id
stringlengths 1
8
| url
stringlengths 31
389
| title
stringlengths 1
250
| text
stringlengths 5
274k
|
---|---|---|---|
21723
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%B3ng%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20%C4%90%C3%B4ng%20Nam%20%C3%81%202005
|
Bóng nước tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2005
|
Giải bóng nước tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2005 là giải bóng nước của SEA Games 2005 bắt đầu vào ngày 21 tháng 11 và kết thúc vào ngày 26 tháng 11 năm 2005. Đội tuyển Singapore đã giành ngôi vô địch lần thứ 20 liên tiếp kể từ năm 1965.
Danh sách vận động viên đoạt huy chương
Tham khảo
Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2005
en:Aquatics at the 2005 Southeast Asian Games#Water polo
|
21726
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BA%A7n%20m%E1%BB%81m%20ngu%E1%BB%93n%20m%E1%BB%9F
|
Phần mềm nguồn mở
|
Phần mềm nguồn mở là phần mềm với mã nguồn được công bố và sử dụng một giấy phép nguồn mở. Giấy phép này cho phép bất cứ ai cũng có thể nghiên cứu, thay đổi, cải tiến phần mềm và phân phối phần mềm ở dạng chưa thay đổi hoặc đã thay đổi.
Năm 1998 một nhóm người chủ trương rằng thuật ngữ phần mềm tự do nên được thay thế bằng phần mềm nguồn mở vì thuật ngữ này ít mơ hồ hơn và dễ sử dụng hơn cho giới doanh nghiệp.
Định nghĩa Nguồn mở của Tổ chức Sáng kiến Nguồn mở (Open Source Initiative - OSI) thể hiện một triết lý nguồn mở và xác định ranh giới về việc sử dụng, thay đổi và tái phân phối phần mềm nguồn mở. Giấy phép phần mềm cung cấp cho người dùng các quyền vốn bị cấm bởi bản quyền, gồm các quyền về sử dụng, thay đổi và tái phân phối. Một vài giấy phép phần mềm nguồn mở đã được thẩm định thuộc giới hạn của Định nghĩa Nguồn mở. Ví dụ nổi bật nhất là Giấy phép Công cộng GNU (GPL). Trong khi nguồn mở cho phép công chúng truy cập vào nguồn của một sản phẩm, giấy phép nguồn mở cho phép tác giả điều chỉnh cách truy cập đó.
Hiện tại
Thuật ngữ "phần mềm nguồn mở" có nghĩa gần tương đương với "mã nguồn mở" nhưng với độ bao hàm cao hơn. Phần mềm nguồn mở thì có hệ quả là mã nguồn mở, nhưng điều ngược lại thì không đúng (ví dụ một phần mềm có mã nguồn mở nhưng giấy phép "đóng" - hệ quả của tình huống này là người dùng được truy cập vào mã nguồn nhưng có thể bị ngăn cấm quyền sao chép, chỉnh sửa, phân phối lại...).
Ngày nay có rất nhiều dạng mở (không đóng) bao gồm: phần cứng, phần mềm nguồn mở, tài liệu/ học liệu mở, thiết kế mở... Phần mềm nguồn mở ngày nay phát triển với tốc độ khá cao, cho thấy nó có nhiều động lực hơn so với mã đóng. Không nghi ngờ ngày nay sự phát triển lĩnh vực công nghệ thông tin có thể nói tới nguồn mở như cái gì đó năng động nhất. Tốc độ phát triển của nó có thể nói đến từng giờ một.
Ở Việt Nam, phần mềm tự do nguồn mở là thuật ngữ được khuyến khích sử dụng, thay thế cho hai thuật ngữ là phần mềm tự do và phần mềm nguồn mở (đặc biệt là thay thuật ngữ "mã nguồn mở" - bởi vì sự bó hẹp và dễ gây ngộ nhận của nó).
Xem thêm
Danh sách phần mềm nguồn mở
Chú thích
Liên kết ngoài
The Open Source Initiative's definition of open source
Open Sources: Voices from the Open Source Revolution — an online book containing essays from prominent members of the open source community
Free / Open Source Research Community — Many online research papers about Open Source
FreeOpenSourceSoftware.org - Wiki on open source history, organizations, licenses, people, software.
KDE developer Aaron Seigo's presentation at the 2nd Trans-Pacific Open Source Software Conference in Honolulu, Hawaii, January 2006.
Phần mềm tự do
Cách mạng số
Văn hóa phần mềm và tài liệu tự do
|
21737
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n%20Th%E1%BB%8B%20%C4%90%E1%BB%8Bnh
|
Nguyễn Thị Định
|
Nguyễn Thị Định (15 tháng 3 năm 1920 – 26 tháng 8 năm 1992), còn được gọi là Madame Nguyễn Thị Định, Ba Định (bí danh Bích Vân, Ba Tấn, Ba Nhất và Ba Hận), là nữ Thiếu tướng Quân đội nhân dân Việt Nam đầu tiên và nữ chính trị gia Việt Nam<ref
name="tdbkqs726">Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam 2004 - Nguyễn Thị Định (tr. 726)</ref>. Nguyên Phó Tư lệnh Quân giải phóng Miền nam Việt Nam, Phó Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh , Bí thư Tỉnh uỷ Bến Tre, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Uỷ viên Trung ương Đảng khoá IV, V, VI. Đại biểu quốc hội khoá VI, VII, VIII, Huân chương Hồ Chí Minh.
Tiểu sử
Nguyễn Thị Định sinh ngày 15 tháng 3 năm 1920 tại Lương Hòa, Giồng Trôm, Bến Tre. Gia đình của bà là nông dân nhưng tham gia phong trào chống Pháp. Là con út trong nhà nên bà còn có biệt danh là Út Tịch.
Hoạt động cách mạng và sự nghiệp chính trị
Giai đoạn Đấu tranh giành độc lập và Kháng chiến chống Pháp
Năm 1936, được sự dìu dắt của người anh ruột là Nguyễn Văn Chẩn, bà tham gia phong trào Đông Dương đại hội như đi liên lạc, rải truyền đơn. Bà đã vận động bà con chống sự áp bức, bóc lột cường hào ở địa phương.
Năm 1938, bà được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương.
Năm 1940, chồng bà bị đối phương bắt đày đi Côn Đảo và hy sinh ở đó. Nửa năm sau, bà cũng bị giặc bắt đày đi Bà Rá (thuộc tỉnh Bình Phước ngày nay.)
Năm 1943, do bị đau tim nặng, bà được trở về quê, chịu sự quản thúc của chính quyền địa phương.
Năm 1944, bà bắt liên lạc được với tổ chức cách mạng rồi tiếp tục hoạt động.
Tháng Tám năm 1945, bà tham gia khởi nghĩa giành chính quyền ở Bến Tre.
Tháng 3 năm 1946, bà tham gia đoàn cán bộ miền Nam ra Bắc gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh và chính phủ để báo cáo tình hình kháng chiến ở Nam Bộ và xin chi viện vũ khí. Tháng 11 năm đó, bà làm Trưởng đoàn của đoàn thuyền chở vũ khí về Nam.
Năm 1947, bà được bầu vào Tỉnh Ủy Bến Tre. Từ đó, bà cùng các cán bộ lãnh đạo ở địa phương tổ chức cuộc kháng chiến của nhân dân Bến Tre.
Năm 1954, cuộc kháng chiến của nhân dân Bến Tre cùng với cả nước đã giành được thắng lợi.
Giai đoạn Kháng chiến chống quân đội Mỹ
Những năm sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ (tháng 7 năm 1954), Bến Tre là một trọng điểm cần phải bình định của chính quyền Ngô Đình Diệm. Trong thời gian này, bà là một trong những cán bộ chủ chốt của Đảng bộ Bến Tre, đã cùng với các cán bộ lãnh đạo khác ra sức bảo vệ cách mạng, nhân dân.
Tháng 11 năm 1959, bà làm Phó bí thư Tỉnh ủy Bến Tre. Sau đó bà nhận nhiệm vụ về khu ủy Trung Nam Bộ (Khu 8 cũ) dự hội nghị tiếp thu Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Đầu năm 1960, bà một trong những người lãnh đạo Đồng khởi Bến Tre và là người chỉ đạo trực tiếp cuộc Đồng khởi đợt I (17.1.1960) ở ba điểm xã Định Thủy, Bình Khánh và Phước Hiệp (thuộc huyện Mỏ Cày Nam hiện nay) thắng lợi, mở đầu cho phong trào Đồng khởi trong tỉnh và toàn miền Nam sau này.
Sau cuộc Đồng khởi Bến Tre, bà làm Bí thư tỉnh ủy và Chủ tịch Mặt trận Giải phóng tỉnh Bến Tre.
Năm 1964, trong Đại hội dân tộc giải phóng miền Nam lần thứ nhất, bà được bầu làm Ủy viên Chủ tịch đoàn Ủy ban Trung ương mặt trận. Năm 1965, bà giữ chức Phó Tư lệnh quân Giải phóng miền Nam; tại đại hội Phụ nữ toàn miền Nam, bà làm Hội trưởng Hội Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng miền Nam. Năm 1974, bà được phong quân hàm Thiếu tướng quân đội nhân dân Việt Nam.
Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước (1987-1992)
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (sau năm 1975), bà giữ nhiều chức vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước như: Ủy viên Trung ương Đảng khóa IV, V, VI; Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa VI, VII, VIII; Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Từ 1987 đến 1992, bà giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước.
Qua đời
Ngày 26 tháng 8 năm 1992, bà từ trần tại Thành phố Hồ Chí Minh. Hưởng thọ 72 tuổi
Danh hiệu
Giải thưởng
Ngày 16/3/1990: Huân chương Hồ Chí Minh.
Huân chương Chiến công hạng Nhất.
Huân chương Quân công hạng Nhất.
Huân chương Kháng chiến Chống Mỹ cứu nước hạng Nhất.
Được Đảng và Chính phủ Cu-Ba trao tặng Huân Chương Hiron.
Giải thưởng Hòa bình Lenin của Liên Xô trao tặng.
Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng.
Ngày 30 tháng 8 năm 1995, bà Nguyễn Thị Định được Chủ tịch nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Thờ phụng
Sau khi bà mất, đền thờ bà được lập tại ấp Phong Điền, Lương Hòa, Giồng Trôm. Trong đền thờ có tượng đồng chân dung bà, tượng có chiều cao 1,75 m, nặng 1.025 kg, đặt trên bệ thờ cao 1,5 m do Bộ Quốc phòng trao tặng.
Nhân dân Hát Môn (Hà Nội) cũng đã rước bát hương bà về thờ trong khu đền Hai Bà Trưng.
Tên của bà cũng được đặt cho nhiều tuyến đường, phố và trường học tại nhiều địa phương khác nhau ở nhiều tỉnh, thành phố.
Nhận xét
Năm 1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Phó tổng Tư lệnh Quân giải phóng là cô Nguyễn Thị Định. Cả thế giới chỉ có nước ta có vị tướng quân gái như vậy. Thật là vẻ vang cho miền Nam và cho cả dân tộc ta".
Tham khảo
Liên kết ngoài
"Những phụ nữ huyền thoại" , trang của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
Người họ Nguyễn tại Việt Nam
Người Giồng Trôm
Anh thư dân tộc Việt Nam
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam
Nữ Phó Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam
Nữ tướng Quân đội nhân dân Việt Nam
Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa VI
Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa VII
Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa VIII
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân
Thiếu tướng Quân đội nhân dân Việt Nam đã mất
|
21747
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A1c%20n%C3%BAi%20linh%20thi%C3%AAng%20c%E1%BB%A7a%20Trung%20Qu%E1%BB%91c
|
Các núi linh thiêng của Trung Quốc
|
Các núi linh thiêng của Trung Quốc được chia thành nhiều nhóm khác nhau. Nhóm núi Ngũ nhạc () là tên gọi cho năm ngọn núi nổi tiếng nhất, gắn liền với lịch sử Trung Quốc qua nhiều triều đại. Chúng cũng gắn liền với tín ngưỡng và thuyết Ngũ hành của Trung Quốc. Trong khi đó, nhóm núi chủ yếu gắn liền với Phật giáo được nhắc đến với tên gọi Tứ đại Phật giáo danh sơn (); còn nhóm núi gắn liền với Đạo giáo được gọi là Tứ đại Đạo giáo danh sơn ().
Những ngọn núi linh thiêng trong các nhóm trên đều là các điểm đến rất quan trọng đối với các cuộc hành hương. Trong ngôn ngữ trung Quốc, hành hương gọi là "triều thánh" (), nghĩa đen là "vái lạy ngọn núi linh thiêng" hay triều bái thánh sơn ().
Ngũ Nhạc
Ngũ Nhạc được sắp xếp theo bốn hướng chính và trung tâm của vùng đất Trung Hoa cổ đại. Các rặng núi trong nhóm này bao gồm:
Đông Nhạc: Thái Sơn
; "Ngọn núi tĩnh lặng", thuộc tỉnh Sơn Đông,
Tây Nhạc: Hoa Sơn
; "Ngọn núi lộng lẫy", thuộc tỉnh Thiểm Tây,
Nam Nhạc: Hành Sơn
; "Ngọn núi cân bằng", thuộc tỉnh Hồ Nam,
Bắc Nhạc: Hằng Sơn
; "Ngọn núi vĩnh hằng", thuộc tỉnh Sơn Tây,
Trung Nhạc: Tung Sơn
; "Ngọn núi cao ngất", thuộc tỉnh Hà Nam,
Theo thần thoại Trung Quốc, Ngũ Nhạc có nguồn gốc từ thân thể và đầu của Bàn Cổ, vị thần đầu tiên sáng tạo ra thế giới. Do vị trí ở phía đông của mình nên Thái sơn được gắn liền với mặt trời mọc, là biểu tượng cho sự ra đời và sự hồi sinh. Cũng vì cách diễn giải này, nó thông thường được nhắc đến như là ngọn núi linh thiêng nhất trong số Ngũ đại danh sơn. Phù hợp với vị trí đặc biệt của nó, Thái sơn được cho là được tạo thành từ phần đầu của Bàn Cổ.
Tứ đại Phật giáo danh sơn
Còn gọi là Tứ đại danh sơn, Tứ linh sơn, cụ thể là:
Ngũ Đài sơn (五臺山) thuộc tỉnh Sơn Tây cao 3.058 m, thông thường được gắn liền với Văn Thù Bồ Tát
Nga Mi Sơn (峨嵋山) thuộc tỉnh Tứ Xuyên cao 3.099 m, thông thường được gắn liền với Phổ Hiền Bồ Tát
Cửu Hoa sơn (九華山) thuộc tỉnh An Huy, cao 1.341 m, thông thường được gắn liền với Địa Tạng Bồ Tát
Phổ Đà sơn (普陀山), thuộc tỉnh Chiết Giang cao 284 m, thông thường được gắn liền với Quan Thế Âm Bồ Tát.
Tứ đại Đạo giáo danh sơn
Bốn ngọn núi nổi tiếng trong Đạo giáo gồm:
Võ Đang sơn
; Tây Bắc tỉnh Hồ Bắc. Đỉnh cao: 1612m. .
Long Hổ sơn
; nghĩa đen "rồng và hổ", thuộc tỉnh Giang Tây. Đỉnh cao: 247.4m.
Tề Vân sơn
; nghĩa đen "Đám mây sạch sẽ, chỉnh tề", thuộc tỉnh An Huy. Đỉnh cao: 585m.
Thanh Thành sơn
; nghĩa đen "Tường thành màu xanh"; nằm cách thành phố Đô Giang, tỉnh Tứ Xuyên, 15 km về phía Tây Nam. Đỉnh cao: 1260m (năm 2007), .
Tham khảo
Liên kết ngoài
Các ngọn núi nổi tiếng của Trung Quốc
chinaonyourmind.com
Các khu vực linh thiêng
Phật giáo Trung Quốc
Đạo giáo ở Trung Quốc
Công trình tôn giáo Trung Quốc
|
21748
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%99ng%20l%C6%B0%E1%BB%A3ng
|
Động lượng
|
Trong cơ học Newton, động lượng tuyến tính, động lượng tịnh tiến hay đơn giản là động lượng là đại lượng vật lý đặc trưng cho khả năng truyền chuyển động của vật. Nó được xác định bằng tích của khối lượng và vận tốc của một vật. Nó là một đại lượng vectơ, sở hữu độ lớn và hướng trong không gian ba chiều. Nếu là khối lượng của một vật và là vận tốc (cũng là một vectơ), thì động lượng là
Trong hệ đơn vị SI, nó được đo bằng kilogam mét trên giây (kg. m/s). Định luật chuyển động thứ hai của Newton nói rằng tốc độ thay đổi động lượng của cơ thể bằng với lực ròng tác dụng lên nó.
Động lượng phụ thuộc vào hệ quy chiếu, nhưng trong bất kỳ hệ quy chiếu quán tính nào, nó là một đại lượng được bảo toàn, có nghĩa là nếu một hệ kín không bị tác động bởi ngoại lực thì tổng động lượng tuyến tính của nó không thay đổi. Động lượng cũng được bảo toàn trong thuyết tương đối hẹp (với công thức đã sửa đổi) và, ở dạng biến đổi, trong điện động lực học, cơ học lượng tử, lý thuyết trường lượng tử và thuyết tương đối rộng. Nó là một biểu thức của một trong những đối xứng cơ bản của không gian và thời gian: đối xứng tịnh tiến.
Các công thức tiên tiến của cơ học cổ điển, cơ học Lagrangian và Hamilton, cho phép người ta chọn các hệ tọa độ kết hợp các đối xứng và các ràng buộc. Trong các hệ thống này, đại lượng bảo toàn là động lượng tổng quát, và nói chung, điều này khác với động lượng được xác định ở trên. Khái niệm động lượng tổng quát được chuyển sang cơ học lượng tử, nơi nó trở thành toán tử trên hàm sóng. Các toán tử động lượng và vị trí có liên quan đến nhau theo nguyên lý bất định Heisenberg.
Trong các hệ liên tục như trường điện từ, chất lỏng và vật thể biến dạng, mật độ động lượng có thể được xác định và một phiên bản liên tục của bảo toàn động lượng dẫn đến các phương trình như phương trình Navier-Stokes cho chất lỏng hoặc phương trình động lượng Cauchy cho chất rắn biến dạng hoặc chất lỏng.
Định luật bảo toàn động lượng
Có thể suy ra trực tiếp từ định luật 2 Newton một hệ quả: Khi tổng các ngoại lực tác động vào hệ các vật bằng không thì biến thiên động lượng của hệ cũng bằng không.
Đây chính là nội dung Định luật bảo toàn động lượng. Cụ thể, định luật này có thể phát biểu: "Tổng động lượng (đối với hệ quy chiếu quán tính) của một hệ các vật không thay đổi nếu hệ đó không tương tác với bên ngoài (tức là tổng ngoại lực bằng không, trong một hệ vật lý kín)".
Định luật bảo toàn động lượng là một trong những định luật bảo toàn vật lý quan trọng nhất. Việc bảo toàn động lượng có giá trị trong cơ học cổ điển cũng như trong thuyết tương đối hẹp và cơ học lượng tử. Nó độc lập với việc Bảo toàn năng lượng và có tầm quan trọng cơ bản trong mô tả các quá trình tác động, ví dụ, trong đó định lý nói rằng tổng động lượng của tất cả các đối tác tác động trước và sau tác động là như nhau. Việc bảo toàn động lượng áp dụng cả khi động năng được giữ lại trong quá trình va chạm (va chạm đàn hồi) và khi không có (va chạm không đàn hồi).
Sự bảo toàn động lượng là hệ quả tức thời của tính đồng nhất của không gian, nghĩa là thực tế rằng hành vi của một vật thể chỉ được xác định bởi các đại lượng vật lý tại vị trí của nó, chứ không phải bởi chính vị trí đó.
Cơ học cổ điển
Trong cơ học cổ điển, khối lượng của vật không phụ thuộc vào trạng thái chuyển động, động lượng được định nghĩa bằng tích của khối lượng với vận tốc.
Trong công thức này, là khối lượng của vật, là vận tốc của vật đó trong hệ quy chiếu đang xét, và là động lượng của vật đối với hệ quy chiếu đó.
Sự thay đổi động lượng của một vật theo thời gian trong hệ quy chiếu đang xét, theo định luật 2 Newton, đúng bằng giá trị của tổng các lực tác động vào vật.
Thuyết tương đối
Động lượng tương đối tính, đề xuất bởi Albert Einstein, là tích của khối lượng tương đối tính của vật với vận tốc chuyển động. Khối lượng tương đối tính, m, liên hệ với khối lượng nghỉ (khối lượng cổ điển), m0, qua vận tốc chuyển động, v, theo m = γ m0 với:
Khái niệm này xuất phát từ nhu cầu xây dựng một véctơ-4 có độ lớn không thay đổi trong biến đổi Lorent, tương tự như xung lượng thông thường trong cơ học cổ điển. Véctơ-4 này xuất hiện một cách tự nhiên trong các hàm Green của lý thuyết trường lượng tử. Véctơ-4 này, còn được gọi là động lượng-4, gồm 3 thành phần của vectơ động lượng tương đối tính trong không gian ba chiều, p tương ứng với 3 chiều không gian, cùng năng lượng tương đối tính tổng cộng, E tương ứng với chiều thời gian, chia cho tốc độ ánh sáng, c, để đồng bộ thứ nguyên:
[E/c, p]
Với năng lượng tương đối tính tổng cộng là:
Động lượng-4 được xây dựng như vậy có đặc điểm là có độ lớn, , không thay đổi khi thay đổi hệ quy chiếu trong không thời gian:
Các vật thể không có khối lượng nghỉ như photon cũng vẫn có động lượng tương đối tính. Do hạt này luôn chuyển động với tốc độ ánh sáng p.p=E2/c2 đối với photon.
Cơ học lượng tử
Trong cơ học lượng tử, động lượng của một hệ, đặc trưng bởi một hàm trạng thái, là kết quả thu được từ một phép đo, thực hiện bởi áp dụng toán tử lên hàm trạng thái đó. Toán tử này gọi là toán tử động lượng.
Với hệ vật lý là một hạt không có điện tích và spin, toán tử động lượng có thể được viết trên hệ cơ sở vị trí là:
với là toán tử građiên, là hằng số Planck rút gọn, và là đơn vị ảo (căn bậc hai của -1).
Động lượng xuất hiện trong nguyên lý bất định của Heisenberg, trong đó nói rằng không thể cùng một lúc đo chính xác (không có sai số) động lượng và vị trí của một hệ lượng tử. Động lượng và vị trí là hai đại lượng có thể tráo đổi nhau trong cơ học lượng tử.
Liên kết ngoài
Vật lý lớp 10: Chương các định luật bảo toàn - học trực tuyến tại Lớp Học Vật Lý.
Giáo trình Vật lý đại cương của trường Đại học Hồng Đức
Tham khảo
Cơ học
Đại lượng vật lý
Vận tốc
Khái niệm vật lý
Cơ học môi trường liên tục
Định luật bảo toàn
Chuyển động
|
21749
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C3%B5%20g%E1%BA%ADy
|
Võ gậy
|
Arnis (còn gọi là Kali, Eskrima, Escrima) là một môn võ thuật sử dụng vũ khí của Philippines. Môn võ này cũng đã có mặt tại một số quốc gia Đông Nam Á dưới những tên gọi khác như Krabi Krabong hay Trumbu. Ngoài ra cũng có một số tên gọi thông dụng khác như Kali và Arnis de Mano (áo giáp bọc tay); đôi khi người ta cũng dùng chữ viết tắt FMA (Filipino Martial Arts, võ thuật Philippines). Eskrima và Arnis là tên dùng chủ yếu tại Philippines ngày nay. Tên trong tiếng Việt hiện nay là võ gậy.
Arnis, lần đầu tiên, trở thành bộ môn thi đấu chính thức trong SEA Games lần thứ 23 vào năm 2005.
Tên
Các tên eskrima và escrima có gốc từ chữ esgrima trong tiếng Tây Ban Nha và mang nghĩa "đấu kiếm". Arnis đến từ arnés de mano, cũng là tiếng Tây Ban Nha, và có nghĩa là "áo giáp bọc tay". Kali, theo nhiều người, có thể đến từ keris của tiếng Malay dùng để chỉ một loại dao dài được dùng như một vũ khí của võ thuật Mã Lai. Từ kali, thật sự, chỉ xuất hiện vào khoảng thập niên 1960, sau khi hai nhà kiếm thuật người Mỹ (eskrimador) bắt đầu dùng nó để phân biệt lối dùng kiếm của họ với các kiếm thuật khác.
Escrima trong phim ảnh
Trong bộ phim Trò chơi tử thần (The Game of Death) của Lý Tiểu Long, có một đoạn anh ta giao chiến với một sư phụ môn Escrima. Người này sử dụng công bằng song và côn nhị khúc
Trong bộ phim OngBak của Tony Jaa, Escrima có tên Krabi Krabong, Tony Jaa ta đã sử dụng Krabi Krabong để đánh với một nhóm buôn lậu bằng các loại vũ khí: Kiếm, côn dài, côn bằng song, một cặp tonfa.
Tham khảo
|
21763
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Xung%20l%C6%B0%E1%BB%A3ng
|
Xung lượng
|
Trong cơ học cổ điển, xung lượng (kí hiệu J hay Imp) là một tích phân của lực, F, với ẩn thời gian, t. Vì lực là một đại lượng vector, xung lượng cũng là một đại lượng vector. Đơn vị SI của xung lực là newton giây (N·s).
Từ đó suy ra:
Tham khảo
Cơ học cổ điển
|
21767
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Vect%C6%A1-4
|
Vectơ-4
|
Vectơ-4 là một véctơ trên một không gian 4 chiều thực đặc biệt, gọi là không gian Minkowski. Chúng xuất hiện lần đầu trong lý thuyết tương đối hẹp, như là sự mở rộng của các véctơ của không gian 2 chiều thông thường, với các thành phần được biến đổi như không gian ba chiều và thời gian thông qua biến đổi Lorentz. Tập hợp các vectơ-7 cùng với biến đổi Lorentz tạo nên nhóm Lorentz.
Tích vô hướng
Mọi điểm trong không gian Minkowski, hay được gọi là "sự kiện", đều được mô tả bởi vector-4 vị trí, gồm 3 thành phần không gian ba chiều thông thường, x, y và z, cùng với 1 thành phần thời gian t nhân với tốc độ ánh sáng c cho đồng bộ thứ nguyên:
R:= [ct, x, y, z]
Véc-tơ-4 cũng có thể được viết theo Ký hiệu Einstein là
x:= xa
với a chạy từ 0 đến 3.
Phép nhân vô hướng (hay tích trong) giữa hai vectơ-4, R1 và R2 được định nghĩa là:
R1.R2 = x1x2 + y1y2 + z1z2 - ct1ct2
Nếu dùng ký hiệu Einstein thì tích trong giữa hai vectơ-4, x và y là:
với η là mêtríc Minkowski. Phép nhân này đôi khi được gọi là tích trong Minkowski.
Như vậy, bình phương độ lớn một vectơ-4 R là:
R.R = x2 + y2 + z2 - ct2
Theo bình phương độ lớn, các vectơ-4 được phân loại ra thành:
vectơ-4 không gian: R.R > 0
vectơ-4 thời gian: R.R < 0
vectơ-4 không: R.R = 0
Đạo hàm theo thời gian
Đối với các đại lượng là đạo hàm theo thời gian của các đại lượng vật lý khác, người ta quy ước lấy đạo hàm theo thời gian riêng (τ) trong hệ quy chiếu đang xét. Lúc đó cần biết liên hệ giữa đạo hàm theo thời gian riêng với đạo hàm theo thời gian trong hệ quy chiếu khác. Đó là biến đổi thời gian trong biến đổi Lorentz:
Với γ là hệ số tương đối tính liên hệ với vận tốc tương đối giữa hai hệ quy chiếu v qua:
v2 = v.v
Đại lượng vật lý vectơ-4
Nhiều đại lượng vật lý ở dạng véctơ trong không gian ba chiều thông thường có một vectơ-4 tương đương trong không thời gian. Có thể bắt đầu định nghĩa các đại lượng vật lý xuất phát từ vectơ-4 vị trí R:= [ct, x, y, z] và phép đạo hàm như mô tả ở trên.
Một số đại lượng vật lý vectơ độc lập trong không gian ba chiều cổ điển lại ghép với các đại lượng vectơ khác thành đại lượng vật lý thống nhất trong không thời gian ở dạng tensơ-4. Ví dụ cho nhóm này có véctơ điện trường và véctơ từ trường được thống nhất thành tensơ-4 điện từ trường trong không thời gian.
Vận tốc-4
Vận tốc là đạo hàm theo thời gian của vị trí. Vận tốc-4 là đạo hàm theo thời gian của véctơ vị trí-4:
với
và i = 1, 2, 3. Chú ý rằng:
Gia tốc-4
Gia tốc là đạo hàm theo thời gian của vận tốc. Gia tốc-4 là đạo hàm theo thời gian của véctơ vận tốc-4:
Chú ý rằng:
Động lượng-4
Động lượng-4 có thể được định nghĩa từ vận tốc-4:
với m0 là khối lượng nghỉ còn m = γm0 là khối lượng tương đối tính và p = mu là động lượng tương đối tính.
Lực-4
Lực-4 có thể định nghĩa từ định luật 2 Newton mở rộng cho không thời gian:
với
.
Mật độ dòng điện-4
Mật độ dòng điện-4 có thể được định nghĩa từ vận tốc-4 và cho ra kết quả:
với j là mật độ cường độ dòng điện cổ điển còn ρ là mật độ điện tích
Điện từ thế-4
Điện từ thế-4 gộp lại điện thế cổ điển, φ, và vectơ từ thế cổ điển A:
Tần số-4
Các sóng điện từ phẳng có thể được biểu diến qua tần số-4:
với là tần số cổ điển của sóng, và n véctơ đơn vị ba chiều chỉ phương lan truyền của sóng. Chú ý
nghĩa là tần số-4 là vectơ-4 không.
Xem thêm
Tenxơ-4
Tham khảo
Rindler, W. Introduction to Special Relativity (2nd edn.) (1991) Clarendon Press Oxford ISBN 0-19-853952-5
Không gian Minkowski
Thuyết tương đối hẹp
Khái niệm vật lý
Thuyết tương đối
|
21769
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%E1%BB%B9%20%C4%91%E1%BA%A1o%20%C4%91%E1%BB%8Ba%20t%C4%A9nh
|
Quỹ đạo địa tĩnh
|
Quỹ đạo địa tĩnh là quỹ đạo tròn ngay phía trên xích đạo Trái Đất (vĩ độ 0º). Bất kỳ điểm nào trên mặt phẳng xích đạo đều quay tròn xung quanh Trái Đất theo cùng một hướng và với cùng một chu kỳ (vận tốc góc) giống như sự tự quay của Trái Đất. Nó là trường hợp đặc biệt của quỹ đạo địa đồng bộ, và là quỹ đạo được những người khai thác hoạt động của vệ tinh nhân tạo ưa thích (bao gồm các vệ tinh viễn thông và truyền hình). Các vị trí vệ tinh chỉ có thể khác nhau theo kinh độ.
Ý tưởng về vệ tinh địa đồng bộ cho mục đích viễn thông đã được Herman Potocnik đưa ra lần đầu tiên năm 1928. Các quỹ đạo địa đồng bộ và địa tĩnh cũng đã được Arthur C. Clarke, tác giả truyện khoa học viễn tưởng phổ biến lần đầu tiên năm 1945 như là các quỹ đạo có ích cho các vệ tinh viễn thông. Do đó, đôi khi các quỹ đạo này còn được nói đến như là các quỹ đạo Clarke. Tương tự, "vành đai Clarke" là một phần của khoảng không vũ trụ nằm phía trên mực nước biển trung bình khoảng 35.786 km trong mặt phẳng xích đạo, trong đó các quỹ đạo gần-địa tĩnh có thể đạt được.
Các quỹ đạo địa tĩnh là hữu ích do chúng làm cho vệ tinh dường như là tĩnh đối với điểm cố định nào đó trên Trái Đất. Kết quả là các ăng ten có thể hướng tới theo một phương cố định mà vẫn duy trì được kết nối với vệ tinh. Vệ tinh quay trên quỹ đạo theo hướng tự quay của Trái Đất ở độ cao khoảng 35.786 km (22.240 dặm) phía trên mặt đất. Độ cao này là đáng chú ý do nó tạo ra chu kỳ quỹ đạo bằng với chu kỳ tự quay của Trái Đất, còn được biết đến như là ngày thiên văn.
Sử dụng cho các vệ tinh nhân tạo
Các quỹ đạo địa tĩnh chỉ có thể đạt được rất gần với vòng 35.786 km phía trên xích đạo. Các vệ tinh quỹ đạo địa đồng bộ tròn khác (nếu có) sẽ cắt ngang quỹ đạo địa tĩnh và có thể xảy ra va chạm với các vệ tinh địa tĩnh này. Trên thực tế điều này có nghĩa là tất cả các vệ tinh địa tĩnh cần phải tồn tại trên vòng tròn này, nó đặt ra các vấn đề như phải ngừng hoạt động của các vệ tinh vào cuối chu kỳ hoạt động của nó (ví dụ như khi chúng hết lực đẩy).
Quỹ đạo chuyển tiếp địa tĩnh được sử dụng để chuyển vệ tinh từ quỹ đạo gần Trái Đất vào quỹ đạo địa tĩnh.
Hệ thống toàn thế giới các vệ tinh địa tĩnh đang hoạt động được sử dụng bởi các vệ tinh khí tượng để cung cấp các hình ảnh bằng ánh sáng thường và hồng ngoại về bề mặt và bầu khí quyển Trái Đất. Các hệ thống vệ tinh này bao gồm:
GOES của Hoa Kỳ
METEOSAT, được Cơ quan hàng không châu Âu phóng lên và được điều hành bởi Tổ chức vệ tinh khí tượng châu Âu EUMETSAT
GMS của Nhật Bản
Phần lớn các vệ tinh viễn thông thương mại (và vệ tinh truyền hình) cũng hoạt động trên các quỹ đạo địa tĩnh.
Statite, một vệ tinh giả thuyết, sử dụng buồm mặt trời để thay đổi quỹ đạo của nó, về mặt lý thuyết có thể giữ cho nó trên "quỹ đạo địa tĩnh" với độ cao/độ nghiêng khác so với quỹ đạo địa tĩnh xích đạo "truyền thống".
Tính toán độ cao quỹ đạo địa tĩnh
Trên quỹ đạo địa tĩnh, vệ tinh không bị đẩy về phía Trái Đất mà cũng không bay ra xa khỏi nó. Vì thế, các lực tác động lên vệ tinh phải triệt tiêu lẫn nhau (theo Định luật 1 Newton về chuyển động), chủ yếu là lực ly tâm và lực hướng tâm (ở đây coi các lực khác là không đáng kể). Để tính toán độ cao quỹ đạo địa tĩnh, người ta cần phải cân bằng hai lực này:
Theo định luật 2 Newton về chuyển động, ta có thể thay thế các lực bằng khối lượng của vật thể nhân với gia tốc mà vật thể có được do các lực này:
Thấy rằng khối lượng của vệ tinh, , xuất hiện trên cả hai vế—ta có thể chia cả hai vế cho (do nó ≠0) và có thể rút ra kết luận là quỹ đạo địa tĩnh là độc lập với khối lượng của vệ tinh. Vì vậy, tính toán độ cao được đơn giản thành tính toán điểm mà cường độ của gia tốc ly tâm có được từ chuyển động trên quỹ đạo và gia tốc hướng tâm tạo ra bởi trường hấp dẫn của Trái Đất phải bằng nhau.
Cường độ gia tốc ly tâm là:
...trong đó là vận tốc góc tính bằng radian trên giây, và là bán kính quỹ đạo tính theo đơn vị mét từ tâm Trái Đất.
Cường độ của tương tác hấp dẫn là:
...trong đó là khối lượng của Trái Đất tính theo kilôgam, và là hằng số hấp dẫn.
Cân bằng cả hai gia tốc ta thu được:
Chúng ta có thể biểu diễn điều này trong dạng khác một chút bằng cách thay thế bằng , hằng số hấp dẫn địa tâm:
Vận tốc góc được tìm bằng cách chia góc mà vệ tinh đi qua trong một vòng quay () trong chu kỳ quỹ đạo (thời gian nó cần để thực hiện đủ một vòng quay: nó bằng một ngày thiên văn, hay 86,164 giây). Điều này cho ta:
Bán kính quỹ đạo sẽ là 42.164 km. Trừ đi bán kính Trái Đất tại xích đạo, bằng 6.378 km, cho ta kết quả cuối cùng của độ cao là 35.786 km.
Vận tốc quỹ đạo (cho biết vệ tinh quay trong không gian nhanh đến mức nào) được tính bằng cách nhân vận tốc góc với bán kính quỹ đạo:
= 3,07 km/s = 11.052 km/h
Tham khảo
Tiêu chuẩn liên bang 1037C (Hoa Kỳ)
MIL-STD-188
Xem thêm
Thang máy vũ trụ
Vệ tinh địa đồng bộ
Quỹ đạo địa đồng bộ
Tính quỹ đạo địa đồng bộ
Liên kết ngoài
Cơ học quỹ đạo (Công nghệ tên lửa và vũ trụ)
Danh sách các vệ tinh trên quỹ đạo địa tĩnh.
Động lực học thiên văn
Cơ học thiên thể
Quỹ đạo quanh Trái Đất
Vệ tinh nhân tạo
de:Geosynchrone Umlaufbahn#Geostationäre Umlaufbahn
el:Γεωσύγχρονη τροχιά
|
21771
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BB%87nh%20t%E1%BA%B1m%20v%C3%B4i
|
Bệnh tằm vôi
|
Bệnh tằm vôi do một loại nấm cứng trắng gây nên. Nấm bệnh vôi bám trên thân tằm hoặc côn trùng khác. Nấm phát triển với nhiệt độ và ẩm độ như nhiệt độ và ẩm độ của tằm ưa thích
Đường lây nhiễm
Thường là qua da, qua vết thương trên da.
Triệu chứng
Bệnh phát triển trên con tằm khỏe, quan sát kỹ thấy trên thân tằm có lấm chấm nhiều nốt trong suốt. Khi tằm chết ấn vào đầu, thân vẫn đàn hồi, toàn thân tằm cứng và trắng như vôi, phân hơi nhão, miệng ứa nước. Nhiễm bệnh ở tuổi 5 thì thời gian ủ bệnh kéo dài 5-7 ngày.
Biện pháp phòng trừ
Khử trùng triệt để nhà và dụng cụ nuôi tằm, vệ sinh tốt đồng dâu, ủ phân tằm cẩn thận trước khi bón cho dâu. Trong nuôi tằm cần dùng vôi để hút ẩm và vệ sinh thân.
Chú thích
Tham khảo
Dâu tằm tơ
|
21772
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BB%87nh%20t%E1%BA%B1m%20do%20virus
|
Bệnh tằm do virus
|
Bệnh tằm do virus (còn gọi bệnh bủng hay bệnh nghệ) xảy ra khi tằm bị nhiễm virus.
Triệu chứng
Tằm nhỏ da căng phồng, trốn ngủ. Tằm lớn đốt căng phồng, có màu trắng nhờ, nếu là tằm kén vàng thì có màu vàng nghệ hay bò lên cạp nong. Tằm bò đến đến đâu nước chảy đến đó. Nếu mắc bệnh ở cuối tuần 5 thì kén sẽ mỏng, tằm chưa hoá nhộng đã chết.
Nguyên nhân và đường lây nhiễm
Nguyên nhân: do virus có sẵn trong cơ thể tằm và ngoài môi trường, gây ra khi gặp điều kiện thời tiết thay đổi đột ngột.
Đường lây nhiễm: chủ yếu qua đường tiêu hoá (khi tằm ăn phải lá dâu bị hấp hơi hoặc ôi, héo). Ngoài ra bệnh còn bị nhiễm qua vết thương trên da tằm.
Biện pháp phòng trừ
Thông gió cho nhà nuôi tằm thoáng và đóng cửa kịp thời khi thời tiết thay đổi. Trước và sau lứa tằm cần khử trùng bằng nước vôi trong hoặc foocmol. Cho ăn lá dâu tươi ngon, khi phát hiện tằm bị bệnh cần thay phân kịp thời và xử lý tằm đậy bằng vôi bột, loại bỏ tằm bệnh. Cách ly tằm bệnh và tằm khoẻ mạnh. Vệ sinh và khử trùng khu vực nuôi tằm và dụng cụ nuôi tằm.
Chú thích
Tham khảo
Dâu tằm tơ
|
21776
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BB%87nh%20ng%E1%BB%99%20%C4%91%E1%BB%99c%20t%E1%BA%B1m
|
Bệnh ngộ độc tằm
|
Bệnh ngộ độc tằm là xảy ra khi tằm bị nhiễm độc chất. Đây là loại bệnh không lây truyền.
Nguyên nhân
Ngộ độc do hoá chất như thuốc trừ sâu, phân bón, hoá chất khác (cấp tính).
Ngộ độc do khói công nghiệp: lò gạch, lò ngói và bếp than (mãn tính).
Triệu chứng
Ngộ độc do hoá chất: tằm đang ăn mạnh tự nhiên dừng ăn, ứa nước miệng, đầu lắc lư rồi chết, khi chết thân co quắp.
Ngộ độc do khói công nghiệp: tằm không chết ngay, biểu hiện có nhiều mảng đen tập trung ở giữa các đốt, da mỏng hơn chạm vào dễ vỡ, chảy nước xanh (thức ăn).
Biện pháp phòng trừ
Ngộ độc do khói công nghiệp: nên rửa lá dâu bằng nước vôi trong, sau đó rửa nước sạch,để ráo cho tằm ăn.
Ngộ độc do hoá chất: cần thay phân kịp thời, dùng dụng cụ sạch, cho tằm ăn lá dâu ngon có phun nước đường + vitamin C 5%, thông gió phòng nuôi.
Chú thích
Tham khảo
Dâu tằm tơ
|
21777
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%B2ng%20tr%E1%BB%AB%20t%E1%BB%95ng%20h%E1%BB%A3p%20b%E1%BB%87nh%20t%E1%BA%B1m
|
Phòng trừ tổng hợp bệnh tằm
|
Phòng trừ tổng hợp bệnh tằm là tổng hợp các biện pháp nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong việc phòng trừ bệnh ở tằm.
Khử trùng: phun nước ẩm nong, đũi trước khi tiến hành khử trùng mới có hiệu quả.
Dùng nước vôi trong sát trùng để diệt nấm, bào tử bệnh gai, bệnh trong đầu và bệnh bủng.
Có thể dùng foocmôn (formol hay formalin) 2% - 5% để khử trùng.
Phòng nuôi tằm dễ điều chỉnh nhiệt độ khi cần (thông thoáng mùa hè, ấm áp mùa đông).
Kỹ thuật nuôi: vệ sinh môi trường sạch sẽ, cho ăn theo tiêu chuẩn và chất lượng lá dâu đúng độ tuổi, phù hợp với sinh trưởng của tằm. Các chất dinh dưỡng và thuốc kháng sinh bổ sung có thể dùng:
Khi lá dâu non hoặc quá già sẽ thiếu chất dinh dưỡng, có thể bổ sung bằng cách phun một số loại thuốc bổ như vitamin B1, B12, B6 và B complex.
Cho ăn thuốc phòng bệnh như Penixilin và Ampixilin, rượu tỏi.
Cách cho ăn phun dung dịch Penixilin hoặc Ampixilin pha theo tỉ lệ 2 ml với 0,5 l nước phun đều lên 5 – 7 kg lá dâu, để ráo cho tằm ăn.
Rượu tỏi tăng sức đề kháng cho tằm: dùng 2 - 3 g tỏi + 100 ml rượu làm dung dịch,lấy dung dịch pha theo tỉ lệ 2 ml + 0,5 l nước phun lên lá dâu cho tằm.
Tham khảo
Dâu tằm tơ
|
21778
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%E1%BA%B7ng%20h%E1%BA%A1i%20t%E1%BA%B1m
|
Nhặng hại tằm
|
Nhặng hại tằm là bệnh của tằm do nhặng gây ra. Bệnh xảy ra chủ yếu vào mùa hè. Nhặng đẻ trứng trên mình tằm. Trứng nở, dòi chui vào để lại vết đen trên mình tằm. Khi dòi đẫy sức chui ra hóa nhộng làm cho tằm chết, ở giai đoạn kén làm cho kén thủng đầu không ươm tơ được.
Biện pháp phòng trừ
Biện pháp phòng: dùng mành ngăn không cho nhặng vào phòng tằm.
Biện pháp trừ bằng thuốc hoá học: diệt trứng ruồi bằng cách phun Bi58 lên mình tằm với tỉ lệ 1/500, phun 1 lần vào ngày thứ 3 ở tuổi 4 và ngày thứ 2, 4, 6 ở tuổi 5. Phun vào buổi chiều để làm trứng do nhặng đẻ buổi sáng rơi khỏi mình tằm, không nở được thành dòi.
Tham khảo
Dâu tằm tơ
|
21780
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BB%87nh%20t%E1%BA%B1m%20do%20vi%20khu%E1%BA%A9n
|
Bệnh tằm do vi khuẩn
|
Bệnh tằm do vi khuẩn còn gọi là "bệnh trong".
Triệu chứng
Tằm đang ăn khoẻ chuyển sang kém ăn, hoạt động chậm, da xám, đầu ngẩng cao, các đốt thân có xu hướng giãn ra, đầu và toàn thân trong, chết ở thể cấp tính, không chết ở thể mãn tính.
Nguyên nhân gây bệnh
Do vi khuẩn bệnh trong gây nên qua con đường tiêu hoá (ăn dâu chất lượng kém, ôi héo), phòng nuôi tằm bí hơi, không thông thoáng.
Biện pháp phòng trừ
Duy trì điều kiện sống thật tốt, phòng nuôi có nhiệt độ, độ ẩm và ánh sáng phù hợp với sinh lý phát triển của tằm, lá dâu cho tằm ăn phải đảm bảo chất lượng. Cho tằm ăn lá dâu có phun rượu tỏi theo tỉ lệ 1 rượu - 8 nước. Dùng thuốc hoá học: có thể sử dụng Penixilin để điều trị bệnh tằm pha theo tỉ lệ 2ml với 0,5 l nước phun cho 5 – 7 kg lá dâu để ráo cho tằm ăn.
Chú thích
Tham khảo
Dâu tằm tơ
|
21782
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Python%20%28ng%C3%B4n%20ng%E1%BB%AF%20l%E1%BA%ADp%20tr%C3%ACnh%29
|
Python (ngôn ngữ lập trình)
|
Python () là một ngôn ngữ lập trình bậc cao cho các mục đích lập trình đa năng, do Guido van Rossum tạo ra và lần đầu ra mắt vào năm 1991. Python được thiết kế với ưu điểm mạnh là dễ đọc, dễ học và dễ nhớ. Python là ngôn ngữ có hình thức rất sáng sủa, cấu trúc rõ ràng, thuận tiện cho người mới học lập trình và là ngôn ngữ lập trình dễ học; được dùng rộng rãi trong phát triển trí tuệ nhân tạo. Cấu trúc của Python còn cho phép người sử dụng viết mã lệnh với số lần gõ phím tối thiểu. Vào tháng 7 năm 2018, van Rossum đã từ chức lãnh đạo trong cộng đồng ngôn ngữ Python sau 30 năm làm việc.
Python hoàn toàn tạo kiểu động và dùng cơ chế cấp phát bộ nhớ tự động; do vậy nó tương tự như Perl, Ruby, Scheme, Smalltalk, và Tcl. Python được phát triển trong một dự án mã mở, do tổ chức phi lợi nhuận Python Software Foundation quản lý.
Ban đầu, Python được phát triển để chạy trên nền Unix. Nhưng rồi theo thời gian, Python dần mở rộng sang mọi hệ điều hành từ MS-DOS đến Mac OS, OS/2, Windows, Linux và các hệ điều hành khác thuộc họ Unix. Mặc dù sự phát triển của Python có sự đóng góp của rất nhiều cá nhân, nhưng Guido van Rossum hiện nay vẫn là tác giả chủ yếu của Python. Ông giữ vai trò chủ chốt trong việc quyết định hướng phát triển của Python.
Python luôn được xếp hạng vào những ngôn ngữ lập trình phổ biến nhất.
Lịch sử
Python đã được Guido van Rossum tạo ra vào những năm 1980 tại Trung tâm Toán học – Tin học (Centrum Wiskunde & Informatica, CWI) ở Hà Lan như là một ngôn ngữ kế tục ngôn ngữ ABC – một ngôn ngữ được lấy cảm hứng từ SETL, có khả năng xử lí ngoại lệ và giao tiếp với hệ điều hành Amoeba. Nó bắt đầu được triển khai vào tháng 12 năm 1989. Van Rossum đã tự mình gánh vác trách nhiệm cho dự án, với vai trò là nhà phát triển chính, cho đến ngày 12 tháng 7 năm 2018, khi ông thông báo rằng ông sẽ rời bỏ trách nhiệm của ông và cả danh hiệu "Nhà độc tài nhân từ cho cuộc sống" của Python, một danh hiệu mà cộng đồng Python đã trao tặng cho ông vì sự tận tụy lâu dài của ông với vai trò là người ra quyết định chính cho dự án. Vào tháng 1 năm 2019, các nhà phát triển phần lõi Python đã bầu ra một "Hội đồng chèo lái" gồm năm thành viên để dẫn dắt dự án.
Python 2.0 được ra mắt vào ngày 16 tháng 10 năm 2000, với nhiều tính năng mới mẻ, bao gồm một bộ dọn rác phát hiện theo chu kỳ và khả năng hỗ trợ Unicode.
Python 3.0 được ra mắt vào ngày mùng 3 tháng 12 năm 2008. Đây là một phiên bản lớn của Python không tương thích ngược hoàn toàn. Nhiều tính năng lớn của nó đã được chuyển mã ngược (backport) về loạt phiên bản Python 2.6.x và 2.7.x. Các bản phát hành của Python 3 có đi kèm với công cụ 2to3, có tác dụng tự động hoá việc dịch mã Python 2 sang Python 3.
Python 3.9.2 và 3.8.8 được xúc tiến vì tất cả các phiên bản trước của Python (bao gồm cả 2.7) gặp một số vấn đề bảo mật, có thể dẫn đến thực thị mã từ xa và "đầu độc" bộ nhớ đệm.
Trong năm 2022, Python 3.10.4 và 3.9.12 được xúc tiến cùng với 3.8.13 và 3.7.13, nguyên nhân là do một vài vấn đề về bảo mật. Khi Python 3.9.13 được phát hành vào tháng Năm năm 2022, loạt phiên bản 3.9 (cùng với loạt 3.8 và 3.7) được thông báo rằng sẽ chỉ nhận được các bản vá bảo mật trong tương lai. Vào ngày 7 tháng Chín năm 2022, bốn bản cập nhật mới được phát hành do có khả năng xảy ra một cuộc tấn công từ chối dịch vụ: 3.10.7, 3.9.14, 3.8.14 và 3.7.14.
Python 3.12 là bản phát hành ổn định mới nhất. Một số thay đổi đáng chú ý từ bản 3.11 bao gồm các thay đổi về ngôn ngữ và thư viện chuẩn.
Triết lý thiết kế và tính năng
Python là một ngôn ngữ lập trình đa mẫu hình, lập trình hướng đối tượng và lập trình cấu trúc được hỗ trợ hoàn toàn, và nhiều tính năng của nó cũng hỗ trợ lập trình hàm và lập trình hướng khía cạnh (bao gồm siêu lập trình và siêu đối tượng (phương thức thần kỳ)). Các mẫu hình khác cũng được hỗ trợ thông qua các phần mở rộng, bao gồm thiết kế theo hợp đồng và lập trình logic.
Python sử dụng kiểu động và một dạng kết hợp giữa đếm tham chiếu và bộ dọn rác kiểm tra theo chu kì để quản lí bộ nhớ. Nó cũng có tính năng phân giải tên động (liên kết muộn), cho phép liên kết các tên biến và phương thức trong quá trình thực thi chương trình.
Thiết kế của Python cung cấp một số tính năng cho lập trình hàm giống như trong ngôn ngữ Lisp. Python có các hàm , và ; thông hiểu danh sách (list comprehension), từ điển (dictionary), tập hợp (set), và các biểu thức bộ sinh (generator). Thư viện chuẩn cũng có hai mô đun ( và ) triển khai các công cụ hàm được vay mượn từ Haskell và Standard ML.
Triết lý căn bản của ngôn ngữ Python được trình bày trong tài liệu The Zen of Python (PEP 20), có dạng thơ Haiku, tóm gọn như sau:
Đẹp đẽ tốt hơn xấu xí
Minh bạch tốt hơn ngầm định
Đơn giản tốt hơn phức tạp
Phức tạp tốt hơn rắc rối
Tính dễ đọc rất quan trọng.
Thay vì tích hợp hết tất cả các tính năng vào phần cốt lõi, Python được thiết kế để dễ dàng mở rộng (bằng các mô đun). Tính mô đun nhỏ gọn này đã làm cho Python trở nên phổ biến như là một cách thêm các giao diện lập trình được vào các ứng dụng hiện có. Tầm nhìn của Van Rossum về một ngôn ngữ có phần lõi nhỏ với một thư viện chuẩn rộng lớn và một trình thông dịch dễ dàng mở rộng bắt nguồn từ việc ông nản lòng trước ABC, một ngôn ngữ lập trình tán thành hướng tiếp cận ngược lại. Python thường được mô tả là một ngôn ngữ "tặng kèm pin" nhờ vào thư viện chuẩn bao quát của nó.
Python nỗ lực hướng đến một cú pháp đơn giản hơn, gọn gàng hơn trong khi vẫn cho các nhà phát triển lựa chọn phương pháp viết mã của họ. Đối lập với khẩu hiệu "có nhiều hơn một cách để làm việc này," triết lý thiết kế của Python lại nằm trong châm ngôn "chỉ nên có một— và tốt nhất là chỉ một—cách rõ ràng để làm việc này". Alex Martelli, một Viện sĩ (Fellow) tại Tổ chức Phần mềm Python (Python Software Foundation) và là một tác giả viết sách Python, viết rằng "Mô tả một thứ gì đó là "tài tình" không được coi là một lời khen ngợi trong văn hoá Python."
Các nhà phát triển Python nỗ lực tránh xa việc tối ưu hoá quá sớm và không chấp nhận các bản vá không cải thiện đáng kể tốc độ mà lại làm mất đi tính rõ ràng lên những phần không thiết yếu của bản triển khai tham khảo CPython. Khi cần đến tốc độ, một lập trình viên Python có thể di chuyển các hàm bị giới hạn về thời gian sang các mô đun mở rộng được viết bằng những ngôn ngữ như C, hoặc sử dụng PyPy, một trình biên dịch tức thời. Cython cũng có thể được dùng để phiên dịch một tập lệnh Python sang C và tạo ra các lệnh gọi API ở cấp độ của C trực tiếp vào trình thông dịch Python.
Mục tiêu mà các nhà phát triển Python hướng đến là đem đến niềm vui khi sử dụng ngôn ngữ này. Điều này được thể hiện qua bản thân cái tên – một sự tôn vinh dành cho nhóm hài người Anh Monty Python – và trong một số cách tiếp cận thi thoảng vui tươi trong hướng dẫn và các tài liệu tham khảo, chẳng hạn như một vi dụ có đề cập đến trứng và spam (gợi nhắc đến một tiểu phẩm trong Monty Python) thay cho foo và bar tiêu chuẩn.
Một phổ biến trong cộng đồng Python là pythonic (đậm chất Python), một từ có thể có nhiều ý nghĩa liên quan đến phong cách lập trình. Nói rằng một phần mã nào đó là pythonic tức là phần mã đó sử dụng tốt các Python, trông tự nhiên hoặc trôi chảy về ngôn ngữ, phù hợp với triết lý tối giản của Python và nhấn mạnh vào tính dễ đọc. Ngược lại, những phần mã khó hiểu hoặc trông như một bản dịch thô từ một ngôn ngữ lập trình khác được gọi là unpythonic (không đậm chất Python).
Những người sử dụng và say mê Python, nhất là những người được cho là am hiểu hay có nhiều kinh nghiệm, thường được gọi là các Pythonista.
Cú pháp
Python là một ngôn ngữ dễ đọc, dễ hiểu. Định dạng của nó rất gọn gàng về mặt trực quan, và nó thường sử dụng các từ khoá tiếng Anh trong khi các ngôn ngữ khác lại sử dụng các dấu câu. Khác với nhiều ngôn ngữ khác, nó không sử dụng các dấu ngoặc nhọn để giới hạn các khối lệnh, và dấu chấm phẩy cuối câu lệnh rất ít khi được sử dụng dù không bị cấm. Nó có ít ngoại lệ cú pháp và trường hợp đặc biệt hơn C và Pascal.
Thụt lề
Python sử dụng thụt lề bằng khoảng trắng hoặc ký tự tab thay vì dùng ngoặc nhọn hay các từ khoá để giới hạn khối lệnh. Lề thường được thụt vào sau một câu lệnh và thụt ra để đánh dấu kết thúc khối lệnh hiện tại. Cho nên, cấu trúc trực quan của chương trình sẽ thể hiện một cách chính xác cấu trúc ngữ nghĩa của chương trình đó. Tính năng này thỉnh thoảng cũng được gọi là "quy tắc việt vị", một quy tắc cũng xuất hiện ở một số ngôn ngữ; nhưng trong phần lớn ngôn ngữ thì thụt lề không phụ thuộc vào cú pháp. Cỡ thụt lề được khuyến cáo là bốn dấu cách.
Câu lệnh và luồng điều khiển
Một số câu lệnh trong Python gồm có:
Câu lệnh gán, sử dụng một dấu bằng =.
Câu lệnh if: thực thi một khối lệnh nếu thoả mãn điều kiện, sử dụng cùng với else và elif (viết tắt của else-if).
Câu lệnh for: lặp qua một đối tượng lặp được, gán mỗi phần tử và một biến cục bộ để sử dụng trong khối lệnh của vòng lặp.
Câu lệnh while: thực thi một khối lệnh chừng nào điều kiện còn đúng.
Câu lệnh try: cho phép bắt ngoại lệ được nâng lên (raise) trong khối lệnh và dùng vế except để xử lý; câu lệnh cũng đảm bảo rằng phần mã dọn dẹp trong khối finally sẽ được chạy dù có lỗi hay không.
Câu lệnh raise: được dùng để nâng một ngoại lệ hoặc nâng lại một ngoại lệ đã được bắt từ trước.
Câu lệnh class: thực thi một khối lệnh và gắn không gian tên cục bộ của nó vào một lớp, để dùng trong lập trình hướng đối tượng.
Câu lệnh def: định nghĩa một hàm hoặc phương thức.
Câu lệnh with: bao bọc một khối lệnh bằng một bộ quản lí ngữ cảnh (context manager) (ví dụ như khoá luồng lại trước khi chạy mã rồi mở khoá, hoặc mở một tệp rồi đóng tệp lại), cho phép các hành vi kiểu RAII (sự đạt được tài nguyên là sự khởi tạo) và thay thể cho các câu lệnh try/finally thường thấy.
Câu lệnh break: thoát ra khỏi vòng lặp.
Câu lệnh continue: bỏ qua lần lặp này và tiếp tục với mục kế tiếp.
Câu lệnh del: loại bỏ một biến, tức là tham chiếu từ tên đến giá trị sẽ bị xoá và cố gắng sử dụng biến đó sẽ gây lỗi. Một biến đã bị xoá có thể được gán lại.
Câu lệnh pass: đóng vai trò như là một dạng NOP. Câu lệnh này được dùng để tạo các khối lệnh rỗng.
Câu lệnh assert: được dùng trong khi gỡ lỗi để kiểm tra điều kiện nên đúng.
Câu lệnh yield: trả lại giá trị từ một hàm bộ sinh; bản thân yield cũng là một toán tử. Dạng này được dùng để triển khai các đồng thường trình.
Câu lệnh return: trả lại một giá trị từ một hàm hay phương thức.
Câu lệnh import: được dùng để nhập các mô đun chứa các hàm và biến được sử dụng trong chương trình hiện tại.
Câu lệnh gán (=) hoạt động bằng cách liên kết một tên dưới dạng một tham chiếu với một đối tượng được cấp phát động riêng lẻ. Các biến có thể được dùng lại bất cứ lúc nào với bất cứ đối tượng nào. Trong Python, một tên biến chỉ giữ tham chiếu một cách chung chung và không có kiểu dữ liệu cố định đi kèm. Tuy nhiên, tại một thời điểm nhất định, một biến sẽ tham chiếu đến một vài đối tượng có kiểu. Nó được gọi là kiểu động, ngược lại với các ngôn ngữ lập trình kiểu tĩnh với mỗi biến chỉ có thể chứa giá trị của một kiểu nhất định.
Biểu thức
Một số biểu thức trong Python tương tự như những biểu thức trong những ngôn ngữ khác chẳng hạn như C và Java, trong khi số khác thì không:
Phép cộng, trừ và nhân thì đều giống nhau, nhưng hành vi của phép chia thì khác nhau. Có hai loại phép chia trong Python: phép chia phần nguyên (phép chia số nguyên) dùng dấu // và phép chia dấu phẩy động dùng dấu /. Python cũng sử dụng toán tử ** cho phép luỹ thừa.
Từ Python 3.5, toán tử trung tố @ mới đã được giới thiệu. Nó được thiết kể để được sử dụng trong các thư viện như NumPy để nhân ma trận.
Từ Python 3.8, cú pháp :=, hay "toán tử moóc" đã được giới thiệu. Nó gán giá trị vào biến trong một phần của một biểu thức lớn hơn.
Trong Python, == so sánh theo giá trị, khác với Java, vốn so sánh các số theo giá trị và các đối tượng theo tham chiếu. (So sánh giá trị trong Java có thể được thực hiện bằng phương thức equals().) Toán tử is của Python có thể được dùng để so sánh danh tính của đối tượng (so sánh theo tham chiếu). Trong Python, các phép so sánh có thể được xâu chuỗi lại với nhau, ví dụ như .
Python sử dụng các từ khoá and, or, not để so sánh luận lý (boolean) thay vì dùng các loại biểu tượng &&, ||, ! được dùng trong Java và C.
Python có một loại biểu thức được gọi là thông hiểu danh sách (list comprehension) cũng như một loại biểu thức chung được gọi là biểu thức bộ sinh (generator expression).
Các hàm vô danh được triển khai thông qua các biểu thức lambda; tuy nhiên, phần thân của hàm vô danh chỉ có thể là đúng một biểu thức.
Biểu thức điều kiện trong Python được viết dưới dạng (có sự khác biệt về trật tự của các toán hạng so với toán tử c ? x : y thường có trong những ngôn ngữ khác).
Có sự phân biệt giữa danh sách và bộ trong Python. Danh sách được viết dưới dạng , biển đổi được, và không thể được dùng như khoá cho từ điển (các khoá từ điển phải là bất biến trong Python). Bộ được viết dưới dạng , không biến đổi được nên có thể được dùng làm khoá của từ điển, với điều kiện là tất cả các phần tử trong bộ cũng phải là bất biến. Toán tử + có thể được sử dụng để nối liền hai bộ lại với nhau, như không trực tiếp thay đổi nội dung của chúng, mà sẽ tạo ra một bộ mới chứa các phần tử của cả hai bộ ban đầu. Vì vậy, cho một biến t ban đầu bằng , chạy lệnh sẽ thực thì đầu tiên, tạo ra , rồi mới được gán lại cho t, bằng cách đó đã "chỉnh sửa nội dung" của t một cách hiệu quả, trong khi vẫn tuân theo bản chất bất biến của đối tượng bộ. Trong các ngữ cảnh không mơ hồ thì dấu ngoặc đơn là không cần thiết.
Python có một tính năng là tháo tách chuỗi (sequence unpacking) trong đó các biểu thức, mà mỗi biểu thức được đánh giá thành bất kì thứ gì có thể được gán vào (một biến, một thuộc tính viết được...), được liên kết theo cùng một cách với các bộ ban đầu đó và được đặt vào vế bên trái dấu bằng trong một câu lệnh gán. Câu lệnh này mong đợi một một đối tượng lặp được (iterable) ở vế bên phải dấu bằng tạo ra cùng một số lượng giá trị giống như ở các biểu thức trước đó khi đã và sẽ lặp qua, rồi gán mỗi giá trị được tạo ra bằng các biểu thức tương ứng ở vế bến trái.
Python có một toán tử "định dạng xâu" là %. Chức năng này tương tự như định dạng xâu printf trong C, thí dụ như được đánh giá thành "spam=blah eggs=2". Trong Python 3 và 2.6+, chức năng này được bổ sung bằng phương thức format() của lớp str, ví dụ như . Python 3.6 đã bổ sung thêm "f-string": .
Các xâu trong Python có thể được ghép móc với nhau bằng cách "cộng" chúng lại (dùng cùng toán tử với phép cộng số nguyên và số phẩy động). Thí dụ, cho ra "spameggs". Kể cả nếu xấu chứa số, chúng vẫn sẽ được ghép móc thành xâu thay vì số nguyên. Thí dụ, cho ra"22".
Python có nhiều kiểu hằng xâu khác nhau:
Xâu được phân cách bởi dấu nháy đơn hoặc nháy kép. Khác với hệ vỏ Unix, Perl và các ngôn ngữ ảnh hưởng từ Perl, dấu nháy đơn và dấu nháy kép có cùng chức năng. Cả hai loại xâu đều dùng dấu chéo ngược (\) làm ký tự thoát (escape character). Nội suy xâu đã được thêm vào kể từ Python 3.6 với tên gọi "hằng xâu được định dạng".
Xâu ba dấu nháy: bắt đầu và kết thúc bằng ba dấu nháy đơn hoặc kép. Chúng có thể trải dài trên nhiều dòng giống như trong tài liệu đây (here document) trong các hệ vỏ, Perl và Ruby.
Các loại xâu thô, được kí hiệu bằng cách đặt trước hằng xâu một kí tự r. Các chuỗi thoát sẽ không bị thông dịch; cho nên xâuthô khá là hữu ích khi xâu có chứa nhiều dấu chéo ngược, chẳng hạn như biểu thức chính quy và đường dẫn tệp trên Windows.
Python có các biểu thức chỉ số mảng và cắt lát mảng đối với danh sách, được kí hiệu là a[khoá], hay . Các chỉ số được đánh từ số không, và chỉ số âm sẽ chỉ lùi từ cuối lên. Việc cắt lát sẽ lấy các phần tử từ đầu cho đến chỉ số cuối (không kể chỉ số cuối). Tham số cắt lát thứ ba, được gọi là bước, cho phép các phần tử có thể được bỏ qua hoặc đảo chiều. Chỉ số lát có thể được bỏ trống, ví dụ trả lại một bản sao của danh sách đó. Mỗi phần tử trong một lát là một bản sao nông.
Trong Python các biểu thức và câu lệnh được phân biệt một cách vững chắc, ngược lại với các ngôn ngữ như Common Lisp, Scheme, hay Ruby. Điều này đã dẫn tới nhiều biểu thức và câu lệnh có cùng chức năng. Thí dụ:
Thông hiểu danh sách và vòng lặp for
Biểu thức điều kiện và khối lệnh if
Hàm eval() (đánh giá các biểu thức) và exec() (thực thi các câu lệnh); trong Python 2, exec là một câu lệnh.
Câu lệnh không thể nằm trong biểu thức, vậy nên các loại thông hiểu (gồm cả danh sách) và biểu thức lambda, vốn là các biểu thức, không thể chứa các câu lệnh. Một trường hợp cụ thể là một câu lệnh gán chẳng hạn như không thể là một phần của biểu thức điều kiện của một câu lệnh điều kiện. Điều này sẽ giúp tránh được các lỗi viết sai toán tử bằng == bằng toán tử gán = trong câu điều kiện thường thấy ở C. Ví dụ, là một đoạn mã C hợp lệ (nhưng chắc là không đúng ý) còn sẽ báo lỗi cú pháp trong Python.
Phương thức
Phương thức của đối tượng là một hàm đi kèm với lớp của đối tượng đó. Cú pháp , đối với các hàm và phương thức bình thường, thức chất là dạng cú pháp đặc biệt của . Các phương thức trong Python có một tham số self được dùng để truy cập dữ liệu của hiện thể (instance), ngược lại với biến bản thân (self haythis) trong một số ngôn ngữ lập trình hướng đối tượng khác (C++, Java, Objective-C, hay Ruby). Ngoại trừ điều này, Python cũng cung cấp các phương thức gạch dưới (do tên của chúng bắt đầu và kết thúc bằng hai dấu gạch dưới), cho phép các lớp do người dùng định nghĩa thay đổi cách các lớp này được xử lý bởi các thao tác của Python chẳng hạn như lấy chiều dài, so sánh, tính toán số học, chuyển đổi kiểu...
Kiểu dữ liệu
Python sử dụng định kiểu vịt (duck typing) và có các đối tượng có kiểu nhưng tên biến thì không có kiểu. Giới hạn về kiểu không được kiểm tra trong lúc biên dịch; thay vào đó. các thao tác lên một đối tượng có thể thất bại, chỉ ra rằng đối tượng đó không thuộc vào kiểu dữ liệu phù hợp. Tuy là định kiểu động, Python cũng định kiểu mạnh khi không cho phép các thao tác mà không được định nghĩa rõ ràng (chẳng hạn như cộng một số vào một xâu) thay vì lặng lẽ cố gắng diễn giải thao tác đó.
Python cho phép các lập trình viên định nghĩa các kiểu của riêng họ bằng cách sử dụng lớp, thường được dùng trong lập trình hướng đối tượng. Các hiện thể của một lớp thường được tạo ra bằng cách gọi lớp đó (chẳng hạn như hay ), các lớp lại là hiện thể của siêu lớp type (bản thân nó cũng là một hiện thể của chính nó), cho phép siêu lập trình và phản xạ.
Trước phiên bản 3.0, Python có hai loại lớp là kiểu cũ và kiểu mới. Cú pháp của cả hai kiểu đều giống nhau. Sự khác biệt nằm ở chỗ lớp đó có kế thừa từ lớp object một cách trực tiếp hoặc gián tiếp hay không (tất cả các lớp kiểu mới đều kế thừa từ object và là hiện thể của type). Từ phiên bản Python 2.2 trở đi, cả hai loại lớp đều có thể được sử dụng. Lớp kiểu cũ đã bị loại bỏ trong Python 3.0.
Kế hoạch dài hạn là hỗ trợ định kiểu dần dần và từ Python 3.5, cú pháp của ngôn ngữ này cho phép chỉ rõ các kiểu tĩnh nhưng chúng lại không được kiểm tra trong bản triển khai mặc định, CPython. Một trình kiểm tra kiểu tĩnh đang trong quá trình thử nghiệm và tuỳ chọn tên là mypy có hỗ trợ kiểm tra kiểu trong thời gian biên dịch.
Phép tính số học
Python có các kí hiệu thường dùng cho các toán tử số học (+, -, *, /), toán tử chia sàn // và toán tử chia lấy dư % (số dư có thể âm, chẳng hạn như 4 % -3 == -2). Nó cũng có toán tử ** cho phép luỹ thừa, chẳng hạn như 5**3 == 125 và 9**0.5 == 3.0, và toán tử nhân ma trận @. Các toán tử này hoạt động giống như trong toán học truyền thống, với cùng thứ tự tính toán, toán tử trung tố (+ và - cũng có thể làm toán tử một ngôi để biểu diễn số dương và số âm một cách tương ứng).
Phép chia giữa các số nguyên tạo ra kết quả là số phẩy động. Hành vi của phép chia đã thay đổi đáng kể theo thời gian:
Python hiện tại (kể từ 3.0) thay đổi / thành phép chia số phẩy động, ví dụ: .
Python 2.2 đã thay đổi phép chia số nguyên để nó làm tròn về phía âm vô cực, ví dụ 7/3 == 2 và -7/3 == -3. Toán tử chia sàn // đã được giới thiệu. Cho nên 7//3 == 2, -7//3 == -3, 7.5//3 == 2.0 và -7.5//3 == -3.0. Thêm sẽ làm cho một mô đun sử dụng quy tắc chia của Python 3.0.
Python 2.1 về trước sử dụng hành vi chia kiểu C. Toán tử / là phép chia nguyên nếu cả hai toán hạng là số nguyên, nếu không thì là phép chia số phẩy động. Phép chia nguyên làm tròn về 0, ví dụ và .
Trong thuật ngữ Python, / là phép chia đúng (gọi tắt là phép chia), và // là phép chia sàn. Toán tử / trước phiên bản 3.0 là phép chia cổ điển.
Việc làm tròn về phía âm vô cực, dù khác biết so với những ngôn ngữ khác, đem lại sự chắc chắn. Ví dụ, phương trình là luôn đúng. Còn phương trình thì hợp lệ với cả giá trị a dương và âm. Tuy nhiên, duy trì tính hợp lệ của phương trình này cũng đồng nghĩa răng trong khi kết quả của a%b là, đúng như mong đợi, nằm trong nửa khoảng mở [0, b), với b là một số nguyên dương, nó cũng cần phải nằm trong khoảng (b, 0] khi b âm.
Python cung cấp một hàm round để làm tròn một số phẩy động thành số nguyên gần nhất. Để gỡ hoà (với những số có chữ số cuối là 5), Python 3 sử dụng làm tròn thành số chẵn: round(1.5) và round(2.5) đều là 2. Các phiên bản trước 3 làm tròn xa số không: round(0.5) là 1.0, round(-0.5) là −1.0.
Python cho phép sử dụng các biểu thức luận lý với nhiều quan hệ băng nhau theo một cách đồng nhất với cách dùng chung trong toán học. Thí dụ, biểu thức a < b < c kiểm tra xem a có nhỏ hơn b và b có nhỏ hơn c hay không. Các ngôn ngữ dựa trên C sẽ hiểu biểu thức trên khác đi: trong C, biểu thức trên sẽ đánh giá a < b trước tiên, cho ra kết quả 0 hoặc 1, rồi kết quả đó mới được so sánh với c.
Python sử dụng số học có độ chính xác tuỳ ý cho tất cả các thao tác với số nguyên. Kiểu/Lớp Decimal trong mô đun decimal cung cấp số dấu phẩy động thập phân với một độ chính xác tuỳ ý được định trước và một vài chế độ làm tròn. Lớp Fraction trong mô đun fractions cung cấp độ chính xác tuỳ ý cho số hữu tỉ.
Nhờ thư viện toán học rộng lớn của Python và thư viện bên thứ ba NumPy với nhiều tính năng hơn nữa, Python thường được dùng như một ngôn ngữ kịch bản để giải quyết các vấn đề chẳng hạn như thao tác và xử lí dữ liệu số.
Chú thích
# dòng chú thích
In giá trị
# Từ Python 3
print((7 + 8) / 2.0)
print((2 + 3j) * (4 - 6j))Nội suy xâu (string interpolation)print("Hello {}!".format("world"))
print("a = {.2f} và b = {.2f}".format(a,b))
Cấu trúc rẽ nhánh
Dạng 1:if biểu_thức_điều_kiện:
# lệnh...
Dạng 2:if biểu_thức_điều_kiện:
# lệnh...
else:
# lệnh...
Dạng 3:if biểu_thức_điều_kiện_1:
# lệnh... (được thực hiện nếu biểu_thức_điều_kiện_1 là đúng/true)
elif biểu_thức_điều_kiện_2:
# lệnh... (được thực hiện nếu biểu_thức_điều_kiện_1 là sai/false, nhưng biểu_thức_điều_kiện_2 là đúng/true)
else:
# lệnh... (được thực hiện nếu tất cả các biểu thức điều kiện đi kèm if và elif đều sai)
Khớp theo mẫu, được thêm vào từ bản 3.10.0:match biến_1:
case điều_kiện_1:
#được thực hiện nếu biến_1 = điều_kiện_1
case điều_kiện_2:
#được thực hiện nếu biến_1 = điều_kiện_2
Cấu trúc lặp
while biểu_thức_đúng:
# lệnh...for phần_tử in dãy:
# lệnh...L = ["Hà Nội", "Hải Phòng", "TP Hồ Chí Minh"]
for thành_phố in L:
print(thành_phố)
for i in range(10):
print(i)
Hàm
def tên_hàm (tham_biến_1, tham_biến_2, tham_biến_n):
# lệnh...
return giá_trị_hàmHàm với tham số mặc định:def luỹ_thừa(x, n=2):
"""Lũy thừa với số mũ mặc định là 2"""
return x**n
print(luỹ_thừa(3)) # 9
print(luỹ_thừa(2,3)) # 8
Lớp
class Lớp:
#...
class LớpCon(Lớp):
"""LớpCon kế thừa lớp Lớp"""
x = 3 # biến thành viên của lớp
#
def phương_thức(self, tham_biến):
#...
# khởi tạo
a = LớpCon()
print(a.x)
print(a.phương_thức(m)) # m là giá trị gán cho tham biến
Xử lý ngoại lệ
try:
câu_lệnh
except Loại_Lỗi:
thông báo lỗi
Thư viện
Bộ thư viện chuẩn rộng lớn của Python – một trong những điểm mạnh lớn nhất của Python – cung cấp các công cụ phù hợp cho nhiều công việc khác nhau. Với các ứng dụng giao tiếp với Internet, nhiều giao thức và định dạng chuẩn chẳng hạn như MIME and HTTP được hỗ trợ. Nó cũng có chứa các mô đun đành cho việc tạo lập giao diện người dùng đồ hoạ, kết nối với cơ sở dữ liệu quan hệ, sinh số giả ngẫu nhiên, tính toán với số thập phân có độ chính xác tuỳ ý, thao tác với biểu thức chính quy và kiểm thử đơn vị.
Một số phần của thư viện chuẩn nằm trong đặc tả (ví dụ, Giao diện Cổng vào Máy chủ Web (Web Server Gateway Interface hay WSGI) triển khai wsgiref theo PEP 333), nhưng phần lớn mô đun thì không. Chúng được xác định dựa vào mã, tài liệu bên trong và bộ kiểm thử (test suite) của chúng. Tuy nhiên, vì phần lớn thư viện chuẩn là mã Python đa nền tảng, chỉ một vài mô đun cần được chỉnh sửa hoặc viết lại cho các bản triển khai khác nhau.
Python Package Index (PyPI), kho chính thức dành cho các phần mềm Python bên thứ ba, có chứa hơn 329.000 gói với nhiều chức năng đa dạng và phong phú, bao gồm:
Môi trường phát triển
Phần lớn trình hiện thực Python (kể cả CPython) có chứa một trình lặp đọc–tính–in (REPL), cho phép chúng hoạt động như là một trình thông dịch dòng lệnh mà người dùng sẽ lần lượt nhập các câu lệnh và nhận kết quả ngay lập tức.
Python đì kèm với một môi trường phát triển tịch hợp (IDE) được gọi là IDLE, phù hợp với người mới bắt đầu.
Các hệ vỏ khác, bao gồm IDLE và IPython, có thêm khả năng tự hoàn thiện, khôi phục trạng thái phiên, và tô sáng cú pháp.
Ngoài các môi trường phát triển tích hợp trên máy để bàn, còn có những IDE chạy trên trình duyệt web: SageMath (dành cho việc phát triển các chương trình Python liên quan đền toán học và khoa học); PythonAnywhere, một IDE kiêm môi trường chủ nhà; và Canopy IDE, một IDE Python thương mại tập trung vào khoa học tính toán.
Các bản triển khai
Bản triển khai tham khảo
CPython là bản triển khai tham khảo của Python. Nó được viết bằng C, đáp ứng tiêu chuẩn C89 vời một vào tính năng C99 chọn lọc (từ khi các phiên bản C mới hơn ra mắt, nó được coi là lỗi thời; CPython có chứa phần mở rộng C của riêng nó, nhưng các phần mở rộng bên thứ ba không bị giới hạn bởi các phiên bản C cũ hơn, có thể được cài đặt với C11 hoặc C++). Nó biên dịch các chương trình Python thành một dạng mã byte trung gian, sau đó thực thi mã byte trên máy ảo của nó. CPython được phân phối cùng với một thư viện chuẩn rộng lớn được viết bằng C và Python bản địa (native). Nó có sẵn trên nhiều nền tảng, bao gồm Windows (từ Python 3.9, trình cài đặt Python sẽ không chạy một cách có chủ ý trên Windows 7 và 8; Windows XP đã từng được hỗ trợ cho đến Python 3.5) và phần lớn hệ điều hành tương tự Unix hiện đại, bao gồm macOS (và máy Mac Apple M1, kể từ Python 3.9.1, với trình cài đặt thử nghiệm) và hỗ trợ không chính thức cho chẳng hạn như VMS. Tính khả chuyển nền tảng là một trong những ưu tiên sớm nhất của nó, trong khung thời gian Python 1 và Python 2, khi ngay cả OS/2 và Solaris cũng được hỗ trợ; song nhiều hệ điều hành cũng không còn được hỗ trợ nữa.
Các bản triển khai khác
PyPy là một trình thông dịch nhanh, tuân thủ cú pháp của Python 2.7 và 3.6. Trình biên dịch tức thời của nó mang đến tốc độ vượt trội so với CPython nhưng một vài thư viện được viết bằng C lại không thể được sử dụng cùng với nó.
Stackless Python là một phân nhánh (fork) đáng chú ý của CPython có cài đặt vi luồng; nó không sử dụng ngăn xếp lời gọi theo cùng một cách với CPython, vậy nên nó hỗ trợ các chương trình đồng thời một cách ồ ạt. PyPy cũng có một phiên bản không có ngăn xếp.
MicroPython và CircuitPython là các biến thể Python 3 được tối ưu hoá cho vi điều khiển, bao gồm Lego Mindstorms EV3.
Pyston là một biến thể của Python sử dụng biên dịch tức thời để tăng tốc độ thực thi các chương trình Python.
Cinder là một phân nhánh hướng hiệu năng của CPython 3.8 có chứa một số tối ưu hoá bao gồm đệm bộ nhớ mã byte trong dòng, đánh giá các chương trình con một cách tham vọng, một trình biên dịch tức thời "mỗi lúc một phương thức" và một trình biên dịch mã byte thử nghiệm.
Trình biên dịch chéo sang ngôn ngữ khác
Có một số trình biên dịch sang những ngôn ngữ đối tượng bậc cao khác từ ngôn ngữ mã nguồn là Python, một tập con giới hạn của Python hoặc một ngôn ngữ tương tự Python:
Brython, Transcrypt và Pyjs (phát hành lần cuối năm 2012) biên dịch Python sang JavaScript.
Codon biên dịch một tập con Python định kiểu tĩnh sang mã máy (thông qua LLVM) và hỗ trợ đa luồng cho hệ thống bản địa.
Cython biên dịch (một tập cha của) Python 2.7 sang C. Phần mã kết quả cũng dùng được với Python thông qua các lệnh gọi API mức C trực tiếp vào trình thông dịch Python.
Nuitka biên dịch Python sang C.
Numba sử dụng LLVM để biên dịch một tập con của Python sang mã máy.
Pythran biên dịch một tập con của Python 3 sang C++.
Pyrex (bản mới nhất năm 2010) và Shed Skin (bản mới nhất năm 2013) biên dịch lần lượt sang C và C++.
Google's Grumpy (bản mới nhất năm 2017) phiên dịch Python 2 to Go.
IronPython cho phép chạy các chương trình Python 2.7 trên .NET Common Language Runtime.
Jython biên dịch Python 2.7 sang mã byte Java, cho phép sử dụng các thư viện Java từ một chương trình Python.
RPython có thể được biên dịch sang C, và được dùng để xây dựng trình thông dịch PyPy của Python.
Phát triển
Sự phát triển của Python được chỉ đạo phần lớn là thông qua quy trình Đề nghị Cải tiến Python (Python Enhancement Proposal, hay PEP), cơ chế chủ yếu để đề nghị các tính năng lớn mới, thu thập ý kiến của cộng đồng về các vấn đề và ghi chép lại các quyết định về thiết kế của Python. Phong cách viết mã của Python nằm trong PEP 8. Các PEP xuất sắc sẽ được xem lại và bình luận bởi cộng đồng Python và hội đồng chèo lái.
Sự cải tiến ngôn ngữ tương ứng với sự phát triển của bản triển khai tham khảo CPython. Danh sách thư python-dev là diễn đàn chính về sự phát triển của ngôn ngữ này. Các vấn đề cụ thể được thảo luận trong hệ theo dõi lỗi Roundup được tổ chức trên bugs.python.org. Sự phát triển ban đầu chỉ xảy ra trên một kho mã nguồn tự làm chủ chạy Mercurial cho đến khi Python di chuyển mã nguồn sang Github vào tháng Một năm 2017.
Các bản phát hành công khai của CPython được chia thành ba loại, được phân biệt theo phần nào của số phiên bản được tăng lên:
Phiên bản không tương thích ngược: các mã nhiều khả năng sẽ không hoạt động được và cần phải được chuyển mã thủ công. Phần đầu tiên của số phiên bản được tăng lên. Các bản này ít khi được phát hành: phiên bản 3.0 đã được phát hành 8 năm trước bản 2.0. Theo ông Guido van Rossum, phiên bản 4.0 có lẽ sẽ không bao giờ được phát hành.
Bản phát hành lớn hay bản phát hành "tính năng": tương thích phần lớn với các phiên bản trước đó nhưng có thêm những tính năng mới. Phần thứ hai của số phiên bản được tăng lên. Bắt đầu từ Python 3.8, các bản phát hành được thông báo là sẽ xảy ra hằng năm. Mỗi phiên bản lớn sẽ được hỗ trợ bằng sửa lỗi trong vòng vài năm sau khi nó được phát hành.
Phiên bản sửa lỗi: không có tính năng mới, xảy ra mỗi ba tháng và được phát hành khi số lượng lỗi được sửa ngược dòng đủ lớn kể từ bản phát hành cuối. Các lỗ hổng cũng sẽ được vá trong những phiên bản này. Phần thứ ba và phần cuối cùng của số phiên bản được tăng lên.
Nhiều phiên bản alpha, beta và phiên bản ứng cử cũng được phát hành để xem trước và kiểm thử trước bản phát hành cuối cùng. Mặc dù có một lịch trình sơ bộ cho mỗi bản phát hành, chúng thường được lùi lại nếu mã vẫn chưa sẵn sàng. Đội ngũ phát triển Python giám sát tình trạng của mã bằng các chạy tập kiểm thử đơn vị lớn trong quá trình phát triển.
Hội thảo học thuật lớn nhất của Python là PyCon. Ngoài ra, cũng có các chương trình hướng dẫn Python đặc biệt khác, chẳng hạn như Pyladies.
Python 3.10 không khuyên dùng wstr (sẽ bị loại bỏ từ Python 3.12; nghĩa là các phần mở rộng Python cần được chỉnh sửa khi đó), đông thời thêm tính năng khớp theo mẫu (pattern matching) vào ngôn ngữ.
Sự phổ biến
Kể từ năm 2003, Python luôn được xếp vào một trong số mười ngôn ngữ lập trình phổ biến nhất trong Chỉ số Cộng đồng Lập trình TIOBE, nơi mà , Python là ngôn ngữ phổ biến nhất (đứng trước Java và C). Nó từng được chọn là Ngôn ngữ Lập trình của Năm (vì "có đánh giá tăng cao nhất trong năm") vào các năm 2007, 2010, 2018, và 2020 (chỉ Python là được bốn năm).
Một nghiên cứu thức nghiệm chỉ ra rằng các ngôn ngữ kịch bản, chẳng hạn như Python, cho năng suất cao hơn so với các ngôn ngữ thông thường, chẳng hạn như C và Java, đối với các vấn đề lập trình liên quan đến thao tác xâu và tìm kiếm trong từ điển, đồng thời quả quyết rằng sự tiêu tốn bộ nhớ thường "tốt hơn Java và không quá tệ hơn so với C hay C++".
Các tổ chức lớn sử dụng Python gồm có Wikipedia, Google, Yahoo!, CERN, NASA, Facebook, Amazon, Instagram, Spotify và các tổ chức nhỏ hơn như ILM and ITA. Trang mạng tin tức xã hội Reddit cũng được viết phần lớn bằng Python.
Sử dụng
Python có thể đóng vài trò như là một ngôn ngữ kịch bản cho ứng dụng web, chẳng hạn như thông qua mod wsgi đối với máy chủ web Apache. Với Giao diện Cổng vào Máy chủ Web, một API chuẩn đã và đang dần phát triển để tạo điều kiện cho các ứng dụng này. Các bộ khung web như Django, Pylons, Pyramid, TurboGears, web2py, Tornado, Flask, Bottle và Zope hỗ trợ các nhà phát triển trong khâu thiết kế và bảo trì các ứng dụng phức tạp. Pyjs và IronPython có thể được dùng để phát triển phía khách của các ứng dụng dựa trên Ajax. SQLAlchemy có thể được dùng để ánh xạ dữ liệu sang một cơ sở dữ liệu quan hệ. Twisted là một bộ khung dành cho việc giao tiếp giữa các máy tính và được sử dụng bởi Dropbox chẳng hạn.
Các thư viện như NumPy, SciPy và Matplotlib cho phép sử dụng một cách có hiệu quả Python trong tính toán khoa học, với các thư viện chuyên ngành chẳng hạn như Biopython và Astropy cung cấp các chức năng miền cụ thể. SageMath là một hệ thống đại số máy tính với một giao diện vở lập trình được trong Python: thư viện của nó trải dài trên nhiều lĩnh vực của toán học, bao gồm đại số, toán tổ hợp, giải tích số, lý thuyết số và vi tích phân. OpenCV có gán kết Python với một tập hợp các tính năng phong phú về thị giác máy tính và xử lý ảnh.
Python thường được sử dụng trong các dự án trí tuệ nhân tạo và học máy với sự giúp đỡ của các thư viện như TensorFlow, Keras, Pytorch và Scikit-learn. Vì là một ngôn ngữ kịch bản với kiến trúc mô đun, cú pháp đơn giản và các công cụ xử lý văn bản phong phú, Python cũng thường được sử dụng trong xử lý ngôn ngữ tự nhiên.
Python có thể được sử dụng để phát triển các giao diện người dùng đồ hoạ (GUI) bằng cách sử dụng các thư viện như Tkinter, hay để tạo ra trò chơi thông qua các thư viện chẳng hạn như Pygame, một thư viện làm trò chơi 2D.
Python đã được nhúng thành công trong nhiều sản phẩm phần mềm như là một ngôn ngữ kịch bản, bao gồm trong phần mềm phương pháp phần tử hữu hạn chẳng hạn như Abaqus, một trình dựng mô hình tham số 3D giống như FreeCAD, trong các gói hoạt hình 3D chẳng hạn như 3ds Max, Blender, Cinema 4D, Lightwave, Houdini, Maya, Modo, MotionBuilder, Softimage, trong trình tổng hợp hiệu ứng trực quan Nuke, trong các chương trình sửa ảnh 2D như GIMP, Inkscape, Scribus và Paint Shop Pro, và trong các chương trình kí hiệu âm nhạc như trình soạn nhạc và Capella. GNU Debugger sử dụng Python như là một trình in đẹp để thể hiện các cấu trúc phức tạp chẳng hạn như các kiểu chứa (container) trong C++. Esri quảng bá Python là lựa chọn tốt nhất để viết tập lệnh trong ArcGIS. Nó cũng được sử dụng trong một số trò chơi video, và được chọn làm một trong ba ngôn ngữ lập trình có sẵn đầu tiên trong Google App Engine, với hai ngôn ngữ còn lại là Java và Go.
Nhiều hệ điều hành có chứa Python như là một thành phần tiêu chuẩn. Nó đi kèm với hầu hết các bản phân phối Linux, AmigaOS 4 (sử dụng Python 2.7), FreeBSD (dưới dạng gói), NetBSD, OpenBSD (dưới dạng gói) và macOS và có thể được dùng từ dòng lệnh (tức terminal – đầu cuối). Nhiều bản phân phối Linux sử dụng các trình cài đặt được viết bằng Python: Ubuntu sử dụng trình cài đặt Ubiquity, trong khi Red Hat Linux và Fedora sử dụng trình cài đặt Anaconda. Gentoo Linux sử dụng Python trong hệ thống quản lý gói của nó là Portage.
Python còn được sử dụng rộng rãi trong ngành công nghiệp an toàn thông tin, bao gồm phát triển khai thác.
LibreOffice có nhúng Python và dự định sẽ thay thế Java bằng Python. Python Scripting Provider là một tính năng lõi của nó kể từ phiên bản 4.0 phát hành mùng 7 tháng Hai năm 2013.
Ảnh hưởng ngôn ngữ
Thiết kế và triết lý của Python đã ảnh hưởng đến nhiều ngôn ngữ lập trình khác:
CoffeeScript – một ngôn ngữ lập trình biên dịch chéo sang JavaScript – có cú pháp lấy cảm hứng từ Python.
ECMAScript/JavaScript mượn biến lặp (iterator) và bộ sinh từ Python.
GDScript, một ngôn ngữ kịch bản rất giống Python, được tích hợp vào bộ máy trò chơi Godot.
Go được thiết kế nhằm "tăng tốc độ làm việc trong một ngôn ngữ kiểu động giống như Python" và cả hai có cùng cú pháp cắt lát mảng.
Groovy được tạo ra với mong muốn đem triết lí thiết kế của Python vào Java.
Julia được thiết kế để "có thể sử dụng được vào các mục đích chung giống như Python vậy".
Mojo, một tập cha của Python, cố gắng tương thích với cú pháp và hệ sinh thái của Python, và có thể chạy nhanh hơn Python lên đến 35.000 lần.
Nim cũng có thụt lề và cú pháp tương đồng.
Matsumoto Yukihiro, tác giả của ngôn ngữ Ruby từng cho biết: "Tôi muốn một ngôn ngữ kịch bản mạnh mẽ hơn Perl và hướng đối tượng nhiều hơn Python. Đó là lí do tôi quyết định thiết kế ngôn ngữ cho riêng mình."
Xem thêm
Zen of Python
pip (trình quản lý gói)
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang chủ chính thức
Python Wiki
Tài liệu Python
Python Cheese Shop – Kho đựng phần mềm viết bằng Python; trước đây gọi là Python Package Index (PyPI)
Ngôn ngữ lập trình hướng đối tượng
Python (ngôn ngữ lập trình)
Phần mềm tự do
Ngôn ngữ lập trình giáo dục
Phát minh của Hà Lan
Phần mềm đa nền tảng
Ngôn ngữ lập trình đa mẫu hình
Ngôn ngữ lập trình
Họ ngôn ngữ lập trình Smalltalk
Ngôn ngữ lập trình đồng thời
Phần mềm tự do đa nền tảng
Ngôn ngữ lập trình được nhập động
Ngôn ngữ lập trình bậc cao
Ngôn ngữ lập trình đối sánh mẫu
|
21785
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%99i%20tuy%E1%BB%83n%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20qu%E1%BB%91c%20gia%20Vi%E1%BB%87t%20Nam
|
Đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam
|
Đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam là đội tuyển bóng đá quốc gia đại diện cho Việt Nam thi đấu tại các giải đấu bóng đá quốc tế do Liên đoàn bóng đá Việt Nam (VFF) quản lý.
Bóng đá theo chân người Pháp du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ 19. Tuy nhiên, do nhiều xung đột xảy ra trong nước suốt thế kỷ 20, sự phát triển của bóng đá Việt Nam đã bị cản trở đáng kể. Trong khi Việt Nam bị chia thành hai vùng tập kết quân sự ở miền Bắc và miền Nam vào năm 1954, hai đội tuyển quốc gia đã tồn tại và đều được quản lý và điều hành bởi các cơ quan quản lý riêng biệt với Hội Bóng đá Việt Nam ở miền Bắc và Hội Túc cầu giáo ở miền Nam. Sau khi hai miền thống nhất vào năm 1976, Liên đoàn bóng đá Việt Nam được thành lập dựa trên tiền thân của Hội bóng đá Việt Nam.
Kể từ những năm 1990, Việt Nam đã hội nhập trở lại với nền bóng đá thế giới, và môn thể thao này sớm trở thành một phần không thể thiếu của xã hội Việt Nam. Điều này đã làm cho đội tuyển quốc gia trở thành một phần của chủ nghĩa dân tộc tại Việt Nam và nhận được sự ủng hộ trên toàn quốc. Cổ động viên Việt Nam được coi là một trong những cổ động viên cuồng nhiệt, với những màn ăn mừng rầm rộ trước những thành tích của đội, kể cả đội trẻ như U-23, U-22 hay U-19.
Lịch sử
Sau khi hai miền nam bắc Việt Nam tái thống nhất về mặt nhà nước thành nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam sau cuộc Tổng tuyển cử năm 1976, thực hiện nguyên tắc kế thừa chính phủ, AFC và FIFA công nhận đội tuyển quốc gia Việt Nam từ năm 1976 thực hiện kế thừa các quyền, nghĩa vụ và thành tích của Đội tuyển Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Đội tuyển Việt Nam Cộng hoà truớc đây. Trận cầu giữa Tổng cục Đường sắt và Cảng Sài Gòn ngày 7 tháng 11 năm 1976 được coi là mốc đánh dấu sự thống nhất chính thức giữa bóng đá miền Nam và miền Bắc.
Mặc dù thể thao Việt Nam chính thức tái tham gia các hoạt động thể thao quốc tế từ Olympic năm 1980 tại Liên Xô, Á vận hội năm 1982 tại Ấn Độ và SEA Games 1989 nhưng đội tuyển bóng đá Việt Nam chỉ chính thức tái hòa nhập bóng đá quốc tế từ kỳ SEA Games năm 1991.
Năm 1989, khi Việt Nam bắt đầu công cuộc cải cách Đổi Mới mang tính cách mạng, một liên đoàn bóng đá mới được thành lập. Sau ba tháng chuẩn bị, tháng 8 năm 1989, Đại hội lần thứ nhất của liên đoàn bóng đá mới đã diễn ra tại Hà Nội, tuyên bố thành lập Liên đoàn bóng đá Việt Nam (VFF). Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Trịnh Ngọc Chữ được bầu làm chủ tịch VFF.
Thời kỳ đổi mới và tái phát triển bóng đá Việt Nam (1991–2011)
Đội tuyển Việt Nam tham gia trở lại các giải đấu quốc tế kể từ SEA Games 1991 tại Manila, Philippines. Việt Nam tham dự vòng loại FIFA World Cup lần đầu tiên với tư cách là một quốc gia thống nhất vào chiến dịch World Cup 1994. Đội tuyển quốc gia vào thời điểm đó đã không thành công trong các chiến dịch World Cup khi đều thất bại ở cả hai giải đấu năm 1994 và 1998 với chỉ một chiến thắng.
Từ năm 1996, Việt Nam là thành viên chính thức của AFF. Đội tham gia kỳ Tiger Cup đầu tiên và kết thúc ở vị trí thứ ba, sau đó đăng cai Tiger Cup lần thứ hai vào năm 1998, giải đấu mà họ thua 0-1 trước Singapore trong trận chung kết. Từ năm 2000 đến 2007, Việt Nam đều thất bại trong việc giành ngôi vô địch Đông Nam Á khi để thua ở bán kết hoặc bị loại ở vòng bảng. Cũng vào năm 1996, Việt Nam được báo chí quốc tế chú ý khi đã mời gã khổng lồ Juventus FC của Ý - đội mới giành được chức vô địch UEFA Champions League 1995–96 - sang thi đấu trong một trận giao hữu tại Hà Nội.
Năm 1999, Việt Nam là chủ nhà của dunhill Cup, một giải đấu giao hữu không chính thức dành cho các cầu thủ đội tuyển Quốc gia và U-23. Vì được phân loại là giải đấu hỗn hợp đội tuyển Quốc gia và U-23, một số đội tuyển Quốc gia đã quyết định cử đội dự bị tham dự. Trong giải đấu này, Việt Nam đã có chiến thắng gây sốc 1-0 trước Nga và thủ hòa Iran 2-2. Đội tuyển sau đó bị loại ở bán kết sau thất bại 1–4 trước Trung Quốc.
Tại Vòng loại AFC Asian Cup 2004, đội đã tạo ra cú sốc với chiến thắng 1-0 trước đội giành hạng tư FIFA World Cup 2002 Hàn Quốc tại Muscat, trở thành một trong những chiến công vĩ đại nhất của bóng đá Việt Nam kể từ khi thống nhất.
Việt Nam đăng cai AFC Asian Cup 2007 cùng với Indonesia, Malaysia và Thái Lan. Được đánh giá là đội yếu thứ hai tại giải chỉ sau đồng chủ nhà Malaysia, nhưng ở vòng bảng, Việt Nam đã đánh bại Các tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất 2-0, hòa 1-1 với một đội bóng vùng Vịnh khác là Qatar, trước khi để thua các nhà Đương kim vô địch Nhật Bản 1-4. Với 4 điểm giành được, Việt Nam trở thành đội đồng chủ nhà và là đội Đông Nam Á duy nhất lọt vào tứ kết, nơi đội để thua nhà vô địch năm đó là Iraq với tỷ số 0-2.
Việt Nam đã giành chức vô địch AFF Cup đầu tiên vào năm 2008, danh hiệu quốc tế đầu tiên của đội kể từ khi tái hội nhập bóng đá toàn cầu, dưới sự dẫn dắt của Henrique Calisto. Cuối năm 2011, Việt Nam tăng 35 bậc, xếp thứ 99, trở lại top 100 FIFA sau bảy năm và dẫn đầu Đông Nam Á lần đầu tiên trên bảng xếp hạng.
Thời kỳ suy thoái (2009–2014)
Giai đoạn từ năm 2009 đến 2014 chứng kiến sự đi xuống về thành tích của bóng đá Việt Nam. Đội đã tham dự các chiến dịch vòng loại World Cup 2010, 2014, cùng với vòng loại Asian Cup các năm 2011 và 2015, nhưng đều bị loại sớm. Đội thua chung cuộc 0–6 trước UAE ở vòng loại đầu tiên của World Cup 2010. Tại vòng loại World Cup 2014, Việt Nam chỉ có thể đánh bại Macau ở vòng đầu tiên, trước khi dừng bước trước Qatar ở vòng thứ hai. Ở vòng loại Asian Cup 2011, đội chơi không tồi khi xếp trên đội cuối bảng Liban, dù xếp sau Syria và Trung Quốc. Còn ở vòng loại Asian Cup 2015, Việt Nam thua 5 trong tổng cộng 6 trận và xếp cuối trong bảng đấu gồm UAE, Uzbekistan và Hồng Kông.
Cùng với thành tích kém cỏi ở vòng loại châu lục và thế giới, Việt Nam đã sa sút ở giải đấu khu vực. Đội đã thua Malaysia, đội sau đó trở thành nhà vô địch, trong trận bán kết AFF Cup 2010. Việt Nam thậm chí còn bị loại ở vòng bảng tại kỳ AFF Cup tiếp theo khi chỉ có được trận hòa trước Myanmar, còn lại thua Thái Lan và Philippines. Đây là thành tích kém nhất của đội ở một kỳ AFF Cup.
Thời kỳ tái thiết (2014–2017)
Đội tuyển Việt Nam bắt đầu chứng kiến những thay đổi đáng kể dưới thời huấn luyện viên người Nhật Bản Toshiya Miura, người dẫn dắt đội tuyển từ năm 2014 đến năm 2016. Đội thi đấu khá tốt ở AFF Cup 2014 khi vượt qua vòng bảng với ngôi đầu, nhưng đã không thể tiến vào trận chung kết khi thua Malaysia sau hai lượt trận bán kết với tổng tỷ số 4–5, trong đó có trận thua sốc 2–4 ngay tại sân nhà ở lượt về, mặc dù trước đó đã thắng 2–1 trên sân khách ở lượt đi.
Tại vòng loại World Cup 2018, Việt Nam chung bảng với Thái Lan, Indonesia, Đài Bắc Trung Hoa và Iraq (Indonesia sau đó đã bị FIFA cấm tham dự). Đội tuyển dưới sự dẫn dắt của HLV Miura đã có trận hòa đáng tiếc 1-1 trước Iraq trên sân nhà trong thế dẫn trước đến phút bù giờ cuối cùng. Nhưng các trận thua đáng thất vọng trước đối thủ chính Thái Lan, bao gồm trận thua 0–1 trên sân khách và 0–3 trên sân nhà đã khiến đội bóng bị chỉ trích nặng nề. Bất chấp những đóng góp trong nỗ lực tái thiết đội tuyển, Miura đã bị VFF sa thải sau khi đội U-23 Việt Nam không vượt qua được vòng loại Olympic Rio 2016, niềm hy vọng lúc này được đặt vào huấn luyện viên nội Nguyễn Hữu Thắng.
Dưới sự dẫn dắt Nguyễn Hữu Thắng, đội tuyển Việt Nam một lần nữa vào đến bán kết AFF Cup 2016 sau thành tích toàn thắng ở Vòng bảng, nhưng đã phải chịu thất bại trước Indonesia với tổng tỷ số 3–4 sau hai lượt. Tháng 8 năm 2017, việc đội U-22 bị loại ngay sau vòng bảng SEA Games 2017 dù được giới truyền thông và người hâm mộ kỳ vọng rất nhiều đã khiến HLV Nguyễn Hữu Thắng phải từ chức.
Thất bại của lứa U-22 ở SEA Games năm đó, dù chỉ là ở cấp độ trẻ, đã khiến cả nền bóng đá Việt Nam trở nên rối ren khi hầu hết người hâm mộ mất hết niềm tin để cổ vũ cho các cấp đội tuyển. Do nhiều cầu thủ U-22 khi ấy cũng là trụ cột của ĐTQG, thất bại ở SEA Games đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến tinh thần toàn đội. Giữa lúc đó, huấn luyện viên tạm quyền Mai Đức Chung được bổ nhiệm dẫn dắt đội tuyển Việt Nam trong hai trận đấu quan trọng ở Vòng loại thứ ba của Asian Cup 2019 với đội láng giềng Campuchia, và đã phân nào vực dậy tinh thần của cả đội khi vượt qua đối thủ này qua hai lượt trận (thắng 2–1 trên sân khách và 5–0 trên sân nhà).
"Thế hệ vàng" với Park Hang-seo (2017–2023)
Park Hang-seo, cựu trợ lý của Guus Hiddink tại FIFA World Cup 2002, được bổ nhiệm làm huấn luyện viên mới của Việt Nam vào ngày 11 tháng 10 năm 2017 sau nỗ lực đàm phán không thành với Sekizuka Takashi; trước đó VFF cũng đã cố gắng liên lạc với HLV người Mỹ Steve Sampson nhưng không có kết quả. Khi mới đến Việt Nam, Park Hang-seo đã bị người Việt Nam chào đón bằng sự hoài nghi, vì ông đang có sự nghiệp khá lận đận ở giải hạng Ba Hàn Quốc.
Trận đấu đầu tiên của ông Park dưới chức danh huấn luyện viên đội tuyển Việt Nam là ở vòng loại Asian Cup 2019, khi Việt Nam cầm hòa Afghanistan không bàn thắng trên sân nhà vào ngày 14 tháng 11 năm 2017, qua đó giúp Việt Nam vượt qua Vòng loại AFC Asian Cup 2019, lần đầu tiên kể từ năm 2007. Bất chấp điều đó, ông Park đã bị dư luận chỉ trích vì màn trình diễn kém thuyết phục của toàn đội, dù mới nắm đội được một tuần. Tuy nhiên, thái độ của người hâm mộ thay đổi nhanh chóng sau những kỳ tích của đội tuyển U-23 Việt Nam do ông dẫn dắt tại giải U-23 châu Á và Asiad 2018. Cùng với nòng cốt là các cầu thủ U-23 vừa gây tiếng vang ở các giải trẻ châu lục, đội tuyển Việt Nam đã có lần thứ hai vô địch AFF Cup cuối năm 2018. Tuy nhiên, đội đã thất bại trước kình địch Thái Lan trong cả hai kỳ AFF Cup sau đó, lần lượt ở các vòng Bán kết và Chung kết.
Việt Nam tham dự AFC Asian Cup 2019 với đội hình trẻ nhất giải; phần lớn gồm những cầu thủ thuộc lứa U-23. Được xếp vào bảng D cùng Iran, Iraq và Yemen, Việt Nam đã thua Iraq 2-3 và Iran 0-2, thắng Yemen 2-0 và đứng thứ ba bảng D, lọt vào Vòng 1/8 với tư cách là một trong 4 đội thứ 3 có thành tích tốt nhất. Sau đó, đội tuyển đã bất ngờ đánh bại đội nhất bảng A là Jordan trong loạt sút luân lưu sau khi hòa 1-1 trong thời gian thi đấu chính thức. Trong trận tứ kết, Việt Nam gặp Nhật Bản và thua với tỷ số sát nút 0-1.
Tại Vòng loại thứ hai World Cup 2022 khu vực châu Á, Việt Nam rơi vào bảng G cùng với ba đối thủ Đông Nam Á khác là Thái Lan, Malaysia và Indonesia bên cạnh UAE. Việt Nam kết thúc vòng loại thứ hai với 17 điểm, đứng thứ 2 sau UAE (18 điểm) và lần đầu tiên giành vé vào Vòng loại thứ ba, cũng như được đặc cách vượt qua vòng loại AFC Asian Cup 2023 tại Qatar với tư cách là một trong năm đội nhì bảng có thành tích tốt nhất.
Tại Vòng loại thứ ba World Cup 2022 khu vực châu Á, Việt Nam nằm ở bảng B cùng với Nhật Bản, Úc, Ả Rập Xê Út, Trung Quốc và Oman. Trước những đối thủ hàng đầu châu lục, đội tuyển kết thúc vòng ba với chỉ 1 trận thắng (trước Trung Quốc), 1 trận hòa (trước Nhật Bản) và thua đến 8 trận, giành được 4 điểm và đứng cuối bảng.
Sau khi cùng Việt Nam giành ngôi Á quân AFF Cup 2022, Park Hang-seo đã tuyên bố chia tay đội tuyển Việt Nam sau năm năm gắn bó.
Thời Philippe Troussier (2023–nay)
Ngày 27 tháng 02 năm 2023, Philippe Troussier, người từng dẫn dắt đội tuyển Nhật Bản vô địch Asian Cup 2000, chính thức được bổ nhiệm làm huấn luyện viên mới của đội tuyển Việt Nam. Hợp đồng giữa nhà cầm quân người Pháp với VFF có thời hạn gần ba năm rưỡi, từ ngày 01 tháng 03 năm 2023 tới 01 tháng 07 năm 2026. Lực lượng của đội tuyển có sự chuyển giao mạnh mẽ dưới thời Troussier với sự xuất hiện của nhiều cầu thủ trẻ được ông đôn lên từ lứa U-23 đã tham dự SEA Games 2023. Đội khởi đầu quá trình chuẩn bị cho Vòng loại World Cup 2026 và Vòng chung kết Asian Cup 2023 bằng sáu trận giao hữu với các đối thủ có trình độ từ thấp đến cao trong vòng 4 tháng với kết quả chung cuộc 3 thắng và 3 thua, trong đó có trận thua chủ nhà Hàn Quốc với tỷ số kỷ lục 0–6 trong trận giao hữu tổng dợt cuối cùng.
Việt Nam tham dự AFC Asian Cup 2023 trong bối cảnh sứt mẻ lực lượng với chín trụ cột dính chấn thương trước thềm giải đấu, do đó nòng cốt của đội phần lớn là những cầu thủ trẻ còn ít kinh nghiệm thi đấu quốc tế. Rơi vào bảng đấu có Nhật Bản, Iraq và Indonesia, đội chơi tốt trong trận mở màn thua Nhật Bản 2–4 khi có thời điểm dẫn trước 2–1 dù để thua ngược. Tuy nhiên, Việt Nam sau đó thất bại 0–1 trước đối thủ cạnh tranh trực tiếp Indonesia và sớm bị loại ngay từ vòng bảng, đánh dấu lần đầu tiên để thua Indonesia sau hơn 7 năm bất bại. Ở trận cuối cùng của vòng bảng gặp Iraq, Việt Nam chơi khởi sắc khi dẫn trước đối thủ 1-0 sau hiệp một, nhưng đội sớm rơi vào thế thiếu người do Khuất Văn Khang bị thẻ đỏ ngay trước giờ nghỉ, nên để mất thế trận trong hiệp hai và thua chung cuộc 2-3, đành phải sớm chia tay giải đấu với ba trận toàn thua.
Sau thất bại của đội tuyển Việt Nam ở Asian Cup, làn sóng chỉ trích tăng lên đáng kể với ông Troussier và đã có khá nhiều nghi vấn được đặt ra về năng lực cầm quân của ông, cũng như có nhiều luồng ý kiến cho rằng nên sa thải vị HLV người Pháp. Tuy nhiên, ông vẫn được VFF tín nhiệm để dẫn dắt ĐTQG trong giai đoạn tiếp theo của vòng loại World Cup 2026, trong đó có hai trận đấu quan trọng trước Indonesia.
Tại các giải đấu (1991–)
Tại các giải khu vực Đông Nam Á
Đại hội Thể thao Đông Nam Á
Việt Nam tại SEA Games 1991 do Vũ Văn Tư và Nguyễn Kim Hằng dẫn dắt. Đội chỉ giành được một điểm, xếp cuối bảng và bị loại ngay từ vòng bảng sau khi hòa Philippines, thua và Malaysia. Lần tập trung dự SEA Games năm đó, do điều kiện ở Nhổn rất thiếu thốn nên sau một tuần, 11 cầu thủ phía Nam (thành viên Quảng Nam - Đà Nẵng, Hải Quan, Cảng Sài Gòn) đồng loạt "đào ngũ". Cũng vì ảnh hưởng bởi sự cố trên, Vũ Văn Tư từ nhiệm sau 7 ngày dẫn dắt. Để lấp chỗ trống, Liên đoàn huy động một số cầu thủ và HLV Thể Công, Nguyễn Sỹ Hiển lên làm nhiệm vụ. Ở kỳ SEA Games 1993, đội bắt đầu trình làng những tài năng trẻ như Nguyễn Hồng Sơn, Lê Huỳnh Đức và giành chiến thắng 1-0 trước Philippines. Tuy nhiên, hai trận thua trước Indonesia và Singapore đã khiến Việt Nam lần thứ hai liên tiếp bị loại ở vòng bảng SEA Games.
Sau hai kỳ SEA Games đầu tiên không thành công, VFF bắt đầu thuê huấn luyện viên ngoại nhằm cải thiện thành tích của đội tuyển, tiên phong với Edson Tavares và sau đó là Karl-Heinz Weigang. Ông Tavares dẫn dắt cả hai đội Việt Nam 1 và Việt Nam 2 đều vào bán kết Cúp Độc Lập, nhưng ông bất ngờ bị thay thế bởi Weigang chỉ sau 42 ngày làm việc. Weigang nhận thấy phần lớn các cầu thủ Việt Nam lúc đó đều có điểm yếu về thể lực cũng như không có kinh nghiệm thi đấu quốc tế nên chính ông đưa ra dự án phát triển cầu thủ Việt. Nhờ quan hệ cá nhân, năm 1995, Weigang đưa cả đội tuyển đi tập huấn tại châu Âu, nơi đội thi đấu hơn 20 trận. Nhờ sự chuẩn bị này, đội đã vượt qua vòng bảng SEA Games cùng năm, sau đó thắng ở bán kết, trước khi để thua chủ nhà 0-4 ở chung kết.
Tại SEA Games 1997, đội thua Thái Lan ở bán kết, sau đó đoạt huy chương đồng khi hạ Singapore. Đến SEA Games 1999, đội một lần nữa lọt vào chung kết sau khi vượt qua vòng bảng và thắng ở bán kết, nhưng HLV Alfred Riedl cùng Việt Nam tiếp tục nhìn người Thái đoạt huy chương vàng với thất bại 0-2 ở chung kết. Đó là lần cuối bóng đá nam tại SEA Games không giới hạn độ tuổi.
Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á
Việt Nam tham dự Tiger Cup đầu tiên năm 1996, khởi đầu bằng trận thắng 3-1 trước Campuchia tại Vòng bảng. Nhưng ngay sau đó, đội lại có trận hòa thất vọng trước Lào với tỉ số 1-1. Trận đấu này đã bị nghi vấn "bán độ" khi Nguyễn Hữu Thắng nhận thẻ đỏ trực tiếp; huấn luyện viên Karl-Heinz Weigang thậm chí đã đòi đuổi một nhóm năm cầu thủ có "vấn đề" về nước. Sau sự việc, năm cầu thủ này đã được phép tiếp tục thi đấu và cùng đội tuyển Việt Nam vượt qua Vòng bảng trước khi thua ở Bán kết và thắng trận tranh hạng ba để đoạt Huy chương đồng.
Tiếp đó, Alfred Riedl dẫn dắt đội tuyển Việt Nam tại Tiger Cup 1998 trên sân nhà, cũng là lần đầu đội đăng cai một giải quốc tế. Đội có màn thể hiện ấn tượng với 3 trận thắng và 1 trận hòa, trong đó có cả trận thắng 3-0 tại Bán kết, nhưng cuối cùng đã phải khuất phục trước Singapore trong trận Chung kết nhờ cái lưng làm bàn của Sasi Kumar. Đến Vòng bảng Tiger Cup 2000, Việt Nam "đòi nợ" thành công khi thắng Singapore, gián tiếp khiến đối thủ này bị loại. Trong trận Bán kết với , Việt Nam đã chơi kiên cường khi hai lần gỡ hòa sau khi để dẫn trước để đưa trận đấu đến hiệp phụ, nơi đội để thua đáng tiếc bởi bàn thắng vàng của cầu thủ Gendut Christiawan ở phút 120 khi đa phần các cầu thủ Việt Nam đã xuống sức. Thất bại này khiến tinh thần của đội tuyển Việt Nam sụp đổ và sau đó thua Malaysia 0-3 ở trận tranh Huy chương đồng.
Với những tên tuổi mới như Minh Phương, Tài Em, Văn Quyến, đội đoạt Huy chương đồng Tiger Cup 2002 dưới nhiệm kỳ đầu tiên của HLV Henrique Calisto. Đến kỳ Tiger Cup 2004 tổ chức trên sân nhà, đội dưới sự dẫn dắt của Edson Tavares có sự kết hợp của lứa cầu thủ giành Huy chương bạc SEA Games 22 như Lê Công Vinh, Phan Thanh Bình và các cựu binh, dưới sự dẫn dắt của đội trưởng Lê Huỳnh Đức và thủ môn Trần Minh Quang. Tuy nhiên, đây là giải đấu thất vọng của Việt Nam khi đội bị loại ngay từ Vòng bảng do chỉ xếp thứ ba bảng đấu sau Singapore và , trong đó có trận thua 0-3 ngay tại Mỹ Đình. Sau giải đấu này, những lão tướng như Lê Huỳnh Đức và Trần Minh Quangchính thức giã từ đội tuyển Quốc gia.
Ở AFF Cup 2007, đội thi đấu dưới sự dẫn dắt của Alfred Riedl, người có lần thứ ba dẫn dắt tuyển Việt Nam. Việt Nam một lần nữa rơi vào bảng đấu có sự hiện diện của Singapore và , bên cạnh Lào. Lần này đội vượt qua Vòng bảng với vị trí nhì bảng sau Singapore do kém chỉ số phụ, trước khi để thua với tổng tỷ số 0-2 ở Bán kết.
Trước khi AFF Cup 2008 khởi tranh, tuyển Việt Nam dưới nhiệm kỳ thứ hai của HLV Henrique Calisto có phong độ kém cỏi khi trải qua 10 trận giao hữu toàn hòa và thua. Bước vào giải đấu chính, Việt Nam mở màn bằng trận thua 0-2, khiến Calisto và các cầu thủ chịu nhiều sức ép dư luận. Tuy nhiên, đội sau đó đã đánh bại 3-2 trước khi hạ 4-0 ở hai trận vòng bảng còn lại để đi tiếp với vị trí nhì bảng. Gặp - Đương kim vô địch giải đấu, ở Bán kết, Việt Nam hòa tiếc nuối không bàn thắng trên sân nhà trước khi thắng 1-0 trên sân khách nhờ bàn thắng duy nhất của Nguyễn Quang Hải, qua đó đưa Việt Nam vào chung kết. Trong trận Chung kết tái đấu với Thái Lan, đội bất ngờ thắng 2-1 ở lượt đi trên sân khách. Lượt về, đội bị dẫn 0-1 cho đến những phút bù giờ hiệp 2, trước khi cú đá phạt hàng rào của Nguyễn Minh Phương được Lê Công Vinh đánh đầu ngược tung lưới , giúp cho Việt Nam lần đầu lên ngôi vô địch Đông Nam Á.
Tại AFF Cup 2010, các nhà Đương kim vô địch rơi vào bảng đấu có , Philippines và . Tuy vượt qua Vòng bảng với ngôi đầu, đội đã chơi thiếu thuyết phục khi thua sốc Philippines 0-2 và sau đó thắng chật vật do chơi thiếu người trong 30 phút cuối. Đến vòng Bán kết, Việt Nam để thua Malaysia (đội sau đó lên ngôi vô địch) với tổng tỷ số 0-2, qua đó thất bại trong việc bảo vệ danh hiệu. Đội tuyển sau đó chia tay huấn luyện viên Calisto cùng cặp tiền vệ Minh Phương, Tài Em.
Năm 2012, học hỏi từ thành công của bóng đá Malaysia, VFF đã dùng huấn luyện viên nội Phan Thanh Hùng để chuẩn bị cho AFF Cup vào cuối năm. Tuy nhiên, trong bối cảnh bóng đá Việt Nam đang rối ren khi một loạt các câu lạc bộ V-League đồng loạt giải thể, Việt Nam kết thúc giải với thành tích tệ nhất trong các lần tham dự giải đấu của đội: bị loại từ vòng bảng với chỉ một điểm kiếm được sau ba trận. Đội hòa 1-1, còn lại thua Philippines 0-1 và 1-3. Tuy nhiên, đội lại hơn về hiệu số bàn thắng bại nên tránh được vị trí chót bảng, nhờ đó được miễn đấu Vòng loại giải lần sau.
Trong thời kỳ chuyển giao của đội tuyển ở AFF Cup 2014, huấn luyện viên Toshiya Miura đã sử dụng các nhân tố mới như Trần Nguyên Mạnh, Quế Ngọc Hải, Vũ Minh Tuấn, Ngô Hoàng Thịnh,... Đội chơi ấn tượng và vượt qua Vòng bảng với ngôi nhất bảng A, bao gồm trận hòa 2-2 trước cùng với các chiến thắng 3-0 trước và 3-1 trước Philippines, qua đó vào Bán kết gặp Malaysia. Ở vòng Bán kết, Việt Nam thắng 2-1 trong trận lượt đi tại sân Shah Alam của Malaysia và nắm lợi thế lớn để giành quyền vào Chung kết. Tuy nhiên, trong trận lượt về, đội chơi dưới sức một cách khó hiểu và bị dẫn 1-4 sau hiệp một bởi những pha bóng nghiệp dư của hàng phòng ngự, trong đó có một quả phạt đền ngay đầu trận do sai lầm của Quế Ngọc Hải, một pha ra vòng cấm bất cẩn của thủ môn Trần Nguyên Mạnh để đối phương tâng bóng qua đầu, một bàn phản lưới nhà của Đinh Tiến Thành và tình huống mắc lỗi vị trí của Nguyễn Văn Biển. Nỗ lực trong hiệp hai của Việt Nam chỉ mang lại bàn rút ngắn tỷ số xuống còn 2-4 của Lê Công Vinh, khiến đội bị loại đầy cay đắng với tổng tỷ số 4-5.
Ở giải AFF Cup 2016, dưới sự dẫn dắt của HLV Nguyễn Hữu Thắng, Việt Nam toàn thắng Vòng bảng AFF Cup lần đầu tiên trong lịch sử với 9 điểm tuyệt đối, bao gồm chiến thắng 2-1 trước , 1-0 trước Malaysia và 2-1 trước Campuchia. Ở vòng Bán kết, Việt Nam đối đầu với của Alfred Riedl - cựu HLV tuyển Việt Nam. Đội để thua 1-2 trong trận Bán kết lượt đi tại . Trong trận lượt về trên sân Mỹ Đình, Việt Nam thi đấu áp đảo trước đối phương, nhưng lại bị dẫn bàn trước do pha phá bóng sai kỹ thuật của Trần Đình Đồng tạo điều kiện cho cầu thủ Stefano Lilipaly của sút vào lưới trống. Đến phút 75, thủ môn Nguyên Mạnh nhận tấm thẻ đỏ trực tiếp vì lỗi đánh nguội cầu thủ khi đội đã hết quyền thay người. Giữa lúc khó khăn chồng chất, Việt Nam đã ghi liền hai bàn để vươn lên dẫn 2-1 sau 90 phút do công lần lượt của Vũ Văn Thanh và Vũ Minh Tuấn, buộc trận đấu phải bước sang hiệp phụ. Trong thế thiếu người, Việt Nam thua thêm một bàn trên chấm phạt đền khi hậu vệ Quế Ngọc Hải phải làm thủ môn bất đắc dĩ, và chấp nhận thua chung cuộc 3-4 trước . Sau giải đấu, đội tuyển Việt Nam chia tay hai cựu binh cuối cùng từng giúp Việt Nam vô địch AFF Cup 2008 - Lê Công Vinh và Phạm Thành Lương.
Ở AFF Cup 2018, tân HLV Park Hang-seo đã sử dụng nòng cốt đội tuyển là những cầu thủ U-23 đã đoạt huy chương bạc U-23 châu Á 2018 và đứng hạng tư ASIAD 2018 như Nguyễn Công Phượng, Đoàn Văn Hậu, Nguyễn Quang Hải, Phan Văn Đức, Hà Đức Chinh,... cùng các cựu binh như Nguyễn Văn Quyết, Nguyễn Anh Đức và Nguyễn Trọng Hoàng,... Việt Nam giành được ba chiến thắng trước Lào, Malaysia, Campuchia và một trận hòa với Myanmar, đứng đầu bảng A và lọt vào bán kết. Ở bán kết, đội hạ gục Philippines cùng với tỷ số 2-1 qua hai lượt trận để giành quyền vào chung kết AFF Cup lần đầu tiên sau 10 năm, tái ngộ . Hai đội hòa 2-2 ở lượt đi trên sân Bukit Jalil tại Malaysia. Trên sân Mỹ Đình ở lượt về, Anh Đức ghi bàn duy nhất giúp đội thắng chung cuộc 3-2 và có lần thứ hai vô địch AFF Cup.
Tại AFF Cup 2020 tổ chức tập trung tại Singapore, Việt Nam nằm ở bảng B cùng với , Malaysia, Lào và Campuchia. Vừa trải qua sáu trận đấu ở Vòng loại thứ ba World Cup 2022 trước những đội bóng hàng đầu châu Á, thầy trò HLV Park Hang-seo được kỳ vọng sẽ dễ dàng bảo vệ ngôi vô địch khu vực. Đội giành được 10 điểm giống nhưng phải xếp nhì bảng do kém hiệu số bàn thắng bại. Sau đó tại vòng Bán kết, Việt Nam bị loại bởi , đội sau đó đã giành ngôi vô địch, với tổng tỷ số 0-2. Thất bại này đã đánh dấu lần thứ tám đội tuyển Việt Nam không thể vượt qua được vòng Bán kết AFF Cup và trở thành đội bóng bị loại ở Bán kết nhiều nhất lịch sử giải.
Ở AFF Cup 2022 - giải đấu cuối cùng của HLV Park Hang-seo với bóng đá Việt Nam, đội tuyển Việt Nam thể hiện quyết tâm vô địch để tri ân nhà cầm quân người Hàn Quốc, đặc biệt khi ba trụ cột quan trọng là Đỗ Hùng Dũng, Đặng Văn Lâm và Đoàn Văn Hậu, những người vắng mặt ở kỳ AFF Cup trước, trở lại sau chấn thương. Việt Nam rơi vào bảng đấu cùng với Malaysia, , và Lào, nơi đội giành được 10 điểm và đứng nhất bảng, ghi được 12 bàn và không thủng lưới bàn nào, qua đó gặp ở Bán kết. Trước đội bóng xứ vạn đảo, Việt Nam đã phá dớp 27 năm không thắng đối thủ này ở AFF Cup bằng chiến thắng chung cuộc 2-0 sau hai lượt trận, để tiến vào Chung kết với thành tích giữ sạch lưới trong sáu trận tại giải. Tuy nhiên, đội đã một lần nữa thất bại trước ở Chung kết, khi hòa 2-2 trên sân Mỹ Đình và thua 0-1 ở lượt về trên sân khách. Sau giải đấu này, đội tuyển Việt Nam đã chia tay HLV Park Hang-seo do hết hạn hợp đồng.
Tại các giải châu lục và thế giới
Ở vòng loại World Cup 1994, đội được đặt dưới sự dẫn dắt của Trần Bình Sự và được xếp vào ở bảng đấu có , , và . Việt Nam thắng duy nhất loạt trận đầu sau đó thua cả bốn trận lượt về, đứng cuối bảng và không vượt qua vòng loại. Lư Đình Tuấn là cầu thủ đầu tiên ghi bàn cho Việt Nam tại Vòng loại World Cup. Tiếp đó, Việt Nam mất vé tham dự Asian Cup 1996 vì thua một đội bóng mạnh ở châu Á là Hàn Quốc. Tại Vòng loại World Cup 1998, gặp Tajikistan, Turkmenistan và Trung Quốc, đội toàn thua qua đó tiếp tục đứng cuối bảng và không vượt qua Vòng loại. Đến Asian Cup 2000, đội một lần nữa không thể tiến vào Vòng chung kết vì thua .
Ở vòng loại World Cup 2002, đội hòa một, thắng ba trận trước Mông Cổ và Bangladesh và thua Ả Rập Xê Út cả hai lượt đấu, nhìn đại diện Tây Á đi tiếp.
Năm 2003, Việt Nam cử đội tuyển U-23 dự vòng loại Cúp bóng đá châu Á 2004 nhằm mục đích chuẩn bị cho SEA Games vào cuối năm trên sân nhà. Đội thua với tỷ số kỷ lục 0-6, thua 0-5 và thắng đội yếu nhất bảng ở loạt trận đầu. Loạt trận sau, đội bất ngờ thắng sốc Hàn Quốc 1-0, sau đó thắng Nepal rồi thua tiếp 0-2 trước Oman.
Năm 2004, Edson Tavares trở lại dẫn dắt đội nhưng thất bại ở vòng loại World Cup 2006, trước đó có chiến thắng duy nhất trước Maldives nhờ huấn luyện viên tạm quyền Nguyễn Thành Vinh.
