường đến châu Á dẫn dắt bởi nhà hàng hải người Bồ Đào Nha giàu kinh nghiệm Ferdinand Magellan. Hạm đội đã khám phá các con sông, vịnh và lập bản đồ bờ biển Nam Mỹ cho đến khi tìm được đường sang Thái Bình Dương thông qua eo biển Magellan.
Khoảng năm 1524–1525, Aleixo Garcia, một conquistador Bồ Đào Nha (có lẽ là cựu thủy thủ đoàn của cuộc viễn chinh Solís năm 1516), dẫn đầu một đoàn thám hiểm tư nhân khám phá các xác tàu đắm Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, tuyển mộ khoảng 2000 người Anh-điêng Guaraní. Họ khám phá và tiến sâu các vùng lãnh thổ của miền nam Brazil, Paraguay và Bolivia ngày nay bằng cách sử dụng mạng lưới đường mòn bản địa Peabiru. Họ cũng là những người châu Âu đầu tiên băng qua Chaco và tiếp xúc với vùng lãnh thổ bên ngoài Đế chế Inca trên những ngọn đồi của dãy Andes, gần Sucre.
Ấn Độ Dương (1497–1513)
Tuyến đường của Gama đến Ấn Độ
Được bảo trợ khỏi sự cạnh tranh trực tiếp của Tây Ban Nha bởi hiệp ước Tordesillas, việc thăm dò và bành trướng về phía đông của Bồ Đào Nha tiếp tục. Hai lần, vào năm 1485 và 1488, Bồ Đào Nha chính thức chối bỏ ý tưởng đến Ấn Độ của Christopher Columbus bằng cách đi về phía tây. Vua John II không ủng hộ ý tưởng đó vì cho rằng ước tính 2.400 dặm (3.860 km) của Columbus không chính xác, và một phần cũng là vì Bartolomeu Dias đã vượt thành công mũi phía nam của châu Phi vào năm 1487, do đó triều đình Bồ Đào Nha tin rằng đi thuyền về phía đông sẽ ngắn hơn nhiều. Sự trở lại của Dias từ Mũi Hảo Vọng vào năm 1488 và chuyến đi của Pêro da Covilhã đến Ethiopia cho thấy sự trù phú của Ấn Độ Dương có thể tiếp cận được từ Đại Tây Dương. Một cuộc thám hiểm dài hạn đã được chuẩn bị.
Đời vua Manuel I xứ Bồ, vào tháng 7 năm 1497, một hạm đội thám hiểm nhỏ gồm bốn tàu và khoảng 170 người rời Lisbon dưới sự chỉ huy của Vasco da Gama. Đến tháng 12, hạm đội vượt qua sông Great Fish-nơi đoàn của Dias quay đầu trờ về châu Âu-và đi vào vùng biển chưa được phác bản đồ. Vào ngày 20 tháng 5 năm 1498, họ đến được Calicut. Những nỗ lực của Vasco da Gama để giao dịch thuận lợi bất thành bởi hàng hóa của ông không đủ nổi bật. Hai năm và hai ngày sau khi khởi hành, Gama và 55 thủy thủ sống sót trở về Bồ Đào Nha trong vinh quang, do họ là những người đầu tiên đi tàu từ châu Âu đến Ấn Độ.
Năm 1500, đoàn thứ hai, lớn hơn và gồm 1500 người được cử đến Ấn Độ. Dưới trướng Pedro Álvares Cabral, họ trông thấy đất liền Brazil; Sau đó, ở Ấn Độ Dương, một trong những chiếc tàu của Cabral cập bến Madagascar (1501), từng được khám phá một phần bởi Tristão da Cunha năm 1507; Mô-ri-xơ được phát hiện năm 1507, Socotra bị chiếm đóng năm 1506. Cùng năm đó, Lourenço de Almeida đổ bộ lên Sri Lanka, hòn đảo phía đông có tên "Taprobane" trong các ghi chép của nhà địa lý học Hy Lạp thế kỷ thứ IV của Alexander Đại đế tên là Megasthenes. Các thương điếm châu Âu đầu tiên được thành lập tại Kochi và Calicut (1501) và sau đó là Goa (1510).
Các đảo Gia Vị và Trung Quốc
Năm 1511, Afonso de Albuquerque chinh phục Malacca dưới lá cờ Bồ Đào Nha, bấy giờ là trung tâm thương mại châu Á. Albuquerque đã gửi một số phái đoàn ngoại giao về phía đông Malacca: Duarte Fernandes là đặc phái viên châu Âu đầu tiên đến Vương quốc Xiêm (Thái Lan hiện đại).
Hay tin về vị trí bí mật của các "đảo gia vị" hay quần đảo Maluku, chủ yếu là quần đảo Banda, bấy giờ là nguồn nhục đậu khấu và đinh hương duy nhất, Afonso đã gửi một chuyến viễn chinh dưới quyền António de Abreu đến Banda (thông qua Java và Quần đảo Sunda nhỏ hơn), nơi họ là những người châu Âu đầu tiên cập bến vào đầu năm 1512 sau khi lần theo con đường mà họ cũng đã đi qua trước đó như các đảo Buru, Ambon và Seram. Từ Banda Abreu trở về Malacca, sau khi bị tách khỏi đoàn bởi một vụ đắm tàu và đi về phía bắc, phó thuyền trưởng Francisco Serrão một lần nữa lại cập Ambon và chìm ở Ternate, nơi ông nhận được giấy phép xây dựng một thương điếm pháo đài Bồ Đào Nha: Pháo đài São João Baptista de Ternate, kiến tạo sự hiện diện của Bồ Đào Nha tại Quần đảo Malay.
Vào tháng 5 năm 1513, sứ thần Bồ Đào Nha Jorge Álvares đựoc cử đến Trung Quốc. Mặc dù ông là người châu Âu đầu tiên bước chân trên đảo Nội Linh Đinh ở Châu thổ sông Châu Giang nhưng Rafael Perestrello, một người anh em họ của Christopher Columbus, mới là nhà thám hiểm châu Âu đầu tiên tới bờ biển phía nam Trung Quốc đại lục và buôn bán tại Quảng Châu năm 1516. Rafael chỉ huy một tàu Bồ Đào Nha với thủy thủ đoàn từ một thuyền buồm khởi hành từ Malacca. Fernão Pires de Andrade đến thăm Quảng Châu năm 1517 và mở cửa giao thương với Trung Quốc. Người Bồ Đào Nha bị nhà Minh đánh đuổi năm 1521 tại Trận Truân Môn và năm 1522 tại Trận Thiến Thảo Loan, người Trung Quốc tịch thu được loại súng đại bác xoay của Bồ Đào Nha rồi cải biến chùng thành súng "Bật Lang Cơ" 佛郎機. Sau một vài thập kỷ, sự thù địch giữa người Bồ và Trung Quốc chấm dứt và vào năm 1557, Trung Quốc cho phép Bồ Đào Nha nhập cư ở Ma Cao.
Để củng cố độc quyền thương mại, Afonso de Albuquerque chiếm đóng Muscat và Hormuz ở Vịnh Ba Tư năm 1507 và năm 1515. Ông thiết lập quan hệ ngoại giao với Ba Tư. Vào năm 1513, trong chiến dịch đánh chiếm Aden, đoàn thám hiểm do Albuquerque dẫn đầu đã khám phá Biển Đỏ bên trong Bab al-Mandab và trú ẩn tại đảo Kamaran. Năm 1521, lực lượng của António Correia chiếm Bahrain, mở ra thời kỳ gần 80 năm cai trị của Bồ Đào Nha trên quần đảo này ở vùng Vịnh. Ở Biển Đỏ, Massawa là điểm xa nhất mà người Bồ Đào Nha thường lui tới cho đến năm 1541, khi một hạm đội của Estevão da Gama xâm nhập đến tận Suez.
Thái Bình Dương (1513–1529)
Phát hiện Thái Bình Dương
Năm 1513, khoảng 40 dặm (64 km) về phía nam của Acandí, nay thuộc Colombia, Vasco Núñez de Balboa nghe tin đồn về một vùng "biển khác" nhiều vàng. Với một ít tài nguyên và thông tin được cung cấp bởi các cacique địa phương (thủ lĩnh bộ tộc), ông băng qua eo Panama với 190 người Tây Ban Nha, một vài người dẫn đường bản địa và một đàn chó.
Sử dụng một tàu brigantine nhỏ và mười chiếc ca-nô bản địa, họ men theo bờ biển. Vào ngày 6 tháng 9, đoàn thám hiểm được tăng viện thêm 1.000 người. Trên quãng đường đầy gian truân, họ chạm trán với dân bản địa thù địch, tiến vào rừng sâu rậm rạp và leo dãy đồi núi dọc sông Chucunaque mà nghe đồn là có thể thấy được "biển khác" nếu leo tới đỉnh. Balboa tiến trước và vào buổi trưa ngày 25 tháng 9, ông phát hiện ở phía chân trời một vùng biển lạ, trở thành người châu Âu đầu tiên chiêm ngưỡng và đến được Thái Bình Dương từ Tân thế giới. Đoàn thám hiểm xuống bờ để do thám, trở thành những người châu Âu đầu tiên định vị Thái Bình Dương từ Tân thế giới. Sau khi đi được hơn 110 km (68 dặm), Balboa đặt tên cho vịnh nơi họ dừng chân là San Miguel. Ông đặt tên cho biển này là Mar del Sur (Biển Nam) vì họ đi xuống nam để tìm nó. Mục đích chính của Balboa trong cuộc thám hiểm là tìm kiếm các vương quốc nhiều vàng. Ông băng qua vùng đất của các cacique, đặt tên cho hòn đảo lớn nhất là Isla Rica (Đảo Giàu, ngày nay gọi là Isla del Rey). Ông đặt tên cho toàn bộ khu vực là Archipiélago de las Perlas, cái tên mà vẫn được sử dụng tới tận ngày nay.
Các tiến triển về phía đông
Từ năm 1515-1516, hạm đội Tây Ban Nha của Juan Díaz de Solís men theo đường bờ biển phía đông Nam Mỹ đến tận Río de la Plata. Solís đặt tên cho nơi này ngay trước khi chết trong nỗ lực tìm kiếm "Biển Nam".
Hành trình vòng quanh Trái Đất đầu tiên
Đến năm 1516, một số nhà hàng hải Bồ Đào Nha uất ức vua Manuel I xứ Bồ, đã tập trung tại Seville để phụng sự vua Charles I mới đăng cơ của vương quốc Tây Ban Nha. Trong số đó có các nhà thám hiểm Diogo và Duarte Barbosa, Estêvão Gomes, João Serrão và Ferdinand Magellan, các nhà phác bản đồ Jorge Reinel và Diogo Ribeiro, các nhà thiên văn học Francisco và Ruy Faleiro và thương gia người Flemish Christopher de Haro. Ferdinand Magellan (người đã giong buồm đến Ấn Độ dưới lá cờ Bồ Đào Nha dừng chân tại Quần đảo Maluku năm 1513, vẫn giữ liên lạc với Francisco Serrão sống ở đó) phát triển lý thuyết rằng các đảo này nằm trong khu vực Tordesillas của Tây Ban Nha, được hỗ trợ bởi nghiên cứu của anh em Faleiro.
Hay tin những nỗ lực của người Tây Ban Nha trong việc tìm đường đến Ấn Độ bằng cách đi về phía tây, Magellan đã trình bày kế hoạch của ông với vua Charles I của Tây Ban Nha. Nhà vua và Christopher de Haro quyết định tài trợ cho cuộc thám hiểm của Magellan. Một hạm đội được tập hợp và các nhà hàng hải Tây Ban Nha như Juan Sebastián Elcano đồng ý tham gia vào cuộc viễn chinh. Vào ngày 10 tháng 8 năm 1519, họ khởi hành từ Seville với một đội tàu gồm năm chiếc: Trinidad là kỳ hạm dưới sự chỉ huy của Magellan, San Antonio, Concepcion, Santiago và Victoria; (cái đầu là một chiếc ca-ra-vê và số còn lại là tàu carrack hay "naus") với một thủy thủ đoàn gồm khoảng 237 người đa quốc tịch, Mục tiêu của họ là Quần đảo Maluku nhưng phải tới đó từ phía Tây, đòi chủ quyền của chúng cho vương quốc Tây Ban Nha.
Hạm đội đi xuống phía nam, tránh các lãnh thổ Bồ Đào Nha ở Brazil và trở thành những người đầu tiên đặt chân đến Tierra del Fuego ở mũi châu Mỹ. Vào ngày 21 tháng 10, bắt đầu từ Mũi Virgenes, họ vượt qua một eo biển dài 373 dặm (600 km) đầy gian nan mà Magellan đặt tên là Estrecho de Todos los Santos, chính là Eo biển Magellan hiện đại. Vào ngày 28 tháng 11, ba chiếc tàu sang được Thái Bình Dương, họ đặt tên nó là Mar Pacífico vì vùng nước lặng. Đoàn thám hiểm vượt Thái Bình Dương nhưng Magellan bỏ mạng trong trận Mactan ở Philippines. Juan Sebastián Elcano sau đó được bổ nhiệm thành lãnh đạo trong suốt hành trình còn lại, cập bến Quần đảo Gia Vị vào năm 1521. Vào ngày 6 tháng 9 năm 1522, tàu Victoria trở về Tây Ban Nha, hoàn thành chuyến đi vòng địa cầu đầu tiên trong lịch sử. Chỉ có 18 người quay trở lại Tây Ban Nha trên một con tàu duy nhất do Elcano dẫn đầu. Có thêm 17 thủy thủ khác sống sót trở về sau đó: 12 người bị Bồ Đào Nha bắt ở Mũi Verde vài tuần trước đó, và từ năm 1525 đến 1527, 5 người sống sót quay trở lại trên tàu Trinidad. Antonio Pigafetta, một học giả và lữ khách người Venice, người đã tình nguyện tham gia và trở thành trợ lý đắc lực của Magellan, giữ một nhật ký kể lại chi tiết về chuyến hành trình.
Chuyến du ngoạn này đã đem lại cho Tây Ban Nha những kiến thức quý giá về thế giới và các đại dương mà sau này sẽ giúp ích cho việc thăm dò và định cư của họ ở Philippines. Mặc dù không phải là giải pháp thay thế khả thi cho tuyến đường Bồ Đào Nha ngắn hơn quanh Châu Phi (do Eo biển Magellan quá xa về phía nam và Thái Bình Dương quá rộng lớn), các đoàn thám hiểm Tây Ban Nha đã sử dụng vốn kiến thức này để khám phá Thái Bình Dương và phát hiện các hải tuyến giao thương giữa Acapulco ở Tân Tây Ban Nha (Mexico ngày nay) với Manila ở Philippines.
Thăm dò về phía tây và phía đông tụ họp
Ngay sau cuộc thám hiểm của Magellan, người Bồ Đào Nha tức tốc bắt giữ số thủy thủ sống sót và cho xây một pháo đài ở Ternate. Năm 1525, Charles I của Tây Ban Nha phái một đoàn thám hiểm khác về phía tây để đánh chiếm quần đảo Maluku, tuyên bố chủ quyền của Tây Ban Nha dựa trên Hiệp ước Tordesillas. Hạm đội gồm 7 tàu và 450 thủy thủ, chỉ huy bởi García Jofre de Loaísa và quy tụ các nhà hàng hải nổi tiếng của Tây Ban Nha: Juan Sebastián Elcano và Loaísa (người đã mất mạng sau đó) và Andrés de Urdaneta.
Gần eo biển Magellan, một trong những con tàu gặp bão rồi bị đẩy xuống nam, đạt tới 56°Nam. Họ khẳng định là đã nhìn thấy nơi "tận cùng trái đất": đây là lần đầu tiên Mũi Horn bị vượt qua. Đoàn viễn chinh gặp khó khăn trong hành trình và phải cập cảng Tidore. Xung đột với người Bồ Đào Nha nổ ra ở Ternate gần đó là không thể tránh khỏi, châm ngòi gần một thập kỷ những cuộc tranh giành lãnh thổ ở biển.
Vì không có giới hạn phía đông đối với đường kẻ Tordesillas, cả hai vương quốc đã tổ chức các hội nghị để giải quyết tranh chấp lãnh thổ. Từ năm 1524-1529, các chuyên gia Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha đã gặp nhau tại Badajoz-Elvas để tìm vị trí chính xác của đường đối lập Tordesillas, nhằm chia địa cầu thành hai bán cầu bằng nhau. Mỗi vương quốc bổ nhiệm ba nhà thiên văn học và người phác bản đồ, ba thuyền trưởng và ba nhà toán học. Lopo Homem, người phác bản đồ và nhà thiên văn học Bồ Đào Nha đã tham gia hội ý, cùng với người phác bản đồ Diogo Ribeiro bên phái đoàn Tây Ban Nha. Hội đồng tụ họp nhiều lần mà không đi đến được thỏa thuận nào: kiến thức tại thời điểm đó không đủ để tính toán kinh độ chính xác của đường kẻ còn các bên thì cương quyết đòi chủ quyền các hòn đảo. Vấn đề được giải quyết vào năm 1529, sau một cuộc đàm phán dai dẳng, kết thúc bằng việc ký kết Hiệp ước Zaragoza, quy kết quần đảo Maluku cho Bồ Đào Nha và Philippines cho Tây Ban Nha.
Từ năm 1525 đến 1528, Bồ Đào Nha đã gửi một số chuyến thám hiểm quanh Quần đảo Maluku. Gomes de Sequeira và Diogo da Rocha được gửi lên phía bắc bởi thống đốc Ternate Jorge de Menezes và họ trở thành những người châu Âu đầu tiên đến Quần đảo Caroline, nơi họ đặt tên là "Quần đảo de Sequeira". Năm 1526, Jorge de Meneses cập cảng các đảo Biak và Waigeo ở Papua New Guinea. Dựa trên những khám phá này mà nhà sử học người Úc Kenneth McIntyre đã đề xướng giả thuyết khám phá Úc của Bồ Đào Nha, khẳng định rằng Cristóvão de Mendonça và Gomes de Sequeira đã tìm ra châu Úc đầu tiên.
Tây Ban Nha tiến hành cuộc chinh phạt Châu Mỹ (1519–1532)
Tin đồn về các hòn đảo chưa được khám phá ở tây bắc của Hispaniola đã đến tai Tây Ban Nha vào năm 1511 và được vua Fernando II của Aragon quan tâm. Trong khi người Bồ đã đạt được những thành tựu to lớn ở Ấn Độ Dương, người Tây Ban Nha lại đầu tư vào công cuộc khám phá nội địa châu Mỹ để tìm kiếm vàng và các tài nguyên quý giá khác. Thành viên của những cuộc khám phá này được gọi là những "conquistador". Họ có xuất thân khác nhau, người là nghệ nhân, người là thương nhân, có khi lại là giáo sĩ, tiểu quý tộc và đôi khi là cả nô lệ tự do, nhưng họ có cùng chung một mục đích là tìm kiếm tiền tài và danh vọng ở Tân Thế Giới. Các conquistador phải tự chu cấp cho các cuộc viễn chinh và đa số họ đều không có kinh nghiệm chinh chiến.
Ở châu Mỹ, người Tây Ban Nha đã tìm thấy nhiều đế quốc rộng lớn và tấp nập như ở châu Âu. Mặc cho quân số conquistador ít hơn, họ vẫn lật đổ được những liệt cường này. Trong thời kì này, đại dịch bệnh từ châu Âu như bệnh đậu mùa tàn phá dân cư bản địa. Sau khi chủ quyền của Tây Ban Nha được thiết lập, Tây Ban Nha tập trung vào việc khai thác và xuất khẩu vàng và bạc.
Năm 1512, để trao thưởng cho Juan Ponce de León vì đã phát hiện Puerto Rico vào năm 1508, vua Ferdinand đã thúc giục ông khám phá những vùng đất mới. Ông sẽ được ban chức thống đốc của những vùng đất mà ông khám phá, nhưng phải tự mình chu cấp cho tất cả các cuộc thám hiểm đó. Với ba con tàu và khoảng 200 thủy thủ, Léon khởi hành từ Puerto Rico vào tháng 3 năm 1513. Vào tháng 4, họ nhìn thấy đất liền và đặt tên dải đất đó là La Florida, vì đang là mùa Phục sinh (Florida). Ông là người châu Âu đầu tiên đặt chân lên vùng đất này, nơi mà ông lầm tưởng là một hòn đảo. Địa điểm đổ bộ của León đang bị tranh cãi giữa St. Augustine, Ponce de León Inlet và Melbourne Beach. Họ tiến về phía nam và vào ngày 8 tháng 4 đã gặp một dòng chảy mạnh đến nỗi nó đẩy họ lùi lại: đây là cuộc chạm trán đầu tiên với dòng Hải lưu Gulf Stream, sau này sẽ cực kì quan trọng trong chuyến hành trình từ Ấn về Âu. Họ tiến tới Vịnh Biscayne, Dry Tortugas rồi chuyển hướng về phía tây nam nhằm vòng qua Cuba để trở về, cập bến Grand Bahama vào tháng Bảy.
Cortés ở Mexico và Đế quốc Aztec
Năm 1517, thống đốc Velázquez de Cuéllar của Cuba cử một hạm đội dẫn đầu bởi Hernández de Córdoba đi khám phá bán đảo Yucatán. Họ đổ bộ và được người Maya chào đón, nhưng bị phục kích lúc ban đêm và chỉ còn một số ít quay trở về. Velázquez sau đó cử một đoàn thám hiểm khác do cháu trai ông Juan de Grijalva chỉ huy, đi thuyền về phía nam dọc bờ biển tới Tabasco, lãnh thổ của đế quốc Aztec. Năm 1518, Velázquez trao cho thị trưởng thủ phủ của Cuba, Hernán Cortés, một đoàn thám hiểm để thám thính nội địa Mexico, nhưng do hiếm khích cũ giữa họ, đã khước từ lời đề nghị.
Vào tháng 2 năm 1519, Cortés vẫn ra khơi chống chế. Với khoảng 11 tàu, 500 thủy thủ, 13 con ngựa và một số lượng nhỏ pháo đổ bộ lên Yucatán, lãnh thổ của người Maya, tuyên bố giành đất cho vương miện Tây Ban Nha. Từ Trinidad, ông tiến tới Tabasco và giành chiến thắng trước người bản xứ. Ông được trao cho một nữ nô lệ tên La Malinche, người tình tương lai của ông. Bà biết nói hai ngôn ngữ là tiếng Nahuatl (Aztec) và tiếng Maya, rồi trở thành một thông dịch viên và cố vấn có giá trị. Thông qua bà, Cortés biết về Đế quốc Aztec thịnh vượng.
Vào tháng 7, người của ông tiếp quản Veracruz và ông thuyết phục được vị vua mới Charles I của Tây Ban Nha bảo hộ cuộc chinh phạt.[121] Cortés yêu cầu được gặp mặt Hoàng đế Aztec Montezuma II, người liên tục khước từ lời đề nghị của ông. Họ tiến đến Tenochtitlan và trên đường lập liên minh với nhiều bộ lạc và thành bang thù địch người Aztec. Vào tháng 10, đoàn Tây Ban Nha hội quân với 3.000 chiến binh Tlaxcaltec, hành quân đến Cholula, thành bang lớn thứ hai tại miền trung Mexico. Để gieo rắc nỗi sợ và răn đe những kẻ chống đối, ông cho hành quyết hàng ngàn quý tộc và cho đốt một phần thành phố.
Đến được Tenochtitlan vào ngày 8 tháng 11, họ được Moctezuma II đón tiếp tử tế, cố tình cho Cortés vào trung tâm của Đế quốc Aztec nhằm hiểu rõ hơn ý định của người Tây Ban Nha và đánh bại họ sau này. Vị hoàng đế dâng tặng họ những món quà xa hoa bằng vàng, thứ mà người Tây Ban Nha thèm khát. Trong những bức thư gửi cho vua Charles, Cortés huênh hoang khẳng định rằng ông được người Aztec coi là sứ giả của vị thần rắn có lông Quetzalcoatl hoặc chính là vị Quetzalcoatl-một chi tiết gây tranh cãi trong cộng đồng sử gia hiện đại. Hay tin quân Aztec đánh úp người của Cortés trên bờ biển, Cortés bắt giữ Hoàng đế làm con tin và đòi tiền chuộc để dâng về cho vua Charles.
Trong khi đó, Velasquez đã gửi một đoàn thám hiểm khác, chỉ huy bởi Pánfilo de Narváez đi bắt Cortès, cập bến Mexico vào tháng 4 năm 1520 với 1.100 lính. Cortés để lại 200 lính ở Tenochtitlan và mang phần còn lại đối đầu với Narvaez. Cortés chiến thắng và thuyết phục quân của Narváez đi cùng ông. Ở Tenochtitlán, một trong số các trung úy của Cortés thảm sát quý tộc Aztec tại Đền Lớn, châm ngòi cho cuộc khởi nghĩa của người Aztec. Cortés nhanh chóng quay trở lại, thuyết phục Moctezuma trấn áp đám đông nhưng hoàng đế Aztec đã bị giết (không rõ thủ phạm). Quân Tây Ban Nha tháo chạy về Tlaxcaltec trong sự kiện Noche Triste (Đêm Sầu) với thương vong lớn. Phần lớn kho báu cướp phá được bị đánh rơi trong cuộc chạy trốn. Sau trận Otumba, họ chạy về Tlaxcala, mất 870 lính. Sau khi có được sự trợ giúp của các đồng minh và quân tiếp viện từ Cuba, Cortés vây hãm Tenochtitlán và bắt Cuauhtémoc vào tháng 8 năm 1521. Đế quốc Aztec chính thức sụp đổ sau khi thành đô Tenochtitlan thất thủ, Cortés tuyên bố chủ quyền của Tây Ban Nha và thành lập Thành phố Mexico.
Pizarro ở Peru và Đế quốc Inca
Nỗ lực đầu tiên để khám phá miền tây Nam Mỹ là vào năm 1522 bởi Pascual de Andagoya. Người Nam Mỹ bản địa kể với ông về một đất nước thịnh vượng trên một con sông tên là Pirú. Đến sông San Juan (Colombia), Andagoya đổ bệnh và trở về Panama, nơi ông lan truyền tin tức về "Pirú", thành phố bằng vàng El Dorado huyền thoại. Những tin tức này, cùng với các cuộc chinh phạt mới đây của Hernán Cortés, đã thu hút sự chú ý của Pizarro.
Francisco Pizarro khởi hành cùng Balboa trong chuyến vượt eo đất Panama. Năm 1524, ông thiết lập quan hệ đối tác với linh mục Hernando de Luque và conquistador Diego de Almagro để khám phá miền nam, đồng ý sẻ chia lợi nhuận. Họ thành lập tập đoàn viễn chinh với tên là "Empresa del Levante" (tiếng Anh: Company of the Levant): Pizarro là chỉ huy, Almagro cung cấp quân lực và thực phẩm, và Luque sẽ chịu trách nhiệm về tài chính và nhu yếu phẩm bổ sung.
Vào ngày 13 tháng 9 năm 1524, chuyến thám hiểm đầu tiên trong ba cuộc thám hiểm Peru gồm khoảng 80 người và 40 con ngựa. Cuộc thám hiểm là một thất bại, họ tới được Colombia nhưng chịu thua do thời tiết xấu, cái đói và xung đột với dân bản địa thù địch, Almagro còn bị mất một mắt. Các địa danh được đặt dọc theo tuyến đường của họ sở hữu những cái tên như Puerto deseado (cảng mong muốn), Puerto del hambre (cảng đói) và Puerto quemado (cảng thiêu rụi), chứng thực cho những khó khăn trong hành trình gian nan của họ. Hai năm sau, cuộc thám hiểm thứ hai được thành lập với sự cho phép miễn cưỡng từ Thống đốc Panama. Vào tháng 8 năm 1526, họ rời đi với 2 con tàu, 160 người và nhiều con ngựa. Khi đến sông San Juan, họ tách ra, Pizarro ở lại để khám phá bờ biển đầm lầy và Almagro trở lại Panama để lấy thêm đồ tiếp viện. Thuyền trưởng chính của Pizarro dòng buồm về phía nam và sau khi băng qua đường xích đạo, đã bắt được một chiếc bè từ Tumbes. Họ ngạc nhiên khi nó chở đầy vải dệt, gốm, vàng, bạc và ngọc lục bảo. Almagro kịp thời mang thêm quân tiếp viện và họ lại tiếp tục chuyến hành trình. Sau chuyến đi phải đối mặt với những cơn gió và dòng chảy mạnh, họ đến được Atacames nơi tìm thấy một khu định cư lớn nằm dưới ách cai trị của người Inca.
Pizarro vẫn an toàn gần bờ biển, trong khi Almagro và Luque quay trở lại lấy thêm tiếp viện và mang theo bằng chứng về vàng được đồn đại. Thống đốc mới khước từ một cuộc thám hiểm thứ ba và ra lệnh cho hai con tàu ngay lập tức trở về Panama. Almagro và Luque quyết định gia nhập với Pizarro. Khi họ đến Isla de Gallo, Pizarro đã vẽ một đường trên cát, nói dõng dạc: "Peru ở đó với sự giàu có của nó; Panama ở đây với sự nghèo khổ của nó. Hãy chọn, mỗi người, điều tốt nhất để trở thành một người Castilia dũng cảm." Mười ba người đàn ông quyết định ở lại và đời sau gọi họ là The Famous Thirteen. Đoàn của Pizarro tới La Isla Gorgona, nơi họ ở lại bảy tháng chờ đồ tiếp tế.
Họ quyết định đi thuyền về phía nam và đến tháng 4 năm 1528, đổ bộ lên Tumbes phía tây bắc Peru và được người Tumpis địa phương đón chào nồng nhiệt. Hai người của Pizarro đã báo cáo sự giàu có đáng kinh ngạc, bao gồm cả đồ trang trí bằng vàng và bạc xung quanh nhà của tù trưởng. Lần đầu tiên họ nhìn thấy một con llama mà Pizarro gọi là "những con lạc đà nhỏ". Người bản địa đặt tên cho người Tây Ban Nha là "Những đứa trẻ của Mặt trời" vì nước da trắng và những chiếc áo giáp rực rỡ mà họ mặc. Sau đó, họ quyết định trở về Panama để chuẩn bị một chuyến thám hiểm cuối cùng. Trước khi rời đi, họ đi thuyền về phía nam qua các vùng lãnh thổ mà họ đặt tên là Cabo Blanco, cảng Payta, Sechura, Punta de Aguja, Santa Cruz và Trujillo, đạt đến 9 độ nam.
Vào mùa xuân năm 1528, Pizarro về Tây Ban Nha, nơi ông diện kiến vua Charles I. Nhà vua đã nghe về những chuyến thám hiểm của ông ở vùng đất giàu vàng và bạc và hứa sẽ trợ cấp cho ông. Capitulación de Toledo ủy quyền cho Pizarro tiến hành cuộc chinh phạt Peru. Pizarro sau đó đã có thể thuyết phục được nhiều bạn bè và người thân tham gia chuyến viễn chinh, bao gồm: Hernándo Pizarro, Juan Pizarro, Gonzalo Pizarro và cả Francisco de Orellana, người sau này sẽ khám phá sông Amazon, và người anh em họ Pedro Pizarro.
Chuyến thám hiểm thứ ba và cuối cùng của Pizarro rời Panama đến Peru vào ngày 27 tháng 12 năm 1530. Với ba con tàu và 180 người, họ xuống thuyền gần Ecuador và đi thuyền đến Tumbes, thấy rằng nơi này đã bị phá hủy. Họ tiến vào sâu trong nội địa và thành lập khu định cư Tây Ban Nha đầu tiên ở Peru, San Miguel de Piura. Một trinh sát của đoàn gặp một phái viên Inca và báo tin lại cho đoàn thám hiểm chuẩn bị cho một cuộc gặp mặt. Tumbes bị hủy diệt là do đế quốc Inca đang chìm trong một cuộc nội chiến đẫm máu và Atahualpa đang ở miền bắc Peru, sau khi đánh bại Huáscar. Sau khi hành quân được hai tháng, họ diện kiến trước hoàng đế Atahualpa. Tuy nhiên, vị hoàng đế khinh thường người Tây Ban Nha và "không quy thuận bất kỳ ai". Người Tây Ban Nha có 200 quân đối đầu với 80.000 quân Inca. Tuy bị áp đảo, Pizarro chiến thắng trận Cajamarca, bắt sống Atahualpa và đòi tiền chuộc. Mặc dù đã thực hiện lời hứa "vàng lấp đầy một phòng và bạc lấp đầy hai phòng", ông bị kết án vì giết anh trai Huáscar và âm mưu chống lại Pizarro. Vị hoàng đế cuối cùng của đế quốc Inca độc lập bị hành quyết.
Năm 1533, Pizarro chiếm thành Cuzco cùng với quân đồng minh bản địa và viết cho vua Charles I: "Thành phố này có thể coi là vĩ đại nhất và đẹp nhất ở đất nước này hoặc bất cứ nơi nào ở Ấn Độ... nó quả thật rất đẹp và có những tòa nhà lộng lẫy đến mức nó sẽ nổi bật ngay cả ở Tây Ban Nha." Sau khi người Tây Ban Nha hoàn thành cuộc chinh phạt Peru, Jauja tại Thung lũng Mantaro màu mỡ được lấy làm thủ đô tạm thời của Peru, nhưng do ở trên núi, không thuận tiện việc đi lại, Pizarro cho thành lập Lima vào ngày 18 tháng 1 năm 1535, mà Pizarro coi là thành tựu đáng nhớ nhất trong cuộc đời ông.
Tuyến giao thương mới (1542–1565)
Năm 1543, ba thương nhân Bồ Đào Nha vô tình trở thành những người phương Tây đầu tiên cập bến và giao dịch với Nhật Bản. Theo Fernão Mendes Pinto, người tự nhận là đã tham gia cuộc hành trình đó, họ đã đến Tanegashima, nơi dân địa phương rất ấn tượng với công nghệ súng của họ, mà sau này được người Nhật học hỏi và chế tạo trên quy mô lớn.
Vua Philip II của Tây Ban Nha phát động cuộc chinh phạt Phillipines và bổ nhiệm Andrés de Urdaneta đi đánh chiếm quần đảo. Urdaneta chấp thuận nhưng không trực tiếp chỉ huy quân đội; Miguel López de Legazpi thay thế ông làm lãnh đạo. Đoàn viễn chinh ra khơi vào tháng 11 năm 1564. Sau khi dành một chút thời gian trên các hòn đảo, Legazpi gửi Urdaneta đi tìm tuyến đường trở về thuận lợi hơn. Urdaneta rời San Miguel trên đảo Cebu vào ngày 1 tháng 6 năm 1565, nhưng buộc phải tới tận 38 độ vĩ Bắc để đón gió.
Ông lý luận rằng gió mậu dịch Thái Bình Dương thổi theo kiểu vòng hải lưu giống gió Đại Tây Dương. Nếu ở Đại Tây Dương, tàu thuyền phải thực hiện Volta do mar để đón gió đưa chúng trở về từ Madeira, thì, ông giả định, bằng cách đi lên bắc trước khi sang phía đông, ông có thể đón gió mậu dịch đưa tàu sang bờ Bắc Mỹ. Linh cảm của ông quả là không sai và cơn gió đưa ông đến Mũi Mendocino, California, rồi giong buồm xuống nam. Con tàu cập cảng Acapulco ngày 8 tháng 10 năm 1565, vượt thành công 12.000 dặm đường biển (19.312 km) chỉ trong 130 ngày. Mười bốn thủy thủ thiệt mạng; chỉ có Urdaneta và Felipe de Salcedo (cháu trai của López de Legazpi) còn đủ sức để thả neo.
Từ đó, một hải tuyến xuyên Thái Bình Dương đã được thiết lập giữa Mexico và Philippines. Trong một thời gian dài, các hải tuyến này được sử dụng bởi các thuyền galleon Manila, tạo ra một mạng lưới thương mại nối liền Trung Quốc, Châu Mỹ và Châu Âu thông qua các tuyến xuyên Thái Bình Dương và xuyên Đại Tây Dương.
Bắc Âu góp sức (1595 – thế kỷ XVII)
Các nước ngoại Iberia không thừa nhận Hiệp ước Tordesillas. Pháp, Hà Lan và Anh cũng có truyền thống hàng hải lâu đời. Bất chấp sự bưng bít của người Iberia, các công nghệ và bản đồ mới đã sớm lan tới phía bắc.
Năm 1568, người Hà Lan nổi dậy chống Felipe II của Tây Ban Nha dẫn đến Chiến tranh Tám mươi năm. Chiến tranh giữa Anh và Tây Ban Nha cũng đang diễn ra. Năm 1580, Philip II thừa kế Vương miện, đăng cơ Vua Bồ Đào Nha.
Quân đội của Philip đánh chiếm các thành phố then chốt Bruges và Ghent. Antwerp, khi đó là hải cảng quan trọng bậc nhất trên thế giới, bị chiếm vào năm 1585. Dân Kháng Cách được trao hai năm để giải quyết thủ tục trước khi rời khỏi thành phố. Nhiều người tái định cư ở Amsterdam. Những người này chủ yếu là thợ thủ công lành nghề, thương nhân giàu có của các thành phố cảng và người tị nạn chạy trốn khỏi cuộc đàn áp tôn giáo, đặc biệt là người Do Thái Sephardi từ Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha, và sau đó, người Huguenots từ Pháp. Những Cha Hành Hương cũng dành thời gian ở đó trước khi đến Thế giới mới. Cuộc di dân hàng loạt này là một động lực quan trọng: từng là một cảng nhỏ vào năm 1585, Amsterdam nhanh chóng nở rộ thành một trong những trung tâm thương mại quan trọng nhất trên thế giới. Sau thất bại của Hạm đội Tây Ban Nha năm 1588, thương mại hàng hải được mở rộng mặc dù thất bại của Hạm đội Anh vào năm sau đã khẳng định uy lực khủng khiếp của hải quân Tây Ban Nha.
Sự trỗi dậy của Hà Lan rất nhanh chóng và đáng chú ý: nhiều thủy thủ Hà Lan đã từng tham gia vào các chuyến đi của Bồ Đào Nha đến phía đông. Năm 1592, Cornelis de Houtman được các thương nhân Hà Lan gửi đến Lisbon để thu thập thông tin về Quần đảo Gia Vị. Năm 1595, thương nhân và nhà thám hiểm Jan Huyghen van Linschoten, đi tới Ấn Độ Dương nhân danh xứ Bồ Đào Nha, đã xuất bản cuốn "Reys-gheschrift vande navigatien der Portugaloysers in Orienten" ("Báo cáo về hành trình thông qua sự điều hướng của người Bồ Đào Nha ở phía Đông") ở Amsterdam. Cuốn sách bao gồm các hướng dẫn về cách di chuyển từ Bồ Đào Nha và Đông Ấn đến Nhật Bản. Cùng năm đó, Houtman dẫn đầu chuyến thám hiểm đầu tiên của Hà Lan theo chỉ dẫn trong cuốn sách kể trên và phát hiện ra một tuyến đường biển mới, đi thẳng từ Madagascar đến Eo biển Sunda ở Indonesia và ký hiệp ước với Quốc vương Banten.
Mối quan tâm của Hà Lan và Anh đã dẫn đến một phong trào mở rộng thương mại và kiến lập nền tảng của các công ty hiến chương Anh (1600) và Hà Lan (1602). Hà Lan, Pháp và Anh bắt đầu gửi các đội tàu vào vùng biển của Bồ Đào Nha, tập trung chủ yếu ở các khu vực ven bờ.
Khai phá Bắc Mỹ
Cuộc thám hiểm của Anh năm 1497 do người Venice tên John Cabot (Giovanni Caboto) dẫn đầu là chuyến hành trình đầu tiên trong một loạt các sứ mệnh của Pháp và Anh nhằm khám phá Bắc Mỹ. Tây Ban Nha không mấy tập trung vào phía bắc châu Mỹ, vì tài nguyên ở Trung và Nam Mỹ dồi dào hơn. Những cuộc thám hiểm này được kỳ vọng là sẽ tìm thấy một tuyến Tây Bắc đại dương để giao thương với châu Á. Con đường đó chưa bao giờ được phát hiện nhưng nhiều phương án khác đã được tìm ra, và vào đầu thế kỷ XVII, dân định cư từ một số nước Bắc Âu bắt đầu định cư ở bờ biển phía đông Bắc Mỹ. Khoảng năm 1520–1521, João Álvares Fagundes cùng với các cặp vợ chồng từ Bồ Đào Nha và Azores đi khai phá Newfoundland và Nova Scotia (có lẽ họ đã đến Vịnh Fundy trên lưu vực Minas) và thành lập một thuộc địa chài lưới tại Mũi Đảo Breton, tồn tại đến đến khoảng năm 1570 hoặc gần cuối thế kỷ XVI.
Năm 1524, Giovanni da Verrazzano ra khơi nhân danh vua François I của Pháp, thúc đẩy bởi sự thiếu tôn trọng các nước khác của hiệp ước chia cắt thế giới làm hai giữa Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Verrazzano khám phá Bờ Đại Tây Dương của Bắc Mỹ, từ Nam Carolina đến Newfoundland, và là người châu Âu đầu tiên được ghi nhận đến thăm nơi mà sau này sẽ trở thành Thuộc địa Virginia và Hoa Kỳ. Cùng năm đó, Estevão Gomes, người phác bản đồ Bồ Đào Nha đi theo hạm đội của Ferdinand Magellan, khám phá Nova Scotia, giong thuyền về phía Nam vượt Maine, rồi tới được nơi mà nay là Cảng New York, sông Hudson và cuối cùng đến được Florida vào tháng 8 năm 1525. Từ kết quả của chuyến thám hiểm, bản đồ thế giới năm 1529 của Diogo Ribeiro phác thảo bờ đông của Bắc Mỹ gần như hoàn hảo. Từ 1534 đến 1536, nhà thám hiểm người Pháp Jacques Cartier, được cho là đã đi cùng Verrazzano tới Nova Scotia và Brazil, là người châu Âu đầu tiên tiến vào nội địa Bắc Mỹ, mô tả Vịnh Saint Lawrence, mà ông đặt tên là "Quốc gia Canada" phỏng theo tên gốc tiếng Iroquois, tuyên bố chủ quyền Canada là thuộc về François I của Pháp.
Người châu Âu bắt đầu khám phá bờ Thái Bình Dương vào giữa thế kỷ XVI. Francisco de Ulloa khám phá bờ Thái Bình Dương của Mexico mà ngày nay có tên là Vịnh California, chứng minh rằng Baja California thực chất là một bán đảo. Bất chấp khám phá này, châu Âu vẫn tin rằng California là một hòn đảo. Ghi chép của ông lần đầu tiên sử dụng tên "California". João Coleues Cabrilho, hoa tiêu người Bồ Đào Nha phụng sự Vương quốc Tây Ban Nha, là người châu Âu đầu tiên đặt chân đến California, đổ bộ lên bờ vào ngày 28 tháng 9 năm 1542 ở vịnh San Diego và tuyên bố California thuộc về Tây Ban Nha. Ông cũng tới San Miguel ở Quần đảo Channel và đi đến tận Point Reyes. Sau khi ông qua đời, thủy thủ đoàn tiếp tục thám hiểm đến tận phía bắc Oregon.
Năm 1579, chỉ huy hải quân người Anh, Francis Drake, men theo đường bờ biển quanh phía bắc nơi Cabrillo đổ bộ, nơi Drake đáp xuống vẫn còn là một bí ẩn và chưa được xác định[137][138] Drake tuyên bố vùng đất này là của Anh[139] với tên gọi Nova Albion. Do đó, thuật ngữ "Nova Albion" đã được sử dụng trên nhiều bản đồ châu Âu để chỉ định lãnh thổ phía bắc các khu định cư Tây Ban Nha.
Giữa năm 1609-1611, sau nhiều chuyến đi thay mặt cho các thương nhân người Anh khám phá Tuyến đường Đông Bắc giả thuyết để đến Ấn Độ, Henry Hudson của Vương quốc Anh, với sự bảo trợ từ Công ty Đông Ấn Hà Lan (VOC), đã khám phá khu vực xung quanh Thành phố New York ngày nay, để tìm kiếm một tuyến đường sang phía tây đến châu Á. Ông đã khám phá sông Hudson và đặt nền móng cho quá trình thuộc địa hóa khu vực này của người Hà Lan. Chuyến thám hiểm cuối cùng của Hudson tiến xa hơn lên phía bắc để tìm kiếm hành lang Tây Bắc, dẫn đến phát hiện Eo biển Hudson và Vịnh Hudson. Sau khi trú đông ở Vịnh James, Hudson cố gắng tiếp tục hành trình vào mùa xuân năm 1611, nhưng thủy thủ đoàn của ông nổi loạn và bỏ rơi ông trên biển.
Tìm kiếm hải tuyến phía Bắc
Pháp, Hà Lan và Anh bị bỏ lại trong cuộc đua tìm tuyến đường biển đến châu Á, chỉ có thể qua châu Phi hoặc Nam Mỹ. Khi nhận ra rằng không có con đường nào xuyên qua trái tim của châu Mỹ, họ chuyển sự chú ý tới vùng biển phía bắc mà người Anh gọi là hành lang Tây Bắc. Mong muốn thiết lập một tuyến đường như vậy đã thúc đẩy phần lớn cuộc thám hiểm châu Âu ở cả hai bờ biển Bắc Mỹ và Nga. Ở Nga, ý tưởng về một con đường biển khả dĩ nối Đại Tây Dương và Thái Bình Dương lần đầu tiên được đưa ra bởi nhà ngoại giao Gerasimov vào năm 1525, mặc dù những người định cư Nga trên bờ Biển Trắng (người Pomors) đã khám phá nhiều phần của nơi này ngay từ Thế kỷ XI.
Năm 1553, nhà thám hiểm người Anh Hugh Willoughby cùng với thuyền trưởng Richard Chancellor đã được phái đi cùng với ba tàu của Công ty thương gia Luân Đôn thám hiểm đến vùng đất mới để tìm kiếm hành lang. Trong chuyến hành trình qua Biển Barents, Willoughby cho rằng ông đã nhìn thấy những hòn đảo ở phía bắc và nhiều hòn đảo có tên Willoughby's Land được hiển thị trên bản đồ do Plancius và Mercator xuất bản vào những năm 1640. Hải đoàn bị cản trở bởi "những cơn lốc khủng khiếp" trên biển Na Uy và Willoughby phải tiến vào một vịnh gần biên giới hiện tại giữa Phần Lan và Nga. Thi thể đóng băng của thủy thủ đoàn và các con tàu, bao gồm Thuyền trưởng Willoughby và nhật ký của ông, được ngư dân Nga phát hiện một năm sau dó. Richard Chancellor neo đậu thành công ở Biển Trắng và đi tới Moscow diện kiến Sa hoàng Ivan, mở cửa thương mại giữa Nga và Công ty sau này trở thành Công ty Muscovy.
Barentsz khám phá vùng cực Bắc
Ngày 5 tháng 6 năm 1594, nhà vẽ bản đồ người Hà Lan Willem Barentsz khởi hành từ Texel với một hạm đội gồm ba tàu tiên vào Biển Kara với hy vọng tìm thấy Hành lang Đông Bắc phía trên Siberia. Tại đảo Williams, thủy thủ đoàn lần đầu tiên bắt gặp một con gấu Bắc cực. Họ chật vật để đưa con thú lên thuyền, nhưng con gấu quá hung hăng khiến cho thủy thủ đoàn đành phải giết nó. Barentsz đổ bộ bờ phía tây Novaya Zemlya và men theo nó lên phía bắc, nhưng bị buộc phải quay trở lại khi đối mặt với những tảng băng lớn.
Vào năm sau, Hoàng tử Maurice xứ Nasau dẫn đầu đoàn thám hiểm mới gồm 6 chiếc thuyền, chứa đầy hàng hóa thương mại mà người Hà Lan hy vọng sẽ dùng để giao dịch với Trung Quốc. Cả nhóm tình cờ gặp "những người hoang dã" Samoyed nhưng cuối cùng phải quay lại khi phát hiện ra biển Kara bị đóng băng. Năm 1596, Quốc hội Hà Lan treo thưởng hậu hĩnh cho bất kỳ ai vượt thành công Đoạn đường Đông Bắc. Hội đồng thị trấn Amsterdam đã mua và trang bị hai tàu nhỏ, lái bởi Jan Rijp và Jacob van Heemskerk, để tìm kiếm tuyến đường cổ tích này dưới sự chỉ huy của Barents. Họ lên đường vào tháng 5, và vào tháng 6 phát hiện ra Đảo Bear và Spitsbergen, nhìn thấy bờ phía tây bắc của nó. Họ nhìn thấy một vịnh lớn, sau này được gọi là Raudfjorden và tiến vào Magdalenefjorden mà họ đặt tên là Vịnh Tusk, đi lối vào phía bắc của Forlandsundet mà họ gọi là Keerwyck, nhưng bị buộc phải quay lại vì một bãi cạn. Vào ngày 28 tháng 6, họ đi vòng quanh mũi phía bắc của Prins Karls Forland, nơi họ đặt tên là Vogelhoek, sở hữu quần thể chim phong phú, và đi thuyền về phía nam, qua Isfjorden và Bellsund, có tên trên bản đồ của Barentsz là Grooten Inwyck và Inwyck.
Các con tàu một lần nữa lại về đảo Bear vào ngày 1 tháng 7, dẫn đến sự bất đồng. Họ đồng ý tách ra, Barentsz tiếp tục về phía đông bắc, còn Rijp đi lên phía bắc. Barentsz đến Novaya Zemlya và để tránh bị vướng vào băng, ông hướng đến eo biển Vaigatch nhưng bị mắc kẹt trong các tảng băng trôi. Bị mắc kẹt, thủy thủ đoàn 16 người đã buộc phải trú đông trên băng. Họ sử dụng gỗ xẻ từ tàu để xây dựng một căn nhà trú tạm mà họ gọi là Het Behouden Huys (Nhà Kept). Để đối phó với cái lạnh cực độ, họ đã sử dụng số vải buôn làm chăn và quần áo, bắt cáo Bắc Cực bằng bẫy thủ công để ăn. Khi tháng 6 đến và băng chưa chịu tan, những người sống sót bị uốn ván đành đưa hai chiếc thuyền nhỏ ra biển. Barentsz bỏ mạng trên biển vào ngày 20 tháng 6 năm 1597, khi đang nghiên cứu biểu đồ. Phải mất 7 tuần nữa những chiếc thuyền mới đến được Kola, nơi họ được một tàu buôn Nga cứu giúp. Chỉ còn 12 thuyền viên sống sót, cập cảng Amsterdam vào tháng 11. Hai trong số các thuyền viên của Barentsz sau đó đã xuất bản các nhật ký của họ, Jan Huyghen van Linschoten, người đã đi cùng Barentsz trong hai chuyến đi đầu tiên, và Gerrit de Veer, người đóng vai trò là thợ mộc của con tàu cuối cùng.
Năm 1608, Henry Hudson thực hiện một nỗ lực thứ hai. Ông đến được Novaya Zemlya nhưng buộc phải quay lại. Giữa năm 1609-1611, Hudson sau nhiều chuyến đi thay mặt cho các thương nhân người Anh khám phá tuyến đường biển phía Bắc đến Ấn Độ, đã khám phá khu vực xung quanh thành phố New York hiện đại trong khi tìm kiếm một tuyến đường phía tây đến châu Á dưới sự bảo trợ của Công ty Đông Ấn Hà Lan (VOC).
Úc Hà Lan và New Zealand
Terra Australis Ignota (tiếng Latin, "vùng đất vô danh của miền nam") là một lục địa giả định xuất hiện trên bản đồ châu Âu từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII, bắt nguồn từ một quan niệm mà Aristotle khởi xướng. Nó được mô tả trên bản đồ Dieppe giữa thế kỷ XVI, nơi đường bờ biển của nó xuất hiện ngay phía nam của các hòn đảo Đông Ấn. Những khám phá mới đây đã thu hẹp phạm vi tìm kiếm lục địa này; tuy nhiên, nhiều người vẽ bản đồ theo quan điểm của Aristotle, như Gerardus Mercator (1569) và Alexander Dalrymple thậm chí đến tận năm 1767 đã tranh luận về sự tồn tại của nó, với những lập luận kiểu như nên có một vùng đất rộng lớn ở Nam bán cầu để đối trọng các vùng đất được biết đến ở Bắc bán cầu. Khi những vùng đất mới được phát hiện, chúng thường được coi là một phần của lục địa giả định này.
Juan Fernandez, xuất phát từ Chile năm 1576, tuyên bố ông đã phát hiện ra lục địa phía Nam. Luis Váez de Torres, một hoa tiêu người Galicia phụng sự Vương quốc Tây Ban Nha, đã chứng minh sự tồn tại của một lối đi ở phía nam New Guinea, nay là Eo biển Torres. Pedro Fernandes de Queirós, một hoa tiêu người Bồ Đào Nha phụng sự Vương miện Tây Ban Nha, đã nhìn thấy một hòn đảo lớn ở phía nam New Guinea vào năm 1606, mà ông đặt tên là La Australia del Espiritu Santo. Trên thực tế, đó không phải là Úc mà là một hòn đảo ở Vanuatu ngày nay.
Nhà hàng hải và thống đốc thuộc địa Hà Lan, Willem Janszoon khởi hành từ Hà Lan đến Đông Ấn lần thứ ba vào ngày 18 tháng 12 năm 1603, với tư cách là thuyền trưởng của tàu Duyfken (hay Duijfken, nghĩa là "Chim bồ câu nhỏ"), một trong 12 tàu của hạm đội Steven van der Hagen.[146] Khi ở Ấn Độ, Janszoon được cử đi tìm kiếm các thương điếm khác, đặc biệt là ở "vùng đất lớn của Nova Guinea và các vùng Đông và Nam khác". Vào ngày 18 tháng 11 năm 1605, Duyfken xuất phát từ Bantam đến bờ biển phía tây New Guinea. Janszoon sau đó băng qua mũi phía đông của Biển Arafura nhưng không thấy Eo biển Torres, tiến vào Vịnh Carpentaria. Vào ngày 26 tháng 2 năm 1606, ông đổ bộ xuống sông Pennefather thuộc bờ phía tây của Cape York ở Queensland, gần thị trấn Weipa hiện đại. Đây là cuộc đổ bộ châu Âu đầu tiên được ghi nhận trên lục địa Úc. Janszoon tiến vào khoảng 320 km (199 dặm) nội địa, mà ông nghĩ là một phần mở rộng phía nam của New Guinea. Năm 1615, chuyến đi vòng Mũi Horn của Jacob le Maire và Willem Schouten đã chứng minh rằng Tierra del Fuego là một hòn đảo tương đối nhỏ.
Nga thám hiểm Siberia (1581–1660)
Vào giữa thế kỷ XVI, Sa quốc Nga đánh chiếm các hãn quốc người Tatar là Kazan và Astrakhan, sáp nhập toàn bộ Vùng Volga và mở đường đến Dãy núi Ural. Cuộc thuộc địa hóa những vùng viễn đông mới của Nga được dẫn dắt bởi các thương nhân nhà Stroganov giàu có. Sa hoàng Ivan IV ban những vùng đất rộng lớn gần dãy Urals cho Anikey Stroganov, người đã tổ chức các cuộc di dân quy mô lớn đến những vùng đất này. Stroganov khuyến khích phát triển nông nghiệp, săn bắn, làm muối, đánh cá và khai thác quặng ở Urals và giao thương với các bộ lạc Siberia.
Cuộc chinh phạt Hãn quốc Sibir
Khoảng năm 1577, Semyon Stroganov và các con trai của Anikey Stroganov thuê một thủ lĩnh Cossack tên Yermak bảo vệ vùng đất của họ khỏi các cuộc tấn công của vị Hãn Kuchum. Đến năm 1580, Stroganov và Yermak đề xuất một cuộc viễn chinh quân sự nhằm tiêu diệt Kuchum. Năm 1581, Yermak bắt đầu tiến sâu vào Siberia. Sau một vài chiến thắng trước quân đội của Kuchum, quân của Yermak đánh tan lực lượng của vị hãn trên sông Irtysh trong Trận Chuvash Cape kéo dài 3 ngày vào năm 1582. Tàn quân của Kuchum rút về vùng thảo nguyên và Yermak kiểm soát hoàn toàn Hãn quốc có thủ đô là Qashliq gần Tobolsk hiện đại. Kuchum chưa chịu quy hàng và đột kích Yermak vào năm 1585 trong đêm khuya. Yermak bị thương và cố gắng bơi qua sông Wagay (nhánh sông Irtysh), nhưng bị chết đuối dưới sức nặng của áo giáp. Các cossack triệt thoái khỏi Siberia nhưng nhờ các khám phá tuyến sông chính ở Tây Siberia, người Nga đã tái chiếm thành công những vùng đất này.
Tuyến sông Siberia
Vào đầu thế kỷ XVII, cuộc đông tiến của người Nga bị đình trệ do các vấn đề nội bộ trong nước thời kì Đại Loạn. Tuy nhiên, ngay sau đó, việc thăm dò và thực dân hóa các vùng lãnh thổ rộng lớn ở Siberia lại tiến triển, chủ yếu tiên phong bởi những Cossack săn lùng các loại lông thú và ngà có giá trị. Cossack đến từ Nam Urals, một làn sóng người Nga khác đến Bắc Băng Dương. Đây là những người Pomors từ miền Bắc nước Nga, những thương gia trao đổi lông thú với Mangazeya ở phía bắc miền Tây Siberia trong một thời gian khá dài. Năm 1607, khu định cư Turukhansk được thành lập ở phía bắc sông Yenisei, gần cửa sông Tunguska và vào năm 1619, Yeniseysky Ostrog được thành lập ở giữa Yenisei cửa sông Tunguska.
Giữa năm 1620 và 1624, một nhóm các thợ săn lông thú dẫn đầu bởi Demid Pyanda rời Turukhansk và khám phá khoảng 1.430 dặm (2.301 km) Hạ Tunguska, trú đông gần các dòng sông Vilyuy và sông Lena. Theo các ghi chép truyền miệng sau này (truyện dân gian thu thập được một thế kỷ sau), Pyanda đã phát hiện ra sông Lena. Ông được cho là đã khám phá khoảng 1.500 dặm (2.414 km) chiều dài của nó, đo tới tận trung tâm Yakutia. Ông quay trở lại Lena do địa hình xấu và sang đến sông Angara. Do đó, Pyanda có lẽ là người Nga đầu tiên gặp người Yakut và Buryat. Ông đóng thuyền mới và khám phá khoảng 870 dặm (1.400 km) sông Angara, cuối cùng đến Yeniseysk và phát hiện ra rằng dòng Angara (tên con sông theo người Buryat) và Thượng Tunguska (ban đầu có tên Verkhnyaya Tunguska) là cùng một dòng sông.
Năm 1627, Pyotr Beketov được bổ nhiệm làm Voivode Yenisei ở Siberia. Ông thực hiện thành công hành trình thu thuế từ các Buryat vùng Zabaykalye, trở thành người Nga đầu tiên bước chân vào Buryatia. Ông thành lập khu định cư đầu tiên của Nga ở đó, Rybinsky Ostrog. Beketov được gửi đến sông Lena vào năm 1631. Năm 1632, ông thành lập Yakutsk và gửi các Cossack đi khám phá Aldan và xuôi dòng Lena, để thành lập các pháo đài mới và thu thuế.
Yakutsk sớm trở thành bàn đạp cho các cuộc thám hiểm xa hơn của Nga về phía đông, phía nam và phía bắc. Maksim Perfilyev, một trong những người sáng lập Yeniseysk, đã thành lập Bratsky Ostrog tại Angara vào năm 1631 và vào năm 1638, ông trở thành người Nga đầu tiên bước vào Transbaikalia, đi từ Yakutsk.
Năm 1643, Kurbat Ivanov dẫn đầu một nhóm Cossack từ Yakutsk đến phía nam dãy núi Baikal và phát hiện ra hồ Baikal, thăm đảo Olkhon. Sau đó, Ivanov lập bản đồ và ghi lại các mô tả đầu tiên về Baikal.
Người Nga đến Thái Bình Dương
Năm 1639, một nhóm các nhà thám hiểm do Ivan Moskvitin dẫn đầu trở thành những người Nga đầu tiên đến Thái Bình Dương và khám phá Biển Okhotsk. Họ xây dựng một trại trú đông trên bờ sông Ulya. Cossack biết được từ người dân địa phương về con sông Amur rộng lớn phía nam. Năm 1640, họ đi thuyền về phía nam, khám phá bờ biển phía đông nam của Biển Okshotsk, có lẽ đến được cửa sông Amur và khám phá Quần đảo Chaiar trên đường trở về. Dựa trên ghi chép của Moskvitin, Kurbat Ivanov phác họa bản đồ Viễn Đông đầu tiên của Nga vào năm 1642.
Năm 1643, Vasily Poyarkov vượt dãy Stanovoy và đến thượng nguồn sông Zeya thuộc đất của người Đạt Oát Nhĩ, chư hầu cống nạp của nhà Thanh. Sau khi trú đông năm 1644, Poyarkov tiến xuống sông Zeya và trở thành người Nga đầu tiên đến sông Amur. Ông đi thuyền trên sông Amur và cuối cùng phát hiện ra cửa sông lớn từ đất liền. Vì Cossack của ông kích động người dân bản địa, Poyarkov chọn đường khác để trở về. Họ đóng thuyền và vào năm 1645, đi thuyền dọc theo bờ biển Okshotsk đến sông Ulya và trải qua mùa đông tiếp theo trong những túp lều được Ivan Moskvitin xây dựng sáu năm trước đó. Năm 1646, họ trở lại Yakutsk.
Năm 1644, Mikhail Stadukhin phát hiện ra sông Kolyma và thành lập Srednekolymsk. Thương nhân tên Fedot Alekseyev Popov tổ chức một cuộc thám hiểm xa hơn về phía đông và Semyon Dezhnyov trở thành thuyền trưởng của tàu kochi (loại tàu Nga phù hợp cho điều kiện băng tuyết). Năm 1648, họ đi thuyền từ Srednekolymsk tới Bắc Cực rồi đi vòng qua Mũi Dezhnyov, trở thành những nhà thám hiểm đầu tiên băng qua Eo biển Bering để khám phá Chukotka và Biển Bering. Tất cả kochi của họ và hầu hết thủy thủ đoàn (bao gồm cả chính Popov) mất mạng do các cơn bão và xung đột với người bản địa. Một nhóm nhỏ do Dezhnyov dẫn đầu đến được cửa sông Anadyr và men theo nó vào năm 1649, đóng tàu mới từ xác tàu đắm. Họ thành lập Anadyrsk và bị mắc kẹt ở đó, cho đến khi Stadukhin tìm thấy họ sau khi ông đi từ Kolyma bằng đường bộ. Năm 1651, Stadukhin khởi hành xuống phía nam và phát hiện ra Vịnh Penzhin trên bờ biển phía bắc của Biển Okshotsk. Ông cũng có thể đã khám phá bờ biển phía tây Kamchatka.
Vào khoảng năm 1649–50, Yerofey Khabarov trở thành người Nga thứ hai khám phá sông Amur. Qua các dòng sông Olyokma, Tungur và Shilka, ông đến Amur (Dauria) rồi trở về Yakutsk và sau đó trở lại Amur với một đội lớn hơn vào năm 1650. Lần này ông gặp kháng chiến vũ trang. Ông xây dựng các khu phố mùa đông tại Albazin rồi đi thuyền theo sông Amur và tìm thấy Achansk, Khabarovsk ngày nay, đánh bại hoặc trốn tránh các đội quân của Mãn Châu Ngoại Baikal và Hàn Quốc trên đường thám hiểm. Ông lập bản đồ sông Amur trong cuốn Phác họa dòng Amur.[152] Người Nga kiểm soát vùng Amur cho đến năm 1689, khi Hiệp ước Nerchinsk ra đời, vùng đất này được nhượng lại cho nhà Thanh (tuy nhiên, Hiệp ước Aigun sau đó đã trao trả vùng này về tay Nga năm 1858).
Vào khoảng năm 1659–65, Kurbat Ivanov là người thừa kế Anadyrsky sau Semyon Dezhnyov. Năm 1660, ông đi thuyền từ Vịnh Anadyr đến Mũi Dezhnyov. Trên các biểu đồ tiên phong trước đây của ông, Ivanov được cho là đã tạo ra bản đồ ban đầu của Chukotka và Eo biển Bering, lần đầu tiên bao gồm Đảo Wrangel chưa được khám phá, cả Quần đảo Diomede và Alaska, dựa trên thông tin thu thập được từ người bản địa Chukotka.
Vào giữa thế kỷ XVII, người Nga đã thiết lập biên giới đất nước của họ gần giống ngày nay và khám phá gần như toàn bộ Siberia, ngoại trừ phần phía đông Kamchatka và một số khu vực phía bắc Vòng Bắc Cực. Cuộc chinh phạt Kamchatk sẽ được Vladimir Atlasov thực hiện vào đầu những năm 1700, trong khi các khám phá bờ biển Bắc Cực và Alaska sẽ được hoàn thành bởi cuộc thám hiểm miền Bắc vĩ đại 1733–1743..
Tác động toàn cầu
Sự bành trướng của châu Âu đã tạo nên cây cầu nối giữa Cựu Thế giới và Tân Thế giới, thường được gọi là Tuyến mậu dịch Columbus, đặt theo tên Columbus, giúp thiết lập mạng lưới giao dịch bạc toàn cầu từ thế kỷ XVI đến XVIII và hội nhập thương mại châu Âu với Trung Quốc. Người châu Âu mang gia súc, ngựa và cừu đến châu Mỹ, và từ châu Mỹ, người châu Âu mang về thuốc lá, khoai tây và ngô. Các mặt hàng khác trở nên quan trọng trong thương mại toàn cầu là mía, bông châu Mỹ và vàng bạc.
Mạng lưới xuyên đại dương của châu Âu đã dẫn đến Thời đại của chủ nghĩa đế quốc, khi mà các cường quốc thực dân châu Âu kiểm soát hầu hết địa cầu. Thương mại, hàng hóa, đế quốc và nô lệ ảnh hưởng rất lớn lên nhiều khu vực trên thế giới. Đế quốc Tây Ban Nha đã tiêu diệt các đế quốc bản địa châu Mỹ, bắt thổ dân cải đạo và xóa bỏ tín ngưỡng của họ khỏi lịch sử. Mô hình xâm lược kiểu này được áp dụng bởi nhiều đế quốc châu Âu khác, nổi bật là Hà Lan, Nga, Pháp và Anh. Kitô giáo thay thế các tôn giáo "ngoại đạo" cũ, cũng như ngôn ngữ, văn hóa chính trị và văn hóa tình dục, và ở một số khu vực như Bắc Mỹ, Úc, New Zealand và Argentina, người dân bản địa bị lạm dụng và bị đánh đuổi khỏi các vùng đất tổ tiên của họ, giờ đã trở thành những dân tộc thiểu số.
Tương tự, ở vùng duyên hải châu Phi, các quốc gia bản địa cung cấp nô lệ cho châu Âu, thay đổi xã hội của các đát nước châu Phi ven biển và bản chất của chế độ nô lệ châu Phi, tác động đến xã hội và nền kinh tế sâu trong đất liền. (Xem buôn bán nô lệ Đại Tây Dương).
Ngô và sắn được người Bồ Đào Nha du nhập vào châu Phi vào thế kỷ 16. Chúng bây giờ là thực phẩm cơ bản quan trọng, thay thế cây trồng bản địa châu Phi. Alfred W. Crosby suy đoán rằng việc sản xuất ngô, sắn và các loại cây trồng của tân thế giới tăng lên dẫn đến sự tập trung dân số ở những nơi mà chủ nô bắt nô lệ.
Trong thương mại bạc toàn cầu từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, kinh tế nhà Minh được kích thích bởi các giao thương với Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Hà Lan. Phần lớn số bạc của châu Âu chỉ chảy một chiều vào Trung Quốc và người Trung Quốc nắm bắt hoàn toàn nhập khẩu bạc. Từ năm 1600-1800, Trung Quốc nhập 100 tấn bạc trung bình mỗi năm. Đa phần các hộ gia đình vào cuối thế kỷ XVI ở Hạ Dương Tử kiếm được trung bình hàng trăm lượng bạc. Tổng cộng, hơn 150.000 tấn bạc đã được xuất khẩu từ Potosí vào cuối thế kỷ XVIII. Từ năm 1500-1800, Mexico và Peru sản xuất khoảng 80% sản lượng bạc toàn thế giới với hơn 30% được vận chuyển sang Trung Quốc (phần lớn là do các thương gia châu Âu sử dụng bạc để mua các mặt hàng độc lạ của Trung Quốc). Vào cuối thế kỷ XVI và đầu thế kỷ XVII, Nhật Bản cũng đang xuất khẩu nhiều vào Trung Quốc và tham gia vào ngoại thương nói chung. Thương mại với các cường quốc châu Âu và Nhật đã mang lại một lượng bạc khổng lồ thay thế đồng và tiền giấy để trở thành phương tiện trao đổi phổ biến nhất ở Trung Quốc. Trong những thập kỷ cuối đời Minh, dòng chảy bạc vào Trung Quốc giảm đi đáng kể, làm suy yếu nguồn thu của nhà nước và nói chung là toàn bộ nền kinh tế nhà Minh. Thiệt hại này lên nền kinh tế cộng thêm những ảnh hưởng đến nông nghiệp do Thời kỳ băng hà nhỏ, thiên tai, mất mùa và dịch bệnh. Cuộc đảo lộn lớn này khiến cho các cuộc khởi nghĩa nông dân nổi lên, ví dụ như cuộc khởi nghĩa của Lý Tự Thành, thách thức chính quyền nhà Minh.
Các loại cây trồng mới từ châu Mỹ thông qua thực dân Tây Ban Nha vào thế kỷ XVI đã góp phần vào sự gia tăng dân số của châu Á. Mặc dù phần lớn hàng nhập khẩu sang Trung Quốc là bạc, người Trung Quốc cũng mua các loại cây trồng của Tân Thế giới từ Đế quốc Tây Ban Nha. Các loại cây trồng đó bao gồm khoai lang, ngô và đậu phộng. Những loại thực vật mới này có thể được trồng ở những vùng đất mà các loại cây trồng chủ lực của Trung Quốc - lúa mì, kê và gạo - không thể trồng được, do đó tạo điều kiện cho dân số Trung Quốc bùng nổ. Đời nhà Tống (960–1279), gạo trở thành cây lương thực chính của người nghèo nhưng sau khi khoai lang được du nhập vào Trung Quốc khoảng năm 1560, nó dần thay thế và trở thành cây lương thực chính của tầng lớp thấp.
Sự xuất hiện của người Bồ Đào Nha ở Nhật Bản vào năm 1543 đã khởi đầu cho thời kỳ mậu dịch Nanban. Người Nhật tiếp thu các công nghệ và văn hóa của người Bồ, như: súng hỏa mai arcabuz, giáp coriaceus, tàu bè châu Âu, Cơ đốc giáo, nghệ thuật trang trí và ngôn ngữ. Sau khi Trung Quốc ra lệnh cấm thương nhân buôn bán với Nhật Bản, người Bồ đã trở thành mối giao dịch giữa Trung Quốc và Nhật Bản. Người Bồ mua lụa của Trung Quốc rồi bán cho người Nhật để đổi lấy bạc do người Nhật khai thác; vì bạc có giá trị cao hơn ở Trung Quốc, người Bồ sau đó sử dụng bạc Nhật để mua nhiều lụa Trung Quốc hơn. Tuy nhiên, đến năm 1573 - sau khi người Tây Ban Nha thiết lập thương điếm ở Manila - kiểu thương mại trung gian của Bồ Đào Nha bị lấn át bởi nguồn bạc chính nhập vào Trung Quốc từ châu Mỹ thuộc Tây Ban Nha. Mặc dù Trung Quốc đóng vai trò là kẻ điều hành bánh xe thương mại toàn cầu trong suốt thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, đóng góp to lớn của Nhật Bản về xuất khẩu bạc sang Trung Quốc là rất quan trọng đối với nền kinh tế thế giới và tính thanh khoản, sự thành công của Trung Quốc đối với hàng hóa của họ.
Tu sĩ Dòng Tên người Ý Matteo Ricci (1552–1610) là người châu Âu đầu tiên được phép vào Tử Cấm Thành. Ông dạy người Trung Quốc cách chế tạo và chơi nhạc cụ ppinet, dịch các văn bản tiếng Trung sang tiếng Latinh và ngược lại, và thảo luận toán học với cộng sự người Hán Từ Quang Khải (1562–1633).
Tác động kinh tế ở Châu Âu
Nhiều loại hàng hóa đa dạng xa xỉ trên toàn cầu tràn vào thị trường châu Âu từ đường biển khiến các thị trường hàng xa xỉ trước đó bị đình trệ. Mậu dịch Đại Tây Dương giờ đây thế chỗ mậu dịch của các cường quốc thương mại như ở Ý và Đức, vốn đã giàu có nhờ vào các giao thương với Baltic, Nga và Hồi giáo. Các mặt hàng mới cũng góp phần gây ra sự chuyển biến xã hội, khi đường, hương liệu, lụa và đồ sành sứ xâm nhập vào thị trường châu Âu.
Trọng tâm kinh tế châu Âu chuyển từ Địa Trung Hải sang Tây Âu. Thành phố Antwerp, một phần của Công quốc Brabant, trở thành "trung tâm của toàn bộ nền kinh tế quốc tế", và là thành phố giàu có nhất ở châu Âu vào thời điểm này. Đứng sau Antwerp phải kể đến là thành phố Amsterdam, "Thời kỳ hoàng kim của Hà Lan" có liên kết chặt chẽ với Thời đại khám phá. Francesco Guicciardini, một phái viên từ Venice, từng nói rằng hàng trăm con tàu đi qua Antwerp mỗi ngày và 2.000 chiếc xe ngựa đi vào thành phố mỗi tuần. Các tàu của Bồ Đào Nha chở đầy hạt tiêu và quế sẽ dỡ hàng của họ tại đây. Do nhiều thương nhân nước ngoài cư trú trong thành phố và nơi đây bị quản lý bởi một tổ chức tài phiệt gồm chủ ngân hàng-quý tộc bị cấm tham gia buôn bán, nền kinh tế của Antwerp bị người nước ngoài kiểm soát, khiến nó trở thành thành phố toàn cầu, quy tụ các thương gia và nhà buôn đến từ Venice, Ragusa, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Không những thế, do chính sách nhân nhượng của chính quyền, thành phố còn thu hút cả một cộng đồng Do Thái Chính thống giáo lớn. Thành phố trải qua ba lần bùng nổ trong thời kỳ hoàng kim, lần đầu dựa trên hạt tiêu, lần thứ hai dựa trên bạc Tân Thế giới đến từ Seville (kết thúc do sự phá sản của Tây Ban Nha năm 1557), và lần bùng nổ thứ ba theo sau Hiệp ước Cateau-Cambresis năm 1559, dựa trên ngành dệt may.
