id
stringlengths 1
8
| url
stringlengths 31
389
| title
stringlengths 1
250
| text
stringlengths 5
274k
|
---|---|---|---|
22331
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bi%E1%BB%83u%20%C4%91%E1%BB%93%20Hertzsprung-Russell
|
Biểu đồ Hertzsprung-Russell
|
Trong thiên văn học sao, biểu đồ Hertzsprung-Russell (thường được viết tắt là biểu đồ H-R) là biểu đồ thể hiện các sao thành các điểm trên 2 tọa độ, trong đó trục tung thường là độ sáng tuyệt đối hay độ trưng và trục hoành thường là chỉ số màu hay nhiệt độ bề mặt. Biểu đồ này cho phép phân loại sao và theo dõi sự tiến hóa của sao. Biểu đồ này được vẽ lần đầu, khoảng năm 1910, bởi Ejnar Hertzsprung và Henry Norris Russell.
Có hai dạng thể hiện biểu đồ này, dạng dành cho người quan sát, và dạng kia dành cho các nhà lý thuyết. Các nhà quan sát vẽ biểu đồ này với các sao là các điểm có hai tọa độ chỉ số màu và độ sáng tuyệt đối. Các tọa độ này có thể được suy ra trực tiếp từ quan sát. Các nhà lý thuyết thể hiện các sao trên biểu đồ là các điểm ứng với tọa độ nhiệt độ và độ trưng. Các giá trị này phải tính toán dựa vào các mô hình vật lý về các ngôi sao. Các mô hình thường khá phức tạp, phụ thuộc vào tuổi của sao và thành phần hóa học của sao. Tham khảo Sekiguchi and Fukugita, cho một ví dụ để chuyển chỉ số màu B-V sang nhiệt độ.
Với biểu đồ H-R, các nhà thiên văn học có thể thấy rõ sự phân loại ở sao, và so sánh lý thuyết về sự tiến hóa của sao với những gì quan sát được.
Đa số các sao, trong đó có Mặt Trời nằm ở dải trung tâm trong biểu đồ, vắt chéo từ phía trên bên trái (nóng và sáng) xuống phía dưới bên phải (lạnh và tối), gọi là dãy chính. Ngoài dãy chính, bên trái phía dưới là các sao lùn trắng,
phía trên là các sao đỏ khổng lồ và sao siêu khổng lồ. Mặt Trời
nằm trong dãy chính với độ trưng 1 (độ sáng tuyệt đối khoảng 5), và nhiệt độ 5400K, thuộc phân loại sao G2.
Xem thêm
Phân loại sao
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sekiguchi and Fukugita, AJ 120, 1072 (2000)
Tiến hóa sao
Thuật ngữ thiên văn học
Sơ đồ
|
22337
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Zin%C3%A9dine%20Zidane
|
Zinédine Zidane
|
Zinedine Yazid Zidane (sinh ngày 23 tháng 6 năm 1972), được biết đến phổ biến với biệt danh là Zizou, là huấn luyện viên bóng đá và cựu cầu thủ người Pháp thi đấu ở vị trí tiền vệ tấn công.
Zidane từng cùng Đội tuyển bóng đá quốc gia Pháp lên ngôi vô địch FIFA World Cup lần đầu tiên năm 1998 và ngôi vô địch UEFA Euro năm 2000. Ở cấp CLB, ông tỏa sáng trong màu áo của Juventus và Real Madrid, giúp 2 câu lạc bộ này giành nhiều danh hiệu ở châu Âu cũng như quốc gia. Với phong cách hào hoa, nhãn quan chiến thuật và kỹ thuật cá nhân điêu luyện, ông được đông đảo các cổ động viên và chuyên gia bóng đá coi như một trong những cầu thủ xuất sắc nhất của mọi thời đại. Cùng với Ronaldo de Lima, Zidane từng là cầu thủ lập kỉ lục về số lần được trao giải Quả bóng vàng thế giới của FIFA với 3 lần vào các năm 1998, 2000 và 2003. Ông cũng là chủ nhân của danh hiệu Quả Bóng Vàng năm 1998. Năm 2001, Zidane chuyển đến Real Madrid với mức phí chuyển nhượng lập kỉ lục thế giới lên đến 76 triệu euro.
Vào tháng 7 năm 2006, Zidane chính thức giã từ sự nghiệp cầu thủ với danh hiệu Quả bóng vàng World Cup 2006, sau khi cùng đội tuyển Pháp đoạt danh hiệu Á quân. Ông là một trong 4 cầu thủ ghi bàn trong 2 trận chung kết World Cup, cũng là một trong số 4 cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất trong các trận chung kết World Cup với 3 bàn thắng. Ngoài ra Zidane còn để lại hình ảnh rất ấn tượng sau khi nhận thẻ đỏ trong trận chung kết vì húc đầu vào hậu vệ Marco Materazzi của đội tuyển Ý.
Zidane giành được nhiều danh hiệu cao quý dành cho tập thể (gồm World Cup, Euro, Champions League, giải Vô địch quốc gia) lẫn cá nhân (Quả bóng vàng thế giới, Quả bóng vàng châu Âu, Quả bóng vàng World Cup, Cầu thủ xuất sắc nhất Euro, Cầu thủ xuất sắc nhất châu Âu cấp câu lạc bộ, Cầu thủ xuất sắc nhất quốc gia (tại cả Pháp, Italia và Tây Ban Nha)).
Ông được lựa chọn trong danh sách 100 huyền thoại sống vĩ đại nhất của bóng đá thế giới (FIFA 100) vào năm 2004. Cũng trong năm này, ông được người hâm mộ ở châu Âu bầu chọn là "Cầu thủ xuất sắc nhất châu Âu" trong vòng 50 năm qua thông qua một cuộc bỏ phiếu trên Internet. Năm 2011, khi trang web chính thức của UEFA là Uefa.com tổ chức bầu chọn để trao giải cầu thủ xuất sắc nhất UEFA Champions League trong 20 năm trở lại đây, Zidane đã giành được giải này. Ông nhận được nhiều phiếu bầu nhất từ các nhà báo, các cầu thủ và người hâm mộ, xếp trên Lionel Messi.
Sau khi giã từ sân cỏ, Zidane trở lại câu lạc bộ Real Madrid để làm việc với vai trò là cố vấn cho chủ tịch câu lạc bộ. Ông từng là Giám đốc thể thao của câu lạc bộ này. Năm 2013, Zidane là trợ lý huấn luyện viên của Real Madrid vào góp phần đưa Real Madrid đến chức vô địch Champions League lần thứ 10 trong lịch sử. Năm 2014, Zidane được bổ nhiệm làm huấn luyện viên trưởng của đội trẻ Real Madrid. Ngày 4 tháng 1 năm 2016, Zinedine Zidane đã chính thức trở thành huấn luyện viên trưởng của Real Madrid sau khi Chủ tịch Florentino Perez quyết định sa thải Rafael Benítez và giúp câu lạc bộ này giành được 2 cúp C1 liên tiếp. Năm 2017, Zidane nhận danh hiệu "Huấn luyện viên xuất sắc nhất thế giới" do FIFA trao tặng, trở thành người đầu tiên đoạt giải thưởng cao nhất của FIFA trên cả hai cương vị cầu thủ và huấn luyện viên.
Năm 2018, Zidane trở thành HLV đầu tiên giành 3 chức vô địch UEFA Champions League liên tiếp. Chỉ 5 ngày sau trận chung kết, ông đã chính thức từ chức cương vị HLV. Ngày 12 tháng 3 năm 2019, ông trở lại dẫn dắt đội bóng sau khi Real sa thải huấn luyện viên Santiago Solari. Trong nhiệm kỳ thứ 2 dẫn dắt Real, ông giúp đội bóng giành La Liga 2019–20. Mùa hè năm 2021, Zidane tuyên bố từ chức huấn luyện viên trưởng câu lạc bộ sau hơn 2 năm dẫn dắt, thay thế cho ông là Carlo Ancelotti.
Khởi đầu sự nghiệp tại Cannes
Zidane được sinh ra ở thành phố cảng Marseille của Pháp và là con trai trong một gia đình nhập cư gốc Algérie. Cha và mẹ của ông, Smail và Malika, đã di cư từ làng Aguemone thuộc vùng Kabylie của Algérie năm 1953 đến định cư ở Paris, trước khi chuyển đến Marseille một vài năm sau.
Huấn luyện viên Jean Varraud của đội bóng thành phố Cannes ngay lập tức bị cuốn hút khi thấy cậu bé 14 tuổi chơi bóng. Ông mời Zidane về AS Cannes. Sau 6 tuần thử việc, Zidane được ký hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên trong cuộc đời.
Điều đáng tiếc là Zidane không được thi đấu cho đội bóng quê hương, đồng thời cũng là đội bóng ông ưa thích nhất: Marseille. Kể cả sau khi thành danh rồi, ông vẫn khao khát được một lần được mặc chiếc áo trắng của Marseille.
Zidane ra mắt ở giải hạng Nhất Pháp vào ngày 20 tháng 5 năm 1989 khi AS Cannes tiếp FC Nantes của Didier Deschamps và Marcel Desailly trên sân khách. Lúc đó, Zidane chưa đầy 17 tuổi. Đến ngày 8 tháng 2 năm 1991, ông ghi được bàn thắng đầu tiên và đội bóng "chịu hậu quả" cũng chính là Nantes. Phần thưởng cho bàn thắng đầu tiên là một chiếc ô tô do đích thân chủ tịch đã hứa tặng. Mùa bóng năm đó không thể thành công hơn với đội bóng thành phố biển. Họ được lên chơi ở cúp UEFA.
Tuy nhiên ngay năm sau, Cannes sớm bị loại khỏi cúp UEFA và bị xuống hạng.
Bước đệm ở Bordeaux
Zidane chuyển đến FC Girondins de Bordeaux vào mùa hè năm 1992 khi vừa tròn 20 tuổi. Ông đã ghi 10 bàn thắng trong mùa bóng đầu tiên và 6 bàn trong 3 mỗi mùa bóng kế tiếp và trở thành linh hồn của đội bóng.
Ở đây, với sự kết hợp của bộ tam hoàn hảo gồm Zidane, Bixente Lizarazu và Christophe Dugarry ở ba tuyến, Bordeaux đã đoạt được cup Intertoto để bước vào đấu trường châu Âu bằng "cửa hậu".
Tại giải đấu này, Bordeaux đã gây bất ngờ lớn khi hạ gục A.C. Milan 3-0 sau khi thúc thủ 0-2 ở trận lượt đi nhờ sự toả sáng của Zidane và Dugarry.
Trong trận tứ kết với Real Betis, Zidane sút tung lưới đội bóng Tây Ban Nha này bằng một cú nã đại bác kinh điển từ khoảng cách 40 m. Ở trận bán kết với Slavia Praha, ông trình diện làng bóng đá thế giới cú lừa bóng điệu nghệ theo kiểu xoay người 180 độ (roulettes) và nhiều cầu thủ sau đó đã bắt chước.
Ở trận chung kết lượt đi với Bayern München, Zidane bị treo giò. Đội bóng rượu vang không Zidane đã để thua 0-2 và sau đó để mất chiếc cup UEFA năm 1996 vào tay đối thủ.
Ngay năm 1995, đội đương kim vô địch Premiership Blackburn Rovers F.C. đã có ý định ký hợp đồng với Zidane. Chính huấn luyện viên Kenny Dalglish công khai bày tỏ mong muốn có được Zidane và Dugarry trong đội hình. Tuy nhiên, khi đề nghị mua cầu thủ được đệ trình đến ông chủ của Blackburn là Jack Walker thì ông này đã tuyên bố: "Việc gì phải ký hợp đồng với Zidane khi đội ta đã có... Tim Sherwood?"
Toả sáng tại Juventus
Nhưng các câu lạc bộ của bóng đá châu Âu hiểu rõ giá trị của Zidane. Năm 1996, Zidane chuyển đến Ý cho đội bóng Đương kim vô địch UEFA Champions League Juventus F.C. với phí chuyển nhượng là 3 triệu bảng Anh. Ông đã cùng đội bóng giành Scudetto mùa 1996-97 và cúp Liên lục địa, nhưng lại thất bại trong trận chung kết C1 năm với tỉ số 1-3 trước Borussia Dortmund. Ông đã ghi được 7 bàn trong 32 trận để giúp Juventus giữ lại Scudetto mùa tiếp theo nhưng cũng lần thứ hai liên tiếp thúc thủ trong trận chung kết C1, lần này là trước Real Madrid.
Juventus thi đấu không thành công ở cúp C1 năm 2000 - 2001, còn Zidane thì phải lĩnh chiếc thẻ đỏ khi húc đầu vào Jochen Kientz của Hamburger SV. Chiếc thẻ đỏ này cộng với chiếc thẻ đỏ ở Serie A trước đó khiến Zidane mất khá nhiều điểm trong cuộc bầu chọn Quả bóng Vàng năm đó.
Chinh phục châu Âu với Real Madrid
Năm 2001, Zidane đã gia nhập "dải ngân hà" Real Madrid với 76 triệu euro, khoản phí chuyển nhượng tốn kém nhất trong lịch sử bóng đá trong một hợp đồng bốn năm.
Ông đã ghi được bàn thắng quyết định đem về cho Real chiếc cúp C1 thứ 9 và là chiếc cúp C1 đầu tiên của ông trong chiến thắng 2-1 trước Bayer Leverkusen năm 2002. Mùa tiếp theo, Zidane giúp CLB giành chức vô địch La Liga và ông lần thứ ba được FIFA bầu chọn là Cầu thủ xuất sắc nhất thế giới.
Ở Real lúc đó là cả một dải thiên hà với các sao sáng như Luís Figo, Roberto Carlos, David Beckham, Ronaldo, Raúl González... nhưng nhiều tờ báo cho rằng Zidane là khoảng 50% sức mạnh của Real.
Năm 2004, người hâm mộ bình chọn ông là "Cầu thủ xuất sắc nhất châu Âu" trong vòng 50 năm qua thông qua một cuộc bỏ phiếu trên Internet. Cũng nhân dịp kỉ niệm 100 năm FIFA, ông được bầu chọn trong danh sách 100 cầu thủ tiêu biểu mọi thời đại của làng bóng đá (FIFA 100).
Zidane lập được cú hat-trick đầu tiên ở tuổi 33 trong chiến thắng 4-2 trước Sevilla FC, nhưng mùa bóng cuối cùng của Zidane ở Real đã "trắng tay". Vào ngày 7 tháng 5 năm 2006, Zidane chơi trận cuối cùng cho Kền kền trắng và cũng ghi được bàn thắng cuối cùng ở cấp độ CLB trong trận hoà 3-3 với Villarreal CF. Toàn đội bóng và CĐV đều mặc áo có đề "Zidane 2001-2006" để cảm ơn ông.
Zidane tuyên bố sẽ chính thức giải nghệ sau World Cup 2006.
Linh hồn của đội tuyển Pháp
Zidane có quốc tịch kép của cả Pháp và Algérie, và do đó có đủ điều kiện để chơi cho đội tuyển quốc gia Algérie, nhưng Huấn luyện viên Abdelhamid Kermali bị nhiều người cáo buộc là đã từ chối gọi Zidane vì ông cảm thấy Zidane chơi bóng khá lề mề. Tuy nhiên, trong một cuộc phỏng vấn vào năm 2005, Zidane đã bác bỏ thông tin này. Ông khẳng định mình không chơi cho đội tuyển Algeria vì ông đã chọn đội tuyển Pháp.
Ngày 17 tháng 8 năm 1994, ông lần đầu tiên được gọi vào đội tuyển quốc gia khi 22 tuổi trước đội tuyển Cộng hòa Séc trên chính sân Parc Lescure của Bordeaux. Ông vào sân ở phút 63 khi Pháp đang bị dẫn 0-2. Nhưng có Zidane trên sân, mọi thứ đã thay đổi. Ông ghi một cú đúp vào lưới đối thủ giúp Pháp có một trận hoà 2-2.
Từ đó, Zidane trở thành một cầu thủ không thể thiếu trong chiến lược trẻ hoá đội tuyển Pháp hướng tới World Cup 1998 của Huấn luyện viên Aimé Jacquet. Bất chấp mọi lời chỉ trích, Jacquet đặt tất cả niềm tin vào Zidane và mạnh tay gạt bỏ những ngôi sao thành danh như Eric Cantona, David Ginola...
Euro 1996 là giải đấu quốc tế lớn đầu tiên của ông. Trong vai trò của tiền vệ kiến thiết, Zidane đã đưa đội tuyển Pháp lọt vào bán kết trước khi thất thủ trước CH Czech trên chấm phạt đền. Tuy nhiên, đây là giải đấu mà ông và cả đội tuyển Pháp không để lại nhiều ấn tượng.
Đỉnh cao sự nghiệp của Zidane là chức vô địch thế giới năm 1998 với đội tuyển Pháp trên sân nhà. Tưởng chừng đó là một kỳ World Cup bỏ đi với ông khi ngay trong trận đấu bảng thứ 2, Zidane đã lĩnh thẻ đỏ trực tiếp khi đạp vào chân một hậu vệ của Ả rập Xê út. Thế nhưng, sau khi Pháp chật vật lọt qua vòng 2 bằng chiến thắng ở phút cuối cùng của hiệp phụ trước Paraguay, Zidane đã trở lại và toả sáng rực rỡ. Đỉnh điểm là hai cú đánh đầu thành bàn trong trận chung kết với Brasil giúp Pháp lần đầu đăng quang.
Zidane tiếp tục thăng tiến với đội tuyển Pháp bằng chức vô địch Euro 2000. Pháp trở thành đội đầu tiên giữ cả hai chức vô địch thế giới và châu Âu kể từ khi Đội tuyển bóng đá quốc gia Tây Đức vô địch vào năm 1974. Ông ghi một bàn thắng vào lưới Tây Ban Nha bằng cú sút phạt thần sầu, rồi bàn thắng vàng loại Bồ Đào Nha khỏi bán kết. Zidane được bình chọn là cầu thủ xuất sắc nhất của Euro 2000.
Trước kì World Cup 2002 diễn ra, Pháp thống lĩnh mọi danh hiệu của làng bóng đá. Và ngay cả những người hoài nghi nhất cũng phải thừa nhận họ là ứng cử viên số 1, là vô đối. Nhưng trước khi WC diễn ra đúng một tuần, Zidane dính chấn thương đùi trong trận giao hữu với Hàn Quốc. Vì thế, Zidane phải ngồi ngoài 2 trận đấu đầu tiên. Vắng ông, Pháp như bị mất hết sức mạnh và nhuệ khí và chịu thua 0-1 trước "đàn em" Sénégal rồi hoà không bàn thắng với Uruguay trong một trận cầu mà Thierry Henry phải lĩnh thẻ đỏ.
Dù chưa lành vết thương nhưng Zidane phải nén đau ra chơi trận đấu quyết định với Đan Mạch nhưng ông cũng không thể giúp gì cho đội Pháp đã rệu rã. Pháp kết thúc World Cup 2002 trong sự hổ thẹn khi về nước mà không ghi nổi một bàn thắng.
Ngày 25 tháng 6 năm 2004, sau khi Pháp bị Hy Lạp loại khỏi Euro 2004, Zidane tuyên bố từ giã sự nghiệp bóng đá quốc tế. Tuy nhiên, khi thấy đội Pháp quá chật vật với vòng loại World Cup 2006, theo lời mời của Huấn luyện viên Raymond Domenech, Zidane trở lại đội tuyển và ngay lập tức được trao chiếc băng đội trưởng. Với Zidane trở lại, Pháp thi đấu khởi sắc hẳn lên và lọt vào Vòng chung kết World Cup.
Ngày 27 tháng 5 năm 2006, Zidane đạt được cột mốc 100 lần khoác áo đội tuyển quốc gia trong chiến thắng 1-0 trước México, trở thành người Pháp thứ tư đạt được điều này sau Marcel Desailly, Didier Deschamps và Lilian Thuram.
Sau khi bị phải ngồi ngoài đúng vào dịp sinh nhật lần thứ 34 trong trận cuối cùng của vòng bảng do đã lĩnh đủ 2 thẻ vàng, Zidane đã kiến tạo Patrick Vieira ghi bàn và tự mình ghi bàn "kết liễu" Tây Ban Nha vào phút 91 trong trận đấu vòng 2. Pháp gặp lại Brasil ở tứ kết. Lão tướng 34 tuổi này đã làm lu mờ tất cả dàn sao của Brasil gồm cả Ronaldinho, Ronaldo, Robinho, Kaká... bằng một phong độ đỉnh cao. Từ đường sút phạt của ông, Thierry Henry đã ghi bàn thắng quyết định đem về chiến thắng 1-0. Zidane được bầu chọn là Man of the Match.
Sau khi ghi bàn quyết định giúp Pháp loại Bồ Đào Nha ở bán kết, Zidane lại một lần nữa lập công trong trận chung kết World Cup bằng cú sút phạt penalty hất bóng kì diệu kiểu panenka. Tuy nhiên, ông đã bị truất quyền thi đấu ở phút thứ 110 của hiệp phụ thứ 2 sau khi thực hiện cú thiết đầu công vào ngực của Marco Materazzi do cầu thủ này trước đó đã buông ra những lời lăng mạ, chửi nhục Zidane. Thiếu ông, một lần nữa, Pháp thất thủ, nhưng lần này là trên chấm phạt đền oan nghiệt.
Tuy nhiên, sau đó, Zidane đã được trao giải thưởng "Quả bóng Vàng" World Cup.
Ông và các đồng đội được chào đón ở quê nhà như những người hùng. Chính Tổng thống Jacques Chirac ca ngợi Zidane là một "người đàn ông của nhiệt huyết".
Tuy nhiên, ông vẫn phải chấp nhận hình phạt "lao động công ích" của FIFA trong một số hoạt động từ thiện sau đó, dù ông đã giã từ sự nghiệp thi đấu.
Những bàn thắng đáng nhớ nhất
Zidane lập cú đúp ngay trong lần đầu ra mắt đội tuyển quốc gia trước Cộng hòa Séc trong đó có một cú sút xa từ cự li khoảng 30m năm 1996.
Zidane đã ghi bàn thắng từ một cú vuốt bóng từ khoảng cách 40m (gần nửa sân) trong trận đấu với Betis tại cúp UEFA năm 1996.
Ngày 27 tháng 5 năm 1997, Zidane trở thành người ghi bàn thắng đầu tiên trên sân Stade de France trong trận đấu khánh thành sân với đội tuyển Tây Ban Nha.
Zidane lập cú đúp trong chung kết World Cup 1998 bằng hai cú đánh đầu. Ông cũng ghi bàn trong trận chung kết World Cup 2006. Zidane trở thành cầu thủ thứ tư trong lịch sử World Cup ghi bàn trong 2 trận chung kết World Cup, cùng với Pelé, Paul Breitner, và Vavá. Ông cũng cùng với Vavá, Pelé và Geoff Hurst là những cầu thủ ghi được nhiều bàn thắng nhất trong các trận chung kết World Cup với 3 bàn.
Zidane ghi Bàn thắng vàng để loại Bồ Đào Nha ở Bán kết Euro 2000.
Zidane đã tung một cú vô lê tuyệt đẹp từ khoảng cách 20 m làm tung lưới Bayer Leverkusen trong trận chung kết Champions League mùa 2001-2002. Đây được xem là một trong những siêu phẩm kinh điển nhất của làng bóng đá. Điều đáng nói là Zidane đã thực hiện cú sút bằng chân trái, không phải chân thuận của ông.
Zidane đã lập cú đúp vào lưới của đội tuyển Anh tại vòng chung kết Euro 2004, giúp Pháp lội ngược dòng thắng 2-1 chỉ trong chưa đầy vài phút bù giờ cuối cùng của trận đấu, trong đó có một cú sút phạt hàng rào mẫu mực ở phút 90 và một quả penalty thành công ở phút 93.
