id
stringlengths 1
8
| url
stringlengths 31
389
| title
stringlengths 1
250
| text
stringlengths 5
274k
|
---|---|---|---|
23500
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C3%B5%20g%E1%BA%ADy%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20%C4%90%C3%B4ng%20Nam%20%C3%81%202005
|
Võ gậy tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2005
|
Bộ môn võ gậy, quốc võ của Philippines, lần thứ hai được đưa vào chương trình thi đấu tại một kỳ Đại hội thể thao Đông Nam Á SEA Games 2005 trong hai ngày mùng 3 và mùng 4 tháng 12, 2005. Lần đầu tiên khi Đại hội được tổ chức tại Manila, Philippines năm 1991. Môn thi đấu này là sự tranh chấp giữa hai đoàn Philippines và Việt Nam. Ngoài ra, võ gậy cũng giúp Đông Timor giành được 3 tấm huy chương đầu tiên tại một kỳ SEA Games.
Bảng thành tích
Biểu diễn cá nhân nam
Vàng: Nguyễn Quang Tùng (Việt Nam)
Bạc: Regie Sanchez (Philippines)Đồng: Phann Piseth (Campuchia)
Biểu diễn cá nhân nữVàng: Nguyễn Thị Mỳ (Việt Nam)Bạc: Mylen Garson (Philippines)
Đồng: Francisca Vaneta(Đông Timor)
Biểu diễn đồng đội nam
Vàng: Peter Kelvin Celis, Glenn Llamador, Nathan Ben Dom (Philippines)Bạc: Nguyễn Thanh Tùng, Trần Thanh Tùng, Trần Đức Nghĩa (Việt Nam)Đồng: Phann Piseth, Lay Rayon, Yeuth Meth (Campuchia)
Biểu diễn đồng đội nữVàng: Rochelle Quirol, Catherine Ballenas, Aireen Parong (Philippines)
Bạc: Nguyễn Thị Hà, Nguyễn Thị Loan, Vũ Thị Thảo (Việt Nam)
Đối kháng cá nhân nam
Vàng: Nguyễn Thanh Quyền (Việt Nam)
Bạc: Reneto Tunacao (Philippines)Đồng: Fortunato Soares (Đông Timor)
Đối kháng cá nhân nữVàng: Anna Joy Fernandez (Philippines)
Bạc: Lê Thị Thanh Huyền (Việt Nam)
Đồng: Elisabeth Yanti Almeda Dois Reis (Đông Timor)
Tham khảo
Liên kết ngoài
Kết quả võ gậy chính thức
Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2005
|
23552
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%82n%20th%E1%BB%8Bt
|
Ăn thịt
|
Ăn thịt có thể là dạng ngắn gọn của:
động vật ăn thịt
Bộ Ăn thịt
|
23567
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/0%20%28n%C4%83m%29
|
0 (năm)
|
Năm 0 (còn gọi là Năm Công nguyên) là tên gọi được sử dụng bởi một số học giả khi làm việc với các hệ thống lịch. Trong sử dụng thông thường ở các nước phương Tây, phần lớn mọi người không nói tới năm 0, vì thế năm 1 Anno Domini đứng liền ngay sau năm 1 TCN (Ante Christum Natum) mà không có năm 0 xen vào giữa. Có điều này là do hệ thống đánh số năm sử dụng là hệ thống số thứ tự mà không phải hệ thống số lượng – năm đầu tiên chính xác là – năm đầu tiên. Năm "" trên thực tế lẽ ra phải gọi là "năm thứ ".
Sự hiện diện hay vắng mặt của năm 0 được xác định theo quy ước trong các nhóm chẳng hạn các nhà sử học hay các nhà thiên văn học, trong đó các nhà thiên văn học thấy năm 0 là có ích. Không có một hệ thống lịch nào trong số các lịch Julius hay Gregory cũng như kỷ nguyên (Anno Domini hay Công Nguyên) xác định là năm 0 sẽ được sử dụng hay không. Nếu người viết không sử dụng quy ước của nhóm mà họ thuộc về thì họ phải thông báo rõ ràng là họ có đưa năm 0 vào trong cách đếm năm của họ hay không, nếu không như thế thì các số liệu về ngày tháng năm của họ sẽ bị hiểu sai.
Không có một nhà lịch sử nào đưa năm 0 khi đánh số năm trong tiêu chuẩn hiện tại của kỷ nguyên. Vì thế, không phụ thuộc vào tên gọi hay lịch được sử dụng (Julius hay Gregory), 1 TCN luôn luôn trực tiếp đứng ngay trước năm AD 1 (hay đơn giản chỉ viết là năm 1). Các nhà sử học thậm chí còn từ chối sử dụng năm 0 khi sử dụng các năm âm trước kỷ nguyên dương của chúng ta, vì thế −1 của họ đứng trực tiếp ngay trước 1, ví dụ V. Grumel trong La chronologie (1958), trang 30.
Phương pháp anno Domini của các năm được đánh số đã không được sử dụng rộng rãi ở Tây Âu cho đến tận thế kỷ 9 và năm lịch sử từ ngày 1 tháng 1 tới ngày 31 tháng 12 đã không thống nhất ở Tây Âu cho đến tận năm 1752. Các thuật ngữ anno Domini (AD), kỷ nguyên Dionysus, kỷ nguyên Thiên chúa, kỷ nguyên Cơ đốc và công nguyên đã được sử dụng đồng nghĩa với nhau trong thời kỳ Phục Sinh và trong thế kỷ 19, ít nhất là trong tiếng Latinh. Kết quả là, các nhà sử học nói tới các kỷ nguyên này là tương đương.
Tuy nhiên, có ít nhất 2 nhóm đưa năm 0 vào khi họ đánh số các năm trước các kỷ nguyên này: đó là các nhà thiên văn học và một số nhà sử học Maya. Ngoài ra, một số lịch ở Nam Á bắt đầu các tính toán của họ về năm từ năm 0.
Beda
Beda là nhà sử học đầu tiên sử dụng năm trước công nguyên (TCN, viết tắt tiếng Anh: BC) và vì vậy là người đầu tiên chấp nhận quy ước là không có năm 0 giữa các năm trước công nguyên và công nguyên, trong cuốn sách Historia ecclesiastica gentis Anglorum (Lịch sử giáo hội của người Anh) của ông năm 731. Các nhà sử học Thiên chúa trước đó sử dụng anno mundi (trong năm của thế giới"), hay anno Adami ("trong năm của Adam", bắt đầu muộn hơn 5 ngày, được người Africanus sử dụng), hay anno Abrahami ("trong năm của Abraham", bắt đầu muộn hơn 3.412 năm theo Septuagint, được Eusebius sử dụng), tất cả đều gắn "một" với năm bắt đầu từ Ngày Sáng Tạo, hoặc là sự sáng tạo ra Adam, hoặc là ngày sinh của Abraham một cách tương ứng. Tất cả đều bắt đầu với năm 1 do hệ thống đếm số bắt đầu từ 1 mà không phải là 0. Bede chỉ đơn giản là tiếp nối truyền thống này để nói về kỷ nguyên AD. Người phát minh ra thuật ngữ AD là Dionysius Exiguus vào năm 525 đã không chỉ rõ là ông bắt đầu cách đếm của mình từ 1 hay từ 0 (cũng như ông không đề cập tới trước công nguyên).
Bede đã không đánh số tuần tự bất kỳ đơn vị nào khác trong lịch (các ngày trong tháng, tuần trong năm, hoặc tháng trong năm)-nhưng ông đã ý thức được các ngày Do Thái trong tuần trong đó việc đánh số bắt đầu từ 1 (ngoại trừ ngày thứ bảy được gọi là Sabbath) và đã đánh số một phần các ngày trong tuần Thiên chúa giáo của ông một cách tương ứng (Lord's day (ngày của Chúa), second day (ngày thứ hai),... sixth day (ngày thứ sáu), Sabbath trong cách chuyển đổi ra thành tiếng Anh).
Người ta thường cho rằng Bede đã không sử dụng năm 0 vì ông không biết về số 0. Mặc dù ký hiệu cho số không (0) đã chưa từng có mặt ở châu Âu cho đến tận thế kỷ 11, Bede và Dionysius chắc chắn đã biết về hai từ để chỉ số 0—trong tiếng Latinh là các từ nulla và nihil, trong cách nói thông thường có nghĩa là không có gì. Nulla đã được sử dụng mỗi khi 0 là thành viên của các chuỗi số, dù rằng các số khác đã thuộc hệ thống số La Mã hay các từ trong tiếng Latinh. Dionysius sử dụng cách viết số 0 bằng tiếng Latinh này trong cùng một bảng trong đó ông giới thiệu kỷ nguyên anno Domini của mình, nhưng trong cột bên cạnh—nó là ngày lịch so le đầu tiên của chu kỳ 19 năm được sử dụng để tính toán Lễ Phục Sinh (xem thêm Chu kỳ 19 năm của Dionysius ). Bede tiếp tục sử dụng ngày lịch so le số 0 này trong tác phẩm De temporum ratione (Trong tính toán thời gian) của mình năm 725, nhưng đã không sử dụng nó giữa BC và AD. Nihil được sử dụng để chỉ phần dư bằng 0 khi số là chia hết (xem các đối số 2 và 5 trong Chu kỳ 19 năm của Dionyius vừa đề cập).
Trong chương II quyển I của Lịch sử giáo hội, Bede thông báo rằng Julius Caesar đã xâm lược nước Anh "trong năm thứ 693 sau khi xây dựng Roma, nhưng là năm thứ 60 trước sự hiện thân của Chúa tôi", trong khi thông báo trong chương III, "trong năm Roma thứ 798, Claudius" cũng đã xâm chiếm nước Anh và "trong vài ngày... đã kết thúc chiến tranh tại... [năm] thứ 46 từ sự hiện thân của Chúa tôi". Mặc dù cả hai số liệu ngày tháng đều sai, nhưng chúng là đủ để kết luận rằng Bede đã không đưa năm 0 vào giữa BC và AD: 798 − 693 + 1 (vì các năm là bao gồm cả) = 106, nhưng 60 + 46 = 106, nó không còn chỗ cho năm 0. Thuật ngữ trong tiếng Anh "before Christ" (BC) không là sự phiên dịch trực tiếp của thuật ngữ Latinh "trước sự hiện thân của Chúa tôi" (tự nó không bao giờ được viết tắt), mà chỉ là cách dịch tương đương rút gọn: Sự hiện thân có nghĩa là sự đầu thai của Chúa Giê-su, là ngày mà kể từ thế kỷ 4 trở đi đã được kỷ niệm vào ngày 25 tháng 3 hàng năm, tức 9 tháng trước ngày mà ngày sinh của ông được kỷ niệm, 25 tháng 12. Sử dụng 'BC' duy nhất của Bede đã tiếp tục được sử dụng không thường xuyên trong thời Trung cổ (mặc dù với năm chính xác). Sử dụng rộng rãi đầu tiên của thuật ngữ này (vài trăm lần) có trong Fasciculus Temporum của Werner Rolevinck năm 1474, sát cạnh các năm của thế giới (anno mundi).
Các nhà thiên văn
Các nhà thiên văn học đưa năm 0 vào ngay trước năm 1. Lần sử dụng năm thiên văn 0 đầu tiên thông thường được cho là của Jacques Cassini trong cuốn Tables astronomiques (Các bảng thiên văn) năm 1740. Lý do để đưa vào năm 0 của ông là (trang 5, dịch từ tiếng Pháp):
Năm 0 là năm mà người ta cho rằng Chúa Giê-su ra đời, mà một số nhà viết sử đánh dấu là 1 trước ngày sinh của Chúa Giê-su và là năm mà chúng tôi đánh dấu là 0, làm sao để tổng các năm trước và sau Chúa Giê-su tạo ra khoảng thời gian là giữa các năm này, và trong đó các số chia hết cho 4 đánh dấu các năm nhuận trước cũng như sau Chúa Giê-su.
Nhưng Philippe de La Hire đã từng sử dụng năm 0 sớm hơn vào năm 1702 trong cuốn Tabulæ Astronomicæ (Các bảng thiên văn) của mình trong dạng Christum o. ("Chúa cứu thế 0") mà không có giải thích. Cả Cassini và La Hire sử dụng các năm BC (TCN) trước năm 0 của họ và các năm AD cho các năm sau đó (vì thế có trật tự 1 BC, 0, AD 1). Điều này giải thích tại sao Cassini thông báo rằng tổng của chúng tạo ra khoảng thời gian. Ví dụ, 1 + 1 = 2. Bắt đầu từ thế kỷ 19, một số nhà thiên văn bắt đầu sử dụng các năm âm trước năm 0 của họ, trong khi các nhà thiên văn học khác vẫn tiếp tục sử dụng các năm BC trước năm 0 của họ. Vào giữa thế kỷ 20, tất cả các nhà thiên văn học đã sử dụng các năm âm trước năm 0 (vì thế trật tự là −1, 0, 1). Vì vậy các nhà thiên văn học hiện đại có thể thông báo rằng hiệu của năm tạo ra khoảng thời gian, và nó đúng cho cả năm âm lẫn năm dương. Ví dụ 1 − (−1) = 2 và 2000 − 1999 = 1. Mặc dù 'AD' được bỏ qua trong những năm gần đây và chỉ để lại mỗi số, dấu dương (+) đôi khi vẫn được đưa vào đầu số. Do khả năng lẫn lộn với việc sử dụng trước đây của các năm TCN thiên văn, chỉ trong phiên bản hiện đại có thể nói rằng năm thiên văn 0 tương đương với năm lịch sử 1 TCN.
ISO 8601:2004 và ISO 8601:2000, nhưng không phải là ISO 8601:1988, sử dụng một cách rõ ràng cách đánh số năm thiên văn trong các hệ thống tham chiếu ngày tháng của mình. Do họ cũng chỉ rõ việc sử dụng của lịch Gregory đón trước cho tất cả các năm trước năm 1582, một số độc giả kết luận một cách sai lầm là năm 0 luôn luôn được đưa vào trong lịch này, trong khi điều đó là không bình thường. Định dạng "cơ bản" cho năm 0 là trong dạng 4 chữ số 0000, nó tương đương với năm lịch sử 1 TCN. Một vài định dạng "mở rộng" có thể là: -0000 và +0000, cũng như là các phiên bản 5 hay 6 chữ số. Các năm sớm hơn cũng có các phiên bản âm 4, 5 hay 6 chữ số, trong đó chúng có giá trị tuyệt đối nhỏ hơn so với giá trị tuyệt đối của các năm trước công nguyên tương ứng là một đơn vị, vì thế -0010 = 11 TCN v.v. Do chỉ có các ký tự ISO 646 (ASCII 7-bit) là được cho phép trong ISO 8601 nên ký hiệu âm là dấu nối.
Các lịch Nam Á
Mọi kỷ nguyên sử dụng trong các lịch Hindu và Phật giáo, chẳng hạn như kỷ nguyên Saka hoặc Kali Yuga, bắt đầu với năm 0 vì tất cả các lịch này sử dụng các cách tính năm theo kiểu năm trôi qua, năm khi đến hạn, hoặc năm đủ, ngược với phần lớn các lịch khác được sử dụng rộng rãi những năm gần đây. Năm đủ vẫn chưa trôi qua đối với bất kỳ ngày nào trong năm bắt đầu từ đầu kỷ nguyên, vì thế nó không thể là năm 1 — trái lại, nó là năm 0. Điều này tương tự như cách người phương Tây tính tuổi của một cá nhân — người đó chưa đạt đến 1 tuổi cho đến khi nào một năm đã trôi qua kể từ ngày người đó sinh ra (nhưng tuổi của người đó trong năm được tính theo số tháng/ngày cụ thể kể từ khi sinh ra chứ không nói là 0 tuổi; tuy nhiên, nếu tuổi của người đó tính theo năm và tháng thì có thể nói là (chỉ là ví dụ) 0 năm và 6 tháng tuổi).
Các nhà sử học Maya
Nhiều nhà sử học Maya (nhưng không phải tất cả) cho rằng (hoặc đã từng cho rằng) năm 0 tồn tại trong lịch hiện đại và vì thế chỉ rõ rằng kỷ nguyên "Long Count" của lịch Maya đã diễn ra trong năm 3113 TCN chứ không phải năm 3114 TCN. Điều này đòi hỏi phải có trật tự 1 TCN, 0, 1 giống như trong các năm thiên văn thời kỳ đầu.
Thiên niên kỷ thứ ba
Các nhà sử học cho rằng thiên niên kỷ thứ ba bắt đầu vào ngày 1 tháng 1 năm 2001 vì họ cho rằng kỷ nguyên Giê-su bắt đầu từ năm 1, trong khi nhiều người cho rằng nó bắt đầu vào ngày 1 tháng 1 năm 2000 vì khi đó hàng ngàn (là hàng có giá trị lớn nhất) của năm đã thay đổi từ 1 thành 2. Hệ thống đánh số năm thiên văn không thể sử dụng để hỗ trợ cho năm 2000 như là năm đầu tiên của thiên niên kỷ thứ 3 do sự không chắc chắn liên quan tới các thiên niên kỷ thiên văn. Đưa năm 0 vào trong thiên niên kỷ dương đầu tiên (0 tới 999) trong khi loại bỏ nó từ thiên niên kỷ âm đầu tiên (−1000 tới −1) là không nhất quán. Nhưng sự nhất quán lại tạo ra một kết quả dị thường: hoặc là năm 0 không thuộc thiên niên kỷ dương đầu tiên (1 tới 1000) và thiên niên kỷ âm đầu tiên (−1000 tới −1) hoặc nó được đưa vào cả hai (−999 tới 0 và từ 0 tới 999).
Truyền thông đại chúng
Trong phim Back to the Future (Trở lại tương lai) tiến sĩ Emmett Brown ("Doc" Brown), người phát minh ra cỗ máy thời gian, đã nhập số liệu về "ngày sinh của Đấng Cứu thế" trên keypad là ngày 25 tháng 12 năm 0000. Không chỉ có ngày tháng năm được nhập vào sử dụng các số của năm thiên văn, mà ngày tháng năm nhập vào còn hàm ý là Chúa Giê-su thực sự đã sinh trong năm này (theo các nguồn khác nhau thì ông đã sinh ra trong khoảng thời gian giữa các năm 8 TCN và năm 9), và ngoài ra hoạt động kỷ niệm của Thiên chúa giáo vào Lễ Nô-en trong ngày 25 tháng 12 là một ngày lễ lịch sử thực sự chứ không phải ngày truyền thống (các manh mối trong Kinh Thánh chỉ ra rằng Giê-su sinh ra vào mùa xuân (ví dụ, những người chăn cừu canh gác đàn cừu của họ trong đêm tại quyển 3 Phúc âm (Luke) của kinh Tân ước có lẽ đã có mặt để giúp đỡ ca đẻ). Người ta cũng cho rằng ngày 25 tháng 12 đã được chọn để tạo ra sự liên tục đối với những người tôn sùng đã từng cử hành các lễ hội đông chí Pagan). Sự mới lạ của phim là khi Doc nói rằng "giả sử là ngày này chính xác, tất cả mọi điều chúng ta phải làm là tìm đường tới Bethlehem!" - vì thế có khả năng là tiến sĩ Emmett Brown chỉ là một kẻ thích phô trương và/hoặc là khôi hài (đối với cả Marty McFly và khán giả của bộ phim).
Công trình nổi tiếng nhất của nhà thần học nổi tiếng và hư cấu nhất Franz Bibfeldt liên quan tới năm 0: luận văn năm 1927 được trình bày tại Trường đại học Chicago có tên gọi "Vấn đề của năm 0".
Tham khảo
Năm (lịch)
Niên đại học
Hệ tọa độ thiên văn
Năm
|
23575
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%B4n%20Trung%20S%C6%A1n
|
Tôn Trung Sơn
|
Tôn Trung Sơn (chữ Hán: 孫中山; 12 tháng 11 năm 1866 – 12 tháng 3 năm 1925), nguyên danh là Tôn Văn (孫文), tự Tải Chi (載之), hiệu Nhật Tân (日新), Dật Tiên (逸仙) là một chính khách, triết gia chính trị và bác sĩ người Trung Quốc, người đóng vai trò quan trọng trong cuộc Cách mạng Tân Hợi năm 1911 lật đổ triều đại nhà Thanh của người Mãn Châu và khai sinh ra Trung Hoa Dân Quốc.
Ông được tôn xưng là Quốc phụ tại Trung Hoa Dân Quốc và được coi là người tiên phong của cách mạng (Cách mạng tiên hành giả) tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Vợ của ông là Tống Khánh Linh, cũng là một nhân vật cách mạng nổi tiếng. Ông cũng nổi tiếng nhờ việc đề xuất và phát triển chủ nghĩa Tam Dân.
Cuộc đời
Học vấn
Ông sinh ngày 12 tháng 11 năm 1866 ở tỉnh Quảng Đông trong một gia đình nông dân khá giả. Năm 13 tuổi, ông đến học ở Honolulu tại tiểu bang Hawaii vì có người anh buôn bán ở đây, ở đây ông học các trường tiểu học và trung học nên chịu ảnh hưởng rất lớn của phương Tây. Năm 1883, ông trở về nước, và năm 1886 ông học Trường Đại học Y khoa Hương Cảng và trở thành bác sĩ năm 1892. Ông là một trong 2 người được tốt nghiệp trong lớp 12 người. Tuy nhiên sau đó thấy tình cảnh đất nước bị các đế quốc chia xé, ông bỏ nghề y theo con đường chính trị.
Theo Cơ Đốc Giáo
Thời trung học, ông học tại Trường ʻIolani được dạy dỗ bởi những người Anh theo Anh giáo. Tuy trường này không bắt buộc học sinh phải theo đạo nhưng đòi hỏi học sinh dự lễ tại nhà nguyện vào chủ nhật. Tại trường, ông lần đầu tiếp xúc với Kitô giáo và bị ấn tượng sâu đậm. Theo Schriffin, Kitô giáo đã có ảnh hưởng lớn tới toàn bộ cuộc đời chính trị trong tương lai của Tôn Dật Tiên. Sau này ông được báp-tem tại Hồng Kông bởi một nhà truyền giáo Hoa Kỳ và trở thành một tín hữu Tự trị giáo đoàn (Congregational church, Công lý hội). Ông tham dự Nhà thờ Đạo Tế (道濟會堂, được sáng lập bởi Hội Truyền giáo London vào năm 1888) trong khi học Y khoa ở Hồng Kông. Việc ông theo Cơ Đốc Giáo liên hệ tới những lý tưởng cách mạng và nỗ lực cải tiến đất nước. Tuy nhiên việc ông có thật sự tin theo Cơ Đốc Giáo hay không vẫn còn tranh cãi.
Lập gia đình
Tôn Trung Sơn làm đám cưới với Tống Khánh Linh, người vợ thứ hai, sau này cũng làm Chủ tịch danh dự nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Em của bà, bà Tống Mỹ Linh, cưới Tưởng Giới Thạch, và như vậy 2 nhà lãnh tụ trở thành anh em cột chèo. Cha của hai bà là một mục sư Giám lý, kiếm rất nhiều tiền trong các hoạt động ngân hàng, mặc dù là bạn thân của Tôn, những đã nổi giận khi nghe Tôn tuyên bố dự tính cưới Khánh Linh, bởi vì Tôn là một người có đạo và đã có vợ với ba con. Ông cho là Tôn đã đi ngược lại với đạo lý mà họ cùng chia sẻ.
Con trai ông (với người vợ đầu Lô Mộ Trinh hay Lư Mộ Trinh (盧慕貞) là Tôn Khoa (孫科; bính âm: Sūn Kē) sau này làm Thủ tướng Trung Hoa Dân Quốc.
Ngoài hai vợ trên, theo Trung Quốc sử thoại, ông còn quan hệ gắn bó với "bà Nam Dương" Trần Túy Phần, sau đổi tên là Trần Tứ.
Sự nghiệp chính trị
Năm 1894, Tôn Trung Sơn sang tiểu bang Hawaii tại Hoa Kỳ tập hợp Hoa kiều cùng chí hướng thành lập Hưng Trung hội với tôn chỉ đánh đổ phong kiến Mãn Thanh, khôi phục Trung Hoa. Ông bị người anh đưa về Trung Quốc vì sợ ông theo Kitô giáo nhưng ông đã trở lại Hawaii ít nhất hai lần vào 1900 và 1901. Năm 1905, Tôn Trung Sơn hợp nhất Hưng Trung hội với một số tổ chức trong nước lập thành Trung Quốc Đồng minh hội do ông làm Tổng lý. Trên tờ Dân báo, cơ quan ngôn luận của hội, ông đã công bố chủ nghĩa Tam Dân: "Dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc". Từ 1905 đến năm 1911 Trung Quốc Đồng minh hội tổ chức nhiều cuộc binh biến ở các tỉnh miền Nam nhưng không thành công. Ngày 10 tháng 10 năm 1911, Đồng minh hội vận động được binh sĩ ở Vũ Xương (Hồ Bắc) nổi dậy khởi nghĩa và giành được thắng lợi mở đầu cho Cách mạng Tân Hợi. Phong trào này nhanh chóng bùng nổ ở nhiều tỉnh khác. Ngày 29 tháng 12 năm 1911, Tôn Trung Sơn về nước, được đại hội đại biểu các tỉnh họp ở Nam Kinh đề cử làm Đại Tổng thống lâm thời.
Ngày 1 tháng 1 năm 1912, ông tuyên thệ nhậm chức Đại Tổng thống Lâm thời Trung Hoa Dân Quốc tại Nam Kinh. Nhưng một tháng sau, ông nhường chức này cho Viên Thế Khải với điều kiện Viên Thế Khải bắt vua nhà Thanh thoái vị để thành lập chế độ cộng hòa nhưng Viên Thế Khải đã phản bội, đàn áp lực lượng dân chủ cộng hòa.
Ảnh hưởng
Tôn Trung Sơn là nhân vật độc đáo trong số các nhà lãnh đạo Trung Quốc thế kỷ XX, với danh tiếng lớn tại cả Trung Quốc đại lục và Đài Loan. Là người khai sinh nên Trung Hoa Dân Quốc, tại Đài Loan ông được tôn xưng là Quốc phụ. Tại đại lục, ông được coi là Cách mạng tiên hành giả ("người tiên phong của cách mạng") và tên của ông thậm chí còn được đề cập tới trong lời tựa Hiến pháp Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Việt Nam
Chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn có ảnh hưởng sâu sắc đến phong trào đấu tranh giành độc lập ở Việt Nam. Theo giới sử học Việt Nam, Tôn Trung Sơn có mối quan hệ sâu rộng với cộng đồng người Hoa tại Chợ Lớn, Sài Gòn và Hà Nội. Lần đầu ông đến Việt Nam là tại Sài Gòn vào năm 1900 và kéo dài hơn 2 tuần. Ông tới Hà Nội lần đầu vào tháng 12 năm 1902. Từ khoảng tháng 3 năm 1907, ông hoạt động ở Việt Nam hơn một năm. Tại Hà Nội, ông ngụ ở Hội quán Quảng Đông, số 22 phố Hàng Buồm. Theo nhà sử học Chương Thâu, cựu Trưởng phòng Lịch sử Cận đại thuộc Viện Sử học Việt Nam, một loạt các thế hệ các nhà Cách mạng Việt Nam, từ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh cho tới Hồ Chí Minh đều chịu ảnh hưởng sâu rộng của tư tưởng Tam Dân Chủ nghĩa của Cách mạng Tân Hợi. Ngay cả sau đó, Việt Minh (Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội) cũng được tổ chức theo khuôn mẫu của Trung Quốc Đồng minh Hội do Bác sĩ Tôn Dật Tiên sáng lập tại Trung Quốc năm 1905. Tiêu ngữ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Độc lập - Tự do - Hạnh phúc được Hồ Chí Minh lấy từ chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn vẫn được nhà nước Việt Nam dùng cho đến nay.
Tôn Trung Sơn được tôn kính trong đạo Cao Đài như là một trong Tam Thánh ký Thiên Nhân Hòa ước lần thứ ba. Ngay chính điện của Thánh thất Cao Đài ở Tây Ninh hiện còn treo bức tranh Tam Thánh ở chỗ trang trọng nhất. Tại Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh có một con đường mang tên Tôn Dật Tiên.
Tên
Phả danh (theo gia phả): Tôn Đức Minh (孫德明)
Ấu danh, tiểu danh (sơ sinh): Tôn Đế Tượng (孫帝象)
Nguyên danh, đại danh (phổ biến đương thời): Tôn Văn (孫文)
Biểu tự (tên chữ): Tải Chi (載之)
Giáo danh (tên thánh): Nhật Tân (日新)
Tên phương Tây: Tôn Dật Tiên (孫逸仙 Sun Yat-sen)
Tên Nhật Bản: Trung Sơn Tiều (中山樵 Nakayama Shō)
Tên phổ biến: Tôn Trung Sơn (孫中山)
Danh hiệu: Quốc phụ (國父)
Tham khảo
Liên kết ngoài
ROC Government Biography
Sun Yat-sen in Hong Kong University of Hong Kong Libraries, Digital Initiatives
Contemporary views of Sun among overseas Chinese
Yokohama Overseas Chinese School established by Dr. Sun Yat-sen
National Dr. Sun Yat-sen Memorial Hall Official Website
Dr. Sun Yat Sen Middle School 131, New York City
Dr. Sun Yat Sen Museum, Penang, Malaysia
Homer Lea Research Center
Was Yung Wing Dr. Sun's supporter? The Red Dragon scheme reveals the truth!
Miyazaki Toten He devoted his life and energy to the Chinese people.
MY GRANDFATHER, DR. SUN YAT-SEN – By Lily Sui-fong Sun
Dr. Sun Yat-Sen Foundation of Hawaii A virtual library on Dr. Sun in Hawaii including sources for six visits
Who is Homer Lea? Sun's best friend. He trained Chinese soldiers and prepared the frame work for the 1911 Chinese Revolution.
Đọc thêm
Nhà phát hành: Viện Thông tin Khoa học Xã hội, dưới sự giúp đỡ của Văn phòng Kinh tế và Văn hóa Đài Bắc tại Hà Nội.
Sinh năm 1866
Mất năm 1925
Tôn Trung Sơn
Người Quảng Đông
Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc
Nhà cách mạng Trung Quốc
Bài cơ bản dài trung bình
Thánh Cao Đài
Tín hữu Kitô giáo Trung Quốc
Đại nguyên soái Trung Quốc
Chết vì ung thư gan
Người Trung Quốc lưu vong
Lãnh đạo Trung Quốc Quốc dân Đảng
|
23578
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%C6%B0%E1%BB%9Di%20hai%20v%E1%BB%8B%20th%E1%BA%A7n%20tr%C3%AAn%20%C4%91%E1%BB%89nh%20Olympus
|
Mười hai vị thần trên đỉnh Olympus
|
12 vị thần là những vị thần chính trong điện thờ của người Hy Lạp, cai trị trên đỉnh Olympus. Các vị thần đỉnh Olympus giành quyền thống trị sau khi Zeus lãnh đạo các vị thần giành chiến thắng trong trận chiến với các Titan.
Tài liệu cổ xưa nhất về các nghi thức tôn giáo với các vị thần được tìm thấy trong các bài thơ Homer ca tụng Hermes. Sự sùng bái mười hai vị thần đỉnh Olympus của người Hy Lạp có thể bắt nguồn từ thế kỷ thứ VI TCN ở thành Athens và gần như không có tiền lệ vào thời kỳ văn hóa Mycenae. Việc thờ phụng mười hai vị thần Olympus thường được xác định bắt đầu vào thời gian Pesistratos lên nhiếp chính ở thành Athens, vào năm 522/521 TCN.
Hệ thống cổ điển của mười hai vị thần trên đỉnh Olympus bao gồm các vị thần:
Zeus, Hera, Poseidon, Demeter, Athena, Hestia, Apollo, Artemis, Ares, Aphrodite, Hephaestus và Hermes và sau này là Dionysos thế chỗ của Hestia
Hades (tiếng La Mã: Pluto) thường không nằm trong danh sách này. Ông không có vị trí trong thần điện bởi ông dành hầu hết thời gian dưới âm phủ, vương quốc của ông.
Hệ thống La Mã tương ứng của Ennius đặt tên La Mã tương đương cho những vị thần Hy Lạp, nhưng thay thế Dionysus (Bacchus) bằng Hestia (Vesta) vì thế danh sách có sáu nam thần và sáu nữ thần.
Herodotus đưa vào danh sách của ông các vị thần sau: Zeus, Hera, Poseidon, Hermes, Athena, Apollo, Alpheus, Cronus, Rhea và các nữ thần Charites.
Herodotus cũng đề cập đến Heracles trong danh sách.
Lucian cũng kể đến Heracles Asclepius là thành viên của mười hai vị thần, tuy nhiên không giải thích hai vị thần nào đã phải nhường vị trí cho họ.
Ở đảo Kos, Heracles và Dionysus được đưa vào danh sách, Ares và Hephaestus thì không.
Hebe, Helios, Eros (Cupid), Selene và Persephone cũng là những vị thần quan trọng đôi khi được kể vào nhóm mười hai vị thần. Eros thường được miêu tả cùng với mười hai bị thần kia, đặc biệt với mẹ là Aphrodite, nhưng hiếm khi được công nhận là một trong số các vị thần trên đỉnh Olympus.
Plato đã liên hệ mười hai vị thần đỉnh Olympus với mười hai tháng trong năm, và đề nghị tháng cuối cùng đặc biệt vinh dự dành riêng cho Hades và những linh hồn đã chết, ám chỉ ông tính Hades là một trong số mười hai vị thần. Hades dần bị rút tên ra khỏi nhóm này vì liên quan đến âm phủ. Trong Phaedrus Plato xếp mười hai vị thần tương ứng với các cung Hoàng đạo và loại bỏ Hestia ra khỏi sự sắp xếp đó.
Danh sách các vị thần trên đỉnh Olympus
Các vị thần cổ điển
Ghi chú
<li> Người La Mã còn kết hợp Phoebus với Helios và Mặt TrờiHacklin, Joseph. "The Mythology of Persia". Asiatic Mythology (Asian Educational Services, 1994), p.38. ISBN 81-206-0920-4. tuy nhiên họ cũng sử dụng tên Hy Lạp: Apollo.
<li> Theo một dị bản khác về sự ra đời của Aphrodite, bà được sinh ra từ bộ phận sinh dục của Uranus, ông của Zeus, — bị Cronus xén và ném xuống biển. Bản này góp phần giải thích từ nguyên gốc của tên bà ("Aphro" theo tiếng Hy Lạp cổ đại có nghĩa là bọt biển).Theo đó, Aphrodite cùng thế hệ với Cronus, cha của Zeus, và cũng có nghĩa Aphrodite là cô của Zeus. Xem sự ra đời của Aphrodite.
Các kiểu xác định khác
Các vị thần sau cũng đôi khi được nhắc đến trong mười hai vị thần đỉnh Olympus
Những nhân vật gần gũi với các vị thần Olympus
Các nam thần, nữ thần và á thần sau thường không được tính là thần trên đỉnh Olympus, dù vậy cũng khá gần gũi với họ.
Aeolus (thần thoại) – Vua của các ngọn gió, cai quản Anemoi, chủ nhân của các ngọn gió mùa.
Amphitrite – Nữ hoàng Biển cả, vợ của Poseidon.
Anemoi – Những vị thần gió, bao gồm Boreas (bắc), Notus (nam), Zephyrus (tây), và Eurus (đông).
Aura – Nữ thần của các cơn gió nhẹ và không khí trong lành.
Bia – Hiện thân của bạo lực.
Circe – Tiểu thần của ma thuật, tránh nhầm lẫn với Hecate.
Deimos – Thần của nỗi khiếp sợ, anh song sinh của Phobos.
Dione – Hải tinh; mẹ của Aphrodite cùng với Zeus trong phiên bản của Homer.
Eileithyia – Nữ thần của sự sinh nở; con gái của Hera và Zeus.
Enyo – Một nữ thần chiến tranh, người đồng hành với Ares. Cũng là em gái của Ares trong vài trường hợp. Trong những trường hợp này, bố mẹ của thần là Zeus và Hera.
Eos – Hiện thân của bình minh.
Eris – Nữ thần bất hòa và xung đột.
Aphroditus - Vị thần của sự đoàn kết nam và nữ, mặt trăng và khả năng sinh sản
Ganymede – Người giữ cốc trên cung điện của các vị thần đỉnh Olympus. Cậu cũng là vị thần của tình yêu đồng tính.
Hermaphroditos - vị thần của sự lưỡng tính và người đàn ông nữ tính.
Graces – Các nữ thần sắc đẹp, theo hầu Aphrodite và Hera.
Harmonia – Nữ thần của sự hòa hợp và đồng điệu, đối nghịch với Eris, con gái Aphrodite.
Hecate – Nữ thần của ma thuật, phù thủy và ngã tư đường.
Helios – Titan; hiện thân của Mặt Trời. Từng là thần Mặt Trời của thế hệ trước - thời đại của các Titan. Sau này ông thần phục Zeus và Olympius, trở thành thuộc hạ của Apollo nên được giao trọng trách điều khiển cỗ xe kéo Mặt Trời.
Horae – Những người canh gác đỉnh Olympus.
Hypnos – Thần của giấc ngủ, cha của Morpheus và con trai của Nyx.
Iris – Hiện thân của cầu vồng, cũng là người đưa tin cho các vị thần Olympus cùng với Hermes.
Kratos – Hiện thân của quyền lực.
Leto – Titan của thế giới vô hình; mẹ của Apollo và Artemis.
Moirai – Các nữ thần nắm giữ số mệnh, quyền lực hơn cả Zeus.
Momus – Thần của sự châm biếm, nhạo báng, văn chương trào phúng và thi sĩ.
Morpheus – Thần của giấc mơ.
Muse – Chín tiên nữ của khoa học và nghệ thuật. Tên của họ: Calliope, Urania, Clio, Polyhymnia, Melpomene, Terpsichore, Thalia, Euterpe, và Erato.
Nemesis – Nữ thần của sự báo thù.
Nike – Nữ thần chiến thắng.
Orpheus con trai của vua Oeagrus xứ Thrace và nữ thần thi ca (muse) Calliope (trong một số truyền thuyết khác thì Orpheus là con trai của Apollo và Calliope).Orpheus là một trong những đại thi hào, nhạc sĩ thuở sơ khai, là người sáng tạo ra hoặc cải tiến chiếc đàn lyre.
Nyx – Nữ thần đêm.
Paean – Thầy thuốc của các vị thần.
Perseus – Con trai của Zeus, người giết Medusa, người sáng lập huyền thoại của nền văn hóa Mycenae và Triều đại Perseid.
Phobos – Thần của sự sợ hãi, em song sinh với Deimos.
Selene – Titan; hiện thân của Mặt Trăng.
Styx – Nữ thần sông Styx, dòng sông mà các thần dùng để tuyên thề.
Thanatos – Thần của sự chết chóc, thuộc hạ tín cẩn của Hades, đôi khi là hiện thân của cái chết. Hình tượng tử thần với lưỡi hái bạc xuất hiện ở nhân gian đón linh hồn của người đã chết về với âm giới chính là ông ta.
Theseus – Con trai của vua Aegeus thành Athen (có thuyết lại cho rằng trên danh nghĩa là hoàng tử Athen nhưng ông thật ra chính là con của Poseidon khi thần giả thành Aegeus và ban con cho công chúa Aethra sau khi Ageus bị chuốc rượu đến say khướt), người anh hùng của thành Athens và người đã giết Minotaur.
Triton – Người đưa tin của các vùng biển, con trai của Poseidon và Amphitrite. Thần cầm một vỏ ốc xà cừ xoắn.
Tyche – Nữ thần của sự may mắn.
Zelus – Hiện thân của sự cạnh tranh.
Gia phả
Xem thêm
Tôn giáo Hy Lạp cổ đại
Cây phả hệ các vị thần Hy Lạp
Thần thoại Hy Lạp
Danh sách những nhân vật thần thoại Hy Lạp
Tham khảo
Liên kết ngoài
List of 12 Olympians
Summary of main gods of Pantheon
Văn minh Hy Lạp
Các vị thần Hy Lạp
Thần thoại Hy Lạp
Mười hai vị thần trên đỉnh Olympus
Văn hóa Hy Lạp
Danh sách về văn hóa
|
23590
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bayon
|
Bayon
|
Đền Bayon nằm ở trung tâm quần thể Angkor Thom, Campuchia. Đây là ngôi đền ấn tượng nhất của kiến trúc đền núi Campuchia do sự hùng vĩ về quy mô cũng như về cảm xúc mà nó đem lại cho người xem. Ngôi đền gồm 54 tháp lớn nhỏ, trên mỗi tháp đều có điêu khắc khuôn mặt của thần Lokesvara, hay còn gọi là thần Avalokitesvara, tượng trưng cho sự quan sát của thần linh về 4 hướng của Campuchia.
Vị trí
Nằm ở trong khu phức hợp quần thể Angkor Thom, Bayon được xem là ngôi đền trung tâm của khu phức hợp Angkor Thom - hay còn gọi là thành Yaxodarapura.
Lịch sử
Angkor Thom, có nghĩa là "Kinh thành lớn", là thành phố kinh đô lâu dài nhất và cũng là cuối cùng của Vương quốc Khmer được vua Jayavarman VII xây dựng vào cuối thế kỷ thứ 12. Sau khi vua Suryavarman II là người xây dựng Angkor Wat băng hà vào khoảng năm 1150, Campuchia rơi vào tình trạng rối ren, vô chính phủ. Quân Chiêm Thành nhiều lần tấn công và cuối cùng cưỡng chiếm Angkor Wat. Jayavarman VII lúc sinh thời vốn là một người thích sống ẩn dật, chọn lối sống thanh bần, ông thờ ơ với mọi biến động trong đời sống. Đến 50 tuổi, thấy đất nước quá tang thương vì loạn lạc và bị ngoại xâm dày xéo, ông thấy không còn con đường nào khác hơn là theo con đường kiếm cung mới mong cứu được đất nước qua cơn nguy khốn. Năm 1181, ông dấy binh khởi nghĩa, sau ròng rã bốn năm chiến đấu, ông đánh đuổi được Chiêm Thành ra khỏi đất nước mình, khôi phục lại thanh bình và xây dựng nên một đất nước hùng mạnh.
Để thực hiện sự nghiệp giải phóng đất nước, trước khi lên ngôi Jayavarman VII bắt đầu xây dựng lại quân đội, rồi tiến hành nhiều cuộc phản công, trong đó có một trận hải chiến oanh liệu miêu tả trên bức tường đá chạm nổi ở các đền Bayon và Banteay Chhmar. Sau khi hoà bình được lập lại Jayavarman VII lên ngôi, lúc này ông khoảng 50 tuổi. Ông liền bắt tay vào việc khôi phục lại kinh đô và cho xây dựng ở đây một khu thành mới gọi là thành Yaxôdarapura.
Miêu tả
Khu đền Bayon nằm ở trung tâm Angkor Thom, cách cổng thành khoảng 1 cây số rưởi. Bayon là khu đền súc tích với những trang trí chạm khắc bằng đá đẹp đẽ. Được xây dựng trong khoảng cuối thế kỷ thứ 12 và đầu thế kỷ thứ 13 như là đền chính thức của vua Jayavarman VII, tin theo Phật giáo Đại thừa khác với tín ngưỡng Ân Độ giáo như các vua trước nhưng vẫn theo truyền thống vua thần (devaraja). Vua Jayavarman VII cải giáo sang Đại thừa vì các vua đời trước nối nghiệp vua Suryavarman II theo Ấn Độ giáo, người xây dựng Angkor Wat đã để quân Chiêm Thành đánh bại. Sau khi Jayavarman VII chết, những vua nối tiếp với tín ngưỡng khác nhau như Ấn Độ giáo, Phật giáo Nguyên thủy, đã xây thêm cho ngôi đền dựa theo tín ngưỡng của mình.
Cấu trúc của Bayon gồm ba tầng mà cả ba tầng đều đổ nát nhiều, gạch đá nằm ngổn ngang khắp nơi. Hai tầng dưới bố trí theo hình vuông, tô điểm bằng những phù điêu trên tường. Tầng ba được sắp xếp theo hình tròn với nhiều tháp mà các mặt đá có hình khuôn mặt. Dãy hành lang ở tầng dưới là một kho tàng nghệ thuật với 11 ngàn bức phù điêu chạm khắc trên tường đá chạy dài 1200 mét, một tổng hợp liên quan đến lịch sử lẫn các truyền thuyết, miêu tả cảnh diễn hành của vua và hoàng gia, những trận đánh của vua Jayavarman VII với Chiêm Thành bằng cả thủy lẫn bộ chiến, ngoài ra còn miêu tả đời sống văn hóa, xã hội của một nền văn minh đã bị lãng quên từ bao thế kỷ. Nhiều khoảng tường công trình vẫn còn dở dang, chỉ còn để lại nét phát họa. Có lẽ bị bỏ dở khi vua Jayavarman VII qua đời.
Hình ảnh nổi bật nhất của Bayon vẫn là những ngọn tháp cao vút ở trung tâm bằng đá tảng, chạm khắc thành 4 khuôn mặt nhìn bốn hướng. Kiến trúc của Bayon được xem như có phong cách của trường phái baroque, trong khi Angkor thuộc phái cổ điển. Sự tương đồng của vô số khuôn mặt khổng lồ ở trên các tháp của đền Bayon với các bức tượng khác của vua Jayavarman VII khiến nhiều học giả đi đến kết luận đây chính là khuôn mặt của nhà vua. Người khác thì cho là của Quán Âm Bồ Tát (Avalokitesvara hay Lokesvara). Nhà học giả chuyên về Angkor học Coedes thì lý luận rằng Jayavarman VII theo truyền thống của các vua Khmer tự cho mình là vua thần (devaraja), khác với các vua trước theo Ấn Độ giáo tự cho mình là hình ảnh của thần Shiva, trong khi Jayavarman VII là một Phật tử nên cho hình ảnh Phật và Bồ tát là chính mình. Có tất cả 37 tháp đền đá tạc hình nhiều khuôn mặt nhìn xuống và nhìn đi bốn hướng như thể quan sát chúng sanh và che chở cho đất nước.
Bên trong đền có hai dãy hành lang đồng tâm ở tầng dưới, và một dãy ở tầng trên. Tất cả nằm dồn lại với nhau trong một không gian hạn hẹp bề 140 m và bề 160 m, trong khi phần chính của ngôi đền nằm ở tầng trên lại còn hẹp hơn với kích thước 70 m × 80 m; khác với Angkor Wat, người ta phải trầm trồ với quy mô to lớn và thoáng rộng của nó. Từ xa nhìn vào Bayon rải dài theo chiều ngang như một đống đá lổn chổn muốn vươn lên trời cao. Các tháp có kích cỡ cao thấp khác nhau, có tháp thật thấp khiến khuôn mặt như nhìn thắng vào mắt của du khách. Đi theo những lối đi quanh co, người ta có cảm giác như đi lạc vào một mê trận. Bất cứ rẽ vào lối nào du khách cũng trực diện với những đôi mắt đang chăm chú nhìn mình.
Trong số hằng trăm ngôi đền nơi quần thể Angkor, Bayon khiến cho các nhà khảo cổ thắc mắc nhiều nhất. Bayon hiện vẫn bao trùm nhiều bí ẩn mà lời giải đáp vẫn đang còn được tranh cãi: nó được xây với biểu tượng gì, để thờ ai? Có lẽ thích hợp với lời giải thích nhất vẫn là khuôn mặt với nụ cười hết sức bí ẩn nằm ở tháp trung tâm. Một số dân Khmer cho rằng Bayon được xây dựng vào thời vương quốc này được chia thành 54 tỉnh, những đôi mắt của những bức tượng này nhìn về phía muôn dân trong các tỉnh đó để cứu độ (dưới hình ảnh Quan Âm), để che chở (dưới hình ảnh của vua Jayavarman VII).
Thoạt đầu vào năm 1929, Robert J. Casey trong cuốn sách về Angkor nhan đề In Fact cho rằng những khuôn mặt đá là những khuôn mặt của thần Shiva thuộc đạo Hindu. Thế rồi trong thập niên 1930, các nhà khảo cổ thuộc Trường Viễn Đông Bác cổ khám phá ra rằng cái mô-típ ấy thuộc bên Phật giáo Đại thừa mà những hình ảnh bốn mặt đó là của Quán Thế Âm (Avalokitesvara). Họ lý luận rằng theo Đại thừa, bồ tát là người đã hoàn toàn giác ngộ để đạt thành Phật. Thay vì nhập Niết bàn, họ chọn ở lại trần gian để cứu độ những kẻ đang bị trầm luân trong khổ ải. Qua nụ cười bí ẩn của các khuôn mặt, vị bồ tát mà dân Campuchia gọi là Lokesvara đang tỏ lòng thương cảm trước nỗi đau của chúng sinh. Đồng thời có thuyết cho rằng vua Jayavarman VII tự cho mình hiển thị qua hình ảnh của Lokesvara, một vị Phật sống qua vai trò của một vị vua thần.
Nhìn ngược về lịch sử, chiến thắng bất ngờ của vua Jayavarman VII giành lại độc lập cho xứ sở từ Chiêm Thành đã chiếm được trái tim của mọi con dân Khmer. Sau khi đánh bại quân Chiêm Thành, ông thôn tính luôn nước Chiêm Thành và mở rộng lãnh thổ trải dài khắp vùng Đông Nam Á. Những tháp với bốn khuôn mặt nhìn ra bốn hướng có lẽ để làm e dè những kẻ đến chiêm bái ở đền Bayon. Nhìn đâu họ cũng thấy những đôi mắt của vị vua thần đang chằm chằm nhìn họ. Đồng thời những kẻ sùng bái thần phục lòng thương yêu của vị vua dành cho họ qua những hình ảnh trên những bức phù điêu mô tả đời sống thường nhật của dân chúng. Ngoài ra còn những bức miêu tả công lao đánh đuổi ngoại xâm Chiêm Thành nhắc nhở với thần dân rằng họ mang ơn vô vàn đối với vị vua thần đầy nhân ái, kẻ đã xả thân lưu lại trần gian vì lợi ích của muôn dân. Jayavarman VII còn có công xây dựng vô số bệnh viện khắp đất nước Campuchia.
Cố nhiên những công trình vĩ đại được xây dựng vào thời gian này đã làm cho nhân lực và vật lực trong nước bị khánh kiệt, thuế má và sưu dịch ngày càng đè nặng lên đầu nhân dân, làm cho quần chúng lao động vô cùng cơ cực và oán than. Nhiều cuộc bạo động và khởi nghĩa của quần chúng đã nổ ra, nhưng ngoài một số phong trào đấu tranh được ghi chép lại một cách vắn tắt và mơ hồ trong một số rất ít ỏi tài liệu văn bia, chúng ta không có thêm nguồn tài liệu nào khác nữa. Dẫu sao thì những công trình kiến trúc đồ sộ và vô cùng tốn kém đó cũng nói lên được sức sáng tạo của những người Khmer thời cổ. Dưới đời vua Jayavarman VII, sức sáng tạo đó rõ nét nhất qua việc xây dựng khu chùa Banteay Chmar, một trong những ngôi chùa đẹp nhất của Campuchia. Theo ước tính của G. Groslier trong cuốn Angkor - Người và đá "chỉ riêng việc xây dựng ngôi chùa cũng đòi hỏi bốn vạn bốn nghìn công nhân làm việc trong tám năm, mỗi ngày làm mười giờ. Còn như việc trang trí cho ngôi chủa thì cũng cần đến một nghìn thợ điêu khắc làm việc suốt trong hai mươi năm".
Nhiều đền chùa khác được xây dựng ở các tỉnh xa xôi: đền Wat Norko ở Kompong Cham, đền Ta Prom ở Bati và rất nhiều đền khác tại Lopburi, Ratburi, Phetchaburi, Muong Sen... tất cả đền nằm trên đất Thái Lan ngày nay. Trong những công trình kiến trúc quy mô đó, tập trung nhiều nhất pở kinh thành Angkor Thom và vùng phụ cận. Đó là một kinh thành với những bức tường thành dài 12 km, những hào sâu bao bọc, những cổng lớn hướng về bốn phương trời và đền Bayon ở trung tâm; đó là đền Banteay Kdei, đền Ta Prhom, đền Neak Pean, đền Preah Khan, được coi là những viên ngọc của nghệ thuật kiến trúc Khmer.
Ở đây người ta không thờ vua-thần với những tượng linga bằng vàng như dưới các đời vua trước, mà người ta thờ pho tượng Jayavarman VII khổng lồ bằng đá dưới dạng Quan Âm Bồ Tát. Phía Đông Angkor Thom còn có các đền Banteay Kdei bên cạnh hồ Sras Srang, đền Ta Prom thờ tượng bà hoàng thái hậu, tượng vị cao tăng thầy học của nhà vua cùng với trên 260 pho tượng khác. Ở phía bắc Angkor Thom có đền Prei Khan thờ tượng vua chúa, trong đó người ta tìm thấy bia đã nói trên đây tường thuật lại buổi lễ đang quang cũng như những công trình xây dựng đường sá và bệnh viện của nhà vua.
Tình trạng
Ngôi đền có thể do may mắn và do một phần chính do sự may mắn của lịch sử. Chính khuôn mặt từ bi của những bức tượng thần bốn mặt đó mà các vị vua sau theo Ấn Độ giáo đã tưởng lầm là khuôn mặt của thần Shiva nên tiếp tục hoàn thiện nó mà không đập bỏ. Khác với những công trình khác có sự đấu tranh về tôn giáo, vị vua trước theo Phật giáo, các vị vua sau theo Ấn Độ giáo sẽ đập bỏ toàn bộ các công trình xây dựng trước đó, và khi các vị vua sau theo Phật giáo sẽ làm việc tương tự và theo quy trình đó, toàn bộ các công trình trong quần thể Angkor Thom hoàn toàn không nguyên vẹn mà có sự đấu tranh tôn giáo gay gắt. Một trong những ngôi đền tiêu biểu cho sự đấu tranh tôn giáo gay gắt nhất là Ta Prohm. Bayon lại may mắn hơn khi khuôn mặt Bồ Tát bốn mặt bị lầm tưởng là thần Shiva nên nó vẫn tồn tại khá nguyên vẹn đến tận ngày nay, dù bị đổ nát do chiến tranh và thời gian. Di tích này hiện nay đang bị đe doạ nghiêm trọng bởi nó là một trong những di tích thu hút du khách. Hiện nay Nhật Bản đã giúp Campuchia khôi phục di tích này.Phần phía bức tường có bức tranh sử thi được trùng tu trước vì sức phá hoại của thiên nhiên đến với các bức tranh này đang diễn ra nhanh chóng.
Chú thích
Các câu nói và bản dịch ra từ bản in trên bia ký tại quần thể Angkor được dịch ra từ tài liệu bằng tiếng Pháp và của Michael Freeman Claude Jacques trong quyển Ancient Angkor và bản tiếng Việt của quyển " Lịch sử Campuchia " xuất bản năm 1989 của nhà xuất bản Vụ Trung học -Hà Nội. Câu nói được dịch ra theo phong cách tiếng Việt.
Tác phẩm này có hai bản: bản tiếng Anh và bản tiếng Pháp, phần trình bày của tác giả trong bài viết này là được trích từ tác phẩm này bằng tiếng Anh.
Tham khảo
Michael Freeman Claude Jacques, Ancient Angkor, River Books Ltd., Bangkok.
Guide to Khmer temples in Thailand and Laos, Michael Freeman, River Books Ltd, Bangkok.
Prehistoric Thailand, Charles Higham and Rachanic Thosarat, River Books Ltd, Bangkok.
Album
Liên kết ngoài
The Bayon Symposium (Unesco): 1996 - 2001
46 photos of Bayon
Bayon Photo Gallery
Photos of stone carvings at Bayon depicting a battle between Khmer and Cham forces
Photogallery of bas-relief scenes from Bayon, including battle scenes and scenes from civilian life at Angkor
Kiến trúc Khmer
Di tích Angkor
|
23603
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%C3%AAm%20ru%E1%BB%99t%20ho%E1%BA%A1i%20t%E1%BB%AD
|
Viêm ruột hoại tử
|
Viêm ruột hoại tử (NEC: Necrotizing EnteroColitis) là một cấp cứu nội khoa và ngoại khoa đường tiêu hóa thường gặp nhất ở trẻ sơ sinh đẻ non. Với tỉ lệ tử vong có thể lên đến 50% ở những trẻ có cân nặng thấp hơn 1500 gram, viêm ruột hoại tử là một bệnh có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong sơ sinh học. Rất thường gặp ở trẻ sơ sinh đẻ non nhưng viêm ruột hoại tử không phải không gặp ở trẻ sơ sinh đủ tháng. Mặc dù có những nghiên cứu sâu rộng trong hơn ba thập niên qua, nguyên nhân của viêm ruột hoại tử ở trẻ sơ sinh đến nay vẫn chưa được biết chính xác.
Nguyên nhân có thể
Nhiều yếu tố như thiếu máu cục bộ đường tiêu hóa và/hoặc tổn thương tái tưới máu (reperfusion lesion), yếu tố nhiễm trùng.
Có bằng chứng về sự phát tán vi khuẩn vào máu (translocation of intestinal flora) gây nên triệu chứng toàn thể.
Biểu hiện ban đầu không đặc hiệu. Biểu hiện về sau nằm trong bối cảnh bệnh nặng giống nhiễm trùng và hội chứng đáp ứng viêm hệ thống (SIRS: Systemic Inflammatory Response Syndrome).
Lâm sàng
Gặp ở trẻ sơ sinh đẻ non và nhất là cực non.
Trẻ đủ tháng có thể bị viêm ruột hoại tử trong các trường hợp như: ngạt chu sinh, suy hô hấp, bệnh tim bẩm sinh, bất thường chuyển hóa, hoặc có quá trình phát triển bào thai bất thường.
Ở sinh đẻ non, tần suất mắc bệnh tùy thuộc tuổi thai. Trẻ càng sinh non và càng nhẹ cân thì nguy cơ xuất hiện bệnh viêm ruột hoại tử càng cao.
Thông thường bệnh xuất hiện khi trẻ đang được cho ăn qua đường miệng với tiến triển tốt. Biểu hiện ban đầu hay gặp nhất là sự kém dung nạp thức ăn, trẻ "khác thường". Tuy nhiên đôi khi bệnh cũng khởi phát rầm rộ, đột ngột bằng dấu hiệu suy sụp tuần hoàn.
Lâm sàng gồm triệu chứng tiêu hóa và toàn thân nặng:
'Triệu chứng tiêu hóa:
1. Nôn nhiều
2. Đi ngoài phân đen
3, Có thể có vàng da
4.Bụng chứng
Triệu chứng toàn thân:
1.Miệt mỏi
2. Trẻ bỏ bú
3.Suy kiệt
4. Trong trường hợp bệnh nặng có thể có xuất huyết dưới da
Xét nghiệm
Bạch cầu máu ngoại biên tăng trên 20 ngàn/mm³ hoặc thấp hơn 5000/mm³, số lượng bạch cầu đa nhân trung tính <1500/mm³.
Thiếu máu: cần xét nghiệm lặp lại nhiều lần để so sánh và theo dõi mức độ mất máu. Nguyên nhân thiếu máu có thể do mất qua phân (đi cầu phân máu) hoặc do đông máu tiêu thụ.
Tiểu cầu giảm thường giảm < 100 000/mm³. Số lượng tiểu cầu giảm trầm trọng trong trường hợp có biểu hiện đông máu tiêu thụ.
Tỷ prothrombin (TP) giảm, thời gian aPTT kéo dài, giảm fibrinogen và tăng sản phẩm giáng hóa của fibrin.
Luôn luôn cấy máu trước khi dùng kháng sinh.
Điện giải, acid base: biểu hiện tăng natri máu là dấu hiệu nguy hiểm vì đó có thể là hậu quả của hội chứng tăng tính thấm mao mạch (capillary leak syndrome). Ngược lại, hạ Natri máu dưới 130 mEq/L cũng là dấu hiệu nặng. Trong trường hợp bệnh nặng, trẻ thường có nhiễm toan chuyển hóa với HCO3- < 20 mEq/L.
Nhiễm toan chuyển hóa cấp với PCO2 bình thường (không giảm rõ) là dấu hiệu xấu do trẻ không còn khả năng bù trừ hô hấp.
Chẩn đoán hình ảnh
Chẩn đoán vẫn chủ yếu là chụp X quang bụng: tư thế chụp trước sau và chụp nghiêng trái (bên trái phía dưới). Có thể chụp theo dõi mỗi 6 giờ nếu nghi ngờ.
Biểu hiện thường gặp là sự phân bố khí bất thường, các quai ruột giãn, thành ruột dày. Một quai ruột cố định và giãn trên nhiều phim khác nhau là dấu hiệu đáng nghi ngại.
Đôi khi quai ruột không có hoặc có rất ít hơi đáng ngại hơn là quai ruột giãn nhưng thay đổi trên các phim khác nhau.
Bóng hơi trong thành ruột (Pneumatosis Intertinalis) là dấu chỉ điểm của NEC. Hơi này là do từ lòng ruột đi vào. Phân tích khí cho thấy chúng chứa chủ yếu là Hydrro, khả năng là do vi khuẩn ruột lên men các chất không tiêu trong lòng ống tiêu hóa. Đường (thường là lactose) bị lên men bởi hệ khuẩn ruột tạo nên Hydrro. Khí CO2 và các acid hữu cơ chuỗi ngắn có thể tăng thêm quá trình viêm.
Khí tự do trong ổ bụng trên phim X quang đồng nghĩa với thủng ruột. Đây là một chỉ định phẫu thuật tuyệt đối.
Khí trong tĩnh mạch cửa thường dễ thấy trên siêu âm. Trước đây người ta cho rằng đây là dấu hiệu nặng. Tuy nhiên những nghiên cứu gần đây đã không ủng hộ ý kiến này.
Siêu âm thường phát hiện được báng tự do trong ổ bụng. Như vậy ngoài chụp X quang thì siêu âm hiện nay cũng đóng vai trò quan trọng trong chẩn đoán. Đặc biệt nếu người khám có kinh nghiệm thì siêu âm giúp ích chẩn đoán rất nhiều.
Xử trí theo phân độ Bell
Bell giai đoạn I
Giai đoạn IA
Các dấu hiệu toàn thân không đặc hiệu như ngưng thở, chậm nhịp tim và thân nhiệt không ổn định.
Dấu hiệu tiêu hóa nhẹ như lượng tồn lưu dạ dày tăng lên và chướng bụng nhẹ
X quang có thể bình thường hoặc có giãn không đặc hiệu
Điều trị bằng cách ngừng hoàn toàn cho ăn qua đường miệng (NPO: Non Per Os) cộng với kháng sinh toàn thân trong 3 ngày.
Giai đoạn IB
Chẩn đoán giống IA + phân có máu đại thể
Điều trị với NPO cộng với kháng sinh toàn thân trong 3 ngày
Bell giai đoạn II
Đây là giai đoạn bệnh đã biểu hiện rõ ràng trên lâm sàng, xét nghiệm cũng như chẩn đoán hình ảnh
Giai đoạn IIA
Tình trạng chung xấu đi nhưng mức độ nhẹ.
Chẩn đoán: mức độ IA + dấu hiệu toàn thân nhẹ
Dấu hiệu tiêu hóa gồm biểu hiện giai đoạn I + không có âm ruột và bụng đau.
X quang: liệt ruột và /hoặc bóng hơi thành ruột (pneumatosis intertinalis). Đôi khi chẩn đoán là NEC nội khoa.
Điều trị với NPO (Non Per Os) cộng với kháng sinh 7 - 10 ngày.
Bell giai đoạn III
Biểu hiện NEC tiến triển với các dấu hiệu toàn thân nặng có khả năng diễn tiến đến khả năng can thiệp phẫu thuật.
Giai đoạn IIIA
Bệnh nhi có NEC nặng nhưng ruột chưa thủng
Chẩn đoán gồm tất cả các tiêu chí trên công với hạ huyết áp, chậm nhịp tim, suy hô hấp, toan chuyển hóa, rối loạn đông máu và/hoặc giảm bạch cầu trung tính.
Khám bụng: chướng rõ + viêm phúc mạc lan tỏa.
X quang chứng tỏ có báng.
Điều trị với NPO14 ngày, hồi sức dịch điện giải, thuốc vận mạch, thông khí nhân tạo và chọc tháo báng.
Giai đoạn IIIB
Bệnh cực kỳ nặng kèm thủng ruột trên X quang.
Khí tự do trong ổ bụng là chỉ định ngoại khoa. Điều trị phẫu thuật bao gồm cắt bỏ đoạn bị ảnh hưởng, đôi khi có thể rất dài. Đầu tiên nên làm hậu môn nhân tạo đoạn hồi tràng bị thủng sau đó mới nối lại. Đôi khi ruột bị hẹp bất kể có phẫu thuật hay không, khi đó phải đòi hỏi phẫu thuật.
Nếu bệnh nhân cực nhỏ và nặng có thể không chịu dựng được phẫu thuật mở bụng: Nếu có khí tự do trong ổ bụng trong trường này thì có thể đưa ống dẫn lưu sau khi gây tê cục bộ.
Nên đặt tĩnh mạch trung tâm để nuôi dưỡng tối ưu hơn.
Cho ăn trở lại sau 14 ngày kể từ khi xquang biònh thường ở trẻ không phẫu thuật. ở trẻ phải phẫu thuật thì thời gian này còn dài hơn.
Các biến chứng muộn của NEC
Hẹp ruột.
Nhiễm trùng đường mật ngược dòng.
Sỏi mật.
Hội chứng ruột ngắn.
Tham khảo
Nhi khoa
Cấp cứu y khoa
Sơ sinh học
Chu sinh học
Tiêu hóa
Rối loạn đường tiêu hóa
|
23612
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BB%B1c%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20bi%E1%BB%83n
|
Mực nước biển
|
Mực nước biển trung bình (tiếng Anh: Mean sea level, viết tắt MSL), thường gọi tắt là mực nước biển (sea level), là mức trung bình của bề mặt của một hoặc nhiều đại dương của Trái Đất, nhằm xác định ra độ cao bằng 0 và từ đó có thể đo được độ cao của điểm trên Trái Đất .
Phép dựng mô hình Trái Đất dẫn đến bề mặt Trái Đất được quy về một ellipsoid, gọi là ellipsoid quy chiếu, tượng trưng cho độ cao của biển và được dùng để lấy mốc về độ cao của vật thể trên Trái Đất. Các vật nằm trên bề mặt này được quy ước có "độ cao bằng 0 so với mực nước biển".
Nó là một khái niệm được thống nhất về lý thuyết, nhưng từng nước lại quy định trong tiêu chuẩn quốc gia của mình cách lấy mốc khác nhau. Đây là mực nước trung bình cân đối tính trong toàn năm của một vùng biển được nhắm chọn theo quy định trong tiêu chuẩn quốc gia của mỗi nước và có độ cao quy ước là "0 mét". Ví dụ: "Mực nước biển" theo tiêu chuẩn quốc gia của Ba Lan là hình ellipsoid đi qua mực nước trung bình trong toàn năm của biển Baltic, tính cho vịnh Kronstadt (thuộc Liên bang Nga).
Khái niệm mực nước biển cũng được mở rộng ra thành khái niệm hình ellipsoid chuẩn cho các hành tinh, dùng để lấy mốc độ cao cho các vật thể trên bề mặt các hành tinh. Nó có thể được định nghĩa dựa vào thể tích bằng thể tích phần đất đá cứng của hành tinh và/hoặc các bán trục lớn phù hợp với khoảng cách trung bình của cực và các điểm trên xích đạo tới tâm hành tinh. Ví dụ, với Sao Hỏa, "mực nước biển" là hình ellipsoid với các bán trục lớn a = 3394,6 km, b = 3393,3 km và c = 3376,3 km.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sea Level Rise:Understanding the past – Improving projections for the future
Permanent Service for Mean Sea Level
Global sea level change: Determination and interpretation
Environment Protection Agency Sea level rise reports
Properties of isostasy and eustasy
Measuring Sea Level from Space
Rising Tide Video: Scripps Institution of Oceanography
Sea Levels Online: National Ocean Service (CO-OPS)
Système d'Observation du Niveau des Eaux Littorales (SONEL)
Sea level rise – How much and how fast will sea level rise over the coming centuries?
Hải dương học
Địa lý học
Bản đồ
Trắc địa
Thuật ngữ hải dương học
Mực nước biển
|
23616
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Roma
|
Roma
|
Bài này viết về thành phố Roma. "Rome" được chuyển hướng đến đây. Với những mục đích tìm kiếm khác, vui lòng xem La Mã (định hướng).
Roma (tiếng Latinh và tiếng Ý: Roma ; còn phổ biến với tên gọi Rome trong tiếng Anh và tiếng Pháp hay La Mã theo phiên âm Hán Việt) là thủ đô của nước Ý và là một đô thị cấp huyện (comune) loại đặc biệt (có tên đầy đủ là Comune di Roma Capitale – nghĩa là "Thành phố Roma Thủ đô"), đồng thời đóng vai trò là thủ phủ vùng Lazio trung tâm của quốc gia này. Roma là thành phố lớn nhất và đông dân thứ hai ở Ý (chỉ sau thành phố Napoli) với hơn 2,87 triệu cư dân trong phạm vi 1.285,3 km². Đây là thủ đô đông dân thứ ba của Liên minh châu Âu, sau Berlin và Madrid, tính theo số dân sinh sống bên trong phạm vi thành phố. Roma cũng đồng thời là nòng cốt của Thành phố đô thị Roma Thủ đô với hơn 4,3 triệu cư dân, do đó là thành phố đô thị đông dân nhất của nước Ý. Được xây dựng trên địa thế đặc biệt của bảy ngọn đồi, Roma tọa lạc theo hạ lưu dòng Tiber gần nơi cửa sông đổ ra Địa Trung Hải thuộc Trung Tây của bán đảo Ý, khu vực Latium lịch sử. Thành quốc Vatican, quốc gia nhỏ nhất thế giới, là một đất nước độc lập nằm trong lòng Roma, đây là ví dụ duy nhất về một quốc gia nằm trọn vẹn bên trong lãnh thổ của một thành phố; cũng vì lý do này mà Roma thường được xem là thủ đô lưỡng quốc.
Lịch sử Roma trải dài 28 thế kỷ. Mặc dù thần thoại La Mã đặt mốc thời gian thành lập Roma vào khoảng năm 753 TCN, tuy nhiên thành phố đã có mặt cư dân sinh sống lâu hơn thế, khiến nó trở thành một trong những khu định cư lâu đời nhất có con người vẫn đang tiếp tục sinh sống tại châu Âu. Là cái nôi thứ hai của nền văn minh phương Tây sau Athens với cư dân ban đầu có nguồn gốc hỗn hợp từ người Latinh, Etrusca và Sabine, thành phố sau đó trở thành thủ đô của Vương quốc La Mã, Cộng hòa La Mã và Đế quốc La Mã. Trong thời kỳ này với câu thành ngữ nổi tiếng "Mọi con đường đều dẫn đến La Mã", quyền lực của Roma phủ khắp phần lớn châu Âu, Bắc Phi và vươn đến Trung Đông, thống trị cả về quân sự lẫn văn hóa, là đầu não của một trong những nền văn minh vĩ đại nhất lịch sử, có ảnh hưởng toàn diện và sâu rộng đến xã hội, ngôn ngữ, văn học, nghệ thuật, kiến trúc, quy hoạch đô thị, kỹ thuật dân dụng, triết học, tôn giáo, luật pháp và phong tục xuyên suốt trong nhiều thế kỷ tiếp theo. Thành phố lúc bấy giờ là nơi cư ngụ của từ một đến hai triệu dân của thế giới cổ đại, khiến nó trở thành đô thị triệu dân đầu tiên của thế giới cũng như được nhận định là đại đô thị kiểu mẫu trung tâm đầu tiên của nhân loại. Roma ban đầu được gọi là Thành phố vĩnh hằng (tiếng Latinh: Urbs Aeterna) bởi thi hào Tibullus người La Mã trong thế kỷ thứ nhất TCN và ý tưởng đó đã được Ovidius, Vergilius và Livius tiếp nối. Thành phố còn nổi tiếng với danh hiệu "Caput Mundi" trong tiếng Latinh có nghĩa là Kinh đô thế giới. Được mở rộng đáng kể bởi các công trình vĩ đại dưới thời Julius Caesar và đặc biệt là ở thời Hoàng đế Augustus, thành phố đã bị phá hủy nặng nề một phần trong trận Đại hỏa hoạn thành Roma năm 62 và sau đó đạt đến đỉnh cao phát triển kiến trúc đô thị vào khoảng năm 320. Theo sau sự sụp đổ của Đế quốc Tây La Mã đánh dấu khởi đầu của Đêm trường Trung Cổ, Roma dần rơi vào sự thống trị của chế độ giáo hoàng (đã xuất hiện tại thành phố kể từ thế kỷ 1) và chính thức thế kỷ 8 trở thành thủ đô của Vương quốc Giáo hoàng tồn tại cho đến năm 1870. Bắt đầu từ thời kỳ Phục Hưng, hầu như tất cả các giáo hoàng từ Nicôla V (1447–1455) trở đi đều chủ trương theo đuổi tiến trình mang tính kiến trúc và đô thị hóa liên tục suốt 400 năm nhằm mục đích biến thành phố trở thành trung tâm nghệ thuật và văn hóa của thế giới. Do vậy, Roma trở thành trung tâm lớn của nền Phục Hưng Ý, đưa phong trào nghệ thuật này đạt đến đỉnh cao hoàng kim của nó, còn gọi là giai đoạn Thượng Phục Hưng, và sau đó trở thành nơi khai sinh của trường phái Baroque và chủ nghĩa Tân cổ điển. Những vĩ nhân kiệt xuất như Michelangelo, Raffaello hay Bernini cùng các đại nghệ sĩ, họa sĩ, nhà điêu khắc và kiến trúc sư nổi tiếng đã biến Roma trở thành trung tâm hoạt động của họ, tạo ra những kiệt tác ngoạn mục khắp toàn thành phố, tiêu biểu nhất có thể kể đến như Đại vương cung thánh đường Thánh Phêrô, Nhà nguyện Sistina, Dãy phòng Raffaello, Quảng trường đồi Capitolinus hay Đài phun nước Trevi. Trong thế kỷ 19, Roma là biểu tượng của tinh thần thống nhất nước Ý và năm 1871 chính thức trở thành thủ đô của Vương quốc Ý mới sinh và sau đó là nền Cộng hòa Ý từ năm 1946 cho đến ngày nay.
Roma mang đẳng cấp của một thành phố toàn cầu, và thường xuyên được xướng danh trong top những thành phố đẹp nhất thế giới. Trong năm 2017, Roma xếp thứ 12 trong số những thành phố được viếng thăm nhiều nhất thế giới, đứng thứ 3 tại châu Âu và là điểm thu hút khách du lịch nổi tiếng nhất tại Ý. Ở vai trò là ngai trụ xứ của Giáo hoàng cũng như thánh đô của Giáo hội Công giáo hoàn vũ, công cuộc hành hương đến Roma đã khiến cho thành phố trở thành địa điểm quan trọng bậc nhất đối với những người theo đạo Kitô trên khắp thế giới trong nhiều thế kỷ. Khu trung tâm lịch sử của Roma được UNESCO công nhận là Di sản Thế giới. Bảo tàng Vatican nổi tiếng nằm trong số những bảo tàng được viếng thăm nhiều nhất thế giới và Đấu trường La Mã trở thành điểm thu hút khách du lịch phổ biến nhất thế giới với 7,4 triệu lượt khách trong năm 2018. Bên cạnh du lịch, nền kinh tế của thành phố cũng được định hướng theo hướng công nghệ mới, viễn thông và truyền thông đa phương tiện kể từ những năm 2000 trở lại đây. Roma được xem là một trong những danh thắng khảo cổ học lớn nhất và quan trọng nhất trên thế giới, thành phố cũng sở hữu nhiều cây cầu lịch sử và đài phun nước, hơn 900 nhà thờ, cũng như số lượng đồ sộ các viện bảo tàng đẳng cấp và nhiều trường đại học và trung tâm học thuật danh tiếng. Thủ đô của Ý là nơi đăng cai Thế vận hội Mùa hè 1960. Đây cũng là nơi thành lập nên Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EEC) và Cộng đồng Năng lượng nguyên tử châu Âu (EAEC), bên cạnh đó còn là trụ sở của các cơ quan chuyên môn thuộc Liên Hợp Quốc như Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp (FAO), Chương trình Lương thực Thế giới (WFP) và Quỹ quốc tế về phát triển nông nghiệp (IFAD). Thành phố cũng là nơi đặt văn phòng Tổng thư ký Hội đồng Nghị viện Liên minh Địa Trung Hải (UfM) cũng như trụ sở của nhiều tập đoàn kinh doanh quốc tế như Eni, Enel, TIM, Leonardo S.p.A., và các ngân hàng nhà nước và quốc tế như UniCredit và BNL. Khu vực quận kinh tế và trung tâm thương mại của thành phố được gọi là EUR, là cơ sở của nhiều công ty quan trọng tham gia vào các ngành công nghiệp dầu mỏ, công nghiệp dược phẩm và dịch vụ tài chính. Roma cũng là một trung tâm thiết kế và thời trang quan trọng nhờ các thương hiệu quốc tế nổi tiếng có trụ sở tại thành phố, và đứng ở vị trí thứ 5 trong bảng xếp hạng các kinh đô thời trang của thế giới trong những năm gần đây. Phim trường Cinecittà của Roma là phim trường lớn nhất tại châu Âu, đã trở thành nơi bấm máy của rất nhiều bộ phim đoạt giải Oscar.
Tên gọi
/Theo huyền sử sáng lập của người La Mã cổ đại, cái tên Roma được tin là bắt nguồn từ tên của người sáng lập và vị vua đầu tiên của thành phố, Romulus.
Tuy nhiên, nhiều khả năng cái tên Romulus mới thực sự bắt nguồn từ Roma. Ngay từ đầu thế kỷ thứ 4 CN, người ta đã có nhiều giả thuyết khác nhau về nguồn gốc của địa danh Roma. Một số giả thuyết dựa vào ngôn ngữ học, tuy nhiên vẫn chưa thực sự chắc chắn:
Bắt nguồn từ Rumon hay Rumen, những tên thái cổ của con sông Tiber, động từ tiếng Hy Lạp ῥέω (rhèo) và động từ tiếng Latinh ruo, đều có nghĩa là "chảy";
Bắt nguồn từ 𐌓𐌖𐌌𐌀 (ruma) trong tiếng Etrusca, với căn nguyên tố *rum- nghĩa là "núm vú", có lẽ ám chỉ con sói mẹ đã nuôi dưỡng cặp song sinh Romulus và Remus, hoặc hình dạng của hai quả đồi Palatinus và Aventinus;
Bắt nguồn từ ῤώμη (rhōmē) trong tiếng Hy Lạp, nghĩa là sức mạnh.
Tên gọi "La Mã" là phiên âm Hán-Việt của hai chữ "羅馬/罗马", được người Trung Quốc dùng để ký âm cho tên "Roma" (bính âm: "Luómǎ"). Trong tiếng Việt, tên gọi này hiện chủ yếu được sử dụng trong các văn cảnh lịch sử có liên quan đến Đế quốc La Mã cũng như nền văn minh La Mã thời cổ đại.
Cái tên Roma có thể viết ngược lại thành Amor, nghĩa là tình yêu, do đó Roma cũng được xem là "Thành phố của tình yêu". Tên Roma cũng là nguồn gốc của từ romance và romantic trong tiếng Anh (cũng như từ vựng tương đương trong các ngôn ngữ thuộc nhóm Roman), bắt nguồn từ chữ romanice trong tiếng Latinh thông tục và tiếng Latinh Trung Cổ, có nghĩa là "theo kiểu những người Roma". Hai chữ Hán "浪漫" (Hán Việt: lãng mạn) có nghĩa gốc là "sự buông thả, tùy thích", về sau được mượn dùng để phiên âm cho từ tiếng Anh này, tạo ra một nghĩa mới là "sự lãng mạn" theo cách hiểu hiện đại.
Bên cạnh "Thành phố vĩnh hằng", Roma rất nổi tiếng với tên gọi "Kinh đô thế giới" trong lịch sử, đầy đủ là "Roma kinh đô thế giới" (tiếng Latinh: Roma Caput Mundi), bởi quyền lực của Đế quốc La Mã thời cổ đại, và về sau là trung tâm của Kitô giáo. Những biệt danh nổi tiếng khác của Roma bao gồm: "Thành phố Bảy ngọn đồi" (Urbs Septicollis) bắt nguồn từ vị trí địa lý nơi mà thành Roma cổ đại được hình thành, "Ngai của các vị Thánh" (Limina Apostolorum) bởi vai trò của Thánh Phêrô và Thánh Phaolô trong buổi đầu của Giáo hội và Roma cũng là nơi mà họ tử đạo và được chôn cất.
Lịch sử
Lịch sử sơ khởi
Có những bằng chứng khảo cổ về việc loài người sống tại khu vực Roma từ khoảng 14.000 năm trước, song lớp đất dày đặc gồm các mảnh vụn có niên đại muộn hơn nhiều đã che lấp các di chỉ đồ đá cũ và đồ đá mới. Bằng chứng về các công cụ bằng đá, đồ gốm và vũ khí bằng đá chứng thực con người hiện diện khoảng 10.000 năm. Một vài cuộc khai quật ủng hộ cho quan điểm rằng Roma phát triển từ các khu định cư chăn thả gia súc trên đồi Palatinus nằm bên trên khu vực Công trường La Mã sau này.
Từ cuối thời đại đồ đồng cho đến khi bắt đầu thời đại đồ sắt, mỗi ngọn đồi giữa biển và đồi Capitolinus có một ngôi làng ở trên đỉnh (tại đồi Capitolinus có một ngôi làng được chứng thực có từ cuối thế kỷ 14 TCN). Tuy nhiên, chúng đều chưa đạt tới hạng đô thị. Ngày nay, nhiều người thống nhất rằng thành phố đã dần phát triển thông qua việc tập hợp một vài làng xung quanh ngôi làng lớn nhất nằm trên đồi Palatinus. Quá trình tập hợp được thuận lợi nhờ gia tăng sức sản xuất nông nghiệp vượt trên mức tự cung tự cấp, đồng thời cho phép hình thành các hoạt động thuộc khu vực kinh tế thứ nhì và thứ ba. Điều này lại kéo theo đẩy nhanh phát triển mậu dịch với các thuộc địa của người Hy Lạp tại miền nam Ý (chủ yếu là Ischia và Cumae). Những bước phát triển này theo chứng cứ khảo cổ học thì diễn ra vào giữa thế kỷ 8 TCN, có thể được xem là mốc "khai sinh" thành phố. Từ những cuộc khảo cổ gần đây trên đồi Palatinus, quan điểm cho rằng Roma được thành lập vào giữa thế kỷ 7 TCN, theo truyền thuyết về Romulus, chỉ được xem là một giả thuyết ngoài lề.
Truyền thuyết sự thành lập Roma
Các câu chuyện truyền thống do người La Mã cổ đại truyền đời cho nhau giải thích lịch sử sơ khởi của thành phố bằng truyền thuyết và thần thoại. Thần thoại quen thuộc nhất trong số đó và có lẽ cũng là nổi tiếng nhất trong tất cả thần thoại La Mã, đó là câu chuyện về Romulus và Remus, hai anh em sinh đôi được một con sói cho bú. Họ quyết định xây dựng một thành phố, song sau một lần tranh luận, Romulus giết người em song sinh và đặt thành phố theo tên mình. Theo những người chép sử La Mã, sự kiện này diễn ra vào 21 tháng 4 năm 753 TCN.
Truyền thuyết này hoà hợp với một truyền thuyết song hành được tạo ra từ trước đó, rằng có một người tị nạn thành Troia tên là Aeneas đào thoát sang Ý và lập ra dòng dõi La Mã thông qua con trai ông là Iulus, trùng tên với triều đại Julius-Claudius. Điều này đã được nhà thơ La Mã Vergilius viết lại vào thế kỷ thứ nhất TCN. Ngoài ra, Strabo đề cập rằng còn có một câu chuyện cũ hơn rằng thành phố là thuộc địa của Arcadia và được thành lập bởi Euandros. Strabo cũng ghi lại Lucius Coelius Antipater tin rằng Roma được thành lập bởi người Hy Lạp. Dionysius xứ Halicarnassus viết rằng những người đến vùng đất mà sau này là thành Roma là những người thổ dân đầu tiên đến từ Arcadia, họ đã đuổi những người Sicilia ra khỏi nơi đó, và tiếp đến là người Pelasgos đến từ Thessalía, thứ ba là những người đến Ý cùng Euandros từ thành Pallantium ở Arcadia, sau họ là những người Epeius từ Elis và người Pheneus, một phần của quân đội do Heracles chỉ huy đã quyết định ở lại đó trong khi đang trở về từ đoàn thám hiểm ở Erytheia, nơi quân thành Troia giao chiến và còn sót lại cuối cùng, những binh lính Troia sau đó đã trốn thoát cùng Aeneas từ Ilium, Dardanus và các thành phố thuộc Troia khác. Dionysius đề cập rằng quân Troia, cũng là người Hy Lạp có nguồn gốc từ Peloponnesos. Ông cũng nói thêm rằng ngay cả người La Mã cũng khẳng định thành cổ Pallantium của người La Mã được thành lập bởi người Hy Lạp đến từ Pallantium của Arcadia, khoảng sáu mươi năm trước cuộc chiến thành Troia và người dẫn đầu là Euandros. Sau đó vào thế hệ thứ mười sáu sau cuộc chiến thành Troia, người Alba đã hợp nhất tất cả những nơi này thành một khu định cư, bao quanh họ bằng một bức tường và một con mương. Người Alba là một quốc gia hỗn hợp gồm tất cả những người trên. Dionysius cũng cho biết thêm có thể là quân man rợ trong số những người hàng xóm hoặc tàn dư những cư dân cổ xưa của nơi này được trộn lẫn với người Hy Lạp. Nhưng tất cả những người này đã mất bản sắc dân tộc, được gọi bằng một tên chung, Latin, đặt tên theo Latinus, là vua của đất nước. Lãnh đạo vùng thuộc địa là hai anh em song sinh Romulus và Remus.
Thời quân chủ, cộng hoà và đế quốc
Sau khi được Romulus thành lập theo truyền thuyết, thành phố nằm dưới quyền cai trị của một hệ thống quân chủ trong 244 năm, ban đầu là với các quân chủ gốc Latinh và Sabine và sau đó là các quốc vương người Etrusca. Theo truyền thuyết, vương vị truyền qua bảy người: Romulus, Numa Pompilius, Tullus Hostilius, Ancus Marcius, Tarquinius Priscus, Servius Tullius và Tarquinius Superbus.
Năm 509 TCN, người La Mã trục xuất vị quốc vương cuối cùng khỏi thành phố và lập ra một nền cộng hoà tập trung. La Mã sau đó bắt đầu một giai đoạn có đặc điểm là đấu tranh nội bộ giữa quý tộc và bình dân, và chiến tranh liên miên chống lại các cộng đồng tại miền trung Ý: Etrusca, Latinh, Volsci, Aequi, Marsi. Sau khi trở thành chủ nhân của khu vực Latium, La Mã dẫn đầu một số cuộc chiến tranh với kết quả là chinh phục bán đảo Ý từ khu vực miền trung đến Magna Graecia.
Trong thế kỷ 3 và 2 TCN, La Mã thiết lập quyền bá chủ trên Địa Trung Hải và bờ Đông, thông qua ba cuộc chiến tranh Punic (264–146 TCN) chống lại thành Carthago và ba cuộc chiến tranh chiến tranh Macedonia (212–168 TCN) chống lại Macedonia. Sau đó thành lập nên những tỉnh thuộc La Mã đầu tiên: Sicilia, Sardinia và Corsica, Hispania, Macedonia, Achaea và Châu Phi.
Từ khi bắt đầu thế kỷ 2 TCN, quyền lực là mục tiêu tranh chấp giữa hai nhóm thống trị: phái quý tộc đại diện cho bộ phận bảo thủ trong Viện nguyên lão, và phái bình dân dựa vào sự ủng hộ của tầng lớp thường dân. Trong cùng giai đoạn, việc tiểu nông bị phá sản và sự thành lập các điền trang nô lệ lớn đã khuyến khích một lượng lớn dân chúng di cư đến thành phố. Chiến tranh liên miên tạo tính cần thiết cho một đội quân chuyên nghiệp, họ trung thành với tướng lĩnh của mình hơn là với nền cộng hoà. Do đó, vào nửa cuối của thế kỷ 2 và thế kỷ 1 TCN diễn ra xung đột cả ở bên ngoài lẫn bên trong. Sau nỗ lực thất bại nhằm cải cách xã hội của Tiberius và Gaius Gracchus thuộc phái bình dân, và chiến tranh chống lại Jugurtha, phát sinh cuộc nội chiến đầu tiên giữa Gaius Marius và Sulla. Theo sau là một cuộc khởi nghĩa nô lệ quy mô lớn dưới quyền Spartacus, và sau đó là thành lập Liên minh tam hùng thứ nhất với Caesar, Pompey và Crassus.
Cuộc chinh phục Gallia khiến Caesar trở nên vô cùng mạnh mẽ và được lòng dân, dẫn tới cuộc nội chiến thứ nhì chống lại Viện nguyên lão và Pompey. Sau khi giành thắng lợi, Caesar tự lập bản thân làm độc tài trọn đời. Việc ông bị ám sát dẫn đến Liên minh tam hùng thứ hai gồm Octavius (cháu họ và người thừa kế của Caesar), Marcus Antonius và Lepidus, và một cuộc nội chiến khác giữa Octavius và Antonius. Octavius đến năm 27 TCN trở thành princeps civitatis và lấy hiệu là Augustus, lập ra chính thể nguyên thủ, một nền chính trị lưỡng đầu giữa nguyên thủ và viện nguyên lão. La Mã trở thành một đế quốc trên thực tế, đạt đến mức độ bành trướng tối đa vào thế kỷ 2 dưới quyền hoàng đế Traianus. Thành Roma là 'Caput Mundi', tức kinh đô của thế giới, một khái niệm đã có từ thời cộng hòa. Trong hai thế kỷ đầu tiên, đế quốc có quân chủ thuộc nhà Julius-Claudius, nhà Flavius (triều đại cho xây dựng khán đài hình vòng khổng lồ, được biết với tên gọi Colosseum hay Đấu trường La Mã) và nhà Antoninus. Thời kỳ này còn có đặc điểm là sự truyền bá Kitô giáo, do Giêsu thuyết giảng tại Judea vào nửa đầu thế kỷ 1 (thời Tiberius) và được các tông đồ của ông truyền bá khắp đế quốc và bên ngoài. Thời kỳ triều đại nhà Antoninus được xem là thời cực thịnh của đế quốc, với lãnh thổ trải dài từ Đại Tây Dương đến Euphrates và từ Anh đến Ai Cập.
Sau khi kết thúc triều đại Severus vào năm 235, đế quốc La Mã bước vào một giai đoạn 50 năm mang tên Khủng hoảng thế kỷ thứ ba, khi đó diễn ra nhiều cuộc nổi dậy của các tướng lĩnh muốn chiếm giữ những khu vực mà họ đã được giao phó do sự yếu kém của chính quyền trung ương tại Roma. Tồn tại đế chế Gallia tự xưng từ 260-274 và các cuộc nổi dậy của Zenobia và cha của bà từ giữa những năm 260, người đang tìm cách chống đỡ các cuộc xâm lược của Ba Tư. Một số khu vực như Anh, Tây Ban Nha và Bắc Phi hầu như rất khó gây ảnh hưởng đến. Bất ổn gây ra suy thoái kinh tế, lạm phát tăng nhanh chóng do chính quyền hạ mức giá trị tiền tệ nhằm đáp ứng chi tiêu. Các bộ lạc German dọc sông Rhine và phía bắc Balkan tiến hành các cuộc xâm nhập từ thập niên 250-280. Đế quốc Ba Tư xâm chiếm vài lần trong thập niên 230 đến 260, song cuối cùng bị đánh bại. Vào năm 284, hoàng đế Diocletianus đảm nhận việc khôi phục đế quốc. Ông đặt dấu chấm hết cho cái gọi là princeps (nguyên thủ) và giới thiệu danh hiệu mới là dominate (chúa tể) để tạo ấn tượng về quyền uy tối thượng. Đặc điểm nổi bật nhất là sự can thiệp chưa từng có của quốc gia xuống cấp thành phố: trong khi quốc gia trước đây thường đệ trình yêu cầu thuế đối với một thành phố và cho phép nó phân bổ các khoản phí, thì kể từ triều đại của Diocletianus, quốc gia đã thực hiện điều này xuống tận cấp thôn làng.
Trong một nỗ lực vô ích nhằm kiểm soát lạm phát, ông đã áp đặt các biện pháp kiểm soát giá nhưng chúng không thể kéo dài được lâu. Ông hoặc Constantinus đã địa phương hóa hệ thống hành chính của đế quốc, điều này đã làm thay đổi căn bản cách điều hành quốc gia bằng cách tạo ra các giáo phận khu vực. Sự tồn tại của các đơn vị tài chính khu vực từ năm 286 đóng vai trò như một mô hình cho sự đổi mới chưa từng có này. Do đó, chính quyền dân sự và chỉ huy quân sự sẽ được tách biệt. Diocletianus giao cho các tổng đốc nhiều nhiệm vụ tài khóa hơn và đặt họ vào phụ trách hệ thống hỗ trợ hậu cần của quân đội với nỗ lực kiểm soát nó bằng cách loại bỏ hệ thống hỗ trợ khỏi sự kiểm soát của nó. Diocletianus đã tạo ra một hệ thống "Tứ đầu chế" (Tetrarchia) trong đó mỗi hoàng đế cai quản một góc phần tư lãnh thổ của đế quốc, ông là Augustus cai quản nửa phía đông và cư ngụ tại Nicomedia. Năm 286, ông đưa Maximianus lên thành Augustus phía tây cai quản phần lớn lãnh thổ Mediolanum (Milano ngày nay) mà ông đã cai trị trước đó. Tiếp theo, ông đặt ra hai hoàng đế 'cấp dưới' hay nhị Caesar, một cho mỗi Augustus, trong đó Constantius Chlorus dưới quyền Maximianus sẽ cai trị Britania (Anh), Gallia (Pháp) và Hispania (Tây Ban Nha) có đầu não quyền lực tại Augusta Treverorum (Trier ngày nay), và Caesar phía Đông Galerius cai quản vùng Balkan-Danube trụ xứ tại thành Srimium, những thành phố này được gọi là thủ đô tứ đầu chế. Mặc dù Roma đã bị lãng quên và không còn là thủ đô hoạt động, nhưng thành phố vẫn tiếp tục là thủ đô danh nghĩa của toàn bộ Đế quốc La Mã, không bị hạ cấp xuống thành Tỉnh (Provincia) mà vẫn giữ nguyên vị thế hành chính độc nhất của mình là "Thành phủ" (tiếng Latinh: Praefectus urbanus). Việc bổ nhiệm một Caesar không phải là không xác định: Diocletianus đã cố gắng chuyển thành một hệ thống kế vị phi triều đại. Sau khi thoái vị vào năm 305, các Caesar đã tiếp nối và họ lần lượt bổ nhiệm hai đồng nghiệp cho chính mình.
Sau sự thoái vị của Diocletianus và Maximianus vào năm 305 và một loạt các cuộc nội chiến giữa những người tranh giành quyền lực đế quốc với đối thủ của mình, cho đến khoảng năm 313, chế độ tứ đầu chế đã sụp đổ. Constantinus Đại đế đã tiến hành một cuộc cải cách lớn về bộ máy quan liêu, không phải bằng cách thay đổi cấu trúc mà bằng cách hợp lý hóa năng lực của một số cơ quan trong những năm 325-330, sau khi ông đánh bại Licinius, hoàng đế ở phía Đông, vào cuối năm 324. Sắc lệnh Milano năm 313 thực ra là một mảnh thư từ Licinius gửi cho các tổng đốc của các tỉnh phía đông, trao quyền tự do thờ phượng cho mọi người, kể cả cho các Kitô hữu, và ra lệnh khôi phục lại các tài sản của nhà thờ bị tịch thu theo đơn thỉnh cầu của các giáo phận mới được lập ra. Constantinus đã tài trợ cho việc xây dựng một số nhà thờ và cho phép các giáo sĩ đóng vai trò trọng tài trong vụ kiện dân sự (một biện pháp không tồn tại lâu hơn ông nhưng đã được khôi phục một phần sau đó). Ông đã biến trấn Byzantium thành nơi ở mới của mình, tuy nhiên nó không chính thức là nơi cư ngụ hoàng gia như Milan hay Trier hay Nicomedia cho đến khi nó được Constantius II trao tặng một cái tên mới vào tháng 5 năm 359: Constantinopolis – "Thành phủ" thứ hai và ngang vị thế hành chính với Roma. Việc tạo ra thành Constantinopolis có ảnh hưởng rất quan trọng đến châu Âu: đó là tuyến phòng thủ chiến lược chống lại sự xâm lăng và chinh phạt từ phương Đông trong khoảng một thiên niên kỷ.
Kitô giáo dưới dạng Tín điều Nicea trở thành tôn giáo chính thức của đế quốc vào năm 380, được gọi là Sắc lệnh Thessalonica thông qua nhân danh ba vị hoàng đế Gratianus, Valentinianus II, và Theodosius I, người thực sự thúc đẩy đằng sau sắc lệnh. Ông là hoàng đế cuối cùng của La Mã thống nhất: sau khi ông mất vào năm 395, hai con trai của ông là Arcadius và Honorius phân chia đến quốc thành hai phần phía tây và phía đông. Trụ sở của chính phủ Đế quốc Tây La Mã được chuyển đến Ravenna sau cuộc vây hãm Milano vào năm 402. Trong thế kỷ 5, các hoàng đế trong thập niên 430 hầu hết cư trú tại Roma.
Roma bị mất vị thế trung tâm trong việc cai quản đế quốc, và bị người Visigoth dưới quyền Alaric I cướp phá vào năm 410, song chịu rất ít tổn thất về vật chất, và hầu hết đã được tu sửa. Các giáo hoàng tô điểm cho thành phố bằng các vương cung thánh đường cỡ lớn, như Vương cung thánh đường Đức Bà Cả (cộng tác với các hoàng đế). Dân số thành Roma giảm từ 800.000 xuống 450-500.000 khi thành phố bị người Vandal dưới quyền Genseric cướp phá vào năm 455. Các hoàng đế yếu đuối trong thế kỷ 5 không thể ngăn nổi sự suy tàn, và Đế quốc Tây La Mã chấm dứt vào ngày 22 tháng 8 năm 476 khi Romulus Augustus bị phế truất, đối với nhiều sử gia đây là mốc khởi đầu Trung cổ.
Sự suy giảm dân số của thành phố đến từ việc mất mát các lô hàng ngũ cốc từ Bắc Phi từ năm 440 trở đi, và sự không sẵn lòng của tầng lớp nguyên lão trong việc duy trì quyên góp để hỗ trợ cho một dân số quá cỡ so với các nguồn lực sẵn có. Mặc dù vậy, những nỗ lực cố gắng đã được thực hiện để duy trì các công trình trung tâm, mái vòm và phòng tắm lớn nhất tiếp tục hoạt động cho đến khi cuộc vây hãm Roma của người Gothic vào năm 537. Các nhà tắm lớn của Constantinus trên đồi Quirinalis thậm chí đã được sửa chữa vào năm 443 nhưng mức độ thiệt hại vẫn tiếp tục nhân rộng. Roma thể hiện tổng thể của sự tồi tệ và suy tàn vì các khu vực bị bỏ hoang lớn do sự suy giảm dân số. Dân số giảm xuống 500.000 vào năm 452 và 100.000 vào năm 500 (có lẽ lớn hơn, mặc dù không có con số nào cụ thể được biết). Sau cuộc vây hãm của người Gothic năm 537, dân số giảm xuống còn 30.000, nhưng đã tăng lên 90.000 vào thời Giáo hoàng Grêgôriô Cả. Sự suy giảm dân số xảy ra đồng thời với sự sụp đổ chung của văn minh đô thị ở phương Tây trong thế kỷ 5 và 6, với một vài ngoại lệ. Phân phối ngũ cốc từ trợ cấp quốc gia trợ cấp cho những người dân nghèo hơn trong xã hội vẫn tiếp tục trong suốt thế kỷ thứ 6 và có lẽ đã khiến dân số không thể giảm thêm nữa. Con số 450.000-500.000 được tính dựa trên số lượng 3.629.000 libra thịt lợn (đơn vị khối lượng La Mã xưa), phân phát cho người dân nghèo Roma trong năm tháng mùa đông với tỷ lệ 5 libra mỗi người mỗi tháng, đủ cho 145.000 người hoặc 1/4 hoặc 1/3 tổng dân số.<ref>Pigs, Plebeians and Potentes: Rome's Economic Hinterland, C. 350-600A.D. S. J. B. Barnish, Papers of the British School at Rome, Vol. 55 (1987), pp. 157-185</ref> Ngũ cốc phân phối cho cho 80.000 người có phiếu cùng lúc đã gợi ý 400.000 người (Augustus đặt con số là 200.000 hoặc một phần năm dân số).
Trung Cổ
Giám mục Roma được gọi là Giáo hoàng, và Roma là nơi quan trọng từ thời kỳ đầu của Kitô giáo do hai tông đồ Phêrô và Phaolô tử đạo tại đây. Các giám mục thành Roma cũng được nhìn nhận là những người kế thừa của Phêrô, người được xem là Giáo hoàng đầu tiên. Thành phố do đó nâng tầm quan trọng với vị thế là trung tâm của Kitô giáo. Sau khi Đế quốc Tây La Mã sụp đổ vào năm 476, Roma ban đầu nằm dưới quyền kiểm soát của Odoacer và sau đó là bộ phận của Vương quốc Ostrogoth trước khi qua tay Đông La Mã sau Chiến tranh Gothic song cuộc chiến này đã tàn phá thành phố. Dân số Roma suy giảm từ hơn một triệu vào năm 210 xuống 500.000 vào năm 273 và còn 35.000 sau Chiến tranh Gothic, làm giảm quy mô thành phố còn một nhóm các toà nhà có người ở nằm rải rác trên một khu vực lớn các tàn tích, thảm thực vật, trang viên nho và vườn chợ. Dân số của thành phố được tin rằng đến năm 300 là 1 triệu (ước tính dao động từ 2 triệu đến 750.000) giảm xuống 750-800.000 vào năm 400, 450-500.000 vào năm 450 và giảm xuống còn 80-100.000 vào năm 500 (mặc dù có thể gấp hai lần con số này).
Sau khi người Lombard xâm chiếm Ý, thành phố vẫn thuộc Đông La Mã trên danh nghĩa, song trong thực tế các giáo hoàng theo đuổi chính sách cân bằng giữa Đông La Mã, người Frank và người Lombard. Năm 729, quốc vương của người Lombard là Liutprand tặng cho giáo hội thị trấn Sutri phía bắc Latium, khởi đầu quyền lực lâm thời của giáo hội. Năm 756, sau khi đánh bại người Lombard, Pépin Lùn giao cho Giáo hoàng quyền hạn tạm thời đối với Công quốc Roma và Khu trấn thủ giáo Ravenna, qua đó lập nên Vương quốc Giáo hoàng. Kể từ đây, ba thế lực cố gắng cai trị thành phố: Giáo hoàng; giới quý tộc và các thủ lĩnh dân quân cùng thẩm phán, Viện nguyên lão và dân chúng; quốc vương của người Frank, cũng như quốc vương của người Lombard, patricius và Hoàng đế. Ba phái này (thần quyền, cộng hoà và đế quốc) là một đặc trưng trong sinh hoạt Roma suốt thời Trung Cổ. Vào đêm Giáng sinh năm 800, Giáo hoàng Lêô III trao vương miện cho Charlemagne tại Roma với tư cách hoàng đế của Đế quốc La Mã Thần thánh.
Năm 846, người Ả Rập Hồi giáo tấn công bất thành vào tường thành Roma, song cướp phá các vương cung thánh đường Thánh Phêrô và Phaolô nằm ngoài tường thành. Sau khi quyền lực của vương triều Caroling sụp đổ, Roma lâm vào tình trạng vô chính phủ phong kiến, một số gia đình quý tộc không ngừng tranh đấu chống lại Giáo hoàng, hoàng đế và chống đối lẫn nhau. Trong thời gian này, Theodora và con gái bà là Marozia trở thành thiếp và mẹ của một số giáo hoàng, và của lãnh chúa phong kiến quyền lực Crescentius, là người đấu tranh chống các hoàng đế Otto II và Otto III. Các bê bối trong giai đoạn này thúc đẩy chế độ giáo hoàng tự cải cách: Bầu cử giáo hoàng được dành cho các hồng y, và một cuộc cải cách tăng lữ được nỗ lực tiến hành. Động lực đằng sau việc này là tu sĩ Ildebrando da Soana, ông từng được bầu làm giáo hoàng và tham gia tranh luận về bổ nhiệm giáo sĩ chống Hoàng đế Heinrich IV. Sau đó, Roma bị người Norman dưới quyền Robert Guiscard cướp bóc và đốt cháy vào năm 1084, họ tiến vào thành phố để hỗ trợ Giáo hoàng đang bị vây hãm trong Lâu đài Thiên Thần.
Trong giai đoạn này, thành phố được tự trị dưới quyền của một senatore (nguyên lão) hoặc patrizio (quý tộc) trong thế kỷ 12. Chính quyền này thường thấy trong các thành phố Ý, tiến hoá thành công xã Trung Cổ, là một hình thức tổ chức xã hội mới, sự thể hiện của các tầng lớp giàu có mới. Giáo hoàng Giáo hoàng Luciô II đã chiến đấu chống công xã Roma, và cuộc đấu tranh tiếp tục dưới quyền Giáo hoàng Êugêniô III: công xã liên minh với giới quý tộc được sự ủng hộ từ Arnaldo da Brescia, một tu sĩ và nhà cải cách tôn giáo và xã hội. Sau khi Giáo hoàng từ trần, Arnaldo bị Giáo hoàng Ađrianô IV tống giam, đánh dấu kết thúc quyền tự trị của công xã. Thời kỳ dưới quyền Giáo hoàng Innôcentê III là đỉnh cao của chế độ giáo hoàng, công xã đã thanh lý được viện nguyên lão, thay thế nó bằng một Senatore lệ thuộc Giáo hoàng.
Trong thời kỳ này, giáo hoàng đóng vai trò thế tục quan trọng ở Tây Âu, thường đứng ra làm trọng tài giữa các quốc vương Kitô giáo và thực thi các quyền lực chính trị bổ sung.
Năm 1266, Charles I của Anjou được bổ nhiệm làm nghị sĩ khi đang tiến về phương nam để giao tranh với nhà Staufer nhân danh Giáo hoàng. Trong giai đoạn này, giáo hoàng từ trần, và các hồng y tụ họp tại Viterbo không thể nhất trí về người kế vị, thị dân tức giận và đã dỡ mái toà nhà nơi tụ họp, giam cầm các hồng y cho đến khi họ chọn ra giáo hoàng mới, sự kiện này đánh dấu khởi đầu mật nghị Hồng y. Trong giai đoạn này, thành phố cũng bị tàn phá trước các cuộc giao tranh liên tiếp giữa các gia đình quý tộc: Annibaldi, Caetani, Colonna, Orsini, Conti, họ có công sự xây trên các đại công trình La Mã cổ đại, tranh đoạt nhau để kiểm soát chế độ giáo hoàng.
Giáo hoàng Bônifaciô VIII là giáo hoàng cuối cùng đấu tranh cho lãnh địa tổng thể của giáo hội, ông tuyên bố một cuộc thập tự chinh chống lại Colonna, và đến năm 1300 ông kêu gọi Năm Thánh đầu tiên, khiến hàng triệu người hành hương đến Roma. Tuy nhiên, hy vọng của ông bị tiêu tan dưới tay Quốc vương Pháp Philippe IV và khiến ông mất mạng. Sau đó, một giáo hoàng mới trung thành với người Pháp được bầu ra, và chế độ giáo hoàng được di dời trong một giai đoạn ngắn đến Avignon (1309–1377). Trong giai đoạn này, thành phố bị bỏ bê, cho đến khi quyền lực vào tay một nhân vật bình dân là Cola di Rienzo. Một người theo chủ nghĩa lý tưởng và là ngưỡng mộ của La Mã cổ đại, Cola đã mơ về sự tái sinh của Đế quốc La Mã. Sau khi nắm quyền với tư cách Tribuno (quan bảo dân), các cải cách của ông bị dân chúng bác bỏ. Cola buộc phải chạy trốn, và trở lại trong đoàn tuỳ tùng của hồng y Albornoz, chịu trách nhiệm khôi phục quyền lực của giáo hội tại Ý. Sau khi trở lại nắm quyền trong một thời gian ngắn, ông bị dân chúng hành hình, và Albornoz đã có thể nắm quyền sở hữu thành phố, rồi đến năm 1377 dưới thời Grêgôriô XI, Roma lại trở thành đầu não của chế độ giáo hoàng. Việc chế độ giáo hoàng trở lại Roma trong năm đó đã mở đường cho Ly giáo Tây phương (1377–1418), và trong bốn mươi năm tiếp theo, thành phố là nạn nhân của các cuộc đấu tranh làm tan vỡ giáo hội.
Phục Hưng và cận đại
Năm 1418, Công đồng Constance giải quyết Ly giáo Tây phương, và bầu ra một giáo hoàng người Roma là Máctinô V. Sự kiện này giúp Roma có một thế kỷ hoà bình nội bộ, đánh dấu khởi đầu nền Phục Hưng. Các giáo hoàng cai trị cho đến nửa đầu thế kỷ 16, trong đó Nicôla V lập ra Thư viện Vatican, Piô II là người theo chủ nghĩa nhân văn và có học thức, Xíttô IV là một giáo hoàng chiến binh, Alexanđê VI là người vô đạo đức và gia đình trị, từ Giuliô II là một người bảo trợ cho đến Lêô X có hiệu được đặt cho giai đoạn này ("thế kỷ Lêô X"), toàn bộ đều cống hiến sức lực của mình cho sự vĩ đại và vẻ đẹp của Thành phố vĩnh hằng, cho quyền lực dòng dõi của họ, và bảo trợ cho nghệ thuật. Trong những năm này, trung tâm của Phục Hưng Ý chuyển từ Firenze đến Roma. Các công trình uy nghi như Vương cung thánh đường Thánh Phêrô, Nhà nguyện Sistina và Cầu Sisto được xây dựng. Để hoàn thành chúng, các giáo hoàng đã thu hút các nghệ sĩ giỏi nhất đương thời, như Michelangelo, Perugino, Raffaello, Ghirlandaio, Luca Signorelli, Botticelli và Cosimo Rosselli.
Thời kỳ này cũng khét tiếng vì sự mục nát của chế độ giáo hoàng, với nhiều giáo hoàng nuôi con cái, và tham gia vào gia đình trị và mua quyền bán chức. Sự trụy lạc của các giáo hoàng và các chi phí khổng lồ cho các dự án xây dựng của họ, một phần, dẫn đến cuộc Cải cách Kháng nghị và đến lượt là Phong trào Phản Cải cách. Chẳng hạn, Alexanđê VI nổi tiếng với sự bại hoại, ngông cuồng và cuộc sống vô đạo đức. Dưới quyền những vị giáo hoàng phung phí và giàu có, Roma chuyển mình thành một trung tâm mỹ thuật, thi ca, âm nhạc, văn học, giáo dục và văn hoá. Roma trở thành nơi cạnh tranh với các thành phố lớn khác tại châu Âu đương thời về mức độ thịnh vượng, huy hoàng, nghệ thuật, tri thức và kiến trúc. Thời kỳ Phục Hưng đã thay đổi diện mạo của Roma một cách đáng kể, với các tác phẩm như Pietà của Michelangelo và các bức bích họa của phòng tranh Borgia. Roma đạt đến đỉnh cao của sự huy hoàng dưới thời Giáo hoàng Giuliô II (1503–1513) và những người kế vị như Lêô X và Clêmentê VII, cả hai đều là thành viên của Nhà Medici.
Trong giai đoạn hai mươi năm này, Roma trở thành một trong những trung tâm nghệ thuật vĩ đại nhất thế giới. Vương cung thánh đường Thánh Phêrô cũ được xây dựng bởi Constantinus Đại đế (bấy giờ đang trong tình trạng đổ nát) đã bị phá hủy và một nhà thờ mới bắt đầu hình thành. Thành phố đã chào đón các nghệ sĩ như Ghirlandaio, Perugino, Botticelli và Bramante, những người đã xây dựng ngôi đền Thánh Phêrô tại Montorio và lên kế hoạch lớn cho dự án cải tạo Vatican. Raffaello ngụ tại Roma đã trở thành một trong những họa sĩ nổi tiếng nhất của Ý, đã tạo ra những bức bích họa trong Dinh Farnesina, Dãy phòng của Raffaello, cùng với nhiều bức tranh nổi tiếng khác. Michelangelo bắt đầu trang trí trần nhà của Nhà nguyện Sistina và tạo ra bức tượng Moses nổi tiếng dành cho lăng mộ Giuliô II. Roma mất đi một phần đặc trưng tôn giáo của mình, ngày càng trở thành một thành phố Phục Hưng thực sự, với một số lượng lớn các yến tiệc thết đãi phổ biến, những cuộc đua ngựa, các lễ hội rình rang, những mưu đồ và nhiều tình tiết kịch tính cam go.Pierluigi De Vecchi và Elda Cerchiari, The Times of Art (gốc: I tempi dell'arte), Quyển 2, Bompiani, Milano 1999.
Kinh tế Roma giàu mạnh, với sự hiện diện của một số chủ ngân hàng người Toscana như Agostino Chigi, ông là một người bạn của Raffaello và là một người bảo trợ cho nghệ thuật. Trước khi mất sớm, Raffaello cũng đề xướng lần đầu tiên việc bảo tồn các di tích cổ đại. Mâu thuẫn giao tranh giữa Pháp với Tây Ban Nha tại châu Âu và chính sách đối ngoại của Clêmentê VII đã khiến cho Roma bị cướp phá lần đầu tiên trong gần 500 năm trở lại đây, năm 1527, quân đánh thuê Landsknecht của vua Tây Ban Nha là Karl V đã cướp phá thành phố, chấm dứt đột ngột thời đại hoàng kim của Phục Hưng tại Roma và thường được xem là sự kết thúc của nền Phục Hưng Ý. Sự kiện này tác động rất lớn đến lịch sử của châu Âu, Ý và Công giáo, tạo ra hiệu ứng gợn sóng lâu dài trên khắp văn hóa và chính trị thế giới.
Từ Công đồng Trentô vào năm 1545, Giáo hội Công giáo bắt đầu chống lại Cải cách Kháng nghị - phong trào nghi vấn quy mô lớn về thẩm quyền của Giáo hội trên các vấn đề tinh thần và sự vụ chính quyền. Việc mất lòng tin này sau đó dẫn đến những chuyển biến lớn về quyền lực rời xa khỏi Giáo hội. Dưới quyền các giáo hoàng từ Piô IV đến Xíttô V, Roma trở thành trung tâm của Công giáo cải cách và chứng kiến xây dựng các công trình kỷ niệm mới nhằm tán dương chế độ giáo hoàng khôi phục tính trọng đại. Các giáo hoàng và hồng y trong thế kỷ 17 và đầu thế kỷ 18 tiếp tục phong trào bằng việc tô điểm cho cảnh quan thành phố các toà nhà kiến trúc baroque.
Diễn ra một giai đoạn gia đình trị khác, các gia đình quý tộc mới (Barberini, Pamphili, Chigi, Rospigliosi, Altieri, Odescalchi) được bảo hộ từ các giáo hoàng xuất thân từ gia đình của họ, các giáo hoàng xây cho người thân của mình các toà nhà baroque đồ sộ. Trong Thời kỳ Khai sáng, các tư tưởng mới cũng lan đến Roma, tại đây chế độ giáo hoàng ủng hộ các nghiên cữu khảo cổ và cải thiện phúc lợi của dân chúng. Nhưng không phải mọi thứ đều suôn sẻ cho Giáo hội trong thời kỳ Phản Kháng Cách. Đã có nhiều thất bại trong nỗ lực kiềm chế các chính sách chống Giáo hội của các cường quốc châu Âu thời bấy giờ, thất bại đáng chú ý nhất có lẽ là vào năm 1773 khi Giáo hoàng Clêmentê XIV bị các thế lực thế tục buộc phải đàn áp Dòng Tên.
Hiện đại và đương đại
Quyền cai trị của các giáo hoàng bị gián đoạn một thời gian ngắn do Cộng hòa Roma (1798–1800), chế độ này được dựng lên do ảnh hưởng của Cách mạng Pháp. Vương quốc Giáo hoàng được khôi phục vào tháng 6 năm 1800, tuy nhiên trong thời kỳ Napoléon cai trị thì Roma bị thôn tính thành một tỉnh của Đế quốc Pháp, ban đầu là Département du Tibre (1808–1810) và sau là Département Rome (1810–1814). Sau khi Napoléon bị phế truất, nhà nước của Giáo hoàng được khôi phục thông qua Đại hội Viên, Áo năm 1814.
Năm 1849, một thể chế Cộng hòa Roma khác xuất hiện trong làn sóng các cuộc cách mạng năm 1848. Hai trong số các nhân vật có ảnh hưởng nhất của quá trình thống nhất nước Ý là Giuseppe Mazzini và Giuseppe Garibaldi chiến đấu cho nền cộng hòa yểu mệnh.
Roma sau đó trở thành tâm điểm của hy vọng tái thống nhất Ý, khi mà phần còn lại của Ý đã thống nhất thành Vương quốc Ý với thủ đô lâm thời tại Firenze. Năm 1861, Roma được tuyên bố là thủ đô của Ý dù vẫn đang do Giáo hoàng kiểm soát. Trong thập niên 1860, tàn dư của Vương quốc Giáo hoàng nằm dưới quyền bảo hộ của Pháp, nhờ vào chính sách đối ngoại của Napoléon III. Phải đến khi người Pháp rời khỏi Roma vào năm 1870 do Chiến tranh Pháp-Phổ thì binh sĩ Ý mới có thể chiếm giữ Roma, họ tiến vào thành phố qua một lỗ thủng tường thành gần Cổng thành Pia. Sau đó, Giáo hoàng Piô IX tự tuyên bố mình là tù nhân tại Vatican, và đến năm 1871 thủ đô của Ý cuối cùng đã được chuyển từ Firenze đến Roma.
Không lâu sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, Roma chứng kiến Phát xít Ý trỗi dậy dưới quyền lãnh đạo của Benito Mussolini. Ông ta tiến hành cuộc hành quân đến thủ đô vào năm 1922, cuối cùng tuyên bố một Đế quốc Ý và liên minh với Đức Quốc xã. Mussolini phá huỷ nhiều phần rộng lớn tại trung tâm thành phố nhằm xây dựng các đại lộ và quảng trường rộng, được cho là để tán dương chế độ phát xít và hồi sinh La Mã cổ đại. Giai đoạn giữa hai thế chiến chứng kiến dân số thành phố gia tăng nhanh chóng, vượt qua một triệu người. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, do sở hữu kho tàng nghệ thuật và hiện diện của Vatican, nên Roma phần lớn thoát khỏi số phận bi thảm như nhiều thành phố châu Âu khác. Tuy nhiên, vào ngày 19 tháng 7 năm 1943, khu San Lorenzo bị quân Anh-Mỹ oanh tạc, khiến khoảng 3.000 người thiệt mạng tại chỗ và 11.000 người bị thương và sau đó có thêm 1.500 người chết. Sau khi chế độ Mussolini sụp đổ và Hoà ước Ý vào ngày 8 tháng 9 năm 1943, thành phố bị người Đức chiếm đóng, và được tuyên bố là thành phố mở theo sau sự kiện Giải phóng Roma vào ngày 4 tháng 6 năm 1944.
Roma phát triển rất nhanh sau chiến tranh, là một trong các động lực chính đằng sau "kỳ tích kinh tế Ý" về tái thiết và hiện đại hóa thời hậu chiến trong thập niên 1950 và đầu thập niên 1960. Trong giai đoạn này, những năm la dolce vita ("cuộc sống ngọt ngào"), Roma trở thành một thành phố thời thượng, với các phim cổ điển đại chúng như Ben Hur, Quo Vadis, Roman Holiday và La Dolce Vita được quay tại xưởng phim Cinecittà có tính biểu tượng của thành phố. Xu hướng tăng trưởng dân số tiếp tục cho đến giữa thập niên 1980 khi thành phố đạt trên 2,8 triệu cư dân. Sau đó, dân số bắt đầu giảm chậm do cư dân bắt đầu chuyển đến các vùng ngoại ô lân cận Roma.
Tổ chức hành chính và chính quyền
Chính quyền thành phố
Địa phương Roma hiến lập thành một đô thị cấp huyện đặc biệt (comune speciale) có tên chính thức là Roma Capitale ("Roma Thủ đô"), và lớn nhất về diện tích và dân số trong tổng số 8.101 các huyện hành chính (comune) của Ý. Thành phố nằm dưới quyền quản lý của một thị trưởng và một hội đồng thành phố. Văn phòng trụ sở đặt tại Điện Senatorio trên đồi Capitolinus, nơi đầu não lịch sử của chính quyền thành phố. Chính quyền thành phố tại Roma thường được gọi là "Campidoglio", tên của ngọn đồi này trong tiếng Ý.
Tổ chức hành chính
Kể từ năm 1972, thành phố được chia thành các quận hành chính gọi là municipio (trước năm 2001 gọi là circoscrizione). Chúng được lập ra vì mục đích hành chính để tăng cường phi tập trung hoá tại khu trung tâm thành phố. Mỗi quận nằm dưới quyền quản lý của một chủ tịch và một hội đồng gồm 25 thành viên, họ được các cư dân bầu ra mỗi 5 năm. Các quận thường vắt qua các ranh giới của các phân khu truyền thống, phi hành chính của thành phố. Số lượng quận ban đầu là 20, sau còn 19, và đến năm 2013 con số này giảm còn 15.
Khu trung tâm lịch sử
Roma còn được chia theo nhiều loại đơn vị phi hành chính khác nhau. Trung tâm lịch sử của Roma được chia thành 22 phường, gọi là rione, toàn bộ đều nằm trong tường thành Aurelianus ngoại trừ hai phường Prati và Borgo. Chúng bắt nguồn từ các khu vực của thành Roma cổ đại, tiến hoá vào thời trung cổ thành các rione trung cổ. Đến thời Phục Hưng, dưới quyền Giáo hoàng Xíttô V, chúng lại đạt đến con số 14, ranh giới của chúng cuối cùng được xác định dưới thời Giáo hoàng Biển Đức XIV vào năm 1743.
Một cách phân chia mới của thành phố dưới thời Napoléon nhanh chóng biến mất, và không có thay đổi rõ rệt nào về tổ chức của thành phố cho đến năm 1870, khi Roma trở thành thủ đô của Ý. Nhu cầu về thủ đô mới dẫn đến bùng nổ về đô thị hoá lẫn dân số trong và ngoài tường thành Aurelianus. Năm 1874, phường thứ 15 là Esquilino được tạo ra tại vùng mới đô thị hoá của phường Monti.<ref>Per la topografia antica del quartiere, in particolare nell'area di piazza Vittorio Emanuele, si veda Barrano, Colli, Martines, [http://www.fastionline.org/docs/FOLDER-it-2007-87.pdf Roma. Piazza Vittorio Emanuele II. Un nuovo settore degli Horti Lamiani']</ref> Khi bước vào thế kỷ 20, các phường khác được tạo ra là Prati, và cũng là cuối cùng. Sau đó, các phân khu hành chính chính mới của thành phố sử dụng tên quartiere ("khu"). Ngày nay, toàn bộ các phường rione là đều thuộc Quận 1, tương đương với khu vực trung tâm lịch sử (Centro Storico).
Chính quyền thành phố đô thị và vùng hành chính
Roma là tỉnh lỵ của Thành phố đô thị Roma Thủ đô hoạt động từ ngày 1 tháng 1 năm 2015. Thành phố đô thị này thay thế tỉnh Roma cũ, bao gồm vùng đại đô thị của thành phố và trải rộng về phía bắc đến Civitavecchia. Thành phố đô thị Roma Thủ đô lớn nhất về diện tích tại Ý với 5.352 km², tương đương với vùng Liguria. Roma còn là thủ phủ của vùng hành chính Lazio.
Chính quyền trung ương
Roma là thủ đô của Ý, và là nơi đặt trụ sở của chính Ý. Các dinh thự chính thức của Tổng thống Ý và Thủ tướng Ý, trụ sở lưỡng viện Nghị viện Ý và của Toà án Hiến pháp Ý nằm tại trung tâm lịch sử của thành phố. Các bộ của nhà nước nằm phân tán khắp thành phố; trong đó bao gồm Bộ Ngoại giao và Hợp tác Quốc tế được đặt tại Điện Farnesina gần sân vận động Olimpico.
Địa lý
Vị trí lịch sử
Roma hình thành bên lưu vực sông Tiber thuộc vùng Latium lịch sử, ngày nay là vùng Lazio miền Trung Ý. Khu dân cư ban đầu phát triển trên bảy ngọn đồi đối diện một khúc cạn gần đảo Tiberina, là khúc cạn tự nhiên duy nhất của sông tại khu vực này. Trong suốt chiều dài lịch sử từ thời cổ đại đến cuối thế kỷ 19, giới hạn đô thị của thành Roma được xem là khu vực nằm bên trong chu vi tường thành Aurelianus, có diện tích 13,7 km².
Ban đầu, tường thành Servius được xây 12 năm sau khi người Gallia cướp phá thành phố vào năm 387 TCN. Nó bao gồm phần lớn các đồi Esquilinus và Caelius, cũng như toàn bộ năm đồi còn lại. Roma nhanh chóng phát triển ra ngoài tường thành này, và không cần xây dựng thêm bất cứ pháo đài phòng thủ nào khác bởi sự ổn định do Thái bình La Mã mang lại và sự bảo vệ của quân đội La Mã, mãi cho đến gần 700 năm sau tức năm 270 do cuộc khủng hoảng thế kỷ thứ Ba và họa xâm lăng của các bộ tộc man rợ, Hoàng đế Aurelianus bắt đầu cho xây dựng tường thành lớn kiên cố và đồ sộ hơn để bảo vệ Roma, chúng dài gần 19 km, và chính là bức tường mà binh sĩ Vương quốc Ý phải vượt qua để tiến vào thành phố năm 1870 với sứ mạng thống nhất nước Ý.
Lãnh thổ hiện đại
Từ thành La Mã cổ đại 14 km² làm cốt lõi, lãnh thổ thành phố Roma hiện đại vươn ra rất rộng lớn bao gồm cả những khu vực nguyên sơ hoặc bỏ hoang hàng thế kỷ và đầm lầy không phù hợp cho phát triển nông nghiệp cũng như đô thị. Với diện tích là 1.285 km², Roma là thành phố lớn nhất Ý và một trong những thủ đô khổng lồ của châu Âu xét về diện tích. Do đó, mật độ dân số của thành phố Roma không phải là cao, với sự hiện diện của nhiều không gian phủ xanh rộng lớn trải khắp thành phố. Địa giới Roma bị phân chia giữa các khu vực đô thị hóa cao độ và các khu vực được xác định là công viên, khu bảo tồn tự nhiên, và cho mục đích nông nghiệp.
Khu vực đô thị của thành phố được chia làm hai phần trong và ngoài thông qua đường vành đai Grande Raccordo Anulare ("GRA") hoàn thành vào năm 1962, nó bao quanh khu vực bên trong thành phố với bán kính khoảng 11 km tính từ đồi Capitolinus. Mặc dù khi đường vành đai hoàn thành thì hầu hết các khu vực dân cư đều nằm bên trong nó (một trong số ngoại lệ là ngôi làng cổ đại Ostia nằm ven biển Tyrrhenum), song về sau nhiều khu đô thị mới được xây dựng nới rộng ra bên ngoài đến 20 km. Thành phố còn có một sông khác là Aniene, hợp lưu vào Tiber về phía bắc của khu vực trung tâm lịch sử.
Mặc dù trung tâm Roma nằm cách biển Tyrrhenum khoảng 24 km, song địa giới thành phố trải dài đến bờ biển trên địa bàn Quận 10 ở phía tây nam, mang tên Ostia, do đó Roma là một trong số ít các thủ đô của châu Âu có bờ biển và đồng thời là thành phố giáp biển lớn nhất tại châu lục này với đường bờ biển dài 20 km.
Địa hình
Lãnh thổ hình thành nên Roma có lịch sử địa chất phức tạp: tầng mặt nền bao gồm vật chất do nham tầng tạo thành từ các núi lửa hiện không còn hoạt động, bao quanh khu vực thành phố về phía đông nam là núi lửa Latium ở dãy Albani và núi lửa Sabatini phía tây bắc, khoảng từ 300.000 đến 600.000 năm trước. Phần lớn các ngọn đồi tại Roma được hình thành từ thế địa tầng này. Sau đó, dòng chảy linh hoạt của sông Tiber và Aniene đã góp phần làm xói mòn các phù điêu và trầm tích đặc trưng cho lãnh thổ thực tế. Do đó, lãnh thổ của Roma thể hiện các cảnh quan thiên nhiên và đặc điểm môi trường khác nhau: một số ngọn núi và đồi (bao gồm bảy ngọn đồi La Mã lịch sử), các khu vực bằng phẳng, sông Tiber và các nhánh của nó, một hòn đảo trên sông (đảo Tiberina), bờ biển Ostia cũng như các hồ Bracciano và Martignano và các hồ nhân tạo. Vành đai địa chấn của Roma được xếp vào vùng 3 tức có biên độ động đất ở mức thấp.
Roma sơ khởi được xây dựng trên Bảy ngọn đồi La Mã bao gồm Aventinus, Caelius, Capitolinus, Esquilinus, Palatinus, Quirinalis và Viminalis. Khu trung tâm lịch sử còn bao gồm các đồi Janiculum, Pincius và đồi Vatican, cũng như các gò nhân tạo như núi Testaccio và núi Giordano. Bên ngoài những bức tường trải dài những ngọn đồi cao hơn như núi Mario (Monte Mario), núi Antenne, núi Parioli, núi Thánh (Montesacro) và núi Xanh (Monteverde). Độ cao Roma dao động từ 13 mét trên mực nước biển (tại nền đền Pantheon trung tâm thành phố) cho đến 139 mét trên mực nước biển tại núi Mario (nơi cao nhất tại Roma, từ đó người ta có thể ngắm một trong những khung cảnh đẹp nhất của thành phố).
Khí hậu
Roma có khí hậu Địa Trung Hải (phân loại khí hậu Köppen: Csa), với mùa đông mát và ẩm ướt còn mùa hè ấm và khô. Nhiệt độ trung bình năm là trên 20 °C (68 °F) vào ban ngày và 10 °C (50 °F) vào ban đêm. Trong tháng lạnh nhất là tháng 1, nhiệt độ trung bình là 12 °C (54 °F) vào ban ngày và 3 °C (37 °F) vào ban đêm. Trong các tháng nóng nhất là tháng 7 và tháng 8, nhiệt độ trung bình là 30 °C (86 °F) vào ban ngày và 18 °C (64 °F) vào ban đêm.
Các tháng 12, 1 và 2 là các tháng lạnh nhất, nhiệt độ trung bình ban ngày là 8 °C (46 °F). Nhiệt độ trong các tháng này thường dao động từ 10 đến 15 °C (50 - 59 °F) vào ban ngày và 3 đến 5 °C (37 - 41 °F) vào ban đêm, song thường xuyên có các đợt lạnh hơn hoặc ấm hơn. Tuyết rơi là hiện tượng hiếm song không phải là không có, các trận tuyết nhẹ hoặc mưa tuyết diễn ra hầu như mọi mùa đông, thường không tích tụ lại, và các đợt tuyết lớn diễn ra một lần trong khoảng mỗi 5 năm (gần đây nhất là vào năm 2018, trước đó là năm 2012).Snow in surprising places during Europe’s coldest day of the winter". Associated Press. The Mercury News. 26 tháng 2 năm 2018.
Độ ẩm tương đối trung bình là 75%, dao động từ 72% vào tháng 7 đến 77% vào tháng 11. Nhiệt đội biển dao động từ mức thấp 13 °C (55 °F) trong tháng 2 và tháng 3 đến mức cao 24 °C (75 °F) trong tháng 8.
Nhân khẩu
Năm 550 TCN, Roma là thành phố lớn thứ nhì tại Ý, sau Tarentum là thành phố lớn nhất. Roma từng có diện tích khoảng 285 hecta và dân số ước tính đạt 35.000. Các nguồn khác cho rằng dân số ở sát dưới mức 100.000 từ 600–500 TCN. Đến khi nền Cộng hoà được thành lập vào năm 509 TCN, điều tra nhân khẩu ghi nhận dân số 130.000. Cộng hòa La Mã bao gồm bản thân thành phố và khu vực xung quanh. Các nguồn khác cho rằng dân số đạt 150.000 vào năm 500 TCN. Dân số Roma vượt 300.000 người vào năm 150 TCN.http://media.johnwiley.com.au/product_data/excerpt/14/14443392/1444339214.pdf
Quy mô thành phố vào thời Hoàng đế Augustus là vấn đề cần nghiên cứu, các ước tính dựa trên phân bổ lương thực, nhập khẩu lương thực, dung tích cống nước, giới hạn thành phố, mật độ dân số, báo cáo nhân khẩu, và giả định về số nữ giới, trẻ em và nô lệ không được báo cáo. Glenn Storey ước tính có 450.000 người, Whitney Oates ước tính 1,2 triệu, Neville Morely đưa ra con số 800.000 và loại trừ các đề xuất trước đó về mức 2 triệu.Duiker, 2001. page 149.The Population of Rome by Whitney J. Oates. Originally published in Classical Philology. Vol. 29, No. 2 (April 1934), pp 101–116. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2007.
Sau khi Đế quốc Tây La Mã sụp đổ, dân số thành phố giảm xuống dưới 50.000 người. Dân số tiếp tục đình trệ hoặc giảm cho đến thời kỳ Phục Hưng. Khi Vương quốc Ý sáp nhập Roma vào năm 1870, thành phố có dân số khoảng 200.000. Con số này tăng lên đến 600.000 ngay trước Chiến tranh thế giới thứ nhất. Chế độ phát xít của Mussolini nỗ lực ngăn chặn dân số gia tăng quá mức, song thất bại và dân số đạt đến một triệu vào đầu thập niên 1930. Tăng trưởng dân số tiếp tục sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nhờ kinh tế bùng nổ thời hậu chiến. Bùng nổ trong xây dựng cũng tạo ra lượng lớn các khu ngoại ô trong thập niên 1950 và 1960.
Đến giữa thập niên 2010, có 2.754.440 cư dân sống trong địa giới thành phố, và có khoảng 4,2 triệu người sống trong vùng Đại Roma (gần tương ứng với ranh giới Thành phố đô thị Roma Thủ đô, với mật độ khoảng 800 người/km² trải rộng trên 5.000 km²). Năm 2010, người vị thành niên chiếm 17% dân số còn người ở độ tuổi nghỉ hưu là 20,76%, các con số tương đương của toàn quốc là 18,06% và 19,94%. Tuổi trung bình của cư dân Roma là 43 so với mức trung bình toàn quốc là 42. Trong vòng 5 năm từ 2002 đến 2007, dân số Roma tăng 6,54%, trong khi dân số Ý tăng 3,56%. Tỷ suất sinh hiện tại của Roma là 9,1 ca sinh trên 1.000 dân khi so sánh với tỷ lệ sinh trung bình của Ý là 9,45.