Asian Cup 2007 là lần đầu tiên Việt Nam đồng đăng cai và dự giải đấu lớn nhất châu lục. Tại vòng bảng, đội hạ UAE 2-0 nhờ hai bàn thắng của Quang Thanh và Công Vinh, sau đó hòa Qatar 1-1 rồi thua ngược Nhật Bản 1-4. Đội lọt vào tứ kết và thua đội sau đó vô địch châu Á Iraq với tỷ số 0-2. Đoàn quân của huấn luyện viên Alfred Riedl một lần nữa tái ngộ UAE tại vòng loại World Cup 2010 nhưng đã để thua ở cả hai lượt đi và về và nhận thất bại chung cuộc với tổng tỷ số 6-0.
Ở vòng loại Asian Cup 2011, đội khởi đầu thuận lợi khi thắng Liban 3-1 trên sân nhà, nhưng sau đó chỉ có thêm hai trận hòa nữa trước Liban và Syria. Đội để thua ba trận còn lại, trong đó có trận thua Trung Quốc 1-6 trên sân khách, đành chấp nhận dừng bước. Ở vòng loại World Cup 2014, dưới sự dẫn dắt của HLV Falko Götz, đội đã đánh bại Ma Cao cả hai lượt trận ở vòng một với tổng tỷ số 13-1. Ở vòng hai, đội thua Qatar 0-3 trên sân khách và thắng đối thủ Tây Á 2-1 ở lượt về trên sân nhà, đành chấp nhận bị loại với tổng tỷ số 2-4. Ở vòng loại Asian Cup 2015, đội có đến 3 trận được tạm quyền dẫn dắt bởi HLV Nguyễn Văn Sỹ do HLV chính bận tập trung cùng đội U-23 chuẩn bị cho SEA Games 2013. Việt Nam đã để thua 5 trong tổng số 6 trận và xếp cuối bảng, chỉ thắng được trận thủ tục với Hồng Kông.
Trong chiến dịch vòng loại thứ 2 World Cup 2018, Việt Nam thua Thái Lan 0-1 và thắng Đài Loan 2-1 trên sân khách, sau đó hòa Iraq 1-1 và thua 0-3 trong trận tái đấu Thái Lan trên sân Mỹ Đình. Năm 2016, khi Nguyễn Hữu Thắng lên thay Miura Toshiya, đội đã thắng Đài Loan 4-1 trên sân nhà. Iraq, trong trận quyết định, đã hạ Việt Nam 1-0 trên sân trung lập để đi tiếp. Kết thúc ở vị trí thứ 3 trong bảng, Việt Nam lọt vào vòng 3 vòng loại Asian Cup 2019, nơi đội đối đầu với Afghanistan, Campuchia và Jordan. Đội thắng cả hai lượt trận, hòa 4 trận còn lại trong giai đoạn biến động ở cương vị huấn luyện viên trưởng khi Nguyễn Hữu Thắng, Mai Đức Chung và Park Hang-seo lần lượt thay nhau dẫn dắt, qua đó có lần đầu tiên tham dự Asian Cup sau 12 năm.
Ở bảng D Asian Cup 2019, Việt Nam khởi đầu bằng trận thua ngược đáng tiếc trước 2-3, sau đó thua tiếp Iran 0-2 trước khi hạ Yemen 2-0 lượt đấu cuối. Toàn đội đã phải chờ đến những diễn biến cuối cùng của giai đoạn vòng bảng ở trận Liban thắng CHDCND Triều Tiên 4-1 mới có thể xác định được tấm vé đi tiếp ở vị trí cuối trong nhóm 4 đội đứng thứ 3 có thành tích tốt nhất (bằng điểm số, hiệu số bàn thắng thua và số bàn thắng với Liban nhưng hơn ở chỉ số fair-play). Ở vòng 16 đội, Việt Nam cầm hòa Jordan 1-1 trong 120 phút thi đấu chính thức và thắng 4-2 trong loạt sút luân lưu. Tuy nhiên, đội dừng bước ở tứ kết sau trận thua 0-1 trước Nhật Bản. Đây là lần thứ hai đội tuyển đi tới trận tứ kết của Asian Cup, nhưng đặc biệt hơn so với năm 2007 bởi đây là lần đầu tiên đội có một trận thắng ở vòng loại trực tiếp của một giải đấu châu lục không tổ chức trên sân nhà.
Ở Vòng loại World Cup 2022 khu vực châu Á giai đoạn hai, Việt Nam được xếp vào bảng G – một bảng đấu được coi là kì lạ khi đội nằm chung bảng với những đối thủ quen thuộc ở khu vực bao gồm Indonesia, Malaysia và Thái Lan. Đội duy nhất không thuộc Đông Nam Á ở bảng này là UAE, cũng là một đối thủ có duyên nợ với đội tuyển Việt Nam. Qua 8 trận, đội đã thắng 5, hòa 2 và thua 1, được 17 điểm và đứng thứ hai sau UAE. Xét các đội nhì bảng có thành tích tốt nhất sau khi loại kết quả với đội cuối bảng (trừ 6 điểm do Triều Tiên bất ngờ rút khỏi giải), đội tuyển Việt Nam được 11 điểm, đứng thứ 4 trong 8 đội nhì bảng. Do 5 đội nhì bảng có thành tích tốt nhất sẽ được đi tiếp, Việt Nam đã giành quyền vào vòng loại World Cup 2022 giai đoạn ba, đồng thời sớm đoạt vé tham dự vòng chung kết Asian Cup 2023.
Ở Vòng loại thứ ba, Việt Nam nằm ở bảng B cùng với Nhật Bản, Úc, Ả Rập Xê Út, Trung Quốc và Oman. Trong lần đầu tiên tham dự vòng loại cuối cùng, đội đã toàn thua 7 trận đầu. Ở lượt trận thứ tám, đội đánh bại Trung Quốc 3-1 trên sân nhà Mỹ Đình. Việt Nam kết thúc chiến dịch vòng loại của mình bằng trận hòa 1-1 trước Nhật Bản trên sân khách Saitama, qua đó giành được 4 điểm sau 10 trận và xếp cuối bảng.
Ở vòng chung kết Asian Cup 2023, Việt Nam rơi vào bảng D cùng với Nhật Bản, Iraq và đối thủ cùng khu vực Indonesia. Đây là giải đấu không thành công của đội tuyển Việt Nam dưới sự dẫn dắt của HLV Philippe Troussier khi đội để thua cả ba trận và bị loại sớm với vị trí cuối bảng. Mặc dù chơi không tồi trong trận thua 2-4 trước Nhật Bản, Việt Nam gây thất vọng lớn khi để thua Indonesia 0-1, qua đó sớm bị loại dù còn một lượt trận. Đội sau đó thua tiếp Iraq 2-3 ở lượt cuối vòng bảng và sớm dừng bước với vị trí cuối bảng D. Đây là lần đầu tiên Việt Nam bị loại ngay từ vòng bảng Asian Cup với tư cách một quốc gia thống nhất, sau khi lọt vào đến tứ kết trong cả hai lần tham dự trước đó.
Hình ảnh
Trang phục thi đấu
Màu áo đấu truyền thống của đội tuyển Việt Nam là màu đỏ, tượng trưng cho màu quốc kỳ, còn màu áo đấu phụ của đội là màu trắng (trừ năm 1993, 1994, 1995 và 1998 là màu vàng).
Giai đoạn 2008-2010 dưới thời huấn luyện viên Henrique Calisto, đội tuyển Việt Nam cũng như đội tuyển U-23 lại thường sử dụng màu trắng như màu áo chính do niềm tin vào sự may mắn, như tại hai lượt trận chung kết AFF Cup 2008 và môn bóng đá nam SEA Games 2009.
Biểu tượng
Khác với hầu hết các đội tuyển Quốc gia khác thường in biểu tượng của Liên đoàn/Hiệp hội bóng đá hoặc Quốc huy của quốc gia đó lên áo đấu, quốc kỳ cờ đỏ sao vàng thường được in trên ngực trái áo đấu của đội tuyển Việt Nam (mặc dù trong những năm 1998-1999, họ đã sử dụng logo (cũ) của VFF trên áo đấu). Trên thế giới ngoài Việt Nam ra chỉ có một vài đội bóng làm điều tương tự như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên hay Thổ Nhĩ Kỳ.
Năm 2016, lấy ý tưởng từ biệt danh "Rồng vàng", biểu tượng "Rồng nhả Ngọc" với hình viên ngọc cách điệu thành quả bóng đã được thiết kế và được VFF sử dụng để lấy ý kiến đóng góp nhằm hoàn thiện huy hiệu chính thức cho đội tuyển quốc gia. Tuy nhiên, thiết kế đã nhận phải những phản hồi tiêu cực từ giới truyền thông và người hâm mộ, thậm chí hình ảnh con rồng trong huy hiệu cũng bị cho là "giống rồng của Bảy viên ngọc rồng". Dù VFF thông qua biểu tượng con rồng nói trên làm biểu tượng chính thức cho đội tuyển vào tháng 12 năm 2017, nó không được sử dụng chính thức dù chỉ một lần. Hình quốc kỳ vẫn được in trên áo đấu, còn logo của VFF được in trên đồ dùng khác của đội tuyển (cặp, túi, mũ, khẩu trang,...) và được sử dụng trên các phương tiện truyền thông cho đội tuyển (banner họp báo, biển quảng cáo, mạng xã hội, bảng điện tử ở sân vận động, băng đội trưởng trong các trận giao hữu...). Trên thực tế, các Liên đoàn hay Hiệp hội bóng đá của các Quốc gia khác thường in biểu trưng đồng bộ lên tất cả áo đấu của các đội tuyển bóng đá nam và nữ (cả đội tuyển Quốc gia và đội tuyển theo các lứa tuổi), đội tuyển futsal và đội tuyển bóng đá bãi biển, do vậy với biểu trưng con rồng vốn ban đầu chỉ thiết kế riêng cho đội tuyển Quốc gia nam, việc in nó lên áo hay sử dụng nó làm biểu trưng cho bất kỳ đội tuyển bóng đá Quốc gia nào của Việt Nam (dù là chỉ riêng đội tuyển Quốc gia nam) đều là điều không hợp lý.
Biệt danh
Cơ quan quản lý hình ảnh của đội tuyển là VFF sử dụng biệt danh chính thức cho đội tuyển là Những Chiến Binh Sao Vàng (), dựa theo ngôi sao của Quốc kỳ .
Tài trợ
Tài trợ cho đội tuyển có Acecook, Yanmar, Honda, Sony, Bia Saigon, Coca-Cola, Vinamilk, Kao, Herbalife Nutrition, TNI Corporation và một số nhà tài trợ phụ khác.
Cổ động viên
Hai hội cổ động viên lớn cho đội tuyển quốc gia là Hội Cổ động viên bóng đá Việt Nam (VFS, ) được thành lập vào năm 2014 và Hội Cổ động viên Sao vàng Việt Nam (VGS, ) được thành lập vào năm 2017.
Mỗi khi đội tuyển quốc gia giành chiến thắng trong các trận đấu lớn, đường phố thường bị áp đảo bởi những đám đông người Việt Nam hát vang các bài hát mang đậm tính dân tộc. Sự cuồng nhiệt của người hâm mộ tại đây còn thể hiện ngay cả trong các giải đấu nhỏ, chẳng hạn như khi Việt Nam giành được vị trí á quân tại giải đấu U-23 châu Á 2018. Tuy nhiên cổ động viên Việt Nam với tinh thần "chỉ yêu bóng đá chiến thắng", sẵn sàng chỉ trích và thậm chí xúc phạm đội tuyển trên mạng xã hội mỗi khi đội tuyển thất bại.
Đa phần các cổ động viên Việt Nam chưa có thói quen mua và mặc áo đấu chính thức của đội tuyển quốc gia như cổ động viên ở nhiều nước khác. Họ thường mua và mặc áo cờ đỏ sao vàng (giống quốc kỳ) với giá rẻ hoặc mua áo đấu không chính hãng khi đi xem và cổ vũ. Thực tế, việc mua áo chính thức của đội tuyển là một nguồn thu không nhỏ góp phần vào kinh phí cho các đội tuyển quốc gia.
Sân nhà
Sân nhà của đội trước năm 2003 là sân Hàng Đẫy, sau đó chuyển sang Sân vận động Quốc gia Mỹ Đình ở quận Nam Từ Liêm của Hà Nội, được xây dựng để phục vụ cho SEA Games 22. Đội cũng thi đấu ở sân Thống Nhất tại Thành phố Hồ Chí Minh trong một số trận giao hữu hay vòng loại. Đôi khi, đội tuyển Việt Nam cũng chọn sân ở những địa phương khác nhau để đá giao hữu, như sân Lạch Tray ở Hải Phòng, sân Thiên Trường ở Nam Định và sân Gò Đậu ở Bình Dương.
Kình địch
Thái Lan
Thái Lan với bề dày thành tích vượt trội ở Đông Nam Á luôn được xem là đối thủ lớn nhất của Việt Nam ở các giải đấu khu vực kể từ khi bóng đá Việt Nam quay lại đấu trường quốc tế vào năm 1991. Trong giai đoạn này, bóng đá Việt Nam thường xuyên bị Thái Lan lấn át về thành tích đối đầu lẫn danh hiệu, đặc biệt là hai thất bại liên tiếp trong hai trận chung kết SEA Games các năm 1995 và 1999, cùng với những trận thua tâm phục khẩu phục ở AFF Cup và vòng loại World Cup. Điều đó khiến các phương tiện truyền thông và người hâm mộ trong nước, với sự tị nạnh rất cao, thường đem đội tuyển đi so sánh với Thái Lan và luôn muốn Việt Nam phải hơn Thái Lan ở mọi phương diện, dù là ở giải giao hữu, giải trẻ (SEA Games), giải đấu nhỏ (AFF Cup), vòng loại của các giải lớn hơn (AFC Asian Cup, FIFA World Cup), hay so bì ngay cả trên bảng xếp hạng FIFA. Thậm chí, tư tưởng "ăn thua" và "so bì" với Thái Lan của giới truyền thông và người hâm mộ còn lan đến cả bóng đá nữ và futsal. Đối với họ, không cần biết sức mạnh đội tuyển Việt Nam so với châu Á hay thế giới như thế nào, tiến bộ được bao nhiêu, chỉ cần Việt Nam mạnh nhất ở Đông Nam Á hoặc hơn Thái Lan là đủ.
Kể từ khi tái hội nhập với bóng đá quốc tế năm 1991, Việt Nam đã đối đầu với Thái Lan 28 trận ở cấp độ đội tuyển quốc gia, nhưng hoàn toàn lép vế khi chỉ có 3 chiến thắng, còn lại là 9 trận hòa và 16 trận thua. Thậm chí, Việt Nam chưa bao giờ giành chiến thắng trước Thái Lan trên sân Mỹ Đình, sân nhà chính của đội, dù từng đánh bại Thái Lan 3-0 trên sân Hàng Đẫy ở AFF Cup 1998 - trận thắng đánh dấu lần đầu tiên Việt Nam thắng được Thái Lan. Chiến thắng 2-1 trên sân vận động Rajamangala ngày 24 tháng 12 năm 2008 trong khuôn khổ chung kết lượt đi AFF Cup 2008 là lần gần nhất Việt Nam thắng Thái Lan ở một giải đấu chính thức, và từ đó đến nay đội chỉ thắng được đối thủ kỵ giơ này thêm một lần ở giải giao hữu King's Cup 2019 với tỷ số 1-0. Lần gần nhất hai đội gặp nhau là ở chung kết AFF Cup 2022, nơi Thái Lan đánh bại Việt Nam bằng trận hòa 2-2 ở lượt đi trên sân Mỹ Đình và thắng 1-0 ở lượt về trên sân Thammasat.
Indonesia
Indonesia được xem là đối thủ khó chịu và nhiều duyên nợ nhất với đội tuyển Việt Nam. Trong suốt giai đoạn 20 năm từ 1999 đến 2019, Việt Nam chỉ hòa và thua khi đối đầu với Indonesia tại các giải đấu chính thức. Chuỗi trận không thắng này bắt đầu kể từ sau trận thắng 1-0 trước Indonesia ngày 12 tháng 8 năm 1999 tại bán kết SEA Games 1999, và kéo dài qua 12 trận với 7 trận hòa và 5 trận thua, trước khi chấm dứt bằng chiến thắng 3-1 trên sân của Indonesia ngày 15 tháng 10 năm 2019 tại vòng loại thứ hai của World Cup 2022, cũng là lần đầu tiên Việt Nam thắng được đội bóng xứ vạn đảo trên sân khách. Trong giai đoạn này, Việt Nam chỉ có một lần thắng Indonesia 3-2 trong trận đấu giao hữu trên sân Mỹ Đình ngày 8 tháng 11 năm 2016.
Hiện tại, Việt Nam đang có thành tích đối đầu bất lợi đôi chút so với Indonesia với 8 trận thắng, 9 trận thua, còn lại là 11 trận hòa, sau 28 lần đối đầu kể từ năm 1991. Tại cuộc đối đầu gần nhất giữa hai đội tại vòng bảng Asian Cup 2023, Việt Nam đã để thua Indonesia 0-1, trận thua khiến đội sớm bị loại khỏi giải đấu.
Singapore
Khi Singapore vẫn còn là một thế lực của bóng đá Đông Nam Á cho đến năm 2012 nhờ chính sách sử dụng nhiều cầu thủ nhập tịch, đội tuyển nước này được xem là một đối trọng lớn của Việt Nam ở sân chơi AFF Cup. Hai đội đã đối đầu với nhau 19 trận kể từ năm 1991, trong đó Việt Nam chiếm ưu thế với 8 trận thắng, 7 trận hòa và 4 trận thua. Sau thất bại 0-1 trước Singapore trong trận chung kết AFF Cup 1998, Việt Nam đang duy trì chuỗi trận bất bại trước Singapore, bao gồm chiến thắng trước đối thủ này ở bán kết AFF Cup 2008, giải đấu mà Việt Nam vô địch. Điều đáng chú ý là bên cạnh 7 lần hai đội bất phân thắng bại, hầu hết các trận mà Việt Nam hoặc Singapore giành chiến thắng đều có cách biệt rất sít sao. Trong lần gần nhất đối đầu ở một giải đấu chính thức, Việt Nam bị Singapore cầm hòa 0-0 ở vòng bảng AFF Cup 2022.
Malaysia
Cùng với Thái Lan và Indonesia, Malaysia được xem là một trong ba đối thủ cạnh tranh chính của Việt Nam ở các giải đấu khu vực Đông Nam Á. Khác với hai đối thủ trên, Việt Nam tỏ ra áp đảo về thành tích đối đầu trước người Mã với 15 trận thắng, ba trận hòa và chỉ năm lần thất bại trong 23 lần chạm trán với đối thủ này kể từ năm 1991. Hai đội từng đối đầu trong trận chung kết AFF Cup 2018, với chiến thắng chung cuộc 3-2 dành cho Việt Nam. Đội cũng đang duy trì mạch trận bất bại trước Malaysia kể từ năm 2014, với chiến thắng 3-0 trong lần chạm trán gần đây nhất ở vòng bảng AFF Cup 2022. Thất bại gần đây nhất của Việt Nam diễn ra trên sân Mỹ Đình trong trận bán kết lượt về AFF Suzuki Cup 2014 với tỷ số 2-4.
Thành phần ban huấn luyện
Cầu thủ
Dưới đây là danh sách sơ bộ 33 cầu thủ được triệu tập để chuẩn bị cho hai trận đấu gặp Indonesia ở vòng loại World Cup 2026 vào các ngày 21 và 26 tháng 3 năm 2024.Số lần ra sân và số bàn thắng được cập nhật đến ngày 24 tháng 1 năm 2024 sau trận đấu với ở Cúp bóng đá châu Á 2023 .
Từng triệu tập
Những cầu thủ sau đây đã được gọi cho đội trong vòng 12 tháng qua.
PRE
PRE
PRE
PRE
PRE
PRE
PRE
PRE
PRE
PRE
PRE
PRE
PRE}}
Ghi chú:
SUS Bị cấm thi đấu.
INJ Rút lui vì chấn thương.
RET Từ giã đội tuyển.
PRE Chỉ nằm trong danh sách sơ bộ.
Các trận đấu gần đây
Dưới đây là kết quả các trận đã đấu trong 12 tháng qua, cũng như bất kỳ trận đấu nào đã được lên lịch trong tương lai.
2023
2024
Thống kê thành tích quốc tế
Giải vô địch bóng đá thế giới
Cúp bóng đá châu Á
Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á
Á vận hội
Kể từ năm 2002, giải bóng đá Asian Games chỉ dành cho đội tuyển U23
Đại hội Thể thao Đông Nam Á
Thành tích đối đầu với các quốc gia
Cập nhật lần cuối ngày 24 tháng 1 năm 2024.
Thống kê cầu thủ
Những cầu thủ được in đậm là những cầu thủ đang tiếp tục thi đấu cho đội tuyển Việt Nam.
{| class="wikitable"
|+Ghi nhiều bàn thắng nhất
|-
!Thứ hạng
! width="170" |Cầu thủ
! width="40" |Số bàn thắng
! width=50px|Số trận khoác áo
! width="110" |Hiệu suất
! width="190" |Bàn đầu–cuối
! width=100px|Thời gian thi đấu
|-
|1
| align="left" |Lê Công Vinh
| 51
| 83
| 0.61
| 20/8/2004–26/11/2016
| 2004-2016
|-
|2
| align="left" |Lê Huỳnh Đức
| 27
| 51
| 0.53
| 4/1/1995–23/12/2002
| 1993-2004
|-
|rowspan=2|3
| align="left" |Nguyễn Hồng Sơn
| 18
| 37
| 0.49
| 30/4/1993–17/2/2001
| 1993-2001
|-
| align="left" |Nguyễn Tiến Linh
| 18
| 43
| 0.42
| 24/11/2018–13/1/2023
| 2018-nay
|-
|5
| align="left" |Nguyễn Văn Quyết
| 16
| 59
| 0.27
| 29/6/2011–27/9/2022
| 2011-nay
|-
|6
| align="left" |Phan Thanh Bình
| 13
| 31
| 0.42
| 27/9/2003–10/12/2008
| 2003-2009
|-
|7
| align="left" |Nguyễn Anh Đức
| 12
| 36
| 0.33
| 24/6/2007–5/6/2019
| 2006-2019
|-
|rowspan=2|8
| align="left" |Nguyễn Trọng Hoàng
| 12
| 74
| 0.16
| 31/5/2009–23/11/2016
| 2009-2022
|-
| align="left" |Nguyễn Công Phượng
| 12
| 56
| 0.21
| 8/11/2016–11/09/2023
| 2015-nay
|-
|10
| align="left"| Nguyễn Quang Hải
| 11
| 59
| 0.18
| 5/9/2017-24/1/2024
| 2017-nay
|-
Các đội trưởng
Thống kê huấn luyện viên
Danh hiệu
Các danh hiệu được liệt kê dưới đây chỉ tính riêng Đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam là đội tuyển không giới hạn tuổi, không bao gồm thành tích của Đội tuyển Việt Nam Cộng hòa và các đội tuyển trẻ của Việt Nam (U-22, U-23, Olympic)
Giải chính thức
Khu vực (Đông Nam Á)
AFF Cup
Vô địch (2): 2008, 2018
Á quân (2): 1998, 2022
Hạng ba (2): 1996, 2002
Đồng hạng ba (5): 2007, 2010, 2014, 2016, 2020
Kể từ năm 2007, AFF Cup không tổ chức trận tranh hạng ba. Hai đội thua ở bán kết được coi là đồng giải ba.
SEA Games
Huy chương bạc (2): 1995, 1999
Huy chương đồng (1): 1997
Từ năm 2001, môn bóng đá nam bị giới hạn dưới 23 tuổi.
Giải giao hữu
AYA Bank Cup 2016
Vô địch (1): 2016
VFF Cup
Vô địch (1): 2022
Á quân (3): 2004, 2006, 2009
Hạng ba (1): 2012
King's Cup
Á quân (2): 2006, 2019
LG Cup
Á quân (1): 2002
Tham khảo
Ghi chú
Xem thêm
Bóng đá tại Việt Nam
Liên đoàn bóng đá Việt Nam
Liên kết ngoài
trên trang chủ của FIFA
VFF - Đội tuyển Quốc gia Nam
Việt Nam
Bóng đá
|
21793
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20Th%E1%BB%A7%20t%C6%B0%E1%BB%9Bng%20Anh
|
Danh sách Thủ tướng Anh
|
Thủ tướng của Anh
Trong thời gian này Thủ tướng Anh giữ ít nhất chức vụ Đệ Nhất Đại Thần Ngân Khố; ngoài ra Thủ tướng cũng có thêm các chức vụ khác như Lord Privy Seal, Bộ trưởng Bộ tài chính và Lãnh đạo Hạ nghị viện...
Thủ tướng của Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland
Bắt đầu từ 1905, Thủ tướng Anh được gọi là Prime Minster, nhưng vẫn có thể giữ các chức vụ khác.
Thủ tướng của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland
Các cựu Thủ tướng còn sống
Tính đến ngày 1 tháng 1 năm 2024, có 7 cựu Thủ tướng còn sống. Cựu Thủ tướng còn sống cao tuổi nhất là John Major và trẻ tuổi nhất là Liz Truss và cựu Thủ tướng qua đời gần đây nhất là Margaret Thatcher vào ngày 8 tháng 4 năm 2013 ở tuổi 87. Dưới đây là danh sách các cựu Thủ tướng còn sống được xếp theo thứ tự nhiệm kỳ:
Chú thích
1Trong mỗi lần này Thủ tướng đương nhiệm đã từ chức nhưng được tấn phong Thủ tướng trở lại để thành lập một chính phủ mới có thành phần chính trị rất khác với chính phủ cũ của họ.
Thủ tướng Anh
Thủ tướng
Danh sách thủ tướng theo quốc gia
|
21794
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%99i%20tuy%E1%BB%83n%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20qu%E1%BB%91c%20gia%20Th%C3%A1i%20Lan
|
Đội tuyển bóng đá quốc gia Thái Lan
|
Đội tuyển bóng đá quốc gia Thái Lan (, , ) là đội tuyển bóng đá đại diện cho Thái Lan do Hiệp hội bóng đá Thái Lan (FAT) quản lý.
Ở cấp độ châu lục, Thái Lan đã có 8 lần tham dự Cúp bóng đá châu Á với thành tích tốt nhất là đạt hạng 3 vòng chung kết năm 1972, kỳ đầu tiên Thái Lan là chủ nhà đăng cai. Ngoài ra đội từng có 2 lần tham dự Olympic, 2 lần giành hạng tư ở ASIAD. Đội chưa bao giờ vượt qua vòng loại World Cup nhưng đã từng góp mặt ở vòng loại cuối cùng vào các năm 2002 và 2018.
Là bá chủ các giải đấu thuộc khu vực Đông Nam Á, Thái Lan đã 7 lần giành ngôi vô địch khu vực và nắm giữ kỷ lục 9 lần vô địch SEA Games ở cấp độ đội tuyển quốc gia.
Lịch sử
Tuyển Thái Lan tiền thân là Đội tuyển bóng đá quốc gia Xiêm ra đời năm 1915 và có trận đấu đầu tiên vào ngày 20 tháng 12 năm 1915 gặp đội những người Âu sống tại Thái Lan, tổ chức tại sân vận động của câu lạc bộ thể thao Hoàng gia Trat. Vào ngày 25 tháng 4 năm 1916, Vua Vajiravudh Rama VI cho thành lập Hiệp hội bóng đá Xiêm.
Năm 1930, đội nhận được lời mời sang Đông Dương thi đấu giao hữu với đội tuyển Đông Dương, một đội bóng tập hợp bởi các cầu thủ Nam Kỳ và một số cầu thủ người Pháp. Các trận đấu trong khuôn khổ giải giao hữu diễn ra từ ngày 14 cho đến ngày 20 tháng 4. Có người coi đây là trận đấu quốc tế không chính thức đầu tiên của đội. Vào năm 1949, nhà nước Xiêm đổi tên thành Thái Lan, hiệp hội và đội tuyển bóng đá Xiêm cũng theo đó đổi tên.
Năm 1956, Thái Lan tham dự giải đấu cấp độ thế giới đầu tiên khi có mặt tại Thế vận hội Mùa hè Melbourne 1956. Đội thua trận đầu tiên và cũng là duy nhất trước Liên hiệp Anh với tỉ số 0–9, thất bại nặng nề nhất trong lịch sử của đội, đồng thời mất cơ hội chơi trận tứ kết.
Năm 1965, Thái Lan giành danh hiệu quốc tế đầu tiên khi đoạt huy chương vàng môn bóng đá tại Đại hội Thể thao Bán đảo Đông Nam Á 1965 tổ chức tại Kuala Lumpur. Từ đó đến kỳ đại hội năm 1999 (lần cuối cùng bóng đá tại đại hội dành cho đội tuyển quốc gia), đội có thêm 8 lần vô địch. Năm 1996, Thái Lan đăng quang danh hiệu AFF Cup đầu tiên tại Singapore và từ đó đến nay họ có thêm 6 lần giành chức vô địch. Là đội bóng có nhiều lần đăng quang nhất ở cả hai sân chơi khu vực SEA Games và AFF Cup, Thái Lan được xem là đội tuyển giàu thành tích nhất ở Đông Nam Á.
Ở đấu trường châu lục, Thái Lan từng đạt hạng ba tại Cúp bóng đá châu Á 1972 khi là nước chủ nhà đăng cai vòng chung kết. Thái Lan cũng lần nữa là chủ nhà của một kỳ Asian Cup vào năm 2007 khi cùng đăng cai giải đấu với 3 quốc gia Đông Nam Á khác là Indonesia, Malaysia và Việt Nam. Giải năm ấy, đội dừng bước ở vòng bảng sau khi thua Úc 0-4 dù trước đó đã cầm hòa đội vô địch giải đấu Iraq 1-1 và đánh bại Oman 2-0. Thái Lan cũng từng hai lần giành hạng tư môn bóng đá ở ASIAD vào các năm 1994 và 1998, thời điểm mà đại hội thể thao cấp châu lục vẫn cho phép các đội tuyển quốc gia thi đấu.
Là thế lực thống trị Đông Nam Á nhưng tại các đấu trường rộng lớn hơn thì Thái Lan chưa có sự đột phá hay bước tiến nào đáng kể. Phải mất 47 năm kể từ năm 1972, họ mới có lần thứ hai vượt qua vòng bảng Cúp bóng đá châu Á 2019 và dừng bước trước Trung Quốc tại vòng 16 đội. Nhờ thành công trong việc lọt vào vòng đấu loại trực tiếp, đội đã nhận thưởng từ FAT và các nhà tài trợ ít nhất 25 triệu bạt.
Thái Lan từng hai lần lọt vào vòng đấu cuối cùng của vòng loại World Cup vào các năm 2002 và 2018 nhưng đều thất bại trong việc giành tấm vé dự vòng chung kết. Đội không thể thắng được trận nào ở cả hai lần lọt vào vòng loại cuối, trong khi có tổng cộng 6 trận hòa.
Thống kê
Giải đấu
{| class="wikitable mw-collapsible mw-collapsed" style="text-align: center;font-size:90%;"
!colspan=8|Giải vô địch Đông Nam Á
|-
!Năm
!Thành tích
!
!
!
!
!
!
|- bgcolor=gold
||<center> 1996<center> ||<center>Vô địch ||<center>6 ||<center>5 ||<center>1 ||<center>0 ||<center>18 ||<center>3
|-
||<center> 1998||<center> Hạng tư ||<center>5 ||<center>2 ||<center>2 ||<center>1 ||<center>10 ||<center>10
|- bgcolor=gold
|style="border: 3px solid red"|<center> 2000||rowspan=2|<center> Vô địch ||<center>5 ||<center>5 ||<center>0 ||<center>0 ||<center>15 ||<center>3
|- bgcolor=gold
||<center> 2002||<center>5 ||<center>2 ||<center>2 ||<center>1 ||<center>13 ||<center>7
|-
||<center> 2004||<center> Vòng 1||<center>4 ||<center>2 ||<center>1 ||<center>1 ||<center>13 ||<center>4
|-
|- bgcolor=#C0C0C0
|style="border: 3px solid red"|<center> 2007||rowspan=2|<center> Á quân||<center>7 ||<center>3 ||<center>3 ||<center>1 ||<center>10 ||<center>4
|- bgcolor=#C0C0C0
|style="border: 3px solid red"|<center> 2008||<center>7 ||<center>5 ||<center>1 ||<center>1 ||<center>15 ||<center>4
|-
||<center> 2010||<center> Vòng 1||<center>3 ||<center>0 ||<center>2 ||<center>1 ||<center>3 ||<center>4
|- bgcolor=#C0C0C0
|style="border: 3px solid red"|<center> 2012||<center> Á quân||<center>7 ||<center>5 ||<center>1 ||<center>1 ||<center>14 ||<center>6
|- bgcolor=gold
||<center> 2014<center> ||rowspan=2|<center>Vô địch ||<center>7 ||<center>6 ||<center>1 ||<center>1 ||<center>17 ||<center>6
|- bgcolor=gold
||<center> 2016<center> ||<center>7 ||<center>6 ||<center>0 ||<center>1 ||<center>12 ||<center>4
|-style="background-color:#cfaa88;"
| 2018<center> ||<center>Bán kết ||<center>6 ||<center>3 ||<center>3 ||<center>0 ||<center>17 ||<center>5
|- bgcolor=gold
||<center> 2020<center> ||rowspan=2|<center>Vô địch ||<center>8 ||<center>6 ||<center>2 ||<center>0 ||<center>18 ||<center>3
|-
|- bgcolor=gold
||<center> 2022<center> ||<center>8 ||<center>5 ||<center>2 ||<center>1 ||<center>19 ||<center>5
|-
||<center> Tổng cộng ||<center> 7 lần vô địch ||<center>85 ||<center>54 ||<center>21 ||<center>10||<center>195||<center>68|}
{| class="wikitable mw-collapsible mw-collapsed" style="text-align: center;font-size:90%;"
!colspan=8|Đại hội Thể thao Đông Nam Á
|-
!Năm
!Thành tích
!
!
!
!
!
!
|- bgcolor=#C0C0C0
|style="border: 3px solid red"|<center> 1959||<center> Á quân ||<center>4 ||<center>2 ||<center>0 ||<center>2 ||<center>9 ||<center>10|-
|- bgcolor=#CFAA88
||<center> 1961||<center> Hạng ba ||<center>3 ||<center>1 ||<center>2 ||<center>0 ||<center>7 ||<center>4
|- bgcolor=gold
||<center> 1965||<center> Vô địch ||<center>3 ||<center>2 ||<center>1 ||<center>0 ||<center>6 ||<center>3
|-
|- bgcolor=#CFAA88
|style="border: 3px solid red"|<center> 1967||<center> Hạng ba ||<center>4 ||<center>2 ||<center>0 ||<center>2 ||<center>9 ||<center>8
|-
|- bgcolor=#C0C0C0
||<center> 1969||<center> Á quân ||<center>3 ||<center>1 ||<center>1 ||<center>1 ||<center>4 ||<center>4
|-
|- bgcolor=#CFAA88
||<center> 1971||<center> Hạng ba ||<center>5 ||<center>1 ||<center>2 ||<center>2 ||<center>7 ||<center>8
|-
||<center> 1973||<center> Vòng 1||<center>2 ||<center>0 ||<center>1 ||<center>1 ||<center>1 ||<center>2
|- bgcolor=gold
|style="border: 3px solid red"|<center> 1975||<center> Vô địch ||<center>3 ||<center>1 ||<center>2 ||<center>0 ||<center>5 ||<center>4
|-
|- bgcolor=#C0C0C0
||<center> 1977||<center> Á quân ||<center>4 ||<center>1 ||<center>1 ||<center>2 ||<center>3 ||<center>6
|-
|- bgcolor=#CFAA88
||<center> 1979||<center> Hạng ba ||<center>5 ||<center>2 ||<center>2 ||<center>1 ||<center>6 ||<center>5
|- bgcolor=gold
||<center> 1981||rowspan=3|<center> Vô địch ||<center>4 ||<center>2 ||<center>2 ||<center>0 ||<center>9 ||<center>6
|- bgcolor=gold
||<center> 1983||<center>5 ||<center>3 ||<center>1 ||<center>1 ||<center>10 ||<center>4
|- bgcolor=gold
|style="border: 3px solid red"|<center> 1985||<center>4 ||<center>3 ||<center>1 ||<center>0 ||<center>17 ||<center>1
|-
|- bgcolor=#CFAA88
||<center> 1987||<center> Hạng ba ||<center>4 ||<center>2 ||<center>1 ||<center>1 ||<center>7 ||<center>3
|-
||<center> 1989||<center> Hạng tư||<center>4 ||<center>1 ||<center>2 ||<center>1 ||<center>5 ||<center>3
|-
|- bgcolor=#C0C0C0
||<center> 1991||<center> Á quân ||<center>4 ||<center>2 ||<center>1 ||<center>1 ||<center>10 ||<center>2
|- bgcolor=gold
||<center> 1993||rowspan=4|<center> Vô địch ||<center>6 ||<center>6 ||<center>0 ||<center>0 ||<center>18 ||<center>6
|- bgcolor=gold
|style="border: 3px solid red"|<center> 1995||<center>6 ||<center>5 ||<center>1 ||<center>0 ||<center>19 ||<center>2
|- bgcolor=gold
||<center> 1997||<center>6 ||<center>4 ||<center>2 ||<center>0 ||<center>15 ||<center>3
|- bgcolor=gold
||<center> 1999||<center>6 ||<center>5 ||<center>1 ||<center>0 ||<center>24 ||<center>1
|-
||<center> Tổng cộng ||<center> 9 lần vô địch ||85||43||24||15||<center>- ||<center>-
|-
|}
Cá nhân
<onlyinclude>
Cầu thủ có tên in đậm vẫn còn thi đấu cho đội tuyển quốc gia. Tính đến ngày 30 tháng 1 năm 2024.
</onlyinclude>
Đồng phục
Vào thời kỳ tiền khởi, đồng phục đội tuyển Thái Lan chủ yếu là bộ trang phục toàn màu đỏ.Đội từng chơi bằng các trang phục tạo bởi nhà thiết kế bản xứ FBT cho tới tháng 6 năm 2007. Tháng 7 cùng năm, Nike trở thành nhà cung mới, và từ tháng 10, đội chơi với trang phục toàn màu vàng để mừng sinh nhật thứ 80 của quốc vương Rama IX. Đội đã chơi trong màu áo này khi thi đấu giao hữu với Trung Quốc và Qatar.
Áo đấu màu vàng được tái sử dụng nhiều lần, gần nhất là tại King's Cup 2019 và trận chung kết bóng đá nam SEA Games 31 với màu áo vàng và quần trắng tất trắng được cho là phối màu yêu thích của nhà vua Rama X.
Thế chân Nike trong giai đoạn suốt từ năm 2012 đến 2016 là nhãn hiệu Thái Grand Sport với bản hợp đồng trị giá 96 triệu bạt (3.1 triệu đô Mỹ). Tháng 9 năm 2016, đội tuyển Thái Lan ký bản hợp đồng hợp tác 4 năm với một hãng bản địa khác, Warrix Sports. Đầu năm 2017, Warrix trình làng bộ trang phục mới với hai màu toàn đen và trắng (màu để tang truyền thống) lần lượt cho sân nhà và sân khách để tưởng nhớ vua Rama IX một năm sau ngày băng hà. Đầu năm 2018, Warrix cho ra mắt bộ ba trang phục gồm toàn xanh, toàn đỏ và đen trắng thì đến cuối năm đã lại giới thiệu bộ ba mới lần lượt là xanh tím đậm, đỏ, và trắng để phục vụ đội tuyển ở Asian Cup 2019.
Thành tích
Châu lục
Cúp bóng đá châu Á
Hạng ba (1): 1972
Đại hội Thể thao châu Á
Hạng tư (2): 1990, 1998
Khu vực
Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á
Vô địch (7): 1996, 2000, 2002, 2014, 2016, 2020, 2022
Á quân (3): 2007, 2008, 2012
Sea Games:
Huy chương vàng (16): 1965*, 1975, 1981, 1983, 1985, 1993, 1995, 1997, 1999
Huy chương bạc (4): 1959, 1969, 1977, 1991
Huy chương đồng (5): 1961, 1967, 1971, 1979, 1987
Giao hữu
King's Cup
Vô địch (15): 1976*, 1979, 1980*, 1981, 1982, 1984, 1989, 1990, 1992, 1994, 2000, 2006, 2007, 2016, 2017
Á quân (12): 1970, 1971, 1972, 1974, 1993, 1997, 2002, 2004, 2009, 2015, 2018, 2023
Hạng ba (12): 1968, 1973, 1986, 1987, 1988, 1989, 1996, 1999, 2001, 2003, 2013*, 2022
Cúp Trung Quốc
Á quân (1): 2019
Indonesian Independence Cup
Vô địch (1): 1994
Cúp Hàn Quốc
Hạng ba (1): 1977*
Hạng tư (1): 1980
VFF Cup
Vô địch (2): 2006, 2008
Nehru Cup
Hạng ba (1): 1995
Giải Tam hùng Đài Loan
Vô địch (1): 1971
Giải Tứ hùng Đông Dương
Vô địch (1): 1989
Brunei Games
Vô địch (1): 1990
Ghi chú:
*ngôi vị được chia đều cho cả 2.
Đội ngũ
Ban huấn luyện
Cầu thủ
Danh sách 26 cầu thủ được triệu tập cho AFF Cup 2022.
Số lần ra sân và số bàn thắng được cập nhật ngày 10 tháng 1 năm 2023 sau trận đấu với .
Triệu tập gần đây
Chú thích
INJ Rút lui vì chấn thương.
SUS Bị cấm lên tuyển.
PRE Chỉ nằm trong danh sách sơ bộ.
Đối đầu
Dữ liệu được tính từ ngày 1 tháng 1 năm 2022 (trước trận đấu với đội tuyển Indonesia)
Lịch thi đấu
2023
Huấn luyện viên
Chú thích
Ghi chú
Tham khảo
Liên kết ngoài
thaifootball.com
fathailand.org
Thái Lan
Bóng đá
|
21797
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%99i%20tuy%E1%BB%83n%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20qu%E1%BB%91c%20gia%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a
|
Đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam Cộng hòa
|
Đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam Cộng hòa là đội tuyển bóng đá đại diện cho Quốc gia Việt Nam, sau đó là Việt Nam Cộng hòa, thi đấu quốc tế từ năm 1949 đến 1975. Đội tuyển từng hai lần vượt qua vòng loại cúp châu Á (1956 và 1960) và đứng hạng tư ở vòng chung kết, và vô địch SEA Games đầu tiên (năm 1959). Một số cầu thủ nổi tiếng của đội là Đỗ Cẩu, Phạm Huỳnh Tam Lang, Phạm Văn Rạng...
Thống kê giải đấu
Đại hội Thể thao châu Á
Kỳ II: năm 1954, (tại Manila), Việt Nam Cộng hòa không vượt qua vòng loại:
Việt Nam Cộng hòa - Philippines: 3-2
Việt Nam Cộng hòa - Hong Kong: 1-2
Kỳ III: năm 1958, (tại Tokyo), lần đầu tiên đội vượt qua được vòng bảng và vào tứ kết (giải đấu năm đó chỉ có 14 đội, qua được vòng loại là vào tứ kết, không cần đá vòng 1/8)
Việt Nam Cộng hòa - Pakistan: 1-1
Việt Nam Cộng hòa - Malaysia: 6-1
Kỳ IV: năm 1962, (tại Jakarta), Việt Nam Cộng hòa đứng thứ 4
Việt Nam Cộng hòa - Ấn Độ: 2-3 (ở trận bán kết)
Việt Nam Cộng hòa - Malaysia: 1-4 (ở trận tranh huy chương đồng)
Thành tích tốt nhất là năm 1962, đội vào bán kết và xếp Hạng 4 (thua 3-2 trước Ấn Độ ở bán kết, thua 4-1 trước Malaysia ở trận tranh giải ba). Giải đấu năm đó chỉ có 8 đội tham dự, chỉ cần vượt qua vòng loại là được vào bán kết.
Giải vô địch bóng đá thế giới
Năm 1974: Vòng loại Giải thế giới, khu vực châu Á
Việt Nam Cộng hòa - Nam Triều Tiên: 0-4
Việt Nam Cộng hòa - Hong Kong: 0-1
Việt Nam Cộng hòa - Thái Lan: 1-0
Các giải bóng đá quốc tế khác
Cúp Merdeka
Kỳ 10, năm 1966: Việt Nam Cộng hòa đoạt cúp. Huấn luyện viên của đội: Karl Heinz Weigang (Đức).
Cúp quân đội Thái Lan
Năm 1974: Việt Nam Cộng hòa đoạt cúp, khách mời của giải là Pelé, danh thủ bóng đá Brasil, đã chụp hình cùng một vài cầu thủ của đội bóng.
Cúp bóng đá châu Á
Việt Nam Cộng hòa xếp hạng 4/4 cả hai lần tham gia vòng chung kết Cúp bóng đá châu Á đầu tiên.
Lần 1: năm 1956 (tại Hong Kong), vòng loại khu vực trung tâm có 5 đội, nhưng 3 đội bỏ thi đấu, Việt Nam Cộng hòa thắng Malaya 7-3 sau 2 lượt để vào vòng chung kết. Tại vòng chung kết:
Việt Nam Cộng hòa - Israel: 1-2
Việt Nam Cộng hòa - Hong Kong: 2-2
Việt Nam Cộng hòa - Nam Triều Tiên: 3-5
Lần 2: năm 1960 (tại Nam Triều Tiên), vòng loại khu vực trung tâm có 3 đội, Việt Nam Cộng hòa vượt qua vòng loại sau khi thắng Malaya và Singapore. Tại vòng chung kết:
Việt Nam Cộng hòa - Nam Triều Tiên: 1-5
Việt Nam Cộng hòa - Đài Loan: 0-2
Việt Nam Cộng hòa - Israel: 1-5
Trong các năm 1964 và 1968, đội lại tham dự Cúp châu Á. Vòng loại khu vực trung tâm có 4 đội tham gia (năm 1964) và 5 đội tham gia (năm 1968). Đội đều không vượt qua được vòng loại (Hong Kong là đội vượt qua vòng loại trong 2 năm đó).
Olympic
Năm 1963: Vòng loại Thế vận hội Tokyo 1964
Việt Nam Cộng hòa - Israel: 0-1 (tại Sài Gòn)
Israel - Việt Nam Cộng hòa: 0-2 (tại Tel Aviv)
Nam Triều Tiên - Việt Nam Cộng hòa: 3-0 (tại Seoul)
Việt Nam Cộng hòa - Nam Triều Tiên: 2-2 (tại Sài Gòn)
Năm 1968: Vòng loại Thế vận hội Mexico 1968
Việt Nam Cộng hòa - Philippines: 10-0
Việt Nam Cộng hòa - Đài Loan: 3-0
Việt Nam Cộng hòa - Liban: 1-1
Nhật Bản - Việt Nam Cộng hòa: 1-0
Nam Triều Tiên - Việt Nam Cộng hòa: 3-0
Giải Đông Nam Á
Kỳ I: năm 1959, (tại Bangkok), Việt Nam Cộng hòa thắng Thái Lan 3-1, nhận huy chương vàng
Kỳ II: 1961, (tại Yangon), Việt Nam Cộng hòa thua Đội tuyển bóng đá quốc gia Myanmar 1-2 bán kết, được xếp đồng hạng ba.
Kỳ III: 1965, (tại Kuala Lumpur), Việt Nam Cộng hòa thua bán kết trước Thái Lan với tỷ số 2-0, thắng Malaysia 2-0 tranh hạng ba
Kỳ IV: năm 1967, (tại Bangkok), Việt Nam Cộng hòa thua Myanmar 0-1, nhận huy chương bạc
Kỳ V: năm 1969, (tại Rangoon), Việt Nam Cộng hòa bị loại từ vòng bảng.
Kỳ VI: năm 1971, (tại Kuala Lumpur), Việt Nam Cộng hòa thua Malaysia 2-3 bán kết, hoà Thái Lan trận tranh hạng ba
Kỳ VII: năm 1973, (tại Singapore), Việt Nam Cộng hòa thua Myanmar 2-3, nhận huy chương bạc
Thống kê đối đầu
Dựa trên tài liệu của Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation (RSSSF), tính cả các trận giao hữu.
Kể từ năm 1970, đội có tỉ lệ số trận thắng so với số trận thua ít hơn trước.
Danh hiệu
Châu lục
Asian Games
Hạng bốn (1): 1962
Tứ kết (1): 1958
AFC Asian Cup
Hạng tư (2): 1956, 1960
Khu vực và giao hữu
Merdeka Cup
Vô địch (1): 1966
Cúp quân đội Thái Lan
Vô địch (1): 1974
King's Cup
Hạng 3 (2): 1969, 1971
SEA Games
Huy chương vàng (1): 1959
Huy chương bạc (2): 1967, 1973
Huy chương đồng (3): 1961, 1965, 1971
Cúp Quốc Khánh
Vô địch (6): 1961, 1962, 1965, 1966, 1970, 1974
Á quân (2): 1971, 1972
Xem thêm
Bóng đá tại Việt Nam
Tham khảo
Liên kết ngoài
Việt Nam Cộng Hoà - Danh sách các trận đấu quốc tế tại RSSSF.com
Đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam Cộng hòa
Việt Nam
Việt Nam Cộng Hòa
Việt Nam Cộng hòa
Bóng đá
|
21800
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Python
|
Python
|
Python có thể đề cập đến:
Python (thần thoại), con trăn thần trong Thần thoại Hy Lạp
Python (ngôn ngữ lập trình)
Tên khoa học của chi Trăn
Python (tên lửa)
|
21811
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hogwarts
|
Hogwarts
|
Trường Phù thủy và Pháp sư Hogwarts (tiếng Anh: Hogwarts School of Witchcraft and Wizardry) hay thường được gọi là Hogwarts () là một ngôi trường pháp thuật hư cấu trong bộ truyện Harry Potter của nhà văn Anh Quốc J. K. Rowling. Đây là bối cảnh chính của sáu tập đầu tiên trong loạt truyện về cậu bé phù thủy và Harry Potter.
Đây là trường đào tạo những người có khả năng pháp thuật trở thành các phù thủy và pháp sư ở Anh và Scotland. Nó là ngôi trường nội trú, nhận học sinh từ 11 đến 18 tuổi. Số học sinh của trường không được đề cập đến trong truyện, nhưng lại có nói trường tiếp nhận khoảng 280 học sinh mới hằng năm.
Bộ truyện Harry Potter cũng nhắc đến hai trường pháp thuật khác nữa, là Viện Hàn lâm Beauxbatons ở Pháp và Học viện Durmstrang ở Bulgaria. Ngoài ra, để thỏa mãn không ít độc giả muốn biết thêm về thế giới Pháp thuật, J. K. Rowling đã viết thêm phần ngoại truyện trên Pottermore về 4 Học viện Pháp thuật là Học viện Pháp thuật Mahoutokoro ở Nhật Bản, Học viện Pháp thuật Uagadou tại "Ngọn núi của Mặt Trăng" ở Châu Phi, Học viện Pháp thuật Castelobruxo ở Brazil và Học viện Pháp Thuật và Ma Thuật Ilvermorny ở Mỹ.
Trường được lãnh đạo bởi một hiệu trưởng, một hiệu phó cùng các giáo viên khác, chịu trách nhiệm báo cáo trước Hội đồng Quản trị.
Truyện cũng không nói đến nguồn tài chính hay các chi tiêu của trường. Nhưng học sinh không phải trả học phí gì cả, chỉ có sách giáo khoa và tài liệu, dụng cụ học tập là phải tự mua. Trường cũng cấp học bổng cho học sinh nghèo, điển hình là Tom Riddle.
Từ phần một đến phần sáu của bộ truyện, Albus Dumbledore là hiệu trưởng của trường. Sau khi ông mất, Minerva McGonagall giữ chức quyền hiệu trưởng trong một thời gian ngắn trước khi Severus Snape chính thức được bổ nhiệm vào chức vụ này ở phần bảy. Sau cái chết của thầy Severus Snape, cô McGonagall chính thức được giữ chức hiệu trưởng, nhưng chỉ đến trước năm 2017. Trong phần năm, có một giai đoạn ngắn Dolores Umbridge giữ chức hiệu trưởng và kiêm chức thanh tra tối cao của trường.
Vị trí và phong cảnh
Hogwarts là một tòa lâu đài huyền bí cổ xưa với bảy tầng lầu, nằm trên một vùng đất hoang sơ hùng vĩ. Truyện không nói vị trí chính xác của nó nhưng bà Rowling bảo bà tả nó theo phong cảnh ở Scotland. Khu sân vườn của tòa lâu đài rất rộng lớn, bao gồm một hồ nước mênh mông, một khu rừng rậm rạp, vài căn nhà kính trồng cây, chòi canh và một sân Quidditch.
Khu dân cư gần đó nhất là làng phù thủy Hogsmeade, nơi mà các du khách ghé thăm trường có thể nghỉ lại, cũng là điểm đỗ của ga xe lửa duy nhất và cũng là nơi tập trung nhiều phù thủy nhất nước Anh. Tàu tốc hành Hogwarts là phương tiện chuyên chở đặc biệt đến đây, xuất phát từ Ga xe lửa Ngã tư Vua ở Luân Đôn.
Ngôi trường được phù phép để ngăn chặn việc đột nhập bằng độn thổ, chổi bay. Đầu năm học, các học sinh sẽ được đón tiếp ngay khi vừa rời khỏi ga và đi thuyền vào trường, từ năm thứ hai trở lên thì đi bằng xe do Vong mã kéo. Trong Hogwarts một lịch sử có giải thích cách thức trường cũng được che giấu khỏi dân Muggle bằng việc ngụy tạo hình ảnh một căn nhà đổ nát (nguy hiểm! tránh đến gần...) và được ếm bùa bất khả dựng đồ án (không thể vẽ được lên bản đồ). Mọi thứ đồ công nghệ cao và điện tử (vệ tinh thăm dò,...) của dân Muggle cũng mất tác dụng nơi đây.
Các nhà trong Hogwarts
Trong bộ truyện Harry Potter, trường Hogwarts dành cho Phù thủy và Pháp sư được chia thành 4 nhà, mỗi nhà mang tên họ của những người sáng lập: Godric Gryffindor, Salazar Slytherin, Rowena Ravenclaw và Helga Hufflepuff. Các nhà thi đua với nhau trong suốt cả năm học, bằng cách kiếm điểm hoặc bị mất điểm bằng nhiều cách, để đạt Cúp Nhà. Mỗi nhà có đội Quidditch (môn thể thao phổ biến nhất thế giới phù thủy) riêng – cũng thi đấu với nhau để giành cúp Quidditch. Hai cuộc cạnh tranh này đã làm nảy sinh sự ganh đua giữa các nhà, đặc biệt là giữa nhà Gryffindor và Slytherin - là hai nhà xuyên suốt bộ truyện. Các nhà ở Hogwarts là nơi sống và học tập cho các học sinh. Mỗi năm, một vài nhóm của mỗi nhà sẽ cùng chia sẻ với nhau các ký túc xá và lớp học. Hệ thống này không phải chỉ của riêng trường Hogwarts mà còn gặp ở nhiều trường thật ở vài nước nói tiếng Anh ngày nay. Như nhiều đề tài khác ở Hogwarts, tác giả J. K. Rowling đã áp dụng những trường nội trú thật sự để mang lại những nét sống động cho thế giới của Harry Potter. Sự ganh đua giữa các nhà, các ký túc xá riêng biệt và hệ thống điểm số đều thuộc thế giới thật. Các nhà ở Hogwarts có thể là một hệ thống chia thành từ nhóm sớm nhất ở thế giới thật.
Phân loại
Vào thuở Hogwarts ban đầu, 4 nhà sáng lập đã tuyển lựa học sinh vào nhà mình rất cẩn thận. Khi họ lo lắng về cách chọn lựa sau khi họ qua đời, Godric Gryffindor đã cởi nón mình ra và đặt vào trong đó "một chút trí óc" của mỗi người, biến nó thành "Chiếc nón Phân loại". Bây giờ, vào mỗi khi năm học bắt đầu, Chiếc nón Phân loại thần kỳ sẽ được đội lên đầu mỗi học sinh mới, trong suốt thời gian buổi Lễ phân loại diễn ra. Chiếc nón Phân loại sẽ thông báo tên nhà mà học sinh đó được phân vào. Khi buổi lễ bắt đầu, nó sẽ hát một bài ca ngắn về việc thành lập nên ngôi trường và về 4 nhà. Bài hát của Chiếc nón Phân loại mỗi năm đều khác nhau, và chiếc nón được coi là dành cả năm để soạn bài tiếp theo (ít nhất là theo lời Ron Weasley). Lời bài hát thường đưa ra lời khuyên về những khoảng thời gian gặp rắc rối. Nhạc của bài hát thường không cuốn hút, gây nhàm chán cho nên nhiều người thường không thèm nghe. Chiếc nón sẽ phân loại bằng cách đánh giá năng lực của mỗi học sinh và xếp chúng vào nhà thích hợp nhất. Lựa chọn riêng của các học sinh cũng có thể ảnh hưởng đến quyết định phân loại: ví dụ rõ ràng nhất là Chiếc nón nói với Harry Potter rằng cậu sẽ đạt kết quả tốt ở nhà Slytherin ở tập đầu, nhưng sau cùng đã quyết định là nhà Gryffindor sau khi Harry bảo nó đừng xếp cậu vào Slytherin. Một ví dụ khác trong tập 5 là khi Hermione Granger nói là Chiếc nón Phân loại từng băn khoăn việc xếp cô vào nhà Ravenclaw, nhưng lựa chọn của cô đã khiến Chiếc nón phân cô vào Gryffindor (cần lưu ý là cô cũng muốn vào Gryffindor trước đó). Thầy Albus Dumbledore sau đó giải thích với Harry rằng đó là cách đúng đắn, khi một người đã băn khoăn về quyết định của mình thì điều đó còn xác định chính xác hơn năng lực của họ. Thật sự thì chiếc nón phân loại nhà dựa trên những quyết định trước đó của một học sinh đã được thông báo, và chỉ có thật sự phân loại những ai không hề có ý tưởng hoặc hi vọng nào (theo lời của Horace Slughorn), sự phân loại vào các nhà thường đi liền với các thành viên trong gia đình, cũng như Ron Weasley không thể tưởng tượng cảnh bị phân loại vào nhà khác với nhà mà toàn bộ nhà cậu đều nằm trong đó. Tuy nhiên, khi Harry nhắc đến việc này, Hermione chỉ ra rằng Parvati Patil và Padma Patil, 2 chị em sinh đôi, được xếp vào Gryffindor và Ravenclaw). Điển hình như mọi thành viên của gia đình Black đều được xếp vào nhà Slytherin, chỉ ngoại trừ Sirius Black, điều làm thầy Slughorn - chủ nhiệm nhà - lưu ý.
Mỗi nhà có một chủ nhiệm, là giáo sư lâu năm của trường, chịu trách nhiệm về Nhà của mình. Các chủ nhiệm hiện nay (năm học thứ bảy của Harry) là Minerva McGonagall (Gryffindor), Pomona Sprout (Hufflepuff), Filius Flitwick (Ravenclaw) và Horace Slughorn (Slytherin). Chủ nhiệm tiền nhiệm của Slytherin là Severus Snape, ông đã bỏ theo phe hắc ám sau trận đột nhập vào trường của bọn Tử thần Thực tử (Death Eaters). Đến phần bảy, Harry Potter và Bảo bối Tử thần, thì mới biết thầy Snape là gián điệp hai mặt của giáo sư Albus Dumbledore. Các Nhà của Hogwarts phải thi đua nhau về học tập lẫn kỷ luật trong mỗi năm học. Nhà nào được tổng số điểm cao nhất sẽ chiến thắng và được nhận Cúp Nhà. Các học sinh có thể được các giáo sư thưởng điểm cho Nhà mình bằng cách học tập và cư xử tốt trong các lớp hay lập những thành tích xuất sắc. Và cũng có thể bị trừ điểm cũng bởi chính các giáo sư nếu học sinh có những hành động vô lễ, phá hoại cơ sở vật chất nhà trường hay không cố gắng học hành, v.v. Tùy vào sự rộng rãi và dễ dãi của từng giáo sư mà điểm cộng hay trừ có thể nhiều hay ít. Ví dụ như thầy Flitwick và cô Sprout rất thường xuyên thưởng điểm cho các học sinh học tốt trong lớp mình, trong khi thầy Snape lại luôn rất cố gắng trong việc trừ thật nhiều điểm của các nhà Hufflepuff, Ravenclaw và Gryffindor trong khi cộng thêm nhiều điểm cho nhà Slytherin-là nhà ông chủ nhiệm. Cô McGonagall thì rất công bằng, không quá rộng lượng mà cũng không đến nỗi quá khắt khe. Thầy Dumbledore thì quá mức tốt bụng, lúc nào cũng thưởng điểm chục điểm trăm cho những công trạng của Harry. Điểm của các Nhà được ghi nhận trong bốn cái đồng hồ cát đặt ở Tiền Sảnh (Entrance Hall). Mỗi viên đá quý trong cái đồng hồ là mỗi điểm có được. Đá quý của nhà Gryffindor là hồng ngọc, của Ravenclaw là đá sapphire, của Hufflepuff là kim cương và của Slytherin là ngọc lục bảo. Mỗi loại đá quý này tượng trưng cho màu của mỗi Nhà (đỏ, vàng, xanh lam, xanh lục).
Gryffindor
Nhà Gryffindor chú trọng vào lòng dũng cảm, tinh thần thượng võ và tính táo bạo. Con vật biểu tượng của nhà này là con sư tử; màu là đỏ tươi và vàng. Nick-Suýt-mất-đầu là con ma của nhà. Người sáng lập là Godric Gryffindor. Đây được cho là ký túc xá xuất sắc nhất trong Harry Potter và là địch thủ truyền kiếp của nhà Slytherin. Nằm ở một trong những tháp cao nhất của tòa lâu đài, cửa vào của nhà Gryffindor định vị ở tầng thứ 7 và được bảo vệ bởi bức chân dung của Bà Béo - bức chân dung một bà rất béo mặc chiếc áo đầm lụa màu hồng. Bà chỉ cho phép vào cửa khi được đưa ra mật khẩu đúng (luôn được đổi mới). Gryffindor tương ứng mãnh liệt với yếu tố lửa. Đá quý tính điểm của Nhà là hồng ngọc. Chủ nhiệm của nhà Gryffindor trong 6 năm đầu tiên trong truyện là giáo sư Minerva McGonagall - giáo viên môn Biến hình. Tuy nhiên, khi bà được thăng chức trở thành Hiệu trưởng, vị trí này bị bỏ trống và bà nhậm chức trở lại trong tập Harry Potter và Bảo bối Tử thần khi Severus Snape trở thành Hiệu trưởng. Một vài học sinh nổi bật của nhà Gryffindor như sau: Harry Potter, Hermione Granger, Gia đình Weasley, Neville Longbottom, Minerva McGonagall, Rubeus Hagrid, Parvati Patil, Seamus Finnigan, Dean Thomas, Lavender Brown, Oliver Wood, Angelina Johnson, Alicia Spinnet, Katie Bell, Nhóm Đạo tặc – James Potter, Sirius Black, Remus Lupin, Peter Pettigrew, Lily Evans, Colin Creevey, Dennis Creevey, Romilda Vane, Lee Jordan...
Hufflepuff
Hufflepuff, được thành lập bởi Helga Hufflepuff, đề cao sự chăm chỉ, lòng trung thành, sự quả quyết, tính kiên nhẫn, tình hữu nghị và chơi đẹp chứ không ở năng khiếu của từng thành viên. Con vật biểu tượng cho nhà là lửng, màu vàng hoàng yến và đen là màu của nhà. Thầy Tu Mập là con ma của nhà. Theo Rowling, Hufflepuff tương ứng với yếu tố Thổ. Ký túc xá Hufflepuff và phòng sinh hoạt chung nằm đâu đó trong tầng hầm, gần với nhà bếp của lâu đài. Đá quý tính điểm của nhà là kim cương. Chủ nhiệm hiện tại của Nhà Hufflepuff là giáo sư môn Thảo dược học Pomona Sprout. Vài thành viên Hufflepuff đáng chú ý: Cedric Diggory, Pomona Sprout, Hepzibah Smith, Nymphadora Tonks, Zacharias Smith, Hannah Abbott, Susan Bones, Justin Finch-Fletchley, Ernie Macmillan và Newt Scamander (tác giả quyển Sinh vật huyền bí và nơi tìm ra chúng)
Ravenclaw
Ravenclaw đề cao trí thông minh, tri thức, óc sáng tạo và khiếu hài hước dí dỏm. Con vật biểu tượng của nhà là con chim đại bàng (trong phim là con quạ ), màu chủ đạo là xanh nước biển và màu đồng (trong phim là xanh nước biển và màu bạc). Con ma của nhà Ravenclaw là Helena Ravenclaw, con gái của Rowena Ravenclaw, hay Bà Xám. Nhà được thành lập bởi Rowena Ravenclaw. Theo Rowling, Ravenclaw tương ứng với Khí. Phòng sinh hoạt chung và ký túc xá của nhà đặt tại Tháp Ravenclaw ở phía tây của trường. Để vào được tháp của nhà, bạn cần phải trả lời được 1 câu hỏi thông minh. Rất ít thành viên Ravenclaw được đề cập một cách chi tiết, và nói chung, họ không được nói đến nhiều trong tập truyện Harry Potter. Chủ nhiệm hiện nay của Nhà Ravenclaw là giáo sư môn Bùa chú Filius Flitwick. Đá quý tính điểm của nhà là saphir. Vài thành viên Ravenclaw đáng chú ý: Cho Chang, Luna Lovegood, Filius Flitwick, Myrtle Elizabeth Warren, Terry Boot, Michael Corner, Anthony Goldstein, Padma Patil, Lisa Turpin, Mandy Brocklehurst, Marietta Edgecombe, Penelope Clearwater, Roger Davies, Garrick Ollivander, Gilderoy Lockhart,...
Slytherin
Giống như Salazar Slytherin, người sáng lập ra nhà, nhà Slytherin đề cao tham vọng, xảo quyệt, khả năng lãnh đạo và sự tháo vát. Chiếc nón Phân loại đã nói rằng phù thủy nhà Slytherin sẽ làm bất chấp tất cả để đạt được điều mà họ muốn. Con vật biểu tượng của nhà là loài rắn, màu chủ đạo là xanh lá cây và bạc. Giáo sư Horace Slughorn là Chủ nhiệm nhà Slytherin, thay thế cho giáo sư Severus Snape, người trước đó đã thay thế Slughorn khi ông về hưu lần đầu tiên vài năm trước. Nam Tước Đẫm máu là con ma của nhà. Theo tác giả J.K.Rowling, Slytherin tương ứng với yếu tố Thủy. Đá quý tính điểm của nhà là những viên ngọc lục bảo. Ký túc xá nhà Slytherin và phòng sinh hoạt chung nằm sau một bức tường đá trong hầm tối. Phòng sinh hoạt chung nhà Slytherin là một căn phòng dài, ánh sáng màu xanh do nằm dưới hồ nước, chất đầy đầu lâu và tạo tác bằng bạc.
Chiếc nón Phân loại xác nhận trong tập 5 rằng dòng máu thuần chủng là một trong những yếu tố hàng đầu để quyết định việc chọn học sinh của nhà Slytherin. Tuy nhiên, không có điều gì đảm bảo rằng học sinh gốc Muggle sẽ không được xếp vào đó, chỉ đơn giản là những học sinh mang dòng máu thuần chủng sẽ được ưu tiên nhiều hơn, và những người máu lai như Voldemort hay Snape vẫn được xếp vào nhà này. Trong tập 7, một nhóm bắt cóc săn tiền thưởng đã nói rằng "bọn máu bùn" rất ít khi được xếp vào đây.
Một số thành viên đáng chú ý của nhà Slytherin: Tom Marvolo Riddle/Chúa tể Voldemort, Severus Snape, Draco Malfoy và những người khác của gia đình Malfoy, Gia đình Black (ngoại trừ Sirius Black), Vincent Crabbe, Gregory Goyle, Pansy Parkinson, Millicent Bulstrode, Blaise Zabini, Theodore Nott, Astoria Greengrass, Marcus Flint, Bellatrix (Black) Lestrange, Horace Slughorn, Phineas Nigellus Black.
Trong tập 7, khi nghĩ rằng mình đã giết được Harry và giành được chiến thắng, Voldemort đã tuyên bố xóa bỏ ba nhà còn lại và buộc tất cả học sinh Hogwarts trở thành học sinh nhà Slytherin. Nhưng ý định đó đã thất bại sau cái chết của hắn, cũng từ đây, nhà Slytherin trở nên hòa nhập hơn và sự phân biệt dòng máu của nhà cũng không còn. Tuy nhiên, tiếng xấu về việc đào tạo ra những phù thủy phe hắc ám của nhà vẫn còn tồn tại.
Nhân viên và chương trình học
Trường Hogwarts là trường đào tạo phù thủy trong bộ tiểu thuyết giả tưởng Harry Potter của tác giả J. K. Rowling. Trong trường có nhiều giáo sư, mỗi giáo sư giảng dạy một hoặc một số môn học khác nhau (nhưng phần lớn ai cũng dạy được tất cả các môn). Trong các môn học, có môn bắt buộc và môn tự chọn. Mỗi học sinh bắt buộc phải chọn 2 môn tự chọn vào đầu năm thứ 3. Vào cuối năm thứ 5, học sinh phải trải qua kỳ thi để lấy các chứng chỉ O.W.L. (Bằng phù thủy thường đẳng, viết tắt của Ordinary Wizarding Levels) và sau đó chọn lớp học trong 2 năm tiếp theo để dự các cuộc thi N.E.W.T. (Kiểm tra pháp thuật tận sức, viết tắt của Nastily Exhausting Wizarding Tests). Hogwarts có rất nhiều giáo viên, học sinh phải tôn trọng gọi là Giáo sư, mỗi người đảm nhiệm một môn học riêng. Các nhân viên khác cũng được nhắc đến như y tá bệnh xá bà Poppy Pomfrey, thầy giám thị (Caretaker) Argus Filch, thủ thư (Librarian) bà Irma Pince, bảo vệ sân trường (Groundskeeper) và khoảng hơn 100 gia tinh (House-elf) làm việc trong nhà bếp của trường (và hầu như không học sinh nào thấy gia tinh xuất hiện).
Môn học
Trường hoàn toàn không dạy bất cứ thứ gì giống chương trình giáo dục của dân Muggle. Các môn học bắt buộc (cho đến trước kì thi O.W.L) bao gồm:
Biến hình (Transfiguration) là môn học dạy biến đổi hình dạng của các vật, đôi khi tạo ra vật mới. Điều này được thực hiện bằng cách tập trung tinh thần, vẩy đũa phép và đọc chính xác câu thần chú. Phần khó nhất là phải tập trung cao độ. Môn Biến hình được dạy từ năm thứ nhất tới năm thứ năm, cộng thêm hai năm tùy chọn vào năm thứ sáu và bảy cho kỳ thi N.E.W.T.. Albus Dumbledore là giáo sư môn Biến hình trước khi trở thành hiệu trưởng. Giáo sư dạy môn này hiện tại là Minerva McGonagall, một giáo sư giỏi, rất nghiêm túc và khó tính.
Bùa chú (Charms) dạy cách thức dịch chuyển các vật thể và tạo ra những hiện tượng đặc biệt bằng cách thực hiện chính xác việc vẩy đũa phép và đọc những câu thần chú phù hợp. Các tiết học môn này là những giờ ồn ào nhất: một nhóm học sinh luyện tập dịch chuyển các vật về phía mình hoặc làm những người khác cười phá lên. Bùa chú được dạy từ năm thứ nhất tới năm thứ năm cùng với 2 năm học tự chọn ở năm thứ sáu và bảy (để đạt tới mức N.E.W.T.). Giáo sư dạy môn Bùa chú hiện tại là Filius Flitwick. Tác giả J. K. Rowling có lần đề cập là nếu được làm việc tại Hogwarts thì Bùa chú chính là môn bà muốn dạy.
Phòng chống Nghệ thuật Hắc ám (Defence Against the Dark Arts) dạy những phương pháp và kỹ thuật chống lại Nghệ thuật Hắc ám và các sinh vật Hắc ám (dark). Đây là môn học phải nhiều lần thay giáo viên nhất trong Harry Potter . Môn học được dạy từ năm thứ nhất tới năm thứ năm và hai năm học lựa chọn cho trình độ N.E.W.T. (năm thứ sáu và bảy). Khi Severus Snape tới làm việc tại Hogwarts, ông đăng ký dạy Phòng chống Nghệ thuật Hắc ám nhưng Dumbledore đã từ chối. Thay vào đó, Snape được dạy môn Độc dược. Kể từ đó, mỗi khi có giáo sư dạy Phòng chống Nghệ thuật Hắc ám rời trường thì Snape lại đăng ký cho vị trí này nhưng đều bị từ chối. Khi được hỏi về lý do Dumbledore không dành vị trí này cho Snape, tác giả của cuốn sách cho biết lý do là vì Dumbledore sợ rằng vị trí đó sẽ làm thức dậy những mặt tồi tệ của Snape, mặc dù Snape đã chứng tỏ mình một lòng trung thành với cụ. Chúa tể Voldemort cũng đã hai lần từng đăng ký cho vị trí giảng dạy môn này tại Hogwarts. Theo lời Dumbledore, thì kể từ lần bị từ chối lần hai, không giáo viên nào giữ được vị trí này lâu hơn 1 năm. Dumbledore cho rằng nguyên nhân là do một lời nguyền của Voldermort. Hậu quả của việc này là chương trình cũng như phong cách giảng dạy môn học luôn bị thay đổi qua các năm, tuy nhiên điều này đã chấm dứt vào tập 7. Vào thời điểm Harry Potter tới Hogwarts thì niềm tin vào điều xúi quẩy của vị trí này đã tồn tại và Gilderoy Lockhart được cho là ứng cử viên duy nhất có thể thay cho Quirinus Quirrell. Ba năm sau, điều xúi quẩy này trở nên rõ ràng tới mức mà Dumbledore không thể tìm ra người thay thế và Bộ Pháp thuật phải chỉ định Dolores Umbridge dạy môn học. Sau khi Dolores Umbridge ra đi thì Dumbledore cuối cùng đã trao vị trí cho Snape. Một số suy đoán cho rằng Dumbledore làm vậy để khiến Snape cũng phải ra đi và thực tế đã diễn ra như vậy. Sau khi sát hại Dumbledore, Snape chạy trốn khỏi trường. Tất cả giáo sư dạy môn Phòng chống Nghệ thuật Hắc ám trong 6 cuốn đầu của bộ truyện đều được xây dựng theo mô típ tương đối giống nhau: tất cả (trừ Snape) đều là một nhân vật hoàn toàn mới, đều được chọn vì không có ứng cử viên nào khác, đều gặp Harry Potter trước khi vào Hogwarts và đều tấn công nhằm sát hại Harry (có trường hợp không cố ý như Remus Lupin).
Độc dược (Potions) dạy cách thức pha chế độc dược với những hiệu quả ma thuật. Quá trình pha chế rất tinh vi và đòi hỏi các bước phải được tiến hành tuyệt đối chính xác để có thể đạt được kết quả. Độc dược được dạy từ năm thứ nhất tới năm thứ năm cộng thêm 2 năm tùy chọn ở năm thứ sáu và bảy (dành cho mức N.E.W.T.). Từ tập 1 cho tới tập 5 của bộ truyện, vị trí Giáo sư môn Độc dược đều do Severus Snape đảm nhiệm mặc dù ông luôn tìm cách đăng ký dạy môn Phòng chống Nghệ thuật Hắc ám. Mặc dù Snape là một giáo sư giỏi về môn này nhưng Snape là một giáo viên không công bằng với học sinh. Ông luôn tìm cách trừng phạt Neville Longbottom (do khả năng yếu kém) và Harry Potter (do những hiềm khích cá nhân với bố của Harry). Các học sinh thuộc về nhà Slytherin do Snape làm chủ nhiệm luôn được ưu ái, các học sinh Slytherin rất ưa thích môn học này còn các học sinh thuộc các nhà khác thì ngược lại. Một giáo sư Độc dược trước thời Snape là Horace Slughorn. Slughorn đã giữ vị trí này trong một thời gian dài và những học sinh của ông bao gồm phần lớn những nhân vật quan trọng trong bộ truyện như Voldemort, Lily Evans (mẹ Harry), James Potter (bố Harry), Sirius Black và cả Snape... Khi Snape trở thành giáo sư môn Phòng chống Nghệ thuật Hắc ám, Slughorn được thuyết phục để quay trở lại dạy môn Độc dược. Slughorn đặc biệt thích thú và quan tâm tới những học sinh nổi tiếng, có tiềm năng trở nên nổi tiếng hoặc có liên hệ với những người nổi tiếng. Nhờ may mắn có được cuốn sách cũ của Snape, Harry đã được 1 chai Felix Felicis nhỏ khi pha chế được nửa chặng đường. Dụng cụ học tập của môn này là cái vạc, cùng một số dụng cụ khác để cắt. Trong tập Harry Potter và hội Phượng hoàng, Minerva McGonagall đã nói với Harry rằng Độc dược là môn bắt buộc trong giai đoạn N.E.W.T. nếu Harry muốn trở thành Thần sáng (Auror trong tiếng Anh, dịch theo bản dịch của Lý Lan).
Thảo dược học (Herbology) Nghiên cứu các loài cây ma thuật (chẳng hạn như Mandrake và Bubotuber) và các phương pháp chăm sóc, sử dụng và chống lại chúng. Các buổi học diễn ra tại các nhà kính trong sân trường. Học sinh năm thứ nhất chỉ được học tại nhà kính số 1 vì nhà kính số 3 có các loài nguy hiểm hơn. Học sinh năm thứ hai mới bắt đầu học tại nhà kính số 3. Thảo dược học được dạy từ năm thứ nhất tới năm thứ năm, cộng thêm 2 năm tùy chọn ở năm thứ sáu và bảy. Môn học này liên quan chặt chẽ với môn Độc dược vì thành phần để chế tạo độc dược phần lớn được lấy ra từ các loài thực vật. Giáo sư giảng dạy môn này là Pomona Sprout. Cũng nhờ bà Pomona Sprout nên Hermione Granger và các nạn nhân khác thoát nạn trong phần hai (Harry Potter và Phòng chứa Bí mật). Đây cũng là môn học duy nhất mà Neville Longbottom học giỏi xuất sắc.
Lịch sử pháp thuật (History of Magic) là môn nghiên cứu lịch sử của giới phù thủy. Môn lịch sử pháp thuật được dạy từ năm thứ nhất tới năm thứ năm, cộng thêm 2 năm lựa chọn ở năm thứ sáu và bảy. Giáo sư đang dạy môn này là Cuthbert Binns. Ông là giáo viên ma duy nhất trong trường, rất bảo thủ. Một số người nói rằng thậm chí ông không nhận ra là mình đã chết, đơn giản là một hôm thức dậy và bỏ lại cơ thể phía sau. Lớp học này thường rất buồn tẻ và hầu như không học sinh nào chú ý nghe giảng (ngoại trừ Hermione Granger) nhưng Binns hầu như không để ý (hoặc cố tình không để ý).
Thiên văn học (Astronomy) tại Hogwarts là môn có nội dung gần với Chiêm tinh học. Các bài học được biết đến bao gồm học tên và vị trí cũng như chuyển động các vì sao, chòm sao và hành tinh. Lớp học Thiên văn học được dạy tại tòa tháp cao nhất vào giữa đêm thứ tư hàng tuần. Ngoài ra còn có các buổi quan sát bầu trời với kính thiên văn (các học sinh phải tự mua). Thiên văn học là môn bắt buộc từ năm thứ nhất tới năm thứ năm và hai năm tự chọn vào năm thứ sáu và thứ bảy. Trong năm đầu tiên, Harry phải ghi nhớ tên các vệ tinh của Sao Mộc và trong năm thứ năm phải viết một bài luận liên quan tới Mặt Trăng Europa đã từng bị băng hà bao phủ và Mặt Trăng Io có rất nhiều núi lửa... Tại cuộc thi tại năm thứ năm, mỗi học sinh phải điền vào một bản đồ sao dựa trên một vài giờ quan sát bầu trời đêm. Giáo sư dạy môn Thiên văn học hiện tại là Aurora Sinistra.
Mỗi học sinh đều phải chọn ít nhất là 2 môn tùy chọn vào đầu năm thứ 3. Quá trình học các môn này có thể tiếp tục hoặc ngừng cho các mức O.W.L. và N.E.W.T.. Một điều cần chú ý là không có ai trong số những giáo viên dạy môn lựa chọn có vai trò đáng kể trong trường Hogwarts:
Tiên tri (Divination) là nghệ thuật đoán trước tương lai. Các phương pháp được dạy bao gồm: sử dụng quả cầu pha lê, xem tướng tay, xem lá chè, bói bài và giải mã giấc mơ... Đây là môn học tùy chọn và được dạy từ năm thứ ba tới năm thứ bảy. Những người ủng hộ môn này cho rằng đây là khoa học tương đối chính xác và đòi hỏi người học có năng khiếu bẩm sinh hơn là học hỏi kiểu sách vở. Những người phản đối (trong đó có Minerva McGonagall và Hermione Granger) thì cho rằng đây là môn học không thích hợp. Giáo sư Dumbledore đã từng có ý định loại bỏ môn này khỏi chương trình giảng dạy nhưng lại thay đổi ý định sau khi phỏng vấn Sybill Trelawney, bà đã đưa ra lời tiên tri về Harry Potter và Voldemort. Nguyên nhân của sự thay đổi này không hẳn là do môn học mà có thể vì những lý do khác. Giáo viên giảng dạy môn tiên tri trong các tập truyện là Sybill Trelawney và Firenze. Khi Dolores Umbridge đuổi Trelawney (trong tập Harry Potter và hội Phượng hoàng) thì người thay thế là Firenze (một nhân mã). Trong tập 6, Dumbledore cho phép cả hai người cùng dạy và Trelawney rất thất vọng về điều này.
Chăm sóc Sinh vật Huyền bí (Care of Magical Creatures) là môn tìm hiểu cách thức chăm sóc các sinh vật huyền bí. Các lớp học được tổ chức bên ngoài lâu đài. Đây là môn tùy chọn và được dạy từ năm thứ ba tới năm thứ bảy. Vào khoảng thời gian giữa năm học thứ hai và thứ ba của Harry, giáo sư giảng dạy môn này là Kettleburn xin nghỉ hưu. Dumbledore đã bổ nhiệm Rubeus Hagrid, người giữ khóa của trường, vào vị trí này. Trước đó Hagrid đã được giải mối oan mở Phòng chứa Bí mật. Trong 2 buổi học Hagrid vắng mặt (do Rita Skeeter tiết lộ xuất xứ từ người khổng lồ) thì người dạy thay là Wilhelmina Grubbly-Plank. Hagrid rất thiếu kinh nghiệm trong giảng dạy cộng thêm vấn đề không định nghĩa "những con quái vật đặc biệt nguy hiểm" theo suy nghĩ của người thường. Các bài học được đề cập đến bao gồm: Bằng mã (Hippogriff), Niffler, Nhiễm Trùng (Flobberworms) và Quái Tôm Đuôi Nổ (Blast-Ended Skrewt). Harry, Ron và Hermione đều bỏ môn này vào năm thứ sáu vì những nguyên nhân không liên quan tới phương pháp dạy của Hagrid.
Số học huyền bí (Arithmancy) ở đây là môn sử dụng các tên và con số để nói về tính cách của con người. Một nhánh của pháp thuật liên quan tới đặc tính của những con số. Lớp học này ít được học sinh quan tâm và cả Harry Potter và Ron Weasley đều không đăng ký. Tuy nhiên đây là môn yêu thích của Hermione Granger vì đây là môn học khó. Ngoài ra, môn học này diễn ra song song với môn Tiên tri. Số học là môn tùy chọn, được dạy từ năm thứ ba tới năm thứ bảy. Giáo sư Septima Vector hiện tại là giáo viên dạy môn này.
Muggle học (Muggle Studies) là môn nghiên cứu về giới Muggle (những người bình thường, không có phép thuật). Muggle học được nhiều người xem là một môn không quan trọng. Tuy nhiên Percy Weasley lại cho rằng các phù thủy cần phải có hiểu biết về thế giới bình thường. Hermione Granger học môn này bởi vì cô vốn sinh ra trong một gia đình thuộc giới Muggle (Hermione nói cô muốn biết nhiều về thế giới bình thường qua cái nhìn của một phù thủy). Hermione đã bỏ môn này vào năm thứ ba do chương trình học của cô quá nặng. Arthur Weasley cũng được cho là đã học môn này. Đây là môn tùy chọn và được dạy từ năm thứ ba tới năm thứ bảy. Giáo viên dạy môn học này là Charity Burbage, Voldemort giết chết Charity bằng Lời nguyền Chết chóc, xác của bà trở thành một bữa tối cho Nagini - con rắn của Voldemort.
Cổ ngữ Runes (Ancient Runes) là một môn học thuần túy lý thuyết về các ngôn ngữ cổ và ngôn ngữ pháp thuật. Hermione Granger cũng đăng ký học môn này. Trong các tập truyện, chỉ 2 từ của ngôn ngữ này được nhắc đến qua lời Hermione: ehwaz có nghĩa là "sự cộng tác", eihwaz, có nghĩa là "tự vệ", Hermione đã nhầm 2 từ này trong kỳ thi O.W.L.. Giáo sư dạy môn này là Bathsheda Babbling.
Bay (Flying) là môn học cách cưỡi chổi thần, chỉ được đề cập đến trong tập Harry Potter và Hòn đá Phù thủy. Harry Potter đã được chọn làm Tầm thủ Quidditch của nhà Gryffindor khi đuổi theo Draco Malfoy để lấy lại quả cầu của Neville trong buổi học bay đầu tiên. Dụng cụ học tập là Chổi bay. Mỗi Chổi có thể có mức độ về chất lượng khác nhau. Tuy nhiên khi tham gia học ở trường Hogwarts, học sinh phải dùng chiếc Sao xẹt lỗi thời cũ kĩ. Người dạy môn này là giáo sư Hooch. Bà cũng là trọng tài các trận Quidditch của trường Hogwarts.
Độn thổ (Apparition và Disapparition): Đây là môn tùy chọn với học phí là 12 galleons (đơn vị tiền tệ của phù thủy). Độn thổ là cách dùng pháp thuật để biến mất tại một địa điểm và xuất hiện tại một địa điểm khác. Mọi phù thủy phải có giấy phép trước khi được thực hiện độn thổ và giấy phép chỉ cấp cho những người trên 17 tuổi. Nếu không được thực hiện đúng cách thì Độn thổ có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng gọi là sót thân (splinching): một vài phần của cơ thể bị bỏ lại phía sau. Ron Weasley đã thi trượt trong lần thi đầu vì một nửa lông mày không được dịch chuyển. Các học sinh tại Hogwarts đủ 17 tuổi hoặc đến tuổi 17 trong năm học sẽ tham gia khóa học kéo dài 12 tuần bắt đầu sau kỳ nghỉ Giáng Sinh. Ron, Hermione, Vincent Crabbe và Gregory Goyle đều theo học vào năm thứ sáu dưới lớp học do Wilkie Twycross - một giáo viên do Bộ Pháp thuật chỉ định. Ron không qua được kỳ thi này trong khi Hermione đã hoàn thành xuất sắc. Draco Malfoy, Harry Potter, Ernie Macmillan và một số học sinh khác phải chờ đến năm sau vì có sinh nhật muộn. Ron dự định sẽ thi lại cùng đợt với Harry. Có thể so sánh bằng Độn thổ của phù thủy với bằng lái xe của Muggle. Cả hai đều khá nguy hiểm nếu không thực hiện đúng cách, chỉ dành cho những người đã trưởng thành và tiết kiệm thời gian dành cho di chuyển. Độn thổ bị hạn chế tại một số địa điểm và tại một số nơi khác thì hoàn toàn không thể thực hiện được (như tại Hogwarts).
Các môn học khác
Bế quan Bí thuật (Occlumency): Một nhánh của pháp thuật liên quan tới việc ngăn chặn sự thâm nhập từ bên ngoài vào tâm trí, không cho người khác biết được suy nghĩ và tình cảm. Severus Snape là một người giỏi môn này. Môn trái ngược với Occlumency là Legilimency. Bế quan bí thuật thông thường không được dạy cho học sinh. Do để làm được phép thâm nhập trí óc, cần có một khả năng pháp thuật siêu phàm (như Voldemort) mà phần nhiều pháp sư không thể có. Chỉ có Harry Potter được Snape dạy trong các lớp đặc biệt theo yêu cầu của Dumbledore.
Các giáo sư khác
Galatea Merrythought: Giảng dạy môn Phòng chống Nghệ thuật Hắc Ám vào thời điểm khoảng 50 năm trước khi Harry Potter theo học. Voldermort đã xin thay thế vị trí này nhưng cụ Dumbledore không đồng ý. Voldemort đã ếm một lời nguyền, làm cho vị trí giáo viên dạy môn này luôn bị thay đổi, họ chỉ có thể đảm nhiệm nhiều nhất 1 năm. Tuy nhiên điều này đã chấm dứt khi Voldemort bị tiêu diệt.
Quirinus Quirrell (Harry Potter và hòn đá phù thủy): Vào năm trước khi Harry đi học tại Hogwarts, Quirrell nghỉ phép 1 năm và đi du lịch xuyên châu Âu. Ông này không được học sinh kính trọng và bị giết vào cuối tập truyện khi mang "linh hồn" của Voldermort trong chính cơ thể mình.
Gilderoy Lockhart (Harry Potter và phòng chứa bí mật): Công việc của Lockhart kết thúc khi ông ta bị chính bùa Lú của mình phản lại và phải vào viện St. Mungo để điều trị chứng mất trí. Hầu hết học sinh đều mừng vì việc này bởi ông quá hào nhoáng, tay nghề kém cỏi. Khả năng của ông đôi khi không bằng Hermione.
Remus Lupin (Harry Potter và tên tù nhân ngục Azkaban): Nhiều học sinh cho rằng đây chính là giáo sư xuất sắc nhất dạy môn Phòng chống Nghệ thuật Hắc ám. Trong năm học thì ít nhất một lần Snape đã dạy thay Lupin (khi Lupin phải uống thuốc để không trở thành người sói vào dịp trăng tròn). Lupin từ chức khi thông tin ông ta là người sói (Werewolf) được Snape tiết lộ và cha mẹ học sinh rất lo sợ về chuyện này.
Alastor Moody (Harry Potter và chiếc cốc lửa): Thực ra đây là Barty Crouch Con giả danh bằng cách bắt cóc Alastor Moody và uống thuốc Đa dịch (Polyjuice potion) để thay đổi diện mạo. Tuy nhiên ông ta dạy cũng rất hiệu quả và đã dạy Harry cùng các học sinh khác bùa Giết chóc, Tra tấn...có ảnh hưởng khá rõ nét sau đó và toàn bộ truyện.
Dolores Umbridge (Harry Potter và Hội Phượng Hoàng): Trong thời gian Umbridge giảng dạy, Harry Potter tổ chức một câu lạc bộ bí mật gọi là Đoàn quân Dumbledore (Dumbledore's Army) để dạy các bạn về những kỹ thuật chiến đấu trong giới phù thủy. Umbridge đã trừng phạt Harry Potter rất nặng (chẳng hạn như viết bằng máu...). Bà ta còn tìm cách để chiếm ghế Hiệu trưởng của Dumbledore. Umbridge bị thay thế sau khi Voldemort tấn công vào Bộ Pháp thuật chứng tỏ các kỹ thuật Phòng chống Nghệ thuật Hắc ám là cần thiết và lòng tin vào Bộ Pháp thuật giảm sút nghiêm trọng.
Severus Snape (Harry Potter và Hoàng tử lai): Snape giữ vai trò là giáo sư Phòng chống Nghệ thuật Hắc ám trong khi vị trí giáo sư Độc dược được thay thế bởi Horace Slughorn. Snape chạy khỏi trường sau trận chiến Hogwarts. Sau đó, vào năm thứ 7, Snape trở lại làm Hiệu trưởng Hogwarts.
Amycus Carrow (Harry Potter và Bảo bối Tử thần): Thực chất là được Voldemort đưa vào trường Hogwarts để dạy Nghệ thuật Hắc ám cho học sinh để chúng phục vụ cho hắn. Dù vậy có nhiều học sinh phản kháng lại những mệnh lệnh của hắn, thí dụ như Neville Longbottom từ chối ếm Lời nguyền Tra tấn lên bạn học và đã bị hắn trừng phạt. Tuy nhiên, do lời nguyền của Voldemort ếm lên vị trí giảng dạy môn này, hắn đã không thể ở lại trường quá một năm: bị Harry hạ gục cùng bà chị Alecto trong phòng sinh hoạt chung nhà Ravenclaw.
Xếp hạng và thi cử
Trong 4 năm học đầu, học sinh phải vượt qua các kì thi học kì của từng môn học mới được lên lớp. Điểm số được tính từ 0 đến 100, vài học sinh quá giỏi có thể vượt qua mức tối đa (100).
Ngoài ra, để đánh giá chất lượng học tập thực sự của học sinh, trường còn tổ chức hai kì thi thử thách: Kì thi Pháp thuật Thường đẳng (Ordinary Wizarding Level examinations - OWLs) vào cuối năm thứ 5 và Kiểm tra Pháp thuật Tận sức (Nastily Exhausting Wizarding Tests - NEWTs) cuối năm thứ 7.
Cách xếp loại học lực như sau:
O = Xuất sắc (Outstanding)
E = Giỏi quá kì vọng (Exceeds Expectations)
A = Chấp nhận được (Acceptable)
P = Dở (Poor)
D = Tệ (Dreadful)
T = Bét (Troll)
Tranh đua giữa các nhà chủ yếu là giữa Slytherin và Gryffindor. “Học sinh nhà Gryffindor và Slytherin có nguyên tắc khác nhau” (nguyên bản:“Gryffindor and Slytherin students loathed each other on principle”). Sự cạnh tranh này hình như quay lại những ngày của Godric Gryffindor và Salazar Slytherin sau khi họ xây dựng Hogwarts, bởi vì Chiếc nón phân loại đã từng nói rằng hai người đã từng là bạn tốt của nhau trước khi tạo lập ngôi trường, sau khi xong thì mâu thuẫn xuất hiện. Không rõ lắm về sự cạnh tranh với Hufflepuff và Ravenclaw, biết rằng họ cũng từng là bạn tốt trước khi cùng nhau thành lập Hogwarts. Thông thường, nhưng không phải luôn luôn, hai nhà còn lại có xu hướng (Harry Potter cho là thế) ủng hộ Gryffindor trong việc tranh đua của nhà này với Slytherin, điều này làm gợi lại một lần nữa sự cùng cực và cô độc của Salazar Slytherin khi ba người sáng lập còn lại phản đối ông. Một ngoại lệ xảy ra khi ba nhà Ravenclaw, Hufflepuff và Slytherin ban đầu đều ủng hộ Cedric Diggory của nhà Hufflepuff thay vì Harry Potter của Gryffindor trong cuộc thi Tam Pháp Thuật. Cũng như vậy trong trận Quidditch đầu tiên của tập 6, có việc nói rằng nhà Ravenclaw và Hufflepuff “chia phe” trong trận đấu Slytherin gặp Gryffindor, nhưng không chỉ rõ là nhà nào theo phe nào.
Hạnh kiểm
Ngoài việc bị trừ điểm của Nhà mình ra, những học sinh có hành động bất kính hay vi phạm lỗi nghiêm trọng sẽ bị phạt bằng hình thức cấm túc. Học sinh vi phạm bị bắt lên văn phòng của giáo sư ban ra cấm túc để làm những công việc khó nhọc mà giáo sư đó cho là thích đáng để phạt, ví dụ như chép phạt. Còn nếu như mức độ phạm lỗi quá nặng, học sinh có thể bị đình chỉ hoặc đuổi học ngay. Trong tập 5, Harry Potter và hội Phượng hoàng, Harry đã dám sử dụng pháp thuật trước mặt Muggle trong kỳ nghỉ hè, nên đã bị đem ra Tòa án Pháp thuật xét xử.
Các giáo sư hầu như muốn phạt nặng nhẹ kiểu gì cũng được, ví dụ như giáo sư Snape luôn ban ra muôn vàn hình thức cấm túc ác độc cho Harry, trong khi chả bao giờ phạt học sinh nhà Slytherin. Những cấm túc cho vi phạm nội quy bên ngoài các lớp học sẽ được thầy giám thị Argus Filch đảm nhiệm ban phát. Chủ nhiệm các Nhà thường sẽ trách móc những học sinh của mình khi chúng vi phạm.
Năm học thông thường
Tuyển sinh và Nhập học
Ở Hogwarts có một cây viết lông bằng ma thuật ghi nhận sự ra đời của những người có khả năng về pháp thuật trên toàn Vương quốc Anh và lưu tên của người đó lại. Đến khi đủ tuổi để vào lớp 6 thông thường, người đó sẽ nhận được một lá thư mời nhập học. Vì thế mà mỗi năm Hiệu trưởng và Hiệu phó phải viết hàng trăm lá thư và gửi đi bằng những con cú cho họ. Các học sinh nhận được thư cú báo nhập học vào sinh nhật thứ 11 của mình. Trong thư cũng có dặn dò phải chuẩn bị những đồ dùng học tập cần thiết. Những người không thuộc dòng dõi phù thủy, hay còn gọi là Muggle, có thể không nhận thư bằng cú được, mà phải nhờ một người đưa tin đặc biệt chuyển thư cho.
Năm học thường bắt đầu từ ngày 1 tháng 9 hằng năm nên những ai có ngày sinh tháng 9 trở đi đều phải chờ đến tận 1 tháng 9 của năm sau mới được nhập học (Vì vậy, Hermione Granger mặc dù lớn hơn Harry Potter và Ron Weasley một tuổi nhưng vẫn học cùng năm vì Hermione Granger sinh nhật vào ngày 19 tháng 9). Học sinh phải đến Sân ga số 9¾ là bức tường nằm giữa sân ga số 9 và sân ga số 10 ở Ga xe lửa King's Cross để bắt chuyến Tàu tốc hành Hogwarts tới làng Hogsmeade. Ông bảo vệ lai khổng lồ Rubeus Hagrid sẽ dẫn học sinh năm thứ nhất đến trường bằng thuyền, băng qua Hồ nước Đen. Còn các học sinh lớn hơn sẽ được chở bằng những cỗ xe do bọn Vong Mã (Thestral) kéo.
Phân loại học sinh và Khai trường
Khi vào được lâu đài, các học sinh năm thứ hai trở lên sẽ tiến thẳng đến Đại Sảnh Đường (Great Hall), trong khi học sinh năm thứ nhất sẽ phải đứng lại ở Tiền Sảnh để tiến hành công việc phân loại Nhà cho mình. Chiếc nón Phân loại sẽ hát một ca khúc tự chế như báo trước tương lai của năm học này, và được đội lên đầu của từng học sinh rồi xướng tên của Nhà mà học sinh đó sẽ thuộc về.
"Người nào vô Gryffindor.
Cái lò luyện trang dũng cảm
Người nào vô Hufflepuff
Nơi đào tạo kẻ kiên trung
Khó khăn chẳng khiến ngại ngùng
Đáng tin, đúng người chính trực
Ai vào Ravenclaw được
Nơi đào luyện trí tinh nhanh?
Vừa ham học lại chân thành
Hoặc Slytherin cũng thế
Dạy cho ta đa mưu túc trí
Làm sao miễn đạt mục tiêu" - Ca khúc của Chiếc nón Phân loại
Sau đó thì chúng sẽ bước vào Đại Sảnh Đường và gia nhập với các học sinh lớp trên để dự bữa tiệc Khai trường. Ngài hiệu trưởng sẽ đọc một bài diễn văn chào đón ngay giữa bàn ăn của các giáo viên. Khi tàn tiệc, các học sinh sẽ trở về Phòng Sinh hoạt Chung (Common Room) của Nhà mình. Đặc biệt các học sinh năm thứ nhất sẽ được vị Huynh trưởng (Prefect) dẫn về và nói cho biết những thông tin cần thiết về Nhà đó. Cuối cùng thì mọi học sinh đều vào phòng ngủ để chuẩn bị cho ngày học hôm sau. Trong tuần đầu tiên, đội Quidditch của mỗi Nhà sẽ được thành lập. Thường thì học sinh năm thứ nhất không được gia nhập đội tuyển vì chưa được học về môn Bay lượn (sử dụng chổi bay). Nhưng Harry đã chứng tỏ khả năng Quidditch của mình ngay từ bài học Bay lượn đầu tiên nên nhanh chóng được tiếp nhận vào đội và trở thành một trong những Tầm thủ (Seeker) trẻ nhất trong lịch sử Hogwarts.
Học kì và Nghỉ lễ
Năm học ở Hogwarts cũng giống như đa số các trường học ở Anh, với hai học kì và hai kì nghỉ lễ chính là Giáng Sinh và Phục Sinh, và chấm dứt bằng kì nghỉ hè.
Học sinh có thể về nhà trong kì nghỉ Giáng Sinh. Những học sinh ở lại trường thì cũng không phải học hành gì, còn được thưởng thức bữa tiệc Giáng Sinh với các giáo sư. Lúc đó Đại Sảnh Đường sẽ được trang hoàng vô cùng lộng lẫy cho hợp với không khí Giáng Sinh, cũng như trong các ngày lễ nhỏ khác, đặc biệt là lễ hội Ma (Halloween).Trong năm thứ hai của Harry ở Hogwarts, ông thầy môn Phòng chống Nghệ thuật Hắc ám Gilderoy Lockhart có tổ chức thêm ngày Lễ Tình nhân (Valentine's Day). Lễ Phục Sinh có vẻ không hứng thú lắm với học sinh, vì lúc nào bài tập về nhà cũng chồng chất vô kể, và còn phải chuẩn bị cho kì thi học kì sắp đến. Vào kì nghỉ hè 3 tháng, các học sinh bị Bộ Pháp thuật cấm sử dụng pháp thuật cho đến khi đủ 17 tuổi.
Cuộc sống của học sinh
Một ngày mới bắt đầu với bữa sáng ở Đại sảnh đường. Học sinh ngồi ở bàn của Nhà mình và có thể ăn, trao đổi cùng bạn bè, và hoàn thành bài tập trong những phút cuối. Trên dãy bàn cao ở cuối Đại sảnh đường, hiệu trưởng cùng ăn với các giáo sư. Trong suốt bữa sáng, những con cú (của học sinh hoặc của trường) mang thư hoặc bưu kiện cho học sinh: đó có thể là tờ báo sáng Nhật báo tiên tri, thư từ bố mẹ hay bạn bè, kẹo mứt từ nhà đến, v.v.
Tiết học đầu tiên bắt đầu lúc 9 giờ sáng. Có hai tiết học dài với một giờ giải lao ở giữa để học sinh có thể đến lớp học tiếp theo (Trường Hogwarts rất rộng và tất cả học sinh, đặc biệt là học sinh năm thứ nhất có thể bị lạc đường). Sau bữa trưa ở Đại sảnh đường, các lớp học bắt đầu lại vào lúc một giờ chiều và có một giờ giải lao trước thời gian của lớp khác. Học sinh năm thứ nhất thỉnh thoảng được nghỉ chiều thứ sáu.
Vào buổi tối, học sinh ăn tối ở Đại sảnh đường, sau đó họ chờ để vào phòng sinh hoạt chung để học bài và vui chơi với bạn bè.
Phòng sinh hoạt chung của bốn nhà được canh gác bởi một bức tranh hoặc một bức tượng, yêu cầu một mật mã để qua cửa. Riêng phòng sinh hoạt chung của nhà Slytherin lại được để ẩn trong bức tường đá. Trong khi đó nhà Ravenclaw có một tượng thú đá canh cửa, muốn vào phải trả lời được câu hỏi thông minh do bức tượng đưa ra. Các phòng Sinh hoạt bao gồm nhiều ghế bành và sôfa cũng như bàn để học. Học sinh nghỉ ngơi ở đây vào buổi tối, hay làm bài tập về nhà. Học sinh ngủ ở phòng ngủ tập thể của Nhà trong năm học. Mỗi Nhà có hai khu phòng ngủ, một cho nam và một cho nữ.
Trong những ngày cuối tuần được chỉ định, học sinh trường Hogwarts năm thứ ba trở lên, với một giấy phép có chữ ký, được cho phép đi đến làng phù thủy gần đó là Hogsmeade, nơi họ có thể nghỉ ngơi và thưởng thức những quán ăn hay nhà hàng và cửa hàng.
Thức ăn
Thức ăn phục vụ ở Hogwarts, theo như ý kiến của học sinh, là rất ngon. Những gia tinh ở Hogwarts đều là những đầu bếp tài ba, và nấu một lượng dồi dào thức ăn cho mỗi bữa. Thức ăn phục vụ ở trường luôn tươi và trồng ngay tại đây, trường có đất trồng rau ở các nhà kính. Thịt và những gia vị khác hầu như mua ở làng Hogsmeade, và những thức ăn khác nhau được chuẩn bị ngay lập tức ở dưới Đại sảnh đường, và vào bữa ăn, nhờ phép thuật, chúng xuất hiện trước mặt học sinh. Thức ăn ở Hogwarts là những thức ăn đặc trưng của nước Anh, mặc dù nhà trường thỉnh thoảng vẫn có ngoại lệ (như là trong suốt cuộc thi Tam pháp thuật, những món ăn nước ngoài, như món bouillabaisse, đã được phục vụ để thể hiện sự tôn trọng những người khách đến thăm trường). Những đồ uống thường ngày (một phần là từ nước) là trà, cà phê, nước cam và nước bí ngô. Các món ăn thường được làm theo công thức của Helga Hufflepuff.
Đồng phục
Đồng phục của trường trong truyện bao gồm một cái áo choàng đen, một cái nón nhọn đen (loại cho phù thủy) và một áo khoác mùa đông với dây lưng màu bạc. Còn trong các tập phim, học sinh vừa mặc áo choàng đen bên ngoài, vừa mặc đồng phục giống như trong các trường công ở Anh (English public school): áo sơ mi trắng, áo len màu đen hoặc xám, cổ áo len (mùa đông) và cà vạt mang màu đặc trưng của Nhà mình, áo lạnh xám, và quần tây đen cho nam hoặc váy xếp li đen với vớ đến đầu gối cho nữ.
Lịch sử trường
Thời sơ khai
Hogwarts được sáng lập cách đây hơn 1000 năm bởi hai pháp sư và hai phù thủy: Godric Gryffindor, Salazar Slytherin, Rowena Ravenclaw và Helga Hufflepuff. Về sau, Slytherin với quan điểm chỉ muốn đào tạo những phù thủy mang dòng máu thuần chủng, đã bất đồng ý kiến với ba người kia rồi rời trường và dẫn các đồ đệ của mình theo. Trước khi ra đi, Slytherin đã khôn khéo xây dựng một Phòng chứa Bí mật với mục đích là để cho Hậu duệ của Slytherin tiếp tục sự nghiệp của ông, thả con quái vật giết chóc Tử xà Basilisk ra, tiêu diệt những phù thủy không thuần chủng.
Thời trung đại
Truyện tiết lộ rất ít thông tin về lịch sử của trường sau thời gian sáng lập cho đến ít nhất thập niên 1940. Khoảng 300 năm sau khi trường thành lập, cuộc Thi đấu Tam Pháp thuật được tổ chức lần đầu giữa ba trường pháp thuật danh tiếng nhất châu Âu là Hogwarts, Beauxbatons và Durmstrang. Đó được xem là cách tốt nhất mà các học sinh pháp thuật trao đổi văn hóa và kiến thức. Cuộc thi được tổ chức cứ bảy năm một lần và luân phiên trường-chủ-nhà trong vòng 6 thế kỉ. Vì cuộc thi quá nguy hiểm đến nỗi số người chết tăng quá nhiều, nên người ta quyết định chấm dứt loại hình hoạt động này cho đến năm 1994. Theo luật, chỉ có học sinh từ 17 tuổi trở lên mới có quyền tham gia. Nhưng do có người âm mưu hãm hại nên Harry Potter đã trở thành quán quân bất đắc dĩ khi chỉ mới 14 tuổi.
Thời hiện đại
Năm 1942, một nam sinh tên Tom Marvolo Riddle, hậu duệ của Slytherin và là Chúa tể Hắc ám Voldemort tương lai, đã mở cửa Phòng chứa Bí mật trong năm học thứ năm của hắn. Con Tử xà được giải phóng và bị hắn kiểm soát, giết chết một nữ sinh gốc Muggle tên Myrtle, hiện tại là Ma Myrtle khóc nhè (Moaning Myrtle). Bộ Pháp thuật gần như quyết định đóng cửa ngôi trường vì lý do an ninh. Vì không muốn trở lại cô nhi viện mà mình đã sống hồi nhỏ, Riddle đổ tội cho một học sinh năm thứ 3 là Hagrid và con nhện Aragog, mà Hagrid nuôi. Kết cục là Hagrid bị đuổi học, tuy nhiên Hogwarts đã không bị đóng cửa.
Năm học 1992-1993, Phòng chứa Bí mật một lần nữa được mở ra bởi Ginny Weasley một học sinh năm thứ nhất, khi đó đang bị quyển nhật ký của Tom Riddle (một trong các Trường sinh linh giá của Voldemort) chi phối và điểu khiển. Harry Potter và người bạn thân Ron đã khám phá ra sự thật, giết con Tử xà và tiêu hủy cuốn nhật ký.
Năm học 1994-1995, cuộc thi Tam Pháp thuật được tổ chức lại và chọn Hogwarts làm trường chủ nhà. Cuộc thi này đã trở thành một sự kiện lớn của Hogwarts cũng như giới pháp thuật châu Âu. Tuy nhiên, nó đã bị Voldemort lợi dụng để phục vụ mục đích riêng của mình: hắn bắt cóc Harry Potter để hồi sinh đồng thời để môn đồ của hắn giết một học sinh năm 7 khác là Cedric Diggory. Harry Potter sau đó may mắn trốn thoát.
Năm học 1995-1996, Bộ Pháp thuật và hiệu trưởng Albus Dumbledore bất đồng về vấn đề Voldemort trở lại. Căng thẳng đôi bên, trường Hogwarts bị đặt dưới sự quản lý gắt gao của Bộ, thông qua đại điện Dolores Umbridge. Sau cuộc tấn công của Voldemort và tay chân vào Bộ Pháp thuật, bất đồng được giải quyết, Hogwarts giành lại quyền tự chủ. Năm học 1996-1997, tay chân của chúa tể Voldemort đột nhập vào Hogwarts gây ra rối loạn. Hiệu trưởng Albus Dumbledore từ trần. Giáo sư Minerva McGonagall lên nhậm chức.
Năm học 1997-1998, Severus Snape nhận chức hiệu trưởng của Hogwarts. Cuối năm học này, một trận đại chiến diễn ra ở Hogwarts, thường biết đến với tên Trận chiến Hogwarts (the Battle of Hogwarts), giữa một bên là đội quân của Voldemort, một bên là các học sinh, giáo viên Hogwarts, các sinh vật pháp thuât và một số pháp sư. Kết thúc trận chiến, khoảng vài trăm người và sinh vật khác thiệt mạng. Chúa tể hắc ám Voldemort bị Harry Potter tiêu diệt. Hiệu trưởng Severus Snape từ trần, bị sát hại bởi Voldemort.
Biểu tượng và khẩu hiệu
Biểu tượng của Hogwarts là một tấm khiên, vật dụng thông dụng vào thời kì Phục Hưng ở châu Âu. Nó được chia làm bốn phần, mỗi phần chứa đựng biểu tượng của một Nhà: con sư tử dũng mãnh trong phông nền màu đỏ cho nhà Gryffindor, con bạch xà lươn lẹo trong phông xanh lá đại diện Slytherin, con lửng nhanh nhảu đen nhánh trên phông vàng cho Hufflepuff, và chú đại bàng quyết thắng vàng óng giữa phông xanh da trời đại diện cho Ravenclaw. Ngay chính giữa bốn hình ảnh đó là một chữ "H" là biểu trưng đại diện cho tên trường. Phía dưới tấm khiên là khẩu hiệu của trường.
Khẩu hiệu của trường là Draco dormiens nunquam titillandus, theo tiếng Latin có nghĩa là "Đừng bao giờ chọc lét một con rồng đang ngủ". Tác giả Rowling cho biết bà muốn trường có một khẩu hiệu vừa thực tiễn vừa hài hước. Trên thực tế, nhiều ngôi trường có các khẩu hiệu văn hoa mà không mấy ý nghĩa, ví dụ như "Vươn đến các vì sao".
Cấu trúc tòa lâu đài
Hogwarts là một tòa lâu đài cổ, với lối thiết kế như một pháo đài. Tòa lâu đài gồm bảy tầng lầu và sáu ngọn tháp, bao gồm Tháp Thiên văn (cao nhất), Tháp Hiệu trưởng, Tháp Bắc, Tháp Tây, Tháp Gryffindor và Tháp Ravenclaw. Cấu trúc bên trong của Hogwarts khá rắc rối. Lâu đài có một Đại sảnh đường nơi diễn ra các hoạt động chung, phòng bếp nơi chuẩn bị sẵn đồ ăn và cũng là nơi nghỉ ngơi của cả một hệ thống gia tinh tại Hogwarts. Mỗi Nhà cũng có một phòng sinh hoạt chung và các phòng ngủ của riêng mình. Cùng với các phòng học và một hệ thống cơ sở vật chất Thư viện, Phòng Y tế (Bệnh thất), phòng riêng của các giáo viên và ban giám hiệu.
Ngoài những phòng ốc quen thuộc kể trên, Hogwarts còn có một hệ thống chằng chịt các phòng, hành lang, cầu thang bí mật và có ma thuật. Một số trong đó có thể kể đến Phòng chứa bí mật, Phòng Yêu cầu, các đường hầm kín bí mật dẫn đến Hogsmeade. Cho đến nay, tấm bản đồ chi tiết nhất về Hogwarts được biết đến là Bản đồ Đạo tặc. Tuy nhiên nó vẫn chưa ghi lại hết được mọi điều về Hogwarts. Ngoài ra, còn một số điều mà ngay cả các giáo viên trong trường hay giáo sư Dumbledore cũng không biết được trường Hogwarts từng được một vị phù thủy hùng mạnh của thế giới cổ đại xây dựng nên, hơn nữa đây còn là vị phù thủy mà ít ai biết mà còn sống sót đó là phù thủy Rumplestiltskin (Chúa tể bóng đêm) từ trước thời đại sáng lập ra trường Hogwarts. (một số giáo viên cho rằng Hogwarts ngày nay được cải tạo lại từ thành lũy còn sót lại)
Khu sân vườn bên ngoài
Căn chòi của Hagrid
Đây là một căn nhà nhỏ hình lục giác với một ống khói lớn bằng đá sát bên khu Rừng Cấm, nơi Hagrid và con chó Fang của bác sống. Đây cũng là nơi mà Harry, Ron và Hermione hay lui tới.
Khu Rừng Cấm
Đây là một khu rừng huyền bí, chứa đựng rất nhiều điều bí mật và nguy hiểm nên học sinh bị cấm bén mảng vào. Nó không có tên cụ thể, trừ cái tên Rừng Cấm (Forbidden Forest). Ngoài ra khu rừng còn được biết là có một tòa tháp cổ ở sâu trong khu rừng (Tòa tháp của Mụ phù thủy rừng Maleficent).
Một số sinh vật được truyện đề cập là sinh sống trong Rừng Cấm:
Bộ lạc Nhân mã
Người sói (theo Draco Malfoy)
Chiếc xe ma quái phù thủy biết bay Ford Anglia, trước đây thuộc về Arthur Weasley. Trong tập 2, nó từng xuất hiện kịp thời để cứu Ron và Harry.
Nhện tám mắt khổng lồ, đại gia đình của Aragog (đã chết), vật nuôi cũ của Hagrid.
Grawp, một người khổng lồ thuần chủng, cùng mẹ khác cha với Hagrid
Quái vật khổng lồ (Troll)
Kì lân (Unicorn), còn dịch là Bạch kỳ mã: đây là một con ngựa màu trắng có sừng, máu của con vật này có thể kéo dài sự sống ngay cả cho những người mấp mé cửa tử thần.
Vong Mã (Thestral), một giống ngựa bay của địa ngục, chỉ có thể nhìn thấy bởi những người đã chứng kiến và chấp nhận cái chết.
Fluffy, một con chó ba đầu khổng lồ trước kia canh gác trong một căn phòng bí mật của lâu đài
Que xạo, một loài sinh vật khẳng khiu như những cành cây, chuyên sống trên những cây đạt tiêu chuẩn làm đũa phép, ăn rệp cây.
Ngoài ra,không phải ai cũng phát hiện ra một sinh vật khủng khiếp vẫn còn tồn tại trong sâu khu rừng đó là Rồng Jaccawocky
Khu Nhà kính trồng cây
Có ít nhất ba nhà kính trồng cây trong sân trường để phục vụ cho việc giảng dạy môn Thảo dược học (Herbology) của giáo sư Pomona Sprout.
Cây Liễu Roi
Cây Liễu Roi (Whomping Willow) là một loài cây ma quái được trồng trong sân trường Hogwarts. Nó vô cùng to lớn và hung dữ, nó sẽ quất bất kì ai dám chạm vào hay thậm chí chỉ lại gần bằng những cành nhánh cứng và nhọn của mình. (trong tập 4 có nói đến một huyệt ở trên cái lỗ dưới gốc cây khiến cây trở về trạng thái vô hại)
Hiệu trưởng Albus Dumbledore đã trồng cái cây này vào năm 1971, năm mà Remus Lupin đến học năm thứ nhất. (Tuy nhiên cây lại xuất hiện vào thời điểm Newt đang theo học tại trường). Cậu học trò Lupin là một Người sói, nên luôn biến hình và bị thú tính của loài sói chi phối mỗi khi trăng tròn. Cụ Dumbledore không muốn bỏ rơi cậu ta (vì phụ huynh không muốn có người sói học chung trường với con mình, rất nguy hiểm), nên đã xây dựng một đường hầm bí mật từ dưới gốc cây liễu dẫn đến Lều Hét (Shrieking Shack), một căn nhà hoang ở làng Hogsmeade, để cho Lupin lẩn trốn khi hóa sói. Vì vậy mà người ta cứ ngỡ tiếng hú của Lupin và tiếng cười của đám bạn cậu là tiếng kêu của ma quỷ và Lều Hét từ đó được mệnh danh là "căn nhà bị ma ám nhiều nhất nước Anh". Nhưng cây Liễu Roi thì vẫn đứng đó dù Lupin không còn ở Hogwarts nữa, vì chẳng ai dám lại gần để chặt nhổ nó đi. Trong Harry Potter và phòng chứa bí mật, cây Liễu Roi đã cố gắng bóp nát chiếc xe Ford Anglia biết bay của bố Ron Weasley khi Ron và Harry đâm vào nó.
Hồ nước Đen
Hồ Đen (Black Lake) nằm ở phía Nam của tòa lâu đài. Đó cũng là nguồn nước sử dụng chính của Hogwarts. Có rất nhiều sinh vật huyền bí cư ngụ dưới đáy sâu của nó, ví dụ như mực khổng lồ và người cá (cũng có một số loài thủy quái nhỏ). Trong thời gian diễn ra cuộc Thi đấu Tam Pháp Thuật, chiếc tàu tạm trú của phái đoàn trường Durmstrang đã nghỉ lại trên hồ này. Bài thi thứ hai của cuộc thi đó cũng diễn ra dưới đáy của nó.
Sân Quidditch
Sân Quidditch của trường Hogwarts là nơi diễn ra các trận thi đấu và tập luyện bộ môn Quidditch của các đội trong trường. Sân có hình bầu dục và được chia làm hai nửa bằng nhau. Mỗi bên có 3 cột gôn cao khoảng 15,2 m bằng vàng. Bao bọc quanh sân là khu khán đài đủ sức chứa toàn bộ học sinh và nhân viên trường. Ngoài ra còn có phòng thay đồ dành cho mỗi đội và văn phòng của đội trưởng hai đội. Các trận đấu thường do cô Hooch làm trọng tài, cô cũng đồng thời là giáo viên môn Bay. Đây cũng là môn thể thao được tùy chọn người làm trọng tài và bình luận viên. Năm học thứ tư của Harry, sân Quidditch này được sửa thành mê cung cho các vận động viên Tam pháp thuật và sau đó nó đã được khôi phục lại như cũ.
Mỗi năm học trường Hogwarts đều tổ chức giải vô địch Quidditch giữa bốn đội trong trường, mỗi đội đại diện cho một Nhà. Các cầu thủ được tuyển chọn thường từ năm thứ hai đến năm thứ bảy, nhưng riêng Harry là trường hợp đặc biệt như đã nói trên. Từ khi Harry đến học ở Hogwarts, đội Gryffindor luôn có thành tích nổi bật. Nhưng vì xuất hiện những sự kiện trong truyện nên Gryffindor không giành được chức vô địch trong những năm sau: Năm 1991 - 1992 (Harry sau khi giải quyết vụ Hòn Đá Phù Thủy đã bị bất tỉnh phải nằm trong bệnh xá của trường, vì thế đội Gryffindor năm này đã thua trong trận cuối cùng với Ravenclaw), năm 1992 - 1993 (Trận đấu tranh chức vô địch bị huỷ bỏ vì lý do an ninh bất ổn nghiêm trọng (Phòng Chứa Bí Mật đã được mở ra lần nữa bởi Chúa tể Voldemort - Tom Riddle), năm 1994 - 1995 (Vì trường Hogwarts đăng cai tổ chức cuộc thi Tam Pháp Thuật nên không tổ chức giải đấu Quidditch). Riêng năm học cuối cùng Harry và hai người bạn không còn học tại Hogwarts nữa nên không được đề cập đến.
Truyện có nhắc đến một sân Quidditch khác trong tập bốn. Đó là sân vận động Quidditch quốc gia của Anh. Lúc đó đã diễn ra trận tranh cúp vô địch Quidditch thế giới giữa Ireland và Bulgaria. Sân này được miêu tả lớn hơn sân của trường với sức chứa cực lớn. Cũng trong tập này, sân Quidditch Hogwarts đã được dùng làm mê cung cho bài thi thứ ba của cuộc thi đấu Tam Pháp thuật (Triwizard Tournament). Phần 7 nó đã bị đốt dưới tay của bọn Tử thần thực tử.
Ngôi mộ Trắng
Đây là nơi mà cụ Albus Dumbledore được an táng. Nó nằm gần Hồ nước Đen, giữa một bãi đất thanh tịnh trên một ngọn đồi. Đó cũng là nơi an nghỉ của một vị hiệu trưởng được cho là có cống hiến nhiều nhất cho Hogwarts.
Nguồn gốc, ý tưởng của tên trường
Khi được phỏng vấn, J.K. Rowling đã nói rằng cái tên "Hogwarts" nảy ra trong đầu bà khi bà đang ngắm một loài hoa huệ trong Vườn Thảo mộc Hoàng gia ở Luân Đôn trước khi viết Harry Potter. Và cái tên Hogwarts cũng trùng hợp với một cái tên trong bộ truyện của Nigel Molesworth. Bà Rowling cũng nói rằng cảm hứng sáng tạo ra Hogwarts là đến từ trường Atlantic College, một trường nội trú tổng hợp cấp 2 và 3 ở Anh nằm trong một tòa lâu đài cổ.
Cảnh quay bên ngoài
Hầu hết các cảnh bên ngoài được quay tại địa điểm là Lâu đài Alnwick, nhưng khung cảnh bên ngoài của toàn bộ ngôi trường được tạo ra từ những bức ảnh của Nhà thờ lớn Durham với một ngọn tháp kỹ thuật số được thêm vào các tòa tháp. Nhà thờ lớn Durham cũng phục vụ như một bộ cho nội thất Hogwarts.
Một mô hình tỷ lệ đã được tạo ra cho các bức ảnh bên ngoài của toàn trường. Các mô hình của Lâu đài Alnwick và Nhà thờ lớn Durham cũng được xây dựng để tạo ra sự tích hợp nhiều hơn giữa mô hình và trên các bức ảnh vị trí. Phải mất một đội ngũ 86 nghệ sĩ và thành viên phi hành đoàn trị giá 74 giờ đồng hồ để hoàn thành mô hình.
Tàu tốc hành Hogwarts
Tàu tốc hành Hogwarts là một chuyến tàu chở học sinh không ngừng nghỉ từ Sân ga ở Nhà ga Ngã tư Vua ở Luân Đôn tới ga Hogsmeade, gần trường Hogwarts. Trưởng ban phụ trách chuyến đi ở trong một toa riêng gần phía trước tàu. Các khoang trên tàu ẩn chứa thông điệp bằng các từ ngữ được khắc, như trong Hoàng tử lai, cụm từ "Slug Club" được nhìn thấy ở khoang C.
Tàu bắt đầu sử dụng vào những năm 1850. Trước đó, học sinh thường đến Hogwarts trên những chiếc chổi hoặc xe ngựa thần kỳ.
Tàu nước được sử dụng trong các bộ phim chuyển thể là GWR 4900 Class 5972 Olton Hall, nhưng nó không phải là con tàu đầu tiên được sử dụng. Để quảng bá sách, tàu 34027 Taw Valley của Southern Railway đã được sơn lại và đổi tên tạm thời, nhưng bị đạo diễn Chris Columbus từ chối vì trông 'quá hiện đại' cho bộ phim. Các địa điểm quay phim cho các chuyến tàu bao gồm Goathland trên Đường sắt North Yorkshire Moors, ga đường sắt Kings Cross và tuyến đường Jacobite Express đi theo Tuyến Tây Nguyên từ Fort William đến Mallaig ở Scotland, khi nó đi qua Cầu cạn Glenfinnan.
Một số tàu mô hình đã được chế tạo từ Tàu tốc hành Hogwarts. Một mô hình kích cỡ 00 được sản xuất bởi Hornby, mặc dù đây là đầu máy của Castle Class chứ không phải là Hall Class được sử dụng trong các bộ phim. Một mô hình kích cỡ H0 ba đường ray được sản xuất bởi Märklin, và một kích thước H0 / 00 hai đường ray được sản xuất vào đầu những năm 2000 bởi Bachmann. Một số mẫu Lego Trains hiện đã ngừng sản xuất đã từng được LEGO phát hành. Lionel đã phát hành một bộ mô hình tàu kích cỡ O trong danh mục năm 2007 của họ và một bộ kích cỡ G cho năm 2008.
Một bản sao hoàn chỉnh đầy đủ chức năng của Tàu tốc hành Hogwarts đã được tạo ra cho bản mở rộng Thế giới phù thủy của Harry Potter tại Khu nghỉ mát Universal Orlando nối Ga Ngã tư Vua tại bản mở rộng Diagon Alley ở Universal Studios Florida đến nhà ga Hogsmeade tại Đảo phiêu lưu của Universal, được sản xuất bởi Tập đoàn Doppelmayr Garaventa dưới hình thức vận chuyển bằng dây cáp. Ga giao ngã tư với tàu tốc hành Hogwarts có một bức tường nằm giữa Sân ga 9 và 10, nơi khách có thể "đi bộ qua" để đến với Ga , như phần đầu của phim.
Tên trường trong ngôn ngữ khác
Hầu hết các bản dịch đều giữ tên 'Hogwarts', phiên âm nó nếu cần thiết (ví dụ tiếng Ả Rập: هوغوورتس = Hūghwūrts, tiếng Nga: Хогвартс = Khogvarts, tiếng Nhật: ホグワーツ = Hoguwātsu, tiếng Bengal: হগওয়ার্টস = Hogowarts, tiếng Hy Lạp: Χόγκουαρτς = Hóguarts, tiếng Trung giản thế: 霍格沃茨 = Huògéwòcí, tiếng Việt: Hô-goát.)
Nhưng một số bản dịch hoặc điều chỉnh tên trường khác đi: Poudlard tiếng Pháp (lard = "Thịt muối"), Ckkārpas của Latvia rút ngắn từ cūka = "pig" + kārpas = "mụn cóc", Zweinstein của Hà Lan sửa đổi từ zwijnsteen = "pig rock" trong khi đồng thời tham khảo Albert Einstein, Bokmål Galtvort của Na Uy (galt = boar, vort = wart) (Nynorsk giữ "Hogwarts"), Tylypahka của Phần Lan (pahka = "mụn cóc"), tiếng Hungary Roxfort (cách viết giống tên của Oxford) bradavice = "mụn cóc")), tiếng Séc Bradavice có nghĩa đơn giản là "mụn cóc". Bản dịch tiếng Hy Lạp cổ đại của trường là "Ὑογοήτου Παιδευτήριον τὸ τῆς Γοητείας καὶ Μαγείας", dịch một cách lỏng lẻo sang "Trường học phù thủy và ma thuật của Hogwizard", thay thế "Hogwarts" và bắt nguồn từ các từ Hy Lạp cổ đại ὑo- (hog) và γητής (thuật sĩ).
Xem thêm
Harry Potter
Làng Hogsmeade
Tham khảo
Liên kết ngoài
Bản đồ Hogwarts của Harry Potter Lexicon
Bản đồ Marauder của Warner Bros
Miêu tả về Hogwarts của POV-Ray
Số học sinh tại Hogwarts
Những câu thần chú và bùa phép trong Hary Potter
Thế giới Harry Potter
de:Handlungsorte der Harry-Potter-Romane#Hogwarts
|
21815
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%C3%A1ng%20nguy%C3%AAn%20t%C6%B0%C6%A1ng%20th%C3%ADch%20m%C3%B4%20ph%E1%BB%A5
|
Kháng nguyên tương thích mô phụ
|
Kháng nguyên tương thích mô phụ (minor histocompatibility antigen) là các kháng nguyên gây thải mảnh ghép qua cơ chế trung gian tế bào, nhưng chúng không có những đặc tính của phức hợp tương thích mô chính (MHC). Việc xác định một kháng nguyên MHC phụ thuộc một phần vào vị trí gene mã hoá phân tử và một phần vào cấu trúc đặc trưng loại I và loại II của kháng nguyên.
Trước đây trong thời gian dài người ta cho rằng kháng nguyên tương thích mô phụ là các glycoprotein bề mặt tế bào có quan hệ allele, giống về bản chất nhưng khác về độ mạnh so với MHC. Ngày nay kháng nguyên tương thích mô phụ được định nghĩa dựa trên cơ sở thải mảnh ghép qua trung gian tế bào - chúng là peptide của protein tự thân và được trình diện bởi các phân tử MHC. Như vậy kháng nguyên tương thích mô phụ tương tự với kháng nguyên xâm nhập từ bên ngoài - các mảnh peptide được trình diện bởi phân tử MHC để gây đáp ứng tế bào T. Dĩ nhiên là mỗi cá thể dung nạp với protein của chính mình, và đáp ứng miễn dịch chỉ xảy ra đối với peptide có quan hệ allele của cá thể khác.