Phong cách thi đấu
Nhiều HLV đã ca ngợi kỹ năng và tầm quan trọng của Zidane trong lịch sử bóng đá, chẳng hạn như huấn luyện viên Brazil Carlos Alberto Parreira, người đã gọi Zidane là "một con quái vật" vì màn trình diễn và khả năng của anh ấy. Huấn luyện viên người Đức Franz Beckenbauer tuyên bố, "Zidane là một trong những cầu thủ vĩ đại nhất trong lịch sử, một cầu thủ thực sự vĩ đại." Huấn luyện viên đội tuyển Ý, Marcello Lippi, người cũng từng huấn luyện Zidane, cho biết, "Tôi nghĩ Zidane là tài năng vĩ đại nhất mà chúng tôi từng biết trong bóng đá hai mươi năm qua. " Cựu huấn luyện viên đội tuyển Anh Kevin Keegan nói," Bạn nhìn vào Zidane và nghĩ 'Tôi chưa bao giờ thấy một cầu thủ nào như vậy.' Điều khiến Zidane trở nên khác biệt là cách anh ấy điều khiển bóng đá, mua cho mình không gian không có ở đó. Thêm tầm nhìn của anh ấy và điều đó khiến anh ấy trở nên rất đặc biệt. " Tại World Cup 1998, HLV người Ý Cesare Maldini nói," Tôi sẽ từ bỏ năm cầu thủ để có Zidane trong đội hình của tôi. "
Trong số những người bạn cùng chơi với mình, tiền đạo người Thụy Điển Zlatan Ibrahimović nhận xét: "Zidane đến từ một hành tinh khác. Khi Zidane bước lên sân, mười chàng trai khác đột nhiên trở nên tốt hơn. Chỉ đơn giản vậy thôi. David Beckham đã mô tả Zidane là "vĩ đại nhất mọi thời đại ". Ngôi sao của Barcelona, Xavi đã tuyên bố trong một cuộc phỏng vấn năm 2010 rằng Zidane là" cầu thủ xuất sắc nhất trong những năm 90 và đầu những năm 2000 ", trong khi hậu vệ người Brazil và đồng đội cũ của Madrid, Roberto Carlos đã nói về Zidane, "Anh ấy là cầu thủ xuất sắc nhất mà tôi từng thấy. Những người ủng hộ đã đến sân Bernabéu sớm hơn chỉ để xem anh ấy khởi động." Cầu thủ người Brazil Ronaldinho nói, "Zidane là một trong những cầu thủ xuất sắc nhất mọi thời đại, một trong những thần tượng của tôi. Anh ấy có vẻ ngoài thanh lịch và duyên dáng, một cú chạm bóng tuyệt vời và tầm nhìn tuyệt vời. " Tiền vệ người Bỉ Eden Hazard coi Zidane là" người giỏi nhất từ trước đến nay ", và lớn lên anh ấy học hỏi từ thần tượng của mình bằng cách" xem anh ấy trên truyền hình và trực tuyến trong nhiều giờ. "Thể hiện kỹ năng với một loạt các bước di chuyển như cú đánh bóng La Roulette đặc trưng của anh ấy, vượt qua bước và kiểm soát bóng gần, cựu tuyển thủ Brazil Rivaldo nói, "Sự thanh lịch của anh ấy trong chuyển động trên sân và kỹ năng của anh ấy thật kỳ lạ." Nhà báo Sid Lowe viết. , "Zidane là câu trả lời của bóng đá cho Bolshoi Ballet. Trên hết, Zidane là sự thanh lịch." Năm 2005, khi Zidane trở lại đội tuyển quốc gia Pháp, đồng đội của anh, Thierry Henry, đã nói, "Ở Pháp, mọi người đều nhận ra rằng Chúa tồn tại, và rằng anh ấy đã trở lại đội tuyển quốc tế của Pháp. " Zidane đã được các nhà thể thao bên ngoài bóng đá ca ngợi; Sau khi chứng kiến bàn thắng của Zidane vào lưới Deportivo La Coruña vào tháng 1 năm 2002, nơi anh ấy rê bóng sang phải rồi sang trái, xoay người hậu vệ từ trong ra ngoài, trước khi ghi bàn bằng chân trái, cầu thủ bóng rổ Magic Johnson nói, "Một trong những đêm đầy cảm hứng nhất của tôi cuộc sống. Zidane là một hiện tượng. "
Được ESPN đánh giá là "thiên tài hoàn hảo", Zidane sở hữu một pha chạm bóng xuất sắc đầu tiên, và còn được biết đến với kỹ năng rê bóng, sử dụng đòn bẩy, đi bóng sang trọng và sự sáng tạo. Anh ấy có khả năng sử dụng cả hai chân, mặc dù thuận chân phải một cách tự nhiên. Kỹ thuật và sự phối hợp của anh ấy cho phép anh ấy thực hiện các cú sút và vô lê với sức mạnh và độ chính xác cực cao, đặc biệt là từ bên ngoài vòng cấm; anh cũng là một chuyên gia sút phạt và sút phạt. Một cầu thủ tấn công đẳng cấp thế giới, vị trí tự nhiên của Zidane là một số 10 cổ điển ở phía sau các tiền đạo. Anh ấy cũng có khả năng chơi như một tiền đạo thứ hai, hoặc ở vị trí lùi sâu hơn ở hàng tiền vệ, như một tiền vệ trung tâm hoặc một tiền vệ lùi sâu, nhờ khả năng điều phối các lối chơi tấn công của đội mình từ sâu với tầm nhìn và đường chuyền của anh ấy. Vì vậy, anh ấy có khả năng kiến tạo và ghi bàn, mặc dù không phải là cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất và cũng không phải là người kiến tạo hiệu quả nhất trong suốt sự nghiệp của mình. Mặc dù không được biết đến với khả năng đánh đầu, nhưng chiều cao và sức mạnh thể chất của anh ấy cũng cho phép anh ấy hoạt động hiệu quả, và chứng kiến anh ấy ghi một số cú đánh đầu quan trọng trong suốt sự nghiệp của mình. Anh ấy cũng đã nhận được lời khen ngợi từ các quản lý của mình cho tỷ lệ làm việc phòng thủ của mình. Mặc dù không phải là cầu thủ nhanh nhất, nhưng anh ấy sở hữu sự nhanh nhẹn và tăng tốc tốt, cũng như khả năng giữ thăng bằng và sự tinh tế đặc biệt khi đi bóng. Anh ta cũng có cảm giác vị trí tuyệt vời và nhận thức không gian xuất sắc. Dù có tính cách dè dặt và khiêm tốn, các cựu huấn luyện viên Juventus của ông là Lippi và Ancelotti cũng ca ngợi Zidane là một cầu thủ của đội, người mà các đồng đội của ông có thể dựa vào. Bất chấp những lời khen ngợi mà Zidane nhận được từ các chuyên gia về khả năng chơi bóng của mình, anh ấy cũng bị giới truyền thông chỉ trích về tính khí và kỷ luật của mình, và vì hành vi bạo lực thường xuyên của anh ấy trên sân, dẫn đến những trường hợp bị xử lý kỷ luật đối với anh ấy; Anh ấy cũng bị một số người cáo buộc trong môn thể thao này là trôi dạt trong và ngoài trận đấu, và thiếu tố chất lãnh đạo, mặc dù anh ấy có thể khẳng định mình là một cầu thủ kiên định và quyết đoán, người cũng là một đội trưởng có ảnh hưởng ở cấp độ quốc tế trong suốt sự nghiệp của mình.
Zidane đã ba lần được vinh danh là Cầu thủ xuất sắc nhất năm của FIFA, một thành tích mà chỉ Ronaldo, Lionel Messi và Cristiano Ronaldo mới đạt được. Năm 2002, ESPN mô tả Zidane là "cầu thủ vĩ đại nhất thế giới trong trận đấu lớn nhất thế giới". Trong một cuộc thăm dò của FIFA năm 2002, Zidane được chọn vào Đội hình trong mơ của FIFA World Cup. Năm 2004, anh được UEFA bầu chọn là Cầu thủ châu Âu xuất sắc nhất trong 50 năm qua và có tên trong danh sách FIFA 100 những cầu thủ còn sống vĩ đại nhất thế giới. Trong một cuộc thăm dò năm 2004 do tờ báo Pháp Journal du Dimanche thực hiện, Zidane được bình chọn là "Cầu thủ người Pháp nổi tiếng nhất mọi thời đại". Năm 2014, trong một cuộc thăm dò do kênh truyền hình Pháp TF1 thực hiện, Zidane được bầu chọn là cầu thủ xuất sắc nhất lịch sử giải VĐQG Pháp. Năm 2016, trong một nghiên cứu do tờ Le Parisien của Pháp dẫn lại, Zidane được vinh danh là "cầu thủ Pháp xuất sắc nhất mọi thời đại".
Huấn luyện viên
Sau khi giã từ sân cỏ, Zidane trở lại câu lạc bộ Real Madrid để làm việc với vai trò là cố vấn cho chủ tịch câu lạc bộ. Ông từng là Giám đốc thể thao của câu lạc bộ này. Năm 2013, Zidane là trợ lý huấn luyện viên của Real Madrid vào góp phần đưa Real Madrid đến chức vô địch Champions League lần thứ 10 trong lịch sử. Năm 2014, Zidane được bổ nhiệm làm huấn luyện viên trưởng của đội trẻ Real Madrid.
Ngày 4 tháng 1 năm 2016, Zinedine Zidane đã chính thức trở thành huấn luyện viên trưởng của Real Madrid sau khi Chủ tịch Florentino Pérez quyết định sa thải Rafael Benítez.. Nhưng ở mùa giải đầu tiên tại Santiago Bernabeu, Zidane đã đạt được kết quả vô cùng ấn tượng với 1 chức vô địch UEFA Champions League 2016 sau khi đánh bại đội bóng cùng thành phố Atletico Madrid với tỷ số 5-3 trên chấm luân lưu 11m, sau khi hòa 1-1 sau 120 phút ở San Siro. Đồng thời, Real Madrid cũng đã về nhì ở La Liga.
Năm 2017, Zidane đã bảo vệ thành công chức vô địch UEFA Champions League sau khi Real Madrid đánh bại Juventus với tỉ số 4-1 trong trận chung kết. Đây là một kỷ lục bởi trước đó chưa từng đội nào bảo vệ thành công chức vô địch UEFA Champions League kể từ khi giải đấu này đổi tên năm 1992. Cũng trong mùa giải này, Real Madrid vô địch La Liga.
Năm 2018, ông tiếp tục cùng các học trò bảo vệ chức vô địch Champions League lần thứ 3 liên tiếp sau khi đánh bại Liverpool 3-1 tại trận chung kết. Chỉ 5 ngày sau, ông đã quyết định từ chức trong vinh quang.
Ngày 12 tháng 3 năm 2019, Zidane trở lại dẫn dắt Real Madrid. Năm 2020, ông giúp Real Madrid vô địch La Liga. Ông từ chức HLV trưởng CLB Real Madrid sau mùa giải 2020–2021.
Phong cách huấn luyện
Mặc dù tự khẳng định mình là một trong những huấn luyện viên thành công nhất trong thời đại của mình và trong lịch sử của Real Madrid, Zidane thời gian ở Real Madrid bị một số người coi là bị che lấp bởi một phần may mắn. Tuy nhiên, chiến thuật của Zidane triết học, đặc biệt là sự linh hoạt trong chiến thuật của ông, đã được nhiều người ca ngợi. Phong cách chiến thuật của Zidane, đặc trưng bởi sự linh hoạt trong đội hình và lối đá tấn công, cũng như khả năng đoàn kết phòng thay đồ, được so sánh tích cực với phương pháp huấn luyện của Carlo Ancelotti. Việc sử dụng các quyền thay người trong trận đấu của anh ấy được đặc biệt khen ngợi, vì nhiều người thay thế anh ấy đã dẫn đến chiến thắng, chẳng hạn như giới thiệu Marco Asensio và Lucas Vázquez để cung cấp tốc độ và chiều rộng trước Paris Saint-Germain ở UEFA Champions League để lật ngược tỷ số 1– Thâm hụt 0 thành chiến thắng 3–1. Việc anh giới thiệu Gareth Bale vì những lý do tương tự trong trận Chung kết UEFA Champions League 2018 cũng gặt hái những phần thưởng tương tự. Người ta cũng lưu ý rằng đội của anh ấy tập trung vào tấn công từ hai bên cánh, trong khi anh ấy được ghi nhận vì đã tái lập đội hình 4–4–2 kim cương trong bóng đá đương đại.
Mặt khác, một số người cho rằng vai trò của Zidane tập trung hơn vào việc đưa ra kết quả và thống nhất phòng thay đồ, thay vì có một sơ đồ chiến thuật cố định. Zidane nhấn mạnh tầm quan trọng của mức độ thể chất của các cầu thủ và ưu tiên chọn những cầu thủ có tác động hơn một hệ thống xác định. Trong thời gian ở Real Madrid, anh ấy đã sử dụng một số đội hình, bao gồm 4–3–3, 4–2–3–1, 4–4–2, và 3–5–2, để tìm ra hệ thống phù hợp nhất với người chơi của anh ấy, và đã được ghi nhận là đã sử dụng "hệ thống đơn giản", "... để người chơi của anh ấy có quyền tự do cần thiết để chứng tỏ sự vượt trội của họ." Như vậy, mặc dù anh ấy không được coi là là một nhà sáng tạo chiến thuật, anh ấy đã được ca ngợi vì cách tiếp cận cân bằng của mình với tư cách là một huấn luyện viên, và có kỹ năng lãnh đạo và khả năng quản lý và động viên một số cầu thủ đẳng cấp thế giới, tạo ra một môi trường đồng đội tốt, thúc đẩy mối quan hệ chuyên nghiệp và tâm lý chiến thắng mạnh mẽ; anh ấy cũng đã chứng tỏ khả năng luân chuyển cầu thủ và tận dụng tốt nhất đội của mình, điều này đã đóng một vai trò quan trọng trong thành công của anh ấy. Vào năm 2019, anh ấy nhận xét "Bạn hỏi tôi về hai cầu thủ nhưng điều khiến tôi quan tâm là nhóm. Karim quan trọng đối với đội, không chỉ vì mục tiêu của anh ấy. Casemiro mang lại rất nhiều sự cân bằng, nhưng không chỉ vậy. Mọi người đều đóng góp điều gì đó cho đội theo cách riêng của họ trên sân ". Về vai trò huấn luyện của mình tại Real Madrid, Zidane nhận xét vào năm 2018: "Khi bạn làm việc với những cầu thủ chất lượng cao, họ biết cách quản lý những giai đoạn đó của trận đấu khi bạn chơi không tốt, và họ đưa mọi thứ trở lại đúng hướng rất nhanh chóng. Công việc của tôi là giữ cho mọi người bình tĩnh! " Hai trong số những ảnh hưởng chính của anh ấy với tư cách là người quản lý là những người quản lý cũ của anh ấy Marcello Lippi và Carlo Ancelotti.
Những điểm đáng chú ý khác
Zidane chỉ sút hỏng penalty 1 lần duy nhất trong màu áo đội tuyển Pháp. Đó là trận giao hữu với đội tuyển Trung Quốc vào ngày 7 tháng 6 năm 2006 tại St Etienne.
Zidane chưa bao giờ được khoác áo CLB Marseille, quê hương ông dù ông rất khao khát điều này. Ông cũng chưa từng được thử sức tại Premier League và Bundesliga.
Zidane là cầu thủ duy nhất giành được giải thưởng "Cầu thủ xuất sắc nhất" trong cả World Cup (2006) và Euro (2000).
Zidane đạt giải thưởng "Quả bóng vàng thế giới" của FIFA với 3 lần (1998, 2000 và 2003)
Zidane đã sưu tập đủ cả Quả bóng Vàng, Bạc và Đồng của tạp chí France Football.
Trong số rất nhiều các danh hiệu đạt được, Zidane chưa bao giờ giành được chiếc cúp Quốc gia.
Zidane là một cầu thủ rất hiền nhưng khá nóng tính. Tính cả cuộc đời cầu thủ 18 năm, ông phải nhận tất cả 14 thẻ đỏ:
3 thẻ đỏ trong màu áo Bordeaux: ngày 18 tháng 9 năm 1993 trong trận OM-Bordeaux, ngày 22 tháng 8 năm 1995 trong trận Bordeaux-Karlsruhe, ngày 27 tháng 10 năm 1995 trong trận Martigues-Bordeaux.
6 thẻ đỏ với Juventus: ngày 2 tháng 9 năm 1996 trong trận Perugia-Juventus, ngày 5-1-1997 trong trận Parma-Juventus, ngày 25-10-1998 trong trận Juventus-Inter Milan, ngày 17 tháng 10 năm 1999 trong trận AS Roma-Juventus, ngày 26 tháng 9 năm 2000 trong trận Juventus-Deportivo, ngày 24 tháng 10 năm 2000 trong trận Juventus-Hamburg.
3 thẻ đỏ với Real Madrid: ngày 11 tháng 2 năm 2004 trong trận FC Sévilla-Real Madrid, ngày 1 tháng 5 năm 2004 trong trận Deportivo-Real Madrid, ngày 23 tháng 5 năm 2005 trong trận Real-Madrid-Villarreal.
2 thẻ đỏ với đội tuyển Pháp: ngày 18 tháng 6 năm 1998 trong trận Pháp-Ả Rập Xê Út, ngày 9 tháng 7 năm 2006 trong trận Pháp-Italia. Với 2 chiếc thẻ đỏ trong hai kì World Cup, Zidane là cầu thủ phải nhận nhiều thẻ đỏ nhất trong lịch sử Cup thế giới (cùng Rigobert Song của Cameroon).
Cộng thêm 4 chiếc thẻ vàng trong các kì World Cup, Zidane là cầu thủ lĩnh nhiều thẻ phạt nhất Cúp thế giới (6 thẻ, bằng với Cafu của Brazil).
Zidane là cầu thủ thứ tư bị đuổi trong trận chung kết World Cup (World Cup 2006).
Cuộc sống cá nhân
Zidane khẳng định mình là một tín đồ Hồi giáo. Ông đã gặp người tình của mình, một vũ công người Pháp gốc Tây Ban Nha tên là Véronique Fernandez, trong khi đang chơi cho Cannes trong mùa 1991-92. Hai người đã có bốn con trai: Enzo Alan Zidane Fernandez (24-03-1995), Luca Zinedine Zidane Fernandez (13-05-1998), Théo Zidane Fernandez (18-05-2002), Elyaz Zidane Fernández (26-12-2005).
Hiện Enzo, Luca, Theo và Elyaz Zidane Fernandez đang là thành viên của học viện bóng đá Real Madrid. Enzo là tiền vệ của đội Real Madrid Castilla (Real Madrid B), Luca là thủ môn của đội trẻ Juvenil A, Theo là tiền vệ của đội trẻ Infantil A và Elyaz là tiền vệ đội trẻ Alevin B.
Zidane là một người kín đáo, hiền lành trong cuộc sống, rất tận tâm với gia đình.
Đánh giá
Pelé: Zidane đã diễn trò ảo thuật trong trận đấu (sau khi Brazil thua Pháp 0-1 tại World Cup 2006)
Franz Beckenbauer: Zidane là một trong những cầu thủ vĩ đại nhất trong lịch sử, một cầu thủ thật sự kì diệu.
HLV Marcello Lippi: Zidane là tài năng kiệt xuất nhất thế giới trong 20 năm qua. Tôi rất vinh dự vì đã làm huấn luyện viên của anh ấy.
Michel Platini: Xét về mặt kĩ thuật, tôi cho rằng anh ấy là ông vua của những kĩ năng cơ bản trong bóng đá: kiểm soát bóng và chuyền bóng. Tôi không nghĩ có cầu thủ nào sánh kịp với anh ấy trong việc nhận bóng và điều chỉnh trái bóng
Cesare Maldini: Nếu được thì tôi sẵn sàng bỏ 5 cầu thủ để có được Zidane trong đội hình của tôi
Kevin Keegan: Bạn xem Zidane và tự nhủ: mình chưa bao giờ thấy một cầu thủ như vậy cả. Diego Maradona là một cầu thủ vĩ đại. Johan Cruyff là một cầu thủ vĩ đại. Họ khác nhau nhưng vẫn có nét tương đồng. Thứ làm cho Zidane nổi trội hơn là cách mà anh ấy chơi bóng, tự tạo ra không gian cho riêng mình. Và cả tầm nhìn của anh ấy nữa, nó khiến cho anh ấy trở nên vô cùng đặc biệt.
Cựu huấn luyện viên ĐT Brazil Carlos Alberto Parreira: Zidane là một con quái vật
David Beckham: Với tôi thì anh ấy là cầu thủ vĩ đại nhất mọi thời đại.
Roberto Carlos: Đó là cầu thủ xuất sắc nhất mà tôi đã nhìn thấy. Ronaldo là "người ngoài hành tinh", nhưng Zizou lại có một cái gì ngoài cả phạm vi đó.
Rivaldo: Cách di chuyển tao nhã của anh trên sân và các kĩ năng của anh là vô đối.
Marcel Desailly: Kĩ năng chơi bóng của anh ấy là ngoài sức tưởng tượng.
Thierry Henry: Ở Pháp mọi người đều nhận thấy rằng Chúa trời đang tồn tại và rằng anh ấy đang trở lại đội tuyển Pháp. Chúa trời đã trở lại.
Romario: Messi là một cầu thủ giỏi nhưng tôi mới là người nằm trong top 3. Đó là tôi, Pele và Maradona. Tôi nghĩ nếu có thể điền thêm thì cái tên tôi chọn là Zinedine Zidane.
Xavi: Zidane là cầu thủ xuất sắc nhất của những năm 90 và đầu những năm 2000
Xabi Alonso: Những thứ mà anh ấy có thể làm được trong bóng đá là niềm mơ ước của hầu hết giới cầu thủ chúng tôi.
Zlatan Ibrahimovic: Zidane đến từ một hành tinh khác. Khi có Zidane trên sân, 10 cầu thủ còn lại bỗng dưng chơi tốt hẳn lên. Chỉ đơn giản thế thôi.
Sir Alex Ferguson: Chỉ cần cho tôi Zidane và 10 khúc gỗ, tôi sẽ vô địch Champions League.
Các đội đã thi đấu
AS Cannes (1988-1992)
Bordeaux (1992-1996)
Juventus (tháng 7 năm 1996 giá 3 triệu bảng Anh- tháng 7, 2001)
Real Madrid (tháng 7, 2001 giá 47 triệu bảng Anh-2006)
Pháp (1994-2004) (2005-2006)
Thống kê sự nghiệp
Danh hiệu
Cầu thủ
Bordeaux
UEFA Intertoto Cup: 1995
Juventus
Serie A: 1997–98, 1998–99
Supercoppa Italiana: 1997
UEFA Super Cup: 1996
Intercontinental Cup: 1996
UEFA Intertoto Cup: 1999
Real Madrid
La Liga: 2002–03
Supercopa de España: 2001, 2003
UEFA Champions League: 2001–02
UEFA Super Cup: 2002
Intercontinental Cup: 2002
U-16 Pháp
Syrenka Cup: 1987
Pháp
FIFA World Cup: 1998; á quân: 2006
UEFA European Championship: 2000
Huấn luyện viên
Real Madrid
La Liga: 2016–17, 2019–20
Supercopa de España: 2017, 2019–20
UEFA Champions League: 2015–16, 2016–17, 2017–18
UEFA Super Cup: 2016, 2017
FIFA Club World Cup: 2016, 2017
Cá nhân
Huân chương Bắc Đẩu Bội tinh (Légion d'honneur), 1998
Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất nước Pháp, 1994
Cầu thủ xuất sắc nhất World Cup 2006 (FIFA Golden Ball Award), 2006
Cầu thủ xuất sắc nhất năm của FIFA năm 1998, 2000, 2003
Quả bóng vàng châu Âu (Ballon d'or) 1998, Quả bóng Bạc 2000, Quả bóng Đồng 1997.