Khu vực đô thị của Roma phát triển ra ngoài địa giới hành chính của thành phố, với dân số khoảng 3,9 triệu. Từ 3,2 đến 4,2 triệu người sống trung vùng đại đô thị Roma.Eurostat, Total population in Urban Audit cities, Larger Urban Zone, accessed on ngày 23 tháng 6 năm 2009. Data for 2009 unless otherwise noted.Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế, Competitive Cities in the Global Economy, OECD Territorial Reviews, (OECD Publishing, 2006), Table 1.1
Các nhóm dân tộc thiểu số
Theo điều tra của ISTAT vào năm 2009, khoảng 9,5% dân số Roma không phải là người gốc Ý. Khoảng một nửa số cư dân nhập cư có nguồn gốc châu Âu (chủ yếu là Romania, Ba Lan, Ukraina, và Albania) với số lượng tổng cộng 131.118 hay 4,7% dân số. 4,8% còn lại là những người có nguồn gốc ngoài châu Âu, đông nhất là người Philippines (26.933), Bangladesh (12.154), và người Hoa (10.283).
Phường Esquilino nằm bên cạnh nhà ga trung tâm Termini phát triển thành một khu phố nhập cư cỡ lớn, được ví là phố Tàu của Roma. Người nhập cư từ trên một trăm quốc gia cư trú tại đây. Do là khu thương mại nên Esquilino có các nhà hàng mang đặc điểm của nhiều nền ẩm thực quốc tế. Trong số 1.300 cơ sở kinh doanh hoạt động tại phường, có 800 cơ sở do người Hoa sở hữu, khoảng 300 cơ sở do những người nhập cư khác điều hành, và 200 cơ sở thuộc sở hữu của người Ý.
Tôn giáo
Tôn giáo La Mã cổ đại
Roma trước đây là trung tâm của Đa thần giáo La Mã, tôn giáo cổ điển có nguồn gốc gắn liền với lịch sử và truyền thống của Roma kể từ khi thành phố được hình thành. Mặc dù chịu ảnh hưởng và vay mượn phần lớn từ Hy Lạp cũng như các nền văn hóa khác như Etrusca hay Sabine, tôn giáo La Mã (tiếng Latinh: religio romana) sở hữu những đặc trưng độc đáo nhờ tính chất lịch sử, tâm lý và chính trị điển hình của xã hội La Mã. Tôn giáo La Mã cũng được đặc trưng bởi chu kỳ các lễ hội hàng năm, gắn liền với thành Roma; tuy nhiên, với sự mở rộng của đế chế, nhiều tôn giáo và giáo phái bí ẩn mới, chủ yếu đến từ phương Đông, đã lan rộng tại thành phố. Khác với thần thoại Hy Lạp, các vị thần La Mã không có sự tồn tại độc lập; tôn giáo La Mã cũng không tập trung nhiều vào các câu chuyện thần thoại hay nhấn mạnh hình thành hệ thống tư tưởng giáo lý mà thay vào đó đóng vai trò là "nhạc cụ công quyền" (tiếng Latinh: instrumentum regni): đã có từ giai đoạn cổ xưa của lịch sử La Mã và trên thực tế, các thể chế tôn giáo không tách biệt với chính trị. Ban đầu, "Đại Tư tế" (tiếng Latinh: pontifex maximus) chức vụ quan trọng nhất của tôn giáo La Mã cổ đại được độc lập dưới thời Cộng hòa La Mã, sau đó dần dần bị chính trị hóa cho đến khi Augustus sáp nhập nó vào chức vị hoàng đế. Các vị thần đầu tiên của người Roma là Jupiter (có vị thế cao nhất), Juno, Minerva, Vesta, Janus, Mars, vân vân hay các vị thần trừu tượng được nhân cách hóa khác. Theo truyền thuyết, Mars là chiến thần và là cha của hai người sáng lập Roma là Romulus và Remus. Ngoài ra còn có một số thần linh nhỏ với vai trò thần bảo hộ, như Lares và Penate. Tôn giáo cổ xưa này là nền tảng của mos maiorum (nghĩa là "phong tục tổ tiên" hay đơn giản là "truyền thống") được xem là cốt lõi của bản sắc văn hóa La Mã, bao gồm nguyên tắc tôn trọng thời gian, các hình mẫu thể hiện hành vi ứng xử chuẩn mực và những thực tiễn xã hội liên quan và ảnh hưởng đến đời sống cá nhân, chính trị và quân sự ở La Mã cổ đại. Gắn liền với tôn giáo đa thần, sự sùng bái hoàng gia cũng đã trở thành một trong những phương thức mà Roma quảng bá sự hiện diện của mình ở các tỉnh, để nuôi dưỡng lòng trung thành và bản sắc văn hóa chung trong toàn Đế quốc.
Đối với người dân La Mã thông thường, tôn giáo La Mã đã trở thành một phần của cuộc sống thường nhật. Mỗi nhà đều có một gian thờ trong gia đình của mình, nơi diễn ra sự cầu nguyện và nghi lễ rưới rượu cho các vị thần giữ nhà. Các đền thờ khu dân cư và những nơi linh thiêng như suối và lùm cây điểm xuyết khắp thành phố. Lịch La Mã được xây dựng xung quanh những nghi lễ tôn giáo. Phụ nữ, nô lệ và trẻ em đều tham gia vào một loạt các hoạt động tôn giáo. Một số nghi lễ công cộng chỉ có thể được thực hiện bởi phụ nữ, và phụ nữ đã hình thành nên chức vụ tư tế được ủng hộ và nổi tiếng nhất Roma, Trinh nữ Vesta - người có nhiệm vụ trông giữ ngọn lửa của nữ thần Vesta thiêng liêng của Roma trong nhiều thế kỷ, cho đến khi tan rã dưới sự thống trị của Kitô giáo.
Vào đầu thế kỷ thứ nhất, giống với những gì đang xảy ra tại các thành trì quan trọng khác của đế quốc, Kitô giáo lan truyền rất nhanh tại Roma, ban đầu được coi là một giáo phái Do Thái, các Kitô hữu thuộc mọi tầng lớp xã hội đã có tổ chức riêng cho mình tức giáo hội và lãnh đạo bởi một giám mục (sau này là giáo hoàng) được xem là người kế vị của Thánh Phêrô, vị tông đồ của Chúa Giêsu đã tử đạo tại Roma cùng với Thánh Phaolô, về sau cùng trở thành thánh quan thầy của thành phố.The Catholic Encyclopedia, Volume XI (Robert Appleton Company, New York, 1911), s.v. "St. Paul", truy cập 4 tháng 6 năm 2007. Tư tưởng và đức tin theo thuyết độc thần của Kitô giáo bác bỏ phủ nhận đa thần đã tạo bối cảnh cho cuộc xung đột gay gắt giữa tôn giáo La Mã và đạo Kitô - mà Đế quốc La Mã luôn coi là một phong trào chủ nghĩa cực đoan bác bỏ đạo truyền thống và là hình thức mê tín dị đoan mới lạ, trong khi tín đồ Kitô giáo coi tôn giáo La Mã là ngoại đạo tà thần, mâu thuẫn này dẫn đến việc bách hại Kitô hữu trong nhiều thế kỷ. Theo sau sự kiện Constantinus Đại đế ban bố sắc lệnh Milano năm 313, việc bách hại chính thức chấm dứt và dọn đường cho sự trỗi dậy vươn lên vị thế độc tôn của đạo Kitô. Các chính sách bức hại ngoại đạo tà giáo không phải Kitô giáo bắt đầu từ thời Constantinus, các tôn tượng, đền thần bị đập phá hoặc bị cải đạo, việc thực hiện nghi lễ hiến tế và thờ phượng các hình ảnh đều bị cấm đoán và trở thành tội tử hình, tôn giáo đa thần La Mã truyền thống dần lụi tàn và bị xóa sổ ngay trên chính trụ xứ của mình, nhường chỗ cho đạo Kitô trở thành quốc giáo chính thức của toàn đế quốc, và giáo hội tại Roma nơi nắm giữ quyền Ngai Thánh Phêrô, đã làm tăng thêm quyền lực lễ nghi và sức mạnh tinh thần của bổn giáo đồng thiết lập nên mối quan hệ chặt chẽ với các thể chế chính trị thần quyền đặc trưng của nhiều thế kỷ về sau.MacMullen, R. Christianizing The Roman Empire A.D.100-400, Yale University Press, 1984, Eusebius Pamphilius and Philip Schaff (Editor) and McGiffert, Rev. Arthur Cushman, Ph.D. (Translator) NPNF2-01. Eusebius Pamphilius: Church History, Life of Constantine, Oration in Praise of Constantine quote: "he razed to their foundations those of them which had been the chief objects of superstitious reverence"
Giáo hội Công giáo Roma
Hiện tại, giống như phần lớn phần còn lại của Ý, Công giáo La Mã là tôn giáo chi phối tại Roma, và thành phố là trung tâm quan trọng nhất của tôn giáo này và là nơi hành hương trong nhiều thế kỷ, trở thành đầu não của Vatican và Giáo hoàng. Mặc dù có một số gián đoạn (như chế độ giáo hoàng Avignon), Roma trong nhiều thế kỷ là trụ sở của Giáo hội Công giáo La Mã, và Giám mục thành Roma tức Giáo hoàng.
Tổng cộng có hơn 900 nhà thờ tại Roma, và thành phố sở hữu số lượng vương cung thánh đường (basilica, danh hiệu tôn vinh đặc biệt dành cho những nhà thờ có kiến trúc độc đáo cũng như tầm quan trọng về lịch sử và ý nghĩa tâm linh) nhiều hơn bất cứ nơi nào khác. Trên thế giới chỉ có bốn nhà thờ giữ danh hiệu "đại vương cung thánh đường" (basilica maggiore) tức nhà thờ cấp cao nhất của Giáo hội, và chúng đều nằm tại Roma. Mọi nhà thờ khác giữ danh hiệu "vương cung thánh đường" tại thành phố và trên thế giới đều là "tiểu vương cung thánh đường" (basilica minore).
Mặc dù Roma có Thành Vatican và Vương cung thánh đường Thánh Phêrô, song nhà thờ chính tòa của thành phố là Tổng lãnh vương cung thánh đường Thánh Gioan tại Laterano nằm về phía đông nam của trung tâm, là nhà thờ cổ nhất tại Roma cũng như lâu đời nhất và quan trọng nhất trong thế giới phương Tây, là trụ sở của Giáo hội Công giáo về mặt danh nghĩa và là nơi đặt Ngai của Giáo hoàng, nên có danh hiệu "Nhà thờ Mẹ và Đứng Đầu của tất cả các nhà thờ tại Roma và trên toàn thế giới".
Bên cạnh nhà thờ chính tòa và nhà thờ Thánh Phêrô, hai nhà thờ còn lại trong bộ tứ đại vương cung thánh đường thuộc giáo hoàng là nhà thờ Đức Bà Cả và nhà thờ Thánh Phaolô Ngoại thành. Ngoài ra, các nhà thờ đáng chú ý khác gồm có Vương cung thánh đường Thánh Clêmentê, Thánh Carlo tại Quattro Fontane, Nhà thờ Giêsu. Ngoài ra còn có các hầm mộ La Mã cổ đại nằm bên dưới thành phố. Nhiều tổ chức quan trọng giáo dục bậc cao về tôn giáo cũng nằm tại Roma, như Đại học Giáo hoàng Laterano, Viện Kinh Thánh Giáo hoàng, Đại học Giáo hoàng Gregoriana, Học viện Giáo hoàng Phương Đông.
Thành Vatican
Lãnh thổ Thành Vatican là bộ phận của Mons Vaticanus (đồi Vatican), và của phạm vi Vatican cũ lân cận, tại đây có Vương cung thánh đường Thánh Phêrô, Điện Tông Tòa, Nhà nguyện Sistina, và các bảo tàng cùng nhiều công trình khác. Khu vực là bộ phận của phường Borgo thuộc Roma cho đến năm 1929. Do Thành Vatican nằm ở phía bờ Tây của sông Tiber và tách biệt khỏi khu vực trung tâm thành phố, cho nên khu vực Vatican được bảo vệ trong các bức tường thành thời Giáo hoàng Lêô IV (847–855), sau đó mở rộng ra các bức tường pháo đài phòng thủ được xây thời Phaolô III (1534–1549), Piô IV (1559–1565) và Urbanô VIII (1623–1644) như hiện nay.
Hiệp ước Laterano vào năm 1929 tạo ra nhà nước Vatican, ranh giới của lãnh thổ đề xuất chịu ảnh hưởng bởi thực tế là phần lớn chúng đều nằm trong vòng tường này. Tại một số đoạn biên giới không có tường, và giới hạn của các toà nhà nhất định tạo thành bộ phận của biên giới, và một đoạn nhỏ biên giới là một bức tường xây vào thời hiện đại. Trong lãnh thổ Vatican có Quảng trường Thánh Phêrô, tách khỏi lãnh thổ Ý chỉ qua một vạch màu trắng dọc giới hạn của quảng trường, và giáp với Quảng trường Piô XII. Quảng trường Thánh Phêrô nối liền với Via della Conciliazione (nghĩa là "Con đường Hòa giải"), con đường này chạy thẳng đến bờ sông Tiber. Lối vào lớn này do các kiến trúc sư Piacentini và Spaccarelli thiết kế, theo mong muốn của Benito Mussolini và được thoả thuận với giáo hội sau khi ký kết Hiệp định Laterano. Cũng theo hiệp định này, một số tài sản của Toà Thánh nằm trong lãnh thổ Ý, đáng chú ý nhất là Cung điện Giáo hoàng Castel Gandolfo và các đại vương cung thánh đường, chúng được hưởng vị thế đặc quyền lãnh thổ ngoại vi giống như các đại sứ quán nước ngoài.
Hành hương
Với vai trò là trụ xứ của chế độ giáo hoàng và sở hữu đồ sộ các thánh tích tôn kính liên quan đến các tông đồ, các vị thánh cũng như những người tử đạo, Roma từ lâu đã là địa điểm hành hương lớn của các tín đồ Kitô giáo. Mọi người từ khắp nơi trên thế giới đến thăm Vatican nằm trong lòng thành Roma, nơi cư ngụ của giáo hoàng - nhân vật có ảnh hưởng nhất trong thời Trung Cổ. Thành phố trở thành địa điểm hành hương lớn trong thời Trung Cổ và là tâm điểm của cuộc đấu tranh giữa giáo hoàng và Đế quốc La Mã Thần thánh bắt đầu từ Charlemagne, người được trao ngôi hoàng đế đầu tiên ở Roma vào năm 800 bởi Giáo hoàng Lêô III. Ngoài thời kỳ ngắn ngủi là một thành phố độc lập trong thời Trung Cổ, Roma vẫn giữ vị thế là thủ đô của Giáo hoàng và "thánh đô" Kitô giáo trong nhiều thế kỷ, ngay cả khi chế độ giáo hoàng chuyển đến Avignon, Pháp một thời gian ngắn (1309–1377). Người Công giáo tin rằng Vatican là nơi an nghỉ cuối cùng của Thánh Phêrô.Fred S. Kleiner, Gardner's Art through the Ages (Cengage Learning 2012 ISBN 978-1-13395479-8), p. 126
Những chuyến hành hương đến Roma có thể bao gồm các chuyến viếng thăm một số lượng lớn các địa điểm, cả trong Thành phố Vatican và trên lãnh thổ Ý. Một điểm dừng phổ biến là bậc thang của Philatô: đó là, theo truyền thống Kitô giáo, các bước dẫn đến thảo nguyên Phongxiô Philatô ở Jerusalem, nơi Chúa Giêsu Kitô đặt chân trên đường bị đưa đi xét xử trong Cuộc thương khó của ông. Trong nhiều thế kỷ, Scala Santa ("Bậc thang Thánh Linh") đã thu hút những người hành hương Kitô giáo muốn tôn vinh Cuộc thương khó của Giêsu, các nấc thang được cho là do Thánh Helena đem tới Roma trong thế kỷ thứ 4. Các thánh địa để hành hương khác là một số cổ mộ được xây dựng từ thời La Mã, trong đó các Kitô hữu đã cầu nguyện, chôn cất người chết và thực hiện lễ cúng trong thời kỳ bị đàn áp, và các nhà thờ quốc gia khác nhau (trong đó có San Luigi dei Francesi và Santa Maria dell'Anima), hoặc nhà thờ liên kết với các dòng tôn giáo cá thể, như Nhà thờ Dòng Tên của Chúa Giêsu và Sant'Ignazio.
Theo truyền thống, những người hành hương đến Roma và công dân của Roma cảm ơn Chúa vì ân sủng nên đến thăm trực tiếp bằng chân đến bảy nhà thờ hành hương (tiếng Latinh: septem ecclesiarum, tiếng Ý: sette chiese) trong 24 giờ của ngày Thứ Tư trong Tuần Thánh. Phong tục này bắt buộc đối với mỗi người hành hương vào thời Trung Cổ đã được Thánh Philipphê Nêri chuẩn hóa vào thế kỷ 16, kết hợp yếu tố ngày lễ và chia sẻ kinh nghiệm tôn giáo phổ quát thông qua việc khám phá di sản của các vị Thánh hữu tiên khởi, theo đó tại mỗi nhà thờ sẽ diễn ra sự cầu nguyện, hát thánh ca và một buổi giảng giáo lý ngắn. Bảy nhà thờ truyền thống bao gồm tứ đại vương cung thánh đường (Thánh Phêrô tại Vatican, Thánh Phaolô ở Ngoại thành, Thánh Gioan tại Latêranô và Đức Bà Cả), ba nhà thờ còn lại là Thánh Lôrensô Ngoại thành (một nhà thờ Kitô tiên khởi), nhà thờ Thánh Giá Gerusalemme (một nhà thờ được thành lập bởi Thánh Helena, mẹ của Constantinus, nơi lưu trữ những mảnh gỗ được gán cho thánh giá) và Thánh Sêbastianô Ngoại thành (nằm trên đường Appia và được xây dựng trên cổ mộ La Mã). Vào năm thánh 2000, Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã thay thế nhà thờ Thánh Sêbastianô bằng Nhà thờ Đức Bà Tình Thương Cao Thượng (Madonna del Divino Amore), tuy vậy nhiều người hành hương vẫn thích bảy nhà thờ truyền thống trước đó và do vậy họ đến thăm thêm Thánh Sêbastianô Ngoại thành dành những ai có nguyện vọng xin xá tội, hoặc thậm chí không viếng Đức Bà Tình Thương Cao Thượng do thực tế việc đi bộ từ đó đến khu vực nội thành Roma mất ít nhất một nửa ngày đường trong quá trình hành hương và cho rằng sẽ được xá tội nếu đến viếng tứ đại vương cung thánh đường sau đó.
Tôn giáo khác
Trong những năm gần đây, có sự tăng trưởng rõ rệt trong cộng đồng Hồi giáo tại Roma chủ yếu là do nhập cư từ các quốc gia Bắc Phi và Trung Đông đến thành phố. Do số người hành đạo Hồi giáo tại địa phương tăng lên, xúc tiến xây dựng Thánh đường Hồi giáo Roma. Được khánh thành vào ngày 21 tháng 6 năm 1995, có diện tích 30.000 m2 với sức chứa hơn 12.000 người, đây là thánh đường Hồi giáo lớn nhất trong thế giới phương Tây và là nơi đặt trụ sở Trung tâm văn hóa Hồi giáo tại Ý.
Kể từ khi kết thúc nền Cộng hoà La Mã, Roma cũng là trung tâm của một cộng đồng Do Thái quan trọng, cổ nhất tại châu Âu. Do Thái giáo theo truyền thống bị giới hạn trong khu vực Ghetto Roma dưới sự quy định của giáo hoàng. Với hơn 20.000 người, họ có phương ngữ riêng đặc trưng của mình. Đại hội đường Do Thái Roma hay Tempio Maggiore là trung tâm thờ kính quan trọng nhất của người Do Thái trong thành phố.
Roma cũng có sự hiện diện của một bộ phận nhỏ Tin Lành, Chính thống giáo và các tín ngưỡng khác. Việc xây dựng khu phức hợp Đền thờ Mặc Môn ở Roma đã được công bố vào ngày 4 tháng 10 năm 2008 bởi Thomas S. Monson, chủ tịch của Giáo hội Các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giêsu Kitô tại một đại hội. Ngôi đền đã được khánh thành vào ngày 14 tháng 1 năm 2019, trở thành nhà thờ Mặc Môn đầu tiên tại Ý, bao gồm trung tâm Palo (nhà hội họp), trung tâm tiếp đón, trung tâm lịch sử gia đình, nhà khách và các khu vườn, phục vụ các thành viên của Giáo hội Mặc Môn tại Hy Lạp, Síp, Albania, Slovenia, Croatia, Bosnia và Herzegovina và Macedonia, cũng như 26.000 thành viên của giáo phái tại Ý.
Kiến trúc và cảnh quan thành phố
Kiến trúc của Roma trong nhiều thế kỷ đã phát triển rất mạnh, đặc biệt là từ phong cách cổ điển và Đế quốc La Mã chuyển sang phong cách kiến trúc phát xít hiện đại. Trong một thời gian, Roma đã từng là trung tâm kiến trúc cổ điển chính của thế giới, phát triển những dạng thức kiến trúc mới như các loại vòm, mái vòm và khung vòm. Phong cách kiến trúc Roman trong thế kỷ 11, 12 và 13 cũng được áp dụng rộng rãi trong kiến trúc La Mã, sau đó thành phố trở thành một trong những trung tâm chính của kiến trúc Phục Hưng, Baroque và tân cổ điển.
La Mã cổ đại
Một trong những biểu tượng của Roma là Đấu trường La Mã (bắt đầu xây dựng từ năm 72 và hoàn thành vào năm 80), một khán đài vòng cung ngoài trời lớn nhất từng được xây dựng tại Đế chế La Mã và hiện tại vẫn là khán đài vòng cung lớn nhất thế giới. Sức chứa ban đầu của khán đài là 60.000 khán giả, và không gian này được sử dụng cho những cuộc tranh tài của các võ sĩ giác đấu và các sự kiện công cộng khác như chương trình săn bắn, tái hiên các trận chiến và dàn dựng kịch sân khấu nổi tiếng dựa trên thần thoại cổ điển. Các di tích và địa điểm nổi tiếng của La Mã cổ đại bao gồm Công trường La Mã, Công trường Hoàng đế tòa nhà Domus Aurea, đền Pantheon, Cột Traianus, Chợ Traianus, cổ mộ, tường thành Servius và tường thành Aurelianus cũng như các cổng thành, trường đua ngựa cổ đại Circus Maximus, nhà tắm công cộng Caracalla, Lâu đài Thiên Thần, Lăng Augustus, Ara Pacis, Khải hoàn môn Constantinus, Kim tự tháp Cestius và bức tượng khắc Miệng Sự Thật.
Trung Cổ
Các khu phố nổi tiếng thời Trung Cổ của thành phố, chủ yếu nằm quanh đồi Capitonilus, phần lớn đã bị phá hủy từ cuối thế kỷ 19 và thời kỳ phát xít, nhưng nhiều công trình đáng chú ý vẫn còn. Các vương cung thánh đường có niên đại từ buổi đầu của Kitô giáo, bao gồm Vương cung thánh đường Đức Bà Cả và Vương cung thánh đường Thánh Phaolô Ngoại thành (sau này đã được đại trùng tu lại vào thế kỷ 19). Cả hai tòa nhà đều được chạm khắc những họa tiết trang trí tinh vi mang giá trị thẩm mỹ cao từ thế kỷ thứ 4 TCN. Phong cách nghệ thuật tranh tường và nghệ thuật khảm thời Trung Cổ đáng chú ý khác cũng có thể được tìm thấy trong các nhà thờ như Vương cung thánh đường Đức Bà Trastevere, Santi Quattro Coronati và Santa Prassede. Những công trình thế tục gồm một lượng lớn tháp, trong đó lớn nhất là tháp Milizie và Conti. Cả hai đều nằm kế Công trường La Mã và cầu thang lớn dẫn đến Vương cung thánh đường Đức Bà Aracoeli.
Phục Hưng và Baroque
Bên cạnh cái nôi Firenze, Roma là trung tâm Phục Hưng lớn của thế giới, và là nơi mà nghệ thuật Phục Hưng đạt đến đỉnh cao, vươn đến sự hoàn mỹ và hài hòa cao độ, còn gọi là thời kỳ Thượng Phục Hưng. Giai đoạn này có một kiệt tác của kiến trúc Phục Hưng ở Roma là Quảng trường Campidoglio do Michelangelo thiết kế. Cũng ở thời điểm này, các gia đình quý tộc lớn của Roma thường xây dựng những nơi ở sang trọng như Điện Quirinale (nay là trụ sở của Tổng thống Cộng hòa Ý), Điện Venezia, Điện Farnese, Điện Barberini, Điện Chigi, Điện Spada, Điện Cancelleria và Biệt thự Farnesina.
Nhiều quảng trường nổi tiếng của thành phố vẫn giữ nguyên hình dáng được tạo từ thời Phục Hưng và Baroque. Trong đó một số quảng trường rất lớn, hoành tráng với bút tháp trang trí đặt ở giữa, một số quảng trường khác thì nhỏ và thơ mộng. Những quảng trường chính là Quảng trường Navona, Quảng trường Tây Ban Nha, Campo de' Fiori, Quảng trường Venezia, Quảng trường Farnese, Quảng trường Rotonda và Quảng trường Minerva. Một trong những ví dụ điển hình nhất của nghệ thuật Baroque là đài phun nước Trevi của Nicola Salvi. Những cung điện Baroque đáng chú ý khác của thế kỷ 17 là Điện Madama, ngày nay là trụ sở của Thượng viện Ý và Điện Montecitorio, ngày nay là trụ sở của Hạ viện Ý.
Tân cổ điển
Trong thập kỷ đầu tiên sau khi trở thành thủ đô của nước Ý thống nhất, Roma vẫn giữ nguyên hiện trạng với các công trình cổ xưa. Thành phố có kích thước khiêm tốn vào năm 1870, trôi nổi theo nghĩa đen trong giới hạn của tường thành Aurelianus, với nhiều không gian còn nguyên sơ, thành phố vẫn còn đậm chất tỉnh lẻ, không thiết thực, với những con đường quanh co và thiếu vắng tất cả các dịch vụ cơ bản của một đô thị hiện đại. Nhiều hoạt động quy hoạch đô thị cần thiết đã diễn ra bao gồm kiến thiết các tòa nhà hành chính quan trọng (các trụ sở chính phủ, cơ quan Bộ ngành, Điện Công Lý, Trung tâm Triễn lãm, các đại sứ quán), hình thành những con đường mới (đường Vittorio Emanuele II, đường 20 tháng 9), xây dựng nhà ở cho các quan chức mới, phát triển các cơ sở hạ tầng (bệnh viện, lò mổ, doanh trại), cải tạo bộ mặt hai bên bờ Tiber. Các nghệ sĩ và kiến trúc sư thế kỷ 18 đã tìm tòi một phương hướng phong cách mới mà không phải gắn liền với Giáo hội. Họ xem lại các nền văn minh cổ đại Hy-La thời kỳ tiền Kitô giáo và hình thành nên một trường phái kiến trúc mới dựa trên trật tự, cân bằng và hài hòa, đã chiếm ưu thế vượt trội trong kiến trúc tại Roma lúc bấy giờ.
Một trong những biểu tượng nổi tiếng nhất của trường phái tân cổ điển La Mã là Đài tưởng niệm quốc gia Vittoriano, đã phá hủy một phần lớn đồi Capitolinus và khu phố Trung Cổ lân cận để xây dựng, là nơi tổ quốc ghi công các chiến sĩ vô danh, đại diện cho 650.000 người Ý đã ngã xuống trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Điện Công Lý nằm tại Quảng trường Cavour, là một ví dụ điển hình về chủ nghĩa chiết trung. Triển lãm quốc tế về nghệ thuật năm 1911 đã khai sinh ra khu quảng trường Mazzini, cũng như việc tạo ra Phòng tranh quốc gia về Nghệ thuật Hiện đại. Một bản thảo tiền đề cho kế hoạch mở rộng thành phố về phía biển (Ostia, Fregene) đã được đưa ra vào năm 1916. Khu Coppedè (1921-1927) là một ví dụ nổi bật của kiến trúc Art Nouveau. Các thành phố vườn như khu Garbatella đẹp như tranh đã được hình thành từ những năm 1920.
Phát xít
Chế độ phát xít cai trị ở Ý trong khoảng thời gian từ 1922 đến 1943 đã lưu dấu tại Roma. Mussolini cho phép xây dựng những con đường và quảng trường mới, dẫn đến sự phá hủy các con đường, nhà cửa, nhà thờ và cung điện được dựng lên trong thời cai trị của giáo hoàng. Các hoạt động chính trong chính phủ của ông là: "cô lập" đồi Capitolinus; phố Monti, sau đổi tên là phố Impero, và cuối cùng là phố Fori Imperiali; đường Mare, sau đổi tên thành phố Teatro di Marcello; "cô lập" của Lăng Augustus, với sự dựng lên của Quảng trường Augusto Imperatore; Con đường Hòa giải.
Về mặt kiến trúc, chủ nghĩa phát xít ưa thích các phong trào hiện đại nhất, như kiến trúc chủ nghĩa duy lý. Song song với điều này, vào những năm 1920, một phong cách khác đã xuất hiện, có tên là "Stile Novecento" đã phát triển một phong cách kiến trúc đặc trưng bởi sự liên kết với kiến trúc La Mã cổ đại. Một công trình quan trọng trong phong cách này là Công trường Mussolini, nay là Công trường Italico, bởi Enrico Del Debbio. Bên cạnh đó, nơi lưu dấu kiến trúc phát xít quan trọng nhất ở Roma là khu vực E.U.R. do Marcello Piacentini thiết kế vào năm 1938. Các tòa nhà tiêu biểu nhất của EUR là Điện Civiltà Italiana (1938–1943), thiết kế mang tính biểu tượng đã được xem như khối lập phương của 'Đấu trường La Mã hình vuông', và Điện Congressi, ví dụ về phong cách chủ nghĩa duy lý. Ban đầu khu này được hình thành với mục đích dành cho cuộc Triển lãm Thế giới 1942 ("Esposizione universale 1942") và có tên gọi là "E.42" ("Esposizione 42"). Tuy nhiên, triển lãm thế giới đã không có dịp diễn ra vì năm 1940 nước Ý bước vào chiến tranh thế giới thứ hai và các tòa nhà tiêu điểm đã bị phá hủy một phần vào năm 1943 trong cuộc chiến giữa quân đội Ý và Đức sau khi đình chiến và sau đó bị bỏ hoang. Khu vực được khôi phục vào thập niên 1950, khi chính quyền Roma nhận thấy rằng họ đã có những mầm mống của một khu kinh tế ngoài trung tâm như những thủ đô khác mà hiện trong thời gian đó vẫn còn đang quy hoạch (như xưởng đóng tàu London Docklands và La Défense ở Paris). Ngoài ra Điện Farnesina, nơi đóng trụ sở của Bộ Ngoại giao Ý ngày nay, được thiết kế vào năm 1935 theo phong cách phát xít thuần chất.
Đương đại
Roma bước ra khỏi Chiến tranh thế giới thứ hai với rất ít những vụ ném bom tàn phá. Năm thánh năm 1950 là cơ hội để thực hiện xong nhà ga trung tâm Termini cũng như đường Cristoforo Colombo nối Roma đến biển. Quận EUR được hoàn thành và trở thành quận kinh tế tài chính, và tuyến tàu điện ngầm đầu tiên được mở vào năm 1955. Để phục vụ Thế vận hội Mùa hè 1960, Sân vận động Olimpico và hai điện thể thao khác được xây dựng, cũng như Làng Olimpico. Bên cạnh sân bay truyền thống Ciampino, một sân bay mới - Sân bay quốc tế Leonardo da Vinci tại Fiumicino đã được khánh thành vào năm 1961 để đáp ứng nhu cầu ngày càng mở rộng và trở thành sân bay chính của Roma.
Trung tâm thành phố đã trải qua nhiều cuộc cải tạo mở rộng trong Năm Thánh 2000, và các cung điện nhuốm màu thổ hoàng do thời gian đã được khôi phục lại gam màu nhạt vốn có ban đầu của chúng trong các chiến dịch cải tạo này. Từ đầu thế kỷ 21, Roma bắt đầu khánh thành các tòa nhà mới theo kiến trúc đương đại: Auditorium Parco della Musica vào năm 2002, Bảo tàng Nghệ thuật Đương đại Roma (MACRO) năm 2002, MAXXI năm 2010 và Trung tâm Hội nghị Roma, khánh thành vào năm 2016 tại quận EUR.
Không gian xanh và hệ sinh thái
Công viên công cộng và khu bảo tồn thiên nhiên chiếm một khu vực rộng lớn ở Roma. Có thể nói, Roma là thành phố có một vùng không gian xanh bao phủ thuộc hàng lớn nhất trong các thủ đô châu Âu.
Phần đáng chú ý nhất của khu không gian xanh này đặc trưng bởi rất nhiều biệt thự và khu vườn của các tầng lớp quý tộc Ý. Tuy nhiều nhiều biệt thự đã bị phá hủy trong giai đoạn bùng nổ xây dựng cuối thế kỷ 19 nhưng vẫn còn sót lại một lượng lớn. Đáng chú ý nhất trong số này là các biệt thự Borghese, biệt thự Ada và biệt thự Pamphili Doria. Biệt thự Pamphili Doria nằm ở phía tây của ngọn đồi Janiculum rộng 1,8 km². Ngoài ra trên đồi Janiculum còn có biệt thự Sciarra với các sân chơi cho trẻ em và những khu vực đi bộ phủ bóng mát. Tại khu vực lân cận của Vườn Bách thảo Roma (Orto Botanico) là một không gian xanh thoáng mát và lợp phủ bóng râm. Trường đua ngựa La Mã cổ đại Circus Maximus là một không gian xanh lớn khác nhưng sự thu hút chính ở đây là các địa điểm đua xe ngựa cổ xưa, còn cây thì tương đối ít. Gần đó là biệt thự Celimontana tươi tốt, gần các khu vườn xung quanh nhà tắm công cộng Caracalla và Vườn Hoa hồng. Khu vườn của biệt thự Borghese là một không gian xanh lớn và nổi tiếng nhất ở Roma, nơi đây có các phòng trưng bày nghệ thuật trứ danh nằm giữa các lối đi bộ phủ bóng mát cây xanh. Nó nằm gần với Bậc thang Tây Ban Nha và Quảng trường Nhân Dân. Roma cũng có nhiều vườn địa phương được hình thành gần đây hơn như vườn địa phương Pineto và Appia. Ngoài ra còn có các khu bảo tồn thiên nhiên tại Marcigliana và Tenuta di Castelporziano.
Hàng nghìn loài động vật, động vật có xương sống và động vật không xương sống sống trong thành phố vĩnh hằng. Điển hình nhất tại Đấu trường La Mã và khu vực khảo cổ xung quanh là những chú mèo hoang, được chính quyền thành phố công nhận là "Di sản văn hóa - sinh học của Roma" từ năm 2001 (ví dụ duy nhất ở Ý về quyết định như vậy). Những chú mèo La Mã có khoảng 300.000 cá thể, sinh sống trong các tàn tích cổ xưa và đi hoang khắp nơi, được nhóm lại trong ít nhất 400 điểm trú ẩn mèo được xác định là môi trường sống tự do theo luật. Nhiều người dân Roma chủ yếu là phụ nữ quan tâm chăm sóc và cho chúng ăn. Từ đó, thuật ngữ "gattare" trong tiếng Ý dùng để chỉ những người phụ nữ này.
Trong số các loài chim, loài sáo đá xanh đặc trưng được ước tính có khoảng 5 triệu cá thể. Roma trong nhiều năm là thành phố Ý có số lượng lớn nhất về loài chim này, đã tràn ngập đô thị kể từ thời hậu chiến sau sự phá hủy nhiều vùng đất ngập nước ngoại ô, và chúng tìm thấy môi trường đô thị có ít động vật ăn thịt và sinh sống dễ dàng hơn. Các khu vực đầu tiên bị chiếm giữ bởi những con chim này là các khu vực phủ xanh của Điện Venezia, Biệt thự Torlonia và Quảng trường Cavour, tiếp theo vào năm 1970 bởi Biệt thự Ada, Biệt thự Pamphilj, sang đại lộ 20 tháng 9, đại lộ Trastevere và đường Appia Nuova. Sau đó, chúng chiếm cứ các cây ven sông ở hữu ngạn của Tiber, giữa cầu Matteotti và cầu Thiên Thần, để sau cùng tràn ngập được cả hai bờ. Trong các mùa di cư, chúng thường gây ra tai nạn đâm vào động cơ máy bay tại các phi trường của thành phố cũng như vấn đề với thải phân ở các di tích du lịch biểu tượng. Vài năm trở lại đây, loài mòng biển từ ngoài khơi đã xâm lược vào sâu trong trung tâm Roma do sự quản lý yếu kém của thành phố, những bãi rác và thức ăn thừa trở nên hấp dẫn và thu hút chúng, đồng thời tấn công và ăn thịt những loài chim khác như bồ câu hoặc sáo, mà theo các nhà chức trách, chúng ngày càng trở nên hung hăng hơn.
Đài phun nước và cầu dẫn nước
Roma còn sở hữu biệt danh là "Thành phố của những đài phun nước", với 50 đài phun nước tưởng niệm và hàng trăm đài phun vừa và nhỏ khác trên tổng số hơn 2000, nhiều hơn bất cứ thành phố nào khác trên thế giới, và các đài phun nước đã trở thành biểu tượng quen thuộc của Roma. Các đài phun nước ở Roma được xây dựng theo tất cả các phong cách khác nhau, từ cổ điển, trung cổ đến trường phái Baroque và tân cổ điển. Chúng đã có mặt ở thành phố từ hơn 2.000 năm trước, cho thấy người La Mã cổ đại đã luôn có niềm đam mê lớn lao đối với nước dùng công cộng, từ hệ thống cầu dẫn nước đến các nhà tắm hơi cổ đại. Thời Đế quốc La Mã bấy giờ, vào năm 98 TCN, theo Sextus Julius Frontinus, vị quan cố vấn của La Mã và là người phụ trách quản lý giám hộ nguồn nước của thành phố, Roma có 9 hệ thống cầu dẫn nước, cung cấp nước dẫn đến 39 đài phun nước tưởng niệm và 591 đài phun nước công cộng dạng bồn nhỏ, không kể nguồn nước cung cấp cho hoàng gia, tắm rửa hay cho các địa chủ sở hữu biệt thự tư gia. Mỗi đài phun nước lớn đều được kết nối với hai cầu dẫn nước khác nhau, phòng trường hợp một hệ thống không hoạt động được do bảo trì..
Sau nhiều thế kỷ suy vi, niềm đam mê này vẫn được lưu truyền và tiếp nối đến tận ngày nay qua việc xây dựng vô số các kiểu dáng đài phun hiện hữu khắp nơi trên các đường phố và quảng trường ở thủ đô, để lấy nước uống cũng như để trang trí mỹ quan đô thị. Xuyên suốt lịch sử, vấn đề vệ sinh dường như không hề khiến ai phải bận tâm, khi các nguồn nước (kể cả nước sông) được chắt lọc trong các bồn chứa đặc biệt và được xem là tốt đến mức các giáo hoàng cũng lấy để uống khi vi hành trong thành phố.
Trong thế kỷ 17 và 18, các giáo hoàng tái tạo những đài phun nước La Mã tàn tích và xây dựng các đài phun nước mới nhằm đánh dấu thời kỳ của họ, mở ra thời hoàng kim cho các đài phun nước Roma. Như những bức tranh của Rubens, các đài phun nước Roma mang tính biểu hiện phong cách mới của nghệ thuật Baroque. Có rất nhiều nhân vật biểu tượng đầy tính cảm xúc và sức sống được đặt tại các đài phun nước. Ở những đài phun nước này, điêu khắc đã trở thành yếu tố chính, và nước được thêm vào đơn giản chỉ để tạo sự chuyển động và đóng vai trò trang trí cho các tác phẩm điêu khắc. Chúng giống như những khu vườn Baroque, là "một sự thể hiện đầy tự tin và quyền lực".
Điêu khắc
Roma nổi tiếng với những bức tượng, nhưng đặc biệt là những bức tượng có tính truyền cảm xúc cao, tức những "bức tượng biết nói". Chúng thường là những pho tượng cổ đã trở thành phương tiện truyền tải những lời diễn thuyết về các thảo luận chính trị và xã hội, là nơi để mọi người cất lên tiếng nói về quan điểm của họ (thông thường là châm biếm trào phúng). Có hai bức tượng nổi tiếng là: Pasquino và Marforio, ngoài ra vẫn có 4 bức tượng khác đáng chú ý là il Babuino, Madama Lucrezia, il Facchino và Abbot Luigi. Hầu hết những bức tượng đều từ thời La Mã cổ đại hay từ thời cổ điển, phần lớn trong số đó miêu tả những nhân vật trong thần thoại; il Pasquino đại diện Menelaus, Abbot Luigi – một thẩm phán La Mã bí ẩn, il Babuino đại diện cho Silenus, Marforio đại diện cho Oceanus, Madama Lucrezia là một bức tượng bán thân của Isis, và il Facchino là bức tượng duy nhất không phải của La Mã, được tạo thành trong năm 1580, và không đại diện riêng cho bất cứ nhân vật nào. Những bức tượng thường được phủ đầy áp phích hoặc những hình vẽ tranh phun sơn hay 'graffiti' bày tỏ ý tưởng và quan điểm chính trị. Những bức tượng khác trong thành phố không phải tượng bộc lộ cảm xúc và quan điểm gồm Cầu Thiên Thần, hoặc một số di tích nằm rải rác trong thành phố, như Giordano Bruno ở Campo de'Fiori.
Bút tháp và cột tưởng niệm
Roma là nơi lưu giữ nhiều bút tháp (obelisk) nhất trên thế giới. Thành phố có 8 bút tháp cổ Ai Cập (trong đó Lateranese tại Quảng trường Thánh Gioan Latêranô là bút tháp Ai Cập lớn nhất thế giới) và 5 bút tháp La Mã cổ đại cùng một số khác hiện đại hơn; thành phố cũng đã từng lưu giữ bút tháp Axum của Ethiopia cho đến khi hoàn trả vào năm 2005. Các bút tháp chủ yếu được đặt tại các quảng trường lớn, chẳng hạn như tại Quảng trường Navona, Quảng trường Thánh Phêrô, Quảng trường Montecitorio, Quảng trường Nhân Dân và những tháp tưởng niệm khác trong các biệt thự, nhà tắm công cộng và trong các khu vườn, công viên, chẳng hạn như ở biệt thự Celimontana, nhà tắm công cộng Diocletianus và ngọn đồi Pincius.
Ngoài ra, trung tâm của Roma cũng là nơi có hai cột tưởng niệm La Mã cổ đại là Cột Traianus và Cột Marcus Aurelius với bề ngoài được trang trí theo dạng xoắn ốc nhẹ. Cột Marcus Aurelius được đặt tại Quảng trường Colonna do Hoàng đế Commodus dựng nên vào năm 180 để tưởng nhớ cha mẹ của mình. Cột tưởng niệm này được lấy cảm hứng từ Cột Traianus tại Công trường Traianus, một phần của Công trường Hoàng đế.
Cầu
Thành phố Roma có rất nhiều cây cầu nổi tiếng bắc qua sông Tiber. Cây cầu duy nhất còn tồn tại nguyên bản cho tới ngày nay không bị thay đổi là Cầu Fabricius có từ thời cổ đại, nối đảo Tiberina với bờ tả ngạn của dòng sông. Những cây cầu La Mã khác bắc ngang qua sông Tiber còn tồn tại là Cầu Cestio, Cầu Thiên Thần và Cầu Milvio dù cho chúng đã chịu sự thay đổi. Xem xét Cầu Nomentano bắc ngang sông Aniene được xây dựng trong thời La Mã cổ đại, do đó còn sót lại 5 cây cầu La Mã cổ đại trong thành phố vẫn tồn tại đến ngày nay. Những cây cầu đáng chú ý khác là Cầu Sisto, cây cầu đầu tiên được xây dựng vào thời Phục Hưng trên nền móng La Mã; Cầu Rotto, thực sự là vòm cung duy nhất còn sót lại của Cầu Aemilius cổ đại, đã sụp trong trận lụt năm 1598 và bị phá hủy vào cuối thế kỷ 19; và Cầu Vittorio Emanuele II, một cây cầu hiện đại nối liền đường lớn Vittorio Emanuele và phường Borgo. Hầu hết các cây cầu công cộng của thành phố được xây dựng theo phong cách cổ điển hoặc Phục Hưng, nhưng cũng theo phong cách Baroque, Tân cổ điển và Hiện đại. Theo Encyclopædia Britannica, cây cầu cổ đẹp nhất còn lại ở Roma là Cầu Thiên Thần, được hoàn thành vào năm 135 và được trang trí với mười bức tượng của các thiên thần, được Gian Lorenzo Bernini thiết kế vào năm 1688.
Cổ mộ
Roma có một lượng lớn các hầm mộ cổ đại hoặc những nơi chôn cất ngầm trong thành phố hay gần thành phố, với số lượng ít nhất 40, một số vừa được phát hiện chỉ trong vài thập kỷ gần đây. Mặc dù nổi tiếng nhất là những nơi chôn cất Kitô hữu nhưng vẫn có mộ ngoại giáo và người Do Thái, hoặc được chôn cất trong hầm mộ riêng biệt hoặc nằm xen kẽ chung với nhau trong một khu đất. Những hầm mộ quy mô lớn đầu tiên được khai quật từ thế kỷ thứ 2 trở đi. Ban đầu chúng được chạm khắc từ một loại mềm từ tro núi lửa là đá tufo và đặt tại những vị trí ngoài ranh giới của thành phố vì luật La Mã cấm chôn cất trong thành phố. Hiện nay Ủy ban Giáo hoàng nắm quyền và trách nhiệm bảo trì các cổ mộ.The Pontifical Council for Culture - cultura.va
Kinh tế
Theo nghiên cứu của GaWC về thành phố toàn cầu, Roma một thành phố hạng Beta +, xếp sau Milan. Năm 2014, Roma giành hạng 32 theo chỉ số Global Cities Index, hạng cao nhất tại Ý. Năm 2005, với GDP đạt 94,376 tỷ euro (121,5 tỷ USD), Roma đóng góp 6,7% vào tổng sản phẩm quốc nội của cả nước (nhiều hơn bất cứ thành phố nào khác ở Ý). Bên cạnh đó, tỷ lệ thất nghiệp của thành phố từ giữa năm 2001 và 2005 đã giảm từ 11,1% xuống 6,5%, hiện đang là một trong những tỷ lệ thấp nhất của tất cả các thành phố thủ đô thuộc Liên minh châu Âu. Tốc độ tăng trưởng của Roma đạt 4,4%/năm và tiếp tục phát triển với một tốc độ cao hơn so với bất kỳ thành phố khác của đất nước. Điều này có nghĩa là nếu Roma là một quốc gia độc lập thì nó sẽ là quốc gia giàu có đứng thứ 52 trên thế giới tính theo GDP, gần với Ai Cập.
Năm 2003, Roma có mức GDP bình quân đầu người đạt 29.153 euro (37.412 USD), cao thứ hai tại Ý chỉ sau Milano, và cao hơn 134,1% GDP bình quân đầu người trung bình của Liên minh châu Âu. Hơn hết, Roma có tổng thu nhập xếp hàng cao nhất ở Ý, đạt 47.076.890.463 euro trong năm 2008, nhưng xét về thu nhập của người lao động trung bình, thành phố chỉ đứng ở vị thứ 9 tại Ý với mức thu nhập là 24.509 euro. Ở góc độ toàn cầu, người lao động ở Roma nhận được mức lương cao thứ 30 trong năm 2009, tăng 3 thứ hạng so với năm 2008. Vùng đô thị Roma có GDP lên tới 167,8 tỷ đô la và 38.765 đô la trên đầu người. Theo nghiên cứu về bất động sản của Citigroup và Knight Frank công bố năm 2009, Roma là thành phố đắt đỏ thứ tám trên thế giới về giá bất động sản cao cấp (13.500 euro mỗi mét vuông).
Tầm quan trọng vĩ đại về lịch sử, nghệ thuật và tôn giáo của thành phố khiến nó trở thành một trong những điểm du lịch chính trên thế giới và phổ biến nhất ở Ý. Mỗi ngày có trung bình có khoảng 90.000 khách du lịch ghé thăm, trong tổng số hàng năm tính đến 2014 là 13,4 triệu lượt đến thăm và 32,8 triệu lượt khách lưu trú, trong đó hai phần ba là người nước ngoài. Chỉ tính riêng lượng khách du lịch quốc tế, Roma là thành phố được viếng thăm nhiều nhất ở Ý, thứ 3 tại châu Âu và thứ 14 trên thế giới trong năm 2016. Đóng góp của ngành du lịch chiếm khoảng 12% GDP của thành phố.
Mặc dù nền kinh tế của Roma đặc trưng bởi sự vắng mặt của ngành công nghiệp nặng và bị chi phối chủ yếu bởi ngành dịch vụ, các công ty công nghệ cao (công nghệ thông tin, hàng không vũ trụ, quốc phòng, viễn thông), nghiên cứu, xây dựng và hoạt động thương mại (đặc biệt là ngân hàng), cùng với sự phát triển mạnh của ngành du lịch đầy năng động đều đóng vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế của thành phố. Fiumicino là sân bay quốc tế ở Roma và cũng là sân bay lớn nhất tại Ý. Bên cạnh đó, thành phố còn là nơi đóng trụ sở của đại đa số các công ty lớn của Ý, cùng với trụ sở của ba trong 100 công ty lớn nhất thế giới: Enel, Eni và Telecom Italia.
Roma là cộng đồng nông nghiệp lớn nhất ở châu Âu, với diện tích canh tác 517 km², chiếm khoảng 40% tổng diện tích thành phố. Giáo dục đại học, hệ thống phát thanh truyền hình quốc gia và ngành công nghiệp điện ảnh ở Roma cũng góp phần quan trọng trong nền kinh tế. Roma còn là trung tâm của ngành công nghiệp điện ảnh Ý nhờ vào phim trường Cinecittà với hoạt động khởi nghiệp từ những 1930. Thành phố cũng là một trung tâm ngân hàng và bảo hiểm, điện tử, năng lượng, vận tải và công nghiệp hàng không vũ trụ. Rất nhiều trụ sở công ty và cơ quan quốc tế, bộ chính phủ, trung tâm hội nghị, địa điểm thể thao và viện bảo tàng được đặt tại quận kinh tế EUR của Roma; Torrino (phía nam EUR); Magliana; Parco de' Medici-Laurentina và Tiburtina-valley nằm dọc theo con đường Tiburtina có từ thời cổ đại.
Giáo dục
Giáo dục bậc cao
Roma là một trung tâm giáo dục quốc gia và quốc tế lớn về giáo dục bậc đại học, với rất nhiều học viện, trường đại học và viện đại học. Thành phố có nhiều loại học viện khác nhau, luôn là một trung tâm tri thức và giáo dục lớn của thế giới, đặc biệt là thời La Mã cổ đại và Phục Hưng, cùng với Firenze. Theo chỉ số City Brands Index, Roma là thành phố đứng thứ nhì về mức độ quan tâm về lịch sử, giáo dục và văn hoá cũng như vẻ đẹp của nó.
Roma có một lượng lớn các trường đại học và viện đại học. Viện đại học đầu tiên của Roma là La Sapienza, một trong những đại học lâu đời nhất và lớn nhất trên thế giới với trên 140.000 sinh viên theo học, vào năm 2005 trường xếp hạng 33 trong các đại học tốt nhất tại châu Âu và đến năm 2013 La Sapienza xếp hạng 62 thế giới và đứng đầu tại Ý theo Center for World University Rankings và luôn nằm trong top 50 của châu Âu và top 150 các đại học tốt nhất thế giới. Nhằm giảm thiểu tình trạng quá tải của La Sapienza, hai viện đại học công lập được thành lập trong những thập niên gần đây: Tor Vergata vào năm 1982 và Roma Tre vào năm 1992. Năm 1998 thành lập viện đại học thứ tư mang tên Foro Italico, đại học công lập duy nhất của Ý chuyên về thể dục thể thao. Roma còn có Trường Chính phủ LUISS, là trường cấp bằng cử nhân quan trọng nhất trong lĩnh vực quan hệ quốc tế và nghiên cứu châu Âu cũng như Trường Thương mại LUISS, trường kinh tế quan trọng nhất của Ý. Viện ISIA của Roma được thành lập vào năm 1973 bởi Giulio Carlo Argan và là học viện lâu năm nhất tại Ý trong lĩnh vực thiết kế công nghiệp.
Thêm vào đó, Roma có lượng lớn các đại học giáo hoàng và các học viện khác, bao gồm British School tại Roma, Viện hàn lâm Pháp tại Roma, Đại học Giáo hoàng Gregoriana (đại học dòng Tên cổ nhất trên thế giới, thành lập vào năm 1551), Học viện châu Âu về Thiết kế, Trường Lorenzo de' Medici, Đại học Link Campus, Đại học Campus Y-Sinh. Roma cũng có hai viện đại học Mỹ: Đại học Mỹ tại Roma và Đại học John Cabot cùng với phân hiệu Đại học St. John's, Trung tâm John Felice Roma là một phân hiệu của Đại học Loyola Chicago còn Đại học Temple Roma là một phân hiệu của Đại học Temple. Các đại học nội trú Roma (Collegi pontifici) là một số trường dòng dành cho sinh viên ngoại quốc học tập để lên chức tu sĩ tại các Đại học Giáo hoàng.
Thư viện và các viện lưu trữ
Các thư viện lớn tại Roma gồm có Thư viện Angelica khánh thành vào năm 1604, là thư viện công đầu tiên tại Ý; Thư viện Vallicelliana thành lập vào năm 1565; Thư viện Casanatense khánh thành vào năm 1701; Thư viện quốc gia trung tâm Roma là một trong hai thư viện quốc gia của Ý, lưu giữ 4.126.002 đầu sách; Thư viện Bộ Ngoại giao, chuyên về ngoại giao, đối ngoại và lịch sử hiện đại; Thư viện của Viện Bách khoa toàn thư; Thư viện Don Bosco là một trong các thư viện Dòng Salêdiêng lớn nhất và hiện đại nhất; Thư viện và Bảo tàng rạp Burcardo là một bảo tàng-thư viện chuyên về lịch sử kịch và sân khấu; Thư viện Hội Địa lý Ý đặt tại Biệt thự Celimontana là thư viện chuyên ngành địa lý quan trọng nhất tại Ý, và một trong những thư viện quan trọng nhất tại châu Âu; và Thư viện Vatican là một trong những thư viện cổ nhất và quan trọng nhất trên thế giới, có mốc thành lập chính thức là năm 1475, và có 75.000 quyển danh mục, cùng với 1,1 triệu sách in, trong đó có khoảng 8.500 sách in kiểu cổ trước năm 1501. Ngoài ra còn có nhiều thư viện chuyên biệt gắn với các học viện văn hoá nước ngoài khác nhau tại Roma, trong số đó có thư viện của Viện hàn lâm Hoa Kỳ tại Roma, Viện Pháp tại Roma, và Thư viện Hertziana – Viện Lịch sử nghệ thuật Max Planck của Đức, nổi tiếng xuất sắc về nghiên cứu nghệ thuật và khoa học.
Du lịch, khảo cổ và di sản
Roma ngày nay là một trong những điểm đến du lịch quan trọng nhất của thế giới, điều này là do sự đa dạng không thể đếm hết các kho tàng khảo cổ và báu vật nghệ thuật tại đây, cũng như do nét thu hút văn hóa của những truyền thống đặc trưng, vẻ đẹp cảnh quan và sự uy nghi tráng lệ của những căn biệt thự (công viên). Các tài nguyên di sản quý giá nhất ở Roma là chính số lượng bảo tàng lớn – Bảo tàng Capitolinus – viện bảo tàng lâu đời nhất trên thế giới, Bảo tàng Vatican, Phòng triển lãm Borghese, và cùng với những địa điểm khác liên quan đến cả nghệ thuật đương đại và hiện đại – cầu dẫn nước, đài phun nước, nhà thờ, cung điện, công trình lịch sử, đài tưởng niệm, tàn tích Công trường La Mã - Công trường Hoàng đế và các cổ mộ. Roma là thành phố thứ được viếng thăm nhiều đứng thứ hai tại Liên minh châu Âu, chỉ xếp sau Paris, với lượng du khách một năm trung bình 7-10 triệu người, mà đôi khi tăng gấp đôi vào những năm thánh. Theo thống kê gần đây, Đấu trường La Mã (4 triệu du khách) và Bảo tàng Vatican (4,2 triệu du khách) lần lượt đứng thứ 39 và 37 trong bảng xếp hạng những nơi được viếng thăm nhiều nhất trên thế giới.
Trung tâm lịch sử Roma có đến hơn 25.000 điểm tham quan về môi trường và khảo cổ được công nhận, chính vì điều này, Roma là thành phố có nhiều di tích nhất trên thế giới. Sau quá trình thương nghị với Tòa Thánh và Ý, Ủy ban Di sản thế giới UNESCO trên tinh thần hợp tác đã quyết định sửa đổi bổ sung di sản của Roma vào năm 1990, mở rộng đến phạm vi tường thành Janiculum do Giáo hoàng Urbanô VIII cho xây dựng năm 1643, và những tài sản ngoài lãnh thổ của Tòa Thánh nằm bên trong thành phố, trong đó có ba đại vương cung thánh đường tối quan trọng đối với Giáo hội là Đức Bà Cả, Thánh Gioan tại Latêranô và Thánh Phaolô Ngoại thành.
Roma là một trung tâm khảo cổ học lớn và là một trong những trung tâm quan trọng nhất về nghiên cứu khảo cổ học của thế giới. Có rất nhiều viện nghiên cứu và viện văn hóa nằm rải rác trong thành phố, chẳng hạn như Viện hàn lâm Hoa Kỳ tại Roma và Viện Thụy Điển tại Roma. Roma tồn tại rất nhiều di tích cổ đại, bao gồm Công trường La Mã - Công trường Hoàng đế, Chợ Traianus, Công trường Traianus, Đấu trường La Mã, đền Pantheon và một số khác. Đấu trường La Mã được đánh giá là một trong những di tích khảo cổ tiêu biểu nhất của Roma và là một kỳ quan thế giới.Francis Trevelyan Miller, Woodrow Wilson, William Howard Taft, Theodore Roosevelt. America, the Land We Love (1915), page 201 Google Books Search
Roma là kho tàng lưu trữ lớn và đầy ấn tượng về các lĩnh vực nghệ thuật, điêu khắc, đài phun nước, khảm trang trí ghép mảnh (mosaic), bích họa và tranh vẽ từ tất cả các giai đoạn khác nhau trong lịch sử. Roma đã trở thành một trung tâm nghệ thuật từ thời La Mã cổ đại, với các hình thức nghệ thuật La Mã quan trọng như kiến trúc, hội họa, điêu khắc và tranh khảm. Rèn kim loại, làm khuôn tiền xu và khắc đá quý, chạm trổ ngà voi, tượng thủy tinh, đồ gốm và sách minh họa hình ảnh được coi là những hình thức 'nhỏ' trong các tuyệt tác nghệ thuật La Mã. Roma sau này trở thành một trung tâm nghệ thuật Phục Hưng chính, từ khi các giáo hoàng dành khoản tiền lớn cho các công trình xây dựng hoàng cung hùng vĩ, cung điện, quảng trường và công trình công cộng nói chung. Roma trở thành một trong những trung tâm tác phẩm nghệ thuật Phục Hưng lớn của châu Âu, chỉ đứng sau Firenze, và có thể so sánh với các thành phố lớn và các trung tâm văn hóa khác như Paris và Venezia. Thành phố đã chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi phong trào baroque và trở thành nơi cư ngụ của nhiều nghệ sĩ và kiến trúc sư, chẳng hạn như Bernini, Caravaggio, Carracci, Borromini, Cortona. Trong cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19, thành phố là một trong những trung tâm của Grand Tour – một hình thức du lịch truyền thống ở châu Âu – khi mà những người giàu có, quý tộc trẻ Anh và châu Âu đến thăm thành phố để tìm hiểu về văn hóa, nghệ thuật, triết học và kiến trúc La Mã cổ đại. Roma là nơi có nhiều nghệ sĩ tân cổ điển và rococo, chẳng hạn như Pannini và Bernardo Bellotto. Ngày nay, thành phố là một trong những trung tâm nghệ thuật lớn nhất của thế giới, với rất nhiều viện nghệ thuật và bảo tàng.
Roma đã phát triển thành nơi lưu trữ nghệ thuật đương đại, hiện đại và kiến trúc. Thư viện Nghệ thuật Hiện đại Quốc gia là nơi trưng bày cố định các tác phẩm của Balla, Morandi, Pirandello, Jerzy Dudek, De Chirico, De Pisis, Guttuso, Fontana, Burri, Mastroianni, Turcato, Kandisky, Cézanne. Năm 2010 chứng kiến buổi khai trương nền tảng nghệ thuật mới nhất của Roma, một loại hình nghệ thuật đương đại và triển lãm kiến trúc do kiến trúc sư người Iraq nổi tiếng Zaha Hadid thiết kế. Bảo tàng Quốc gia Nghệ thuật và Kiến trúc thế kỷ 21 – MAXXI tái hiện một khu vực đổ nát với kiến trúc hiện đại ấn tượng. Maxxi có một trường dành riêng cho phòng nghiên cứu thực nghiệm và văn hóa, trao đổi quốc tế và học tập. Nó là một trong những dự án kiến trúc hiện đại mong muốn nhất của Roma, cùng với Parco della Musica của Renzo Piano và Trung tâm Hội nghị Roma của Massimiliano, Centro Congressi Italia EUR tại khu EUR, khai trương vào năm 2016. Trung tâm Hội nghị có đặc điểm như một container bán trong suốt khổng lồ, kết cấu thép và teflon treo giống như một đám mây bên trong có các phòng họp và một hội trường với hai quảng trường mở ra khu dân cư hai bên công trình.
Văn hóa, nghệ thuật và đời sống
Truyền thống và lễ hội dân gian
Một trong những lễ hội truyền thống chính của Roma là Carnival Roma từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19, được chính quyền thành phố khôi phục vào năm 2010, mặc dù ở định dạng hoàn toàn khác. Nguồn gốc của nó bắt nguồn từ ngày lễ Saturnalia ở Roma cổ đại, đặc trưng bởi những màn trình diễn công cộng, nhảy múa và hóa trang. Các trò chơi carnival diễn ra từ thế kỷ thứ mười trên đồi Testaccio, vài thế kỷ sau Giáo hoàng Phaolô III đã quyết định rằng lễ hội sẽ diễn ra ở đường Lata, này là đường Corso hiện đại. Các mặt nạ tiêu biểu của lễ hội carnival tại Roma là Rugantino, Meo Patacca và Tướng Mannaggia La Rocca.
Roma là một thành phố giàu truyền thống, thần thoại, truyền thuyết, phong tục và văn hóa dân gian, từ thời cổ đại và trong suốt thời Trung Cổ, khi nhiều câu chuyện phổ biến được phát triển, trong đó lĩnh vực tôn giáo gia nhập thế giới ma thuật, bao gồm cả sự thiêng liêng kết hợp với những từ lóng thông tục. Do yếu tố đặc trưng này, một trong những khu vực của Roma nơi vẫn có thể theo dấu các mảnh vỡ và sự hấp dẫn của văn hóa đại chúng là phường Trastevere đẹp như tranh vẽ, với những con hẻm hẹp, các trattoria (tiệm ăn kiểu Ý truyền thống), nhà thờ thời Trung Cổ và đồi Janiculum. Chính xác là tại Trastevere, bảo tàng văn hóa dân gian và thơ ca Roma vươn mình trỗi dậy, nơi lưu giữ các tài liệu về cuộc sống hàng ngày và các truyền thống thành La Mã xưa, bao gồm cả tác phẩm màu nước Roma sparita nổi tiếng của họa sĩ Ettore Roesler Franz. Tại quận EUR có bảo tàng nghệ thuật quốc gia về truyền thống đại chúng, nơi thu thập các tư liệu truyền thống và dân gian từ khắp nước Ý.
Những ngày lễ đáng chú ý tại Roma bao gồm:
Sinh nhật thành Roma: 21 tháng 4, ngày lễ kỷ niệm theo truyền thống Romulus thành lập Roma, được tổ chức với các buổi biểu diễn trang phục, sự kiện văn hóa và giải trí.
Quốc tế Lao động: 1 tháng 5, các đoàn thể đơn nhất tổ chức một buổi hòa nhạc miễn phí tại quảng trường Cổng thành Thánh Gioan tại Laterano, nơi có hàng trăm ngàn khán giả tham dự.
Quốc khánh Cộng hòa Ý: 2 tháng 6, cuộc diễu hành quân sự truyền thống diễn ra dọc theo thông qua đại lộ Công trường Hoàng đế và kết thúc tại quảng trường Venezia trước Đài tưởng niệm quốc gia Vittoriano.
Lễ kính Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ: 29 tháng 6, lễ kính mừng hai vị thánh bảo hộ của Roma, được thành lập theo sắc lệnh của Vương quốc Giáo hoàng vào ngày 29 tháng 4 năm 1818.
Lễ Noantri: Thứ Bảy đầu tiên sau 16 tháng 7, diễn ra tại phường Trastevere, lễ hội từ cổ xưa kỷ niệm Đức Mẹ núi Camêlô.
Giải trí và trình diễn sân khấu
Roma là một trung tâm âm nhạc quan trọng với nền âm nhạc lớn mạnh, bao gồm một vài nhạc viện và nhà hát danh giá. Đây là nơi tọa lạc của Học viện quốc gia Thánh Cecilia (thành lập năm 1585), một trong những nhạc viện có bề dày lịch sử lâu nhất thế giới, trong đó những phòng hòa nhạc mới đã được xây dựng tại khu phức hợp âm nhạc cộng đồng đa chức năng Parco della Musica, một trong những địa điểm âm nhạc lớn nhất thế giới. Roma cũng có nhà hát opera là Nhà hát Opera Roma, cùng vài viện âm nhạc nhỏ khác. Thành phố cũng là nơi đăng cai cuộc thi Eurovision Song Contest (Cuộc thi Ca khúc Truyền hình châu Âu) năm 1991 và lễ trao giải Âm nhạc châu Âu MTV (MTV Europe Music Awards) năm 2004.
Roma cũng từng có tác động lớn trong lịch sử âm nhạc. Trường phái La Mã là một nhóm các nhà soạn nhạc chủ yếu về mảng nhạc nhà thờ, hoạt động tại thành phố trong thế kỷ 16 và 17, kéo dài từ cuối thời kỳ Phục Hưng đến đầu thời kỳ Baroque. Thuật ngữ này cũng dùng để chỉ âm nhạc mà họ sản xuất. Nhiều nhạc sĩ có mối liên hệ trực tiếp với Giáo hội Công giáo, Tòa Thánh và Nhà nguyện Sistina của Giáo hoàng, mặc dù họ làm việc tại một số nhà thờ khác nhau. Về phong cách âm nhạc, họ thường tương phản với trường phái Venezia, một phong trào của các nhà soạn nhạc diễn ra cùng thời và có xu hướng cấp tiến hơn. Nhà soạn nhạc nổi tiếng nhất từ trước đến nay của trường phái La Mã là Giovanni Pierluigi da Palestrina, tên tuổi ông gắn liền với một tài năng hoàn hảo với phức điệu âm nhạc rõ ràng, nhịp nhàng uyển chuyển suốt 400 năm. Tuy nhiên, cũng có những nhạc sĩ khác hành nghề tại Roma với những phong cách và hình thức đa dạng.
Thời trang
Roma cũng được công nhận rộng rãi là một kinh đô thời trang của thế giới. Mặc dù không đóng vai trò quan trọng như Milano, theo Global Language Monitor năm 2009, Roma bị rơi 2 bậc xuống vị trí thứ 4 trong những trung tâm thời trang quan trọng của thế giới, sau Milano, New York, Paris và xếp trên Luân Đôn và duy trì ở vị thứ 5 trong những năm gần đây. Các hãng thời trang và trang sức cao cấp nổi bật như Valentino, Bulgari, Fendi, Laura Biagiotti và Brioni và Renato Balestra, có trụ sở chính hoặc được thành lập tại thành phố. Ngoài ra, các thương hiệu lớn khác như Chanel, Prada, Dolce & Gabbana, Armani và Versace có nhiều cửa hàng sang trọng ở Roma, chủ yếu dọc theo con phố Condotti thời trang uy tín và cao cấp ở Roma.
Ẩm thực
Ẩm thực của Roma đã phát triển qua nhiều thế kỷ và các thời kỳ biến động của xã hội, văn hóa và chính trị. Roma trở thành một trung tâm nghệ thuật ẩm thực lớn từ thời La Mã cổ đại. Ẩm thực giai đoạn này chịu ảnh hưởng nhiều từ văn hóa Hy Lạp cổ đại, và sau đó, quá trình bành trướng đế quốc La Mã đưa Roma tiếp xúc với nhiều tập quán chế biến món ăn địa phương và kỹ thuật nấu ăn. Ban đầu, sự cách biệt giữa các tầng lớp xã hội không lớn lắm nhưng đã tăng dần theo tốc độ tăng trưởng của đế chế. Sau này, trong thời kỳ Phục Hưng, Roma trở nên nổi tiếng là một trung tâm ẩm thực lớn, vì một số đầu bếp giỏi nhất thời đại làm việc cho các giáo hoàng. Một đầu bếp điển hình là Bartolomeo Scappi, làm việc cho Giáo hoàng Piô IV trong nhà bếp Vatican và trở nên nổi tiếng khi xuất bản cuốn sách nấu ăn Opera dell'arte del cucinare vào năm 1570. Trong đó, ông liệt kê khoảng 1.000 công thức ẩm thực Phục Hưng đồng thời mô tả các kỹ thuật và dụng cụ nấu ăn đồng thời đưa ra hình ảnh được biết đến như chiếc nĩa đầu tiên.
Ngày nay, thành phố đã phát triển nền ẩm thực đặc biệt của riêng mình, dựa trên các sản phẩm của khu vực Campagna gần đó, như thịt cừu và rau củ quả (bông atisô hình cầu khá phổ biến). Song sóng đó, có thể thấy được ảnh hưởng của người Do Thái trong nền ẩm thực này vì người Do Thái đã sống ở Roma kể từ thế kỷ thứ nhất TCN. Một số ví dụ về món ăn nổi tiếng như "Saltimbocca alla Romana" (giò cuốn Roma) – cốt lết bê theo phong cách La Mã; đứng đầu với giăm bông tươi, cây xô thơm, ninh với rượu vang trắng và bơ; "Carciofi alla giudia" – atisô chiên trong dầu ô liu, món điển hình của người Do Thái Roma; "Carciofi alla Romana" – atisô phong cách Roma, lớp lá bên ngoài được tách bỏ, nhồi với bạc hà, tỏi, vụn bánh mì sau đó đem om; "mì Ý Carbonara"– mì spaghetti với thịt xông khói, trứng và pecorino; "Gnocchi di semolino alla Romana" – bánh bao semolina theo phong cách Roma; và một vài món ăn khác.
Điện ảnh
Roma được xem là một trong những kinh đô phim ảnh của thế giới nhờ có phim trường Cinecittà, là cơ sở sản xuất phim và truyền hình lớn nhất tại châu Âu, và là trung tâm của điện ảnh Ý, là nơi sản xuất nhiều bộ phim ăn khách phòng vé nhất ngày nay. Tổ hợp xưởng phim rộng 40 hécta (99 mẫu Anh), cách trung tâm Roma 9 km và là bộ phận của một trong các cộng đồng sản xuất lớn nhất thế giới chỉ sau Hollywood với trên 5.000 nhân viên chuyên nghiệp, từ sáng tạo phục trang cho đến hiệu ứng kỹ xảo. Có trên 3.000 sản phẩm được sản xuất tại đây, trong đó có các tác phẩm gần đây như The Passion of the Christ, Gangs of New York, Rome của HBO, The Life Aquatic và The Decameron của Dino De Laurentiis, đến các tác phẩm cổ điển như Ben-Hur, Cleopatra, và các phim của Federico Fellini.
Cinecittà được Benito Mussolini thành lập vào năm 1937, và bị Đồng Minh oanh tạc trong Chiến tranh thế giới giới hai. Trong thập niên 1950, đây là địa điểm quay một số tác phẩm phim lớn của Hoa Kỳ, và sau đó trở thành một xưởng phim gắn bó mật thiết nhất với Federico Fellini. Ngày nay, Cinecittà là xưởng phim duy nhất trên thế giới có các hạ tầng tiền sản xuất, sản xuất và hậu kỳ sản xuất đầy đủ tại một địa điểm, tạo thuận tiện cho các đạo diễn và nhà sản xuất để đi vào với kịch bản trên tay và "bước ra" với một bộ phim đã hoàn thành. Đã có hơn 3000 phim điện ảnh được sản xuất tại đây, trong đó 90 tác phẩm nhận được đề cử Oscar và 47 phim đã đoạt giải.Pezzi da Oscar - Cinecittà World
Ngôn ngữ
Mặc dù liên hệ ngày nay chỉ với tiếng Latinh, song thành Roma cổ đại thực tế là đa ngôn ngữ. Trong thời cổ xưa nhất, các bộ tộc Sabine và các bộ lạc Latinh cùng chia sẻ khu vực Roma ngày nay. Ngôn ngữ Sabine thuộc nhóm Ý, cùng với tiếng Etrusca- ngôn ngữ chính của ba vị quốc vương cuối cùng cai trị thành phố cho đến khi thiết lập chế độ cộng hoà vào năm 509 TCN. Urganilla, hay Plautia Urgulanilla, vợ của Hoàng đế Claudius, được cho là một người nói tiếng Etrusca sau mốc này nhiều thế kỷ, theo như lời của Suetonius về Claudius. Tuy nhiên, tiếng Latinh, dưới nhiều dạng tiến hoá khác nhau, là ngôn ngữ chính của thành Roma cổ đại, song do thành phố có nhiều di dân, nô lệ, cư dân, công sứ, đại sứ từ nhiều nơi trên thế giới nên trở thành khu vực đa ngôn ngữ. Nhiều người Roma có học cũng nói tiếng Hy Lạp, và tồn tại các cộng đồng Hy Lạp, Syria và Do Thái lớn tại nhiều nơi của Roma ngay từ trước thời Đế quốc.
Tiếng Latinh tiến hoá vào thời Trung Cổ thành một ngôn ngữ mới là vulgaris (volgare, tức thông tục) hay còn gọi là tiếng Latinh bình dân. Ngôn ngữ này xuất hiện khi hội tụ nhiều phương ngữ khu vực khác nhau, trong đó phương ngữ Toscana chiếm ưu thế, song cư dân Roma cũng phát triển phương ngữ riêng của họ là tiếng Romanesco hay còn có tên đơn giản hơn là tiếng Romano. Tiếng Romanesco được nói vào thời Trung Cổ ban đầu giống với một phương ngữ Nam Ý hơn cả, rất gần với tiếng Napoli tại Campania hơn là tiếng Firenze của vùng Toscana (tức tiếng Ý chuẩn). Văn chương phương ngữ viết bằng dạng truyền thống của Romanesco bao gồm các tác phẩm như của Giuseppe Gioachino Belli (một trong những nhà thơ Ý quan trọng nhất), Trilussa và Cesare Pascarella. Tiếng Romanesco là một "lingua vernacola" (thổ ngữ), có nghĩa là trong nhiều thế kỷ nó không tồn tại ở dạng viết mà chỉ được cư dân nói.
Ảnh hưởng của văn hoá Firenze vào thời Phục Hưng, và việc nhiều người Firenze di cư đến Roma theo hai giáo hoàng xuất thân từ Nhà Medici (Lêô X và Clêmentê VII), gây biến đổi lớn trong phương ngữ, nó bắt đầu giống với các dạng Toscana hơn. Điều này được duy trì trong giới hạn thành Roma cho đến thế kỷ 19, và mở rộng đến các nơi khác thuộc Lazio từ đầu thế kỷ 20 do dân số gia tăng tại Roma và sự cải thiện của hệ thống giao thông. Do kết quả từ giáo dục và truyền thông, tiếng Romanesco ngày càng trở nên tương đồng hơn với tiếng Ý tiêu chuẩn, và cũng vì vậy tiếng Romanesco hiện tại có ngữ pháp và từ vựng tương đối khác so với các phương ngữ khác thuộc miền Trung Ý. Tiếng Romanesco đương thời chủ yếu được thể hiện bởi các diễn viên và nữ diễn viên nổi tiếng, chẳng hạn như Alberto Sordi, Aldo Fabrizi, Anna Magnani, Carlo Verdone, Enrico Montesano, Gigi Proietti và Nino Manfredi.
Đóng góp lịch sử của Roma cho ngôn ngữ của toàn cầu còn rộng hơn nhiều, thông qua quá trình La Mã hoá, cư dân Ý, Gallia (Pháp), bán đảo Iberia và Dacia (Romania) phát triển các ngôn ngữ bắt nguồn trực tiếp từ tiếng Latinh, và được sử dụng tại nhiều phần rộng lớn trên thế giới thông qua ảnh hưởng văn hoá, thuộc địa hoá và di cư. Ngoài ra, nó còn ảnh hưởng đến tiếng Anh hiện đại, do người Norman khi chinh phục Anh đã đem theo một tỷ lệ lớn từ vựng mà họ mượn từ tiếng Latinh. Chữ cái Latinh là hệ thống chữ viết phổ biến nhất trên thế giới xét về số lượng ngôn ngữ.
Roma từ lâu đã có nhiều cộng đồng nghệ thuật, cư dân ngoại quốc và lượng lớn các du học sinh hoặc khách hành hương ngoại quốc, do đó luôn là một thành phố đa ngôn ngữ. Ngày nay, do du lịch đại chúng, có nhiều ngôn ngữ được sử dụng trong du lịch, đặc biệt là tiếng Anh được biết đến phổ biến trong các vùng du lịch, và thành phố có lượng lớn các di dân và có nhiều khu vực nhập cư đa ngôn ngữ.
Tội phạm, an ninh và khủng bố
Roma thể hiện mức độ tội phạm từ trung bình đến cao. Thủ đô của Ý là địa bàn hoạt động của các băng nhóm tội phạm có tổ chức nổi bật gồm có Mafia Thủ đô (Mafia Capitale), băng đảng Magliana (Banda della Magliana) và bang hội Casamonica (Clan dei Casamonica) cùng một vài nhóm nhỏ khác, hoạt động chủ yếu ở các lĩnh vực kinh doanh phi pháp, buôn lậu, ma túy, ám sát, bắt cóc, đánh bạc, cá độ, mại dâm, cướp, lừa đảo, buôn bán vũ khí, cho vay nặng lãi, giết người theo hợp đồng, tống tiền, rửa tiền, và đặc biệt là hối lộ, tham nhũng, lũng đoạn công quỹ dính líu đến quan chức chính quyền thành phố. Nhiều khu vực đô thị phụ cận trung tâm đang trở nên nhếch nhác và tỷ lệ tội phạm rộng lớn đến mức lớn hơn nhiều so với các thành phố phía bắc và khu vực Trung Âu. Năm 2010, theo Hiệp hội Cảnh sát Quốc gia Ý, Roma đứng thứ hai sau Milano về số tội phạm trên 100.000 dân, tâm điểm là đột nhập bất hợp pháp, trộm xe, buôn lậu và cướp, trong khi năm 2011, thủ đô đã dẫn đầu về số vụ giết người.
Theo thống kê của Liên minh châu Âu năm 2015 Roma có tỷ lệ 0,7 vụ giết người trên 100.000 dân, thấp hơn các thành phố lớn khác của Ý như Venezia (1,1), Milano (1), Torino (0,8) hay Napoli (3,9), và có xu hướng giảm rõ rệt trong những năm gần đây, khiến Roma trở thành một trong những thành phố an toàn nhất thế giới về tội phạm bạo lực. Tuy vậy, nạn móc túi và giật túi xách vẫn là vấn đề khá nghiêm trọng tại thủ đô, gồm nhiều hình thức đa dạng từ các toán thiếu niên Di-gan cho đến những người trưởng thành ăn vận lịch thiệp hay một nhóm trẻ em hồn nhiên. Hầu hết các vụ trộm được báo cáo xảy ra tại các địa điểm du lịch đông đúc, trên xe buýt, tàu điện ngầm, phương tiện công cộng hoặc tại các nhà ga lớn như Termini, chủ yếu nhằm vào khách du lịch.
Vào giữa năm 2014, thủ lĩnh Abu Bakr al-Baghdadi của Nhà nước Hồi giáo sau khi tự cho mình là Khalip đã tuyên bố sẽ "xâm lược Roma" và tổ chức này đã liên tục nhiều lần xác định rằng Vatican là một "mục tiêu tiềm năng" và sẽ "cắm ngọn cờ đen khalipha trên nóc của Nhà thờ Thánh Phêrô" trong các thông cáo tuyên truyền của mình. Theo các phân tích thống kê các tài liệu liên quan cho thấy rằng Nhà nước Hồi giáo dành sự chú ý đặc biệt của mình cho Roma với vai trò là biểu tượng của phương Tây và thế giới Kitô giáo. Trong năm 2018 Roma được đánh giá là một địa điểm đe dọa ở mức cao đối với hoạt động tấn công khủng bố nhắm vào lợi ích của Mỹ và phương Tây trong một báo cáo của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ.
Tuy nhiên trong suốt những năm gần đây, Ý nhìn chung hay Roma và Vatican nói riêng vẫn chưa phải hứng chịu một vụ tấn công khủng bố Hồi giáo đẫm máu nào hay trải qua mức độ cực đoan hóa trong nước cao như những nước láng giềng châu Âu bên cạnh, bởi kinh nghiệm điều tra đặc thù và mức độ ngăn chặn hiệu quả của cảnh sát Ý, đồng thời người ta tin rằng ngoại lệ đặc biệt này cũng nhờ vào hiệu ứng mafia, trong đó sự kiểm soát mạnh của mafia Ý đã âm thầm răn đe những kẻ thánh chiến khỏi những chỗ bám víu lợi thế, xâm nhập và phá vỡ các mạng lưới khủng bố thông qua các mối quan hệ xã hội và gia đình chặt chẽ. Mặc dù vậy, thành phố thường đặt trong tình trạng báo động cao và được thắt chặt an ninh trong các dịp lễ quan trọng như Giáng sinh hay Phục sinh.
Chất lượng sống
Theo một cuộc khảo sát được thực hiện bởi văn phòng thống kê thành phố Roma năm 2007, chất lượng cuộc sống của người dân thủ đô nhìn chung là tốt. Tuy nhiên, thành phố đã bộc lộ nhiều điểm yếu khác nhau. Trong số này, tồn tại nhức nhối vấn đề giao thông đô thị, môi trường và ô nhiễm tiếng ồn do việc sử dụng phương tiện cá nhân ngày càng tăng; Roma chịu ảnh hưởng bởi sự hiện diện lớn của các biển quảng cáo bao gồm cả quảng cáo trái phép bên cạnh các "tác phẩm đường phố" tranh phun sơn graffiti phá hoại. Một vấn đề khác liên quan đến các dịch vụ công ích tại Roma, đôi khi rất khó tiếp cận đặc biệt ở người cao tuổi. Trong số các khía cạnh tích cực, sự hài lòng của người dân sống ở Roma xuất hiện, tận hưởng hàng ngày di sản lịch sử và khảo cổ của thành phố, vẻ đẹp hoành tráng, nghệ thuật và văn hóa, khí hậu ôn hòa, gần biển và là trung tâm của Kitô giáo, bên cạnh các cơ hội tiếp cận giáo dục và đào tạo, các cơ sở thể thao khác nhau và nhiều khu vực phủ xanh rộng lớn.
Do tội phạm có tổ chức ngày càng gia tăng, thủ đô trở thành một trong những thành phố có tỷ lệ tội phạm cao và phức tạp nhất ở Ý. Theo điều tra về tình hình mất an ninh trật tự và sự xuống cấp ở vùng ngoại ô đô thị được thực hiện vào năm 2009 bởi Khoa Xã hội học của La Sapienza thay mặt cho Đài quan sát an ninh và pháp lý khu vực, có đến hơn nửa số người dân Roma được hỏi xem vùng ngoại ô phụ cận là nguy hiểm, trên hết là do tội phạm và tai nạn giao thông. Hơn nữa, phần lớn số người được hỏi cho rằng có những khu vực không an toàn trong thành phố, nơi tốt hơn là không nên đi.
Theo một khảo sát về chất lượng cuộc sống được thực hiện vào năm 2015 bởi công ty tư vấn Mercer, mặc dù có những mặt tích cực, Roma đứng vị trí thứ 52 thế giới, bị điểm trừ do hệ thống giao thông và môi trường kinh doanh không tối ưu, vẫn cách xa vị trí thứ 41 của Milano. Hiện tại, bộ mặt thủ đô đã suy giảm liên tục trong nhiều năm, trở nên nghèo nàn và hứng chịu hàng loạt các vấn đề đô thị cấp bách với những con đường đầy ổ gà, các thùng rác không được dọn dẹp và lợn hoang đi lại thoải mái trên các tuyến phố, cùng một chuỗi các bê bối tham nhũng được phát hiện tại Roma. Theo thống kê gần đây của Greenspace, Roma nằm trong số những thành phố tồi tệ nhất ở châu Âu về an toàn đường bộ, giao thông và ô nhiễm. Tương tự với các đô thị lớn khác ở châu Âu, thủ đô của Ý hiện đang đối mặt với khủng hoảng người nhập cư trầm trọng ở mức đỉnh điểm, gây ra nhiều vấn đề nhức nhối nan giải.
Thể thao
Bóng đá là môn thể thao phổ biến nhất tại Roma, giống như phần còn lại của đất nước. Thành phố từng tổ chức các trận đấu chung kết của Giải bóng đá vô địch thế giới (FIFA World Cup) năm 1934 và 1990. Trận chung kết năm 1990 diễn ra trên Sân vận động Olimpico, đây cũng là sân nhà của các câu lạc bộ địa phương thi đấu tại Giải bóng đá vô địch quốc gia Ý Serie A là S.S. Lazio thành lập vào năm 1900, và A.S. Roma thành lập vào năm 1927, kình địch giữa họ trong các trận Derby Thủ đô trở thành một phần chủ yếu trong văn hoá thể thao Roma. Các cầu thủ chơi cho hai câu lạc bộ này và đồng thời sinh ra tại Roma có xu hướng trở nên đặc biệt nổi tiếng, chẳng hạn như các cầu thủ Francesco Totti và Daniele De Rossi của A.S. Roma hay Alessandro Nesta của S.S. Lazio. Atletico Roma F.C. là một đội bóng nhỏ chơi tại giải hạng nhất cho đến năm 2012, sân nhà của đội bóng này là Sân vận động Flaminio.
Roma từng đăng cai Thế vận hội Mùa hè 1960, đạt được thành công vang dội, sử dụng nhiều địa điểm cổ đại như Biệt thự Borghese và Nhà tắm Caracalla làm địa điểm thi đấu. Để phục vụ Thế vận hội, nhiều công trình đã được xây dựng, đáng chú ý là Sân vận động Olimpico mới với quy mô lớn hơn (cũng được mở rộng và đổi mới để đủ điều kiện tổ chức và trận đấu chung kết của FIFA World Cup năm 1990), Làng Olimpico (sau này tái phát triển thành một khu dân cư). Sân vận động Olimpico từng là một trong những sân vận động đăng cai vòng bảng Euro 2020, giải đấu mà Đội tuyển bóng đá quốc gia Ý đã lên ngôi vô địch. Roma từng ứng cử đăng cai Thế vận hội Mùa hè năm 2020 song đã rút lui trước khi hạn chót nộp hồ sơ kết thúc.
Roma còn từng tổ chức giải bóng rổ châu Âu EuroBasket năm 1991 và có đội tuyển bóng rổ Virtus Roma được công nhận quốc tế. Rugby union được đón nhận rộng rãi. Cho đến năm 2011, sân vận động Flaminio là sân nhà của đội tuyển rugby quốc gia Ý, đội tuyển thi đấu trong giải vô địch Sáu nước từ năm 2000. Đội tuyển nay thi đấu các trận sân nhà tại sân vận động Olimpico do sân vận động Flaminio cần cải thiện sức chứa và tính an toàn. Roma có các đội tuyển rugby union địa phương như Rugby Roma (thành lập vào năm 1930 và nhiều lần vô địch nước Ý), Unione Rugby Capitolina và S.S. Lazio 1927 (nhánh rugby union của câu lạc bộ thể thao S.S. Lazio).
Mỗi tháng 5 hàng năm Roma tổ chức giải đấu quần vợt ATP World Tour Masters 1000 trên sân đất nện Công trường Italico. Đua xe đạp phổ biến vào giai đoạn sau Chiến tranh thế giới thứ hai, song tính phổ biến của nó đã mất đi. Roma là nơi tổ chức chặng cuối của Giro d'Italia trong ba lần, vào năm 1911, 1950, và 2009. Roma cũng có nhiều đội tuyển thể thao khác, gồm có bóng chuyền (M. Roma Volley), bóng ném hay bóng nước.
Giao thông
Roma là trung tâm của mạng lưới đường hướng tâm chạy theo những con đường nhấp nhô có từ thời La Mã cổ đại, bắt đầu từ ngọn đồi Capitolinus và nối liền thành Roma với phần còn lại Đế quốc La Mã. Roma ngày nay được khoanh vòng ở khoảng cách khoảng 11 km (6 dặm) là tuyến đường vòng cung (Grande Raccordo Anulare hoặc GRA).
Do vị trí nằm ở trung tâm bán đảo Ý, Roma là nút giao đường sắt trọng điểm tại miền Trung nước Ý. Nhà ga chính của Roma, Termini, là một trong những nhà ga lớn nhất ở châu Âu và có lưu lượng khách sử dụng nhiều nhất ở Ý, với khoảng 400.000 hành khách được chuyên chở mỗi ngày. Nhà ga lớn thứ hai trong thành phố là nhà ga Roma Tiburtina, hiện đang được tái phát triển thành một trạm đường sắt cao tốc. Cũng như các chuyến tàu cao tốc thường xuyên đến tất cả các thành phố lớn của Ý, Roma kết nối hàng đêm bằng các dịch vụ tàu 'thuyền nằm' đến Sicilia và quốc tế bằng các dịch vụ ngủ qua đêm đến München và Viên bằng đường sắt ÖBB của Áo.
Có ba sân bay phục vụ tại Roma. Sân bay quốc tế liên lục địa Leonardo da Vinci là sân bay chính của Ý và thường được gọi là "Sân bay Fiumicino", vì nó nằm trong huyện Fiumicino phía tây nam của Roma nơi sông Tiber đổ ra Địa Trung Hải. Năm 2018, Leonardo da Vinci-Fiumicino đứng vị trí thứ 9 trong các sân bay tốt nhất thế giới và được xếp hạng là sân bay phát triển và cải thiện nhanh nhất, và trở thành sân bay tốt nhất của châu Âu trong cùng năm. Tính đến năm 2021, Fiumicino của Roma là sân bay tốt nhất châu Âu trong 4 năm liên tiếp. Sân bay thứ hai là Ciampino Roma, trước đây là một sân bay dân sự và quân sự kết hợp, thường được gọi là "Sân bay Ciampino" vì nó nằm bên cạnh huyện Ciampino về phía đông nam Roma. Sân bay thứ ba là Roma-Urbe, một sân bay nhỏ có lưu lượng thấp nằm cách khoảng 6 km về phía Bắc trung tâm thành phố, dành riêng phục vụ cho hầu hết máy bay trực thăng và các chuyến bay tư nhân.
Mặc dù Roma có một quận giáp Địa Trung Hải (Quận 10, Ostia), nơi này chỉ có bến du thuyền và bến cảng nhỏ cho các tàu đánh cá. Cảng chính phục vụ Roma là cảng Civitavecchia, tọa lạc khoảng 62 km (39 dặm) về phía tây bắc của thành phố.
Thành phố Roma đang hứng chịu các vấn đề giao thông, chủ yếu là do mô hình đường xuyên tâm đã gây khó khăn cho người dân Roma: nếu muốn di chuyển từ các vùng lân cận của một trong những tuyến đường xuyên tâm đến tuyến đường khác họ phải đi vào trung tâm lịch sử hoặc phải đi đường vòng. Vấn đề này không thể giải quyết do quy mô hệ thống tàu điện ngầm tại Roma bị hạn chế so với các thành phố khác có kích thước tương tự. Ngoài ra, Roma chỉ có 21 xe taxi cho mỗi 10.000 dân, cách biệt xa so với các thành phố lớn ở châu Âu. Nạn tắc nghẽn xe hơi thường xuyên xảy ra trong những năm 1970 và 1980 đã dẫn đến việc hạn chế lưu thông phương tiện vào trung tâm nội thành trong thời điểm ban ngày. Những khu vực áp dụng hạn chế được gọi là Khu Hạn chế Giao thông (Zona a Traffico Limitato (ZTL) trong tiếng Ý). Gần đây hơn, lượng giao thông tấp nập vào ban đêm ở Trastevere, Testaccio và khu San Lorenzo đã dẫn đến việc hình thành những khu ZTL đêm ở những vùng đó.
Một hệ thống tàu điện ngầm 3 tuyến đã đi vào hoạt động tại Roma. Việc xây dựng nhánh đầu tiên bắt đầu vào những năm 1930. Tuyến đường này đã được lên kế hoạch trước với mục tiêu nhanh chóng kết nối Termini với khu E42 vừa được quy hoạch ở ngoại ô phía Nam, nơi dự định tổ chức Hội chợ Thế giới 1942. Sự kiện này đã không thể diễn ra vì chiến tranh. Khu vực này sau đó một phần được thiết kế lại và đổi tên thành EUR (Esposizione Universale di Roma: Triển lãm Thế giới Roma) trong những năm 1950 để đóng vai trò như một khu kinh doanh hiện đại. Cuối cùng, tuyến metro này đã được mở vào năm 1955 và hiện nay đang là phần phía nam của Tuyến B.
Tuyến A khai trương vào năm 1980, chạy từ Ottaviano đến nhà ga Anagnina, sau đó mở rộng quãng đường đến Battistini (1999-2000). Trong những năm 1990, phần mở rộng của Tuyến B đã đi vào hoạt động, chạy từ Termini đến Rebibbia. Mạng lưới tàu điện ngầm nói chung là đáng tin cậy (mặc dù nó có thể bị tắc nghẽn trong giờ cao điểm và trong các sự kiện, đặc biệt là Tuyến A) vì độ dài tương đối ngắn. Hai Tuyến A và B giao nhau ở nhà ga Termini. Một nhánh mới của Tuyến B (B1) đã khai trương vào ngày 13 tháng 6 năm 2012 sau khi được xây dựng với chi phí ước tính khoảng 500 triệu euro. B1 kết nối với B tại Quảng trường Bologna và có bốn trạm phân bố trong 3,9 km (2 dặm).
Tuyến C là tuyến thứ ba, đang được xây dựng với chi phí ước tính 3 tỷ euro với 30 trạm trong khoảng cách 25,5 km (16 dặm). Tuyến C thay thế một phần tuyến đường sắt là Termini-Pantano với đầy đủ tính năng tự động và không người lái. Đoạn đầu với 15 trạm kết nối Pantano với khu Centocelle tại khu đông của thành phố được khánh thành vào ngày 9 tháng 11 năm 2014, và đoạn sau bắt đầu khởi công vào năm 2015, nhưng những phát hiện khảo cổ học thường trì hoãn việc xây dựng ngầm. 6 trạm dài 5,4 km (3,4 dặm) tiếp tục được thêm vào Tuyến C mở vào ngày 29 tháng 6 năm 2015 và gần nhất vào ngày 12 tháng 5 năm 2018, bến cuối ở đầu phía tây được nối đến San Giovanni, nơi chuyển tiếp sang Tuyến A. Nhà ga Công trường Hoàng đế Fori Imperiali kết nối với nhà ga Đấu trường La Mã Colosseo của Tuyến B, dự kiến sẽ được khánh thành vào năm 2024.
Tuyến thứ tư là tuyến D cũng được quy hoạch với dự kiến 22 nhà ga phân bố trên một khoảng cách 20 km (12 dặm). Đoạn đầu kiến đưa vào hoạt động trong năm 2015 và các phần cuối sẽ hoạt động trước năm 2035. Tuy nhiên kế hoạch đã phải hủy bỏ vào năm 2012 bởi vấn đề khủng hoảng ngân sách của thành phố, nhưng đã được khôi phục lại vào năm 2018. Trong cùng năm 2018, dự án tàu điện ngầm được lên kế hoạch với một số sửa đổi, bao gồm khả năng chuyển đổi tuyến đường sắt đô thị đi biển (từ trung tâm thành phố đến biển Ostia) và tuyến nhánh B1 Jonio thành tuyến tàu điện ngầm thứ năm - Metro E, được ký hiệu bằng màu xanh nhạt, dùng chung đường ray với tuyến B đoạn từ Piramide đến Bologna. Dự án hiện đang chờ một số nghiên cứu về tính khả thi.
Giao thông công cộng bề nổi tại Roma hình thành bởi mạng lưới xe buýt, tàu điện nổi (tram) và mạng lưới đường sắt đô thị (các tuyến FR). Mạng lưới xe buýt, tàu điện, tàu điện ngầm và đường sắt đô thị được điều hành bởi công ty Atac S.p.A. (ban đầu là viết tắt của Azienda Tramvie e Autobus del Comune - 'Công ty Xe buýt và Tàu điện Thành phố' trong tiếng Ý). Hơn 350 tuyến xe buýt và hơn tám nghìn điểm dừng xe buýt, trong khi hệ thống tàu điện hạn chế hơn có 39 km (24 mi) đường ray và 192 điểm dừng.and from the information page of the iOS app In Arrivo! . Ngoài ra còn có một tuyến xe điện bánh hơi, được mở vào năm 2005 và các dòng xe buýt điện khác được lên kế hoạch.
Tổ chức đoàn thể và vai trò trên trường quốc tế
Với vị thế là thủ đô của nước Ý, Roma là trụ sở của tất cả các cơ quan chính yếu của quốc gia, như Tổng thống Cộng hòa Ý, chính phủ (và các bộ ban ngành), Lưỡng viện Quốc hội, Toà án tư pháp tối cao, và đại sứ quán từ khắp các nước trên thế giới. Nhiều tổ chức quốc tế khác được đặt tại Roma, đặc biệt là những tổ chức văn hóa và khoa học nổi tiếng - chẳng hạn như Viện nghiên cứu Hoa Kỳ, British School, Viện hàn lâm Pháp, Viện Scandinavi, Viện khảo cổ học Đức, cùng những cơ quan chuyên ngành của Liên Hợp Quốc.
Trong số các thành phố toàn cầu, Roma là thành phố duy nhất có hai thực thể có chủ quyền nằm hoàn toàn trong địa giới lãnh thổ của mình, là Tòa Thánh, được đại diện bởi Thành quốc Vatican và Dòng Chiến sĩ Toàn quyền Malta. Vatican là một vùng đất nằm gọn trong lòng thủ đô nước Ý và thuộc sở hữu có chủ quyền của Tòa Thánh, là Giáo phận Roma và đầu não tối cao của Giáo hội Công giáo La Mã. Tòa Thánh không cho phép một đại sứ duy nhất được đồng thời kiêm sứ mệnh ngoại giao đối với cả Giáo hội và Ý, do đó ngoài các đại sứ quán có sứ mệnh ngoại giao tại Ý thì còn có các đại sứ quán đối với Tòa Thánh và Dòng Hiệp sĩ Malta mượn lãnh thổ của Ý đặt tại Roma. Tổng cộng, Roma có 140 đại sứ quán đối với Ý và 88 đại sứ quán đối với Tòa Thánh (trong đó có 30 cơ quan đặt liên kết ngoại giao với Dòng Malta), hơn nữa còn là nơi đặt trụ sở của 25 Tổng Lãnh sự quán và Lãnh sự quán Danh dự.Không tính các phòng ban lãnh sự của các đại sứ quán (dữ liệu cập nhật 4 tháng 8 năm 2015) Điều này tạo ra tình thế ngoại giao đặc biệt, nước Ý là trường hợp duy nhất trên thế giới đặt Đại sứ quán của mình ngay trên chính lãnh thổ của mình: 'Đại sứ quán Ý đối với Tòa Thánh' nằm tại Roma. Thêm vào đó, "Đại sứ quán Trung Hoa Dân Quốc đối với Tòa Thánh" - đại sứ quán trên luật định duy nhất tồn tại ở châu Âu và hiếm hoi trên thế giới, nằm trên lãnh thổ Roma nhưng lại là một thực thể không được nước Ý công nhận, tách biệt với "Văn phòng đại diện Đài Bắc tại Ý" ở Roma mới là đại sứ quán trên thực tế của chính thể Đài Loan đối với Ý.
Giáo hoàng là Giám mục thành Roma và ngôi chính thức nằm tại là Tổng lãnh vương cung thánh đường Thánh Gioan Latêranô, nhà thờ chính tòa của Roma, trong đó Tổng thống nước Cộng hòa Pháp là "đấng pháp chính đệ nhất và danh dự" theo chức vụ (ex officio) của nhà thờ, danh hiệu của những nguyên thủ quốc gia Pháp có từ thời vua Henri IV của Pháp. Ngoài ra, một số trường đại học và viện đại học giáo hoàng quốc tế cũng được đặt tại Roma. Một thực thể khác, Dòng Chiến sĩ Toàn quyền Malta đã lánh nạn ở Roma vào năm 1834, do cuộc chinh phạt Malta của Napoleon vào năm 1798. Đôi khi nó được phân loại là có chủ quyền nhưng không yêu sách bất kỳ lãnh thổ nào ở Roma hoặc bất cứ nơi nào khác, do đó dẫn đến sự tranh cãi về tình trạng chủ quyền thực tế của nó.
Roma là trụ sở của Polo Romano''' được tạo thành bởi ba cơ quan quốc tế chính của Liên Hợp Quốc: Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp (FAO), Chương trình Lương thực Thế giới (WFP) và Quỹ quốc tế về phát triển nông nghiệp (IFAD).
Roma theo truyền thống đã tham gia vào quá trình hội nhập chính trị châu Âu. Các hiệp ước của EU được đặt tại Điện Farnesina, trụ sở của Bộ Ngoại giao, do thực tế rằng chính phủ Ý là nơi lưu giữ các hiệp ước. Năm 1957, thành phố đã tổ chức ký kết Hiệp ước Roma, nơi thành lập Cộng đồng Kinh tế châu Âu (tiền thân của Liên minh châu Âu), đồng thời đóng vai trò ký kết chính thức Hiến pháp châu Âu đề xuất vào tháng 7 năm 2004.
Roma là trụ sở của Ủy ban Olympic châu Âu và của Đại học Phòng thủ NATO. Thành phố này là nơi hình thành Đạo luật Tòa án Hình sự Quốc tế và Công ước châu Âu về Nhân quyền. Thành phố cũng tổ chức các tổ chức quốc tế quan trọng khác như IDLO (Tổ chức quốc tế về Luật Phát triển), ICCROM (Trung tâm Quốc tế về Nghiên cứu Bảo tồn và Phục hồi các di sản văn hóa) và UNIDROIT (Viện Quốc tế về Thống nhất Luật Tư nhân).
Thành phố kết nghĩa
Thành phố song sinh và thành phố kết nghĩa
Từ ngày 9 tháng 4 năm 1956, Roma độc quyền tương hỗ và kết đôi với thành phố song sinh của mình:
Paris, Pháp
Solo Parigi è degna di Roma; solo Roma è degna di Parigi. Seule Paris est digne de Rome; seule Rome est digne de Paris. Only Paris is worthy of Rome; only Rome is worthy of Paris."Chỉ có Paris mới xứng với Roma; chỉ có Roma mới xứng với Paris."
Quan hệ hợp tác
Các thành phố có quan hệ cộng sự và đối tác của Roma bao gồm:
Achacachi, Bolivia
Algiers, Algeria
Bắc Kinh, Trung Quốc
Belgrade, Serbia
Brasília, Brazil
Buenos Aires, Argentina
Cairo, Ai Cập
Cincinnati, Hoa Kỳ
Kiev, Ukraina
Kobanî, Syria
Kraków, Poland
Luân Đôn, Anh
Multan, Pakistan
Mumbai, Ấn Độ
Madrid, Tây Ban Nha
Marbella, Tây Ban Nha
Montreal, Canada
New Delhi, Ấn Độ
New York, Hoa Kỳ
Plovdiv, Bulgaria
Seoul, Hàn Quốc
Sydney, Úc
Tirana, AlbaniaTwinning Cities: International Relations. Municipality of Tirana. www.tirana.gov.al. Lưu trữ 25 tháng 1 năm 2008.
Tehran, Iran
Tokyo, Nhật Bản
Tongeren, Bỉ
Tunis, Tunisia
Washington, D.C., Hoa Kỳ
Danh ngôn về Roma
(Omnes viae Romam ducunt)Tutte le strade portano a Roma (tiếng Ý)Tous les chemins mènent à Rome (tiếng Pháp)All roads lead to Rome (tiếng Anh)
"Mọi con đường đều dẫn đến Roma"Roma non è stata costruita in un giorno (Ý)Rome ne s'est pas faite en un jour (Pháp)Rome wasn't built in a day (Anh)
"Roma chẳng được xây chỉ trong một ngày đâu"
(Si fueris Romae, Romano vivito more) Quando a Roma, fai come i romani (Ý)Quand à Rome, fais comme les Romains (Pháp)When in Rome, do as the Romans do (Anh)
"Tại La Mã thì hãy làm theo những người La Mã"Per conoscere Roma, non basta una vita (Ý)Pour connaître Rome, une vie ne suffit pas (Pháp)To know Rome, a lifetime is not enough (Anh)
"Để hiểu về Roma, một đời là chẳng đủ"
(Roma locuta, causa finita)Roma ha parlato, la causa è definitivamente chiusa (Ý)Rome a parlé, le débat est clos (Pháp)Rome has spoken, the discussion is over (Anh)
"Roma đã lên tiếng, mọi thảo luận đã xong"
Chú thích
Tham khảo
De Muro, P., Monni, S., Tridico, P. (2011), "Knowledge-based economy and social exclusion: shadow and light in the Roman socioeconomic model", in International Journal of Urban and Regional Research Vol. 35 issue 6, pp. 1212–1238, November.
Liên kết ngoài
Vintage Rome: The Eternal City – trình chiếu bởi Life magazine''
Chính thức
Roma Capitale | Sito Istituzionale | Home
APT (official Tourist Office) of the City of Rome
Portale dei Musei in Comune
Home - Vatican Museums
Portale dei Musei in Comune
Thủ đô châu Âu
Thành phố cổ
Thành phố đô thị Roma Thủ đô
Địa điểm hành hương Công giáo
Thành phố thánh địa
Địa danh trong sách Thứ kinh
Thành phố Tân Ước
Khởi đầu thế kỷ 8 TCN ở Ý
Di sản thế giới tại Ý
|
23619
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20v%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20th%E1%BA%BF%20gi%E1%BB%9Bi%202006
|
Giải vô địch bóng đá thế giới 2006
|
Giải vô địch bóng đá thế giới 2006 (hay Cúp bóng đá thế giới 2006, tiếng Anh: 2006 FIFA World Cup, tiếng Đức: FIFA Fußball-Weltmeisterschaft Deutschland 2006) được tổ chức từ 9 tháng 6 đến 9 tháng 7 năm 2006 tại 12 thành phố của Đức. Đây là giải vô địch bóng đá thế giới lần thứ 18 và là lần thứ hai được tổ chức ở Đức (lần trước vào năm 1974 ở Tây Đức), đồng thời Đức trở thành quốc gia thứ 3 của châu Âu (sau Pháp và Ý) hai lần tổ chức giải.
Bài hát chính thức của giải là bài "The Time of Our Lives", của Il Divo và bài hát chào mừng của giải là bài "Celebrate the Day" của Herbert Groenmeyer.
Linh vật chính thức của giải đấu là Goleo VI và Pille, một chú sư tử mặc đồng phục thi đấu số 06 của đội tuyển bóng đá quốc gia Đức cùng một trái banh biết nói.
Trong mùa giải này có tất cả 197 đội bóng tham gia các vòng loại (hầu hết các đội bóng này là thành viên của FIFA). Đây là giải đấu có số lượng đội bóng tham gia nhiều nhất trong lịch sử. Trong đó, 32 đội xuất sắc nhất tham gia vào vòng chung kết với các trận đấu: vòng bảng, vòng 16 đội, tứ kết, bán kết, chung kết. Trận chung kết giữa Pháp và Ý được tổ chức tại sân vận động Olympic ở Berlin. Ý là đội chiến thắng và lần thứ tư giành chức vô địch thế giới.
Việc bán bản quyền phát sóng và tài trợ đã góp phần thành công cho giải đấu. Trong thời kì diễn ra World Cup 2006, người ta ước tính rằng có khoảng 26,29 tỉ lượt người xem trực tuyến. Giải đấu đã thu hút được 715.1 triệu khán giả trên khắp thế giới. World Cup 2006 xếp hạng thứ bốn về số lượng người theo dõi, sau các kỳ World Cup 1990, 1994, 2002. World Cup 2006 đã diễn ra thành công ở Đức, nhờ đó nước chủ nhà đã quảng bá được hình ảnh của mình ra khắp thế giới. Với tư cách là đội chiến thắng, Ý giành quyền tham dự Cúp Liên đoàn các châu lục 2009.
Lựa chọn nước chủ nhà
Việc bỏ phiếu để lựa chọn nước chủ nhà tổ chức World Cup 2006 bắt đầu được tổ chức vào tháng 7 năm 2000 tại Zürich, Thụy Sĩ. Trong đó, bốn ứng viên sáng giá bao gồm: Đức, Nam Phi, Anh và Maroc. Ba vòng bỏ phiếu lần lượt diễn ra để loại ra quốc gia có số phiếu ít nhất của mỗi vòng. Vòng thứ ba được tổ chức vào ngày 7 tháng 7 năm 2000 và Đức đã trở thành nước chủ nhà khi có nhiều phiếu hơn Nam Phi.
Sau đó, quyết định chọn Đức đăng cai tổ chức World Cup 2006 đã gây tranh cãi trong dư luận . Kết quả được trình bày trong bảng sau:
Các sân vận động
Vòng loại
Vòng loại World Cup 2006 bắt đầu từ tháng 9 năm 2003 và kết thúc ngày 17 tháng 11 năm 2005 với hơn 800 trận đấu và 2400 bàn thắng.
Bên cạnh đội chủ nhà Đức được vào thẳng vòng chung kết, 196 quốc gia và vùng lãnh thổ khác đã tham dự vòng loại để chọn ra 31 đội.
Các đội giành quyền tham dự
AFC (4)
CAF (5)
CONCACAF (4)
CONMEBOL (4)
OFC (1)
UEFA (14)
Danh sách trọng tài
Danh sách cầu thủ tham dự giải
Mỗi đội tuyển tham gia vòng chung kết có quyền đăng ký 23 cầu thủ, trong đó có tối thiểu ba thủ môn. Hạn cuối cùng để nộp danh sách là ngày 15 tháng 5 năm 2006. Trong trường hợp chấn thương vào phút chót, các đội tuyển có thể thay đổi danh sách chậm nhất là vào 24 giờ trước trận đấu khai mạc giải.
Lễ bốc thăm và thể thức thi đấu
Các nhóm bốc thăm
Lễ bốc thăm để thành lập các bảng cho VCK World Cup 2006 đã diễn ra ngày 9 tháng 12 năm 2005 tại Trung tâm triển lãm Leipzig (Đức) với sự có mặt của khoảng 6720 khách mời. Người dẫn chương trình trong lễ bốc thăm là siêu mẫu Heidi Klum.
32 đội tuyển tham dự giải được chia ra làm năm nhóm tại lễ bốc thăm, mỗi bảng đấu sẽ có một đội thuộc mỗi nhóm. Nhóm một là nhóm hạt giống bao gồm các đội tuyển hạt giống. Nhóm hai là nhóm các đội tuyển châu Phi, Nam Mỹ và châu Úc. Nhóm thứ 3 là nhóm các đội tuyển châu Âu không phải là hạt giống. Nhóm thứ 4 gồm các đội châu Á và khu vực CONCACAF. Đội tuyển Serbia và Montenegro vào một nhóm riêng để không thể có ba đội châu Âu rơi vào cùng một bảng và chắc chắn sẽ phải gặp một trong ba đội hạt giống là Brasil, Argentina, México. Ở giải năm nay, các đội không may mắn khi rơi vào bảng được coi là tử thần là các bảng C và E .
Vòng chung kết
Vòng bảng
Giờ thi đấu tính theo giờ địa phương (GMT +2)
Bảng A
Bảng B
Bảng C
Bảng D
Bảng E
Bảng F
Bảng G
Bảng H
Vòng đấu loại trực tiếp
Sơ đồ tóm tắt
Vòng 16 đội
Tứ kết
Bán kết
Tranh hạng ba
Chung kết
Các sự kiện liên quan
Cầu thủ đội tuyển Croatia Josip Šimunić trở thành cầu thủ đầu tiên (và có thể là duy nhất) bị phạt ba thẻ vàng trong một trận đấu. Josip Šimunić bị trọng tài người Anh Graham Poll phạt thẻ vàng vào các phút thứ 61, 90 (quên không rút thẻ đỏ) và 92 trong trận đấu Croatia – Úc ngày 22 tháng 6 .
Ronaldo lập kỷ lục ghi bàn mới tại các kỳ World Cup. Với ba bàn thắng có được tại World Cup 2006, tiền đạo người Brasil này đã có tổng cộng 15 bàn thắng (sau khi tham dự ba kỳ World Cup 1998, 2002, và 2006), vượt qua kỷ lục 14 bàn của Gerd Müller được xác lập cách đây 32 năm (sau khi tham dự hai kỳ World Cup 1970, 1974).
Quả bóng vàng được trao cho Zinedine Zidane (Pháp) – một quyết định gây tranh cãi vì tấm thẻ đỏ trong trận chung kết. Bộ đôi tấn công của nước chủ nhà Đức chia nhau hai giải cá nhân: Chiếc giày vàng thuộc về Miroslav Klose (5 bàn), còn Lukas Podolski được bình chọn là Cầu thủ trẻ hay nhất (ghi 3 bàn). Gianluigi Buffon của Ý được bình chọn là thủ môn hay nhất (chỉ để thủng lưới hai bàn, trong đó có một bàn phản lưới nhà).
Thụy Sĩ đã xác lập được hai kỷ lục mới tại các kỳ World Cup sau trận gặp Ukraina. Lần đầu tiên trong 76 năm lịch sử của giải, có một đội tuyển không để thủng lưới trong tất cả các trận đấu tại một kỳ World Cup. Họ cũng trở thành đội tuyển đầu tiên không ghi được bàn nào trong một loạt sút luân lưu khi để thua trắng 0–3 trong trận 1/8 gặp Ukraina sau khi hòa 0–0 trong 120 phút thi đấu chính thức.
Với 8 thẻ vàng và bốn thẻ đỏ gián tiếp dành cho Costinha, Deco, Boulahrouz, van Bronckhorst, trận đấu Bồ Đào Nha – Hà Lan (1–0) đã trở thành trận đấu có nhiều thẻ đỏ nhất trong lịch sử các vòng chung kết bóng đá thế giới. Điều khiển trận đấu này là trọng tài Ivanov (Nga).
Đức đã vượt qua thành tích của México để trở thành đội tuyển đầu tiên được đá ở bốn trận khai mạc (năm 1938, 1978, 1994 và 2006).
Bàn thắng sớm nhất của giải được ghi ở giây 67, do công của Asamoah Gyan trong trận gặp Cộng hòa Séc (2-0). Bàn thắng sớm nhất trong lịch sử các vòng chung kết bóng đá thế giới vẫn thuộc về Hakan Sukur (Thổ Nhĩ Kỳ). Trong trận gặp Hàn Quốc ở World Cup 2002, anh đã ghi bàn ngay ở giây thứ 11 của trận đấu.
5 đội tuyển có huấn luyện viên trưởng là người Brasil: Brasil (Carlos Alberto Parreira), Costa Rica (Alexandre Guimaraes), Nhật Bản (Zico), Bồ Đào Nha (Luiz Felipe Scolari) và Ả Rập Saudi (Marcos Paqueta).
4 đội tuyển có huấn luyện viên trưởng là người Hà Lan: Hà Lan (Marco van Basten), Hàn Quốc (Dick Advocaat), Trinidad và Tobago (Leo Beenhakker) và Úc (Guus Hiddink).
Khi Serbia và Montenegro tuyên bố độc lập thành Serbia và Montenegro vào ngày 5 tháng 6 năm 2006, đây là lần đầu tiên tại giải có một đội tuyển tham dự cho một quốc gia không còn tồn tại.
Nếu không kể giải vô địch lần thứ nhất năm 1930, đây là lần có nhiều đội tuyển tham dự lần đầu tiên nhất (8 đội).
Trọng tài người Argentina Horacio Elizondo trở thành trọng tài đầu tiên được bắt chính cả hai trận đấu khai mạc và chung kết trong cùng một vòng chung kết. Ngoài ra, ông còn lập kỷ lục bắt chính năm trận trong cùng một vòng chung kết.
Các giải thưởng
Cầu thủ xuất sắc nhất (giải Quả bóng vàng): Zinédine Zidane
Cầu thủ ghi bàn nhiều nhất (giải Chiếc giày vàng): Miroslav Klose (5 bàn)
Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất: Lukas Podolski
Thủ môn xuất sắc nhất (giải Yashin): Gianluigi Buffon
Đội bóng chiếm giải phong cách (fair play): và
Đội bóng gây nhiều hào hứng nhất:
Đội hình toàn sao
Cầu thủ ghi bàn
5 bàn
Miroslav Klose
3 bàn
Hernán Crespo
Maxi Rodríguez
Ronaldo
Thierry Henry
Zinédine Zidane
Lukas Podolski
Fernando Torres
David Villa
2 bàn
Tim Cahill
Adriano
Paulo Wanchope
Tomáš Rosický
Agustin Delgado
Carlos Tenorio
Steven Gerrard
Patrick Vieira
Bastian Schweinsteiger
Luca Toni
Marco Materazzi
Aruna Dindane
Omar Bravo
Bartosz Bosacki
Maniche
Alexander Frei
Andriy Shevchenko
1 bàn
Flávio Amado
Roberto Ayala
Cambiasso
Lionel Messi
Javier Saviola
Carlos Tevez
John Aloisi
Harry Kewell
Craig Moore
Fred
Gilberto
Juninho
Kaká
Zé Roberto
Rónald Gómez
Niko Kovač
Darijo Srna
Jan Koller
Ivan Kaviedes
David Beckham
Joe Cole
Peter Crouch
Franck Ribéry
Torsten Frings
Philipp Lahm
Oliver Neuville
Stephen Appiah
Haminu Dramani
Asamoah Gyan
Sulley Muntari
Sohrab Bakhtiarizade
Yahya Golmohammadi
Alessandro Del Piero
Alberto Gilardino
Fabio Grosso
Vincenzo Iaquinta
Filippo Inzaghi
Andrea Pirlo
Francesco Totti
Gianluca Zambrotta
Didier Drogba
Kalou
Bakary Kone
Nakamura Shunsuke
Tamada Keiji
Ahn Jung-Hwan
Lee Chun-Soo
Park Ji-Sung
Francisco Fonseca
Rafael Márquez
Zinha
Ruud van Nistelrooy
Robin van Persie
Arjen Robben
Nelson Cuevas
Deco
Pauleta
Cristiano Ronaldo
Simão Sabrosa
Nuno Gomes
Sami Al-Jaber
Yasser Al-Qahtani
Saša Ilić
Nikola Žigić
Xabi Alonso
Juanito
Raúl
Marcus Allbäck
Henrik Larsson
Fredrik Ljungberg
Tranquillo Barnetta
Philippe Senderos
Mohamed Kader
Radhi Jaidi
Ziad Jaziri
Jaouhar Mnari
Clint Dempsey
Maksim Kalynychenko
Serhiy Rebrov
Andriy Rusol
phản lưới nhà
Cristian Zaccardo (trận gặp Hoa Kỳ)
Carlos Gamarra (trận gặp Anh)
Petit (trận gặp Đức)
Brent Sancho (trận gặp Paraguay)
Xếp hạng
32 đội bóng lọt vào vòng chung kết được xếp hạng dựa theo tiêu chuẩn của FIFA và kết quả các trận đấu vừa qua .
Chú thích
Xem thêm
Linh vật các giải vô địch bóng đá thế giới
Danh sách những tranh cãi xảy ra tại giải vô địch bóng đá thế giới 2006
Liên kết ngoài
Giải vô địch bóng đá thế giới 2006 Đức ™, FIFA.com
Báo cáo kỹ thuật FIFA (Phần 1) và (Phần 2)
Lưu trữ RSSSF của trận chung kết
Trang web Giải vô địch bóng đá thế giới chính thức
Đức 2006 - Sân nhà
Bóng đá
Thế giới
Giải vô địch bóng đá thế giới theo năm
Giải đấu bóng đá quốc tế tổ chức bởi Đức
Tham nhũng ở Đức
|
23627
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Fansipan
|
Fansipan
|
Fansipan (còn được viết là Phan Si Păng, Phan Xi Păng hay Phăng Si Păng) là đỉnh núi cao nhất của Việt Nam, nằm trên dãy núi Hoàng Liên Sơn ở vùng Tây Bắc Bộ Việt Nam. Đỉnh núi có độ cao tuyệt đối là 3147,3 m. Fansipan cũng là đỉnh núi cao nhất bán đảo Đông Dương và được mệnh danh là "Nóc nhà Đông Dương".
Từ nguyên
Nguồn gốc của từ Fansipan chưa rõ ràng. Nhiều nguồn cho biết một tên khác của đỉnh Fansipan là Hủa Xi Pan và khẳng định tên gọi này có gốc Quan thoại, nghĩa là "phiến đá khổng lồ chênh vênh". Có giả thuyết khác cho rằng cái tên này là tiếng H'mông, có nghĩa là núi Đỗ quyên vì sự phổ biến của cây đỗ quyên và các loài thực vật thuộc chi Rhododendron trên núi. Cũng có ý kiến cho rằng cái tên này là lối đọc trại của Phan Văn Sơn, tên một viên quan địa lý nhà Nguyễn, năm 1905 đã cùng người Pháp đi vẽ bản đồ, phân định biên giới Việt Nam với nhà Thanh.
Địa lý
Fansipan là đỉnh núi cao nhất trong dãy núi Hoàng Liên Sơn, nằm ở biên giới tỉnh Lào Cai và tỉnh Lai Châu. Về mặt hành chính, đỉnh Fansipan thuộc địa giới của cả huyện Tam Đường (Lai Châu) và thị xã Sa Pa (Lào Cai), cách trung tâm thị xã Sa Pa khoảng 9 km về phía tây nam. Chiều cao của đỉnh núi đo đạc vào năm 1909 là 3143 m, tuy vậy theo số liệu mới nhất của Cục Đo đạc, Bản đồ và Thông tin địa lý Việt Nam đưa ra vào cuối tháng 6 năm 2019, đỉnh núi cao 3147,3 m.
Đây cũng là điểm cao nhất của ba nước Đông Dương (Việt Nam, Lào, Campuchia) nên Fansipan còn được mệnh danh là "Nóc nhà Đông Dương".
Lịch sử kiến tạo địa chất
Fansipan được hình thành vào thời kì chuyển tiếp của hai kỷ Permi và Tam Điệp của Đại Cổ sinh (Paleozoi) và Đại Trung sinh (Mesozoi) cách nay 260-250 triệu năm. Dãy núi Himalaya, kể từ Đại Trung sinh muộn, đã nâng cao thêm đỉnh Fansipan và dãy Hoàng Liên Sơn, và tạo ra đứt gãy sông Hồng về phía đông.
Hành trình chinh phục
Được ghi chép
Trong cuốn Chinh phục đỉnh Fansipan của Hiệp hội Địa lý Hà Nội do L.Salles - Giáo sư trường Albert Sarraut - là tác giả (xuất bản ngày 29.11.1935 bằng tiếng Pháp), có viết rằng những người Pháp đầu tiên lên đến đỉnh Fansipan là một người trung sĩ tên Denis và một trung sĩ khác tên Dollo.
Trung sĩ Denis cùng nhóm đại úy Scherdlin và đại úy Benoit phải nhận nhiệm vụ chinh phục Fansipan vào cuối tháng 7.1905. Rất có khả năng trung sĩ Denis đã lên tới đỉnh Fansipan một mình. Dennis đã để lại mô tả khá chính xác về cột mốc trên một tảng đá trên đỉnh núi, cũng như một số chi tiết về những khó khăn của cuộc thám hiểm. Denis mất 3 ngày leo núi để chinh phục Fansipan và kể lại: “Rừng ở trên đỉnh. Mưa trong nửa trên ở đỉnh. Trời rất lạnh ở trên đỉnh". Điểm cao nhất được anh đánh dấu bằng ba viên đạn săn bắn trên một tảng đá lớn, các viên đạn được nhét vào đá theo hình tam giác.
Còn về Dollo, ngay sau nhiệm vụ của nhóm Scherdlin, theo các tài liệu của Sở Địa lý, nhiệm vụ trắc địa thuộc nhóm của trung úy Bourély đã diễn ra. Cựu trung úy, hiện là đại tá Bourély, đã viết thư cho giáo sư L.Salles và kể lại: "Khoảng thời gian ngày 1.10.1905 đã chinh phục thành công đỉnh Fansipan. Trung sĩ bộ binh thuộc địa Dollo đã dành được vinh dự này. Anh phải mất 8 ngày để lên tới đỉnh kể từ khi gặp những ngôi nhà cuối cùng trên đường. Điều này được giải thích bởi cuộc chinh phục được thực hiện trong sương mù, nơi người ta bắt đầu rẽ rừng lên đỉnh để từ đó nhận ra những tia sáng đầu tiên và rồi lại phải rời đi một lần nữa và tiếp tục tìm kiếm điểm cao nhất. Điều đó khá là thú vị và mệt mỏi nữa... Tôi rất tiếc vì không thể cung cấp cho bạn thêm thông tin chi tiết về một sự kiện đã xảy ra lâu rồi, nhưng điều đó làm tôi nhớ đến sự khó khăn của cuộc thám hiểm và sự ngạc nhiên mà tất cả chúng tôi đã trải qua khi tiến hành tính toán độ cao của đỉnh khi phát hiện nó đã vượt quá 3.000m."Quãng thời gian chinh phục đỉnh Fansipan của hai người chỉ chênh lệch vài ngày: Khoảng ngày 1.10 và từ ngày 30.9-12.10. Và cả hai cuộc chinh phục đều diễn ra vào năm 1905. Một người thiết lập điểm chuẩn và một người lên đến đỉnh mốc.
Bia đỉnh núi
Tháng 10 năm 1984, ông Hà Văn Khuyên, nhân viên phòng Văn hóa của huyện Sapa cũ được giao nhiệm vụ đưa đoàn chuyên gia của Ba Lan và các vận động viên leo núi lên đỉnh Fansipan. Chuyến đi kéo dài 3 ngày, hoàn thành được mục tiêu mang chóp lên gắn cho đỉnh núi cao nhất Đông Dương.
Hiện nay
Cung đường trekking lên đỉnh Fansipan bắt đầu hình thành vào khoảng những năm 1990, chủ yếu dành cho những nhà thám hiểm và nhà nghiên cứu. Cáp treo Fansipan được khởi công năm 2013 và khánh thành năm 2016 đã đưa việc tiếp cận đỉnh núi cao nhất Việt Nam trở nên phổ biến với mọi người. Tuy nhiên cung trekking cũ vẫn còn được khai thác bởi những người ưa du lịch mạo hiểm hiện nay.
Hệ thực vật
Hệ thực vật ở Fansipan khá phong phú. Có tới 1.680 loại cây chia làm 679 chi thuộc 7 nhóm. Có một số loại thuộc nhóm quý hiếm. Dưới chân núi là những cây gạo, mít, cơi với mật độ khá dày tạo nên những địa danh Cốc Lếu (Cốc Gạo), Cốc San (Cốc Mít), vân vân. Từ đây đến độ cao 700m là vành đai nhiệt đới có những vạt rừng nguyên sinh rậm rạp, dây leo chằng chịt. Từ 700m trở lên là tầng cây hạt trần như pơmu, có những cây ba, bốn người ôm không xuể, cao 50-60m, tuổi đời tới vài trăm năm. Từ độ cao 2.800m, phủ kín mặt đất là trúc lùn, những bụi trúc thấp khoảng 25–30 cm, cả thân cây trơ trụi, phần ngọn có một chút lá phất phơ, nên loài trúc này được gọi là trúc phất trần. Xen kẽ là một số cây thuộc các họ như cói, hoa hồng, hoàng liên.
Thư viện ảnh
Chú thích
Xem thêm
Sa Pa
Danh sách các núi cao nhất thế giới
Danh sách điểm cực trị của Việt Nam
Liên kết ngoài
Fan Si Peak
Núi tại Lai Châu
Núi tại Lào Cai
V
Du lịch Lào Cai
Du lịch Lai Châu
Kỷ lục Việt Nam
Điểm cực trị của Việt Nam
Núi cao trên 1000 mét
|
23628
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kras
|
Kras
|
Kras (tiếng Ý: Carso), còn gọi là the Karst hay cao nguyên Kras, là một khu vực ranh giới cao nguyên đá vôi ở tây nam Slovenia mở rộng tới miền đông bắc Ý và miền tây Croatia. Nó nằm giữa thung lũng Vipava, Vipavska brda, phần phía tây nhất của các ngọn đồi Brkin, vịnh Trieste và một phần ngắn của biên giới Ý nằm giữa vịnh Trieste và sông Vipava. Biên giới phía tây của nó là biên giới theo dân tộc cổ của người Ý và người Sloven. Khu vực này nổi tiếng nhờ nó là cảm hứng cho thuật ngữ địa chất carxtơ.
Cao nguyên này khá dốc so với các vùng đất xung quanh, với ngoại lệ là ở phía đông nam, là khu vực mà độ dốc ít rõ nét hơn. Cao nguyên này thấp dần từ đông nam tới tây nam. Trung bình nó nằm ở độ cao 334 mét trên mực nước biển. Do Kras thấp dần về phía biển Adriatic (xem: Kraški rob), nó ít bộc lộ các ảnh hưởng khí hậu có lợi của biển. Thực vật chính trong quá khứ là sồi, nhưng hiện nay là các rừng thông. Các cánh rừng hiện nay chỉ che phủ khoảng 1/3 diện tích khu vực Kras.
Kras nổi tiếng vì các hang động của mình. Tại Slovenia, chúng bao gồm Vilenica (hang động du lịch cổ nhất trên thế giới), hang Lipica, hang Divača, hang Kačna và các hang Škocjan (hệ thống di sản thế giới của UNESCO), trong khi tại Ý có Grotta Gigante (hang du lịch lớn nhất thế giới, với mặt phẳng dao động ngang đặc biệt được dùng để đo sự lên xuống của thủy triều do Mặt Trăng tác động đối với Trái Đất).
Phần lớn Kras nằm ở tây nam Slovenia với diện tích 429 km² và dân số khoảng 19.000 người. Kras tổng thể có 100 điểm dân cư. Thành phố Sežana là trung tâm của Kras về phía biên giới Slovenia; nó là nơi mà nhà thơ Srečko Kosovel sinh ra. Các trung tâm nông thôn chính là các khu dân cư ở Divača, Dutovlje và Komen. Štanjel là khu dân cư có phong cảnh đẹp ở phần gờ phía bắc nhất của cao nguyên này; các ngôi nhà trong khu này được tụm lại xung quanh đồi Turn, tạo ra ấn tượng về một thành phố thời Trung cổ.
Các điều kiện tự nhiên, bao gồm gió bora (burja) và cách thức sinh hoạt của người dân địa phương đã có ảnh hưởng lớn tới các yếu tố cơ bản trong kiến trúc của vùng này, tạo ra các hình dáng đơn giản nhưng rõ ràng. Kras cũng được biết tới nhờ rượu vang của mình, có tên gọi là teran và đùi lợn xông khói. Một trong các trung tâm du lịch chính trong khu vực là Lipica, với các đàn ngựa (quê hương của nòi ngựa Lipizza) cũng như là các tiện nghi du lịch khác.
Xem thêm
Địa lý Slovenia
Địa lý Ý
Tham khảo
Cao nguyên
Địa lý Slovenia
Địa lý Ý
|
23629
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%AA%20V%C4%83n%20T%E1%BB%B5
|
Lê Văn Tỵ
|
Lê Văn Tỵ (1904-1964) là một tướng lĩnh Lục quân của Quân đội Quốc gia Việt Nam và Quân đội Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Thống tướng. Ông xuất thân từ trường Thiếu sinh quân và trường Sĩ quan Pháp. Ông đã từng phục vụ trong Quân đội Viễn chinh Pháp tham gia Đệ nhị Thế chiến, sau chuyển sang phục vụ cho Quốc gia Việt Nam thời Quốc trưởng Bảo Đại và Việt Nam Cộng hòa thời Tổng thống Ngô Đình Diệm. Ông là vị Thống tướng đầu tiên và duy nhất của Quân đội Việt Nam Cộng hòa. Ông có 42 năm thâm niên quân vụ kể từ ngày nhập ngũ cho đến khi từ trần.
Tiểu sử và Binh nghiệp
Ông sinh ngày 17 tháng 5 năm 1904 tại làng Thắng Nhì, Vũng Tàu, miền nam Việt Nam trong một gia đình bình dân. Ông là con cả trong gia đình có 7 anh chị em gồm 4 trai và 3 gái. Trong số 3 người em trai của ông, có hai người là sĩ quan của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Năm 1915, sau khi đậu bằng Tiểu học, ông được thân phụ (nguyên là quân nhân trong Quân đội Pháp) gửi vào học ở trường Thiếu sinh quân Đông Dương tại Thủ Dầu Một. Năm 1922 ra trường với chứng chỉ tốt nghiệp tương đương văn bằng Tú tài bán phần (Part I) của bậc Trung học Phổ thông.