Mặc dù đến nay đã phân lập được một số peptide biểu hiện kháng nguyên tương thích mô phụ, người ta vẫn chưa biết nhiều về bản chất protein mà chúng xuất phát. Các protein này không cần phải đại diện cấu trúc bề mặt tế bào, và thực tế chúng hiếm khi như vậy. Tuy nhiên, bất cứ protein tự thân nào có khác biệt về allele cũng vẫn có thể xem như có chức năng kháng nguyên tương thích mô phụ nếu các mảnh peptide có khả năng được trình diện bởi MHC trong quá trình sinh miễn dịch.
Các kháng nguyên không phải MHC có thể gây thải mảnh ghép không chỉ bao gồm kháng nguyên tương thích mô phụ, mà một số kháng nguyên khác cũng đóng vai trò trong thải mảnh ghép như kháng nguyên đặc hiệu mô, kháng nguyên nhóm máu, các glycoprotein nội mô khác (ngoài kháng nguyên nhóm máu), glycoprotein đặc hiệu loài, Hh locus (hybrid histocompatibility - tương thích mô lai, quan trọng trong ghép tuỷ xương).
Tham khảo
Miễn dịch học
Ghép mô tạng
Hệ miễn dịch
|
21818
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/ABC
|
ABC
|
ABC có thể là:
Bảng chữ cái Latinh (còn gọi là an-pha-bê - alphabet)
Kiến thức vỡ lòng của một môn học hoặc chuyên ngành
Chữ viết tắt cho một số tổ chức - cơ quan:
American Broadcasting Company (Công ty Truyền thông Hoa Kỳ)
Australian Broadcasting Corporation (Tập đoàn Truyền thông Úc)
ABC (Yet Another BitTorrent Client): một trình khách BitTorrent, phần mềm tự do
Quản lý chi phí trên cơ sở hoạt động
Atanasoff–Berry Computer, một trong những máy tính điện tử thời kỳ đầu
Tham khảo
Danh sách các từ kết hợp từ ba chữ cái
|
21828
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BA%A1i%20n%C3%A3o
|
Bại não
|
Bại não là thuật ngữ chỉ một nhóm tình trạng bệnh lý mạn tính ảnh hưởng đến sự kiểm soát các vận động cũng như tư thế. Nguyên nhân do một phần nào đó của bộ não bị tổn thương nên trẻ bệnh không thể cử động các cơ được vùng não đó điều khiển một cách bình thường được. Các triệu chứng của bại não có thể nhẹ nhàng hoặc rất nặng nề ở các trẻ khác nhau tùy theo tổn thương não nhưng ở một trẻ nhất định thì triệu chứng không nặng lên khi trẻ lớn hơn. Nói một cách khác, bại não là một bệnh tĩnh, nghĩa là các tổn thương đã định hình và không tiến triển xấu hơn nữa. Định nghĩa này rất quan trọng để phân biệt bại não với các tình trạng tổn thương thần kinh khác có tổn thương não hoạt động và do đó triệu chứng tâm thần vận động sẽ càng ngày càng nặng hơn. Nếu được điều trị, phần lớn trẻ bị bại não có những biến chuyến rất khả quan.
Rất nhiều trẻ bị bại não thường có kèm theo các tình trạng bệnh khác đòi hỏi phải điều trị. Các bệnh này gồm chậm phát triển tâm thần, rối loạn khả năng học tập, động kinh, các vấn đề về thính giác, thị giác, ngôn ngữ.
Lịch sử
Vào năm 1860, William Little, một phẫu thuật viên chỉnh hình người Anh đã cho xuất bản những bài báo đầu tiên về một rối loạn khó hiểu ảnh hưởng đến trẻ em trong những năm đầu đời gây nên co cứng rõ các cơ ở chân và ở tay nhưng mức độ nhẹ hơn. Những đứa trẻ này có khó khăn trong cầm nắm đồ vật, bò và đi lại. Những rối loạn này không cải thiện khi trẻ lớn lên nhưng cũng không nặng nề hơn. Tình trạng này đầu tiên được gọi là bệnh Little trong nhiều năm. Những đứa trẻ này dường như sinh non hoặc do biến chứng trong quá trình sinh nở nên Little đưa ra giả thiết là chứng bệnh này là hậu quả của tình trạng thiếu oxy não trong lúc sinh. Ông ta cho rằng sự thiếu oxy này đã làm tổn thương những vùng não nhạy cảm có chức năng kiểm soát vận động. Tuy nhiên vào năm 1897, nhà tâm lý học lừng danh người Áo Sigmund Freund đã không tán thành giả thiết này. Do quan sát thấy những trẻ này có các rối loạn khác như chậm phát triển tinh thần, rối loạn thị lực và động kinh nên Freund cho rằng rối loạn này có thể bắt nguồn từ rất sớm trong quá trình phát triển của não bộ khi trẻ còn đang trong giai đoạn bào thai.
Mặc dù có những quan sát và nhận định tinh tế của Freund, cho mãi đến gần đây rất nhiều thầy thuốc, gia đình thậm chí cả các nhà nghiên cứu vẫn tin tưởng là thiếu oxy não là nguyên nhân bại não. Tuy nhiên vào thập niên 1980 nhờ vào những nghiên cứu quy mô lớn và với những phương pháp mới, các nhà khoa học nhận định chắc chắn rằng biến chứng của sinh khó chỉ chiếm 10% tổng số các trường hợp bại não. Trong phần lớn các trường hợp bại não, người ta vẫn chưa thể xác định được nguyên nhân. Các nghiên cứu vẫn đang được tiến hành.
Nguyên nhân bại não
Trong khoảng 70% trường hợp, bại não có thể là do những bất thường xảy ra trước sinh làm ảnh hưởng đến quá trình phát triển bình thường của não. Theo báo cáo năm 2003 của Hội Sản và Phụ khoa Hoa Kỳ (American College of Obstetricians and Gynecologists - ACOG) và Viện Hàn lâm Nhi khoa Hoa Kỳ (American Academy of Pediatrics – AAP) thì thiếu oxy trong quá trình sinh đẻ chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong các trường hợp bại não. Mặc dù nhiều trường hợp người ta chưa thể xác định được căn nguyên nhưng các nguyên nhân được biết của bại não bao gồm:
Nhiễm trùng trong thai kỳ
Các nhiễm trùng ở phụ nữ có thai như rubella (sởi Đức), cytomegalovirus và toxoplasmosis có thể gây tổn thương não của bào thai và gây bại não sau này. Các nhiễm trùng khác như nhiễm trùng ối, nhiễm trùng hệ tiết niệu – sinh dục của người mẹ cũng có thể gây nên sinh non, một nguy cơ khác của bại não.
Thiếu khí não bào thai
Khi chức năng của nhau thai bị giảm sút (suy nhau thai) hoặc bị bóc tách khỏi thành tử cung trước khi sinh (nhau bong non) hoặc do chảy máu do sai lệch vị trí (nhau tiền đạo) có thể làm giảm lượng oxy cung cấp cho thai nhi.
Sinh non
Sinh non là trẻ sinh ra trước 37 tuần thai tính từ ngày đầu tiên của kỳ kinh nguyệt cuối cùng trước khi có thai. Những trẻ sinh non đặc biệt trước 32 tuần và nhất là trước 28 tuần thai có nguy cơ bại não rất cao. Một nghiên cứu cho thấy những trẻ sinh non có cân nặng lúc sinh thấp hơn 1500 gram có nguy cơ bại não cao gấp 30 lần so với trẻ sinh đủ tháng (trẻ sinh từ 37 đến 42 tuần thai). Lý do là trẻ sinh non có nguy cơ rất cao bị xuất huyết não gây tổn thương các tổ chức mong manh đang phát triển của não hoặc gây nên chứng nhuyễn hóa chất trắng quanh não thất.
Ngạt trong quá trình chuyển dạ và sinh nở
Cho mãi đến gần đây người ta vẫn còn tin tưởng rộng rãi là ngạt (thiếu oxy) trong quá trình chuyển dạ và sinh nở là nguyên nhân của hầu hết các trường hợp bại não. Tuy nhiên như trên đã nói, theo nghiên cứu của Hội Sản và Phụ khoa Hoa Kỳ và Viện Hàn lâm Nhi khoa Hoa Kỳ thì ngạt chỉ chiếm 10% trong tổng số các bệnh nhân bại não.
Các bệnh máu
Bất đồng nhóm máu Rh là sự bất tương hợp nhóm máu giữa mẹ và bào thai gây nên vàng da trầm trọng và tổn thương não dẫn đến bại não. Bệnh này thường gặp ở người da trắng còn ở Việt Nam rất hiếm gặp vì tỷ lệ mang Rh (-) cực kỳ hiếm gặp. Tuy nhiên ở Việt Nam có thể gặp bất đồng nhóm máu ABO giữa mẹ và thai nhi. Một bệnh khác rất nặng nề mặc dù biện pháp phòng ngừa cực kỳ đơn giản là xuất huyết não do thiếu Vitamin K ở trẻ sơ sinh và nhũ nhi cũng gây nên bại não. Các bệnh rối loạn chức năng đông máu khác cũng có thể là nguyên nhân của bại não vì làm tăng nguy cơ chảy máu trong não.
Vàng da nhân
Vàng da trẻ sơ sinh là do sự tích tụ trong máu một loại sắc tố có tên billirubin do tốc độ phá hủy hồng cầu cao và chức năng gan chưa trưởng thành ở trẻ sơ sinh, đặc biệt là trẻ đẻ non. Trong trường hợp nặng, sắc tố này có thể vượt qua hàng rào mạch máu – não và lắng đọng chủ yếu ở các nhân nền của não (do đó có tên là vàng da nhân) và làm tổn thương các cấu trúc này đưa đến thể bại não kèm múa vờn.
Các bất thường bẩm sinh khác
Các trẻ có bất thường cấu trúc hệ thần kinh, nhiều bệnh di truyền khác cũng làm tăng nguy cơ bại não.
Bại não mắc phải
Trẻ mắc các chứng bệnh gây tổn thương thần kinh trong hai năm đầu tiên của đời sống ví dụ như viêm màng não mủ, viêm não, chấn thương sọ não...
Tần suất
Bại não thường ít khi được chẩn đoán sớm trước 2 tuổi. Với lứa tuổi trên 3 thì tần suất bại não vào khoảng 2-3 trường hợp/1000 trẻ. Đây là một tỷ lệ khá cao đối với một bệnh mãn tính như thế này. Ngay cả ở Mỹ thì cũng có khoảng trên nửa triệu bệnh nhân bại não.
Các thể bại não
Bại não được chia thành 3 thể lâm sàng chính. Tuy nhiên trên một trẻ bại não có thể có nhiều hơn một thể bệnh kết hợp với nhau.
Bại não thể liệt cứng (spastic cerebral palsy): Có khoảng 70 đến 80% bệnh nhân bại não thuộc nhóm này. Trẻ mắc thể này có biểu hiện các cơ co cứng,luôn ở trạng thái tăng trương lực cơ. Chính do tình trạng này mà sự vận động của bệnh nhân bại não rất khó khăn. Trẻ khó cầm nắm, bò hoặc đi. Thể lâm sàng này lại được chia làm ba nhóm nhỏ. Trong nhóm liệt cứng hai chi dưới (spastic diplegia), trẻ có bất thường co cứng rõ ở hai chi dưới. Do các cơ khép co cứng nên chân trẻ luôn bị kéo vào trong làm cho trẻ có dáng đi bắt chéo hai chân rất đặc trưng. Nhóm thứ hai gồm những trẻ bị liệt cứng nửa người (spastic hemiplegia) thường có biểu hiện liệt cứng một bên (phải hoặc trái). Thường thì chi trên bị ảnh hưởng nặng hơn chi dưới. Nặng nề nhất là nhóm trẻ liệt cứng tứ chi (spastic quadriplegia). Bệnh nhân thuộc nhóm này có biểu hiện liệt cứng cả hai chi trên và hai chi dưới cùng với các cơ trục thân. Cả các cơ ở mặt cũng bị ảnh hưởng làm cho trẻ bị tàn phế rất nặng.
Bại não thể múa vờn hay loạn động (athetoid hay dyskinetic cerebral palsy): Có khoảng 10 đến 20% bệnh nhân bại não thuộc vào nhóm này. Đây là thể bệnh được đặc trưng bằng sự thay đổi thất thường của trương lực cơ (lúc tăng, lúc giảm). Trẻ còn thường kèm theo các động tác bất thường không kiểm soát được. Các động tác này có nhịp điệu chậm, biên độ đôi khi rộng nhưng đang múa nhưng trẻ không ý thức được điều này. Do bất thường trong kiểm soát cử động như vậy nên bệnh nhân khó có tư thế ngồi hoặc dáng đi bình thường. Ngoài ra các cơ ở mặt và lưỡi cũng bị ảnh hưởng nên trẻ khó bú (với trẻ còn bú) hoặc khó nuốt, khó nói.
Bại não thể thất điều (ataxic cerebral palsy): Khoảng 5 đến 10% bệnh nhân bại não thuộc thể lâm sàng này. Bệnh ảnh hưởng chủ yếu đến cân bằng tư thế và phối hợp động tác. Do có rối loạn trong kiểm soát tư thế nên dáng đi của trẻ hay lảo đảo, vùng thắt lưng hay đong đưa. Do rối loạn khả năng phối hợp động tác nên trẻ rất khó thực hiện được các động tác đòi hỏi sự nhịp nhàng như vỗ tay theo nhịp hoặc đòi hỏi độ chính xác như viết.
Chẩn đoán
Bối cảnh phát hiện
Nếu trong thai kỳ, đặc biệt vào những tháng đầu tiên, mẹ bị các bệnh như cúm, sởi Đức, hoặc dùng một số thuốc có khả năng gây quái thai hoặc ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của ống thần kinh thì cần theo dõi đặc biệt. Những trẻ có tiền sử sinh non, ngạt chu sinh cũng là những đối tượng có nguy cơ cao. Tuy nhiên các bậc cha mẹ có thể theo dõi sự phát triển của con mình như lật, ngồi, bò, đi nếu có nghi ngờ bất thường thì cần có ý kiến của bác sĩ chuyên khoa nhi ngay.
Khám lâm sàng
Mặc dù nguyên nhân bại não là do những sự kiện xảy ra trong thai kỳ và trong hai năm đầu đời sống, việc đánh giá và chẩn đoán bại não trước hai tuổi rất khó khăn. Khám trương lực cơ, cơ lực đòi hỏi phải có chuyên môn sâu về thần kinh nhi khoa. Trương lực cơ có thể tăng hoặc giảm. Các phản xạ nguyên thủy thường mất đi sau 6 tháng nhưng ở trẻ bại não thì các phản xạ này tồn tại lâu hơn. Trẻ nhỏ trước 12 tháng thường không biểu hiện rõ thuận tay nào. Nhưng đối với trẻ bị bại não (nhất là thể liệt cứng nửa người) thì khuynh hướng thuận tay xuất hiện sớm (do bên liệt vận động khó, trẻ phải vận động bên lành). Đánh giá sự phát triển tâm thần vận động thường có thể dựa vào các tiêu chuẩn như tiêu chuẩn Amiel-Tison hoặc thang đánh giá Denver.
Xét nghiệm hỗ trợ
Các xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh như siêu âm não qua thóp, chụp cắt lớp vi tính (CT: Computerised Tomography) đặc biệt là chụp cộng hưởng từ (MRI: Magnetic Resonnance Imaging) cho biết những thông tin giá trị về tổn thương não. Các xét nghiệm hóa sinh hay di truyền tùy theo hướng chẩn đoán trên lâm sàng. Đo điện não đồ (EEG: ElectroEncephaloGram) cũng là một xét nghiệm cơ bản không thể thiếu trong chẩn đoán bại não cũng như các bệnh của hệ thần kinh trung ương khác.
Điều trị
Điều trị bại não cần có sự phối hợp của nhiều chuyên ngành khác nhau cùng phối hợp với trẻ và gia đình nhằm vạch ra được một kế hoạch cụ thể thích hợp cho từng cá nhân. Điều trị bại não nhằm giúp trẻ đạt được khả năng trí tuệ cũng như vận động tối đa có thể có chứ không thể lấy lại được những khả năng đã mất để thành một đứa trẻ hoàn toàn bình thường. Các chuyên khoa liên quan bao gồm nhi khoa, phục hồi chức năng, phẫu thuật chỉnh hình, mắt, tâm thần, chỉnh âm, dạy nghề… Nếu điều trị được thực hiện sớm và có sự phối hợp chặt chẽ của các chuyên ngành, đặc biệt là sự tham gia của gia đình thì kết quả rất khả quan.
Trẻ thường được bắt đầu bằng vật lý trị liệu ngay sau khi được chẩn đoán. Điều trị này làm tăng kỹ năng vận động của trẻ như ngồi, đi, cải thiện cơ lực và phòng ngừa sư co kéo biến dạng cơ (cơ bị co rút có thể giới hạn vận động của các khớp). Đôi khi trẻ còn được sử dụng các dụng cụ như nẹp, máng hoặc bó bột để ngừa co rút cơ và cải thiện chức năng của chân và tay. Nếu tình trạng co rút cơ quá nặng, trẻ cần được phẫu thuật chỉnh hình để làm dài cơ bị bệnh.
Đôi khi thầy thuốc còn dùng một số thuốc nhằm làm giảm bớt mức độ co cứng của cơ và làm giảm các cử động bất thường. Tuy nhiên các thuốc đường uống hiện nay không có tác dụng đáng kể. Có thể tiêm trực tiếp Botox (botulinum toxin) vào các cơ co rút có thể giúp cải thiện triệu chứng, tác dụng có thể kéo dài vài tháng (trong thời gian này việc phục hồi chức năng thực hiện dễ dàng hơn). Một loại thuốc khác cũng chứng tỏ tác dụng tốt đối với các trường hợp liệt cứng mức độ vừa đến nặng. Thuốc này có tác dụng chống co cơ có tên là baclofen. Để đưa thuốc vào bệnh nhân, người ta phải phẫu thuật để đưa vào dưới da một bơm tiêm, thông qua đó thuốc được bơm liên tục.
Đối với một số trẻ có tình trạng co cứng hai chi dưới nặng nề, phẫu thuật cắt bỏ chọn lọc một số nhánh thần kinh ở lưng chi phối hoạt động chi có thể làm giảm vĩnh viễn tình trạng co cứng cũng như cái thiện khả năng vận động như ngồi, đứng, đi. Phẫu thuật này thường tiến hành khi trẻ được 2 đến 7 tuổi.
Đối với trường hợp nặng, tập luyện cho trẻ nhằm mục đích thực hiện được các thao tác quan trọng nhất trong cuộc sống hằng ngày như ăn, mặc, vệ sinh cá nhân. Những trường hợp nhẹ hơn, tập luyện và điưều trị có thể hướng đến mục tiêu cao hơn như giao tiếp, vui chơi, và cả học tập nữa.
Điều quan trọng quyết định sự thành công của điều trị là vai trò của bố mẹ hoặc người chăm sóc trẻ. Nếu những đối tượng này tin tưởng, quyết tâm và có những kiến thức cơ bản cũng như kỹ năng thực hành thì đứa trẻ có nhiều khả năng đạt được những tiến bộ lớn nhằm giảm sự lệ thuộc của trẻ vào người khác, đảm bảo cho trẻ một cuộc sống gần với bình thường.
Phòng ngừa
Hiện nay y học vẫn chưa hiểu hết các nguyên nhân gây bại não do đó việc phòng ngừa không đạt hiệu quả như mong muốn.
Nâng cao chất lượng chăm sóc phụ nữ trong tuổi sinh đẻ và phụ nữ có thai nhằm giảm thiểu những biến chứng của thai kỳ. Phân tuyến để điều trị sản khoa hợp lý nhằm giảm thiểu các biến chứng do sinh đẻ như ngạt, chấn thương... Có trung tâm chăm sóc sơ sinh phù hợp.
Tiêm ngừa đề phòng các bệnh như viêm màng não mủ, viêm não
Phòng chống tai nạn giao thông cũng như các tai nạn khác (ngạt nước...)
Phòng ngừa thứ phát là phát hiện sớm và điều trị trẻ bị bại não nhằm hạn chế tật nguyền.
Cerebral Palsy
Tham khảo
Khuyết tật
Thần kinh học
Nhi khoa
Bất thường bẩm sinh
Chẩn đoán tâm thần
RTT
|
21829
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Formaldehyde
|
Formaldehyde
|
Hợp chất hữu cơ formaldehyde (còn được biết đến như là methanal, formalin, formon), ở điều kiện bình thường là một chất khí có mùi hăng mạnh. Nó là aldehyde đơn giản nhất. Công thức hóa học của nó là CH2O. Formaldehyde lần đầu tiên được nhà hóa học người Nga Aleksandr Butlerov tổng hợp năm 1859 nhưng chỉ được Hoffman xác định chắc chắn vào năm 1867.
Formaldehyde có thể được tạo ra từ sự cháy không hoàn toàn của các vật liệu chứa carbon. Có thể tìm thấy nó có mặt trong khói của các đám cháy rừng, trong khí thải ô tô và trong khói thuốc lá. Trong khí quyển Trái Đất, formaldehyde được tạo ra bởi phản ứng của ánh sáng mặt trời và oxy đối với methan và các hyđrocarbon khác có trong khí quyển. Một lượng nhỏ formaldehyde được tạo ra như là sản phẩm phụ trong quá trình trao đổi chất của phần lớn các sinh vật, trong đó có con người.
Thuộc tính
Mặc dù formaldehyde là một chất khí ở nhiệt độ phòng, nó rất dễ hòa tan trong nước và chủ yếu được bán ra dưới dạng dung dịch 37% trong nước được gọi theo tên thương phẩm là formalin hay formone. Trong nước, formaldehyde bị polymer hóa và formalin trên thực tế chứa rất ít formaldehyde ở dạng đơn phân H2CO. Thông thường, các dung dịch này chứa thêm một chút methanol để hạn chế sự polymer hóa.
Formaldehyde có các thuộc tính hóa học chung của các aldehyde, ngoại trừ nó là aldehyde hoạt động mạnh nhất. Formaldehyde là một chất có ái lực điện tử (electrophil). Nó có thể tham gia vào các phản ứng thế thơm ái lực điện tử với các hợp chất thơm và cũng có thể tham gia các phản ứng cộng ái lực điện tử với các alken. Trong sự hiện diện của các chất xúc tác có tính base, formaldehyde tham gia vào phản ứng Cannizaro để tạo ra acid formic và methanol.
Formaldehyde bị polymer hóa theo hai hướng khác nhau để tạo ra tam phân vòng, 1,3,5-trioxan hay polymer mạch thẳng polyoxymethylen. Sự hình thành của các chất này làm cho khí formaldehyde có các tính chất không tuân theo các định luật của khí lý tưởng một cách rõ nét, đặc biệt ở các nhiệt độ thấp hay áp suất cao.
Formaldehyde dễ dàng bị oxy hóa bởi oxy trong khí quyển để tạo ra acid formic. Dung dịch formaldehyde vì thế phải đóng nắp chặt để ngăn không cho tạo ra chất này trong quá trình lưu trữ.
Hòa tan trong dung môi hữu cơ
Trong ethanol, aceton, DMSO| thì formaldehyde hòa tan trên 100 g/100 ml. Nó cũng hòa tan tốt trong ether, benzen và một số dung môi hữu cơ khác nhưng không hòa tan trong chloroform.
Sản xuất
Trong công nghiệp, formaldehyde được sản xuất bằng cách oxy hóa methanol có xúc tác. Các chất xúc tác được sử dụng nhiều nhất là bạc kim loại hay hỗn hợp của sắt oxide với molypden và vanadi. Trong hệ thống sử dụng sắt oxide (công nghệ Formox) phổ dụng hơn, methanol và oxy phản ứng ở 250 °C để tạo ra formaldehyde theo phương trình hóa học:
2CH3OH + O2 → 2H2CO +2 H2O
Xúc tác gốc bạc thông thường hoạt động ở nhiệt độ cao hơn, khoảng 650 °C. Ở đây có hai phản ứng hóa học tạo formaldehyde diễn ra đồng thời: phản ứng đầu giống như phương trình trên, còn phản ứng sau là phản ứng khử hydro
CH3OH → H2CO + H2
Sự oxy hóa tiếp theo của sản phẩm formaldehyde trong quá trình sản xuất nó thông thường tạo ra acid formic, được tìm thấy trong các dung dịch formaldehyde, được tính theo giá trị ppm (phần triệu).
Ở mức độ sản xuất ít, formalin có thể được sản xuất bằng nhiều phương pháp khác bao gồm sự chuyển hóa từ ethanol thay vì nguồn nguyên liệu methanol thông thường. Tuy nhiên, các phương pháp này không có giá trị thương mại lớn.
Sử dụng
Formaldehyde giết chết phần lớn các loại vi khuẩn, vì thế dung dịch của formaldehyde trong nước thông thường được sử dụng để làm chất tẩy uế hay để bảo quản các mẫu sinh vật. Nó cũng được sử dụng như là chất bảo quản cho các vaccine. Trong y học, các dung dịch formaldehyde được sử dụng có tính cục bộ để làm khô da, chẳng hạn như trong điều trị mụn cơm. Các dung dịch formaldehyde được sử dụng trong ướp xác để khử trùng và tạm thời bảo quản xác chết.
Tuy nhiên, phần lớn formaldehyde được sử dụng trong sản xuất các polymer và các hóa chất khác. Khi kết hợp cùng với phenol, urea hay melamin, formaldehyde tạo ra các loại nhựa phản ứng nhiệt cứng. Các loại nhựa này được sử dụng phổ biến như là chất kết dính lâu dài, chẳng hạn các loại nhựa sử dụng trong gỗ dán hay thảm. Chúng cũng được tạo thành dạng bọt xốp để sản xuất vật liệu cách điện hay đúc thành các sản phẩm theo khuôn. Việc sản xuất nhựa từ formaldehyde chiếm hơn một nửa sản lượng tiêu thụ formaldehyde.
Formaldehyde cũng được sử dụng để sản xuất các hóa chất khác. Nhiều loại trong số này là các rượu đa chức, chẳng hạn như pentaerythritol - được sử dụng để chế tạo sơn và chất nổ. Các dẫn xuất khác từ formaldehyde còn bao gồm methylen diphenyl diisocyanat, một thành phần quan trọng trong các loại sơn và xốp polyurethan, hay hexamethylen tetramin- được sử dụng trong các nhựa gốc phenol-formaldehyde và để chế tạo thuốc nổ RDX.
Formaldehyde liên kết chéo với các nhóm amin.
Các hiệu ứng sức khỏe
Do nhựa formaldehyde được sử dụng nhiều trong các vật liệu như gỗ dán, thảm, và xốp cách điện cũng như do các nhựa này sẽ thải formaldehyde ra rất chậm theo thời gian nên formaldehyde là một trong các chất gây ô nhiễm không khí trong nhà. Ở nồng độ trên 0,1 mg/kg không khí, việc hít thở phải formaldehyde có thể gây ra các kích thích mắt và màng nhầy, làm chảy nước mắt, đau đầu, cảm giác nóng trong cổ họng và khó thở.
Phơi nhiễm formaldehyde lớn hơn, ví dụ do uống phải các dung dịch formaldehyde, là nguy hiểm chết người. Formaldehyde được chuyển hóa thành acid formic trong cơ thể, dẫn đến tăng hoạt động của tim, thở nhanh và nông, giảm thân nhiệt, hôn mê hoặc dẫn đến chết người. Những người ăn uống nhầm phải formaldehyde cần được chăm sóc y tế ngay.
Trong cơ thể, formaldehyde có thể làm cho các protein liên kết không đảo ngược được với DNA. Các động vật trong phòng thí nghiệm bị phơi nhiễm một lượng lớn formaldehyde theo đường hô hấp trong thời gian sống của chúng có nhiều dấu hiệu của ung thư mũi và cổ họng hơn so với các động vật đối chứng, cũng giống như các công nhân trong các nhà máy cưa để sản xuất các tấm ván ghép từ các sản phẩm gốc formaldehyde. Tuy nhiên, một số nghiên cứu cho rằng các nồng độ nhỏ hơn của formaldehyde tương tự như nồng độ trong phần lớn các tòa nhà không có tác động gây ung thư. Formaldehyde được Cơ quan bảo vệ môi trường Hoa Kỳ phân loại như là chất có khả năng gây ung thư ở người và được Cơ quan nghiên cứu ung thư quốc tế (IARC) coi là chất gây ung thư đã biết ở người.
Xem thêm
Danh sách các loài thực vật lọc khí độc
Danh sách các phân tử trong không gian liên sao
Vệ sinh an toàn thực phẩm
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sổ tay bỏ túi của NIOSH về các nguy hiểm hóa chất
Ủy ban hóa chất châu Âu ECB
(gas)
(solution)
Formaldehyde from ChemSub Online
Prevention guide—Formaldehyde in the Workplace (PDF) from the IRSST
Formaldehyde from the National Institute for Occupational Safety and Health
Formaldehyde Added to "Known Carcinogens" List Despite Lobbying by Chemical Industry — video report by Democracy Now!
Do you own a post-Katrina FEMA trailer? Check your VIN#
So you’re living in one of FEMA’s Katrina trailers... What can you do?
Aldehyde
An toàn và sức khỏe nghề nghiệp
Phân tử sinh học
Ô nhiễm môi trường
Chất gây ung thư
|
21858
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%A3p%20ch%E1%BA%A5t%20th%C6%A1m
|
Hợp chất thơm
|
Hợp chất thơm có các nghĩa khác nhau, phụ thuộc vào ngữ cảnh văn bản hay lời nói. Nó có thể là:
Trong cách nói thông thường nó biểu thị các hợp chất hóa học tạo ra mùi thơm.
Trong hóa hữu cơ, nó dùng để chỉ các hợp chất hữu cơ chứa các vòng thơm đơn như benzen (C6H6), napthalen (C10H8), pyriđin (C5H5N) hay indol C8H7N. Tuy gọi là hợp chất thơm nhưng nhiều hóa chất thuộc loại này hoàn toàn không có mùi thơm, mà lại có những mùi khó ngửi.
Hóa hữu cơ
|
21913
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C3%B2ng%20th%C6%A1m%20c%C6%A1%20b%E1%BA%A3n
|
Vòng thơm cơ bản
|
Vòng thơm cơ bản là các hợp chất hữu cơ chứa vòng thơm(còn gọi là aren hay hợp chất thơm) chỉ chứa duy nhất các hệ thống vòng phẳng kết hợp với các đám mây điện tử pi không cục bộ thay cho các liên kết đơn và liên kết đôi xen kẽ rời rạc. Các hợp chất vòng thơm cơ bản điển hình là benzen và indol.
Các vòng thơm cơ bản có thể là dị vòng nếu chúng chứa các nguyên tử trong vòng không phải là cacbon, ví dụ như chứa oxy, nitơ hoặc lưu huỳnh.
Các hợp chất này thông thường là các vòng 5 cạnh tương tự như pyrol hay các vòng 6 cạnh như pyridin. Các vòng kết hợp như naphthalen hay purin chứa các vòng đơn mà chúng cùng chia sẻ các liên kết chung.
Các vòng thơm chứa nitơ (N) có thể tách ra thành các vòng thơm base và các vòng thơm phi base:
Trong các vòng thơm phi base thì cặp đơn các điện tử của nguyên tử nitơ bị phi cục bộ hóa và phân bổ vào hệ điện tử pi của vòng thơm. Trong các hợp chất này nguyên tử nitơ bị kết nối với nguyên tử hiđrô. Các ví dụ về các vòng thơm chứa nitơ phi base là pyrrol và indol.
Trong các vòng thơm base thì cặp đơn các điện tử không phải là một phần của vòng thơm và trải rộng trong mặt phẳng của vòng. Cặp đơn này chịu trách nhiệm cho tính base của các base chứa nitơ này, tương tự như nguyên tử nitơ trong các amin. Trong các hợp chất này thì nguyên tử nitơ không bị kết nối với nguyên tử hiđrô. Các ví dụ về các vòng thơm base là pyridin hay quinolin. Một vài vòng còn chứa cả các nguyên tử nitơ base và không base, ví dụ imidazol và purin. Trong các điều kiện môi trường có tính axít thì các hợp chất này thu thêm prôton và tạo ra các cation thơm (ví dụ pyridinium).
Trong các vòng thơm chứa oxy (O) và lưu huỳnh (S) thì một trong các cặp điện tử của các nguyên tử khác vòng góp phần vào hệ thống vòng thơm (tương tự như các vòng thơm chứa nitơ phi base), trong khi cặp đơn thứ hai trải rộng trong mặt phẳng của vòng (tương tự như các vòng thơm chứa nitơ base).
Một số ví dụ
Các vòng thơm4 cạnh kết hợp:
Benzocyclobuten
Các vòng thơm5 cạnh và dạng kết hợp:
Pentalen
Furan
Benzofuran
Isobenzofuran
Pyrrol
Indol
Isoindol
Thiophen
Benzothiophen
Benzo[c]thiophen
Imidazol
Benzimidazol
Purin
Pyrazol
Indazol
Oxazol
Benzoxazol
Isoxazol
Benzisoxazol
Thiazol
Benzothiazol
Các vòng thơm6 cạnh và dạng kết hợp:
Benzen
Naphthalen
Anthracen
Pyridin
Quinolin
Isoquinolin
Pyrazin
Quinoxalin
Acridin
Pyrimidin
Quinazolin
Pyridazin
Cinnolin
Xem thêm
Hợp chất thơm đa vòng
Hydrocarbon thơm đa vòng (PAH)
Tham khảo
Vòng thơm cơ bản
|
21928
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A7n%20Qu%C3%BD%20C%C3%A1p
|
Trần Quý Cáp
|
Trần Quý Cáp (chữ Hán: 陳季恰; 1870 – 1908), tự Dã Hàng, Thích Phu, hiệu là Thai Xuyên. Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình nông dân nghèo ở thôn Thai La, làng Bất Nhị, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Lúc tuổi trẻ, ông đã nổi tiếng là một trong sáu học trò lỗi lạc của cụ Đốc học Mã sơn Trần Đình Phong tại trường Thanh Chiêm cùng với Phạm Liệu, Nguyễn Đình Hiến, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng và Phan Quang. Ông tham gia phong trào Duy Tân chống Pháp, sau đó bị bắt giam và vào năm 1908, ông chịu án chém ngang lưng. Hiện nay vẫn còn đền thờ ông ở thị trấn Diên Khánh, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa.
Tiểu sử
Trần Quý Cáp người làng Bất Nhị, thuộc tỉnh Quảng Nam (Trung phần), hiệu là Thai Xuyên. Mặc dù ông thông minh, học giỏi nhưng lại lận đận trong khoa trường. Năm 1903 ông vẫn còn là Tú tài trong khi các bạn đồng môn người thì Tiến sĩ, kẻ thì Phó bảng hay Cử nhân. Mãi đến năm 1904 ông mới được đặc cách cho thi Hội rồi thi Đình, đỗ Tiến sĩ khoa Giáp Thìn, cùng khoa với Huỳnh Thúc Kháng và Đặng Văn Thụy.
Là một người cầu tiến, và vì chịu ảnh hưởng của các học giả Trung Hoa là Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi, ông cực lực đả kích lối từ chương khoa cử, đề nghị một lối học mới có tinh thần cứu quốc. Năm 1905, ông cùng với các đồng chí là Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng định vào Nam hô hào công cuộc duy tân.
Tới Bình Định gặp lúc quan tỉnh mở kỳ thi khảo hạch, ra đầu bài thơ là Chí thành thông thánh và bài phú Danh sơn Lương Ngọc, cả ba ông định nhân dịp cổ động việc nước, liền nộp quyển làm bài. Những bài của 3 ông khiến quan tỉnh phải điên đầu, báo cáo về triều đình Huế để quyết định.
Vào đến vịnh Cam Ranh, nhân có chiến hạm Nga vào đó lánh nạn, 3 ông thuê thuyền ra tận nơi xem.
Tới Bình Thuận, 3 ông kết giao với các sĩ phu yêu nước tị địa từ miền Nam, bao gồm Trương Gia Mô, Hồ Tá Bang, Nguyễn Hiệt Chi và hai anh em Nguyễn Trọng Lợi, Nguyễn Quý Anh là con trai của nhà thơ yêu nước Nguyễn Thông, dấy lên phong trào Duy Tân ở đây. Chính phong trào này dẫn đến sự sáng lập của Liên Thành Thư Xã, Liên Thành Thương Quán và Dục Thanh Học Hiệu trong các năm sau.
Năm 1907 ông làm Giáo thụ ở phủ Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Ông mở một lớp chữ Pháp trong trường, rước thầy về dạy học sinh. Bọn quan lại cựu học không ưa, liền tìm cách đổi ông vào Khánh Hòa.
Năm 1908, xảy ra cuộc kháng thuế ở Quảng Nam, phần lớn thân sĩ trong tỉnh bị bắt. Việc này làm chấn động các giới trong nước. Tại Khánh Hòa, Trần Quý Cáp làm một bức thư gửi cho các bạn hữu tại Quảng Nam, trong đó có những lời lẽ dí dỏm như sau:
Nghĩa là:
Sau đó ông bị bắt giam và bị chính quyền nhà Nguyễn tỉnh Khánh Hòa khép vào tội mưu phản, lãnh án chém ngang lưng tại Khánh Hòa.
Tương truyền khi gia quyến và học trò đưa quan tài Trần Quý Cáp ngang qua Bồng Sơn (thuộc huyện Hoài Nhơn), Tri phủ Hoài Nhơn Nguyễn Đình Hiến đã thiết án bên đò Bồng Sơn làm lễ, lạy khóc thảm thê. Công sứ Bình Định là A. Sandré (1907 - 1910) biết tin, cho rằng Nguyễn Tri phủ đã đồng lõa với Trần Quý Cáp. Nhờ có Tổng đốc Bình Định là cụ Bùi Xuân Huyên can thiệp, bày cho ông Nguyễn Đình Hiến giả đang mắc bệnh tâm thần nên chuyện mới được cho qua.
Tưởng nhớ
Trước cái chết của Trần Quý Cáp, chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng có làm bài thơ khóc như sau:
Thư kiếm tiêu nhiên độc xuất môn
Nhứt quan thác lạc vị thân tồn
Trực lương tân học khai nô lũy
Thùy tín dân quyền chủng họa côn.
Bồng đảo xuân phong huyền viễn mộng,
Nha Trang thu thảo khấp anh hồn
Khả liên nhứt biệt thành thiên cổ
Đà Nẵng phân trầm tửu thượng ôn.
Dịch:
Gươm xách xăm xăm tách dặm miềnLàm quan vì mẹ há vì tiền
Quyết đem học mới thay nô kiếpAi biết quyền dân nảy họa nguyên.
Bồng đảo gió chưa đưa giấc mộng,Nha Trang cỏ đã khóc hồn thiêng,
Chia tay chén rượu còn đương nóng,Đà Nẵng đưa nhau lúc xuống thuyền.
Hiện có một đền thờ ông tại nơi ông bị xử chém bên cạnh cầu Sông Cạn, thuộc thị trấn Diên Khánh, huyện Diên Khánh, được các nhân sĩ, thân hào, trí thức và nhân dân địa phương xây dựng nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông (1970).
Tại TP Tam Kỳ (Quảng Nam) có đường phố và trường học mang tên ông. Tại TP Hội An và xã Tam Hải, huyện Núi Thành cũng có trường học mang tên ông.
Tại TP Hà Nội có con đường mang tên ông tại khu vực Ga Hà Nội, phường Văn Miếu, quận Đống Đa.
Tại TP Nha Trang (Khánh Hòa) có đường mang tên ông tại phường Phương Sài.
Tại thị xã Ninh Hòa tỉnh Khánh Hòa cũng có đường mang tên ông (1 trong những con đường chính ở Ninh Hòa).
Tại thành phố Móng Cái có một phố mang tên ông, nối từ đường Hùng Vương tới phố Trần Nhật Duật.
Tại Đà Nẵng có đường Trần Cao Vân, chạy qua nhiều phường của quận Thanh Khê.
Hình ảnh
Chú thích
Xem thêm
Tư tưởng duy tân của Trần Quý Cáp
Người Quảng Nam
Phong trào Duy Tân
Nhà thơ Việt Nam
Sinh năm 1870
Mất năm 1908
Tiến sĩ nhà Nguyễn
|
21930
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Furan
|
Furan
|
Furan, còn được biết đến như là furfuran, 1,4-epoxy-1,3-butadien - là một hợp chất hữu cơ thơm khác vòng, được tạo ra khi gỗ (đặc biệt là gỗ thông) được chưng cất. Furan là một chất lỏng trong suốt, không màu, rất dễ bay hơi và dễ cháy, có điểm sôi gần với nhiệt độ phòng. Nó là một chất độc và có thể còn là chất gây ung thư. Phản ứng hiđrô hóa của furan với chất xúc tác là palađi tạo ra tetrahydrofuran.
Furan là một hợp chất thơm do một trong số các cặp đơn điện tử của nguyên tử oxy bị phi cục bộ hóa vào trong vòng, tạo ra hệ vòng thơm 4n+2 (xem quy tắc Hückel) tương tự như benzen. Hệ vòng thơm này tạo ra hai vòng điện tử phía trên và phía dưới cấu trúc phẳng của vòng mà không có các liên kết đôi riêng rẽ. Cặp đơn điện tử khác của nguyên tử oxy trải rộng ra trong mặt phẳng của hệ thống vòng phẳng. Do tính thơm của mình nên các tính chất của furan là hoàn toàn khác với các tính chất của các ête khác vòng thông thường khác, chẳng hạn như của tetrahydrofuran (THF). Nó hoạt động hóa học mạnh hơn đáng kể so với benzen trong các phản ứng thế ái lực điện tử. Việc tổng hợp hữu cơ kinh điển của furan là tổng hợp Feist-Benary.
Xem thêm
Tetrahydrofuran (THF), hóa chất đã hiđrô hóa hoàn toàn của furan và là một trong các dung môi thông dụng.
Pyrol, hóa chất chứa nitơ tương tự như furan.
Thiophen, hóa chất chứa lưu huỳnh tương tự như furan.
Benzofuran, furan với vòng kết hợp benzen.
Dibenzofuran, một lớp hợp chất tương tự như các đibenzođioxyn.
Các vòng thơm đơn
Chỉ dẫn an toàn hóa chất
Bằng tiếng Anh:
MSDS cho furan
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hóa điện toán tại Wiki
Nhân hương phương cơ bản
|
21933
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%B4%20la%20%C3%9Ac
|
Đô la Úc
|
Đô la Úc (ký hiệu: $, mã: AUD) là tiền tệ chính thức của Thịnh vượng chung Australia, bao gồm Đảo Giáng Sinh, Quần đảo Cocos (Keeling), Đảo Norfolk. Nó cũng là tiền tệ chính thức của các Quần đảo Thái Bình Dương độc lập bao gồm Kiribati, Nauru và Tuvalu. Ở ngoài lãnh thổ Úc, nó thường được nhận dạng bằng ký hiệu đô la ($), A$, đôi khi là AU$ nhằm phân biệt với những nước khác sử dụng đồng đô la. Một đô la chia làm 100 cents.
Vào tháng 4 năm 2016, Đô la Úc là loại tiền tệ phổ biến thứ năm trên thế giới, chiếm 6.9% tổng giá trị thị trường. Trong thị trường ngoại hối, nó chỉ đứng sau đồng Đô la Mỹ, đồng Euro, đồng Yên Nhật và đồng Bảng Anh. Đô la Úc rất phổ biến với các nhà đầu tư, bởi vì nó được đánh giá rất cao tại Úc, có tính tự do chuyển đổi cao trên thị trường, sự khả quan của nền kinh tế Úc và hệ thống chính trị, cung cấp lợi ích đa dạng trong đầu tư so với các đồng tiền khác trên thế giới, đặc biệt là sự tiếp xúc gần gũi với kinh tế châu Á. Đồng tiền này thường được các nhà đầu tư gọi là Aussie dollar.
Lịch sử
Cùng với đồng pound, shilling và pence bị thay thế bởi bởi tiền tệ thập phân vào ngày 14 tháng 2 năm 1966. Năm 1963, Thủ tướng Robert Menzies, một người theo chế độ quân chủ, đã đề nghị đặt tên đồng tiền là royal. Những cái tên khác được gợi ý bao gồm austral, oz, boomer, roo, kanga, emu, dinger, quid, dinkum, ming (biệt danh của Menzies). Dưới sự ảnh hưởng của Menzies với sự chọn lựa royal, các bản mẫu đã được thiết kế và in bởi Ngân hàng Dự trữ Úc. Thống đốc Harold Holt công bố quyết định tại Quốc hội vào ngày 5 tháng 6 năm 1963. Một royal sẽ được chia làm 100 cents, nhưng các từ shilling, florin và crown sẽ được dùng để gọi những đồng 10 cents, 20 cents và 50 cents. Cái tên royal đã bị phản đối vì sự thiếu phổ biến, thậm chí Holt và vợ của ông còn bị đe doạ về cái chết. Vào ngày 24 tháng 7, Holt đã có cuộc tiếp xúc với Nội các Chính phủ và khẳng định việc chọn từ royal là một quyết định sai lầm nghiêm trọng và việc chọn tên cần được xem xét lại. Ngày 18 tháng 9, Holt đã trình Quốc hội về việc chọn dollar là cái tên của đồng tiền mới, và được chia làm 100 cents.
Đồng Bảng Úc được phát hành từ năm 1910 và chính thức tách khỏi đồng Bảng Anh từ năm 1931, đã được thay thế bằng đồng đô la vào ngày 14 tháng 2 năm 1966. Tỉ lệ quy đổi của đồng tiền mới là 2 Đô la đổi 1 Bảng Úc, hay 10 shillings đổi 1 Đô la. Tỉ giá ban đầu được gắn vào đồng Bảng Anh với tỉ giá $1 = 8 shillings ($2.50 = UK £1). Năm 1967, Úc rời hệ thống đồng Bảng, tỉ giá đồng Bảng Anh đã được quy đổi sang đồng Đô la Mỹ, và Đô la Úc đã không còn được neo vào đồng Bảng Anh nữa. Tỉ giá đã được quy đối sang Đô la Mỹ với tỉ giá A$1 = US$1.12.
Vào ngày 20 tháng 9 năm 2012, Ngân hàng Dự trữ Úc đã thông báo về dự án nâng cấp đồng tiền hiện tại. Những tờ tiền mới sẽ được nâng cấp về số lượng biện pháp chống giả nhằm tăng tính bảo mật. Đồng tiền mới đầu tiên (tờ mệnh giá 5 đô la) đã được phát hành vào ngày 1 tháng 9 năm 2016. Những mệnh giá còn lại sẽ được ra mắt vào những năm tiếp theo.
Tiền xu
Năm 1966, tiền xu đã được phát hành với các mệnh giá 1 cent, 2 cents, 5 cents, 10 cents, 20 cents, 50 cents. Đồng 50 cents chứa một hàm lượng bạc rất lớn (80%) và được thay thế bằng một loại đồng xu khác có hàm lượng bạc thấp hơn nhằm giảm giá thành sản xuất. Đồng xu 1 đô la được phát hành vào năm 1984, và đồng xu 2 đô la được phát hành vào năm 1988. Đồng 1 cent và 2 cents bị ngừng phát hành từ năm 1991. Để kỷ nhiệm 40 năm ngày phát hành tiền thập phân, năm 2006, Royal Australian Mint đã ra mắt phiên bản giới hạn và lưu nhiệm của đồng 1 cent và 2 cents. Đầu năm 2013, đồng tiền hình tam giác đầu tiên của Úc đã được phát hành nhằm kỷ niệm 25 năm ngày khánh thành toà nhà Quốc hội. Đồng xu $5 chứa 99.9% bạc và có hình ảnh toà nhà Quốc hội từ góc nhìn từ một trong những sảnh của toà nhà. Việc sử dụng tiền tệ được khuyến khích làm tròn đến đồng 5 cents. Tất cả mệnh giá tiền xu đều miêu tả những thứ cao quý nhất của Úc, Nữ hoàng Elizabeth II ở mặt trước. Tất cả đều được đúc bởi Royal Australian Mint.
Úc thường xuyên ra mắt phiên bản lưu nhiệm của đồng 50 cents. Đồng đầu tiên được ra mắt vào năm 1970, kỷ niệm James Cook thăm dò dọc theo bờ biển phía đông của lục địa Úc. Tiếp theo là vào năm 1977 nhằm kỷ niệm 25 năm ngày lên ngôi của Nữ hoàng Elizabeth II, đám cưới của Charles, Thân vương xứ Wales và Diana, Vương phi xứ Wales vào năm 1981, Đại hội thể thao Khối Thịnh vượng chung Brisbane năm 1982, 200 năm thành lập nước Úc vào năm 1988. Một lượng lớn phiên bản đã được phát hành vào những năm 1990s và thế kỷ 21 nhằm phục vụ cho các nhà sưu tầm. Úc cũng đã phát hành phiên bản đặc biệt cho đồng 20 cents, 1 đô la và 2 đô la.
Những đồng 5 cents, 10 cents và 20 cents hiện tại có kích thước giống với mệnh giá tương đương của Đô la New Zealand và đồng 6 pence, shilling và 2 shillings (florin) của Anh. Năm 1990, Anh đã thay thế những đồng tiền trên bằng những đồng khác có kích thước nhỏ hơn, và New Zealand đã làm điều tương tự vào năm 2006 cùng với việc ngừng lưu hành đồng 5 cents. Với khối lượng 15.55 grams (0.549 oz) và đường kính 31.51 mm (1.25 in), đồng 50 cents Úc là một trong những đồng tiền xu lớn nhất được sử dụng trong lưu thông ngày nay. Trong lưu thông, đồng 5 cents cũ, đồng 10 cents và 20 cents Đô la New Zealand đường bị nhầm lẫn với những đồng tiền có mệnh giá tương đương của Úc vì có cùng mệnh giá, kích thước và cạnh. Cho đến khi kích thước của các đồng xu New Zealand được thay đổi vào năm 2004, tiền xu Úc với những mệnh giá dưới đô la vẫn được sử dụng ở cả hai nước. Có một sự nhầm lẫn thú vị giữa tiền xu mệnh giá lớn của 2 nước. Đồng $1 của Úc có kích thước giống đồng $2 của New Zealand, và đồng $1 của New Zealand có kích thước giống đồng $2 của Úc. Kết quả là các đồng xu của Úc thường xuyên được tìm thấy ở New Zealand và ngược lại.
Tiền giấy
Series đầu tiên
Series đầu tiên của Đô la Úc được phát hành vào năm 1966. Các mệnh giá A$1, A$2, A$10 và A$20 đã được phát hành nhằm thay thế đồng bảng. Tờ A$5, A$50 và A$100 lần lượt được phát hành vào các năm 1967, 1973, 1984.
Polymer Series
Tờ tiền polymer đầu tiên được phát hành vào năm 1988 bởi Ngân hàng Dự trữ Australia,là tờ tiền polymer được làm bằng polypropylen (in ấn bởi Note Printing Australia) nhằm kỷ niệm 200 năm ngày người Châu Âu định cư ở Úc. Toàn bộ tờ tiền đang trong lưu thông đều được làm bằng polymer.
New Polymer Series
Phiên bản mới của những tờ tiền polymer đang được thiết kế và sản xuất, bắt đầu với tờ A$5 được phát hành vào ngày 1 tháng 9 năm 2016. Tờ A$10 mới sẽ được phát hành vào tháng 9 năm 2017.
Tỉ giá hối đoái hiện thời của đồng AUD
Tham khảo
Liên kết ngoài
Kinh tế Úc
Tiền tệ châu Đại Dương
Đô la
Đơn vị tiền tệ đang lưu thông
|
21937
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C4%A9nh%20Y%C3%AAn
|
Vĩnh Yên
|
Vĩnh Yên là thành phố tỉnh lỵ của tỉnh Vĩnh Phúc, Việt Nam.
Vĩnh Yên là trung tâm kinh tế trọng điểm, là đầu mối giao thông quan trọng của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Đây là nơi từng diễn ra trận đối đầu đầu tiên của tướng Võ Nguyên Giáp và tướng Jean de Lattre de Tassigny: Trận Vĩnh Yên (tháng 1 năm 1951).
Địa lý
Thành phố Vĩnh Yên nằm ở trung tâm tỉnh Vĩnh Phúc, có vị trí địa lý:
Phía tây và phía bắc giáp huyện Tam Dương
Phía nam giáp huyện Yên Lạc
Phía đông giáp huyện Bình Xuyên.
Thành phố Vĩnh Yên có diện tích 50,39 km² và 123.353 nhân khẩu (năm 2021). Cách thủ đô Hà Nội 55 km về phía tây, cách thành phố Việt Trì 30 km về phía đông bắc và cách sân bay Quốc tế Nội Bài 25 km.
Hành chính
Thành phố Vĩnh Yên có 9 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 8 phường: Định Trung, Đống Đa, Đồng Tâm, Hội Hợp, Khai Quang, Liên Bảo, Ngô Quyền, Tích Sơn và xã Thanh Trù.
Lịch sử
Đô thị Vĩnh Yên hiện nay được thành lập vào ngày 29 tháng 12 năm 1899.
Theo dòng lịch sử, Vĩnh Yên trước khi có tên gọi như ngày nay đã là một vùng đất được hình thành từ lâu đời với 3 vùng sinh thái: Vùng núi, Vùng đồi xâm thực bóc màu, và vùng rìa đồng bằng châu thổ. Đây là nơi từ ngàn xưa đã có con người sinh sống.
Thời Hùng Vương thế kỷ thứ VII đến năm 210 trước công nguyên, khu vực Vĩnh Yên thuộc Bộ Văn Lang. Thời Thục An Dương Vương 210 đến năm 179 trước công nguyên thuộc Bộ Mê Linh. Trong thời kỳ phong kiến phương bắc đô hộ thuộc Quận Giao Chỉ, sau đó thuộc Quận Phong Châu.
Đến thời kỳ Nhà Trần, thế kỷ XIII – XIV thuộc huyện Tam Dương, Trấn Tuyên Quang thời nhà Lê thuộc phủ Đoan Hùng, Trấn Sơn Tây. Thời Nhà Nguyễn, phần lớn Vĩnh Yên thuộc phủ Tam Đái, một phần nhỏ thuộc phủ Đoan Hùng, đều thuộc trấn Sơn Tây.
Ngày 20 tháng 10 năm 1890 đến tháng 4 năm 1891, Vĩnh Yên thuộc địa phận đạo Vĩnh Yên.
Ngày 12 tháng 4 năm 1891, đạo Vĩnh Yên giải thể, Vĩnh Yên trở lại thuộc tỉnh Sơn Tây.
Ngày 29 tháng 12 năm 1899, tỉnh Vĩnh Yên được thành lập, trung tâm tỉnh lỵ được đặt tại một vùng đất thuộc xã Tích Sơn: Núi An Sơn (có tên nôm là Đồi Cao ngày nay) được gọi là Vĩnh Yên, cái tên Vĩnh Yên chính thức có từ đó (Tên gọi Vĩnh Yên là tên ghép bởi hai chữ đầu của phủ Vĩnh Tường và huyện Yên Lạc. Nơi đặt trung tâm tỉnh lỵ lúc đó là xã Tích Sơn thuộc huyện Tam Dương, xã có 5 làng cổ là: Đậu - Dẩu, Khâu, Tiếc, Hạ, Sậu
Năm 1903, đô thị Vĩnh Yên được xác lập gồm 2 phố: Vĩnh Thành, Vĩnh Thịnh và 10 làng cổ là: Cổ Độ, Bảo Sơn, Đạo Hoằng, Hán Lữ, Định Trung, Đôn Hậu, Khai Quang, Nhân Nhũng, Xuân Trừng và làng Vĩnh Yên.
Năm 1968, hai tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ hợp nhất thành tỉnh Vĩnh Phú, thị xã Vĩnh Yên thuộc tỉnh Vĩnh Phú, bao gồm 4 phường: Đống Đa, Liên Bảo, Ngô Quyền và Tích Sơn. Tuy nhiên, thị xã không phải là tỉnh lỵ của tỉnh Vĩnh Phú, mà tỉnh lỵ là thành phố Việt Trì.
Năm 1977, sáp nhập 2 xã Định Trung và Khai Quang thuộc huyện Tam Dương và thị trấn Tam Đảo vào thị xã Vĩnh Yên.
Ngày 26 tháng 11 năm 1996, tỉnh Vĩnh Phúc được tái lập từ tỉnh Vĩnh Phú và thị xã Vĩnh Yên trở lại là tỉnh lỵ tỉnh Vĩnh Phúc.
Ngày 18 tháng 8 năm 1999, Chính phủ ra Nghị định điều chỉnh địa giới, mở rộng thị xã Vĩnh Yên như sau:
Sáp nhập thôn Lai Sơn (xã Thanh Vân, huyện Tam Dương), khu đồi Son (xã Vân Hội, huyện Tam Dương), thôn Lạc Ý (xã Đồng Cương, huyện Yên Lạc) vào thị trấn Tam Dương.
Sáp nhập thị trấn Tam Dương (thuộc huyện Tam Dương) vào thị xã Vĩnh Yên; trên cơ sở diện tích và dân số thị trấn Tam Dương, chia thị trấn Tam Dương thành 2 phường: Đồng Tâm và Hội Hợp.
Thành lập xã Thanh Trù trên cơ sở diện tích và dân số hai thôn Vị Thanh, Vị Trù (xã Quất Lưu, huyện Bình Xuyên tách ra).
Sáp nhập xã Thanh Trù vào thị xã Vĩnh Yên.
Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính, thị xã Vĩnh Yên có 5.079,27 ha diện tích tự nhiên và 65.727 nhân khẩu, gồm 10 đơn vị hành chính trực thuộc là các phường: Ngô Quyền, Đống Đa, Liên Bảo, Tích Sơn, Đồng Tâm, Hội Hợp, các xã: Định Trung, Khai Quang, Thanh Trù và thị trấn Tam Đảo.
Ngày 9 tháng 12 năm 2003, thị trấn Tam Đảo được tách khỏi thị xã Vĩnh Yên để sáp nhập vào huyện Tam Đảo mới tái lập. Sau lần điều chỉnh địa giới hành chính này, diện tích tự nhiên thị xã Vĩnh Yên là 50,08 km², dân số trên 100.000 người.
Ngày 23 tháng 11 năm 2004, chuyển xã Khai Quang thành phường Khai Quang.
Tháng 12 năm 2004, thị xã Vĩnh Yên được công nhận là đô thị loại III.
Ngày 1 tháng 12 năm 2006, chuyển thị xã Vĩnh Yên thành thành phố thuộc tỉnh Vĩnh Phúc. Thành phố Vĩnh Yên có 7 phường: Đống Đa, Đồng Tâm, Hội Hợp, Khai Quang, Liên Bảo, Ngô Quyền, Tích Sơn và 2 xã: Định Trung, Khai Quang.
Ngày 23 tháng 10 năm 2014, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định công nhận
thành phố Vĩnh Yên là đô thị loại II trực thuộc tỉnh Vĩnh Phúc.
Ngày 10 tháng 4 năm 2023, chuyển xã Định Trung thành phường Định Trung.
Thành phố Vĩnh Yên có 8 phường và 1 xã như hiện nay.
Khí hậu
Kinh tế
Với quyết tâm xây dựng thành phố Vĩnh Yên hiện đại, là nơi hội tụ - phồn vinh, kể từ ngày tái lập tỉnh (1997) thành phố đã duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, vững chắc; chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh dịch vụ - thương mại; giảm tỷ trọng nông nghiệp và phát triển bền vững. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 21,89%. Đến năm 2010, tỷ trọng công nghiệp chiếm 52,42% (năm 2013 còn 43,2%), thương mại - dịch vụ chiếm 45,11% (năm 2013 tăng lên 55,1%), nông - lâm - thủy sản chiếm 2,47% (năm 2013 giảm còn 1,7%); GDP bình quân đầu người ước đạt 2.914 USD (năm 2013 đạt gần 4.100 USD); thu ngân sách Nhà nước năm 2013 đạt trên 1.900 tỷ đồng. Giá trị sản xuất giá cố định năm 2013 đạt 10.590,89 tỷ đồng, tăng 14,39% so với năm 2012. Cùng với sự phát triển của các khu công nghiệp, thành phố đã tập trung phát triển các cụm kinh tế nằm ở các xã, phường Tích Sơn, Đồng Tâm, Hội Hợp phục vụ cho các dự án có quy mô vừa và nhỏ.vvv
Tổng giá trị sản xuất tăng 17,7%; giá trị gia tăng tăng 18,4% so với cùng kỳ. Trong đó: Dịch vụ tăng 23,2%; Công nghiệp - Xây dựng tăng 13,8%; Nông - lâm nghiệp, thủy sản tăng 2,9% so cùng kỳ. GrDP đạt 4.019 USD/ng. Thu ngân sách 2.200 tỷ đồng.
Hiện thành phố có khu công nghiệp (KCN) Khai Quang và cụm công nghiệp Lai Sơn. KCN Khai Quang với quy mô diện tích 262 ha đã đi vào hoạt động với tỷ lệ lấp đầy và mở rộng thêm. KCN bao gồm các xí nghiệp sản xuất dệt may; cơ khí chính xác; điện tử; điện lạnh; thiết bị; phụ tùng xe máy, ô tô; khuôn kim loại và phi kim...
Bên cạnh đó, hoạt động thương mại đa dạng hóa các hoạt động kinh doanh, đầu tư xây dựng cải tạo các chợ trung tâm thành phố, nâng cấp, hệ thống cơ sở hạ tầng để thu hút đầu tư vào các dự án lớn như: Khu du lịch sinh thái cao cấp Sông Hồng - Thủ Đô, Khu dịch vụ Trại Ổi, khu vui chơi giải trí Nam đầm Vạc, khu đô thị chùa Hà Tiên, khu đô thị Nam Đầm Vạc, khu đô thị Vinaconex Xuân Mai, khu đô thị Phúc Sơn Luxury Villas, khu du lịch Bắc đầm Vạc…
Giao thông
Giao thông đối ngoại
+ Những năm gần đây, sự hình thành và phát triển các tuyến hành lang kinh tế quốc tế và quốc gia liên quan đến Vĩnh Phúc đã đưa Thành phố xích gần hơn với các trung tâm kinh tế,công nghiệp và những Thành phố lớn của đất nước như: hành lang kinh tế Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng, Việt Trì - Hà Giang - Trung Quốc.
+ Thành phố là nơi tập trung các đầu mối giao thông: Quốc lộ số 2 (nối với các tỉnh Phú Thọ, Tuyên Quang, Hà Giang) và tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai; là cầu nối giữa vùng Trung du và miền núi phía Bắc (TDMNPB) với thủ đô Hà Nội; liền kề cảng hàng không quốc tế Nội Bài, qua đường Quốc lộ số 5 thông với cảng biển Hải Phòng và trục hành lang kinh tế đường 18 thông với cảng nước sâu Cái Lân (Quảng Ninh).
+ Đường vành đai 5 của chùm đô thị Hà Nội nối Vĩnh Yên với Sơn Tây - Xuân Mai - Hoà Lạc đi về phía Nam theo đường Hồ Chí Minh và đi Sông Công - Bắc Giang, Phả Lại, Hải Dương, Hưng Yên...
+ Thành phố có tuyến cao tốc qua sân bay Quốc tế Nội Bài ra cảng nước sâu Cái Lân. Sân bay Quốc tế Nội Bài cách Vĩnh Yên 25 km rất thuận lợi.
+ Thành phố có tuyến đường sắt Vĩnh Yên – Lào Cai; Vĩnh Yên – Hà Nội; Vĩnh Yên – Đông Anh – Thái Nguyên đi qua, tương lai sẽ kết nối với hệ thống đường xuyên Á.
Giao thông đối nội
Các tuyến Quốc lộ 2A, 2B, 2C, đường vành đai nối, Vĩnh Yên - Yên Lạc nối trung tâm thành phố với các huyện thị trong tỉnh tạo nên một hệ thống giao thông liên hoàn thông suốt.
Các tuyến xe bus 01, 03, 04, 05, 06, 07, 08, 09 đi các huyện, thị, thành trong tỉnh.
Du lịch
Vĩnh Yên nằm trên tuyến du lịch quốc gia và quốc tế: Hà Nội - Đền Hùng - Sa Pa - Côn Minh.
Từ Vĩnh Yên cũng có thể qua Sơn Tây - Ba Vì - Làng văn hoá dân tộc và khu di tích Chùa Hương.
Y tế
Trong những năm qua, hệ thống cơ sở hạ tầng y tế trên địa bàn thành phố luôn nhận được sự quan tâm của các cấp, ngành trong tỉnh cũng như thành phố để cải tạo, nâng cấp trang thiết bị và đầu tư xây dựng mới. Do vậy, đến nay hầu hết các cơ sở y tế có chất lượng kiên cố và đều trong tình trạng hoạt động tốt, đảm bảo đáp ứng cho nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân trong tỉnh cũng như của khu vực.
Các cơ sở y tế trên địa bàn thành phố hiện nay bao gồm:
- Các cơ sở y tế tuyến khu vực, ngành, bao gồm: Bệnh xá Công an tỉnh, bệnh viện Quân y 109 với tổng số 217 giường.
- Các cơ sở y tế tuyến tỉnh như: Bệnh viện Đa khoa tỉnh, Bệnh viện Sản - Nhi, Bệnh viện Điều dưỡng - Phục hồi chức năng, với tổng số 1.030 giường.
- Các cơ sở y tế tuyến Thành phố: Bệnh viện Đa khoa Tp.Vĩnh Yên, với tổng số 90 giường; Bệnh viện Tâm thần; Bệnh viện Y học cổ truyền.
- Ngoài ra còn có Y tế tuyến phường, xã và các cơ sở khám chữa bệnh ngoài công lập khác như Bệnh viện hữu nghị Lạc Việt, Y cao Hà Nội.....
Tổng số giường bệnh toàn thành phố là 1.657 giường. Trong đó, tổng số giường bệnh phục vụ cho nhu cầu khám chữa bệnh khu vực nội thành thành phố là 535 giường (chiếm 40% tổng số giường bệnh toàn thành phố)
Giáo dục
Các trường đại học, cao đẳng, TCCN
Đại học Công nghệ Giao thông Vận tải.
Học viện Kỹ thuật quân sự
Trường Sĩ quan Tăng - Thiết giáp
Trường Hạ sĩ quan Tăng - Thiết giáp
Cao đẳng Vĩnh Phúc
Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Vĩnh Phúc
Trung cấp Văn hóa Nghệ thuật Vĩnh Phúc
Trung cấp Y tế Vĩnh Phúc
Các trường THPT, TT GDTX
THPT chuyên Vĩnh Phúc
THPT Trần Phú
THPT Vĩnh Yên
THPT Liên Bảo(THPT Dân lập Vĩnh Yên)
THPT Kim Ngọc
THPT Nguyễn Thái Học
Đặc sản
Tép dầu đầm Vạc
Đầm Vạc, nơi sản sinh ra loại tép được tán tụng "Cỗ chín lợn, mười trâu/ Cũng không bằng tép dầu Đầm Vạc". Đầm Vạc là một đầm nước tự nhiên rất lớn nằm ở trung tâm Thành phố Vĩnh Yên. Diện tích mặt nước đầm rộng gần 500ha, đáy sâu nhất 4,5m, trung bình 3,8m. Đầm Vạc là nơi cung cấp một lượng lớn hải sản cho người dân Vĩnh Yên và quanh vùng, trong đó có món tép dầu, có người viết là "giầu", và giải thích rằng tép giầu đầm Vạc khi rán và kho khô nó có màu sắc và hình dáng giống cái bã giầu - bã trầu, các bà các chị ở nông thôn sau khi ăn giầu vứt bỏ.
Con tép dầu đầm Vạc có chiều dài của từ 5 –7 cm, chiều ngang chừng 1 cm. Mùa thu hoạch tép dầu từ tháng 8 – 10, khi đó, bụng tép chứa đầy trứng nên ăn rất ngon. Tép dầu đầm Vạc xương ít và mềm, rán ăn ròn tan, béo ngậy, kho tương vừa ngọt vừa bùi. Các cụ ngày xưa đã có câu ca để tán tụng về món ăn dân dã này, rằng "đặc sản tép dầu đầm Vạc" còn ngon hơn cả thịt trâu, thịt lợn.
Di tích
Trên địa bàn thành phố hiện có 82 công trình di tích (khu vực nội thành có 65 công trình; khu vực ngoại thành có 17 công trình).
- Số công trình di tích được công nhận cấp Quốc gia: 02 công trình, trong đó khu vực nội thành có 02 công trình (Đình Đông Đạo – Phường Đồng Tâm, Chùa Tích Sơn – P. Tích Sơn).
- Số công trình di tích được công nhận cấp tỉnh: 28 công trình, trong đó khu vực nội thành có tổng số 17 công trình; khu vực ngoại thành có tổng số 11 công trình.
Các công trình lịch sử, văn hóa hiện có trên địa bàn thành phố gắn với di tích lịch sử, mang những nét văn hóa đặc sắc, góp phần thúc đẩy phát triển các loại hình du lịch trên địa bàn thành phố như: tham quan, tìm hiểu lịch sử cách mạng của dân tộc hoặc du lịch tâm linh, v.v... đồng thời đây cũng chính là nguồn cổ vũ tinh thần to lớn đối với của nhân dân thành phố nói riêng và nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc nói chung trong công cuộc xây dựng và phát triển thành phố theo hướng hiện đại, bền vững nhưng vẫn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc. Có thể kể đến như Chùa Hà Tiên ở xã Định Trung là một trong những trung tâm phật giáo lớn thời Lý, Trần. Đây cũng là di tích lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh khi người về thăm tỉnh Vĩnh Phúc, đến thưởng ngoạn thắng cảnh chùa Hà Tiên ngày 25/1/1963.
Chú thích
Vĩnh Yên
Đô thị Việt Nam loại II
|
21938
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/K%C3%BD%20hi%E1%BB%87u%20%C4%91%C3%B4%20la
|
Ký hiệu đô la
|
Dấu đô la ($) là dấu dùng trong một số đơn vị tiền tệ bằng đô la, như Đô la Mỹ, Đô la Canada, và Peso,...
Có nhiều huyền thoại về nguồn gốc của dấu "$" để chỉ đồng đô la. Vì đô la thoạt tiên là đồng 8 real của Tây Ban Nha, có người cho rằng hình chữ 'S' có nguồn từ số "8" được viết trên đồng tiền này. Giải thích được nhiều người chấp nhận nhất là dấu "$" được bắt nguồn từ chữ "PS" (cho "peso" hay "piastre") được viết trên nhau trong tiếng Tây Ban Nha. Về sau, chữ "P" biến thành một dấu gạch thẳng đứng (|) vì vòng cong đã biến vào trong vòng cong của chữ "S". Giải thích này được ủng hộ khi khám xét vào tài liệu cũ. Dấu "$" đã được sử dụng trước khi tiền đô la Tây Ban Nha đã được dùng làm tiền tệ chính thức trong năm 1785.
Ký hiệu đô la đôi khi còn được viết với hai dấu gạch thẳng đứng. Có lẽ đây chỉ là thói quen viết ba nét để viết dấu hiệu cũ: một nét cho chữ "S", một nét cho đường gạch đứng, và nét cuối cho đường cong trong chữ "P". Những người viết nhanh không chú ý đến việc viết một chữ "P" cho đúng cho nên tiện tay viết một dấu gạch nữa.
Có một số giải thích khác cho dấu gạch thứ hai – có người cho rằng dấu "$" xuất thân từ hai chữ "U" và "S" viết chồng trên nhau (vòng cong của chữ "U" cùng nét với vòng cong ở dưới chữ "S"), cũng có người cho rằng hai đường gạch tượng trưng cho hai cây cột trụ trong Đền thờ Solomon tại Jerusalem. Hai giải thích này không có chứng cớ vì cách viết này đã có trước khi nước Hoa Kỳ (viết tắt tiếng Anh là "US") được thành lập, hay vì không có bằng chứng trong lịch sử đồng Tây Ban Nha.
Tham khảo
Ký hiệu tiền tệ
Đô la
Hóa tệ học
Peso
|
21942
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%E1%BB%87t%20Tr%C3%AC
|
Việt Trì
|
Việt Trì là thành phố tỉnh lỵ tỉnh Phú Thọ, Việt Nam. Thành phố Việt Trì là đô thị trung tâm của các tỉnh Trung du và miền núi Bắc Bộ và là một trong 22 đô thị loại I của Việt Nam. Việt Trì là trung tâm kinh tế chính trị, văn hóa, khoa học kĩ thuật của tỉnh Phú Thọ, có vị trí quan trọng về quốc phòng, an ninh và là đô thị động lực trong phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Phú Thọ và cả vùng trung du và miền núi Bắc Bộ.
Được xem là đất phát tích, kinh đô đầu tiên của dân tộc Việt Nam, Việt Trì là thành phố du lịch về với cội nguồn dân tộc Việt Nam, nơi có kinh đô Văn Lang - kinh đô đầu tiên của người Việt, quê hương đất tổ vua Hùng. Nơi đây còn là thành phố công nghiệp, công nghệ kỹ thuật cao. Đây cũng là cửa ngõ vùng Tây Bắc, đầu mối giao thông nối giữa các tỉnh trung du và miền núi phía bắc với thủ đô Hà Nội và các tỉnh đồng bằng Bắc bộ, nằm trên hành lang kinh tế Hải Phòng - Hà Nội - Côn Minh (Trung Quốc).
Thành phố Việt Trì được biết đến là thành phố công nghiệp đầu tiên ở miền Bắc Xã hội chủ nghĩa với các ngành dệt, giấy, hóa chất, sứ,... và còn được gọi là thành phố ngã ba sông vì nằm gần nơi hợp lưu của sông Thao, sông Lô và sông Đà thành sông Hồng.
Hiện nay, thành phố Việt Trì là trung tâm chính trị, hành chính và kinh tế, xã hội của tỉnh Phú Thọ và trung tâm của liên tỉnh phía bắc. Việt Trì được Thủ tướng Chính phủ cho phép đầu tư để trở thành một trong những đô thị lớn nhất Việt Nam. Ngày 10/3 âm lịch hàng năm, vào dịp Giỗ tổ Hùng Vương, hàng triệu người dân từ khắp cả nước lại nô nức về núi Nghĩa Lĩnh nằm tại địa phận thôn Cổ Tích - xã Hy Cương - Việt Trì để thăm viếng tổ tiên.
Lịch sử
Việt Trì là vùng đất nằm ở vị trí chuyển tiếp từ địa hình đồi núi sang địa hình đồng bằng, đỉnh của tam giác châu thổ sông Hồng. Từ trung tâm thành phố nhìn về phía tây nam là núi Ba Vì, phía Đông Bắc là dãy núi Tam Đảo. Ở phía tây tây bắc thành phố là núi Nghĩa Lĩnh, nơi có đền thờ các vua Hùng. Trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử, vùng đất Việt Trì đã nhiều lần thay đổi ranh giới hành chính và sự phân cấp quản lý hành chính.
Vào thời đại Hùng Vương, vùng Việt Trì - Bạch Hạc là trung tâm chính trị - kinh tế và được coi là kinh đô của Nhà nước Văn Lang.
Dưới thời thuộc Hán, vùng Việt Trì thuộc về huyện Mê Linh, quận Giao Chỉ.
Thời Tam Quốc - Lưỡng Tấn và thời nhà Tuỳ (thế kỷ III đến thế kỷ VI) thuộc huyện Gia Ninh, quận Tân Xương.
Đời nhà Đường, vùng Việt Trì thuộc huyện Thừa Hóa, quận Phong Châu;
Thời Loạn 12 sứ quân (944-967), Việt Trì nằm trong khu vực chiếm giữ của sứ quân Kiều Công Hãn.
Thời Lý - Trần, Việt Trì thuộc về châu Thao Giang, lộ Tam Giang.
Thời nhà Lê, Việt Trì là một thôn thuộc xã Bạch Hạc, phủ Tam Đới (Tam Đái), trấn Sơn Tây.
Đầu thời Nguyễn, địa giới Việt Trì cơ bản vẫn giữ như thời Hậu Lê.
Năm 1832, vua Minh Mạng tiến hành cải cách hành chính, đổi tất cả các trấn trong cả nước thành tỉnh. Thôn Việt Trì thuộc về phường Bạch Hạc, phủ Vĩnh Tường, phủ Tam Đái; sau đổi thành phủ Vĩnh Tường, tỉnh Sơn Tây.
Sau khi xâm lược nước ta, thực dân Pháp xáo trộn lại các đơn vị hành chính cũ, lập ra những tỉnh mới nhỏ hơn trước để dễ quản lý và đàn áp. Việt Trì tách khỏi xã Bạch Hạc, trở thành một làng trong tổng Lâu Thượng, huyện Hạc Trì; còn xã Bạch Hạc vẫn nằm trong huyện Bạch Hạc, phủ Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên.
Nhận rõ Việt Trì là cửa ngõ án ngữ các tuyến đường giao thông thủy, bộ ở phía Bắc Việt Nam, không chỉ có vị trí quan trọng về mặt kinh tế mà còn là tiền đồn trọng điểm về quân sự, ngày 22 tháng 10 năm 1907, toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập thị trấn Việt Trì và đặt trung tâm huyện lỵ Hạc Trì tại đây.
Cách mạng tháng 8-1945 thành công, Việt Trì thuộc liên xã Sông Lô bao gồm các xã: Lâu Hạ, Hạ Giáp, Thuần Lương, Việt Trì làng và Việt Trì phố.
Tháng 2 năm 1945, thị trấn Việt Trì được tái lập gồm ba khu phố: Thuần Lương, Việt Hưng và Việt Lợi.
Ngày 7 tháng 6 năm 1957, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định cho sáp nhập thị trấn Bạch Hạc thuộc huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc về thị trấn Việt Trì và chuyển thành thị xã Việt Trì.
Ngày 2 tháng 1 năm 1960, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 003-TTg sáp nhập ba xã: Chính Nghĩa, Sông Lô, Trưng Vương của huyện Hạc Trì vào thị xã Việt Trì.
Ngày 4 tháng 6 năm 1962, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 65-CP thành lập thành phố Việt Trì trực thuộc tỉnh Phú Thọ trên cơ sở thị xã Việt Trì và 4 xã: Lâu Thượng, Minh Khai, Minh Phương (trừ xóm Minh Phú), Tân Dân thuộc huyện Hạc Trì. Cũng trong năm này, Chính phủ ra quyết định giải thể huyện Hạc Trì, chuyển 2 xã: Hùng Thao (nay là xã Cao Xá) và xã Thống Nhất (nay là xã Thụy Vân) nhập vào huyện Lâm Thao, những xã còn lại nhập vào Thành phố Việt Trì; xã Chính Nghĩa đổi tên thành xã Tiên Cát; xã Minh Khai đổi tên thành xã Minh Nông.
Cũng trong ngày ngày 26 tháng 1 năm 1968, Uỷ ban thường vụ Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra Nghị quyết số 504-NQ/TVQH tiến hành hợp nhất hai tỉnh Phú Thọ và Vĩnh Phúc thành tỉnh Vĩnh Phú. Thành phố Việt Trì trở thành tỉnh lỵ của Vĩnh Phú. Sau năm 1975; thành phố Việt Trì có 4 phường: Tân Dân, Thanh Miếu, Tiên Cát, Vân Cơ, thị trấn Bạch Hạc và 6 xã: Quất Thượng, Sông Lô, Minh Phương, Dữu Lâu, Lâu Thượng, Minh Nông.
Ngày 27 tháng 6 năm 1977, hợp nhất ba xã Quất Thượng, Lâu Thượng và Sông Lô thành xã Trưng Vương.
Ngày 5 tháng 7 năm 1977, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định hợp nhất và điều chỉnh địa giới một số huyện thuộc tỉnh Vĩnh Phú. Các xã Vân Phú, Phượng Lâu của huyện Phù Ninh, xã Thụy Vân của huyện Lâm Thao, thôn Mộ Chu Hạ, thôn Lang Đài của xã Bồ Sao, huyện Vĩnh Tường sáp nhập về thành phố Việt Trì (trong đó, các thôn Mộ Chu Hạ, Lang Đài được sáp nhập vào thị trấn Bạch Hạc).
Ngày 13 tháng 1 năm 1984, Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định phân vạch địa giới xã, phường của Thành phố Việt Trì. Theo đó, giải thể thị trấn Bạch Hạc để thành lập phường Bạch Hạc; đồng thời chia lại các phường cũ, lập các phường mới: chia phường Thanh Miếu thành 2 phường: Thanh Miếu và Thọ Sơn; chia phường Vân Cơ thành 3 phường: Gia Cẩm, Nông Trang, Vân Cơ.
Ngày 11 tháng 10 năm 1986, chia xã Trưng Vương thành 2 xã Sông Lô và Trưng Vương. Đến thời điểm này, thành phố Việt Trì gồm 8 phường: Bạch Hạc, Thanh Miếu, Thọ Sơn, Tiên Cát, Gia Cẩm, Nông Trang, Vân Cơ, Tân Dân và 8 xã: Dữu Lâu, Minh Phương, Minh Nông, Vân Phú, Sông Lô,Trưng Vương, Phượng Lâu, Thụy Vân.
Ngày 6 tháng 11 năm 1996, Quốc hội khoá IX ra Nghị quyết tách tỉnh Vĩnh Phú thành 2 tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ, thành phố Việt Trì tiếp tục là trung tâm chính trị- kinh tế- văn hoá của tỉnh Phú Thọ.
Ngày 8 tháng 4 năm 2002, Chính phủ ra Nghị định số 39/2002/NĐ-CP, thành lập phường Dữu Lâu (trên cơ sở giải thể xã Dữu Lâu) và phường Bến Gót (tách ra từ phường Thanh Miếu) thuộc thành phố Việt Trì.
Ngày 14 tháng 10 năm 2004, Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định số 180/QĐ-TTg công nhận thành phố Việt Trì là đô thị loại 2.
Đến cuối năm 2005, thành phố Việt Trì có 16 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 10 phường: Bạch Hạc, Bến Gót, Dữu Lâu, Gia Cẩm, Nông Trang, Tân Dân, Thanh Miếu, Thọ Sơn, Tiên Cát, Vân Cơ và 6 xã: Minh Nông, Minh Phương, Phượng Lâu, Sông Lô, Thụy Vân, Trưng Vương, Vân Phú.
Ngày 10 tháng 11 năm 2006, chuyển 3 xã: Chu Hóa, Hy Cương, Thanh Đình của huyện Lâm Thao và 2 xã: Hùng Lô, Kim Đức của huyện Phù Ninh về thành phố Việt Trì quản lý.
Ngày 1 tháng 7 năm 2008, chuyển toàn bộ diện tích và dân số của xã Tân Đức thuộc huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây về thành phố Việt Trì quản lý theo Nghị quyết số 14/2008/QH12 của Quốc hội.
Ngày 5 tháng 5 năm 2010, thành lập 3 phường: Minh Nông, Minh Phương và Vân Phú trên cơ sở 3 xã có tên tương ứng.
Ngày 4 tháng 5 năm 2012, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định công nhận thành phố Việt Trì là đô thị loại 1 trực thuộc tỉnh Phú Thọ.
Ngày 1 tháng 1 năm 2020, sáp nhập xã Tân Đức vào phường Minh Nông.
Thành phố Việt Trì có 22 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, gồm 13 phường và 9 xã như hiện nay.
Địa lý
Vị trí địa lý
Thành phố Việt Trì nằm ở phía đông của tỉnh Phú Thọ, nằm cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 70 km về phía tây bắc, cách cửa khẩu quốc tế Lào Cai khoảng 350 km về phía đông, cách trung tâm thành phố Hải Phòng khoảng 140 km về phía tây bắc, có vị trí địa lý:
Phía đông giáp huyện Vĩnh Tường và huyện Lập Thạch thuộc tỉnh Vĩnh Phúc
Phía tây giáp huyện Lâm Thao
Phía nam giáp huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội
Phía bắc giáp huyện Phù Ninh và huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc.
Các điểm cực của thành phố là:
Cực Bắc: Xóm Dầm, xã Kim Đức.
Cực Tây: Xóm Vàng, xã Chu Hóa.
Cực Nam: Khu Mộ Chu Hạ, Phường Bạch Hạc.
Cực Đông: Xóm Vinh Quang, xã Sông Lô.
Khí hậu
Thành phố Việt Trì nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm, có một mùa đông lạnh sâu sắc với trên ba tháng nhiệt độ xuống dưới 18 độ C, nét đặc trưng của Miền Bắc Việt Nam.
Nhiệt độ trung bình năm khoảng 23 độ C.
Lượng mưa trung bình trong năm khoảng 1.600 đến 1.800 mm.
Độ ẩm trung bình trong năm tương đối lớn, khoảng 85 – 87%.
Hành chính
Thành phố Việt Trì có 22 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 13 phường: Bạch Hạc, Bến Gót, Dữu Lâu, Gia Cẩm, Minh Nông, Minh Phương, Nông Trang, Tân Dân, Thanh Miếu, Thọ Sơn, Tiên Cát, Vân Cơ, Vân Phú và 9 xã: Chu Hóa, Hùng Lô, Hy Cương, Kim Đức, Phượng Lâu, Sông Lô, Thanh Đình, Thụy Vân, Trưng Vương.
Kinh tế - xã hội
Kinh tế
Việt Trì là thành phố công nghiệp đầu tiên của miền Bắc Việt Nam. Thành phố có nhiều tiềm năng phát triển công, nông, thương nghiệp và dịch vụ. Các ngành công nghiệp phát triển gồm có: hóa chất, giấy, may mặc,...
Trên địa bàn thành phố tập trung nhiều nhà máy, xí nghiệp, công ty có quy mô sản xuất công nghiệp với tỷ trọng lớn, hằng năm đóng góp một lượng lớn nguồn ngân sách của tỉnh và giải quyết việc làm cho nhiều lao động cũng như một số khu đô thị mới như: Minh Phương, Bắc Việt Trì, Nam Việt Trì, Tây Nam Việt Trì, Minh Phương - Thụy Vân, khu đô thị Nam Đồng Mạ, Vườn đồi Ong Vàng, Trầm Sào, Nam Đồng Lạc Ngàn, Hòa Phong,...
Các khu, cụm công nghiệp tại Việt Trì
Khu công nghiệp Thụy Vân
Cụm công nghiệp Bạch Hạc
Cụm công nghiệp nam Việt Trì
Cụm công nghiệp làng nghề Phượng Lâu I
Cụm công nghiệp làng nghề Phượng Lâu II.
An ninh quốc phòng
Bộ tư lệnh Quân khu 2 đóng tại thành phố Việt Trì có nhiệm vụ tổ chức, xây dựng, quản lý và chỉ huy quân đội chiến đấu chống giặc ngoại xâm bảo vệ vùng Tây Bắc Việt Nam và bảo vệ thủ đô Hà Nội từ phía tây và tây bắc. Quân khu bao gồm 9 tỉnh: Vĩnh Phúc (vùng đồng bằng sông Hồng), Phú Thọ, Tuyên Quang, Hà Giang (vùng Đông Bắc Bộ), Yên Bái, Lào Cai, Sơn La, Điện Biên và Lai Châu (vùng Tây Bắc Bộ) là một trong 7 quân khu trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam.
Xã hội
Giáo dục
Các trường tiểu học:
Trường TH Thống Nhất
Trường TH Vân Cơ
Trường TH Thọ Sơn: Đường Hai Bà Trưng, phường Thọ Sơn
Trường TH Đinh Tiên Hoàng: Khu 6B, phường Nông Trang
Trường TH Gia Cẩm: Phường Gia Cẩm
Trung tâm BTTEMCTT Việt Trì
Trường TH Bạch Hạc
Trường TH Chính Nghĩa
Trường TH Chu Hóa
Trường TH Dữu Lâu
Trường TH Hòa Bình
Trường TH Hy Cương
Trường TH Kim Đức
Trường TH Minh Nông
Trường TH Minh Phương
Trường TH Phượng Lâu
Trường TH Sông Lô
Trường TH Tân Dân
Trường TH Tân Đức
Trường TH Thanh Miếu
Trường TH Thanh Đình
Trường TH Thụy Vân
Trường TH Tiên Cát
Trường TH Tiên Dung
Trường TH Trưng Vương
Trường TH Vân Phú
Trường TH Hùng Lô
Các trường Trung học cơ sở:
Trường THCS Vân Cơ
Trường THCS Gia Cẩm
Trường THCS Văn Lang
Trường THCS Lý Tự Trọng
Trường THCS Tân Dân
Trường THCS Tiên Cát
Trường THCS Thọ Sơn
Trường THCS Nông Trang
Trường THCS Dữu Lâu
Trường THCS Minh Phương
Trường THCS Hạc Trì
Trường THCS Vân Phú-Manduk
Trường THCS Bạch Hạc
Trường THCS Thụy Vân
Trường THCS Trưng Vương
Trường THCS Thanh Đình
Trường THCS Chu Hoá
Trường THCS Kim Đức
Trường THCS Phượng Lâu
Trường THCS Hùng Lô
Trường THCS Sông Lô
Trường THCS Hy Cương
Trường THCS Tân Đức
Các trường Trường THCS Phổ thông liên cấp Chất lượng cao:
Trường Phổ thông Liên cấp Hùng Vương: Phường Nông Trang.
Các trường trung học phổ thông tại Việt Trì:
Trường THPT Chuyên Hùng Vương: Xã Trưng Vương, phường Thanh Miếu, Việt Trì, Phú Thọ
Trường THPT Việt Trì: Đường Lê Quý Đôn, phường Gia Cẩm
Trường THPT Công nghiệp Việt Trì: Khu đô thị Nam Đồng Mạ, phường Thanh Miếu
Trường THPT Kỹ thuật Việt Trì: Đường Hùng Vương, phường Vân Phú
Trường PT Herman Gmeiner: Đường Châu Phong, phường Dữu Lâu
Trường THPT Dân lập Nguyễn Tất Thành: Đường Nguyễn Tất Thành, phường Gia Cẩm
Trường THPT Dân Lập Vũ Thê Lang: Đường Châu Phong, phường Tân Dân
Trường THPT Dân Lập Trần Phú: Đường Lý Tự Trọng, phường Thanh Miếu.
Trường THPT Chất lượng cao Văn Lang: Đường Hùng Vương, phường Gia Cẩm.
Trường THPT Chất lượng cao Hùng Vương: phường Nông Trang.
Các trường trung cấp:
Trường Trung cấp nghề và công nghệ vận tải Phú Thọ: Đường Trần Nguyên Hãn, phường Thanh Miếu
Trường Trung cấp Nghiệp vụ sông Hồng: Đường Vũ Duệ, phường Nông Trang
Trường Trung cấp Nghề HERMAN GMEINER: KĐT Vườn đồi Ong Vàng, phường Dữu Lâu.
Các trường cao đẳng:
Trường Cao đẳng Công nghiệp thực phẩm: Đường Nguyễn Tất Thành, phường Tân Dân
Trường Cao đẳng Y Dược Fushico: Đường Hùng Vương, phường Gia Cẩm
Trường Cao đẳng Nghề Phú Thọ: Đường Hùng Vương, phường Vân Phú
Trường Cao đẳng Kinh tế Kỹ thuật Phú Thọ: Đường Nguyễn Tất Thành, phường Thọ Sơn
Trường Cao đẳng nghề số 02 - BQP cơ sở 2 (Khoa CNTT): Đường Hùng Vương, phường Gia Cẩm.
Các trường đại học:
Trường Đại học Hùng Vương: Cơ sở 1, đường Nguyễn Tất Thành, phường Nông Trang
Trường Đại học Công nghiệp Việt Trì: Cơ sở 2, đường Tiên Sơn, phường Tiên Cát
Trường Đại học Dự bị dân tộc Trung ương: Số 19, đường Trần Phú, phường Tân Dân.
Y tế
Bệnh viện Đa khoa tỉnh Phú Thọ: Đường Nguyễn Tất Thành, phường Tân Dân
Bệnh viện Xây dựng Việt Trì: Đường Long Châu Sa, phường Thọ Sơn
Bệnh viện Y học cổ truyền và phục hồi chức năng tỉnh Phú Thọ: Đường Trần Phú, phường Gia Cẩm
Bệnh viện Mắt: Phố Ẩm Thực, Đường Nguyễn Du, phường Nông Trang
Bệnh viên Công An tỉnh Phú Thọ: Đường Trần Phú, phường Dữu Lâu
Bệnh viện Nhi (đang xây): Xã Phượng Lâu
Bệnh viện Sản nhi tỉnh Phú Thọ: Đường Nguyễn Tất Thành, phường Nông Trang.
Bệnh viện Đa khoa Việt Đức: Đường Phù Đổng, xã Phượng Lâu.
Dân số
Thành phố Việt Trì hiện nay có 11.175,11 ha diện tích tự nhiên và có dân số năm 2019 là 214.777 người.
Giao thông
Việt Trì với vai trò là thành phố công nghiệp, vị trí là thành phố ngã ba sông và đang phấn đấu trở thành thành phố lễ hội về với cội nguồn nên trong những năm gần đây cơ sở hạ tầng của thành phố được đầu tư xây dựng khá đồng bộ. Nhiều tuyến đường được đầu tư cải tạo, nâng cấp, xây mới theo đúng tiêu chuẩn đường nội thị đảm bảo giao thông luôn được thông suốt. Việc vận chuyển hàng hoá thuận lợi trên cả đường ôtô, đường sắt, đường sông,...
Thành phố Việt Trì có các hệ thống cảng sông: Cảng Bạch Hạc (Phường Bạch Hạc), Cảng Việt Trì (Phường Bến Gót), Cảng Dữu Lâu (Phường Dữu Lâu).
Thành phố Việt Trì có quốc lộ 2 nối thủ đô Hà Nội với các tỉnh thuộc tiểu vùng Tây Bắc, đồng thời còn có tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai chạy qua nơi này, tuyến đường cao tốc Lào Cai Nội Bài cách không xa địa phận thành phố.
Các cây cầu: trong nội thị có cầu Việt Trì và cầu Hạc Trì, ngoài ra còn có cầu Văn Lang (nối với huyện Ba Vì, Hà Nội) và cầu Vĩnh Phú (nối với huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc).
Các tuyến đường chính ở Việt Trì
Đại lộ Hùng Vương: là con đường dài và đẹp nhất thành phố Việt Trì, đây là đường quốc lộ 2 với tên đường giống thành phố Cam Ranh và thành phố Thanh Hóa, bắt từ cầu Việt Trì tới ngã ba Đền Hùng rẽ vào tới cổng chính Đền Hùng với tổng chiều dài là 19,7 km, ở giữa là dải phân cách có hệ thống đèn cao áp và đèn trang trí cùng với rất nhiều các biển quảng cáo, các pa-nô, áp phích tạo nên sự rực rỡ cho con đường về đêm.
Đường Nguyễn Tất Thành: có điểm đầu giao với đường Hùng Vương tại ngã năm phường Bến Gót đến cổng chính Đền Hùng, chiều dài toàn tuyến là 15.5 km. Hầu hết các cơ quan của tỉnh Phú Thọ nằm trên con đường này.
Đường Âu Cơ: đây nguyên là đường đê Sông Lô, phần lớn chạy qua xã Sông Lô, xã Trưng Vương, P. Dữu Lâu, xã Phượng Lâu, xã Hùng Lô. Điểm đầu nối với đường Hùng Vương ở địa phận xã Sông Lô - cách cầu Việt Trì 300m, điểm cuối là cổng chợ Xốm - xã Hùng Lô, tổng chiều dài 17,1 km.
Đường Lạc Long Quân: dài 16,5 km, nguyên đây là 2/3 của đường Sông Thao cũ, bắt đầu từ cầu Việt Trì (xã Sông Lô) đến ngã ba chợ Nú (P. Minh Nông) rẽ lên đê sông Thao đến hết xã Thụy Vân, ranh giới thành phố Việt Trì với xã Cao Xá, huyện Lâm Thao.
Đường Nguyệt Cư : dài 2 km, đây là 1/3 của đường Sông Thao cũ, bắt đầu từ ngã ba chợ Nú (P. Minh Nông) từ đường Lạc Long Quân đến ngã ba Vân Cơ nối với đường Hùng Vương.
Đường Tiên Dung: là tuyến đường nối từ đường Trần Phú, trước cổng Bảo tàng Hùng Vương đến đường Hai Bà Trưng, đây là con đường chạy ven công viên Văn Lang - điểm nhấn của thành phố Việt Trì. Con đường này nằm trên địa bàn P.Tiên Cát.
Đường Trần Nguyên Hãn: kéo dài từ đường Lạc Long Quân đến đường Vũ Thê Lang, nằm trên địa bàn hai phường là Thanh Miếu và Bến Gót.
Đường Mai An Tiêm: kéo dài từ đường Nguyễn Tất Thành đến phố Thiều Hoa.
Đường Hai Bà Trưng: nối từ đường Lạc Long Quân đến đường Nguyễn Tất Thành và sẽ nối với đường Vũ Thê Lang, đây là con đường nằm trên địa bàn P.Thọ Sơn và xã Trưng Vương.
Đường Trần Phú: là con đường nối từ đường Hùng Vương đến đường Âu Cơ tại bến phà Đức Bác (P. Dữu Lâu) với tổng chiều dài là 6 km. Con đường này chạy qua các phường Tiên Cát, Gia Cẩm, Tân Dân và Dữu Lâu.
Đường Châu Phong: nối từ đường Hùng Vương đến đường Trần Phú với tổng chiều dài khoảng 3,5 km, đi qua các phường Gia Cẩm, Tân Dân.
Đường Quang Trung (trước đây là đường Hòa Phong cũ): nối từ đường Hùng Vương đến đường Trần Phú với tổng chiều dài 2 km. Điều đặc sắc của con đường này là ở giữa có dải phân cách rộng, có đường dạo (hiện đã dỡ bỏ tại phường Nông Trang), con đường này chạy qua các phường là Gia Cẩm, Nông Trang, Tân Dân và Dữu Lâu. Nhưng không hiểu thành phố thế nào mà lại đổi tên thành đường Quang Trung, khi mà tên con đường này đã ăn sâu vào tiềm thức của người dân Việt Trì, trong khi hàng quán ở đây vẫn lấy tên Hoà Phong.
Đường Nguyễn Du: nối từ đường Hùng Vương đến đường Trần Phú, đi qua các phường là Nông Trang, Tân Dân và Dữu Lâu.
Đường Đại Nải: nối từ đường Hùng Vương đến hết khu đô thị Minh Phương, trên con đường này có điểm nhấn là Nhà máy Dệt Vĩnh Phú rất nổi tiếng.
Đường Vũ Thê Lang: bắt đầu từ đường Trần Phú đến đường Nguyễn Tất Thành, con đường này có hình vòng cung dài 5 km đi qua các phường xã là Dữu Lâu, Trưng Vương, Thanh Miếu, Sông Lô, Bến Gót.
Đường Tản Viên: nối từ đường Hùng Vương đến đường Âu Cơ đi qua các phường Vân Cơ, Vân Phú, Dữu Lâu và một phần của xã Phượng Lâu.
Đường Trần Toại: nối từ đường Hùng Vương đến đường Phù Đổng (gần nút giao IC7 - Cao tốc Nội Bài - Lào Cai) đi trong phường Vân Phú và xã Phượng Lâu.
Đường Trường Chinh: nối từ đường Phù Đổng đến đường Lạc Long Quân, đi qua các Khu công nghiệp Thuỵ Vân, đi qua các phường Vân Phú, Thụy Vân và xã Phượng Lâu.
Đường Lạc Hồng: nối từ đường Hùng Vương đến hết xã Hy Cương, vốn là QL32C, đây là con đường đặc biệt đi qua đền Quốc Tổ Lạc Long Quân.
Đường Lữ Gia: nối từ đường Trường Chinh (trường CĐ.Nghề) đến đường Hùng Vương (cổng vào Đền Hùng), qua phường Vân Phú và xã Hy Cương.
Đường Văn Lang: chính là đoạn quốc lộ 2 chạy qua 2 xã Kim Đức và Hy Cương, khi mà đường Hùng Vương đến cổng biểu tượng đền Hùng rẽ quặt vào trong phía đền Hùng thì đoạn còn lại của quốc lộ 2 chạy qua thành phố Việt Trì lấy tên là Văn Lang, với chiều dài khoảng 700m đến hết địa phận thành phố.
Đường Bạch Hạc, đường Nhị Hà và đường Trần Nhật Duật là ba con đường chính chạy trên địa bàn Phường Bạch Hạc.
Các con phố chính
P. Trần Nhật Duật, P. Phong Châu, P. Đoàn Kết, P. Kiến Thiết, P. Hoa Long, P. Thạch Khanh, P. Việt Hưng, P. Nguyễn Văn Dốc, P. Lý Tự Trọng, P. Đồi Cam, P. Thanh Hà, P. Long Châu Sa, P. Tam Long, P. Gát, P. Sông Thao P. Minh Lang, P. Tân Xương, P. Bảo Hoa, P. Tiên Sơn, P. Tiên Phú, P. Làng Cả, P. Hàm Nghi, P. Hà Chương, P. Lê Quý Đôn, P. Phan Chu Trinh, P. Hà Liễu, P. Kim Đồng, P. Võ Thị Sáu, P. Lê Văn Tám, P. Nguyễn Thái Học, P. Hoàng Hoa Thám, P. Nguyễn Quang Bích, P. Đinh Tiên Hoàng, P. Vũ Duệ, P. Xuân Nương, P. Tản Đà, P. Đặng Minh Khiêm, P. Đinh Công Tuấn, P. Đỗ Nhuận, P. Tân Việt, P. Nguyễn Thị Minh Khai, P. Thiều Hoa, P. Hàn Thuyên, P. Đồi Giàm, P. Ngô Tất Tố, P. Tô Vĩnh Diện,P. Hồ Xuân Hương,P. Lê Đồng, P. Đông Sơn, P. Gò Mun, P.Nguyễn Trãi, P.Đốc Ngữ, P.Lâm Thắng, P.Lăng Cẩm, P.Lê Đồng, P.Ngọc Hoa, P.Quế Hoa, P.Đồi Xuôi, P.Hoa Vương, P.Hùng Quốc Vương, P.Sau Da, P.Chu Văn An, P. Mã Lao, P.Đào Duy Kỳ, P.Tân Thuận, P.Tân Bình, P.Tân Xuân, P.Tân Thành, P.Văn Cao, P.Nguyễn Đốc Bật, P.Tiền Phong, P.Anh Dũng, P.30/4, P.Hồng Hà,...
Văn hóa - Du lịch
Thành phố Việt Trì là trung tâm du lịch của tỉnh Phú Thọ và các tỉnh miền núi phía Bắc. Nơi đây có khu di tích lịch sử Đền Hùng nổi tiếng hàng năm đón trên 6 triệu lượt khách hành hương về đây vào mỗi dịp 10/3 (âl) và nhiều danh lam thắng cảnh đẹp khác.
Đặc sản
Về ẩm thực, xưa Việt Trì nổi tiếng với cá Anh Vũ, một loại cá nước ngọt chỉ thấy xuất hiện tại ngã ba sông. Hiện nay, những quán cá lăng sông và thịt chó hấp dẫn du khách đến với thành phố ngã ba sông.
Khu di tích lịch sử Đền Hùng
Quần thể di tích đền Hùng nằm từ chân núi đến đỉnh ngọn núi Nghĩa Lĩnh cao 175 mét (núi có những tên gọi như Núi Cả, Nghĩa Lĩnh, Nghĩa Cương, Hy Cương, Hy Sơn, Bảo Thiếu Lĩnh, Bảo Thiếu Sơn), thuộc địa phận xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, trong khu rừng được bảo vệ nghiêm ngặt giáp giới với những xã thuộc huyện Lâm Thao, Phù Ninh và vùng ngoại ô thành phố Việt Trì, cách trung tâm thành phố Việt Trì khoảng 10 km. Khu vực đền Hùng ngày nay nằm trong địa phận của kinh đô Phong Châu của quốc gia Văn Lang cổ xưa. Theo cuốn Ngọc phả Hùng Vương, đương thời các Vua Hùng đã cho xây dựng điện Kính Thiên tại khu vực núi Nghĩa Lĩnh này. Khu di tích lịch sử được coi là trung tâm lớn nhất của Tín ngưỡng Thờ cúng Hùng Vương. Tối ngày 6/12/2012, tại kỳ họp lần thứ 7 Ủy ban liên chính phủ về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể đang diễn ra ở Paris (Pháp), Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) đã chính thức thông qua quyết định công nhận Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Tính đến thời điểm này, "Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương" là di sản duy nhất ở loại hình tín ngưỡng của Việt Nam được UNESCO vinh danh.
Khu di tích gồm các khu vực chính: Đền Hạ, Đền Trung, Chùa Thiền Quang, Đền Thượng, Lăng Vua Hùng, Đền Giếng, Đền Mẫu Âu Cơ(xã Hy Cương), Đền Lạc Long Quân(xã Chu Hóa) và rất nhiều các di tích lịch sử gắn liền với thời kỳ Hùng Vương nằm rải rác trên địa bàn thành phố.
Hát xoan
Hát xoan là loại hình dân ca lễ nghi phong tục hát thờ thần, thành hoàng với hình thức nghệ thuật đa yếu tố: có nhạc, hát, múa; thường được biểu diễn vào dịp đầu xuân, phổ biến ở vùng đất tổ Hùng Vương. Ngày 24/11/2011, tại Hội nghị lần thứ sáu của Ủy ban liên chính phủ về Bảo tồn Di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO tổ chức tại Bali - Indonesia, Hồ sơ Hát Xoan - Phú Thọ của Việt Nam đã được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
Trên địa bàn thành phố Việt Trì hiện có bốn phường xoan cổ là An Thái, Phù Đức, Kim Đới và Thét nằm ở hai xã Kim Đức và Phượng Lâu.Các di tích lịch sử gắn liền với loại hình nghệ thuật này nằm trên địa bàn Việt Trì như: Đình An Thái, Đình Thét, Đình làng Kim Đới, miếu Lãi Lèn...
Tôn Giáo
Có rất nhiều tôn giáo được tập chung nơi đây, nhưng 2 tôn giáo tiêu biểu nhất là: Phật giáo và Công giáo.
Phật giáo: Đình và chùa nhiều và trải đều ở mọi nơi, người dân nơi đây phần lớn đều theo đạo giáo này và đạo phật đã được lưu truyền ở nơi đây từ rất xưa và được xem như 1 truyền thống dân tộc. Phật giáo chiếm đến 60% dân số trên địa bàn thành phố.
Công giáo: Được lưu nhập sau phật giáo nhưng cũng là một tôn giáo lớn qua độ phổ biến là 38% cả thành phố. Nổi tiếng với biệt danh là: "ngôi làng của chúa" thôn làng Nỗ Lực (thuộc xã thụy vân) hầu hết 95% người dân nơi đây có tôn giáo là Công giáo và có một nhà thờ rất lớn và cổ thu hút du lịch do người dân thôn làng này tự đầu tư và xây dựng.
Các di tích lịch sử-văn hóa
Phường Bạch Hạc: Đền Mộ Chúa Thượng, Đền Mộ Chu Hạ, Đền Lang Đài, Đền Mẫu Tam Giang Thượng, Đền Quách A Nương, Đền Tam Giang, Chùa Đại Bi.
Phường Bến Gót: Hoa Long Tự, Đình làng Việt Trì.
Phường Thanh Miếu: Đình Tràng Đông, Đình Tràng Nam
Phường Thọ Sơn: Làng Cả
Phường Tiên Cát: Lầu Kén Rể, Đền Tiên, Đền Chi Cát, Chùa Phúc Long.
Phường Nông Trang: Đình Nông Trang.
Phường Dữu Lâu: Đình Dữu Lâu, Đình Bảo Đà, Đình Hương Trầm, Đình Miếu Quế Trạo.
Phường Vân Cơ: Đình Nghè.
Phường Vân Phú: Hương Long Tự, Đình Phú Nham, Văn Long Tự, Đền Văn Luông, Chùa Thông.
Phường Minh Nông: Đàn Tịch Điền, Chùa Khánh Nguyên,
Phường Minh Phương: Đền Chùa Phương Châu, Đình Phú Hữu, Miếu Bà Tốc, Tiên Phú Tự, Đình Phú Nông,Chùa Linh Quang, Chùa Thiên Phúc
Phường Tân Dân: Chùa Mậu Xi.
Xã Phượng Lâu: Mộ Trần Toại, Đình Vũ Thị Thục Nương,Đình Nghè, Đình Phượng Lâu, Đình Phượng An, Rừng Cấm, Đình An Thái.
Xã Hùng Lô: Đình Hùng Lô.
Xã Kim Đức: Đình Hội, Đình Cháy, Đình làng Kim Đới, Đình Thét, Miếu Lãi Lèn.
Xã Chu Hóa: Đình Đông, Đền Lạc Long Quân.
Xã Thanh Đình: Đình Thanh Đình, Gò Giữa, Gò Dạ, Gò De, Gò Ghệ, Gò Tế Thánh, Lảu Quân, Oa Nhà Nít, Oa Bàn Cờ, Rừng Quân, Đồi Nhà Sàn, Đồi Nhà Bò, Chùa Rối, Ao Rối.
Xã Hy Cương: Đền Hạ, Đền Trung, Chùa Thiền Quang, Đền Thượng, Lăng Vua Hùng, Đền Giếng, Am Đường Tự, Đình Cổ Tích, Đền Mẫu Âu Cơ.
Xã Thụy Vân: Nhà Thờ Giáo Xứ Nỗ Lực,Chùa Long Kiều, Chùa Thượng Lâm Tự, Phúc Lâm Tự, Đền Thượng Thụy Vân, Đền Mẫu Thụy Vân, Đền Thượng Cẩm Đội.
Xã Trưng Vương: A Ốc Tự, Đình đền Hương Lan, Thiên Cổ Miếu, Miếu Cây Da Bò, Miếu Xóm Uơm, Bối Linh Tự, Đình Nội Lâu Thượng, Đình Ngoại Lâu Thượng.
Xã Sông Lô: Đình Hòa Phong, Đình chùa Chàng Vàng, Chùa Bảo Ngạn, Đình Trần Hưng Đạo, Đình Đoàn Kết, Đình Trung Hậu, Miếu Trần Hưng Đạo, Quế Lâm Tự.
Các di tích khảo cổ học
Có 3 di tích khảo cổ học lớn nằm trên địa bàn thành phố là: Di chỉ khảo cổ học Làng Cả (phường Thọ Sơn), Khu khảo cổ học Gò Mã Lao (phường Minh Nông), Khu di chỉ khảo cổ Gò De (xã Thanh Đình)
Các bảo tàng
Bảo tàng Hùng Vương (Đ. Trần Phú - P.Gia Cẩm - TP. Việt Trì)
Bảo tàng Hùng Vương (KDTLS Đền Hùng - Xã Hy Cương - TP. Việt Trì)
Bảo tàng Quân khu II (Đ. Hùng Vương - P.Vân Phú - TP. Việt Trì)
Phát triển đô thị
Thành phố Việt Trì trở thành đô thị loại I vào năm 2012. Thành phố đã tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng đô thị, mở rộng diện tích, tăng quy mô dân số, sáp nhập một số xã của huyện Lâm Thao, Phù Ninh về Việt Trì, nâng cấp một số xã lên phường; đẩy nhanh tiến độ xây dựng các dự án trọng điểm như: Quảng trường Hùng Vương và Trung tâm Dịch vụ thương mại tổng hợp; quy hoạch chi tiết khu du lịch - dịch vụ Nam Ðền Hùng; quy hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng đô thị và hạ tầng kinh tế - xã hội thành phố. Tập trung xây dựng nhiều tuyến đường quan trọng như đường Nguyễn Tất Thành kéo dài và hạ tầng kỹ thuật hai bên đường, đường Hai Bà Trưng kéo dài, đường Phù Ðổng nối TP Việt Trì với đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai; đường Trường Chinh, đường từ Khu công nghiệp Thụy Vân đi các xã Thanh Ðình, Chu Hóa, đường Vũ Thê Lang và dự án xây dựng hệ thống đường giao thông nông thôn, hệ thống thu gom, xử lý và thoát nước thải đô thị.
Ðến nay, thành phố đang thực hiện đầu tư 207 công trình, trong đó có 144 công trình chuyển tiếp, 63 công trình triển khai mới, tổng giá trị xây lắp đạt hơn 500 tỷ đồng; triển khai bồi thường giải phóng mặt bằng 91 dự án, trong đó có 59 dự án chuyển tiếp, 32 dự án mới và đã hoàn thành giải phóng mặt bằng 18 dự án lớn với tổng số tiền bồi thường hơn 312 tỷ đồng.
Kinh tế của thành phố tiếp tục phát triển toàn diện, duy trì tốc độ tăng trưởng hợp lý, tốc độ tăng giá trị tăng thêm bình quân đạt 5,71%/năm, giá trị tăng thêm bình quân đầu người/năm đạt 62,75 triệu đồng (tương đương 2.924 USD), tăng 2,35 lần so với năm 2010.
Ngày 04 tháng 5 năm 2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 528/QĐ-TTg công nhận thành phố Việt Trì là đô thị loại I trực thuộc tỉnh Phú Thọ.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Việt Trì trên trang tỉnh Phú Thọ
Đô thị Việt Nam loại I
Tỉnh lỵ Việt Nam
|
21943
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Adelaide
|
Adelaide
|
Adelaide () là thủ phủ và thành phố lớn nhất bang Nam Úc, và là thành phố lớn thứ 5 ở Úc. Vào tháng 6/2017, Adelaide có dân số ước tính là 1.333.927 người. Adelaide chiếm 75 % dân số bang Nam Úc, làm cho nó trở thành thủ phủ có dân số tập trung nhất trong bất kỳ tiểu bang nào ở Úc.
Adelaide nằm ở phía bắc bán đảo Fleurieu, trên đồng bằng Adelaide giữa vịnh St Vincent và dãy núi Lofty thấp nằm xung quanh thành phố. Adelaide trải dài 20 km (12 dặm) từ bờ biển đến chân đồi, và từ 94 đến 104 km (58 đến 65 mi) từ Gawler ở phía bắc thành phố đến Bãi biển Sellicks ở phía nam.
Được đặt theo tên của Adelheid xứ Sachsen-Meiningen, hoàng hậu của vua William IV của Anh, thành phố được thành lập năm 1836 như là thủ phủ được lên kế hoạch cho một tỉnh của người Anh định cư tự do tại Úc. Đại tá William Light, một trong những người sáng lập của Adelaide, đã thiết kế thành phố và chọn vị trí của nó gần sông Torrens, trong khu vực ban đầu có người Kaurna sinh sống. Thiết kế của ánh sáng đặt ra Adelaide trong một bố trí lưới, xen kẽ bởi đại lộ rộng và quảng trường công cộng lớn, và hoàn toàn được bao quanh bởi công viên. Adelaide sớm được hình thành bởi sự thịnh vượng và giàu có - cho đến chiến tranh thế giới thứ hai, nó là thành phố lớn thứ ba của Úc và là một trong số ít thành phố của Úc không có tiền sử về kết án tội phạm. Thành phố đã được ghi nhận về tự do tôn giáo, một cam kết về sự tiến bộ chính trị và tự do dân sự. Adelaide được gọi là "Thành phố của các Giáo hội" kể từ giữa thế kỷ 19, đề cập đến sự đa dạng của các tín ngưỡng. Từ "Adelaidean" được sử dụng để chỉ thành phố và cư dân của thành phố.
Là trụ sở chính phủ và trung tâm thương mại của Nam Úc, Adelaide là địa điểm của nhiều tổ chức chính phủ và tài chính. Hầu hết trong số này được tập trung ở trung tâm thành phố dọc theo đại lộ văn hóa North Terrace, King William và ở các quận khác nhau của khu vực đô thị. Ngày nay, Adelaide được biết đến với nhiều lễ hội và sự kiện thể thao, thức ăn và rượu vang, những bãi biển dài và các khu vực sản xuất và quốc phòng lớn. Nó xếp hạng cao về chất lượng cuộc sống, được liệt kê trong 10 thành phố đáng sống nhất trên thế giới, trong số 140 thành phố trên toàn thế giới bởi "The Economist Intelligence Unit". Thành phố cũng được xếp hạng là thành phố đáng sống nhất ở Úc bởi Hội đồng bất động sản Úc năm 2011, 2012 và năm 2013.
Lịch sử
Trước khi người châu Âu đến
Trước khi tuyên bố là một khu định cư của Anh vào năm 1836, khu vực xung quanh Adelaide là nơi sinh sống của thổ dân Kaurna bản địa (phát âm là "Garner").
Văn hóa và ngôn ngữ của Kaurna gần như bị phá hủy hoàn toàn trong vòng vài thập kỷ sau khi người châu Âu thiết lập khu định cư ở Nam Úc, nhưng tài liệu mở rộng của các nhà truyền giáo đầu tiên và các nhà nghiên cứu khác đã cho phép một sự hồi sinh hiện đại của cả hai.
Thế kỉ 19
Nam Úc đã chính thức tuyên bố là một thuộc địa của Anh vào ngày 28 tháng 12 năm 1836, gần The Old Gum Tree ở khu vực hiện nay là vùng ngoại ô của Glenelg North. Sự kiện này được kỷ niệm tại Nam Úc với tư cách là Ngày công bố. Vị trí của thủ phủ thuộc địa được khảo sát và trình bày bởi Đại tá William Light, Tổng điều tra đầu tiên của Nam Úc, thông qua thiết kế do kiến trúc sư George Strickland Kingston thực hiện.
Adelaide được thành lập như một thuộc địa có kế hoạch của những người nhập cư tự do, những quyền tự do dân sự đầy hứa hẹn và tự do khỏi sự bức hại tôn giáo, dựa trên những ý tưởng của Edward Gibbon Wakefield. Wakefield đã đọc các thông tin của khu định cư Úc khi ở trong tù ở London vì âm mưu bắt cóc một nữ thừa kế, và nhận ra rằng các thuộc địa phía Đông khổ cực vì thiếu lao động sẵn có, do hạnh bố thí tài trợ đất cho tất cả lượt. Ý tưởng của Wakefield là dành cho Chính phủ để khảo sát và bán đất ở một mức giá có thể duy trì giá trị đất đủ cao để không thể kiếm được cho người lao động và người đi lại. Số tiền thu được từ việc bán đất đã được sử dụng để đưa ra những người di cư trong tầng lớp lao động, những người sẽ phải làm việc chăm chỉ cho những người định cư độc thân có đủ tiền mua đất của họ. Theo chính sách này, Adelaide không chia sẻ lịch sử giải quyết án tù của các thành phố khác của Úc như Sydney, Melbourne, Brisbane và Hobart.
Như người ta tin rằng trong một thuộc địa của những người định cư tự do sẽ có ít tội phạm, không có điều khoản nào được thực hiện cho một thỏa thuận trong kế hoạch năm 1837 của Đại tá Light. Nhưng vào giữa năm 1837, Cơ quan đăng ký Nam Úc đã cảnh cáo những tù nhân trốn thoát khỏi New South Wales và những người đấu thầu tạm thời bị tra tấn. Sau vụ trộm, giết người và hai vụ giết người tại Adelaide vào tháng 3 năm 1838, Thống đốc Hindmarsh đã thành lập Lực lượng Cảnh sát Nam Úc (nay là Cảnh sát Nam Úc) vào tháng 4 năm 1838 dưới quyền Henry Inman 21 tuổi. Cảnh sát trưởng đầu tiên, Samuel Smart, bị thương trong một vụ cướp, và vào ngày 2 tháng 5 năm 1838, một trong những kẻ phạm tội, Michael Magee, trở thành người đầu tiên bị xử tử bằng cách treo cổ ở Nam Úc. William Baker Ashton được bổ nhiệm làm thống đốc nhà tù tạm thời vào năm 1839, và năm 1840 George Strickland Kingston được ủy nhiệm để thiết kế trại giam mới của Adelaide. Việc xây dựng nhà tù Adelaide bắt đầu vào năm 1841.
Thống đốc đầu tiên của Nam Úc, John Hindmarsh, đã đụng độ thường xuyên với những người khác, đặc biệt là ủy viên thường trú, James Hurtle Fisher. Khu vực nông thôn xung quanh Adelaide được khảo sát bởi Light để chuẩn bị bán tổng cộng hơn 405 km2 (156 sq mi) đất. Nền kinh tế đầu tiên của Adelaide bắt đầu đứng vững vào năm 1838 với việc nhập gia súc từ Victoria, New South Wales và Tasmania. Sản xuất len cung cấp một cơ sở sớm cho nền kinh tế Nam Úc. Đến năm 1860, các trang trại lúa mì đã được thành lập từ Vịnh Encounter ở phía nam đến Clare ở phía bắc.
George Gawler đã tiếp quản từ Hindmarsh vào cuối năm 1838 và, mặc dù dưới sự chỉ huy của Ủy ban Chọn ở Nam Úc ở Anh không thực hiện bất kỳ công trình công cộng nào, nhanh chóng giám sát việc xây dựng nhà của thống đốc, Nhà tù Adelaide, doanh trại cảnh sát, bệnh viện, nhà hải quan và bến cảng ở Cảng Adelaide. Gawler bị thu hồi và thay thế bởi George Edward Grey vào năm 1841. Grey cắt giảm chi tiêu công chống lại sự phản đối nặng nề, mặc dù tác động của nó không đáng kể vào thời điểm này: bạc được phát hiện ở Glen Osmond năm đó, nông nghiệp đang được tiến hành và các mỏ khác mọc lên khắp nơi tiểu bang, trợ giúp phát triển thương mại của Adelaide. Thành phố xuất khẩu thịt, len, rượu vang, trái cây và lúa mì vào thời điểm mà Gray để lại vào năm 1845, tương phản với một điểm thấp vào năm 1842 khi một phần ba các ngôi nhà ở Adelaide bị bỏ hoang.
Liên kết thương mại với các bang còn lại của Úc được thành lập sau khi Sông Murray được điều hành thành công vào năm 1853 bởi Francis Cadell, một cư dân Adelaide. Nam Úc đã trở thành một thuộc địa tự quản vào năm 1856 với sự phê chuẩn hiến pháp mới của quốc hội Anh. Phiếu bầu bí mật đã được giới thiệu, và một quốc hội lưỡng viện được bầu vào ngày 9 tháng 3 năm 1857, trong đó có 109.917 người sống trong tỉnh.
Vào năm 1860, hồ chứa Thorndon Park đã được mở, cuối cùng là cung cấp nguồn nước thay thế cho Sông Torrens hiện đang bị đục. Ánh sáng đường phố khí được thực hiện vào năm 1867, Đại học Adelaide được thành lập vào năm 1874, Phòng trưng bày Nghệ thuật Nam Úc mở cửa vào năm 1881 và Hồ chứa nước Happy Valley mở cửa vào năm 1896. Vào những năm 1890, Úc bị ảnh hưởng nặng nề về kinh tế, kết thúc một kỷ nguyên bận rộn của sự bùng nổ đất và sự mở rộng xáo trộn. Các tổ chức tài chính ở Melbourne và các ngân hàng ở Sydney đóng cửa. Tỷ suất sinh của quốc gia giảm và nhập cư đã giảm xuống mức thấp. Giá trị xuất khẩu của Nam Úc giảm gần một nửa. Vụ thu hoạch hạn hán và nghèo khó từ năm 1884 đã làm phức tạp thêm vấn đề, với một số gia đình rời Tây Úc. Adelaide không bị ảnh hưởng nặng nề như các thành phố lớn hơn ở Sydney và Melbourne, và những khám phá tài nguyên như bạc và chì tại Broken Hill đã tạo ra một chút nhẹ nhõm. Chỉ có một năm thâm hụt đã được ghi nhận, nhưng giá đã trả là giảm chi phí và chi tiêu công. Rượu và đồng là ngành duy nhất không bị suy thoái.
Thế kỉ 20
Ánh sáng đường phố điện được giới thiệu vào năm 1900 và xe điện đã vận chuyển hành khách vào năm 1909. 28.000 người đàn ông được cử đi chiến tranh trong chiến tranh thế giới thứ nhất. Sử gia FW Crowley đã kiểm tra các báo cáo về du khách vào đầu thế kỷ 20, lưu ý rằng "nhiều du khách đến Adelaide ngưỡng mộ lập kế hoạch dự đoán của những người sáng lập của nó ", cũng như cân nhắc sự giàu có của thành phố trẻ. Adelaide bùng nổ sau chiến tranh, bước vào một thời kỳ thịnh vượng tương đối. Dân số tăng lên, và thành phố trở thành khu vực đô thị đông dân thứ ba trong nước, sau Sydney và Melbourne. Nhưng sự thịnh vượng của Adelaide ngắn ngủi, với sự trở lại của hạn hán và cuộc Đại suy thoái của những năm 1930. Sau này thành phố phục hồi trở lại dưới sự lãnh đạo của chính phủ. Các ngành công nghiệp phụ giúp giảm sự phụ thuộc của nhà nước vào các ngành công nghiệp sơ cấp. Chiến tranh thế giới thứ hai đã mang lại sự kích thích và đa dạng hóa công nghiệp cho Adelaide dưới quyền của Chính phủ Playford, nơi đã ủng hộ Adelaide như một nơi an toàn để sản xuất do vị trí ít bị tổn thương hơn. Đóng tàu được mở rộng tại cảng Whyalla gần đó.
Chính phủ Nam Úc trong giai đoạn này được xây dựng trên các ngành công nghiệp sản xuất thời chiến trước đây. Các nhà sản xuất quốc tế như General Motors Holden và Chrysler đã sử dụng những nhà máy này quanh Adelaide, hoàn thành việc chuyển đổi từ một trung tâm dịch vụ nông nghiệp sang một thành phố thế kỷ 20. Đường ống dẫn Mannum – Adelaide mang nước sông Murray đến Adelaide vào năm 1955 và sân bay mở tại West Beach năm 1955. Đại học Flinders và Trung tâm y tế Flinders được thành lập vào những năm 1960 tại Bedford Park, phía nam thành phố. Hiện nay, Trung tâm Y tế Flinders là một trong những bệnh viện giảng dạy lớn nhất ở Nam Úc.
Chính phủ Dunstan của những năm 1970 đã chứng kiến một điều gì đó về sự phục hưng văn hóa của Adelaide, thiết lập một loạt các cải cách xã hội. Thành phố đã trở thành trung tâm của nghệ thuật, xây dựng theo "Liên hoan Nghệ thuật Adelaide" hai năm một lần bắt đầu vào năm 1960. Adelaide đã tổ chức giải đua xe công thức một lần giữa năm 1985 và 1996 trên một đường phố ở công viên phía đông của thành phố; nó chuyển đến Melbourne vào năm 1996. Ngân hàng Nhà nước sụp đổ vào năm 1991 trong một cuộc suy thoái kinh tế; những tác động kéo dài đến năm 2004, khi Standard & Poor phục hồi xếp hạng tín dụng AAA của Nam Úc. Từ năm 1999, cuộc đua Siêu xe Adelaide 500 đã sử dụng các phần của mạch Formula One trước đây. Tòa nhà cao nhất của Adelaide, được xây dựng vào năm 1988, ban đầu được gọi là Tòa nhà Ngân hàng Nhà nước. Năm 1991, nó được đổi tên thành Tòa nhà Santos và năm 2006 nó được đổi tên thành Westpac House.
Thế kỉ 21
Trong những năm đầu của thế kỷ 21 đã có sự gia tăng đáng kể trong chi tiêu của Chính phủ Tiểu bang về cơ sở hạ tầng của Adelaide. Chính phủ Rann đã đầu tư 535 triệu đô la để nâng cấp sân vận động Adelaide Oval để cho phép AFL được chơi ở trung tâm thành phố và hơn 2 tỷ đô la để xây dựng một bệnh viện Royal Adelaide mới trên đất liền kề với ga xe lửa Adelaide. Đường xe điện Glenelg được mở rộng qua thành phố đến Hindmarsh và tuyến đường sắt ngoại ô kéo dài về phía nam đến Seaford.
Sau một thời gian trì trệ trong những năm 1990 và 2000, Adelaide đã bắt đầu một số phát triển lớn và tái phát triển. Trung tâm Hội nghị Adelaide đã được tái phát triển và mở rộng với chi phí là 350 triệu đô la Singapore bắt đầu từ năm 2012. Ba tòa nhà lịch sử đã được điều chỉnh để sử dụng hiện đại: Tòa nhà Torrens ở Quảng trường Victoria là khuôn viên Adelaide cho Đại học Carnegie Mellon, Đại học London và Đại học Torrens, tòa nhà Sở Giao dịch Chứng khoán như Sở Giao dịch Khoa học của Viện Hoàng gia Úc; và Bệnh viện Tâm thần Glenside như Adelaide Studios của Tập đoàn SA Film. Chính phủ cũng đã đầu tư hơn 2 tỷ đô la để xây dựng một nhà máy khử muối, được hỗ trợ bởi năng lượng tái tạo, như một 'chính sách bảo hiểm' chống hạn hán ảnh hưởng đến nguồn cung cấp nước của Adelaide. Lễ hội Adelaide, Fringe và Womadelaide đã trở thành sự kiện thường niên.
Địa lý
Adelaide nằm ở phía bắc bán đảo Fleurieu, trên đồng bằng Adelaide giữa vịnh St Vincent và dãy núi Lofty thấp. Thành phố trải dài 20 km (12 dặm) từ bờ biển đến chân đồi, và 90 km (56 dặm) từ Gawler ở phía bắc của nó để Sellicks Beach ở phía nam. Theo phát triển khu vực Australia, sáng kiến quy hoạch của chính phủ Úc, "Vùng đô thị Adelaide" có tổng diện tích 870 km2 (340 sq mi), trong khi một định nghĩa mở rộng hơn của Cục Thống kê Úc xác định "Greater Adelaide" diện tích thống kê tổng cộng 3.257,7 km2 (1.257,8 sq mi). Thành phố này nằm ở độ cao trung bình 50 mét (160 ft) so với mực nước biển. Núi Lofty, phía đông của khu vực đô thị Adelaide ở Đồi Adelaide ở độ cao 727 mét (2.385 ft), là điểm cao nhất của thành phố và ở phía nam bang Burra.
Phần lớn Adelaide là đất hoang trước khi định cư ở Anh, với một số biến đổi - bãi cát, đầm lầy và đầm lầy đang chiếm phần lớn xung quanh bờ biển. Sự mất mát của các bãi cát để phát triển đô thị đã có một tác động đặc biệt phá hoại trên bờ biển do xói mòn. Khi thực tế, chính phủ đã thực hiện các chương trình để xây dựng lại và thảm thực vật tại một số vùng ngoại ô ven biển của Adelaide. Phần lớn thảm thực vật nguyên thủy đã được dọn sạch với những gì còn lại được tìm thấy trong các khu bảo tồn như Công viên Bảo tồn Cleland và Công viên Quốc gia Belair. Một số lạch và sông chảy qua khu vực Adelaide. Lớn nhất là các lưu vực Torrens và Onkaparinga. Adelaide dựa vào nhiều hồ chứa của nó để cung cấp nước với Hồ chứa Happy Valley cung cấp khoảng 40% và Hồ chứa Mount Bold lớn hơn 10% yêu cầu trong nước của Adelaide tương ứng.