Onze vàng 1998, 2000, 2001
Onze bạc (Onze d'argent), 1997, 2002, 2003
Onze đồng (Onze de bronze), 1999
Cầu thủ xuất sắc nhất trong lịch sử của châu Âu [do BBC trao tặng]
Quả bóng bạc FIFA, 2006
Quả bóng Đồng FIFA, 1997, 2002
Cầu thủ xuất sắc nhất giải VĐQG Pháp, 1996
Cầu thủ nước ngoài xuất sắc nhất Serie A, 1998, 2001
Cầu thủ nước ngoài xuất sắc nhất La Liga, 2005
Cầu thủ xuất sắc nhất Euro 2000
Cầu thủ xuất sắc nhất trận chung kết Champions League, 2002
Cầu thủ xuất sắc nhất Champions League, 2001-2002,
Cầu thủ xuất sắc nhất nước Pháp, 1998, 2002
Cầu thủ xuất sắc nhất của UEFA, 2002
Cầu thủ xuất sắc nhất châu Âu trong vòng 50 năm qua do UEFA trao tặng, thành viên của 100 huyền thoại sống vĩ đại nhất của bóng đá (FIFA100), 2004
Vận động viên tiêu biểu nhất của nước Pháp do L'Équipe trao tặng, 1998
Cầu thủ xuất sắc nhất của World Soccer, 1998
Cầu thủ của năm của RSS, 1998
Cầu thủ xuất sắc nhất châu Âu do tạp chí El País (TBN) trao tặng, 1998, 2001, 2002, 2003
Đứng đầu trong số các nhân vật được yêu thích nhất nước Pháp, 2000, 2007
Cầu thủ thế kỉ của Pháp do L'Équipe bình chọn, 2000
Đại sứ thiện chí của LHQ, 2002
Kỉ niệm chương danh dự của UNFP 2007.
Cầu thủ xuất sắc nhất Champions League trong 20 năm trở lại đây, 2011.
Chú thích
Liên kết ngoài
Zinedine Zidane tại Real Madrid CF
Người Pháp gốc Algérie
Người Berber
Quả bóng vàng châu Âu
Cầu thủ bóng đá nam Pháp
Cầu thủ bóng đá AS Cannes
Cầu thủ bóng đá FC Girondins de Bordeaux
Cầu thủ bóng đá Juventus
Cầu thủ bóng đá Real Madrid
Cầu thủ bóng đá Serie A
Huấn luyện viên bóng đá Pháp
FIFA 100
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Pháp
Người đoạt giải Cầu thủ xuất sắc nhất năm của FIFA
Hiện tượng Internet
Tiền vệ bóng đá
FIFA Century Club
Sinh năm 1972
Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 1998
Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2002
Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2006
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Ý
Cầu thủ bóng đá nam Pháp ở nước ngoài
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Pháp
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Pháp
Cầu thủ bóng đá La Liga
Cầu thủ bóng đá Ligue 1
Nhân vật còn sống
Tiền vệ bóng đá nam
Huấn luyện viên bóng đá Real Madrid
Cầu thủ Giải vô địch bóng đá châu Âu 2004
|
22352
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20ph%C3%B3ng%20mi%E1%BB%81n%20Nam
|
Giải phóng miền Nam
|
Giải phóng miền Nam có thể nói đến
Sự kiện 30 tháng 4 năm 1975
bài hát mang tên Giải phóng miền Nam (bài hát)
|
22357
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/MathML
|
MathML
|
MathML (viết tắt cho Mathematical Markup Language, Ngôn ngữ Đánh dấu Toán học) là một ứng dụng XML nhằm viết ký hiệu và công thức toán học trên máy tính. Mục đích của ngôn ngữ lập trình này là trao đổi thông tin trên máy tính, từ đó hiển thị trên màn hình và tính toán. Tuy nhiên, MathML còn được dùng nhằm hiển thị thông tin toán học trên World Wide Web, mà W3C khuyên sử dụng.
Phiên bản 1.01 được công bố vào tháng 7 năm 1999 và bản 2.0 xuất hiện vào tháng 2 năm 2001. Tháng 10 năm 2003, bản chỉnh sửa lần thứ hai của phiên bản 2.0 của MathML được công bố là bản cuối cùng của nhóm toán W3C.
MathML được thiết kế để không chỉ hiển thị tốt công thức toán học mà còn, theo tùy chọn, chứa ý nghĩa của công thức, giúp các máy tính có thể trao đổi và hiểu nội dung toán học. Một chuẩn khác là OpenMath được thiết kế đặc biệt cho lưu trữ ý nghĩa toán học có thể được dùng để bổ trợ cho MathML.
Đối với hiển thị trên trang mạng, cấu trúc XML không ngắn gọn như TeX, nhưng có thể được dễ dàng sử dụng bởi các trình duyệt, cho phép hiển thị ngay lập tức công thức toán học một cách đẹp mắt, đồng thời truyền tải ý nghĩa toán học cho các phần mềm tính toán. Khác với TeX, MathML không được thiết kế để viết hay sửa trực tiếp bởi con người. Cần có công cụ soạn thảo, hay chuyển đổi từ ngôn ngữ thân thiện với người khác (như TeX), để cho ra kết quả là biểu diễn MathML.
Ví dụ
Công thức bậc hai:
Vốn được viết theo ngữ pháp TeX:
x = \frac{-b \pm \sqrt{b^2 - 4ac}}{2a}
Sẽ có thể được viết bằng MathML:
<math>
<mrow>
<mi>x</mi>
<mo>=</mo>
<mfrac>
<mrow>
<mrow>
<mo>-</mo>
<mi>b</mi>
</mrow>
<mo>±</mo>
<msqrt>
<mrow>
<msup>
<mi>b</mi>
<mn>2</mn>
</msup>
<mo>-</mo>
<mrow>
<mn>4</mn>
<mo>⁢</mo>
<mi>a</mi>
<mo>⁢</mo>
<mi>c</mi>
</mrow>
</mrow>
</msqrt>
</mrow>
<mrow>
<mn>2</mn>
<mo>⁢</mo>
<mi>a</mi>
</mrow>
</mfrac>
</mrow>
</math>
Nếu muốn hiển thị đúng trong trình duyệt Mozilla, cần thêm
<?xml version="1.0"?>
<!DOCTYPE html PUBLIC "-//W3C//DTD XHTML 1.1 plus MathML 2.0//EN"
"http://www.w3.org/TR/MathML2/dtd/xhtml-math11-f.dtd"
[ <!ENTITY mathml "http://www.w3.org/1998/Math/MathML"> ] >
Và lưu giữ các mã này trong tập tin có đuôi .xml.
Như trong ví dụ trên:
<?xml version="1.0"?>
<!DOCTYPE html PUBLIC "-//W3C//DTD XHTML 1.1 plus MathML 2.0//EN"
"http://www.w3.org/TR/MathML2/dtd/xhtml-math11-f.dtd"
[ <!ENTITY mathml "http://www.w3.org/1998/Math/MathML"> ] >
<body>
<math xmlns="&mathml;">
<mrow>
<mi>x</mi>
<mo>=</mo>
<mfrac>
<mrow>
<mrow>
<mo>-</mo>
<mi>b</mi>
</mrow>
<mo>±</mo>
<msqrt>
<mrow>
<msup>
<mi>b</mi>
<mn>2</mn>
</msup>
<mo>-</mo>
<mrow>
<mn>4</mn>
<mo>⁢</mo>
<mi>a</mi>
<mo>⁢</mo>
<mi>c</mi>
</mrow>
</mrow>
</msqrt>
</mrow>
<mrow>
<mn>2</mn>
<mo>⁢</mo>
<mi>a</mi>
</mrow>
</mfrac>
</mrow>
</math>
</body>
Hỗ trợ
Có nhiều phần mềm chuyển TeX thành MathML. Như itex2mml . Hãng Wolfram Research cung cấp một trang mạng chuyển mọi biểu thức toán học sang MathML.
Trong số các trình duyệt thông dụng, Mozilla và một số trình duyệt cùng họ như là Mozilla Firefox trực tiếp hiển thị MathML. Các trình duyệt khác có thể cần thêm phần mềm gắn vào; như Internet Explorer cần gắn thêm MathPlayer.
MathML được hỗ trợ bởi các phần mềm văn phòng như Microsoft Word, OpenOffice.org và KOffice và các phần mềm tính toán kỹ thuật như Maple, Mathematica, và MathCad.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang chính thức trên W3C
MathML ở Mozilla
Phần mềm soạn MathML
Phần mềm soạn MathML
MathPlayer cho Internet Explorer.
Trang công cụ MathML của Wolfram Research
Chuẩn OpenMath
Itex - Chuyển LaTeX thành MathML
:m:Blahtex Dự án chuyển mã TeX sang MathML cho Wikimedia.
ASCIIMath Javascript để viết công thức toán học trong trình duyệt dùng MathML
XML
Ngôn ngữ đánh dấu
Tiêu chuẩn của W3C
Tiêu chuẩn dựa trên XML
|
22359
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Halogen
|
Halogen
|
Nhóm halogen, hay còn gọi là các nguyên tố halogen (tiếng Latinh nghĩa là sinh ra muối) là những nguyên tố thuộc nhóm VII A (tức nhóm nguyên tố thứ 17 theo danh pháp IUPAC hiện đại) trong bảng hệ thống tuần hoàn các nguyên tố hóa học. Nhóm này bao gồm các nguyên tố hóa học là fluor, chlor, brom, iod, astatin và tennessine. Chúng là các nguyên tố phi kim phản ứng tạo thành các hợp chất có tính acid mạnh với hydro, từ đó các muối đơn giản có thể được tạo ra.
Từ "halogen" nghĩa là sinh ra muối. Khi halogen phản ứng với kim loại sẽ tạo ra muối, ví dụ như calci fluoride, natri chloride (còn gọi là muối ăn), bạc bromide, kali iodide.
Nhóm halogen là nhóm duy nhất trong bảng tuần hoàn chứa các nguyên tố tồn tại ở cả 3 trạng thái chính của vật chất ở điều kiện chuẩn. Tất cả các halogen tạo thành acid khi liên kết với hydro. Hầu hết các halogen thường được sản xuất từ khoáng vật hoặc muối. Các halogen ở giữa như chlor, brom và iod thường được sử dụng làm chất tẩy uế. Hợp chất cơ-brom là loại phụ gia chống cháy quan trọng nhất. Các halogen rất nguy hiểm và độc.
Lịch sử
Khoáng chất fluorit chứa fluor được biết đến từ năm 1529. Các nhà hóa học thuở sơ khai nhận ra rằng các hợp chất fluor chứa một nguyên tố chưa được khám phá, nhưng không thể cô lập nó. Năm 1860, nhà hóa học người Anh tên là George Gore cho dòng điện chạy qua acid hydrofluoric, sản phẩm tạo ra là khí fluor, tuy nhiên ông không thể chứng minh kết quả thí nghiệm vào thời điểm đó. Năm 1886, nhà hóa học Pháp, ông Henri Moissan đã thực hiện điện phân kali bifluoride hòa tan trong hydro fluoride khan và tách thành công fluor.
Các nhà giả kim thuật và nhà hóa học thuở bình minh của lịch sử hóa học đã biết đến acid hydrochloric. Tuy nhiên, chlor ở dạng đơn chất chỉ được biết đến từ năm 1774, khi Carl Wilhelm Scheele đun nóng acid hydrochloric với mangan(IV) oxide. Scheele gọi nguyên tố này là "acid muriatic bị khử phlogiston". Đây là cách mà chlor được biết đến trong vòng 33 năm. Năm 1807, Humphry Davy nghiên cứu chlor và phát hiện ra rằng đây thực sự là một nguyên tố. Chlor kết hợp với acid hydrochloric, cũng như acid sulfuric trong một số trường hợp nhất định đã tạo ra khí chlor, một loại khí độc làm vũ khí hóa học trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Trong các khu vực bị phơi nhiễm chlor, khí oxy bị thay thế bằng khí chlor độc hại. Khí này sẽ đốt cháy các mô trong và ngoài cơ thể người, đặc biệt là phổi gây khó thở hoặc ngừng thở tùy thuộc vào mức độ phơi nhiễm.
Brom được Antoine Jérôme Balard phát hiện vào thập niên 1820. Balard phát hiện ra brom bằng cách cho khí chlor đi qua một mẫu nước muối cô đặc. Ban đầu, ông đề xuất tên muride để đặt tên cho nguyên tố mới, nhưng Viện hàn lâm Pháp đã đổi tên nguyên tố này thành brom.
Iod được Bernard Courtois phát hiện. Ông sử dụng tro rong biển trong quy trình sản xuất muối kali nitrat. Courtois đun sôi tro rong biển với nước để tạo ra kali chloride. Tuy nhiên, vào năm 1811, Courtois đã thêm acid sulfuric vào quy trình trên và phát hiện ra rằng có khói màu tím ngưng tụ thành các tinh thể màu đen. Nghi ngờ rằng những tinh thể này là một nguyên tố mới, Courtois đã gửi mẫu cho các nhà hóa học khác để nghiên cứu. Iod đã được Joseph Gay-Lussac chứng minh là một nguyên tố mới.
Năm 1931, Fred Allison đã phát hiện ra nguyên tố 85 bằng máy quang từ (magneto-optical machine) và đặt tên cho nguyên tố là Alabamine, nhưng phát hiện này được chứng mình là sai. Năm 1937, Rajendralal De phát hiện ra nguyên tố 85 trong khoáng chất và gọi nguyên tố này là dakine, nhưng phát hiện này vẫn sai. Năm 1939, Horia Hulubei và Yvette Cauchois sử dụng quang phổ học để tìm nguyên tố. Cùng năm đó, Walter Minder phát hiện ra một nguyên tố giống như iod do sự phân rã beta của polonium. Tuy vậy các nghiên cứu trên đều thất bại. Cho đến năm 1940, Dale R. Corson, KR Mackenzie và Emilio G. Segrè đã thực hiện bắn bia bismuth bằng các hạt alpha, và tạo ra thành công nguyên tố thứ 85, bây giờ được đặt tên là astatin.
Năm 2010, một nhóm do nhà vật lý hạt nhân Yuri Oganessian dẫn đầu có sự tham gia của các nhà khoa học từ Viện Liên hiệp nghiên cứu hạt nhân Dubna, Phòng thí nghiệm Quốc gia Oak Ridge, Phòng thí nghiệm Quốc gia Lawrence Livermore và Đại học Vanderbilt đã bắn phá thành công các nguyên tử berkelium-249 bằng các nguyên tử calci-48 để tạo ra tennessine-294.
Từ nguyên học
Năm 1811, nhà hóa học người Đức Johann Schweigger đề xuất rằng cái tên "halogen" - có nghĩa là sinh ra muối, từ αλς [hals] "muối" và γενειν [genein] "sinh ra" để thay thế cho cái tên "chlorine" được sử dụng. do nhà hóa học người Anh Humphry Davy đề xuất. Davy chỉ đặt tên cho nguyên tố chiếm ưu thế. Tuy nhiên, vào năm 1826, nhà hóa học Thụy Điển Baron Jöns Jacob Berzelius đã đề xuất thuật ngữ "halogen" cho các nguyên tố fluor, chlor và iod, tạo ra một chất giống như muối biển khi các nguyên tử nguyên tố này tạo thành hợp chất với kim loại kiềm.
Theo TCVN 5529:2010 và TCVN 5530:2010 của Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam, danh pháp hóa học của các nguyên tố halogen Cl, Br, I đều không có đuôi -ine.
Tên tiếng Anh của các nguyên tố này đều có đuôi -ine. Tên của fluor xuất phát từ tiếng Latin fluere, có nghĩa là "chảy", bởi vì nó có nguồn gốc từ khoáng chất fluorit, được sử dụng làm chất trợ dung trong gia công kim loại. Tên của chlor bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp chloros, có nghĩa là "màu vàng lục". Tên của brom bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp bromos, có nghĩa là "mùi hôi thối". Tên của iod bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp iodes, có nghĩa là "màu tím". Tên của astatin bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp astatos, có nghĩa là "không ổn định". Tennessine được đặt tên theo tiểu bang Tennessee của Hoa Kỳ.
Tính chất
Tính chất hóa học
Các halogen fluor, chlor, brom, and iod là phi kim; tính chất hóa học của 2 nguyên tố còn lại (là 2 nguyên tố nặng nhất) của nhóm 17 chưa đi đến kết luận. Các halogen thể hiện xu hướng năng lượng liên kết hóa học di chuyển từ trên xuống dưới của cột trong bảng tuần hoàn, fluor hơi mang tính ngoại lệ. Fluor phản ứng và tạo liên kết bền nhất trong các hợp chất với các nguyên tử khác (nhưng liên kết rất yếu trong phân tử F2). Càng đi xuống dưới, khả năng phản ứng của các nguyên tố giảm do kích thước của nguyên tử tăng dần.
Các halogen có tính phản ứng cao, có thể gây độc tử vong cho sinh vật với nồng độ đủ lớn. Khả năng phản ứng cao này là do độ âm điện cao của các nguyên tử do điện tích hạt nhân hiệu dụng cao. Bởi vì cấu hình electron halogen có 7 electron hóa trị ở mức năng lượng ngoài cùng, chúng có thể nhận được một electron bằng cách phản ứng với các nguyên tử của các nguyên tố khác để đáp ứng quy tắc octet. Fluor là chất dễ phản ứng nhất trong tất cả các nguyên tố; đây là nguyên tố duy nhất có độ âm điện lớn hơn oxy, tấn công các vật liệu trơ như thủy tinh. Đặc biệt fluor có thể tạo thành hợp chất với các khí hiếm. Khí fluor ăn mòn và có độc tính cao. Nếu đựng trong fluor trong dụng cụ thủy tinh trong phòng thí nghiệm, chất này có thể phản ứng với thủy tinh khi có một lượng nhỏ nước để tạo thành silic tetrafluoride (SiF4). Do đó, fluor phải được đựng các chất như tefluorn (bản thân nó là một hợp chất cơ fluor), bình thủy tinh cực kỳ khô, hoặc các kim loại như đồng hoặc thép (lớp fluoride được hình thành trên bề mặt kim loại có tác dụng bảo vệ).
Phân tử
Phân tử halogen hai nguyên tử
Các halogen ổn định tạo thành các phân tử hai nguyên tử thuộc cùng một nguyên tố. Do lực liên phân tử tương đối yếu, chlor và fluor tạo thành một phần của nhóm được gọi là "khí nguyên tố".
Các hợp chất
Tất cả các halogen đã được quan sát để phản ứng với hydro để tạo thành hydro halide. Đối với fluor, chlor và brom, phản ứng này có dạng:
H2 + X2 → 2HX
Tuy nhiên, hydro iodide và hydro astatide có thể tách trở lại thành các nguyên tố cấu thành chúng.
Các phản ứng hydro-halogen nhẹ nhàng hơn khi đi từ trên xuống dưới các nguyên tố thuộc nhóm 17 trong bảng tuần hoàn. Phản ứng fluor-hydro gây nổ ngay cả khi trong điều kiện tối và lạnh. Phản ứng chlor-hydro cũng gây nổ, nhưng chỉ khi có ánh sáng và nhiệt. Phản ứng brom-hydro chỉ nổ khi có ngọn lửa. Iod và astatin chỉ phản ứng một phần với hydro, tạo thành trạng thái cân bằng hóa học.
Tất cả các halogen tạo thành các hợp chất với hydro được gọi là hydro halide: hydro fluoride (HF), hydro chloride (HCl), hydro bromide (HBr), hydro iodide (HI) và hydro astatide (HAt). Tất cả các hợp chất này tạo thành acid khi trộn với nước. Hydro fluoride là hydro halide duy nhất hình thành liên kết hydro. Acid hydrochloric, acid hydrobromic, acid hydroiodic, và acid đều là các acid mạnh, nhưng acid fluorhydric là một acid yếu.
Tất cả các hydro halide đều gây kích ứng. Hydro fluoride và hydro chloride có tính acid cao. Hydro fluoride được sử dụng như một hóa chất công nghiệp và có độc tính cao, gây phù phổi và phá vỡ cấu trúc tế bào. Hydro chloride cũng là một hóa chất nguy hiểm. Hít phải khí có hơn 50 phần triệu hydro chloride có thể gây tử vong ở người. Hydrogen bromide thậm chí còn độc và khó chịu hơn hydro chloride. Hít phải khí có hơn ba mươi phần triệu hydro bromide có thể gây tử vong cho con người. Hydro iodide cũng gây độc.
Halogen kim loại
Tất cả các halogen được biết là phản ứng với natri để tạo thành natri fluoride, natri chloride, natri bromide, natri iodide và natri astatide. Phản ứng của natri đun nóng với các halogen tạo ra ngọn lửa màu cam sáng. Phản ứng của natri với chlor có dạng:
Sắt phản ứng với fluor, chlor và brom để tạo thành sắt(III) halide. Những phản ứng này có dạng:
Tuy nhiên, khi sắt phản ứng với iod, nó chỉ tạo thành sắt(II) iodide.
Sắt có thể phản ứng nhanh với fluor để tạo thành hợp chất sắt(III) fluoride màu trắng ngay cả ở nhiệt độ lạnh. Khi chlor tiếp xúc với sắt nung nóng, chúng phản ứng tạo thành sắt (III) chloride màu đen. Tuy nhiên, nếu điều kiện phản ứng ẩm, phản ứng này sẽ tạo ra sản phẩm màu nâu đỏ. Sắt cũng có thể phản ứng với brom để tạo thành sắt(III) bromide. Hợp chất này có màu nâu đỏ trong điều kiện khô ráo. Phản ứng của sắt với brom ít phản ứng hơn so với fluor hoặc chlor. Sắt nóng cũng có thể phản ứng với iod, nhưng tạo thành sắt(II) iodide, phản ứng xảy ra khó khăn. Hợp chất này có màu xám, nhưng phản ứng luôn có có iod dư thừa, vì vậy màu sắc không được biết chắc chắn.
Hợp chất tạo bởi hai halogen
Hợp chất tạo bởi hai halogen ở dạng XYn trong đó X và Y là halogen và n là các giá trị 1, 3, 5, 7. Các hợp chấ tạo bởi hai halogen chứa tối đa hai halogen khác nhau. Các hợp chất tạo bởi hai halogen có số lượng nguyên tử lớn, chẳng hạn như có thể được tạo ra bằng phản ứng của một halogen nguyên chất với một hợp chất tạo bởi hai halogen có số lượng nguyên tử nhỏ hơn là . Tất cả các halogen ngoại trừ đều có thể được tạo ra bằng cách kết hợp trực tiếp các halogen nguyên chất trong các điều kiện khác nhau.
Ngoại trừ F2, các hợp chất tạo bởi hai halogen thường phản ứng mạnh hơn tất cả các phân tử halogen chứa hai nguyên tử cùng một nguyên tố vì hợp chất tạo bởi hai halogen có liên kết giữa các halogen yếu hơn. Tuy nhiên, tính chất hóa học của hợp chất tạo bởi hai halogen vẫn gần giống như tính chất của các phân tử halogen chứa hai nguyên tử cùng một nguyên tố. Nhiều hợp chất tạo bởi hai halogen bao gồm một hoặc nhiều nguyên tử fluor liên kết với một halogen nặng hơn. chlor có thể liên kết với tối đa 3 nguyên tử fluor, brom có thể liên kết với tối đa 5 nguyên tử fluor và iod có thể liên kết với tối đa 7 nguyên tử fluor. Hầu hết các hợp chất tạo bởi hai halogen là liên kết cộng hóa trị. Tuy nhiên, một số hợp chất là chất lỏng, chẳng hạn như BrF3, và nhiều hợp chất chứa iod là chất rắn.