Sau sự bình thường hóa quan hệ Bồ-Trung năm 1549, vương quốc Bồ Đào Nha cử các phái đoàn thương mại hằng năm đến đảo Thương Xuyên ở Trung Quốc. Năm 1557, họ thuyết phục được triều đình nhà Minh ký kết hiệp ước thành lập cảng hợp pháp tại Ma Cao và biến nó thành thuộc địa thương mại chính thức của Bồ Đào Nha. Vị giáo chủ người Bồ Đào Nha Gaspar da Cruz đã viết cuốn sách hoàn chỉnh đầu tiên về Trung Quốc và nhà Minh được xuất bản ở châu Âu; cuốn sách bao gồm các thông tin về địa lý, tỉnh lị, hoàng gia, tầng lớp quan chức, bộ máy hành chính, vận chuyển, kiến trúc, nông nghiệp, thủ công, buôn bán, trang phục, phong tục, xã hội, âm nhạc, chữ viết, giáo dục và luật pháp của Trung Quốc thời bấy giờ.
Các mặt hàng xuất khẩu chính của Trung Quốc là lụa và đồ sứ, được chế tác để đáp ứng thị hiếu của người châu Âu. Các đồ gốm xuất khẩu của Trung Quốc được coi trọng ở châu Âu đến nỗi, trong tiếng Anh, china trở thành một từ đồng nghĩa với đồ sứ. Đồ sứ Kraak (có lẽ được đặt theo tên của các tàu carrack Bồ Đào Nha vận chuyển chúng) là một trong những đồ sứ Trung Quốc đầu tiên nhập vào châu Âu với số lượng lớn. Chỉ những người giàu nhất mới có thể mua được những món đồ nhập khẩu này và Kraak thường xuất hiện trong các bức tranh tĩnh của Hà Lan. Công ty Đông Ấn Hà Lan thiết lập một giao thương sôi động với phương Đông, nhập khẩu 6 triệu món đồ sứ từ Trung Quốc sang châu Âu trong khoảng thời gian từ năm 1602 đến năm 1682. Tay nghề của người Trung Quốc khiến người châu Âu rất thán phục. Giữa năm 1575 và 1587, đồ sứ Medici từ Florence là nỗ lực thành công đầu tiên bắt chước đồ sứ Trung Quốc. Ban đầu, các thợ gốm Hà Lan không bắt chước đồ sứ Trung Quốc, nhưng lại bắt tay vào làm điều đó khi chuỗi cung ứng cho châu Âu bị gián đoạn sau cái chết của Minh Thần Tông năm 1620. Kraak, chủ yếu là đồ sứ màu xanh trắng, được bắt chước trên khắp thế giới bởi những người thợ gốm ở Arita, Nhật Bản, ở Ba Tư (nơi các thương nhân Hà Lan tìm đến sau khi nhà Minh sụp đổ khiến mặt hàng gốc khan hiếm), rồi hàng sứ Delftware xuất hiện. Delftware của Hà Lan và của Anh lấy cảm hứng từ đồ sứ Trung Quốc tồn tại từ khoảng năm 1630 đến giữa thế kỷ XVII cùng với các mẫu châu Âu khác.
Chú thích
Tham khảo
Thư mục
Nguồn gốc
Nguồn thứ cấp
Nguồn web
Lịch sử chủ nghĩa thực dân châu Âu
Thám hiểm
Thời đại lịch sử
Lịch sử địa lý
Lịch sử châu Âu
Lịch sử hàng hải
Thực dân châu Âu tại châu Mỹ
Thực dân châu Âu tại châu Đại Dương
.
.
.
.
.
Thực dân Bồ Đào Nha tại châu Mỹ
Thực dân Tây Ban Nha tại châu Mỹ
Quan hệ quốc tế thế kỷ 15
Quan hệ quốc tế thế kỷ 16
Quan hệ quốc tế thế kỷ 17
Quan hệ quốc tế thế kỷ 18
|
24754
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BA%A5t%20b%E1%BA%A3o%20qu%E1%BA%A3n
|
Chất bảo quản
|
Chất bảo quản là các hóa chất tự nhiên hay tổng hợp được thêm vào sản phẩm như thực phẩm, dược phẩm, sơn, các mẫu phẩm sinh học v.v để ngăn ngừa hoặc làm chậm lại sự thối rữa, hư hỏng gây ra bởi sự phát triển của các vi sinh vật hay do các thay đổi không mong muốn về mặt hóa học. Chúng có thể sử dụng như là một hóa chất duy nhất mà cũng có thể trong tổ hợp với nhiều loại hóa chất có các tác dụng khác.
Gỗ
Các chất bảo quản cũng có thể thêm vào gỗ để ngăn chặn sự phát triển của các loài nấm mốc cũng như để ngăn ngừa côn trùng và mối. Thông thường đồng, các borat và các hóa chất gốc dầu mỏ hay được sửdụng. Để có thêm thông tin về các chất bảo quản gỗ, xem thêm các bài xử lý gỗ, gỗ xẻ và creosot.
Thực phẩm
Các phụ gia thực phẩm có tính chất bảo quản thông thường được sử dụng một mình hoặc gắn liền với các phương pháp bảo quản thực phẩm khác. Đôi khi người ta còn phân biệt giữa các biện pháp bảo quản kháng khuẩn với chống oxy hóa, trong đó bảo quản kháng khuẩn hoạt động trên nguyên tắc ngăn chặn sự phát triển của các loại vi khuẩn, nấm mốc và côn trùng, còn bảo quản chống oxy hóa hoạt động trên nguyên tắc ngăn chặn quá trình oxy hóa các thành phần trong thực phẩm. Các chất kháng khuẩn thông dụng trong chế biến thực phẩm là nitrat natri, nitrit natri, các muối sulfit, (dioxide lưu huỳnh, bisulfat natri, sulfat hiđrô kali v.v) và EDTA đinatri (axít êtylenđiamintêtraaxêtic). Các chất chống oxy hóa bao gồm BHA (2-tert-butyl-4-hiđrôxyanisol hay 3-tert-butyl-4-hiđrôxyanisol) và BHT (2,6-đi-tert-butyl-4-mêtylphenol). Các chất bảo quản khác còn bao gồm cả fomalđêhít (thông thường trong dung dịch và chủ yếu để bảo quản các mẫu sinh học), glutaralđêhít, điatômit (giết côn trùng), êtanol và mêtylcloroisothiazôlinon. Lợi ích và độ an toàn của nhiều phụ gia thực phẩm nhân tạo, trong đó có cả chất bảo quản là chủ đề gây tranh cãi giữa các viện khoa học chuyên môn hóa về khoa học thực phẩm và độc tính học.
Một số phương pháp bảo quản thực phẩm sử dụng muối ăn, đường hay dấm. Các loại hóa chất này được coi là thực phẩm nhiều hơn là phụ gia thực phẩm.
Tại châu Âu, tất cả các phụ gia thực phẩm đều có ký hiệu bằng "số E" (xem thêm Danh sách các phụ gia thực phẩm). Các chất bảo quản và điều chỉnh độ chua thì có các ký hiệu từ E200–E299.
Chất bảo quản và sức khỏe
Do không phải phụ gia thực phẩm nào có mã số E cũng được các quốc gia cho phép sử dụng. Vì thế các chất bảo quản được chia ra thành 3 nhóm như sau:
Nhóm bị cấm
Có độ độc hại cao, ví dụ: E103 (Chrysoin resorcinol hay p-(2,4-đihiđrôxy phênylazo) benzen sulfonat natri) bị cấm tại nhiều quốc gia– nó là phẩm màu và chất bảo quản dùng cho sơn màu, nhưng không cho thực phẩm.
Nhóm được cho phép
Ví dụ: E104 (Vàng quinolin)– phẩm thông dụng màu vàng cho đồ uống.
Nhóm thực phẩm
Có độ độc hại thấp đối với sức khỏe.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Quyết định số 3742/2001/QĐ-BYT về việc ban hành "Quy định danh mục các chất phụ gia được phép sử dụng trong thực phẩm".
Thông tư số 24/2019/TT-BYT Quy định về quản lý và sử dụng phụ gia thực phẩm.
Nguyên liệu thực phẩm
|
24755
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Natri%20chloride
|
Natri chloride
|
Natri chloride (hay còn gọi là muối ăn, muối hay muối mỏ) là một hợp chất vô cơ với công thức hóa học NaCl. Natri chloride là muối chủ yếu tạo ra độ mặn trong các đại dương và của chất lỏng ngoại bào của nhiều cơ thể đa bào. Là thành phần chính trong muối ăn, nó được sử dụng phổ biến như là gia vị và chất bảo quản thực phẩm. Ở Việt Nam, muối ăn được khai thác ở các vùng ven biển, nơi có độ mặn cao.
Cấu trúc tinh thể
Natri chloride tạo thành các tinh thể có cấu trúc cân đối lập phương. Trong các tinh thể này, các anion chloride lớn được sắp xếp trong khối khép kín lập phương, trong khi các cation natri nhỏ hơn lấp vào các lỗ hổng bát diện giữa chúng. Mỗi ion được bao quanh bởi 6 ion khác loại. Cấu trúc cơ bản như thế này cũng được tìm thấy trong nhiều khoáng chất khác và được biết đến như là cấu trúc halide.
Vai trò sinh học
Natri chloride là khoáng chất thiết yếu cho sự sống trên Trái Đất. Phần lớn các mô sinh học và chất lỏng trong cơ thể chứa các lượng khác nhau của natri chloride. Nồng độ các ion natri trong máu có mối liên quan trực tiếp với sự điều chỉnh các mức an toàn của hệ cơ thể-chất lỏng. Sự truyền các xung thần kinh bởi sự truyền tính trạng tín hiệu được điều chỉnh bởi các ion natri. (Các ion kali – một kim loại có các thuộc tính rất giống natri, cũng là thành phần chính trong cùng các hệ cơ thể).
Dung dịch 0,9% natri chloride trong nước được gọi là nước đẳng trương hay dung dịch sinh lý học do nó là đẳng trương với huyết tương. Nó được biết đến trong y học như là normal saline. Dung dịch nước đẳng trương là cơ sở chính của phẫu thuật thay thế chất lỏng được sử dụng rộng rãi trong y học để ngăn chặn hay xử lý sự mất nước, hay để truyền ven để ngăn sốc do mất máu.
Người khá dị thường trong số các loài linh trưởng do sự bài tiết mồ hôi chứa một lượng lớn natri chloride.
Muối trong lịch sử
Khả năng bảo quản của muối là cơ sở của các nền văn minh. Nó góp phần loại bỏ sự phụ thuộc vào khả năng cung ứng thực phẩm theo mùa và cho phép con người có thể đi xa khỏi nơi cư trú mà không lo sợ thiếu thực phẩm. Vào thời Trung cổ, các đoàn lữ hành cùng với khoảng 40.000 lạc đà đã đi tới 4.000 dặm xuyên qua Sahara có chở theo muối, đôi khi để trao đổi lấy nô lệ.
Cho đến những năm đầu thế kỷ XX, muối vẫn còn là một trong các động cơ chủ yếu của các nền kinh tế và các cuộc chiến tranh. Muối đóng một vai trò nổi bật trong việc xác định quyền lực và sự phân bổ vị trí của các thành phố lớn nhất trên thế giới. Timbuktu đã từng là một trong các thị trường muối lớn nhất. Liverpool phát triển từ một cảng nhỏ của Anh để trở thành hải cảng xuất khẩu chủ yếu đối với các loại muối mỏ được khai thác từ mỏ muối lớn Cheshire và vì thế trở thành nguồn của muối thế giới trong những năm thế kỷ XIX.
Muối đã tạo ra và hủy diệt các vương quốc. Các mỏ muối ở Ba Lan đã dẫn tới sự ra đời của hàng loạt các vương quốc trong thế kỷ XVI, và chỉ bị tiêu diệt khi người Đức đưa ra loại muối biển (thông thường, đối với phần lớn trên thế giới, được coi là 'hơn hẳn' muối mỏ). Người Venezia đã đánh nhau và giành thắng lợi trong cuộc chiến với người Genova về vấn đề muối. Tuy nhiên, người Genova mới là người giành thắng lợi cuối cùng. Những công dân Genova như Christopher Columbus và Giovanni Caboto đã "phá hủy" thương mại ở Địa Trung Hải bằng việc giới thiệu Tân Thế giới đối với thị trường.
Muối đã từng là một trong số các hàng hóa có giá trị nhất đối với loài người. Muối đã từng bị đánh thuế có lẽ từ thế kỷ XX TCN ở Trung Quốc. Trong thời kỳ Đế chế La Mã, muối đôi khi được sử dụng như là đơn vị tiền tệ, và có lẽ là nguồn gốc của từ salary ("salt money"-tức tiền muối, xem dưới đây từ nguyên học). Cộng hòa La Mã và Đế chế La Mã đã kiểm soát giá muối, tăng nó để có tiền cho các cuộc chiến hay giảm nó để đảm bảo cho các công dân nghèo nhất cũng có thể dễ dàng có được phần quan trọng trong khẩu phần thức ăn này. Trong tiến trình lịch sử, muối ăn đã có ảnh hưởng tới diễn biến các cuộc chiến, chính sách tài chính của các nhà nước và thậm chí là sự khởi đầu của các cuộc cách mạng.
Tại đế chế Mali, các thương nhân ở Timbuktu thế kỷ XII-cánh cửa tới sa mạc Sahara và trung tâm văn học-đánh giá muối có giá trị đến mức chỉ có thể mua nó theo trọng lượng tính đúng bằng trọng lượng của vàng; việc kinh doanh này dẫn tới truyền thuyết về sự giàu có khó tưởng tượng nổi của Timbuktu và là nguyên nhân dẫn tới lạm phát ở châu Âu, là nơi mà muối được xuất khẩu tới.
Thời gian sau này, ví dụ trong thời kỳ đô hộ của người Anh thì việc sản xuất và vận chuyển muối đã được kiểm soát ở Ấn Độ như là các biện pháp để thu được nhiều tiền thuế. Điều này cuối cùng đã dẫn tới cuộc biểu tình muối ở Dandi, do Mahatma Gandhi dẫn đầu vào năm 1930 trong đó hàng nghìn người Ấn Độ đã ra biển để sản xuất muối cho chính họ nhằm phản đối chính sách thuế của người Anh.
Việc buôn bán muối dựa trên một thực tế — nó đem lại nhiều lợi nhuận hơn khi bán các thực phẩm có chứa muối chứ không phải chính muối. Trước khi các mỏ muối ở Cheshire được phát hiện thì việc kinh doanh khổng lồ các loại cá của người Anh đối với muối của người Pháp đã từng tồn tại. Điều này không phải là sự hòa hợp tốt đẹp cho mỗi quốc gia khi họ không muốn phụ thuộc vào nhau. Cuộc tìm kiếm cá và muối đã dẫn tới cuộc chiến tranh bảy năm giữa hai nước. Với sự kiểm soát của người Anh đối với nghề muối ở Bahamas và cá tuyết Bắc Mỹ thì tầm ảnh hưởng của họ đã tăng lên nhanh chóng trên thế giới. Việc tìm kiếm các mỏ dầu vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX đã sử dụng các công nghệ và phương thức mà những người khai thác muối đã dùng, thậm chí đến mức mà họ tìm kiếm dầu ở những nơi có các mỏ muối.
Trong tôn giáo
Có 32 chỉ dẫn liên quan tới muối trong Kinh Thánh, quen thuộc nhất có lẽ là câu chuyện về vợ của Lot, là người đã trở thành cột muối sau khi bà đã không tuân lệnh các thiên sứ và quay lại nhìn thành phố độc ác Sodom (Chúa sáng tạo ra thế giới 19:26). Giê-su cũng được nói đến đối với các tín đồ của ông như là "muối của đất" (Matthew 5:13), một minh chứng cho giá trị lớn của muối trong thế giới cổ đại.
Trong tín ngưỡng shinto của người Nhật, muối được coi là "tinh khiết" và có thể sử dụng để làm tinh khiết (ban phúc) cho con người và các địa điểm.
Sản xuất và sử dụng
Ngày nay, muối được sản xuất bằng cách cho bay hơi nước biển hay nước muối từ các nguồn khác, chẳng hạn các giếng nước muối và hồ muối, và bằng khai thác muối mỏ.
Trong khi phần lớn mọi người là quen thuộc với việc sử dụng nhiều muối trong nấu ăn, thì họ có thể lại không biết là muối được sử dụng quá nhiều trong các ứng dụng khác, từ sản xuất bột giấy và giấy tới cố định thuốc nhuộm trong công nghiệp dệt may và sản xuất vải, trong sản xuất xà phòng và bột giặt. Tại phần lớn các khu vực của Canada và miền bắc Hoa Kỳ thì một lượng lớn muối mỏ được sử dụng để giúp làm sạch băng ra khỏi các đường cao tốc trong mùa đông, mặc dù "Road Salt" mất khả năng làm chảy băng ở nhiệt độ dưới
Muối cũng là nguyên liệu để sản xuất chlor là chất cần thiết để sản xuất nhiều vật liệu ngày nay như PVC và một số thuốc trừ sâu.
Chất điều vị
Xem bài chính: Muối ăn
Muối được sử dụng chủ yếu như là chất điều vị cho thực phẩm và được xác định như là một trong số các vị cơ bản. Thật không may là nhiều khi người ta ăn quá nhiều muối vượt quá định lượng cần thiết, cụ thể là ở các vùng có khí hậu lạnh. Điều này dẫn đến sự tăng cao huyết áp ở một số người, mà trong nhiều trường hợp là nguyên nhân của chứng nhồi máu cơ tim.
Sử dụng trong sinh học
Nhiều loại vi sinh vật không thể sống trong các môi trường quá mặn: nước bị thẩm thấu ra khỏi các tế bào của chúng. Vì lý do này muối được sử dụng để bảo quản một số thực phẩm, chẳng hạn thịt/cá xông khói. Nó cũng được sử dụng để khử trùng các vết thương.
Khử băng
Trong khi muối là mặt hàng khan hiếm trong lịch sử thì sản xuất công nghiệp ngày nay đã làm cho nó trở thành mặt hàng rẻ tiền. Khoảng 51% tổng sản lượng muối toàn thế giới hiện nay được các nước có khí hậu lạnh dùng để khử băng các con đường trong mùa đông. Điều này là do muối và nước tạo ra một hỗn hợp eutecti có điểm đóng băng thấp hơn khoảng 10 ℃ so với nước nguyên chất: các ion ngăn cản không cho các tinh thể nước đá thông thường được tạo ra (dưới -10 ℃ thì muối không ngăn được nước đóng băng). Các e ngại là việc sử dụng muối như thế có thể bất lợi cho môi trường. Vì thế tại Canada thì người ta đã đề ra các định mức để giảm thiểu việc sử dụng muối trong việc khử băng.
Các phụ gia
Muối ăn mà ngày nay người ta mua về dùng không phải là natri chloride nguyên chất như nhiều người vẫn tưởng. Năm 1911 magie cacbonat đã lần đầu tiên được thêm vào muối để làm cho nó ít vón cục. Năm 1924 các lượng nhỏ iod trong dạng natri iodide, kali iodide hay kali iodat đã được thêm vào, tạo ra muối iod nhằm giảm thiểu tỷ lệ mắc bệnh bướu cổ.
Từ nguyên học
Muối có ảnh hưởng tới tiếng Anh. Nhiều hiệu ứng của nó vẫn có thể thấy được cho đến tận ngày nay. Các từ và thành ngữ liên quan đến muối chủ yếu đến từ các nền văn minh cổ đại của La Mã và Hy Lạp khi muối còn là mặt hàng có giá trị lớn.
Binh lính La Mã đã được trợ cấp để mua muối (tiếng Latinh: sal), salarium argentum, mà từ đó có từ tiếng Anh ngày nay salary. Người La Mã cũng thích cho muối vào rau xanh của họ, điều này dẫn đến từ Latinh cho muối được tích hợp lại trong từ salad (trong tiếng Latinh bản xứ thì salata có nghĩa là "ướp muối").
Các dữ liệu khác
Đất mặn nói chung không thích hợp cho nông nghiệp, vì thế đã có thực tế của làm mặn đất.
Niềm tin mê tín là muối bị rớt xuống đem lại sự không may mắn được cho là có nguồn gốc từ lọ muối bị lật đổ trước mặt Giu-đa tại Bữa ăn tối cuối cùng, được thể hiện trong bức họa nổi tiếng của Leonardo da Vinci là Bữa ăn tối cuối cùng.
Do nồng độ muối cao của mình nên nước của biển Chết có tỷ trọng riêng cao đến mức một số vật thể mà thông thường không nổi trong nước vẫn có khả năng nổi trong nước của biển này. Người có thể nổi dễ dàng trong nước của biển này, do có tỷ trọng riêng chỉ cao hơn một chút so với nước tinh khiết. (Chỉ có 8% muối trong nước biển Chết là NaCl; 53% là MgCl2, 37% là KCl.)
Các thành phố Cincinnati, Detroit và Hutchinson là các thành phố có nhiều mỏ muối đang khai thác nhất.
Đệ Tam Quốc xã lưu trữ phần lớn tiền, các bức tranh và các công trình nghệ thuật khác trong các mỏ muối và nhiều tài liệu, vật phẩm quan trọng vẫn tiếp tục được lưu trữ trong các mỏ muối cũ cho đến nay. Chúng cũng được sử dụng để lưu trữ chất thải hạt nhân.
Xem thêm
Độ mặn sinh học
Muối đen
Muối ăn
Độ mặn
Xà phòng
Tham khảo
Liên kết ngoài
Website của Salt Institute
Website của Salt Archive
Video về các khoang muối mỏ (divx, 378 kB)
Hóa chất
Muối chloride
Hợp chất natri
Muối chloride kiềm
Hóa chất gia dụng
Muối halogen của kim loại
Halide
|
24768
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%C3%AAn%20Chi%E1%BA%BFu
|
Viên Chiếu
|
Viên Chiếu (圓照), tên thật là Mai Trực (梅直, 999 – 1090) là một tu sĩ, nhà lãnh đạo Phật giáo Đại Việt thời Lý. Ông một trong 7 vị thiền sư thuộc thế hệ thứ 7 dòng Vô Ngôn Thông thuộc Thiền tông. Ông là người Long Đàm, Phúc Đường, nay là huyện Thanh Trì, Hà Nội và là con người anh của thái hậu Linh Cảm (mẹ của vua Lý Thánh Tông). Sau khi chứng đạo, ông làm trụ trì chùa Cát Tường, kinh đô Thăng Long, được vua Lý Nhân Tông rất nể trọng. Ngày này, tư liệu tiểu sử duy nhất từ thời Lý-Trần còn sót lại về ông nằm trong sách Thiền uyển tập anh.
Cơ duyên và hành trạng
Theo sách Thiền uyển tập anh, ông tên thật là Mai Trực (梅直), là con người anh của thái hậu Linh Cảm, mẹ vua Lý Thánh Tông. Thuở nhỏ Viên Chiếu là người thông minh, chăm học. Có lần, ông nghe kể chùa Mật Nghiêm có vị cao tăng biết xem tướng giỏi, ông bèn đến xem thử. Vị cao tăng nhìn kỹ Viên Chiếu rồi phán: "Ngươi có duyên với Phật pháp, nếu xuất gia sẽ là người trong hàng thiện Bồ tát, bằng không thì việc thọ yểu khó bảo toàn".
Viên Chiếu cảm ngộ, bèn tạ từ cha mẹ, rồi đi đến núi Ba Tiêu học đạo với thiền sư Định Hương. Ông dành nhiều năm hầu hạ thầy và nghiên cứu Thiền học. Ông thường trì kinh Viên Giác và lĩnh hội được phép Tam quán. Thiền uyển tập anh kể rằng, có một đêm khi đang thiền định, ông nhìn thấy Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi cầm dao mổ bụng, rửa ruột rồi dùng thuốc rịt lại. Từ ấy, "những gì đã học trong lòng, trở thành rõ ràng như từng biết, sâu rõ ngôn ngữ tam muội, thuyết giảng lưu loát".
Về sau, ông tìm đến phía tả kinh đô Thăng Long dựng một ngôi chùa để hiệu là Cát Tường và trụ trì ở đó. Đệ tử từ khắp nơi đổ về theo học rất đông.
Sách Thiền uyển tập anh có kể lại 1 đoạn đối thoại về Thiền giữa Viên Chiếu với đệ tử:
Có vị tăng hỏi: "Phật với Thánh nghĩa ấy thế nào?"
Tăng thưa: "Cảm tạ Thầy chỉ dạy, học nhân chẳng hội, xin lại nêu bày ra?"
Tăng hỏi: "Đã được chân chỉ của Thầy, còn huyền cơ thì dạy thế nào?"
Tăng hỏi: "Tất cả chúng sanh từ đâu mà đến? Sau khi chết đi về đâu?"
Tăng hỏi: "Tâm và pháp cả hai đều quên, tánh tức chân; thế nào là chân?"
Ông có soạn "Dược Sư Thập Nhị Nguyện Văn", vua Lý Nhân Tông đưa bản thảo cho sứ thần sang Trung Hoa, đưa vua Triết Tông nhà Tống xem. Vua Triết Tông lại trao cho các vị Cao tọa pháp sư ở chùa Tướng Quốc.
Xem xong, các pháp sư tâu vua Tống rằng: "Đây là nhục thân Bồ-tát ra đời ở phương Nam, giảng giải kinh nghĩa rất tinh vi, chúng tôi đâu dám thêm bớt chữ nào".
Vua Tống liền sắc sao lại một bản, bản chính trả lại cho vua Nhân Tông. Sứ thần về kinh tâu lại, triều đình càng kính nể và khen thưởng thiền sư Viên Chiếu.
Vào một ngày tháng 9 năm Canh Ngọ, Quảng Hựu thứ sáu (1090), thiền sư không bệnh, gọi chúng đến dạy rằng: "Trong thân ta đây, thịt xương gân cốt, tứ đại giả hợp, đều là vô thường, ví như ngôi nhà kia khi sụp đổ, cột kèo đều đổ. Cùng các con giã từ, hãy nghe bài kệ ta đây:"
Nói kệ xong, ông ngồi ngay thẳng viên tịch, thọ 92 tuổi đời, và 56 tuổi hạ.
Nguyên bản chữ Hán của Thiền uyển tập anh
第七世七人□□□□□□□□□□□
圓照禪師
昇龍京吉祥寺圓照禪師姓梅氏諱直福堂龍潭人李靈感太后兄子也㓜聰敏好學聞本𨛦宻嚴寺長老善相試就决焉長老熟視
曰汝於佛法有緣若出家必為善菩薩中人不然則壽夭難保矣師感悟辝(1)親投芭焦(蕉)山定香授業執侍餘年斫究禪學常持圓覺經明三觀法一夕定中見文殊菩薩持刀破腹〖洗膓傳之〗以藥自是心中所習宛如夙契深得言語三昧講說如流尋於京畿之左創寺居焉斈[學]者林萃有僧問佛之与聖其義云何師云籬下重陽菊枝頭淑氣莺進云謝學人不會請再指示師云晝則金烏照夜來玉兔明僧又問已獲師真旨玄機示若如何師云不慎水盤擎滿去一遭蹉跌悔何之進云謝師指云莫濯
江波溺親來却自沉又問少室摩竭○(2)玄自古千今(3)誰継將爲主師云幽明乾象因烏兔屈曲坤維爲嶽淮又問如何是大道根源一䟦行師云髙岸疾風知勁草邦家版蕩識忠良又問一切眾生從何而來百年之後從何而去師云盲𪛉穿石壁跛鼇上髙山又問青青翠竹盡真如如何是真如用師云贈君千里遠笑把一甌茶(4)進云恁麽即空來何益師云誰識東阿去途中載白頭又問野軒一深戶誰識等閑敲師云金谷簫踈花草亂而今昏曉任牛羊進云爲什麽如此師云富貴兼驕泰翻令敗市樓又問龍女獻珠成佛果檀那捨施福如何師云萬古月中桂扶踈在一輪進云恁麽即勞而無功師云天上如懸鏡人間處處通({dư}又問又渡河須用筏到岸不須船不渡時如何師云涸池魚在陸獲活萬年春池池池池池池進云恁麽即隨流始獲玅理師云見說荊軻侶
一行竟不迴又問金鑛混交元一氣請師方便鍊精形師曰不是齊君客那知海大魚進云郭君若不納諫語亦奚為師云若欲先提飲休爲巧尽蛇又問蛇死於䟦請師救活師云汝是何方人僧曰本來山人師云速回
岩隱莫見許真君又問海藏滔滔應不問曹溪滴滴是如何師云風前松下凄涼韻雨後途中淺濁泥進云恁麽即不異今時也師云籬下重陽菊枝頭暖日莺又問昭昭心目之間朗朗色身之內而理不可分相不可覩爲什麽不覩師云(苑中花爛熳岸上草離披進云
歲寒羣苗落何以可宣揚師云喜君來自達不亦且歡娛進云幸聞今日决從此免忽無師云淺溺纔提出回頭萬丈潭又問涅槃城內尚
猶危如何是不危之處師云({dư}營巢簾熯上鬂髮葦苕莖進云若遭時迫近兩㨿是何爲師云丈夫隨放蕩風月且逍遙又問一切眾生皆言是佛此理未明請師垂示師云勸君且務農桑去莫學他人待兔勞進云幸蒙師顯决終不向他求師云可憐遭一噎飢坐却忘飱
又問㡬年久積囊中寶今日當塲覿靣看師云秪待中秋月却遭雲雨侵進云雖聞師語說此理未分明師云笑他徒抱柱溺死向中流
又問如何是一法師云寸見春生兼夏長又逢秋熟及冬藏進云恁麽即成佛多也師云祖龍驅自止徐福遠徒劳又問見性成佛其義云何師云枯木逢春花𧡟(5)發風吹千里馥神香進云學人不會願師再指師云萬年茄子樹蒼翠聳雲端又問摩尼與眾色不合不分離師云春花與蝴蝶㡬戀㡬相違進云恁麽即隨他混雜師云不是胡僧眼徒劳逞辨珠又問如何是觸目菩提師云㡬驚曲木鳥瀕吹冷虀人進云學人不會更請別喻師云聾人聽琴響盲者妄蟾蜍又問本自有形兼有影有時影也離形否師云眾水朝東兮萬派爭流羣星拱北兮千古㱕心又問如何是一句了然超百億師云遠挾泰山超北海仰拋柱杖入蟾宮又問惟此一事實餘二即非真如何是真師云杖頭風易動䟦上雨成泥又問不向如來匙玅藏({dư}不求祖燄續燈枝意旨如何師云秋天摶黍唳雪景牡丹開又問如何最玅之句師云一人向隅立滿座飲無懽又問古今大事應無間(6)特地西來意若何(7)師云巧言令色者鑚𪛉打瓦人又問心法雙忘性即真如何是真師云雨滴巖花神女淚風敲庭竹伯牙琴又問如何是最玅之句師云喉裏猶存梗常居不快然又問有修有証開四病出頭何可脫塵籠師云山髙更大容尘(8)貯海闊能深納細流又問惟佛與佛乃知斯事如何是斯事師云夾徑森森竹風吹曲自成又問不用平常不用天然不用作用而今作什麽師云蓬草棲低鷃滄溟𨼆巨鱗又問四大帶來由曠劫請師({dư}方便出輪迴師云舉世畜徒犀是寶({dư}飡於荊棘卧於泥又問種種取捨皆是輪迴不取不捨時如何師云從來紅莧殊常色有葉參差不有花又問言語(道)道(語)㫁其意如何師云角響隨風穿竹到山岩帶月過墻來又問諸佛說法皆是化物若悟本意是名出世如何是本心師云春織花如錦秋來葉似黃又問如何是直截一䟦師云東西車馬走塵土曉昏飛又問有法有心開妄識如何心法蕩俱消師云可奪松梢長欎欎豈憂霜雪落紛紛又問祖意與教意如何師云興來携杖逰雲徑困即垂簾卧竹床又問祖祖相傳合傳何事師云飢來須尋食寒即向求衣又問世人皆賃屋漏人何所在師云金烏兼玉兔盈昃謾勞分又問如何是曹溪一䟦師云可憐刻舟客到處意䓤䓤師嘗𢮪(9)藥師十二願文李仁宗皇帝以其藁附使達于哲宗既至(10)相國寺髙座法師覽之卽合(11)掌禮曰南方有肉身大士出卋善說經法師云貧道豈能敢增損因再述一本附还使
回以聞帝深嘉獎廣祐六年庚午九月日無疾示眾云我此身中骨節筋脉四大假合所有無常譬如屋宇壞時棂梠俱落與汝珍重聽吾偈云
身如墻壁圮頹時
舉世忽忽熟不悲
若達心空無色色
色空隱顕(12)任推移
偈竟端然而逝壽九十二臘月五十六
有讃圓斍[覺]經十二菩薩行修證道塲及參徒顕决一卷今行于世
辝 = 辭
竭○玄: Lê 1, Nguyễn; A 2767; LMT = 竭最玄
千今: Nguyễn, A2767, LMT = 于今
甌茶: Nguyễn, A2627, LMT = 瓶茶
𧡟 = 競
Không thấy hiệu đính nhưng có lẽ là 問
若何: Lê 1, Nguyễn, A2767 = 若如何
塵
𢮪 = 撰
既至:Lê I, Nguyễn, A 2767, LMT = 召至
之卽合: Nguyeãn(Nguyễn), A 2767, LMT = 之合
顯
Tác phẩm
Tán Viên Giác Kinh.
Thập Nhị Bồ-tát Hạnh Tu Chứng Đạo Tràng.
Tham Đồ Hiển Quyết.
Dược Sư Thập Nhị Nguyện Văn.
Ghi chú
Tức ba phép tu thiền định kê ra trong kinh Viên giác nhằm đạt được sự giác ngộ hoàn toàn, đây là samatha (Phạn: samatha), tam ma bạt đề (samàpatti) và thiền na (dhyàna).
Chú thích
Tham khảo
Lê Mạnh Thát: Nghiên cứu về Thiền Uyển Tập Anh'', Nhà xuất bản TP.HCM 1999.
Thiền Uyển Tập Anh - Bản tiếng Việt
Thiền Uyển Tập Anh - Bản chữ Hán
Thiền sư Việt Nam
Thiền phái Vô Ngôn Thông
|
24769
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BA%A9m%20th%E1%BA%A5u%20ng%C6%B0%E1%BB%A3c
|
Thẩm thấu ngược
|
Thẩm thấu ngược (tiếng Anh gọi là reverse osmosis, viết tắt R.O.) là một quy trình công nghệ dùng để sản xuất nước sạch cho dân dụng.
Định nghĩa
Thẩm thấu ngược bao gồm một quá trình làm sạch nước ban đầu được phát triển để khử muối có trong nước biển. Ý tưởng tạo ra quá trình này là làm cho nước biển có thể sử dụng được cho các hoạt động của cuộc sống như dùng để uống, giặt giũ, tái chế và thậm chí có thể sản xuất năng lượng. Quá trình này đã rất thành công và nó hoạt động một cách hiệu quả trong việc loại bỏ muối và các khoáng chất biển khác ra khỏi nước biển. Các nhà máy xử lý nước và các hệ thống thiết bị làm sạch đã sử dụng nhiều quá trình thẩm thấu ngược để lọc sạch và làm thanh khiết nước.
Theo Hiệp hội khử muối Quốc tế (International Desalination Association-IDA), có hơn 1300 nhà máy nước đang vận hành thành công với công nghệ thẩm thấu ngược. Nước đã được làm sạch được sử dụng cho các mục đích công nghiệp cũng như sản xuất nước đóng chai.
Quy trình xử lý
Để hiểu được quá trình thẩm thấu ngược, đầu tiên chúng ta phải xem xét quá trình thẩm thấu. Nước có xu hướng di chuyển sang các dung dịch hòa tan có nồng độ cao. Thẩm thấu là quá trình xảy ra giữa hai dung dịch, được ngăn bởi một lớp màng bán thấm và một trong hai dung dịch có nồng độ cao có xu hướng làm cân bằng chúng vì nước sẽ di chuyển từ dung dịch có nồng độ thấp sang dung dịch có nồng độ cao hơn làm cho cân bằng tỉ lệ hòa tan dung môi. Khi thẩm thấu ngược, áp suất được áp dụng để giữ nước khỏi di chuyển sang dung dịch có nồng độ cao. Khi nước được đẩy sang dung dịch có nồng độ thấp hơn và đi qua một lớp màng được đục lỗ, chất tan được tách ra khỏi dung dịch và chỉ có nước nguyên chất đi qua được lớp màng bán thấm.
Màng lọc RO
Màng lọc RO được sản xuất từ chất liệu Polyamit, công nghệ lọc RO được phát minh và nghiên cứu từ những năm 50 của thế kỷ trước và phát triển hoàn thiện vào thập niên 70. Đầu tiên nó nó được nghiên cứu và ứng dụng chủ yếu cho lĩnh vực hàng hải và vũ trụ của Hoa Kỳ. Được phát minh bởi nhà khoa học Oragin. Sau này công nghệ RO được ứng dụng rộng rãi vào trong đời sống và sản xuất, như sản xuất nước uống, cung cấp nước tinh khiết cho sản xuất thực phẩm, dược phẩm hay phòng thí nghiệm...
Nguyên lý hoạt động của màng RO
Theo một cơ chế ngược lại với các cơ chế lọc thẩm thấu thông thường, nhờ lực hấp dẫn của trái đất để tạo ra sự thẩm thấu của các phân tử nước qua các mao mạch của lõi lọc (chẳng hạn như lõi lọc dạng gốm Ceramic). Màng lọc RO hoạt động trên cơ chế chuyển động của các phần tử nước nhờ áp lực nén của máy bơm cao áp tạo ra một dòng chảy mạnh (đây có thể gọi là quá trình phân ly trong chính dòng nước ở môi trường bình thường nhờ áp lực) đẩy các thành phần hóa học, các kim loại, tạp chất..có trong nước chuyển động mạnh, văng ra vùng có áp lực thấp hay trôi theo dòng nước ra ngoài theo đường thải (giống như nguyên lý hoạt động của thận người). Trong khí đó các phân tử nước thì lọt qua các mắt lọc cỡ kích cỡ 0,0001 micromet (nhỏ hơn 500,000 lần so với đường kính một sợi tóc của con người) nhờ áp lực dư, với kích cỡ mắt lọc này thì hầu hết các thành phần hóa chất kim loại, các loại vi khuẩn đều không thể lọt qua.
Quy trình xử lý nước uống tinh khiết theo công nghệ R.O. (trên máy lọc nước RO gia đình tiêu chuẩn) gồm có các công đoạn như sau:
PP (Polipropylen): kích thước của cặn lọc được, từ 1 µm đến 5µm; Lọc giữ lại tạp chất dạng như: cát, rong rêu, gỉ sắt...
Carbon (UDF): Hấp thụ ion kim loại nặng, khử hóa chất, độc tố.
Carbon (CTO): Khử màu, khử mùi, làm trong nước, cân bằng độ pH.
Màng lọc R.O (R.O. membrane): Kích thước của cặn lọc được là 0,001µm; Lọc thải vi khuẩn, làm giảm độ TDS, tạo ra nguồn nước tinh khiết.
Carbon T/33: Làm từ than hoạt tính của dừa, có tác dụng làm cho nước uống có vị ngọt mát tự nhiên.
Các loại nước mà một hệ thống thẩm thấu ngược xử lý được:
Đối với một hệ thống thẩm thấu ngược, nước đầu vào có thể lấy từ ba nguồn chủ yếu. Nước máy, nước ngầm và nước biển. Nước máy là nguồn phổ biến nhất sử dụng cho các hệ thống thẩm thấu ngược. Các tạp chất và cặn có trong nước máy có thể được loại bỏ dễ dàng với một hệ thống RO và hơn nữa, nó cũng làm mềm nước và loại bỏ được các loại mùi vị. Nước lấy từ các nguồn này, sau khi đi qua hệ thống RO được phân loại dựa trên cơ sở hàm lượng Tổng chất rắn hòa tan (Total Dissolved Solid-TDS) có trong nước. Hiệp hội sức khỏe Mỹ (American Health Association-AHA ) đã công bố rằng chỉ số TDS có trong nước uống nên nhỏ hơn 1,000 PPM. Nước có hàm lượng TDS cao hơn có thể được dùng cho các mục đích công nghiệp khác như phục vụ nông nghiệp, khai thác mỏ, đóng chai…
Ứng dụng của hệ thống thẩm thấu ngược trong hộ gia đình
Các hệ thống thẩm thấu ngược được thiết kế cẩn thận hơn cho các mục đích của hộ gia đình và có các lớp màng lọc có chất lượng cao để đảm bảo có được nước uống chất lượng cao với hàm lượng TDS ít nhất. Một vài điểm đặc trưng quan trọng hơn của các hệ thống thẩm thấu ngược trong hộ gia đình được đề cập dưới đây:
Nước lọc qua hệ thống lọc sẽ đạt mức tinh khiết và có thể uống được ngay
Quá trình lọc được chia thành các giai đoạn như: Tiền xử lý, lọc thô, loại bỏ các tạp chất như bùn đất, rỉ sét...
Các lớp màng lọc có thể được thay thế dễ dàng và chỉ mất ít chi phí.
Vòi nước lọc có thể kết nối dễ dàng với các thiết bị phân phối nước của bạn.
Hệ thống hoạt động tự động, có thể tự ngắt quá trình lọc khi bình nước đầy, hoặc nguồn nước đầu vào không có.
Các máy lọc nước RO hiện nay có thể có từ 5 đến 10 cấp lọc tùy thuộc các đặc điểm sử dụng
Một số bộ phận cơ bản của hệ thống thẩm thấu ngược dùng trong các hộ gia đình:
Lọc sơ cấp:
Một bơm áp suất được sử dụng để tạo ra áp lực bên ngoài đẩy nước đi qua hệ thống lọc. Ở công đoạn này, nước được trải qua quá trình tiền xử lý loại bỏ các chất gây ô nhiễm như cát, chất bẩn và các khoáng chất lắng đọng khác. Các lõi lọc sử dụng ở đây gọi là lõi lọc cặn. Thỉnh thoảng khi nước bị hoài nghi nhiễm xăng dầu, lõi lọc cacbon cũng sẽ được sử dụng trong công đoạn lọc sơ cấp để bảo vệ các lớp màng lọc.
Thiết bị thẩm thấu ngược (Màng lọc RO):
Thiết bị thẩm thấu ngược là yếu tố cơ bản của hệ thống. Các lớp màng thẩm thấu ngược được thiết kế đặc biệt được sử dụng trong thiết bị này để lọc nước và loại bỏ khỏi nước tất cả các loại tạp chất, vi khuẩn. Có hai dạng màng thẩm thấu ngược được sử dụng phổ biến. Màng làm từ vật liệu Cellulose tri-acetate (CTA) dạng cuộn xoắn có khả năng chịu được clo và sẽ không bị hư hại bởi sự có mặt của clo trong nước. Màng mỏng bằng chất liệu đặc biệt không có khả năng chịu được clo và cần phải có các lõi lọc cacbon trong công đoạn xử lý sơ cấp. Với một nguồn nước vào đều đặn, thiết bị thẩm thấu ngược có thể sản xuất một triệu galông nước trong một ngày.
Lọc thứ cấp:
Các lõi lọc thứ cấp được sử dụng để loại bỏ các loại mùi vị có thể có trong nước. Lọc thứ cấp thường là các lõi lọc cacbon và nước sẽ đi qua chúng sau khi đi ra khỏi thiết bị thẩm thấu ngược.
Bộ khống chế dòng chảy và hệ thống nước thải:
Thiết bị thẩm thấu ngược cũng có một đường nước thải để cho thoát tất cả các tạp chất và chất gây ô nhiễm ra khỏi hệ thống. Ống nước thải và ống cấp nước sạch đều được gắn vào thiết bị thẩm thấu ngược, do đó cần phải có một bộ phận khống chế dòng chảy để giữ nước sạch không đi xuống đường nước thải.
Bình chứa nước:
Một bình chứa lớn được sử dụng để tích trữ nước đã được lọc. Bình nước này thường có thể tích trữ lên đến 2.5 galông nước. Nước này có thể được dùng cho các mục đích để uống hoặc bất cứ nhu cầu sử dụng hàng ngày nào khác.
Tham khảo
Xử lý nước uống
Nước
Quá trình lọc
Xử lý nước
es:Ósmosis#Ósmosis inversa
|
24772
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BB%A9u%20Ch%E1%BB%89
|
Cứu Chỉ
|
Thiền sư Cứu Chỉ (究旨) tức Đàm Cứu Chỉ là một trong 7 vị thiền sư thuộc thế hệ thứ 7 dòng Vô Ngôn Thông, sư tu tại chùa Diên Linh, núi Long Đội, Yên Lãng nay thuộc thị xã Duy Tiên, tỉnh Hà Nam, Việt Nam. Sư vốn là người Phù Đàm, Châu Minh, nay thuộc thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Cơ duyên và hành trạng
Thuở nhỏ sư là người hiếu học. Sách Nho, sách Phật, không thứ gì là không quán xuyến. Một ngày nọ ôm sách than rằng: Khổng Mặc chấp có, Trang Lão chấp không, sách vở của thế tục chẳng phải là phương giải thoát. Chỉ có Phật pháp không kể có, không, có thể dứt sinh tử, nhưng phải siêng năng giữ giới, cầu bậc thiện tri thức ấn chứng cho mới được. Nhân đó bỏ tục, đến chùa Cảm Ứng ở Ba Sơn thọ Cụ túc với Định Hương trưởng lão.
Giờ tham thỉnh, Sư hỏi: Thế nào là nghĩa cứu kính?
Trưởng lão im lặng giây lâu, hỏi lại Sư: Hiểu chưa?
Sư thưa: Chưa hiểu.
Trưởng lão bảo: Ta đã cho ngươi nghĩa cứu kính.
Sư suy nghĩ. Trưởng lão bảo: Lầm qua rồi!
Ngay câu nói này, Sư thấu triệt ý chỉ. Nhân đó Trưởng lão đặt tên Sư là Cứu Chỉ.
Sau đó, Sư lên chùa Quang Minh, núi Tiên Du (Bắc Ninh) ở luôn trong đó chuyên tu hạnh đầu đà , trọn năm không bước chân xuống núi. Tiếng đồn tới kinh đô, vua Lý Thái Tông cho mời mấy lần nhưng Sư không đến nên ba lần thân hành đến chùa Sư, lấy lời an ủi thăm hỏi.
Khoảng niên hiệu Long Thụy Thái Bình (1054- 1059), tể tướng Dương Đạo Gia lập chùa Diên Linh trên núi Long Đội thỉnh Sư trụ trì. Cố từ chối mà không được, Sư đành hạ sơn.
Ngày ra đi, Sư nói: Ta chẳng trở lại đây nữa.
Trụ trì chùa Diên Linh được ba năm, khoảng niên hiệu Chương Thánh Gia Khánh (1059- 1065), Sư sắp tịch, bèn gọi môn đồ đến dạy: Phàm tất cả các pháp môn vốn từ tánh của các ngươi, tánh tất cả các pháp vốn từ tâm của các ngươi. Tâm pháp nhất như, vốn không hai pháp. Phiền não trói buộc, tất cả đều không. Tội phước phải quấy, tất cả đều huyễn. Không cái nào chẳng phải quả, chẳng phải nhân. Không nên ở trong nghiệp mà phân biệt báo, không nên ở trong báo mà phân biệt nghiệp, nếu có phân biệt thì chẳng tự tại. Tuy thấy tất cả pháp mà không có chỗ thấy, tuy biết tất cả pháp mà không có chỗ biết. Biết tất cả pháp lấy nhân duyên làm gốc. Thấy tất cả pháp lấy chánh chân làm tông. Tuy chuyên nơi thật tế mà rõ thế gian đều như biến hóa. Rõ thấu chúng sanh chỉ là một pháp, không có hai pháp. Chẳng rời cảnh nghiệp mà phương tiện khéo léo, ở trong cõi hữu vi hiện bày pháp hữu vi mà không phân biệt. Tướng vô vi là do hết dục, dứt ngã, quên niệm mà nhận lấy vậy.
Nói xong, Sư ngồi yên thị tịch.
Nguyên bản chữ Hán
Chú thích
Không rõ năm sinh và mất của Thiền sư.
Đầu đà: phiên âm chữ Phạn Dhùta, cũng phiên là đỗ trà hay đỗ đa. Dhùta đến từ động từ Dhù có nghĩa là rũ bỏ, tiêu diệt, cho nên hạnh đầu đà, có nghĩa là rũ bỏ các phiền não, tiêu diệt những chướng ngại do ăn mặc ở tạo nên.
Tham khảo
Lê Mạnh Thát: Nghiên cứu về Thiền Uyển Tập Anh'', Nhà xuất bản TP HCM 1999.
Thiền Uyển Tập Anh - Bản tiếng Việt
Thiền Uyển Tập Anh - Bản chữ Hán
Thiền sư Việt Nam
Thiền phái Vô Ngôn Thông
Người Bắc Ninh
|
24773
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%B9a%20%C4%90%E1%BA%ADu
|
Chùa Đậu
|
Chùa Đậu (tên chữ: Thành Đạo tự 成道寺) là một ngôi chùa ở thôn Gia Phúc, xã Nguyễn Trãi, huyện Thường Tín, Hà Nội. Vì chùa thờ Bà Đậu hay Đại Bồ Tát Pháp Vũ nên chùa được gọi là chùa Đậu và còn có tên là Pháp Vũ tự.
Lịch sử
Theo truyền thuyết, chùa được dựng dưới thời Bắc thuộc lần thứ hai (602 - 939), nhưng theo văn bia, chùa được xây dựng từ thời triều nhà Lý.
Kiến trúc
Chùa đã được trùng tu nhiều lần. Theo văn bia tu tạo dựng năm Dương Hòa đời thứ 5 thì ngôi chùa này được tôn tạo vào thời nhà Lý, thế kỷ thứ 11. Ngoài ra chùa còn một đôi rồng đá thời nhà Trần cùng với nhiều viên gạch lớn thời nhà Mạc và một số bia có niên hiệu Sùng Khang (1566 - 1577).
Cũng theo tấm bia trên, có một lần trùng tu lớn vào năm 1635 đời vua Lê Thần Tông.
Chùa được xây dựng kiểu "nội công ngoại quốc". Tam quan chùa là một gác chuông đẹp, hai tầng tám mái với các đầu đao cong vút. Nhiều bộ phận gỗ được chạm khắc hình rồng, phượng và hoa lá.
Tầng trên treo quả chuông đúc năm Cảnh Thịnh thứ 9 (1801) thời nhà Tây Sơn.
Qua tam quan là một sân gạch rộng, hai bên có hai tòa giải vũ làm nơi nghỉ ngơi cho khách hành hương.
Tiền đường phía trước, nối liền với hai dãy hành lang hai bên và nhà tổ ở phía sau làm thành một khung vuông bao bọc lấy tòa thiêu hương và điện thờ Bà Đậu hay nữ thần Pháp Vũ.
Ở chùa Đậu có khá nhiều bia đá từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18.
Trong chùa có chiếc khánh đồng đúc năm 1774 với bài minh do Phan Trọng Phiên biên soạn. Ở đây còn hai tấm biển gỗ sơn son thiếp vàng khắc bài thơ nôm của chúa Trịnh Căn (1682 - 1709) và chúa Trịnh Cương (1709 - 1729).
Tượng trong chùa
Đặc biệt là trong chùa còn có hai pho tượng của hai nhà sư Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường đã tu ở chùa vào khoảng thế kỷ 17, được tạo thành bằng cách bó sơn ta rồi quang dầu ra ngoài chính thi hài các nhà sư. Đầu năm 1993, Bảo tàng lịch sử Việt Nam đã được giao nhiệm vụ lập phương án thiết kế và thi công trùng tu hai pho tượng này. Khi chiếu tia X-quang, các nhà nghiên cứu còn thấy rõ xương cốt bên trong thi hài và kết luận rằng: không có vết đục đẽo, không có hiện tượng hút ruột, hút óc và các khớp xương dính chặt với nhau như thể tự nhiên. Đây là hai vị Thiền sư đắc đạo tại chùa, để lại toàn thân xá lợi. Xá lợi đốt không cháy, ngâm trong nước không tan.
Tượng thiền sư Vũ Khắc Minh đã được tu bổ với các kỹ thuật truyền thống như: bó, hom, lót, thí, mài và thếp với các nguyên liệu như sơn ta, vải màn, giấy dó, mạt cưa và đất. Tổng số lớp sơn và thếp vàng là 14 lớp. Trước khi tu bổ, tượng nặng 7 kg, sau khi tu bổ, tượng nặng 7,5 kg.
Pho tượng Vũ Khắc Trường đã bị hỏng nặng vào khoảng năm 1983 do am đặt tượng bị ngập sau trận lụt lớn. Tượng hồi đó đã được ông Vũ Văn Tuyền, cháu của thiền sư Vũ Khắc Trường đắp lại bằng đất và sơn ta. Tượng đã được các nhà nghiên cứu sắp xếp lại những xương bị gãy, xông thuốc hai lần và phủ xương bằng dung dịch PVC và đưa lại xương vào trong tượng và bao kín toàn tượng bằng sơn ta, giấy bản, vải màn, mạt cưa, đất và thếp bạc, chỗ dày nhất tới 22 lớp. Toàn bộ pho tượng sau khi tu bổ nặng 31 kg.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Thư viện Hoa Sen
Giữ gìn và bảo vệ di tích cổ ở Chùa Đậu
Lễ hội
Chùa Đậu trong hệ thống di tích tỉnh Hà Tây
Đậu
Thường Tín
Tứ Pháp
|
24774
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%B9a%20H%C6%B0%C6%A1ng
|
Chùa Hương
|
Chùa Hương (cách gọi dân gian) hay Hương Sơn là một quần thể văn hóa - tôn giáo của Việt Nam, gồm hàng chục ngôi chùa thờ Phật, các ngôi đền thờ Thần và các ngôi đình thờ tín ngưỡng nông nghiệp. Trung tâm của cụm đình đền chùa này là chùa Hương (tức chùa Trong) nằm trong động Hương Tích ở hữu ngạn sông Đáy, thuộc xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, Hà Nội. Quần thể Hương Sơn là một trong 21 Khu du lịch Quốc gia của Việt Nam và là Di tích Quốc gia Đặc biệt theo quyết định 2082/QĐ-TTg năm 2017.
Lịch sử
Chùa Hương có lịch sử từ thế kỷ 15, được xây dựng với quy mô chính vào khoảng cuối thế kỷ 17, sau đó bị hủy hoại trong chiến tranh Đông Dương năm 1947 rồi được phục dựng lại từ năm 1989 bởi Hòa thượng Thích Viên Thành dưới sự chỉ dạy của cố Hoà thượng Thích Thanh Chân.
Khi xưa vua Lê Thánh Tông đi tuần thú qua đây lần thứ 2 vào tháng giêng năm Đinh hợi, niên hiệu Quang thuận thứ 8 (1467) đã đóng quân nghỉ lại ở thung lũng này và cho quân lính thổi cơm ăn, vua xem thiên văn thấy vùng này lâm vào địa phận của sao Thiên Trù, (một sao chủ về sự ăn uống và biến động) nên nhân đấy đặt tên là chùa Thiên Trù.
Ba vị Hòa thượng đời vua Lê Thánh Tông 1442 – 1497 đã tìm thấy động Hương Tích và dựng lên thảo am Thiên Trù. Kể từ đó động Hương Tích được gọi là chùa trong, Thiên Trù gọi là chùa ngoài, rồi người ta lấy tên chung cho hai nơi và cả khu vực là chùa Hương hay “Hương Thiên Bảo Sái”.
Sau thời kỳ ba vị Hòa thượng khai sáng, chùa Thiên Trù chùa Hương gián đoạn trụ trì, mãi tới niên hiệu Chính Hòa năm thứ bẩy 1686 của thời vua Lê Trung Hưng. Hòa thượng Trần Đạo Viên Quang, (tương truyền cũng là một quan chức trong triều đình đã treo ấn từ quan để đi tu) mới lại tiếp tục công việc tạo dựng.
Trải qua nhiều đời chư Tổ gây dựng, đến nửa đầu thế kỷ 20, nơi đây được khách thập phương ngợi ca ví như tòa lâu đài tráng lệ “Biệt chiếm nhất Nam thiên”. Nhưng đáng tiếc ngày 11 tháng 2 năm Đinh Hợi 1947, thực dân Pháp đưa quân vào đây đốt phá, biến Thiên Trù thành đống gạch vụn tro tàn. Năm 1948, giặc lại vào đốt phá lần nữa, rồi năm 1950 quân Pháp lại cho máy bay thả bom khiến cho cao chất ngất mấy tòa cổ sái của Thiên Trù bị san phẳng. Dấu vết xưa của Thiên Trù hiện nay chỉ còn lại vườn Tháp, trong đó có Bảo Tháp Viên Công, một công trình nghệ thuật đất nung của thế kỷ thứ 17 và cây Thiên Thủy Tháp.
Năm 1951, Hoà thượng Thanh Chân đã cho dựng lên từ đồng tro tàn đô nát 6 gian nhà tranh đề có nơi tu hành và nhang khói. Vào năm 1989, dưới sự trụ trì của cố Thượng tọa Thích Viên Thành, Ban xây dựng Chùa Hương đã khởi công tái thiết lại chùa Thiên Trù đến năm 1991 thì khánh thành. Năm 1994, cổng Nam Thiên Môn cũng được hoàn thành, đứng sừng sững giữa núi rừng Hương Sơn. Những năm sau này, tiếp nối Tông phong Hương Tích, Thượng tọa Thích Minh Hiền - trụ trì đời thứ 12- mở mang xây dựng thêm nhiều công trình mới, để đến ngày nay, chúng ta đến đây được chiêm ngưỡng quần thể kiến trúc nguy nga, hoành tráng, rất đẹp.
Kiến trúc
Quần thể chùa Hương có nhiều công trình kiến trúc rải rác trong thung lũng suối Yến và được chia làm bốn khu chính:
Khu Hương - Thiên gồm 08 di tích: động Hương Tích, chùa Thiên Trù, đền Trình Ngũ Nhạc, chùa Giải Oan, đền Cửa Võng, chùa Tiên Sơn, chùa Hinh Bồng, động Đại Binh. Đây là khu vực trung tâm, đặc biệt là chùa Thiên Trù (còn gọi là chùa Ngoài hay chùa Trò, tọa độ: ) và động Hương Tích (tức chùa Trong hay chùa Chính, tọa độ: ).
Chùa Ngoài nằm không xa bến Trò nơi khách hành hương đi ngược suối Yến từ bến Đục vào chùa thì xuống đò ở đấy mà lên bộ. Tam quan chùa được cất trên ba khoảng sân rộng lát gạch. Sân thứ ba dựng tháp chuông với ba tầng mái. Đây là một công trình cổ, dáng dấp độc đáo vì lộ hai đầu hồi tam giác trên tầng cao nhất. Tháp chuông này nguyên thủy thuộc chùa làng Cao Mật, tỉnh Hà Đông, năm 1980 được di chuyển về chùa Hương làm tháp chuông. Còn chùa Trong không phải là một công trình nhân tạo mà là một động đá thiên nhiên. Ở lối xuống hang có cổng lớn, trán cổng ghi 4 chữ Hương Tích động môn. Qua cổng là con dốc dài, lối đi xây thành 120 bậc lát đá. Vách động có năm chữ Hán 南天第一峝 (Nam thiên đệ nhất động) khắc năm 1770, là bút tích của Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm (1739-1782). Ngoài ra động còn có một số bia và thi văn tạc trên vách đá.
Khu Thanh Hương gồm 02 di tích: chùa Thanh Sơn, động Hương Đài.
Khu Long Vân gồm 04 di tích: chùa Long Vân, động Long Vân, động Cây Khế, hang Thánh Hóa.
Khu Tuyết Sơn gồm 04 di tích: chùa Bảo Đài, động Ngọc Long, chùa Ngư Trì (chùa Cá), đền Trình Phú Yên.
Hội chùa Hương
Mỗi dịp tết đến xuân về, người dân cả nước lại nô nức hành hương về với đất Phật, tham gia lễ hội chùa Hương.
Ngày mồng sáu tháng giêng là khai hội. Lễ hội thường kéo dài đến hạ tuần tháng 3 âm lịch. Vào dịp lễ hàng triệu phật tử cùng du khách khắp bốn phương lại nô nức trẩy hội chùa Hương. Hành trình về một miền đất Phật - nơi Bồ Tát Quan Thế Âm ứng hiện tu hành.
Đỉnh cao của lễ hội là từ sau Tết Nguyên Đán đến tháng Hai âm lịch.
Lễ hội chùa Hương trong phần lễ thực hiện rất đơn giản. Trước ngày mở hội một ngày, tất cả các đền, chùa, đình, miếu đều khói hương nghi ngút.
Ở trong chùa Trong có lễ dâng hương, gồm hương, hoa, đèn, nến, hoa quả và thức ăn chay. Lúc cúng có hai tăng ni mặc áo cà sa mang đồ lễ chay đàn rồi mới tiến dùng đồ lễ lên ban thờ. Từ ngày mở hội cho đến hết hội, chỉ thỉnh thoảng mới có sư ở các chùa trên đến gõ mõ tụng kinh chừng nửa giờ tại các chùa, miếu, đền. Còn hương khói thì không bao giờ dứt. Về phần lễ có nghiêng về "thiền". Nhưng ở chùa ngoài lại thờ các vị sơn thần thượng đẳng với đủ màu sắc của đạo giáo. Đền Cửa Võng là "chân long linh từ” thờ bà chúa Thượng Ngàn, là người cai quản cả vùng rừng núi xung quanh với cái tên là "tì nữ tuý Hồng" của sơn thần tối cao. Chùa Bắc Đài, chùa Tuyết Sơn, chùa Cả và đình Quân thờ ngũ hổ và tín ngưỡng cá thần.
Như vậy, phần lễ là toàn thể hệ thống tín ngưỡng gần như là cả một tổng thể tôn giáo ở Việt Nam; có sự sùng bái tự nhiên, có Đạo, có Phật và có cả Nho. Trong lễ hội có rước lễ và rước văn. Người làng dinh kiệu tới nhà ông soạn văn tế, rước bản văn ra đền để chủ tế trịnh trọng đọc, điều khiển các bô lão của làng làm lễ tế rước các vị thần làng.
Lễ hội chùa Hương là nơi hội tụ các sinh hoạt văn hóa dân tộc độc đáo như bơi thuyền, leo núi và các chiếu hát chèo, hát văn… Vào những ngày tổ chức lễ hội, chùa Hương tấp nập vào ra hàng trăm thuyền. Nét độc đáo của hội chùa Hương là thú vui ngồi thuyền vãn cảnh lạc vào non tiên cõi Phật.
Các đời trụ trì
Tổ Trần Đạo Viên Quang Chân Nhân, Thượng Lâm Viện - Tăng Lục Ty Hoà thượng, Viên Giác Tôn giả.
Nguyệt Đường Chân Lý Tổ Sư, Tăng Lục ty Hoà thựơng tự Như trí Gíac Tuệ tổ sư viên tịch 14/4 năm kỷ mùi 1499.
Thiền Trưởng Trần huyền Đạo Thắng Chân Nhân
Thiền tăng Đạo Nhẫn Chân Nhân
Cụ Hải Dao, Phạm Đức Thắng, dòng dõi của Trần Đạo Viên Quang Chân nhân, nhận lãnh trụ trì năm 1776.
Tổ Hải Viên (1764 - 1810), ngài xuất gia năm 1775, trụ trì Hương Tích từ năm 1789 - 1810.
Tổ Thông Dụng Hiệu An Trụ, thích cường trực bồ tát
Maha sa môn Ngộ Tâm, tam giáo thiền sư, Trực chiến bồ tát
Maha sa môn Đồng Bạch tháp, Thông Lâm bồ tát
Maha sa môn tỳ kheo, Hương Quang tháp, Tâm Trúc - hiệu Minh Thích Hoàng thiền sư
Maha sa môn Tiên Quỳnh tháp, pháp danh Thanh hữu, Thích Minh thiền sư
Tiên kỳ tháp, maha sa môn, Minh Nhẫn Nhục thiền sư, Thích Thanh Quyết
Tiêu Quỳnh tháp, maha sa môn, Trí Thích thiền sư
Tổ Thích Thanh Tích thiền sư (1881- 1964), trụ trì giai đoạn 1932 - 1956.
Hoà thượng Thích thanh Chân (1905 - 1989), uỷ viên Hội đồng chứng minh, phó chủ tịch hội đồng trị sự TW GHPGVN, trụ trì giai đoạn 1956 - 1985.
Hoà Thượng Thích Viên Thành (1950 - 2002), tự Nguyệt Trí, Chân Tịnh Bảo Tháp, Uỷ viên thường trực HĐTS TW GHPGVN, Phó Ban giáo dục tăng ni TW GHPGVN, Phó Ban từ thiện TW GHPGVN, Trưởng ban trị sự PG tỉnh Phú Thọ, Phó ban trị sự PG Hà Tây, Trụ trì giai đoạn 1985 - 2002.
Thựơng toạ Thích Minh Hiền, (1961), Uỷ viên thường trực HĐTS TW GHPGVN, Phó Ban Văn hoá TW GHPGVN, Phó Ban trị sự thành hội Phật giáo Hà Nội (07/2017-Nay), trụ trì giai đoạn 2002 - nay.
Chùa Hương trong văn học
Chùa Hương là nguồn gợi hứng cho nhiều tác phẩm thi ca Việt Nam, trong số đó nổi tiếng nhất có lẽ là bài hát nói "Hương Sơn phong cảnh ca" của Chu Mạnh Trinh xưa nay rất được ca ngợi và đưa vào sách giáo khoa Ngữ Văn 10:
Bầu trời, cảnh bụt,
Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay,
Kìa non non, nước nước, mây mây,
"Đệ nhất động" hỏi rằng đây có phải!
Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái,
Lững lờ khe Yến cá nghe kinh
Thoảng bên tai một tiếng chày kình,
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng.
Này suối Giải Oan, này chùa Cửa Võng,
Này am Phật Tích, này động Tuyết Quynh.
Nhác trông lên ai khéo họa hình:
Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt.
Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt..
Gập ghềnh mấy lối uốn thang mây
Chừng giang sơn còn đợi ai đây,...Bài "Chùa Hương" của Nguyễn Nhược Pháp, làm vào thế kỷ 20 đã được ít nhất 2 nhạc sĩ phổ nhạc là Trần Văn Khê và Trung Đức:Hôm qua đi chùa hươngHoa cỏ mờ hơi sươngCùng thầy me em dậyEm vấn đầu soi gương...
Trong bài này ngoài những câu thơ nhí nhảnh như trên, còn có nhiều câu tả cảnh Hương sơn rất sinh động: Réo rắt suối đưa quanh/Ven bờ ngọn núi xanh/Nhịp cầu xa nho nhỏ/Cảnh đẹp gần như tranh/Sau núi oản -gà-xôi/Bao nhiêu là khỉ ngồi/Đến núi con voi phục/Thấy đủ cả đầu đuôi/Chùa lấp sau rừng cây/(Thuyền ta đi một ngày)/Lên cửa chùa em thấy/Hơn một trăm ăn mày...Tản Đà rất mến cảnh chùa Hương, ông làm nhiều câu thơ rất đặc sắc về cảnh và tình ở đây: Chùa Hương trời điểm lại trời tôMột bức tranh tình trải mấy ThuXuân lại xuân đi không dấu vếtAi về ai nhớ vẫn thơm tho.Nước tuôn ngòi biếc trong trong vắt
Đá hỏm hang đen tối tối mò.Chốn ấy muốn chơi còn mỏi gối
Phàm trần chưa biết, nhắn nhe cho.
Ông còn có 1 bài thơ nổi tiếng về món đặc sản ở chùa Hương: Muốn ăn rau sắng chùa HươngTiền đò ngại tốn, con đường ngại xaMình đi, ta ở lại nhàCái dưa thì khú cái cà thì thâm.
Về văn xuôi, có bút ký Trẩy hội Chùa Hương của Phạm Quỳnh...
Nữ sĩ Hồ Xuân Hương tương truyền là tác giả bài thơ vịnh động Hương Tích như sau:Bày đặt kìa ai khéo khéo phòmNứt ra một lỗ hỏm hòm homNgười quen cõi Phật quen chân xọcKẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòmGiọt nước hữu tình rơi thánh thótCon thuyền vô trạo cúi lom khomLâm tuyền quyến cả phồn hoa lạiRõ khéo Trời già đến dở dom.''
Hình ảnh
Tham khảo
Hương
Mỹ Đức
|
24775
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A1c%20ch%C3%B9a%20%E1%BB%9F%20H%C6%B0%C6%A1ng%20S%C6%A1n
|
Các chùa ở Hương Sơn
|
Hương Sơn là một xã nằm ở phía nam huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội, Việt Nam. Tại đây có nhiều dãy núi đá vôi kề bên những dòng suối uốn lượn quanh co. Trên núi và trong các hang, người ta đã cho xây dựng nhiều đền chùa mà trung tâm là chùa Hương trong động Hương Tích. Hệ thống chùa chiền, đền thờ và hang động nằm trong khu vực này dựa theo những ngọn núi đá vôi và rừng nhiệt đới, diện tích tất cả khoảng chừng 6 km².
Lịch sử
Theo truyền thuyết, vùng núi có hang động này được tìm thấy cách đây hơn hai nghìn năm và đã được đặt tên Hương Sơn - lấy tên một ngọn núi ở phía bắc Tuyết Sơn trong dãy Himalaya (Ấn Độ), nơi đức Phật đã ngồi tu khổ hạnh suốt 6 năm ròng rã.
Đời vua Lê Thánh Tông (1460-1497) đã có am thờ Phật dựng trên mảnh đất chùa Thiên Trù. Theo sách "Hương Sơn Thiên Trù thiên phú" thì chùa Hương được xây dựng từ đời Lê Huy Tông, niên hiệu Chính Hòa, (1680-1705). Bia tại chùa Thiên Trù có ghi rằng việc xây dựng nền đất, bậc đá và tôn tạo Kim Dung bảo điện của chùa được thực hiện vào năm 1686.
Các ngôi chùa chính được xây dựng với quy mô lớn vào khoảng cuối thế kỷ 17. Cho đến đầu thế kỷ 20, trong khu vực này đã có hơn 100 ngôi chùa.
Hành trình tham quan chùa
Để tham quan các chùa ở Hương Sơn, người hành hương thường đi theo các tuyến đường khác nhau. Tuyến đi chính là đi từ Bến Đục, nằm bên bờ sông Đáy. Đây là cửa ngõ vào khu danh lam thắng cảnh, thuyền đò chen. Ngoài ra, có thể đi theo con đường bộ ven chân núi (nhưng ngày nay đã không đi được nữa). Trên đường từ bến Yến vào Bến Trò, người ta có thể dừng chân tại đền Trình (có nghĩa là nơi "trình diện" với thần linh trước khi đến cõi Phật) trên núi Ngũ Nhạc. Đây là đền thờ một vị thần núi. Đền còn có tên Quan Lớn, thờ một bộ tướng của vua Hùng.
Trên dòng suối Yến có cây cầu gỗ tên là cầu Hội. Từ chân cầu đi vào bên trái có thể đi vào ngôi chùa Thanh Sơn trong một động núi.
Từ Bến Trò đi bộ lên chùa Trò, tức chùa Thiên Trù (có nghĩa là Bếp Trời), còn được gọi là chùa Ngoài. Từ bến vào chùa có một nhà bia, trong có tấm bia "Thiên Trù tự bi ký" dựng năm Chính Hòa thứ 7, ghi lại những hoạt động tu sửa chùa Thiên Trù và chùa Hương Tích của nhà sư Viên Quang.
Ngày xưa, chùa được xây khuất trong bốn vách núi, có đến vài chục gian, nhưng đã bị tàn phá trong chiến tranh. Nam Thiên môn được xây dựng dưới triều vua Gia Long (1809) cũng bị phá hủy.
Giữa sân chùa có một đỉnh đồng cao 3 m. Cạnh sân chùa có hồ bán nguyệt và vườn tháp. Trong vườn tháp có ngôi tháp Viên Công chứa hài cốt Thiền sư Viên Quang, người có công trùng tu chùa Hương sau nhiều năm hoang phế, được dựng từ thế kỷ 17. Tháp xây gạch trần màu đỏ, cao 4 tầng, tầng thứ 2 và 3 có mái cong với các đầu đao. Ở chùa Thiên Trù còn có quả chuông đúc năm cảnh Thịnh thứ 2 (1793) thời nhà Tây Sơn. Người đi quyên góp đúc quả chuông này là nhà sư Hải Viên. Thiên Trù đã bị phá hủy vào năm 1947. Ngôi chùa hiện tại được xây dựng nhỏ hơn ngôi chùa cũ. Bái đường và hậu cung chùa Thiên Trù mới được xây dựng lại gần đây. Giữa điện thờ Phật có tượng Quan Âm Nam Hải bằng đá, tạc theo mẫu tượng trong chùa Hương Tích nhưng được phóng to gấp 2,5 lần, cao đến 2,8 m.
Ở đây còn có Thiên Thủy tháp là một mỏm đá mọc ngược thành một cây tháp thiên tạo, nước mưa trên núi theo tháp chảy xuống. Năm 1986, chùa Thiên Trù đã được phục dựng lại gác chuông và đến năm 1989 thì xây xong nhà Tam bảo hai tầng theo kiểu chữ "Đinh". Đầu năm 1994, chùa đã xây dựng lại Nam Thiên môn (cửa trời Nam) theo nguyên mẫu.
Gần chùa Thiên Trù là núi Tiên, có chùa Tiên trong hang. Trong chùa có 5 pho tượng bằng đá do những người thợ đá ở Kiện Khê (Hà Nam) tạc năm 1907 dựa theo truyền thuyết Bà Chúa Ba Diệu Thiện đã đắc đạo thành Quan Thế Âm Bồ Tát ở Hương Sơn. Tượng Bà Chúa Ba ở giữa, phía trước là người chị cả Diệu Thanh cưỡi sư tử xanh (Văn Thù Bồ Tát và tượng người chị thứ hai Diệu Âm cưỡi voi trắng (Phổ Hiền Bồ Tát). Phía sau là tượng vua cha và hoàng hậu mẹ của Bà Chúa Ba.