Adelaide và khu vực xung quanh là một trong những khu vực hoạt động địa chấn nhất ở Úc. Vào ngày 1 tháng 3 năm 1954 lúc 3:40 sáng, Adelaide trải qua trận động đất lớn nhất được ghi lại, với tâm chấn cách trung tâm thành phố Darlington 12 km, và cấp độ được báo cáo là 5.6 Richer. Đã có những trận động đất nhỏ hơn trong năm 2010, 2011, 2014 và 2017.
Khí hậu
Adelaide có khí hậu Địa Trung Hải (phân loại khí hậu Köppen Csa), với mùa hè khô nóng và mát mẻ vào mùa đông với thời tiết ôn hòa. Lượng mưa nhiều nhất đến trong những tháng mùa đông, dẫn đến khí hậu lạnh. Adelaide nhận đủ lượng mưa hàng năm nên không bị phân loại là khí hậu BSh (bán khô hạn) của Köppen. Lượng mưa và ánh sáng không thường xuyên trong suốt mùa hè. Ngược lại, mùa đông có lượng mưa khá cao với tháng 6 là tháng ẩm ướt nhất trong năm, trung bình khoảng 80 mm. Frông lạnh là thỉnh thoảng, với sự xuất hiện đáng chú ý nhất trong tháng 7 năm 1908 và tháng 7 năm 1982. Mưa đá cũng phổ biến trong mùa đông. Adelaide là một thành phố lộng gió với gió lạnh đáng kể vào mùa đông, làm cho nhiệt độ có vẻ lạnh hơn thực tế. Tuyết rơi trong khu vực đô thị là vô cùng phổ biến, mặc dù có nắng nhưng khá rời rạc trong những ngọn đồi gần đó và tại núi Lofty. Điểm sương trong mùa hè thường dao động từ 8 đến 10 °C (46 đến 50 °F). Thường chỉ có 2-3 ngày vào mùa hè, nhiệt độ đạt đến 39,0 °C (102,2 °F) hoặc cao hơn, mặc dù tần suất của những nhiệt độ này đã nhiều hơn trong những năm gần đây.
Nhiệt độ trung bình của biển dao động từ 13,7 °C (56,7 °F) trong tháng Tám đến 21,2 °C (70,2 °F) trong tháng Hai
Chính quyền
Adelaide, là thủ phủ của Nam Úc, là trụ sở chính của Chính phủ Nam Úc. Vì Adelaide là thủ phủ của Nam Úc và là thành phố đông dân nhất của bang, nên Chính phủ Tiểu Bang hợp tác rộng rãi với Thành phố Adelaide. Năm 2006, Bộ thành phố Adelaide được thành lập để tạo thuận lợi cho sự hợp tác của Chính phủ Tiểu bang với Hội đồng Thành phố Adelaide và Thị trưởng của Chúa để cải thiện hình ảnh của Adelaide. Ủy ban thành phố thủ phủ của Quốc hội cũng tham gia vào việc quản trị thành phố Adelaide, chủ yếu quan tâm đến việc lập kế hoạch phát triển và phát triển đô thị của Adelaide.
Nhân khẩu
So với bốn thủ phủ bang lớn khác của Úc, Adelaide đang phát triển với tốc độ chậm hơn nhiều. Vào năm 2017, đô thị này có dân số đô thị hơn 1.333.927, trở thành thành phố lớn thứ năm của Úc. Khoảng 77% dân số Nam Úc là cư dân của khu vực đô thị Adelaide, làm cho Nam Úc trở thành một trong những tiểu bang có dân số sống tập trung nhất.
Các khu vực tăng trưởng dân số chủ yếu trong những năm gần đây đã ở ngoại ô như Mawson Lakes và Golden Grove. Cư dân của Adelaide chiếm 366.912 ngôi nhà, 57.695 nhà liền kề, hàng hiên hoặc nhà phố và 49.413 căn hộ, căn hộ hoặc căn hộ.
Khoảng một phần sáu (17,1%) dân số có trình độ đại học. Số lượng Adelaideans với trình độ chuyên môn (như người buôn bán) giảm từ 62,1% lực lượng lao động trong điều tra dân số năm 1991 xuống còn 52,4% trong cuộc điều tra dân số năm 2001.
Adelaideans sinh ở nước ngoài chiếm 29,8% tổng dân số. Các vùng ngoại ô bao gồm Newton, Payneham và Campbelltown ở phía đông và Torrensville, West Lakes và Fulham ở phía tây, có các cộng đồng Hy Lạp và Ý khá lớn. Lãnh sự quán Ý nằm ở ngoại ô phía đông của Payneham. Cộng đồng người Việt Nam cũng khá nhiều, định cư tại các vùng ngoại ô phía tây bắc của Woodville, Kilkenny, Pennington, Mansfield Park và Athol Park và Parafield Gardens và Pooraka ở phía bắc Adelaide. Những người di cư từ Ấn Độ và Sri Lanka đã định cư ở các khu vực ngoại ô nội thành của Adelaide bao gồm các vùng ngoại ô phía bắc của Blair Athol, Kilburn và Enfield và các vùng ngoại ô phía nam của Plympton, Park Holme và Kurralta Park.
Các vùng ngoại ô như Para Hills, Salisbury, Ingle Farm và Blair Athol ở phía bắc và Findon, West Croydon và Seaton ở phía Tây đang trải qua sự di cư lớn từ Afghanistan và Iran. Người di cư Trung Quốc ủng hộ định cư ở các vùng ngoại ô phía đông và đông bắc bao gồm Kensington Gardens, Greenacres, Modbury và Golden Grove. Mawson Lakes có dân số sinh viên quốc tế lớn, do gần trường Đại học Nam Úc. Năm nhóm sinh viên lớn nhất ở nước ngoài đến từ Anh (7,0%), Ý (1,6%), Ấn Độ (1,4%), Trung Quốc (1,3%) và Việt Nam (1,0%). Các ngôn ngữ được nói nhiều nhất ngoài tiếng Anh là tiếng Ý (2.6%), tiếng Hy Lạp (1.9%), tiếng Quan thoại (1.3%), tiếng Việt (1.3%) và tiếng Quảng Đông (0.7%).
Tôn giáo
Adelaide được thành lập trên một tầm nhìn về sự khoan dung tôn giáo đã thu hút rất nhiều các học viên tôn giáo. Điều này dẫn đến việc nó được gọi là Thành phố của các Giáo hội. Nhưng khoảng 28% dân số không có liên kết tôn giáo trong Tổng điều tra năm 2011, so với mức trung bình toàn quốc là 22,3%, khiến cho Adelaide trở thành một trong những thành phố tôn giáo ít nhất của Úc. Hơn một nửa dân số Adelaide xác định là Kitô giáo, với giáo phái lớn nhất là Công giáo (21,3%), Anh giáo (12,6%), Giáo hội Đoàn kết (7,6%) và Chính Thống giáo Đông phương (3,5%).
Cộng đồng Do Thái của thành phố có từ năm 1840. Tám năm sau, 58 người Do Thái sống trong thành phố. Một giáo đường Do Thái được xây dựng vào năm 1871, khi 435 người Do Thái sống trong thành phố. Nhiều người đã tham gia vào các hội đồng thành phố, như Judah Moss Solomon (1852–66) và những người khác sau ông. Ba người Do Thái đã được bầu vào vị trí của thị trưởng thành phố. Năm 1968, dân số Do Thái của Adelaide đánh số khoảng 1.200, [79] vào năm 2001, theo điều tra dân số của Úc, 979 người tuyên bố mình là người Do Thái theo tôn giáo. [77] Trong năm 2011, hơn 1.000 người Do Thái đang sống trong thành phố, điều hành một trường chính thống và một trường cải cách, ngoài một bảo tàng Do Thái ảo.
Cộng đồng "Afghanistan" ở Úc đầu tiên được thành lập vào những năm 1860 khi lạc đà và những người điều khiển Pathan, Punjabi, Baluchi và Sindhi bắt đầu được sử dụng để mở rộng khu định cư trong nội thất khô cằn của lục địa. Cho đến khi cuối cùng thay thế bởi sự ra đời của đường sắt và xe có động cơ, lạc đà đóng một vai trò kinh tế và xã hội vô giá trong việc vận chuyển hàng hóa nặng đến và từ các khu định cư và mỏ bị cô lập. Điều này được công nhận bởi tên của The Ghan, tàu chở khách hoạt động giữa Adelaide, Alice Springs và Darwin. Nhà thờ Hồi giáo Central Adelaide được coi là nhà thờ lâu đời lâu đời nhất của Úc; một nhà thờ Hồi giáo trước đó tại Marree ở miền bắc Nam Úc, có niên đại từ 1861–62 và sau đó bị bỏ hoang hoặc phá hủy, hiện đã được xây dựng lại.
Kinh tế
Các lĩnh vực việc làm lớn nhất của Nam Úc là chăm sóc sức khỏe và hỗ trợ xã hội, vượt qua sản xuất tại Nam Úc với tư cách là chủ nhân lớn nhất kể từ 2006–07. Trong giai đoạn 2009-10, sản xuất tại Nam Úc có việc làm trung bình hàng năm là 83.700 người so với 103,300 đối với chăm sóc sức khỏe và trợ giúp xã hội. Chăm sóc sức khỏe và trợ giúp xã hội chiếm gần 13% công việc hàng năm của tiểu bang. Vùng sản xuất rượu vang Adelaide Hills là một khu vực kinh tế mang tính biểu tượng và khả thi cho cả nhà nước và quốc gia về sản xuất và bán rượu vang. Sản phẩm cổ điển năm 2014 được báo cáo là bao gồm 5,836 tấn (5,744 tấn dài; 6.433 tấn ngắn) nho đỏ được nghiền với giá $ 8.196.142 và 12.037 tấn (11.847 tấn dài; 13.269 tấn ngắn) nho trắng được nghiền với giá $ 14,777,631.
Thương mại bán lẻ là nhà tuyển dụng lớn thứ hai trong SA (2009–10), với 91.900 việc làm và 12% lực lượng lao động của tiểu bang.
Sản xuất, công nghệ quốc phòng, hệ thống điện tử công nghệ cao và nghiên cứu, xuất khẩu hàng hóa và các ngành dịch vụ tương ứng đều đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Nam Úc. Gần một nửa số xe ô tô sản xuất tại Úc được sản xuất tại Adelaide tại nhà máy General Motors Holden ở Elizabeth. Trang web đã ngừng hoạt động vào tháng 11 năm 2017.
Sự sụp đổ của Ngân hàng Nhà nước năm 1992 đã dẫn đến nợ công nhà nước lớn (khoảng 4 tỷ đô la). Sự sụp đổ có nghĩa là các chính phủ kế tiếp ban hành ngân sách nạc, cắt giảm chi tiêu, đó là một trở ngại cho sự phát triển kinh tế hơn nữa của thành phố và tiểu bang. Khoản nợ này gần đây đã được giảm bớt với Chính phủ Tiểu bang một lần nữa nhận được xếp hạng tín dụng AAA +.
Tập đoàn truyền thông toàn cầu Tập đoàn Tin tức được thành lập vào năm 2004 và được thành lập tại Adelaide, nó vẫn được coi là ngôi nhà “tinh thần” bởi Rupert Murdoch. Công ty dầu mỏ lớn nhất của Úc, Santos, nhà máy bia nổi tiếng của Nam Úc, Coopers và nhà bán lẻ quốc gia Harris Scarfe cũng gọi Adelaide là nhà của họ.
Ngành công nghiệp quốc phòng
Adelaide là nơi có một tỷ lệ lớn các ngành công nghiệp quốc phòng của Úc, đóng góp hơn 1 tỷ đô la Singapore cho Tổng sản phẩm quốc gia của Nam Úc. Cơ quan nghiên cứu quân sự chính phủ chính, Tổ chức Khoa học và Công nghệ Quốc phòng, và các tổ chức công nghệ quốc phòng khác như BAE Systems Australia và Lockheed Martin Australia, nằm ở phía bắc Salisbury và phía tây Elizabeth trong một khu vực hiện được gọi là "Công viên Edinburgh", giáp với RAAF Căn cứ Edinburgh.
Những cơ quan khác, chẳng hạn như Saab Systems và Raytheon, đang ở trong hoặc gần Công viên Công nghệ. ASC Pty Ltd, có trụ sở tại vùng ngoại ô công nghiệp của Osborne. Nam Úc bị buộc tội xây dựng tàu ngầm lớp học của Úc và gần đây là hợp đồng trị giá 6 tỷ đô la để xây dựng các tàu khu trục không quân mới của Hải quân Hoàng gia Úc.
Số liệu thống kê việc làm
Tính đến tháng 11 năm 2015, vùng đô thị Adelaide có tỷ lệ thất nghiệp là 7,4% với tỷ lệ thất nghiệp thanh niên là 15%.
Thu nhập cá nhân hàng tuần trung bình cho những người từ 15 tuổi trở lên là $ 447 mỗi tuần trong năm 2006, so với $ 466 trên toàn quốc. Thu nhập trung bình của gia đình là 1.137 đô la mỗi tuần, so với 1.171 đô la trên toàn quốc. Chi phí nhà ở và sinh hoạt của Adelaide thấp hơn đáng kể so với các thành phố khác của Úc, với nhà ở đáng chú ý là rẻ hơn. Giá nhà ở Adelaide trung bình chỉ bằng một nửa so với Sydney và 2/3 ở Melbourne. Tỷ lệ thất nghiệp theo xu hướng ba tháng đến tháng 3 năm 2007 là 6,2%. Tỷ lệ thất nghiệp của vùng ngoại ô phía Bắc cao hơn các khu vực khác của Adelaide là 8,3%, trong khi Đông và Nam thấp hơn mức trung bình của Adelaide là 4,9% và 5,0% tương ứng.
Giáo dục và nghiên cứu
Giáo dục tạo thành một phần ngày càng quan trọng của nền kinh tế thành phố, với Chính phủ Nam Úc và các tổ chức giáo dục cố gắng định vị Adelaide là "trung tâm giáo dục của Úc" và tiếp thị nó như là "Thành phố học tập". Số lượng học sinh, sinh viên quốc tế đã tăng lên nhanh chóng trong những năm gần đây lên 30.726 vào năm 2015, trong đó 1.824 là học sinh trung học cơ sở. Ngoài các tổ chức hiện có của thành phố, các tổ chức nước ngoài đã bị thu hút để thiết lập các cơ sở để tăng tính hấp dẫn của nó như là một trung tâm giáo dục. Adelaide là nơi sinh của ba người đoạt giải Nobel, nhiều hơn bất kỳ thành phố nào khác của Úc: nhà vật lý William Lawrence Bragg và nhà bệnh lý học Howard Florey và Robin Warren, tất cả đều hoàn thành giáo dục trung học và đại học tại Cao đẳng St Peter và Đại học Adelaide.
Giáo dục tiểu học và trung học
Ở cấp tiểu học và trung học, có hai hệ thống giáo dục phổ thông. Có một hệ thống công cộng do Chính phủ Nam Úc điều hành và một hệ thống tư thục của các trường độc lập và Công giáo. Tất cả các trường cung cấp giáo dục theo Chứng chỉ Giáo dục Nam Úc (SACE) hoặc, ở một mức độ thấp hơn, Tú tài Quốc tế (IB), với Adelaide có số lượng các trường IB cao nhất tại Úc.
Giáo dục sau trung học phổ thông
Có ba trường đại học công lập địa phương ở Adelaide, cũng như một trường đại học tư thục và ba trường đại học thành phần của các trường đại học nước ngoài. Đại học Flinders, Đại học Adelaide, Đại học Nam Úc và Đại học Torrens Úc - một phần của Đại học quốc tế Laureate có trụ sở tại Adelaide. Đại học Adelaide được xếp hạng trong 150 trường đại học hàng đầu trên toàn thế giới. Flinders xếp hạng trong top 250 và Đại học Nam Úc trong top 300. Đại học Torrens Úc là một phần của mạng lưới quốc tế của hơn 70 cơ sở giáo dục đại học tại hơn 30 quốc gia trên toàn thế giới. Tòa nhà Torrens lịch sử ở Quảng trường Victoria có trường Đại học Carnzie Mellon, Đại học Quản lý và Công nghệ Quốc gia Cranfield, và Trường Năng lượng và Tài nguyên Đại học London (Úc), và tạo thành khu đại học quốc tế của thành phố.
Đại học Adelaide, với 25.000 sinh viên, là trường đại học lâu đời thứ ba của Úc và là thành viên của "nhóm 8 hàng đầu. Trường có năm cơ sở trong toàn tiểu bang, bao gồm hai cơ sở ở trung tâm thành phố và một cơ sở ở Singapore. Đại học Nam Úc, với 37.000 sinh viên, có hai cơ sở North Terrace, ba cơ sở khác trong khu vực đô thị và các cơ sở tại Whyalla và Mount Gambier. Đại học Flinders của Nam Úc, với 25.184 sinh viên trong nước và quốc tế, nằm ở ngoại ô phía nam của Bedford Park, cùng với Trung tâm Y tế Flinders, và duy trì một cơ sở nhỏ ở Quảng trường Victoria. Quảng trường trên khuôn viên Bedford Park đã được tân trang lại vào năm 2014 và chính thức mở cửa trở lại vào năm 2016.
Có một số cơ sở TAFE (Kỹ thuật và Giáo dục Bổ sung) ở Nam Úc trong khu vực đô thị cung cấp một loạt giáo dục và đào tạo nghề. Trường Cao đẳng Nghệ thuật Adelaide, là một trường của TAFE Nam Úc, cung cấp đào tạo được công nhận trên toàn quốc về nghệ thuật thị giác và biểu diễn.
Nghiên cứu
Ngoài các trường đại học, Adelaide còn có một số viện nghiên cứu, bao gồm Viện Hoàng gia Úc, được thành lập vào năm 2009 như là một đối tác của Viện Hoàng gia Anh hai trăm năm tuổi. Nhiều tổ chức tham gia vào nghiên cứu có xu hướng được phân cụm theo địa lý trong toàn bộ khu vực đô thị Adelaide:
Đầu phía đông của North Terrace: IMVS, Hanson Institute; RAH; Trung tâm Rượu Quốc gia.
Đầu phía tây của North Terrace: Viện Nghiên cứu Y tế và Sức khỏe Nam Úc (SAHMRI), nằm cạnh Bệnh viện Hoàng gia Adelaide mới.
Khu nghiên cứu Waite: SARDI Head Office và Trung tâm nghiên cứu thực vật; AWRI; ACPFG; Phòng thí nghiệm nghiên cứu của CSIRO. SARDI cũng có các cơ sở ở Glenside và West Beach.
Edinburgh, Nam Úc: DSTO; BAE Systems (Úc); Lockheed Martin Úc Hệ thống điện tử.
Khu công nghệ (Mawson Lakes): BAE Systems; Optus; Raytheon; Topcon; Lockheed Martin Úc Hệ thống điện tử.
Công viên nghiên cứu tại Thebarton: các doanh nghiệp tham gia vào kỹ thuật vật liệu, công nghệ sinh học, dịch vụ môi trường, công nghệ thông tin, thiết kế công nghiệp, công nghệ laser / quang học, sản phẩm y tế, dịch vụ kỹ thuật, hệ thống radar, dịch vụ viễn thông và dầu khí.
Công viên Khoa học (liền kề với Đại học Flinders): Playford Capital.
Viện nghiên cứu sức khỏe Translational Hetzel Basil ở Woodville, một bộ hận hỗ trợ nghiên cứu của Bệnh viện Queen Elizabeth, Adelaide
Văn hóa
Trong khi được thành lập như một tỉnh của Anh, và đã lĩnh hội rất nhiều văn hóa của Anh, Adelaide thu hút những người nhập cư từ các vùng khác của châu Âu sớm, bao gồm Đức và những người thoát khỏi cuộc đàn áp tôn giáo. Người Đức Lutherans đầu tiên đến vào năm 1838 mang theo họ những cành giâm mà họ đã từng tìm thấy những nhà máy rượu vang nổi tiếng của thung lũng Barossa.
Nghệ thuật và giải trí
Nghệ thuật của Adelaide phát triển mạnh mẽ trong những năm 1960 và 1970 với sự hỗ trợ của các thủ tướng liên tiếp từ cả hai đảng chính trị lớn. Liên hoan Nghệ thuật Adelaide nổi tiếng và Lễ hội Fringe được thành lập vào năm 1960 dưới thời Thomas Playford. Việc xây dựng Trung tâm Lễ hội Adelaide bắt đầu dưới Steele Hall vào năm 1970 và được hoàn thành dưới chính phủ tiếp theo của Don Dunstan, người cũng thành lập Tổng công ty Điện ảnh Nam Úc và, vào năm 1976, là Nhà hát Opera Quốc gia Nam Úc.
Theo thời gian, Lễ hội Adelaide đã mở rộng để bao gồm Lễ hội Adelaide Cabaret, Liên hoan phim Adelaide, Lễ hội Ý tưởng Adelaide, Tuần lễ nhà văn Adelaide, và WOMADelaide, được tổ chức chủ yếu trong tháng mùa thu tháng 3 (đôi khi được gọi là "tháng ba cuồng nhiệt" bởi người dân địa phương do sự phân cụm bận rộn của những sự kiện này). Các lễ hội khác bao gồm FEAST (một lễ kỷ niệm văn hóa kỳ quặc), ẩm thực Úc (một món ăn hai năm một lần và rượu vang), và Royal Adelaide Show (một triển lãm nông nghiệp hàng năm và hội chợ tiểu bang).
Có rất nhiều hội chợ văn hóa quốc tế, đáng chú ý nhất là Schützenfest và Hy Lạp Glendi của Đức. Adelaide là quê hương của cuộc thi Giáng sinh Adelaide, cuộc diễu hành Giáng sinh lớn nhất thế giới. Là thủ phủ của bang, Adelaide là nơi tập trung nhiều cơ quan văn hóa với nhiều đại lộ dọc theo đại lộ North Terrace. Phòng trưng bày nghệ thuật Nam Úc, với khoảng 35.000 tác phẩm, tổ chức bộ sưu tập lớn thứ hai của Úc. Liền kề là Bảo tàng Nam Úc và Thư viện Tiểu bang Nam Úc, trong khi Vườn Bách thảo Adelaide, Trung tâm Rượu Quốc gia và Viện Văn hóa Thổ dân Quốc gia Tandanya nằm ở phía Đông của thành phố. Ở mặt sau của Thư viện Tiểu bang là Bảo tàng Di cư, bảo tàng lâu đời nhất của Úc thuộc loại này. Những cảnh nghệ thuật đương đại bao gồm Trung tâm Nghệ thuật Đương đại Nam Úc. Trung tâm Lễ hội Adelaide, trên bờ sông Torrens, là nơi tập trung nhiều hoạt động văn hóa trong thành phố và quê hương của Công ty Nhà hát Quốc gia Nam Úc, với các địa điểm khác như Trung tâm Giải trí Adelaide và nhiều nhà hát nhỏ của thành phố, quán rượu và quán bar cabaret.
Âm nhạc của Adelaide đã tạo ra các nhóm nhạc và cá nhân đã đạt được danh tiếng quốc gia và quốc tế. Điều này bao gồm Dàn nhạc giao hưởng Adelaide, Dàn nhạc giao hưởng Adelaide, ban nhạc rock The Angels, Cold Chisel, The Superjesus, Wolf & Cub, nhóm nhạc blues The Audreys, các tác phẩm nổi tiếng trên thế giới "I Killed The Prom Queen" và Double Dragon, hip hop phổ biến của Úc -Worktop Hoods, các nghệ sĩ pop như Sia, Orianthi, Guy Sebastian, và Wes Carr, cũng như các hoạt động tưởng nhớ quốc tế thành công, The Australian Pink Floyd Show.
Tay rock nổi tiếng Jimmy Barnes đã dành hầu hết tuổi trẻ của mình ở vùng ngoại ô phía bắc của Elizabeth. Paul Kelly lớn lên ở Adelaide và là trưởng khoa tại Đại học Rostrevor. Người chiến thắng giải "Idol của Úc" lần đầu tiên tổ chức, Guy Sebastian, đến từ vùng ngoại ô phía đông bắc của Golden Grove. Nhạc sĩ người Mỹ, Ben Folds đã từng sống ở Adelaide khi anh kết hôn với người Úc Frally Hynes. Các nếp gấp đã thu âm một bài hát về Adelaide trước khi anh rời đi. Ngoài WOMADelaide của riêng mình, Adelaide thu hút một số liên hoan âm nhạc lưu diễn, bao gồm cả Big Day Out, Creamfields, Future Music, Laneway, Parklife, Soundwave, Stereosonic và Summadayze
Adelaide đóng vai trò chủ nhà cho hai công ty múa đương đại hàng đầu của Úc. Nhà hát múa Úc và Leigh Warren & Dancers đóng góp cho các lễ hội quốc gia và biểu diễn trên toàn quốc và quốc tế. Restless Dance Theatre cũng có trụ sở tại Adelaide và được công nhận trên toàn quốc để làm việc với các vũ công khuyết tật và không khuyết tật để sử dụng chuyển động như một phương tiện biểu đạt.
Adelaide đã được UNESCO công nhận là "Thành phố âm nhạc" của Mạng lưới các thành phố sáng tạo được UNESCO công nhận.
Năm 2014, Ghil'ad Zuckermann thành lập Liên hoan Ngôn ngữ Adelaide.
Địa điểm hòa nhạc
Các địa điểm hòa nhạc Adelaide (quá khứ và hiện tại) bao gồm Trung tâm Giải trí Adelaide; Nhà hát Adelaide Festival; Adelaide Oval; Sân vận động Apollo; Memorial Drive Park; Nhà hát Thebarton. Các địa điểm biểu diễn nhạc sống và hòa nhạc khác bao gồm Adelaide Town Hall; Nhà hát Dunstan; Nhà hát Her's Majesty.
Báo chí
Báo chí ở Adelaide bị chi phối bởi các ấn phẩm của News Corporation — Adelaide là nơi ra đời của Tổng công ty Tin tức. Tờ báo hàng ngày duy nhất tại Nam Úc là The Advertiser, được xuất bản bởi News Corporation sáu ngày một tuần. Cùng một nhóm xuất bản 1 tờ báo ngày chủ nhật, Sunday Mail.
Có 11 tờ báo cộng đồng ngoại thành được xuất bản hàng tuần, được gọi chung là báo Messenger, cũng được xuất bản bởi một công ty con của News Corporation. Tuần báo độc lập là một tờ báo độc lập nhỏ cung cấp một cái nhìn khác, nhưng đã ngừng xuất bản ấn bản in của nó vào tháng 11 năm 2010 và hiện chỉ tồn tại dưới dạng bản tin kỹ thuật số hàng ngày. Tạp chí Adelaide Review là một bài báo miễn phí được xuất bản hai tuần một lần và các ấn phẩm tạp chí độc lập khác được xuất bản, nhưng không có sẵn rộng rãi.
Thể thao
Các môn thể thao chính được chơi chuyên nghiệp tại Adelaide là bóng bầu dục, bóng đá, cricket, và bóng rổ. Adelaide là nhà của hai câu lạc bộ bóng đá: Câu lạc bộ bóng đá Adelaide và Câu lạc bộ bóng đá Port Adelaide, và một đội bóng đang đá ở A-League, Adelaide United. Giải bóng đá quy tắc địa phương của Úc, SANFL, gồm 10 đội đến từ Adelaide. SANFL đã hoạt động từ năm 1877 khi nó bắt đầu là Hiệp hội Bóng đá Nam Úc (SAFL) trước khi đổi tên thành SANFL vào năm 1927. SANFL là giải đấu bóng đá lâu đời nhất còn sót lại của bất kỳ giải nào được chơi ở Úc. đã phát triển một nền văn hóa mạnh mẽ thu hút đám đông đến các sự kiện thể thao lớn. Cho đến khi hoàn thành việc cải tạo và nâng cấp sân vận động Adelaide Oval, hầu hết các sự kiện thể thao lớn diễn ra tại Sân vận động AAMI (sân nhà của Adelaide Crows, và địa điểm trận đấu tại sân của Port Adelaide), hoặc sân Adelaide Oval cũ, sân nhà của đội Redbacks Nam và các đội cricket Adelaide Strikers. Kể từ khi hoàn thành nâng cấp, cac trận trên sân nhà cho Adelaide Crows và Port Adelaide hiện đang diễn ra tại Adelaide Oval.
Kể từ năm 1884, Adelaide Oval cũng đã tổ chức giải cricket quốc tế mỗi mùa hè, cùng với một số trận đấu cricket Quốc tế Một ngày. Memorial Drive Park, tiếp giáp với Adelaide Oval, được sử dụng để tổ chức Davis Cup và các sự kiện quần vợt lớn khác, bao gồm giải quần vợt Úc mở rộng và (cho đến năm 2009) Adelaide International (nay được gọi là Brisbane International). Đội bóng đá hiệp hội chuyên nghiệp của Adelaide, Adelaide United, chơi ở A-League. Được thành lập vào năm 2003, sân nhà của họ là Sân vận động Hindmarsh, có sức chứa 17.000 và là một trong số ít sân bóng đá được xây dựng có mục đích ở Úc. Trước khi thành lập United, Adelaide City và West Adelaide đại diện cho thành phố trong Liên đoàn bóng đá quốc gia. Hai bên có trận derby Adelaide với nhau, bây giờ chơi ở giải ngoại hạng quốc gia Nam Úc.
Trong hai năm, 1997 và 1998, Adelaide đã được đại diện trong giải đấu bóng bầu dục cấp cao nhất của Úc, sau khi Giải bóng bầu dục New South Wales đã chơi một trận duy nhất mỗi mùa tại Adelaide Oval trong năm năm bắt đầu từ năm 1991. The Adelaide Rams được thành lập và chơi trong cuộc thi Super League (SL) ly khai vào năm 1997 trước khi chuyển đến giải bóng bầu dục quốc gia mới năm 1998. Ban đầu chơi tại Adelaide Oval, câu lạc bộ chuyển đến sân vận động Hindmarsh phù hợp vào cuối mùa giải 1998. Là một phần trong thỏa thuận hòa bình với Liên đoàn bóng bầu dục Úc chấm dứt tranh giành Super League, chủ sở hữu của News Limited (cũng là chủ sở hữu của SL) đột nhiên đóng cửa câu lạc bộ chỉ vài tuần trước khi bắt đầu mùa giải 1999.
Adelaide có hai đội bóng rổ chuyên nghiệp, đội bóng của nam giới là các cầu thủ Adelaide 36ers tham gia giải bóng rổ quốc gia (NBL) và đội nữ, Adelaide Lightning chơi trong giải bóng rổ nữ quốc gia (WNBL). Cả hai đội chơi trò chơi tại sân nhà của họ tại Titan Security Arena. Adelaide có một đội bóng rổ chuyên nghiệp, Adelaide Thunderbirds, chơi trong cuộc thi bóng rổ quốc gia, giải vô địch Suncorp Super Netball, với các trận đấu trên sân nhà được tổ chức tại sân vận động Priceline. Thunderbird thỉnh thoảng chơi trò chơi hoặc trận chung kết tại Titan Security Arena, trong khi các trận đấu bóng rổ quốc tế thường được chơi ở 10.500 chỗ ngồi tại Trung tâm Giải trí Adelaide. Titan Security Arena có sức chứa 8.000 và là sân vận động bóng rổ có mục đích lớn nhất ở Úc.
Từ năm 1999, Adelaide và các khu vực xung quanh đã tổ chức cuộc đua xe đạp Tour Down Under, được tổ chức và chỉ đạo bởi Mike Turtur có trụ sở tại Adelaide. Turtur đã giành được huy chương vàng Olympic cho đội tuyển Úc theo đuổi đội 4000m tại Thế vận hội Olympic Los Angeles 1984. Tour Down Under là sự kiện đạp xe lớn nhất bên ngoài châu Âu và là sự kiện đầu tiên bên ngoài châu Âu được cấp trạng thái UCI ProTour. Adelaide duy trì một nhượng quyền thương mại tại Australian Baseball League, Adelaide Bite. Họ đã chơi từ năm 2009, và sân nhà của họ (cho đến năm 2016) là Norwood Oval. Từ năm 2016, nhóm nghiên cứu đã chuyển đến Sân vận động Thể thao Diamond nằm gần Sân bay Quốc tế Adelaide do cải tạo tại Norwood. Tên của nó xuất phát từ Great Australian Bight địa phương, và từ sự phong phú của Great White Sharks địa phương. Adelaide cũng có đội khúc côn cầu Khúc côn cầu trên băng, Adelaide Adrenaline tại Liên đoàn Khúc côn cầu trên băng Úc (AIHL). Đó là nhà vô địch quốc gia vào năm 2009 và chơi các trận đấu tại IceArenA.
Giải đua xe công thức 1 Grand Prix Úc cho chức vô địch thế giới được tổ chức bởi Adelaide từ năm 1985 đến 1995 trên đường Adelaide Street Circuit được bố trí tại khu East End của thành phố cũng như các khu công viên phía đông bao gồm Trường đua ngựa Victoria Park. Grand Prix đã trở thành một nguồn niềm tự hào, và mất sự kiện đến Melbourne trong một thông báo bất ngờ vào giữa năm 1993 đã để lại một khoảng trống đã được lấp đầy với rất thành công ở Clipsal 500 cho V8 Supercar đua, được tổ chức trên một phiên bản sửa đổi của cùng mạch đường phố. The Classic Adelaide, một cuộc biểu tình của các loại xe thể thao cổ điển, cũng được tổ chức tại thành phố và khu vực xung quanh.
Adelaide trước đây có ba địa điểm đua ngựa. Victoria Park, Trường đua ngựa Cheltenham Park, cả hai đều đã đóng cửa, và Trường đua ngựa Morphettville vẫn là quê hương của Câu lạc bộ Jockey Nam Úc. Nó cũng có Globe Derby Park cho Harness đua mở cửa vào năm 1969, và vào năm 1973 đã trở thành địa điểm đua xe khai thác hàng đầu của Adelaide tiếp quản từ Wayville Showgrounds, cũng như Greyhound Park cho lễ đua chó greyhound mở cửa vào năm 1972.
Cuộc đua World Solar Challenge thu hút các đội từ khắp nơi trên thế giới, hầu hết trong số đó được các trường đại học hoặc các tập đoàn đưa vào hoạt động, mặc dù một số trường được các trường trung học cấp. Cuộc đua có lịch sử 20 năm kéo dài chín cuộc đua, với sự kiện khai mạc diễn ra vào năm 1987. Adelaide tổ chức giải vô địch thế giới 2012 tại Lockleys Bowling Club, trở thành thành phố thứ ba trên thế giới đã tổ chức giải vô địch hai lần, trước đây đã tổ chức sự kiện này vào năm 1996.
Đường đua vượt địa hình cũng rất phổ biến ở Adelaide với ba đường cao tốc hoạt động. Adelaide Motorsport Park, nằm cạnh đường đua xe đường đua quốc tế Adelaide tại Virginia (24 km (15 dặm) về phía bắc trung tâm thành phố) đã hoạt động liên tục từ năm 1979 sau khi đóng cửa đường đua Rowley Park Speedway nổi tiếng. Gillman Speedway nằm trong vùng ngoại ô bán công nghiệp của Gillman, đã hoạt động từ năm 1998 và phục vụ cho xe máy tốc độ và Sidecars, trong khi Sidewinders Speedway nằm ở Wingfield cũng là một đường xe máy dành riêng cho tay đua dưới 16 tuổi và đã hoạt động kể từ 1978.
Adelaide là nơi có Great Southern Slam, giải đấu derby lớn nhất thế giới. Giải đấu đã được tổ chức hai năm một lần vào dịp cuối tuần lễ của Nữ hoàng của Úc kể từ năm 2010. Vào năm 2014 và 2016, giải đấu có 45 đội chơi ở hai đội. Vào năm 2018, giải đấu đã mở rộng đến 48 đội thi đấu trong ba đội.
Giao thông
Có vị trí thuận lợi để di chuyển đến bất kì đâu trên lãnh thổ Úc, Adelaide tạo thành một trung tâm giao thông chiến lược cho các tuyến đông-tây và bắc-nam. Bản thân thành phố có hệ thống giao thông công cộng rộng khắp đô thị, được quản lý bởi và được biết đến với tên gọi là tàu điện ngầm Adelaide. Tàu điện ngầm Adelaide bao gồm một hệ thống xe buýt có hợp đồng bao gồm O-Bahn Busway, đường sắt đô thị (với động cơ diesel và đường dây điện) và Xe điện Adelaide-Glenelg, được mở rộng như một xe điện đô thị vào năm 2010 thông qua trung tâm thành phố. - vùng ngoại ô Hindmarsh. Ngoài ra còn có kế hoạch mở rộng xe điện đến Port Adelaide và Semaphore. Một tuyến xe điện CBD cũng đang được xem xét và kế hoạch tổng thể sân bay Adelaide mới nhất cũng đã tiết lộ một chuyến xe điện đến sân bay trong tương lai gần.
Giao thông đường bộ ở Adelaide có lịch sử tương đối dễ dàng hơn so với nhiều thành phố khác của Úc, với bố trí thành phố được xác định rõ và các con đường nhiều làn đường rộng từ khi bắt đầu phát triển. Trong lịch sử, Adelaide được biết đến như là một "thành phố 20 phút", với những người đi làm đã có thể đi từ ngoại thành đô thị đến thành phố trong khoảng 20 phút. Tuy nhiên, những con đường này hiện nay thường được coi là không đủ để đối phó với giao thông đường bộ ngày càng tăng của Adelaide, và thường gặp phải tình trạng tắc nghẽn giao thông.
Khu vực đô thị Adelaide có một xa lộ và ba đường cao tốc. Để xây dựng, chúng là:
Xa lộ Đông Nam (M1), kết nối góc đông nam của Đồng bằng Adelaide với Đồi Adelaide và xa hơn với Cầu Murray và Tailem Bend, nơi nó tiếp tục là Quốc lộ 1 về phía đông nam đến Melbourne.
Đường cao tốc phía Nam (M2), kết nối các vùng ngoại ô phía nam bên ngoài với các vùng ngoại ô phía nam bên trong và trung tâm thành phố. Nó trùng lặp con đường của South Road.
Đường cao tốc Bắc-Nam (M2), là một dự án lớn đang được triển khai sẽ trở thành hành lang chính bắc-nam, thay thế phần lớn là đường South Road, nối với đường cao tốc phía Nam và đường cao tốc River River. Hiện tại, đường cao tốc chạy như một đường cao tốc trên cao từ ngã ba của nó với đường cao tốc Port River đến đường Regency, ở phía tây bắc của Adelaide. Tiếp tục của đường cao tốc hiện đang được xây dựng ở cả hai đầu của đường cao tốc, tại Darlington và trong dự án "Torrens to Torrens".
Đường cao tốc Port River (A9), kết nối Cảng Adelaide và Cảng Ngoài với Cảng Wakefield ở "lối vào" phía bắc đến khu vực đô thị.
Đường cao tốc phía Bắc (đường cao tốc Max Fatchen) (M20), kết nối các vùng ngoại ô phía bắc đi qua đường cao tốc Stuart (Quốc lộ 20) qua Cầu vượt Gawler đến Cảng Wakefield tại một điểm cách vài cây số về phía bắc của kết nối Đường cao tốc Cảng sông.
Kết nối phía Bắc (tuyến đường đề xuất M20) bắt đầu xây dựng vào năm 2016, kết nối đường cao tốc Bắc-Nam với đường cao tốc phía Bắc. Đường sẽ không phải chịu phí cầu đường trực tiếp, nhưng Nam Úc sẽ trở thành điểm kiểm tra "phí mạng" bao gồm việc tính phí xe tải dựa trên việc sử dụng đường và tác động thay cho phí đăng ký cao.
Khu vực đô thị Adelaide có hai sân bay thương mại, Sân bay Adelaide và Sân bay Parafield. Sân bay Adelaide, ở ngoại ô phía tây Adelaide, phục vụ hơn 8 triệu hành khách mỗi năm. Sân bay Parafield, sân bay thứ hai cách Adelaide 18 km (11 dặm) về phía bắc của trung tâm thành phố, được sử dụng cho máy bay nhỏ, đào tạo phi công và mục đích hàng không giải trí. Sân bay Parafield phục vụ như sân bay chính của Adelaide cho đến khi khai trương Sân bay Adelaide vào tháng 2 năm 1955.
Thành phố kết nghĩa
Adelaide có các thành phố kết nghĩa sau:
Austin, Mỹ - 1983
Christchurch, New Zealand - 1972
George Town, Penang - 1973
Himeji, Nhật Bản - 1982
Xem thêm
Nam Úc
Melbourne
Sydney
Perth
Darwin
Brisbane
Canberra
Hobart
Chú thích
Liên kết ngoài
Thành phố Adelaide
SA Central
City highlights
Metropolitan highlights
Terraserver.com navigable satellite map of Adelaide
Adelaide community chat forum
Khởi đầu năm 1836 ở Úc
Thành phố thủ phủ Úc
|
21944
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/1972
|
1972
|
Sự kiện
Tháng 1
1 tháng 1: Nello Celio trở thành tổng thống Thụy Sĩ
1 tháng 1: Kurt Waldheim trở thành tổng thư ký của Liên Hợp Quốc
18 tháng 1: Bahrain trở thành thành viên trong UNESCO
27 tháng 1: Qatar trở thành thành viên của UNESCO
30 tháng 1: Pakistan ly khai Khối Thịnh vượng chung Anh
Tháng 2
10 tháng 2: Oman trở thành thành viên của UNESCO
14 tháng 2: Trung Quốc và Mexico thiết lập quan hệ ngoại giao
19 tháng 2: Trung Quốc và Argentina thiết lập quan hệ ngoại giao
21 tháng 2: Tống thống Hoa Kỳ Nixon chính thức thăm Trung Quốc
26 tháng 2: Vỡ đập Buffalo-Creek tại Tây Virginia, Hoa Kỳ, 125 nạn nhân tử vong
Tháng 4
10 tháng 4: Động đất 7,1 độ trong Iran, 5.054 người chết
16 tháng 4: Apollo 16 khởi hành
Tháng 5
5 tháng 5: Palermo, Ý. Một chiếc Douglas DC-8 của Alitalia va vào núi. Tất cả 115 người trên máy bay chết
22 tháng 5: Ceylon có hiến pháp mới và trở thành nước cộng hòa dưới tên Sri Lanka
26 tháng 5: Hiệp ước SALT I được Richard Nixon và Leonid Ilyich Brezhnev ký kết
Tháng 6
1 tháng 6: Iraq quốc hữu hóa toàn bộ nền công nghiệp dầu
5 tháng 6: Trung Quốc và Hy Lạp thiết lập quan hệ ngoại giao
9 tháng 6: Vỡ đập nước Canyon-Lake tại Rapid City, Nam Dakota.
18 tháng 6: London: Rơi một chiếc Hawker Siddeley Trident của BEA, tất cả 121 người trên máy bay chết
Tháng 7
26 tháng 7: Quân lực VNCH kiểm soát thành cổ Quảng Trị, quân đội VNDCCH bị đẩy lùi
Tháng 8
10 tháng 8: Truyền hình Vì an ninh Tổ quốc chính thức lên sóng.
Tháng 10
13 tháng 10: Moskva: Rơi một chiếc Ilyushin Il-62 của Aeroflot, tất cả 176 người chết
27 tháng 10: Bangladesh trở thành thành viên của UNESCO
Tháng 11
29 tháng 11: Atari phát hành Pong, trò chơi video thành công thương mại đầu tiên
Tháng 12
7 tháng 12: Apollo 17 khởi hành
14 tháng 12: Eugene Andrew Cernan rời Mặt Trăng
19 tháng 12: Chiến dịch Linebacker II bắt đầu
23 tháng 12: Động đất 6,2 độ tại Nicaragua, khoảng 5.000 người chết
30 tháng 12: Tổng thống Richard Nixon lệnh ngừng ném bom miền bắc Việt Nam. Chiến dịch Linebacker II kết thúc
31 tháng 12: Bồ Đào Nha ly khai UNESCO
Sinh
Tháng 1
1 tháng 1: Lilian Thuram, cầu thủ bóng đá Pháp
5 tháng 1:
Sasha, ca sĩ nhạc pop Đức
Sakis Rouvas, nam ca sĩ Hy Lạp
11 tháng 1: Amanda Peet, nữ diễn viên Mỹ
13 tháng 1:
Stefan Beinlich, cầu thủ bóng đá Đức
Nicole Eggert, nữ diễn viên Mỹ
15 tháng 1: Shelia Burrell, nữ vận động viên điền kinh Mỹ
17 tháng 1: Benno Fürmann, diễn viên Đức
18 tháng 1:
Conny Mayer, nữ chính trị gia Đức
Kjersti Plätzer, nữ vận động viên điền kinh Na Uy
21 tháng 1: Javier Yubero, cầu thủ bóng đá Tây Ban Nha (mất 2005)
24 tháng 1:
Muriel Baumeister, nữ diễn viên Áo
Beth Hart, nữ ca sĩ Mỹ
25 tháng 1:
Silke Rottenberg, nữ cầu thủ bóng đá Đức
Pauli Jaks, vận động viên khúc côn cầu trên băng Thụy Sĩ
27 tháng 1:
Tobias Steinhauser, tay đua xe đạp Đức
Mark Owen, nam ca sĩ Anh
29 tháng 1: Bobbie Phillips, nữ diễn viên Mỹ
Tháng 2
1 tháng 2: Christian Ziege, cầu thủ bóng đá Đức
2 tháng 2: Dana International, nữ ca sĩ nhạc pop Israel
3 tháng 2: Georg Koch, cầu thủ bóng đá Đức
12 tháng 2: Sophie Zelmani, nữ nhạc sĩ Thụy Điển
13 tháng 2: Ronald Maul, cầu thủ bóng đá Đức
15 tháng 2:
Phan Thị Bích Hằng, nhà ngoại cảm nổi tiếng ở Việt Nam
Jaromír Jágr, vận động viên khúc côn cầu trên băng
16 tháng 2:
Wiebke Lorenz, nữ nhà báo, nhà văn Đức
Grit Breuer, nữ vận động viên điền kinh Đức
17 tháng 2: Johnny Jensen, vận động viên bóng ném Na Uy
20 tháng 2: Laith Al-Deen, nhạc sĩ Đức
22 tháng 2:
Claudia Pechstein, nữ vận động viên chạy đua trên băng Đức
Michael Chang, vận động viên quần vợt Mỹ
24 tháng 2: Manon Rheaume, nữ vận động viên khúc côn cầu trên băng Canada
25 tháng 2: Anneke Kim Sarnau, nữ diễn viên Đức
Tháng 3
2 tháng 3: Tim Bergmann, diễn viên Đức
5 tháng 3: Luca Turilli, nhạc sĩ
6 tháng 3: Shaquille O'Neal, cầu thủ bóng rổ Mỹ
9 tháng 3: Jean Louisa Kelly, nữ diễn viên Mỹ
10 tháng 3: Timbaland, nhà sản xuất âm nhạc Mỹ
12 tháng 3: Christian Möllmann, diễn viên Đức, nam ca sĩ
17 tháng 3:
Melissa Auf der Maur, ca sĩ, người mẫu
Mia Hamm, nữ cầu thủ bóng đá Mỹ
19 tháng 3: Julie Lunde Hansen, nữ vận động viên chạy ski Na Uy
21 tháng 3: Derartu Tulu, nữ vận động viên điền kinh Ai Cập
29 tháng 3: Manuel Rui Costa, cầu thủ bóng đá Bồ Đào Nha
31 tháng 3: Hà Phương, nữ ca sĩ người Mỹ gốc Việt
Tháng 4
3 tháng 4: Jennie Garth, nữ diễn viên Mỹ
4 tháng 4: Xenia Seeberg, nữ diễn viên Đức
6 tháng 4: Ralf Bucher, cầu thủ bóng đá Đức
9 tháng 4: RedOne, nam ca sĩ, nhạc sĩ, nhà sản xuất thu âm kiêm giám đốc âm nhạc người Thụy Điển gốc Maroc
10 tháng 4: Sami Yli-Sirniö, nhạc sĩ Phần Lan.
13 tháng 4: John van Buskirk, cầu thủ bóng đá, huấn luyện viên Mỹ
15 tháng 4: Giuseppe Reina, cầu thủ bóng đá Đức
16 tháng 4: Conchita Martínez, nữ vận động viên quần vợt Tây Ban Nha
17 tháng 4: Jennifer Garner, nữ diễn viên Mỹ
18 tháng 4: Lars Christiansen, vận động viên bóng ném Đan Mạch
19 tháng 4:
Rivaldo, cầu thủ bóng đá Brasil
Sonja Nef, nữ vận động viên chạy ski Thụy Sĩ
20 tháng 4: Carmen Electra, nữ diễn viên, nữ ca sĩ
29 tháng 4: Marko Rehmer, cầu thủ bóng đá Đức
Tháng 5
2 tháng 5:
Steffen Ziesche, vận động viên khúc côn cầu trên băng Đức
Alec Empire, nhạc sĩ Đức
Dwayne Johnson, diễn viên Mỹ, wrestler
5 tháng 5:
Devin Townsend, ca sĩ Canada
Žigmund Pálffy, vận động viên khúc côn cầu trên băng Slovakia
6 tháng 5:
Peter Friedrich, chính trị gia Đức
Naoko Takahashi, nữ vận động viên điền kinh Nhật Bản, huy chương Thế Vận Hội
7 tháng 5: Ivan Sergei, diễn viên Mỹ
8 tháng 5: Darren Hayes, ca sĩ nhạc pop Úc
9 tháng 5: Tommy Krappweis, tác giả Đức và đạo diễn phim
10 tháng 5:
Katja Seizinger, nữ vận động viên chạy ski Đức
Christian Wörns, cầu thủ bóng đá Đức
13 tháng 5: La Sương Sương, nữ ca sĩ người Mỹ gốc Việt hoạt động ở hải ngoại (mất 2007)
16 tháng 5: Martin Brodeur, vận động viên khúc côn cầu trên băng Canada
18 tháng 5: Nordin ben Salah, võ sĩ quyền Anh Hà Lan (mất 2004)
21 tháng 5:
Christoph Hartmann, chính trị gia Đức
The Notorious B.I.G., rapper Mỹ (m. 1997)
26 tháng 5: René Hemmerling, nhà văn Đức
27 tháng 5: Ivete Sangalo, nữ ca sĩ Brasil
28 tháng 5:
Boris Palmer, chính trị gia Đức
Chiara Mastroianni, nữ diễn viên Pháp
Michael Boogerd, tay đua xe đạp Hà Lan
31 tháng 5: Sébastien Barberis, cầu thủ bóng đá Thụy Sĩ
Tháng 6
1 tháng 6: Mỹ Lệ, nữ ca sĩ người Việt Nam
4 tháng 6: Nikka Costa, nữ ca sĩ người Mỹ
7 tháng 6:
Karl Urban, diễn viên người New Zealand
Trần Bảo Sơn, diễn viên, doanh nhân người Việt Nam, chồng cũ của nữ diễn viên Trương Ngọc Ánh
8 tháng 6: Jaroslav Rudiš, nhà văn , nhà báo người Séc
12 tháng 6: Inger Miller, nữ vận động viên điền kinh Mỹ
15 tháng 6: Jean-Francois Labbé, vận động viên khúc côn cầu trên băng người Canada
19 tháng 6: Ilja Markow, vận động viên điền kinh người Nga, huy chương Thế Vận Hội
22 tháng 6: Dariusz Baranowski, tay đua xe đạp người Ba Lan
23 tháng 6:
Zinedine Zidane, cầu thủ bóng đá người Pháp
Selma Blair, nữ diễn viên người Mỹ
24 tháng 6: Robbie McEwen, tay đua xe đạp người Úc
28 tháng 6:
Maria Viktorovna Butyrskaya, nữ vận động viên trượt băng nghệ thuật người Nga
Ngô Bảo Châu, Giáo sư Toán người Việt Nam/Pháp
Tháng 7
1 tháng 7:
Steffi Nerius, nữ vận động viên điền kinh Đức
Claire Forlani, nữ diễn viên Anh
2 tháng 7: Darren O'Shaughnessy, nhà văn Ireland
4 tháng 7: Karin Thürig, nữ vận động viên đua xe đạp Thụy Sĩ
8 tháng 7: Geri Halliwell, nữ ca sĩ nhạc pop Anh
10 tháng 7: Phương Thùy, nữ ca sĩ Việt Nam
17 tháng 7:
Mandy Smith, người mẫu, nữ ca sĩ
Jaap Stam, cầu thủ bóng đá Hà Lan
19 tháng 7: Ebbe Sand, cầu thủ bóng đá Đan Mạch
21 tháng 7: Paul Brandt, ca sĩ nhạc country Canada
23 tháng 7: Giovane Elber, cầu thủ bóng đá Brasil
26 tháng 7: Tanja Szewczenko, nữ vận động viên trượt băng nghệ thuật Đức
28 tháng 7:
Walter Bénéteau, tay đua xe đạp Pháp
Anh Vũ, diễn viên, người dẫn chương trình, ca sĩ hát nhạc hài người Việt Nam (mất 2019)
29 tháng 7: Wil Wheaton, diễn viên Mỹ, nhà văn
Tháng 8
2 tháng 8:
Justyna Steczkowska, nữ nhạc sĩ nhạc pop Ba Lan
Corinne Rey-Bellet, nữ vận động viên chạy ski Thụy Sĩ
3 tháng 8: Erika Marozsán, nữ diễn viên Hungary
6 tháng 8: Christoph Simon, nhà văn Thụy Sĩ
8 tháng 8: Axel Merckx, tay đua xe đạp Bỉ
9 tháng 8: Marcos Serrano, tay đua xe đạp Tây Ban Nha
10 tháng 8: Angie Harmon, nữ diễn viên Mỹ
12 tháng 8: Rebecca Gayheart, nữ diễn viên Mỹ
15 tháng 8:
Mikey Graham, nam ca sĩ Ireland
Ben Affleck, diễn viên Mỹ
24 tháng 8: Fritz Strobl, vận động viên chạy ski Áo
27 tháng 8:
Denise Lewis, nữ vận động viên điền kinh Anh
Roland Garber, tay đua xe đạp Áo
30 tháng 8:
Pavel Nedvěd, cầu thủ bóng đá
Cameron Diaz, nữ diễn viên Mỹ và người mẫu
31 tháng 8: Kostas Konstantinidis, cầu thủ bóng đá Hy Lạp
Tháng 9
1 tháng 9: Peter Adolphsen, nhà văn Đan Mạch
3 tháng 9: Tim Lobinger, vận động viên điền kinh Đức
8 tháng 9:
Markus Babbel, cầu thủ bóng đá Đức
Seki Tomokazu, seiyū Nhật Bản
9 tháng 9: Miriam Oremans, nữ vận động viên quần vợt Hà Lan
13 tháng 9: Trần Tuệ Lâm, ca sĩ kiêm diễn viên Hồng Kông
14 tháng 9: Peter Németh, cầu thủ bóng đá Slovakia
15 tháng 9:
Timothy Mack, vận động viên điền kinh Mỹ
Mandakranta Sen, nhà văn nữ Ấn Độ
16 tháng 9:
Vebjørn Rodal, vận động viên điền kinh Na Uy, huy chương Thế Vận Hội
Daisuke Miyagawa, diễn viên hài người Nhật Bản
18 tháng 9: Mirijam Günter, nhà văn, nhà xuất bản
21 tháng 9: Liam Gallagher, nam ca sĩ Anh của ban nhạc rock Oasis
23 tháng 9: Sarah Bettens, nữ nhạc sĩ Bỉ
28 tháng 9:
Werner Schlager, vận động viên bóng bàn Áo
Gwyneth Paltrow, nữ diễn viên Mỹ
30 tháng 9: Ari Behn, nhà văn Na Uy
Tháng 10
3 tháng 10: Kevin Richardson, nam ca sĩ của Backstreet Boys
7 tháng 10: Loek van Wely, kì thủ Hà Lan
11 tháng 10: Claudia Black, nữ diễn viên Úc
16 tháng 10:
Benjamin Mikfeld, chính trị gia Đức
Tomasz Hajto, cầu thủ bóng đá Ba Lan
17 tháng 10: Eminem, ca sĩ nhạc rap Mỹ và nhà sản xuất
18 tháng 10:
Helge Braun, chính trị gia Đức và nghị sĩ quốc hội liên bang
Wojciech Kuczok, nhà văn Ba Lan
19 tháng 10: Stephan Hanke, cầu thủ bóng đá Đức
24 tháng 10: Matt Hemingway, vận động viên điền kinh Mỹ
27 tháng 10:
Sebastian Ratjen, chính trị gia Đức
Santiago Botero, tay đua xe đạp Colombia
Maria Mutola, nữ vận động viên điền kinh
30 tháng 10: Daniela Knor, nữ tác giả Đức
Tháng 11
1 tháng 11: Toni Collette, nữ diễn viên Úc
4 tháng 11: Luís Figo, cầu thủ bóng đá Bồ Đào Nha
6 tháng 11:
Thandie Newton, nữ diễn viên Anh
Rebecca Romijn, nữ diễn viên Mỹ
7 tháng 11:
Christopher Daniel Barnes, diễn viên Mỹ
Jason London, diễn viên Mỹ, nhà sản xuất phim
12 tháng 11: Vasileios Tsiartas, cầu thủ bóng đá Hy Lạp
14 tháng 11:
Edyta Górniak, nữ ca sĩ Ba Lan
Dariusz Żuraw, cầu thủ bóng đá Ba Lan
15 tháng 11: Jonny Lee Miller, diễn viên Anh
17 tháng 11: Kimya Dawson, nữ ca sĩ Mỹ
26 tháng 11: Arjun Rampal, diễn viên Ấn Độ
30 tháng 11: Kriemhild Jahn, nữ ca sĩ Đức
Tháng 12
1 tháng 12: Norbert Wójtowicz, nhà sử học Ba Lan và nhà thần học
2 tháng 12: Sergejs Žoltoks, vận động viên khúc côn cầu trên băng (mất 2004)
4 tháng 12:
Sebastian Karpiniuk, chính trị gia Ba Lan
Marc Bator, nhà báo Đức
9 tháng 12:
Leonor Varela, nữ diễn viên Chile
Tré Cool, nhạc sĩ nhạc rock Mỹ
Reiko Aylesworth, nữ diễn viên Mỹ
10 tháng 12: Brian Molko, nhạc sĩ
11 tháng 12: Andrij Hussin, cầu thủ bóng đá Ukraina
12 tháng 12: Wilson Kipketer, vận động viên điền kinh Đan Mạch
13 tháng 12: Peter Luttenberger, tay đua xe đạp Áo
17 tháng 12: Anton Ehmann, cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp Áo
19 tháng 12: Alyssa Milano, nữ diễn viên Mỹ, nhà sản xuất và nữ ca sĩ
20 tháng 12: Anja Rücker, nữ vận động viên điền kinh Đức
22 tháng 12:
Stephanie Ann Jones, nữ cầu thủ bóng đá Đức
Vanessa Paradis, nữ diễn viên Pháp và nữ ca sĩ
Alexandre Moos, tay đua xe đạp Thụy Sĩ
23 tháng 12: Lukas Hilbert, nhà soạn nhạc, nhà sản xuất nhạc, nam ca sĩ Đức
24 tháng 12: Thanh Ngân, nghệ sĩ cải lương Việt Nam
25 tháng 12: Qu Yunxia, nữ vận động viên điền kinh Trung Hoa
26 tháng 12: Jared Leto, diễn viên Mỹ
28 tháng 12: Patrick Rafter, vận động viên quần vợt Úc
29 tháng 12:
Jude Law, diễn viên Anh
Eva Haßmann, nữ diễn viên Đức
30 tháng 12: Stefan Liebich, chính trị gia Đức
31 tháng 12: Mathias Hain, cầu thủ bóng đá Đức
Mất
1 tháng 1: Eberhard Wolfgang Möller, nhà văn Đức, nhà soạn kịch (sinh 1906)
3 tháng 1: Elisabeth Schiemann, nhà nữ thực vật học Đức (sinh 1881)
6 tháng 1: Chen Yi, tướng, chính trị gia Trung Hoa (sinh 1901)
14 tháng 1: Frederik IX, vua của Đan Mạch (sinh 1899)
14 tháng 1: Horst Assmy, cầu thủ bóng đá Đức (sinh 1933)
16 tháng 1: David Seville, nam ca sĩ Mỹ, nhà soạn nhạc (sinh 1919)
17 tháng 1: Karl Gaul, chính trị gia Đức (sinh 1889)
24 tháng 1: Dino Buzzati, nhà văn Ý (sinh 1906)
27 tháng 1: Richard Courant, nhà toán học Đức (sinh 1888)
30 tháng 1: Karel Boleslav Jirák, nhà soạn nhạc Séc (sinh 1891)
31 tháng 1: Hans Breitensträter, võ sĩ quyền anh hạng nặng (sinh 1897)
7 tháng 2: Walter Lang, đạo diễn phim Mỹ (sinh 1896)
7 tháng 2: Walter von Sanden-Guja, nhà văn Đức, nhà nghiên cứu tự nhiên, thi sĩ (sinh 1888)
8 tháng 2: Markos Vamvakaris, nam ca sĩ Hy Lạp, nhà soạn nhạc (sinh 1905)
15 tháng 2: Edgar Snow, nhà báo Mỹ (sinh 1905)
16 tháng 2: Jakob Fischbacher, chính trị gia Đức (sinh 1886)
20 tháng 2: Maria Goeppert-Mayer, nhà nữ vật lý học (sinh 1906)
25 tháng 2: Gottfried Fuchs, cầu thủ bóng đá Đức (sinh 1889)
28 tháng 2: Victor Barna, vận động viên bóng bàn Hungary (sinh 1911)
2 tháng 3: Clifford Coffin, nhiếp ảnh gia Mỹ (sinh 1913)
5 tháng 3: Helmut Körnig, vận động viên điền kinh Đức (sinh 1905)
7 tháng 3: Otto Griebel, họa sĩ Đức (sinh 1895)
11 tháng 3: Ferdinand Friedensburg, chính trị gia Đức (sinh 1886)
11 tháng 3: Martin Blank, chính trị gia Đức (sinh 1897)
20 tháng 3: Gerhard Heid, huấn luyện viên bóng đá Đức
27 tháng 3: M. C. Escher, nghệ nhân Hà Lan, nghệ sĩ tạo hình (sinh 1898)
2 tháng 4: Franz Halder, tướng Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai (sinh 1884)
3 tháng 4: Ferde Grofé, nhà soạn nhạc Mỹ, người điều khiển dàn nhạc (sinh 1892)
4 tháng 4: Stefan Wolpe, nhà soạn nhạc Đức (sinh 1902)
6 tháng 4: Heinrich Lübke, chính trị gia Đức (sinh 1894)
11 tháng 4: Solomon Aaron Berson, nhà y học Mỹ (sinh 1918)
13 tháng 4: Jóhannes Sveinsson Kjarval, họa sĩ (sinh 1885)
15 tháng 4: Frank Knight, nhà kinh tế học Mỹ (sinh 1885)
16 tháng 4: Kawabata Yasunari, nhà văn Nhật Bản (sinh 1899)
18 tháng 4: Willi Lausen, chính trị gia Đức (sinh 1901)
25 tháng 4: George Sanders, diễn viên Anh, Giải Oscar (sinh 1906)
27 tháng 4: Kwame Nkrumah, chính trị gia, 1960–1966 tổng thống Ghana (sinh 1909)
27 tháng 4: Jóhannes úr Kötlum, nhà văn (sinh 1899)
29 tháng 4: Manfred Gurlitt, tác giả Đức, nhà soạn nhạc (sinh 1890)
2 tháng 5: J. Edgar Hoover, giám đốc FBI (sinh 1895)
2 tháng 5: Hugo Hartung, nhà văn Đức (sinh 1902)
4 tháng 5: Edward Calvin Kendall, nhà hóa sinh Mỹ (sinh 1886)
5 tháng 5: Fulbert Youlou, tổng thống Cộng hòa Congo (sinh 1917)
9 tháng 5: Michael Laßleben, nhà xuất bản Đức (sinh 1899)
13 tháng 5: Dan Blocker, diễn viên Mỹ (sinh 1928)
14 tháng 5: Theodor Blank, chính trị gia Đức (sinh 1905)
18 tháng 5: Sidney Franklin, đạo diễn phim Mỹ, nhà sản xuất phim (sinh 1893)
22 tháng 5: Margaret Rutherford, nữ diễn viên Anh (sinh 1892)
22 tháng 5: Cecil Day-Lewis, nhà văn, thi sĩ (sinh 1904)
25 tháng 5: Asta Nielsen, nữ diễn viên Đan Mạch (sinh 1881)
27 tháng 5: José Garibi y Rivera, tổng giám mục Guadalajara, Hồng y (sinh 1889)
29 tháng 5: Margaret Ruthven Lang, nhà soạn nhạc Mỹ (sinh 1867)
2 tháng 6: Ulvi Cemal Erkin, nhà soạn nhạc Thổ Nhĩ Kỳ (sinh 1906)
11 tháng 6: Joakim Bonnier, tay đua Công thức 1 (sinh 1930)
12 tháng 6: Ludwig von Bertalanffy, nhà sinh vật học Áo, nhà nghiên cứu tự nhiên (sinh 1901)
13 tháng 6: Georg von Békésy, nhà vật lý học, nhà sinh lý học (sinh 1899)
17 tháng 6: Helge Rosvaenge, người hát giọng nam cao Đan Mạch (sinh 1897)
22 tháng 6: Paul Czinner, tác giả, đạo diễn phim, (sinh 1890)
23 tháng 6: Werner Klingler, diễn viên Đức, đạo diễn phim, tác giả kịch bản (sinh 1903)
28 tháng 6: Prasanta Chandra Mahalanobis, nhà vật lý học Ấn Độ (sinh 1893)
29 tháng 6: Boby Lapointe, nam ca sĩ Pháp (sinh 1922)
3 tháng 7: Fred McDowell, nhạc sĩ blues Mỹ (sinh 1904)
3 tháng 7: Gustav Hillard, nhà văn Đức, nhà phê bình (sinh 1881)
9 tháng 7: Franz Pfender, chính trị gia Đức (sinh 1899)
20 tháng 7: Friedrich Flick, doanh nhân Đức (sinh 1883)
20 tháng 7: Geeta Dutt, nữ ca sĩ Ấn Độ (sinh 1930)
21 tháng 7: Ralph Craig, vận động viên điền kinh Mỹ (sinh 1889)
23 tháng 7: Max Aub, nhà văn Tây Ban Nha (sinh 1903)
25 tháng 7: Thomas Andresen, chính trị gia Đức (sinh 1897)
26 tháng 7: Joop Boutmy, cầu thủ bóng đá Hà Lan (sinh 1894)
31 tháng 7: Paul-Henri Spaak, chính trị gia Bỉ, chính khách (sinh 1899)
31 tháng 7: Ernst Fischer, nhà văn Áo (sinh 1899)
2 tháng 8: Rudolph Ganz, nhà soạn nhạc Thụy Sĩ, nghệ sĩ dương cầm, người điều khiển dàn nhạc (sinh 1877)
2 tháng 8: Ralph Maria Siegel, nhà soạn nhạc Đức (sinh 1911)
2 tháng 8: Paul Goodman, triết gia xã hội Mỹ, nhà thơ (sinh 1911)
9 tháng 8: Ernst von Salomon, nhà văn Đức (sinh 1902)
11 tháng 8: Albrecht Aschoff, chính trị gia Đức (sinh 1899)
11 tháng 8: Max Theiler, nhà sinh vật học Mỹ (sinh 1899)
14 tháng 8: Paolo Giobbe, Hồng y Giáo chủ (sinh 1880)
16 tháng 8: John Barnes Chance, nhà soạn nhạc Mỹ (sinh 1932)
16 tháng 8: Pierre Brasseur, diễn viên Pháp (sinh 1905)
19 tháng 8: Leopold Reitz, nhà văn Đức (sinh 1889)
24 tháng 8: Georg Draheim, giáo sư kinh tế học (sinh 1903)
25 tháng 8: Juan Carlos Paz, nhà soạn nhạc Argentina (sinh 1901)
26 tháng 8: Oskar Wacker, chính trị gia Đức (sinh 1898)
29 tháng 8: Lale Andersen, nữ ca sĩ Đức, nữ diễn viên (sinh 1905)
29 tháng 8: Herta Ilk, nữ chính trị gia Đức (sinh 1902)
30 tháng 8: Joseph Maria Lutz, nhà văn Đức (sinh 1893)
2 tháng 9: Alejandra Pizarnik, nữ thi sĩ Argentina (sinh 1936)
2 tháng 9: John Hutchinson, nhà thực vật học Anh (sinh 1884)
15 tháng 9: Ásgeir Ásgeirsson, tổng thống thứ nhì của Iceland(sinh 1894)
19 tháng 9: Robert Casadesus, nghệ sĩ dương cầm Pháp (sinh 1899)
21 tháng 9: Henry de Montherlant, nhà văn Pháp (sinh 1895)
22 tháng 9: Benedicto Kiwanuka, chính trị gia (sinh 1922)
23 tháng 9: Gerard Boedijn, nhà soạn nhạc Hà Lan, thầy giáo (sinh 1893)
27 tháng 9: Rory Storm, nhạc sĩ nhạc rock Anh, nam ca sĩ (sinh 1938)
27 tháng 9: Shiyali Ramamrita Ranganathan, nhà toán học Ấn Độ (sinh 1892)
28 tháng 9: Erich Przywara, nhà thần học (sinh 1889)
30 tháng 9: Edgar G. Ulmer, đạo diễn phim Mỹ (sinh 1904)
1 tháng 10: Kurt Hiller, nhà văn Đức, nhà xuất bản (sinh 1885)
10 tháng 10: Kenneth Essex Edgeworth, nhà thiên văn học Ireland (sinh 1880)
16 tháng 10: Hale Boggs, chính trị gia Mỹ (sinh 1914)
16 tháng 10: Leo G. Carroll, diễn viên Anh (sinh 1892)
17 tháng 10: Günter Neumann, nhà soạn nhạc Đức, tác giả (sinh 1913)
20 tháng 10: Harlow Shapley, nhà thiên văn học Mỹ (sinh 1885)
28 tháng 10: Mitchell Leisen, đạo diễn phim Mỹ, diễn viên, nhà sản xuất (sinh 1898)
5 tháng 11: Lubor Bárta, nhà soạn nhạc Séc (sinh 1928)
6 tháng 11: Heinz Spundflasche, cầu thủ bóng đá Đức (sinh 1919)
11 tháng 11: Paul Schmitthenner, kiến trúc sư Đức (sinh 1884)
13 tháng 11: Arnold Jackson, vận động viên điền kinh Anh, huy chương Thế Vận Hội (sinh 1891)
16 tháng 11: Andrei Philippowitsch Pashchenko, nhà soạn nhạc Nga (sinh 1885)
18 tháng 11: Stanislaus Kobierski, cầu thủ bóng đá Đức (sinh 1910)
20 tháng 11: Ennio Flaiano, nhà văn Ý (sinh 1910)
24 tháng 11: Mani Matter, nhạc sĩ Thụy Sĩ (sinh 1936)
25 tháng 11: Hans Scharoun, kiến trúc sư Đức (sinh 1893)
25 tháng 11: Henri Marie Coandă, nhà vật lý học (sinh 1886)
28 tháng 11: Havergal Brian, nhà soạn nhạc Anh (sinh 1876)
30 tháng 11: Hans Erich Apostel, nhà soạn nhạc (sinh 1901)
1 tháng 12: Antonio Segni, chính trị gia Ý (sinh 1891)
2 tháng 12: Donn Eisele, nhà du hành vũ trụ Mỹ (sinh 1930)
2 tháng 12: Diệp Vấn, võ sư Vịnh Xuân Quyền nổi tiếng (sinh 1893)
4 tháng 12: Mikalai Aladau, nhà soạn nhạc Belarus (sinh 1890)
4 tháng 12: Arnold Fischer, chính trị gia Đức (sinh 1898)
6 tháng 12: Paul Weyland, nhà hóa học Đức (sinh 1888)
8 tháng 12: William Dieterle, đạo diễn phim Đức, diễn viên (sinh 1893)
15 tháng 12: Wolfgang Jacobi, nhà soạn nhạc Đức gốc Do Thái (sinh 1894)
24 tháng 12: Ernst Kreuder, nhà văn Đức (sinh 1903)
26 tháng 12: Harry S. Truman, chính trị gia Mỹ, tổng thống thứ 33 của Hoa Kỳ (sinh 1884)
27 tháng 12: Lester B. Pearson, Thủ tướng Canada (sinh 1897)
29 tháng 12: Joseph Cornell, nhà điêu khắc Mỹ, họa sĩ (sinh 1903)
29 tháng 12: Curth Georg Becker, họa sĩ Đức (sinh 1904)
30 tháng 12: Arsenio Rodríguez, nhạc sĩ Cuba, nhà soạn nhạc (sinh 1911)
Giải Nobel
Hóa học - Christian B. Anfinsen, Stanford Moore, William H. Stein
Văn học - Heinrich Böll
Hòa bình - không trao giải
Vật lý - John Bardeen, Leon Neil Cooper, John Robert Schrieffer
Y học - Gerald M. Edelman, Rodney R. Porter
Kinh tế - John Hicks, Kenneth Arrow
Xem thêm
Thế giới trong năm 1972, tình trạng thế giới trong năm này
Tham khảo
Năm 1972
2
|
21949
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/MEDLINE
|
MEDLINE
|
MEDLINE (hay Medline, viết tắt tiếng Anh của Medical Literature Analysis and Retrieval System Online) là một cơ sở dữ liệu hỗn hợp của các ngành khoa học sự sống và y sinh học. Các lĩnh vực phục vụ của MEDLINE bào gồm y học, kỹ thuật điều dưỡng, nha khoa, thú y và tổ chức y tế. Với mục đích cung cấp lượng thông tin tối đa, các ngành liên quan như sinh học và hóa sinh học đã được đưa vào cơ sở dữ liệu, thậm chí cả một số ngành không trực tiếp phục vụ y học như tiến hóa phân tử.
MEDLINE được biên soạn bởi Trung tâm Thông tin Công nghệ Sinh học Quốc gia (National Center for Biotechnology Information, NCBI) thuộc Thư viện Y khoa Quốc gia Hoa Kỳ (National Library of Medicine, NLM) và cho phép truy cập miễn phí trên Internet thông qua PubMed với cỗ máy tìm kiếm tên là Entrez (nghĩa là "Mời vào" hoặc "Nhập (từ khóa) vào", theo tiếng Pháp).
Cơ sở dữ liệu
Cơ sở dữ liệu của MEDLINE chứa trên 14 triệu hồ sơ từ hơn 4.800 tài liệu xuất bản (chủ yếu là các tạp chí y học) từ những năm 1950 đến nay, và các trích dẫn mới được bổ sung mỗi ngày. Các trích dẫn mới hơn còn bao gồm cả phần tóm tắt của các bài báo đang còn thảo luận. MEDLINE được thiết kế để chứa dữ liệu toàn cầu, nhưng hầu hết các tài liệu đều từ các nguồn sử dụng tiếng Anh hoặc có bảng tóm tắt bằng Anh ngữ.
MEDLINE dùng MeSH (Medical Subject Headings) để tầm soát thông tin. Các cỗ máy tìm kiếm thiết kế cho MEDLINE (như Entrez) thường sử dụng biểu thức Boole chứa các thuật ngữ MeSH, các từ chứa trong tóm tắt hay tựa đề của bài báo, tên tác giả, ngày xuất bản v.v.. Entrez còn cho phép tìm các tài liệu gần giống với tài liệu đã biết nhờ một hệ thống tính toán mức độ tương đồng giữa các từ ngữ trong nội dung, bản tóm tắt hoặc tựa đề của hai tài liệu.
Tác động
MEDLINE đã trở thành một tài nguyên quan trọng cho các nhà nghiên cứu y sinh học khắp thế giới. Cùng với Thư viện Cochrane, MEDLINE thúc đẩy sự phát triển của y học thực chứng. Ngày nay, hầu hết các nghiên cứu tổng quan đều dựa trên một quá trình tìm kiếm rộng rãi trên MEDLINE để tìm các bài báo có ích cho công trình. Nhiều bài báo nhắc lại các thuật ngữ được dùng khi tìm thông tin trên MEDLINE, nhằm giúp cho các nhà khoa học khác tìm kiếm thông tin hiệu quả hơn.
Bên cạnh đó, MEDLINE còn ảnh hưởng đến các nhà nghiên cứu trong việc chọn lựa tạp chí để gửi bài đăng. Ngày nay rất ít nhà nghiên cứu còn muốn đăng công trình của mình trên những tạp chí không có trong mục lục của MEDLINE bởi vì điều đó khiến cho các đồng nghiệp không biết đến (và trích dẫn) bài báo của mình.
Chúng ta tiếp tục bàn nhé.
Cách dùng MEDLINE
Mới nhìn thì có vẻ đơn giản, nhưng thật ra muốn tìm kiếm MEDLINE có hiệu quả cần phải có kỹ thuật và thông qua rèn luyện. Thiếu kinh nghiệm, số lượng khổng lồ các bài báo được tìm ra khi bấm Enter dễ làm nản lòng người. Ngược lại, cũng khó lòng cả quyết rằng kết quả tìm kiếm là đầy đủ, ngay cả khi nó lôi ra được hàng nghìn tựa bài.
Trên Pubmed có chỉ dẫn cách sử dụng tối ưu các tài nguyên của MEDLINE (bằng tiếng Anh). Tuy nhiên, kỹ năng quyết định là phải biết bố trí một chuỗi tìm kiếm, điều này không phải là dễ. Các thủ thư của NLM sắp xếp tất cả các tài liệu theo chủ đề dựa theo một bảng từ vựng chuẩn hóa (Medical Subject Headings, MeSH). Do đó, sử dụng cơ sở dữ liệu MeSH để xác lập chủ đề quan tâm là cách thông dụng nhất để cải thiện chất lượng tìm kiếm. Một cách khác là tìm một bài trong chủ đề rồi bấm vào mục "các bài liên quan" ("Related Articles") để tìm đến các bài được xếp loại tương đương.
Đúng thế
Xem thêm
MedlinePlus – thông tin y tế cho công chúng
PubChem – một số dịch vụ hóa học miễn phí
Tham khảo
Liên kết ngoài
JournalReview.org - 'An unbiased forum for review of the medical literature', An On-Line journal club
Entrez/PubMed (hoặc qua đường dẫn ngắn http://pubmed.gov)
Cross-database search with Entrez
All the databases searcheable with Entrez
PubMed Tutorials
MeSH database
Tin sinh học
Nghiên cứu y học
Công cụ truy vấn dữ liệu
Cơ sở dữ liệu sinh học
Cơ sở dữ liệu thư mục
Cơ sở dữ liệu trực tuyến
Cơ sở dữ liệu y học
|
21950
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/PubMed
|
PubMed
|
PubMed là một cơ sở dữ liệu miễn phí truy cập chủ yếu qua cơ sở dữ liệu MEDLINE về các tài liệu tham khảo và tóm tắt về các chủ đề khoa học đời sống và y sinh học. Thư việt Y học Quốc gia Hoa Kỳ (NLM) tại Viện Y tế quốc gia Hoa Kỳ duy trì hoạt động của cơ sở dữ liệu là một phần trong hệ thống truy cập thông tin Entrez. PubMed được phát hành đầu tiên vào tháng 1 năm 1996.
Định danh PubMed
Định danh PubMed hay PMID là một số duy nhất cấp cho mỗi bản ghi PubMed.
Việc cấp một PMID hay PMCID cho một ấn phẩm không thể cho người đọc biết điều gì về loại hay chất lượng nội dung của ấn phẩm đó. PMID được cấp cho các bức thư gởi đến biên tập viên, các ý kiến của biên tập viên, op-ed columns, và bất kỳ phần nào mà biên tập viên chọn bao gồm trong tạp chí, cũng như các bài báo được xét duyệt. Số định danh này cũng không là bằng chứng cho thấy rằng các bài báo không được rút lại do gian lận, chưa hoàn chỉnh, hoặc sai. Việc thông báo để chỉnh sửa bài báo gốc có thể được cấp số PMID.
Tham khảo
Cơ sở dữ liệu y học
Cơ sở dữ liệu sinh học
Cơ sở dữ liệu trực tuyến
Website Mỹ
Cơ sở dữ liệu thư mục
|
21953
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Entrez
|
Entrez
|
Hệ thống tìm kiếm truy vấn cơ sở dữ liệu tương hỗ toàn cầu Entrez cho phép tiếp cận các cơ sở dữ liệu tại trang web NCBI (National Center for Biotechnology Information). NCBI trực thuộc Thư viện Y khoa Quốc gia Hoa Kỳ (National Library of Medicine, NLM), đồng thời là một cơ quan của Các viện Y tế Quốc gia Hoa Kỳ (National Institutes of Health, NIH).
Tìm kiếm
Entrez là một cỗ máy tìm kiếm rất mạnh, có thể truy cập bất cứ cơ sở dữ liệu nào của NCBI, bao gồm:
Medline - tư liệu từ các tạp chí khoa học (chủ yếu là ngành y), thường bao gồm bản tóm tắt. Medline liên kết đến PubMed Central và các nguồn tư liệu khác những năm 1990.
PubChem, một cơ sở dữ liệu về các cấu trúc hóa học, đặc tính và vai trò sinh học của các hợp chất hóa học và các chất nói chung.
Sequence
Mapping
Taxonomy
Structural data.
Một số sách giáo khoa được cung cấp trực tuyến.
Hệ thống Entrez có thể hiển thị các chuỗi gene và protein cũng như bản đồ nhiễm sắc thể. Entrez còn tìm ra các chuỗi tương đồng, các cấu trúc và các tham khảo. Entrez cũng cho phép tiếp cận cùng lúc đến tất cả các cơ sở dữ liệu của nó.
Genbank
Từ năm 1992, NCBI đã có trách nhiệm cung cấp cơ sở dữ liệu chuỗi DNA GenBank. GenBank phối hợp với các phòng thí nghiệm và các cơ sở dữ liệu về các chuỗi sinh học như Phòng thí nghiệm sinh học phân tử châu Âu, Cơ sở dữ liệu DNA Nhật Bản.
Cũng từ năm 1992, NCBI dần phát triển để cung cấp các cơ sở dữ liệu khác ngoài GenBank. NCBI còn có Online Mendelian Inheritance in Man, Cơ sở dữ liệu tạo mẫu phân tử (Molecular Modeling Database (Cấu trúc 3 chiều của các protein), Tập hợp chuỗi gene người duy nhất (Unique Human Gene Sequence Collection), một bản đồ gene của bộ gene người (human genome), một trình duyệt phân loại (Taxonomy Browser), và phối hợp với Viện Ung thư Quốc gia Hoa Kỳ (National Cancer Institute) để thực hiện Dự án Giải phẫu bộ gene Ung thư (Cancer Genome Anatomy Project).
Các công cụ phần mềm NCBI đều có thể được tiếp cận thông qua WWW hoặc FTP. Thí dụ BLAST, một chương trình tìm kiếm sự giống nhau giữa các chuỗi. BLAST có thể so sánh các chuỗi với cơ sở dữ liệu GenBank DNA tròng vòng không đầy 15 giây.
Danh mục NLM
Danh mục NLM cung cấp đường tiếp cận đến các dữ liệu thư viện NLM bao gồm trên 1.2 triệu tạp chí, sách, tư liệu nghe nhìn, phần mềm máy tính, các tài nguyên điện tử, và các học liệu khác thông qua hệ thống tìm kiếm NCBI Entrez. Được cập nhật hằng ngày (trừ ngày nghỉ), danh mục NLM còn là một trong những giao diện tìm kiếm cho những tư liệu lưu trong LocatorPlus.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Bộ tìm kiếm Entrez
Tin sinh học
Nghiên cứu y học
Cơ sở dữ liệu trực tuyến
Cơ sở dữ liệu sinh học
|
21957
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cao%20nguy%C3%AAn%20Thanh%20T%E1%BA%A1ng
|
Cao nguyên Thanh Tạng
|
Cao nguyên Thanh Tạng (gọi tắt trong tiếng Trung Quốc của cao nguyên Thanh Hải-Tây Tạng) hay cao nguyên Tây Tạng (25~40 độ vĩ bắc, 74-104 độ kinh đông) là một vùng đất rộng lớn và cao nhất thế giới, với độ cao trung bình trên 4.500 mét so với mực nước biển, bao phủ phần lớn khu tự trị Tây Tạng và tỉnh Thanh Hải của Trung Quốc cũng như Ladakh tại Kashmir của Ấn Độ. Nó chiếm một khu vực với bề rộng và dài vào khoảng 1.000 và 2.500 cây số. Được mệnh danh là "mái nhà của thế giới", với diện tích khoảng 2,5 triệu km² (khoảng 4 lần lớn hơn diện tích bang Texas hay nước Pháp), nó có những rặng núi cao nhất Trái Đất, như dãy Himalaya với đỉnh Everest là đỉnh cao nhất Trái Đất. Cao nguyên này hình thành từ sự va chạm của các mảng kiến tạo Ấn-Úc và Á-Âu vào thời kỳ thuộc đại Tân sinh, cách đây khoảng 55 triệu năm, và quá trình này hiện vẫn còn tiếp diễn.
Phay nghịch của cao nguyên này được xem là có ảnh hưởng đáng kể đến sự thay đổi khí hậu, cũng như đến gió mùa châu Á.
Khu vực dãy núi Khả Khả Tây Lý là khu vực gần như không có dân cư, nằm ở phần tây bắc của cao nguyên này.
Địa lý
Dãy núi
Côn Lôn
Himalaya
Sông
Một số con sông dài nhất thế giới bắt nguồn từ cao nguyên Thanh Tạng:
Dương Tử (hay Trường Giang)
Hoàng Hà
Sông Ấn
Sông Hằng
Brahmaputra
Mê Kông
Ayeyarwady
Các con sông này mang 25% trữ lượng đất thế giới.
Hồ
Các hồ:
Hồ Thanh Hải
Nam Co
Dagze Co
Hồ Yamzho Yumco
Hồ Puma Yumco
Hồ Paiku
Sông băng
Xem thêm
Địa lý Tây Tạng
Sa mạc Taklamakan
Cao nguyên Vân Quý
Lop Nur
Chú thích
Liên kết ngoài
The End of Earth's Summer
Leaf morphology and the timing of the rise of the Tibetan Plateau
Chùm ảnh về cao nguyên Thanh Tạng
Cao nguyên Trung Quốc
Địa mạo Tây Tạng
Tỉnh địa lý tự nhiên
Cao nguyên Ấn Độ
Vùng của châu Á
Cao nguyên châu Á
Địa mạo Trung Á
Sinh thái học núi
Địa chất Himalaya
Địa mạo Jammu và Kashmir
Địa mạo Khu tự trị Tây Tạng
|
21962
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hy%20M%C3%A3
|
Hy Mã
|
Hy Mã trong tiếng Việt có thể là tên gọi trong:
Dãy Himalaya.
Tên hiệu Hy Mã của Phan Châu Trinh.
|
21968
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%B4ng%20Kinh
|
Đông Kinh
|
Đông Kinh (東京) có nghĩa là "kinh đô tại phía Đông" và thường được dùng để gọi kinh thành Thăng Long thời nhà Hậu Lê. Trong giai đoạn này, tên gọi Đông Kinh để phân biệt với Tây Kinh (Lam Kinh) ở Thanh Hóa.
Địa danh
Việt Nam
Đông Kinh là tên từ năm 1430 tới năm 1831 của Hà Nội, thủ đô của Việt Nam hiện nay. "Đông Kinh" được người phương Tây phiên âm là Tonkin, dùng để chỉ cả Đàng Ngoài lúc đó.
Vịnh Bắc Bộ, có tên quốc tế là Gulf of Tonkin
Phường Đông Kinh, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn
Xã Đông Kinh, huyện Đông Hưng, Thái Bình.
Tên cũ của xã Đông Kết, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.
Trung Hoa
Khai Phong (Trung Quốc): Thời kỳ Bắc Tống là Đông Kinh. Năm 1153 nhà Kim đổi thành Nam Kinh.
Phủ Hưng Khánh (Trung Quốc) là Đông Kinh của nhà Tây Hạ. Nay là Ngân Xuyên, Ninh Hạ.
Đông Kinh (Hậu Kim): Đông Kinh của Hậu Kim (thời kỳ Nỗ Nhĩ Cáp Xích).
Liêu Dương (Trung Quốc): Đông Kinh của nhà Liêu, đầu thời nhà Kim gọi là Nam Kinh, năm 1153 lại đổi thành Đông Kinh.
Đông Kinh (Bột Hải): Đông Kinh của Vương quốc Bột Hải.
Triều Tiên
Khánh Châu (Cao Ly): Là Đông Kinh của Cao Ly.
Nhật Bản
Tokyo: Phiên âm Hán-Việt là Đông Kinh, thủ đô của Nhật Bản từ 1868 đến nay.
Tổ chức
Đông Kinh Nghĩa Thục (chữ Hán: 東京義塾) là một trường học phục vụ cho phong trào cùng tên để thực hiện cải cách xã hội Việt Nam vào đầu thế kỷ 20.
|
21970
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%A2y%20H%E1%BB%93%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
Tây Hồ (định hướng)
|
Tây Hồ có thể là:
Địa danh
Việt Nam
Một tên gọi của Hồ Tây tại Hà Nội
Quận Tây Hồ thuộc Hà Nội
Xã Tây Hồ, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa; gắn liền với nơi sinh vị vua Lê Thái Tổ
Nhật Bản
Tây Hồ hay Hồ Sai (西湖) Saiko tại tỉnh Yamanashi, Nhật Bản: một trong Phú Sĩ Ngũ Hồ
Trung Quốc
Tây Hồ là tên gọi của nhiều địa danh tại Trung Quốc, có thể chỉ:
Hồ nước:
Tây Hồ (Hàng Châu), thuộc thành phố Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang.
Tây Hồ (Huệ Châu), thuộc thành phố Huệ Châu, tỉnh Quảng Đông.
Tây Hồ (Dĩnh Châu), thuộc thành phố Phụ Dương, tỉnh An Huy.
Tây Hồ (Phúc Châu), thuộc thành phố Phúc Châu, tỉnh Phúc Kiến.
Tây Hồ (Nam Xương), thuộc thành phố Nam Xương, tỉnh Giang Tây.
Sấu Tây Hồ, thuộc thành phố Dương Châu, tỉnh Giang Tô.
Tái Tây Hồ, thuộc Đông khu, Hồng Kông.
Tây Hồ (Triều Châu), thuộc thành phố Triều Châu, tỉnh Quảng Đông.
Tây Hồ (Yết Dương), thuộc thành phố Yết Dương, tỉnh Quảng Đông.
Tây Hồ (Đôn Hoàng), thuộc thành phố Đôn Hoàng, tỉnh Cam Túc.
Đơn vị hành chính:
Quận Tây Hồ, thành phố Hàng Châu
Quận Tây Hồ, thành phố Nam Xương
Khu quản lý Tây Hồ, khu quản lý thuộc thành phố Thường Đức, tỉnh Hồ Nam.
Hồ Tây, Bành Hồ
Địa danh khác:
Quận Nội Hồ của Đài Bắc chia thành Đông Hồ, Tây Hồ.
Tên người
Một tên hiệu của Phan Châu Trinh
|
21971
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A0nh%20ph%E1%BB%91%20New%20York
|
Thành phố New York
|
New York hay còn được gọi là Thành phố New York (; gọi tắt là NYC) để phân biệt với tiểu bang New York, là thành phố đông dân nhất của Hoa Kỳ. Với dân số năm 2020 là 8.804.190 người, phân bổ trên , Thành phố New York là thành phố có mật độ dân số cao nhất ở Hoa Kỳ. Tọa lạc ở cực nam của tiểu bang New York, thành phố là trung tâm của vùng đô thị New York, vùng đô thị lớn nhất trên thế giới tính theo khu vực đô thị. Với hơn 2 triệu người trong vùng thống kê đô thị và khoảng 2.3 triệu người trong vùng thống kê kết hợp, nó là một trong những siêu đô thị đông dân nhất trên thế giới. Thành phố New York được mô tả là thủ đô văn hóa, tài chính và truyền thông của thế giới, có ảnh hưởng đáng kể đến thương mại, giải trí, nghiên cứu, công nghệ, giáo dục, chính trị, du lịch, nghệ thuật, thời trang, thể thao và là thành phố được chụp ảnh nhiều nhất trên thế giới. Là nơi đặt trụ sở của Liên Hợp Quốc, New York là một trung tâm ngoại giao quốc tế quan trọng, và đôi khi còn được gọi là thủ đô của thế giới.
Nằm trên một trong những bến cảng tự nhiên lớn nhất thế giới, Thành phố New York bao gồm năm quận, mỗi quận cùng nằm chung với một hạt tương ứng ở tiểu bang New York. Năm quận—Brooklyn (Hạt Kings), Queens (Hạt Queens), Manhattan (Hạt New York), The Bronx (Hạt Bronx) và Đảo Staten (Hạt Richmond)—được thành lập khi các chính quyền địa phương hợp nhất thành một thành phố duy nhất vào năm 1898. Thành phố và khu vực đô thị của nó tạo thành cửa ngõ hàng đầu cho việc nhập cư hợp pháp vào Hoa Kỳ. Có tới 800 ngôn ngữ được sử dụng ở New York, khiến nó trở thành thành phố đa dạng về ngôn ngữ nhất trên thế giới. New York là nơi sinh sống của hơn 3,2 triệu cư dân sinh ra bên ngoài lãnh thổ Hoa Kỳ, dân số sinh ra ở nước ngoài lớn nhất so với bất kỳ thành phố nào trên thế giới tính đến năm 2016. Tính đến năm 2019, khu vực đô thị New York ước tính sản xuất tổng sản phẩm đô thị (GMP) là 2,0 nghìn tỷ đô la. Nếu khu vực đô thị New York là một quốc gia có chủ quyền, thì nó sẽ có nền kinh tế lớn thứ tám trên thế giới. New York là nơi có số lượng tỷ phú cao nhất so với bất kỳ thành phố nào trên thế giới.
Thành phố New York có nguồn gốc từ một trạm thông thương được thực dân Hà Lan thành lập ở mũi phía nam của Đảo Manhattan vào năm 1624. Khu định cư này được đặt tên là Tân Hà Lan (; ) vào năm 1626 và được đăng ký thành phố vào năm 1653. Thành phố nằm dưới sự kiểm soát của người Anh vào năm 1664 và được đổi tên thành New York sau khi Charles II của Anh trao vùng đất này cho người anh trai, Công tước xứ York. Thành phố được người Hà Lan lấy lại vào tháng 7 năm 1673 và đổi tên thành New Orange trong một năm ba tháng; thành phố được đặt tên lại là New York kể từ tháng 11 năm 1674. Thành phố New York là thủ đô của Hoa Kỳ từ năm 1785 đến năm 1790, và là thành phố lớn nhất của Hoa Kỳ kể từ năm 1790. Tượng Nữ thần Tự do đã chào đón hàng triệu người nhập cư khi họ đến Hoa Kỳ bằng tàu thủy vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, là biểu tượng của Hoa Kỳ về lý tưởng tự do và hòa bình. Trong thế kỷ 21, New York đã nổi lên như một điểm nóng toàn cầu của sự sáng tạo, tinh thần kinh doanh và tính bền vững của môi trường, đồng thời cũng là biểu tượng của sự tự do và đa dạng văn hóa. Năm 2019, New York được bình chọn là thành phố tuyệt vời nhất trên thế giới theo một cuộc khảo sát với hơn 30.000 người đến từ 48 thành phố trên toàn thế giới, vì sự đa dạng văn hóa của nó.
Nhiều quận và địa danh ở Thành phố New York được nhiều người biết đến, bao gồm ba trong số mười điểm du lịch được ghé thăm nhiều nhất trên thế giới vào năm 2013. Kỷ lục 66,6 triệu khách du lịch đến thăm Thành phố New York vào năm 2019. Quảng trường Thời đại là trung tâm được chiếu sáng rực rỡ của Khu nhà hát Broadway, một trong những phố đi bộ nhộn nhịp nhất thế giới và là trung tâm lớn của ngành công nghiệp giải trí thế giới. Nhiều địa danh, tòa nhà chọc trời và công viên của thành phố được biết đến rộng rãi trên khắp thế giới. Tòa nhà Empire State đã trở thành tiêu chuẩn tham chiếu toàn cầu về chiều cao và chiều dài cấu trúc của những công trình cao tầng. Thị trường bất động sản ở Manhattan thuộc hàng đắt đỏ nhất trên thế giới. Việc dịch vụ hoạt động liên tục 24/7 góp phần tạo nên biệt danh Thành phố không bao giờ ngủ, Tàu điện ngầm Thành phố New York là hệ thống tàu điện ngầm lớn nhất trên toàn thế giới, với 472 ga đường sắt. Thành phố có hơn 120 trường cao đẳng và đại học, bao gồm Đại học Columbia, Đại học New York, Đại học Rockefeller và hệ thống Đại học Thành phố New York, là hệ thống đại học công lập lớn nhất tại Hoa Kỳ. Với Phố Wall ở Khu tài chính Lower Manhattan, Thành phố New York được mệnh danh là trung tâm tài chính hàng đầu thế giới và thành phố quyền lực nhất về tài chính trên thế giới, và là nơi có hai sàn giao dịch chứng khoán lớn nhất thế giới tính theo tổng giá trị vốn hóa thị trường, Sở giao dịch chứng khoán New York và NASDAQ.
Lịch sử
Năm 1524, khi Giovanni da Verrazzano khám phá ra vùng đất New York, nơi đây có khoảng 5.000 cư dân bản địa Lenape sinh sống. Verrazzano, nhà thám hiểm người Ý phục vụ cho vương triều Pháp, đã gọi vùng này là "Nouvelle Angoulême", tức Tân Angoulême, để tưởng nhớ François I, vua nước Pháp và đồng thời là Bá tước của Angoulême. Vùng định cư Âu châu này khởi sự với việc thiết lập một khu định cư chuyên mua bán da thú của người Hà Lan, sau đó được gọi là "Nieuw Amsterdam" (Tân Amsterdam), nằm trên mũi phía nam Manhattan vào năm 1614. Tổng điều hành thuộc địa Hà Lan khi ấy là Peter Minuit đã mua lại đảo Manhattan từ người Lenape vào năm 1626 với giá 60 guilder Hà Lan – tương đương khoảng 1000 đô la Mỹ vào năm 2006. Có một truyền thuyết bây giờ vẫn chưa được chứng minh nói rằng Manhattan được mua với giá chỉ bằng chuỗi hạt thủy tinh 24 đô la. Năm 1664, người Anh chiếm được thành phố và đặt tên nó thành "New York" theo tên Công tước York và Albany của Anh (sau là vua James II của Anh). Vào cuối cuộc chiến tranh Anh-Hà Lan lần thứ hai, người Hà Lan giành được quyền kiểm soát đảo Run (một tài sản có nhiều giá trị vào thời đó) để đổi lấy việc người Anh kiểm soát Tân Amsterdam (New York) tại Bắc Mỹ. Đến năm 1700, dân số người Lenape giảm xuống còn 200.
Thành phố New York phát triển chính yếu như một thương cảng dưới thời kỳ cai trị của Đế quốc Anh. Đây là nơi xảy ra vụ xử án John Peter Zenger vào năm 1735, đã có nhiều ảnh hưởng, giúp thiết lập nên nền tự do báo chí tại Bắc Mỹ. Năm 1754, Đại học Columbia được thành lập tại Hạ Manhattan dưới thời vua George II của Vương quốc Anh với tên gọi là King's College. Quốc hội Đạo luật Tem thuế (Stamp Act Congress) cũng đã họp tại New York vào tháng 10 năm 1765.
Trong cuộc Chiến tranh Cách mạng Mỹ, New York là nơi diễn ra hàng loạt các trận đánh chính được biết đến với tên gọi Chiến dịch New York. Sau trận Đồn Washington ở Thượng Manhattan năm 1776, thành phố trở thành căn cứ cho các chiến dịch chính trị và quân sự của Vương quốc Anh tại Bắc Mỹ, kéo dài đến khi cuộc chiếm đóng quân sự kết thúc vào năm 1783. Quốc hội Liên hiệp (Congress of the Confederation) chọn Thành phố New York làm thủ đô quốc gia ít lâu sau đó. Hiến pháp Hoa Kỳ được thông qua vào năm 1789 và Tổng thống Hoa Kỳ đầu tiên, George Washington, tuyên thệ nhậm chức tại đây. Quốc hội Hoa Kỳ lần thứ nhất nhóm hợp lần đầu tiên vào năm 1789 và Đạo luật nhân quyền Hoa Kỳ được soạn thảo trong Đại sảnh Liên bang trên phố Wall. Năm 1790, New York qua mặt Philadelphia trở thành thành phố lớn nhất Hoa Kỳ.
Vào thế kỷ XIX, thành phố chuyển mình nhờ những làn sóng nhập cư cùng những phát triển mạnh mẽ. Một đề án phát triển tương lai mang tên "Commissioners' Plan of 1811" đã mở rộng hệ thống đường phố thành phố bao trùm cả Manhattan. Việc mở cửa kênh Erie năm 1819 đã nối liền cảng bờ Đại Tây Dương đến các thị trường nông nghiệp rộng lớn phía trong nội địa Bắc Mỹ. Nền chính trị địa phương rơi vào vòng kiểm soát của Tammany Hall, một bộ máy chính trị do những di dân người Ái Nhĩ Lan hậu thuẫn. Những thành viên tích cực thuộc tầng lớp quý tộc thương buôn xưa đã vận động cho việc xây dựng Công viên Trung tâm (Central Park), trở thành công viên đô thị đầu tiên trong một thành phố Mỹ, mở cửa vào năm 1859. Có một dân số người da đen tự do đáng kể hiện diện trong khu Manhattan cũng như khu Brooklyn. Những người nô lệ bị giữ tại New York qua đến năm 1827, nhưng trong suốt thập niên 1830, New York trở thành 1 trung tâm của những người hoạt động bãi nô liên chủng tộc ở miền Bắc. Dân số người da đen của New York lên đến trên 16.000 vào năm 1840. Đến năm 1860, New York có trên 200.000 người Ái Nhĩ Lan, chiếm một phần tư dân số thành phố.
Trong Nội chiến Hoa Kỳ (1861–1865), việc cưỡng bức quân dịch đã gây nên những vụ nổi loạn vào năm 1863, một trong những sự kiện bất ổn nội bộ tồi tệ nhất của lịch sử nước Mỹ. Năm 1898, thành phố hiện đại New York được thành lập với sự kết hợp của Brooklyn (cho đến khi đó vẫn là một thành phố độc lập), quận New York (khi đó gồm có một phần của the Bronx), quận Richmond, và phần phía tây của quận Queens. Việc khánh thành hệ thống Xe điện ngầm New York năm 1904 đã giúp kết chặt thành phố mới lại với nhau. Trong suốt nửa đầu thế kỷ 20, thành phố trở thành một trung tâm công nghiệp, thương mại và thông tin của thế giới. Tuy nhiên, thành phố cũng phải trả những giá đắt cho sự phát triển này. Năm 1904, tàu hơi nước tên General Slocum bị cháy trên sông East, khiến 1.021 người trên tàu thiệt mạng. Năm 1911, vụ cháy nhà máy Triangle Shirtwaist, tai họa công nghiệp tồi tệ nhất của thành phố, đã cướp đi sinh mạng của 146 công nhân ngành dệt may. Vụ họa hoạn này đã khích động cho việc thành lập Công đoàn thợ may nữ quốc tế và những cải tiến lớn trong tiêu chuẩn an toàn tại các nhà máy.
Thập niên 1920, Thành phố New York là một điểm đến chính của những người Mỹ gốc Phi từ miền nam Hoa Kỳ trong suốt thời kỳ "Đại di dân". Năm 1916, New York là nơi cư ngụ lớn nhất tại Bắc Mỹ của những người tha hương gốc Phi. Phong trào Phục hưng Harlem hưng thịnh trong suốt thời kỳ cấm rượu (được biết với tên gọi "Prohibition") tại Hoa Kỳ, cùng lúc với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế và chứng kiến hàng loạt những tòa nhà chọc trời đua nhau mọc lên. Thành phố New York qua mặt Luân Đôn trở thành đô thị đông dân nhất trên thế giới vào đầu thập niên 1920, và vùng đô thị của thành phố này vượt mốc 10 triệu người vào đầu thập niên 1930 để trở thành siêu đô thị đầu tiên trong lịch sử loài người. Những năm khó khăn của thời kỳ Đại Khủng hoảng đã chứng kiến việc nhà cải cách Fiorello LaGuardia đắc cử chức thị trưởng cùng với sự sụp đổ của nhóm Tammany Hall sau tám năm lũng đoạn nền chính trị thành phố.
Các cựu quân nhân trở về từ Chiến tranh thế giới thứ hai đã tạo nên một cơn bùng phát kinh tế sau chiến tranh, kèm theo sự phát triển những dãy nhà khổng lồ ở phía đông quận Queens. New York không bị thiệt hại trong cuộc chiến trở thành đô thị dẫn đầu của thế giới. Phố Wall của New York đưa Hoa Kỳ lên cao trong vai trò cường quốc thống trị nền kinh tế thế giới, tổng hành dinh Liên Hợp Quốc hoàn thành năm 1950 làm tăng thêm sức mạnh ảnh hưởng chính trị của thành phố, và sự nổi lên của chủ nghĩa biểu hiện trừu tượng đã báo hiệu cho việc trung tâm mỹ thuật của thế giới dời Paris về New York.
Trong thập niên 1960, New York phải đối mặt với nhiều khó khăn về kinh tế, tỉ lệ tội phạm và căng thẳng sắc tộc gia tăng lên đến đỉnh điểm vào thập niên 1970. Trong thập niên 1980, sự sống lại của nền công nghiệp tài chính đã cải thiện sức mạnh thành phố. Vào thập niên 1990, những căng thẳng sắc tộc dần lắng dịu, tỉ lệ tội phạm giảm đáng kể và thành phố tiếp nhận một làn sóng di dân mới đến từ châu Á và châu Mỹ Latin. Những ngành mới quan trọng, thí dụ như Hành lang Điện tử (Silicon Alley), xuất hiện trong nền kinh tế thành phố và dân số New York đạt một đỉnh cao chưa từng có trong cuộc điều tra dân số Hoa Kỳ năm 2000.
New York là một trong những điểm bị tấn công trong sự kiện 11 tháng 9 với gần 3.000 người thiệt mạng khi Trung tâm Thương mại Thế giới bị đánh sập. Trung tâm Thương mại 1 Thế giới (1 World Trade Center), trước đây được biết với cái tên Tháp Tự do, cùng với một đài tưởng niệm, ba tháp văn phòng khác sẽ được xây dựng trên nền của tòa tháp đôi dự tính sẽ hoàn thành vào năm 2013. Vào ngày 10 tháng 12 năm 2006, những cột thép đầu tiên đã được dựng trong nền của tòa nhà. Ba tòa nhà văn phòng cao tầng khác theo kế hoạch đã được xây dọc theo Phố Greenwich, và chúng được vây quanh Đài tưởng niệm Trung tâm Thương mại Thế giới đã được xây dựng. Ở đây cũng có một bảo tàng về lịch sử của khu vực này.
Địa lý
Thành phố New York nằm trong vùng Đông Bắc Hoa Kỳ, ở miền nam tiểu bang New York, khoảng nửa đường từ Washington, D.C. đến thành phố Boston. Vị trí nơi cửa sông Hudson có bến cảng tự nhiên kín và bên cạnh Đại Tây Dương đã giúp New York phát triển nổi bật trong vai trò một thành phố thương mại. Phần lớn thành phố được xây dựng trên ba đảo là Manhattan, Đảo Staten, và Long Island, khiến cho đất đai khan hiếm và tạo ra mật độ dân số cao.
Sông Hudson chảy qua thung lũng Hudson rồi đổ vào vịnh New York. Giữa Thành phố New York và thành phố Troy, con sông trở thành một cửa sông. Sông Hudson tách thành phố ra khỏi tiểu bang New Jersey. Sông East, thật sự là một eo thủy triều, chảy từ vịnh Long Island, tách the Bronx và Manhattan khỏi Long Island. Sông Harlem, một eo biển thủy triều giữa sông East và sông Hudson Rivers, tách Manhattan khỏi the Bronx.
Đất đai của thành phố đã bị con người biến đổi khá nhiều, nhất là những phần đất lấn sông nằm dọc theo những bến sông mặt tiền kể từ thời còn là thuộc địa của Hà Lan. Việc lấn sông đáng kể nhất ở Hạ Manhattan tạo ra các khu phát triển mới như khu dân cư Battery Park City trong thập niên 1970 và thập niên 1980. Một vài những biến đổi tự nhiên về địa hình cũng diễn ra, đặc biệt ở Manhattan.
Diện tích mặt đất của thành phố được ước tính là khoảng 789 km² (304,8 dặm vuông Anh). Tổng diện tích thành phố là 1.214 km² (468,9 dặm vuông) trong đó mặt nước chiếm 425 km (2164,1 dặm vuông Anh) và 789 km² (hay 304,8 dặm vuông Anh) là mặt đất. Điểm cao nhất của thành phố là đồi Todt trên Đảo Staten cao 409,8 ft (124,9 mét) so với mặt biển. Đây cũng là điểm cao nhất ở vùng bờ biển phía Đông Hoa Kỳ, tính từ phía nam tiểu bang Maine. Đỉnh của khu vực cao này phần lớn được bao phủ bởi rừng cây thưa thớt thuộc vành đai xanh Đảo Staten.
Khí hậu
Theo phân loại khí hậu Köppen, New York có khí hậu bán nhiệt đới ẩm, trung bình có 234 ngày nắng trong năm. Đây là thành phố chính vùng cực bắc tại Bắc Mỹ có khí hậu bán nhiệt đới ẩm.
Mùa hè ở New York có đặc điểm là nóng và ẩm, nhiệt độ cao trung bình từ 26 – 29 °C (79 đến 84 °F) và thấp trung bình từ 17 – 21 °C (63 đến 69 °F). Tuy nhiên trung bình cũng có đến từ 16 đến 19 ngày nhiệt độ vượt trên 32 °C (90 °F) trong mỗi mùa hè và có thể vượt trên 38 °C (100 °F) cứ mỗi 4 đến 6 năm. Vào mùa đông, thời tiết lạnh và những cơn gió thổi ngoài biển có lúc làm giảm ảnh hưởng của Đại Tây Dương. Tuy nhiên, Đại Tây Dương giúp cho thành phố ấm vào mùa đông hơn các thành phố trong nội địa Bắc Mỹ nằm trên cùng vĩ tuyến như Chicago, Pittsburgh và Cincinnati. Nhiệt độ trung bình trong tháng 1, tháng lạnh nhất ở Thành phố New York, là 0 °C (32 °F). Tuy nhiên cũng có ít ngày, nhiệt độ mùa đông xuống hàng -12 đến hàng -6 °C (10 đến 20 °F) và cũng có ít ngày nhiệt độ lên cao từ 10 đến 15 °C (50 đến 60 °F). Mùa xuân và mùa thu, thời tiết khá thất thường, có thể lạnh cóng hoặc ấm mặc nhưng thường dễ chịu với độ ẩm ít.
New York có lượng mưa hàng năm khoảng 1.260 mm (49,7 inch), trải khá đều suốt năm. Tuyết rơi vào mùa đông trung bình khoảng 62 cm (24,4 in), nhưng thường khá biến đổi từ năm này sang năm khác và tuyết phủ mặt đất thường rất ngắn. Tuy hiếm gặp, nhưng đôi khi vùng New York cũng phải hứng chịu những cơn bão, chẳng hạn như Bão Sandy vào năm 2012 .
Môi trường
Thành phố New York có khối lượng vận tải quá cảnh đứng đầu toàn Hoa Kỳ. Vào thập niên 1920, tiêu thụ dầu xăng ở thành phố ngang với tỉ lệ trung bình của quốc gia. Việc sử dụng các phương tiện vận tải công cộng mức độ cao đã tiết kiệm cho thành phố khoảng 1,8 tỉ gallon xăng dầu vào năm 2006. New York tiết kiệm được khoảng phân nửa số xăng dầu toàn quốc mà đáng lẽ được sử dụng cho chuyên chở. Do mật độ dân số cao và lượng xe ô tô sử dụng thấp, chủ yếu sử dụng vận tải công cộng, nên New York trở thành một trong những thành phố sử dụng hiệu quả năng lượng nhất tại Hoa Kỳ. Khí thải nhà kính của Thành phố New York khoảng 7,1 tấn mỗi đầu người, so với trung bình quốc gia là 24,5 tấn/năm. Người New York nói chung chỉ chịu trách nhiệm khoảng 1% khí thải nhà kính của quốc gia mặc dù chiếm tỉ lệ 2,7% dân số toàn quốc. Trung bình, một người dân New York tiêu thụ điện năng không bằng một nửa so với một người San Francisco và chỉ bằng gần 1/4 lượng điện năng mà một cư dân ở thành phố Dallas sử dụng.
Trong những năm gần đây, thành phố tập trung về việc giảm thiểu những ảnh hưởng bất lợi đối với môi trường. Số lượng lớn chất ô nhiễm tích tụ tại thành phố đã dẫn đến tỉ lệ cao bệnh suyễn và những triệu chứng hô hấp khác trong số cư dân của thành phố. Chính quyền thành phố bắt buộc phải mua các trang thiết bị có hiệu quả năng lượng nhất để sử dụng trong các văn phòng và nhà cửa công cộng của thành phố. New York có đội xe buýt chạy bằng khí thiên nhiên và loại chạy bằng sự kết hợp giữa dầu diesel với điện lớn nhất trên toàn quốc. Ở đây cũng có một số xe taxi đầu tiên sử dụng công nghệ hybrid. Chính quyền thành phố là một thỉnh nguyện viên trong vụ kiện bước ngoặt được Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ thụ lý tên Massachusetts đối đầu Cục Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ để bắt buộc Cục Bảo vệ Môi trường xếp các loại khí nhà kính vào loại những chất ô nhiễm. Thành phố cũng đi đầu trong việc xây dựng các tòa nhà văn phòng xanh trong đó có Tháp Hearst.
Thành phố New York được cung cấp nước uống qua hồ chứa nước của dãy núi Catskill được bảo vệ an ninh. Vì hồ nước tinh khiết và quá trình nước được lọc một cách tự nhiên nên New York là một trong số bốn thành phố chính duy nhất của Hoa Kỳ có nước uống đủ tinh khiết mà không cần phải sử dụng các nhà máy xử lý nước để lọc nước.
Cảnh quan thành phố
Kiến trúc
Kiểu kiến trúc phổ biến nhất tại Thành phố New York là những tòa nhà chọc trời. Kể từ khi được giới thiệu và sử dụng rộng rãi ở đây, kiến trúc này đã làm chuyển đổi các tòa nhà của New York từ kiểu truyền thống châu Âu thấp sang những khu thương mại vươn thẳng đứng lên cao. Tính đến năm 2011, New York có 5.937 tòa nhà cao tầng, nhiều hơn bất cứ thành phố nào khác ở Hoa Kỳ và đứng hạng nhì thế giới, chỉ sau Hong Kong . Hiện nay thành phố có 50 nhà chọc trời xây dựng xong, cao trên 200 mét (656 foot). Bị bao quanh bởi mặt nước, mật độ dân số và giá trị bất động sản cao trong những khu thương mại khiến cho New York trở thành nơi tập trung nhiều nhất các tòa nhà, tòa tháp chung cư và văn phòng trên thế giới.
New York có những tòa nhà với kiến trúc nổi bật mang nhiều phong cách khác nhau. Woolworth Building tại 40 phố Wall, hoàn thành năm 1913, là tòa nhà chọc trời mang kiến trúc Gothic Phục hưng thời kỳ đầu. Nghị quyết phân vùng năm 1916 bắt buộc các tòa nhà mới phải được xây theo kiểu hình chồng lên nhau (phần dưới có diện tích rộng hơn phần trên) và giới hạn các tháp bằng một phần trăm nền đất bên dưới để cho ánh nắng mặt trời chiếu xuống đường phố bên dưới. Kiểu thiết kế Art Deco của Tòa nhà Chrysler năm 1930 với đỉnh thon nhỏ và hình chóp bằng thép đã phản ánh những yêu cầu bắt buộc đó. Tòa nhà này được nhiều sử gia và kiến trúc sư xem như là tòa nhà đẹp nhất New York với cách trang trí rõ nét, thí dụ các góc của tầng 61 có hình biểu tượng chim ó gắn trên nắp phía trước đầu xe Chrysler kiểu năm 1928 và cả các mẫu đèn hình chữ V được ghép chặt bởi một tháp chóp bằng thép ở trên đỉnh tòa nhà. Một ví dụ về ảnh hưởng lớn của kiến trúc phong cách quốc tế tại Hoa Kỳ là Tòa nhà Seagram (1957), đặc biệt vì diện mạo của nó sử dụng các xà bằng thép hình chữ H được bọc đồng dễ nhìn thấy để làm nổi bật cấu trúc của tòa nhà. Tòa nhà Condé Nast (2000) là một thí dụ điển hình cho thiết kế bền vững (Sustainable design) trong các tòa nhà chọc trời của Mỹ.
Đặc điểm của các khu dân cư lớn của New York thường là các dãy nhà phố (rowhouse, townhouse) đá nâu tao nhã và các tòa nhà chung cư tồi tàn được xây dựng trong một thời kỳ mở rộng nhanh từ năm 1870 đến năm 1930. Đá và gạch trở thành các vật liệu xây dựng chọn lựa của thành phố sau khi việc xây nhà gỗ bị hạn chế bởi vụ cháy lớn vào năm 1835. Không giống như Paris trong nhiều thế kỷ đã được xây dựng từ chính nền đá vôi của mình, New York luôn lấy đá xây dựng từ một hệ thống các mỏ đá xa xôi và các tòa nhà xây bằng đá của thành phố thì đa dạng về kết cấu và màu sắc. Một điểm nổi bật khác của nhiều tòa nhà thành phố là có sự hiện diện của những tháp nước bằng gỗ đặt trên nóc. Vào thập niên 1800, thành phố bắt buộc các tòa nhà cao trên sáu tầng gắn các tháp nước như vậy để không cần phải nén nước quá cao ở các cao độ thấp mà có thể làm bể các ống dẫn nước của thành phố. Những tòa nhà chung cư có vườn hoa trở nên quen thuộc suốt thập niên 1920 tại những khu ngoại ô trong đó có Jackson Heights nằm trong quận Queens. Lưu thông trong khu vực này trở nên thuận tiện với việc mở rộng đường xe điện ngầm.
Công viên
Thành phố New York có trên 110 km² đất công viên thành phố và 23 km bãi sông, bãi biển công cộng. Đất công viên được tăng thêm hàng trăm mẫu Anh từ Khu Giải trí Quốc gia Gateway thuộc hệ thống công viên quốc gia Hoa Kỳ nằm trong ranh giới thành phố. Chỉ riêng khu bảo tồn hoang dã Vịnh Jamaica, khu bảo tồn hoang dã duy nhất trong hệ thống công viên quốc gia, bao phủ 36 km² gồm các đảo có đầm lầy và nước chiếm phần lớn vịnh Jamaica. Công viên Trung tâm của Manhattan do Frederick Law Olmsted và Calvert Vaux thiết kế, là một công viên thành phố được viếng thăm nhiều nhất tại Hoa Kỳ với con số khoảng 30 triệu lượt khách viếng thăm hàng năm, hơn 10 triệu lượt so với công viên Lincoln ở Chicago đứng hạng nhì. Công viên Prospect tại Brooklyn, cũng do Olmsted và Vaux thiết kế, có một đồng cỏ rộng 360.000 m² (90 mẫu Anh). Công viên Flushing Meadows–Corona trong khu Queens, lớn thứ ba của thành phố, là nơi tổ chức triển lãm thế giới năm 1939 và 1964. Trên một phần 5 khu The Bronx, rộng khoảng 28 km², được dành cho không gian mở và công viên trong đó có công viên Van Cortlandt, công viên Pelham Bay, Vườn thú The Bronx và Các vườn thực vật New York.
Các quận
Thành phố New York bao gồm năm quận riêng, được gọi là "borough". Đây là một hình thức chính quyền khác thường tại Hoa Kỳ. Mỗi "borough" của New York tồn tại song song với một quận tương ứng của tiểu bang New York. Khắp các "borough" có hàng trăm khu dân cư rõ rệt. Nhiều trong số các khu dân cư này có lịch sử và đặc tính riêng để gọi chúng. Nếu mỗi "borough" là một thành phố độc lập thì bốn trong số các "borough" (Brooklyn, Queens, Manhattan, và The Bronx) sẽ nằm trong số 10 thành phố đông dân nhất Hoa Kỳ.
The Bronx (quận Bronx của tiểu bang New York: dân số năm 2017 là 1,471,160 người) là quận cận bắc nhất của Thành phố New York. Nơi đây có sân vận động Yankee là sân nhà của đội bóng chày New York Yankees, và cũng là nơi có dãy nhà phức hợp lớn nhất tại Hoa Kỳ có tên gọi là Co-op City. Trừ một dãy đất nhỏ của khu Manhattan có tên Marble Hill, The Bronx là phần duy nhất của thành phố New York nằm trong phần đất liền của Hoa Kỳ. Khu này có Vườn thú Bronx, vườn thú vùng đô thị lớn nhất tại Hoa Kỳ rộng 1,07 km² và có trên 6.000 con vật. The Bronx là nơi phát sinh văn hóa hip hop và rap.
Manhattan (quận New York của tiểu bang New York: dân số năm 2017: 1,664,727) là quận có mật độ dân số đông nhất với rất nhiều nhà chọc trời. Công viên Trung tâm cũng tọa lạc trong quận này. Manhattan là trung tâm tài chính của thành phố và là nơi có các tổng hành dinh của nhiều đại công ty chính, Liên Hợp Quốc, cũng như một số trường đại học quan trọng và danh lam thắng cảnh văn hóa trong đó có vô số viện bảo tàng, khu nhà hát Broadway, Làng Greenwich, và sân vận động có mái che Madison Square Garden. Manhattan được chia thành các vùng: Hạ Manhattan, Midtown Manhattan, và Thượng Manhattan. Thượng Manhattan bị chia cắt bởi Công viên Trung tâm thành "Upper East Side" (phía đông Thượng Manhattan) and và "Upper West Side" (phía tây Thượng Manhattan), và phía trên công viên là khu Harlem.
Brooklyn (quận Kings của tiểu bang New York: dân số năm 2017: 2,648,771) là quận đông dân nhất của thành phố và từng là một thành phố độc lập cho đến năm 1898. Brooklyn nổi tiếng vì sự đa dạng chủng tộc, xã hội, văn hóa, những khu dân cư khác biệt và một di sản kiến trúc có một không hai. Nó cũng là một quận duy nhất ngoài Manhattan có một khu trung tâm đô thị rõ rệt. Quận đặc biệt có một bãi sông (biển) mặt tiền dài. Đảo Coney, thành lập vào thập niên 1870, là một trong các khu vui chơi xưa nhất tại Hoa Kỳ.
Queens (quận Queens của tiểu bang New York: dân số năm 2017: 2,358,582) là quận lớn nhất của thành phố về mặt địa lý và là quận đa chủng tộc nhất của Hoa Kỳ, và có thể sẽ qua mặt Brooklyn để trở thành quận đông dân nhất thành phố vì chiều hướng phát triển hiện nay. Trong lịch sử quận Queens là một khu gồm nhiều thị trấn và làng mạc nhỏ do người Hà Lan thành lập. Ngày nay phần lớn quận này là khu dân cư của tầng lớp trung lưu. Đây là quận lớn duy nhất tại Hoa Kỳ mà thu nhập trung bình của người Mỹ gốc châu Phi lên đến 52.000 đô la Mỹ một năm, cao hơn thu nhập trung bình của người Mỹ da trắng. Queens là nơi có sân vận đông Citi Field, sân nhà của đội bóng chày New York Mets, hàng năm có tổ chức Giải quần vợt Mỹ Mở rộng. Ngoài ra nó còn có hai trong số ba sân bay chính phục vụ Vùng đô thị New York. Đó là sân bay LaGuardia và sân bay Quốc tế John F. Kennedy (sân bay thứ ba là sân bay Quốc tế Newark Liberty ở New Jersey.)
Đảo Staten (quận Richmond của tiểu bang New York: dân số năm 2017: 479,458) là khu ngoại ô lớn nhất trong năm quận. Đảo Staten được nối liền với Brooklyn bằng cầu Verrazano-Narrows và với Manhattan bằng phà Đảo Staten miễn phí. Phà Đảo Staten là một trong những nơi hấp dẫn du khách nhất tại Thành phố New York vì ngồi dưới phà sẽ nhìn thấy được Tượng Nữ thần Tự do, đảo Ellis, và Hạ Manhattan dễ dàng. Khu Greenbelt (vành đai xanh) rộng 25 km² nằm trong trung tâm Đảo Staten có khoảng 56,3 km đường mòn dành cho đi dạo. Đây là một trong những khu rừng nguyên sinh của thành phố. Được ấn định vào năm 1984 để bảo vệ đất thiên nhiên của đảo, Greenbelt có bảy công viên thành phố. Đường lát gỗ FDR (FDR Boardwalk) nằm dọc theo bờ phía nam, dài 4 km, là đường lát gỗ dài thứ tư trên thế giới.
Đời sống hiện đại và văn hóa
"Văn hóa dường như ở trong không khí, cũng giống như một phần của thời tiết", đó là lời của nhà văn Tom Wolfe khi nói đến Thành phố New York. Vô số phong trào văn hóa lớn của Mỹ đã bắt đầu từ thành phố này, thí dụ như Phục hưng Harlem đã dựng nên âm nhạc văn chương người Mỹ gốc châu Phi tại Hoa Kỳ. Thành phố là một trung tâm nhạc jazz trong thập niên 1940, chủ nghĩa trừu tượng biểu hiện trong thập niên 1950 và là nơi phát sinh văn hóa nhạc hip hop trong thập niên 1970. Các tụ điểm nhạc hardcore và punk có nhiều ảnh hưởng trong thập niên 1970 và thập niên 1980. New York từ lâu cũng là nơi văn chương người Mỹ gốc Do Thái đua nở. Trong các ban nhạc indie rock lừng danh từ Thành phố New York trong những năm gần đây có thể kể đến The Strokes, Interpol, The Bravery, Scissor Sisters, và They Might Be Giants.
Giải trí và nghệ thuật biểu diễn
New York có vai trò quan trọng đối với nền điện ảnh Mỹ. Manhatta, một trong những bộ phim tiên phong của trào lưu Avant-garde, được quay tại thành phố vào năm 1920. Ngày nay, New York là trung tâm lớn thứ hai của ngành công nghiệp điện ảnh Hoa Kỳ. Thành phố có trên 2.000 tổ chức văn hóa và mỹ thuật và hơn 500 phòng trưng bày mỹ thuật lớn nhỏ. Hàng năm, chính quyền thành phố tài trợ mỹ thuật với một ngân sách còn lớn hơn ngân sách của cơ quan "National Endowment for the Arts" thuộc chính phủ liên bang. Các nhà công nghiệp giàu có trong thế kỷ XIX đã xây dựng một hệ thống các viện văn hóa lớn như Carnegie Hall và Metropolitan Museum of Art. Sự phát minh ra điện chiếu sáng đã đưa đến việc giàn dựng công phu các vở kịch. Trong thập niên 1880, các nhà hát của New York trên phố Broadway và dọc theo phố 42 bắt đầu trình diễn một hình thức sân khấu mới mà ngày nay được biết đến với tên gọi nhạc kịch Broadway.
Ảnh hưởng bởi những di dân nên các tác phẩm kịch, như của Harrigan và Hart, George M. Cohan... thường sử dụng bài hát phản ánh những chủ đề hy vọng và tham vọng. Ngày nay các tác phẩm này là trụ cột chính của kịch nghệ New York. 39 nhà hát kịch lớn nhất – với hơn 500 ghế – của Thành phố được mọi người biết đến với các tên chung "Broadway", theo tên của đường phố nhộn nhịp chạy băng qua khu nhà hát Quảng trường Thời đại. Khu vực này đôi khi cũng được gọi là "The Main Stem", "The Great White Way" hay "The Realto".
Trung tâm Nghệ thuật Biểu diễn Lincoln mà gồm có "Jazz at Lincoln Center", "Metropolitan Opera", "New York City Opera", "New York Philharmonic", "New York City Ballet", "Vivian Beaumont Theatre", "Juilliard School and Alice Tully Hall" là trung tâm nghệ thuật biểu diễn lớn nhất tại Hoa Kỳ. Central Park SummerStage (Sân khấu mùa hè Công viên Trung tâm) trình diễn các vở kịch và âm nhạc miễn phí tại Công viên Trung tâm. Ngoài ra còn có đến 1.200 buổi hòa nhạc miễn phí trình diễn khắp năm quận trong những tháng mùa hè.
Du lịch
Du lịch là một ngành kinh tế quan trọng đối với thành phố New York, thành phố đã chứng kiến một số lượng khách du lịch quốc tế và nội địa ngày càng tăng trong những năm qua, đạt kỷ lục 62,8 triệu lượt khách trong năm 2017 . Khoảng 12 triệu du khách đến thành phố New York là từ bên ngoài Hoa Kỳ, với số lượng khách du lịch cao nhất tới từ Vương quốc Anh, Canada, Brazil và Trung Quốc.
I Love New York (viết tắt I ❤ NY) vừa là một biểu tượng vừa là một bài hát mà là nền tảng của một chiến dịch quảng cáo đã được sử dụng từ năm 1977 để quảng bá du lịch tại thành phố New York . Logo được đăng ký nhãn hiệu, thuộc sở hữu của New York State Empire State Development xuất hiện trong các cửa hàng lưu niệm và tài liệu quảng cáo trên khắp thành phố và tiểu bang New York, một số được cấp phép, một số không.
Những điểm đến chính của thành phố có thể kể tới Tòa nhà Empire State, Đảo Ellis, sân khấu kịch Broadway, các bảo tàng như Metropolitan Museum of Art, cùng các địa điểm hấp dẫn khác như Công viên Trung tâm, Công viên Washington Square, Trung tâm Rockefeller, Quảng trường Thời đại, Vườn thú Bronx, Vườn thực vật New York hay khu mua sắm sang trọng dọc theo Đại lộ số 5 và Đại lộ Madison, các sự kiện như Diễu hành Lễ hội Halloween ở Làng Greenwich, Liên hoan phim Tribeca, và những buổi trình diễn miễn phí trong Công viên Trung tâm. Tượng Nữ thần Tự do là một nơi chính hấp dẫn du khách và là một trong những biểu tượng nổi tiếng nhất của Hoa Kỳ. Nhiều khu sắc tộc của thành phố như Jackson Heights, Flushing và Brighton Beach là những điểm đến mua sắm chính cho người Mỹ thế hệ thứ nhất và thứ hai ở phía trên và dưới duyên hải phía đông của Hoa Kỳ.