Quân đội Viễn chinh Pháp
Ngay sau khi tốt nghiệp trường Thiếu sinh quân, ông tình nguyện nhập ngũ vào Quân đội Viễn chinh Pháp tại Việt Nam với cấp bậc Trung sĩ, giữ chức vụ Tiểu đội trưởng thuộc đơn vị bộ binh. Đến giữa năm 1928 ông được cử đi học khóa sĩ quan tại Trung tâm Huấn luyện Quân sự Frejus, Pháp. Sau khi thụ huấn xong phần căn bản quân sự, ông tiếp tục thụ huấn sang phần chuyên môn của ngành Pháo binh. Đầu năm 1930 mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc Chuẩn úy, ra trường phục vụ ở đơn vị Pháo binh của Quân đội Pháp. Mãi đến năm 1933 ông mới về nước, tiếp tục phục vụ trong đơn vị bộ binh của Quân đội Pháp. Đầu năm 1934 ông được thăng cấp Thiếu úy giữ chức vụ Đại đội trưởng bộ binh. Năm 1940 ông được thăng cấp Trung úy tại nhiệm. Thời gian này ông được tham gia Thế chiến 2 ở Châu Âu và Đông Dương
Năm 1945, sau khi Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương vào ngày 9 tháng 3, ông cùng một số quân nhân Pháp theo đơn vị rút về Cà Mau để kháng Nhật. Khi Quân đội Pháp được lệnh đầu hàng, ông về trú ngụ ở quê vợ tại Hương Mỹ, Bến Tre. Năm 1946, sau khi Pháp tái chiếm Nam Kỳ, ông trở lại Sài Gòn, khi ngang qua Tân Trụ (Long An), ông bị Việt Minh bắt giữ và đem xử bắn. Tới giờ hành quyết, ông được giải thoát bởi chính 2 xạ thủ là cựu quân nhân thuộc quyền lúc trước (hai người này về sau hồi chánh và được phục vụ dưới quyền ông cho tới khi ông từ trần). Khi về tới Sài Gòn ông lại bị Pháp kỷ luật và giam giữ. Sau thời gian thọ phạt, ông được tái phục vụ trong Quân đội Liên hiệp Pháp. Cuối năm này ông được thăng cấp Đại úy.
Quốc gia Việt Nam
Ngày 20 tháng 7 năm 1948 ông được chuyển sang làm Chánh Võ phòng cho Thủ tướng Nguyễn Văn Xuân, Chính phủ Nam Kỳ Việt Nam. Cùng thời điểm này, Trung úy Trần Tử Oai giữ chức vụ Phó Võ phòng, Trung úy Trần Văn Đôn giữ chức vụ Sĩ quan tùy viên trong Phủ Thủ tướng Nam Kỳ. Đầu năm 1949 ông được thăng cấp Thiếu tá, giữ chức vụ Chỉ huy trưởng Trường Vệ binh Nam Việt kiêm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Vệ binh Danh dự.
Quân đội Quốc gia Việt Nam
Thượng tuần tháng 12 Năm 1950, khi Quốc gia Việt Nam chính thức thành lập quân đội, ông được thăng cấp Trung tá giữ chức vụ Tham mưu trưởng Tham mưu Biệt bộ tại Bộ Quốc phòng và là sĩ quan người Việt có cấp bậc cao nhất ở Quân đội Quốc gia lúc bấy giờ. Đầu tháng 6 năm 1951 ông được cử làm Tổng chỉ huy cuộc duyệt binh đầu tiên của Quân đội Quốc gia tại Sài Gòn nhân ngày "Hưng Quốc khánh niệm" (lễ kỷ niệm lần thứ 149 ngày Chúa Nguyễn Ánh lên ngôi Hoàng đế, niên hiệu Gia Long) dưới sự chứng kiến của Quốc trưởng Bảo Đại. Giữa tháng 6 ông được thăng cấp Đại tá tại nhiệm. Ngày 1 tháng 10 cùng năm, ông chủ tọa buổi lễ mãn khóa 2 Lê Lợi của Trường Võ bị Địa phương Trung Việt tại Huế (còn gọi là Trường Sĩ quan Võ bị Đập Đá), gắn cấp bậc Chuẩn úy và trao kiếm danh dự cho khóa sinh tốt nghiệp Thủ khoa Lê Quang Chính.
Ngày 12 tháng 4 năm 1952, ông được cử giữ chức vụ Tham mưu trưởng Liên quân Quân đội Quốc gia, đồng thời làm Chánh chủ khảo kỳ thi tốt nghiệp khóa 5 Hoàng Diệu của Trường Võ bị Liên quân Đà Lạt. Ngày 1 tháng 7 cùng năm ông được cử giữ chức vụ Tư lệnh đầu tiên Đệ nhất Quân khu Nam Việt, khi lãnh thổ Việt Nam được chia thành 4 Quân khu.
Năm 1954, Ngô Đình Diệm về nước và được Quốc trưởng Bảo Đại bổ nhiệm làm Thủ tướng. Ngày 1 tháng 12 cùng năm ông được thăng cấp Thiếu tướng, nhận lệnh bàn giao chức vụ Tư lệnh Đệ nhất Quân khu Nam Việt cho Đại tá Trần Văn Minh (Lục quân). Cùng ngày, ông được bổ nhiệm giữ chức vụ Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Quốc gia Việt Nam thay thế Trung tướng Nguyễn Văn Hinh. Việc này đã làm bùng nổ xung đột tranh giành quyền lực trong quân đội. Ngày 28 tháng 4 năm 1955, Quốc trưởng Bảo Đại từ Cannes gửi điện báo về Sài Gòn cử Thiếu tướng Nguyễn Văn Vỹ làm Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Quốc gia và yêu cầu Thủ tướng Ngô Đình Diệm sang Pháp trình bày về tình hình. Tuy nhiên, Thủ tướng Ngô Đình Diệm đã từ chối thực hiện. Cộng với sự ủng hộ của các tướng lĩnh, ông được tín nhiệm lưu chức.
Quân đội Việt Nam Cộng hòa
Ngày 26 tháng 10 năm 1955, Thủ tướng Ngô Đình Diệm thực hiện cuộc Trưng cầu dân ý, truất phế cựu hoàng Bảo Đại và lên làm Quốc trưởng, ông được thăng cấp Trung tướng tại nhiệm. Sau đó ông có sáng kiến tập hợp các điểm trường Thiếu sinh quân có từ thời thuộc địa Pháp để thành lập một trường Thiếu sinh quân duy nhất được đặt cơ sở tại Vũng Tàu và cử Thiếu tá Phan Như Hiên,<ref>Thiếu tá Phan Như Hiên sinh năm 1932 tại Chợ Lớn, tốt nghiệp khóa 3 Võ bị Đà Lạt, cấp bậc sau cùng là Đại tá. Năm 1982 từ trần tại trại giam Hà Tây, miền Bắc Việt Nam.- Xem bài: Trường Thiếu sinh quân Vũng Tàu.</ref> cựu Thiếu sinh quân, làm Chỉ huy trưởng đầu tiên. Ngày 8 tháng 12 năm 1956, ông được thăng cấp Đại tướng tại nhiệm. Ngày 27 tháng 7 năm 1959 ông được cử làm Trưởng đoàn, hướng dẫn phái đoàn Việt Nam Cộng hòa công du thăm viếng Tân Gia Ba (Singapore) và Mã Lai (Malaysia).
Đầu tháng 7 năm 1963 ông lâm bệnh ung thư phổi, ngày 27 cuối tháng ông sang Hoa Kỳ để chữa trị. Sau hai tháng điều trị không có kết quả tốt, ông hồi hương dưỡng bệnh tại tư thất ở Vũng Tàu.
Trong thời gian ông điều trị bệnh, Thiếu tướng Trần Thiện Khiêm, Tham mưu trưởng Liên quân, được cử giữ chức vụ Quyền Tổng Tham mưu trưởng. Sau đó, Trung tướng Trần Văn Đôn, Tư lệnh Lục quân, được Tổng thống Ngô Đình Diệm cử giữ chức vụ Quyền Tổng Tham mưu trưởng thay tướng Khiêm. Khi nổ ra cuộc đảo chính đầu tháng 11 năm 1963, lật đổ Tổng thống Diệm và nền Đệ nhất Cộng hòa, tướng Trần Văn Đôn là một trong những tướng lĩnh chủ chốt.
Cuộc đảo chính ngày 1 tháng 11 năm 1963 thành công. Gần 2 tuần sau ngày 12/11 ông được cử làm Cố vấn trong Chính phủ Lâm thời do Nguyễn Ngọc Thơ làm Thủ tướng. Tuy nhiên, do sức khỏe yếu, ông không tham gia vào bất kỳ hoạt động quân sự và chính trị nào nữa. Sau cuộc Chỉnh lý nội bộ của tướng Nguyễn Khánh vào ngày 31 tháng 1 năm 1964, đầu tháng 2, căn bệnh tái phát, ông lại được sang Hoa Kỳ để điều trị bệnh một thời gian ngắn, tuy nhiên bệnh của ông vẫn không thuyên giảm nên trở về Sài Gòn tiếp tục dưỡng bệnh.
Để tưởng thưởng công lao phục vụ quân đội của ông, ngày 21 tháng 7 năm 1964, ông được thăng cấp Thống tướng. (vừa được đặt ra) và được trao tặng Đệ nhất đẳng Bảo quốc Huân chương. Ông trở thành sĩ quan đầu tiên và duy nhất được phong cấp bậc cao nhất của Quân đội Việt Nam Cộng hòa. Lễ phong cấp được tổ chức tại tư gia số 37 Cường Để, Sài Gòn do Trung tướng Nguyễn Khánh, Chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách mạng chủ trì.
Ngày 20 tháng 10 năm 1964 ông từ trần tại Sài Gòn, hưởng thọ 60 tuổi (trong khi thân mẫu của ông vẫn còn sống và đã 83 tuổi). Lễ tang của ông được cử hành trọng thể theo nghi thức Quốc gia. Hiện diện trong tang lễ của ông có các vị tướng lãnh và quan chức đang giữ những chức vụ quan trọng: Trung tướng Dương Văn Minh, Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo lâm thời Quốc gia và Quân đội, Trung tướng Nguyễn Khánh, Chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách mạng kiêm Thủ tướng Chính phủ, Kỹ sư Phan Khắc Sửu, Chủ tịch Thượng Hội đồng Quốc gia và các thành viên trong Thượng Hội đồng Quốc gia. Ngoài ra còn có Ngoại giao đoàn cùng các Tùy viên quân sự của các Sứ quán, các tướng lãnh trong Quân đội Việt Nam Cộng hòa, đại diện các đoàn thể dân chúng. Ngoài ra còn có sự hiện diện của ông Maxwell Taylor, Đại sứ Hoa Kỳ, ông Etherington Smith, Đại sứ Anh quốc và Đại tướng Richard Stilwell của Quân lực Hoa Kỳ.
Thi hài ông được đặt trên một chiếc Thiết vận xa M-113 di chuyển theo Đại lộ Cường Để, qua đường Thống Nhất rồi đường Mạc Đĩnh Chi và đến Nghĩa trang Đô thành Sài Gòn (Nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi). Sau đó, thi hài ông được an nghỉ tại đây.
Sau 30 tháng 4 năm 1975, Nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi bị giải tỏa. Hài cốt của ông được hỏa táng và đem về thờ tại chùa Đại Giác ở đường Công Lý, Sài Gòn. Năm 1988 di cốt về Vũng Tàu thờ ở nhà con trai Lê Anh Tuấn. Sau đó con trai ông đem di cốt rải xuống biển.
Huy chương & Quân hàmHuy chương Việt Nam Cộng hòa:- Bảo quốc Huân chương đệ Nhất đẳng (ân thưởng)- Nhiều huy chương quân sự và dân sự khácHuy chương ngoại quốc:- Bắc Đẩu Bội tinh đệ Tứ đẳng (Pháp)- Chiến công Bội tinh với nhành dương liễu (Pháp)- Danh dự Bội tinh đệ Nhị đẳng (Hoa Kỳ)- Bắc Đẩu Bội tinh đệ Nhất đẳng (Philippines)
Gia đình
Thống tướng Lê Văn Tỵ có năm người con gồm 1 trai, 4 gái:.
Lê Thị Thu Phượng (đã mất ở VN)
Lê Thị Thu Hồng (Phu quân: Ông Nguyễn Tất Huệ nguyên là Trung tá phục vụ ngành Quân cụ Việt Nam Cộng hòa. Hiện đang định cư tại Anh)
Lê Thị Thu Cúc (hiện đang định cư tại Anh)
Lê Anh Tuấn (nguyên là Đại úy phục vụ trong Binh chủng Nhảy dù của Việt Nam Cộng hòa, cải tạo 13 năm. Xuất cảnh theo diện H.O do Chính phủ Hoa Kỳ bảo lãnh. Hiện đang định cư ở Hoa Kỳ)
Lê Thị Phuơng Mai
Xem thêm
Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Quân hàm Thống tướng QLVNCH
Chú thích
Tham khảo
Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011). Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Sinh năm 1904
Mất năm 1964
Lê Văn Tỵ
Thống tướng Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Cựu binh Quân đội Thuộc địa Pháp
Bảo quốc Huân chương
Người Bà Rịa – Vũng Tàu
|
23641
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Khi%20v%C3%A0%20ch%E1%BB%89%20khi
|
Khi và chỉ khi
|
Trong logic học, hai mệnh đề P và Q gọi là tương đương logic hay tương đương với nhau nếu P và Q đồng thời có cùng một giá trị chân lý; nghĩa là P và Q cùng đúng hoặc cùng sai. Ta viết: P ⇔ Q
"⇔" gọi là dấu liên hệ tương đương.
Logic toán
Trong logic toán, bảng chân lý của một quan hệ tương đương như sau:
Dễ thấy, mối quan hệ tương đương P ⇔ Q chẳng qua là (P ⇒ Q) ∧ (Q ⇒ P) ((P kéo theo Q) và (Q kéo theo P)).
Nói cách khác, hai mệnh đề P và Q tương đương nhau khi và chỉ khi mệnh đề này kéo theo mệnh đề kia và ngược lại.
Trong trường hợp này, hai phát biểu "P ⇒ Q" và "Q ⇒ P" gọi là đảo đề của nhau.
Để chứng minh mối quan hệ tương đương P ⇔ Q, ta phải chứng minh mối quan hệ kéo theo P ⇒ Q và chiều ngược lại.
Chú ý rằng (P ⇔ Q) ⇔ (Q ⇔ P)
Trong ngôn ngữ tự nhiên, để diễn đạt mối liên hệ tương đương giữa P và Q, người ta có nhiều cách nói:
P đúng khi và chỉ khi Q đúng.
Để cho P đúng, điều kiện cần và đủ là Q đúng.
Điều kiện cần và đủ để P đúng là Q đúng.
P đúng là một điều kiện cần và đủ để Q đúng.
P tương đương với Q.
Tính chất
P ⇔ P (tính phản xạ)
(P ⇔ Q) ⇒ (Q ⇔ P) (tính đối xứng)
((P ⇔ Q) ⇔ R) ⇔ (P ⇔ (Q ⇔ R)) (tính kết hợp)
¬¬P ⇔ P (tương đương với nguyên lý triệt tam)
(P ⇔ Q) ⇔ (¬P ⇔ ¬Q) (contraposition)
Ví dụ
Ta có
Mối quan hệ "tương đương" ∀x, y∈ℝ (x=y ⇔ x2=y2) (bình phương lên) là sai vì thí dụ 22=(-2)2 không kéo theo được 2=-2
Mối quan hệ tương đương sau là đúng
(bình phương lên)
Khi bình phương lên, ta mất thông tin "x-1 lớn hơn hoặc bằng một căn bậc hai" nên nó không âm, vậy để đạt được tương đương, ở mệnh đề sau ta phải bổ sung x-1>=0.
Nhận xét:
Chứng minh bằng các quan hệ tương đương không phải lúc nào cũng đơn giản, nhiều khi cần phải chứng minh riêng lẻ từng đảo đề tương ứng.
Phát biểu rằng "quan hệ tương đương P ⇔ Q là đúng" không có nghĩa là "P và Q đều đúng", mà là "khi một trong hai mệnh đề là đúng (hoặc sai), mệnh đề còn lại cũng đúng (hoặc sai) đồng thời".
Quan hệ tương đương giữa nhiều mệnh đề
Xem xét ba mệnh đề P, Q và R.
Để chứng minh các mối quan hệ tương đương P ⇔ Q ⇔ R, chỉ cần chứng minh các quan hệ kéo theo sau:
P ⇒ Q, Q ⇒ R và R ⇒ P.
Giả sử các quan hệ P ⇒ Q, Q ⇒ R và R ⇒ P đã được thiết lập.
Để chứng minh rằng Q ⇒ P, ta dùng hai quan hệ Q ⇒ R và R ⇒ P.
Tương tự, từ R ⇒ P và P ⇒ Q suy ra R ⇒ Q.
Cuối cùng P ⇒ R, do P ⇒ Q và Q ⇒ R.
Cách chứng minh như trên gọi là chứng minh vòng.
Ta có thể tổng quát hóa đối với n mệnh đề P1, P2… Pn.
Để chứng minh các mối quan hệ tương đương P1 ⇔ P2 ⇔… ⇔ Pn, chỉ cần chứng minh các quan hệ kéo theo:
P1 ⇒ P2, P2 ⇒ P3… Pn-1 ⇒ Pn và Pn ⇒ P1.
Tham khảo
Toán tử lôgíc
Logic
Thuật ngữ toán học
|
23651
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gia%20ph%E1%BA%A3
|
Gia phả
|
Gia phả là bản ghi chép tên họ, tuổi tác, ngày giỗ, vai trò và công đức của cha mẹ, ông bà, tổ tiên và mộ phần của một gia đình lớn hay một dòng họ.
Gia phả có thể được coi như một bản sử ký của một gia đình hay một dòng họ. Gia phả có khi gọi là Phổ ký, có khi là Phổ truyền. Các nhà Tông thất (dòng dõi vua quan), có khi gọi gia phả của vương triều mình hay gia tộc mình bằng từ ngữ trân trọng hơn: Ngọc phả, Thế phả...
Tại các nước Đông Á, chịu ảnh hưởng của Đạo Khổng, các thế hệ sau trong dòng họ hay vương triều phải giữ đạo Trung, đạo Hiếu. Việc xây dựng và lưu truyền gia phả được xem là một cách ghi nhớ công ơn tổ tiên, gây dựng lòng tự hào trong dòng tộc.
Ở Tây phương, người ta có tập tục làm cây phả hệ hay phả đồ, tương tự như Tông đồ của người Hoa hay người Việt.
Một Tông đồ, một Gia phả, một Phả ký, một Phổ truyền dù đơn sơ hay súc tích cũng đều trở nên những tài liệu quý báu cho nhà xã hội học, nhà sử học về sau. Nó còn có thể hữu dụng cho những nghiên cứu về tâm lý, về di truyền học, huyết học, y học nữa.
Môn học nghiên cứu về gia phả là gia phả học.
Trung Quốc
Tại Trung Quốc, gia phả đã xuất hiện dưới dạng thức "thế bản" từ thời nhà Chu (1122-256 TCN). Gia tộc Khổng Tử vẫn còn lưu giữ được gia phả ghi chép từ năm 600 trước công nguyên cho tới nay
Việt Nam
Tại Việt Nam, gia phả sơ giản ghi chép tên cúng cơm, ngày giỗ và địa điểm an táng của ông cha. Theo các nhà sử học phỏng đoán thì gia phả đã xuất hiện từ thời Sĩ Nhiếp làm Thái thú ở Giao Chỉ, hoặc gần hơn tức là từ thời Lý Nam Đế (khoảng nǎm 503-548). Nhưng phải đến thời nhà Lý, nhà Trần mới xuất hiện những cuốn tộc phả, thế phả (ghi cả thế thứ, tông tích toàn họ), phả ký (ghi lại hành trạng, sự nghiệp của tổ tiên).
Mới đầu gia phả xuất hiện chỉ trong Hoàng tộc cùng giới quan lại, nhà Lý có Hoàng Triều Ngọc Điệp - năm 1026; nhà Trần có Hoàng Tông Ngọc Điệp, nhà Lê có Hoàng Lê Ngọc Phả... Cùng với sự xuất hiện các gia phả của Hoàng tộc là gia phả của các danh gia, quan lại và cứ thế lan rộng, phổ biến ghi chép gia phả trong nhân dân.
Trước đây, gia phả chủ yếu được ghi chép bằng chữ Hán-chữ Nôm, nhưng qua nhiều năm chiến tranh, nhiều bộ gia phả của các dòng họ cũng mất dần...
Tục làm gia phả phát triển mạnh ở hai miền Bắc và Trung; miền Nam rất ít gia đình làm gia phả (ở đấy còn được gọi là "gia phổ") và biến đổi thành "tông chi" tức tờ "tông chi tông đồ".
Trong gia phả, người đứng đầu ngành trưởng (trưởng họ, trưởng tộc) có bổn phận ghi hết những chi tiết về thân thích và dòng dõi; những người con khác sao lại bản gia phả chính đó. Các gia đình giữ gìn kỹ lưỡng và truyền từ đời cha tới đời con. "Họ" theo nghĩa gốc có liên hệ với nhà và dưới chế độ phong kiến, nối kết con người với đất ruộng: một mái nhà, một gia đình, một họ. Họ và tên của một người định vị trí của cá nhân người đó trong xã hội, xác định cá thể trong một toàn thể.
Cấu trúc
Gia phả được coi là hoàn chỉnh trước hết phải là một gia phả được ghi chép rõ ràng, chữ nghĩa chân phương, có nội dung cơ bản như sau:
Thông tin rõ ràng về người sao lục (biên soạn).
Nêu nguồn gốc xuất xứ của gia tộc, là phả ký hay là gia sử.
Ghi Thủy Tổ của dòng họ.
Ghi từng phả hệ phát sinh từ Thủy Tổ cho đến các đời con cháu sau này. Có phần phả đồ, là cách vẽ như một cây, từng gia đình là từng nhánh, từ gốc đến ngọn cho dễ theo dõi từng đời. Đối với tiền nhân có các mục sau đây:
Tên: Gồm tên huý, tên tự, biệt hiệu, thụy hiệu và tên gọi thông thường. Thuộc đời thứ mấy? Con trai thứ mấy của ai?
Ngày tháng năm sinh (mất), giờ (nếu nhớ). Mộ nguyên táng, cải táng, di táng tại đâu? Thời gian nào?
Học hành, thi cử, đậu đạt, chức vụ, địa vị lúc sinh thời và truy phong sau khi mất.
Vợ: chánh thất, kế thất, thứ thất... Họ tên, con thứ mấy của ai? Quê ở đâu? Các mục ngày, tháng, năm sinh, ngày, tháng, năm mất, tuổi thọ, mộ, đều ghi từng người như trên. Nếu có thi đậu hoặc có chức tước, địa vị, được ban thưởng riêng thì ghi thêm.
Con: Ghi theo thứ tự năm sinh, nếu nhiều vợ thì ghi rõ con bà nào? Con gái thì cước chú kỹ: con gái thứ mấy, đã lấy chồng thì ghi tên họ chồng, năm sinh, con ông bà nào, quê quán, đậu đạt, chức tước? Sinh con mấy trai mấy gái, tên gì? (Con gái có cước chú còn con trai không cần vì có mục riêng từng người thuộc đời sau).
Con nuôi: nếu con nuôi lập tự (là con nhận nuôi của người trong họ, cùng huyết thống nội thân) thì vẫn phải ghi rõ và phần con cháu phía sau người con nuôi này ghi như bình thường. Nếu là con nuôi hạ phóng thử (trẻ mổ côi đem về nuôi từ bé, con thai hoang đem về nuôi...) phải ghi rõ nhận nuôi năm nào. Nếu bố nuôi là tộc trưởng vẫn không được kế thế tộc trưởng mà vai trò tộc trưởng thuộc con trai trưởng của chú em.
Những gương sáng, những tính cách, hành trạng đặc biệt, hoặc những công đức đối với làng xã, họ hàng, xóm giềng... Những lời dạy bảo con cháu đời sau (di huấn), những lời di chúc...
Ngoài những mục ghi trên, gia phả nhiều họ còn lưu lại nhiều sự tích đặc biệt hay giai thoại của các vị tiên tổ, những đôi câu đối, những áng văn trước tác hay, những bài thuốc gia truyền...
Tiếp theo, là tộc ước. Đây là những quy định-quy ước trong tộc họ, đặt ra nhằm ổn định tộc họ, có công thưởng, có tội phạt, tất nhiên là phải phù hợp với luật pháp chung.
Với một tộc họ lớn, có thể có nhiều tông nhánh, chi phái. Phần này sẽ ghi những thông tin chi phái, ai là bắt đâu chi, chi hiện ở đâu, nhà thờ chi...
Những thông tin khác về tài sản hương hỏa, bản đồ các khu mộ tiền nhân; các câu đối, sắc phong nếu có v.v.
Xem thêm
Gia phả học
Tham khảo
Liên kết ngoài
Gia tộc
|
23672
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n%20Th%C3%A1i%20H%E1%BB%8Dc
|
Nguyễn Thái Học
|
Nguyễn Thái Học (chữ Hán: 阮太學; 1902 – 1930) là nhà cách mạng Việt Nam chủ trương dùng vũ lực lật đổ chính quyền thực dân Pháp, giành độc lập cho Việt Nam. Ông là một trong số những người sáng lập Việt Nam Quốc dân đảng và lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Yên Bái năm 1930. Cuộc khởi nghĩa thất bại, ông bị thực dân Pháp bắt và chém đầu ngày 17 tháng 6 năm 1930 tại Yên Bái.
Thân thế
Nguyễn Thái Học sinh ngày 1 tháng 12 năm Nhâm Dần (tức ngày 30 tháng 12 năm 1902) tại làng Thổ Tang, tổng Lương Điền, phủ Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên (nay là thị trấn Thổ Tang, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc). Ông là con cả của cụ Nguyễn Văn Hách và bà Nguyễn Thị Quỳnh. Gia đình ông là một gia đình trung nông sống bằng nghề làm ruộng và dệt vải, buôn vải. Từ 4 tuổi ông đã được cha mẹ cho đi học chữ Hán, và năm 11 tuổi ông bắt đầu theo học chương trình tiểu học Pháp-Việt tại thị xã Vĩnh Yên.
Năm 19 tuổi ông thi đậu vào trường Cao đẳng sư phạm Hà Nội, và nhận học bổng của Chính phủ Bảo hộ Pháp. Do tính tình cương trực và không thích khuất phục lối giáo dục của người Pháp, ông bỏ học vào năm thứ ba, và sau đó ghi danh học trường Cao đẳng Thương mại thuộc Đại học Đông Dương (1925-1927). Trong thời gian này, ông tham gia thành lập Nam Đồng Thư xã và tiếp xúc với một số sinh viên đồng chí hướng, trong số đó có Phó Đức Chính, sinh viên trường Cao đẳng Công chánh và Hồ Văn Mịch, sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm, hai nhà cách mạng tương lai sẽ gắn liền với cuộc đời cách mạng của ông sau này.
Cũng trong thời gian là sinh viên của Đại học Đông Dương, Nguyễn Thái Học đã gửi cho Toàn quyền Đông Dương Alexandre Varenne một số bức thư kêu gọi chính quyền thực dân Pháp tiến hành một loạt cải cách tiến bộ ở Việt Nam. Sở dĩ Nguyễn Thái Học gửi những đề xuất cải cách của mình cho Varenne vì ông ta vốn là một đảng viên của Đảng Xã hội Pháp, người vừa mới tới nhậm chức toàn quyền đã quyết định ân xá Phan Bội Châu và hứa hẹn nhiều cải cách rộng lớn ở xứ thuộc địa Đông Dương. Tuy nhiên, đó chỉ là những lời hứa suông, và ông ta không bao giờ quan tâm trả lời những bức thư đầy tâm huyết của Nguyễn Thái Học.
Hoàn toàn thất vọng về con đường cải cách của chính quyền thuộc địa, Nguyễn Thái Học và các đồng chí của ông đi đến quyết định là: con đường duy nhất để mở ra cơ hội phát triển cho dân tộc Việt Nam chỉ có thể là con đường dùng vũ trang lật đổ chế độ thực dân Pháp và chế độ phong kiến, thành lập một nước Việt Nam độc lập với thể chế cộng hòa và thiết lập một nền dân chủ trên toàn cõi Đông Dương.
Hoạt động cách mạng
Thành lập Việt Nam Quốc Dân Đảng
Năm 1927, tổ chức Nam Đồng Thư xã quyết định ủng hộ cuộc khởi nghĩa Bắc Ninh do Quản Trạc lãnh đạo. Công việc bị bại lộ, đa số thành viên của Nam Đồng Thư xã bị thuyên chuyển hoặc bị truy lùng phải đào tẩu, chỉ còn lại Nguyễn Thái Học và một số ít đồng chí. Tháng 10 năm này, ông triệu tập số người còn lại và đưa ra ý định thành lập một đảng cách mạng bí mật, dùng vũ lực lật đổ thực dân Pháp. Đảng này mang tên Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ), và chi bộ đảng đầu tiên mang tên là "Chi Bộ Nam Đồng Thư Xã", do ông làm Chi bộ trưởng, gồm các ủy viên: Hồ Văn Mịch, Phó Đức Chính, Lê Văn Phúc, Hoàng Văn Tùng, Hoàng Phạm Trân (tức Nhượng Tống) và một số đồng chí khác. Tháng 12 năm 1927, VNQDĐ tổ chức đại hội đảng lần thứ nhất và bầu ông làm Chủ tịch Tổng bộ đảng kiêm Chủ tịch đảng. Dưới sự lãnh đạo của ông, VNQDĐ bắt đầu phát triển rất nhanh chóng để kết nạp tầng lớp trí thức, giáo viên, nông dân, công chức, binh sĩ trong guồng máy cai trị với mục đích dùng bạo động lật đổ chính quyền thực dân Pháp, thành lập một chế độ cộng hòa dân chủ độc lập trên toàn cõi Việt Nam. Đến đầu năm 1929, VNQDĐ đã thành lập được 120 chi bộ tại Bắc kỳ với 1500 đảng viên.
Pháp khởi sự tiêu diệt Việt Nam Quốc Dân Đảng
Năm 1929, tại Bắc kỳ và Bắc Trung kỳ có cao trào mộ phu, đưa dân đi làm phu cho các đồn điền cao su tại các nơi như miền Nam, Miên (Campuchia), Lào, Nouvelle-Calédonie (Tân Ca-lê-đô-ni-a hay Tân Thế giới) và Nouvelles-Hébrides (nay là Vanuatu), nơi những người phu này trở thành nô lệ cho các chủ đồn điền. Một trong những người mua nô lệ nổi tiếng là Bazin tại Hà Nội. Trùm mộ phu người Pháp này chuyên dụ dỗ hay bắt cóc dân đem làm phu lấy lợi. Mặc dù không được sự chấp thuận của Tổng Bộ và Nguyễn Thái Học, ba đảng viên thuộc một Thành bộ VNQDĐ gồm Nguyễn Văn Viên, Nguyễn Văn Lân và Nguyễn Đức Lung đã tự ý ám sát Bazin vào ngày 9 tháng 2 năm 1929 tại Chợ Hôm, Hà Nội.
Nhân vụ ám sát, Pháp khởi sự đàn áp nhằm tiêu diệt VNQDĐ trong khi cơ sở của họ chưa kịp chuẩn bị ứng phó trước kế hoạch khủng bố trắng của chính quyền thuộc địa. Sở mật thám Bắc Việt được một nội ứng phản đảng tên Bùi Tiên Mai chỉ điểm, đã bắt giam 227 đảng viên VNQDĐ nhưng không bắt được hai lãnh tụ đảng lúc đó là Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu, Chủ tịch Ban Hành pháp VNQDĐ nhiệm kỳ 3.
Sau khi Bùi Tiên Mai nhận diện và đối chứng với những đồng chí tại các phiên tòa Hội đồng Đề hình, ban ám sát VNQDĐ tổ chức giết người này vì tội phản đảng và quên lời thề trước bàn thờ tổ quốc. Trên đường hành thích, sự việc bị đổ bể và một đảng viên bị chết, một bị tù cấm cố 10 năm. Hai đảng viên khác, Nguyễn Văn Kinh và Nguyễn Văn Ngọc, khi bị bắt do mật thám tra tấn dã man đã khai báo và chỉ điểm cho Pháp mọi đường đi nước bước của các yếu nhân lãnh đạo của VNQDĐ. Ban ám sát VNQDĐ cũng tổ chức giết hai người này, tuy thành công nhưng thêm một số đảng viên bị bắt và hành hình qua các vụ ám sát này.
Để xử các tù nhân chính trị này, Toàn quyền Pháp Pasquier quyết định không giao cho Biện lý cuộc, nhưng ký nghị định thành lập một Hội đồng Đề hình (Commission criminelle) để tuyên án và xử tội. Hội đồng này trả tự do cho 149 người và kết án 78 người từ 2 đến 15 năm tù tại các tỉnh thượng du Bắc Việt hoặc lưu đày ra Côn Đảo, và mỗi người bị cộng thêm một án 5 năm biệt xứ (interdiction de séjour).
Lực lượng của VNQDĐ bị suy yếu, tổn thất nặng nề, và hoàn toàn rơi vào thế bị động sau việc ám sát Bazin. Các lãnh tụ buộc phải tiến hành cuộc khởi nghĩa 8 tháng sau đó để tránh cho các cơ sở đang gặp nguy cơ bị tiêu diệt hoặc tan rã.
Khởi nghĩa Yên Bái
Trước tình thế hàng ngũ đảng có nhiều phản bội, thực dân áp bức gay gắt có chiều hướng đưa đến tan rã, trung tuần tháng 5 năm 1929, Nguyễn Thái Học triệu tập đại hội đảng toàn quốc tại làng Đức Hiệp, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, quyết định chuẩn bị tổng khởi nghĩa. Công việc chuẩn bị chưa hoàn tất, cuối năm 1929 tại Bắc Giang một cơ sở chế bom bị tai nạn phát nổ, và đầu năm 1930 người Pháp bắt giữ và khám phá được thêm rất nhiều cơ sở chế tạo bom, đao, kiếm và nhiều đảng viên bị bắt. Trước tình hình nguy cấp, Nguyễn Thái Học triệu tập hội nghị khẩn cấp, quyết định tiến hành khởi nghĩa tại các địa điểm Hưng Hóa, Lâm Thao, Phú Thọ, Yên Bái, Sơn Tây, Hải Dương, Hải Phòng, Kiến An, Bắc Ninh, Đáp Cầu, Phả Lại và Hà Nội vào đêm mồng 10, rạng ngày 11 tháng 2 năm 1930.
Theo kế hoạch ban đầu cuộc khởi nghĩa vũ trang sẽ nổ ra trên hai địa bàn chính ở Bắc Kỳ vào đêm ngày 9 tháng 2 năm 1930. Nguyễn Thái Học sẽ lãnh đạo cuộc khởi nghĩa ở miền xuôi, trong khi Nguyễn Khắc Nhu và Phó Đức Chính được phân công chỉ huy cuộc nổi dậy ở miền núi. Gần tới ngày nổi dậy, do cơ sở ở miền xuôi tương đối yếu lại bị đánh phá nặng nề nên không chuẩn bị kịp, Nguyễn Thái Học cử người báo cho Nguyễn Khắc Nhu hoãn cuộc nổi dậy tới ngày 15 tháng 2. Tuy nhiên, liên lạc viên lại bị địch bắt giữa đường. Vì vậy, cuộc khởi nghĩa vẫn nổ ra ở một loạt các địa điểm từ Sơn Tây, Phú Thọ cho tới Yên Bái vào đêm ngày 9, rạng sáng ngày 10 tháng 2. Tuy cuộc tổng nổi dậy xảy ra nhiều nơi khác nhau, nhưng lịch sử mệnh danh nó là cuộc Khởi nghĩa Yên Bái, hay Tổng Khởi nghĩa Yên Bái, cốt để vinh danh những cái chết hào hùng của các lãnh tụ Nguyễn Thái Học, Phó Đức Chính và 11 đảng viên VNQDĐ ở pháp trường Yên Bái ngày 17 tháng 6 năm 1930. Quân nổi dậy đã chiếm được một phần đồn binh Pháp và làm chủ tỉnh lỵ Yên Bái trong gần hai ngày. Ngày 15 tháng 2 năm 1930, mặc dù cuộc khởi nghĩa ở miền núi đã thất bại, Nguyễn Thái Học và cơ sở Việt Nam Quốc dân Đảng vẫn quyết định khởi nghĩa ở miền xuôi như kế hoạch cũ. Cuộc vùng lên quyết liệt nhất là ở Phụ Dực (Thái Bình) và Vĩnh Bảo (lúc đó thuộc Hải Dương).
Sự việc không thành, ngày 20 tháng 2 năm 1930, Nguyễn Thái Học bị bắt tại ấp Cổ Vịt (Chí Linh, Hải Dương).
Đền nợ nước
Pháp thành lập một Hội đồng Đề hình để xử các nghĩa quân VNQDĐ. Rất nhiều đảng viên VNQDĐ bị chung thân khổ sai, một số tự sát và bị hành hình như:
Ngày 11 tháng 2 năm 1930, Nguyễn Khắc Nhu đập đầu tự sát trong ngục thất ở Hưng Hóa.
Ngày 8 tháng 3 năm 1930, Đặng Văn Lương, Đặng Văn Tiệp, Nguyễn Thanh Thuyết, Ngô Hải Hoằng bị xử chém tại Yên Bái.
Ngày 17 tháng 6 năm 1930, Nguyễn Thái Học và 12 đồng chí bị xử chém tại Yên Bái.
Ngày 18 tháng 6 năm 1930, Nguyễn Thị Giang (Cô Giang) dùng súng tự sát ở gốc cây đề làng Thổ Tang, tỉnh Vĩnh Yên nay là tỉnh Vĩnh Phúc.
Ngày 7 tháng 9 năm 1930, Đỗ Thị Tâm nuốt giải yếm tự sát trong ngục thất ở Hà Nội.
Ngày 22 tháng 11 năm 1930, Nguyễn Văn Toại và 4 đồng chí bị xử chém tại Phú Thọ.
Tháng 12 năm 1930, Đoàn Trần Nghiệp, hay Đặng Trần Nghiệp, tức Ký Con, và 6 đồng chí là Lương Ngọc Tốn, Nguyễn Văn Nho, Nguyễn Quang Triều, Nguyễn Minh Luân, Nguyễn Trọng Bằng, Phạm Văn Khuê bị xử chém tại trước cổng nhà tù Hỏa Lò tại Hà Nội.
Ngày 23 tháng 6 năm 1931, Trần Quang Diệu, Vũ Văn Giáo, Trần Nhật Đồng và một số đồng chí bị xử chém tại Hải Dương.
Ngày 23 tháng 6 năm 1931, Lê Hữu Cảnh bị hành hình trước cổng ngục thất Hỏa Lò Hà Nội.
Năm 1936, Nguyễn Đức Trạch tức Sư Trạch, tự sát tại ngục thất ở Guyane thuộc Pháp.
Sau khi hành quyết một số lãnh tụ và nghĩa quân của VNQDĐ tại Yên Bái, Pháp cho chôn chung một mộ tại thị xã Yên Bái, cách ga xe lửa độ một cây số, và cho lính canh giữ đến cuối năm 1930. Năm 1945, quân đội VNQDĐ chiếm đóng Yên Bái, cho trùng tu mộ phần của 17 vị anh hùng và lập đền thờ kỷ niệm. Khu mộ này sau được nhà nước Việt Nam trùng tu và xếp hạng di tích lịch sử văn hóa tại Quyết định số 177 VH/QĐ ngày 5/3/1990.
Tên ông được dùng đặt tên nhiều đường phố và trường học tại Việt Nam.
Trong cuộc hội thảo ngày 24 tháng 12 năm 2003 tổ chức tại quê hương ông, các nhà khoa học đã đề nghị Đảng và Nhà nước tôn vinh Nguyễn Thái Học là Anh hùng dân tộc.
Giai thoại
Theo Tế Xuyên thì khi Nguyễn Thái Học vào thi bằng thành chung (Diplome) thì đề tài bài thi là "Sự nghiệp của Jules Ferry". Nguyễn Thái Học viết trả lời vỏn vẹn có một câu: "Người Việt Nam không hề biết tên người này!". Không lạ gì khi ông bị đánh trượt.
Câu nói nổi tiếng
Khi thụ án, ông có đọc trích đoạn một bài thơ bằng tiếng Pháp, dịch thơ:
Các tác phẩm
Đảng cương Việt Nam Quốc dân đảng
Thử gửi Toàn quyền Đông Dương
Thư gửi Hạ nghị viện Pháp
Xem thêm
Việt Nam Quốc dân đảng
Khởi nghĩa Yên Bái
Nguyễn Thị Giang
Tham khảo
Việt Nam Quốc-Dân-Đảng: Lịch sử đấu tranh cận đại 1927-1954, Hoàng Văn Đào (HVĐ), Nhà xuất bản Tân Dân, Sài Gòn, 1970, Thiên Phụ, chương I, trang 493
HVĐ, sđd, Thiên thứ nhất, 1927-1932, chương II, trang 26
HVĐ, sđd, Thiên thứ nhất, 1927-1932, chương II, trang 28
Việt Nam Thời Pháp Đô-Hộ, GS TS Nguyễn Thế-Anh, Tủ Sách Sử-Địa Học, Nhà xuất bản Lửa Thiêng, Sài Gòn, 1970, trang 329
HVĐ, sđd, Thiên thứ nhất, 1927-1932, chương IV, trang 61-62, 69-70
HVĐ, sđd, Thiên thứ nhất, 1927-1932, chương V, trang 82-87
HVĐ, sđd, Thiên thứ nhất, 1927-1932, chương IX, trang 164
ý khóc cô Giang, vị hôn thê của Nguyễn Thái Học, cùng là đồng chí và đảng viên, đã tuẫn tiết sau khi thấy ông bị hành hình
Đỗ Phủ trong bài thơ Thục tướng viết khi thăm miếu Gia Cát Lượng có câu: "Xuất sư vị tiệp thân tiên tử, Trường sử anh hùng lệ mãn khâm", tạm dịch: Ra quân chưa kịp chiến thắng thân đã khuất, mãi khiến những ai giống như ông cũng phải chạnh lòng nước mắt đẫm đầy vạt áo.
thị tử như quy: xem cái chết như chỗ đi về
Liên kết ngoài
Loạt bài "Việt Nam Quốc Dân đảng và người lãnh đạo Nguyễn Thái Học": phần 1, phần 2 và phần 3 của Tiến sĩ Lê Mạnh Hùng đăng trên Đài RFA
Bài viết về Nguyễn Thái Học trên website Đại học Quốc gia Hà Nội
Học bổng Nguyễn Thái Học
Kế Hoạch Dân Chủ Hóa Đông Dương, Nguyễn Đại Việt, BBC
Nhà cách mạng Việt Nam
Đảng viên Việt Nam Quốc dân đảng
Khởi nghĩa Yên Bái
Nhà dân tộc chủ nghĩa Việt Nam
Người Vĩnh Phúc
Người họ Nguyễn tại Việt Nam
Nhà hoạt động độc lập
|
23678
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A1c%20ch%E1%BB%A7%20%C4%91%E1%BB%81%20trong%20m%E1%BA%ADt%20m%C3%A3%20h%E1%BB%8Dc
|
Các chủ đề trong mật mã học
|
Đây là bài nhằm phân loại, sắp xếp theo chủ đề các bài trong lĩnh vực mật mã học.
Các thuật toán mã hóa cổ điển
Mật mã khóa tự động
Mật mã hoán vị
Mật mã thay thế đa ký tự
Mật mã Vigenère
Mật mã thay thế đa hình
Mật mã Playfair
Mật mã Hill
Mật mã thay thế
Mật mã Caesar
ROT13
Mật mã Affine
Mật mã Atbash
Mật mã dịch chuyển
Scytale
Grille
Mật mã VIC (hệ thống mật mã bằng tay khá phức tạp được sử dụng bởi ít nhất một điệp viên Liên Xô vào đầu thập kỷ 1950—vào thời điểm đó là khá an toàn)
Các bản mã hóa nổi tiếng
Xem Danh sách các bản mã hóa nổi tiếng
Tấn công vào các thuật toán mã hóa cổ điển
Frequency analysis
Index of coincidence
Các tổ chức, dự án liên quan tới thuật toán, tiêu chuẩn mật mã
Các tổ chức tiêu chuẩn
the Federal Information Processing Standards Publication program (run by NIST to produce standards in many areas to guide operations of the US Federal government; many FIPS Pubs are cryptography related, ongoing)
the ANSI standardization process (produces many standards in many areas; some are cryptography related, ongoing)
ISO standardization process (produces many standards in many areas; some are cryptography related, ongoing)
IEEE standardization process (produces many standards in many areas; some are cryptography related, ongoing)
IETF standardization process (produces many standards (called RFCs) in many areas; some are cryptography related, ongoing)
See Cryptography standards
Các tổ chức liên quan tới mật mã
NSA internal evaluation/selections (surely extensive, nothing is publicly known of the process or its results for internal use; NSA is charged with assisting NIST in its cryptographic responsibilities)
GCHQ internal evaluation/selections (surely extensive, nothing is publicly known of the process or its results for GCHQ use; a division of GCHQ is charged with developing and recommending cryptographic standards for the UK government)
DSD Australian SIGINT agency - part of ECHELON
Communications Security Establishment (CSE) — Canadian intelligence agency.
Các dự án mở
Quá trình thiết kế DES do (NBS tổ chức, kết thúc năm 1976.
the RIPE division of the RACE project (sponsored by the European Union, ended mid-'80s)
Cuộc thi thiết kế AES (NIST tài trọ; kết thúc năm 2001)
the NESSIE Project (evaluation/selection program sponsored by the European Union; ended 2002)
the CRYPTREC program (Japanese government sponsored evaluation/recommendation project; draft recommendations published 2003)
the Internet Engineering Task Force (technical body responsible for Internet standards—the Request for Comment series: ongoing)
the CrypTool project (eLearning programme in English and German; freeware; exhaustive educational tool about cryptography and cryptanalysis)
Hàm băm mật mã
Hàm băm mật mã
Message authentication code
Keyed-hash message authentication code
EMAC (NESSIE selection MAC)
HMAC (NESSIE selection MAC; ISO/IEC 9797-1, FIPS and IETF RFC)
TTMAC còn gọi là Two-Track-MAC (NESSIE selection MAC; K.U.Leuven (Belgium) & debis AG (Germany))
UMAC (NESSIE selection MAC; Intel, UNevada Reno, IBM, Technion, & UCal Davis)
MD5 (one of a series of message digest algorithms by Prof Ron Rivest of MIT; 128 bit digest)
SHA-1 (developed at NSA 160-bit digest, an FIPS standard; the first released version was defective and replaced by this; NIST/NSA have released several variants with longer 'digest' lengths; CRYPTREC recommendation (limited))
SHA-256 (NESSIE selection hash function, FIPS 180-2, 256 bit digest; CRYPTREC recommendation)
SHA-384 (NESSIE selection hash function, FIPS 180-2, 384 bit digest; CRYPTREC recommendation)
SHA-512 (NESSIE selection hash function, FIPS 180-2, 512 bit digest; CRYPTREC recommendation)
RIPEMD-160 (developed in Europe for the RIPE project, 160-bit digest;CRYPTREC recommendation (limited))
Tiger (by Ross Anderson et al)
Snefru
Whirlpool (NESSIE selection hash function, Scopus Tecnologia S.A. (Brazil) & K.U.Leuven (Belgium))
Các thuật toán mã hóa khóa công cộng/bí mật
ACE-KEM (NESSIE selection asymmetric encryption scheme; IBM Zurich Research)
ACE Encrypt
Chor-Rivest
Diffie-Hellman (key agreement; CRYPTREC recommendation)
El Gamal (discrete logarithm)
Elliptic curve cryptography (discrete logarithm variant)
PSEC-KEM (NESSIE selection asymmetric encryption scheme; NTT (Japan); CRYPTREC recommendation only in DEM construction w/SEC1 parameters))
ECIES (Elliptic Curve Integrated Encryption System; Certicom Corp)
ECIES-KEM
ECDH (Elliptic Curve Diffie-Hellman key agreement; CRYPTREC recommendation)
EPOC
Merkle-Hellman (knapsack scheme)
McEliece
NTRUEncrypt
RSA (factoring)
RSA-KEM (NESSIE selection asymmetric encryption scheme; ISO/IEC 18033-2 draft)
RSA-OAEP (CRYPTREC recommendation)
Rabin cryptosystem (factoring)
Rabin-SAEP
HIME(R)
XTR
Các thuật toán tạo chữ ký số
Digital Signature Algorithm (from NSA, part of the Digital Signature Standard (DSS); CRYPTREC recommendation)
Elliptic Curve DSA (NESSIE selection digital signature scheme; Certicom Corp); CRYPTREC recommendation as ANSI X9.62, SEC1)
Schnorr signatures
RSA signatures
RSA-PSS (NESSIE selection digital signature scheme; RSA Laboratories); CRYPTREC recommendation)
RSASSA-PKCS1 v1.5 (CRYPTREC recommendation)
Nyberg-Rueppel signatures
MQV protocol
Gennaro-Halevi-Rabin signature scheme
Cramer-Shoup signature scheme
One-time signatures
Lamport signature scheme
Bos-Chaum signature scheme
Undeniable signatures
Chaum-van Antwerpen signature scheme
Fail-stop signatures
Ong-Schnorr-Shamir signature scheme
Birational permutation scheme
ESIGN
ESIGN-D
ESIGN-R
Direct anonymous attestation
NTRUSign
SFLASH (NESSIE selection digital signature scheme (esp for smartcard applications and similar); Schlumberger (France))
Quartz
Nhận thực khóa
Key authentication
Public key infrastructure
X.509
Public key certificate
Certificate authority
Certificate revocation list
ID-based cryptography
Certificate-based encryption
Secure key issuing cryptography
Certificateless cryptography
Merkle tree
Mô hình định dạng ẩn danh
GPS (NESSIE selection anonymous identification scheme; École Normale Supérieure, France Télécom, & La Poste)
Các thuật toán mã hóa đối xứng
Stream ciphers
A5/1, A5/2 (cyphers specified for the GSM cellular telephone standard)
BMGL
Chameleon
FISH (by Siemens AG)
WWII 'Fish' cyphers
Geheimfernschreiber (WWII mechanical onetime pad by Siemens AG, called STURGEON by Bletchley Park)
Schlusselzusatz (WWII mechanical onetime pad by Lorenz, called tunny by Bletchley Park)
HELIX
ISAAC (intended as a PRNG)
Leviathan (cipher)
LILI-128
MUG1 (CRYPTREC recommendation)
MULTI-S01 (CRYPTREC recommendation)
One-time pad (Vernam and Mauborgne, patented mid-'20s; an extreme stream cypher)
Panama
Pike (improvement on FISH by Ross Anderson)
RC4 (ARCFOUR) (one of a series by Prof Ron Rivest of MIT; CRYPTREC recommendation (limited to 128-bit key))
CipherSaber (RC4 variant with 10 byte random IV, easy to implement)
SEAL
SNOW
SOBER
SOBER-t16
SOBER-t32
WAKE
Block ciphers
Block cipher modes of operation
Product cipher
Feistel cipher (block cypher design pattern by Horst Feistel)
Advanced Encryption Standard (128 bit block; NIST selection for the AES, FIPS 197, 2001—by Joan Daemen và Vincent Rijmen; NESSIE selection; CRYPTREC recommendation)
Anubis (128-bit block)
BEAR (block cypher built from stream cypher and hash function, by Ross Anderson)
Blowfish (128 bit block; by Bruce Schneier, et al)
Camellia (128 bit block; NESSIE selection (NTT & Mitsubishi Electric); CRYPTREC recommendation)
CAST-128 (CAST5) (64 bit block; one of a series of algorithms by Carlisle Adams và Stafford Tavares, who are insistent (indeed, adamant) that the name is not due to their initials)
CAST-256 (CAST6) (128-bit block; the successor to CAST-128 and a candidate for the AES competition)
CIPHERUNICORN-A (128 bit block; CRYPTREC recommendation)
CIPHERUNICORN-E (64 bit block; CRYPTREC recommendation (limited))
CMEA — cipher used in US cellphones, found to have weaknesses.
CS-Cipher (64 bit block)
Data Encryption Standard (DES) (64 bit block; FIPS 46-3, 1976)
DEAL — an AES candidate derived from DES
DES-X A variant of DES to increase the key size.
FEAL
GDES — a DES variant designed to speed up encryption.
Grand Cru (128 bit block)
Hierocrypt-3 (128 bit block; CRYPTREC recommendation))
Hierocrypt-L1 (64 bit block; CRYPTREC recommendation (limited))
International Data Encryption Algorithm (IDEA) (64 bit block -- James Massey & X Lai of ETH Zurich)
Iraqi Block Cipher (IBC)
KASUMI (64-bit block; based on MISTY1, adopted for next generation W-CDMA cellular phone security)
KHAZAD (64-bit block designed by Barretto and Rijmen)
Khufu and Khafre (64-bit block ciphers)
LION (block cypher built from stream cypher and hash function, by Ross Anderson)
LOKI89/91 (64-bit block ciphers)
LOKI97 (128-bit block cipher, AES candidate)
Lucifer (by Tuchman et al of IBM, early 1970s; modified by NSA/NBS and released as DES)
MAGENTA (AES candidate)
Mars (AES finalist, by Don Coppersmith et al)
MISTY1 (NESSIE selection 64-bit block; Mitsubishi Electric (Japan); CRYPTREC recommendation (limited))
MISTY2 (128 bit block: Mitsubishi Electric (Japan))
Nimbus (64 bit block)
Noekeon (128 bit block)
NUSH (variable block length (64 - 256 bits))
Q (128 bit block)
RC2 64-bit block, variable key length.
RC6 (variable block length; AES finalist, by Ron Rivest et al)
RC5 (by Ron Rivest)
SAFER (variable block length)
SC2000 (128 bit block; CRYPTREC recommendation)
Serpent (128 bit block; AES finalist by Ross Anderson, Eli Biham, Lars Knudsen)
SHACAL-1 (256-bit block)
SHACAL-2 (256-bit block cypher; NESSIE selection Gemplus (France))
Shark (grandfather of Rijndael/AES, by Daemen and Rijmen)
Square (father of Rijndael/AES, by Daemen and Rijmen)
3-Way (96 bit block by Joan Daemen)
TEA (by David Wheeler & Roger Needham)
Triple DES (by Walter Tuchman, leader of the Lucifer design team—not all triple uses of DES increase security, Tuchman's does; CRYPTREC recommendation (limited), only when used as in FIPS Pub 46-3)
Twofish (128 bit block; AES finalist by Bruce Schneier, et al)
XTEA (by David Wheeler & Roger Needham)
Polyalphabetic substitution machine cyphers
Enigma (WWII German rotor cypher machine—many variants, many user networks for most of the variants)
Purple (highest security WWII Japanese Foreign Office cypher machine; by Japanese Navy Captain)
SIGABA (WWII US cypher machine by William Friedman, Frank Rowlett, et al)
TypeX (WWII UK cypher machine)
Hybrid code/cypher combinations
JN-25 (WWII Japanese Navy superencyphered code; many variants)
Naval Cypher 3 (superencrypted code used by the Royal Navy in the 30s and into WWII)
Visual cryptography
Classified cryptography (Hoa Kỳ)
EKMS NSA's Electronic Key Management System
FNBDT NSA's secure narrow band voice standard
Fortezza encryption based on portable crypto token in PC Card format
KW-26 ROMULUS teletype encryptor (1960s - 1980s)
KY-57 VINSON tactical radio voice encryption
SINCGARS tactical radio with cryptographically controlled frequency hopping
STE secure telephone
STU-III older secure telephone
TEMPEST prevents compromising emanations
Type 1 products
Phá mã
Passive attack
Chosen plaintext attack
Chosen ciphertext attack
Adaptive chosen ciphertext attack
Brute force attack
Cryptographic key length
Unicity distance
Cryptanalysis
Meet-in-the-middle attack
Differential cryptanalysis
Linear cryptanalysis
Slide attack cryptanalysis
Algebraic cryptanalysis
XSL attack
Mod n cryptanalysis
Khóa yếu và mật mã dựa trên mật khẩu
Brute force attack
Dictionary attack
Related key attack
Key derivation function
Weak key
Password
Password-authenticated key agreement
Passphrase
Salt
Trao đổi khóa
Lôgic BAN
Giao thức Needham-Schroeder
Giao thức Otway-Rees
Giao thức Wide Mouth Frog
Giao thức Diffie-Hellman
Man-in-the-middle attack
Vấn đề tạo số ngẫu nhiên trong mật mã
PRNG
CSPRNG
Hardware random number generators
Blum Blum Shub
Yarrow (by Schneier, et al)
Fortuna (by Schneier, et al)
ISAAC
RPNG based on SHA-1 in ANSI X9.42-2001 Annex C.1 (CRYPTREC example)
PRNG based on SHA-1 for general purposes in FIPS Pub 186-2 (inc change notice 1) Appendix 3.1 (CRYPTREC example)
PRNG based on SHA-1 for general purposes in FIPS Pub 186-2 (inc change notice 1) revised Appendix 3.1 (CRYPTREC example)
Thông tin ẩn danh
Dining cryptographers protocol (by David Chaum)
Anonymous remailer
pseudonymity
anonymous internet banking
Onion Routing
Các vấn đề luật pháp
Cryptography as free speech
Bernstein v. United States
DeCSS
Phil Zimmermann
Export of cryptography
Key escrow và Clipper Chip
Digital Millennium Copyright Act
Digital Rights Management (DRM)
Cryptography patents
RSA (now public domain)
David Chaum and digital cash
Cryptography and law enforcement
Wiretaps
Espionage
Cryptography laws in different nations
Official Secrets Act (Anh Quốc)
Regulation of Investigatory Powers Act 2000 (Anh Quốc)
Thuật ngữ
Cryptographic key
Cipher
Ciphertext
Plaintext
Code
Tabula recta
Sách và các ấn bản
Books on cryptography
Important publications in cryptography
Các nhà mật mã học
See List of cryptographers
Sử dụng các kỹ thuật mật mã
Commitment schemes
Secure multiparty computations
Electronic voting
Authentication
Digital signatures
Cryptographic engineering
Crypto systems
Các vấn đề khác
Echelon
Espionage
IACR
Ultra
Security engineering
SIGINT
Steganography
Cryptographers
SSL
Quantum cryptography
Crypto-anarchism
Cypherpunk
Key escrow
Zero-knowledge proofs
Random oracle model
Blind signature
Blinding (cryptography)
Digital timestamping
Secret sharing
Trusted operating systems
Oracle (cryptography)
Các hệ thống mật mã mã nguồn mở (thuật toán + giao thức + thiết kế hệ thống)
PGP (a name for any of several related crypto systems, some of which, beginning with the acquisition of the name by Network Associates, have not been Free Software in the GNU sense)
FileCrypt (an open source/commercial command line version of PGP from Veridis of Denmark, see PGP)
GPG (an open source implementation of the OpenPGP IETF standard crypto system)
SSH (Secure SHell implementing cryptographically protected variants of several common Unix utilities, First developed as open source in Finland by Tatu Ylonen. There is now OpenSSH, an open source implementation supporting both SSH v1 and SSH v2 protocols. There are also commercial implementations.
IPsec (Internet Protocol Security IETF standard, a mandatory component of the IPv6 IETF standard)
Free S/WAN (an open source implementation of IPsec)
Tham khảo
Mật mã học
|
23686
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%E1%BB%8Bnh%20Morphou
|
Vịnh Morphou
|
Vịnh Morphou (tiếng Hy Lạp: Κολπος Μορφου, Kolpos Morfou; tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: Güzelyurt Körfezi), là một phần của Địa Trung Hải, nằm ở phía tây bắc đảo Síp. Nó được đặt tên theo tên gọi của thành phố trên đất liền gần đó là Morphou (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: Güzelyurt). Vịnh này tạo ra vùng ven biển xa nhất về phía tây của nước Cộng hòa Thổ Bắc Kibriz (có ý định tách ra khỏi Cộng hòa Síp), là nước cho rằng vịnh này là lãnh hải của mình. Nó cũng là nơi mà Thổ Nhĩ Kỳ bắt đầu đổ bộ những người tình nguyện và sự tiếp tế để hỗ trợ cho những người Síp gốc Thổ khi các cuộc tranh giành bạo lực diễn ra giữa các cộng đồng người Síp gốc Thổ và người Síp gốc Hy Lạp nổ ra vào tháng 12 năm 1963. Để có thêm thông tin về chủ đề này, xem bài về làng Kokkina (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: Erenköy).
Xem thêm
Tham khảo
Địa lý Síp
Vịnh Síp
|
23693
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Li%C3%AAn%20m%E1%BA%A1ng
|
Liên mạng
|
Liên mạng (tiếng Anh: internetwork hoặc viết gọn thành internet) là hai hay nhiều mạng máy tính nối với nhau bằng các thiết bị Gateway cung cấp một phương thức phổ thông để định tuyến các gói thông tin giữa các mạng. Các thiết bị định tuyến có nhiệm vụ hướng dẫn giao thông dữ liệu theo đường đúng (trong số một số các đường có thể) đi qua liên mạng để tới đích. Kết quả của hệ thống các mạng kết nối với nhau được gọi là liên mạng, hoặc chỉ đơn giản là internet,
(Một số người đã nhầm lẫn khi gọi việc liên kết các mạng với nhau bằng các cầu (bridge) là liên mạng. Thực ra hệ thống đó chỉ là kết nối của các mạng con và việc gửi dữ liệu qua nó không đòi hỏi các giao thức liên mạng, chẳng hạn giao thức IP).
Ban đầu, liên mạng là một cách để kết nối các kiểu công nghệ mạng khác nhau. Nhưng rồi nó đã trở nên phổ biến rộng rãi qua sự phát triển của nhu cầu kết nối hai hoặc nhiều mạng cục bộ với nhau thành một dạng mạng diện rộng. Hiện nay, định nghĩa của liên mạng bao hàm cả việc kết nối các mạng máy tính thuộc các kiểu khác, chẳng hạn các mạng cá nhân PAN.
Internet chính là ví dụ thực tế nổi tiếng nhất của liên mạng. Đó là một mạng gồm các mạng chạy nhiều giao thức bậc thấp khác nhau, được thống nhất bởi một giao thức liên mạng - giao thức IP.
Giao thức IP chỉ cung cấp một dịch vụ chuyển gói tin không đáng tin cậy qua một liên mạng. Để gửi dữ liệu một cách đáng tin cậy, các ứng dụng phải sử dụng một giao thức tầng Giao vận, chẳng hạn giao thức TCP, giao thức này cung cấp một dòng đáng tin cậy (reliable stream). (Thuật ngữ không đáng tin cậy ở đây không có nghĩa là IP không đáng tin cậy, mà là nó gửi các gói tin mà không liên lạc và thiết lập một kết nối với máy đích từ trước. Dịch vụ đáng tin cậy thì làm ngược lại). Do TCP là giao thức giao vận được sử dụng rộng rãi nhất, người ta thường gọi TCP và IP liền nhau là "TCP/IP". Một số ứng dụng thường sử dụng một giao thức giao vận đơn giản hơn (giao thức UDP) cho các nhiệm vụ không đòi hỏi việc gửi dữ liệu một cách tuyệt đối đáng tin cậy, chẳng hạn như video streaming.
Xem thêm
Lịch sử Internet
Tham khảo
Liên kết ngoài
Máy tính - Mạng
E-book (định dạng pdf) - Cơ bản về các kiến trúc liên mạng chính (từ chương 4 đến chương 9).
Mạng máy tính
Kiến trúc mạng
|
23699
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C4%83n%20h%E1%BB%8Dc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam
|
Văn học Việt Nam
|
Văn học Việt Nam là khoa học nghiên cứu, phê bình và sáng tác ngữ văn của người Việt Nam, không kể quốc tịch và thời đại.
Khái quát
Văn học dân gian là nền tảng của văn học viết, là chặng đầu của nền văn học dân tộc. Khi chưa có chữ viết, nền văn học Việt Nam chỉ có văn học dân gian; khi có chữ viết, nền văn học Việt Nam mới bao gồm hai bộ phận: văn học dân gian và văn học viết.
Văn học thành văn chịu ảnh hưởng của văn học dân gian về nhiều phương diện, từ nội dung tư tưởng đến hình thức nghệ thuật. Văn học viết cũng có tác động trở lại đối với văn học dân gian trên một số phương diện. Mối quan hệ giữa văn học dân gian với văn học viết cũng như vai trò, ảnh hưởng của văn học dân gian đối với văn học thể hiện trọn vẹn hơn cả ở lĩnh vực sáng tác và ở bộ phận thơ văn quốc âm.
Văn học dân gian Việt Nam cũng như văn học dân gian của nhiều dân tộc khác trên thế giới có những thể loại chung và riêng hợp thành một hệ thống. Mỗi thể loại phản ánh cuộc sống theo những nội dung và cách thức riêng. Hệ thống văn học dân gian Việt Nam gồm có: sử thi, truyền thuyết, thần thoại, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, truyện cười, tục ngữ, câu đố, ca dao, vè, thơ, chèo.
Sau hơn 10 thế kỷ hình thành và phát triển, văn học viết Việt Nam đạt được những thành tựu nhất định và vẫn đang tiếp tục "dòng chảy" của mình để có thể hội nhập vào nền văn học chung của thế giới.
Thể loại
Trước thời kì Đổi Mới, văn học Việt Nam thường được chia thành hai thể loại khẩu truyền và thành văn, về sau có nhiều xu hướng phê bình và nghiên cứu mới nên dòng văn học trở nên phân nhánh rất phức tạp.
Văn học dân gian
Văn học dân gian là sáng tác nghệ thuật truyền miệng của các tầng lớp dân chúng, phát sinh từ thời công xã nguyên thủy, phát triển qua các thời kỳ lịch sử cho tới ngày nay.
Ba thuật ngữ sau đây được xem là tương đương: Văn học dân gian, sáng tác nghệ thuật truyền miệng của nhân dân, folklore ngôn từ (folklore văn học).
Tính nguyên hợp: Biểu hiện ở sự hòa lẫn những hình thức khác nhau của ý thức xã hội trong các thể loại. Văn học dân gian không chỉ là nghệ thuật ngôn từ thuần túy mà là sự kết hợp của nhiều phương tiện nghệ thuật khác nhau, tồn taị dưới 3 dạng: ẩn (tồn tại trong trí nhớ của tác giả dân gian), cố định (tồn tại bằng văn tự) và hiện (tồn tại thông qua diễn xướng).
Tính tập thể: Văn học dân gian là sáng tác của nhân dân, nhưng không phải tất cả nhân dân đều là tác giả. Tính tập thể thể hiện chủ yếu trong quá trình sử dụng tác phẩm.
Tính truyền miệng: Văn học dân gian được lưu truyền từ đời này qua đời khác thông qua hình thức truyền miệng (kể chuyện).
Tính dị bản: Văn học dân gian là sáng tác tập thể và nó không được cố định trong một văn bản, nên khi lưu truyền sang các vùng không gian khác nhau thì nó dần dà thay đổi.
Các đặc trưng trên có liên quan chặt chẽ với nhau. Tạo ra nét đặc trưng của Văn học dân gian so với văn học viết.
Văn học thành văn (văn học viết)
Xem thêm bài Lịch sử các loại chữ viết Việt Nam
Khác với văn học dân gian, văn học viết hình thành đã "mở ra một thời kỳ lịch sử mới, oanh liệt, rực rỡ" (Đặng Thai Mai). Sự va chạm gần 10 thế kỷ giữa nền Hán học và văn hóa dân gian Việt tuy có phần làm văn hóa, tín ngưỡng, phong tục cũng như nghệ thuật của dân Việt bị "sứt mẻ, mất mát" nhưng cũng tác động không nhỏ đến sự ra đời và phát triển của văn học viết.
Nhiều phát hiện mới của khảo cổ học chứng minh từ thời đại Hùng Vương, người Việt đã có nền văn hóa với nhiều nét cá tính khá rõ rệt, thể hiện qua nhiều thần thoại và truyền thuyết. Tiếp theo một thời gian dài tiếp xúc với nền văn hóa Trung Quốc tiên tiến hơn nhiều mặt, người Việt đã biết cách chuyển hóa chữ Hán trên nền tảng văn hóa Việt, đọc theo thanh điệu của tiếng Việt mà vẫn hiểu được một cách chính xác các giá trị tư tưởng, văn hóa, triết học của Trung Quốc lẫn của người Việt.
Từ truyền thống văn hóa có sẵn, Hán học tiếp sức cho người Việt hình thành nền văn học độc lập của dân tộc và là nền tảng, cơ sở để sáng tạo ra chữ viết đầu tiên: chữ Nôm.
Sự thịnh vượng của Hán học thời kỳ nước Việt giành được quyền tự chủ so với thời kỳ nội thuộc cho thấy tính trang trọng, thâm trầm của loại chữ viết này rất phù hợp với kiểu nhà nước phong kiến và ý thức hệ Nho giáo lúc bấy giờ. Thời kỳ này, trường học, khoa thi đều dùng chữ Hán như "phương tiện giao tế tao nhã" để ghi chép lịch sử, truyền đạt ý chỉ, thể hiện quan hệ, tình cảm vua-tôi và các tầng lớp nho sĩ. Cùng với những thăng trầm của lịch sử, văn học viết dần có được những vận hội mới, tạo được vị trí độc lập của mình sau thời gian dài văn-sử-triết bất phân. 3 dòng tư tưởng Nho-Phật-Lão trở thành nguồn cảm hứng cho văn chương học thuật. Bên cạnh đó, đời sống tích cực gần thiên nhiên của con người thời kỳ này còn mang lại cho văn học nhiều ẩn dụ cao nhã nhưng cũng rất nhân tình.
Về mặt thể loại, hình thức; văn học viết thời kỳ đầu chủ yếu là thơ với hai loại: cổ thể và cận thể – tôn trọng khuôn phép mẫu mực của thơ ca Trung Quốc; ngoài ra theo Dương Quảng Hàm (trong quyển Văn học Việt Nam) thì văn viết trong thời kỳ đầu "có nhiều thể, nhưng có thể chia ra làm ba loại lớn" gồm:
Vận văn: tức loại văn có vần
Biền văn: tức loại văn không có vần mà có đối (như câu đối)
Tản văn hoặc văn xuôi: tức loại văn không có vần mà cũng không có đối.
Cuối thế kỷ 18 trở đi, khi chữ Nôm hình thành thì văn học viết có vài chuyển biến trong sáng tác: văn học từ chiếu cung đình dần thâm nhập vào đời sống thường nhật (văn chương bình dân) và cái tôi cá nhân bắt đầu được đề cập đến. "Bà chúa thơ Nôm" Hồ Xuân Hương và Truyện Kiều (của Nguyễn Du) được xem là những thành tựu nổi bật của chữ Nôm trong văn học Việt Nam.
Từ khi có việc truyền bá chữ Quốc ngữ vào Việt Nam, diện mạo văn học có những thay đổi sâu sắc và toàn diện. Ngoài ảnh hưởng các dòng tư tưởng truyền thống phương Đông, sự thâm nhập của phương Tây mang đến cho văn học viết con đường "hiện đại hóa" từ hình thức, thể loại đến tư tưởng và nội dung sáng tác. Riêng về thể loại nếu so sánh văn học viết Việt Nam giữa hai thời kỳ lớn: Văn học trung đại và văn học hiện đại thì có thể hiểu một cách tổng quát về các thể loại chính như sau:
Thời kỳ văn học trung đại (từ thế kỷ 10 đến cuối thế kỷ 19) gồm: tự sự và trữ tình.
Thời kỳ văn học hiện đại (từ đầu thế kỷ 20 đến nay) gồm: tự sự, trữ tình, kịch.
Văn học mạng
Từ đầu thập niên 2000, khái niệm "web fiction" đã xuất hiện trong các giáo trình và luận văn khoa học đa cấp độ dưới tên gọi văn học mạng. Nghĩa là gồm các tác phẩm hoặc luận văn phê bình được xuất bản trên không gian ảo, tức là internet và intranet. Theo sức phát triển nhanh của làn sóng công nghệ thông tin toàn cầu, dòng văn học này không được xếp vào dạng khẩu truyền hay thành văn, mà tồn tại độc lập nhưng vẫn có sự tương hỗ với các thể loại lâu đời hơn này. Một tác phẩm tiêu biểu ở giai đoạn sơ khởi văn học mạng là bài thơ Đôi dép của tác giả Nguyễn Trung Kiên, thường được giới khảo cứu dẫn chứng như một thành công của sức ảnh hưởng công nghệ thông tin cao đối với sự phổ biến văn phẩm. Đồng thời, dòng văn học này cũng được coi là nhân tố quyết định quảng bá văn học và ngôn ngữ Việt Nam ra quốc tế - điều mà trước thế kỷ XXI có tầm ảnh hưởng rất kém.
Xem thêm
Ngôn ngữ Việt Nam
Triết học Việt Nam
Nghệ thuật Việt Nam
Văn hóa Việt Nam
Tham khảo
Tài liệu
Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam (Thế kỷ 10 - 19). Tập 1, Văn học thế kỷ 10 - 15/ Bùi Duy Tân (chủ biên); Nhà xuất bản Giáo dục, 2004
Việt Nam văn học sử yếu. Dương Quảng Hàm; Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2002.
Văn học Việt Nam. Dương Quảng Hàm, Bộ Giáo dục/ Trung tâm học liệu xuất bản, 1938.
Tìm hiểu Con người Qua Nhân Tướng Học Và Văn Học Dân Gian Việt Nam. Lương Trọng Nhàn; Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin-2010.
Tư liệu
Viettouch. This site is dedicated to the promotion of Vietnamese history and culture; see reviews of the site.
Culture of Vietnam encyclopedia
Việt-Học Thư-Quán - Institute of Vietnamese Studies - Viện Việt Học Many pdfs of Vietnamese literature books
https://web.archive.org/web/20121112121058/http://thanglong.ece.jhu.edu/vhvn.html
Translating Vietnamese poetry
Vietnamese Poetry Collection
Tiếng Việt
|
23701
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Li%C3%AAn%20%C4%91o%C3%A0n%20Thi%C3%AAn%20v%C4%83n%20Qu%E1%BB%91c%20t%E1%BA%BF
|
Liên đoàn Thiên văn Quốc tế
|
{{Infobox organization
|name = Liên đoàn Thiên văn Quốc tế
|image = IAU_logo.jpg
|image_border =
|size = 180px
|alt =
|caption =
|map =
|msize =
|malt =
|mcaption =
|abbreviation = IAU
|motto =
|formation = 1919
|extinction =
|type = Tổ chức phi lợi nhuận quốc tế về khoa học
|status =
|purpose =
|headquarters = Paris
|location =
|region_served = Toàn cầu
|membership =
|language = Tiếng Anh
| leader_title = Chủ tịch
| leader_name = Ewine F. van Dishoeck
| leader_title2 = Tổng thư ký
| leader_name2 = Maria Teresa V.T. Lago
|main_organ =
|parent_organization = Hội đồng Khoa học Quốc tế (ICSU)
|affiliations =
|num_staff =
|num_volunteers =
|budget =
|website = IAU Official website
|remarks =
}}Liên đoàn Thiên văn Quốc tế hay Hiệp hội Thiên văn Quốc tế, viết tắt theo tiếng Anh là IAU (International Astronomical Union), là hiệp hội của các hiệp hội thiên văn học khắp nơi trên thế giới.IAU' là một tổ chức phi chính phủ quốc tế, và là thành viên liên hiệp của Hội đồng Khoa học Quốc tế (ISC) , và của Hội đồng Quốc tế về Khoa học (ICSU) trước đây.IAU, International Astronomical Union. Scientific Union Member. Truy cập 01 Mai 2015.
Nhiệm vụ
Nó là tổ chức được biết đến với trọng trách đặt tên cho các chòm sao, sao, hành tinh, tiểu hành tinh và các thiên thể cùng các hiện tượng thiên văn.
Trong các nhóm làm việc có Nhóm phân loại hành tinh (WGPSN), có nhiệm vụ thực hiện quy ước đặt tên thiên văn và phân loại hành tinh cho các hành tinh. IAU cũng có trách nhiệm với Điện tín Thiên văn, mặc dù tổ chức này không điều hành nhóm này. Nhóm Trung tâm Tiểu hành tinh (MPC), là một trung tâm cho các vật thể phi hành tinh và phi vệ tinh tự nhiên trong Hệ Mặt Trời, cũng do IAU điều hành.
IAU được sáng lập năm 1919, theo sau một loạt các hợp tác quốc tế trên lĩnh vực thiên văn như Carte du Ciel, hay Hiệp hội Mặt Trời hay Văn phòng Thời gian Quốc tế (Bureau International de l'Heure''). Giám đốc đầu tiên là Benjamin Baillaud.
IAU hiện có 9598 thành viên cá nhân, gồm chủ yếu là các nhà thiên văn chuyên nghiệp (có bằng tiến sĩ về chuyên ngành) và 63 thành viên quốc gia. 87% thành viên là nam giới; còn lại 13% là nữ giới.
Tổ chức, các ủy ban
Các đại hội
Năm Quốc tế Thiên văn học
Năm Quốc tế Thiên văn học (International Year of Astronomy) đã được chọn và thực hiện là năm 2009. Đó là đề xuất của UNESCO trong Đại hội nghị thứ 33, và được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua tại kỳ họp Đại hội đồng thứ 62.
Năm 2009 là năm kỷ niệm 400 năm ra đời Kính thiên văn (telescope) của Galileo Galilei, và bản đăng tải Astronomia nova của Johannes Kepler, hồi thế kỷ 17.
Tham khảo
Xem thêm
Quy ước đặt tên thiên văn
Astronomical acronyms
Astronomical naming conventions
Planetary nomenclature
Liên kết ngoài
Trang chủ của Hiệp hội
Website ISC, Hội đồng Khoa học Quốc tế
Thành viên của Hội đồng Khoa học Quốc tế
Tổ chức tiêu chuẩn
Tổ chức thiên văn
Tổ chức có trụ sở tại Pháp
Tổ chức phi chính phủ
Tổ chức phi lợi nhuận
Tổ chức khoa học quốc tế
|
23706
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/IAU
|
IAU
|
IAU là một chữ viết tắt có thể cho:
Hiệp hội Thiên văn Quốc tế (International Astronomical Union)
Hiệp hội các Đại học Quốc tế (International Association of Universities)
|
23707
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gia%20ph%E1%BA%A3%20h%E1%BB%8Dc
|
Gia phả học
|
Gia phả học là môn học nghiên cứu về gia phả.
Môn học này đang được phát triển ở khắp nơi trên thế giới. Lý do là ngày càng có nhiều người trong xã hội, trong gia đình nhận thấy gia phả là tài liệu quý báu cho nhiều ngành học. Một Tông đồ, một Gia phả, một Phả ký, một Phổ truyền dù đơn sơ hay súc tích cũng đều trở nên những tài liệu quý báu cho nhà xã hội học, nhà sử học về sau. Nó còn có thể hữu dụng cho những nghiên cứu về tâm lý, về di truyền học, huyết học, y học. Một lý do nữa là với tiến bộ của công nghệ, kỹ thuật ghi chép, sưu tầm những tin tức, tra cứu lịch sử... càng ngày càng thuận lợi hơn.
Việc phổ biến gia phả giới hạn trong vòng gia đình, tông tộc hay mở rộng ra trên Internet cho công chúng trong phạm vi rộng khắp đã làm cho nhiều người băn khoăn về vấn đề bí mật cá nhân. Lợi điểm của việc phổ biến rộng rãi là nhiều người có thể biết đến, có thể tìm ra một sự nối kết, có ý hướng sử dụng nó vào những mục đích nghiêm chỉnh - hướng thiện, như bổ sung kiến thức cho văn hóa, cho lịch sử.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Gia phả
Gia phả học
Khoa học bổ trợ của lịch sử
Quan hệ họ hàng và nguồn gốc
|
23716
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%B4ng%20%C4%91%E1%BB%93%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
Tông đồ (định hướng)
|
Tông đồ có thể đề cập tới:
Tông đồ hay Sứ đồ là các đồ đệ chính của Chúa Giê-su được phái đi để truyền giảng Phúc Âm
Tông đồ (Thánh hữu Ngày sau), một vị trí trong Giáo hội các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giêsu Kytô
Cây phả hệ
|
23725
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20v%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20th%E1%BA%BF%20gi%E1%BB%9Bi%20c%C3%A1c%20c%C3%A2u%20l%E1%BA%A1c%20b%E1%BB%99
|
Giải vô địch bóng đá thế giới các câu lạc bộ
|
Cúp bóng đá thế giới các câu lạc bộ (), trước đây được gọi là FIFA Club World Championship (Giải vô địch bóng đá thế giới các câu lạc bộ), là một giải đấu bóng đá quốc tế dành cho nam được tổ chức bởi Liên đoàn bóng đá thế giới (FIFA), cơ quan quản lý bóng đá toàn cầu, quy tụ các Câu lạc bộ vô địch của các châu lục như Châu Âu, Châu Á, Châu Phi, Nam Mỹ, Bắc Trung Mỹ, Châu Đại Dương và đội chủ nhà. Giải đấu lần đầu tiên được tổ chức với tên gọi FIFA Club World Championship 2000. Giải sau đó không được tổ chức từ năm 2001 tới 2004 do nhiều nguyên nhân, nhưng quan trọng nhất vẫn là do sự sụp đổ của đối tác tiếp thị của FIFA là International Sport and Leisure. Từ 2005, giải được tổ chức hàng năm, và đã được tổ chức ở Brasil, Nhật Bản, UAE, Qatar và Maroc.
FIFA Club World Cup lần đầu tiên được tổ chức tại Brasil năm 2000. Giải đấu vẫn thi đấu song song với Cúp Liên Lục địa (hay còn được biết đến với tên gọi Cúp châu Âu/Nam Mỹ), một giải đấu được tổ chức chung bởi Liên đoàn bóng đá châu Âu (UEFA) và Liên đoàn bóng đá Nam Mỹ (CONMEBOL), lần đầu tranh tài năm 1960 giữa đội vô địch UEFA Champions League và Copa Libertadores. Năm 2005, sau trận đấu cuối cùng của Cúp Liên Lục địa, giải đấu này được hợp nhất với phiên bản đầu tiên của Club World Cup và đổi tên thành FIFA Club World Championship. Năm 2006, giải đấu lấy tên FIFA Club World Cup và được sử dụng cho đến hiện tại.
Đương kim vô địch hiện tại của giải đấu là Manchester City của Anh, đội đã đánh bại Fluminense của Brazil 4–0 trong trận chung kết năm 2023.
Lịch sử hình thành và phát triển
Giai đoạn mới thành lập giải và bị hoãn (2000 – 2006)
Kế hoạch tổ chức FIFA Club World Cup đã được vạch ra từ nhiều năm trước. Theo cựu chủ tịch FIFA Sepp Blatter, ý tưởng thành lập giải đấu được trình bày với Ủy ban điều hành FIFA vào tháng 12/1993 bởi chủ tịch A.C.Milan Silvio Berlusconi tại Las Vegas .
Khi các giải đấu cấp CLB ở các Liên đoàn được hình thành và phát triển ổn định, FIFA nảy ra ý định tổ chức giải đấu Club World Championship. Vào ngày 3/9/1997, Brasil được chọn làm nước chủ nhà của giải đấu dự kiến được diễn ra vào năm 1999. Ban đầu giải đấu có kế hoạch tổ chức vào năm 1999 khi chọn ra các nhà vô địch của năm 1998 tranh tài nhưng giải bị hoãn một năm. Sau đó giải có sự tham gia của các câu lạc bộ là Sport Club Corinthians Paulistat, Vasco da Gama (Brasil), Manchester United (Anh), Necaxa (Mexico), Raja Casablanca (Maroc), Real Madrid (Tây Ban Nha), Al-Nassr (Ả Rập Xê Út) và South Melbourne (Australia).
Ở phiên bản tiếp theo được dự kiến tổ chức vào mùa hè 2001 tại Tây Ban Nha, có 12 CLB tham dự và được bốc thăm vào tháng 3/2001 tại La Coruna. Tuy nhiên vào ngày 18/5/2001, do có nhiều yếu tố tác động, chủ yếu là do sự sụp đổ của đối tác FIFA là International Sport and Leisure. Các đội tham dự giải đấu năm 2001 được FIFA bồi thường 750.000 USD và LĐBĐ Tây Ban Nha cũng nhận được 1 triệu USD tiền bồi thường.
Sau cúp liên lục địa cuối cùng vào năm 2004, FIFA Club World Championship được tái khởi động lại và giải tiếp theo được diễn ra tại Nhật Bản vào năm 2005.
Thể thức loại trực tiếp (2005 – 2022)
Ở giải đấu năm 2005, thời gian thi đấu tại giải được rút ngắn lại so với giải đấu trước và chỉ có 6 đội vô địch từ các Liên đoàn tham dự. Đại diện đến từ UEFA và CONMEBOL được đặt cách vào bán kết của giải. São Paulo là nhà vô địch của giải khi đánh bại Liverpool 1–0 trong trận chung kết, tiền vệ Mineiro cũng là cầu thủ đầu tiên ghi bàn trong một trận chung kết của FIFA Club World Cup.
Tại Giải vô địch bóng đá thế giới các câu lạc bộ 2006, giải đấu đầu tiên có 7 đội tham gia khi nước chủ nhà của giải có một đại diện tham dự. Urawa Red Diamonds, nhà vô địch AFC Champions League 2006 cũng là đội bóng đến từ nước chủ nhà Nhật Bản nên đội á quân Sepahan của Iran là đại diện đến từ châu Á tham dự giải.
Đến năm 2010, đội bóng ngoài châu Âu và Nam Mỹ đầu tiên lọt vào chung kết FIFA Club World Cup là TP Mazembe của CHDC Congo. Đội bóng châu Phi đánh bại Internacional của Brasil trong trận bán kết để đi vào lịch sử của giải đấu. Tuy nhiên đội đã nhận thất bại dễ dàng 0-3 trước Inter Milan trong trận chung kết.
Tại giải đấu năm 2013, chủ nhà Raja Casablanca của Maroc tiến một mạch đến trận chung kết kể từ vòng đầu tiên gặp Auckland City của New Zealand. Họ trở thành đội bóng châu Phi thứ 2 tiến đến trận chung kết giải đấu khi đánh bại Atlético Mineiro của Brasil ở bán kết. Raja Casablanca là đội chủ nhà thứ 2 trong lịch sử giải đấu góp mặt ở trận chung kết và họ chịu thất bại trước Bayern Munich bởi đẳng cấp quá chênh lệch giữa hai đội.
Năm 2016, một đội chủ nhà khác đi vào lịch sử của giải khi Kashima Antlers trở thành đội bóng châu Á đầu tiên thi đấu trận chung kết FIFA Club World Cup. Thậm chí, đại diện của J1 League suýt gây sốc khi dẫn trước Real Madrid 2–1 ở đầu hiệp 2 trước khi trận đấu kéo dài thêm hai hiệp phụ và để thua ngược 2–4 với cú Hat-trick của Cristiano Ronaldo. Mặc dù vậy, đội bóng của Nhật Bản vẫn để lại ấn tượng khi suýt trở thành đội đầu tiên ngoài châu Âu và Nam Mỹ từng vô địch giải đấu.
Năm 2018, Al-Ain của nước chủ nhà Các Tiểu Vương quốc Ả rập Thống Nhất trở thành đội bóng châu Á thứ hai giành quyền chơi một trận chung kết FIFA Club World Cup. Bị đánh giá thấp hơn Real Madrid, không bất ngờ khi đội đã nhận thất bại với tỉ số 1–4.
Năm 2019, Liverpool giành chiến thắng chung cuộc 1–0 sau hiệp phụ trước Flamengo của Brasil qua đó giành chức vô địch FIFA Club World Cup lần đầu tiên.
Năm 2020, Bayern Munich giành cúp vô địch lần thứ 2 sau năm 2013 khi đánh bại Tigres UANL của Mexico trong trận chung kết.
Năm 2021, giải đấu được tổ chức tại Các Tiểu Vương quốc Ả rập Thống Nhất. Chelsea giành chức vô địch FIFA Club World Cup đầu tiên khi thắng 2–1 trước Palmeiras của Brasil sau 120 phút trong trận chung kết.
Năm 2022, giải đấu được tổ chức tại Maroc. Real Madrid giành chức vô địch FIFA Club World Cup lần thứ 5 khi thắng 5–3 trước Al Hilal của Ả Rập Xê Út trong trận chung kết.
Mở rộng số đội tham dự (kể từ năm 2021)
Vào cuối năm 2016, Chủ tịch FIFA Gianni Infantino đã đề nghị mở rộng giải vô địch bóng đá thế giới các câu lạc bộ thành 32 đội bắt đầu vào năm 2019 và diễn ra vào mùa hè để giải đấu hấp dẫn hơn và cân bằng trình độ các đội tham gia, nhằm thu hút các nhà tài trợ cũng như tăng bản quyền truyền hình. Vào cuối năm 2017, FIFA đã thảo luận các đề xuất tổ chức Super Club World Cup để mở rộng giải đấu tới 24 đội và diễn ra bốn năm một lần vào năm 2021, thay thế cho FIFA Confederations Cup.
Ngày 15 tháng 3 năm 2019, định dạng và lịch thi đấu mới của giải đấu đã được thông qua tại cuộc họp của Hội đồng FIFA tại Miami, Florida, Hoa Kỳ. Vì theo lịch thi đấu quốc tế FIFA, khoảng thời gian từ ngày 31 tháng 5 đến ngày 8 tháng 6 năm 2021 sẽ dành cho vòng loại FIFA World Cup 2022 và Chung kết UEFA Nations League 2021, giải đấu sẽ diễn ra từ ngày 17 tháng 6 đến ngày 4 tháng 7, thay thế cho FIFA Confederations Cup 2021. Cúp bóng đá châu Phi năm 2021 và Cúp vàng CONCACAF 2021 sau đó sẽ được phân bố thời gian thi đấu từ ngày 5 đến ngày 31 tháng 7 năm 2021 trong Lịch thi đấu quốc tế FIFA.
Vào tối 16-12, Chủ tịch FIFA Gianni Infantino cũng cho biết giải đấu sẽ không diễn ra hằng năm như hiện tại, mà sẽ được tổ chức 4 năm/lần.
"Đó sẽ là kỳ FIFA Club World Cup của 32 đội, 4 năm/lần và là lần đầu tiên nó sẽ diễn ra vào mùa hè. Đó sẽ là vào năm 2025. Những đội bóng mạnh nhất thế giới sẽ được mời để tham dự", ông Infantino phát biểu.
Thể thức thi đấu
Thể thức hiện tại của giải đấu bao gồm 7 đội tham dự diễn ra trong 2 tuần ở 1 nước chủ nhà; đội vô địch của AFC Champions League (châu Á), CAF Champions League (châu Phi), CONCACAF Champions League (Bắc Mỹ), Copa Libertadores (Nam Mỹ), OFC Champions League (châu Đại Dương) và UEFA Champions League (châu Âu) năm đó, cùng với đội vô địch quốc gia của nước chủ nhà, tham dự giải đấu theo thể thức loại trực tiếp. Đội vô địch quốc gia của nước chủ nhà sẽ gặp đội vô địch châu Đại Dương trong 1 trận play-off; đội giành chiến thắng sẽ cùng với các đội vô địch châu Á, châu Phi và Bắc Mỹ tham dự vòng tứ kết. Các đội thắng ở tứ kết sẽ gặp các đội vô địch châu Âu và Nam Mỹ, những đội được vào thẳng bán kết. Hai đội thua ở tứ kết sẽ đá trận tranh hạng 5, hai đội thua ở bán kết đá trận tranh hạng 3 và trận đấu cuối cùng của giải là trận chung kết giữa hai đội giành chiến thắng ở vòng bán kết.
Kể từ mùa giải 2025, thể thức thi đấu có sự thay đổi lớn. Giải sẽ chuyển sang thi đấu vào mùa hè, theo chu kỳ 4 năm một lần và tăng số đội tham dự lên 32 đội. Giải cũng sẽ được bổ sung thêm vòng bảng, với 8 bảng 4 đội, thi đấu vòng tròn chọn đội nhất bảng vào vòng tứ kết.
Bảng thành tích
Tính tới năm 2023, FIFA Club World Cup đã có 11 câu lạc bộ vô địch khác nhau. Real Madrid (Tây Ban Nha) là đội thành công nhất với 5 chức vô địch. Các nhà vô địch khác bao gồm Barcelona (Tây Ban Nha); Bayern München (Đức); AC Milan và Inter Milan (Ý); Manchester United, Liverpool và Chelsea (Anh); Corinthians, São Paulo và Internacional (Brasil). La Liga là giải vô địch quốc gia thành công nhất với 8 chức vô địch, trong đó Barcelona có 4 lần vào chung kết và Real Madrid nắm kỉ lục nhiều nhất với 5 trận chung kết toàn thắng.
Các trận chung kết, tranh hạng ba
Thành tích theo câu lạc bộ
Thành tích theo quốc gia
Số huy chương (2000–2023)
Thành tích theo liên đoàn
Các đại diện châu Phi xuất sắc nhất tính tới thời điểm hiện tại là TP Mazembe của Cộng hòa Dân chủ Congo và Raja Casablanca của Maroc. Đó là 2 đội duy nhất của châu Phi từng tham dự trận chung kết giải đấu, lần lượt vào các năm 2010 và 2013.
Kashima Antlers của Nhật Bản, Al-Ain của Các Tiểu Vương quốc Ả rập Thống Nhất và Al-Hilal của Ả Rập Xê Út là những đội châu Á có thành tích tốt nhất, giành vị trí á quân lần lượt vào các năm 2016, 2018 và 2022.
Các câu lạc bộ của México là Necaxa, Monterrey và Pachuca, cũng như Deportivo Saprissa của Costa Rica, từng đạt vị trí thứ 3. Đây là thành tích tốt nhất của các đại diện Bắc Mỹ.
Câu lạc bộ Auckland City của New Zealand đã một lần giành hạng 3 và là đội duy nhất của Châu Đại Dương lọt vào bán kết tính đến nay.
Đã có tổng cộng 4 câu lạc bộ ngoài châu Âu và Nam Mỹ tham dự trận chung kết.
Các giải thưởng
Tiền thưởng
Đối với từng đội, đội vô địch được nhận 5 triệu $, đội Á quân nhận 4 triệu $, đội hạng ba 2.5 triệu $, hạng tư 2 triệu $, hạng năm 1.5 triệu $, hạng sáu 1 triệu $ và đội hạng bảy nhận 500,000 $.
Super Club World Cup
Năm 2017, FIFA cũng đề xuất về một giải đấu có tên Siêu cúp bóng đá các câu lạc bộ thế giới (Super Club World Cup), dự kiến diễn ra bốn năm một lần, với sự tham gia của 24 câu lạc bộ mỗi mùa. Giải đấu được cho sẽ là sự thay thế cho FIFA Confederations Cup và FIFA Club World Cup, hai giải đấu ít hiệu quả do sự chênh lệch trình độ quá lớn giữa các đội tham gia; cũng như kỳ vọng có thể cạnh tranh với UEFA Champions League về độ hấp dẫn. Tuy nhiên cho đến nay giải đấu này chưa có tiến triển nào thêm.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang Web chính thức của giải đấu
FIFA
Giải bóng đá (cấp câu lạc bộ)
|
23731
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chu%20k%E1%BB%B3%20qu%E1%BB%B9%20%C4%91%E1%BA%A1o
|
Chu kỳ quỹ đạo
|
Chu kỳ quỹ đạo là thời gian mà một thiên thể hoàn thành một vòng quỹ đạo quanh thiên thể trung tâm. Trong thiên văn học, nó có thể là các hành tinh hay tiểu hành tinh quay quanh Mặt Trời, các vệ tinh quay quanh hành tinh, các ngoại hành tinh quay quanh các ngôi sao hay sao đôi khác.
Đối với các thiên thể nói chung, chu kỳ theo sao (năm/tháng thiên văn) được coi là chu kỳ quỹ đạo đích thực, được xác định bằng một vòng quay 360°Của thiên thể quỹ đạo quanh thiên thể trung tâm, chẳng hạn Trái Đất quay quanh Mặt Trời, so với các sao cố định chiếu trên thiên cầu. Chu kỳ quỹ đạo còn có thể có nhiều cách định nghĩa khác nhau.
Các chu kỳ trong thiên văn học có thể được biểu diễn bằng đơn vị thời gian phù hợp, thường là bằng giờ, ngày, tháng hay năm. Một chu kỳ cũng có thể được xác định dưới một điều kiện thiên văn cụ thể, hầu hết gây ra bởi ảnh hưởng hấp dẫn nhỏ từ ngoài hệ bởi các thiên thể khác. Những biến thiên đó cũng bao gồm vị trí thực của khối tâm hấp dẫn giữa hai thiên thể, nhiễu loạn bởi các hành tinh ngoài hệ, cộng hưởng quỹ đạo, hiệu ứng tương đối rộng... Những vấn đề này được nghiên cứu bởi các lý thuyết thiên văn chi tiết và phức tạp của ngành cơ học thiên thể, và sử dụng dữ liệu quan sát chính xác vị trí của các thiên thể của trắc lượng học thiên thể.
Các chu kỳ liên quan
Có nhiều loại chu kỳ (periods) liên quan đến quỹ đạo của các thiên thể, thường được sử dụng trong nhiều ngành khác nhau của thiên văn học và vật lý thiên văn, nhưng đặc biệt không nên nhầm lẫn chúng với các chu kỳ vòng quay khác, chẳng hạn chu kỳ tự quay. Ví dụ của một số loại chu kỳ quỹ đạo phổ biến gồm sau đây:
Chu kỳ theo sao hay chu kỳ thiên văn (sidereal) là thời gian cần thiết để một thiên thể hoàn thành một vòng quỹ đạo tương đối với các ngôi sao cố định, nó còn được gọi là năm theo sao hay năm thiên văn. Đây là chu kỳ quỹ đạo trong một hệ quy chiếu quán tính (không quay).
Chu kỳ giao hội (synodic) là thời gian để một thiên thể trở về vị trí ban đầu tương đối so với hai hay nhiều thiên thể khác. Trong cách dùng phổ biến, hai thiên thể này thường là Trái Đất và Mặt Trời. Thời gian giữa hai lần giao hội hay xung đối liên tiếp cũng đúng bằng chu kỳ giao hội. Đối với các thiên thể trong hệ Mặt Trời, chu kỳ giao hội (so với Trái Đất và Mặt Trời) khác biệt với chu kỳ chí tuyến hoặc theo sao do chuyển động của Trái Đất quanh Mặt Trời. Chẳng hạn, chu kỳ giao hội của quỹ đạo Mặt Trăng khi quan sát từ Trái Đất, tương đối với Mặt Trời, là 29,5 ngày mặt trời trung bình, do pha và vị trí của Mặt Trăng tương đối so với Mặt Trời và Trái Đất lặp lại sau chu kỳ này. Nó dài hơn chu kỳ theo sao của quỹ đạo Mặt Trăng quanh Trái Đất, tức là chỉ bằng 27,3 ngày mặt trời trung bình, điều này là do chu kỳ theo sao chưa tính đến chuyển động của Trái Đất quanh Mặt Trời.
Chu kỳ giao điểm (draconic, draconitic hay nodal) là thời gian trải qua giữa hai lần liên tiếp thiên thể đi qua điểm nút lên của quỹ đạo của nó. Điểm nút lên là điểm trên quỹ đạo nơi nó giao cắt với hoàng đạo từ phía nam lên phía bắc. Chu kỳ này khác biệt so với chu kỳ theo sao bởi vì có sự tiến động của mặt phẳng quỹ đạo của thiên thể và của mặt phẳng hoàng đạo so với các sao cố định, do đó giao tuyến của chúng, đường tiết tuyến cũng tiến động so với các sao cố định. Mặc dù mặt phẳng hoàng đạo thường được giữ cố định tại vị trí của nó được xác định bởi một kỷ nguyên cụ thể, mặt phẳng quỹ đạo của thiên thể vẫn có thể tiến động, khiến cho chu kỳ giao điểm chênh lệch so với chu kỳ theo sao.
Chu kỳ cận điểm (anomalistic) là thời gian trải qua giữa hai lần liên tiếp mà thiên thể đi qua cận điểm quỹ đạo (trong trường hợp các hành tinh trong hệ Mặt Trời, nó được gọi là điểm cận nhật), tức là điểm gần nhất với thiên thể trung tâm. Nó khác biệt so với chu kỳ theo sao bởi vì bán trục lớn của thiên thể thường tiến động chậm.
Ngoài ra, chu kỳ chí tuyến (tropical) của Trái Đất (một năm chí tuyến) là khoảng thời gian giữa hai lần trục quay của nó nghiêng về Mặt Trời, cũng được xem là khoảng thời gian giữa hai lần thiên thể đi qua vị trí có xích kinh bằng 0 h (điểm xuân phân). Một năm chí tuyến của Trái Đất ngắn hơn một chút so với chu kỳ để Mặt Trời hoàn thành một vòng trên hoàng đạo hay năm theo sao là bởi trục quay nghiêng và mặt phẳng xích đạo cũng tiến động (quay tương đối so với các sao tham chiếu), do đó trục sẽ nghiêng về Mặt Trời trước khi hoàn thành quỹ đạo. Vòng tiến động trục quay đối với Trái Đất, còn được gọi là tuế sai của điểm phân, có chu kỳ 25.772 năm.
Thiên thể quay quanh thiên thể trung tâm
Theo định luật Kepler thứ ba, chu kỳ quỹ đạo T đối với hai vật thể có khối lượng, trong đó một vật chuyển động trong một quỹ đạo tròn hoặc elip là:
trong đó:
a là bán trục lớn của quỹ đạo elip, hay bán kính của quỹ đạo tròn
μ = GM là tham số hấp dẫn tiêu chuẩn
G là hằng số hấp dẫn,
M là khối lượng của vật thể có khối lượng lớn hơn.
Đối với tất cả quỹ đạo elip có cùng bán trục lớn thì chu kỳ quỹ đạo là như nhau, bất kể độ lệch tâm của chúng.
Ngược lại, để tính toán khoảng cách mà một vật thể phải chuyển động để có một chu kỳ quỹ đạo cho trước:
trong đó
a là bán trục lớn của quỹ đạo,
G là hằng số hấp dẫn,
M là khối lượng của vật thể trung tâm,
T là chu kỳ quỹ đạo.
Chẳng hạn, để hoàn thành một quỹ đạo sau 24 giờ quanh một khối lượng trung tâm 100 kg, một vật thể nhỏ hơn phải chuyển động trên quỹ đạo với khoảng cách 1.08 mét tính từ khối tâm của thiên thể trung tâm.
Trong trường hợp đặc biệt với quỹ đạo tròn lý tưởng, vận tốc quỹ đạo là không đổi và bằng (theo m/s)
trong đó:
r là bán kính của quỹ đạo tròn theo mét,
G là hằng số hấp dẫn,
M là khối lượng của vật thể trung tâm.
Vận tốc này tương ứng bằng lần (≈ 0.707 lần) vận tốc vũ trụ.
Hai thiên thể quay quanh nhau
Trong cơ học thiên thể, khi khối lượng của cả hai vật thể quỹ đạo cần phải được xét đến, chẳng hạn hệ sao đôi, chu kỳ quỹ đạo T có thể được tính như dưới đây:
trong đó:
a là tổng các bán trục lớn của các elip mà tâm của các thiên thể chuyển động trên đó, hay tương đương là bán trục lớn của elip mà trên đó một thiên thể chuyển động trong hệ quy chiếu có gốc tại thiên thể kia (bằng khoảng cách không đổi giữa chúng với quỹ đạo tròn),
M1 + M2 là tổng khối lượng của hai thiên thể,
G là hằng số hấp dẫn.
Đối với quỹ đạo parabol hay hyperbol, chuyển động là không tuần hoàn, và thời gian của toàn quỹ đạo là vô hạn.
Chu kỳ giao hội
Một trong những đặc trưng cơ bản của hai thiên thể đều quay quanh một thiên thể thứ ba trên hai quỹ đạo khác nhau, và do đó hai chu kỳ quỹ đạo khác nhau, là chu kỳ giao hội của chúng, tức là khoảng thời gian giữa hai lần giao hội.
Một ví dụ của chu kỳ liên quan này là sự lặp lại hiện tượng hoặc vị trí tương đối của các thiên thể khi quan sát từ bề mặt Trái Đất, cụ thể là khi một hành tinh quay trở về vị trí giao hội hay xung đối so với Mặt Trời quan sát được. Chẳng hạn, Mộc Tinh có chu kỳ giao hội khoảng 398,8 ngày nhìn từ Trái Đất; do đó, sự xung đối của Mộc Tinh xảy ra 13 tháng một lần.
Nếu các chu kỳ quỹ đạo theo sao của hai thiên thể quanh trung tâm được ký hiệu là T1 và T2, sao cho T1 < T2, chu kỳ giao hội được cho bởi công thức:
Một số ví dụ về chu kỳ theo sao và giao hội
Trái Đất
Chu kỳ theo sao của Trái Đất được gọi là năm thiên văn hay năm sao hay năm theo sao. Năm sao tương ứng với một vòng quay biểu kiến của Mặt Trời trên thiên cầu so với các sao, tức là khoảng thời gian mà xích kinh của Mặt Trời tính từ một điểm phân cố định tăng lên 360°. Nó bằng 365 ngày (tính bằng 24 giờ) cộng 6 giờ 9 phút 10 giây và bằng 365,2564 ngày Mặt Trời trung bình.
Nếu không có hiện tượng tiến động của Trái Đất làm điểm xuân phân di chuyển, gây ra tuế sai của điểm phân thì năm sao dài bằng năm xuân phân.
Các hành tinh
Chu kỳ theo sao và chu kỳ giao hội (với Mặt Trời và Trái Đất) của các hành tinh hay thiên thể khác trong Hệ Mặt Trời là (tính bằng ngày Trái Đất hoặc năm Trái Đất):
Mặt Trăng
Chu kỳ theo sao của Mặt Trăng trên quỹ đạo quanh Trái Đất được gọi là tháng thiên văn hay còn gọi là tháng sao.
Một tháng thiên văn = 27 ngày 7 giờ 43 phút 11,6 giây = 27,321661 ngày Mặt Trời trung bình.
Tháng sao khác tháng giao hội (tức chu kỳ giao hội của Mặt Trăng hay tuần trăng) là do chuyển động quay quanh Mặt Trời của Trái Đất. Khi Mặt Trăng quay trọn một vòng quanh Trái Đất thì Trái Đất cũng quay được một góc khoảng 27° quanh Mặt Trời (điều này thể hiện ở hiện tượng biểu kiến là Mặt Trời di chuyển trên hoàng đạo về phía đông so với nền sao). Do đó Mặt Trăng phải đi thêm 2,2 ngày nữa để khớp với chu kỳ pha (tháng giao hội) của nó, khi đó tương quan vị trí biểu kiến của Mặt Trăng với Mặt Trời mới trở lại như cũ. Khoảng thời gian 2,2 ngày chính là chênh lệch giữa tháng sao và tháng giao hội.
Xem thêm
Năm thiên văn
Chu kỳ giao hội
Tham khảo
Chu kỳ quỹ đạo
Thuật ngữ thiên văn học
Quỹ đạo
Thời gian trong thiên văn học
|
23732
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C6%B0%20Ngh%C4%A9a
|
Tư Nghĩa
|
Tư Nghĩa là một huyện đồng bằng thuộc tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam.
Địa lý
Huyện Tư Nghĩa nằm ở trung tâm tỉnh Quảng Ngãi, có vị trí địa lý:
Phía đông giáp thành phố Quảng Ngãi và huyện Mộ Đức
Phía tây giáp huyện Sơn Hà
Phía nam giáp các huyện Mộ Đức (ranh giới là sông Vệ), Nghĩa Hành và Minh Long
Phía bắc giáp huyện Sơn Tịnh (ranh giới là sông Trà Khúc) và thành phố Quảng Ngãi.
Trước năm 2013, huyện Tư Nghĩa còn giáp biển Đông, nhưng sau khi điều chỉnh địa giới để mở rộng thành phố Quảng Ngãi năm 2013, huyện Tư Nghĩa không còn giáp biển. Huyện có diện tích 206,3 km², dân số năm 2019 là 128.661 người, mật độ dân số đạt 624 người/km². Trong đó dân số thành thị là 16.511 người, dân số nông thôn là 112.150 người.
Đây cũng là địa phương có tuyến Đường cao tốc Đà Nẵng – Quảng Ngãi đi qua và có dự án Đường cao tốc Quảng Ngãi – Hoài Nhơn đi qua đang được xây dựng.
Hành chính
Huyện Tư Nghĩa có 14 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, gồm 2 thị trấn: La Hà (huyện lỵ), Sông Vệ và 12 xã: Nghĩa Điền, Nghĩa Hiệp, Nghĩa Hòa, Nghĩa Kỳ, Nghĩa Lâm, Nghĩa Mỹ, Nghĩa Phương, Nghĩa Sơn, Nghĩa Thắng, Nghĩa Thuận, Nghĩa Thương, Nghĩa Trung.
Lịch sử
Sau năm 1975, huyện Tư Nghĩa được sáp nhập với thị xã Quảng Ngãi thành thị xã Quảng Nghĩa thuộc tỉnh Nghĩa Bình.
Ngày 24 tháng 8 năm 1981, huyện Tư Nghĩa được tái lập, gồm 11 xã: Nghĩa An, Nghĩa Điền, Nghĩa Hà, Nghĩa Hiệp, Nghĩa Hòa, Nghĩa Kỳ, Nghĩa Lâm, Nghĩa Phương, Nghĩa Thắng, Nghĩa Thương và Nghĩa Trung.
Ngày 29 tháng 10 năm 1983, chia xã Nghĩa An thành 2 xã: Nghĩa An và Nghĩa Phú.
Ngày 12 tháng 3 năm 1987, chia xã Nghĩa Trung thành 2 đơn vị hành chính: xã Nghĩa Trung và thị trấn La Hà.
Ngày 30 tháng 6 năm 1989, tỉnh Quảng Ngãi được tái lập từ tỉnh Nghĩa Bình, huyện Tư Nghĩa thuộc tỉnh Quảng Ngãi.
Ngày 22 tháng 2 năm 1991:
Chia xã Nghĩa Phương thành ba đơn vị hành chính: xã Nghĩa Phương, xã Nghĩa Mỹ và thị trấn Sông Vệ
Chia xã Nghĩa Lâm thành 2 xã: Nghĩa Lâm và Nghĩa Sơn
Chia xã Nghĩa Thắng thành 3 xã: Nghĩa Thắng, Nghĩa Thọ và Nghĩa Thuận.
Ngày 12 tháng 12 năm 2013, chuyển 3 xã Nghĩa An, Nghĩa Hà, Nghĩa Phú về thành phố Quảng Ngãi quản lý.
Huyện Tư Nghĩa còn lại 2 thị trấn: La Hà, Sông Vệ và 13 xã: Nghĩa Điền, Nghĩa Hiệp, Nghĩa Hòa, Nghĩa Kỳ, Nghĩa Lâm, Nghĩa Mỹ, Nghĩa Phương, Nghĩa Sơn, Nghĩa Thắng, Nghĩa Thọ, Nghĩa Thuận, Nghĩa Thương, Nghĩa Trung.
Ngày 1 tháng 2 năm 2020, sáp nhập xã Nghĩa Thọ trở lại xã Nghĩa Thắng.
Huyện Tư Nghĩa có 2 thị trấn và 12 xã như hiện nay.
Kinh tế
Kinh tế ở huyện là thuần nông cộng với đánh bắt hải sản và tiểu thủ công nghiệp. Huyện đang phát triển cụm công nghiệp làng nghề La Hà.
Du lịch
Huyện có núi Phú Thọ và Cổ lũy cô thôn với các thành lũy văn hóa Chăm Pa (Thành Bàn Cờ, Thành hòn Yàng). Thắng cảnh núi Phú Thọ và Cổ lũy cô thôn đã được Bộ Văn hóa thông tin và truyền thông xếp hạng. La Hà thạch trận với những phiến đá trên ngọn đồi khi có gió thổi thoát ra những tiếng như những cuộc giao chiến.
Huyện có Chùa Ông Thu Xà là tên gọi dân gian, tên chữ Hán là "Quan Thánh Tự", được người Hoa tại Quảng Ngãi xây dựng vào thế kỷ 18 nằm trên địa bàn thị tứ Thu Xà, xã Nghĩa Hòa. Chùa vẫn được bảo tồn và hiện nay là di tích quốc gia.
Phố cổ Thu Xà cũng là một thương cảng lớn của miền Trung và sầm uất chỉ sau thương cảng Hội An, do chiến tranh tàn phá (năm 1974) và sự hủy hoại của thiên nhiên với việc dòng sông Vệ đổi dòng nên làm giảm vai trò của cảng thị và phố cổ.
Đặc sản của huyện và của tỉnh Quảng Ngãi là don, được các ngư dân ven sông Trà Khúc đánh bắt. Công trình thủy lợi Thạch Nham tại đây cũng là điểm du lịch quen thuộc ở Quảng Ngãi.
Khu du lịch suối nước nóng Nghĩa Thuận (còn gọi là Tư Thuận) đang được đầu tư xây dựng với sự hỗ trợ của Tổng cục du lịch Việt Nam. Năm 2003, Tổng cục du lịch Việt Nam hỗ trợ 13 tỷ đồng nhằm xây dựng tuyến đường vào suối nước khoáng này và ngày 30 tháng 9 năm 2007, UBND tỉnh Quảng Ngãi đã đồng ý về chủ trương cho phép Tập đoàn than và khoáng sản Việt Nam đầu tư vào khu du lịch này.
Ngày 19 tháng 7 năm 2007 UBND tỉnh đã đồng ý về nguyên tắc cho Công ty Cổ phần đầu tư và xây dựng Thiên Tân (chủ đầu tư khu biệt thự, village nam sông Trà Khúc - thương hiệu đoạt giải Sao vàng đất Việt năm 2005) đầu tư Dự án Khu du lịch sinh thái Suối Mơ kết hợp với trồng rừng trên diện tích khoảng 400 ha thuộc địa bàn 3 xã: Nghĩa Kỳ, Nghĩa Thuận và Nghĩa Thọ, huyện Tư Nghĩa.
Chú thích
Xem thêm
|
23734
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Benzen
|
Benzen
|
Benzene là một hợp chất hữu cơ có công thức hoá học C6H6. Benzene là một hydrocarbon thơm, trong điều kiện bình thường là một chất lỏng không màu, mùi dịu ngọt dễ chịu, dễ cháy. Benzene tan kém trong nước và rượu
Vì chỉ chứa carbon và hydro nên benzene là một hydrocarbon.
Benzene là thành phần tự nhiên của dầu thô và là một trong những hóa chất dầu cơ bản. Do các liên kết pi liên tục tuần hoàn giữa các nguyên tử carbon, benzen được phân loại là hydrocarbon thơm, [n] - annulen ([6] - annulen) thứ hai. Nó đôi khi được viết tắt là PhH. Benzen là một chất lỏng không màu, rất dễ cháy và có mùi thơm, nó tạo ra mùi thơm xung quanh các trạm xăng. Nó được sử dụng chủ yếu như một tiền chất để sản xuất các hóa chất có cấu trúc phức tạp hơn, chẳng hạn như ethylbenzen và cumen, trong đó hàng tỷ kg được sản xuất hàng năm. Vì benzen có số octan cao, các dẫn xuất thơm như toluen và xylen thường chiếm tới 25% xăng. Bản thân benzen đã bị giới hạn ở mức dưới 1% trong xăng vì nó là chất gây ung thư ở người. Hầu hết các ứng dụng phi công nghiệp cũng bị hạn chế vì lý do tương tự.
Lịch sử
Khám phá
Từ "benzene" có nguồn gốc từ "nhựa benzoin", một loại nhựa thơm được các dược sĩ và nước hoa châu Âu biết đến từ thế kỷ 16 như một sản phẩm của Đông Nam Á. Một vật liệu có tính acid được lấy từ benzoin bằng cách thăng hoa và được đặt tên là "hoa của benzoin", hay acid benzoic. Do đó hydrocarbon có nguồn gốc từ acid benzoic thu được tên là benzin, benzol hoặc benzen. Michael Faraday lần đầu tiên phân lập và xác định benzen vào năm 1825 từ dư lượng dầu có nguồn gốc từ việc sản xuất khí phát sáng, đặt cho nó cái tên bicarburet của hydro. Năm 1833, Eilhard Mitscherlich đã sản xuất nó bằng cách chưng cất acid benzoic (từ nhựa benzoin) và vôi. Ông đã đặt cho hợp chất tên là benzin. Năm 1836, nhà hóa học người Pháp Auguste Laurent đặt tên cho chất này là "phène"; từ này đã trở thành từ gốc của từ tiếng Anh "phenol", đó là benzen được hydroxyl hóa và " phenyl", gốc tự do được hình thành do sự trừu tượng của một nguyên tử hydro (gốc tự do H •) từ benzene.
Năm 1845, Charles Mansfield, làm việc dưới quyền August von von Hofmann, đã tách benzen từ nhựa than đá. Bốn năm sau, Mansfield bắt đầu sản xuất benzen ở quy mô công nghiệp đầu tiên, dựa trên phương pháp than đá. Dần dần, ý thức phát triển giữa các nhà hóa học rằng một số chất có liên quan về mặt hóa học với benzen, bao gồm một họ hóa học đa dạng. Năm 1855, Hofmann đã sử dụng từ "thơm" để chỉ định mối quan hệ gia đình này, vì tính chất đặc trưng của nhiều thành viên trong họ chất này. Năm 1997, benzen được phát hiện trong không gian liên sao.
Công thức vòng
Công thức thực nghiệm cho benzene đã được biết đến từ lâu, nhưng cấu trúc không bão hòa cao của nó, chỉ với một nguyên tử hydro cho mỗi nguyên tử carbon, là thách thức để xác định. Archibald Scott Couper năm 1858 và Joseph Loschmidt năm 1861 đã đề xuất các cấu trúc có thể chứa nhiều liên kết đôi hoặc nhiều vòng, nhưng sau đó có quá ít bằng chứng để giúp các nhà hóa học quyết định bất kỳ cấu trúc cụ thể nào.
Năm 1865, nhà hóa học người Đức Friedrich August Kekulé xuất bản một bài báo bằng tiếng Pháp (khi đó ông đang giảng dạy tại vùng Bỉ sử dụng Pháp ngữ) cho thấy cấu trúc benzen chứa một vòng gồm sáu nguyên tử carbon với các liên kết đơn và đôi xen kẽ. Năm sau, ông xuất bản một bài báo bằng tiếng Đức về cùng một chủ đề. Kekulé đã sử dụng bằng chứng tích lũy trong những năm qua, cụ thể là, dường như luôn luôn chỉ có một đồng phân của bất kỳ đơn chất hóa học nào của benzen và luôn luôn xuất hiện chính xác ba đồng phân của mọi dẫn xuất bị loại bỏ, mô hình meta và para của sự thay thế aren để hỗ trợ cho cấu trúc đề xuất của ông. Vòng đối xứng của Kekulé có thể giải thích những sự việc gây tò mò này, cũng như tỷ lệ carbon-hydro 1:1 của benzen.
Sự hiểu biết mới này về benzen, và do đó của tất cả các hợp chất thơm, đã được chứng minh là rất quan trọng đối với cả hóa học tinh khiết và hóa học ứng dụng mà vào năm 1890, Hiệp hội Hóa học Đức đã tổ chức một sự đánh giá cao về khám phá của Kekulé, kỷ niệm năm thứ 25 của bài báo về benzen đầu tiên của ông. Ở đây Kekulé đã nói về việc tạo ra lý thuyết. Ông nói rằng ông đã phát hiện ra hình dạng chiếc nhẫn của phân tử benzen sau khi có tiếng vang hay giấc mơ ban ngày của một con rắn tự giữ đuôi của mình (đây là một biểu tượng phổ biến trong nhiều nền văn hóa cổ đại được gọi là Ouroboros hoặc nút thắt vô tận). Tầm nhìn này đã đến với ông sau nhiều năm nghiên cứu bản chất của các liên kết carbon-carbon. Mất 7 năm sau khi ông giải quyết vấn đề làm thế nào các nguyên tử carbon có thể liên kết với tối đa bốn nguyên tử khác cùng một lúc. Thật kỳ lạ, một mô tả tương tự, hài hước về benzen đã xuất hiện vào năm 1886 trong một cuốn sách nhỏ có tựa đề Berichte der Durstigen Chemischen Gesellschaft (Tạp chí của Hiệp hội hóa học khát nước), một bản nhái của Berichte der Deutschen Chemischen Gesellschaft, một vòng tròn, thay vì rắn như trong giai thoại của Kekulé. Một số nhà sử học cho rằng nhại lại là một cây đèn thần của giai thoại rắn, có thể đã được biết đến qua truyền miệng ngay cả khi nó chưa xuất hiện trên báo in. Bài phát biểu năm 1890 của Kekulé trong đó giai thoại này xuất hiện đã được dịch sang tiếng Anh. Nếu giai thoại là ký ức của một sự kiện có thật, thì các tình huống được đề cập trong câu chuyện cho thấy nó phải xảy ra vào đầu năm 1862.
Bản chất tuần hoàn của benzen cuối cùng đã được xác nhận bởi nhà tinh thể học Kathleen Lonsdale vào năm 1929.
Danh pháp
Nhà hóa học người Đức Wilhelm Korner đã đề xuất các tiền tố ortho-, meta-, para- để phân biệt các dẫn xuất benzen thay thế vào năm 1867; tuy nhiên, ông không sử dụng các tiền tố để phân biệt vị trí tương đối của các nhóm thế trên vòng benzen. Đó là nhà hóa học người Đức Karl Gräbe vào năm 1869, lần đầu tiên sử dụng tiền tố ortho-, meta-, para- để biểu thị các vị trí tương đối cụ thể của các nhóm thế trên một vòng thơm thay thế di (viz, naphthalen). Năm 1870, nhà hóa học người Đức Viktor Meyer lần đầu tiên áp dụng danh pháp của Gräbe cho benzen.
Ứng dụng ban đầu
Trong thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, benzen được sử dụng làm kem dưỡng da sau cạo râu vì mùi dễ chịu của nó. Trước những năm 1920, benzen thường được sử dụng làm dung môi công nghiệp, đặc biệt là để tẩy kim loại. Khi độc tính của nó trở nên rõ ràng, benzen được thay thế bởi các dung môi khác, đặc biệt là toluen (methylbenzen), có tính chất vật lý tương tự nhưng không gây ung thư.
Năm 1903, Ludwig Roselius đã phổ biến việc sử dụng benzen để khử caffein cà phê. Phát hiện này đã dẫn đến việc sản xuất Sanka. Quá trình này sau đó đã bị ngưng. Benzen trong lịch sử đã được sử dụng như một thành phần quan trọng trong nhiều sản phẩm tiêu dùng như Cờ lê lỏng, một số dụng cụ cạo sơn, xi măng cao su, tẩy trang tại chỗ và các sản phẩm khác. Việc sản xuất một số công thức chứa benzen này đã ngừng vào khoảng năm 1950, mặc dù cờ lê lỏng vẫn tiếp tục chứa một lượng đáng kể benzen cho đến cuối những năm 1970.
Xuất hiện ngoài tự nhiên
Một lượng nhỏ benzen được tìm thấy trong dầu mỏ và than đá. Nó là sản phẩm phụ của quá trình đốt cháy không hoàn toàn của nhiều vật liệu. Đối với mục đích thương mại, cho đến Thế chiến II, hầu hết benzen được lấy làm sản phẩm phụ của sản xuất than cốc (hay "dầu nhẹ lò than") cho ngành công nghiệp thép. Tuy nhiên, trong những năm 1950, nhu cầu về benzen tăng lên, đặc biệt là từ ngành công nghiệp polymer đang phát triển, đòi hỏi phải sản xuất benzen từ dầu mỏ. Ngày nay, hầu hết benzen đến từ ngành công nghiệp hóa dầu, chỉ có một phần nhỏ được sản xuất từ than đá.
Cấu trúc phân tử
Cấu trúc mà Kekulé đưa ra hầu như không thuyết phục được các nhà khoa học đương thời, vì căn cứ vào công thức phân tử thì phân tử benzene thể hiện tính không no cao nhưng rất khó tham gia phản ứng cộng, ngược lại benzene rất dễ tham gia phản ứng thế. Tuy nhiên vào năm 1929, công thức của Kekulé đã được công nhận bởi Kathleen Lonsdale.
Theo phân tích quang phổ thì góc liên kết giữa các nguyên tử trong benzen đều là 120 độ, các liên kết C-C đều như nhau (140 pm), lớn hơn liên kết đôi đơn lẻ và nhỏ hơn liên kết đơn (136 pm và 147 pm). Điều này được giải thích qua thuyết lai hoá obitan như sau:
trong phân tử benzen, các nguyên tử C ở trạng thái lai hoá sp2 liên kết với nhau và với các nguyên tử H thành mặt phẳng phân tử benzen, các obitan p vuông góc với mặt phẳng không chỉ liên kết thành cặp mà liên kết với nhau thành hệ liên hợp. Do vậy mà liên kết đôi ở benzen thường bền hơn so với các hợp chất có liên kết đôi khác, dẫn đến các tính chất đặc trưng mà người ta gọi là tính thơm.
Tính chất
Phản ứng cộng
Benzene trong điều kiện có xúc tác nickel, nhiệt độ cao cộng với khí hydro tạo ra cyclohexan. Khi có chiếu sáng, benzene tác dụng với khí chlor tạo ra lindan C6H6Cl6 (còn gọi là thuốc trừ sâu ba số 6, thuốc trừ sâu 6-6-6), một thuốc trừ sâu hoạt tính rất mạnh, đã bị cấm.
Phản ứng Friedel-Crafts
Khi có acid Lewis, benzen phản ứng với methylchloride tạo ra toluen.
Ngoài ra, benzen có thể được chuyển thành nhiều hợp chất khác theo cách này. Ví dụ như amphetamin:
C6H6 + CH2=CH-CH2Cl -> C6H5CH2CH(CH3)Cl (xúc tác AlCl3)
C6H5CH2CH(CH3)Cl + NH3 -> C6H5CH2CH(CH3)NH3+Cl-
Thủy phân sản phẩm, thu được amphetamin.
Phản ứng thế electrophyl
Benzen phản ứng thế với halogen(X2) khi có sắt hoặc acid Lewis (AlCl3) tạo phenyl halide (C6H5X), phản ứng với acid nitric đặc có xúc tác acid sulfuric đậm đặc tạo nitro benzen (trong điều kiện ngặt nghèo hơn - acid bốc khói và nhiệt độ cao - sinh ra TNB), phản ứng với acid sulfuric đậm đặc chưng cất nước thành acid benzosulfonic. Quy tắc chung được nêu trong hình dưới.
Nếu như có thêm nhóm thế thì phản ứng thế vào nhân thơm sẽ nhanh hơn hoặc chậm hơn tuỳ vào bản chất nhóm thế:
Điều chế
Trime hóa Acetylen
3CH≡CH —C, 6000—> C6H6
Dùng acid Benzoic
Cho acid benzoic tác dụng với natri hydroxide theo phản ứng:
C6H5COOH + 2NaOH —> C6H6 + Na2CO3
Từ các hydrocarbon nặng
Từ các hydrocarbon mạch thẳng dài
Độc tính
Benzene có mùi thơm dễ chịu giống mùi bánh ngọt vừa nướng xong, nhưng mùi này có hại cho sức khoẻ (gây bệnh bạch cầu). Ngoài ra, khi hít benzene vào, có thể gây vô sinh, cần lưu ý khi tiếp xúc trực tiếp với benzene. Có thể gây bệnh ung thư máu. Benzene khi rơi vào da sẽ gây bỏng rát.
Đồng phân vị trí nhóm thế
Nếu có hai nhóm thế đính vào nhân thơm thì cho ra 3 đồng phân: thế 1,2- là ortho- (o-), thế 1,3- là meta- (m-), thế 1,4- là para- (p-).
Ứng dụng
Ngày nay một lượng lớn benzen chủ yếu để:
Sản xuất styren cho tổng hợp polymer.
Sản xuất cumen cho việc sản xuất cùng lúc aceton và phenol.
Sản xuất cyclohexan tổng hợp tơ nylon.
Làm dung môi, sản xuất dược liệu.
Các dẫn xuất và đồng đẳng
Đồng đẳng
Toluen: có được từ chưng cất nhựa than đá hoặc cho benzene phản ứng với metylclorua có acid Lewis, ứng dụng chính là sản xuất thuốc nổ TNT và làm dung môi.
Xylen: có ba đồng phân o-, m-, p-, là sản phẩm của quá trình chưng cất hoá dầu, dùng trong kỹ nghệ.
Cumen: có được nhờ cộng benzene vào propylen.
dãy đồng đẳng của benzen có công thức tổng quát CnH2n-6 với
Dẫn xuất
Phenol: có được nhờ oxy hoá cumen.
Anilin.
acid benzoic.
Styren.
Paracetamol.
Chú thích
Xem thêm
Toluen
Styren
Naphtalen
Liên kết ngoài
Benzen at The Periodic Table of Videos (University of Nottingham)
International Chemical Safety Card 0015
USEPA Summary of Benzen Toxicity
NIOSH Pocket Guide to Chemical Hazards
Benzen tại PubChem
Dept. of Health and Human Services: TR-289: Toxicology and Carcinogensis Studies of Benzen
Video Podcast of Sir John Cadogan giving a lecture on Benzen since Faraday, in 1991
Substance profile
Benzen TOXicology Data NETwork
NLM Hazardous Substances Databank – Benzen
Hydrocarbon thơm
Chất gây ung thư
Nhân hương phương cơ bản
Ô nhiễm đất
Hợp chất carbon
An toàn và sức khỏe nghề nghiệp
Hóa chất hàng hóa
|
23758
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%20%C4%91i%E1%BB%81u%20khi%E1%BB%83n
|
Vi điều khiển
|
Vi điều khiển là một máy tính được tích hợp trên một chip, nó thường được sử dụng để điều khiển các thiết bị điện tử. Vi điều khiển, thực chất, là một hệ thống bao gồm một vi xử lý có hiệu suất đủ dùng và giá thành thấp (khác với các bộ vi xử lý đa năng dùng trong máy tính) kết hợp với các khối ngoại vi như bộ nhớ, các module vào/ra, các module biến đổi số sang tương tự và tương tự sang số,... Ở máy tính thì các module thường được xây dựng bởi các chip và mạch ngoài.
Vi điều khiển thường được sử dụng để xây dựng các hệ thống nhúng. Nó cũng được sử dụng trong các thiết bị điện, điện tử như máy giặt, lò vi sóng, điện thoại, đầu đọc DVD, thiết bị đa phương tiện hay dây chuyền sản xuất tự động,...
Phân loại vi điều khiển
Có thể phân loại vi điều khiển theo theo độ dài thanh ghi và theo kiến trúc
Phân loại theo độ dài thanh ghi
Dựa vào độ dài của các thanh ghi và các tập lệnh của vi điều khiển mà vi điều khiển có thể chia thành các dòng 8 bit, 16 bit hay 32 bit,… Vi điều khiển có thanh ghi nhiều bit hơn thì sẽ có độ dài tập lệnh lớn hơn, do đó số lượng các tập lệnh cũng nhiều hơn các dòng có thanh ghi ít bit hơn.
Phân loại theo kiến trúc CISC và RISC
Phân loại theo kiến trúc Harvard và kiến trúc Von-Neumann
Kiến trúc Harvard sử dụng bộ nhớ riêng biệt cho chương trình và dữ liệu, với bus địa chỉ và bus dữ liệu độc lập với nhau nên quá trình truyền nhận dữ liệu đơn giản hơn. Hầu hết các vi điều khiển ngày nay được xây dựng dựa trên kiến trúc Harvard, kiến trúc này định nghĩa bốn thành phần cần thiết của một hệ thống nhúng. Những thành phần này là lõi CPU, bộ nhớ chương trình (thông thường là ROM hoặc bộ nhớ flash), bộ nhớ dữ liệu (RAM), một hoặc vài bộ định thời và các cổng vào/ra để giao tiếp với các thiết bị ngoại vi và các môi trường bên ngoài - tất cả các khối này được thiết kế trong một vi mạch tích hợp.
Kiến trúc Von-Neumann sử dụng chung bộ nhớ cho chương trình và dữ liệu, làm giảm kích thước và giá thành của vi điều khiển.
Kiến trúc của vi điều khiển
CPU hoặc vi xử lý
CPU (central processing unit) hay bộ xử lý trung tâm chịu trách nhiệm nạp lệnh, giải mã và thực thi các tập lệnh. Từ đó, tất cả mọi hoạt động của của vi điều khiển đều là do CPU điều khiển. CPU giao tiếp với các phần khác trong vi điều khiển thông qua hệ thống bus.
Hệ thống xung clock
Hệ thống xung clock làm nhiệm vụ cấp xung nhịp cho toàn vi điều khiển. Thông số kĩ thuật tốc độ xung clock tối đa (maximum clock speed hay maximum CPU speed) của các dòng vi điều khiển, ví dụ như vi điều ATmega328 có tốc độ xung nhịp tối đa là 20 MHz, cho biết tốc độ xử lý tối đa mà vi xử lý trong vi điều khiển này có thể đáp ứng được. Hệ thống xung clock được thiết kế chủ yếu từ các mạch tạo xung (oscillator circuit) trong vi điều khiển.
Bộ nhớ
Bộ nhớ (tiếng Anh: memory) là nơi lưu trữ chương trình hoặc là nơi chứa các thông tin mà CPU đang làm việc. Có 2 kiểu bộ nhớ cơ bản:
RAM (Random access memory) là bộ nhớ lưu các dữ liệu mà CPU đang làm việc. Dữ liệu trogn RAM sẽ bị xóa khi mất điện
ROM/EPROM/EEPROM hoặc flash: là bộ nhớ lưu trữ chương trình vận hành của vi điều khiển, chúng được ghi khi vi điều khiển được nạp chương trình. Nội dung trong các loại bộ nhớ này không bị mất khi mất điện hoặc reset.
Các ngoại vi
Hệ thống ngoại vi trên vi điều khiển rất đa dạng theo nhiều dòng vi điều khiển khác nhau, nhưng nhìn chung các dòng vi điều khiển đều có những ngoại vi cơ bản như sau:
Ngõ vào ra (I/O Ports hay GPIO)
Các chuẩn giao tiếp phổ biến như I2C, SPI, UART,...
Bộ đếm thời gian và bộ đếm sự kiện (timer và counter)
ADC/DAC
Interrupt
Nạp chương trình
Để đưa chương trình vào được vi điều khiển thì phải thông qua mạch nạp. Mạch nạp được thiết kế để đưa file file thực thi (thường là file .hex) từ máy tính xuống vi điều khiển, thông qua các chuẩn ngoại vi có sẵn trên vi điều khiển, ví dụ như board Arduino IDE hỗ trợ nạp chương trình qua mạch nạp ISP nối vào các chân SPI có sẵn của board. Các mạch nạp phổ biến có thể kể đến như ST Link, JTAG, ISP,...
Vi điều khiển và vi xử lý
Vi điều khiển khác với các bộ vi xử lý đa năng ở chỗ là nó có thể hoạt động chỉ với vài vi mạch hỗ trợ bên ngoài.
Các vi điều khiển thông dụng
Họ vi điều khiển AMCC (do tập đoàn "Applied Micro Circuits Corporation" sản xuất). Từ tháng 5 năm 2004, họ vi điều khiển này được phát triển và tung ra thị trường bởi IBM.