Giữa đường từ chùa Thiên Trù đến động Hương Tích là chùa Giải Oan. Ở đây có giếng nước trong vắt gọi là "Thiên nhiên thanh trì" hay còn gọi là giếng Long Tuyền. Trước chùa có suối chín nguồn gọi là suối Giải Oan. Gần chùa là động Tuyết Kinh và am Phật Tích, nơi có tảng đá tương truyền lưu dấu chân Quan Âm Bồ-tát. Cách đó không bao xa, du khách bước chân đến núi Chấn Song để thăm viếng đền cửa Võng thờ Mẫu Thượng Ngàn.
Từ chùa Thiên Trù, theo đường núi quanh co đi khoảng 2 km thì đến chùa Hương còn gọi là chùa Trong. Từ chùa Thiên Trù còn có lối rẽ qua rừng mơ, đến chùa Hinh Bồng.
Ngoài ra còn có thể đi theo suối Tuyết vào đền Mẫu Hạ rồi đến núi Thuyền Rồng, núi Con Phượng, hòn Đầu Sư Tử, vách đá Kỳ Sơn Tú Thủy và sau đó đến bến Tuyết Sơn vào chùa Bảo Đài. Trong chùa còn giữ được một pho tượng Cửu Long bằng đồng rất đẹp. Từ chùa Bảo Đài, theo một con đường phẳng đến chùa Tuyết trong Ngọc Long động. Chùa Tuyết do một bà quận chúa thời Trịnh dựng vào năm 1694. Ở đây còn có phù điêu chân dung bà tạc vào vách động. Nơi đây, vào năm 1770, Trịnh Sâm có làm bài thơ "Đăng Tuyết sơn hữu hứng".
Một tuyến đường nữa theo một nhánh của suối Yến, qua núi Ông Sư Bà vãi, cập bến Long Vân, leo núi thăm chùa Cây Khế, và hang Sũng Sàm, một di chỉ văn hóa Hòa Bình.
Hội chùa Hương Sơn là hội chùa kéo dài nhất ở Việt Nam trong suốt ba tháng sau Tết Nguyên Đán.
Ca dao đã miêu tả:
Một vùng non nước bao la
Rằng đây Lạc quốc hay là Đào nguyên
Hương Sơn là chốn non tiên
Bồng lai mà thấy ở miền trần gian.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hương Sơn
Mỹ Đức
Khu du lịch Việt Nam
|
24776
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%E1%BB%90ng%20b%E1%BB%8Dt%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc
|
Ống bọt nước
|
Một ống bọt nước, hay ống bọt thủy, ống/cái ni vô (theo từ trong tiếng Pháp niveau), máy thủy chuẩn, thủy bình là một dụng cụ dùng để cho biết một bề mặt trên Trái Đất hay các thiên thể có nằm ngang hay không. Các ống bọt nước có nhiều loại, được dùng trong xây dựng, trắc địa, hay lắp đặt máy móc.
Chúng thường gồm một ống thủy tinh hơi cong, bên trong chứa chất lỏng có màu, không đầy, để lại một chút bọt khí. Chất lỏng có thể là ethanol vì chất này có nhiệt độ đóng băng thấp, −114 °C, giúp cho ống hoạt động trong điều kiện thời tiết lạnh.
Một số ống bọt nước có khả năng cho biết góc nghiêng của bề mặt so với phương ngang hay phương thẳng đứng với độ chính xác vừa phải. Độ chính xác của việc xác định góc nghiêng đo bằng góc cần nghiêng ống để bọt nước di chuyển một vạch. Độ chính xác này có thể đạt tới 5″.
Nguyên lý
Ống bọt nước hoạt động dựa vào lực đẩy Ác si mét tác động lên bọt nước trong ống luôn ngược với trọng lực và do đó theo chiều thẳng đứng. Với lực đẩy Ác si mét này, bọt nước sẽ luôn có xu hướng tìm đến vị trí cân bằng ở trên cùng ống nước cong.
Khi ống đặt nằm ngang, vị trí trên cùng này ứng với mốc 0, thường nằm chính giữa ống. Khi ống nằm nghiêng, vị trí cân bằng của bọt nước lệch đi, tùy theo độ nghiêng của ống. Bằng việc so sánh vị trí cân bằng của bọt với mốc 0, có thể suy ra góc nghiêng của ống bọt nước.
Lịch sử
Ống bọt nước được sáng chế lần đầu bởi Melchisedech Thevenot (sinh khoảng năm 1620 hoặc 1621; mất năm 1692). Thevenot là một khoa học gia nghiệp dư và thuê nhiều nhà khoa học và toán học cho công việc của mình. Ông giàu có và có nhiều mối quan hệ, sau này trở thành Thư viện gia cho Vua Louis XIV của Pháp. Thevenot sáng chế ra ống bọt nước khoảng sau ngày 2 tháng 2 năm 1661. Ngày này có thể được xác định nhờ trao đổi còn lưu lại giữa Thevenot và Christiaan Huygens. Một năm sau, thông tin về dụng cụ mới này đã được nhà sáng chế truyền bá rộng rãi, cho cả Robert Hooke ở Luân Đôn và Vincenzo Viviani ở Florence. Có thể là phải cho tới tận thế kỷ 18 thì dụng cụ này mới được dùng rộng rãi, vì dụng cụ như vậy cổ nhất còn lại ngày nay được chế tạo vào thời kỳ này; tuy nhiên Adrien Auzout đã từng đề nghị Académie Royale des Sciences dùng ống bọt nước của Thevenot cho chuyến khám phá Madagascar năm 1666. Có vẻ như ống bọt nước đã được dùng ở Pháp và nơi khác từ trước thế kỷ 18 nhiều.
Thevenot thường bị nhầm với đứa cháu của mình là Jean de Thevenot, một nhà du lịch (sinh 1633; mất 1667). Có bằng chứng cho thấy cả Huygens và Hooke cũng đều đã nhận họ sáng chế ra dụng cụ này, nhưng thông tin này đã chỉ lưu hành tại quốc gia họ sống.
Các dạng
Xem thêm
Tham khảo
Liên kết ngoài
Dụng cụ đo lường
Chất lỏng
Trắc địa
Lực hấp dẫn
Khảo sát
|
24777
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A1i%20Lu%C3%A2n
|
Thái Luân
|
Thái Luân (còn gọi là Sái Luân; tiếng Hán: 蔡倫; bính âm:Cài Lún; Wade-Giles: Ts'ai Lun; tên tự: 敬仲 Kính Trọng; 50–121) là một thái giám Trung Quốc, được xem là người sáng chế ra giấy.
Tiểu sử
Thái Luân sinh ra ở Quý Dương vào thời nhà Đông Hán, rồi trở thành Trung Thường Thị (中常侍) của Hán Hòa Đế. Năm 105, dưới triều Hán, thời hoàng đế Hòa Đế, Thái Luân đem mấy mẫu giấy dâng vua, được vua hài lòng và phong tước quý tộc và cho ông làm quan trong triều đình. Ông là hoạn quan vì phải giữ tài sản và tiền bạc nhiều trong triều đình. Nhờ chế được giấy, ông trở thành giàu có.
Tuy nhiên sau đó ông bị triều đình âm mưu gây rắc rối, vì ủng hộ Đậu Thái hậu. Ông cũng dính líu đến cái chết của tình địch của bà là Tống Quý nhân. Sau các rắc rối ấy, ông phục dịch cho hoàng hậu Đặng Tuy. Năm 121, sau khi cháu của Tống Quý nhân là Hán An Đế lên ngôi sau cái chết của Đặng Thái hậu, Thái Luân bị lệnh giam vào ngục. Trước khi bị bắt giam, ông tắm rửa sạch sẽ, mặc áo quần đẹp, uống thuốc độc rồi lên giường nằm.
Cách chế giấy của Thái Luân
Trong thế kỷ thứ 5, Phạm Diệp (范曄) đã tường thuật lại trong sách Hậu Hán thư:
Từ xưa người ta đã dùng thanh tre để viết, được cột lại với nhau. Cũng có một loại giấy làm từ phế phẩm của tơ lụa. Nhưng tơ lụa quá đắt còn các thanh tre thì quá nặng nên không sử dụng thích hợp. Vì thế Thái Luân (蔡倫) nghĩ ra kế làm giấy từ các vỏ thân cây, sợi thân cây, từ cây gai dầu cũng như từ vải và lưới đánh cá cũ. Năm Nguyên Hưng thứ nhất (105) ông tâu lên Hoàng thượng và được ngài khen thưởng cho tài năng của ông. Từ đấy giấy trở nên thông dụng và trong cả vương quốc mọi người đều gọi đó là giấy của quý nhân Thái.
Thái Luân chế giấy bằng cách lấy bên trong vỏ thân cây dâu tằm và xơ cây tre đem trộn với nước rồi giã nát với dụng cụ bằng gỗ, xong ông đổ hỗn hợp lên tấm vải căng phẳng và trải mỏng rồi để ráo nước. Khi đã khô, Thái Luân khám phá ra rằng có thể viết lên dễ dàng mà lại nhẹ nhàng. Thái Luân cũng đã thử các loại vỏ cây, cây gai dầu, lụa, và thậm chí lưới đánh cá, nhưng các công thức chính xác đã bị thất truyền. Cách chế tạo giấy này đầu tiên được dùng bên Trung Quốc rồi qua Hàn Quốc, Samarkand, Ba Tư và Damascus.
Sau sáng chế của Thái Luân năm 105, giấy đã được phổ biến ở Trung Quốc. Năm 751, một số nghệ nhân làm giấy Trung Quốc bị người Ả Rập bắt giữ sau khi quân của nhà Đường thua trận ở Trận sông Talas. Kỹ thuật làm giấy từ đó được truyền bá sang phương Tây. Phải hàng ngàn năm sau người ta mới sản xuất giấy đại trà trên thế giới. Người phát minh Thái Luân cũng ít được biết tới bên ngoài Đông Á.
Các khám phá về khảo cổ ở Trung Hoa cộng với phép tính tuổi bằng cacbon phóng xạ chứng minh rằng giấy đã hiện diện từ hai thế kỷ trước Thái Luân, nhưng người ta vẫn cho Thái Luân là người sáng chế ra giấy giống như giấy ngày nay. Đóng góp của Thái Luân được coi là một trong các sáng chế quan trọng nhất trong lịch sử loài người. Nó đã cho phép Trung Quốc phát triển nền văn minh của mình nhanh hơn trước đây khi còn dùng tre hay trúc để lưu chữ viết, và nó cũng đã kích thích sự phát triển của châu Âu khi kỹ thuật giấy đến đây vào khoảng thế kỷ 12 hay thế kỷ 13. Thái Luân được xếp hạng thứ 7 trong danh sách 100 người quan trọng nhất lịch sử của Michael H. Hart.
Xem thêm
Giấy
Mã Quân(馬鈞)
Tham khảo
Liên kết ngoài
Giấy, in ấn, xuất bản
Hoạn quan Trung Quốc
Nhà phát minh Trung Quốc
Người nhà Hán
Giấy
Mất năm 121
Sinh thập niên 50
|
24779
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BA%A5t%20chuy%E1%BB%83n%20h%C3%B3a
|
Chất chuyển hóa
|
Chất chuyển hóa là các chất trung gian và là sản phẩm của quá trình chuyển hóa. Khái niệm chất chuyển hóa thường chỉ giới hạn trong khuôn khổ các tiểu phân tử. Các chất chuyển hóa có nhiều chức năng quan trọng, như làm nhiên liệu, làm cấu trúc, là tín hiệu, kích thích và ức chế lên hoạt động của các enzym (thường đóng vai trò là cofactor của chúng), bảo vệ khỏi và tương tác với các sinh vật khác (như các sắc tố sinh học, chất có mùi, và các pheromone).
Chất chuyển hóa tiên phát thì có liên quan trực tiếp đến sự tăng trưởng, phát triển và sinh sản bình thường. Ethylene là một ví dụ về chất chuyển hóa tiên phát được sản xuất với lượng lớn trong công nghiệp vi sinh học.
Chất chuyển hóa thứ phát thì không tham gia trực tiếp vào các quá trình trên, nhưng chúng thường có vai trò quan trọng trong sinh thái học, ví dụ như các chất kháng sinh và sắc tố như resin và terpen v.v.
Một số loại chất kháng sinh sử dụng chất chuyển hóa tiên phát làm tiền chất, ví dụ như actinomycin được tổng hợp từ tiền chất ban đầu là tryptophan. Một số loại đường cũng là chất chuyển hóa, ví dụ như fructose hoặc glucose, cả hai đều có mặt trong quá trình trao đổi chất.
Một vài ví dụ về các chất chuyển hóa tiên phát được sản xuất trong công nghiệp vi sinh học:
Tập chuyển hóa tạo nên một mạng lưới các phản ứng chuyển hóa, trong đó sản phẩm của một phản ứng hóa học được xúc tác bởi enzym lại là cơ chất cho một phản ứng hóa học khác.
Quá trình phân giải về mặt hóa sinh của các hợp chất hóa học có trong tự nhiên hay được tổng hợp đều có sự tham gia của các chất chuyển hóa. Tốc độ phân giải của một hợp chất là một yếu tố quan trọng để xác định thời gian và cường độ tác động của các chất chuyển hóa. Hồ sơ lưu trữ các chất chuyển hóa của các hợp chất, chuyển hóa của các chất thuốc là một phần quan trọng trong việc tìm ra các loại thuốc, từ đó giúp hiểu rõ hơn về cơ chế gây ra các tác dụng phụ của các chất chuyển hoá có trong thuốc.
Tham khảo
Xem thêm
Chất chuyển hóa tiên phát
Chất chuyển hóa thứ phát
Chất chống chuyển hóa
Tập chuyển hóa
Trao đổi chất học = ngành khoa học về toàn bộ các chất chuyển hóa trong một hệ thống (tế bào, mô, cơ quan) dưới một tập hợp các điều kiện nhất định.
Trao đổi chất
|
24780
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%A2n%20tr%E1%BB%9Di%20%C4%91%E1%BB%8Ba%20l%C3%BD
|
Chân trời địa lý
|
Chân trời địa lý là một thuật ngữ dùng để chỉ những đường ranh giới trên bề mặt Trái Đất mà chúng là giới hạn của hiểu biết về một miền đất, một bộ tộc người, trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Miền đất mà đã được con người biết tới, đến ở và khai phá thì gọi là lãnh địa (ekumena - tiếng La Tinh) – trái ngược với nó thì gọi là đất hoang (anekumena).
Xem thêm
Chân trời
Những khám phá lớn về địa lý
Tham khảo
Địa lý học
|
24782
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20v%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20th%E1%BA%BF%20gi%E1%BB%9Bi%202002
|
Giải vô địch bóng đá thế giới 2002
|
Giải vô địch bóng đá thế giới 2002 (hay Cúp bóng đá thế giới 2002, tiếng Anh: 2002 FIFA World Cup, tiếng Hàn Quốc: 2002 FIFA 월드컵 한국/일본, tiếng Nhật: 2002 FIFAワールドカップ 韓国/日本) là giải vô địch bóng đá thế giới lần thứ 17, được tổ chức từ 31 tháng 5 đến 30 tháng 6 năm 2002 tại Hàn Quốc và Nhật Bản. Đây là kỳ World Cup lần đầu tiên trong lịch sử được tổ chức tại châu Á, và cũng là lần đầu tiên được tổ chức đồng thời ở hai quốc gia.
Kỳ World Cup này cũng đánh dấu kỷ lục 5 lần vô địch của đội tuyển Brasil sau khi đánh bại Đức với tỷ số 2–0. Đội tuyển Hàn Quốc đã làm lên lịch sử khi trở thành đội bóng đầu tiên ngoài khu vực UEFA, CONMEBOL và CONCACAF lọt vào đến bán kết. Pháp trở thành đội đương kim vô địch thứ ba bị loại ngay từ vòng bảng ở một kỳ World Cup (sau Ý năm 1950 và Brasil năm 1966).
Bài hát chính thức của giải đấu là "Boom" của Anastacia cùng với nhạc hiệu chính thức là "Anthem" của Vangelis.
Linh vật chính thức của giải đấu là Ato, Kaz và Nik (the Spheriks), những sinh vật được tạo nên bởi máy tính với dáng vẻ hiện đại, lần lượt với các màu cam, tím và xanh. Những thành viên tuyển chọn của đội "Atmoball" (một môn thể thao giống bóng đá được hư cấu nên), Ato là huấn luyện viên còn Kaz và Nik là cầu thủ. Ba cái tên này được lựa chọn từ một danh sách bình chọn của những người dùng qua mạng Internet và đặt trên lối ra vào của McDonald's tại các nước chủ nhà.
Đây cũng là mùa giải cuối cùng áp dụng luật bàn thắng vàng.
Vòng loại
199 đội tuyển đã tham dự vòng loại của giải để chọn ra 29 đội còn lại được bước vào vòng chung kết. Hai đội chủ nhà là Hàn Quốc và Nhật Bản, cùng với đội đương kim vô địch thế giới là Pháp được vào thẳng vòng chung kết mà không cần tham dự vòng loại.
Châu Âu (UEFA): Chọn lấy 14 đội
Châu Phi (CAF): Chọn lấy 5 đội
Châu Á (AFC): Chọn lấy 5 đội
Các đội giành quyền vào vòng chung kết
AFC (4)
CAF (5)
OFC (0)
Không có đại diện
CONCACAF (3)
CONMEBOL (5)
UEFA (15)
Danh sách trọng tài
Trọng tài chính
AFC
Lục Tuấn ()
Kamikawa Toru (Nhật Bản)
Saad Mane ()
Kim Young-joo ()
Ali Bujsaim ()
CAF
Coffi Codjia ()
Gamal Al-Ghandour ()
Mohamed Guezzaz ()
Falla N'Doye ()
Mourad Daami ()
CONCACAF
William Mattus ()
Carlos Batres ()
Peter Prendergast ()
Felipe Ramos ()
Brian Hall ()
CONMEBOL
Ángel Sánchez ()
René Ortubé ()
Carlos Simon ()
Óscar Ruiz ()
Byron Moreno ()
Ubaldo Aquino ()
OFC
Mark Shield ()
UEFA
Kim Milton Nielsen ()
Graham Poll ()
Gilles Veissière ()
Markus Merk ()
Kyros Vassaras ()
Pierluigi Collina ()
Jan Wegereef ()
Terje Hauge ()
Vítor Melo Pereira ()
Hugh Dallas ()
Ľuboš Micheľ ()
Antonio López Nieto ()
Anders Frisk ()
Urs Meier ()
Trợ lý trọng tài
AFC
Komaleeswaran Sankar ()
Awni Hassaouneh ()
Haidar Koleit ()
Mat Lazim Awang Hamat ()
Mohamed Saeed ()
Ali Al-Traifi ()
Visva Krishnan ()
CAF
Wagih Farag ()
Dramane Dante ()
Taoufik Adjengui ()
Ali Tomusange ()
Brighton Mudzamiri ()
CONCACAF
Curtis Charles ()
Héctor Vergara ()
Vladimir Fernández ()
Michael Ragoonath ()
CONMEBOL
Jorge Rattalino ()
Jorge Oliveira ()
Bomer Fierro ()
Miguel Giacomuzzi ()
OFC
Paul Smith ()
Elise Doriri ()
UEFA
Egon Bereuter ()
Yury Dupanov ()
Roland Van Nylen ()
Evzen Amler ()
Jens Larsen ()
Philip Sharp ()
Frédéric Arnault ()
Heiner Müller ()
Ferenc Székely ()
Jaap Pool ()
Maciej Wierzbowski ()
Carlos Matos ()
Igor Šramka ()
Leif Lindberg ()
Các sân vận động
Đội hình
Chia bảng
Vòng chung kết
Vòng bảng
Giờ thi đấu tính theo giờ địa phương (UTC+9)
Bảng A
Bảng B
Bảng C
Bảng D
Bảng E
Bảng F
Bảng G
Bảng H
Vòng đấu loại trực tiếp
Trong vòng đấu loại trực tiếp, hiệp phụ, luật bàn thắng vàng và loạt sút luân lưu được sử dụng để quyết định đội thắng nếu cần thiết.
Tóm tắt
Vòng 16 đội
Tứ kết
Bán kết
Tranh hạng ba
Chung kết
Danh hiệu khác
1Oliver Kahn là thủ thành duy nhất được nhận danh hiệu quả bóng vàng trong lịch sử các giải vô địch bóng đá thế giới.
Đội hình tiêu biểu
Cầu thủ ghi bàn
8 bàn
Ronaldo
5 bàn
Rivaldo
Miroslav Klose
4 bàn
Jon Dahl Tomasson
Christian Vieri
3 bàn
Marc Wilmots
Michael Ballack
Robbie Keane
Pauleta
Papa Bouba Diop
Fernando Morientes
Raúl
Henrik Larsson
İlhan Mansız
2 bàn
Ronaldinho
Rónald Gómez
Michael Owen
Inamoto Junichi
Jared Borgetti
Nelson Cuevas
Henri Camara
Ahn Jung-Hwan
Fernando Hierro
Ümit Davala
Hasan Şaş
Brian McBride
Landon Donovan
1 bàn
Gabriel Batistuta
Hernán Crespo
Wesley Sonck
Peter Van Der Heyden
Johan Walem
Edmílson
Júnior
Roberto Carlos
Samuel Eto'o
Patrick Mboma
Winston Parks
Paulo Wanchope
Mauricio Wright
Ivica Olić
Milan Rapaić
Dennis Rommedahl
Agustín Delgado
Edison Méndez
David Beckham
Sol Campbell
Rio Ferdinand
Emile Heskey
Oliver Bierhoff
Marco Bode
Carsten Jancker
Thomas Linke
Oliver Neuville
Bernd Schneider
Gary Breen
Damien Duff
Matt Holland
Alessandro Del Piero
Morishima Hiroaki
Nakata Hidetoshi
Suzuki Takayuki
Cuauhtémoc Blanco
Gerardo Torrado
Julius Aghahowa
Francisco Arce
Jorge Campos
Roque Santa Cruz
Paweł Kryszałowicz
Emmanuel Olisadebe
Marcin Żewłakow
Beto
Rui Costa
Vladimir Beschastnykh
Valery Karpin
Dmitri Sychev
Egor Titov
Salif Diao
Khalilou Fadiga
Milenko Ačimovič
Sebastjan Cimirotič
Quinton Fortune
Benni McCarthy
Teboho Mokoena
Siyabonga Nomvethe
Lucas Radebe
Hwang Sun-Hong
Lee Eul-Yong
Park Ji-Sung
Seol Ki-Hyeon
Song Chong-Gug
Yoo Sang-Chul
Gaizka Mendieta
Juan Carlos Valerón
Niclas Alexandersson
Anders Svensson
Raouf Bouzaiene
Emre Belözoğlu
Bülent Korkmaz
Hakan Şükür
Clint Mathis
John O'Brien
Diego Forlán
Richard Morales
Álvaro Recoba
Darío Rodríguez
Phản lưới nhà
Jorge Costa (trận gặp Hoa Kỳ)
Carles Puyol (trận gặp Paraguay)
Jeff Agoos (trận gặp Bồ Đào Nha)
Bảng xếp hạng giải đấu
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang chính thức FIFA World Cup 2002 (lưu trữ)
2002 FIFA World Cup Korea/Japan ™ , FIFA.com
FIFA Technical Report (Phần 1) và (Phần 2)
RSSSF
RSSSF (Vòng loại)
2002
Giải đấu bóng đá quốc tế tổ chức bởi Nhật Bản
Giải đấu bóng đá quốc tế tổ chức bởi Hàn Quốc
Bóng đá Hàn Quốc năm 2002
Bóng đá Nhật Bản năm 2002
Quan hệ Hàn Quốc-Nhật Bản
|
24783
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Samuel%20Eto%27o
|
Samuel Eto'o
|
Samuel Eto'o (sinh ngày 10 tháng 3 năm 1981 tại Nikon, Cameroon) là cựu tiền đạo bóng đá người Cameroon. Anh là cầu thủ châu Phi giành nhiều danh hiệu nhất mọi thời đại. Anh sở hữu kỷ lục 4 lần giành danh hiệu Cầu thủ xuất sắc nhất châu Phi (bằng với Yaya Touré). Hiện anh đang là chủ tịch Liên đoàn bóng đá Cameroon.
Khoác áo ĐTQG Cameroon khi mới 16 tuổi, được xem là tài năng trẻ triển vọng nhất Thế giới lúc bấy giờ, không quá khó hiểu khi Real Madrid muốn chiêu mộ bằng được Eto'o thời điểm ấy. Ở tuổi 19, Eto'o là trụ cột giúp U23 Cameroon giành HCV bóng đá nam Olympic năm 2000. Anh cũng đã tham dự 4 kỳ World Cup và 6 lần tham dự Cúp bóng đá châu Phi (là nhà vô địch hai lần) và là cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất trong lịch sử của Cúp bóng đá châu Phi, với 18 bàn thắng. Anh cũng là cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất mọi thời đại của Cameroon với 58 bàn thắng. Anh tuyên bố giã từ ĐTQG vào ngày 27/8/2014. Năm 2015, Eto'o nhận được giải thưởng Golden Foot.
Eto'o ghi được hơn 100 bàn thắng trong 5 mùa giải với Barcelona, và cũng là người giữ kỷ lục về số lần ra sân của một cầu thủ châu Phi tại La Liga. Năm 2010, anh trở thành cầu thủ duy nhất có 2 cú ăn ba trong 2 năm liên tiếp, và giành hai chức vô địch Champions League liên tiếp với 2 CLB khác nhau. Eto'o là cầu thủ đầu tiên trong lịch sử ghi bàn trong hai trận chung kết UEFA Champions League liên tiếp.
Samuel Eto'o được các nhà chuyên môn tại châu Phi đánh giá là "Cầu thủ châu Phi Vĩ đại nhất mọi Thời đại" khi vượt qua những Abedi Pele, Jay-Jay Okocha, Nwankwo Kanu, Roger Milla. Didier Drogba xếp thứ 3, George Weah xếp thứ 2 trong cuộc bầu chọn này.
Eto'o được biết đến với biệt danh "Báo đen". Ngày 7 tháng 9 năm 2019, Samuel Eto'o chính thức giã từ sự nghiệp thi đấu quốc tế sau 27 năm thi đấu chuyên nghiệp.
Vào tháng 9 năm 2021, Samuel Eto'o, tuyên bố ứng cử chức chủ tịch Liên đoàn bóng đá Cameroon (Fecafoot). Ngày 12 tháng 12 cùng năm, anh chính thức trở thành Chủ tịch Liên đoàn bóng đá Cameroon.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Mallorca RCD
Eto'o bị Real Madrid rao bán cho Mallorca vì không tìm được 1 vị trí vững chắc trong đội hình vào năm 2000. Đó là khoảng thới gian bước ngoặt trong sự nghiệp của anh. Anh đã giúp CLB đoạt Cúp Nhà vua 2003. Sau đó, Eto'o được nhận lấy chiếc băng thủ quân, góp phần đưa Mallorca lần đầu tiên dự Champions League. Trước khi rời đi, anh cũng trở thành chân sút vĩ đại nhất của CLB.
Barcelona
Samuel Eto'o chuyển đến Barcelona tháng 8-2004 từ Mallorca với mức phí chuyển nhượng là 24 triệu Euro. Eto'o có trận đấu đầu tiên trong màu áo Barca vào ngày 29-8-2004 với CLB Racing Santander. Eto'o đã đoạt danh hiệu Pichichi (Cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất tại giải vô địch quốc gia Tây Ban Nha La Liga) vào năm 2006, với 26 bàn thắng. Cũng trong mùa giải thành công 2005-2006, Eto'o đã ghi 6 bàn thắng tại cúp châu âu UEFA Champion League, trong đó có bàn thắng ấn định chiến thắng 2-1 được ghi ở phút thứ 76 trận chung kết với CLB Arsenal.
Ngày 14 tháng 2 năm 2009, anh ghi bàn thứ 99 và 100 tại La Liga cho Barcelona trong trận hòa 2–2 với Real Betis. Eto'o ghi bàn thứ 30 trong mùa giải 2008–09 trong trận đấu với Real Valladolid. Trận đấu kết thúc với tỉ số 1–0 và Barcelona dẫn trước Real Madrid 6 điểm. Anh cũng ghi bàn trong trận đấu với Villarreal CF qua đó giúp Barcelona vô địch La Liga sớm. Eto'o đã toả sáng trong trận chung kết UEFA Champions League 2009 với Manchester United khi ghi bàn mở tỷ số ở phút thứ 10 qua đó giúp đội bóng của anh giành chiến thắng chung cuộc 2-0.
Mùa giải 2008-2009 là một mùa giải thành công nhất trong lịch sử Barça khi đội bóng giành cú ăn sáu. Trong năm mùa giải chơi bóng cùng Barcelona, Eto'o đã ghi được 108 bàn thắng
Inter Milan
Chuyển sang Inter Milan vào tháng 7 năm 2009 với thỏa thuận Ibrahimovic chuyển sang Barcelona thi đấu,
cũng tại Inter Milan, anh vẫn chứng tỏ được khả năng của mình và là một trụ cột không thể thiếu được trong sơ đồ chiến thuật của huấn luyện viên Jose Mourinho. Tuy nhiên anh đã bị xếp đá thấp hơn so với Diego Milito, Là linh hồn trong mọi đợt phản - tấn công, anh thường xuyên được bầu chọn là cầu thủ xuất sắc nhất trận đấu tại Serie A, cũng như tại UEFA Champions League, đặc biệt Samuel Eto'o chính là nhân tố giúp Inter đánh bại đội bóng cũ Barcelona của mình tại đấu trường này - đội bóng mùa trước từng cùng anh giành cú ăn 6 lịch sử. Cũng trong thời gian ở Inter anh đã đi vào lịch sử khi là người tham gia đầy đủ ở 3 trân chung kết champions league đầu tiên và đều đi đến thắng lợi sau cùng, anh cũng là người góp công lới vào cú ăn ba thần thánh của Inter mùa giải 2009/2010 khi vô địch trên cả ba mặt trận là Copa Italy, Serie A, Champions league.
FC Anzhi Makhachkala
Sau khi tạo dấu ấn rất lớn ở Inter Milan, là linh hồn trong lối chơi của đội bóng thủ đô nước Ý, anh đã được trải thảm đỏ để sang đội bóng nhà giàu nước Nga thi đấu. Tại đây, anh đã trở thành cầu thủ nhận lương cao nhất thế giới, 400.000 euro/tuần.
Tuy nhiên đến tháng 7/2013, CLB Anzhi Makhachkala đã phải cắt giảm phân lớn chi phí hoạt động do ông chủ CLB là tỷ phú Suleyman Kerimov đã bị điều tra về những vi phạm kinh tế cùng với việc thua lỗ trong kinh doanh. Vì vậy Eto'o đã bi CLB Anzhi Makhachkala cắt giảm lương và anh đã yêu cầu được giải phóng hợp đồng để tìm CLB mới.
Chelsea
Ngày 29 tháng 8 năm 2013, trang chủ câu lạc bộ Chelsea chính thức xác nhận Eto'o đã ký vào bảng hợp đồng có thời hạn 1 năm với đội chủ sân Stamford Bridge. Anh sẽ mang số áo 29, số áo đang thuộc về tiền đạo Demba Ba, và Chelsea đã quyết định đổi số áo của Demba Ba thành số 19. Tại Chelsea Eto'o sẽ tái ngộ với huấn luyện viên José Mourinho, người đã từng làm việc với anh ở Inter Milan.
Anh có bàn thắng đầu tiên cho câu lạc bộ mới đến trong trận thắng 4-1 trước Cardiff City vào ngày 19 tháng 10, trước đó anh đã kiến tạo cho Eden Hazard ghi bàn mở tỉ số. Ngày 7 tháng 11 anh lập cú đúp giúp Chelsea thắng Schalke 04 4-0 trong trận đấu thuộc khuôn khổ lượt về vòng bảng Champions League.
Ngày 19/01/2014 Eto'o có cú Hatrick đầu tiên cho Chelsea vào lưới Manchester United tại vòng 22 Ngoại Hạng Anh, giúp Chelsea thắng chung cuộc 3-1. Anh ghi tên mình là cầu thủ thứ 4 ghi được 3 bàn thắng vào lưới Manchester United từ năm 1954 tại các giải quốc nội Anh.
Everton
Hợp đồng của Eto'o với Chelsea hết hạn vào cuối mùa giải mùa 2013–14, và vào ngày 26 tháng 8 năm 2014, anh gia nhập đội bóng đồng hương Anh Premier League Everton, ký hợp đồng hai năm. Anh ra mắt bốn ngày sau đó, ghi một bàn bằng cú đánh đầu trong trận thua 3–6 trên sân nhà trước Chelsea. Vào ngày 26 tháng 10, Eto'o lập cú đúp cho Everton, ghi bàn mở tỷ số và dứt điểm từ ngoài vòng cấm, khi Toffees đánh bại Burnley 3−1.
Anh nói rằng anh muốn vô địch UEFA Europa League với Everton, một giải đấu mà anh ấy chưa từng vô địch trước đây. Tuy nhiên, Eto'o đã rời đi giữa mùa giải đầu tiên tại Everton, ghi 4 bàn sau 20 trận trên mọi đấu trường cho họ.
Sự nghiệp sau này và giải nghệ
Vào ngày 27 tháng 1 năm 2015, Eto'o trở lại Serie A của Ý, gia nhập Sampdoria với bản hợp đồng có thời hạn hai năm rưỡi.
Vào ngày 25 tháng 6 năm 2015, Eto'o chuyển đến đội bóng Thổ Nhĩ Kỳ Antalyaspor theo hợp đồng 3 năm. Anh ra mắt vào ngày 15 tháng 8 năm 2015 trong trận đấu Süper Lig 2015-16 với İstanbul Başakşehir, ghi hai bàn thắng và giúp Antalyaspor thắng 3–2. Eto'o đã có một khởi đầu mùa giải xuất sắc, ghi 13 bàn sau 15 trận đầu tiên và được bổ nhiệm làm cầu thủ kiêm huấn luyện viên tạm thời cho đội sau khi huấn luyện viên trước đó, Yusuf Şimşek, bị sa thải vào ngày 7 tháng 12. Anh tiếp tục giữ chức vụ này cho đến khi José Morais được thuê làm người thay thế lâu dài cho Şimşek vào ngày 6 tháng 1 năm 2016.
Vào ngày 31 tháng 1 năm 2018, sau khi rời Antalyaspor theo sự đồng ý của cả hai, Eto'o gia nhập đối thủ trong giải đấu Konyaspor theo hợp đồng có thời hạn hai năm rưỡi.
Anh ký hợp đồng với Qatar SC vào tháng 8 năm 2018. Vào tháng 2 năm 2019, anh cho biết anh muốn tiếp tục thi đấu thêm một năm nữa.
Vào ngày 7 tháng 9 năm 2019, Eto'o tuyên bố giã từ sự nghiệp bóng đá.
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
Tính đến năm 2014 (tức đến khi chia đội tuyển quốc gia Cameroon), Samuel Eto'o đã chơi cho đội tuyển bóng đá Cameroon 118 trận và ghi được 56 bàn thắng. Trong đó, trận đấu quốc tế đầu tiên của anh là trận giao hữu với đội tuyển Costa Rica vào ngày 9 tháng 3 năm 1996.
Anh là cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất mọi thời đại của Cameroon
Thống kê sự nghiệp
Câu lạc bộ
Đội tuyển quốc gia
Bàn thắng quốc tế
Source:
Danh hiệu
Câu lạc bộ
Espanyol
Copa del Rey: 1999–2000
Mallorca
Copa del Rey: 2002–03
Barcelona
La Liga: 2004–05, 2005–06, 2008–09
Copa del Rey: 2008–09
Supercopa de España: 2005, 2006
UEFA Champions League: 2005–06, 2008–09
Inter Milan
Serie A: 2009–10
Coppa Italia: 2009–10, 2010–11
Supercoppa Italia: 2010
UEFA Champions League: 2009–10
FIFA Club World Cup: 2010
Quốc tế
Cúp bóng đá châu Phi: 2000, 2002
Huy chương Vàng Thế vận hội Mùa hè 2000
Á quân FIFA Confederations Cup: 2003
Cá nhân
Cầu thủ xuất sắc thứ ba năm 2005 của FIFA: 2005
Cầu thủ xuất sắc nhất châu Phi: 2003, 2004, 2005, 2010
Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất châu Phi năm 2001
Vua phá lưới La Liga 2005–06 (26 bàn)
Đội hình xuất sắc nhất năm của ESM: 2004–05, 2005–06, 2008–09, 2010–11
FIFA FIFPro World XI: 2005, 2006
Đội hình châu Phi xuất sắc của năm: 2005, 2006, 2008, 2009, 2010 ,2011
Cúp Pichichi: 2005–06
Vua kiến tạo UEFA Champions League : 2005–06
Vua phá lưới Cúp bóng đá châu Phi: 2006, 2008.
Tiền đạo xuất sắc cấp câu lạc bộ của UEFA: 2006
Quả bóng vàng FIFA Club World Cup: 2010
Vua phá lưới Coppa Italia : 2010–11
Bàn chân vàng: 2015
Cầu thủ xuất sắc của Globe Soccer: 2016
Tham khảo
Liên kết ngoài
Samuel Eto'o Private Foundation
Cầu thủ bóng đá nam Cameroon
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Cameroon
Cầu thủ bóng đá Real Madrid
Cầu thủ bóng đá Chelsea F.C.
Cầu thủ bóng đá Barcelona
Người đoạt giải Cầu thủ xuất sắc nhất năm của FIFA
Cầu thủ bóng đá Inter Milan
Cầu thủ bóng đá FC Anzhi Makhachkala
Nhân vật còn sống
Tiền đạo bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá Everton F.C.
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2014
Cầu thủ bóng đá Serie A
Cầu thủ bóng đá U.C. Sampdoria
Cầu thủ bóng đá Thế vận hội Mùa hè 2000
Huy chương bóng đá Thế vận hội
Huy chương Thế vận hội Mùa hè 2000
FIFA Century Club
Cầu thủ bóng đá Thế vận hội của Cameroon
Cầu thủ Cúp Liên đoàn các châu lục 2001
Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 1998
Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2002
Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2010
Cầu thủ Cúp Liên đoàn các châu lục 2003
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Tây Ban Nha
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Ý
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Qatar
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Thổ Nhĩ Kỳ
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Nga
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Anh
|
24794
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%A1p%20Hi%E1%BB%81n
|
Pháp Hiền
|
Thiền sư Pháp Hiền (?-626) họ Đỗ, người huyện Chu Diên nay là huyện Gia Lâm (Hà Nội) thuộc thế hệ thứ nhất dòng Pháp của Thiền sư Tì Ni Đa Lưu Chi. Sư tu chùa Pháp Vân, hương Cổ Châu, huyện Long Biên.
Cơ duyên và hành trạng
Ban đầu sư xuất gia thọ giới cụ túc với đại sư Quán Duyên ở chùa Quán Vân. Sau khi nhận được yếu chỉ thiền từ Thiền sư Tì Ni Đa Lưu Chi bèn đến núi Thiên Phúc tu tập Thiền định, quên hết cả vật lẫn bản thân mình khiến cho chim chóc, dã thú tới tự do vui đùa; người đời hâm mộ danh tiếng đến học đạo nhiều nên sư cho dựng chùa Chúng Thiện làm nơi lưu trú. Dòng Thiền Nam phương hưng thịnh từ đó.
Nhà Tùy từ lâu nghe tiếng người nước Nam sùng chuộng đạo Phật nay lại có bậc cao tăng đức cao đạo trọng nên Tùy Cao tổ bèn cho đem xá lỵ Phật sang ban cho sư Pháp Hiền để xây tháp cúng thờ. Sư đem chia cho các chùa Pháp Vân ở Luy Lâu và ở các châu: Phong Châu, Hoan Châu, Trường Châu để dựng tháp thờ.
Khi sư Pháp Hiền còn ở chùa Quán Vân, một hôm Thiền sư Tì Ni Đa Lưu Chi từ Quảng Châu đến, gặp sư bèn hỏi:
Ngươi họ gì?
Sư hỏi lại: Hòa thượng họ gì?
Tì Ni Đa Lưu Chi nói: Ngươi không có họ ư?''
Sư đáp: Họ không phải không có, nhưng hòa thượng cần gì phải biết
Tì Ni Đa Lưu Chi quát bảo: Biết để làm gì?
Sư hoát nhiên đại ngộ.
Sư tịch năm Bính Tuất, niên hiệu Đường Vũ Đức thứ chín (626)
Chú thích
Theo nguyên bản Thiền Uyển Tập Anh, Tì Ni Đa Lưu Chi là thế hệ thứ nhất, trước truyền Pháp Hiền có ghi là "đệ nhị thế" (thế hệ thứ hai). Nhưng các số thứ tự tiếp sau Pháp Hiền lại lặp lại số thứ hai, không tính tổ mở dòng mà xem Pháp Hiền là thế hệ thứ nhất.
Nguyên bản chữ Hán
Tham khảo
Lê Mạnh Thát: Nghiên cứu về Thiền Uyển Tập Anh, Nhà xuất bản TP HCM 1999.
Thiền uyển tập anh- Viện nghiên cứu Phật học, Nhà xuất bản Văn học, 1990.
Thiền Uyển Tập Anh - Bản tiếng Việt
Thiền Uyển Tập Anh - Bản chữ Hán
Thiền sư Việt Nam
Mất năm 626
Năm sinh không rõ
Thiền phái Tì-ni-đa-lưu-chi
Người Hà Nội
|
24797
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%A2n%20sinh%20trong%20bi%E1%BB%83u%20m%C3%B4%20c%E1%BB%95%20t%E1%BB%AD%20cung
|
Tân sinh trong biểu mô cổ tử cung
|
Tân sinh trong biểu mô cổ tử cung hay nghịch sản cổ tử cung (thường được viết tắt là CIN, theo tiếng Anh Cervical Intraepithelial rNeoplasia) chỉ những thay đổi của niêm mạc cổ tử cung có tiềm năng ác tính nhưng chưa có sự xâm nhập vào mô đệm.
Đa số hiện tượng này xuất hiện ở vùng chuyển tiếp giữa biểu mô lát và biểu mô tuyến (hay biểu mô trụ) của cổ tử cung. Đây là vùng thường xuyên biến đổi và rất nhạy cảm với những thay đổi của môi trường xung quanh nó.
Từ tân sinh trong biểu mô cổ tử cung có thể sẽ diễn tiến thành ung thư tại chỗ, rồi ung thư xâm lấn cổ tử cung – một bệnh nguy hiểm thường gặp ở phụ nữ, nhất là các nước đang phát triển mà việc điều trị khó khăn, tốn kém.
Do đó, việc phát hiện sớm những tổn thương này có ý nghĩa quan trọng. Trong khi đó, cổ tử cung là một cơ quan dễ khảo sát và xét nghiệm đóng vai trò chính trong việc này là phết mỏng tế bào cổ tử cung lại là xét nghiệm rẻ tiền, đơn giản.
Dịch tễ
Những yếu tố thuận lợi cho sự xuất hiện tân sinh trong biểu mô cổ tử cung:
Giao hợp sớm (trước 17 tuổi). Giao hợp với nhiều người, và giao hợp với người có quan hệ tình dục với nhiều phụ nữ. Những tình huống trên làm tăng nguy cơ mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục gây viêm nhiễm cổ tử cung, cũng như gây những sang chấn lên cổ tử cung, là những tác nhân tác động lên vùng chuyển tiếp vốn rất nhạy cảm với các tác nhân này.
Viêm nhiễm sinh dục do HPV (Human Papilloma Virus) là một yếu tố nguy cơ chính. Vai trò của HPV gây tân sinh trong biểu mô cổ tử cung đã được xác nhận. HPV là một loại virus có nhân chứa chất liệu di truyền là DNA, đã được tìm thấy trong hơn 80% các mẫu tế bào cổ tử cung bị kết luận là nghịch sản (hay tân sinh trong biểu mô) hoặc ung thư xâm lấn.
Tuy nhiên nhiễm HPV rất hay gặp ở những phụ nữ tuổi hoạt động tình dục, nhưng chỉ một số ít trong đó bị tân sinh cổ tử cung hay ung thư cổ tử cung. Điều này chứng tỏ còn nhiều yếu tố ảnh hưởng đến nguy cơ gây nghịch sản trong tế bào cổ tử cung. Đầu tiên là chủng HPV bị nhiễm. Đã có 77 chủng HPV được tìm ra, trong đó có 2 nhóm chính gây bệnh ở người. Các chủng HPV 6b và 11 là những chủng gây condyloma sùi ở âm hộ, âm đạo, cổ tử cung, cũng được tìm thấy trong những tổn thương nghịch sản nhẹ CIN I, nhưng diễn tiến lành tính và hiếm khi diễn tiến thành ung thư xâm lấn. Trong khi đó chủng HPV 16, 18, 31, 33 là những chủng ác tính, chúng được tìm thấy ở 50-80% các trường hợp nghịch sản và ở 90% các trường hợp ung thư cổ tử cung xâm lấn. Sở dĩ các chủng HPV này có khả năng gây bệnh cao vì chúng có khả năng ghép chất liệu di truyền của virus và với DNA của tế bào chủ, gây ra những đột biến gene có tiềm năng sinh ung.
Ngoài ra còn một số yếu tố khác cũng được coi là yếu tố nguy cơ, đó là điều kiện kinh tế xã hội thấp, vệ sinh kém, hút thuốc lá, và các tác nhân gây suy giảm sức đề kháng như nhiễm HIV,....
Sinh bệnh học
Cổ tử cung gồm 2 phần: cổ ngoài và cổ trong. Trong đó, ở cổ ngoài là các tế bào biểu mô lát giống tế bào biểu mô lát của âm đạo nhưng trơn láng hơn, còn cổ trong là biểu mô tuyến gần giống như biểu mô của nội mạc tử cung. Chỗ tiếp giáp giữa biểu mô lát của cổ ngoài và biểu mô tuyến của cổ trong được gọi là lỗ cổ ngoài mô học.
Đây là vùng chuyển tiếp của hai loại biểu mô. Tại đây có các tế bào dự trữ, có khả năng biến thành biểu mô lát hoặc biểu mô tuyến nhằm tái tạo những tổn thương của cố tử cung. Một sự thay đổi pH của âm đạo có thể do viêm nhiễm, hoẵc tình trạng cường estrogen sẽ làm tăng sinh và tăng tiết các tế bào cổ trong, chúng mọc lan ra ngoài và sẽ có sự hiện diện các tế bào biểu mô tuyến trên bề mặt biểu mô lát của cổ ngoài tử cung. Tình trạng đó được gọi là lộ tuyến cổ tử cung.
Khi những thay đổi trên không còn, lộ tuyến cổ tử cung sẽ biến mất, đó là sự tái tạo của cổ tử cung. Sự tái tạo này còn được gọi là biểu mô hóa – các tế bào tuyến sẽ biến mất nhường chỗ cho các tế bào lát. Trong quá trình này, có sự chuyển sản của các tế bào dự trữ của biểu mô tuyến thành các tế bào lát. Sự tái tạo này có thể đi kèm với một sự tăng sinh bất thường khi có sự hiện diện của một tác nhân nào đó thường nhất là do nhiễm HPV, tạo ra những tế bào bất thường – hiện tượng này chính là tân sinh trong biểu mô cổ tử cung hay nghịch sản cổ tử cung.
Ngoài ra trong quá trình tái tạo, vùng chuyển sản cũng có thể chuyển thành biểu mô tuyến và cùng với những yếu tố nguy cơ như trên cũng có thể diễn tiến thành ung thư tế bào tuyến cổ tử cung.
Chẩn đoán
Tân sinh trong biểu mô thường gặp ở phụ nữ trẻ, đỉnh cao là 20–40 tuổi. Người ta ghi nhận diễn tiến từ tân sinh trong biểu mô đến ung thư xâm lấn cần 10–15 năm.
Bệnh không có triệu chứng lâm sàng rõ ràng. Chẩn đoán bệnh chủ yếu dựa vào các phương tiện cận lầm sàng:
Phết tế bào cổ tử cung
Đây là xét nghiệm tế bào học cổ tử cung. Là một xét nghiệm rẻ tiền, thực hiện đơn giản và dùng để tầm soát ung thư cổ tử cung. Theo Hội Ung thư Hoa Kỳ khuyến cáo thì mỗi phụ nữ đã có quan hệ tình dục nên được phết tế bào cổ tử cung mỗi năm một lần. Sau 3 lần liên tiếp với kết quả bình thường thì khoảng thời gian làm lại có thể thưa ra tùy theo đánh giá của bác sĩ. Thời gian này có thể là mỗi 3 năm, cho đến lúc 60 tuổi. Nếu trên tuổi này mà kết quả vẫn bình thường thì có thể loại khỏi chương trình tầm soát.
Soi cổ tử cung
Thực hiện khi bệnh nhân có kết quả phết tế bào cổ tử cung bất thường. Soi giúp xác định vị trí và mức độ lan tỏa của tổn thương, đồng thời hướng dẫn cho sinh thiết cổ tử cung.
Sinh thiết cổ tử cung
Sinh thiết là phương tiện sau cùng và cho kết quả chính xác hơn cả, sinh thiết giúp chẩn đoán giải phẫu bệnh.
Sinh thiết được thực hiện dưới hướng dẫn của máy soi. Đôi khi sinh thiết, ngoài để chẩn đoán còn là một phương pháp điều trị đối với giai đoạn sớm của bệnh, đó là trường hợp khoét chóp cổ tử cung sinh thiết.
Phân độ
Phân độ của CIN thường dựa trên kết quả của mẫu phết mỏng cổ tử cung. Được chia làm 3 mức độ:
Nghịch sản nhẹ, khi chỉ 1/3 dưới của lớp biểu mô bị ảnh hưởng. CIN I còn được xem là tổn thương trong biểu mô lát mức độ thấp (LSIL-Low grade squamous intraepithelial lesion).
Nghịch sản trung bình, khi 2/3 dưới của lớp biểu mô bị ảnh hưởng.
Nghịch sản nặng, khi 1/3 trên của lớp biểu mô bị ảnh hưởng.
CIN II và III được xem là tổn thương trong biểu mô lát mức độ cao (HSIL-high grade squamous intraepithelial lesions).
Còn gọi là ung thư tại chỗ khi toàn bộ bề dày lớp biểu mô bị ảnh hưởng.
Điều trị
Nghịch sản nhẹ
Khoảng 60% có thể tự biến mất trong vài tháng và có khoảng 11% sẽ tiến triển thành ung thư. Do đó cần làm lại phết tế bào cổ tử cung sau khoảng 4–6 tháng. Nếu sang thương vẫn còn, có thể xử trí bằng đốt điện, đốt lạnh hoặc đốt bằng tia laser.
Đối với phụ nữ ở tuổi mãn kinh, khi thấy kết quả là nghịch sản nhẹ thì có thể sử dụng estrogen bôi tại chỗ trong vòng 2 tháng trước khi kiểm tra lại bằng phết tế bào cổ tử cung.
Nghịch sản trung bình
Chỉ có khoảng 40% là tự khỏi, và khoảng 22% sẽ tiến triển thành ung thư, do đó CIN II buộc phải điều trị với các phương pháp tương tự như trên. Khi sang thương ăn sâu vào lỗ trong thì thực hiện khoét chóp cổ tử cung.
Khoét chóp là phương pháp chính trong chẩn đoán và điều trị những tổn thương giai đoạn sớm. Khoét chóp sẽ lấy đi toàn bộ vùng chuyển tiếp lát-trụ ở quanh cổ tử cung. Tùy theo vùng chuyển tiếp nằm ở đâu thì quyết định chiều sâu của khoét chóp.
Nghịch sản nặng
Khoét chóp là phương pháp được chọn lựa. Tuy nhiên trong một số trường hợp tổn thương lan rộng vào đến lỗ trong cổ tử cung mà khoét chóp không đảm bảo hoặc khi bệnh nhân lớn tuổi, có đủ con, không đủ điều kiện để theo dõi bệnh nhân lâu dài, khi bệnh nhân có các tình trạng bệnh lý khác đi kèm như: u xơ cơ tử cung, rối loạn kinh nguyệt, sa sinh dục... thì cắt tử cung toàn phần là một chọn lựa tốt hơn.
Theo dõi sau điều trị
Trong năm đầu, mỗi 3 tháng phết tế bào cổ tử cung một lần, soi cổ tử cung mỗi 6 tháng.
Nếu bình thường thì làm lại phết tế bào cổ tử cung sau đó 9 tháng.
Khi tất cả các xét nghiệm trên bình thường, thì chỉ theo dõi phết tế bào mỗi năm một lần.
Chủng ngừa chống HPV
Cuộc nghiên cứu tìm thuốc chủng ngừa vaccine cho HPV do hai bác sĩ Ian Frazer và Jian Zhou đã thành công. Trong tương lai gần, phụ nữ nên chủng ngừa để tránh nhiễm siêu vi trùng HPV cổ tử cung và hy vọng bệnh ung thư cổ tử cung sẽ trở thành bệnh hiếm thấy.
Kết luận
Ung thư cổ tử cung là một trong những ung thư thường gặp ở giới nữ. Trong khi cổ tử cung là một cơ quan dễ tiếp cận, do đó phát hiện sớm những tổn thương tiền ung là điều có thể làm được và cần thiết.
Tân sinh trong biểu mô là một tổn thương tiền ung. Nếu được phát hiện ở giai đoạn này, việc điều trị sẽ dễ dàng và ít tốn kém hơn, tiên lượng bệnh nhân cũng tốt hơn.
Trong số những phương tiện để chẩn đoán, thì phết tế bào cổ tử cung là một xét nghiệm đơn giản, ít tốn kém và khá hữu hiệu, có thể áp dụng rộng rãi và thích hợp cho các nước đang phát triển.
Tham khảo
NEJM - Cancer of the Unterine Cervix Stephen A.Cannistra M.D., Jonathan M. Niloff M.D.
Cervical Cancer by Agustin A Garcia, MD - Emedicine
Optimizing the Papanicolaou Smear
Women's Health: Managing cervical intraepithelial neoplasia
Chú thích
Xem thêm
Ung thư cổ tử cung
Phết tế bào cổ tử cung
Soi cổ tử cung
Liên kết ngoài
Women and AIDS: Cervical Intraepithelial Neoplasia
An Introduction to Cervical Intraepithelial Neoplasia (CIN) IARC
Viện ung thư quốc gia Hoa Kỳ
Hội ung thư Hoa Kỳ
Ung thư
Phụ khoa
|
24798
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thanh%20Bi%E1%BB%87n
|
Thanh Biện
|
Thanh Biện (zh. qīngbiàn 清辯, sa. bhāvaviveka, bhavya, ja. shōben) là Luận sư quan trọng của Trung quán tông (sa. mādhyamika), sống khoảng giữa 490 và 570. Sư sinh tại Nam Ấn Độ, theo học giáo lý của Long Thụ (sa. nāgārjuna) tại Ma-kiệt-đà (sa. magadha). Sau đó Sư trở về quê hương và trở thành một luận sư danh tiếng. Trong các tác phẩm được dịch ra chữ Hán và chữ Tây Tạng (phần lớn của nguyên bản Phạn ngữ đã thất truyền), Duy thức tông (sa. vijñānavādin, yogācārin) là đối tượng bị Sư chỉ trích. Là người sáng lập hệ phái Trung quán-Y tự khởi (zh. 中觀依自起, sa. mādhyamika-svātantrika, cũng được gọi là Độc lập luận chứng phái 獨立論證派), một trong hai trường phái của Trung quán, Sư cũng đả kích Phật Hộ (sa. buddhapālita), người sáng lập hệ phái Trung quán-Cụ duyên (中 觀 具 緣; prāsaṅgika-mādhyamika) bằng một phương pháp suy luận biện chứng trên cơ sở nhân minh học (sa. hetuvidyā), Nhận thức học (sa. pramāṇavāda). Vào thế kỉ thứ 8, trường phái của Sư được Tịch Hộ (sa. śāntarakṣita) biến thành phái Trung quán-Duy thức (sa. mādhyamika-yogācāra).
Tác phẩm
Các tác phẩm của Sư (trích):
Đại thừa chưởng trân luận (sa. mahāyānatālaratnaśāstra), Huyền Trang dịch;
Bát-nhã đăng luận thích (sa. prajñāpradīpa, cũng có tên prajñāpradīpa-mūlamadhyamaka-vṛtti), Ba-la-phả Mật-đa dịch;
Trung quán tâm luận tụng (sa. madhyamakahṛdayakārikā), Tạng ngữ;
Trung quán tâm quang minh biện luận (sa. madhyamakahṛdayavṛttitarkajvālā), chú giải Trung quán tâm luận tụng (sa. madhyamakahṛdayakārikā), Tạng ngữ;
Trung quán nhân duyên luận (sa. madhyamikapratītyasamutpāda-śāstra), Tạng ngữ;
Nhập trung quán đăng luận (sa. madhyamakāvatārapradīpa), Tạng ngữ;
Nhiếp trung quán nghĩa luận (sa. madhyamārtha-saṃgraha), còn bản Tạng ngữ và Phạn ngữ;
Dị bộ tông tinh thích (sa. nikāyabheda-vibhaṅgavyākhyāna), chỉ còn lưu lại trong Tạng ngữ, nói về các tông phái phật giáo sau khi Phật diệt độ đến thời Thanh Biện, rất giống Dị bộ tông luân luận (sa. samayabhedavyūhacakraśāstra) của Thế Hữu (vasumitra).
Xem thêm
Trung quán tông
Long Thọ
Duy thức tông
Tham khảo
Luận sư Phật giáo
Trung quán tông
Tăng sĩ Ấn Độ
|
24804
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%8Bnh%20Kh%C3%B4ng
|
Định Không
|
Thiền sư Định Không (730-808) họ Nguyễn, sư người hương Cổ Pháp, thuộc dòng vọng tộc. Thiền sư là một trong 3 thiền sư thuộc thế hệ thứ 8 thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi, tu hành ở chùa Thiện Chúng, hương Dịch Bảng, phủ Thiên Đức.
Cơ duyên và hành trạng
Khi tuổi đã nhiều, nhân đi dự hội ở chùa Long Tuyền, nghe Thiền sư Nam Dương giảng kinh, ông lĩnh ngộ tôn chỉ, quy y đạo Phật. Khoảng niên hiệu Đường Trinh Nguyên (785-805) sự dựng chùa Quỳnh Lâm ở bản hương. Khi xây chùa, thợ làm móng đào được một bình hương và mười chiếc khánh đồng. Sư sai người đem ra sông rửa sạch, một chiếc rơi xuống sông trôi liệng mãi đến khi chạm đất mới nằm im.
Sư giải thích rằng: Thập khẩu là chữ cổ, Thủy khứ là chữ Pháp. Còn thổ là chỉ vào hương ta. Nhân đó đổi tên hương Diên Uẩn thành hương Cổ Pháp. Sư có làm bài tụng như sau:
{|valign=top
|Rồi Sư đọc kệ rằng:
Địa trình pháp khí
Nhất phẩm tinh đồng
Trị Phật pháp chi hưng long
Lập hương danh chi Cổ Pháp|valign=top |
Dịch thơ:Đất bày dâng pháp khíPhẩm chất thuần túy đồngChuẩn bị cho Phật Pháp hưng longĐặt tên là Cổ Pháp|}
Trước khi quy tịch, sư nói với đệ tử Thông Thiện: Ta muốn mở mang hương ấp, nhưng sợ ngày sau gặp nạn, tất có dị nhân đến phá hoại mạch đất của hương ta. Sau khi ta qua đời, ngươi khéo giữ đạo pháp của ta để sau gặp người họ Đinh thì truyền lại. Thế là ý nguyện của ta được toại thành.
Nói xong, sư cáo biệt rồi qua đời, thọ 79 tuổi. Năm đó là năm Mậu Tý, niên hiệu Đường Nguyên Hòa thứ ba (808).
Nguyên bản chữ Hán
Tham khảo
Thơ văn Lý-Trần, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1977.
Thiền uyển tập anh, Viện nghiên cứu Phật học, Nhà xuất bản Hội nhà văn, 1990.
Lê Mạnh Thát: Nghiên cứu về Thiền Uyển Tập Anh'', Nhà xuất bản TP HCM 1999.
Thiền Uyển Tập Anh - Bản tiếng Việt
Thiền Uyển Tập Anh - Bản chữ Hán
Chú thích
Thiền sư Việt Nam
Thiền phái Tì-ni-đa-lưu-chi
người Bắc Ninh
|
24805
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/La%20M%C3%A3%20c%E1%BB%95%20%C4%91%E1%BA%A1i
|
La Mã cổ đại
|
Bài này viết về một nền văn minh cổ đại. Liên quan đến thành La Mã cổ đại, vui lòng xem Trung tâm lịch sử thành Roma.
La Mã cổ đại là nền văn minh La Mã bắt đầu từ sự kiện thành lập thành phố Rome vào thế kỷ thứ ́8 TCN cho tới sự sụp đổ của Đế quốc Tây La Mã vào thế kỷ thứ 5 CN, bao gồm các thời kỳ Vương quốc La Mã, Cộng hoà La Mã và Đế quốc La Mã cho tới khi đế quốc Tây La Mã sụp đổ. Thuật ngữ này đôi khi chỉ được sử dụng để nhắc đến các thời kỳ vương quốc và cộng hòa, ngoài ra không bao gồm thời kỳ đế quốc tiếp sau.
Nền văn minh này bắt đầu khi một khu định cư của người Italici ở bán đảo Italia, có niên đại vào thế kỷ thứ 8 TCN, đã phát triển tạo nên thành phố Rome và sau đó tên gọi của nó được đặt cho toàn bộ đế quốc mà nó cai trị và cho nền văn minh phổ biến được đế quốc khuếch trương. Đế quốc La Mã đã bành trướng để trở thành một trong những đế quốc lớn nhất trong thế giới cổ đại, mặc dù vẫn được cai trị từ thành phố Rome, cùng với dân số được ước tính là từ 50 tới 90 triệu người (khoảng gần 20% dân số thế giới) và bao phủ 5 triệu kilomet vuông tại thời điểm đỉnh cao của nó vào năm 117 CN.
Trong nhiều thế kỷ tồn tại của mình, nhà nước La Mã đã phát triển từ một nền quân chủ thành một nền Cộng hòa cổ điển và sau đó thành một đế quốc ngày càng chuyên chế. Thông qua việc chinh phục và đồng hóa, nó cuối cùng đã thống trị khu vực Địa Trung Hải, Tây Âu, Tiểu Á, Bắc Phi, và nhiều vùng của Bắc và Đông Âu. Nó thường được xếp vào thời kỳ Cổ đại cổ điển cùng với Hy Lạp cổ đại, và những nền văn hóa và xã hội tương tự của họ được biết đến như là thế giới Hy Lạp-La Mã.
Nền văn minh La Mã cổ đại đã góp phần tạo nên chính quyền, luật pháp, chính trị, kỹ nghệ, nghệ thuật, văn chương, kiến trúc, công nghệ, chiến tranh, tôn giáo, ngôn ngữ, và xã hội hiện đại. Rome đã chuyên nghiệp hóa và mở rộng quân đội của mình và tạo ra một hệ thống chính quyền gọi là res publica, đây cũng là nguồn cảm hứng cho các nền cộng hòa hiện đại như là Hoa Kỳ và Pháp. Nó đã đạt được những thành tựu ấn tượng về công nghệ và kiến trúc, như là xây dựng một hệ thống cống dẫn nước và đường sá rộng lớn, cũng như xây dựng các tượng đài, cung điện, và các công trình công cộng lớn.
Vào cuối thời kỳ Cộng hòa (27 TCN), Rome đã chinh phục các vùng đất xung quanh khu vực Địa Trung Hải và xa hơn nữa: Lãnh thổ của nó kéo dài từ Đại Tây Dương tới Ả rập và từ cửa sông Rhine tới Bắc Phi. Đế quốc La Mã đã nổi lên cùng với sự kết thúc của nền Cộng hòa và chế độ độc tài của Augustus Caesar. Các cuộc Chiến tranh La Mã-Ba Tư kéo dài 721 năm đã bắt đầu vào năm 92 TCN cùng với cuộc chiến tranh đầu tiên của họ chống lại Parthia. Nó sẽ trở thành cuộc xung đột kéo dài lâu nhất trong lịch sử nhân loại, và gây ra những hậu quả và tác động lâu dài đối với cả hai đế quốc. Dưới thời Trajan, đế quốc đạt tới đỉnh cao về lãnh thổ của nó. Những truyền thống và tục lệ của chế độ Cộng hòa đã bắt đầu suy tàn trong thời kỳ đế quốc, cùng với đó những cuộc nội chiến đã trở thành một sự kiện mở đầu thông thường đối với sự trỗi dậy của một hoàng đế mới. Những quốc gia ly khai chẳng hạn như đế quốc Palmyra sẽ tạm thời chia cắt đế quốc trong cuộc khủng hoảng của thế kỷ thứ 3.
Do những bất ổn nội bộ và bị tấn công bởi nhiều dân tộc di cư, phần phía Tây của đế quốc đã tan vỡ thành những vương quốc độc lập của "người rợ" vào thế kỷ thứ 5 TCN. Sự tan rã này là một cột mốc được các nhà sử học sử dụng để tách biệt thời kỳ cổ đại của lịch sử thế giới khỏi "Kỷ nguyên Tăm Tối" tiền Trung Cổ của Châu Âu. Phần phía đông của đế quốc đã tồn tại qua được thế kỷ thứ 5 và vẫn còn là một cường quốc trong suốt "Kỷ nguyên Tăm Tối" và thời kỳ Trung Cổ cho đến khi nó bị sụp đổ vào năm 1453 CN. Mặc dù các cư dân của đế quốc này không tạo nên sự khác biệt nào, đế quốc này đa phần thường được nhắc đến như là "Đế quốc Byzantine" trong thời kỳ Trung Cổ bởi các sử gia hiện đại để phân biệt giữa quốc gia cổ đại và quốc gia mà nó đã phát triển thành.
Lịch sử
Thời kì Vương chính
Thành phố Roma phát triển từ những khu định cư trên và xung quanh đồi Palatine, xấp xỉ mười tám dặm từ biển Tyrrhenia (một phần của biển Địa Trung Hải) trên dòng sông Tiber. Tại vị trí này sông Tiber có một hòn đảo mà ở đó có thể lội qua sông. Do dòng sông và chỗ cạn, Roma ở vị trí quyết định đối với giao thông và buôn bán.
Trong truyền thuyết của người La Mã, Roma được xây dựng bởi Romulus vào ngày 21 tháng 4 năm 753 TCN. Romulus, người mà tên đã được coi là sinh ra tên của thành Roma, là người đầu tiên trong 7 vị vua của Roma mà người cuối cùng là Tarquin Kiêu hãnh bị phế truất vào năm 510 hay 509 TCN khi La Mã Cộng hoà được thiết lập. Những vị vua thần thoại hay bán thần thoại là (theo thứ tự thời gian): Romulus, Numa Pompilius (Vua hiền Numa), Tullus Hostilius, Ancus Marcius, Tarquinius Priscus, Servius Tullius, và Tarquinius Superbus (Tarquin Kiêu hãnh).
Thời kì Cộng hoà
Cộng hòa La Mã được thành lập vào năm 509 TCN, theo những tác giả về sau như Livy, khi nhà vua bị hạ bệ, và một hệ thống dựa trên những quan chức hành chính địa phương được bầu ra hằng năm. Quan trọng nhất là hai quan chấp chính tối cao, những người cùng nhau áp dụng quyền hành pháp, nhưng phải đấu tranh với Hội đồng Nguyên lão cứ lớn lên về quy mô và quyền lực cùng với lực lượng của nền Cộng hoà. Các chức vị quan toà lúc đầu chỉ được giới hạn cho quý tộc nhưng sau này được mở rộng cho cả người bình dân.
Người La Mã dần dần đánh bại những dân tộc khác trên bán đảo Ý, chủ yếu liên quan đến những bộ tộc Ý khác (thuộc dòng Ấn-Âu) như người Samnite và Sabine, nhưng cũng có cả người Etrusca. Mối đe doạ cuối cùng cho đế chế La Mã đến khi Tarentum, một thuộc địa lớn của Hy Lạp, nhận được sự giúp đỡ của vua xứ Ipiros là Pyrros vào năm 282 TCN.
Trong nửa sau của thế kỷ thứ III TCN, Roma xung đột với Carthage trong 2 cuộc Chiến tranh Punic, xâm chiếm Sicilia và Iberia. Sau khi đánh bại Vương quốc Macedonia và Đế chế Seleucid vào thế kỷ thứ II TCN, người La Mã trở thành những người chủ không thể chối cãi của vùng Địa Trung Hải.
Xung đột nội bộ giờ đây trở thành mối đe doạ lớn nhất đối với nền Cộng hoà. Hội đồng Nguyên lão, khư khư giữ lấy quyền lực cho mình, liên tục phản đối những cải cách đất đai quan trọng. Một hậu quả không lường trước được từ cải cách quân sự của Gaius Marius là quân lính thường có lòng trung thành với người chỉ huy của họ nhiều hơn đối với thành phố, và một vị tướng hùng mạnh như Marius, hay đối thủ của ông Lucius Cornelius Sulla, có đủ khả năng uy hiếp buộc thành phố và Hội đồng Nguyên lão phải nhượng bộ.
Vào giữa thế kỷ I TCN ba người, Julius Caesar, Gnaeus Pompeius Magnus (Pompey) và Marcus Licinius Crassus, đã nắm quyền kiểm soát không chính thức của chính phủ cộng hoà thông qua một hiệp ước bí mật được biết đến như là Chế độ Tam hùng đầu tiên. Caesar có thể hoà hợp với những đối thủ Pompey và Crassus, cả hai đều là những người cực giàu với quân đội riêng và sự nghiệp thượng nghị sĩ, và hành động vì lợi ích của cả hai người khi bầu chọn quan chấp chính tối cao, trước khi dùng cương vị thống đốc của mình như người cầm quyền của Gaule để tự mình có được danh tiếng quân sự.
Sau cái chết của Crassus và sự sụp đổ của chế độ Tam hùng, một sự tách biệt giữa Caesar và Hội đồng Nguyên lão đã dẫn tới nội chiến, với Pompey dẫn đầu lực lượng của Hội đồng. Caesar chiến thắng và được phong làm nhà độc tài suốt đời sau khi từ chối tước hiệu quốc vương. Tuy nhiên, ông ta chiếm lấy quá nhiều quyền lực quá nhanh đối với một vài thượng nghị sĩ, và bị ám sát trong một âm mưu được tổ chức bởi Brutus và Cassius vào ngày 15 tháng 3 năm 44 TCN.
Một chế độ Tam hùng thứ hai, bao gồm người thừa kế đã được chỉ định là Augustus và những cựu trợ thần Marcus Antonius, Marcus Aemilius Lepidus, lên nắm quyền, nhưng những thành viên của nó nhanh chóng rơi vào một cuộc đấu tranh giành quyền thống trị. Trong nỗ lực cuối giành chính quyền Cộng hoà, Augustus đánh bại Antonius tại trận chiến Actium vào năm 31 TCN và thôn tính những vùng lãnh thổ của Cleopatra, người vợ phương Đông của Antonius. Augustus giữ lại Ai Cập như là thuộc địa không chính thức của nhà vua, bảo đảm một thu nhập để lấy lòng những cư dân thủ đô. Giờ đây ông ta nắm lấy quyền lực gần như tuyệt đối với tư cách là thống soái quân sư, người bảo vệ duy nhất của quần chúng, và quyền lực tối cao trên lãnh thổ La Mã, và lấy tên Augustus. Những xác lập hiến pháp trên (đã biến Roma từ một nước cộng hoà thành một đế quốc). Người kế vị được chỉ định của Augustus, Tiberius, lên nắm quyền mà không có cuộc đổ máu nào (thậm chí còn không có nhiều sự kháng cự), và như vậy đã hoàn thành công trình của ông.
Thời kì Đế quốc
Trong thời kì Đế quốc, biên giới đế chế tương đối ổn định vì người La Mã đã chế ngự được các cuộc nổi dậy, những kẻ lăm le quyền lợi đế quốc, những cuộc xâm lược của những "người man rợ" (barbarian) và những khó khăn khác. Để đối phó tốt hơn với nhiệm vụ giữ cả đế chế lại với nhau, các hoàng đế bắt đầu chỉ định các vị đồng hoàng đế (co-emperor), mặc dù điều này thường dẫn đến nội chiến. Sau năm 395 đế chế đã bắt đầu tách thành hai phần đông và tây.
Sụp đổ
Trong Đế quốc La Mã, từ "người man di" chỉ bất cứ ai không phải là một công dân La Mã, và được áp dụng chủ yếu cho những bộ tộc Bắc Âu ngoài tầm ảnh hưởng của nền văn hoá Roma. Năm 476, đế quốc Tây La Mã đã sụp đổ bởi sự tấn công của các bộ tộc man di.
Theo Edward Gibbon, Đế quốc La Mã đã không chống cự được cuộc xâm lược của các bộ tộc man di (barbarian) do sự suy thoái, mất tinh thần chiến đấu của người dân. Sau một thời gian dài sống trong hòa bình, người dân La Mã đã trở nên lười biếng và uỷ mị, họ giao phó nghĩa vụ bảo vệ Đế chế của họ cho bọn lính đánh thuê người man di. Vai trò của lực lượng quân đội người man di trở nên dày đặc và ăn sâu đến nỗi họ có thể dễ dàng vượt mặt Đế chế. Những người La Mã, Gibbon nói, đã trở thành "ẻo lả như phụ nữ và không muốn sống theo kiểu quân sự".
Thêm vào đó, Gibbon cũng ám chỉ vai trò của Thiên chúa giáo trong sự sụp đổ của Roma. Thiên chúa giáo, ông nói, đã tạo ra niềm tin vào một thế giới khác và gợi ý rằng có một cuộc sống tốt đẹp hơn sau cái chết. Điều này cổ vũ sự thờ ơ giữa những công dân La Mã tin rằng họ sẽ có một cuộc sống tốt hơn sau khi họ chết, do đó huỷ hoại ý muốn của họ về việc duy trì và hi sinh cho đế chế. Thêm nữa, sự nổi lên của Thiên chúa giáo cũng tạo ra một sự xác định tư hữu quan trọng hơn nhà nước, làm thu nhỏ hơn mong muốn đưa những nhu cầu của nhà nước lên trên của bản thân. Giải thích này được nhìn nhận với thái độ hoài nghi bởi đế chế chỉ bị tan rã ở phía Tây, trong khi ở phía Đông, Đế chế vẫn tiếp tục như là Đế chế Byzantine ở Phương Đông. Tuy nhiên, mọi người điều đồng ý rằng sự suy tàn và sụp đổ của Đế chế La Mã rất phức tạp không chỉ có một nguyên nhân.