Ẩm thực
Văn hóa ẩm thực New York bị ảnh hưởng bởi những dân nhập cư và số lượng lớn thực khách nên rất đa dạng. Những di dân người Ý và châu Âu đã làm cho thành phố nổi tiếng về bagel (bánh mì hình dáng giống bánh xe), bánh pho mát (cheesecake), và pizza. Khoảng 4.000 quầy ẩm thực lưu động được thành phố cấp phép, nhiều trong số đó do di dân làm chủ, đã làm cho ẩm thực của Trung Đông như falafel và kebab luôn sẵn có trong số thực phẩm đường phố của New York hiện đại mặc dù hot dog và pretzel vẫn là món ăn ưa chuộng trên đường phố chính. Thành phố cũng là nơi có nhiều tiệm ăn nổi tiếng tại Hoa Kỳ. Có thể nói ẩm thực New York đa dạng bao gồm cả ẩm thực Ý, Pháp, Tây Ban Nha, Đức, Nga, Anh, Hy Lạp, Maroc, Trung Hoa, Ấn Độ, Nhật Bản cũng như vô số các loại ẩm thực mang tính sắc tộc khác.
Truyền thông
New York là một trung tâm toàn cầu của ngành xuất bản sách báo, âm nhạc, quảng cáo và truyền hình. Thành phố cũng là một thị trường truyền thông lớn nhất Bắc Mỹ, theo sau là Los Angeles, Chicago, và Toronto. Trong số các đại công ty truyền thông của thành phố hiện nay có Time Warner, News Corporation, Bloomberg L.P, Hearst Corporation, AOL và Viacom. Bảy trong số tám hệ thống đại lý quảng cáo toàn cầu hàng đầu của thế giới có trụ sở đặt tại New York. Ba trong số bốn công ty đĩa hát lớn cũng có căn cứ tại đây cũng như tại Los Angeles.
Một phần ba tổng số các phim độc lập của Mỹ được sản xuất tại New York. Hơn 200 tờ báo và 350 tạp chí có văn phòng tại thành phố và công nghiệp xuất bản sách thuê mướn khoảng 25.000 người. Hai trong số ba nhật báo quốc gia của Hoa Kỳ là nhật báo của New York: The Wall Street Journal và The New York Times. Các tờ báo thuộc nhóm tabloid (khổ nhỏ và thường đăng tin giật gân) lớn trong thành phố gồm có The New York Daily News và The New York Post do Alexander Hamilton thành lập năm 1801. Thành phố cũng có một nhóm truyền thông sắc tộc chính với 270 tờ báo và tạp chí xuất bản bằng trên 40 thứ ngôn ngữ. El Diario La Prensa là nhật báo xưa nhất xuất bản bằng tiếng Tây Ban Nha lớn nhất quốc gia.
The New York Amsterdam News, xuất bản tại Harlem, là một tờ báo nổi tiếng của người Mỹ gốc châu Phi.
Công nghệ truyền hình phát triển tại New York và nó là ngành thuê mướn nhiều nhân công đáng kể đối với nền kinh tế của thành phố. Bốn hệ thống truyền hình chính của Mỹ như ABC, CBS, FOX và NBC đều có tổng hành dinh tại New York. Nhiều kênh truyền hình cáp cũng có cơ sở trong thành phố trong đó có MTV, Fox News, HBO và Comedy Central. Năm 2005, có trên 100 chương trình truyền hình được thu hình tại Thành phố New York.
New York cũng là một trung tâm chính đối với truyền thông phi thương mại. Kênh truyền hình cộng đồng (public-access television) xưa nhất ở Hoa Kỳ là Manhattan Neighborhood Network được thành lập vào năm 1971. WNET là đài truyền hình công cộng (public television) chính của thành phố và là một nhà cung cấp chính yếu của chương trình truyền hình công cộng quốc gia PBS. WNYC, một đài phát thanh công cộng do thành phố làm chủ đến năm 1997, có số bạn nghe đài công cộng lớn nhất Hoa Kỳ.
Thành phố New York điều hành một dịch vụ truyền hình công cộng, NYC-TV, sản xuất một số chương trình ban đầu của giải thưởng Emmy về âm nhạc và văn hóa trong các khu dân cư cũng như chính quyền thành phố.
Giọng nói
Cư dân Thành phố New York có một kiểu giọng nói rõ rệt, được gọi là giọng New York, hay gọi cách khác hơn là giọng Brooklyn, thường được xem là một trong các giọng dễ nhận nhất trong tiếng Anh-Mỹ. Phiên bản ban đầu xưa kia của giọng nói này tập trung ở lớp trung lưu và lao động có nguồn gốc từ người Mỹ gốc châu Âu, và khi làn sóng di dân không phải người châu Âu đến trong nhiều thập niên vừa qua đã khiến cho giọng riêng biệt này có những thay đổi.
Giọng truyền thống của vùng New York được gọi là "non-rhotic", có nghĩa là âm không xuất hiện ở cuối một âm chữ (syllable) hay ngay trước một phụ âm; vì thế cách phát âm tên thành phố sẽ là "New Yawk". Không có trong các chữ như park , butter , hay here . Một đặc điểm khác nữa là âm của các từ như talk, law, cross, và coffee và âm trong các từ như core và more thì cứng và thường hay lên giọng hơn tiếng Anh-Mỹ phổ thông.
Trong các phiên bản xưa và đặc sệt nhất của giọng New York, các nguyên âm của các từ như "girl" và những từ như "oil" đều trở thành một nguyên âm đôi . Điều này thường gây ra sự nhầm lẫn đối với những người nói tiếng Anh-Mỹ giọng khác vì từ girl được phát âm thành "goil" và oil trở thành "erl". Kết quả là người khác sẽ nghe dân New York nói những từ như sau "Joizey" có nghĩa là Jersey, "Toidy-Toid Street" có nghĩa là 33rd Street và "terlet" có nghĩa là toilet. Nhân vật Archie Bunker trong phim hài kịch tình huống của thập niên 1970, All in the Family, là một thí dụ điển hình về một người nói giọng có đặc điểm này. Giọng nói như thế ngày nay không còn quá phổ biến.
Thể thao
New York có các đội thể thao trong bốn liên đoàn thể thao chuyên nghiệp chính của Bắc Mỹ.
Thành phố New York là một trong ít nơi tại Hoa Kỳ mà môn bóng chày vẫn còn là môn thể thao được yêu chuộng nhất, hơn hẳn môn bóng bầu dục. Cùng với Chicago, Washington-Baltimore, Los Angeles và Vùng Vịnh San Francisco, New York là một trong 5 vùng đô thị có hai đội bóng chày chuyên nghiệp. Hai đội bóng chày chuyên nghiệp thuộc Major League Baseball của thành phố là đội New York Yankees và đội New York Mets. Đội Yankees từng giành được 26 giải quán quân trong khi đội Mets được hai lần. New York cũng từng là thành phố nhà trước đây của đội bóng chày "New York Giants" (hiện nay là San Francisco Giants) và "Brooklyn Dodgers" (hiện nay là Los Angeles Dodgers). Cả hai đội này đã di chuyển về California vào năm 1958. Thành phố cũng có hai đội bóng chày chơi trong Minor league baseball là Staten Island Yankees và Brooklyn Cyclones.
New York có các đội đại diện chơi trong Liên đoàn Bóng bầu dục Quốc gia (National Football League) là New York Jets và New York Giants mặc dù cả hai đều có sân nhà ở Sân vận động Giants nằm bên tiểu bang New Jersey lân cận. Đội khúc côn cầu New York Rangers đại diện thành phố trong Liên đoàn Khúc côn cầu Quốc gia (National Hockey League). Trong vùng đô thị còn có hai đội khác, đội New Jersey Devils và đội New York Islanders, chơi tại Long Island.
Về bóng đá, Thành phố New York có một đại diện trong liên đoàn bóng đá nhà nghề Mỹ, có tên Major League Soccer, là đội Red Bull New York. Đội "Red Bulls" cũng chơi trong sân nhà là Sân vận động Giants tại New Jersey. Trong quá khứ còn có đội New York Cosmos, đội bóng mà vua bóng đá Pele từng có quãng thời gian thi đấu. Đội bóng rổ thành phố thuộc Hội Bóng rổ Quốc gia (National Basketball Association) là đội New York Knicks và đội thuộc Hội Nữ Bóng rổ Quốc gia (Women's National Basketball Association) là đội New York Liberty. Nằm trong cùng vùng đô thị còn có một đội thuộc Hội Bóng rổ Quốc gia là New Jersey Nets. Giải đầu tiên vô địch bóng rổ cấp đại học quốc gia, National Invitation Tournament, được tổ chức tại Thành phố New York năm 1938 và vẫn còn được tổ chức tại thành phố.
Với vai trò của một thành phố toàn cầu, New York hỗ trợ nhiều sự kiện ngoài các môn thể thao này. Queens là nơi tổ chức Giải quần vợt Mỹ Mở rộng, một trong bốn cuộc tranh tài của Grand Slam quần vợt. Cuộc chạy đua Marathon Thành phố New York là cuộc chạy đua đường dài lớn nhất thế giới. Trong những lần đua năm 2004-2006, thành phố đã chiếm ba vị trí hàng đầu trong các cuộc chạy đua marathon với số lượng người hoàn thành hết đường đua lớn nhất, trong đó 37.866 người đã hoàn thành hết đường đua vào năm 2006. Millrose Games là một đại hội điền kinh hàng năm mà sự kiện nổi bật của nó là cuộc chạy đua mang tên "Wanamaker Mile". Quyền anh cũng là một phần rất nổi bật trong nền thể thao thành phố với các sự kiện như "Amateur Boxing Golden Gloves" (Qăng tay vàng Quyền anh nghiệp dư) được tổ chức tại sân vận động Madison Square Garden hàng năm.
Nhiều môn thể thao có liên hệ với các cộng đồng di dân của New York. Stickball, một hình thức bóng chày đường phố, rất phổ biến trong giới trẻ những khu dân cư thuộc tầng lớp lao động người gốc Ý, Đức, và Ái Nhĩ Lan trong thập niên 1930. Stickball vẫn còn được phổ biến, thí dụ như một đường phố trong The Bronx đã được đặt tên là Đại lộ Stickball để kỷ niệm môn thể thao đường phố nổi tiếng này của New York. Trong những năm gần đây, các liên đoàn cricket tài tử đã xuất hiện cùng với sự có mặt của các di dân mới đến từ Nam Phi và vùng biển Caribbean. Các môn bóng chày, khúc côn cầu và bóng bầu dục đường phố cũng thấy rất phổ biến trên các đường phố của New York. Thành phố New York thường được gọi là "The World's Biggest Urban Playground" (Sân chơi đô thị lớn nhất của thế giới) vì các môn thể thao đường phố được mọi người ở mọi lứa tuổi chơi ở khắp nơi.
Kinh tế
New York là một trung tâm toàn cầu về thương mại và giao dịch quốc tế, cũng là một trong ba "trung tâm tập quyền" kinh tế thế giới cùng với Luân Đôn và Tokyo. Thành phố là một trung tâm chính về tài chính, bảo hiểm, địa ốc và nghệ thuật tại Hoa Kỳ. Vùng đô thị New York có tổng sản phẩm vùng đô thị được ước tính là 1.072 tỷ đô la Mỹ trong năm 2017 khiến nó trở thành nền kinh tế vùng lớn nhất Hoa Kỳ và theo tuần báo IT Week, nền kinh tế thành phố lớn thứ hai trên thế giới. Theo Cinco Dias, New York kiểm soát 40% tài chính thế giới tính đến cuối năm 2008, khiến nó trở thành trung tâm tài chính lớn nhì thế giới(sau Luân Đôn).. Vào tháng 2 năm 2017, tỷ lệ thất nghiệp của thành phố New York giảm xuống còn 4,3%, mức thấp nhất từng được ghi lại trong lịch sử của thành phố
Nhiều công ty chính đã đặt tổng hành dinh tại Thành phố New York trong đó có 43 công ty được xếp trong Fortune 500. New York cũng là nơi đặc biệt trong các thành phố Mỹ vì có số lượng lớn các đại công ty ngoại quốc. Một trong mười việc làm thuộc lãnh vực tư nhân của thành phố là với một công ty ngoại quốc.
Thành phố New York là địa điểm của một số bất động sản giá trị nhất thế giới và Hoa Kỳ. Bất động sản số 450 Đại lộ Park được bán với giá 510 triệu đô la vào ngày 2 tháng 7 năm 2007, khoảng 17.104 đô la Mỹ một mét vuông (1.589 đô la Mỹ/ft²), phá vỡ kỷ lục mới cách đó một tháng của một tòa nhà văn phòng Mỹ được bán với giá 15.887 đô la Mỹ một mét vuông (1.476 đô la Mỹ/ft²), ghi nhận vào tháng 6 năm 2007 ở số 660 Đại lộ Madison. Riêng quận Manhattan có 32.860.000 m² (353,7 triệu ft²) chỗ dành cho văn phòng vào năm 2001.
Midtown Manhattan là khu thương mại trung tâm lớn nhất tại Hoa Kỳ và là nơi tập trung nhiều nhất các tòa nhà chọc trời. Hạ Manhattan là khu thương mại trung tâm lớn thứ ba tại Hoa Kỳ và là nơi có Thị trường Chứng khoán New York nằm trên phố Wall và NASDAQ. Hai trung tâm thị trường chứng khoán này đại diện cho thị trường chứng khoán lớn thứ nhất và thứ hai thế giới theo thứ tự vừa kể khi được tính theo số lần giao dịch trung bình hàng ngày và tổng giá trị tư bản. Dịch vụ tài chính cung cấp khoảng trên 35% lợi tức từ việc làm của thành phố. Địa ốc là một lực lượng chính trong nền kinh tế thành phố vì tổng giá trị của tất cả các bất động sản của thành phố là 802,4 tỷ đô la Mỹ năm 2006. Trung tâm Time Warner là bất động sản có giá trị thị trường được liệt kê là cao nhất trong thành phố với giá là 1,1 tỷ đô la Mỹ năm 2006.
Công nghiệp phim và truyền hình của thành phố đứng hạng nhì quốc gia, sau Hollywood. Những công nghệ sáng tạo như quảng cáo, thời trang, thiết kế và kiến trúc tạo ra một số lớn công ăn việc làm và New York cũng có được lợi thế cạnh tranh mạnh trong những ngành công nghệ này. Các ngành công nghệ kỹ thuật cao như công nghệ sinh học, phát triển phần mềm, thiết kế trò chơi điện tử, và dịch vụ internet cũng đang phát triển nhờ vào vị trí của thành phố nằm ở nơi điểm cuối của một số đường dây cáp quang liên Đại Tây Dương. Những ngành quan trọng khác còn có nghiên cứu và kỹ thuật y học, các cơ quan bất vụ lợi, và các viện đại học.
Lĩnh vực sản xuất mang lại số lượng lớn nhưng hiện đang có xu thế giảm sút công ăn việc làm. May mặc, hóa học, sản phẩm kim loại, chế biến thực phẩm, và đồ dùng trong nhà là một số sản phẩm chính yếu. Công nghiệp chế biến thực phẩm là ngành sản xuất bền vững nhất tại thành phố, có giá trị 5 tỷ đô la Mỹ, thuê mướn hơn 19.000 cư dân New York. Chocolate là sản phẩm xuất khẩu hàng đầu của New York với 234 triệu đô la xuất khẩu hàng năm.
Nhân khẩu
Thành phố New York là thành phố đông dân nhất ở Hoa Kỳ, với 8.804.190 cư dân vào năm 2020 Số lượng người nhập cư vào thành phố gia tăng kể từ cuộc điều tra dân số Hoa Kỳ năm 2010. Con số này tương ứng khoảng chừng 40% dân số tiểu bang New York. Trong khoảng thập niên qua, dân số thành phố đã gia tăng và những nhà nhân khẩu học dự đoán rằng dân số của New York sẽ lên đến trong khoảng từ 9,2 đến 9,5 triệu vào năm 2030.
Hai đặc điểm chính về nhân khẩu của New York là mật độ dân số và tính đa văn hóa. Mật độ dân số của thành phố là 11,000/km2 (28,491/1 dặm vuông Anh), khiến nó trở thành khu đô thị tự quản trên 100.000 người của Mỹ có mật độ dân số đông đúc nhất. Mật độ dân số của quận Manhattan vào năm 2007 là 25.846 người/km² (66.940 người/1 dặm vuông Anh), cao nhất so với bất cứ quận nào của Hoa Kỳ.
New York là thành phố rất đa dạng về chủng tộc. Trong suốt lịch sử, thành phố luôn là một bến đỗ chính cho di dân. Thuật ngữ melting pot (nồi xúp nấu chảy mọi văn hóa) lần đầu tiên được sử dụng để diễn tả các khu dân cư di dân có mật độ đông đúc trên khu phía đông Hạ Manhattan. Ngày nay, 36,7% dân số thành phố được sinh ở ngoại quốc và con số 3,9% khác được sinh tại Puerto Rico, các vùng quốc hải Hoa Kỳ hoặc có cha mẹ người Mỹ nhưng được sinh ra ở ngoại quốc. So với các thành phố Mỹ, tỉ lệ này chỉ kém Los Angeles và Miami. Tuy nhiên, trong khi các cộng đồng di dân tại các thành phố đó bị áp đảo bởi một vài quốc tịch thì tại New York, không có một quốc gia hay vùng gốc của di dân nào áp đảo. Mười quốc gia gốc lớn nhất của các di dân hiện đại là Cộng hòa Dominica, Trung Quốc, Jamaica, Guyana, México, Ecuador, Haiti, Trinidad và Tobago, Colombia, và Nga. Khoảng 170 ngôn ngữ được nói trong thành phố.
Vùng đô thị New York là nơi có đông cộng đồng người Do Thái lớn nhất bên ngoài Israel. Dân số khu vực phạm vi của Tel Aviv – thành phố đông dân thứ hai của Israel – còn nhỏ hơn dân số Do Thái của khu vực Thành phố New York (1,2 triệu người vào năm 2012). Vì thế New York là thành phố có cộng đồng người Do Thái lớn nhất thế giới. Khoảng 12% người New York là người Do Thái hay có nguồn gốc Do Thái. Đây cũng là nơi sinh sống của gần 1/4 người bản thổ Mỹ tại Hoa Kỳ, và cộng đồng người Mỹ gốc châu Phi lớn nhất hơn bất cứ thành phố nào của Hoa Kỳ.
Năm nhóm sắc tộc lớn nhất theo điều tra dân số năm 2005 ước tính là: người Puerto Rico, người Ý, người vùng biển Caribe, người Dominica và người Trung Hoa. Dân số người Puerto Rico của New York là dân số lớn nhất bên ngoài Puerto Rico. Người Ý đã di cư đến thành phố với số lượng lớn trong đầu thế kỷ XX. Người Ái Nhĩ Lan, nhóm sắc tộc lớn thứ sáu, cũng có số lượng khá nổi bật. Trong số 50 người New York gốc châu Âu thì có một người mang yếu tố di truyền học rõ rệt trong nhiễm sắc thể Y của họ, mà được di truyền từ "Niall of the Nine Hostages", một vị vua Ái Nhĩ Lan của thế kỷ V của Công Nguyên
Theo cuộc khảo sát cộng đồng Mỹ năm 2010 do Cục điều tra dân số Hoa Kỳ thực hiện thì dân số thành phố New York bao gồm 44% người Mỹ da trắng (trong số đó 33,3% là người da trắng không thuộc nhóm nói tiếng Tây Ban Nha), khoảng 25,5% là người Mỹ gốc Phi da đen, 0.7% là người bản địa da đỏ và 12.7% là người gốc Á da vàng. Người Mỹ gốc các đảo Thái Bình Dương chiếm ít hơn 0,1% dân số thành phố Người nói tiếng Tây Ban Nha (Hispanic và Latino) chiếm khoảng 28.6% dân số trong khi người châu Á là nhóm người có sự tăng trưởng nhanh nhất từ năm 2000 đến năm 2010.
Thành phố New York là thành phố có số lượng người Mỹ gốc Âu và người Mỹ da trắng không nói tiếng Tây Ban Nha lớn nhất nước Mỹ. Theo điều tra dân số vào năm 2012 thì thành phố có khoảng 560,000 người Mỹ gốc Ý, 385.000 người Mỹ gốc Ailen, 253.000 người Mỹ gốc Đức, 223,000 người Mỹ gốc Nga, 201,000 người Mỹ gốc Ba Lan, và 137,000 người Mỹ gốc Anh. Ngoài ra,người Mỹ gốc Hi Lạp và người Mỹ gốc Pháp gồm khoảng 65,000 người, trong khi những người Mỹ gốc Hungary ước tính khoảng 60.000 người. Số người Mỹ gốc Ucraina và người Mỹ gốc Scotland lần lượt là 55,000 và 35.000. Số người Mỹ gốc Tây Ban Nha là 30,838 trong năm 2010. Người Mỹ gốc Thụy Điển và người Mỹ gốc Na Uy có khoảng 20.000 người. Người Mỹ gốc Ả Rập có dân số hơn 160.000 ở thành phố New York, tập trung đông nhất là ở Brooklyn. Người Mỹ gốc Trung Á, chủ yếu là người Mỹ gốc Uzbekistan có khoảng 30.000 người, chiếm hơn một nửa số người Trung Á nhập cư tại Hoa Kỳ .
Thành phố New York có một tỉ lệ chênh lệch lớn về thu nhập. Năm 2005, thu nhập bình quân của một hộ gia đình được liệt kê trong bảng thống kê người giàu có nhất là 188.697 đô la Mỹ trong khi bảng thống kê người nghèo nhất là 9.320 đô la Mỹ. Cách biệt này là do mức tăng lương trong số người có thu nhập cao trong khi đó thu nhập trong giới trung lưu và giới nghèo bị đứng chững lại. Năm 2014, lương trung bình hàng tuần tại quận Manhattan là 2749 đô la Mỹ, cao nhất và tăng nhanh nhất trong số các quận lớn nhất của Hoa Kỳ . Quận cũng đang có một sự bùng nổ về sinh sản có một không hai trong số các thành phố Mỹ. Từ năm 2000, số trẻ em dưới 5 tuổi sống tại Manhattan tăng hơn 32%.
Số người có nhà tại Thành phố New York là khoảng 33%, thấp hơn nhiều so với trung bình toàn quốc khoảng từ 3% đến 4,5%, cũng thấp dưới 5% mức trần được định nghĩa để chỉ sự khẩn trương về nhà ở và được tính toán để ra quyết định có nên duy trì mức bình ổn và kiểm soát về nhà cho thuê. Khoảng 33% các đơn vị nhà cho thuê luôn được bình ổn. Tìm nơi cư ngụ, đặc biệt là nhà ở giá phải chăng, tại Thành phố New York có thể nói là nhiều thử thách.
Tính đến năm 2017, thành phố New York là thành phố có số lượng tỉ phú lớn nhất trên thế giới, với 103 người.
Chính quyền
Kể từ khi mở rộng vào năm 1898, Thành phố New York luôn là một khu tự quản vùng đô thị (metropolitan municipality) có một thể chế chính quyền thị trưởng-hội đồng "mạnh". Chính quyền New York là chính quyền tập quyền hơn phần lớn các thành phố khác của Hoa Kỳ. Tại New York, chính quyền trung ương chịu trách nhiệm về giáo dục công cộng, các trung tâm quản giáo (trại giam), thư viện, an toàn công cộng, các cơ sở vật chất giải trí, vệ sinh, cấp nước và các dịch vụ phúc lợi xã hội. Thị trưởng Thành phố New York và các hội đồng viên thành phố được bầu lên với nhiệm kỳ bốn năm. Hội đồng thành phố là một cơ chế lưỡng viện gồm 51 thành viên. Các khu đại diện của các ủy viên thành phố được ấn định theo các ranh giới địa lý dân số. Thị trưởng và các ủy viên hội đồng thành phố chỉ được phục vụ tối đa hai nhiệm kỳ bốn năm.
Thị trưởng thành phố hiện nay là Bill de Blasio của Đảng Dân chủ. Ông được bầu vào năm 2013 với hơn 73% phiếu bầu, và chính thức đảm nhiệm chức vụ vào ngày 1 tháng 1 năm 2014. Thị trưởng trước là Michael Bloomberg, một cựu đảng viên Dân chủ và hiện thời là đảng viên độc lập, được bầu lên với tư cách là một đảng viên Cộng hòa vào năm 2001 và tái đắc cử vào năm 2005 với 59% phiếu bầu. Ông nổi tiếng vì đã giành lấy quyền kiểm soát hệ thống giáo dục thành phố từ tiểu bang, tái phân khu và phát triển kinh tế, điều hành hợp lý năm tài chính, và chính sách y tế công cộng chủ động. Trong nhiệm kỳ hai, ông đã thực hiện việc cải cách học đường, giảm nghèo, và kiểm soát nghiêm ngặt súng như những ưu tiên hàng đầu của chính quyền Bloomberg. Cùng với thị trưởng thành phố Boston, Thomas Menino, vào năm 2006, ông thành lập "Liên minh các thị trưởng chống súng bất hợp pháp". Đây là một tổ chức có mục tiêu "làm cho công chúng an toàn hơn bằng cách loại bỏ súng bất hợp pháp ra khỏi đường phố." Đảng Dân chủ Hoa Kỳ chiếm đa số trong các văn phòng công cộng. Tính đến tháng 4 năm 2016, có 69% cử tri đã được ghi danh là người thuộc Đảng Dân chủ và chỉ có 10% thuộc Đảng Cộng hòa . Chưa có một đảng viên Cộng hòa nào giành được chiến thắng tại Thành phố New York trong các cuộc bầu cử toàn tiểu bang hay bầu cử tổng thống kể từ năm 1924. Các nền tảng tranh cử của các đảng tập trung vào các khía cạnh như nhà ở hợp lý, giáo dục, phát triển kinh tế và chính trị công đoàn là những khía cạnh quan trọng đối với thành phố.
New York là nguồn vận động quyên góp quỹ chính trị quan trọng nhất tại Hoa Kỳ vì bốn trong số năm mã bưu chính hàng đầu về quyên góp quỹ chính trị trên toàn quốc là nằm trong quận Manhattan. Mã bưu chính hàng đầu là 10021, nằm ở phía đông Thượng Manhattan, tạo ra số tiền lớn nhất cho các cuộc vận động tranh cử tổng thống năm 2004 của cả George W. Bush và John Kerry. Thành phố có một sự thiếu cân đối lớn về chi tiêu của chính quyền tiểu bang và cả chính phủ liên bang. Thành phố nhận được 83 xu giá trị dịch vụ cho mỗi đô la thành phố gởi cho chính phủ liên bang bằng hình thức đóng thuế (hay gởi đi khoảng 11,4 tỷ đô la nhiều hơn số tiền thành phố nhận lại được hàng năm). Thành phố cũng gởi đi một số tiền khác giá trị 11 tỉ hàng năm hơn con số mà thành phố nhận lại được từ tiểu bang New York.
Mỗi quận (borough) của thành phố tồn tại song song với một khu pháp lý của Tối cao Pháp viện tiểu bang New York và cũng là nơi có các tòa án thành phố và tiểu bang khác. Manhattan cũng là nơi có Toà Thượng thẩm thứ nhất, thuộc Tối cao Pháp viện tiểu bang New York trong khi đó Brooklyn là nơi có Tòa thượng thẩm thứ nhì, thuộc Tối cao Pháp viện tiểu bang New York. Các tòa án liên bang nằm gần Đại sảnh Thành phố gồm có Tòa án Khu vực của Hoa Kỳ đặc trách Khu miền nam tiểu bang New York, Tòa Thượng thẩm Hoa Kỳ đặc trách Khu vực hai và Tòa án Thương mại Quốc tế. Brooklyn có Tòa án Khu vực của Hoa Kỳ đặc trách Khu vực phía đông tiểu bang New York.
Tội phạm
Từ năm 2005, New York là thành phố có tỉ lệ tội phạm thấp nhất trong số 25 thành phố lớn nhất Hoa Kỳ, trở thành nơi an toàn đáng kể sau khi lên đến cao điểm trong thập niên 1980 và đầu thập niên 1990, thời điểm cơn sốt sử dụng ma túy gây ảnh hưởng nghiêm trọng đối với nhiều khu dân cư của thành phố. Đến năm 2002, New York có khoảng cùng tỉ lệ tội phạm với Provo, Utah và xếp hạng 197 về tỉ lệ tội phạm trong số 216 thành phố của Hoa Kỳ có dân số trên 100.000 dân. Tội phạm hình sự tại New York giảm hơn 75% từ năm 1993 đến năm 2005 và tiếp tục giảm trong suốt các thời kỳ mà toàn nước Mỹ có sự gia tăng. Năm 2005, tỉ lệ giết người ở vào mức độ thấp nhất kể từ năm 1966, và trong năm 2007 thành phố được ghi nhận có ít hơn 500 vụ giết người, lần đầu tiên kể từ khi các thống kê về tội phạm được công bố vào năm 1963 . Năm 2016, tỷ lệ giết người giảm xuống còn 3,9 trên 100.000 dân , thấp hơn đáng kể so với mức trung bình của Mỹ là 5,3 và dự kiến sẽ tiếp tục giảm trong năm 2017.
Các nhà xã hội học và tội phạm học đã không đạt được đồng thuận về lý do giải thích tại sao có sự giảm tỉ lệ tội phạm của thành phố. Một số người cho rằng hiện tượng này xảy ra là nhờ vào những chiến lược mới được Sở Cảnh sát Thành phố New York sử dụng trong đó có việc sử dụng hệ thống "CompStat" (thống kê bằng điện toán) và lý thuyết có tựa đề "broken windows theory" (lý thuyết về các chiến lược truy tìm và loại bỏ tội phạm đô thị). Những người khác thì cho rằng cơn sốt sử dụng ma túy đã đến hồi kết và có sự thay đổi về nhân khẩu.
Tội phạm có tổ chức đã từ lâu có liên hệ đến New York, bắt đầu với nhóm tội phạm có tên "Forty Thieves" (có lẽ theo tên của Ali Baba và 40 tên cướp) và "Roach Guards" (băng cướp người Ái Nhĩ Lan) trong khu dân cư Five Points vào thập niên 1820. Trong thế kỷ XX, có sự trỗi dậy của băng đảng Mafia Mỹ do Năm gia đình gốc Ý cầm đầu. Các băng đảng khác còn có nhóm "Black Spades" phát triển vào cuối thế kỷ XX.
Giáo dục
Hệ thống trường công của thành phố do Sở Giáo dục Thành phố New York điều hành là hệ thống lớn nhất tại Hoa Kỳ. Khoảng 1,1 triệu học sinh được dạy trong trên 1.200 trường trung và tiểu học. Có khoảng 900 trường, gồm cả tôn giáo và ngoài tôn giáo, tư thục khác trong thành phố, trong đó có một số trường tư thục nổi tiếng nhất Hoa Kỳ.
Mặc dù thành phố chưa bao giờ được xem là một thị trấn đại học (college town) nhưng có khoảng 594.000 sinh viên đại học tại New York, con số cao nhất so với bất cứ thành phố nào ở Hoa Kỳ. Năm 2005, ba trong năm cư dân của quận Manhattan là sinh viên tốt nghiệp đại học và một trong bốn cư dân có các cấp bằng cao. Điều đó đã làm cho thành phố trở thành một trong những nơi tập trung cao nhất số người có giáo dục bậc cao so với bất cứ thành phố nào của Hoa Kỳ. Giáo dục công cộng sau trung học do hệ thống Đại học Thành phố New York (City University of New York, một hệ thống đại học công lớn thứ ba toàn quốc) và Viện Kỹ thuật Thời trang (Fashion Institute of Technology) thuộc Đại học Tiểu bang New York đảm trách. Thành phố New York cũng là nơi có những trường đại học tư danh tiếng như Đại học Barnard, Đại học Columbia, Cooper Union, Đại học Fordham, Đại học New York, The New School, và Đại học Yeshiva. Thành phố có hàng tá các đại học và cao đẳng tư nhỏ hơn, bao gồm nhiều học viện tôn giáo và học viện khác như Đại học St. John, Trường Juilliard và Trường Nghệ thuật Thị giác (School of Visual Arts).
Nhiều nghiên cứu khoa học tại thành phố được thực hiện trong các khoa đời sống và y học. Thành phố New York có số lượng bằng cấp sau đại học khoa đời sống nhiều nhất, được trao hàng năm tại Hoa Kỳ. Thành phố có 40.000 bác sĩ có bằng hành nghề và 127 người đoạt giải Nobel có nguồn gốc tốt nghiệp từ các học viện địa phương. Thành phố nhận số quỹ hàng năm nhiều thứ hai từ cơ quan "Các viện Y tế Quốc gia" (National Institutes of Health) so với tất cả các thành phố Hoa Kỳ. Các viện nghiên cứu y tế sinh học gồm có Trung tâm Ung thư Memorial Sloan-Kettering, Đại học Rockefeller, Trung tâm Y tế SUNY Downstate, Trường Y khoa Albert Einstein, Trường Y khoa Mount Sinai và Trường Y khoa Weill Cornell, Đại học Cornell.
Thư viện Công cộng New York là nơi có số lượng sách lớn nhất, hơn bất cứ hệ thống thư viện công cộng nào tại Hoa Kỳ. Nó phục vụ các quận Manhattan, The Bronx, và Đảo Staten. Thư viện Công cộng Quận Queens, hệ thống thư viện công cộng lớn thứ hai toàn quốc, phục vụ quận Queens và Thư viện Công cộng Brooklyn phục vụ quận Brooklyn. Thư viện Công cộng New York có vài thư viện nghiên cứu trong đó có Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa người Da đen Arthur Schomburg.
Thành phố New York cũng có nhiều trường tư thục đặc biệt và xuất sắc nhất trên toàn quốc. Các trường này gồm có Trường Brearley, Trường Dalton, Trường Spence, Trường Browning, Trường The Chapin, Trường Nightingale-Bamford và Convent of the Sacred Heart nằm phía đông Thượng Manhattan; Trường Collegiate và Trường Trinity nằm phía tây Thượng Manhattan; Trường Horace Mann, Trường Văn hóa Đạo đức Fieldston và Trường Riverdale Country trong khu Riverdale, Bronx; và Học viện Packer Collegiate và Trường Saint Ann trong khu Brooklyn Heights, Brooklyn.
Một số trường trung học nổi tiếng của Thành phố New York, thường được xem là tốt nhất toàn quốc, gồm có: Trung học Hunter College, Trung học Stuyvesant, Trung học Khoa học Bronx, Trung học Kỹ thuật Brooklyn, Bard High School Early College, Trung học Townsend Harris, và Trung học LaGuardia. Thành phố là nơi có trường trung học Công giáo La Mã lớn nhất tại Hoa Kỳ là Trường Dự bị St. Francis trong khu Fresh Meadows, Queens, và trường người Mỹ gốc Ý chính thức duy nhất trên toàn quốc là La Scuola d'Italia nằm phía đông Thượng Manhattan.
Giao thông
Không như mọi thành phố lớn khác tại Hoa Kỳ, chuyên chở công cộng là kiểu chuyên chở phổ biến nhất của New York. Khoảng 54,6% người dân New York ra vào thành phố làm việc trong năm 2005 sử dụng giao thông công cộng. Khoảng một phần ba số người sử dụng giao thông công cộng tại Hoa Kỳ và hai phần ba số người sử dụng giao thông đường sắt trên toàn quốc sống trong vùng đô thị Thành phố New York. Điều này trái ngược với phần còn lại của quốc gia, nơi có khoảng 90% người ra vào thành phố làm việc bằng xe hơi. New York là thành phố duy nhất tại Hoa Kỳ có hơn phân nửa hộ gia đình không có xe hơi. Tại Manhattan, hơn 75% cư dân không có xe hơi trong khi tỷ lệ của toàn quốc là 8%. Theo Cục điều tra dân số Hoa Kỳ, cư dân New York bỏ ra bình quân 38,4 phút mỗi ngày để đi đến nơi làm việc - thời gian đến nơi làm việc dài nhất trong số những thành phố lớn trên toàn quốc.
Hệ thống xe lửa Amtrak phục vụ Thành phố New York tại Ga Pennsylvania. Amtrak phục vụ nối đến các thành phố Boston, Philadelphia và Washington, D.C. dọc theo tuyến Hành lang Đông Bắc cũng như phục vụ tuyến đường dài đến các thành phố như Chicago, New Orleans, Miami, Toronto và Montreal. Ga xe buýt Cơ quan Quản lý Cảng (Port Authority Bus Terminal), ga xe buýt chính liên thành phố của thành phố, phục vụ 7.000 xe buýt và 200.000 người ra vào thành phố để làm việc hàng ngày. Vì thế nó trở thành ga xe buýt bận rộn nhất trên thế giới.
Tàu điện ngầm Thành phố New York (New York City Subway) là hệ thống trung chuyển nhanh lớn nhất trên thế giới khi tính về số lượng các nhà ga hoạt động, gồm 468 nhà ga. Nó là hệ thống lớn thứ ba khi tính về số lượng người đi xe điện hàng năm (1,75 tỉ lượt người đi trong năm 2015) . Xe điện ngầm New York cũng nổi tiếng vì gần như toàn bộ hệ thống này phục vụ 24 tiếng mỗi ngày, khác với các hệ thống tại nhiều thành phố khác là thường hay ngưng phục vụ qua đêm trong số đó có London Underground, Paris Métro, Tàu điện ngầm Washington, Madrid Metro và Tàu điện ngầm Tokyo. Hệ thống chuyên chở tại Thành phố New York rộng khắp và phức tạp. Nó gồm có cầu treo dài nhất (cầu Verrazano-Narrows) tại Bắc Mỹ, đường hầm có hệ thống cơ học thông hơi đầu tiên trên thế giới (Đường hầm Holland), hơn 12.000 xe taxi màu vàng, một đường xe cáp (Roosevelt Island Tramway) chuyên chở những người ra vào làm việc giữa đảo Roosevelt và quận Manhattan, và một hệ thống phà nối liền quận Manhattan với những vùng địa phương lân cận khác nhau trong phạm vi bên trong và ngoài thành phố. Phà bận rộn nhất tại Hoa Kỳ là Phà Đảo Staten hàng năm chuyên chở trên 19 triệu hành khách trên một thủy lộ dài 8,4 km (5,3 dặm Anh) giữa Đảo Staten và Hạ Manhattan. Hệ thống trung chuyển nhanh tên Staten Island Railway chỉ phục vụ quận Đảo Staten. Đường sắt "PATH" (viết tắt của Port Authority Trans-Hudson, nghĩa là Cơ quan Quản lý Cảng Trans-Hudson) nối hệ thống xe điện Thành phố New York đến các điểm trong đông bắc tiểu bang New Jersey.
Đội xe buýt và hệ thống đường sắt công cộng nội thành của Thành phố New York là lớn nhất Bắc Mỹ. Hệ thống đường sắt nối các khu ngoại ô trong Vùng ba-tiểu bang đến thành phố gồm có Đường sắt Long Island, Đường sắt Metro-North và New Jersey Transit. Các hệ thống kết hợp này gặp nhau tại Ga Grand Central và Ga Pennsylvania và gồm có hơn 250 ga và 20 tuyến đường sắt.
Thành phố New York là cửa ngõ hàng đầu cho hành khách hàng không quốc tế đến Hoa Kỳ. Khu vực có sân bay lớn phục vụ, đó là Phi trường Quốc tế John F. Kennedy, Phi trường Quốc tế Newark Liberty và Phi trường LaGuardia. Có kế hoạch mở rộng một sân bay thứ tư là Phi trường Quốc tế Stewart gần Newburgh, NY. Phi trường này do Cơ quan Quản lý Cảng New York và New Jersey (đây là cơ quan điều hành ba phi trường lớn vừa nói ở phần trên) trưng dụng và mở rộng để làm một phi trường "dự phòng" để giúp đối diện với số lượng hành khách ngày càng đông. 130.5 triệu hành khách sử dụng ba phi trường trong năm 2016 và không lưu của thành phố là nơi bận rộn nhất tại Hoa Kỳ . Du lịch ra nước ngoài khởi hành tại các phi trường John F. Kennedy và phi trường Newark chiếm 1/4 tổng số khách du lịch Hoa Kỳ đi ra nước ngoài trong năm 2004.
Nhờ vào tỉ lệ cao số người sử dụng chuyên chở công cộng, 120.000 người dùng xe đạp đi lại hàng ngày và nhiều người đi bộ để đến nơi làm việc nên Thành phố New York trở thành thành phố lớn sử dụng năng lượng có hiệu quả nhất tại Hoa Kỳ. Đi bộ và đi xe đạp chiếm 21% giao thông tại thành phố; tỉ lệ trung bình cho các vùng đô thị trên toàn quốc là khoảng 8%.
Để bổ sung hệ thống chuyên chở công cộng to lớn của New York, thành phố cũng có một hệ thống rộng khắp gồm các xa lộ tốc hành và đường công viên (parkway) nối Thành phố New York với phía bắc tiểu bang New Jersey, quận Westchester, Long Island, và tây nam tiểu bang Connecticut bằng nhiều cầu và đường hầm. Vì những xa lộ này phục vụ hàng triệu cư dân ngoại ô ra vào New York làm việc nên chuyện những người lái xe bị kẹt xe hàng giờ trên các xa lộ này là chuyện thường thấy mỗi ngày, nhất là vào giờ cao điểm. Cầu George Washington được xem là một trong số các cây cầu bận rộn nhất trên thế giới tính theo lượng xe lưu thông.
Mặc dù Thành phố New York phụ thuộc vào chuyên chở công cộng nhưng đường sá của thành phố cũng được xem là một đặc điểm đáng chú ý của thành phố. Bảng quy hoạch đường phố Manhattan năm 1811 có ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát triển bề mặt thành phố. Một số đường phố của thành phố như Broadway, Phố Wall và Đại lộ Madison cũng được dùng như một hình thức ngắn gọn để gọi các ngành công nghiệp quốc gia nằm ở đó: theo thứ tự vừa kể là nhà hát (Broadway), tổ chức tài chính (Phố Wall), quảng cáo (Đại lộ Madison).
Thành phố kết nghĩa
Thành phố New York có mười thành phố kết nghĩa được hội Thành phố Kết nghĩa Quốc tế (Sister Cities International) công nhận. Về điểm tương đồng với New York, trừ Bắc Kinh, tất cả các thành phố kết nghĩa với New York đều là đô thị đông dân nhất tại quốc gia đó. Ngược lại có một sự bất tương đồng khác: trừ Johannesburg, các thành phố này đều là những thủ đô chính trị quốc gia (trên thực tế hay de jure). New York và các thành phố kết nghĩa đều là những trung tâm kinh tế chính nhưng chỉ có một số ít trong các thành phố kết nghĩa này có vị thế như Thành phố New York trong vai trò là một hải cảng lớn hiện nay.
Năm được ghi phía dưới là năm mà thành phố đó kết nghĩa với New York.
Ghi chú
Tham khảo
Liên kết ngoài
NYC.gov – website chính thức của thành phố
NYC Bloggers – hàng ngàn blog của dân New York, được liệt kê theo chỗ đợi xe điện
Times Square Webcams
New York City Wiki – thời sự
Thành phố của New York (tiểu bang)
Vùng đô thị của New York
Thành phố ven biển ở New York (tiểu bang)
Cựu thủ phủ tiểu bang Hoa Kỳ
Khu dân cư trên sông Hudson
Khởi đầu năm 1624 ở Bắc Mỹ
Khởi đầu năm 1898 ở New York
|
21975
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%A2u%20Giang%20%28ph%C6%B0%E1%BB%9Dng%29
|
Châu Giang (phường)
|
Châu Giang là một phường thuộc thị xã Duy Tiên, tỉnh Hà Nam, Việt Nam.
Địa lý
Phường Châu Giang nằm ở phía đông bắc thị xã Duy Tiên, có vị trí địa lý:
Phía đông giáp các xã Chuyên Ngoại, Mộc Bắc và Mộc Nam
Phía tây và bắc giáp thành phố Hà Nội
Phía nam giáp phường Hòa Mạc và phường Yên Bắc.
Phường Châu Giang có diện tích 12,81 km², dân số năm 2018 là 17.219 người, mật độ dân số đạt 1.344 người/km².
Lịch sử
Phường Châu Giang xưa là xã Trác Bút, một thôn xã cổ bên bờ sông Thiên Mạc (sông Châu Giang ngày nay), có hình như chiếc bút xung thiên như trong 4 câu thơ:
"Thiên Mạc Giang hề Trác Bút Trang
Cung đình thiên cổ thị huy hoàng
Quần thần thị lập giai oanh liệt
Thủy liễu dương dương tại điển hàn".
Sau năm 1954, phần lớn địa bàn phường Châu Giang hiện nay là hai xã Trác Bút và Chuyên Nội thuộc huyện Duy Tiên.
Ngày 18 tháng 12 năm 1976, Phủ Thủ tướng ban hành Quyết định 1507-TTCP. Theo đó, hai xã Trác Bút, Chuyên Nội và thôn Duyên Giang (xã Tiên Yên) sáp nhập thành một xã lấy tên là xã Châu Giang.
Đến năm 2018, xã Châu Giang có diện tích 14,531 km², dân số là 17.553 người, mật độ dân số đạt 1.208 người/km².
Ngày 17 tháng 12 năm 2019, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 829/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã thuộc tỉnh Hà Nam (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2020). Theo đó:
Điều chỉnh 1,721 km² diện tích tự nhiên và 334 người của xã Châu Giang vào thị trấn Hòa Mạc.
Thành lập phường Châu Giang thuộc thị xã Duy Tiên trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của xã Châu Giang.
Sau khi thành lập, phường Châu Giang có diện tích 12,81 km², dân số là 17.219 người.
Chú thích
Tham khảo
|
21976
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/New%20York%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
New York (định hướng)
|
New York (đọc như "Niu Oóc"; Hán-Việt: Nữu Ước) có thể chỉ đến:
Địa danh Review Phim
New York, một tiểu bang thuộc miền đông bắc Hoa Kỳ
Thành phố New York, thành phố lớn nhất của tiểu bang New York
Quận New York, thường được gọi là Manhattan, một quận toàn ở trong Thành phố New York
Vùng đô thị New York, bao gồm Thành phố New York và vùng ngoại ô
New York, Lincolnshire, một làng nhỏ tại Anh Quốc
New York, Tyne and Wear, một làng nhỏ tại Anh Quốc.
Ngoài ra còn có những khu chưa hợp nhất nhỏ ở Hoa Kỳ như: New York (Iowa), New York (Kentucky), New York (Texas)
Khác
USS New York, tên có thể chỉ đến vài tàu của Hải quân Hoa Kỳ
Tạp chí New York
New York (phim 2009), phim Ấn Độ
New York, New York (phim), phim ca nhạc 1997
New York (tiểu thuyết)
Xem thêm
New York, New York (định hướng)
York (định hướng)
Trang định hướng địa danh
|
21998
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/New%20York%20%28ti%E1%BB%83u%20bang%29
|
New York (tiểu bang)
|
New York (, thường được gọi là New York State) là một tiểu bang của Hoa Kỳ. Tiểu bang New York giáp với các bang khác của Hoa Kỳ là Vermont, Massachusetts, Connecticut về phía đông, giáp với hai bang New Jersey, Pennsylvania về phía nam, đồng thời giáp với hai tỉnh của Canada là Quebec và Ontario về phía bắc. Tiểu bang New York là tiểu bang có dân số đông thứ tư tại Hoa Kỳ.
Thành phố New York là thành phố lớn nhất tiểu bang đồng thời cũng là thành phố lớn nhất nước Mỹ. Thành phố này được biết đến như cửa ngõ cho dòng người nhập cư vào nước Mỹ trong lịch sử và ngày nay phát triển thành một trung tâm thương mại, tài chính, văn hóa lớn của thế giới. Tuy nhiên thủ phủ của tiểu bang New York lại nằm ở thành phố Albany, New York.
Những cư dân đầu tiên sinh sống tại tiểu bang New York ngày nay là những bộ tộc thổ dân da đỏ như Algonquian, Iroquois và Lanape, trước khi người Pháp và Hà Lan khám phá ra vùng đất này vào đầu thế kỷ XVII. Năm 1609, Henry Hudson là người đầu tiên tuyên bố chủ quyền khu vực này thuộc về Công sự Cam (Fort Orange) của người Hà Lan. Tuy nhiên người Anh đã thôn tính vùng đất này vào năm 1664. Khi cuộc chiến tranh giành độc lập của 13 thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ nổ ra, tiểu bang New York trở thành một chiến trường ác liệt. Tiểu bang phê chuẩn Hiến pháp Hoa Kỳ vào năm 1788 và trở thành tiểu bang thứ 11 nằm trong Hợp chúng quốc Hoa Kỳ trong cùng năm đó. Hiến pháp riêng của tiểu bang được ban hành năm 1777. New York là một trong 13 tiểu bang ban đầu của Hoa Kỳ.
Đây là nơi sinh của các Tổng thống Theodore Roosevelt (tại thành phố New York), Donald Trump (tại thành phố New York), Franklin Delano Roosevelt (tại Hyde Park), Martin Van Buren (tại Kinderhook), Millard Fillmore (tại Cayuga County).
Địa lý
Địa hình
Tổng diện tích của tiểu bang New York là 141.089 km². New York xếp thứ 27 trong tổng số 50 bang của đất nước Hoa Kỳ về diện tích. Thung lũng Great Appalachian là 1 dạng địa hình chính ở phía đông tiểu bang với hồ Champlain nổi tiếng nằm ở bắc Mỹ. Phía bắc của tiểu bang New York giáp với sông Hudson chảy về phía nam ra Đại Tây Dương. Dãy núi Adirondack hiểm trở nằm ở phía đông bắc của tiểu bang. Phần lớn diện tích của phía nam tiểu bang New York là cao nguyên Allegheny, trải dài từ phía đông nam lên đến dãy núi Catskill. Khu vực phía tây của tiểu bang được thoát nước bởi dòng sông Allegheny và các hệ thống sông Susquehanna và sông Delaware. Hiệp ước Châu thổ Sông Delaware được ký năm 1961 giữa các tiểu bang New York, New Jersey, Pennsylvania, Delaware và Chính phủ liên bang về việc điều chỉnh sử dụng nước của hệ thống các sông này.
Tiểu bang New York giáp với hai hồ trong hệ thống Hồ Lớn của Bắc Mỹ là hồ Erie và hồ Ontario về phía tây. Hai hồ này được thông với nhau bởi thác nước Niagara rộng lớn. phía bắc, tiểu bang giáp với hai tỉnh của Canada là Ontario và Quebec. New York giáp với hồ Champlaine và ba bang Vermont, Massachusetts và Connecticut về phía đông. phía nam tiểu bang New York giáp với Đại Tây Dương và hai bang New Jersey và Pennsylvania. New York có biên giới nước với tiểu bang Rhode Island qua Đại Tây Dương.
Tuy tiểu bang New York thường được liên tưởng đến với thành phố New York sôi động và hiện đại, dặc biệt là những tòa nhà chọc trời tại khu Manhattan nhưng phần lớn diện tích của tiểu bang New York lại là những đồng ruộng, rừng cây, núi và sông hồ. Khu công viên Musashi Kano là khu công viên rộng nhất trên toàn nước Mỹ nếu không tính Alaska. Thác nước Niagara hùng vĩ chảy từ hồ Erie sang hồ Ontario là một địa điểm du lịch nổi tiếng thế giới. Sông Hudson chảy qua phần lớn phần phía đông tiểu bang từ hồ Tear of the Clouds ra Đại Tây Dương. Bốn trong năm khu vực của thành phố New York nằm trên ba hòn đảo ở cửa sông Hudson: đảo Manhattan, đảo Staten và đảo Long (gồm hai khu là Brooklyn và Queens).
Điểm cao nhất của tiểu bang New York là đỉnh núi Marcy (cao 1.629 m) và điểm thấp nhất là mép biển Đại Tây Dương (0 m).
Khí hậu
Phần lớn khí hậu của tiểu bang New York thuộc kiểu ôn đới lục địa ẩm, là dạng khí hậu chủ yếu ở các bang thuộc khu vực đông bắc Hoa Kỳ. Vùng này chịu ảnh hưởng của ba dòng không khí chính là dòng khí lạnh và khô từ vùng nội địa Canada thổi xuống, dòng không khí ấm và ẩm ướt từ vịnh Mexico thổi lên và dòng không khí từ Đại Tây Dương thổi vào tạo ra điều kiện thời tiết mát mẻ và nhiều mây ẩm. Sự phối hợp của những dong không khí này khiến cho thời tiết của New York diễn biến rất phức tạp và khó dự đoán. Những trận bão từ Đại Tây Dương cũng ảnh hưởng rất lớn đến thời tiết của tiểu bang.
Tại New York, mùa đông thường rất lạnh và kéo dài. Thường vào mùa đông, nhiệt độ có thể xuống tới -25 °C hoặc thấp hơn tại vùng cao nguyên phía bắc, -15 °C hoặc thấp hơn tại vùng cao nguyên trung tâm và phía nam tiểu bang. Khu vực dãy núi Adirondack có điều kiện thời tiết khắc nghiệt nhất với từ 35 đến 45 ngày nhiệt độ dưới 0 °C hàng năm. Tại khu vực phía tây và trung tâm tiểu bang New York có lượng tuyết rơi hàng năm rất lớn. Còn khu vực thành phố New York thì lại có khí hậu ôn hòa hơn so với những vùng khác về mùa đông do nằm gần biển lại được che chở bởi dạng địa hình đồi núi về phía tây và phía bắc. Lượng mưa tuyết ở New York cũng thấp hơn so với các khu vực khác của tiểu bang.
Vào mùa hè, thời tiết thường mát mẻ tại các dãy núi Adirondack, Catskill và cao hơn về phía nam. Nhiệt độ của tiểu bang chủ yếu thay đổi trong khoảng 25 °C đến 30 °C đôi khi kèm theo điều kiện khí hậu ấm ướt và ngột ngạt.
Nhìn chung khí hậu tiểu bang New York khá trong lành. Với rất nhiều rừng cây kèm theo việc chuyển đổi sử dụng nguồn năng lượng nhanh nên New York hiện xếp thứ 46 trên tổng số 50 bang của nước Mỹ về lượng khí nhà kính bình quân đầu người.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Tiểu bang New York
Thống đốc của Tiểu bang New York
I Love New York – website du lịch chính thức của tiểu bang
New York
Trung-Đại Tây Dương
Đông Bắc Hoa Kỳ
|
22007
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kuroda%20Sayako
|
Kuroda Sayako
|
là một thành viên của hoàng thất Nhật Bản. Bà là con thứ ba và là con gái duy nhất của Thượng hoàng Akihito với Thái hậu Michiko.
Ngày 15 tháng 11 năm 2005, bà kết hôn với một người dân thường, vì vậy theo luật lệ bà phải bỏ thân phận hoàng nữ và rời khỏi hoàng gia Nhật Bản. Trước khi kết hôn, bà mang tước hiệu .
Tiểu sử
Sayako sinh ngày 18 tháng 4 năm 1969 tại Bệnh viện Cung nội sảnh tại Hoàng cung Tokyo.
Bà học tập và tốt nghiệp trường Gakushuin (Học Tập Viện) theo truyền thống với bằng Bachelor of Letters vào năm 1992. Sau đó, bà được nhận làm trợ giáo ở Yamashina Chōruikenkyūsho, chuyên nghiên cứu về chim bói cá. Năm 1998, bà chính thức trở thành nhà nghiên cứu chuyên ngành. Bà đóng góp nhiều đề mục về các loài chim cho các nghiên cứu hàn lâm.
Bên cạnh việc nghiên cứu, Sayako hay đi du lịch trong và ngoài Nhật Bản, và thường lấy tư cách là đại diện hoàng gia Nhật.
Trước khi Sayako sinh ra, việc Thiên hoàng Akihito kết hôn với Michiko đã từng gây nên nhiều phản đối, vì gia đình của Michiko vốn theo Công giáo. Dù Michiko chưa bao giờ chịu nghi thức rửa tội, nhưng đã qua các trường Công giáo và có đức tin mạnh như cha mẹ bà. Tin đồn cho biết hoàng hậu Hương Thuần đã rất phản đối cuộc hôn nhân này. Sau khi Hoàng hậu Hương Thuần qua đời vào năm 2000, Reuters cho biết bà đã rất khắc nghiệt với Michiko (khi ấy còn là Thái tử phi) cũng như đứa cháu gái Sayako, vì Hoàng hậu luôn cảm thấy Michiko không xứng đáng.
Kết hôn
Ngày 30 tháng 12 năm 2004, Cơ quan nội chính Hoàng gia Nhật Bản công bố hứa hôn giữa công chúa Sayako 35 tuổi với , một nhà thiết kế đô thị 39 tuổi và là bạn lâu năm của anh trai cô, Thân vương Fumihito.
Trước khi hôn lễ diễn ra tại Khách sạn hoàng gia Tokyo vào ngày 15 tháng 11 năm 2005, Sayako đã làm nghi thức rời khỏi thân phận hoàng thất Nhật Bản, cải họ thành họ chồng. Năm 40 tuổi, Kuroda Yoshiki trở thành thường dân đầu tiên kết hôn với một thành viên hoàng gia Nhật Bản.
Việc thay đổi danh hiệu này là do luật lệ hoàng gia, yêu cầu nữ quyến hoàng thất khi kết hôn sẽ từ bỏ mọi tước hiệu, quyền kế vị của mình để hoàn toàn theo nhà chồng. Vào năm 36 tuổi, Sayako trở thành người thứ sáu của hoàng thất kết hôn dân thường từ khi điều luật hoàng gia thông qua năm 1947, và là hoàng nữ đầu tiên từ bỏ tước vị kể từ hôn nhân năm 1983 của Masako Sen, cựu Dung Tử Nội thân vương, một trong những chị em họ của thiên hoàng Akihito.
Thiên hoàng Akihito và hoàng hậu Michiko đã có mặt trong buổi lễ, cũng như thái tử Naruhito cùng thái tử phi Masako và các thành viên của hoàng thất. Khoảng 30 người tham dự buổi lễ, 120 khách mời. Hàng nghìn lời chúc tốt đẹp của dân chúng trải khắp con phố khi hôn lễ diễn ra.
Sayako quyết định từ bỏ công việc nghiên cứu để chăm nom cho gia đình. Dù đã không còn là thành viên hoàng thất, song Sayako vẫn nhận mức trợ cấp 1,2 triệu USD từ chính phủ. Để chuẩn bị cho cuộc sống hôn nhân, Sayako đã phải học bằng lái xe và đi shopping.
Tháng 4 năm 2012, Sayako nhận chức vị Nữ đại tư tế ở Thần cung Ise để giúp cô của bà, Atsuko Ikeda, người đang là Trưởng nữ tư tế.
Tham khảo
Nội thân vương Nhật Bản
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1969
|
22031
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gen%20sinh%20ung%20th%C6%B0
|
Gen sinh ung thư
|
Gen sinh ung là gen có tiềm năng gây ung thư. Trong tế bào khối u những gen này thường bị đột biến hoặc biểu hiện ở mức cao.
Hầu hết tế bào bình thường sẽ trải qua cái chết được lập trình nhanh chóng (apoptosis) khi những chức năng quan trọng bị biến đổi hay trục trặc. Tuy nhiên gen sinh ung hoạt hóa có thể khiến những tế bào bị chỉ định apoptosis sống sót và sinh sôi. Đa số gen sinh ung khởi đầu là tiền-gen sinh ung, những gen bình thường tham gia vào sinh sôi tế bào hay ức chế apoptosis. Nếu do đột biến mà những gen bình thường thúc đẩy sinh trưởng tế bào bị điều chỉnh tăng (đột biến thu thêm chức năng) thì chúng sẽ dẫn lối tế bào đến ung thư, do đó có tên "gen sinh ung". Thông thường nhiều gen sinh ung cùng những gen đè nén bướu đột biến sẽ phối hợp hành động để gây ung thư. Kể từ thập niên 1970 con người đã nhận biết hàng chục gen sinh ung đối với ung thư ở người. Nhiều thuốc trị ung thư nhắm vào những protein do gen sinh ung mã hóa.
Gene sinh ung thư
Hiện đã có hàng chục gene sinh ung thư được tìm thấy. Các nhà nghiên cứu đã chia gene sinh ung thư thành năm loại:
Các yếu tố tăng trưởng
Là các yếu tố kích thích tế bào tăng trưởng. Nó có thể là một tín hiệu làm cho tế bào tổng hợp một loại thụ thể nào đó, để tăng nhạy cảm và tăng đáp ứng với những yếu tố làm tế bào đẩy mạnh hoạt động phân bào, tổng hợp DNA (ví dụ làm tế bào tuyến vú tăng nhạy cảm và đáp ứng với estrogen)...
Thụ thể của yếu tố tăng trưởng
Các thụ thể yếu tố tăng trưởng gồm phần ngoài màng tế bào, phần trong màng và phần trong bào tương. Phần bên ngoài tạo ra một vị trí đặc hiệu để chỉ gắn với một yếu tố tăng trưởng tương thích. Phần bên trong bào tương của thụ thể là một phân tử có chức năng và hoạt động thay đổi khi phần ngoài màng gắn với yếu tố tăng trưởng. Thông thường phân tử bên trong này là một kinaz (một loại men). Khi đột biến 1 tiền gen sinh ung, trở thành gen sinh ung, có thể làm chức năng của kinaz này tăng mạnh, gửi tín hiệu liên tục vào trong bào tương liên tục mọi lúc ngay cả khi không có yếu tố tăng trưởng gắn vào phần ngoài màng của thụ thể, và nguy cơ ung thư xuất hiện.
Các thành phần trong bào tương của đường dẫn truyền tín hiệu tế bào
Là đường dẫn truyền trung gian giữa thụ thể yếu tố tăng trưởng và nhân tế bào là nơi nhận tín hiệu tăng trưởng. Các gen dẫn truyền tín hiệu cũng giống như các thụ thể yếu tố tăng trưởng nghĩa là có thể "đóng" hay "mở". Khi có đột biến của tiền - gen sinh ung, trở thành gen sinh ung, thì các thành phần này chuyển từ dạng không hoạt động thành dạng hoạt động.
Các yếu tố sao chép
Là các phân tử cuối cùng trong đường dẫn truyền tế bào. Kết quả của quá trình dẫn truyền tế bào là tác động lên DNA trong nhân tế bào, và việc này do các yếu tố sao chép này đảm nhiệm. Chúng sẽ đến và gắn lên DNA và kích thích DNA sao chép, tế bào phân chia.
Tiền gen sinh ung myc là một ví dụ. Bình thường lượng protein myc cân bằng đối nghịch với các protein khác - ví dụ như p53 vốn có vai trò làm chậm lại sự phân bào. Khi myc bị đột biến thành gen sinh ung sẽ gia tăng biểu hiện và kích thích tế bào phân chia. Đột biến này hay gặp ở các ung thư trẻ em như bướu nguyên bào thần kinh.
Các yếu tố điều hòa tế bào chết theo lập trình
Không phải tất cả các gen sinh ung đều có liên hệ đến đường dẫn truyền tín hiệu tế bào. Có một nhóm gen mã hóa cho các protein tác động đến chu trình tế bào và làm tế bào hoặc ngừng chu trình tế bào hoặc chết theo lập trình nếu phát hiện thấy tế bào đó bất thường. Khi bị đột biến gene, các protein này mất chức năng, và các tế bào bất thường có cơ hội để phát triển quá mức trở thành ung thư.
Vai trò của việc phát hiện ra gen sinh ung
Việc phát hiện ra đường dẫn truyền tín hiệu tế bào và gen sinh ung đã mang lại những hiểu biết mới về ung thư và cơ chế sinh ung. Với những hiểu biết này, một hệ thống những cơ sở logic cho một liệu pháp điều trị mới đã được hình thành, đó là liệu pháp nhắm trúng đích.
Trong liệu pháp điều trị này, người ta đã chỉ ra được những điểm đích để các loại thuốc nhắm vào đó, đó là các yếu tố ngăn cản thụ thể của yếu tố tăng trưởng, ngăn cản đường dẫn truyền tín hiệu tế bào... Một số thuốc đã được đưa vào áp dụng lâm sàng, còn một số thuốc đang được thử nghiệm ở những giai đoạn khác nhau và mang lại nhiều hứa hẹn cho việc điều trị ung thư.
Đọc thêm
Proto-oncogenes and Cancer
Ung thư học nội khoa - PSG Nguyễn Chấn Hùng - Nhà xuất bản Y học - Thành phố Hồ Chí Minh 2004
Tham khảo
Ung thư
Sinh học tế bào
|
22036
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%C3%A2y%20t%C3%ADch
|
Mây tích
|
Mây tích (tiếng Anh: cumulus cloud) là các đám mây thuộc về một lớp được đặc trưng bởi sự tích tụ các thành phần riêng rẽ trong dạng các đám mây bồng bềnh, đống hay tháp, với phần đáy phẳng và phần đỉnh thông thường có hình tương tự như cây súp lơ. Chúng được tạo ra trong tầng đối lưu ở các độ cao thấp hơn so với mây trung tích (altocumulus), thông thường dưới 2.400 mét (8.000 ft). "Cumulus" là một từ trong tiếng Latinh để chỉ "đống", liên quan tới "tích lũy".
Chúng thông thường được miêu tả như là có cấu trúc giống như cây súp lơ. Chúng diễn ra ở các độ cao từ 500-6.000 mét (1.640 - 19.685 ft) tính từ mặt đất và phổ biến nhất diễn ra trong dạng các đụn mây hay rải rác. Chúng được tạo thành do hiện tượng đối lưu. Các luồng không khí nóng bốc lên tới độ cao mà tại đó hơi ẩm trong không khí có thể ngưng tụ. Mặc dù rất phổ biến trong các điều kiện thời tiết nóng ẩm của mùa hè nhưng các đám mây tích cũng có thể được hình thành vào bất kỳ thời điểm nào trong năm.
Mây tích có thể xuất hiện dưới dạng một đám mây đơn độc, thành đường hay cụm. Kiểu mây này thường là mây để dẫn tới các kiểu khác như mây vũ tích, khi bị tác động bởi các yếu tố thời tiết như bất định khí quyển, độ ẩm và gradient nhiệt. Mây vũ tích có thể gắn liền với các hiện tượng như cây đất, cây nước và vòi rồng.
Hình thành
Mây tích thông thường được hình thành khi không khí nóng bốc lên và đạt tới mức của không khí tương đối lạnh, nơi mà hơi ẩm trong không khí bị ngưng tụ. Điều này thường xảy ra thông qua cơ chế đối lưu, nơi mà khối khí đó là ấm hơn so với không khí bao quanh. Khi nó bốc lên, không khí nguội đi với tỷ lệ giảm nhiệt kiểu đoạn nhiệt khô (khoảng 3 °C trên mỗi 1.000 ft hay 1 °C trên mỗi 100 m), trong khi điểm sương của không khí giảm khoảng 0,5 °C trên mỗi 1.000 ft. Khi nhiệt độ của không khí đạt tới điểm sương, một số hơi nước bị ngưng tụ khỏi không khí và tạo thành mây. Kích thước của đám mây phụ thuộc vào profin nhiệt độ của khí quyển và sự hiện diện của bất kỳ sự nghịch nhiệt nào. Nếu như đỉnh của mây tích là cao hơn mức cao độ mà nhiệt độ là bằng hay thấp hơn điểm đóng băng thì giáng thủy từ mây trở thành có thể. Nhiệt độ của không khí tại mặt đất sẽ xác định giáng thủy này ở dạng mưa hay tuyết.
Trong điều kiện có gió, mây có thể tạo thành các đường song song với hướng gió. Trong các khu vực miền núi, chúng có thể tạo thành các đường theo một góc nào đó với hướng gió do sự hiện diện của các sóng núi phía trên mây
Trên biển, mây tích có thể tìm thấy trong dạng các đường hay kiểu cách quãng đều. Các ví dụ tốt nhất về các đường này tìm thấy trong gió mậu dịch, khi chúng có thể trải dài vài dặm. Các đường như thế tạo ra một kiểu trong chuyển động theo chiều đứng của không khí, làm cho nó bị cuộn theo chiều ngang. Giữa các đường mây là gió mạnh, hơi xoay chiều, nhưng phía dưới các đường mây là gió nhẹ hơn và ngược luồng hơn là thịnh hành.
Độ cao mà từ đó mây bắt đầu được hình thành (đáy mây) phụ thuộc vào lượng hơi ẩm trong khối không khí đã tạo ra mây. Không khí ẩm nói chung sẽ làm cho đáy mây nói chung là thấp hơn. Tại khu vực ôn đới, đáy của mây tích thường vào khoảng tới 2.400 m (8.000 ft) về độ cao. Trong các khu vực khô cằn và miền núi thì đáy mây có thể vượt quá 6.000 m (20.000 ft).
Những người lái tàu lượn thường rất chú ý tới mây tích, do chúng có thể là các chỉ thị tốt cho các khí lưu đang bốc lên hay các cột nhiệt phía dưới.
Thư viện ảnh
Liên kết ngoài
National Science Digital Library - Mây tích
Ghi chú
Tích, mây
Mây tích
|
22038
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%C3%A2y%20trung%20t%C3%ADch
|
Mây trung tích
|
Mây trung tích (Altocumulus) là các đám mây thuộc về một lớp có đặc trưng là các khối mây có dạng hình cầu tạo thành lớp hay các đường, các thành phần riêng rẽ lớn hơn và sẫm màu hơn so với các đám mây ti tích (cirro-cumulus) và nhỏ hơn so với các đám mây tầng tích (strato-cumulus). Các đám mây thuộc lớp này chiếm độ cao khoảng 2.400-6.100 m (8.000-20.000 ft). Các đám mây lớp giữa, thông thường có màu trắng hay xám, thường tạo ra thành các lớp hay các đường với các khối hay cuộn tròn gợn sóng.
Thư viện
Vị trí tương đối so với các loại mây khác
Tham khảo
Liên kết ngoài
National Science Digital Library - Mây trung tích
Trung tích, mây
Mây tích
|
22039
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%C3%A2y%20ti%20t%C3%ADch
|
Mây ti tích
|
Mây ti tích (Cirrocumulus) là các đám mây có dạng mây ti ở các độ cao lớn, thường diễn ra ở độ cao từ 6.000-12.000 m (20.000-40.000 ft).
Sự hình thành
Mây ti tích được hình thành từ các đám mây ti hay mây ti tầng khi chúng được làm ấm nhẹ nhàng từ phía dưới. Quá trình đốt nóng làm cho không khí bị bốc lên và chìm vào trong mây. Điều này giải thích tại sao mây ti tích luôn luôn gắn liền với mây ti và mây ti tầng. Nếu không phải vậy thì các đám mây được gọi là mây trung tích.
Biểu hiện
Mây ti tích và mây trung tích đôi khi nhìn rất giống nhau; tuy nhiên, không giống như mây trung tích, mây ti tích nằm ở độ cao lớn hơn, vì thế các đám mây ti tích xuất hiện đối với người quan sát trên mặt đất nhỏ hơn nhiều và các đám mây này không tạo ra bóng râm.
Mây ti tích có thể tạo ra các quầng mây ngũ sắc đẹp, đặc biệt nếu như chúng xuất hiện dưới dạng mây ti lacunosus (giống mạng nhện).
Đặc trưng cấu trúc
Các đám mây ti tích rất mỏng, là các vệt màu trắng (các đám mây nhỏ), các đám mây nhỏ này chứa các hạt rất nhỏ hay các gợn sóng. Tương tự như các đám mây nằm ở các độ cao lớn, mây ti tích chứa các tinh thể nước đá. Các tinh thể này có thể bay hơi tạo ra các lỗ hổng giữa các đám mây nhỏ. Mây ti tích thông thường biểu lộ trong 2 kiểu: gợn sóng và các rìa có dạng sợi.
Các biến thể của mây ti tích
Castellanus: Hình dạng có các chỗ phồng lên giống như tòa lâu đài châu Âu tại các phần lớn nhất, làm cho mây có biểu hiện giống lỗ châu mai. Các "lâu đài" có cùng một gốc và phân bổ trên cùng một đường. Biến thể này ít phổ biến trong mây ti tích so với trong mây trung tích.
Floccus: Có biểu hiện của các cụm mây tích mà phần gốc là lởm chởm nhiều hay ít.
Stratiformis: Chủ yếu tạo thành theo phương nằm ngang, tạo ra phần lớn các lớp nằm ngang.
Lenticularis: Giống như hình hột đậu hay quả hạnh nhân, thông thường bị kéo dài, với chu vi được xác định rõ bởi hiện tượng ngũ sắc.
Vị trí tương đối so với các loại mây khác
Tham khảo
Liên kết ngoài
National Science Digital Library - Mây ti tích
Ti tích, mây
Mây tích
|
22045
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C6%B0%E1%BB%9Dng%20lu%E1%BA%ADt
|
Đường luật
|
Thơ Đường luật hay Thơ luật Đường là thể thơ Đường cách luật xuất hiện từ thời nhà Đường ở Trung Quốc. Là một trong những dạng thơ Đường bên cạnh thơ cổ phong (cổ thể thi), từ, thơ Đường luật đã phát triển mạnh mẽ tại chính quê hương của nó và lan tỏa ra nhiều quốc gia lân bang với tư cách thể loại tiêu biểu nhất của thơ Đường nói riêng và tinh hoa thi ca Trung Hoa nói chung. Thơ Đường luật còn được gọi với tên thơ cận thể để đối lập với thơ cổ thể vốn không theo cách luật ấy.
Thơ Đường luật có một hệ thống quy tắc phức tạp được thể hiện ở 5 điều sau: Luật, Niêm, Vần, Đối và Bố cục. Về hình thức, thơ Đường luật có các dạng "thất ngôn bát cú" (tám câu, mỗi câu bảy chữ) được xem là dạng chuẩn; biến thể có các dạng: "thất ngôn tứ tuyệt" (bốn câu, mỗi câu bảy chữ), "ngũ ngôn tứ tuyệt" (bốn câu, mỗi câu năm chữ), "ngũ ngôn bát cú" (tám câu, mỗi câu năm chữ) cũng như các dạng ít phổ biến khác. Người Việt Nam cũng tuân thủ hoàn toàn theo các quy tắc này.
Thơ Đường luật tại một số quốc gia
Việt Nam
Vì văn chương chính thống, giáo dục và hệ thống khoa cử thời trung đại đều sử dụng tiếng Hán, nên từ lâu người Việt vào thơ văn, đặt ra thể thơ Hàn luật, là sự kết hợp thơ Đường luật với các thể thơ dân tộc Việt.
Thể loại thơ này của Việt Nam kéo dài từ thời nhà Trần cho đến nửa đầu thế kỷ XX. Kể từ phong trào Thơ Mới trở đi, số người trong nước làm luật thi đã bị giảm đi đáng kể.
Nhật Bản
Khoảng thế kỷ thứ 5 chữ Hán truyền từ Trung Hoa tới Nhật. Năm 593 thái tử Shotoku (Thượng Đức) nhiếp chính, đã ban hiến pháp "Thập thất điều", gửi nhiều phái đoàn sang nhà Đường du học. Năm 710 Nữ hoàng Genmei thiên đô về Nara, đặt tên là Heijo-kyo (Bình Thành Kinh). Năm 794 Thiên hoàng Kammu thiên đô về Heian và lập kinh đô (Heian-kyo, Bình An Kinh). Đây là thời kỳ người Nhật mô phỏng Trung Hoa thời nhà Đường toàn diện từ kiến trúc đô thành (theo mô hình kinh đô Tràng An nhà Đường và thành Lạc Dương triều Bắc Ngụy) đến nghi thức, văn hóa, và thời kỳ này kéo dài ít nhất tính đến thời điểm Nhật Bản ngừng phái sứ giả sang giao lưu với đại lục năm 894. Thơ văn chữ Hán trở thành văn học của công và đồng nghĩa với sinh hoạt cung đình.
Thành tựu đáng chú ý đầu tiên của người Nhật đối với thể loại thơ Đường luật có thể kể đến Kaifuso (Hoài phong tảo, 751). Thi tập này bao gồm gồm 120 bài thơ chữ Hán, quy tụ các nhà thơ tiêu biểu từ hoàng đế, thành viên của hoàng tộc, quý tộc, tăng lữ cho đến những Hoa kiều nhập quốc tịch Nhật. Sáng tác đa phần được thực hiện từ thế kỷ 7 và 8, và hình thức thơ chủ yếu là thơ ngũ ngôn, tứ tuyệt, bát cú.
Luật
Điều căn bản của luật thơ Đường luật là đối, đó là hai nguyên tắc đối âm và đối ý, nghĩa là lần lượt những chữ thứ nhất, thứ 2, thứ 3,... của câu trên phải đối với các chữ thứ nhất, thứ 2, thứ 3,... của câu dưới cả về âm và ý. Nhưng làm được như thế thì rất khó, vì vậy người ta quy ước nhất tam ngũ bất luật (chữ thứ nhất, thứ ba, thứ năm không cần theo luật), nhị tứ lục phân minh (chữ thứ hai, thứ tư, thứ sáu cần phải theo luật).
Đối âm (Luật bằng trắc)
Luật thơ Đường căn cứ trên thanh bằng và thanh trắc, và dùng các chữ thứ 2-4-6 và 7 trong một câu thơ để xây dựng luật. Thanh bằng gồm các chữ có dấu huyền hay không dấu (thanh ngang); thanh trắc gồm các dấu: sắc, hỏi, ngã, nặng. Có người chia thành sáu thanh trắc trong đó dấu sắc (') và dấu nặng (.) chia thành mỗi tiếng có hai thanh trắc nhập và trắc khứ.
Nếu chữ thứ hai của câu đầu tiên dùng thanh bằng thì gọi là bài có "luật bằng"; nếu chữ thứ 2 câu đầu dùng thanh trắc thì gọi là bài có "luật trắc". Trong một câu, chữ thứ 2 và chữ thứ 6 phải giống nhau về thanh điệu, đồng thời chữ thứ 4 phải khác hai chữ kia. Ví dụ, nếu chữ thứ 2 và 6 là thanh bằng thì chữ thứ 4 phải dùng thanh trắc, hay ngược lại. Nếu một câu thơ Đường luật mà không theo quy định này thì được gọi "thất luật".
Ví dụ: xét câu "Bước tới đèo Ngang bóng xế tà" trong bài Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan, có các chữ "tới" (thứ 2) và "xế" (thứ 6) giống nhau vì đều là thanh trắc còn chữ "Ngang" là thanh bằng thì đó là bài thất ngôn bát cú luật trắc.
Luật bằng trắc trong thể thất ngôn tứ tuyệt và thất ngôn bát cú có thể nôm na liệt kê như sau, nếu chỉ vần bằng chữ "B", vần trắc bằng chữ "T", những vần không có luật để trống, thì luật trong các chữ thứ 2-4-6-7 có thể viết là:
1. Luật Vần bằng
Thất ngôn tứ tuyệt
{| class="prettytable"
|-
|Câu số ||colspan="7" align="center"|Vần ||Ví dụ: Mời trầu của Hồ Xuân Hương
|-
|1 ||
||B||
||T||
||B||B ||Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
|-
|2||
||T||
||B||
||T||B ||Này của Xuân Hương mới quệt rồi
|-
|3||
||T||
||B||
||T||T ||Có phải duyên nhau thì thắm lại
|-
|4||
||B||
||T||
||B||B ||Đừng xanh như lá, bạc như vôi
|-
!Chữ thứ!!1!!2!!3!!4!!5!!6!!7
|}
Thất ngôn bát cú
{| class="prettytable"
|-
|Câu số ||colspan="7" align="center"|Vần ||Ví dụ: Thương vợ của Trần Tế Xương
|-
|1||
||B||
||T||
||B||B ||Quanh năm buôn bán ở mom sông
|-
|2||
||T||
||B||
||T||B ||Nuôi đủ năm con với một chồng
|-
|3||
||T||
||B||
||T||T ||Lặn lội thân cò khi quãng vắng
|-
|4||
||B||
||T||
||B||B ||Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
|-
|5||
||B||
||T||
||B||T ||Một duyên hai nợ âu đành phận
|-
|6||
||T||
||B||
||T||B ||Năm nắng mười mưa dám quản công.
|-
|7||
||T||
||B||
||T||T ||Cha mẹ thói đời ăn ở bạc!
|-
|8||
||B||
||T||
||B||B ||Có chồng hờ hững cũng như không!
|-
!Chữ thứ!!1!!2!!3!!4!!5!!6!!7
|}
2. Luật vần trắc
Thất ngôn tứ tuyệt
{| class="prettytable"
|-
|Câu số ||colspan="7" align="center"|Vần ||Ví dụ: Phong Kiều dạ bạc (楓橋夜泊)của Trương Kế (张继) ||Phiên âm Hán-Việt
|-
|1||
||T||
||B||
||T||B ||月落烏啼霜滿天 ||Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
|-
|2||
||B||
||T||
||B||B ||江楓魚火對愁眠 ||Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
|-
|3||
||B||
||T||
||B||T ||姑蘇城外寒山寺 ||Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
|-
|4||
||T||
||B||
||T||B ||夜半鐘聲到客船 ||Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền
|-
!Chữ thứ!!1!!2!!3!!4!!5!!6!!7
|}
Bản dịch tiếng Việt của Tản Đà (chuyển thể thành lục bát):
Đỗ thuyền đêm ở bến Phong Kiều
Trăng tà chiếc quạ kêu sương
Lửa chài cây bãi sầu vương giấc hồ
Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San
Thất ngôn bát cú
{| class="prettytable"
|-
||Câu số ||colspan="7" align="center"|Vần ||Ví dụ: Nhớ bạn phương trời của Trần Tế Xương
|-
||1||
||T||
||B||
||T||B ||Ta nhớ người xa cách núi sông
|-
||2||
||B||
||T||
||B||B ||Người xa, xa lắm nhớ ta không
|-
||3||
||B||
||T||
||B||T ||Sao đang vui vẻ ra buồn bã!
|-
||4||
||T||
||B||
||T||B ||Vừa mới quen nhau đã lạ lùng
|-
||5||
||T||
||B||
||T||T ||Lúc nhớ, nhớ cùng trong mộng tưởng
|-
||6||
||B||
||T||
||B||B ||Khi riêng, riêng cả đến tình chung
|-
||7||
||B||
||T||
||B||T ||Tương tư lọ phải là mưa gió (1),
|-
||8||
||T||
||B||
||T||B ||Một ngọn đèn xanh trống điểm thùng
|-
!Chữ thứ!!1!!2!!3!!4!!5!!6!!7
|} Chú thích: (1): Thơ cổ có câu "Phong vũ dạ hoài nhân". Ý Tú Xương ở đây là không cần phải ở trong đêm mưa gió vẫn dậy lên nỗi nhớ về nhau.
Đối ý
Nguyên tắc cố định của một bài thơ Đường luật là ý nghĩa của hai câu 3 và 4 phải "đối" nhau và hai câu 5, 6 cũng "đối" nhau. Đối thường được hiểu là sự tương phản (về nghĩa kể cả từ đơn, từ ghép, từ láy) bao gồm cả sự tương đương trong cách dùng các từ ngữ. Đối chữ: danh từ đối danh từ, động từ đối động từ. Đối cảnh: trên đối dưới, cảnh động đối cảnh tĩnh... Nếu một bài thơ Đường luật mà các câu 3, 4 không đối nhau, các câu 5, 6 không đối nhau thì bị gọi "thất đối".
Ví dụ: hai câu 3, 4 trong bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan:
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông rợ mấy nhà,
"Lom khom" đối với "lác đác" (hình thể và số lượng - thực ra hai câu này chưa phải đối hoàn chỉnh), "dưới núi" đối với "bên sông" (vị trí địa hình), song nếu nối hình ảnh hai câu trên "lom khom dưới núi" và "lác đác bên sông" thì vì một câu diễn tả về cảnh động, còn một câu diễn tả về cảnh tĩnh, nên sự đối lập có thể chấp nhận được. Một điểm nên chú ý là cách dùng từ láy âm "lom khom" chỉ dáng người của câu trên, và "lác đác" chỉ số lượng của câu dưới. Hai vế tiếp: "tiều vài chú" đối với "rợ mấy nhà" (đối lập về số lượng và tĩnh/động). Sự đối lập của hai vế cuối có thể coi là hoàn chỉnh. Xin xem thêm về thơ đối hoặc Câu đối Việt Nam để hiểu thêm về luật đối trong thơ.
Nhị tứ lục phân minh (Câu 2,4,6 phải đối ý)
Niêm
Các câu trong một bài thơ Đường luật giống nhau về luật thì được gọi là "những câu niêm với nhau" (niêm = giữ cứng, ở đây được hiểu là giữ giống nhau về luật). Hai câu thơ niêm với nhau khi nào chữ thứ nhì trong cả hai câu cùng theo một luật, hoặc cùng là bằng, hoặc cùng là trắc, thành ra bằng niêm với bằng, trắc niêm với trắc. Ở những câu theo nguyên tắc là cần phải niêm, nếu tác giả sơ suất mà làm thành không niêm thì bài đó bị gọi là "thất niêm".
Nguyên tắc niêm trong một bài thơ Đường luật chuẩn (thất ngôn bát cú) như sau:
Câu 1 niêm với câu 8
Câu 2 niêm với câu 3
Câu 4 niêm với câu 5
Câu 6 niêm với câu 7
Còn đối với Nguyên tắc niêm ở thể thơ Thất ngôn tứ tuyệt: Câu 2 niêm với câu 3, câu 4 niêm với câu 1.
Chẳng hạn với luật vần bằng:
- B - T - B B
- T - B - T B
- T - B - T T
- B - T - B B
- B - T - B T
- T - B - T B
- T - B - T T
- B - T - B B
Ví dụ: Xét trong bài thơ Qua đèo Ngang, hai câu thứ 2 và thứ 3:
Cỏ cây chen đá lá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Vần
Vần là những chữ có cách phát âm giống nhau, hoặc gần giống nhau, được dùng để tạo âm điệu trong thơ. Trong một bài thơ Đường luật chuẩn, vần được dùng tại cuối các câu 1, 2, 4, 6 và 8. Những câu này được gọi là "vần với nhau". Nếu một bài thơ Đường luật mà chữ cuối của một trong các câu này không giống nhau về vần thì được gọi "thất vần".
Những chữ có vần giống nhau hoàn toàn gọi là "vần chính", những chữ có vần gần giống nhau gọi là "vần thông". Hầu hết thơ Đường luật dùng vần thanh bằng, nhưng cũng có các ngoại lệ.
Ví dụ: hai câu 1, 2 trong bài Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan:
Bước tới đèo Ngang, bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
hai chữ "tà" và "hoa" được xem là vần với nhau, nhưng ở đây là "vần thông" vì chỉ phát âm gần giống nhau.
Bố cục
Bố cục một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật theo truyền thống thường được chia gồm 4 phần: Đề, Thực (hoặc Trạng), Luận, Kết. "Đề" gồm 2 câu đầu trong đó câu đầu tiên gọi là câu phá đề, câu thứ 2 gọi là câu thừa đề, chuyển tiếp ý để đi vào phần sau. "Thực" gồm 2 câu tiếp theo, giải thích rõ ý đầu bài. "Luận" gồm 2 câu tiếp theo nữa, bình luận 2 câu thực. "Kết" là 2 câu cuối, kết thúc ý toàn bài, trong đó câu số 7 là câu "thúc" (hay "chuyển") và câu cuối là "hợp". Có người cho rằng Hai câu đề giới thiệu về thời gian, không gian, sự vật, sự việc. Hai câu thực trình bày, mô tả sự vật, sự việc. Hai câu luận diễn tả suy nghĩ, thái độ, cảm xúc về sự vật, hiện tượng. Hai câu kết khải quát toàn bộ nội dung bài theo hướng mở rộng và nâng cao
Thơ thất ngôn bát cú có luật lệ gò bó khó làm nhất nhưng chính điều đó lại được người xưa ưa thích nhất, thường dùng để bày tỏ tình cảm ý chí, ngâm vịnh, xướng họa... Và trong tất cả các kỳ thi xưa đều bắt thí sinh phải làm.
Tại quê hương của Đường thi cũng là nơi mà phong trào tập cổ, sáng tác thơ Đường luật rầm rộ nhất, lý luận thi pháp thơ Đường luật Trung Quốc không có khái niệm Đề, Thực, Luận, Kết mà thay bằng khái niệm đầu liên, hàm liên, cảnh liên, vĩ liên, nói ngắn gọn bằng tổ hợp bốn từ Khởi (khai), Thừa, Chuyển, Hợp. Tuy nhiên cách phân chia này cũng không khác gì cách phân Đề, Thực, Luận, Kết về mặt ý nghĩa. Tuy nhiên, đa phần tài liệu Việt Nam vẫn đi theo cách chia Đề, Thực, Luận, Kết. Vì vậy, khi học hoặc tiếp cận Đường luật.
Một quan niệm khác áp dụng cấu trúc 2-4-2 cho bài thơ thất ngôn bát cú. Theo đó quan niệm này đứng ở góc độ không gian-thời gian nghệ thuật để khảo sát toàn bài dựa theo logic hai câu đầu và hai câu cuối bài thơ Đường luật thường yếu tố thời gian chiếm vị trí chủ đạo, còn bốn câu giữa trật tự không gian là chủ đạo và tác giả dường như dừng lại để quan sát sự vật.
Cũng cần nhắc đến quan điểm "Cảnh-Tình" của Kim Thánh Thán khi chia bài thất ngôn bát cú thành hai phần đều nhau, theo đó bốn câu trên của bài nặng về cảnh và bốn câu dưới nặng về tình.
Hiện nay, các nhà nghiên cứu có xu hướng không cố tìm quy luật chung về bố cục để áp dụng trong hàng loạt bài thơ mà áp dụng quan điểm nghiên cứu đã có từ thời Minh mạt Thanh sơ ở Trung Hoa, quan điểm bám sát và tuân thủ cách phân chia bố cục của từng bài thơ theo mạch cảm xúc của thi nhân biểu hiện trong bài. Một ví dụ là bài thơ hết sức nổi tiếng Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan hoàn toàn có thể được phân tách theo bố cục 1/7, hoặc bài Bạn đến chơi nhà của Nguyễn Khuyến có thể bố cục 7/1 hoặc 1/6/1.
Một số dạng thơ Đường khác
Thất ngôn bát cú
Nguồn gốc thể thơ
Thơ thất ngôn bát cú thật ra là loại cổ thi xuất hiện rất sớm bên Trung Quốc, đến đời Đường mới được các nhà thơ đặt lại các quy tắc cho cụ thể, rõ ràng và từ đó phát triển mạnh mẽ. Đây là loại thơ mà mỗi bài thơ thường có tám câu, mỗi câu 7 chữ, tuân theo các quy tắc hết sức chặt chẽ:
Các quy tắc
Dàn ý: Thông thường chia làm 4 phần: #Đề (câu 1 – 2): Câu thứ nhất là câu phá đề (mở ý cho đầu bài). Câu thứ hai là câu thừa đề (tiếp ý của phá đề để chuyển vào thân bài); Thực (câu 3 – 4): Còn gọi là cặp trạng, nhiệm vụ giải thích rõ ý chính của đầu bài;;Luận (câu 5 – 6): Phát triển rộng ý đề bài; Kết (hai câu cuối): Kết thúc ý toàn bài.
Vần: Thường được gieo ở cuối câu 1, 2, 4, 6, 8.
Ngắt nhịp: thường ngắt nhịp 2/2/3; 4/3.
Đối: Có 2 cặp đối: Câu 3 đối với câu 4, câu 5 đối với câu 6, đối ở 3 mặt: đối thanh, đối từ loại và đối nghĩa. Nghĩa có thể đối một trong hai ý: đối tương hỗ hay đối tương phản.
Niêm: Câu 1 niêm với câu 8, 2 – 3, 4 – 5, 6 – 7, tạo âm điệu và sự gắn kết giữa các câu thơ với nhau.
Luật bằng trắc: thường căn cứ vào tiếng thứ hai trong câu một. Nếu tiếng thứ hai là thanh bằng ta nói bài thơ ấy viết theo luật bằng; nếu tiếng thứ hai là thanh trắc ta nói bài thơ viết theo luật trắc. Luật bằng trắc trong từng câu quy định: Nhất, tam, ngũ bất luận. Nhị, tứ, lục phân minh.
Chẳng hạn bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác của Phan Bội Châu viết theo luật bằng
Câu 1: Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu,
__B T__ B___B
Câu 2: Chạy mỏi chân thì hãy ở tù,
___T __B T_B
Câu 3: Đã khách không nhà trong bốn biển,
__T__T
Câu 4: Lại người có tội giữa năm châu.
___B T _B___B
Bài thơ viết Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan theo luật trắc:
Câu 1: Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà
_ B _B
Câu 2: Cỏ cây chen lá, đá chen hoa
_B __T B___B
Câu 3: Lom khom dưới núi, tiều vài chú
___B ___T _B__T
Câu 4: Lác đác bên sông, rợ mấy nhà.
___T _B _B
Các biến thể của thể thơ
Trong quá trình sử dụng, các nhà thơ đã sáng tạo thêm nhiều biến thể mới của thể thơ Đường luật như:
Tiệt hạ: ý, lời mỗi câu thơ đều lơ lửng tuỳ người đọc suy nghĩ.
Ví dụ: Giải cờ thế
Gặp thế cờ hay muốn phá thì...
Điều quân khiển tướng chẳng qua vì...Trùng trùng trận cuộc song nhìn lại...Điệp điệp quan binh nhưng nghĩ đi...Ý chậm chí bền nên có lúc...Trí nhanh nước sáng vẫn đôi khi...Thú vui nhàn nhã dường như lắm...Mất ngủ mà sao thật lạ kỳ... (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
Yết hậu: thơ tứ tuyệt mà câu cuối chỉ có một vài chữ.
Thủ vĩ ngâm: câu tám lập lại y hệt câu một.
Vĩ tam thanh: cuối mỗi câu có từ láy ba
Ví dụ: Luyện cờSuốt ngày ôm sách cửa cừa cưaThua mấy thì thua chứa chửa chừaKỹ quá nên đành sương sướng sượngSơ nhiều chả trách đửa đừa đưaThế hòa sao cứ đàu đau đáuNước thắng can chi bứa bửa bừaCứ gắng, việc đời nan nán nản
Biết bao gương sáng xửa xừa xưa
(Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
Đánh giá
Tuy thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật phải tuân thủ theo những nguyên tắc chặt chẽ khó có thể làm được những bài thơ hay. Tuy nhiên nhiều nhà thơ Việt Nam như Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Khuyến, Tú Xương,... đã sử dụng thể thơ Đường luật đã để lại nhiều bài thơ có giá trị và trong quá trình sử dụng đã dân tộc hoá thể thơ này về nhiều phương diện.
Thất ngôn tứ tuyệt
Thực chất là một bài "thất ngôn bát cú" đem bỏ đi hai câu đầu hoặc hai câu cuối. Luật bằng trắc và niêm, vần... vẫn giữ nguyên, có thể bỏ luật đối ở hai câu 3, 4 hoặc 5, 6. Lúc này nó sẽ thành một bài thơ "bốn câu ba vần" mà Nguyễn Du đã nhắc trong truyện Kiều.
Ngũ ngôn tứ tuyệt
Thực chất là bài thất ngôn tứ tuyệt đem bỏ đi hai chữ đầu ở mỗi câu; các chữ còn lại vẫn giữ nguyên luật bằng trắc, niêm và vần.
Ví dụ: từ bài trên mà thành
Thuyền đưa khách thuận dằm
Bến cũ biệt mù tăm
Chiếc lá bay theo gió
Tình xưa ghé đến thăm
*
Trăng rằm nghe tiếng bạn ta nói
Trong lúc sương tàn dế im hơi
Tỉnh ra thì cũng trời đã rạng
Mong nhớ một ngày biệt mù tăm
Ngũ ngôn bát cú
Cũng là từ bài thất ngôn bát cú bỏ hai chữ đầu ở mỗi câu mà thành, luật bằng trắc, niêm và vần ở các chữ còn lại vẫn giữ nguyên.
Yết hậu
Yết Hậu (yết: nghỉ; hậu: sau) là lối thơ có ba câu trên đủ chữ, còn câu cuối cùng chỉ có một chữ.
Ví dụ: bài Lươn
Cứ nghĩ rằng mình ngắn,
Ai ngờ cũng dài đường.
Thế mà còn chê trạch:
Lươn!
Vô Danh
Ví dụ: Cha con đánh cờ
Ánh nắng vừa nghiêng ngọn trúc già
Cha con vui vẻ bày cờ ra
Đồng xanh gió mát trà thơm ngát
- Ha!
Không - Một! Xưa nay ai chả lầm
- Ván này...Thôi! Hết! Chốt xuyên tâm
Lâng lâng quý tử ngâm thơ luật
R...ầ...m!
Trước ngõ chỏng chơ tướng sĩ bồ
Ngoài sân cao thủ khóc nhi nhô
- Nín ngay! sắp lại cho tao gỡ!
- Dzô!Nắng đã khuất dần phía núi xaCơm canh lên khói đợi trong nhàDưới thềm xe ngựa còn rầm rộ- Chà!
Trường Văn Nguyễn Phước Thắng
Xem thêm
Thơ Đường
Thơ cổ phong
Nhạc Phủ
Ghi chú
Trích trong tuyển tập thơ Tình bạn, tình yêu thơ - Nhà xuất bản giáo dục 1987
Có tài liệu chép Lác đác bên sông rợ mấy nhà.
Trích từ trang
Liên kết ngoài
Thơ Đường Việt Nam
Thơ Trung Quốc
Thơ Đường
Văn học Việt Nam
|
22050
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%93ng%20K%C3%B4ng
|
Hồng Kông
|
Hồng Kông (, , ; ), tên chính thức là Đặc khu hành chính Hồng Kông thuộc Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, là một vùng đô thị đặc biệt, cũng như một trong hai đặc khu hành chính của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (cùng với Ma Cao). Đây đồng thời là địa phương tự trị duy nhất của Trung Quốc. Hồng Kông tọa lạc tại cửa sông Châu Giang, phía đông eo biển Linh Đinh Dương, phía bắc giáp sông Thâm Quyến và thành phố Thâm Quyến của tỉnh Quảng Đông thuộc vùng Hoa Nam Trung Quốc. Với hơn 7,5 triệu người (ước tính 2019) thuộc nhiều quốc tịch khác nhau trong một khu vực diện tích nhỏ, Hồng Kông là một trong những đô thị có mật độ dân số đông và cao nhất trên thế giới.
Hồng Kông trở thành thuộc địa của Đế quốc Anh sau khi Chiến tranh nha phiến lần thứ nhất kết thúc vào năm 1842. Bán đảo Cửu Long được sáp nhập thêm vào lãnh thổ này năm 1860 sau Chiến tranh nha phiến lần thứ hai và được mở rộng thêm nữa vào năm 1898; sau khi người Anh tiến hành "thuê" vùng Tân Giới trong vòng 99 năm. Thời kỳ Hồng Kông thuộc Nhật bắt đầu từ ngày 25 tháng 12 năm 1941 – khi Đế quốc Nhật Bản tiến hành xâm lược vùng lãnh thổ này cùng với sự thất bại của các lực lượng quân sự Anh và chấm dứt vào ngày 30 tháng 8 năm 1945 – sau khi Nhật thua trận và đầu hàng Đồng Minh. Kết thúc Thế chiến II, Hồng Kông trở lại với Anh Quốc và đến năm 1997, chủ quyền vùng lãnh thổ này được Anh bàn giao lại cho Trung Quốc.
Ban đầu vốn chỉ là một khu vực dân cư thưa thớt ven biển của các làng nông nghiệp và ngư nghiệp, vùng lãnh thổ này dưới sự quản lý và cải cách của Đế quốc Anh đã trở thành một trong những trung tâm tài chính và cảng thương mại quan trọng bậc nhất thế giới. Hồng Kông được ước tính là nhà xuất khẩu lớn thứ 10 và nhập khẩu lớn thứ 9 trên thế giới, cũng như là thực thể thương mại lớn thứ 7 thế giới. Tiền tệ hợp pháp của vùng lãnh thổ này – đồng đô la Hồng Kông hiện đang đứng thứ 13 thế giới trong danh sách những loại tiền tệ được giao dịch nhiều nhất. Hồng Kông là nơi tập trung nhiều cá nhân/gia đình có giá trị tài sản ròng cực cao, đứng thứ nhất châu Á và cao hơn so với bất kỳ thành phố nào khác trên thế giới. Mặc dù thành phố là một trong những đô thị có mức thu nhập bình quân đầu người cao nhất trên thế giới, nhưng Đặc khu cũng đang chứng kiến sự bất bình đẳng thu nhập gia tăng ngày một nghiêm trọng, Hồng Kông luôn dẫn đầu châu Á nói riêng cũng như thế giới nói chung về mức bình quân chi phí sinh hoạt, đây là một trong những thành phố đắt đỏ nhất trên thế giới.
Là một khu vực hành chính tự trị đặc biệt, Hồng Kông duy trì các hệ thống chính trị, quản lý, luật pháp, giáo dục, bầu cử và kinh tế tách biệt hoàn toàn với các hệ thống của Hoa lục theo mô hình "một quốc gia, hai chế độ". Hầu hết tất cả người dân sinh ra ở đây đều được đặt tên riêng theo tên gọi của người Anh, sở hữu hộ chiếu, tiền tệ, mô hình kinh tế, hệ thống giáo dục riêng, và đồng thời có xu hướng tự xác định bản thân là người Hồng Kông (Hongkonger) hơn là người Trung Quốc (Chinese).
Hồng Kông là một trong '4 con rồng kinh tế châu Á' (cùng với Hàn Quốc, Đài Loan và Singapore), và được phân loại là một thành phố toàn cầu hạng Alpha+ (α+) - cho thấy mức độ ảnh hưởng rất lớn của thành phố đối với nền kinh tế toàn cầu. Hồng Kông là một trong những trung tâm tài chính toàn cầu quan trọng nhất, nắm giữ điểm số về chỉ số phát triển tài chính cao nhất và luôn được xếp hạng là khu vực kinh tế cạnh tranh cũng như tự do nhất trên thế giới trong nhiều năm. Đây cũng là nơi có số lượng cao ốc, nhà chọc trời nhiều nhất trên thế giới, tập trung xung quanh khu vực cảng Victoria. Hồng Kông liên tục được xếp hạng rất cao về chỉ số phát triển con người (HDI) và là một trong những lãnh thổ có bình quân tuổi thọ cao nhất trên thế giới. Hơn 90% dân số của Hồng Kông sử dụng phương tiện giao thông công cộng. Tuy nhiên, tình trạng ô nhiễm không khí từ các nhà máy, khu vực công nghiệp lân cận của Trung Quốc đại lục đã gây ra một lượng lớn các tác động xấu, ảnh hưởng tới chất lượng môi trường của Đặc khu.
Mặc dù là một vùng lãnh thổ có nền kinh tế phát triển cao, tuy nhiên, bất ổn chính trị cùng những chính sách can thiệp từ phía Trung Quốc đại lục đã và đang góp phần kìm hãm sự phát triển kinh tế, xã hội cũng như ảnh hưởng tới quá trình dân chủ hóa của khu vực này.
Từ nguyên
Tên gọi vùng lãnh thổ lần đầu tiên được viết bằng chữ La tinh là "He-Ong-Kong" năm 1780, ban đầu được dùng để chỉ một vịnh nhỏ nằm giữa đảo Aberdeen và bờ biển phía nam đảo Hồng Kông. Aberdeen từng là nơi chạm trán ban đầu giữa các thủy thủ người Anh và ngư dân bản xứ. Dù nguồn gốc của cái tên la tinh vẫn chưa được xác định rõ ràng, nhưng mọi người thường cho rằng đây là bản phiên âm ban đầu của cách phát âm trong tiếng Quảng Đông là hēung góng; có nghĩa là "bến cảng thơm" hay "bến cảng hương". "Thơm" có thể liên quan đến hương vị ngọt ngào của dòng nước ngọt từ các cảng quanh sông Châu Giang hoặc là mùi hương từ các công xưởng sản xuất nhang dọc theo bờ biển phía bắc Cửu Long. Những que hương trước khi mang đi xuất khẩu từng được cất giữ gần cảng Aberdeen. Trái lại, Thống đốc thứ hai của Hồng Kông Sir John Davis thì cho rằng cái tên bắt nguồn từ "Hoong-keang" ("dòng nước đỏ"), tức chỉ màu đất quanh khu vực thác nước trên hòn đảo chảy qua.
Tên gọi giản thể Hong Kong được sử dụng thường xuyên vào năm 1810. Ngoài ra, nó cũng thường được viết dưới dạng từ đơn Hongkong cho đến năm 1926, khi chính phủ chính thức áp dụng tên "Hong Kong". Một số tập đoàn được thành lập trong thời kỳ đầu thuộc địa vẫn giữ tên này, bao gồm Hongkong Land, Hongkong Electric Company, Hongkong and Shanghai Hotels và Hongkong and Shanghai Banking Corporation (HSBC).
Lịch sử
Thời kỳ tiền thuộc địa
Các nghiên cứu khảo cổ học đã xác nhận về sự hiện diện của loài người tại khu vực Xích Liệp Giác từ 35.000 đến 39.000 năm trước đây, và tại bán đảo Tây Cống từ 6.000 năm trước đây. Hoàng Địa Động và Xí Lĩnh Hạ Hải là hai địa điểm mà loài người cư trú sớm nhất trong thời đại đồ đá cũ. Người ta tin rằng Xí Lĩnh Hạ Hải từng là một điểm dân cư thung lũng sông và Hoàng Địa Động từng là một nơi chế tạo đồ đá. Các hiện vật thời đại đồ đá mới được khai quật cho thấy sự khác biệt văn hóa với văn hóa Long Sơn ở miền bắc Trung Quốc và cho thấy sự định cư của người Xá (輋族) trước khi người Bách Việt di cư đến. Đã phát hiện ra tám bãi đá khắc trên các đảo xung quanh, chúng có niên đại từ thời nhà Thương tại Trung Quốc.
Năm 214 TCN, Tần Thủy Hoàng, hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc, đã chinh phục các bộ lạc Bách Việt tại khu vực Lưỡng Quảng và lần đầu tiên sáp nhập các lãnh thổ này vào đế quốc Trung Hoa. Hồng Kông khi đó thuộc về quận Nam Hải và ở gần thủ phủ Phiên Ngung. Sau khi nhà Tần sụp đổ vào năm 204 TCN, khu vực được hợp nhất vào vương quốc Nam Việt do tướng Triệu Đà lập ra. Khi Hán Vũ Đế tiến hành chinh phục Nam Việt vào năm 111 TCN, khu vực được quy thuộc vào bộ Giao Chỉ của nhà Hán. Bằng chứng khảo cổ cho thấy dân số đã tăng lên và lĩnh vực sản xuất muối ban đầu đã phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ này. Cổ mộ Lý Trịnh Ốc tại bán đảo Cửu Long được cho là xây dựng từ thời nhà Hán.
Trong thời kỳ nhà Đường, khu vực Quảng Đông đã phát triển mạnh mẽ rồi trở thành một trung tâm thương mại khu vực. Năm 736, Đường Huyền Tông đã cho thiết lập một đồn quân sự tại Đồn Môn để phòng thủ khu vực ven biển trong vùng. Trường làng đầu tiên, Lực Doanh thư viện, đã được thành lập vào khoảng năm 1075 tại Tân Giới dưới thời Bắc Tống. Khi bị người Mông Cổ xâm lược vào năm 1276, triều đình Nam Tống đã chuyển đến Phúc Kiến, sau đó đến đảo Lạn Đầu và rồi lại đến Tống Vương Đài (nay là Cửu Long Thành), tuy nhiên Tống Đế Bính nhỏ tuổi đã phải nhảy xuống biển tự vẫn cùng các quan của mình sau khi bị đánh bại trong trận Nhai Môn. Hầu Vương, một viên quan của Tống đế Bính nay vẫn được thờ tại Hồng Kông.
Theo các tài liệu, người khách châu Âu đầu tiên đến khu vực Hồng Kông là một nhà thám hiểm người Bồ Đào Nha mang tên Jorge Álvares, vào năm 1513. Sau khi thiết lập nên các điểm định cư trong khu vực, các thương gia Bồ Đào Nha bắt đầu mua bán ở miền Nam Trung Quốc. Cùng thời gian đó, họ đã tiến hành xâm chiếm và xây dựng công sự quân sự tại Đồn Môn. Các xung đột quân sự giữa Trung Quốc và Bồ Đào Nha đã khiến người Bồ Đào Nha bị trục xuất. Vào giữa thế kỷ XVI, lệnh Hải cấm nghiêm cấm các hoạt động hàng hải và ngăn chặn việc tiếp xúc với người ngoại quốc; luật này cũng hạn chế hoạt động trên biển của địa phương. Năm 1661–1669, lãnh thổ bị ảnh hưởng từ Thiên giới lệnh do Khang Hi ban hành, lệnh này yêu cầu thực hiện việc di tản tại các vùng ven biển của Quảng Đông. Sử sách đã ghi lại rằng có 16.000 người từ Tân An huyện đã bị buộc phải di dời vào trong nội địa, và 1.648 trong số những người dời đi đã quay trở lại khi quy định tản cư bị bãi bỏ vào năm 1669. Lãnh thổ mà nay là Hồng Kông phần lớn trở thành đất hoang do lệnh cấm. Năm 1685, Khang Hy cho mở cửa việc giao dịch hạn chế với người ngoại quốc, bắt đầu từ đất Quảng Châu. Ông cũng áp đặt các điều kiện nghiêm ngặt đối với mậu dịch như yêu cầu các thương nhân ngoại quốc sinh sống tại các khu vực bị hạn chế, chỉ được ở lại trong thời gian mua bán, cấm buôn bán súng, và chỉ được dùng bạc trong thanh toán. Công ty Đông Ấn Anh đã thực hiện chuyến đi biển đầu tiên đến Trung Quốc vào năm 1699, và việc mua bán với các thương nhân người Anh đã phát triển nhanh chóng ngay sau đó. Năm 1711, công ty thiết lập trạm thông thương đầu tiên của họ tại Quảng Châu. Năm 1773, người Anh đã đạt mốc 1.000 rương thuốc phiện tại Quảng Châu và Trung Quốc đã đạt mốc tiêu thụ 2.000 rương mỗi năm trong năm 1799.
Thời kỳ thực dân Anh
Năm 1839, do triều đình nhà Thanh từ chối nhập khẩu thuốc phiện, giữa Đại Thanh và nước Anh đã nổ ra Chiến tranh nha phiến. Quân Anh chiếm đảo Hồng Kông ngày 20 tháng 1 năm 1841 và ban đầu được nhượng cho nước Anh theo thảo ước Xuyên Tị như là một phần của thỏa thuận ngừng bắn giữa Đại tá hải quân Charles Elliot và tổng đốc Lưỡng Quảng Kỳ Thiện (琦善). Song thỏa thuận này đã không bao giờ được phê chuẩn do tranh cãi giữa các quan chức cấp cao của cả hai chính phủ. Phải cho đến ngày 29 tháng 8 năm 1842, Trung Quốc mới chính thức nhượng lại vĩnh viễn hòn đảo cho nước Anh theo Điều ước Nam Kinh. Người Anh đã thiết lập nên một thuộc địa vương lĩnh bằng việc xây dựng thành phố Victoria vào năm sau.
Cơ sở hạ tầng hành chính nhanh chóng được xây dựng vào đầu năm 1842. Nhưng cướp biển, dịch bệnh và các chính sách thù địch của nhà Thanh ban đầu đã ngăn cản chính phủ thu hút thương mại. Thập niên 1850 chứng kiến sự kiện Thái Bình Thiên Quốc ở Trung Quốc. Vì vậy nhiều người tị nạn Trung Quốc (gồm cả các thương gia giàu có) đã chạy trốn khỏi vùng đất bất ổn và định cư tại vùng thuộc địa, nhờ đó điều kiện sống trên hòn đảo được cải thiện đáng kể. Năm 1860, sau khi nhà Thanh thất bại trong Chiến tranh nha phiến lần thứ hai, bán đảo Cửu Long và đảo Ngang Thuyền Châu bị nhượng lại vĩnh viễn cho nước Anh theo Điều ước Bắc Kinh. Kết thúc cuộc chiến, Hồng Kông đã nhanh chóng phát triển từ một tiền đồn thuộc địa tạm thời thành một cảng trung chuyển (entrepôt) quan trọng vào thời ấy. Những cải thiện kinh tế trong thập niên 1850 cũng đã thu hút đầu tư nước ngoài, khi các bên liên quan tin tưởng hơn vào tương lai của Hồng Kông. Ngoài ra, dưới sự cai trị của người Anh, dân số đảo Hồng Kông tăng từ 7.450 cư dân người Hán (chủ yếu là ngư dân) vào năm 1841 lên 115.000 người Hán và còn lại là 8.754 người Âu tại Hồng Kông (bao gồm cả khu vực Cửu Long) vào năm 1870.
Năm 1894, đại dịch hạch đã lây lan từ Trung Quốc sang Hồng Kông, gây ra 50.000–100.000 ca tử vong. Năm 1898, theo các điều khoản của Hiệp định về Mở rộng chỉ giới Hồng Kông, nước Anh thu được quyền thuê đảo Lạn Đầu và các vùng đất lân cận ở phía bắc trong vòng 99 năm, các khu vực này được gọi chung với tên gọi "Tân Giới". Từ đó, lãnh thổ Hồng Kông không thay đổi.
Trong nửa đầu thế kỷ XX, Hồng Kông là một cảng tự do, có chức năng như một trung tâm xuất nhập khẩu (entrepôt) của Đế quốc Anh. Người Anh đã đưa đến Hồng Kông một hệ thống giáo dục dựa trên mô hình của họ, trong khi đó, những cư dân người Hán bản địa ít tiếp xúc với cộng đồng người Âu "đại ban" giàu sang định cư gần đỉnh Victoria. Đại học Hồng Kông được thành lập vào năm 1911 là tổ chức giáo dục đại học đầu tiên trên lãnh thổ. Sân bay Khải Đức đi vào hoạt động năm 1924. Cùng thời điểm, vùng thuộc địa này đã tránh được tình trạng suy thoái kinh tế kéo dài sau cuộc bãi công Canton–Hồng Kông 1925–1926.
Thời kỳ Nhật Bản chiếm đóng
Chiến tranh Trung – Nhật bùng nổ vào năm 1937. Khi ấy, Thống đốc Geoffry Northcote đã tuyên bố Hồng Kông là một khu vực trung lập nhằm mục đích bảo vệ vị thế cảng tự do của Hồng Kông. Sau đó, chính quyền thuộc địa đã chuẩn bị cho một cuộc đổ bộ có thể xảy ra, đồng thời sơ tán tất cả phụ nữ và trẻ em người Anh vào năm 1940. Ngày 8 tháng 12 năm 1941, Đế quốc Nhật Bản chiếm đóng Hồng Kông như một phần của chiến dịch quân sự trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Trận Hồng Kông kết thúc với việc các lực lượng bảo hộ Anh và Canada giao nộp quyền kiểm soát thuộc địa này cho Nhật Bản ngày 25 tháng 12. Trong thời kì Nhật Bản chiếm đóng Hồng Kông, người dân ở đây đã phải gánh chịu nạn thiếu lương thực do sự áp đặt khẩu phần gây ra và nạn siêu lạm phát do áp đặt tỷ giá của quân đội Nhật. Năm 1945, khi Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland tiếp tục kiểm soát thuộc địa này sau thất bại của Nhật Bản trong cuộc chiến, dân số Hồng Kông còn khoảng 600 nghìn so với 1,6 triệu người trước khi Nhật xâm chiếm.
Thời kỳ Chiến tranh Lạnh
Dân số Hồng Kông phục hồi nhanh chóng sau chiến tranh, khi một làn sóng dân nhập cư từ đại lục đến để tị nạn khỏi cuộc Nội chiến Trung Quốc đang diễn ra. Với việc thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1949, nhiều người nhập cư tìm đến Hồng Kông vì sợ sự ngược đãi của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Nhiều công ty ở Thượng Hải và Quảng Châu cũng chuyển hoạt động đến Hồng Kông. Thuộc địa này đã trở thành nơi liên lạc duy nhất giữa Trung Quốc và thế giới phương Tây khi chính quyền mới ở Trung Quốc tăng cường cô lập đất nước khỏi ảnh hưởng từ bên ngoài. Thương mại với đại lục bị gián đoạn trong thời kỳ Chiến tranh Triều Tiên khi Liên Hợp Quốc đã ra lệnh cấm vận thương mại đối với Trung Quốc đại lục.
Ngành dệt và chế tạo đã phát triển với sự trợ giúp của sự tăng trưởng dân số và giá nhân công thấp. Khi Hồng Kông được công nghiệp hóa nhanh, nền kinh tế của Hồng Kông đã được thúc đẩy nhờ xuất khẩu ra thị trường quốc tế. Mức sống tăng ổn định cùng với sự tăng trưởng công nghiệp. Việc xây dựng thôn Thạch Giáp Vĩ năm 1953 đánh dấu sự bắt đầu của chương trình public housing estate (khu chung cư công cộng). Tình hình năm 1967 ở Hồng Kông trở nên hỗn loạn bởi các cuộc bạo loạn. Những người cánh tả thân cộng sản, lấy cảm hứng từ cuộc Cách mạng Văn hóa ở đại lục, đã biến một cuộc tranh chấp lao động thành một cuộc nổi dậy bạo động chống lại chính quyền thuộc địa kéo dài cho đến cuối năm.
Được thành lập vào ngày 15 tháng 2 năm 1974, Sở Liêm chính Hong Kong (ICAC) đã làm giảm mạnh mẽ nạn tham nhũng của chính quyền thuộc địa. Khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa khởi xướng một công cuộc cải cách kinh tế năm 1978, Hồng Kông đã trở thành một nguồn đầu tư nước ngoài chủ yếu cho Đại lục. Một đặc khu kinh tế đã được thành lập năm sau ở Thâm Quyến, một thành phố nằm ở ngay phía Bắc của biên giới giữa đại lục và Hồng Kông. Nền kinh tế của Hồng Kông đã dần thay thế từ ngành dệt may và chế tạo bằng dịch vụ, khi các lĩnh vực tài chính và ngân hàng đã trở nên chiếm ưu thế ngày càng tăng. Sau khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc vào tháng 4 năm 1975, chính quyền Hồng Kông của Anh Quốc đã trải qua 25 năm xử lý vấn đề hồi hương người tị nạn Việt Nam.
Khi thời hạn cho thuê Tân Giới chuẩn bị kết thúc trong hai thập kỉ, chính phủ hai nước Trung Quốc và Anh đã thảo luận vấn đề chủ quyền Hồng Kông vào thập niên 1980. Năm 1983, nước Anh tái xác định Hồng Kông từ một thuộc địa vương lĩnh thành một lãnh thổ phụ thuộc, chính phủ nước Anh và nước Anh đã sẵn sàng thảo luận về vấn đề chủ quyền Hồng Kông do thời hạn thuê Tân Giới sắp hết. Cuối năm 1984, hai nước đã ký Tuyên bố chung Trung-Anh, đồng ý chuyển chủ quyền Hồng Kông cho Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1997. Tuyên bố này quy định rằng Hồng Kông sẽ được quản lý như một đặc khu hành chính, được giữ lại các luật lệ của mình và một mức độ tự trị cao trong 50 năm sau khi chuyển giao. Do thiếu tin tưởng vào thỏa thuận này, nhiều cư dân của Hồng Kông đã chọn và thực hiện việc đi di cư khỏi vùng lãnh thổ Hồng Kông (Anh Quốc) từ năm 1985, đặc biệt là sau sự kiện Thiên An Môn.
Luật Cơ bản Hồng Kông có vai trò như một văn bản hiến pháp sau cuộc bàn giao chủ quyền, đã được phê chuẩn năm 1990. Với sự phản đối mạnh mẽ từ Bắc Kinh, Thống đốc Chris Patten đã đưa ra các cải cách về quá trình tự bầu cử vào Hội đồng Lập pháp Hồng Kông nhằm tiếp tục dân chủ và tự do hóa xứ sở này.
Sau lễ chuyển giao Hồng Kông
Việc chuyển giao chủ quyền Hồng Kông đã được thực hiện vào giữa đêm ngày 1 tháng 7 năm 1997, đánh dấu bằng lễ chuyển giao tại Trung tâm Hội nghị và Triển lãm Hồng Kông. Trung Quốc đồng ý cai quản Hồng Kông theo nguyên tắc "một quốc gia, hai chế độ". Trong đó, thành phố sẽ hưởng "một mức độ tự trị cao, trừ các vấn đề về quốc phòng và ngoại giao" cho 50 năm sau. Đổng Kiến Hoa đã nhậm chức Đặc khu trưởng Hồng Kông đầu tiên. Khoảng 10% người dân Hồng Kông đã di dân sang nước khác trước khi Hồng Kông được trả lại cho Trung Quốc vì không muốn sống dưới quyền cai trị của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Ngay sau khi chuyển giao, nền kinh tế Hồng Kông chịu ảnh hưởng nặng nề bởi một số cuộc khủng hoảng. Chính phủ đã buộc phải sử dụng đáng kể dự trữ ngoại hối để ổn định giá cả của đồng đô la Hồng Kông trong thời gian khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997. Dịch cúm gia cầm do H5N1 gây ra cũng xuất hiện ở Hồng Kông vào năm đó. Việc thực hiện chương trình Airport Core Programme dẫn đến việc khai trương Sân bay quốc tế Hồng Kông mới năm 1998, sau sáu năm xây dựng. Dự án này là một phần của Chiến lược Phát triển Cảng và Sân bay đầy tham vọng được dự thảo trong thập niên 1980.
Năm 2003, một nửa triệu người tham gia vào cuộc tuần hành biểu thị phản đối chính quyền của Đổng Kiến Hoa và đề xuất thi hành Điều 23 Luật Cơ bản, mà trước đó đã nêu lên các lo ngại về sự vi phạm các quyền và sự tự do. Đề xuất này sau đó bị chính quyền Hồng Kông hủy bỏ. Năm 2005, Đổng Kiến Hoa đệ đơn từ chức Trưởng Đặc khu. Tăng Âm Quyền, Trưởng Ty Hành chính, đã được chọn làm Trưởng Đặc khu để hoàn thành hết nhiệm kì của Đổng. Năm 2012, Lương Chấn Anh kế nhiệm chức Trưởng Đặc khu. Cuộc thăm dò hàng năm của Đại học Hồng Kông vào cuối tháng 12 năm 2012 cho thấy hơn 70% những người được hỏi ý kiến nói rằng họ tự nhận là người Hồng Kông chứ không phải là người Trung Quốc và người đứng đầu cuộc thăm dò đã bị ông Hách Thiết Xuyên, đặc sứ cao cấp của Trung Quốc, công khai đả kích. Báo chí trích lời ông Hách nói rằng Hồng Kông không phải là một thực thể chính trị độc lập.
Quyết định của chính quyền trung ương thực hiện sàng lọc ứng cử viên trước khi cho phép cuộc bầu cử Đặc khu trưởng đã làm bùng nổ các cuộc biểu tình hàng loạt của các nhóm sinh viên Hồng Kông vào năm 2014, được gọi là Cách mạng Ô dù. Tuy nhiên sau một thời gian thì các vụ biểu tình lắng xuống do không nhận sự ủng hộ từ các tầng lớp khác trong xã hội. Ngày 1 tháng 7 năm 2017, kỷ niệm 20 năm ngày chuyển giao chủ quyền Hồng Kông, bất chấp mưa lớn và các biện pháp an ninh được thắt chặt, hàng chục nghìn người Hồng Kông đã xuống đường biểu tình đòi dân chủ, trong khi cũng có những nhóm tuần hành ủng hộ chính phủ Bắc Kinh trong ngày này. Cũng trong ngày này, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình trong một sự kiện kỷ niệm đã lên sân khấu hát đồng ca bài ca ái quốc.
Vào tháng 6 năm 2019, các cuộc biểu tình lớn nổ ra để phản đối sửa đổi dự luật được đề xuất cho phép dẫn độ những kẻ chạy trốn sang Trung Quốc đại lục. Nếu được ban hành, dự luật sẽ cho phép chính quyền địa phương giam giữ và dẫn độ những người bị truy nã ở những vùng lãnh thổ mà Hồng Kông không có thỏa thuận dẫn độ, kể cả Trung Quốc đại lục và Đài Loan. Nhiều người lo ngại dự luật sẽ đặt người Hồng Kông và du khách tới Hồng Kông vào phạm vi tài phán của Trung Quốc đại lục do Đảng Cộng sản Trung Quốc kiểm soát, làm suy yếu nguyên tắc "một quốc gia, hai chế độ" và điều đó sẽ làm ảnh hưởng tới quyền lợi của họ. Các cuộc biểu tình đã tiếp tục diễn ra vào tháng 9, trở thành phong trào phản kháng quy mô lớn nhất trong lịch sử Trung Quốc, với một số cuộc tuần hành trên đường phố được biết là đã thu hút gần 2 triệu người dân Hồng Kông.
Địa lý
.
Hồng Kông cách Ma Cao về phía tây, về phía đối diện của đồng bằng châu thổ Châu Giang. Lãnh thổ được bao quanh bởi Biển Đông, ngoại trừ khu vực phía Bắc giáp với thành phố đặc khu Thâm Quyến thuộc tỉnh Quảng Đông dọc theo sông Thâm Quyến. Đỉnh cao nhất của lãnh thổ này là Đại Mạo Sơn, với độ cao trên mực nước biển. Các vùng đất thấp nằm ở phần Tây Bắc của Tân Giới. Nơi sâu nhất của Hồng Kông thuộc về eo biển Loa Châu Môn với độ sâu mét dưới mục nước biển. Các khu phát triển đô thị tập trung ở bán đảo Cửu Long, đảo Hồng Kông, và ở các tân thị trấn trên khắp vùng Tân Giới. Phần lớn trong số này này được kiến thiết trên những vùng đất lấn biển; (sáu phần trăm tổng diện tích đất hay khoảng 25% không gian phát triển trên lãnh thổ) được bồi lấp trên biển.
Diện tích của Hồng Kông là , chủ yếu bao gồm đảo Hồng Kông, Đại Tự Sơn, bán đảo Cửu Long và Tân Giới. Trong số đó, diện tích đất là và là nước. Tổng cộng, Hồng Kông bao gồm một tập hợp 263 hòn đảo ở Biển Đông, trong đó Đại Tự Sơn là đảo lớn nhất. Đảo Hồng Kông là đảo lớn thứ hai và đông dân nhất. Áp Lợi Châu là một trong các đảo có mật độ dân số cao nhất thế giới.
Tên gọi "Hồng Kông" (xuất phát từ "Hương Cảng", tiếng Quảng Đông đọc là Huéng Coỏng, có nghĩa là "cảng thơm", lấy từ khu vực ngày nay là Aberdeen nằm trên đảo Hồng Kông, nơi các sản phẩm từ gỗ hương và hương một thời được buôn bán. Vùng nước hẹp tách đảo Hồng Kông và bán đảo Cửu Long là bến cảng Victoria, một trong những hải cảng tự nhiên sâu nhất thế giới.
Dù Hồng Kông đã đô thị hóa cao, lãnh thổ này cũng đã có những nỗ lực tăng cường môi trường cây xanh. Phần lớn lãnh thổ vẫn giữ không phát triển do các khu vực này phần lớn là đồi núi với các sườn dốc. Trong 1104 km² của lãnh thổ, chỉ ít hơn 25% là phát triển. Phần diện tích đất còn lại chủ yếu là không gian cây xanh với khoảng 40% đất được dành cho công viên thôn quê và các khu dự trữ thiên nhiên. Phần lớn sự phát triển đô thị của lãnh thổ hiện hữu ở bán đảo Cửu Long, dọc theo các bờ biển phía bắc của đảo Hồng Kông và ở khu định cư rải rác khắp Tân Giới.
Bờ biển dài và không thẳng của Hồng Kông đã tạo cho lãnh thổ này nhiều vịnh, sông và bãi biển. Dù lãnh thổ này có mật độ cây xanh cao và nằm ven biển, ý thức môi trường vẫn tăng lên khi bầu không khí của Hồng Kông được xếp vào hàng một trong những nơi ô nhiễm nhất. Khoảng 80% khói của thành phố xuất phát từ các vùng khác của đồng bằng sông Châu Giang.
Khí hậu
Khí hậu Hồng Kông thuộc kiểu cận nhiệt đới và chịu ảnh hưởng của gió mùa. Vào mùa đông khí hậu lạnh hơn và khô từ tháng 12 đến đầu tháng 3 dương lịch và nóng, ẩm và mưa vào mùa xuân đến mùa hè. Vào mùa thu trời nắng và khô. Hồng Kông thường có khí xoáy tụ nhiệt đới vào mùa hè và mùa thu. Hệ sinh thái của Hồng Kông chịu ảnh hưởng của sự thay đổi khí hậu này. Khí hậu của Hồng Kông theo mùa là do các hướng gió thay đổi giữa mùa đông và mùa hè. Về mặt địa chất, Hồng Kông đã ổn định hàng triệu năm nay, dù các vụ lở đất vẫn thường xảy ra, đặc biệt là sau các cơn mưa dông lớn. Hệ động thực vật ở Hồng Kông thay đổi theo sự thay đổi của khí hậu, mực nước biển và ảnh hưởng của con người.
Nhiệt độ cao nhất ghi nhận được ở Hồng Kông là 38°C (98,0°F), còn nhiệt độ thấp nhất ghi nhận được là -4 °C (25,0 °F). Nhiệt độ trung bình trong tháng lạnh nhất (tháng 1) là 16,1 °C (61,0 °F) còn nhiệt độ trung bình trong tháng nóng nhất (tháng 7) là 28,7 °C (83.7 °F).
Lãnh thổ tọa lạc về phía Nam của hạ chí tuyến tương đương với vĩ độ của Hawaii. Về mùa Đông, các cơn gió mạnh và lạnh thổi từ phía Bắc làm thành phố trở nên lạnh; về mùa hè, hướng gió thay đổi mang theo không khí ẩm và ấm từ phía Tây Nam. Khí hậu lúc này phù hợp với rừng mưa nhiệt đới.