Hợp chất hữu cơ halogen
Nhiều hợp chất hữu cơ tổng hợp như polymer, chất dẻo và một số hợp chất tự nhiên có chứa các nguyên tử halogen được gọi chung là hợp chất cơ halogen. Cho đến nay, chlor là chất có nhiều nhất trong nước biển và là chất duy nhất mà con người cần với số lượng tương đối lớn (dưới dạng ion chloride). Ví dụ, các ion chloride đóng một vai trò quan trọng trong chức năng của não bằng cách điều hòa hoạt động của chất dẫn truyền ức chế GABA và cũng được cơ thể sử dụng để sản xuất acid trong dịch vị. Iod cần thiết ở mức độ vi lượng để sản xuất hormone tuyến giáp như thyroxine.
Hợp chất đa halogen hóa
Hợp chất đa halogen hóa là các hợp chất được tạo ra trong công nghiệp được thay thế bằng nhiều halogen. Các chất rất độc hại và gây tích lũy sinh học ở người, có phạm vi ứng dụng rất rộng, bao gồm PCB, PBDE, và các hợp chất perfluor hóa (PFC),...
Phản ứng
Phản ứng với nước
Fluor phản ứng mạnh với nước tạo ra oxy (O2) và hydro fluoride (HF):.
Chlor (Cl2) có độ hòa tan tối đa là 7,1 g/kg nước ở 21 °C. Chlor hòa tan phản ứng tạo thành acid hydrochloric (HCl) và acid hypochlorơ, một dung dịch được sử dụng làm chất khử trùng hoặc thuốc tẩy :
Brom có độ hòa tan là 3,41 g/100 g nước,. nhưng phản ứng chậm với nước để tạo thành hydro bromide (HBr) và acid hypobromơ (HBrO):
Iod hòa tan rất ít trong nước (0,03 g/100 g nước ở 20 °C) và không phản ứng với nước. Tuy nhiên, iod sẽ tạo thành dung dịch khi có mặt ion iodide, chẳng hạn như bằng cách thêm kali iodide (KI), vì ion triiodide được hình thành.
Phản ứng với hydrogen
Tính chất vật lý và tính chất nguyên tử
Bảng dưới đây tóm tắt các tính chất vật lý và tính chất nguyên tử của các halogen. Các ô được đánh dấu chấm hỏi (?) là những số liệu không chắc chắn hoặc số liệu ước tính dựa trên xu hướng thay đổi tính chất vật lý của nguyên tố dựa vào bảng tuần hoàn thay vì quan sát thực tế.
Sản xuất
Mỗi năm thế giới khai thác 6 triệu tấn quặng fluorit, sản xuất 400.000 tấn acid hydrofluoric. Khí fluor được sản xuất từ acid hydrofluoric, là sản phẩm phụ của quá trình sản xuất acid phosphoric. Khoảng 15.000 tấn khí fluor được sản xuất mỗi năm.
Khoáng chất halit, carnalit và sylvitlà khoáng chất được khai thác phổ biến để sản xuất chlor. 40 triệu tấn chlor được sản xuất mỗi năm bằng cách điện phân nước muối cô đặc.
Mỗi năm khoảng 450.000 tấn brom được sản xuất. 50% tổng lượng brom sản xuất được sản xuất tại Mỹ, 35% tại Israel và phần còn lại phần lớn là ở Trung Quốc. Trong lịch sử, brom được sản xuất bằng cách thêm acid sulfuric và bột tẩy vào nước muối tự nhiên. Tuy nhiên, hiện nay brom được sản xuất bằng phương pháp điện phân. Phương pháp này do Herbert Dow phát minh.
Năm 2003, 22.000 tấn iod đã được sản xuất. Chile sản xuất 40% tổng lượng iod, con số này ở Nhật Bản là 30%. Một lượng nhỏ được sản xuất ở Nga và Hoa Kỳ. Cho đến những năm 1950, iod đã được chiết xuất từ tảo bẹ. Tuy nhiên hiện nay iod được sản xuất theo những cách khác. Một phương pháp là trộn lưu huỳnh dioxide với quặng nitrat, trong quặng có lẫn iod. Iod cũng được chiết xuất từ các mỏ khí đốt tự nhiên.
Mặc dù nguyên tố astatin có trong tự nhiên, nhưng nguyên tố thường được tạo ra bằng cách dùng hạt alpha bắn phá bismuth.
Tennessine được tạo ra bằng cách sử dụng cyclotron, kết hợp berkelium-249 và calci-48 để tạo ra tennessine-293 và tennessine-294.
Ứng dụng
Chất khử trùng
Cả chlor và brom đều được sử dụng làm chất tẩy uế cho nước uống, bể bơi, vết thương, spa, làm sạch bát đĩa và bề mặt. 2 chất này tiêu diệt vi khuẩn và các vi sinh vật có khả năng gây hại khác thông qua một quá trình được gọi là khử trùng. Khả năng phản ứng của các chất trên cũng được dùng để trong tẩy trắng. Natri hypochlorit (được sản xuất từ chlor) là thành phần hoạt chất của hầu hết các chất tẩy trắng vải và chất tẩy trắng có nguồn gốc từ chlor được sử dụng trong sản xuất một số sản phẩm giấy. Chlor phản ứng với natri để tạo ra natri chloride, là muối ăn.
Thắp sáng
Đèn halogen là một loại đèn sợi đốt sử dụng dây tóc wolfram trong bóng đèn có một lượng nhỏ halogen, chẳng hạn như iod hoặc brom. Khí làm giảm sự mỏng đi của dây tóc bóng đèn và làm đen mặt trong bóng đèn, giúp bóng đèn có tuổi thọ cao hơn đèn sợi đốt không có halogen. Đèn halogen phát sáng ở nhiệt độ cao hơn (2800 đến 3400 kelvin), màu trắng hơn so với các bóng đèn sợi đốt khác. Tuy nhiên, do đạt nhiệt độ cao như vậy, bóng đèn phải được sản xuất từ thạch anh nung chảy chứ không phải thủy tinh để tránh bị vỡ bóng đèn.
Vai trò sinh học
Anion fluoride được tìm thấy trong ngà, xương, răng, máu, trứng, nước tiểu và lông của các sinh vật. Fluor rất cần thiết cho con người, là nguyên tố vi lượng. Có 0,5 miligam fluor trên mỗi lít máu người. Xương người chứa 0,2 đến 1,2% fluor. Mô người chứa khoảng 50 phần tỷ fluor. Một người nặng 70 kg chứa từ 3 đến 6 gam fluor.
Các anion chloride rất cần thiết cho sinh vật, bao gồm cả con người. Nồng độ chlor trong trọng lượng khô của ngũ cốc là 10 đến 20 phần triệu, trong khi ở khoai tây nồng độ chloride là 0,5%. Tăng trưởng thực vật bị ảnh hưởng bất lợi khi nồng độ chloride trong đất giảm xuống dưới 2 phần triệu. Máu người chứa trung bình 0,3% chlor. Xương người thường chứa 900 phần triệu chlor. Mô người chứa khoảng 0,2 đến 0,5% chlor. Một người nặng 70 kg chứa 95 gam chlor.
Một số brom ở dạng anion bromide có trong tất cả các sinh vật. Vai trò sinh học của brom đối với con người chưa được chứng minh, nhưng một số sinh vật có chứa các hợp chất cơ-brom. Con người thường tiêu thụ từ 1 đến 20 miligam brom mỗi ngày. Bình thường có 5 phần triệu brom trong máu người, 7 phần triệu brom trong xương người và 7 phần triệu brom trong mô người. Một người nặng 70 kg chứa 260 miligam brom.
Con người thường tiêu thụ ít hơn 100 microgam iod mỗi ngày. Thiếu iod có thể gây thiểu năng trí tuệ. Hợp chất cơ-iod tồn tại trong cơ thể người, cụ thể là trong một số tuyến, đặc biệt là tuyến giáp, cũng như dạ dày, biểu bì và hệ miễn dịch. Thực phẩm có chứa iod bao gồm cá tuyết, hàu, tôm, cá trích, tôm hùm, hạt hướng dương, rong biển và nấm. Tuy nhiên, chưa thấy vai trò sinh học của iod trong thực vật. Bình thường có 0,06 miligam iod trong mỗi lít máu người, 300 phần tỷ iod trong xương người và 50 đến 700 phần tỷ iod trong mô người. Có 10 đến 20 miligam iod trong một người nặng 70 kg.
Mặc dù rất khan hiếm, astatin đã được tìm thấy ở dạng microgam trên trái đất. Nguyên tố này không có vai trò sinh học nào được biết đến vì tính phóng xạ cao, cực kỳ hiếm và có chu kỳ bán rã chỉ khoảng 8 giờ đối với đồng vị ổn định nhất.
Tennessine là nguyên tố hoàn toàn do con người tạo ra và không có vai trò nào trong tự nhiên.
Độc tính
Các halogen có xu hướng giảm độc tính theo chiều số khối tăng.
Khí fluor cực độc; hít phải fluor ở nồng độ 25 phần triệu có khả năng gây chết người. Acid hydrofluoric cũng là chất độc, có thể xâm nhập vào da và gây bỏng, rất đau. Các anion fluoride độc hại, nhưng không độc bằng fluor nguyên chất. Muối fluoride có thể gây chết người với lượng từ 5 đến 10 gam. Tiêu thụ fluoride kéo dài trên nồng độ 1,5 mg/L có liên quan đến nguy cơ nhiễm fluor răng. Ở nồng độ trên 4 mg/L sẽ tăng nguy cơ phát triển bệnh nhiễm fluor ở xương, tình trạng gãy xương trở nên phổ biến hơn do xương bị cứng lại. Để ngăn ngừa sâu răng, mức khuyến nghị hiện tại trong nước fluoride nằm trong khoảng từ 0,7 đến 1,2 mg/L để tránh những tác động có hại của fluoride đồng thời có thể giúp răng chắc khỏe hơn. Những người mà có nồng độ fluor trong xương ở giữa mức bình thường và mức chẩn đoán nhiễm fluor xương thường có các triệu chứng tương tự như viêm khớp.
Khí chlor có độc tính cao. Hít phải chlor ở nồng độ 3 phần triệu có thể nhanh chóng gây ra phản ứng hóa học độc hại. Hít phải chlor ở nồng độ 50 phần triệu rất nguy hiểm. Hít phải chlor ở nồng độ 500 phần triệu trong vài phút có thể gây chết người. Bệnh nhân rất đau đường thở và phổi nếu hít phải.
Brom tinh khiết khá độc, có mức độ gây độc ít hơn fluor và chlor. Một trăm miligam brom gây chết người. Các anion bromide cũng độc nhưng ít độc hơn brom đơn chất. Bromide có liều gây chết người là 30 gam.
Iod khá độc, có thể gây kích ứng phổi và mắt, với giới hạn an toàn là 1 miligam trên mét khối. Khi uống 3 gram iod có thể gây chết người. Các anion iodide hầu hết không độc, nhưng chúng cũng có thể gây chết người nếu ăn phải một lượng lớn.
Astatin là chất phóng xạ rất nguy hiểm, nhưng vì không được sản xuất với số lượng lớn nên rất khó gây ngộ độc cho sinh vật.
Siêu halogen
Một số "cụm nhôm" (aluminium cluster) có đặc tính siêu nguyên tử. Những cụm nhôm này được tạo ra dưới dạng anion ( với n = 1, 2, 3,...) trong môi trường khí heli và các cụm nhôm phản ứng với khí có chứa iod. Khi được phân tích bằng phép đo khối phổ, sản phẩm chính của phản ứng là .
Xem thêm
Liên kết halogen
Phản ứng cộng halogen
Đèn halogen
Halogen hóa
Hợp chất halogen
Halogen giả
Ghi chú
Tham khảo
Đọc thêm
Liên kết ngoài
Nhóm nguyên tố hóa học
Chuỗi nguyên tố hóa học
Bảng tuần hoàn
|
22369
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BB%ADu%20Long%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
Cửu Long (định hướng)
|
Cửu Long trong tiếng Việt có thể là:
Việt Nam
Sông Cửu Long, tên gọi cho các đoạn sông thuộc về sông Mê Kông chảy qua địa phận Việt Nam
Tỉnh Cửu Long cũ ở Nam Bộ Việt Nam, nay là các tỉnh Vĩnh Long, Trà Vinh
Thị trấn nông trường cũ Cửu Long thuộc huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình; nay là một phần thị trấn Lương Sơn
Bể dầu Cửu Long ở ngoài thềm lục địa phía đông nam Việt Nam
Tên một loại mực viết ở Việt Nam
Trung Quốc
Bán đảo Cửu Long ở Hồng Kông
Thành phố Cửu Long, Hồng Kông
Quận Cửu Long Thành, thành phố Cửu Long, Hồng Kông
Quận Cửu Long Pha, thành phố Trùng Khánh
Huyện Cửu Long thuộc châu tự trị dân tộc Tạng Cam Tư, tỉnh Tứ Xuyên
Trấn Cửu Long thuộc quận Cửu Long Pha, thành phố Trùng Khánh
Tên một môn phái trong trò chơi trực tuyến Cửu Long tranh bá
Cửu Long hay Cửu Long Giang (九龍江) còn là một con sông nhỏ chảy qua tỉnh Phúc Kiến (福建).
Khu vực Cửu Long Đường thuộc quận Cửu Long Thành và quận Thâm Thủy Bộ, thành phố Cửu Long
Khu vực Tân Cửu Long thuộc Bán đảo Cửu Long, Hồng Kông
Xem thêm
|
22370
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/La%20Liga
|
La Liga
|
Giải bóng đá vô địch quốc gia Tây Ban Nha (Campeonato Nacional de Liga de Primera División, thường được biết đến là Primera División hoặc La Liga, và chính thức được gọi là LALIGA EA SPORTS (được cách điệu thành viết hoa toàn bộ) vì lý do tài trợ) là hạng đấu bóng đá chuyên nghiệp nam hàng đầu của Hệ thống các giải bóng đá Tây Ban Nha. Được quản lý bởi Liga Nacional de Fútbol Profesional, nó được tranh tài bởi 20 đội.
Kể từ khi thành lập, có tổng cộng 62 đội đã thi đấu tại La Liga. Chín đội đã lên ngôi vô địch, trong đó Barcelona vô địch La Liga đầu tiên và Real Madrid vô địch nhiều lần nhất với 35 lần. Barcelona là đội vô địch gần đây nhất với chức vô địch mùa giải 2022–23. Trong những năm 1940, Valencia, Atlético Madrid và Barcelona nổi lên như những câu lạc bộ mạnh nhất, giành được nhiều danh hiệu. Real Madrid và Barcelona thống trị chức vô địch trong những năm 1950, mỗi đội giành bốn chức vô địch La Liga trong suốt thập kỷ. Trong những năm 1960 và 1970, Real Madrid thống trị La Liga, giành được 14 danh hiệu, trong khi Atlético Madrid giành được 4 danh hiệu. Trong những năm 1980 và 1990, Real Madrid nổi bật ở La Liga, nhưng các câu lạc bộ xứ Basque là Athletic Club và Real Sociedad cũng có được thành công riêng, mỗi đội giành được hai chức vô địch Liga. Từ những năm 1990 trở đi, Barcelona đã thống trị La Liga, giành được 17 danh hiệu cho đến nay. Mặc dù Real Madrid rất nổi bật, giành được 10 danh hiệu, nhưng La Liga cũng chứng kiến những nhà vô địch khác, bao gồm Atlético Madrid, Valencia và Deportivo La Coruña.
Theo bảng hệ số xếp hạng của UEFA, La Liga luôn là giải đấu hàng đầu ở châu Âu trong bảy năm từ 2013 đến 2019 (được tính bằng số liệu tích lũy từ năm mùa giải trước đó) và đã dẫn đầu châu Âu 22 trong số 60 năm được xếp hạng tính đến năm 2019, nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác. Nó cũng đã sản sinh ra câu lạc bộ được xếp hạng hàng đầu châu lục nhiều lần (22) hơn bất kỳ giải đấu nào khác trong thời kỳ đó, nhiều hơn gấp đôi so với đội xếp thứ hai là Serie A (Ý), bao gồm câu lạc bộ hàng đầu ở 10 trong số 11 mùa giải từ 2009 đến 2019; Mỗi đỉnh cao này đều do Barcelona hoặc Real Madrid đạt được. Các câu lạc bộ La Liga giành được nhiều danh hiệu UEFA Champions League (19), UEFA Europa League (14), UEFA Super Cup (16) và FIFA Club World Cup (8) nhất, đồng thời các cầu thủ của họ đã tích lũy được số lượng giải thưởng Ballon d'Or cao nhất (24), Cầu thủ nam FIFA xuất sắc nhất (19) và giải thưởng Giải thưởng Cầu thủ nam xuất sắc nhất năm của UEFA (12).
La Liga là một trong những giải đấu thể thao chuyên nghiệp phổ biến nhất trên toàn cầu, với số người dự khán trung bình là 26.933 cho các trận đấu trong mùa giải 2018–19. Đây là giải đấu cao thứ tám trong số các giải đấu thể thao chuyên nghiệp trong nước trên thế giới và cao thứ ba trong số các giải đấu bóng đá của hiệp hội chuyên nghiệp trên thế giới, sau Bundesliga và Premier League, và cao hơn hai giải đấu còn lại, được gọi là "Big Five" các giải đấu châu Âu, Serie A và Ligue 1. La Liga cũng là giải đấu thể thao chuyên nghiệp giàu có thứ bảy trên thế giới tính theo doanh thu, xếp sau NFL, MLB, NBA, Premier League, NHL, và Bundesliga.
Từ năm 2008 đến 2016, nó được tài trợ bởi Banco Bilbao Vizcaya Argentaria và được gọi là Liga BBVA. Sau đó, từ năm 2016 đến năm 2023, nó được Banco Santander tài trợ và được gọi là LaLiga Santander. Kể từ năm 2023, nó được tài trợ bởi Electronic Arts và được gọi là LALIGA EA SPORTS.
Thể thức thi đấu
Thể thức thi đấu theo thể thức vòng tròn đôi thông thường. Trong suốt một mùa giải kéo dài từ tháng 8 đến tháng 5, mỗi câu lạc bộ đấu với các câu lạc bộ khác hai lần, một lần trên sân nhà và một lần trên sân khách, trong 38 trận đấu. Các đội nhận được ba điểm cho một trận thắng, một điểm cho một trận hòa và không có điểm nào cho một trận thua. Các đội được xếp hạng theo tổng số điểm, với câu lạc bộ có thứ hạng cao nhất sẽ lên ngôi vô địch vào cuối mùa giải.
Thăng hạng và xuống hạng
Một hệ thống thăng hạng và xuống hạng tồn tại giữa Primera División và Segunda División. Ba đội có vị trí thấp nhất ở La Liga bị xuống hạng ở Segunda División, và hai đội đứng đầu từ Segunda División thăng hạng La Liga, với một câu lạc bộ bổ sung được thăng hạng sau loạt trận play-off với các câu lạc bộ xếp thứ ba, thứ tư, thứ năm và thứ sáu. Dưới đây là bản ghi đầy đủ về số đội đã chơi trong mỗi mùa giải trong suốt lịch sử của giải đấu;
Quy tắc hòa giải
Nếu số điểm giữa hai hoặc nhiều câu lạc bộ bằng nhau, các quy tắc là:
Nếu tất cả các câu lạc bộ tham gia đã thi đấu với nhau hai lần:
Nếu tỷ số hòa giữa hai câu lạc bộ, thì tỷ số hòa được tính bằng hiệu số bàn thắng bại đối đầu cho các câu lạc bộ đó (không có luật bàn thắng sân khách).
Nếu tỷ số hòa giữa hơn hai câu lạc bộ, thì tỷ số hòa được tính theo các trận đấu mà các câu lạc bộ đã thi đấu với nhau:
a) điểm đối đầu
b) hiệu số bàn thắng bại
Nếu trận đấu hai lượt giữa tất cả các câu lạc bộ tham gia không được diễn ra, hoặc tỷ số hòa không bị phá vỡ theo các quy tắc ở trên, thì trận đấu bị phá vỡ bằng cách sử dụng:
a) hiệu số bàn thắng bại
b) tổng số bàn thắng được ghi
Nếu hòa vẫn không bị phá vỡ, người chiến thắng sẽ được xác định theo thang điểm Fair Play. Đó là:
thẻ vàng, 1 điểm
nhân đôi thẻ vàng/trục xuất, 2 điểm
thẻ đỏ trực tiếp, 3 điểm
đình chỉ hoặc truất quyền huấn luyện viên, giám đốc điều hành hoặc nhân viên câu lạc bộ khác (quyết định ngoài trọng tài), 5 điểm
hành vi sai trái của cổ động viên: nhẹ 5 điểm, nghiêm trọng 6 điểm, rất nghiêm trọng 7 điểm
đóng cửa sân vận động, 10 điểm
nếu Hội đồng cạnh tranh loại bỏ một hình phạt, điểm cũng bị loại bỏ
Nếu vẫn không hòa thì sẽ giải quyết bằng một trận đấu bù ở sân trung lập.
Vòng loại cho các giải đấu châu Âu
Tiêu chí hiện tại
Bốn đội hàng đầu ở La Liga đủ điều kiện tham dự vòng bảng UEFA Champions League của mùa giải tiếp theo. Đội vô địch UEFA Champions League và UEFA Europa League cũng đủ điều kiện tham dự vòng bảng UEFA Champions League của mùa giải tiếp theo. Nếu điều này có nghĩa là 6 đội La Liga đủ điều kiện, thì đội đứng thứ 4 ở La Liga sẽ chơi ở UEFA Europa League, vì bất kỳ quốc gia nào cũng bị giới hạn tối đa 5 đội.
Đội đứng thứ 5 tại La Liga sẽ giành quyền tham dự vòng bảng UEFA Europa League của mùa giải tiếp theo. Đội vô địch Copa del Rey cũng đủ điều kiện tham dự vòng bảng UEFA Europa League của mùa giải tiếp theo, nhưng nếu đội vô địch cũng cán đích ở 5 vị trí dẫn đầu tại La Liga, thì vị trí này sẽ trở lại với đội đứng thứ 6 tại La Liga. Hơn nữa, đội đứng thứ 6 (hoặc thứ 7 nếu thứ 6 đã đủ điều kiện tham dự Copa del Rey) đủ điều kiện tham dự vòng play-off UEFA Conference League của mùa giải tiếp theo.
Số suất được phân bổ cho các câu lạc bộ Tây Ban Nha trong các giải đấu của UEFA phụ thuộc vào vị trí của một quốc gia trong hệ số quốc gia của UEFA, được tính toán dựa trên thành tích của các đội trong các giải đấu của UEFA trong 5 năm trước đó. Tính đến cuối mùa giải 2020–21, thứ hạng của Tây Ban Nha (và de facto La Liga) là thứ hai.
Lịch sử
Thành lập
Vào tháng 4 năm 1928, José María Acha, giám đốc của Getxo, lần đầu tiên đề xuất ý tưởng về một giải đấu quốc gia ở Tây Ban Nha. Sau nhiều cuộc tranh luận về quy mô của giải đấu và đội sẽ tham gia, Liên đoàn bóng đá Hoàng gia Tây Ban Nha cuối cùng đã đồng ý về mười đội sẽ thành lập Primera División đầu tiên vào năm 1929. Barcelona, Real Madrid, Athletic Club, Real Sociedad, Getxo, và Real Unión đều được chọn là những đội vô địch Copa del Rey trước đó. Atlético Madrid, Espanyol, và Europa vượt qua vòng loại với tư cách á quân Copa del Rey và Racing de Santander vượt qua vòng loại trực tiếp. Chỉ có ba trong số các câu lạc bộ sáng lập (Real Madrid, Barcelona và Câu lạc bộ thể thao) chưa bao giờ bị xuống hạng khỏi Primera División.