Các nhà sử học ngày nay đã đưa ra nhiều giả thuyết khác nhau cho sự sụp đổ của đế chế phía tây: việc nhiễm độc chì tại các thùng rượu, bệnh dịch, sự mục nát chính trị, văn hóa đô thị không còn sức sáng tạo, và việc dịch chuyển nghĩa vụ quân sự cho người nước ngoài và người ở ven đế quốc.
Xã hội
Cuộc sống của các cư dân La Mã cổ đại được xác định quanh các thành phố như thành phố Roma. Thành phố có một số lượng khổng lồ các công trình xây dựng như là Colosseum, quảng trường của hoàng đế Trajan và đền thờ các vị thần (Pantheon). Trên thành phố Roma cổ có các vòi nước uống tươi mát được cung cấp thường xuyên bởi những hệ thống dẫn nước dài hàng trăm dặm, các rạp hát, khu thể thao lớn, tổ hợp các phòng tắm phức hợp với thư viện và khu mua sắm, khu chợ lớn, cùng với các khu vực sản xuất hàng hóa. Trên lãnh thổ của La Mã, các kiến trúc về nhà ở rất đa dạng, từ những căn nhà đơn giản cho đến các biệt thự quý tộc. Bên trong thủ đô Roma của La Mã cổ đại, là nơi ở của hoàng đế nằm ở trên ngọn đồi thoáng mát, Palatene, có lẽ từ palace bắt nguồn từ đây. Các tầng lớp cư dân từ trung xuống thấp, sống trong thành phố thì sống trong những căn hộ nhiều người, trông giống như nhiều khu dân cư thời hiện nay.
Người La Mã xây dựng các đường ống dẫn nước hầu hết khắp nơi trong lãnh thổ của mình, từ những vùng đất của người Đức ngày nay cho đến Bắc Phi, đặc biệt là ở thành Roma, với các đường dẫn nước dài tổng cộng 415 km. Với việc xây dựng các hệ thống cầu dẫn nước như Pont du Gard, Cầu máng Segovia, người La Mã cũng đã thiết lập nên 1 nền tảng kỹ thuật mà hơn 1000 năm sau vẫn chưa ai vượt qua được.
Chính phủ
Thời kỳ đầu, Roma được điều hành bởi các vị vua được bầu chọn. Các yêu cầu về năng lực của vua chưa được rõ ràng; ông ta có thể nắm giữ quyền lực gần như độc đoán, hoặc chỉ đơn thuần như một thủ tướng của nghị viện và dân tộc. Ít nhất trong lực lượng quân đội, quyền uy của nhà vua là tuyệt đối. Hơn nữa, vua cũng là lãnh tụ tôn giáo. Để tăng thêm quyền lực của vua, có ba bộ phận hành chính: Nghị viện là nơi tham vấn chính cho vua; Hội đồng Curiata có thể ủng hộ và phê chuẩn các luật lệ mà vua đề xuất; Hội đồng Calata là tập hợp các lãnh đạo tôn giáo của dân chúng nhằm chứng thực hành động đúng, lắng nghe thông cáo và biểu thị sự hăng hái và lên kế hoạch cho ngày hội của tháng tiếp theo.
Sự cạnh tranh quyền lực của nền cộng hòa La Mã thể hiện một cách cai trị đặc sắc của một thể chế chính trị dân chủ. Truyền thống pháp luật La Mã chỉ được thông qua bởi sự bỏ phiếu tín nhiệm của nhân dân (Hội đồng Tributa). Tương tự vậy, ứng cử viên cho chức vụ công thì phải thực hiện bầu cử của dân chúng. Tuy nhiên, Nghị viện La Mã được xem như là nơi tập trung cao nhất của quyền lực, tập hợp các cố vấn chính. Nền Cộng hòa La Mã nắm giữ quyền lực to lớn (auctoritas), nhưng thực tế lại không có quyền làm luật; nó được hiểu như là một nhóm cố vấn. Tuy nhiên, giống Nghị viện, bản thân các nghị viên là những cá nhân rất có thế lực, gây khó khăn rất lớn cho các quyết định chung của Nghị viện. Một nghị viên mới phải được chọn trong rất nhiều gia đình quyền thế bởi nhân viên kiểm duyệt (censura), người mà có quyền loại bỏ một nghị viên khỏi Nghị viện, nếu phát hiện thấy nghị viên nào có biểu hiện "mất phẩm chất"; lý do để thay đổi có thể bao gồm cả tội hối lộ (đút lót), hay theo như luật dưới thời Cato Già thì một nghị sĩ bị buộc phải sa thải khi ôm vợ người khác ở chốn công đường.
Luật pháp
Nguồn gốc của điều cơ bản luật pháp và thực tiễn của La Mã có thể chỉ ra luật của 12 chương mục (từ 449 TCN) cho đến những luật lệ của Hoàng đế Justinian I (khoảng 530). Luật pháp của La Mã như là các luật lệ của Justinian, bởi vì nó là cơ sở lý luận và thực tiễn trong thời kỳ Đế chế Byzantine và trong lục địa Tây Âu, và được tiếp tục ở các thời kỳ về sau, cho đến tận thời kỳ thế kỷ XVIII của rất nhiều quốc gia.
Luật pháp của La Mã gồm 3 phần chính:
Ius Civile, hay "công luật", áp dụng cho tất cả công dân La Mã và chức vị Praetor Urbanus có trách nhiệm áp dụng luật này,
Ius Gentium, hay "luật quốc tế", áp dụng cho tất cả các người ngoại quốc trong các trường hợp họ tiếp xúc với các công dân La Mã và chức vị Praetor Peregrinus có trách nhiệm áp dụng luật này, và
Ius Naturale, hay "luật tự nhiên", bao gồm tất cả các luật trong tự nhiên và được xem như áp dụng cho tất cả mọi người.
Kinh tế
Đế chế La Mã cai trị một vùng lãnh thổ to lớn, cùng với một lượng khổng lồ về tài nguyên thiên và con người. Vốn dĩ, nền kinh tế của La Mã chủ yếu dự trên nền tảng là nông nghiệp và thương mại. Nông nghiệp phát triển kéo theo thương mại phát triển đã làm thay đổi bán đảo Ý, vào khoảng thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, những người tiểu điền chủ có thể sở hữu những điền trang nho và ôliu rộng lớn. Những tiểu điền chủ không đủ khả năng gây bất ổn về giá cả bởi, Đế chế La Mã đã sáp nhập thêm Ai Cập, Sicilia và Tunisia trở thành các chư hầu cung cấp sản vật. Hàng hóa xuất trở lại từ Roma là dầu ôliu và rượu vang.
Kỹ nghệ và chế tạo đồ dùng với mức hoạt động khá nhỏ, nhưng khá nhộn nhịp là các công việc khai mỏ và khai thác đá xây dựng, tùy theo mức độ xây dựng vào mỗi triều đại khác nhau. Mức độ sản xuất chỉ có các xi nghiệp nhỏ với vài chục lao động. Tuy nhiên, trong lĩnh vực sản xuất gạch xây dựng cũng có những xí nghiệp lên đến hàng trăm người.
Một số nhà viết sử, như Peter Temin, mô tả sự phát triển kinh tế của thời kỳ khởi đầu của La Mã đã thúc đẩy các kỹ nghệ khác và nghệ thuật phát triển, đặc biệt ảnh hưởng mạnh mẽ lên kinh tế thời Phục Hưng và về sau này của châu Âu.
Gia đình
Đơn vị cơ bản của xã hội La Mã là các "tiểu lâu đài" (household) và gia đình (familiy). Tiểu lâu đài bao gồm người đứng đầu, cha (người cha của gia đình), mẹ, các trẻ em, và những người có quan hệ khác. Ở tầng lớp cao hơn, thì nô lệ và đầy tớ luôn luôn là bộ phận của "tiểu lâu đài". Người đứng đầu tiểu lâu đài có một quyền lực rất lớn với những người sống cùng với ông ta: ông ta có thể quyết định cưới hay tách ly (ly hôn), bán trẻ làm nô lệ, yêu sách về tài sản, có quyền định đoạt cuộc sống của thành viên dưới quyền.
Patria potestas là một khái niệm mở rộng với những người đàn ông (con trai trưởng thành) đối với lâu đài của ông ta sinh sống. Người con gái, bắt buộc phải chịu sự điều hành và cai quản của gia đình bên chồng mình.
Tập hợp của các tiểu lâu đài có liên hệ tạo nên một gia đình (gens). Gia đình luôn là nền tảng trên quan hệ huyết thống (hoặc con nuôi được thừa nhận), nhưng thực chất chính là liên minh về quản trị và kinh tế. Đặc biệt, trong thời kỳ Cộng Hòa Roman, có một số gia đình siêu quyền thế, thường tham gia vào công việc chính trị của đế chế.
Dưới thời La Mã việc sử dụng các đám cưới được xem trọng như một hình thức củng cố hoặc tìm kiếm mối liên kết về đồng minh hơn là sự lãng mạn của tình yêu, đặc biệt đối với giai cấp quyền thế. Người cha luôn có ý tìm chồng cho con gái của mình khi cô con gái bước vào tuổi từ 12 đến 14 tuổi. Người chồng luôn được gặp gỡ thường xuyên với cô dâu trước ngày cưới. Trong khi, những người con gái của gia đình quyền thế có xu hướng lấy chồng sớm, thì con gái của tầng lớp dưới thường kết hôn muộn hơn.
Các tầng lớp
Những cư dân La Mã tự do được chia thành 2 tầng lớp: quý tộc và người bình dân. Quý tộc là tầng lớp thống trị. Ban đầu, chỉ có họ mới có thể được bầu vào các chức vị. Việc lấy nhau giữa các tầng lớp bị cấm và danh hiệu quý tộc chỉ có thể được thừa kế chứ không được nhận. Dưới nền Cộng hoà La Mã, một loạt những đấu tranh dẫn tới việc người bình dân được hưởng những quyền bình đẳng hoặc gần như bình đẳng.
Cuối thời kì Cộng hoà, sự phân biệt giữa quý tộc và người bình dân bắt đầu mất đi ý nghĩa của nó. Một tầng lớp cai trị mới, gọi là quý nhân, là những gia đình, quý tộc hay người bình dân, đã sản ra một quan chấp chính tối cao. Trong thời kì Đế quốc, sự phân chia giai cấp bị bỏ và bị hầu hết mọi người quên lãng.
Đầu thời kì Cộng hoà, những công dân còn bị chia thành các tầng lớp dựa vào vũ khí mà họ có thể mua được cho nghĩa vụ quân sự. Tầng lớp giàu nhất là những người cưỡi ngựa hoặc kị sĩ, những người có thể mua được một con ngựa chiến. Có cả người cưỡi ngựa là quý tộc và người bình dân. Sau này nước Cộng hoà đã cố định lượng tài sản được thay bằng quân trang như cơ sở của sự phân chia giai cấp. Những tầng lớp trên có nhiều quyền lực và uy tín chính trị hơn những tầng lớp dưới. Hệ thống này cũng mất đi ý nghĩa của nó sau sự bãi bỏ của nền Cộng hoà.
Cưới xin
Đối với tầng lớp thượng lưu La Mã, người cha thường bắt đầu tìm người chồng cho con gái của mình khi con gái họ vào khoảng 12-14 tuổi. Người chồng có thể lớn hơn cô dâu khoảng hai tuổi hay thậm chí gấp ba lần tuổi cô ta. Thường là các cô không hoặc ít phản đối - mặc dù có bằng chứng rằng một số cô gái có quyền chọn chồng cho mình (con gái và vợ Cicero tự ý tìm chồng cho cô). Trong khi tầng lớp thượng lưu cưới lúc còn rất trẻ, có bằng chứng cho thấy phụ nữ thuộc tầng lớp hạ lưu - thường cưới muộn hơn vào khoảng độ tuổi mười mấy, đầu hai mươi. Cưới xin đối với họ không mang lại nhiều lợi ích về kinh tế và chính trị trong thế giới chính trị La Mã cắt cổ, vì thế không việc gì phải vội.
Bạn bè và gia đình tham dự lễ dạm hỏi trước lễ cưới. Tại buổi lễ này người cha được hỏi liệu ông có hứa gả con gái mình ("cô dâu") và thường thì phải trả lời là có. Cô dâu tương lai sau đó sẽ được nhận các món quà cưới trong đó có một chiếc nhẫn để đeo vào ngón giữa, mà nhiều người tin rằng tại đấy có dây thần kinh nối thẳng với tim.
Giáo dục
Mục tiêu của nền giáo dục ở Roma là làm cho các học sinh trở thành những nhà hùng biện có ảnh hưởng lớn. Tuy nhiên, do chi phí khá cao so với mặt bằng thu nhập nên thường thì chỉ có các gia đình quý tộc hoặc giàu có mới đủ điều kiện cho con tới trường học. Những gia đình nghèo không có đủ tiền thì con cái của họ phải tự học ở nhà, còn con cái của nô lệ thì không có quyền tới trường.
Trường học khai giảng vào ngày 24 tháng 3 hằng năm. Mỗi ngày học bắt đầu vào sáng sớm và kéo dài đến hết buổi chiều. Thông thường, những đứa trẻ được dạy đọc và viết bởi cha của chúng. Về sau, khoảng 200 năm TCN, những đứa bé trai và gái được gửi đến trường khi chúng được khoảng 6 tuổi. Nền giáo dục cơ bản của Roma bao gồm đọc, viết, và đếm, và những vật dụng bao gồm những cuộn giấy da và sách. Ở tuổi 13, học sinh học về văn học Hi Lạp và La Mã và cả phần ngữ pháp. Ở tuổi 16, một số học sinh vào học ở trường hùng biện. Những người nghèo hơn thương được dạy ở nhà bởi người cha bởi vì trường học không phải là miễn phí.
Sức khỏe
Đa số người La Mã tắm tại các nhà tắm công cộng hay nhà tắm tư hằng ngày, không chỉ vì sạch sẽ mà còn vì lý do xã hội.
Kinh tế
Nền kinh tế thời kì đầu phụ thuộc vào lực lượng lao động nô lệ, và nô lệ chiếm khoảng 20 phần trăm dân số. Giá của 1 nô lệ phụ thuộc vào kĩ năng của họ, và một nô lệ có huấn luyện y khoa tương đương với 50 nô lệ làm nông nghiệp. Vào các thời kỳ sau, việc thuê sức lao động trở nên kinh tế hơn là sở hữu nô lệ.
Tài chính
Mặc dù việc đổi hàng lấy hàng là thông dụng (và thường được sử dụng trong việc thu thuế) hệ thống tiền tệ đã phát triển ở mức độ cao, với tiền xu bằng đồng thau, đồng thiếc và kim loại quý được lưu thông xuyên suốt đế chế và ra ngoài biên giới (một vài đồng đã được phát hiện ở Ấn Độ).
Buôn bán
Ngựa thì quá đắt, và những súc vật thồ khác thì quá chậm cho buôn bán lớn trên những con đường của người La Mã dùng để nối giữa những bốt quân sự hơn là chợ và hiếm khi được thiết kế để dùng bánh xe. Do đó có rất ít vận chuyển hàng hoá giữa các vùng của La Mã, cho đến sự nổi lên của nền buôn bán bằng đường thủy của người La Mã vào thế kỷ thứ II TCN. Nền buôn bán nông nghiệp tự do đã thay đổi cảnh quan của Ý, và đến thế kỷ I TCN những điền trang nho và oliu rộng lớn đã thế chỗ những nông dân tiểu canh, những người đã không thể địch được với giá ngũ cốc nhập khẩu. Khối lượng buôn bán lớn đến nỗi chỉ một đụn những đồ chứa bằng gốm chưa hoàn tất đã cao tới hơn 40 mét và có chu vi tới 1 kilômét.
Văn hóa
Roma đã sản sinh ra nhiều nhà văn và nhà viết kịch. Rất nhiều tác phẩm văn học viết bởi các tác giả Roma trong thời kì đầu của nền Cộng hoà có tính chất chính trị hoặc trào phúng. Đặc biệt những kết cấu tu từ của Cicero rất được ưa chuộng. Một vài trong số những vở kịch được ưa thích nhất ở thời kì đầu của nền Cộng hoà là những vở hài kịch, đặc biệt là những vở của Terence, một nô lệ La Mã đã được trả tự do bị bắt trong cuộc chiến Punic thứ nhất.
Kĩ thuật
Thời kì này La Mã cũng đã có những đóng góp quan trọng về kĩ thuật cho sự phát triển của nền văn minh thế giới:
1. Chế tạo thủy tinh (khoảng thế kỉ đầu trước công nguyên)
2. Sử dụng chì
3. Khai thác than
4. Chế tạo xi-măng.
Họ cũng là những người đầu tiên biết đặt các thiết bị như guồng nước nhằm lợi dụng thủy năng và chế tạo ra thuyền buồm.
Nhân khẩu học
Dân số từ thế kỷ VI TCN đến thế kỷ I CN.
Chú thích
Tham khảo
Edward Gibbon, The History of the Decline and Fall of the Roman Empire
Goldsworthy, Adrian Keith (2008). Caesar: Life of a Colossus. Yale University Press
Livy. The Rise of Rome, Books 1-5, translated from Latin by T.J. Luce, 1998. Oxford World's Classics. Oxford: Oxford University Press. ISBN 0-19-282296-9.
Đọc thêm
Cowell, Frank Richard. Life in Ancient Rome. New York: G.P. Putnam's Sons, 1961 (paperback, ISBN 0-399-50328-5).
Gabucci, Ada. Rome (Dictionaries of Civilizations; 2). Berkekely: University of California Press, 2007 (paperback, ISBN 0-520-25265-9).
Wyke, Maria. Projecting the Past: Ancient Rome, Cinema, and History. New York; Luân Đôn: Routledge, 1997 (hardcover, ISBN 0-415-90613-X, paperback, ISBN 0-415-91614-8).
Xem thêm
Hy Lạp cổ đại
Văn minh La Mã cổ đại
Liên kết ngoài
Ancient Rome
History of Ancient Rome
Gallery of the Ancient Art: Ancient Rome
Lacus Curtius
Livius.Org
Nova Roma - Educational Organization about "All Things Roman"
The Private Life of the Romans by Harold Whetstone Johnston
United Nations of Roma Victrix (UNRV) History
Water and Wastewater Systems in Imperial Rome
Lịch sử cổ đại
Chấm dứt thế kỷ 5
|
24833
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20t%E1%BA%A1i%20Vi%E1%BB%87t%20Nam
|
Bóng đá tại Việt Nam
|
Bóng đá tại Việt Nam do Liên đoàn bóng đá Việt Nam (VFF) điều hành. Liên đoàn quản lý các đội tuyển bóng đá Quốc gia Việt Nam bao gồm các đội tuyển nam và đội tuyển nữ. Cơ quan này cũng chịu trách nhiệm về các giải bóng đá quốc gia bao gồm cả V.League 1, giải bóng đá vô địch quốc gia chuyên nghiệp hàng đầu của Việt Nam.
Bóng đá theo chân người Pháp du nhập vào Việt Nam vào năm 1896 dưới thời Pháp thuộc. Đầu tiên, bộ môn thể thao này phát triển ở xứ thuộc địa trực trị của Pháp là Nam Kỳ (miền Nam ngày nay), sau đó thì dần dần lan ra Bắc Kỳ (miền Bắc ngày nay) và Trung Kỳ (miền Trung ngày nay).
Khi Việt Nam bị chia cắt thành hai vùng tập kết quân sự ở miền Bắc và miền Nam từ năm 1954 đến năm 1976, hai đội tuyển quốc gia đã tồn tại song song: đội tuyển Quốc gia Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (miền Bắc) và đội tuyển Quốc gia Việt Nam Cộng hòa (miền Nam). Đội tuyển miền Bắc Việt Nam không hoạt động nhiều, hầu như chỉ thi đấu ở các nước xã hội chủ nghĩa khác trong khoảng thời gian từ năm 1956 đến năm 1966, trong khi đội tuyển Việt Nam Cộng hòa đã tham dự hai vòng chung kết Asian Cup đầu tiên và đều cán đích ở vị trí thứ tư khi giải chỉ có 4 đội tham dự.
Bóng đá hiện là môn thể thao phổ biến nhất ở Việt Nam. Giải đấu thường niên V.League 1 diễn ra hàng năm kể từ năm 1980 (trừ các năm 1988 và 1999).
Lịch sử
1896–1954: Giai đoạn khởi đầu và phát triển của bóng đá Việt Nam
Tại Nam Kỳ
Những người chơi bóng đầu tiên ở Sài Gòn là những công chức, thương gia hay binh lính người Pháp vào năm 1896, sau đó một số ít người Việt cũng bắt đầu tham gia. Họ tập hợp thành một câu lạc bộ, lấy tên là Cercle Sportif Saigonnais (tiếng Việt: Câu lạc bộ Thể thao Sài Gòn; nay là Cung Văn hóa Lao động Thành phố Hồ Chí Minh). Quả bóng bầu dục xuất hiện lúc đầu được thay hẳn bằng bóng tròn; sân chơi là công viên thành phố, còn gọi là Jardin de la Ville, nay là Công viên Tao Đàn.
Năm 1905, đội bóng của chiến hạm Anh mang tên King Alfred ghé thăm Sài Gòn, và đã đấu giao hữu với một đội gồm những cầu thủ người Pháp và Việt. Đây được coi là trận bóng quốc tế đầu tiên tại Việt Nam.
Năm 1906, E. Breton, một Ủy viên Pháp trong Hội Liên hiệp Thể thao Pháp (tiếng Pháp: L'Union des Sociétés Francaises des Sports Athlétiques) đem luật bóng đá sang Việt Nam phổ biến, và trong vai trò hội trưởng, ông đã chấn chỉnh lại Cercle Sportif Saigonnais theo cách tổ chức của các câu lạc bộ bóng đá bên Pháp. Nhiều câu lạc bộ khác theo đó thành lập và hoạt động như: Infanterie, Saigon Sport, Athletic Club, Stade Militaire, Taberd Club... Các giải bóng đá cũng bắt đầu được tổ chức từ đó. Đội Cercle Sportif Saigonnais do được tổ chức, huấn luyện chuẩn mực nên đã liên tiếp thắng những mùa giải trong các năm 1907, 1909, 1910, 1911, 1912, 1916...
Nhiều người Việt nắm được luật và kỹ thuật bóng đá nên tự lập đội bóng của mình. Hai đội bóng Việt Nam đầu tiên thành lập năm 1907 là Gia Định Sport (Giadinh Sport) do các ông Ba Vẻ, Phú Khai dẫn dắt và đội thứ hai là Ngôi sao Xanh (Étoile Bleue) của ông huyện Nguyễn Đình Trị, về sau hợp nhất lại thành đội Ngôi sao Gia Định (Étoile de Giadinh). Ngày 20 tháng 7 năm 1908, tờ Lục tỉnh tân văn đưa tin trận cầu giữa hai đội bóng thuần cầu thủ Việt diễn ra. Trước năm 1920, đội Ngôi sao Gia Định đã thắng tất cả các đội bóng kể cả đội Cercle Sportif Saigonnais của ông Breton (1917), giành Cúp vô địch.
Ngoài ra còn có các đội như: Victoria Sportive, Commerce Sport, Jean Comte, Sport Cholonaise, Khánh Hội Sport, Tân Định Sport, Gò Vấp, Hiệp Hoà, Chợ Quán, Phú Nhuận, Đồng Nai, Enfants de Troupe...; ở các tỉnh thì có những đội Thủ Dầu Một, Cần Thơ, Sóc Trăng, Sa Đéc, Gò Công, Châu Đốc, Mỹ Tho...
Sân bãi cũng được phát triển thêm như sân Citadelle (tức sân Hoa Lư), sân Renault (tức Sân vận động Thống Nhất); sân Fourières (ở Bà Chiểu, gần lăng Lê Văn Duyệt), sân Mayer (góc đường Võ Thị Sáu - Trần Quốc Thảo), sân Marine (ở gần Trung tâm Mắt Thành phố Sài Gòn)...
Sau đó, giới hâm mộ và những nhà dẫn dắt hợp tác thành lập một Tổng cuộc Bóng đá riêng cho người Việt, bầu ông Nguyễn Đình Trị làm Trưởng ban Trị sự, và mua đất làm sân riêng. Lúc ấy đã có một Tổng cuộc Bóng đá do người Pháp chủ trì, nên việc hợp tác giữa hai Tổng cuộc không thể thực hiện, nhưng hai bên vẫn hợp tác tổ chức những cuộc thi đấu, như giải Vô địch Nam Kỳ. Trong trận đấu giữa Cercle Sportif Saigonnais và Ngôi sao Gia Định năm 1925 trên sân vân động Saigon Pérstips Córble, một trọng tài người Pháp đã đuổi cầu thủ Paul Thi ra khỏi sân, khiến cầu thủ này của đội Ngôi sao Gia Định bị treo giò vĩnh viễn làm cho việc hợp tác thêm khó khăn. Giải Vô địch Nam Kỳ bị gián đoạn trong nhiều năm và bắt đầu lại năm 1932, với 6 đội người Việt và 3 đội người Pháp.
Giai đoạn 1925-1935, đội Ngôi sao Gia Định được biết đến với nhiều danh thủ như: Sách, Thơm, Nhiều, Quý, Tịnh, Xường, Trung, Thi, Tư Bá, Gia Vi, Mùi, Tiếc, Rớt, Xơi, Cọp, Tài, Út, Danh, Giỏi, Quang, Sớm,... Trong thời gian này, có khoảng 29 giải bóng đá đủ loại được tổ chức, đội Ngôi sao Gia Định đăng quang 8 lần, số còn lại chia đều cho các đội Victoria, Khánh Hội, Cercle Sportif Saigonnais, Jean Comte, Auto - Hall (Nam), Commerce Sport, Thủ Dầu Một, Biên Hòa...
Giai đoạn 1945-1954, đội Ngôi sao Gia Định có thêm những cầu thủ như: Maurice Tài, Cón, Lý Đức, Dương Văn Quới (Trụ Đồng), Hiếu, Thọ Hai, Tư (Mũi tên Vàng Đông Dương), Dương Bạch Mai, Mỹ (Cọp Đông Nam Á), Đỗ Quang Thách (thuật sỹ bóng đá), Thọ Ve, Bùi Nghẻn, Khê, Đặng Khải,...
Vào năm 1928, một đội bóng từ Việt Nam được cử đi du đấu ở Singapore.[2] Ngoài các giải, cúp được tổ chức tại Sài Gòn và ở các tỉnh, Tổng cuộc Bóng đá An Nam còn tổ chức tiếp đón những đội bóng nước ngoài và cử đội tuyển đi thi đấu tại Thái Lan, Campuchia, Malaysia,...
Tại Bắc Kỳ và Trung Kỳ
Bóng đá xuất hiện ở Bắc Kỳ vào khoảng năm 1906-1907. Báo thời đó đề cập năm 1909, hai đội Lê Dương Đáp Cầu (Legion Đáp Cầu) và Olympique Hải Phòng đã thi đấu với nhau. Trận đầu đội Olympique Hải Phòng thắng 2-1 nhưng ở lần sau đội Lê Dương Đáp Cầu đã thắng lại đội Olympique Hải Phòng 8-1 trên sân vận động Hải Phòng.
Tại Hà Nội, tháng 2 năm 1912, Câu lạc bộ Bóng đá Hà Nội (Stade Hanoien) ra đời, gồm các cầu thủ người Việt và một số người Pháp như Menin, Megy, Bernard, Bonardi... Còn về phía quân đội Pháp thì có các đội như Trung đoàn Bộ binh Thuộc địa (Régiment d'Infanterie Coloniale, RIC), Ngôi Sao Xanh (Étoile Bleue), Lê Dương Đáp Cầu, Lê Dương Việt Trì... Ngày 1 tháng 11 năm 1913, đội Câu lạc bộ Bóng đá Hà Nội đá với Trung đoàn Bộ binh Thuộc địa, kết quả đội bộ binh Pháp thắng 5-3.
Những năm 1910-1920, các đội bóng ở Bắc Kỳ phát triển nhưng các trận đấu thường diễn ra ở các bãi trống, như các ngã ba, ngã tư phố vắng... Về sau, đội Chớp Nhoáng (Eclair) và Câu lạc bộ Bóng đá Hà Nội mới hợp tác lập ra sân Nhà Dầu (gần cầu Long Biên). Còn sân Manzin (nay là sân Cột Cờ) do Quân đội Pháp quản lý và dùng cho các giải đấu chính thức.
Giai đoạn 1930-1940, Hà Nội có các đội bóng như: Chớp Nhoáng (do Trần Văn Quý đứng đầu), Câu lạc bộ Bóng đá Hà Nội, Racing Club, Lạc Long Ngọn giáo (La Lance), Hoả Xa (Usaga), Trường Bưởi (Chu Văn An hiện nay), Đại học (Université Club), Ngân hàng, Ô-tô Han (Auto Hall). Hải Phòng có các đội Voi vàng Đất cảng, Olympique Hải Phòng, Mũi Tên (La Flèche), Radium (Trung học), Thanh niên Bắc Kỳ (La Jeunesse Tonkinoise). Nam Định có đội Hồng Bàng; Phủ Lý có đội Phủ Lý Thể thao; Lạng Sơn có đội Le Semeur.
Miền Trung Việt Nam có các đội như ASNA (Vinh); Sept (Huế); Touranne (Đà Nẵng) và Faifo (Hội An).
1954–1976: Giai đoạn chia cắt của bóng đá hai miền Việt Nam
Việt Nam có đội tuyển bóng đá cấp quốc gia đầu tiên vào năm 1947 dưới danh nghĩa là Quốc gia Việt Nam. Cho đến năm 1954, sau khi hiệp định Genève được ký kết, phong trào bóng đá ở cả hai miền mới được phục hồi và phát triển trở lại nhưng bị chia cắt thành 2 vùng tập kết quân sự, bóng đá 2 miền từ đó cũng bị chia cắt cho đến 1976.
Từ năm 1955, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã có giải vô địch bóng đá quốc gia với tên gọi giải Hòa Bình do Nha Thể dục Trung ương tổ chức. Ngay từ khi bắt đầu, giải đấu đã có 2 hạng gồm A và B. Từ 1956, giải có tên chính thức là giải bóng đá Hạng A toàn quốc..
Năm 1961, Hội Bóng Đá Việt Nam (VFA), tiền thân của Liên đoàn bóng đá Việt Nam được thành lập. Giải được tổ chức liên tục đến năm 1975 bất chấp tình trạng đất nước chiến tranh. Tính tới hết mùa giải 1976, Thể Công và Công an Hải Phòng là hai đội thành công nhất với 10 chức vô địch mỗi đội, xen giữa là 2 chức vô địch duy nhất của Công an Hà Nội năm 1962 và 1964. Theo lời kể của Tổng thư ký VFF Trần Bảy, có những trận bóng ở miền Bắc phải tổ chức ở miệng hầm và cạnh hố bom. Nhiều lúc cầu thủ đang thi đấu thì máy bay đến ném bom, có những trận đấu dang dở đến 5, 7 lần và có những trận cầu thủ hai bên đá mãi vẫn chưa đủ 90 phút theo luật FIFA. Thậm chí, có trận đấu đá được 80 phút nhưng có sự cố làm gián đoạn thì kết quả đến phút 80 được công nhận.
Ở miền Nam cũng có hệ thống giải đấu quốc nội riêng song song với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, bắt đầu từ năm 1961 đến 1975. Theo các thống kê quốc tế, giải đấu ở miền Nam được ghi nhận đã tổ chức được 3 mùa giải. Bóng đá nội địa ở miền Nam không phát triển bằng miền Bắc khi riêng số đội bóng ở Hà Nội (7 câu lạc bộ) đã nhiều hơn toàn bộ số đội bóng ở miền Nam (5 câu lạc bộ). Thậm chí tại Hải Phòng có tới 10 câu lạc bộ hoạt động cùng lúc ở các hạng đấu khác nhau. Do số lượng đội bóng ít nên giải quốc nội ở miền Nam không có sự phân hạng như ở miền Bắc.
Miền Bắc Việt Nam
Tại miền Bắc Việt Nam, giải vô địch quốc gia mang tên Hòa Bình bắt đầu được tổ chức vào năm 1955. Thể Công là câu lạc bộ đầu tiên vô địch giải đấu. Từ 1956, giải có tên chính thức là giải bóng đá Hạng A miền Bắc. Giai đoạn 1976-1979, sau khi đất nước thống nhất, giải có tên chính thức là giải Hạng A Quốc gia. Giải đấu được tổ chức liên tục bất chấp tình trạng chiến tranh.
Đội bóng đá Thể Công, tiền thân của Câu lạc bộ bóng đá Viettel hiện nay, được Quân đội Nhân dân Việt Nam thành lập ngày 23 tháng 9 năm 1954 và là đội bóng thành công nhất giải Hạng A Quốc gia với 13 lần đoạt chức vô địch, trong đó có 9 chức vô địch liên tiếp giai đoạn 1971-1979. Câu lạc bộ Công an Hải Phòng, tiền thân của Câu lạc bộ Hải Phòng hiện nay, được thành lập năm 1952 là câu lạc bộ thành công thứ hai với 11 chức vô địch.
Năm 1960, đội tuyển Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (với thành phần bao gồm cầu thủ của Trường Huấn luyện quốc gia và đội Thể Công) được sự giúp đỡ của các chuyên gia Liên Xô, Trung Quốc, Đức... đã thi đấu ở các giải GANEFO (Indonesia, 1963) và GANEFO Châu Á (Campuchia, 1966).
Những cầu thủ nổi tiếng của giai đoạn này gồm có: Thọ, Long, Phàn, Ngọc, Chính, Vinh, Từ Hiển, Trần Hùng (Hùng "xồm"), Khánh, Giáp, Thế Anh...
Miền Nam Việt Nam
Tại miền Nam Việt Nam, năm 1954, đội Ngôi sao Gia Định giải tán, nhóm cầu thủ về đầu quân cho đội AJS (Association de la Jeunesse Sportive) hoặc đội Cảnh Sát. Đội AJS, đội Cảnh Sát, đội Tổng Tham mưu (của Quân lực Việt Nam Cộng hòa) và đội Quan Thuế là bốn trong số các câu lạc bộ thống trị bóng đá miền Nam cho đến năm 1975.
Đội tuyển quốc gia Việt Nam Cộng hòa là một trong 4 đội lọt vào vòng chung kết giải vô địch châu Á năm 1960. Ngoài ra, đội từng đoạt huy chương vàng môn bóng đá tại SEAP Games 1959 và, dưới sự hướng dẫn của huấn luyện viên Karl-Heinz Weigang người Đức, đoạt Cúp Merdeka lần thứ 10 năm 1966. Sau khi Chính phủ Việt Nam Cộng hòa sụp đổ, Cộng hòa Miền Nam Việt Nam kế tục một cách lâm thời cho đến khi tái thống nhất hòa bình với miền Bắc, trong đó có bóng đá trước khi đất nước Việt Nam thống nhất chính thức vào ngày 2 tháng 7 năm 1976.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, hơn 100 cầu thủ giỏi của miền Nam đã chọn cách ở lại để tiếp tục cống hiến với bóng đá. Không lâu sau đó, Ủy ban Quân quản Sài Gòn - Gia Định đã quyết định tổ chức một hoạt động thể thao kỷ niệm 85 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào ngày 20 tháng 5 năm 1975. Ngay lập tức, ở Sài Gòn đã hình thành hơn chục đội bóng đá và qua sàng lọc đã xuất hiện 6 đội bóng mạnh như Hải quan, Ngân hàng, Cảng Sài Gòn, Công nhân hóa chất, Tổng cục Vật tư, Lương thực Thực phẩm. Ngày 2 tháng 9 năm 1975, nhân dịp Quốc khánh, Sở Thể dục Thể thao TP. Hồ Chí Minh đã tổ chức trận giao hữu đầu tiên sau ngày thống nhất giữa hai đội Hải quan và Ngân hàng.
1976–1991: Giai đoạn bóng đá Việt Nam thống nhất và khó khăn
Ngày 7 tháng 11 năm 1976, trận đấu đầu tiên giữa một đội bóng miền Nam và một đội bóng miền Bắc diễn ra giữa hai đội Cảng Sài Gòn và Tổng cục Đường sắt, đặt dấu mốc cho sự thống nhất chính thức giữa bóng đá hai miền Nam - Bắc. Trong trận đấu này, Tổng cục Đường sắt thắng 2-0, với chiến thuật 4-3-3 đang thịnh hành tại Châu Âu khác với sơ đồ 4-2-4 phổ biến ở bóng đá miền Nam thập niên 60 vốn có nhiều trận đấu quốc tế hơn. Trong không khí cuồng nhiệt và thiêng liêng, 25.000 khán giả đã bật đứng dậy vỗ tay vang dội và hát bài "Như có Bác trong ngày đại thắng" khi hai đội bước ra sân thi đấu. Do thiếu chỗ ngồi nên nhiều khán giả đã tràn ra cả đường piste, những người không may mắn có vé vào sân phải nghe tường thuật qua sóng radio.
Sau khi đất nước thống nhất về mặt nhà nước vào năm 1976, các đội bóng được chia thi đấu theo khu vực: miền Bắc với giải Hồng Hà, miền Trung với giải Trường Sơn và miền Nam với giải Cửu Long. Các đội vô địch mỗi khu vực sẽ thi đấu tại Hà Nội để chọn đội vô địch, còn các đội đứng cuối sẽ gặp nhau để tìm đội xuống hạng. Tại mùa giải đầu tiên do Hội Bóng đá Việt Nam (tiền thân của Liên đoàn bóng đá Việt Nam hiện nay) tổ chức vào năm 1980, thể thức thi đấu được xây dựng trên cơ sở kết quả mùa giải 1979 (giải phân hạng để sắp xếp lại hệ thống thi đấu), bao gồm 8 đội mạnh nhất của giải Hồng Hà, 2 đội của giải Trường Sơn và 8 đội của giải Cửu Long; các đội còn lại đá ở hạng A2. Đây chính là tiền đề để xây dựng Giải bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam sau này.
Trong những năm 1976-1991, nền kinh tế - xã hội của Việt Nam đứng trước nhiều thách thức khi vừa phải khắc phục hậu quả chiến tranh, vừa phải giải quyết các cuộc xung đột với Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa ở biên giới phía Bắc và quân Khmer Đỏ (Campuchia) ở biên giới Tây Nam, và vừa phải đương đầu với chế độ bao cấp yếu kém và lạc hậu. Sự phát triển của nền bóng đá Việt Nam vì thế cũng bị trì trệ trong giai đoạn này. Các câu lạc bộ phần lớn trong tình trạng thiếu thiếu thốn điều kiện hậu cần và cơ sở vật chất, phương tiện đi lại cũng rất khó khăn nhưng vẫn tham gia các giải quốc nội đầy đủ, khán giả vẫn đến sân cổ vũ nhiệt tình và tỷ lệ sân kín khán giả rất cao. Mặc dù các giải đấu trong nước vẫn diễn ra đều đặn nhưng đội tuyển quốc gia thời gian này lại không tham gia các giải đấu quốc tế và khu vực. Tuy nhiên, bóng đá cấp câu lạc bộ vẫn có sự giao lưu trong nội bộ khối xã hội chủ nghĩa, đáng chú ý là Thể Công với vị trí thứ ba tại giải SKDA (giải đấu dành cho các đội bóng thuộc lực lượng vũ trang các nước xã hội chủ nghĩa) vào năm 1989.
Năm 1989, khi Việt Nam bắt đầu công cuộc cải cách Đổi Mới mang tính cách mạng, một liên đoàn bóng đá mới được thành lập. Sau ba tháng chuẩn bị, tháng 8 năm 1989, Đại hội lần thứ nhất của liên đoàn bóng đá mới đã diễn ra tại Hà Nội, tuyên bố thành lập Liên đoàn bóng đá Việt Nam. Trịnh Ngọc Chữ, Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, được bầu làm chủ tịch liên đoàn.
1991–nay: Giai đoạn bóng đá Việt Nam đổi mới và tái phát triển
Sau thống nhất, tới năm 1991, Việt Nam mới bắt đầu cử đội tuyển quốc gia đại diện cho môn bóng đá đi thi đấu quốc tế. Trận đấu quốc tế đầu tiên của đội tuyển Việt Nam thống nhất là trận hòa 2–2 trước Philippines tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 1991. Trong những năm 1990 và 2000, bóng đá ở Việt Nam không có nhiều thành công, nguyên nhân chủ yếu là do thiếu sự đầu tư. Các vụ bê bối đã xảy ra, đặc biệt là vấn nạn dàn xếp tỉ số.
Mặc dù vậy, Việt Nam cũng đã có những lần gây chú ý, như tại AFC Asian Cup 2007 khi họ là đội chủ nhà duy nhất giành vé vào tứ kết. Một năm sau, Việt Nam vô địch AFF Cup 2008, đánh dấu một thời kỳ thành công của bóng đá Việt Nam. Sau đó là giai đoạn bóng đá Việt Nam sa sút mạnh mẽ, khi không thể lọt vào vòng chung kết 3 cúp châu Á liên tiếp và thất bại tại 4 kỳ AFF Cup tiếp theo. Trong khi đó, đội tuyển Olympic thi đấu không tốt ở các kỳ Á vận hội và Đông Nam Á vận hội. Mãi đến năm 2016, Việt Nam có hai đội bóng liên tiếp giành quyền tham gia hai giải đấu cấp thế giới, đó là Futsal World Cup 2016 (futsal) và U-20 World Cup 2017 (U-19).
Sau thất bại của U-22 Việt Nam tại SEA Games 29, bóng đá Việt Nam bắt đầu gặt hái những thành công vang dội, đặc biệt là từ khi Park Hang-seo làm huấn luyện viên trưởng đội tuyển quốc gia. Đầu năm 2018, đội tuyển bóng đá U-23 Việt Nam đã lập nên kỳ tích tại Giải vô địch U-23 châu Á 2018 khi giành huy chương bạc sau khi để thua Uzbekistan trong trận chung kết. Cùng năm đó, Thái Sơn Nam đã giành được huy chương bạc tại Giải vô địch bóng đá trong nhà các câu lạc bộ Futsal châu Á 2018 sau khi để thua Mes Sungun của Iran trong trận chung kết. Đội tuyển Olympic, với phần lớn các cầu thủ đã thi đấu tại Giải vô địch U-23 vào đầu năm, đã giành vị trí thứ tư của Đại hội Thể thao châu Á 2018 sau khi thua 1–3 trước Hàn Quốc trong trận bán kết và thua UAE ở loạt sút luân lưu trong trận tranh huy chương đồng. Ngày 15 tháng 12 năm 2018, đội tuyển quốc gia Việt Nam đã giành được chức vô địch AFF Suzuki Cup 2018 sau khi đánh bại Malaysia với tổng tỷ số 3–2, qua đó lần thứ hai lên ngôi vô địch Đông Nam Á sau năm 2008.
Với hầu hết các cầu thủ trẻ, Việt Nam đã tạo nên cơn sốt ở AFC Asian Cup 2019, khi đội tuyển quốc gia lọt vào tứ kết và bị đội á quân sau đó Nhật Bản đánh bại với tỷ số 0–1. Sau đó, tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2019, Việt Nam đã giành được huy chương vàng đầu tiên ở môn bóng đá nam từ năm 1959.
Tại vòng loại thứ hai World Cup 2022 khu vực châu Á, Việt Nam vào bảng G cùng với ba đối thủ Đông Nam Á khác là Thái Lan, Malaysia và Indonesia bên cạnh Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (UAE). Việt Nam kết thúc vòng loại thứ hai với 17 điểm, đứng thứ 2 sau UAE (18 điểm) và lần đầu tiên giành vé vào vòng loại thứ ba, cũng như tự động vượt qua vòng loại AFC Asian Cup 2023 với tư cách là một trong năm đội nhì có thành tích tốt nhất. Tại vòng loại thứ ba World Cup 2022 khu vực châu Á, Việt Nam nằm ở bảng B cùng Nhật Bản, Úc, Ả Rập Xê Út, Trung Quốc và Oman. Đội tuyển kết thúc vòng ba với 1 trận thắng, 1 trận hòa và 8 trận thua, giành được 4 điểm và đứng cuối bảng, không thể giành quyền tham dự vòng chung kết World Cup.
Đội tuyển futsal quốc gia Việt Nam lọt vào vòng chung kết FIFA Futsal World Cup 2021 và dừng chân tại vòng 16 đội khi để thua Nga với tỷ số 2–3, trở thành đại diện đầu tiên của bóng đá Việt Nam vượt qua 2 giải đấu liên tiếp do FIFA tổ chức.
Với việc là câu lạc bộ xếp thứ nhất tại V-League 2021, đã giành vé tham dự AFC Champions League 2022. Tại đây đã để thua 3 trận, hòa 2 trận và thắng 1 trận, qua đó dừng chân tại vòng bảng AFC Champions League 2022.
Tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2021, Đội tuyển nữ Việt Nam và Đội tuyển U-23 Việt Nam đã bảo vệ thành công tấm huy chương vàng tại SEA Games 30 sau chiến thắng lần lượt trước Đội tuyển nữ Thái Lan và Đội tuyển U-23 Thái Lan cùng với tỉ số 1–0.
Bóng đá nữ
Sự xuất hiện của bóng đá nữ tại Việt Nam được đặt dấu mốc từ năm 1932 với việc thành lập đội bóng đá nữ Cái Vồn (Equipe Feminine de Cai-Von) - đội bóng đá nữ đầu tiên của Việt Nam và châu Á. Phan Khắc Sửu, một kỹ sư nông học, được sự đồng ý của Chính quyền Nam Kỳ và Tổng cục túc cầu đã đưa ra ý tưởng thành lập một đội bóng nữ và đã tập hợp được 30 nữ thanh niên gia nhập đội bóng, hầu hết đều xuất thân từ nghề làm nông. Thời điểm đó, việc vận động phụ nữ tham gia bóng đá là vô cùng khó khăn do những ràng buộc đạo đức phong kiến. Những cái tên nổi bật của đội Cái Vồn gồm có Mười Kén, Út Thôi, Hai Tỉnh, Ba Triệu, Út Lẹo..., trong đó xuất sắc nhất là trung phong người Pháp Marguerite, người sau đó được bầu làm đội trưởng.
Thời gian đầu, do chưa có các đối thủ đồng giới nên đội nữ Cái Vồn thường xuyên thi đấu với các đội bóng nam. Trận ra quân của đội gặp đội bóng đá nam trong làng Mỹ Thuận đã thu hút hàng ngàn người đến theo dõi; sân bóng (là một khu đất ruộng) đã không còn một chỗ trống. Sau trận đấu, Quận trưởng quận Trà Ôn đã xuống sân tặng 24 bộ đồng phục cầu thủ cùng 2.000 đồng tiền Đông Dương nhằm giúp đỡ đội phát triển mạnh hơn. Kể từ đó, đội được mời thi đấu ở hầu khắp các tỉnh miền Tây và có lúc lên đến Sài Gòn, tai những nơi có đội bóng đá nam thách đấu; số lượng người ủng hộ cho đội cũng mỗi lúc một tăng.
Sau thành công của đội bóng đầu tiên, một đội bóng nữ khác được thành lập ở Cần Thơ, lấy tên là đội Xóm Chài. Ngày 2 tháng 7 năm 1933 đánh dấu lần đầu tiên có một trận bóng giữa hai đội bóng đá nữ Cái Vồn và Xóm Chài. Vào ngày 30 tháng 7 năm 1933, đội nữ Cái Vồn đã cầm hòa 2–2 với đội nam Paul Bert (lúc đó là nhà vô địch giải hạng nhì ở Sài Gòn) trên sân Mayer và được coi là một kỳ tích. Sau đó, các nữ cầu thủ đã bắt đầu lập gia đình, và do không có lứa kế cận nên đến năm 1938 đội bóng chính thức tan rã. Cùng thời với đội nữ Cái Vồn còn có thêm đội Bà Trưng ở Rạch Giá - Long Xuyên rồi tiếp đến là các đội Huỳnh Ký, Thủ Dầu Một...
Một thời gian dài sau đó, bóng đá nữ Việt Nam gần như ngưng trệ và chỉ được khôi phục vào những năm 1984, trước tiên ở Thành phố Hồ Chí Minh. Nguyễn Quốc Hùng, lúc đó đang là chủ nhiệm Câu lạc bộ bóng đá Lam Sơn đã đi đến việc thành lập đội bóng đá nữ của quận 5, sau này trở thành Trưởng phòng Thể dục Thể thao của quận.. Đầu những năm 1990, đến lượt đội bóng đã nữ Quận 1 được sáng lập bởi Trần Thanh Ngữ, trưởng phòng Thể dục Thể thao Quận 1; sân vận động Tao Đàn trở thành đại bản doanh của đội.. Sau khi đội bóng đá nữ Quận 5 giải thể, các cầu thủ chủ chốt của đội bóng này đã về đầu quân cho đội bóng nữ của ông Trần Thanh Ngữ tại quận 1.
Cùng thời điểm ở miền Bắc, Giám đốc Sở Thể dục Thể thao Hà Nội khi ấy Hoàng Vĩnh Giang cũng đầu tư vào bóng đá nữ tại thủ đô và năm 1992, lứa bóng đá nữ đầu tiên của Hà Nội đã được tuyển chọn để thành lập một đội bóng mang tên Hoa Học Trò (đặt theo tên của tờ báo đã đứng ra bảo trợ cho đội). Năm 1991 ở Quảng Ninh, đội Than Cửa Ông được hình thành dưới sự dẫn dắt của cựu danh thủ Nguyễn Đình Hùng B. Thậm chí, phong trào bóng đá nữ ở Quảng Ninh còn phát triển mạnh khi hầu hết xí nghiệp than ở đây đều có đội bóng nữ thi đấu với nhau và đều ra đời cùng thời với đội Quận 1 (TP.HCM). Tháng 5 năm 1994, bên lề cuộc đua xe đạp kỷ niệm 40 năm chiến thắng Điện Biên, một giải đấu biểu diễn giữa ba đội bóng đá nữ Hoa Học Trò, Than Cửa Ông và Quận 1 đã được tổ chức và nhận được sự hưởng ứng nhiệt liệt từ người hâm mộ vùng Tây Bắc. Mô hình này sau đó cũng được áp dụng ở cuộc đua xe đạp "Về cội nguồn" năm 1995.
Năm 1997, đội tuyển bóng đá nữ Việt Nam được thành lập và ngay lập tức đã đoạt cúp vô địch ở giải đấu tiền SEA Games tại Malaysia. Tại SEA Games 19, đội tuyển nữ Việt Nam dưới sự dẫn dắt của huấn luyện viên trưởng Trần Thanh Ngữ đã giành được tấm huy chương đồng. Kể từ năm 2001, đội tuyển nữ đã 8 lần đoạt huy chương vàng SEA Games, với lần gần nhất tại SEA Games 32.
Tại Cúp bóng đá nữ châu Á 2022, Đội tuyển bóng đá nữ Việt Nam dừng chân tại tứ kết nhưng đã lần đầu tiên lọt vào vòng chung kết Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2023 với vị trí thứ nhất trong 3 đội thi đấu tại Vòng Play-off, trở thành đại diện thứ 3 của bóng đá Việt Nam tham dự vòng chung kết các giải đấu quốc tế của FIFA (sau đội tuyển U-20 Việt Nam và đội tuyển futsal Việt Nam).
Giải bóng đá nữ vô địch quốc gia đầu tiên được tổ chức vào năm 1998 đã có 14 đội thi đấu vòng loại để chọn ra 7 đội vào vòng chung kết tổ chức tại Hà Nội và Hà Tây.
Văn hóa bóng đá ở Việt Nam
Người Việt Nam rất cuồng nhiệt với đội tuyển bóng đá của mình. Các cổ động viên của các đội tuyển Việt Nam, không phân biệt lứa tuổi, thường đến sân và cổ vũ cuồng nhiệt cho đội của đất nước họ. Việt Nam đã nhận được sự công nhận từ cổ động viên các quốc gia khác vì sự ủng hộ nhiệt tình của họ.
Trái ngược với các đội tuyển quốc gia thì không quá nhiều người chú ý đến các giải đấu quốc nội, một phần vì giải đấu này có quá nhiều tranh cãi từ trọng tài cho đến vấn đề một ông chủ nhiều đội bóng. Tuy nhiên, ở một số địa phương như Nam Định, Hải Phòng lượng khán giả đến sân theo dõi thường rất đông.
Lãnh đạo
Hiện nay, Liên đoàn bóng đá Việt Nam (VFF) là tổ chức quản lý và điều hành các hoạt động bóng đá tại Việt Nam. VFF là tiền thân của Hội bóng đá Việt Nam (VFA) được sáng lập năm 1960, hiện là thành viên của Liên đoàn bóng đá thế giới (FIFA), Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) và Liên đoàn bóng đá Đông Nam Á (AFF).
Ngoài VFF, Công ty Cổ phần Bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam (VPF), thành lập năm 2011, là doanh nghiệp chuyên quản lý và điều hành các giải đấu bóng đá chuyên nghiệp tại Việt Nam bao gồm: Giải Vô địch Quốc gia (nam), Cúp Quốc gia (nam), Giải Hạng Nhất Quốc gia (nam).
Đội tuyển quốc gia
Nam
Đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam
Đội tuyển bóng đá U-23 quốc gia Việt Nam
Đội tuyển bóng đá U-22 quốc gia Việt Nam
Đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Việt Nam
Đội tuyển bóng đá U-19 quốc gia Việt Nam
Đội tuyển bóng đá U-16 quốc gia Việt Nam
Đội tuyển bóng đá U-14 quốc gia Việt Nam
Đội tuyển bóng đá trong nhà quốc gia Việt Nam
Đội tuyển bóng đá trong nhà U-20 quốc gia Việt Nam
Đội tuyển bóng đá bãi biển quốc gia Việt Nam
Nữ
Đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Việt Nam
Đội tuyển bóng đá U-19 nữ quốc gia Việt Nam
Đội tuyển bóng đá U-16 nữ quốc gia Việt Nam
Đội tuyển bóng đá U-14 nữ quốc gia Việt Nam
Đội tuyển bóng đá trong nhà nữ quốc gia Việt Nam
Giải đấu quốc gia
Nam
Giải bóng đá vô địch quốc gia (V.League 1)
Giải bóng đá hạng nhất quốc gia (V.League 2)
Giải bóng đá hạng nhì quốc gia
Giải bóng đá hạng ba quốc gia
Giải bóng đá U-21 quốc gia
Giải bóng đá U-19 quốc gia
Giải bóng đá U-17 quốc gia
Giải bóng đá U-15 quốc gia
Giải bóng đá thiếu niên toàn quốc
Giải bóng đá nhi đồng toàn quốc
Giải bóng đá trong nhà vô địch quốc gia
Giải bóng đá bãi biển vô địch quốc gia
Nữ
Giải bóng đá nữ vô địch quốc gia
Giải bóng đá nữ U-19 quốc gia
Cúp nội địa
Giải bóng đá Cúp Quốc gia Việt Nam
Siêu cúp bóng đá Việt Nam
Giải bóng đá Trong nhà Cúp Quốc gia Việt Nam
Giải bóng đá Trong nhà TP Hồ Chí Minh Mở rộng (Cúp LS)
Giải đấu giao hữu quốc tế
Cúp VFF
Cúp VTV-T&T
Cúp U-21 Báo Thanh niên
Cúp U-19 Báo Thanh niên
Cúp Thành phố Hồ Chí Minh
Cúp BTV
Chú thích
Tham khảo
Lịch sử bóng đá Việt Nam (1896-1975)
Liên đoàn bóng đá Việt Nam
Lịch sử bóng đá Việt Nam
|
24846
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nam%20%C4%90%C3%A0n
|
Nam Đàn
|
Nam Đàn (南壇) là một huyện nằm ở phía đông nam tỉnh Nghệ An, Việt Nam.
Địa lý
Vị trí địa lý
Huyện Nam Đàn nằm ở phía đông nam tỉnh Nghệ An, nằm ở hạ lưu sông Lam. Kéo dài từ 18°34’B đến 18°47’B và trải rộng từ 105°24’Đ đếN 105°37’Đ, trong đó diện tích đất nông nghiệp chiếm 48%, còn nữa là đất lâm nghiệp và đồi núi, ao hồ, có vị trí địa lý:
Phía đông giáp huyện Hưng Nguyên
Phía tây giáp huyện Thanh Chương
Phía nam giáp huyện Hương Sơn và huyện Đức Thọ thuộc tỉnh Hà Tĩnh
Phía bắc giáp huyện Đô Lương và huyện Nghi Lộc.
Huyện lỵ của huyện đặt tại thị trấn Nam Đàn, trên đường Quốc lộ 46 Vinh – Đô Lương, cách thành phố Vinh 21 km về phía tây.
Khí hậu
Thời tiết và khí hậu của huyện Nam Đàn tương đối khắc nghiệt. Hằng năm mùa hanh khô kéo dài từ tháng 1 đến tháng 3 dương lịch, mùa nóng từ tháng 4 đến tháng 8, mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 12. Lượng mưa hàng năm cao nhất là 2,228 mm, thấp nhất là 1,402 mm, trung bình là 1,428 mm. Bão lụt thường xảy ra vào tháng 9 và tháng 10 dương lịch, gây úng lụt trên diện tích rộng, có lúc kéo dài trong một thời gian dài.
Thời tiết và khí hậu của huyện Nam Đàn đã được miêu tả tóm tắt và khá đúng trong 4 câu thơ chữ Hán sau đây của Hoàng giáp Bùi Huy Bích (1744 – 1818) ghi trong Nghệ An thi tập của ông khi ông làm Đốc đồng trấn Nghệ An (1777 – 1781) dưới thời vua Lê Hiển Tông:
Hạ lai phong tự hỏa
Thu khứ vũ như ma
Thập nguyệt giang hoàn lạo
Trùng cửu cúc vị hoa
Dịch thơ:Hè đến gió Lào như lửa đốtThu qua mưa phùn lấm tấm saTháng mười sông còn tràn nước lũMồng 9 tháng 9 cúc chưa nở hoaDân số
Dân số năm 2018 là 164.530 người. 9% dân số theo đạo Thiên Chúa.
Lịch sử
Hán Vũ Đế (140 - 87 TCN) diệt nhà Triệu, chiếm Nam Việt, chia tách nước Nam Việt thành các huyện. Huyện Hàm Hoan bao gồm vùng đất Nam Đàn ngày nay là một trong những huyện lớn của vùng đất thuộc quận Cửu Chân trước đó và Hàm Hoan chính là tên gọi đầu tiên của huyện Nam Đàn ngày nay.
Thời Tam Quốc vùng đất này thuộc Đông Ngô (220 - 265 sau CN) và tên huyện được đổi thành Đô Giao.
Vua Lê Đại Hành trị vì đất nước từ năm 981 đến năm 1005 đã phân định lại địa giới hành chính và đã đổi tên huyện Hàm Hoan thành huyện Hoan Đường thuộc Hoan Châu.
Năm 1036, Lý Thái Tổ sau khi dời đô ra Thăng Long đã đổi Hoan Châu thành châu Nghệ An, huyện Hoan Đường vẫn giữ nguyên tên gọi như trước đó.
Hồ Quý Ly lên làm vua (1400 - 1401) đổi tên huyện Hoan Đường thành huyện Thạch Đường.
Nhà Minh xâm chiếm nước ta đã tách thành 3 huyện là Thạch Đường, Kệ Giang và Sa Nam.
Sau khi Lê Lợi đánh thắng quân Minh, nhà Hậu Lê đã sắp xếp lại bản đồ vào năm 1467 và huyện Hoan Đường được đổi tên thành huyện Nam Đường.
Năm 1886 vua Đồng Khánh lên ngôi, vì vua có tên riêng là Nguyễn Phúc Đường nên để tránh phạm húy, chữ "Đường" được đọc chệch đi thành chữ "Đàn", cái tên Nam Đàn có từ đó.
Năm 1948, huyện Nam Đàn được chia thành 10 xã: Đồng Xuân, Hùng Tiến, Khánh Tân, Nam Hưng, Nam Liên, Nam Tân, Thanh Vân, Xuân Lạc, Xuân Lâm, Tràng Cát.
Sau năm 1954, huyện Nam Đàn gồm thị trấn Nam Đàn và 33 xã: Nam Anh, Nam Cát, Nam Chung, Nam Diên, Nam Đông, Nam Dương, Nam Giang, Nam Hòa, Nam Hoành, Nam Hồng, Nam Hùng, Nam Lạc, Nam Lâm, Nam Liên, Nam Lĩnh, Nam Lộc, Nam Long, Nam Mỹ, Nam Phong, Nam Phúc, Nam Quang, Nam Sơn, Nam Tân, Nam Thái, Nam Thắng, Nam Thanh, Nam Thịnh, Nam Thượng, Nam Tiến, Nam Trung, Nam Vân, Nam Xuân, Nam Yên.
Về sau, một số xã sáp nhập với nhau để hình thành các xã mới: Nam Vân và Nam Diên thành Vân Diên; Nam Hùng, Nam Lạc và Nam Tiến thành Hùng Tiến; Nam Hồng và Nam Long thành Hồng Long; Nam Hòa và Nam Yên thành Xuân Hòa; Nam Hoành và Nam Đông thành Khánh Sơn; Nam Sơn và Nam Thắng thành Nam Kim; Nam Phong và Nam Thịnh thành Nam Cường; Nam Dương nhập vào Nam Trung; Nam Chung và Nam Liên thành Kim Liên; Nam Mỹ, Nam Quang và Nam Lâm thành Xuân Lâm. Hai xã được thành lập mới là Nam Nghĩa và Nam Hưng.
Ngày 9 tháng 7 năm 1987, mở rộng thị trấn Nam Đàn trên cơ sở sáp nhập xóm Hạ Long của xã Vân Diên và các xóm Tây Hồ, Quang Trung của xã Xuân Hòa.
Ngày 17 tháng 12 năm 2019, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết 831/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã thuộc tỉnh Nghệ An (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2020). Theo đó:
Sáp nhập toàn bộ diện tích, dân số của 3 xã Nam Trung, Nam Phúc, Nam Cường thành xã Trung Phúc Cường
Sáp nhập một phần diện tích, dân số của xã Nam Thượng với toàn bộ diện tích, dân số của 2 xã Nam Tân và Nam Lộc thành xã Thượng Tân Lộc
Sáp nhập phần diện tích, dân số còn lại của xã Nam Thượng và toàn bộ diện tích, dân số của xã Vân Diên vào thị trấn Nam Đàn.
Huyện Nam Đàn có 1 thị trấn và 18 xã như hiện nay.
Hành chính
Huyện Nam Đàn có 19 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Nam Đàn (huyện lỵ) và 18 xã: Hồng Long, Hùng Tiến, Khánh Sơn, Kim Liên, Nam Anh, Nam Cát, Nam Giang, Nam Hưng, Nam Kim, Nam Lĩnh, Nam Nghĩa, Nam Thái, Nam Thanh, Nam Xuân, Thượng Tân Lộc, Trung Phúc Cường, Xuân Hòa, Xuân Lâm.
Du lịch
Trong các thắng cảnh ở Nam Đàn có núi Đại Huệ. Phong cảnh ở đây đã được Bùi Huy Bích ghi lại khi thăm chùa Đại Tuệ trên núi:Đá nhỏ xếp vòng tới đỉnh caoĐất trời vời vợi dạ nao naoTrời dăng rặng núi như xoè cánhĐất nắn dòng sông giống uốn câuĐường núi xuyên cây, sư khinh hổRoi tre gánh cỏ, trẻ lùa trâuRất yêu Giếng đá luôn đầy nướcSâu chỉ bằng lu múc hết đâuMột thắng cảnh khác là núi Thiên Nhẫn, nơi còn lưu lại bài thơ của La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp:Chiu chít liền những núi,Trông như ngựa chạy vòngMiền nam mờ ngọn núi,Cõi bắc uốn khúc sông.Bóng chùa Thiên Nhẫn ánhSuối vọt Lục Niên kềTùng cúc nay còn đóPhong trần vẫn chưa về...Ở Nam Đàn cũng có nhiều chùa. Kiến trúc chùa Nam Đàn đã lưu lại trong câu ca:Thứ nhất Nghi môn Tam TanhThứ nhì là cảnh Yên QuỳnhThứ ba là đình Nam HoaNghi môn Tam Tanh nay là đền vua Bà ở xã Hùng Tiến đã bị thời gian phá huỷ, nhưng vẫn giữ một số giá trị kiến trúc và nghệ thuật. Ở Nam Lạc - Hùng Tiến còn có đình Nhân Hậu cũng nổi tiếng một vùng nhưng do chính sách sai lầm nên đình bị dỡ đi làm chợ, bây giờ về Nam Lạc thăm chợ Cồn Bụt vẫn thấy được đình chợ là đình Nhân Hậu xưa...Đình Nam Hoa là 4 ngôi đình nổi tiếng của 4 làng phía hữu ngạn sông Lam gồm: đình Dương Liễu, đình Đông Sơn, đình Hoành Sơn, đình Trung Cần; trong đó đình Hoành Sơn (thuộc xã Khánh Sơn) và đình Trung Cần (thuộc xã Nam Trung) đã được Bộ Văn hóa - Thông tin (Việt Nam) cấp bằng Di tích Lịch sử Văn hóa Quốc gia Việt Nam. Hai đình này đều bằng gỗ, được giới chuyên môn liệt vào bậc nhất trong hệ thống chùa chiền còn ở miền Trung. Tại xã Hồng Long còn lưu giữ phế tích Tháp Nhãn có từ thế kỷ thứ VII, xây toàn bằng đất nung với kỹ thuật lắp ghép độc đáo.
Văn hóa
Hát ví
Ở Nam Đàn tồn tại những làn điệu ví phường vải, ví dặm đò đưa. Con ơi mẹ dặn câu nàyChăm lo đèn sách cho tày áo cơmLàm người đói sạch rách thơmCông danh là nợ nước non phải đền...Các tập tục văn hóa ở Nam Đàn có thể quan sát tại các lễ hội như lễ hội đình Hoành Sơn, lễ hội đền Mai Hắc Đế, lễ rước hến Thanh Đàm và lễ hội Làng Sen trước và trong dịp kỷ niệm ngày sinh Hồ Chí Minh.
Làng nghề
Nam Đàn có các làng nghề như Làng mộc nề Nam Hoa, làng rèn Quy Chính, làng tương Tự Trì, làng nón Đông Liệt, các làng dệt Xuân Hồ, Xuân Liễu, Tầm Tang, làng nồi đồng Bố Ân, Bố Đức, làng gạch ngói Hữu Biệt, làng dầu bông, dầu lạc Đan Nhiệm, Đồng Trung. Còn Tương Nam Đàn thì thôn xã nào cũng làm để ăn hàng ngày cả.Vùng núi Đại Huệ, Thiên Nhẫn có sản phẩm chè xanh thơm ngon.
Danh nhân
Đại Nam nhất thống chí ghi: Nam Đàn có núi cao sông sâu nên xuất hiện nhiều người văn võ kiêm toàn. Vũ Anh Tú nguyên Tổng Tư Lệnh quân đội nhân dân Việt Nam. Bùi Dương Lịch, nhà "Nghệ học" thế kỷ 18, viết: Huyện Đông Thành và huyện Nam Đường vĩ nhân đã nhiều, mà khí tiết cũng thiên về mặt Cương Cường Quả Cảm. Hippolyte Le Breton, nguyên Hiệu trưởng Quốc học Vinh đầu thế kỷ 20 viết về Nghệ Tĩnh nói chung: Nghệ Tĩnh trong tất cả mọi thời đại, từ cổ đại cho đến ngày nay là một cái lò phản kháng và là một cái lò trí thức về truyền thống văn hóa (Le Nghe Tinh fut de tous temps – de l’antiquité à nos jours – un foyer de rebellion et un foyer intellectuel en ce qui concerne la tradition culturelle'').
Huyện Nam Đàn là quê hương của các danh nhân Việt Nam như: Mai Thúc Loan, Phan Bội Châu, Hồ Chí Minh. Nam Đàn cũng là quê hương của 38 vị đại khoa Việt Nam như: Đình nguyên, Thám hoa Nguyễn Đức Đạt; Thám hoa Nguyễn Văn Giao đời Nguyễn; Đình nguyên Tiến sĩ Vương Hữu Phu (khoa Canh Tuất- 1910)..
Cụ phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc
Những người nổi tiếng ngày nay có: Chủ tịch Hồ Chí Minh, Danh họa Nguyễn Tư Nghiêm, Nhà khoa học Tạ Quang Bửu, Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn, Bộ trưởng Tạ Quang Ngọc, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, Phạm Thị Thanh Trà, ủy viên ban chấp hành trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Nội Vụ, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo GS. TSKH Bành Tiến Long, Thứ trưởng bộ tư pháp - Hiệu trưởng trường đại học Luật HN PGS TS Hoàng Thế Liên, giáo sư hóa học Nguyễn Thạc Cát, Giáo sư Nguyễn Văn Trương (anh hùng lao động), Giáo sư Phạm Như Cương, Giáo sư Nguyễn Thúc Hào, Giáo sư Nguyễn Thúc Tùng, Giáo sư Nguyễn Văn Hường, Giáo sư Nguyễn Văn Ngọ, Giáo sư Nguyễn Thúc Hải, Giáo sư Nguyễn Đình Bảng, Trưởng đoàn đàm phát Thương mại Việt Mỹ Nguyễn Đình Lương, Phó Viện trưởng VKSND tối cao Dương Thanh Biểu; Giáo sư toán học Nguyễn Thị Thiều Hoa; Giáo sư Nguyễn Xuân Quỳnh, Giáo sư toán học Tạ Quang Hải nguyên chủ nhiệm khoa Toán Đại học Vinh; Giáo sư Tiến sĩ Phạm Thị Ngọc Yến- ĐHBK Hà Nội; Trung tướng Giáo sư Phan Anh Việt Nguyên Phó Tổng cục 2 BQP, Phó Giám đốc Học viện Quốc phòng Việt Nam; Trung tướng, Phó Giáo sư Hoàng Nghĩa Khánh, nguyên Cục trưởng Cục Tác chiến BTTM. Đại tá, PGS.TS Trần Đình Mai Giảng viên Học viện Lục Quân Đà Lạt, Tổng giám đốc Binh đoàn Trường Sơn: Thiếu tướng Lương Sỹ Nhung, Nhà văn, dịch giả: Ông Văn Tùng; nhà báo Hàm Châu; PGS.TS Trần Văn Thụy giảng viên trường đại học y khoa Hà Nội. Tiến sĩ Trần Đình Hiếu nguyên vụ trưởng UB Kế hoạch Nhà nước; Thiếu tướng Nguyễn Phong Phú, nguyên Trưởng bộ phận thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương 6(2), Tổng cục Chính trị, BQP, nguyên Chủ nhiệm Chính trị, Quân khu 4, Tiến sĩ Trần Đình Phương Vụ trưởng Bộ Văn Hoá-TT; Nghệ sĩ xuất sắc của Liên đoàn Nhiếp ảnh Thế giới (FIAP) Hà Hữu Đức; Anh hùng tình báo quân đội Trần Huyền, PGS.TS Sử học Nguyễn Quang Hồng. Hội viên sáng lập Hội nhà văn Việt Nam Hồ Khải Đại; Nhà báo Tạ Quang Đạm; Trung tướng Hồ Đệ; Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Hà, Phó Tư lệnh Quân khu 4.
Chú thích
Liên kết ngoài
Cổng thông tin điện tử huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An
|
24855
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Trung%20th%C6%B0%E1%BB%9Dng%20th%E1%BB%8B
|
Trung thường thị
|
Trung Thường Thị (中常侍) là một chức quan được lập ra thời Đông Hán tại Trung Quốc.
Nguyên nhà Tây Hán phong chức không xác định, hễ các chư hầu, tướng quân, lang đại phu có chức hàm đều được ra vào chỗ vua ở (cấm trung 禁中). Thời Hán Nguyên Đế, chức này ban đầu được gọi là Thường Thị (sát nghĩa là "thường trực hầu hạ"), sau được cải xưng là Trung Thường Thị. Minh Đế nhà Đông Hán dùng sĩ nhân, hoạn quan hỗn tạp, tổng cộng có bốn người giữ chức này. Thời Hán Hòa Đế, hoạn quan Trịnh Chúng tham dự cơ binh quốc sự nên chức này ngày càng quan trọng, số người tăng lên thành 10, kiêm lĩnh luôn cả những chức quan lớn khác. Thời Hán An Đế, thái hậu Đặng Tuy (鄧綏) lâm triều; vì là nữ chúa nên không tiếp hàng công khanh trong cung. Thế nên, chức Trung Thường Thị này sau chỉ dành riêng cho hoạn quan. Một hoạn quan làm Trung Trường Thị thời này sau này được biết đến như nhà sáng chế ra giấy là Thái Luân.
Tham khảo
Nhà Đông Hán
Hoạn quan Trung Quốc
Chế độ quan lại Trung Quốc
|
24865
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%B9a%20Gi%C3%A1c%20L%C3%A2m
|
Chùa Giác Lâm
|
Chùa Giác Lâm () còn có các tên khác: Cẩm Sơn, Sơn Can hay Cẩm Đệm; là một trong những ngôi chùa cổ nhất của Thành phố Hồ Chí Minh. Đây chính là tổ đình của phái Thiền Lâm Tế tông ở Nam Bộ. Chùa tọa lạc tại số 565 (số cũ 118) đường Lạc Long Quân, thuộc phường 10, Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh, và đã được Bộ Văn hóa (nay là Bộ Văn hóa - Thông tin) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa quốc gia của Việt Nam theo quyết định số 1288-VH/QĐ ngày 16 tháng 11 năm 1988.
Giới thiệu sơ lược
Chùa Giác Lâm được cư sĩ Lý Thụy Long, người Minh Hương, quyên tiền xây dựng vào mùa xuân năm Giáp Tý (1744) đời chúa Nguyễn Phúc Khoát. Ban đầu chùa có tên là Sơn Can (sơn là núi, can là gò nông), về sau còn được gọi là Cẩm Sơn do chùa tọa lạc trên gò Cẩm Sơn. Ngoài ra, chùa còn có tên là Cẩm Đệm vì cư sĩ Thụy Long có tên riêng là Cẩm, chuyên nghề đan đệm bán, người địa phương gọi là ông Cẩm Đệm .
Từ năm 1744 đến năm 1774, chưa rõ có vị tăng sĩ nào đến trụ trì chùa hay không, vì thiếu tài liệu . Chỉ biết vào năm 1774, Thiền sư Phật Ý Linh Nhạc (trụ trì chùa Từ Ân) đã cử đệ tử của mình là Thiền sư Tổ Tông Viên Quang (gọi tắt là Viên Quang) về trụ trì chùa, đồng thời đổi tên chùa thành Giác Lâm.