Chính trị
Theo Luật Cơ bản và các văn bản luật pháp khác của Hồng Kông, chính quyền địa phương Hồng Kông nắm giữ chủ quyền lãnh thổ ngoại trừ lĩnh vực quốc phòng và ngoại giao. Chỉ có Trưởng Đặc khu, người đứng đầu lãnh thổ và là người đứng đầu nhánh hành pháp là được bầu chọn bởi Ủy ban Bầu cử Trưởng Đặc khu bao gồm 800 thành viên, tất cả các thành viên trong Ủy ban này đều do chính quyền Đại lục bổ nhiệm. Các viên chức khác của chính quyền, bao gồm các thành viên của các cơ quan hành pháp và lập pháp đều hoặc là được Trưởng Đặc khu bổ nhiệm (trực tiếp hay ủy nhiệm) hoặc được cử tri bầu ra. Trên lý thuyết, việc quy định này đảm bảo Hồng Kông được quản lý hầu như độc lập khỏi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và có thể gìn giữ được hạ tầng cơ sở kinh tế, pháp luật, văn hóa độc nhất của mình. Tuy nhiên trên thực tế, một số ý kiến đã tố cáo Bắc Kinh can thiệp vào công việc nội bộ của Hồng Kông quá mức quy định của Luật Cơ bản.
Các luật của Hồng Kông chỉ có hiệu lực khi được Trưởng Đặc khu Hành chính phê chuẩn và sự đồng thuận đa số của 60 đại biểu của Hội đồng Lập pháp Hồng Kông, hay LegCo. Chỉ có một nửa số ghế của Hội đồng lập pháp được người dân Hồng Kông bầu trực tiếp thông qua phổ thông đầu phiếu trong khi nửa còn lại được bầu chọn thông qua công năng giới biệt (tiếng Anh: functional constituencies) bao gồm các nghiệp đoàn và các nhóm lợi ích đặc biệt có liên hệ mật thiết với chính quyền Bắc Kinh. Luật Cơ bản Hồng Kông hứa hẹn rằng tất cả các ghế trong Hội đồng lập pháp cuối cùng sẽ được bầu thông qua phổ thông đầu phiếu, tuy vậy cho đến nay điều này vẫn chưa được thực hiện.
Tăng Âm Quyền giữ chức Trưởng Đặc khu sau khi ông được bầu ngày 16 tháng 6 năm 2005 bởi một ủy ban bầu cử được bổ nhiệm bởi chính quyền Bắc Kinh. Trước cuộc chuyển giao năm 1997, Tăng Âm Quyền đã giữ chức Trưởng Ty Hành chính dưới thời người Anh quản lý. Ông đã nhậm chức ngày 24 tháng 6 và theo kế hoạch sẽ kết thúc phần còn lại của nhiệm kì cuối của Đổng Kiến Hoa kết thúc vào ngày 30 tháng 6 năm 2007 phù hợp với Phụ lục I và Điều 46 ban hành bởi Ủy ban Thường vụ Hội nghị Hiệp thương Nhân dân Trung Hoa.
Việc Hội đồng Bầu cử gồm 852 thành viên bầu chọn một Trưởng Đặc khu mới diễn ra vào ngày 10 tháng 7 năm 2005. Ngày 16 tháng 6 năm 2005, Tăng Âm Quyền được tuyên bố là người giành chiến thắng vì ông là ứng cử viên duy nhất đảm bảo nhận được 100 phiếu của Hội đồng Bầu cử. Đổng Kiến Hoa, Trưởng Đặc khu đầu tiên nhậm chức ngày 1 tháng 7 năm 1997 sau một cuộc bầu cử bởi Hội đồng Bầu cử 400 thành viên. Đối với nhiệm kì thứ hai kéo dài 5 năm bắt đầu từ tháng 6 năm 2002, Đổng là ứng cử viên duy nhất được giới thiệu do đó là người đắc cử. Lý Gia Siêu là đặc khu trưởng hiện nay, được bầu lên vào năm 2022.
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa từng lập nên Hội đồng Lập pháp Lâm thời (PLC) tại Thâm Quyến năm 1996 ngay trước ngày chuyển giao, khi Hội đồng này chuyển về Hồng Kông và tổ chức phiên họp sau đó. Hội đồng này đã xem xét lại một số luật được Hội đồng Lập pháp thông qua bằng phổ thông đầu phiếu từ năm 1995. PLC đã thông qua một số luật mới như Pháp lệnh Trật tự công cộng, yêu cầu sự cho phép của cảnh sát khi tổ chức một cuộc biểu tình có số người tham gia vượt quá 30 người. Bầu cử Hội đồng Lập pháp được tổ chức vào ngày 24 tháng 5 năm 1998, ngày 10 tháng 9 năm 2000 và tiếp theo là ngày 12 tháng 9 năm 2004, với cuộc bầu cử tiếp theo diễn ra vào năm 2008. Theo Luật Cơ bản, "hiến pháp-mini" của Hồng kông, nhiệm kì thứ ba hiện tại của Hội đồng Lập pháp có 25 ghế được bầu cử theo đơn vị bầu cử địa phương (geographical constituencies) và 30 ghế từ công năng giới biệt. Các cuộc bầu cử Hội đồng Lập pháp năm 1998, 2000 và 2004 đã diễn ra tự do, mở và tranh luận rộng rãi dù có một số bất mãn của một số nhà chính trị chủ yếu là 'ủng hộ dân chủ'. Họ tranh luận rằng các cuộc bầu cử công năng giới biệt năm 1998 và 2000 là không dân chủ vì họ cho rằng khu vực cử tri cho những ghế này là quá hẹp. Đảng Cộng sản không có một sự hiện diện chính trị chính thức tại Hồng Kông và các thành viên của Đảng không đứng ra ứng cử trong các cuộc bầu cử địa phương.
Ngành dân chính của Hồng Kông vẫn mong duy trì chất lượng và tính trung lập như truyền thống trong thời thuộc địa, hoạt động mà không có chỉ đạo rõ rệt từ Bắc Kinh. Nhiều hoạt động của chính quyền và hành chính thực hiện ở khu vực trung tâm của Đảo Hồng Kông gần địa điểm lịch sử của Thành phố Victoria, khu vực của những khu định cư Anh đầu tiên. Công dân Trung Quốc thường trú tại Trung Quốc đại lục không có quyền cư trú tại Hồng Kông, và phải chịu sự kiểm soát nhập cư. Tài chính công được chính phủ Hồng Kông xử lý một cách độc lập, và các loại thuế thu tại Hồng Kông không đóng góp cho ngân sách của Trung ương.
Đã có những cuộc biểu tình của người dân Hồng Kông chống lại những sự can thiệp sâu rộng của Trung Quốc vào chính trị Hồng Kông như phong trào Chiếm lĩnh Trung Hoàn, Biểu tình tại Hồng Kông năm 2014 và Biểu tình chống dự luật dẫn độ năm 2019.
Phân cấp hành chính
Lãnh thổ được chia thành 18 quận, mỗi quận do một Hội đồng quận đại diện. Những cơ quan này tư vấn cho chính phủ về các vấn đề địa phương như cung cấp cơ sở công cộng, duy trì chương trình cộng đồng, quảng bá văn hóa và chính sách môi trường. Có tổng số 479 ghế hội đồng quận, trong đó 452 ghế được người dân bầu trực tiếp. 27 ghế còn lại được phân cho các Chủ tịch Ủy ban nông thôn – đại diện cho các làng và thị trấn trên các li đảo.
Hồng Kông có 18 quận:
Đảo Hương Cảng (Hong Kong Island)
Quận Trung Tây (Central and Western) (15)
Quận Đông (Eastern) (16)
Quận Nam (Southern) (17)
Loan Tể (Wan Chai) (18)
Cửu Long Đông (Kowloon East)
Hoàng Đại Tiên (Wong Tai Sin) (13)
Quan Đường (Kwun Tong) (11)
Cửu Long Tây (Kowloon West)
Cửu Long Thành (Kowloon City) (10)
Thâm Thủy Bộ (Sham Shui Po) (12)
Du Tiêm Vượng (Yau Tsim Mong) (14)
Tân Giới Đông (New Territories East)
Quận Bắc (North) (3)
Tây Cống (Sai Kung) (4)
Sa Điền (Sha Tin) (5)
Đại Bộ (Tai Po) (6)
Tân Giới Tây (New Territories West)
Li Đảo (Islands) (1)
Quỳ Thanh (Kwai Tsing) (2)
Thuyên Loan (Tsuen Wan) (7)
Đồn Môn (Tuen Mun) (8)
Nguyên Lãng (Yuen Long) (9)
Ranh giới hành chính giữa Victoria City, bán đảo Cửu Long, và Tân Cửu Long đã từng được nêu ra trong luật, nhưng hiện không còn giá trị pháp lý và hành chính nữa.
Hệ thống pháp luật và tư pháp
Trái với hệ thống luật dân sự của Trung Hoa đại lục, Hồng Kông tiếp tục theo truyền thống thông luật được chính quyền thuộc địa Anh thiết lập. Điều 84 của Luật Cơ bản Hồng Kông cho phép các tòa án Hồng Kông được tham chiếu đến các quyết định tiền lệ án được đưa ra bởi các tòa có quyền hạn pháp lý thông luật khác. Điều 82 và 92 cho phép các thẩm phán từ các từ các khu vực xét xử thông luật khác được tham gia vào quá trình xét xử trong Tòa chung thẩm của Hồng Kông và nhóm họp như các thẩm phán Hồng Kông.
Về mặt cơ cấu, hệ thống tòa án Hồng Kông bao gồm Tòa chung thẩm và Ủy ban Tòa án Hội đồng Cơ mật, Tòa án Tối cao, được cấu thành từ Tòa Thượng thẩm, Tòa Sơ thẩm và Tòa án Quận, bao gồm Tòa án Gia đình. Các cơ quan xét xử khác bao gồm: Tòa án Đất đai, Tòa Trị an, Tòa Thanh thiếu niên, Tòa Khiếu nại Nhỏ, Tòa Những vụ chết bất thường, Tòa Lao động, Tòa Các điều khoản Khiêu dâm chịu trách nhiệm phân loại văn hóa phẩm khiêu dâm không phải video được lưu hành ở Hồng Kông. Thẩm phán của Tòa Chung thẩm được Trưởng Đặc khu Hành chính Hồng Kông bổ nhiệm. Luật Cơ bản Hồng Kông thì được hiểu theo cách giải thích của Ủy ban Thường vụ Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc (Quốc hội) và quyền hạn này đã từng được viện dẫn 3 lần: Vấn đề quyền cư trú tại Hồng Kông (right of abode issue), một sự diễn giải liên quan đến các thủ tục bầu cử sau năm 2008, và một lần giải thích liên quan đến độ dài nhiệm kỳ của Trưởng Đặc khu hành chính.
Như ở Anh, luật gia ở Hồng Kông được phân ra thành luật sư hoặc cố vấn pháp lý, và người ta có thể chọn hành nghề dưới danh nghĩa một trong hai chức danh này nhưng không được cả hai (nhưng có thể chuyển từ chức danh này sang chức danh kia). Phần lớn luật gia là cố vấn pháp lý và được cấp giấy phép hành nghề và được điều chỉnh bởi Hội Pháp luật Hồng Kông. Các luật sư, mặt khác được cấp giấy phép và được điều chỉnh bởi Hội Luật sư Hồng Kông. Chỉ có các luật sư mới được có mặt để bào chữa tại Tòa Chung tẩm và Tòa án Tối cao. Cũng giống như hệ thống thông luật được duy trì, như thông lệ các phòng xử án nước Anh, các thẩm phán và luật sư phải đội tóc giả và áo choàng trong quá trình xét xử.
Theo Điều 63 của Luật Cơ bản Hồng Kông, Cục Tư pháp kiểm soát việc truy tố hình sự và không chịu bất kỳ sự can thiệp nào. Đây là thể chế pháp lý lớn nhất Hồng Kông và có trách nhiệm liên quan đến pháp chế, quản lý xét xử, truy tố, đại diện dân sự, soạn thảo và cải cách pháp lý và nghề pháp lý. Ngoài việc khởi tố các vụ án hình sự tại Hồng Kông, các quan chức của Cục Tư pháp cũng có mặt tại tòa với tư cách đại diện cho chính quyền trong tất cả vụ kiện dân sự kiện chính quyền. Là một cơ quan bảo vệ quyền lợi công chúng, cơ quan này có thể áp dụng và ấn định đại diện pháp lý thay mặt cho quyền lợi công chúng để tham gia vào việc xét xử các vụ án liên quan đến lợi ích công chúng về vật chất.
Quân đội
Hồng Kông chưa có lực lượng quân đội riêng bởi vì lãnh thổ này chưa bao giờ là một nhà nước có chủ quyền, ngoại trừ lực lượng bổ trợ tình nguyện như Quân đoàn Hồng Kông Hoàng gia (quân tình nguyện). Các vấn đề quốc phòng đã bị phụ thuộc vào nhà nước kiểm soát Hồng Kông. Trước khi Anh trao trả chủ quyền Hồng Kông cho Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, việc bảo vệ quốc phòng được quân đội Anh đảm nhận và quân đội Anh đã đóng quân ở những doanh trại khắp Hồng Kông, bao gồm cả Quân đội Hải ngoại Anh ở Hồng Kông. Nguồn tài chính cho các đội quân này do Chính quyền Hồng Kông hỗ trợ.
Đơn vị đồn trú Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc tại Hồng Kông là một đơn vị đồn trú của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA), chịu trách nhiệm về nhiệm vụ quốc phòng tại Đặc khu hành chính Hồng Kông kể từ khi chủ quyền của Hồng Kông được chuyển giao cho Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào ngày 1 tháng 7 năm 1997. Dù đội quân đồn trú này ít có giá trị quân sự trên thực tế, chủ yếu mang tính biểu tượng cho sự cai quản Hồng Kông của Bắc Kinh, nó vẫn là một lực lượng sẵn sàng chiến đấu.
Theo Luật Cơ bản Hồng Kông, các lực lượng quân sự đóng ở Hồng Kông sẽ không được can thiệp vào các công việc dân sự của địa phương; Chính quyền Hồng Kông sẽ phải chịu trách nhiệm duy trì trật tự công cộng. Quân đồn trú tại Hồng Kông, bao gồm các binh chủng lục quân, hải quân và không quân, dưới sự chỉ huy của Hội đồng Quân sự Trung ương Trung Quốc. Quân đồn trú về sau đã mở cửa các doanh trại trên đảo Stonecutters và Stanley cho công chúng để tăng cường hiểu biết và tin cậy giữa quân đội và dân chúng.
Kinh tế
Kinh tế Hồng Kông là một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển được xây dựng trên nền kinh tế thị trường, thuế thấp và ít có sự can thiệp kinh tế của chính phủ. Đây là một trung tâm tài chính, thương mại quan trọng và là nơi tập trung nhiều đại bản doanh công ty của khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Nếu tính về GDP bình quân đầu người và tổng sản phẩm nội địa, Hồng Kông là trung tâm đô thị giàu nhất ở Trung Quốc. Tính đến năm 2016, GDP của Hồng Kông đạt 320,9 tỉ USD, đứng thứ 34 thế giới và đứng thứ 11 châu Á.
Trong khi tiếp tục duy trì những luật lệ và thông lệ của chính quyền Anh trước đây, chính quyền Hồng Kông nhường quyền điều khiển thị trường cho các lực lượng thị trường và khu vực tư nhân. Kể từ năm 1980, nhìn chung, chính quyền đã đóng một vai trò thụ động theo chính sách không can thiệp tích cực. Hồng Kông thường xuyên được xem, đặc biệt bởi nhà kinh tế Milton Friedman, là một hình mẫu của chủ nghĩa tư bản tự do kinh doanh về mặt thực tiễn. Hồng Kông được xếp hạng nhất thế giới về tự do kinh tế trong 13 năm liên tục, kể từ khi có chỉ số này vào năm 1995. Thành phố này cũng nằm ở vị trí thứ nhất trong Báo cáo Tự do Kinh tế của Thế giới.
Hồng Kông có ít đất bằng phẳng và ít tài nguyên thiên nhiên, do đó phải nhập khẩu hầu hết thực phẩm và nguyên liệu. Hồng Kông là vùng lãnh thổ thương mại lớn thứ 11 thế giới, với tổng giá trị nhập khẩu và xuất khẩu vượt quá GDP của mình. Năm 2006, có 114 nước có lãnh sự quán ở Hồng Kông, hơn bất cứ thành phố nào trên thế giới. Phần lớn xuất khẩu của Hồng Kông là tái xuất khẩu, là những sản phẩm sản xuất bên ngoài lãnh thổ Hồng Kông, đặc biệt ở Trung Hoa đại lục và được phân phối thông qua Hồng Kông. Thậm chí ngay cả trước khi chuyển giao chủ quyền cho Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Hồng Kông đã thiết lập các quan hệ thương mại và đầu tư sâu rộng với Trung Hoa đại lục. Vị thế tự trị của nó đã giúp Hồng Kông có thể phục vụ như một điểm cửa ngõ cho đầu tư và các nguồn lực chảy vào Trung Hoa đại lục. Hồng Kông cũng là một điểm nối cho các chuyến bay từ Trung Hoa Dân Quốc từ trên đảo Đài Loan vào đại lục.
Đơn vị tiền tệ của Hồng Kông là Đô la Hồng Kông. Kể từ năm 1983, đồng tiền này đã được neo chặt vào đô la Mỹ. Đồng tiền này được phép trao đổi với một dải tỷ giá từ 7,75 và 7,85 đô la Hồng Kông ăn một đô la Mĩ. Sở giao dịch chứng khoán Hồng Kông lớn thứ sáu thế giới, với giá trị vốn hóa thị trường khoảng 1.710 tỷ USD. Năm 2006, giá trị các cuộc phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng thực hiện ở Hồng Kông xếp thứ 2 thế giới chỉ sau thị trường chứng khoán Luân Đôn.
Kinh tế Hồng Kông chủ yếu là dịch vụ. Tỉ trọng của khu vực này trong GDP của Hồng Kông lên đến 92,7%. Trong quá khứ, chế tạo là khu vực quan trọng nhất của nền kinh tế do Hồng Kông đã tiến hành công nghiệp hóa sau Chiến tranh thế giới thứ 2. Với xuất khẩu làm động lực, kinh tế Hồng Kông đã tăng trưởng với tốc độ bình quân hàng năm là 8,9% trong thập niên 1970. Hồng Kông đã trải qua một quá trình chuyển dịch nhanh sang một nền kinh tế dịch vụ trong những năm 1980, khi tốc độ tăng trưởng đạt 7,7% bình quân mỗi năm. Phần lớn các hoạt động sản xuất được chuyển qua Trung Hoa đại lục trong thời kỳ này và công nghiệp hiện nay chỉ còn chiếm 9% nền kinh tế. Khi Hồng Kông đã lớn mạnh để trở thành một trung tâm tài chính, tăng trưởng chậm lại xuống còn 2,7% mỗi năm trong những năm 1990. Cùng với Singapore, Hàn Quốc, và Đài Loan, Hồng Kông được gọi là một trong Bốn con hổ châu Á do tốc độ tăng trưởng cao và công nghiệp hóa nhanh chóng trong thời kỳ từ thập niên 1960 đến thập niên 1990.
Năm 1998, do hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á, nền kinh tế này đã sụt giảm 5,3%. Sau đó, nền kinh tế phục hồi với tốc độ tăng trưởng tới 10% năm 2000 dù giảm phát vẫn dai dẳng. Năm 2003, kinh tế Hong Kong đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng của dịch SARS, làm cho tốc độ tăng trưởng chỉ còn 2,3%. Sự hồi sinh của nhu cầu nội địa và bên ngoài đã dẫn đến một sự hồi sinh mạnh mẽ trong năm sau đó do sự chi phí giảm đã tăng năng lực cạnh tranh xuất khẩu của Hồng Kông. Giai đoạn giảm phát kéo dài 68 tháng đã chấm dứt vào giữa năm 2004 với chỉ số lạm phát theo giá hàng tiêu dùng xoay quanh mức zero. Từ 2003, chương trình Du lịch cá nhân đã cho phép những du khách từ một số thành phố Trung Quốc đại lục thăm Hồng Kông mà không cần đi theo đoàn. Kết quả là, ngành du lịch Hồng Kông đã thu lợi từ sự gia tăng du khách đại lục, đặc biệt là sự mở cửa của Khu giải trí Hong Kong Disneyland năm 2005. Nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ trong những năm tiếp theo với sự tin tưởng trở lại của người tiêu dùng và sự gia tăng thương mại.
Hồng Kông đặt ra mức thuế cá nhân và thuế doanh nghiệp thấp. Lo lắng trước việc thuế thu được quá ít và việc chi tiêu của chính quyền phụ thuộc quá nặng nề vào nguồn thuế từ các giao dịch bất động sản, chính quyền đã xem xét đưa ra một chính sách về Thuế dịch vụ và hàng hóa. Phản ứng ban đầu của người dân là hoàn toàn không hưởng ứng, vì họ lo rằng việc đánh thuế sẽ đặt gánh nặng quá mức lên người nghèo, và sẽ ảnh hưởng tới sự thu hút của Hồng Kông trong lĩnh vực du lịch. Vào tháng 1 năm 2007, chính quyền đã rút lại đề xuất này.
Khi Trung Quốc lục địa tự do hóa nền kinh tế, ngành vận tải biển của Hong Kong phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ các cảng Trung Quốc khác. Trong khi 50% hàng hóa thương mại của Trung Quốc được vận chuyển qua Hồng Kông vào năm 1997, con số này giảm xuống còn khoảng 13% vào năm 2015. Ngược lại, mức thuế thấp, hệ thống luật và dịch vụ dân sự hiệu quả của Hồng Kông đã thu hút các tập đoàn nước ngoài tìm cách thiết lập sự hiện diện ở châu Á. Thành phố có số trụ sở công ty cao thứ hai trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Ngoài ra, Hồng Kông là một cửa ngõ trực tiếp cho đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc.
Năm 2018, GDP của Hồng Kông xếp thứ 35 thế giới với giá trị 364 tỷ USD. GDP bình quân đầu người xếp hạng 16 thế giới với mức 48.429 USD.
Cảnh quan
Hồng Kông tự hào là thành phố có nhiều tòa nhà chọc trời nhất thế giới. Do đất chật người đông, đại đa số dân Hồng Kông sống trong những tòa nhà chung cư cao tầng. Những ngôi nhà gia đình đơn lẻ là cực kỳ hiếm và thường chỉ được tìm thấy ở những khu vực xa xôi hẻo lánh.
International Commerce Centre và Two International Finance Centre là những tòa nhà cao nhất ở Hồng Kông và là một trong số những tòa nhà cao nhất trong khu vực châu Á–Thái Bình Dương.
Văn hóa
Hồng Kông thường được mô tả là nơi phương Đông gặp phương Tây, điều này được phản ánh trong hạ tầng kinh tế, giáo dục và văn hóa đường phố. Trên một góc phố nào đó, có thể có các tiệm truyền thống Trung Hoa bán thảo dược Trung Hoa, các đồ dùng linh tinh có liên quan đến Phật giáo hoặc bát súp vi cá mập bằng chất dẻo. Nhưng tại góc phố tiếp theo, người ta có thể tìm thấy các rạp hát đang chiếu các bộ phim ăn khách của Hollywood, một quán rượu theo phong cách Anh, một nhà thờ Công giáo hoặc một quán thức ăn nhanh McDonald's. Ngôn ngữ chính thức của lãnh thổ này là tiếng Hoa và tiếng Anh; các biển hiệu bằng hai thứ tiếng này hiện diện khắp nơi ở Hồng Kông. Chính quyền, cảnh sát và phần lớn các nơi làm việc đều sử dụng cả hai thứ tiếng. Sự cai trị của người Anh đã kết thúc một thập kỉ trước nhưng văn hóa phương Tây vẫn thấm sâu vào Hồng Kông và cùng tồn tại liền mạch với triết lý và phong tục truyền thống phương Đông.
Hồng Kông có một cuộc sống về đêm náo nhiệt ở các quận giải trí — Lan Quế Phường, Tiêm Sa Chủy, Loan Tể... Những nơi này thường được người địa phương, du khách nước ngoài viếng thăm. Vào một ngày trời quang, Đỉnh Victoria cho khách tham quan một tầm nhìn ngoạn mục về thành phố này. Thành phố này có một khu đi dạo dọc theo bến nước Tsim Sha Tsui, nơi các đôi uyên ương ưa thích. Các hoạt động mua sắm thường diễn ra về đêm với ví dụ cụ thể là ở Chợ đêm phố Miếu Nhai nơi người ta cũng có thể xem Kinh kịch miễn phí.
Ẩm thực của thành phố cũng phong phú đa dạng. Ngoài ẩm thực phong phú đa dạng của các vùng miền Trung Quốc ra, đặc biệt là các món hải sản, Hồng Kông cũng có các nhà hàng Nhật Bản, châu Âu, Mĩ, Hàn Quốc và các nước khác. Các món ăn địa phương phục vụ ở các phòng trà và quầy bán đồ ăn cũng phổ biến. Dân Hồng Kông nghiêm túc trong việc ăn uống và nhiều đầu bếp từ khắp nơi đến đây để biểu diễn tài nghệ cho thực khách.
Trong khi Hồng Kông là một trung tâm thương mại toàn cầu, có lẽ sản phẩm xuất khẩu nổi tiếng nhất của thành phố này là ngành giải trí, đặc biệt là thể loại võ thuật, nhiều minh tinh quốc tế xuất thân từ Hồng Kông như: Lý Tiểu Long, Thành Long, Lý Liên Kiệt, Lương Triều Vỹ, Trương Mạn Ngọc. Những nhà làm phim Hồng Kông cũng làm nên sự nghiệp ở Hollywood như Ngô Vũ Sâm, Vương Gia Vệ, Từ Văn Quang và các biên đạo võ thuật đã thiết kế các cảnh giao chiến trong các phim Matrix trilogy, Kill Bill và Ngọa hổ tàng long. Nhiều phim sản xuất tại Hồng Kông cũng nhận được sự công nhận quốc tế như Tâm trạng khi yêu, Trùng Khánh Sâm Lâm, Vô gian đạo, Đội bóng Thiếu Lâm và Hồng phiên khu. Nhà làm phim nổi tiếng Quentin Tarantino từng cho rằng ông chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi phim hành động Hồng Kông. Hồng Kông cũng là trung tâm chính của thế giới về thể loại nhạc Cantopop. Trong lúc lãnh thổ này là nơi có nhiều ngôi sao, văn hóa karaoke cũng là một phần hoạt động về đêm của Hồng Kông.
Chính quyền Hồng Kông cũng ủng hộ các cơ quan văn hóa như Bảo tàng Di sản Hồng Kông, Bảo tàng Nghệ thuật Hồng Kông, Học viện Nghệ thuật biểu diễn Hồng Kông và Giàn nhạc giao hưởng Hồng Kông. Ngoài ra, Cục dịch vụ Văn hóa và Giải trí của chính quyền cũng bao cấp và tài trợ cho việc đưa các diễn viên quốc tế đến biểu diễn tại Hồng Kông.
Tôn giáo
Hồng Kông được hưởng mức độ tự do tôn giáo cao, một quyền được gìn giữ thiêng liêng và được bảo vệ thông qua bản hiến pháp của mình là Luật Cơ bản. Đa số dân chúng Hồng Kông, khoảng 6 triêu người, theo Phật giáo kiểu dân gian giống như ở Trung Hoa đại lục. Tổng số dân Hồng Kông ít hơn 7 triệu người, tức là khoảng gần 90% dân chúng theo Phật giáo (xem Phật giáo theo quốc gia). Một cộng đồng Kitô giáo có quy mô đáng kể hiện diện ở đây với khoảng 500.000 dân, chiếm 7% tổng dân số; cộng đồng này gần như chia đều giữa Công giáo và Tin Lành. Cũng có khoảng 200.000 tín đồ theo Phật giáo và Đạo giáo chính thống. Ngoài các tôn giáo lớn ra, còn có một số tín đồ theo các tôn giáo khác nữa, bao gồm 23.000 tín đồ Mormon, 3.000 Do Thái giáo và một số tín đồ Hồi giáo, Ấn Độ giáo, Sikh giáo và Bahá'í. Ngoài các chức năng tôn giáo, nhiều tổ chức tôn giáo đã thiết lập trường học và cung cấp các tiện ích phúc lợi xã hội.
Tính ngưỡng tôn giáo của Hồng Kông có liên hệ với vai trò lúc ban sơ của khu vực này là một làng chài. Thiên Hậu (hay Mụ Tổ), thần bảo hộ những người đi biển, đã được tôn thờ với nhiều đền thờ khắp Hồng Kông trong 300 năm qua. Hồng Thánh, một vị thần bảo hộ những người đi biển khác, cũng được tôn thờ trong nhiều thế kỷ. Tuy nhiên, các cư dân Hồng Kông, đặc biệt là những người thuộc thế hế hệ già tuổi hơn, thường viếng các đền chùa Đạo giáo và Phật giáo để cầu xin thần linh ban phước lành, sức khỏe hoặc cầu phát tài. Người ta dâng lễ trái cây hoặc thực phẩm và đốt nhang để cầu khấn.
Với việc chuyển giao Hồng Kông cho Trung Quốc, đã có một số lo ngại đáng kể về quyền tự do tôn giáo ở Hồng Kông. Dù Bắc Kinh đã cấm giáo phái Pháp Luân Công năm 1999, những môn đồ của giáo phái này vẫn được tự do hành đạo môn phái này ở Hồng Kông. Tương tự, Giáo hội Công giáo được tự do bổ nhiệm các Giám mục, linh mục của mình ở Hồng Kông, không giống như ở Trung Hoa đại lục nơi thể chế "Công giáo" được công nhận là Hội Công giáo Yêu nước Trung Hoa - nơi mà các Giám mục và linh mục được Bắc Kinh bổ nhiệm (dù cũng có một bộ phận bất hợp pháp và không chính thức của Công giáo vẫn giữ liên lạc với Tòa Thánh Vatican). Một vấn đề lớn trong tiến trình bình thường hóa quan hệ giữa Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Tòa Thánh là việc Bắc Kinh cứ khăng khăng yêu cầu Vatican chấm dứt quan hệ với Trung Hoa Dân quốc (Đài Loan). Hồng Kông là nơi duy nhất ở Trung Quốc có những người truyền giáo của Giáo hội Các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giêsu Kitô (Giáo hội Mormon).
Kiến trúc
Do đất đai chật chội, còn ít tòa nhà lịch sử tồn tại ở Hồng Kông. Thay vào đó, thành phố này đã trở thành một trung tâm của kiến trúc hiện đại, đặc biệt là ở trong và xung quanh khu vực Trung Tây. Các ngôi nhà chọc trời thương mại dày đặc giữa khu Trung Hoàn và khu Causeway Bay (Đồng La Loan) sắp hàng dọc theo bến cảng Victoria là một trong những địa điểm thu hút du khách của Hồng Kông và được liệt vào các đường chân trời đẹp nhất thế giới. Bốn trong số 15 tòa nhà chọc trời cao nhất thế giới nằm ở Hồng Kông. Ở Cửu Long, nơi đã từng là một khu định cư vô chính phủ có tên gọi là Cửu Long Trại Thành (Kowloon Walled City), các quy định hạn chế chiều cao các kết cấu đã có hiệu lực cho đến năm 1998 với việc đóng cửa sân bay Khải Đức gần đó. Với việc dỡ bỏ hạn chế chiều cao, nhiều nhà chọc trời mới ở Cửu Long đang được xây dựng, bao gồm tòa nhà Trung tâm Thương mại Quốc tế đã được khánh thành vào năm 2010.
Một trong những tòa nhà nổi bật ở Hồng Kông là Bank of China Tower do I. M. Pei thiết kế, tòa nhà hoàn thành năm 1990 và hiện là tòa nhà chọc trời cao thứ ba Hồng Kông. Tòa nhà này đã thu hút tranh cãi nãy lửa khi bắt đầu dự án vì các cạnh sắc nhọn của nó bị người ta cho là đẩy năng lượng phong thủy âm vào trung tâm Hồng Kông. Trước tòa nhà này, một cấu trúc khác là Tòa nhà Trụ sở của HSBC, hoàn thành năm 1985. Nó được xây trên địa điểm của tòa nhà chọc trời đầu tiên của Hồng Kông được hoàn thành năm 1935 và đã trở thành chủ đề của một đấu tranh bảo tồn di sản khốc liệt cuối thập niên 1970. Cả hai tòa nhà của ngân hàng được in trên nhiều tờ giấy bạc Hồng Kông.
Tòa nhà cao nhất ở Hồng Kông là International Finance Centre 2. Một trong những dự án xây dựng lớn nhất ở Hồng Kông và của thế giới là Sân bay Quốc tế Hồng Kông mới ở Xích Liệp Giác gần Lạn Đầu, một dự án lấn biển khổng lồ được kết nối với trung tâm Hồng Kông bằng Lantau Link nổi bật bằng ba cây cầu lớn mới là: Thanh Mã, cây cầu treo lớn thứ 6 thế giới; Cấp Thủy Môn, cây cầu dây văng (cable-stayed bridge) dài nhất thế giới dành cho cả giao thông đường bộ và đường sắt; và Đinh Cửu, cây cầu dây văng bốn nhịp đầu tiên của thế giới.
Đặc biệt đáng chú ý về cảnh chân trời và phố xá Hồng Kông là sự có mặt khắp nơi của các bất động sản nhà ở công, bắt đầu như là một chương trình tái định cư cho những người chiếm đất thập niên 1950 và ngày nay đã cung cấp nhà ở cho gần một nửa dân số. Các khu bất động sản này đã được nâng cấp từ các khu căn hộ không có thang máy 7 tầng với nhà vệ sinh công cộng và các tiện nghi tối thiểu, phân phối 24 m2 cho mỗi người lớn, nếu cho trẻ con thì được 12 m2/người thành các tòa nhà cao tầng chất lượng cao. Chương trình cho thuê công cộng này đã được bổ sung vào Kế hoạch Sở hữu Nhà do chính phủ trợ cấp.
Giao thông
Hồng Kông có một mạng lưới giao thông tinh vi và phát triển cao, bao gồm cả mạng lưới giao thông công cộng lẫn tư nhân. Hệ thống thống thanh toán bằng thẻ thông minh Octopus (Bát Đạt Thông) có thể được sử dụng để trả cước phí đi lại cho hầu như tất cả các tuyến đường sắt, xe buýt và phà ở Hồng Kông. Thẻ Octopus sử dụng công nghệ RFID (Nhận dạng bằng tần số radio) cho phép người sử dụng có thể quét thẻ mà không cần lấy nó ra khỏi ví hoặc túi xách. Tất cả những bãi đậu xe có đồng hồ đếm giờ ở Hồng Kông chỉ chấp nhận thanh toán bằng thẻ Octopus và việc thanh toán bằng thẻ Octupus có thể thực hiện ở nhiều bãi đỗ xe.
Địa hình Hồng Kông chủ yếu là đồi và dốc và một số phương pháp giao thông không thông thường đã được sáng chế để dễ dàng di chuyển lên xuống trên các sườn dốc. Ví dụ, tàu điện Peak Tram nối giữa khu Trung tâm và Đỉnh Victoria từ năm 1888 bằng cách men theo sườn núi. Ở Trung Tây khu, có một hệ thống thang cuốn lớn và các vỉa hè di động, bao gồm hệ thống thang cuốn có mái che ngoài trời dài nhất thế giới, đó là Thang cuốn Mid-levels.
Hồng Kông có nhiều phương thức vận tải đường sắt công cộng. Hai hệ thống tàu điện ngầm cho thành phố là MTR (Mass Transit Railway) và KCR có chức năng kết nối giữa Hồng Kông và Trung Hoa đại lục (KCR cũng vận hành một hệ thống đường sắt nhẹ ở Tây Bắc Tân Giới). Hệ thống MTR do công ty MTR Corporation Limited vận hành còn Kowloon-Canton Railway Corporation thì vận hành KCR. Hệ thống xe điện hoạt động ở các khu vực phía Bắc Hồng Kông và là hệ thống xe điện duy nhất trên thế giới chỉ chạy loại xe buýt hai tầng. Mass Transit Railway (MTR) là một mạng lưới đường sắt chở khách rộng lớn, kết nối 93 trạm tàu điện ngầm trên toàn lãnh thổ. Với số lượng người đi trên 5 triệu người mỗi ngày, hệ thống này phục vụ 41% tổng số hành khách vận chuyển công cộng trong thành phố và cực kỳ đúng giờ, đạt tỷ lệ đúng giờ 99,9% vào năm 2013.
Năm công ty riêng rẽ (KMB, Citybus, NWFB, Long Win và NLB) cung cấp dịch vụ xe buýt công cộng nhượng quyền ở Hồng Kông. Xe buýt hai tầng được du nhập vào Hồng Kông năm 1949. Hiện loại xe hai tầng này được sử dụng riêng biệt ở Hồng Kông, Singapore, Dublin và Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland. Tuy nhiên, xe buýt hai tầng vẫn được sử dụng cho các tuyến có nhu cầu thấp hoặc các tuyến đường có năng lực vận tải thấp. Xe buýt một tầng được sử dụng chủ yếu ở Đảo Lạn Đầu và phục vụ đêm. Phần lớn các tuyến xe buýt nhượng quyền bình thường ở Hồng Kông hoạt động đến tận 1h đêm. Xe buýt nhẹ công cộng chạy suốt chiều dài và chiều rộng của Hồng Kông, qua những khu vực nơi các tuyến xe buýt tiêu chuẩn không thể đến hoặc không thể chạy thường xuyên, nhanh chóng hoặc trực tiếp. Xe taxi cũng được sử dụng rộng rãi khắp Hồng Kông. 99% xe taxi của Hồng Kông chạy bằng khí hỏa lỏng, phần còn lại chạy bằng dầu diesel.
Phần lớn dịch vụ vận tải bằng phà do các công ty vận tải phà có giấy phép, phục vụ các đảo ngoài khơi, các khu phố mới trong Bến cảng Victoria, Ma Cao và các thành phố ở Trung Hoa đại lục. Loại phà xưa nhất, Star Ferry huyền thoại hoạt động trong bốn tuyến giữa bán đảo Cửu Long và Đảo Hồng Kông và đã cung cấp dịch vụ vận chuyển có hiệu quả về chi phí trong suốt một thế kỷ. Star Ferry phổ thông đối với những du khách ưu thích ngắm nhìn toàn cảnh bến cảng và đường chân trời, nhiều người dân Hồng Kông xem Star Ferry à một trong những biểu tượng văn hóa nổi bật nhất của thành phố. Ngoài ra, các phà 78 "kai-to" được cấp phép phục vụ cho các khu định cư ven biển xa xôi.
Hồng Kông có một sân bay quốc tế còn hoạt động có tên gọi Sân bay Quốc tế Hồng Kông tọa lạc tại đảo Xích Liệp Giác. Năm 1998, sân bay này đã thay thế sân bay quốc tế trước đây của Hồng Kông là Sân bay Khải Đức nằm ở Cửu Long, một sân bay đã được đóng cửa vào thời điểm thay thế. Sau một thời gian chậm trễ trong các hệ thống vận chuyển hàng hóa trong những tháng đầu, sân bay này hiện đang đóng vai trò là trung tâm vận chuyển cho khu vực Đông Nam Á và là trung tâm hoạt động chính của các hãng hàng không Cathay Pacific, Dragonair, Air Hong Kong, Hong Kong Airlines và Hong Kong Express. Ngoài ra, Skytrax đã bầu chọn Sân bay quốc tế Hồng Kông là sân bay tốt nhất thế giới và hãng hàng không Cathay Pacific đã được bầu chọn là hãng hàng không tốt nhất thế giới từ năm 2001 đến năm 2005. Sân bay Quốc tế Hồng Kông đã phục vụ hơn 36 triệu hành khách trong năm 2004 và 59,9 triệu lượt khách trong năm 2013.
Các phương tiện đi vào sân bay có 'Airport Express', 'CityFlyers' và 'Airbuses'. Các dịch vụ vận tải này kết nối sân bay với phần còn lại của Hồng Kông. Thời gian khách đi bằng Airport Express đến Trung tâm thành phố ở Đảo Hồng Kông chỉ mất 23 phút. Việc mở cửa gần đây của Nhà ga Sunny Bay của MTR cho phép người ta đến Khu Giải trí Disneyland Hồng Kông dễ dàng hơn.
Trong khi lưu thông ở Trung Hoa đại lục lái xe bên phải, Hồng Kông vẫn duy trì luật lệ giao thông riêng của mình với việc lưu thông lái xe bên trái. Có khoảng 517.000 xe cơ giới được đăng ký ở Hồng Kông, 64% số đó là xe hơi tư nhân. Là một đô thị xa hoa ở châu Á, Hồng Kông nổi tiếng thế giới là nơi có số lượng xe hơi Rolls-Royce đầu người cao nhất thế giới.
Lưu ý rằng mã đường quốc lộ Hồng Kông sử dụng một hệ thống báo hiệu như Anh Quốc trong khi hệ thống báo hiệu của Trung Quốc thì khác hẳn.
Giao thông Hồng Kông có điểm đặc biệt là đi bên trái như ở Anh Quốc, Thái Lan, Nhật Bản,... mà không đi bên phải như tất cả các tỉnh, thành phố khác ở Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Nhân khẩu
Xử Thống kê chính phủ ước tính nhân khẩu Hồng Kông tại thời điểm giữa năm 2019 là 7.482.500. Phần lớn dân số (92%) là người gốc Hán, hầu hết là người Đài Sơn, Triều Châu, Khách Gia, và một số dân tộc Quảng Đông khác. Tám phần trăm còn lại là các dân tộc thiểu số không phải người Hoa, chủ yếu là người Philippines, Indonesia và Nam Á. Khoảng một nửa dân số mang quốc tịch Anh – một di sản của chế độ thực dân; 3,4 triệu cư dân có quốc tịch Anh (ở nước ngoài), trong số đó có 260.000 công dân Anh sống tại Hồng Kông. Chính quyền sẽ tự động cấp quốc tịch Trung Quốc cho tất cả cư dân gốc Hoa sau khi chuyển giao chủ quyền, vì vậy người mang quốc tịch Trung Quốc cũng chiếm đa số. Mật độ dân số trung bình trên toàn đặc khu là khoảng 6.800 người/km². Nhưng nó lại không phản ánh mật độ thực vì chỉ có 6,9% đất dân cư, mật độ dân số trung bình của khu dân cư ước đạt 100.000 người/km².
Tiếng Quảng Đông, một phương ngữ Hán ngữ được sử dụng phổ biến ở vùng Hoa Nam, được 94,6% dân chúng nói, với 88,9% coi tiếng Quảng Đông là ngôn ngữ thứ nhất và 5,7% là ngôn ngữ thứ hai. Hơn một nửa dân số (53,2%) nói tiếng Anh, một ngôn ngữ chính thức khác; với 4,3% là người bản ngữ và 48,9% nói tiếng Anh như ngôn ngữ thứ hai. Việc chuyển mã (trộn lẫn tiếng Anh và tiếng Quảng Đông trong cuộc trò chuyện thân mật) là điều phổ biến trong cộng đồng song ngữ. Việc sử dụng tiếng Quan thoại, ngôn ngữ chính thức của Trung Quốc cũng đang tăng lên; 48,6% dân số nói tiếng phổ thông, với 1,9% là người bản ngữ và 46,7% nói tiếng này như ngôn ngữ thứ hai. Hán văn phồn thể được sử dụng trong văn bản, thay vì Hán văn giản thể được sử dụng ở đại lục.
Trong số dân theo tôn giáo, "tam giáo" truyền thống Trung Quốc (Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo) có nhiều tín đồ nhất (20%), theo sau là Thiên Chúa giáo (12%) và Hồi giáo (4%). Những người theo các tôn giáo khác, bao gồm đạo Sikh, đạo Hindu, đạo Do Thái và đạo Baháʼí, thường đến từ các vùng tôn giáo của họ chiếm ưu thế.
Tuổi thọ ở Hồng Kông là 82,2 tuổi đối với nam và 87,6 tuổi đối với nữ vào năm 2018, cao thứ sáu trên thế giới. Ung thư, viêm phổi, bệnh tim, bệnh mạch máu não và tai nạn là năm nguyên nhân hàng đầu gây tử vong của lãnh thổ. Nguồn tiền của hệ thống chăm sóc sức khỏe toàn dân chủ yếu đến từ thuế; trung bình, chính phủ sẽ chi trả 95% chi phí chăm sóc sức khỏe.
Bất bình đẳng về thu nhập gia tăng kể từ khi chuyển giao chủ quyền, chủ yếu là do dân số già dần dần cộng với số lượng người không lao động. Mặc dù thu nhập trung bình của hộ gia đình vẫn tăng đều đặn (tính đến năm 2016), nhưng chênh lệch tiền lương vẫn ở mức cao; chỉ có 90% người lao động nhận được 41 phần trăm tổng thu nhập. Hồng Kông là thành phố có nhiều tỉ phú nhất trên đầu người, với một tỷ phú trên 109.657 dân. Bất chấp những nỗ lực của chính phủ nhằm giảm bớt bất bình đẳng thu nhập, nhưng tiền lương trung bình của 10 phần trăm người có thu nhập cao nhất gấp 44 lần tiền lương của 10 phần trăm thu nhập thấp nhất.
Giáo dục
Là một thuộc địa Anh, hệ thống giáo dục của Hồng Kông gần như theo hệ thống giáo dục của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, và đặc biệt là hệ thống giáo dục Anh. Tại các cấp giáo dục chuyên nghiệp bậc đại học, cả hai hệ thống giáo dục Anh và Mỹ đều tồn tại. Đại học Hồng Kông (HKU), là trường đại học cổ nhất ở lãnh thổ này, đã có truyền thống dựa trên kiểu mẫu của Anh nhưng đã áp dụng nhiều yếu tố của Mỹ trong những năm gần đây. Xếp thứ hai sau HKU về thời gian thành lập là Đại học Trung văn Hồng Kông (CUHK) theo mô hình Mỹ với một hệ thống viện đặc trưng của Anh. Đại học Bách khoa Hồng Kông (PolyU) có từ năm 1937 và được đổi tên thành Đại học Bách khoa Hồng Kông vào năm 1994. Đây là một trong những trường đại học công lập theo luật định do Ủy ban Tài trợ Đại học (UGC) tài trợ. Đại học Khoa học Công nghệ Hồng Kông (HKUST) được thành lập theo mô hình giáo dục bậc đại học của Mỹ. Có 9 trường đại học công lập ở Hồng Kông và một số các cơ sở giáo dục bậc đại học tư thục. Đại học Lĩnh Nam ở Đồn Môn là một ví dụ tốt, đây là trường đại học duy nhất ở Hồng Kông có đào tạo kiểu giáo dục cơ bản (liberal arts education). Các trường công của Hồng Kông do Cục Giáo dục Đặc khu hành chính Hồng Kông quản lý.
Hệ thống giáo dục của Hồng Kông có đặc điểm: ba năm mẫu giáo không bắt buộc, tiếp theo là 6 năm phổ thông cơ sở và 3 năm phổ thông trung học bắt buộc và 2 năm phổ thông cao cấp (senior secondary education) không bắt buộc để được cấp bằng bằng trung học Hồng Kông (Hong Kong Certificate of Education Examination) và một khoá 2 năm học chương trình cao đẳng đại học để nhận bằng giáo dục cao cấp Hồng Kông (Hong Kong Advanced Level Examination). Một hệ thống giáo dục trung học cao cấp cải cách kiểu "3+3+4", trong đó có ba năm trung học thông thường, ba năm trung học cao cấp và bốn năm cao đẳng, đại học sẽ được áp dụng từ năm 2009 trở đi. Ngoài ra cũng có các cơ sở giáo dục bậc đại học đào tạo và cấp bằng cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ, chứng chỉ đại học đại cương (associate degree), cũng như các bằng cấp bậc đại học khác.
Phần lớn các trường phổ thông toàn diện ở Hồng Kông thuộc trong ba dạng sau: trường công (ít), trường được trợ cấp và trường tư. Các trường được trợ cấp cho đến nay là loại phổ biến nhất, trong đó có các trường được chính quyền hỗ trợ và phụ cấp ("aids-and-grant"). Các trường tư thường được điều hành bởi các tổ chức tôn giáo (chủ yếu là Cơ Đốc giáo nhưng cũng có một số thuộc về các tổ chức Phật giáo, Đạo giáo, Hồi giáo) với kỳ thi đầu vào dựa vào kết quả học tập hơn là khả năng tài chính. Ngoài hệ thống này là các trường dưới dạng Direct Subsidy Scheme (chương trình trực tiếp tài trợ) và các trường quốc tế tư thục.
Xếp hạng quốc tế
Hình ảnh
Xem thêm
Danh sách vùng đô thị châu Á
Đặc khu hành chính (Trung Quốc)
Chú thích và tham khảo
Ghi chú
Chú thích
Tham khảo
Sách in
Wasserstrom, Jeffrey. Vigil: Hong Kong on the Brink (2020) Online review
Luật và án lệ
Ấn phẩm học thuật
Báo cáo chính phủ
Tin tức và các bài báo tạp chí
{{chú thích báo |title=Hong Kong's PLA garrison no longer just symbolic, top brass say |publisher=South China Morning Post |url=http://www.scmp.com/news/china/diplomacy-defence/article/2098721/hong-kongs-pla-garrison-no-longer-just-symbolic-top |first=Nectar |last=Gan |first2=Tony |last2=Cheung |date=ngày 17 tháng 6 năm 2017|language=en|ref=
Web
Đọc thêm
A History of Hong Kong (Third Edition). Frank Welsh. HarperCollins. 1 tháng 10 1998. 624 pages. ISBN 1-56836-002-9.
Mathematical Modelling of Hong Kong Political and Economical Development. Derek Lam. Guangzhou Academic Press. 18 tháng 2 1986. 23 pages.
Hong Kong's History: State and Society Under Colonial Rule (Asia's Transformations). Tak-Wing Ngo. Routledge. 1 tháng 8 1999. 205 pages. ISBN 0-415-20868-8.
The Cinema of Hong Kong: History, Arts, Identity. Poshek Fu, David Deser. Cambridge University Press. 25 tháng 3 2002. 346 pages. ISBN 0-521-77602-3.
A Modern History of Hong Kong. Steve Tsang. I.B. Tauris. 14 tháng 5 2004. 356 pages. ISBN 1-86064-184-9.
An Outline History of Hong Kong. Liu Shuyong. 291 pages. ISBN 7-119-01946-5.
Forts and Pirates - A History of Hong Kong. Hong Kong History Society. Hyperion Books. tháng 12 năm 1990. ISBN 962-7489-01-8.
List of Graded Historical Buildings in Hong Kong - 6 tháng 1 năm 2007
Dang Thanh Tung from the Antiquities and Monuments Office
List of Declared Monuments in Hong Kong - 3 tháng 3 năm 2006 from the Antiquities and Monuments Office
Liên kết ngoài
Hong Kong trên BBC News
Key Development Forecasts for Hong Kong trên International Futures
Chính phủ
GovHK – Cổng thông tin điện tử Chính phủ Đặc khu hành chính Hồng Kông
Discover Hong Kong – Ban Du lịch Hồng Kông
Thương mại
World Bank Summary Trade Statistics Hong Kong
Bản đồ
Bài Trung Quốc chọn lọc
Quốc gia và vùng lãnh thổ nói tiếng Anh
Thành phố của Trung Quốc
Vùng đô thị của Trung Quốc
Biển Đông
Đồng bằng Châu Giang
Hoa Nam
Thành phố cảng ở Trung Quốc
Quốc gia và vùng lãnh thổ nói tiếng Trung Quốc
Đặc khu hành chính Trung Quốc
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
|
22055
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mi%E1%BB%85n%20d%E1%BB%8Bch
|
Miễn dịch
|
Miễn dịch (hay miễn nhiễm) là tập hợp tất cả các cơ chế sinh học giúp cho một cơ thể đa bào giữ được sự liên kết giữa các tế bào và các mô, đảm bảo sự toàn vẹn của cơ thể bằng cách loại bỏ những thành phần bị hư hỏng cũng như các chất và sinh vật xâm hại. Chức năng bảo vệ cơ thể bao gồm hai loại cơ chế miễn dịch, lần lượt xuất hiện trong quá trình tiến hóa của các loài và liên hệ chặt chẽ với nhau ở các động vật bậc cao:
Miễn dịch tự nhiên (hay miễn dịch không đặc hiệu), đáp ứng tức thì.
Miễn dịch thu được (miễn dịch đặc hiệu), đáp ứng sau vài ngày với đặc điểm là khả năng "ghi nhớ".
Ở cấp độ phân tử, cả hai cơ chế đều có khả năng phân biệt ("nhận diện") các thành phần của cơ thể, tức cái "ta" với tất cả những phân tử khác gọi chung là cái "không ta".
Miễn dịch đặc hiệu xuất hiện vào thời điểm phân kỳ giữa động vật có xương sống và động vật không xương sống cách đây 500 triệu năm. Miễn dịch tự nhiên có tính nguyên thủy hơn, cần thiết cho sự sinh tồn của mọi sinh vật.
Từ nguyên
Từ miễn dịch hay miễn nhiễm liên quan đến các bệnh truyền nhiễm trong lịch sử. Người ta nhận thấy những bệnh nhân bị một bệnh nhất định nhưng đã khỏi có khả năng không mắc lại căn bệnh đó về sau (miễn), kể cả khi bệnh truyền nhiễm đó lan tràn với tính chất dịch.
Bạch Cầu
Có ba loại bạch cầu tham gia vào việc tiêu diệt vi rút khi xâm nhập vào cơ thể con người:
Bạch cầu trung tính và bạch cầu mônô chui ra khỏi mạch máu để tới ổ viêm, hình thành chân giả nuốt vi khuẩn vào trong tế bào rồi tiêu hóa
Tế bào B (limpho B) tiết ra kháng thể để vô hiệu hóa vi khuẩn
Tế bào T (limpho T) nhận diện, tiếp xúc với vi khuẩn và tiết ra protêin đặc biệt làm tan tế bào bị nhiễm vi rút
Các loại miễn dịch
Miễn dịch tự nhiên
Có hai loại:
Các loại bệnh của gia súc, gia cầm như lở mồm long móng, toi gà,... không thể xâm nhập được vào cơ thể người là miễn dịch bẩm sinh
Người nào đã từng một lần bị bệnh nhiễm khuẩn nào đó thì sau này sẽ không bị mắc bệnh đó nữa (sởi, thủy đậu, quai bị,...) đây là miễn dịch tập nhiễm
Miễn dịch nhân tạo
Có hai loại
Người nào đã từng được tiêm phòng (viêm gan B, viêm gan A, Ung thư cổ tử cung, thủy đậu, viêm phổi, viêm phế quản, thương hàn,...) tỉ lệ nhiễm các bệnh này sẽ thấp hoặc không có, đây là miễn dịch chủ động
Khi con người bị bệnh (cảm cúm, sốt, ho, tiêu chảy, sốt xuất huyết,..) thường đến các bệnh viện hay cơ sở y tế để được chữa trị, uống các loại thuốc để tăng hệ miễn dịch chống lại vi rút là miễn dịch bị động (miễn dịch khi đã mắc bệnh).
Tham khảo
Liên kết ngoài
The Immune System (Hệ miễn dịch)
Đái Duy Ban, Miễn dịch
Miễn dịch học
Hệ miễn dịch
|
22056
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1i%20Uy%C3%AAn
|
Đại Uyên
|
Đại Uyên (từ chữ Hán: 大宛; bính âm: dàwǎn, Dayuan hay Dawan, nghĩa đen: Ionia lớn, một số tài liệu tiếng Việt phiên âm là Đại Uyển) là một dân tộc và quốc gia cổ ở Tây Vực thời nhà Hán, thuộc tộc người Ferghana ở thung lũng Ferghana ở Trung Á. Các cổ thư Trung Quốc như Sử ký và Hán thư miêu tả dân tộc này dựa trên các cuộc hành trình của nhà thám hiểm Trung Quốc Trương Khiên vào năm 130 TCN cũng như của các sứ giả khác sang Trung Á sau đó.
Vùng Đại Uyên thời cổ nổi tiếng với nhiều giống ngựa tốt trong đó có giống ngựa đen mõm trắng có một vệt trắng dọc giữa khuôn mặt và chân chấm trắng (Ngựa Đại Uyên).
Theo một số nhà nghiên cứu, Đại Uyên là người thuộc thế giới Hy Lạp. Biên niên sử từ Đế chế Trung Quốc mô tả Đại Uyên là một dân tộc định cư với đôi mắt tròn của một nền văn hóa Ấn-Âu. Cách sống của họ rất giống với người Bactria ở Vương quốc Hy Lạp-Bactria. Ngoài ra, người Đại Uyên được mô tả là thợ thủ công lành nghề, cư dân thành phố, người chăn ngựa và người yêu rượu vang.
Người Đại Uyên là hậu duệ của các kiều dân Hy Lạp được Alexandros Đại đế cho định cư tại Ferghana vào năm 329 TCN (xem Alexandria Eschate), họ đã phát triển thịnh vượng dưới thời các vương quốc Hy Lạp hóa như là nhà Seleukos và Vương quốc Hy Lạp-Bactria cho đến khi bị cô lập bởi sự di cư của người Nguyệt Chi vào khoảng năm 160 TCN. Tên gọi "Uyên" dường như là một sự chuyển tự đơn giản của từ yavana trong tiếng Phạn hoặc là của từ yona trong tiếng Pali, chúng được sử dụng trong suốt thời kỳ cổ đại ở châu Á để chỉ người Hy Lạp ("người Ionia"), vì thế Đại Uyên có nghĩa là "người Ionia Lớn" hay "người Hy Lạp Lớn".
Vào khoảng năm 100 TCN, Đại Uyên bị nhà Hán đánh bại trong chiến tranh Hán-Đại Uyên. Sự tác động qua lại giữa người Đại Uyên và người Trung Quốc về mặt lịch sử là then chốt, do nó đại diện cho một trong những tiếp xúc chính yếu giữa nền văn hóa phương Tây đô thị hóa và nền văn hóa Trung Quốc, mở đường cho sự hình thành của con đường tơ lụa kết nối phương Đông và phương Tây trao trao đổi vật chất và văn hóa từ thế kỷ I TCN tới thế kỷ XV.
Xem thêm
Ngựa Đại Uyên
Chiến tranh Hán-Đại Uyên
Tham khảo
Liên kết ngoài
Tiếng Anh:
Selection from the Han narrative stories
Dân tộc cổ Trung Quốc
Các nước cổ tại Trung Quốc
Lịch sử Trung Á
Người Hy Lạp cổ tại châu Á
|
22067
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%99i%20qu%C3%A1n%20Qu%E1%BA%A3ng%20Tri%E1%BB%87u
|
Hội quán Quảng Triệu
|
Hội quán Quảng Triệu có thể là một trong số các hội quán của người Hoa gốc Quảng Đông sau đây:
Hội quán Quảng Triệu (Thành phố Hồ Chí Minh): nằm trên đường Võ Văn Kiệt (Bến Chương Dương cũ), Quận 1
Hội quán Quảng Triệu (Cần Thơ): nằm trên đường đường Hai Bà Trưng, đối diện với Bến Ninh Kiều
Hội quán Quảng Triệu (Hội An): nằm trên đường Trần Phú tại khu phố cổ Hội An
|
22115
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Formosa
|
Formosa
|
Formosa có thể là:
Đài Loan
Đài Loan Dân chủ
Tập đoàn nhựa Formosa (FPG) là một trong những nhà sản xuất nhựa lớn nhất châu Á, hoạt động đa ngành có trụ sở tại Đài Loan.
Formosa Vũng Áng, Công ty TNHH gang thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh (FHS) tại Việt Nam, chi nhánh của tập đoàn nhựa Formosa Plastics Group Đài Loan.
Tỉnh Formosa, nằm ở miền Bắc Argentina
Thành phố Formosa, thủ phủ của tỉnh Formosa, miền Đông bắc Argentina
|
22136
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A3o%20Ng%E1%BB%8Dc
|
Đảo Ngọc
|
Đảo Ngọc có thể là:
Đảo Ngọc hay đảo Ngọc Sơn: nằm giữa Hồ Gươm, Hà Nội, nơi xây dựng đền Ngọc Sơn
Đảo Ngọc Vừng hay đảo Ngọc: một hòn đảo thuộc quần đảo Cát Bà
Đảo Ngọc hay cù lao Bãi Ngựa: là một hòn đảo nhỏ nằm trong vịnh Gành Rái, quản lý bởi chính quyền thành phố Vũng Tàu. Hòn đảo có diện tích nhỏ, chỉ khoảng 30 ha khi thủy triều xuống. Đảo là một bãi đầm phá bao quanh bởi rừng ngập mặn, chính giữa là đầm nước.
Biệt danh của đảo Phú Quốc.
Ngọc, đảo
|
22140
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C3%B3i
|
Ngói
|
Ngói là loại vật liệu được thường sử dụng để lợp mái các công trình xây dựng. Tùy theo cách thức chế tạo, phương pháp sản xuất, nguyên liệu sản xuất, công nghệ sản xuất hoặc phạm vi sử dụng để có thể phân thành nhiều loại và nhiều tên gọi khác nhau.
Từ nguyên
Từ ngói là một từ Hán Việt cổ, bắt nguồn từ cách phát âm trong tiếng Hán thượng cổ của một từ tiếng Hán được viết bằng chữ Hán là “瓦”. Chữ Hán “瓦” có âm Hán Việt tiêu chuẩn hiện đại là ngoã. William H. Baxter và Laurent Sagart phục nguyên cách phát âm trong tiếng Hán thượng cổ của từ “瓦” là *C.ŋʷˤra[j]ʔ.
Phân loại ngói lợp
Ngói đất nung
Được chế tạo chủ yếu từ đất sét, qua các công đoạn phức tạp như ủ đất, cán, nhào, đùn ép, hút khí... để tạo thành những tấm nhỏ (galet). Sau quá trình phơi ủ sẽ chuyển sang tạo hình bằng phương pháp dập dẻo. Tùy theo hình dáng và vị trí sử dụng của sản phẩm cuối cùng, ngói được đặt những tên gọi khác nhau.
Ngói mộc được sấy tự nhiên hoặc cưỡng bức đến một độ ẩm cần thiết. Sản phẩm ngói mộc sau khi khô có thể tráng men hoặc không tráng men, được xếp vào lò nung. Dưới tác dụng của nhiệt, thông thường khoảng 1000 °C –1150 °C, đất sét kết khối, rắn chắc lại nên có độ hút nước thấp và hình dáng ổn định.
Một số công nghệ có thể thêm thiết bị, ngược lại một số lại bỏ bớt một vài công đoạn, tất cả đều có ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm.
Có thể nung ngói trong các lò thủ công hoặc lò tự động, lò liên tục hay gián đoạn. Ngói không tráng men chỉ cần nung 1 lần, riêng ngói tráng men có thể nung 1 hoặc 2 lần.
Ngói đất nung không tráng men (ngói đất truyền thống)
Ngói 22 v/m². Đây là loại ngói tuy không có tên gọi cụ thể nhưng là loại thông dụng nhất.
Ngói 20 v/m².
Ngói 10 v/m².
Ngói vảy cá, vảy rồng.
Ngói con sò.
Ngói hếch còn gọi là ngói mũi hài đơn (và kép).
Ngói liệt: còn gọi là ngói ván hoặc ngói bằng.
Ngói âm.
Ngói dương.
Ngói chữ S.
Ngói ống (hay ngói tiểu) – Ngói câu đầu.
Ngói úp nóc, ngói chạc 3, chạc 4, ngói đuôi, ngói rìa...
Ngói đất nung tráng men
Ngói tráng men: Các loại ngói đất nếu được phủ men gốm thông thường, sau khi nung xong được gọi là ngói tráng men.
Ngói lưu ly: Các loại ngói âm, dương, ống, câu đầu, trích thủy, liệt nếu được tráng men thanh lưu ly(青琉璃), hoàng lưu ly(黃琉璃) hoặc bích lưu ly(碧琉璃) thì được gọi là ngói lưu ly.
Ngói vỏ quế, tên chữ là ngói la-qua (羅堝瓦): là loại ngói ống tráng men nhưng nhỏ và dài hơn, không có chuôi ngói như ở ngói lưu ly
Ngói trang trí
Một số loại ngói trên được chế tạo với kích thước nhỏ, có thể tráng men hoặc không dùng để dán trên mái đã được đúc sẵn (thường là mái betông) được gọi là ngói trang trí vì chúng không có tác dụng chính là lợp (chống mưa nắng).
Ngói xi măng, ngói không nung hay ngói màu
Được chế tạo bởi vữa xi măng và sơn phủ bột màu. Vữa xi măng sau khi trộn được đổ vào khuôn kim loại, được nén chặt bằng búa gỗ (sản xuất thủ công) hoặc rung bằng máy (sản xuất công nghiệp). Sau đó chuyển sang công đoạn bảo dưỡng trong một thời gian nhất định.
Hiện nay, tại Việt Nam, các nhà sản xuất sử dụng hai loại công nghệ chính cho việc sơn phủ lên ngói xi măng: công nghệ khô và công nghệ ướt.
Với công nghệ phủ màu khô: Sơn acrylic được phun lên bề mặt ngói trong trạng thái khô sau khi sấy. Tiến trình này đơn giản như sơn nhà và việc chọn lựa màu sắc phun cho ngói cũng rất dễ dàng. Tuy nhiên, công nghệ này không đáp ứng được nhu cầu về độ bền của màu sắc cho sản phẩm. Sự gắn kết lỏng lẻo giữa lớp sơn acrylic và bề mặt ngói sẽ sớm bị bong tróc theo thời gian. Hơn thế nữa, màu sắc sẽ rất chóng phai do sơn acrylic có tính nhạy cảm cao với tia cực tím.
Trái ngược với công nghệ nêu trên là công nghệ phủ màu ướt WET on WET hiện đang được các nhà sản xuất ngói bê tông hàng đầu thế giới áp dụng. Công nghệ ướt nổi bật ở chỗ bột màu được hoà lẫn với vữa hồ và phun trực tiếp lên bề mặt viên ngói còn ướt, ngay sau khi ngói vừa được định dạng, nhằm tạo ra mối liên kết chặt chẽ giữa lớp màu sơn và bề mặt ngói. Thực tế kiểm nghiệm cho thấy với công nghệ này, màu sắc ngói được giữ lâu bền hơn so với ngói màu làm từ công nghệ khô.
Ngói composite
Một số nơi còn dùng ngói composite vì nó có hệ số giãn nở nhiệt tương thích khí hậu vùng đó, điều mà các loại ngói xi măng hay ngói đất nung không thể đáp ứng.
Ngói Ác - đoa
Ngói Ác - đoa (Ardoise): là loại ngói khai thác từ đá trầm tích của Pháp, có màu đen nhánh như than đá, hình dáng như kiểu ngói mũi hài hoặc có hình chữ nhật.
Một số kiểu lợp ngói
Kiểu lợp ngói xi măng
1. Lắp đặt cây mè sao cho khoảng cách giữa các cây mè đều nhau và nằm trong khoảng 320 – 340 mm. Riêng cây mè dưới cùng phải cách điềm mái 345 mm và cặp 2 cây mè trên nóc cách nhau chừng 40 – 60 mm.
2. Đặt lần lượt từng viên ngói vào khung theo chiều hướng lên từ hàng thấp nhất.
3. Lắp vít vào ngói để giữ viên ngói ổn định tại mỗi 2 hàng.
4. Không trám vữa vào khoảng trống rìa cũng như không tạo những lỗ nhỏ với đường kính 6mm tại rãnh thoát nước trên viên ngói dọc theo chiều dài rìa.
5. Cắt ngói dọc hông sao cho rãnh của chúng càng nhỏ càng tốt. Không trét vữa phủ lên khoảng trống hông mái và không cần tạo lỗ dọc theo hông mái.
6. Phải dùng miếng xốp hay giẻ khô để làm sạch vết vữa xi-măng trên ngói chính và ngói nóc khi vữa có màu trắng (vữa khô).
7. Sơn phủ vữa bằng sơn lên vữa dọc theo nóc và hông mái, đồng thời không là sơn rớt lên ngói chính và ngói nóc.
8. Khoảng cách ngói tại khe mái khoảng chừng 30-50mm và dùng sơn để sơn tại gờ viên ngói được cắt.
9. Không dùng vữa gắn giữa 2 viên ngói nóc, tại giữa ngói nóc với ngói hông mái và xung quanh khe mái bằng mọi cách.
Kiểu lợp thông thường
Trên một mái đã được lắp đặt gỗ hoàn chỉnh, người thợ tính chỉ cần đặt những viên ngói sát nhau hoặc chồng lên nhau theo các gờ chỉ đã được định hình trên viên ngói. Tại các vị trí như nóc, bờ quyết hoặc các chỗ giao của mái, người ta có thể dùng ngói úp nóc, ngói chạc 3, chạc 4 để úp vào và dán lại bằng hồ vữa xi măng.
Một số vùng hay có gió bão, người ta phải xâu dây thép vào những lỗ đã được đục sẵn trên viên ngói và cố định chúng bằng cách buộc vào phần gỗ hoặc sắt bên dưới.
Kiểu lợp ngói lưu ly
Một số thuật ngữ
Nê ngõa tượng cục: xưởng chuyên sản xuất gạch ngói.
Nê ngõa tượng: thợ lợp ngói.
Ngõa Tượng (nghĩa đen là thợ ngói): là một cựu tích được lưu lại qua địa danh Ngõa Tượng, là tên gọi một xóm nhỏ nằm giữa hai làng La Khê và Địa Linh, thuộc xã Hương Vinh, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên-Huế, nơi có nhiều người làm nghề này.
Ngày nay, người ta dùng thuật ngữ nghệ nhân hoặc thợ chính, thợ kép... để chỉ những người thợ có khả năng lợp ngói lưu ly.
Ví dụ: Trương Văn Ấn được phong là nghệ nhân nề ngoã, gia đình ông đã có 7 đời làm nghề này.
Gầy nóc (hay còn gọi là gầy mái)
Trên một mái đã được lắp đặt gỗ hoàn chỉnh, người thợ tính toán để đặt những viên ngói đầu tiên tại nóc và khoá chặt chúng bằng hồ vữa truyền thống hoặc vữa xi măng. Thực chất chính là thao tác sắp xếp, định vị và liên kết các viên ngói tại vị trí góc trên của mái (bờ nóc, bờ quyết)cho công đoạn lợp mái sau này. Trong quá trình gầy mái, ngoài việc định vị, sắp xếp các ngói theo quy cách truyền thống, người thợ còn phải căn chỉnh cho các viên ngói được nằm trên cùng một mặt phẳng, tạo bằng vữa lợp và ngói liệt không men. Dùng hồ vữa truyền thống hoặc vữa xi măng để hoàn thiện bờ nóc, bờ quyết.
Trên đây là những công đoạn khó khăn nhất, đòi hỏi kỹ thuật cao và chiếm nhiều thời gian nhất, bởi những viên đầu tiên sẽ làm căn cứ hay làm chuẩn để lợp ngói phần mái còn lại. Dựa theo hàng ngói đã được định vị ở bờ nóc, bờ quyết, các viên ngói âm dương tiếp tục được xếp dần từ trên xuống dưới. Viên cuối cùng được khóa lại, và cũng để trang trí bằng các viên ngói câu đầu và trích thủy.
Lắp dựng con giống
Các con giống như rồng, phụng, tứ linh... hoặc các hình khối trang trí khác có thông thường được chế tạo từ trước được vận chuyển và lắp dựng tại những vị trí cần thiết như đỉnh nóc, đầu hồi...
Lợp ngói liệt chiếu
Liệt chiếu là loại ngói liệt được phủ men toàn bộ một mặt ngói; khi lợp, phần men hướng xuống dưới. Ngói liệt chiếu có tác dụng làm thành một mặt phẳng để dán các loại ngói khác lên trên; mặt men hướng xuống dưới để làm đẹp cho mái khi nhìn từ dưới lên.
Theo chiều dốc mái từ trên xuống, cứ cách khoảng vài lối ngói liệt chiếu, người ta phải đóng thêm những thanh gỗ nhỏ, dài (gọi là lách chặn) để ngăn chặn sự trượt của mái ngói, nếu mái càng dốc, số lượng lách chặn phải tăng.
Kích thước cơ bản là: 180 mm × 140 mm.
Lợp ngói liệt độn hay liệt thí
Là loại ngói liệt không men, được dán trên lớp liệt chiếu, có thể từ 1 đến 3 lớp. Tác dụng của nó là khoá chặt lớp liệt chiếu, tạo mặt phẳng (hơn) để dán các loại ngói khác lên trên.
Lợp mái ngói chính
Mái ngói âm dương (Ngói lưu ly)
Từ ngàn xưa thì ngói âm dương đã gắn liền với các công trình kiến trúc của Việt Nam. Bạn có thể dễ dàng bắt gặp bất cứ nơi đâu trên đất Việt, từ phố cổ Hội An với những ngôi nhà cổ kính, hay những mái nhà quen thuộc nơi phố xá hay làng quê. Ngói âm dương ra đời tại Việt Nam là một thành quả, một sự sáng tạo của con người trong suốt quá trình lao động miệt mài. Đây là thành quả đáng trân trọng trong lĩnh vực kiến trúc xây dựng. Nó được sử dụng khá phổ biến trên khắp vùng miền chữ S này. Mái ngói cùng đường nét hoa văn chạm khắc nâng niu được xuất hiện từ các tỉnh miền núi phía Bắc, đến miền Trung, miền Nam. Chính mái ngói đã khiến ngôi nhà mang một vẻ đẹp hoài cổ, sang trọng, trở thành một nét đẹp văn hóa trong bản sắc người Việt.
Ngói âm và ngói dương có hình như là một phần của hình chóp cụt bị cắt bởi một mặt phẳng song song trục tâm, nó có một đầu lớn và một đầu bé. Ngói dương là ngói được tráng men một phần ở mặt lồi, còn ngói âm là ngói được tráng men một phần ở mặt lõm.
Kích thước cơ bản (đầu lớn nhất - đầu bé nhất - chiều dài viên ngói) là: 240-220-240 hoặc 210-190-210 mm. Chưa thấy có tài liệu nào nói về bán kính cong của loại ngói này.
Khi lợp ngói, các viên hàng trên lợp trùm lên 2/3 viên ở ngay hàng sát dưới. Ngói âm lợp dưới, ngói dương lợp úp lên trên khe tạo bởi hai viên ngói âm trên cùng hàng ngang để làm kín nước. Trọng lượng của 1 m² ngói âm dương từ 160–180 kg trong trường hợp ngói hoàn toàn khô.
Liên kết giữa ngói âm và ngói dương là lớp vôi vữa truyền thống hoặc vữa xi măng thông thường. Nếu chất lượng ngói và kỹ thuật lợp không tốt, đặc biệt vào mùa mưa ở Huế, trọng lượng mái thường tăng do độ hút nước của ngói, điều này có thể làm ảnh hưởng đến hệ khung kết cấu công trình. Kinh nghiệm của thợ lợp để mái khỏi bị dột vào mùa mưa là làm sao tạo một độ rỗng nhất định phía dưới viên ngói dương. Ở hàng ngói cuối cùng (tính từ trên xuống), người ta sử dụng ngói câu đầu (鉤頭瓦) hoặc trích thủy (滴水瓦) để tăng độ thẩm mỹ của mái ngói.
Trong xây dựng, đối với các lớp ngói hoàn thiện trên cùng, cần có chú trọng đặc biệt về đường phân thủy và số lượng hàng ngói đếm theo chiều dọc công trình. Số lượng trung bình số viên ngói (cả âm và dương) cho 1 m² mái lợp là 84 viên khi lợp theo đúng công nghệ truyền thống.
Ngói âm dương với ưu điểm độ bền cao, cấu trúc thiết kế lợp đặc biệt mang đến sự thoáng mát vào mùa hè ấm áp vào mùa đông thường được sử dụng cho các công trình hành chính nhà nước hoặc nhà tầng lớp cao, quan lại, kiến trúc tôn giáo.
Mái ngói âm ống
Gọi là mái ngói âm ống vì dùng hai loại ngói: ngói âm (tương tự trên) và ngói ống. Ngói ống là loại ngói có hình ống hai bậc hoặc hình chóp cụt bị cắt bởi mặt phẳng trùng với tâm ống, và được tráng men một phần của mặt lồi.
Kích thước cơ bản (chiều dài toàn bộ - chiều dài hữu ích - đường kính lớn nhất) là: 300-240-170 hoặc 230-180-120 mm.
Về cách lợp, có thể nói tương tự kiểu lợp ngói âm dương. Tuy nhiên vì kích thước viên ngói ống có khác so với ngói dương nên số lượng ngói khác nhau.
Ở hàng ngói cuối cùng (tính từ trên xuống), người ta sử dụng ngói câu đầu hoặc trích thủy để tăng độ thẩm mỹ của mái ngói.
Mái ngói liệt men
Gọi là mái ngói liệt men là do dùng lớp ngói liệt tráng men. Khác với ngói liệt chiếu, viên ngói liệt này chỉ được tráng men một phần trên bề mặt.
Kích thước cơ bản (chiều dài - chiều dài hữu ích - chiều rộng) là: 180-10-180 mm.
Khi lợp, các viên ngói được đan cài nhau theo kiểu lòn ba hoặc lòn tư (lóng ba, lóng tư).
Một số kiểu đặc biệt khác
Với một mái đã được đúc bêtông, người ta có thể tạo hình mái ngói bằng hồ vữa hoặc dán lên bất cứ loại ngói nào người ta yêu thích và có thể gọi đó là mái ngói giả hay mái giả ngói hay giả mái ngói...
Trong trường hợp này, ngói có chức năng trang trí là chủ yếu. Chức năng bao che chống mưa nắng chỉ còn là yếu tố phụ
Tham khảo
Vật liệu xây dựng
|
22142
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/MM
|
MM
|
MM có thể chỉ đến:
M&M's, nhãn hiệu sôcôla
Số 2.000 hay năm 2000 trong chữ số La Mã
Mega ManCử nhân Quản lý
Myanmar (MM)
1 triệu, trong tài chính Anh/Mỹ (ý nói 1000 nhân 1000)
Marilyn Monroe
Mm có thể chỉ đến:
Mêgamét
mm có thể chỉ đến:
Milimét
Danh sách các từ kết hợp từ hai chữ cái
|
22154
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/G%C3%BCnter%20Grass
|
Günter Grass
|
Günter Wilhelm Grass (16 tháng 10 năm 1927 – 13 tháng 4 năm 2015) là một nhà văn người Đức đoạt Giải Nobel Văn học năm 1999.
Tiểu sử
Thời niên thiếu
Ông sinh ngày 16 tháng 10 năm 1927 ở Danzig-Langfuhr, nay là Gdansk (Danzig) thuộc Ba Lan. Sinh ra trong một gia đình có cha mẹ làm nghề buôn bán nhỏ, thành phố quê hương ông cũng như những ngày thơ ấu sống ở đây đã là cảm hứng cho nhiều tác phẩm của ông.
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai ông đã tình nguyện đăng ký tòng quân cho quân đội Đức Quốc xã khi 15 tuổi. Vào ngày 10 tháng 11 năm 1944, khi 17 tuổi, ông được gọi vào sư đoàn tăng SS số 10 "Frundsberg" của Waffen-SS Vào ngày 8 tháng 5 năm 1945 ông bị bắt làm tù binh tại Marienbad và đã ở trong trại giam tù binh cho đến ngày 24 tháng 4 năm 1946. Khi bị bắt giam Grass đã tự nhận với người Mỹ rằng ông là thành viên của Waffen-SS. Thế nhưng mãi đến tháng 8 năm 2006 ông mới công khai thừa nhận việc này. Trước đó, trong các tiểu sử đã được công bố của nhà văn, ông chỉ là thiếu niên phụ giúp cho lực lượng phòng không trong năm 1944 và sau đó được gọi đi lính
Thời gian học tập và gia đình
Trong thời gian 1947/1948 ông thực tập tại một thợ đá ở Düsseldorf. Chính những năm tháng lao động này đã cho ông nhiều kinh nghiệm quý và ảnh hưởng đến những tác phẩm của ông sau này.
Trước khi chuyển sang viết văn, ông đã học hội họa và điêu khắc ở Viện Nghệ thuật Düsseldorf (Kunstakademie Düsseldorf) từ năm 1948 cho đến 1952 và tiếp tục học tại Đại học Mỹ thuật Berlin (Universität der Künste Berlin) từ năm 1953 đến năm 1956, là học trò của nhà điêu khắc Karl Hartung. Sau đó ông sống tại Paris cho đến năm 1959. Năm 1960 ông lại chuyển về Berlin-Friedenau, nơi ông cư ngụ đến năm 1972. Từ 1972 đến 1987 ông sống tại Wewelsfleth ở bang Schleswig-Holstein.
Năm 1954 ông kết hôn với bà Anna Schwarz. Từ đầu năm 1956 cho đến đầu năm 1960 ông cùng vợ sống tại Paris, nơi bản thảo của quyển Cái trống thiếc ra đời. Hai anh em sinh đôi Franz và Raoul ra đời tại đấy trong năm 1957. Năm 1961, sau khi trở về Berlin là người con gái Laura, tiếp theo đấy năm 1965 là con trai Bruno và năm 1974 là con gái Helene. Cuộc hôn nhân với Anna Schwarz tan rã năm 1978. Năm 1979 ông kết hôn với Ute Grunert và sống với bà ở Ấn Độ, phần nhiều là ở Kolkata từ tháng 8 năm 1986 cho đến tháng 1 năm 1987.
Thời gian sáng tạo và hoạt động chính trị
Từ 1956 đến 1959, ông tham gia hoạt động điêu khắc, hội họa và cả viết văn ở Paris, và sau đó là ở Berlin. Trong thời gian này, những tác phẩm đầu tiên của ông đã ra đời: bài thơ đầu tiên được xuất bản năm 1956 và vở kịch đầu tiên ông viết năm 1957. Thế nhưng, phải đến 1959, với cuốn tiểu thuyết đầu tiên – Cái trống thiếc (Die Blechtrommel), ông mới thực sự được văn đàn thế giới nhìn nhận. Và cũng với tác phẩm này ông đã được trao Giải Nobel Văn họcnăm 1999 – tuy hơi muộn nhưng nó mang một ý nghĩa đặc biệt bởi nó rơi vào năm bắc cầu giữa hai thế kỷ 20 và 21.
Vào năm 1955, ông tham gia Nhóm 47 (Gruppe 47) do Hans Werner Richter và Alfred Andersch sáng lập ở München năm 1947 và giải tán năm 1977, với khuynh hướng dân chủ, đấu tranh khắc phục những hậu quả chiến tranh do phát xít để lại.
Năm 1960, ông tham gia vào Đảng Dân chủ Xã hội (SPD) ở Đức và trở thành một nhân vật quan trọng của đảng này. Ông đã tham gia vào chiến dịch tranh cử của đảng và là người phát ngôn của đảng cũng như của Willy Brandt – người lãnh đạo của đảng. Trong thời gian này, ông đã có nhiều bài phát biểu cũng như bài bình luận chính trị để ủng hộ cho một nước Đức thoát khỏi sự cuồng tín, cũng như những tư tưởng chuyên chế. Thế nhưng ông cũng thường làm mất lòng trong nội bộ của đảng SPD vì những quan điểm của mình. Năm 1992 Grass rút ra khỏi đảng SPD nhưng vẫn tiếp tục hoạt động chính trị và ủng hộ cho những tư tưởng của Đảng Dân chủ Xã hội.
Từ 1983 đến 1986, ông giữ chức giám đốc Học viện Nghệ thuật Berlin. Trong thời gian 1989–1990, ông đã có những quan điểm phản đối sự chia cắt nước Đức thành hai phần.
Ông đã được trao nhiều giải thưởng, trong đó có thể kể như Giải Georg Büchner năm 1965, Giải thưởng Fontane năm 1968, Giải thưởng Premio Internazionale Mondello năm 1977, huy chương Alexander-Majakowski ở Gdansk năm 1979, Giải thưởng Antonio Feltrinelli năm 1982, Huy chương Hermann Kesten năm 1995... và đặc biệt nhất là Giải Nobel Văn học năm 1999 cho tác phẩm Cái trống thiếc của ông.
Ông cũng là giáo sư danh dự của Đại học Kenyon và Đại học Harvard.
Ngày nay ông sống gần thành phố Lübeck, nơi có Nhà Günter Grass với phần lớn các tác phẩm nguyên bản về nghệ thuật và văn học của ông.
Nội dung chính của những tác phẩm
Gunter Grass được coi là người phát ngôn cho một thế hệ của Đức bị bầm dập còn lại sau chủ nghĩa Đức quốc xã. Ông biết rất rõ những chấn thương tinh thần cũng như những bệnh lý còn sót lại ở xã hội Đức sau thơì kỳ Đức quốc xã.
Hầu hết các tiểu thuyết của ông đều là những câu chuyện ngụ ngôn hiện đại, nhưng cười ra nước mắt. Điều này thể hiện rõ trong tác phẩm Cái trống thiếc của ông - ở đây dưới con mắt của nhân vật chính là Oscar – một con người chỉ cao 94 cm, với vẻ bề ngoài của một đứa trẻ mãi mãi lên ba, nhưng có sự già dặn trong trí tuệ của người trưởng thành, một thế giới nhố nhăng kệch cỡm mà bí hiểm với những con người bị vùi lấp dưới đổ nát của lịch sử đã hiện ra rõ ràng.
Tình yêu cho thành phố quê hương Danzig cũng được ông đưa vào tác phẩm của mình. Danzig - một thành phố đã mất, một thành phố bị tranh giành giữa các nước láng giềng - đã được ông miêu tả với những dòng không mảy may bi lụy, nhưng vẫn thấy rõ Danzig là nỗi đau của ông. Ông đã viết hẳn một bộ truyện dài 3 tiểu thuyết về Danzig với Cái trống thiếc là phần đầu và sau đó là Mèo và Chuột (Katz und Maus – 1961) và Những Năm Chó (Hundejahre - 1963).
Và gần đây nhất là Bò Ngang (Im Krebsgang – 2003) cũng là một câu chuyện về quá khứ. Sau Cái trống thiếc một thời gian dài, thì Bò Ngang là cuốn tiểu thuyết được xem là thành công thứ hai. Câu chuyện trong Bò Ngang kể về con tàu Wilhem Gustloff bị bắn chìm, một con tàu du lịch chuyển sang chuyên chở dân tị nạn. Con tàu này bị tàu ngầm Liên Xô bắn chìm vào tháng 1 năm 1945. Chín nghìn người chết chìm dưới đáy biển Baltic là một thảm họa đường thủy lớn nhất trong lịch sử.
Cuốn Bò Ngang là câu chuyện kể rất quyến rũ người đọc về tấn bi kịch trên biển, qua đó thể hiện cách nhìn hiện nay các thế hệ người Đức về quá khứ mà không một chút sợ hãi.
Những tác phẩm
Tiểu thuyết
Die Blechtrommel (Cái trống thiếc – 1959)
Katz und Maus (Mèo và Chuột – 1961)
Hundejahre (Những Năm Chó – 1963)
Örtlich betäubt (Gây tê cục bộ - 1969)
Aus dem Tagebuch einer Schnecke (1972)
Der Butt (1979)
Das Treffen in Telgte (1979)
Kopfgeburten oder Die Deutschen sterben aus (1980)
Die Rättin (1986)
Unkenrufe (1992)
Ein weites Feld (Cả một câu chuyện - 1995)
Mein Jahrhundert (1999)
Im Krebsgang (Bò ngang - 2002)
Beim Häuten der Zwiebel (Bóc vỏ củ hành - 2006)
Thơ
Die Vorzüge der Windhühner (1956)
Gleisdreieck (1960)
Ausgefragt (1967)
Letzte Tänze (2003)
Gesammelte Gedichte (1971)
Letzte Tänze (2003)
Lyrische Beute (2004)
Dummer August (2007)
Kịch
Die bösen Köche. Ein Drama. (1956)
Hochwasser. Ein Stück in zwei Akten. (1957)
Onkel, Onkel. Ein Spiel in vier Akten. (1958)
Die Plebejer proben den Aufstand. (1966)
Theaterspiele.. (1970)
Các tác phẩm khác
Briefe über die Grenze (1968, viết cùng với Pavel Kohout)
Über das Selbstverständliche (1968)
Der Bürger und seine Stimme (1974)
Denkzettel (1978)
Widerstand lernen (1984)
Zunge zeigen (1988)
Rede vom Verlust (1992)
Ein Schnäppchen namens DDR'' (1993)
Những tác phẩm đã được dịch sang tiếng Việt
Cái trống thiếc – Dương Tường dịch – Nhà Xuất Bản Hội Nhà Văn 2002
Bò ngang – Anh Thư dịch – Nhà Xuất Bản Phụ Nữ 2004
Tham khảo
Giải thưởng Nobel Văn Chương 1999
Tóm tắt nội dung Cái trống Thiếc - tiếng Anh
The tin drum - Cái trống thiếc - Bản tiếng Anh do Ralph Manheim dịch từ nguyên bản tiếng Đức
Cái trống thiếc - Gunter Grass - Dương Tường dịch - Nhà xuất bản Hội Nhà Văn - 2002
Chú thích
Sinh năm 1927
Mất năm 2015
Người đoạt giải Nobel Văn học
Nhà văn Đức
Nhà văn thế kỷ 20
Người Đức đoạt giải Nobel
Nhà soạn kịch thế kỷ 20
Nhà văn hiện thực huyền ảo
|
22157
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/JSF
|
JSF
|
JSF là viết tắt của JavaServer Faces, một bản miêu tả kĩ thuật giúp đơn giản hóa việc phát triển giao diện cho các ứng dụng Web viết bằng Java bằng cách dùng các thành phần dùng lại được (reusable components).
JSF là một bộ khung (framework) phát triển các ứng dụng Web viết bằng Java nhằm làm đơn giản hóa quá trình phát triển giao diện người dùng cho các ứng dụng J2EE. Để tạo ra giao diện hiển thị, JSF dùng dạng cấu trúc cây của các thẻ, mỗi thẻ là một thành phần giao diện (component) và FacesServlet servlet sẽ thực hiện công đoạn chuyển đổi ra giao diện tương ứng cho người dùng với định dạng HTML. Ngoài ra, JSF cũng có thể sử dụng các kĩ thuật hiển thị khác, như XUL. JSF bao gồm:
Một tập các hàm API để biểu diễn các thành phần UI (giao diện người dùng) và quản lý trạng thái của chúng, xử lý các sự kiện và kiểm tra dữ liệu đầu vào, quy định việc di chuyển trang (page navigation), hỗ trợ tính đa ngôn ngữ và hỗ trợ cho người sử dụng (accessibility)
Một số thành phần (component) có sẵn
Hai thư viện chứa các thẻ tùy biến JSP (JavaServer Pages custom tag) để có thể biểu diễn một JavaServer Faces interface bên trong một trang JSP.
Mô hình sự kiện ở phía máy chủ (server-side event model)
Khả năng quản lý trạng thái
Managed Beans (JavaBeans được tạo bằng dependency injection - xem thêm Spring framework)
Bản miêu tả kĩ thuật JSF được quy định trong JSR 127 của Quá trình Cộng đồng Java.
Mục tiêu của JSF
8 mục tiêu thiết kế sau là lý do cho sự ra đời của JSF:
Tạo ra một bộ khung gồm các thành phần giao diện người dùng chuẩn (standard GUI component framework) nhằm giúp cho các công cụ phát triển dễ dàng hơn cho người dùng trong việc tạo GUI chất lượng cao đồng thời quản lý các kết quả của GUI với xử lý thực thi của chương trình.
Định ra một tập các lớp cơ sở của Java (lightweight Java base classes) biểu diễn cho các thành phần UI, trạng thái mỗi thành phần, và các sự kiện đầu vào. Những lớp này sẽ xử lý những vấn đề liên quan đến chu kì sống của GUI, đặc biệt là quản lý trạng thái trong suốt chu trình sống của một trang của thành phần GUI đó.
Cung cấp một tập các thành phần GUI chung, bao gồm các thành phần HTML form input. Những thành phần này sẽ được dẫn xuất từ tập đơn giản các lớp cơ sở (đề cập ở #1) đề từ đó có thể định ra các thành phần mới.
Cung cấp một mô hình JavaBeans để có thể truyền đi (dispatch) các sự kiện từ các GUI controls phía máy khách đến các xử lý hiện thực cụ thể từ phía ứng dụng máy chủ.
Định ra các hàm APIs để kiểm chứng dữ liệu nhập, bao gồm hỗ trợ kiểm chứng từ phía máy chủ.
Chỉ định một mô hình để có thể đa ngôn ngữ hóa hay địa phương hóa các GUI.
Khởi tạo tự động dữ liệu ra phù hợp cho máy khách đích, dựa vào mọi dữ liệu cấu hình ở máy khách đó, bao gồm cả dựa vào phiên bản trình duyệt, ví dụ.
Việc khởi tạo tự động dữ liệu ra còn kèm theo các đòi hỏi về hỗ trợ người dùng (accessibility), được quy định bởi WAI.
Đặc điểm
Mô hình của JSF là mô hình xử lý hướng sự kiện giống như trong các ứng dụng GUI truyền thống, sự khác biệt là nó được áp dụng cho các ứng dụng Web.
Các phiên bản JSF
JSF 1.0 - bản miêu tả kĩ thuật của JSF chính thức đầu tiên
JSF 1.1 - bản sửa lỗi chính thức. Không có thay đổi về kĩ thuật hay HTML renderkit.
JSF 1.2 - bản chính thức chuẩn bị ra mắt và được miêu tả bởi JSR 252.
những cải tiến để cung cấp những giải pháp tạm thời cho vấn đề trộn lẫn nội dung (content-interweaving problem) được nói đến tại http://www.onjava.com/pub/a/onjava/2004/06/09/jsf.html
cung cấp các XML Schema cho các file cấu hình, thay cho việc dùng DTD
các cải tiến để cho phép các 'faces applications có thể xử lý nhiều khung (multi-frame), hay các thiết kế đa cửa sổ người dùng (multi-window UI)
các cải tiến thư viện thể f: để nâng cao TCK coverage, các sự kiện liên quan chu trình sống của f:view, và một số đặc tính nhỏ khác
các cải tiến trong việc hỗ trợ trang trí cho các đối tượng API
cải tiến an ninh cho phía trình khách trong việc lưu giữ trạng thái
giải quyết vấn đề "duplicate button press"
tổ chức lại bản miêu tả kĩ thuật theo từng phần tiêu chuẩn (normative''), và không tiêu chuẩn, để giúp cho việc hiện thực dễ dàng hơn.
Các sửa lỗi cho portlet'''
Một số sửa lỗi đòi hỏi sự thay đổi chút ít trong bản miêu tả kĩ thuật
Các hiện thực của JSF
Có hai hiện thực cho JSF được biết cho đến nay:
JSF Reference Implementation của Sun Microsystems
Dự án MyFaces của Apache
Công cụ
ICEfaces : Complete Ajax-enabled JSF component library.
Rialto JSF : JSF encapsulation of Rialto.
Xem thêm
GUI
Cổng Web
Tham khảo
JavaServer Faces
Tiêu chuẩn JSF
JSF FAQ
JSF 127
JSF 252
Sách
David Geary, Cay Horstmann: Core JavaServer Faces, Prentice-Hall, ISBN 0131463055
Kito D. Mann: JavaServer Faces in Action, Manning Publications Company, ISBN 1932394125
Bill Dudney, Jonathan Lehr, Bill Willis, LeRoy Mattingly: Mastering JavaServer Faces, John Wiley & Sons, ISBN 0471462071
Hans Bergsten: JavaServer Faces, O'Reilly & Associates, ISBN 0596005393
Budi Kurniawan, Nancy Maragioglio: JavaServer Faces Programming, McGraw-Hill Osborne Media, ISBN 0072229837
James Turner, Craig McClanahan, Kunal Mittal: JavaServer Faces Kick Start, SAMS, ISBN 0672325993
Các liên kết ngoài
JSF của Cộng đồng JavaServer Faces
Phần về JSF trong hướng dẫn của J2EE
Hướng dẫn JSF: ví dụ và danh mục các bài viết
JSF FAQ
Công nghệ Java
Phần mềm năm 2004
|
22161
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Than%20c%E1%BB%91c
|
Than cốc
|
Than cốc là một loại nhiên liệu xám, cứng và xốp có hàm lượng cacbon cao và ít tạp chất, được tạo ra bằng cách nung nóng than mỡ hoặc dầu trong môi trường yếm khí - một quá trình chưng cất phá hủy. Nó là một sản phẩm công nghiệp quan trọng, được sử dụng chủ yếu trong nấu luyện quặng sắt, nhưng cũng là một loại nhiên liệu trong bếp lò và lò rèn khi ô nhiễm không khí là một mối lo ngại.
Thuật ngữ "than cốc" khi không nói rõ ràng thường được dùng để chỉ sản phẩm có nguồn gốc từ than bitum có hàm lượng tro và lưu huỳnh thấp bằng một quá trình gọi là luyện cốc. Một sản phẩm tương tự được gọi là than cốc dầu mỏ, hay petcoke, được lấy từ dầu thô trong các nhà máy lọc dầu. Than cốc cũng có thể được hình thành tự nhiên bởi các quá trình địa chất.
Lịch sử
Trung Quốc
Các nguồn lịch sử có niên đại từ thế kỷ 4 mô tả việc sản xuất than cốc ở Trung Quốc cổ đại. Người Trung Quốc lần đầu tiên sử dụng than cốc để sưởi ấm và nấu ăn vào khoảng thế kỷ 9. Vào những thập kỷ đầu của thế kỷ 11, những người thợ rèn Trung Quốc ở thung lũng sông Hoàng Hà đã bắt đầu cung cấp nhiên liệu cho lò nung của họ bằng than cốc, giải quyết vấn đề nhiên liệu của họ trong khu vực thưa thớt cây cối.
Anh
Năm 1589, một bằng sáng chế đã được cấp cho Thomas Proctor và William Peterson để chế tạo sắt và thép và nấu chảy chì bằng "than đất, than biển, đất cỏ và than bùn". Bằng sáng chế này chứa một ám chỉ khác biệt đến việc chuẩn bị than bằng cách "nấu". Năm 1590, một bằng sáng chế đã được cấp cho Trưởng tu viện York để "lọc sạch than đá và giải phóng nó khỏi mùi khó chịu". Năm 1620, một bằng sáng chế đã được cấp cho một hội gồm William St. John và các hiệp sĩ khác, đề cập đến việc sử dụng than cốc trong nấu luyện quặng và sản xuất kim loại. Năm 1627, một bằng sáng chế đã được cấp cho Sir John Hacket và Octavius de Strada với phương pháp làm than biển và than mỏ trở thành hữu ích như than củi để sưởi đốt trong nhà mà không bị khó chịu do mùi hay khói.
Năm 1603, Hugh Plat cho rằng than mỏ có thể được đốt thành than tựa như than củi theo cách thức tương tự như cách mà người ta sản xuất than củi từ củi, gỗ. Quy trình này không được sử dụng cho đến năm 1642, khi than cốc được sử dụng để rang mạch nha ở Derbyshire; trước đây, các nhà sản xuất bia đã sử dụng gỗ, vì than không hóa thành than cốc không thể sử dụng trong sản xuất bia vì hơi khói lưu huỳnh của nó sẽ tạo ra mùi vị khó chịu cho bia. Nó được coi là một sự cải thiện về chất lượng, và mang lại một "sự thay đổi mà tất cả người Anh ngưỡng mộ" - quy trình than cốc cho phép nướng mạch nha nhẹ hơn, dẫn đến việc tạo ra loại bia nhạt vào cuối thế kỷ 17 gọi là pale ale.
Năm 1709, Abraham Darby I đã lập một lò cao đốt than cốc để sản xuất gang đúc. Cường độ chịu nén vượt trội của than cốc cho phép lò cao trở nên cao hơn và lớn hơn. Sự sẵn có của sắt rẻ tiền là một trong những yếu tố dẫn đến Cách mạng Công nghiệp. Trước thời điểm này, luyện sắt đã sử dụng một lượng lớn than củi, được sản xuất bằng cách đốt củi. Khi việc trồng rừng không thể đáp ứng nhu cầu, việc thay thế than củi bằng than cốc đã trở nên phổ biến ở Anh và than cốc được sản xuất bằng cách đốt than thành từng đống trên mặt đất sao cho chỉ lớp bên ngoài bị đốt cháy, để lại phần bên trong đống ở trạng thái cacbon hóa. Vào cuối thế kỷ 18, lò nướng tổ ong bằng gạch được phát triển, cho phép kiểm soát nhiều hơn quá trình đốt cháy.
Năm 1768, John Wilkinson đã xây dựng một lò nung thực tế hơn để chuyển đổi than thành than cốc. Wilkinson đã cải thiện quy trình bằng cách vun các đống than xung quanh một ống khói thấp ở trung tâm được xây dựng bằng gạch rời và có các lỗ cho khí đốt đi vào, dẫn đến sản lượng cao của than cốc tốt hơn. Với khả năng lớn hơn trong việc đốt, bao phủ và dập tắt các đống, năng suất đã tăng từ khoảng 33% lên đến 65% vào giữa thế kỷ 19. Ngành công nghiệp sắt của Scotland đã mở rộng nhanh chóng trong nửa sau thế kỷ 19, thông qua việc áp dụng quy trình thổi khí nóng trong các khu vực khai thác than của mình.
Vào năm 1802, một cụm các lò tổ ong đã được thiết lập gần Sheffield để luyện cốc từ than từ vỉa Silkstone dùng trong quá trình nấu luyện thép nồi nung. Đến năm 1870 đã có 14.000 lò tổ ong hoạt động trên các vùng bờ biển West Durham, có khả năng sản xuất than cốc. Để đo lường mức độ mở rộng của sản xuất than cốc, người ta ước tính rằng các yêu cầu của ngành công nghiệp sắt là khoảng một năm vào đầu những năm 1850, trong khi đến năm 1880, con số này đã tăng lên , trong đó khoảng được sản xuất tại hạt Durham, ở vùng đồng cỏ Nam Wales và ở Yorkshire và Derbyshire.
Trong những năm đầu tiên của đầu máy xe lửa hơi nước, than cốc là nhiên liệu thông thường. Điều này là kết quả của một phần sớm của pháp luật môi trường; bất kỳ đầu máy được đề xuất nào cũng phải "thiêu đốt hết khói của chính nó". Điều này không thể đạt được về mặt kỹ thuật cho đến khi vòm gạch buồng đốt được sử dụng, nhưng việc đốt than cốc, với lượng phát thải khói thấp, được coi là đáp ứng yêu cầu. Quy tắc này đã bị lặng lẽ rút bỏ, và than rẻ hơn trở thành nhiên liệu thông thường, khi đường sắt được công chúng chấp nhận.
Hoa Kỳ
Ở Mỹ, lần đầu tiên sử dụng than cốc trong lò luyện sắt vào khoảng năm 1817 tại lò luyện puddling Plumsock của Isaac Meason và nhà máy cán kim loại ở quận Fayette, Pennsylvania. Vào cuối thế kỷ 19, mỏ khai thác ở tây Pennsylvania cung cấp một nguồn nguyên liệu phong phú cho luyện cốc. Vào năm 1885, Công ty than và sắt Rochester và Pittsburgh xây dựng chuỗi lò luyện cốc dài nhất thế giới ở Walston, Pennsylvania, với 475 lò có chiều dài 2 km (1,25 dặm). Sản lượng của họ đạt 22.000 tấn mỗi tháng. Lò luyện cốc Minersville ở quận Huntingdon, Pennsylvania, đã được liệt kê trên Sổ đăng ký quốc gia về địa danh lịch sử năm 1991.
Từ năm 1870 đến 1905, số lượng lò tổ ong ở Mỹ đã tăng vọt từ khoảng 200 lên đến gần 31.000, sản xuất gần 18.000.000 tấn than cốc chỉ riêng ở khu vực Pittsburgh. Một người quan sát khoe rằng nếu được đưa lên tàu, thì "sản xuất hàng năm sẽ tạo thành một chuyến tàu dài đến nỗi động cơ phía trước sẽ đến San Francisco và quay trở lại Connellsville trước khi toa cuối cho người bảo vệ tàu được đưa ra khỏi lập tàu Connellsville!" Số lượng lò tổ ong ở Pittsburgh đạt đỉnh vào năm 1910 với gần 48.000.
Mặc dù tạo ra một loại nhiên liệu chất lượng hàng đầu, nhưng luyện cốc đã làm tổn hại cảnh quan xung quanh. Sau năm 1900, thiệt hại nghiêm trọng về môi trường của luyện cốc lò tổ ong đã thu hút sự chú ý cấp quốc gia, mặc dù thiệt hại đã phiền toái cho quận trong nhiều thập kỷ. Khói và khí từ một số lò phá hủy tất cả các thảm thực vật xung quanh các cộng đồng khai thác nhỏ, như W. J. Lauck của Ủy ban Di trú Hoa Kỳ ghi nhận vào năm 1911. Đi qua khu vực trên tàu, Charles van Hise chủ tịch Đại học Wisconsin đã nhìn thấy những dãy dài lò tổ ong từ đó ngọn lửa bùng phát và những đám khói dày đặc tỏa ra, làm cho bầu trời tối đen. Vào ban đêm, khung cảnh được diễn tả là chói lọi bởi vô số hố đang cháy này đến mức không thể kể xiết. Các lò tổ ong làm cho toàn bộ khu vực sản xuất than cốc trở thành một bầu trời buồn tẻ: không vui vẻ và không lành mạnh."
Phân loại than cốc
Các chỉ tiêu để đánh giá chất lượng than cốc được phân chia theo các nhóm cơ, lý, hóa học.
Các chỉ tiêu vật lý chính bao gồm: Cỡ hạt, độ ẩm, tỷ trọng riêng. Tỷ trọng riêng của than cốc khi đổ thành đống khoảng 0,77. Như thế, nó là vật liệu xốp với khá nhiều lỗ rỗng. Nói chung, than cốc luyện kim được phân loại theo cỡ hạt thành cốc cám (Breeze coke), cốc vụn (Nut coke), cốc lò cao (BF coke) và cốc lò đúc (Foundry coke).
Các chỉ tiêu hóa học chính bao gồm: Cacbon cố định, chất bốc, độ tro, lưu huỳnh. Có thể xét các chỉ tiêu như phosphor hay kim loại kiềm và kiềm thổ.
Các chỉ tiêu cơ học chính bao gồm: Các chỉ tiêu cơ học nguội chính như DI3015, DI15015 (trong thử nghiệm trống Nhật Bản), M10, M25, M40, I20, I10 (trong thử nghiệm Half Micum / Irsid kết hợp), độ ổn định và độ cứng (trong thử nghiệm tang quay ASTM D3402), và cơ học nóng có CSR và CRI. Ví dụ dưới đây là chỉ tiêu đối với các loại than cốc từ một nhà cung cấp từ Ấn Độ.
Các tính chất quan trọng của than cốc là hàm lượng tro và lưu huỳnh và nó phụ thuộc vào loại than dùng để sản xuất cốc. Than cốc ít tro và lưu huỳnh được đánh giá cao trên thị trường. Các đặc trưng quan trọng khác là các chỉ số về độ nghiền nát như M10, M25 và M40, cung cấp thông tin về độ bền của cốc trong quá trình vận chuyển bên trong lò cao; phụ thuộc vào kích thước lò, các hạt cốc nghiền mịn không được phép cho vào lò cao do chúng có thể gây nghẽn luồng khí trong quá trình nạp quặng và than cốc. Một đặc trưng liên quan khác là chỉ số Độ bền cốc sau phản ứng (CSR); nó đại diện cho khả năng chống chịu của cốc trong các điều kiện rất khốc liệt bên trong lò cao trước khi rã ra thành các hạt mịn. Nói chung CSR và CRI (Chỉ số khả năng phản ứng cốc) là hai chỉ số có xu hướng biến thiên ngược nhau, với tổng CSR và CRI khoảng 90.
Hàm lượng nước trong than cốc bằng 0 vào cuối quy trình luyện cốc, nhưng cốc nóng thường được dập bằng nước (gần đây người ta thay thế dần bằng dập khí trơ như agon) vì thế nó có thể được vận chuyển vào lò cao. Cấu trúc tơi xốp nhiều lỗ rỗng của than cốc cũng hấp thụ một lượng nước nhất định, thường là 3–6% khối lượng hàng ẩm tự nhiên.
Than bitum (than mỡ) để luyện cốc phải đạt được mộ loạt các chỉ tiêu để dùng làm than luyện cốc, được xác định bằng các kỹ thuật thử nghiệm than cụ thể.
Sử dụng
Sử dụng chủ yếu của than cốc là làm nhiên liệu cũng như làm tác nhân khử trong nấu luyện quặng sắt trong lò cao. Cacbon monoxit sinh ra từ sự đốt cháy than cốc khử sắt oxit (hematit) trong sản xuất sản phẩm chứa sắt theo phản ứng:
2 + 3 C → 4 Fe + 3
Than cốc cũng được sử dụng làm nhiên liệu trong nghề thợ rèn.
Do các thành phần sinh khói về cơ bản đã bị đẩy ra khỏi than trong quá trình luyện cốc nên than cốc là nhiên liệu phù hợp đối với một số kiểu lò mà các điều kiện bên trong lò là không thích hợp cho sự đốt cháy hoàn toàn của than bitum do than cốc cháy gần như không sinh ra khói trong khi than bitum sẽ tạo ra nhiều khói.
Than cốc cũng có thể được sử dụng để tổng hợp một số khí, như hỗn hợp của cacbon monoxit với hydro.
Khí tổng hợp; khí nước: hỗn hợp của cacbon monoxit và hydro, sản xuất bằng cách cho hơi nước đi qua than cốc nóng đỏ (hay bất kỳ loại than củi nào)
Khí sản xuất (khí nghèo hút vào, khí than); khí gỗ; khí tổng hợp: hỗn hợp của cacbon monoxit, hydro và nitơ, sản xuất bằng cách cho không khí đi qua than cốc nóng đỏ (hay bất kỳ loại than củi nào)
Phụ phẩm phenol
Nước thải từ luyện cốc là rất độc hại và có khả năng gây ung thư. Nó chứa các hợp chất hữu cơ phenol, thơm,dị vòng và đa vòng, cũng như các chất vô cơ như xyanua, sulfide, amoni và amonia. Nhiều phương pháp khác nhau trong xử lý nước thải này đã được nghiên cứu trong những năm gần đây. Loại nấm thối rữa trắng Phanerochaete chrysosporium có thể loại bỏ tới 80% các phenol từ nước thải luyện cốc.
Sản xuất
Năm 2018 ước tính toàn thế giới sản xuất khoảng 639 triệu tấn than cốc. Phân theo khu vực thì châu Á (chủ yếu tập trung tại Trung Quốc) sản xuất 520 triệu tấn, chiếm 81,3%. Châu Âu (bao gồm cả CIS) với 78 triệu tấn chiếm 12,2%, châu Mỹ với 30 triệu tấn chiếm 4,7%.
Tham khảo
Thù hình của carbon
Cách mạng công nghiệp
Nhiên liệu thể rắn
Phát minh của Trung Quốc
Nhiên liệu
Than đá
|
22162
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C3%B3i%20l%C6%B0u%20ly
|
Ngói lưu ly
|
Ngói lưu ly 琉璃瓦 (ngói ống, ngói âm, ngói dương, ngói câu đầu, ngói trích thủy, ngói liệt.) là một loại ngói truyền thống Việt Nam được dùng cho các công trình kiến trúc ở Việt Nam và các nước Trung Quốc cùng với Đài Loan, Nhật Bản, Triều Tiên cùng với Hàn Quốc và một số nước tại Đông Á và Đông Nam Á, Từ ngàn xưa thì ngói âm dương đã gắn liền với các công trình kiến trúc của Việt Nam. Bạn có thể dễ dàng bắt gặp bất cứ nơi đâu trên đất Việt, từ phố cổ Hội An với những ngôi nhà cổ kính, hay những mái nhà quen thuộc nơi phố xá hay làng quê. Ngói âm dương ra đời tại Việt Nam là một thành quả, một sự sáng tạo của con người trong suốt quá trình lao động miệt mài. Đây là thành quả đáng trân trọng trong lĩnh vực kiến trúc xây dựng. Nó được sử dụng khá phổ biến trên khắp vùng miền chữ S này. Mái ngói cùng đường nét hoa văn chạm khắc nâng niu được xuất hiện từ các tỉnh miền núi phía Bắc, đến miền Trung, miền Nam. Chính mái ngói đã khiến ngôi nhà mang một vẻ đẹp hoài cổ, sang trọng, trở thành một nét đẹp văn hóa trong bản sắc người Việt. Nhìn chung nếu so sánh với các loại ngói lưu ly của các nước Á đông khác thì tương đối giống nhau tuy nhiên ngói lưu ly Việt Nam có nhiều kích thước nhiều chất liệu, màu sắc, nhiều chi tiết,diềm, đầu ngói được trang trí công phu sắc sảo đạt đỉnh cao của nghệ thuật chế tác tạo nên vẻ đẹp đặc trưng của ngói lưu ly Việt mà các nước khác khó mà có được.
Lịch sử tại Việt Nam
Tương truyền ngói lưu ly có nguồn gốc xuất xứ từ Trung Quốc và được chuyển giao sang Việt Nam, tuy nhiên lịch sử và các cuộc khai quật khảo cổ học chứng tỏ điều ngược lại cho thấy người Việt đã sản xuất và sử dụng những vật liệu ấy từ cả ngàn năm, trước khi người Hoa Hạ du mục xâm lăng và tước đoạt những sản phẩm trí tuệ của cộng đồng người Việt cổ thành sản phẩm của họ. Theo màu men, ngói lưu ly có thể chia làm nhiều loại như hoàng lưu ly, thanh lưu ly, và bích lưu ly 1; theo hình dạng và vị trí sử dụng, ngói lưu ly được đặt các tên sau: ngói ống, ngói âm, ngói dương, ngói câu đầu, ngói trích thủy, ngói liệt.
Thời Lý-Trần
Gạch ngói là những vật liệu phổ biến trong xây dựng và kiến trúc truyền thống Việt Nam. Các tư liệu lịch sử và các cuộc khai quật khảo cổ học cho thấy người Việt đã sản xuất và sử dụng những vật liệu ấy từ cả ngàn năm về trước, đặc biệt là ở vùng đồng bằng Bắc bộ mà trung tâm là Thăng Long-Hà Nội.
Dựa vào các hiện vật khảo cổ, ngói lưu ly được tìm thấy sớm nhất vào thời Lý-Trần với hai màu men trắng và xanh. Tuy nhiên, theo tư liệu chữ viết, ngói lưu ly có thể đã xuất hiện từ những thời kỳ trước đó rất lâu, vốn dĩ người Việt là cư dân nông nghiệp sống định cư nên việc là người sáng tạo ra ngói lợp nhà sớm nhất không có gì là không đúng. Đại Việt sử lược và Đại Việt sử ký toàn thư là những tài liệu đầu tiên nhắc về một loại ngói gọi là "ngân ngõa", tức ngói bạc được dùng để lợp cung điện của nhà Tiền Lê tại Hoa Lư.
Đại Việt sử lược lại tiếp tục nhắc đến loại ngói này khi miêu tả lầu Chúng Tiên được xây dựng vào thế kỷ 12 có lợp "kim ngõa" (ngói vàng) ở tầng trên và "ngân ngõa" (ngói bạc) ở tầng dưới. Bia tháp Sùng Thiện Diên Linh (1121) cũng xác nhận ngân ngõa được sử dụng tại kiến trúc này qua câu: "cấu Chúng Tiên tam cấp chi bảo đài, ngân ngõa điệp nhi quang chiếu khung mân" tức là "xây dựng Chúng Tiên ba cấp, ngói bạc trùng điệp chiếu rọi vòm xanh. Tuy chưa xác định được loại kim ngoã - ngói vàng lợp ở tầng trên như Đại Việt sử lược miêu tả, nhưng ngân ngõa nhiều khả năng là phiếm chỉ của loại ngói phủ men trắng như được phát hiện khi khai quật các hố di tích tại Hoàng thành Thăng Long. Đại Việt sử ký toàn thư còn cho biết vào năm 1105, tại chùa Diên Hựu xây hai tòa tháp mái trắng (bạch manh tháp). Bia tháp Sùng Thiện Diên Linh (1121) gọi hai tháp của chùa Diên Hựu là "lưu ly bảo tháp". Như vậy tháp mái trắng mà Đại Việt sử ký toàn thư nhắc đến chính là tháp lợp ngói lưu ly men trắng như đã được tìm thấy.
Về ngói men xanh, Thiên Phúc tự hồng chung minh văn (văn khắc trên chuông chùa Thiên Phúc thời Lý - 1109) có nhắc đến một loại ngói gọi là bích ngõa (tức ngói xanh) trong câu "thải tử kỉ mộc, đào bích ngõa lô" tức "tìm chọn gỗ quý, nung lò ngói xanh". Bích ngõa có thể hiểu là ngói phủ màu xanh ngọc bích, tương tự như những hiện vật được tìm thấy tại Hoàng thành Thăng Long và các khu di tích nhà Trần.
Thời Hậu Lê
Dựa vào các hiện vật khảo cổ tại các khu di tích hoàng thành Thăng Long hay khu di tích Lam kinh, có thể khẳng định các loại ngói ống men vàng và men xanh được sử dụng khá phổ biến trong các kiến trúc cung điện của vua chúa. Thời Lê Trung Hưng, trong Vân Đài Loại Ngữ, Lê Quý Đôn có đưa ra nhận xét "Trung Quốc không cấm dùng ngói ống; nhưng, cung điện thì dùng màu vàng, chùa miếu thì dùng màu xanh, nhà quan dân thì dùng màu đỏ". Cùng với việc tìm thấy hiện vật ngói ống tráng men dưới thời Lê và sự phổ biến của ngói vảy trong dân gian, ta có thể nhận định rằng, dưới thời Lê Trung Hưng đã có thể có luật lệ về việc dùng ngói, cụ thể nhà Lê cấm dân dùng ngói ống mà chỉ dùng ngói vảy. Mặc dù các công trình kiến trúc cho vua chúa thời Lê đã sụp đổ hoàn toàn, chỉ còn lại những phế tích nhưng một khối lượng đồ sộ các loại hình vật liệu kiến trúc, đặc biệt là các vật liệu cấu thành bộ mái các công trình đã được tìm thấy.
Khác với phong cách gắn lá đề trên đầu ngói thời Lý – Trần, ngói ống thời Lê đều gắn thêm đầu ngói. Đầu ngói lưu ly thời Lê được trang trí họa tiết hình rồng trong tư thế cuộn tròn, đầu hướng vào tâm. Thời Lê còn có một loại hình ngói lưu ly rất đặc biệt, đây là những viên ngói có men xanh hoặc men vàng, hai viên ngói ghép lại với nhau sẽ thành hình một con rồng nằm ngẩng cao đầu. Viên thứ nhất có phần đầu ngói hình tròn, trang trí hình con rồng cuộn tròn, đặc trưng của rồng thời Lê sơ. Lưng ngói tiếp giáp phần đầu ngói có hình đầu con rồng ngẩng cao, mắt mũi, mồm, bờm được khắc nét rất sinh động. Lưng ngói tiếp giáp phần đuôi thường có 1 vây. Toàn bộ phần lưng được trang trí tạo vẩy. Viên thứ hai phần lưng ngói có 2 vây, toàn bộ phần lưng được trang trí tạo vẩy, đuôi ngói được đắp thêm, đuôi ngắn và hơi cong.
Dưới thời các chúa Nguyễn (1558-1775), một bộ sách viết về Đàng Trong, đặc biệt chú trọng đến hai xứ Thuận-Quảng, là Phủ Biên Tạp Lục do Lê Quý Đôn viết năm 1776. Trong đó, ông miêu tả các kiến trúc cung đình tại thủ phủ Phú Xuân với nhóm từ "nhà ngói gạch thành, cung vàng gác báu" hoặc "mái lớn nguy nga, đài cao rực rỡ", còn chốn dân gian thì "đều là mái ngói" hoặc "ngói đá gạch chum thì kế có hàng vạn, không thể tính xiết". Bấy giờ các chúa Nguyễn cũng đã cho thiết lập "Nê ngoã tượng cục", một quan xưởng chuyên sản xuất ngói để cung ứng cho triều đình nhà chúa. Xưởng đó toạ lạc gần giang cảng Thanh Hà, mạn lưu sông Hương. Ngày nay nó còn lưu cựu tích qua địa danh Ngõa Tượng (nghĩa đen là thợ ngói), tên một xóm nhỏ nằm giữa hai làng La Khê và Địa Linh, thuộc xã Hương Vinh, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên-Huế.
Thời Nguyễn
Sau khi Huế được chọn là kinh đô, trong khoảng 1802-1810, để cung ứng gạch ngói cho công việc xây dựng kinh thành, hoàng thành, tử cấm thành, cung diện, quan thự, đàn miếu... triều đình đã huy động vật liệu từ khắp cả nước, ngoài ra còn huy động hàng ngàn người dân khắp nơi về kinh đô để xây dựng trên 40 lò gạch ngói.nhỏ|trái|Hoa văn cổ và ngói lưu ly thời NguyễnTheo Đại Nam Thực Lục chính biên đệ nhất, kỷ triều Gia Long thì tháng 12 năm 1810, nhà vua đã cho mời một số chuyên gia làm gạch ngói từ Trung Quốc đến Huế. Sách có đoạn: Sai bang trưởng Quảng Đông là Hà Đạt Hoà thuê 3 người thợ làm ngói ở Quảng Đông, khiến nung ngói lưu ly các sắc xanh, vàng, lục ở Khố Thượng để công tượng học chế đúng theo như kiểu, xong rồi hậu thưởng cho về. Được sự chỉ đạo, hướng dẫn của các thợ người Hoa ấy, những người thợ Việt Nam đã tiếp thu kỹ thuật một cách nhanh chóng.
Ngói lưu ly được sản xuất tại Khố Thượng (ngày nay là Long Thọ) liên tiếp trong 75 năm (1810-1885), dưới 8 thời vua từ Gia Long đến Hàm Nghi, đã phải dừng lại do biến cố "thất thủ kinh đô" gây ra. Vào năm 1885, khi vua Hàm Nghi xuất bôn, quân đội bị giải tán, những biến cố chính trị khiến cho các đội thợ sành sứ trở về quê quán của họ, một số người đã thiết lập một số lò nhỏ ở Quy Nhơn, Thanh Hóa để sản xuất một vài vật dụng đơn sơ. Trận bão năm Thìn (1904) cũng đã làm cho cơ sở sản xuất ngói lưu ly ở Long Thọ bị sụp đổ và suốt 25 năm sau đó nghệ thuật sành sứ đã đào thoát khỏi vùng Long Thọ.
Năm 1909, sự cần thiết phải lợp lại một số khách sảnh và phòng ăn ở hoàng cung đã thúc đẩy Thượng thư Bộ Công Võ Liêm tìm đến ông Bogaert, một kỹ nghệ gia người Pháp cư trú ở dưới chân đồi Long Thọ và đã xây dựng trên địa điểm này một xưởng máy để sản xuất vôi đá, để yêu cầu ông Bogaert nghiên cứu những bí quyết về sản xuất ngói tráng men. Một thời gian sau, một lò nung nhỏ kiểu Trung Quốc được xây dựng và sau nhiều lần điều chỉnh, nó đã đem lại một vài kết quả, nó đã có thể đạt đến chỗ cung ứng được loại ngói đạt yêu cầu, phù hợp với các kiểu kiến trúc đang lợp trên các tòa cung điện.
Xí nghiệp Vôi đá Long Thọ kế thừa ông Bogaert trong việc xây dựng những lò nung rộng lớn hơn nhưng về cơ bản vẫn giữ hình dáng cũ (bán noãn) chỉ thay đổi về tầm cỡ, thao tác quạt gió và phương cách đốt lò. Các thợ gốm đều có học thức, họ làm việc với các phương thức mới, những phương pháp–công nghệ thông dụng và được khắp nơi tuân hành, nhất là trong các công tác đo lường chuẩn xác. Các thành tựu khoa học đã được ứng dụng cho phép xưởng có thể đo lường sự giãn nở của đất và các loại men trong lúc nung chín. Đồng thời xưởng dần dần biến đổi các lò đốt–lò nung, ứng dụng những định luật về sự cháy để tìm cách tiêu thụ ít nhiên liệu hơn, đạt sự an toàn trong sản xuất. Xưởng đã đưa các lò nung sơ bộ (lần 1) và nung men sứ (nung lần 2) thành nối tiếp và liên tục.
Năm 1945, vì những biến cố chính trị, nghề ngói lưu ly lại bị gián đoạn thêm một lần nữa, và lần này kéo dài hơn 45 năm.
Từ 1990 đến nay
Năm 1981, trong "Kế hoạch hành động" (Plan d'Action) của UNESCO về việc bảo vệ, tu sửa và phát huy giá trị quần thể di tích Huế đã có đề nghị thiết lập một cơ sở đúc gạch ngói. Từ đó, và kể cả từ trước đó nữa, vì nhu cầu bức thiết của vấn đề cần có gạch ngói, nhất là gạch ngói tráng men, để dùng vào việc trùng tu di tích, Trung tâm bảo tồn di tích Cố đô Huế đã có nhiều cố gắng trong việc nghiên cứu công nghệ sản xuất truyền thống, đi dò hỏi các nghệ nhân ở nhiều địa phương, tìm tòi nguồn nguyên liệu ở các làng tại Thừa Thiên-Huế.
Năm 1990, sau một số lần nung thử nghiệm thất bại, Xưởng phục chế vật liệu xây dựng cổ thuộc Trung tâm bảo tồn di tích Cố đô Huế mới sản xuất được mẻ gạch ngói tráng men đầu tiên để đáp ứng phần nào nhu cầu vật liệu trùng tu di tích. Được sự tham gia tư vấn của ông Nguyễn Chi, một nghệ nhân về sản xuất đồ gốm tráng men được mời từ Hà Nội, ông đã giúp đỡ về mặt kỹ thuật từ việc xây dựng lò nung đến các công đoạn làm khuôn, nhồi đất, tạo xương, pha chế men, nung gạch ngói theo công nghệ truyền thống.
Các chủng loại gạch tráng men mà người xưa đã dùng để trang trí ở các công trình kiến trúc thuộc Quần thể di tích Huế, một bản thống kê gần đây cho thấy đã có đến 42 loại 2 có tráng men hoàng lưu ly và thanh lưu ly với các kiểu hoa văn chữ thọ, chữ vạn, tứ tượng, thiên địa, hoa thị, ô trám, quy giáp, hoa chanh, bầu rượu, v.v., còn về ngói thì hai loại ngói quan trọng và khó sản xuất nhất là ngói thanh lưu ly và hoàng lưu ly. Tuy thế, men lưu ly 3, phần hồn của ngói lưu ly vẫn là một vấn đề tranh luận trong giới nghiên cứu suốt gần 10 năm sau đó.
Từ 1997 đến 2000, sau một thời gian dài nghiên cứu và đề xuất, một dự án cấp quốc gia được phê duyệt với nhiệm vụ nghiên cứu và hoàn thiện công nghệ sản xuất ngói lưu ly, Công ty xây lắp Thừa Thiên-Huế là đơn vị thực hiện dự án. Đến cuối năm 2002 dự án thành công, chính thức khẳng định nghề làm ngói lưu ly tại Huế đã được phục hồi toàn diện.
Cấu tạo và Ưu điểm
Cấu tạo mái ngói âm dương sẽ bao gồm 2 phẩn đó là ngói âm và ngói dương. Ngói Âm là tấm lợp nằm ngữa, còn Ngói Dương là ngói úp xuống ngói âm. Đón mái sẽ là các cặp ngói diềm âm dương (ngói riềm hoặc ngói diềm, đầu ngói, ngói cuối mái) hay còn được gọi với tên khác như ngói câu đầu hoặc trích thủy, những cặp diềm có hoa văn tinh xảo, họa tiết khắc nổi được tạo nên bởi bàn tay khéo léo của người thợ lành nghề lão luyện, tăng độ thẩm mỹ của mái ngói, chính cấu tạo vòng nửa vòng úp đã tạo ra tác dụng tạo khoảng trống giữ khí, thông gió cho mái nhà.
Nhờ đặc điểm này mà vào mùa hạ các công trình sử dụng ngói lợp nhà, ngói âm dương thường mát hơn, mùa đông sẽ ấm hơn. Thời tiết mưa gió thì chúng cũng giúp quá trình thoát nước được dễ dàng. Bên cạnh đó, ngói âm dương có tuổi thọ khá cao, ước tính phải đến 50 năm mới có dấu hiệu xuống cấp.
Cách lợp ngói âm dương trong các công trình cũng đơn giản hơn, mái nhà chỉ cần đóng bởi các thanh gỗ ngang cách nhau 50 cm, thanh gỗ dọc được đóng định với khoảng cách so le nhau 10 cm hoặc 15 cm để có thể lần lượt xếp các hàng ngói lợp nhà sấp ngửa lồng vào nhau. Nếu rãnh rộng 15 cm đặt ngói ngửa thì rãnh rộng 10 cm úp ngói sấp. Ngói âm dương tráng men: Có độ bền màu rất cao có thể dễ dàng đánh giá được khi xem những viên ngói âm dương từ thời Hoàng thành Thăng Long đến nay vẫn bền màu với thời gian, có thể trường tồn với thời gian mà không lo bị phai nhạt màu như bản sắc người Việt. Đặc biệt, chúng có khả năng chống thấm mốc rêu nên tạo ra vẻ đẹp hoàn hảo, không lo chịu sự tác động tiêu cực của thời tiết mưa nắng
Tham khảo
Đại Việt sử ký toàn thư - Ngô Sĩ Liên
Đại Việt sử lược
Vân Đài Loại Ngữ - Lê Quý Đôn
Phủ Biên Tạp Lục - Lê Quý Đôn, bản dịch của Viện Sử học, Nhà xuất bản KHXH, Hà Nội. 1977
Đại Nam Thực Lục, tập IV, bản dịch của Viện Sử học, Nhà xuất bản KHXH, Hà Nội.1963
Gạch ngói và gốm tráng men dùng trong xây dựng và trang trí cung điện thời Nguyễn (1802-1945)- Trần Đức Anh Sơn, đăng trong "Thời gian đã chứng minh", Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế xuất bản năm 2001.
UNESCO, "Plan d’Action: Préservation, restauration et mise en valeur des monuments de Hué", Paris, 1981
Le Long-Tho ses poteries anciennes et modernes. M.Rigaux: Association des Amis du Vieus Hué, BAVH 1917.
Cấu kiện và kỹ thuật kiến trúc thời Lý - Trần nhìn từ tư liệu chữ viết đồng đại - Thạc sĩ Phạm Lê Huy trích từ Thông báo khoa học của Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam và Trung tâm nghiên cứu kinh thành, nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, 2015.
Chú thích
Thời Nguyễn, ngói hoàng lưu ly chỉ sử dụng cho các công trình của vua, ngói thanh lưu ly dùng cho các công trình của quan lớn. Riêng bích lưu ly là màu xanh coban, không thấy sử dụng cho ngói.