Thập niên 1930: Sự nổi trội của Athletic Club
Mặc dù Barcelona đã giành được chức vô địch Liga đầu tiên vào năm 1929 và Real Madrid đã giành được những danh hiệu đầu tiên của họ vào năm 1932 và 1933, nhưng chính Câu lạc bộ thể thao đã giúp họ sớm giành được Primera División vào các năm 1930, 1931, 1934 và 1936. Họ cũng là á quân vào các năm 1932 và 1933. Năm 1935, Real Betis, khi đó được gọi là Betis Balompié, đã giành được danh hiệu duy nhất cho đến nay. Primera División bị đình chỉ trong Nội chiến Tây Ban Nha.
Năm 1937, các đội ở khu vực Cộng hòa của Tây Ban Nha, ngoại trừ đáng chú ý là hai câu lạc bộ Madrid, thi đấu tại Giải Địa Trung Hải và Barcelona đã trở thành nhà vô địch. Bảy mươi năm sau, vào ngày 28 tháng 9 năm 2007, Barcelona yêu cầu Liên đoàn bóng đá Hoàng gia Tây Ban Nha (viết tắt tiếng Tây Ban Nha RFEF) công nhận danh hiệu đó là một danh hiệu Liga. Hành động này được thực hiện sau khi RFEF được yêu cầu công nhận chức vô địch Copa de la España Libre của Levante FC tương đương với danh hiệu Copa del Rey. Tuy nhiên, cơ quan quản lý của bóng đá Tây Ban Nha vẫn chưa đưa ra quyết định rõ ràng.
Thập niên 1940: Atlético Madrid, Barcelona và Valencia nổi lên
Khi Primera División hoạt động trở lại sau Nội chiến Tây Ban Nha, Atlético Aviación (ngày nay là Atlético Madrid), Valencia và FC Barcelona nổi lên như những câu lạc bộ mạnh nhất. Atlético chỉ được trao một suất trong mùa giải 1939–40 để thay thế cho Real Oviedo, đội đã bị hư hại trong chiến tranh. Câu lạc bộ sau đó đã giành được chức vô địch Liga đầu tiên và giữ nó vào năm 1941. Trong khi các câu lạc bộ khác mất cầu thủ vì lưu đày, hành quyết và thương vong trong chiến tranh, đội Atlético được củng cố bằng sự hợp nhất. Đội hình trẻ trước chiến tranh của Valencia vẫn còn nguyên vẹn và trong những năm sau chiến tranh đã trưởng thành thành những nhà vô địch, giành được ba chức vô địch Liga vào các năm 1942, 1944 và 1947. Họ cũng là á quân vào các năm 1948 và 1949. Sevilla cũng có một kỷ nguyên vàng ngắn ngủi, kết thúc với vị trí á quân vào các năm 1940 và 1942 trước khi giành danh hiệu duy nhất cho đến nay vào năm 1946.
Trong khi đó, bên kia Tây Ban Nha, FC Barcelona bắt đầu nổi lên như một thế lực dưới thời huyền thoại Josep Samitier. Là một cầu thủ bóng đá người Tây Ban Nha cho cả Barcelona và Real Madrid, Samitier đã củng cố di sản của mình với Barcelona. Trong sự nghiệp thi đấu của mình với Barcelona, anh ấy đã ghi được 133 bàn thắng, giành chức vô địch La Liga đầu tiên và 5 Copa Del Rey. Năm 1944, Samitier trở lại Barcelona với tư cách là một huấn luyện viên và hướng dẫn họ giành chức vô địch La Liga thứ hai vào năm 1945. Dưới thời Samitier và các cầu thủ huyền thoại César Rodríguez, Josep Escolà, Estanislau Basora và Mariano Gonzalvo, Barcelona đã thống trị La Liga vào cuối những năm 1940, liên tiếp vô địch La Liga vào các năm 1948 và 1949. Những năm 1940 là một mùa giải thành công của Barcelona, giành ba chức vô địch La Liga và một Copa Del Rey, nhưng những năm 1950 đã chứng tỏ là một thập kỷ thống trị, không chỉ của Barcelona mà còn của Real Madrid.
Thập niên 1950: FC Barcelona tiếp tục thành công nhưng Real Madrid trỗi dậy
Mặc dù Atlético Madrid, trước đây được gọi là Atlético Aviación, là nhà vô địch vào năm 1950 và 1951 dưới sự dẫn dắt của catenaccio Helenio Herrera, những năm 1950 tiếp tục thành công mà FC Barcelona có được vào cuối những năm 1940 sau khi họ liên tiếp giành được các danh hiệu La Liga. Trong thập kỷ này, kỷ nguyên vàng đầu tiên của Barcelona đã xuất hiện. Dưới sự dẫn dắt của huấn luyện viên Ferdinand Daučík, FC Barcelona đã giành được cú đúp liên tiếp, vô địch La Liga và Copa Del Rey vào năm 1952 và 1953. Năm 1952, FC Barcelona một lần nữa làm nên lịch sử khi giành được 5 danh hiệu đặc biệt trong một năm. Đội này bao gồm László Kubala, Mariano Gonzalvo, César Rodríguez và Joan Segarra đã vô địch La Liga, Copa Del Rey, Copa Eva Duarte (tiền thân của Siêu cúp Tây Ban Nha), Cúp bóng đá La-tinh và Copa Martini & Rossi. Thành công của họ trong việc giành được năm chiếc cúp trong một năm đã mang lại cho họ cái tên 'L'equip de les cinc Copes' hay Đội của Năm chiếc Cúp. Vào cuối những năm 1950, dưới sự dẫn dắt của Helenio Herrera và có sự góp mặt của Luis Suárez, Barcelona lại giành chiến thắng trong set đấu thứ ba tại La Liga, họ vô địch vào các năm 1959 và 1960. Năm 1959, FC Barcelona cũng giành được một cú đúp La Liga / Copa Del Rey khác, vượt qua ba cú đúp vào những năm 1950.
Những năm 1950 cũng chứng kiến sự khởi đầu của sự thống trị của Real Madrid. Trong suốt những năm 1930 đến những năm 1950, có những giới hạn nghiêm ngặt đối với các cầu thủ nước ngoài. Trong hầu hết các trường hợp, các câu lạc bộ chỉ có thể có ba cầu thủ nước ngoài trong đội của họ, nghĩa là ít nhất tám cầu thủ địa phương phải thi đấu trong mỗi trận đấu. Tuy nhiên, trong những năm 1950, những quy tắc này đã bị phá vỡ bởi Real Madrid, người đã nhập tịch Alfredo Di Stéfano và Ferenc Puskás. Di Stéfano, Puskás, Raymond Kopa và Francisco Gento đã trở thành hạt nhân của đội Real Madrid thống trị nửa sau của những năm 1950. Real Madrid vô địch La Liga lần thứ ba vào năm 1954 — lần đầu tiên kể từ năm 1933 — và giữ danh hiệu này vào năm 1955. Năm 1956, Câu lạc bộ Athletic giành chức vô địch La Liga lần thứ sáu, nhưng Real Madrid lại vô địch La Liga vào năm 1957 và 1958. Thập niên 1950 cũng chứng kiến Real Madrid thống trị Cúp C1 châu Âu mới được thành lập, càn quét năm mùa giải đầu tiên.
Nhìn chung, Barcelona và Real Madrid mỗi bên đã giành được 4 chức vô địch La Liga trong những năm 50, trong đó Atlético Madrid giành được hai chức vô địch Liga và Câu lạc bộ thể thao giành được một chức vô địch trong thập kỷ này.
Thập niên 1960–1970: Sự vượt trội của Real Madrid
Real Madrid thống trị La Liga từ năm 1960 đến 1980, lên ngôi vô địch 14 lần. Real Madrid đã giành được năm danh hiệu La Liga liên tiếp từ năm 1961 đến năm 1965 cũng như giành được ba cú đúp từ năm 1960 đến năm 1980. Trong suốt những năm 1960 và 1970, chỉ có Atlético Madrid là thách thức lớn đối với Real Madrid. Atlético Madrid đã 4 lần lên ngôi vô địch La Liga vào các năm 1966, 1970, 1973 và 1977. Atlético Madrid cũng về nhì vào các năm 1961, 1963 và 1965. Năm 1971, Valencia giành chức vô địch La Liga lần thứ tư vào năm 1971 dưới thời Alfredo Di Stéfano, và Barcelona lấy cảm hứng từ Johan Cruyff đã giành La Liga thứ chín vào năm 1974.
Thập niên 1980: Real Madrid thống trị nhưng các CLB xứ Basque phá vỡ sự độc tôn của họ
Sự độc tôn của Real Madrid tại La Liga đã bị gián đoạn đáng kể vào những năm 1980. Mặc dù Real Madrid đã giành được 5 chức vô địch La Liga khác liên tiếp từ 1986 đến 1990 dưới sự xuất sắc của Emilio Butragueño và Hugo Sánchez, các câu lạc bộ xứ Basque là Real Sociedad và Athletic Club cũng thống trị thập niên 1980. Real Sociedad liên tiếp vô địch La Liga vào các năm 1981 và 1982, sau khi để đội về nhì là Real Madrid cả hai lần. Các chức vô địch của họ được theo sau bởi câu lạc bộ đồng hương xứ Basque là Athletic Club, đội đã giành được các danh hiệu liên tiếp vào các năm 1983 và 1984, cùng với Athletic Club giành cú đúp La Liga và Copa Del Rey lần thứ năm vào năm 1984. Barcelona giành chức vô địch La Liga thứ mười vào năm 1985 dưới thời huấn luyện viên Terry Venables, chức vô địch La Liga đầu tiên của họ kể từ năm 1974.
Thập niên 1990: Đội hình trong mơ của Barcelona
Johan Cruyff trở lại Barcelona với tư cách là huấn luyện viên vào năm 1988, và tập hợp Đội hình trong mơ huyền thoại. Khi Cruyff dẫn dắt Barcelona, họ chỉ giành được 2 chức vô địch La Liga trong 20 năm qua. Cruyff quyết định xây dựng một đội gồm các ngôi sao quốc tế và những người tốt nghiệp La Masia để khôi phục Barcelona về những ngày huy hoàng trước đây của họ. Đội này được thành lập bởi các ngôi sao quốc tế Romário, Michael Laudrup, Hristo Stoichkov và Ronald Koeman. Đội hình trong mơ của Cruyff cũng bao gồm những cầu thủ tốt nghiệp La Masia Pep Guardiola, Albert Ferrer, và Guillermo Amor, cũng như người Tây Ban Nha Andoni Zubizarreta.
Johan Cruyff đã thay đổi cách chơi bóng đá hiện đại, và kết hợp các nguyên tắc của 'Bóng đá tổng lực' vào đội này. Thành công của bóng đá kiểm soát bóng là một cuộc cách mạng, và đội bóng của Cruyff đã giành được Cúp C1 châu Âu đầu tiên trong 1992 và bốn chức vô địch La Liga liên tiếp từ năm 1991 đến 1994. Tổng cộng, Cruyff đã giành được 11 danh hiệu trong 8 năm, khiến ông trở thành huấn luyện viên thành công nhất trong lịch sử của Barcelona cho đến khi kỷ lục bị phá vỡ bởi học trò cưng của ông là Pep Guardiola hai thập kỷ sau đó.
Chuỗi danh hiệu của Barcelona kết thúc với việc Real Madrid vô địch La Liga năm 1995. Atlético Madrid giành chức vô địch La Liga thứ chín vào năm 1996, cũng như cú đúp Liga/Copa Del Rey duy nhất của họ, trước khi Real Madrid thêm một chức vô địch khác vào năm 1997. Sau thành công của Cruyff, một người Hà Lan khác – huấn luyện viên Ajax, Louis van Gaal – đến Camp Nou, và với tài năng của Luís Figo, Luis Enrique, và Rivaldo, Barcelona đã giành danh hiệu La Liga vào các năm 1998 và 1999, bao gồm cú đúp thứ tư của họ là Liga và Copa Del Rey vào năm 1998. Nhìn chung, Barcelona đã giành được sáu La Liga danh hiệu trong những năm 1990.
Thập niên 2000: Sự tái xuất của Real Madrid, Barcelona và Valencia
Thế kỷ 21 tiếp nối thành công mà FC Barcelona có được vào những năm 1990 dưới thời Johan Cruyff khi thống trị La Liga. Mặc dù Real Madrid đã nổi bật, nhưng Barcelona đã tạo ra một quyền bá chủ ở Tây Ban Nha chưa từng thấy kể từ Real Madrid của những năm 1960–70. Kể từ đầu thế kỷ mới, Barcelona đã giành được 10 La Liga, trong đó có hai cú ăn ba và bốn cú đúp. Tuy nhiên, thế kỷ mới này cũng chứng kiến những kẻ thách thức mới lên ngôi vô địch. Trong khoảng thời gian từ 1999–2000 đến 2004, Deportivo La Coruña đã 5 lần lọt vào top 3, thành tích tốt hơn cả Real Madrid hoặc Barcelona, và vào năm 2000, dưới thời Javier Irureta, Deportivo trở thành đội thứ 9 lên ngôi vô địch. Valencia là một trong những đội mạnh nhất châu Âu từ đầu đến giữa những năm 2000; họ đã lên ngôi vô địch La Liga vào năm 2002 và 2004 dưới thời Rafael Benítez, đồng thời là á quân tại UEFA Champions League năm 2000 và 2001 dưới thời Hector Cuper và giành Cúp UEFA năm 2004 và Copa del Rey năm 1999.
Real Madrid đã giành chức vô địch Liga đầu tiên của thế kỷ vào năm 2001 và 2003. Với những cầu thủ đẳng cấp thế giới như Raúl, Ruud van Nistelrooy và Gonzalo Higuaín, Real Madrid đã liên tiếp giành chức vô địch La Liga vào các năm 2006–07 và 2007–08. FC Barcelona đã giành được danh hiệu đầu tiên của thế kỷ mới sau khi Real Madrid và Valencia chia sẻ bốn danh hiệu gần nhất dưới sự xuất sắc của Ronaldinho và Samuel Eto'o trong mùa giải 2004–05. Barcelona đã giữ được danh hiệu này để giành chiến thắng liên tiếp trong mùa giải 2005–06.
Thập niên 2010: Barcelona, Real Madrid và Atletico
Trong năm 2009–10, Real Madrid đạt kỷ lục 96 điểm nhưng vẫn xếp sau Barcelona, đội đã tích lũy được 99 điểm. Barcelona sau đó đã giành chức vô địch La Liga thứ ba liên tiếp trong mùa giải 2010–11 với 96 điểm so với 92 của Real, nhưng Real Madrid đã kết thúc chuỗi trận toàn thắng của họ ở mùa giải 2011–12 dưới sự dẫn dắt của José Mourinho và với những cầu thủ như Cristiano Ronaldo, Ángel Di María, Mesut Özil và Karim Benzema. Madrid đã giành chức vô địch La Liga lần thứ 32 với kỷ lục 100 điểm, kỷ lục 121 bàn thắng ghi được và hiệu số bàn thắng bại kỷ lục +89. Một năm sau, ở mùa giải 2012–13, Barcelona giành thêm một chức vô địch La Liga dưới thời huấn luyện viên Tito Vilanova, lặp lại kỷ lục 100 điểm mà Real Madrid đạt được năm trước. Atlético Madrid, dưới sự dẫn dắt của Diego Simeone, đã giành chức vô địch La Liga lần thứ mười trong mùa giải 2013–14, lần đầu tiên kể từ năm 1996. Họ trở thành đội đầu tiên kể từ Valencia năm 2004 vô địch La Liga và phá vỡ sự thống trị của Barcelona và Real Madrid trong giải đấu. Trong mùa giải 2014–15, dưới sự dẫn dắt của bộ ba Messi, Neymar, và Suárez có biệt danh là 'MSN', Barcelona đã làm nên lịch sử khi trở thành đội đầu tiên giành được cú ăn ba thứ hai và giành cú đúp Liga/Copa Del Rey lần thứ sáu. Barcelona tiếp tục sự thống trị của họ, và trong mùa giải 2015–16, họ đã giành được cú đúp Liga/Copa Del Rey liên tiếp, điều chưa từng đạt được kể từ những năm 1950. Real Madrid đã mang về chức vô địch La Liga dưới sự dẫn dắt của Zinédine Zidane trong mùa giải 2016–17, nhưng Barcelona đã giành được danh hiệu này một lần nữa trong mùa giải 2017–18, cũng như giành cú đúp thứ tám, cho 7 danh hiệu La Liga trong 10 năm. Barcelona đã giành được danh hiệu này một lần nữa và giành chức vô địch La Liga thứ 26 trong mùa giải 2018–19, với 8 chức vô địch La Liga sau 11 năm. Real Madrid giành lại chức vô địch mùa giải 2019–20 sau khi giành chiến thắng trong mùa giải bị gián đoạn nghiêm trọng bởi đại dịch COVID-19.
Thập niên 2020: Hiện nay
Mùa giải 2020–21 bắt đầu vào ngày 12 tháng 9. Các đội tham dự La Liga 2020–21 là Athletic Club de Bilbao, Atlético de Madrid, Barcelona, Betis, Cádiz, Eibar, Getafe, Huesca, Levante, Osasuna, Real Madrid, Real Sociedad, Sevilla, Valencia, Valladolid, Villarreal, Elche, Alavés, Eibar và Celta Vigo. Các đội tham gia Primera División, đến từ Segunda là Cadiz, Elche và Huesca. Atletico Madrid vô địch mùa giải 2020–21 với Real Madrid là á quân.
Vào tháng 8 năm 2021, các câu lạc bộ La Liga đã thông qua thỏa thuận trị giá 2,7 tỷ euro để bán 10% cổ phần của giải đấu cho CVC Capital Partners.
Real Madrid vô địch mùa giải 2021–22 khi còn bốn trận chưa đấu. Barcelona kết thúc ở vị trí thứ hai sau khi cải thiện phong độ trong nửa sau của mùa giải.
Các câu lạc bộ
20 đội cạnh tranh giải đấu trong mùa giải hiện tại, bao gồm 17 đội hàng đầu từ mùa giải 2022–23 và ba đội thăng hạng từ Segunda División 2022–23. Granada và Las Palmas được thăng hạng trực tiếp và Alavés chiến thắng play-off thăng hạng.
Sân vận động và địa điểm
Các câu lạc bộ La Liga tại châu Âu
Primera División hiện đang đứng thứ hai trong bảng xếp hạng của UEFA các giải đấu châu Âu dựa trên thành tích của họ tại các giải đấu châu Âu trong khoảng thời gian 5 năm, sau Premier League của Anh, nhưng xếp trên Serie A của Ý và Bundesliga của Đức.
Real Madrid, Barcelona và Atlético Madrid nằm trong top 10 câu lạc bộ thành công nhất của bóng đá châu Âu về tổng số danh hiệu châu Âu. Ba câu lạc bộ này, cùng với Sevilla và Valencia, là những câu lạc bộ Tây Ban Nha duy nhất đã giành được năm danh hiệu quốc tế trở lên. Deportivo La Coruña là đội bóng Tây Ban Nha tham dự Champions League nhiều thứ năm cùng với Sevilla — sau Real Madrid, Barcelona, Valencia và Atlético Madrid — với năm lần tham dự Champions League liên tiếp, trong đó có một lần vào bán kết mùa giải 2003–04.
Trong mùa giải châu Âu 2005–06, La Liga trở thành giải đấu đầu tiên có các câu lạc bộ vô địch cả Champions League và UEFA Cup kể từ năm 1997, khi Barcelona vô địch UEFA Champions League và Sevilla vô địch UEFA Cup. Kỳ tích này được lặp lại bốn lần trong năm mùa giải: trong mùa giải 2013–14, Real Madrid giành chức vô địch Champions League lần thứ mười và Sevilla giành chức vô địch Europa League lần thứ ba, trong mùa giải 2014–15, Barcelona giành chức vô địch Champions League lần thứ năm và Sevilla giành chức vô địch Europa League lần thứ tư, trong mùa giải 2015–16, Real Madrid đã giành chức vô địch Champions League lần thứ 11 và Sevilla giành chức vô địch Europa League lần thứ 5 (trở thành đội đầu tiên giành chức vô địch ba lần liên tiếp), và trong mùa giải 2017–18, Real Madrid đã giành chức vô địch Champions League lần thứ 13 và Atlético Madrid đã giành chức vô địch Europa League lần thứ ba.
Năm 2015, La Liga trở thành giải đấu đầu tiên có 5 đội góp mặt ở vòng bảng Champions League, với Barcelona, Real Madrid, Atlético Madrid và Valencia đủ điều kiện thông qua vị trí trong giải đấu của họ và Sevilla đủ điều kiện nhờ chiến thắng tại Europa League, nhờ sự giúp đỡ của một sự thay đổi quy tắc.
Các nhà vô địch
Thành tích của câu lạc bộ
Cầu thủ
Tính đủ điều kiện của cầu thủ ngoài EU
Tại La Liga năm 2020, mỗi câu lạc bộ được phép có 5 cầu thủ không thuộc EU nhưng chỉ được phép điền tên 3 cầu thủ không thuộc EU vào đội hình mỗi ngày thi đấu.
Người chơi có thể yêu cầu quyền công dân từ quốc gia mà tổ tiên họ đến. Nếu một cầu thủ không có nguồn gốc châu Âu, anh ta có thể xin quốc tịch Tây Ban Nha sau khi chơi ở Tây Ban Nha trong 5 năm. Đôi khi, điều này có thể dẫn đến tình trạng ba quốc tịch; ví dụ, Leo Franco, người sinh ra ở Argentina, là người gốc Ý nhưng vẫn có thể xin hộ chiếu Tây Ban Nha, đã chơi ở La Liga hơn 5 năm.
Ngoài ra, người chơi từ các quốc gia ACP—các quốc gia ở Châu Phi, Ca-ri-bê và Thái Bình Dương là các bên ký kết Thỏa thuận Cotonou—không được tính vào hạn ngạch ngoài EU do phán quyết của Kolpak.
Giải thưởng cá nhân
Cho đến mùa giải 2008–09, không có giải thưởng cá nhân chính thức nào tồn tại ở La Liga. Trong mùa giải 2008–09, cơ quan quản lý đã tạo ra Giải thưởng LFP (nay được gọi là Giải thưởng La Liga), được trao mỗi mùa giải cho từng cầu thủ và huấn luyện viên. Phần lớn các giải thưởng này đã bị ngừng sau mùa giải 2015–16. Các phần thưởng bổ sung liên quan đến La Liga được phân phối, một số phần thưởng không được Liga de Futbol Profesional hoặc RFEF chấp nhận và do đó không được coi là chính thức. Đáng chú ý nhất trong số này là bốn giải thưởng do tờ báo thể thao lớn nhất Tây Ban Nha, Marca trao tặng, cụ thể là Pichichi Trophy, được trao cho cầu thủ ghi bàn hàng đầu của mùa giải; Cúp Ricardo Zamora, dành cho thủ môn có số bàn thua mỗi trận ít nhất (tối thiểu 28 trận); Alfredo Di Stéfano Trophy, dành cho cầu thủ được đánh giá là cầu thủ xuất sắc nhất toàn giải; và Zarra Trophy, dành cho cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất trong số các cầu thủ nội địa Tây Ban Nha.
Kể từ mùa giải 2013–14, La Liga cũng đã trao giải thưởng cho huấn luyện viên của tháng và cầu thủ của tháng.