Dưới thời thiền sư Viên Quang, chùa Giác Lâm trở thành một trung tâm đào tạo về kinh điển, giới luật đầu tiên cho chư tăng ở Gia Định và cả Nam Bộ. Đến năm 1873, dưới sự trụ trì của Thiền sư Minh Khiêm, chùa còn là nơi in ấn, sao chép kinh sách, khắc bản gỗ kinh, luật và diễn Nôm một số sách Phật giáo.
Danh sĩ Trịnh Hoài Đức trong quyển Gia Định thành thông chí đã miêu tả cảnh chùa lúc bấy giờ như sau: "Chùa tọa lạc trên gò Cẩm Sơn, cách phía Tây lũy Bán Bích ba dặm..., cây cao như rừng, hoa nở tựa gấm, sáng chiều mây khói nổi bay quanh quất, địa thế tuy nhỏ mà nhã thú!"...
Kiến trúc
Chùa đã được trùng tu lớn ba lần. Thiền sư Tổ Tông Viên Quang cho xây lại chùa lần thứ nhất vào năm 1798–1804. Đến năm 1906–1909, Hòa thượng Hồng Hưng với sự giúp sức của Hòa thượng Như Phòng, đã cho tôn tạo lại ngôi chùa một lần nữa. Các sự kiện này được ghi lại trong đôi liễn mừng lạc thành, nay còn treo trong chánh điện. Đầu năm 1999, chùa hoàn thành đợt trùng tu lần thứ ba.
Chùa Giác Lâm hiện nay có lối kiến trúc chữ Tam (Ξ) gồm ba dãy nhà ngang nối liền nhau (không kể các nhà phụ): chính điện, giảng đường và nhà trai (còn gọi là nhà Ông Giám). Chùa nguyên thủy không có cổng tam quan (cổng tam quan chỉ mới được xây dựng vào năm 1955), mái chùa gồm 4 vạt và các sống mái đều thẳng. Năm 2007, khởi công xây dựng khu giảng đường và tăng xá (phía bên phải chùa - theo hướng nhìn từ trong ra).
Chính điện với kiểu nhà dân gian truyền thống một gian hai chái, bốn cột chính hay còn gọi là tứ trụ. Bên trong điện khá rộng và sâu, có 56 cột to hơn vòng tay ôm màu nâu sẫm. Cột nào cũng được chạm khắc câu đối, thếp vàng công phu. Giữa các hàng cột là các cửa võng, cũng được thếp vàng, chạm trổ các đề tài trang trí truyền thống như tứ linh, tứ quý, hoa điểu....
Trong chính điện bày trí theo kiểu "tiên bái Phật, hậu bái Tổ". Phía trước chính điện thờ các tượng A Di Đà, Thích Ca, Di Lặc. Hai bàn thờ hai bên phải trái, có tượng Quán Thế Âm, Đại Thế Chí. Ngoài ra, ở đây còn có tượng cửu long, dọc hai bên tường có bộ tượng Thập Bát La hán, bộ tượng Thập Điện Diêm Vương, tượng Tổ Bồ Đề Đạt Ma và tượng Long Vương.
Đằng sau chính điện là bàn thờ Tổ, thờ các vị Hòa thượng đã trụ trì tại chùa Giác Lâm. Đối diện với bàn thờ Tổ là các bàn thờ: Phật Chuẩn Đề, Phật A Di Đà, và sau cùng là bàn thờ Thập Điện Diêm Vương. Ở gian này, trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, được dùng làm cơ sở hậu cần, nuôi chứa cán bộ, làm công tác trinh sát nội thành .
Trước chùa là bảo tháp xá lợi gồm 7 tầng hình lục giác. Tháp được khởi công xây dựng từ năm 1970 theo bản vẽ của kiến trúc sư Vĩnh Hoằng, đến năm 1975 thì tạm ngưng cho đến 1993 mới được tiếp tục. Từ năm 1994 tầng 7 của tháp thờ Xá Lợi Phật.
Bên trái của chùa là khu mộ tháp của các vị hòa thượng đã trụ trì ở đây, trong số ấy có tháp Tổ Phật Ý Linh Nhạc, tháp Thiền sư Tổ Tông Viên Quang. Ngoài ra, trước sân chùa có đặt tượng Quan Thế Âm Bồ Tát dưới bóng cây bồ đề. Cây này do Đại đức Narada mang từ Sri Lanka (Tích Lan) sang trồng vào ngày 18 tháng 6 năm 1953 .
Hiện vật quý
Trong chùa có 113 pho tượng cổ, chủ yếu là tượng gỗ, chỉ có 7 tượng đồng. Có nhiều tượng có giá trị như: Tượng Phật A Di Đà, Phật Thích Ca, Di Lặc Bồ Tát; Thế Chí Bồ Tát, Quan Thế Âm Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát, bộ tượng Cửu Long (đúc bằng đồng), bộ tượng Mười Tám Vị La Hán, tượng Thập Điện Diêm Vương, tượng Tổ Sư Đạt Ma, tượng Long Vương, v.v...
Trên các cột chính của chùa đều có khắc câu đối (gồm 86 câu) thếp vàng công phu. Đáng chú ý có câu đối của Hiệp trấn Trịnh Hoài Đức (treo ở gian thờ Tổ) và câu đối của Mộc Ân đệ tử phụng cúng vào năm Gia Long thứ 3 (1804). Ngoài ra ở đây còn có 9 bao lam, 19 hoành phi, một bàn thờ cổ và đồ thờ cổ .
Hình ảnh
Sách tham khảo chính
Vương Hồng Sển, Sài Gòn năm xưa. Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1991.
Huỳnh Minh, Gia Định xưa (1973), Nhà xuất bản Thanh Niên in lại năm 2001.
Giáo trình Kiến thức phục vụ du lịch, Nhà xuất bản TP. HCM, 1995.
Võ Văn Tường – Huỳnh Như Phương, Danh lam nước Việt, Nhà xuất bản Mỹ thuật, 1995.
Sổ tay văn hoá Việt Nam, Đặng Đức Siêu, Nhà Xuất bản Lao động 2006.
Nguyễn Hiền Đức, Lịch sử Phật giáo Đàng Trong, Nhà xuất bản TP. HCM, 1995.
Chú thích
Giác Lâm
Lịch sử Đàng Trong
Tân Bình
|
24870
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%C3%AAn%20t%E1%BA%AFc%20b%E1%BB%95%20sung
|
Nguyên tắc bổ sung
|
Trong di truyền học, sinh học phân tử, nguyên tắc bổ sung (NTBS) là nguyên tắc liên kết giữa một nucleotide và một nucleotide khác đối diện, trong các đại phân tử DNA hay RNA.
Cụ thể một loại nucleotide Purine (adenine và guanine) sẽ chỉ liên kết với một loại nucleotide pyrimidine (thymine và cytosine):
Adenine liên kết với thymine bằng 2 liên kết hydro.
Guanine liên kết với cytosine bằng 3 liên kết hydro.
Liên kết đối diện là liên kết hydro, khác với liên kết giữa hai nucleotide liên tiếp (liên kết phosphodiester).
Trong 1 gen tỉ số %Adenine=%Thymine;%Guanine=%Cytosine
Các gen liên kết dọc với nhau bằng liên kết hóa trị.
Nguyên tắc bổ sung không chỉ biểu hiện ở những liên kết giữa các nucleotide; giữa các ribonucleotide, giữa nucleotide và ribonucleotide cũng có liên kết Hydro theo nguyên tắc bổ sung. Nhưng các base của các ribonucleotide không có base loại Thymine mà thay vào đó là base Uracil. Vì vậy liên kết giữa các ribonucleotide (nếu có) sẽ theo nguyên tắc:
Adenine liên kết với Uracil bằng 2 liên kết Hydro.
Guanine liên kết với Cytosine bằng 3 liên kết Hydro.
+ NTBS là nguyên tắc cặp đôi giữa các base nitơ trên mạch kép của phân tử DNA, đó là nguyên tắc A của mạch đơn này có kích thước lớn bổ sung cho T của mạch đơn kia có kích thước bé chúng liên kết với nhau bằng 2 liên kết H, G của mạch đơn này có kích thước lớn bổ sung cho X của mạch đơn kia có kích thước bé, chúng liên kết với nhau bằng 3 liên kết H và ngược lại.
+ Nguyên tắc bán bảo toàn (giữ lại một nửa): Trong quá trình tổng hợp phân tử DNA mỗi phân tử DNA con tạo ra gồm một mạch của phân tử DNA mẹ (mạch gốc) và một mạch mới được tổng hợp.
+ Nguyên tắc khuôn mẫu: mạch đơn của DNA con được tổ hợp dựa trên trình tự các nucleotide trên mạch khuôn của mẹ.
Tham khảo
Di truyền học
Sinh học phân tử
bg:Базова двойка
ca:Parell de bases
de:Basenpaar
eo:Baza paro
fr:Paire de bases
fi:Emäspari
uk:Комплементарність
|
24871
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Si%C3%AAu%20c%C3%BAp%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20Vi%E1%BB%87t%20Nam
|
Siêu cúp bóng đá Việt Nam
|
Siêu cúp bóng đá Việt Nam hay Siêu cúp Bóng đá Quốc gia (), còn được gọi là Cúp Thaco vì lý do tài trợ, là trận đấu giữa đội vô địch Giải bóng đá Vô địch Quốc gia Việt Nam và đội vô địch Cúp Quốc gia Việt Nam, do VPF và báo Tiền Phong đồng tổ chức. Nếu một đội đoạt cả chức vô địch Giải Bóng đá Vô địch Quốc gia và Cúp Quốc gia thì đội đoạt chức á quân Giải Vô địch Quốc gia sẽ có quyền tham dự trận đấu tranh siêu cúp.
Siêu cúp bóng đá Việt Nam được thành lập năm 1999. Qua 24 lần tổ chức trận tranh siêu cúp, Hà Nội là đội bóng giàu thành tích nhất với 5 lần đoạt siêu cúp quốc gia. Tính đến mùa giải 2023, đã có 12 đội bóng vinh dự giành danh hiệu cao quý này là: Thể Công, Sông Lam Nghệ An, Hoàng Anh Gia Lai, Hải Phòng, Long An, Becamex Bình Dương, Thanh Hóa, Hà Nội, SHB Đà Nẵng, Ninh Bình, Than Quảng Ninh và Quảng Nam. Chín đội bóng đã giành quyền tham dự nhưng không đoạt được siêu cúp là: Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Định, Hòa Phát Hà Nội, Nam Định, Hà Nội ACB, Navibank Sài Gòn, Sài Gòn Xuân Thành và Công an Hà Nội.
Năm 2021, trận tranh Siêu cúp Quốc gia không được tổ chức do V.League 2021 và Cúp Quốc gia 2021 không thể kết thúc đúng kế hoạch vì ảnh hưởng của dịch COVID-19.
Đông Á Thanh Hóa hiện đang nắm giữ siêu cúp sau khi đánh bại Công an Hà Nội với tỷ số 3–1 trong trận tranh Siêu cúp Quốc gia 2023.
Kết quả các trận tranh siêu cúp
2023 - Cúp Thaco
2022 - Cúp Thaco
2020 - Cúp Thaco
2019 - Cúp Thaco
2018 - Cúp Thaco
2017 - Cúp Thaco
2016 - Cúp Tiền Phong - Thaco
2015 - Cúp Tiền Phong - Thaco
2014 - Cúp Tiền Phong - Thaco
2013 - Cúp VPP Hồng Hà
2012 - Cúp PV Gas
2011 - Cúp PV Gas
2010 - Cúp 584 Group
2009 - Megastar Cup
2008 - IZZI Cup
2007 - IZZI Cup
2006 - IZZI Cup
2005 - IZZI Cup
2004 - IZZI Cup
2003 - VTC Cup
2002 - Toyota Cup
2001 - Honda Cup
2000 - Toyota Cup
1999 - Toyota Cup
Xếp hạng các nhà vô địch
Tham khảo
Xem thêm
Bóng đá Việt Nam
Đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam
Giải bóng đá vô địch quốc gia
Giải bóng đá Cúp Quốc gia
Giải bóng đá hạng Nhì Quốc gia
Giải bóng đá hạng Ba Quốc gia
Liên kết ngoài
Liên đoàn bóng đá Việt Nam
Báo Thể thao
Báo Thể thao Việt Nam
Liên đoàn bóng đá Việt Nam
Giải Hạng nhất Quốc gia - Liên đoàn bóng đá Việt Nam
Giải bóng đá Hạng nhất Quốc gia - Công ty Cổ phần Bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam
Giải bóng đá Cúp Quốc gia - Công ty Cổ phần Bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam
Siêu Cúp quốc gia - Liên đoàn bóng đá Việt Nam
Siêu cúp bóng đá Việt Nam
Giải đấu bóng đá tại Việt Nam
Siêu cúp bóng đá
|
24876
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BA%BFt%20t%E1%BA%BF%20b%C3%A0o%20c%E1%BB%95%20t%E1%BB%AD%20cung
|
Phết tế bào cổ tử cung
|
Phết tế bào cổ tử cung (tiếng Anh: Pap smear, tức là xét nghiệm Pap) là một xét nghiệm tế bào học để tìm những tế bào bất thường trong lớp biểu mô cổ tử cung. Mục đích của việc này là để phát hiện ung thư cổ tử cung – một bệnh lý ác tính rất thường gặp ở phụ nữ, nhất là ở các nước đang phát triển.
Đây là một xét nghiệm đơn giản, thường được thực hiện ở các phòng khám phụ khoa, và là bước đầu tiên trong bộ ba xét nghiệm dùng để tầm soát đồng thời cũng để chẩn đoán ung thư cổ tử cung.
Cách đọc kết quả một xét mẫu tế bào cổ tử cung cũng khá phức tạp với một số phân loại khác nhau.
Lịch sử
Năm 1928, George Nicolas Papanicolaou – một bác sĩ người Hi Lạp giới thiệu những phát hiện mới của mình về một phương pháp chẩn đoán ung thư mới với tựa đề bài báo là "New Cancer Diagnosis" (Phương pháp chẩn đoán ung thư mới).
Cũng từ năm này, Papanicolaou đến và làm việc tại Hoa Kỳ. Tại đây, năm 1939, ông cùng với một đồng nghiệp của mình là bác sĩ Herbert Traut, một nhà bệnh học về phụ khoa, làm phết tế bào âm đạo cho nhiều bệnh nhân, và từ đó chứng minh khả năng chẩn đoán ung thư cổ tử cung ở giai đoạn sớm của phương pháp này.
Năm 1943, họ giới thiệu những kết quả nghiên cứu của mình trong một bài báo nổi tiếng "Diagnosis of Uterine Cancer by the Vaginal Smear" (Chẩn đoán ung thư tử cung bằng phết tế bào âm đạo). Từ đó, phương pháp này được gọi theo tên của người đã khởi xướng nó – xét nghiệm Pap.
Từ đó đến nay, phương pháp làm xét nghiệm này đã có nhiều cải tiến để tăng tính chính xác và hiệu quả, và hiện được dùng rất rộng rãi để tầm soát ung thư cổ tử cung. Cũng cần biết rằng đây là xét nghiệm chỉ dùng để tầm soát, mà không dùng để chẩn đoán và chỉ áp dụng với ung thư cổ tử cung chứ không phải dùng cho ung thư tử cung như bài báo mà Papanicolaou đã viết.
Tại Việt Nam, trước đây xét nghiệm này thường được gọi tên là phết mỏng tế bào âm đạo, nhưng tên gọi trên không chính xác vì thực chất là lấy tế bào của cổ tử cung chứ không phải của âm đạo, nên một số tài liệu mới gần đây đã gọi xét nghiệm này là phết tế bào cổ tử cung, hoặc phết mỏng tế bào cổ tử cung, hoặc cũng gọi tắt là xét nghiệm Pap.
Chỉ định
Phết tế bào cổ tử cung được chỉ định cho những bệnh nhân sau:
Kiểm tra định kỳ cho tất cả các phụ nữ đã có quan hệ tình dục. Thời gian giữa các lần làm hiện chưa thống nhất. Có một số đề nghị được chấp nhận rộng rãi, như theo đề nghị của Hội Ung thư Hoa Kỳ thì mỗi phụ nữ đã có quan hệ tình dục nên được phết tế bào cổ tử cung mỗi năm một lần. Sau 3 lần liên tiếp với kết quả bình thường thì khoảng thời gian làm lại có thể thưa ra tùy theo đánh giá của bác sĩ. Thời gian này có thể là mỗi 3 năm, cho đến lúc 60 tuổi. Nếu trên tuổi này mà kết quả vẫn bình thường thì có thể loại khỏi chương trình tầm soát.
Khi khám phụ khoa phát hiện thấy những tổn thương ở cổ tử cung.
Khi có yếu tố nghi ngờ ung thư cổ tử cung như: xuất huyết âm đạo bất thường...
Kỹ thuật
Điều kiện
Bệnh nhân không đặt thuốc âm đạo, không giao hợp, không thụt rửa âm đạo trong 24-48 giờ trước đó.
Không làm khi có tình trạng viêm nhiễm âm đạo, cổ tử cung nặng, cấp tính, hoặc khi có tình trạng xuất huyết âm đạo, tử cung.
Làm trong lúc không hành kinh (tốt nhất là làm vào ngày thứ 15-20 của chu kì kinh nguyệt)
Cách thực hiện
Bệnh nhân nằm trong tư thế phụ khoa (bệnh nhân nằm ngửa, gối gập, hai chân dang rộng, thả lỏng người)
Đặt mỏ vịt để mở rộng âm đạo.
Dùng một que nhỏ bằng gỗ được gọi là que Ayre đặt áp vào lỗ cổ tử cung, quay một vòng để lấy tế bào trên bề mặt cổ tử cung. Bác sĩ sẽ lấy 2 mẫu của cổ ngoài và cổ trong tử cung bằng 2 đầu của que.
Dùng que Ayre trải đều tế bào lên lame kính. Khi trải, lưu ý chỉ trải một lần duy nhất, không kéo nhiều lần sẽ làm thay đổi hình dạng tế bào.
Mẫu sẽ được cố định bằng cách nhúng vào dung dịch cồn + ête hoặc xịt một lớp keo mỏng lên bề mặt lame.
Đọc kết quả
Hiện có 3 phương pháp đọc kết quả:
Theo Papanicolaou
Tế bào bình thường
Tế bào biến đổi nhân và tế bào chất do viêm: không đặc hiệu
Tế bào dị dạng, dị dạng này có thể do:
Viêm
Dùng thuốc tránh thai
Ung thư
Tế bào dị dạng có nhiều đặc tính nghi ngờ ung thư hoặc ung thư tại chỗ (in situ)
Chắc chắn ung thư (xâm lấn)
Ngày này cách đọc này ít được dùng, vì có nhiều khuyết điểm: không phân định rõ loại tế bào tổn thương, không cho thông tin đầy đủ mức độ ác tính của tổn thương.
Theo hệ thống Bethesda 2001
Đọc theo hệ thống này thì nhà tế bào học phải cho biết những thông tin sau:
Mẫu có đạt tiêu chuẩn không. Một mẫu đạt tiêu chuẩn thì phải có cả tế bào cổ ngoài và tế bào cổ trong cổ tử cung. Bởi vì vùng cần xem xét nhất là vùng chuyển tiếp giữa hai loại tế bào này, và khi thấy được tế bào cổ trong trên tiêu bản thì chứng tỏ đã lấy được tế bào ở vùng chuyển tiếp.
Những tổn thương kèm theo như tổn thương viêm nhiễm chẳng hạn.
Những bằng chứng tổn thương ác tính.
Bảng phân loại Bethesda 2001 là hệ thống mới nhất, do Viện Ung thư Quốc gia Hoa Kỳ đề nghị và được nhiều nước áp dụng.
Tế bào biểu mô bình thường
Tế bào biểu mô biến đổi lành tính
Viêm nhiễm, có thể do các tác nhân sau:
Chlamydia
Trichomonas
Actinomyces
Candida
Virus herpes simplex
Lưu ý: trong các trường hợp viêm nhiễm được miêu tả trên không có phân loại viêm âm đạo do Human papilloma virus.
Biến đổi tế bào do phản ứng, có thể là:
Viêm teo do giảm hàm lượng estrogen trong cơ thể ở phụ nữ mãn kinh
Do tia xạ
Do đặt vòng tránh thai
Những thay đổi bất thường của tế bào biểu mô
Tế bào biểu mô gai:
Thay đổi tế bào biểu mô gai không điển hình (ASC: Atypical Squamous Cell) dùng để chỉ những thay đổi nhỏ tìm thấy được ở tế bào biểu mô gai mà nguyên nhân không xác định được, gồm 2 nhóm:
Thay đổi tế bào biểu mô gai không điển hình không rõ ý nghĩa (ASC-US: Atypical Squamous Cell of Undetermined Significance)
Thay đổi tế bào biểu mô gai không điển hình nhưng không loại trừ được đó là tổn thương trong biểu mô gai mức grad cao (HSIL: High-grade squamous intraepithelial lesions)
Thay đổi tế bào biểu mô gai do tổn thương trong biểu mô gai grad thấp (LSIL: Low-grade squamous intraepithelial lesions), còn được gọi là nghịch sản nhẹ hay tân sinh trong biểu mô độ 1 (CIN I). Phân loại này dùng để chỉ những thay đổi nhỏ của tế bào biểu mô và không có khuynh hướng tiến triển thành ung thư, phân loại này bao gồm cả những tổn thương tế bào do nhiễm HPV
Thay đổi tế bào biểu mô gai do tổn thương trong biểu mô gai grad cao (HSIL: High-grade squamous intraepithelial lesions): Phân loại này để chỉ các thay đổi của tế bào có khả năng tiến triển thành ung thư. Phân loại bao gồm: nghịch sản trung bình - CIN II, nghịch sản nặng - CIN III, ung thư tại chỗ và những tổn thương ung thư nghi ngờ xâm lấn.
Ung thư tế bào biểu mô gai xâm lấm
Tế bào biểu mô tuyến:
Tế bào biểu mô tuyến không điển hình (AGC: Atypical glandular cells)):
Tế bào cổ trong tử cung (từ kênh cổ tử cung)
Tế bào nội mạc tử cung. Những tế bào này bình thường chỉ thấy ở nội mạc tử cung. Tìm thấy trên mẫu xét nghiệm có thể do người phụ nữ đó làm xét nghiệm trong lúc đang hành kinh hoặc một tình trạng tăng sinh của nội mạc tử cung bất thường ở những phụ nữ dùng hormone sinh dục thay thế khi đã mãn kinh.
Tế bào biểu mô tuyến không điển hình, do tân sinh:
Tân sinh của tế bào cổ tử cung trong (kênh cổ tử cung)
Tân sinh của tế bào nội mạc tử cung
Ung thư tại chỗ tế bào tuyến cổ tử cung trong
Ung thư tế bào tuyến xâm lấn
Cổ tử cung trong
Nội mạc tử cung
Từ một cơ quan bên ngoài tử cung
Không rõ nguồn gốc
Những hình ảnh tế bào học theo mức độ tổn thương của niêm mạc cổ tử cung. http://www.cytopathology.org/NIH/index.php
Xử trí theo kết quả phết tế bào
Theo Papanicolaou
Nhóm I và II: tiếp tục theo dõi theo lịch làm phết tế bào cổ tử cung. Điều trị tất cả các tình trạng viêm hoặc những tổn thương lành tính tại chỗ.
Nhóm III: điều trị đặc hiệu từng nguyên nhân. Sau đó 2 tuần kiểm tra lại bằng phết tế bào và soi cổ tử cung.
Nhóm IV và V: tiến hành soi và sinh thiết ngay để có chẩn đoán chính xác hơn.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới
Theo phân loại Bethesda 2001
Các trường hợp tế bào biến đổi lành tính thì điều trị theo nguyên nhân.
Các trường hợp bất thường của tế bào biểu mô gai.
Tế bào biểu mô gai thay đổi không điển hình: Lập lại xét nghiệm 2 lần trong vòng 12 tháng và tìm DNA của virus HPV chủng ác tính (HVP 16, 18, 31, 33...) 2 lần trong 12 tháng.
Nếu kết quả những lần sau bình thường hoặc chủng HPV tìm được là chủng lành tính, trở về lịch theo dõi thông thường.
Nếu kết quả vẫn là thay đổi không điển hình hoặc tiến triển hoặc tìm được HVP chủng ác tính, cần làm soi cổ tử cung và sinh thiết cổ tử cung dưới máy soi.
Các trường hợp LSIL (hay CIN I) và HSIL (hay CIN II và III), cần soi cổ tử cung và sinh thiết để có chẩn đoán. Về điều trị: xin xem bài Tân sinh trong biểu mô cổ tử cung.
Ung thư tế bào biểu mô gai: soi cổ tử cung và sinh thiết để có chẩn đoán đầy đủ. Về điều trị: xin xem bài Ung thư cổ tử cung.
Các trường hợp bất thường của tế bào biểu mô tuyến
Tế bào tuyến thay đổi không điển hình: Làm lại phết tế bào ngay.
Nếu vẫn bất thường: thực hiện soi cổ tử cung và nạo sinh thiết kênh cổ tử cung, có thể thực hiện sinh thêm thiết lòng tử cung trong trường hợp phụ nữ trên 35 tuổi hoặc có chảy máu bất thường từ lòng tử cung.
Nếu kết quả phết tế bào lần sau bình thường: làm Pap theo định kì.
Bất thường của tế bào tuyến cổ tử cung trong: tiến hành nạo sinh thiết kênh cổ tử cung, đồng thời nạo lòng tử cung để chẩn đoán chính xác. Nếu chỉ là tổn thương của kênh cổ tử cung, điều trị như ung thư cổ tử cung, nếu tế bào ác tính có nguồn gốc từ nội mạc tử cung, điều trị như ung thư nội mạc tử cung.
Bất thường của tế bào nội mạc tử cung: nạo sinh thiết lòng tử cung, và điều trị xin xem bài Ung thư nội mạc tử cung.
Tham khảo
Cervical cancer: screening recommendations, with algorithms, for managing women with abnormal Pap test results – National Guideline Clearinghouse
Management of initial abnormal Pap smear – National Guideline Clearinghouse
Optimizing the Papanicolaou Smear
Pap Test (Papanicolaou Smear)
Xem thêm
Ung thư cổ tử cung
Tân sinh trong biểu mô cổ tử cung
Ung thư nội mạc tử cung
Soi cổ tử cung
Liên kết ngoài
Papanicolaou-Society-of-Cytopathology
Pap Corps – An volunteer organization committed to finding a cure for cancer in the spirit and name of Dr. George Papanicolaou
Bethesda system 2001
Những hình ảnh tế bào học của niêm mạc cổ tử cung Bethesda System Website Atlas
Ung thư học
Phụ khoa
Sản khoa
Xét nghiệm y khoa
Phát minh của Hy Lạp
|
24883
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%C3%A3%20l%E1%BB%B1c
|
Mã lực
|
Mã lực hay Sức ngựa, viết tắt là Hp - Horsepower (tiếng Anh) hoặc Ps - Pferdestärke (tiếng Đức) là một đơn vị dùng để chỉ công suất. Nó được định nghĩa là công cần thiết để nâng một khối lượng 75 kg lên cao 1 mét trong thời gian 1 giây hay 1HP = 75 kgf⋅m/s = 735 W.
Trong thực tế để chuyển đổi nhanh chóng giữa các đơn vị "mã lực" và "kW" (kilô watt), người ta hay dùng các hệ số tương đối như sau:
Ở nước Anh: 1 HP = 0,7457 kW
Ở nước Pháp: 1 CV (mã lực) = 0,7355 kW
1 kW = 1,36 CV = 1,34 HP
Có nhiều định nghĩa mã lực, với giá trị khác nhau dao động từ 735 đến 746 W.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Đơn vị đo lực
Hệ đo lường Anh
Hệ đo lường Mỹ
James Watt
Ẩn dụ loài vật
Đơn vị đo công suất
|
24885
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%B4ng%20su%E1%BA%A5t
|
Công suất
|
Công suất ℘ (chữ P viết hoa - U+2118) (từ tiếng Latinh Potestas) là một đại lượng cho biết công được thực hiện ΔW hay năng lượng biến đổi ΔE trong một khoảng thời gian T = Δt.
hay ở dạng vi phân .
Công suất trung bình
Trong hệ SI, công suất có đơn vị đo là watt (W).
Đơn vị đo
Trong hệ đo lường quốc tế, đơn vị đo công suất là Watt (viết tắt là W), lấy tên theo James Watt.
1 Watt = 1 J/s
Ngoài ra, các tiền tố cũng được thêm vào đơn vị này để đo các công suất nhỏ hay lớn hơn như mW, MW.
Một đơn vị đo công suất hay gặp khác dùng để chỉ công suất động cơ là mã lực (viết tắt là HP).
1 HP = 0,746 kW tại Anh
1 CV = 0,736 kW tại Pháp
Trong truyền tải điện, đơn vị đo công suất hay dùng là kVA (kilô Volt Ampe):
1 kVA = 1000 VA
Công suất cơ
Trong chuyển động đều, thời gian Δt, khoảng cách Δs, chuyển động với vận tốc v dưới tác dụng của lực F thì công suất được tính:
hay
Trong chuyển động quay, thời gian Δt, góc quay Δφ, vận tốc góc ω dưới tác dụng của mômen M thì công suất là:
Công suất điện
Công suất điện tức thời với u, i là những giá trị tức thời của hiệu điện thế và cường độ dòng điện.
Nếu u và i không đổi theo thời gian (dòng điện không đổi) thì .
Trong điện xoay chiều, có ba loại công suất: công suất hiệu dụng ℘, công suất hư kháng và công suất biểu kiến , với (i: đơn vị số ảo) hay .
Xem thêm
Hệ đo lường quốc tế
Công suất điện xoay chiều
Tham khảo
Công suất
Năng lượng
Thời gian
Đại lượng vật lý
Đại lượng điện
Khái niệm vật lý
|
24886
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%B4ng
|
Công
|
Công còn có nghĩa như động từ tha (dùng cho động vật chỉ việc dùng mỏ/mồm đem đồ vật di chuyển)
Công trong tiếng Việt có nhiều hơn một nghĩa. Tùy theo ngữ cảnh, nó có thể là:
Cách gọi của công cơ học trong vật lý.
Công trong lao động, thường được tính bằng số lượng công việc một người lao động hoàn thành được trong một ca 8 giờ
Tên gọi chung của ba loài chim thuộc các chi Pavo và Afropavo trong họ Phasianidae (họ gà lôi/chim trĩ). Xem bài Công (chim).
Họ người Á Đông: Công (họ người).
Công tước, một tước vị quý tộc của chế độ quân chủ.
Gọi tắt của công cộng.
Gọi tắt của giai cấp công nhân: công nông
Một đơn vị đo diện tích ruộng đất, thường dùng ở miền Tây Nam bộ Việt Nam, bằng 1000 m² (1/10 ha).
Khái niệm công như trong tam công.
Công suất
Phép tính đúng: công đạo, công bình, công lý...
zh:工
zh:公
|
24887
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ca-lo
|
Ca-lo
|
Ca-lo, còn được gọi là ca-lo-ri (bắt nguồn từ từ tiếng Pháp calorie ) (thường được ký hiệu là: "kal", hoặc "cal") là một đơn vị vật lý dùng để đo nhiệt lượng, và được định nghĩa là: số nhiệt lượng cần thiết để đun nóng 1 gam nước lên thêm 1 độ C, ở trong điều kiện bình thường.
Vì lý do lịch sử, hai định nghĩa chính về calo đang được sử dụng rộng rãi. Calo nhỏ hoặc gam calo (thường được ký hiệu là cal) là lượng nhiệt năng cần thiết để tăng nhiệt độ của một gam nước lên một độ Celsius (hoặc một Kelvin). Lượng calo lớn, calo thực phẩm, hoặc kilocalories (Cal, calo hoặc kcal), được sử dụng rộng rãi nhất trong dinh dưỡng, là lượng nhiệt cần thiết để gây ra cùng một sự gia tăng trong một kilogram nước. Như vậy, 1 kilocalories (kcal) = 1000 calo (cal). Theo quy ước trong khoa học thực phẩm, calo lớn thường được gọi là Calo (một số tác giả viết hoa C để phân biệt với đơn vị nhỏ hơn). Ở hầu hết các quốc gia, nhãn của các sản phẩm thực phẩm công nghiệp hóa bắt buộc phải chỉ ra giá trị năng lượng dinh dưỡng tính bằng (kilo hoặc lớn) calo trên mỗi khẩu phần ăn hoặc mỗi trọng lượng.
Calo liên quan trực tiếp đến hệ mét, và do đó liên quan đến hệ SI. Nó được coi là lỗi thời trong cộng đồng khoa học, kể từ khi áp dụng hệ SI, nhưng vẫn còn được sử dụng. Đơn vị năng lượng trong hệ SI là Joule.
Lịch sử
Calo lần đầu tiên được giới thiệu bởi Nicolas Clément, như một đơn vị nhiệt năng, trong các bài giảng trong những năm 1819–1824. Đây là lượng calo "lớn", viz. kilocalorie hiện đại. Thuật ngữ này được đưa vào từ điển tiếng Pháp và tiếng Anh từ năm 1841 đến năm 1867. Nó xuất phát từ 'nhiệt' trong tiếng Latinh.
Calo "nhỏ" (calo hiện đại) được Pierre Antoine Favre (Nhà hóa học) và Johann T. Silbermann (Nhà vật lý) đưa ra vào năm 1852. Năm 1879, Marcellin Berthelot phân biệt giữa gam-calo (calo hiện đại) và kilôgam calo (kilocalo hiện đại). Berthelot cũng đưa ra quy ước viết hoa kilôgam calo, là Calo.
Việc sử dụng kilôgam calo (kcal) cho dinh dưỡng đã được giới thiệu với công chúng Mỹ bởi Wilbur Olin Atwater, giáo sư tại Đại học Wesleyan, vào năm 1887.
Calo (cal) hiện đại lần đầu tiên được công nhận là một đơn vị của hệ thống cm-g-s (cgs) vào năm 1896, cùng với đơn vị năng lượng cgs đã tồn tại, erg (được đề xuất lần đầu tiên bởi Clausius vào năm 1864, dưới cái tên ergon, và chính thức được thông qua vào năm 1882).
Ngay từ năm 1928, đã có những phàn nàn nghiêm trọng về sự nhầm lẫn có thể phát sinh từ hai định nghĩa chính về calo và liệu khái niệm sử dụng chữ hoa để phân biệt chúng có đúng hay không.Việc sử dụng calo đã chính thức không được sử dụng bởi Hội nghị chung về Cân nặng và Đo lường lần thứ chín, vào năm 1948.
Cách viết thay thế, calory,là lỗi thời.
Tương quan giữa Jul và ca-lo
công và nhiệt lượng đều là năng lượng cho nên chúng tương đồng với nhau.
1 cal = 4,186 J
1 kcal= 4186
Ý nghĩa vật lý của đơn vị "ca-lo"
Ca-lo chính là định nghĩa sơ khai cho nhiệt dung riêng của nước.
Một calo là lượng năng lượng cần thiết để làm nóng 1 gram nước bằng 1 °C.
Trên các nhãn thực phẩm, thành phần dinh dưỡng được tính theo kCal = 1000 Cal
Hoạt động tiêu tốn calo là hoạt động thể chất và quá trình trao đổi chất nên calo rất cần thiết cho cơ thể.
Tham khảo
Đơn vị đo năng lượng
Dinh dưỡng
Truyền nhiệt
Từ gốc Pháp
|
24889
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Y%20t%E1%BA%BF%20c%C3%B4ng%20c%E1%BB%99ng
|
Y tế công cộng
|
Y tế công cộng là khoa học và nghệ thuật phòng bệnh, kéo dài tuổi thọ và tăng cường sức khỏe thông qua những cố gắng có tổ chức của xã hội
Sức khoẻ có nhiều định nghĩa khác nhau theo nhiều tổ chức.Tổ chức y tế thế giới, cơ quan của Liên Hợp Quốc, đặt tiêu chuẩn và cung cấp chương trình kiểm soát bệnh tật đã định nghĩa sức khỏe là:"tình trạng hoàn toàn thoải mái cả về thể chất, tinh thần và các quan hệ xã hội chứ không phải đơn giản là tình trạng không có bệnh hay ốm yếu". Các chuyên gia y tế công cộng cho rằng định nghĩa này chưa đầy đủ, một số thành phần khác trong sức khỏe con người còn có dinh dưỡng, tinh thần và tri thức.
Y tế công cộng có nhiều lĩnh vực nhỏ nhưng có thể chia ra các phần: dịch tễ học, sinh thống kê và dịch vụ y tế. Những vấn đề liên quan đến môi trường, xã hội, nhân chủng học và sức khỏe nghề nghiệp cũng là lĩnh vực quan trọng trong y tế công cộng.
Trọng tâm can thiệp của y tế công cộng là phòng bệnh trước khi đến mức phải chữa bệnh thông qua việc theo dõi tình trạng và điều chỉnh hành động bảo vệ sức khỏe. Nói tóm lại, trong nhiều trường hợp thì chữa bệnh có thể gây nguy hiểm đến tính mạng hơn so với phòng bệnh từ trước, chẳng hạn như khi bùng phát bệnh lây nhiễm. Chương trình tiêm chủng vắc-xin và phân phát bao cao su là những ví dụ về các biện pháp dùng trong y tế công cộng.Tuy nhiên ngành này lương thấp và rất khó xin việc. Đa số học viên đều chọn học tại chức vừa học vừa làm.
Khái niệm
Ở Việt Nam, ngành y tế công cộng còn mới và thường bị nhẫm lẫn với ngành y học dự phòng hay vệ sinh-dịch tễ (trước kia). Hiện nay có xu hướng sử dụng thuật ngữ "y tế công cộng" hơn vì:
Đây là thuật ngữ đang được thế giới sử dụng rộng rãi (tiếng Anh: public health).
Bao hàm ý nghĩa liên ngành chứ không chỉ giới hạn trong lĩnh vực y tế.
Mục đích
Các can thiệp của y tế công cộng tập trung vào vấn đề phòng bệnh hơn là chữa bệnh thông qua giám sát các trường hợp và khuyến khích các hành động tốt cho sức khoẻ. Thêm vào đó, trong nhiều trường hợp, chữa một bệnh này có ý nghĩa sống còn để phòng ngừa các bệnh khác, chẳng hạn các vụ bùng phát dịch bệnh truyền nhiễm. Các chương trình tiêm chủng vắc-xin, vệ sinh nước sạch,môi trường là những ví dụ của công tác hoạt động y tế công cộng.
Nhiều quốc gia đã có cơ quan chính phủ riêng, thường là bộ y tế, chịu trách nhiệm về các vấn đề sức khỏe trong gia đình. Ở Hoa Kỳ, vấn đề y tế cộng đồng bắt đầu thu thập từ các cục y tế bang và địa phương. Cơ quan kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh(CDC)đặt tại Atlanta, mặc dù có cơ sở tại Hoa Kỳ, nhưng cũng liên quan tới nhiều vấn đề sức khỏe tại nhiều quốc gia khác mà họ chịu trách nhiệm.
Có một sự khác biệt rất lớn giữa chăm sóc sức khỏe và y tế công cộng giữa các nước đang phát triển và các nước đã phát triển. Tại các nước đang phát triển, nhiều cơ sở hạ tầng y tế công cộng vẫn còn đang được trong giai đoạn xây dựng. Có thể không đủ các cử nhân y tế được đào tạo tốt và nguồn tiền để cung cấp cho thậm chí chỉ ở mức độ cơ bản nhất trong vấn đề chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh. Vấn đề đó kết hợp với tình trạng đói nghèo đã khiến đa số bệnh tật và tử vong hoành hành dữ dội ở các nước đang phát triển. Nhiều nước châu Phi, chính phủ dành ra dưới 10$ cho chăm sóc sức khỏe mỗi người, trong khi tại Hoa Kỳ, chính quyền liên bang chi trả xấp xỉ 4500$ một đầu người.
Nhiều bệnh tật có thể phòng tránh được một cách rất đơn giản, thậm chí bằng phương pháp không liên quan tới y học. Y tế công cộng đống một vai trò hết sức quan trọng trong nỗ lực ngăn ngừa bệnh tật tại các nước đang phát triển, cùng với hệ thống y tế địa phương thông qua các tổ chức phi chính phủ.
Lịch sử của y tế công cộng
Y tế công cộng là khái niệm hiện đại, mặc dù nguồn gốc có từ xa xưa. Từ thời kì sơ khai của nền văn minh con người, tình trạng ô nhiễm nước và thiếu nguyên tắc trong việc bố trí rác thải có thể tạo ra véc-tơ lây truyền bệnh dịch. Nhiều tôn giáo cổ xưa cũng đã đưa ra quy định trong hành vi liên quan tới sức khỏe: từ các loại thức ăn nào thì được dùng, cho tới đánh giá hành vi nào bị coi là buông thả theo khoái cảm, chẳng hạn uống rượu hay quan hệ tình dục. Những chính phủ đã thiết lập nên nơi có quyền lãnh đạo và phát triển chính sách sức khỏe cộng đồng và những chương trình chống lại các nguyên nhân gây bệnh nhằm bảo đảm sự ổn định, an toàn, phồn vinh của quốc gia.
Y tế công cộng thời xa xưa
Từ trước thời La Mã, người ta đã biết nhiều về y tế công cộng: những hành động can thiệp hợp lý của người làm công việc rác thải là rất cần thiết cho sức khỏe cộng đồng ở khu vực thành thị. Người Trung Quốc đã biết phát triển thói quen phòng dịch sau khi trải qua một trận dịch đậu mùa khoảng năm 1.000 trước công nguyên. Người không mắc bệnh có thể nhận được ít nhiều miễn dịch chống lại căn bệnh nhờ nuốt vảy khô của người đã nhiễm. Tương tự, trẻ em cũng có thể được bảo vệ nhờ tiêm vào cẳng tay một vết nhỏ mủ từ một người bệnh. Cách làm này chỉ xuất hiện ở phương tây những năm đầu 1700, và được sử dụng rất hạn chế. Tiêm chủng băng vắc-xin chỉ trở nên phổ biến những năm 1820, sau thành công của Edward Jenner trong việc điều trị đậu mùa.
Trong suốt thế kỷ 14, dịch chết Đen lan rộng ở châu Âu, người ta cho rằng thủ tiêu các cơ thể bị chết có giúp thể ngăn ngừa được nhiễm trùng vi khuẩn này về sau. Điều này đã giải quyết được một phần gốc rễ của dịch bệnh, tuy vậy, căn bệnh lại được lan truyền chủ yếu do bọ chét trên các loài gặm nhấm. Nhiều khu vực trong các thành phố bị đốt chát đã giúp ích rất nhiều bởi vì nó đã tiêu diệt nhiều động vật gặm nhấm mắc bệnh.
Dịch tả, đại dịch thứ hai tàn phá châu Âu từ năm 1829 tới năm 1851.
Y tế công cộng thời hiện đại
Khi tỉ lệ mắc bệnh truyền nhiễm ở các nước phát triển giảm xuống trong thể kỷ 20, y tế công cộng bắt đầu tập trung hơn nữa vào các bệnh mãn tính như ung thư và bệnh tim. Trong khi đó, các nước đang phát triển vẫn còn đang các bệnh truyền nhiễm có thể phòng tránh được hoành hành, tàn phá, cùng với suy dinh dưỡng và nghèo đói.
Gánh nặng của chữa trị lâm sàng do người thất nghiệp, nghèo đói, nhà cửa tồi tàn và ô nhiễm môi trường lên tới 16-22% ngân sách y tế của vương quốc Anh.
Lịch sử phát triển y tế công cộng ở Việt Nam
Từ ngày thành lập nước năm 1945, Việt Nam đã khẳng định y học dự phòng luôn là ưu tiên hàng đầu: phòng bệnh hơn chữa bệnh. Theo tinh thần đó, Việt Nam đã xây dựng một hệ thống vệ sinh dịch tễ học theo mô hình Liên Xô nhấn mạnh vào việc phòng và chống các bệnh truyền nhiễm bởi lúc đó bệnh truyền nhiễm đóng vai trò chủ yếu trong cấu trúc bệnh tật ở Việt Nam, hoàn toàn có thể khống chế được thông qua các biện pháp đặc hiệu như dùng vắc-xin và không đặc hiệu như tuyên truyền.
Trong khi đó, những tiến bộ trong cách đề cập dịch tễ học đang diễn ra tại những nước phương tây, chủ yếu là các nước nói tiếng Anh, đang ngày một mạnh mẽ. Những tiến bộ đó chỉ được đưa vào một cách không chính thức thông qua các cuốn sách dịch tễ học được những người có dịp đi học, công tác tại các nước phát triển mang về và đại học Y Hà Nội đã nghiên cứu và dần đưa vào giảng dạy đầu những năm 1980.
9 chức năng cơ bản của Y tế công cộng
Theo dõi và phân tích tình hình sức khoẻ
Giám sát dịch tễ học / phòng ngừa và kiểm soát dịch
Xây dựng chính sách và kế hoạch y tế công cộng
Quản lý có tính chiến lược các hệ thống và dịch vụ sức khỏe cộng đồng
Quy chế và thực hành pháp luật để bảo vệ sức khỏe công cộng
Phát triển nguồn nhân lực và lập kế hoạch trong y tế công cộng
Tăng cường sức khỏe, sự tham gia của xã hội trong công tác chăm sóc sức khỏe và làm cho người dân có ý thức thực hiện được đó là quyền lợi của mình
Đảm bảo chất lượng dịch vụ sức khỏe cho cá nhân và cho cộng đồng
Nghiên cứu, phát triển và thực hiện các giải pháp y tế công cộng mang tính chất đổi mới
Những chương trình y tế công cộng
Ngày nay, hầu hết chính phủ các nước nhận thấy tầm quan trọng của những chương trình y tế công cộng trong việc làm giảm tỷ lệ mắc bệnh, tình trạng ốm yếu, và sự lão hoá, mặc dù y tế công cộng mặc dù nói chung, y tế công cộng nhận được ít hỗ trợ từ các quỹ chính phủ hơn so với y học lâm sàng.Trong những năm gần đây, những chương trình y tế công cộng đã cung ứng vắc-xin tiêm chủng đầy đủ, góp phần tăng cường sức khỏe một cách không thể tin nổi, bao gồm có việc xóa sổ bệnh đậu mùa, một bệnh dịch thảm họa của nhân loại trong hàng nghìn năm.
Một trong những kết quả quan trọng nhất của y tế công cộng là đương đầu với HIV/AIDS. Bệnh lao, căn bệnh được cho là đã từng cướp đi sinh mạng của Franz Kafka, Charlotte Brontë, và nhà soạn nhạc Franz Schubert hiện nay lại đang nổi lên như một vấn đề lớn, liên quan tới sự gia tăng tỷ lệ nhiễm HIV/AIDS và vấn đề kháng thuốc của vi khuẩn.
Một mối quan tâm khác của y tế công cộng là bệnh tiểu đường. Theo Tổ chức Y tế Thế giới năm 2006, có ít nhất 171 triệu người trên thế giới đang chịu đựng căn bệnh này. Tỷ lệ mắc phải bệnh này đang gia tăng nhanh chóng và ước tính con số này sẽ gấp đôi trước năm 2030.
Y tế công cộng còn có ảnh hưởng tới vấn đề kiểm soát hút thuốc lá. Nhiều quốc gia đã thi hành việc bước đầu cấm hút thuốc lá, chẳng hạ tăng thuế và cấm hút thuốc ở một vài hoặc tất cả các nơi công cộng. Những người khởi xướng điều này cho rằng hút thuốc lá là một trong những "kẻ sát nhân" chính tại tất cả các nước phát triển, và họ đã nỗ lực làm giảm tỷ lệ chết nhờ hạn chế hút thuốc thụ động và bằng thu hẹp cơ hội cho người hút thuốc. Những người phản đối điều này lại nói điều đó hủy hoại tự do và trách nhiệm cá nhân, (họ thường sử dụng ngữ nanny state để chỉ các cảnh sát phạt họ về điều này ở Anh).
Các cơ sở đào tạo trọng điểm về Y tế công cộng ở Việt Nam
Trường Đại học Y tế công cộng: Nơi đào tạo chuyên ngành Y tế công cộng hàng đầu của Việt Nam.
Trường Đại học Y Hà Nội - Khoa Y tế công cộng: Nơi đầu tiên có khóa Cử nhân Y tế công cộng, Bác sĩ Y học dự phòng, Thạc sĩ, Tiến sĩ, BS CK1 YTCC. Ngoài ra Khoa YTCC - Đại học Y Hà Nội còn có các hệ đào tạo ở tất cả các cấp độ về Y học dự phòng, Dịch tễ học, Dinh dưỡng, và các chuyên ngành khac trong lĩnh vực Y tế công cộng.
Khoa Y tế công cộng, Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh được thành lập năm 1999. Khoa bắt đầu đào tạo cử nhân Y tế công cộng từ năm 1999 và đào tạo Bác sĩ Y học dự phòng từ năm 2008.
Khoa Y tế công cộng, trường Đại học Y Dược Thái Bình
Khoa Y tế công cộng, trường Đại học Y Dược Hải Phòng.
Khoa Y tế công cộng, Đại học Y khoa Vinh
Đại học Y dược Cần Thơ
Đại học Y Dược Huế.
Đại học Thăng Long
Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Đại học Kỹ thuật Y - Dược Đà Nẵng
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trường đại học Y tế công cộng Hà Nội
Tiếng Anh:
Cơ quan y tế công cộng của Canada.
Cơ quan phòng chống các nguồn chất độc tự nhiên: thuốc độc với sức khoẻ.
Antony van Leeuwenhoek (1632-1723)
Giới thiệu về môn Virus học.
John Snow: nghiên cứu của ông về dịch tả.
U Leicester Online Tutorials
Trung tâm kiểm soát dịch bệnh Hoa Kỳ: mạng thông tin y tế công cộng.
Các cơ quan của hội y tế công cộng tại các địa hạt và thành phố Tổ chức nhà nước đại diện cho các cơ quan y tế công cộng, cơ sở chính đặt tại thủ đô Washington.
Cơ quan đại diện của ngành y tế tại các bang và khu vực Tổ chức đại diện cho các cơ quan y tế tại các bang.
Thế giới và sức khoẻ.
Trust for America's Health Một tổ chức nghiên cứu y tế và chính trị có trụ sở tại Washington.
Public Healthy.com Thông tin về giáo dục, thực hành và nghiên cứu Y tế công cộng tại vương quốc Anh.
Diễn đàn y tế công cộng.
The Solid Facts, the Social Determinants of Health
Đại học Y tế công cộng Johns Hopkins.
Lĩnh vực sức khỏe
Chính sách y tế
Kinh tế sức khỏe
Cải thiện điều kiện sống
|
24893
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%ACnh%20y%C3%AAu
|
Tình yêu
|
Tình yêu, ái tình hay gọi ngắn là tình (Tiếng Anh: love) là một loạt các cảm xúc, trạng thái tâm lý và thái độ khác nhau dao động từ tình cảm cá nhân đến niềm vui sướng. Tình yêu thường là một cảm xúc thu hút mạnh mẽ và nhu cầu muốn được ràng buộc gắn bó.
Tình yêu cũng được coi là một đức tính đại diện cho lòng tốt, lòng trắc ẩn và tình cảm của con người, như "mối quan tâm trung thành và nhân từ không ích kỷ vì lợi ích của người khác". Tình yêu cũng có thể mô tả các hành động từ bi và tình cảm đối với người khác, bản thân hoặc động vật.
Tình yêu với các hình thức khác nhau của nó hoạt động như một cảm xúc hỗ trợ chính cho các mối quan hệ giữa các cá nhân và, do tầm quan trọng tâm lý trung tâm của nó, là một trong những chủ đề phổ biến nhất trong nghệ thuật sáng tạo. Tình yêu đã được đặt ra là một chức năng để giữ cho con người cùng nhau chống lại mối đe dọa và để tạo điều kiện cho sự phát triển của loài người.
Người Hy Lạp cổ đại xác định bốn hình thức của tình yêu: Quan hệ gần gũi của họ hàng hay người thân (trong tiếng Hy Lạp, storge), tình bạn (philia), ham muốn tình dục và/hoặc cảm xúc lãng mạn (eros), và xúc cảm dành cho các giá trị tôn giáo (agape). Các tác giả hiện đại đã phân biệt các biến thể chi tiết hơn nữa của tình yêu lãng mạn. Các nền văn hóa không phải của phương Tây cũng có các biến thể khác nhau cho các trạng thái cảm xúc này. Sự đa dạng của việc sử dụng và ý nghĩa kết hợp với sự phức tạp của những cảm giác của tình yêu làm cho việc thống nhất xác định thế nào là tình yêu trở nên cực kỳ khó khăn khi so với các trạng thái cảm xúc khác.
Định nghĩa
Từ "tình yêu" có thể có nhiều ý nghĩa liên quan nhưng khác biệt trong các bối cảnh khác nhau. Nhiều ngôn ngữ khác sử dụng nhiều từ ngữ để diễn tả một số khái niệm khác nhau của "tình yêu"; một ví dụ là có 4 từ tiếng Hy Lạp cho "tình yêu" (storge, philia, eros, agape). Khác biệt trong khái niệm tình yêu của các nền văn hóa khác nhau dẫn đến việc thành lập một định nghĩa phổ quát cho tình yêu là rất khó khăn.
Mặc dù bản chất của tình yêu là một đề tài tranh luận thường xuyên, các khía cạnh khác nhau của từ này có thể được làm rõ bằng cách xác định những gì không phải là tình yêu (từ trái nghĩa của nó). Tình yêu như một biểu hiện chung của tâm lý tích cực (một hình thức mạnh mẽ của ưa thích) thường trái ngược với ghét bỏ (hoặc thờ ơ theo nghĩa trung tính); nếu tình yêu như một hình thức tình cảm thân mật bao gồm nhiều cảm xúc lãng mạn và ít cảm xúc tình dục, khi đó thường có nghĩa trái ngược với ham muốn; còn nếu tình yêu như một mối quan hệ giữa các cá nhân với cảm xúc lãng mạn, khi đó tình yêu đôi khi mang nghĩa trái ngược với tình bạn, mặc dù tình yêu thường được áp dụng cho các tình bạn gần gũi. (Nghĩa mơ hồ hơn nữa áp dụng cho các từ như "bạn gái", "bạn trai", hay thành ngữ "chỉ là bạn tốt").
Thảo luận tình yêu một cách trừu tượng thường đề cập đến một trải nghiệm một người cảm thông với một người khác. Tình yêu thường liên quan đến việc chăm sóc cho một người hay một vật (thuyết chăm sóc về tình yêu), bao gồm cả bản thân mình (tự ngưỡng mộ bản thân - narcissism). Ngoài sự khác biệt giữa các văn hóa trong sự hiểu biết về tình yêu, quan điểm về tình yêu cũng đã thay đổi rất nhiều theo thời gian. Một số nhà sử học trong giai đoạn Phục Hưng châu Âu hoặc sau thời Trung Cổ lại có quan niệm hiện đại về tình yêu lãng mạn, mặc dù sự tồn tại các cảm xúc lãng mạn được các bài thơ tình cổ đại ghi nhận.
Tính chất phức tạp và trừu tượng của tình yêu thường tạo ra các thành ngữ về tình yêu, ở đó tình yêu vượt trên mọi cảm xúc khác. Dẫn chứng là một số câu tục ngữ thông thường về tình yêu, từ "Tình yêu sẽ chiến thắng tất cả" của Virgil đến "Tất cả thứ bạn cần là tình yêu" của Beatles. Thánh Thomas Aquinas, sau Aristotle, định nghĩa tình yêu là "tạo ra điều tốt lành cho người khác." Bertrand Russell mô tả tình yêu như một điều kiện "có giá trị tuyệt đối", trái ngược với giá trị tương đối. Nhà triết học Gottfried Leibniz nói tình yêu là "vui mừng vì hạnh phúc của người khác." Nhà sinh học Jeremy Griffith định nghĩa tình yêu là "lòng vị tha vô điều kiện".
Nhà văn Lê Văn Hùng trong cuốn sách Nghệ thuật chinh phục trái tim (NXB Đồng Nai,1994) của ông, nơi trang 12 ông đã định nghĩa tình yêu như sau: “Tình yêu là một tình cảm tự nhiên của con người. Nó có thể là một sự trực cảm từ trái tim đến trái tim; hoặc có khi nó thông qua sự soi sáng của lý trí .Tình cảm đó là mạnh mẽ, thiêng liêng, bất diệt và huyền nhiệm. Nó là cội nguồn, là động lực của tất cả mọi thứ trên trên đời. Và chỉ khi nào bạn nhận ra rằng trên đời này không còn gì quý hơn nó thì đó chính là lúc bạn đã cảm nhận được thế nào là tình yêu”
(Nguồn : https://anhhoahong2.violet.vn/entry/the-nao-la-tinh-yeu-12246108.html)
Tình yêu phi cá nhân
Mọi người có thể nói là yêu một đối tượng, nguyên tắc hoặc mục tiêu mà họ cam kết sâu sắc và có giá trị rất lớn. Ví dụ, sự tiếp cận từ bi và "tình yêu" của người làm công tác tình nguyện về nguyên nhân của họ đôi khi có thể được sinh ra không phải do tình yêu giữa các cá nhân mà là tình yêu phi cá nhân, lòng vị tha và niềm tin chính trị hoặc tinh thần mạnh mẽ. Mọi người cũng có thể "yêu" các vật thể, động vật hoặc các hoạt động nếu họ đầu tư vào việc gắn kết hoặc đồng nhất với những thứ đó. Nếu đam mê tình dục cũng có liên quan, thì cảm giác này được gọi là lệch lạc tình dục - paraphilia. Một nguyên tắc phổ biến mà mọi người nói rằng thứ họ yêu là chính cuộc sống.
Tình yêu cá nhân giữa con người với nhau
Tình yêu thương liên quan đến tình yêu giữa con người. Đó là một tình cảm mạnh mẽ hơn nhiều so với một cảm xúc thích thú đơn giản đối với một người. Tình yêu không được đáp lại liên quan đến những cảm xúc của tình yêu đơn phương. Tình yêu thương người-người gắn liền với mối quan hệ giữa các cá nhân. Tình yêu đó có thể tồn tại giữa các thành viên trong gia đình, bạn bè, và các cặp vợ chồng. Ngoài ra còn có một số rối loạn tâm lý liên quan đến tình yêu, chẳng hạn như erotomania.
Cơ sở sinh học
Các mô hình sinh học tình dục có xu hướng xem tình yêu như động lực của động vật có vú, giống như động lực khi đói hoặc khát. Helen Fisher, một chuyên gia hàng đầu trong chủ đề tình yêu, phân chia trải nghiệm tình yêu thành ba giai đoạn có chồng lấn lên nhau: ham muốn, thu hút và gắn bó. Ham muốn là cảm giác ham muốn tình dục; hấp dẫn lãng mạn xác định những gì con người cho là hấp dẫn và theo đuổi, tiết kiệm thời gian và năng lượng bằng cách lựa chọn; và sự gắn kết liên quan đến việc chia sẻ một gia đình, trách nhiệm làm cha mẹ, bảo vệ lẫn nhau, và ở con người có liên quan đến cảm giác an toàn và an ninh. Ba loại mô thần kinh khác nhau, bao gồm cả các chất dẫn truyền xung thần kinh và ba mô hình hành vi, có liên quan đến ba kiểu tình yêu lãng mạn này.
Ham muốn là đam mê tình dục ban đầu nhằm thúc đẩy giao phối, và liên quan đến sự tăng mạnh của hóa chất như testosterone và estrogen. Những tác dụng này hiếm khi kéo dài hơn một vài tuần hoặc vài tháng. Thu hút là mong muốn cá nhân và lãng mạn hơn đối với một ứng cử viên cụ thể để giao phối, phát triển từ ham muốn như cam kết đối với một người riêng lẻ. Các nghiên cứu gần đây trong khoa học thần kinh đã chỉ ra rằng khi con người rơi vào tình yêu, não liên tục phát hành một tập hợp một số hóa chất, trong đó có hormone dẫn truyền thần kinh, dopamine, norepinephrine, và serotonin, các hợp chất tương tự phát hành bởi amphetamine, kích thích của não trung tâm khoái cảm và dẫn đến tác dụng phụ như tăng nhịp tim, chán ăn và khó ngủ và cảm giác hưng phấn mãnh liệt. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng giai đoạn này thường kéo dài từ một năm rưỡi đến ba năm.
Vì các giai đoạn ham muốn và thu hút đều được coi là tạm thời, nên giai đoạn thứ ba là cần thiết cho các mối quan hệ lâu dài. Gắn bó là sự gắn kết thúc đẩy các mối quan hệ kéo dài trong nhiều năm và thậm chí nhiều thập kỷ. Sự gắn bó thường dựa trên các cam kết như hôn nhân và con cái, hoặc dựa trên tình bạn lẫn nhau dựa trên những thứ như lợi ích chung. Nó đã được liên kết với mức độ cao hơn của hóa chất oxytocin và vasopressin ở mức độ lớn hơn so với các mối quan hệ ngắn hạn tạo ra. Enzo Emanuele và đồng nghiệp đã báo cáo phân tử protein được gọi là yếu tố tăng trưởng thần kinh (NGF) có mức độ cao khi người ta mới yêu, nhưng chúng trở lại mức trước đó sau một năm.
Cơ sở tâm lý
Tâm lý học miêu tả tình yêu như một hiện tượng nhận thức và xã hội. Nhà tâm lý học Robert Sternberg đã đưa ra một lý thuyết tam giác tình yêu và cho rằng tình yêu có ba thành phần khác nhau: sự thân mật, sự cam kết và niềm đam mê. Sự thân mật là một hình thức trong đó hai người chia sẻ những tâm sự và nhiều chi tiết khác nhau về cuộc sống cá nhân của họ, và thường được thể hiện trong tình bạn và những chuyện tình lãng mạn. Cam kết, mặt khác, là kỳ vọng rằng mối quan hệ là vĩnh viễn. Hình thức cuối cùng của tình yêu là sự hấp dẫn và đam mê tình dục. Tình yêu đam mê được thể hiện trong sự mê đắm cũng như tình yêu lãng mạn. Tất cả các hình thức của tình yêu được xem là sự kết hợp khác nhau của ba thành phần này. Không yêu không bao gồm bất kỳ thành phần nào trong số này. Ưa thích chỉ bao gồm sự thân mật. Say đắm chỉ bao gồm đam mê. Tình yêu trống rỗng chỉ bao gồm sự cam kết. Tình yêu lãng mạn bao gồm cả sự thân mật và đam mê. Tình yêu đồng hành bao gồm sự thân mật và cam kết. Tình yêu say đắm bao gồm đam mê và cam kết. Cuối cùng, tình yêu hoàn hảo bao gồm cả ba thành phần. Nhà tâm lý học người Mỹ Zick Rubin đã tìm cách xác định tình yêu bằng tâm lý học vào những năm 1970. Tác phẩm của ông nói rằng ba yếu tố cấu thành tình yêu: là sự gắn bó, quan tâm và sự thân mật.
Sau những phát triển trong các lý thuyết điện như định luật Coulomb, cho thấy các điện tích dương và âm thu hút, các lý thuyết tương tự trong cuộc sống của con người đã được phát triển, như "ngược nhau thu hút nhau". Trong thế kỷ qua, nghiên cứu về bản chất của việc giao phối của con người nói chung đã cho thấy điều này không đúng khi nói về tính cách: con người có xu hướng thích những người giống mình. Tuy nhiên, trong một số lĩnh vực bất thường và cụ thể, chẳng hạn như hệ thống miễn dịch, dường như con người thích những người khác không giống mình (ví dụ, với hệ thống miễn dịch trực giao), vì điều này sẽ dẫn đến một đứa trẻ có cả hai thế giới tốt nhất. Trong những năm gần đây, các lý thuyết liên kết khác nhau của con người đã được phát triển, được mô tả dưới dạng các ràng buộc, liên kết và ái lực. Một số tác giả phương Tây phân chia thành hai thành phần chính, đó là lòng vị tha và tự yêu bản thân. Quan điểm này được thể hiện trong các tác phẩm của Scott Peck, người có công việc trong lĩnh vực tâm lý học ứng dụng đã khám phá các định nghĩa về tình yêu và cái ác. Peck khẳng định rằng tình yêu là sự kết hợp giữa "mối quan tâm đối với sự phát triển tâm linh của người khác" và sự tự yêu bản thân đơn giản. Kết hợp lại, tình yêu là một hoạt động, không chỉ đơn giản là một cảm giác.
Nhà tâm lý học Erich Fromm đã nêu trong cuốn sách Nghệ thuật yêu thương rằng tình yêu không chỉ đơn thuần là một cảm giác mà còn là hành động, và trên thực tế, "cảm giác" của tình yêu là bề ngoài so với cam kết của một người về tình yêu thông qua một loạt các hành động yêu thương qua thời gian. Theo nghĩa này, Fromm cho rằng tình yêu cuối cùng không phải là một cảm giác, mà là một cam kết và tuân thủ, hành động yêu thương đối với người khác, với chính mình, hoặc với nhiều người khác, trong một thời gian bền vững. Fromm cũng mô tả tình yêu là một lựa chọn có ý thức rằng trong giai đoạn đầu của nó có thể bắt nguồn từ một cảm giác không tự nguyện, nhưng sau đó không còn phụ thuộc vào những cảm xúc đó, mà chỉ phụ thuộc vào cam kết có ý thức.
Cơ sở tiến hóa
Tâm lý học tiến hóa đã cố gắng đưa ra nhiều lý do cho tình yêu như là một công cụ sinh tồn. Con người phụ thuộc vào sự giúp đỡ của cha mẹ trong phần lớn cuộc sống của họ so với các động vật có vú khác. Do đó, tình yêu đã được coi là một cơ chế để thúc đẩy sự hỗ trợ của cha mẹ trong thời gian dài này. Hơn nữa, các nhà nghiên cứu ngay từ đầu Charles Darwin đã xác định các đặc điểm độc đáo của tình yêu con người so với các động vật có vú khác và tình yêu là yếu tố chính để tạo ra các hệ thống hỗ trợ xã hội cho phép phát triển và mở rộng loài người. Một yếu tố khác có thể là các bệnh lây truyền qua đường tình dục có thể gây ra, trong số các tác động khác, làm giảm khả năng sinh sản vĩnh viễn, gây tổn thương cho thai nhi và làm tăng các biến chứng khi sinh con. Điều này sẽ ủng hộ các mối quan hệ một vợ một chồng hơn là đa phu thê.
So sánh các mô hình khoa học
Các mô hình sinh học của tình yêu có xu hướng xem nó như một động lực của động vật có vú, tương tự như đói hoặc khát. Tâm lý học xem tình yêu là một hiện tượng văn hóa xã hội nhiều hơn. Chắc chắn tình yêu bị ảnh hưởng bởi hormone (như oxytocin), neurotrophins (như NGF) và pheromone, và cách mọi người suy nghĩ và hành xử trong tình yêu bị ảnh hưởng bởi quan niệm của họ về tình yêu. Quan điểm thông thường trong sinh học là có hai động lực chính trong tình yêu: sự hấp dẫn và sự gắn bó tình dục. Sự gắn bó giữa người lớn được cho là hoạt động theo cùng một nguyên tắc khiến trẻ sơ sinh trở nên gắn bó với mẹ. Quan điểm tâm lý truyền thống coi tình yêu là sự kết hợp giữa tình yêu đồng hành và tình yêu đam mê. Tình yêu đam mê là khao khát mãnh liệt, và thường đi kèm với hưng phấn sinh lý (khó thở, nhịp tim nhanh); tình yêu đồng hành là tình cảm và một cảm giác thân mật không đi kèm với hưng phấn sinh lý.
Quan điểm văn hóa
Hy Lạp cổ đại
Tiếng Hy Lạp phân biệt một số giác quan khác nhau trong đó từ "tình yêu" được sử dụng. Hy Lạp cổ đại đã xác định bốn hình thức của tình yêu: quan hệ họ hàng hay quen thuộc (trong tiếng Hy Lạp, storge), tình bạn và/hoặc mong muốn thuần khiết (philia), tình dục và/hoặc ham muốn lãng mạn (eros), và tự quên mình hoặc tình yêu của Thiên Chúa (agape). Các tác giả hiện đại đã phân biệt nhiều loại tình yêu lãng mạn. Tuy nhiên, với tiếng Hy Lạp (cũng như nhiều ngôn ngữ khác), về mặt lịch sử, việc phân tách ý nghĩa của những từ này một cách hoàn toàn là rất khó khăn. Đồng thời, văn bản Hy Lạp cổ đại của Kinh Thánh có ví dụ về động từ agapo có cùng ý nghĩa với phileo.
Agape ( agápē) có nghĩa là tình yêu trong tiếng Hy Lạp hiện đại. Thuật ngữ s'agapo có nghĩa là tôi yêu bạn trong tiếng Hy Lạp. Từ agapo là động từ tôi yêu. Nó thường đề cập đến một loại tình yêu "thuần khiết", hơn là sự hấp dẫn thể xác của eros. Tuy nhiên, có một số ví dụ về agape được sử dụng có nghĩa tương tự như eros. Nó cũng đã được dịch là "tình yêu của tâm hồn."
Eros ( érōs) (từ vị thần Hy Lạp Eros) là tình yêu nồng nàn, với ham muốn nhục dục và khao khát. Từ erota trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là trong tình yêu. Plato đã tinh chỉnh lại định nghĩa của riêng mình. Mặc dù eros ban đầu được cảm nhận cho một người, nhưng với sự suy ngẫm, nó trở thành sự đánh giá cao vẻ đẹp bên trong người đó, hoặc thậm chí trở thành sự đánh giá cao về chính cái đẹp. Eros giúp linh hồn nhớ lại kiến thức về cái đẹp và góp phần hiểu biết về sự thật tâm linh. Những người yêu thích và triết gia đều được truyền cảm hứng để tìm kiếm sự thật bằng eros. Một số bản dịch liệt kê nó là "tình yêu của cơ thể".
Philia ( philía), một tình yêu đạo đức không khoan nhượng, là một khái niệm được Aristotle đề cập và phát triển trong cuốn sách Nicomachean Ethics VIII của ông. Nó bao gồm sự trung thành với bạn bè, gia đình và cộng đồng, và đòi hỏi phải có đức hạnh, bình đẳng và sự quen thuộc. Philia được thúc đẩy bởi lý do thực tế; một hoặc cả hai bên được hưởng lợi từ mối quan hệ. Nó cũng có thể có nghĩa là "tình yêu của tâm trí."
Storge repositorygē) là tình cảm tự nhiên, giống như cảm xúc của cha mẹ dành cho con cái.
Xenia (ξεί xen xenía), lòng hiếu khách, là một thực hành cực kỳ quan trọng ở Hy Lạp cổ đại. Đó là một tình bạn gần như được nghi thức hóa được hình thành giữa một người chủ nhà và khách, người trước đây có thể là người lạ. Chủ nhà cho ăn và cung cấp chỗ ngủ cho khách, với khách dự kiến sẽ chỉ đáp lại với lòng biết ơn. Tầm quan trọng của điều này có thể được thấy trong các tác phẩm của thần thoại Hy Lạp - đặc biệt là trong các tác phẩm của Homer, Iliad và Odyssey.
La Mã cổ đại (tiếng Latin)
Ngôn ngữ Latinh có một số động từ khác nhau tương ứng với từ tiếng Anh "love". amō là động từ cơ bản có nghĩa là tôi yêu, với amare hàm nghĩa nguyên bản (động từ yêu) như ngày nay vẫn còn áp dụng trong tiếng Ý. Người La Mã đã sử dụng nó cả theo nghĩa trìu mến cũng như theo nghĩa lãng mạn hay tình dục. Từ động từ này đến danh từ amans - người yêu, amator, "người yêu chuyên nghiệp", thường với khái niệm là bạn tình của người dâm dục và amica, "bạn gái" theo nghĩa tiếng Anh, thường được áp dụng với nghĩa hoa mỹ để chỉ một cô gái điếm. Danh từ tương ứng là amor (ý nghĩa của thuật ngữ này đối với người La Mã được minh họa rất rõ trong thực tế, đó là tên của Thành phố, Rome theo tiếng Muffin Latin: Roma được xem như một phép đảo chữ của amor, được sử dụng làm tên bí mật của thành phố này trong các cộng đồng người rộng lớn vào thời cổ đại), cũng được sử dụng ở dạng số nhiều để biểu thị các vấn đề tình yêu hoặc các cuộc phiêu lưu tình dục. Gốc từ chung này cùng cũng phái sinh ra các từ amicus - "người bạn" - và amicitia, "tình bạn" (thường dựa cho lợi ích chung, và tương ứng đôi khi chặt chẽ hơn đến "nợ nần" hoặc "ảnh hưởng"). Cicero đã viết một chuyên luận có tên Về tình bạn (de Amicitia), trong đó ông thảo luận về khái niệm này một cách khá chi tiết. Ovid đã viết một hướng dẫn để hẹn hò được gọi là Ars Amatoria (Nghệ thuật của tình yêu), trong đó đề cập sâu hơn đến tất cả mọi thứ, từ ngoại tình đến những cha mẹ bảo vệ con quá mức.
Latin đôi khi sử dụng từ amare trong khi tiếng Anh chỉ cần nói like (thích). Tuy nhiên, khái niệm này thường được thể hiện bằng tiếng Latinh nhiều hơn bằng thuật ngữ placere hoặc delectāre, được sử dụng nhiều hơn thông thường, sau này được sử dụng thường xuyên trong thơ tình của Catullus. Diligere thường có khái niệm "tình cảm", "quý trọng" và hiếm khi được sử dụng cho tình yêu lãng mạn. Từ này sẽ thích hợp để mô tả tình bạn của hai người đàn ông. Tuy nhiên, danh từ tương ứng diligentia có ý nghĩa của "sự siêng năng" hoặc "cẩn thận" và có ít sự trùng lặp về ngữ nghĩa với động từ. Observare là một từ đồng nghĩa với diligentia; mặc dù nhận thức bằng tiếng Anh, động từ này và danh từ tương ứng của nó, obsantia, thường biểu thị "lòng tự trọng" hoặc "tình cảm". Caritas được sử dụng trong các bản dịch tiếng Latinh của Kinh thánh Kitô giáo có nghĩa là "tình yêu mang tính từ thiện"; ý nghĩa này, tuy nhiên, không được tìm thấy trong văn học La Mã ngoại giáo cổ điển. Vì nó phát sinh từ một sự kết hợp với một từ Hy Lạp, nó không có động từ tương ứng.