Dùng men lưu ly để tráng trên các sản phẩm khác như gạch, hoa văn các loại.
Men lưu ly là một loại men gốm, thuộc dòng men trong, dùng các loại oxyt như sắt, manggan, đồng, crôm...để tạo màu. Đây là một loại men khó sản xuất vì là men nhẹ lửa, đồng thời nó phải đáp ứng chỉ tiêu độ bền hoá lý cao, ngoài ra tông hay gam màu phải tương đối trùng với màu cổ.
Liên kết ngoài
Ngói
Mỹ thuật cung đình triều Nguyễn
Vật liệu xây dựng
|
22167
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%E1%BB%87t%20Nam%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20%C4%90%C3%B4ng%20Nam%20%C3%81%202005
|
Việt Nam tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2005
|
Việt Nam tham dự Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2005 tại Philippines với 516 vận động viên, tranh tài 30 trên 40 môn thể thao.
Bùi Thị Nhung là vận động viên mang về cho đoàn Việt Nam huy chương vàng đầu tiên cho Việt Nam ở SEA Games 23 trong môn nhảy cao nữ và cũng là kỷ lục mới SEA Games.
Đặc biệt vận động viên Vũ Thị Hương đã mang lại một huy chương vàng quý giá cho điền kinh Việt Nam ở thể loại chạy 100m nữ vì Việt Nam chưa bao giờ đoạt vô địch SEA Games ở nội dung này.
Vận động viên Nguyễn Hữu Việt, với ngôi vô địch cự ly 100m ếch nam, cũng đi vào lịch sử thể thao Việt Nam khi đạt được huy chương vàng bơi lội SEA Games đầu tiên.
Bảng huy chương
Dưới đây là bảng tổng sắp huy chương của đoàn Việt Nam:
Vàng
Điền kinh
Nhảy cao nữ: Bùi Thị Nhung - 1,89m - kỷ lục SEA Games mới.
Nhảy cao nam: Nguyễn Duy Bằng - 2.14m
100m nữ: Vũ Thị Hương
800m nam: Lê Văn Dương
800m nữ: Đỗ Thị Bông - 2’03’’65 - kỷ lục SEA Games mới.
1500m nữ: Trương Thanh Hằng - 4'18’’50 - kỷ lục SEA Games mới.
10 môn phối hợp nam: Vũ Văn Huyện
Pencak Silat:
50–55 kg nam: Trần Văn Toàn
55–60 kg nam: Nguyễn Bá Trình
85–90 kg nam: Nguyễn Văn Hùng
45–50 kg nữ: Lê Thị Hằng
50–55 kg nữ: Huỳnh Thị Thu Hồng
55–60 kg nữ: Trịnh Thị Ngà
60–65 kg nữ: Nguyễn Thị Phương Thúy
Karate
Kata đồng đội nữ (Hoàng Ngân, Hồng Thư, Thu Hiền)
Kata đồng đội nam (Ngọc Trung, Xuân Hùng, Bảo Linh)
Kumite cá nhân nam - 70 kg: Bùi Việt Bằng
Kumite cá nhân nữ - 60 kg: Nguyễn Thị Hải Yến
Kumite cá nhân nữ - 48 kg: Vũ Thị Nguyệt Ánh
Thái Cực Đạo - Taekwondo
51 kg nữ: Đỗ Thị Bích Hạnh
dưới 47 kg nữ: Nguyễn Thị Huyền Diệu (huy chương vàng thứ tư liên tiếp kể từ 1999)
dưới 84 kg nam: Nguyễn Trọng Cường
trên 84 kg nam: Nguyễn Văn Hùng (huy chương vàng thứ tư liên tiếp kể từ 1999)
Wushu
Côn thuật nữ: Đàm Thanh Xuân
Thương thuật nữ: Nguyễn Thị Mỹ Đức
Trường quyền nữ: Nguyễn Thị Mỹ Đức
Trường quyền nam: Nguyễn Tiến Đạt
Thái cực quyền kiếm nữ: Bùi Mai Phương
Tán thủ nữ -45 kg: Bui Thị Như Trang
Tán thủ nam -56 kg: Trần Nhật Huy
Judo:
dưới 48 kg nữ: Văn Thị Ngọc Tú
63 kg nữ: Nguyễn Thị Như Ý
55 kg nam: Nguyễn Duy Khánh
60 kg nam: Trần Văn Đoạt
Võ gậy - Arnis:
Biểu diễn cá nhân nam: Nguyễn Quang Tùng
Biểu diễn cá nhân nữ: Nguyễn Thị My
Đối kháng võ gậy nam: Nguyễn Thanh Quyền
Cờ vua
Cờ vua đánh nhanh nam: Nguyễn Ngọc Trường Sơn
Cờ vua đánh nhanh đồng đội: Nguyễn Ngọc Trường Sơn, Nguyễn Anh Dũng, Lê Quang Liêm, Từ Hoàng Thông và Dương Thế Anh
Cờ chớp nam: Nguyễn Anh Dũng
Cờ chớp nữ: Nguyễn Quỳnh Anh
Cờ vua nam: Nguyễn Ngọc Trường Sơn
Cờ vua nữ: Nguyễn Thị Thanh An
Cờ vua đồng đội nam: Nguyễn Ngọc Trường Sơn, Nguyễn Anh Dũng, Lê Quang Liêm, Từ Hoàng Thông
Cờ vua đồng đội nữ: Nguyễn Thị Thanh An, Hoàng Bảo Trâm, Lê Thanh Tú và Trần Thị Kim Loan
Đua xe đạp
Đổ đèo nữ: Phan Thị Thùy Trang
40 km cá nhân tính giờ: Mai Công Hiếu
Bắn súng
Súng ngắn 50m nam (60 viên tự chọn): Nguyễn Mạnh Tường, kỷ lục SEA Games mới
Súng trường hơi nữ 10m (40 viên): Đàm Thị Nga
Súng trường nằm bắn 50m nam (60 viên): Nguyễn Tấn Nam, kỷ lục SEA Games mới
Đấu kiếm:
Đấu kiếm chém cá nhân nữ: Nguyễn Thị Lệ Dung
Đấu kiếm chém đồng đội nữ
Vật
55 kg nam: Nguyễn Văn Hợp
60 kg nam: Đới Đăng Hỷ
84 kg nam: Mẫn Bá Xuân
55 kg nữ: Nghiêm Thị Giang
59 kg nữ: Nguyễn Thị Lan Anh
63 kg nữ: Lương Thị Quyên
74 kg nữ: Lê Duy Hợi
Thể dục
Thể dục toàn năng nữ: Đỗ Thị Ngân Thương
Cầu thăng bằng: Đỗ Thị Ngân Thương
Ngựa tay quay: Trương Minh Sang
Vòng treo: Nguyễn Minh Tuấn
Xà kép: Phạm Phước Hưng
Bơi:
Bơi ếch 100m nam: Nguyễn Hữu Việt, huy chương vàng đầu tiên của môn bơi lội kể từ khi Việt Nam tham dự SEA Games
Billards:
Billards Anh: Nguyễn Thanh Long
Caroom 1 băng: Nguyễn Thanh Bình
Rowling:
Thuyền đôi nữ hai mái chèo: Nguyễn Thị Dung và Đặng Thị Thắm
Đua thuyền canoeing: Nguyễn Đức Cảnh
Bóng đá:
Bóng đá nữ
Thể hình:
55 kg: Phạm Văn Mách
Bạc
Điền kinh
Nhảy cao nữ: Nguyễn Thị Ngọc Tâm - 1,86m.
Nhảy sào nữ: Lê Thị Phương - 4,00m
Nhảy cao nam: Nguyễn Thanh Phong - 2,11m
3000m rào nam: Trần Văn Thắng
400m rào nữ: Nguyễn Thị Nụ
1500m nữ: Đỗ Thị Bông
4x100m tiếp sức nữ
200m nữ: Vũ Thị Hương
Nhảy cầu
Nhảy cầu cứng 10 mét đôi nữ: Hoàng Thanh Trà & Nguyễn Hoài Anh
Nhảy cầu 3 mét nữ: Hoàng Thanh Trà
Nhảy cầu mềm 3 mét đôi nữ: Hoàng Thanh Trà & Nguyễn Hoài Anh
Karate
Kata cá nhân nữ: Nguyễn Hoàng Ngân
Kumite cá nhân nam -65 kg: Nguyễn Bảo Toànaaaa
Kumite cá nhân nam: Nguyễn Ngọc Thạch
Thái cực đạo-Taekwondo:
Nam dưới 55 kg: Vũ Anh Tuấn
Đấu kiếm:
Đấu kiếm cá nhân nữ: Nguyễn Thị Như Hoa
Đấu kiếm cá nhân nam: Đỗ Hữu Cường
Wushu
Nam quyền nữ: Nguyễn Thị Ngọc Oanh
Côn thuật nam: Nguyễn Tiến Đạt
Thương thuật nam: Nguyễn Văn Cường
Đôi nam: Nguyễn Tiến Đạt & Trần Đức Trọng
Billards
8 bi đôi nam: Nguyễn Phước Long & Nguyễn Thành Nam
Thể dục:
Thể dục nghệ thuật đồng đội nữ
Thể dục nghệ thuật cá nhân toàn năng nữ: Nguyễn Thùy Dương
Vật
-66 kg nam: Phan Đức Thắng
-48 kg nam: Nguyễn Thị Hằng
-51 kg nam: Nguyễn Thị Thu
Chèo thuyền:
Chèo đôi nữ: Phạm Thị Hiền & Nguyễn Thi Thi
Bóng bàn:
Đồng đội nam
Võ gậy - Arnis:
Biểu diễn đồng đội nam (Trần Thanh Tùng, Nguyễn Thanh Tùng, Trần Đức Nghĩa)
Biểu diễn đồng đội nữ (Nguyễn Thị Hà, Vũ Thị Thảo, Nguyễn Thị Loan)
Đối kháng nữ: Lê Thị Thanh Huyền
Đồng
Karate
Kata cá nhân nam: Lê Xuân Hùng
Kumite đồng đội nam
Kumite đồng đội nữ
Kumite cá nhân nữ +60 kg: Nguyễn Thị Hà
Kumite cá nhân nam -55 kg: Phạm Trần Nguyên
Kumite cá nhân nam -60 kg: Võ Mạnh Tuấn
Kumite cá nhân nam -75 kg: Mai Xuân Lương
Kumite cá nhân nữ -53 kg: Đào Tú Anh
Kumite cá nhân nữ: Nguyễn Thị Hải Yến
Quần vợt
Đồng đội nữ (Ngô Việt Hà, Nguyễn Thùy Dung, Trần Thị Kim Lợi, Huỳnh Mai Huỳnh)
Đồng đội nam (Đỗ Minh Quân, Lê Quốc Khánh, Ngô Quang Huy)
Wushu
Côn thuật nữ: Lâm Kiều Mỹ Dung
Thương thuật nữ: Nguyễn Thị Thùy Dương
Nam quyền nữ: Vũ Trà My
Côn thuật nam: Trương Quốc Chí
Điền kinh
10.000m nữ: Trương Thị Mai
10 môn phố hợp nam: Bùi Văn Hà
Đấu kiếm
Đấu kiếm cá nhân nữ: Hà Thị Sen
Kiếm sabre cá nhân nam: Nguyễn Văn Quế
Kiếm foil cá nhân nữ: Nguyễn Thị Tươi
Kiếm foil cá nhân nam: Bùi Văn Thái
Thái cực đạo
-72 kg nam: Cao Trọng Chinh
-63 kg nữ: Bùi Thu Hiền
-55 kg nữ: Lê Thị Thu Nguyệt
-58 kg nam: Đinh Thanh Long
-59 kg nữ: Nguyễn Thị Hoài Thu
-72 kg nữ: Nguyễn Thị Ngọc Trâm
-67 kg nữ: Trần Thị Ngọc Trâm
Đua xe đạp
Xe đạp địa hình: Nguyễn Thanh Đàm
Bắn súng
Đồng đội nam đĩa bay
Súng ngắn thể thao nữ (30+30): Phạm Thị Hà
Súng ngắn hơi nam (60 viên): Hoàng Xuân Vinh
Thể dục:
Đồng đội nghệ thuật nam
Chèo thuyền:
Chèo đôi nam: Tan & Anh
Cầu lông
Đồng đội nam
Tham khảo
Liên kết ngoài
Cuộc họp quyết định tước huy chương của các vận động viên bị phát hiện sử dụng doping, theo đó, đoàn Việt Nam được thêm 3 huy chương bạc
2005
Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2005
Thể thao Việt Nam năm 2005
|
22169
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%E1%BA%AFc-xin
|
Vắc-xin
|
Vắc-xin (, ) là một chế phẩm sinh học cung cấp khả năng miễn dịch thu được chủ động đối với một bệnh truyền nhiễm cụ thể. Vắc xin thường chứa tác nhân giống vi sinh vật gây bệnh và thường được tạo ra từ các dạng vi sinh vật, độc tố hoặc một trong các protein bề mặt của nó, mà đã bị làm suy yếu hoặc bị giết chết. Tác nhân này kích thích hệ thống miễn dịch của cơ thể, sau khi coi tác nhân là một mối đe dọa, sẽ tiêu diệt nó và sẽ tiếp tục nhận ra và tiêu diệt bất kỳ vi sinh vật nào có liên quan đến tác nhân đó mà nó có thể gặp trong tương lai. Vắc xin có thể mang tính dự phòng (để ngăn ngừa hoặc cải thiện ảnh hưởng của một chứng lây nhiễm trong tương lai bởi một mầm bệnh "hoang dã" trong tự nhiên), hoặc mang tính điều trị (để chống lại một căn bệnh đã xảy ra, chẳng hạn như ung thư).
Việc đưa vắc-xin vào cơ thể người được gọi là tiêm chủng. Tiêm vắc xin là phương pháp hữu hiệu nhất để phòng chống các bệnh truyền nhiễm; Khả năng miễn dịch rộng rãi do tiêm chủng là nguyên nhân chủ yếu trong việc xóa sổ bệnh đậu mùa trên toàn thế giới và hạn chế các bệnh như bại liệt, sởi và uốn ván tại nhiều nơi trên thế giới. Hiệu quả của việc tiêm chủng đã được nghiên cứu và kiểm chứng rộng rãi; ví dụ, các loại vắc xin đã được chứng minh là có hiệu quả bao gồm vắc xin cúm, vắc xin HPV, và vắc xin thủy đậu. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) báo cáo rằng vắc xin được cấp phép hiện có sẵn để phòng chống 25 bệnh nhiễm trùng có thể phòng ngừa khác nhau.
Thuật ngữ vắc-xin (vaccine) có nguồn gốc từ Variolae vaccinae (bệnh đậu mùa của bò), thuật ngữ này được Edward Jenner (cả hai đều phát triển các khái niệm về vắc-xin và tạo ra vắc-xin đầu tiên) sử dụng để nói về bệnh đậu mùa. Ông đã sử dụng cụm từ này vào năm 1798 cho tiêu đề dài của bài Tìm hiểu về loài Variolae vaccinae được gọi là Bệnh đậu bò, trong đó ông mô tả tác dụng bảo vệ của các nốt đậu trên bò đối với bệnh đậu mùa ở người. Năm 1881, để vinh danh Jenner, Louis Pasteur đã đề xuất rằng thuật ngữ này cần được mở rộng để bao gồm các phương pháp tiêm chủng mới được phát triển sau đó. Các khoa học về phát triển vắc-xin và sản xuất được gọi vaccinology.
Lịch sử
Trước sự ra đời của tiêm chủng với chất liệu virus lấy từ các ca bệnh đậu mùa của bò (vắc xin dị chủng), bệnh đậu mùa có thể được ngăn ngừa bằng cách cố ý lấy virus bệnh đậu mùa từ người đã mắc trước đó đưa vào người khác. Những gợi ý sớm nhất về phương pháp điều trị bệnh đậu mùa ở Trung Quốc là vào thế kỷ thứ 10 Người Trung Quốc cũng thực hành cách sử dụng phương pháp này được ghi chép lâu đời nhất, có niên đại từ thế kỷ XV. Họ thực hiện một phương pháp "bơm mũi" để đẩy virus vào cơ thể bằng cách thổi các thành phần bệnh đậu mùa dạng bột, thường là vảy sẹo của người bị nhiễm, vào lỗ mũi người kia. Nhiều kỹ thuật thổi vào mũi khác nhau đã được ghi lại trong suốt thế kỷ XVI và XVII ở Trung Quốc. Hai báo cáo về thực hành tiêm virus vào người của người Trung Quốc đã được Hiệp hội Hoàng gia ở London ghi nhận vào năm 1700; một của Martin Lister, người nhận được báo cáo của một nhân viên của Công ty Đông Ấn đóng tại Trung Quốc và một của Clopton Havers.
Mary Wortley Montagu, người đã chứng kiến việc này ở Thổ Nhĩ Kỳ, đã để đứa con gái bốn tuổi của cô được nhận virus đưa vào người trước sự chứng kiến của các bác sĩ của Tòa án Hoàng gia vào năm 1721 khi cô trở về Anh. Cuối năm đó Charles Maitland đã tiến hành một cuộc thử nghiệm việc đưa virus vào cơ thể sáu tù nhân trong nhà tù Newgate ở London. Thử nghiệm đã thành công và ngay sau đó việc chủ động đưa virus vào cơ thể đã thu hút sự chú ý từ gia đình hoàng gia, những người đã giúp thúc đẩy quy trình này. Tuy nhiên, vài ngày sau khi Hoàng tử Octavius của Vương quốc Anh được đưa virus vào người, ông đã qua đời vào năm 1783.
Vào năm 1796, bác sĩ Edward Jenner đã lấy mủ từ tay của một người phụ nữ vắt sữa từng bị bệnh đậu mùa bò, chấm vào cánh tay của một cậu bé 8 tuổi, James Phipps, và sáu tuần sau đó cậu bé được tiêm vào người virus bệnh đậu mùa. Jenner quan sát thấy rằng cậu bé không mắc bệnh đậu mùa nữa. Jenner mở rộng nghiên cứu của mình và vào năm 1798 báo cáo rằng vắc xin của ông an toàn cho cả trẻ em lẫn người lớn và dịch truyền có thể được chuyển từ cánh tay người cho sang cánh tay người nhận để giảm bớt sự phụ thuộc vào nguồn cung cấp không chắc chắn từ những con bò bị nhiễm bệnh. Năm 1804, một đoàn thám hiểm chủng ngừa bệnh đậu mùa của Tây Ban Nha đến các thuộc địa của Tây Ban Nha là Mexico và Philippines đã sử dụng phương pháp vận chuyển tay qua tay để biết được thực tế là vắc-xin chỉ tồn tại được 12 ngày trong ống nghiệm. Họ đã sử dụng vi khuẩn gây bệnh đậu bò. Vì tiêm sản phẩm gây bệnh đậu bò an toàn hơn nhiều so với việc tiêm phòng sản phẩm gây bệnh đậu mùa, nên phương pháp tiêm sản phẩm gây bệnh đậu mùa người trực tiếp vào người đã bị cấm vào năm 1840, mặc dù nó vẫn được thực hành rộng rãi ở Anh trong nhiều năm sau.
Tiếp theo công trình nghiên cứu của Jenner, thế hệ thứ hai của vắc-xin được giới thiệu vào những năm 1880 bởi Louis Pasteur, người đã phát triển vắc-xin phòng bệnh dịch tụ huyết trùng ở gà và bệnh than, và từ cuối thế kỷ 19 vắc-xin được coi là niềm tự hào quốc gia. Các chính sách tiêm chủng quốc gia đã được áp dụng và luật tiêm chủng bắt buộc đã được thông qua. Năm 1931, Alice Miles Woodruff và Ernest Goodpasture đã ghi nhận rằng virus đậu gà có thể được phát triển trong trứng gà đã được thụ tinh. Ngay sau đó, các nhà khoa học bắt đầu nuôi cấy các loại virus khác trong trứng. Trứng được sử dụng để nhân giống virus trong quá trình phát triển vắc xin sốt vàng da vào năm 1935 và vắc xin cúm vào năm 1945. Năm 1959, môi trường tăng trưởng và nuôi cấy tế bào đã thay thế trứng làm phương pháp truyền virus tiêu chuẩn cho vắc xin.
Tiêm chủng phát triển mạnh trong thế kỷ 20, chứng kiến sự ra đời của một số loại vắc xin thành công, bao gồm cả vắc xin chống bệnh bạch hầu, sởi, quai bị và rubella. Những thành tựu chính bao gồm sự phát triển của vắc-xin bại liệt vào những năm 1950 và xóa sổ bệnh đậu mùa trong những năm 1960 và 1970. Maurice Hilleman là người phát triển nhiều vắc-xin nhất trong thế kỷ XX. Khi vắc-xin trở nên phổ biến hơn, nhiều người bắt đầu coi chúng là điều hiển nhiên. Tuy nhiên, vắc xin vẫn còn chưa có đối với nhiều bệnh quan trọng, bao gồm herpes simplex, sốt rét, bệnh lậu và HIV.
Các thế hệ vắc xin
Vắc xin thế hệ đầu tiên là vắc xin toàn sinh vậthoặc sống và suy yếu, hoặc dạng đã bị tiêu diệt. Các vắc xin sống, giảm độc lực, chẳng hạn như vắc xin đậu mùa và bại liệt, có thể tạo ra phản ứng của tế bào T độc sát (TC hoặc CTL), phản ứng của tế bào T trợ giúp (TH) và khả năng miễn dịch kháng thể. Tuy nhiên, các dạng giảm độc lực của mầm bệnh có thể chuyển sang dạng nguy hiểm và có thể gây bệnh cho những người nhận vắc xin bị suy giảm miễn dịch (chẳng hạn như những người bị AIDS). Mặc dù vắc-xin bị giết không có nguy cơ này, nhưng chúng không thể tạo ra phản ứng tế bào T độc sát cụ thể và có thể hoàn toàn không hoạt động đối với một số bệnh.
Vắc xin thế hệ thứ hai được phát triển để giảm rủi ro từ vắc xin sống. Đây là những vắc xin tiểu đơn vị, bao gồm các kháng nguyên protein cụ thể (như độc tố uốn ván hoặc bạch hầu) hoặc các thành phần protein tái tổ hợp (như kháng nguyên bề mặt viêm gan B). Chúng có thể tạo ra phản ứng TH và kháng thể, nhưng không tạo ra phản ứng của tế bào T độc sát.
Vắc xin RNA và vắc xin DNA là những ví dụ về vắc xin thế hệ thứ ba. Vào năm 2016, một loại vắc-xin DNA cho vi-rút Zika đã bắt đầu được thử nghiệm tại Viện Y tế Quốc gia. Riêng Inovio Pharmaceuticals và GeneOne Life Science đã bắt đầu thử nghiệm một loại vắc-xin DNA khác chống lại Zika ở Miami. Việc sản xuất vắc-xin với số lượng lớn vẫn chưa được giải quyết vào năm 2016. Các thử nghiệm lâm sàng đối với vắc xin DNA để ngăn ngừa HIV đang được tiến hành. Vắc xin mRNA như BNT162b2 được phát triển vào năm 2020 với sự trợ giúp của Chiến dịch Warp Speed và được triển khai đại trà để chống lại đại dịch COVID-19.
Tác động
Có sự đồng thuận trong khoa học rằng vắc xin là một cách rất an toàn và hiệu quả để chống lại và loại trừ các bệnh truyền nhiễm. Hệ thống miễn dịch nhận ra các tác nhân vắc xin là ngoại lai, tiêu diệt chúng và "ghi nhớ" chúng. Khi gặp phải phiên bản độc hại của một tác nhân, cơ thể nhận ra lớp áo protein trên virus và do đó chuẩn bị sẵn sàng để phản ứng lại, đầu tiên là vô hiệu hóa tác nhân đó trước khi tác nhân đó có thể xâm nhập vào tế bào, thứ hai là nhận biết và tiêu diệt các tế bào bị nhiễm trước tác nhân đó. trước khi chúng có thể nhân lên số lượng lớn.
Tuy nhiên vẫn tồn tại những hạn chế đối với hiệu quả của vắc xin. Đôi khi, việc bảo vệ không thành công do lỗi liên quan đến vắc xin như thất bại trong việc giảm nồng độ vắc xin, chế độ tiêm chủng hoặc quản lý hoặc thất bại liên quan đến vật chủ do hệ thống miễn dịch của vật chủ chỉ đơn giản là không đáp ứng đầy đủ hoặc hoàn toàn. Thiếu phản ứng miễn dịch thường do di truyền, tình trạng miễn dịch, tuổi tác, sức khỏe hoặc tình trạng dinh dưỡng. Nó cũng có thể thất bại vì lý do di truyền nếu hệ thống miễn dịch của vật chủ không bao gồm các chủng tế bào B có thể tạo ra các kháng thể thích hợp để phản ứng hiệu quả và liên kết với các kháng nguyên liên quan đến mầm bệnh.
Ngay cả khi vật chủ phát triển các kháng thể, sự bảo vệ có thể không đầy đủ; miễn dịch có thể phát triển quá chậm để có hiệu quả kịp thời, các kháng thể có thể không vô hiệu hóa hoàn toàn mầm bệnh, hoặc có thể có nhiều chủng mầm bệnh, không phải tất cả đều nhạy cảm với phản ứng miễn dịch như nhau. Tuy nhiên, ngay cả miễn dịch một phần, muộn hoặc yếu, chẳng hạn như miễn dịch chéo với chủng không phải chủng đích, có thể giảm thiểu nhiễm trùng, dẫn đến tỷ lệ tử vong thấp hơn, tỷ lệ mắc bệnh thấp hơn và phục hồi nhanh hơn.
Chất bổ trợ thường được sử dụng để tăng cường phản ứng miễn dịch, đặc biệt đối với những người lớn tuổi mà phản ứng miễn dịch với một loại vắc xin đơn giản có thể đã suy yếu.
Hiệu quả hoặc hiệu suất của vắc xin phụ thuộc vào một số yếu tố:
bản thân căn bệnh (đối với một số bệnh, việc tiêm phòng hoạt động tốt hơn so với những bệnh khác)
chủng vắc-xin (một số vắc-xin đặc hiệu, hoặc ít nhất là hiệu quả nhất chống lại các chủng bệnh cụ thể)
lịch tiêm chủng đã được tuân thủ đúng chưa.
phản ứng đặc trưng đối với tiêm chủng; một số cá nhân là "người không đáp ứng" với một số loại vắc xin nhất định, có nghĩa là họ không tạo ra kháng thể ngay cả khi đã được tiêm chủng đúng cách.
các yếu tố khác nhau như dân tộc, tuổi tác hoặc khuynh hướng di truyền.
Nếu một cá nhân được tiêm chủng phát triển chính căn bệnh đã được tiêm chủng chống lại (nhiễm trùng đột phá), bệnh có khả năng ít độc lực hơn so với những bệnh nhân chưa được tiêm chủng.
Những cân nhắc quan trọng trong một chương trình tiêm chủng hiệu quả là:
lập mô hình cẩn thận để dự đoán ảnh hưởng của một chiến dịch tiêm chủng đối với dịch tễ học của bệnh trong trung và dài hạn
giám sát liên tục đối với các bệnh liên quan sau khi giới thiệu một loại vắc xin mới
duy trì tỷ lệ tiêm chủng cao, ngay cả khi một căn bệnh đã trở nên hiếm gặp
Năm 1958, có 763.094 trường hợp mắc bệnh sởi ở Hoa Kỳ; với 552 người chết. Sau khi ra đời các loại vắc xin mới, số ca mắc bệnh giảm xuống dưới 150 ca mỗi năm (trung bình là 56 ca). Đầu năm 2008, có 64 trường hợp nghi mắc bệnh sởi. 54 trong số những bệnh nhiễm trùng đó có liên quan đến người đến từ một quốc gia khác, mặc dù chỉ có mười ba phần trăm thực sự mắc phải bên ngoài Hoa Kỳ; 63 trong số 64 cá nhân hoặc chưa bao giờ được tiêm vắc xin phòng bệnh sởi hoặc không chắc chắn liệu họ đã được tiêm phòng hay chưa.
Vắc-xin đã giúp xóa sổ bệnh đậu mùa, một trong những căn bệnh dễ lây lan và gây chết người nhất ở người. Các bệnh khác như rubella, bại liệt, sởi, quai bị, thủy đậu và thương hàn không còn phổ biến như cách đây hàng trăm năm nhờ các chương trình tiêm chủng rộng rãi. Chỉ cần là đại đa số mọi người đều được tiêm phòng, thì việc bùng phát dịch bệnh còn khó hơn rất nhiều, chưa nói đến việc lây lan. Hiệu ứng này được gọi là miễn dịch cộng đồng. Bệnh bại liệt, vốn chỉ lây truyền giữa người với người, đã là mục tiêu của một chiến dịch xóa sổ mở rộng. Hiện tại bệnh bại liệt chỉ còn lưu hành giới hạn ở các vùng của ba quốc gia (Afghanistan, Nigeria và Pakistan). Tuy nhiên, khó khăn trong việc tiếp cận tất cả trẻ em cũng như những hiểu lầm về văn hóa đã khiến ngày xóa sổ hoàn toàn căn bệnh này bị kéo dài ra không ít lần.
Vắc xin cũng giúp ngăn ngừa sự phát triển của tình trạng kháng thuốc kháng sinh. Ví dụ, bằng cách giảm đáng kể tỷ lệ mắc bệnh viêm phổi do Streptococcus pneumoniae, các chương trình vắc xin đã làm giảm đáng kể tỷ lệ nhiễm trùng kháng với penicillin hoặc các kháng sinh hàng đầu khác.
Thuốc chủng ngừa bệnh sởi được ước tính có thể ngăn ngừa một triệu ca tử vong mỗi năm trên toàn cầu.
Tác dụng bất lợi
Thuốc chủng ngừa cho trẻ em, thanh thiếu niên hoặc người lớn nói chung là an toàn. Các tác dụng bất lợi, nếu có, nói chung là nhẹ. Tỷ lệ tác dụng phụ sẽ phụ thuộc vào loại vắc xin được đề cập. Một số tác dụng phụ thường gặp bao gồm sốt, đau xung quanh vết tiêm và đau nhức cơ. Ngoài ra, một số cá nhân có thể bị dị ứng với các thành phần trong vắc xin. Vắc xin MMR hiếm khi liên quan đến co giật do sốt.
Các yếu tố quyết định liên quan đến người được tiêm chủng khiến một người dễ bị nhiễm trùng, chẳng hạn như di truyền, tình trạng sức khỏe (bệnh tiềm ẩn, dinh dưỡng, mang thai, nhạy cảm hoặc dị ứng), khả năng miễn dịch, tuổi tác và tác động kinh tế hoặc môi trường văn hóa có thể các yếu tố chính hoặc phụ ảnh hưởng đến mức độ nghiêm trọng của nhiễm trùng và phản ứng với vắc xin. Người cao tuổi (trên 60 tuổi), quá mẫn cảm với chất gây dị ứng và người béo phì có tính chất sinh miễn dịch bị tổn hại, điều này ngăn cản hoặc ức chế hiệu quả của vắc xin, có thể yêu cầu công nghệ vắc xin riêng biệt cho các nhóm dân số cụ thể này hoặc tiêm vắc xin tăng cường lặp đi lặp lại để hạn chế lây truyền virus.
Các tác dụng phụ nghiêm trọng do vắc xin là cực kỳ hiếm. Vắc xin Varicella hiếm khi liên quan đến các biến chứng ở những người suy giảm miễn dịch, và vắc xin rota có liên quan vừa phải với lồng ruột.
Ít nhất 19 quốc gia có chương trình bồi thường không do lỗi để bồi thường cho những người bị ảnh hưởng xấu nghiêm trọng của tiêm chủng. Chương trình của Hoa Kỳ được gọi là Đạo luật Quốc gia về Thương tật do Vắc-xin cho Trẻ nhỏ, và Vương quốc Anh sử dụng Thanh toán Thiệt hại do Vắc-xin.
Phân loại
Vắc xin thường chứa các sinh vật chết hoặc bất hoạt hoặc các sản phẩm tinh khiết có nguồn gốc từ chúng.
Có một số loại vắc xin đang được sử dụng. Những chế phẩm này đại diện cho các chiến lược khác nhau được sử dụng để cố gắng giảm nguy cơ bệnh tật trong khi vẫn duy trì khả năng tạo ra phản ứng miễn dịch có lợi.
Giảm độc lực
Một số vắc xin có chứa vi sinh vật sống, giảm độc lực. Nhiều vi rút trong số này là những vi rút đang hoạt động đã được nuôi cấy trong những điều kiện vô hiệu hóa các đặc tính độc hại của chúng, hoặc sử dụng các sinh vật có liên quan chặt chẽ nhưng ít nguy hiểm hơn để tạo ra phản ứng miễn dịch rộng rãi. Mặc dù hầu hết các loại vắc xin giảm độc lực đều là virus, nhưng một số lại có bản chất là vi khuẩn. Ví dụ như các bệnh do vi rút gây ra, sốt vàng da, sởi, quai bị và rubella, và bệnh thương hàn do vi khuẩn. Vắc xin sống chứa Mycobacterium sống do Calmette và Guérin phát triển không phải được tạo ra từ một chủng truyền nhiễm mà chứa một chủng đã được biến đổi hoàn toàn gọi là "BCG" được sử dụng để tạo ra phản ứng miễn dịch với vắc xin. Vắc xin sống giảm độc lực chứa chủng Yersinia pestis EV được sử dụng để chủng ngừa bệnh dịch hạch. Vắc xin giảm độc lực có một số ưu điểm và nhược điểm. Các vắc xin bị suy yếu, hoặc sống, làm yếu đi thường gây ra các phản ứng miễn dịch bền vững hơn. Nhưng các vắc xin này có thể không an toàn để sử dụng cho những người bị suy giảm miễn dịch, và trong những trường hợp hiếm hoi sẽ biến chủng thành dạng có độc lực và gây bệnh.
Bất hoạt
Một số vắc xin có chứa các vi sinh vật có độc lực trước đó, nhưng đã bị vô hiệu hóa bằng hóa chất, nhiệt hoặc bức xạcác virus "ma", với các vỏ bọc tế bào vi khuẩn còn nguyên vẹn nhưng trống rỗng. Chúng được coi là giai đoạn trung gian giữa vắc xin bất hoạt và giảm độc lực. Ví dụ bao gồm IPV (vắc xin bại liệt), vắc xin viêm gan A, vắc xin phòng bệnh dại và hầu hết các loại vắc xin cúm.
Biến độc tố
Các vắc xin biến độc tố được làm từ các hợp chất độc hại bất hoạt gây bệnh chứ không phải từ vi sinh vật. Ví dụ cho vắc xin dựa trên độc tố bao gồm uốn ván và bạch hầu. Không phải tất cả các chất độc đều dành cho vi sinh vật; ví dụ, biến độc tố Crotalus atrox được sử dụng để tiêm phòng cho chó chống lại vết cắn của rắn đuôi chuông.
Tiểu đơn vị
Thay vì đưa vi sinh vật bất hoạt hoặc suy giảm độc lực vào hệ thống miễn dịch (cấu thành vắc xin "đầy đủ tác nhân"), vắc xin tiểu đơn vị sử dụng một đoạn nhỏ của vi sinh vật đó để tạo ra phản ứng miễn dịch. Một ví dụ là vắc xin tiểu đơn vị chống lại bệnh viêm gan B, chỉ bao gồm các protein bề mặt của virus (trước đây được chiết xuất từ huyết thanh của bệnh nhân nhiễm bệnh mãn tính nhưng hiện nay được tạo ra bằng cách tái tổ hợp các gen của vi rút vào nấm men). Một ví dụ khác là vắc-xin tảo có thể ăn được, chẳng hạn như vắc-xin hạt giống vi-rút (VLP) chống lại virus gây u nhú ở người (HPV), được cấu tạo từ vỏ bọc protein chính của virus. Một ví dụ khác là vắc xin tiểu đơn vị hemagglutinin và neuraminidase của vi rút cúm. Một loại vắc xin tiểu đơn vị đang được sử dụng để chủng ngừa bệnh dịch hạch.
Liên hợp
Một số vi khuẩn có lớp áo ngoài polysaccharide có khả năng sinh miễn dịch kém. Bằng cách liên kết những lớp áo bên ngoài này với protein (ví dụ, chất độc), hệ thống miễn dịch có thể được dẫn dắt để nhận ra polysaccharide như thể nó là một kháng nguyên protein. Cách tiếp cận này được sử dụng trong vắc xin Haemophilus influenzae loại B.
Túi màng ngoài
Các túi màng ngoài (OMV) có khả năng sinh miễn dịch tự nhiên và có thể được điều khiển để sản xuất vắc xin mạnh. Các vắc xin OMV được biết đến nhiều nhất là những vắc xin được phát triển cho bệnh viêm màng não mô cầu loại B serotype.
Dị chủng
Vắc xin dị chủng còn được gọi là "vắc xin Jenner", là virus gây bệnh cho các động vật khác nhưng không gây bệnh hoặc gây bệnh nhẹ cho sinh vật đang được điều trị. Ví dụ kinh điển là Jenner sử dụng nốt đậu mùa của bò để bảo vệ con người khỏi bệnh đậu mùa. Một ví dụ hiện tại là việc sử dụng vắc-xin BCG làm từ Mycobacterium bovis để bảo vệ con người chống lại bệnh lao.
Vectơ virus
Vắc xin véctơ virus sử dụng một loại virus an toàn để chèn các gen gây bệnh vào cơ thể để tạo ra các kháng nguyên cụ thể, chẳng hạn như các protein bề mặt, để kích thích cơ thể tạo ra phản ứng miễn dịch.
RNA
Vắc xin mRNA (hoặc vắc xin RNA) là một loại vắc xin mới được cấu tạo từ axit nucleic RNA, được đóng gói trong một vectơ chẳng hạn như các hạt nano lipid. Trong số các vắc-xin COVID-19 có một số vắc-xin RNA đang được phát triển để chống lại đại dịch COVID-19 và một số đã được cấp phép sử dụng khẩn cấp ở một số quốc gia. Ví dụ: vắc xin Pfizer-BioNTech và Moderna mRNA đã được cấp phép sử dụng khẩn cấp ở Mỹ.
Thử nghiệm
Nhiều loại vắc xin cải tiến cũng đang được phát triển và sử dụng.
Vắc xin tế bào tua kết hợp tế bào tua gai với kháng nguyên để đưa kháng nguyên vào tế bào bạch cầu của cơ thể, do đó kích thích phản ứng miễn dịch. Các vắc xin này đã cho thấy một số kết quả sơ bộ khả quan trong điều trị u não] và cũng được thử nghiệm trong khối u ác tính ác tính.
Vắc-xin DNA - Cơ chế được đề xuất là chèn và biểu hiện DNA của vi rút hoặc vi khuẩn trong tế bào người hoặc động vật (tăng cường bằng cách sử dụng kết hợp điện), kích hoạt nhận dạng hệ thống miễn dịch. Một số tế bào của hệ thống miễn dịch nhận ra các protein biểu hiện sẽ tấn công chống lại các protein này và các tế bào biểu hiện chúng. Bởi vì những tế bào này sống rất lâu, nếu gặp phải mầm bệnh thường biểu hiện những protein này vào thời điểm sau đó, chúng sẽ bị hệ thống miễn dịch tấn công ngay lập tức. Một lợi thế tiềm năng của vắc xin DNA là chúng rất dễ sản xuất và bảo quản.
Vectơ tái tổ hợp – bằng cách kết hợp sinh lý của một vi sinh vật này và DNA của vi sinh vật khác, khả năng miễn dịch có thể được tạo ra chống lại các bệnh có quá trình lây nhiễm phức tạp. Một ví dụ là vắc xin RVSV-ZEBOV được cấp phép cho Merck đang được sử dụng vào năm 2018 để chống lại bệnh ebola ở Congo.
Thuốc chủng ngừa peptide thụ thể tế bào T đang được phát triển cho một số bệnh bằng cách sử dụng các mô hình Sốt Thung lũng, viêm miệng và viêm da dị ứng. Các peptit này đã được chứng minh là điều chỉnh quá trình sản xuất cytokine và cải thiện khả năng miễn dịch qua trung gian tế bào.
Nhắm mục tiêu các protein vi khuẩn đã xác định có liên quan đến sự ức chế bổ thể sẽ vô hiệu hóa cơ chế độc lực chính của vi khuẩn.
Việc sử dụng plasmid đã được xác nhận trong các nghiên cứu tiền lâm sàng như một chiến lược vắc xin bảo vệ đối với ung thư và các bệnh truyền nhiễm. Tuy nhiên, trong các nghiên cứu trên người, cách tiếp cận này đã không mang lại lợi ích phù hợp về mặt lâm sàng. Hiệu quả tổng thể của miễn dịch DNA plasmid phụ thuộc vào việc tăng khả năng sinh miễn dịch của plasmid đồng thời điều chỉnh các yếu tố liên quan đến sự hoạt hóa cụ thể của các tế bào tạo hiệu ứng miễn dịch.
Vectơ vi khuẩn - Về nguyên tắc tương tự như vắc xin vectơ virus, nhưng thay vào đó sử dụng vi khuẩn.
Tế bào biểu hiện kháng nguyên
Trong khi hầu hết các loại vắc xin được tạo ra bằng cách sử dụng các hợp chất bất hoạt hoặc giảm độc lực từ vi sinh vật, vắc xin tổng hợp được cấu tạo chủ yếu hoặc toàn bộ từ các peptit tổng hợp, carbohydrate hoặc kháng nguyên.
Số lượng bệnh phòng chống
Vắc xin có thể là đơn trị (monovalent, univalent) hoặc đa trị (còn gọi là polyvalent). Vắc xin đơn trị được thiết kế để tạo miễn dịch chống lại một kháng nguyên hoặc một vi sinh vật đơn lẻ. Vắc xin đa trị được thiết kế để tạo miễn dịch chống lại hai hoặc nhiều chủng vi sinh vật giống nhau hoặc chống lại hai hoặc nhiều vi sinh vật. Số lượng bệnh phòng chống của một loại vắc xin đa trị có thể được thể hiện bằng một tiền tố Hy Lạp hoặc Latin (ví dụ, tetravalent hoặc quadrivalent). Trong một số trường hợp nhất định, vắc xin đơn trị có thể thích hợp hơn để tạo phản ứng miễn dịch mạnh mẽ một cách nhanh chóng.
Khi hai hoặc nhiều loại vắc xin được trộn trong cùng một công thức, hai loại vắc xin này có thể gây rối cho nhau. Điều này thường xảy ra nhất với vắc xin sống giảm độc lực, trong đó một trong các thành phần của vắc xin mạnh hơn các thành phần khác và ngăn chặn sự tăng trưởng và phản ứng miễn dịch với các thành phần khác. Hiện tượng này lần đầu tiên được ghi nhận trong vắc xin bại liệt Sabin đa trị ba, trong đó lượng serotype 2 vi rút trong vắc xin phải được giảm bớt để ngăn nó can thiệp vào việc "nhận" virus sống serotype 1 và 3 trong vắc xin. Hiện tượng này cũng được phát hiện là một vấn đề với các loại vắc-xin sốt xuất huyết hiện đang được nghiên cứu, trong đó serotype DEN-3 được phát hiện là chiếm ưu thế và ngăn chặn phản ứng với các serotype DEN -1, −2 và −4.
Các thành phần khác
Một liều vắc xin chứa nhiều thành phần, trong đó có rất ít thành phần là hoạt chất, chất sinh miễn dịch. Một liều duy nhất có thể chỉ có nanogram hạt virut, hoặc microgram polysaccharide của vi khuẩn. Thuốc tiêm vắc-xin, thuốc nhỏ miệng hoặc thuốc xịt mũi chủ yếu là nước. Các thành phần khác được thêm vào để tăng cường phản ứng miễn dịch, đảm bảo an toàn hoặc giúp bảo quản vắc xin, và một lượng nhỏ vật chất còn sót lại từ quá trình sản xuất. Rất hiếm khi những vật liệu này có thể gây ra phản ứng dị ứng ở những người rất nhạy cảm với chúng.
Chất bổ trợ (adjuvant)
Vắc xin thường chứa một hoặc nhiều chất bổ trợ, được sử dụng để tăng cường phản ứng miễn dịch. Ví dụ, độc tố uốn ván thường được hấp thụ vào phèn chua. Việc trộn này giúp thể hiện kháng nguyên theo cách để tạo ra một tác động mạnh hơn so với độc tố uốn ván trong nước cất. Những người có phản ứng bất lợi với độc tố uốn ván hấp phụ có thể được chủng ngừa đơn giản khi đến thời điểm tiêm nhắc lại.
Để chuẩn bị cho chiến dịch Vịnh Pecxich năm 1990, vắc-xin ho gà toàn tế bào đã được sử dụng như một chất bổ trợ cho vắc-xin bệnh than. Điều này tạo ra phản ứng miễn dịch nhanh hơn so với việc chỉ tiêm vắc-xin bệnh than, nên có ích lợi nhất định nếu việc phơi nhiễm có thể sắp xảy ra.
Chất bảo quản
Vắc-xin cũng có thể chứa chất bảo quản để ngăn ngừa bản thân nó bị nhiễm vi khuẩn hoặc nấm. Cho đến những năm gần đây, chất bảo quản thiomersal (AKA Thimerosal ở Mỹ và Nhật Bản) đã được sử dụng trong nhiều loại vắc xin không chứa vi rút sống. Tính đến năm 2005, vắc xin duy nhất dành cho trẻ nhỏ ở Hoa Kỳ có chứa thiomersal với lượng lớn hơn lượng vi lượng là vắc xin cúm, hiện chỉ được khuyến cáo cho trẻ em có một số yếu tố nguy cơ nhất định. Thuốc chủng ngừa cúm đơn liều được cung cấp tại Vương quốc Anh không liệt kê chất thiomersal trong thành phần. Các chất bảo quản có thể được sử dụng ở các giai đoạn khác nhau của quá trình sản xuất vắc xin và các phương pháp đo lường phức tạp nhất có thể phát hiện dấu vết của chúng trong thành phẩm, vì chúng có thể tồn tại trong môi trường và quần thể nói chung.
Nhiều loại vắc-xin cần chất bảo quản để ngăn ngừa các tác dụng phụ nghiêm trọng như nhiễm trùng Staphylococcus, trong một sự cố năm 1928 đã giết chết 12 trong số 21 trẻ em được tiêm vắc-xin bạch hầu thiếu chất bảo quản. Một số chất bảo quản có sẵn, bao gồm thiomersal, phenoxyethanol và formaldehyde. Thiomersal hiệu quả hơn trong việc chống lại vi khuẩn, có thời hạn sử dụng tốt hơn và cải thiện độ ổn định, hiệu lực và độ an toàn của vắc xin; nhưng ở Hoa Kỳ, Liên minh Châu Âu và một số quốc gia giàu có khác, nó không còn được sử dụng làm chất bảo quản trong vắc xin cho trẻ nhỏ, như một biện pháp phòng ngừa do hàm lượng thủy ngân của nó. Mặc dù những tuyên bố gây tranh cãi đã được đưa ra rằng thiomersal góp phần gây ra chứng tự kỷ, nhưng không có bằng chứng khoa học thuyết phục nào ủng hộ những tuyên bố này. Hơn nữa, một nghiên cứu kéo dài 10-11 năm trên 657.461 trẻ em đã phát hiện ra rằng vắc-xin MMR không gây ra chứng tự kỷ và thực sự làm giảm nguy cơ mắc chứng tự kỷ xuống 7%.
Tá dược
Bên cạnh vắc xin hoạt động, các tá dược và các hợp chất sản xuất còn lại sau đây có mặt hoặc có thể có trong các chế phẩm vắc xin:
Muối nhôm hoặc gel được thêm vào làm chất bổ trợ. Chất bổ trợ được thêm vào để thúc đẩy phản ứng miễn dịch sớm hơn, mạnh hơn và bền bỉ hơn với vắc xin; họ cho phép liều lượng vắc xin thấp hơn.
Thuốc kháng sinh được thêm vào một số vắc xin để ngăn chặn sự phát triển của vi khuẩn trong quá trình sản xuất và bảo quản vắc xin.
Protein của trứng có trong vắc-xin cúm và vắc-xin sốt vàng vì chúng được chế biến bằng trứng gà. Các protein khác có thể cũng xuất hiện.
Formaldehyde được sử dụng để khử hoạt tính các sản phẩm vi khuẩn dùng cho vắc xin độc tố. Formaldehyde cũng được sử dụng để vô hiệu hóa các vi rút không mong muốn và tiêu diệt vi khuẩn có thể gây ô nhiễm vắc xin trong quá trình sản xuất.
Monosodium glutamate (MSG) và 2- phenoxyethanol được sử dụng làm chất ổn định trong một số loại vắc xin để giúp vắc xin không thay đổi khi vắc xin tiếp xúc với nhiệt, ánh sáng, axit hoặc độ ẩm.
Thiomersal là một chất kháng khuẩn có chứa thủy ngân được thêm vào các lọ vắc xin chứa nhiều liều để ngăn ngừa sự ô nhiễm và sự phát triển của vi khuẩn có hại tiềm tàng. Do những tranh cãi xung quanh thiomersal, nó đã bị loại bỏ khỏi hầu hết các loại vắc-xin trừ bệnh cúm đa dụng, nơi nó được giảm xuống mức để một liều duy nhất chứa ít hơn một microgram thủy ngân, một mức tương tự như ăn 10 gram cá ngừ đóng hộp.
Danh pháp
Có nhiều cách viết tắt khá tiêu chuẩn hóa khác nhau cho tên vắc xin đã được phát triển, mặc dù việc tiêu chuẩn hóa không có nghĩa mang tính tập trung hay là chuẩn toàn cầu. Ví dụ, các tên vắc-xin được sử dụng ở Hoa Kỳ có các chữ viết tắt được thiết kế tốt và cũng được biết đến và sử dụng rộng rãi ở những nơi khác. Danh sách đầy đủ về chúng được cung cấp trong một bảng có thể sắp xếp và có thể truy cập miễn phí có sẵn tại trang web của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ. Trang này giải thích rằng "Các chữ viết tắt [trong] bảng này (Cột 3) đã được chuẩn hóa chung bởi các nhân viên của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh, Nhóm Công tác ACIP, biên tập viên của Báo cáo Hàng tuần về Bệnh tật và Tử vong (MMWR), biên tập viên của Dịch tễ học và Phòng ngừa các bệnh có thể phòng ngừa bằng vắc-xin (Pink Book), các thành viên ACIP, và các tổ chức liên lạc với ACIP."
Một số ví dụ là " DTaP " đối với độc tố bạch hầu và uốn ván và vắc xin ho gà dạng tế bào, "DT" đối với độc tố bạch hầu và uốn ván, và "Td" đối với độc tố uốn ván và bạch hầu. Tại trang về tiêm phòng uốn ván, CDC Hoa Kỳ giải thích thêm rằng "Các chữ cái viết hoa trong những chữ viết tắt này biểu thị liều đủ mạnh của vắc xin bạch hầu (D) và uốn ván (T) và ho gà (P). Chữ thường "d" và "p" biểu thị liều lượng giảm của thuốc điều trị bạch hầu và ho gà được sử dụng trong công thức của thanh thiếu niên / người lớn. Chữ 'a' trong DTaP và Tdap là viết tắt của 'acellular', nghĩa là thành phần ho gà chỉ chứa một phần của vi sinh vật gây bệnh ho gà."
Một danh sách khác về các chữ viết tắt của vắc-xin được thành lập tại trang của CDC có tên "Các từ viết tắt và viết tắt của vắc-xin", với các chữ viết tắt được sử dụng trong hồ sơ tiêm chủng của Hoa Kỳ. Hệ thống Tên được Áp dụng của Hoa Kỳ có một số quy ước về thứ tự từ của tên vắc-xin, đặt danh từ đứng đầu trước và tính từ sau cùng. Đây là lý do tại sao hệ thống này coi "OPV" là "vắc-xin virus bại liệt sống dùng qua đường miệng" (poliovirus vaccine live oral) chứ không phải "vắc-xin virus bại liệt dùng qua đường miệng" (oral poliovirus vaccine).
Cấp phép
Giấy phép vắc xin được xét sau khi kết thúc thành công chu kỳ phát triển và tiếp tục các thử nghiệm lâm sàng và các chương trình khác có liên quan thông qua các Giai đoạn I–III chứng minh tính an toàn, tính hoạt động miễn dịch, tính an toàn về mặt di truyền miễn dịch ở một liều lượng cụ thể nhất định, hiệu quả đã được chứng minh trong việc ngăn ngừa lây nhiễm cho các quần thể mục tiêu và hiệu quả phòng ngừa lâu dài (thời gian kéo dài hoặc nhu cầu tái tiêm chủng phải được ước tính). Là một phần của việc cấp phép đa quốc gia đối với vắc xin, Ủy ban chuyên gia về tiêu chuẩn sinh học (Expert Committee on Biological Standardization) của Tổ chức Y tế Thế giới đã phát triển các hướng dẫn về tiêu chuẩn quốc tế về sản xuất và kiểm tra chất lượng vắc xin, một quy trình nhằm mục đích làm nền tảng cho các cơ quan quản lý quốc gia áp dụng cho quy trình cấp phép của riêng họ. Các nhà sản xuất vắc xin không nhận được giấy phép cho đến khi một chu kỳ phát triển và thử nghiệm lâm sàng hoàn chỉnh chứng minh vắc xin là an toàn và có hiệu quả lâu dài, sau đánh giá khoa học của một tổ chức quản lý đa quốc gia hoặc quốc gia, chẳng hạn như Cơ quan Y tế Châu Âu (EMA) hoặc tại Hoa Kỳ là Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA).
Tại các nước đang phát triển áp dụng các hướng dẫn của WHO về phát triển và cấp phép vắc xin, mỗi quốc gia có trách nhiệm cấp giấy phép quốc gia và quản lý, triển khai và giám sát vắc xin trong suốt quá trình sử dụng vắc xin ở mỗi quốc gia. Xây dựng lòng tin và sự chấp nhận đối với vắc xin được cấp phép trong cộng đồng là nhiệm vụ truyền thông của các chính phủ và nhân viên y tế để đảm bảo chiến dịch tiêm chủng diễn ra suôn sẻ, cứu sống và phục hồi kinh tế. Khi vắc xin được cấp phép, nguồn cung ban đầu sẽ hạn chế do các yếu tố sản xuất, phân phối và hậu cần khác nhau, đòi hỏi phải có kế hoạch phân bổ cho nguồn cung hạn chế và phân khúc dân số nào nên được ưu tiên tiêm vắc xin trước.
Tổ chức Y tế Thế giới
Các vắc xin được phát triển để phân phối trên nhiều quốc gia thông qua Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) yêu cầu WHO sơ tuyển để đảm bảo các tiêu chuẩn quốc tế về chất lượng, an toàn, khả năng sinh miễn dịch và hiệu quả để nhiều quốc gia áp dụng.
Quy trình này đòi hỏi sự nhất quán trong sản xuất tại các phòng thí nghiệm được WHO ký hợp đồng tuân theo Thực hành Sản xuất Tốt (GMP). Khi các cơ quan của Liên hợp quốc tham gia vào việc cấp phép vắc xin, các quốc gia riêng lẻ hợp tác bằng cách 1) cấp giấy phép tiếp thị và giấy phép quốc gia cho vắc xin, các nhà sản xuất và đối tác phân phối của nó; và 2) thực hiện giám sát sau khi đưa ra thị trường, bao gồm các hồ sơ về các biến cố bất lợi sau chương trình tiêm chủng. WHO làm việc với các cơ quan quốc gia để giám sát việc kiểm tra các cơ sở sản xuất và nhà phân phối về việc tuân thủ GMP và giám sát quy định.
Một số quốc gia chọn mua vắc xin được cấp phép bởi các tổ chức quốc gia có uy tín, chẳng hạn như EMA, FDA hoặc các cơ quan quốc gia ở các quốc gia giàu có khác, nhưng việc mua vắc xin như vậy thường đắt hơn và có thể không có nguồn phân phối phù hợp với điều kiện địa phương ở các nước đang phát triển.
Liên minh châu Âu
Tại Liên minh châu Âu (EU), vắc xin phòng bệnh đại dịch, chẳng hạn như cúm theo mùa, được cấp phép trên toàn EU khi tất cả các quốc gia thành viên tuân thủ ("tập trung"), chỉ được cấp phép cho một số quốc gia thành viên ("phi tập trung"), hoặc được được cấp phép ở cấp độ quốc gia cá nhân. Nói chung, tất cả các quốc gia EU đều tuân theo hướng dẫn quy định và các chương trình lâm sàng được xác định bởi Ủy ban Châu Âu về Sản phẩm Thuốc dùng cho Người (CHMP), một hội đồng khoa học của Cơ quan Y tế Châu Âu (EMA) chịu trách nhiệm cấp phép vắc xin. CHMP được hỗ trợ bởi một số nhóm chuyên gia, những người đánh giá và giám sát tiến trình của vắc xin trước và sau khi cấp phép và phân phối.
Hoa Kỳ
Theo FDA, quy trình thiết lập bằng chứng về tính an toàn và hiệu quả lâm sàng của vắc xin cũng giống như quy trình phê duyệt thuốc kê đơn. Nếu thành công trong các giai đoạn phát triển lâm sàng, quy trình cấp phép vắc xin được theo sau bởi Đơn xin cấp phép sinh học phải cung cấp một nhóm đánh giá khoa học (từ các chuyên ngành khác nhau, chẳng hạn như bác sĩ, nhà thống kê, nhà vi sinh vật học, nhà hóa học) và tài liệu toàn diện cho ứng viên vắc xin có hiệu quả và an toàn trong suốt quá trình phát triển của nó. Cũng trong giai đoạn này, cơ sở sản xuất được đề xuất sẽ được các chuyên gia đánh giá kiểm tra về việc tuân thủ GMP và nhãn thuốc phải có mô tả tuân thủ để cho phép các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe định nghĩa về việc sử dụng vắc xin cụ thể, bao gồm cả những rủi ro có thể xảy ra, để truyền thông và cung cấp vắc xin. cho công chúng. Sau khi được cấp phép, việc giám sát vắc xin và quá trình sản xuất vắc xin, bao gồm kiểm tra định kỳ để tuân thủ GMP, vẫn tiếp tục miễn là nhà sản xuất còn giữ được giấy phép của mình. Điều này có thể bao gồm việc đệ trình thêm cho FDA các thử nghiệm về hiệu lực, độ an toàn và độ tinh khiết cho từng bước sản xuất vắc xin.
Giám sát sau khi đưa ra thị trường
Cho đến khi một loại vắc xin được sử dụng cho dân số nói chung, tất cả các tác dụng phụ tiềm ẩn từ vắc xin có thể không được biết đến, đòi hỏi các nhà sản xuất phải tiến hành Pha IVvới các nghiên cứu để giám sát sau khi đưa vắc-xin ra thị trường trong khi vắc-xin được sử dụng rộng rãi trong công chúng. WHO làm việc với các quốc gia thành viên Liên hợp quốc để thực hiện giám sát sau cấp phép. FDA dựa vào Hệ thống Báo cáo Sự kiện Có hại của Vắc-xin để theo dõi các lo ngại về an toàn đối với vắc-xin trong suốt quá trình sử dụng vắc-xin trong công chúng tại Hoa Kỳ.
Lịch trình
Để được sự bảo vệ tốt nhất, trẻ em nên tiêm chủng ngay khi hệ thống miễn dịch của chúng đã phát triển đầy đủ để đáp ứng với các loại vắc xin cụ thể, với các mũi "tăng cường" bổ sung thường được yêu cầu để đạt được "miễn dịch hoàn toàn". Điều này đã dẫn đến sự phát triển lịch tiêm chủng khá phức tạp. Tại Hoa Kỳ, Ủy ban Cố vấn về Thực hành Tiêm chủng, khuyến nghị bổ sung lịch trình cho Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh, khuyến nghị tiêm chủng định kỳ cho trẻ em chống lại viêm gan A, viêm gan B, bại liệt, quai bị, sởi, rubella, bạch hầu, ho gà, uốn ván, HiB, thủy đậu, virus rota, cúm, bệnh não mô cầu và viêm phổi.
Số lượng lớn các loại vắc-xin và thuốc tăng cường được đề nghị (lên đến 24 mũi tiêm cho trẻ hai tuổi) đã dẫn đến các vấn đề trong việc tuân thủ đầy đủ. Để chống lại việc giảm tỷ lệ tuân thủ, nhiều hệ thống thông báo khác nhau đã được thiết lập và nhiều loại thuốc tiêm kết hợp hiện được bán trên thị trường (ví dụ: vắc xin liên hợp phế cầu và vắc xin MMRV), nhằm bảo vệ chống lại nhiều bệnh.
Bên cạnh các khuyến nghị về tiêm chủng cho trẻ sơ sinh và thuốc tăng cường, nhiều loại vắc xin cụ thể được khuyến nghị cho các lứa tuổi khác hoặc tiêm lặp lại trong suốt cuộc đờiphổ biến nhất là bệnh sởi, uốn ván, cúm và viêm phổi. Phụ nữ mang thai thường được kiểm tra để tiếp tục đề kháng với bệnh rubella. Vắc xin phòng u nhú ở người được khuyến cáo ở Hoa Kỳ (năm 2011) và Vương quốc Anh (năm 2009). Các khuyến cáo về vắc-xin cho người cao tuổi tập trung vào viêm phổi và cúm, những bệnh gây tử vong nhiều hơn cho nhóm người đó. Vào năm 2006, một loại vắc-xin đã được giới thiệu để chống lại bệnh zona, một bệnh do vi rút thủy đậu gây ra, thường ảnh hưởng đến người cao tuổi.
Tính kinh tế
Một thách thức trong việc phát triển vắc-xin là tính kinh tế: Nhiều bệnh cần đến vắc-xin nhất, bao gồm cả HIV, sốt rét và bệnh lao, chủ yếu tồn tại ở các nước nghèo. Các công ty dược phẩm và công ty công nghệ sinh học có ít động lực để phát triển vắc-xin cho những bệnh này vì tiềm năng doanh thu rất thấp. Ngay cả ở các quốc gia giàu có hơn, lợi nhuận tài chính từ vắc xin thường là tối thiểu và rủi ro tài chính và các rủi ro khác là rất lớn.
Hầu hết việc phát triển vắc-xin cho đến nay đều dựa vào nguồn tài trợ "thúc đẩy" của chính phủ, các trường đại học và các tổ chức phi lợi nhuận. Nhiều loại vắc-xin đã có hiệu quả cao về chi phí và mang lại lợi ích cho sức khoẻ cộng đồng. Số lượng vắc-xin thực sự được sử dụng đã tăng lên đáng kể trong những thập kỷ gần đây. Sự gia tăng này, đặc biệt là về số lượng các loại vắc-xin khác nhau được tiêm cho trẻ em trước khi nhập học có thể là do nhiệm vụ và hỗ trợ của chính phủ, chứ không phải do động lực kinh tế.
Bằng sáng chế
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, rào cản lớn nhất đối với việc sản xuất vắc xin ở các nước kém phát triển hơn không phải là bằng sáng chế, mà là các yêu cầu về tài chính, cơ sở hạ tầng và lực lượng lao động đáng kể cần thiết để gia nhập thị trường. Vắc xin là hỗn hợp phức tạp của các hợp chất sinh học, và không giống như trường hợp thuốc kê đơn, không có vắc xin gốc thực sự. Vắc xin do cơ sở mới sản xuất phải được nhà sản xuất thử nghiệm lâm sàng đầy đủ về tính an toàn và hiệu quả. Đối với hầu hết các loại vắc xin, các quy trình cụ thể trong công nghệ được cấp bằng sáng chế. Những điều này có thể bị phá vỡ bằng các phương pháp sản xuất thay thế, nhưng điều này cần đến cơ sở hạ tầng R&D và lực lượng lao động có tay nghề cao. Trong trường hợp một số loại vắc-xin tương đối mới, chẳng hạn như vắc-xin virus gây u nhú ở người, bằng sáng chế có thể tạo ra một rào cản bổ sung.
Khi việc tăng cường sản xuất vắc xin là cần thiết khẩn cấp trong đại dịch COVID-19 vào năm 2021, Tổ chức Thương mại Thế giới và các chính phủ trên thế giới đã đánh giá xem có nên từ bỏ quyền sở hữu trí tuệ và bằng sáng chế đối với vắc xin COVID-19 hay không, điều này sẽ "loại bỏ tất cả các rào cản tiềm ẩn đối với tiếp cận kịp thời các sản phẩm y tế COVID-19 giá cả phải chăng, bao gồm vắc xin và thuốc, đồng thời mở rộng quy mô sản xuất và cung cấp các sản phẩm y tế thiết yếu."
Sản xuất
Sản xuất vắc xin về cơ bản khác với các loại sản xuất khácbao gồm sản xuất dược phẩm thông thườngtrong đó vắc-xin được dự định sử dụng cho hàng triệu người mà đại đa số đều hoàn toàn khỏe mạnh. Thực tế này thúc đẩy một quy trình sản xuất cực kỳ nghiêm ngặt với các yêu cầu tuân thủ nghiêm ngặt vượt xa những yêu cầu của các dược phẩm khác.
Tùy thuộc vào kháng nguyên, chi phí xây dựng một cơ sở sản xuất vắc xin có thể từ 50 đến 500 triệu đô la Mỹ, đòi hỏi thiết bị chuyên dụng cao, phòng sạch và phòng chứa. Sự khan hiếm toàn cầu về nhân sự mà thỏa mãn sự kết hợp phù hợp giữa các kỹ năng, chuyên môn, kiến thức, năng lực và nhân cách phù hợp dây chuyền sản xuất vắc xin. Với các trường hợp ngoại lệ đáng chú ý của Brazil, Trung Quốc và Ấn Độ, hệ thống giáo dục của nhiều nước đang phát triển không thể cung cấp đủ ứng viên đủ tiêu chuẩn và các nhà sản xuất vắc xin có trụ sở tại các quốc gia này phải thuê nhân viên nước ngoài để tiếp tục sản xuất.
Sản xuất vắc xin có nhiều giai đoạn. Đầu tiên, bản thân kháng nguyên được tạo ra. Vi rút được phát triển trên các tế bào sơ cấp như trứng gà (ví dụ, đối với bệnh cúm) hoặc trên các dòng tế bào liên tục như tế bào người được nuôi cấy (ví dụ, đối với bệnh viêm gan A). Vi khuẩn được nuôi trong lò phản ứng sinh học (ví dụ: Haemophilus influenzae loại b). Tương tự như vậy, một protein tái tổ hợp có nguồn gốc từ vi rút hoặc vi khuẩn có thể được tạo ra trong men, vi khuẩn hoặc tế bào nuôi cấy.
Sau khi kháng nguyên được tạo ra, nó được phân lập khỏi các tế bào được sử dụng để tạo ra nó. Một virus có thể cần được bất hoạt, có thể không cần thanh lọc thêm. Các protein tái tổ hợp cần nhiều thao tác liên quan đến siêu lọc và sắc ký cột. Cuối cùng, vắc-xin được pha chế bằng cách thêm chất bổ trợ, chất ổn định và chất bảo quản khi cần thiết. Chất bổ trợ tăng cường đáp ứng miễn dịch với kháng nguyên, chất ổn định tăng thời gian bảo quản, chất bảo quản cho phép sử dụng lọ chứa nhiều liều. Các vắc xin phối hợp khó phát triển và sản xuất hơn, do có khả năng không tương thích và tương tác giữa các kháng nguyên và các thành phần khác có liên quan.
Giai đoạn cuối cùng trong sản xuất vắc xin trước khi phân phối là chiết rót và hoàn thiện, là quá trình đóng lọ vắc xin và đóng gói để phân phối. Mặc dù đây là một phần đơn giản về mặt khái niệm của quy trình sản xuất vắc xin, nhưng nó thường là một nút thắt trong quá trình phân phối và sử dụng vắc xin.
Kỹ thuật sản xuất vắc xin đang ngày càng phát triển. Tế bào động vật có vú được nuôi cấy được dự kiến ngày càng trở nên quan trọng, so với các lựa chọn thông thường như trứng gà, do năng suất cao hơn và tỷ lệ các vấn đề nhiễm bẩn thấp. Công nghệ tái tổ hợp sản xuất vắc xin giải độc gen dự kiến sẽ trở nên phổ biến để sản xuất vắc xin vi khuẩn sử dụng biến độc tố. Các vắc xin phối hợp được kỳ vọng sẽ làm giảm số lượng kháng nguyên mà chúng chứa, và do đó làm giảm các tương tác không mong muốn, bằng cách sử dụng các mẫu phân tử liên quan đến mầm bệnh.
Nhà sản xuất vắc xin
Các công ty có thị phần sản xuất vắc xin cao nhất là Merck, Sanofi, GlaxoSmithKline, Pfizer và Novartis, với 70% doanh số bán vắc xin tập trung ở EU hoặc Mỹ (2013). Các nhà máy sản xuất vắc xin đòi hỏi đầu tư vốn lớn (từ 50 triệu đô la lên đến 300 triệu đô la Mỹ) và có thể mất từ 4 đến 6 năm để xây dựng, với toàn bộ quá trình phát triển vắc xin mất từ 10 đến 15 năm. Việc sản xuất vắc xin ở các nước đang phát triển đang đóng vai trò ngày càng tăng trong việc cung cấp cho các nước này, đặc biệt liên quan đến các loại vắc xin cũ hơn và ở Brazil, Ấn Độ và Trung Quốc. Các nhà sản xuất ở Ấn Độ là những nhà sản xuất tiên tiến nhất trong thế giới đang phát triển và bao gồm Viện Huyết thanh Ấn Độ, một trong những nhà sản xuất vắc xin lớn nhất theo số liều và một nhà cải tiến trong quy trình, gần đây đã nâng cao hiệu quả sản xuất vắc xin sởi lên gấp 10 đến 20 lần, do chuyển sang nuôi cấy tế bào MRC-5 thay vì dùng trứng gà. Năng lực sản xuất của Trung Quốc tập trung vào việc cung cấp nhu cầu trong nước của chính họ, riêng Sinopharm (CNPGC) đã cung cấp hơn 85% liều lượng cho 14 loại vắc xin khác nhau ở Trung Quốc. Brazil đang tiến gần đến việc tự cung cấp các nhu cầu trong nước bằng cách sử dụng công nghệ được chuyển giao từ các nước phát triển.
Cách thức đưa vào cơ thể
Một trong những phương pháp phổ biến nhất để đưa vắc xin vào cơ thể người là tiêm.
Sự phát triển của các hệ thống đưa vắc xin vào cơ thể mới làm dấy lên hy vọng về các loại vắc xin an toàn hơn và hiệu quả hơn trong việc đưa vào cơ thể và quản lý. Các dòng nghiên cứu bao gồm liposome và ISCOM (phức hợp kích thích miễn dịch).
Những phát triển đáng chú ý trong công nghệ cung cấp vắc xin đã bao gồm vắc xin uống. Những nỗ lực ban đầu để áp dụng vắc-xin uống cho thấy mức độ hứa hẹn khác nhau, bắt đầu từ đầu thế kỷ 20, vào thời điểm mà khả năng vắc-xin kháng khuẩn đường uống hiệu quả còn gây tranh cãi. Ví dụ, đến những năm 1930, người ta ngày càng quan tâm đến giá trị dự phòng của vắc-xin sốt thương hàn dạng uống.
Vắc xin bại liệt uống hóa ra rất có hiệu quả khi nhân viên tình nguyện thực hiện việc tiêm chủng mà không được đào tạo chính thức; kết quả cũng cho thấy việc sử dụng vắc xin dễ dàng và hiệu quả hơn. Vắc xin đường uống hiệu quả có nhiều ưu điểm; ví dụ, không có nguy cơ nhiễm bẩn máu. Vắc xin dùng để uống không cần phải ở dạng lỏng, và ở dạng chất rắn, chúng thường ổn định hơn và ít bị hư hỏng khi di chuyển hoặc hư hỏng do đông lạnh trong vận chuyển và bảo quản. Sự ổn định như vậy làm giảm nhu cầu về một "dây chuyền lạnh": vốn là các nguồn lực cần thiết để giữ vắc-xin trong phạm vi nhiệt độ hạn chế từ giai đoạn sản xuất đến khi sử dụng, và do đó có thể làm giảm chi phí vắc-xin.
Một phương pháp tiếp cận dùng kim tiêm siêu nhỏ, vẫn đang trong giai đoạn phát triển, sử dụng "các mặt nhọn được chế tạo thành các mảng có thể tạo ra các đường vận chuyển vắc xin qua da".
Một loại vắc xin không dùng kim thử nghiệm đang được thử nghiệm trên động vật. Nó gồm một miếng dán kích thước con tem tương tự như một miếng băng dính chứa khoảng 20.000 hình chiếu cực nhỏ trên mỗi cm vuông. Việc sử dụng dán qua da này có khả năng làm tăng hiệu quả của việc tiêm chủng, trong khi lại cần ít vắc xin hơn so với phương pháp tiêm.
Trong thú y
Tiêm vắc xin cho động vật được sử dụng vừa để ngăn ngừa các bệnh lây nhiễm của chúng vừa để ngăn ngừa chúng truyền bệnh cho người. Cả động vật nuôi làm thú cưng và động vật nuôi làm gia súc đều được tiêm phòng định kỳ. Trong một số trường hợp, các quần thể hoang dã có thể được tiêm phòng. Điều này đôi khi được thực hiện khi thức ăn có tẩm vắc xin được rải trong khu vực có dịch bệnh và đã được sử dụng để cố gắng kiểm soát bệnh dại ở gấu mèo.
Ở những nơi xảy ra bệnh dại, pháp luật có thể bắt người dân phải tiêm phòng dại cho chó. Các vắc xin chó khác bao gồm ngăn chặn tính khí bất thường của chó, phòng parvovirus, viêm gan chó, adenovirus-2, trùng xoắn khuẩn vàng da, Bordetella, virus parainfluenza, và bệnh Lyme, v.v..
Các trường hợp vắc xin thú y được sử dụng cho người đã được ghi nhận, dù cố ý hay tình cờ, với một số trường hợp sau khi tiêm cho người đã gây bệnh, đáng chú ý nhất là bệnh brucella. Tuy nhiên, báo cáo về những trường hợp như vậy là rất hiếm và rất ít được nghiên cứu về mức độ an toàn và kết quả của việc thực hành như vậy. Với sự ra đời của việc tiêm phòng bằng khí dung trong các phòng khám thú y, việc con người tiếp xúc với các mầm bệnh không tự nhiên mang trong người, chẳng hạn như Bordetellanchiseptica, có thể đã tăng lên trong những năm gần đây. Trong một số trường hợp, đặc biệt là bệnh dại, vắc xin thú y tiêm cho chó song song chống lại một tác nhân gây bệnh có thể tiết kiệm hơn vô số lần so với vắc xin tiêm cho con người.
Hạn chế
Những hạn chế của vaccine tập trung thành hai nhóm chính: hiệu quả kém và các tai biến đi kèm.
Hạn chế về hiệu quả
Một số vaccine rất có hiệu quả, không kể vaccine đậu mùa nổi tiếng, ví dụ vaccine ngừa bệnh uốn ván, sởi,.... Một số vaccine khác có hiệu quả vừa phải (hiệu quả của BCG chỉ vào khoảng 50%). Ngược lại, có những bệnh đến đầu thế kỷ 21 vẫn chưa có vaccine thích hợp (AIDS, sốt rét,....). Do vậy, vaccine chưa phải là vũ khí vạn năng để đối phó với bệnh tật.
Hiệu quả của vaccine cũng khó đánh giá chính xác. Kết quả nghiên cứu trên động vật không thể áp dụng 100% cho loài người, vì những đặc điểm riêng của từng loài. Trên lý thuyết, phương pháp duy nhất để chứng minh hiệu quả là lấy 2 nhóm người, một nhóm được tiêm chủng, một nhóm không rồi truyền mầm bệnh cho cả hai nhóm để xem kết quả. Dĩ nhiên phương pháp này không thể sử dụng được vì trái đạo đức. Do đó, người ta biến hóa đi một chút, cũng chia ra 2 nhóm được chủng và không được chủng như trên nhưng không truyền bệnh mà chỉ quan sát sự nhiễm bệnh qua các ngã thông thường. Hạn chế của phương pháp này là nếu một vaccine tỏ ra có hiệu quả, người ta không thể triển khai nghiên cứu trên quy mô rộng để tính chính xác hiệu quả vì như thế một số lớn quần chúng sẽ bị thiệt thòi do không được bảo vệ.
Bởi vậy, khi một vaccine được xem là có hiệu quả, người ta đem tiêm chủng cho mọi người và quan sát sự giảm số người mắc bệnh. Tuy nhiên, ngay cả khi một bệnh có chiều hướng giảm xuống, người ta cũng không biết vai trò thật sự của vaccine, ví dụ tần suất bệnh lao đã giảm rất nhiều, nhưng vai trò của các biện pháp vệ sinh, cách ly nguồn lây cũng rất đáng kể. (Để hiểu rõ hơn cách đánh giá hiệu quả, xem thêm bài khoa học thống kê.)
Tính kém hiệu quả của vaccine có thể biểu hiện về mặt chất (đáp ứng miễn dịch không thích hợp) hoặc về mặt lượng (không có đáp ứng miễn dịch).
Nguyên nhân gây kém hiệu quả về lượng:
Các "lỗ hổng" trong kho tàng miễn dịch: trên lý thuyết, các tế bào lympho B có thể tạo ra hơn 1012 loại kháng thể đặc hiệu, còn lympho T có thể nhận diện trên 1015 kháng nguyên khác nhau, những con số này tuy rất lớn nhưng không phải là vô hạn, hệ miễn dịch không thể chống lại mọi thứ.
Hiệu quả của vaccine còn tùy thuộc vào thời gian bảo vệ: trí nhớ miễn dịch có thể tồn tại suốt đời nhưng sự sản xuất kháng thể thì không nếu không được tái kích thích.
Đột biến của tác nhân gây bệnh: đây là cơ chế sinh tồn của các tác nhân gây bệnh. Đột biến đẩy hệ miễn dịch vào một cuộc rượt đuổi trường kỳ. Tiêu biểu cho cơ chế này là HIV, virus sốt xuất huyết, virus cúm với nguy cơ đại dịch cúm gia cầm hiện nay.
Nguyên nhân gây kém hiệu quả về chất:
Vai trò của phụ gia: để giảm tác dụng không mong muốn của vaccine, người ta thường tinh lọc các chế phẩm, nhưng có những vaccine quá tinh khiết lại trở nên kém hiệu quả. Đó là do hệ miễn dịch muốn được kích hoạt, phải nhận được một tín hiệu báo nguy, tín hiệu này thường không phải là kháng nguyên dùng làm vaccine. Để khắc phục, người ta dùng một số loại phụ gia trong chế phẩm vaccine. Ví dụ phụ gia Freund, nhôm hyđrôxít, nhôm phosphate hoặc trộn lẫn các văc-xin với nhau.
Loại phản ứng miễn dịch và hiện tượng chuyển hướng miễn dịch: đối với các tác nhân gây bệnh ngoại bào, đáp ứng miễn dịch dịch thể là thích hợp (loại đáp ứng này được sự hỗ trợ của các tế bào lympho Th1). Ngược lại, đáp ứng miễn dịch tế bào (cần sự hỗ trợ của lympho Th2) lại hữu hiệu cho các tác nhân gây bệnh nội bào. Do đó, nếu vaccine gây được đáp ứng miễn dịch nhưng không đúng loại đáp ứng nên có, hiệu quả cũng không được bảo đảm. Th1 và Th2 có xu hướng khắc chế lẫn nhau. vaccine kinh điển có xu hướng tạo đáp ứng Th1. Do đó đối với những bệnh do tác nhân nội bào như nhiễm leishmania, miễn dịch đặc hiệu sau lành bệnh lại tốt hơn vaccine, vì vaccine lại gây hiệu quả ngược, kiềm hãm phản ứng bảo vệ.
Tai biến khi dùng vaccine
Có hai loại tai biến: nhiễm bệnh và các bệnh miễn dịch.
Nhiễm bệnh
Vắc-xin sống, giảm độc lực có thể gây bệnh cho người bị suy giảm miễn dịch.
Nguy cơ hồi phục của tác nhân vi sinh: một tác nhân bị làm giảm độc lực tìm lại được độc tính của mình. Nguy cơ này ở vaccine ngừa bại liệt là 10−7, nghĩa là cứ 10 triệu trẻ em uống vaccine Sabin thì có 1 em bị tai nạn loại này. Điều không may này không ngăn cản được việc sử dụng vaccine này bởi lẽ tỷ lệ đó được xem là chấp nhận được.
Nguy cơ nhiễm các tác nhân gây bệnh khác vào trong chế phẩm vaccine. Điều này có thể hạn chế bằng các quy trình sản xuất, bảo quản và sử dụng chặt chẽ.
Bệnh miễn dịch
Thử nghiệm vaccine phòng bệnh dại trên cừu cho thấy có xác suất gây EAE, một bệnh tự miễn trên hệ thần kinh khoảng 1/3000-1/1000.Lý do có thể là vaccine chiết xuất từ não chó đã mang theo cả những mẩu protein của tế bào thần kinh, khi tạo miễn dịch, cơ thể (được tiêm)đã tạo ra cả kháng thể chống lại cấu trúc thần kinh của mình.
vaccine ngừa ho gà có thể gây sốc kèm di chứng thần kinh với xác suất 10−4-10−6. Việc tinh lọc vaccine này làm tăng mức an toàn nhưng một lần nữa, giảm hiệu quả.
Xu hướng
Kể từ ít nhất là năm 2013, các nhà khoa học đã cố gắng phát triển vắc xin thế hệ thứ 3 tổng hợp bằng cách tái tạo lại cấu trúc bên ngoài của virus; người ta hy vọng rằng việc này sẽ giúp ngăn ngừa tình trạng kháng vắc xin.
Các nguyên tắc chi phối phản ứng miễn dịch hiện có thể được sử dụng trong các loại vắc-xin được chế tạo riêng để chống lại nhiều bệnh không lây nhiễm ở người, chẳng hạn như ung thư và rối loạn tự miễn dịch. Ví dụ, vắc-xin thử nghiệm CYT006-AngQb đã được nghiên cứu là có thể điều trị huyết áp cao. Các yếu tố ảnh hưởng đến xu hướng phát triển vắc-xin bao gồm tiến bộ trong y học phiên dịch, nhân khẩu học, khoa học quản lý, phản ứng chính trị, văn hóa và xã hội.
Dùng thực vật làm lò phản ứng sinh học để sản xuất vắc xin
Ý tưởng sản xuất vắc-xin thông qua cây chuyển gen đã được xác định từ năm 2003. Các loại cây như thuốc lá, khoai tây, cà chua và chuối có thể được chèn các gen khiến chúng tạo ra vắc-xin có thể sử dụng được cho con người. Năm 2005, chuối đã được phát triển để sản xuất một loại vắc-xin phòng bệnh viêm gan B ở người. Một ví dụ khác là sự biểu hiện của protein dung hợp trong cỏ linh lăng biến đổi gen để chỉ thị chọn lọc đối với các tế bào trình diện kháng nguyên, do đó làm tăng hiệu lực của vắc xin chống lại bệnh tiêu chảy do vi rút ở bò (BVDV).
Xem thêm
Các bệnh có thể phòng ngừa bằng Vắc-xin
Tranh cãi về vắc xin
Đáp ứng miễn dịch đặc hiệu
Chương trình tiêm chủng mở rộng
Vắc xin HPV
Chú thích
Tham khảo
L'immunité 100 ans après Pasteur. Ed Nathan 1995.
Le système immunitaire. Peter Parham. Ed De Boek 2003.
Atlas de poche d'immunologie. Gerd-Rüdiger Burmester & Antonio Pezzutto. Ed Médecine-Sciences Flammarion 2000.
Liên kết ngoài
Vacxin và huyết thanh miễn dịch
BMJJournals.com - 'MMR: Science and Fiction. Exploring the Vaccine Crisis; MMR and Autism: What Parents Need to Know' ('Rapid Responses' to book review), British Medical Journal
Người ta thường tiêm phòng cho trẻ em những loại bệnh nào?
Những trang khuyến khích chủng ngừa
Brian Deer.com - 'mmr & autism investigation: part 1: the Lancet scandal', Brian Deer
CDC.gov - 'National Immunization Program: leading the way to healthy lives', US Centers for Disease Control (CDC information on vaccinations)
CDC.gov - 'Mercury and Vaccines (Thimerosal)', US Centers for Disease Control
Immunize.org - Immunization Action Coalition' (nonprofit working to increase immunization rates)
NYTimes.com - 'On Autism's Cause, It's Parents vs. Research', Gardiner Harris, Anahad O'Connor, New York Times (front page; ngày 25 tháng 6 năm 2005)
ratbags.com - 'RatbagsDotCom: Home of the Ratbags on the Net'
OpinionJournal.com - 'Autism and vaccines: Activists wage a nasty campaign to silence scientists' (unsigned editorial opinion), Wall Street Journal (ngày 16 tháng 2 năm 2004)
SNHS.com - 'Anti-vaccine activists get jabbed', Michael Fumento (ngày 11 tháng 3 năm 2004)
WHO.int - 'Immunizations, vaccines and biologicals: Towards a World free of Vaccine Preventable Diseases', World Health Organization (WHO's global vaccination campaign website)
Những trang phê phán chủng ngừa
909Shot.com - 'National Vaccine Information Center: the oldest and largest national organization advocating reformation of the mass vaccination system'
About.com - "Killing the Messenger: Dr. Andrew Wakefield Fired", Floyd Tilton (ngày 5 tháng 12 năm 2001)
VaccinationDebate.com - 'Vaccination Debate', Ian Sinclair
Miễn dịch học
Bệnh truyền nhiễm
Y học
Virus học
|
22170
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C3%94ng%20k%C3%A9
|
Ông ké
|
Ông ké có thể là:
Ông già hay ông lão trong tiếng Nùng
Khi viết hoa, Ông Ké là một tên gọi Hồ Chí Minh của người Nùng.
Tiếng Nùng: là một bộ phận ngôn ngữ của cộng đồng người Nùng - Một trong 54 bộ tộc trong đại gia đình dân tộc Việt Nam.
|
22173
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BB%99%20ch%E1%BA%BF%20h%C3%B2a%20kh%C3%AD
|
Bộ chế hòa khí
|
Bộ chế hòa khí hay chế hòa khí hay bình xăng con là một dụng cụ dùng để trộn không khí với nhiên liệu theo một tỉ lệ thích hợp và cung cấp hỗn hợp này cho động cơ xăng, hoạt động theo nguyên tắc hoàn toàn cơ học. Bộ phận này hiện vẫn được sử dụng trong các động cơ nhỏ, động cơ cũ hay trong các ô tô đặc biệt như ô tô đua nhỏ. Tuy nhiên, đa số các xe ô tô được sản xuất từ sau đầu thập niên 1980 dùng hệ thống phun nhiên liệu được điều khiển bởi máy tính thay cho bộ chế hòa khí. Đa số các xe mô tô hiện nay vẫn dùng bộ chế hòa khí do hệ thống này nhỏ gọn, rẻ tiền và dễ sửa chữa. Nhưng từ năm 2005, nhiều thiết kế xe mô tô đã dùng hệ thống phun nhiên liệu điện tử.
Phân loại
Chế hoà khí thông thường gồm hai loại:
+ chế 1 họng
+ chế 2 họng
Chế hoà khí là bộ phận quan trọng trên xe ôtô vì vậy khi sủa chữa phải đảm bảo tính cẩn thận tránh làm rơi vỡ hoặc méo
vì chế hoà khí không phải làm bằng kim loại.
Chu trình
Đầu tiên, xăng được chuyển vào buồng phao (float chamber) thông qua ống dẫn đầu vào (feed pipe) và đường dẫn nhiên liệu (fuel inlet). Khi khoang chứa đã nạp đầy đến một mức độ nhất định, phao và kim chỉ van nâng lên và việc nạp nhiên liệu được ngưng lại hoặc cũng có thể quan sát qua mát thần trên chế hoà khí xi lanh giảm xuống. Áp suất của khí quyển sẽ đẩy không khí vào trong bộ chế hòa khí. Đó là nơi mà không khí sẽ được trộn với một lượng xăng thích hợp từ buồng phao để tạo ra hỗn hợp xăng + không khí, tỷ lệ xăng/không khí thông thường vào khoảng 1g xăng/14,7g không khí.
Nếu lượng xăng> 1g/14,7g không khí hỗn hợp được gọi là hỗn hợp giàu, được dùng khi động cơ khởi động hoặc đang tăng ga, tăng tải. Nếu động cơ luôn hoạt động trong trạng thái hỗn hợp giàu sẽ sinh ra hiện tượng đống muội đen trong buồng đốt, bugi và ống xã, hiệu suất sử dụng nhiên liệu giảm, "ăn xăng".
Nếu lượng xăng< 1g/14,7g không khí hỗn hợp được gọi là hỗn hợp nghèo, sinh ra do điều chỉnh các thông số bị sai lệch, các đường nạp xăng bị bẩn hoặc tắc. Nếu động cơ hoạt động trong trạng thái hỗn hợp nghèo công suất giảm, lực moment giảm (động cơ bị yếu) sinh ra hiện tượng đóng trắng trong buồng đốt và bugi.
Lượng nhiên liệu được phun sương sau khi đã hòa trộn với nhau được van tiết lưu còn gọi là bướm ga (throttle valve) điều chỉnh. Ở trong động cơ xe ô tô, van tiết lưu được đóng và mở nhờ sự vận hành của bàn đạp tăng tốc.
Tham khảo
Heldstab, Wayne, "The secret of the super mileage caburator: how they work, how to build them".
Cơ khí
Động cơ
Bộ phận động cơ
Kĩ thuật động cơ
Chi tiết máy
Hệ thống nhiên liệu động cơ
|
22175
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%87%20th%E1%BB%91ng%20nhi%C3%AAn%20li%E1%BB%87u%20%C4%91%E1%BB%99ng%20c%C6%A1
|
Hệ thống nhiên liệu động cơ
|
Hệ thống nhiên liệu động cơ có chức năng cung cấp nhiên liệu cho động cơ, ở những trạng thái hoạt động khác nhau. Bên cạnh đó hệ thống nhiên liệu giúp loại bỏ tạp chất có trong nhiên liệu.
Hệ thống cung cấp nhiên liệu cho động cơ có hai loại: dùng bộ chế hòa khí và phun xăng.
Loại dùng bộ chế hòa khí được dùng trên các xe đời cũ, nhiên liệu được cung cấp vào động cơ thông qua một thiết bị đó là bộ chế hòa khí. Bộ chế hòa khí hòa trộn không khí với nhiên liệu trước khi cho vào trong xy lanh. Đây là thiết bị cơ khí hoàn toàn, dùng hiệu ứng Ventury: khi dòng không khí đi qua chỗ hẹp, áp suất và tốc độ đồng thời tăng lên, hút nhiên liệu trong một ngăn chứa.
Loại phun xăng, hay còn gọi là loại được điều khiển điện tử. Nhiên liệu được bơm được đưa đến kim phun. Lượng nhiên liệu đi vào xy lanh được quyết định bằng thời gian nhấc kim phun. Khoảng thời gian này do bộ điều khiển tính toán thông qua rất nhiều cảm biến như cảm biến đo lượng không khí nạp vào, nhiệt độ không khí nạp, nhiệt độ nước làm mát, tốc độ động cơ,...
Dưới đây là một số bộ phận trong hệ thống cung cấp nhiên liệu đến kim phun trong hệ thống phun xăng:
Bình nhiên liệu: Dùng để tích trữ nhiên liệu
Bơm nhiên liệu: Bơm nhiên liệu từ bình nhiên liệu đến kim phun
Lọc nhiên liệu: Lọc để loại bỏ các tạp chất có trong nhiên liệu
Bộ điều áp nhiên liệu: Dùng để điều chỉnh áp suất nhiên liệu ở mức phù hợp, đảm bảo cho kim phun nhiên liệu làm việc đúng và hiệu quả
Kim phun: Phun nhiên liệu vào đường ống nạp
Nắp bình nhiên liệu
chưa đầy đủ
Tham khảo
Động cơ đốt trong
|
22176
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BA%A5p%20sao%20bi%E1%BB%83u%20ki%E1%BA%BFn
|
Cấp sao biểu kiến
|
Cấp sao biểu kiến (m-magnitude) của một thiên thể (ngôi sao, hành tinh,...) là một thang đo về độ sáng biểu kiến của vật thể tính theo lôgarít của mật độ photon phát ra bởi vật thể nhận được trong một đơn vị thời gian bởi máy thu. Vật thể càng sáng thì m càng có giá trị nhỏ.
Cấp sao biểu kiến không thể hiện độ sáng thực của vật thể. Vật thể rất sáng, nhưng lại ở quá xa có thể trông tối và có cấp sao biểu kiến thấp. Độ sáng thực của vật thể được đo bằng cấp sao tuyệt đối.
Lịch sử
Người Hy Lạp cổ đại phân chia các vì sao thành 6 mức độ sáng đối với mắt người. Sao sáng nhất có m = 1, còn sao tối nhất có m = 6, tương đương với giới hạn tối nhất mà mắt người có thể cảm thụ. Mỗi mức sáng được coi là sáng gấp đôi mức thấp hơn. Phương pháp này được Ptolemy phổ biến trong quyển Almagest, và thường được cho là phát minh bởi Hipparchus. Phương pháp này không dùng để đo độ sáng của Mặt Trời. Vì sự cảm nhận sáng của mắt người theo hàm lôgarít, thang đo này là một thang đo lôgarít.
Năm 1856, Norman Robert Pogson chuẩn hóa hệ thống này, bằng cách định nghĩa sao sáng nhất với m = 1, sáng gấp 100 lần sao có m = 6. Như vậy, sao có m = n sáng gấp khoảng 2,512 lần sao có m = n+1. 2,512 là căn bậc 5 của 100 (một số vô tỉ) được gọi là Tỉ số Pogson. Thang Pogson lúc đầu dùng Polaris để chuẩn hóa cho m = 2. Sau này, các nhà thiên văn thấy Polaris thay đổi độ sáng, do đó họ chuyển sang dùng Vega làm chuẩn về độ sáng, rồi sau đó lập bảng các mốc không cho các đo đạc dòng ánh sáng. Độ sáng lúc này phụ thuộc vào dải bước sóng ánh sáng.
Hệ thống hiện đại không giới hạn trong 6 cấp sao biểu kiến hay trong phổ nhìn thấy. Các vật thể rất sáng có m âm. Như, Sirius, sao sáng nhất thiên cầu, có cấp sao biểu kiến trong khoảng −1,44 đến −1,46. Hệ thống hiện đại đo cấp sao cho cả Mặt Trăng và Mặt Trời; (mTrăng = −12,6 và mMặt Trời = −26,8). Kính viễn vọng Hubble có thể đo được vật thể với cấp sao yếu tới 30 trong phổ nhìn thấy còn kính thiên văn Keck có khả năng nhìn tương tự trong phổ hồng ngoại.
Định nghĩa
Định nghĩa hiện đại của cấp sao biểu kiến, trong vùng phổ x là:
với là quang thông đo trong vùng phổ x,
và là hằng số phụ thuộc đơn vị đo quang thông, định nghĩa trong Aller và cộng sự, 1982 cho các hệ thống đo lường thông dụng.
Cấp sao biểu kiến một số thiên thể
Các giá trị trong bảng làm gần đúng cho phổ nhìn thấy.
Xem thêm
Cấp sao tuyệt đối
Danh sách các sao sáng nhất
Tham khảo
Magnitudes of Thirty-six of the Minor Planets for the first day of each month of the year 1857, N. Pogson, MNRAS 17 pp 12 1856—in which Pogson first introduced his magnitude system
Landolt-Börnstein: Numerical Data and Functional Relationships in Science and Technology - New Series " Gruppe/Group 6 Astronomy and Astrophysics " Volume 2 Schaifers/Voigt: Astronomy and Astrophysics / Astronomie und Astrophysik " Stars and Star Clusters / Sterne und Sternhaufen Aller, L. H. et al, ISBN # 3-540-10976-5; 0-387-10976-5 1982—modern definition of the zero point for the most common magnitude system
Liên kết ngoài
Cấp sao tại trang Thiên văn Việt Nam
Danh sách các sao sáng
The Magnitude system
About stellar magnitudes
Obtain the magnitude of any star from SIMBAD
Quan sát thiên văn
|
22177
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/N%C3%A3o%20%C3%BAng%20th%E1%BB%A7y
|
Não úng thủy
|
Não úng thủy hay mềm nhũ não không phải là một bệnh lý riêng biệt mà đúng hơn đó là hậu quả của một nhóm các bệnh lý khác nhau nhưng cùng có chung một đặc trưng là suy giảm lưu thông và/hoặc hấp thu dịch não tủy. Trong một số trượng hợp hiếm hơn, não úng thủy là hậu quả của sự tăng tiết chất dịch này do u nhú của đám rối mạch mạc trong hệ thống não thất.
Sinh lý
Dịch não tủy được hình thành chủ yếu trong hệ thống não thất do sự tiết của đám rối mạch mạc. Đám rối này nằm trong hai não thất bên, não thất ba và não thất bốn nhưng chủ yếu là trong hai não thất bên. Ở một đứa trẻ bình thường thì có khoảng 20 ml dịch não tủy được sản xuất trong một giờ. Tổng lượng dịch não tủy là 50 ml ở trẻ em và khoảng 150 ml ở người lớn. Dich não tủy có thể được xem là dịch siêu lọc của huyết tương. Sự lưu thông dịch não tủy thực hiện được là nhờ sự chênh lệch áp lực giữa hệ thống các não thất với các xoang tĩnh mạch trong não. Bình thường áp lực trong lòng các não thất có thể lên đến 180 cm nước trong khi đó áp lực trong xoang tĩnh mạch dọc trên (một tĩnh mạch lớn trong não) chỉ vào khoảng 90 cm nước. Dịch não tủy đi từ hai não thất bên qua lỗ Monro để vào não thất ba sau đó đi qua một cấu trúc hẹp có tên là cống Sylvius để vào não thất bốn. Ở trẻ em, cống này có chiều dài khoảng 3 mm và đường kính chỉ 2 mm. Từ não thất bốn, dịch não tủy lại đi theo hai lỗ bên (lỗ Luschka) và một lỗ ở giữa (lỗ Magendie) để đổ vào các bể chứa ở nền não. Não úng thủy do hậu quả của sự tắc nghẽn các lỗ và cống lưu thông của não thất gọi là não úng thủy tắc nghẽn hoặc não úng thủy không lưu thông. Dịch não tủy từ các bể nền ở phía sau lại lưu thông đến các bể khác cũng như đến toàn bộ bề mặt của các cuộn não sau đó được hấp thu chủ yếu qua các nút nhện nhờ vào sự chênh lệch áp lực đã nói ở trên. Một phần rất nhỏ dich não tủy cũng được hấp thu bởi hệ thống mạch bạch huyết đổ về các xoang quanh mũi, một phần khác được hấp thu dọc theo các dây thần kinh và bởi chính đám rối mạch mạc. Vì một lý do nào đó mà các bể dưới nhện bị tắc nghẽn hoặc các nút nhện suy giảm chức năng thì cũng gây nên não úng thủy. Não úng thủy trong trường hợp này gọi là não úng thủy không tắc nghẽn hoặc não úng thủy lưu thông.
Sinh lý bệnh và nguyên nhân
Não úng thủy tắc nghẽn hay não úng thủy không lưu thông thường xuất hiện chủ yếu ở trẻ em do bất thường của cống Sylvius hoặc do tổn thương não thất bốn. Các bất thường cấu trúc của cống Sylvius thường là gây hẹp đường lưu thông dịch não tủy. Một số trường hợp hiếm, hẹp cống Sylvius là mrột bệnh lý di truyền lặn liên kết giới tính (liên kết với nhiễm sắc thể giới tính). Những bệnh nhân này đồng thời thường có các dị tật nhỏ kèm theo do khiếm khuyết quá trình đóng kín ống thần kinh như tật gai đôi cột sống thể ẩn (spina bifida occulta). Hiếm hơn nữa, hẹp cống Sylvius là do xơ hóa thần kinh. Chứng tăng sinh các tế bào nhện cũng là một nguyên nhân của tắc hẹp cống Sylvius. Do viêm màng nãp mủ hay xuất huyết não trong giai đoạn sơ sinh, lớp tế bào nội tủy lót trong lòng các não thất bị bong ra làm cho các tế bào nhện bị kích thích tăng sinh gây nên hẹp cống. Các nhiễm trùng trong quá trình bào thai, thường được biết dưới tên TORCH (Toxoplasmosis, Rubella, Cytomegalovirus, Hepatitis) cũng là những nguyên nhân có thể gặp của não úng thủy. U não, đặc biệt là u hố sọ sau gây cản trở lưu thông dịch não tủy và gây não úng thủy rất nhanh với dấu hiệu tăng áp nội sọ rất trầm trọng ở trẻ lớn. Các dị tật bẩm sinh đặc trưng gây nên não úng thủy có thể kể dị tật Chiari, hội chứng Dandy - Walker...
Não úng thủy không tắc nghẽn hay não úng thủy lưu thông thường là hậu quả của xuất huyết trong não thường gặp ở trẻ sơ sinh đẻ non hoặc trẻ nhũ nhi thiếu vitamin K. Máu trong các khoang dưới nhện có thể làm bít tắc các bể não thất hoặc làm suy giảm chức năng hấp thu của các nút nhện chứ không cản trở lưu thông bên trong các não thất làm tăng lượng dịch não tủy gây nên não úng thủy lưu thông. Viêm màng não mủ do phế cầu hoặc viêm màng não do lao gây nên dịch tiết quánh đặc bám vào các nút nhện cũng làm suy giảm chức năng các nút hấp thu này. Biến chứng xâm nhập màng não của bệnh bạch cầu cấp cũng là nguyên nhân có thể gặp của não úng thủy.
Biểu hiện lâm sàng
Biểu hiện lâm sàng của não úng thủy thay đổi rất khác nhau tùy từng trường hợp và phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như (1) tuổi mắc bệnh, (2) bản chất của thương tổn gây nên sự tắc nghẽn lưu thông dịch não tủy, (3) thời gian bị bệnh và (4) tốc độ tăng áp lực nội sọ.
Ở trẻ nhỏ do các khớp sọ chưa đóng kín nên triệu chứng dễ thấy nhất đó là kích thước của đầu to lên nhanh bất thường. Ngoài ra thóp trước cũng giãn to và căng hơn, các mạch máu da đầu cũng giãn to hơn bình thường. Trán trẻ rất rộng. Mắt thường ở tư thế nhìn xuống tạo nên dấu hiệu mặt trời lặn.
Ngoài những biểu hiện trên, còn có biểu hiện đầu trẻ bé hơn bình thường, trẻ rất hay giật mình thậm chíkhi nghe một tiếng động hoặc âm thanh rất nhỏ. Trẻ rất khó bú, rất hay bị sặc sữa hoặc nôn vọt. Trẻ rất khó ngủ, hay khóc, khi nằm đầu ngẹo sang một bên.Hành vi ngày càng chậm dần, tay trẻ thường nắm rất chặt.
Ở trẻ lớn hơn, khi các khớp sọ đã đóng kín một phần, dấu hiệu đầu to khó nhận biết hơn. Các triệu chứng gợi ý là dễ kích thích, khó chịu, mệt mỏi, chán ăn, nôn mửa. Dấu hiệu nhức dầu nổi bật ở nhóm trẻ này. Các dấu hiệu khác có thể thấy như phù gai thị, dấu hiệu tổn thương bó tháp... Hai nhóm di tật bẩm sinh thường gặp gây não úng thủy là dị tật Chiari và hội chứng Dandy - Walker.
Dị tật Chiari có hai phân nhóm.
Chiari típ I thường biểu hiện triệu chứng ở trẻ lớn và người trưởng thành và thường ít khi kèm với não úng thủy. Bệnh nhân thường van nhức đầu tái diễn, đau cổ, tiểu rắt, và tình trạng co cứng chi dưới ngày càng tiến triển nặng hơn. Dị tật này thường đặc trưng bởi sự tụt hạnh nhân tiểu não vào trong ống tủy cổ. Nguyên nhân của tình trạng này chưa được biết rõ nhưng có thể do sự bít tắc phần dưới của nõa thất bốn trong quá trình phát triển bào thai.
Chiari típ II đặc trưng bởi não úng thủy phát triển dần dần và tật thoát vị màng não tủy. Tổn thương này là do bất thường của não sau có thể là do cầu não không gập góc như bình thường trong quá trình sinh phôi làm cho não thất bốn bị kéo dài. Hậu quả là thân não bi xoắn vặn làm cho thùy giun, cầu não, hành tủy tụt vào trong ống tủy cổ. Khoảng 10% trẻ mắc dị tật Chiari típ II có biểu hiện ngay từ thời kỳ sơ sinh như thở rít, khóc yếu, ngưng thở. Các triệu chứng này giảm nếu được phẫu thuật dẫn lưu dịch não tủy sớm.
Hội chứng Dandy - Walker là bất thường của não thất bốn. Trong dị tật này, não thất bốn giãn to dạng nang do trần của não thất này phát triển không bình thường trong quá trình sinh phôi. Khoảng 90% bệnh nhân bị di tật Dandy - Walker có biểu hiện não úng thủy. Một số lớn bệnh nhân còn bị các bất thường đi kèm như bất sản thùy giun tiểu não và thể chai. Trẻ thường có kích thước đầu tăng lên rất nhanh và vùng chẩm gồ rõ. Trẻ thường có biểu hiện thất điều, chậm phát triển tâm thần vận động, động kinh...
Chẩn đoán
Chẩn đoán phân biệt
Điều trị
Điều trị tùy thuộc nguyên nhân gây bệnh.
Điều trị nội khoa bao gồm dùng các thuốc như acetazolamide và thuốc furosemide có thể tạm thời làm giảm sự sản xuất dịch não tủy. Tuy nhiên tác dụng lâu dài của các thuốc này rất hạn chế. Ngoài ra, trẻ bị não úng thủy còn có thể kèm các triệu chứng khác như động kinh, việc điều trị nội khoa cũng nhằm kiểm soát các biểu hiện bệnh lý này.
Hầu hết các trường hợp não úng thủy điều cần được điều trị ngoại khoa nhằm dẫn lưu dịch não tủy ra khỏi não. Phẫu thuật hay được sử dụng nhất là đặt dẫn lưu não thất- ổ bụng. Phẫu thuật này đưa một ống mềm đi dưới da, một đầu ống ở não thất và đầu kia trong khoang phúc mạc của ổ bụng. Dịch não tủy được ẩn lưu theo ống từ não thất đổ vào khoang phúc mạc. Tại đây dịch được hấp thu và trở lại tuần hoàn. Một biến chứng của dẫn lưu là nhiễm khuẩn, thường gặp nhất là tụ cầu trắng (staphylococus epidermidis). Tuy nhiên nếu phẫu thuật được thực hiện cẩn trọng thì tỉ lệ nhiễm trùng có thể hạ thấp xuống đến 5%. Hiện nay ở các trung tâm chu sinh tiên tiến người ta có thể tiến hành phẫu thuật dẫn lưu này ngay khi trẻ còn đang nằm trong bụng mẹ. Tuy vậy kết quả của các trường hợp được dẫn lưu trên không khả quan mấy. Lý do là khi trẻ có biểu hiện não úng thủy trong bào thai cần phải phẫu thuật thì nguyên nhân thường là những hội chứng bệnh bao gồm nhiều dị tật khác nhau kết hợp trên cùng một bệnh nhân.
Việc đặt ống dẫn lưu não thất ổ bụng có một vấn đề là rất hay bị nhiễm trùng, nhất là ở các nước có khí hậu nóng ẩm hoặc cơ địa của trẻ không chấp nhận vật lạ đặt vào người. ống dẫn lưu hay bị tắc phải điều trị kịp thời nếu không rất nguy hiểm. Biểu hiện của bị tắc ống dẫn lưu thường là trẻ có thay đổi rất bất thường: vận động nhiều hơn,cười lên sằng sặc hoặc tự nhiên khóc dấm dứt kéo dài; trẻ tự nhiên đờ đẫn,ăn, uống gì đều bị nôn, mồ hôi đổ ra nhiều và thường bị sốt.
Chú thích
Liên kết ngoài
Não úng thủy ở trẻ em
Não úng thủy
Thần kinh học
Nhi khoa
RTT
|
22190
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ti%C3%AAm%20ch%E1%BB%A7ng
|
Tiêm chủng
|
Tiêm chủng là việc truyền vắc xin nhằm kích thích hệ thống miễn dịch phát triển sự miễn dịch thích ứng đối với một căn bệnh. Vắc xin có thể ngăn ngừa hoặc cải thiện các hiệu ứng lây nhiễm của nhiều tác nhân gây bệnh. Hiệu quả của tiêm phòng đã được nghiên cứu rộng rãi và xác minh, ví dụ, thuốc chủng ngừa cúm, vắc-xin HPV, và vắc-xin thủy đậu cùng nhiều loại khác. Nói chung, tiêm phòng được coi là phương pháp hiệu quả nhất để ngăn ngừa các bệnh truyền nhiễm và không truyền nhiễm. Chất hoạt động của vắc-xin có thể nguyên vẹn nhưng bị khử hoạt tính hoặc giảm độc lực, các dạng mầm bệnh, hoặc thành phần tinh khiết của mầm bệnh cũng được chứng minh là có khả năng miễn dịch (ví dụ như, các protein ngoài của một loại virus). Biến độc tố được sản xuất để chống lại các bệnh độc tố, chẳng hạn như sửa đổi tetanospasmin của độc tố uốn ván để loại bỏ tác dụng độc hại nhưng vẫn giữ được hiệu quả miễn dịch của nó.
Bệnh đậu mùa có thể đã được những người thí nghiệm đầu tiên của con người đã cố gắng để ngăn chặn bằng việc tiêm chủng với các loại bệnh truyền nhiễm khác. Năm 1718, Lady Mary Wortley Montagu báo cáo rằng người Thổ Nhĩ Kỳ đã có truyền thống tiêm chất lỏng lấy từ trường hợp nhẹ của bệnh đậu mùa, và cho rằng cô ta đã tiêm cho chính những đứa con của mình. Trước năm 1796 khi bác sĩ người Anh Edward Jenner thử nghiệm khả năng sử dụng vắc-xin để ngăn ngừa bệnh đậu mùa ở người lần đầu tiên, ít nhất sáu người đã làm điều tương tự vài năm trước đó: một người vô danh, ở Anh (khoảng 1771); bà Sevel, Đức (khoảng 1772), ông Jensen, Đức (khoảng 1770), Benjamin Jesty, Anh, năm 1774; bà Rendall, Anh (khoảng 1782) và Peter Plett, Đức, năm 1791.
Từ tiêm chủng (tiếng Anh: vaccination) từ lần đầu tiên được sử dụng bởi Edward Jenner vào năm 1796. Louis Pasteur tiếp tục phát triển khái niệm này thông qua những đóng góp tiên phong trong lĩnh vực vi sinh vật. Tiêm vắc xin (Latin: vaccan) được đặt tên như vậy bởi vì vắc-xin đầu tiên được bắt nguồn từ một loại virus gây ảnh hưởng đến bò - một loại bệnh đầu mùa ở súc vật tương đối lành tính - nó tạo ra khả năng miễn dịch với bệnh đậu mùa, một căn bệnh truyền nhiễm và chết người.
Tiêm chủng cũng gặp phải nhiều tranh cãi, từ quan điểm khoa học, đạo đức, chính trị, an toàn y tế, tôn giáo và nhiều lĩnh vực khác. Trong một số ít trường hợp, tiêm chủng có thể gây thương tích với con người, ở một số quốc gia, những người bị thương do tiêm chủng có thể được nhận bồi thường. Tiêm chủng hiện nay được chấp nhận ở nhiều quốc gia vì những thành công ban đầu và những đạo luật quy định tiêm chủng bắt buộc, các chiến dịch tiêm chủng được diễn ra trên diện rộng và tác dụng của nó trong việc giảm thiểu tỉ lệ mắc bệnh đã được ghi nhận ở các quốc gia trên thế giới.
Lịch tiêm chủng tại Việt Nam
Chú thích
Liên kết
U.S. government Vaccine Research Center: Information regarding preventive vaccine research studies
The Vaccine Page links to resources in many countries.
Immunisation Immunisation schedule for children in the UK. Published by the UK Department of Health.
CDC.gov - 'National Immunization Program: leading the way to healthy lives', US Centers for Disease Control (CDC information on vaccinations)
CDC.gov - 'Mercury and Vaccines (Thimerosal)', US Centers for Disease Control
Immunize.org - Immunization Action Coalition' (nonprofit working to increase immunization rates)
WHO.int - 'Immunizations, vaccines and biologicals: Towards a World free of Vaccine Preventable Diseases', World Health Organization (WHO's global vaccination campaign website)
Health-EU Portal Vaccinations in the EU
History of Vaccines Medical education site from the College of Physicians of Philadelphia, the oldest medical professional society in the US
Công nghệ sinh học
|
22193
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/JSF%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
JSF (định hướng)
|
JSF có thể chỉ đến:
JavaServer Faces, một bản miêu tả kĩ thuật giúp đơn giản hóa việc phát triển giao diện cho các ứng dụng Web viết bằng Java
F-35 Joint Strike Fighter, máy bay chiến đấu
Quỹ hỗ trợ Phần mềm Jabber
|
22194
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chim%20ng%C3%B3i%20n%C3%A2u
|
Chim ngói nâu
|
Chim ngói nâu (tên khoa học Streptopelia senegalensis) là một loài chim trong họ Columbidae. Chúng thường cư trú và sinh sản ở các vùng nhiệt đới châu Phi phía nam sa mạc Sahara, Trung Đông và miền nam châu Á, về phía đông tới Ấn Độ.
Loài chim này là phổ biến và phân bổ rộng rãi trong các vùng đất nhiều bụi rậm và khô.
Loài chim này làm tổ trên cây và đẻ hai trứng. Chúng bay nhanh với sự vỗ cánh đều đặn và thỉnh thoảng đạp cánh đột ngột-là đặc trưng cho các loài bồ câu nói chung.
Chim ngói nâu là loài chim cu đuôi dài, mảnh dẻ, thông thường dài 25 cm. Phần lưng, cánh và đuôi có màu nâu ánh đỏ với các sợi lông màu xanh xám ở cánh. Phần dưới của cánh có màu hạt dẻ.
Phần đầu và các phần dưới có màu hồng nhạt, chuyển dần thành màu hơi trắng ở các phần dưới của bụng. Chúng có các đốm đen trên cổ. Chân có màu đỏ. Tiếng kêu của chúng từa tựa như u túc túc cu ru, với sự nhấn mạnh của túc túc. Cả hai giống chim trống và mái là tương tự nhau, nhưng chim non thì có màu hung đỏ nhiều hơn so với chim trưởng thành cũng như có ít đốm trên cổ hơn.
Chim ngói nâu ăn các loại hạt cỏ, ngũ cốc, một số loài thực vật và các côn trùng nhỏ. Chúng kiếm ăn trên mặt đất ở các bãi cỏ và các khu vực trồng cây nông nghiệp.
Giống như một số loài chim bồ câu khác trong chi này, chúng không sống thành bầy mà thông thường chỉ sống đơn lẻ hoặc có đôi.
Chú thích
Tham khảo
Birds of India của Grimmett, Inskipp và Inskipp, ISBN 0-691-04910-6
Birds of The Gambia của Barlow, Wacher và Disley, ISBN 1-873403-32-1
Thông tin về chim cu ngói trên trang SVRVN
S
Chim châu Phi
Chim Quần đảo Canaria
Chim Trung Đông
Chim Nam Á
Động vật được mô tả năm 1766
|
22196
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%E1%BA%A3%20b%C3%B3ng%20v%C3%A0ng%20ch%C3%A2u%20%C3%82u
|
Quả bóng vàng châu Âu
|
Quả bóng vàng châu Âu (Ballon d'Or, ; ) là giải thưởng bóng đá thường niên do tạp chí tin tức Pháp France Football trao giải từ năm 1956. Từ năm 2010 đến 2015, trong một thỏa thuận với FIFA, giải thưởng tạm thời được hợp nhất với Cầu thủ xuất sắc nhất thế giới của FIFA (thành lập năm 1991) và được gọi là Quả bóng vàng FIFA. Sự hợp tác đó đã kết thúc vào năm 2016 và giải thưởng được hoàn nguyên thành Ballon d'Or, trong khi FIFA cũng hoàn nguyên thành giải thưởng hàng năm riêng biệt của mình, The Best FIFA Men's Player. Những người nhận chung Quả bóng vàng FIFA được cả hai tổ chức trao giải coi là người chiến thắng.
Được hình thành bởi các nhà văn thể thao Gabriel Hanot và Jacques Ferran, giải thưởng Ballon d'Or vinh danh cầu thủ nam được coi là có thành tích tốt nhất trong năm trước, dựa trên bình chọn của các nhà báo bóng đá, từ 1956 đến 2006. Ban đầu, nó chỉ được trao cho các cầu thủ đến từ châu Âu và được biết đến rộng rãi với tên gọi Cầu thủ xuất sắc nhất châu Âu. Năm 1995, Ballon d'Or được mở rộng để bao gồm tất cả các cầu thủ từ bất kỳ nguồn gốc nào đang thi đấu tại các câu lạc bộ châu Âu.
Sau năm 2007, huấn luyện viên và đội trưởng các đội tuyển quốc gia cũng được quyền bầu cử. Giải thưởng đã trở thành giải thưởng toàn cầu vào năm 2007 với tất cả các cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp từ khắp nơi trên thế giới đủ điều kiện tham gia. Vào năm 2022, France Football đã sửa đổi các quy tắc cho Ballon d'Or. Họ đã thay đổi thời gian để các giải thưởng không được trao cho thành tích trong một năm dương lịch mà cho một mùa bóng đá. Họ cũng quyết định rằng chỉ những quốc gia nằm trong top 100 của bảng xếp hạng thế giới FIFA mới được phép bỏ phiếu.
Lịch sử
Stanley Matthews của Anh là người đầu tiên giành Quả bóng Vàng. Trước năm 2007, giải thưởng thường được biết đến với tên gọi Cầu thủ xuất sắc nhất châu Âu theo lục địa trong tiếng Anh và nhiều phương tiện truyền thông quốc tế. Ngay cả sau năm 2007, nó thường được xác định và gọi bằng cái tên đó vì nguồn gốc của nó là một giải thưởng châu Âu, cho đến khi nó được hợp nhất với giải thưởng Cầu thủ Thế giới của FIFA để củng cố tuyên bố mới trên toàn thế giới của nó. George Weah của Liberia, người châu Phi duy nhất nhận giải, trở thành người đầu tiên không phải người châu Âu giành được giải thưởng vào năm 1995, năm mà các quy tắc về tư cách được thay đổi. Ronaldo của Brasil đã trở thành nhà vô địch Nam Mỹ đầu tiên hai năm sau đó.
Lionel Messi đã giành được giải thưởng kỷ lục tám lần, tiếp theo là Cristiano Ronaldo với năm lần.Ba cầu thủ từng 3 lần đoạt giải: Johan Cruyff, Michel Platini, và Marco van Basten. Với bảy giải thưởng mỗi người, các cầu thủ Hà Lan, Đức, Argentina, Bồ Đào Nha và Pháp đã giành được nhiều Quả bóng Vàng nhất. Các cầu thủ đến từ Đức (1972, 1981) và Hà Lan (1988) chiếm ba vị trí hàng đầu trong một năm (thành tích chỉ đạt được ba lần trong lịch sử). Các câu lạc bộ Đức (1972) và Ý (1988–1990) đạt được thành tích tương tự, trong đó có hai năm cá nhân dưới sự thống trị của cầu thủ AC Milan (1988, 1989), một kỷ lục độc nhất cho đến khi các câu lạc bộ Tây Ban Nha trải qua sự thống trị không lường trước được (2009–2012, 2015, 2016) và Barcelona (2010) trở thành câu lạc bộ thứ hai chiếm vị trí trong top ba. Hai câu lạc bộ Tây Ban Nha, Barcelona và Real Madrid, cũng dẫn đầu bảng xếp hạng về việc tạo ra nhiều nhà vô địch nhất, với 12 danh hiệu mỗi đội.
Từ năm 2010 đến năm 2015, giải thưởng này đã được hợp nhất với một giải thưởng tương tự, giải thưởng FIFA World Player of the Year, để tạo ra FIFA Ballon d'Or, giải thưởng được trao cho cầu thủ nam xuất sắc nhất thế giới trước khi FIFA và France Football quyết định không trao giải. tiếp tục thỏa thuận sáp nhập. Sau năm 2011, UEFA tạo ra UEFA Best Player in Europe Award để duy trì truyền thống của Ballon d'Or ban đầu đặc biệt vinh danh một cầu thủ bóng đá đến từ châu Âu.
Vào năm 2020, Group L'Équipe, thuộc France Football, đã quyết định rằng sẽ không có giải thưởng nào được trao trong năm do COVID-19 pandemic cắt ngắn mùa giải của các câu lạc bộ bóng đá trên toàn thế giới. Dư luận rộng rãi cho rằng đáng lẽ giải thưởng năm 2020 phải được trao cho Robert Lewandowski.
Giải thưởng thể hiện sự thiên vị các cầu thủ tấn công, vốn gia tăng trong những năm gần đây, đặc biệt là sau năm 2007. Theo thời gian, giải thưởng đã được trao cho nhiều giải đấu và câu lạc bộ độc quyền hơn. Trước năm 1995, 10 giải đấu cung cấp người chiến thắng Ballon d'Or, trong khi chỉ có Anh, Pháp, Đức, Ý và Tây Ban Nha cung cấp người chiến thắng kể từ năm 1995. La Liga của Tây Ban Nha có nhiều Quả bóng Vàng nhất. Barcelona và Real Madrid đã cung cấp nhiều người chiến thắng Ballon d'Or nhất kể từ năm 1995.
Vào năm 2022, France Football đã sửa đổi các quy tắc cho Ballon d'Or. Họ đã thay đổi thời gian để các giải thưởng không được trao cho thành tích trong một năm dương lịch mà cho một mùa giải bóng đá. Người ta cũng quyết định rằng chỉ những quốc gia nằm trong top 100 của Bảng xếp hạng thế giới của FIFA mới được phép bỏ phiếu. Cuộc trưng cầu dân ý trước đây đã được mở cho tất cả các quốc gia kể từ năm 2007. Điều này đã đưa Quả bóng vàng phù hợp với Giải thưởng Cầu thủ xuất sắc nhất năm của UEFA, giải đấu ít bị chi phối bởi các giải đấu độc quyền và đặc biệt là Cristiano Ronaldo và Lionel Messi những năm gần đây.
Chín cầu thủ (Bobby Charlton, Franz Beckenbauer, Gerd Müller, Paolo Rossi, Zinedine Zidane, Rivaldo, Ronaldinho, Kaká, và Lionel Messi) đã vô địch FIFA World Cup, cúp C1 châu Âu/UEFA Champions League, và Ballon d'Or trong sự nghiệp của họ.
Những người chiến thắng
Chú ý: Cho đến năm 2021, Quả bóng vàng được trao dựa trên thành tích của cầu thủ trong năm dương lịch. Kể từ năm 2022, các bồi thẩm viên đã được hướng dẫn tính đến mùa giải trước đó.
Ngày 31/10/2023 Lionel Messi đã chính thức vượt qua Haaland và MBappe để dành danh hiệu Quả bóng vàng 2023, đồng thời thiết lập kỷ lục người đạt giải thưởng này nhiều lần nhất với 8 lần. Với mùa giải 2022 - 2023 thành công trong màu áo của đội tuyển Quốc gia góp công lớn giúp Argentina lên ngôi vô địch Word Cup 2022 với 7 bàn thắng. Trong màu áo của Paris Saint-Germain, ngôi sao sinh năm 1987 này cũng có 21 bàn thắng, 20 đường kiến tạo giúp đội bóng vô địch Ligue 1
Chiến thắng theo cầu thủ
Chiến thắng theo quốc gia
Câu lạc bộ
Giải thưởng bổ sung
All-Star Team
Năm 1978, France Football đã đăng một bài báo về giải thưởng Cầu thủ bóng đá Nam Mỹ của năm năm đó trong đó họ đưa ra giả thuyết về một trận đấu giữa Đội All-Star Nam Mỹ và đội All-Star Châu Âu, có sự góp mặt của những cầu thủ có thành tích tốt nhất trong bảng xếp hạng giải thưởng. Một bài viết từ năm 1994 được xuất bản bởi El País đưa tin một "Golden Team" đã được chọn tại buổi dạ tiệc Ballon d'Or 1994.
Chú giải
Tham khảo
Xem thêm
Chiếc giày vàng châu Âu
Quả bóng vàng Việt Nam
UEFA Men's Player of the Year Award
UEFA Club Footballer of the Year
Golden Boy
Golden Player
Liên kết ngoài
Quả bóng vàng Châu Âu trên trang của tạp chí France Football
Giải thưởng bóng đá châu Âu
Giải thưởng theo tạp chí
Khởi đầu năm 1956
|
22220
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BB%95%20l%E1%BA%A5y%20thai
|
Mổ lấy thai
|
Mổ lấy thai (sinh mổ, mổ bắt con, mổ Cesar) là một phẫu thuật nhằm lấy thai nhi, nhau thai, màng ối bằng một vết mổ qua thành bụng và thành tử cung còn nguyên vẹn.
Định nghĩa này không bao gồm việc mổ bụng lấy một thai ngoài tử cung, nằm trong ổ bụng, hay lấy một thai đã rơi một phần hay toàn bộ vào trong ổ bụng do vỡ tử cung.
Lịch sử
Năm 1581, Francois Rousset có đề cập đến mổ lấy thai, nhưng bản thân ông chưa bao giờ làm cũng như chứng kiến một cuộc phẫu thuật như thế này.
Mổ lấy thai thực hiện trên người sống lần đầu tiên vào khoảng đầu thế kỷ 17. Tuy nhiên tỉ lệ tử vong do mổ lấy thai vào thời gian này còn rất cao do hạn chế về gây mê và nguy cơ nhiễm trùng cao.
1882, Sanger đưa ra một phương pháp mổ lấy thai theo đường mổ dọc thân tử cung – mà ngày nay được gọi là phương pháp cổ điển.
1912, Kronig đề nghị một phương pháp mổ lấy thai bằng đường mổ đứng dọc đoạn dưới tử cung. Phương pháp này sau đó được Beck (1919) và De Lee (1922) cải tiến và áp dụng rộng rãi ở Hoa Kỳ.
Cuối cùng, vào năm 1926, Kerr miêu tả một đường mổ lấy thai ngang đoạn dưới tử cung, và đây là đường mổ được áp dụng phổ biến nhất cho đến tận ngày nay.
Tỷ lệ
Đầu thế kỷ 20, tỷ lệ mổ lấy thai còn rất thấp, khoảng 0,6–5%. Nhưng ngày nay, nhờ sự phát triển của gây mê hồi sức, của phương tiện vô khuẩn mà chỉ định của mổ lấy thai ngày càng cao.
Tỷ lệ mổ lấy thai ở Mỹ là khoảng 21.2% (1998).
Sự gia tăng đó là do (1) mổ lấy thai thay cho các thủ thuật lấy thai bằng forceps cao và trung bình (2) mổ lấy thai dự phòng trong ngôi mông (1990, 83% trường hợp ngôi mông được mổ lấy thai (theo Notzon và cs)) (3) phát hiện sớm và đánh giá đúng mức suy thai nhờ máy monitoring sản khoa (4) mổ lấy thai ở những bệnh nhân có vết mổ lấy thai cũ.
Chỉ định
Chỉ định từ phía mẹ
Âm đạo có sẹo do phẫu thuật tạo hình, rách và khâu trong những lần sinh trước...
Có vật cản trở ở đường sinh dục của mẹ (khối u ác hay condylom sùi).
Cổ tử cung có sẹo do viêm loét, do đốt điện, khoét chóp, cắt cụt cổ tử cung hay cổ tử cung có khối u... làm cổ tử cung không xoá và mở được.
Khối tiền đạo như u buồng trứng, u xơ tử cung.
Chỉ định từ phía con
Ngôi bất thường:
Ngôi mặt cằm ngang và cằm sau
Ngôi trán
Ngôi ngang không thực hiện xoay thai
Con so ngôi mông, ước lượng cân thai trên 3 kg
Ngôi mông + một bất thường khác
Thai có dị tật bẩm sinh
Suy thai trong chuyển dạ
Mẹ có nhiễm Herpes sinh dục đang tiến triển (đặc biệt là ở lần nhiễm đầu tiên)
Mẹ nhiễm HIV.
Chỉ định từ cả mẹ và con
Với chỉ định mổ lấy thai trong những trường hợp này sẽ có lợi cho cả hai mẹ con. Đó là:
Nhau tiền đạo trung tâm và phần lớn các trường hợp nhau tiền đạo bán trung tâm.
Bất xứng đầu chậu.
Các chống chỉ định của chuyển dạ sanh ngã âm đạo ví dụ vết mổ cũ.
Những chỉ định khác
Có thể tóm tắt lại các chỉ định của mổ lấy thai trong 4 chỉ định sau, đó 4 chỉ định thường gặp nhất của mổ lấy thai là: Mẹ có vết mổ cũ trên thân tử cung, ngôi mông, thai suy và sanh khó - chiếm 85% tổng số các trường hợp sanh mổ.
Lưu ý: tuyệt đối không có chỉ định mổ lấy thai theo yêu cầu của bệnh nhân.
Chống chỉ định
Thực ra không có chống chỉ định của mổ lấy thai nếu như đã có chỉ định. Nhưng trong một số trường hợp phải cân nhắc. Ví dụ: cuộc mổ có nguy cơ đe doạ tính mạng bà mẹ (như bà mẹ có bệnh phổi nặng), cũng không nên mổ lấy thai ở những thai có bất thường nhiễm sắc thể (trisomie 13 hay 18) hoặc thai có di tật bẩm sinh không thể sống được nếu được mổ lấy ra.
Chuẩn bị trước mổ
Những điều sau cần chuẩn bị cho bệnh nhân
Giải thích cho bệnh nhân.
Bệnh nhân nhịn ăn 8 giờ trước cuộc mổ (đối với bệnh nhân mổ chương trình).
Đặt máy monitor sản khoa theo dõi tim thai và cơn gò của mẹ.
Chuẩn bị đường truyền tĩnh mạch.
Dự trù máu.
Các chuẩn bị khác cho một cuộc mổ bụng.
Một số xét nghiệm cần làm: công thức máu, nhóm máu, đông cầm máu, siêu âm đánh giá lại thai.
Các giai đoạn của cuộc mổ lấy thai
Thời điểm mổ lấy thai
Thích hợp nhất là khi đã vào chuyển dạ, lúc này đoạn dưới tử cung đã được thành lập.