Chuyển nhượng
Cầu thủ La Liga đầu tiên tham gia vào vụ chuyển nhượng phá kỷ lục thế giới là Luis Suárez vào năm 1961, người chuyển từ Barcelona sang Inter Milan với giá 152.000 bảng (3,6 triệu bảng vào năm 2021). 12 năm sau, Johan Cruyff là cầu thủ đầu tiên gia nhập một câu lạc bộ ở La Liga với mức phí kỷ lục 922.000 bảng (11,9 triệu bảng vào năm 2021), khi anh chuyển từ Ajax sang Barcelona. Năm 1982, Barcelona một lần nữa lập kỷ lục khi ký hợp đồng với Diego Maradona từ Boca Juniors với giá 5 triệu bảng (19 triệu bảng vào năm 2021). Real Betis lập kỷ lục thế giới vào năm 1998 khi họ ký hợp đồng với Denilson từ São Paulo với giá 21,5 triệu bảng (40,2 triệu bảng vào năm 2021).
Bốn trong số sáu kỷ lục chuyển nhượng thế giới gần đây nhất đã được thiết lập bởi Real Madrid, ký hợp đồng với Luís Figo, Zinedine Zidane, Cristiano Ronaldo (cộng với một thỏa thuận cho Kaká vài ngày trước Ronaldo, chỉ dưới một kỷ lục thế giới do cách tính phí) và cuối cùng là Gareth Bale, người được mua vào năm 2013 với giá 85,3 triệu bảng (103,4 triệu euro hay 140 triệu đô la vào thời điểm đó; 104 triệu bảng vào năm 2021) từ Tottenham Hotspur.
Tiền đạo người Brasil Neymar là đối tượng của một thỏa thuận chuyển nhượng phức tạp và tốn kém khi anh gia nhập Barcelona từ Santos vào năm 2013, và vụ chuyển nhượng sắp tới của anh đến Paris Saint-Germain vào năm 2017 đã lập kỷ lục thế giới mới với mức phí chuyển nhượng 222 triệu euro thông qua điều khoản mua lại. Barcelona đã sớm đầu tư một số tiền lớn nhận được từ vụ chuyển nhượng này để thay thế Ousmane Dembélé, người có hợp đồng – 105 triệu euro – đắt thứ hai từ trước đến khi vụ chuyển nhượng của Philippe Coutinho đến Barcelona với giá 142 triệu euro vào tháng 1 năm 2018.
Kỷ lục cầu thủ
Nhiều bàn thắng nhất
In đậm chỉ cầu thủ vẫn đang thi đấu tại La Liga. In nghiêng chỉ cầu thủ vẫn đang thi đấu bên ngoài La Liga.
Thi đấu nhiều nhất
Các nhà tài trợ
EA Sports FC
Puma
Microsoft
Mahou-San Miguel Group
Sorare
Balkrishna Industries
LaLiga Golazos (Dapper Labs)
Gol-Ball
El Corte Inglés
Allianz
Burger King
Panini Group
Nissan
vivo
Solán de Cabras
Legends The Home of Football
Avery Dennison
GreenPark Sports
Fanatics, Inc.
Tên gọi giải đấu theo tài trợ
Liga BBVA (2008–2016)
LaLiga Santander (2016–2023)
LaLiga EA Sports (2023–)
Ghi chú
Tham khảo
Liên kết ngoài
Liên đoàn bóng đá Tây Ban Nha
1
Thành lập năm 1928 ở Tây Ban Nha
Thành lập năm 1929 ở Tây Ban Nha
Giải đấu thể thao chuyên nghiệp ở Tây Ban Nha
Giải thể thao thành lập năm 1928
Tây Ban Nha
|
22385
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C3%B4n%20ng%E1%BB%AF%20%C4%91%C3%A1nh%20d%E1%BA%A5u
|
Ngôn ngữ đánh dấu
|
Một ngôn ngữ đánh dấu có cả văn bản và thông tin phụ về văn bản. Thông tin này, ví dụ nói về cấu trúc của tập tin hay cách trình bày văn bản, là mã đánh dấu được pha trộn vào văn bản chính. Ngôn ngữ đánh dấu hiện đại nổi tiếng nhất là HTML (Ngôn ngữ Đánh dấu Siêu văn bản), một gốc của World Wide Web. Trong lịch sử và hiện nay, mã đánh dấu được sử dụng trong ngành xuất bản để gửi thông tin về công trình giữa tác giả, nhà xuất bản, và nhà in.
Thẻ đánh dấu
Thẻ đánh dấu trong các ngôn ngữ đánh dấu có thể được hiểu như một câu ra lệnh. Nội dung nằm trong thẻ đánh dấu sẽ được điều chỉnh theo chức năng của thẻ đánh dấu.
Một ví dụ về thẻ đánh dấu trong HTML:
<i>Chữ in nghiêng</i>
cho ra kết quả hiển thị là
Chữ in nghiêng
Một số ngôn ngữ đánh dấu
Ngôn ngữ đánh dấu đa mục đích
SGML
Ngôn ngữ đánh dấu giao diện
XUL
Ngôn ngữ đánh dấu hình ảnh đồ họa vectơ
SVG
Ngôn ngữ đánh dấu phục vụ Web
WSDL
Ngôn ngữ đánh dấu siêu văn bản
HTML
Xem thêm
CSS (Cascading Style Sheets)
Tham khảo
Ngôn ngữ máy tính
Định dạng tập tin
Phát minh của Hoa Kỳ
Ngôn ngữ hình thức
|
22417
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BB%A7%20t%E1%BB%8Bch%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20x%C3%A3%20h%E1%BB%99i%20ch%E1%BB%A7%20ngh%C4%A9a%20Vi%E1%BB%87t%20Nam
|
Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
|
Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (gọi tắt: Chủ tịch nước) là nguyên thủ quốc gia của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là người đứng đầu Nhà nước Việt Nam, thay mặt nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Chủ tịch nước thống lĩnh lực lượng vũ trang nhân dân, giữ chức Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh Việt Nam. Chủ tịch nước là một trong số các đại biểu Quốc hội Việt Nam do toàn thể Quốc hội bầu ra.
Người giữ chức vụ Chủ tịch nước đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Tôn Đức Thắng, được bầu tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội Việt Nam năm 1976. Không có quy định pháp luật Chủ tịch nước phải là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam nhưng giai đoạn gần đây, Chủ tịch nước thường là một Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nhiệm kì của Chủ tịch nước
Theo Hiến pháp năm 2013 – Điều 87: "Nhiệm kỳ của Chủ tịch nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chủ tịch nước tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khóa mới bầu ra Chủ tịch nước". Nhiệm kỳ của một khóa Quốc hội là 5 năm. Do đó nhiệm kỳ của Chủ tịch nước cũng là 5 năm.
Nhiệm vụ và quyền hạn
Điều 88 Hiến pháp năm 2013 quy định:
"Chủ tịch nước có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
Công bố Hiến pháp, luật, pháp lệnh; đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày pháp lệnh được thông qua, nếu pháp lệnh đó vẫn được Ủy ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất;
Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ;
Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán các Tòa án khác, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao; quyết định đặc xá; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, công bố quyết định đại xá;
Quyết định tặng thưởng huân chương, huy chương, các giải thưởng nhà nước, danh hiệu vinh dự nhà nước; quyết định cho nhập quốc tịch, thôi quốc tịch, trở lại quốc tịch hoặc tước quốc tịch Việt Nam;
Thống lĩnh lực lượng vũ trang nhân dân, giữ chức Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh Việt Nam; quyết định phong, thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng, chuẩn đô đốc, phó đô đốc, đô đốc hải quân; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc của Ủy ban thường vụ Quốc hội, công bố, bãi bỏ quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh; căn cứ vào nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp; trong trường hợp Ủy ban thường vụ Quốc hội không thể họp được, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương;
Đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ văn bản của Thủ tướng, Phó Thủ tướng trái với Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; đình chỉ việc thi hành nghị quyết của Chính phủ, trái với Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, đồng thời đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội bãi bỏ;
Tiếp nhận đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài; căn cứ vào nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm; quyết định cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; phong hàm, cấp đại sứ; quyết định đàm phán, ký điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước; trình Quốc hội phê chuẩn, quyết định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế quy định tại khoản 14 Điều 70; quyết định phê chuẩn, gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế khác nhân danh Nhà nước."
Quyền hạn của Chủ tịch nước đối với Chính phủ
Điều 90 Hiến pháp năm 2013 quy định: "Chủ tịch nước có quyền tham dự phiên họp của Chính phủ. Chủ tịch nước có quyền yêu cầu Chính phủ họp bàn về vấn đề mà Chủ tịch nước xét thấy cần thiết để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước."
Theo Điều 28 Luật Tổ chức Chính phủ 2015, trong thời gian Quốc hội không họp, Chủ tịch nước có quyền tạm đình chỉ công tác của Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ.
Quyền hạn của Chủ tịch nước đối với Quốc hội
Điều 90 Hiến pháp năm 2013 cũng có quy định rằng Chủ tịch nước có quyền tham dự các phiên họp của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Quyền hạn của Chủ tịch nước đối với Hội Chữ thập đỏ Việt Nam
Từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Hội Chữ thập đỏ đã nhất trí suy tôn Chủ tịch nước giữ chức Chủ tịch danh dự Hội Chữ thập đỏ Việt Nam để tiếp tục phát huy hơn nữa vai trò nòng cốt trong sự nghiệp nhân đạo, tích cực thực hiện chính sách an sinh xã hội của Nhà nước.
Quy trình đề cử, bầu, bổ nhiệm và tuyên thệ
Chủ tịch nước được bầu bởi Quốc hội trong số đại biểu Quốc hội (Điều 87 - Hiến pháp 2013), vì vậy, điều kiện đầu tiên của ứng viên chức danh Chủ tịch nước cũng phải là đại biểu Quốc hội khóa đương nhiệm. Theo Khoản 2, Điều 8, Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014, Chủ tịch nước được Quốc hội bầu dựa theo đề nghị của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Trình tự bầu
Trình tự bầu Chủ tịch nước được quy định cụ thể vào Điều 31, Mục 1, Chương III: Quyết định vấn đề quan trọng của đất nước của "Nghị quyết Ban hành nội quy kỳ họp Quốc hội" số 102/2015/QH13 do Quốc hội khóa XIII ban hành ngày 24/11/2015 như sau:
1. Ủy ban thường vụ Quốc hội trình danh sách đề cử để Quốc hội bầu Chủ tịch nước.
2. Ngoài danh sách do Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị, đại biểu Quốc hội có quyền giới thiệu thêm hoặc tự ứng cử vào chức danh Chủ tịch nước; người được giới thiệu ứng cử có quyền rút khỏi danh sách người ứng cử.
3. Đại biểu Quốc hội thảo luận tại Đoàn đại biểu Quốc hội; Chủ tịch Quốc hội có thể họp với các Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội để trao đổi về các vấn đề có liên quan.
4. Ủy ban thường vụ Quốc hội báo cáo Quốc hội kết quả thảo luận tại Đoàn đại biểu Quốc hội và giải trình, tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội; trình Quốc hội quyết định danh sách người ứng cử do đại biểu Quốc hội giới thiệu hoặc tự ứng cử.
5. Quốc hội thảo luận, biểu quyết thông qua danh sách để bầu Chủ tịch nước.
6. Quốc hội thành lập Ban kiểm phiếu.
7. Quốc hội bầu Chủ tịch nước bằng hình thức bỏ phiếu kín.
8. Ban kiểm phiếu công bố kết quả kiểm phiếu, biểu quyết.
9. Quốc hội thảo luận, biểu quyết thông qua nghị quyết bầu Chủ tịch nước.
10. Chủ tịch nước tuyên thệ.
Tại mỗi kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khóa mới sẽ bầu ra một Ban kiểm phiếu làm nhiệm vụ điều hành và xác định kết quả bỏ phiếu với các thành viên "không là người trong danh sách để Quốc hội bầu, phê chuẩn; miễn nhiệm, bãi nhiệm, cho thôi làm nhiệm vụ; phê chuẩn miễn nhiệm, cách chức; lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm" (Điều 27, Nghị quyết Ban hành nội quy kỳ họp Quốc hội số 102/2015/QH1).
Cách thức để xác định kết quả bỏ phiếu bầu các chức danh trong bộ máy nhà nước, bao gồm cả Chủ tịch nước, được quy định như sau cũng trong Khoản 3a, Điều 27, Mục 1, Chương III "Nghị quyết Ban hành nội quy kỳ họp Quốc hội số 102/2015/QH1" rằng: "Trường hợp biểu quyết bầu các chức danh trong bộ máy nhà nước, người được quá nửa số phiếu hợp lệ tán thành so với tổng số đại biểu Quốc hội và được nhiều phiếu tán thành hơn thì trúng cử. Trường hợp cùng bầu một chức danh mà nhiều người được số phiếu tán thành ngang nhau và đạt quá nửa số phiếu hợp lệ tán thành so với tổng số đại biểu Quốc hội thì Quốc hội biểu quyết lại việc bầu chức danh này trong số những người được số phiếu hợp lệ tán thành ngang nhau. Trong số những người được đưa ra biểu quyết lại, người được số phiếu tán thành nhiều hơn là người trúng cử; nếu biểu quyết lại mà nhiều người vẫn được số phiếu tán thành ngang nhau thì người nhiều tuổi hơn là người trúng cử"
Hồ sơ nhân sự
Theo Điều 28, Mục 1, Chương III "Nghị quyết Ban hành nội quy kỳ họp Quốc hội số 102/2015/QH13", với các chức danh được Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn, trong đó có chức danh Chủ tịch nước, cần phải trình hồ sơ nhân sự gồm có: tờ trình của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền; báo cáo thẩm tra trong trường hợp pháp luật quy định; cũng như hồ sơ về người được giới thiệu vào các chức danh để Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn và các tài liệu khác theo quy định của Ủy ban thường vụ. Với hồ sơ của người tự ứng cử hay được đại biểu Quốc hội giới thiệu thì phải trình tới Ủy ban thường vụ muộn nhất 2 ngày trước phiên họp bầu chức danh đó.
Quy trình đề cử ứng cử viên Chủ tịch nước trong Đảng Cộng sản Việt Nam
Các ứng cử viên cho chức vụ Chủ tịch nước thường phải là một ủy viên Bộ Chính trị. Theo quy trình, trước Đại hội Đảng khóa mới, Ban Chấp hành Trung ương khóa cũ sẽ họp Hội nghị Trung ương để bỏ phiếu các phương án nhân sự cho Quốc hội khóa mới và bầu ra danh sách giới thiệu Chủ tịch nước cùng các chức danh lãnh đạo khác. Sau Đại hội Đảng khóa mới, Bộ Chính trị trình lại danh sách giới thiệu các chức vụ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ và Quốc hội cho Ban Chấp hành Trung ương khóa mới biểu quyết thống nhất để trình Quốc hội khóa mới bầu. Tại "Quy định số 105 về phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử" của Ban Chấp hành Trung ương ngày 19/12/2017 có quy định rõ hơn về việc quyết định chức danh Chủ tịch nước sẽ do Ban Bí thư quyết định.
Ủy ban thường vụ Quốc hội, dưới sự chỉ đạo của Đảng đoàn Quốc hội sẽ giới thiệu tới Quốc hội khóa mới danh sách đề cử ứng viên Chủ tịch nước dựa theo danh sách giới thiệu đã được Ban Chấp hành Trung ương thông qua theo nguyên tắc lãnh đạo công tác cán bộ của Đảng
Tuyên thệ nhậm chức
Theo Khoản 8 Điều 8 của Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 do Quốc hội Việt Nam khóa 13 ban hành, sau khi được bầu, Chủ tịch nước phải tuyên thệ trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp. Khoản 2 Điều 29 Chương III của "Nghị quyết Ban hành nội quy kỳ họp Quốc hội" năm 2015 quy định cụ thể hơn: "người tuyên thệ quyết định nội dung tuyên thệ phù hợp với trách nhiệm được giao. Người tuyên thệ phải đứng trước Quốc kỳ tuyên thệ. Thời gian tuyên thệ không quá 03 phút".
Chức vụ bỏ trống
Theo Điều 93 Hiến pháp năm 2013, trong trường hợp chức vụ Chủ tịch nước bị bỏ trống (cách chức, từ chức hay đột ngột qua đời) thì Phó Chủ tịch nước giữ quyền Chủ tịch nước tạm quyền. Chủ tịch nước tạm quyền có đầy đủ quyền hành như Chủ tịch nước cho đến khi Quốc hội bầu ra Chủ tịch nước mới. Khi Chủ tịch nước không làm việc được trong thời gian dài hay bị đình chỉ chức vụ tạm thời thì Phó Chủ tịch nước giữ quyền Chủ tịch nước tạm quyền cho đến khi Chủ tịch nước trở lại làm việc.
Ngày 18 tháng 1 năm 2023, khi Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc xin thôi chức và được chấp thuận, bà Võ Thị Ánh Xuân, Phó Chủ tịch nước đương nhiệm đã giữ quyền Chủ tịch nước đến khi Quốc hội bầu ông Võ Văn Thưởng làm Chủ tịch nước mới. Ngày 20 tháng 3 năm 2024, khi Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng xin thôi chức và được chấp thuận, bà Võ Thị Ánh Xuân, Phó Chủ tịch nước đương nhiệm lại giữ quyền Chủ tịch nước.
Chế độ đãi ngộ
Lương bổng
Theo Nghị quyết 730/2004/NQ-UBTVQH11 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Việt Nam khóa 11 vào năm 2004 và Nghị định 66/2013/NĐ-CP của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 thì Chủ tịch nước có mức lương vào năm 2016 là 15.730.000 đồng/tháng , năm 2018 là 18.070.000 đồng/tháng , năm 2019 là 19.370.000 đồng/tháng , năm 2023 là 23.400.000 đồng/tháng
Mức lương của Chủ tịch nước được tính theo công thức: lương cơ sở x hệ số 13.
Nơi ở
Dinh thự nơi Chủ tịch nước làm việc là Phủ Chủ tịch, nằm trong quần thể khu di tích Phủ Chủ tịch, gần lăng Hồ Chí Minh và quảng trường Ba Đình, Hà Nội. Dinh thự đồng thời là nơi tổ chức các lễ đón tiếp các nguyên thủ quốc gia hoặc người đứng đầu chính phủ đến thăm chính thức Việt Nam.
Chủ tịch nước được cấp nhà công vụ với mục đích sinh hoạt, sử dụng theo tiêu chuẩn Ủy viên Bộ Chính trị.
Chăm sóc sức khỏe
Theo Quy định 121-QĐ/TW ngày 25 tháng 1 năm 2018 về Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cán bộ cấp cao thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý thì Chủ tịch nước được:
Định kỳ 6 tháng/lần thực hiện khám, kiểm tra sức khỏe định kỳ. Trường hợp có bệnh lý thì thực hiện khám, kiểm tra sức khỏe theo chỉ định của Hội đồng Chuyên môn bảo vệ sức khỏe cán bộ.
Bác sĩ tiếp cận, thăm khám sức khỏe hằng ngày.
Khi đi công tác tại những vùng đặc biệt khó khăn trong nước: bố trí 1 bác sĩ tiếp cận.
Khi đi công tác tại các vùng còn lại trong nước: khi có yêu cầu của đồng chí trưởng đoàn, bố trí bác sĩ tiếp cận tháp tùng.
Khi đi công tác nước ngoài: bố trí Tổ Y tế phục vụ gồm 1 đồng chí đại diện lãnh đạo Ban hoặc Hội đồng Chuyên môn Ban Bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cán bộ Trung ương và 1 bác sĩ tiếp cận.
Nếu có bệnh lý cần điều trị, phải tuân thủ các quy định chuyên môn và hướng dẫn của bệnh viện và Ban Bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cán bộ Trung ương.
Hằng năm, thực hiện chế độ nghỉ dưỡng sức theo kế hoạch của Văn phòng Trung ương Đảng.
Nếu bị mắc các bệnh mãn tính, bệnh hiểm nghèo thực hiện chế độ Điều dưỡng kết hợp với Điều trị bệnh lý theo kế hoạch của Ban Bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cán bộ Trung ương.
Ngoài ra, Chủ tịch nước còn phải thực hiện tốt một số chế độ sau:
Chế độ ăn, uống khoa học, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, hạn chế uống rượu, bia; đặc biệt không dùng thực phẩm, rượu, bia không rõ nguồn gốc.
Sắp xếp thời gian làm việc, nghỉ ngơi hợp lý, không làm việc quá sức, có thời gian tập luyện thể dục, thể thao, an dưỡng, nghỉ dưỡng phục hồi sức khỏe.
Chỉ dùng thuốc, các sản phẩm thực phẩm bổ sung, thực phẩm chức năng khi có chỉ định, tư vấn của bệnh viện và Hội đồng Chuyên môn.
Bảo vệ
Theo Điều 12 khoản 1 của Luật Cảnh vệ năm 2017 được áp dụng các biện pháp, chế độ cảnh vệ đối với Chủ tịch nước sau đây:
Bảo vệ tiếp cận;
Tuần tra, canh gác thường xuyên tại nơi làm việc và nơi ở của Chủ tịch nước;
Kiểm tra an ninh, an toàn đồ dùng, vật phẩm, phương tiện đi lại để phát hiện chất nổ, chất cháy, chất độc sinh học, chất độc hóa học, chất phóng xạ và vật nguy hiểm khác;
Kiểm nghiệm thức ăn, nước uống trước khi sử dụng
Nhân viên cảnh vệ sẽ kiểm tra nhân thân, hồ sơ lý lịch của tất cả nhân viên khách sạn nơi Chủ tịch nước ở khi đang công tác nước ngoài;
Biện pháp nghiệp vụ khác theo quy định của Luật An ninh quốc gia và Luật Công an nhân dân.
Phương tiện
Khi sử dụng phương tiện đi lại bằng ô tô phục vụ công tác trong nước được miễn phí giao thông đường bộ, được ưu tiên bảo đảm thông suốt an toàn, được bố trí xe Cảnh sát dẫn đường.
Khi đi công tác trong nước, ngoài nước bằng tàu hỏa được bố trí toa riêng, đi bằng tàu bay được sử dụng chuyên khoang hoặc chuyên cơ riêng; khi đi bằng tàu thủy được sử dụng tàu, thuyền riêng
Sau khi hết nhiệm kỳ
Theo Điều 11 khoản 1 của Luật Cảnh vệ được áp dụng các biện pháp, chế độ cảnh vệ đối với Nguyên Chủ tịch nước sau đây:
Bảo vệ tiếp cận;
Canh gác thường xuyên tại nơi ở.
Lịch sử
Chế định Chủ tịch nước xuất hiện lần đầu từ bản Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam hiện đại. Điều thứ 44 và 45, Chương IV: Chính phủ Hiến pháp năm 1946 quy định: "Chính phủ gồm có Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Phó chủ tịch và Nội các", Chủ tịch nước được "chọn trong Nghị viện nhân dân và phải được hai phần ba tổng số nghị viên bỏ phiếu thuận. Nếu bỏ phiếu lần đầu mà không đủ số phiếu ấy, thì lần thứ nhì sẽ theo đa số tương đối. Chủ tịch nước Việt Nam được bầu trong thời hạn 5 năm và có thể được bầu lại."
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ứng dụng linh hoạt thiết chế Chủ tịch nước với bối cảnh đất nước thời điểm đó bằng việc đặt chức vụ Chủ tịch nước đồng thời đứng đầu ngành hành pháp, nhiệm kỳ tách biệt với nhiệm kỳ Nghị viện nhân dân (nhiệm kỳ của Nghị viện nhân dân là 3 năm) và không phải chịu một trách nhiệm nào, trừ khi phạm tội phản quốc (Điều thứ 50) nhằm tránh việc các quyết định quan trọng của đất nước bị ảnh hưởng bởi phía Việt Quốc, Việt Cách trong Nghị viện nhân dân. Điểm đặc biệt này khiến cho chế định Chủ tịch nước trong bản Hiến pháp năm 1946 rất giống với chính thể Cộng hòa Bán-Tổng thống.