Trung Quốc và các nền văn hóa Sinic khác
Hai nền tảng triết học của tình yêu tồn tại trong chữ Hán phồn thể của Trung Quốc, một từ Nho giáo trong đó nhấn mạnh đến hành động và nghĩa vụ trong khi cái còn lại đến từ Mặc gia hướng tới một tình yêu phổ quát. Một khái niệm cốt lõi của Nho giáo là (ren, lòng nhân từ), tập trung vào nghĩa vụ, hành động và thái độ trong một mối quan hệ hơn là chính tình yêu. Trong Nho giáo, người ta thể hiện lòng nhân từ bằng cách thực hiện các hành động như lòng hiếu thảo của con cái, lòng tốt của cha mẹ, sự trung thành với nhà vua, v.v...
Khái niệm về (piyin: ài, âm Hán Việt: ái), được nhà triết học Trung Quốc Mặc Tử phát triển vào thế kỷ thứ 4 TCN nhằm phản ứng với tình yêu nhân từ của Nho giáo. Mặc Tử đã cố gắng để thay thế những gì ông coi là sự quá gắn bó của người Trung Quốc với cấu trúc gia đình và gia tộc với khái niệm "tình yêu phổ quát" (, jiān'ài, âm Hán Việt: kiêm ái). Về vấn đề này, Mặc Tử đã lập luận trực tiếp chống lại Nho giáo, những người tin rằng việc mọi người quan tâm đến những người khác nhau ở các mức độ khác nhau là tự nhiên và đúng đắn. Ngược lại, Mặc Tử tin rằng mọi người về nguyên tắc nên quan tâm đến tất cả mọi người như nhau. Mặc Tử nhấn mạnh rằng thay vì chấp nhận những thái độ khác nhau đối với những người khác nhau, tình yêu nên là vô điều kiện và được trao cho mọi người mà không quan tâm đến việc đáp lại; không chỉ với bạn bè, gia đình và các mối quan hệ Nho giáo khác. Sau này trong Phật giáo Trung Quốc, thuật ngữ Ái () đã được áp dụng để đề cập đến một tình yêu nồng nhiệt, chăm sóc và được coi là một mong muốn cơ bản. Trong Phật giáo, ái được xem là có khả năng hoặc là vị kỷ hoặc là vị tha, và vị tha là yếu tố then chốt để giác ngộ.
Trong tiếng Quan Thoại, (ài, âm Hán Việt: ái) thường được sử dụng như là tương đương với khái niệm tình yêu phương Tây. (ài) được sử dụng làm cả động từ (vd , Wǒ ài nǐ, hoặc "Anh yêu em") và một danh từ (ví dụ như àiqíng, hay "ái tình"). Tuy nhiên, do ảnh hưởng của Nho giáo (rén, nhân), cụm từ (Wǒ ài nǐ, anh yêu em) mang trong nó ý thức trách nhiệm, cam kết và lòng trung thành rất rõ nét. Thay vì thường xuyên nói "Anh yêu em" như trong một số xã hội phương Tây, người Trung Quốc thường thể hiện cảm xúc yêu thương theo cách giản dị hơn. Do đó, "Anh thích em" (, Wǒ xǐhuan nǐ) là một cách phổ biến hơn để thể hiện tình cảm trong tiếng Trung; nó vui tươi hơn và ít nghiêm trọng hơn. Điều này cũng đúng trong tiếng Nhật (suki da, ).
Nhật Bản
Ngôn ngữ Nhật Bản sử dụng ba từ để truyền đạt tiếng Anh tương đương với "tình yêu". Bởi vì "tình yêu" bao trùm một loạt các cảm xúc và hiện tượng hành vi, có nhiều sắc thái phân biệt ba thuật ngữ. Thuật ngữ , thường được liên kết với tình mẫu tử hoặc tình yêu vị tha, ban đầu được gọi là vẻ đẹp và thường được sử dụng trong bối cảnh tôn giáo. Sau cuộc Duy tân Minh Trị năm 1868, thuật ngữ này đã gắn liền với "tình yêu" để dịch văn học phương Tây. Trước ảnh hưởng của phương Tây, từ thường thể hiện tình yêu lãng mạn, và thường là đối tượng của bộ sưu tập thơ Nhật Bản phổ biến Man'yōshū. Koi mô tả sự mong muốn một người khác giới và thường được hiểu là có tính ích kỷ. Nguồn gốc của thuật ngữ này xuất phát từ khái niệm cô đơn là kết quả của sự xa cách với người mình yêu thương. Mặc dù việc sử dụng từ koi hiện đại tập trung vào tình yêu và sự mê đắm tình dục, Manyō đã sử dụng thuật ngữ này để đề cập đến một loạt các tình huống, bao gồm sự dịu dàng, lòng nhân từ và ham muốn vật chất. Thuật ngữ thứ ba, , là một cấu trúc hiện đại hơn, kết hợp các ký tự kanji cho cả ai và koi, mặc dù cách sử dụng của nó gần giống với koi dưới dạng tình yêu lãng mạn.
Ấn Độ
Trong văn học đương đại, kama thường đề cập đến ham muốn tình dục. Tuy nhiên, thuật ngữ này cũng đề cập đến bất kỳ sự hưởng thụ cảm giác, sự hấp dẫn cảm xúc và niềm vui thẩm mỹ như từ nghệ thuật, khiêu vũ, âm nhạc, hội họa, điêu khắc và thiên nhiên.
Khái niệm kama được tìm thấy trong một số câu thơ được biết đến sớm nhất trong kinh Vệ đà. Ví dụ, quyển 10 của Rig Veda mô tả việc tạo ra vũ trụ từ hư vô bởi sức nóng lớn. Trong bài thánh ca 129, có ghi:
Ba Tư
Rumi, Hafiz và Sa'di là những biểu tượng của niềm đam mê và tình yêu mà văn hóa và ngôn ngữ Ba Tư thể hiện. Từ trong tiếng Ba Tư cho tình yêu là Ishq, bắt nguồn từ tiếng Ả Rập, tuy nhiên, phần lớn coi từ này là quá khắt khe một thuật ngữ cho tình yêu giữa các cá nhân và thường được thay thế bằng từ "doost dashtan" ("thích"). Trong văn hóa Ba Tư, mọi thứ đều được tình yêu bao bọc và tất cả là vì tình yêu, bắt đầu từ yêu bạn bè và gia đình, chồng và vợ, và cuối cùng đạt đến tình yêu thiêng liêng là mục tiêu cuối cùng của cuộc sống.
Quan điểm tôn giáo
Tôn giáo Abraham
Do Thái giáo
Trong tiếng Hebrew, (ahava) là thuật ngữ được sử dụng phổ biến nhất cho cả tình yêu giữa các cá nhân và tình yêu giữa Chúa Trời và các sáng tạo của Chúa Trời. Chesed, thường được dịch là lòng tốt yêu thương, được sử dụng để mô tả nhiều hình thức tình yêu giữa con người.
Điều răn phải yêu thương người khác được đưa ra trong Torah, trong đó tuyên bố:"Hãy yêu thương kẻ lân cận ngươi như mình" (Leviticus 19:18). Điều răn của Torah là yêu Chúa "bằng cả trái tim, với tất cả tâm hồn và với tất cả sức lực của bạn" (Phục truyền Luật lệ ký 6:5) được Mishnah (một văn bản trung tâm của luật truyền miệng của người Do Thái) đề cập đến những việc tốt, sẵn lòng hy sinh mạng sống của một người thay vì phạm phải những tội lỗi nghiêm trọng nhất định, sẵn sàng hy sinh tất cả tài sản của mình và biết ơn Chúa bất chấp nghịch cảnh (Berachoth 9:5). Văn học Rabbinic có thấy cách nhìn khác với cách tình yêu này có thể được phát triển, ví dụ, bằng cách suy ngẫm những việc thiêng liêng hoặc chứng kiến những điều kỳ diệu của tự nhiên.
Đối với tình yêu giữa các đối tác hôn nhân, đây được coi là một thành phần thiết yếu cho cuộc sống: "Xem cuộc sống với người vợ mà bạn yêu" (Sách Giảng viên 9:9). Giáo sĩ Do Thái David Wolpe viết rằng "... tình yêu không chỉ là cảm xúc của người đang yêu... Đó là khi một người tin vào một người khác và thể hiện điều đó". Ông nói thêm rằng "... tình yêu... là một cảm giác thể hiện bằng hành động. Những gì chúng ta thực sự cảm thấy được phản ánh trong những gì chúng ta làm." Cuốn sách Kinh thánh Sách Diễm ca được coi là một phép ẩn dụ lãng mạn về tình yêu giữa Thiên Chúa và dân tộc của mình, nhưng theo cách đọc đơn giản, nó giống như một bản tình ca. Rabbi Eliyahu Eliezer Dessler của thế kỷ 20 thường được trích dẫn là xác định tình yêu theo quan điểm của người Do Thái là "cho đi mà không mong nhận lại" (từ Michtav me-Eliyahu, Vol. 1).
Kitô giáo
Theo hiểu biết của Kitô giáo, tình yêu đến từ Thiên Chúa. Tình yêu của đàn ông và phụ nữ, eros trong tiếng Hy Lạp và tình yêu không vị kỷ hướng đến người khác (agape), thường được đối lập tương ứng là tình yêu "hướng xuống" và "hướng lên", nhưng cuối cùng lại giống nhau.
Có một số từ Hy Lạp cho "tình yêu" thường được nhắc đến trong giới Kitô giáo.
Agape: Trong Tân Ước, agapē là từ thiện, vị tha, vị tha và vô điều kiện. Đó là tình yêu của cha mẹ, được coi là tạo ra lòng tốt trong thế giới; đó là cách Thiên Chúa được nhìn nhận để yêu thương nhân loại, và nó được coi là loại tình yêu mà các Kitô hữu khao khát dành cho nhau.
Phileo: Cũng được sử dụng trong Tân Ước, phileo là một phản ứng của con người đối với một cái gì đó được tìm thấy là thú vị. Còn được gọi là "tình anh em".
Hai từ còn lại cho tình yêu trong tiếng Hy Lạp, eros (tình yêu nhục dục) và storge (tình cảm của con cái đối với cha mẹ), không bao giờ được sử dụng trong Tân Ước.
Kitô hữu tin rằng yêu Chúa bằng cả trái tim, tâm trí và sức mạnh của mình và yêu người hàng xóm như yêu chính bản thân mình là hai điều quan trọng nhất trong cuộc sống (điều răn lớn nhất của Torah Do Thái, theo Jesus; Phúc âm Máccô chương 12, câu 28-34). Thánh Augustine tóm tắt điều này khi ông viết "Yêu Chúa, và làm như bạn phải làm".
Sứ đồ Phaolô tôn vinh tình yêu là đức tính quan trọng nhất trong tất cả. Mô tả tình yêu theo cách giải thích thơ nổi tiếng trong Thư thứ nhất gửi tín hữu Cô-rinh-tô, ông viết: "Tình yêu là kiên nhẫn, tình yêu là tử tế. Nó không ghen tị, nó không khoe khoang, nó không tự hào. Nó không thô lỗ, nó không tự tìm kiếm, nó không dễ dàng tức giận, nó không có sai lầm. Tình yêu không vui thích với cái ác mà vui mừng với sự thật. Nó luôn bảo vệ, luôn tin tưởng, luôn hy vọng và luôn kiên trì". (1 Côrintô 13: 4-7, NIV)
Sứ đồ Gioan viết: "Vì Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con duy nhất của người xuống, rằng bất cứ ai tin vào Người sẽ không bị diệt vong mà có được sự sống đời đời. Vì Thiên Chúa đã không gửi Con của Người vào thế gian để kết án thế giới, nhưng để cứu thế giới qua Người". (Gioan 3: 16-17, NIV) Gioan cũng viết: "Các bạn thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau vì tình yêu đến từ Thiên Chúa. Mọi người yêu thương đều được Chúa sinh ra và biết Chúa. Ai không yêu thì không biết Chúa, vì Chúa là tình yêu". (1 Gioan 4: 7-8, NIV)
Thánh Augustine nói rằng người ta phải có khả năng giải mã sự khác biệt giữa tình yêu và ham muốn. Đam mê sắc dục theo Saint Augustine, là một sự bội thực, nhưng để yêu và được yêu là điều ông đã tìm kiếm trong suốt cuộc đời mình. Augustinô thậm chí còn nói, tôi đã yêu chính tình yêu. Cuối cùng, ông đã yêu và được Chúa yêu lại. Thánh Augustine nói rằng người duy nhất có thể yêu bạn thực sự và trọn vẹn là Thiên Chúa, bởi vì tình yêu với con người chỉ tạo ra những sai lầm như "ghen tuông, nghi ngờ, sợ hãi, giận dữ và ganh đua". Theo Saint Augustine, yêu Chúa là "đạt được sự bình an vốn là của bạn". (Lời thú tội của Thánh Augustine)
Augustine coi điều răn hai chiều về tình yêu trong Matthew 22 là tâm điểm của đức tin Kitô giáo và sự giải thích của Kinh thánh. Sau khi xem xét học thuyết Kitô giáo, Augustinô xử lý vấn đề tình yêu về mặt sử dụng và hưởng thụ cho đến khi kết thúc quyển I của De Doctrina Christiana (1.22,21-1,40,44;).
Các nhà thần học Kitô giáo xem Thiên Chúa là nguồn gốc của tình yêu, được nhân đôi trong con người và các mối quan hệ yêu thương của chính họ. Nhà thần học Kitô giáo có ảnh hưởng lớn C. S. Lewis đã viết một cuốn sách tên là Bốn yêu thương. Giáo hoàng Benedict XVI viết thư gửi các nhà thờ đầu tiên của mình với tiêu đề Thiên Chúa là tình yêu. Ông nói rằng một con người, được tạo ra theo hình ảnh của Thiên Chúa, vốn là tình yêu, có thể thực hành tình yêu; hiến mình cho Chúa và người khác (agape) và bằng cách nhận và trải nghiệm tình yêu của Chúa trong sự suy ngẫm (eros). Cuộc sống ngập tràn tình yêu này, theo ông, là cuộc sống của các vị thánh như Mẹ Teresa ở Calcutta và Trinh nữ Maria và là hướng đi mà các Kitô hữu thực hiện khi họ tin rằng Chúa yêu họ.
Giáo hoàng Phanxicô đã dạy rằng "Tình yêu đích thực là cả yêu thương và để cho chính mình được yêu thương... điều quan trọng trong tình yêu không phải là tình yêu của chúng ta, mà là cho phép mình được Thiên Chúa yêu thương". Và vì vậy, trong phân tích của một nhà thần học Công giáo, đối với Giáo hoàng Phanxicô, "chìa khóa của tình yêu... không phải là hoạt động của chúng ta. Đó là hoạt động của nguồn lực lớn nhất và là nguồn gốc của tất cả các quyền lực trong vũ trụ: Chúa Trời".
Trong Kitô giáo, định nghĩa thực tế về tình yêu được Thánh Thomas Aquinô tóm tắt, người đã định nghĩa tình yêu là "sẽ làm điều tốt cho người khác", hoặc mong muốn người khác thành công. Đây là một lời giải thích về nhu cầu của người Kitô hữu để yêu thương người khác, kể cả kẻ thù. Như Thomas Aquinas giải thích, tình yêu Kitô giáo được thúc đẩy bởi nhu cầu nhìn thấy người khác thành công trong cuộc sống, trở thành người tốt.
Về tình yêu dành cho kẻ thù, Giêsu được trích dẫn là đã nói trong Tin mừng Matthew chương năm:
"Bạn đã nghe rằng người ta nói, 'Yêu hàng xóm của bạn và ghét kẻ thù của bạn'. Nhưng tôi nói với bạn, hãy yêu kẻ thù của bạn và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ bạn, rằng bạn có thể là con của Cha trên trời. Cha làm cho mặt trời của mình trỗi dậy trên cái ác và cái thiện, và gửi mưa cho những người công bình và những người bất chính. Nếu bạn yêu những người yêu bạn, bạn sẽ nhận được phần thưởng nào? Thậm chí còn có những người thu thuế làm điều đó. Và nếu bạn chỉ chào hỏi người của bạn, bạn đang làm gì cao hơn những người khác? Thậm chí người ngoại đạo cũng làm điều đó. Do đó, hãy trở nên hoàn hảo, vì Cha trên trời của bạn là hoàn hảo." - Matthew 5: 43-48.
Nhắc nhở mọi người hãy yêu bằng sự tha thứ, Giêsu đã cứu một phụ nữ ngoại tình thoát khỏi việc bị ném đá. Luật Môi-se được phản ánh trong Sách luật Deuteronomy 22: 22-24, cho thấy thế giới của những kẻ giả nhân giả nghĩa cần tình yêu mang tính tha thứ: "Nếu một người đàn ông bị phát hiện ngủ với một người phụ nữ có chồng, thì cả hai sẽ chết - người đàn ông ngủ với người phụ nữ và người phụ nữ, vì vậy bạn sẽ loại cái xấu khỏi Israel. Nếu một phụ nữ trẻ còn trinh được hứa hôn với một người chồng và một người đàn ông ngủ với cô ấy, thì bạn sẽ mang cả hai ra ngoài cổng thành phố đó, và bạn sẽ ném đá họ đến chết, ném đá người phụ nữ trẻ vì cô không khóc trong thành phố, và ném đá người đàn ông vì anh ta hạ nhục vợ người hàng xóm; vì vậy bạn sẽ loại bỏ cái xấu ra khỏi chính bản thân bạn."
Tertullian đã viết về tình yêu dành cho kẻ thù: "Lòng tốt cá nhân, phi thường và hoàn hảo của chúng ta bao gồm việc yêu thương kẻ thù. Yêu bạn bè là một thói quen phổ biến, yêu kẻ thù là một việc chỉ có những người theo Kitô giáo làm."
Hồi giáo
Tình yêu bao bọc quan điểm Hồi giáo về cuộc sống như tình anh em phổ quát áp dụng cho tất cả những ai nắm giữ đức tin. Trong số 99 tên của Thiên Chúa (Allah), có tên Al-Wadud, hay "Người yêu thương", được tìm thấy trong Surah cũng như Surah . Thiên Chúa cũng được nhắc đến ở đầu mỗi chương trong Qur'an là Ar-Rahman và Ar-Rahim, hay "Từ bi nhất" và "Thương xót nhất", cho thấy rằng không ai yêu thương, nhân ái và nhân từ hơn Thiên Chúa. Qur'an (Coran) nói đến Thiên Chúa là "đầy lòng nhân ái".
Qur'an khuyến khích các tín đồ Hồi giáo đối xử với tất cả mọi người, những người không bắt bớ họ, bằng birr hoặc "lòng tốt sâu sắc" như đã nêu trong Surah . Birr cũng được Qur'an sử dụng để mô tả tình yêu và lòng tốt mà trẻ em phải thể hiện với cha mẹ.
Ishq, hay tình yêu thiêng liêng, là điểm nhấn của Sufi giáo trong truyền thống Hồi giáo. Các tín đồ Sufi giáo tin rằng tình yêu là sự phóng chiếu bản chất của Thiên Chúa lên vũ trụ. Thiên Chúa mong muốn nhận ra vẻ đẹp, và như thể người ta nhìn vào gương để thấy chính mình, Thiên Chúa "nhìn" chính mình trong sự năng động của tự nhiên. Vì tất cả mọi thứ là sự phản ánh của Thiên Chúa, Sufi giáo nỗ lực để thấy vẻ đẹp bên trong của những gì thấy xấu xí bên ngoài. Sufi giáo thường được gọi là tôn giáo của tình yêu. Thiên Chúa trong Sufi giáo được nhắc đến trong ba thuật ngữ chính, đó là Người tình, Người được yêu và Người được yêu say đắm, với thuật ngữ cuối cùng thường thấy trong thơ Sufi. Một quan điểm phổ biến của Sufi giáo là thông qua tình yêu, loài người có thể lấy lại sự thuần khiết và ân sủng vốn có của nó. Các vị thánh của Sufi giáo nổi tiếng vì "say sưa" với tình yêu của Thiên Chúa; do đó, thường xuyên có các ám chỉ đến rượu vang trong thơ và nhạc Sufi.
Baha'i giáo
Trong quyển sách Những Bài Giảng Của Đức Abdul-Baha Tại Paris, `Abdu'l-Bahá mô tả bốn loại tình yêu: tình yêu tuôn chảy từ Thiên Chúa sang con người; tình yêu tuôn chảy từ con người đến Thiên Chúa; tình yêu của Thiên Chúa đối với Bản ngã hoặc Bản sắc của Thiên Chúa; và tình yêu của con người dành cho con người.
Các tôn giáo Ấn Độ
Phật giáo
Trong Phật giáo, Kāma là tình yêu về mặt cảm giác, tình dục. Đó là một trở ngại trên con đường dẫn đến giác ngộ, vì nó là ích kỷ. Karuṇā là từ bi và thương xót, làm giảm bớt đau khổ của người khác. Nó là bổ sung cho trí tuệ và cần thiết cho sự giác ngộ. Adveṣa và mettā là tình yêu nhân từ. Tình yêu này là vô điều kiện và đòi hỏi sự chấp nhận bản thân đáng kể. Điều này khá khác biệt với tình yêu thông thường, thường là chỉ sự gắn bó và tình dục và hiếm khi xảy ra mà không có lợi cho bản thân. Thay vào đó, trong Phật giáo, advesa và metta đề cập đến sự tách rời và sự quan tâm không mang tính ích kỷ đối với người khác.
Lý tưởng Bồ tát trong Phật giáo Đại thừa liên quan đến việc từ bỏ hoàn toàn chính mình để gánh lấy gánh nặng của một thế giới đang đau khổ. Động lực mạnh mẽ nhất mà người ta có để đi theo con đường của Bồ tát là ý tưởng cứu rỗi trong tình yêu vị tha, quên mình cho tất cả chúng sinh.
Ấn Độ giáo
Trong Ấn Độ giáo, kāma là thú vui, tình yêu, được nhân cách hóa bởi vị thần Kamadeva. Đối với nhiều trường phái Hindu, đó là cách kết thúc thứ ba (Kama) trong cuộc đời. Kamadeva thường được mô tả cầm một cây cung làm từ cây mía và một mũi tên làm từ hoa; thần có thể cưỡi trên một con vẹt lớn. Kamadeva thường đi cùng với người phối ngẫu Rati và người bạn đồng hành Vasanta, chúa tể của mùa xuân. Hình ảnh trên đá của Kamadeva và Rati có thể được nhìn thấy trên cửa của ngôi đền Chennakeshava tại Belur, ở Karnataka, Ấn Độ. Maara là tên gọi khác của kāma.
Trái ngược với kāma, premahoặc Premđề cập đến tình yêu nâng cao. Karuna là lòng trắc ẩn và lòng thương xót, thúc đẩy một người giúp giảm bớt đau khổ của người khác. Bhakti là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là "lòng sùng kính yêu thương đối với Thiên Chúa tối cao". Một người thực hành bhakti được gọi là bhakta. Các nhà văn, nhà thần học và triết gia Ấn Độ giáo đã phân biệt chín hình thức bhakti, có thể được tìm thấy trong Bhagavata Purana và các tác phẩm của Tulsidas. Tác phẩm triết học Narada Bhakti Sutras, được một tác giả vô danh (được nhận định là Narada) viết ra, trong đó phân biệt mười một hình thức của tình yêu.
Xem thêm
Ngày Valentine
Hạnh phúc
Hôn nhân
Tình dục
Người đàn ông tốt
Hận thù
Ghen ghét
Tham khảo
Liên kết ngoài
Tình yêu
Trừu tượng
Tâm lý học
Cảm xúc
Hôn nhân
Sinh hoạt
Nguyên tắc đạo đức
Trạng thái cảm xúc
|
24896
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%B1%20nhi%C3%AAn
|
Tự nhiên
|
Tự nhiên hay thiên nhiên (), theo nghĩa rộng nhất, là thế giới hay vũ trụ mang tính vật chất. "Tự nhiên" nói đến các hiện tượng xảy ra trong thế giới vật chất, và cũng nhắc đến sự sống nói chung. Phạm vi bao quát của nó từ cấp hạ nguyên tử cho tới những khoảng cách lớn trong vũ trụ. Nghiên cứu về tự nhiên là một mảnh ghép lớn trong thế giới khoa học. Dù cho con người hiển nhiên là một phần của tự nhiên, nhưng những hoạt động của con người thường được phân biệt rạch rời khỏi những hiện tượng tự nhiên.
Với nhiều cách sử dụng và ý hiểu ngày nay, "tự nhiên" cũng nhắc đến địa chất và thế giới hoang dã. Tự nhiên cũng bao gồm nhiều loại động thực vật sống khác nhau, và trong một số trường hợp liên quan tới tiến trình của những vật vô tri vô giác – cách mà những kiểu riêng biệt của sự vật tồn tại và làm biến đổi môi trường quanh nó, tỉ như thời tiết và hoạt động địa chất của Trái Đất, cũng như vật chất và năng lượng của tất cả mọi thứ mà chúng cấu thành lên. Khi hiểu theo nghĩa là "môi trường tự nhiên" hoặc vùng hoang dã – động vật hoang dã, đá, rừng, bờ biển, và nói chung những thứ không bị tác động của con người thay đổi hoặc phản kháng trước những tác động của con người. Ví dụ, các sản phẩm được sản xuất hoặc có tác động bởi con người nói chung sẽ không được coi là thuộc về tự nhiên, trừ khi được định nghĩa thành những lớp lang phù hợp, ví dụ, "bản chất con người" (nhân tính) hay "toàn thể tự nhiên". Khái niệm truyền thống này về các vật tự nhiên mà đôi khi ngày nay vẫn sử dụng hàm ý sự phân biệt giữa thế giới tự nhiên và nhân tạo, với những thứ nhân tạo được ngầm hiểu từ tâm thức hoặc tư duy của con người. Phụ thuộc vào từng ngữ cảnh, thuật ngữ "tự nhiên" cũng có thể khác hẳn với từ "không tự nhiên" hay "siêu nhiên".
Từ nguyên
Tiếng Anh
Từ nature có nguồn gốc từ natura trong tiếng Latin, có nghĩa là "phẩm chất thuần khiết, thiên hướng bẩm sinh", và trong thời cổ đại nó có nghĩa đen là "sự sinh nở". Natura trong tiếng Latin là dịch từ physis (φύσις) trong tiếng Hy Lạp, một từ có nguồn gốc liên quan đến đặc tính nội tại của thực vật, động vật và những đặc trưng khác trong thế giới do chính người cổ đại nghĩ ra hoặc ghi chép lại. Khái niệm tự nhiên theo nghĩa tổng thể, hay vũ trụ vật chất, là một trong vài khái niệm mở rộng của khái niệm ban đầu; nó bắt đầu bằng những cách thông hiểu trọng tâm của từ φύσις bởi các triết gia trước Sokrates, và đã thu được sự chú ý dần dần theo thời gian kể từ đó. Cách sử dụng này dần được chấp nhận trong giai đoạn phát triển của phương pháp khoa học hiện đại trong vài thế kỷ qua.
Trái Đất
Trái Đất là hành tinh duy nhất hiện đã được biết là có hỗ trợ cho sự sống, và các đặc điểm tự nhiên của nó là đối tượng cho nhiều lĩnh vực nghiên cứu khoa học. Trong hệ Mặt Trời, Trái Đất là hành tinh gần Mặt Trời thứ 3; là hành tinh đất đá lớn nhất và là hành tinh lớn thứ 5 trong 8 hành tinh. Đặc điểm khí hậu nổi bật nhất của nó là hai vùng cực rộng lớn, hai đới ôn hòa tương đối hẹp và một vùng trải rộng từ nhiệt đới xích đạo đến cận nhiệt đới. Giáng thủy biến thiên rộng tùy theo vị trí, từ vài met mỗi năm đến ít hơn một milimet. 71% bề mặt Trái Đất là nước mặn, phần còn lại là các lục địa và đảo, với hầu hết con người định cư ở những vùng đất thuộc Bắc Bán cầu.
Trái Đất tiến hóa qua các quá trình sinh học và địa chất đã để lại các dấu vết của những môi trường nguyên thủy. Bề mặt Trái Đất được chia thành các mảng kiến tạo chuyển dịch chầm chậm. Phần bên trong hành tinh vẫn còn hoạt động với một lớp dày được gọi là manti và lõi sắt trong cùng tạo ra một từ trường. Lõi sắt này bao gồm một pha rắn ở trong và một pha lỏng ở ngoài. Sự chuyển động đối lưu trong lõi tạo nên những dòng điện tử thông qua những hoạt động xuất điện, và hình thành nên từ trường Trái Đất.
Các đặc tính khí quyển hiện tại đã thay đổi đáng kể so với môi trường sơ khai do sự hiện diện của các dạng sống, chúng tạo nên sự cân bằng sinh thái, giúp ổn định môi trường bề mặt. Mặc cho những biến động khí hậu trên một khu vực rộng dọc theo vĩ độ và các yếu tố địa lý khác, khí hậu trung bình dài hạn toàn cầu là khá ổn định trong thời kỳ gian băng, và những biến đổi về mức độ hoặc nhiệt độ toàn cầu trung bình trong lịch sử đã tạo ra những ảnh hưởng chính yếu đối với cân bằng sinh thái và địa lý hiện thời của Trái Đất.
Địa chất
Địa chất học là ngành khoa học nghiên cứu về vật chất rắn và lỏng cấu tạo nên Trái Đất. Lĩnh vực địa chất bao gồm việc nghiên cứu về thành phần, cấu tạo, thuộc tính vật lý, động lực và lịch sử của các vật liệu trên Trái Đất và các quá trình mà các vật liệu này được hình thành, di chuyển và biến đổi. Địa chất học là một trường học thuật chính, và cũng rất quan trọng trong khai thác mỏ, dầu khí, những kiến thức về các tai biến thiên nhiên và những giải pháp giảm thiểu các tai biến này, các lĩnh vực địa kỹ thuật, và hiểu về cổ khí hậu và cổ môi trường.
Tiến hóa địa chất
Địa chất của một khu vực liên quan đến thời gian các đơn vị đá kết tụ và đệm chèn, và quá trình biến dạng làm thay đổi hình dạng và vị trí tồn tại ban đầu của chúng.
Các đơn vị đá đầu tiên được hình thành bằng cách tích tụ trên bề mặt hoặc xâm nhập vào các đá có trước. Sự tích tụ xảy ra khi trầm tích lắng đọng trên bề mặt Trái Đất và sau đó biến thành đá tạo thành đá trầm tích, hoặc khi vật liệu núi lửa phun lên ở dạng tro núi lửa hoặc dòng dung nham phủ trên bề mặt. Những loại đá macma xâm nhập như batholith (thể nền), laccolith (thể nấm), dike (thể mạch), và sill, làm đẩy các lớp đá bên trên lên và kết tinh khi chúng xâm nhập vào.
Sau khi lớp đá được hình thành hay tích tụ, các đơn vị đá có thể bị biến dạng hoặc biến chất. Sự biến dạng làm cho các lớp nằm ngang co lại, hoặc kéo giãn ra hoặc di chuyển dọc theo nhau giữa hai phần của đứt gãy. Những cơ chế cấu trúc này liên quan đến các ranh giới hội tụ, ranh giới tách giãn và ranh giới chuyển dạng giữa các mảng kiến tạo.
Quan điểm lịch sử
Trái Đất ước tính được hình thành cách đây 4,54 tỉ năm từ tinh vân Mặt Trời, cùng với Mặt Trời và các hành tinh khác. Mặt Trăng được hình thành khoảng 20 triệu năm sau đó. Ban đầu Trái Đất ở dạng nóng chảy, lớp ngoài cùng của hành tinh nguội dần rồi tạo thành vỏ rắn. Các khí thoát ra và hoạt động núi lửa tạo nên bầu khí quyển nguyên thủy. Phần lớn hoặc tất cả hơi nước ngưng tụ đến từ băng được sao chổi mang đến, tạo ra các đại dương và những nguồn nước khác. Môi trường hóa học năng lượng cao được cho là đã tạo ra các phân tử tự sao chép khoảng 4 tỉ năm về trước.
Các lục địa được hình thành, rồi sau đó vỡ ra và tái sáp nhập thành bề mặt Trái Đất trải qua hàng trăm triệu năm, đôi khi kết hợp với nhau tạo thành các siêu lục địa. Khoảng 750 triệu năm trước, siêu lục địa đầu tiên có tên Rodinia bắt đầu vỡ ra. Các lục địa sau đó kết hợp lại tạo thành Pannotia, lục địa này sau đó tiếp tục vỡ ra vào khoảng 540 triệu năm trước, sau cùng thì sáp nhập tạo thành Pangaea, rồi lại vỡ ra vào khoảng 180 triệu năm trước.
Có bằng chứng rõ ràng về hoạt động băng hà trong suốt Đại Tân Nguyên sinh (Neoproterozoic), băng đã bao phủ phần lớn hành tinh, trong những sông băng và tảng băng. Giả thiết này được gọi là "Quả cầu tuyết Trái Đất", và nó được đặc biệt quan tâm khi nó có trước sự kiện bùng nổ kỷ Cambri mà theo đó các dạng sống đa bào bắt đầu sinh sôi nảy nở khoảng 530–540 triệu năm trước.
Kể từ vụ bùng nổ kỷ Cambri đã có 5 sự kiện tuyệt chủng lớn. Vụ tuyệt chủng lớn gần đây nhất xảy ra vào khoảng 66 triệu năm trước, khi một thiên thạch có lẽ đã va chạm vào Trái Đất làm tuyệt chủng các loài khủng long phi chim và các loài bò sát lớn khác, ngoại trừ những loài động vật nhỏ như động vật có vú. Và hơn 66 triệu năm qua, lớp thú đã tiến hành đa dạng hóa chủng loài.
Kỷ nguyên hiện tại được xem là một phần của sự kiện tuyệt chủng lớn có tên gọi là tuyệt chủng Holocen, đây là thời kỳ tuyệt chủng nhanh chưa từng thấy. Một số tác giả như E. O. Wilson thuộc Đại học Harvard, dự đoán rằng sự phá hoại sinh quyển của con người có thể là nguyên nhân làm tuyệt chủng phân nửa các loài trên Trái Đất trong vòng 100 năm tới. Phạm vi của sự tuyệt chủng hiện tại vẫn đang được nghiên cứu, vẫn còn tranh cãi và tính toán của các nhà sinh học.
Khí quyển, khí hậu, và thời tiết
Khí quyển Trái Đất là yếu tố quan trọng nhằm duy trì hệ sinh thái của hành tinh. Lớp khí mỏng bao bọc Trái Đất được giữ bởi trọng lực của Trái Đất. Không khí khô bao gồm 78% nitơ, 21% oxy, 1% argon và các khí trơ khác, cacbon dioxide...; nhưng không khí cũng chứa một lượng đáng kể hơi nước. Áp suất khí quyển giảm từ từ theo cao độ, và tồn tại trong khoảng khoảng 8 km từ bề mặt Trái Đất: độ cao mà áp suất khí quyển giảm theo hằng số e (hằng số toán học tương đương 2,71...). Tầng ozon của khí quyển Trái Đất có vai trò quan trọng trong việc ngăn chặn tia cực tím đến bề mặt Trái Đất. Vì DNA dễ bị hủy hoại bởi các tia UV, nên tầng này giúp bảo vệ sự sống tại bề mặt. Khí quyển cũng giúp duy trì nhiệt vào ban đêm, và giảm nhiệt độ cực nóng vào ban ngày.
Thời tiết trên mặt đất xuất hiện hầu hết ở phần dưới của khí quyển, và có vai trò là hệ đối lưu trong việc tái phân phối nhiệt. Các dòng hải lưu là nhân tố quan trọng khác trong việc xác định khí hậu, đặc biệt là các dòng tuần hoàn muối nhiệt chính dưới nước có vai trò quan trọng trong việc phân phối năng lượng nhiệt trong các đại dương ở xích đạo đến các vùng cực. Các dòng hải lưu này giúp điều hòa sự chênh lệch nhiệt độ giữa mùa đông và mùa hè ở các vùng ôn đới. Cũng thế, do không có sự tái phân bố năng lượng nhiệt của các dòng hải lưu và khí quyển, nên các vùng nhiệt đới sẽ nóng hơn, và vùng cực lạnh hơn.
Thời tiết có thể có những ảnh hưởng tốt và xấu. Thời tiết cực đoan như vòi rồng, bão nhiệt đới và lốc xoáy, có thể tiêu tốn phần lớn năng lượng trên đường đi của chúng và gây tàn phá. Thảm thực vật trên bề mặt phát triển phụ thuộc vào sự biến động của thời tiết theo mùa, và những thay đổi bất ngờ chỉ trong vài năm có thể ảnh hưởng rất lớn đến thảm thực vật này và cả những động vật sống phụ thuộc vào nó để kiếm ăn.
Khí hậu Trái Đất là thước đo về xu hướng diễn biến trong thời gian dài của khí thời tiết. Nhiều yếu tố khác nhau được cho là ảnh hưởng đến khí hậu như hải lưu, suất phản chiếu bề mặt, khí nhà kính, thay đổi độ chiếu sáng của Mặt Trời, và những thay đổi về quỹ đạo của hành tinh. Dựa trên những dữ liệu lịch sử, Trái Đất từng trải qua những lần biến đổi khí hậu mạnh mẽ trong quá khứ như các thời kỳ băng hà.
Khí hậu của một khu vực phụ thuộc vào nhiều yếu tố, đặc biệt là vĩ độ. Dải vĩ độ của một bề mặt với các đặc điểm khí hậu tương tự tạo thành một vùng khí hậu. Trên Trái Đất người ta chia thành một số vùng khí hậu từ khí hậu nhiệt đới ở xích đạo đến khí hậu vùng cực ở cực bắc và nam. Thời tiết cũng chịu ảnh hưởng theo mùa là kết quả của sự nghiêng của trục Trái Đất so với mặt phẳng quỹ đạo. Vì vậy, tại một thời điểm trong năm trong mùa hè hoặc đông, một phần của hành tinh sẽ hướng thẳng vào các tia bức xạ của Mặt Trời. Sự tiếp xúc này thay đổi luân phiên khi Trái Đất xoay quanh quỹ đạo của nó. Vào bất kỳ thời điểm nào, bất kể mùa, bán cầu bắc và nam đều có các mùa trái ngược nhau.
Thời tiết là một hệ hỗn loạn dễ dàng bị thay đổi theo môi trường, vì vậy việc dự báo thời tiết chính xác hiện còn bị giới hạn chỉ trong vòng vài ngày. Nhìn chung có hai điều đang diễn ra trên toàn cầu: (1) nhiệt độ đang tăng tính theo giá trị trung bình; và (2) khí hậu khu vực đang trải qua những biến đổi rõ rệt.
Nước trên Trái Đất
Nước là một hợp chất hóa học được cấu tạo từ hydro và oxy và là nguồn sống thiết yếu cho tất cả sinh vật. Ở dạng sử dụng thông thường, nước được xem chỉ ở dạng lỏng hoặc trạng thái lỏng, nhưng nước cũng có thể tồn tại ở trạng thái rắn, băng và khí như hơi nước. Nước bao phủ 71% bề mặt Trái Đất. Trên Trái Đất, nước phân bố chủ yếu trong các đại dương và các vực nước lớn khác, chỉ có 1,6% tồn tại trong các tầng chứa nước và 0,001% trong khí quyển ở dạng hơi, mây và hoạt động giáng thủy. Các đại dương chiếm giữ 97% nước mặt, sông băng và chỏm băng ở hai cực chiếm 2,4%, và các dạng nước mặt khác trong sông, hồ và ao chiếm 0,6%. Ngoài ra, còn một lượng nhỏ nước trên Trái Đất tồn tại trong các cơ thể sinh học và những sản phẩm tổng hợp.
Đại dương
Đại dương là vực chứa nước mặn lớn, và là thành phần cơ bản của thủy quyển. Khoảng 71% bề mặt Trái Đất (một vùng trải rộng với diện tích 361 triệu kilomet vuông) được bao phủ bởi đại dương. Các đại dương là các vực nước liên tục, thông thường được chia thành các đại dương chính và các biển nhỏ hơn. Hơn phân nửa khu vực này có độ sâu hơn 3.000 mét. Độ mặn trung bình của đại dương khoảng 35 phần ngàn (ppt) (3,5%), và gần như toàn bộ nước biển có độ mặn dao động trong khoảng 30 đến 38 ppt. Nhìn chung thì các đại dương được xem là 'tách biệt', nhưng những vùng nước này lại liên kết với nhau tạo nên một đại dương toàn cầu. Khái niệm về đại dương toàn cầu đề cập đến một vực nước liên tục với khả năng trao đổi tương đối tự do giữa các thành phần quan trọng của nó trong hải dương học.
Sự phân chia những đại dương chính được xác định một phần bởi các lục địa, nhiều quần đảo, và các tiêu chí khác: kết quả của sự phân chia (thứ tự giảm dần theo diện tích), gồm: Thái Bình Dương, Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương, Nam Băng Dương và Bắc Băng Dương. Các khu vực nhỏ hơn của đại dương được gọi là biển, vịnh, và các tên gọi khác. Cũng có từ hồ muối dùng để chỉ các vực nước nhỏ hơn không được liên kết với các đại dương mà chứa nước mặn, ví dụ như biển Aral và hồ Muối Lớn.
Hồ
Hồ là một vực chứa nước trên bề mặt đất nằm ngay trung tâm của một bồn trũng. Trên Trái Đất, vực nước được xem là hồ khi nó nằm trên đất liền, không có phần nào liên quan đến đại dương, nó sâu hơn và rộng hơn ao, và được sông cung cấp nước. Một thiên thể duy nhất ngoài Trái Đất được biết đang ẩn náu các hồ là Titan, vệ tinh lớn nhất của Sao Thổ, có những hồ chứa etan và đa phần có thể còn pha trộn thêm metan. Dù bề mặt Titan bị chia cắt bởi một lượng lớn đáy sông, nhưng không thể biết được các hồ của Titan có được các sông này chu cấp hay không. Các hồ tự nhiên trên Trái Đất thường được tìm thấy ở các vùng núi, đới tách giãn, và các vùng có băng hà gần đây. Các dạng hồ khác được tìm thấy trong các lòng chảo nội lục hoặc dọc theo các đoạn sông trưởng thành. Ở nhiều nơi trên thế giới, có nhiều hồ là do các kiểu thoát nước hỗn tạp tồn tại từ thời kỳ băng hà gần đây nhất. Tất cả các hồ tồn tại một cách tương đối theo thời gian địa chất, vì chúng sẽ bị lấp đầy chầm chậm bởi trầm tích hoặc tràn ra khỏi lưu vực chứa nó.
Ao
Ao là một vực nước đứng (không chuyển động), tự nhiên hoặc nhân tạo, thường nhỏ hơn hồ. Nhiều kiểu vực nước nhân tạo kích thước khác nhau cũng được xếp vào ao, như các vườn nước được thiết kế cho nghệ thuật trang trí thẩm mỹ, ao cá cho việc nuôi cá, và ao năng lượng được thiết kế cho việc trữ nhiệt. Ao và hồ được phân biệt với các suối thông qua vận tốc dòng chảy. Trong khi các dòng chảy trong suối dễ dàng quan sát, thì ao và hồ có các vi dòng chảy được điều khiển bởi các dòng nhiệt và những cơn gió thoảng nhẹ. Đây chính là những đặc điểm phân biệt ao với nhiều vùng đất ngập nước khác, như vũng suối và bể thủy triều.
Sông
Sông là một nguồn nước tự nhiên, thường là nước ngọt, chảy vào đại dương, hồ, biển hoặc một sông khác. Trong vài trường hợp, sông chảy ngầm dưới đất hoặc bị khô hoàn toàn trước khi đổ vào một vực nước khác. Các sông nhỏ có thể được gọi với nhiều tên gọi khác nhau, như: suối, kênh, rạch, ngòi, lạch; không có nguyên tắc chung để định nghĩa thế nào là con sông. Nhiều tên gọi cho các sông nhỏ cũng tùy theo vị trí địa lý; ví dụ như Burn ở Scotland và Đông Bắc Anh. Đôi khi sông được cho là lớn hơn một con lạch, nhưng không phải lúc nào cũng đúng trong mọi trường hợp, còn tùy vào những ý ngẫm mơ hồ của ngôn ngữ. Sông là một phần của chu trình nước. Nước trong sông thường tụ lại từ hoạt động giáng thủy chảy tràn trên bề mặt, xuất lộ của nước ngầm, suối, và giải phóng từ các dạng chứa nước khác trong tự nhiên như băng tuyết, sông băng.
Suối
Suối là một vực nước chảy được xác định trong giới hạn của đáy và bờ suối. Hoa Kỳ định nghĩa suối là vực nước có bề rộng nhỏ hơn 18 met. Suối đóng vai trò quan trọng là mao dẫn của vòng tuần hoàn nước, công cụ của bổ cấp nước ngầm, và là hành lang cho cá và các loài động vật hoang dã di cư. Những cảnh quan sinh học lân cận dòng suối được gọi là vùng ven. Với hiện trạng đang diễn ra về tuyệt chủng Holocen, các dòng suối đóng vai trò quan trọng như một hành lang liên kết các môi sinh bị chia cắt và những vấn đề bảo tồn đa dạng sinh học. Nghiên cứu về suối và vực nước nhìn chung liên quan đến nhiều nhánh liên ngành của khoa học tự nhiên và kỹ thuật như thủy văn học, địa mạo bồi tích, thủy sinh thái học, ngư sinh thái học, ven sinh thái học, v.v.
Hệ sinh thái
Hệ sinh thái được cấu thành bởi các thành phần vô sinh và hữu sinh tương tác với nhau. Cấu trúc và thành phần được xác định bởi nhiều yếu tố môi trường tương quan. Những biến đổi về các yếu tố này sẽ khơi mào những thay đổi động lực đến các hệ sinh thái. Một số thành phần quan trọng hơn là đất, khí quyển, bức xạ mặt trời, nước và các sinh vật sống.
Trung tâm của khái niệm hệ sinh thái là ý tưởng về các sinh vật sống tương tác với các yếu tố khác trong môi trường mà chúng sống. Eugene Odum, một nhà sáng lập của sinh thái học nhận định rằng: "Bất cứ thành tố nào bao gồm tất cả sinh vật (như: "quần xã") của một khu vực cho trước tương tác với môi trường vật lý cũng chính là dòng chảy năng lượng dẫn đến sự xác định rõ ràng cơ cấu dinh dưỡng, đa dạng sinh học và các chu trình vật chất (như: trao đổi vật chất giữa những phần vô sinh và hữu sinh) trong hệ thống của một hệ sinh thái." Bên trong hệ sinh thái, các loài có quan hệ với nhau và phụ thuộc nhau qua chuỗi thức ăn, và trao đổi năng lượng và vật chất giữa chúng với nhau cũng như với môi trường mà chúng sinh sống. Khái niệm hệ sinh thái con người căn cứ vào sự giải tỏa cấu trúc giữa hai mặt đối lập loài người/tự nhiên và tiên đề về sự hòa hợp sinh thái giữa tất cả sinh vật, cũng như với những thành phần vô sinh trong sinh cảnh của chúng ta.
Các đơn vị nhỏ hơn của hệ sinh thái được gọi là vi hệ sinh thái. Ví dụ, vi hệ sinh thái có thể là hòn đá và tất cả sinh vật sống bên dưới nó. Một đại hệ sinh thái có thể liên quan đến toàn bộ vùng sinh thái cùng lưu vực của nó.
Vùng hoang dã
Vùng hoang dã được định nghĩa chung là những khu vực không có sự tác động đáng kể bởi các hoạt động của con người. Quỹ WILD đưa ra định nghĩa chi tiết hơn đó là "những khu vực hoang dã tự nhiên không bị xáo động, nguyên vẹn nhất còn lại trên hành tinh của chúng ta – những nơi hoang dã thực sự cuối cùng mà con người không kiểm soát và đã không phát triển với đường giao thông, đường ống dẫn hoặc cơ sở hạ tầng công nghiệp khác". Các vùng hoang dã có thể được tìm thấy trong các khu bảo tồn, điền trang, nông trang, trại chăn nuôi, rừng quốc gia, vườn quốc gia và thậm chí là những vùng đô thị dọc theo sông ngòi, khe sâu và các vùng chưa phát triển khác. Các vùng hoang dã và công viên được bảo vệ được xem là thành phần quan trọng đối với sự sống còn của một số loài nhất định, là nơi nghiên cứu về sinh thái học, bảo tồn, tĩnh tâm và tiêu khiển. Nhiều nhà văn viết về tự nhiên tin rằng các vùng hoang dã là cần thiết cho tinh thần và sự sáng tạo của con người, và các nhà sinh thái học xem các vùng hoang dã là một phần của hệ sinh thái tự nhiên tự duy trì trên Trái Đất (sinh quyển). Chúng cũng có thể bảo tồn những đặc điểm di truyền lịch sử và từ đó cung cấp môi trường sống cho các hệ động và thực vật hoang dã mà khó có thể tạo ra trong phòng thí nghiệm, vườn ươm cây hay vườn bách thú.
Sự sống
Mặc dù chưa có sự đồng thuận nào về định nghĩa của sự sống trên toàn cầu nhưng các nhà khoa học nhìn chung chấp nhận khái niệm rằng biểu hiện sinh học của sự sống được đặc trưng bởi tổ chức sinh vật, trao đổi chất, sinh trưởng, thích nghi, phản ứng lại kích thích và sinh sản. Sự sống cũng có thể được định nghĩa đơn giản bằng trạng thái tính chất của các sinh vật.
Đặc điểm chung của sinh vật trên cạn (thực vật, động vật, nấm, sinh vật nguyên sinh, vi khuẩn cổ và vi khuẩn) là các tế bào, các tổ chức phức tạp được hình thành trên cơ sở cacbon-và-nước, có sự trao đổi chất, có khả năng sinh trưởng phát triển, phản ứng lại các kích thích và sinh sản. Một thực thể có những đặc điểm này nhìn chung được gọi là sự sống. Tuy nhiên, không phải tất cả định nghĩa về sự sống xem tất cả những tính chất trên là cần thiết. Sự sống nhân tạo cũng có thể được xem là sự sống.
Sinh quyển là phần lớp vỏ bao bọc bên ngoài của Trái Đất – bao gồm đất, bề mặt đá, nước, không khí và khí quyển – bên trong đó có sự sống, và các quá trình sinh học lần lượt thay thế hoặc biến đổi. Trên quan điểm địa sinh lý học, sinh quyển là một hệ sinh thái toàn cầu tích hợp tất cả dạng sống và các mối quan hệ giữa chúng, bao gồm sự tương tác giữa chúng với các thành tố như thạch quyển (đá), thủy quyển (nước) và khí quyển (khí). Hiện tại toàn bộ Trái Đất chứa hơn 75 tỉ tấn (khoảng 6,8×1013 kg) sinh khối, trong đó các loài sống ở nhiều môi trường khác nhau trong sinh quyển.Hơn 9/10 tổng sinh khối trên Trái Đất là thực vật sống mà động vật sống phụ thuộc phần lớn vào nó để tồn tại. Hơn 2 triệu loài động và thực vật sống đã được xác định, và ước tính số lượng loài hiện có từ vài triệu đến hơn 50 triệu. Số cá thể của các loài là không đổi ở các cấp thông lượng khác nhau, với các loài mới xuất hiện và các loài khác bị xóa bỏ trên cơ sở liên tục. Tổng số loài hiện đang giảm một cách nhanh chóng.
Tiến hóa
Sự sống được biết là chỉ tồn tại trên Trái Đất. Nguồn gốc sự sống là một quá trình mà con người vẫn chưa hiểu rõ, nhưng nó được cho rằng đã tồn tại từ cách đây ít nhất 3,5 tỉ năm vào liên đại Hỏa thành hoặc liên đại Thái cổ trên Trái Đất nguyên thủy có môi trường khác rất nhiều so với hiện nay. Các dạng sống này sở hữu các đặc điểm cơ bản về quá trình tự sao chép và đặc điểm di truyền. Khi sự sống xuất hiện, quá trình tiến hóa bằng cách chọn lọc tự nhiên đã tạo ra sự phát triển đa dạng sự sống chưa từng có.
Những loài không thể thích nghi với sự thay đổi của môi trường và sự cạnh tranh của các loài khác thì chúng bị tuyệt chủng. Tuy nhiên, những hóa thạch lưu giữ những bằng chứng về nhiều loài cổ hơn. Bằng chứng hóa thạch và DNA hiện tại cho thấy tất cả các loài tồn tại có thể có tổ tiên phát triển liên tục từ các dạng sống nguyên thủy đầu tiên.
Sự xuất hiện quá trình quang hợp trong những dạng rất cơ bản của thực vật sống trên khắp Trái Đất đã giúp hấp thụ lượng lớn năng lượng mặt trời để tạo nên điều kiện môi trường cho những dạng sống phức tạp hơn. Sự tích tụ oxy trong khí quyển và dẫn đến sự hình thành tầng ozon. Sự kết hợp các tế bào nhỏ hơn thành các tập đoàn lớn đã tạo ra sự phát triển của các tế bào phức tạp hơn được gọi là sinh vật nhân thực. Các tế bào trong các tập đoàn được biệt hóa mạnh hơn, tạo ra các sinh vật đa bào. Cùng với việc tầng ozon hấp thụ các tia cực tím đã giúp cho các sinh vật có thể định cư được trên bề mặt Trái Đất.
Vi sinh vật
Dạng sống đầu tiên phát triển trên Trái Đất là các vi sinh vật, và chúng vẫn giữ nguyên kiểu hình trên hành tinh này qua hàng tỉ năm khi các sinh vật đa bào bắt đầu xuất hiện. Các vi sinh vật là các sinh vật đơn bào thường có kích thước rất nhỏ mà mắt thường không thể nhìn thấy. Chúng bao gồm vi khuẩn, nấm, vi khuẩn cổ và sinh vật nguyên sinh.
Các dạng sống này được phát hiện ở khắp nơi trên Trái Đất nơi có nước lỏng, bao gồm cả cấu trúc bên trong Trái Đất. Sự sinh sản của chúng nhanh chóng và nhiều. Sự kết hợp của tốc độ đột biến và vận chuyển ngang gen cao có khả năng giúp chúng thích nghi cao và có thể sống sót trong các môi trường mới bao gồm cả ngoài không gian. Chúng là một phần thiết yếu của hệ sinh thái trên Trái Đất. Tuy nhiên, nhiều vi sinh vật là tác nhân gây hại đối với sức khỏe của nhiều loài khác.
Thực vật và động vật
Ban đầu Aristotle chia tất cả sinh vật sống thành thực vật và động vật. Trong hệ thống phân loại của Linnaeus, các sinh vật được phân thành giới Vegetabilia (sau này là Plantae) và Animalia. Kể từ đó, việc phân chia trở nên rõ ràng rằng Plantae như ban đầu được xác định bao gồm nhiều nhóm không liên quan, và nấm và nhiều nhóm khác của tảo đã được xếp vào các giới mới. Tuy nhiên, chúng vẫn thường được xem là thực vật trong một số ngữ cảnh. Vi khuẩn đôi khi nằm trong hệ thực vật, và một số hệ thống phân loại dùng từ hệ thực vật vi khuẩn (bacterial flora) tách biệt với hệ thực vật (plant flora).
Trong số nhiều cách phân loại thực vật theo các hệ thực vật khu vực, việc phân chia này phụ thuộc vào mục đích nghiên cứu, có thể bao gồm thực vật hóa thạch, đó là những thành phần thực vật còn sót lại của thời kỳ trước. Con người ở nhiều vùng và quốc gia khác nhau rất tự hào về những đặc điểm của hệ thực vật tự nhiên của họ, các hệ này có thể phân bố rộng khắp trên toàn cầu do sự khác biệt về khí hậu và địa hình.Hệ thực vật khu vực thường được chia thành thực vật bản địa và thực vật nghề vườn và nông nghiệp, kiểu thực vật vườn đề cập đến các loại cây do con người trồng. Trong số các loại "thực vật bản địa" thực chất có thể là du nhập hàng thế kỷ trước do con người di cư từ vùng này sang vùng khác hoặc từ lục địa này sang lục địa khác, và trở thành một phần không thể thiếu của thực vật bản địa hay hệ thực vật tự nhiên của nơi mà chúng được du nhập đến. Đây là một ví dụ cho sự tương tác của con người với tự nhiên có thể xóa nhòa ranh giới về bản chất tự nhiên.
Một nhóm thực vật khác được ghi lại trong lịch sử là cỏ dại. Cách gọi này được các nhà thực vật học dùng để chỉ các loại thực vật "vô ích", cách dùng không chính thức của từ "cỏ dại" để mô tả những thực vật xứng đáng loại khỏi là minh họa khuynh hướng chung của loài người và cộng đồng xã hội về việc mưu cầu sự biến đổi hay tái tạo lại chiều hướng vận động của tự nhiên. Tương tự vậy, các loài động vật thường được xếp thành các nhóm như thuần hóa, động vật nuôi, đông vật hoang dã, loài vây hại, v.v. theo mối quan hệ của chúng đối với con người.
Động vật nằm trong nhóm có nhiều đặc điểm khác biệt với các sinh vật sống khác. Động vật là các sinh vật nhân thực và thường là đa bào (xem Myxozoa), tách biệt với vi khuẩn, vi khuẩn cổ và hầu hết sinh vật đơn bào. Chúng là các sinh vật dị dưỡng, thường tiêu hóa thức ăn trong các khoang bên trong cơ thể, khác biệt với thực vật và tảo. Chúng cũng được phân biệt với thực vật, tảo và nấm do không có thành tế bào.
Với số ít trường hợp ngoại lệ, phần lớn trong đó là bọt biển (Ngành Bọt biển), động vật có cơ thể chuyên biệt thành những mô biệt hóa. Chúng gồm có cơ bắp, dùng để co rút và điều khiển vận động, và một hệ thần kinh, dùng để gửi và chuyển tiếp tín hiệu. Chúng cũng có một khoang tiêu hóa đặc trưng bên trong. Tế bào nhân thực là nền tảng của tất cả các loài động vật, được bao quanh bởi một chất nền ngoại bào giàu đặc tính, xây dựng từ collagen và những glycoprotein đàn hồi. Cấu trúc này có thể bị vôi hóa trở thành những dạng cấu trúc khác như vỏ, xương và gai, một bộ khung nền để các tế bào có thể di chuyển và tái tổ chức trong suốt quá trình sinh trưởng phát triển và trưởng thành, cũng như hỗ trợ cho những hệ giải phẫu phức tạp cần thiết cho tính di động.
Tương tác với con người
Mặc dù con người hiện chỉ là một phần rất nhỏ trong tổng thể sinh khối trên Trái Đất nhưng tác động của con người vào thiên nhiên lại quá lớn. Do sự mở rộng ảnh hưởng của con người, các ranh giới giữa những gì của con người liên quan đến tự nhiên và các "môi trường nhân tạo" là không rõ ràng trừ những trường hợp đặc biệt. Ngay cả ở những trường hợp đặc biệt, số lượng các môi trường tự nhiên mà chưa chịu sự ảnh hưởng của con người một cách rõ rệt hiện cũng đang giảm dần với tốc độ nhanh chóng.Sự phát triển công nghệ của loài người đã cho phép khai thác tài nguyên thiên nhiên tốt hơn và giúp giảm bớt rủi ro từ thiên tai. Tuy nhiên, trong quá trình này, số phận của nền văn minh loài người vẫn gắn liền với những biến đổi của môi trường. Hiện tồn tại một vòng hồi tiếp rất phức tạp giữa việc sử dụng công nghệ tiến bộ và những biến đổi của môi trường, và cũng chỉ được hiểu biết một cách chậm chạp. Những mối đe dọa do chính con người thực hiện đối với môi trường tự nhiên trên Trái Đất như gia tăng dân số, phá rừng, tai biến như tràn dầu, và con người cũng góp phần gây ra sự tuyệt chủng của nhiều loài động vật và thực vật.
Con người sử dụng tự nhiên vào những hoạt động giải trí và kinh tế, việc tìm kiếm và khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên cho hoạt động công nghiệp vẫn là thành phần chính của nền kinh tế thế giới. Các hoạt động như săn bắn, đánh cá phục vụ cho tiêu dùng và giải trí thì có sự khác biệt giữa các nhóm người. Hoạt động nông nghiệp đã bắt đầu vào khoảng thiên niên kỷ 9 TCN. Thay đổi từ sản xuất lương thực sang năng lượng đã tác động đến sự thịnh vượng của nền kinh tế thế giới.
Mặc dù vào thời kỳ đầu, con người thu lượm những nguyên liệu từ thực vật hoang dại để làm thực phẩm và sử dụng những đặc tính dược học của thực vật để chữa bệnh, còn hầu hết con người hiện đại sử dụng thực vật thông qua các hoạt động nông nghiệp. Sự phát quang một khu vực đất rộng lớn cho trồng trọt đã làm giảm đáng kể diện tích rừng hiện hữu và các vùng đất ngập nước, làm mất môi trường sống của nhiều loài động thực vật cũng như làm gia tăng xói mòn.
Thẩm mỹ và vẻ đẹp
Vẻ đẹp của tự nhiên đã và đang là chủ đề của nhiều tác phẩm nghệ thuật cũng như được ghi lại trong nhiều quyển sách chất đầy thư viện và các nhà sách. Thiên nhiên đã được miêu tả và được ca ngợi nhiều trong nghệ thuật, nhiếp ảnh, thơ và các loại hình văn học nghệ thuật khác thể hiện thế mạnh của nó mà nhiều người đã liên kết hai yếu tố tự nhiên và vẻ đẹp với nhau. Những lý do tại sao các mối liên hệ này tồn tại, và cái gì đã liên kết chúng được nghiên cứu bởi một nhánh triết học được gọi là sự thẩm mỹ. Ngoài những đặc điểm cơ bản mà nhiều triết gia đồng ý về việc giải thích những gì được coi là đẹp, thì những ý kiến khác về cái đẹp hầu như bất tận. Tự nhiên và hoang dã là các chủ đề quan trọng trong nhiều kỷ nguyên của lịch sử thế giới. Nghệ thuật phong cảnh truyền thống sơ khai bắt đầu ở Trung Quốc trong suốt triều đại nhà Đường (618–907). Biểu diễn thiên nhiên qua nghệ thuật là một trong những chủ đề của tranh Trung Quốc và có những ảnh hưởng nhất định đối với nghệ thuật châu Á.
Mặc dù các kỳ quan thiên nhiên được vinh danh trong Thánh Vịnh và Sách Job, việc truyền tải sự hoang dã trong nghệ thuật đã trở nên phổ biến hơn trong thập niên 1800, đặc biệt trong các tác phẩm của phong trào lãng mạn. Các họa sĩ Anh quốc như John Constable và J. M. W. Turner đã chuyển sự chú ý của họ vào việc truyền tải những vẻ đẹp của thế giới tự nhiên đi vào những bức họa. Trước đó, hội họa chủ yếu tập trung vào những hình ảnh tôn giáo hoặc con người. Thơ của William Wordsworth đã miêu tả sự kỳ diệu của thế giới tự nhiên, mà trước đây được xem như là "vùng nguy hiểm". Càng ngày sự coi trọng giá trị của thiên nhiên đã trở thành một khía cạnh của văn hóa phương Tây. Phong trào nghệ thuật này cũng trùng hợp với phong trào siêu việt luận trong thế giới phương Tây. Ý tưởng cổ điển chung của nghệ thuật về cái đẹp liên quan đến sự bắt chước thiên nhiên. Cũng trong lĩnh vực về vẻ đẹp của thiên nhiên là sự hoàn hảo được ngụ ý thông qua những dạng toán học hoàn hảo và tổng quát hơn bởi những cách sắp xếp của tự nhiên theo các khuôn mẫu nhất định. Như David Rothenburg viết, "Cái đẹp là gốc rễ của khoa học và mục đích của nghệ thuật, khả năng cao nhất mà nhân loại có thể hy vọng thấy được nó".
Vật chất và năng lượng
Một số lĩnh vực khoa học xem tự nhiên là vật chất chuyển động tuân theo những quy luật nhất định của tự nhiên mà khoa học đang tìm hiểu. Vì lý do đó, nền tảng cơ bản nhất của khoa học được hiểu một cách chung là "vật lý học" – tên gọi mà vẫn có thể nhận ra nó ám chỉ nghiên cứu về tự nhiên.
Vật chất thường được định nghĩa là chất cấu thành nên vật thể vật lý. Nó cấu tạo nên vũ trụ quan sát được. Các thành phần này của vũ trụ hiện được tin là chỉ chiếm 4,9% tổng khối lượng. Phần còn lại 26,8% là vật chất lạnh tối và 68,3% là năng lượng tối. Số liệu chính xác của các thành phần này vẫn chưa được biết rõ và hiện đang được các nhà vật lý nghiên cứu.
Trạng thái của vật chất và năng lượng thông qua việc quan sát được vũ trụ cho thấy chúng tuân theo các định luật vật lý rõ ràng. Các định luật này được áp dụng để thành lập các mô hình vũ trụ đã giải thích thành công cấu trúc và sự tiến hóa của vũ trụ mà chúng ta có thể quan sát được. Các biểu thức toán học của các định luật vật lý sử dụng một bộ 12 hằng số vật lý có vẻ như là tĩnh đối với vũ trụ quan sát được. Giá trị của các hằng số này đã được đo đạc cẩn thận nhưng nguyên do để có được các con số này vẫn là điều bí ẩn.
Bên ngoài Trái Đất
Không gian ngoài thiên thể chỉ vùng không gian tương đối rỗng của vũ trụ bên ngoài khí quyển của các thiên thể. Không có ranh giới rõ ràng giữa khí quyển Trái Đất và không gian ngoài thiên thể, vì áp suất khí quyển giảm từ từ theo độ cao tăng dần. Không gian ngoài thiên thể trong hệ Mặt Trời được gọi là không gian liên hành tinh, nó trải rộng đến không gian liên sao tại nơi được gọi là nhật quyển.
Không gian ngoài thiên thể gồm một số ít các loại vật chất phân tử hữu cơ được phát hiện bởi các sóng quang phổ viba, phông nền bức xạ vũ trụ còn tồn dư sau vụ nổ Big Bang và nguồn gốc của vũ trụ, và các tia vũ trụ chứa các hạt nhân nguyên tử bị ion hóa và nhiều loại hạt hạ nguyên tử khác. Cũng có một số chất khí, plasma và bụi, và các thiên thạch nhỏ. Ngoài ra, các dấu hiệu của sự sống loài người phát vào không gian ngày nay như các loại vật liệu còn lại từ các vật thể có và không người lái từng phóng lên không gian có tiềm năng gây hại cho các tàu vũ trụ. Một số mảnh vỡ này theo định kỳ quay trở lại khí quyển Trái Đất.
Mặc dù Trái Đất hiện là thiên thể duy nhất được biết là có sự sống trong hệ Mặt Trời, các bằng chứng hiện tại cho rằng trong quá khứ xa xôi của Sao Hỏa từng tồn tại các vực nước ở dạng lỏng trên bề mặt của nó. Như vậy, Sao Hỏa cũng có khả năng hỗ trợ sự sống và hiện tại người ta cho rằng vẫn còn nước trên hành tinh này ở dạng băng. Nếu sự sống tồn tại trên Sao Hỏa, nhiều khả năng bên dưới mặt đất của nó nước có thể tồn tại.
Các môi trường của các hành tinh đất đá khác như Sao Thủy và Sao Kim cho thấy khó có khả năng hỗ trợ sự sống. Nhưng con người phỏng đoán rằng Europa, vệ tinh lớn thứ tư của Sao Mộc, có thể có biển nước lỏng bên dưới bề mặt của nó và có tiềm năng hỗ trợ sự sống.
Ngày nay, các nhà thiên văn học đã và đang bắt đầu khám phá các hành tinh giống Trái Đất bên ngoài hệ Mặt Trời – các hành tinh nằm trong vùng có thể định cư trong không gian quanh các ngôi sao, mà chúng có thể hỗ trợ cho sự sống.
Xem thêm
Nhân tính
Lịch sử tự nhiên
Chủ nghĩa tự nhiên
Luật tự nhiên
Triết học tự nhiên
Tài nguyên thiên nhiên
Khoa học tự nhiên
Thần học tự nhiên
Dự trữ thiên nhiên
Lịch biểu tự nhiên
Tự nhiên và Giáo dục
Tôn sùng tự nhiên
Chủ nghĩa khỏa thân
Định luật vật lý
Vũ trụ
Thế giới
Phương tiện:
Natural History, bởi Pliny the Elder
Nature, bởi Ralph Waldo Emerson
Nature, một tập san khoa học nổi bật
National Wildlife, báo xuất bản của National Wildlife Federation
Nature (series truyền hình)
Natural World (series truyền hình)
Tổ chức:
The Nature Conservancy
Nature Detectives
Khoa học:
Lịch sử tự nhiên
Phong cảnh thiên nhiên
Triết học:
Mẹ Thiên nhiên
Tự nhiên (triết học)
Chủ nghĩa tự nhiên: bao gồm một số tư tưởng triết học khác nhau, nguồn gốc điển hình đến từ chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa thực dụng, không phân định giữa siêu nhiên và tự nhiên. Trong đó bao gồm chủ nghĩa tự nhiên phương pháp luận của khoa học tự nhiên, thứ tạo nên giả thuyết phương pháp luận ở những sự kiện quan sát được trong tự nhiên chỉ được giải thích bởi những nguyên nhân tự nhiên, nằm ngoài sự giả định có tồn tại hay không tồn tại của lực lượng siêu nhiên.
Thuyết cân bằng tự nhiên (ngụy biện sinh học): Một khái niệm kém uy tín về sự cân bằng thiên nhiên trong mối quan hệ động vật ăn thịt-con mồi.
Chú giải
A useful though somewhat erratically presented account of the pre-Socratic use of the concept of φύσις may be found in Naddaf, Gerard The Greek Concept of Nature, SUNY Press, 2006. The word φύσις, while first used in connection with a plant in Homer, occurs very early in Greek philosophy, and in several senses. Generally, these senses match rather well the current senses in which the English word nature is used, as confirmed by Guthrie, W.K.C. Presocratic Tradition from Parmenides to Democritus (volume 2 of his History of Greek Philosophy), Cambridge UP, 1965.
Dịch: Một giải thích hữu ích mặc dù hơi bất thường được những triết gia thời kỳ trước Sokrates ở việc sử dụng khái niệm φύσις có thể được tìm thấy trong Naddaf, Gerard The Greek Concept of Nature, SUNY Press, 2006 (Khái niệm của người Hy Lạp về Tự nhiên). Từ φύσις, lần đầu tiên được Homer sử dụng trong việc kết nối với thực vật, xảy ra rất sớm trong nền triết học Hy Lạp, và cả trong một vài ý nghĩa khác. Nói chung, những ngữ nghĩa này xứng hợp hơn những nghĩa hiện tại khi từ tiếng Anh nature đang được sử dụng, đã được xác nhận bởi Guthrie, W.K.C. Presocratic Tradition from Parmenides to Democritus (volume 2 of his History of Greek Philosophy), Cambridge UP, 1965 (Truyền thống Tiền Sokrates từ Parmenides đến Democritus, tập thứ 2 trong cuốn Lịch sử Triết học Hy Lạp).
The first known use of physis was by Homer in reference to the intrinsic qualities of a plant: ὣς ἄρα φωνήσας πόρε φάρμακον ἀργεϊφόντης ἐκ γαίης ἐρύσας, καί μοι φύσιν αὐτοῦ ἔδειξε. (So saying, Argeiphontes [=Hermes] gave me the herb, drawing it from the ground, and showed me its nature.) Odyssey 10.302-3 (ed. A.T. Murray). (The word is dealt with thoroughly in Liddell and Scott's Greek Lexicon .) For later but still very early Greek uses of the term, see earlier note.
Dịch: Cách dùng được biết đầu tiên của từ physis đến từ Homer, liên quan đến những đặc tính nội tại của thực vật: ὣς ἄρα φωνήσας πόρε φάρμακον ἀργεϊφόντης ἐκ γαίης ἐρύσας, καί μοι φύσιν αὐτοῦ ἔδειξε. (Như đã nói, Argeiphontes [tức Hermes] đã ban cho tôi cỏ thảo mộc, lấy từ mặt đất, và chỉ cho tôi thấy được sự tự nhiên của nó.) Odyssey 10.302-3 (ed. A.T. Murray). (Từ này đã được thông hiểu kỹ lưỡng trong Liddell và Scott's Greek Lexicon . (Từ điển Hy Lạp)). Đến sau này vẫn còn cách sử dụng rất sớm thuật ngữ này của người Hy Lạp, xem chú giải trên.
Ví dụ, quyển sách Các nguyên lý toán học của triết học tự nhiên (Philosophiae Naturalis Principia Mathematica, 1687) của Isaac Newton được dịch sang tiếng Anh thành "Mathematical Principles of Natural Philosophy", và phản ánh cách sử dụng hiện tại của từ "natural philosophy" (triết học tự nhiên), giống như "sự nghiên cứu có hệ thống về tự nhiên".
Từ nguyên học của từ "physical" cho thấy rằng nó có nghĩa tương tự với "natural" trong khoảng giữa thế kỷ XV:
[Hồ] là bất kỳ một vực nước nào có nước chảy chậm hoặc đứng yên chiếm một phần diện tích trên đất liền với kích thước đáng kể. Các định nghĩa để phân biệt chính xác hồ, ao, đầm lầy và thậm chí là các con sông và các vực nước khác ngoại trừ chúng không thuộc đại dương thì vẫn chưa rõ ràng. Tuy nhiên, có thể nói rằng, các con sông và suối thì có dòng chảy tương đối nhanh; các đầm lầy và đồng lầy có chứa một lượng cỏ, cây thân gỗ và cây bụi tương đối lớn; và các ao có kích thước tương đối nhỏ so với hồ. Về mặt địa chất học, các hồ là các vực nước tạm thời.
Con số "khoảng 1/2 của 1%" tính theo cách sau (xem ví dụ , trong đó cân nặng con người trung bình là 60 kg.), tổng sinh khối loài người là khối lượng trung bình của con người nhân với dân số thế giới hiện tại vào khoảng 6,5 tỉ (xem ví dụ, ): Giả sử cân nặng trung bình của con người là 60–70 kg (khoảng 130–150 cân Anh), thì cân nặng tổng của loài người trên toàn cầu vào khoảng 390 tỉ (390×109) và 455 triệu kg (trong khoảng 845 tỉ đến 975 tỉ cân Anh, hay 423 triệu–488 triệu tấn thiếu). Tổng sinh khối của tất cả các loài trên Trái Đất ước tính lớn hơn 6,8 x 1013 kg (75 tỉ tấn thiếu). Theo cách tính này, tỉ lệ của tổng sinh khối chỉ tính riêng của loài người vào khoảng gần 0,6%.