403 PowerPC CPU
PPC 403GCX
405 PowerPC CPU
PPC 405EP
PPC 405GP/CR
PPC 405GPr
PPC NPe405H/L
440 PowerPC Book-E CPU
PPC 440GP
PPC 440GX
PPC 440EP/EPx/GRx
PPC 440SP/SPe
Họ vi điều khiển Atmel
Dòng 8051 (8031, 8051, 8751, 8951, 8032, 8052, 8752, 8952)
Dòng Atmel AT91 (Kiến trúc ARM THUMB)
Dòng AT90, Tiny & Mega – AVR (Atmel Norway design)
Dòng Atmel AT89 (Kiến trúc Intel 8051/MCS51)
Dòng MARC4
Họ vi điều khiển Cypress MicroSystems
CY8C2xxxx (PSoC)
Họ vi điều khiển Freescale Semiconductor. Từ năm 2004, những vi điều khiển này được phát triển và tung ra thị trường bởi Motorola.
Dòng 8-bit
68HC05 (CPU05)
68HC08 (CPU08)
68HC11 (CPU11)
Dòng 16-bit
68HC12 (CPU12)
68HC16 (CPU16)
Freescale DSP56800 (DSPcontroller)
Dòng 32-bit
Freescale 683XX (CPU32)
MPC500
MPC 860 (PowerQUICC)
MPC 8240/8250 (PowerQUICC II)
MPC 8540/8555/8560 (PowerQUICC III)
Họ vi điều khiển Fujitsu
F²MC Family (8/16 bit)
FR Family (32 bit)
FR-V Family (32 bit RISC)
Họ vi điều khiển Intel
Dòng 8-bit
8XC42
MCS48
MCS51
8061
8xC251
Dòng 16-bit
80186/88
MCS96
MXS296
Dòng 32-bit
386EX
i960
Họ vi điều khiển Microchip
PIC 8-bit (xử lý dữ liệu 8-bit, 8-bit data bus)
Từ lệnh dài 12-bit (Base-line): PIC10F, PIC12F và một vài PIC16F
Từ lệnh dài 14-bit (Mid-Range và Enhance Mid-Range): PIC16Fxxx, PIC16F1xxx
Từ lệnh dài 16-bit (High Performance): PIC18F
PIC 16-bit (xử lý dữ liệu 16-bit)
PIC điều khiển động cơ: dsPIC30F
PIC có DSC: dsPIC33F
Phổ thông: PIC24F, PIC24E, PIC24H
PIC 32-bit (xử lý dữ liệu 32-bit): PIC32MX
Họ vi điều khiển National Semiconductor
COP8
CR16
Họ vi điều khiển STMicroelectronics
ST 62
ST7
STM8
STM32 (Cortex-Mx)
Họ vi điều khiển Philips Semiconductors
LPC2000
LPC900
LPC700
Tham khảo
Xem thêm
Danh sách các vi điều khiển thông dụng
Danh sách các vi điều khiển hỗ trợ WiFi
Microbotics
Programmable logic controller
Vi điều khiển đơn board
Liên kết ngoài
Vi điều khiển, thông tin tại trang Curlie
Hệ thống nhúng
|
23773
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BA%ADt%20l%E1%BB%ADa
|
Bật lửa
|
Bật lửa (hay hộp quẹt, hột quẹt) là một thiết bị được sử dụng để tạo ra ngọn lửa nhằm mục đích tạo nguồn lửa ban đầu cho các loại nhiên liệu có thể cháy được khác như thuốc lá, thuốc lào, rơm, rạ, giấy hay than củi trong các vỉ nướng. Nó là một vật làm từ kim loại hay nhựa rỗng ruột có chứa các chất lỏng có thể cháy được (thông thường là butan bị nén dưới áp suất lớn để hóa lỏng hoặc là xăng) làm nguồn nhiên liệu. Loại dùng xăng gọi là bật lửa xăng, loại dùng butan được gọi là bật lửa ga. Thông thường, phía trên có một bộ phận để nạp đá lửa và một bánh răng nhỏ bằng thép - nơi sẽ sinh ra tia lửa nhờ ma sát giữa bánh xe và viên đá lửa khi người sử dụng dùng tay tác động một lực nhỏ làm cho bánh xe quay trong khi vẫn tiếp xúc với viên đá lửa. Tuy nhiên, người ta cũng chế tạo ra loại bật lửa sử dụng nguyên lý của hiện tượng áp điện.
Các bật lửa dùng xăng làm nguồn nhiên liệu có một sợi bấc nhỏ được nhúng vào nguồn xăng (được tẩm vào các sợi bông để giảm thiểu khả năng bay hơi của xăng) và xăng sẽ ngấm theo sợi bấc lên phía trên. Các loại bật lửa này cũng có nắp đậy để ngăn không cho hơi xăng thoát đi nhanh chóng cũng như để dập lửa một cách thuận tiện nhất (khi đóng nắp đậy lại). Các bật lửa dùng butan hóa lỏng có van tự động khóa ống dẫn hơi butan lại ngay sau khi người dùng rời ngón tay ra khỏi hệ thống đóng nắp van sau khi đã đánh lửa.
Tia lửa được tạo ra bằng cách dùng tay tác dụng một lực để gạt cho bánh răng chuyển động trên "đá lửa", hoặc bằng cách ép một cái nút để cho nó ép vào tinh thể áp điện để tạo ra cung lửa điện. Trong các bật lửa dùng xăng thì xăng cũng rất dễ bay hơi đủ để cho hơi xăng có mặt ngay sau khi nắp của bật lửa được mở ra. Các bật lửa dùng butan là tổ hợp của tác động bật bánh răng đồng thời với việc mở van cho hơi butan thoát ra. Tia lửa khi gặp hơi (xăng, butan) sẽ tạo ra ngọn lửa cho đến khi hoặc là nắp bị đóng lại (bật lửa xăng), hoặc là khi van được giải phóng khỏi lực ép của ngón tay (bật lửa ga).
Một lớp chắn bằng kim loại có các lỗ hút khí được người ta chụp xung quanh nơi cấp nguồn lửa, nó được thiết kế để cho phép không khí vẫn có thể trộn lẫn với hơi chất cháy (xăng, butan) đồng thời làm giảm thiểu tác động của gió. Vòi phun trong các bật lửa ga cho phép việc trộn hỗn hợp theo nguyên lý Bernoulli, vì thế các lỗ lấy không khí trong loại này có xu hướng nhỏ hơn và xa hơn đối với chỗ tạo lửa.
Bật lửa trên ô tô
Phần lớn các ô tô cũng được lắp đặt một thiết bị để lấy lửa chạy điện. Thiết bị này bao gồm một cuộn dây mỏng làm từ sợi hợp kim nicrôm, khi kích hoạt thiết bị này thì có một dòng điện khoảng 15-20 ampere chạy qua nó. Phần tử phát nhiệt sẽ bị nóng đỏ lên trong một khoảng thời gian ngắn và nó có khả năng đốt cháy đầu điếu thuốc và bùi nhùi để tạo ra lửa.
Ổ cắm điện của "bật lửa" này có nguồn điện 12 volt cũng có thể dùng cho các mục đích khác; chẳng hạn như chạy các bộ dao cạo điện, đền rọi di chuyển được hay máy tính xách tay (laptop), điện thoại di động, PDA, các bộ điều hợp USB, máy nghe nhạc kỹ thuật số hay thậm chí các tủ lạnh nhỏ hoạt động theo nguyên lý nhiệt điện. Đối với các thiết bị chỉ hoạt động với
Trong một số xe ô tô đời mới, do nhiều người đã bỏ hút thuốc nên các "bật lửa" loại này đã được thay thế bằng ổ điện 12 volt và nó không hoạt động như là bật lửa nữa.
Đá lửa
Đá lửa dùng trong các loại bật lửa là hợp kim sắt-xêri (ferrocerium), nó có khả năng tạo ra tia lửa khi bị cào xước trên một bề mặt ráp (khả năng dẫn lửa). Nó còn được biết đến như là kim loại Auer theo tên người phát minh ra nó là Nam tước Carl Auer von Welsbach, nó được bán dưới các tên thương phẩm như là Blastmatch, Fire steel (thép lửa), và Metal-match (diêm kim loại).
Nguyên lý tạo tia lửa của nó là do ma sát khi đá lửa bị mài mòn tức thời. Nguyên lý này tương tự như nguyên lý tạo lửa từ đá lửa của người tiền sử và thời cổ đại, nhưng khác ở chỗ trong các loại "đá lửa" của người tiền sử và thời cổ đại thì đá lửa cắt vật thể khác có độ cứng thấp hơn, còn trong loại đá lửa hiện đại này thì chính nó bị vật khác cắt.
"Đá lửa" trong các bật lửa được chế tạo từ các kim loại đất hiếm, thông thường từ xêri hay các kim loại khác trong nhóm này, chúng là các kim loại có nhiệt độ đánh lửa thấp (150-180 °C). Do các mảnh nhỏ dễ đánh lửa hơn nên các thuộc tính cơ học của các kim loại đất hiếm cần được điều chỉnh sao cho chúng dễ sử dụng; để làm được điều này có hai hướng để tạo ra các hợp kim giòn hơn:
Oxide - phần lớn các loại đá lửa hiện đại được làm cứng bằng oxide sắt (khoảng 20%) và oxide magiê (khoảng 2%).
Kim loại trung gian - trong hợp kim nguyên thủy của Nam tước von Welsbach, 30% sắt (ferrum) được thêm vào xêri (cerium) tinh khiết, vì thế có tên gọi "ferro-cerium". Sắt phản ứng với kim loại đất hiếm để tạo ra các hợp chất kim loại trung gian cứng, tương tự như các chất có trong nam châm neôđim (neodymium); các loại nam châm này cũng rất dễ phát sinh ra các tia lửa khi bị vỡ đột ngột.
Xem thêm
Diêm
Bật lửa Zippo (bật lửa xăng)
Tham khảo
Liên kết ngoài
Thiết bị tạo lửa
Thuốc lá
Hàng gia dụng
Phát minh của Đức
|
23775
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BB%B1c%20T%C3%A0u
|
Mực Tàu
|
Mực Tàu (hay mực tầu) là một loại mực màu đen đã từng được sử dụng rộng rãi trong quá khứ để viết, in và vẽ, còn hiện nay nói chung vẫn được sử dụng để vẽ, đặc biệt là được các thầy đồ dùng để viết thư pháp.Thời ngày xưa, người ta thường mài mực trước khi viết và dùng bút lông để thể hiện nét bút. Trong ngôn ngữ như tiếng Anh gọi nó là Indian ink hay India ink (tức là mực Ấn Độ) do người Anh biết đến loại mực này là từ Ấn Độ, tuy nhiên nguồn gốc chính xác của nó thì chưa ai biết rõ là bắt đầu từ đâu.
Lịch sử
Các chuyên luận sớm nhất về nghệ thuật có nói đến mực Tàu đã được người Trung Quốc và Ai Cập cổ đại điều chế ra. Nền tảng của mực này là chất màu cacbon đen pha trong chất keo lỏng hay các môi trường gắn kết khác. Ở châu Âu, người ta biết đến mực Tàu khá muộn. Đôi khi trước thế kỷ 12, Eraclius trong cuốn "De Coloribus et Artibus Romanorum" của mình đã trình bày một tập hợp các cách chế tạo một vài loại mực cacbon, bao gồm cả loại tương tự như mực Tàu của Trung Quốc, được làm từ muội than của nhựa hoặc gỗ bị đốt cháy. Các dạng gỗ khác nhau sẽ tạo ra các loại mực có tông màu khác nhau đáng kể. Trong cuốn sách của người Anh năm 1581 về chữ viết tay, Theophilus đã trình bày công thức chế tạo mực cacbon:
To make Inke in haste
In hast, for a shift when ye have a great neede,
Take woll, or wollen to stand you in steede,
Which burnt in the fyre, the powder beate small:
With vinegar, or water make Inke withall.
Như công thức đã chỉ ra, vật liệu kết dính là không cần thiết: các phân tử cacbon là trong dạng thể vẩn chất keo và tạo ra một lớp không thấm nước sau khi khô đi; mặc dù thông thường sen-lắc không thấm nước vẫn được bổ sung.
Ở châu Âu, trong những năm đầu thế kỷ 20 thì mực Tàu đã thay thế cho mực mụn cây-sắt phổ biến rộng rãi trước đây.
Mực Tàu không phù hợp cho các loại bút máy: nó nhanh chóng làm tắc bút. Ngoại lệ duy nhất là mực "Fount India" của Pelikan, nó không chứa sen-lắc.
Xem thêm
Bút lông
Nghiên
Bút
Mực
Tham khảo
Tàu
Chất liệu nghệ thuật
Phát minh của Trung Quốc
Vẽ
Phát minh của Ấn Độ
Thư pháp Đông Á
Hội họa Trung Quốc
|
23778
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%87%20t%E1%BB%8Da%20%C4%91%E1%BB%99%20x%C3%ADch%20%C4%91%E1%BA%A1o
|
Hệ tọa độ xích đạo
|
Hệ tọa độ xích đạo là hệ tọa độ thiên văn được sử dụng nhiều cho các quan sát bầu trời từ Trái Đất. Nó là hệ tọa độ gắn bó chặt chẽ với hệ tọa độ địa lý, vì ở đây người ta sử dụng chung một mặt phẳng quy chiếu và chung các cực. Hình chiếu của xích đạo Trái Đất lên thiên cầu được gọi là xích đạo trời. Tương tự, chiếu các cực địa lý lên thiên cầu ta sẽ có thiên cực Bắc và thiên cực Nam.
Có hai biến thể:
1. Hệ góc giờ cố định so với Trái Đất giống như hệ tọa độ địa lý. Hai tọa độ trong hệ này là:
xích vĩ (δ)
góc giờ (H)
2. Hệ xích kinh cố định so với các sao ở xa (thực ra không hẳn như vậy nếu tính đến các hiện tượng tiến động và chương động). Hai tọa độ trong hệ này là:
xích vĩ (δ)
xích kinh (α)
Trong một đêm hoặc vài đêm, khi quan sát từ mặt đất, hệ xích kinh có vẻ xoay trên trời cùng với các sao. Điều này là do hệ xích kinh gần như cố định với nền sao, còn Trái Đất quay dưới bầu trời cố định.
Do hiện tượng tiến động và chương động, phương xuân phân (điểm xuân phân, vernal equinox) dùng để làm mốc tính xích kinh và xích vĩ thay đổi chậm trên nền sao. Khi xác định phương xuân phân và tính tọa độ các thiên thể theo mốc này cần dùng phương xuân phân của một kỷ nguyên gần với ngày quan sát. Hiện nay các quan sát thiên văn dùng phương xuân phân của thời đại J2000.0; các dữ liệu cũ hơn dùng B1950.0.
Hướng cơ bản
Hướng cơ bản của một hệ quy chiếu thiên thể là một điểm mốc nằm trên mặt phẳng tham chiếu, cùng với một quy ước chiều dương để tính tọa độ kinh độ; ở hệ tọa độ xích đạo và hệ tọa độ hoàng đạo nó là điểm xuân phân. Trên thực tế điểm hướng mốc không hoàn toàn cố định. Một sự chuyển động chậm của trục Trái đất, gọi là tiến động trục quay hay tuế sai, gây ra sự quay chậm, liên tục của hệ tọa độ về phía tây về các cực hoàng đạo, hoàn thành một vòng quay theo chu kỳ khoảng 26.000 năm. Sự tiến động trục quay còn được tổng hợp với một sự tiến động nhỏ hơn của hoàng đạo, và một sự dao động nhỏ của trục quay Trái Đất gọi là chương động.
Nhằm cố định vị trí chính xác của điểm mốc hướng cơ bản, các chuyển động này yêu cầu phải chỉ rõ điểm phân của một thời điểm ngày tháng, được gọi là một kỷ nguyên thiên văn, khi đưa ra một vị trí trong hệ tọa độ xích đạo. Ba loại điểm phân thường được sử dụng là:
Điểm phân trung bình của một kỷ nguyên (thường là kỷ nguyên J2000.0, nhưng có thể là B1950.0, B1900.0,...)
là một hướng điểm mốc cố định tiêu chuẩn, cho phép các vị trí ở những ngày tháng khác nhau có thể được so sánh trực tiếp.
Điểm phân trung bình của ngày
là giao điểm của hoàng đạo của "ngày" (tức là hoàng đạo ở một vị trí trong một ngày tháng cụ thể) với xích đạo trung bình (tức là, xích đạo được quay tới vị trí hiện tại trong "ngày" đó do tiến động, nhưng không có sự dao động nhỏ theo chu kỳ của chương động). Nó thường được sử dụng trong tính toán quỹ đạo hành tinh.
Điểm phân thực của ngày
là giao điểm của hoàng đạo của "ngày" với xích đạo thực (tức là, xích đạo trung bình cộng với chương động). Đây là giao điểm thật sự của hai mặt phẳng ở mọi thời điểm bất kỳ, với mọi chuyển động đều được tính đến.
Một vị trí trong hệ tọa độ hoàng đạo do đó thường được chỉ rõ, chẳng hạn theo điểm phân thực và hoàng đạo của ngày, điểm phân trung bình và hoàng đạo của J2000.0, hay tương tự. Lưu ý rằng không có "hoàng đạo trung bình", bởi hoàng đạo không có sự dao động nhỏ theo chu kỳ.
Tọa độ cầu
Tọa độ cầu của một ngôi sao thường được biểu diễn bằng một cặp tọa độ cầu, gọi là xích kinh và xích vĩ, nhưng thường bỏ qua khoảng cách. Hướng của các thiên thể đủ xa được coi là tương tự nhau đối với mọi người quan sát Trái Đất, nên thuận tiện khi chỉ cần xác định hướng này với cùng một tọa độ chung. Ngược lại, trong hệ tọa độ chân trời, vị trí của cùng một ngôi sao là khác nhau đối với những người quan sát ở các vị trí khác nhau của họ trên bề mặt Trái Đất và liên tục thay đổi theo chuyển động quay của Trái Đất.
Kính thiên văn được trang bị giá đỡ xích đạo và các đĩa tròn điều chỉnh sử dụng hệ tọa độ xích đạo để tìm kiếm các thiên thể. Việc thiết lập các đĩa tròn kết hợp với bản đồ sao hoặc lịch thiên văn cho phép kính thiên văn dễ dàng quay và hướng vào các thiên thể đã biết trên thiên cầu.
Xem thêm các bài Xích vĩ và Xích kinh
Xích vĩ
Góc kiểu vĩ độ của hệ tọa độ xích đạo được gọi là xích vĩ (ký hiệu "delta" , viết tắt theo tiếng Anh là Dec). Nó là khoảng cách góc giữa vectơ nối tâm Trái Đất với thiên thể (ở phía Bắc hay phía Nam xích đạo thiên cầu) và mặt phẳng xích đạo. Nó có giá trị dương với thiên thể ở phía Bắc xích đạo thiên cầu, và âm với các thiên thể ở phía Nam. Ví dụ, thiên cực Bắc có giá trị xích vĩ +90°. Gốc của xích vĩ là xích đạo thiên cầu, tức là hình chiếu của xích đạo Trái Đất lên thiên cầu. Xích vĩ là khái niệm tương tự với vĩ độ địa lý.
Xích kinh
Góc kiểu kinh độ được gọi là xích kinh (ký hiệu "alpha" , viết tắt theo tiếng Anh là RA). Nó là khoảng cách góc dọc theo xích đạo thiên cầu, giữa vòng giờ đi qua thiên thể và mặt phẳng đi qua thiên cực và điểm xuân phân, tức là một trong hai giao điểm của hoàng đạo với xích đạo thiên cầu. Góc được quy ước có giá trị dương nếu thiên thể nằm ở phương Đông và âm nếu thiên thể nằm ở phương Tây. Khác với xích vĩ và khác với kinh độ, xích kinh thường được đo bằng giờ (phút, giây) thay vì bằng độ, bởi vì sự quay biểu kiến của hệ tọa độ xích đạo gắn chặt với thời gian sao và góc giờ. Một cách đo xích kinh là đo thời gian quá cảnh kinh tuyến của các thiên thể. Vì bầu trời quay trọn một vòng sau 24 giờ, nên một giờ xích kinh bằng 15 độ ( = 15°).
Góc giờ
Một tọa độ thay cho xích kinh là góc giờ hay góc giờ địa phương (viết tắt theo tiếng Anh là HA hay LHA, local hour angle), một tọa độ quy ước tay trái, là khoảng cách góc của một thiên thể theo chiều tây dọc theo xích đạo thiên cầu, từ kinh tuyến địa phương của người quan sát tới vòng giờ đi qua thiên thể. Không giống xích kinh, góc giờ luôn tăng với sự quay của Trái Đất. Góc giờ có thể được xem là một cách đo thời gian từ lúc đỉnh điểm trên, thời điểm mà một thiên thể tiếp xúc với kinh tuyến trực tiếp phía trên bầu trời tại nơi người quan sát.
Một ngôi sao tại cực điểm nằm trên kinh tuyến của một người quan sát được gọi là có góc giờ bằng 0 (0h). Một giờ sao (khoảng 0,9973 giờ theo thời gian mặt trời) sau đó, sự tự quay của Trái đất sẽ đưa ngôi sao về phía tây của kinh tuyến, và góc giờ của nó sẽ là 1 giờ. Khi tính toán các hiện tượng trong hệ quy chiếu trên mặt đất, xích kinh có thể được chuyển đổi thành góc giờ như một bước trung gian.
Tọa độ xích đạo mở rộng
Mở rộng thành hệ tọa độ cầu-cực
Với xích kinh và xích vĩ, hệ tọa độ xích đạo chỉ có thể xác định phương tới các thiên thể chứ không thể xác định khoảng cách tới các thiên thể. Để xác định cả khoảng cách tới các thiên thể trong không gian 3 chiều, người ta thêm tọa độ thứ ba, đó là khoảng cách () từ tâm Trái Đất tới thiên thể. Khi đó hệ tọa độ xích đạo này là hệ tọa độ cầu-cực.
Hệ tọa độ trục vuông góc
Tọa độ xích đạo địa tâm
Có một vài biến thể hệ trục vuông góc của tọa độ xích đạo, và chúng đều có:
Gốc tọa độ đặt tại tâm Trái Đất.
Mặt phẳng cơ bản là mặt phẳng xích đạo Trái Đất.
Hướng cơ bản (hướng của trục ) là hướng tới điểm xuân phân, tức là, vị trí nơi Mặt Trời cắt qua xích đạo thiên cầu về hướng bắc trong chuyển động biểu kiến chu kỳ hàng năm quanh hoàng đạo.
Quy tắc bàn tay phải, xác định trục nằm theo hướng về phía đông 90° so với trục trên mặt phẳng cơ bản và trục dọc theo trục cực bắc.
Các hệ quy chiếu đều không quay cùng với Trái Đất (trái ngược với các hệ quy chiếu tâm Trái Đất và cố định Trái Đất), luôn hướng tới điểm phân và thay đổi chậm theo thời gian với các chuyển động tiến động và chương động.
Trong thiên văn học:
Vị trí của Mặt Trời thường được xác định trong các tọa độ trục vuông góc địa tâm , , và một tọa độ thứ tư là khoảng cách , .
Vị trí của các hành tinh và các thiên thể khác trong hệ Mặt Trời thường được xác định trong các tọa độ vuông góc địa tâm , , và một tọa độ thứ tư là khoảng cách, (bằng ), tính bằng đơn vị thiên văn. Các tọa độ vuông góc trên được liên hệ với tọa độ cầu tương ứng theo các công thức
Trong động lực học thiên thể:
Vị trí của các vệ tinh Trái Đất nhân tạo được xác định theo tọa độ xích đạo địa tâm, còn gọi là hệ xích đạo địa tâm quán tính (GEI), hệ quán tính địa tâm (ECI), và hệ quán tính quy ước (CIS), tất cả đều tương đương theo định nghĩa với hệ xích đạo vuông góc địa tâm thiên văn ở trên. Trong hệ xích đạo địa tâm, các trục , và còn được viết là , và , tương ứng, hay các cơ sở của hệ được xác định bởi các vectơ đơn vị , và .
Hệ quy chiếu Địa tâm Thiên thể (GCRF) là hệ địa tâm tương ứng của Hệ quy chiếu Thiên thể Quốc tế (ICRF). Hướng cơ bản của hệ này là điểm phân của J2000.0, và không di chuyển theo tiến động và chương động, nhưng về mặt khác cũng tương đương với các hệ trên.
Tọa độ xích đạo nhật tâm
Trong thiên văn học, một biến thể trục vuông góc nhật tâm của hệ tọa độ xích đạo còn được sử dụng, ký hiệu là , , , và có:
Gốc tọa độ đặt tại tâm Mặt Trời.
Mặt phẳng cơ bản trùng với mặt phẳng xích đạo Trái Đất.
Hướng cơ bản (trục ) là hướng tới điểm xuân phân.
Quy tắc bàn tay phải xác định trục nằm theo hướng về phía đông 90° so với trục trên mặt phẳng cơ bản và trục dọc theo trục cực bắc của Trái Đất.
Hệ quy chiếu này tương đương với hệ , , ở trên về mọi mặt, ngoại trừ gốc tọa độ được đặt tại tâm Mặt Trời. Nó thường được sử dụng trong tính toán quỹ đạo hành tinh. Các tọa độ trục vuông góc thiên văn nói trên có liên hệ sau:
Mở rộng cho các hành tinh
Hệ tọa độ xích đạo có thể được mở rộng để áp dụng cho các quan sát thiên văn từ hành tinh khác trong hệ Mặt Trời. Chúng cũng sử dụng xích đạo của hành tinh làm mặt phẳng tham chiếu, và điểm xuân phân của hành tinh làm điểm mốc tính kinh độ và vĩ độ. Chúng có thể được gọi với tên chung là hệ tọa độ tâm hành tinh.
Tham khảo
Working with planetary coordinate reference system
Xem thêm
Hệ tọa độ thiên văn
Hệ tọa độ tâm hành tinh
Khoảng cách cực
Chòm sao xích đạo
Thiên văn học mặt cầu
Vị trí sao
Liên kết ngoài
MEASURING THE SKY A Quick Guide to the Celestial Sphere James B. Kaler, University of Illinois
Celestial Equatorial Coordinate System University of Nebraska-Lincoln
Celestial Equatorial Coordinate Explorers University of Nebraska-Lincoln
Hệ tọa độ thiên văn
Thuật ngữ thiên văn học
|
23781
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/N%C4%83m%20Julius%20%28thi%C3%AAn%20v%C4%83n%29
|
Năm Julius (thiên văn)
|
Bài này nói về khoảng thời gian được sử dụng trong thiên văn.Đối với năm trong lịch Julius, xem bài Lịch Julius.
Trong thiên văn học, năm Julius là đơn vị đo thời gian được định nghĩa chính xác bằng 365,25 ngày hay 31.557.600 giây. Tên gọi này có nguồn gốc từ thực tế là nó tương ứng với độ dài trung bình của năm trong lịch Julius đã từng được sử dụng trong cộng đồng thế giới phương Tây trong các thế kỷ trước. Tuy nhiên, về nền tảng thì nó chỉ là cách thức trực giác thuận tiện để đo các khoảng lớn về ngày (không phải các năm "thực sự" như năm chí tuyến hay năm thiên văn), và do vậy nó không có mối liên hệ nào với các kiểu duy trì thời gian theo ngày-tháng-năm trong lịch Julius hay bất kỳ loại lịch nào khác.
Năm Julius được sử dụng chủ yếu nhằm mục đích tạo thuận lợi trong các công trình lịch thiên văn, trong đó việc liệt kê số ngày có thể là cồng kềnh và khó nhớ (ví dụ, sẽ dễ dàng/dễ nhớ hơn nếu biểu diễn chu kỳ quỹ đạo của Diêm Vương Tinh là 248 năm Julius thay vì 90.590 ngày). Về trực quan, nó là đơn vị dễ hiểu hơn và rất gần với độ dài thực tế của năm, ngoài ra các khoảng cách được đo theo năm Julius cũng dễ dàng được chuyển đổi ngược lại thành các khoảng cách đo theo ngày mà không có các phần thập phân dài dòng, rắc rối và khó nhớ.
Năm Julius không nên nhầm lẫn với ngày Julius, là đơn vị cũng được sử dụng trong thiên văn. Mặc dù có sự tương tự trong tên gọi, nhưng ở đây không có sự liên hệ nào giữa chúng. Năm Julius không phải là 365,25 "ngày Julius", nó đơn giản bằng 365,25 ngày. Ngày Julius không phải là đơn vị đo thời gian, mà nó đơn giản chỉ là việc đếm đuổi các ngày với sự lựa chọn ngẫu nhiên điểm bắt đầu từ trong quá khứ xa xôi, với số chỉ mỗi ngày tiếp theo sẽ lớn hơn số chỉ ngày hôm trước là 1 đơn vị, một cách để chỉ ra ngày mà không cần tham chiếu tới tháng hay năm. Ở khía cạnh khác, năm Julius là đơn vị đo thời gian và không phải là việc đếm đuổi của năm. Các nhà thiên văn không nói những câu tương tự như "năm nay là năm Julius 2005" (là câu tương tự như khi nói "giờ này là giờ thứ 245"); thay vì thế họ sử dụng các câu tương tự như "chu kỳ thiên văn của Diêm Vương Tinh là 248,0208 năm Julius".
Chỉ định và đặt tên các kỷ nguyên
Lưu ý rằng năm Julius trong thiên văn là đơn vị thuần túy để đo thời gian và khoảng thời gian, nó không được sử dụng như bất kỳ loại lịch hay các hệ thống duy trì thời gian nào khác. Các nhà thiên văn không sử dụng lịch Julius đối với các sự kiện đương đại: khi họ cần đề cập đến ngày tháng cụ thể nào đó (chẳng hạn ngày diễn ra nhật thực sắp tới), thì họ sử dụng lịch Gregory tương tự như những người khác. Tuy nhiên, đối với các sự kiện xảy ra trước khi có lịch Gregory (vào ngày 15 tháng 10 năm 1582 thì lịch Julius với năm lịch sử từ ngày 1 tháng 1 tới 31 tháng 12 được sử dụng.
Tuy nhiên, năm Julius là nền tảng để đặt tên các kỷ nguyên tiêu chuẩn sử dụng trong thiên văn. Một kỷ nguyên đơn giản chỉ rõ một thời điểm thời gian chính xác. Kỷ nguyên Julius J2000.0 được đồng bộ chính xác vào 12:00 TT (gần nhưng không chính xác bằng thời điểm giữa trưa theo GMT) ngày 1 tháng 1 năm 2000 trong lịch Gregory (không phải lịch Julius), và các kỷ nguyên tương lai có thể tính toán và đặt tên theo số ngày kể từ đó, chia cho 365,25. Vì thế, kỷ nguyên tương lai "J2100.0" sẽ chính xác bằng 36525 ngày kể từ kỷ nguyên J2000.
Tuy nhiên, thực sự nó không có mục đích sử dụng thực tế nào như là của các hệ thống lịch hiện đang được áp dụng (nó được đồng bộ với ngày 1 tháng 1 năm 2000 của lịch Gregory mà không phải của lịch Julius với cùng một tên gọi, chúng lệch nhau khoảng 2 tuần, do nó sử dụng năm Julius nên nó sẽ lệch khỏi lịch Gregory sau vài trăm năm). Ngoài ra, nó đơn giản chỉ là cách chuyển đổi thuận tiện để liệt kê và đặt tên gọi các kỷ nguyên.
Trong thiên văn, các vị trí của các ngôi sao (xích kinh và xích vĩ, tương ứng với kinh độ và vĩ độ địa lý) dần dần thay đổi do tuế sai, vì thế khi chỉ rõ các tọa độ của một ngôi sao nào đó thì cần thiết phải đề cập rõ là các tọa độ này được áp dụng cho kỷ nguyên nào. Ngoài ra, các thông số quỹ đạo của các hành tinh cũng thay đổi nhẹ theo một gốc liên tục do các hiệu ứng của sự nhiễu loạn hấp dẫn, vì thế chúng cũng phải được chỉ rõ là áp dụng cho kỷ nguyên nào. Kỷ nguyên tiêu chuẩn được sử dụng ngày nay là J2000, nhưng vì các lý do thực tế nên một kỷ nguyên tiêu chuẩn mới sẽ được lựa chọn cứ sau khoảng mỗi 50 năm.
Tham khảo
Explanatory supplement to the Astronomical Amanac. P. Kenneth Seidelmann, editor. Mill Valley, Cal.: University Science Books, 1992. Trang 8, 696, 698-9, 704, 716, 730.
Xem thêm
Năm điểm cận nhật
Năm thiên văn
Năm chí tuyến
Liên kết ngoài
"Năm" (trên Trái Đất hoặc Sao Hỏa) là gì?
Đơn vị đo thời gian
Lịch thiên văn
Thuật ngữ thiên văn học
Đơn vị thời gian
Thời gian trong thiên văn học
|
23784
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Heracles
|
Heracles
|
Heracles (tiếng Hy Lạp: Ηρακλης - Herakles, trong thần thoại La Mã, vị anh hùng này được gọi là Hercules, phiên âm: Hê- cra- lét) là một bán thần và là con của Thần Zeus, tên ông được đặt cho chòm sao Hercules.
Những chiến công của Heracles vang dội khắp bốn phương, mang ý nghĩa sâu sắc, tượng trưng cho sức mạnh chinh phục thiên nhiên của con người thời xưa.
Thời niên thiếu
Vào thời điểm lúc bấy giờ, thần Zeus đang đau đầu vì lời phán truyền của những nữ thần Số Mệnh: đỉnh Olympia sẽ bị xâm lăng bởi những Gigantos - Đại Khổng Lồ và khi ấy chỉ có một vị anh hùng kiệt xuất người trần gian mới giúp được. Zeus liền xuống trần, giả dạng chồng của Alcmene để ái ân với Alcmene dài gấp ba lần đêm bình thường, bởi Zeus đã ra lệnh cho thần Mặt Trời không được mọc như hàng ngày. Mấy hôm sau, Amphitryon, chồng thật của Alcmene trở về từ chiến trường, thấy thái độ của vợ khác thường, đâm ra nghi ngờ lòng chung thủy của vợ. Cuối cùng, Amphitrion quyết định đến đền thờ xin lời chỉ dẫn. Được lời phán truyền làm yên lòng, Amphitrion dẹp bỏ mối lo về Alcmene.
Một thời gian sau, Alcmene có mang và sinh đôi: Một đứa con trai của Amphitryon là Iphicles và một đứa con trai của Zeus là Heracles, tuy nhiên lúc này cậu bé có tên Alcides. Nhưng vào lúc đó nữ thần Hera cũng biết được tin tức về cuộc tình vụng trộm này, vốn bản tính ghen tuông sẵn có, Hera đã giở thủ đoạn để trả thù: đầu tiên, bà ta chọn lúc thần Zeus đang vui mà bắt thần hứa rằng sẽ trao ngôi báu của xứ Mycenae cho một hậu duệ thuộc dòng dõi người anh hùng Perseus (vừa là tổ tiên bên ngoại, vừa là anh trai cùng cha khác mẹ của Heracles) ra đời sớm nhất trong tương lai và nhận được sự chấp thuận của Zeus, vì Zeus tin chắc rằng đứa con của mình sẽ ra đời sớm nhất. Sau đó bà ta sai nữ thần Ilithi chuyên phụ trách việc sinh nở xuống trần gian đẩy nhanh việc sinh nở của hoàng hậu thuộc xứ Mycenae, cũng đang mang thai một hậu duệ thuộc dòng Perseus, và vị hoàng hậu đó đã sinh ra Eurystheus, người sau này sẽ phụ trách việc đày đọa Heracles trong 12 năm nhưng cũng góp phần gián tiếp tạo nên 12 chiến công hiển hách, vĩ đại của Heracles, mặc dù hắn mới nằm trong bụng mẹ có 7 tháng. Việc này khiến cho thần Zeus dù rất giận dữ, nhưng cũng không thể làm gì khác vì thần Zeus phải tuân thủ lời hứa của mình, và buộc phải chấp nhận trao ngôi báu cho Eurystheus ốm yếu.
Zeus rất đỗi vui mừng vì có một cậu con trai. Vào một đêm nọ, thần xuống trần bế chú bé Heracles lên cung điện Olympus, lén đặt vào lòng nữ thần Hera để bú trộm sữa. Khi Hera phát hiện Heracles và đẩy phắt cậu ra thì cậu đã bú gần no. Tương truyền lúc Hera đẩy cậu ra, sữa của nữ thần văng khắp bầu trời, tạo thành sông Ngân Hà. Nhờ được uống sữa của Hera mà sau này cậu bé mới trở nên bất tử. Vì vậy, thần Zeus đặt tên mới cho cậu bé là "Heracles", có nghĩa "Vinh quang của Hera".
Nữ thần Hera thù ghét Heracles, ngay đêm đó đã sai hai con rắn bò vào nôi của hai đứa trẻ để mổ chết Heracles. Iphicles khóc thét khiến hai vợ chồng Amphitryon chạy tới. Họ nhìn thấy một cảnh tượng kì lạ: Heracles đang cầm hai con rắn trên hai tay và bóp cổ chúng cho tới chết.
Ngay từ hồi sơ sinh, Heracles đã bộc lộ sức mạnh phi thường. Lớn lên, cậu được theo học cách điều khiển xe ngựa, võ thuật, cung tên... và cả âm nhạc, nghệ thuật, khoa học. Heracles vô cùng hứng thú với các môn võ nghệ, tiếc thay về khoa học và nghệ thuật, cậu rất lười và học dốt thậm tệ các môn này. Thầy giáo dạy nhạc trong một lần giận dữ vì Heracles không thuộc bài nên giơ tay đánh cậu. Heracles nổi cáu, vớ cây đàn lia (có người bảo là cái ghế), đánh vào đầu thầy. Không may, thầy dạy nhạc ngã xuống chết do đòn đánh quá mạnh. Người cha dượng Amphitrion lo sợ Heracles sẽ lại gây ra tội lỗi nên gửi cậu đến chỗ nhân mã Chiron - người từng dạy dỗ biết bao nhân tài của đất Hi Lạp. Ông hi vọng cảnh thanh bình trên núi cao sẽ làm dịu đi bản tính nóng nảy của con mình, hơn nữa như thế cũng hợp với sự phóng khoáng và hiếu động của cậu bé. Ở trên núi với thầy Chiron, Heracles dần trở thành học trò xuất sắc nhất về cả võ nghệ lẫn cung tên. Năm 18 tuổi, Heracles đã trở thành một chàng thanh niên khỏe mạnh, lực lưỡng, cao to, chàng từ giã thầy xuống núi, bắt đầu sự nghiệp giúp đỡ dân lành.
Những chiến công đầu tiên & bi kịch gia đình
Trước khi lập nên mười hai kì tích, Heracles đã tiêu diệt được một con sư tử ở vùng Chiteron. Con sư tử này vừa to lớn vừa hung dữ, nó đã tàn sát vô số người dân vô tội. Nó cũng bắt đi gia súc. Heracles dù lúc này mới mười tám tuổi nhưng chàng đã tình nguyện đi diệt trừ ác thú. Chàng đã phải mất năm mươi ngày mới hạ nổi con sư tử bằng cách dùng chùy để giết nó. Chàng còn hỗ trợ quân thành Thebes chiến thắng quân xâm lược. Đó chính là hai chiến công lớn đầu tiên của Heracles.
Vua thành Thebes là Creon biết ơn Heracles nên đã gả con gái là công chúa Megara cho chàng. Gia đình Heracles rất hạnh phúc và đầm ấm, hai vợ chồng còn sinh được ba người con trai (có nguồn kể rằng sinh được những tám người con). Nhưng tai họa đã đổ ập xuống đầu họ vì Hera vẫn mang trong lòng mối căm ghét con riêng của Zeus. Nữ thần giáng một cơn điên cuồng kì lạ vào Heracles, làm chàng mất hết lý trí và ra tay sát hại vợ con mình. Đến khi tỉnh lại thì mọi thứ đã quá muộn, Heracles chỉ còn biết ôm lấy xác người thân mà khóc. Chàng đến khấn cầu thần Apollo ở đền Delphi, mong được ban cho lời chỉ dẫn để tẩy trừ tội lỗi của bản thân. Thần Apollo phán với Heracles rằng chàng sẽ phải làm nô lệ cho nhà vua Eurystheus xứ Mycenae trong mười hai năm và trong mười hai năm đó chàng sẽ lập được mười hai kỳ công vĩ đại. Vì vậy, Heracles đành nộp mình nô dịch cho Eurystheus.Sau khi Heracles đã hoàn thành được mười hai kỳ công, chàng còn lập nhiều kì công khác như tham gia vào đoàn 50 người anh hùng của tàu Argonauts đi đoạt lại bộ lông cừu vàng, đánh hạ thành Troy,...
Trong một chuyến đi, vợ chàng - Deianira - bị nhân mã Nessus bắt cóc. Heracles đã bắn mũi tên tẩm máu độc của con long xà ở Lerna để hạ Nessus. Trước khi chết, Nessus lừa Deianira lấy máu của anh ta tẩm vào một chiếc áo và nói rằng đó là bùa yêu, chỉ cần đưa cho Heracles mặc thì chàng sẽ yêu cô suốt đời. Heracles sau khi mặc chiếc áo thì bị nhiễm chất độc, vô cùng đau đớn và đã nhờ tráng sĩ Philoctetes - một tay cung nổi tiếng - hỏa thiêu chàng với cái giá là bó cung tẩm chất độc của con long xà ở Lerna.
Sau khi Heracles chết, thần Zeus - cha chàng - đã biến chàng thành bất tử theo thỏa thuận với nữ thần Hera. Heracles từ đó sống với các vị thần bất tử trên đỉnh Olympus. Chàng còn góp công rất lớn trong trận chiến của các vị thần với các Gigantos, để trả ơn chàng cũng như hóa giải mối thù hận lâu năm, Hera đã gả con gái mình là nữ thần Hebe cho Heracles.
Mười hai kỳ công của Heracles
Heracles nổi tiếng nhất với Mười hai kỳ công khi phải làm nô lệ cho vua Eurystheus để chịu sự trừng phạt cho việc giết vợ con của mình - một hành động là kết quả của một cơn điên do Hera gây nên. Mười hai kỳ công của Heracles, theo thứ tự về thời gian, là:
Giết con Sư tử Nemea
Giết Quái vật Hydra ở Lerna
Bắt sống con Hươu cái ở Cerynaea của Artemis
Bắt sống con lợn lòi núi Erymanthus
Dọn sạch chuồng bò của Augeas
Diệt đàn chim và con Ác điểu Stymphalus
Bắt sống con Bò mộng đảo Crete
Đoạt Bầy ngựa cái của Diomedes
Đoạt chiếc Thắt lưng của Hippolyta, nữ hoàng bộ tộc Amazon
Đoạt đàn bò của Geryon
Đoạt những quả Táo vàng của chị em Hesperides
Bắt con chó ba đầu Cerberus
Do thần thoại có một số dị bản nên ở mỗi dị bản, thứ tự các chiến công có khác nhau đôi chút.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Anh hùng thần thoại Hy Lạp
Thần thoại La Mã
Thần thoại Hy Lạp
Nhân vật trong thần thoại Hy Lạp
|
23787
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%B9a%20B%C3%BAt%20Th%C3%A1p
|
Chùa Bút Tháp
|
Chùa Bút Tháp (Ninh Phúc tự 寧福寺) nằm ở bên đê hữu ngạn sông Đuống, thôn Bút Tháp, xã Đình Tổ, thị xã Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Ngoài ra, nhân dân trong vùng còn gọi là chùa Nhạn Tháp, chùa Thấp. Tên cũ của chùa trước đây gồm có: Thiếu Lâm Tự, Hoàng Cung Tự.
Trong chùa có tượng Quan Âm thiên thủ thiên nhãn bằng gỗ lớn nhất Việt Nam. Đây cũng là một di tích quốc gia đặc biệt của Việt Nam được xếp hạng đợt 4.
Lịch sử
Để xác định chùa có từ bao giờ thì chưa có nhà nghiên cứu nào đưa ra một tài liệu chính xác. Theo sách Địa chí Hà Bắc (1982) thì chùa có từ đời vua Trần Thánh Tông (1258-1278). Thiền sư Huyền Quang (đỗ Trạng nguyên năm 1297) đã trụ trì ở đây. Ông cho dựng ngọn tháp đá cao 9 tầng có trang trí hình hoa sen. Ngọn tháp này nay không còn nữa. Đến thế kỷ 17, chùa đã trở nên nổi tiếng với sư trụ trì là Hòa thượng Chuyết Chuyết (1590-1644), người tỉnh Phúc Kiến, Trung Hoa, sang Việt Nam năm 1633 và trụ trì ở chùa. Năm 1644, Hòa thượng viên tịch và được vua Lê phong là "Minh Việt Phổ Giác Quảng Tế Đại Đức Thiền Sư". Tiếp đó, người kế nghiệp trụ trì chùa Bút Tháp là Thiền sư Minh Hạnh, học trò xuất sắc của Hòa thượng Chuyết Chuyết. Vào thời gian này, Hoàng thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc (Diệu Viên) đã rời bỏ cung thất, về đây tu hành. Thấy chùa bị hư nát nhiều, bà cùng con gái là công chúa Lê Thị Ngọc Duyên (Diệu Tuệ), xin phép Chúa Trịnh Tráng, rồi bỏ tiền của, ruộng lộc ra công đức để trùng tu lại ngôi chùa. Đến năm 1647, chùa mới được làm xong. Chùa kiến trúc theo kiểu "Nội Công Ngoại Quốc". Về cơ bản, quy mô và cấu trúc của chùa Bút Tháp hiện nay chính là ngôi chùa được xây dựng trong thời kỳ đó.
Đời vua Tự Đức, năm 1876, khi vua qua đây thấy có một cây tháp hình dáng khổng lồ liền gọi tên là Bút Tháp, nhưng trên đỉnh vẫn ghi là tháp Bảo Nghiêm.
Chùa được trùng tu vào các năm 1739, 1903, 1915, 1921 và gần đây vào năm 1992-1996. Đây là ngôi chùa có kiến trúc quy mô hoàn chỉnh nhất còn lại ở Việt Nam.
Với những giá trị tiêu biểu về lịch sử và nghệ thuật, chùa Bút Tháp đã được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng là di tích cấp quốc gia theo quyết định số 313-VH/VP ngày 28 tháng 4 năm 1962.
Kiến trúc
Đây là một trong không nhiều ngôi chùa cổ, có quy mô kiến trúc lớn của Đồng bằng Bắc Bộ còn lại đến ngày nay. Chùa có kiến trúc độc đáo, bố cục hài hòa giữa kiến trúc với môi trường thiên nhiên. Toàn bộ kiến trúc chính của chùa quay theo hướng Nam, một hướng truyền thống của người Việt. Đối với đạo Phật hướng Nam là hướng của trí tuệ, của bát nhã.
Quần thể kiến trúc còn giữ lại nhiều di tích của thế kỷ 17. Cụm kiến trúc trung tâm ở Chùa Bút Tháp bao gồm 8 đơn nguyên chạy song hành được bố trí đăng đối trên một đường "Thần Đạo" và được bao bọc bởi hai dãy hành lang chạy suốt dọc chùa ở hai bên, đó là tòa Tiền Đường Thượng Điện, cầu đá tòa Thích Thiện Am Trung Đường, phủ thờ nhà Hậu Đường và hàng tháp đá. Sự bố trí chặt chẽ ở khu vực trung tâm này thể hiện một nội dung tư tưởng về giáo lý của đạo Phật. Phật điện của chùa gần như nguyên sơ của chùa cổ Việt Nam, gồm 10 nếp nhà nằm trên một trục dài hơn 100 m. Qua cửa Tam quan, đến gác chuông hai tầng, tám mái.
Chùa chính với ba dãy nhà Tiền đường - Thiên hương - Thượng điện tạo thành chữ "công". Cách bố trí như vậy làm nổi bật điện thờ bên trong với các pho tượng.
Kiến trúc chùa vẫn dùng khung gỗ chịu lực nhưng nền bệ lan can dùng đá rất phổ biến, trên có những hình động vật được khắc trông sinh động và độc đáo. Trang trí được thể hiện ở mọi nơi trên các chất liệu gỗ và đá, ở kiến trúc và ở các đồ thờ. Đặc biệt trên lan can tòa Thượng Điện có 26 bức chạm khắc đá, trên lan can cầu đá nối với Tòa Thích Thiện Am có 12 bức và ở lan can quanh chân tháp Báo Nghiêm có 13 bức. Như vậy tổng cộng các bức chạm khắc đá ở chùa Bút Tháp là 51 với những đề tài khác nhau, nhưng đều thống nhất với nhau ở mặt chất liệu, phong cách và thống nhất về niên đại.
Hình ảnh chạm khắc ở đây sống động tươi vui hàm chứa ý nghĩa Phật đạo và đặc biệt mang đậm nét tính chất nghệ thuật thiền. Các bức chạm đều tập trung về đề tài thiên nhiên phong phú sinh động như Tứ Linh Quý.
Tượng phật Quan Âm nghìn mắt nghìn tay
Chùa Bút Tháp có nhiều tượng cổ với giá trị thẩm mỹ cao, trong đó nổi bật nhất là tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay thế kỷ XVII. Bức tượng này là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của nền văn hóa và nghệ thuật Việt Nam, đánh dấu mốc cho sự phát triển của tinh thần dân tộc. Bức tượng được Thủ tướng Chính phủ công nhận là Bảo vật quốc gia trong Đợt đầu tiên năm 2012.
Tượng Quan âm Bút Tháp được bảo quản tốt từ khi ra đời cho đến những năm 1950, khi chiến tranh chống Pháp lan rộng ra đồng bằng Bắc bộ. Từ năm 1950 - 1953, làng Bút Tháp chịu nhiều trận công kích của Pháp, chùa Bút Tháp bị trúng nhiều đạn pháo, nhiều công trình bị đổ. Đặc biệt trận đánh năm 1953, cả làng Bút Tháp bị thiêu trụi, trừ ngôi chùa này. Các tượng Phật cũng mất mát và hư hỏng nhiều trong khói lửa. Trong kháng chiến chống Mỹ, do chiến tranh bom đạn lan rộng, bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam đã đưa tượng Phật bà Quan âm đi sơ tán và trả lại sau chiến tranh. Quá trình đó và cả sau này, tượng Quan âm bị giới nghệ thuật và lịch sử đổ thạch cao, làm phiên bản nhiều lần, thậm chí người ta ốp thẳng khuôn thạch cao lên tượng. Nên pho tượng bị bong tróc và hỏng nhiều chi tiết. Nhiều đoạn nối giữa khuỷu tay và cánh tay, nhiều ngón tay hỏng không được sửa cẩn thận mà chỉ được đắp bằng thạch cao rồi phủ sơn lên, nay thạch cao rời ra để lộ những chỗ nối. Một vài chi tiết bị gãy mất, và bốn con quỷ đội bệ bốn góc cũng bị mất.
Đợt trùng tu lớn năm 1993, trong đó có cả một số tượng được tu sửa, nhưng những tượng này hỏng nhanh hơn các tượng không được tu sửa. Do không có phương tiện hiện đại soi chụp, các nhà nghiên cứu không rõ tượng Quan âm Bút Tháp có nhiều ổ rỗng hay không, nhưng chất lượng thân tượng là tương đối tốt, trừ 42 tay lớn do chịu lực giơ tự nhiên, (nhất là tay vươn cao) đều dễ bong gãy. Phần đầu tượng, các chi tiết trang trí trên mũ cũng bị sứt gãy nhiều, và có lẽ phần này bên trong lõi gỗ không còn tốt nữa, cũng bởi nơi nhiều chi tiết, người xưa sử dụng phương pháp đắp đất trộn sơn, nên khả năng hỏng cũng nhiều hơn nơi thuần là gỗ.
Các tác phẩm điêu khắc cổ
Ngoài tượng Phật bà nghìn mắt nghìn tay, hai kiệt tác điêu khắc khác nữa làm thành một bộ ba tác phẩm danh bất hư truyền là tượng Tây Thiên Đông Độ Việt Nam lịch đại Tổ sư và tượng Thị Kính. Pho tượng Tuyết Sơn ở đây cũng là một kiệt tác của thế kỷ 17.
Ngoài ra, trong chùa có nhiều pho tượng gỗ được tạc trong tư thế quỳ, đứng, ngồi với nét mặt thành kính trông rất sinh động như pho tượng Kim Đồng - Ngọc Nữ; tượng La Hán thể hiện cảm xúc nội tâm, mang nặng ý tưởng Phật giáo.
Phủ thờ nằm sau Phật điện là ngôi nhà 5 gian có hai pho tượng đáng chú ý. Hai pho tượng này là chân dung hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc đầu đội vương miện nhưng khoác áo tu hành, và công chúa Ngọc Duyên. Cả hai pho tượng đều ngồi theo dáng toạ thiền.
Tượng cổ thường có xu hướng rỗng lõi, nhiều nơi đã bơm các hóa chất đặc vào trong, như vậy sẽ làm pho tượng hỏng nhanh trong tương lai, chỉ có thể lấy gỗ mít cũ, nghiền ra mùn cưa trộn với sơn ta và đất phù sa nhét vào chỗ rỗng thì bền lâu. Hiện tại chất lượng kỹ thuật của các tượng Phật Bút Tháp không đồng đều. Những tượng gỗ vẫn còn tốt, những tượng lõi gỗ với chi tiết đắp đất phủ sơn bong tróc nhiều. Những tượng đất phủ sơn hoàn toàn xuống cấp nặng. Những pho tượng được sơn mới và trùng tu đều có xu hướng hỏng, và hỏng từ bên trong do màng sơn mới làm tượng không thở được.
Từ thượng điện, đi qua một chiếc cầu đá có ba nhịp uốn cong dẫn đến ngôi nhà gọi là Tích Thiện am. Trên cầu có 12 bức phù điêu đá chạm chim muông hoa lá. Tích Thiện am là một ngôi nhà có ba tầng mái. Trong Tích thiện am, có cây Cửu Phẩm Liên Hoa, là một tháp bằng gỗ 9 tầng, 8 mặt, có thể quay tròn quanh một trục, có gắn tượng Phật và chạm những cảnh dân gian hay lấy đề tài trong Phật thoại.
Tháp Báo Nghiêm
Chùa có tháp Báo Nghiêm thờ Hoà thượng Chuyết Chuyết, đỉnh tháp là ngọn bút trông giống như cây bút khổng lồ vươn thẳng tới trời cao thanh vắng. Tháp cao 13,05 mét, năm tầng với một phần đỉnh xây bằng đá xanh; ngoài tầng đáy rộng hơn với mái hiên nhô ra; bốn tầng trên gần giống nhau, mỗi cạnh rộng 2 m. Năm góc của 5 tầng có 5 quả chuông nhỏ. Lòng tháp có một khoang tròn đường kính 2,29 m. Ngoài kỹ thuật xây dựng đá, phần bệ tượng được bao quanh bằng hai vòng tường cấu tạo bằng cột và lan can. Riêng ở tầng dưới cùng của toà tháp này có mười ba bức chạm đá với lấy đề tài chủ yếu là các con thú. Tháp thể hiện tài ghép đá và nghệ thuật điêu khắc tuyệt vời của người thợ Việt Nam xưa.
Các đời trụ trì
Huyền Quang (Lý Đạo Tái (1254 - 1333)) thiền sư
Chuyết Công hòa thượng: Minh Việt Phổ Giác Quảng Tế Đại đức Thiền Sư
Minh Hành thiền sư
Sa Môn Tính Hài 1739
Đại đức Thích Thanh Sơn (hiện nay)
Lễ hội
Lễ hội chùa Bút Tháp (địa phương trong vùng quen gọi là hội chùa Thấp) diễn ra vào ngày 24 tháng 3 âm lịch là một lễ hội lớn với nhiều nghi lễ và các trò chơi dân gian, thu hút đông đảo khách thập phương trong và ngoài tỉnh đến dự.
Tham khảo
Liên kết ngoài
10 kỷ lục văn hóa Phật giáo Việt Nam
Bút Tháp
Thuận Thành
Du lịch Bắc Ninh
Kiến trúc cổ Việt Nam
|
23793
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nam%20Phi%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
Nam Phi (định hướng)
|
Nam Phi, trong tiếng Việt, có thể là:
Vùng phía nam của lục địa châu Phi. Vùng Nam Phi bao gồm các quốc gia: Angola, Botswana, Eswatini, Lesotho, Madagascar, Malawi, Mauritius, Mozambique, Namibia, Cộng hòa Nam Phi, Zambia và Zimbabwe, hay
Quốc gia Cộng hòa Nam Phi trong vùng này.
|
23794
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%A2n%20C%E1%BA%A3ng
|
Tân Cảng
|
Tân Cảng có thể là:
Tên gọi một cảng sông trên sông Sài Gòn tại Thành phố Hồ Chí Minh trước đây. Danh xưng này còn được đặt cho:
Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn: một doanh nghiệp quân đội trực thuộc Quân chủng Hải quân và quản lý cảng sông này
Ga Tân Cảng: một ga tàu điện của tuyến đường sắt đô thị số 1 và số 5 tại Thành phố Hồ Chí Minh
Cầu Tân Cảng: nay là cầu Sài Gòn
Hương Tân Cảng, huyện Gia Nghĩa, tỉnh Đài Loan, Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan)
Khác
|
23800
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%8Bch%20Julius
|
Lịch Julius
|
Lịch Julius, hay như trước đây phiên âm từ tiếng Pháp sang là lịch Juliêng, được Julius Caesar giới thiệu năm 46 TCN và có hiệu lực từ năm 45 TCN (709 ab urbe condita). Nó đã được lựa chọn sau khi có sự tư vấn của nhà thiên văn người Alexandria là Sosigenes và đã được thiết kế để gần đúng với năm chí tuyến, đã được biết ít nhất là từ thời Hipparchus. Nó có các năm thường 365 ngày được chia thành 12 tháng, và ngày nhuận được thêm vào tháng Hai sau mỗi 4 năm. Vì thế năm Julius trung bình dài 365,25 ngày.
Lịch Julius được duy trì sử dụng cho đến tận thế kỷ 20 ở một số quốc gia và hiện vẫn còn được một số nhà thờ Chính thống giáo sử dụng. Tuy nhiên, quá nhiều ngày nhuận được thêm vào để phù hợp với các mùa thiên văn trong sơ đồ này. Trung bình, các điểm phân và điểm chí diễn ra sớm hơn khoảng 11 phút trên năm so với lịch Julius, làm cho lịch này có thêm một ngày dư ra sau mỗi 134 năm. Trong khi Hipparchus và có lẽ cả Sosigenes đã biết về sai khác này (mặc dù có thể không phải là giá trị chính xác), nó đã được coi là ít quan trọng. Tuy nhiên, nó tích lũy đáng kể theo thời gian và cuối cùng dẫn đến sự cải cách lịch năm 1582 trong đó người ta đã thay thế lịch Julius bằng lịch Gregorius có độ chính xác cao hơn.
Ký hiệu "kiểu cũ" (OS) đôi khi được sử dụng để chỉ ngày tháng trong lịch Julius, ngược lại với "kiểu mới" được dùng để chỉ ngày tháng trong lịch Gregorius. Ký hiệu này được sử dụng khi có nguy cơ gây nhầm lẫn các số liệu về ngày tháng trong các văn bản.
Từ La Mã tới Julius
Năm thông thường trong lịch La Mã trước đó chứa 12 tháng có tổng cộng 355 ngày. Để bổ sung, tháng nhuận, Mensis Intercalaris, đôi khi được chèn vào giữa tháng Hai và tháng Ba. Tháng nhuận này được tạo ra bằng cách chèn 22 ngày trước 5 ngày cuối cùng của tháng Hai, tạo ra tháng có 27 ngày. Nó bắt đầu khi tháng Hai bị cắt ngắn có 23 hay 24 ngày, vì thế nó có tác dụng thêm vào 22 hay 23 ngày đối với năm, tạo ra năm nhuận có 377 hay 378 ngày.
Theo Censorinus và Macrobius, chu kỳ nhuận lý tưởng bao gồm các năm thường có 355 ngày xen kẽ với các năm nhuận, mà các năm nhuận này lại xen kẽ các năm 377 và 378 ngày. Trong hệ thống này, năm La Mã trung bình là 366,25 ngày trong 4 năm, làm cho nó có sự chuyển dịch trung bình khoảng 1 ngày trên năm khi so sánh với bất kỳ điểm chí hay điểm phân nào. Macrobius miêu tả một sự hoàn thiện hơn nữa, trong đó có 8 năm trong tổng số 24 năm chỉ có 3 năm nhuận có 377 ngày và 5 năm thường 355 ngày (16 năm còn lại là 8 năm thường, 4 năm nhuận 377 ngày và 4 năm nhuận 378 ngày). Sự hoàn thiện này làm cho độ dài trung bình của năm là 365,25 ngày trên 24 năm. Trong thực tế, các năm nhuận không diễn ra dưới dạng giản đồ phù hợp với các hệ thống lý tưởng này, mà được các giáo hoàng xác định. Như có thể xác định từ các chứng cứ lịch sử, chúng đã không diễn ra có quy luật như là các mô hình lý tưởng đề xuất. Chúng thường diễn ra trong năm thứ hai hay thứ ba của chu kỳ 4 năm, nhưng đôi khi bị bỏ quên lâu hơn, và thỉnh thoảng diễn ra trong 2 năm liên tiếp.
Nếu quản lý chính xác hệ thống này thì về trung bình năm La Mã sẽ khá phù hợp với năm chí tuyến. Tuy nhiên, nếu quá nhiều năm nhuận bị bỏ quên, giống như đã xảy ra sau cuộc chiến tranh lần thứ hai của người La Mã với người Punici (Poenici) và trong thời kỳ nội chiến, thì lịch đã nhanh chóng dịch xa ra khỏi sự phù hợp với năm chí tuyến. Ngoài ra, do các năm nhuận thông thường được xác định rất muộn, do đó nói chung thì các công dân La Mã thường là không biết về ngày đó, cụ thể là nếu anh (chị) ta ở một nơi nào đó khá xa thành phố. Vì các lý do này, những năm cuối cùng trước khi lịch Julius ra đời sau này được gọi là các năm lộn xộn. Các vấn đề trở nên gay gắt trong thời kỳ Julius Caesar đảm nhận chức vụ hoàng đế, từ năm 63 TCN tới năm 46 TCN, trong thời gian này chỉ có 5 tháng nhuận thay vì 8 và đã không có tháng nhuận nào trong 5 năm La Mã cuối cùng trước năm 46 TCN.
Cải cách của Julius đã có ý định chỉnh sửa điều này một cách vĩnh cửu. Trước khi nó có hiệu lực, số ngày nhuận bị bỏ quên trước đó trong thời kỳ làm Giáo hoàng của Julius Caesar đã được bù lại bằng cách chèn 67 ngày (22+23+22) giữa tháng 11 và tháng 12 của năm 46 TCN trong dạng hai tháng để bổ sung cho 23 ngày đã được thêm vào từ tháng Hai. Vì thế 90 ngày đã được bổ sung cho năm này của lịch Cộng hòa La Mã, làm cho nó có tới 445 ngày. Do nó là năm cuối cùng của loạt các năm bất quy tắc, nên năm rất dài này đã và đang được nói đến như là năm lộn xộn cuối cùng. Năm đầu tiên để lịch mới được sử dụng là năm 45 TCN.
Sai sót năm nhuận
Mặc dù lịch mới là đơn giản hơn nhiều so với lịch La Mã, nhưng các Giáo hoàng hình như vẫn hiểu sai thuật toán. Họ thêm ngày nhuận sau mỗi 3 năm thay vì sau mỗi 4 năm. Theo Macrobius, sai sót này là kết quả của việc tính gộp, vì thế chu kỳ 4 năm đã được coi như là bao gồm cả năm thứ nhất và năm thứ tư. Điều này tạo ra quá nhiều ngày nhuận. Caesar Augustus khắc phục sự khác biệt này bằng cách phục hồi tần suất chính xác sau 36 năm sai lầm. Ông cũng bỏ qua một số ngày nhuận nhằm tổ chức lại lịch của năm.
Trật tự lịch sử của các năm nhuận (tức các năm có ngày nhuận) trong thời kỳ này đã không được các nguồn sử liệu cổ đại đưa ra rõ ràng, mặc dù sự tồn tại của chu kỳ năm nhuận ba năm một lần đã được xác nhận bởi câu ghi lại trên bia có niên đại khoảng từ năm 9 TCN tới năm 8 TCN. Nhà niên đại học Joseph Scaliger năm 1583 đã thiết lập được là cải cách của Augustus đã diễn ra năm 8 TCN, và suy luận ra là chuỗi các năm nhuận thời kỳ đó là các năm 42, 39, 36, 33, 30, 27, 24, 21, 18, 15, 12, 9 TCN, 8, 12 v.v. Giả thiết này vẫn là giải pháp được chấp nhận rộng rãi nhất hiện nay. Đôi khi người ta cũng cho rằng năm 45 TCN cũng đã là năm nhuận.
Nhiều giải pháp khác cũng đã được đưa ra theo thời gian. Năm 1614, Kepler đề nghị rằng chuỗi chính xác các năm nhuận thời đó là 43, 40, 37, 34, 31, 28, 25, 22, 19, 16, 13, 10 TCN, 8, 12 v.v. Năm 1883, nhà niên đại học người Đức Matzat đề nghị các năm 44, 41, 38, 35, 32, 29, 26, 23, 20, 17, 14, 11 TCN, 4, 8, 12 v.v., dựa vào một đoạn trong Dio Cassius có đề cập tới ngày nhuận của năm 41 TCN và được nói trong đó là mâu thuẫn với quy tắc (của Caesar). Trong những năm thập niên 1960, Radke cho rằng cải cách trên thực tế được thực hiện khi Augustus trở thành Giáo hoàng Maximus năm 12 TCN, và cho rằng chuỗi đúng phải là 45, 42, 39, 36, 33, 30, 27, 24, 21, 18, 15, 12 TCN, 4, 8, 12 v.v.
Năm 1999, một tờ giấy cói (papyrus) Ai Cập đã được công bố, nó cung cấp bảng lịch thiên văn cho năm 24 TCN theo cả ngày tháng của người La Mã và người Ai Cập. Từ điều này, nó có thể chỉ ra là chuỗi có khả năng nhất là 44, 41, 38, 35, 32, 29, 26, 23, 20, 17, 14, 11, 8 TCN, 4, 8, 12 v.v, rất gần với chuỗi mà Matzat đưa ra. Chuỗi này chỉ ra rằng chuỗi năm nhuận Julius chuẩn được bắt đầu từ năm 4, năm thứ mười hai của cải cách của Augustus. Ngoài ra, theo chuỗi này thì năm La Mã thực tế đã đồng nhất với năm Julius đón trước trong khoảng thời gian từ năm 32 TCN tới 26 TCN. Điều này giả thiết rằng một trong các mục đích của việc tổ chức lại lịch của cải cách Augustus là để đảm bảo các ngày tháng quan trọng trong sự nghiệp của ông, nổi tiếng nhất là ngày thất thủ của Alexandria, ngày 1 tháng 8 năm 30 TCN, đã không bị ảnh hưởng bởi sự chỉnh sửa của ông.
Ngày tháng La Mã trước năm 32 TCN thông thường là diễn ra từ 1 đến 2 ngày trước ngày có cùng ngày Julius như thế, vì thế ngày 1 tháng 1 trong lịch La Mã của năm đầu tiên sau cải cách của Julius trên thực tế rơi vào ngày 31 tháng 12 năm 46 TCN (ngày Julius). Một hiệu ứng lạ lùng của điều này là sự ám sát Caesar diễn ra vào ngày Ides (ngày thứ 15) của tháng 3 năm 44 TCN chính là ngày 14 tháng 3 năm 44 TCN trong lịch Julius.
Đặt tên các tháng
Ngay sau cải cách của Julius, mười hai tháng của lịch La Mã đã được đặt tên là Ianuarius, Februarius, Martius, Aprilis, Maius, Iunius, Quintilis, Sextilis, September, October, November và December, giống như tên gọi của chúng trước cải cách. Nhưng độ dài của chúng đã được thiết lập lại theo các giá trị như ngày nay. Tháng nhuận cũ (Mercedonius) đã bị bãi bỏ và thay thế bằng ngày nhuận duy nhất tại cùng thời điểm (tức là 5 ngày trước khi kết thúc tháng Februarius). Tháng đầu tiên của năm vẫn tiếp tục là Ianuarius, giống như nó đã là như thế kể từ năm 153 TCN.
Người La Mã sau đó đổi tên các tháng theo tên gọi của Caesar và Augustus, họ đổi tên Quintilis (nguyên thủy là "tháng thứ Năm", với tháng Ba = tháng thứ nhất) thành Iulius (tháng Bảy) vào năm 44 TCN và Sextilis ("tháng thứ Sáu") thành Augustus (tháng Tám) vào năm 8 TCN. (Cũng lưu ý rằng chữ cái J đã không có cho đến tận thế kỷ 17). Quintilis đã được đổi tên để tưởng nhớ tới Caesar do nó là tháng sinh nhật của ông. Theo senatusconsultum được Macrobius trích dẫn, Sextilis đã được đổi tên để tưởng nhớ Augustus vì một số trong số các sự kiện đáng kể nhất trong thời kỳ nắm quyền của ông, mà tột đỉnh của nó là thất thủ của Alexandria, đã diễn ra trong tháng này.
Các tháng khác cũng đã được đổi tên bởi các vị hoàng đế khác, nhưng nói chung không có sự thay đổi nào trong số này tồn tại sau khi họ chết. Caligula đổi tên September (tức "tháng thứ Bảy") thành Germanicus; Nero đổi tên Aprilis (tháng Tư) thành Neroneus, Maius (tháng Năm) thành Claudius và Iunius (tháng Sáu) thành Germanicus; và Domitian đổi tên September thành Germanicus và October ("tháng thứ Tám") thành Domitianus. Vào thời khác, September cũng đã được đổi tên thành Antoninus và Tacitus, và November ("tháng thứ Chín") đã được đổi tên thành Faustina và Romanus. Commodus là người duy nhất trong việc đổi tên cả 12 tháng theo các tên mà ông chấp nhận, theo trật tự từ tháng 1 tới tháng 12 là: Amazonius, Invictus, Felix, Pius, Lucius, Aelius, Aurelius, Commodus, Augustus, Herculeus, Romanus, Exsuperatorius.
Tồn tại lâu hơn cả trong số các tên gọi sớm nở tối tàn của thời kỳ các hoàng đế La Mã hậu Augustus là các tên gọi do Charlemagne đưa ra. Ông đổi tên tất cả các tháng theo cách gọi nông nghiệp trong tiếng Đức cổ. Chúng đã được sử dụng cho đến tận thế kỷ 15, và với một số sửa đổi thì dùng cho đến tận cuối thế kỷ 18 tại Đức và Hà Lan, theo trật tự từ tháng 1 đến tháng 12 là: Wintarmanoth (tháng mùa đông), Hornung (mùa xuân), Lentzinmanoth (tháng ăn chay), Ostarmanoth (tháng Phục Sinh), Winnemanoth (tháng chăn thả), Brachmanoth (tháng cày bừa), Heuvimanoth (tháng cỏ khô), Aranmanoth (tháng thu hoạch), Witumanoth (tháng củi gỗ), Windumemanoth (tháng rượu vang), Herbistmanoth (mùa thu/tháng thu hoạch) và Heilagmanoth (tháng Thánh). Sự phiên dịch tên gọi của các tháng này ngày nay vẫn còn được sử dụng trong một số ngôn ngữ Slav, chẳng hạn như trong tiếng Ba Lan.
Độ dài các tháng
Theo học giả Sacrobosco (thế kỷ 13) thì sơ đồ nguyên thủy của các tháng trong lịch Julius là rất đều, xen kẽ các tháng dài và ngắn. Từ tháng 1 đến tháng 12 thì độ dài các tháng (theo Sacrobosco cho lịch Cộng hòa La Mã) là:
30, 29, 30, 29, 30, 29, 30, 29, 30, 29, 30, 29, tổng cộng 354 ngày.
Sacrobosco cho rằng Julius Caesar đã thêm 1 ngày vào mọi tháng, ngoại trừ tháng Hai, tổng cộng là 11 ngày nữa, tạo ra năm có 365 ngày. Ngày nhuận có lẽ đã được thêm vào tháng Hai trong năm nhuận:
31, 29 (hay 30), 31, 30, 31, 30, 31, 30, 31, 30, 31, 30
Ông cho rằng sau đó Augustus đã thay đổi nó thành:
31, 28 (hay 29), 31, 30, 31, 30, 31, 31, 30, 31, 30, 31
tạo ra độ dài các tháng rất không có quy tắc, làm sao để độ dài của tháng Augustus không thể ngắn hơn (và như thế là kém hơn) độ dài của tháng Iulius. Đây chính là độ dài các tháng mà ngày nay chúng ta đang dùng.
Mặc dù giả thuyết này vẫn còn được nhắc lại một cách rộng rãi, nhưng nó có lẽ là sai. Thứ nhất, một bức vẽ trên tường về lịch Cộng hòa La Mã vẫn còn tồn tại Bức họa lịch La Mã nó xác nhận rằng độ dài các tháng đã không đều trước khi Julius Caesar cải cách nó:
29, 28, 31, 29, 31, 29, 31, 29, 29, 31, 29, 29
Ngoài ra, cải cách Julius đã không thay đổi các ngày Nones và Ides. Cụ thể thì các ngày Ides là muộn (trong ngày thứ 15 chứ không phải thứ 13) trong các tháng 3, 5, 7 và 10, nó chỉ ra rằng các tháng này luôn luôn có 31 ngày trong lịch La Mã, trong khi thuyết của Sacrobosco cho rằng độ dài của tháng 10 đã bị thay đổi. Ngoài ra, thuyết của Sacrobosco là mâu thuẫn một cách rõ ràng với các thuyết của các tác giả thế kỷ 3 và 5 là Censorinus và Macrobius, và cuối cùng thì nó là mâu thuẫn với các độ dài các mùa được Varro đưa ra năm 37 TCN (trước khi có cải cách của Augustus), với ngày thứ 31 Sextilis được đưa ra trong tờ giấy cói Ai Cập từ năm 24 TCN, và với tháng Hai 28 ngày được chỉ ra trong Fasti Caeretani có niên đại trước năm 12 TCN.
Đánh số năm
Phương pháp chủ yếu mà người La Mã đã dùng để xác định năm cho các mục đích ngày tháng là đặt tên nó theo ngày mà hai quan chấp chính tối cao nhận nhiệm vụ. Từ năm 153 TCN, họ đã nhận công việc vào ngày 1 tháng 1, và Julius Caesar đã không thay đổi sự bắt đầu của năm. Vì vậy năm chấp chính này đã là năm theo tên quan chấp chính hoặc năm được đặt tên. Các năm La Mã đã được đặt tên theo cách này cho đến khi quan chấp chính cuối cùng đã được đề cử vào năm 541. Rất ít khi người La Mã đánh số năm kể từ khi thành lập thành phố Roma, ab urbe condita (AUC). Phương pháp này đã được các nhà sử học La Mã sử dụng để xác định số năm từ một sự kiện cho đến một sự kiện khác mà không dùng để xác định năm. Các nhà sử học khác nhau có các ngày tháng khác nhau cho ngày thành lập Roma. Fasti Capitolini, một bản khắc chứa danh sách chính thức các quan chấp chính đã được Augustus công bố, sử dụng kỷ nguyên năm 752 TCN. Kỷ nguyên được Varro sử dụng là năm 753 TCN đã được nhiều nhà sử học hiện đại chấp nhận. Vì thế các biên tập viên thời kỳ Phục Hưng thường bổ sung nó vào các bản thảo mà họ xuất bản, tạo ra một ấn tượng sai là người La Mã đã đánh số các năm của họ. Phần lớn các nhà sử học hiện đại ngầm giả sử rằng nó bắt đầu vào ngày mà các quan chấp chính nhận nhiệm vụ và các tài liệu cổ như Fasti Capitolini (sử dụng các hệ thống AUC khác) cũng làm tương tự. Tuy nhiên, năm AUC của Varro về hình thức không bắt đầu vào ngày 1 tháng 1, mà là vào "ngày Thành lập", 21 tháng 4. Điều này đã ngăn không cho nhà thờ La mã thời kỳ đầu không kỷ niệm ngày Phục Sinh sau ngày 21 tháng 4 vì các hoạt động lễ hội gắn liền với Ngày Thành lập đã mâu thuẫn với nghi lễ trọng thể của mùa ăn chay là điều phải tuân thủ cho đến tận thứ bảy trước Lễ Phục Sinh vào ngày chủ nhật.
Bổ sung thêm cho các năm quan chấp chính thì người La Mã đôi khi sử dụng năm cầm quyền của hoàng đế. Anno Diocletiani, được đặt tên theo Diocletian, thông thường được những người Thiên chúa giáo gốc Alexandria sử dụng để đánh số các lễ Phục Sinh của họ trong thế kỷ 4 và 5. Năm 537, Justinian đã ra lện từ nay trở đi thì ngày tháng phải thêm cả tên của hoàng đế, để bổ sung thêm cho năm chỉ mục và tên quan chấp chính (điều cuối cùng này chỉ kết thúc 4 năm sau đó). Sắc lệnh này làm cho năm của Byzantin bắt đầu vào ngày 1 tháng 9, nó vẫn được sử dụng tại các giáo hội Chính thống giáo phương Đông để tính thời điểm bắt đầu của năm tế lễ. Năm 525 Dionysius Exiguus đề nghị hệ thống anno Domini, nó dần dần được phổ biến trong thế giới Thiên chúa giáo phương Tây, khi mà hệ thống này được Bede chấp nhận. Các năm được đánh số từ ngày được cho là ngày hiện thân của Chúa Giê-su hay ngày Lễ Truyền Tin, tức ngày 25 tháng 3, mặc dù nó nhanh chóng được đổi sang ngày Lễ Giáng Sinh, sau đó lại quay lại ngày Lễ Truyền Tin tại Anh, và năm được đánh số cuối cùng đã bắt đầu vào Lễ Phục Sinh tại Pháp.
Từ Julius tới Gregorius
Nói chung lịch Julius đã được sử dụng ở châu Âu từ thời kỳ Đế chế La Mã cho đến tận năm 1582, khi Giáo hoàng Gregorius XIII công bố lịch Gregorius, nó nhanh chóng được các quốc gia Công giáo chấp thuận. Các quốc gia theo Tin Lành đã theo lịch này muộn hơn, còn các nước Đông Âu thì còn muộn hơn nữa. Vương quốc Anh có ngày thứ Năm 14 tháng 9 năm 1752 tiếp theo ngay sau ngày thứ Tư 2 tháng 9 năm 1752. Thụy Điển chấp nhận lịch mới năm 1753, nhưng có thời kỳ 12 năm bắt đầu từ năm 1700 đã sử dụng lịch Julius sửa đổi. Nga duy trì lịch Julius cho đến tận Cách mạng Nga (chính vì thế nó được gọi là 'Cách mạng tháng Mười Nga' nhưng diễn ra vào tháng 11 theo lịch Gregorius) năm 1917, trong khi Hy Lạp vẫn tiếp tục sử dụng lịch Julius cho đến tận năm 1923.
Mặc dù tất cả các quốc gia Đông Âu đã chấp nhận lịch Gregorius trước hoặc vào năm 1923, nhưng các Giáo hội Chính thống giáo trong nước họ thì lại không như vậy. Lịch Julius cải cách đã được đưa ra trong hội nghị tôn giáo ở Constantinopolis tháng 5 năm 1923, chứa các phần theo Mặt Trời mà chúng đã và sẽ đồng nhất với lịch Gregorius cho đến tận năm 2800, và phần theo Mặt Trăng để tính Lễ Phục Sinh theo thiên văn tại Jerusalem. Tất cả các giáo hội Chính thống giáo đã từ chối việc chấp nhận phần theo Mặt Trăng, vì thế gần như tất cả các giáo hội Chính thống giáo vẫn tiếp tục kỷ niệm Lễ Phục Sinh theo lịch Julius (chỉ có Giáo hội Chính thống giáo Phần Lan sử dụng lễ Phục Sinh Gregorius). Phần theo Mặt Trời chỉ được một số giáo hội Chính thống giáo chấp nhận, bao gồm Constantinople, Alexandria, Antioch, Hy Lạp, Síp, Romania, Ba Lan, Bulgaria (năm 1963), và Giáo hội Chính thống giáo tại Mỹ (viết tắt trong tiếng Anh: OCA) mặc dù một số giáo xứ OCA được cho phép sử dụng lịch Julius). Vì thế, các giáo hội này kỷ niệm Lễ Giáng Sinh cùng một ngày với những người Thiên chúa giáo phương Tây là 25 tháng 12 theo lịch Gregorius cho đến tận năm 2800. Các giáo hội Chính thống giáo Jerusalem, Nga, Serbia, Gruzia, Ukraina và những người Hy Lạp theo lịch cũ vẫn tiếp tục sử dụng lịch Julius đối với những ngày tháng cố định của họ, vì thế họ kỷ niệm Lễ Thánh Đản vào 25 tháng 12 theo lịch Julius (tức 7 tháng 1 theo lịch Gregorius cho đến tận năm 2100).
Xem thêm
Lịch Gregorius
Ngày Julius
Năm Julius
Lịch Julius đón trước
Lịch La Mã
Tham khảo
Liên kết ngoài
Chuyển đổi Julius-Gregorius
Các loại lịch theo thời đại trên WebExhibits.
Ngày tháng La Mã
Lịch La Mã
Lịch Julius-Gregorius tóm tắt - So sánh lịch Julius và Gregorius cho ngày tháng bất kỳ nằm giữa năm 1582 và 2100 bằng cách sử dụng tham chiếu cạnh nhau.
Lịch Julius
La Mã cổ đại
Julius, lịch
Lịch La Mã
|
23805
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C5%A9%20tr%E1%BB%A5%20quan%20s%C3%A1t%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%A3c
|
Vũ trụ quan sát được
|
Vũ trụ quan sát được (hay còn gọi là vũ trụ khả kiến) đối với con người ở Trái Đất là một vùng không gian của vũ trụ tập hợp mọi vật chất, sự vật, hiện tượng mà con người với các phương tiện thiên văn có thể quan sát được trong thời điểm hiện tại.
Các nghiên cứu khoa học hiện đại thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21 đưa đến nhiều khả năng rằng phần quan sát được của vũ trụ là có giới hạn. Vật thể xa nhất mà con người đã quan sát được tính đến 29/9/2022 có lẽ là thiên hà JADES-GS-z13-0, với dịch chuyển đỏ z được ghi nhận là z = 13,2, tương ứng với thời gian ánh sáng di chuyển trong 13,6 tỉ năm, hay ở khoảng cách đồng chuyển động rời xa chúng ta khoảng 33,6 tỷ năm ánh sáng tính cả sự giãn nở của vũ trụ. Một bài báo vào tháng 4 năm 2023 gợi ý rằng JADES-GS-z13-0 trên thực tế không phải là một thiên hà mà là một ngôi sao tối có khối lượng gấp khoảng 1 triệu lần khối lượng Mặt Trời. Thêm 1 ứng cử viên cho vật thể xa nhất vũ trụ là thiên hà F200DB-045. Được phát hiện trong dữ liệu từ quan sát phát hành sớm (ERO) thu được bằng Camera hồng ngoại gần của Kính viễn vọng Không gian James Webb vào tháng 7/2022, F200DB-045 là một thiên hà có độ dịch chuyển đỏ cao, với độ dịch chuyển đỏ ước tính xấp xỉ z = 20,4, tương ứng với 168 triệu năm sau Big Bang, với thời gian ánh sáng di chuyển trong 13,7 tỉ năm, hay ở khoảng cách đồng chuyển động rời xa chúng ta khoảng 36,1 tỷ năm ánh sáng tính cả sự giãn nở của vũ trụ. Nếu được xác nhận, nó sẽ là một trong những thiên hà được biết đến sớm nhất và xa nhất được quan sát thấy. Tuy nhiên, giá trị dịch chuyển đỏ của thiên hà được trình bày theo quy trình trong một nghiên cứu có thể khác với các giá trị được trình bày trong các nghiên cứu khác sử dụng các quy trình khác.
Lịch sử nghiên cứu
Cùng với lịch sử quan sát thế giới nói chung và lịch sử quan sát thiên văn nói riêng, quan niệm của con người về vũ trụ ngày càng mở rộng. Khởi đầu bằng các quan sát về các hiện tượng thời tiết, sự mọc và lặn của Mặt Trời, người Babylon cách đây 4000 năm đã tính ra nhật thực, nguyệt thực và xây dựng âm lịch. Thuyết địa tâm của Claudius Ptolemaeus (90-168) hình dung vũ trụ là một quả cầu với Trái Đất ở tâm, mặt Trời, các hành tinh và các thiên thể khác quay xung quanh.
Thuyết nhật tâm được phát triển bởi Nicolaus Copernicus (1473-1543), Galileo Galilei (1564-1642) và Johannes Kepler (1571-1630) thay thế cho thuyết địa tâm với giả thiết chính rằng Mặt Trời ở giữa, Trái Đất và các hành tinh quay xung quanh đã mở ra một bước tiến mới trong nhận thức vũ trụ.
Hình ảnh
Chú thích
Tham khảo
Liên kết ngoài
Calculating the total mass of ordinary matter in the universe, what you always wanted to know
"Millennium Simulation" of structure forming – Max Planck Institute of Astrophysics, Garching, Germany
Visualisations of large-scale structure: animated spins of groups, clusters, filaments and voids – identified in SDSS data by MSPM (Sydney Institute for Astronomy)
Cosmology FAQ
Forming Galaxies Captured In The Young Universe By Hubble, VLT & Spitzer
NASA featured Images and Galleries
Star Survey reaches 70 sextillion
Animation of the cosmic light horizon
Inflation and the Cosmic Microwave Background by Charles Lineweaver
Logarithmic Maps of the Universe
List of publications of the 2dF Galaxy Redshift Survey
The Universe Within 14 Billion Light Years – NASA Atlas of the Universe – Note, this map only gives a rough cosmographical estimate of the expected distribution of superclusters within the observable universe; very little actual mapping has been done beyond a distance of one billion light-years.
Video: "The Known Universe", from the American Museum of Natural History
NASA/IPAC Extragalactic Database
Cosmography of the Local Universe at irfu.cea.fr (17:35) (arXiv)
Size and age of the Universe – at Astronoo
Vũ trụ học
Q
Vũ trụ học vật lý
|
23807
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thi%C3%AAn%20th%E1%BB%83%20Messier
|
Thiên thể Messier
|
Các thiên thể Messier là tập hợp 110 thiên thể được định vị bởi nhà thiên văn học người Pháp Charles Messier trong quyển Danh mục Tinh vân và đám sao (Catalogue des Nébuleuses et des Amas d'Étoiles) xuất bản lần đầu năm 1774. Messier là một người săn tìm sao chổi và đã bị khó chịu mỗi khi tìm thấy một thiên thể trông giống nhưng không phải là sao chổi. Ông đã xuất bản danh bạ các vật thể đó để giúp các nhà săn tìm sao chổi khác tránh bị mất thời gian khi tìm thấy vật thể đã xác định là không phải sao chổi.
Lần xuất bản đầu tiên chứa 45 thiên thể chưa được đánh số (M1 đến M45). Mười tám thiên thể được Messier phát hiện, phần còn lại được các nhà thiên văn học khác quan sát trước đó. Đến năm 1780, danh mục đã tăng lên 70 thiên thể. Lần xuất bản cuối vào năm 1781, danh mục chứa 103 thiên thể và được in lại trong Connaissance des Temps (Hiểu Biết thời gian) vào năm 1784. Tuy nhiên, do lâu nay người ta cho rằng Messier đã bổ sung không chính xác Messier 102 nên tổng số vẫn là 102. Các nhà thiên văn học khác đã sử dụng các ghi chú bên lề trong các văn bản của Messier để hoàn thiện danh mục, cuối cùng đã điền vào danh mục lên tới 110 thiên thể. Nhiều thiên thể trong danh sách này ngày nay vẫn được biết đến với số thứ tự trong danh mục của Messier.
Danh mục bao gồm một loạt các Thiên thể, từ các cụm sao và tinh vân cho đến các thiên hà. Ví dụ, Messier 1 là một tàn tích siêu tân tinh còn được gọi là Tinh vân Con Cua và Thiên hà Tiên Nữ xoắn ốc lớn là Messier 31. Tiếp theo là bao gồm, bổ sung đầu tiên đến từ Nicolas Camille Flammarion vào 1921, ông đã thêm Messier 104 sau khi tìm thấy ghi chú bên lề của Messier trong mẫu danh mục ấn bản năm 1781 của ông. Messier 105 đến Messier 107 được Helen Sawyer Hogg bổ sung vào năm 1947, Messier 108 và Messier 109 bổ sung bởi Owen Gingerich vào năm 1960 và Messier 110 bổ sung bởi Kenneth Glyn Jones vào năm 1967.
Quan sát
Danh sách Messier được thực hiện từ các công trình của các nhà thiên văn ở Bắc bán cầu Trái Đất, do đó chỉ chứa các thiên thể nằm ở bắc thiên cầu cho tới các thiên thể có xích vĩ nhỏ nhất là –35°. Nhiều thiên thể đẹp và lớn ở Nam thiên cầu, như các Đám mây Magellan Lớn và Nhỏ không có mặt. Các thiên thể Messier đều có thể được quan sát bởi mắt thường hoặc bởi ống nhòm hay kính thiên văn nhỏ khi trời quang và xa thành thị, chúng được các nhà thiên văn nghiệp dư ưa chuộng. Vào đầu mùa xuân, một số người có thể tụ tập và quan sát trong một đêm tất cả các thiên thể Messier, gọi là "Messier Marathon".
Danh sách Thiên thể Messier
Bản đồ sao thiên thể Messier
CHÚ THÍCH: Messier 102 bị thiếu trong bản đồ này.
Xem thêm
Danh sách các đối tượng thiên văn
Danh lục Caldwell
Charles Messier
NGC
Tham khảo
Liên kết ngoài
Messier
Messier
Messier
SEDS Messier Database
Messier gallery
Deep Sky Videos Messier objects
Messier objects at Constellation Guide
Thiên thể Messier
Danh mục thiên văn học
|
23821
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%BAa%20t%E1%BB%83%20Voldemort
|
Chúa tể Voldemort
|
Voldemort (, trong phim) là biệt hiệu của Tom Marvolo Riddle, một nhân vật hư cấu và là nhân vật phản diện chính trong loạt tiểu thuyết Harry Potter của nhà văn nữ người Anh, J. K. Rowling. Voldemort xuất hiện lần đầu trong Harry Potter và Hòn đá phù thủy, được xuất bản vào năm 1997. Voldemort xuất hiện trực tiếp hoặc trong các đoạn hồi tưởng trong mỗi cuốn sách và loạt phim chuyển thể cùng tên ngoại trừ phần ba, Harry Potter và tên tù nhân ngục Azkaban, trong đó hắn chỉ được nhắc đến chứ không lộ diện.
Voldemort là kẻ thù không đội trời chung của Harry Potter, người mà theo lời tiên tri có "sức mạnh đánh bại Chúa tể Hắc ám". Hắn ta cố gắng giết cậu bé, nhưng thay vào đó lại giết cha mẹ của cậu, Lily và James Potter, và để lại cho Harry một vết sẹo trên đầu dưới hình dạng một tia chớp. Gần như mọi phù thủy hoặc pháp sư không dám thốt ra tên của hắn và thay vào đó gọi hắn bằng những biệt hiệu như "Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy", "Kẻ-chớ-gọi-tên-ra". Nỗi ám ảnh của Voldemort với sự thuần khiết của dòng máu cho thấy mục tiêu của hắn ta là loại bỏ dòng dõi Muggle (không có phép thuật) trong thế giới phù thủy và chinh phục cả hai thế giới, Muggle và phù thủy, để đạt được sự thống trị của dòng máu thuần chủng. Thông qua gia đình bên ngoại, Voldemort là hậu duệ cuối cùng của pháp sư Salazar Slytherin, một trong bốn người sáng lập Trường Phù thủy và Pháp sư Hogwarts. Hắn là thủ lĩnh của Tử thần Thực tử, một nhóm các pháp sư và phù thủy độc ác chuyên tiêu diệt Thế giới Phù thủy của Muggles và đưa Voldemort trở thành kẻ thống trị tối cao tại đây.
Phát triển nhân vật
Trong một cuộc phỏng vấn năm 1999, Rowling cho biết Voldemort được coi là kẻ thù không đội trời chung của Harry Potter, và lúc đầu bà cố ý không tiết lộ cốt truyện của Voldemort. "Ý tưởng cơ bản là Harry không biết bản thân là một phù thủy ... Và vì vậy tôi đã làm việc ngược lại từ vị trí đó để tìm hiểu xem điều đó có thể xảy ra như thế nào, rằng cậu bé sẽ không biết mình là người như thế nào. ... Khi cậu được một tuổi, tên phù thủy độc ác nhất hàng trăm năm đã định giết cậu. Hắn ta đã giết cha mẹ của Harry, và sau đó cố gắng giết Harry - hắn cố gắng tạo lời nguyền lên cậu bé. ... Harry phải tìm ra trước chúng ta. Và — vậy — nhưng vì một lý do bí ẩn mà không ai biết được tại sao lời nguyền không có tác dụng với Harry. Vì vậy, hắn đã để lại với vết sẹo hình tia chớp này trên trán cậu bé và lời nguyền dội lại lên tên phù thủy độc ác, kẻ đã lẩn trốn kể từ đó.
Trong cuốn thứ hai, Rowling khẳng định rằng Voldemort ghét những pháp sư không thuần huyết, mặc dù bản thân là một đứa trẻ lai giữa dòng máu phù thủy và Muggles.
Trong một cuộc phỏng vấn năm 2000 với BBC, Rowling mô tả Voldemort là một kẻ có xu hướng tự đày đọa bản thân: "Tôi nghĩ thường xảy ra trường hợp những kẻ bắt nạt mạnh nhất coi những gì họ biết là khuyết điểm của chính mình, vì họ hiểu điều đó, và họ áp những thứ đó lên người khác và sau đó họ cố gắng tiêu diệt người kia và đó là những gì Voldemort làm." Cùng năm đó, Rowling nói chính xác hơn về Voldemort. Cô bắt đầu liên tưởng Voldemort tới những bạo chúa ngoài đời thực, mô tả nhân vật này là "một kẻ tâm thần cuồng nộ, không có phản ứng bình thường của con người trước sự đau khổ của người khác". Tuy nhiên, vào năm 2004, Rowling nói rằng cô không xây dựng Voldemort dựa trên bất kỳ nhân vật nào ngoài đời thực. Năm 2006, Rowling còn chia sẻ rằng Voldemort trong thâm tâm có một nỗi sợ hãi của con người: "nỗi sợ cái chết". Tác giả chia sẻ: "Nỗi sợ hãi của Voldemort là cái chết, cái chết ô nhục. Ý tôi là, hắn coi cái chết là điều ô nhục. Hắn cho rằng đó là một điểm yếu đáng xấu hổ của con người, như bạn biết. Nỗi sợ hãi tồi tệ nhất của hắn là cái chết."
Xuyên suốt loạt truyện, Rowling khẳng định rằng Voldemort rất đáng sợ trong thế giới phù thủy đến mức ngay cả khi nói tên hắn cũng bị coi là nguy hiểm. Hầu hết các nhân vật trong tiểu thuyết đều gọi hắn bằng biệt danh thay vì gọi to tên của hắn. Trong Harry Potter và Bảo bối Tử thần, một câu thần chú "cấm kỵ" được đặt theo tên, để Voldemort hoặc những kẻ lựa chọn đi theo hắn có thể truy tìm bất cứ ai nói ra nó. Bằng cách này, những kẻ theo chân Voldemort cuối cùng đã tìm thấy và bắt được Harry cùng những người bạn Ron Weasley và Hermione Granger. Trong cuốn sách thứ hai, Rowling tiết lộ rằng Ta là Chúa tể Voldemort là một phép đảo chữ cái tên khai sinh của nhân vật, Tom Marvolo Riddle. Theo tác giả, tên của Voldemort là một từ được phát minh ra. Một số nhà phân tích văn học đã xem xét các ý nghĩa có thể có trong tên: Philip Nel tin rằng Voldemort có nguồn gốc từ tiếng Pháp «vol de mort» có nghĩa là "chuyến bay của cái chết", và trong một bài báo năm 2002, Nilsen và Nilsen gợi ý rằng độc giả có "cảm giác rùng rợn" từ cái tên Voldemort, vì từ tiếng Pháp "mort" ("cái chết") trong nó và sự liên kết của từ đó với các từ tiếng Anh ghép lại có nguồn gốc từ tiếng Latinh mors.
Về tên gọi
Nhà văn J.K. Rowling đã chơi chữ, khi sắp xếp các chữ cái trong tên Tom Marvolo Riddle sẽ ra câu: “I am Lord Voldemort”. "Marvolo” là từ kết hợp giữa “Marvelous” (tuyệt vời) và thuật ngữ “volo” trong tiếng Latin, có nghĩa là “khao khát” hoặc là “biến đổi một cách nhanh chóng”. Lý giải cho cái tên này, là việc danh tiếng của Voldemort tăng đột biến kèm với đó là hiểm họa đáng sợ mà hắn mang lại.
Về phía cái tên mới “Voldemort”, có thể được liên tưởng đến "bay đến cái chết" hay là "kẻ trộm chết chóc" trong tiếng Pháp (Vol de Mort).
Ở bản dịch của nhiều nước, tên của nhân vật đã phải đổi để sau khi đảo chữ cái cũng ra được câu: “Ta là Chúa tể Voldemort” trong ngôn ngữ của họ. Cụ thể:
- Tiếng Tây Ban Nha: Tom Sorvolo Ryddle → Soy Lord Voldemort
- Tiếng Pháp: Tom Elvis Jedusor → Je suis Voldemort
- Tiếng Hà Lan: Marten Asmodom Vilijin → Mijn naam is Voldemort
- Tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: Tom Marvoldo Riddle → Adim Lord Voldemort
- Tiếng Bồ Đào Nha: Tom Servolo Riddle → Eis Lord Voldemort
- Tiếng Đan Mạch: Romeo G. Detlev Jr. → Jeg er Voldemort
- Tiếng Ý: Tom Orvoloson Riddle → Son io Lord Voldemort
- Tiếng Séc: Tom Rojvol Raddle → Já, Lord Voldemort
- Tiếng Phần Lan và tiếng Thụy Điển: Tom Gus Mervolo Dolder → Ego sum Lord Voldemort.
Ngoại hình
Harry Potter và Hòn đá phù thủy
Voldemort xuất hiện lần đầu trong Harry Potter và Hòn đá phù thủy. Trong câu chuyện này, Rowling giới thiệu hắn ta là Chúa tể Voldemort, kẻ đã cố gắng giết Harry Potter vì cậu bé được tiên tri sẽ tiêu diệt hắn. Voldemort đã sát hại cha mẹ của Harry, James và Lily, nhưng kết quả của tình yêu và sự sẵn sàng hy sinh của mẹ vì con trai nên Harry đã sống sót khi Voldemort cố gắng giết cậu bằng Lời nguyền giết chóc. Voldemort bị biến mất, và kết quả là Harry bị để lại một vết sẹo bí ẩn hình tia chớp trên giữa trán.
Trong cuốn sách, Voldemort cố gắng lấy lại cơ thể đã tan biến của mình nhưng không thành công bằng cách đánh cắp Hòn đá Phù thủy. Để đạt được mục tiêu của mình, Voldemort sử dụng sự trợ giúp của Giáo sư Quirrell bằng cách bám vào phía sau đầu của người này. Tuy nhiên, ở đoạn cao trào của cuốn sách, Harry đã ngăn được Voldemort ăn cắp viên đá.
Harry Potter và phòng chứa bí mật
Trong phần thứ hai, Harry Potter và Phòng chứa bí mật, Rowling giới thiệu Tom Marvolo Riddle, hiện thân của một Voldemort tuổi thiếu niên sống trong một cuốn nhật ký ma thuật do Ginny Weasley tìm thấy. Trong cuốn sách này, Ginny được viết là một cô bé nhút nhát có tình cảm với Harry. Cảm thấy lo lắng và cô đơn, cô bắt đầu viết nhật ký và chia sẻ nỗi sợ hãi sâu sắc nhất của mình và nhận thấy sự đồng cảm (giả vờ) từ Tom. Tuy nhiên, ở cao trào của câu chuyện, khi Tom sắp xếp lại các chữ cái trong tên của mình để viết "Ta là Chúa tể Voldemort", Riddle được tiết lộ là biểu hiện phép thuật của một chàng trai mà sau này lớn lên trở thành Chúa tể Hắc ám. Riddle nói rằng hắn đã trở nên mạnh mẽ trước nỗi sợ hãi của Ginny và cuối cùng bắt cóc cô bé, sử dụng cô bé như một con tốt để mở Phòng chứa Bí mật, khi một con rắn Tử xà (Basilisk) được thả tự do và hóa đá một số học sinh Hogwarts. Harry đánh bại sự hiện ra của Riddle khỏi cuốn nhật ký và Tử xà. Trong Harry Potter và Hoàng tử lai, thầy hiệu trưởng Albus Dumbledore đã nói cho Harry biết rằng cuốn nhật ký này là một trong 7 Trường sinh linh giá của Voldemort.
Harry Potter và tên tù nhân ngục Azkaban
Voldemort không xuất hiện trong phần 3, Harry Potter và tên tù nhân ngục Azkaban, dù là trực diện hay dưới dạng một phép thuật. Tuy nhiên, hắn chỉ được nghe thấy khi Harry bất tỉnh do tác động khắc nghiệt của một Giám ngục. Vào cuối câu chuyện, Sybill Trelawney, giáo sư Bói toán, đưa ra một lời tiên tri thực sự hiếm có: "Chúa tể Hắc Ám nằm một mình và không có bạn bè, bị bỏ rơi bởi những người theo của mình. Kẻ phụng sự hắn đã bị xiềng xích trong mười hai năm. Đêm nay, trước nửa đêm, người đầy tớ sẽ được tự do và lên đường để gặp lại chủ. Chúa tể Hắc ám sẽ sống lại với sự trợ giúp của đầy tớ của hắn, vĩ đại và khủng khiếp hơn bao giờ hết. Tối nay ... trước nửa đêm ... người hầu ... sẽ lên đường ... tái hợp ... chủ nhân ..." Mặc dù ban đầu người ta ngụ ý rằng lời tiên tri ám chỉ đến Sirius Black, nhân vật tưởng chừng như là phản diện trong cuốn sách, người hầu cuối cùng được tiết lộ là Peter Pettigrew, kẻ đó trong 12 năm kể từ khi Voldemort sụp đổ, đã được cải trang thành con chuột cưng của Ron, Scabbers.
Harry Potter và chiếc cốc lửa
Trong phần thứ tư của bộ truyện, Harry Potter và Chiếc cốc lửa, Voldemort xuất hiện trở lại trong phần đầu và phần cuối của cuốn sách. Rowling cho phép nhiều yếu tố cốt truyện dường như không liên quan đến trật tự. Nó được tiết lộ rằng tay sai của Voldemort Barty Crouch Jr, cải trang thành giáo sư Hogwarts là Moody Mắt điên (Mad-Eye Moody), đã thao túng các sự kiện của Giải đấu Tam pháp thuật (Triwizard) có lợi cho Harry. Mục tiêu của Voldemort là dịch chuyển Harry dưới sự giám sát của cụ Dumbledore với tư cách là một người tham gia bất đắc dĩ đến nghĩa địa Hangleton Nhỏ, nơi chôn cất gia đình Riddle. Harry bị bắt và, sau khi Pettigrew sử dụng máu của Harry để thực hiện một nghi lễ ma thuật khủng khiếp, Voldemort lấy lại cơ thể và khôi phục toàn bộ sức mạnh của mình. Lần đầu tiên trong loạt phim, Rowling mô tả ngoại hình của hắn: "cao và gầy như bộ xương", với khuôn mặt "trắng hơn đầu lâu, với đôi mắt to, màu đỏ tươi và chiếc mũi tẹt như một con rắn không lỗ mũi" . Rowling viết rằng "bàn tay hắn giống như những con nhện lớn và nhợt nhạt; những ngón tay dài trắng bệch của hắn vuốt ve ngực, cánh tay, khuôn mặt của mình; đôi mắt đỏ, với đồng tử có vết rạn như mắt mèo, vẫn sáng hơn trong bóng tối". Ngoài ra cũng tiết lộ rằng, trong khi ở Albania, Pettigrew đã bắt giữ viên chức Bộ Pháp thuật Bertha Jorkins, đã bị tra tấn để biết thông tin về Bộ. Sau khi chúng biết rằng Barty Crouch Jr, một Tử thần Thực tử trung thành, đã bị đưa ra khỏi Azkaban và bị giam riêng tại nhà của cha mình, chúng đã giết cô. Với sự giúp đỡ của Pettigrew, Voldemort tạo ra một cơ thể nhỏ bé, thô sơ, đủ thể chất để đi lại và thực hiện phép thuật, đồng thời lập kế hoạch khôi phục cơ thể của chính mình bằng cách bắt giữ Harry. Một phần của kế hoạch đã bị nghe lén bởi Frank Bryce, một người làm vườn, người mà sau đó Voldemort đã giết chết.
Voldemort sau đó hoàn thành kế hoạch và trở lại cuộc sống trong cơ thể đầy đủ của mình do kết quả của nghi lễ với máu của Harry. Sau đó, hắn triệu tập các Tử thần Thực tử của mình đến nghĩa địa để chứng kiến cái chết của Harry khi thách đấu với Harry trong một trận đấu tay đôi. Tuy nhiên, khi Voldemort đấu với Harry, cây đũa phép của họ bị khóa với nhau một cách kỳ diệu do lõi của hai cây đũa phép đều làm từ lông đuôi của một con phượng hoàng. Tiếp đó một hiện tượng được tiết lộ là Priori Incantatem, những biểu hiện giống như bóng ma của những nạn nhân gần đây nhất của Voldemort (bao gồm cả cha mẹ của Harry) đã xuất hiện và đánh lạc hướng Voldemort, cho phép Harry có đủ thời gian để trốn thoát qua Portkey cùng với xác của bạn học, Cedric Diggory, người đã bị Pettigrew sát hại theo lệnh của Voldemort.
Harry Potter và Hội Phượng Hoàng
Voldemort xuất hiện ở đoạn cao trào của cuốn thứ năm, Harry Potter và Hội Phượng hoàng, một lần nữa âm mưu chống lại Harry. Trong cuốn sách này, Harry phải trải qua những căng thẳng tột độ về cảm xúc, và theo Rowling, cần phải chứng minh rằng Harry là người dễ bị tổn thương về mặt tình cảm và do đó là con người, trái ngược với kẻ thù không đội trời chung Voldemort, kẻ vô cảm và vô nhân đạo: "[Harry là] một anh hùng rất con người và điều này rõ ràng là có một sự tương phản, giữa cậu bé, với tư cách là một anh hùng rất con người, và Voldemort, kẻ đã cố tình hủy hoại bản thân. […] và Harry do đó, đã phải đạt đến một điểm mà hắn gần như sụp đổ". "
Trong cuốn sách này, Voldemort tận dụng việc Bộ Pháp thuật từ chối tin rằng hắn ta đã trở lại. Voldemort tạo ra một âm mưu giải phóng Bellatrix Lestrange và các Tử thần Thực tử khác khỏi Azkaban và sau đó bắt tay vào một kế hoạch lấy lại toàn bộ hồ sơ của một lời tiên tri được lưu trữ trong Bộ Pháp thuật về Harry và chính hắn. Hắn gửi một nhóm Tử thần Thực tử để lấy lại lời tiên tri, nơi Hội Phượng hoàng gặp chúng. Tất cả trừ Bellatrix đều bị bắt, và Voldemort tham gia vào một cuộc đấu tay đôi dữ dội với Dumbledore. Khi cụ Dumbledore chiếm được ưu thế, Voldemort cố gắng chiếm hữu Harry nhưng không thể; Harry có quá nhiều thứ mà Voldemort thấy không thể hiểu nổi, và thứ mà hắn ghét là sự yếu đuối: tình yêu. Cảm thấy rằng cụ Dumbledore sẽ chiến thắng, Voldemort biến mất, nhưng không phải trước khi Bộ trưởng Bộ Pháp thuật gặp trực tiếp hắn, khiến hắn trở lại công khai trong cuốn sách tiếp theo.
Nhà Gaunt
Gia đình Gaunt xuất hiện lần đầu trong Harry Potter và hoàng tử lai là một trong những gia đình phù thủy hư cấu trong bộ truyện Harry Potter của nữ nhà văn Anh Quốc J. K. Rowling. Đây là gia đình phù thủy thuần chủng. Gia đình Gaunt là một dòng họ pháp sư rất lâu đời nổi tiếng về tính khí hung tợn và bất thường truyền qua nhiều thế hệ do tập quán kết hôn với bà con họ hàng. Thiếu hiểu biết cộng với kiểu cách quý tộc phô trương bởi trong mình mang dòng máu của Salazar Slytherin đã đưa tới hậu quả là của cải của dòng họ bị hoang phí qua rất nhiều thế hệ trước khi hậu duệ cuối cùng của dòng họ là Marvolo, Morfin và Merope chào đời. Gia đình của Marvolo phải sống trong một căn chòi đổ nát với di sản của dòng họ là chiếc dây chuyền của Salazar Slytherin và chiếc nhẫn cẩn đá đen của anh em nhà Peverell.
Thành viên chính:
Marvolo Gaunt: chủ gia đình Gaunt. Ông đã bị tuyên án 6 tháng tù trong ngục Azkaban vì tội tấn công ông Ogden - Trưởng đội thi hành Pháp thuật ở Bộ Pháp thuật. Ông Ogden trong lúc tới gia đình Gaunt để mời con trai Marvolo - Morfin về hầu tòa vì tội tấn công Muggle đã bất đồng ý kiến với Marvolo về dòng máu thuần chủng. Sau khi từ Azkaban trở về, ông chỉ thấy được bức thư từ biệt của con gái - Merope, không lâu sau đó ông đã chết.
Morfin Gaunt: con trai của Marvolo. Ông đã bị kết án ba năm tù vì tội tấn công Muggle và ông Ogden. Sau khi ông trở về thì cha ông đã chết, còn em gái thì đã bỏ đi để cưới một Muggle là Tom Riddle. Sau đó, ông lại bị buộc tội giết cả nhà Riddle mà thực ra hung thủ là đứa cháu Tom Marvolo Riddle của ông và ông đã chết ở trong ngục.
Merope Gaunt: Merope đã phải trải qua 18 năm trong cuộc đời không dễ chịu gì. Bị cha và anh trai xem là vô dụng và không có mẹ chăm sóc, bà bị đối xử không khác gì nô lệ trong gia đình. Bà bị khinh mạt đến tột đỉnh và buộc phải làm mọi công việc trong nhà cho Marvolo và Morfin, trong khi họ chẳng làm gì khác ngoài việc đóng đinh những con rắn vào cánh cửa và thể hiện sự căm ghét Muggle cũng như Máu bùn. Bà thường bị hành hạ cả thể xác lẫn tinh thần bởi ông Marvolo, người thường la hét, đánh đập bà và xem đó như việc làm thoải mái nhất trong ngày. Vì thế mà, đến năm 18 tuổi, bà dường như kiệt sức và thảm hại. Nguồn hy vọng duy nhất trong đời và chính là một chàng trai Muggle trẻ tuổi, khôi ngô tên là Tom Riddle, mà từng di ngang qua căn nhà của bà – bà thường chăm chú dõi theo anh ta khi anh ta đi qua và mơ ước một cuộc sống với mọi thứ đều thay đổi. Sau khi cả Marvolo và Morfin đã bị bắt và nhốt trong ngục Azkaban. Merope bắt đầu kế hoạch để thoát khỏi tình trạng khốn khổ hiện thời. Bà đã chuẩn bị một liều Tình Dược, mà bà đã làm cho Riddle phải uống, ngay sau đó, liều thuốc đã có tác dụng. Dưới ảnh hưởng của liều thuốc, Riddle đã yêu bà, và cả hai đã bỏ nhà ra đi, trước sự kinh ngạc của người dân ở Hangleton nhỏ. Bởi vì không đơn giản khi con trai của một điền chủ lại ra đi với con gái của một tên điên.
Họ đã nhanh chóng cưới nhau, với ảnh hưởng liều thuốc của Merope, và bà đã mang thai sau một năm cưới Tom Riddle. Tuy nhiên, thời gian đó bà đã phạm một sai lầm lớn. Không thỏa mãn với tình yêu dựa trên ma thuật và dối trá cùng với việc nô dịch chồng bằng phương tiện pháp thuật, bà đã ngừng sử dụng liều thuốc, bởi vì bà tin rằng Riddle đã thực sự yêu thương bà hoặc hẳn là nếu anh ta biết sự thật thì vẫn sẽ ở lại với bà vì đứa con mà Merope mang trong bụng. Nhưng đáng buồn thay, bà đã tính toán sai trong cả hai trường hợp. Riddle khi thoát khỏi tác dụng của Tình dược đã ra đi và trở về căn nhà của gia đình, lý giải mọi việc đều là dối trá. Merope bị bỏ lại một mình, đang mang thai và cô độc. Chính lúc này, Merope, ghê tởm cuộc đời của bà, không bao giờ sử dụng ma thuật nữa. Không ai biết bà đã đi đâu, nhưng vào đêm Giáng Sinh năm 1926, bà đã xuất hiện ở tiệm Borgin và Burkes ở Hẻm Xéo, mang thai, thiếu tiền và cố gắng bán đi vật gia truyền, chiếc mề đay của Salazar Slytherin. Ông Burke đã trả bà 10 đồng vàng Galleon và bà đã biến mất một lần nữa, xuất hiện kế tiếp trên bậc thềm của một trại mồ côi vào năm mới. Bà đã hạ sinh một bé trai sau khi đến đó được một giờ, và một giờ sau, bà đã chết. Bà đã cố gắng sống để đặt tên cho con là Tom Marvolo Riddle và tất nhiên bà có thể sử dụng phép thuật để cứu mình nhưng với Merope Gaunt, niềm hy vọng có được một cuộc sống hạnh phúc đã trôi qua, tất cả những điều ấy đã tan thành mây khói, không còn gì cả. Không muốn dùng đũa phép để cứu lấy bản thân, bà đã chấp nhận ra đi, bất chấp đứa con trai bé bỏng đang cần đến mình
Thời niên thiếu
Chúa tể Voldemort được sinh ra dưới cái tên Tom Marvolo Riddle vào đêm cuối năm 1926, con của Tom Riddle và Merope Riddle (có họ Gaunt trước khi lấy chồng). Tom Riddle cha là "Muggle", còn Merope là một nữ phù thủy chính gốc, mang dòng máu của vị cố tổ Salazar Slytherin, nhưng quyền năng phép thuật của bà chỉ được phát huy tối đa khi không bị cha mình khủng bố. Tất cả các con cháu của Salazar Slytherin đều không còn, nên Voldemort trở thành người thừa kế cuối cùng của ông ta.
Ở Hogwarts
Trong thời gian là học sinh tại Hogwarts, Tom đã khá thành công trong việc che đậy động cơ gây tội ác của hắn và bằng cách trở thành một học sinh xuất sắc ở mọi môn, một huynh trưởng có trách nhiệm và kỉ luật. Mặc dù Dumbledore chưa bao giờ quên những gì Riddle đã tự thú nhận với ông, nên Dumbledore cũng chưa bao giờ hoàn toàn tin tưởng hắn. Cái tên Tom Marvolo Riddle nhanh chóng bị sắp xếp lại thành I am Lord Voldemort (Ta là Chúa tể Voldemort). Sau khi rời khỏi Hogwarts, Tom đã từ bỏ hẳn tên thật của mình và sử dụng tên tự đặt rộng rãi hơn - Chúa tể Voldemort. Ngay từ lúc Tom còn ở trong Hogwarts, hắn bao bọc bản thân bằng một nhóm bè đảng cùng nhà Slytherin, những kẻ hắn gọi là bạn bè, nhưng thật sự là những kẻ hắn không hề có lòng trắc ẩn. Rất nhiều kẻ trong số đó đã trở thành Tử Thần Thực Tử. Trong năm thứ sáu của Tom tại Hogwarts, hắn đã mở Phòng chứa bí mật, giải phóng con Tử xà (Basilisk) và giết Myrtle, một học sinh có dòng máu Muggle. Chỉ có giáo sư Dumbledore là nghi ngờ hắn (tập 2 Harry Potter và phòng chứa bí mật) dù Tom đã nhận được rất nhiều tình thương yêu và tin tưởng từ những giáo viên khác, bao gồm cả thầy Độc dược, giáo sư Horace Slughorn (tập 6) và đổ tội cho một học sinh năm thứ 3 là Rubeus Hagrid. Bởi vì lúc đó chưa ai từng đặt chân đến Phòng chứa bí mật mà cũng không biết trong đó có gì nên cứ nghĩ kẻ giết Myrtle là con Nhền nhện 8 mắt khổng lồ mà Hagrid lén nuôi.
Con đường riêng
Sau khi hoàn thành chương trình học của mình, Voldemort nộp đơn xin trở thành một giáo sư tại trường Hogwarts. Dumbledore phán đoán việc này nhằm mục đích để đạt được những đồ vật thuộc về Godric Gryffindor hoặc Rowena Ravenclaw. Voldemort bị từ chối bởi thầy hiệu trưởng lúc bấy giờ là Dippet, với lý do còn quá trẻ. Thay vào đó, hắn tạm thời làm việc tại tiệm Borgin và Burkes, nhưng lại bỏ đi sau khi chiếm được, bằng cách trộm cắp và ám sát, cái dây chuyền của Slytherin và cái cúp có huy hiệu hình con lửng của Hufflepuff, có nhiều khả năng là để dùng làm "Trường sinh Linh giá" (Horcrux). Sau đó hắn biệt tăm và không còn được nhắc đến trong vòng nhiều năm. Mười năm sau, hắn trở lại Hogwarts để yêu cầu công việc làm giáo viên môn Phòng chống Nghệ thuật Hắc ám, nhưng lại bị thầy hiệu trưởng Dumbledore từ chối bởi vì hắn đã tự chứng tỏ mình không đáng tin cậy. Vào lúc này Voldemort mang ngoại hình rất ít giống con người, và yêu cầu được gọi bằng cái tên mà hắn tự đặt thay vì Tom Riddle, nhưng Dumbledore đã từ chối. Và kể từ đó không giáo viên nào có thể giữ được công việc này quá 1 năm.
Ghi chú
Tham khảo
Chú thích
Nhân vật trong Harry Potter
Nhân vật giả tưởng dùng phép thuật
Bất tử
de:Figuren der Harry-Potter-Romane#Lord Voldemort
|
23823
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Y%C3%AAn%20T%E1%BB%AD
|
Yên Tử
|
Yên Tử (chữ Hán: 安子山, Yên Tử sơn) là một dãy núi trải dài trên địa bàn 3 tỉnh Quảng Ninh, Bắc Giang, Hải Dương và cũng là tên ngọn núi cao nhất trong dãy.
Đây là dãy núi gắn liền với nhà Trần trong lịch sử Việt Nam cũng như gắn với Thiền phái Trúc Lâm.
Địa lý
Dãy Yên Tử thuộc cánh cung Đông Triều, một trong bốn cánh cung núi chính của vùng Đông Bắc Bộ Việt Nam. Dãy núi có địa hình thấp dần từ đông sang tây, cao trung bình trên 600 m so với mực nước biển; trong đó nơi cao nhất là đỉnh Yên Tử (1.068 m) còn nơi thấp nhất là khu vực Côn Sơn – Kiếp Bạc (200–238 m), gần Lục Đầu Giang.
Sườn núi phía nam (còn gọi là sườn Đông Yên Tử) chủ yếu thuộc tỉnh Quảng Ninh và một phần nhỏ thuộc tỉnh Hải Dương, còn sườn núi phía bắc (còn gọi là sườn Tây Yên Tử) thuộc địa phận tỉnh Bắc Giang.
Lịch sử
Trong lịch sử, Yên Tử luôn là một trong những trung tâm Phật giáo của cả nước, gắn với nhiều kiến trúc cổ, được xây dựng qua các thời kỳ lịch sử khác nhau (Lý, Trần, Lê, Nguyễn).
Năm 1294, sau khi vua Trần Nhân Tông nhường ngôi cho con trai là Trần Thuyên (vua Trần Anh Tông) và trở thành Thái thượng hoàng, ông xuất gia tu Phật tại hành cung Vũ Lâm, Ninh Bình. Năm 1299, ông đến Yên Tử, lấy pháp hiệu là Hương Vân đại đầu đà hay Trúc Lâm đại đầu đà, thu hút được nhiều đệ tử. Tại đây, ông đã cho xây dựng hệ thống chùa, am, tháp và sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm, một dòng thiền Phật giáo mang bản sắc văn hóa Việt Nam tồn tại đến ngày nay.
Sách Đồng Khánh địa dư chí mô tả về Yên Tử như sau:Núi Yên Tử (Yên Tử sơn): ở vào địa phận tổng Bí Giang. Núi liên tiếp chạy dài hơn 10 ngọn, cao nhất là ngọn Yên Tử. Tương truyền An Kỳ Sinh tu luyện đắc đạo thành tiên ở nơi đây cho nên có tên gọi là núi An (Yên) Tử. Năm Hồng Vũ thứ 3 (1379) nhà Minh sai sứ sang làm lễ tế, vẽ hình thế núi sông ở đây đem về. Năm Tự Đức thứ 3 (1850) bộ Lễ vâng mệnh vua xếp núi này vào hạng danh sơn và ghi vào tự điển (sổ thờ).
Xem thêm
Khu di tích lịch sử và danh thắng Yên Tử
Khu di tích và danh thắng Tây Yên Tử
Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc
Thiền phái Trúc Lâm
Tham khảo
Liên kết ngoài
Dãy núi Việt Nam
Núi tại Bắc Giang
Núi tại Quảng Ninh
Du lịch Bắc Giang
Du lịch Quảng Ninh
Thắng cảnh thiên nhiên xứ Đông
Núi linh thiêng
|
23824
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%E1%BB%91c%20t%E1%BA%BF%20ca
|
Quốc tế ca
|
Quốc tế ca (tiếng Pháp: L'Internationale) là bài tụng ca chủ nghĩa cánh tả. Nó từng là ngọn cờ của phong trào xã hội chủ nghĩa từ cuối thế kỉ 19, khi Đệ Nhị Quốc tế chấp nhận ca khúc là bài ca tranh đấu chính thức. Nguyên bản tiếng Pháp được sáng tác năm 1871 bởi Eugène Pottier (1816 – 1887) sau thất bại của Công xã Paris, một người Pháp theo chủ nghĩa vô chính phủ, hội viên của Đệ Nhất Quốc tế, sau này là một hội viên trong Hội đồng thành phố Công xã Paris). Nhà xã hội người Bỉ Pierre Degeyter (1848 – 1932) phổ thơ thành nhạc năm 1888 (lúc ban đầu họ dự định hát theo điệu nhạc của bài La Marseillaise).
Quốc tế ca đã trở thành bài hát quen thuộc trong cách mạng Xã hội chủ nghĩa. Tác phẩm được dịch ra nhiều ngôn ngữ, như Tiếng Trung Quốc, Tiếng Nga, thậm chí đã được dịch sang Tiếng Việt.
Tại nhiều quốc gia châu Âu, bài hát đã bị cấm vào đầu thế kỷ 20 vì liên hệ với chủ nghĩa cộng sản và có thông điệp lật đổ chính phủ tư bản.
Phiên bản tiếng Nga được chọn làm quốc ca của Liên Xô từ năm 1917 đến 1944; khi Liên Xô chọn bài quốc ca khác ("Quốc ca Liên bang Xô viết") thì "Quốc tế ca" trở thành đảng ca của Đảng Cộng sản Liên Xô. Lời tiếng Nga do Aron Kots (Arkadiy Yakolevich Kots) soạn vào năm 1902 và được phổ biến trong một nguyệt san tiếng Nga in tại Luân Đôn.
"Quốc tế ca" được những người theo cánh tả như vô chính phủ, xã hội, cộng sản, dân chủ xã hội, công đoàn hát. Nó cũng là bài ca cuộc Nổi dậy tại Đông Đức 1953 do phe đệ tứ lãnh đạo chống lại ách đế quốc chủ nghĩa Nga kiểu Stalin; của các sinh viên và công đoàn trong cuộc biểu tình tại Quảng trường Thiên An Môn năm 1989 chống đối chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Nhạc của bài Quốc tế ca vẫn còn thuộc bản quyền tại Pháp cho đến năm 2014, nhưng bản quyền không được các thành phần cánh tả tuân theo. Trong năm 2005 một nhà làm phim đã phải trả 1000 Euro để sử dụng bài này trong phim.
Lời tiếng Pháp
Lời tiếng Nga
Lời tiếng Trung
(1)
起来,饥寒交迫的奴隶!
起来,全世界受苦的人!
满腔的热血已经沸腾,
要为真理而斗争!
旧世界打个落花流水,
奴隶们起来,起来!
不要说我们一无所有,
我们要做天下的主人!
这是最后的斗争,
团结起来到明天,
英特纳雄耐尔
就一定要实现!
这是最后的斗争,
团结起来到明天,
英特纳雄耐尔
就一定要实现!
(2)
从来就没有什么救世主,
也不靠神仙皇帝!
要创造人类的幸福,
全靠我们自己!
我们要夺回劳动果实,
让思想冲破牢笼!
快把那炉火烧得通红,
趁热打铁才能成功!
这是最后的斗争,
团结起来到明天,
英特纳雄耐尔
就一定要实现!
这是最后的斗争,
团结起来到明天,
英特纳雄耐尔
就一定要实现!
(3)
是谁创造了人类世界?
是我们劳动群众!
一切归劳动者所有,
哪能容得寄生虫?!
最可恨那些毒蛇猛兽,
吃尽了我们的血肉!
一旦把它们消灭干净,
鲜红的太阳照遍全球!
这是最后的斗争,
团结起来到明天,
英特纳雄耐尔
就一定要实现!
Lời tiếng Việt
Đoạn 1:
Vùng lên! Hỡi các nô lệ ở thế gian
Vùng lên! Hỡi ai cực khổ bần hàn
Sục sôi nhiệt huyết trong tim đầy chứa rồi
Quyết phen này sống chết mà thôi.
Chế độ xưa ta mau phá sạch tan tành
Toàn nô lệ, vùng đứng lên đi
Nay mai cuộc đời của toàn dân khác xưa
Bao nhiêu lợi quyền ắt qua tay mình
Điệp khúc:
Đấu tranh này là trận cuối cùng
Kết đoàn lại để ngày mai
Lanh-téc-na-xi-ông-na-lơ
Sẽ là xã hội tương lai
Đoạn 2:
Những tên quỷ đói tham lam đội lốt người
Tàn sát đánh thuế, bóc lột lao động
Thủ tiêu, tàn sát dân lành và nô lệ
Bè lũ hung tàn đế quốc sài lang
Chúng chặt đầu, hung tợn và cướp bóc dã man
Ngọn cờ loang máu rên xiết kêu than
Chiến đấu chống lại quân thù tàn ác kia
Nguyện đem máu thù tưới lên ruộng đồng
Điệp khúc:
Đấu tranh này là trận cuối cùng
Kết đoàn lại để ngày mai
Lanh-téc-na-xi-ông-na-lơ
Sẽ là xã hội tương lai
Đoạn 3:
Chẳng ai sẽ cứu chúng ta khỏi hiểm nguy
Chẳng ai không chúa cũng không anh hùng
Vùng lên hỡi các dân tộc và nô lệ
Bằng sức lao động chân chính của ta.
Để phá tan xiềng xích nô lệ hung tàn
Để giành lại quyền lợi của chúng ta
Bước tiến - Đánh tan quân thù tàn ác kia !
Bao nhiêu lợi quyền ắt qua tay mình
Điệp khúc:
Đấu tranh này là trận cuối cùng
Kết đoàn lại để ngày mai
Lanh-téc-na-xi-ông-na-lơ
Sẽ là xã hội tương lai
Đoạn 4:
Chặn ngay, bè lũ xâm lăng, và giết người
Chặn ngay, những chiếc cánh bay quân thù
Sục sôi nhiệt huyết trong tâm đầy chứa rồi
Quyết phen này sống chết mà thôi
Hãy xây dựng một nhà nước của nhân dân
Và đây là khẩu hiệu của chúng ta:
Nông dân, thợ thuyền, công nhân đoàn kết lại
Bao nhiêu lợi quyền ắt qua tay mình!
Điệp khúc:
Đấu tranh này là trận cuối cùng
Kết đoàn lại để ngày mai
Lanh-téc-na-xi-ông-na-lơ
Sẽ là xã hội tương lai
Đoạn 5:
Vọng lên tiếng súng căm hờn của đấu tranh
Gào thét, đứng lên giành lại hòa bình
Vùng lên, đoàn kết đấu tranh và chống lại
Hãy chấm dứt sự nghèo đói của ta
Hãy phất cao cờ tranh đấu của chúng ta
Hãy thổi bùng lên ngọn lửa tháng Mười
Lê-nin dẫn đường nhân dân vượt khó khăn
Từ trong bão giông tiến lên huy hoàng!
Điệp khúc:
Đấu tranh này là trận cuối cùng
Kết đoàn lại để ngày mai
Lanh-téc-na-xi-ông-na-lơ
Sẽ là xã hội tương lai
Đoạn 6:
Vùng lên hãy phất cao ngọn cờ đấu tranh
Vững bước tiến theo ngọn cờ của Đảng
Tự do hạnh phúc độc lập ta quyết giành
Cuộc sống chúng ta bừng sáng mùa xuân
Đảng đã cho ta một mùa xuân đầy ước vọng
Đảng truyền cho ta niềm tin, tương lai
Thế giới quanh ta huy hoàng ngàn :tiếng ca
Vầng dương hé sáng khắp nơi có Đảng
Điệp khúc:
Phất cao ngọn hồng kỳ thắm tươi
Đảng của ta đã dẫn đường
Tổ quốc tươi đẹp phát triển
Chúng ta nguyện sẽ cống hiến!
Phất cao ngọn hồng kỳ thắm tươi
Đảng của ta đã chỉ lối
Hạnh phúc độc lập và tự do
Quyết xây đất nước tươi đẹp!
Tham khảo
Liên kết ngoài
Tải xuống bài này (nhiều ngôn ngữ)
Clip tuyên truyền của cộng sản với bài "Quốc tế ca" là nhạc nền (tiếng Albania và tiếng Nga)
Phóng sự Quốc tế: Bài Quốc tế ca – Truyền hình Nhân Dân
Quốc ca
Bài hát năm 1888
Bài hát Pháp
Cộng sản
Chủ nghĩa xã hội
Quốc tế xã hội chủ nghĩa
Cách mạng Nga
Bài hát năm 1871
Đảng Cộng sản Liên Xô
|
23829
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A0%20du%20h%C3%A0nh%20v%C5%A9%20tr%E1%BB%A5%20c%E1%BB%95%20%C4%91%E1%BA%A1i
|
Nhà du hành vũ trụ cổ đại
|
Nhà du hành vũ trụ cổ đại hay phi hành gia cổ đại (Ancient astronauts) là một giả thuyết ngụy khoa học cho rằng các sinh vật ngoài hành tinh đã từng đến Trái Đất và tiếp xúc với con người vào thời cổ đại và tiền sử, từ đó gây ảnh hưởng đến văn hóa lúc khởi điểm phát triển của loài người. Đáng chú ý nhất là các tác giả Erich von Däniken và Zecharia Sitchin. Những giả thuyết này nói rằng con người ngày nay hoặc là có nguồn gốc hoặc là được sáng tạo ra do alien (sinh vật ngoài Trái Đất) đã viếng thăm Trái Đất hàng thiên niên kỷ trước - những ý tưởng hầu như bị bác bỏ bởi cộng đồng khoa học. Yếu tố khác của ý tưởng này là sự thông thái của con người hay tín ngưỡng, tôn giáo có được là từ những sứ giả đến từ ngoài Trái Đất đã viếng thăm nhiều lần trong thời kỳ rất cổ xưa.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Những đĩa đá ở Bayan Kara-Ula
Bộ tộc Dogon và sự hiểu biết kỳ lạ về sao Thiên Lang
Máy bay có từ thời Ai Cập cổ đại?
Bí ẩn quanh tấm bản đồ Trái Đất thời cổ đại
Bãi đá khổng lồ hay khu vườn đồ chơi của Chúa?
Bí ẩn về Sacsayhuaman và Tiahuanaco
Bí mật về bức họa cổ trong huyệt động châu Úc
Tiếng Anh:
Trung tâm nghiên cứu giả thuyết những nhà du hành vũ trụ cổ xưa
Trang chính Erich von Däniken
Diễn đàn giả thuyết những nhà du hành vũ trụ cổ xưa
Von Daniken's Maya Astronaut
Sinh vật ngoài Trái Đất
Giả thuyết phi hành gia cổ đại
UFO
Nghiên cứu về UFO
Ngụy khoa học
Tôn giáo UFO
|
23830
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thi%C3%AAn%20h%C3%A0%20Abell%201835%20IR1916
|
Thiên hà Abell 1835 IR1916
|
Thiên hà Abell 1835 IR1916 (còn có tên Abell 1835) là một ứng cử viên cho thiên hà xa nhất đã được chụp hình.
Nó đã được một nhóm các nhà thiên văn Pháp và Thụy Sĩ của Tổ chức Nghiên cứu thiên văn châu Âu tại Nam Bán cầu (Roser Pelló, Johan Richard, Jean-François Le Borgne, Daniel Schaerer, và Jean-Paul Kneib) tìm thấy. Họ đã dùng thiết bị hồng ngoại gần của Kính thiên văn Rất Lớn khi phát hiện ra thiên hà này; các đài thiên văn khác sau đó đã chụp ảnh thêm về thiên hà Abell 1835. Đài thiên văn Châu Âu phía Nam, cùng với Viện Khoa học Quốc gia Thụy Sĩ, và Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp, và báo Astronomy and Astrophysics, đã họp báo công bố về phát kiến này ngày 1 tháng 3 năm 2004.
Theo nghiên cứu dịch chuyển đỏ trong phổ-J, thiên hà này nằm cách chúng ta 13,2 tỷ năm ánh sáng (4,04 tỷ parsec) với mức dịch chuyển đỏ z=10, trong chòm sao Virgo. Nghĩa là các ánh sáng từ thiên hà này đến với chúng ta sau khi chúng xuất phát Abell 1835 IR1916 vào khoảng 13,2 tỷ năm ánh sáng, chỉ 500 triệu năm sau Vụ Nổ Lớn và rất gần với thời điểm hình thành thế hệ sao đầu tiên của vũ trụ. Thiên hà này do đó cũng nằm gần đường chân trời vũ trụ (rìa của vũ trụ quan sát được), cách chúng ta khoảng 13,7 tỷ năm ánh sáng. Mặc dù ở xa như vậy, thiên hà vẫn hiện ra đủ sáng để chúng ta quan sát, đấy là nhờ hiệu ứng hội tụ hấp dẫn bởi các nhóm thiên hà nằm giữa Abell 1835 và chúng ta.
Tuy nhiên, các nghiên cứu bởi Weatherley et al. (2004) đã cho thấy những nghi ngờ đầu tiên về khả năng đây là thiên hà nằm xa. Các quan sát trong phổ-H bởi Kính thiên văn Gemini phía Bắc cũng không hề thấy được thiên hà này (Bremer et al. 2004).