Điều thứ 49 Hiến pháp năm 1946 quy định quyền hạn của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa: "a) Thay mặt cho nước. b) Giữ quyền Tổng chỉ huy quân đội toàn quốc, chỉ định hoặc cách chức các tướng soái trong lục quân, hải quân, không quân. c) Ký sắc lệnh bổ nhiệm Thủ tướng, nhân viên Nội các và nhân viên cao cấp thuộc các cơ quan Chính phủ. d) Chủ tọa Hội đồng Chính phủ. đ) Ban bố các đạo luật đã được Nghị viện quyết nghị. e) Thưởng huy chương và các bằng cấp danh dự. g) Đặc xá. h) Ký hiệp ước với các nước. i) Phái đại biểu Việt Nam đến nước ngoài và tiếp nhận đại biểu ngoại giao của các nước. k) Tuyên chiến hay đình chiến theo như Điều 38 đã định."
Ở Hiến pháp năm 1959, chức vụ Chủ tịch nước trở về khá giống với chế định ở hiện tại, khi Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra, nhiệm kỳ theo nhiệm kỳ của Quốc hội, và không còn đứng đầu ngành hành pháp mà chỉ còn là "người thay mặt cho nước Việt Nam dân chủ cộng hòa về mặt đối nội và đối ngoại" (Điều 61). Đặc biệt, Điều 62 quy định "mọi công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa từ ba mươi lăm tuổi trở lên có quyền ứng cử Chủ tịch nước" mà không nhất thiết phải là đại biểu Quốc hội.Điều 63 quy định quyền hạn của Chủ tịch nước: "Căn cứ vào quyết định của Quốc hội hoặc của Ủy ban thường vụ Quốc hội mà công bố pháp luật, pháp lệnh; bổ nhiệm, bãi miễn Thủ tướng, Phó Thủ tướng và các thành viên khác của Hội đồng Chính phủ; bổ nhiệm, bãi miễn Phó Chủ tịch và các thành viên khác của Hội đồng quốc phòng; công bố lệnh đại xá và lệnh đặc xá; tặng thưởng huân chương và danh hiệu vinh dự của Nhà nước; tuyên bố tình trạng chiến tranh; công bố lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố lệnh giới nghiêm."
Từ 4 tháng 7 năm 1981 - 22 tháng 9 năm 1992 theo Hiến pháp năm 1980, chế định Chủ tịch nước được thay bằng chế định Hội đồng Nhà nước - là "chủ tịch tập thể" của đất nước - bằng việc "sáp nhập" chức năng của Ủy ban thường vụ Quốc hội và chức năng của Chủ tịch nước.
Từ Quốc hội khóa IX năm 1992 theo Hiến pháp 1992, chế định Chủ tịch nước được trở lại như cũ cho tới nay, với các quyền hạn chế và chủ yếu mang tính lễ nghi. Tuy nhiên, sau lần sửa đổi Hiến pháp năm 2012 để ra bản Hiến pháp 2013, Chủ tịch nước đã được tăng thêm nhiều thực quyền hơn.
Mối quan hệ với Đảng Cộng sản Việt Nam
Để đáp ứng khả năng lãnh đạo cấp cao trong tổ chức Đảng, không bị chồng chéo quyền lực về mặt Đảng, cho tới nay, các vị Chủ tịch nước thường phải là Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng trong số các đại biểu Quốc hội. Chủ tịch nước cũng thường đồng thời là Ủy viên Thường vụ của Đảng ủy Công an Trung ương và Quân ủy Trung ương. Bên cạnh đó, Chủ tịch nước cũng giữ chức vụ Trưởng Ban Chỉ đạo cải cách Tư pháp Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
Các ứng viên Chủ tịch nước này phải đạt các tiêu chuẩn như tốt nghiệp Đại học trở lên, lý luận chính trị cử nhân hoặc cao cấp; quản lý nhà nước ngạch chuyên viên cao cấp; ngoại ngữ cử nhân hoặc trình độ B trở lên; tuyệt đối trung thành với lợi ích của Đảng Cộng sản Việt Nam, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đã kinh qua và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ ở các chức vụ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh (bí thư tỉnh ủy, thành ủy; chủ tịch hội đồng nhân dân, chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố) hoặc trưởng ban các ban, bộ, ngành, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương; từng chủ trì cấp Quân khu nếu công tác trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
Tiêu chuẩn Chủ tịch nước
Theo Quy định số 90-QĐ/TW ngày 4 tháng 8 năm 2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam , Chủ tịch nước phải là người:
Bảo đảm đầy đủ các tiêu chuẩn chung của Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đồng thời cần có các phẩm chất, năng lực: Có uy tín cao, là hạt nhân đoàn kết trong Trung ương, Bộ Chính trị và trong toàn Đảng. Có năng lực nổi trội, toàn diện trên các mặt công tác, nhất là lĩnh vực đối nội, đối ngoại, an ninh, quốc phòng; hiểu biết sâu, rộng về công tác tư pháp. Là trung tâm đoàn kết các lực lượng xã hội và các cộng đồng dân tộc trong, ngoài nước. Quyết liệt trong lãnh đạo, điều hành theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được phân công. Đã kinh qua và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ ở chức danh bí thư tỉnh ủy hoặc trưởng ban, bộ, ngành Trung ương, tham gia Bộ Chính trị trọn một nhiệm kỳ trở lên (trường hợp đặc biệt do Ban Chấp hành Trung ương quyết định).
Tiêu chuẩn của Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư
Bảo đảm đầy đủ các tiêu chuẩn của Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, đồng thời cần có thêm các tiêu chuẩn: Thật sự tiêu biểu, mẫu mực của Ban Chấp hành Trung ương về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trí tuệ, ý chí chiến đấu, năng lực lãnh đạo, quản lý, ý thức tổ chức kỷ luật; không bị chi phối bởi sự can thiệp, sức ép bên ngoài và lợi ích nhóm. Hiểu biết sâu rộng tình hình đất nước, khu vực và thế giới; nhạy cảm về chính trị, nhạy bén về kinh tế, am hiểu sâu sắc về xã hội. Có ý thức, trách nhiệm cao, tham gia đóng góp, hoạch định đường lối, chính sách và phát hiện, đề xuất những vấn đề thực tiễn đặt ra để Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư thảo luận, quyết định. Đã tham gia Ban Chấp hành Trung ương trọn một nhiệm kỳ trở lên; đã kinh qua và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ ở các chức vụ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh (bí thư tỉnh ủy; chủ tịch hội đồng nhân dân, chủ tịch ủy ban nhân dân) hoặc trưởng ban các ban, bộ, ngành, Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương. Trường hợp Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư công tác trong Quân đội thì phải kinh qua chủ trì cấp Quân khu.
Tiêu chuẩn của Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương
Bảo đảm đầy đủ các tiêu chuẩn chung, đồng thời cần có thêm các tiêu chuẩn:
Tiêu biểu của Đảng về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực công tác. Có ý thức, trách nhiệm, kiến thức toàn diện để tham gia thảo luận, đóng góp, hoạch định đường lối, chính sách và sự lãnh đạo tập thể của Ban Chấp hành Trung ương. Có năng lực tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách, nhiệm vụ của Đảng, chiến lược phát triển đất nước trong giai đoạn mới ở lĩnh vực, địa bàn công tác được phân công. Có năng lực dự báo, xử lý, ứng phó kịp thời, hiệu quả những tình huống đột xuất, bất ngờ và khả năng làm việc độc lập. Có tố chất, năng lực lãnh đạo, quản lý cấp chiến lược; có hoài bão, khát vọng đổi mới vì dân, vì nước. Đã kinh qua và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ ở các chức danh lãnh đạo chủ chốt cấp dưới trực tiếp và tương đương...
Tiêu chuẩn chung
- Về chính trị tư tưởng: Tuyệt đối trung thành với lợi ích của quốc gia - dân tộc, của Đảng và nhân dân; cố gắng hết khả năng của mình bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ; kiên định chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu lý tưởng về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Có lập trường, quan điểm, bản lĩnh chính trị vững vàng để bảo vệ Cương lĩnh, đường lối của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước và phản bác những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, tổ chức phản động, phần tử cơ hội và bất mãn chính trị. Có tinh thần yêu nước nồng nàn, sâu sắc; luôn đặt lợi ích của Đảng, quốc gia - dân tộc, nhân dân trên lợi ích của ngành, địa phương, cơ quan và cá nhân; sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp cách mạng của Đảng, vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Tuyệt đối chấp hành sự phân công của tổ chức, yên tâm công tác. Giữ nghiêm kỷ luật phát ngôn theo đúng nguyên tắc, quy định của Đảng.
- Về đạo đức, lối sống: Mẫu mực về phẩm chất đạo đức; sống trung thực, khiêm tốn, chân thành, trong sáng, giản dị, bao dung; cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Tuyệt đối không tham vọng quyền lực, có nhiệt huyết và trách nhiệm cao với công việc; là trung tâm đoàn kết, gương mẫu về mọi mặt. Không tham nhũng, cơ hội, vụ lợi và kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ; chỉ đạo quyết liệt chống tệ quan liêu, tham nhũng, tiêu cực, lãng phí, cửa quyền và lợi ích nhóm; tuyệt đối không để người thân, người quen lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để trục lợi. Thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức, kỷ luật của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình; công khai, minh bạch, khách quan, dân chủ trong công tác cán bộ.
- Về trình độ: Tốt nghiệp đại học trở lên; lý luận chính trị cử nhân hoặc cao cấp; quản lý nhà nước ngạch chuyên viên cao cấp; ngoại ngữ cử nhân hoặc trình độ B trở lên; trình độ tin học phù hợp.
- Về năng lực và uy tín: Có tư duy đổi mới, tầm nhìn chiến lược; phương pháp làm việc khoa học; nhạy bén chính trị; có năng lực cụ thể hóa và lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; có năng lực tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận; có khả năng phân tích và dự báo tốt. Nắm chắc tình hình chung và hiểu biết sâu sắc về lĩnh vực, địa bàn, địa phương, cơ quan, đơn vị được phân công. Kịp thời phát hiện những mâu thuẫn, thách thức, thời cơ, vận hội, vấn đề mới, vấn đề khó, hạn chế, yếu kém trong thực tiễn; chủ động đề xuất những nhiệm vụ giải pháp có tính khả thi và hiệu quả. Năng động, sáng tạo, cần cù, chịu khó, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; có quyết tâm chính trị cao, dám đương đầu với khó khăn, thách thức; nói đi đôi với làm; gắn bó mật thiết với nhân dân và vì nhân dân phục vụ. Là hạt nhân quy tụ và phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị; được cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân tin tưởng, tín nhiệm cao.
- Sức khỏe, độ tuổi và kinh nghiệm; Đủ sức khỏe để thực hiện nhiệm vụ; bảo đảm tuổi bổ nhiệm (theo quy định của Đảng, độ tuổi trước khi bổ nhiệm không quá 65 tuổi), giới thiệu ứng cử theo quy định của Đảng. Đã kinh qua và hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ của chức danh lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp dưới trực tiếp; có nhiều kinh nghiệm thực tiễn.
Sự lãnh đạo của Bộ Chính trị đối với Chủ tịch nước
Nếu Chủ tịch nước là ủy viên Bộ chính trị thì phải chịu sự quản lí của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Theo "quy định (bổ sung) về quan hệ lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam với Chủ tịch nước và một số tổ chức Đảng trực thuộc ở trung ương" số 216-QĐ/TW ngày 01 tháng 4 năm 2009 của Bộ Chính trị có quy định:
"Những vấn đề thuộc thẩm quyền của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch nước đề xuất hoặc trình.
1- Những vấn đề mà Hội đồng Quốc phòng và An ninh sẽ thảo luận và quyết định liên quan đến tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh của đất nước.
2- Đề xuất những vấn đề thuộc thẩm quyền của Chủ tịch nước liên quan đến việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm các chức danh Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ.
3- Những vấn đề mà Chủ tịch nước thấy cần đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét lại trước khi công bố pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội.
4- Phát biểu của Chủ tịch nước với Quốc hội về những vấn đề quan trọng của đất nước để Quốc hội thảo luận và quyết định.
5- Những vấn đề khác Chủ tịch nước thấy cần thiết báo cáo Bộ Chính trị."
Danh sách Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Dòng thời gian Chủ tịch nước Việt Nam:
Các nguyên Chủ tịch nước còn sống
Hiện tại còn 6 nguyên Chủ tịch nước còn sống. Nguyên chủ tịch nước còn sống cao tuổi nhất là Trần Đức Lương và trẻ tuổi nhất là Nguyễn Xuân Phúc. Người qua đời gần nhất là ông Lê Đức Anh vào ngày 22 tháng 4 năm 2019 ở tuổi 98. Các nguyên Chủ tịch nước dưới đây được xếp theo thứ tự nhiệm kỳ.
Xem thêm
Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Chế định Chủ tịch nước Việt Nam
Phó Chủ tịch nước Việt Nam
Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Chủ tịch Quốc hội Việt Nam
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Việt Nam
Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam
Danh sách Chủ tịch nước Việt Nam
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Danh sách nhân vật Việt Nam
V
Chính trị Việt Nam
Chính phủ Việt Nam
Khởi đầu năm 1945 ở Việt Nam
Chủ tịch nước Việt Nam
|
22419
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%99i%20%C4%91%E1%BB%93ng%20qu%E1%BB%91c%20ph%C3%B2ng%20v%C3%A0%20an%20ninh%20Vi%E1%BB%87t%20Nam
|
Hội đồng quốc phòng và an ninh Việt Nam
|
Hội đồng Quốc phòng và An ninh Việt Nam, được lập ra theo điều 89 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013, có nhiệm vụ tham mưu cho Chủ tịch nước trong việc điều hành nhà nước, hoạch định các chính sách đối nội, đối ngoại, quân sự trong lĩnh vực an ninh, duy trì ổn định trật tự chính trị-xã hội, bảo vệ quyền lợi và tự do của nhân dân; động viên mọi lực lượng và khả năng của đất nước để bảo vệ Tổ quốc. Hội đồng gồm một Chủ tịch, một Phó Chủ tịch, và 4 ủy viên.
Chủ tịch của Hội đồng quốc phòng và an ninh Việt Nam là Chủ tịch nước Việt Nam.
Phó chủ tịch của Hội đồng là Thủ tướng Việt Nam.
4 ủy viên của Hội đồng quốc phòng và an ninh Việt Nam gồm: Chủ tịch Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao
Chủ tịch của Hội đồng quốc phòng và an ninh là vị trí lãnh đạo cao nhất của Hội đồng quốc phòng và an ninh Việt Nam, theo Hiến pháp 2013 là lãnh đạo quân sự tối cao .
Chủ tịch đề nghị danh sách thành viên của hội đồng để Quốc hội Việt Nam phê chuẩn. Thành viên của Hội đồng quốc phòng và an ninh không nhất thiết là đại biểu Quốc hội của Việt Nam.
Trong trường hợp có chiến tranh, Quốc hội có thể giao cho Hội đồng quốc phòng và an ninh những nhiệm vụ và quyền hạn đặc biệt, quyết định những vấn đề sống còn của một quốc gia như tuyên bố các tình trạng khẩn cấp, ra quyết định hành động cho Chính phủ, quân đội, công an, ngoại giao để bảo vệ tổ quốc. Lúc đó Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh kiêm Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang. Hội đồng quốc phòng và an ninh làm việc theo chế độ tập thể và quyết định theo đa số.
Phiên họp
Tháng 12 mỗi năm trong mỗi nhiệm kỳ, Chủ tịch nước, Thủ tướng, Chủ tịch Quốc hội, Bộ trưởng Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Ngoại giao sẽ đến Hội đồng Quốc phòng và An ninh tại Phủ Chủ tịch thảo luận các vấn đề quân sự, đối nội, đối ngoại, an ninh và quốc phòng của quốc gia.
Phiên họp đầu tiên
Ngày 26/12/2016: Tại phiên họp, các thành viên Hội đồng đã thảo luận, cho ý kiến về Quy chế làm việc; một số nhiệm vụ trọng tâm Chương trình công tác toàn khóa và nhiệm vụ trọng tâm năm 2017 của Hội đồng Quốc phòng và An ninh nhằm quán triệt và thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng, Nghị quyết số 28-NQ/TW của Ban Chấp hành T.Ư Đảng (khóa XI) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, Chỉ thị số 46-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm an ninh, trật tự trong tình hình mới” và các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước về quốc phòng, an ninh.
Phiên họp thứ hai
Chiều ngày 8/12/2017: Hội đồng đã nghe các báo cáo của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, các cơ quan hữu quan và cho ý kiến về tình hình, kết quả thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, đối ngoại năm 2017, phương hướng nhiệm vụ chủ yếu năm 2018; công tác sẵn sàng chiến đấu, tổ chức luyện tập, diễn tập các phương án xử lý tình huống phức tạp về quốc phòng, an ninh; về lực lượng tham gia gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc
Phát biểu kết luận, Chủ tịch nước Trần Đại Quang, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh thay mặt Hội đồng biểu dương lực lượng Quân đội, Công an đã triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội lần thứ 12 của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ 10, Nghị quyết Đảng bộ Công an Trung ương lần thứ 4 và các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Nhà nước về quốc phòng, an ninh, đối ngoại
Lịch sử
Trước đó cơ quan này có tên gọi là Hội đồng Quốc phòng Tối cao (1948-1959), rồi Hội đồng Quốc phòng (1960-1992), hiện nay là Hội đồng Quốc phòng và An ninh (1992-nay).
Hội đồng Quốc phòng Tối cao
Hội đồng Quốc phòng Tối cao được thành lập ngày 19 tháng 8 năm 1948, gồm có 6 thành viên:
Chủ tịch Hội đồng: Hồ Chí Minh (Chủ tịch Chính phủ)
Phó Chủ tịch Hội đồng: Lê Văn Hiến (Bộ trưởng Bộ Tài chính)
Các ủy viên: Phan Kế Toại (Quyền Bộ trưởng Bộ Nội vụ), Võ Nguyên Giáp (Bộ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tổng Chỉ huy Quân đội Quốc gia và dân quân tự vệ), Phan Anh (Bộ trưởng Bộ Kinh tế), Tạ Quang Bửu (Thứ trưởng Bộ Quốc phòng).
Ngày 2 tháng 8 năm 1949, có thay đổi nhỏ về nhân sự Hội đồng Quốc phòng Tối cao: Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng mới được bổ nhiệm tham gia Hội đồng và làm Phó Chủ tịch Hội đồng thay Lê Văn Hiến. Như vậy Hội đồng có 7 thành viên, ngoài Chủ tịch và Phó Chủ tịch Hội đồng, các thành viên còn lại là: Lê Văn Hiến, Phan Kế Toại, Phan Anh, Võ Nguyên Giáp và Tạ Quang Bửu.
Hội đồng Quốc phòng
Hội đồng Quốc phòng, theo Hiến pháp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 1959: Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thống lĩnh các lực lượng vũ trang toàn quốc, giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng quốc phòng. Theo đề nghị của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Quốc hội quyết định cử Phó Chủ tịch và các thành viên khác của Hội đồng quốc phòng. Hội đồng quốc phòng động viên mọi lực lượng và khả năng của nước nhà để bảo vệ Tổ quốc.
Hiến pháp 1980 có ghi: Trong trường hợp có chiến tranh, Quốc hội hoặc Hội đồng Nhà nước có thể giao cho Hội đồng quốc phòng những nhiệm vụ và quyền hạn đặc biệt.
Hội đồng Quốc phòng và An ninh
Hội đồng Quốc phòng và An ninh, theo Hiến pháp nước Công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992: Hội đồng có nhiệm vụ tham mưu cho Chủ tịch nước trong việc điều hành nhà nước, hoạch định các chính sách đối nội, đối ngoại, quân sự trong lĩnh vực an ninh, duy trì ổn định trật tự chính trị-xã hội, bảo vệ quyền lợi và tự do của nhân dân; động viên mọi lực lượng và khả năng của đất nước để bảo vệ Tổ quốc.
Hội đồng Quốc phòng và An ninh gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch, 4 ủy viên và các thành viên tham dự
Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh kiêm Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang: Chủ tịch nước
Phó Chủ tịch Hội đồng: Thủ tướng Chính phủ
Ủy viên gồm: Chủ tịch Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao
Trụ sở của Hội đồng Quốc phòng và An ninh được đặt tại Phủ Chủ tịch nước
Danh sách HĐQP nước VNDCCH
1960–1964
Chủ tịch: Hồ Chí Minh
Phó chủ tịch: Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp
Uỷ viên: Chu Văn Tấn, Văn Tiến Dũng, Nguyễn Chí Thanh, Nguyễn Duy Trinh, Trần Quốc Hoàn, Nguyễn Văn Trân
1964–1971
Chủ tịch: Hồ Chí Minh (đến năm 1969); Tôn Đức Thắng (từ năm 1969)
Phó chủ tịch: Chu Văn Tấn , Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp
Uỷ viên: Nguyễn Chí Thanh, Nguyễn Duy Trinh, Văn Tiến Dũng, Trần Quốc Hoàn, Nguyễn Văn Trân, Song Hào
1971–1975
Chủ tịch: Tôn Đức Thắng
Phó chủ tịch: Phạm Văn Đồng
Uỷ viên: Chu Văn Tấn, Lê Duẩn, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng, Trần Quốc Hoàn, Nguyễn Côn, Song Hào, Trần Hữu Dực
1975–1976
Chủ tịch: Tôn Đức Thắng
Phó chủ tịch: Phạm Văn Đồng
Uỷ viên: Lê Duẩn, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Lê Thanh Nghị, Trần Quốc Hoàn, Văn Tiến Dũng, Song Hào
Danh sách HĐQP nước CHXHCNVN
1976–1981
Chủ tịch: Tôn Đức Thắng
Phó Chủ tịch: Phạm Văn Đồng
Uỷ viên: Lê Duẩn, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Lê Thanh Nghị, Trần Quốc Hoàn, Văn Tiến Dũng, Phạm Hùng, Nguyễn Duy Trinh
1981–1987
Chủ tịch: Trường Chinh
Phó Chủ tịch: Phạm Văn Đồng
Uỷ viên: Nguyễn Hữu Thọ, Phạm Hùng, Văn Tiến Dũng, Tố Hữu
1987–1992
Chủ tịch: Võ Chí Công
Phó Chủ tịch: Phạm Hùng (22/6/1987-10/3/1988)
Võ Văn Kiệt (Quyền từ 11/3-22/6/1988)
Đỗ Mười (22/6/1988-9/8/1991)
Ủy viên: Lê Quang Đạo, Lê Đức Anh, Mai Chí Thọ, Nguyễn Cơ Thạch
Danh sách HĐQP&AN nước CHXHCNVN
Hiện nay, cơ cấu Hội đồng Quốc phòng và An ninh gồm:
Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh kiêm Tổng Tư lệnh các lực lượng vũ trang: Chủ tịch nước
Phó chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh: Thủ tướng Chính phủ
Uỷ viên: Chủ tịch Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao.
Tham dự: Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước, đại diện lãnh đạo Văn phòng Chính phủ, đại diện lãnh đạo Văn phòng Quốc hội, 1 Thứ trưởng Bộ Công an, đại diện Bộ Quốc phòng, đại diện Bộ Ngoại giao
1992–1997
Chủ tịch: Lê Đức Anh
Phó Chủ tịch: Võ Văn Kiệt
Uỷ viên: Nông Đức Mạnh, Đoàn Khuê, Bùi Thiện Ngộ, Nguyễn Mạnh Cầm
1997–2002
Chủ tịch: Trần Đức Lương
Phó chủ tịch: Phan Văn Khải
Uỷ viên: Nông Đức Mạnh, Phạm Văn Trà, Lê Minh Hương, Nguyễn Mạnh Cầm (đến năm 2000), Nguyễn Dy Niên (từ năm 2000).