Tham khảo
Liên kết ngoài
IUCN Red List of Threatened Species Sách Đỏ IUCN các loài bị đe dọa (iucnredlist.org)
WILD Foundation | Protecting through connecting: wilderness, wildlife & people Tổ chức Wild Foundation - Trái tim phong trào bảo tồn hoang dã toàn cầu (wild.org)
Fauna & Flora International là nơi hoạt động kiên quyết trong việc giúp đỡ bảo tồn không gian sống và các loài hoang dã trên thế giới (fauna-flora.org)
European Wildlife là tổ chức phi lợi nhuận của Châu Âu hoạt động trong công tác bảo tồn tự nhiên và bảo vệ môi trường (eurowildlife.org)
Tập san Nature (nature.com)
National Geographic Hội Địa lý Quốc gia (nationalgeographic.com)
ARKive - Discover the world's most endangered species Ghi nhận sự sống trên Trái Đất (arkive.org)
BBC – Chuyên đề Khoa học và Tự nhiên (bbc.co.uk): Science & Earth
Watch PBS TV Shows Online – Chuyên đề Khoa học và Tự nhiên (pbs.org)
Báo điện tử Science Daily (sciencedaily.com)
European Commission – Tự nhiên và Đa dạng sinh học (ec.europa.eu)
Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên (.nhm.ac.uk)
Encyclopedia of Life Bách khoa toàn thư về Sự sống (eol.org).
Environment & Environmental Quality Science.gov – Môi trường & Chất lượng môi trường
Môi trường
Bài cơ bản dài
Khoa học môi trường
Khái niệm khoa học xã hội môi trường
Bài viết chủ đề chính
|
24915
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n%20Ph%C3%BAc%20V%C4%A9nh%20Th%E1%BB%A5y
|
Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy
|
Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy có thể là:
Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy (công chúa), con gái thứ 17 của vua Minh Mạng nhà Nguyễn.
Tên húy của vua Bảo Đại trước khi lên ngôi.
|
24932
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BA%A1m%20Xu%C3%A2n%20%E1%BA%A8n
|
Phạm Xuân Ẩn
|
Phạm Xuân Ẩn (ngày 12 tháng 9 năm 1927 – ngày 20 tháng 9 năm 2006) tên thật Phạm Văn Thành là thiếu tướng tình báo của Việt Nam, có các biệt danh là X6, Trần Văn Trung hoặc Hai Trung. Ông làm nhà báo và phóng viên cho hãng tin Reuters, tạp chí Time và tờ báo New York Herald Tribune. Ngày 15 tháng 1 năm 1976, ông được Việt Nam phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Thân thế
Phạm Xuân Ẩn sinh năm 1927 tại xã Bình Trước, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, trong gia đình một viên chức cao cấp của chính quyền thuộc địa. Gia đình ông chuyển đến sống tại Huế khi cụ nội của ông là nghệ nhân kim hoàn được gọi vào Kinh đô để chế tác đồ vàng bạc cho triều đình. Ông nội của Phạm Xuân Ẩn là hiệu trưởng một trường nữ sinh ở Huế và được Vua ban Kim khánh. Cha của ông là một kỹ sư công chánh cao cấp tại Sở Công chánh và công tác trắc địa trên khắp miền Nam. Ông được sinh tại Nhà thương Biên Hòa, do chính các bác sĩ Pháp đỡ đẻ. Tuy là một viên chức cao cấp, nhưng cha của ông không được nhập quốc tịch Pháp.
Thời trẻ
Thời niên thiếu, ông sống tại Sài Gòn, sau chuyển về Cần Thơ học Trường Trung học phổ thông Cần Thơ. Năm 1945, Cách mạng tháng Tám nổ ra, ông bỏ học và tham gia tổ chức Thanh niên Tiền phong, sau đó học một khóa huấn luyện của Việt Minh về công tác tuyên truyền.
Hoạt động tình báo
Năm 1947, ông trở về Sài Gòn để chăm sóc cha đang bệnh nặng. Tại đây, ông tổ chức các cuộc biểu tình của sinh viên Sài Gòn, đầu tiên là chống Pháp rồi sau chống Mỹ. Ông làm Thư ký cho Công ty Dầu lửa Caltex cho đến năm 1950. Năm 1950, ông vào làm ở Sở thuế quan Sài Gòn. Thực chất lúc này ông được Việt Minh giao nhiệm vụ tìm hiểu tình hình vận chuyển hàng hóa, khí tài quân sự và quân đội từ Pháp sang Việt Nam và từ Việt Nam về Pháp. Đây là những bước đầu hoạt động tình báo đầu tiên của ông, một trong khoảng 14 ngàn điệp báo viên Cộng sản được cài cắm và hoạt động tại miền Nam Việt Nam. Năm 1952, ông ra Chiến khu D và được Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch - Ủy viên Ủy ban Hành chánh Kháng chiến Nam Bộ - giao nhiệm vụ tình báo chiến lược. Năm sau đó tại rạch Cái Bát, Cà Mau trong rừng U Minh, dưới sự chủ tọa của Lê Đức Thọ (khi này là Phó Bí thư kiêm Trưởng ban Tổ chức Trung ương Cục miền Nam), Phạm Xuân Ẩn được chính thức kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm tới, Phạm Xuân Ẩn được gọi nhập ngũ và được trưng dụng ngay làm bí thư phòng Chiến tranh tâm lý trong Bộ Tổng hành dinh quân đội Liên hiệp Pháp tại Camp Aux Mares (thành Ô Ma). Chính tại đây, ông đã quen biết với Đại tá Edward Lansdale, Trưởng phái bộ quân sự đặc biệt của Mỹ (SMM), trên thực tế là người chỉ huy CIA tại Đông Dương cũng là trưởng phái đoàn viện trợ quân sự Mỹ (US.MAAG) ở Sài Gòn. Theo hồi ức của một số tướng lĩnh miền Nam Việt Nam, chẳng hạn như trong tư liệu Hồi ký Đỗ Mậu của Đỗ Mậu, nguyên trưởng cơ quan tình báo của miền Nam Việt Nam, thì Edward Lansdale là người trực tiếp vạch kế hoạch cũng như chủ trì việc thực hiện các công tác chủ yếu nhằm tạo uy tín, chỗ đứng cho Ngô Đình Diệm trong thời kì giữa thập niên 50. Khi nhận thấy mức độ khó khăn cũng như khối lượng công việc phải làm quá lớn, Ngô Đình Diệm có ý định từ bỏ chức Thủ tướng, chính Landsdale là người cố vấn cho Diệm không quyết định như vậy.
Năm 1955 theo đề nghị của phái bộ cố vấn quân sự Mỹ (lúc này đã chính thức thay Pháp đứng ra huấn luyện và xây dựng Quân lực Việt Nam Cộng hòa), Phạm Xuân Ẩn tham gia soạn thảo các tài liệu về tham mưu, tổ chức, tác chiến, huấn luyện, hậu cần cho quân đội. Đặc biệt ông cũng tham gia thành lập bộ khung của 6 sư đoàn bộ binh đầu tiên của Quân lực Việt Nam Cộng hòa mà nòng cốt là sĩ quan, hạ sĩ quan và binh lính người Việt trong quân đội liên hiệp Pháp trước đây. Phạm Xuân Ẩn còn được giao nhiệm vụ hợp tác với Mỹ để chọn lựa những sĩ quan trẻ có triển vọng đưa sang Mỹ đào tạo (trong số này có Nguyễn Văn Thiệu, sau này trở thành Tổng thống Việt Nam Cộng hòa). Trong công tác tình báo, để có thể đi khắp nơi và tiếp cận với những nhân vật có quyền lực nhất, tháng 10 năm 1957, theo sự chỉ đạo của Mai Chí Thọ và Trần Quốc Hương (Mười Hương, nguyên Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Nội chính Trung ương) Phạm Xuân Ẩn qua Mỹ học ngành báo chí tại Quận Cam, California, trong hai năm (1957-1959) và là người Việt Nam đầu tiên sang học báo chí tại quận Cam .
Tháng 10 năm 1959, Phạm Xuân Ẩn về nước, nhờ những mối quan hệ, ông được Trần Kim Tuyến, giám đốc Sở Nghiên cứu Chính trị Văn hóa Xã hội (thực chất là cơ quan mật vụ trực thuộc Phủ Tổng thống), biệt phái sang làm việc tại Việt tấn xã phụ trách những phóng viên ngoại quốc làm việc tại đây. Từ năm 1960 đến giữa năm 1964, ông làm cho Hãng thông tấn Reuters. Từ năm 1966 ông làm việc cho tuần báo Time, đến năm 1969 thì được nhận vào làm chính thức.. Ngoài ra ông còn là cộng tác viên của các tờ báo khác như The Christian Science Monitor. Từ khi ở Mỹ về nước cho đến năm 1975, với vỏ bọc là phóng viên, nhờ quan hệ rộng với các sĩ quan cao cấp, các nhân viên tình báo, an ninh quân đội và người của CIA, Phạm Xuân Ẩn đã có được mọi nguồn tin tức quan trọng từ quân đội, cảnh sát và cơ quan tình báo. Những tin tức và phân tích tình báo chiến lược của Phạm Xuân Ẩn được bí mật gửi cho bộ chỉ huy quân sự ở miền Bắc thông qua Trung ương Cục miền Nam. Chúng được cho là sống động và tỉ mỉ đến mức người ta kể rằng Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã reo lên: Chúng ta đang ở trong phòng hành quân của Hoa Kỳ. Tổng cộng, Phạm Xuân Ẩn đã gửi về căn cứ 498 báo cáo bao gồm tài liệu nguyên gốc đã được sao chụp, các thông tin mà ông thu lượm cùng phân tích và nhận định của bản thân. Cụ thể là:
Giai đoạn 1961-1965: những bản tài liệu nguyên bản về chiến lược chiến tranh đặc biệt như Tài liệu McGarr; tài liệu Staley, tài liệu Taylor, tài liệu Harkins; tài liệu Ấp chiến lược... Ông gửi về nguyên bản kế hoạch Staley-Taylor.
Giai đoạn 1965 - 1968: các kế hoạch liên quan đến chiến lược chiến tranh cục bộ, phục vụ chiến thuật cho Mậu Thân 1968;
Giai đoạn 1969 - 1973: những tài liệu liên quan đến chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh.
Giai đoạn 1973 - 1975: hàng trăm bản tin nguyên bản "phục vụ trên hạ quyết tâm giải phóng miền Nam"...
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, đã xảy ra chuyện ly kỳ theo báo Newsweek kể: "Thế là, vị trùm cảnh sát mật vụ Sài Gòn (bác sĩ Trần Kim Tuyến) đã được một điệp viên của Hà Nội cứu thoát, leo lên mái nhà để lên máy bay đi di tản.” Phạm Xuân Ẩn cũng là một trong những nhà báo chứng kiến sự kiện xe tăng của Quân đội nhân dân Việt Nam húc đổ cổng dinh Độc Lập. Đến thời điểm đó cũng như một vài tháng sau, các đồng nghiệp phóng viên và những người thuộc chính quyền cũ, thậm chí là cả chính quyền mới vẫn chưa biết ông là một điệp viên cộng sản. Từ ngày 23 tháng 4, vợ con ông đã được gửi sang Hoa Kỳ. Họ bay trên chuyến bay sơ tán thân nhân những người làm báo Time. Theo kế hoạch của miền Bắc, ông sẽ được gửi sang Mỹ để tiếp tục hoạt động tình báo. Tuy nhiên, cấp trên đã đổi ý và quyết định giữ ông lại tại Việt Nam. Giải thích cho việc ông phải ở lại, Đại Tướng Văn Tiến Dũng đã giải thích: "anh Ẩn là vốn quý của đất nước, anh đã làm tình báo mấy chục năm rồi. Nếu bây giờ để anh đi sang đấy tiếp tục khai thác nữa thì với khả năng và điều kiện của mình anh ấy vẫn phát huy tác dụng rất tốt nhưng trong quá trình ra nước ngoài làm nhiệm vụ rất dễ bị lộ, lúc ấy tổn thất là rất lớn". Thế nhưng với các nhà nghiên cứu thời nay lại cho rằng việc để một người có lối tư duy, suy nghĩ "như người Mỹ, hiểu rõ cả địch và ta" như ông Ẩn sang Mỹ là một ván cược và để ông ngoài tầm kiểm soát của Hà Nội là rất mạo hiểm. Nhận xét về quyết định của cấp trên ông Ẩn cho rằng các lãnh đạo của mình đã "quá lo xa": "tôi thực sự không biết họ còn muốn gì ở tôi nữa, có lẽ họ hy vọng rằng các nguồn tin sẽ giúp tôi theo sát được những suy nghĩ bên trong Lầu Năm Góc, nhưng điều đó khó có thể xảy ra bởi rất nhiều đầu mối của tôi lúc bấy giờ đang ở trong trại cải tạo hoặc các trại tị nạn tại Mỹ thì làm sao có thể tiếp cận được cái gì".Đồng thời ông Ẩn cũng phải chịu áp lực từ bên phía tờ báo Time và những người bạn Mỹ của ông: " tôi không có ý định đi Mỹ, tôi không nhận được thông tin nào từ Hà Nội, không có sự chỉ dẫn nào và tôi cũng phải chịu áp lực từ tờ Time là phải đưa ra quyết định, tất cả bạn bè Mỹ đều muốn giúp đỡ tôi chứ không riêng gì báo Time, tôi không biết lãnh đạo của bên trên quyết như thế nào... nếu đi thì thời điểm này là hợp lý nhất rồi. Thế rồi tôi phải đưa ra quyết định sẽ cho vợ con tôi đi trước và tôi sẽ đi sau". Sau ngày giải phóng gia đình ông lại rơi vào cảnh chia ly, suốt những ngày tháng ở Sài Gòn ông cứ nơm nớp một nỗi sợ về việc sẽ bị chính những người đồng đội của mình dí súng "tiễn lên bảng điểm số" bất cứ lúc nào "không có thì giờ để giải thích cho các cậu lính giải phóng trẻ với cây AK-47 trên tay rằng - tôi là Đại Tá của họ. Có lẽ họ sẽ nướng sống con chó của tôi đồng thời giết tôi bất cứ lúc nào ". Một năm sau, vợ con ông mới có thể về tới Việt Nam theo đường vòng: Paris - Moskva - Hà Nội - Sài Gòn.
Sau Chiến tranh Việt Nam
Ngày 15 tháng 1 năm 1976, Trần Văn Trung (tức Phạm Xuân Ẩn) cán bộ tình báo thuộc Bộ Tham mưu Miền Nam được nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu "Anh hùng lực lượng vũ trang". Lúc này nhiều người mới chính thức biết ông là một tình báo viên thời chiến. Tháng 8 năm 1978 ông ra Hà Nội dự một khóa học tập chính trị dành cho cán bộ cao cấp trong 10 tháng. Ông nói rằng đó là do ông đã "sống quá lâu trong lòng địch". Theo Larry Berman, ông bị nghi kị và bị quản chế tại gia, không được xuất ngoại, bị cấm tiếp xúc với bên ngoài, đặc biệt với giới báo chí ngoại quốc do cách suy nghĩ, cư xử "rất Mĩ" của ông cũng như việc ông giúp bác sĩ Trần Kim Tuyến ra khỏi Việt Nam vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Cho đến năm 1986, sự quản chế mới được nới lỏng dần. Trong vòng gần 10 năm, luôn có một nhân viên công an được giao nhiệm vụ canh gác trước cửa nhà ông. Nhà báo Hoàng Hải Vân trong các cuộc trao đổi riêng với Larry Berman đã bác bỏ những ý kiến trên. Thứ nhất, Phạm Xuân Ẩn được phong Anh hùng ngay đợt đầu tiên sau chiến tranh, điều không thể xảy ra đối với người bị nghi ngờ về nhân cách. Thứ hai, quân hàm của Phạm Xuân Ẩn lúc kết thúc chiến tranh chỉ là trung tá, sau đó mới thăng dần dần lên thiếu tướng. Thứ ba, chuyện đi học chính trị tương ứng với cấp hàm của mình là quy định bắt buộc với sĩ quan, ông Ẩn chưa trải qua lớp đào tạo tương ứng nên phải đi học bổ sung sau chiến tranh là bình thường.
Năm 1990, Đại tá Phạm Xuân Ẩn được thăng cấp Thiếu tướng. Năm 1997, chính phủ Việt Nam từ chối cấp visa cho Phạm Xuân Ẩn đi Hoa Kỳ để dự một hội nghị ở thành phố New York mà ông được mời với tư cách khách đặc biệt do ông tuổi già và sức yếu thế nhưng ông Ẩn lại chia sẻ rằng "Họ không hiểu tôi, thế nên họ sợ tôi. Tôi có thể hiểu được hoàn toàn lý do vì sao không ai muốn kí vào thị thực xuất cảnh của tôi và chịu trách nhiệm về việc cho phép tôi ra nước ngoài, họ sợ rằng tôi có thể hủy hoại sự nghiệp của họ nếu tôi nói hoặc làm điều gì đó sai" . Năm 2002, ông về hưu. Nhưng cho tới sáu tháng trước khi qua đời, Phạm Xuân Ẩn vẫn đóng vai trò như một cộng tác viên của tình báo Việt Nam. Ông tham gia vào việc bình luận và đánh giá các tài liệu của Tổng cục Tình báo (Tổng cục 2, trực thuộc Bộ Quốc phòng). Con trai lớn của ông, luật sư Phạm Xuân Hoàng Ân, đã từng được những người bạn Mỹ của ông quyên góp để giúp du học tại Mỹ, hiện nay đang làm việc tại Bộ Ngoại giao Việt Nam. Phạm Xuân Hoàng Ân cũng là người phiên dịch cho buổi tiếp xúc giữa Chủ tịch nước Việt Nam, ông Nguyễn Minh Triết và Tổng thống Mỹ George Bush, khi ông này tới Hà Nội vào năm 2006. Con gái ông hiện đang sinh sống ở Mỹ. Trong những năm cuối đời, ông vẫn ca ngợi chủ nghĩa cộng sản. Ông nói: "Đúng, tôi là một người cộng sản. Chủ nghĩa cộng sản là một học thuyết rất đẹp, học thuyết nhân văn nhất. Lời dạy của Chúa trời, đấng Tạo hóa, cũng hệt như vậy. Chủ nghĩa Cộng sản dạy ta yêu thương nhau, không giết nhau. Cách duy nhất để làm điều này là tất cả mọi người trở thành anh em, điều này thì có thể cần một triệu năm. Nó không tưởng, nhưng nó đẹp." Lúc 11h20 ngày 20 tháng 9 năm 2006, Thiếu tướng tình báo Phạm Xuân Ẩn đã qua đời tại Quân y viện 175, TP. Hồ Chí Minh sau một thời gian lâm trọng bệnh, hưởng thọ 79 tuổi. Tang lễ được tổ chức vào ngày 23 tháng 9 năm 2006 tại Nhà tang lễ Bộ Quốc phòng phía Nam. Có hơn 300 đoàn khách trong nước và quốc tế đã đến viếng ông.
Tặng thưởng
Các huân chương, huy chương ông đã được tặng thưởng:
Huân chương Độc Lập hạng nhì
Huân chương Quân công hạng ba
Huân chương Chiến thắng hạng ba
Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng nhất
Huân chương Chiến công (1 hạng nhất; 2 hạng nhì; 1 hạng ba)
Huân chương Chiến sĩ Vẻ vang hạng nhất, nhì, ba
Huy chương Quân kỳ Quyết thắng
Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng
Nhận định về Phạm Xuân Ẩn
Trả lời trong bài phỏng vấn đăng trên báo The New Yorker, ông Mai Chí Thọ nói: "Lúc bấy giờ Đảng rất nghèo, nhưng chúng tôi nghĩ việc làm này có nhiều lợi ích. Phạm Xuân Ẩn là người đầu tiên chúng tôi gởi anh sang Mỹ để học biết cái văn hóa của những người thay thế Pháp làm kẻ thù của chúng tôi... Phạm Xuân Ẩn là một người hoàn hảo cho công tác này. Đó là một việc làm thành công lớn của chúng tôi... Phạm Xuân Ẩn có được những nguồn tin tốt nhất và được phép tiếp cận các thông tin mật. Sau chiến tranh, chúng tôi phong tướng cho Phạm Xuân Ẩn và danh hiệu Anh hùng Quân đội nhân dân. Không cần phải nói thêm những chi tiết gì nữa, chỉ điều ấy thôi cũng đủ nói lên tầm quan trọng của những gì Phạm Xuân Ẩn đã làm cho quê hương của anh.".
Theo cuốn Perfect Spy của Larry Berman dựa trên những lần phỏng vấn với ông Ẩn và những người bạn và người thân của ông, ông Ẩn, khác với những thành viên khác trong Đảng Cộng sản Việt Nam, là một người cực kì yêu quý nước Mĩ, người Mỹ và những gì mà người Mỹ bảo vệ. Tuy nhiên, ông cho rằng nước Mĩ không nên can dự vào chuyện nội bộ của Việt Nam. Ông cũng hi vọng rằng sau khi chiến tranh kết thúc, hai nước sẽ hòa giải, hợp tác giúp đỡ lẫn nhau. Ước muốn này của ông sau một thời gian dài mới bắt đầu trở thành hiện thực. Cũng khác với các đảng viên khác, ông không căm ghét những người làm việc cho chính quyền Sài Gòn và Mĩ trước chiến tranh mà ngược lại còn tìm cách giúp đỡ họ thoát khỏi sự trừng phạt của chính phủ nhà nước CHXHCN Việt Nam (Trần Kim Tuyến, Cao Giao). Chính điều này cùng với những tính cách khác của ông đã khiến cho rất nhiều người bạn ở "phía bên kia" của ông, mặc dù sau này biết được ông là điệp viên của Hà Nội vẫn không tin rằng mình đã bị ông lợi dụng mà ngược lại tiếp tục yêu quý, tôn trọng và thông cảm cho ông - một con người bị xé đôi giữa tình cảm cá nhân và lòng yêu nước.
Thiếu tướng Nguyễn Đức Trí, nguyên thủ trưởng cơ quan tình báo miền kể rằng khi nguyên bản toàn bộ các kế hoạch về chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ được chuyển ra Hà Nội, Tổng bí thư Lê Duẩn đã biểu dương cơ quan tình báo quân sự và coi đây là "chiến công có tầm cỡ quốc tế".
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Đại tướng Văn Tiến Dũng đã vào Sài Gòn gặp Phạm Xuân Ẩn. Tướng Dũng đã nghe Phạm Xuân Ẩn nói chuyện về tình hình nội bộ chính quyền Sài Gòn từ sau trận Phước Long (tháng 1 năm 1975). Nghe xong những đánh giá của Phạm Xuân Ẩn, tướng Dũng nói rằng nếu như gặp được Phạm Xuân Ẩn sớm hơn thì những tin tức mà Ẩn cung cấp "sẽ giúp Bộ Chính trị hạ quyết tâm nhanh hơn để giải phóng Sài Gòn".
Frank Snepp, cựu chuyên viên thẩm vấn của CIA, tác giả cuốn sách Decent Interval (Khoảng cách thích đáng) nói về sự sụp đổ hỗn loạn của Sài Gòn năm 1975, nói: "Phạm Xuân Ẩn đã có được nguồn tin tức tình báo chiến lược. Điều đó là rõ ràng. Nhưng chưa ai 'dẫn con mèo đi ngược', thực hiện một cuộc xét nghiệm pháp y về các tác hại mà ông đã gây ra. Cơ quan CIA không có gan làm việc đó".
Murray Gart, thông tín viên trưởng của Time trong thời gian chiến tranh, sau khi biết tin Phạm Xuân Ẩn là một điệp viên, nói rằng "thằng chó đẻ ấy, tôi muốn giết nó.".
Một phóng viên khác, Peter Arnett nói: "Tôi không biết phải xử lý ra sao đối với Phạm Xuân Ẩn. Tôi hiểu anh là một người Việt Nam yêu nước, nhưng tôi vẫn cảm thấy bị phản bội về phương diện nghề nghiệp... Trong hơn một năm trời, tôi cảm thấy bị xúc phạm, nhưng sau đó tôi lại nghĩ ra rằng chẳng qua đó là công việc riêng của anh.".
McCulloch từng là giám đốc các văn phòng của Time ở châu Á nói: "Tôi có căm giận Phạm Xuân Ẩn không lâu sau khi tôi biết qua những hoạt động gián điệp của anh? Hẳn nhiên là không. Tôi nghĩ Việt Nam là quê hương của anh. Nếu tình thế đổi ngược lại, chắc tôi cũng sẽ làm như anh mà thôi. Phạm Xuân Ẩn là đồng nghiệp của tôi và là một phóng viên sáng giá. Phạm Xuân Ẩn có một sự hiểu biết tinh tường về hiện tình chính trị Việt Nam, và đáng chú ý là những tin tức tài liệu của anh chính xác một cách lạ thường.".
Trong cuốn sách Making of a Quagmire (Một thế sa lầy đang thành hình) năm 1965 nói về Chiến tranh Việt Nam của David Haberstam, một người bạn của Phạm Xuân Ẩn tại báo Time, Haberstam đã miêu tả Phạm Xuân Ẩn như là "cái đinh chốt của một mạng lưới tình báo nhỏ nhưng hạng nhất" của các phóng viên. Khi biết về câu chuyện của Phạm Xuân Ẩn, và trả lời về thái độ cá nhân, ông nói: "Đây là một câu chuyện đầy mưu mô, khói và gươm, nhưng tôi vẫn quý mến Ẩn. Tôi chưa bao giờ cảm thấy bị Ẩn phản bội. Anh ta đã phải sống với việc là một người Việt Nam trong một thời điểm gian nan trong lịch sử của họ..." Ông nhận xét: "Câu chuyện của Phạm Xuân Ẩn nhắc lại tất cả những câu hỏi căn bản do Graham Green từng nêu ra trong tác phẩm The Quiet American: Thế nào là sự trung thành? Thế nào là lòng yêu nước? Thế nào là sự thật? Anh là ai khi anh nói những sự thật ấy?" Và Halberstam kết luận: "Có một mâu thuẫn đối với Phạm Xuân Ẩn mà chúng ta không thể hình dung được. Nhìn lại quá khứ, tôi thấy ông là một con người bị xẻ làm đôi ở giữa.".
Thomas A. Bass, báo The New Yorker, viết: "Ẩn là một người 'Việt Nam thầm lặng', một nhân vật tiêu biểu, vừa là một người với lý tưởng cách mạng thuần thành, vừa là một người ngưỡng mộ nhiệt tình đối với nước Mỹ. Ông nói rằng ông không bao giờ dối ai, rằng ông cung cấp cho báo Time chính những bài phân tích chính trị mà ông đã gởi cho Hồ Chí Minh. Ông là con người bị xẻ đôi với lòng trung chính cao độ, một người sống trong sự giả dối nhưng lại luôn nói sự thật".
Về việc cứu Trần Kim Tuyến
Dan Southerland, Tổng giám đốc chương trình đài RFA, nhận định:
Mười Hương, Nguyên Bí thư Trung ương Đảng, người chỉ đạo trực tiếp cho Phạm Xuân Ẩn, nói:
Đại tướng Tám Cao, cũng là một người chỉ đạo trực tiếp khác:
Trong văn hóa đại chúng
Nguyễn Thị Ngọc Hải, Phạm Xuân Ẩn - tên người như cuộc đời, (đoạt giải A cuộc thi văn học Vì an ninh Tổ quốc và bình yên cuộc sống (1995-2005) do Bộ Công an và Hội Nhà văn Việt Nam phối hợp tổ chức, 2005)
Jean-Claude Pomonti, Un Vietnamien bien tranquille (Một người Việt Nam trầm lặng)
Larry Berman, Perfect Spy: The Incredible Double Life of Pham Xuan An Time Magazine Reporter and Vietnamese Communist Agent, Harper Colins, 2007. Bản dịch tiếng Việt: "Điệp viên hoàn hảo: Cuộc đời hai mặt không thể tin được của Phạm Xuân Ẩn phóng viên tạp chí Time và điệp viên Cộng sản Việt Nam" Nhà xuất bản Thông Tấn, phát hành tại Việt Nam ngày ngày 1 tháng 10 năm 2007
Huyền thoại về tướng tình báo Phạm Xuân Ẩn, phim tài liệu dài tập của Hãng phim TFS, HTV
Larry Berman, Perfect Spy X6 - The Incredible Double Life of PHAM XUAN AN, Reuters, Time, New York Herald Tribune Reporter & Vietnamese Strategic Intelligence General,, bản dịch tiếng Việt mang tên Điệp viên hoàn hảo X6, sách phát hành tại Việt Nam ngày ngày 12 tháng 9 năm 2013, nhà sách First News - Trí Việt.
“Điệp viên Z.21 – Kẻ thù tuyệt vời của nước Mỹ”, do nhà xuất bản Nhã Nam và Hồng Đức phát hành. Đây là cuốn sách dịch từ cuốn “The Spy Who Loved Us” của Thomas Bass, hiện giảng dạy Anh ngữ và báo chí tại Phân hiệu Albany của Đại học Tiểu bang New York. Ông Bass cho biết, cuốn “The Spy Who Loved Us” của ông đã bị chỉnh sửa và cắt bỏ nhiều chi tiết, như chiến tranh biên giới năm 79, làn sóng thuyền nhân sau năm 75 và Đại tướng Võ Nguyên Giáp, cho nên mặc dù đã ký hợp đồng dịch từ năm 2009 mãi đến năm 2014 nó mới tới tay bạn đọc ở Việt Nam. Nói với VOA tiếng Việt ông cho rằng dường như chính quyền Việt Nam “nhạy cảm, và muốn bảo toàn quyền lợi của mình” nên phải dùng tới các biện pháp kiểm duyệt.
Qua đời
Thiếu tướng tình báo Phạm Xuân Ẩn vừa qua đời lúc 11g20 ngày 20-9-2006 tại Quân y viện 175, TP.HCM, sau một thời gian lâm trọng bệnh, hưởng thọ 79 tuổi. Sự qua đời của ông như là một mất mát lớn của nước nhà.
Chú thích
Tham khảo
Thiếu tướng tình báo Phạm Xuân Ẩn (1927 - 20/9/2006)
Thiếu tướng tình báo Phạm Xuân Ẩn
Thomas A. Bass, The Spy Who Loved Us, The New Yorker, ngày 23 tháng 5 năm 2005.bản dịch ra tiếng Việt:
Nguyễn Thị Ngọc Hải, "Phạm Xuân Ẩn, tên người như cuộc đời", 2005;
Nguyễn Thị Ngọc Hải, Những điệp vụ của ký giả Phạm Xuân Ẩn, Nhà xuất bản Trẻ, TP HCM, 2004
Nguyễn Thị Ngọc Hải, Phạm Xuân Ẩn, bài đăng nhiều kỳ tại báo Tuổi Trẻ, tháng 1/2006
Hoang Hai Van & Tan Tu, Pham Xuan An, a general of the secret service, 2003, Editions The Gioi.
Jean-Claude Pomonti, Un Vietnamien bien tranquille, Equateurs, 2006.
Terence Smith, My collegue, the spy, COLUMBIA JOURNALISM REVIEW July/August 2005.
David Usborne, The spy who loved both sides, The Independent, 21.5.1997
Huyền thoại về tướng tình báo Phạm Xuân Ẩn , phim tài liệu dài tập.
Liên kết ngoài
Nguyễn Thị Ngọc Hải, Chân dung Phạm Xuân Ẩn , (20 kỳ).
Lữ Giang, Sự thật về điệp viên Phạm Xuân Ẩn trên Đàn Chim Việt
Phạm Xuân Ẩn - điều còn chưa nói trên BBC
Điệp viên "thành thật và can đảm", Phỏng vấn Larry Berman trên đài BBC, 2007
Vĩnh biệt nhà báo, nhà tình báo huyền thoại Hai Trung
Chia tay người bạn Lớn (kỳ 1) và Làm trai trong thời ly loạn (kỳ 2) trên VietNamNet, 2006.
Phỏng vấn Dan Southerland về Phạm Xuân Ẩn trên đài RFA
Phạm Xuân Ẩn - Những huyền thoại để lại
Phạm Xuân Ẩn - Người Việt Thầm Lặng
Hollywood "ngắm" Điệp viên hoàn hảo Phạm Xuân Ẩn trên báo Tuổi Trẻ, 2007.
THE SPY WHO LOVED US: The double life of Time’s Saigon correspondent during the Vietnam War by Howard W. French
Người họ Phạm tại Việt Nam
Sinh tại Biên Hòa
Người Hải Dương
Điệp viên Việt Nam
Tổng cục Tình báo, Quân đội nhân dân Việt Nam
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân
Huân chương Độc lập hạng Nhì
Huân chương Kháng chiến
Nhà báo Việt Nam
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam
Thiếu tướng Quân đội nhân dân Việt Nam thụ phong năm 1990
Thiếu tướng Quân đội nhân dân Việt Nam đã mất
|
24934
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Giao%20di%E1%BB%87n%20l%E1%BA%ADp%20tr%C3%ACnh%20%E1%BB%A9ng%20d%E1%BB%A5ng
|
Giao diện lập trình ứng dụng
|
Một giao diện lập trình ứng dụng (, viết tắt: API) là một giao diện mà một hệ thống máy tính hay ứng dụng cung cấp để cho phép các yêu cầu dịch vụ có thể được tạo ra từ các chương trình máy tính khác, và/hoặc cho phép dữ liệu có thể được trao đổi qua lại giữa chúng. Chẳng hạn, một chương trình máy tính có thể (và thường là phải) dùng các hàm API của hệ điều hành để xin cấp phát bộ nhớ và truy xuất tập tin. Nhiều loại hệ thống và ứng dụng thực hiện API, như các hệ thống đồ họa, cơ sở dữ liệu, mạng, dịch vụ web, và ngay cả một số trò chơi máy tính. Đây là phần mềm hệ thống cung cấp đầy đủ các chức năng và các tài nguyên mà các lập trình viên có thể rút ra từ đó để tạo nên các tính năng giao tiếp người - máy như: các trình đơn kéo xuống, tên lệnh, hộp hội thoại, lệnh bàn phím và các cửa sổ. Một trình ứng dụng có thể sử dụng nó để yêu cầu và thi hành các dịch vụ cấp thấp do hệ điều hành của máy tính thực hiện. Hệ giao tiếp lập trình ứng dụng giúp ích rất nhiều cho người sử dụng vì nó cho phép tiết kiệm được nhiều thời gian tìm hiểu các chương trình mới, do đó khích lệ mọi người dùng nhiều ứng dụng hơn.
Mô tả
Một trong các mục đích chính của một API là cung cấp khả năng truy xuất đến một tập các hàm hay dùng — ví dụ, hàm để vẽ các cửa sổ hay các icon trên màn hình. Các API, cũng như hầu hết các interfaces, là trừu tượng (abstract). Phần mềm mà muốn cung cấp truy xuất đến chính nó thông qua các API cho sẵn, phải hiện thực API đó. Trong nhiều tình huống, một API thường là một phần của bộ SDK, hay software development kit. Một bộ SDK có thể bao gồm một API cũng như các công cụ/phần cứng, vì thế hai thuật ngữ này không thay thế cho nhau được.
Có nhiều mô hình thiết kế khác nhau cho các APIs. Interfaces nhằm là cách thực thi nhanh nhất thường gồm các tập các hàm, thủ tục, biến và các cấu trúc dữ liệu. Tuy nhiên, các mô hình khác vẫn tồn tại, như bộ thông dịch dùng để ước giá biểu thức trong ECMAScript/JavaScript. Một API tốt thường cung cấp một "hộp đen" hay là một lớp trừu tượng (abstraction layer) bao bọc nó, nhằm đảm bảo là nhà lập trình không thể biết cách hiện thực cụ thể bên trong của mỗi hàm trong API. Điều này làm cho việc thiết kế lại hay cải tiến hàm của API đó trở nên dễ dàng hơn vì nó không làm đổ ỗ các đoạn mã khác mà có sử dụng các hàm đó.
Có hai dòng chính sách đối với việc công bố các APIs:
Một số công ty bảo vệ APIs của họ một cách mạnh mẽ. Ví dụ, Sony thường chỉ cung cấp API chính thức của PlayStation 2 cho các nhà phát triển PlayStation có đăng ký. Điều này là vì Sony muốn giới hạn những người có thể viết trò chơi trên PlayStation 2, và muốn thu lợi nhuận từ những người này càng nhiều càng tốt. Đây thường là chính sách đối với các công ty mà họ không thu lợi từ việc bán các hiện thực API của họ. Tuy nhiên, PlayStation 3 là công bố hoàn toàn APIs.
Một số công ty thì cung cấp miễn phí APIs. Ví dụ, Microsoft công bố hầu như hoàn toàn thông tin về các API, để cho các phần mềm có thể được viết chạy trên nền Windows. Việc bán của các phần mềm hãng thứ 3 đồng thời với việc phải mua Hệ điều hành Microsoft Windows. Đây thường là các công ty thu lợi nhuận từ việc bán các hiện thực API.
Một số APIs, chẳng hạn các API là chuẩn cho một hệ điều hành, được hiện thực dưới dạng các thư viện mã độc lập được phân phối kèm theo hệ điều hành. Một số khác thì đòi hỏi nhà sản xuất phần mềm phải tích hợp API trực tiếp vào trong chương trình. Microsoft Windows APIs đi kèm theo hệ điều hành cho phép mọi người có thể sử dụng chúng. Phần mềm cho các hệ thống nhúng như thiết bị chơi trò chơi thường thuộc vào loại tích hợp vào trong ứng dụng. Trong khi các tài liệu API chính thức của PlayStation là nên đọc, nhưng nó chẳng giúp ích gì nếu ta chẳng có các hiện thực của nó, dưới dạng một thư viện độc lập hay bộ phát triển phần mềm.
Một API mà cho phép truy xuất và sử dụng tự do được gọi là "mở." Các APIs được cung cấp bởi phần mềm mở (như mọi phần mềm được phân phối theo giấy phép đăng ký GNU), là mở theo đúng nghĩa, vì mọi người có thể xem mã nguồn của phần mềm và tìm ra API. Mặc dù việc tham khảo hiện thực vẫn tồn tại cho một API (như với Microsoft Windows cho Win32 API), thì việc tạo thêm các hiện thực bổ sung vẫn có thể diễn ra. Ví dụ, hầu hết các Win32 API có thể được cung cấp từ hệ thống UNIX dùng phần mềm tên là Wine.
Xem thêm
Simple DirectMedia Layer - Thư viện lập trình đa phương tiện, đa hệ thống SDL
Document Object Model
Microsoft Platform Development Kit - Giao diện lập trình hệ thống Microsoft Windows
Application binary interface (ABI)
Ontology (computer science)
Open Service Interface Definitions (OSID)
Plugin
DirectX
Universal Home API
BIOS call interface
Single UNIX Specification
Java API
ASPI - giao diện lập trình linh kiện
Carbon và Cocoa
Tham khảo
Liên kết ngoài
eBay API
EVDB API
Flickr API
Google API
Linux Kernel API
Skype API
Yahoo API
Java API
PayPal API
Giao tiếp kĩ thuật
Truyền thông kỹ thuật
|
24940
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C3%8Ate%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
Ête (định hướng)
|
Ête hay ê-te, ê te, ete có thể là:
Trong hóa học, ête là các hợp chất hữu cơ có công thức tổng quát R1-O-R2, trong đó R1 và R2 là các nhóm ankyl. Trong đa số sách mới hiện hành, chất này có tên là ete.
Trong vật lý, ête là môi trường giả định phi vật chất, được tưởng tượng để cố gắng lý giải các hiện tượng điện từ học theo quan điểm của cơ học cổ điển.
|
24945
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%87%20%C4%91o%20l%C6%B0%E1%BB%9Dng%20c%E1%BB%95%20Trung%20Hoa
|
Hệ đo lường cổ Trung Hoa
|
Hệ đơn vị đo Trung Quốc (từ Hán 市制, Hán Việt thị chế, phiên âm Latin shi zhi) là hệ thống đo lường trong mua bán ở Trung Quốc xưa kia.
Lịch sử
Trung Hoa rộng lớn gồm nhiều vùng lãnh thổ, trải nhiều triều đại phong kiến và chế độ chính trị khác nhau. Quá trình tiến triển của hệ thống đơn vị đo ở một đất nước như vậy cũng phức tạp. Có sự không thống nhất khi so sánh các tài liệu khác nhau; ví dụ giữa các tài liêu phương Tây và các sách lịch sử ở Việt Nam.
Các đơn vị đo trong hệ thống cổ truyền ở Trung Quốc được tiêu chuẩn hóa trong thế kỉ 20 để chuyển đổi sang hệ quốc tế về đơn vị đo (SI). Nhiều đơn vị đo Trung Quốc còn dựa trên cơ sở 16 như cũ. Vào đầu thế kỷ 20, Hồng Kông không thuộc Trung Quốc và nằm ngoài sự cải cách này; ngày nay các đơn vị truyền thống vẫn được dùng cùng với các đơn vị SI và hệ đo lường Anh ở Hồng Kông.
Dường như những đơn vị SI không được đặt tên mới ở Trung Quốc. Tên gọi Trung Hoa cho hầu hết các đơn vị SI là dựa trên tên gọi đơn vị truyền thống có giá trị gần nhất. Khi cần nhấn mạnh đến hệ thống cũ được dùng thì người ta thêm chữ "thị" (市, shi), nghĩa là "chợ", trước tên đơn vị truyền thống; còn khi muốn nói thêm đến đơn vị SI, thêm chữ "công" (公, gōng), nghĩa là "chuẩn chung", vào trước.
Chiều dài
1 lý, 1 dặm (市里, li) = 15 dẫn = 500 m
1 dẫn (引, yin) = 10 trượng = 33,33 m
1 trượng (市丈, zhang) = 2 bộ = 3,33 m
1 bộ (步, bu) = 5 xích = 1,66 m
1 xích, (市尺, chi) = 10 thốn = 1/3 m = 33,33 cm
1 thốn (市寸, cun) = 10 phân = 3,33 cm
1 phân (市分, fen) = 10 ly = 3,33 mm
1 ly (市厘, li) = 10 hào = 1/3 mm = 333,3 µm
1 hào (毫, hao) = 10 ty = 33,3 µm
1 ty (丝, si) = 10 hốt = 3,3 µm
1 hốt (忽, hu) = 1/3 àm = 333,3 nm
Hồng Kông
1 xích (尺, chek) = 37,147 5 cm, chính xác
1 thốn (寸, tsun) = 1/10 thước = ~3,715 cm
1 phân (分, fan) = 1/10 thốn = ~3,715 mm
Diện tích
1 khoảnh (市顷, qing) = 100 mẫu = 66 666, 6 m²
1 mẫu (市亩 / 畝, mu) = 10 phân = 60 phương trượng = 666,6 m²
1 phân (市分, fen) = 10 lý = 66,6 m²
1 li(市里, li) = 6,6 m²
1 phương trượng (方丈, zhang²) = 100 phương xích = 11,11 m²
1 phương xích (方尺, chi²) = 100 phương thốn = 1/9 m²= 0,11 m²
1 phương thốn (方..., cun) = 1 111,1 mm²
Thể tích (của các hạt rời như ngũ cốc)
1 thạch (市石, dan) = 10 đẩu/đấu = 100 lít
1 đẩu/đấu (市斗, dou) = 10 thăng = 10 lít
1 thăng (市升, sheng) = 10 hộc = 1 lít
1 hộc (合, ge) = 10 chước = 0,1 lít
1 chước (勺, shao) = 10 toát = 0,01 lít
1 toát (撮, cuo) = 1 ml = 1 cm³
Khối lượng
1 đảm (市担 / 擔, dan) = 100 cân = 50 kg
1 cân (市斤, jin) = 10 lượng = 500 g (cổ: 1 cân = 16 lượng)
1 lượng, lạng (市两, liang) = 10 tiền = 37.3 g
1 tiền (市钱, qian) = 10 phân = 3.73 g
1 phân (市分, fen) = 10 li = 500 mg
1 li (市厘, li) = 10 hào = 50 mg
1 hào (毫, hao) = 10 si = 5 mg
1 ti (絲, si) = 10 hu = 500 µg
1 hốt (忽, hu) = 50 µg
Hồng Kông
1 đảm, 1 picul (担, tam) = 100 cân = 60,48 kg
1 cân, 1 catty (斤, kan) = 604,789 82 g chính xác
1 lượng, 1 tael (兩, leung) = 1/16 cân = 37,8 g
1 tiền, 1 mace (錢, tsin) = 1/10 lượng = 3,78 g
1 phân, 1 candareen (分, fan) = 1/10 tiền = 0,378 g
Theo , catty xuất xứ từ kati ở Malaysia được định nghĩa là "một đơn vị đo khối lượng ở Trung Hoa và một số nước thuộc địa ở Đông Nam Á". Nó xấp xỉ 1 lb (pound) phụ thuộc vào quốc gia:
Malaysia, 1 catty = 604,79 g;
Thái Lan, 1 catty = 600 g;
Trung Hoa, theo 1 catty (觢,斤) = 500 g.
Cân, 斤 hay jin và kan, có thể có chuyển đổi tùy theo các thời kì lịch sử khác nhau: 500 g (10 lượng), 250 g, 604,79 g và 600 g (16 lượng).
Khối lượng kim hoàn Hồng Kông
1 kim vệ lượng, 1 tael troy (金衛兩) = 37,429 g (chính xác)
1 kim vệ tiền, 1 mace troy (金衛錢) = 1/10 kim vệ lượng = 3,743 g
1 kim vệ phân, 1 candareen troy (金衛分) = 1/10 kim vệ tiền = 0,374 g
Thời gian
1 nhật (日, ri) = 12 thời canh = 96 khắc = 1 ngày (24 h).
1 thời canh (时辰, shi chen) = 8 khắc = 2 giờ.
1 khắc (刻, ke) = 60 phân = 15 phút.
1 phân (分, fen) = 15 giây.
Từ sau năm 1645 (trừ các năm từ 1665 đến 1669), các chuyển đổi tương đương về thời gian trên đây là đúng. Nhưng trước năm 1645 (bắt đầu triều đại Thanh), ngoại trừ một số giai đoạn ngắn, chuyển đổi là như sau:
1 nhật (日, ri) = 12 thời canh = 100 khắc
1 thời canh (时辰, shi chen) = khắc = 8 khắc 20 phân
Khảo dị
Theo trang mạng có các khác biệt. Tuy nhiên các đơn vị đo tại trang đó không đề chữ Hán gốc. Chúng được ghi dưới đây với các tên gọi Việt phỏng đoán theo tên Lantin.
Chiều dài
1 lý, 1 dặm (li) = 18 dẫn = 414 m
1 dẫn (yin) = 10 trượng = 23 m
1 trượng (zhang) = 2 bộ = 10 thước = 2.3 m
1 bộ (pou) = 5 thước = 1,15 m
1 thước (1 xích, tchi) = 10 tấc = 0,23 m
1 tấc, thốn (cun) = 10 phân = 2,3 cm
1 phân (fen) = 10 li = 2,3 mm
1 li (li) = 10 hào (hao) = 0,23 mm
Diện tích
1 mẫu (meou) = 10 phân = 614,4 m²
1 phân (fen) = 10 li = 24 bộ vuông (kung, pou²) = 61,44 m²
1 li (lyi) = 10 hào
Khối lượng
1 đảm (dan) = 120 cân = 30 kg
1 cân (jin) = 16 lượng = 0,250 kg
1 lượng (liang) = 24... zhu
1... (zhu) = 100... shu
Thể tích
1 thạch (chei) = 10 đẩu = 103,544 lít
1 đẩu (to) = 10 thăng = 10,354 4 lít
1 thăng (cheng) = 10 hợp = 1,035 44 lít
1 hợp (kho) = 10 chước (chao)
Tham khảo
Hong Kong government definitions for Chinese units
Conversion of unit
Chú thích
Theo , một toát bằng 0,3 ml, cho nên đơn vị này trong tiếng Việt khác với tiếng Hoa .
Xem thêm
Hệ đo lường cổ của Việt Nam
Chỉ (đơn vị đo)
Chữ số Trung Quốc
Hệ thống đo lường
Khoa học và công nghệ Trung Quốc
|
24949
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A5t%20th%E1%BA%A5p%20c%C3%B3%20%C4%91%C3%AA%20b%E1%BB%8Dc
|
Đất thấp có đê bọc
|
Một vùng đất thấp có đê bọc () là một vùng đất thấp, thường thấp hơn mực nước biển, hay các sông ngòi chung quanh được đê bảo vệ và có hệ thống thủy lợi để rút nước. Việc rút nước được thực hiện bằng bơm hoặc bằng việc mở các cửa xả ở đê, ở biển khi thủy triều thấp, hay ở sông ngòi khi mùa nước xuống thấp.
Đất thấp có đê bọc thường gặp ở Hà Lan, gọi là các vùng đất lấn biển.
Đất lấn biển và Hà Lan
Bởi vì một phần lớn đất ở Hà Lan là đầm lầy, nên các kỹ sư của họ đã phát triển ra kỹ thuật để hút nước khỏi những vùng đất này, lấy đất để làm nông nghiệp hay các phát triển khác. Để ngăn ngừa nước không bị ngập trở lại khi thủy triều lên, người ta đã xây các đê điều. Ngoài ra, người ta còn đào các con rạch ngang dọc đất để thoát nước còn động lại trên mặt đất. Tổng cộng ở toàn nước Hà Lan có khoảng 3.000 vùng đất lấn biển.
Người Anh do đó có câu: "Thượng đế tạo thế giới nhưng người Hà Lan đã tạo ra nước Hà Lan."
Nghĩa nguyên thủy
Ban đầu nhất là ở vùng gần cửa sông Ems hay là phần dưới sông Oder ở Đức, hay vùng Normandie ở Pháp, Đất thấp có đê bọc để bảo vệ trước nước lớn. Ở những vùng đất này, mặt nước của sông hay biển thường hay luôn cao hơn mặt đất. Bởi vậy nước phải được bơm từ những hố được nước dẫn tới ra khỏi đê, ngày nay bằng lực động cơ, trước thời kỹ nghệ bằng lực của gió. Nhóm cối xay gió trên các con đê ở vùng châu thổ sông Rhein, một biểu hiệu của Hà Lan là những máy bơm bằng gió.
Xem thêm
Hà Lan
Tham khảo
Biển
Thủy lợi
Hệ sinh thái nước ngọt
Công trình biển
|
24952
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BA%B7t%20c%E1%BA%A7u
|
Mặt cầu
|
Trong không gian metric ba chiều, mặt cầu là quỹ tích những điểm cách đều một điểm O cố định cho trước một khoảng không đổi R. Điểm O gọi là tâm và khoảng cách R gọi là bán kính của mặt cầu.
Tập hợp các điểm trong không gian nằm bên trong mặt cầu và bản thân mặt cầu hợp thành khối cầu hay hình cầu.
Mặt cầu là một đối tượng hình học đối xứng hoàn hảo. Trong toán học, thuật ngữ này là bề mặt hay biên của một hình cầu.
Trong cách dùng không chuyên môn về mặt toán học, thuật ngữ này lại có thể hiểu là một hình cầu 3 chiều hay chỉ đơn giản là một mặt cầu.
Mặt cầu là một trường hợp đặc biệt của mặt bậc hai
Các khái niệm toán học trong mặt cầu
Cung tròn
Góc khối
Tam giác cầu
Đa diện nội tiếp
Đa diện ngoại tiếp
Các công thức
Diện tích mặt cầu:
Thể tích khối cầu:
Phương trình mặt cầu
Trong không gian với hệ tọa độ Descartes Oxyz, mặt cầu tâm I(a,b,c) bán kính R thì có phương trình
Ngoài ra, phương trình với là phương trình mặt cầu có tâm I(-a,-b, -c) và bán kính
Xem thêm
Mặt bậc hai
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hình học
Hình thể hình học
Hình học không gian
Cầu
Quỹ tích
Hình học sơ cấp
Hình học vi phân
Toán học tô pô
|
24962
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ether
|
Ether
|
Bài này nói về ete như là một lớp chung các hợp chất hữu cơ. Đối với các nghĩa khác, xem bài Ête (định hướng)
Ete hay ête là tên gọi chung cho một lớp hợp chất hữu cơ trong đó có chứa nhóm chức ête — nguyên tử oxy liên kết với hai (được thay thế) nhóm ankyl. Một ví dụ điển hình là dung môi và thuốc gây tê điêtyl ête (êthoxyêtan, CH3-CH2-O-CH2-CH3).
Các cấu trúc tương tự
Không phải mọi hợp chất có công thức R-O-R' đều là các ête. Ête không nên nhầm lẫn với các lớp hợp chất hữu cơ sau có cùng một công thức cấu trúc tổng quát R-O-R'.
Các hợp chất vòng thơm như furan trong đó nguyên tử oxy là một phần của vòng thơm.
Các hợp chất trong đó một trong số các nguyên tử cacbon tiếp ngay sau nguyên tử oxy được liên kết với oxy, nitơ hay lưu huỳnh:
Các este R-C(=O)-O-R
Các axêtal R-CH(-O-R)-O-R
Các aminal R-CH(-NH-R)-O-R
Các anhyđrit R-C(=O)-O-C(=O)-R
Các ête bậc nhất, bậc hai, bậc ba
Các thuật ngữ "ête bậc nhất", "ête bậc hai" và "ête bậc ba" đôi khi được sử dụng và nó chỉ tới nguyên tử cacbon ngay sau nguyên tử oxy của ête. Trong ête bậc nhất thì nguyên tử cacbon này chỉ được nối với một nguyên tử cacbon khác, như trong điêtyl ête CH3-CH2-O-CH2-CH3. Ví dụ về ête bậc hai là điisoprôpyl ête (CH3)2CH-O-CH(CH3)2 và ví dụ về ête bậc ba là đi-tert-butyl ête (CH3)3C-O-C(CH3)3.
Đimêtyl ête, ête bậc nhất, ête bậc hai và ête bậc ba.
Các polyête
Polyête là các hợp chất có nhiều hơn một nhóm ête. Trong khi thuật ngữ này nói chung để chỉ tới các polyme như polyêtylen glycol và polyprôpylen glycol, các hợp chất thấp phân tử như các ete lon đôi khi cũng có thể được gọi như thế.
Tổng hợp
R-OH + R-OH → R-O-R + H2O
Phản ứng trực tiếp này cần các điều kiện mạnh (nhiệt và xúc tác acid) và thông thường không được áp dụng trong thực tế. Các điều kiện như thế có thể phá hủy các cấu trúc nhạy cảm của một số nhóm chức. Tồn tại một số phương pháp nhẹ nhàng hơn để sản xuất ête.
R-O- + R-X → R-O-R + X-
Phản ứng này gọi là tổng hợp ête Williamson. Nó bao gồm việc xử lý rượu gốc với các base mạnh để tạo ra anion ankoxide, tiếp theo là thêm một lượng vừa đủ hợp chất béo chứa nhóm thế thích hợp (R-X). Các nhóm thế thích hợp (X) bao gồm iodide, bromide hay sulfonat. Phương pháp này chỉ cho kết quả tốt nhất đối với các nguyên tử cacbon bậc nhất, do các nguyên tử cacbon bậc hai sẽ tham gia phản ứng khử E2 khi tiếp xúc với các anion ankoxide gốc sử dụng trong phản ứng. Các ête gốc aryl có thể được điều chế theo phản ứng tổng hợp ête Ullmann.
R2C=CR2 + R-OH → R2CH-C(-O-R)-R2 (xúc tác acid)
Tính chất hoá học
Ête là các hợp chất có phản ứng hóa học rất kém. Chúng chỉ bị thủy phân trong những điều kiện rất mạnh chẳng hạn đốt nóng với BF3 hay đun sôi trong HBr. Các acid vô cơ chứa halôgen thấp phân tử khác, chẳng hạn HCl cũng sẽ chia cắt các ête, nhưng rất chậm. Chỉ có HBr và HI là có thể chia cắt chúng với tốc độ nhận thấy được.
Các ête có thể phản ứng như là các base Lewis. Ví dụ, điêtyl ête tạo ra phức chất với các hợp chất của bo, chẳng hạn như triflorua bo điêtyl êterat F3B:O(CH2CH3)2.
Các êpoxide, hay các ête vòng trong các vòng ba thành viên, là rất dễ bị tổn thương trước các tấn công kiểu ái lực hạt nhân (nucleophil) và chúng phản ứng theo cách này.
Các ête bậc nhất và bậc hai với nhóm CH ngay sau nguyên tử oxy của ête dễ dàng tạo ra các peroxide hữu cơ có khả năng gây nổ cao (ví dụ điêtyl ête peroxide) khi có mặt oxy, ánh sáng và kim loại cũng như các tạp chất alđêhít). Vì lý do này các ête như điêtyl ête và THF thông thường không nên sử dụng làm dung môi trong các quy trình công nghiệp.
Ete có thể được dùng làm nhiên liệu
R-O-R’ + O2 -> CO2 + H2O
Điều này quan trọng vì các vùng/quốc gia có khí hậu lạnh như Alaska(Hoa Kỳ) hoặc Nga, Canada, hay các bang từ Washington đến Maine( Hoa Kỳ) thường xuyên có nhiệt độ thấp trong mùa đông.
Ether có thể được khử thành hydrocarbon:
R – O – R’ + 2H2 -> R-H + R’-H + H2O (to, p, xúc tác Mo-Ni hoặc Co-Mo trên nền γ-alumina)
Thuộc tính vật lý
Các phân tử ête không thể tạo ra các liên kết hiđrô với nhau, vì thế kết quả là chúng có điểm sôi tương đối thấp khi so sánh với các ancol tương tự. Các ête là không ưa nước hơn nhiều so với các este hay amit với cấu trúc tương tự.
Danh pháp
Trong hệ thống danh pháp IUPAC, các ête được đặt tên theo nguyên tắc chung "ank-oxy-ankan", ví dụ CH3-CH2-O-CH3 là mêtoxyêtan. Nếu ête là một phần của các phân tử phức tạp hơn thì nó được miêu tả như là gốc thay thế ankoxy, vì thế -OCH3 có thể coi như là nhóm "mêtoxy-". Tên gọi kiểu hai nhóm ankyl và chèn thêm "ête", ví dụ "êtyl mêtyl ête" trong ví dụ trên đây, là cách gọi thông thường.
Các ête quan trọng
Êtylen oxide (epoxide), là ête vòng nhỏ nhất:
Đimêtyl ête, chất đẩy trong các bình xịt:
Điêtyl ête, một dung môi thông dụng có điểm sôi thấp:
Đimêtoxyêtan, dung môi có điểm sôi cao:
Điôxan, ête vòng có điểm sôi cao:
THF, một ête vòng, một trong các ête phân cực đơn giản nhất được sử dụng làm dung môi:
Anisol (mêtoxybenzen), thành phần chính của tinh dầu hồi:
Các ête vòng hoa (crown), các polyête vòng được sử dụng như là các chất xúc tác chuyển pha:
Polyêtylen glycol, polyête thẳng, được sử dụng trong mỹ phẩm:
Tham khảo
Xem thêm
Nhóm chức
Mêtoxy
Xăng ête, không phải là ête mà là hỗn hợp các ankan có điểm sôi thấp.
Thiôête, các hợp chất tương tự của ête trong đó nguyên tử oxy được thay thế bằng nguyên tử lưu huỳnh.
Liên kết ngoài
Trang web của ILPI về các ête.
Nhóm chức
|
24963
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T.T.Kh.
|
T.T.Kh.
|
T.T.Kh. (tên cách điệu TTKh hay T.T.Kh) là bút danh của một nhà thơ hiện vẫn chưa rõ lai lịch giới tính cụ thể, xuất hiện lần đầu vào khoảng cuối thập niên 1930. Tác giả đã thu hút sự quan tâm của công chúng, báo chí và các nhà khảo cứu văn học Việt Nam, với lượng lớn sách báo ở trong nước lẫn hải ngoại viết về T.T.Kh. bắt đầu từ giữa thế kỷ 20 đến thế kỷ 21. Đã có nhiều suy đoán về danh tính người đứng sau những bài thơ, trong đó hai giả thuyết nổi bật nhất là Thâm Tâm và Trần Thị Vân Chung, kéo theo tranh cãi trong giới thi đàn sau đó.
Các bài thơ do T.T.Kh. sáng tác – tiêu biểu "Hai sắc hoa Ti-gôn" – đã có được sự đón nhận lâu dài từ người đọc và là nguồn cảm hứng cho những tác phẩm của các nhà thơ cùng nhạc sĩ nổi bật sau này, tạo nên sức ảnh hưởng trong văn hóa đại chúng. Năm 1942, T.T.Kh. được đưa vào cuốn Thi nhân Việt Nam như là một trong những nhà thơ nổi bật của phong trào Thơ mới Việt Nam (1930–1945).
Xuất hiện
Dựa trên đa số nguồn sách báo từ trước đến nay, tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy ở Hà Nội đã đăng truyện ngắn Hoa Ti-gôn của nhà văn Thanh Châu lên số 174, xuất bản vào cuối tháng 9 năm 1937. Nội dung truyện kể về chuyện tình buồn giữa một cô gái với chàng họa sĩ nghèo mới ra trường. Cùng tháng, tòa soạn báo nhận được một bài thơ từ tác giả ký tên T.T.Kh. "Hai sắc hoa Ti-gôn", đăng trên số 179 ra ngày 30 tháng 10 năm 1937. Bài thơ này được cho là có liên hệ tới truyện ngắn của Thanh Châu.
Chưa đầy một tháng sau, một bài thơ khác mang tựa "Bài thơ thứ nhất" tiếp tục được gửi đến, cũng với nét chữ run run, ra mắt tại số 182 ngày 20 tháng 11 năm 1937. Cả hai bài sau khi ra đời đã thành công thu hút sự chú ý từ giới văn đàn và người yêu thơ bởi những vần thơ da diết.
Năm 1938, T.T.Kh. được cho là viết bài nữa có tên "Đan áo cho chồng", mà sau đó bị đưa lên Phụ nữ thời đàm ngày 23 tháng 7. Tác giả đã đưa cho tòa báo Tiểu thuyết thứ bảy "Bài thơ cuối cùng", giới thiệu ở số 217 ra ngày 30 tháng 10 cùng năm. Khi bài thơ này đăng xong thì không còn bài mới nào của T.T.Kh. gửi đến hai tờ báo nữa.
Nhưng theo tác giả Anh Đào, viết tại báo Nhân Loại bộ mới năm 1958, ông cho biết đã tìm ra vài câu thơ của "Bài thơ thứ nhất", "Bài thơ cuối cùng" đăng lần lượt trên số 22 và 15 Hà Nội báo ra ngày 3 tháng 6 và 15 tháng 4 năm 1936. Công bố trên hoàn toàn đi ngược lại với đa số các tư liệu và thông tin về T.T.Kh., tuy nhiên điều này vẫn chưa thể được kiểm chứng thông qua hai số báo gốc hiện nay bị thất lạc và do đó phát hiện trên cũng sớm đi vào quên lãng.
Phân tích
Cấu trúc, chủ đề thơ
Ba trong số các bài thơ (xem danh sách bên dưới) được T.T.Kh. viết theo lối thất ngôn tứ tuyệt với giai điệu phảng phất Đường thi. Tất cả sáng tác của nhà thơ đều ở ngôi kể thứ nhất là chính tác giả ("tôi", "em"). Từ ngữ sử dụng trong thơ hầu như là từ thuần Việt, đơn giản và không nhiều những từ địa phương hay Hán-Việt.
Chủ đề thơ T.T.Kh. xoay quanh tình yêu và kỷ niệm mùa thu gắn liền hoa tigôn, phù hợp lý tưởng chung của lớp thanh niên trẻ trước cách mạng. Thơ tác giả nghiêng về ảnh hưởng từ dòng thơ Pháp với các nhà thơ Xuân Diệu, Thế Lữ,... hiện đại từ ngôn ngữ đến hình ảnh. Cũng chính vì phong cách sáng tác này mà T.T.Kh. đã gây nên phân vân cho một số nhà nghiên cứu đương thời trong việc xếp hẳn vào dòng thơ Việt. Dù vậy, nội dung các bài thơ trên vẫn chịu sự ảnh hưởng từ lễ giáo phong kiến và không thể có cái kết đẹp. Theo Phạm Thế Ngũ, lời thơ T.T.Kh. "có chỗ thật thà non vụng, nhưng cũng có nhiều đoạn trơn tru réo rắt, như phát ra từ nguồn thơ và âm điệu tự nhiên của lòng T.T.Kh.".
Tác phẩm
Có tổng cộng 3 tác phẩm của T.T.Kh. đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy:
"Hai sắc hoa Ti-gôn" (1937): gồm 10 hoặc 11 khổ; là tâm sự của một thiếu phụ, hoài niệm về mối tình xưa cũ với chàng trai mà cô đem lòng yêu và bi kịch chia li khi phải lấy người đàn ông khác, cũng như băn khoăn về phản ứng "người ấy" khi biết tin cô đã sang sông.
"Bài thơ thứ nhất" (1937): hồi tưởng về thanh xuân và nỗi cô đơn tâm hồn cô gái bên người chồng hiện tại; gồm 10 khổ 40 câu.
"Bài thơ cuối cùng" (1938): gồm 9 khổ; lời trách móc, "oán hờn" của cô gái về việc bị đăng bài thơ không hề muốn, là thông điệp cuối cùng về sự chia tay.
Bài thơ "Đan áo cho chồng", được viết ở thể thơ lục bát, là lời than thân của thiếu phụ về nỗi đau đớn xót xa nước mắt trong cuộc sống gia đình không hạnh phúc. Về bài thơ này, đã có những nghi ngờ khác nhau rằng liệu T.T.Kh. có thực sự là tác giả. Việc sáng tác thi phẩm từng được nhà thơ đề cập đến trong "Bài thơ cuối cùng" như là tiền đề cho sự ra đời của tác phẩm, theo đó cho biết bài "Đan áo cho chồng" ban đầu không định đăng báo nhưng một trong số ba người đọc bài thơ đã lén đem đi "rao bán" và "Cho khắp người đời thóc mách xem". Tuy nhiên theo Thanh Châu, bài thơ này có thể không phải của T.T.Kh. mà là bị giả mạo dựa trên những đặc điểm tương đồng, và chỉ có ba bài chắc chắn do T.T.Kh. sáng tác. Các học giả khác thì cho rằng bài thơ không phải của T.T.Kh. vì đăng khác nơi. Mã Giang Lân, viết trên Báo Văn nghệ, đã nghi vấn tác giả thực hai bài thơ cuối bởi có nhiều điểm mâu thuẫn. Trái ngược với số ý kiến nghi ngờ, Trần Đình Thu, tác giả của loạt bài viết về T.T.Kh. trên tờ Thanh Niên, khẳng định dù không giống về hình thức nhưng phong cách sáng tác bài thơ này mang sự nhất quán với những bài còn lại và "rất T.T.Kh.". Cũng theo ông, "Đan áo cho chồng" có thể được viết trước ba bài thơ kia từ khá lâu, và lý do khác biệt trong lối viết là vì T.T.Kh. chỉ làm bài này để gửi cho "người chị nào đó" nên sẽ không cảm xúc bằng viết về/cho "người yêu".
Sau khi Thâm Tâm qua đời vào 1950, T.T.Kh. được cho là viết thêm một bài thơ nữa có tên "Trả lại cho đời cánh hoa tim" để bày tỏ sự thương tiếc. Thế nhưng bài thơ đã bị gọi là "một đoạn thơ "tâm thần"", nhại lại bài "Màu máu Ti-gôn" của Thâm Tâm. Ngoài hai tờ báo là Tiểu thuyết thứ bảy và Phụ nữ thời đàm đăng thơ T.T.Kh., cũng xuất hiện những bài thơ khác trên các mặt báo cùng thời với người viết tự xưng là T.T.Kh., trong số đó có "Thu ngục thất" đăng báo Phổ thông số 16 (1959) và "Tan vỡ" đăng báo Tiến thủ năm 1958. Tuy vậy, có quan điểm đã nhận định rằng hai bài này không phải của T.T.Kh., xét trên ý thơ và kỹ thuật chưa đạt đến mức độ cảm xúc như tác giả.
Giới tính và gia thế nhân vật trong các bài thơ
Từ các bài thơ viết ở ngôi thứ nhất của T.T.Kh., giới tính nhân vật trữ tình đã được định rõ là nữ. Theo phân tích từ nhà nghiên cứu Trần Đình Thu dựa trên nội dung thơ, T.T.Kh. là một người con gái khuê các, từ nhỏ tới lớn đều không phải vướng bận điều gì. Trong thơ, T.T.Kh. thường "nhìn gió ngắm trăng" và sở thích đọc tiểu thuyết. Cách dùng từ tại các bài thơ có thể khẳng định tác giả được cho đi học ở trường Tây và được đào tạo bằng chữ quốc ngữ. Theo thơ, cô từng có mối tình với một nghệ sĩ không cùng quê ("người ấy") nhưng sau đó bị cha mẹ ép thành hôn với chồng "luống tuổi" và có một cuộc hôn nhân không hạnh phúc. Người chồng này được cho là họ Nghiêm, 38 tuổi hoặc lớn hơn.
Danh tính
Câu hỏi về tác giả thực sự đằng sau bút danh T.T.Kh. đã gây nên những tranh luận lớn trong giới học thuật và xã hội Việt Nam, kéo dài từ khoảng giữa thế kỉ 20 đến đầu thế kỉ 21. Các bài thơ thời điểm ra mắt nhanh chóng nhận được sự yêu thích của bạn đọc và có nhiều thư từ khắp cả nước gửi về Tiểu thuyết thứ bảy, tò mò về danh tính người sáng tác. Đáng chú ý, chỉ sau sự kiện hai bài thơ đầu đăng tải, có mấy người đàn ông đã nhất quyết cho rằng T.T.Kh. là người yêu của mình. Năm 1942, nhà thơ lần đầu được bộ đôi nhà phê bình văn học Hoài Thanh – Hoài Chân đưa vào Thi nhân Việt Nam, cuốn sách tổng hợp nói về những nhà thơ nổi bật phong trào Thơ mới 1932-1945. Trong sách, người viết bày tỏ sự hiếu kỳ về cuộc sống tác giả sau ba năm kể từ các bài thơ cuối.
Song song khoảng thời gian trên, có nhiều thông tin về cuộc sống và thân phận thực của T.T.Kh. liên tiếp được tung ra. Nhiều tờ báo, nhà xuất bản có tiếng ở Hà Nội khi ấy, đơn cử như Tiểu thuyết thứ bảy và Hà Nội báo, đã cạnh tranh nhau để tìm ra người đứng sau các bài thơ ký tên T.T.Kh. nhằm lôi kéo độc giả, giành thế thượng phong. Thậm chí, có người còn nhận từng gặp T.T.Kh. ngoài đời. Vô số tài liệu, sách báo khác nhau từ Nam ra Bắc đã viết và đưa ra phán đoán về T.T.Kh., tuy nhiên nhiều trong số đó bị thất lạc do hoàn cảnh chiến tranh. Nhưng theo Nguyễn Vỹ, câu chuyện của T.T.Kh. không hề gợi một dư luận xôn xao nào đương thời và phải đến thời hậu chiến (tức sau Chiến tranh Đông Dương) mới được biết đến, được "tôn sùng [...] thành một thảm kịch của tình yêu!".
Trong lời lược thuật về tác gia ở cuốn Việt Nam thi nhân tiền chiến, T.T.Kh. có từng đến tòa soạn Tiểu thuyết thứ bảy để gửi "Hai sắc hoa Ti-gôn". Đây là lần đầu tiên và duy nhất "người phụ nữ" xuất hiện; các bài thơ còn lại gửi qua đường bưu cục. Người phụ nữ này được miêu tả là "một thiếu phụ trạc 20 tuổi, dáng bé nhỏ, thuỳ mị, nét mặt u buồn"... Còn theo Thanh Châu, ông đã nhận bó hoa tigôn trên bàn làm việc khi đang cộng tác tờ Tiểu thuyết thứ bảy; người đưa bó hoa này được cho là T.T.Kh., "một thiếu phụ rất đẹp và sang trọng mang đến nhưng không để lại danh thiếp". Tại số báo thứ 178, tòa báo có đăng câu hỏi địa chỉ nhà thơ, nhưng một bức thư của T.T.Kh. đã gửi tới với lời hồi âm không muốn tiết lộ thân phận.
Thâm Tâm và những người khác
Một trong những giả thiết nổi bật nhất cho rằng T.T.Kh. chính là Thâm Tâm. Tại các bài thơ trả lời T.T.Kh., Thâm Tâm đã tự nhận mình là người yêu tác giả và có bài xưng T.T.Kh. là Khánh. Nhiều báo chí thế kỉ 20 cho biết được Thâm Tâm tâm sự, xác nhận đã chấp bút những bài thơ trên. Cũng có người suy luận đây là sản phẩm tưởng tượng của nhà thơ. Trong một cuộc trò chuyện với Thâm Tâm (1949), Bùi Viết Tân được Thâm Tâm tiết lộ thông tin T.T.Kh. do chính mình viết, và chuyện này duy có Trần Huyền Trân nắm rõ. Còn theo Anh Đào (1947) thì chuyện này chỉ Nguyễn Bính làm nhân chứng cho lời kể Thâm Tâm.
Theo lời Nguyễn Vỹ, bạn của Thâm Tâm, trong một lần rủ Thâm Tâm về nhà sau khi bắt gặp nhà thơ đang say rượu, ông đã nghe được chuyện tình của bạn với người con gái có tên Trần Thị Khánh sống ở cuối đường Sinh Từ, bên cạnh vườn Thanh Giám (tiếng Pháp: Pagode des Corbeaux). Hai người lén đến vườn Thanh Giám để hẹn hò đúng hai lần. Sau khi từ chối ra mắt bố mẹ cô gái này vì sự nghiệp chưa có gì, một thời gian sau Thâm Tâm nhận tin người yêu sắp kết hôn với một nhà buôn giàu có góa vợ ở phố Hàng Ngang. Để không mang tiếng bị phụ tình, ông quyết định thức trắng một đêm viết nên bài "Hai sắc hoa Ti-gôn" rồi ký T.T.Kh., ý chỉ tên bạn gái. Sau đó, ông nhờ cô em họ chép lại thơ bằng nét chữ khác và mang bản viết này đến tòa báo nhằm giấu danh tính. Sau khi hai bài thơ đầu được đăng tải, Trần Thị Khánh đã viết một bức thư tới Thâm Tâm, dùng xưng hô "tôi" thay vì "em" như mọi khi để tỏ ý không bằng lòng việc ông dùng tên cô làm thơ, điều có thể gây ảnh hưởng đến cuộc sống gia đình. Thâm Tâm dựa trên lá thư này viết nên "Bài thơ cuối cùng", rồi sau đó tự viết bài thơ trả lời "Dang dở" cùng năm.