Tham khảo
Liên kết ngoài
"Astronomy & Astrophysics" (A&A, volume 416, page L35; "ISAAC/VLT observations of a lensed galaxy at z=10.0" by Roser Pelló, Daniel Schaerer, Johan Richard, Jean-François Le Borgne, and Jean-Paul Kneib)
"Astronomy & Astrophysics" (A&A, volume 428 page L29-L32; Reanalysis of the spectrum of the z = 10 galaxy by Weatherley, S. J.; Warren, S. J.; Babbedge, T. S. R.
"Astroph" (astroph,0407194;
Response to "Reanalysis of the spectrum of the z=10 galaxy by Roser Pelló; Johan Richard; Daniel Schaerer; Jean-François Le Borgne
"The Astrophysical Journal" (ApJ, Volume 615, Issue 1, pp. L1-L4; Gemini H-Band Imaging of the Field of a z = 10 Candidate by Bremer, M. N.; Jensen, Joseph B.; Lehnert, M. D.; Schreiber, N. M. Förster; Douglas, Laura)
Chòm sao Xử Nữ
Thiên hà xa
|
23837
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/De%20jure
|
De jure
|
De jure (trong tiếng Latinh cổ: de iure) là một thành ngữ có nghĩa là "dựa trên luật" hay "luật định", ngược với de facto, là thành ngữ mang nghĩa "trên thực tế".
Các thuật ngữ de jure và de facto được sử dụng tương tự như "theo luật định" và "trong thực tế" khi người ta miêu tả các trạng thái chính trị. Chúng cũng thường được sử dụng khi thảo luận về sự phân biệt chủng tộc. Một thông lệ có thể đang tồn tại dưới dạng de facto, khi người ta tuân thủ nó trong các khế ước và được coi như là luật định. Một quá trình được biết như là "tình trạng lỗi thời " (từ tiếng Pháp: désuet) có thể cho phép các thông lệ de facto thay thế các sắc luật đã lỗi thời. Mặt khác, một thông lệ có thể tồn tại dưới dạng de jure nhưng lại không được người ta tuân thủ hay thực thi.
Từ de jure trong tiếng Latinh này không nên nhầm lẫn với từ tiếng Pháp du jour, nó được dịch như là "của/trong ngày", chẳng hạn như trong câu soupe du jour (món súp của ngày).
Các chuẩn mực của de jure và de facto có thể khác nhau; ví dụ, Hoa Kỳ không có ngôn ngữ chính thức de jure, trong khi ngôn ngữ chính thức de facto là tiếng Anh. Tương tự, tiêu chuẩn de jure của Hoa Kỳ để đo độ dài khoảng cách đường sá là kilômét (do Hoa Kỳ là một thành viên của Convention du Mètre), nhưng tiêu chuẩn de facto lại là dặm (mile).
• De jure trong chính trịTrong chính trị, nhà lãnh đạo de jure của một quốc gia hay khu vực là người được thừa nhận là lãnh đạo theo Hiến pháp hoặc trên lý thuyết, tuy nhiên lại không có hoặc có ít quyền lực trên thực tế (de facto). Các nhà lãnh đạo có nhiều quyền trên lý thuyết có thể kể đến Nữ hoàng Elizabeth của Khối Thịnh vượng chung Anh, hay Nhật hoàng Naruhito của Nhật Bản,... Những nhà lãnh đạo này là tàn dư của chế độ quân chủ phong kiến, hiện thường chỉ mang tính lễ nghi, đại diện cho tinh thần đoàn kết dân tộc còn quyền hành do Chính phủ mà đứng đầu là Thủ tướng nắm. Một hình thức khác của nhà lãnh đạo de jure nhưng có nhiều quyền lực hơn là Chủ tịch nước của các nước theo chế độ xã hội chủ nghĩa, tức các quốc gia có Đảng Cộng sản lãnh đạo. Tại những quốc gia này, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản mới là nguyên thủ quốc gia trên thực tế (ngoại lệ có Đặng Tiểu Bình không làm Tổng Bí thư hay Chủ tịch nước nhưng vẫn là Lãnh đạo tối cao Trung Quốc giai đoạn 1978-1992). Trong những năm gần đây, các quốc gia trong khối xã hội chủ nghĩa đã thực hiên "nhất thể hóa" hai chức vụ đứng đầu Đảng và Nhà nước để thuận tiện trong ngoại giao. Riêng tại Việt Nam, Tổng Bí thư và Chủ tịch nước vẫn là hai chức vụ riêng biệt. Do Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội nên Tổng Bí thư là nhà lãnh đạo cao cấp nhất, nắm quyền cao nhất trên thực tế (de facto). Chủ tịch nước Việt Nam đồng thời là Ủy viên Bộ Chính trị, là cán bộ cao cấp thứ 2 sau Tổng Bí thư.
Xem thêm
Danh sách các thành ngữ Latinh
De facto
Đặng Tiểu Bình
Quân chủ lập hiến
Tổng Bí thư
Tham khảo
Thuật ngữ pháp lý tiếng Latinh
Thuật ngữ tiếng Latinh
fr:Liste de locutions latines#D
|
23839
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%C3%A1nh%20Ly
|
Khánh Ly
|
Nguyễn Thị Lệ Mai (sinh ngày 6 tháng 3 năm 1945), thường được biết đến với nghệ danh Khánh Ly là nữ ca sĩ hải ngoại người Mỹ gốc Việt, nổi tiếng với giọng nữ trung trầm. Bắt đầu sự nghiệp ca hát từ những năm 1960, gắn liền với các ca khúc của Trịnh Công Sơn, Khánh Ly là một trong những tiếng hát tiêu biểu nhất của dòng tân nhạc Việt Nam và nằm trong danh sách nghệ sĩ âm nhạc Việt Nam bán đĩa chạy nhất. Khánh Ly cũng thành công với các nhạc phẩm tiền chiến và của nhiều nhạc sĩ khác như Phạm Duy, Trầm Tử Thiêng, Vũ Thành An, Nguyễn Đình Toàn... Nghệ danh Khánh Ly được bà ghép từ tên hai nhân vật Khánh Kỵ và Yêu Ly trong Đông Chu liệt quốc. Ngoài ra, trước năm 1975, bà còn được mệnh danh là "Nữ hoàng chân đất".
Tiểu sử
Khánh Ly sinh ra tại Hà Nội, tên thật là Nguyễn Thị Lệ Mai, cũng có khi bà lấy tên Phạm Thị Lệ Mai theo họ Phạm của người cha dượng. Năm 1954, Lệ Mai theo mẹ di cư vào miền Nam.
Khi còn ở Hà Nội, dù chưa tới 9 tuổi nhưng Khánh Ly đã tham dự một cuộc thi hát với bài Thơ Ngây của nhạc sĩ Anh Việt nhưng không được giải gì. Cuối năm 1956, mới 11 tuổi, Khánh Ly một mình đi nhờ xe chở rau từ Đà Lạt về Sài Gòn tham dự cuộc thi tuyển lựa ca sĩ nhi đồng do Đài phát thanh Pháp Á tổ chức tại rạp Norodom. Lệ Mai hát bài Ngày trở về của nhạc sĩ Phạm Duy và đoạt giải nhì, sau "thần đồng" Quốc Thắng.
Năm 1962, Khánh Ly thực sự bước chân vào sự nghiệp ca hát, bà hát cho phòng trà Anh Vũ trên đường Bùi Viện, Sài Gòn. Cuối năm đó cô chuyển lên sống tại Đà Lạt và hát cho các phòng trà ở đó. Năm 1964, Khánh Ly gặp nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, lúc đó còn chưa nổi tiếng, ông mời bà về Sài Gòn biểu diễn. Lúc đó, vì không muốn rời Đà Lạt nên Khánh Ly từ chối lời đề nghị của người nhạc sĩ trẻ đó.
Khánh Ly và Trịnh Công Sơn đã có những buổi trình diễn ngoài trời không công và không thù lao cho sinh viên tại Quán Văn (mà theo Khánh Ly, đó là một quán lá sơ sài dựng trên một nền gạch đổ nát) nằm trên bãi đất rộng sau trường Đại học Văn Khoa Sài Gòn. Họ tiếp tục trình diễn khắp nơi ở miền Nam Việt Nam, nhất là trong sân cỏ trường đại học, nơi Khánh Ly được mệnh danh là "Nữ hoàng Chân Đất" hay "Nữ hoàng Sân Cỏ". Khánh Ly chính là ca sĩ Việt Nam đầu tiên tổ chức show diễn riêng của mình.
Về biệt danh "Nữ hoàng chân đất", theo lời thuật lại của Khánh Ly trong băng Video Một đời Việt Nam thực hiện năm 1991, khi chưa có kinh nghiệm ca hát và lần đầu tiên xuất hiện trước một đám đông khoảng một ngàn người, Khánh Ly đã không giữ được bình tĩnh và đứng không vững, phải vịn vào vai Trịnh Công Sơn. Trịnh Công Sơn nói "bỏ tay ra và đứng hát cho nghiêm chỉnh", vì run quá, nên Khánh Ly cởi bỏ đôi giày cao gót và đứng chân đất và nhờ đó, đã có thể bình tĩnh để trình bày hết bài hát của Trịnh Công Sơn trong suốt một đêm đó, khoảng 30 đến 40 bài hát trong 1 đêm. Khánh Ly kể về thời kỳ những năm 60 cơ cực, đói khổ nhưng đầy hạnh phúc ấy: "Thực sự tôi rất mê hát. Không mê hát thì tôi không có đủ can đảm để đi hát với anh Sơn mười năm mà không có đồng xu, cắc bạc nào. Thời ấy, tôi phải chịu đói, chịu khổ, chịu nghèo, không cần biết đến ngày mai, không cần biết đến ai cả, mà vẫn cảm thấy mình cực kỳ hạnh phúc, cảm thấy mình sống khi được hát những tình khúc của Trịnh Công Sơn".
Từ năm 1967 đến 1975, Khánh Ly hợp tác với nhiều hãng đĩa tại Sài Gòn, thâu âm nhiều bài hát trong các dĩa nhạc của các hãng như Dĩa Hát Việt Nam, Sóng Nhạc, Tình Ca Quê Hương, Dư Âm, Nhạc Ngày Xanh, Continental và thâu vào băng magnetophon của Chương trình Phạm Mạnh Cương, Trường Sơn, Sơn Ca, Họa Mi, Jo Marcel... Năm 1968, Khánh Ly mở Hội Quán Cây Tre ở Đakao, số 2bis đường Đinh Tiên Hoàng, Sài Gòn. Đây là nơi tụ họp của các văn nghệ sĩ và các sinh viên học sinh yêu văn nghệ yêu tiếng hát Khánh Ly, và đây cũng là nơi tổng phát hành những cuốn băng nổi tiếng Trịnh Công Sơn - Khánh Ly Hát Cho Quê hương Việt Nam.
Trong hai năm 1969 và 1970, được sự tài trợ của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, Khánh Ly đã có nhiều cuộc trình diễn cho các sinh viên Việt Nam ở châu Âu, Mỹ và Canada. Năm 1970, nhận được lời mời của đài truyền hình NHK, Khánh Ly sang biểu diễn ở Nhật Bản. Khánh Ly đã ghi âm và trình diễn các ca khúc bằng cả hai thứ tiếng Việt và Nhật.
Năm 1970, Chiến tranh Việt Nam tạm lắng ở trong nước nhưng lại lan rộng sang láng giềng, Trịnh Công Sơn viết nhiều ca khúc phản chiến và được Khánh Ly hát trong những cuốn băng Hát Cho Quê Hương Việt Nam. Khánh Ly cũng tham gia hát trong những buổi ca nhạc gây dựng quỹ của các hội đoàn, hội Công giáo Việt Nam để xây chùa, nhà thờ, trại mồ côi, trại tị nạn. Năm 1972, bà mở một phòng trà ca nhạc mang tên Khánh Ly tại số 1214 đường Tự Do, Sài Gòn.
Sau năm 1975, Khánh Ly rời Việt Nam và định cư tại Cerritos, California, Hoa Kỳ. Năm 1979, một lần nữa Columbia Nippon lại mời Khánh Ly đến Nhật để thâu băng nhạc của Trịnh Công Sơn. Năm 1982, đài Bunka Honso Radio mời Khánh Ly tham gia Liên hoan Âm nhạc châu Á với nhiều nghệ sĩ nhiều nước châu Á. Năm 1985, Khánh Ly cùng chồng là nhà báo Nguyễn Hoàng Đoan mở hãng thu riêng Khánh Ly Productions. Năm 1987, Khánh Ly trở lại Nhật để thâu băng cho phim Thuyền nhân (Boat Man).
Năm 1988, là một tín đồ Công giáo mộ đạo, Khánh Ly được mời đến Vatican trong lễ tuyên phong các thánh tử đạo Việt Nam. Trong sự kiện này, Khánh Ly đã gặp Giáo hoàng Joannes Paulus II. Năm 1989, sau khi bức tường Berlin bị phá bỏ, Khánh Ly và Thanh Tuyền đã hát trong chương trình nhạc đầu tiên ở Đông Đức. Năm 1993, Khánh Ly được mời đến Đại hội Giới trẻ Thế giới ở Denver, Colorado (Hoa Kỳ), và là lần thứ hai bà được gặp Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Năm 1996, Đài truyền hình NHK ở Nhật Bản đã chọn Khánh Ly là một trong 10 nhân vật nổi tiếng để làm phim tài liệu về cuộc đời và gia đình Khánh Ly.
Hiện nay Khánh Ly vẫn tiếp tục sự nghiệp ca hát của mình và là một diva (nữ ca sĩ được mến mộ) trụ cột của Trung tâm Thúy Nga. Để kỷ niệm 50 năm ca hát, Khánh Ly và bạn hữu đã tổ chức 1 buổi văn nghệ miễn phí tại Nhà thờ chính tòa Pha Lê (Crystal Cathedral) tại Garden Grove, California vào ngày 30 tháng 11 năm 2012, và sau đó kéo dài trong nhiều tháng, bà "đồng hành với nhiều ca sĩ trẻ đến nhiều nhà thờ trên khắp nước Mỹ để hiến tặng CD Thánh Ca". Bà cũng cho biết sẽ dành hết phần đời còn lại để làm công tác từ thiện.
Từ sau năm 1975, bà về Việt Nam hai lần để thăm gia đình. Năm 2005, trong một cuộc phỏng vấn trên đài BBC của Anh ở Mỹ, Khánh Ly cho biết, về Việt Nam luôn là ước mơ nằm trong trái tim bà. Trong một cuộc phỏng vấn với BBC năm 2012, bà cho biết rất muốn về Việt Nam biểu diễn và cho rằng nếu có sự chống đối thì "cũng là tự nhiên".
Cuối năm 2012, lần đầu tiên bà được nhà nước Việt Nam cấp giấy phép để trở về trình diễn tại Việt Nam, nhưng bà đã không về.
Như dự kiến, Khánh Ly đã về Việt Nam và biểu diễn trong live concert của mình tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Hà Nội vào ngày 9 tháng 5 năm 2014. Sau đêm diễn đó, một liveshow nữa của bà đã được tổ chức tại cùng địa điểm vào ngày 2 tháng 8. Bà cũng có buổi biểu diễn tại Đà Nẵng vào ngày 8 tháng 8.
Gia đình
Khánh Ly lập gia đình lần đầu và có hai con với một người có biệt danh là "Hải Dớ". Lần thứ hai, bà có một người con với một quân nhân thuộc lực lượng Biệt cách dù, Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Lần thứ ba, Khánh Ly lập gia đình với Nguyễn Hoàng Đoan, một nhà báo kiêm nhà văn viết tiểu thuyết phóng sự năm 1975. Bà có tổng cộng bốn người con, hai trai và hai gái.
Có những tin đồn về tình cảm của bà với nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, nhưng Trịnh Công Sơn phủ nhận và cho biết thực chất quan hệ giữa 2 người chỉ là tình đồng nghiệp, tình bạn đẹp.
Quan điểm
Theo Khánh Ly thì người ca sĩ đứng trên sân khấu hay ngoài đời thường thì đã nhận lời khen thì cũng phải chấp nhận lời chê thậm chí là những lời chê cực đoan liên quan đến vấn đề chính trị vì không phải ai cũng yêu mình cả và việc chống đối vì nhiều lý do cũng là tự nhiên. Về vấn đề kiểm duyệt, bà đồng tình và cho rằng phải có kiểm duyệt của Chính phủ Việt Nam đối với các ca khúc hải ngoại vì "một ca sĩ lỡ hát những bài người ta không cho phép thì phiền lắm", bà còn cho rằng kiểm duyệt cũng là điều đúng vì "Mình vào nhà người ta, tức là vào nhà người ta thì chỉ được làm những gì người ta cho phép" và theo bà thì việc kiểm duyệt "chẳng làm phiền gì mình hết, tại vì nhiều khi cái mình thích chưa chắc là cái người ta thích".
Ghi dấu 50 năm sân khấu, trong 1 buổi phỏng vấn với báo Người Việt cuối năm 2012, Khánh Ly đã nói:
Băng đĩa của Khánh Ly
1962 - 1975 tại Việt Nam
Trong những năm 1967 đến 1975 Khánh Ly thâu âm rất nhiều vào đĩa nhựa 45 tours, băng Akai của các hãng đĩa như Việt Nam, Sóng Nhạc, Sơn Ca, Nhạc Ngày Xanh, Shotguns, Phạm Mạnh Cương, Continental/Premier, Thương Ca - Mặc Thế Nhân, Nhã Ca - Anh Việt Thanh, Nhật Trường, Trường Hải, Diễm Ca, Mây Hồng, Jo Marcel, Nguyễn Hữu Thiết, Hoàng Trọng... với những album tiêu biểu sau đây:
Đĩa nhựa
1969 - Tú Quỳnh: Nhạc tuyển Trịnh Công Sơn. với Lệ Thu, Hà Thanh. Ns Mạnh Phát thực hiện
1969 - Việt Nam M. 3595-96. với Lệ Thu. nhạc Trịnh Công Sơn
1969 - Việt Nam M. 3599-600. nhạc Trịnh Công Sơn
1969 - Việt Nam M. 3601-02. với Lệ Thu. nhạc Trịnh Công Sơn
1969 - Việt Nam M. 3617-18. với Lệ Thu. nhạc Trịnh Công Sơn
1969 - Việt Nam M. 3623-24. với Lệ Thu. Khánh Ly hát nhạc Phạm Duy
1970 - Sóng Nhạc 1055/2223
1970 - Sóng Nhạc 1060/2228. Tái bản của Tú Quỳnh: Nhạc tuyển Trịnh Công Sơn
1970 - Việt Nam M. 3643-44. với Lệ Thu, Thanh Vũ. nhạc Vũ Thành An
1970 - Việt Nam M. 3653-54. với Lệ Thu, Julie Quang. Khánh Ly hát nhạc Vũ Thành An
1971 - Việt Nam M. 3683-84. với Julie Quang
Băng cối/Cassette
12/1967 - Ghi âm trực tiếp tại Quán Văn. nhạc Trịnh Công Sơn
1968 - Hát Cho Quê Hương Việt Nam. Trịnh Công Sơn, Hoàng Thi Thao đệm guitar. Trần Nam Hải thực hiện tại Phòng Thông tin Hoa Kỳ
1968 - Ca Khúc Trịnh Công Sơn. Trần Nam Hải thực hiện tại Phòng Thông tin Hoa Kỳ .
1968 - Tình Ca Trịnh Công Sơn. Trịnh Công Sơn đệm guitar, Đinh Cường vẽ bìa. Thâu tại Thủ Đức. Quán Gió (Nam Lộc) phát hành
10/09/1969 - Jo Marcel: Khánh Ly với dàn nhạc Jo Marcel. thâu live tại phòng trà.
10/09/1969 - Jo Marcel 10. với Lệ Thu, Jo Marcel
29/10/1969 - Mây Hồng 1: Tình thiên thu. với Lệ Thu, tình khúc Y Vân và Y Vũ
29/11/1969 - Mây Hồng 2: 18 Tuyệt phẩm trữ tình. với Lệ Thu, Uyên Phương, Thanh Lan
03/1971 - Như cánh vạc bay. 15 bài hát trong tập nhạc Như cánh vạc bay của Trịnh Công Sơn
04/1971 - Hoàng Thi Thơ: Tình Hồng Cho Em. với Thanh Lan
31/07/1971 - Jo Marcel đặc biệt: Lệ Thu - Khánh Ly. với Lệ Thu
1971 - Như cánh vạc bay - Cỏ xót xa đưa. Trịnh Công Sơn thực hiện
05/09/1971 - Hát cho quê hương Việt Nam. nhạc Trịnh Công Sơn
24/10/1971 - Lệ Thu 2: Tứ quý. với Lệ Thu, Duy Trác, Tuấn Ngọc
28/11/1971 - Tình ca. với Duy Trác, Sĩ Phú, Thanh Lan
15/01/1972 - Họa Mi 1. với Lệ Thu, Duy Trác, Sĩ Phú, Mai Hương ...
03/02/1972 - Hát cho quê hương Việt Nam 2. nhạc Trịnh Công Sơn
01/07/1972 - Hát cho quê hương Việt Nam 3. nhạc Trịnh Công Sơn
17/11/1972 - Hát cho quê hương Việt Nam 4. nhạc Trịnh Công Sơn
11/12/1972 - Khánh Ly hát nhạc Tiền Chiến. nhóm Trùng Dương thực hiện
04/10/1973 - Hát cho quê hương Việt Nam 5. nhạc Trịnh Công Sơn. Thúy Nga phát hành
04/1974 - Sơn Ca 7: Khánh Ly và những tình khúc của Trịnh Công Sơn. nhạc Trịnh Công Sơn. Phượng Linh thực hiện
10/01/1975 - Thương Ca 10. với Lệ Thu, Thanh Thúy, Sơn Ca
Sau 1975
1976 - Khi tôi về
1976 - Như cánh vạc bay. nhạc Trịnh Công Sơn (thâu âm năm 1975)
1976 - Giáng Sinh-Quê hương còn đó nỗi buồn. với Sĩ Phú, Mai Hương
1977 - Hát cho những người ở lại
1977 - Hát cho quê hương Việt Nam 1. tái bản
1977 - Hát cho quê hương Việt Nam 2. tái bản
1977 - Hát cho quê hương Việt Nam 3. tái bản
1977 - Hát cho quê hương Việt Nam 4. tái bản
1977 - Hát cho quê hương Việt Nam 5. tái bản
1977 - Hát cho quê hương Việt Nam 6. tái bản của Ca Khúc Trịnh Công Sơn (1968)
1977 - Tình ca mùa hạ
1978 - Tứ quý. với Thái Thanh, Lệ Thu, Thanh Lan
1979 - Người di tản buồn
Thập niên 1980
1980 - Đường tình ta đi. collection từ băng nhạc Shotguns trước 1975
1980 - Bông hồng cho người ngã ngựa
1980 - Tiếng hát Khánh Ly. Shotguns phát hành, nội dung giống với Đường tình ta đi
1981 - Giọt lệ cho ngàn sau. nhạc Từ Công Phụng
1981 - Lời buồn thánh. nhạc Trịnh Công Sơn
1981 - Đừng yêu tôi. nhạc Vũ Thành An
1981 - Tủi nhục ca. nhạc Hà Thúc Sinh
1981 - Tắm mát ngọn sông đào
1982 - Nhạc vàng. tái bản Đường tình ta đi, Thanh Lan phát hành
1982 - Diễm xưa. tái bản Hát cho quê hương Việt Nam 6, Thanh Lan phát hành
1982 - Như cánh vạc bay (1976). tái bản, Thanh Lan phát hành
1983 - Ướt mi. tái bản Columbia AF-7071, Thanh Lan phát hành
1983 - Bản Tango cuối cùng
1983 - Trong tay anh đêm nay. dạ vũ Valse
1983 - Tà áo xanh (Lá đổ muôn chiều). nhạc Đoàn Chuẩn - Từ Linh
1984 - Niệm khúc cuối. Khánh Ly & Elvis Phương thực hiện
1984 - Bài Tango cho em
1984 - Nguyễn Tất Nhiên: Những năm tình lận đận. với Lệ Thu, Sĩ Phú, Duy Quang
1984 - Đời 5: Một đời yêu anh. với Lệ Thu, Thanh Thúy, Hải Lý
1984 - Đời 6: Đêm dạ vũ thứ nhất. với Lệ Thu, Thanh Thúy, Hải Lý, Kim Anh
1985 - Như cánh vạc bay. với Lệ Thu. Làng Văn thực hiện
1985 - Thanh Lan 24: Tứ quý. với Lệ Thu, Kim Anh, Hương Lan
1985 - Khối tình Trương Chi. với Sĩ Phú. Thanh Lan phát hành
1985 - Tình ca cho thành phố mất tên. nhiều ca sĩ. Thanh Lan phát hành
1985 - Diễm Xưa 1: Thương một người. Phạm Ngọc Sơn thực hiện
1985 - Biển nhớ. nhạc Trịnh Công Sơn
1986 - Dư Âm 1: Những Giọng Ca Tuyệt Vời. với Elvis Phương, Hương Lan, Kim Anh
1986 - Hạ trắng. nhạc Trịnh Công Sơn
1986 - Tango Tango
1986 - Nhạc hòa tấu Trịnh Công Sơn
1986 - Đêm hạ hồng. với Lệ Thu, Thanh Phong. Thanh Lan phát hành
1986 - Tình không biên giới. với Lệ Thu, Sĩ Phú. Thanh Lan phát hành
1986 - Làng Văn 16: Duyên tình. với Hương Lan
1987 - Tình hờ. Khánh Ly & Elvis Phương thực hiện
1987 - Ai trở về xứ Việt. nhạc chủ đề
1987 - Bên ni bên nớ. nhạc Phạm Duy
1987 - Dân Chúa: Hồng Ân Thiên Chúa. thánh ca
1988 - Boston buồn
1988 - Tango điên (Vũ nữ thân gầy)
1988 - Kinh khổ. nhạc Trầm Tử Thiêng
1989 - Đêm hạnh ngộ
1989 - Mưa hồng
1989 - Niệm khúc hoa vàng. nhạc chủ đề
1989 - Ngọc Minh 11: Chiều một mình qua phố. với Lệ Thu, Ngọc Minh, Ngọc Lan
1989 - Xóa tên người tình. với Elvis Phương. Làng Văn phát hành
Thập niên 1990
1990 - Bông bưởi chiều xưa. nhạc Châu Đình An
1990 - Tình nhớ. nhạc Trịnh Công Sơn
1991 - Vũng lầy của chúng ta. nhạc Lê Uyên Phương
1991 - Làng Văn CD 97: Tưởng rằng đã quên
1991 - Kim Ngân CD 1: Lệ đá. với Lệ Thu và Kim Anh
1991 - Mai Khanh 5: Best of Khánh Ly
1992 - Để lại cho em. nhạc Phạm Duy
1992 - Ca dao mẹ
1992 - Im lặng thở dài (Một cõi đi về). nhạc Trịnh Công Sơn
1993 - Bên đời hiu quạnh. nhạc Trịnh Công Sơn
1993 - Tôi ơi đừng tuyệt vọng. với Trịnh Công Sơn và Trịnh Vĩnh Trinh
1994 - Hoàng Lan 1: Em còn nhớ hay em đã quên
1994 - Hoàng Lan 2: Ừ thôi em về
1994 - Song Nguyễn 6: Cánh hoa duyên kiếp. với Lệ Thu
1995 - Ca khúc da vàng - Volume 1. nhạc Trịnh Công Sơn
1996 - (50 năm) Đời vẫn hát
1996 - Hoàng Lan 9: Hạt mưa buồn. với Lệ Thu
1997 - Tình quê tình người. nhạc Xuân Điềm. CD Single
1997 - Ca khúc da vàng - Volume 2. nhạc Trịnh Công Sơn
1997 - Dốc mơ
1997 - Thúy Anh 143: Mùa thu xa em - Khánh Ly đặc biệt.
1999 - Ca khúc da vàng - Volume 3. nhạc Trịnh Công Sơn
1999 - Hiên cúc vàng. nhạc Nguyễn Đình Toàn
1999 - Xuân Điềm 4: Vang vang tình Việt Nam
Thập niên 2000
2000 - Nguyệt ca. nhạc Trịnh Công Sơn
2000 - Đời cho ta thế. nhạc Trịnh Công Sơn
2000 - Tình thu trên cao. nhạc Xuân Điềm
2000 - Asia CD 141: Giòng Nhạc Trầm Tử Thiêng
2000 - Xuân Điềm 5: Tình quê tình người
2001 - Một sớm mai về. nhạc Trầm Tử Thiêng
2001 - Xuân Điềm: Hùng sử Việt 1
2002 - Nếu có yêu tôi
2002 - Mưa trên cây hoàng lan. nhạc Nguyễn Đình Toàn
2003 - Còn tuổi nào cho em. nhạc Trịnh Công Sơn
2005 - Ca khúc da vàng - Volume 4. nhạc Trịnh Công Sơn
2005 - Nam Lộc CD: Sàigòn ơi, vĩnh biệt. nhạc Nam Lộc
2008 - TangoGoTango
2009 - Như một vết thương. nhạc Trịnh Công Sơn
Thập niên 2010
Tại hải ngoại
2010 - Nụ cười trăm năm. nhạc Trần Dạ Từ
2011 - Chưa phai. thơ Cẩm Vân phổ nhạc2012 - Thánh ca dâng Mẹ
2013 - Sonatas. nhạc Trịnh Công Sơn. Đĩa than2014 - Cung Đỗ CD: Gội đầu. nhạc Trần Dạ Từ2018 - Asia CD 397: Lệ Thu & Khánh Ly - Những tình khúc chọn lọc
2019 - Biển nhớ. nhạc Trịnh Công Sơn. Đĩa than2020 - Ca khúc da vàng vol. 1. nhạc Trịnh Công Sơn. Đĩa than2020 - Ca khúc da vàng vol. 2. nhạc Trịnh Công Sơn. Đĩa than2020 - Còn tuổi nào cho em. nhạc Trịnh Công Sơn. Đĩa thanTại Việt Nam
Các CD do bà thực hiện thu âm đều được Hãng phim Phương Nam biên tập, sản xuất và phát hành bao gồm:
2015 - Biển nhớ. nhạc Trịnh Công Sơn2015 - Hạ trắng. nhạc Trịnh Công Sơn2015 - Chủ nhật buồn. nhạc Phạm Duy2015 - Tình nhớ. nhạc Trịnh Công Sơn2015 - Bên đời hiu quạnh. nhạc Trịnh Công Sơn2017 - Những con mắt trần gian. nhạc Trịnh Công Sơn2017 - Thương một người. nhạc Trịnh Công SơnVideo
1982 - Khánh Ly In Japan
1988 - Ai Trở Về Xứ Việt
1991 - Một Đời Việt Nam
2005 - Thuở Ấy Mưa hồng
Tại Nhật Bản
11/1970 - Denon CD-98: Diem Xua. đĩa 45 vòng02/1973 - Denon CD-181: Diem Xua. tái bản của Denon CD-98
12/1979 - Columbia LK-126: Diem Xua. tái bản của Denon CD-98
08/1981 - Columbia AF-7071: Diem Xua. đĩa 33 vòng08/1981 - Columbia AH-105: Sabaku. đĩa 45 vòng04/1984 - Columbia AH-434: Boat People. đĩa 45 vòng05/1984 - Canyon C28A0328: Boat People. đĩa 33 vòng''
Các tiết mục trình diễn trên sân khấu
Trung tâm Thúy Nga
Trung tâm Asia
Trung tâm Mây
Jimmy TV
Chú thích
Liên kết ngoài
Trang chủ của Khánh Ly
Khánh Ly, "Bên đời hiu quạnh" , kể về lần gặp lại Trịnh Công Sơn tại Montreal, Canada năm 1992.
Khánh Ly trên trang Sưu Tập
Khánh Ly trên báo Tuổi Trẻ
Hồi ký của Khánh Ly
Những lời tử tế ông Sơn dạy tôi , Trường Kỳ phỏng vấn, 2001
Video báo Người Việt Online phỏng vấn Khánh Ly, 2011
Đài BBC Trò chuyện cùng ca sĩ Khánh Ly 1 và 2
Người Hà Nội
Người Mỹ gốc Việt
K
K
Ca sĩ tình khúc 1954–1975
Tín hữu Công giáo Việt Nam
Ca sĩ Trung tâm Thúy Nga
Nhân vật còn sống
Ca sĩ Việt nổi tiếng trước 1975
Nữ ca sĩ Việt Nam Cộng hòa
Ca sĩ hải ngoại
Ca sĩ lưu vong
|
23841
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%B7ng%20Th%E1%BA%BF%20Phong
|
Đặng Thế Phong
|
{{Thông tin nghệ sĩ
| tên =
| tên gốc =
| nền = nhạc sĩ
| hình = Dang The Phong.jpg
| kích thước hình =
| chú thích hình =
| nghệ danh =
| tên khai sinh =
| ngày sinh = 14 tháng 4, 1918
| nơi sinh = Thành phố Nam Định, Liên bang Đông Dương
| ngày mất =
| nơi mất = Thành phố Nam Định, Liên bang Đông Dương
| nguyên nhân mất = Bệnh lao
| dân tộc = Kinh
| nghề nghiệp = Nhạc sĩHọa sĩ
| bố mẹ =
| vợ =
| chồng =
| con =
| đào tạo =
| học vấn =
| lĩnh vực hoạt động = Âm nhạc
| giai đoạn sáng tác âm nhạc = 1940-1942
| đào tạo âm nhạc =
| dòng nhạc = Nhạc tiền chiến
| nhạc cụ =
| công ty quản lý =
| hãng đĩa =
| hợp tác với = Bùi Công Kỳ
| thành viên của =
| tác phẩm âm nhạc = Đêm thuCon thuyền không bến Giọt mưa thu
| giải thưởng âm nhạc =
| website âm nhạc =
| ảnh hưởng bởi =
| ảnh hưởng tới = Văn Cao
| chữ ký =
| website =
}}
Đặng Thế Phong (14 tháng 4 năm 1918 – 2 tháng 8 năm 1942) là nhạc sĩ thuộc thế hệ tiên phong của tân nhạc Việt Nam, một trong những gương mặt tiêu biểu nhất cho giai đoạn âm nhạc tiền chiến. Ông mất năm 24 tuổi và chỉ để lại ba nhạc phẩm: Đêm thu, Con thuyền không bến và Giọt mưa thu.
Tiểu sử
Đặng Thế Phong sinh ngày 5 tháng 4 năm 1918 tại thành phố Nam Định. Cha anh là Đặng Hiển Thế, Thông phán Sở Trước bạ Nam Định.
Tiểu sử của Đặng Thế Phong in trong ấn bản Con thuyền không bến do Nhà xuất bản Tinh Hoa phát hành tại Sài Gòn vào năm 1964: Đặng Thế Phong sinh năm 1918, thứ nam của cụ Đặng Hiển Thể, Thông phán Sở Trước bạ thành phố Nam Định, là con thứ 2 của một gia đình có 6 anh em, 2 trai 4 gái. Cha mất sớm, gia đình thiếu thốn, anh phải bỏ dở học vấn khi đang học lớp 2ème année P.S. Anh có lên Hà Nội theo học trường Cao đẳng Mỹ thuật với tư cách bàng thính viên. Anh vẽ tranh cho báo Học Sinh (chủ bút là Phạm Cao Củng) như truyện bằng tranh Hoàng Tử Sọ Dừa, Giặc Cờ Đen để lấy tiền ăn học. Mùa xuân năm 1941, anh có đi Sài Gòn rồi Nam Vang. Ở Nam Vang anh có mở một lớp dạy nhạc. Đến mùa thu 1941, anh lại trở về Hà Nội. Lúc sinh thời Đặng Thế Phong là một nhạc sĩ rất nghèo nên cuộc sống của anh thật là khổ cực, chật vật. Ngoài tài sáng tác, anh còn là một ca sĩ, tuy chưa hẳn được là tenor nhưng giọng hát khá cao, đã nhiều lần ra sân khấu mà lần đầu tiên anh hát bài Con thuyền không bến tại Rạp chiếu bóng Olympia, phố Hàng Da, Hà Nội năm 1940. Đến đầu 1942 thì anh từ giã cõi đời tại nhà, trên một căn gác hẹp ở phố Hàng Đồng vì bệnh lao, hưởng dương 24 tuổi.
Cuộc đời
Vì cha mất sớm, gia cảnh túng thiếu, Đặng Thế Phong phải bỏ học khi đang theo học năm thứ hai bậc thành chung (deuxième année primaire supérieure) tại trường trung học Saint Thomas d'Aquin. ông lên Hà Nội vẽ cho một số tờ báo và học với tư cách dự thính tại trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (École supérieure des Beaux-Arts) tới năm 1939. Thời gian học ở đây anh đã để lại một giai thoại. Trong một kỳ thi, Đặng Thế Phong vẽ bức tranh cảnh một thân cây cụt. Giáo sư, họa sĩ người Pháp Tardieu chấm bài, khen ngợi nhưng nói rằng: Em Đặng Thế Phong sẽ không sống lâu được!Cuộc đời Đặng Thế Phong rất long đong, lận đận. anh phải sống lang bạt và trải qua nhiều nghề. Tháng 2 năm 1941, Đặng Thế Phong lang thang vào Sài Gòn rồi sang Campuchia. Tại Nam Vang, anh có mở một lớp dạy nhạc cho đến khi tiếp tục ra Hà Nội.
Sự nghiệp âm nhạc của Đặng Thế Phong chỉ có ba nhạc phẩm và đều rất nổi tiếng là: Đêm thu ca khúc viết cho lửa trại của học sinh Hà Nội 1940, Con thuyền không bến hoàn chỉnh tại Nam Vang, trình diễn lần đầu tại rạp Olympia, Hà Nội năm 1941 và Giọt mưa thu 1942. Nhạc phẩm cuối cùng Giọt mưa thu được anh viết vào những ngày cuối đời trên giường bệnh. Ban đầu bản nhạc mang tên Vạn cổ sầu, nhưng theo ý một vài người bạn, anh đặt lại là Giọt mưa thu cho bớt sầu thảm hơn.
Cả ba ca khúc của anh đều viết về mùa thu và hai trong số đó Con thuyền không bến và Giọt mưa thu được xếp vào những tác phẩm bất hủ của tân nhạc Việt Nam. Giọt mưa thu cũng là cảm hứng cho nhạc sĩ Hoàng Dương sáng tác bài Tiếc thu nổi tiếng. Nhiều ý kiến cho rằng Trịnh Công Sơn đã ảnh hưởng bởi Giọt mưa thu khi viết ca khúc đầu tay Ướt mi.
Nhận xét của Phạm Duy, các sáng tác của Đặng Thế Phong là những bài hát khởi đầu cho dòng "nhạc thu" Việt Nam, được tiếp nối xuất sắc bởi Văn Cao và Đoàn Chuẩn. Theo Doãn Mẫn, Đặng Thế Phong và Lê Thương là hai nhạc sĩ tiền chiến có sáng tác sâu đậm hồn dân tộc nhất: "Đặng Thế Phong là người hết sức tài hoa. anh chơi được rất nhiều nhạc cụ. Anh sáng tác Giọt mưa thu, Con thuyền không bến từ khi còn rất trẻ. Đáng tiếc, anh mất quá sớm. Có thể nói sự ra đi của anh là một tổn thất lớn đối với bạn bè và cho cả những người yêu mến âm nhạc Việt Nam."Đặng Thế Phong được xem như một trong những nhạc sĩ tiêu biểu nhất của thời kỳ tiền chiến. Anh mất năm 24 tuổi vì bệnh lao trên một căn gác số 9 phố Hàng Đồng, Nam Định năm 1942.
Những sáng tác khác
Theo Phạm Duy thì Đặng Thế Phong có sáng tác một ca khúc nữa là Sáng rừng.
Trong một bài viết của nhạc sĩ Trương Quang Lục thì Đặng Thế Phong có những sáng tác: Con thuyền không bến, Giọt mưa thu, Đêm thu, Sáng trăng, Sáng trong rừng, Sầm sơn...Báo Tiền phong số ra ngày 11 tháng 1 năm 2006 đăng tư liệu về một nhạc phẩm mới tìm thấy của anh: Gắng bước lên chùa'', lời của nhà văn trinh thám Phạm Cao Củng.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Phạm Duy, Đặng Thế Phong
Đặng Thế Phong , ở trang Nhịp cầu Âm nhạc
Trần Minh Phi, Đặng Thế Phong , ở trang Giai điệu xanh
Đặng Thế Phong : Sống và chết trước khi thời cơ đến, ở trang Tân Nhạc Việt Nam
Cựu sinh viên Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
Người Nam Định
Mất thế kỷ 20 do bệnh lao
Nhạc sĩ tiền chiến
Nhạc sĩ Việt Nam
|
23842
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/PH
|
PH
|
pH là chỉ số đo độ hoạt động (hoạt độ) của các ion H3O⁺ (H+) trong dung dịch và vì vậy là độ axít hay base của nó. Trong các hệ dung dịch nước, hoạt độ của ion hiđrô được quyết định bởi hằng số điện ly của nước (Kw) = 1,008 × 10−14 ở 25°C) và tương tác với các ion khác có trong dung dịch. Do hằng số điện ly này nên một dung dịch trung hòa (hoạt độ của các ion hiđrô cân bằng với hoạt độ của các ion hiđrôxít) có pH xấp xỉ 7. Các dung dịch nước có giá trị pH nhỏ hơn 7 được coi là có tính axít, trong khi các giá trị pH lớn hơn 7 được coi là có tính kiềm.
Khái niệm này được S.P.L. Sørensen (và Linderström-Lang) đưa ra vào năm 1909 và có nghĩa là "pondus hydrogenii" ("độ hoạt động của hiđrô") trong tiếng Latinh. Tuy nhiên, các nguồn khác thì cho rằng tên gọi này xuất phát từ thuật ngữ tiếng Pháp "pouvoir hydrogène."
Định nghĩa
Mặc dù pH không có đơn vị ho, nhưng nó không phải là thang ho ngẫu nhiên; số ho sinh ra từ định nghĩa dựa trên độ hoạt động của các ion hiđrô trong dung dịch.
Công thức để tính pH là:
[H+] biểu thị hoạt độ của các ion H+ (hay chính xác hơn là [H3O+], tức các ion hiđrônium), được đo theo mol trên lít (còn gọi là phân tử gam). Trong các dung dịch loãng (như nước sông hay từ vòi nước) thì hoạt độ xấp xỉ bằng nồng độ của ion H+.
Log10 biểu thị lôgarit cơ số 10, và pH vì thế được định nghĩa là thang đo lôgarít của tính axít. Ví dụ, dung dịch có pH=8,2 sẽ có độ hoạt động [H+] (nồng độ) là 10−8.2 mol/L, hay khoảng 6,31 × 10−9 mol/L; một dung dịch có hoạt độ của [H+] là 4,5 × 10−4 mol/L sẽ có giá trị pH là −log10(4,5 × 10−4), hay khoảng 3,35.
Trong dung dịch nước ở nhiệt độ và áp suất tiêu chuẩn (STP), giá trị pH bằng 7 chỉ ra tính trung hòa (tức nước tinh khiết) do nước phân ly một cách tự nhiên thành các ion H+ và OH− với nồng độ tương đương 1×10−7 mol/L. Một giá trị pH thấp hơn (ví dụ pH = 3) chỉ ra rằng độ axít đã tăng lên, và một giá trị pH cao hơn (ví dụ pH = 11) chỉ ra rằng độ kiềm đã tăng lên.
pH trung hòa không chính xác bằng 7; nó chỉ ngầm ý là nồng độ các ion H+ là chính xác bằng 1×10−7 mol/L. Tuy nhiên, các giá trị là đủ gần để pH trung hòa là 7,00 tới ba chữ số đáng kể nhất, nó là đủ gần để người ta coi nó chính xác bằng 7. Trong các dung dịch không chứa nước hay ở các điều kiện không tiêu chuẩn, thì giá trị pH trung hòa thậm chí có thể không gần với 7. Thay vì thế, nó liên quan với hằng số điện ly cho dung môi cụ thể đang được sử dụng. (Lưu ý rằng nước tinh khiết, khi tiếp xúc với khí quyển, sẽ hấp thụ một phần cacbon dioxide, một số trong các phân tử CO2 này sẽ phản ứng với nước để tạo ra axít cacbonic, axit cacbonic tiếp tục phân li tạo ra H+, vì thế làm giảm pH xuống còn khoảng 5,7.
Phần lớn các chất có pH nằm trong khoảng từ 0 đến 14, mặc dù các chất cực axít hay cực kiềm có thể có pH < 0 hay pH > 14.
Đo lường
pH có thể được đo:
Bằng cách bổ sung chất chỉ thị pH vào trong dung dịch đang nghiên cứu. Màu của chất chỉ thị sẽ thay đổi phụ thuộc vào pH của dung dịch. Trong việc sử dụng các chất chỉ thị thì việc xác định định tính có thể thực hiện với các chất chỉ thị phổ biến có khoảng đổi màu rộng trên một khoảng pH lớn và việc xác định định lượng có thể thực hiện bằng cách sử dụng các chất chỉ thị có sự thay đổi màu mạnh trên một khoảng pH nhỏ. Màu sắc của các chất chỉ thị pH có thể được chia làm 14 thang bậc thông dụng như hình vẽ bên. Các phép đo cực kỳ chính xác có thể thực hiện trên một khoảng pH rộng bằng sử dụng các chất chỉ thị có nhiều trạng thái cân bằng (ví dụ HI) chung với các phương pháp quang phổ để xác định sự phổ biến tương đối của mỗi thành phần phụ thuộc pH đã tạo ra màu của dung dịch.
Bằng cách sử dụng máy đo pH cùng với các điện cực có chọn lựa pH (điện cực thủy tinh pH, điện cực hiđrô, điện cực quinhiđrôn và nhiều loại khác).
pOH
Còn có khái niệm pOH, về ngữ nghĩa là ngược lại với pH, nó đo nồng độ các ion OH−. Do nước là tự ion hóa, và ghi [OH−] như là nồng độ của các ion hiđrôxít, chúng ta có
(*)(**)
trong đó Kw là hằng số ion hóa của nước.
Do
bằng các đồng nhất thức lôgarít, ta có quan hệ sau:
(*)
và vì vậy:
(*)
(*) Chỉ chính xác ở nhiệt độ 298,15 K (25°C), chấp nhận được cho phần lớn các tính toán trong phòng thí nghiệm.
(**)
Tính toán pH cho các axít mạnh và yếu
Các giá trị pH cho các axít yếu và mạnh có thể tính xấp xỉ theo các giả thiết nhất định.
Theo Thuyết axit-base Brønsted-Lowry, axít mạnh hay yếu hơn chỉ là khái niệm tương đối. Nhưng ở đây chúng ta định nghĩa axít mạnh là những loại mà có tính axít mạnh hơn ion hiđrônium (H3O+). Trong trường hợp đó phản ứng phân ly (chặt chẽ thì HX + H2O↔H3O++X- nhưng đơn giản hóa thành HX↔H++X-) diễn ra hoàn toàn, tức là không còn axít chưa phản ứng trong dung dịch. Vì thế sự hòa tan của axít mạnh HCl trong nước có thể biểu diễn như sau:
HCl(dd) → H+ + Cl-
Điều này có nghĩa là trong dung dịch 0,01 mol/L của HCl nó là xấp xỉ rằng ở đây có nồng độ 0,01 mol/L các ion hiđrô hòa tan. Từ trên đây ta có pH bằng: pH = −log10 [H+]:
pH = −log (0,01)
nó tương đương với 2.
Đối với các axít yếu, phản ứng phân ly không diễn ra hoàn toàn. Sự cân bằng đạt được giữa các ion hiđrô và gốc base. Dưới đây chỉ ra sự cân bằng phản ứng của axít mêtanoic và các ion của nó:
HCOOH(dd) ↔ H+ + HCOO-
Cần thiết phải biết giá trị của hằng số cân bằng của phản ứng cho mỗi axít để có thể tính pH của nó. Trong ngữ cảnh pH, nó được gọi là hằng số axít (hằng số phân li của axít) nhưng được thực hiện theo cùng cách thức (xem cân bằng hóa học):
Ka = [ion hiđrô][ion axít] / [axít]
Đối với HCOOH, Ka = 1,6 × 10−4 (có tài liệu cho biết một số giá trị khác của Ka)
Khi tính toán pH của các axít yếu, thông thường người ta giả sử rằng nước không cung cấp bất kỳ ion hiđrô nào. Điều này đơn giản hóa tính toán và nồng độ cung cấp bởi nước, 1×10−7 mol, thông thường là không đáng kể.
Với dung dịch 0,1 mol/L axít mêtanoic (HCOOH), hằng số axít là tương đương với:
Ka = [H+][HCOO-] / [HCOOH]
Cho rằng lượng không biết trước của axít đã phân ly, [HCOOH] sẽ bị giảm đi bằng chính lượng này, trong khi [H+] và [HCOO-] mỗi thứ sẽ tăng bằng chính lượng này. Vì thế, [HCOOH] có thể thay thế bằng 0,1 − x, và [H+] và [HCOO-] có thể thay thế bằng x, cho ta phương trình sau:
Giải phương trình này ta có x là 3,9×10−3, nó là nồng độ của các ion hiđrô sau khi phân ly. Vì thế pH bằng −log(3,9×10−3), hay khoảng 2,4.
Chỉ thị
Chất chỉ thị được dùng để đo pH của dung dịch hóa chất khác. Các chất chỉ thị phổ biến là giấy quỳ, phenolphthalein, cam mêtyl và xanh brômothymol
SI
Năm 2002, một nhóm nghiên cứu của IUPAC đã thống nhất đề nghị đưa pH vào trong hệ thống đơn vị đo lường quốc tế (SI).
Độ kiềm của đất
Độ chua, độ kiềm của đất được đo bằng độ pH. Đất thường có trị số pH từ 3 đến 9. Căn cứ vào trị số pH người ta chia đất thành: đất chua (pH < 7), đất trung tính (pH = 7) và đất kiềm (pH > 7). Người ta xác định đất chua, đất kiềm và đất trung tính để có kế hoạch cải tạo và sử dụng.
Ngoài ra nếu độ pH quá cao đối với các loại đất trồng thì sẽ làm cây không sống được.
Cây nhiệt đới là cây có thể trồng với loại đất trung tính.
cây tỏi, hoa tulip và cây sung là những loại cây có thể trồng ở đất kiềm.
Xem thêm
Các thuyết phản ứng axít-base
Axít
Base
Muối
Độ pH của đất
Chuẩn độ
Quỳ tím: chất chỉ thị
Chú thích
Tham khảo
D. K. Nordstrom, C. N. Alpers, C. J. Ptacek, D. W. Blowes (2000). "Negative pH and Extremely Acidic Mine Waters from Iron Mountain, California." Environmental Science & Technology 34 (2), 254–258. (Có sẵn trực tuyến: DOI | Bản tóm tắt | Toàn văn (HTML) | Toàn văn (PDF))
Liên kết ngoài
Some Ka values
pH Meter and Sensor
Definition of pH by the Gold Book
pH calculation spreadsheet
The Measurement of pH - Definition, Standards and Procedures – Report of the Working Party on pH, IUPAC Provisional Recommendation (a proposal to revise the current IUPAC 1985 and ISO 31-8 definition of pH described above)
CO2SYS is a program for calculating the state of the carbonate system in seawater (including pH). CO2SYS is also available in a version for Microsoft Excel/VBA.
pH value software provides the color of universal indicator corresponding to a given pH value
Axít-base
Đơn vị đo
Chỉ số chất lượng nước
Hóa học
Hóa lý
Nhiệt động lực học
Hóa phân tích
Đại lượng vật lý
Thang đo
|
23845
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/De%20facto
|
De facto
|
De facto () hay thực quyền, quyền lực thực tế, quyền thực tế là một thành ngữ trong tiếng Latinh có nghĩa là "trên thực tế" hay "theo thông lệ". Cũng có thể hiểu là luật bất thành văn. Thông thường, nó được sử dụng ngược với de jure (có nghĩa là "theo luật định") khi nói đến các vấn đề của lĩnh vực luật pháp, nhà nước, hay kỹ thuật (chẳng hạn các tiêu chuẩn) được tìm thấy trong thực tiễn của cộng đồng do được tạo ra hay phát triển lên mà không có (hoặc không trái) các quy định của luật điều chỉnh.
Khi thảo luận về các trạng thái pháp lý thì de jure đề cập tới điều mà luật ghi nhận, trong khi de facto đề cập tới điều xảy ra trong thực tế, và chúng có thể khác nhau.
Thuật ngữ de facto cũng có thể sử dụng khi không tồn tại luật hay tiêu chuẩn tương ứng, nhưng thông lệ chung đã được thiết lập rõ ràng, mặc dù có thể là không phải phổ biến rất rộng.
Các tiêu chuẩn de facto
Tiêu chuẩn de facto, ví dụ như các tiêu chuẩn kỹ thuật hay tiêu chuẩn khác mà có sự phổ biến đến mức mọi người tuân theo chúng tương tự như khi người ta tuân theo các tiêu chuẩn luật định. Tiêu chuẩn de jure có thể khác: một ví dụ là sắc luật về tốc độ lái xe trên đường cao tốc. Mặc dù tiêu chuẩn de jure là lái xe ở tốc độ giới hạn hoặc thấp hơn, nhưng tiêu chuẩn de facto là lái xe ở tốc độ giới hạn hay tốc độ lớn hơn một chút so với tốc độ này.
Một ví dụ khác là không có luật nào cấm một người thêm chữ cái mới, chẳng hạn như chữ Þ vào bảng chữ cái Latinh. Các chữ cái đã được thêm vào trong nhiều thế kỷ trước mà không có khó khăn nào, nhưng ngày nay người đó bị ngăn cản trong việc làm này, bởi những khó khăn thực tế nảy sinh. Vì thế đây là giới hạn de facto trong việc thay đổi bảng chữ cái.
Tiêu chuẩn de facto đôi khi không được chính thức hóa và có thể chỉ đơn giản dựa trên thực tế là một số người nào đó có các ý tưởng tốt được ưa chuộng nhiều đến mức nó được những người khác sao chép lại. Những người tạo ra các tiêu chuẩn de facto điển hình là các công ty, tập đoàn hay côngxoocxiom.
Trong khoa học máy tính, các tiêu chuẩn de facto đôi khi có thể trở thành các tiêu chuẩn de jure do tính ưu việt của chúng trên thị trường. Ví dụ, JavaScript của Netscape (tiêu chuẩn hóa thành ECMAScript) và một phần của DOM Mức 0 (tiêu chuẩn hóa thành Thông số HTML DOM Mức 1/2).
Các nhà lãnh đạo de facto
Trong chính trị, nhà lãnh đạo de facto của một quốc gia hay khu vực là người được thừa nhận là có quyền lực, không phụ thuộc vào việc người đó có được quyền lực này bằng cách thức hợp hiến, hợp pháp hay đúng luật hay không. Thuật ngữ này được sử dụng rất phổ biến để chỉ những người mà quyền lực của họ được một số ít người khác cho là giành được bằng các cách thức bất hợp hiến, bất hợp pháp hay các cách thức không đúng luật khác, thường là bằng việc lật đổ nhà lãnh đạo trước đó hay can thiệp sâu vào sự lãnh đạo của người đương nhiệm đó. Các nhà lãnh đạo de facto không nhất thiết phải nắm giữ các chức vụ chính thức theo hiến pháp quy định và có thể thực thi quyền lực của mình theo các cách không chính thức. Tuy nhiên, quyền lực của họ thì không thể phủ nhận, điều này làm cho vị trí của họ như là các nhà lãnh đạo thực thụ phải được thừa nhận. Nhưng cần phải lưu ý rằng không phải tất cả các nhà độc tài đều là các nhà lãnh đạo de facto. Ví dụ, Augusto Pinochet ở Chile ban đầu lên nắm quyền trong vai trò của chủ tịch hội đồng tư vấn quân sự, nhưng sau đó đã thay đổi hiến pháp để trở thành tổng thống nước này, vì vậy đã làm ông trở thành nhà lãnh đạo chính thức và hợp pháp của Chile.
Một ví dụ khác về nhà lãnh đạo de facto là những người trên thực tế không phải là nhà lãnh đạo, nhưng có ảnh hưởng rất lớn hay tổng thể đối với nhà lãnh đạo thực thụ, nó rất phổ biến trong các vương triều. Các ví dụ khác về các nhà lãnh đạo de facto là Từ Hi Thái Hậu của Trung Quốc (đối với con trai là vua Đồng Trị và cháu ruột là vua Quang Tự), công tước Aleksandr Danilovich Menshikov (đối với người yêu cũ của ông là nữ hoàng Ekaterina I của Nga), Hồng y giáo chủ Richelieu của Pháp (đối với vua Louis XIII), và hoàng hậu Marie Karolina (đối với chồng mình là vua Ferdinando I).
Một số nhà lãnh đạo de facto thực thụ và nổi tiếng là Đặng Tiểu Bình của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và tướng Manuel Noriega của Panama. Cả hai nhân vật nói trên đã thực thi việc kiểm soát gần như tổng thể đối với quốc gia của họ trong nhiều năm, mặc dù không có chức vụ hợp pháp theo hiến pháp quy định hay sự ủy nhiệm luật định để thực thi quyền lực.
Lãnh đạo quốc gia de facto là thuật ngữ hay sử dụng để miêu tả các Đại diện vương miện trong Khối Thịnh vượng chung Anh, hay nhà lãnh đạo thay cho (in lieu) nhà lãnh đạo quốc gia hợp pháp (de jure, hay luật định) (ví dụ vua hay nữ vương Anh).
Ở các quốc gia theo chế độ cộng sản nói chung và Việt Nam nói riêng, nguyên thủ quốc gia (ở đây là Chủ tịch nước) chỉ là nhà lãnh đạo de jure (trên lý thuyết) còn nhà lãnh đạo de facto thường là Tổng Bí thư Đảng cầm quyền (ngoại lệ có Đặng Tiểu Bình không làm Tổng Bí thư hay Chủ tịch nước nhưng vẫn là Lãnh đạo tối cao Trung Quốc giai đoạn 1978-1992). Trong những năm gần đây, các quốc gia trong khối xã hội chủ nghĩa đã thực hiên "nhất thể hóa" hai chức vụ đứng đầu Đảng và Nhà nước để thuận tiện trong ngoại giao. Riêng tại Việt Nam, Tổng Bí thư và Chủ tịch nước vẫn là hai chức vụ riêng biệt. Do Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội nên Tổng Bí thư là nhà lãnh đạo cao cấp nhất, nắm quyền cao nhất trên thực tế (de facto).
Quốc ngữ
Một số quốc gia có quốc ngữ trên thực tế (de facto), bao gồm Úc, Nhật Bản, Vương quốc Anh, và Hoa Kỳ, nhưng không có quốc ngữ chính thức (theo luật quy định:de jure).
Một số quốc gia có một ngôn ngữ nữa trên thực tế cộng thêm vào với quốc ngữ chính thức. Đó là trường hợp ở Liban và Maroc, quốc ngữ chính thức là tiếng Ả Rập, nhưng có thêm một ngôn ngữ trên thực tế là Tiếng Pháp. Ở New Zealand, Maori và New Zealand Sign theo luật quy định là quốc ngữ, trong khi tiếng Anh là quốc ngữ trên thực tế.
Một số sử dụng khác
Sử dụng phổ biến khác của thuật ngữ de facto là sự "phân biệt de facto'''': chẳng hạn những người sử dụng của một thư viện hay một ngôi trường nào đó có xu hướng là những người sống gần đó, vì thế các tiện ích này có xu hướng trở thành phân biệt "chủng tộc" hay "dân tộc" mà không có "sự phân biệt de jure" (nó đòi hỏi phải có sự phân biệt theo luật định).
Một quốc gia độc lập de facto là quốc gia không được các quốc gia độc lập hay tổ chức quốc tế de jure nào công nhận, thậm chí cho dù chủ quyền của đất nước này là tách rời khỏi "quốc gia mẹ" và nó được thực thi tuyệt đối trên toàn bộ lãnh thổ mà nước này coi là của mình.
Sự độc quyền de facto'' là hệ thống trong đó có nhiều pháp nhân hay thể nhân tham gia, nhưng có rất ít điều chỉnh (hay các sắc luật chống độc quyền nói chung hoặc trong một lĩnh vực kinh tế cụ thể, đặc biệt là trong các lĩnh vực dịch vụ công) hoặc ở những nơi mà luật chống độc quyền không được áp dụng dẫn đến tình trạng một pháp nhân/thể nhân nào đó thao túng thị trường.
Xem thêm
Danh sách các thành ngữ Latinh
De jure
status quo
Tham khảo
Thuật ngữ pháp lý tiếng Latinh
Thuật ngữ tiếng Latinh
|
23847
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/IUPAC
|
IUPAC
|
{{Hộp thông tin tổ chức
|name = Liên minh Quốc tế về Hóa học thuần túy và Hóa học ứng dụng
|image = 320px-IUPAC.png
|image_border =
|size =
|alt =
|caption = Biểu trưng của IUPAC
|map =
|msize =
|malt =
|mcaption =
|abbreviation = IUPAC
|motto = Advancing Chemistry Worldwide
|formation = 1919
|extinction =
|type = Tổ chức phi lợi nhuận quốc tế về khoa học
|status =
|purpose =
|headquarters =
|location = Zürich,
|region_served = Toàn cầu
|membership =
|language = Tiếng Anh
|leader_title = Chủ tịch
|leader_name = Giáo sư Javier García-Martínez
|main_organ =
|parent_organization =
|affiliations =
|num_staff =
|num_volunteers =
|budget =
|website = IUPAC Official website
|remarks =
}}IUPAC (viết tắt của tên riêng tiếng Anh: International Union of Pure and Applied Chemistry, tạm dịch: Liên minh Quốc tế về Hóa học cơ bản và Hóa học ứng dụng') là tổ chức phi chính phủ được thành lập vào năm 1919 bởi các nhà hóa học trên thế giới nhằm mục đích thúc đẩy sự phát triển của khoa học hóa học.
Thành viên IUPAC có thể là các hội hóa học, các viện hàn lâm khoa học của các nước hoặc các tổ chức đại diện cho giới hóa học gia. Danh pháp IUPAC được toàn thế giới công nhận làm cơ sở để đặt danh pháp cho các nguyên tố và hợp chất hóa học.
Trụ sở IUPAC đóng tại Zürich, Thụy Sĩ. Văn phòng điều hành (Ban thư ký IUPAC) đóng tại Research Triangle Park'', Bắc Carolina, Hoa Kỳ; văn phòng này do giám đốc điều hành của IUPAC đứng đầu.
Chủ tịch IUPAC hiện nay là Giáo sư Javier García-Martínez và giám đốc điều hành là Tiến sĩ Lynn M. Soby.
Lịch sử thành lập
Nhu cầu thiết lập một hệ thống tiêu chuẩn quốc tế về hóa học được nêu ra lần đầu tiên vào năm 1860 bởi một ủy ban do nhà khoa học người Đức Friedrich August Kekulé von Stradonitz đứng đầu. Ủy ban này là hội nghị quốc tế đầu tiên thiết lập hệ thống danh pháp cho các hợp chất hữu cơ. IUPAC là kết quả kế thừa từ hội nghị này. IUPAC được thành lập vào năm 1919. Một quốc gia thành viên quan trọng bị loại khỏi tổ chức IUPAC mới thành lập là nước Đức. Việc nước Đức bị loại khỏi IUPAC là kết quả của sự định kiến từ các cường quốc Đồng minh sau Thế chiến I đối với nước Đức. Đức cuối cùng đã được tái gia nhập vào IUPAC năm 1929. Tuy nhiên, Đức Quốc xã lại bị loại khỏi IUPAC trong Thế chiến II.
Trong Thế chiến II, IUPAC đã liên kết với các cường quốc Đồng minh, nhưng ít tham gia vào các hoạt động chiến sự. Sau Thế chiến II, Đông Đức và Tây Đức đã được chấp thuận gia nhập IUPAC vào năm 1973. Kể từ Thế chiến II, IUPAC tiếp tục tập trung vào việc chuẩn hóa danh pháp và phương pháp nghiên cứu khoa học.
Năm 2016, IUPAC đã tố cáo việc sử dụng clo làm vũ khí hóa học. Tổ chức này đã bày tỏ quan ngại trong một lá thư gửi đến Ahmet Üzümcü, Giám đốc Tổ chức Cấm Vũ khí Hóa học (OPCW), về việc việc sử dụng clo làm vũ khí hóa học trong chiến tranh ở Syria và một số chiến trường khác.
Hoạt động
Từ khi thành lập, IUPAC do nhiều ủy ban khác nhau điều hành với các trách nhiệm cũng khác nhau. Các ủy ban này tiến hành nhiều loại dự án, trong đó bao gồm chuẩn hóa danh pháp, và xuất bản các công trình nghiên cứu.
Không chỉ nổi tiếng với các công trình chuẩn hóa danh pháp trong hóa học, IUPAC còn xuất bản nhiều ấn phẩm thuộc các ngành khoa học khác như sinh học và vật lý học. Một số đóng góp quan trọng của IUPAC cho các lĩnh vực này là chuẩn hóa tên gọi mã đoạn trình tự nucleotide và xuất bản sách dành cho nhà khoa học môi trường, nhà hóa học và nhà vật lý học.
Danh pháp IUPAC
Tham khảo
Liên kết ngoài
Website chính thức
Sách vàng IUPAC (IUPAC books)
Website ISC, Hội đồng Khoa học Quốc tế
Hóa học
Tổ chức quốc tế
Tổ chức tiêu chuẩn
Tên hóa học
Danh pháp hóa học
Tổ chức hóa học
Tổ chức khoa học quốc tế
Thành viên của Hội đồng Khoa học Quốc tế
Tổ chức có trụ sở tại Thụy Sĩ
Tổ chức phi chính phủ
Tổ chức phi lợi nhuận
|
23877
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Little%20Saigon
|
Little Saigon
|
Little Saigon (Tiểu Sài Gòn, Sài Gòn nhỏ, khu Sài Gòn) thường chỉ những khu vực có nhiều người Việt sinh sống bên ngoài lãnh thổ Việt Nam, nhất là tại Hoa Kỳ, Canada và Pháp.
Những khu Little Saigon được hình thành từ những làn sóng tị nạn diễn ra sau khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc, sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975.
Các khu Little Saigon lớn có mặt trong thành phố Westminster & Garden Grove, San Jose, California, Los Angeles và Houston. Westminster và Garden Grove nằm trong khu vực Quận Cam, California, nơi được mệnh danh là "thủ đô người Việt tị nạn".
Tại Hoa Kỳ
Tại Quận Cam
Khu Little Saigon lâu đời nhất, lớn nhất nằm tại hai thành phố Westminster và Garden Grove, Quận Cam, California, nơi người Việt chiếm 30,7% và 21,4% dân số theo điều tra dân số năm 2000 (tổng cộng trên 125.000 người).
Lịch sử
Trước kia, Westminster cũng như các thành phố gần đó là những vùng đất đai trồng trọt lớn. Từ năm 1975, người Việt tỵ nạn đầu tiên đến đây từ trại Pendleton, nằm cách Westminster 50 dặm về hướng Nam và từ các tiểu bang khác như Pennsylvania, Arkansas, Florida. Những cơ sở thương mại đầu tiên là tiệm phở Hòa và chợ Đà Lạt gần ngã tư đường First và Fairview thuộc thành phố Santa Ana. Khu này sau có thêm trung tâm sinh hoạt Nguyễn Khoa Nam do Đặng Giang Sơn thành lập. Nơi đó trở thành nơi tụ tập của cộng đồng tỵ nạn. Sau đó lui về phía tây cũng trên cùng tuyến đường First nhưng có tên là Bolsa Avenue thuộc hai thành phố Garden Grove và Westminster, khoảng năm 1978 xuất hiện chợ Hòa Bình, nhà sách Tú Quỳnh, và nhà hàng Thành Mỹ. Cùng năm đó, Nhật báo Người Việt góp mặt với văn phòng phát hành đặt tại thành phố Garden Grove. Những người Việt tỵ nạn dần tập trung ở quãng đường đó mua lại các cơ sở thương mại của người địa phương và lập nên một khu phố thương mại phảng phất hình bóng Việt Nam. Năm 1982 thì hình thành "Hiệp hội Thương gia Tiểu Sài Gòn". Sách báo tiếng Việt từ đó bắt đầu dùng danh từ "Phố Sài Gòn" nhất là khi hãng Bridgecreek cho xây thương xá hai tầng 1986-88. Địa bàn cộng đồng người Việt từ đó lan rộng tràn ra những thành phố lân cận như Stanton, Fountain Valley và Anaheim.
Năm 1986, Ủy ban Thành lập Danh xưng Little Saigon, sau đổi thành Ủy ban Phát triển Little Saigon bầu lên 15 ủy viên, xúc tiến họp với hội đồng thành phố Westminster chính thức công nhận danh xưng Little Saigon. Chính ủy ban đã được 18 vị dân biểu và nghị sĩ tiểu bang giúp đỡ để đưa đề nghị thành lập Đặc khu Tiểu Sài Gòn lên thống đốc tiểu bang. Ngày 1 tháng 6 năm 1986, trước Viện Lập pháp tiểu bang, Thống đốc George Deukmejian đã chấp thuận. Nha lộ vận California theo đó cho dựng 13 bảng tên "Little Saigon" chỉ lối cho xe rẽ từ xa lộ 22 và 405 vào.
Ngày 17 tháng 6 năm 1986, thị trưởng Westminster Chuck Smith đã làm lễ ra mắt Đặc khu Little Saigon trước thương xá Phước Lộc Thọ. Buổi lễ được đặt dưới sự chủ toạ của thống đốc tiểu bang và có sự hiện diện của đông đảo người Việt Nam trong vùng.
Bố trí và các dịch vụ
Little Saigon tại Quận Cam là một vùng rộng lớn, với nhiều khu thương xá của người Việt và người Hoa, nằm phía Tây của Disneyland, giữa xa lộ California 22 và xa lộ Liên bang 405.
Ngoài các trụ sở thương mại còn có siêu thị và nhà hàng bán thực phẩm các món ăn Việt Nam và Á châu như cơm tấm, phở, bánh mì, bánh cuốn. Ngoài ra là các dịch vụ y tế, luật pháp, tập trung không ít bác sĩ, nha sĩ, luật sư, kế toán lập văn phòng tại đây để phục vụ thân chủ đồng hương.
Năm 2016, một dịch vụ xe buýt miễn phí tên Little Saigon Shuttle được khánh thành để đưa đón hành khách mua sắm trong khu vực, phục vụ 22 trạm dừng trong tuyến đường dài 2,5 mile. Tuy nhiên dịch vụ đã chấm dứt sau 6 tháng hoạt động vì chi phí cao. Xe đò Hoàng, một dịch vụ xe đò đường dài, nối liền Little Saigon ở Quận Cam với cộng đồng ở San Jose và nhiều thành phố khác ở California và Arizona có đông người Việt sinh sống.
Truyền thông
Little Saigon, đặc biệt là Westminster, thường được xem là trung tâm của ngành truyền thông Việt ngữ tại hải ngoại. Hầu hết các chương trình ca nhạc hải ngoại đều được phát hành tại đây, trong đó có trung tâm Thúy Nga, trung tâm Asia, trung tâm Vân Sơn, v.v. Vì thế, rất nhiều ca sĩ, nhạc sĩ hải ngoại cư ngụ tại khu vực này.
Có hai đài phát thanh phát sóng tiếng Việt 24 giờ mỗi ngày là Little Saigon Radio (trên KVNR 1480 AM) và Radio Bolsa (KALI 106.3 FM). Một đài khác thỉnh thoảng có chương trình tiếng Việt (KXMX-AM 1190). Nội dung phát sóng bao gồm tin tức, thời sự, âm nhạc, talk show, tôn giáo, đọc truyện, v.v. Chương trình Việt ngữ của đài BBC và RFI được tiếp vận trực tiếp trên những đài này, mỗi ngày hai lần. Gần đây đài Little Saigon Radio cũng có nỗ lực phát thanh về Việt Nam.
Có 4 đài truyền hình phát sóng suốt ngày bằng Việt ngữ tại miền nam California. Hai đài truyền hình vệ tinh, Saigon Broadcasting Television Network và Hồn Việt TV cũng có trụ sở tại đây và có thể xem được trên toàn lãnh thổ Hoa Kỳ.
Tại đây có hàng chục tờ báo tiếng Việt được bán bên cạnh các báo tiếng Anh, có tiếng nhất trong số đó là Báo Người Việt. Những tờ nhật báo lớn khác có thể nói đến là Việt Báo, Viễn Đông, v.v. Nhiều tuần báo, nguyệt san và báo phục vụ giới trẻ cũng được phát hành như Việt Tide (song ngữ) và Người Việt 2 (bằng tiếng Anh).
Chính trị
Little Saigon là một địa phương chống cộng mãnh liệt. Sự kiện Trần Trường đầu năm 1999 được xem là điểm mốc quan trọng trong hoạt động chính trị của người Việt tại Little Saigon nói riêng và Hoa Kỳ nói chung. Sự kiện xảy ra sau khi một người làm nghề cho thuê băng video tên là Trần Văn Trường treo cờ đỏ sao vàng và hình Hồ Chí Minh trên cửa tiệm. Sau khi ông không được chú ý, ông đã gửi fax đến một số cơ quan truyền thông cộng đồng để loan báo về hành động của mình. Trong gần hai tháng sau đó, hàng nghìn người Việt biểu tình hằng ngày phản đối ông Trường và chính phủ Việt Nam, với điểm cao là một cuộc thắp nến được tổ chức bởi các đoàn thể sinh viên Mỹ gốc Việt, với sự tham dự của hơn 15.000 người, và được báo chí toàn quốc và quốc tế theo dõi. Sự việc kết thúc sau khi ông Trường bị kết án cho thuê băng lậu, và bị buộc phải đóng cửa tiệm. Ông Trường cho biết mình bị đánh năm lần và phải vào bệnh viện, ông đã mất hết gia sản, khoảng một triệu đôla, và vợ ông, sau những biến cố, đã 'mắc bệnh tâm thần; đồng thời khẳng định đây là án sai, rằng 'ông không sang băng lậu, mà có hợp đồng kinh doanh với các công ty của Tàu. "Sự kiện đã đưa ra nhiều vấn đề về tự do ngôn luận tại Hoa Kỳ, một số người ra đại diện làm trung gian với báo chí để phát biểu quan điểm của những người biểu tình. Nhiều người lãnh đạo trong cuộc biểu tình cảm thấy tự tin hơn và bắt đầu tham gia chính trường và vận động cộng đồng như trong Chiến dịch Cờ Vàng.
Người Mỹ gốc Việt, dựa vào số đông, đã và đang nắm giữ quyền lực chính trị đáng kể tại hai thành phố Westminster và Garden Grove. Nhiều người tham gia vào các hoạt động chính trị tại địa phương và được bầu vào các chức vụ công. Ví dụ như Janet Nguyễn, vào năm 2007 trở thành người Mỹ gốc Việt đầu tiên lên làm giám sát viên quận trên toàn quốc. Ông Trần Thái Văn đắc cử dân biểu tiểu bang California từ năm 2004 và trở thành người Mỹ gốc Việt đầu tiên được bầu vào ngành lập pháp tiểu bang.
Sinh hoạt cộng đồng
Năm 2003, Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ (tiếng Anh: Vietnam War Memorial) đã được xây dựng tại Westminster để tưởng niệm những người lính Việt Nam Cộng hòa và Hoa Kỳ đã hy sinh trong Chiến tranh Việt Nam hồi thế kỷ trước.
Ngày 12 Tháng Tám năm 2009, Hội đồng thành phố Westminster, California lại thông qua nghị quyết 4257 công nhận ngày Thứ Bảy cuối cùng mỗi Tháng Tư sẽ là "Ngày Thuyền nhân Việt Nam".
Trường Bolsa Grande High School tại Garden Grove là nơi tổ chức Hội Tết Việt Nam hàng năm do Tổng hội sinh viên Việt Nam Nam Cali UVSA tổ chức cho hàng trăm ngàn người tham dự. Hàng năm, từ năm 1997, vào ngày Tết Nguyên Đán, Little Saigon tại San Jose cũng có cuộc diễn hành Tết hoành tráng do Hội Diễn Hành Tết (Vietnamese Spring Festival, VSF) tổ chức, với sự kết hợp của nhiều hội đoàn, tổ chức. Từ năm 2003, Đại hội Điện ảnh Việt Nam Quốc tế (Vietnamese International Film Festival hay ViFF) là một đại hội điện ảnh diễn ra 2 năm một lần tại Đại học California tại Irvine và nhiều địa điểm quanh vùng Little Saigon của Quận Cam, California, Mỹ.
Tại San Jose
Với dân số người Mỹ gốc Việt gần 100.000 người, thành phố San Jose, California là thành phố đông người Việt nhất tại Hoa Kỳ. Tuy nhiên, cơ sở thương mại của người Việt nằm rải rác trên San Jose, không tập trung như tại Westminster. Năm 2000, thương xá Grand Century Mall được thành lập tại đường Story, trở thành một trung tâm của người Việt tại San Jose.
Năm 2007, nghị viên Madison Nguyen đề nghị hội đồng thành phố chính thức công nhận một khu thương mại người Việt. Nhiều tên cho khu vực này được đề xuất. Đa số người Việt ủng hộ tên "Little Saigon", trong khi một số cơ sở thương mại trong khu này cho rằng tên này có sắc thái quá chính trị bài cộng sản, và đề xuất tên "Vietnamese Business District" (Khu thương mại Việt Nam). Những người gốc Việt phản đối mạnh mẽ tên "Vietnamese Business District" vì họ cho rằng tên này sẽ vinh danh chính phủ cộng sản Việt Nam hiện nay và không nhìn nhận các đóng góp của những người tị nạn chống cộng. Ngày 20 tháng 11 năm 2007, hội đồng thành phố San Jose chính thức bầu chọn tên "Saigon Business District" (Khu thương mại Saigon) với số phiếu ủng hộ 8-3 sau một phiên họp dài 6 tiếng đồng hồ, với trên 800 người ủng hộ tên Little Saigon tham gia cuộc họp.
Lựa chọn này làm phẫn nộ rất nhiều người Mỹ gốc Việt vì họ cho rằng hội đồng thành phố đã bất chấp ý dân. Trên 2000 người biểu tình phản đối trước tòa thị chính, kêu gọi hội đồng thành phố xét lại. Madison Nguyen, một trong những nghị viên bỏ phiếu ủng hộ tên "Saigon Business District", trở thành một mục tiêu chỉ trích của cộng đồng. Một số người kêu gọi cô từ chức và đang vận động bãi miễn Madison Nguyen. Sau nhiều cuộc biểu tình, hội đồng thành phố San Jose vào ngày 4 tháng 3 năm 2008 bầu 10-1 hủy quyết định chọn tên "Saigon Business District" trong một cuộc họp dài với hàng ngàn người tham gia. Tuy nhiên, hội đồng thành phố vẫn chưa chọn tên "Little Saigon" cho khu vực này.
Tại San Francisco
Kể từ đầu năm 2004 thành phố San Francisco đã chính thức thành lập khu "Little Saigon" trên đường Larkin giữa hai ngã tư đường Eddy và O'Farrell. Ở đây tập trung khoảng 2.000 người Việt trong tổng số 13.000 người Việt trên toàn thành phố. Hơn 80% các cơ sở buôn bán ở đây là của người Việt. Chính quyền đã thiết lập bảng chỉ dẫn trên đường và còn có kế hoạch xây cổng chào đón du khách tương tự như loại cổng dựng ở phố Tàu và phố Nhật San Francisco.
Tại Houston, Texas
Ngày 2 tháng 5 năm 2004, chính quyền địa phương đã chính thức đặt tên "Little Saigon" cho khu vực Midtown, với nhiều cơ sở thương mại của người Việt, nằm cạnh khu Downtown ở trung tâm thành phố Houston. Một trung tâm thương mại khác của người Việt là khu vực mới phát triển quanh Đại lộ Bellaire, phía Tây Nam thành phố.
Tại Louisiana
Louisiana là nơi có nhiều người Việt Nam, nhiều người trước đây là ngư dân đánh cá. New Orleans có một số khu vực có tập trung các doanh nghiệp Việt-Mỹ. Lớn nhất trong số các cộng đồng này nằm xung quanh Village de L'Est, trong đó bao gồm khu dân cư và các tổ chức thương mại cũng như cơ sở tôn giáo như giáo xứ Mary Queen của Giáo hội Công giáo Việt Nam, Chùa Vạn Hạnh của Phật giáo, và Nhà hàng bánh nướng Đông Phương.
Có một khu vực doanh nghiệp Việt Nam ở thủ phủ Baton Rouge, nằm gần khối 12.000 Đại lộ Florida Blvd (Hwy 190), trong đó bao gồm các nhà hàng, cửa hàng tạp hóa, và các doanh nghiệp khác nhau.
Năm 2008, Joseph Cao đã làm nên lịch sử sau khi được bầu vào Quốc hội Hoa Kỳ tại khu vực thứ 2 thường thiên về Đảng Dân chủ của bang Louisiana, bao gồm hầu hết New Orleans.
Tại Philadelphia
Một trong những khu phố Việt lớn nhất ở Philadelphia tập trung vào các giao điểm của đường Eighth Street và Washington Avenue ở Nam Philadelphia, là "một trong những quần thể lớn nhất của người Việt Nam trên bờ biển phía đông".
Các nơi khác
Tại Paris, Pháp
Các cửa tiệm Việt Nam tập trung tại quận 13 và quận 5 thành phố Paris.
Tại Úc
Ở Sydney, người Úc gốc Việt tập trung ở Cabramatta (còn mệnh danh là "Vietnamatta"), Bankstown, Canley Vale và Villawood. Ở Melbourne, vùng ngoại ô Richmond có một tỷ lệ lớn người Úc gốc Việt sinh sống, phố Victoria (Victoria Street) thường có biệt danh là Little Saigon. Các cộng đồng người Việt khác tập trung quanh Đường Springvale (Springvale Road) ở Springvale, hầu hết các khu vực của Footscray và cả ở St Albans.
Ở Adelaide, người Việt Nam tập trung xung quanh Woodville đặc biệt dọc theo Đường Hanson (Hanson Road).
Xem thêm
Danh sách các thành phố Hoa Kỳ có đông người Mỹ gốc Việt
Chú thích
Liên kết ngoài
Little Saigon hôm qua, hôm nay và ngày mai
Để Nhớ Về Sài Gòn
Tổng Hội Sinh Viện Việt Nam Nam Cali
Videos: Diễn hành Xuân 2007 lần thứ 10 tại San Jose 18/02/2007 (hình ảnh ) và Hội Chợ Tết Sinh Viên 2007 lần thứ 25 tại Little Saigon, California
Little Saigon, Westminster, với Khu Phước Lộc Thọ nhìn từ không trung trên trang Google Maps
Blog Bolsavik về các sự kiện tại Little Saigon
Người Mỹ gốc Việt
Cơ sở Việt Nam hải ngoại
Việt Nam hải ngoại
Khu phố mua sắm
|
23890
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Carbon%20dioxide
|
Carbon dioxide
|
Carbon dioxide hay carbonic oxide (tên gọi khác: thán khí, anhydride carbonic, khí carbonic) là một hợp chất ở điều kiện bình thường có dạng khí trong khí quyển Trái Đất, bao gồm một nguyên tử carbon và hai nguyên tử oxy. Là một hợp chất hóa học được biết đến rộng rãi, nó thường xuyên được gọi theo công thức hóa học là CO2. Trong dạng rắn, nó được gọi là băng khô hoặc đá khô.
Carbon dioxide thu được từ nhiều nguồn khác nhau, bao gồm cả khí thoát ra từ các núi lửa, sản phẩm cháy của các hợp chất hữu cơ và hoạt động hô hấp của các sinh vật sống hiếu khí. Nó cũng được một số vi sinh vật sản xuất từ sự lên men và sự hô hấp của tế bào. Các loài thực vật hấp thụ carbon dioxide trong quá trình quang hợp, và sử dụng cả carbon và oxy để tạo ra các carbohydrat. Ngoài ra, thực vật cũng giải phóng oxy trở lại khí quyển, oxy này sẽ được các sinh vật dị dưỡng sử dụng trong quá trình hô hấp, tạo thành một chu trình. Nó có mặt trong khí quyển Trái Đất với nồng độ thấp và tác động như một khí gây hiệu ứng nhà kính. Nó là thành phần chính trong chu trình carbon.
Các thuộc tính hóa-lý
Carbon dioxide là một khí không màu mà khi hít thở phải ở nồng độ cao (nguy hiểm do nó gắn liền với rủi ro ngạt thở) tạo ra vị chua trong miệng và cảm giác nhói ở mũi và cổ họng. Các hiệu ứng này là do khí hòa tan trong màng nhầy và nước bọt, tạo ra dung dịch yếu của acid carbonic.
Tỷ trọng riêng của nó ở 25 °C là 1,98 kg·m−3, nặng hơn khoảng 1,5 lần không khí. Phân tử carbon dioxide (O = C = O) chứa hai liên kết đôi và có hình dạng tuyến tính. Nó không có lưỡng cực điện. Do nó là hợp chất đã bị oxy hóa hoàn toàn nên về mặt hóa học nó không hoạt động lắm và cụ thể là không cháy.
Ở nhiệt độ dưới -78 °C, carbon dioxide ngưng tụ lại thành các tinh thể màu trắng gọi là băng khô. Carbon dioxide lỏng chỉ được tạo ra dưới áp suất trên 5,1 bar; ở điều kiện áp suất khí quyển, nó chuyển trực tiếp từ các pha khí sang rắn hay ngược lại theo một quá trình gọi là thăng hoa.
Nước sẽ hấp thụ một lượng nhất định carbon dioxide, và nhiều hơn lượng này khi khí bị nén. Khoảng 1% carbon dioxide hòa tan chuyển hóa thành acid carbonic. Acid carbonic phân ly một phần thành các ion bicarbonat (HCO3−) và carbonat (CO32−).
Khi một nguồn lửa được đưa vào ống thử có chứa carbon dioxide thì ngọn lửa sẽ tắt ngay lập tức do carbon dioxide thông thường không duy trì sự cháy, tuy nhiên nếu là sự cháy của các kim loại mang tính khử cao như Mg, Zn thì carbon bị khử, tạo ra Oxide kim loại và muội than. (Một số loại bình cứu hỏa chứa carbon dioxide hay các chất khi phản ứng với nhau sẽ tạo ra nó dùng để dập lửa). Để xác nhận tiếp theo là khí này là carbon dioxide thì khí được dẫn qua dung dịch calci hydroxide (Ca(OH)2) trong. Dung dịch calci hydroxide sẽ chuyển thành kết tủa màu trắng do sự tạo thành calci carbonat (CaCO3).
Sử dụng
Carbon dioxide lỏng và rắn là chất làm lạnh quan trọng, đặc biệt là trong công nghiệp thực phẩm, trong đó chúng tham gia vào quá trình lưu trữ và vận chuyển các loại kem lạnh và các thực phẩm đông lạnh.
Carbon dioxide được sử dụng để sản xuất nước giải khát carbonat hóa và nước soda. Theo truyền thống, quá trình carbonat hóa trong bia và vang nổ có được do lên men tự nhiên, nhưng một số nhà sản xuất carbonat hóa các đồ uống này một cách nhân tạo.
Bột nở sử dụng trong các loại bánh nướng tạo ra khí carbonic làm cho khối bột bị phình to ra, do tạo ra các lỗ xốp chứa bọt khí. Men bánh mì tạo ra khí carbonic bằng sự lên men trong khối bột, trong khi các loại bột nở hóa học giải phóng ra khí carbonic khi bị nung nóng hoặc bị tác dụng với các acid.
Carbon dioxide thông thường cũng được sử dụng như là khí điều áp rẻ tiền, không cháy. Các áo phao cứu hộ thông thường chứa các hộp nhỏ chứa carbon dioxide đã nén để nhanh chóng thổi phồng lên. Các ống thép chứa carbonic nén cũng được bán để cup cấp khí nén cho súng hơi, bi sơn, bơm lốp xe đạp, cũng như để làm nước khoáng xenxe. Sự bốc hơi nhanh chóng của carbon dioxide lỏng được sử dụng để gây nổ trong các mỏ than.
Carbon dioxide dập tắt lửa, và một số bình cứu hỏa, đặc biệt là các loại được thiết kể để dập cháy do điện, có chứa carbon dioxide lỏng bị nén. carbon dioxide cũng được sử dụng như là môi trường khí cho công nghệ hàn, mặc dù trong hồ quang thì nó phản ứng với phần lớn các kim loại. Nó được sử dụng rộng rãi trong công nghiệp ô tô mặc dù có chứng cứ đáng kể cho thấy khi hàn trong môi trường này thì mối hàn giòn hơn so với các mối hàn trong môi trường các khí trơ, và các mối hàn này theo thời gian sẽ giảm phẩm cấp do sự tạo thành của axít carbonic. Nó được sử dụng làm việc này chủ yếu là do nó rẻ tiền hơn nhiều so với các khí trơ như agon hay heli.
Carbon dioxide lỏng là một dung môi tốt cho nhiều hợp chất hữu cơ, và được dùng để loại bỏ cafein từ cà phê. Nó cũng bắt đầu nhận được sự chú ý của công nghiệp dược phẩm và một số ngành công nghiệp chế biến hóa chất khác do nó là chất thay thế ít độc hơn cho các dung môi truyền thống như các chloride hữu cơ (xem hóa học xanh).
Thực vật cần có carbon dioxide để thực hiện việc quang hợp, và các nhà kính có thể được làm giàu bầu khí quyển của chúng bằng việc bổ sung CO2 nhằm kích thích sự tăng trưởng của thực vật. Người ta cũng đề xuất ý tưởng cho carbon dioxide từ các nhà máy nhiệt điện đi qua các ao để phát triển tảo và sau đó chuyển hóa chúng thành nguồn nhiên liệu điezen sinh học. Nồng độ cao của carbon dioxide trong khí quyển tiêu diệt có hiệu quả nhiều loại sâu hại. Các nhà kính được nâng nồng độ CO2 tới 10.000 ppm (1%) trong vài giờ để tiêu diệt các loại sâu bệnh như rầy trắng (họ Aleyrodidae), nhện v.v.
Trong y học, tới 5% carbon dioxide được thêm vào oxy nguyên chất để trợ thở sau khi ngừng thở và để ổn định cân bằng O2/CO2 trong máu.
Một dạng phổ biến của laser khí công nghiệp là laze carbon dioxide, sử dụng carbon dioxide làm môi trường.
Carbon dioxide cũng hay được bơm vào hay gần với các giếng dầu. Nó có tác dụng như là tác nhân nén và khi hòa tan trong dầu thô dưới lòng đất thì nó làm giảm đáng kể độ nhớt của dầu thô, tạo điều kiện để dầu chảy nhanh hơn trong lòng đất vào các giếng hút. Trong các mỏ dầu đã hoàn thiện thì một hệ thống ống đồ sộ được sử dụng để chuyển carbon dioxide tới các điểm bơm.
Băng khô
Băng khô là tên gọi cho carbon dioxide rắn (đóng băng). Thuật ngữ này được Prest Air Devices tạo ra năm 1925 (công ty thành lập năm 1923 tại thành phố Long Island, New York).
Băng khô, dưới áp suất thường, không nóng chảy thành carbon dioxide lỏng mà thăng hoa trực tiếp thành dạng khí ở -78,5 °C (-109,3 °F). Vì thế nó được gọi là "băng khô" như là cách gọi để so sánh với băng "ướt" (nước đá thông thường).
Băng khô được sản xuất bằng cách nén khí carbon dioxide thành dạng lỏng, loại bỏ nhiệt gây ra bởi quá trình nén (xem định luật Charles), và sau đó cho carbon dioxide lỏng giãn nở nhanh. Sự giãn nở này làm giảm nhiệt độ và làm cho một phần CO2 bị đóng băng thành "tuyết", sau đó "tuyết" này được nén thành các viên hay khối.
Sử dụng
Làm lạnh thực phẩm, các mẫu sinh học và các mặt hàng mau hỏng khác.
Sản xuất "sương mù băng khô" để tạo các hiệu ứng đặc biệt. Khi băng khô tiếp xúc với nước thì carbon dioxide đóng băng thăng hoa thành hỗn hợp khí carbon dioxide lạnh và không khí lạnh ẩm ướt. Điều này sinh ra sự ngưng tụ và hình thành sương mù; xem thêm máy tạo sương mù. Hiệu ứng sương mù của hỗn hợp băng khô với nước được tạo ra tốt nhất là với nước ấm.
Các viên nhỏ băng khô (thay vì cát) được bắn vào bề mặt cần làm sạch. Băng khô không cứng như cát, nhưng nó tăng tốc quá trình bằng sự thăng hoa để "không còn gì" tồn tại trên bề mặt cần làm sạch và gần như không tạo ra nhiều bụi gây hại phổi.
Tăng gây mưa từ các đám mây hay làm giảm độ dày của mây nhờ sự kết tinh nước trong mây.
Sản xuất khí carbon dioxide do cần thiết trong các hệ thống như thùng nhiên liệu hệ thống trơ trong các máy bay B-47.
Các ống lót trục bằng đồng thau hay kim loại khác được cho vào băng khô để làm chúng co lại sao cho chúng sẽ khớp với kích thước trong của lỗ trục. Khi các ống lót này ấm trở lại, chúng nở ra và trở nên cực kỳ khít nhau.
Tiếp xúc
Do các đặc trưng cụ thể của mình, băng khô đòi hỏi phải có sự phòng ngừa đặc biệt khi tiếp xúc. Nó cực lạnh vì vậy không nên cho tiếp xúc trực tiếp với da (nghĩa là cần đeo găng cách nhiệt thích hợp). Nó thường xuyên thăng hoa thành khí carbonic, vì thế nó không thể lưu trữ trong các thùng chứa có nắp đậy do áp suất tạo ra sẽ nhanh chóng phá vỡ thùng do bị nổ. Khí thăng hoa cần thông gió tốt; nếu không nó có thể tràn ngập không gian quanh đó và làm cho người ta nghẹt thở. Sự quan tâm đặc biệt đối với các thiết bị thông gió là cần thiết. Những người tiếp xúc với băng khô cần phải được cảnh báo là carbon dioxide nặng hơn không khí và sẽ chìm xuống dưới sàn. Một số thị trường đòi hỏi những người mua băng khô phải từ 18 tuổi trở lên.
Sinh học
Carbon dioxide là sản phẩm cuối cùng trong cơ thể sinh vật có sự tích lũy năng lượng từ việc phân hủy đường hay chất béo với oxy như là một phần của sự trao đổi chất của chúng, trong một quá trình được biết đến như là sự hô hấp của tế bào. Nó bao gồm tất cả các loài thực vật, động vật, nhiều loại nấm và một số vi khuẩn. Trong các động vật bậc cao, carbon dioxide di chuyển trong máu từ các mô của cơ thể tới phổi và ở đây nó bị thải ra ngoài.
Hàm lượng carbon dioxide trong không khí trong lành là khoảng 0,04%, và trong không khí bị thải ra từ sự thở là khoảng 4,5%. Khi thở trong không khí với nồng độ cao (khoảng 5% theo thể tích), nó là độc hại đối với con người và các động vật khác.
Hemoglobin, phân tử chuyên chở oxy chính trong hồng cầu, có thể chở cả oxy và carbon dioxide, mặc dù theo các cách thức hoàn toàn khác nhau. Sự suy giảm liên kết với oxy trong máu do sự tăng mức carbon dioxide được biết đến như là hiệu ứng Haldane, và nó là quan trọng trong việc vận chuyển carbon dioxide từ các mô tới phổi. Ngược lại, sự tăng áp suất thành phần của CO2 hay pH thấp hơn sẽ sinh ra sự rút bớt oxy từ hemoglobin. Hiệu ứng này gọi là hiệu ứng Bohr.
Theo nghiên cứu của USDA , sự thở của một người trung bình mỗi ngày sinh ra khoảng 450 lít (khoảng 900 gam) carbon dioxide.
CO2 được vận chuyển trong máu theo ba cách khác nhau. Phần lớn trong chúng (khoảng 80%–90%) được các enzym carbonic anhydraz chuyển hóa thành các ion bicarbonat HCO3− trong các tế bào hồng cầu. 5%–10% được hòa tan trong huyết tương và 5%–10% liên kết với hemoglobin thành các hợp chất carbamin. Phần trăm chính xác phụ thuộc vào đó là máu ở động mạch hay tĩnh mạch.
Hemoglobin liên kết với CO2 không giống như liên kết với oxy; CO2 liên kết với các nhóm chứa N trên 4 chuỗi globin. Tuy nhiên, do các hiệu ứng khác khu vực hoạt hóa trên phân tử hemoglobin, liên kết của CO2 làm giảm lượng oxy được liên kết đối với áp suất thành phần nhất định của oxy.
Carbon dioxide có thể là một trong các chất trung gian để tự điều chỉnh việc cung cấp máu theo khu vực. Nếu nồng độ của nó cao thì các mao mạch nở ra để cho nhiều máu hơn đến các mô.
Các ion bicarbonat là chủ yếu trong việc điều chỉnh pH của máu. Do tần suất thở có ảnh hưởng tới mức CO2 trong máu, nên nhịp thở quá chậm hay quá nông sẽ sinh ra hiện tượng toan hô hấp, trong khi nhịp thở quá nhanh gây nên thở nhanh sẽ dẫn đến kiềm hô hấp.
Một điều thú vị là mặc dù oxy là chất cần thiết của quá trình trao đổi chất của cơ thể, nhưng không phải nồng độ thấp của oxy kích thích sự hô hấp mà lại là nồng độ cao của carbon dioxide. Kết quả là, sự hô hấp trong không khí loãng (áp suất thấp) hay hỗn hợp khí không có oxy (ví dụ nitơ nguyên chất) dẫn đến sự bất tỉnh mà không cần có các vấn đề về hệ hô hấp của cá thể đó. Nó là đặc biệt nguy hiểm cho các phi công lái máy bay chiến đấu bay ở cao độ lớn, và nó cũng là lý do giải thích tại sao các hướng dẫn tại các máy bay thương mại trong trường hợp sụt áp suất trong khoang thì người ta cần phải sử dụng mặt nạ thở oxy cho chính mình trước khi giúp người khác—nếu không thì chính người đó sẽ chịu rủi ro bất tỉnh mà không hề được cảnh báo trước về nguy hiểm sắp xảy ra.
Thực vật hấp thụ carbon dioxide từ khí quyển trong quá trình quang hợp. Carbon dioxide được thực vật (với năng lượng từ ánh sáng Mặt Trời) sử dụng để sản xuất ra các chất hữu cơ bằng tổ hợp nó với nước. Các phản ứng này giải phóng ra oxy tự do. Đôi khi carbon dioxide được bơm thêm vào các nhà kính để thúc đẩy thực vật phát triển. Thực vật cũng giải phóng ra CO2 trong quá trình hô hấp của nó, nhưng tổng thể thì chúng làm giảm lượng CO2.
Các giới hạn của OSHA cho nồng độ carbon dioxide tại nơi làm việc là 0,5% cho thời gian dài, tối đa tới 3% cho phơi nhiễm ngắn (tối đa 10 phút). OSHA cho rằng các nồng độ trên 4% là "nguy hiểm ngay lập tức đối với sức khỏe và sự sống". Những người thở không khí chứa trên 5% carbon dioxide trên 30 phút có các triệu chứng tăng anhydride carbonic máu cấp tính, trong khi việc thở với nồng độ carbon dioxide từ 7%–10% có thể làm bất tỉnh trong vài phút. Carbon dioxide, dù là dạng khí hay dạng rắn, chỉ được tiếp xúc trong các môi trường/khu vực thông gió tốt.
Xem thêm: Khí máu động mạch.
Khí quyển Trái Đất
Vào thời điểm năm 2004, khí quyển Trái Đất chứa khoảng 0,038% theo thể tích (380 µL/L hay ppm) hoặc 0,053% theo trọng lượng là CO2. Nó tương đương với 2,7 × 1012 tấn CO2. Do có nhiều đất đai hơn (và vì thế nhiều thực vật hơn) nên ở bắc bán cầu khi so với nam bán cầu có sự dao động hàng năm vào khoảng 5 µL/L, sự dao động này lên tới đỉnh vào tháng 5 và xuống tối thiểu vào tháng 10 khi kết thúc mùa sinh trưởng ở bắc bán cầu, khi mà khối lượng các chất sinh học trên hành tinh là lớn nhất.
Mặc dù nồng độ thấp nhưng CO2 là một thành phần cực kỳ quan trọng trong khí quyển Trái Đất, do nó hấp thụ bức xạ hồng ngoại và làm tăng hiệu ứng nhà kính.
Carbon dioxide nguyên thủy trong khí quyển của Trái Đất được tạo ra trong hoạt động của các núi lửa; nó là cốt yếu để làm ấm và ổn định khí hậu dẫn đến sự sống. Hoạt động núi lửa ngày nay giải phóng khoảng 130–230 triệu tấn carbon dioxide mỗi năm. Lượng khí này xấp xỉ 1% lượng carbon dioxide do các hoạt động của con người tạo ra.
Từ đầu thời kỳ cách mạng công nghiệp, nồng độ CO2 trong khí quyển đã tăng khoảng 110 µL/L hay khoảng 40%, phần lớn trong số này được giải phóng từ năm 1945 đến nay. Các đo đạc hàng tháng tại Mauna Loa từ năm 1958 chỉ ra sự tăng từ 316 µL/L trong năm đó tới 376 µL/L năm 2003, tổng thể tăng 60 µL/L trong lịch sử 44 năm đo đạc. Các nhiên liệu hóa thạch như than và dầu mỏ bị đốt là nguyên nhân chính trong sự gia tăng của CO2 do con người tạo ra; Sự tàn phá rừng là nguyên nhân thứ hai. Năm 1997, các đám cháy than bùn ở Indonesia có thể giải phóng tới 13%–40% lượng dioxide carbon do nhiên liệu hóa thạch tạo ra. Nhiều công nghệ khác nhau đã được giới thiệu nhằm làm giảm lượng carbon dioxide dư thừa khỏi khí quyển. Không phải toàn bộ lượng CO2 được giải phóng ra tồn tại trong không khí; một số được các đại dương hoặc sinh quyển hấp thụ. Tỷ lệ CO2 tỏa ra trên sự tăng của CO2 trong khí quyển được biết đến như là tỷ lệ bay lên (Keeling và những người khác, 1995); nó dao động theo các trung bình ngắn hạn nhưng thông thường là 57% cao hơn đối với các chu kỳ dài hơn (5 năm).
Thuyết "sự ấm toàn cầu" (GWT) dự báo là sự gia tăng lượng CO2 trong khí quyển có xu hướng làm trầm trọng thêm hiệu ứng nhà kính và vì thế góp phần vào sự ấm toàn cầu. Hiệu ứng của carbon dioxide tạo ra từ sự cháy đối với khí hậu được gọi là hiệu ứng Callendar.
Thay đổi trong quá khứ
Phương pháp trực tiếp nhất để đo nồng độ carbon dioxide trong khí quyển cho các thời kỳ trước việc lấy mẫu trực tiếp là đo các bọt khí bị giữ lại trong các chỏm băng ở Nam Cực hay Greenland. Nghiên cứu được chấp nhận rộng rãi nhất là từ các loại lấy từ Nam Cực và chỉ ra rằng mức CO2 trong khí quyển là khoảng 260–280 µL/L ngay trước khi khí thải công nghiệp bắt đầu và nó không dao động nhiều với mức này trong khoảng 10.000 năm trước đó.
Ghi chép về lõi băng dài nhất đến từ Đông Nam Cực, tại đó băng được lấy mẫu đến niên đại khoảng 650.000 năm trước. Trong thời gian này, nồng độ carbon dioxide trong khí quyển đã dao động trong khoảng 180–210 µL/L trong các thời kỳ băng hà, tăng lên tới 280–300 µL/L trong các thời kỳ giữa các kỷ băng hà ấm áp hơn.
Một số nghiên cứu đã gây tranh luận về sự ổn định của mức CO2 trong thời kỳ giữa các kỷ băng hà gần đây nhất (10.000 năm cuối). Dựa trên phân tích các lá hóa thạch, Wagner và những người khác cho rằng mức CO2 trong thời kỳ 7–10.000 năm trước là cao hơn một cách đáng kể (≈ 300 µL/L) và chứa các thay đổi đáng kể mà có thể có tương quan với các thay đổi khí hậu. Các tuyên bố khác gây tranh cãi là giả thiết cho rằng chúng có lẽ phản ánh các vấn đề định cỡ hơn là các thay đổi thực sự của CO2. Liên quan đến tranh cãi này là các quan sát lõi băng ở Greenland thông thường cho các giá trị của CO2 cao hơn và biến đổi nhiều hơn so với các phép đo tương tự tại Nam Cực. Tuy nhiên, các nhóm chịu trách nhiệm cho các đo đạc này (ví dụ Smith và những người khác tin rằng các thay đổi trong lõi băng Greenland được tạo ra do sự phân hủy tại chỗ (in situ) của bụi calci carbonat tìm thấy trong băng. Khi mức độ bụi trong các lõi băng Greenland là thấp gần như bằng mức ở lõi băng Nam Cực thì các báo cáo của các nhà nghiên cứu cũng gần như cho một kết quả giữa các phép đo tại hai nơi này.
Trên biểu thời gian dài hơn, các phép đo đại diện khác nhau được sử dụng để cố gắng xác định mức carbon dioxide trong khí quyển hàng triệu năm trước. Các phép đo này bao gồm các tỷ lệ đồng vị bo và carbon trong các dạng trầm tích đại dương nào đó cũng như số lượng khí khổng quan sát được trên các lá hóa thạch. Trong khi các phép đo này ít chính xác hơn về nồng độ carbon dioxide so với việc đo lõi băng thì ở đây có chứng cứ cho thấy các nồng độ CO2 rất cao (> 3.000 µL/L) trong khoảng 600–400 triệu năm trước và trong khoảng 200–150 triệu năm trước. . Trên biểu thời gian dài, hàm lượng CO2 khí quyển được xác định theo cân bằng giữa các quá trình địa hóa học (bao gồm carbon hữu cơ bị chôn vùi trong các trầm tích, đá silicat phong hóa) và tác động của núi lửa. Hiệu ứng ròng của sự không cân bằng nhẹ trong chu trình carbon trên hàng chục đến hàng trăm triệu năm đã làm giảm CO2 khí quyển. Các tốc độ của các quá trình này là cực chậm; vì thế chúng có mối tương quan bị giới hạn đối với các phản ứng của CO2 khí quyển trong việc thoát ra trong hàng trăm năm sau. Trong thời gian gần đây, nồng độ CO2 khí quyển vẫn tiếp tục theo đà suy giảm kể từ khoảng 60 triệu năm trước, và ở đây cũng có chứng cứ địa hóa học cho thấy nồng độ đã nhỏ hơn 300 µL/L vào khoảng 20 triệu năm trước. Nồng độ CO2 thấp có thể đã là tác nhân kích thích cho sự tiến hóa của các thực vật [[Sự cố định carbon C4|C4]], là những loài đã tăng đáng kể về số lượng trong khoảng 7–5 triệu năm trước. Mặc dù các nồng độ CO2 thời đó đã vượt quá trong vòng các kỷ nguyên địa chất diễn ra sớm hơn, các nồng độ carbon dioxide hiện nay có lẽ là cao hơn so với bất kỳ thời gian nào trong vòng 20 triệu năm qua nhưng lại là thấp hơn so với bất kỳ thời gian nào trong lịch sử nếu ta nhìn vào thang thời gian dài hơn 50 triệu năm.
Thủy quyển Trái Đất
Các đại dương của Trái Đất chứa một lượng khổng lồ carbon dioxide trong dạng các ion bicarbonat và carbonat—nhiều hơn rất nhiều so với lượng CO2 trong khí quyển. Bicarbonat được tạo ra trong các phản ứng của đá, nước và carbon dioxide. Dưới đây là ví dụ về sự hòa tan calci carbonat:
CaCO3 + CO2 + H2O ⇌ Ca2+ + 2 HCO3−
Các phản ứng tương tự như thế có xu hướng tạo ra các thay đổi đệm của CO2 khí quyển. Các phản ứng giữa carbon dioxide và các loại đá không carbonat cũng bổ sung thêm bicarbonat vào biển cả, chúng sau đó phản ứng theo chiều ngược lại của phản ứng trên để tạo ra các loại đá carbonat và giải phóng một nửa các bicarbonat thành CO2. Hàng trăm triệu năm qua chúng đã tạo ra một lượng lớn đá carbonat. Nếu tất cả các loại đá carbonat trong lớp vỏ Trái Đất được chuyển hóa ngược lại thành carbon dioxide thì lượng khí này sẽ nặng gấp 40 lần toàn bộ khí quyển.
Phần chủ yếu của CO2 được bổ sung vào khí quyển cuối cùng sẽ bị các đại dương hấp thụ trong dạng các ion bicarbonat, nhưng quá trình này phải mất hàng trăm năm do phần lớn nước biển lại không ở gần bề mặt.
Trong vũ trụ
Carbon dioxide là thành phần chính của khí quyển Sao Hỏa, và là một thành phần quan trọng của khí quyển Sao Kim. Có giả thuyết cho rằng vào thời kỳ hệ Mặt Trời mới hình thành, các hành tinh nằm ở vòng trong (Trái Đất, Sao Hỏa, Sao Kim) đều có khí quyển khá giống nhau và chứa nhiều thán khí. Thán khí cũng có mặt ở dạng băng khô trên các sao chổi.
Chất khí này đã được quan sát là có mặt ở khoảng không vũ trụ, gần những sao thuộc thế hệ 2 hoặc thế hệ 3, nơi mà sản phẩm của quá trình phản ứng nhiệt hạch trong các sao đã tích tụ nhiều carbon và oxy. Có thể đặt giả thuyết rằng chất khí này có mặt trong khí quyển của các hành tinh thuộc vòng trong bay quanh các sao thuộc thế hệ từ 2 trở đi.
Lịch sử
Carbon dioxide là một trong các khí đầu tiên được miêu tả như là chất hiện hữu trong không khí. Vào thế kỷ XVII, nhà hóa học người Flanders là Jan Baptist van Helmont đã quan sát thấy khi ông đốt than củi trong bình kín thì khối lượng còn lại của tro là thấp hơn so với khối lượng nguyên thủy của than củi. Diễn giải của ông là phần còn lại của than củi đã được biến tố thành chất không nhìn thấy mà ông gọi là "khí" hay "linh hồn hoang dã" (spiritus sylvestre).
Các thuộc tính của carbon dioxide được nhà vật lý người Scotland là Joseph Black nghiên cứu nhiều hơn trong thập niên 1750. Ông phát hiện ra là đá vôi (calci carbonat) có thể nung nóng hay xử lý bằng các acid để sinh ra khí mà ông gọi là "không khí cố định". Ông quan sát thấy không khí cố định nặng hơn không khí và không hỗ trợ sự cháy cũng như sự sống của động vật. Ông cũng phát hiện là nó có thể, khi cho chạy qua dung dịch nước của vôi tôi (calci hydroxide) làm kết tủa calci carbonat và sử dụng hiện tượng này để minh họa rằng carbon dioxide là sản phẩm của sự hô hấp của động vật và lên men vi sinh vật. Năm 1772, Joseph Priestley sử dụng carbon dioxide tạo ra từ phản ứng của acid sunfuric với đá vôi để điều chế nước soda, ví dụ đầu tiên được biết của đồ uống carbonat hóa nhân tạo.
Carbon dioxide được Humphrey Davy và Michael Faraday hóa lỏng lần đầu tiên năm 1823 bằng tăng áp suất. Mô tả đầu tiên về carbon dioxide rắn là của Charles Thilorier, là người năm 1834 đã mở thùng chứa carbon dioxide lỏng bị nén, chỉ để tìm sản phẩm được tạo ra do bị làm lạnh vì sự bay hơi nhanh của carbon dioxide lỏng và thấy "tuyết" của CO2 rắn.
Xem thêm
Khí thiên nhiên
Nhiên liệu hóa thạch
Khí nhà kính
Chu trình carbon
Tham khảo
Friederike Wagner, Bent Aaby và Henk Visscher (2002) Rapid atmospheric CO2 changes associated with the 8,200-years-B.P. cooling event, PNAS 99 (19): 12011-12014 DOI: 10.1073/pnas.182420699
Andreas Indermühle, Bernhard Stauffer, Thomas F. Stocker (1999) Early Holocene Atmospheric CO2 Concentrations, Science 286 (5446): 1815 DOI: 10.1126/science.286.5446.1815a Early Holocene Atmospheric CO2 Concentrations Science URL truy cập 26 tháng 5 năm 2005
H.J. Smith, M Wahlen và D. Mastroianni (1997) The CO2 concentration of air trapped in GISP2 ice from the Last Glacial Maximum-Holocene transition, Geophysical Research Letters 24(1) 1-4
Joseph Priestley (1772) Observations on Different Kinds of Air, Philosophical Transactions 62: 147-264
Humphry Davy (1823) On the Applicatin of Liquids Formed by the Condensation of Gases as Mechanical Agents, Philosophical Transactions 113: 199-205
Liên kết ngoài
Thẻ an toàn hóa chất số 0021
CID280 từ PubChem
Thông tin về băng khô
Bassam Z. Shakhashiri – Hóa chất trong tuần: Carbon dioxide
Keeling, C.D. và T.P. Whorf – Ghi chép về carbon dioxide trong khí quyển tại Mauna Loa , 2002
Cập nhật Mauna Loa 2004
Carbon dioxide, CO2: Thuộc tính, sử dụng, ứng dụng
Wiki hóa điện toán
Biểu đồ pha theo áp suất-nhiệt độ của carbon dioxide
Hợp chất carbon vô cơ
Oxide
Khí nhà kính
Tác nhân đẩy
Dung môi
Chất làm lạnh
Chất dập lửa
Hợp chất carbon
Hợp chất oxy
Carbon dioxide
Hóa chất gia dụng
Oxide acid
|
23895
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/X%C3%A1c%20nh%E1%BA%ADn%20hai%20pha%20%28khoa%20h%E1%BB%8Dc%20m%C3%A1y%20t%C3%ADnh%29
|
Xác nhận hai pha (khoa học máy tính)
|
Trong lĩnh vực cơ sở dữ liệu, xác nhận hai pha (tiếng Anh: two-phase commit protocol, hay 2PC) là một thuật toán phân tán đảm bảo các nút khác nhau của một hệ thống phân tán xác nhận một giao dịch.
Trong quá trình xác nhận, nếu một trong các nút của hệ thống phủ nhận giao dịch thì toàn bộ giao dịch sẽ bị hủy bỏ. Giao dịch chỉ được hoàn thành khi tất cả các nút của hệ thống xác nhận nó.
Quá trình xác nhận bao gồm 2 pha là:
- Gửi yêu cầu: nút điều phối (coordinator) gửi câu truy vấn yêu cầu xác nhận giao dịch tới tất cả các nút tham gia, sau đó đợi trả lời từ các nút đó.
- Xác nhận giao dịch: khi nút điều phối nhận được trả lời đồng ý của tất cả các nút tham gia, nó sẽ gửi lại thông điệp xác nhận tới tất cả các nút tham gia một lần nữa để hoàn tất việc giao dịch, và giao dịch đó được xác nhận thành công. Trong trường hợp nút điều phối nhận được ít nhất một trả lời phủ định giao dịch từ một nút tham gia nào đó, hoặc nếu sau khoảng thời gian nhất định vẫn chưa nhận được toàn bộ trả lời từ các nút tham gia, thì nút điều phối sẽ gửi thông điệp hủy bỏ việc xác nhận tới tất cả các nút tham gia, và việc xác nhận giao dịch thất bại.
Tham khảo
Cơ sở dữ liệu
Thuật toán
Quản trị dữ liệu
|
23899
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90i%E1%BB%87n%20to%C3%A1n%20ph%C3%A2n%20t%C3%A1n
|
Điện toán phân tán
|
Điện toán phân tán (tiếng Anh: Distributed computing) là một ngành khoa học máy tính nghiên cứu các hệ thống phân tán. Hệ thống phân tán (distributed system) là hệ thống phần mềm mà các thành phần cấu tạo nên nó nằm ở trên các máy tính khác nhau được kết nối thành mạng lưới. Các máy tính này phối hợp hoạt động với nhau để hoàn thành một nhiệm vụ chung bằng cách trao đổi qua lại các thông điệp (message).
Điện toán phân tán là tính toán song song được phân quyền. Các loại phần cứng, ngôn ngữ lập trình, hệ điều hành và các tài nguyên khác được sử dụng có thể rất đa dạng. Nó tương tự với việc phân cụm máy tính (computer clustering) với khác biệt chính là sự phân tán về mặt địa lý của các tài nguyên.
Tổ chức
Việc tổ chức tương tác giữa các máy tính trong hệ thống có tầm quan trọng rất lớn. Để có thể sử dụng các loại máy tính đa dạng nhất có thể được, giao thức hoặc kênh truyền không nên chứa hoặc sử dụng bất cứ thông tin nào mà chỉ có một số máy tính nhất định có thể hiểu được. Cũng cần sự quan tâm đặc biệt tới việc các thông điệp phải được chuyển giao một cách đúng đắn và các thông điệp không hợp lệ phải bị loại bỏ, nếu không chúng có thể gây hại cho hệ thống và có thể cả phần còn lại của cả mạng.
Một nhân tố quan trọng khác là khả năng gửi phần mềm tới một máy tính khác một cách khả chuyển (portable) để cho phần mềm đó có thể thực thi và tương tác với mạng hiện hành. Việc này không phải lúc nào cũng khả thi và có ý nghĩa thực tế khi sử dụng các tài nguyên và phần cứng khác nhau, trong trường hợp đó cần sử dụng các phương pháp khác chẳng hạn như biên dịch chuyển mã (cross-compiling) hay chuyển bằng tay (manually porting) phần mềm này.
Tổng quan
Công nghệ thông tin và viễn thông ngày càng phát triển, đòi hỏi nhu cầu về xử lý thông tin ngày càng cao, nhanh hơn nhiều lần tốc độ phát triển của tài nguyên phần cứng và phần mềm. Có nhiều vấn đề đặt ra mà các hệ thống tập trung thông thường không đáp ứng được, do tốc độ xử lý còn hạn chế. Xây dựng một hệ thống phân tán có khả năng xử lý đồng thời một bài toán trên nhiều máy tính là một hướng giải quyết khả thi và đã được chứng minh tính hữu dụng. Hệ thống phân tán còn tạo nhiều thuận lợi trong việc chia sẻ thông tin trên toàn thế giới
Có nhiều dạng hệ thống phân tán khác nhau và nhiều khó khăn để thiết kế. Mục đích chính của hệ thống phân tán là kết nối người sử dụng và tài nguyên một cách trong suốt, mở, và có thể nới rộng được. Một cách lý tưởng thì hệ thống này có khả năng chịu lỗi tốt hơn và mạnh hơn nhiều hệ thống tổ hợp máy tính độc lập khác.
Ngày nay, các Web Service trở thành những giao thức chuẩn của các hệ thống phân tán.
Ví dụ
Một ví dụ của hệ thống phân tán là World Wide Web. Khi bạn xem một trang web trên một site, thực ra bạn đang sử dụng một hệ thống phân tán có chứa site đó. Khi bạn duyệt web, trình duyệt của bạn chạy trên máy tính của bạn giao tiếp với những máy chủ web khác nhau và cung cấp cho bạn các trang web mà bạn yêu cầu.
Rất có thể trình duyệt của bạn dùng qua một máy chủ proxy để truy cập đến nội dung các trang web chứa trên máy chủ web nhanh chóng và an toàn hơn.
Để có thể xác định những máy chủ này, trình duyệt phải dùng hệ thống tên miền phân tán DNS. Trình duyệt có thể truy cập tới tất cả những máy chủ này trên Internet thông qua hệ thống các router mà chính bản thân chúng cũng tạo nên một hệ thống phân tán khổng lồ.
Tham khảo
Kiến trúc phần mềm
Khuôn mẫu lập trình
Phi tập trung hóa
|
23900
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%87%20th%E1%BB%91ng%20ph%C3%A2n%20gi%E1%BA%A3i%20t%C3%AAn%20mi%E1%BB%81n
|
Hệ thống phân giải tên miền
|
Hệ thống phân giải tên miền (hay được viết tắt là DNS do tên tiếng Anh Domain Name System) là một hệ thống cho phép thiết lập tương ứng giữa địa chỉ IP và tên miền trên Internet.
Tổng quan
Hệ thống phân giải tên miền (DNS) về căn bản là một hệ thống giúp cho việc chuyển đổi các tên miền mà con người dễ ghi nhớ (dạng ký tự, ví dụ www.example.com) sang địa chỉ IP vật lý (dạng số, ví dụ 123.11.5.19) tương ứng của tên miền đó. DNS giúp liên kết với các trang thiết bị mạng cho các mục đích định vị và địa chỉ hóa các thiết bị trên Internet.
Phép so sánh thường được sử dụng để giải thích cho DNS là, nó phục vụ như một "Danh bạ điện thoại", có khả năng tìm kiếm và dịch tên miền thành địa chỉ IP. Ví dụ, www.example.com dịch thành 208.77.188.166. Tên miền Internet dễ nhớ hơn các địa chỉ IP, là 208.77.188.166 (IPv4) hoặc 2001: db8: 1f70:: 999: de8: 7648:6 e8 (IPv6).
Hệ thống phân giải tên miền phân phối trách nhiệm gán tên miền và lập bản đồ những tên tới địa chỉ IP bằng cách định rõ những máy chủ có thẩm quyền cho mỗi tên miền. Những máy chủ có tên thẩm quyền được phân công chịu trách nhiệm đối với tên miền riêng của họ, và lần lượt có thể chỉ định tên máy chủ khác độc quyền của họ cho các tên miền phụ. Kỹ thuật này đã thực hiện các cơ chế phân phối DNS, chịu đựng lỗi, và giúp tránh sự cần thiết cho một trung tâm đơn lẻ để đăng ký được tư vấn và liên tục cập nhật.
Nhìn chung, Hệ thống phân giải tên miền cũng lưu trữ các loại thông tin khác, chẳng hạn như danh sách các máy chủ email mà chấp nhận thư điện tử cho một tên miền Internet. Bằng cách cung cấp cho một thế giới rộng lớn, phân phối từ khóa – cơ sở của dịch vụ đổi hướng, Hệ thống phân giải tên miền là một thành phần thiết yếu cho các chức năng của Internet. Các định dạng khác như các thẻ RFID, mã số UPC, ký tự Quốc tế trong địa chỉ email và tên máy chủ, và một loạt các định dạng khác có thể có khả năng sử dụng DNS.
Chức năng của DNS
Mỗi website có một tên (là tên miền hay đường dẫn URL: Uniform Resource Locator) và một địa chỉ IP. Địa chỉ IP gồm 4 nhóm số cách nhau bằng dấu chấm(IPv4). Khi mở một trình duyệt Web và nhập tên website, trình duyệt sẽ đến thẳng website mà không cần phải thông qua việc nhập địa chỉ IP của trang web. Quá trình "dịch" tên miền thành địa chỉ IP để cho trình duyệt hiểu và truy cập được vào website là công việc của một DNS server. Các DNS trợ giúp qua lại với nhau để dịch địa chỉ "IP" thành "tên" và ngược lại. Người sử dụng chỉ cần nhớ "tên", không cần phải nhớ địa chỉ IP (địa chỉ IP là những con số rất khó nhớ).
Nguyên tắc làm việc của DNS
Mỗi nhà cung cấp dịch vụ vận hành và duy trì DNS server riêng của mình, gồm các máy bên trong phần riêng của mỗi nhà cung cấp dịch vụ đó trong Internet. Tức là, nếu một trình duyệt tìm kiếm địa chỉ của một website thì DNS server phân giải tên website này phải là DNS server của chính tổ chức quản lý website đó chứ không phải là của một tổ chức (nhà cung cấp dịch vụ) nào khác.
INTERNIC (Internet Network Information Center) chịu trách nhiệm theo dõi các tên miền và các DNS server tương ứng. INTERNIC là một tổ chức được thành lập bởi NSF (National Science Foundation), AT&T và Network Solution, chịu trách nhiệm đăng ký các tên miền của Internet. INTERNIC chỉ có nhiệm vụ quản lý tất cả các DNS server trên Internet chứ không có nhiệm vụ phân giải tên cho từng địa chỉ.
DNS có khả năng truy vấn các DNS server khác để có được một cái tên đã được phân giải. DNS server của mỗi tên miền thường có hai việc khác biệt. Thứ nhất, chịu trách nhiệm phân giải tên từ các máy bên trong miền về các địa chỉ Internet, cả bên trong lẫn bên ngoài miền nó quản lý. Thứ hai, chúng trả lời các DNS server bên ngoài đang cố gắng phân giải những cái tên bên trong miền nó quản lý.
DNS server có khả năng ghi nhớ lại những tên vừa phân giải. Để dùng cho những yêu cầu phân giải lần sau. Số lượng những tên phân giải được lưu lại tùy thuộc vào quy mô của từng DNS.
Cách sử dụng DNS
Do các DNS có tốc độ biên dịch khác nhau, có thể nhanh hoặc có thể chậm, do đó người sử dụng có thể chọn DNS server để sử dụng cho riêng mình. Có các cách chọn lựa cho người sử dụng. Sử dụng DNS mặc định của nhà cung cấp dịch vụ (Internet), trường hợp này người sử dụng không cần điền địa chỉ DNS vào network connections trong máy của mình. Sử dụng DNS server khác (miễn phí hoặc trả phí) thì phải điền địa chỉ DNS server vào network connections. Địa chỉ DNS server cũng là 4 nhóm số cách nhau bởi các dấu chấm.
Kiến trúc DNS
Không gian tên miền (Domain name space)
Không gian tên miền là một kiến trúc dạng cây (hình), có chứa nhiều nốt (node). Mỗi nốt trên cây sẽ có một nhãn và có không hoặc nhiều resource record (RR), chúng giữ thông tin liên quan tới tên miền. Nốt root không có nhãn.
Tên miền (Domain name)
Tên miền được tạo thành từ các nhãn và phân cách nhau bằng dấu chấm (.), ví dụ example.com. Tên miền còn được chia theo cấp độ như tên miền top level, tên miền cấp 1, cấp 2...
Cú pháp tên miền (Domain name syntax)
Tên miền được định nghĩa trong các RFC 1035, RFC 1123, và RFC 2181. Một tên miền bao gồm một hoặc nhiều phần, gọi là các nhãn (label), chúng cách nhau bởi dấu chấm (.), ví dụ example.com.
Hệ thống phân giải tên miền tính theo hướng từ phải sang trái. Ví dụ www.example.com thì nhãn example là một tên miền con của tên miền com, và www là tên miền con của tên miền example.com. Cây cấu trúc này có thể có tới 127 cấp.
Tên miền quốc tế hóa (Internationalized domain names)
Do sự giới hạn của bộ ký tự ASCII trong việc diễn tả các ngôn ngữ khác nhau trên thế giới, ICANN cho phép thiết lập hệ thống IDNA (Internationalized domain names Application), dùng ký tự Unicode để biểu diễn tên miền, ví dụ http://TênMiềnTiếngViệt.vn.
Máy chủ tên miền (NS - Name Server)
Máy chủ tên miền chứa thông tin lưu trữ về một số tên miền. Hệ thống phân giải tên miền được vận hành bởi hệ thống dữ liệu phân tán, dạng Client-Server. Các node của hệ thống dữ liệu này là các máy chủ tên miền. Mỗi một tên miền sẽ có ít nhất một máy chủ tên miền chứa thông tin về tên miền đó. Các thông tin về máy chủ tên miền sẽ được lưu trữ trong các zone của tên miền. Có hai dạng Name Server (NS) là là Primary và Secondary. Một Client sẽ ưu tiên hỏi Primary trước và thử lại với Secondary nếu Primary không thể trả lời thông tin về tên miền đó trong thời gian quy định.
Máy chủ tên miền có thẩm quyền (Authoritative name server)
Máy chủ tên miền có thẩm quyền là một máy chủ tên miền có thể trả lời các truy vấn DNS từ các dữ liệu gốc, ví dụ, tên miền quản trị hoặc phương thức DNS động.
Vận hành
Cơ chế phân giải địa chỉ (Address resolution mechanism)
Các máy chủ phân giải tên miền theo cơ chế từ cao xuống thấp.
Máy chủ tên miền Recursive và Caching (Recursive and caching name server)
Theo lý thuyết, các máy chủ tên miền có thẩm quyền đã đủ dùng để vận hành hệ thống Internet. Tuy nhiên, nếu chỉ có máy chủ tên miền thẩm quyền, mỗi truy vấn DNS phải bắt đầu đi từ root zone, và mỗi hệ thống người dùng phải vận hành một phần mềm để làm nhiệm vụ phân giải.
Để giảm lượng băng thông trên Internet, DNS cho phép các máy chủ DNS lưu Cache các kết quả mà nó đã từng truy vấn.
Phân giải DNS
Phần client của DNS gọi là DNS resolver.
Truy vấn non-recursive: DNS resolver client truy vấn DNS server để tìm record của tên miền chưa trên server đó.
Truy vấn recursive
Truy vấn iterative
Circular dependencies and glue records
Mẩu tin caching (Record caching)
Tra cứu ngược (Reverse lookup)
Tra cứu ngược là một truy vấn để tìm tên miền khi biết địa chỉ IP.
Tra cứu client (Client lookup)
Giao thức vận chuyển
DNS chủ yếu hoạt động trên giao thức UDP và cổng 53. Một số hoạt động khác có sử dụng giao thức TCP.
Cấu trúc gói tin DNS
ID: Là một trường 16 bits, chứa mã nhận dạng, nó được tạo ra bởi một chương trình để thay cho truy vấn. Gói tin hồi đáp sẽ dựa vào mã nhận dạng này để hồi đáp lại. Chính vì vậy mà truy vấn và hồi đáp có thể phù hợp với nhau.
QR: Là một trường 1 bit. Bít này sẽ được thiết lập là 0 nếu là gói tin truy vấn, được thiết lập là một nếu là gói tin hồi đáp.
Opcode: Là một trường 4 bits, được thiết lập là 0 cho cờ hiệu truy vấn, được thiết lập là 1 cho truy vấn ngược, và được thiết lập là 2 cho tình trạng truy vấn.
AA: Là trường 1 bit, nếu gói tin hồi đáp được thiết lập là 1, sau đó nó sẽ đi đến một server có thẩm quyền giải quyết truy vấn.
TC: Là trường 1 bit, trường này sẽ cho biết là gói tin có bị cắt khúc ra do kích thước gói tin vượt quá băng thông cho phép hay không.
RD: Là trường 1 bit, trường này sẽ cho biết là truy vấn muốn server tiếp tục truy vấn một cách đệ quy.
RA: Trường 1 bit này sẽ cho biết truy vấn đệ quy có được thực thi trên server không.
Z: Là trường 1 bit. Đây là một trường dự trữ, và được thiết lập là 0.
Rcode: Là trường 4 bits, gói tin hồi đáp sẽ có thể nhận các giá trị sau:
0: Cho biết là không có lỗi trong quá trình truy vấn.
1: Cho biết định dạng gói tin bị lỗi, server không hiểu được truy vấn.
2: Server bị trục trặc, không thực hiện hồi đáp được.
3: Tên bị lỗi. Chỉ có server có đủ thẩm quyền mới có thể thiết lập giá trị náy.
4: Không thi hành. Server không thể thực hiện chức năng này.
5: Server từ chối thực thi truy vấn.
QDcount: Số lần truy vấn của gói tin trong một vấn đề.
ANcount: Số lượng tài nguyên tham gia trong phần trả
lời.
NScount: Chỉ ra số lượng tài nguyên được ghi lại trong các phần có thẩm quyền của gói tin.
ARcount: Chỉ ra số lượng tài nguyên ghi lại trong phần thêm vào của gói tin.
Mẩu tin resoucre DNS (DNS resource records)
Mẩu tin Resource Record (RR) lưu trữ thông tin của tên miền. Các RR chia thành các lớp (class) và có kiểu (type) khác nhau. Một số kiểu RR phổ biến:
Start of Authority (SOA) resource record: định nghĩa các tham số toàn cục cho zone hoặc tên miền. Một tệp tin zone chỉ được phép chứa một mẩu tin SOA và phải nằm ở vị trí đầu tiên trước các mẩu tin khác.
Name server (NS) resource record: chỉ ra Máy chủ tên miền (Name server) của zone đó.
A Resource Records (mẩu tin địa chỉ): mẩu tin cho biết địa chỉ IP tương ứng của một tên miền, có dạng như "example IN A 172.16.48.1"
PTR Records (mẩu tin con trỏ): ngược lại với A record, PTR chỉ ra tên miền tương ứng của một địa chỉ IP, có dạng như "1.48.16.172.in-addr.arpa. IN PTR example.com."
CNAME Resource Records: một dạng record giúp tạo ra biệt hiệu cho một tên miền, ví dụ mẩu tin CNAME "ftp.example.com. IN CNAME ftp1.example.com." cho phép trỏ tên miền ftp.example.com sang ftp1.example.com
MX Resource Records (mẩu tin Mail exchange): chỉ ra máy chủ mail của tên miền.
TXT Resource Records (mẩu tin text): chứa thông tin dạng văn bản không định dạng, thường dùng để chứa các thông tin bổ sung.
Tất cả các DNS Resource Records dựa theo tiêu chuẩn RFC 1035 khi vận chuyển trên Internet:
Tham khảo
Liên kết ngoài
TCP/IP
Internet
Giao thức Internet
Tiêu chuẩn Internet
Tầng ứng dụng (Bộ giao thức Internet)
|
23902
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n%20Phi%20Khanh
|
Nguyễn Phi Khanh
|
Nguyễn Phi Khanh (chữ Hán: 阮飛卿; tên thật là Nguyễn Ứng Long (阮應龍); năm sinh không chắc chắn. Một số nguồn cho là khoảng năm 1355<ref name=–1428 hay 1429) là Hàn lâm học sĩ nhà Hồ và là cha của Nguyễn Trãi - một công thần khai quốc nhà Hậu Lê. Ông quê làng Chi Ngãi, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương (nay là phường Cộng Hòa, Tp.Chí Linh, Hải Dương). Sau dời về thôn Trại Ổi (Ngọc Ổi) làng Nhị Khê, nay thuộc huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây, nay thuộc Hà Nội.
Thân thế
Sử sách có chép rằng quan tư đồ Trần Nguyên Đán thấy Ứng Long, khi đó 19 tuổi, học giỏi nên yêu mến và mời về dạy cho con gái mình là Trần Thị Thái. Nguyễn Ứng Long nhân cơ hội tán tỉnh rồi thông dâm với Thái. Sau khi biết Thái mang thai, Ứng Long lo sợ, liền bỏ trốn.