Đối với mổ lấy thai vì vết mổ cũ, các bác sĩ thường mổ ngay lúc bắt đầu chuyển dạ, thai nhi đã trưởng thành, và cổ tử cung đã mở tránh nguy cơ bế sản dịch.
Đối với vết mổ cũ dọc thân tử cung, thì các bác sĩ lại chủ động mổ sớm vì nguy cơ nứt vết mổ cũ, vỡ tử cung ngay cả khi chưa có chuyển dạ.
Chọn phương pháp vô cảm
Các phương pháp vô cảm thường dùng là mê nội khí quản, tê ngoài màng cứng và tê tuỷ sống.
Gây tê ngoài màng cứng: kỹ thuật khó nhưng có nhiều lợi điểm do ít tác dụng phụ, thuốc không vào máu, không đến được thai. Nên phương pháp này hay được chọn lựa, nhất là trong trường hợp mổ lấy thai ở bệnh nhân vết mổ cũ, tiên lượng cuộc mổ kéo dài do vết mổ cũ gây dính phải gỡ dính.
Tê tuỷ sống: kỹ thuật đơn giản hơn, duy trì lâu và thuốc cũng không qua được thai nhi, các cơ được thư giãn tốt. Nhưng lại có nhiều tác dụng phụ hơn, nhất là tác dụng tụt huyết áp. Do đó không thích hợp với những trường hợp choáng, mẹ mất máu nhiều, thai suy, huyết áp không ổn định.
Mê nội khí quản: thời gian chuẩn bị ngắn, thích hợp cho mổ cấp cứu, ít tác dụng phụ. Nhưng thuốc qua nhau thai, đến thai, vì vậy kể từ lúc dẫn đầu mê đến lúc lấy em bé không được quá 5-7 phút. Người ta không chọn mê nội khí quản cho những trường hợp dự kiến là khó khăn, cho bệnh nhân có bệnh lý hô hấp, bệnh lý gan-thận.
Rạch bụng
Đường trắng giữa trên xương vệ (xương mu): đường cơ động, rộng, vào tử cung nhanh. Đồng thời cũng ít chảy máu hơn.
Các đường ngang trên xương vệ: thường được làm hơn cả vì ít đau hơn, giảm nguy cơ thoát vị thành bụng, bộc lộ vùng chậu rất rõ ràng và thẩm mỹ hơn.
Rạch tử cung
Có hai phương pháp rạch tử cung để vào buồng tử cung lấy thai.
Đường rạch ngang đoạn dưới tử cung:
Trong 90% các trường hợp mổ lấy thai, đường rạch ngang đoạn thấp tử cung được áp dụng. Đường này rạch ở tử cung phía cao hơn bờ trên bàng quang (đáy bàng quang) khoảng 1–2 cm và hơi thấp hơn đường mở phúc mạc.
Đường rạch dọc tử cung:
Do có nhiều khuyết điểm nên đường mổ này chỉ dùng trong một số trường hợp hạn chế như: Nhau tiền đạo mặt trước, ngôi ngang, vết mỗ lấy thai cũ quá dính, thai non tháng, nhau cài răng lược, tránh nhân xơ ở đoạn dưới thân TC. Nếu ngôi ngang lưng quay xuống được xác định nên mổ dọc tử cung ngay, nếu đã mở ngang đoạn dưới nên rạch thêm đường dọc mới lấy được thai nhanh, dễ dàng, tránh nguy cơ suy thai, chảy máu do thời gian lấy thai lâu .
Tuy nhiên trong những trường hợp trên vẫn có thể dùng đường mổ ngang đoạn dưới tử cung. Tuy nhiên có một chỉ định tuyệt đối của mổ đường dọc thân tử cung đó là mẹ có ung thư cổ tử cung xâm lấn.
Lấy thai
Ngôi đầu: đưa bàn tay vào phía dưới đầu thai, đẩy đầu lên ngang với mép đường mở TC, tay kia đẩy nhẹ nhàng ở đáy TC để ngôi thai trượt trên bàn tay đi ra khỏi vết mổ.
Ngôi mông: lấy thai từ chân hay mông.
Ngôi ngang: lấy thai bằng chân thai.
Với đường mổ dọc thân: lấy thai bằng chân.
Sổ nhau
Lóc nhau bằng tay nếu chảy máu nhiều, còn nếu ít chảy máu thì có thể chờ tử cung co hồi và nhau tự bong.
Sau đó bệnh nhân sẽ được truyền Oxytocin giúp tử cung co hồi tốt.
Khâu tử cung
Có thể khâu một hoặc hai lớp. Riêng đường mổ dọc thân cần phải khâu nhiều lớp.
Khi khâu phải lấy toàn bộ lớp cơ, phẫu thuật viên sẽ không lấy cả lớp niêm mạc tử cung vì nếu để niêm mạc lọt vào giữa vết mổ bệnh nhân có nguy cơ bị lạc nội mạc tử cung sau này.
Tai biến
Tai biến trong lúc mổ
Rách tử cung (thường ở đoạn dưới tử cung khi mổ tử cung ở đoạn dưới)
Tổn thương bàng quang, niệu quản, ruột...
Chảy máu do phạm phải động mạch tử cung, do đờ tử cung.
Mất trương lực tử cung - đờ tử cung: gặp ở sản phụ đa sản, đa ối, sản phụ trước đó đã chuyển dạ kéo dài khó khăn. Khi ấy nguy cơ sẽ mất máu nhiều hơn.
Các tai biến do gây mê.
Biến chứng sau mổ
Nhiễm trùng: nhiễm trùng trong cơ tử cung (endomyometritis), nhiễm trùng vết mổ,...
Nhiễm trùng đường tiểu
Thoát vị thành bụng
Dính ruột
Lạc nội mạc tử cung
Các biến chứng do thuyên tắc tĩnh mạch khi nằm hậu phẫu lâu...
Tai biến cho con
Ảnh hưởng bởi thuốc mê.
Chạm thương khi phẫu thuật.
Hít phải nước ối.
Kết luận
Ngày nay tỷ lệ mổ lấy thai ngày càng nhiều. Nhưng mổ lấy thai không phải là một phương pháp an toàn, mà cũng có nguy hiểm và ảnh hưởng đến tương lai sản khoa của bà mẹ.
Một sản phụ có một vết mổ cũ trên tử cung luôn được coi là một sản phụ nguy cơ cao:
Vì sẽ có nguy cơ bị những tai biến trong lúc mang thai và chuyển dạ cao hơn một sản phụ không có vết mổ cũ.
Thêm nữa, hầu hết các sản phụ đã có một vết mổ cũ trên tử cung thường phải mổ lấy thai ở lần mang thai tiếp theo.
Các bác sĩ thường khuyên các sản phụ đã có hai lần mổ lấy thai không được mang thai nữa vì nguy cơ vỡ tử cung trong lần mang thai sau đó là rất cao.
Vì vậy cần cân nhắc khi mổ lấy thai. Và trong thời kỳ hậu phẫu thì cần nhớ rằng bệnh nhân luôn có 2 vấn đề: vấn đề hậu phẫu và vấn đề hậu sản.
Tham khảo
Sản phụ khoa. Bộ môn phụ sản trường Đại học Y dược TP.Hồ Chí Minh, năm 2000, trang 568-579.
William's Obstetric, 21st edition, Chapter 23 Cesarean delivery and Postpartum hysterectomy, trang 537-559.
Bài viết Cersarean Delivery - tác giả Harish M Sehdev - khoa Phụ sản - Bệnh viện Pennsylvania
Video một cuộc mổ lấy thai
CESAREAN SECTION -- A BRIEF HISTORY
Tham khảo
Sản khoa
RTT
Sinh con
|
22221
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Delphi%20%28ph%E1%BA%A7n%20m%E1%BB%81m%29
|
Delphi (phần mềm)
|
Delphi là sản phẩm phần mềm sử dụng phương ngữ Delphi của ngôn ngữ lập trình Object Pascal và cung cấp môi trường phát triển tích hợp (IDE) để phát triển ứng dụng nhanh chóng các phần mềm cho máy tính để bàn, thiết bị di động, web và bảng điều khiển. Delphi hiện tại được Embarcadero Technologies phát triển và duy trì.
Các trình biên dịch của Delphi tạo ra mã gốc cho Microsoft Windows, macOS, iOS, Android và Linux (x64).
Delphi bao gồm một trình soạn thảo mã nguồn, một trình thiết kế trực quan, một trình gỡ lỗi tích hợp, một thành phần kiểm soát mã nguồn và hỗ trợ cho các plugin của bên thứ ba. Trình chỉnh sửa mã có tính năng Code Insight (hoàn thành mã), Error Insight (kiểm tra lỗi thời gian thực) và tái cấu trúc. Trình thiết kế biểu mẫu trực quan có tùy chọn sử dụng Thư viện Thành phần Trực quan (VCL) để phát triển chương trình Windows thuần túy hoặc khung FireMonkey (FMX) để phát triển phần mềm đa nền tảng. Hỗ trợ cơ sở dữ liệu là một tính năng chính và được FireDAC (Các thành phần truy cập cơ sở dữ liệu) cung cấp. Delphi được biết đến với tốc độ biên dịch nhanh, mã gốc chạy nhanh và năng suất cao của nhà phát triển phần mềm.
Delphi ban đầu được phát triển bởi Borland như một công cụ phát triển ứng dụng nhanh chóng cho Windows như là sản phẩm phần mềm kế nhiệm của Turbo Pascal. Delphi đã thêm lập trình hướng đối tượng đầy đủ vào ngôn ngữ hiện có và ngôn ngữ này đã phát triển để hỗ trợ các phương thức chung, các phương thức ẩn danh, các bao đóng và hỗ trợ Mô hình Đối tượng Thành phần (Component Object Model) bản địa.
Delphi và phần mềm đối tác C ++ của nó, C++ Builder, có thể tương tác với nhau và được bán chung dưới tên RAD Studio.
Tham khảo
Phần mềm của Borland
Ngôn ngữ lập trình Pascal
Ngôn ngữ lập trình kiểu mệnh lệnh
Ngôn ngữ lập trình kiểu thủ tục
Họ ngôn ngữ lập trình Algol
Ngôn ngữ lập trình.NET
Ngôn ngữ lập trình hướng đối tượng
Môi trường phát triển tích hợp
|
22222
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Delphi
|
Delphi
|
Delphi (tiếng Hy Lạp: Δελφοί Delphoi) là một địa điểm khảo cổ và hiện cũng là một trị trấn thuộc vùng Phocis ở miền trung Hy Lạp. Vào thời cổ đại nó từng nơi thờ thần Apollo. Đây cũng là một đền thờ toàn Hy Lạp, tức đền thờ chung của các thành phố thuộc Hy Lạp cổ đại. Delphi được sùng kính khắp cõi Hy Lạp như là nơi đặt hòn đá ομφαλός (omphalos), tức trung tâm của vũ trụ.
Trên triền dốc Tây Nam của ngọn núi Parnassos, cách vịnh Corinth không đến 10 km, Delphi đã từng là trung tâm tôn giáo của Hy Lạp vào thế kỷ thứ VI TCN. Tại đây có một quảng trường tròn ngoạn mục bằng đá với những di tích của thánh đường lớn nhất để thờ phụng Thần Apollo và nói ra những lời sấm truyền của nữ tiên tri Pythia. Con đường thiêng liêng uốn khúc đến đền thờ có hai bên đường là những kho báu - những ngôi miếu nhỏ để các đô thành lừng lẫy lên đặt đồ tế lễ. Phía trên đền có một nhà hát, một sân vận động và một đấu trường ở gần suối Castalic, tất cả đều phục vụ cho các cuộc thi đấu Pythian toàn Hy Lạp. Phía bên kia suối là thánh đường Athéna Pronaia mà toà nhà nổi tiếng nhất là nhà tròn cẩm thạch Tholos xây dựng vào đầu thế kỷ thứ IV TCN.
Tham khảo
Burkert, Walter, Greek Religion 1985.
Xem thêm
Các địa danh Hy Lạp cổ
Nghệ thuật Hy Lạp
Kỹ thuật đánh giá phần mềm Delphi
Công cụ phát triển phần mềm Delphi
Các thành phố thần thánh
Classical oracles
Di sản thế giới tại Hy Lạp
Phokida
|
22225
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%B3ng%20tam%20gi%C3%A1c
|
Sóng tam giác
|
Một hàm sóng tam giác là một loại hàm sóng phi điều hòa cơ bản được đặt tên theo hình dạng tam giác của đỉnh sóng.
Công thức
Sóng tam giác có biên độ từ -1 đến 1 và bước sóng bằng 2 có dạng:
hay:
Với frac(x) là phần thập phân của x.
Sóng trên cũng có thể được viết ở dạng:
Với φ(z,s,α) là hàm siêu việt Lerch.
Sóng tam giác có biên độ từ 0 đến 1 và bước sóng bằng 2 có dạng:
Với nint(x) là số nguyên gần nhất của x.
Phân tích Fourier
Giống sóng vuông, phân tích Fourrier của sóng tam giác chỉ chứa các sóng điều hòa lẻ. Tuy nhiên, so với sóng vuông, hệ số của các tần số cao trong chuỗi giảm nhanh hơn, (tỷ lệ nghịch với bình phương số điều hòa), và âm thanh phát ra bởi sóng tam giác gần với sóng điều hòa hơn.
Chuỗi Fourier vô hạn sau hội tụ thành một sóng tam giác có biên độ từ -1 đến 1 và tần số bằng :
hoặc
Hai chuỗi trên cũng có thể được viết với các số điều hòa lẻ, cho hàm tam giác có tần số :
Âm thanh
Xem thêm
Sóng điều hòa
Sóng vuông
Sóng răng cưa
Sóng
Âm thanh
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sóng tam giác ở MathWorld
Chuyển động sóng
Xử lý tín hiệu
|
22231
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BA%A7u%20th%E1%BB%A7%20xu%E1%BA%A5t%20s%E1%BA%AFc%20nh%E1%BA%A5t%20n%C4%83m%20c%E1%BB%A7a%20FIFA
|
Cầu thủ xuất sắc nhất năm của FIFA
|
Cầu thủ xuất sắc nhất năm của FIFA là danh hiệu hàng năm của FIFA dành cho nam và nữ cầu thủ bóng đá xuất sắc nhất thế giới do tất cả các huấn luyện viên trưởng và đội trưởng các Đội tuyển bóng đá quốc gia bầu chọn. Giải thưởng này bắt đầu năm 1991 đối với nam và 2001 đối với nữ. Kể từ mùa bóng 2010-2011, giải này được hợp nhất với giải Quả bóng vàng châu Âu thành Quả bóng vàng FIFA. Đến năm 2016, giải thưởng lại được tách ra nhưng với tên mới là FIFA The Best.
Danh sách nam cầu thủ đoạt giải
Xếp hạng theo cầu thủ
Xếp hạng theo quốc gia
Bảng dưới được liệt kê theo quốc tịch của cầu thủ (không phải theo nơi anh ta chơi bóng).
* Đồng giải
Xếp hạng theo câu lạc bộ
*Cầu thủ là thành viên của câu lạc bộ trong nửa cuối năm dương lịch (Lượt đi mùa giải mới - từ tháng 8 đến tháng 12)
**Cầu thủ là thành viên của câu lạc bộ trong nửa đầu năm dương lịch (lượt về của mùa giải - từ tháng 1 đến tháng 5)
***Cầu thủ giải nghệ vào nửa cuối năm dương lịch do đó chỉ là thành viên của câu lạc bộ trong nửa đầu năm dương lịch (lượt về của mùa giải - từ tháng 1 đến tháng 5)
Danh sách nữ cầu thủ đoạt giải
Xếp hạng theo cầu thủ
Xếp hạng theo quốc gia
Bảng dưới được liệt kê theo quốc tịch của cầu thủ (không phải theo nơi cầu thủ chơi bóng).
Xếp hạng theo câu lạc bộ
Tham khảo
Xem thêm
Quả bóng vàng châu Âu
Cầu thủ xuất sắc nhất năm của FIFPro
Giải thưởng bóng đá nữ
Giải thưởng bóng đá
Danh sách bóng đá
FIFA
Khởi đầu năm 1991
Khởi đầu năm 2001
Kết thúc 2009
|
22237
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ronaldinho
|
Ronaldinho
|
Ronaldo de Assis Moreira (sinh ngày 21 tháng 3 năm 1980 tại Porto Alegre, Brasil), thường được biết đến với cái tên Ronaldinho Gaúcho hay đơn giản là Ronaldinho (), là một cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Brasil chơi ở vị trí tiền vệ công và tiền đạo cánh. Được coi là một trong những cầu thủ xuất sắc nhất trong thế hệ của mình và được nhiều người coi là một trong những cầu thủ vĩ đại nhất mọi thời đại, Ronaldinho đã giành được 2 giải Cầu thủ xuất sắc nhất năm của FIFA và 1 Quả bóng vàng. Là một biểu tượng toàn cầu, anh nổi tiếng với kỹ thuật, sự sáng tạo, khả năng rê dắt và độ chính xác từ những cú sút phạt, cũng như sử dụng kỹ năng, những cú sút xa, những đường chuyền không cần nhìn và những pha ngả người móc bóng. Năm 2004, anh được Pelé điền tên vào danh sách FIFA 100 những cầu thủ còn sống vĩ đại nhất thế giới.
Ronaldinho chơi bóng cho Grêmio vào năm 1998 trước khi chuyển sang Paris Saint-Germain 3 năm sau, và sau đó là FC Barcelona vào 2003, trong mùa giải thứ 2 tại đây Ronaldinho đạt danh hiệu Cầu thủ xuất sắc nhất năm của FIFA khi giúp Barcelona giành chức vô địch La Liga 2004–05. Mùa giải sau đó được coi là một trong những mùa giải hay nhất trong sự nghiệp của anh khi giúp Barcelona giành chức vô địch UEFA Champions League 2005–06 đầu tiên sau 14 năm và danh hiệu La Liga thứ 2, mang lại cho Ronaldinho cú đúp danh hiệu cá nhân đầu tiên trong sự nghiệp, anh nhận giải [[Quả bóng vàng châu Âu] 2005 và Cầu thủ xuất sắc nhất FIFA thứ 2. Sau khi ghi 2 bàn thắng solo ngoạn mục trong trận El Clásico lượt đi mùa 2005–06, Ronaldinho trở thành cầu thủ thứ 2 của Barcelona sau Diego Maradona vào năm 1983 nhận được sự hoan nghênh nhiệt liệt từ người hâm mộ Real Madrid trên sân Santiago Bernabéu.
Sau khi về nhì tại La Liga trong mùa giải 2006–07 và mùa giải 2007–08 do chấn thương, Ronaldinho đã sa sút phong độ, không còn nhiều cống hiến và rời Barcelona để gia nhập AC Milan, nơi anh ấy đã vô địch Serie A 2010-11. Anh trở lại Brazil để chơi cho Flamengo vào năm 2011 và Atlético Mineiro một năm sau đó, nơi anh giành được Copa Libertadores 2013, trước khi chuyển đến Mexico để chơi cho Querétaro và sau đó trở lại Brazil để chơi cho Fluminense vào năm 2015 và giải nghệ vào 2018.
Trong sự nghiệp thi đấu quốc tế cùng Brazil, Ronaldinho đã có 97 lần khoác áo đội tuyển, ghi được 33 bàn thắng và tham dự 2 kỳ World Cup. Sau khi ra mắt cùng Seleção bằng chức vô địch Copa América 1999, anh là một phần không thể thiếu của đội hình vô địch World Cup 2002, cùng với Ronaldo và Rivaldo tạo nên bộ 3 tấn công 3R, và có mặt trong Đội hình All-Star của World Cup. Với tư cách là đội trưởng, anh dẫn dắt đội vô địch FIFA Confederations Cup 2005 và được trao giải cầu thủ xuất sắc nhất trận chung kết. Anh cũng là đội trưởng đội Olympic Brazil giành huy chương đồng bóng đá nam tại Thế vận hội Mùa hè 2008.
Tiểu sử và đời tư
Ronaldinho sinh ra tại thành phố Porto Alegre, thủ phủ của Rio Grande do Sul - một bang của Brazil. Mẹ anh, bà Dona Miguelina, là một nhân viên bán hàng, trước đó đã từng học để trở thành một y tá. Cha anh, ông João, là một nhân viên nhà máy đóng tàu và là một cầu thủ bóng đá cho câu lạc bộ địa phương Esporte Clube Cruzeiro. Ông bị một cơn đau tim và qua đời khi Ronaldinho 8 tuổi. Sau khi anh trai của Ronaldinho, Roberto cũng là một cầu thủ bóng đá, ký hợp đồng với đội bóng Grêmio, gia đình anh chuyển đến Guarujá nhưng Roberto sớm phải chấm dứt sự nghiệp thi đấu bóng đá do chấn thương.
Tài năng của Ronaldinho bắt đầu được biết đến lúc nhỏ, và anh được đặt ra biệt danh Ronaldinho vì anh thường là cầu thủ trẻ nhất và nhỏ nhất trong những trận đấu ở câu lạc bộ dành cho thanh thiếu niên. Anh gây sự chú ý trên các phương tiện truyền thông ở tuổi mười ba khi anh ghi tất cả 23 bàn thắng trong một chiến thắng 23-0 với một đội bóng địa phương. Ronaldinho được coi là một ngôi sao đang lên ở Giải vô địch thế giới U-17 tại Ai Cập năm 1997, trong đó anh ghi 2 bàn thắng phạt đền.
Khi lớn lên, thần tượng của anh bao gồm các ngôi sao từng vô địch World Cup; Rivelino (1970), Diego Maradona (1986), Romário (1994), và 2 đồng đội tương lai là Ronaldo và Rivaldo (sẽ tạo thành bộ ba tấn công trong đội vô địch World Cup 2002 của Brazil). Ronaldinho làm cha lần đầu tiên vào ngày 25 tháng 2 năm 2005, sau khi vũ công Brazil Janaína Mendes đã sinh con trai của họ, cậu bé được đặt tên là João sau sự ra đi của người cha. Anh nhập quốc tịch Tây Ban Nha vào năm 2007. Vào tháng 3 năm 2018, Ronaldinho gia nhập Đảng Cộng hòa Brazil, đảng có liên kết với Nhà thờ phổ quát của Vương quốc Đức Chúa Trời. Ronaldinho tán thành ứng cử viên tổng thống Jair Bolsonaro trong cuộc bầu cử tổng thống Brazil năm 2018.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Grêmio
Ronaldinho chọn bắt đầu sự nghiệp của mình tại Grêmio. Hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên của anh được ký kết và năm 1997 Ronnie được chọn để tham gia Giải đấu vô địch U-17 thế giới.
Hai năm sau, Ronaldinho đã có tên trong danh sách của đội tuyển quốc gia Brazil. cùng với tài năng thiên bẩm sẵn có được kết hợp những kỹ thuật rèn luyện trước đó, một lần nữa Ronaldinho đã phải khiến các câu lạc bộ lớn ở châu Âu quan tâm đến mình, sau màn trình diễn hết sức xuất sắc trong FIFA Confederations Cup. Ronaldinho có mặt trong đội hình chính thức của câu lạc bộ Grêmio được 4 mùa giải, Tổng cộng Ronnie ra sân được 52 trận và có cho mình được 21 bàn thắng. Bằng những kỹ năng vô cùng tuyệt vời của mình, anh đã giúp đội bóng lần đầu tiên trong lịch sử giành được chức vô địch quốc nội Brazil.
Năm 2001, Arsenal bày tỏ sự quan tâm đến Ronaldinho, nhưng bất thành sau khi anh không thể xin được giấy phép lao động vì không thuộc EU và không chơi đủ các trận đấu quốc tế. Anh cân nhắc việc thi đấu dưới dạng cho mượn với St Mirren của Scotland, điều chưa bao giờ xảy ra do dính líu đến vụ bê bối hộ chiếu giả ở Brazil
Paris Saint-Germain
Năm 2001, khi hợp đồng giữa Ronnie và Grêmio đã đến thời gian hết hạn nhưng anh không muốn gia hạn với đội bóng. Lúc này một câu lạc bộ lớn đến từ Pháp đã bỏ ra hơn 5 triệu euro để có chữ ký của Ronnie, nhưng câu lạc bộ của Ronaldinho vẫn không hài lòng với mức giá đó. Sau nhiều lần thương lượng gay gắt giữa 2 câu lạc bộ, cuối cùng Paris Saint-Germain đã có được Ronaldinho. Khi đến Paris, Ronaldinho được trao chiếc áo số 21 và thi đấu cùng người đồng hương Aloísio, tiền vệ Jay-Jay Okocha và tiền đạo Nicolas Anelka.
Mùa giải 2001-02
Ronaldinho có trận ra mắt câu lạc bộ vào ngày 4 tháng 8 năm 2001, vào sân thay người trong trận hòa 1-1 với Auxerre. Ronaldinho đã dành phần lớn thời gian đầu mùa giải để luân phiên giữa vai trò dự bị và đá chính. Anh ghi bàn thắng đầu tiên cho câu lạc bộ vào ngày 13 tháng 10 trong trận hòa 2–2 trước Lyon, khi ghi bàn gỡ hòa trên chấm phạt đền ở phút 79 sau khi vào sân trước đó 10 phút. Sau khi trở lại sau kỳ nghỉ đông, Ronaldinho ghi bàn trong 4 trận liên tiếp để mở màn cho chiến dịch mới. Anh ghi những bàn thắng ấn tượng trước Monaco, Rennes, Lens và Lorient. Vào ngày 16 tháng 3 năm 2002, anh ghi một cú đúp trong chiến thắng 3-1 của PSG trước Troyes. Anh ấy đã ghi bàn thắng cuối cùng của mình trong mùa giải trong chiến thắng 2–0 trước Metz vào ngày 27 tháng 4
Ronaldinho góp công tại Coupe de la Ligue 2001–02 giúp PSG lọt vào bán kết, nơi họ bị loại bởi Bordeaux. Trong trận đấu ở vòng 16 với Guingamp, Ronaldinho đã ghi 2 bàn trong hiệp 2 sau khi vào sân thay người ở hiệp 1. Bất chấp thành công ban đầu của Ronaldinho với câu lạc bộ, mùa giải đã bị ảnh hưởng bởi cuộc tranh cãi với huấn luyện viên Luis Fernández, ông cho rằng Ronaldinho quá tập trung vào cuộc sống về đêm ở Paris hơn là bóng đá, và phàn nàn rằng kỳ nghỉ của anh ấy ở Brazil không bao giờ kết thúc theo lịch trình.
Mùa giải 2002-03
Bất chấp những rạn nứt liên tục với Fernández, Ronaldinho trở lại đội cho mùa giải 2002–03, khi anh chuyển sang khoác áo số 10. Mặc dù màn trình diễn của anh ấy trong mùa giải thứ 2 với câu lạc bộ kém hơn so với mùa giải đầu tiên, Ronaldinho đã có màn trình diễn đáng ngưỡng mộ. Vào ngày 26 tháng 10 năm 2002, anh ghi 2 bàn trong chiến thắng 3-1 trước Marseille. Bàn thắng đầu tiên là một quả đá phạt. Trong trận lượt về, anh một lần nữa ghi bàn trong chiến thắng 3–0 tại Stade Vélodrome.
Vào ngày 22 tháng 2 năm 2003, Ronaldinho ghi bàn thắng của mùa giải (do công chúng bầu chọn) vào lưới Guingamp - anh ấy đánh bại một đối thủ trước khi chơi một hai để đánh bại một đối thủ khác, sau đó tâng bóng qua một phần ba trước khi đánh bại một phần tư bằng một bước qua (thả vai, di chuyển sang phải nhưng sang trái) và dứt điểm bằng cách tâng bóng qua thủ môn
Ronaldinho cũng được ca ngợi về màn trình diễn ở Coupe de France khi ghi cả 2 bàn thắng trong chiến thắng 2–0 trước Bordeaux ở bán kết, đưa PSG vào chung kết. Sau khi ghi bàn thắng đầu tiên ở phút 22, Ronaldinho mở tỷ số trận đấu ở phút 81, đệm bóng chính xác ở cự ly 18m qua đầu thủ môn Ulrich Ramé, bất chấp Ramé đang ở vị trí thuận lợi. Đối với màn trình diễn của mình, Ronaldinho đã được các cổ động viên Paris hoan nghênh nhiệt liệt. Tuy nhiên, Ronaldinho và đồng đội đã không thể nắm bắt được phong độ đưa họ vào trận chung kết khi họ thua 2-1 trước Auxerre. Bất chấp những màn trình diễn của Ronaldinho, câu lạc bộ đã kết thúc ở vị trí thứ 11 đáng thất vọng. Sau đó, Ronaldinho tuyên bố anh ấy muốn rời câu lạc bộ sau khi đội không đủ điều kiện tham dự các giải đấu thuộc UEFA.
Barcelona
Chủ tịch mới đắc cử của FC Barcelona, Joan Laporta tuyên bố "Tôi đã nói rằng chúng tôi sẽ dẫn dắt Barça dẫn đầu trong thế giới bóng đá, và để điều đó xảy ra, chúng tôi phải ký hợp đồng với 1 trong 3 cầu thủ này, David Beckham, Thierry Henry hoặc Ronaldinho". Henry ở lại Arsenal, và Laporta sau đó hứa sẽ đưa Beckham đến câu lạc bộ, nhưng sau khi Beckham chuyển đến Real Madrid, Barcelona đã chạy đua để có Ronaldinho và trả giá cao hơn Manchester United để có chữ ký của Ronaldinho với hợp đồng trị giá 30 triệu euro
Mùa giải 2003–04
Ronaldinho có trận ra mắt Barcelona trong trận giao hữu với Juventus vào ngày 27 tháng 7, huấn luyện viên Frank Rijkaard nói sau trận đấu: "Anh ấy có một điều gì đó đặc biệt mỗi khi chạm bóng." Anh ghi bàn thắng đầu tiên ở La Liga vào ngày 3 tháng 9 năm 2003 trong trận đấu với Sevilla. Ronaldinho bị chấn thương trong nửa đầu mùa giải, và Barcelona tụt xuống vị trí thứ 12 vào giữa mùa. Ronaldinho trở lại sau chấn thương và ghi được 15 bàn thắng ở La Liga trong mùa giải 2003–04, giúp đội về nhì cuối mùa. Đường chuyền thành bàn của anh đã tạo nên bàn thắng ấn định chiến thắng cho Xavi trước Real Madrid vào ngày 25 tháng 4 năm 2004, chiến thắng đầu tiên của đội trên sân Bernabéu sau 7 năm, kết quả mà Xavi cho là khởi đầu cho "sự trỗi dậy của Barcelona."
Mùa giải 2004–05
Ronaldinho giành chức vô địch giải đấu đầu tiên vào mùa 2004–05 và được vinh danh là Cầu thủ xuất sắc nhất năm của FIFA vào ngày 20 tháng 12 năm 2004. Vào ngày 8 tháng 3 năm 2005, Barcelona bị Chelsea loại khỏi vòng 16 đội UEFA Champions League, thua 5–4 sau 2 lượt trận. Ronaldinho ghi cả hai bàn thắng trong trận thua 2-4 lượt về tại Stamford Bridge, ở bàn thứ 2 dù bị hàng phòng ngự Chelsea kèm chặt nhưng anh đứng im, lắc hông 3 nhịp trước khi dùng chân phải sút bóng thẳng vào khung thành Chelsea trong sự ngỡ ngàng của tất cả. Vào ngày 1 tháng 5 năm 2005, Ronaldinho thực hiện pha kiến tạo cho bàn thắng đầu tiên của Lionel Messi, thực hiện một đường chuyền vượt tuyến qua hàng thủ Albacete để Messi dứt điểm. Khi hợp đồng sẽ hết hạn vào năm 2008, Ronaldinho được đề nghị gia hạn đến năm 2014, điều đó có nghĩa là anh ấy sẽ thu về 85 triệu bảng trong 9 năm, nhưng anh đã từ chối. Vào tháng 9 năm 2005, anh đã ký gia hạn 2 năm có điều khoản giải phóng phí tối thiểu cho phép anh rời đi nếu một câu lạc bộ đưa ra lời đề nghị với Barcelona ít nhất 85 triệu bảng.
Mùa giải 2005–06
Cuối năm 2005, Ronaldinho bắt đầu tích lũy được hàng loạt giải thưởng cá nhân. Anh giành giải Cầu thủ xuất sắc nhất của FIFPro vào tháng 9 năm 2005, ngoài ra còn có tên trong FIFPro World XI 2005 và được vinh danh là Cầu thủ xuất sắc nhất châu Âu 2005. Cũng trong năm đó, Ronaldinho được bầu chọn là Cầu thủ xuất sắc nhất năm của FIFA năm thứ 2 liên tiếp. Anh trở thành cầu thủ thứ ba giành được giải thưởng này nhiều hơn một lần, sau Ronaldo và Zinédine Zidane. Ronaldinho cũng giành được Quả bóng vàng danh giá lần đầu tiên trong sự nghiệp.
Ngày 19 tháng 11 năm 2005, Ronaldinho ghi cú đúp trong chiến thắng 3-0 trước Real Madrid lượt đi, sau khi anh ghi bàn thứ 2, khán giả sân Bernabéu đứng dậy vỗ tay hoan hô siêu sao Brazil, một vinh dự mà chỉ Johan Cruyff của năm 1974 và Diego Maradona của 1983 từng có. Ronaldinho sau đó tiết lộ, "Tôi sẽ không bao giờ quên điều này bởi vì rất hiếm cầu thủ bóng đá nào được các cổ động viên đối thủ vỗ tay theo cách này."
Tại Champions League mùa giải 2005–06, Ronaldinho cũng thể hiện một phong độ tuyệt vời khi có 5 bàn tại vòng bảng trong đó có một cú hat-trick vào lưới Udinese. Ronnie có 2 bàn tại vòng knock-out vào lưới Chelsea và Benfica trận lượt về. Ngoài ra anh còn thể hiện phong độ xuất sắc của mình khi khiến hàng thủ của của AC Milan chao đảo, vượt qua hết các cầu thủ án ngữ hàng phòng ngự Milan và có một kiến tạo giúp Ludovic Giuly ghi bàn thắng duy nhất trận bán kết lượt đi góp phần vào cơ hội để Barca vào chung kết. Ronaldinho có chức vô địch Champions League đầu tiên trong sự nghiệp khi cùng Barcelona lội ngược dòng cảm xúc 2-1 trước Arsenal.
Ronaldinho lập cú đúp danh hiệu La Liga cùng chức vô địch Champions League mùa giải năm đó. Ronaldinho kết thúc mùa giải với 26 bàn thắng, bao gồm 17 bàn ở La Liga và 7 bàn ở Champions League, và được chọn vào Đội hình xuất sắc nhất năm của UEFA lần thứ 3 liên tiếp và được vinh danh là Cầu thủ xuất sắc nhất UEFA 2005–06. Anh có trong danh sách đề cử cho giải The Laureus World Sportsman of the Year và góp mặt trong FIFA World XI.
Mùa giải 2006–07
Ronaldinho ghi bàn thứ 50 trước Villarreal vào ngày 25 tháng 11 năm 2006, anh ghi thêm 1 bàn theo phong cách ngả bàn đèn cũng trước họ. Anh ấy ghi một bàn và kiến tạo hai bàn khác trong chiến thắng 4–0 của Barcelona trước Club América của Mexico tại FIFA Club World Cup vào ngày 14 tháng 12 tại Yokohama, Nhật Bản, nhưng Barcelona thua câu lạc bộ Brazil Internacional 1–0 trong trận chung kết. Ronaldinho là người nhận giải Quả bóng đồng tại giải đấu
Ngày hôm sau, Ronaldinho đứng thứ 3 trong cuộc bầu chọn Cầu thủ xuất sắc nhất FIFA năm 2006, sau đội trưởng vô địch World Cup 2006 Fabio Cannavaro và Zidane. Vào tháng 3 năm 2007, đương kim vô địch Barcelona dừng bước ở vòng 16 đội trước Liverpool tại Champions League. Ronaldinho đã phải bỏ lỡ trận đấu từ thiện vào ngày 13 tháng 3 do chấn thương đã gặp phải vài ngày trước đó trong trận hòa 3–3 với Real Madrid. Mặc dù Ronaldinho ghi được 21 bàn, nhưng đội bóng để mất chức vô địch vào tay Real với thành tích đối đầu kém hơn dù cả 2 đều bằng điểm.
Mùa giải 2007–08
Ronaldinho chơi trận thứ 200 cho Barcelona với Osasuna vào ngày 3 tháng 2 năm 2008. Tuy nhiên, mùa 2007–08 của Ronaldinho đã bị cản trở bởi chấn thương, và một vết rách cơ ở chân phải vào ngày 3 tháng 4 đã sớm kết thúc mùa giải của anh. Từng là người mẫu chuyên nghiệp và cống hiến hết mình cho việc tập luyện trong 3 mùa giải đầu tiên cực kỳ thành công tại Barcelona, lối sống tiệc tùng và thiếu tập luyện của Ronaldinho khiến thể chất giảm sút, nhiều người tin rằng anh ấy đã qua thời kỳ đỉnh cao. Vào ngày 19 tháng 5 năm 2008, chủ tịch Joan Laporta nói rằng Ronaldinho cần một "thử thách mới" và tuyên bố anh ta cần một câu lạc bộ mới nếu muốn hồi sinh sự nghiệp.
Ronaldinho ghi bàn thắng cuối cùng cho Barca trong trận đấu gặp Atlético Madrid với cú móc bóng tuyệt đẹp vào lưới đội bạn. Để chuẩn bị cho Cúp Joan Gamper 2010, Ronaldinho đã gửi một bức thư ngỏ tới người hâm mộ và các cầu thủ của Barcelona, nói rằng những năm tháng đẹp nhất của anh ấy là năm anh ấy đã trải qua ở câu lạc bộ Catalan. Đó là một khoảnh khắc đáng buồn đối với anh ấy và sau đó anh ấy nói trong một cuộc phỏng vấn rằng anh ấy hối tiếc vì đã rời đi mà không chơi đủ lâu với Messi.
AC Milan
Vào tháng 7 năm 2008, Ronaldinho từ chối lời đề nghị trị giá 25,5 triệu bảng từ Manchester City, với mức lương dự kiến là 200.000 bảng mỗi tuần để gia nhập AC Milan với bản hợp đồng trị giá khoảng 18,5 triệu euro. Vì số 10 thuộc về Clarence Seedorf, anh chọn số 80 làm số áo của mình.
Mùa giải 2008–09
Ronaldinho ghi bàn thắng đầu tiên cho Milan trong chiến thắng 1–0 trước Inter vào ngày 28 tháng 9. Ronaldinho ghi cú đúp đầu tiên trong chiến thắng 3–0 trước Sampdoria vào ngày 19 tháng 10. Anh ghi bàn thắng ở phút 93 trong trận đấu với Braga ở vòng bảng UEFA Cup vào ngày 6 tháng 11. Ronaldinho kết thúc mùa với 10 bàn thắng sau 32 lần ra sân trên mọi đấu trường. Sau khởi đầu mùa giải tốt, Ronaldinho gặp khó khăn về thể lực và thường xuyên được tung vào sân từ băng ghế dự bị để kết thúc mùa giải đầu tiên đáng thất vọng cho Milan, huấn luyện viên Carlo Ancelotti trong mùa giải đầu tiên ở Ý nhận xét: "Sự sa sút của Ronaldinho không có gì đáng ngạc nhiên. Tình trạng thể chất của anh ta luôn rất phập phù dù tài năng là điều không thể bàn cãi."
Mùa giải 2009–10
Mùa giải thứ 2 của Ronaldinho đã không khởi đầu với phong độ cao, nhưng anh đã sớm tìm lại phong độ và là cầu thủ xuất sắc nhất mùa giải. Huấn luyện viên mới được bổ nhiệm Leonardo đã thay đổi vai trò từ tiền vệ tấn công trung tâm sang bên trái của hàng tiền vệ, với Alexandre Pato ở bên phải, trong sơ đồ tấn công 4–3–3.
Vào ngày 10 tháng 1 năm 2010, Ronaldinho ghi 2 bàn vào lưới Juventus trên sân khách, ấn định chiến thắng 3–0 cho Rossoneri. Trong trận tiếp theo gặp Siena vào ngày 17 tháng 1, Ronaldinho ghi hat-trick đầu tiên cho Milan khi anh thực hiện một quả phạt đền, ghi bàn bằng đầu từ một quả phạt góc và kết thúc bằng một cú sút vào góc cao bên phải từ cự ly hơn 18m. Vào ngày 16 tháng 2, Ronaldinho cùng AC Milan đối đầu với Manchester United trong khuôn khổ lượt đi vòng 1/8 UEFA Champions League năm 2010 tại San Siro, anh ghi bàn thắng sớm cho Rossoneri nhưng Milan vẫn để thua với tỉ số 2-3 và cũng sớm bị loại tại giải đấu sau khi thua tiếp trận lượt về với tỉ số 0-4.
Ronaldinho kết thúc mùa giải với tư cách là vua kiến tạo của Serie A. Tuy nhiên, anh đã bỏ lỡ 3 quả phạt đền ở giải quốc nội và 1 lần đá hỏng ở mùa giải trước. Ronaldinho kết thúc mùa giải Serie A ghi 2 bàn vào lưới Juventus; Luca Antonini đã mở tỷ số và Milan tiếp tục giành chiến thắng 3–0 trong trận đấu cuối cùng của Leonardo.
Mùa giải 2010–11
Trong nửa đầu mùa giải, Ronaldinho là một phần trong tam tấu cùng 2 bản hợp đồng mới Zlatan Ibrahimović và Robinho. Trước kỳ nghỉ đông, anh ra sân 16 lần, ghi 1 bàn và thực hiện một số pha kiến tạo. Mặc dù rời câu lạc bộ sau nửa mùa giải, anh vẫn đủ điều kiện để giành được huy chương vô địch Serie A 2010-11 khi Milan vô địch cuối mùa.
Sau 95 trận đấu trong màu áo đỏ đen thành Milan, Ronaldinho có 26 bàn thắng cùng 21 đường kiến tạo và giành một chức vô địch Scudetto, dù không có đóng góp nhiều và AC Milan cũng sa sút phong độ trong giai đoạn anh thi đấu nhưng Ronnie vẫn là một trong những huyền thoại tại AC Milan.
Flamengo
Nhiều nguồn tin cho biết Ronaldinho sẽ quay về quê hương khoác áo Grêmio đến 2014. Trước đó Ronaldinho thương lượng với Palmeiras và một số đội bóng khác tại xứ sở Samba cũng như ở châu Âu. Anh được hơn 20.000 người hâm mộ chào đón trong buổi ra mắt tại câu lạc bộ mới vào ngày 13 tháng 1 năm 2011.
Ronaldinho ghi bàn thắng đầu tiên cho Flamengo trong chiến thắng 3–2 trước Boavista vào ngày 6 tháng 2 năm 2011. Vào ngày 27 tháng 2, anh đã thực hiện cú đá phạt trực tiếp trong hiệp 2 để Flamengo đánh bại Boavista với tỷ số 1–0 và giành chiếc cúp đầu tiên Taça Guanabara. Ronaldinho nâng cao chiếc cúp đầu tiên với Flamengo sau khi tung cú sút bằng chân phải qua hàng rào ở phút 71 tại sân Engenhão. Bàn thắng đã mang lại cho Flamengo danh hiệu Taça Guanabara thứ 19, cùng danh hiệu Campeonato Carioca 2 tháng sau đó, và chức vô địch Taça Rio. Vào ngày 27 tháng 7 năm 2011, Ronaldinho ghi hat-trick trong chiến thắng 5–4 trên sân khách trước Santos, sau khi bị dẫn 3–0 trong 30 phút đầu . Vào ngày 31 tháng 5 năm 2012, Ronaldinho quyết định kết thúc "mối lương duyên" với Flamengo vì cho rằng đội bóng quỵt của anh số tiền lên tới 16 triệu euro bao gồm tiền lương, thưởng và bản quyền hình ảnh.
Atlético Mineiro
Ronaldinho chuyển đến Atlético Mineiro vào ngày 4 tháng 6 năm 2012 với hợp đồng 6 tháng, chỉ 4 ngày sau khi rời Flamengo. Anh mặc áo số 49 liên quan đến năm sinh của mẹ, vì số 10 thuộc về Guilherme trong mùa giải 2012
Ronaldinho ra mắt trong chiến thắng 1–0 trên sân Palmeiras ngày 9 tháng 6 năm 2012, và ghi bàn thắng đầu tiên vào ngày 23 tháng 6 trước Náutico từ chấm phạt đền. Ronaldinho giúp Atlético Mineiro có mùa giải 2012 tốt đẹp, khi đưa câu lạc bộ về nhì tại Brasileirão 2012 và đủ điều kiện tham dự Copa Libertadores 2013. Ronaldinho đã giành giải thưởng Bola de Ouro và được chọn là cầu thủ xuất sắc nhất giải đấu
Năm sau đó, Ronaldinho giúp Atlético giành Campeonato Mineiro và giúp đội đoạt chức vô địch Copa Libertadores đầu tiên. Ronaldinho đã ghi 4 bàn và kiến tạo 8 lần trong chiến dịch vô địch ấn tượng của Atlético Mineiro, trong đó bao gồm các màn lội ngược dòng liên tiếp từ thất bại 0–2 ở lượt đi trong trận bán kết trước Newell's Old Boys và trận chung kết với Olimpia của Paraguay. Cả 2 được phân định sau loạt sút luân lưu. Mặc dù đã qua 6 năm, nhưng màn trình diễn của Ronaldinho đã giúp anh được bầu chọn là Cầu thủ xuất sắc nhất Bóng đá Nam Mỹ năm 2013.
Tại FIFA Club World Cup 2013 ở Morocco vào tháng 12, Atlético thua 3–1 trước Raja Casablanca trong trận bán kết, Ronaldinho ghi bàn từ quả đá phạt trực tiếp. Khi tiếng còi mãn cuộc vang lên, đội Raja Casablanca lao đến thần tượng thời thơ ấu của họ và cởi bỏ quần lót của anh ta để tìm quà lưu niệm. Anh gia hạn hợp đồng với Atlético vào tháng 1 năm 2014. Sau khi vô địch Recopa Sudamericana 2014, Ronaldinho rời câu lạc bộ vào tháng 7 khi đạt được thỏa thuận hủy bỏ hợp đồng với sự đồng ý của cả 2 bên
Querétaro
Ronaldinho quyết định chuyển sang Mexico thi đấu cho Querétaro theo hợp đồng 2 năm vào ngày 5 tháng 9 năm 2014, việc Ronaldinho chuyển sang giải vô địch Mexico là bước đi khá bất ngờ bởi trước đó anh nhận được nhiều lời mời khắp thế giới, tại đây Ronaldinho cũng tiết lộ sẽ mặc áo số 49 quen thuộc. Ngay trong trận ra mắt gặp đối thủ Tigres UANL, Ronaldinho đã đá hỏng phạt đền, khiến đội bóng chịu thúc thủ 0-1 ngay trên sân nhà. Tuy nhiên trong trận đấu tiếp theo, Ronaldinho kiến tạo cho Camilo Sanvezzo ghi bàn cũng như tự mình ghi bàn thắng từ chấm phạt đền trong chiến thắng 4–1 trước Guadalajara, anh cũng ghi bàn đá phạt vào lưới Atlas trên sân khách. Ronaldinho tự ý vắng mặt trước giai đoạn lượt về của mùa giải mà không có bất cứ báo cáo nào với lãnh đạo cũng như huấn luyện viên của Querétaro.
Vào ngày 18 tháng 4 năm 2015, Ronaldinho ghi 2 bàn đội đương kim vô địch América trên sân khách Estadio Azteca, giúp đội thắng 4–0. Tất cả các khán giả, chủ yếu là người hâm mộ América đã dành sự hoan nghênh nhiệt liệt cho Ronaldinho sau 2 bàn thắng khiến anh xúc động. Đây là lần thứ 2 trong sự nghiệp, Ronaldinho nhận được sự hoan nghênh từ những người hâm mộ đối phương (sau khi người hâm mộ Madrid hoan nghênh màn trình diễn của anh trong màu áo Barcelona vào năm 2005), và sau trận đấu Ronaldinho đã nói trong một cuộc phỏng vấn "Đó là sự một cảm kích rất lớn. Tôi đã được chào đón nhiệt liệt ở Bernabéu và bây giờ là ở đây. Tôi chưa bao giờ tưởng tượng ra điều này. Đó là điều khiến tôi càng thích Mexico hơn và tôi cảm thấy như đang ở nhà"
Ronaldinho ghi 2 bàn phạt đền trong các trận đấu liên tiếp, bàn thứ 2 giúp Querétaro lọt vào vòng loại trực tiếp Liga MX. Vào ngày 17 tháng 5 năm 2015, Querétaro tiến vào bán kết sau khi đánh bại Veracruz với tổng tỷ số 4–3. Trong trận lượt về, Ronaldinho thực hiện quả đá phạt trực tiếp, bất ngờ xảy ra khi thủ môn của Veracruz chạm tay vào bóng nhưng vẫn để lọt qua và chịu bàn thua. Querétaro tiến vào trận chung kết sau khi đánh bại Pachuca với tỷ số chung cuộc 2–2. Trong trận chung kết với Santos Laguna, Querétaro thua trận lượt đi 0–5 và sau đó thắng trận lượt về 3–0 nhưng thua chung cuộc 3–5. Vào tháng 6 năm 2015, Ronaldinho khi đó 35 tuổi, tuyên bố rời câu lạc bộ và gửi lời cảm ơn đến người dân Mexico và những người hâm mộ Querétaro: "Tôi cảm ơn tất cả các cổ động viên. Đặc biệt là những người bạn Arturo Villanueva, Mario Chicks, người không biết mệt mỏi Sarah Vergara, những người đã giúp tôi rất nhiều từ khi đến đây cho đến tối hôm nay, khi tôi ký vào quyết định ra đi. Cảm ơn Nation Gallos Blancos (biệt danh của Querétaro), những người khiến tôi rất tự hào khi mặc chiếc áo và thi đấu cho đội bóng này... Tôi muốn cảm ơn tất cả người dân Mexico về những ngày đặc biệt tại đây. Các bạn sẽ ở trong trái tim tôi. Với các đồng đội, cảm ơn rất nhiều về những ngày làm việc, những khoảnh khắc, những tràng cười, những cuộc trò chuyện trong khách sạn. Tôi học được rất nhiều khi ở đây."
Fluminense
Vào ngày 11 tháng 7 năm 2015, Ronaldinho tuyên bố trở lại Brazil và ký hợp đồng 18 tháng với Fluminense theo dạng chuyển nhượng tự do, trong buổi ra mắt trên sân Maracana ngày 19 tháng 7, hàng vạn cổ động viên đã có mặt trên khán đài để chào đón ngôi sao này. Trong màu áo Fluminense, Ronaldinho sẽ khoác áo số 10. Nhưng Ronaldinho đạt được thỏa thuận chấm dứt hợp đồng từ ngày 28 tháng 9. Trong hơn 2 tháng, Ronaldinho vào sân 9 trận nhưng không gây được ấn tượng gì. Vì lí do tuổi tác, anh không ghi được bàn nào hay chuyền dọn cỗ cho đồng đội, đồng thời từng bị khán giả la ó dữ dội trong trận đấu vào tháng 8. Theo Fluminense, cả 2 bên đã đồng ý chấm dứt giao kèo trước thời hạn: "Fluminense xin thông báo về việc kết thúc hợp đồng sớm với Ronaldinho trong sự vui vẻ và thoải mái giữa đôi bên. Kể từ lần đầu gặp gỡ, BLĐ lẫn Ronaldinho đều đối xử với nhau 1 cách chân thành và dành cho đôi bên sự tôn trọng tối đa. Cả hai sẽ tiếp tục duy trì mối quan hệ tốt đẹp vốn có và sẽ kết hợp với nhau cho các dự án trong tương lai".
Futsal ở Ấn Độ
Vào tháng 7 năm 2016, Ronaldinho chơi cho Goa 5′s, một đội futsal tại bang Goa ở Ấn Độ, cùng Ryan Giggs, Paul Scholes, Míchel Salgado và Hernán Crespo cũng như cầu thủ futsal Falcão tại Premier Futsal League. Sau 2 trận đấu, anh rời Ấn Độ để trở thành đại sứ của Thế vận hội mùa hè 2016 tại Rio de Janeiro. Anh được thay thế bởi Cafu.
Từ tháng 9 đến đầu tháng 10 năm 2017, Ronaldinho gia nhập Delhi Dragons từ Delhi tại Giải Premier Futsal League. Anh ghi 16 bàn sau 8 trận
Sự nghiệp quốc tế
Đội trẻ
Năm 1997, Ronaldinho là thành viên của đội Brazil đầu tiên giành chức vô địch FIFA U-17 thế giới tổ chức tại Ai Cập, trong đó bàn thắng đầu tiên của anh là quả phạt đền vào lưới Áo trong trận ra quân khi Brazil thắng 7–0. Ronaldinho ghi 2 bàn nhận giải Quả bóng đồng khi Brazil ghi tổng cộng 21 bàn thắng trong khi chỉ để lọt lưới 2 bàn.
Năm 1999 là năm bận rộn đối với Ronaldinho trên phương diện thi đấu quốc tế. Lần đầu tiên anh xuất hiện ở giải vô địch trẻ Nam Mỹ, nơi anh ấy ghi 3 bàn trong 9 lần ra sân và giúp đội U20 đạt vị trí thứ 3. Sau đó, anh tham gia Giải vô địch trẻ thế giới FIFA ở Nigeria, ghi bàn thắng đầu tiên trong trận đấu cuối cùng vòng bảng của Brazil. Ở vòng 16, anh ghi 2 bàn trong hiệp một trong chiến thắng 4–0 trước Croatia, và kết thúc giải với 3 bàn khi Brazil bị Uruguay loại ở tứ kết.
Thành công sớm
Vào ngày 26 tháng 6, 3 ngày trước khi bắt đầu Copa América 1999, anh có lần đầu khoác áo đội tuyển Brazil trong chiến thắng 3–0 trước Latvia, anh ghi 1 bàn trong chiến dịch Copa América của Brazil. Một tuần sau khi Copa América kết thúc, anh được triệu tập cho FIFA Confederations Cup 1999, trong đó anh ghi bàn trong mọi trận đấu trừ trận chung kết, bao gồm cả một cú hat-trick trong chiến thắng 8–2 với Ả Rập Xê Út tại bán kết. Trong trận chung kết, Brazil thua Mexico 4–3. Ronaldinho giành giải Quả bóng vàng cho cầu thủ xuất sắc nhất giải đấu cũng như Chiếc giày vàng cho vua phá lưới.
Năm 2000, Ronaldinho tham gia Thế vận hội Mùa hè ở Sydney, Úc cùng đội tuyển U23. Đầu năm đó, Ronaldinho dẫn dắt Brazil giành chức vô địch vòng loại bóng đá nam Thế vận hội Mùa hè 2000 khu vực Nam Mỹ khi ghi 9 bàn trong 7 trận đấu. Tuy nhiên, tại Thế vận hội, Brazil bị loại ở tứ kết bởi Cameroon sau 120 phút, đội sau đó giành huy chương vàng. Ronaldinho xuất hiện 4 lần và chỉ ghi được 1 bàn thắng trong trận thua 1–2 ở tứ kết trước Cameroon.
Vinh quang World Cup 2002
Ronaldinho tham dự World Cup đầu tiên vào năm 2002, như một phần của mũi đinh 3 đáng gờm cùng với Ronaldo và Rivaldo được mệnh danh là 3R, những người cũng có mặt trong đội vô địch Copa América 1999. World Cup được tổ chức tại Hàn Quốc và Nhật Bản, Ronaldinho ra sân 5 trận đấu cả giải và ghi 2 bàn, cũng như đóng góp 3 pha kiến tạo. Ronaldinho ghi bàn thắng đầu tiên trong trận đấu vòng bảng khi Brazil thắng 4–0 trước Trung Quốc.
Ở trận tứ kết giữa Anh và Brazil, Ronaldinho đã khiến cả thế giới phải trầm trồ thán phục với cú đá phạt gỡ hòa 1-1 siêu đẳng biến thủ thành lão luyện David Seaman trở thành gã hề, sau đó lội ngược dòng thắng 2-1. Ronaldinho vắng mặt tại bán kết do tấm thẻ đỏ trước đó, nhưng trở lại trong trận chung kết khi Brazil hạ Đức 2-0 và lên ngôi vô địch lần thứ 5.
Danh hiệu FIFA Confederations Cup 2005
Giải đấu quốc tế tiếp theo của Ronaldinho là Cúp Liên đoàn các châu lục 2003, trong đó anh không ghi bàn nào khi Brazil bị loại ở vòng bảng. Năm sau, anh bị loại khỏi đội tuyển Brazil tại Copa América 2004, khi huấn luyện viên Carlos Alberto Parreira quyết định cho các ngôi sao nghỉ ngơi và chủ yếu sử dụng đội hình dự bị. Sau đà sa sút vào 1999 và 2003, Ronaldinho là đội trưởng Brazil dẫn dắt đội bóng đến chức vô địch Confederations Cup lần thứ 2 vào năm 2005. Anh đã thực hiện thành công quả phạt đền trong chiến thắng 3–2 tại bán kết trước chủ nhà Đức và trở thành cầu thủ cầu thủ xuất sắc nhất trận trong chiến thắng 4–1 trước đối thủ không đội trời chung Argentina trong trận chung kết vào ngày 29 tháng 6.
World Cup 2006
Tại World Cup 2006, Ronaldinho là một phần của "bộ tứ ma thuật" của Brazil cùng với Adriano, Ronaldo và Kaká, tuy nhiên World Cup 2006 là giải đấu thất vọng nhất trong sự nghiệp quốc tế của Ronaldinho, khi anh chỉ có 1 kiến tạo cho Gilberto trong chiến thắng 4–1 vòng bảng trước Nhật Bản. Brazil bị loại ở tứ kết World Cup 2006 sau trận thua Pháp 0-1. Đội bóng đã bị chỉ trích gay gắt bởi người hâm mộ và giới truyền thông Brazil sau chuyến về nước. Vào ngày 3 tháng 7, 2 ngày sau khi Brazil bị loại, những kẻ phá hoại đã thiêu rụi và phá hủy bức tượng Ronaldinho bằng sợi thủy tinh và cao 7,5m ở Chapecó. Bức tượng được dựng lên vào năm 2004 để kỷ niệm danh hiệu Cầu thủ xuất sắc nhất thế giới đầu tiên của anh. Cùng ngày, Ronaldinho cùng với Adriano trở lại thành phố Barcelona và tổ chức một bữa tiệc tại nhà riêng, được tiếp tục vào sáng sớm tại một hộp đêm. Điều này làm trầm trọng thêm cảm xúc thất vọng của nhiều cổ động viên Brazil, những người tin rằng họ đã bị phản bội bởi sự thiếu nỗ lực của đội bóng. World Cup 2006 giờ đây được coi là bước ngoặt trong sự nghiệp của Ronaldinho, khi thời gian thi đấu đỉnh cao của anh đã gần hết.
Olympic Bắc Kinh 2008
Vào ngày 24 tháng 3 năm 2007, Ronaldinho ghi 2 bàn trong chiến thắng 4–0 trước Chile, đánh dấu bàn thắng đầu tiên kể từ trận chung kết Cúp Liên đoàn các châu lục 2005 và qua đó chấm dứt chuỗi trận không ghi bàn kéo dài gần 2 năm trong màu áo quốc gia. Anh đã không được triệu tập cho Copa América 2007, Vào ngày 18 tháng 10, anh ngồi dự bị cho Barcelona sau khi trở về Tây Ban Nha muộn sau chiến thắng giao hữu 5–0 của Brazil trước Ecuador. Anh và một số cầu thủ Brazil đã ăn mừng chiến thắng bằng cách tiệc tùng thâu đêm tại một hộp đêm sang trọng ở Rio de Janeiro. Ronaldinho rời đi lúc 11 giờ sáng hôm sau, được cho là trong cốp ô tô để tránh giới truyền thông.
Vào ngày 7 tháng 7 năm 2008, Ronaldinho được điền tên vào đội hình Brazil dự Thế vận hội Mùa hè 2008 với tư cách là một trong những cầu thủ quá tuổi. Ban đầu Barcelona đã từ chối vì cam kết dự Champions League sắp tới với câu lạc bộ, nhưng quyết định sau đó đã bị vô hiệu sau khi Ronaldinho chuyển đến AC Milan, đội cho phép anh thực hiện chuyến đi đến Bắc Kinh, Trung Quốc. Ronaldinho là đội trưởng và ghi 2 bàn thắng duy nhất trong chiến thắng 5–0 trước New Zeeland trước khi Brazil bị Argentina đánh bại trong trận bán kết. Brazil kết thúc Olympic sau khi đánh bại Bỉ 3–0 trong trận tranh huy chương đồng.
Vắng mặt tại World Cup 2010 và 2014
Mặc dù đã trở lại phong độ tốt và có mặt trong đội hình sơ bộ 30 người được đệ trình lên FIFA vào ngày 11 tháng 5 năm 2010, anh không có tên trong danh sách cuối cùng của huấn luyện viên Dunga tham dự World Cup 2010 tại Nam Phi, có người ủng hộ có người thì không, nhưng đa số người Brazil vẫn bênh vực Ronaldinho trong đó có cả vua bóng đá Pelé và Romário. Các nhà phê bình cho rằng việc loại bỏ những cầu thủ như Ronaldinho, Alexandre Pato, Adriano và Ronaldo báo hiệu sự chuyển hướng khỏi lối chơi tấn công cổ điển "Joga Bonito" của Brazil. Bản thân Dunga lý giải "Nhiệm vụ của tôi là chỉnh đốn lại tuyển Brazil sau thất bại tại World Cup 2006. Tôi vì thế phải khép lại cửa vào đội tuyển với một số cầu thủ và tạo cơ hội cho một số người mới, những người có đam mê và dám hy sinh vì lợi ích của đội bóng. Tài năng và đẳng cấp của Ronaldinho là điều không ai phủ nhận, nhưng tôi có lý lẽ riêng trong các quyết định của mình". Brazil bị loại ngay sau vòng tứ kết World Cup 2010 sau trận thua Hà Lan 1-2.
Vào tháng 9 năm 2011, Ronaldinho trở lại đội tuyển dưới sự dẫn dắt của Mano Menezes trong trận giao hữu với Ghana, chơi trọn vẹn 90 phút trong chiến thắng 1–0 cho Brazil. Sau đó, anh đã có những màn trình diễn thuyết phục trong trận giao hữu với Argentina cùng tháng. Vào tháng 10, anh đã thể hiện tốt trước Mexico trong trận giao hữu, ghi bàn thắng từ quả đá phạt trực tiếp để gỡ hòa sau khi Dani Alves bị đuổi. Brazil tiếp tục giành chiến thắng trong trận đấu với bàn thắng của Marcelo.
Phong độ tốt của Ronaldinho tiếp tục trong năm 2013, và vào tháng 1, anh bất ngờ được huấn luyện viên Luiz Felipe Scolari gọi lên tuyển cho trận giao hữu với Anh diễn ra vào ngày 6 tháng 2 tại Sân vận động Wembley trong khuôn khổ lễ kỷ niệm 150 năm thành lập Liên đoàn bóng đá Anh (FA). Ronaldinho đá chính ở trận thứ 100 (kể cả những trận không chính thức), và có cơ hội ghi bàn từ chấm đá phạt, nhưng cú sút của anh đã bị Joe Hart cản phá. Brazil thua trận 1–2. Ronaldinho một lần nữa được gọi cho Seleção, làm đội trưởng trong trận giao hữu với Chile vào ngày 24 tháng 4 năm 2013. Tuy nhiên, Ronaldinho không được chọn tham dự Confederations Cup 2013 và cũng bị loại khỏi đội hình tham dự World Cup 2014 của Scolari.
Giải nghệ
Thông tin Ronaldinho chia tay sự nghiệp do anh trai Ronaldo de Assist, người đồng thời là đại diện cung cấp cho UOL Esporte vào ngày 16 tháng 1 năm 2018. Ông cho biết: ''Ronaldinho không muốn tìm kiếm thêm cơ hội thi đấu chuyên nghiệp. Hiện nay chúng tôi chưa có ý định tổ chức trận đấu chia tay, nhưng tôi chắc rằng sẽ làm điều đó sau World Cup 2018...Cậu ấy đã dừng lại, chúng tôi sẽ làm một cái gì đó thật lớn, đẹp sau World Cup ở Nga, dự kiến vào tháng 8. Chúng tôi sẽ làm một số sự kiện ở Brazil, Châu Âu và Châu Á và dĩ nhiên sẽ xem xét tổ chức một trận đấu với tuyển Brazil''. Anh giải nghệ với tư cách là 1 trong 8 cầu thủ đã giành được World Cup, Champions League và Quả bóng vàng (tính đến lúc đó).
Ronaldinho xuất hiện tại lễ bế mạc World Cup 2018 tại sân vận động Luzhniki ở Moscow vào ngày 15 tháng 7, biểu diễn một vài nhịp trống bên dàn vũ công Nga cho bài hát dân gian Nga "Kalinka" (do ca sĩ opera Aida Garifullina hát).
Phong cách thi đấu
Ronaldinho sinh ra và lớn lên tại Brasil, một vùng đất được biết đến với phong cách thi đấu đầy kỹ thuật và tấn công đẹp mắt và Ronaldinho cũng không phải là ngoại lệ.
Nhờ những năm tháng thi đấu Futsal trong những năm đầu thi đấu ở giải trẻ nên Ronaldinho có kỹ thuật rất tốt. Anh thường được biết đến với lối chơi rất ngẫu hứng theo phong cách "Joga Bonito". Dù có rất nhiều kỹ thuật đẹp mắt và ấn tượng như tâng bóng qua đầu đối thủ, xâu kim, đảo bóng hay vượt qua hết hàng thủ đội bạn chỉ trong tích tắc nhưng nổi tiếng nhất vẫn là "Flip Flap", đây là một kỹ thuật rất khó vì phải có một bàn chân khéo léo và nhanh nhạy. Trong bóng đá, đây là kỹ thuật dùng để lừa bóng bằng cách đẩy bóng bằng má ngoài và bất ngờ đổi hướng bằng lòng trong. Nhưng Ronaldinho có biệt danh là "Ảo thuật gia" và anh đã khiến cả thế giới phải chao đảo với kỹ thuật đó.
Ngoài kỹ thuật điêu luyện thì Ronaldinho còn được biết đến với khả năng đá phạt rất tốt, anh đã có tổng cộng 66 bàn thắng từ chấm đá phạt trong sự nghiệp trong đó đặc biệt nhất phải kể đến pha đá phạt "lá vàng rơi" vào lưới Anh tại World Cup 2002.
Danh hiệu
Câu lạc bộ
Grêmio
Copa Sul: 1999
Campeonato Gaúcho: 1999
Barcelona
La Liga: 2004-05, 2005-06
Supercopa de España: 2005, 2006
UEFA Champions League: 2005-06
AC Milan
Serie A: 2010-11
Flamengo
Campeonato Carioca: 2011
Atlético Mineiro
Campeonato Mineiro: 2013
Copa Libertadores: 2013
Recopa Sudamericana: 2014
Quốc tế
U-17 Brazil
Giải vô địch U-17 Nam Mỹ: 1997
FIFA U-17 World Cup: 1997
U-23 Brazil
Giải tiền Olympic của CONMEBOL: 2000
Huy chương đồng Thế vận hội Mùa hè: 2008
Brazil
Copa América: 1999
FIFA World Cup: 2002
FIFA Confederations Cup: 2005
Cá nhân
Vua phá lưới Campeonato Gaúcho: 1999
Chiếc giày vàng FIFA Confederations Cup: 1999
Quả bóng vàng FIFA Confederations Cup: 1999
Đội hình xuất sắc nhất năm Nam Mỹ: 1999
Đội hình All-Star FIFA World Cup: 2002
Bàn thắng đẹp nhất Ligue 1: 2003
FIFA 100: 125 cầu thủ vĩ đại nhất còn sống.
Cầu thủ nước ngoài xuất sắc nhất La Liga (Don Balón): 2003-04, 2005-06
Cầu thủ Mỹ La-tinh xuất sắc nhất La Liga (EFE Trophy): 2003-04
Cầu thủ xuất sắc nhất năm của FIFA: 2004, 2005
Đội hình xuất sắc nhất năm (UEFA): 2004, 2005, 2006
Cầu xuất sắc nhất thế giới của World Soccer: 2004, 2005
Tiền đạo xuất sắc nhất câu lạc bộ UEFA: 2004-05
Quả bóng đồng FIFA Confederations Cup: 2005
Quả bóng vàng châu Âu: 2005
Onze Vàng: 2005
Cầu thủ xuất sắc nhất thế giới của FIFPRO: 2005, 2006
Đội hình xuất sắc nhất năm của FIFPRO: 2005, 2006, 2007
Vua kiến tạo Champions League: 2005-06
Quả bóng đồng FIFA Club World Cup: 2006
Cầu thủ xuất sắc nhất năm của FIFA giải đồng: 2006
Bàn chân vàng: 2009
Vua kiến tạo Serie A: 2009-10
Đội hình Campeonato Brasileiro Série A xuất sắc nhất năm: 2011, 2012
Cầu thủ được yêu thích nhất Campeonato Brasileiro Série A: 2012
Vua kiến tạo Campeonato Brasileiro Série A: 2012
Bola de Ouro: 2012
Vua kiến tạo Copa Libertadores: 2012, 2013
Vua phá lưới FIFA Club World Cup: 2013
Cầu thủ xuất sắc nhất Nam Mỹ: 2013
Tham khảo
Liên kết ngoài
Tactical Profile – Football-Lineups.com
Ronaldinho tại FC Barcelona
Sinh năm 1980
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá nam Brasil
Cầu thủ bóng đá Barcelona
Cầu thủ bóng đá Paris Saint-Germain F.C.
Người đoạt giải Cầu thủ xuất sắc nhất năm của FIFA
Quả bóng vàng châu Âu
FIFA 100
Cầu thủ bóng đá A.C. Milan
Cầu thủ bóng đá Flamengo
Cầu thủ bóng đá Grêmio
Tiền đạo bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá Serie A
Cầu thủ bóng đá Thế vận hội Mùa hè 2008
Cầu thủ bóng đá Thế vận hội Mùa hè 2000
Huy chương bóng đá Thế vận hội
Huy chương Thế vận hội Mùa hè 2008
Cầu thủ bóng đá Thế vận hội của Brasil
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Brasil
Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2002
Cầu thủ Cúp Liên đoàn các châu lục 2003
Cầu thủ Cúp Liên đoàn các châu lục 2005
Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2006
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Ý
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Pháp
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Tây Ban Nha
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Mexico
Cầu thủ bóng đá nam Brasil ở nước ngoài
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-20 quốc gia Brasil
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Brasil
Vận động viên Brasil ở Ý
Cầu thủ bóng đá Campeonato Brasileiro Série A
Cầu thủ bóng đá La Liga
Cầu thủ bóng đá Liga MX
Cầu thủ bóng đá Ligue 1
|
22240
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20t%C3%ADch%20ph%C3%A2n%20v%E1%BB%9Bi%20h%C3%A0m%20l%C3%B4gar%C3%ADt
|
Danh sách tích phân với hàm lôgarít
|
Dưới đây là danh sách tích phân với hàm lôgarít.
Chú ý: bài này quy ước x > 0.
Xem thêm
Danh sách tích phân
Tham khảo
Liên kết ngoài
Tính biểu thức tích phân
Hàm lôgarít
Tích phân với hàm lôgarít
|
22243
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20t%C3%ADch%20ph%C3%A2n%20v%E1%BB%9Bi%20ph%C3%A2n%20th%E1%BB%A9c
|
Danh sách tích phân với phân thức
|
Sau đây là danh sách các tích phân (nguyên hàm) của các hàm phân thức.
Tích phân của mọi hàm phân thức đều có thể được tính bằng phân tích phân số một phần thành tổng các hàm số có dạng:
, và
rồi lần lượt xử lý từng số hạng.
Với những dạng hàm số khác, xem danh sách tích phân.
Hàm có dạng xm(ax + b)n
Nhiều nguyên hàm dưới đây có hạng tử dạng . Do hạng tử này không có nghĩa khi , dạng tổng quát của nguyên hàm thay hằng số tích phân bằng một hàm hằng cục bộ. Tuy nhiên, người ta thường bỏ nó ra khỏi biểu thức. Ví dụ
thường được viết ngắn gọn là
trong đó được hiểu là ký hiệu cho hàm hằng cục bộ ẩn . Quy ước này sẽ được tuân theo trong phần còn lại This convention will be adhered to in the following.
(Công thức diện tích Cavalieri)
Hàm có dạng xm / (a x2 + b x + c)n
Với :
Hàm có dạng xm (a + b xn)p
Những công thức sau hạ số mũ của hàm dưới dấu tích phân nhưng vẫn giữ nguyên dạng của chúng, do đó có thể được dùng nhiều lần để đưa số mũ và xuống 0.
Những công thức hạ bậc này có thể dùng cho hàm có số mũ nguyên hoặc hữu tỉ.
Hàm có dạng (A + B x) (a + b x)m (c + d x)n (e + f x)p
Tương tự như trên, những công thức hạ bậc này có thể được dùng nhiều lần để đưa , và xuống 0.
Những công thức này dùng được cho số mũ là số nguyên hoặc số hữu tỉ.
Cho bằng 0, ta có trường hợp đặc biệt .
Hàm có dạng xm (A + B xn) (a + b xn)p (c + d xn)q
Hàm có dạng (d + e x)m (a + b x + c x2)p với b2 − 4 a c = 0
Hàm có dạng (d + e x)m (A + B x) (a + b x + c x2)p
Hàm có dạng xm (a + b xn + c x2n)p}} với {{math|1=b2 − 4 a c = 0
Hàm có dạng xm (A + B xn) (a + b xn + c x2n)p
</ul></ul>
Các hàm khác
Tham khảo
Tích phân
Danh sách toán học
|
22247
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20t%C3%ADch%20ph%C3%A2n%20v%E1%BB%9Bi%20h%C3%A0m%20hypebolic
|
Danh sách tích phân với hàm hypebolic
|
Dưới đây là danh sách tích phân với hàm hypebolic.
hay:
hay:
hay:
hay:
hay:
hay:
hay:
hay:
hay:
Xem thêm
Danh sách tích phân
Tham khảo
Liên kết ngoài
Tính biểu thức tích phân
Hàm hypebolic
Tích phân với hàm hypebolic
Hàm hypebolic
|
22248
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/K%C3%ADch%20th%C6%B0%E1%BB%9Bc%20h%E1%BA%A1t
|
Kích thước hạt
|
Bài này nói về kích thước hạt trong ngữ cảnh của trầm tích học, một chuyên ngành trong địa chất học, xem thêm bài Tinh thể để biết thêm về kích thước hạt trong khoa học vật liệu và bài công nghệ nano để biết thêm về kích thước tới hạn của các vật liệu có độ lớn cỡ nanomét
Kích thước hạt ở đây được hiểu là kích thước cơ học của các hạt đất, đá hay các chất rắn khác. Nó khác với kích thước tinh thể, là kích thước của một tinh thể đơn trong chất rắn (một hạt có thể chứa nhiều tinh thể).
Kích thước hạt có thể dao động từ rất nhỏ như hạt keo cho tới sét, bột, cát, sỏi (cuội) hay đá cuội.
Thành phần kích thước hạt (thành phần cơ học, cấu trúc đất) là hàm lượng tương đối của các hạt có kích thước khác nhau trong đất, đá hay các hỗn hợp nhân tạo, không phụ thuộc vào thành phần hóa học hay khoáng vật học của nó. Thành phần kích thước hạt là một thông số vật lý quan trọng, mà nhiều chức năng cũng như nhiều khía cạnh của sự tồn tại của đất là phụ thuộc vào nó, trong đó có độ phì nhiêu của đất.
Cũng căn cứ theo thành phần kích thước hạt mà người ta tiến hành phân loại và định tên các loại đá trầm tích cơ học.
Các hạt
Trong đất và đá có thể có các hạt với đường kính từ nhỏ hơn 0,001 mm tới lớn hơn vài cm. Để phân tích chi tiết toàn bộ khoảng có thể của các kích thước người ta chia nó ra thành các đoạn, được gọi là các phần. Không tồn tại một hệ thống phân loại kích thước hạt duy nhất.
Theo dòng lịch sử, hệ thống phân loại đầu tiên về kích thước hạt đã được Atterberg Alfred đưa ra năm 1912, và nó là cơ sở để nghiên cứu các tính chất cơ lý của các hỗn hợp đơn phần. Các phân tích đó chỉ ra sự khác nhau rõ nét về chất giữa các phần hạt, cụ thể là độ nhớt khi đạt tới các kích thước 0,002, 0,02 và 0,2 mm.
Các hệ thống phân loại
Hiện nay tồn tại hai nguyên lý cơ bản trong xây dựng các hệ thống phân loại đất:
Trên cơ sở hàm lượng hạt sét tự nhiên với tính toán tới các phần chiếm ưu thế và kiểu hình thành đất: Do N.A. Kachinskii sáng tạo ra và được chấp nhận tại Nga.
Trên cơ sở hàm lượng tương đối của các phần cát, bột và sét theo Atterberg: Phân loại quốc tế, các phân loại của Hiệp hội các nhà thổ nhưỡng học (SSSA) và Hiệp hội các nhà nông học (ASSA) Hoa Kỳ. Để xác định tên gọi đất, người ta sử dụng tam giác Ferre.
Chuyển đổi đơn trị từ hệ thống phân loại này sang hệ thống phân loại kia là không tồn tại, nhưng có thể đặt tên gọi cho đất bằng cách sử dụng đường cong tích lũy để biểu diễn các kết quả về thành phần hạt theo cả hai kiểu phân loại.
Việc định danh tên gọi cho các loại đá trầm tích cơ học và đá cơ học - sét cũng được tiến hành tương tự như trên với sự khác biệt giữa trường phái Nga và Âu Mỹ.
Nga
Thang Atterberg là cơ sở của các hệ thống phân loại mới hơn tại nhiều quốc gia. Tại Liên Xô cũ, Nga và cả Việt Nam hiện nay, người ta chấp nhận hệ thống phân loại hơi khác một chút là hệ thống do N.A. Kachinskii đề ra.
Bên cạnh đó, trong phân loại Kachinskii người ta còn phân ra các phần cát tự nhiên và sét tự nhiên, tương ứng với lớn và nhỏ hơn 0,01 mm. Kích thước trong phạm vi 1–3 mm là phần sỏi, còn lớn hơn 3 mm là phần đá trong đất.
Hoa Kỳ
Khoảng kích thước xác định các giới hạn của từng lớp được đặt tên trong thang đo Wentworth sử dụng tại Hoa Kỳ. Thang đo phi (φ) Krumbein, một sự sửa đổi từ thang đo Wentworth được W. C. Krumbein tạo ra năm 1934, là một thang đo lôgarit, được tính theo công thức:
trong đó
là giá trị của thang phi (φ) Krumbein,
là đường kính của hạt, tính bằng milimet,
là đường kính tham chiếu, bằng 1 mm (để làm cho phương trình phù hợp về chiều).
Phương trình này có thể viết lại để tìm đường kính khi biết trước giá trị φ:
Thang phân chia theo logarit được nhiều nhà trầm tích học và thổ nhưỡng học trên thế giới công nhận và sử dụng rộng rãi hơn vì họ cho rằng sự phân bố thành phần các hạt trong tự nhiên tuân theo luật logarit chứ không phải hệ 10 như thang phân chia được áp dụng tại Nga.
Trong một số sơ đồ thì người ta coi "sỏi" là những gì lớn hơn cát (>2,0 mm), và bao gồm cả "hạt mịn", "cuội", "đá cuội" và "đá tảng" trong bảng trên. Trong sơ đồ này, "cuội" có kích thước từ 4 đến 64 mm (−2 đến −6 φ).
Thang quốc tế
ISO 14688-1:2002 thiết lập các nguyên tắc cơ bản để nhận dạng và phân loại đất trên cơ sở các đặc tính vật liệu và khối lượng thường được sử dụng nhất cho đất cho mục đích kỹ thuật. ISO 14688-1 có thể áp dụng cho đất tự nhiên tại chỗ (in situ), các vật liệu nhân tạo tương tự tại chỗ cũng như đất do con người tái tạo.
Sắp xếp
Sự tích tụ trầm tích cũng có thể được đặc trưng bằng sự phân bố kích thước hạt. Trầm tích có thể trải qua quá trình sắp xếp khi khoảng kích thước hạt bị loại bỏ bởi một trung gian như sông hoặc gió. Sự sắp xếp có thể được định lượng bằng cách sử dụng Độ lệch chuẩn Đồ họa Toàn bộ (IGSD).
trong đó:
là Độ lệch chuẩn Đồ họa Toàn bộ, tính theo các đơn vị của phi (φ) (mm, inch).
là phân vị 84% của phân bố kích thước hạt, tính bằng các đơn vị của phi.
là phân vị 16% của phân bố kích thước hạt, tính bằng các đơn vị của phi.
là phân vị 95% của phân bố kích thước hạt, tính bằng các đơn vị của phi.
là phân vị 5% của phân bố kích thước hạt, tính bằng các đơn vị của phi.
Kết quả có thể được mô tả sử dụng các thuật ngữ sau:
Ảnh hưởng của kích thước hạt tới tính chất của đất đá
Các hạt có kích thước nhỏ hơn sẽ có tỷ lệ bề mặt tiếp xúc cao hơn, và điều này có nghĩa là các đại lượng lớn hơn của dung lượng trao đổi cation, khả năng giữ nước, khả năng kết hợp tốt hơn, nhưng độ xốp nhỏ hơn. Các loại đất nặng có thể có vấn đề với khả năng chứa không khí còn các loại đất nhẹ là khả năng lưu giữ nước.
Các phần khác nhau thông thường được tạo ra từ các khoáng vật khác nhau. Ví dụ, trong các hạt lớn, thành phần chủ yếu là thạch anh còn trong các hạt nhỏ thì thành phần chủ yếu là caolinit, montmorillonit. Theo thành phần các hạt, người ta còn phân biệt khả năng tạo thành với mùn các hợp chất khoáng hữu cơ.
Xem thêm
Kết cấu đất
Thành phần liên hợp của đất
Thành phần vi liên hợp của đất
Tham khảo
Trầm tích học
Thổ nhưỡng học
Đá trầm tích
|
22253
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BB%99t%20%28v%E1%BA%ADt%20li%E1%BB%87u%20h%E1%BA%A1t%29
|
Bột (vật liệu hạt)
|
Bột là vật liệu hạt với kích thước hạt nằm giữa cát và sét, có nguồn gốc khoáng vật là thạch anh và feldspat. Bột có thể xuất hiện dưới dạng đất (thường trộn với cát hoặc sét) hoặc dưới dạng trầm tích ở trạng thái huyền phù khi trộn lẫn với nước (còn được gọi là bùn cát lơ lửng) và đất bùn/bùn trong một vùng nước, chẳng hạn như trong một con sông. Nó cũng có thể tồn tại dưới dạng đất trầm lắng xuống đáy một vùng nước, như dòng chảy bùn từ các vụ lở đất. Bột có diện tích bề mặt riêng vừa phải với cảm giác dẻo nhưng không dính. Bột thường tạo ra cảm giác giống như bột ngũ cốc/bột thực phẩm khi khô và cảm giác trơn trượt khi ướt. Người ta có thể quan sát bột bằng thấu kính cầm tay, với vẻ ngoài lấp lánh. Nó cũng có thể cảm nhận được bằng lưỡi giống như hạt khi đặt trên các răng cửa (ngay cả khi trộn với các hạt sét).
Nguồn
Bột được một loạt các quá trình vật lý có khả năng chia tách các tinh thể thạch anh có kích thước nói chung là cát của các loại đá nguyên sinh tạo ra bằng cách khai thác các khiếm khuyết trong mạng tinh thể của chúng. Các quá trình này liên quan tới phong hóa hóa học của đá và lớp đất mặt, cũng như một số quá trình phong hóa vật lý như phong hóa sương muối và sinh mảnh vụn do muối.
Các quá trình chính là mài mòn thông qua vận chuyển, bao gồm tán nhỏ trong các quá trình sông, cọ mòn trong quá trình gió và nghiền sông băng. Lượng bột đáng kể được tạo ra trong các môi trường bán khô hạn. Bột đôi khi được gọi là "bột đá" hoặc "bụi đá", đặc biệt khi nó được tạo ra dưới tác động của sông băng. Về mặt khoáng vật học, bột chủ yếu bao gồm thạch anh và feldspat. Đá trầm tích bao gồm chủ yếu là bột được gọi là bột kết. Sự hóa lỏng được tạo ra từ những trận động đất mạnh là bột lơ lửng trong nước bị đẩy lên trên từ dưới mặt đất bằng thủy động lực.
Kích thước hạt
Trong thang Udden–Wentworth được Krumbein sửa đổi thì bột là các hạt có kích thước từ 0,0039 đến 0,0625 mm, lớn hơn các hạt sét nhưng nhỏ hơn các hạt cát, tương đương với giá trị của φ từ 4 tới 8 trên thang Krumbein. ISO 14688 phân loại bột là hạt có kích thước từ 0,002 mm đến 0,063 mm (chia nhỏ ra thành ba loại con là mịn, vừa và thô; tương ứng là 0,002 mm đến 0,006 mm, 0,006 mm đến 0,020 mm và 0,020 mm đến 0,063 mm). Trong thực tế, bột là khác biệt hóa học với sét, và không giống như sét, các hạt bột là xấp xỉ về kích thước theo mọi hướng; ngoài ra, các khoảng kích thước của chúng là chồng lấn lên nhau. Các hạt sét được hình thành từ các hạt dạng tấm mỏng được giữ cùng nhau bằng các lực tĩnh điện, nên chúng thể hiện sự cố kết. Bột thuần túy là không cố kết. Theo hệ thống phân loại kết cấu đất của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA) thì sự khác biệt cát–bột là ở mức cỡ hạt 0,05 mm. Hệ thống của USDA từng được Tổ chức Nông lương Liên Hợp Quốc (FAO) phê chuẩn. Trong Hệ thống Phân loại Đất Hợp nhất (USCS) và hệ thống phân loại đất AASHTO thì sự khác biệt cát–bột ở mức cỡ hạt 0,075 mm (nghĩa là vật liệu lọt qua sàng cỡ mắt #200). Bột và sét được phân biệt về mặt cơ học theo độ dẻo của chúng.
Ảnh hưởng môi trường
Bột dễ dàng vận chuyển trong nước hay các chất lỏng khác và là đủ mịn để có thể vận chuyển đi xa nhờ gió dưới dạng bụi. Các lớp lắng đọng dày của vật liệu bột sinh ra từ trầm lắng nhờ các quá trình gió thường được gọi là hoàng thổ. Vật liệu bột và sét góp phần vào độ đục của nước. Bột cũng được vận chuyển trong các dòng chảy trong các đại dương. Khi bột xuất hiện dưới dạng chất gây ô nhiễm trong nước thì người ta gọi hiện tượng này là lắng đọng bùn.
Bột trầm lắng trong các trận lũ lụt hàng năm dọc theo sông Nin đã tạo ra loại đất màu mỡ góp phần duy trì văn minh Ai Cập cổ đại. Bột trầm lắng trong sông Mississippi trong suốt thế kỷ 20 đã giảm đi do hệ thống đê điều, góp phần làm biến mất các vùng đất ngập nước phòng hộ và các đảo chắn trong vùng châu thổ sông Mississippi xung quanh New Orleans.
Tại đông nam Bangladesh, trong huyện Noakhali, các đập chữ thập được xây dựng trong thập niên 1960 nhờ đó bột/bùn dần dần bồi đắp thành các vùng đảo mới, gọi là "char". Huyện Noakhali đã mở rộng trên đất đai trong vòng 50 năm qua.
Với sự tài trợ của Hà Lan, chính quyền Bangladesh bắt đầu hỗ trợ phát triển các char cũ vào cuối thập niên 1970, và kể từ đó thì nỗ lực này đã trở thành hoạt động liên tổ chức trong xây dựng cơ sở hạ tầng, như đường xá, cống nước, bờ bao, trường học, nơi tạm trú tránh bão, nhà vệ sinh, ao cũng như chia cấp đất cho những người định cư. Tại thời điểm năm 2020, giai đoạn IV của Dự án Phát triển và Định cư Char (CDSP) dự kiến cấp khoảng cho 28.000 hộ gia đình với 155.000 nhân khẩu.
Một trong những nguồn sinh bột chính của các con sông chảy qua vùng đô thị là sự xáo trộn đất do hoạt động xây dựng, còn đối với những con sông chảy qua vùng nông thôn là sự xói mòn do hoạt động cày bừa đồng ruộng, phát quang rừng hay đốt phá rừng.
Trong đời sống
Bùn hay đất bùn trong đời sống thông thường là hỗn hợp lỏng hay bán lỏng của nước và đất bột hoặc trầm tích bột. Nói theo thuật ngữ địa chất thì bùn là hỗn hợp của nước với các hạt bột hay sét và/hoặc hệ keo (colloid). Các trầm tích bột cổ bị cứng lại theo thời gian địa chất để tạo ra bột kết, một thành phần của đá bùn hay nê nham.
Văn hóa
Lớp đất bùn đen màu mỡ dọc theo hai bờ sông Nin được coi là biểu tượng của sự tái sinh, gắn với vị thần Ai Cập cổ đại Anubis.
Xem thêm
Kiểm soát xói mòn
Ô nhiễm không điểm nguồn
Kiểm soát trầm tích
Rào chắn bụi
Lắng đọng bùn
Tham khảo
Đất
Khoa học đất
Trầm tích học
Trầm tích
|
22254
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BB%99t%20k%E1%BA%BFt
|
Bột kết
|
Bột kết (còn gọi là aleurolit - từ tiếng Hy Lạp ἄλευρον = áleuron = bột và λίθος = líthos = đá) là một loại đá trầm tích đã gắn kết, có thành phần hạt ở trung gian về kích thước hạt giữa sa thạch thô hơn và đá bùn (nê nham)/sét kết mịn hơn. Nó được phân biệt với đá phiến sét ở chỗ chứa nhiều bột chứ không nhiều sét.
Mô tả
Bột kết là một loại đá trầm tích mảnh vụn. Như tên gọi của nó ngụ ý, nó chứa chủ yếu (trên 2/3) các hạt kích thước bột, được xác định như là các hạt lớn hơn 3,9 micrômét nhưng nhỏ hơn 62,5 micrômét, tương đương với giá trị của φ từ 4 tới 8 trên Thang phi (φ) Krumbein.
Bột kết khác một cách đáng kể với sa thạch do các lỗ xốp nhỏ hơn của chúng cũng như khả năng chứa các thành phần sét cao hơn.
Mặc dù thường bị nhầm lẫn với đá phiến sét nhưng bột kết không có sự phân phiến dọc theo các mặt phẳng ngang, một tính chất điển hình của đá phiến sét. Nói chung sự phân phiến ở bột kết là không rõ ràng, trừ khi nó có một vài đặc tính của đá phiến sét, và nó có xu hướng bị phong hóa ở các góc nghiêng không dính dáng gì với móng. Bột kết có thể chứa các khối kết hạch.
Đá bùn và đá phiến sét đều chứa bùn, một vật liệu bao gồm hỗn hợp bột và sét.
Bột kết là các thành phần địa chất quan trọng trong các hệ tầng nào đó, chẳng hạn như ở đồi Muldraugh tại Kentucky.
Tham khảo
Đọc thêm
Folk R. L., 1965, Petrology of sedimentary rocks, phiên bản PDF . Austin: Hemphill’s Bookstore. Ấn bản lần 2. 1981, .
Williams Howel, Francis J. Turner và Charles M. Gilbert, 1954. Petrography, W. H. Freeman.
Thạch luận
Đá trầm tích
|
22270
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C6%B0%C6%A1ng%20tr%C3%ACnh%20Schr%C3%B6dinger
|
Phương trình Schrödinger
|
Phương trình Schrödinger là một phương trình cơ bản của vật lý lượng tử mô tả sự biến đổi trạng thái lượng tử của một hệ vật lý theo thời gian, thay thế cho các định luật Newton và biến đổi Galileo trong cơ học cổ điển.
Trong cơ học lượng tử, trạng thái lượng tử của một hệ vật lý được mô tả đầy đủ nhất bởi một vector trạng thái thí dụ như hàm sóng trong không gian cấu hình, nghiệm của phương trình Schrödinger. Nghiệm của phương trình Schrödinger không chỉ mô tả các hệ nguyên tử và hạ nguyên tử (nguyên tử, phân tử, hạt nhân, điện tử và các hạt cơ bản khác) mà cả các hệ vĩ mô, thậm chí có thể là toàn bộ Vũ trụ.
Phương trình này được đặt tên theo nhà vật lý người Áo Erwin Schrödinger, người đã lần đầu tiên thiết lập nó vào năm 1926.
Phương trình Schrödinger có nhiều dạng khác nhau, tùy thuộc vào các điều kiện khác nhau của hệ vật lý. Mục này nhằm mục đích giới thiệu phương trình Schrödinger cho trường hợp tổng quát và cho các trường hợp đơn giản hơn thường gặp.
Hệ lượng tử tổng quát
Đối với một hệ lượng tử tổng quát:
trong đó
là đơn vị ảo
là hàm sóng, biên độ xác suất cho các cấu hình khác nhau của hệ
là hằng số Planck thu gọn (thường được chuẩn hóa về đơn vị trong các hệ đơn vị tự nhiên)
là toán tử Hamilton.
Trường hợp một hạt trong không gian ba chiều
Đối với một hệ gồm một hạt trong ba chiều:
trong đó
là tọa độ của hạt trong không gian ba chiều,
là hàm sóng, biên độ xác suất để hạt có một tọa độ xác định r ở một thời điểm xác định bất kì t.
là khối lượng của hạt.
là thế năng không phụ thuộc thời gian của hạt ở tọa độ r.
là toán tử Laplace.
Xây dựng phương trình
Các giả thiết
(1)Năng lượng toàn phần E của một hạt
Đây là biểu thức cổ điển cho một hạt có khối lượng m trong đó năng lượng toàn phần E là tổng của động năng, , và thế năng V. Xung lượng của hạt là p, hay tích của khối lượng và vận tốc. Thế năng là một hàm biến đổi theo vị trí và cũng có thể biến đổi cả theo thời gian.
Chú ý rằng năng lượng E và xung lượng p xuất hiện trong các hệ thức sau:
(2) Giả thuyết về lượng tử ánh sáng của Max Planck năm 1905, khẳng định rằng năng lượng của một photon tỷ lệ với tần số của sóng điện từ tương ứng:
trong đó tần số f và năng lượng E của lượng tử ánh sáng (photon) được liên hệ bởi hăng số Planck h,
và là tần số góc của sóng.
(3) Giả thuyết de Broglie năm 1924, phát biểu rằng bất kì một hạt nào cũng có thể liên quan đến một sóng, được biểu diễn một cách toán học bởi hàm sóng Ψ, và xung lượng p của hạt được liên hệ với bước sóng λ của sóng liên kết bởi hệ thức:
trong đó là bước sóng và là hằng số sóng hay số sóng góc.
Biểu diễn p and k như là những vector, chúng ta có
(4) Giả thiết rằng phương trình sóng phải là tuyến tính. Ba giả thuyết ở trên cho phép chúng ta có thể xây dựng được phương trình cho các sóng phẳng. Để kết luận rằng phương trình đó cũng đúng cho một trường hợp tổng quát bất kì đòi hỏi hàm sóng phải tuân theo nguyên lý chồng chất trạng thái.
Phương trình cho sóng phẳng đơn sắc
Schrödinger đã có một cách nhìn sâu sắc, vào cuối năm 1925, đó là phải biểu diễn pha của một sóng phẳng như là một thừa số pha phức:
và nhận ra rằng vì
nên
và tương tự vì
và
chúng ta tìm ra:
do đó, đối với sóng phẳng, ta được:
Và bằng cách thế những biểu thức cho năng lượng và xung lượng này vào công thức cổ điển chúng ta thu được phương trình nổi tiếng của Schrödinger cho trường hợp một hạt trong không gian ba chiều với sự có mặt của một trường thế năng V:
Phương trình này đã được tổng quát hóa thành một tiên đề của cơ học lượng tử, nghĩa là coi nó là đúng cho mọi trường hợp mà không thể chứng minh được bằng lý thuyết mà chỉ có thể kiểm chứng bằng thực nghiệm. Phương trình Schrödinger đã đưa ra được nhiều tiên đoán phù hợp với thực tế và được kiểm định là đúng cho vô số trường hợp khác nhau.
Xem thêm
Erwin Schrödinger
Con mèo của Schrödinger
Chú thích
Tham khảo
Liên kết ngoài
Vật lý lượng tử
Phương trình Schrödinger trong một chiều
Cơ học lượng tử
Phương trình vi phân riêng
|
22286
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n%20V%C4%83n%20Cao
|
Nguyễn Văn Cao
|
Nguyễn Văn Cao có thể là:
Nhạc sĩ Văn Cao
Nguyễn Văn Cao (chính khách), chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế nhiệm kì 2016-2021
|
22287
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thanh%20ni%C3%AAn%20h%C3%A0nh%20kh%C3%BAc
|
Thanh niên hành khúc
|
"Thanh niên hành khúc" là một ca khúc của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, Tuy tác giả lên tiếng phản đối nhưng bài này vẫn bị sử dụng trái phép, sửa một chút lời để thành bài "Tiếng gọi công dân" bởi Việt Nam Cộng hòa để làm quốc ca cho Quốc gia Việt Nam rồi Việt Nam Cộng hòa từ năm 1949 đến năm 1975.
Lịch sử
Hoàn cảnh ra đời
Ban đầu bài này có tên là "La Marche des Étudiants" ra đời cuối năm 1939, do Lưu Hữu Phước sáng tác nhạc, Mai Văn Bộ đặt lời tiếng Pháp để làm bài hát chính thức của Câu lạc bộ Học sinh (Scholar Club) Trường Trung học Pétrus Trương Vĩnh Ký. Bài hát nhanh chóng trở thành bài hát chính thức của học sinh miền Nam thời bấy giờ. Năm 1941, Tổng hội Sinh viên Đông Dương đã chọn bài hát này làm bài hát chính thức và Lưu Hữu Phước đã viết lại lời tiếng Việt với tên gọi "Tiếng gọi thanh niên", chia thành 3 phần.
Lời 1 do Mai Văn Bộ và Lưu Hữu Phước soạn năm 1941, trước năm 1945 chỉ hát bí mật.
Lời 2 là "Tiếng gọi sinh viên" do Lê Khắc Thiều và Đặng Ngọc Tốt soạn cuối năm 1941, xuất bản năm 1943 rồi bị cấm.
Lời 3 do Hoàng Mai Lưu soạn tháng 4 năm 1945, xuất bản trong những ngày tiền khởi nghĩa tháng 8-1945.
Tiếp nhận và phản ứng
Năm 1945, tổ chức Thanh niên Tiền phong được thành lập, lấy hiệu kỳ là Cờ vàng sao đỏ. Bài hát cũng được thay đổi một chút và trở thành bài hát chính thức của tổ chức Thanh niên Tiền phong với tên gọi "Tiếng gọi thanh niên" hay "Thanh niên hành khúc".
Năm 1948, chính phủ của Nguyễn Văn Xuân đã chọn bài "Tiếng gọi thanh niên" làm quốc ca với tên mới là "Tiếng gọi công dân" hay "Công dân hành khúc". Năm 1956, sau khi Việt Nam Cộng hòa thành lập, Đài Phát thanh Sài Gòn đã tự ý lấy bài hát, sửa chữa một vài đoạn để làm thành bản quốc ca của Việt Nam Cộng hòa. Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước lúc còn sống đã phản đối việc sử dụng trái phép tác phẩm của ông để làm "quốc ca" cho các chế độ ở Sài Gòn trước 1975.
Ngay từ năm 1949, nhạc sĩ Lưu Hữu Phước đã có đơn thư kịch liệt phản đối việc tác phẩm bị sử dụng trái phép, và sau này, trong thời gian tập kết ngày Bắc đêm Nam, từ thủ đô Hà Nội, tiếng nói của nhạc sĩ trên làn sóng điện Đài Tiếng nói Việt Nam liên tục những lời nặng tiếng nhẹ bác bỏ, kể cả giễu cợt, nhưng bài "Tiếng gọi thanh niên" của ông vẫn bị đối phương sử dụng trái phép. Năm 1965, nhạc sĩ Lưu Hữu Phước trở lại chiến trường miền Nam, cùng năm đó ông viết ca khúc Giải phóng miền Nam. Rồi sự kiện Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được thành lập, thủ đô đóng ở Lộc Ninh (tỉnh Bình Long trước 1975, hiện nay thuộc tỉnh Bình Phước), ca khúc Giải phóng miền Nam đã được sử dụng là Quốc ca chính thức của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng miền Nam Việt Nam.
Từ sau chiến tranh
Sau năm 1975, bản gốc của bài hát được chính thức lưu hành tại nước Việt Nam dưới tên "Tiếng gọi thanh niên" hay "Thanh niên hành khúc".
Những người Việt hải ngoại chống cộng vẫn tiếp tục sử dụng bất hợp pháp bản sửa đổi và gọi nó là "Quốc ca nước Việt Nam Tự do".
Lời bài hát
La Marche des Étudiants – Sinh viên Hành khúc (1939)
(TIếng Pháp)
Étudiants ! Du sol l'appel tenace
Pressant et fort, retentit dans l'espace.
Des côtes d'Annam aux ruines d'Angkor,
À travers les monts, du sud jusqu'au nord,
Une voix monte ravie:
Servir la chère Patrie !
Toujours sans reproche et sans peur
Pour rendre l'avenir meilleur.
La joie, la ferveur, la jeunesse
Sont pleines de fermes promesses.
Điệp khúc.
Te servir, chère Indochine,
Avec cœur et discipline,
C'est notre but, c'est notre loi
Et rien n'ébranle notre foi!
Tiếng Gọi Thanh Niên (1941)
Lời 1.
Này anh em ơi! Tiến lên đến ngày giải phóng.
Đồng lòng cùng nhau ra đi sá gì thân sống.
Cùng nhau ta tuốt gươm, cùng nhau ta đứng lên.
Thù kia chưa trả xong thì ta luôn cố bền.
Lầm than bao năm ta đau khổ biết mấy.
Vàng đá gấm vóc, loài muông thú cướp lấy.
Loài nó chúng lấy máu đào chúng ta.
Làm ta gian nan, cửa nhà tan rã.
Bầu máu, nhắc tới nó, càng thêm nóng sôi.
Ta quyết thề phá tan quân dã man rồi.
Điệp khúc
Vung gươm lên, ta quyết đi tới cùng!
Vung gươm lên, ta thề đem hết lòng.
Tiến lên đồng tiến, sá chi đời sống.
Chớ quên rằng ta là giống Lạc Hồng!
Lời 2.
Này sinh viên ơi! Đứng lên đáp lời sông núi.
Đồng lòng cùng đi đi đi mở đường khai lối.
Kìa non sông nước xưa, truyền muôn năm chớ quên.
Nào anh em Bắc Nam cùng nhau ta kết đoàn.
Hồn thanh xuân như gương trong sáng.
Đừng tiếc máu nóng, tài xin ráng.
Thời khó, thế khó, khó làm yếu ta.
Dù muôn chông gai, vững lòng chi sá.
Đường mới, kíp phóng mắt, nhìn xa bốn phương.
Tung cánh hồn thiếu niên, ai đó can trường.
Điệp khúc
Sinh viên ơi, mau tiến lên dưới cờ.
Anh em ơi, quật cường nay đến giờ.
Tiến lên cùng tiến, gió tung nguồn sống.
Cháy trong lòng ta ngàn mớ lửa hồng.
Lời 3.
Này thanh niên ơi! Tiến lên đến ngày giải phóng.
Đồng lòng cùng đi đi đi sá gì thân sống.
Nhìn non sông nát tan, thù nung tâm chí cao.
Nhìn muôn dân khóc than, hờn sôi trong máu đào.
Liều thân xông pha, ta tranh đấu.
Cờ nghĩa phấp phới, vàng pha máu.
Cùng tiến, quét hết những loài dã man.
Hầu đem quê hương thoát vòng u ám.
Thề quyết, lấy máu nóng mà rửa oán chung.
Muôn thuở vì núi sông nêu tiếng anh hùng.
Điệp khúc
Anh em ơi, mau tiến lên dưới cờ.
Sinh viên ơi, quật cường nay đến giờ.
Tiến lên cùng tiến, gió tung nguồn sống.
Cháy trong lòng ta ngàn mớ lửa hồng.
Tiếng Gọi Công Dân (1956)
Này công dân ơi, đứng lên đáp lời sông núi,
Đồng lòng cùng đi, hy sinh tiếc gì thân sống.
Vì tương lai quốc dân, cùng xông pha khói tên,
Làm sao cho núi sông từ nay luôn vững bền.
Dù cho thây phơi trên gươm giáo,
Thù nước lấy máu đào đem báo.
Nòi giống lúc biến phải cần giải nguy,
Người công dân luôn vững bền tâm trí.
Hùng tráng quyết chiến đấu làm cho khắp nơi,
Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời.
Điệp khúc
Công dân ơi! Mau hiến thân dưới cờ!
Công dân ơi! Mau làm cho cõi bờ
Thoát cơn tàn phá, vẻ vang nòi giống,
Xứng danh nghìn năm nòi giống Lạc Hồng!
Tham khảo
Liên kết ngoài
Bản nhạc bài "Tiếng gọi thanh niên"
Nghe bài "Tiếng gọi thanh niên"
Lưu Hữu Phước
Nhạc Lưu Hữu Phước
Việt Nam Cộng hòa
Chiến tranh Việt Nam
Bài hát nhạc tiền chiến
Quốc ca Việt Nam
Biểu tượng của Việt Nam
Bài hát tiếng Việt
Quốc ca
Bài ca châu Á
|
22289
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20ph%C3%B3ng%20mi%E1%BB%81n%20Nam%20%28b%C3%A0i%20h%C3%A1t%29
|
Giải phóng miền Nam (bài hát)
|
"Giải phóng miền Nam" được sáng tác vào năm 1961 bởi nhạc sĩ Lưu Hữu Phước (có bút hiệu khác là Huỳnh Minh Siêng), là bài hát chính thức của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (1961–1976), và đồng thời là quốc ca của Nhà nước Cộng hòa miền Nam Việt Nam trên toàn bộ miền Nam Việt Nam (1975–1976).
Lịch sử
Sự hình thành của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời vào năm 1960 đặt ra nhu cầu tự nhiên về một bài ca chính thức dành cho Mặt trận. Vì vậy Hội Văn nghệ Giải phóng miền Nam Việt Nam ba nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, Mai Văn Bộ, Huỳnh Văn Tiểng sáng tác tập thể một bài hát làm bài ca chính thức của Mặt trận. Mai Văn Bộ và Huỳnh Văn Tiểng đã phác thảo xong ca từ của bài hát trong vòng một tuần, còn Lưu Hữu Phước được phân công viết phần nhạc. Bộ ba Huỳnh – Mai – Lưu trong vòng một tuần đã hoàn tất xong ca khúc Giải phóng miền Nam.
Khi nghe cả ba nhạc sĩ hát bài Giải phóng miền Nam lần đầu để được phê duyệt, ông Phạm Hùng, khi đó là cán bộ cấp cao của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã đứng lên nói to: "Được rồi, hay lắm! Vùng lên nhân dân miền Nam anh hùng! Vùng lên! Xông pha vượt qua bão bùng! Vận nước đã đến rồi... Hay hết sức! Hoan nghênh và cảm ơn các đồng chí".
Sau đó bài Giải phóng miền Nam được mang tên chung của 3 người là Huỳnh Minh Siêng. Theo lời kể của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước thì ban đầu để tên ghép là Huỳnh Minh Liêng (từ chữ cái đầu trong họ của 3 ông). Chữ Liêng được cố tình viết sai chính tả là L-i-ê-n-g (các từ liền với nhau bằng gạch nối) để mang tính dân gian và tránh trùng tên của nhân sĩ Đặng Thúc Liêng. Nhưng khi đưa lên báo Nhân dân thì do tam sao thất bản (chữ L viết tay hoa bị nhầm thành S), nên đã in thành Siêng. Thực chất, để bí mật, nhóm bộ ba này đã đặt tên tác giả là: "Huỳnh Minh Liêng"; nhưng do sắp chữ khi in, người sắp chữ đã nhầm chữ L thành chữ S, và về sau thì nhóm bộ ba này, chủ yếu là Lưu Hữu Phước, cũng không muốn sửa nữa vì từ Siêng cũng có cái hay của nó là siêng năng. Huỳnh Minh Siêng – tác giả bài hát Giải phóng miền Nam được đặt tên tác giả là vậy.
Từ đây, bài hát nhanh chóng được phổ biến rộng rãi qua sóng phát thanh của Đài Phát thanh Giải phóng miền Nam và các đoàn văn công quân Giải phóng.
Lời bài hát
Giải phóng miền Nam chúng ta cùng quyết tiến bước
Diệt đế quốc Mỹ phá tan bè lũ bán nước
Ôi xương tan máu rơi lòng hận thù ngất trời
Sông núi bao nhiêu năm cắt rời
Đây Cửu Long hùng tráng
Đây Trường Sơn vinh quang
Thúc giục đoàn ta xung phong đi giết quân thù
Vai sát vai chung một bóng cờ
Vùng lên nhân dân miền Nam anh hùng
Vùng lên xông pha vượt qua bão bùng
Thề cứu lấy nước nhà
Thề hy sinh đến cùng
Cầm gươm ôm súng xông tới
Vận nước đã đến rồi
Bình minh chiếu khắp nơi
Nguyện xây non nước sáng tươi muôn đời
Giải phóng miền Nam chúng ta cùng quyết tiến bước
Diệt đế quốc Mỹ phá tan bè lũ bán nước
Ôi xương tan máu rơi lòng hận thù ngất trời
Sông núi bao nhiêu năm cắt rời
Đây Cửu Long hùng tráng
Đây Trường Sơn vinh quang
Thúc giục đoàn ta xung phong đi giết thù
Vai sát vai chung một bóng cờ
Vùng lên nhân dân miền Nam anh hùng
Vùng lên xông pha vượt qua bão bùng
Thề cứu lấy nước nhà
Thề hy sinh đến cùng
Cầm gươm ôm súng xông tới
Vận nước đã đến rồi
Bình minh chiếu khắp nơi
Nguyện xây non nước sáng tươi muôn đời
Vận nước đã đến rồi
Bình minh chiếu khắp nơi
Nguyện xây non nước-
Giải phóng miền Nam!
---Hết---Lưu ý: Đây là lời hát trong mẫu âm thanh.
Xem thêm
Quốc ca Việt Nam
Thanh niên hành khúc
Tiến quân ca
Tham khảo
Liên kết ngoài
Bài hát "Giải phóng miền Nam" ra đời trong hoàn cảnh nào?
Nhạc Lưu Hữu Phước
Bài hát nhạc đỏ
Bài hát về chiến tranh Việt Nam
Quốc ca Việt Nam
|
22295
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sa%20th%E1%BA%A1ch
|
Sa thạch
|
Sa thạch hay cát kết là đá trầm tích vụn cơ học với thành phần gồm các hạt cát chủ yếu là felspat và thạch anh được gắn kết bởi xi măng silic, calci, oxit sắt... Tuỳ theo từng loại xi măng mà sa thạch có màu sáng, xám, lục đỏ. sa thạch là loại đá nằm giữa đá vôi và đá bùn.Do sa thạch thông thường tạo ra các vách đá dễ nhận thấy và các hình khối tự nhiên bằng đá khác nên màu sắc của đá cát có thể coi giống hệt như là màu sắc của khu vực đó. Vì các phân tử của sa thạch có sắc tố phụ bị biến dạng theo màu sắc của khu vực. Ví dụ, phần lớn khu vực miền tây Bắc Mỹ được biết đến là có màu đỏ do đá cát màu đỏ ở đây.
Sa thạch thông thường tương đối mềm và dễ gia công, vì thế chúng là loại vật liệu xây dựng và vật liệu lát đường phổ biến. Do độ cứng của các hạt riêng rẽ và tính đồng nhất của kích thước hạt, cũng như bản chất dễ vụn của đá cát nên nó là khoáng chất được ưa chuộng để sản xuất đá mài (làm sắc lưỡi dao và các dụng cụ khác).
Các hình khối tự nhiên bằng đá mà chủ yếu chứa sa thạch thông thường cho nước thấm qua và là đủ xốp để lưu trữ một lượng lớn nước, điều này làm cho chúng trở thành lớp ngậm nước quan trọng. Các lớp ngậm nước hạt mịn, chẳng hạn như đá cát, là thích hợp để lọc bỏ các chất gây ô nhiễm từ bề mặt hơn nhiều so với các loại đá có các vết nứt và các kẽ hở như đá vôi hay các loại đá khác bị nứt nẻ do các hoạt động địa chấn.
Nguồn gốc
Sa thạch là đá trầm tích mảnh vụn khác với các loại đá hữu cơ, như đá phấn hay than. Chúng được tạo thành từ các hạt bị gắn kết mà các hạt này lại có thể là các mảnh vỡ của đá đã tồn tại trước đó hoặc là đơn tinh thể của các khoáng vật. Các chất kết dính hay còn gọi là xi măng gắn kết có tác dụng gắn các hạt này với nhau chủ yếu là calcit, các khoáng vật sét và các khoáng vật silica. Kích thước các hạt cát trong đá cát nằm trong khoảng 0,1 mm tới 2 mm. Các loại đá với kích thước hạt nhỏ hơn, bao gồm bột kết và sét kết. Các loại đá có kích thước hạt lớn hơn, bao gồm đá dăm kết và sỏi kết và được gọi chung là cuội kết.
Sa thạch được hình thành qua hai giai đoạn. Đầu tiên là quá trình lắng đọng các hạt cát thành các lớp trầm tích. Các trầm tích cát này có thể được lắng đọng trong các môi trường như sông, hồ, biển hay không khí. Sau khi lắng đọng, các hạt cát bị nén ép bởi các lớp đất nằm bên trên và được liên kết với nhau bởi các vật liệu khác (xi măng) lắng đọng cùng lúc với chúng. Các loại xi măng phổ biến nhất là silica và cacbonat calci vì chúng được tạo ra từ sự hòa tan hoặc thay thế của cát khi chúng bị chôn vùi. Sa thạch nằm ở trong vỏ Trái Đất khoảng giữa lớp Đá Bùn & Đá Vôi.
Môi trường trầm tích sẽ quyết định các đặc trưng của đá cát được tạo ra như kích thước hạt, độ chọn lọc, thành phần ở mức độ vi mô (kiến trúc) và cấu tạo của đá ở mức độ vĩ mô như tính phân lớp... Các môi trường chủ yếu của quá trình trầm tích là môi trường lục địa (lục nguyên) và môi trường biển, được chia ra thành các nhóm chủ yếu sau:
Môi trường lục địa
Sông (đê tự nhiên, doi cát)
Nón phóng vật
Băng tích (các trầm tích lắng đọng do băng tan chảy)
Hồ
Sa mạc (cồn cát)
Môi trường biển
Cát bờ biển
Châu thổ
Turbidit
Bãi triều
Đê cát ngầm
Các loại sa thạch
Sa thạch được phân thành một số nhóm chính dựa trên thành phần khoáng vật và cấu trúc như sau:
Sa thạch Acco, có hàm lượng felspat lớn hơn >25%. Độ mài tròn và chọn lọc kém so với sa thạch thạch anh. Các loại đá sa thạch giàu fenspat thường có nguồn gốc từ sự phong hóa cơ học hoặc phong hóa hóa học các đá granit và đá biến chất.
Sa thạch thạch anh, có hàm lượng thạch anh trên >90%, có độ mài tròn và chọn lọc tốt. Cát chỉ toàn thạch anh thường được hình thành trong môi trường xa nguồn cung cấp thạch anh, do thạch anh là một khoáng vật bền nhất. Đôi khi sa thạch thuộc loại này được gọi là sa thạch "dạng quartzit", ví dụ Quartzit Tuscarora của các khu vực thuộc dãy núi An pơ.
Sa thạch lithic được hình thành từ các mảnh vụn của các đá hạt mịn như đá phiến sét, đá núi lửa và đá biến chất hạt mịn.
Đá xám greywacke, là gồm các mảnh vụn đá, thạch anh và fenspat góc cạnh. Các hạt này thường được bao bọc bên ngoài bởi cấu trúc hạt mịn giống sét phong hóa từ đá phiến sét và một số đá núi lửa
Sa thạch Aeolian là loại đá thường được hình thành từ trầm tích gió trong môi trường sa mạc.
Đá dholpur màu be, rajpura màu hồng, marson màu đồng và khatu màu gỗ tếch là một số loại đá cát.
Xem thêm
Sa thạch đỏ cổ
Đá bagat
Địa chất học
Danh sách khoáng vật
Danh sách các loại đá
Bồn trũng trầm tích
Tham khảo
Liên kết ngoài
Thạch luận
Đá trầm tích
Cát
Đá xây dựng
|
22301
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20t%C3%ADch%20ph%C3%A2n%20v%E1%BB%9Bi%20h%C3%A0m%20m%C5%A9
|
Danh sách tích phân với hàm mũ
|
Dưới đây là danh sách các tích phân với hàm mũ.
với
Xem thêm
Danh sách tích phân
Tham khảo
Liên kết ngoài
Tính biểu thức tích phân
Hàm mũ
Tích phân với hàm mũ
|
22302
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20t%C3%ADch%20ph%C3%A2n%20v%E1%BB%9Bi%20h%C3%A0m%20l%C6%B0%E1%BB%A3ng%20gi%C3%A1c%20ng%C6%B0%E1%BB%A3c
|
Danh sách tích phân với hàm lượng giác ngược
|
Dưới đây là danh sách các tích phân với hàm lượng giác ngược.
Xem thêm
Danh sách tích phân
Tham khảo
Liên kết ngoài
Tính biểu thức tích phân
Hàm lượng giác ngược
Tích phân với hàm lượng giác ngược
|
22303
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20t%C3%ADch%20ph%C3%A2n%20v%E1%BB%9Bi%20h%C3%A0m%20hyperbolic%20ng%C6%B0%E1%BB%A3c
|
Danh sách tích phân với hàm hyperbolic ngược
|
Dưới đây là danh sách các tích phân với hàm hyperbolic ngược.
hay
hay
hay
hay
hay
hay
hay
Xem thêm
Danh sách tích phân
Tham khảo
Liên kết ngoài
Tính biểu thức tích phân
Hàm hypebolic ngược
Tích phân với hàm hypebolic ngược
|
22311
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BA%ABu%20di%E1%BB%87n%20%C4%91%E1%BA%A5t
|
Phẫu diện đất
|
Phẫu diện đất là bề mặt cắt thẳng đứng từ trên mặt đất xuống đến tầng đá mẹ. Tùy từng điều kiện sinh hóa và các tác nhân bên ngoài mà phẫu diện đất có thể có đủ hoặc không đầy đủ các lớp đất, tầng đất. Phẫu diện lý tưởng có đầy đủ các tầng đất: A0, A1, A2, A3, B1, B2, B3, C, D (theo chiều thẳng đứng từ trên xuống).
Tầng A0
Tầng thảm mục ký hiệu A0, là tầng bề mặt trên cùng của phẫu diện đất. Tầng này chứa các cành khô, lá mục chưa phân giải hoặc đã phân giải trên bề mặt. Tầng này chỉ có ở đất dưới tán rừng, đặc biệt là nơi nào có sự trả lại chất hữu cơ cho đất mạnh, kết hợp với điều kiện phân giải chất hữu cơ không thuận lợi. Người ta còn có thể phân nhỏ tầng đất này thành các lớp, tùy thuộc hiện trạng phân hủy của vi sinh vật.
Lớp A0'
Lớp chứa những vật thể hữu cơ rơi rụng vẫn còn nguyên hình dạng ban đầu.
Lớp A0' '
Lớp chứa những vật thể hữu cơ đã bán phân hủy, đã mềm nhũn, màu sắc biến đổi gần như là màu nâu và có các sợi nấm chằng chịt, những sợi nấm này có thể bó những vật thể hữu cơ thành từng bánh, từng tấm khi lật nó lên, thường thì lớp này có mùi hắc hắc như mùi kháng sinh.
Lớp A0' ' '
Là lớp chưa các vật thể hầu hết đã phân giải, hầu như không còn hình dáng ban đầu, màu nâu, độ ẩm lớn, độ chua cao, người ta có thể gọi đây là lớp mùn khô.
Tầng A1
Là tầng hình thành mùn, có màu đen, cường độ màu phụ thuộc nhiều vào hàm lượng mùn có trong đất. Tầng đất A1 thường là tơi xốp, có kết cấu viên hạt, chứa nhiều chất dinh dưỡng khoáng, nhiều vi sinh vật. Những nơi xuất hiện tầng đất A1 thì đất phì nhiêu phong phú, thường là đất dưới tán rừng, đồng cỏ, nơi hàm lượng chất hữu cơ trả lại cho đất khá phong phú.
Tầng A2
Tầng A2 là tầng đất rửa trôi, do vậy tầng này thường có màu hơn so với tấng đất A1 và A3. Tầng đất này nghèo dinh dưỡng, đất chua, chứa chủ yếu là cát thứ sinh (thạch anh thứ sinh) hạt nhỏ mịn. Nghèo vi sinh vật, mùn, dinh dưỡng. Tầng này thường thấy ở đặc trưng của đất potzon.
Tầng A3
Tầng đất chuyển tiếp từ A xuống B, vừa mang tính chất của tấng đất A vừa mang tính chất của tầng đất B, tuy nhiên nó mang tính chất của tầng đất A nhiều hơn, đôi khi người ta còn ký hiệu nó là tầng AB.
Tầng B1
Là tầng đất chuyển tiếp từ các tầng đất A xuống các tầng đất B, nhưng mang tính chất tầng đất B nhiều hơn, người ta cũng có thể sử dụng ký hiệu BA để chỉ tầng đất này.
Tầng B2
Là tầng tích tụ điển hình, chứa một số chất bị rửa trôi từ các tầng đất phía trên xuống.
Tầng B3
Tầng B3 là tầng đất chuyển tiếp từ B sang C, nó vừa mang tính chất của tầng đất B2 vừa mang tính chất của tầng C. Người ta còn ký hiệu nó là tầng BC.
Tầng C
Tầng mẫu chất khí hiệu là C, tầng C là sản phẩm phong hóa từ đá, nó đã bị tơi xốp, đã có khả năng chứa khí, chứa nước nhưng độ phì chưa hoàn thiện. Thông thường nó vẫn còn giữ nguyên vết nứt của đá, nhưng dùng cuốc xẻng cũng có thể cạo được.
Tầng D
Tầng D, đôi khi được ký hiệu là R, là tầng đá mẹ, đá nền. Tầng này được xét vào phẫu diện đất tuy nhiên lại không phải là tầng đất, nó được quan tâm chủ yếu bởi các ngành xây dựng, giao thông, thủy lợi, mỏ địa chất.
Trên phẫu diện đất, người ta phân tầng chủ yếu dựa vào các đặc điểm riêng của các tầng cũng như các chỉ tiêu cụ thể: màu, kết cấu, thành phần cơ giới, độ chặt, tỷ lệ đá lẫn, kết von, rễ cây, chất mới sinh có nguồn gốc động vật.
Tham khảo
McDonald, R. C. et al. 1990. Australian Soil and Land Survey Field Handbook, 2nd Ed. Melbourne: Inkata Press.
Soil-Net section on soil horizons.
see
Đất
|
22313
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%A1%20l%E1%BB%ADa%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
Đá lửa (định hướng)
|
Đá lửa trong tiếng Việt có nhiều nghĩa. Nó có thể là:
Đá lửa trong bật lửa: Trong đời sống thông thường ngày nay, khi nói tới đá lửa thì người ta hiểu theo nghĩa nó là loại vật liệu để tạo ra tia lửa trong các bật lửa. Về bản chất, đó là hỗn hợp của các kim loại đất hiếm (15 nguyên tố trong nhóm Lanthan, như xeri (cerium) chẳng hạn với oxide sắt (20%) và oxide magiê (2%) hay xeri với sắt (loại ferrocerium = 70% xeri + 30% sắt). Chúng có nhiệt độ đánh lửa thấp (150-180 °C) và bị hao mòn đi do bị cắt thành miếng nhỏ trong quá trình đánh tia lửa nhờ ma sát.
Đá lửa (trầm tích): Một loại đá trầm tích gốc silica có cấu trúc tinh thể kín và độ cứng, độ sắc cao. Trong lịch sử nhân loại, vào thời tiền sử người ta phát hiện và dùng Đá lửa làm dụng cụ cọ xát vào vật liệu khác để sinh ra lửa, cũng như dùng mảnh cắt có cạnh sắc làm lưỡi rìu.
Đá lửa tên gọi sai của đá magma: Trong địa chất học, đá magma là đá được tạo thành khi magma nóng chảy bị nguội đi và rắn lại, có hoặc không có quá trình kết tinh. Nó có thể được tạo thành dưới bề mặt đất như là các loại đá xâm nhập (plutonit, đá sâu) hoặc phun lên bề mặt như là đá núi lửa (đá phun trào). Trước đây một số văn liệu tiếng Việt gọi nó là Đá lửa.
|
22314
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Magnesi%20oxide
|
Magnesi oxide
|
Magnesi oxide (công thức hóa học MgO) là một oxide của magnesi, còn gọi là Mag Frit. Nó có khối lượng mol 40,3 gam/mol, hệ số giãn nở nhiệt 0,026, nhiệt độ nóng chảy 2852 độ C.
MgO, cùng với SrO, BaO và CaO, BeO tạo thành nhóm oxide kiềm thổ. Chất này có thể lấy từ nguồn: talc, dolomit, magnesi cacbonat. Magnesi hydroxide được tạo thành khi cho MgO phản ứng với nước đun sôi (MgO không tan và không tác dụng với nước ở nhiệt độ thường) (H2O).
MgO + H2O = Mg(OH)2
Tuy nhiên, phản ứng này cũng xảy ra theo chiều ngược khi magnesi hydroxide bị nung nóng, nước sẽ bị tách ra và tạo thành MgO.
MgO và zirconi oxide là hai oxide có nhiệt độ nóng chảy cao nhất. Tuy nhiên, MgO dễ dàng tạo pha eutectic với các oxide khác và khi đó nó nóng chảy ở nhiệt độ rất thấp.
Ứng dụng
Magnesi oxide được sử dụng như là vật liệu chịu lửa trong các lò sản xuất sắt và thép, các kim loại màu, thủy tinh hay xi măng. Magnesi oxide và các hợp chất khác cũng được sử dụng trong nông nghiệp, công nghiệp hóa chất và xây dựng. Nó được sử dụng để tạo các hợp kim nhôm - magnesi dùng trong sản xuất vỏ đồ hộp, cũng như trong các thành phần cấu trúc của ô tô và máy móc. Magnesi oxide còn được sử dụng trong kỹ thuật chế tạo pháo hoa do tạo ra các tia rất sáng và lập lòe, magnesi là một ví dụ, hoàn toàn trái ngược với các kim loại khác nó cháy ngay cả khi nó không ở dang bột.
Trong vật liệu gốm
Magnesi oxide được dùng trong vật liệu gốm nhờ hai đặc tính quan trọng là độ giãn nở nhiệt thấp và khả năng chống rạn men. Trong men nung nhiệt độ cao, chất này là một chất trợ chảy (bắt đầu hoạt động từ 1170 độ C) tạo ra men chảy lỏng có độ sệt cao, sức căng bề mặt lớn, đục và sần. Cũng như CaO, tác động làm chảy men của nó gia tăng rất nhanh khi nhiệt độ càng cao.
MgO không nên dùng cho men có màu sáng. Nó cũng có thể tác hại đến một số chất tạo màu phía dưới. MgO dùng làm chất điều chỉnh bề mặt – tạo mặt men matte.
Liên kết ngoài
Ghi chú
Hợp chất magnesi
Magnesi
Vật liệu gốm
Khoáng vật magnesi
Vật liệu quang học
Oxide base
|
22319
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%A1%20l%E1%BB%ADa%20%28tr%E1%BA%A7m%20t%C3%ADch%29
|
Đá lửa (trầm tích)
|
Bài này nói về đá lửa mà loài người đã dùng trong quá khứ để tạo lửa. Các nghĩa khác xem bài Đá lửa (định hướng).
Đá lửa là đá trầm tích giàu silica có cấu trúc tinh thể kín nhỏ và biểu hiện ngoài giống thủy tinh và là một dạng của thạch anh. Đá lửa thông thường có màu xám sẫm, xanh lam, đen hay nâu sẫm. Nó được tìm thấy chủ yếu dưới dạng các cục hay khối trong đá phấn hay đá vôi.
Là một dạng đá phiến silíc, vật liệu này là một trong những vật liệu được sử dụng phổ biến nhất để sản xuất các công cụ bằng đá trong thời kỳ đồ đá, do chúng có thể chia ra thành các mảnh mỏng và sắc để có thể làm ra các công cụ giống như dao hay rựa bằng đá (phụ thuộc vào hình dáng) khi chúng bị ghè đập bởi các vật thể cứng khác (chẳng hạn rìu đá được làm từ vật liệu khác). Nó cũng là nguồn khoáng chất chủ yếu để tạo ra lửa kể từ khi con người biết cách tạo ra lửa và còn được sử dụng đối với các loại súng hỏa mai cho đến tận thế kỷ 18. Ngoài ra, nó còn được sử dụng rộng rãi từ thế kỷ 13 cho đến tận ngày nay như là vật liệu để xây dựng các bức tường đá, đặc biệt là tại Anh.
Tại châu Âu, một số đá lửa để chế tạo công cụ tốt nhất có ở Bỉ (Obourg, các mỏ đá lửa ở Spiennes), đá phấn ven bờ eo biển La Manche, lòng chảo Paris, các trầm tích kỷ Sennon? ở Rügen và các trầm tích kỷ Juras của khu vực Kraków ở Ba Lan. Các mỏ đá lửa đã được các nhà khảo cổ học xác nhận là đã khai thác từ thời kỳ đồ đá cũ, nhưng chỉ trở nên phổ biến kể từ thời kỳ đồ đá mới (văn hóa Michelsberg, văn hóa Funnelbeaker).
Xem thêm
Canxedon
Đá phiến silíc
Đá vỏ chai (Opxiđian)
Danh sách khoáng vật
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hiệp hội người sưu tập công cụ cổ đại.
Tham khảo chung về thạch anh và silica.
Flintsource.net Công cụ cổ đại châu Âu - các khu vực chi tiết
Đá trầm tích
Đá
Đá xây dựng
Chert
Công cụ đá
Tạo lửa
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.