Tuy vậy, trong bài viết trên tờ Phổ thông số 28 ra ngày 15 tháng 2 năm 1960, một người từng thân quen Thâm Tâm thời gian đáng kể đã phủ nhận ông là tác giả của T.T.Kh. do chưa hề nghe bạn đề cập đến bao giờ. Nhà văn Thanh Châu cũng bày tỏ quan điểm tương tự. Những người bạn của nhà thơ, trong đó có Nguyễn Bính và Trần Huyền Trân, khi được hỏi không đưa ra một câu trả lời đồng nhất về liệu tác giả các bài thơ có phải Thâm Tâm. Còn với nữ sĩ Ngân Giang thì những bài thơ này là Thâm Tâm viết hộ cho một người bạn (theo lời ông kể).
Số ý kiến khác thiên về tác giả là một cá nhân khác, như người yêu Thâm Tâm, cụ thể hơn là em họ nhà thơ Tế Hanh (do ông tự nhận, tác giả Giang Tử tường thuật lại); Phạm Thị Sứ (hay Phạm Thị Lý) nữ sinh trường Đồng Khánh; Trần Huyền Trân; Nguyễn Bính; Thẩm Thệ Hà (tên thật Tạ Thành Kỉnh); Đinh Hùng; J. Leiba (theo Vũ Bằng); hay đi xa nữa là ít nhất hai nhân viên ẩn mật quen biết nhau làm tại Tiểu thuyết thứ bảy và Phụ nữ thời đàm cùng viết ra các bài thơ;... Song theo một số quan điểm, khi đem so sánh T.T.Kh. với các tác giả Nguyễn Bính và Thâm Tâm trong phong trào Thơ mới thì cả hai bị cho là có phong cách, cách dùng từ, giọng thơ khác nhau hoàn toàn, quá "cựu" trong khi T.T.Kh. rất "tân".
Vào năm 2024, cây bút Nguyệt Hà của báo Công an nhân dân đã công bố phát hiện mới về mối liên hệ giữa T.T.Kh. và Thâm Tâm. Theo đó, dựa trên những tài liệu mà ông Nguyễn Tuấn Khoa – người con trai duy nhất của Thâm Tâm – sưu tầm được, tác giả tiết lộ việc nhà thơ đã sáng tác bài "Chút tình bỡ ngỡ" dưới bút danh T.G.Kh., đăng trên Tân Việt văn đàn số 8 năm 1935. Đây được coi là sáng tác sớm nhất của ông, ra đời khi nhà thơ mới tròn 18 tuổi. Ngoài sự tương đồng giữa hai bút danh, một số chi tiết khác liên quan tới T.T.Kh. cũng đã xuất hiện trong các sáng tác kế tiếp của Thâm Tâm trên tuần báo Bắc Hà, giai đoạn tháng 11 năm 1936. Tuy nhiên, bài điều tra không khẳng định Thâm Tâm chính là T.T.Kh. mà chỉ để ngỏ nghi vấn trên.
Trần Thị Vân Chung
Sách T.T.Kh, nàng là ai?
Có ý kiến đã liên hệ T.T.Kh. với Thanh Châu và rằng hai người có quan hệ ngoài đời thực vì sự trùng hợp giữa truyện ngắn và bài thơ "Hai sắc hoa Ti-gôn" trong cách nhìn loài hoa tigôn, một hình ảnh tiêu biểu xuất hiện trong hai tác phẩm của hai tác giả. Tuy nhiên thông qua lời thơ, T.T.Kh. giải thích rằng đây chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Mùa thu năm 1994, bộ đôi tác giả Thế Nhật (Thế Phong, Trần Nhật Thu) đã ra mắt cuốn sách T.T.Kh, nàng là ai? do Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin ấn hành. Trong đó, cả hai khẳng định Trần Thị Vân Chung (bút danh Vân Nương) – một thành viên của nhóm thơ Quỳnh Dao – chính là T.T.Kh., dựa trên nguồn tin được tiết lộ từ người quen của bà Vân Chung là Thư Linh: bao gồm bài thơ "Hoa tim" do bà sáng tác và bức thư được cho là Vân Chung viết. Các tác giả cũng cho rằng Vân Chung và Thanh Châu có quan hệ tình cảm, từng là người yêu cũ của nhau. Điều này được cho là khá tương đồng với hoàn cảnh các bài thơ và giải quyết nhiều thông tin khúc mắc.
Sau khi T.T.Kh, nàng là ai? ra mắt, cuốn sách mau chóng được bán hết đồng thời tạo nên tranh cãi lớn về chất lượng nội dung và tính xác thực. Các tờ báo lớn ở Việt Nam như Sài Gòn Giải Phóng, Thanh Niên, Tuổi Trẻ,... và ngoài nước đều có bài viết khen ngợi công sức tìm hiểu của tác giả cuốn sách, nhưng cũng không ít độc giả gửi thư phản bác luận cứ trong sách. Nhà văn Thanh Châu, trả lời phỏng vấn in trên tờ Nguyệt san văn hóa số tháng 9 năm 1994, đã nói bà Vân Chung không hề biết gì về T.T.Kh.. Trong một nhận xét tiêu cực hơn, nhà phê bình Nguyễn Thạch Kiên cuốn Về những kỷ niệm quê hương chỉ trích tác giả "bịa đặt [...] vu khống và lừa gạt độc giả" khi cho rằng người viết dựa vào một bài thơ của Nguyễn Bính ("Cô gái vườn Thanh") và bức thư từ Thư Linh mà "áp đặt, múa bút chửi người".
Ngay khi sách được xuất bản, Trần Thị Vân Chung đã viết bài trả lời phủ nhận rằng mình là T.T.Kh. bằng các bằng chứng thuyết phục rồi gửi cho nhà xuất bản, Bộ Văn hóa – Thông tin và đăng lên những tờ báo lớn tại Việt Nam lẫn hải ngoại. Bà ngoài ra còn chỉ trích nhân chứng cuốn sách Thư Linh – người được cho là bạn lâu năm của Vân Chung – khi không có tìm hiểu xác đáng. Những người thân, bạn bè nhà thơ khi được hỏi cũng cho biết sách sai rất nhiều thông tin về gia đình và tính cách bà, khiến người đọc nghi ngờ về tính xác thực của cuốn sách nói trên. Các ý kiến khác thì nhận xét thơ Trần Thị Vân Chung "không xứng tầm" với T.T.Kh. và rằng bà "không thể là T.T.Kh.".
Trong những bài phản hồi Trần Thị Vân Chung sau đó, Thế Nhật đã nhận "sai hết" và đưa ra lý do bào chữa cho lỗi sai của mình, nhưng khẳng định sự thành công của cuốn sách khi gây được dư luận cả trong Việt Nam và quốc tế. Thư Linh cũng viết thư nhận sai, quy phần lớn lỗi về tác giả cuốn sách không tìm hiểu kỹ, dù theo hai tác giả bà đã nhận lời cung cấp thông tin cho họ. Tuy nhiên vẫn có các ý kiến ủng hộ luận điểm Trần Thị Vân Chung là T.T.Kh.. Trả lời với Trần Đình Thu, nhà văn Thanh Châu xác nhận ông và Vân Chung từng là người yêu một thời gian, biết nhau trước đó thông qua mối quan hệ bạn bè với anh ruột bà Vân Chung. Thế nhưng hai người sớm phải chia tay vì vấn đề môn đăng hộ đối. Một thời gian sau ông được thông báo Vân Chung đã lấy chồng và cả hai xa cách sau 1954, ông ra Bắc còn Vân Chung cùng chồng vào Nam. Dù vậy, Thanh Châu đã nhất mực phủ nhận khi được đặt câu hỏi liệu T.T.Kh. có phải là Trần Thị Vân Chung.
Sách Giải mã nghi án văn học T.T.Kh
Vào tháng 2 năm 2007, Trần Đình Thu đã ra mắt cuốn Giải mã nghi án văn học T.T.Kh dài 192 trang, do Nhà xuất bản Văn hóa Sài Gòn và CADASA phát hành. Cũng với lập luận giống Thế Nhật về Trần Thị Vân Chung, Đình Thu khẳng định mình sẽ là "người cuối cùng khép lại được nghi án này sau 70 năm để ngỏ". Trước đó, sau khi hoàn thành xong bản thảo, ông cho đăng các bài phân tích của mình lên báo Thanh Niên và gây được sự quan tâm từ bạn đọc. Cuốn sách từng bị nhiều nhà xuất bản từ chối vì ngại xảy ra kiện tụng.
Sau khi sách lưu hành, Trần Thị Vân Chung tiếp tục viết một bức thư phản đối, cáo buộc Trần Đình Thu vì "nêu tên tuổi, đưa hình ảnh và chà đạp lên đời sống cá nhân" mà không xin ý kiến từ người trong cuộc. Trần Đình Thu sau đó trả lời rằng ông chỉ muốn "giải mã" T.T.Kh. và không xúc phạm uy tín, danh dự hay nhân phẩm của bà, cũng như cho rằng nội dung sách không phạm vào điều cấm của luật Xuất bản nên chưa phạm luật. Một số luật sư của đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, trả lời trong bài viết đăng trên báo Pháp Luật Thành phố Hồ Chí Minh, đã tỏ ra "khá ủng hộ" về khía cạnh tìm hiểu T.T.Kh. của cuốn sách nhưng cũng lưu ý rằng việc công bố những thông tin đời tư cá nhân mà không có sự đồng ý của họ và việc tự ý đăng các bài thơ bà Vân Chung có thể vi phạm luật Dân sự và luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam.
Ảnh hưởng và di sản
Các thi phẩm của T.T.Kh. đã có được sự đón nhận lâu dài từ người đọc và tạo nên ảnh hưởng lên văn hóa đại chúng. Thơ T.T.Kh. khi ấy tập hợp những thanh niên tri thức tiền chiến có cùng một thế giới quan khi đặt ra lập trường nữ quyền "táo bạo [...] trực tiếp thách thức trật tự xã hội cũ, vốn đã được chứng minh là không phù hợp và khó bị thay đổi bởi giới cầm quyền", trong bối cảnh lớp thế hệ này đã dần hình thành những suy nghĩ về "cải cách xã hội, nới lỏng sự ngột ngạt trong tình cảm, và hiện đại ở mọi mặt đời sống Việt Nam". Những bài thơ T.T.Kh. được nhận định "vừa là lời than thở đau lòng về tình yêu bị ngăn cách, vừa là bản cáo trạng về tục lệ hôn nhân sắp đặt của xã hội Việt Nam mà nay đã bị bài trừ". Học giả Thomas D.Le của Viện Việt-Học coi T.T.Kh. là một trong số các nhà thơ vĩ đại nhất của Việt Nam hiện đại, ví tác gia như một cô gái "dũng cảm cưỡi trên làn sóng mới bắt đầu quét qua tâm hồn và suy nghĩ của một thế hệ tri thức thành thị" và liên hệ T.T.Kh. với phong trào Thơ mới "khiến người phụ nữ có thể vươn lên khỏi những ràng buộc của truyền thống, trước hết là trong con tim, sau đó là đến suy nghĩ".
Đã có những nhà thơ sáng tác thơ trả lời hoặc gửi tặng T.T.Kh., đi xa hơn thì nhận có quen biết với tác giả, như "Màu máu Tigôn", "Dang dở", "Các anh" (hay "Gửi T.T.Kh.") của Thâm Tâm; "Dòng dư lệ" (hay "Cô gái vườn Thanh") của Nguyễn Bính;... J. Leiba từng chép nguyên văn bài thơ "Hai sắc hoa Ti-gôn" hoặc "Đan áo cho chồng" đăng lên tờ Hà Thành ngọ báo, với lời nhắn gửi (hoặc do ông in lại từ tác giả khác) bằng thơ dành cho T.T.Kh. dài 4 câu. Trong số những bài thơ của T.T.Kh., "Hai sắc hoa Ti-gôn" được nhận định là tác phẩm tiêu biểu, nổi tiếng nhất và là một trong những bài thơ tình hay nhất thi ca Việt Nam. Theo nhà phê bình văn học Thụy Khuê, bài thơ này đã mở đường cho một lối lãng mạn khác với các thi sĩ cùng đề tài như Đông Hồ, Tương Phố: khóc cho tình yêu, cho người ngoài hôn phối và là một "giọt lệ tương tư mới". Nhà phê bình đồng thời ghi nhận đây là lần đầu tiên hai chữ "người ấy" được đưa vào thơ ca Việt Nam, trở nên "cổ điển" và là "ngôn ngữ gối đầu giường của giới trẻ trong nhiều thế hệ". "Bài thơ cuối cùng" cũng được bà xem như một tác phẩm "huyền thoại" với những lời trách móc "u uẩn" bằng nhịp điệu du dương, lời tha thiết và gắn bó.
Nhờ "Hai sắc hoa Ti-gôn", tên tuổi T.T.Kh. gắn liền với hình ảnh hoa tigôn – được xem như là biểu tượng của tình yêu và đóng vai trò là nguồn cảm hứng cho thơ ca hậu thế, cũng như đi vào âm nhạc Việt Nam khi được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc lại như Trần Thiện Thanh, Hà Phương, Trần Trịnh và Anh Bằng, Từ Vũ, Song Ngọc,... Phạm Duy đã nhại lại bài thơ trong Tục ca số 2 "Tình Hôi", thu âm trước 1975. Sau năm 1954, những người dân di cư vào Nam chuyền tay nhau bài thơ trên của T.T.Kh. và tạo nên xúc động mạnh cho thế hệ bấy giờ. Khoảng giữa thập niên 1970, trong Nam Bộ rộ lên phong trào in lại những tác phẩm văn học của các tác giả trước 1945 và văn thơ cách mạng. Danh tiếng T.T.Kh. đã trở nên phổ biến hơn qua phong trào này với việc thơ tác giả, trong đó có "Hai sắc hoa Ti-gôn", được in theo loại cánh bướm xếp gọn dễ phổ biến và bán với giá rẻ. Nhiều người đã học thuộc lòng bài thơ; khổ cuối bài cũng được nhiều người chế lại, trong đó có bài được cho là của Hồ Dzếnh.
Vào năm 2010, Trần Đình Thu tiết lộ kế hoạch chuyển thể câu chuyện T.T.Kh. lên phim, dựa theo tìm hiểu của ông từ cuốn sách Giải mã nghi án văn học T.T.Kh. Ông đã viết xong một kịch bản điện ảnh dài 110 phút mang tên "Chuyện tình Hai sắc hoa ti gôn", sau đó kịch bản này được Phạm Thùy Nhân biên tập lại suốt nhiều tháng và gửi cho một hãng phim, dự kiến sẽ do Lê Cung Bắc đạo diễn. Tuy nhiên, việc thực hiện phim bị đình lại do tác phẩm chỉ chủ yếu dành cho đối tượng là những người trên 40 tuổi và do đó khó đem lại lợi nhuận cho nhà sản xuất. Năm 2017, bài thơ "Hai sắc hoa Ti-gôn" và câu chuyện của T.T.Kh. với Thâm Tâm được dựng thành vở kịch bolero do đạo diễn Ngọc Tưởng thực hiện. Vở kịch này là một phần của chương trình truyền hình Kịch cùng Bolero, với hai diễn viên thể hiện là Lê Phương và Trung Dũng.
Chú thích
Ghi chú
Tham khảo
Nguồn
Đọc thêm
Nhà thơ Việt Nam thời Pháp thuộc
Năm sinh thiếu
Phong trào thơ mới
Người không xác định
Nhà thơ tiền chiến
|
24965
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%B9a%20Gi%C3%A1c%20Vi%C3%AAn
|
Chùa Giác Viên
|
Chùa Giác Viên (覺圓寺) hay tổ đình Giác Viên (覺圓祖庭) còn có tên là chùa Hố Đất (vì trước đây ở bên rạch Hố Đất) là một ngôi cổ tự; hiện tọa lạc tại số 161/35/20 đường Lạc Long Quân, phường 3, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Chùa được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia theo quyết định số 43 – VH/QĐ ngày 7 tháng 1 năm 1993.
Lịch sử về chùa
Năm Mậu Ngọ (1798), chùa Giác Lâm được Thiền sư Tổ Tông-Viên Quang (đời thứ 36, trụ trì: 1774 - 1827) cho trùng tu lớn, gần như là làm mới lại tất cả. Gỗ xây dựng chùa được chở từ rừng về bằng đường sông, theo rạch Hố Đất (tức rạch Tân Hòa) vào rạch Ông Bường, rồi đỗ ở bến mà sau này là vị trí của chùa Giác Viên ngày nay.
Sau khi cưa xẻ, những cây ván được đưa về chùa Giác Lâm (cách đó khoảng 2 km) bằng xe trâu. Công trình đại trùng tu đó kéo dài khoảng 6 năm mới xong (1798–1804). Trong khoảng thời gian đó, một ông hương đăng già (lo việc nhang đèn trong chùa, không rõ họ tên) được cử đến trông coi việc cưa xẻ và giữ gìn cây gỗ. Đến đây ông dựng một cốc nhỏ (bên trong có thờ Bồ Tát Quán Thế Âm) vừa làm nơi tu, vừa để lo cho công việc. Đến khi chùa Giác Lâm được trùng tu xong, Thiền sư Tổ Tông-Viên Quang cho sửa am thành chùa, đặt tên là Viện Quan Âm.
Năm Canh Tuất (1850), Hòa thượng trụ trì chùa Giác Lâm lúc bấy giờ là Tiên Giác Hải Tịnh (đời thứ 37, trụ trì: 1827 - 1869) cho trùng tu viện thành chùa, đổi tên lại là Giác Viên.
Năm Nhâm Tý (1852), ông hương đăng già (là người sáng lập và trông coi chùa Giác Viên) mất, Hòa thượng Tiên Giác-Hải Tịnh cử đệ tử là Thiền sư Minh Vi-Mật Hạnh (đời thứ 38) làm trụ trì, đồng thời cho đặt cơ sở học tập khoa ứng phú tại đó .
Năm 1869, Hòa thượng Tiên Giác-Hải Tịnh thấy mình đã già yếu, nên đưa Thiền sư Minh Vi-Mật Hạnh về làm trụ trì chùa Giác Lâm, đồng thời cử một đệ tử khác là Thiền sư Minh Khiêm-Hoằng Ân (đời thứ 38) sang trụ trì chùa Giác Viên. Sau đó, lần lượt các đời trụ trì chùa là: Như Nhu-Chân Không, Như Phòng-Hoằng Nghĩa, Hồng Từ-Huệ Nhơn, Thích Thiện Phú,...
Kiến trúc, thờ phụng, cổ vật
Chùa Giác Viên được trùng tu lớn vào năm 1958, 1961, 1962. Diện mạo chùa hiện nay có kiến trúc tương tự như chùa Giác Lâm, phật điện ở giữa chùa, hai bên có 2 dãy nhà. Ngoài ra, trong khuôn viên chùa còn có những dãy nhà phụ làm lớp học, trai đường, nhà bếp,...và khu tháp mộ.
Chùa có tất cả 153 pho tượng lớn nhỏ (đa số bằng gỗ), 57 bao lam (cửa võng) và 60 phù điêu. Hầu hết các cổ vật này được chạm khắc vào thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Nét đặc biệt trong kiến trúc chùa Giác Viên là bộ sườn gỗ chạm trổ tinh vi, tiêu biểu cho kiến trúc cổ truyền tại miền Nam Việt Nam.
Chánh điện thờ đến 120 pho tượng, đáng chú ý có các tượng và bộ tượng: A Di Đà, Bồ Tát Di Lặc, Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, Thập Điện Diêm Vương (10 tượng), Thập Bát La Hán (18 tượng). Ngoài ra, ở bàn thờ Tổ, có ba tượng chân dung của ba vị trụ trì là: Tiên Giác-Hải Tịnh, Như Nhu-Chân Không, và Như Phòng-Hoằng Nghĩa .
Ngoài số cổ vật ấy, chùa còn lưu giữ một chiếc giá võng của triều đình nhà Nguyễn tặng hòa thượng Tiên Giác-Hải Tịnh, và một gốc mai cổ thụ. Theo Gia Định xưa, thì gốc mai này "nguyên lấy giống cây mai của ông Mạc Cửu đem từ Trung Quốc sang Việt Nam".
Ảnh có liên quan
Xem thêm
Chùa Giác Lâm
Tổ Tông-Viên Quang
Tiên Giác-Hải Tịnh
Sách tham khảo chính
Thích Thanh Từ, Thiền sư Việt Nam. Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành, 1992.
Vương Hồng Sển, Sài Gòn năm xưa. Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1991.
Huỳnh Minh, Gia Định xưa (1973), Nhà xuất bản Thanh Niên in lại năm 2001.
Nguyễn Hiền Đức, Lịch sử Phật giáo Đàng Trong, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1995.
Giáo trình Kiến thức phục vụ du lịch, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1995.
Chú thích
Liên kết ngoài
Chùa Giác Viên trên website Phật giáo Việt Nam
Giác Viên
Quận 11
|
24968
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ho%C3%A0ng%20%C4%90%E1%BA%BF
|
Hoàng Đế
|
Hoàng Đế (Trung phồn thể: 黃帝, Trung giản thể: 黄帝, bính âm: huángdì), còn gọi là Hiên Viên Hoàng Đế (軒轅黃帝), là một vị quân chủ huyền thoại và là anh hùng văn hoá của Văn minh Trung Hoa, được coi là thủy tổ của mọi người Hán. Chữ Hoàng (黃) ở đây hàm nghĩa sắc vàng, là màu biểu trưng cho hành Thổ. Hiểu nôm na "Hoàng Đế" là "Vua Vàng", khác với Hoàng (皇) trong Hoàng đế, là danh xưng của các quân chủ kể từ thời nhà Tần (xem bài Tần Thủy Hoàng).
Hoàng Đế thường được coi là một trong Tam Hoàng hoặc Ngũ Đế. Theo huyền sử Trung Quốc, ông trị vì trong khoảng 2698 TCN đến 2599 TCN và là người sáng lập ra nền văn minh Trung Quốc. Theo truyền thuyết, việc ông rút về phía tây tại trận Trác Lộc (涿鹿) đánh thủ lĩnh Xi Vưu là cái mốc hình thành người Hán.
Nguồn gốc tên gọi
Trước khi Tần Thủy Hoàng lập ra danh hiệu Hoàng đế, thì từ Đế thời kì này dùng để chỉ Thượng đế trong tín ngưỡng nhà Thương. Vào thời Chiến Quốc, danh từ Đế dùng để chỉ các vị thần của những ngọn núi thiêng, trong đó Hoàng Đế (ý nói Vua Vàng) chính là một trong số đó.
Cuối thời Chiến Quốc, Hoàng Đế dần mang tính vũ trụ học của học thuyết ngũ hành, và màu vàng tượng trưng cho thuộc tính Thổ, cũng mang ý nghĩa trung tâm. Việc này cũng được đề cập trong Lã Thị Xuân Thu.
Căn cứ vào khảo cổ học, ghi chép sớm nhất về Hoàng Đế là dựa trên một Kim văn nước Tề thời Chiến Quốc. Trong Sử ký của Tư Mã Thiên, ông cũng đề cập đến việc nước Tần đã tôn thờ một tín ngưỡng Hoàng Đế cùng với Viêm Đế. Bàn thờ cúng đã được tìm thấy tại vùng ngày nay là quận Phượng Tường, Thiểm Tây nơi mà xa xưa từng là kinh đô của nước Tần.
Và cũng trong Sử ký, Tư Mã Thiên đã tổng hợp những thông tin rải rác về Hoàng Đế khi ấy và tổng hợp nên một nhân vật thần thoại và có các thành tựu như ta đã biết ngày nay. Chính những bước đầu tiên này, Sử ký đã có ảnh hưởng sâu rộng đến cái nhìn lịch sử Trung Quốc cổ đại không chỉ với người Trung Hoa mà còn đối với các nước đồng văn.
Thân thế
Hoàng Đế có họ là Công Tôn thị (公孫氏), do sống ở gò tên gọi Hiên Viên (軒轅) nên từ đó ông được gọi là Công Tôn Hiên Viên (公孫軒轅), là con của Thiếu Điển và con gái bộ tộc Hữu Kiểu là Phù Bửu (附寶). Mẹ ông đã nằm mơ thấy sao Bắc Đẩu rớt vào mình mà thụ thai sinh ra ông.
Thuở nhỏ, ông rất thông minh, có tính thần linh, dáng vẻ ngoài rất kỳ dị, khi còn bọc trong tã đã biết nói, lớn lên cần cù hiểu biết sáng suốt, thường khuyên người đồng thời lo làm lành và tu ngũ đức, được bầu làm tù trưởng bộ lạc Hữu Hùng (有熊氏). Hoàng Đế sinh ra ở đất Thọ Khâu (nay thuộc tỉnh Sơn Đông) sau chuyển đến sống ở ven sông Cơ Thủy, từ đó mới lấy tên sông làm họ Cơ (姬).
Cai trị
Chiến tranh với Xi Vưu
Cách đây hơn 4000 năm, ở lưu vực Hoàng Hà và Trường Giang có nhiều thị tộc và bộ lạc sinh sống. Hoàng Đế là một trong những thủ lĩnh bộ lạc nổi tiếng nhất trong truyền thuyết.
Bộ lạc Thiếu Điển, do Hoàng Đế làm thủ lĩnh, ban đầu sống ở vùng Cơ Thủy thuộc tây bắc Trung Quốc, sau dời tới vùng Trác Lộc bắt đầu định cư, phát triển chăn nuôi và trồng trọt. Viêm Đế Thần Nông Thị là thủ lĩnh một bộ lạc khác đồng thời với Hoàng Đế, cư trú tại vùng Khương Thủy ở tây bắc Trung Quốc. Theo truyền thuyết Trung Hoa thì Viêm Đế có họ hàng thân tộc với Hoàng Đế. Còn Xi Vưu là thủ lĩnh bộ tộc Cửu Lê. Họ chế tạo ra các loại vũ khí như đao, kích, cung, nỏ, thường dẫn bộ lạc đi xâm chiếm, cướp phá các bộ lạc khác.
Có lần, Xi Vưu xâm chiếm vùng đất của Viêm Đế. Viêm Đế đem quân chống lại nhưng thất bại. Viêm Đế đành chạy đến Trác Lộc, xin Hoàng Đế giúp đỡ. Hoàng Đế liên kết các bộ lạc, chuẩn bị lương thực, vũ khí, triển khai một trận quyết chiến với Xi Vưu trên cánh đồng Trác Lộc.
Về trận đại chiến này, đã có nhiều truyền thuyết, khi quân của Hoàng Đế thừa thắng đuổi theo quân của Xi Vưu, trời bỗng nổi cuồng phong, là do Xi Vưu đã được sự giúp đỡ của thần gió, thần mưa. Hoàng Đế cũng nhờ Thiên Nữ giúp đỡ. Cuối cùng, Xi Vưu bại vong.. Từ đó, Hoàng Đế được nhiều bộ lạc ủng hộ. Nhưng sau đó 2 bộ lạc của Hoàng Đế và Viêm Đế lại nảy ra xung đột, hai bên đánh nhau một trận ở Phản Tuyền, Viêm Đế thất bại. Từ đó Hoàng Đế trở thành thủ lĩnh của liên minh bộ lạc các vùng Trung Nguyên.
Trong các truyền thuyết cổ đại Trung Quốc, Hoàng Đế rất được tôn sùng. Người đời sau đều cho rằng Hoàng Đế là thủy tổ của người Hoa Hạ (tức dân tộc Hán ngày nay) và coi mình là con cháu của Hoàng Đế. Viêm Đế và Hoàng Đế vốn thân thuộc nên sau này hai bộ lạc lại hoà hợp, nên người Trung Quốc thường tự xưng mình là con cháu Viêm-Hoàng, họ tự gọi mình là Viêm Hoàng tử tôn (炎黃子孫).
Để kỉ niệm vị tổ tiên chung đó, người ta xây lăng Hoàng Đế ở Kiều Sơn, phía bắc huyện Hoàng Lăng tỉnh Thiểm Tây. Từ sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất, mỗi năm đều có lễ cúng bái lăng Hoàng Đế, được liệt vào hàng Đại điển, vì vậy được gọi là Thiên hạ đệ nhất lăng (天下第一陵). Nhưng thực tế trong lăng chỉ có y quan chôn để tượng trưng mà thôi.
Có truyền thuyết kể rằng, sau khi Hoàng Đế băng hà, một đêm Rồng thiêng đáp xuống tẩm cung đón Hoàng Đế lên trời. Để đáp lại công lao của ông, ông được phong thần, trở thành Ngọc Hoàng.
Thành tựu
Thời Hoàng Đế có nhiều phát minh sáng tạo (trong truyền thuyết) của nhiều người nhưng được quy chung cho Hoàng Đế như làm nhà, đóng xe thuyền, may được quần áo ngũ sắc, chế kim chỉ nam, làm lịch, y thuật (Hoàng Đế nội kinh tương truyền là của Hoàng Đế và Kỳ Bá). Lịch cổ Trung Quốc lấy mốc bắt đầu từ Hoàng Đế.
Theo sách Hoài Nam Tử, Hoàng Đế còn có một sử quan tên là Thương Hiệt, đã sáng tạo ra chữ viết cổ. Tuy nhiên, người ta chưa được thấy chữ viết thời đó nên không có cách gì chứng minh cho việc này.
Theo truyền thuyết, Hoàng Đế có người vợ đầu tên là Luy Tổ, hay Loa Tổ (螺祖), là người đã dạy cho phụ nữ nuôi tằm, kéo tơ, dệt lụa. 累 hay 螺 đều có chữ 糸 mịch tức sợi tơ nhỏ. Tuy nhiên, một số người cho rằng các tên trên có thể phiên sai từ Lôi Tổ (雷祖), nghĩa là bà Tổ Sấm. Theo Sơn Hải kinh (山海經), Luy Tổ sinh Xương Ý, Ý sinh Hàn Lưu, và Hàn Lưu sinh ra Chuyên Húc (Cao Dương Thị) vậy. Ông có thứ phi là Mô Mẫu (嫫母), thuộc Tây Lăng Thị (西陵氏), bà tuy không có nhan sắc nhưng đức hành cao thượng, được Hoàng Đế kính trọng. Ngoài ra, ông còn thêm 2 bà phi tên Phong Luy (封嫘), Đồng Ngư (彤魚) và 10 vị tần khác.
Ông có tổng cộng 25 người con, và được phân ra các họ khác nhau, gồm 12 họ là: Cơ (姬), Dậu (酉), Kì (祁), Kỉ (己), Đằng (滕), Dự (葴), Nhậm (任), Tuân (荀), Hi (僖), Cật (姞), Huyên (儇) và Hi (衣). Do vậy, từ đời Thiếu Hạo đến về sau nữa là nhà Chu đều có chung dòng dõi tổ tiên là Hoàng Đế. Theo Sơn Hải kinh (山海經), các tộc Bắc Địch, Khuyển Nhung và Đông Di cũng đều là con cháu của Hoàng Đế.
Cũng có truyền thuyết khác kể rằng Rồng xuất hiện từ thời này. Ngày đó mỗi bộ lạc đều lấy hình một con vật là Tộc Huy cho bộ lạc của mình. Và bộ lạc của Hoàng Đế chọn con rắn.
Sau mỗi lần thu phục 1 bộ lạc, Hoàng Đế sẽ trích 1 phần Tộc Huy của bộ lạc đó để thêm vào Tộc Huy của bộ lạc mình. Như một cách tượng trưng cho chiến thắng và uy danh. Vì vậy nên Tộc Huy của Hoàng Đế có thêm Sừng Nai, Mặt Ngựa, Vẩy Cá, Móng Chim Ưng. Lâu dần biến đổi thành Rồng.
Tầm quan trọng của Hoàng Đế
Qua đó, ta thấy thời vua Hoàng Đế diễn ra một biến cố quan trọng trong lịch sử và chính trị và xã hội của Trung Hoa cổ xưa.
Trong văn hóa Trung Hoa, Hoàng Đế được coi là người tạo ra nhiều di sản và học thuyết. Trong khi nhiều học giả phương tây cho rằng các học thuyết của Đạo giáo đều xuất phát từ Lão Tử, thì những người theo Đạo giáo Trung Hoa lại tự cho rằng những lý thuyết và triết lý Đạo giáo bắt nguồn từ Hoàng Đế. Cuốn Hoàng Đế nội kinh (黄帝内經), một cuốn sách thuộc hàng kinh điển trong Đông y được đặt theo tên của ông. Ngoài ra, ông cũng được nhìn nhận đã viết ra Hoàng Đế tứ kinh (黄帝四經), Hoàng Đế âm phù kinh (黄帝陰符經).
Vào thế kỷ thứ II, vai trò thần thánh của Hoàng Đế dần mất đi bởi một hình ảnh đang nổi lên là Lão Tử. Dẫu vậy, hình tượng Hoàng Đế không hề mất đi với vai trò là một thần linh tối cao và biểu thị cho sự trường thọ.
Chú thích
Sử ký - Tư Mã Thiên
Hán thư - Nhà họ Ban
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
Liên kết ngoài
Hoàng Đế vương triều
Người chơi đàn cổ cầm
Đạo giáo
Anh hùng văn hóa
Thần thoại Trung Hoa
Người thọ bách niên Trung Quốc
|
24971
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A2n
|
Nhân
|
Nhân có thể có các nghĩa:
Phần ở giữa của một vật có nhiều lớp. Ví dụ nhân bánh ngọt là phần nằm giữa một bánh ngọt. Cách dùng "Nhân" theo nghĩa này có thể có gốc Hán Việt (堙) nghĩa là thứ bị vùi lấp bên trong.
Trong tế bào, xem nhân tế bào, Lỗ nhân
Phần ở chính giữa cấu trúc hành tinh, ví dụ Trái Đất, xem nhân hành tinh, lõi Trái Đất,...
Phần giữa của một nguyên tử, xem hạt nhân nguyên tử
Trong khoa học máy tính, hạt nhân là phần của hệ điều hành giao diện với phần cứng, ví dụ hạt nhân Linux.
Hạnh nhân tên một loại hạt cây
Nhân thực
Nhân sơ
Nhân mụn
Từ Hán Việt
Nghĩa là người: 人, như trong nhân loại, nhân ái, nhân khẩu, nhân quyền, nhân viên, nhân danh, nhân dân, nhân tình, nhân sanh, nhân tài, nhân sự, nhân dương, nhân vương, nhân vật, nhân công, nhân lực, nhân gian, nhân chủng, nhân chứng, nhân sỹ, nhân duyên, nhân hóa, nhân dạng, nhân kiệt, nhân ngư, nhân tố, nhân tính, nhân thân, nhân nhượng, nhân họa, nhân giới, Nhân bản, Nhân Bạng Ba, Nhân mã, Nhân mãn, nhân tạo, nhân điện, nhân tửu, nhân hảo, nhân vị, nhân thọ, nhân khí, nhân tượng, nhân ảnh, nhân mỹ, nhân ngưu, nhân mệnh, nhân mạng, nhân thần, nhân trùng.
Tên một số loại thực vật như: Bá tử nhân, Sa nhân đỏ, Nhân trần hao, Nhân trần, Nhân sâm , Hỏa ma nhân, Đào Nhân.
Nhân hương phương
Nhân sư tên một bức tượng ở Ai Cập.
Nghĩa là lý do: 因, như trong nguyên nhân, nhân quả, tác nhân.
Vô nhân vị
Nghĩa là đạo lý làm người, yêu người không lợi riêng mình: 仁, như trong nhân đạo, nhân đức, nhân tâm, nhân cách, nhân nghĩa, nhân hiếu, nhân hiền, nhân từ, nhân hậu, nhân hòa, nhân phẩm.
Chỉ hai sự kiện, hành động đi liền nhau, có liên quan mật thiết với nhau, ví dụ như:nhân dịp năm mới...; nhân khi lửa tắt cơm sôi...;...
Nhân (Nhơn) là một bậc trong Ngũ Chi Đại Đạo
Tên người như: Tào Nhân
Nhân tướng học
Địa điểm: Tụ Nhân, Đồng nhân
Cách gọi xưng hô trong thời phong kiến xưa như quan nhân, giai nhân, mỹ nhân, quả nhân, tiểu nhân, đại nhân (thượng nhân), hiền nhân, thập nhân, tiền nhân, hậu nhân, tư nhân, thánh nhân, thi nhân, thân nhân, tình nhân, quái nhân, tù nhân, phạm nhân, văn nhân, sát nhân, gia nhân, chủ nhân, nam nhân, nữ nhân, miêu nhân, cổ nhân, cố nhân, thuyền nhân, truyền nhân, phu nhân, nghệ nhân, dị nhân, hình nhân, thế nhân, kỳ nhân, phế nhân, mộc nhân, mục nhân, bất nhân, tội nhân, bệnh nhân, thể nhân, thú nhân, ác nhân, thiện nhân, quý nhân, cứu nhân, độ nhân, ân nhân, tiên nhân, chính nhân, thương nhân, dã nhân, chân nhân, vĩ nhân, danh nhân, thần nhân, tăng nhân, ái nhân, Trung nhân (Á nhân), phàm nhân, yếu nhân, giao nhân, Tiện nhân, Hôn nhân, Cơ nhân, tu nhân, siêu nhân, vô nhân, võ nhân, thất nhân, giả nhân, đao nhân, cử nhân, yêu nhân, nhũ nhân, phụ nhân, Cơ đốc nhân, Thiên nhân, nạn nhân, vong nhân, đội nhân, lão nhân, phi nhân, tặc nhân, đạo nhân, phúc nhân, tượng nhân, linh nhân, lãng nhân, Long nhân, đức nhân.
Cao nhân có 2 nghĩa là tên tỉnh, chỉ người.
Cá nhân có nhiều nghĩa như cá nhân luận, cá nhân, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tự do cá nhân, cá nhân hóa.
Nghề nghiệp như quân nhân, công nhân, doanh nhân...
Pháp nhân liên quan đến pháp luật.
Đại từ nhân xưng
Tứ nhân bang
Trong toán học
Phép toán cơ bản, theo định nghĩa đơn sơ nhất là: (Phép) nhân là (phép) cộng nhiều số hạng bằng nhau. Ví dụ như nhân đôi, nhân ba...
Nhân tử là một phần tử thành phần của phép toán nhân.
Phát triển về số lượng từ một lượng nhỏ ban đầu, ví dụ: nhân giống, nhân vốn,...
Từ Nhân trong quan điểm của Nho giáo.
Nhân văn có nhiều nghĩa như nhân văn học, nhân văn số, Chủ nghĩa nhân văn, nhân văn giai phẩm.
Nhân trung
Có thể tên một loại tiền tệ như nhân dân tệ, tên tờ báo như báo nhân dân, chính thể nhà nước như cộng hòa nhân dân, cộng hòa dân chủ nhân dân. Danh hiệu cao quý trao cho một người đóng góp cho lĩnh vực đời sống và đất nước, nhân dân như nghệ sỹ nhân dân, nhà giáo nhân dân, thầy thuốc nhân dân. Ngoài ra từ nhân dân xuất hiện ở công an nhân dân, quân đội nhân dân.
Nhân chủng học
Tác phẩm thi nhân Việt Nam
Chức vụ quan ngày xưa như đoan nhân, thuận nhân, thục nhân, trinh nhân, huy nhân, thạc nhân, lệnh nhân, cung nhân, nghi nhân, an nhân, nhụ nhân, tĩnh nhân, thận nhân, túc nhân, cẩn nhân, ôn nhân, huệ nhân, tài nhân, toại nhân.
Xem thêm
Thần (định hướng)
Thánh (định hướng)
Tiên (định hướng)
Phật (định hướng)
|
24978
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tri%20th%E1%BB%A9c
|
Tri thức
|
Tri thức hay kiến thức (tiếng Anh: knowledge) bao gồm những kiến thức, thông tin, sự hiểu biết, hay kỹ năng có được nhờ trải nghiệm,thông qua giáo dục hay tự học hỏi. Trong tiếng Việt, cả "tri" lẫn "thức" đều có nghĩa là biết. Tri thức có thể chỉ sự hiểu biết về một đối tượng, về mặt lý thuyết hay thực hành. Nó có thể ẩn tàng, chẳng hạn những kỹ năng hay năng lực thực hành, hay tường minh, như những hiểu biết lý thuyết về một đối tượng; nó có thể ít nhiều mang tính hình thức hay có tính hệ thống. Mặc dù có nhiều lý thuyết về tri thức, nhưng hiện không có một định nghĩa nào về tri thức được tất cả mọi người chấp nhận.
Sự thành tựu tri thức liên quan đến những quá trình nhận thức phức tạp: tri giác, truyền đạt, liên hệ, và suy luận. Trong triết học, ngành nghiên cứu về tri thức được gọi là tri thức luận.
Kiến thức có thể đề cập đến một sự hiểu biết lý thuyết hoặc thực tế về một chủ đề. Nó có thể là ẩn (như với kỹ năng thực tế hoặc chuyên môn) hoặc rõ ràng (như với sự hiểu biết lý thuyết về một chủ đề); chính thức hoặc không chính thức; có hệ thống hoặc đặc biệt. Nhà triết học Plato nổi tiếng đã chỉ ra sự cần thiết phải phân biệt giữa kiến thức và niềm tin thực sự trong tác phẩm Theaetetus, khiến nhiều người gán cho ông một định nghĩa về kiến thức là " niềm tin thực sự chính đáng ". Những khó khăn với định nghĩa này được nêu ra bởi vấn đề Gettier đã là chủ đề của cuộc tranh luận rộng rãi trong nhận thức luận trong hơn nửa thế kỷ.
Lý thuyết về tri thức
Định nghĩa về tri thức là vấn đề tranh luận đang diễn ra giữa các nhà triết học trong lĩnh vực nhận thức luận. Định nghĩa cổ điển, được mô tả nhưng cuối cùng không được Plato tán thành, chỉ định rằng một tuyên bố phải đáp ứng ba tiêu chí để được coi là kiến thức: nó phải được chứng minh, đúng dắn và tin cậy. Một số người cho rằng những điều kiện này là không đủ, như ví dụ vấn đề Gettier bị cáo buộc phải chứng minh. Có một số giải pháp thay thế được đề xuất, bao gồm các lập luận của Robert Nozick cho một yêu cầu rằng kiến thức 'theo dõi sự thật' và yêu cầu bổ sung của Simon Blackburn mà chúng tôi không muốn nói rằng những gì đáp ứng bất kỳ điều kiện nào trong số này 'thông qua một khiếm khuyết, lỗ hổng, hoặc thất bại ' có kiến thức trong đó. Richard Kirkham cho rằng định nghĩa về kiến thức của chúng ta đòi hỏi bằng chứng cho niềm tin cần có sự thật của nó.
Trái ngược với cách tiếp cận này, Ludwig Wittgenstein quan sát, theo nghịch lý Moore, người ta có thể nói "Ông tin điều đó, nhưng không phải vậy", nhưng không phải "Ông biết điều đó, nhưng không phải vậy". Ông tiếp tục lập luận rằng những điều này không tương ứng với các trạng thái tinh thần riêng biệt, mà là những cách nói riêng biệt về niềm tin. Điều khác biệt tai đây không phải là trạng thái tinh thần của người nói, mà là hoạt động mà họ tham gia. Ví dụ, trên tài khoản này, để biết rằng ấm đang sôi không phải ở trong một trạng thái tâm trí cụ thể, mà là để thực hiện một nhiệm vụ cụ thể với tuyên bố rằng ấm đang sôi. Wittgenstein đã tìm cách bỏ qua những khó khăn của định nghĩa bằng cách tìm đến cách "kiến thức" được sử dụng trong các ngôn ngữ tự nhiên. Ông thấy kiến thức là một trường hợp giống với gia đình. Theo ý tưởng này, "kiến thức" đã được xây dựng lại như một khái niệm cụm chỉ ra các tính năng có liên quan nhưng điều đó không được nắm bắt đầy đủ bởi bất kỳ định nghĩa nào.
Truyền tải tri thức
Tiếp thu kiến thức bao gồm các quá trình nhận thức phức tạp; không chỉ nhận thức và lý luận, mà còn giao tiếp.
Các biểu tượng tượng trưng có thể được sử dụng để biểu thị ý nghĩa và có thể được coi là một quá trình động. Do đó việc chuyển giao các đại diện mang tính biểu tượng có thể được xem như là một gán ghép quá trình theo đó kiến thức có thể được chuyển giao. Các hình thức giao tiếp khác bao gồm quan sát và bắt chước, trao đổi bằng lời nói và ghi âm thanh và video. Các nhà triết học về ngôn ngữ và ký hiệu học xây dựng và phân tích các lý thuyết về chuyển giao kiến thức hoặc giao tiếp.
Mặc dù nhiều người đồng ý rằng một trong những công cụ phổ biến và quan trọng nhất để chuyển giao kiến thức là viết và đọc (nhiều cách), tuy nhiên, tranh luận về tính hữu dụng của từ viết vẫn tồn tại, với một số học giả nghi ngờ về tác động của nó đối với xã hội. Trong bộ sưu tập các bài tiểu luận Technopoly, Neil Postman thể hiện lập luận chống lại việc sử dụng văn bản thông qua một đoạn trích từ tác phẩm của Plato Phaedrus (Postman, Neil (1992) Technopoly, Vintage, New York, tr. 73). Trong đoạn trích này, học giả Socrates kể lại câu chuyện về Thamus, nhà vua Ai Cập và Theuth, người phát minh ra chữ viết. Trong câu chuyện này, Theuth trình bày phát minh mới của mình "viết" cho vua Thamus, nói với Thamus rằng phát minh mới của ông "sẽ cải thiện cả trí tuệ và trí nhớ của người Ai Cập" (Postman, Neil (1992) Technopoly, Vintage, New York, tr. 74). Vua Thamus hoài nghi về phát minh mới này và từ chối nó như một công cụ hồi ức hơn là giữ lại kiến thức. Ông lập luận rằng chữ viết sẽ lây nhiễm cho người Ai Cập kiến thức giả vì họ sẽ có thể đạt được các sự kiện và câu chuyện từ một nguồn bên ngoài và sẽ không còn bị buộc phải giữ lại một lượng lớn kiến thức (Postman, Neil (1992) Technopoly, Cổ điển, New York, tr. 74).
Các lý thuyết hiện đại cổ điển về kiến thức, đặc biệt là những lý thuyết thúc đẩy chủ nghĩa kinh nghiệm có ảnh hưởng của nhà triết học John Locke, được dựa hoàn toàn hoặc rõ ràng trên một mô hình của tâm trí giống như ý tưởng với từ ngữ. Sự tương đồng giữa ngôn ngữ và ý nghĩ đã đặt nền tảng cho một quan niệm đồ họa về kiến thức trong đó tâm trí được coi là một cái bàn, một vật chứa nội dung, phải được lưu trữ với các sự kiện được giảm xuống thành chữ, số hoặc ký hiệu. Điều này tạo ra một tình huống trong đó sự liên kết không gian của các từ trên trang mang trọng lượng nhận thức rất lớn, đến nỗi các nhà giáo dục đã rất chú ý đến cấu trúc trực quan của thông tin trên trang và trong sổ ghi chép.
Các thư viện lớn ngày nay có thể có hàng triệu cuốn sách kiến thức (ngoài các tác phẩm hư cấu). Chỉ gần đây, công nghệ âm thanh và video để ghi lại kiến thức đã có sẵn và việc sử dụng chúng vẫn cần thiết bị phát lại và điện. Dạy bằng lời nói và truyền đạt kiến thức chỉ giới hạn ở những người có liên hệ với người truyền hoặc người có thể giải thích công việc bằng văn bản. Viết vẫn là phổ biến nhất và phổ biến nhất trong tất cả các hình thức ghi lại và truyền tải kiến thức. Nó không bị cản trở khi công nghệ tri thức chính của nhân loại được truyền qua các thời đại và cho tất cả các nền văn hóa và ngôn ngữ trên thế giới.
Tri thức định vị
Kiến thức định vị là kiến thức cụ thể cho một tình huống cụ thể. Nó được Donna Haraway sử dụng như một phần mở rộng của các phương pháp tiếp cận nữ quyền của "khoa học kế nhiệm" được đề xuất bởi Sandra Harding, một trong đó "cung cấp một tài khoản tốt hơn, phong phú hơn, tốt hơn về một thế giới, để sống tốt và quan trọng, phản xạ quan hệ với thực tiễn thống trị của chính chúng ta cũng như của người khác và các phần bất bình đẳng của đặc quyền và áp bức tạo nên tất cả các vị trí. " Tình huống này một phần biến khoa học thành một câu chuyện kể, mà Arturo Escobar giải thích là "không phải hư cấu cũng không phải là sự thật." Câu chuyện kể về tình huống này là kết cấu lịch sử được dệt bằng thực tế và hư cấu, và như Escobar giải thích thêm, "ngay cả những lĩnh vực khoa học trung lập nhất cũng là những câu chuyện theo nghĩa này," nhấn mạnh rằng thay vì mục đích coi khoa học là một vấn đề tầm thường, "nó là đối xử (kể chuyện này) theo cách nghiêm túc nhất, không chịu khuất phục trước sự bí ẩn của nó là 'sự thật' hay sự hoài nghi mỉa mai phổ biến đối với nhiều nhà phê bình. "
Lập luận của Haraway bắt nguồn từ những hạn chế trong nhận thức của con người, cũng như sự quá coi trọng ý thức về tầm nhìn trong khoa học. Theo Haraway, tầm nhìn trong khoa học đã được "sử dụng để biểu thị một bước nhảy vọt ra khỏi cơ thể được đánh dấu và nhìn vào một cái nhìn chinh phục từ hư không." Đây là "cái nhìn khắc họa huyền thoại tất cả các cơ quan được đánh dấu, khiến cho thể loại không được đánh dấu khẳng định sức mạnh để nhìn và không được nhìn thấy, để thể hiện trong khi thoát khỏi đại diện." Điều này gây ra sự hạn chế về quan điểm ở vị trí của khoa học như một người chơi tiềm năng trong việc tạo ra kiến thức, dẫn đến vị trí "nhân chứng khiêm tốn". Đây là những gì Haraway gọi là "trò lừa thần", hoặc đại diện đã nói ở trên trong khi thoát khỏi đại diện. Để tránh điều này, "Haraway tiếp tục truyền thống tư tưởng, trong đó nhấn mạnh tầm quan trọng của chủ đề về cả trách nhiệm đạo đức và chính trị". Một số phương pháp tạo kiến thức, chẳng hạn như thử và sai, hoặc học hỏi từ kinh nghiệm, có xu hướng tạo ra kiến thức có tính tình huống cao. Kiến thức tình huống thường được nhúng trong ngôn ngữ, văn hóa hoặc truyền thống. Sự tích hợp kiến thức tình huống này là một sự ám chỉ đến cộng đồng và những nỗ lực của nó trong việc thu thập các quan điểm chủ quan vào một phương án "quan điểm từ đâu đó". Kiến thức cũng được cho là liên quan đến năng lực thừa nhận ở con người.
Mặc dù các lập luận của Haraway chủ yếu dựa trên các nghiên cứu về nữ quyền, ý tưởng này về các thế giới khác nhau, cũng như lập trường hoài nghi về kiến thức cơ bản có mặt trong các lập luận chính của chủ nghĩa hậu cấu trúc. Về cơ bản, cả hai tranh luận về sự bất ngờ của kiến thức về sự hiện diện của lịch sử; quyền lực, và địa lý, cũng như sự bác bỏ các quy tắc hoặc luật phổ quát hoặc các cấu trúc cơ bản; và ý tưởng về sức mạnh như một đặc điểm di truyền của sự khách quan hóa.
Tri thức một phần
Một môn học của nhận thức luận tập trung vào kiến thức một phần. Trong hầu hết các trường hợp, không thể hiểu một cách thấu đáo một miền thông tin; kiến thức của chúng ta luôn là không đầy đủ hoặc một phần. Hầu hết các vấn đề thực sự phải được giải quyết bằng cách tận dụng sự hiểu biết một phần về bối cảnh vấn đề và dữ liệu vấn đề, không giống như các vấn đề toán học thông thường mà người ta có thể giải quyết ở trường, nơi tất cả dữ liệu được cung cấp và người ta được hiểu đầy đủ về các công thức cần thiết để giải quyết chúng.
Ý tưởng này cũng được trình bày trong khái niệm về tính hợp lý bị ràng buộc, giả định rằng trong các tình huống thực tế, con người thường có một lượng thông tin hạn chế và đưa ra quyết định phù hợp với nó.
Kiến thức khoa học
Sự phát triển của phương pháp khoa học đã góp phần đáng kể vào cách thức có được kiến thức về thế giới vật chất và các hiện tượng của nó. Để được gọi là khoa học, một phương pháp điều tra phải dựa trên việc thu thập bằng chứng có thể quan sát và đo lường được theo các nguyên tắc cụ thể của lý luận và thử nghiệm. Phương pháp khoa học bao gồm thu thập dữ liệu thông qua quan sát và thử nghiệm, và xây dựng và kiểm tra các giả thuyết. Khoa học, và bản chất của kiến thức khoa học cũng đã trở thành chủ đề của triết học. Khi khoa học đã phát triển, kiến thức khoa học hiện nay bao gồm việc sử dụng rộng rãi hơn trong các ngành khoa học mềm như sinh học và khoa học xã hội - được thảo luận ở nơi khác như siêu nhận thức luận, hay nhận thức di truyền, và ở một mức độ nào đó liên quan đến " lý thuyết phát triển nhận thức ". Lưu ý rằng " nhận thức luận " là nghiên cứu về kiến thức và làm thế nào nó có được. Khoa học là "quá trình được sử dụng hàng ngày để hoàn thành logic những suy nghĩ thông qua suy luận về các sự kiện được xác định bằng các thí nghiệm được tính toán." Sir Francis Bacon rất quan trọng trong sự phát triển lịch sử của phương pháp khoa học; các công trình của ông đã thiết lập và phổ biến một phương pháp quy nạp cho nghiên cứu khoa học. Câu cách ngôn nổi tiếng của ông, " kiến thức là sức mạnh ", được tìm thấy trong Thiền định Sacrae (1597).
Cho đến thời gian gần đây, ít nhất là theo truyền thống phương Tây, người ta chỉ đơn giản chấp nhận rằng kiến thức là thứ chỉ được sở hữu bởi con người - và có lẽ là con người trưởng thành ở đó. Đôi khi khái niệm có thể kéo dài đến Xã hội như vậy, như trong "kiến thức được sở hữu bởi văn hóa Coplic" (trái ngược với các thành viên riêng lẻ của nó), nhưng điều đó cũng không được đảm bảo. Cũng không bình thường để xem xét kiến thức vô thức theo bất kỳ cách có hệ thống nào cho đến khi phương pháp này được Freud phổ biến.
Các lĩnh vực sinh học khác nơi "kiến thức" có thể được cho là cư trú, bao gồm: (iii) hệ thống miễn dịch và (iv) trong DNA của mã di truyền. Xem danh sách bốn "lĩnh vực nhận thức luận": Popper, (1975); và Traill (2008: Bảng S, p. 31) - cũng là tài liệu tham khảo của cả hai trỏ tới Niels Jerne.
Những cân nhắc như vậy dường như đòi hỏi một định nghĩa riêng về "kiến thức" để bao quát các hệ thống sinh học. Đối với các nhà sinh học, kiến thức phải có sẵn cho hệ thống, mặc dù hệ thống đó không cần phải có ý thức. Do đó, tiêu chí dường như là:
Hệ thống này rõ ràng nên năng động và tự tổ chức (không giống như một cuốn sách chỉ ngày của riêng mình).
Kiến thức phải tạo thành một số loại đại diện của "thế giới bên ngoài", hoặc các cách đối phó với nó (trực tiếp hoặc gián tiếp).
Một số cách phải tồn tại để hệ thống truy cập thông tin này đủ nhanh để nó tỏ ra hữu ích.
Kiến thức khoa học có thể không liên quan đến yêu cầu về sự chắc chắn, duy trì sự hoài nghi có nghĩa là một nhà khoa học sẽ không bao giờ chắc chắn tuyệt đối khi họ đúng và khi không. Do đó, một sự trớ trêu của phương pháp khoa học đúng đắn mà người ta phải nghi ngờ ngay cả khi chính xác, với hy vọng rằng thực tiễn này sẽ dẫn đến sự hội tụ lớn hơn về sự thật nói chung.
Ý nghĩa tôn giáo của tri thức
Trong nhiều biểu hiện của Kitô giáo, như Công giáo và Anh giáo, kiến thức là một trong bảy món quà của Chúa Thánh Thần.
Cây tri thức về thiện và ác trong Cựu Ước chứa đựng kiến thức ngăn cách Con người với Thiên Chúa: "Và Chúa đã phán, Này, con người trở thành một trong chúng ta, để biết điều thiện và điều ác... " ()
Trong thuyết ngộ đạo, kiến thức thiêng liêng hoặc gnosis được hy vọng sẽ đạt được.
विद्या दान (Vidya Daan) tức là chia sẻ kiến thức là một phần chính của Daan, một nguyên lý của tất cả các tôn giáo Dharmic. Kinh thánh Ấn Độ giáo trình bày hai loại kiến thức, Paroksh Gyan và Prataksh Gyan. Paroksh Gyan (cũng đánh vần là Paroksha -Jnana) là kiến thức đã qua sử dụng: kiến thức thu được từ sách, tin đồn, v.v. Pratyaksh Gyan (cũng đánh vần là Pratyaksha-Jnana) là kiến thức được sinh ra từ kinh nghiệm trực tiếp, tức là kiến thức mà người ta tự khám phá ra. Jnana yoga ("con đường tri thức") là một trong ba loại yoga chính được giải thích bởi Krishna trong Bhagavad Gita. (Nó được so sánh và đối chiếu với Bhakti Yoga và Karma yoga.)
Trong Hồi giáo, kiến thức (tiếng Ả Rập: علم, ilm) được gán cho ý nghĩa lớn lao. "Sự hiểu biết" (al-ʿAlīm) là một trong 99 cái tên phản ánh các thuộc tính riêng biệt của Thiên Chúa. Kinh Qur'an khẳng định rằng kiến thức đến từ Thiên Chúa () và nhiều hadith khuyến khích việc tiếp thu kiến thức. Muhammad được báo cáo đã nói "Tìm kiếm kiến thức từ cái nôi đến ngôi mộ" và "Quả thật, những người hiểu biết là những người thừa kế của các nhà tiên tri". Các học giả Hồi giáo, thần học và luật gia thường được trao danh hiệu Alim, có nghĩa là "có kiến thức".
Theo truyền thống Do Thái, kiến thức (tiếng Do Thái: דעת da'ath) được coi là một trong những đặc điểm quý giá nhất mà một người có thể có được. Người Do Thái quan sát đọc ba lần một ngày trong Amidah "Hãy ủng hộ chúng tôi với kiến thức, sự hiểu biết và sự thận trọng đến từ bạn. Cao quý là bạn, Existent-One, người cung cấp kiến thức duyên dáng. " Người Tanakh tuyên bố: "Một người khôn ngoan có được sức mạnh và một người có kiến thức duy trì quyền lực" và "kiến thức được chọn hơn vàng".
Phân loại
Tri thức có 2 dạng tồn tại chính là tri thức ẩn và tri thức hiện.
Tri thức hiện là những tri thức được giải thích và mã hóa dưới dạng văn bản, tài liệu, âm thanh, phim, ảnh,… thông qua ngôn ngữ có lời hoặc không lời, nguyên tắc hệ thống, chương trình máy tính, chuẩn mực hay các phương tiện khác. Đây là những tri thức đã được thể hiện ra ngoài và dễ dàng chuyển giao, thường được tiếp nhận qua hệ thống giáo dục và đào tạo chính quy.
Tri thức ẩn là những tri thức thu được từ sự trải nghiệm thực tế, dạng tri thức này thường ẩn trong mỗi cá nhân và rất khó "mã hóa" và chuyển giao, thường bao gồm: niềm tin, giá trị, kinh nghiệm, bí quyết, kỹ năng... VD: Trong bóng đá, các cầu thủ chuyên nghiệp có khả năng cảm nhận bóng rất tốt. Đây là một dạng tri thức ẩn, nó nằm trong mỗi cầu thủ. Nó không thể "mã hóa" thành văn bản, không thể chuyển giao, mà người ta chỉ có thể có bằng cách tự mình luyện tập.
Các hình thức chia sẻ tri thức
Dựa vào sự phân loại tri thức, có thể chia các hình thức chia sẻ tri thức thành bốn dạng chính:
Ẩn - Ẩn: Khi người chia sẻ và người tiếp nhận giao tiếp trực tiếp với nhau (ví dụ: học nghề, giao tiếp, giảng bài...) thì việc tiếp nhận này là từ tri thức ẩn thành tri thức ẩn. Tri thức từ người này không qua trung gian mà chuyển ngay thành tri thức của người kia.
Ẩn - Hiện: Một người mã hóa tri thức của mình ra thành văn bản hay các hình thức hiện hữu khác thì đó lại là quá trình tri thức từ ẩn (trong đầu người đó) trở thành hiện (văn bản, tài liệu, v.v.).
Hiện - Hiện: Tập hợp các tri thức hiện đã có để tạo ra tri thức hiện khác. Quá trình này được thể hiện qua việc sao lưu, chuyển giao hay tổng hợp dữ liệu.
Hiện - Ẩn: Tri thức từ dạng hiện trở thành dạng ẩn. Điển hình quá trình này là việc đọc sách. Học sinh đọc sách (tri thức hiện) và rút ra được các bài học, tri thức cho mình (ẩn).
Tri thức có bốn cấp bậc:
- Nắm bắt được những hình ảnh (eikasia)
- Nhận thức những sự vật khả giác đi cùng với sự tín nhiệm vào thực tại các đối tượng nhận được từ các giác quan (pistis)
- Tri thức về những thực thể toán học qua tiến trình suy lý (dianoia)
- Tri thức trực tiếp và trực giác về ý tưởng thuần túy (noesis)
Quản trị tri thức
Quản trị tri thức xem xét tri thức như là hình thức cao hơn của quản trị thông tin trong đó thông tin đã được tập hợp, xử lý, lưu trữ, chia sẻ và sử dụng.
Chú thích
Liên kết ngoài
Thuật ngữ triết học
Nhận thức luận
Giáo dục
|
24981
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BA%A3i%20l%C3%BD
|
Hải lý
|
Hải lý còn được gọi là dặm biển (ký hiệu là NM hoặc nmi) là một đơn vị chiều dài hàng hải, là khoảng một phút cung của vĩ độ cùng kinh tuyến bất kỳ, nhưng khoảng một phút của vòng cung kinh độ tại đường xích đạo. Theo quy ước quốc tế, 1 hải lý = 1852 m (khoảng 6076.115486 feet).
Nó là một đơn vị tổ chức phi SI (mặc dù được chấp nhận cho sử dụng trong hệ thống quốc tế của các đơn vị BIPM) được sử dụng đặc biệt là hoa tiêu trong ngành công nghiệp vận chuyển và hàng không và cũng trong thăm dò cực. Nó thường được sử dụng trong luật pháp quốc tế và điều ước, đặc biệt là về các giới hạn của vùng biển. Nó phát triển từ dặm biển và liên quan dặm địa lý.
Hải lý vẫn còn trong sử dụng bằng đường biển và hàng không trên toàn thế giới vì sự tiện lợi của nó khi làm việc với các bảng xếp hạng. Hầu hết các bảng xếp hạng hải lý được xây dựng trên Mercator chiếu có quy mô khác nhau theo từng yếu tố một khoảng sáu từ xích đạo đến 80° vĩ độ bắc hay phía nam. Đó là, do đó, không thể hiển thị quy mô tuyến tính để sử dụng trên các bảng xếp hạng trên quy mô nhỏ hơn khoảng 1/80, 000 đơn Kể từ khi một hải lý, thực tế chuyển hướng, như là một phút vĩ độ, nó rất dễ dàng để đo khoảng cách trên một biểu đồ sử dụng dải phân, sử dụng quy mô vĩ độ ở phía bên của bảng xếp hạng trực tiếp đến phía đông hay phía tây của khoảng cách được đo.
Định nghĩa
Hải lý quốc tế được xác định bởi Hội nghị Thủy văn quốc tế đầu tiên, Monaco (1929) là chính xác 1852 mét. Đây là định nghĩa duy nhất trong hiện trạng sử dụng rộng rãi, và là một trong những được chấp nhận bởi Tổ chức Thủy văn quốc tế và Văn phòng quốc tế về Cân nặng và Đo lường (BIPM). Trước năm 1929, các quốc gia khác nhau có định nghĩa khác nhau, và Liên Xô, Anh Quốc và Hoa Kỳ đã không chấp nhận các giá trị quốc tế.
Định nghĩa hải lý của cả Anh và Mỹ được dựa trên hình tự cầu Clarke (1866): đặc biệt, họ đã xấp xỉ khác nhau với độ dài một phút hồ quang dọc theo một vòng tròn của một giả thuyết lĩnh vực có diện tích bề mặt tương tự như hình tự cầu Clarke hải lý Hoa Kỳ đã được định nghĩa như 1.853,248 mét (6.080,20 feet Mỹ, dựa vào định nghĩa của feet) Mendenhall Đặt hàng của 1893 nó đã bị bỏ rơi trong lợi của hải lý quốc tế năm 1954 hải lý Anh, còn được gọi là dặm Admiralty được quy định tại các điều khoản của các nút là một trong những hải lý chính xác là 6080 feet (1.853,184 m): nó đã bị bỏ rơi trong 1970 , và cho các mục đích quy phạm pháp luật, tài liệu tham khảo cũ cho đơn vị đã lỗi thời hiện nay chuyển đổi chính xác sang 1852 mét.
Dặm biển
Trong việc sử dụng tiếng Anh, hải lý, đối với bất kỳ vĩ độ, độ dài một phút vĩ độ ở vĩ độ đó. Nó thay đổi từ khoảng tại đường xích đạo khoảng tại các cực, với một giá trị trung bình của dặm hải lý của quốc tế đã được lựa chọn là số nguyên mét gần nhất với những dặm nước biển trung bình.
Mỹ sử dụng đã thay đổi gần đây. Các thuật ngữ trong các ấn bản năm 1966 của Bowditch của Mỹ Bowditch định nghĩa một "hải lý" như là một "hải lý" Trong ấn bản năm 2002, thuật ngữ nói: "Một có nghĩa là giá trị gần đúng của hải lý bằng 6.080 phít theo chiều dài của một phút hồ quang dọc theo kinh tuyến tại vĩ độ 48° .
Hải lý cũng đã được định nghĩa là 6000 phít hoặc 1000 sải, ví dụ trong các đơn vị "Dresner của" Đo lường. Dresner bao gồm một nhận xét tác dụng này không được nhầm lẫn với hải lý.
Dặm địa lý
Dặm địa lý là chiều dài của một phút kinh độ dọc theo đường xích đạo, khoảng 1.855,4 m Quốc tế (1924) hình tự cầu tên hoặc về 1.855,325 m WGS 84 ellipsoid. Bowditch định nghĩa nó như là 6.087,08 phít, là 1.855,34 mét. Thuật ngữ "dặm địa lý" cũng đã được sử dụng để tham khảo dặm biển có nghĩa là, sau này sẽ trở thành hải lý quốc tế.
Không nên nhầm lẫn điều này với đơn vị tương tự như nghe geografische Meile, nhìn thấy trong các phép đo lịch sử của Đức. Đơn vị này đã được dự định được chiều dài của phút của vòng cung dọc theo đường xích đạo và tiêu chuẩn hóa là 7.421,6 mét. Tại Đức, "Mile", "UHR" hoặc "Stunde" thường đề cập đến 24.000 phít địa phương. Đây là khoảng cách người ta có thể đi bộ trong một giờ (Stunde).
Dặm điện báo
Một dặm điện báo là chiều dài tròn một phút hồ quang dọc theo đường xích đạo.
Dặm chiến thuật hoặc dặm dữ liệu
Một xấp xỉ, các nhà thiết kế của các hệ thống radar cho tên lửa đạn đạo, hành trình và tên lửa chống tàu được sử dụng bởi NATO lực lượng hải quân sử dụng là tương đương của một hải lý. Trong Hải quân Hoàng gia, điều này còn được gọi là một dặm dữ liệu.
Dặm Radar
Trong lý thuyết radar, những dặm dữ liệu (6.000 feet) là đơn vị chiều dài. Dặm radar là thời gian cần một xung radar đi du lịch một dặm dữ liệu ra và một dặm dữ liệu trở lại một lần nữa, tương đương với 12,277 miligiây. Giá trị này tương ứng với tốc độ ánh sáng (khoảng 3 m/s). Phạm vi của một radar có thể được xác định bằng cách chia thời gian lắng nghe (xung lặp đi lặp lại thời gian trừ đi độ rộng xung) bởi một dặm radar.
Ký hiệu đơn vị
Tổ chức Thủy văn Quốc tế, thành viên cơ bản bao gồm tất cả các quốc gia đi biển, và Văn phòng quốc tế về Cân nặng và Đo lường sử dụng M là chữ viết tắt cho hải lý . viết tắt ưa thích của Tổ chức Hàng không dân dụng quốc tế NM. Các chữ viết tắt nm, mặc dù xung đột với các hệ thống quốc tế của các đơn vị SI ký hiệu cho nanomet, cũng được sử dụng rộng rãi. Các biểu tượng SI niutơn mét là (với một không gian) hoặc N·m,Nm, bởi vì tiền tố chỉ có thể giáp một ký hiệu đơn vị
Lịch sử
Hải lý lịch sử đã được định nghĩa là một phút cung cùng một kinh tuyến của Trái Đất (bắc-nam), làm cho một kinh tuyến chính xác 180 × 60 = hải lý lịch sử . Vì vậy có thể được sử dụng cho các biện pháp gần đúng trên một kinh tuyến như là thay đổi của vĩ độ trên hải lý biểu đồ. Định nghĩa ban đầu dự định của đồng hồ là 10−7 của một nửa vòng cung kinh tuyến làm cho có ý nghĩa lịch sử hải lý chính xác (2 )/ = mét lịch sử. Căn cứ vào hiện tại IUGG kinh tuyến của (tiêu chuẩn) mét hải lý lịch sử trung bình là .
Định nghĩa lịch sử khác nhau từ các tiêu chuẩn dựa trên chiều dài trong một phút của vòng cung, và do đó một dặm hải lý, không phải là một chiều dài không đổi ở bề mặt của Trái Đất nhưng dần dần kéo dài theo hướng bắc-nam với khoảng cách từ đường xích đạo, như một hệ quả tất yếu của tính dẹt của Trái Đất, vì vậy cần phải "trung bình" trong câu cuối của đoạn trước. Độ dài này bằng tại các cực và tại đường xích đạo .
Các quốc gia khác đã có định nghĩa khác nhau của hải lý. Điều này đa dạng trong kết hợp với sự phức tạp của đo góc mô tả ở trên cùng với sự không chắc chắn nội tại của các đơn vị có nguồn gốc geodetically giảm nhẹ so với định nghĩa còn tồn tại trong lợi của một đơn vị đơn giản chiều dài tinh khiết. Thỏa thuận quốc tế đã đạt được vào năm 1929 khi Hội nghị bất thường Thủy văn quốc tế được tổ chức tại Monaco thông qua một định nghĩa của một dặm hải lý quốc tế là bằng [[1 E3 m|1852 mét hay 1,852 ki lô mét chính xác, trong hợp đồng xuất sắc (cho một số nguyên) với các giá trị nói trên của mét lịch sử và mét tiêu chuẩn.
Sử dụng các góc dựa trên chiều dài lần đầu tiên được đề xuất bởi E. Gunter (của chuỗi Gunter nổi tiếng). Trong thế kỷ 18, mối quan hệ của một dặm 6000 (hình học) bàn chân, hay một phút của vòng cung trên bề mặt Trái Đất đã được nâng cao như một biện pháp phổ quát đối với đất và biển. Km số liệu đã được chọn để đại diện cho một phút centisimal của vòng cung, trên cơ sở tương tự, với các vòng tròn được chia thành 400 độ 100 phút.
Chuyển đổi cho các đơn vị khác
Một hải lý quốc tế chuyển đổi thành:
1852 m (chính xác)
1.150779 dặm (quy ước) (chính xác: 57.875/50.292 dặm)
2,025.372 lát (chính xác:
6,076.1155 phít (chính xác: 2315000/381 phít hoặc 1822831/300 phít đo đạc)
1,012.6859 sải (chính xác: 1157500/1143 sải)
10 cáp quốc tế (chính xác)
10.126859 cáp Anh (100 sải) (chính xác: 11575/1143 cáp Anh)
8.439049 cáp Mỹ (120 sải) (chính xác: 57.875/6.858 cáp Mỹ)
0.998383 phút cung xích đạo (dặm địa lý truyền thống)
0.9998834 phút cung kinh tuyến trung bình (hải lý lịch sử trung bình)
Đơn vị phối hợp
Các đơn vị có nguồn gốc của tốc độ nút, được định nghĩa như một hải lý mỗi giờ. Thuật ngữ "đăng nhập" được sử dụng để đo khoảng cách một tàu đã di chuyển thông qua các nước. Thuật ngữ này cũng có thể được sử dụng để đo tốc độ thông qua các nước (xem con chip đăng nhập), như tốc độ và khoảng cách trực tiếp liên quan.
Các điều khoản "nút" và "đăng nhập" được bắt nguồn từ việc thực hành bằng cách sử dụng "đăng nhập" gắn với một sợi dây thừng thắt nút như một phương pháp đo tốc độ của một con tàu. Một đăng nhập gắn liền với một sợi dây thắt nút đã được ném vào trong nước, sau phía sau tàu. Số lượng hải lý đi ra khỏi tàu và vào nước trong một thời gian nhất định sẽ xác định tốc độ bằng "nút thắt". Đo lường ngày hiện tại của hải lý và đăng nhập được xác định bằng cách sử dụng một kéo cơ khí, điện tử kéo, thân tàu gắn trên đơn vị (mà có thể hoặc có thể không được thu vào), Doppler (hoặc siêu âm hoặc radar), hoặc GPS. Tốc độ đo bằng GPS có sự khác biệt từ những người được đo bằng các phương tiện khác trong đó Tốc độ trên mặt đất (kế toán cho các hiệu ứng của hiện tại) trong khi những người khác là tốc độ Thông qua các nước, không cho hiện tại.
Xem thêm
Chuyển đổi các đơn vị
Nút (đơn vị) cho các đơn vị của tốc độ
Dặm cho các loại của dặm
Thứ tự độ lớn (chiều dài)
Đơn vị đo lường
Ghi chú
(IUGG/WGS-84 data)
(IAU data)
Liên kết ngoài
National Bureau of Standards: Refinement of values for the yard and the pound (1959)
Đơn vị đo chiều dài
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.