Sau khi Ứng Long bỏ trốn, Trần Nguyên Đán phải cho người đi tìm Ứng Long về gả con gái đang mang thai cho ông. Sự kiện này được Đại Việt sử ký toàn thư chép vào năm Xương Phù thứ 9 (1385) đời Trần Phế Đế.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng:
Quan nhà Hồ
Ông từng thi đỗ Nhị giáp tiến sĩ năm Long Khánh thứ 2, đời vua Trần Duệ Tông, tức năm 1374 nhưng không được triều đình bổ dụng nên về quê dạy học. Đại Việt sử ký toàn thư không ghi rõ ông đỗ thái học sinh năm nào, nhưng có viết về việc ông đỗ thái học sinh trong các sự kiện của năm 1385, sau khi thượng hoàng Trần Nghệ Tông đã tổ chức kỳ thi thái học sinh năm Xương Phù thứ 8 (1384). Đến khi Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, ông đã ra làm quan cho nhà Hồ dưới triều Hồ Hán Thương, được bổ nhiệm giữ chức Hàn lâm học sĩ rồi lần lượt thăng lên Thống chương Đại phu, Đại lý tự khanh kiêm Trung thư Thị lang, Tư nghiệp Quốc tử giám.
Năm 1407, khi quân nhà Minh xâm lược nước Việt, Nguyễn Phi Khanh được đề cập đến trong vài sự kiện trong Chiến tranh Minh - Đại Ngu, sau đó sử sách Minh triều và sử sách Đại Việt đều chép là Nguyễn Phi Khanh tự mình đi đầu hàng nhà Minh và bị giải về Trung Quốc
Nguyễn Phi Khanh mất tại Trung Quốc, thọ 73 tuổi. Hài cốt ông an táng tại núi Đá Bạc. Người đời sau gọi núi đó là núi Báo Ân hay núi Báo Đức, hoặc còn gọi là núi Báo Vọng, thuộc Tp Chí Linh, tỉnh Hải Dương ngày nay. Mộ chí nay vẫn còn.
Gần đây, sách "Nhìn lại lịch sử" dẫn bài của tác giả Đinh Công Vĩ, có nghiên cứu gia phả Phạm Anh Võ (tức Nguyễn Anh Võ - con Nguyễn Trãi, cháu Nguyễn Phi Khanh, phải đổi sang họ mẹ khi trốn tránh vì gia đình bị tru di tam tộc) nêu thông tin khác về kết cục của Nguyễn Phi Khanh. Theo đó, Nguyễn Phi Khanh bị quân Minh giải đi Trung Quốc, có cả anh em Nguyễn Trãi và Nguyễn Phi Hùng đi theo. Tới Vạn Sơn Điếm (Hồ Bắc) một thời gian thì quân Minh thả cho Nguyễn Phi Khanh về. Ông sống và chết ở Trung quốc. Sau này vẫn chưa biết chính xác về mồ mả của ông.
Thơ ca
Dù chỉ còn vài chục bài thơ chữ Hán được lưu truyền tới nay nhưng Nguyễn Phi Khanh cũng được giới nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam đánh giá là một cá tính thơ ca của dòng văn thơ Lý-Trần, dù phong cách thơ của ông thực sự rất khác biệt với dòng văn học nổi tiếng hào sảng tinh thần Đông A này. Về giọng điệu thơ, ông có nhiều chỗ gần gũi với một nhân vật nổi bật khác của thời Trần mạt là Trần Nguyên Đán, cha vợ ông.
Lưu danh
Tháng 12-2020, Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội quyết định gắn biển "Đường Nguyễn Phi Khanh" cho một con đường ở Huyện Thường Tín.
Ở Thành Phố Hồ Chí Minh cũng đặt tên cho 1 con đường nhỏ ở quận 1 từ đường Nguyễn Hữu Cầu đến đường Đinh Tiên Hoàng. Ở TP Vũng Tàu cũng có đường Nguyễn Phi Khanh tại khu Đại An, Phường 9.
Tham khảo
Xem thêm
Nguyễn Trãi
Nhà Hồ
Quan lại nhà Hồ
Người Hải Dương
Người Hà Nội
Thái học sinh nhà Trần
Người họ Nguyễn tại Việt Nam
Nguyễn Trãi
Nhà thơ Việt Nam thời Trần
Nhà thơ Việt Nam thời Hồ
|
23904
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%E1%BA%A3ng%20Tr%E1%BB%8B%20%28th%E1%BB%8B%20x%C3%A3%29
|
Quảng Trị (thị xã)
|
Quảng Trị là một thị xã nằm ở phía nam tỉnh Quảng Trị, Việt Nam.
Hiện nay, thị xã Quảng Trị không phải là tỉnh lỵ của tỉnh Quảng Trị. Tuy nhiên, thị xã lại từng là lỵ sở của dinh Quảng Trị dưới thời nhà Nguyễn, và sau này là tỉnh lỵ tỉnh Quảng Trị cho đến năm 1976, khi tỉnh Quảng Trị hợp nhất với hai tỉnh Quảng Bình và Thừa Thiên thành tỉnh Bình Trị Thiên. Khi tỉnh Quảng Trị được tái lập vào năm 1989, tỉnh lỵ được đặt tại thị xã Đông Hà (nay là thành phố Đông Hà) cho đến nay.
Địa lý
Thị xã Quảng Trị cách thành phố Huế 54 km về phía đông nam, cách thành phố Đông Hà 13 km về phía tây bắc. Thị xã có địa giới hành chính:
Phía đông và phía nam giáp huyện Hải Lăng
Phía tây giáp huyện Đakrông
Phía bắc giáp huyện Triệu Phong.
Hiện nay diện tích của thị xã là 74 km², dân số năm 2019 là 23.356 người.
Hành chính
Thị xã Quảng Trị có 5 đơn hành chính cấp xã, bao gồm 4 phường: 1, 2, 3, An Đôn và xã Hải Lệ.
Lịch sử
Từ thời đại Hùng Vương, thị xã Quảng Trị ngày nay thuộc bộ Việt Thường, một trong 15 bộ của nước Văn Lang xưa.
Dưới thời kỳ Bắc thuộc, nhà Hán chia nước Âu Lạc thành ba quận: Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Bộ Việt Thường thuộc quận Nhật Nam (từ năm 179 TCN đến năm 339 Công nguyên).
Năm 339, khi nhà Đông Tấn của Trung Quốc suy yếu, Vương quốc Chăm Pa, một nước mới thành lập ở phía Nam đèo Hải Vân, đánh chiếm vùng đất bộ Việt Thường. Vùng đất này trở thành biên địa phía bắc của Vương quốc Chăm Pa độc lập với cơ cấu 5 châu: Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh, Ô và Rí (Lý). Vùng đất thị xã Quảng Trị thuộc châu Ô.
Năm 1069, vua Lý Thái Tông đem quân đánh vào kinh thành Chăm Pa, bắt được vua Chế Củ. Chế Củ xin dâng ba châu Bố Chính, Địa Lý và Ma Linh để được trả tự do. Nhà Lý đổi ba châu đó thành châu Lâm Bình và Minh Linh.
Năm 1306, vua Chăm Pa là Chế Mân sai sứ dâng chiếu cầu hôn với vua Trần Anh Tông của Đại Việt (tên của Việt Nam lúc đó). Vua Trần bằng lòng gả công chúa Huyền Trân cho Chế Mân và nhận hai châu Ô và châu Rí (Lý) mà Chế Mân đã dâng làm vật sính lễ. Nhà Trần đổi châu Ô làm Thuận Châu, châu Lý làm Hóa Châu. Mảnh đất thị xã Quảng Trị ngày nay thuộc Thuận Châu.
Đời nhà Hậu Lê, năm 1499, vua Lê Thánh Tông đổi tên hai châu Thuận và châu Hóa thành hai phủ Tân Bình và phủ Triệu Phong thuộc xứ Thuận Hóa. Phủ Triệu Phong gồm các huyện Vũ Xương, Hải Lăng,... Mảnh đất thị xã Quảng Trị thuộc huyện Hải Lăng.
Năm 1558, để tránh nguy cơ bị ám hại bởi bàn tay của người anh rể là Trịnh Kiểm, Nguyễn Hoàng - con trai thứ của Nguyễn Kim - xin vào trấn thủ xứ Thuận Hóa. Nguyễn Hoàng và các chúa Nguyễn xây dựng xứ Thuận Hóa dần dần trở thành bờ cõi riêng và xưng chúa.
Năm 1801, Nguyễn Ánh lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu là Gia Long, lập dinh Quảng Trị bao gồm đất đai các huyện Hải Lăng, Đăng Xương (tên cũ là Vũ Xương), Minh Linh và đạo Cam Lộ (mới lập). Đến năm 1827, dinh Quảng Trị đổi là trấn Quảng Trị. Năm 1832, trấn Quảng Trị đổi thành tỉnh Quảng Trị, dinh lỵ Quảng Trị đóng tại làng Tiền Kiên (thuộc huyện Đăng Xương). Năm 1809, dinh lỵ Quảng Trị dời từ Tiền Kiên tới đóng tại xã Thạch Hãn (huyện Hải Lăng), tức vị trí của thị xã Quảng Trị ngày nay và tiến hành xây thành, đắp luỹ cố định.
Năm 1853, tỉnh Quảng Trị với phủ Thừa Thiên hợp nhất thành đạo Quảng Trị. Năm 1876, lập lại tỉnh Quảng Trị. Năm 1890, Toàn quyền Đông Dương Jules Georges Piquet ra nghị định hợp nhất Quảng Trị với tỉnh Quảng Bình thành tỉnh Bình Trị. Năm 1896, Toàn quyền Paul Armand Rosseau ra lại nghị định tách Quảng Trị ra khỏi địa hạt thuộc quyền công sứ Đồng Hới, hợp cùng với Thừa Thiên đặt dưới quyền Khâm sứ Trung kỳ.
Năm 1900, Toàn quyền Paul Doumer ra nghị định tách Quảng Trị ra khỏi Thừa Thiên, lập thành tỉnh Quảng Trị riêng biệt. Ngày 17 tháng 2 năm 1906, Toàn quyền Jean Baptiste Paul Beau ra nghị định thành lập thị xã Quảng Trị (tỉnh lỵ của tỉnh Quảng Trị).
Từ năm 1976 đến nay
Sau khi ba tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên hợp nhất thành tỉnh Bình Trị Thiên (tháng 5 năm 1976), thị xã Quảng Trị bị giải thể và trở thành một đơn vị hành chính cấp xã thuộc huyện Triệu Phong, đồng thời là huyện lỵ của huyện Triệu Phong.
Tháng 1 năm 1977, Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Trị Thiên ra quyết định thành lập thị trấn Triệu Phong. Tiếp đó, hai huyện Triệu Phong và Hải Lăng hợp nhất thành huyện Triệu Hải thì thị trấn Triệu Phong được đổi thành thị trấn Triệu Hải. Ngày 15 tháng 8 năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam ra quyết định thành lập thị trấn Quảng Trị trên cơ sở sáp nhập thị trấn Triệu Hải và và xã Hải Trí.
Sau khi tỉnh Quảng Trị được tái lập vào ngày 1 tháng 7 năm 1989 và chọn thị xã Đông Hà làm tỉnh lỵ, theo nguyện vọng của nhân dân và xu thế phát triển của tình hình mới, ngày 16 tháng 9 năm 1989, Hội đồng Bộ trưởng ra quyết định thành lập thị xã Quảng Trị, ban đầu gồm 2 phường: 1, 2 (trên cơ sở giải thể thị trấn Quảng Trị cũ).
Ngày 19 tháng 3 năm 2008, Chính phủ ban hành Nghị định số 31/2008/NĐ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính huyện Hải Lăng, huyện Triệu Phong để mở rộng địa giới hành chính thị xã Quảng Trị; điều chỉnh địa giới hành chính xã, phường để thành lập phường thuộc thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị. Theo đó:
Sáp nhập xã Hải Lệ của huyện Hải Lăng và thôn An Đôn của xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong vào thị xã Quảng Trị
Thành lập phường An Đôn trên cơ sở thôn An Đôn (chuyển từ xã Triệu Thượng) và xóm Hà thuộc phường 1
Thành lập phường 3 trên cơ sở tách một số khu phố của phường 1 và phường 2
Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính, thị xã Quảng Trị có 7.402,78 ha diện tích tự nhiên và 22.760 nhân khẩu, có 5 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm 4 phường: 1, 2, 3, An Đôn và xã Hải Lệ.
Thị xã Quảng Trị có 4 phường và 1 xã như hiện nay.
Kinh tế
Thị xã Quảng Trị là trung tâm kinh tế của tỉnh Quảng Trị bên cạnh thành phố Đông Hà. Nền kinh tế của thị xã đang được chuyển dịch theo hướng dịch vụ-công nghiệp-nông nghiệp. Trong đó, du lịch tâm linh đang là điểm nhấn đặc biệt cho kinh tế của thị xã Quảng Trị, khi tại đây có các di tích lịch sử nổi tiếng, thu hút nhiều khách tham quan ghé thăm trong các đợt lễ, các ngày kỉ niệm như: Di tích Thành Cổ Quảng Trị, tháp chuông thành Cổ, khu quảng trường Giải phóng, đôi bờ sông Thạch Hãn. Ngoài ra, lễ hội thả hoa đăng được tổ chức vào các ngày mồng 1 và 15 theo lịch âm hàng tháng được đông đảo người dân thị xã và các khu vực lân cận quan tâm cũng là điểm nhấn cho du lịch tại đây.
Giao thông
Có quốc lộ 1A, đường cao tốc Cam Lộ – La Sơn và đường sắt Bắc Nam đi qua.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang mạng chính thức của tỉnh Quảng Trị
Đô thị Việt Nam loại IV
|
23936
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%99%20%E1%BA%A9m%20t%C6%B0%C6%A1ng%20%C4%91%E1%BB%91i
|
Độ ẩm tương đối
|
Độ ẩm tương đối hay còn gọi là độ ẩm tỉ đối (tiếng Anh:relative humidity, viết tắt: RH) là tỷ lệ giữa áp suất riêng phần của hơi nước và áp suất hơi bão hòa của nước ở cùng nhiệt độ. Không khí càng ẩm, độ ẩm tương đối càng cao. Độ ẩm tương đối phụ thuộc vào nhiệt độ và áp suất của hệ thống quan tâm. Cùng một lượng hơi nước dẫn đến độ ẩm tương đối cao hơn trong không khí mát hơn không khí ấm. Một tham số liên quan là điểm sương.
Định nghĩa
Độ ẩm tương đối hoặc là của hỗn hợp nước–khí được định nghĩa là tỷ lệ giữa áp suất riêng phần của hơi nước và áp suất hơi bão hòa của nước ở cùng nhiệt độ, được thể hiện bằng tỷ lệ phần trăm:
Độ ẩm tương đối thường được biểu thị bằng phần trăm; không khí càng ẩm, độ ẩm tương đối càng cao. Khi độ ẩm tương đối đạt 100%, không khí đã bão hòa hơi nước và đang ở điểm sương. Độ ẩm tương đối khác với độ ẩm tuyệt đối – được định nghĩa là khối lượng của hơi nước có trong 1m³ không khí. Độ ẩm tuyệt đối chưa cho biết mức độ ẩm của không khí vì ở nhiệt độ càng thấp thì hơi nước trong không khí càng dễ đạt trạng thái bão hòa. Do vậy, để mô tả mức độ ẩm của không khí, người ta dùng độ ẩm tương đối. Độ ẩm tương đối có thể được đo bằng những thiết bị đo độ ẩm, gọi là ẩm kế.
Ý nghĩa
Kiểm soát khí hậu
Kiểm soát khí hậu liên quan đến kiểm soát nhiệt độ và độ ẩm tương đối trong các tòa nhà, xe cộ và các không gian kín khác nhằm mục đích mang lại sự thoải mái, sức khỏe và an toàn cho con người, và đáp ứng các yêu cầu về môi trường của máy móc, vật liệu nhạy cảm (ví dụ, mang tính lịch sử) và các quá trình kỹ thuật.
Độ ẩm tương đối và thoải mái nhiệt
Cùng với nhiệt độ không khí, nhiệt độ trung bình bức xạ, tốc độ không khí, tốc độ trao đổi chất và mức độ quần áo, độ ẩm tương đối đóng một vai trò trong sự thoải mái nhiệt của con người. Theo Tiêu chuẩn ASHRAE 55-2017: Điều kiện môi trường nhiệt cho người ở, sự thoải mái nhiệt trong nhà có thể đạt được thông qua phương pháp PMV với độ ẩm tương đối từ 0, 100%, tùy thuộc vào mức độ của các yếu tố khác góp phần vào sự thoải mái nhiệt. Tuy nhiên, phạm vi độ ẩm tương đối trong nhà được đề nghị trong các tòa nhà máy lạnh thường là 30-60%.
Nói chung, nhiệt độ cao hơn sẽ yêu cầu độ ẩm tương đối thấp hơn để đạt được sự thoải mái về nhiệt so với nhiệt độ thấp hơn, với tất cả các yếu tố khác được giữ cố định. Ví dụ, với mức quần áo = 1, tốc độ trao đổi chất = 1,1 và tốc độ không khí 0,1m/s, sự thay đổi nhiệt độ không khí và nhiệt độ bức xạ trung bình từ 20°C đến 24°C sẽ làm giảm độ ẩm tương đối tối đa chấp nhận được từ 100% xuống 65% để duy trì điều kiện tiện nghi nhiệt. Công cụ tiện nghi nhiệt CBE có thể được sử dụng để chứng minh ảnh hưởng của độ ẩm tương đối đối với các điều kiện tiện nghi nhiệt cụ thể và nó có thể được sử dụng để chứng minh sự tuân thủ với Tiêu chuẩn ASHRAE 55-2017.
Khi sử dụng mô hình thích ứng để dự đoán sự thoải mái nhiệt trong nhà, độ ẩm tương đối không được tính đến.
Mặc dù độ ẩm tương đối là một yếu tố quan trọng đối với sự thoải mái về nhiệt, con người nhạy cảm hơn với sự thay đổi nhiệt độ so với thay đổi độ ẩm tương đối. Độ ẩm tương đối có ảnh hưởng nhỏ đến sự thoải mái nhiệt ngoài trời khi nhiệt độ không khí thấp, hiệu ứng rõ rệt hơn một chút ở nhiệt độ không khí vừa phải và ảnh hưởng mạnh hơn nhiều ở nhiệt độ không khí cao hơn.
Khó chịu của con người do độ ẩm tương đối thấp
Ở vùng khí hậu lạnh, nhiệt độ ngoài trời khiến cho hơi nước chảy xuống thấp hơn. Mặc dù trời có thể có tuyết và độ ẩm tương đối ngoài trời cao, một khi không khí đi vào tòa nhà và nóng lên, độ ẩm tương đối mới của nó rất thấp (có nghĩa là không khí rất khô), có thể gây khó chịu. Da khô nứt có thể là kết quả của không khí khô.
Độ ẩm thấp làm cho các mô lót mũi bị khô, nứt và trở nên dễ bị vi rút cảm lạnh của Rhinovirus xâm nhập. Độ ẩm thấp là nguyên nhân phổ biến của chảy máu cam. Việc sử dụng máy tạo độ ẩm trong nhà, đặc biệt là phòng ngủ, có thể giúp khắc phục những triệu chứng này.
Độ ẩm tương đối trong nhà nên được giữ ở mức trên 30% để giảm khả năng bị khô mũi.
Con người có thể thoải mái trong một phạm vi độ ẩm rộng lớn tùy thuộc vào nhiệt độ từ 30-70% lý tưởng trong khoảng từ 50% và 60%. Độ ẩm rất thấp có thể tạo ra sự khó chịu, các vấn đề về hô hấp và làm nặng thêm tình trạng dị ứng ở một số người. Vào mùa đông, nên duy trì độ ẩm tương đối ở mức 30% trở lên. Độ ẩm tương đối quá thấp (dưới 20%) cũng có thể gây kích ứng mắt.
Các tòa nhà
Để kiểm soát khí hậu trong các tòa nhà sử dụng hệ thống HVAC, điều quan trọng là duy trì độ ẩm tương đối ở phạm vi thoải mái, đủ thấp để thoải mái nhưng đủ cao để tránh các vấn đề liên quan đến không khí rất khô.
Khi nhiệt độ cao và độ ẩm tương đối thấp, sự bốc hơi nước nhanh chóng; đất khô, quần áo ướt treo trên một đường hoặc giá khô nhanh chóng, và mồ hôi dễ dàng bay hơi khỏi da. Đồ nội thất bằng gỗ có thể co lại, làm cho lớp sơn bao phủ các bề mặt này bị gãy.
Khi nhiệt độ thấp và độ ẩm tương đối cao, sự bốc hơi nước chậm. Khi độ ẩm tương đối đạt tới 100%, ngưng tụ có thể xảy ra trên các bề mặt, dẫn đến các vấn đề với nấm mốc, ăn mòn, sâu răng và suy giảm liên quan đến độ ẩm khác. Ngưng tụ có thể gây ra rủi ro an toàn vì nó có thể thúc đẩy sự phát triển của nấm mốc và thối gỗ cũng như có thể đóng băng lối thoát hiểm khẩn cấp.
Một số quy trình sản xuất và kỹ thuật và phương pháp điều trị trong các nhà máy, phòng thí nghiệm, bệnh viện và các cơ sở khác yêu cầu duy trì mức độ ẩm tương đối cụ thể bằng cách sử dụng máy tạo độ ẩm, máy hút ẩm và hệ thống kiểm soát liên quan.
Phương tiện di động
Các nguyên tắc cơ bản cho các tòa nhà, ở trên, cũng áp dụng cho các phương tiện. Ngoài ra, có thể có những cân nhắc về an toàn. Ví dụ, độ ẩm cao bên trong một xe hơi có thể dẫn đến các vấn đề của sự ngưng tụ, như phun sương của kính chắn gió và ngắn mạch của các thành phần điện. Trong các phương tiện chịu áp lực như máy bay dân dụng, tàu ngầm và tàu vũ trụ, những cân nhắc này có thể rất quan trọng đối với an toàn và các hệ thống kiểm soát môi trường phức tạp bao gồm thiết bị để duy trì áp suất là cần thiết.
Tham khảo
Đại lượng vật lý
Nhiệt động lực học khí quyển
|
23941
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%8D%20Lan
|
Họ Lan
|
Họ Lan (danh pháp khoa học: Orchidaceae) là một họ thực vật có hoa, thuộc bộ Măng tây, lớp thực vật một lá mầm. Đây là một trong những họ lớn nhất của thực vật, và chúng phân bổ nhiều nơi trên thế giới.
Vườn thực vật hoàng gia Kew liệt kê 880 chi và gần 22.000 loài được chấp nhận, nhưng số lượng chính xác vẫn không rõ (có thể nhiều tới 25.000 loài) do các tranh chấp phân loại học. Số lượng loài lan cao gấp 4 lần số lượng loài động vật có vú hay hơn 2 lần số lượng loài chim. Nó chiếm khoảng 6–11% số lượng loài thực vật có hoa. Khoảng 800 loài lan mới được bổ sung thêm mỗi năm. Các chi lớn nhất là Bulbophyllum (khoảng 2.000 loài), Epidendrum (khoảng 1.500 loài), Dendrobium (khoảng 1.400 loài) và Pleurothallis (khoảng 1.000 loài). Họ này cũng bao gồm chi Vanilla (chi chứa loài cây vani), Orchis (chi điển hình) và nhiều loài được trồng phổ biến như Phalaenopsis hay Cattleya.
Ngoài ra, kể từ khi du nhập các loài từ khu vực nhiệt đới vào trong thế kỷ XIX thì các nhà làm vườn châu Âu và Bắc Mỹ đã bổ sung thêm khoảng 100.000 loại cây lai ghép và giống cây trồng.
Hoa lan được người tiêu dùng ưa chuộng vì vẻ đẹp đặc sắc và các hình thức đa dạng của chúng. Cũng giống như cây lan, hoa lan hầu như có tất cả các màu trong cầu vồng và những kết hợp của các màu đó. Hoa lan nhỏ nhất chỉ bằng hạt gạo trong khi hoa lan lớn nhất có đường kính khoảng 1m.
Đa số các loại hoa lan được bán rộng rãi trên thị trường thường không có hương thơm nhưng trong tự nhiên có rất nhiều loại hoa lan có mùi thơm đặc trưng. Vanilla là một loại hoa lan mà hương thơm được dùng trong các loại ẩm thực của thế giới và có nguồn gốc từ México; trong khi đó có các loại hoa lan tỏa ra mùi như thịt bị hỏng để hấp dẫn các côn trùng.
Phân bố
Họ Orchidaceae phân bố rộng khắp thế giới, gần như có thể có mặt trong mọi môi trường sống, ngoại trừ các sa mạc và sông băng. Phần lớn các loài được tìm thấy trong khu vực nhiệt đới, chủ yếu là châu Á, Nam Mỹ và Trung Mỹ. Chúng cũng được tìm thấy tại các vĩ độ cao hơn vòng Bắc cực, ở miền nam Patagonia và thậm chí trên đảo Macquarie, gần với châu Nam Cực.
Danh sách dưới đây liệt kê gần đúng sự phân bổ của họ này:
Nhiệt đới châu Mỹ: 250 - 270 chi
Nhiệt đới châu Á: 260 - 300 chi
Nhiệt đới châu Phi: 230 - 270 chi
châu Đại Dương: 50 - 70 chi
châu Âu và ôn đới châu Á: 40 - 60 chi
Bắc Mỹ: 20 - 25 chi
Phát sinh chủng loài
Cây phát sinh chủng loài dưới đây lấy theo APG III.
Phân loại
Họ này được công nhận trong mọi hệ thống phân loại và hệ thống APG II năm 2003 đặt nó trong bộ Asparagales.
Phân loại họ này luôn luôn thay đổi, do các nghiên cứu mới vẫn tiếp tục nhận dạng nhiều yếu tố phân loại mới.
Hiện tại người ta công nhận 5 phân họ. Biểu đồ dưới đây được lập theo hệ thống APG:
Tiến hóa
Một nghiên cứu đăng trong tạp chí Nature đã chỉ ra rằng nguồn gốc họ Lan có xuất phát điểm lâu đời hơn so với dự tính ban đầu, có lẽ khoảng 76-84 triệu năm trước. Một con ong của loài ong không ngòi tuyệt chủng, với danh pháp Proplebeia dominicana, được tìm thấy bị mắc trong hổ phách thế Miocen khoảng 15-20 triệu năm trước. Con ong này mang phấn hoa của một loài lan trước đây không rõ, Meliorchis caribea, trên các cánh của nó. Đây là chứng cứ đầu tiên về lan hóa thạch cho tới nay. Loài lan tuyệt chủng M. caribea này được đặt trong tông Cranichideae, phân tông Goodyerinae (phân họ Orchidoideae).
Điều này chỉ ra rằng họ Lan có thể có nguồn gốc cổ đại và đã phát sinh khoảng 76-84 triệu năm trước trong thời kỳ Hậu Creta. Nói cách khác, các loài lan có thể cùng tồn tại với khủng long. Nó cũng chỉ ra rằng vào thời gian đó côn trùng là các sinh vật thụ phấn tích cực cho các loài lan. Theo M.W. Chase và ctv. (2001) thì địa lý sinh học chung và mô hình phát sinh loài của họ Orchidaceae chỉ ra rằng chúng thậm chí còn cổ hơn và có thể đã phát sinh khoảng 100 triệu năm trước.
Sử dụng phương pháp đồng hồ phân tử, người ta có thể xác định niên đại của các nhánh chính trong họ Lan. Điều này cũng xác nhận rằng phân họ Vanilloideae là nhánh tại sự phân đôi cơ sở của lan với nhị đơn, và phải tiến hóa rất sớm trong sự tiến hóa của họ này. Do chi Vanilla trong phân họ này có mặt tại nhiều nơi trên thế giới trong các khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới, từ châu Mỹ qua châu Á, New Guinea và Tây Phi, và các lục địa đã bắt đầu tách ra khoảng 100 triệu năm trước, nên trao đổi quần sinh vật đáng kể phải xảy ra sau sự chia tách này (do niên đại của Vanilla được ước tính khoảng 60-70 triệu năm trước).
Các chi
Các chi dưới đây là đáng chú ý nhất trong họ Lan.
Hoa phong lan trong hội họa
Xem thêm
Hoàng lan
Ngọc lan
Hoa lan tại Việt Nam
Cộng sinh
Ghi chú
Tham khảo
Batygina T. B., Bragina E. A., Vasilyeva E. 2003. The reproductive system and germination in orchids. Acta Biol. Cracov. ser. Bot. 45: 21-34.
Berg Pana H. 2005. Handbuch der Orchideen-Namen. Dictionary of Orchid Names. Dizionario dei nomi delle orchidee. Ulmer, Stuttgart, Đức
Kreutz C. A. J. 2004. Kompendium der Europaischen Orchideen. Catalogue of European Orchids. Kreutz Publishers, Landgraaf, Hà Lan
D. Lee Taylor và Thomas D. Bruns: Independent, specialized invasions of ectomycorrhizal mutualism by two nonphotosynthetic orchids ; Proc. Natl. Acad. Sci. Hoa Kỳ; quyển 94, trang 4510-4515, 4-1997
Liên kết ngoài
Hoa phong lan trên trang Sinh vật rừng Việt Nam
Kỹ thuật Trồng Lan Dendrobium - Song ngữ Anh Việt - Tác giả Nghệ nhân Hai Riều Nguyễn Văn Hai- Kỹ Sư Canh Nông Lương Trọng Nhàn hiệu đính & chuyển ngữ-Nhà xuất bản Thời Đại-2013.
Encyclopedia of Tropical Orchids
Orchid Care Forum
Orchidaceae trên Kew
American Orchid Society - Orchid Web
Orange County Orchid Society - California
Orchid Photo Encyclopedia
Report on pollination tactics by orchids
Austrian Orchid Society
OrchidWorks, a photo album and overview of a variety of Orchids
Hoa lan dại của Nhật Bản lavon's art gallery: Orchidaceae
“Orchidelirium”: Hội chứng cuồng Hoa Lan, cơn điên xuất phát từ những kẻ mê đắm hoa Lan giàu sụ trong thời đại Victoria - Codai
Phong lan, họ
Phong lan
Cây trồng trong nhà
O
|
23942
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Loa%20k%C3%A8n
|
Loa kèn
|
Hoa loa kèn, bách hợp, lily hay huệ tây, ở Đà Lạt gọi là hoa Ly (từ tiếng Pháp: fleur de lys, tiếng Nhật: テッポウユリ,Teppouyuri; danh pháp hai phần: Lilium longiflorum), là một loài thực vật có hoa thuộc chi Lilium, họ Loa kèn. Đây là loài cây bản địa của quần đảo Ryukyu, phía nam Nhật Bản và Đài Loan.
Phân loại thực vật
Hoa loa kèn thuộc nhóm thực vật một lá mầm (Monocotylendones), phân lớp Hành (Liliidae), bộ Hành (Liliales), họ Hành (Lilicaceae), chi Loa kèn (Lilium).
Đặc điểm hình thái
Thân vẩy (củ): là mầm dinh dưỡng lớn của cây. Một củ già gồm: đế củ, vẩy già, vảy mới ra, trục thân sơ cấp, thứ cấp và đỉnh sinh trưởng.
Rễ: Loa kèn có hai loại rễ thân và rễ gốc. Rễ thân là rễ mọc ra từ thân ở phía dưới mặt đất có tác dụng nâng đỡ cho thân cây, hút nước và chất dinh dưỡng, tuổi thọ của rễ này là 1 năm. Rễ gốc hay còn gọi là rễ được sinh ra từ gốc của củ, có nhiều nhánh. Đây là loại rễ to, sinh trưởng khỏe là cơ quan chủ yếu hút nước và chất dinh dưỡng chủ yếu, tuổi thọ của rễ này tới 2 năm.
Thân: Trục thân củ hoa loa kèn là do mầm dinh dưỡng co ngắn lại tạo thành. Trục thân chia ra trục thân sơ cấp và trục thân thứ cấp. Sau khi phá ngủ trục sơ cấp ở trên mầm nách trục thân là vùng vươn dài thứ nhất, mầm đỉnh co ngắn, vươn lên mặt đất, lá trên bắt đầu mở ra, khi cây ra nụ thì số lá đã được cố định, chiều cao cây quyết định bởi số lá và chiều dài đốt, số lá chịu ảnh hưởng của chất lượng củ giống, điều kiện và thời gian xử lý lạnh củ giống. Chiều cao vẫn chủ yếu quyết định bởi chiều dài đốt, trong điều kiện ánh sáng yếu, ngày dài, nhiệt độ thấp và xử lý trước khi bảo quản lạnh lâu đều có tác dụng kéo dài đốt thân. Ngược lại ánh sáng mạnh, ngày ngắn, nhiệt độ cao lại ức chế đốt kéo dài.
Lá: Loa kèn có nhiều lá mọc rải rác theo vòng rộng, hình thoi dài, khá đều đặn, phiến lá thẳng, đầu lá hơi nhọn, không có cuống hoặc cuống ngắn. Độ lớn của lá tùy theo điều kiện trồng, số lá thường từ 50-150. Lá có chiều rộng từ 1,8 - 2,8 cm, chiều dài lá từ 9 – 12 cm, lá mềm, bóng có màu xanh nhạt.
Củ con và mầm nách: Loa kèn có các củ con ở gần thân rễ, kích thước và số lượng củ con tùy thuộc và khả năng sinh trưởng, phát triển của cây mẹ cũng như phụ thuộc vào điều kiện trồng, chu vi của củ con từ 3 – 6 cm, số lượng củ con từ 1 - 3 củ. Ở nách lá còn có mầm nách, hình tròn hoặc hình bầu dục, khi già có màu nâu chu vi mầm nách từ 0,5 - 1,5 cm
Hoa: Hoa loa kèn trắng Lilium formolongo thường hơi nghiêng, tạo thành 3 góc so với mặt phẳng nằm ngang khoảng 45 - 60o. Hoa có hình loa kèn, màu trắng, chiều rộng cánh hoa từ 5 –7 cm, chiều dài cánh hoa từ 14 – 18 cm, đường kính hoa từ 10 – 12 cm, cánh hoa hơi cong. Bao hoa 6 mảnh dạng cánh có 6 nhị, bao phấn vàng dài, bầu hoa hình trụ, đầu nhụy chia 3 thùy, vòi hoa ngắn hơn trục, trục hoa nhỏ đầu phình to có 3 khía tử phòng ở trên. Hoa có hương thơm đậm đà, hoa cắt có độ bền khoảng 6-10 ngày.
Quả: Quả loa kèn là loại quả nẻ, hình tròn dài, mỗi quả có vài trăm hạt, mỗi quả có 3 ngăn, hạt dẹt tròn xung quanh có khoảng trên 600 hạt. Quả loa kèn có chiều dài 8–10 cm, đường kính hạt 15 – 22 mm, 1 gam có 700-800 hạt. Trong điều kiện khô lạnh, hạt có thể giữ được 3 năm.
Đặc điểm sinh trưởng phát dục
Giai đoạn sinh trưởng phát dục: Phát triển trục thân, ra nụ, ra hoa, kết hạt, chết. Củ giống vùi trong đất sau khoảng 60-70 ngày mới nảy mầm. Nếu củ giống được đem xử lý lạnh (phá ngủ) thì khi trồng xuống đất đến khi mầm vươn lên khỏi mặt đất chỉ cần 2 tuần lễ. Xử lý lạnh không tốt thời gian gieo trồng gặp lạnh thì có thể kéo tới 5 tuần. Từ lúc mọc mầm đến khi ra nụ khoảng 60-75 ngày tùy từng thời vụ, từ ra nụ đến ra hoa từ 25-35 ngày, từ nở hoa đến tạo quả từ 8-12 ngày.
Sự phân hóa hoa: Là cây ngày dài do vậy khi thời gian chiếu sáng trong ngày tăng dần quá trình phân hóa hoa được hình thành. Củ loa kèn xử lý lạnh ở 5oC từ 3-5 tuần, sau khi trồng khoảng 8-13 ngày đỉnh sinh trưởng mầm rút ngắn, đã bắt đầu hình thành mầm hoa nguyên thủy. Mỗi mầm hoa nguyên thủy này lại kèm theo 1-2 mầm khác. Khi củ đã qua xử lý lạnh thì trước khi trồng củ có thể mọc mầm và phân hóa hoa. Vì vậy nếu không trồng kịp thời sẽ bất lợi cho phát dục mầm hoa. Số lượng mầm hoa nguyên thủy chịu ảnh hưởng lớn của điều kiện sinh trưởng vụ trước và chất lượng của củ giống.
Sự ra hoa: Sự phân hóa hoa và số lượng mầm hoa chịu ảnh hưởng lớn của điều kiện trồng nhưng tốc độ phát dục của nụ và hoa lại chịu ảnh hưởng lớn của điều kiện sau khi trồng. Nhị đực và nhị cái của Lilium formolongo cùng chín một lúc. Sau khi thụ tinh 8-12 ngày, tử phòng bắt đầu phình to. Ánh sáng mạnh tạo ra sự bại dục của nụ, đồng thời còn gây cháy lá, việc xử lý che nắng sẽ giảm thui nụ. Ngược lại ánh sáng yếu (đặc biệt vào mùa đông) cũng làm thui nụ ảnh hưởng đến chất lượng hoa.
Quả chín: Sau nở hoa khoảng 2 tháng. Khi quả có màu vàng sẽ nứt ra hạt có cánh có thể phát tán theo gió. Sau khi thu hoạch hoa (hoặc quả) thân lá khô héo, lúc này có thể thu hoạch củ để làm giống.
Trên thế giới
Nhu cầu tiêu thụ cũng như
sản xuất hoa loa kèn ngày càng tăng, điển hình là ở một số nước như: Hà Lan,
Pháp, Đức, Italia, Canada, Bỉ...
Hà Lan là nước lai tạo ra rất nhiều giống mới có hoa đẹp, chống chịu sâu bệnh tốt, năng suất cao kết hợp với việc ứng dụng thành công kỹ thuật điều khiển ra hoa đã có thể sản xuất hoa quanh năm.
Ở châu Á, nước đứng đầu về sản xuất hoa loa kèn là Nhật Bản. Đài Loan cũng là nước có công nghệ trồng hoa loa kèn tiên tiến nhất hiện nay.
Việt Nam
Cây hoa này được du nhập vào Việt Nam từ Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước Châu Âu. Giống trồng trọt trước đây:
Giống từ Pháp: không rõ tên, nhập nội khoảng 1945-1955
Giống Hàn Quốc: không rõ tên, nhập nội 1970
Giống Nhật Bản: không rõ tên, nhập nội 1972 với nhiều màu khác nhau nhưng chỉ có màu trắng là thích hợp và còn tồn tại đến nay.
Ở Việt Nam, hoa loa kèn hay huệ tây được biết đến nhiều nhất ở bức tranh nổi tiếng "Thiếu nữ bên hoa huệ" của họa sĩ Tô Ngọc Vân. Ở Pháp, các phạm nhân khi vi phạm quy định của nhà thờ sẽ bị thích dấu lên vai hình hoa huệ tây.
Hình ảnh
Tham khảo
Liên kết ngoài
Tạp chí Quê Hương, Mùa hoa loa kèn
Kết quả sản xuất thử Hoa loa kèn tứ quý
Kỹ thuật trồng hoa loa kèn mới
Giáo trình cây hoa
http://www.vnua.edu.vn:85/tc_khktnn/Upload%5C7122011-Tap%20chi%20so%205-2011_7_.pdf
www.the-genus-lilium: Lilium longiflorum
Lilium longiflorum in Flora of China
Loa kèn
L
Thực vật Việt Nam
Thực vật Nhật Bản
Thực vật quần đảo Ryukyu
Thực vật vườn châu Á
|
23946
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Leo%20Hendrick%20Baekeland
|
Leo Hendrick Baekeland
|
Leo Hendrick Baekeland (14 tháng 11 năm 1863 – 23 tháng 2 năm 1944) là nhà hoá học người Mỹ gốc Bỉ. Ông được sinh ra tại Gent (Bỉ) và mất tại Beacon, New York, Hoa Kỳ). Trong thời gian 1905–1907 Baekeland đã phát triển loại nhựa đầu tiên được sản xuất hàng loạt có tên là Bakelite.
Người con trai của một thợ giày này quan tâm đến khoa học tự nhiên ngay từ nhỏ. Ông đã nhận được nhiều khen thưởng trong các bộ môn hóa học, vật lý và kinh tế ngay từ khi là học trò của một trường dạy về ban đêm. Bắt đầu từ năm 1880, một học bổng đã tạo điều kiện cho ông theo học ngành hóa tại trường đại học Gent. Năm 1884 ông viết luận án phó tiến sĩ và từ năm 188 ông là giáo sư hóa tại trường điại học Gent. Năm 1889 ông kết hôn với Celine Swarts, con gái của Theodore Swarts, nguyên là giáo sư hóa của ông.
Ông đã phát minh ra giấy sang ảnh Velox - loại giấy ảnh cho phép các nhà nhiếp ảnh có thể dùng ánh sáng nhân tạo thay thế cho ánh sáng Mặt trời. Sau khi bán phát minh này với số tiền bản quyền 1 triệu đôla cho một công ty nhiếp ảnh, năm 1889, ông và gia đình định cư ở New York trong một chuyến đi nghiên cứu tại Mỹ.
Tại Hoa Kỳ, Baekeland bắt tay nghiên cứu chất cách điện trong phòng thí nghiệm riêng của ông. Sau nhiều nghiên cứu về các quá trình điện hóa, bắt đầu từ năm 1905 ông quay sang các phản ứng giữa phenol và Fomanđêhít. Mãi đến năm 1907, ông đã thành công trong việc tìm ra chất polyoxybenzylmethylenglycolanhydride và đặt tên là Bakelite (gần giống với tên của ông). Năm 1909, chất hoá học nhân tạo này đã chính thức được công bố và ông nhận được bằng sáng chế. Đây được coi là một mốc cực kỳ quan trọng của ngành hoá học, mở đầu cho việc ra đời của hàng loạt các loại nhựa (tên gọi khác là chất dẻo) (plastic) khác như polystyren (năm 1930), nylon (năm 1934)...
Từ đó đến này, nhiều loại nhựa với các tính năng đáp ứng được các yêu cầu kỹ thuật và dân dụng đã được loài người sử dụng. Chúng được ứng dụng trong hầu hết các lĩnh vực, kể cả các lĩnh vực đòi hỏi tính năng cao như hàng không vũ trụ... Tuy nhiên, các chất dẻo tổng hợp lại gây ra mối lo lắng của con người về sự ô nhiễm môi trường.
Ông đã được tặng thưởng Nichols Medal của Hội Hóa học Mỹ vào năm 1909, huy chương Perkin của chi nhánh Hội Công nghiệp Hóa chất tại Hoa Kỳ năm 1916 và Franklin Medal của Viện Franklin vào năm 1940. Baekeland thuộc trong "Danh sách 20 nhà tư tưởng và khoa học gia lớn nhất của thế kỷ 20" do tạp chí Time công bố vào ngày 29 tháng 3 năm 1999.
Tham khảo
Nhà hóa học Bỉ
Nhà hóa học Hoa Kỳ
Nhà phát minh Mỹ
Người được ghi danh tại Đại sảnh Danh vọng Nhà phát minh Quốc gia
|
23978
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BA%AFn%20cung%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20%C4%90%C3%B4ng%20Nam%20%C3%81%202005
|
Bắn cung tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2005
|
Bộ môn Bắn cung tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2005 được thi đấu tại Vịnh Subic, Zabales, Philippines từ ngày 28 tháng 11 cho đến ngày 4 tháng 12 năm 2005.
Tại kỳ đại hội lần này, các đoàn thi đấu để tranh bốn bộ huy chương, hai nội dung dành cho nam và hai nội dung dành cho nữ. Các cung thủ đều thi đấu ở nội dung bia với đương kính 122 cm được đặt ở khoảng cách 70 m, và mỗi lượt bắn không quá 40 giây. Mỗi đoàn tham dự kỳ đại hội lần này được cử tối đa 3 vận động viên. Mỗi vận động viên thi đấu một vòng phân hạng, với 6 loạt bắn, mỗi loạt 12 mũi. Thứ tự của vận động viên ở vòng phân hạng giúp phân chia cặp đấu ở vòng loại trực tiếp với thể thức vận động viên có số điểm cao nhất ở vòng phân hạng sẽ gặp vận động viên có số điểm thấp nhất. Ở ba vòng đấu loại trực tiếp đầu tiên, mỗi vận động viên ở mỗi trận sẽ bắn 6 loạt, mỗi loạt 3 mũi. Ở vòng tứ kết, bán kết, chung kết và trận tranh huy chương đồng, mỗi cung thủ sẽ bắn 4 loạt 3 mũi tên.
Bảng thành tích
Nội dung Recurve nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngW. Mohd K.<TD> Myanma</TD>
BạcZaw Win Myanma
ĐồngMarvin Cordero '''Philippines
</TABLE>
Nội dung Recurve nữ
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngRina Dewi Puspita Sari<TD> Indonesia</TD>
BạcYasmidar Hamid Indonesia
ĐồngRachelle Anne Cabral Philippines
</TABLE>
Nội dung Compound nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngLang Hon-Mas<TD> Malaysia</TD>
BạcTing Leong Malaysia
ĐồngI. Gusti Indonesia
</TABLE>
Nội dung Compound nữ
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngAmaya Paz<TD> Philippines</TD>
BạcJenifer Chan Philippines
ĐồngGul Mary<TD> Singapore</TR>
</TABLE>
Tham khảo
Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2005
|
23986
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90i%E1%BB%81n%20kinh%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20%C4%90%C3%B4ng%20Nam%20%C3%81%202005
|
Điền kinh tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2005
|
Bộ môn Điền kinh tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2005, ngoài môn Marathon được tổ chức tại thành phố Pasay, các môn còn lại được thi đấu tại khu liên hợp thể thao Rezal Memorial ở thủ đô Manila, Philippines.
Tại kỳ đại hội lần này, một lần nữa Thái Lan khẳng định vị thế cường quốc thể thao số một trong khu vực Đông Nam Á của mình khi giành ngôi nhất toàn đoàn trong môn thể thao nữ hoàng, tuy họ không còn quá lấn lướt so với các đoàn khác như khi xưa. Với vị thế là nước chủ nhà, không ngạc nhiên khi Philippines giành ngôi vị thứ hai khu vực. Đại hội cũng đánh dấu vị thế mới của Việt Nam trên đấu trường thể thao khu vực khi đoàn giành được 7 tấm huy chương vàng, đặc biệt tấm chuy chương vàng nội dung 100 m nữ của Vũ Thị Hương, đồng thời các vận động viên Việt Nam cũng là tác giả của 3 trên 6 kỷ lục SEA Games mới của bộ môn điền kinh được lập tại đại hội kỳ này. Một số sự kiện đáng chú ý khác là việc đoàn Indonesia gần như biến mất khỏi bản đồ đấu trường khu vực khi chỉ giành được 1 huy chương vàng và việc do không hiểu luật khiến đoàn Việt Nam mất hai huy chương (một vàng và một bạc) ở nội dung 1500 m nam và marathon nữ.
(Có ba môn thi đấu là nhảy sào nam, nhảy ba bước nam và tạ xích nữ chưa được thống kê vào bảng trên)
Bảng thành tích
100 m nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích
VàngWachara Sondee Thái Lan<TD>10.47</TD>
BạcSompote Suwannarangsri Thái Lan<TD>10.52</TD>
ĐồngSuryo Agung Wibowo Indonesia10.57
</TABLE>
110 m vượt rào nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích
VàngMohd Robani Hassan Malaysia<TD>14.08</TD>
BạcMuhd Faiz Mohammad Malaysia<TD>14.16</TD>
ĐồngNarongdech Janjai Thái Lan14.22
</TABLE>
200 m nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích
VàngSittichai Suwonprateep Thái Lan<TD>20.94</TD>
BạcJohn Herman Murai Indonesia<TD>21.27</TD>
ĐồngSompote Suwannarangsri Thái Lan21.40
</TABLE>
400 m nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích
VàngJimar Aing Philippines<TD>47.03</TD>
BạcErnie Candelario Philippines<TD>47.06</TD>
ĐồngMohd Zafril Mohd Zuslaini Malaysia47.25
</TABLE>
400 m vượt rào nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích
VàngShahadan Jamaludin Malaysia<TD>51.28</TD>
BạcApisit Kuttiyawan Thái Lan<TD>51.54</TD>
ĐồngMohd Zafril Mohd Zuslaini Indonesia51.61
</TABLE>
800 m nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích
VàngLê Văn Dương Việt Nam<TD>1' 51.15</TD>
BạcMidel Dique Philippines<TD>1' 51.53</TD>
ĐồngJohn Lozada Philippines1' 51.57
</TABLE>
1500 m nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích
VàngAung Thi Ha Myanma<TD>3' 39.25</TD>
BạcHariyono Indonesia<TD>3' 50.40</TD>
ĐồngRene Herera Philippines3' 50.89
</TABLE>
3000 m vượt chướng ngại vật nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích
VàngRene Herera Philippines<TD>8' 56.14</TD>
BạcTrần Văn Thắng Việt Nam<TD>9' 07.89</TD>
ĐồngPatikarn Pechsricha Thái Lan9' 13.27
</TABLE>
5000 m nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích
VàngBoonthung Srisung Thái Lan<TD>14' 15.09</TD>
BạcJulius Sermona Philippines<TD>14' 45.44</TD>
ĐồngAmnuay Tongmit Thái Lan15' 24.05
</TABLE>
10000 m nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích
VàngBoonthung Srisung Thái Lan<TD>29' 29.59</TD>
BạcEduardo Buenavista Philippines<TD>29' 49.77</TD>
ĐồngJulius Sermona Philippines30' 45.45
</TABLE>
Đi bộ 20 km nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích
VàngMohd Sharrulhaizy Abd Rahman Malaysia<TD>1 h 35' 45.1</TD>
BạcThiru Kumaran Balay Sendram Malaysia<TD>1 h 36' 27.4</TD>
ĐồngVeerapun Anunchai Thái Lan1h 42' 39.7
</TABLE>
Marathon nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích
VàngBoonchoo Jandacha Thái Lan<TD>2 h 29' 27</TD>
BạcRoy Vence Philippines<TD>2 h 30' 11</TD>
ĐồngAllan Ballester Philippines2 h 32' 25
</TABLE>
Tiếp sức 4 x 100 m nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích
VàngWachara Sondee, Sompote Suwannarangsri, Ekkachai Janthana, Sittichai Suwonprateep Thái Lan<TD>39.74</TD>
BạcArnold Villarube, Ralph Waldy Soguilon, Albert Salcedo, Henry Dagmil Philippines<TD>40.55</TD>
ĐồngMohd Shameer Mohd Ayub, Erzalmaniq Fawy Rawi, Poh Seng Song, Umagua Kancanangai Shaym Singapore40.59
</TABLE>
Tiếp sức 4 x 400 m nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích
VàngKashus Perona, Jimar Aing, Julius Nieras, Ernie Candelario Philippines<TD>3' 09.15</TD>
BạcSupachi Phachsay, Banjong Lachua, Jukkatip Pojaroen, Apisit Kuttiyawan Thái Lan<TD>3' 10.53</TD>
ĐồngShahadan Jamaludin, Amran Raj Krishnan, Mohd Zafril Mohd Zuslaini, Jayakumar Dewarajoo Malaysia3' 23.27
</TABLE>
Nhảy xa nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích
VàngHenry Dagmil Philippines<TD>7 m 81 - Kỷ lục SEA Games mới</TD>
BạcMohd Syahrul Amri Md Suhaimi Malaysia<TD>7 m 69</TD>
ĐồngKittisak Sukon Thái Lan7 m 54
</TABLE>
Nhảy ba bước nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích
Vàng<TD></TD>
Bạc<TD></TD>
Đồng
</TABLE>
Nhảy cao nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích
VàngNguyễn Duy Bằng Việt Nam<TD>2 m 14</TD>
BạcNguyễn Thanh Phong Việt Nam<TD>2 m 11</TD>
ĐồngChokchai Jirasukrujee Thái Lan2 m 11
</TABLE>
Nhảy sào nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích
Vàng<TD></TD>
Bạc<TD></TD>
Đồng
</TABLE>
Đẩy tạ nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích
VàngChatchawal Pol Yeng Thái Lan<TD>17 m 06</TD>
BạcSarayudh Pinitjit Thái Lan<TD>16 m 66</TD>
ĐồngWong Tuck Yim James Singapore12 m 66
</TABLE>
Ném đĩa nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích
VàngWong Tuck Yim James Singapore<TD>55 m 11</TD>
BạcSawang Sawasdee Thái Lan<TD>52 m 51</TD>
ĐồngKvanchai Numsomboon Thái Lan51 m 31
</TABLE>
Ném lao nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích
VàngDanilo Fresnido Philippines<TD>70 m 20</TD>
BạcSanya Buathong Thái Lan<TD>66 m 09</TD>
ĐồngDandy Gallenero Philippines65 m 80
</TABLE>
Tạ xích nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích
VàngArniel Ferrera Philippines<TD>60 m 47 - Kỷ lục SEA Games mới</TD>
BạcJerro Perater Philippines<TD>53 m 44</TD>
ĐồngYong Jaros Kanjus Thái Lan52 m 74
</TABLE>
10 môn phối hợp nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích
VàngVũ Văn Huyện Việt Nam<TD>7139 điểm</TD>
BạcBoonkete Chalon Thái Lan<TD>7034 điểm</TD>
ĐồngBùi Văn Hà Việt Nam6937 điểm
</TABLE>
100 m nữ
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích
VàngVũ Thị Hương Việt Nam<TD>11.49</TD>
BạcNongnuch Sanrat Thái Lan<TD>11.63</TD>
ĐồngOrranut Klomdee Thái Lan11.66
</TABLE>
100 m vượt rào nữ
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích
VàngMoh Siew Wei Malaysia<TD>13.54</TD>
BạcDedeh Erawati Indonesia<TD>13.58</TD>
ĐồngTrecia Roberts Thái Lan14.25
</TABLE>
200 m nữ
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích
VàngKay Khine Lwin Myanma<TD>23.77</TD>
BạcVũ Thị Hương Việt Nam<TD>23.86</TD>
ĐồngJuyamass Tawoncharoen Thái Lan23.97
</TABLE>
400 m nữ
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích
VàngYin Yin Khine Myanma<TD>52.69</TD>
BạcKay Khine Lwin Myanma<TD>54.10</TD>
ĐồngSaowalee Kaewchuy Thái Lan54.88
</TABLE>
400 m vượt rào nữ
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích
VàngWassana Winatho Thái Lan<TD>57.20</TD>
BạcNguyễn Thị Nụ Việt Nam<TD>1' 00.37</TD>
ĐồngMary Grace Milgar Philippines1' 01.37
</TABLE>
800 m nữ
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích
VàngĐỗ Thị Bông Việt Nam<TD>2' 03.65 - Kỷ lục SEA Games mới</TD>
BạcYin Yin Khine Myanma<TD>2' 04.11</TD>
ĐồngTrương Thanh Hằng Việt Nam2' 04.60
</TABLE>
1500 m nữ
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích
VàngTrương Thanh Hằng Việt Nam<TD>4' 18.50 - Kỷ lục SEA Games mới</TD>
BạcĐỗ Thị Bông Việt Nam<TD>4' 21.46</TD>
ĐồngOliva Sadi Indonesia4' 22.39
</TABLE>
5000 m nữ
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích
VàngOliva Sadi Indonesia<TD>16' 34.94</TD>
BạcMercedita Manipol Philippines<TD>16' 42.17</TD>
ĐồngRini Budiarti Indonesia16' 43.92
</TABLE>
10000 m nữ
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích
VàngMercedita Manipol Philippines<TD>35' 38.04</TD>
BạcPa Pa Myanma<TD>35' 39.08</TD>
ĐồngTrương Thị Mai Việt Nam37' 00.82
</TABLE>
Đi bộ 20 km nữ
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích
VàngYuan Yu Fang Malaysia<TD>1 h 42' 52.2</TD>
BạcDarwati Indonesia<TD>1 h 52' 13.4</TD>
ĐồngTanaphon Peamsakun Thái Lan1h 53' 52.6
</TABLE>
Marathon nữ
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích
VàngChristabel Martes Philippines<TD>2 h 47' 07</TD>
BạcFeri Marince Subnafeu Indonesia<TD>2 h 54' 23</TD>
ĐồngPa Pa Myanma2 h 54' 55
</TABLE>
Tiếp sức 4 x 100 m nữ
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích
VàngOrranut Klomdee, Jutamass Tawoncharoen, Sangwan Jaksunin, Nongnuch Sanrat Thái Lan<TD>44.30</TD>
BạcVũ Thị Hương, Lê Ngọc Phương, Hoàng Thị Thu Hương, Mai Thị Phương Việt Nam<TD>45.11</TD>
ĐồngDeysie Natalia Sumigar, Irene Truitje Joseph, Serafi Anelies Unani, Supiati Indonesia46.01
</TABLE>
Tiếp sức 4 x 400 m nữ
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích
VàngYin Yin Khine, Myint Myint Aye, Kyaw Swar Moe, Kay Khine Lwin Myanma<TD>3' 35.68</TD>
BạcYuangjan Panthakarn, Wassana Winatho, Sunantha Kinnareewong, Saowalee Kaewchuy Thái Lan<TD>3' 39.49</TD>
ĐồngLê Thị Hồng Anh, Nguyễn Thị Thắm, Nguyễn Thị Nụ, Nguyễn Thị Bắc Việt Nam3' 43.91
</TABLE>
Nhảy xa nữ
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích
VàngMarestella Torres Philippines<TD>6 m 47</TD>
BạcLerma Elmira Gabito Philippines<TD>6 m 45</TD>
ĐồngNgew Si Mei Malaysia6 m 27
</TABLE>
Nhảy ba bước nữ
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích
VàngNgew Si Mei Malaysia<TD>13 m 61 - Kỷ lục SEA Games mới</TD>
BạcW. Rittiwat Thái Lan<TD>13 m 20</TD>
ĐồngT. Muang Jan Thái Lan13 m 00
</TABLE>
Nhảy cao nữ
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích
VàngBùi Thị Nhung Việt Nam<TD>1 m 89 - Kỷ lục SEA Games mới</TD>
BạcNguyễn Thị Ngọc Thy Việt Nam<TD>1 m 86</TD>
ĐồngNoen-Ruthai Chaipech Thái Lan1 m 83
</TABLE>
Nhảy sào nữ
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích
VàngRosalinda Samsu Malaysia<TD>4 m 10 - Kỷ lục SEA Games mới</TD>
BạcLê Thị Phương Việt Nam<TD>4 m 00</TD>
ĐồngSanisa Kao-Iad Thái Lan3 m 60
</TABLE>
Đẩy tạ nữ
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích
VàngZhang Guirong Singapore<TD>17 m 40</TD>
BạcDu Xianhui Singapore<TD>17 m 37</TD>
ĐồngJuthaporn Krasaeyan Thái Lan14 m 15
</TABLE>
Ném đĩa nữ
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích
VàngDu Xianhui Singapore<TD>49 m 48</TD>
BạcJuthaporn Krasaeyan Thái Lan<TD>48 m 93</TD>
ĐồngZhang Guirong Singapore48 m 62
</TABLE>
Ném lao nữ
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích
VàngBouban Pamang Thái Lan<TD>55 m 06 - Kỷ lục SEA Games mới</TD>
BạcRosie Villarito Philippines<TD>49 m 43</TD>
ĐồngZhang Guirong Singapore48 m 70
</TABLE>
Tạ xích nữ
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích
Vàng<TD></TD>
Bạc<TD></TD>
Đồng
</TABLE>
7 môn phối hợp nữ
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích
VàngWatchaporn Masin Thái Lan<TD>3249 điểm</TD>
BạcNguyễn Thị Thu Cúc Việt Nam<TD>3190 điểm</TD>
ĐồngNarcisa Atienza Philippines3121 điểm
</TABLE>
Tham khảo
Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2005
|
23990
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Joseph%20Black
|
Joseph Black
|
Joseph Black (16 tháng 4 năm 1728 tại Bordeaux - 10 tháng 11 năm 1799 tại Edinburgh) là một nhà vật lý và nhà hóa học người Scotland. Joseph Black là một trong những nhà vật lý, hóa học nổi tiếng từng giữ chức vụ giáo sư ở Đại học Glasgow.
Năm 1746, ông nhập học tại Trường Đại học Tổng hợp Glasgow. Ngoài ra, Black cũng đã học tại trường tổng hợp Edinburgh và sau đó vào năm 1754 đã nghiên cứu kỹ các thuộc tính của dioxide cacbon (khi đó ông gọi nó là `không khí cố định´). Năm 1756 ông miêu tả bằng cách nào mà các muối cacbonat trở nên kiềm hơn khi chúng mất dioxide cacbon, trong khi việc hấp thụ trở lại khí này sẽ tái hồi phục chúng. Ông là người đầu tiên cô lập được dioxide cacbon trong trạng thái hoàn toàn tinh khiết.
Công trình của ông đã góp phần hỗ trợ trong việc phá vỡ niềm tin trong các thuyết về sự cháy có khái niệm gọi là yếu tố cháy.
Năm 1761 ông phát hiện ra rằng băng hấp thụ nhiệt mà không hề tăng nhiệt độ khi nóng chảy. Từ điều này ông kết luận rằng nhiệt phải kết hợp với các hạt băng và trở thành ẩn nhiệt.
Trong khoảng những năm 1759 - 1763 ông luận ra thuyết về "ẩn nhiệt" mà tên tuổi của ông chủ yếu được biết đến nhờ công trình này và ông cũng chỉ ra rằng các chất khác nhau có nhiệt dung riêng khác nhau. James Watt là học trò và phụ tá của ông.
Năm 1755 ông phát hiện ra magiê.
Tham khảo
Người Glasgow
Nhà hóa học Scotland
Mất năm 1799
Sinh năm 1728
Nhà vật lý Scotland
Nhà vật lý Ireland
Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Pháp
|
24002
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Humphry%20Davy
|
Humphry Davy
|
Humphry Davy, Tòng nam tước thứ nhất, FRS (thông thường viết và phát âm không chính xác là Humphrey; 17 tháng 12 năm 1778 – 29 tháng 5 năm 1829) là một nhà vật lý và nhà hóa học người Cornwall. Ông sinh ra tại Penzance, Cornwall, Vương quốc Anh.
Sir (Ngài) Humphry là cách gọi trang trọng để chỉ địa vị xã hội của ông. Davy trở nên nổi tiếng nhờ các thực nghiệm của ông về các phản ứng sinh lý của một số chất khí, trong đó có cả khí gây cười (oxide nitrơ tức đinitơ mônoxide hay N2O). Davy sau đó bị suy giảm thị lực trong một tai nạn phòng thí nghiệm khi ông đang thử nghiệm nitơ triclorua. Năm 1801 ông được chỉ định làm giáo sư tại Viện Hoàng gia của Anh quốc (Great Britain) và viện sĩ Hội Khoa học Hoàng gia Anh mà sau đó ông là chủ tịch của hội này.
Năm 1800, Alessandro Volta giới thiệu pin lần đầu tiên. Davy đã sử dụng pin này để tách các muối bằng cách mà ngày nay người ta gọi là điện phân.Với nhiều pin mắc nối tiếp ông đã có thể tách ra các nguyên tố kali, natri năm 1807 và calci, stronti, bari, magiê năm 1808. Ông cũng nghiên cứu năng lượng tham gia vào trong việc chia tách các muối này, mà ngày nay là một lĩnh vực của điện hóa học.
Năm 1802 Humphrey Davy là nhà phát minh người Anh nổi tiếng. Ông sử dụng phát kiến cột Volta của nhà khoa học người Ý Alessandro Volta để chế tạo bóng đèn điện đầu tiên trên thế giới bằng cách nối các cột volta với các điện cực bằng than. Phát minh này được gọi là Hồ Quang Điện. Tuy nhiên, sản phẩm này tuy gây được chấn động lớn nhưng tính ứng dụng chưa cao do sản phẩm chưa thực sự có thể áp dụng cho thực tiễn, khi việc phát sáng diễn ra quá nhanh và chi phí tốn kém, hơn nữa quá sáng để sử dụng trong nhà hoặc nơi làm việc. Kết cục, phát minh của Davy vẫn nằm trên bàn giấy.
Năm 1812 ông được phong tước hiệp sĩ, đọc bài diễn thuyết chia tay tại Viện Hoàng gia, và cưới một góa phụ giàu có là Jane Apreece. Sau kỳ nghỉ dài tại châu Âu lục địa, ông bắt đầu sản xuất đèn Davy là loại đèn an toàn cho công nhân mỏ.
Ông cũng chỉ ra rằng oxy không thể thu được từ các chất gọi là acid oxymuriatic và chứng minh rằng chất thu được là một nguyên tố, ông đặt tên nó là chlorine (clo trong tiếng Việt). Phát minh này đã lật đổ định nghĩa của Lavoisier về acid như là hợp chất chứa oxy.
Năm 1815 Davy giả thiết rằng các acid là các chất chứa hiđrô có thể thay thế – hiđrô mà có thể thay thế một phần hay toàn phần bởi các kim loại. Khi các acid phản ứng với kim loại thì chúng tạo thành các muối. Các base là các chất có phản ứng với acid để tạo ra muối và nước. Các định nghĩa này làm việc tốt trong nhiều thế kỷ. Ngày nay chúng ta sử dụng thuyết Brønsted-Lowry về acid và base.
Năm 1818, ông được ban thưởng tước hiệu tòng nam tước.
Năm 1824 ông đề xuất và cuối cùng đã tạo ra một lớp bọc bằng sắt cho thân tàu bằng đồng như là lần sử dụng đầu tiên của phương pháp bảo vệ catốt.
Davy mất tại Geneva, Thụy Sĩ, việc hít thở phải hơi của các loại hóa chất khác nhau cuối cùng đã thể hiện tác hại của chúng đối với sức khỏe của ông. Người trợ tá phòng thí nghiệm của ông là Michael Faraday đã tiếp tục mở rộng các công trình của ông và sau đó đã trở nên nổi tiếng hơn và có ảnh hưởng hơn – đến mức mà Davy cho rằng Faraday là phát hiện lớn nhất của đời ông. Tuy nhiên, sau này ông đã kết tội người trợ tá của mình là ăn cắp ý tưởng của mình, điều này khiến cho Faraday đã phải giảm mọi nghiên cứu trong lĩnh vực điện từ trường cho đến tận khi người thầy thông thái của ông mất.
Ngoài lề
Bài thơ sau được coi là bài thơ theo thể Clerihew đầu tiên (một dạng thơ ngụ ngôn):
Sir Humphry Davy
Abominated gravy.
He lived in the odium
Of having discovered sodium.
Tạm dịch:
Ngài Humphry Davy
Không ưa món nước xốt
Sống trong sự căm ghét
Vì tìm ra natri
Tham khảo
Liên kết ngoài
Nhà phát minh Anh
Nhà hóa học Anh
Người Cornwall
Người tự học
Kali
Magnesi
Mất năm 1829
Sinh năm 1778
Calci
Hội viên Hội Hoàng gia
Bari
Người phát hiện ra nguyên tố hóa học
Natri
|
24013
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1%20tr%E1%BB%8B%20tuy%E1%BB%87t%20%C4%91%E1%BB%91i
|
Giá trị tuyệt đối
|
Giá trị tuyệt đối () - còn thường được gọi là mô-đun (modulus) của một số thực x được viết là |x|, là giá trị của nó nhưng bỏ dấu. Như vậy |x| = -x nếu x là số âm (-x là số dương), và |x| = x nếu x là số dương, và |0| =0. Giá trị tuyệt đối của một số có thể hiểu là khoảng cách của số đó đến số 0.
Trong toán học, việc sử dụng giá trị tuyệt đối có trong hàng loạt hàm toán học, và còn được mở rộng cho các số phức, véctơ, trường,... liên hệ mật thiết với khái niệm giá trị.
Đồ thị của một hàm số có các biến số nằm trong dấu "giá trị tuyệt đối" thì luôn luôn nằm phía trên của trục hoành.
Số thực
Với mọi số thực , giá trị tuyệt đối của - ký hiệu là - được định nghĩa:
Định nghĩa trên cho thấy, giá trị tuyệt đối của luôn là một số không âm.
Hiểu theo góc độ hình học, giá trị tuyệt đối của một số thực là khoảng cách từ số đó đến điểm 0 trên đường thẳng thực (real number line, còn gọi là trục số thực). Tổng quát hơn, giá trị tuyệt đối giữa hai số thực khác nhau là khoảng cách giữa chúng trên đường thẳng thực, ví dụ: |5 - 3| = 2 (khoảng cách giữa 5 và 3).
Mệnh đề 1 dưới đây là một đồng nhất thức (identity). Nó tương đương với định nghĩa trên và đôi khi có thể được sử dụng để định nghĩa về giá trị tuyệt đối.
MỆNH ĐỀ 1:
MỆNH ĐỀ 2:
{| cellpadding=10
|-
|
|Tính không âm
|-
|
|Xác định tính dương
|-
|
|Tính kết hợp
|-
|
|Subadditivity
|}
Chứng minh:
Nếu hoặc bằng 0, chẳng hạn:
Nếu và cùng bé hơn 0 hoặc cùng lớn hơn 0 thì ta có:
Nếu và , có một số lớn 0, một số bé hơn 0 thì ta có:
Với
Với
Vì và đều lớn hơn 0 nên hoặc đều nhỏ hơn tổng .
Vậy ta luôn có: .
MỆNH ĐỀ 3:
{| cellpadding=10
|-
|
|Tính đối xứng
|-
|
|Đẳng thức indiscernibles (tương đương với xác định dương)
|-
|
|Bất đẳng thức tam giác (tương đương với subadditivity)
|-
|
|Bảo toàn trong phép chia (tương đương với multiplicativeness)
|-
|
|Điều phải chứng minh (Articles need to prove)
|}
Ta cũng có hai bất đẳng thức (inequalities) quan trọng:
Hai bất đẳng thức trên thường được sử dụng để giải các bài toán bất đẳng thức khác. Ví dụ:
{|
|-
|
|
|-
|
|
|}
Số phức
Vì số phức (complex number) không có thứ tự, nên định nghĩa về giá trị tuyệt đối của các số phức không thể được suy ra từ định nghĩa tương ứng của các số thực. Tuy nhiên, từ đồng nhất thức ở mệnh đề 1 (xem phần số thực ở trên), ta có định nghĩa sau:
Với mọi số phức:
giá trị tuyệt đối hay mô-đun của z - ký hiệu là |z| - được định nghĩa là:
Về góc độ hình học, ta thấy định nghĩa trên giống như định lý Pitago:
Tham khảo
Liên kết ngoài
Giá trị tuyệt đối trên Planetmath
Hàm toán học
Số thực
Số phức
|
24014
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BA%BF%20k%E1%BB%B7%2019
|
Thế kỷ 19
|
Thế kỷ 19 là khoảng thời gian tính từ thời điểm năm 1801 đến hết năm 1900, nghĩa là bằng 100 năm, trong lịch Gregory (tức là lịch cổ). Nhưng theo Lịch thiên văn, Thế kỷ 19 được bắt đầu từ ngày 1/1/1800 và kết thúc vào ngày 31/12/1899.
Đôi khi những sử gia gọi thời kỳ "Thế kỷ XIX" là thời gian kéo dài từ năm 1815 (do Hội nghị Wien) tới năm 1914 (do Chiến tranh thế giới thứ nhất bắt đầu). Thay vì đó, Eric Hobsbawm gọi "Thế kỷ dài 19" là thời gian kéo dài từ 1789 đến 1914.
Tổng quan
Nhìn chung, Thế kỷ thứ XIX là một thế kỉ đầy biến động về rất nhiều mặt (bắt đầu thời Pháp Thuộc của Việt Nam, Cách mạng công nghiệp lần thứ 2, các trận chiến của Napoleon,...)
Đặc điểm lịch sử
Nó được xem là thế kỷ, mà chủ nghĩa tư bản mở rộng ra toàn thế giới. Thế kỷ 19 đã đánh dấu bước ngoặt căn bản chuyển từ lao động bằng tay sang lao động bằng máy. Loài người đã chuyển từ nền văn minh nông nghiệp sang nền văn minh công nghiệp. Nền văn minh công nghiệp đã tạo ra cách nhìn mới, kéo theo những biến đổi lớn về chính trị, văn hóa, xã hội. Loài người bước vào một giai đoạn mới của văn minh nhân loại.
Các dấu mốc lịch sử
1801 Thomas Jefferson đã được Hạ viện Hoa Kỳ bầu làm Tổng thống Hoa Kỳ.
1801 Quân Nguyễn Ánh đánh chiếm kinh đô Phú Xuân khiến Quang Toản phải chạy ra Bắc
1801 Vương Quốc Anh và Ireland thống nhất.
1801 Ranjit Singh được bổ nhiệm làm vua Punjab.
1801 Napoléon ký kết Công ước năm 1801 với Đức Giáo hoàng.
1801 Cairo rơi vào tay Vương Quốc Anh
1801 Sa Hoàng Paul I bị ám sát
1801 Anh đánh bại Pháp tại Trận chiến thứ hai ở Abukir
1801-1815 Chiến tranh Barbary lần thứ nhất và chiến tranh Barbary lần thứ hai giữa Mỹ và các quốc gia Barbary Bắc Phi
1802 Hiệp ước Amiens giữa Pháp và Vương quốc Anh kết thúc Chiến tranh Liên minh số hai.
1802 Ludwig van Beethoven lần đầu tiên biểu diễn bài Sonata Moonlight của mình.
1802 Quân Tây Sơn chiếm Lại được Phú Xuân khiến Võ Tánh tự vẫn
1802: Nguyễn Ánh đánh chiếm thành công Thăng Long
1802-1831 Nguyễn Ánh truy tìm hậu duệ của Nhà Tây Sơn
1803 William Symington lần đầu phô bày chiếc tàu Charlotte Dundas của mình, chiếc tàu hơi nước đầu tiên.
1803 Nhà Wahhabis của Nước Ả Rập đầu tiên chiếm Mecca và Medina.
1803 Chiến tranh nổ ra giữa Anh và Pháp; đây được coi là sự khởi đầu của Chiến tranh Napoleon.
1803-1825 Giai đoạn đầu của Chiến tranh Padri
1804 Haiti giành được độc lập từ Pháp và trở thành nước cộng hòa của người da đen đầu tiên.
1804-1813 Chiến tranh Nga-Ba Tư
1804 Đế quốc Áo thành lập bởi Francis I.
1804 Napoleon tự phong cho mình là Hoàng đế Pháp.
1804 Dân số thế giới đạt 1 tỷ người.
1804: Đầu máy hơi nước đầu tiên bắt đầu hoạt động.
1804 Morphine bị cô lập lần đầu.
1804-1810 Fulani Jihad ở Nigeria.
1804-1815 Cuộc cách mạng của người Serbia nổi lên chống lại Đế Chế Ottoman. Sự độc lập của Serbia được công nhận vào năm 1817.
1804: Đế quốc Áo thành lập bởi Francis I.
1804: Napoleon tự phong cho mình Hoàng đế của Pháp.
1804: Dân số thế giới đạt 1 tỷ người.
1804: Đầu máy hơi nước đầu tiên bắt đầu hoạt động.
1804: Morphine bị cô lập lần đầu.
1804-1810: Fulani Jihad ở Nigeria.
1805: Trận Trafalgar
1805 Napoleon tiêu diệt quân Áo-Nga trong trận Trận Austerlitz
1805-1848 Muhammad Ali hiện đại hóa Ai Cập.
1806 Đế quốc La Mã Thần Thánh bị giải thể do hậu quả của Hiệp ước Pressburg
1806: Cape trở thành một thuộc địa của đế quốc Anh.
1806-1812 Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ, Hiệp ước Bucharest.
1807 Nước Anh tuyên bố buôn bán nô lệ là bất hợp pháp.
1808: Beethoven trình diễn bản nhạc thứ năm của mình
1808-1809: Nga xâm lực Phần Lan từ Thụy Điển trong Chiến tranh Phần Lan.
1808 Những du kích Tây Ban Nha chiến đấu trong Chiến tranh Phần Lan
Năm 1810: Đại học Berlin được thành lập. Trong số sinh viên và giảng viên của trường là Hegel, Marx và Bismarck. Cải cách đại học ở Đức đã thành công đến mức mô hình của nó được sao chép khắp thế giới
1810 Grito de Dolores bắt đầu Chiến tranh giành độc lập ở Mexico.
1810-1820 Hầu hết các thuộc địa Mỹ La Tinh tự giành độc lập khỏi Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha sau khi các cuộc chiến tranh giành độc lập ở Mỹ Latinh.
1810-1820 Chiến tranh Punjab giữa đế quốc Sikh và đế quốc Anh
1812 Cuộc xâm lược của Pháp vào Nga
1812: Thủ tướng Anh Spencer Perceval bị ám sát
1884: chính phủ Cam-pu-chia(vua Nô-rô-đôm) kí hiệp ước thừa nhận trở thành thuộc địa của Pháp.
1890: Hồ Chí Minh, sau này là Lãnh tụ của Việt Nam Dân chủ cộng hòa, khi đó là Nguyễn Sinh Cung, ra đời
1900: Liên quân tám nước tấn công thành Bắc Kinh, Từ Hi thái hậu phải chạy đến Tây An lánh nạn.
Xem thêm
Pháp thuộc
Nhà Tây Sơn
Hòa ước Giáp Thân (1884)
Nội chiến Hoa Kỳ
Lịch sử thế giới
Tham khảo
19
Chủ nghĩa lãng mạn
Thiên niên kỷ 2
Lịch sử hiện đại
|
24019
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%B9a%20Ph%E1%BB%95%20Minh
|
Chùa Phổ Minh
|
Chùa Phổ Minh (Phổ Minh tự 普明寺) hay chùa Tháp là một ngôi chùa ở thôn Tức Mạc, phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định. Năm 2012, di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật đền Trần và chùa Phổ Minh được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt.
Lịch sử
Theo biên niên sử, chùa được xây dựng vào năm 1262, ở phía tây cung Trùng Quang của các vua nhà Trần. Nhưng theo các minh văn trên bia, trên chuông thì ngôi chùa này đã có từ thời nhà Lý. Có thể chùa đã được xây dựng lại với quy mô rộng lớn từ năm 1262. Tuy đã nhiều lần tu bổ nhưng chùa vẫn còn giữ được nhiều dấu tích nghệ thuật đời Trần.
Kiến trúc
Cụm kiến trúc chính của chùa bao gồm 9 gian tiền đường, 3 gian thiêu hương, toà thượng điện cũng 3 gian nhưng rộng hơn, xếp theo hình chữ "công". Bộ cửa gian giữa nhà tiền đường gồm 4 cánh bằng gỗ lim, to dày, chạm rồng, sóng nước, hoa lá và văn hoa hình học. Hai cánh ở giữa chạm đôi rồng lớn chầu Mặt Trời trong khuôn hình lá đề, được coi là một tác phẩm điêu khắc khá hoàn mỹ. Cũng như đôi sấu đá trên thành bậc tam quan và đôi rồng trên thành bậc gian giữa tiền đường, bộ cánh cửa này còn giữ được những dấu ấn của nghệ thuật chạm khắc đời Trần. Hiện nay, hai cánh lưu trữ tại Bảo Tàng Nam Định, hai cánh còn lại lưu trữ tại Bảo Tàng Lịch Sử Quốc Gia ở Hà Nội.
Một số công trình kiến trúc bài trí khác đã làm tô thêm vẻ đẹp của chùa Phổ Minh, như 3 gian tam quan khung gỗ, tường gạch, mái ngói rêu phong, cổ kính với bức hoành phong đề 4 chữ lớn. "Đại hùng bảo điện" và thành bậc thềm ở chính giữa có chạm đôi sấu đá rất sống động, hai hồ tròn thả sen nằm đăng đối hai bên lối đi dẫn vào chùa.
Trong chùa có bày tượng Trần Nhân Tông nhập Niết bàn (tượng nằm); tượng Trúc Lâm Tam tổ dưới bóng cây trúc; một số tượng Phật đẹp lộng lẫy. Chuông lớn của chùa có khắc bản văn "Phổ Minh đỉnh tự" đúc năm 1796 - chùa vốn có một vạc lớn, sử sách coi là một trong bốn vật báu của Việt Nam (An Nam tứ đại khí) nhưng nay không còn, nhưng phần bệ đá hoa sen từ thời Trần vẫn còn đến ngày nay.
Sau thượng điện, cách một sân hẹp là ngôi nhà dài 11 gian. Ở giữa là 5 gian nhà tổ, bên trái là 3 gian nhà tăng và bên phải là 3 gian điện thờ. Hai dãy hành lang nối tiền đường ở phía trước với ngôi nhà 11 gian ở phía sau làm thành một khung vuông bao quanh kiến trúc chùa.
Tháp Phổ Minh
Kiến trúc thời nhà Trần được bảo tồn khá nguyên vẹn ở đây là tháp Phổ Minh, dựng khoảng từ năm 1305 đến 1308. Tháp cao 19,51 m, gồm 14 tầng. Nền tháp và tầng thứ nhất xây bằng đá, những tầng còn lại phía trên xây bằng gạch. Tầng nào cũng trổ 4 cửa vòm cuốn, giữa các tầng là gờ mái... Tầng tháp thứ nhất đặt trên bệ đá, có hai lớp cánh sen, lớp dưới chúc xuống, lớp trên ngửa lên đỡ lấy tháp hình vuông, mỗi cạnh rộng hơn 5 mét. Bệ và tầng thứ nhất có những hình chạm nông trên mặt đá như hoa lá, sóng nước, mây cuốn, đặc trưng cho phong cách trang trí thời nhà Trần. Mặt ngoài những viên gạch các tầng trên được trang trí hình rồng.
Theo các sách Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí, Đại Nam nhất thống chí và Nam Định địa dư chí, vào thời Tây Sơn năm 1789, trấn thủ Hải Dương (là/và/hoặc) Trần Túc đã phá tháp Phổ Minh để lấy đồng nhưng khi phá đến tầng thứ 2 hoặc 3 từ trên xuống thấy một luồng hơi đỏ bốc lên, do sợ nên giao xã sửa lại như cũ nhưng không còn đỉnh tháp bằng đồng.
Trong bức ảnh "407. TONKIN - Nam-Dinh - Pagode consacrê au culte du lingam" chụp khoảng từ năm 1890 đến năm 1945 (không phải bức hình bên trên) có thể thấy tháp Phổ Minh không có đỉnh bút lông như ngày nay.
Vào lần trùng tu tháp năm 1987 do ngành văn hóa tỉnh Nam Định chủ trì đã phát hiện một chiếc quách bằng đá vây quanh một hộp đồng ở tầng thứ 3 từ trên xuống
Trong văn học, nghệ thuật
Danh sĩ người xứ Đông Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491–1585), sống thời Lê–Mạc, đồng thời là một cư sĩ tự nhận (Bạch Vân am cư sĩ), trong một lần qua vùng Sơn Nam Hạ vãn cảnh chùa Phổ Minh chừng hơn một thế kỷ sau loạn giặc Minh xâm lược qua đi, đã để lại bài thơ thất ngôn bát cú Du Phổ Minh tự được đưa vào tập thơ chữ Hán Bạch Vân am thi tập do chính ông đề tựa:
Tham khảo
Liên kết ngoài
Thư viện Hoa Sen
Phổ Minh
Kiến trúc cổ Việt Nam
|
24020
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB%9Di%20%C4%91i%E1%BB%83m
|
Thời điểm
|
Thời điểm là một 'điểm mốc' trong một khoảng thời gian nào đấy. Thời điểm không có độ dài, nghĩa là nó chỉ được dùng để chỉ 'một điểm' để làm 'mốc' trong thời gian.
Xem thêm
Điểm
Không-thời gian
Thời đại thiên văn
Sự kiện
Tham khảo
Thời gian
|
24025
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%B4ng%20su%E1%BA%A5t%20ph%E1%BA%A3n%20kh%C3%A1ng
|
Công suất phản kháng
|
Công suất phản kháng, công suất hư kháng,công suất ảo Q là 1 khái niệm trong ngành kĩ thuật điện dùng để chỉ phần công suất điện được chuyển ngược về nguồn cung cấp năng lượng trong mỗi chu kỳ do sự tích lũy năng lượng trong các thành phần cảm kháng và dung kháng, được tạo ra bởi sự lệch pha giữa hiệu điện thế u(t) và dòng điện i(t).
Khi u(t), i(t) biến đổi theo đồ thị hàm sin thì , với U, I: giá trị hiệu dụng u(t), i(t); φ là pha lệch giữa u(t), i(t).
Công suất hư kháng Q là phần ảo của công suất biểu kiến S, S = P + iQ.
Đơn vị đo Q là var (volt amperes reactive), 1 kvar = 1000 var.
Xem thêm
Công suất điện xoay chiều
Tham khảo
Công suất biểu kiến
|
24029
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20To%C3%A0n%20quy%E1%BB%81n%20%C4%90%C3%B4ng%20D%C6%B0%C6%A1ng
|
Danh sách Toàn quyền Đông Dương
|
Dưới đây là danh sách các Toàn quyền Đông Dương, xếp theo trật tự thời gian đảm nhiệm chức vụ, tính từ tháng 11 năm 1887 đến tháng 8 năm 1945.
Ghi chú
Một số người không rõ, sinh và mất
Xem thêm
Toàn quyền Đông Dương
Danh sách Thống đốc Nam Kỳ
Tham khảo
Việt Nam những sự kiện lịch sử (1858-1918), Dương Kinh Quốc, Nhà xuất bản Giáo dục, 2001
Liên kết ngoài
Vietnam
Chính trị Việt Nam thời Pháp thuộc
Toànquyền Đông Dương
en:List of colonial heads of French Indochina
|
24039
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20v%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20th%E1%BA%BF%20gi%E1%BB%9Bi
|
Giải vô địch bóng đá thế giới
|
FIFA World Cup, hay đơn giản là World Cup, còn gọi là Giải vô địch bóng đá thế giới hoặc Cúp bóng đá thế giới trong tiếng Việt, là giải đấu bóng đá do Liên đoàn Bóng đá Quốc tế (FIFA) tổ chức với chu kỳ 4 năm 1 lần cho tất cả các đội tuyển bóng đá nam quốc gia của những nước thành viên FIFA. Giải lần đầu tiên được tổ chức vào năm 1930, và bị gián đoạn 2 lần vào các năm 1942 và 1946 do Chiến tranh thế giới thứ hai.
Giải đấu bắt đầu với giai đoạn vòng loại, diễn ra trong 3 năm trước đó để xác định đội nào giành quyền tham dự vòng chung kết. Ở vòng chung kết, 32 đội cạnh tranh chức vô địch tại các địa điểm trong (các) quốc gia chủ nhà trong thời gian khoảng một tháng. (Các) quốc gia chủ nhà tự động lọt vào vòng bảng của giải đấu. FIFA World Cup tiếp theo dự kiến sẽ mở rộng lên 48 đội cho giải đấu năm 2026.
World Cup là sự kiện thể thao thu hút sự quan tâm đông đảo nhất trên toàn thế giới. Lượng người xem World Cup 2002 ước tính đạt 4.6 tỷ người, gầm một nửa dân số toàn cầu, trong khi lượng người xem World Cup 2002 ước tính đạt 6 tỷ người,khoảng 36 tỷ lượng xem trên các khu vực có bản quyền và truyền hình vào trận chung kết giữa Đức và Brazil.
Qua 22 lần (tính đến năm 2022) tổ chức, tính đến nay mới chỉ có 8 đội tuyển quốc gia vô địch giải đấu này. Brazil là đội tuyển duy nhất tham dự đủ 22 vòng chung kết và cũng là đội tuyển thành công nhất với 5 lần vô địch. Tiếp đó là Đức và Ý với 4 lần giành ngôi cao nhất. Argentina 3 lần nâng cúp, Pháp và Uruguay cùng có 2 danh hiệu. Anh và Tây Ban Nha mỗi đội đều có một lần vô địch.
17 quốc gia đã đăng cai ít nhất một kỳ World Cup. Brazil, Pháp, Ý, Đức và Mexico đã từng tổ chức hai lần, trong khi Uruguay, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Chile, Anh, Argentina, Tây Ban Nha, Hoa Kỳ, Nhật Bản và Hàn Quốc (đồng chủ nhà), Nam Phi, Nga và Qatar từng tổ chức một lần. World Cup 2026 sẽ được đồng tổ chức bởi Canada, Hoa Kỳ và Mexico, với Mexico trở thành quốc gia đầu tiên trên thế giới đăng cai ba kỳ World Cup, Hoa Kỳ lần thứ hai đăng cai và là lần đầu tiên Canada tổ chức sự kiện này.
Tên gọi
Tên gọi chính thức của FIFA World Cup đã có vài lần thay đổi. Thoạt đầu nó được gọi là "World Cup" (Cúp thế giới, Coupe du monde) sau đó là "Cúp Jules Rimet" (tên của cựu chủ tịch FIFA, người đề xướng giải đấu này), rồi đến "Giải vô địch bóng đá thế giới - Cúp Jules Rimet" và sau cùng là "FIFA World Cup". Tại Việt Nam, "World Cup" được gọi phổ biến hơn hẳn so với "Giải vô địch bóng đá thế giới".
Lịch sử
Các giải đấu quốc tế trước đây
Trận đấu bóng đá quốc tế đầu tiên trên thế giới là trận đấu diễn ra tại Glasgow năm 1872 giữa 2 tiểu quốc tự trị là Scotland và Anh (nay thuộc Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland), kết thúc với tỷ số hòa 0-0. Giải đấu quốc tế đầu tiên, Giải vô địch Anh quốc khai mạc, diễn ra vào năm 1884. Khi bóng đá ngày càng phổ biến ở các nơi khác trên thế giới vào đầu thế kỷ 20, nó được tổ chức như một môn thể thao không có huy chương dành cho các vận động viên thể thao không chuyên nghiệp tại Thế vận hội Mùa hè 1900 và 1904 (tuy nhiên, IOC đã nâng cấp vị thế của chúng thành các sự kiện chính thức) và tại Thế vận hội Mùa hè 1906 (Olympic 1896 vẫn gây tranh cãi về việc liệu có từng diễn ra môn bóng đá giữa 2 đội của Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay tại châu Âu hay không). Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland là nhà vô địch Olympic đầu tiên vào năm 1900.
Sau khi FIFA được thành lập vào năm 1904, tổ chức này đã cố gắng sắp xếp một giải đấu bóng đá chuyên nghiệp quốc tế giữa các quốc gia bên ngoài khuôn khổ Olympic vào năm 1906. Đây là những ngày đầu tiên của bóng đá quốc tế, và lịch sử của FIFA mô tả cuộc thi là một thất bại.
Tại Thế vận hội Mùa hè 1908 ở London, bóng đá đã trở thành một cuộc thi chính thức. Được lên kế hoạch bởi Hiệp hội bóng đá Anh (FA), cơ quan quản lý bóng đá của Anh, sự kiện này chỉ dành cho các cầu thủ nghiệp dư và bị nghi ngờ là một chương trình chứ không phải là một cuộc thi. Vương quốc Anh (đại diện bởi đội bóng đá nghiệp dư quốc gia Anh) đã giành huy chương vàng. Họ lặp lại thành tích này tại Thế vận hội Mùa hè 1912 ở Stockholm.
Với sự kiện Olympic tiếp tục được thi đấu giữa các đội nghiệp dư, Sir Thomas Lipton đã tổ chức giải đấu Sir Thomas Lipton Trophy ở Turin vào năm 1909. Giải đấu Lipton là giải vô địch giữa các câu lạc bộ cá nhân (không phải các đội tuyển quốc gia) từ các quốc gia khác nhau, mỗi đội đại diện cho cả một quốc gia). Cuộc thi đôi khi được mô tả là Giải vô địch bóng đá thế giới đầu tiên và với sự góp mặt của các câu lạc bộ chuyên nghiệp uy tín nhất từ Ý, Đức và Thụy Sĩ, nhưng Hiệp hội bóng đá Anh đã từ chối cuộc thi và từ chối lời đề nghị gửi một đội chuyên nghiệp. Lipton đã mời West Auckland, một đội bóng nghiệp dư từ County Durham, đại diện thay thế cho nước Anh. West Auckland đã vô địch giải đấu và trở lại vào năm 1911 để bảo vệ thành công danh hiệu của họ.
Năm 1914, FIFA đã công nhận Olympic là "giải vô địch bóng đá thế giới dành cho người nghiệp dư" và chịu trách nhiệm quản lý sự kiện này. Điều này đã mở đường cho cuộc thi bóng đá liên lục địa đầu tiên trên thế giới, tại Thế vận hội Mùa hè 1920, với các trận đấu gồm Ai Cập và 13 đội châu Âu và chiến thắng cuối cùng thuộc về Bỉ. Uruguay đã giành được huy chương vàng ở hai giải đấu bóng đá Olympic tiếp theo vào năm 1924 và 1928. Do đó cũng là hai giải vô địch thế giới đầu tiên, vì năm 1924 là khởi đầu của kỷ nguyên bóng đá chuyên nghiệp của FIFA.
World Cup trước Thế chiến II
Sau sự thành công của các giải đấu bóng đá Olympic, FIFA được sự thúc giục bởi chủ tịch Jules Rimet, một lần nữa bắt đầu xem xét việc tổ chức giải đấu quốc tế riêng biệt bên ngoài Thế vận hội. Vào ngày 28 tháng 5 năm 1928, Đại hội FIFA tại Amsterdam đã quyết định tổ chức một giải vô địch thế giới. Với việc Uruguay đã hai lần vô địch hai kỳ Olympic gần nhất và để kỷ niệm một trăm năm độc lập của nước này vào năm 1930, FIFA đã chọn Uruguay là nước chủ nhà của giải đấu.
Các hiệp hội bóng đá quốc gia của các quốc gia được chọn đã được mời để gửi đội tham dự, nhưng việc lựa chọn nơi tổ chức là Uruguay đồng nghĩa với việc sẽ cần một chuyến đi dài và tốn kém để băng qua Đại Tây Dương cho các đội bóng châu Âu. Thật vậy, không có quốc gia châu Âu nào cam kết gửi đội tham gia cho đến thời điểm hai tháng trước khi bắt đầu giải. Rimet cuối cùng đã thuyết phục các đội từ Bỉ, Pháp, Romania và Nam Tư thực hiện chuyến đi. Tổng cộng, 13 quốc gia đã tham gia: bảy từ Nam Mỹ, bốn từ Châu Âu và hai từ Bắc Mỹ.
Hai trận đấu World Cup đầu tiên diễn ra đồng thời vào ngày 13 tháng 7 năm 1930; Pháp và Hoa Kỳ là đội chiến thắng trong 2 trận đầu tiên của giải, lần lượt đánh bại Mexico 4-1 và Bỉ 3-0. Bàn thắng đầu tiên trong lịch sử World Cup được ghi bởi Lucien Lauros của Pháp. Trong trận chung kết, Uruguay đã đánh bại Argentina 4-2 trước sự theo dõi của 93.000 khán giả ở Montevideo và trở thành quốc gia đầu tiên vô địch World Cup. Sau khi World Cup thành lập, FIFA và IOC không đồng ý với sự tham gia của các cầu thủ nghiệp dư và vì thế bóng đá đã bị loại khỏi Thế vận hội Mùa hè 1932. Bóng đá ở Olympic đã trở lại từ Thế vận hội Mùa hè 1936 tại Đức, nhưng đã bị lu mờ bởi một World Cup hấp dẫn và danh giá hơn.
Các vấn đề phải đối mặt với các Giải vô địch bóng đá thế giới đầu tiên trong thập niên 1930 cũng như trong bóng đá nói riêng và thể thao nói chung là những khó khăn sâu sắc của việc di chuyển xuyên lục địa và chiến tranh-chính trị. Rất ít các đội lục địa Nam Mỹ sẵn sàng tới châu Âu tham dự World Cup 1934 và tất cả các quốc gia Bắc và Nam Mỹ, ngoại trừ Brazil và Cuba, đã tẩy chay giải đấu năm 1938. Brazil là đội Nam Mỹ duy nhất tham gia cả hai giải. Giải vô địch năm 1942 và 1946 mà Đức và Brazil đã tìm cách tổ chức đã bị hủy bỏ do Chiến tranh thế giới thứ hai và hậu quả nghiêm trọng của nó.
World Cup sau Thế chiến II
World Cup 1950 được tổ chức tại Brazil là lần đầu tiên xuất hiện các đội tuyển thuộc Vương quốc Anh. Vương quốc Anh đã rút khỏi FIFA năm 1920, một phần do không muốn thi đấu với các quốc gia đã có chiến tranh với họ, và phần khác là do các cuộc biểu tình chống lại sự ảnh hưởng của nước ngoài đối với bóng đá nhưng đã chấp nhận gia nhập lại vào năm 1946 theo lời mời của FIFA. Giải đấu cũng chứng kiến sự trở lại của nhà vô địch năm 1930 Uruguay, đội bóng đã tẩy chay hai kỳ World Cup trước đó. Uruguay đã vô địch giải đấu một lần nữa sau khi đánh bại đội chủ nhà Brazil, trong trận đấu mang tên "Maracanazo" (tiếng Bồ Đào Nha: Maracanaço).
Trong các giải đấu từ năm 1934 đến 1978, 16 đội thi đấu tại vòng chung kết, ngoại trừ năm 1938, khi Áo bị sáp nhập vào Đức sau vòng loại, do đó chỉ còn 15 đội và năm 1950, khi Ấn Độ, Scotland và Thổ Nhĩ Kỳ rút lui, giải đấu chỉ còn 13 đội. Hầu hết các quốc gia tham dự là từ Châu Âu và Nam Mỹ, với một số ít từ Bắc Mỹ, Châu Phi, Châu Á và Châu Đại Dương. Các đội này thường bị đánh bại dễ dàng bởi các đội châu Âu và Nam Mỹ vốn mạnh hơn hẳn và do đó giải đấu tiếp tục duy trì thế độc tôn là sự kiện thể thao lớn nhất trong thời hiện đại. Cho đến năm 1982, chỉ có các đội sau ngoài châu Âu và Nam Mỹ vượt qua vòng bảng: Hoa Kỳ vào bán kết vào năm 1930; Cuba vào tứ kết năm 1938; Bắc Triều Tiên vào tứ kết năm 1966; và Mexico vào tứ kết năm 1970.
Mở rộng tới 32 đội
Giải đấu được mở rộng thành 24 đội vào năm 1982 và sau đó tăng lên 32 đội vào năm 1998, ngoài ra cũng cho phép nhiều đội hơn từ Châu Phi, Châu Á và Bắc Mỹ tham gia. Kể từ đó, các đội từ các khu vực này đã gặt hái được nhiều thành công hơn, một số trong đó đã lọt vào tứ kết: Mexico vào tứ kết năm 1986; Cameroon vào tứ kết năm 1990; Hàn Quốc lọt vào bán kết năm 2002; Sénégal cùng với Hoa Kỳ, lọt vào tứ kết năm 2002; Ghana lọt vào tứ kết năm 2010; Costa Rica lọt vào tứ kết vào năm 2014 và Maroc lọt tới bán kết năm 2022. Tuy nhiên, các đội châu Âu và Nam Mỹ vẫn tiếp tục thống trị; các đội lọt vào tứ kết của các giải đấu năm 1994, 1998, 2006 và 2018 đều là các đội châu Âu và Nam Mỹ.
199 đội đã tham dự vòng loại World Cup 2002; 198 quốc gia đã thi đấu tại vòng loại World Cup 2006, trong khi kỷ lục về số quốc gia tham dự vòng loại là 214 ở giải năm 2018.
Mở rộng tới 48 đội
Vào tháng 10 năm 2013, Sepp Blatter đã nói về việc đảm bảo cho khu vực của Liên đoàn bóng đá Caribe một vị trí tại World Cup. Trong ấn bản ngày 25 tháng 10 năm 2013 của tuần báo FIFA Weekly, Blatter đã viết rằng: "Từ góc độ thể thao thuần túy, tôi muốn thấy sự toàn cầu hóa cuối cùng được thực hiện nghiêm túc mà các hiệp hội thể thao quốc gia châu Phi và châu Á đã đạt được vị thế mà họ xứng đáng tại Giải vô địch bóng đá thế giới."
Sau khi xuất bản tạp chí, đối thủ của Blatter cho cương vị Chủ tịch FIFA, Chủ tịch UEFA Michel Platini, trả lời rằng ông dự định mở rộng World Cup lên tới 40 hiệp hội bóng đá quốc gia, tăng số lượng đội tham dự hiện tại lên 8 đội. Platini nói rằng ông sẽ phân bổ một suất bổ sung cho UEFA, hai cho Liên đoàn bóng đá châu Á và Liên đoàn bóng đá châu Phi, hai suất được chia sẻ giữa CONCACAF và CONMEBOL, và một suất bảo đảm cho Liên đoàn bóng đá châu Đại Dương. Platini đã nói rõ về lý do tại sao ông muốn mở rộng World Cup: "World Cup không dựa trên chất lượng của các đội vì bạn không có 32 người giỏi nhất tại World Cup... nhưng đó là một sự thỏa hiệp tốt.... Đó là vấn đề chính trị vậy tại sao không có nhiều nước châu Phi hơn? Giải đấu mang lại cho tất cả mọi người trên toàn thế giới. Nếu không cho họ cơ hội tham gia, bóng đá sẽ không tiến bộ."
Vào tháng 10 năm 2016, chủ tịch FIFA Gianni Infantino tuyên bố ủng hộ tăng số đội World Cup lên 48 đội vào năm 2026. Vào ngày 10 tháng 1 năm 2017, FIFA xác nhận World Cup 2026 sẽ có 48 đội vào chung kết.
Vụ án tham nhũng FIFA 2015
Tháng 5 năm 2015, các cáo buộc hình sự về tội nhận hối lộ, lừa đảo và rửa tiền để tham nhũng trong việc phát hành quyền truyền thông và tiếp thị (đấu thầu gian lận) cho các giải đấu của FIFA, với các quan chức FIFA bị buộc tội nhận hối lộ với tổng số tiền hơn 150 triệu đô la trong 24 năm. Vào cuối tháng 5, Bộ Tư pháp Hoa Kỳ đã công bố bản cáo trạng 47 tội danh với các cáo buộc đấu giá, lừa đảo qua đường dây và rửa tiền âm mưu chống lại 14 người. Việc bắt giữ hơn một chục quan chức FIFA đã được thực hiện kể từ thời điểm đó, đặc biệt là vào ngày 29 tháng 5 và ngày 3 tháng 12. Đến cuối tháng 5 năm 2015, tổng cộng chín quan chức FIFA và năm giám đốc điều hành của các thị trường thể thao và phát thanh truyền hình đã bị buộc tội tham nhũng. Vào thời điểm đó, Chủ tịch FIFA Sepp Blatter tuyên bố sẽ từ bỏ vị trí của mình vào tháng 2 năm 2016.
Vào ngày 4 tháng 6 năm 2015, Chuck Blazer khi hợp tác với FBI và chính quyền Thụy Sĩ đã thừa nhận rằng ông và các thành viên khác trong ủy ban điều hành của FIFA đã bị mua chuộc để quảng bá cho World Cup 1998 và 2010. Vào ngày 10 tháng 6 năm 2015, chính quyền Thụy Sĩ đã tịch thu dữ liệu máy tính từ các văn phòng của Sepp Blatter. Cùng ngày, FIFA đã hoãn quá trình đấu thầu World Cup 2026 trước những cáo buộc xung quanh việc hối lộ trong các giải đấu 2018 và 2022. Tổng thư ký lúc bấy giờ Jérôme Valcke tuyên bố: "Do tình hình này, tôi nghĩ rằng thật vô lý khi bắt đầu bất kỳ quy trình đấu thầu nào trong thời điểm hiện tại." Vào ngày 28 tháng 10 năm 2015, Blatter và Phó chủ tịch FIFA đã bị đình chỉ làm việc trong 90 ngày; cả hai đều thừa nhận vô tội trong các tuyên bố gửi cho các phương tiện truyền thông.
Vào ngày 3 tháng 12 năm 2015, hai phó chủ tịch FIFA đã bị bắt vì nghi ngờ hối lộ trong cùng một khách sạn ở Zurich, Áo, nơi bảy quan chức FIFA đã bị bắt giữ vào tháng 5. Thêm 16 cáo trạng của Bộ Tư pháp Hoa Kỳ đã được công bố cùng ngày.
Các giải đấu FIFA khác
Một giải đấu tương đương dành cho bóng đá nữ, Giải vô địch bóng đá nữ thế giới, lần đầu tiên được tổ chức vào năm 1991 tại Trung Quốc. Giải đấu dành cho nữ có quy mô nhỏ hơn nam giới, nhưng đang trong quá trình phát triển; số lượng quốc gia tham gia giải đấu năm 2007 là 120, nhiều hơn gấp đôi so với năm 1991.
Bóng đá nam đã được đưa vào mọi kỳ Thế vận hội Olympic mùa hè trừ năm 1896 và 1932. Không giống như nhiều môn thể thao khác, giải bóng đá nam tại Thế vận hội không phải là giải đấu cấp cao nhất và kể từ năm 1992, một giải đấu dành cho độ tuổi dưới 23 (U-23) với mỗi đội được phép mang ba cầu thủ vượt quá tuổi được tổ chức. Bóng đá nữ ra mắt tại Olympic năm 1996.
Cúp Liên đoàn các châu lục (FIFA Confederations Cup) là giải đấu được tổ chức một năm trướcWorld Cup tại (các) quốc gia đăng cai World Cup như một đợt thử nghiệm, khảo sát cho kỳ World Cup sắp tới.
FIFA cũng tổ chức các giải đấu quốc tế dành cho bóng đá trẻ (Giải vô địch bóng đá U-20 thế giới, Giải vô địch bóng đá U-17 thế giới, Giải vô địch bóng đá nữ U-20 thế giới, Giải vô địch bóng đá nữ U-17 thế giới), bóng đá câu lạc bộ (Giải vô địch bóng đá thế giới các câu lạc bộ (FIFA Club World Cup)), và các biến thể bóng đá như futsal (Giải vô địch bóng đá trong nhà thế giới (FIFA Futsal World Cup)) và bóng đá bãi biển (Giải vô địch bóng đá bãi biển thế giới (FIFA Beach Soccer World Cup)). Ba giải sau không có phiên bản dành cho nữ, mặc dù Giải vô địch bóng đá nữ thế giới các câu lạc bộ đã được đề xuất.
Giải vô địch bóng đá nữ U-20 thế giới được tổ chức một năm trước mỗi kỳ của Giải vô địch bóng đá nữ thế giới. Giải đấu U-20 đóng vai trò là một đợt thử nghiệm cho giải đấu lớn hơn.
Sự kiện chính
Năm 1930, giải đấu đầu tiên được tổ chức tại Uruguay, là kỳ World Cup duy nhất mà tất cả các trận đấu được tổ chức ở cùng một thành phố là Montevideo, thủ đô Uruguay và không tổ chức vòng loại. Uruguay trở thành đội đầu tiên vô địch giải đấu khi tổ chức trên sân nhà.
Năm 1934, kỳ World Cup lần đầu tiên trong lịch sử được tổ chức tại châu Âu và số đội tham dự là 16, giải duy nhất mà đội chủ nhà cũng phải tham dự vòng loại. Ý là đội giành chức vô địch lần đầu tiên sau thắng lợi trước đội tuyển Tiệp Khắc với tỉ số 2-1 sau 2 hiệp phụ (2 đội hoà nhau với tỉ số 1-1 sau 90 phút thi đấu chính thức).
Năm 1938, kỳ World Cup lần đầu tiên được tổ chức tại Pháp. Ý trở thành đội đầu tiên bảo vệ thành công chức vô địch sau thắng lợi trước đội tuyển Hungary với tỉ số 4-2 trong trận chung kết. Đây cũng là kỳ World Cup cuối cùng trước khi giải đấu bị gián đoạn vào năm 1942 và năm 1946 do ảnh hưởng của Chiến tranh thế giới thứ hai.
Năm 1950, kỳ World Cup lần đầu tiên được tổ chức tại Brazil. Uruguay trở thành đội bóng châu Mỹ giành chức vô địch lần thứ 2 của mình. Ý trở thành đội đương kim vô địch đầu tiên bị loại ngay từ vòng bảng. Đây cũng là kỳ World Cup trở lại sau 12 năm gián đoạn vì do ảnh hưởng của Chiến tranh thế giới thứ hai.
Năm 1954, kỳ World Cup lần đầu tiên được tổ chức tại Thụy Sĩ, và cũng là lần đầu tiên giải được chiếu trên truyền hình. Đội tuyển Tây Đức trở thành đội giành chức vô địch lần đầu tiên sau thắng lợi trước đội tuyển Hungary với tỉ số 3-2 trong trận chung kết.
Năm 1958, kỳ World Cup lần đầu tiên được tổ chức tại Thụy Điển. Đội tuyển chủ nhà Thuỵ Điển có lần đầu tiên trong lịch sử lọt vào trận chung kết của 1 kỳ World Cup, Brasil lần đầu tiên vô địch thế giới và là lần đầu tiên giải thưởng cầu thủ trẻ xuất sắc nhất ra đời và cũng là lần đầu tiên một đội tuyển quốc gia Nam Mỹ vô địch trên đất châu Âu.
Năm 1962, kỳ World Cup lần đầu tiên được tổ chức tại Chile, và cũng là lần đầu tiên hiệu số bàn thắng được sử dụng để phân hạng 2 đội bằng điểm. Đội tuyển Brasil giành chức vô địch lần thứ 2 sau thắng lợi trước đội tuyển Tiệp Khắc với tỉ số 3-1 trong trận chung kết.
Năm 1966, kỳ World Cup lần đầu tiên được tổ chức tại Anh, và cũng là lần thứ hai 4 đội vào bán kết đều đến từ Châu Âu. Đội tuyển chủ nhà Anh đã giành chức vô địch thế giới lần đầu tiên sau thắng lợi trước đội tuyển Tây Đức với tỉ số 4-2 (2 đội hoà nhau với tỉ số 2-2 sau 2 hiệp thi đấu chính thức). Brasil trở thành cựu vô địch lần thứ 2 bị loại từ vòng bảng.
Năm 1970, kỳ World Cup lần đầu tiên tổ chức tại quốc gia Bắc Mỹ là México, Brasil trở thành đội bóng đầu tiên vô địch 3 lần và giữ cúp vĩnh viễn, lần đầu tiên thẻ vàng, thẻ đỏ và giải thưởng đội tuyển phong cách được áp dụng.
Năm 1974, kỳ World Cup lần đầu tiên được tổ chức tại Tây Đức. Cúp FIFA World Cup được ra đời. Đội tuyển chủ nhà Tây Đức đã giành chức vô địch thế giới trước đội tuyển Hà Lan với tỉ số 2-1 trong trận chung kết.
Năm 1978, kỳ World Cup thứ 5 tổ chức tại châu Mỹ và cũng là lần đầu tiên được tổ chức tại Argentina. Đội tuyển chủ nhà Argentina lần đầu tiên đoạt chức vô địch bóng đá thế giới sau thắng lợi trước đội tuyển Hà Lan với tỉ số 3-1 sau hai hiệp phụ (vì 2 đội có tỉ số hòa 1-1 ở hai hiệp thi đấu chính thức 90 phút).
Năm 1982, lần đầu tiên Tây Ban Nha đăng cai giải đấu này và cũng là lần đầu tiên được tổ chức tại một quốc gia thuộc bán đảo Iberia, giải đấu tăng số đội lên thành 24 đội. Ý trở thành đội bóng châu Âu đầu tiên có 3 chức vô địch sau thắng lợi trước Tây Đức với tỉ số 3-1 trong trận chung kết.
Năm 1986, México trở thành quốc gia đầu tiên đăng cai giải đầu lần thứ 2 (lần trước là kỳ World Cup 1970). Đội tuyển Argentina trở thành đội bóng châu Mỹ giành chức vô địch lần thứ 2 trong lịch sử sau thắng lợi trước đội tuyển Tây Đức với tỉ số 3-2 trong trận chung kết.
Năm 1990, Ý trở thành quốc gia châu Âu đầu tiên 2 lần đăng cai giải đấu (lần trước là kỳ World Cup 1934). Đội tuyển Tây Đức trở thành đội bóng châu Âu giành chức vô địch lần thứ 3 sau thắng lợi trước đội tuyển Argentina với tỉ số 1-0 trong trận chung kết.
Năm 1994, lần đầu tiên Hoa Kỳ đăng cai giải đấu này, Brasil lần thứ 4 đoạt chức vô địch bóng đá thế giới sau thắng lợi trước đội tuyển Ý với tỉ số luân lưu 3-2 (vì hai đội hoà nhau ở hai hiệp thi đấu chính thức và hai hiệp phụ). Đây cũng là lần đầu tiên trận chung kết phải bước vào loạt sút luân lưu. Đây cũng là kỳ World Cup cuối cùng có 24 đội trước khi kỳ World Cup 1998 nâng số đội tuyển tham gia là 32 đội.
Năm 1998, Pháp đăng cai giải đấu World Cup lần thứ 2 sau chủ nhà Ý (lần trước là kỳ World Cup 1938). Và đây cũng là kỳ World Cup đầu tiên tăng số đội tham dự lên 32 đội. Pháp trở thành đội bóng châu Âu lần đầu tiên giành chức vô địch sau thắng lợi trước đội tuyển Brazil với tỉ số 3-0 trong trận chung kết.
Năm 2002, kỳ World Cup lần đầu tiên trong lịch sử được tổ chức tại châu Á và cũng là lần đầu tiên được tổ chức đồng thời ở hai quốc gia. Đội tuyển Hàn Quốc trở thành đội bóng châu Á lần đầu tiên trong lịch sử lọt vào vòng bán kết của 1 kỳ World Cup. Đội tuyển Nhật Bản có lần đầu tiên trong lịch sử lọt vào vòng 16 đội của 1 kỳ World Cup, nhưng đã để thua trước đội tuyển Thổ Nhĩ Kỳ với tỉ số là 0-1. Còn đội tuyển Pháp trở thành nhà đương kim vô địch thứ 3 bị loại ngay từ vòng bảng. Đội tuyển Brasil lần thứ 5 đoạt chức vô địch sau thắng lợi trước đội tuyển Đức với tỉ số 2-0 trong trận chung kết.
Năm 2006, kỳ World Cup lần thứ 2 tổ chức tại Đức (lần trước là kỳ World Cup 1974). Đây cũng là lần thứ tư có 4 đội vào bán kết đều thuộc châu Âu. Và đây cũng là trận chung kết lần thứ 2 phải đá loạt sút luân lưu. Ý trở thành đội bóng châu Âu đầu tiên giành chức vô địch sau thắng lợi trước đội tuyển Pháp với tỉ số 5-3 (sau loạt sút luân lưu) vì hai đội hoà sau 2 hiệp thi đấu chính thức và 2 hiệp phụ với tỉ số 1-1. Đức trở thành quốc gia thứ 3 ở châu Âu lần thứ 2 đăng cai World Cup.
Năm 2010, kỳ World Cup lần đầu tiên diễn ra ở châu Phi. Đội tuyển Nam Phi trở thành đội chủ nhà đầu tiên không vượt qua được vòng bảng của một kỳ World Cup. Đôi tuyển Ý trở thành cựu vô địch thứ 4 sau khi bị loại ngay từ vòng bảng. Đội tuyển Tây Ban Nha trở thành đội bóng châu Âu lần đầu tiên giành chức vô địch sau khi giành chiến thắng trước đội tuyển Hà Lan với tỉ số chung cuộc 1-0 sau 2 hiệp phụ (vì 2 đội hoà nhau ở 2 hiệp thi đấu chính thức với tỉ số 0-0).
Năm 2014, Brasil đăng cai giải đấu này lần thứ 2 (lần trước là kỳ World Cup 1950). Giải đấu này được tổ chức tại Nam bán cầu và lần đầu tiên trong lịch sử vòng chung kết, công nghệ goal-line được áp dụng cho tất cả các trận đấu. Đội tuyển Đức trở thành đội bóng châu Âu đầu tiên vô địch trên đất châu Mỹ sau thắng lợi trước đội tuyển Argentina với tỉ số 1-0 (vì hai đội hoà nhau với tỉ số 0-0 sau hiệp thi đấu chính thức 90 phút). Còn đội tuyển Tây Ban Nha chính thức trở thành nhà đương kim vô địch thứ 5 sau khi bị loại ngay ở vòng bảng.
Năm 2018, kỳ World Cup lần đầu tiên được tổ chức tại một quốc gia thuộc khu vực Đông Âu và cũng là lần đầu tiên được tổ chức tại một quốc gia thuộc Liên Xô cũ, kỳ World Cup đầu tiên mà công nghệ hỗ trợ trọng tài (VAR) đã được sử dụng. Đội tuyển Đức trở thành cựu vô địch thứ 6 khi bị loại ngay từ vòng bảng. Đội tuyển chủ nhà Nga có lần đầu tiên trong lịch sử giành quyền vào vòng tứ kết của một kỳ World Cup. Đội tuyển Pháp trở thành đội bóng châu Âu lần thứ 2 giành chức vô địch (sau kỳ World Cup 1998). Đội tuyển Croatia có lần đầu tiên trong lịch sử lọt vào trận chung kết của một kỳ World Cup (lần gần đây nhất là vào năm 1998, Croatia thất bại trước đội tuyển chủ nhà Pháp với tỉ số 2-1 trong trận bán kết 2 của kỳ World Cup 1998). Và đây cũng là kỳ World Cup đầu tiên mà đội tuyển Croatia giành giải á quân. Đội tuyển Bỉ có lần đầu tiên giành hạng 3, còn đội tuyển Anh lọt vào top 4 đội mạnh nhất lần thứ 3 (trong đó có kỳ World Cup 1966 mà họ đã giành chức vô địch) và cũng là lần đầu tiên là vào kỳ World Cup 1990. Đáng chú ý là đội tuyển Ý đã từng 4 lần vô địch không tham dự giải vì không vượt qua vòng loại.
Năm 2022, kỳ World Cup lần đầu tiên được tổ chức tại một quốc gia thuộc Trung Đông, và cũng là lần đầu tiên được tổ chức tại một quốc gia thuộc Thế giới Ả Rập và được tổ chức vào mùa đông. Là kỳ World Cup áp dụng sự đổi mới về công nghệ như Vạch vôi điện tử Goal-line, Video hỗ trợ trọng tài VAR, đặc biệt có thêm công nghệ Bắt việt vị bán tự động SAOT (thực chất là bản nâng cấp hình ảnh 3D của VAR) và công nghệ cảm biến trong trái bóng Al Rihla để theo dõi vị trí quả bóng cùng nhiều thứ khác. Đây là kỳ World Cup lần thứ 2 được tổ chức tại châu Á (sau kỳ World Cup 2002) được tổ chức ở Nhật Bản và Hàn Quốc. Qatar chính thức trở thành nước chủ nhà thứ 3 của châu Á giành quyền đăng cai World Cup, và cũng là đội chủ nhà thứ hai (sau đội tuyển Nam Phi ở kỳ World Cup 2010) không vượt qua được vòng bảng của một kỳ World Cup. Đội tuyển từng 4 lần vô địch, Ý có lần thứ 2 liên tiếp không vượt vòng loại của giải. Một đội tuyển khác cũng từng 4 lần vô địch là đội tuyển Đức có lần thứ 2 liên tiếp không vượt qua vòng bảng. Đội tuyển Bỉ giành hạng ba World Cup 2018, cũng không vượt qua vòng bảng lần đầu tiên vào năm 1998. Đội tuyển Uruguay 2 lần vô địch bị loại từ vòng bảng sau 20 năm từ World Cup 2002. Đội tuyển Mexico bị loại từ vòng bảng sau 44 năm từ World Cup 1978. Đội tuyển Đan Mạch có lần đầu tiên bị loại ngay từ vòng bảng từ World Cup 2010. Đội tuyển Úc và đội tuyển Hàn Quốc vượt qua vòng bảng lần lượt vào kỳ World Cup 2006 và World Cup 2010. Đội tuyển Bồ Đào Nha có lần đầu tiên dừng bước ở vòng tứ kết, trong khi đó đội tuyển Brasil có lần thứ 2 liên tiếp dừng bước tại vòng này, còn đội tuyển Anh vẫn là đội có nhiều lần thất bại ở tứ kết nhất với 7 lần. Đội tuyển Maroc đi vào lịch sử khi trở thành đội tuyển châu Phi đầu tiên giành quyền vào bán kết của 1 kỳ World Cup. Đội tuyển Croatia, á quân World Cup 2018 có lần thứ 2 giành hạng 3 sau kỳ World Cup 1998. Đây cũng là kỳ World Cup cuối cùng có 32 đội tham dự trước khi kỳ World Cup 2026 sẽ nâng số đội tuyển tham gia là 48 đội. Đội tuyển Argentina lần thứ ba giành chức vô địch (sau kỳ World Cup 1978 và World Cup 1986) sau khi vượt qua đương kim vô địch Pháp với tỉ số 4-2 ở loạt sút luân lưu 11m (3-3 sau hiệp phụ).
Năm 2026, số đội tham dự tăng lên thành 48 đội, lần đầu tiên tổ chức ở 3 quốc gia và México trở thành quốc gia đầu tiên của Bắc Mỹ 3 lần làm chủ nhà giải đấu (lần trước là kỳ World Cup 1970 và World Cup 1986), Hoa Kỳ lần thứ hai đăng cai giải đấu (lần trước là kỳ World Cup 1994) và lần đầu tiên Canada tổ chức giải đấu.
Năm 2030, kỳ World Cup lần đầu tiên được tổ chúc ở 3 quốc gia thuộc hai châu lục khác nhau và Tây Ban Nha lần thứ hai đăng cai giải đấu (lần trước là kỳ World Cup 1982 và lần đầu tiên Bồ Đào Nha và Maroc đồng tổ chức giải đấu. Tuy nhiên 3 trận khai mạc của giải diễn ra tại Argentina, Paraguay và Uruguay nhằm kỷ niệm 100 năm giải đấu ra đời.
Năm 2034, kỳ World Cup lần đầu tiên được tổ chức tại Ả Rập Xê Út và Ả Rập Xê Út trở thành quốc gia châu Á thứ tư sau Nhật Bản, Hàn Quốc, Qatar cũng như quốc gia Trung Đông thứ hai sau Qatar tổ chức giải đấu này.
Cúp
Từ năm 1930 đến 1970, Cúp Jules Rimet đã được trao cho đội vô địch World Cup. Ban đầu nó được gọi đơn giản là World Cup hoặc Coupe du Monde, nhưng vào năm 1946, nó được đổi tên sau khi chủ tịch FIFA Jules Rimet thành lập giải đấu. Từ năm 1970 trở về trước, đội vô địch thế giới được trao "cúp vàng" mà trong các văn kiện chính thức của FIFA gọi là "vật phẩm nghệ thuật". Đó là bức tượng nhỏ hình "Nữ thần chiến thắng Nike" (theo thần thoại Hy Lạp) mà trong giới bóng đá thường gọi là tượng "Nữ thần vàng". Theo đơn đặt hàng của FIFA, chiếc tượng này được hoàn thành năm 1928 do một người thợ kim hoàn ở Paris tên là Abel Lafleur đúc bằng vàng thật, nặng 1,8 kg (với chiếc đế bằng đá hoa cương nặng chừng 4 kg), trị giá 10.000 USD.
Trước Giải thế giới năm 1970, FIFA giữ "Cup vàng" theo điều lệ quy định để rồi trao cho liên đoàn bóng đá quốc gia thuộc nước có đội bóng đoạt chức vô địch thế giới rồi trả lại cho FIFA trước khi tiến hành vòng chung kết Giải vô địch bóng đá thế giới lần sau.
Năm 1970, sau 3 lần vô địch, như trong điều lệ quy định, đội Brasil đã được trao tặng vĩnh viễn "Nữ thần vàng". Tuy nhiên, chiếc cúp đã bị đánh cắp vào năm 1983 và chưa bao giờ được tìm lại, dường như đã bị những tên trộm nấu chảy. Sau giải năm đó, FIFA đặt làm chiếc cúp mới lấy tên là Cúp thế giới FIFA. Chiếc cúp này là cúp luân lưu, không đội bóng nào có thể đoạt vĩnh viễn cả. Những đội bóng vô địch sẽ được trao tặng chiếc cúp mẫu thu nhỏ để làm kỷ niệm cùng với việc được giữ chiếc cúp chính thức trong thời gian giữa 2 giải vô địch bóng đá thế giới. Chiếc cúp mới được đúc bằng vàng thật do nghệ sĩ người Ý Silvio Gazzaniga sáng tác, sau khi vượt qua 53 nghệ nhân để trở thành người thắng cuộc, với chiều cao 36,5 cm được làm bằng vàng nguyên khối 18 carat (75%), nặng 6,175 kg, trị giá 20.000 USD. Cúp này do người thợ kim hoàn Stabilimento Artistico Bertoni ở thành phố Milano đúc. Chiếc cúp mang hình 2 thanh niên với 4 cánh tay giơ cao đỡ lấy quả Địa Cầu. Phần kim loại của chiếc cúp hiện nay là 4,9 kg "vàng nguyên khối 18 carat" và có 2 lớp đá malachit trong khi mặt dưới của chiếc cúp khắc tên của những quốc gia vô địch giải vô địch bóng đá thế giới kể từ năm 1974. Mô tả về chiếc cúp của Gazzaniga là: "Những đường thẳng xuất phát từ dưới, vươn lên theo hình xoắn ốc, vươn ra để tiếp nhận thế giới. Từ những đường nét đáng chú ý của cơ thể được điêu khắc, bức tượng nổi lên với khoảnh khắc chiến thắng."
Hiện tại, tất cả các thành viên (cầu thủ, huấn luyện viên và người quản lý) của ba đội hàng đầu giải đấu đều nhận được huy chương với một huy hiệu của Cúp vô địch bóng đá thế giới; quán quân (vàng), á quân (bạc) và hạng ba (đồng). Trong phiên bản 2002, huy chương vị trí thứ tư đã được trao cho chủ nhà Hàn Quốc. Trước giải đấu năm 1978, huy chương chỉ được trao cho mười một cầu thủ trên sân trong trận chung kết và trận tranh hạng ba. Vào tháng 11 năm 2007, FIFA đã thông báo rằng tất cả các thành viên của đội tuyển vô địch World Cup từ năm 1930 đến năm 1974 sẽ được trao lại huy chương.
Thể thức
Vòng loại
Kể từ kỳ World Cup thứ hai vào năm 1934, vòng loại đã được tổ chức để chọn ra các ứng viên đủ điều kiện cho vòng chung kết. Vòng loại được tổ chức trong sáu khu vực (Châu Phi, Châu Á, Bắc, Trung Mỹ và Caribbean, Nam Mỹ, Châu Đại Dương và Châu Âu), được giám sát bởi các liên đoàn của họ. Đối với mỗi giải đấu, FIFA quyết định số suất tham dự được trao cho từng khu vực lục địa trước đó, thường dựa trên sức mạnh và thành tích quốc tế của các đội trong liên đoàn.
Vòng loại có thể bắt đầu sớm nhất là gần ba năm trước khi vòng chung kết diễn ra và kéo dài trong khoảng thời gian hai năm. Thông thường, một hoặc hai suất được trao cho những đội chiến thắng trong trận play-off liên lục địa. Ví dụ, đội vượt qua vòng loại ở khu vực Châu Đại Dương và đội đứng thứ năm ở vòng loại khu vực châu Á đã đối đầu với nhau ở trận play-off cho một suất tham dự World Cup 2010. Từ World Cup 1938 trở đi, các quốc gia chủ nhà không cần phải đá vòng loại để tham dự vòng chung kết như các đội khác. Quyền này cũng được trao cho các nhà đương kim vô địch từ năm 1938 đến 2002, nhưng đã bị xóa bỏ kể từ World Cup 2006 trở đi, đòi hỏi các nhà đương kim vô địch phải vượt qua vòng loại để tham dự giải kế tiếp. Brazil, quốc gia vô địch năm 2002, là nhà vô địch thế giới đầu tiên chơi các trận đấu vòng loại để tham dự World Cup 2006.
Vòng chung kết
Chủ nhà
Tiến trình lựa chọn
Các kỳ World Cup đầu tiên, quyền đăng cai được trao cho các quốc gia tại các cuộc họp của đại hội FIFA. Các địa điểm đã gây tranh cãi bởi vì Nam Mỹ và châu Âu cho đến nay là hai trung tâm sức mạnh trong bóng đá và chuyến đi giữa họ cần ba tuần bằng thuyền. Chẳng hạn, quyết định tổ chức World Cup đầu tiên ở Uruguay, dẫn đến chỉ có bốn quốc gia châu Âu thi đấu. Hai kỳ World Cup tiếp theo đều được tổ chức ở châu Âu. Quyết định tiếp tục chọn Châu Âu và tổ chức ở Pháp đã bị tranh cãi, vì các nước Nam Mỹ hiểu rằng vị trí này sẽ tiếp tục xen giữa Đại Tây Dương. Do đó, cả Argentina và Uruguay đều tẩy chay Giải vô địch bóng đá thế giới 1938.
Kể từ Giải vô địch bóng đá thế giới 1958, để tránh những cuộc tẩy chay hoặc tranh cãi, FIFA đã bắt đầu một mô hình xen kẽ các đội chủ nhà giữa châu Mỹ và châu Âu, tiếp tục cho đến Giải vô địch bóng đá thế giới 1998. Giải vô địch bóng đá thế giới 2002, được tổ chức bởi Hàn Quốc và Nhật Bản, là lần đầu tiên được tổ chức ở châu Á và là giải đấu đầu tiên có nhiều hơn một nước chủ nhà. Nam Phi trở thành quốc gia châu Phi đầu tiên đăng cai Giải vô địch bóng đá thế giới 2010. Giải vô địch bóng đá thế giới 2014 được tổ chức bởi Brazil, lần đầu tiên được tổ chức tại Nam Mỹ kể từ Argentina năm 1978 và là lần đầu tiên World Cup liên tiếp được tổ chức ở bên ngoài Châu Âu.
Nước chủ nhà hiện được chọn trong một cuộc bỏ phiếu của Hội đồng FIFA. Điều này được thực hiện theo một hệ thống bỏ phiếu toàn diện. Hiệp hội bóng đá quốc gia của một quốc gia mong muốn tổ chức sự kiện này nhận được "Thỏa thuận" từ FIFA, giải thích các bước và yêu cầu. Hiệp hội cũng nhận được một hình thức bằng cách đệ trình đại diện để chính thức ứng cử. Sau đó, một nhóm thanh tra được FIFA chỉ định đến xem xét đất nước để xác định rằng quốc gia này có đáp ứng các yêu cầu cần thiết để tổ chức sự kiện và một báo cáo về quốc gia này được đưa ra. Quyết định về việc ai sẽ tổ chức World Cup thường được đưa ra sáu hoặc bảy năm trước giải đấu. Tuy nhiên, đã có những lần chủ nhà của nhiều giải đấu trong tương lai được công bố cùng một lúc, như trường hợp của World Cup 2018 và 2022, được trao cho Nga và Qatar, với việc Qatar trở thành quốc gia Trung Đông đầu tiên đăng cai giải đấu.
Đối với World Cup 2010 và 2014, giải đấu cuối cùng được luân chuyển giữa các liên đoàn, chỉ cho phép các quốc gia từ liên đoàn được chọn (Châu Phi năm 2010, Nam Mỹ vào năm 2014) để tổ chức giải đấu. Chính sách xoay vòng được đưa ra sau cuộc tranh cãi xung quanh chiến thắng của Đức trước Nam Phi trong cuộc bỏ phiếu để tổ chức giải đấu năm 2006. Tuy nhiên, chính sách xoay vòng lục địa sẽ không tiếp tục sau năm 2014, do đó, bất kỳ quốc gia nào, ngoại trừ những quốc gia thuộc liên đoàn đã tổ chức hai giải đấu trước đó, đều có thể đăng ký làm chủ nhà cho World Cup bắt đầu từ năm 2018. Điều này một phần để tránh một kịch bản tương tự như quá trình đấu thầu cho giải đấu năm 2014, nơi Brazil là nhà thầu chính thức và duy nhất.
Giải vô địch bóng đá thế giới 2026 đã được chọn để tổ chức tại Hoa Kỳ, Canada và México, đánh dấu lần đầu tiên một World Cup được chia sẻ bởi ba quốc gia chủ nhà. Giải đấu năm 2026 sẽ là World Cup lớn nhất từng được tổ chức, với 48 đội thi đấu tổng cộng 80 trận. 60 trận đấu sẽ diễn ra ở Mỹ, bao gồm tất cả các trận đấu từ vòng tứ kết trở đi, trong khi Canada và Mexico, mỗi nước sẽ tổ chức 10 trận đấu.
Thành tích
Sáu trong số tám nhà vô địch hiện tại đã giành được một trong những danh hiệu World Cup khi thi đấu trên chính quê hương của mình, ngoại lệ là Brazil, đội đã đứng vị trí á quân sau khi thua trận đấu quyết định trên sân nhà vào năm 1950 cũng như thua trận bán kết với Đức vào năm 2014 và Tây Ban Nha khi chỉ lọt vào vòng hai trên sân nhà vào năm 1982. Anh (1966) đã giành được danh hiệu duy nhất của mình khi chơi với tư cách là một quốc gia chủ nhà. Uruguay (1930), Ý (1934), Argentina (1978) và Pháp (1998) đã giành được những danh hiệu đầu tiên với tư cách là quốc gia chủ nhà, trong khi Đức (1974) giành được danh hiệu World Cup thứ hai khi chơi trên sân nhà.
Các quốc gia khác cũng đã thành công khi tổ chức giải đấu. Thụy Sĩ (tứ kết 1954), Thụy Điển (á quân năm 1958), Chile (vị trí thứ ba năm 1962), Hàn Quốc (vị trí thứ tư năm 2002), Nga (tứ kết năm 2018) và Mexico (tứ kết năm 1970 và 1986) đều có kết quả tốt nhất khi là chủ nhà. Cho đến nay, Nam Phi (2010) và (2022) là hai quốc gia chủ nhà thất bại trong việc vượt qua vòng bảng.
Các kỷ lục và thống kê
Sáu cầu thủ có số lần tham dự các vòng chung kết World Cup nhiều nhất là Antonio Carbajal (1950-1966), Rafael Márquez (2002-2018) và Andrés Guardado (2006-2022) cùng đến từ Mexico; cựu đội trưởng đội tuyển CHLB Đức Lothar Matthäus (1982-1998). đội trưởng đội tuyển Argentina Lionel Messi và người đồng cấp Bồ Đào Nha Cristiano Ronaldo (2006-2022). Messi cũng là người chơi nhiều trận nhất với tổng cộng 26 lần được ra sân. Huyền thoại Pelé là người duy nhất 3 lần vô địch World Cup với tư cách cầu thủ. Djalma Santos của Brazil (1954-1962), Franz Beckenbauer (1966-1974) của Tây Đức và Philipp Lahm của Đức (2006-2014) là những cầu thủ duy nhất được ghi tên ba lần trong Đội hình Tiêu biểu.
Người ghi nhiều bàn thắng nhất tại các kỳ World Cup là tuyển thủ Đức Miroslav Klose, với 16 lần làm tung lưới đối phương trong 4 lần tham dự giải. Thứ 2 là tuyển thủ Brasil Ronaldo với 15 bàn. Đứng thứ 3 với 14 lần lập công là tuyển thủ người Đức Gerd Müller. Có cùng vị trí thứ 4 là trung phong huyền thoại người Pháp Just Fontaine và tiền đạo người Argentina Lionel Messi với 13 bàn thắng. Ngoài ra, Fontaine còn giữ kỷ lục về số bàn thắng ghi được tại một kỳ World Cup, với thành tích 13 bàn ghi được tại giải năm 1958.
Vào tháng 11 năm 2007, FIFA đã thông báo rằng tất cả các thành viên của đội tuyển vô địch World Cup từ năm 1930 đến năm 1974 sẽ được trao lại huy chương vô địch. Điều này khiến huyền thoại Pelé của Brazil trở thành cầu thủ duy nhất giành được ba huy chương của đội vô địch World Cup (1958, 1962 và 1970, mặc dù ông không chơi trong trận chung kết năm 1962 vì chấn thương). Bảy cầu thủ đã thu thập tất cả ba loại huy chương World Cup (vàng, bạc và đồng): năm cầu thủ đến từ đội hình 1966-1974 bao gồm Franz Beckenbauer, Jürgen Grabowski, Horst-Dieter Höttges, Sepp Maier và Wolfgang Overath (1966-1974); Franco Baresi của Ý (1982, 1990, 1994) và gần đây nhất là Miroslav Klose của Đức (2002-2014) với bốn huy chương liên tiếp. Miroslav Klose cũng chính là cầu thủ nhận được huy chương World Cup nhiều nhất (1 vàng, 1 bạc, 2 đồng). Anh cũng là cầu thủ duy nhất có tất cả các loại huy chương và luôn có huy chương ở tất cả các kỳ World Cup tham gia.
Mário Zagallo, Franz Beckenbauer và Didier Deschamps là ba người đồng thời vô địch World Cup với tư cách cầu thủ và huấn luyện viên. Zagallo vô địch các giải năm 1958 và 1962 khi còn đang thi đấu rồi giải năm 1970 khi chuyển sang vai trò huấn luyện viên. Beckenbauer vô địch giải năm 1974 khi đeo băng đội trưởng đội tuyển Tây Đức và giải năm 1990 với tư cách người chỉ đạo đội., Didier Deschamps vô địch vào năm 1998 khi là cầu thủ và năm 2018 khi làm huấn luyện viên. Còn huấn luyện viên tuyển Ý Vittorio Pozzo là người duy nhất từng hai lần giành ngôi vô địch trên ghế chỉ đạo (1934 và 1938). Tất cả các huấn luyện viên trưởng giành chức vô địch World Cup đều là người xuất thân từ đất nước có đội tuyển giành danh hiệu này.
Tính đến hết World Cup 2022, Brasil đã chơi nhiều trận World Cup nhất với 114 trận, theo sau là Đức với 112 trận. Hai đội gặp nhau lần đầu tiên trong lịch sử thi đấu tại giải ở trận chung kết năm 2002. Đức góp mặt ở nhiều trận chung kết (8 lần), bán kết (13 lần), và tứ kết nhất (16 lần), trong khi Brazil tham dự nhiều vòng chung kết nhất (22 lần), thắng nhiều trận nhất (76 trận), và ghi được nhiều bàn thắng nhất (237 bàn). Hai đội đã đối đầu hai lần tại World Cup, trong trận chung kết năm 2002 và bán kết năm 2014.
Giải vô địch bóng đá thế giới gần như là sân chơi riêng cho các đội bóng Nam Mỹ và châu Âu khẳng định sự thống trị tuyệt đối trong làng túc cầu thế giới bởi vì cho đến nay thì chưa có đội bóng nào ngoài châu Âu và Nam Mỹ có vinh dự được nâng cao chiếc cúp vàng danh giá. Tuy nhiên chưa có đội bóng châu Âu nào vô địch World Cup khi giải đấu được đăng cai tại châu Á.
Top cầu thủ xuất sắc nhất
Khán giả
Trận đấu duy nhất được khán giả nhiều nhất, được hiển thị trong ba cột cuối cùng, đã được trận chung kết trong một nửa của 20 kỳ Cúp Thế giới tính đến năm 2014. Một trận đấu khác hoặc các trận đấu đã thu hút khán giả nhiều nhất so với trận chung kết vào các năm 1930, 1938, 1958, 1962, 1970–1982, 1990 và 2006.
Nguồn: FIFA
Phát sóng và quảng bá
Giải vô địch bóng đá thế giới được truyền hình trực tiếp lần đầu tiên vào năm 1954 và hiện là sự kiện thể thao được xem và theo dõi rộng rãi nhất trên thế giới. Lượng người xem tích lũy của tất cả các trận đấu của World Cup 2006 ước tính là 26,29 tỷ. 715,1 triệu người đã theo dõi trận đấu cuối cùng của giải đấu này (một phần chín của toàn bộ dân số trên hành tinh). Lễ bốc thăm World Cup 2006, quyết định phân chia các đội thành các bảng, được theo dõi bởi 300 triệu người xem. Giải vô địch bóng đá thế giới thu hút nhiều nhà tài trợ như Coca-Cola, McDonald's và Adidas. Đối với các công ty này và nhiều công ty khác, việc trở thành nhà tài trợ tác động mạnh mẽ đến các thương hiệu toàn cầu của họ. Các nước chủ nhà thường có sự gia tăng doanh thu hàng triệu đô la từ sự kiện kéo dài một tháng. Cơ quan quản lý môn thể thao này, FIFA đã tạo ra doanh thu 4,8 tỷ đô la từ giải đấu năm 2014 và 6,1 tỷ đô la từ giải đấu năm 2018.
Mỗi giải vô địch bóng đá thế giới kể từ năm 1966 đều có linh vật hoặc/và logo riêng. World Cup Willie, linh vật cho cuộc thi năm 1966, là linh vật World Cup đầu tiên. World Cup có các quả bóng thi đấu chính thức được thiết kế đặc biệt cho mỗi giải đấu. Mỗi giải vô địch bóng đá thế giới cũng có một bài hát chính thức, được trình diễn bởi các nghệ sĩ từ Shakira đến Will Smith.
Thiết lập quan hệ đối tác với FIFA vào năm 1970, Panini đã xuất bản album sticker đầu tiên cho World Cup 1970. Kể từ đó, thu thập và giao dịch nhãn dán đã trở thành một phần của trải nghiệm World Cup, đặc biệt là cho thế hệ trẻ. FIFA cũng đã cấp phép các video game World Cup từ năm 1986, với Electronic Arts, công ty giữ giấy phép hiện tại.
World Cup thậm chí còn có ảnh hưởng đáng kể về mặt thống kê đối với tỷ lệ sinh, tỷ lệ giới tính nam/nữ của trẻ sơ sinh và bệnh đau tim ở các quốc gia có các đội tuyển quốc gia đang thi đấu.
Kết quả
s.h.p.: sau hiệp phụ
PSO: sau loạt đá luân lưu
TBD: đang được xác định
Ghi chú
Đã có 80 quốc gia đã tham dự ít nhất một kỳ World Cup. Trong số này, tám đội tuyển quốc gia đã giành được World Cup, và họ đã thêm ngôi sao vào huy hiệu của họ, với mỗi ngôi sao đại diện cho một lần vô địch thế giới. (Uruguay, tuy nhiên, chọn để hiển thị bốn ngôi sao trên huy hiệu của họ, đại diện cho hai huy chương vàng của họ tại Thế vận hội Mùa hè 1924 và 1928 và hai chức vô địch thế giới của họ vào năm 1930 và 1950).
Với năm lần vô địch, Brasil là đội tuyển thành công nhất trong lịch sử World Cup và cũng là quốc gia duy nhất đã tham dự tất cả các kỳ World Cup (22 lần) cho đến nay. Brasil cũng là đội tuyển đầu tiên giành chức vô địch World Cup lần thứ ba (1970), thứ tư (1994) và thứ năm (2002). Ý (1934 và 1938) và Brasil (1958 và 1962) là 2 quốc gia duy nhất đã từng bảo vệ thành công ngôi vô địch. Tây Đức (1982–1990) và Brasil (1994–2002) là các quốc gia duy nhất xuất hiện trong ba trận chung kết World Cup liên tiếp. Đức đã vào được bán kết 13 lần, có 12 lần giành huy chương và là đội lọt vào chung kết nhiều nhất (8 lần).
Các đội đạt đến hạng tư
* = chủ nhà
^ = bao gồm kết quả đại diện Tây Đức giữa 1954 và 1990
# = các nhà nước đã tách ra thành hai hoặc nhiều quốc gia độc lập
Thành tích tốt nhất theo khu vực lục địa
Cho đến nay, các trận chung kết Cúp bóng đá thế giới chỉ được tranh tài giữa các đội tuyển từ các liên đoàn UEFA (châu Âu) và CONMEBOL (Nam Mỹ). Các quốc gia châu Âu đã giành được 12 chức vô địch, trong khi Nam Mỹ là 10 lần. Chỉ có ba đội tuyển từ bên ngoài hai châu lục này đã từng vào được đến vòng bán kết của giải đấu: Hoa Kỳ (Bắc, Trung Mỹ và Caribe) vào năm 1930, Hàn Quốc (châu Á) vào năm 2002 và Maroc (châu Phi) vào năm 2022. Chỉ có một đội từ châu Đại Dương đã từng vượt qua vòng bảng, Úc vào năm 2006, đã giành quyền vào vòng hai.
Brasil, Argentina, Tây Ban Nha và Đức là những đội tuyển duy nhất giành được World Cup tổ chức bên ngoài liên đoàn lục địa của họ; Brasil đã giành chiến thắng ở châu Âu (1958), Bắc Mỹ (1970 và 1994) và châu Á (2002), Argentina đã giành chức vô địch tại Bắc Mỹ vào năm 1986 và châu Á vào năm 2022, trong khi Tây Ban Nha đã giành được một chức vô địch tại châu Phi vào năm 2010. Đức là đội tuyển châu Âu đầu tiên vô địch World Cup tại Nam Mỹ vào năm 2014. Chỉ có năm lần liên tiếp World Cup được chinh phục bởi các đội tuyển đến từ cùng một lục địa. Ý và Brasil đã bảo vệ thành công danh hiệu của họ vào năm 1938 và 1962, trong khi đội đăng quang tiếp theo sau Ý vào năm 2006 là Tây Ban Nha vào năm 2010, Đức vào năm 2014, Pháp vào năm 2018 và Argentina vào năm 2022.
Các đội tham dự giải
Chú thích
— Vô địch
— Á quân
— Hạng ba
— Hạng tư
QF — Tứ kết (1934–1938, 1954–1970, và 1986–nay: vòng 8 đội)
R2 — Vòng 2 (1974–1978, vòng 8 đội; 1982: vòng 12 đội; 1986–nay: vòng 16 đội)
R1 — Vòng 1
q — Vượt qua vòng loại cho giải đấu sắp tới
— Vượt qua vòng loại nhưng bỏ cuộc
— Không vượt qua vòng loại
— Không tham dự / Rút lui / Bị cấm
— Chủ nhà
— Không được FIFA công nhận
Bảng xếp hạng giải đấu
<onlyinclude>Hệ thống được sử dụng ở World Cup cho đến năm 1990 là 2 điểm cho một trận thắng. Trong bảng xếp hạng này 3 điểm được thưởng cho một trận thắng, 1 điểm cho một trận hòa, và 0 điểm cho một trận thua. Theo quy ước thống kê trong bóng đá, các trận đấu được quyết định trong hiệp phụ được tính là thắng và thua, trong khi các trận đấu được quyết định bởi loạt sút luân lưu được tính là thắng và thua được tính là hòa. Các đội được xếp hạng theo tổng điểm, sau đó theo hiệu số bàn thắng bại, rồi theo số bàn thắng ghi được.
Kết quả của các nước chủ nhà
Kết quả của đương kim vô địch
Các giải thưởng
Hiện có 6 giải thưởng trao cho cá nhân hay toàn đội tuyển cho thành tích thi đấu của họ tại mỗi kỳ World Cup:
Giải Quả bóng vàng cho cầu thủ xuất sắc nhất giải, do giới truyền thông bầu chọn (được trao lần đầu vào năm 1982); Quả bóng bạc và Quả bóng đồng cho hai cầu thủ xếp thứ hai và thứ ba về số phiếu trong cuộc bầu chọn này;
Giải Chiếc giày vàng cho vua phá lưới của giải. Chiếc giày bạc và Chiếc giày đồng cho hai cầu thủ về nhì và về ba
Giải Găng tay vàng (trước đó là Giải thưởng Yashin) cho thủ môn xuất sắc nhất giải, do Hội đồng Kỹ thuật của FIFA bầu chọn (được trao lần đầu vào năm 1994);
Giải Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất cho cầu thủ xuất sắc nhất dưới 21 tuổi tính đến thời điểm giải khởi tranh, do Hội đồng Kỹ thuật của FIFA bầu chọn (được trao lần đầu vào năm 2006).
Giải FIFA Fair Play Trophy cho đội có chỉ số fair play tốt nhất, theo thang điểm do Ủy ban Fair Play FIFA quyết định (được trao lần đầu vào năm 1978);
Giải Đội tuyển lôi cuốn nhất cho đội giành được nhiều phiếu nhất do khán giả bình chọn (được trao lần đầu vào năm 1994);
Đội hình tiêu biểu được công bố lần đầu vào năm 1998.
Các đội tuyển mỗi lần vô địch World Cup đều được gắn thêm 1 ngôi sao lên biểu tượng, trừ ĐTQG Uruguay (có 4 sao nhưng có 2 lần vô địch World Cup, 2 lần vô địch bóng đá nam Olympic).
Xem thêm
Danh sách trận chung kết Giải vô địch bóng đá thế giới
Đội tuyển tham dự Giải vô địch bóng đá thế giới
Giải vô địch bóng đá U-20 thế giới
Giải vô địch bóng đá U-17 thế giới
Giải vô địch bóng đá các câu lạc bộ thế giới
Giải vô địch bóng đá nữ thế giới
Giải vô địch bóng đá bãi biển thế giới
Giải vô địch bóng đá trong nhà thế giới
Cúp Liên đoàn các châu lục
FIFA World Cup 2022
Ghi chú và tham khảo
Liên kết ngoài
Các kỳ Giải vô địch bóng đá thế giới trước đó
Giải vô địch bóng đá thế giới
Giải đấu của FIFA
Sự kiện thể thao bốn năm một lần
Sự kiện thể thao tháng 6
Sự kiện thể thao tháng 7
FIFA
|
24040
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ung%20th%C6%B0%20v%C3%BA
|
Ung thư vú
|
Ung thư vú là loại ung thư thường gặp nhất và gây tử vong hàng đầu ở phụ nữ nhiều nước công nghiệp. Theo Cơ quan Nghiên cứu Ung thư Thế giới (IARC) vào năm 1998 thì ung thư vú đứng đầu, chiếm 21% trong tổng số các loại ung thư ở phụ nữ trên toàn thế giới. Cũng theo IARC, xuất độ chuẩn hóa theo tuổi của ung thư vú ở phụ nữ là 92,04 (trên 100 000 dân) ở châu Âu và 67,48 (trên 100 000 dân) trên toàn thế giới vào năm 1998, đều là cao nhất trong các loại ung thư ở nữ giới.
Ung thư vú đang trở nên phổ biến tại các nước đang phát triển. Tại Việt Nam, năm 1998, ở nữ giới, ung thư vú là loại ung thư có tần suất cao nhất ở Hà Nội với xuất độ chuẩn hóa theo tuổi là 20,3 (trên 100 000 dân) và cao thứ hai ở Thành phố Hồ Chí Minh với xuất độ chuẩn hóa theo tuổi là 16 (trên 100 000 dân) sau ung thư cổ tử cung mà xuất độ chuẩn hóa theo tuổi là 28,6 (trên 100 000 dân).
Đây là một bệnh hết sức phức tạp mà trong nhiều năm qua đã có nhiều nghiên cứu về nguyên nhân, bệnh sinh và điều trị. Một điều quan trọng cần phải nhận thấy là việc phát hiện sớm ung thư vú qua sự tầm soát ở những phụ nữ bình thường đã làm thay đổi rõ ràng bệnh sử tự nhiên của bệnh cũng như cải thiện đáng kể tiên lượng bệnh.
Các yếu tố nguy cơ
Nguyên nhân của ung thư vú chưa được biết rõ, nhưng với những nghiên cứu dịch tễ học cùng với những hiểu biết sâu hơn về sinh học của tế bào tuyến vú đã mang lại những cơ sở mới cho bệnh này.
Theo UICC thì tỷ lệ ung thư vú ở đàn ông ít hơn 100 lần so với phụ nữ. . Còn theo thì nguy cơ tương đối của ung thư vú giữa phụ nữ và nam giới là 150. Nghĩa là ung thư vú ở nam giới ít gặp hơn nữ giới rất nhiều lần.
Dưới đây chỉ nói về những yếu tố nguy cơ ung thư vú ở phụ nữ.
Người ta nhận thấy nguy cơ bị ung thư vú tăng lên ở những bệnh nhân sau:
Ngoài ra, nguy cơ ung thư vú cũng gặp ở những nhóm người sau:
Bệnh nhân sống ở các quốc gia vùng Bắc Mỹ và Bắc Âu
Có tiền sử phơi nhiễm bức xạ ion hóa
Những phụ nữ không có con. Người ta cho rằng cho con bú kéo dài trên 6 tháng có tác dụng bảo vệ chống ung thư vú ở các phụ nữ trẻ.
Uống rượu, tiếp xúc với thuốc trừ sâu (đặc biệt là DDT).
Sinh học ung thư vú
Yếu tố gia đình từ lâu đã được công nhận là có liên quan đến ung thư vú, tuy nhiên yếu tố này chỉ quan trọng trong khoảng 10–15% các trường hợp ung thư vú. Yếu tố gia đình gợi ý có một số gene quy định tính nhạy cảm của cá thể đó với bệnh này, và những nghiên cứu về gene đã ghi nhận một vùng của nhiễm sắc thể 17 (mang gene BRCA1 và BRCA2) có liên quan đến việc xuất hiện sớm ung thư vú trong một số gia đình. Hội chứng Li-Fraumeni, với đột biến của gene p53 cũng được ghi nhận ở những bệnh nhân bị ung thư vú sớm.
Nội tiết tố sinh dục ảnh hưởng đến nguy cơ ung thư vú. Người ta nhận thấy estrogen đẩy mạnh ung thư vú ở chuột trong thí nghiệm, và trên mẫu nuôi cấy các tế bào ung thư vú thì estrogen kích thích các tế bào này tăng trưởng.
Ngày nay, người ta biết tác dụng của nội tiết tố sinh dục lên mô vú một phần là qua trung gian các yếu tố tăng trưởng. Một số yếu tố tăng trưởng đã được xác định có thể là nguyên nhân gây ra những biến đổi mô vú bình thường thành ác tính và kéo dài quá trình ung thư hóa. Ngoài ra, estrogen còn gây tăng tiết prolactin – cũng là một loại hormone gây phát triển tuyến vú.
Thụ thể của mô tuyến vú với estrogen và progesteron và một số yếu tố tăng trưởng cũng đã được nhận dạng. Trong đó thụ thể với estrogen và progesteron rất có giá trị trong việc đánh giá tiên lượng bệnh nhân, chọn lựa phương pháp điều trị.
Người ta nhận thấy có khoảng 2/3 các bệnh nhân có thụ thể với estrogen dương tính, và ½ số đó có đáp ứng khi điều trị bằng nội tiết tố ở chỗ kích thước khối bướu thu nhỏ.
Chẩn đoán ung thư vú
Các tình huống lâm sàng
Thường gặp
Đa phần ung thư vú được phát hiện là do chính người bệnh, khi họ ghi nhận thấy một sự thay đổi ở tuyến vú. Thường gặp nhất đó là một khối bướu hay một chỗ dày cứng lên không đau ở vú. Hoặc cũng có thể do thầy thuốc phát hiện qua một lần khám sức khỏe thường kỳ.
Cần phải nghi ngờ ung thư vú khi thấy bất kỳ bướu nào ở vú ở người phụ nữ trên 30 tuổi cho đến khi có triệu chứng chính xác ngược lại mặc dù khoảng 80% khối bất thường ở vú là lành tính.
Những tính chất sau của khối bướu gợi ý ác tính:
Cứng
Không đau (chiếm khoảng 85–90%)
Không đồng nhất, bờ không rõ
Dính vào thành ngực hoặc da trên vú, khó di động
Núm vú bị lõm vào
Chảy máu núm vú.
Tình huống trễ
Bệnh nhân đến khám với các triệu chứng của ung thư tiến triển hoặc đã có di căn xa:
Hạch nách hoặc hạch trên đòn dương tính
Tràn dịch màng phổi, làm bệnh nhân đau ngực, khó thở
Tràn dịch màng ngoài tim, bệnh nhân khó thở, suy hô hấp...
Gãy xương, khi ung thư đã di căn vào xương
Bụng: gan to, [báng bụng],...
Di căn lên não: khối u xuất hiện trong não làm bệnh nhân đau đầu, hôn mê; chèn ép cột sống làm bệnh nhân đau lưng, yếu liệt tay chân...
Tầm soát ung thư vú
Điều này đã được làm ở các nước phát triển và đang bắt đầu được áp dụng ở Việt Nam. Các phương pháp sau đây được áp dụng trong chương trình tầm soát ung thư vú:
Khám lâm sàng tuyến vú: Các phụ nữ trên 40 tuổi cần được khám vú mỗi năm. Cần đảm bảo cho toàn bộ tuyến vú được khám xét kể cả phần đuôi của tuyến ở gần nách. Trong quá trình khám, người bác sĩ nên hướng dẫn cách tự khám vú cho bệnh nhân. Theo UICC khám lâm sàng tuyến vú có thể chấp nhận được để thay thế nhũ ảnh ở các quốc gia không có phương tiện để thực hiện nhũ ảnh.
Tự khám vú: Ít tốn kém. Nếu được thực hiện đúng cách có thể giúp người bệnh phát hiện sớm một bướu vú, được điều trị sớm và vì vậy tiên lượng tốt hơn.
Nhũ ảnh: Là một phương pháp chụp X quang vú đặc biệt. Dùng một lượng ít tia X, để cho hình ảnh chi tiết của tuyến vú, có thể thấy những điểm vôi hóa rất nhỏ. Nhũ ảnh đóng vai trò quan trọng trong tầm soát ung thư vú. Nhiều nghiên cứu cho thấy tầm soát bằng nhũ ảnh giúp giảm tử suất của ung thư vú khoảng 30%. Vì vậy Viện Ung thư quốc gia Hoa Kỳ và Hội Ung thư Hoa Kỳ đề xuất nên chụp nhũ ảnh mỗi 1-2 năm cho những phụ nữ trên 40 tuổi.
Xét nghiệm cận lâm sàng
Chọc hút bằng kim nhỏ (FNA – Fine Needle Aspiration): dùng một kim hút nhỏ lấy một mẫu bệnh phẩm và dùng để làm xét nghiệm tế bào học. Xét nghiệm này có thể cho biết tế bào lấy ra có đặc trưng cho ung thư hay không, nhưng không thể phân biệt ung thư tại chỗ hay ung thư xâm lấn được. Âm tính giả có thể xảy ra khi thật sự là ung thư mà mũi kim không chạm bướu.
Sinh thiết: nhằm quan sát các mô và tế bào dưới kính hiển vi để tìm ra dấu hiệu ung thư. Nếu phát hiện khối u ở vú, các bác sĩ có thể lấy mẫu mô hoặc tế bào của khối u này để thực hiện xét nghiệm. Có 4 phương pháp sinh thiết, bao gồm:
Sinh thiết cắt bỏ toàn bộ khối u.
Sinh thiết một phần: lấy một mẫu của khối u hoặc mô để kiểm tra.
Sinh thiết trích mô dùng kim lớn: lấy mô bằng cách dùng kim lớn.
Sinh thiết chọc hút tế bào bằng kim nhỏ: lấy mô bằng cách dùng kim nhỏ. Sinh thiết trọn khối u được thực hiện khi chọc hút không cho chẩn đoán xác định. Tuy nhiên, ngày nay việc sinh thiết trọn khối u ít được thực hiện dần đi vì chọc hút bằng kim nhỏ ngày càng cho thấy tính chính xác cao.
Chụp nhũ ảnh
Siêu âm tuyến vú: là một xét nghiệm rẻ tiền, đơn giản. Siêu âm giúp phân biệt rõ một tổn thương dạng nang với một tổn thương dạng đặc. Ngoài ra, với siêu âm người phụ nữ không có nguy cơ nhiễm tia X, thích hợp cho phụ nữ có thai và phụ nữ trẻ.
Còn có nhiều phương tiện chẩn đoán hình ảnh khác được sử dụng trong chẩn đoán ung thư vú, nhưng ở Việt Nam ít dùng như cắt lớp điện toán CT scan, chụp cộng hưởng từ MRI,...
Những xét nghiệm giúp đánh giá đáp ứng điều trị: Tìm thụ thể với estrogen, đo nồng độ estradiol tự do trong máu,... Những xét nghiệm này ít được làm ở điều kiện Việt Nam.
Phân loại mô học
Carcinoma
Ống
Trong ống
Xâm lấn với thành phần trong ống chiếm ưu thế
Xâm lấn, không đặc hiệu
Dạng trứng cá
Dạng viêm
Dạng tủy với thâm nhiễm lympho
Dạng keo
Dạng nhú
Dạng ống dẫn
Dạng xơ cứng
Các dạng khác
Thùy
Tại chỗ
Xâm lấn với thành phần tại chỗ vượt trội
Xâm lấn
Núm vú
Bệnh Paget, không có gì đặc hiệu
Bệnh Peget với carcinoma ống
Bệnh Paget với carcinoma ống xâm lấn
Loại khác
Carcinoma không biệt hóa
Những loại bướu ít gặp và không được coi là điển hình
Sarcom nang diệp thể
Sarcom mạch máu
Lymphoma nguyên phát
Các bướu không xâm lấn
Carcinoma thùy tại chỗ: không bao giờ chẩn đoán được bằng lâm sàng, vì tổn thương ở mức vi thể. Diễn t
Xếp giai đoạn
Xếp hạng theo TNM
Theo bướu nguyên phát T (tumor)
Tx: Không thể xác định được bướu nguyên phát
T0: Không thấy bướu nguyên phát
T in situ: Carcinoma tại chỗ, carcinom atrong ống, carcinoma thùy tại chỗ, hoặc bệnh Paget núm vú không có bướu kèm theo (bệnh Paget núm vú có bướu kèm theo được xếp theo kích thước của bướu)
T1: Bướu có kích thước lớn nhất ≤ 2.0 cm
T1mc: Xâm lấn vi thể bướu có kích thước lớn nhất ≤ 0.1 cm
T1a: Bướu > 0.1 cm nhưng ≤ 0.5 cm
T1b: Bướu > 0.5 cm nhưng ≤ 1.0 cm
T1c: Bướu > 1.0 cm nhưng ≤ 2.0 cm
T2: Bướu có kích thước lớn nhất > 2.0 cm nhưng ≤ 5.0 cm
T3: Bướu có kích thước lớn nhất > 5.0 cm
T4: Bướu kích thước bất kỳ, nhưng có sự ăn lan trực tiếp vào da hoặc thành ngực
T4a: Ăn lan thành ngực
T4b: Phù nề hoặc loét da vú hoặc các nốt vệ tinh ở da vú
T4c: Có cả hai thành phần trên
T4d: Carcinoma dạng viêm
Theo hạch lympho vùng N (Nodes)
Nx: Không thể xác định các hạch vùng
N0: Không có di căn hạch vùng
N1: Di căn vào hạch lympho vùng nách, di động
N2: Di căn vào hạch lympho nách, hạch dính nhau hoặc dính vào các cấu trúc khác
N3: Di căn vào hạch lympho vú trong cùng bên
Theo di căn xa M (Metastasis)
Mx: Không thể xác định di căn xa
M0: Không có di căn xa
M1: Có di căn xa (kể cả di căn vào hạch lympho trên đòn cùng bên)
Xếp giai đoạn theo UICC 1997
Điều trị
Ung thư tại chỗ
Carcinoma ống tại chỗ: Điều trị chủ yếu là đoạn nhũ có tỷ lệ khỏi bệnh là 98-99% với 1-2% trường hợp tái phát. Điều trị bảo tồn vú đang là hướng đi mới, chỉ mổ lấy bướu cùng với xạ trị hỗ trợ cũng khá hiệu quả, với tỷ lệ tái phát là 7-13%.
Carcinoma tiểu thuỳ tại chỗ: bệnh nhân thường được theo dõi sát có thể kết hợp với hóa trị phòng ngừa (như dùng tamoxifen) và làm giảm các yếu tố nguy cơ. Phẫu thuật chỉ áp dụng cho một số ít bệnh nhân.
Ung thư giai đoạn sớm – I, II, IIIA
Phẫu thuật
Là điều trị chủ yếu. Những phẫu thuật trước đây như đoạn nhũ tận gốc (Phẫu thuật Halsted) ngày nay ít được dùng vì mức tàn phá rộng, để lại nhiều dư chứng nặng nề cho bệnh nhân. Các loại phẫu thuật ít tàn phá hơn, bảo tồn các cơ ngực lớn, bé càng ngày càng cho thấy hiệu quả trong việc điều trị tại chỗ căn bệnh.
Phẫu thuật bảo tồn vú: chỉ lấy khối bướu và mô bình thường cách rìa bướu 1–2 cm gần đây được ưa thích và áp dụng nhiều. Nhiều thử nghiệm lâm sàng cho thấy phẫu thuật bảo tồn kèm theo xạ trị cho kết quả ngang bằng với phẫu thuật đoạn nhũ riêng lẻ.
Tuy nhiên, có một số chống chỉ định của phương pháp điều trị này:
Có hai hoặc nhiều khối bướu nằm ở các góc phần tư khác nhau của vú
Bướu lan tỏa, giới hạn không rõ
Bướu to nằm trong tuyến vú nhỏ
Bướu nằm ở vị trí trung tâm của vú
Nạo hạch cũng là một phần của phẫu thuật. Nhất là nạo hạch lympho vùng nách rất cần cho đánh giá tiên lượng.
Xạ trị hỗ trợ
Xạ trị là một phần của phương pháp điều trị bảo tồn: tiến hành sau phẫu thuật cắt bướu. Xạ trị giúp giảm nguy cơ tái phát.
Xạ trị sau đoạn nhũ: giảm nguy cơ tái phát cho những bệnh nhân nguy cơ cao như bệnh nhân có nhiều hạch vùng, bệnh nhân có bướu nguyên phát to,...
Liệu pháp toàn thân
Nguy cơ di căn vi thể ở những ung thư giai đoạn sớm là có. Vì vậy, hóa trị là một biện pháp điều trị toàn thân có thể diệt các tế bào ác tính lan tràn.
Liệu pháp nội tiết
Cắt buồng trứng
Tamoxifen: là các chất ức chế thụ thể estrogen chọn lọc. Dùng cho các bệnh nhân có thụ thể với estrogen dương tính. Có tác dụng giảm nguy cơ tái phát và giảm xuất độ ung thư vú đối bên khoảng 50%.
Hóa trị hỗ trợ
Kết hợp cả hóa trị và liệu pháp nội tiết
Điều trị hỗ trợ đối với ung thư vú có hạch dương tính (di căn hạch)
Tiền mãn kinh, Thụ thể Estrogen(ER) + hoặc thụ thể Progesteron (PR) +:
Hóa trị + Tamoxifen
Cắt bỏ buồng trứng (hoặc chất tương đồng GnRH) +/- Tamoxifen
Hóa chất +/- Cắt bỏ buồng trứng (hoặc chất tương đồng GnRH) +/- Tamoxifen
Trước mãn kinh, ER - và PR -: Hóa trị
Sau mãn kinh, ER-,PR+: Hóa trị, Tamoxifen
Sau mãn kinh, ER - và PR -: Hóa trị
Người già: dùng Tamoxifen, nếu không có ER và PR thì dùng hóa trị
(ER: Thụ thể Estrogen, PR: Thụ thể Progesterone, GnRH (Gonadotropin releasing hormone): Nội tiết kích thích tiết kích dục tố)
Ung thư di căn
Mục đích chủ yếu là cải thiện chất lượng đời sống và kéo dài cuộc sống của người bệnh.
Phẫu thuật
Có chỉ định cho một số bệnh nhân. Như bệnh nhân cần đoạn nhũ khi các tổn thương sùi, loét gây đau nhức, bệnh nhân có các di căn não, phổi đơn độc, tràn dịch màng ngoài tim, màng phổi,...
Xạ trị
Vai trò chủ yếu trong điều trị tạm bợ và nâng đỡ, ví dụ như chỉ định cho các di căn xương đau nhiều, di căn hệ thần kinh trung ương không cắt bỏ được...
Liệu pháp toàn thân
Việc lựa chọn thuốc để điều trị phải cân nhắc nhiều yếu tố của bệnh nhân. Các yếu tố đó là: tuổi, bệnh nhân đã mãn kinh hay chưa, bệnh nhân có thụ thể với estrogen dương tính hay không, số lượng hạch di căn....
Liệu pháp toàn thân bao gồm:
Liệu pháp nội tiết: thường dùng cho phụ nữ mãn kinh, có thụ thể estrogen dương tính.
Các loại thuốc thường áp dụng: kháng estrogen (Tamoxifen), ức chế enzyme aromatase (Anastrozole, letrozole...), dùng các thuốc tương tự GnRH, các progestin.
Hoá trị: thường dùng cho những bệnh nhân nào mà căn bệnh vẫn tiếp tục tiến triển dù đã điều trị nội tiết, hoặc bệnh nhân có thụ thể nội tiết âm tính. Có nhiều phác đồ thường dùng như: CA, CAF, CMF...
Trastuzumab: Là kháng thể đơn dòng kháng lại thụ thể tăng trưởng biểu bì - HER2/neu
Cắt buồng trứng
Tiên lượng
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến tiên lượng của bệnh. Quan trọng nhất là giai đoạn của bệnh, càng phát hiện ở giai đoạn sớm thì tiên lượng càng tốt. Hạch di căn cũng đóng vai trò đáng kể.
Đặc tính mô học của bướu cũng được quan tâm. Tiên lượng tốt hơn với các ung thư trong nang, ung thư ống dẫn, ung thư dạng tủy, bệnh Paget không bướu.
Phòng ngừa
Ung thư vú rất đáng quan tâm vì đó là một trong những loại ung thư hàng đầu ở phụ nữ. Nhiều biện pháp đã được đề xuất để làm giảm nguy cơ mắc bệnh, một số biện pháp dưới đây rất đáng chú ý:
Dùng tamoxifen cho các carcinom tiểu thùy tại chỗ
Chế độ ăn ít béo, giảm cân
Giảm uống rượu
Tránh tiếp xúc với Chlor hữu cơ, chất phóng xạ
Nên cho con bú sữa mẹ
Thường xuyên luyện tập thể dục
Tiếp xúc nhiều với ánh nắng mặt trời
...
Tham khảo
Estrogen and the Risk of Breast Cancer - Mark Clemons, M.B., B.S., M.D., và Paul Goss, M.D., Ph.D. – NEJM
Breast cancer – Issam Makhoul, M.D. – Emedicine
Manual of Clinical Oncology – 6th – 1994 – UICC
REDUCING THE RISK OF BREAST CANCER – ROWAN T. C BOWSKI, M.D., PH.D. – NEJM
Cancer Incidence, Mortality and Prevalence in the European Union-1998
Ung thư học nội khoa – PGS Nguyễn Chấn Hùng – Nhà xuất bản Y Học Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2004 – trang 18–19
Meeting highlights: International concensus panel on the treatment of Primary Breast Cancer; Goldhirsch A et al. J Natl. Cancer Inst 1998;90:1604.
Liên kết ngoài
Phát hiện sớm ung thư vú ở phụ nữ
Những dấu hiệu bạn bị ung thư vú
Tầm soát ung thư vú
Hình ảnh học trong chẩn đoán ung thư vú
Viện ung thư quốc gia Hoa Kỳ
Hội ung thư Hoa Kỳ
Nấm lim xanh - thảo dược hỗ trợ điều trị ung thư vú
Ung thư
Phụ khoa
Biểu tượng ruy băng
Bệnh liên quan đến vú
Ung thư vú
|
24048
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20qu%E1%BA%A7n%20v%E1%BB%A3t%20%C3%9Ac%20M%E1%BB%9F%20r%E1%BB%99ng
|
Giải quần vợt Úc Mở rộng
|
Giải quần vợt Úc Mở rộng (tiếng Anh: Australian Open) là một trong 4 giải Grand Slam quần vợt trong năm. Đây là giải Grand Slam đầu tiên trong năm và diễn ra vào nửa cuối tháng 1 tại Melbourne. Giải được tổ chức bởi Tennis Australia, tổ chức thường được biết với cái tên Lawn Tennis Association of Australia (LTAA). Giống như tại Roland Garros hay Wimbledon, giải đấu này thi đấu theo thể thức 5 set thắng 3 (đối với nội dung đơn nam) và 3 set thắng 2 (đối với nội dung đơn nữ) và không có loạt tie-break (tie-breaker) ở set cuối cùng. Ngoài ra còn có các nội dung đánh đôi nam, đôi nữ, đôi nam nữ phối hợp và còn có nội dung cho các cựu danh thủ.
Lịch sử
Giải đấu này được tổ chức lần đầu tiên vào năm 1905 với cái tên là Giải Vô địch Australasia (gồm Úc và New Zealand) tại Warehouseman's Cricket Ground ở St Kilda Road, Melbourne, sau đó trở thành giải vô địch Úc vào năm 1927 và trở thành giải Úc Mở rộng vào năm 1969. Kể từ năm 1905, giải đấu này đã được tổ chức ở 6 địa điểm sau: Melbourne (46 lần), Sydney (17 lần), Adelaide (14 lần), Brisbane (8 lần), Perth (3 lần) và tại nước láng giềng New Zealand (2 lần vào các năm 1906 & 1912). Vào năm 1972, các nhà tổ chức quyết định giải đấu sẽ diễn ra chỉ ở một thành phố trong một năm và CLB Kooyong Lawn Tennis của thành phố Melbourne đã được lựa chọn để tổ chức giải đấu này.
Melbourne Park (có tên khác là Flinders Park) được xây dựng vào năm 1988, đúng thời điểm mà các nhà tổ chức đang muốn mở rộng phạm vi giải đấu và CLB Kooyong quá nhỏ để có thể đáp ứng được nhu cầu trên. Giải đấu được chuyển tới Melbourne Park và ngay lập tức đã mang lại thành công khi nó làm tăng thêm đến 90% lượng khán giả – lên đến 266.436 lượt người vào năm 1988 trong khi đó ở năm trước chỉ có 140.000 lượt người ghé thăm Kooyong.
Vì khoảng cách địa lý quá xa xôi của Australia, những giải đấu đầu tiên có rất ít các tay vợt nước ngoài tham dự. Trong thập niên 1920, để đi từ châu Âu tới Australia bằng tàu thủy phải mất 45 ngày. Những vận động viên quần vợt đầu tiên tới Úc bằng máy bay là đội tuyển Cúp Davis Hoa Kỳ vào tháng 11 năm 1946. Ngay cả đối với các tay vợt bản địa, đến tham dự giải cũng không phải là điều dễ dàng. Khi giải được tổ chức tại Perth, không có bất cứ tay vợt nào đến từ Victoria hay New South Wales đăng ký tham dự, vì nếu như vậy họ phải đi tàu hỏa hơn 3.000 km từ bờ Đông sang bờ Tây nước Úc. Hay giải tổ chức tại Christchurch, New Zealand năm 1906, chỉ có hai tay vợt Úc tham dự.
Từ năm 1969, giải Úc mở rộng cho phép tất cả các tay vợt đăng ký, kể cả các vận động viên chuyên nghiệp. Nhưng, chỉ trừ hai giải năm 1969 và 1971, còn đâu cho đến năm 1981, còn đâu hầu hết các tay vợt xuất sắc nhất thế giới đều không tham dự do tính bất hợp lý của lịch thi đấu (giải thường diễn ra đúng vào dịp Lễ Giáng sinh hay đầu năm mới), cùng với lượng tiền thưởng chưa hấp dẫn.
Giải được thi đấu trên mặt sân cỏ từ năm 1905 cho đến năm 1987. Từ năm 1988, giải chuyển sang thi đấu trên mặt sân cứng. Mats Wilander là tay vợt nam duy nhất giành được chức vô địch trên cả hai mặt sân.
Vào 2008, mặt sân Rebound Ace, sau 20 năm được sử dụng tại Melbourne Park, được thay thế bằng mặt sân acrylic tổng hợp Plexicushion.
Điểm thưởng
Điểm xếp hạng cho nam (ATP) và nữ (WTA) đã có nhiều thay đổi tại US Open thông qua nhiều năm nhưng bây giờ tay vợt nhận được các điểm như sau đây:
Danh sách các nhà vô địch
Lượng khán giả các năm gần đây
2021: 130,374
2020: 812,174
2019: 780,000
2018: 743,667
2017: 728,763
2016 – 720.363
2015 – 703.899
2014 – 643.280
2013 – 684.457
2012 – 686.006
2011 – 651.127
2010 – 653.860
2009 – 603.160
2008 - 605.735
2007 - 554.858
2006 - 550.550
2005 - 543.873
2004 - 521.691
Tiền thưởng
Năm 2009 tiền thưởng cho cả tay vợt nam và nữ là bằng nhau:
Vòng 1: 19.040 AU$
Vòng 2: 31.000 AU$
Vòng 3: 50.000 AU$
Vòng 4: 88.000 AU$
Tứ kết: 182.250 AU$
Bán kết: 365.000 AU$
Á quân: 1.000.000 AU$
Vô địch: 2.000.000 AU$
Thống kê kỉ lục
Liên kết ngoài
Trang chủ giải quần vợt Úc Mở rộng
Ghi chú
Liên kết ngoài
Giải quần vợt Úc Mở rộng
Uc Mở rộng
Melbourne
Thể thao Úc
Thể thao Melbourne
Giải quần vợt ở Úc
Giải quần vợt sân cứng
|
24055
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20v%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20th%E1%BA%BF%20gi%E1%BB%9Bi%201930
|
Giải vô địch bóng đá thế giới 1930
|
Giải bóng đá vô địch thế giới 1930 là giải bóng đá vô địch thế giới đầu tiên (tên chính thức là 1930 Football World Cup - Uruguay / 1er Campeonato Mundial de Football) và được tổ chức từ 13 tháng 7 đến 30 tháng 7 năm 1930 ở Uruguay. Đây là kỳ World Cup duy nhất mà tất cả các trận đấu được tổ chức ở cùng một thành phố là Montevideo, Thủ đô nước Cộng hòa Đông Uruguay.
Uruguay được chọn làm nơi đăng cai kỳ World Cup 1930 là vì đội tuyển Uruguay đã xuất sắc giành huy chương vàng ở bộ môn bóng đá tại hai kỳ Thế vận hội liên tiếp vào các năm 1924 và 1928, và năm 1930 là năm kỷ niệm 100 năm ngày Uruguay giành được độc lập. Nhưng việc giải đấu diễn ra ở vùng Nam Mỹ khiến cho hầu hết các đội tuyển châu Âu đều không muốn đi gửi đội tham dự giải bởi hành trình bằng tàu thủy quá tốn kém và dài trong bối cảnh Đại khủng hoảng. Điều này đã khiến hai tháng trước khi khai mạc giải, vẫn chưa có đội tuyển nào của châu Âu đăng ký tham dự. Bằng nỗ lực vận động tích cực của ông Jules Rimet, Chủ tịch FIFA ở lúc đó và cũng là người sáng lập ra giải đấu, bốn đội tuyển châu Âu là Pháp, Bỉ, Romania và Nam Tư cuối cùng chấp nhận tham gia. 4 đội bóng này đã cùng lên chuyến tàu Conte Verde khởi hành ngày 21 tháng 6 năm 1930 tại vùng lãnh thổ Villefranche-Sur-Mer, Pháp; tàu dừng lại Rio de Janeiro ngày 29 tháng 6 để giải đón nhận thêm đội bóng Brasil trước khi cập bến ở Montevideo vào ngày 4 tháng 7. Đây cũng là kỳ giải World Cup duy nhất không hề có vòng loại và trận tranh hạng ba, năm 1986 thì FIFA căn cứ hiệu số bàn thắng nên công nhận đội Hoa Kỳ giành hạng 3.
Argentina, Uruguay, Hoa Kỳ và Nam Tư giành chiến thắng trong các bảng để lọt vào vòng bán kết. Trong trận chung kết, chủ nhà Uruguay cũng như là đội được yêu thích trước giải đấu đã xuất sắc đánh bại đội tuyển Argentina 4–2 trước 68.346 khán giả để chính thức trở thành đội tuyển đầu tiên vô địch World Cup.
Các sân vận động
Các đội tham dự
FIFA - cơ quan quản lý bóng đá thế giới, đã thảo luận về việc thành lập một giải đấu dành cho các đội tuyển quốc gia trong vài năm trước năm 1930. Tổ chức này đã thay mặt Ủy ban Olympic Quốc tế quản lý bộ phận bóng đá của Thế vận hội Mùa hè từ đầu thế kỷ 20 và sự thành công của cuộc thi tại Thế vận hội Mùa hè 1924 và 1928 đã dẫn đến việc thành lập Giải vô địch bóng đá thế giới . Tại đại hội FIFA lần thứ 17 ở Amsterdam vào tháng 5 năm 1928, giải đấu do chủ tịch Jules Rimet đề xuất và được ban tổ chức chấp nhận, phó chủ tịch FIFA Henri Delaunay tuyên bố: "Bóng đá quốc tế không còn được tổ chức trong giới hạn của Thế vận hội".
World Cup đầu tiên là kỳ duy nhất không có vòng loại. Mọi quốc gia liên kết với FIFA đều được mời tham gia thi đấu và có hạn chót là ngày 28 tháng 2 năm 1930 để chấp nhận. Cuộc thi ban đầu được lên kế hoạch là một giải đấu loại trực tiếp 16 đội với khả năng có vòng loại nếu thừa đội tham dự. Tuy nhiên, số đội không đủ 16 nên không có vòng loại. Rất nhiều sự quan tâm đã được thể hiện bởi các quốc gia ở châu Mỹ: Argentina, Brazil, Bolivia, Chile, Mexico, Paraguay, Peru và Hoa Kỳ, tất cả đều tham dự. Tổng cộng có bảy đội Nam Mỹ tham gia, nhiều hơn bất kỳ vòng chung kết World Cup nào sau đó, và có hai đội Bắc Mỹ tham dự. Tuy nhiên, do chuyến đi dài, tốn kém bằng tàu vượt qua Đại Tây Dương và thời gian dài vắng mặt của các cầu thủ, rất ít đội châu Âu muốn tham gia do cuộc khủng hoảng kinh tế đang diễn ra. Một số đội từ chối cho phép đi đến Nam Mỹ trong bất kỳ trường hợp nào, và không có đội châu Âu nào đăng ký tham gia trước thời hạn. Trong một nỗ lực để đạt được sự tham gia của một số đội châu Âu, Hiệp hội bóng đá Uruguay đã gửi thư mời tới Hiệp hội bóng đá Anh, mặc dù Vương quốc Anh (Anh, Bắc Ireland, Scotland và Wales) đã rút khỏi FIFA vào thời điểm đó. Ủy ban FA đã từ chối lời mời vào ngày 18 tháng 11 năm 1929. Hai đội đến từ châu Á - Nhật Bản và Xiêm La (Thái Lan ngày nay) rút lui. Trong khi Ai Cập - đội châu Phi duy nhất tham gia, đã rút lui do một cơn bão ở Địa Trung Hải, và họ bị lỡ chuyến tàu đi đến Uruguay.
Hai tháng trước khi bắt đầu giải đấu, không có đội nào từ châu Âu chính thức tham gia. Chủ tịch FIFA Rimet đã can thiệp và bốn đội châu Âu cuối cùng đã thực hiện chuyến đi bằng đường biển: Bỉ, Pháp, Romania và Nam Tư. Đội Romania, được huấn luyện bởi Constantin Rădulescu cùng đội trưởng Rudolf Wetzer và Octav Luchide, đã tham gia cuộc thi sau sự can thiệp của Vua Carol II mới lên ngôi. Nhà vua đã đích thân chọn cầu thủ và thương lượng với các nhà tuyển dụng để đảm bảo rằng các cầu thủ vẫn có việc làm khi họ trở về. Người Pháp tham dự bằng lời mời của chủ tịch FIFA Rimet, nhưng cả hậu vệ ngôi sao của Pháp Manuel Anatol và huấn luyện viên thường xuyên của đội Gaston Barreau đều không thể bị thuyết phục để thực hiện chuyến đi. Người Bỉ tham gia theo lời mời của phó chủ tịch FIFA người Bỉ gốc Đức Rodolphe Seeldrayers.
Đội Romania lên tàu SS Conte Verde tại Genoa, Ý. Đội Pháp và Nam Tư được đón tại Villefranche-sur-Mer, Pháp, vào ngày 21 tháng 6 năm 1930, và đón đội Bỉ tại Barcelona , Tây Ban Nha. Conte Verde mang theo Rimet, chiếc cúp và ba trọng tài châu Âu được chỉ định: hai trọng tài người Bỉ John Langenus và Henri Christophe, cùng với Thomas Balvay, một trọng tài người Pháp. Đội Brazil đã được đón khi thuyền cập cảng Rio de Janeiro vào ngày 29 tháng 6 trước khi đến Uruguay vào ngày 4 tháng 7. Quả bóng chính thức được sử dụng cho giải đấu là T-Model.
Danh sách các đội được mời
16 đội sau ban đầu đủ điều kiện tham dự giải đấu cuối cùng. Tuy nhiên, chỉ có 13 đội đã tham gia do sự rút lui của Ai Cập, Nhật Bản và Xiêm La.
Trọng tài
Sau đây là danh sách các trọng tài được chỉ định cho giải đấu. Các trọng tài in nghiêng chỉ được chỉ định làm trọng tài biên trong suốt giải đấu.
Châu Âu
Thomas Balvay
Henri Christophe
Jan Langenus
Costel Rădulescu
Bắc Mỹ
Gaspar Vallejo
Nam Mỹ
Gualberto Alonso
Martin Aphesteguy
Domingo Lombardi
José Macías
Francisco Mateucci
Almeida Rêgo
Ulises Saucedo
Anibal Tejada
Ricardo Vallarino
Alberto Warnken
Vòng bảng
Bảng A
Bảng B
Bảng C
Bảng D
Vòng đấu loại trực tiếp
Bán kết
Chung kết
Vô địch
Cầu thủ ghi bàn
8 bàn
Guillermo Stábile
5 bàn
Pedro Cea
4 bàn
Guillermo Subiabre
Bert Patenaude
3 bàn
Carlos Peucelle
Preguinho
Peregrino Anselmo
Ivan Bek
2 bàn
Luis Monti
Adolfo Zumelzú
Moderato
André Maschinot
Manuel Rosas
Héctor Castro
Pablo Dorado
Santos Iriarte
Bart McGhee
1 bàn
Mario Evaristo
Alejandro Scopelli
Francisco Varallo
Carlos Vidal
Marcel Langiller
Lucien Laurent
Juan Carreño
Roberto Gayón
Luis Vargas Peña
Luis Souza Ferreira
Ştefan Barbu
Adalbert Deşu
Constantin Stanciu
Jim Brown
Héctor Scarone
Blagoje Marjanović
Branislav Sekulić
Aleksandar Tirnanić
Đorđe Vujadinović
Phản lưới nhà
Manuel Rosas (trận gặp )
Danh hiệu
Vô địch : Uruguay
Á quân : Argentina
Hạng 3 : Mỹ (công nhận 1986)
Cầu thủ hay nhất : Jose Nasazzi Yarza (Uruguay)
Vua phá lưới : Guillermo Stábille (Argentina)
Găng tay vàng : Enrique Ballestrero (Uruguay)
Bảng xếp hạng giải đấu thế giới năm 1930 theo FIFA năm 1986
Tham khảo
Liên kết ngoài
FIFA World Cup Uruguay ™ 1930 , FIFA.com
Bóng đá năm 1930
1930
|
24057
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/A-d%E1%BB%A5c%20v%C6%B0%C6%A1ng
|
A-dục vương
|
Ashoka Đại Đế (br. 𑀅𑀲𑁄𑀓 sa. aśoka, pi. asoka, zh. 阿育王, hv. A Dục) là vị vua thứ ba của vương triều Ma-gát-đa (sa. maurya, zh. 孔雀, hv. Khổng Tước) thời Ấn Độ xưa, trị vì Ấn Độ từ năm 273 đến 232 trước CN. Là một trong những hoàng đế kiệt xuất trong lịch sử Ấn Độ, Ashoka đã toàn thắng trong loạt các cuộc chinh phạt và cai trị phần lớn vùng Nam Á, từ Afghanistan cho đến Bengal hiện nay và đi sâu đến miền Nam tận Mysore. Là một vị vua ủng hộ Phật giáo, nhưng khi mới lên ngôi, ông được mệnh danh là A Dục vương bạo ác, ông lập ra những khung hình phạt tàn ác giống như các cảnh mô tả trong địa ngục để hành hình tội nhân, và ông đặt tên cho các ngục ấy là địa ngục trần gian. Về sau ông hối hận, Quy y Tam Bảo và đã lập nhiều bia đá ghi lại những thánh tích trong cuộc đời Phật Thích-ca Mâu-ni. Theo truyền thống Phật giáo, tên tuổi của ông gắn liền với việc truyền bá Phật giáo.
Vào khoảng năm 260 TCN Ashoka tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược nhà nước Kalinga (ngày nay là Odisha). Ông đã chinh phục Kalinga, điều mà tiên đế của ông là Chandragupta Maurya chưa bao giờ làm được. Ông xây dựng trung tâm cơ quan quyền lực của đế chế Maurya ở Magadha (nay là Bihar). Ông trở nên đề cao Phật giáo sau khi chứng kiến nhiều chết chóc trong chiến tranh Kalinga, mà bản thân ông đã thực hiện do khát vọng mở rộng đế quốc của mình. "Ashoka suy ngẫm về trận chiến ở Kalinga, cuộc chiến mà người ta ngẫm rằng đã làm hơn 100.000 người chết và 150.000 người khác bị trục xuất." Ashoka đã quy y Tam bảo vào khoảng 263 TCN. Sau đó ông đã hoằng dương giáo pháp nhà Phật ra khắp châu Á, và thiết lập các di tích đánh dấu nhiều địa danh quan trọng trong cuộc đời truyền pháp của Phật tổ Thích-ca Mâu-ni.
Tên ông cũng được gọi theo dịch tiếng Hán Việt khác là A-du-ca (zh. 阿輸迦), A-du-già (阿輸伽), A-thứ-già (阿恕伽), A-thú-khả (阿戍笴), A-thúc (阿儵), hoặc dịch nghĩa là Vô Ưu (無憂), hoặc như ông tự khắc trên những cột trụ nổi danh được lưu đến ngày nay là Thiên Ái Hỉ Kiến (zh. 天愛喜見, sa. devānaṃpriya priyadarśi), nghĩa là "người được chư thiên thương, người nhìn sự vật với tấm lòng hoan hỉ". Ông là vị quân vương đầu tiên của nước Ấn Độ xưa (sa. bhāratavarṣa) đã thống nhất được một lãnh thổ vĩ đại, lớn hơn ngay cả Ấn Độ ngày nay.
Tài liệu nguồn lịch sử
Các thông tin lịch sử về cuộc đời và thời gian cai trị của vua A-dục có nguồn từ một số tài liệu Phật giáo tương đối nhỏ. Đặc biệt là tác phẩm tiếng Phạn A-dục vương truyện (sa. aśokāvadāna) và hai bộ sử của Tích Lan là Đảo sử (zh. 島史, pi. dīpavaṃsa) và Đại sử (zh. 大史, pi. mahāvaṃsa) cung cấp hầu như tất cả những thông tin ngày nay có được. Những thông tin đi sâu hơn được các bản khắc văn của chính vua A-dục cung cấp (xem A-dục vương khắc văn), sau khi tác giả của những khắc văn này là Thiên Ái Hỉ Kiến được xác nhận là A-dục vương trong các văn bản Phật giáo, là tên khác của A-dục Khổng Tước (pi. asoka mauriya)
Việc dùng tài liệu Phật giáo để tu phục lại cuộc đời của vua A-dục đã gây ảnh hưởng lớn đến cách nhận thức A-dục hiện nay cũng như cách diễn giảng các văn bản khắc trên trụ và vách đá của ông. Lập cơ sở trên những tài liệu này, các nhà nghiên cứu trước đây cho rằng, ông chủ yếu là một quân vương Phật giáo, trải qua một cuộc chuyển hóa tâm thức, đến với Phật giáo và sau đó chủ động hỗ trợ Phật giáo và Tăng-già.
Các nhà nghiên cứu gần đây đặt câu hỏi về những sự kiện trên, bởi vì những nguồn tài liệu ngoài truyền thống Phật giáo, chính các bản khắc văn của A-dục ít nói đến những điểm giáo lý, triết học Phật giáo, mặc dù khái niệm "Đạt-ma" (zh. 達磨, sa. dharma, pi.dhamma) được nhắc rất nhiều lần. Một vài học giả diễn giảng là đây chính là dấu hiệu của việc A-dục muốn lập một tôn giáo quần chúng có tính cách bao gồm, đa tôn giáo cho quân vương của mình (Romila Thapar); và tôn giáo quần chúng này đặt cơ sở trên khái niệm Đạt-ma như một năng lực luân lý, nhưng không ủng hộ hoặc đề cao bất cứ một triết lý có thể gán vào những trào lưu tôn giáo triều vua A-dục (ví như Kì-na giáo, Bà-la-môn giáo hoặc Sinh kế giáo, sa. ājīvika).
Tuy nhiên, như A.W.P. Guruge cho thấy bằng nhiều ví dụ từ kinh tạng Pali, thuyết tôn giáo quần chúng bên trên không có lập trường vững chắc. Trong mọi trường hợp, tất cả các học giả hiện này đều nhất trí là A-dục đã trị nước với một tấm lòng nhân ái, khoan dung đối với tất cả những trào lưu tôn giáo thời đó.
Cái tên A-dục, hay Ashoka có nghĩa là "không đau khổ" trong tiếng Sanskrit. Trong các sắc lệnh ông tự xưng là
Devaanaampriya hay là "Người được thần linh phù hộ".
H.G. Wells viết về vua A-dục:
Truyền thuyết về ông được lưu lại trong Ashokavadana ("Chuyện kể về A-dục vương") trong thế kỷ thứ II và Divyavadana ("Chuyện kể linh thiêng").Ashoka là vị hoàng tử thứ hai của vua Bindusara và của Vương triều Maurya
Thời niên thiếu
Theo như truyền thống Phật giáo, miêu tả trong "Truyền thuyết về A-dục vương" vào thế kỷ thứ II, sự ra đời của A-dục được tiên tri bởi Phật Thích-ca Mâu-ni, trong câu chuyện "Quà của Đất":
{{cquote|
Một trăm năm sau khi ta qua đời có một hoàng đế tên là A-dục tại xứ Pataliputra. Ông sẽ thống trị một trong bốn lục địa và trang trí Diêm phù đề (Jambudvīpa) với tro xương của ta và xây tám mươi bốn ngàn phù đồ để đem lại công đức cho chúng sinh. Ông sẽ cho các nơi đó được kính trọng bởi thần linh cũng như con người. Tiếng tăm của ông sẽ lan đi khắp nơi. Món quà cúng dường của ông chỉ đơn giản thế này: Nhạ Da (Jaya) ném một nắm đất vào chén của Như Lai (Tathāgata). Ashokavadana
}}
Theo sau lời tiên tri này, "Truyền thuyết về A-dục vương" còn nói thêm rằng A-dục cuối cùng được hạ sinh như là hoàng tử của Hoàng đế Bindusara xứ Maurya bởi một thứ phi tên là Dharma. Dharma được kể là con của một Brahmin (Bà la môn) nghèo. Ông dâng con gái vào cung vua vì có lời tiên đoán rằng con trai (của Dharma) sẽ là một hoàng đế vĩ đại. Mặc dù Dharma có dòng dõi tăng lữ, sự kiện cô không phải là hoàng tộc đã làm cô có một vị trí thấp trong cung cấm.
A-dục có một số người anh cùng cha khác mẹ lớn tuổi hơn và một người em trai, Vitthashoka, con trai thứ của Dharma. Các hoàng tử cạnh tranh lẫn nhau hết sức gay gắt, nhưng A-dục trẻ tuổi xuất sắc cả trong quân sự lẫn các môn học được dạy dỗ. Có một sự đối đầu gay gắt, đặc biệt là giữa A-dục và người anh Susima.
Thời kì nắm quyền lực
Trưởng thành như một vị tướng bất khả chiến bại và một người cầm quân khôn ngoan, A-dục tiếp tục chỉ huy một vài quân đoàn của quân đội Maurya. Uy tín anh trong vương quốc tăng dần khiến các người anh lớn lo sợ anh sẽ được phụ hoàng Bindusara chọn làm người kế vị. Người lớn tuổi nhất, Hoàng tử Susima, theo truyền thống sẽ là người nối ngôi, thuyết phục phụ hoàng gửi A-dục dẹp quân nổi loạn ở thành phố Takshashila trong một tỉnh phía tây bắc của Sindh, mà Hoàng tử Susima là thống đốc. Takshashila là một nơi bất ổn bởi dân số Ấn-Hy Lạp hiếu chiến và sự điều hành kém cỏi của bản thân Susima. Điều này đã tạo nên sự thành lập của các sứ quân khác nhau tạo ra nổi loạn. Ashoka tuân lệnh và lên đường đền vùng có biến. Khi tin tức về A-dục đem quân tiến đánh lan đến, anh được chào đón bởi các sứ quân và cuộc nổi loạn kết thúc mà không cần một trận đánh nào. (Tỉnh này nổi loạn một lần nữa dưới triều A-dục vương, nhưng lần này cuộc nổi dậy bị dập tắt với một bàn tay sắt).
Sự thành công của A-dục làm các người anh cùng cha khác mẹ thêm lo lắng là anh muốn lên ngôi, và nhiều lời sàm tấu từ Susima khiến Bindusara gửi A-dục đi đày. Anh đi vào vùng Kalinga và mai danh ẩn tích. Nơi đó anh gặp một cô gái đánh cá tên là Kaurwaki, họ yêu nhau; các bản khắc đá tìm ra gần đây cho thấy cô ta trở thành hoàng hậu thứ hai hay thứ ba của anh.
Trong khi đó, lại có một cuộc nổi loạn ở vùng Ujjain. Hoàng đế Bindusara triệu tập A-dục về sau hai năm đi đày. A-dục tiến về Ujjain và bị thương trong trận chiến sau đó, nhưng các tướng của anh đã dập tắt cuộc nổi loạn. A-dục được chữa trị ở một nơi bí mật để các tay chân của Susima không thể làm hại. Anh được chữa trị bởi các nhà sư Phật giáo. Chính nơi này là nơi anh lần đầu tiên biết được những lời dạy của Phật Thích-ca Mâu-ni, và cũng là nơi anh gặp nàng Devi xinh đẹp, là y tá riêng là cũng là con gái của một thương gia từ vùng Vidisha lân cận. Sau khi bình phục, anh cưới cô ta. A-dục, vào thời điểm đó, đã lập gia đình với Asandhimitra người là vương phi chính của ông trong nhiều năm cho đến khi bà mất. Bà có vẻ như là đã sống ở Pataliputra cả cuộc đời.
Năm sau trôi qua một cách bình yên và Devi chuẩn bị hạ sinh đứa con đầu lòng của ông. Vào thời gian đó, Hoàng đế Bindusara lâm bệnh và hấp hối. Một nhóm các đại thần dẫn đầu bởi Radhagupta, người chán ghét Susima, đã mời A-dục về để nối ngôi, mặc dù Bindusara ưa thích Susima hơn. Theo như truyền thuyết, trong một cơn giận Hoàng tử A-dục tấn công Pataliputra (Patna ngày nay), và giết chết tất cả các người anh cùng cha khác mẹ, kể cả Susima, và ném xác của họ vào một cái giếng ở Pataliputra. Không biết là vua cha Bindusara đã qua đời hay chưa vào lúc đó. Vào giai đoạn đó của cuộc đời ông, nhiều người gọi ông là Chanda Ashoka nghĩa là kẻ giết người bất nhân Ashoka. Truyền thuyết Phật giáo đã vẽ lên một bức tranh đẫm máu bạo lực về các hành động của ông vào thời gian đó. Đa số là không đáng tin cậy, và nên được đọc như là các yếu tố làm nền để làm nổi bật lên sự chuyển hóa trong A-dục vương mà Phật giáo đem lại sau này.
Sau khi lên ngôi, Ashoka mở rộng đế chế trong tám năm sau đó: đất nước mở rộng để bao gồm một vùng trải từ biện giới ngày nay của Bangladesh và bang Assam của Ấn Độ, ở phía đông, đến các vùng đất ngày nay là Iran và Afghanistan, ở phía tây, và từ Nút thắt Pamir ở phía bắc đến tận mũi của bán đảo của vùng phía nam Ấn Độ. Vào thời điểm đó của cuộc đời ông, ông được gọi là Chakravarti mà theo nghĩa đen là "Chuyển luân vương" (nghĩa rộng là hoàng đế). Vào khoảng thời gian đó, hoàng hậu Phật giáo Devi đã hạ sinh hai người con, Hoàng tử Mahindra và Công chúa Sanghamitra.
Chinh phục Kalinga
Phần đầu của triều đại của vua A-dục rõ ràng là khá đẫm máu. A-dục liên tục tổ chức các chiến dịch, chinh phạt hết vùng đất này đến vùng đất khác và mở rộng đáng kể đế chế Maurya đã khá rộng lớn và tích trữ thêm của cải. Cuộc chinh phạt cuối cùng là bang Kalinga nằm trên bờ biển phía đông Ấn Độ trong vùng ngày nay là Orissa. Kalinga tự hào với chủ quyền và nền dân chủ; với nền dân chủ kết hợp vua - nghị viện, khá là đặc biệt trong xứ Bharata cổ đại, vì nơi đó đã tồn tại khái niệm Rajdharma, nghĩa là nghĩa vụ của người cầm quyền, được đan xen đến mức như là bản chất của khái niệm về sự dũng cảm và Kshatriya dharma.
Nguyên nhân khởi đầu cuộc chiến tranh Kalinga (265 TCN hoặc 263 TCN) là không rõ ràng. Một trong những người anh của vua A-dục - và có lẽ là người ủng hộ Susima - có lẽ là bỏ chạy về phía Kalinga và chính thức lánh nạn ở nơi đó. Điều này đã làm A-dục nổi giận. Ông được khuyên bởi các quan đại thần nên tấn công Kalinga cho hành động phản bội đó. A-dục sau đó đã yêu cầu hoàng gia Kalinga đầu hàng. Khi họ coi thường tối hậu thư đó, A-dục gửi một trong các tướng lĩnh của mình đến Kalinga để buộc họ đầu hàng.
Tuy nhiên, vị tướng và các quân lính của ông ta đã bị đánh bật ra thông qua những chiến thuật tài tình của tổng tư lệnh xứ Kalinga. Vua A-dục, nổi đóa bởi sự thất bại này, đã tấn công với cuộc xâm lăng lớn nhất trong lịch sử Ấn Độ đã ghi lại cho đến lúc đó. Kalinga đã chống cự mãnh liệt, nhưng họ không phải là đối thủ của quân lực hùng hậu của A-dục với các vũ khí mạnh hơn cùng các tướng sĩ nhiều kinh nghiệm hơn. Toàn bộ Kalinga bị cưỡng đoạt và tiêu diệt: các khuyến dụ của A-dục này nói rằng khoảng 100.000 người thiệt mạng phía Kalinga và 10.000 từ quân đội của A-dục; hàng ngàn người bị trục xuất.
Quy y Tam bảo
Theo như truyền thuyết, một ngày sau khi cuộc chiến kết thúc vua A-dục cưỡi ngựa dạo quanh phía đông thành phố và tất cả những gì mà ông có thể thấy là những căn nhà cháy rụi và những xác người rải rác khắp nơi. Cảnh tượng này làm ông cảm thấy khó ở và ông thốt lên câu nói nổi tiếng, "Ta đã làm gì thế này? ". Sự tàn bạo của cuộc chinh phạt đã làm ông chuyển hóa sang Phật giáo và sử dụng vị trí của mình để truyền bá triết lý tương đối mới này lên đỉnh cao, đến mức như là La Mã cổ đại và Ai Cập.
Cũng theo truyền thuyết, cũng có một yếu tố khác đã dẫn dắt vua A-dục đến Phật giáo. Một công chúa Maurya - vợ của một trong những người anh trai của A-dục (đã bị ông xử tử) chạy trốn khỏi dinh thự với một tỳ nữ, lo sợ cho đứa con chưa ra đời. Trải qua một hành trình dài, công chúa đang mang thai ngã gục dưới một gốc cây trong rừng, và người tỳ nữ chạy đến ngôi đền gần đó để nhờ một thầy tu hay thầy thuốc đến giúp. Trong khi đó, dưới gốc cây, công chúa hạ sinh một người con trai. Hoàng tử trẻ tuổi được nuôi nấng và dạy dỗ bởi những Brahmin trong ngôi đền. Sau này, khi cậu khoảng mười ba tuổi, cậu tình cờ gặp A-dục, ông ngạc nhiên khi thấy một cậu bé nhỏ tuổi như vậy ăn mặc như một nhà hiền triết. Khi cậu bé bình thản tiết lộ thân thế của mình, có vẻ như là A-dục xúc động vì hối hận và lòng thương cảm, và cho dời cậu bé và mẹ cậu về lại hoàng cung.
Trong khi đó Hoàng phi Kavi, một người theo Phật giáo, và nuôi dạy các con theo tín ngưỡng đó, và rõ ràng là đã rời bỏ A-dục sau khi bà chứng kiến những việc tàn bạo xảy ra tại Kalinga. Vua A-dục đau khổ vì điều này, và được khuyên bởi người cháu của mình (người lớn lên trong đền thờ và mang tính thầy tu nhiều hơn là hoàng tử) quy thuận theo đạo pháp (dharma) và tránh xa chiến tranh. Hoàng tử Mahindra và công chúa Sanghamitra, con của Hoàng hậu Devi, chán ghét bạo lực và cảnh đổ máu, nhưng biết rằng chiến tranh trong hoàng gia sẽ là một phần của cuộc đời họ. Do đó họ xin phép A-dục gia nhập với các nhà sư Phật giáo, mà A-dục miễn cưỡng chấp nhận. Hai người này đã thiết lập Phật giáo ở Ceylon (bây giờ là Tích Lan).
Từ thời điểm đó vua A-dục, người đã từng được miêu tả như là "A-dục ác vương" (Chandashoka), bắt đầu được mô tả như là "A-dục sùng đạo" (Dharmashoka). Ông cho lan truyền trường phái Vibhajjvada của Phật giáo và thuyết pháp giáo lý trong vương quốc của mình cũng như ra khắp thế giới từ khoảng 250 TCN. A-dục vương do vậy được khẳng định là người có những cố gắng nghiêm túc đầu tiên để phát triển một chính sách Phật giáo.
Qua đời và di sản
Vua Ashoka trị vì xấp xỉ trong bốn mươi năm, và sau khi ông qua đời, triều đại
Maurya chỉ tồn tại thêm được năm mươi năm nữa. Ông có nhiều vợ và con, nhưng tên tuổi của phần lớn trong số họ đã bị quên lãng cùng năm tháng.
Mahindra (Ma-hi-đà) và Sanghamitta (Tăng-già-mật-đa) là 2 người con nổi tiếng nhất của ông, ngày nay vẫn còn được nhớ đến. Họ là cặp song sinh hạ sinh bởi người vợ thứ nhất của ông là Devi ở thành phố Ujjain. Ông đã cho họ xuất gia theo đạo Phật, và 2 người này đã góp công truyền đạo Phật đến khắp thế giới. Mahindra và Sanghamitra đã đi đến Sri Lanka và truyền đạo cho vua, hoàng hậu và người dân xứ đó theo đạo Phật. Mahindra có lẽ cũng là chủ tọa của Đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ tư tại Sri Lanka. Còn Tỳ-kheo-ni Sanghamitta (Tăng-già-mật-đa) thì đã mang theo 1 nhánh cây chiết từ Cội Bồ-đề (Phật Thích Ca đã ngồi dưới gốc cây bồ đề đó vào đêm ngài đạt tới giác ngộ) đem đến trồng ở Anuradhapura, sau này nhánh cây phát triển thành một cây to và người dân Sri Lanka gọi đây là "Cây Bồ Đề Vĩ Đại Cát Tường". Cho tới nay, trải qua gần 2.300 năm, Cây Bồ Đề Vĩ Đại vẫn sống tươi tốt và được người Sri Lanka coi là quốc bảo. Rất nhiều nhánh từ cây này đã được chiết để gửi đi trồng ở chùa chiền khắp nơi trên thế giới. Ngày nay vào ngày rằm tháng 11 âm lịch, Phật tử khắp nơi trong đảo quốc Sri Lanka vẫn hành lễ tưởng niệm công lao của Ma-hi-đà và Tăng-già-mật-đa
Trong những năm tháng tuổi già, ông có vẻ chịu sự thao túng của người vợ trẻ nhất tên là Tishyaraksha. Người ta kể rằng bà ta đã làm cho hoàng tử Kunala, quan nhiếp chính ở Takshashila, bị mù bởi những âm mưu xảo trá.
Kanula được tha tội tử hình và trở thành một người hát rong đi cùng với
người vợ yêu của ông ta là Kanchanmala. Ở thành phố Pataliputra, vua Ashoka nghe lời hát của Kunala, và nhận ra rằng sự bất hạnh của Kunala có thể là sự trừng phạt của những tội lỗi trong quá khứ của nhà vua và kết tội chết Tishyaraksha, phục hồi Kunala về lại triều đình. Kunala được kế vị bởi con ông ta, Samprati. Nhưng triều đình của ông không kéo dài sau khi Ashoka qua đời.
Quốc huy của Ấn Độ là bản sao của cột đá Ashoka. Triều đại Maurya của vua Ashoka thể dễ dàng biến mất vào lịch sử với nhiều năm tháng trôi qua và có lẽ sẽ như vậy, nếu như ông đã không để lại chứng cứ về những thành công của ông. Những bằng chứng về vị vua khôn ngoan này đã được khám phá dưới dạng những cột đá được chạm khắc lộng lẫy và những tảng đá khắc những tranh vẽ và những lời răn dạy. Những gì Ashoka để lại là ngôn ngữ viết đầu tiên ở Ấn Độ kể từ thành phố cổ đại Harappa. Không hẳn là Sanskrit, ngôn ngữ dùng trong các bản khắc đá là dạng ngôn ngữ nói thời đó gọi là Prakrit.
Vào năm 185 TCN, khoảng năm mươi năm sau khi vua Ashoka qua đời, vị vua cuối cùng của Maurya, Brhadrata, bị giết hại một cách tàn bạo bởi tổng tư lệnh của quân đội Maurya, Pusyamitra Sunga, trong khi vua đang duyệt hàng quân danh dự. Pusyamitra Sunga thiết lập triều đại Sunga (185 TCN-78 TCN) và cai trị chỉ một phần của Đế chế Maurya. Đa phần lãnh thổ phía tây bắc của Đế chế Maurya (ngày nay là Iran, Afghanistan và Pakistan) trở thành Vương quốc Ấn-Hy Lạp ().
Khi Ấn Độ giành lại được độc lập từ Đế quốc Anh nước này đã mô phỏng quốc huy của Ashoka thành quốc huy chính thức, đặt Dharmachakra (Bánh xe của các Nghĩa vụ Chính nghĩa) trên nhiều cột đá trên lá cờ của quốc gia vừa giành được độc lập.
Năm 1992, vua Ashoka được xếp thứ 53 trong Danh sách những nhân vật có ảnh hưởng lớn nhất trong lịch sử của Michael H. Hart. Năm 2001, phim Ashoka - một bộ phim (có phần hư cấu) về cuộc đời của Ashoka được sản xuất.
Vương quốc Phật giáo
A-dục vương trong thời nay
Trong nghệ thuật và điện ảnh
Ashoka đại đế (phim truyền hình)
Asoka
Trong Văn học
Asoka and the Decline of the Maurya của Romila Thapar.
Early India and Pakistan: to Ashoka (1970) của Brigadier Sir Robert Eric Mortimer Wheeler.
Asoka the Great của Monisha Mukundan.
Asokan Sites and Artefacts, a Source-book with Bibliography. Harry Falk, Verlag Philipp von Zabern, Mainz 2006 ISBN 978-3-8053-3712-0.
The Legend of King Asoka (1948) của John S. Strong.
Ashoka the Great (1995) của D. C. Ahir.
Ashoka text and glossary (1924) của Alfred C. Woolner.
Asoka: The Buddhist Emperor of India của Vincent A. Smith.
Discovery of the Exact Site of Asoka's Classic Capital of Pataliputra (1892) của L. A. Waddell.
Asoka Maurya (1966) của B. G. Gokhale.
The Legend of King Asoka (1989) của John S. Strong.
Asoka (1923) của D.R. Bhandarkar.
Ashoka, The Great của B. K. Chaturvedi.
Asoka của Mookerji Radhakumud.
King Aśoka and Buddhism Historical And Literaray Studies của Anuradha Seneviratna.
To Uphold the World: The Message of Ashoka and Kautilya for the 21st Century (2008) của Bruce Rich.
Asoka and His Inscriptions của Beni Madhab Barua.
Asoka's Edicts (1956) của A. C. Sen.
Nguồn
Swearer, Donald. Buddhism and Society in Southeast Asia (Chambersburg, Pennsylvania: Anima Books, 1981) ISBN 0-89012-023-4
Thapar, Romila. Aśoka and the decline of the Mauryas (Delhi: Oxford: Oxford University Press, 1997, 1998 printing, c1961) ISBN 0-19-564445-X
Nilakanta Sastri, K. A. Age of the Nandas and Mauryas (Delhi: Motilal Banarsidass, [1967] c1952) ISBN 0-89684-167-7
Bongard-Levin, G. M. Mauryan India (Stosius Inc/Advent Books Division tháng 5 năm 1986) ISBN 0-86590-826-5
Govind Gokhale, Balkrishna. Asoka Maurya (Irvington Pub tháng 6 năm 1966) ISBN 0-8290-1735-6
Chand Chauhan, Gian. Origin and Growth of Feudalism in Early India: From the Mauryas to AD 650 (Munshiram Manoharlal tháng 1 năm 2004) ISBN 81-215-1028-7
Keay, John. India: A History (Grove Press; 1 Grove Pr edition 10 tháng 5 năm 2001) ISBN 0-8021-3797-0
Falk, Harry. Asokan Sites and Artefacts - A Source-book with Bibliography (Mainz: Philipp von Zabern, [2006]) ISBN 978-3-8053-3712-0
Bongard-Levin, G. M. Mauryan India (Stosius Inc/Advent Books Division May 1986) ISBN 0-86590-826-5
Chauhan, Gian Chand (2004). Origin and Growth of Feudalism in Early India: From the Mauryas to AD 650. Munshiram Manoharlal, Delhi. ISBN 978-81-215-1028-8
Falk, Harry. Asokan Sites and Artefacts – A Source-book with Bibliography (Mainz: Philipp von Zabern, [2006]) ISBN 978-3-8053-3712-0
Gokhale, Balkrishna Govind (1996). Asoka Maurya (Twayne Publishers) ISBN 978-0-8290-1735-9
Hultzsch, Eugene (1914). The Date of Asoka, The Journal of the Royal Asiatic Society of Great Britain and Ireland (Oct. 1914), pp. 943–951. Article stable URL.
Keay, John. India: A History (Grove Press; 1 Grove Pr edition ngày 10 tháng 5 năm 2001) ISBN 0-8021-3797-0
Sastri, K. A. Nilakanta (1967). Age of the Nandas and Mauryas. Reprint: 1996, Motilal Banarsidass, Delhi. ISBN 978-81-208-0466-1
Singh, Upinder (2012). "Governing the State and the Self: Political Philosophy and Practice in the Edicts of Aśoka," South Asian Studies, 28:2 (University of Delhi: 2012), pp. 131–145. Article stable URL.
Swearer, Donald. Buddhism and Society in Southeast Asia (Chambersburg, Pennsylvania: Anima Books, 1981) ISBN 0-89012-023-4
Thapar, Romila. (1973). Aśoka and the decline of the Mauryas. 2nd Edition. Oxford University Press, Reprint, 1980. SBN 19-660379 6.
von Hinüber, Oskar. (2010). "Did Hellenistic Kings Send Letters to Aśoka?" Journal of the American Oriental Society, 130:2 (Freiburg: 2010), pp. 261–266.
MacPhail, James Merry: "Asoka", Calcutta: The Associative Press; Luân Đôn: Oxford University Press 1918 PDF (5.9 MB)
Tham khảo
A-dục vương kinh (zh. 阿育王經, Taishō No. 2043)
A-dục vương truyện (zh. 阿育王傳, Taishō No. 2042)
The Biographical Scripture of King Aśoka, transl. Li Rongxi. Berkeley: Numata Buddhist Research Center, 1993.
Bongard-Levin, G. M. Mauryan India (Stosius Inc/Advent Books Division May 1986) ISBN 0-86590-826-5
Chauhan, Gian Chand (2004). Origin and Growth of Feudalism in Early India: From the Mauryas to AD 650. Munshiram Manoharlal, Delhi. ISBN 978-81-215-1028-8
Falk, Harry. Asokan Sites and Artefacts – A Source-book with Bibliography (Mainz: Philipp von Zabern, [2006]) ISBN 978-3-8053-3712-0
Gokhale, Balkrishna Govind (1996). Asoka Maurya (Twayne Publishers) ISBN 978-0-8290-1735-9
Hultzsch, Eugene (1914). The Date of Asoka, The Journal of the Royal Asiatic Society of Great Britain and Ireland (Oct. 1914), pp. 943–951. Article stable URL.
Keay, John. India: A History (Grove Press; 1 Grove Pr edition ngày 10 tháng 5 năm 2001) ISBN 0-8021-3797-0
Sastri, K. A. Nilakanta (1967). Age of the Nandas and Mauryas. Reprint: 1996, Motilal Banarsidass, Delhi. ISBN 978-81-208-0466-1
Singh, Upinder (2012). "Governing the State and the Self: Political Philosophy and Practice in the Edicts of Aśoka," South Asian Studies, 28:2 (University of Delhi: 2012), pp. 131–145. Article stable URL.
Swearer, Donald. Buddhism and Society in Southeast Asia (Chambersburg, Pennsylvania: Anima Books, 1981) ISBN 0-89012-023-4
Thapar, Romila. (1973). Aśoka and the decline of the Mauryas. 2nd Edition.'' Oxford University Press, Reprint, 1980. SBN 19-660379 6.
von Hinüber, Oskar. (2010). "Did Hellenistic Kings Send Letters to Aśoka?" Journal of the American Oriental Society, 130:2 (Freiburg: 2010), pp. 261–266.
MacPhail, James Merry: "Asoka", Calcutta: The Associative Press; Luân Đôn: Oxford University Press 1918 PDF (5.9 MB)
Chú giải
Xem thêm
Trụ đá Ashoka
Phật giáo
Chandragupta Maurya
Bindusara Maurya
Chiến tranh Kalinga
Ma-kiệt-đà
Nhà Maurya
Liên kết ngoài
Tín đồ Phật giáo Ấn Độ
Ấn Độ giáo
Nhà Maurya
Lịch sử Pakistan
Bài cơ bản dài
Mất thập niên 230 TCN
Năm 232 TCN
Năm 304 TCN
Mất năm 232 TCN
Sinh năm 304 TCN
Lịch sử cổ đại Pakistan
Lịch sử cổ đại Afghanistan
Người ăn chay
|
24063
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%ACnh%20c%E1%BA%A7u%20d%E1%BA%B9t
|
Hình cầu dẹt
|
Hình cầu dẹt, hay phỏng cầu tròn xoay là một hình không gian được tạo ra, khi một hình elip phẳng xoay quanh trục ngắn của nó. Đây là một trường hợp đặc biệt của hình ellipsoid.
Reference ellipsoid, một trong nhiều định nghĩa của hình Trái Đất là một điển hình của hình cầu dẹt. Bán kính cực, , nhỏ hơn bán kính xích đạo, , khoảng 21 km. Hình này là hậu quả của lực li tâm trong chuyển động xoay của Trái Đất quanh trục sinh ra.
Hình cầu dẹt trong Hệ tọa độ Descartes, với tâm ở gốc tọa độ, sinh ra từ một elip chính tắc trên mặt phẳng Oxz có phương trình:
Thứ nhất và thứ hai Hình cầu dẹt,
(nơi là góc tâm sai.)
Diện tích bề mặt
Diện tích mặt của hình cầu dẹt là một trường hợp suy biến của mặt ellipsoid, được tính bởi công thức sau:
trong đó
(dạng dẹt), hoặc (dạng dài) là góc modular, hay độ lệch tâm góc
và , là các tích phân elip chưa hoàn thành bậc nhất và bậc hai.
Xem thêm
Spheroid
Ellipsoid
Mặt tròn xoay
Tham khảo
Hình học
Thuật ngữ thiên văn học
Hình học không gian
Hình thể hình học
Trắc địa
Cơ học thiên thể
Lượng giác
|
24071
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%89%20l%E1%BB%87%20thu%E1%BA%ADn
|
Tỉ lệ thuận
|
Tỉ lệ thuận là mối tương quan giữa hai đại lượng x và y theo một hằng số k mà trong đó sự gia tăng về giá trị của đại lượng thứ nhất bao nhiêu lần luôn kéo theo sự gia tăng tương ứng về giá trị của đại lượng thứ hai bấy nhiêu lần, và ngược lại.
Trong toán học, đồ thị biểu diễn 2 đại lượng có mối tương quan "tỉ lệ thuận" là một đường thẳng đi qua gốc tọa độ và có độ dốc (góc nghiêng) dương, đó là đồ thị của hàm số dạng với k là 1 hằng số khác 0.
Định nghĩa
Nếu một đại lượng y tỉ lệ với một đại lượng x theo công thức: (k hằng số khác 0) thì ta nói y tỉ lệ thuận với x theo hệ số tỉ lệ k.
Cũng có thể viết "y tỉ lệ thuận với x" như sau:: hoặc
Tính chất
Nếu hai đại lượng x và y tỉ lệ thuận:
Tỉ số hai giá trị tương ứng của chúng luôn không đổi.
Tỉ số hai giá trị bất kỳ của đại lượng này bằng tỉ số hai giá trị tương ứng của đại lượng kia.
Một quan hệ tỉ lệ thuận còn có thể coi là một hàm số bậc nhất mà đường thẳng đồ thị đi qua gốc tọa độ và hệ số góc là k. Quan hệ này có liên quan tới sự tăng trưởng tuyến tính.
Một số ví dụ
Nếu một vật di chuyển với tốc độ không đổi, thì quãng đường đã đi tỉ lệ thuận với thời gian đi, với hệ số tỉ lệ chính là tốc độ.
Chu vi của 1 đường tròn tỉ lệ thuận với đường kính của nó, với hệ số tỉ lệ là π.
Trên một bản đồ địa lý trên phạm vi nhỏ vẽ theo đúng tỉ lệ xích, khoảng cách giữa hai điểm bất kì trên bản đồ tỉ lệ thuận với khoảng cách theo đường chim bay giữa hai địa điểm chúng biểu diễn trên thực tế. Hệ số tỉ lệ ở đây chính là tỉ lệ bản đồ.
Theo định luật Hooke, lực đàn hồi do lò xo tác dụng vào một vật gắn vào nó tỉ lệ thuận với độ biến dạng của lò xo (là độ dài của lò xo đã giãn ra hoặc nén lại). Hệ số tỉ lệ gọi là độ cứng của lò xo.
Đạo hàm của hàm số mũ với cơ số tự nhiên tỉ lệ thuận với chính giá trị của hàm số tại , trong đó hệ số tỉ lệ là : .
Xem thêm
Tỉ lệ nghịch
Đồng biến
Hệ số tương quan
Tỷ lệ vàng
Tham khảo
Số học
Thuật ngữ toán học
|
24072
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%89%20l%E1%BB%87%20ngh%E1%BB%8Bch
|
Tỉ lệ nghịch
|
Tỉ lệ nghịch là mối tương quan giữa hai đại lượng, mà nếu tăng đại lượng này bao nhiêu lần thì đại lượng kia giảm bấy nhiêu lần. Nói khác đi là: Nếu "a" là đại lượng thứ nhất, thì đại lượng tỉ lệ nghịch với "a" là "nghịch đảo - có hệ số - của a" (), và "k" là một hằng số dương bất kì. Có công thức:
Trong toán học thì đồ thị biểu diễn mối tương quan "tỉ lệ nghịch" giữa hai đại lượng là hai cánh cung nằm ở hai góc vuông I và III của hệ quy chiếu Ox, Oy. Hai cánh cung này được gọi là đường cong hyperbol.
Định nghĩa
Hai đại lượng tỉ lệ nghịch x và y liên hệ với nhau bởi công thức hay (với a là một số khác 0) thì ta nói y tỉ lệ nghịch với x theo hệ số tỉ lệ a.
Tính chất
Nếu hai đại lượng x và y tỉ lệ nghịch với nhau thì :
Tích hai giá trị tương ứng của chúng luôn không đổi; còn gọi là hệ số tỉ lệ a.
Tỉ số hai giá trị bất kỳ của đại lượng này bằng nghịch đảo tỉ số hai giá trị tương ứng của đại lượng kia: nếu thì .
Xem thêm
Tỉ lệ thuận
Tham khảo
Số học
en:Proportionality (mathematics)#Inverse proportionality
|
24076
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BB%87nh%20vi%C3%AAm%20n%C3%A3o%20th%E1%BB%83%20b%E1%BB%8Dt%20bi%E1%BB%83n%20%E1%BB%9F%20b%C3%B2
|
Bệnh viêm não thể bọt biển ở bò
|
Bệnh viêm não thể bọt biển ở bò (tiếng Anh là bovine spongiform encephalopathy, viết tắt BSE), thông thường được gọi là bệnh bò điên, bệnh do một protein nhiễm độc prion gây ra làm suy thoái hệ thần kinh và gây chết ở gia súc, với cơ chế lây nhiễm gây sốc các nhà sinh vật học khi nó được khám phá vào cuối thế kỷ 20 và có vẻ như có thể lây nhiễm cho người. Mặc dù số gia súc bị giết không đáng kể so với các bệnh truyền nhiễm gia súc khủng khiếp khác như bệnh lở mồm long móng và rinderpest, bệnh bò điên đã thu hút sự chú ý rộng rãi vì người ta cho rằng bệnh này có thể lây qua người, tuy nhiên chưa chứng minh được là bệnh này có liên hệ với các dạng bệnh Creutzfeldt-Jakob là một loại bệnh viêm não ở người.
Chú thích
Tham khảo
Thần kinh học
Bệnh não thể bọt biển có thể truyền nhiễm
Bệnh do dùng thực phẩm nhiễm trùng
Bò điên
Chi Bò
Ngộ độc thực phẩm
Thảm họa y tế
|
24079
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Plasmid
|
Plasmid
|
Plasmid (phát âm IPA: /plæs mɪd/, tiếng Việt: plasmit) là phân tử DNA vòng, nhỏ, không mang hệ gen chính của bộ gen.
Ở mỗi tế bào vi khuẩn thường có rất nhiều plasmid, nhưng chỉ định vị ngoài vùng nhân, còn vùng nhân chứa DNA-nhiễm sắc thể (hình 1).
Ở sinh vật có nhân thực (eukaryote), plasmid cũng khá phổ biến, chẳng hạn:
ty thể của người có DNA vòng, gốc từ plasmid vi khuẩn, phục vụ hô hấp ty thể;
lục lạp của cây xanh chứa hệ gen gốc là plasmid phục vụ quang hợp;
đa bào bậc thấp như nấm men Saccharomyces cerevisiae có plasmid với đường kính tới 2 micrômet.
Kích thước plasmid thay đổi tuỳ loại, dao động trong khoảng một vài kbp đến hơn 400 kpb (kilobase pairs). Số lượng plasmid cũng rất thay đổi tuỳ loại và tuỳ tế bào chứa nó, thường có một vài cho tới vài trăm bản sao trong cùng một tế bào.
Tuy plasmid là DNA vòng, nhưng chúng thường tồn tại ở dạng DNA siêu xoắn (hình 2).
Tính kháng kháng sinh
Plasmid thường chứa các gene hay nhóm gene (gene-cassettes) mang lại một ưu thế chọn lọc nào đó cho tế bào vi khuẩn chứa nó, ví dụ như khả năng giúp vi khuẩn kháng kháng sinh. Mỗi plasmid chứa ít nhất một trình tự DNA có vai trò vị trí bắt đầu sao chép (ori hay origin of replication), mang lại cho plasmid khả năng tự sao chép độc lập với DNA nhiễm sắc thể (hình 3).
Episomes
Thuật ngữ episome lần đầu xuất hiện do François Jacob và Élie Wollman đề câp đến vào năm 1958, để chỉ vật liệu di truyền ngoài nhiễm sắc thể có thể sao chép tự động hoặc tích hợp vào nhiễm sắc thể. Tuy nhiên, kể từ khi thuật ngữ này ra đời, việc sử dụng nó đã thay đổi, vì plasmid đã trở thành thuật ngữ ưa thích để chỉ DNA ngoại nhiễm sắc thể sao chép tự động. Tại một hội nghị chuyên đề năm 1968 ở London, một số người tham gia đề nghị bỏ thuật ngữ episome, mặc dù những người khác vẫn tiếp tục sử dụng thuật ngữ này với sự thay đổi về nghĩa.
Episomes là những plasmid có khả năng gắn xen vào DNA nhiễm sắc thể của sinh vật chủ (Hình 3). Nhờ khả năng này, chúng có thể tồn tại trong một thời gian dài, được sao chép cùng lúc với DNA nhiễm sắc thể khi tế bào phân chia, và trở thành một phần trong bộ máy di truyền của tế bào. Thuật ngữ này không còn được dùng cho plasmid, vì giờ đây người ta đã biết trình tự tương đồng (homology) với nhiễm sắc thể trên plasmid, như transposon, biến plasmid thành episome (giúp plasmid gắn xen vào nhiễm sắc thể).
Vectors
Các plasmid nhân tạo có thể được sử dụng làm vector trong kỹ thuật di truyền. Các plasmid này đóng vai trò là công cụ quan trọng trong phòng thí nghiệm di truyền học và công nghệ sinh học, nơi chúng thường được sử dụng để sao chép và khuếch đại (tạo nhiều bản sao) hoặc biểu hiện các gen cụ thể. Nhiều loại plasmid có sẵn cho những mục đích sử dụng như vậy. Gen được sao chép thường được chèn vào một plasmid thường chứa một số tính năng để sử dụng. Chúng bao gồm một gen quy định khả năng kháng các loại kháng sinh cụ thể (ampicillin thường được sử dụng nhất cho các chủng vi khuẩn), một nguồn gốc sao chép để cho phép các tế bào vi khuẩn sao chép DNA plasmid và một vị trí thích hợp để nhân bản. (gọi là nơi nhân bản).
Các loại plasmid
Một cách để phân nhóm các plasmid là dựa vào khả năng truyền sang vi khuẩn khác của chúng
Plasmid tiếp hợp (conjugative) chứa các tra-genes, giúp thực hiện một quá trình phức tạp gọi là tiếp hợp (conjugation), chuyển một plasmid sang vi khuẩn khác (hình 5).
Plasmid không tiếp hợp là những plasmid không có khả năng tự thực hiện tiếp hợp, vì thế chúng chỉ có thể được chuyển sang một vi khuẩn khác khi có sự trợ giúp (ngẫu nhiên) của plasmid tiếp hợp.
Còn có một nhóm plasmid trung gian gọi là nhóm di chuyển được (mobilisable). Chúng chỉ mang các gene cần thiết cho việc di chuyển. Những plasmid này có thể chuyển với tần suất cao khi có mặt một plasmid tiếp hợp.
Nhiều loại plasmid khác nhau có thể cùng tồn tại trong một tế bào, đã có 7 plasmid khác nhau được tìm thấy trong E. coli. Mặt khác, những plasmid có họ hàng thường không thể cùng tồn tại - không tương hợp (incompatible), một trong số chúng sẽ bị loại khỏi tế bào. Vì thế, các plasmid còn được xếp vào các nhóm không tương hợp (incompatibility group), dựa vào khả năng cùng tồn tại của chúng trong một tế bào. Sự sắp xếp theo tính không tương hợp dựa vào cơ chế điều hòa những chức năng thiết yếu của plasmid.
Một cách khác để phân loại plasmid là dựa vào chức năng. Có 5 nhóm chính:
Plasmid giới tính (Fertility-(F) plasmid), mang các tra gene, có khả năng tiếp hợp.
Plasmid mang tính kháng (Resistance-(R) plasmid), mang các gene có khả năng kháng lại các thuốc kháng sinh hay các chất độc. Được biết dưới thuật ngữ R-factor trước khi phát hiện ra bản chất của nó là plasmid.
Col-plasmid, chứa gene mã hóa cho sự tổng hợp colchicine, một protein có thể giết chết các vi khuẩn khác.
Plasmid phân hủy, giúp phân hủy các chất lạ như toluene hay salicylic acid.
Plasmid mang độc tính, làm cho sinh vật trở thành sinh vật gây bệnh.
Một plasmid có thể thuộc một hoặc nhiều nhóm chức năng kể trên.
Những plasmid chỉ hiện diện với một hoặc một số ít bản sao trong vi khuẩn, khi tế bào vi khuẩn phân chia, sẽ có nguy cơ bị dồn về một trong hai tế bào con và tế bào con còn lại không còn bản sao nào của plasmid này. Để tránh bị mất đi sau phân bào, những plasmid một bản sao có các cơ chế để chủ động phân phối mỗi bản sao về một tế bào con.
Một số plasmid khác lại có cơ chế gây nghiện. Những plasmid này sản xuất ra một loại độc chất có thời gian phân hủy dài và một chất kháng độc có thời gian phân hủy ngắn. Những tế bào con nào còn giữ được một bản sao của plasmid sẽ sống sót, trong khi những tế bào con mất plasmid sẽ chết hoặc giảm sức sống do độc chất vẫn còn trong tế bào mà khả năng tạo chất kháng độc (nằm trên plasmid) đã không còn. Đây là một ví dụ về plasmid như là phân tử DNA ích kỉ (selfish DNA).
Các ứng dụng của plasmid
Plasmid đóng một vai trò quan trọng trong các phòng thí nghiệm di truyền và sinh hóa, nơi chúng được sử dụng để nhân bản hoặc biểu hiện các gene cần quan tâm. Có rất nhiều plasmid được thương mại hóa cho các ứng dụng trên. Đầu tiên, các gene cần quan tâm được gắn chèn vào plasmid. Plasmid này có chứa, ngoài gene quan tâm, một hay vài gene kháng kháng sinh. Plasmid này sau đó được đưa vào bên trong vi khuẩn bằng một quá trình gọi là biến nạp (transformation). Vi khuẩn sau đó được nuôi trên môi trường có chứa kháng sinh. Những vi khuẩn nhận được plasmid sẽ biểu hiện khả năng kháng kháng sinh (nhờ gene kháng kháng sinh nằm trên plasmid), do đó sống được trên môi trường nuôi cấy có chứa kháng sinh tương ứng. Kháng sinh trong môi trường, tuy nhiên, lại có khả năng tiêu diệt những vi khuẩn không nhận được plasmid vì chúng không mang gene kháng kháng sinh này. Nhờ vậy, vi khuẩn chứa plasmid được tách riêng ra, tăng sinh, thu lại và ly giải để phân lập plasmid.
Một ứng dụng quan trọng khác của plasmid là tạo ra protein với số lượng lớn. Trong trường hợp này, vi khuẩn chứa plasmid mang gene mong muốn cũng được nuôi cấy và chúng sẽ được kích hoạt để sản xuất ra số lượng lớn protein từ gene mong muốn nằm trên plasmid. Đây là một phương pháp đơn giản và rẻ tiền để tạo ra một lượng lớn plasmid hoặc protein, như insulin hay cả các kháng sinh.
Plasmid - yếu tố di truyền ngoài thể nhiễm sắc ở vi khuẩn
Ở vi khuẩn và một số nấm men, ngoài các gen nằm trong genophore còn có các yếu tố di truyền ngoài thể nhiễm sắc, gọi là plasmid.
Plasmid là những phân tử DNA mạch kép dạng vòng nằm ngoài thể nhiễm sắc, có kích thước rất nhỏ, có khả năng tự nhân lên độc lập với tế bào và được phân sang các tế bào con khi nhân lên cùng với tế bào.
Số lượng plasmid trong tế bào phụ thuộc vào các yếu tố như nhiệt độ, chất kháng sinh, các chất dinh dưỡng …
Các plasmid có thể ở trạng thái cài vào thể nhiễm sắc, có khả năng tiếp hợp hoặc không, có thể có một hoặc nhiều bản sao cùng loại trong một tế bào.
Các plasmid không phải là cấu tạo bắt buộc của tế bào nhưng sự có mặt của plasmid đem lại cho tế bào nhiều đặc tính quý như có thêm khả năng phân giải một số hợp chất, chống chịu với điều kiện nhiệt độ bất lợi, chống chịu với các chất kháng sinh…
Trong công nghệ sinh học, người ta sử dụng plasmid làm vectơ để chuyển ghép gen từ tế bào cho sang tế bào nhận, từ đó nhân dòng tạo ngân hàng genophore hoặc cho gen biểu hiện thu sản phẩm protein có hoạt tính sinh học.
Cấu hình
Khi chạy điện di (electrophoresis), DNA plasmid có thể xuất diện dưới 5 dạng cấu hình như sau:
"Siêu xoắn" (Supercoiled) (hay "Dạng vòng đóng bằng liên kết hóa trị"): DNA còn nguyên vẹn với cả hai mạch đều không bị cắt đứt.
"Vòng tháo xoắn" (Relaxed Circular): DNA vẫn còn nguyên với hai mạch đều không bị cắt, nhưng plasmid đã được enzyme tháo xoắn.
"Siêu xoắn biến tính" (Supercoiled Denatured): đây không phải là một dạng tự nhiên trong cơ thể. Nó thường hiện diện với số lượng nhỏ khi bị ly giải quá độ với kiềm, cả hai mạch đều không bị cắt nhưng bắt cặp bổ sung không chính xác, tạo nên cấu hình plasmid rất chặt.
"Vòng mở" (Nicked Open-circular): có một mạch bị cắt.
"Mạch thẳng" (Linear): hai mạch bị cắt ở cùng một vị trí.
Độ linh động điện di tương đối của các loại cấu hình này trên gel như sau:
Vòng mở (chậm nhất)
Mạch thẳng
Siêu xoắn
Siêu xoắn biến tính
Vòng tháo xoắn (nhanh nhất)
Xem thêm
Thể thực khuẩn
DNA tái tổ hợp
Gen nhảy
Tham khảo
Đọc thêm
Tác phẩm tổng hợp
Episomes
Liên kết ngoài
Hiệp hội sinh học plasmid quốc tế và các yếu tố di động khác
Công nghệ sinh học là gì
Lịch sử của Plasmid với dòng thời gian
Sinh học
Sinh học phân tử
|
24080
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%A3i%20n%E1%BA%A1p
|
Tải nạp
|
Tải nạp (tiếng Anh: transduction) là quá trình ADN ngoại lai được đưa vào tế bào thông qua vectơ thường là vi-rút.. Đây là một thuật ngữ trong sinh học phân tử và di truyền học vi khuẩn. Trong tiếng Anh, "transduction" dùng để chỉ một đoạn hoặc cả phân tử ADN của tế bào cho chuyển sang tế bào nhận thông qua trung gian. Kết thúc quá trình tải nạp, tế bào nhận sẽ có một đoạn ADN mới gọi là ADN ngoại lai và hiện tượng tái tổ hợp không tương đồng sẽ xảy ra bên trọng tế bào.
Một ví dụ của quá trình tải nạp là sự vận chuyển ADN từ vi khuẩn này sang vi khuẩn khác thông qua vi-rút. Đây cũng là một ví dụ của hiện tượng chuyển gen ngang. Quá trình tải nạp không yêu cầu tiếp xúc vật lý giữa tế bào cho ADN và tế bào nhận ADN như trong quá trình tiếp hợp. Đồng thời, không như biến nạp, quá trình này không bị ảnh hưởng bởi ADNse - enzym phân hủy ADN. Tải nạp là một công cụ phổ biến được các nhà sinh học phân tử sử dụng để đưa một gen ngoại lai vào bộ gen của tế bào chủ (bao gồm cả tế bào vi khuẩn và tế bào động vật có vú) một cách ổn định. Ngoài ra, các nhà sinh học phân tử còn ứng dụng quá trình này nhằm thay đổi cấu trúc di truyền của vi khuẩn để xác định vị trí gen và cho nhiều thí nghiệm di truyền khác.
Lịch sử
Năm 1952, Norton Zinder và Joshua Lederberg từ Đại học Wisconsin-Madison đã khám phá ra hiện tượng tải nạp ở vi khuẩn Salmonella.
Trong chu trình tan và tiềm tan
Quá trình tải nạp xảy ra thông qua chu trình tan hoặc tiềm tan. Trong chu trình tan, khi thể thực khuẩn (vi-rút lây nhiễm vi khuẩn hay bacteriophage hoặc phage) lây nhiễm tế bào vi khuẩn, các thể này sẽ bắt đầu khai thác bộ máy sao chép, phiên mã, và dịch mã của tế bào vi khuẩn chủ để tạo ra các hạt vi rút mới gọi là virion. Các hạt thể thực khuẩn mới sau đó được giải phóng bằng cách ly giải vật chủ. Trong chu trình tiềm tan, nhiễm sắc thể của phage được tích hợp vào nhiễm sắc thể của vi khuẩn, và ADN của phage lúc này sẽ được gọi là prophage. Khi ở dạng này, ADN của phage có thể không hoạt động trong thời gian dài. Nếu prophage được kích thích (ví dụ như bằng tia cực tím), bộ gen của phage sẽ được cắt bỏ khỏi nhiễm sắc thể của vi khuẩn. Sau đó, chu kỳ tan sẽ bắt đầu và dẫn đến sự phân giải của tế bào và giải phóng các virion. Quá trình tải nạp chung cỏ thể xảy ra ở cả hai chu trình, trong khi quá trình tải nạp đặc hiệu chỉ xảy ra khi prophage bị cắt trong chu trình tiềm tan.
Phương pháp vận chuyển thông tin di truyền
Tải nạp vi khuẩn nhờ thể thực khuẩn
Quá trình đóng gói ADN của thực khuẩn thể vào vỏ bọc có độ chính xác thấp. Một số đoạn ADN của vi khuẩn chủ cũng bị đóng gói vào vỏ thực khuẩn thể thay vì bộ gene của nó. Những ARN virus không có khả năng đóng gói ADN nên thường không tạo ra nhầm lẫn trên. Khi ly giải tế bào, những virion bị đóng gói nhầm chứa ADN vi khuẩn có thể được đưa vào một vi khuẩn khác, và như vậy ADN vi khuẩn từ tế bào này đã vô tình được vận chuyển sang tế bào khác. Đoạn ADN này có thể trở thành một phần của nhiễm sắc thể trong tế bào mới, và từ đó được di truyền lại một cách ổn định. Có hai cách mà quá trình này có thể dẫn đến tải nạp.
Tải nạp chung
Tải nạp chung xảy ra khi các đoạn ADN vi khuẩn ngẫu nhiên được đóng gói thành một thể thực khuẩn, và bất kỳ gen nào của tế bào chủ có thể tham gia vào quá trình này. Quá trình này xảy ra khi một phage đang ở trong chu trình tan, cụ thể là tại thời điểm ADN của vi-rút được đóng gói vào trong các đầu của phage. Nếu vi-rút sử dụng cơ chế "đóng gói đầu" (tiếng Anh: headful packaging), vi-rút đó sẽ cố gắng lấp đầy phần đầu bằng các bộ gen. Cụ thể hơn, nếu phần đầu vẫn còn chỗ trống sau khi bộ gen của vi-rút đã được đóng gói xong, các cơ chế đóng gói vi-rút có thể vận chuyển bộ gen của vi khuẩn chủ vào trong phần đầu nhằm lấp đầy bộ phận này. Ngoài ra, quá trình tải nạp chung có thể xảy ra thông qua hiện tượng tái tổ hợp di truyền. Tải nạp chung là một sự quá trình hiếm gặp và xác xuất thành công là 1/11,000 phage.
Các virion chứa một phần ADN của vi khuẩn sau đó có thể truyền sang tế bào vi khuẩn khác khi vi-rút bắt đầu chu trình lây nhiễm mới. Khi ADN của vi khuẩn được đóng gói trong vi-rút được đưa vào tế bào nhận, ba điều có thể xảy ra:
ADN được tái chế nhằm thay thế các bộ gen trong tế bào nhận.
Nếu ADN ban đầu là một plasmid, thì ADN sẽ trở lại thành dạng vòng bên trong tế bào mới.
Nếu ADN khớp với có đoạn tương đồng với vùng trên nhiễm sắc thể của tế bào nhận, thì sẽ trao đổi vật chất ADN tương tự như các hoạt động tái tổ hợp di truyền của vi khuẩn.
Tải nạp đặc hiệu
Tải nạp đặc hiệu là quá trình mà theo đó một gen cụ thể của vi khuẩn được chuyển sang một loại vi khuẩn khác. Những gen nằm liền kề với prophage được chuyển do sai sót trong quá trình cắt bỏ. Sau đó, ADN vi khuẩn đã cắt bỏ cùng với ADN của virus được đóng gói thành một hạt vi-rút mới, hạt này sau đó được vận chuyển đến một vi khuẩn mới khi phage bắt đầu chu trình lây nhiễm. Ở tế bào mới, tùy thuộc vào bản chất của thể thực khuẩn mà các gen từ tế bào cho có thể được tích hợp vào nhiễm sắc thể của tế bào nhận hoặc tồn tại trong tế bào chất. Một ví dụ về quá trình tải nạp đặc hiệu xuất hiện thể thực khuẩn λ của Escherichia coli.
Tải nạp ngang
Tải nạp ngang là quá trình chuyển các đoạn ADN rất dài của vi khuẩn sang vi khuẩn khác. Cho đến nay, hình thức tải nạp này chỉ được mô tả ở Staphylococcus aureus, nhưng nó có thể chuyển nhiều gen hơn và ở tần số cao hơn so với tải nạp chung và đặc hiệu. Trong quá trình tải nạp ngang, prophage bắt đầu sao chép in situ trước khi cắt bỏ trong một quá trình mà sau đó dẫn đến quá trình sao chép ADN của vi khuẩn liền kề. Tiếp theo, quá trình đóng gói thể thực khuẩn đã sao chép bắt đầu vị trí pac (nằm ở khoảng giữa bộ gen của thể thực khuẩn) và các gen của vi khuẩn lân cận xảy ra in situ cho tới khi bộ gen đạt đến 105% kích thước bộ gen của thể thực khuẩn. Việc đóng gói bộ gen liên tiếp sau khi bắt đầu từ vị trí pac giúp cho hàng ngàn base gen của vi khuẩn được đóng gói trong các virion và có thể được vận chuyến sang một tế bào mới. Nếu bộ gen trong các virion chứa đủ thông tin di truyền cho quá trình tái tổ hợp tương đồng, thì đoạn ADN sex được đưa vào nhiễm sắc thể của tế bảo nhận. Do nhiều bản sao của bộ gen của thể thực khuẩn được tạo ra trong quá trình sao chép in situ, một số prophage này sẽ được cắt bỏ bình thường (thay vì được đóng gói in situ), tạo ra các thể thực khuẩn với chu trình lây nhiễm như bình thường.
Tải nạp tế bào động vật có vú nhờ vectơ vi-rút
Tải nạp bằng vectơ vi-rút có thể được sử dụng để chèn hoặc sửa đổi gen trong tế bào động vật có vú. Quá trình này thường được sử dụng như một công cụ trong nghiên cứu cơ bản và được tích cực nghiên cứu như một phương tiện cho liệu pháp gen
Quá trình
Một plasmid chứa các gen mong muốn được vận chuyển sẽ được tạo ra. Các gen này được bao quanh bởi các đoạn gen vi-rút có chức năng giúp protein vi-rút nhận biết để đóng gói bộ gen vi-rút thành các hạt vi-rút. Plasmid này sau đó sẽ được chèn (thường bằng cách truyền nạp) vào tế bào sản xuất cùng với các plasmid khác mang các gen vi-rút cần thiết cho sự hình thành virion. Trong các tế bào sản xuất này, các plasmid mang gen vi-rút sẽ được biểu hiện để tạo ra các protein vi-rút được biểu hiện. Các protein này sau đó liên kết các trình tự trên ADN hoặc ARN (tùy thuộc vào loại vectơ vi-rút) mong muốn vận chuyển để chèn các bộ gen này vào các hạt vi-rút. Vì vấn đề an toàn, không có plasmid nào chứa tất cả các trình tự cần thiết để hình thành vi-rút. Do đó, cần phải truyền nhiều plasmid cùng một lúc để thu được virion. Đồng thời, chỉ có plasmid mang các gen mong muốn được vận chuyển mới chứa các tín hiệu cho phép vật liệu di truyền được đóng gói vào trong virion để không có gen nào giúp mã hóa protein vi-rút được đóng gói. Vi-rút được thu thập từ các tế bào sản xuất này sau đó được cho vào các tế bào động vật có vú để thay đổi gen. Vi-rút chứa gen mong muốn được chuyển có khi ở giai đoạn đầu của quá trình lấy nhiễm có sự tương đồng với sự lây nhiễm của các loại vi-rút tự nhiên. Sau khi lây nhiễm, các gen mong muốn được vận chuyển lúc này sẽ được biểu hiện gen. Trong trường hợp sử dụng vectơ lentivirus/retrovirus, các gen này sẽ được chèn vào bộ gen của tế bào. Vì bộ gen được vận chuyển không mang bất kỳ gen nào của vi-rút, nên việc lây nhiễm này không thể tạo ra vi-rút mới (hoặc nói cách khác là vi-rút thiếu khả năng sao chép).
Một số chất hóa học tăng cường đã được sử dụng để cải thiện hiệu quả quá trình tải nạp như polybrene, protamine sulfate, retronectin, và DEAE Dextran.
Ứng dụng trong y khoa
Liệu pháp gen: Điều trị các bệnh di truyền bằng cách trực tiếp chỉnh sửa các gen đã bị hư hại bên trong bệnh nhân.
Tham khảo
Biến nạp
Gen nhảy
Tái tổ hợp không tương đồng
Nguồn trích dẫn
Sinh học phân tử
Virus học
|
24098
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20thu%E1%BA%ADt%20k%20h%C3%A0ng%20x%C3%B3m%20g%E1%BA%A7n%20nh%E1%BA%A5t
|
Giải thuật k hàng xóm gần nhất
|
Trong thống kê, giải thuật k hàng xóm gần nhất (hay còn gọi là thuật toán k hàng xóm gần nhất, viết tắt từ tiếng Anh k-NN) là một phương pháp thống kê phi tham số (nonparametric statistics) được đề xuất bởi Thomas M. Cover để sử dụng cho phân loại bằng thống kê và phân tích hồi quy. Cụm từ hàng xóm có thể hiểu là láng giềng hoặc lân cận.
Trong cả hai trường hợp, đầu vào chứa các ví dụ huấn luyện k gần nhất trong không gian thuộc tính (feature space). Đầu ra phụ thuộc vào việc k-NN được dùng cho phân loại hay cho hồi quy:
Trong phân loại k-NN, đầu ra là một thành viên lớp. Một đối tượng được phân loại theo đa số phiếu bầu của các hàng xóm của nó, với đối tượng được phân vào lớp phổ biến nhất trong số k hàng xóm gần nhất (k là một số nguyên dương, thường có giá trị nhỏ). Nếu k = 1, đối tượng đơn giản được gán cho lớp của hàng xóm đơn gần nhất.
Trong hồi quy k-NN, đầu ra là một giá trị thuộc tính của đối tượng. Giá trị là giá trị trung bình của các giá trị hàng xóm k gần nhất.
Tham khảo
Đọc thêm
Giải thuật tìm kiếm
Thuật toán máy học
Phân loại bằng thống kê
|
24099
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%B9a%20C%E1%BB%95%20L%E1%BB%85
|
Chùa Cổ Lễ
|
Chùa Cổ Lễ là một quần thể kiến trúc đạo Phật và tín ngưỡng Việt Nam mang các yếu tố kiến trúc gô-tích ở thị trấn Cổ Lễ, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định, ngay sát quốc lộ 21A. Trong chùa có quả chuông Đại Hồng Chung lớn nhất Việt Nam được Hòa thượng Thích Thế Long cho đúc vào năm 1936.
Lịch sử
Theo bảng giới thiệu trong chùa, thì chùa Cổ Lễ nguyên được xây dựng từ thời Lý Thần Tông, do quốc sư Nguyễn Minh Không sáng lập để thờ phật. Chùa đầu tiên bằng gỗ theo lối kiến trúc cổ. Tuy nhiên chùa ban đầu này đã bị đổ nát. Năm 1902, sư Phạm Quang Tuyên về trụ trì, cho thiết kế và xây dựng lại chùa theo kiến trúc "Nhất Thốc Lâu đài" với những yếu tố kiến trúc gô-tích giống như các nhà thờ Công giáo có khá nhiều ở khu vực lân cận. Sau đó, chùa đã được trùng tu nhiều lần. Vật liệu xây dựng là gạch, vôi vữa, mật mía, giấy bản tạo nên độ cố kết vững bền của toàn bộ kiến trúc ngôi chùa.
Kiến trúc
Chùa Cổ Lễ là sự hòa nhập các yếu tố kiến trúc cổ truyền Việt Nam với các yếu tố kiến trúc gô-tích (Gothic) của châu Âu. Đây là một ngôi chùa thờ Phật nhưng lại mang dáng dấp một thánh đường Thiên Chúa giáo.
Trước chùa là ngôi tháp Cửu Phẩm Liên Hoa cao cao 32 m, có 8 mặt, dựng năm 1927. Đế tháp được đặt trên lưng một con rùa lớn, đầu quay vào phía chùa. Con rùa được nằm giữa một hồ nước hình vuông, bốn góc là bốn hòn núi giả khá lớn, có đắp bốn con voi to bằng voi thật. Trong lòng tháp có cầu thang gồm 98 bậc xoắn ốc đến đỉnh. Tương truyền rằng tín đồ phật tử, khách hành hương lên đến bậc thứ 98 này, sờ tay vào bức tượng trên đỉnh tháp thì cuộc sống sẽ luôn gặp may mắn.
Tiếp theo ngôi tháp là một chiếc cầu cong ba nhịp bắc qua hồ Chu Tích (còn gọi là hồ Núi), gọi là cầu Cuốn. Mặt cầu lát gạch.
Cầu Cuốn dẫn tới chùa Trình, còn gọi là Phật giáo Hội quán. Chùa Trình được xây vào năm 1936 và trùng tu vào năm 2001. Trong chùa có tượng Phật Quan Âm nghìn tay. Trước sân chùa Trình có 2 lư đồng khổng lồ.
Bên trái chùa Trình là đền Linh Quang Từ, được xây vào năm 1937, thờ Trần Hưng Đạo và hai tiến sĩ họ Đào người làng Cổ Lễ là Bảng nhãn Đào Sư Mỗ và Tiến sĩ đệ tam giáp Đào Toàn Mỗ. Bên phải chùa Trình là Khánh Quang phủ, được xây vào năm 1937, là nơi thờ Tam Tòa Thánh Mẫu.
Sau lưng chùa Trình là một cái hồ lớn. Giữa hồ có một quả chuông nặng 9000 kg gọi là chuông Đại Hồng Chung. Quả chuông cao 4,2 m, đường kính 2,2 m, thành dày 8 cm. Miệng chuông có họa tiết hình cánh sen, thân có họa tiết hoa lá, sông nước và một số văn tự bằng chữ Nho. Quả chuông này chưa được đánh một lần nào nhưng dân gian truyền miệng khi đánh lên thì cả tỉnh và một vài vùng lân cận sẽ nghe được tiếng ngân của chiếc chuông Đại hồng chung này. Đây là một trong những quả chuông lớn nhất ở Việt Nam. Nhân dân quanh vùng vì yêu mến chùa mà đúc tặng. Trong quá trình đúc chuông, nhiều người đã tháo cả nhẫn, vòng, vàng hòa tan trong đó. Khi quả chuông vừa đúc xong thì kháng chiến bùng nổ, nhân dân trong vùng đề phòng sự phá hoại của giặc nên đã đem ngâm quả chuông xuống hồ. Đến năm 1954, chuông mới được trục vớt và được đặt trên bệ đá cho du khách tham quan từ đó đến nay.
Có hai chiếc cầu giả như động núi, gọi là cầu Núi, bắc qua hồ dẫn tới kiến trúc chính của chùa Cổ Lễ, đó là chùa Thần Quang. Chính điện được thiết kế theo kiến trúc hài hòa giữa phong cách truyền thống và hiện đại. Thần Quang Tự được xây dựng từ năm 1914 trên nền chùa cổ từ thế kỷ 12. Năm 1995, chùa được trùng tu lớn. Trong chùa có tượng Phật sơn son thếp vàng bằng gỗ bạch đàn cao 4 m đặt ở trên tầng cao phải đi theo những cầu thang nhiều bậc ở hai bên mới lên đến chỗ đặt các tượng Phật. Sau lưng tượng Phật là bàn thờ với tượng Nguyễn Minh Không.
Từ điện Phật, có các hành lang quanh ra phía sau nối với nhà khách và nhà tổ. Vách hành lang gắn đầy những tấm bia hậu. Ở nhà tổ có tượng Hòa thượng Phạm Quang Tuyên.
Sau nhà thờ tổ là một gác chuông lớn có kiến trúc truyền thống gồm 3 tầng 4 mặt, gọi là Kim Chung Bảo Các. Gác chuông này cao 13m40, được xây dựng vào năm 1997. Tầng 2 của gác chuông này có treo một quả chuông đồng to, cao 4m20, rộng 2m03, nặng 9.000 kg. Chuông được đúc vào năm 2003. Tầng 3 có treo một quả chuông đồng nữa đúc từ thời Lê Cảnh Thịnh, nặng 300 kg.
Sau gác chuông là khu lăng mộ tổ của chùa.
Trong chùa còn có một chiếc trống bằng đồng và những chiếc thuyền dùng để thi bơi chải. Bốn bề của chùa là vườn tược, hồ nước và sông ngòi.
Nhờ kết hợp tinh hoa kiến trúc cổ truyền Việt Nam với các yếu tố của phong cách kiến trúc phương Tây, chùa Cổ Lễ đã trở thành một danh lam ở vùng đồng bằng sông Hồng.
Hội chùa
Hội chùa từ 13 đến 16 tháng 9 Âm lịch hàng năm, có nhiều nghi thức văn hóa cổ truyền giàu tính nhân văn như lễ rước Phật, đấu vật, đánh cờ người..., đặc biệt là được xem cuộc thi bơi chải truyền thống trên dòng sông uốn lượn quanh chùa.
Các đời trụ trì
Hòa Thượng Thích Quang Tuyên đời 45 dòng Tào Động
Hòa Thượng Thích Chính Long (Thích Thế Long) đời 46 dòng Tào Động, Phó chủ tịch thường trực trung ương GHPGVN, Phó chủ tịch quốc hội nước CHXHCNVN.
Thượng tọa Thích Tâm Vượng
Tham khảo
Theo lời giới thiệu về chùa của trụ trì thượng tọa Thích Tâm Vượng công khai tại chùa và các biển đá giới thiệu của từng kiến trúc trong chùa.
Liên kết ngoài
Hội chùa Cổ Lễ trên trang CINET
10 kỷ lục văn hóa Phật giáo Việt Nam
Cởi áo cà sa khoác chiến bào, VietnamNet.
Cổ Lễ
|
24101
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%B9a%20Thi%C3%AAn%20M%E1%BB%A5
|
Chùa Thiên Mụ
|
Chùa Thiên Mụ hay còn gọi là chùa Linh Mụ là một ngôi chùa cổ nằm trên đồi Hà Khê, tả ngạn sông Hương, cách trung tâm thành phố Huế (Việt Nam) khoảng 5 km về phía tây. Chùa Thiên Mụ chính thức khởi lập năm Tân Sửu (1601), đời chúa Tiên Nguyễn Hoàng - vị chúa Nguyễn đầu tiên ở Đàng Trong.
Lịch sử
Trước thời điểm khởi lập chùa, trên đồi Hà Khê có ngôi chùa cũng mang tên Thiên Mỗ hoặc Thiên Mẫu, là một ngôi chùa của người Chăm1.
Truyền thuyết kể rằng, khi chúa Nguyễn Hoàng vào làm Trấn thủ xứ Thuận Hóa kiêm trấn thủ Quảng Nam, ông đã đích thân đi xem xét địa thế ở đây nhằm chuẩn bị cho mưu đồ mở mang cơ nghiệp, xây dựng giang sơn cho dòng họ Nguyễn sau này. Trong một lần rong ruổi vó ngựa dọc bờ sông Hương ngược lên đầu nguồn, ông bắt gặp một ngọn đồi nhỏ nhô lên bên dòng nước trong xanh uốn khúc, thế đất như hình một con rồng đang quay đầu nhìn lại, ngọn đồi này có tên là đồi Hà Khê.
Người dân địa phương cho biết, nơi đây ban đêm thường có một bà lão mặc áo đỏ quần lục xuất hiện trên đồi, nói với mọi người: "Rồi đây sẽ có một vị chân chúa đến lập chùa để tụ linh khí, làm bền long mạch, cho nước Nam hùng mạnh". Vì thế, nơi đây còn được gọi là Thiên Mụ Sơn 2.
Tư tưởng lớn của chúa Nguyễn Hoàng dường như cùng bắt nhịp được với ý nguyện của dân chúng. Nguyễn Hoàng cả mừng, vào năm 1601 đã cho dựng một ngôi chùa trên đồi, ngoảnh mặt ra sông Hương, đặt tên là "Thiên Mụ".
Tên gọi
Dựa theo huyền thoại, đồng thời căn cứ hình dạng Hán tự từng ghi trên bao tài liệu cấu tạo bằng nhiều chất liệu, đủ khẳng định rằng trong tên Thiên Mụ, ngữ tố "Thiên" có nghĩa là "Trời".
Năm 1862, dưới thời vua Tự Đức, để cầu mong có con nối dõi, nhà vua sợ chữ "Thiên" phạm đến Trời nên cho đổi từ "Thiên Mụ" thành "Linh Mụ" (hay "Bà mụ linh thiêng").
Vấn đề kiêng cữ như đã nêu chỉ diễn tiến từ năm Nhâm Tuất (1862) cho tới năm Kỷ Tỵ (1869). Sau đó, người dân thoải mái gọi hai tên: chùa Thiên Mụ và chùa Linh Mụ.
Vì rằng từ "Linh" đồng nghĩa với "Thiêng", âm người Huế khi nói "Thiên" nghe tựa "Thiêng" nên khi người Huế nói "Linh Mụ", "Thiên Mụ" hay "Thiêng Mụ" thì người nghe đều hiểu là muốn nhắc đến ngôi chùa này.
Một số người còn đặt tên cho chùa là Tiên Mụ (hay "Bà mụ thần tiên"). Cách gọi này không được giới nghiên cứu chấp nhận.
Kiến trúc
Chùa Thiên Mụ chính thức khởi lập năm Tân Sửu (1601), đời chúa Tiên - Nguyễn Hoàng.
Dưới thời chúa Quốc - Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) theo đà phát triển và hưng thịnh của Phật giáo xứ Đàng Trong, chùa được xây dựng lại quy mô hơn. Năm 1710, chúa Quốc cho đúc một chiếc chuông lớn, nặng tới trên hai tấn, gọi là Đại Hồng Chung, có khắc một bài minh trên đó. Đến năm 1714, chúa Quốc lại cho đại trùng tu chùa với hàng chục công trình kiến trúc hết sức quy mô như điện Thiên Vương, điện Đại Hùng, nhà Thuyết Pháp, lầu Tàng Kinh, phòng Tăng, nhà Thiền... mà nhiều công trình trong số đó ngày nay không còn nữa. Chúa Quốc còn đích thân viết bài văn, khắc vào bia lớn (cao 2m60, rộng 1m2) nói về việc xây dựng các công trình kiến trúc ở đây, việc cho người sang Trung Quốc mua hơn 1000 bộ kinh Phật đưa về đặt tại lầu Tàng Kinh, ca tụng triết lý của đạo Phật, ghi rõ sự tích Hòa thượng Thạch Liêm - người có công lớn trong việc giúp chúa Nguyễn chấn hưng Phật giáo ở Đàng Trong. Bia được đặt trên lưng một con rùa đá rất lớn, trang trí đơn sơ nhưng tuyệt đẹp.
Với cảnh đẹp tự nhiên và quy mô được mở rộng ngay từ thời đó, chùa Thiên Mụ đã trở thành ngôi chùa đẹp nhất xứ Đàng Trong. Trải qua bao biến cố lịch sử, chùa Thiên Mụ đã từng được dùng làm đàn Tế Đất dưới triều Tây Sơn (khoảng năm 1788), rồi được trùng tu tái thiết nhiều lần dưới triều các vua nhà Nguyễn.
Năm 1844, nhân dịp mừng lễ "bát thọ" của bà Thuận Thiên Cao Hoàng hậu (vợ vua Gia Long, bà nội của vua Thiệu Trị), vua Thiệu Trị kiến trúc lại ngôi chùa một cách quy mô hơn: xây thêm một ngôi tháp bát giác gọi là Từ Nhân (sau đổi là Phước Duyên), đình Hương Nguyện và dựng 2 tấm bia ghi lại việc dựng tháp, đình và các bài thơ văn của nhà vua.
Tháp Phước Duyên
Tháp Phước Duyên là một biểu tượng nổi tiếng gắn liền với chùa Thiên Mụ. Tháp cao 21 m, gồm 7 tầng, được xây dựng ở phía trước chùa vào năm 1844. Mỗi tầng tháp đều có thờ tượng Phật. Bên trong có cầu thang hình xoắn ốc dẫn lên tầng trên cùng, nơi trước đây có thờ tượng Phật bằng vàng. Phía trước tháp là đình Hương Nguyện, trên nóc đặt Pháp luân (bánh xe Phật pháp, biểu tượng Phật giáo. Pháp luân đặt trên đình Hương Nguyện quay khi gió thổi).
Trận bão năm 1904 đã tàn phá chùa nặng nề. Nhiều công trình bị hư hỏng, trong đó đình Hương Nguyện bị sụp đổ hoàn toàn (nay vẫn còn dấu tích). Năm 1907, vua Thành Thái cho xây dựng lại, nhưng chùa không còn được to lớn như trước nữa. Hai bên tháp có hai nhà tứ giác, đặt hai tấm bia đời Thiệu Trị. Sâu vào bên trong là hai nhà lục giác, một nhà để bia và một nhà để quả chuông đúc đời chúa Nguyễn Phúc Chu.
Chùa Thiên Mụ được xếp vào 20 thắng cảnh đất Thần Kinh với bài thơ Thiên Mụ chung thanh do đích thân vua Thiệu Trị sáng tác và được ghi vào bia đá dựng gần cổng chùa.
Qua nhiều đợt tu sửa lớn nhỏ, ngoài những công trình kiến trúc như tháp Phước Duyên, điện Đại Hùng, điện Địa Tạng, điện Quan Âm... cùng bia đá, chuông đồng, chùa Thiên Mụ ngày nay còn là nơi có nhiều cổ vật quý giá không chỉ về mặt lịch sử mà còn cả về nghệ thuật. Những bức tượng Hộ pháp, tượng Thập Vương, tượng Phật Di Lặc, tượng Tam Thế Phật... hay những hoành phi, câu đối ở đây đều ghi dấu những thời kỳ lịch sử vàng son của chùa Thiên Mụ.
Trong khuôn viên của chùa là cả một vườn hoa cỏ được chăm sóc vun trồng hàng ngày. Ở đó, hòn non bộ của vị tổ nghề hát tuồng Việt Nam là Đào Tấn được đặt gần chiếc xe ô tô - di vật của cố Hòa thượng Thích Quảng Đức để lại trước khi châm lửa tự thiêu để phản đối chính sách đàn áp Phật giáo của chế độ Ngô Đình Diệm năm 1963.
Cuối khu vườn là khu mộ tháp của cố Hòa thượng Thích Đôn Hậu, vị trụ trì nổi tiếng của chùa Thiên Mụ, người đã cống hiến cả cuộc đời mình cho những hoạt động ích đạo giúp đời.
Hình ảnh
Tham khảo
Ô châu cận lục của Dương Văn An, năm 1553. Các bản dịch của Bùi Lương, Nhà xuất bản Văn Hoá Á Châu, Sài Gòn, 1961; hoặc của Trịnh Khắc Mạnh và Nguyễn Văn Nguyên, Nhà xuất bản Khoa Học Xã hội, Hà Nội, 1997.
Sổ tay văn hoá Việt Nam, Đặng Đức Siêu, Nhà Xuất Bản Lao động Năm 2006.
Chú thích
Năm 1915, tạp chí Bulletin des Amis du Vieux Huê (BAVH) đăng bài viết của công sứ A. Bonhomme với dòng titre nguyên văn: Thien Mu pagoda..
Huyền thoại đó được ghi thư tịch sớm nhất vào năm Ất Hợi 1696 bởi hoà thượng Thạch Liêm tức Thích Đại Sán, một thiền sư Trung Hoa, trong sách Hải ngoại kỷ sự. Sách này đã được Nguyễn Phương và Nguyễn Duy Bột dịch, Viện Đại học Huế xuất bản năm 1963.
Những kỷ lục Phật giáo khẳng định nền văn hóa Việt
Xem thêm
Quần thể di tích Cố đô Huế
Liên kết ngoài
Thiên Mụ
Thần kinh nhị thập cảnh
Di tích ngoài Kinh Thành Huế
Lịch sử Đàng Trong
|
24107
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/5000%20%28s%E1%BB%91%29
|
5000 (số)
|
5000 (năm nghìn, hay năm ngàn) là một số tự nhiên ngay sau 4999 và ngay trước 5001.
Một số số nguyên trong khoảng 5001 đến 5999
5003 - Số nguyên tố Sophie Germain
5020 - Số bạn của 5564
5039 - Số nguyên tố giai thừa, số nguyên tố Sophie Germain
5040 - 7!, số phức hợp cao
5041 = 712, số bát giác chính tâm
5050 - số tam giác, số Kaprekar, tổng của 100 số nguyên từ 1 đến 100
5051 - số nguyên tố Sophie Germain
5076 - số thập giác
5081 - số nguyên tố Sophie Germain
5087 - số nguyên tố an toàn
5099 - số nguyên tố an toàn
5151 - số tam giác
5167 - số nguyên tố Cuba of the form x = y + 1
5171 - số nguyên tố Sophie Germain
5184 = 722
5186 - φ(5186) = 2592
5187 - φ(5187) = 2592
5188 - φ(5189) = 2592, số thất giác chính tâm
5226 - số cửu giác
5231 - số nguyên tố Sophie Germain
5244 = 222 + 232 +... 292 = 202 + 212 +... 282
5249 - highly cototient number
5253 - số tam giác
5279 - số nguyên tố Sophie Germain
5292 - số Kaprekar
5303 - số nguyên tố Sophie Germain
5329 = 732, số bát giác chính tâm
5333 - số nguyên tố Sophie Germain
5335 - hằng số thần diệu trong hình vuông thần diệu n×n và trong Bài toán n-Hoàng hậu với n = 22.
5340 - số bát diện
5356 - số tam giác
5365 - số thập giác
5387 - số nguyên tố an toàn
5399 - số nguyên tố Sophie Germain, số nguyên tố an toàn
5419 - số nguyên tố Cuba dạng x = y + 1
5441 - số nguyên tố Sophie Germain
5456 - số tứ diện
5459 - highly cototient number
5460 - số tam giác
5461 - số siêu-Poulet, số thất giác chính tâm
5476 = 742
5483 - số nguyên tố an toàn
5500 - số cửu giác
5501 - số nguyên tố Sophie Germain
5507 - số nguyên tố an toàn
5525 - số kim tự tháp vuông
5536 - số tetranacci
5564 - số bạn của 5020
5565 - số tam giác
5566 - số kim tự tháp ngũ giác
5625 = 752, số bát giác chính tâm
5639 - số nguyên tố Sophie Germain, số nguyên tố an toàn
5662 - số thập giác
5671 - số tam giác
5711 - số nguyên tố Sophie Germain
5719 - số Zeisel
5741 - số nguyên tố Sophie Germain, số Pell, số Markov, số thất giác chính tâm
5768 - số tribonacci
5776 = 762
5777 - phản ví dụ nhỏ nhất của giả định rằng số lẻ có dạng p + 2a2
5778 - số tam giác
5781 - số cửu giác
5798 - số Motzkin
5807 - số nguyên tố an toàn
5849 - số nguyên tố Sophie Germain
5879 - số nguyên tố an toàn, highly cototient number
5886 - số tam giác
5903 - số nguyên tố Sophie Germain
5927 - số nguyên tố an toàn
5929 = 772, số bát giác chính tâm
5939 - số nguyên tố an toàn
5967 - số thập giác
5984 - số tứ diện
5992 - số thiên giác
5995 - số tam giác
Tham khảo
Số chẵn
|
24114
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Carbon%20monoxide
|
Carbon monoxide
|
Carbon monoxide, công thức hóa học là CO, là một chất khí không màu, không mùi, bắt cháy và có độc tính cao. Nó là sản phẩm chính trong sự cháy không hoàn toàn của carbon và các hợp chất chứa carbon.
Có nhiều nguồn sinh ra carbon monoxide. Khí thải của động cơ đốt trong tạo ra sau khi đốt các nhiên liệu gốc carbon có chứa carbon monoxide, đặc biệt với nồng độ cao khi nhiệt độ quá thấp để có thể thực hiện việc oxy hóa trọn vẹn các hydrocarbon trong nhiên liệu thành nước (dạng hơi) và carbon dioxide, do thời gian có thể tồn tại trong buồng đốt là quá ngắn và cũng có thể là do không đủ lượng oxy cần thiết. Thông thường, việc thiết kế và vận hành buồng đốt sao cho có thể giảm lượng CO là khó khăn hơn rất nhiều so với việc thiết kế để làm giảm lượng hydrocarbon chưa cháy hết. Carbon monoxide cũng tồn tại với một lượng đáng kể trong khói thuốc lá. Trong gia đình, khí CO được tạo ra khi các nguồn nhiên liệu như xăng, hơi đốt, dầu hay gỗ không cháy hết trong các thiết bị dùng chúng làm nhiên liệu như xe máy, ô tô, lò sưởi và bếp lò v.v. Khí carbon monoxide có thể thấm qua bê tông hàng giờ sau khi xe cộ đã rời khỏi ga ra.
Trong quá khứ, ở một số quốc gia người ta sử dụng cái gọi là town gas để thắp sáng và cung cấp nhiệt vào thế kỷ XIX. Town gas được tạo ra bằng cách cho một luồng hơi nước đi ngang qua than cốc nóng đỏ; chất tạo thành sau phản ứng của nước và carbon là hỗn hợp của hydro và carbon monoxide. Phản ứng như sau:
H2O + C ->[{t°}] CO +H2
Khí này ngày nay đã được thay thế bằng hơi đốt tự nhiên (methan) nhằm tránh các tác động độc hại tiềm ẩn của nó. Khí gỗ, sản phẩm của sự cháy không hoàn toàn của gỗ cũng chứa carbon monoxide như là một thành phần chính.
Độc tính
Xem chi tiết tại bài: Ngộ độc carbon monoxide
Carbon monoxide cực kỳ nguy hiểm, do việc hít thở phải một lượng quá lớn CO sẽ dẫn tới thương tổn do giảm oxy trong máu hay tổn thương hệ thần kinh cũng như có thể gây tử vong. Nồng độ chỉ khoảng 0,01% carbon monoxide trong không khí cũng có thể là nguy hiểm đến tính mạng.
CO là chất khí không màu, không mùi và không gây kích ứng nên rất nguy hiểm vì người ta không cảm nhận được sự hiện diện của CO trong không khí. CO có tính liên kết với hemoglobin (Hb) trong hồng cầu mạnh gấp 250-280 lần so với oxy nên khi được hít vào phổi CO sẽ gắn chặt với Hb thành carbonxyhemoglobin (HbCO) do đó máu không thể chuyên chở oxy đến tế bào. CO còn gây tổn thương tim do gắn kết với myoglobin.
Triệu chứng ngộ độc CO thường bắt đầu bằng cảm giác thất thần, nhức đầu, buồn nôn, khó thở rồi từ từ đi vào hôn mê. Nếu ngộ độc CO xảy ra khi đang ngủ say hoặc uống rượu say thì người bị ngộ độc sẽ hôn mê từ từ, ngưng thở và tử vong.
Ngộ độc CO có thể xảy ra ở những trường hợp chạy máy nổ phát điện trong nhà kín, sản phụ nằm lò than trong phòng kín, ngủ trong xe hơi đang nổ máy trong nhà hoặc gara...
Lịch sử
Carbon monoxide đã được nhà hóa học người Pháp là de Lassone điều chế lần đầu tiên năm 1776 bằng cách đốt nóng Oxide kẽm (ZnO) với than cốc, nhưng ông đã sai lầm khi cho khí thu được là hydro do nó cũng cháy với ngọn lửa màu xanh lam. Sau này, nó được nhà hóa học người Anh là William Cruikshank xác định là một hợp chất chứa carbon và oxy năm 1800.
Nhà sinh lý học người Pháp là Claude Bernard vào khoảng năm 1846 đã lần đầu tiên nghiên cứu kỹ lưỡng các thuộc tính độc hại của carbon monoxide. Ông cho các con chó hít thở khí này và nhận ra rằng máu của chúng tại tất cả các mạch máu là đỏ hơn.
Hóa học
Cấu trúc của phân tử CO được mô tả tốt nhất dựa theo thuyết quỹ đạo phân tử. Độ dài của liên kết hóa học (0,111 nm) chỉ ra rằng nó có đặc trưng liên kết ba một phần. Phân tử có momen lưỡng cực nhỏ (0,112 Debye hay 3,74x10−31 C.m) và thông thường được biểu diễn bằng 3 cấu trúc cộng hưởng:
Lưu ý rằng quy tắc octet (quy tắc bát tử) bị vi phạm đối với nguyên tử carbon trong hai cấu trúc thể hiện bên phải.
Nó thể hiện tính khử trong một số phản ứng với các Oxide kim loại có độ hoạt động hóa học yếu ở nhiệt độ cao, chẳng hạn Oxide đồng (II), theo phản ứng sau:
CO + CuO -> CO2 + Cu
Kim loại nickel tạo ra hợp chất dễ bay hơi với CO, được biết đến với tên gọi nickel carbonyl. carbonyl bị phân hủy rất nhanh ngược trở lại thành kim loại và khí CO, và nó được sử dụng làm nền tảng cho việc làm tinh khiết nickel.
Nhiều kim loại khác cũng có thể tạo ra các phức chất carbonyl chứa các liên kết cộng hóa trị với carbon monoxide, các chất này có thể tạo ra bằng một loạt các phương pháp khác nhau, ví dụ đun sôi rutheni triclorua với triphenyl photphin trong mêthoxyêtanol (hay DMF) thì có thể thu được phức chất [RuHCl(CO)(PPh3)3]. Nickel carbonyl là đặc biệt do nó có thể được tạo ra bằng tổ hợp trực tiếp carbon monoxide và nickel kim loại ở nhiệt độ phòng.
Trong nickel carbonyl và các carbonyl khác, cặp điện tử trên nguyên tử carbon được liên kết với kim loại. Trong trường hợp này carbon monoxide được nói đến như là nhóm carbonyl.
Carbon monoxide và metanol có phản ứng với nhau có chất xúc tác gốc rodi để tạo ra axit axetic trong quy trình Monsanto, nó là phương pháp được sử dụng nhiều nhất để sản xuất axit axêtic công nghiệp.
Sử dụng
Sản xuất axit axetic, làm nhiên liệu, chất khử trong nhà máy sản xuất thép,....
Carbon monoxide trong khí quyển
Carbon monoxide có hiệu ứng bức xạ cưỡng bức gián tiếp bằng sự nâng cao nồng độ của methan và ozon tầng đối lưu thông qua các phản ứng hóa học với các thành phần khác của khí quyển (ví dụ gốc hydroxyl, OH) mà nếu không có thể tiêu diệt chúng. Carbon monoxide được tạo ra khi các nhiên liệu chứa carbon bị đốt cháy không hoàn toàn, thông qua các quá trình tự nhiên trong khí quyển thì cuối cùng nó sẽ bị oxy hóa thành carbon dioxide. Nồng độ carbon monoxide bị biến đổi trong không gian cũng như là tồn tại rất ngắn hạn trong khí quyển.
5CO + O3 -> 4CO2 + C
Tham khảo
Liên kết ngoài
Thẻ an toàn hóa chất quốc tế số 0023
Hướng dẫn bỏ túi của NIOSH về các nguy hiểm hóa chất
Ủy ban hóa chất châu Âu
CID 281 từ PubChem
Cơ sở dữ liệu về khí thải ô nhiễm của Úc -National Pollutant Inventory
Oxide
Hợp chất carbon vô cơ
Chất ô nhiễm
Khói
Độc tính học
Độc chất học
Hợp chất oxy
|
24115
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nickel%20tetracarbonyl
|
Nickel tetracarbonyl
|
Nickel tetracarbonyl (các tên gọi khác: nickel carbonyl), là hợp chất cộng hóa trị của nickel, nó là bất thường đối với các hợp chất của kim loại này, ở nhiệt độ phòng nó là một chất lỏng không màu. Công thức hóa học của nó là Ni(CO)4. Nó là một chất cực độc trong ngành hóa học nickel và có thể gây nguy hiểm cho tính mạng nếu uống nhầm hay qua đường da, do đó nó còn có tên gọi khác là "chất lỏng chết chóc". nickel tetracarbonyl cực kỳ dễ bay hơi. Nó bay hơi ngay ở nhiệt độ phòng. Hơi của nó có thể tự kích cháy ở nhiệt độ . Hơi nickel carbonyl rất độc hại, hít là chết.
Giống như sắt pentacarbonyl, nickel tetracarbonyl là hợp chất có 18 cộng hóa trị.
Nickel kim loại ở nhiệt độ phòng có thể phản ứng với carbon monoxide (CO) để tạo ra nickel tetracarbonyl. Khi bị nung nóng nhẹ thì nickel tetracarbonyl bị phân hủy tạo ra carbon oxide và nickel kim loại. Hai phản ứng này tạo thành cơ sở cho quy trình Mond để sản xuất nickel tinh khiết.
Cấu trúc và liên kết
Trong nickel tetracarbonyl, trạng thái oxy hóa của nickel được coi là bằng 0. Công thức là phù hợp với quy tắc 18 điện tử. Phân tử là tứ phương, với 4 phối tử carbonyl (carbon monoxide). Các nghiên cứu nhiễu xạ electron đã được thực hiện với phân tử này, và các khoảng cách Ni–C và C–O được tính toán tương ứng là 1,838(2) và 1,141(2) Å.
Điều chế
Ni(CO)4 được Ludwig Mond tổng hợp lần đầu tiên năm 1890 bằng phản ứng trực tiếp của nickel kim loại với CO. Công trình tiên phong này báo trước sự tồn tại của nhiều hợp chất carbonyl kim loại khác, bao gồm các hợp chất của vanadi, chromi, mangan, sắt và cobalt. Nó được sử dụng ở quy mô công nghiệp để tinh chế nickel vào cuối thế kỷ 19.
Người ta cho carbon monoxide qua nickel không tinh khiết ở nhiệt độ từ trở lên. Tốc độ tối ưu diễn ra ở 130 °C.
Phòng thí nghiệm
Ni(CO)4 không có sẵn ở quy mô thương mại. Nó được điều chế trong phòng thí nghiệm bằng carbonyl hóa bis(cyclooctadien)nickel(0) có sẵn ở quy mô thương mại. Nó cũng có thể điều chế bằng phản ứng khử dung dịch amonia của nickel(II) sulfat với natri dithionit trong môi trường khí CO.
Phản ứng
Khử carbonyl nhiệt
Khi nung nóng nhẹ thì Ni(CO)4 phân hủy thành carbon monoxide và nickel kim loại. Kết hợp với sự hình thành dễ dàng từ CO và ngay cả nickel không tinh khiết, sự phân hủy này là cơ sở cho quy trình Mond để tinh chế nickel. Sự phân hủy nhiệt diễn ra ở 180 °C và tăng lên theo nhiệt độ.
Phản ứng với tác nhân ưa hạt nhân và tác nhân khử
Giống như các carbonyl kim loại khác, Ni(CO)4 dễ bị tấn công bởi các tác nhân ưa hạt nhân. Sự tấn công có thể xảy ra ở nickel trung tâm dẫn tới sự thay thế phối tử CO, hoặc tại CO. Vì thế, các phối tử cho như triphenylphotphin phản ứng để tạo ra Ni(CO)3(PPh3) và Ni(CO)2(PPh3)2. Bipyridin và các phối tử có liên quan có phản ứng tương tự. Sự thay thế đơn của nickel tetracarbonyl với các phối tử khác có thể sử dụng để xác định tham số electron Tolman, một phép đo khả năng cho hay rút electron của một phối tử nào đó.
Xử lý với các hydroxide tạo ra các cụm như [Ni5(CO)12]2− và [Ni6(CO)12]2−. Các hợp chất này cũng có thể thu được bằng cách khử nickel carbonyl.
Vì thế, xử lý Ni(CO)4 với các chất ưa hạt nhân carbon (Nu−) tạo ra các dẫn xuất acyl, như [Ni(CO)3C(O)Nu)]−.
Phản ứng với tác nhân ưa điện tử và tác nhân oxy hóa
Nickel carbonyl cũng có thể bị oxy hóa. Clo oxy hóa nickel carbonyl thành NiCl2, giải phóng khí CO. Các halogen khác có phản ứng tương tự. Phản ứng này là phương pháp thuận tiện để tiêu hủy phần không mong muốn còn lại của hợp chất độc hại này.
Phản ứng của Ni(CO)4 với alkyl và aryl halide thường tạo ra các sản phẩm hữu cơ carbonyl hóa. Các halide vinyl, như PhCH=CHBr, được chuyển thành các este chưa bão hòa bằng xử lý với Ni(CO)4 và sau đó là bằng natri metoxide (CH3ONa). Các phản ứng như vậy cũng có thể tiến hành thông qua phản ứng cộng oxy hóa. Các haua allyl tạo ra các hợp chất π-allyl nickel, như (allyl)2Ni2Cl2:
2Ni(CO)4 + 2ClCH2CH=CH2 → Ni2(μ-Cl)2(η3-C3H5)2 + 8CO↑
Độc tính
Biểu hiện ngộ độc nickel tetracarbonyl được đặc trưng bởi hai giai đoạn của bệnh. Giai đoạn thứ nhất bao gồm đau đầu và tức ngực kéo dài vài giờ, thông thường được nối tiếp bằng sự thuyên giảm ngắn. Giai đoạn hai là viêm phổi do hóa chất, thông thường nó bắt đầu sau khoảng 16 giờ với các triệu chứng như ho, khó thở và cực kỳ mệt mỏi. Các triệu chứng này đạt đến độ nguy hiểm cao nhất sau khoảng 4 ngày, có thể gây tử vong do tổn thương tim mạch-hệ hô hấp hay suy thận cấp tính. Sự hồi phục thường là rất kéo dài, hay bị phức tạp hóa do sự kiệt sức, suy nhược và khó thở khi cố sức. Tổn thương vĩnh cửu hệ hô hấp là bất thường. Hiện vẫn còn tranh cãi về khả năng gây ung thư của nickel tetracarbonyl dạng khí. Tiêu chuẩn IDLH (NIOSH) là vào khoảng 2 ppm (14 mg/m³).
Liên kết ngoài
Thẻ an toàn hóa chất số 0064
Hướng dẫn bỏ túi của NIOSH về các nguy hiểm hóa chất
Ủy ban hóa chất châu Âu
Chuyên khảo của IARC về "nickel và các hợp chất của nickel"
Cơ sở tham chiếu tiêu chuẩn của NIST
Tham khảo
Hợp chất nickel
Phức chất cacbonyl
Chất gây ung thư nhóm 1 IARC
|
24119
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chu%20k%E1%BB%B3%20giao%20h%E1%BB%99i
|
Chu kỳ giao hội
|
Chu kỳ giao hội là khoảng thời gian mà một thiên thể cần để xuất hiện lại tại cùng một vị trí trên bầu trời so với vị trí của Mặt Trời khi quan sát từ Trái Đất. Đây chính là khoảng thời gian giữa hai lần giao hội (hoặc xung đối) liên tiếp của thiên thể với Mặt Trời và là chu kỳ quỹ đạo biểu kiến của thiên thể khi quan sát từ Trái Đất. Sở dĩ chu kỳ giao hội khác chu kỳ theo sao (chu kỳ quỹ đạo thật sự) là vì Trái Đất quay xung quanh Mặt Trời.
Các hành tinh
Đối với các hành tinh trong (ở gần Mặt Trời hơn Trái Đất), chu kỳ giao hội là khoảng thời gian giữa hai lần giao hội dưới (hoặc giao hội trên) liên tiếp với Mặt Trời.
Đối với các hành tinh ngoài (ở xa Mặt Trời hơn Trái Đất), chu kỳ giao hội là khoảng thời gian giữa hai lần giao hội (hoặc xung đối) liên tiếp với Mặt Trời.
Chu kỳ giao hội của các hành tinh trong Hệ Mặt Trời là (tính bằng ngày Trái Đất hoặc năm Trái Đất):
Sao Thủy: 115,88 ngày hay 0,317 năm
Sao Kim: 583,92 ngày hay 1,599 năm
Sao Hỏa: 779,94 ngày hay 2,135 năm
Sao Mộc: 398,88 ngày hay 1,092 năm
Sao Thổ: 378,09 ngày hay 1,035 năm
Sao Thiên Vương: 369,66 ngày hay 1,012 năm
Sao Hải Vương: 367,49 ngày hay 1,006 năm
Sao Diêm Vương: 366,74 ngày hay 1,004 năm
Mặt Trăng
Quan hệ giữa chu kỳ theo sao và chu kỳ giao hội
Nicolaus Copernicus đã đề xuất công thức toán để tính chu kỳ theo sao của một hành tinh theo chu kỳ giao hội của nó.
Nếu gọi:
E = chu kỳ theo sao của Trái Đất (còn gọi là năm sao)
P = chu kỳ theo sao của một hành tinh khác
S = chu kỳ giao hội của một hành tinh đó (nhìn từ Trái Đất)
Trong khoảng thời gian S, Trái Đất di chuyển được một góc (360°/E)×S (giả định quỹ đạo Trái Đất hình tròn), còn hành tinh đang xét di chuyển được một góc (360°/P)×S.
Trong trường hợp của hành tinh trong, hành tinh này sẽ quay được hơn một vòng quỹ đạo trước khi nó và Trái Đất lại có cùng tương quan vị trí so với Mặt Trời. Do đó ta có:
Sau khi biến đổi ta được kết quả:
Đối với hành tinh ngoài với suy luận tương tự ta thu được kết quả:
Công thức trên sẽ trở nên dễ hiểu nếu xem xét các vận tốc góc của Trái Đất và hành tinh: vận tốc góc biểu kiến của hành tinh bằng vận tốc góc thực (theo sao) của nó trừ đi vận tốc góc của Trái Đất và chu kỳ giao hội của nó sẽ là một vòng quỹ đạo chia cho vận tốc góc biểu kiến đó.
Xem thêm
Chu kỳ theo sao
Tham khảo
Thiên văn mặt cầu
de:Synodische Periode
en:Synodic period
fr:Période synodique
|
24122
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kinh%20%C4%91i%E1%BB%83n%20Ph%E1%BA%ADt%20gi%C3%A1o
|
Kinh điển Phật giáo
|
Kinh điển Phật giáo có số lượng cực kỳ lớn, thậm chí xưa lấy 84000 để ước chừng tượng trưng về số lượng pháp uẩn. Kinh văn Phật giáo truyền miệng hoặc được viết ở trên giấy mực được chia theo nội dung làm ba loại là Kinh, Luật và Luận. Phật tử theo các tông phái khác nhau đặt các bộ kinh, luận này ở những vị trí khác nhau. Họ cho rằng các bộ kinh, luận có tầm quan trọng khác nhau đối với họ và giữ thái độ khác nhau đối với kinh điển: từ tôn kính một loại kinh văn nhất định cho đến bác bỏ, xem thường một vài kinh văn nào đó, cho là ngụy tạo. Thế nên, các bộ kinh, luận khó có thể được gọi là Thánh kinh (Sacred scripture) với nghĩa được hiểu như thánh kinh của Kitô giáo hoặc các tôn giáo khác.
Kinh văn Phật giáo có thể chia ra hai loại dựa trên nguồn gốc hình thành kinh như loại tiêu chuẩn (hoặc chủ yếu, canonical) và loại ngoài tiêu chuẩn (hoặc thứ yếu, non-canonical). Thuộc về kinh văn tiêu chuẩn là các bài Kinh (經, sa. sūtra, pi. sutta), nguồn gốc tiếng Phạn, được chép lại lời dạy của chính vị Phật lịch sử Thích-ca Mâu-ni - "Phật lịch sử" ở đây được hiểu một cách chính xác hoặc như một ẩn dụ. Thuộc loại ngoài tiêu chuẩn là các bài luận giải những bộ kinh hoặc luận, cũng như những văn bản trích dẫn kinh, lịch sử hình thành kinh, văn phạm,... của các Đại sư, Luận sư.
Tuy nhiên cũng nên hiểu là cách chia loại như thế có phần tùy tiện và một vài kinh văn có thể được xếp vào một trong hai loại nêu trên, hoặc có thể được xếp vào nhiều hơn một trong những loại được kể bên dưới.
Kinh điển loại tiêu chuẩn
Tuy có rất nhiều kinh văn loại tiêu chuẩn có nguồn gốc từ chính đức Phật Thích-ca Mâu-ni, nhưng các trường phái Phật giáo lại thường không nhất trí với nhau về mặt thể loại tiêu chuẩn của từng kinh văn, và những lần duyệt văn bản của các Đại tạng kinh cho thấy rất nhiều khác biệt về số lượng và thể loại kinh văn. Nhìn chung, kinh văn được chia thành ba loại theo nội dung: Kinh (những bài thuyết pháp, sa. sūtra, pi. sutta), Luật (sa., pi. vinaya, viết về giới luật của Tăng-già) và Luận hoặc A-tì-đạt-ma (sa. abhidharma, pi. abhidhamma, mang tính chất bàn luận, giải thích, phân tích các bài kinh, nói về các pháp). Ba loại kinh này được gọi chung là Tam tạng (sa. tripiṭaka, pi. tipiṭaka). Riêng Kinh tạng (sa. sūtrapiṭaka) và Luật tạng (sa. vinayapiṭaka) chứa đựng nhiều kinh văn khác nhau, gồm cả các bài giảng về các pháp, các bàn luận, giải thích về các giáo lý, kinh văn nói về vũ trụ, sự tiến hóa của vũ trụ, nói về tiền thân của Phật-đà (Bản sinh kinh), và các bảng liệt kê các pháp khác nhau.
Các kinh văn loại tiêu chuẩn của trường phái Thượng tọa bộ (pi. theravāda) và các trường phái Ni-ca-da (pi. nikāya) khác được tin tưởng là chép lại một cách chân xác chính lời dạy của Phật Thích-ca. Đại tạng kinh của Thượng tọa bộ còn được gọi là Đại tạng kinh Pali vì tạng kinh này được viết bằng tiếng Pali bao gồm khoảng 4 triệu chữ.
Các kinh văn loại tiêu chuẩn của các trường phái theo Đại thừa ra đời sau này cũng được tin tưởng là chép lại lời dạy của đức Phật, nhưng được lưu truyền một cách bí mật qua những linh vật như rồng (long 龍, sa. nāga) hoặc chép lời dạy trực tiếp của những vị Phật hoặc Bồ Tát khác. Khoảng 600 bộ kinh Đại thừa được truyền lại bằng tiếng Phạn hoặc trong những bản dịch tiếng Hán hoặc tiếng Tây Tạng. Đại tạng kinh Đại thừa đầy đủ nhất hiện nay có lẽ là phiên bản bằng tiếng Hán, mặc dù đây chỉ là bản dịch từ tiếng Phạn. Đại tạng này chứa đựng kinh văn của nhiều bộ phái truyền thống xưa (có 18 bộ phái).
Các bộ kinh Đại thừa sớm nhất được viết bằng tiếng Trung kì Ấn Nhã-lợi-an (en. Middle Indo-Aryan), sau được Phạn hóa vào thời vương triều Cấp-đa (sa. gupta), khi tiếng Phạn được xem là ngôn ngữ chính thức tại triều đình. Phần lớn kinh văn Đại thừa được viết với những nét văn hoa bắt chước tiếng Phạn cổ điển bằng Phật giáo tạp chủng phạn ngữ (Buddhist Hybrid Sanskrit, BHS) đây là một dạng phương ngữ Trung kì Ấn Nhã-lợi-an. Một số kinh văn sau này, đặc biệt là những kinh văn có gốc từ đại học Phật giáo Na-lan-đà (sa. nālandā), được viết một cách văn hoa bằng Phạn ngữ thuần túy.
Với các trường phái Kim Cương thừa của Tây Tạng thì Đại tạng kinh Tây Tạng ngoài ba loại kinh văn Kinh, Luật và Luận còn chứa đựng các bộ Đát-đặc-la (sa. tantra) ghi những phép tu luyện bí mật và các bài chú giải về chúng.
Cách phân loại kinh văn theo ba cỗ xe (Tam thừa 三乘, sa. triyāna gồm Đại thừa, Tiểu thừa, và Kim cương thừa) truyền thống có thể làm lu mờ quá trình hình thành kinh văn. Ví dụ như có các kinh văn được gọi là "Tiền đại thừa" (proto-mahāyāna), ví như bài Vô Năng Thắng Quân kinh (sa. ajitasenasūtra), nhưng chúng hoàn toàn thiếu những yếu tố chủ yếu của kinh văn Đại thừa. Ngược lại, một số bài kinh văn hệ Pali của Thượng tọa bộ lại chứa đựng chính những tư tưởng sau này được xem là gắn liền với Đại thừa. Một số kinh văn Đại thừa khác - được xem là hiển giáo - lại thể hiện rõ ràng bản chất mật giáo Đát-đặc-la, đặc biệt là những bài kinh ngắn thuộc hệ Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Nhưng cũng có kinh văn thuộc loại Đát-đặc-la lại xuất hiện rất sớm là Đại Tì-lô-giá-na thành Phật thần biến gia trì kinh (zh. 大毗盧遮那成佛神變加持經, sa. mahāvairocanābhisambodhitantra), thường được gọi tắt là Đại Nhật kinh (sa. mahāvairocanasūtra).
Một số bài kinh Phật giáo qua quá trình mở rộng dần dần gần như trở thành một bộ kinh riêng, được gọi là kinh "phương đẳng" (方等) hoặc "phương quảng" (方廣, sa. vaipulya, pi. vipula) là những bộ kinh "rộng lớn bao quát". Như bộ Kim Quang Minh Tối Thắng Vương kinh (zh. 金光明最勝王經, sa. suvarṇaprabhāsottamasūtra) mà nội dung xoay quanh chương trung tâm là chương thứ ba của bộ Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm kinh (zh. 大方廣佛華嚴經, sa. buddhāvataṃsaka-mahāvaipulyasūtra) - cũng được gọi tắt là kinh Hoa Nghiêm - được các nhà nghiên cứu cho là một trường hợp điển hình về một bộ kinh đã đào sâu và chắt lọc được nhiều đạo lý bao quát từ các bộ kinh khác nhau và nhiều phần trong bộ Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm kinh này vẫn được xem như một kinh văn độc lập, nhất là phần Hoa Nghiêm (sa. gaṇḍavyūha). Kinh Hoa Nghiêm và kinh Diệu Pháp Liên Hoa (zh. 妙法蓮華經, sa. saddharmapuṇḍarīka-sūtra) nhắc đến khái niệm Nhất thừa (zh. 一乘, sa. ekayāna), theo hai bộ kinh này thì nội dung của nó là sự tổng hợp và thống nhất tất cả những giáo lý có trước đó.
Mật tông tại Trung Hoa - còn được biết với tên Chân ngôn tông tại Nhật- thì phát triển một hệ thống kinh văn trên cơ sở cho rằng, các bộ kinh đầu tiên là lời của đức Phật Cồ-đàm, được thuyết giảng dưới dạng Hóa thân (zh. 化身, sa. nirmāṇakāya); bộ kinh thuộc hệ Nhất thừa được Phật thuyết dưới dạng Báo thân, và kinh văn của Mật giáo được truyền dưới dạng Pháp thân (xem thêm Tam thân).
Kinh điển loại ngoài tiêu chuẩn
Trong thời kì đầu của Phật giáo, kinh văn ngoài tiêu chuẩn, hoặc bán tiêu chuẩn, đã đóng một vai trò quan trọng. Nhiều bộ luận quan trọng tồn tại trong Đại tạng kinh tiếng Pali, tiếng Tây Tạng, Trung Hoa và những ngôn ngữ Đông Á khác.
Kinh điển ngoài tiêu chuẩn tiêu biểu có thể kể đến là bộ Thanh tịnh đạo (pi. visuddhimagga), "con đường dẫn đến thanh tịnh" của đại sư Phật Âm (zh. 佛音, pi. buddhaghosa), một tác phẩm gần như bao gồm tất cả giáo lý của Thượng tọa bộ (pi. theravāda) với rất nhiều trích dẫn từ Đại tạng kinh Pali. Na-tiên tỉ-khâu kinh (zh. 那先比丘經, pi. milindapañhā), còn được gọi là Di-lan-đà vấn đạo kinh, là một kinh văn rất nổi tiếng, đúc kết giáo lý Thượng tọa bộ trong những câu hỏi đáp qua lại giữa Tỉ-khâu Na-tiên (zh. 那先, pi. nāgasena) với một ông vua người Hi Lạp tên là Di-lan-đà (zh. 彌蘭陀, pi. milinda, en. menander), cũng là một kinh văn ngoài tiêu chuẩn tiêu biểu khác.
Tác phẩm Đại thừa khởi tín luận (được những người hâm mộ xem là tác phẩm của Mã Minh) đã ảnh hưởng rất lớn đến giáo lý Đại thừa tại Đông Á, đã được chú giải rất nhiều qua các bài luận của nhiều vị đại sư Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Bộ Nhập Bồ-đề hành luận của luận sư Tịch Thiên (zh. 寂天, sa. śāntideva) đã gây ảnh hưởng đến Đại thừa lẫn Kim cương thừa. Một tác phẩm khác của sư là Tập Bồ Tát học luận (sa. śikṣāsamuccaya) lưu lại nhiều trích dẫn từ kinh sách Phạn ngữ ngày nay chưa tìm ra.
Pháp bảo đàn kinh (zh. 法寶壇經) có thể được xem là một tác phẩm bán tiêu chuẩn, và nó cũng là một trong những văn bản được gọi là "kinh" mặc dù không phải do Phật thuyết. Tuy nhiên, cách phân chia "kinh" hay không cũng chỉ là giả định: Trong nguyên văn Hán, bài viết về Lục tổ Huệ Năng được gọi là "kinh" (經), nhưng cách gọi này cũng được người Hoa dùng cho các tác phẩm cổ điển khác như Đạo Đức kinh (zh. 道德經) hoặc Thi kinh (zh. 詩經). Trong kinh Pháp bảo đàn, Huệ Năng trình bày cơ duyên ngộ đạo và nhận y bát cũng như giáo lý thiền. Truyền thống Thiền tông đặc biệt lập cơ sở trên những tác phẩm ngoài tiêu chuẩn ghi lại cuộc đời, cơ duyên hoằng hóa và pháp ngữ của các vị Tổ sư, được gọi là Ngữ lục. Một trong những tác phẩm quan trọng nhất của Thiền gia là Bích nham lục (zh. 碧巖錄)
Phật giáo Tây Tạng lưu lại một loại kinh văn rất đặc thù, được gọi là Tàng lục (zh. 藏錄, bo. གཏེར་མ་). Đây là những văn bản được viết ra, nhưng lại được chôn giấu để người đời sau tìm thấy ở một thời điểm nhất định. Người tìm được Tàng lục được gọi theo tiếng Tây Tạng là Tertön (bo. གཏེར་སྟོན་). Một vài Tàng lục được cất giấu trong các hang động hoặc những chỗ ẩn kín tương tự, nhưng cũng có những bộ được xem là Tâm tàng lục, "cất trong tâm", sẽ được phát hiện bởi Tertön trong tâm thức của chính mình. Trường phái Ninh-mã có lưu giữ một pho Tàng lục to lớn. Nhiều Tàng lục được xem là tác phẩm của Đại sư Liên Hoa Sinh, người giữ vị trí rất lớn trong phái Ninh-mã. Bộ Tàng lục nổi danh nhất có lẽ là bộ Tử thư (bo. བར་དོ་ཐོས་གྲོལ་)
Các loại văn bản ngoài tiêu chuẩn khác giữ vai trò quan trọng trong lĩnh vực lịch sử Phật giáo tại Tích Lan là Đảo sử (zh. 島史, pi. dīpavaṃsa) và Đại sử (zh. 大史, pi. mahāvaṃsa)
Đại tạng kinh của Thượng tọa bộ và những trường phái Nam Tông khác
Có nhiều tranh luận về cách gọi những trường phải cổ và bảo thủ của Phật giáo cũng như các kinh văn hệ thuộc. Thuật ngữ được dùng nhiều nhất có lẽ là "Tiểu thừa" (zh. 小乘, pi., sa. hīnayāna) nhưng lại bị bài bác vì nhiều lý do. Nhiều người đề nghị dùng từ khác như Bộ phái Phật giáo (hoặc Ni-ca-da) để chỉ ngay đến những kinh văn những trường phái này xem là tiêu chuẩn. Chúng được gọi là Bộ kinh (zh. 部經, pi. nikāya) hoặc A-hàm (zh. 阿含, pi., sa. āgama).
Mặc dù có nhiều kinh văn của các Bộ phái được viết bằng tiếng Phạn, nhưng chỉ còn một Đại tạng kinh duy nhất được lưu lại toàn vẹn, đó là Đại tạng kinh tiếng Pali của Thượng tọa bộ. Kinh văn Pali được phân chia thành ba thời kì. Thời kì đầu, cũng được gọi là thời kì cổ điển, bắt đầu với ba tạng kinh và chấm dứt với Na-tiên tỉ-khâu kinh khoảng thế kỉ thứ nhất trước CN. Sau một thời kì mai một (thời kỳ 2 bắt đầu từ thế kỷ 1 TCN đến thế kỷ 4 SCN), tiếng Pali lại được phục hưng ở thế kỉ thứ 4 với cuộc đời và sự nghiệp của đại sư Phật Âm, và kéo dài đến thế kỉ 12. Thời kì thứ ba này (từ thế kỷ 4 trở đi) trùng hợp với những biến đổi chính trị ở Miến Điện.
Luật tạng
Luật tạng đề cập đến những vấn đề giới luật trong Tăng-già. Tuy nhiên, từ Luật (dịch từ tiếng Phạn vinaya) cũng được dùng với từ Pháp (pi. dhamma) như một cặp đi đôi, với Pháp là giáo lý và Luật mang nghĩa thực hành, ứng dụng. Thực tế, Luật tạng chứa đựng hàng loạt thể loại kinh văn khác nhau. Dĩ nhiên có những kinh văn chuyên chú về quy luật trong tăng-già, chúng được lập, được phát triển và ứng dụng như thế nào. Nhưng Luật tạng cũng bao gồm những bài giảng về giáo lý, nghi lễ, nghi thức thực hiện các buổi lễ, tiểu sử và các bài nói về tiền kiếp (xem Bản sinh kinh).
Một điểm khá nghịch lý là Ba-la-đề-mộc-xoa (zh. 波羅提木叉, sa. prātimokṣa), một văn bản tương quan mật thiết với giới luật, được dùng nhiều nhất lại không được xếp vào kinh văn tiêu chuẩn.
Có bảy Luật tạng được lưu lại:
Luật tạng của Thượng tọa bộ (pi. theravādin)
Luật tạng của Đại chúng bộ (sa., pi. mahāsāṃghika), Thuyết nhất thiết hữu bộ (zh. 說一切有部, sa. sarvāstivādin) và Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ (zh. 根本說一切有部, sa. mūlasarvāstivādin), được viết bằng tiếng Phạn.
Luật tạng của Hóa địa bộ (zh. 化地部, sa. mahīśāsaka), Ca-diếp bộ (zh. 迦葉部, sa. kāśyapīya) và Pháp tạng bộ (zh. 法藏部, sa. dharmaguptaka), nguyên được viết bằng tiếng Phạn, nhưng hiện chỉ còn trong Hán tạng.
Tác phẩm Đại sự (zh. 大事, sa. mahāvastu) được biên soạn bởi Thuyết xuất thế bộ (zh. 說出世部, sa. lokottaravādin), - một nhánh của Đại chúng bộ - vốn là tiền văn của một luật tạng mà sau này đã bị tách rời. Thế nên, thay vì nói về luật, Đại sự lại chú tâm đến tiểu sử của Phật, ghi thật rõ những tiến trình của ngài qua Thập địa. Nội dung của Đại sự đã được thâu nhiếp và đưa vào bộ Thập địa kinh (zh. 十地經, sa. daśabhūmika-sūtra) của Đại thừa.
Kinh tạng
Kinh phần lớn là các bài giảng của đức Phật hoặc của một trong những Đại đệ tử của Ngài. Tất cả những gì được ghi lại, ngay cả những gì không phải Phật đích thân thuyết, được xem là Phật ngôn, "lời Phật dạy" (sa., pi. buddhavacana). Ban đầu, các bài giảng của Phật được sắp xếp theo dạng chúng được truyền lại cho đời sau chia ra làm 12 thể loại:
Kinh (經, sa. sūtra) hoặc Khế kinh (zh. 契經), cũng được gọi theo âm là Tu-đa-la (修多羅), chỉ những bài kinh chính Phật thuyết;
Trùng tụng (重頌, sa. geya) hoặc Ứng tụng (zh. 應頌), gọi theo âm là Kì-dạ (祇夜), một dạng kệ tụng mà trong đó nhiều câu được lặp đi lặp lại;
Thụ ký (zh. 受記, sa. vyākaraṇa), âm là Hoa-già-la-na (zh. 華遮羅那), chỉ những lời do Phật thụ ký, chứng nhận cho các Bồ Tát, đệ tử mai sau thành Phật, và những việc sẽ xảy ra...;
Kệ-đà (偈陀, sa. gāthā), cũng được gọi là Ký chú (zh. 記註) hay Phúng tụng (zh. 諷頌), những bài thi ca không có văn xuôi đi trước (trường hàng), xem Kệ;
(Vô vấn) Tự thuyết (zh. [無問]自說, sa. udāna) hoặc Tán thán kinh (zh. 讚歎經), âm là Ưu-đà-na (zh. 憂陀那), chỉ những bài kinh mà Phật tự thuyết, không phải đợi người thỉnh cầu mới trình bày;
Nhân duyên (zh. 因緣, sa. nidāna) hay Quảng thuyết (廣說), gọi theo âm là Ni-đà-na (尼陀那), chỉ những bài kinh nói về nhân duyên khi Phật thuyết pháp và người nghe pháp...;
Thí dụ (譬喻, sa. avadāna) hoặc Diễn thuyết giải ngộ kinh (zh. 演說解悟經), âm là A-ba-đà-na (zh. 阿波陀那), chỉ những loại kinh mà trong đó Phật sử dụng những thí dụ, ẩn dụ để dùng việc đời mà gợi mở việc đạo làm người nghe dễ hiểu hơn;
Như thị pháp hiện (如是法現, sa. itivṛttaka) hoặc Bản sự kinh (本事經), âm là Y-đế-mục-đa-già (醫帝目多伽), chỉ những bài kinh nói về sự tu nhân chứng quả của các vị đệ tử trong quá khứ, vị lai;
Bản sinh kinh (zh. 本生經, sa. jātaka), gọi theo âm là Xà-đà-già (zh. 闍陀伽);
Phương quảng (zh. 方廣), Phương đẳng (方 等, sa. vaipulya) hoặc Quảng đại kinh (zh. 廣大經), gọi theo âm là Tì-phật-lược (毗佛略);
Hi pháp (zh. 希法, sa. adbhutadharma) hoặc Vị tằng hữu (未曾有), âm là A-phù-đà đạt-ma (zh. 阿浮陀達磨), kinh nói về thần lực chư Phật thị hiện, cảnh giới kì diệu, hiếm có mà người phàm không hiểu nổi;
Luận nghị (zh. 論議, sa. upadeśa), cũng được gọi là Cận sự thỉnh vấn kinh (zh. 近事請問經) hoặc theo âm là Ưu-ba-đề-xá (優波提舍), chỉ những bài kinh có tính cách vấn đáp với lý luận cho rõ ngay thẳng, xiên vẹo.
Cách sắp xếp bên trên được các trường phái ngoài Đại thừa chấp nhận, tuy nhiên, Thượng tọa bộ loại bỏ ba phần 6., 7. và 12. ra. Cách phân loại trên cũng được tìm thấy trong Đại tạng của các trường phái Đại thừa.
Tuy nhiên, Thượng tọa bộ đã tìm cách sắp xếp Đại tạng kinh theo cách khác, và kinh của Thượng tọa bộ được xếp lại như sau:
Trường bộ kinh & Trường A-hàm kinh
Bao gồm các bài kinh dài nhất trong các loại kinh văn hệ Pali. Trường bộ (zh. 長部, pi. dīghanikāya) văn hệ Pali có 34 bài kinh mà trong đó, hai bài nổi danh nhất là Đại Bát-niết-bàn kinh (zh. 大般涅槃經, pi. mahāparinibbānasuttanta) và Phạm võng kinh (zh. 梵網經, pi. brahmajālasutta). Trường A-hàm (zh. 長阿含, sa. dīrghāgama) của Pháp tạng bộ chỉ còn trong bản dịch Hán văn, bao gồm 30 bài kinh.
Trung bộ kinh & Trung A-hàm kinh
Trung bộ (zh. 中部, pi. majjhimanikāya) văn hệ Pali có 152 bài kinh, Trung A-hàm (zh. 中阿含, sa. madhyamāgama) của Thuyết nhất thiết hữu bộ có 222 bài, được lưu lại trong Đại tạng kinh Hán văn.
Tương ưng bộ
Bộ kinh này bao gồm nhiều kinh văn ngắn gọn được gom lại theo chủ đề, nhóm và người nói chuyện. Tương ưng bộ (zh. 相應部, pi. saṃyuttanikāya) văn hệ Pali có khoảng 2800 bài kinh, Trường A-hàm (zh. 長阿含, sa. dīrghāgama) của Thuyết nhất thiết hữu bộ chỉ có 1300 bài, được lưu lại trong Đại tạng kinh Hán văn.
Tăng chi bộ kinh & Tăng nhất a-hàm kinh
Bao gồm những bài kinh có cùng Pháp số, Tăng chi bộ (zh. 增支部, pi. aṅguttaranikāya) văn hệ Pali có hơn 2.300 bài kinh. Đại tạng kinh chữ Hán lưu lại bộ Tăng nhất a-hàm (zh. 增一阿含, sa. ekottarāgama), được xem là thuộc bộ Đại tạng kinh của Đại chúng bộ.
Tiểu bộ kinh & Tạp kinh
Không phải tất cả các trường phái đều có thể loại này, nhưng Tiểu bộ (zh. 小部, pi. khuddakanikāya) văn hệ Pali có nhiều bộ kinh nhỏ rất nổi danh và được ưa chuộng, bao gồm:
Pháp Cú kinh (zh. 法句; pi. dhammapada): gồm 426 câu kệ trong 26 chương về các nguyên lý căn bản đạo Phật, được lưu truyền rộng trong các nước theo Thượng tọa bộ;
Tự thuyết (zh. 自說, pi. udāna): gồm 80 bài giảng của đức Phật. Điểm đặc biệt ở đây là những lời của đức Phật tự nhiên thốt ra dạy, không phải do được người khác hỏi mà trả lời. Thế nên cũng gọi là Vô vấn tự thuyết.
Tập bộ kinh (zh. 集部經, pi. sutta-nipāta): một trong những kinh điển cổ nhất, đặc biệt có giá trị văn chương cao;
Trưởng lão tăng kệ (zh. 長老僧偈, pi. thera-gāthā): ghi lại 107 bài kệ của các vị Thượng tọa (pi. thera);
Trưởng lão ni kệ (zh. 長老尼偈, pi. therī-gāthā): gồm 73 bài kệ của các vị ni trưởng lão (pi. therī);
Bản sinh kinh (zh. 本生經, pi. jātaka), ghi chép các mẩu truyện về những kiếp trước của Phật.
Nhiều bộ kinh bên trên còn tồn tại các bản gốc dạng nguyên ngữ cũng như các bản dịch. Ví dụ như kinh Pháp cú còn tồn tại dưới dạng Pali, ba bản dịch Hán văn, một bản Tạng văn và một bản tiếng Khotan.
A-tì-đạt-ma
A-tì-đạt-ma có nghĩa là Thắng pháp hoặc là Vô tỉ pháp (zh. 無比法), vì nó vượt (abhi) trên các pháp (sa. dharma), giải thích trí huệ. A-tì-đạt-ma có liên quan đến sự phân tích các hiện tượng và có lẽ xuất phát từ những bảng liệt kê số pháp, ví như 37 Bồ-đề phần. Mặc dù được xếp vào kinh văn tiêu chuẩn, được xem như là lời của đức Phật nhưng các nhà Phật học hiện đại cho rằng, kinh A-tì-đạt-ma được phát triển rất lâu sau khi đức Phật Thích ca nhập diệt, và phần lớn của tạng kinh A-tì-đạt-ma là kết quả của 200 năm sau do công của A-dục vương (thế kỉ 1) kết tập.
A-tì-đạt-ma của Thượng tọa bộ được lưu lại bằng tiếng Pali. A-tì-đạt-ma của Thuyết nhất thiết hữu bộ được viết bằng tiếng Phạn, được lưu truyền trong hai Đại tạng kinh tiếng Hán và tiếng Tạng.
A-tì-đạt-ma phần lớn phân tích, xử lý các hiện tượng và mối quan hệ giữa chúng.
Không phải trường phái Phật giáo nào cũng xem kinh A-tì-đạt-ma là kinh văn tiêu chuẩn. Kinh lượng bộ (zh. 經量部, sa. sautrāntika) cho rằng, Đại tạng kinh chỉ có Kinh và Luật tạng. Việc chối bỏ các pháp thật sự tồn tại - quan điểm chính của A-tì-đạt-ma - của một số trường phái, được xem là một nhân tố quan trọng của sự hình thành trường phái Đại thừa sau này.
Kinh điển ngoài tiêu chuẩn
Kinh văn ngoài tiêu chuẩn quan trọng đầu tiên có lẽ là Na-tiên tỉ-khâu kinh hay kinh Mi Tiên vấn đáp (Milindapañha), nói về một cuộc đàm thoại giữa một ông vua mộ đạo và một vị Tỉ-khâu trí huệ sắc bén. Bộ này chứa đựng một loạt giáo lý chủ yếu như vô ngã, duyên khởi, v.v. Các học giả sau này xem tác phẩm này là của Thuyết nhất thiết hữu bộ, một trường phái Tiểu thừa khác mặc dù nó được lưu lại Đại tạng của Thượng tọa bộ.
Kinh điển viết bằng tiếng Pali có rất nhiều bản chú giải vẫn chưa được phiên dịch. Chúng được xem là có nguồn từ đầu bút của vị Đại luận sư Phật Âm. Cũng có rất nhiều bản giải thích cho những bản chú giải (bản chú giải các bản chú giải).
Đại luận sư Phật Âm cũng là tác giả của bộ Thanh tịnh đạo luận, "con đường dẫn đến thanh tịnh" được xem là bộ luận trình bày tất cả giáo lý Thượng tọa bộ một cách tổng quát.
Kinh Pháp Bảo Đàn cũng là kinh ngoài tiêu chuẩn, bộ kinh đã ghi chép về phương pháp tu tập giác ngộ qua những hành động và lời giảng dạy của thiền sư không biết chữ là Đại sư Huệ Năng
Kinh điển Đại thừa
Sau đây là một số kinh điển Đại thừa tiêu biểu:
Bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh
Bộ này nói về Bát-nhã, Bát-nhã-ba-la-mật-đa (sa. prajñāpāramitā). Trong hệ thống này, Bát-nhã được xem là khả năng hiểu được "sự thật như nó vẫn là", không chứa bất cứ một luận cứ triết học nào cả, chỉ nhằm thẳng bản chất của sự có, đặc biệt chỉ bằng cách dùng phương pháp nói ngược. Cơ sở quan trọng ở đây là sự vật không có hai mặt, mà trên nó, tất cả những phương pháp nhị nguyên để nhìn vào sự vật đều bị bác bỏ: Các pháp - các hiện tượng - không tồn tại mà cũng không không tồn tại, nhưng lại mang dấu ấn của tính Không, với sự vắng mặt lâu dài của một "bản chất không biết". Nhất tự bát-nhã kinh minh họa quan điểm Bát-nhã-ba-la-mật-đa bằng cách dùng tiếp đầu âm अ a tiếng Phạn. Chữ अ khi gắn vào đầu một từ thì sẽ phủ định nó, cho nó một nghĩa ngược lại.
Nhiều bộ kinh Bát-nhã được biết với tên là độ dài hoặc số dòng kệ tụng chúng chứa đựng. Edward Conze, người đã dịch tất cả những bộ kinh Bát-nhã còn được lưu lại bằng Phạn ngữ sang tiếng Anh, đã nhận ra bốn thời kì phát triển của hệ kinh này:
100 TCN-100: Bảo đức tích tụ bát-nhã (sa. ratnaguṇasaṃcayagāthā) và Bát thiên tụng bát-nhã (sa. aṣṭasāhasrikā).
100-300: Thời kì phát triển với Bát nhã 18.000, 25.000, và 100.000 dòng được biên tập. Kim cương bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh (sa. vajracchedikāprajñāpāramitā-sūtra) có thể được viết trong thời gian này.
300-500: Thời kì lắng đọng lại. Bát-nhã tâm kinh và Nhất tự bát-nhã được biên tập.
500-1000: Văn bản thời này bắt đầu mang dấu tích của Mật giáo, chịu ảnh hưởng của Đát-đặc-la.
Kinh điển hệ Bát-nhã đã ảnh hưởng lớn đến tất cả các trường phái Phật giáo Đại thừa.
Diệu Pháp Liên Hoa kinh
Diệu Pháp Liên Hoa kinh (zh. 妙法蓮華經, sa. saddharmapuṇḍarīka-sūtra) cũng được gọi tắt là kinh Pháp Hoa, có lẽ được biên tập vào thời kì 100 TCN đến 100 CN. Trong kinh này, đức Phật đã chỉ rõ có nhiều cách để giác ngộ, nhưng chúng chỉ là phương tiện nhất thời và thực chất chúng chỉ là một. Các phương tiện khác nhau như Thanh Văn thừa, Độc Giác thừa, hay Bồ Tát thừa thật ra chỉ khác nhau vì nhu cầu phù hợp với căn cơ của hành giả. Phật chỉ tùy cơ duyên, sử dụng các Phương tiện (sa. upāya) mà nói Tam thừa nhưng thực chất chỉ có Phật thừa (sa. buddhayāna) – để dẫn đến Giác ngộ, bao trùm cả Đại thừa lẫn Tiểu thừa.
Một điểm đáng lưu ý ở đây là sự (tái) xuất hiện của Phật Đa Bảo (zh. 多寳, sa. prabhūtaratna) - vốn đã nhập diệt nhiều kiếp trước - vì sự việc này gợi ý là chúng sinh vẫn có thể cầu Phật sau khi Phật nhập Niết-bàn, và như vậy Phật sống vô lượng kiếp vì đã tích tụ vô lượng vô số công đức trong các tiền kiếp. Quan điểm này, không nhất thiết phải bắt nguồn từ kinh Pháp Hoa, đã dẫn đến khái niệm Tam thân của một vị Phật. Trong thời gian sau đó, kinh này quan hệ mật thiết với tông Thiên Thai và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
Tịnh độ kinh
Có ba bộ kinh chính được xếp vào loại này, đó là: Vô Lượng Thọ kinh (zh. 無量壽經, sa. sukhāvatīvyūha-sūtra), Quán Vô Lượng Thọ kinh (zh. 觀無量壽經, sa. amitāyurdhyānasūtra) và A-di-đà kinh (zh. 阿彌陀經, sa. amitābhasūtra, cũng được gọi là Tiểu Vô Lượng Thọ kinh 小無量壽經). Ba bộ này miêu tả nguồn gốc và bản chất của Tây phương Tịnh độ, nơi ở của Phật A-di-đà, liệt kê 48 lời nguyện của Pháp Tạng khi còn là một vị Bồ Tát. Ngài phát nguyện dựng nên một Tịnh độ, nơi chúng sinh với tâm thức thanh tịnh có thể thác sinh, sửa mình theo Phật pháp mà không gặp chướng ngại. Chúng sinh chỉ cần niệm tên, ngợi ca công đức của Phật A-di-đà là có thể tái sinh vào cõi Cực Lạc. Ba bộ kinh này (Tịnh độ tam bộ kinh 淨土三部經) trở thành cơ sở của Tịnh độ tông mà niềm tin đặt hết vào nơi tha lực trong quá trình tu tập.
Duy-ma-cật sở thuyết kinh
Duy-ma-cật sở thuyết kinh là một bộ kinh độc lập, được biên tập vào khoảng đầu thế kỉ thứ 2. Bồ Tát Duy-ma-cật xuất hiện dưới dạng cư sĩ để thuyết pháp, nhấn mạnh đến việc tu tập của hàng cư sĩ. Về mặt giáo lý thì kinh này giống kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Một chủ đề lớn khác trong kinh này là các Tịnh độ của chư Phật (Phật độ 佛土, sa. buddhakṣetra), đã ảnh hưởng lớn đến Tịnh độ tông sau này. Kinh này rất phổ biến tại các nước theo Đại thừa Phật giáo tại Đông Á như Trung Quốc, Nhật Bản, và Việt Nam, có lẽ vì giáo lý trong kinh thích hợp với Nho giáo.
Tam-ma-địa kinh
Kinh văn loại này này được xem là những bộ kinh Đại thừa cổ nhất. Chúng nhấn mạnh việc thành tựu các cấp Tam-ma-địa (zh. 三摩地, sa. samādhi), "định", trong lúc ngồi thiền, và như thế gợi thấy là thiền định đã giữ một vị trí quan trọng trong Đại thừa ban sơ. Thuộc loại kinh này là Bát-chu-tam-muội kinh (zh. 般舟三昧經, sa. pratyutpannabuddhasammukhāvasthita-samādhi-sūtra) và Thủ-lăng-nghiêm-tam-muội kinh (zh. 首楞嚴三昧經, sa. śūraṃgamasamādhisūtra).
Sám hối kinh
Tam uẩn kinh (sa. triskandhasūtra) và Kim quang minh tối thắng vương kinh (gọi tắt là Kim Quang Minh kinh) đặt nặng đến việc tự kể về mình, sám hối tội lỗi. Đặc biệt là bộ kinh Kim Quang Minh được vương triều Nhật Bản thời ấy chú trọng. Một chương của trang này được triều đình dùng để chính thống hóa hình thức cai trị và dùng làm cơ sở cho một đất nước phồn thịnh lý tưởng.
Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm kinh
Là một bài kinh tổng hợp nhiều thành phần, cụ thể là Thập địa kinh (zh. 十地經, sa. daśabhūmika-sūtra) và Hoa Nghiêm kinh. Có lẽ bộ kinh có được dạng này vào khoảng thế kỉ thứ 4, mặc dù các thành phần của nó, như những phần được nói bên trên, được xem là xuất hiện ở thế kỉ thứ 1 hoặc thứ 2. Kinh Hoa Nghiêm được xem là nguồn của sự tôn xưng đức Phật Đại Nhật, sau này, kinh là cơ sở phát triển của bộ Đại Tì-lô-giá-na thành Phật thần biến gia trì kinh (zh. 大毘盧遮那成佛神變加持經, sa. mahāvairocanābhisambodhitantra), một trong hai bộ kinh trung tâm của Chân ngôn tông, cũng được đưa vào Đại tạng kinh Tây Tạng trong nhóm Hành đát-đặc-la (sa. caryā-tantra). Kinh Hoa Nghiêm sau trở thành bộ kinh chính của tông mang cùng tên, tông Hoa Nghiêm tại Trung Quốc với giáo lý xoay quanh sự xuyên suốt của vạn vật.
Kinh thời chuyển pháp luân thứ ba hay kinh hệ Duy thức
Đây là những bộ kinh nói về thuyết "duy tâm", "duy thức" có liên hệ với Du-già hành tông (sa. yogācārin). Kinh Giải thâm mật (~ thế kỉ thứ 2) được xem là bộ kinh cổ nhất của loại này. Kinh này chia giáo lý của Phật thành ba loại và gọi là "ba thời chuyển pháp luân". Thuộc lần "quay bánh xe pháp" đầu tiên là những bài kinh hệ A-hàm của hàng Thanh Văn; thuộc loại kinh thời chuyển pháp luân thứ hai là bộ kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa và cuối cùng, các bộ kinh liệt kê chính chúng vào lần chuyển pháp luân thứ ba. Thêm vào đó, kinh thuộc hai thời đầu được xem là vị liễu nghĩa, "chưa được giảng rõ ràng", mà chỉ những bộ kinh thuộc thời thứ ba này được xem là "liễu nghĩa", bao hàm ý nghĩa trọn vẹn. Bộ Nhập Lăng-già kinh cũng được xếp vào loại này mặc dù có bản chất tổng hợp nhiều giáo lý, pha trộn giáo lý Du-già với hệ thống Như Lai tạng và có vẻ như các vị sư khai sáng Duy thức tông không nhắc đến hoặc không lưu ý đến nó. Kinh này giữ một vị trí quan trọng trong Thiền tông.
Như Lai Tạng kinh
Thuộc về loại này là các bộ Như Lai tạng kinh (zh. 如來藏經, sa. tathāgatagarbhasūtra), Thắng Man sư tử hống nhất thừa đại phương tiện phương quảng kinh (zh. 勝鬘師子吼一乘大方便方廣經, sa. śrīmālāsiṃhanādasūtra) và Đại bát-niết-bàn kinh (zh. 大般涅槃經, sa. mahāparinirvāṇasūtra) hệ Đại thừa (rất khác với bộ kinh cùng tên văn hệ Pali). Ba bộ kinh này dạy rằng, mỗi chúng sinh đều có Như Lai tạng, được dịch và hiểu là Phật tính, Phật chủng (hạt giống Phật). Phật tính ở đây chính là khía cạnh của mỗi chúng sinh vốn đã giác ngộ và vì vậy có khả năng làm chúng sinh giác ngộ. Đây là một trong những ứng đáp quan trọng nhất từ phía Phật giáo cho vấn đề của nội tại và siêu việt. Giáo lý Như Lai tạng gây ảnh hưởng rất lớn cho nền Phật giáo Đông Á và tư tưởng này có thể được tìm thấy - dưới dạng này hay khác - trong tất cả các trường phái Phật giáo tại đây.
Kinh tập hợp
Thuộc về loại này là hai bộ kinh rất lớn với tính cách tập hợp những bộ kinh khác. Kinh Đại bảo tích (zh. 大寶積經, sa. mahāratnakūṭasūtra) bao gồm 49 bài kinh riêng biệt, và Đại tập kinh (zh. 大集經, sa. mahāsaṃnipātasūtra), gồm 17 bài kinh tương đối ngắn. Cả hai bộ kinh đều được xem là được biên tập vào thế kỉ thứ 5, mặc dù chứa những bài kinh cổ hơn nhiều.
Kinh nói về sự thác sinh và nơi thác sinh
Một số kinh tập trung vào các nghiệp dẫn đến sự thác sinh vào những cõi khác nhau, hoặc đặc biệt chú trọng đến giáo lý duyên khởi với 12 nhân duyên.
Kinh nói về giới luật
Thuộc về loại này là những bộ kinh nói về các nguyên tắc hướng dẫn các vị Bồ Tát. Ba bộ kinh tiêu biểu cho loại này là:
Phổ Minh Bồ Tát hội (zh. 普明菩薩會, sa. kāśyapaparivarta) nằm trong bộ kinh Đại bảo tích (zh. 大寶積經, sa. mahāratnakūṭasūtra),
Bồ Tát giới bản (zh. 菩薩戒本, sa. bodhisattvaprātimokṣa) và
Phạm võng kinh (zh. 梵網經, sa. brahmajālasūtra).
Kinh nói về những nhân vật được sùng bái
Có nhiều bộ kinh nói về bản chất và công đức của một vị Phật, Bồ Tát, hoặc các Tịnh độ đặc thù của chư vị, bao gồm Văn-thù-sư-lợi (zh. 文殊師利, sa. mañjuśrī), Địa Tạng (zh. 地藏, sa. kṣitigarbha), Phật A-súc (zh. 阿閦, sa. akṣobhya) và Phật Dược Sư (z. 藥師, sa. bhaiṣajyaguru).
Tiền Đại thừa kinh
Đầu thế kỉ 20, một kho kinh điển được tìm thấy trong một gò đất gần Gilgit, Afghanistan. Một trong số kinh văn được tìm thấy là bộ Vô năng thắng quân kinh (sa. ajitasenasūtra). Kinh này dường như là một sự kết hợp của tư tưởng Đại thừa và Tiền đại thừa. Nội dung kinh diễn biến trong phạm vi ngôi chùa của các tăng-già, giống như trường hợp các bộ kinh văn hệ Pali; kinh không có những điểm tương phản giữa hàng Thanh Văn (hoặc Tiểu thừa) hoặc nhắc đến thánh quả A-la-hán như trường hợp các kinh văn Đại thừa khác như kinh Pháp Hoa hoặc kinh Duy-ma-cật. Tuy nhiên, kinh cũng nhắc đến một A-la-hán thấy được các cõi Phật. Kinh nói rằng việc niệm danh kinh sẽ cứu độ chúng sinh thoát khỏi khổ đau cũng như các đoạ xứ, và một cách thiền quán được kinh văn đề cao là sẽ giúp hành giả thấy với cặp mắt Phật, và nhận giáo lý từ chư vị. Những điểm này rất giống với kinh văn Đại thừa sau này.
Kinh luận ngoài tiêu chuẩn
Luận văn chú giải, diễn giảng của Đại thừa rất nhiều và rộng, và trong nhiều trường hợp, các bài luận này được xem là quan trọng hơn cả kinh văn tiêu chuẩn.
Căn bản trung quán luận tụng (zh. 根本中觀論頌, sa. mūlamādhyamikakārikā) của Long Thụ (zh. 龍樹, sa. nāgārjuna) là bộ luận nền tảng của triết học Trung quán, có chủ đề như các bộ kinh thuộc hệ Bát-nhã-ba-la-mật-đa mặc dù không hẳn là luận văn chú giải các bài kinh này.
Vào khoảng thế kỉ thứ 9, Tịch Thiên (zh. 寂天. sa. śāntideva) tác phẩm hai luận văn quan trọng là Nhập bồ-đề hành luận (sa. bodhicaryāvatāra) và Tập học luận (sa. śikṣāsamuccaya). Nhập bồ-đề hành luận có ảnh hưởng rất lớn đến nhiều nhánh Đại thừa và cũng là bài luận vừa ý nhất của đức Đạt-lại Lạt-ma thứ 14, Đăng-châu Gia-mục-thố. Luận bắt đầu với việc thực hiện nghi lễ tôn kính, sau đó tiến đến phần giảng giải sáu Ba-la-mật-đa. Chương thứ 9 là một cách trình bày quan điểm Bát-nhã-ba-la-mật-đa của trường phái Trung quán-Cụ duyên (zh. 具緣派, sa. prāsaṅgika) cũng như chê trách những trường phái Phật giáo khác trên cơ sở Trung quán. Tập học luận, như tên cho thấy, là một bài luận tập hợp các giáo lý từ nhiều bài kinh Đại thừa. Nhiều bộ kinh được nhắc đến trong luận đã không còn nữa, chỉ biết được qua những lời trích dẫn trong kinh.
Đại sư Vô Trước (zh. 無著, sa. asaṅga) là người sáng lập trường phái Duy thức. Tương truyền Đại sư đã tiếp nhận nhiều bộ luận từ Bồ Tát Di-lặc tại cung trời Đâu-suất (sa. tuṣita). Những bộ luận đó là:
Biện trung biên luận tụng (sa. madhyāntavibhāga-kārikā)
Đại thừa kinh trang nghiêm luận tụng (sa. mahāyānasūtralaṅkāra-kārikā)
Hiện quán trang nghiêm luận tụng (sa. abhisamayā-laṅkāra-nāmaprajñāpāramitā-upadeśa-śāstra [-kārikā] thường được viết tắt là abhisamayālaṅkāra-śāstra)
Đại sư Vô Trước cũng được xem là tác giả của Nhiếp đại thừa luận (sa. mahāyānasaṃgraha), Du-già sư địa luận (sa. yogācārabhūmi-śāstra) và Đại thừa a-tì-đạt-ma tập luận (sa. abhidharma-samuccaya). Đại thừa a-tì-đạt-ma tập luận có thể được xem là luận văn tổng hợp giáo lý A-tì-đạt-ma và đã trở thành bộ luận tiêu chuẩn trong nhiều trường phái Đại thừa, đặc biệt là tại Tây Tạng. Riêng Du-già sư địa luận có thể là tác phẩm của nhiều người.
Em của Đại sư Vô Trước là Luận sư Thế Thân (zh. 世親, sa. vasubandhu) đã viết nhiều bộ luận Duy thức như:
Tam tính luận (sa. trisvabhāva-nirdeśa)
A-tì-đạt-ma-câu-xá luận (sa. abhidharmakośaśāstra)
Duy thức nhị thập luận (tụng) (sa. viṃśatikāvijñāptimātratāsiddhi-kārikā)
Duy thức tam thập tụng (sa. triṃśikā-vijñāptimātratāsiddhi-kārikā)....
Tác phẩm có ảnh hưởng lớn nhất của Luận sư Thế Thân tại Đông Á có lẽ là Duy thức tam thập tụng. Theo một vài nhà nghiên cứu thì có thể có đến hai vị luận sư cùng tên Thế Thân và người trước đã viết bộ A-tì-đạt-ma-câu-xá luận, người sau đã soạn những tác phẩm Duy thức. Tuy nhiên, nhà Phật học Lê Mạnh Thát đã chứng minh trong The Philosophy of Vasubandhu rằng chỉ có một Thế Thân và giả thuyết "hai Thế Thân" có một cơ sở sai lầm.
Trần-na (zh. 陳那, sa. (mahā-)dignāga, diṅnāga) được xem là đại biểu của trường phái Nhận thức học (en. epistemology), gọi theo thuật ngữ nhà Phật là Nhân minh học (sa. hetuvidyā). Tập "đại thành" của Trần-na là Tập lượng luận (sa. pramāṇasamuccaya), được Pháp Xứng (zh. 法稱, sa. dharmakīrti) bổ sung thêm bài luận giải cơ bản, rất có giá trị là Lượng thích luận (zh. 量釋論, sa. pramāṇavarttika-kārikā).
Đại thừa khởi tín luận (sa. mahāyānaśraddhotpāda-śāstra) của Đại sư Mã Minh (zh. 馬鳴, sa. aśvaghoṣa) có ảnh hưởng rất lớn đến nền Phật giáo Đông Á, đặc biệt là trường phái Hoa Nghiêm tại Trung Quốc và Nhật. Các tác phẩm còn lại của Đại sư Mã Minh cũng rất được ưa chuộng.
Kim Cương thừa kinh
Đát-đặc-la Phật giáo
Đại tạng kinh của Kim cương thừa (zh. 金剛乘, sa. vajrayāna) bao gồm những kinh văn A-hàm của một số trường phái cũng như kinh điển Đại thừa. Tuy nhiên, những bộ kinh Kim cương thừa đặc thù có chứa các Đạt-đặc-la mới chính là tinh hoa của Đại tạng kinh này. Chúng được xem là lời của đức Phật, Đại tạng kinh Tây Tạng có khoảng 500 Đát-đặc-la (zh. 怛特羅, sa. tantra) và hơn 2000 bài luận giải hệ thuộc. Các bộ Đát-đặc-la có những điểm đặc thù, ví như đặc biệt chú trọng đến nghi lễ cũng như các phép thiền quán.
Truyền thống Tây Tạng sau này phân chia kinh văn Đát-đặc-la thành bốn loại, cụ thể là:
Tác đát-đặc-la (sa. kriyā-tantra): chiếm phần lớn kinh văn Đát-đặc-la nhưng có ít tầm quan trọng, xuất hiện giữa thế kỉ thứ 2 và 6. Đát-đặc-la này chú ý đến phép tu luyện thông qua các hành động (nghi lễ v.v...). Mỗi Tát Đát-đặc-la xoay quanh nghi thức thờ cúng một vị Phật hoặc Bồ Tát, và nhiều vị lại đứng quanh những Đà-la-ni (sa. dhāraṇī). Kinh văn tiêu biểu cho nhóm này là Đại vân kinh (sa. mahāmeghasūtra), Văn-thù-sư-lợi căn bản nghi quỹ (zh. 文殊師利根本儀軌經, sa. āryamañjuśrīmūlakalpa), Subhāparipṛcchāsūtra và Aparimitāyurjñānahṛdayadhāraṇī.
Hành đát-đặc-la (sa. caryā-tantra): Có một ít kinh văn thuộc thể loại Hành Đát-đặc-la, loại kinh có lẽ xuất hiện vào thế kỉ thứ 6, phép tu luyện hoàn toàn hướng đến việc tôn xưng đức Phật Đại Nhật. Ví dụ tiêu biểu là bộ Đại Tì-lô-giá-na thành Phật thần biến gia trì kinh (zh. 大毘盧遮那成佛神變加持經, sa. mahāvairocanābhisambodhitantra). Đát-đặc-la này sau được xem là kinh văn chính của tông Chân ngôn.
Du-già-đát-đặc-la (sa. yoga-tantra): Phép tu luyện cũng hướng đến đức Phật Đại Nhật, bao gồm thêm hai bộ Nhất thiết Như Lai chân thật nhiếp đát-đặc-la (sa. sarvatathāgatatattvasaṃgrahatantra) và Nhất thiết nghiệp chướng thanh tịnh đát-đặc-la (sa. sarvadurgatipariśodhanatantra).
Vô thượng du-già-đát-đặc-la (sa. anuttarayoga-tantra): Thể loại Đát-đặc-la cấp cao nhất này tập trung vào sự chuyển hóa tâm thức, ít lưu ý đến các nghi lễ bên ngoài. Chúng thỉnh thoảng được xếp theo Thân phụ đát-đặc-la và Thân mẫu đát-đặc-la:
Thứ nhất là loại Du-già vượt trội hơn (sa. yogottara), cũng được gọi là Thân phụ đát-đặc-la hoặc Phương tiện đát-đặc-la (sa. upāyatantra). Việc tu luyện nhắm đến đức Phật A-súc và nữ hành giả tùy tòng là Ma-ma-ki (sa. māmaki). Bộ Bí mật tập hội được xem là thuộc loại này, có lẽ xuất phát từ thế kỉ thứ 8.
Thứ hai là những Đát-đặc-la thuộc hệ Bát-nhã hoặc hệ Thân mẫu (cũng được gọi là Du-già-ni đát-đặc-la, sa. yoginī-tantra). Đức Phật A-súc vẫn là mục đích chủ đạo, nhưng giờ đây xuất hiện dưới dạng giận dữ là Thần thể Hê-ru-ka (sa. heruka). Các vị Phật nữ giờ đây đóng vai trò quan trọng hơn nhiều, ngang bằng những vị Phật nam hoặc không chừng là quan trọng hơn. Nhiếp đát-đặc-la (sa. saṃvaratantra) được dịch sang Tạng ngữ trong thế kỉ thứ 8. Những kinh văn khác thuộc nhóm này, ví như Hô kim cương đát-đặc-la (sa. hevajratantra), xuất hiện khoảng thế kỉ thứ 10.
Thời luân đát-đặc-la thỉnh thoảng được xem là một Bất nhị đát-đặc-la (sa. advayatantra). Bộ này xuất hiện rất trễ trong quá trình phát triển Mật giáo - vào khoảng giữa thế kỉ 11 - được viết bằng tiếng Phạn cổ điển rất chuẩn thay vì tiếng Phạn pha trộn cũng như lối văn ngầm chỉ(sa. saṃdhyābhāṣā) thường thấy trong những bộ khác. Lần đầu tiên giáo lý lại quay về đức Phật Bản Sơ (sa. ādibuddha).
Chứng cứ văn bản cho thấy rằng, một số Đát-đặc-la có nguồn từ Đát-đặc-la hệ Thấp-bà (sa. śaiva), được tiếp thu, thay đổi cho phù hợp cách tu luyện Phật giáo và có nhiều điểm giống nhau về nghi lễ cũng như hình tượng của Phật giáo Đại thừa mà chúng vẫn còn tồn tại đến ngày nay.
Các tác phẩm khác của Kim cương thừa
Thành tựu pháp man (sa. sādhanamālā) là một tập nói về các Thành tựu pháp.
Các hành giả Kim cương thừa, cũng được gọi là Thành tựu giả (sa. siddha) thường dạy bằng những bài ca. Những tuyển tập như Sở hạnh ca (sa. caryāgīti), bao gồm những bài ca nói về sở hạnh của nhiều vị Thành tựu giả rất phổ biến. Đạo-bả tập (sa. dohakośa) là một tác phẩm tiêu biểu khác của Đại thành tựu giả Sa-ra-ha (sa. saraha), thế kỉ thứ 9. Mật-lặc-nhật-ba thập vạn ca (100.000 bài ca của Mật-lặc-nhật-ba, en. The Hundred Thousand Songs of Milarepa) cũng rất nổi tiếng.
Tàng lục (zh. 藏錄, bo. གཏེར་མ་) là những văn bản được tác phẩm, nhưng lại được chôn giấu để người đời sau tìm thấy ở một thời điểm nhất định. Liên Hoa Sinh đã viết, và giấu nhiều Tàng lục. Bộ Tàng lục nổi danh nhất có lẽ là bộ Tử thư (bo. བར་དོ་ཐོས་གྲོལ་). Người tìm được Tàng lục được gọi theo tiếng Tây Tạng là Tertön (bo. གཏེར་སྟོན་).
Không Hải có viết một loạt luận giải đặc thù cho truyền thống Chân ngôn tông Nhật Bản.
Xem thêm
Tam tạng
Tứ diệu đế
Tham khảo
The Rider Encyclopedia of Eastern Philosophy and Religion. London, Rider, 1989.
Nakamura, Hajime. 1980. Indian Buddhism: A Survey with Bibliographical Notes. 1st edition: Japan, 1980. 1st Indian Edition: Delhi, 1987. ISBN 81-208-0272-1
Skilton, Andrew. A Concise History of Buddhism. Birmingham, Windhorse Publications, 1994.
Warder, A. K. 1970. Indian Buddhism. Motilal Banarsidass, Delhi. 2nd revised edition: 1980.
Williams, Paul. Mahayana Buddhism: The Doctrinal Foundations. London, Routledge, 1989.
Zürcher, E. 1959. The Buddhist Conquest of China: The Spread and Adaptation of Buddhism in Early Medieval China. 2nd edition. Reprint, with additions and corrections: Leiden, E. J. Brill, 1972.
Tham khảo
Liên kết ngoài
The British Library: Discovering Sacred Texts - Buddhism
Online Dharma Libraries
The Buddhist Text Translation Society
SuttaCentral
Pali Canon
Bibliography of Translations from the Chinese Buddhist Canon
Buddhist Canonical Text Titles and Translations in English
Tiếng Việt
Thư viện Hoa Sen
Kinh Phật Tiếng Việt
|
24126
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Y%C3%AAn%20T%E1%BB%AD%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
Yên Tử (định hướng)
|
Yên Tử là một dãy núi thuộc cánh cung Đông Triều, nằm tại ranh giới hai tỉnh Quảng Ninh và Bắc Giang. Ngoài ra, danh xưng Yên Tử còn có thể chỉ:
Khu di tích lịch sử và danh thắng Yên Tử: gồm một cụm các công trình kiến trúc Phật giáo như chùa, tháp tại thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh
Hội Yên Tử: lễ hội hành hương vào mùa xuân tại khu di tích Yên Tử, bắt đầu từ ngày 10 tháng Giêng hằng năm và kéo dài suốt 3 tháng
Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc: một hệ thống hơn 70 điểm di tích, được cấu thành từ 5 cụm di tích gồm Khu di tích Yên Tử, Khu di tích nhà Trần tại Đông Triều (Quảng Ninh), Khu di tích và danh thắng Tây Yên Tử (Bắc Giang) và Khu di tích Côn Sơn – Kiếp Bạc (Hải Dương).
Xem thêm
Thiền phái Trúc Lâm
Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử
Tây Yên Tử
Yên Từ
|
24127
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hi%E1%BB%87u%20%E1%BB%A9ng%20Coriolis
|
Hiệu ứng Coriolis
|
Hiệu ứng Coriolis là hiệu ứng xảy ra trong các hệ quy chiếu quay so với các hệ quy chiếu quán tính, được đặt theo tên của Gaspard-Gustave de Coriolis-nhà toán học, vật lý học người Pháp đã mô tả nó năm 1835 thông qua lý thuyết thủy triều của Pierre-Simon Laplace. Nó được thể hiện qua hiện tượng lệch quỹ đạo của những vật chuyển động trong hệ quy chiếu này. Sự lệch quỹ đạo do một loại lực quán tính gây ra, gọi là lực Coriolis. Lực Coriolis được xác định bằng công thức sau:
Với: m là khối lượng của vật, v là véctơ vận tốc của vật, ω là véctơ vận tốc góc của hệ, còn dấu × là tích véctơ. Phương trình trên đây là phương trình véctơ.
Ví dụ
Nếu một vật chuyển động dọc theo đường bán kính theo chiều rời xa trục quay của hệ qui chiếu thì sẽ chịu tác động của một lực theo phương vuông góc với bán kính và theo chiều ngược với chiều quay của hệ. Còn nếu vật chuyển động về phía trục quay thì lực sẽ tác động vào vật theo chiều quay của hệ qui chiếu.
Điều này nghĩa là nếu vật được thả lăn tự do theo phương của bán kính, theo chiều ra phía ngoài, thì nó sẽ quành về ngược chiều quay của hệ qui chiếu. Còn nếu như vật được thả lăn tự do về phía trục thì sẽ ngược lại.
Phương của lực quán tính li tâm thì cùng phương với nên lực quán tính li tâm không làm cho vật bị lệch quỹ đạo, lực Coriolis có phương vuông góc với mặt phẳng tạo bởi và nên làm cho vật bị lệch hướng quỹ đạo, quả bóng không đứng yên so với người quan sát đứng trên bàn quay mà chuyển động theo một quỹ đạo là một đường cong, viên bi không lăn ra theo đường bán kính mà bị lệch thành đường cong ngược theo chiều quay của đĩa, vật rơi có hiện tượng lệch về phía đông do Trái Đất quay từ Tây sang Đông.
Trên Trái Đất
Trái Đất quay quanh trục của mình, vì thế mà các vật chuyển động trên Trái Đất đều chịu hiệu ứng Coriolis.
Ở phía bắc bán cầu, các vật chuyển động có xu hướng vòng sang phải, còn ở nam bán cầu thì vòng trái (nhìn theo chiều chuyển động của vật). Đối với các vật chuyển động dọc theo đường vĩ tuyến (ở Bắc cũng như Nam Bán Cầu) thì hiệu ứng Coriolis không làm lệch hướng chuyển động mà chỉ làm cho vật nặng hơn lên (khi chuyển động về phương Tây), hoặc nhẹ bớt đi (khi chuyển động về phương Đông). Còn đối với các vật rơi tự do thì chúng đều có điểm rơi lệch về phía Đông so với điểm rọi thẳng đứng của nó (bỏ qua ảnh hưởng của gió).
Hiệu ứng này khó cảm nhận được, do chuyển động quay của Trái Đất rất chậm. Nó chỉ xuất hiện trong các quá trình kéo dài, hoặc tác động vào những vật chuyển động nhanh, hay các vật "tự do" tức là tổng các lực tác động lên nó là nhỏ cỡ độ lớn của lực Coriolis. Sau đây là một vài ví dụ về ảnh hưởng của hiệu ứng Coriolis:
Trên Bắc Bán Cầu gió thổi có xu hướng vòng phải, còn ở Nam Bán Cầu thì vòng trái;
Ở trên cả hai bán cầu, bờ Tây các con sông chảy theo hướng Bắc – Nam là chủ yếu và ngược lại bị xói mòn nhiều hơn bờ Đông;
Các con sông chảy theo hướng từ Tây sang Đông thường là các con sông lớn hơn các con sông chảy theo hướng ngược lại. Trên thực tế, các con sông lớn có dòng chảy chủ yếu gần song song với xích đạo theo hướng Tây - Đông thường là sông lớn: Sông Dương Tử, Sông Amazon, Sông Danube...
Ví dụ, nếu từ một miền nào đó trên Bắc Bán Cầu có luồng gió bắt đầu thổi về phía Cực Bắc, nghĩa là luồng gió này tiến về những vùng vĩ tuyến có vận tốc dài nhỏ hơn so với nó, do vậy gió thổi tới các miền ở phương Bắc không theo chiều Bắc mà theo chiều Tây-Bắc. Càng xa điểm xuất phát bao nhiêu thì thành phần "phương Đông" càng lớn bấy nhiêu. Đối với người quan sát trên mặt đất thì hiện tượng này trông như thể có một lực nào đấy tác động từ phía Tây về phía Đông. Lực này chính là lực Coriolis.
Hiệu ứng Coriolis phải được để ý tới trong các lĩnh vực như pháo binh, tên lửa đạn đạo (không phải "tên lửa hành trình", vì loại này tự lái tìm mục tiêu), hoa tiêu hàng không, hàng không vũ trụ.
Người đầu tiên đã kiểm chứng bằng thực nghiệm hiệu ứng Coriolis là Léon Foucault, bằng "con lắc Foucault" nổi tiếng của mình.
Xem thêm
Gió mậu dịch
Lực hướng tâm
Tham khảo
C
Lực quán tính
Hiện tượng vật lý
Cơ học cổ điển
Xoay tròn
|
24128
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gaspard-Gustave%20de%20Coriolis
|
Gaspard-Gustave de Coriolis
|
Gaspard-Gustave de Coriolis hay Gustave de Coriolis (21 tháng 5 năm 1792 tại Paris – 19 tháng 9 năm 1843 tại Paris) là nhà toán học, kiêm vật lý học người Pháp.
Ông từng giữ chức phó giáo sư bộ môn toán tại trường Bách khoa Paris từ 1816 đến 1838.
Ông cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Pháp. Đã từng nghiên cứu về các định luật của chuyển động, nhất là các chuyển động trên mặt đất.
Ông là người đã đưa thuật ngữ "công" vào môn cơ học.
Xem thêm
Hiệu ứng Coriolis
Chú thích
Coriolis, Gaspard-Gustave
Coriolis, Gaspard-Gustave
Coriolis, Gaspard-Gustave
Nhà toán học thế kỷ 18
Người Paris
Nhà vật lý lý thuyết
Sinh năm 1792
Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Pháp
Chôn cất tại nghĩa trang Montparnasse
Nhà khoa học từ Paris
|
24134
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BA%A7u%20l%C3%B4ng%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20%C4%90%C3%B4ng%20Nam%20%C3%81%202005
|
Cầu lông tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2005
|
Bộ môn Cầu lông tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2005 được thi đấu tại nhà thi đấu PhilSports Arena, thành phố Pasig, Philippines từ ngày 28 tháng 11 cho đến ngày 3 tháng 12 năm 2005. Giải tranh 7 bộ huy chương ở 5 nội dung cá nhân và 2 nội dung đồng đội.
Là một trong những môn thể thao hiếm hoi trong Thế vận hội mà các quốc gia Đông Nam Á có chỗ đứng trên bản đồ thế giới, các trận thi đấu của bộ môn cầu lông tại SEA Games luôn giành được sự quan tâm đặc biệt của giới truyền thông cũng như là những cuộc đấu có sự cạnh tranh và sức hấp dẫn rất cao. Tại kỳ đại hội lần này, một lần nữa Indonesia khẳng định vị thế cường quốc số một trong khu vực Đông Nam Á của mình và có thể là một trong ba cường quốc mạnh nhất thế giới ở thời điểm năm 2005 ở môn thể thao này. Tuy nhiên, họ không còn quá lấn lướt như khi xưa vì hai giải đồng đội năm nay đều thoát khỏi tay họ bởi hai đối thủ cạnh tranh trực tiếp, và cũng là các quốc gia có tên trong làng cầu lông thế giới, là Thái Lan và Malaysia. Đoàn Singapore là nhân tố cuối cùng góp phần tô điểm và cuộc đấu tứ hùng sinh động của giải năm nay.
Bảng thành tích
Đơn nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngSony Dwi Kuncoro<TD> Indonesia</TD>
BạcSimon Santoso Indonesia
ĐồngLee Chong Wei Malaysia
ĐồngMuhd Hafiz Hashim Malaysia
</TABLE>
Đơn nữ
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngAdriyanti Firdasari<TD> Indonesia</TD>
BạcWong Mew Choo Malaysia
ĐồngSalakjit Ponsana Thái Lan
ĐồngLi Li Singapore
</TABLE>
Đôi nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngHendra Setiawan và Markis Kido<TD> Indonesia</TD>
BạcLuluk Hadiyanto và Alvent Yulianto Chandra Indonesia
ĐồngChoong Tan Fook và Wong Choong Hann Malaysia
ĐồngChan Chong Ming và Koo Kien Keat Malaysia
</TABLE>
Đôi nữ
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngWong Pei Tty và Chin Eei Hui<TD> Malaysia</TD>
BạcJo Novita và Greysia Polii Indonesia
ĐồngSaralee Thungthongkam và Satinee Jankrajangwong Thái Lan
ĐồngJiang Yanmei và Li Yujia Singapore
</TABLE>
Đôi nam nữ phối hợp
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngNova Widianto và Lilyana Natsir<TD> Indonesia</TD>
BạcAnggun Nugroho và Yunita Tetty Indonesia
ĐồngKoo Kien Keat và Wong Pei Tty Malaysia
ĐồngHendry Kurniawan Saputra và Li Yujia Singapore
</TABLE>
Đồng đội nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngLee Chong WeiMuhd Hafiz HashimWong Choong HannChan Chong MingKoo Kien KeatChoong Tan FookLee Wan Wah<TD> Malaysia</TD>
BạcSony Dwi KuncoroSimon SantosoTaufik HidayatHendra SetiawanMarkis KidoLuluk HadiyantoAlvent Yulianto Chandra Indonesia
ĐồngBoonsak PonsanaPoopat SupkulchananartJackaphan ThanateeratamSudket PrapakamolPhatapol NgensrisukNitipong SaengsilaSongphol Anukritayawan Thái Lan
ĐồngNguyễn Tiến MinhNguyễn Hoàng HảiNguyễn Quang PhongTrần Thanh HảiNguyễn Quang Minh Việt Nam
</TABLE>
Đồng đội nữ
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngSalakjit PonsanaMonthila MeemekSoratja ChansrisukotSaralee ThungthongkamSatinee JankrajangwongKulchala WorawichitchaikulSujitra Ekmongkolpaisarn<TD> Thái Lan</TD>
BạcLi LiXing AiyingJiang YanmeiLi YujiaLiu Fan FrancesShinta Mulia Sari Singapore
ĐồngAdriyanti FirdasariFrancisca RatnasariMaria Kristin YuliantiJo NovitaGreysia PoliiLilyana NatsirLita Nurlita Indonesia
ĐồngWong Mew ChooM. SutheaswariJulia WongWong Pei TtyChin Eei HuiMooi Hing Yau Malaysia
</TABLE>
Chú thích
Tham khảo
Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2005
Cầu lông tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á
|
24136
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C6%B0%E1%BB%9Dng%20Chinh%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
Trường Chinh (định hướng)
|
Trường Chinh có thể là:
Nhân vật
Trường Chinh, chính khách Việt Nam, nguyên Chủ tịch nước thứ hai của Việt Nam thống nhất trên danh nghĩa là Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Việt Nam từ năm 1981 đến năm 1987.
Sự kiện, sự vật
Cuộc hành quân Trường Chinh của Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc để tránh sự tấn công của quân đội Quốc Dân Đảng.
Tên lửa Trường Chinh của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Địa danh
Phường Trường Chinh, thành phố Kon Tum, Kon Tum.
Đường Trường Chinh, Thành phố Hồ Chí Minh
|
24140
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Huy%E1%BB%81n%20Quang
|
Huyền Quang
|
Huyền Quang (玄光), 1254-1334, tên thật là Lý Tái Đạo (李載道) là một thiền sư, nhà lãnh đạo Phật giáo Đại thừa ở Đại Việt thời Trần. Ông là người hương Vạn Tải, châu Nam Sách, lộ Lạng Giang (nay thuộc xã Thái Bảo, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh). Học giỏi, đỗ cả thi hương, thi hội. Ông đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ (trạng nguyên) khoa thi năm 1272? hay 1274? và được bổ làm việc trong Viện Nội Hàn của triều đình, tiếp sư Bắc triều, nổi tiếng văn thơ. Sau này từ chức đi tu, theo Trần Nhân Tông lên Trúc Lâm. Là một Thiền sư Việt Nam, tổ thứ ba dòng Trúc Lâm Yên Tử. Ông là một nhà thơ lớn với nhiều bài thơ còn được lưu lại. Cùng với Trúc Lâm Đầu Đà Trần Nhân Tông và Pháp Loa, ông được xem là một Đại thiền sư của Việt Nam và người ta xem ông và hai vị nêu trên ngang hàng với sáu vị tổ của Thiền tông Trung Quốc hoặc 28 vị tổ của Thiền Ấn Độ.
Truyền thuyết và sự nghiệp
Theo truyền thuyết ghi lại trong Tam tổ thực lục (三祖實錄), mẹ của Huyền Quang là Lê Thị hay đến chùa Ngọc Hoàng cầu nguyện vì tuổi đã 30 mà chưa có con. Đầu năm Giáp Dần 1254, vị trụ trì chùa Ngọc Hoàng là Huệ Nghĩa mơ thấy "các toà trong chùa đèn chong sáng rực, chư Phật tôn nghiêm, Kim Cương Long Thần la liệt đông đúc. Đức Phật chỉ Tôn giả A-nan-đà bảo: 'Ngươi hãy tái sinh làm pháp khí Đông Độ và phải nhớ lại duyên xưa.'" Năm ấy Lê Thị sinh Huyền Quang. Lớn lên ông dung mạo dị thường, làm quan đến chức Hàn Lâm.
Tam Tổ thực lục, phần Tổ Gia thực lục chép tiểu sử Huyền Quang có nói: ông cùng vua Trần Anh Tông đến chùa Vĩnh Nghiêm huyện Phượng Nhãn, nghe Thiền sư Pháp Loa giảng kinh, liền nhớ lại "duyên xưa", xin xuất gia thụ giáo. Tuy nhiên, cũng trong sách này mà phần tiểu sử Pháp Loa lại nói Huyền Quang thụ giáo với Bảo Phác ở chùa Vũ Ninh (Bắc Ninh). Ông được cử làm thị giả của Trúc Lâm Đầu Đà và được ban pháp hiệu là Huyền Quang.
Sau, ông theo lời phó chúc của Trúc Lâm trụ trì chùa Vân Yên (nay là chùa Hoa Yên) trên núi Yên Tử. Vì đa văn bác học, tinh thông đạo lý nên tăng chúng đua nhau đến học.
Niên hiệu Đại Khánh thứ 4 (1317), ông được Pháp Loa truyền y của Trúc Lâm và tâm kệ. Sau khi Pháp Loa tịch (1330), ông kế thừa làm Tổ thứ ba của thiền phái Trúc Lâm nhưng vì tuổi đã cao nên ông giao phó trách nhiệm lại cho Quốc sư An Tâm.
Ông đến trụ trì Thanh Mai Sơn sáu năm, sau dời sang Côn Sơn giáo hoá. Ngày 23 tháng 1 năm Giáp Tuất (1334) thời vua Trần Hiến Tông, ông viên tịch, thọ 80 tuổi. Thượng hoàng Trần Minh Tông sắc thuỵ là Trúc Lâm Thiền Sư Đệ Tam Đại, đặc phong Từ Pháp Huyền Quang Tôn Giả.
Tác phẩm
Sau đây là một vài bài thơ tiêu biểu của thiền sư Huyền Quang:
(theo Thơ văn Lý-Trần)
(Bản dịch của Nguyễn Lang)
(Bản dịch của Nguyễn Lang)
{|valign="top"
|
Sơn Vũ
Thu phong ngọ dạ phất thiền nha
Sơn vũ tiêu nhiên chẩm lục la
Dĩ lữ thành thiền tâm nhất phiến
Cùng thanh tức tức vị thùy đa
|
Mưa núi
Gió thu ban tối thổi hiên tâyNhà núi đìu hiu tựa đám cây
Tấc dạ tu hành từ những thuởDế kêu rầu rĩ bởi ai đây?
|}
(Bản dịch của Phan Võ)
Tác phẩm của Sư: Ngọc tiên tậpChư phẩm kinhCông văn tậpPhổ huệ ngữ lục''
Tham khảo
Liên kết ngoài
==Ghi chú: Huyền Quang sinh tại Hương người làng Vạn Tải thôn, Thái Bảo xã, Gia Lương Huyện, Bắc Ninh tỉnh.
. ==
Thiền sư Việt Nam
Người Bắc Ninh
Thiền phái Trúc Lâm
Nhân vật thời Trần
Thái học sinh nhà Trần
Trạng nguyên Việt Nam
|
24141
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%A1p%20Loa
|
Pháp Loa
|
Pháp Loa (法螺; 23 tháng 5 năm 1284 – 22 tháng 3 năm 1330), còn có tên là Minh Giác (明覺) hay Phổ Tuệ Tôn giả (普慧尊者), là một thiền sư, nhà lãnh đạo Phật giáo Đại thừa ở Đại Việt thế kỷ 13. Ông tu theo Thiền tông, là môn đệ của Trúc Lâm đại sĩ Trần Nhân Tông, và làm Tổ sư thứ hai của Thiền phái Trúc Lâm. Ông xuất gia 1304, hành đạo suốt 26 năm cho tới khi qua đời ở tuổi 47. Trong quá trình làm đạo, ông đã xây cất nhiều chùa tháp trong nước, truyền bá rộng rãi những lời dạy của Phật Thích-ca Mâu-ni và Tổ sư Thiền, kết nạp nhiều tăng ni, cư sĩ trong đó có các vua Trần Anh Tông, Trần Minh Tông cùng nhiều thành viên hoàng gia và đại thần. Ông còn là người ấn hành Đại tạng kinh tại Việt Nam khoảng năm 1329 và đã để lại nhiều tác phẩm Thiền học và luận thuyết về các kinh Nhập Lăng-già, Diệu pháp liên hoa, Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Hiện nay, bộ sách chủ yếu còn sót lại về cuộc đời ông là Tam Tổ thực lục (三祖實錄), ra đời khoảng thế kỷ 14, kể tiểu sử 3 vị tổ sư phái Thiên Tông Trúc Lâm.
Gia thế
Ông tên tục là Đồng Kiên Cương (同堅剛), sinh ngày 7 tháng 5 năm Giáp Thân (tức 23 tháng 5 năm 1284), niên hiệu Thiệu Bảo thứ 6 đời vua Trần Nhân Tông, quê ở hương Cửu La, huyện Chí Linh, châu Nam Sách, lộ Lạng Giang (nay thuộc phường Ái Quốc, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương). Cha ông là Phật tử, họ Đồng, có pháp danh Thuần Mậu; mẹ là Vũ Từ Cứu.
Tương truyền, mẹ ông nằm mộng thấy dị nhân trao cho kiếm thần và sau đó mang thai. Trước đó bà đã sinh 8 người con gái, nên khi có ông, tưởng sẽ là gái nữa, nên thất vọng uống thuốc phá thai. Phá tới bốn lần mà thai không hư, vì thế khi ông sinh ra, mẹ ông rất vui mừng, đặt tên ông là Kiên Cương, có nghĩa là "cứng rắn".
Xuất gia
Theo sách cổ, Đồng Kiên Cương còn nhỏ đã có chí khác thường, không nói lời ác, không thích ăn đồ cay nồng và thịt, cá.
Năm 1293, vua Trần Nhân Tông nhường ngôi cho thái tử Trần Thuyên, tức Trần Anh Tông. Năm 1299, thượng hoàng Nhân Tông lên núi Yên Tử (Quảng Ninh) sống đời sa-môn, lấy đạo hiệu "Điều Ngự Giác Hoàng". Năm 1304, Điều Ngự đi khắp nơi trong nước, có ý tìm người kế thừa. Khi xa giá vừa đến thôn, Đồng Kiên Cương đỉnh lễ xin xuất gia, Trần Nhân Tông bảo ngay: "Đứa bé này có đạo nhãn, sau này hẳn là pháp khí", mới đặt tên ông là Thiện Lai (善來) cho theo về thụ giới Sa-di. Khi về liêu Kỳ Lân núi Linh Sơn (Chí Linh, Hải Dương), Điều Ngự lại bảo Thiện Lai đến chùa Quỳnh Quán học nơi Hoà thượng Tính Giác. Ông hỏi rất nhiều điều nhưng hoà thượng vẫn chưa giải đáp triệt để. Không thỏa mãn, ông bèn nghiên cứu kinh Lăng Nghiêm, khi chiêm nghiệm chỗ tôn giả A-nan-đà (Ānanda) hỏi Phật bảy lần về vị trí của tâm và đoạn ví dụ khách trần thì có sở đắc.
Sau một thời gian ở Quỳnh Quán, Thiện Lai từ tạ trở về với Điều Ngự. Khi Điều Ngự lên pháp đường đọc bài tán Thái dương ô kê, Thiện Lai có phần chứng ngộ. Điều Ngự bèn cho ông theo hầu bên mình. Một hôm, ông dâng ba bài tụng nhưng cả ba đều bị chê. Điều Ngự khuyên ông phải tự tham. Ông vào phòng đầu óc nặng trĩu, thức đến quá nửa đêm, nhìn thấy bông đèn tàn rụng xuống bỗng nhiên đại ngộ. Điều Ngự âm thầm ấn khả cho ông. Từ đây, ông lập chí tu theo 12 hạnh Đầu-đà.
Năm 1305, Điều Ngự đích thân truyền Giới Thanh văn và Giới Bồ Tát cho ông. Điều Ngự thấy Thiện Lai tu tập tiến bộ nên bạn đạo hiệu Pháp Loa. Năm 1306, Điều Ngự cử Pháp Loa làm chủ giảng tại chùa Báo Ân. Tại đây ông gặp người đệ tử tương lai – Huyền Quang lần đầu tiên, lúc đó ông mới 23 tuổi. Bấy giờ, Huyền Quang đã thọ giới với Bảo Phác, đi cùng thầy mình đến chùa Báo Ân nghe thuyết pháp. Điều Ngự thấy vậy bèn nhận Huyền Quang làm thị giả. Tháng 4 âm lịch năm 1307, Điều Ngự an cư ở am Thiên Bảo, có 7-8 thị giả theo hầu. Xét thấy Pháp Loa là người đứng đầu trong các thị giả, Điều Ngự thuyết Đại Tuệ Ngữ Lục cho ông nghe. Tháng 5 âm lịch năm này, ông theo Điều Ngự lên ở am Ngọa Vân, núi Yên Tử. Ngày rằm tháng này, Điều Ngự làm lễ "bố tát", sau đó cho các đệ tử khác xuống núi, chỉ giữ Pháp Loa ở lại. Điều Ngự đem y bát và tâm kệ giao phó ông, cùng lời dặn phải giữ gìn.
Trúc Lâm Đệ nhị tổ
Giai đoạn 1308–1314
Ngày 1 tháng 1 âm lịch năm 1308, tại Cam Lộ Đường chùa Siêu Loại (nay thuộc xã Dương Quang, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội), Điều Ngự trao Pháp Loa chức trụ trì chùa Siêu Loại đồng thời xác nhận ông là Tổ thứ hai của Thiền phái Trúc Lâm. Buổi lễ được tổ chức Long trọng dưới sự chứng kiến của vua Trần Anh Tông, quốc phụ thượng tể Trần Quốc Chẩn và đông đảo bá quan. Sách Tam Tổ thực lục đã thuật lại:
Cùng năm, thiền sư Pháp Loa nhận chiếu của vua Anh Tông, truyền giới Xuất gia và giới Bồ tát cho Tuyên Từ Hoàng thái hậu cùng Thiên Trinh Trưởng công chúa tại chùa Siêu Loại. Nhà vua còn sai Trung thư Thị lang Vương Công Trứ cấp độ điệp cho Pháp Loa, ý nói ông là người nối dòng chính thống của thiền phái Trúc Lâm, không phải bị ràng buộc bởi luật pháp thế tục.
Tháng 11 âm lịch năm 1308, Điều Ngự viên tịch, Pháp Loa phụng mệnh đưa xá-lợi về kinh đô và thuyết pháp cho hoàng gia. Đại Việt Sử ký Toàn thư, bộ quốc sử do sử quan Nho gia đời Lê là Ngô Sĩ Liên soạn năm 1479, thời Lê Thánh Tông, có ghi nhận sự hiện diện của Pháp Loa trong lễ tang Thượng hoàng Trần Nhân Tông/Giác Hoàng Điều ngự:
Sau khi trở về núi, Pháp Loa soạn lại những bài tụng của Điều Ngự lúc ở Thạch thất và biên tập lại dưới tên Thạch thất mị ngữ. Theo Tam Tổ Thực Lục, hàng ngày Pháp Loa rất chăm chỉ đảnh lễ Phật, trì tụng thần chú. Ông còn soạn bài phát nguyện trong Lục Thời Nghi, có nội dung chính là:
Ngày 14 tháng 7 âm lịch năm 1309, nhân đại lễ Vu-lan-bồn, Trần Anh Tông mời Pháp Loa tham dự lễ cúng chay Giác hoàng Điều ngự. Pháp Loa gặp Huyền Quang và nhắn nhủ: "Những điều mà Điều Ngự Giác Hoàng dặn dò, nhà ngươi đã quên hết rồi sao?". Từ đây, Huyền Quang tinh tấn tu học và tham gia truyền bá giáo pháp, giúp Pháp Loa mở rộng Thiền phái Trúc Lâm (bấy giờ, Huyền Quang làm trụ trì chùa Vân Yên – núi Yên Tử, giảng dạy cho hàng ngàn học tăng).
Năm 1310, Trần Anh Tông ra chiếu, quy định 3 năm độ tăng 1 lần. Cùng năm đó, nhân lễ cúng chay Điều Ngự vào ngày Vu-lan, Pháp Loa giảng nội dung căn bản kinh Hoa Nghiêm.
Trước đây, năm 1295, thượng hoàng Trần Nhân Tông sai Nội viên ngoại lang Trần Khắc Dụng và Phạm Thảo sang nước Nguyên, thỉnh bộ Đại tạng kinh (gồm 7.182 quyển) từ chùa Hoằng Pháp (Bắc Kinh) về phủ Thiên Trường. Sau đó, triều đình ra lệnh khắc bản Đại tạng kinh, nhưng công việc bị hoãn lại khi Nhân Tông Điều ngự viên tịch năm 1308. Đến năm 1311, vua Anh Tông thỉnh cầu Pháp Loa tiếp tục khắc bản để in Đại tạng kinh. Pháp Loa giao phó thiền sư Bảo Sát, – thị giả của Nhân Tông Điều ngự lúc sinh thời – trông coi việc này. Tháng 4 âm lịch năm 1311, Pháp Loa làm trụ trì chùa Báo Ân – Siêu Loại, tại đây ông giảng Truyền Đăng Lục và nghe kiến giải Phật pháp của Huyền Quang; các kiến giải này đều được Pháp Loa đồng ý.
Tháng 11 âm lịch năm 1312, triều đình thỉnh Pháp Loa tới kinh sư, giảng Đại Tuệ Ngữ Lục ở chùa Tư Phúc (hay chùa Thiên Phúc) trong hoàng thành. Vua Trần Anh Tông trích 5 vạn quan tiền từ kho riêng ra cúng dường cho Pháp Loa; thiền sư lại đem số tiền này bố thí cho người nghèo. Nhà vua còn ngỏ ý cấp thuyền và phu chèo cho Pháp Loa dễ thăm kinh đô, nhưng thiền sư khước từ. Nhà vua lại sai người tôn thất cống hiến cho sư 500 mẫu ruộng ở nông trại Niệm Như.
Ngày 1 tháng 2 âm lịch năm 1313, viện chủ viện Na-Già là Tổ Long Đàm thỉnh Pháp Loa thăm viện này; tại đây, ông giảng các sách Thiền Lâm Thiết Chủy Ngữ Lục, Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục và kinh Duy-ma-cật. Trong số những Phật tử nghe pháp có vua Trần Anh Tông. Sau đó, nhà vua giúp Pháp Loa tu bổ chùa Báo Ân – Siêu Loại (nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội). Nhà vua đứng ra cung cấp những "vật liệu của Tam Bảo" lấy từ cung Thánh Từ (Thăng Long); các quan lo việc cung cấp nhân công, thợ xây cây gỗ. Sau khi chùa khánh thành, nhà vua đã nhiều lần đến thăm, sửa sang thêm cho chùa.
Tháng 9 âm lịch năm 1313, thiền sư Pháp Loa tới chùa Vĩnh Nghiêm ở làng Đức La, phủ Lạng Giang (nay thuộc Bắc Giang), sắp đặt chức vụ và lập sổ bộ cho tăng ni trong nước. Từ đây, chư tăng đều có sổ bộ và được đặt dưới sự quản lý của Pháp Loa. Với hoạt động này, ông xúc tiến việc ổn chức giáo hội thống nhất và xác lập chùa Vĩnh Nghiêm làm trung tâm của Thiền phái Trúc Lâm. Ông cũng khai mạc Đại giới đàn, kết nạp khoảng 1000 đệ tử xuất gia. Đây là cột mốc đầu tiên của việc thực hiện quy định 3 năm mở 1 đại giới đàn độ tăng; các đại giới đàn về sau mỗi lần độ gần 1000 người.
Giai đoạn 1314–1330
Năm 1314, Trần Anh Tông nhường ngôi cho hoàng thái tử Mạnh, tức vua Trần Minh Tông. Minh Tông giúp Pháp Loa dựng 3 pho tượng Phật cao 17 thước trong chùa Siêu Loại, lại cho lập thêm điện Phật, gác kinh, nhà Tăng, tổng cộng có 33 cơ sở. Pháp Loa đứng ra đặt tên cho các cơ sở mới này. Vua Minh Tông đích thân viết tấm biển “Nhị hương điện” trao cho chùa; ngoài ra, thượng hoàng Trần Anh Tông cũng cúng dường 500 hộp Đại Tạng kinh làm của thường trụ chùa.
Năm 1316, thượng hoàng Anh Tông thỉnh Pháp Loa vào nội điện trao giới Bồ-tát tại gia cho vua Minh Tông.
Tháng 2 âm lịch năm 1317, thiền sư Pháp Loa lâm bệnh nặng. Ông viết bài tâm kệ rồi đem cùng pháp y của Điều Ngự phó thác cho Huyền Quang. Ông còn giao phó cho Cảnh Ngung tích trượng, giao phó cho Cảnh Huy phất tử, giao phó cho Huệ Quang gậy tre (trúc bề), giao phó cho Huệ Nhiên kinh tạng và dụng cụ làm đạo, rồi lại giao linh vàng cho Hải Ấn và chày vàng cho Huệ Chúc. Chẳng bao lâu sau, Pháp Loa khỏi bệnh, Huyền Quang xin trả lại tâm kệ và pháp y.
Tháng 12 âm lịch năm 1317, Pháp Loa kiến lập viện Quỳnh Lâm (nay thuộc huyện Đông Triều, Quảng Ninh). Tư đồ Văn Huệ vương Trần Quang Triều (cháu nội Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn) đóng góp cho viện 4.000 quan tiền. Một cư sĩ khác, Nguyễn Trường người ở Vân Động cũng ghé thăm, bái yết Pháp Loa và đóng góp cho ông 75 mẫu ruộng, dùng làm của thường trụ viện Quỳnh Lâm. Cùng năm này, Pháp Loa khánh thành chùa Bảo Sơn Vương ở Cổ Thành; triều đình sai họa sĩ là Hứa Khắc Thành vẽ chân dung đứng của thiền sư.
Tháng 8 âm lịch năm 1318, thượng hoàng Anh Tông xuống chiếu, thỉnh Pháp Loa về am Thường Lạc ở Thiên Trường (Nam Định) – đời Trần, đây là thượng hoàng ở sau khi nhường ngôi. Tại đây, ông giảng sách Truyền Đăng Lục; đến tháng 12 âm lịch năm 1318, ông lại giảng sách Tuyết Đậu Ngữ Lục. Sau khi nghe giảng, thượng hoàng đích thân viết 4 chữ Phổ Tuệ Tôn Giả (普慧尊者) trao cho ông. Cũng từ thời điểm này, Anh Tông và Minh Tông nhiều lần viết thư hỏi thăm, trình bày sở đắc cho Pháp Loa, trong đó hai vua luôn nhận mình là đệ tử. Sách Thánh đăng ngữ lục (cuốn sách khuyết danh ra đời cuối thế kỷ 14, kể việc tu học của 5 vua đầu đời Trần) có chép lại một bức thư như thế của Anh Tông:
"Đệ tử chợt nghe tôn thể không khỏe, kính sai Trung sứ đến hỏi thăm tin tức. Nhân đó được thư Thầy đáp lại, hỏi đến chỗ thấy thế nào? Lòng thẹn sợ, chẳng biết nói lên làm sao? Tạm mượn ngòi bút để tỏ bày, kính trình lên cho Thầy, hầu mở rộng tâm nghe đạo, xem có thật đúng chăng? Lấy đó... hằng làm của báu cho thân.
Tụng:
Mỗi mỗi hư dối,
Không pháp thật được,
Mắt bệnh sanh hoa,
Vọng chia Nam Bắc.
Cũng không làm dữ,
Cũng chẳng tu lành,
Mệt thì liền ngủ,
Đói lại ăn cơm.
Mặc kẻ rối rít,
Mặc người lăng xăng,
Xưa nay như cũ,
Làm chủ hoàn cầu"
Các sách cổ thừa nhận những kiến giải của thượng hoàng đều được Pháp Loa chấp thuận.
Pháp Loa còn được nhiều thành viên hoàng gia, như thái hậu, hoàng hậu, vương hầu, cung phi, công chúa, và đại thần triều đình nhiệt tình ủng hộ. Nhiều người trong số họ đã xuất gia hoặc thọ giới Bồ-tát dưới sự hướng dẫn của Pháp Loa. Ngoài ra, họ còn đóng góp nhiều tiền của, vàng bạc để hỗ trợ Pháp Loa xây, mở mang chùa tháp, tự viện, dựng tượng Phật, tượng Thánh tăng, in kinh sách,... Sự cúng dường nồng nhiệt của họ khiến Pháp Loa và Thiền phái Trúc Lâm luôn có đủ điều kiện kinh tế để hành đạo.
Thời kỳ làm đạo của Pháp Loa, Phật giáo Mật tông bắt đầu ảnh hưởng vào Đại Việt. So với Phật giáo đời Lý, Phật giáo đời Trần hầu như không mang dấu vết Mật tông. Điều này thể hiện rõ nét qua các tác phẩm của vua-thiền sư Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng Sĩ. Đến thời Pháp Loa, nghi thức Quán đảnh (Abhiseka) được thực hiện khá phổ biến ở Đại Việt. Ngoài ra, năm 1318, vua Minh Tông hạ chiếu, thỉnh Pháp Loa nhờ vị tu sĩ người Nam Á Ban-để-ba-ô-sá-thất-lợi (Panditausasri) dịch kinh Bạch Tán Cái Thần Chú (Mahasitatapatradharani), một tài liệu của Mật tông. Bản thân Pháp Loa cũng soạn sách Kim cương đạo trường đà-la-ni kinh khoa chú, chú giải kinh Kim cương đạo trường đà-la-ni (Vajramanda dharani) cũng của Mật tông. Ngay cả trong sách Thiền đạo yếu học nói về đạo Thiền của mình, Pháp Loa cũng nhắc đến Phật Đại Nhật Như Lai (Vairocana), một vị Phật quan trọng trong Mật giáo.
Năm 1318, Pháp Loa nhận chiếu vua Minh Tông, đón tiếp vị trưởng lão nước Nguyên là Vô Phương (Wu Fang) từ Hồ Nam tới.
Năm 1319, Đại Việt gặp lũ lụt, đói kém. Hai vua Trần trích 100 lượng vàng và 500 lượng bạc từ kho riêng, giao cho Pháp Loa trợ cấp dân chúng. Cùng năm, Pháp Loa được Quốc phụ thượng tể Trần Quốc Chẩn – em trai Anh Tông và là tể tướng đầu triều – mời về giảng Đại Tuệ Ngữ Lục ở chùa Thiên Linh, phủ An Hoa. Nhân khi ông trú ở chùa Báo Thiên, công chúa Hoa Dương (con gái thứ sáu của Trần Thái Tông) xin Pháp Loa thuyết pháp, rồi truyền giới Bồ-tát tại gia cho công chúa cùng nhiều người khác.
Tháng 12 âm lịch năm 1319, Pháp Loa kêu gọi Tăng chúng và cư sĩ chích máu in Đại tạng kinh hơn 5000 quyển, lưu hành tại viện Quỳnh Lâm. Thượng hoàng Trần Anh Tông cũng tự chích máu mình viết Đại tạng kinh cỡ nhỏ, tổng cộng 20 hộp. Theo tác giả Nguyễn Hiền Đức trong sách Lịch sử Phật giáo Đàng Ngoài, sư huynh Pháp Loa là Bảo Sát, người chủ trì việc khắc bản in kinh, đã không cho in toàn bộ 6.010 quyển của Đại Tạng kinh nước Nguyên; thay vì đó, Bảo Sát lược đi một số kinh, rồi bổ sung thêm một số kinh điển của thiền sư, tăng sĩ thời Lý-Trần như Vạn Hạnh, Thường Chiếu, Trần Thái Tông, Nhân Tông Điều Ngự,... Sau cuộc xâm lược nước Việt của nhà Minh năm 1406-1407, người Minh đã thiêu hủy, tịch thu hết sách vở của dân tộc Việt, vì vậy bộ kinh này ngày nay không còn.
Ngày 16 tháng 3 âm lịch năm 1320, thượng hoàng Anh Tông qua đời ở phủ Thiên Trường, được đưa về táng ở Thái Lăng trên núi Yên Sinh, nay thuộc Đông Triều, Quảng Ninh. Pháp Loa đã thuyết pháp cho hoàng gia khi nhập quan tài và khi hạ huyệt chôn thượng hoàng. Cùng năm đó, ông được Tuệ Nhân Đại vương (không rõ tên) mời về chùa Vũ Đinh để thọ tâm giới Bồ tát tại gia. Năm sau (1321), Pháp Loa trao giới này cho Thượng phẩm Hoài Ninh hầu Trịnh Trọng Tử, người đã bày tỏ lòng mộ đạo qua việc đúc một tượng Bồ tát Thiên thủ thiên nhãn. Ông còn nhận chiếu của Minh Tông, đặt pháp hiệu cho Hoàng thái phi Chiêu Từ và viết lời bạt sau bộ Đại Tạng Kinh mà trước đây Anh Tông và các hậu, phi đã chích máu viết nên.
Năm 1321, Pháp Loa tới chùa Sùng Nghiêm (Chí Linh), truyền giới Bồ-tát tại gia cho Quốc phụ thượng tể Trần Quốc Chẩn. Sau đó, ông được thầy Thu Tử – trụ trì chùa Diên Quang ở Hiển Linh thỉnh về giảng phẩm Thập Địa của kinh Hoa Nghiêm – một bộ kinh quan trọng trong Phật giáo Đại Thừa. Từ đây bắt đầu công cuộc chuyên giảng kinh Hoa Nghiêm của Pháp Loa. Năm 1322, thể theo lời mời của Hoài Ninh hầu Trịnh Trọng Tử và Thầy chủ sự Huyền Quang, Pháp Loa ghé chùa Báo Ân–Siêu Loại giảng hội thứ hai của kinh Hoa Nghiêm. Đến khi viên tịch năm 1330, ông đã giảng chín hội Hoa Nghiêm ở nhiều chùa khác nhau, mỗi lần giảng có hơn hàng ngàn người nghe.
Ngày 13 tháng 6 âm lịch năm 1322, vua Trần Minh Tông thỉnh thiền sư Pháp Loa biên chép sách Tham thiền chỉ yếu (có thể cũng có tên Thiền đạo yếu học). Tác phẩm này ghi lại bài giảng của Nhân Tông Điều ngự năm 1306 ở viện Kỳ Lân, trích dẫn một số lời của Tuệ Trung Thượng Sĩ và chịu ảnh hưởng lớn từ dòng thiền Lâm Tế. Công việc hoàn thành, ông được nhà vua tặng thêm hiệu là Minh Giác (明覺). Cùng năm đó, Pháp Loa khánh thành các am Hồ Thiên, Chân Lạc, và phát động xây 1.000 pho tượng Phật. Ông giao cho sư chùa Phổ Quang là Trừng Chiếu giám sát việc thi công. Công việc nhận được sự ủng hộ nồng hậu từ nhiều thành viên hoàng gia và đại thần – tiêu biểu như Hoàng thái hậu Bảo Từ, Quốc mẫu Bảo Huệ, Công chúa Bảo Vân, Kiểm hiệu Tư đồ Trần Quang Triều, Thượng phẩm Hoài Ninh hầu Trịnh Trọng Tử, Hữu bật Đoàn Nhữ Hài,... Đến năm 1324, việc đúc 1000 pho tượng Phật hoàn tất; Pháp Loa vào chùa Phổ Quang ở Nghĩa Trụ dự lễ điểm nhãn các tượng này.
Năm 1322, nhận lời mời của Tư đồ Quang Triều, Pháp Loa ghé thăm dinh An Long, thuyết giảng kinh Thủ-lăng-nghiêm, rồi kiểm tra và sớ giải sách Tứ phần luật. Sau khi Pháp Loa kiểm định và sớ giải xong, Trần Quang Triều in hơn 5.000 quyển cúng dường cho các chùa. Pháp Loa thỉnh cầu các sư huynh là Quốc sư Tông Cảnh (chùa Tiên Du) và Quốc sư Bảo Phác (núi Vũ Ninh) ghé chùa Siêu Loại, giảng cho các sư về Tứ phần luật. Sau đó, cho đến khi mất năm 1330, Pháp Loa tiếp tục truyền giới Bồ-tát, giới Xuất gia và phép Quán đỉnh cho nhiều quý tộc, trong đó có Tư đồ Văn Huệ vương Trần Quang Triều, công chúa Tuyên Chân (con gái Quốc phụ Thượng tể Quốc Chẩn), công chúa Lệ Bảo (con gái Chiêu Huân Vương), Hoàng thái phi Chiêu Từ và các cung nhân của Trần Minh Tông.
Ngày 1 tháng 1 âm lịch năm 1325, Pháp Loa được Quốc mẫu Bảo Huệ thỉnh đến cung Dưỡng Phúc, thuyết kinh Kim Cương Niệm Tụng. Không lâu sau, ông ghé chùa Tư Phúc ở kinh sư giảng Tuyết Đậu ngữ lục. Ngày 1 tháng 9 âm lịch năm này, ông lại vào chùa Tư Phúc giảng kinh Viên Giác.
Các năm 1319, 1325, 1326, đất nước gặp hạn hán, triều đình mời Pháp Loa tổ chức cầu mưa. Ông nhận lời, nhờ các sư đi cầu mưa, lần nào sử cũng chép là "ứng nghiệm".
Tháng 10 âm lịch năm 1327, Pháp Loa kiến lập các am An Mã, Thị Khê và Hạc Lai.
Tháng 9 âm lịch năm 1328, vua Trần Minh Tông ban chiếu mời Pháp Loa làm sách Nhân vương hộ quốc nghi quỹ để nhà vua vừa trị quốc vừa tu dưỡng. Năm sau vào tháng 9 âm lịch, ông thành lập các khu chùa Côn Sơn và Thanh Mai Sơn.
Trong sự nghiệp hành đạo của mình, Pháp Loa đã xây, mở rộng 2 ngôi chùa lớn (Báo Ân và Quỳnh Lâm) và 5 bảo tháp, mở hơn 200 Tăng xá, hoá độ 15.000 Tăng Ni, in 1 bộ Đại Tạng Kinh, tạc 1.300 pho tượng Phật lớn nhỏ, 2 bộ tượng sơn mài và hàng trăm tượng bằng đất. Các đệ tử của ông cũng xây chùa tháp ở nhiều nơi; ví dụ, tu sĩ Trí Nhu xây tháp Linh Tế trên núi Dục Thúy (còn gọi là núi Non Nước – nay thuộc Ninh Bình) và tháp Hiền Diệu trên núi Tiên Long, nay thuộc huyện Hoa Lư, Ninh Bình. Pháp Loa có hơn 3000 đệ tử xuất gia, nổi bật là Huyền Quang, Cảnh Ngung, Cảnh Huy, Kim Sơn, Tuệ Chúc, Tuệ Nhiên, Hải Ấn, Tuệ Quán, Hoàng Tuế, Huyền Giác, Cảnh Trưng, Vô Sơn Ông (nguyên là Tư đồ Văn Huệ vương),... Trong số cư sĩ đắc pháp có nhiều quý tộc mà tiêu biểu là hai vua Trần Anh Tông, Trần Minh Tông.
Qua đời
Đầu năm 1330, Pháp Loa được một số quý tộc mời thăm An Lạc tàng viện, giảng lại hội thứ nhất và thứ hai trong kinh Hoa Nghiêm. Không lâu sau, ông lên Thăng Long chúc mừng thượng hoàng Trần Minh Tông dẹp được quân Ngưu Hống. Ngày 3 tháng 2 âm lịch, Pháp Loa trở về viện An Lạc, 2 ngày sau ông bị bệnh. Trong vòng 7-8 ngày tới bệnh tình trầm trọng hơn. Khi Huyền Quang đến thăm Pháp Loa đã có một cuộc hội thoại về Thiền được sử sách lưu lại:
"Đến ngày mười một vào lúc ban đêm Huyền Quang vào thăm bệnh, trong lúc ngủ, Sư [Pháp Loa] kêu “hồng hồng” một tiếng, Huyền Quang hỏi: “Ngủ với thức đã là một chưa?”
Sư đáp: “Ngủ với thức là một, là khi y không bệnh”.
Huyền Quang hỏi: “Bệnh với không bệnh đã là một chưa?”
Sư đáp: “Bệnh cũng chẳng can gì đến y, chẳng bệnh cũng chẳng can gì đến y”.
Huyền Quang hỏi: “Thế thì tại sao có tiếng nói thốt ra?”
Sư đáp: “ Tiếng gió thổi qua cây mà quan tâm làm gì”.
Huyền Quang nói: “Tiếng gió thổi qua cây thì người ta không lầm, nhưng khi ngủ nói mớ thì có thể làm người ta lầm”.
Sư nói: “Kẻ si mê cũng có thể bị tiếng gió thổi qua cây làm mê lầm lắm”.
Huyền Quang nói: “ Chỉ có một bệnh đó mà đến chết cũng chưa khỏi”.
Sư bèn đạp Huyền Quang, Huyền Quang bỏ ra."
Sau cuộc đối thoại này, thiền sư Pháp Loa có phần bình phục. Ngày 13 tháng 2 âm lịch, ông trở về phương trượng viện Quỳnh Lâm, 6 ngày sau bệnh lại trở nặng. Ông bèn phó chúc áo cà sa và tâm kệ của Điều Ngự cho Huyền Quang. Các đệ tử khác như Cảnh Ngung, Cảnh Huy, Vô Tế,... và nhiều người khác cũng vào phương trượng xin kệ và hỏi han, Pháp Loa cho kệ và "trả lời những câu hỏi của họ không biết mỏi mệt" (dẫn theo sách Tam Tổ Thực Lục). Ngày 1 tháng 3 âm lịch năm 1330, thượng hoàng Minh Tông đến thăm bệnh, nhưng không thấy thiền sư có triệu chứng sắp mất. Sau đó, thượng hoàng hai lần cho thái y đến chữa trị nhưng cũng đều rút ra kết luận tương tự. Đến đêm ngày 3 tháng 3 âm lịch (22 tháng 3 dương lịch), bệnh tình nguy kịch, Pháp Loa có cuộc đối thoại với Huyền Quang. Sách Tam Tổ Thực Lục kể lại:
Các đệ tử vào phương trượng, hỏi vì sao các tổ đều làm kệ lâm chung mà thầy không có, Pháp Loa viết:
Viết xong, ông ném bút, an nhiên viên tịch vào đúng giờ Tý, thọ 47 tuổi. Các đệ tử khâm liệm thiền sư vào quan tài, đến giờ Sửu rước lên chôn cất ở chùa Thanh Mai (núi Thanh Mai). Thượng hoàng Minh Tông sai trung sứ đến núi Thanh Mai để nghe thuật lại bài kệ thị tịch cùng những cuộc đối đáp của Pháp Loa lúc sắp mắt. Đến ngày 11 tháng 3 âm lịch, thượng hoàng truy tặng Pháp Loa danh hiệu Tịnh Trí Tôn giả (淨智尊者), cúng dường 10 lượng vàng cho việc xây tháp thờ Pháp Loa. Tháp này được đặt tên là Viên Thông. Thượng hoàng còn viết bài thơ viếng thiền sư, tựa là Đề chùa Thanh Mai viếng Pháp Loa tôn giả (Vãn Pháp Loa tôn giả đề Thanh Mai tự). Sách Thơ văn Lý Trần (tập 2, quyển thượng) do Nguyễn Huệ Chi, Trần Thị Băng Thanh, Đỗ Văn Hỷ và Trần Tú Châu biên soạn đã chép lại rằng:
Tác phẩm
Các tác phẩm của Pháp Loa được ghi nhận trong sách Tam Tổ Thực Lục:
Đoạn sách lục;
Tham thiền chỉ yếu (còn dịch là Thiền đạo yếu học)
Kim cương đạo trường đà-la-ni kinh khoa chú;
Tán Pháp hoa kinh khoa sớ;
Bát-nhã tâm kinh khoa;
Nhân vương hộ quốc nghi quỹ,
và một vài bài kệ trước lúc tịch.
Nhận định
Sinh thời, năm 1322 Pháp Loa có nhận lời khen ngợi của vua Trần Minh Tông:
Tác phẩm của Pháp Loa ngày nay chỉ có một phần sách Thiền Đạo Yếu Học, được in trong sách Tam Tổ Thực Lục, ngay sau phần tiểu sử Pháp Loa. Sách này có ghi lại lời ghi chú của một người khắc bản sách ở ngay sau phần Thiền Đạo Yếu Học:
Tham khảo
Chú thích
Thư mục
Liên kết ngoài
Người Hải Dương
Thiền sư Việt Nam
Sinh năm 1284
Mất năm 1330
Nhân vật thời Trần
Thiền phái Trúc Lâm
|
24142
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%AC-ni-%C4%91a-l%C6%B0u-chi
|
Tì-ni-đa-lưu-chi
|
Tì-ni-đa-lưu-chi (, ; ? – 594), cũng được gọi là Diệt Hỉ (滅喜), là một Thiền sư người Ấn Độ, từng sang Trung Quốc tham học và là môn đệ đắc pháp của Tam tổ Tăng Xán. Cuối đời ông xuống phương Nam truyền pháp và được tôn xưng là Tổ khai sáng thiền phái Tì-ni-đa-lưu-chi tại Việt Nam.
Cơ duyên
Sư là người Nam Thiên Trúc (Ấn Độ), thuộc dòng dõi Bà-la-môn. Sư thuở nhỏ đã có ý chí khác thường, đi khắp mọi nơi cầu học Phật pháp. Năm 574, Sư sang Trung Quốc và nhân đây có cơ hội yết kiến Tam tổ Tăng Xán tại núi Tư Không. Thấy cử chỉ uy nghiêm của Tổ, Sư bỗng đem lòng kính mộ, đứng trước vòng tay cung kính. Tổ vẫn ngồi im nhắm mắt không nói. Sư đứng im suy nghĩ giây lát bỗng nhiên tự ngộ, liền quỳ xuống lạy ba lạy. Tổ thấy vậy cũng chỉ gật đầu ba lần. Sư muốn đi theo hầu Tổ nhưng Tổ lại khuyên đến phương Nam giáo hóa.
Giáo hóa tại Việt Nam
Sư sang Việt Nam khoảng cuối thế kỉ thứ 6 (khoảng năm 580), cư trú tại chùa Pháp Vân (tức chùa Dâu, Bắc Ninh ngày nay). Nơi đây Sư dịch bộ kinh Đại thừa phương quảng tổng trì sau khi đã dịch xong bộ kinh Tượng đầu tinh xá tại Trung Quốc.
Trước khi tịch, Sư gọi đệ tử là Pháp Hiền đến và phó chúc:
"Tâm ấn của chư Phật không có lừa dối, tròn như thái hư, không thiếu không dư, không đi không lại, không được không mất, chẳng một chẳng khác, chẳng thường chẳng đoạn, vốn không có chỗ sinh, cũng không có chỗ diệt, cũng chẳng xa lìa và cũng chẳng phải chẳng xa lìa. Vì đối với vọng duyên mà giả lập tên ấy thôi... Tổ Tăng Xán khi Ấn khả chứng minh tâm này cho ta bảo ta mau về phương Nam giáo hóa. Đã trải qua nhiều nơi nay đến đây gặp ngươi quả là phù hợp với lời huyền ký. Vậy ngươi khéo giữ gìn, giờ đi của ta đã đến."
Nói xong, Sư chắp tay thị tịch. Pháp Hiền làm lễ hỏa táng, thâu Xá-lợi và xây Tháp thờ cúng, nhằm niên hiệu Khai Hoàng đời nhà Tùy, năm 594.
Người ta cho rằng Sư là tổ Thiền tông Việt Nam. Nhưng cũng có khuynh hướng cho rằng Khang Tăng Hội mới là người khởi xướng dòng thiền tại Giao Chỉ. Dòng Thiền Tì-ni-đa Lưu-chi lấy kinh Tượng đầu tinh xá làm nền tảng, chú trọng tư tưởng Bát-nhã và tu tập thiền quán. Phái thiền này để lại ảnh hưởng rất lớn lên các vua đời nhà Lý như Lý Thái Tông.
Hệ thống truyền thừa của thiền phái này không được lưu lại đầy đủ, sử sách ghi chép lại không rõ, khi tỏ khi mờ, truyền được 19 thế hệ với Sư là Sơ tổ và chấm dứt với Y Sơn (mất năm 1213).
Chú thích
Tham khảo
Thích Thanh Từ, Thiền sư Việt Nam, TP HCM 1995.
Nguyễn Huệ Chi (chủ biên), Thơ văn Lý-Trần, tập II, quyển thượng, Hà Nội 1988.
Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận I-III, Hà Nội 1992.
Thiền sư Ấn Độ
Thiền sư Việt Nam
Năm sinh không rõ
Mất năm 594
Thiền phái Tì-ni-đa-lưu-chi
Người Ấn Độ
|
24144
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C5%A9%20v%E1%BB%8B%20thi%E1%BB%81n
|
Ngũ vị thiền
|
Ngũ vị thiền (五味禪) chỉ năm phương pháp tu thiền do Thiền sư Khuê Phong Tông Mật phân chia ra trong tác phẩm Thiền nguyên chư thuyên tập đô tự (禪源諸詮集都序):
Phàm phu thiền (凡夫禪, ja. bompu-zen): Cách thiền của phàm phu, những người không theo đạo mà chỉ muốn thân thể, tâm trạng được khoẻ mạnh.
Ngoại đạo thiền (外道禪; ja. gedō-zen): Chỉ những phương pháp thiền nằm ngoài Phật giáo.
Nhị thừa thiền (二乘禪) hay Tiểu thừa thiền (小乘禪; ja. shōjō-zen): Thiền theo những phương pháp được nêu ra trong kinh sách Phật giáo Nam truyền. Cách thiền này dẫn đến Diệt tận định, và nếu hành giả ở trong trạng thái này khi chết thì không tái sinh nữa, thoát khỏi Luân hồi (sa. saṃsāra).
Đại thừa thiền (大乘禪; ja. daijō-zen): Mục đích chính ở đây là Kiến tính (見性; ja. kenshō), Giác ngộ. Kinh nghiệm giác ngộ cho thấy rằng, ta chính là vạn vật mà vạn vật không khác ta và từ kinh nghiệm này, những hành động hằng ngày sẽ là những hành động cứu độ tất cả chúng sinh.
Tối thượng thừa thiền (最上乘禪; ja. saijōjō-zen): Trong dạng thiền này, đường đi và mục đích trở thành một. Thiền không phải là một phương pháp để đạt giác ngộ nữa mà trở thành một sự biểu hiện trực tiếp của Phật tính (ja. busshō). Kinh sách viết rằng, đây là cách thiền của các chư Phật và là cách thiền tuyệt đỉnh (vô thượng, tối thượng, không còn cách nào hơn được) trong Phật pháp.
Quan niệm thường gặp như Đại thừa thiền là Thiền của tông Lâm Tế và Tối thượng thừa thiền là Thiền của tông Tào Động không đúng lắm bởi vì hai dạng Thiền trên bổ sung lẫn nhau mặc dù người ta chú trọng hơn đến kinh nghiệm Kiến tính trực tiếp và phương pháp dẫn đến kinh nghiệm này trong tông Lâm Tế; còn trong tông Tào Động thì phương pháp Chỉ quản đả toạ (只管打坐, ja. shikantaza) được xếp ở hàng đầu.
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren, Bern 1986.
Thuật ngữ và khái niệm Phật giáo
Triết lý Phật giáo
Phật học
Thiền tông
5 (số)
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.