2002–2006
Chủ tịch: Trần Đức Lương
Phó Chủ tịch: Phan Văn Khải
Uỷ viên: Nguyễn Văn An, Phạm Văn Trà, Lê Hồng Anh, Nguyễn Dy Niên.
2006–2011
Chủ tịch: Nguyễn Minh Triết
Phó Chủ tịch: Nguyễn Tấn Dũng
Uỷ viên: Nguyễn Phú Trọng, Phùng Quang Thanh, Lê Hồng Anh, Phạm Gia Khiêm.
2011–2016
Được bầu tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa XIII.
Chủ tịch: Trương Tấn Sang
Phó Chủ tịch: Nguyễn Tấn Dũng
Uỷ viên: Nguyễn Sinh Hùng, Phùng Quang Thanh, Trần Đại Quang, Phạm Bình Minh.
Được bầu tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa XIII
Chủ tịch: Trần Đại Quang
Phó Chủ tịch: Nguyễn Xuân Phúc
Ủy viên: Nguyễn Thị Kim Ngân, Ngô Xuân Lịch, Tô Lâm, Phạm Bình Minh.
2016–2021
Được bầu tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa XIV.
Chủ tịch:
Trần Đại Quang (4/2016–9/2018)
Đặng Thị Ngọc Thịnh (Quyền Chủ tịch từ 9/2018–10/2018)
Nguyễn Phú Trọng (10/2018–04/2021)
Phó Chủ tịch: Nguyễn Xuân Phúc
Ủy viên: Nguyễn Thị Kim Ngân, Ngô Xuân Lịch, Tô Lâm, Phạm Bình Minh
Được bầu tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa XIV
Chủ tịch: Nguyễn Xuân Phúc
Phó Chủ tịch: Phạm Minh Chính
Ủy viên: Vương Đình Huệ, Phan Văn Giang, Tô Lâm, Bùi Thanh Sơn
2021–2026
Được bầu tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa XV
Chủ tịch:
Nguyễn Xuân Phúc (4/2021–01/2023)
Võ Thị Ánh Xuân (Quyền Chủ tịch từ 01/2023 đến 03/2023)
Võ Văn Thưởng (từ 03/2023 đến nay)
Phó Chủ tịch: Phạm Minh Chính
Ủy viên: Vương Đình Huệ, Phan Văn Giang, Tô Lâm, Bùi Thanh Sơn
2026–2031
Chủ tịch:
Phó Chủ tịch:
Ủy viên:
Sơ đồ
Sơ đồ tổ chức từ năm 2020
Tham khảo
Liên kết ngoài
Ủy ban Quốc phòng và An ninh
Hội đồng quốc phòng và an ninh Việt Nam
|
22423
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1i%20bi%E1%BB%83u%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20Vi%E1%BB%87t%20Nam
|
Đại biểu Quốc hội Việt Nam
|
Đại biểu Quốc hội Việt Nam là thành viên của Quốc hội Việt Nam, được cử tri Việt Nam trực tiếp bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Các đại biểu được bầu theo khu vực bầu cử, là người đại diện và chịu trách nhiệm trước cử tri và nhân dân bầu ra mình. Đại biểu cũng chịu trách nhiệm trước cử tri cả nước. Thông qua các đại biểu và thông qua Quốc hội, nhân dân Việt Nam sử dụng quyền lực của mình để định đoạt các vấn đề của đất nước.
Số lượng Đại biểu không cố định cho mỗi kỳ Quốc hội. Trong lần bầu cử gần đây nhất năm 2021, Quốc hội Việt Nam khóa XV có tổng cộng 498 Đại biểu.
Địa vị pháp lý
Địa vị pháp lý của một đại biểu quốc hội được bắt đầu sau khi Quốc hội đã xác nhận tư cách đại biểu tại phiên họp đầu tiên của kỳ thứ nhất mỗi khóa Quốc hội. Nhiệm kỳ của đại biểu quốc hội được tính từ kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa đó đến kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa sau.
Trong số các đại biểu quốc hội, có những đại biểu làm việc theo chế độ chuyên trách và có những đại biểu làm việc theo chế độ không chuyên trách.
Số lượng đại biểu Quốc hội làm việc theo chế độ chuyên trách do Quốc hội quyết định.
Đại biểu chuyên trách và Đại biểu kiêm nhiệm
Theo Luật Tổ chức Quốc hội có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2016, đại biểu chuyên trách dành toàn bộ thời gian làm việc để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đại biểu của mình.
Cũng theo luật này, Đại biểu kiêm nhiệm dành ít nhất 1/3 thời gian làm việc trong năm để thực hiện vai trò đại biểu Quốc hội.
Theo cơ cấu Quốc hội khóa XIV, đại biểu chuyên trách gồm có 114 đại biểu chuyên trách trung ương (thuộc các cơ quan của Quốc hội) và 67 đại biểu chuyên trách địa phương, trong đó Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Thanh Hóa, Nghệ An mỗi đoàn có 2 đại biểu, các tỉnh hoặc thành phố trực thuộc Trung ương còn lại mỗi tỉnh có một đại biểu chuyên trách địa phương tỉnh đó.
Thống kê tỉ lệ đại biểu chuyên trách theo các khóa:
Tiêu chuẩn
Tuổi bầu cử và ứng cử
Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015:
Điều 2 quy định: Tính đến ngày bầu cử được công bố, công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội
Điều 3 quy định: Người ứng cử đại biểu Quốc hội phải đáp ứng các tiêu chuẩn của đại biểu Quốc hội quy định tại Luật tổ chức Quốc hội.
Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo luật định phải là công dân Việt Nam, từ đủ 21 tuổi trở lên, có quyền ứng cử, được Mặt trận Tổ quốc Việt Nam qua hiệp thương nhân dân đưa vào danh sách ứng cử đại biểu Quốc hội, có đủ số phiếu cần thiết để trở thành đại biểu Quốc hội trong cuộc tổng tuyển cử, và được Ủy ban thẩm tra tư cách đại biểu Quốc hội xác định là đủ tư cách làm đại biểu Quốc hội.
Điều 3 Luật bầu cử Đại biểu Quốc hội quy định một đại biểu quốc hội phải có những tiêu chuẩn sau đây:
Trung thành với Tổ quốc và hiến pháp của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, phấn đấu thực hiện công cuộc đổi mới, vì sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
Có phẩm chất đạo đức tốt, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, gương mẫu chấp hành pháp luật; kiên quyết đấu tranh, chống mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng và các hành vi vi phạm pháp luật
Có trình độ và năng lực thực hiện nhiệm vụ đại biểu quốc hội, tham gia quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước
Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, được nhân dân tín nhiệm
Có điều kiện tham gia các hoạt động của Quốc hội.
Nhiệm vụ
Đại biểu quốc hội có nhiệm vụ tham gia các kỳ họp của Quốc hội, tham gia thảo luận và quyết định những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn như: lập hiến, lập pháp; quyết định chính sách đối nội, đối ngoại, các nhiệm vụ kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước; quyết định những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân; giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước.
Trong kỳ họp, đại biểu quốc hội có nhiệm vụ tham gia đầy đủ các phiên họp và có quyền: thảo luận và quyết định chương trình kỳ họp; trình dự án luật và biểu quyết thông qua các dự án luật, các nghị quyết của Quốc hội; chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, các thành viên của Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; tham gia bầu cử và có thể được bầu vào các chức danh Nhà nước, các cơ quan lãnh đạo, các tổ chức của Quốc hội.
Trong thời gian giữa hai kỳ họp, đại biểu quốc hội có nhiệm vụ tiếp xúc cử tri ở đơn vị bầu cử của mình, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của nhân dân với Quốc hội và các cơ quan Nhà nước, báo cáo kết quả kỳ họp với cử tri, tuyên truyền thực hiện tốt pháp luật.
Đại biểu còn có nhiệm vụ chuyển đơn thư khiếu nại tố cáo của nhân dân đến các cơ quan, tổ chức có liên quan, theo dõi và đôn đốc việc giải quyết; tham gia các hoạt động khảo sát, kiểm tra việc thi hành hiến pháp, pháp luật, các nghị quyết của Quốc hội, các văn bản dưới luật, tìm hiểu thực tế ở địa phương hoặc cơ sở để giúp cho việc thảo luận và tham gia quyết định các vấn đề tại kỳ họp của Quốc hội.
Quyền hạn
Quyền trình dự án luật
Đại biểu quốc hội có trình kiến nghị về luật, pháp lệnh; trình dự án luật, pháp lệnh theo trình tự do pháp luật quy định.
Quyền chất vấn
Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Người bị chất vấn có trách nhiệm trả lời về những vấn đề mà đại biểu Quốc hội chất vấn.
Trong thời gian giữa hai kỳ họp, chất vấn được gửi đến Ủy ban Thường vụ Quốc hội để chuyển đến cơ quan hoặc người bị chất vấn và quyết định thời hạn trả lời chất vấn. Tùy theo nội dung và tính chất của chất vấn, Ủy ban Thường vụ Quốc hội có thể quyết định người bị chất vấn phải trả lời chất vấn trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Trong trường hợp cần điều tra thì Quốc hội có thể quyết định cho trả lời trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội hoặc tại kỳ họp sau của Quốc hội hoặc cho trả lời bằng văn bản. Trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội, chất vấn được gửi đến Ủy ban Thường vụ Quốc hội để chuyển đến cơ quan hoặc người bị chất vấn và quyết định thời hạn trả lời chất vấn. Nếu đại biểu Quốc hội không đồng ý với nội dung trả lời thì có quyền đề nghị Chủ tịch Quốc hội đưa ra thảo luận trước Quốc hội hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Quyền bất khả xâm phạm và miễn truy tố
Đại biểu Quốc hội được pháp luật bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Những hành vi cản trở đại biểu quốc hội thực hiện nhiệm vụ sẽ bị xử lý theo pháp luật.
Không có sự đồng ý của Quốc hội và trong thời gian Quốc hội không họp, không có sự đồng ý của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thì không được bắt giam, truy tố đại biểu Quốc hội và không được khám xét nơi ở và nơi làm việc của đại biểu Quốc hội. Việc đề nghị bắt giam, truy tố, khám xét nơi ở và nơi làm việc của đại biểu Quốc hội thuộc thẩm quyền của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao. Nếu vì phạm tội quả tang mà đại biểu Quốc hội bị tạm giữ, thì cơ quan tạm giữ phải lập tức báo cáo để Quốc hội hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội xét và quyết định. Trong trường hợp đại biểu Quốc hội bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định tạm đình chỉ việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Quốc hội đó. Đại biểu Quốc hội bị Tòa án kết án thì đương nhiên mất quyền đại biểu Quốc hội, kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Đại biểu Quốc hội không thể bị cơ quan, đơn vị nơi đại biểu làm việc cách chức, buộc thôi việc, nếu không được Ủy ban Thường vụ Quốc hội đồng ý.
Quyền được cung cấp thông tin
Đại biểu quốc hội được cung cấp thông tin liên quan đến hoạt động của Quốc hội và được quyền yêu cầu các cơ quan chức năng cung cấp thông tin phục vụ cho hoạt động của mình.
Quyền thuê nhà ở công vụ
Đại biểu Quốc hội có thể thuê nhà công vụ Quốc hội. Nhà công vụ Quốc hội có giá thuê từ 600.000–700.000 đồng/tháng/căn hộ, chưa kể điện nước và các chi phí khác, vào tháng 8 năm 2014 (theo ông Nguyễn Hạnh Phúc, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội). Hiện nay, Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Quản lý Bất động sản Tây Đô đang là đơn vị quản lí vận hành nhà ở công vụ. Nhà công vụ Quốc hội ở địa chỉ số 2 Hoàng Cầu, phường Ô Chợ Dừa, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.
Bầu cử đại biểu quốc hội
Việc bầu cử đại biểu quốc hội được tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.
Mỗi tỉnh thành được phân ra thành nhiều đơn vị bầu cử. Số lượng đơn vị bầu cử tuy thuộc vào dân số tỉnh thành đó. Mỗi đơn vị bầu cử thường bầu chọn ra từ 1 đến 3 Đại biểu .
Đại biểu được bầu sẽ chịu trách nhiệm với cử tri thuộc đơn vị bầu cử của mình. Thông thường 1 đơn vị bầu cử bao gồm một hoặc nhiều quận, huyện, thị xã hoặc thành phố thuộc tỉnh đó.
Quyền bầu cử
Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ 18 tuổi trở lên có quyền bầu cử, trừ những người mất trí và những người bị tước các quyền đó.
Quyền ứng cử
Công dân Việt Nam có quyền ứng cử, đủ 21 tuổi trở lên có quyền ứng cử theo các tiêu chuẩn được quy định trong Luật bầu cử Đại biểu Quốc hội .
Quyền ứng cử là quy định của pháp luật về khả năng của công dân thể hiện nguyện vọng của mình được ứng cử làm đại biểu Quốc hội. Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử.
Pháp luật về bầu cử đại biểu Quốc hội còn quy định tiêu chuẩn của đại biểu Quốc hội để cử tri lựa chọn trong số các ứng cử viên bầu ra những người đại diện trong cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất
Các tổ chức bầu cử
Để phụ trách công tác bầu cử, các tổ chức bầu cử sau đây đã được thành lập:
Ở cấp trung ương: Hội đồng bầu cử
Ở cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương: Ủy ban bầu cử
Đơn vị bầu cử: Ban bầu cử
Ở khu vực bỏ phiếu: Tổ bầu cử
Nhiệm kỳ hoạt động
Nhiệm kỳ của đại biểu mỗi khóa Quốc hội bắt đầu từ kỳ họp thứ nhất của khóa Quốc hội đó đến kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khoá sau. Đại biểu Quốc hội chịu trách nhiệm trước cử tri, đồng thời chịu trách nhiệm trước Quốc hội về việc thực hiện nhiệm vụ đại biểu của mình. Đại biểu Quốc hội không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân thì tuỳ mức độ phạm sai lầm mà bị Quốc hội hoặc cử tri bãi nhiệm. Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định việc đưa ra Quốc hội bãi nhiệm hoặc cử tri nơi bầu ra đại biểu bãi nhiệm đại biểu Quốc hội theo đề nghị của Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc của cử tri nơi bầu ra đại biểu Quốc hội đó. Trong trường hợp Quốc hội bãi nhiệm đại biểu Quốc hội thì việc bãi nhiệm phải được ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành.
Đoàn đại biểu quốc hội
Các đại biểu Quốc hội được bầu trong một Thành phố trực thuộc Trung ương hoặc tỉnh hợp thành Đoàn Đại biểu Quốc hội.
Đoàn Đại biểu Quốc hội có Trưởng đoàn, có thể có Phó trưởng đoàn để tổ chức hoạt động của đoàn, giữ mối liên hệ với Chủ tịch Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các cơ quan tổ chức khác ở địa phương về các vấn đề liên quan đến hoạt động của đại biểu Quốc hội và Đoàn Đại biểu Quốc hội.
Văn phòng Đoàn Đại biểu Quốc hội và thư ký Đoàn Đại biểu Quốc hội là bộ phận giúp việc cho Đoàn Đại biểu Quốc hội.
Trước khi có Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội thì có chức danh Thư ký đoàn làm các công việc phục vụ Đoàn nhưng từ khi có Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội thì không còn chức danh thư ký nữa. Tổ chức Văn phòng Đoàn hiện nay (đến năm 2007) có 2 dạng sau:
- Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội (độc lập) - Văn phòng Hội đồng nhân dân và Đoàn đại biểu Quốc hội - (Văn phòng chung. Văn phòng Hội đồng nhân dân cấp tỉnh)
Theo điều 38, Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 , một đại biểu Quốc hội có thể được chuyển sinh hoạt từ đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương này sang đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác nếu trong nhiệm kì họ thay đổi vị trí công tác đến nơi mới.
Nhận xét và ý kiến
"Hiện nay, đại biểu Quốc hội chỉ là ông bưu điện, bởi chỉ nhận đơn khiếu kiện của người dân rồi chuyển đến các cơ quan nhà nước yêu cầu trả lời...(...)... Việc giám sát của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, HĐND trong thực hiện luật khiếu nại, tố cáo cũng có gì đó không ổn. Giám sát trùng trùng điệp điệp nhưng hiệu quả không cao" - Lê Quang Bình, Chủ nhiệm UB Quốc phòng và An ninh của Quốc hội
"Đại biểu Quốc hội là của toàn dân nên không phải lo ngại việc tỉnh nào khuyết Đại biểu Quốc hội thì tiếng nói sẽ yếu. Bởi điều chuyển là bình thường nhất là khi hiện nay cho phép Đại biểu Quốc hội ngoài việc tiếp xúc cử tri tại đơn vị bầu cử còn được tiếp xúc cử tri ở nơi khác nên không đáng lo ngại chuyện này"- Tổng thư ký Nguyễn Hạnh Phúc
Xem thêm
Nghị sĩ quốc hội
Tham khảo
Liên kết ngoài
Đại biểu Quốc hội
Đại biểu Quốc hội các khóa
Đại biểu Quốc hội Việt Nam
Chính trị Việt Nam
|
22436
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A1ng%2011%20n%C4%83m%202005
|
Tháng 11 năm 2005
|
Trang này liệt kê những sự kiện quan trọng vào tháng 11 năm 2005.
Thứ ba, ngày 1 tháng 11
Cơn bão số 8 đã tràn vào các tỉnh ven biển miền trung với sức gió lên tới cấp 10, Quảng Ngãi, Quảng Nam, Đà Nẵng, Thừa Thiên-Huế... bị nhiều thiệt hại lớn. Tại Đà Nẵng, các trường học đóng cửa, nhiều khu vực trong thành phố mất điện trong nhiều giờ, nhiều chỗ ngập lụt do mưa lớn, giao thông đình trệ. Tính đến ngày 3/11/2005 đã có 21 người chết và 1 chuyên gia người nước ngoài đã mất tích.
Thứ sáu, ngày 4 tháng 11
Hội nghị thượng đỉnh châu Mỹ thứ 4 tại Mar del Plata (Argentina) kết thúc, các nước Tây Bán Cầu chưa quyết định tiếp tục quá trình lập FTAA.
Thứ hai, ngày 7 tháng 11
Cảnh sát Chile bắt cựu Tổng thống Peru Alberto Fujimori tại thủ đô Santiago de Chile, sau khi chính phủ Peru yêu cầu dẫn độ ông về nước đó.
Ngoại trưởng Ấn Độ K. Natwar Singh từ chức do những cáo buộc là ông lợi dụng Chương trình đổi dầu lấy lương thực tại Iraq bất hợp pháp.
Thứ ba, ngày 8 tháng 11
Tổng thống Pháp Jacques Chirac tuyên bố tình trạng khẩn cấp và áp dụng giới nghiêm để ngăn chặn bất ổn sau khi bộc phát từ ngoại ô Paris rồi lan ra hơn 300 thành phố và thị trấn khắp nước Pháp.
Thứ tư, ngày 9 tháng 11
Bom nổ tại ba khách sạn ở Amman, Jordan làm thiệt mạng 57 người, các nhà chức trách tình nghi là do bom tự sát.
Thứ năm, ngày 10 tháng 11
Ellen Johnson-Sirleaf thắng đa số phiếu trong hiệp hai của cuộc bầu cử tổng thống Liberia.
Thứ bảy, ngày 12 tháng 11
Đại hội Thể thao châu Á Trong nhà 2005 khai mạc tại Thái Lan.
Chủ nhật, ngày 13 tháng 11
Người dân Burkina Faso tham gia bầu cử tổng thống. Ông Blaise Compaoré đang giữ chức vụ Tổng thống Burkina Faso, và nhiều người dự đoán là ông sẽ được nhiệm kỳ thứ ba.
Thứ ba, ngày 15 tháng 11
Sayako Kuroda của Nhật kết hôn với một người dân thường, vì vậy cô từ bỏ danh hiệu công chúa và rời khỏi hoàng gia.
Thứ năm, ngày 17 tháng 11
Sau gần ba tuần bạo động, cảnh sát Pháp tuyên bố "trở lại bình thường".
Thứ bảy, ngày 19 tháng 11
Đại hội Thể thao châu Á Trong nhà 2005 bế mạc tại Thái Lan.
Thứ hai, ngày 21 tháng 11
Thủ tướng Israel Ariel Sharon rời đảng Likud và thành lập đảng Kadima mới.
Thứ ba, ngày 22 tháng 11
Angela Merkel của đảng Liên hiệp Dân chủ Công giáo (CDU) được bầu làm nữ thủ tướng đầu tiên của Đức.
Thứ tư, ngày 23 tháng 11
Benzen từ vụ nổ nhà máy hóa chất Cát Lâm 2005 đã gây ô nhiễm nặng cho con sông Tùng Hoa và bắt buộc thành phố Cáp Nhĩ Tân phải cắt nguồn cung cấp nước từ nó.
Thứ năm, ngày 24 tháng 11
Thành phố Khabarovsk ở Viễn Đông của Nga đã tuyên bố tình trạng khẩn cấp khi một dải nước nhiễm độc benzen dài 80 km, từ vụ nổ tại nhà máy hóa chất Cát Lâm ngày 13 tháng 11, đã vào tới sông Amur (Hắc Long Giang), nguồn cung cấp nước chủ yếu cho 1,5 triệu người của thành phố.
Thứ bảy, ngày 26 tháng 11
Viện chưởng lý Anh Sir Goldsmith tuyên bố là những chủ bút nào xuất bản giác thư về việc nổ bom tại Al Jazeera có thể bị mang ra tòa dưới Đạo luật bảo vệ bí mật nhà nước.
Chủ nhật, ngày 27 tháng 11
Người treo cổ Singapore Darshan Singh đã được cho nghỉ sau khi danh tính và hình ảnh ông này bị một tờ báo của Úc tiết lộ trước khi cuộc hành quyết của người Úc Nguyễn Tường Vân diễn ra vào ngày 2 tháng 12. Trong suốt 46 năm hành nghề, ông Singh 74 tuổi này đã treo cổ hơn 850 người. Một người treo cổ khác sẽ thay thế ông.
Một trận trận động đất xảy ra phía nam Iran, mạnh khoảng 5.9 độ theo thang độ địa chấn.
Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2005 khai mạc tại Philippines. Việt Nam đang tham dự; xem Việt Nam tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2005 để theo dõi các kết quả.
Thứ hai, ngày 28 tháng 11
Thủ tướng Canada Paul Martin tuyên bố là ông sẽ yêu cầu Toàn quyền giải tán nghị viện, dẫn đến cuộc bầu cử mùa đông, sau khi chính phủ ông bị đổ do một cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm trong Hạ viện với số phiếu 171 thuận và 133 chống. BBC
Đức Hồng y Công giáo Crescenzio Sepe và phái đoàn Tòa Thánh chính thức thăm Việt Nam. Đức Hồng y là vị Bộ trưởng Bộ truyền giáo đầu tiên của Giáo hội đến Việt Nam kể từ năm 1975. Dự kiến, Ngài sẽ thăm và làm việc tại Tổng Giáo phận Hà Nội, Huế, Tp. HCM và 2 giáo phận khác là Giáo phận Hưng Hóa và Bà Rịa trong vòng một tuần lễ. BBC VOA
Thứ ba, ngày 29 tháng 11
Nghị viện Canada bị giải tán và một cuộc tổng tuyển cử sẽ diễn ra ngày 23 tháng 1 năm 2006, sau khi chính phủ thiểu số của Thủ tướng Paul Martin bị đổ do một cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm trong Hạ viện.
Mozilla Firefox 1.5, phiên bản mới nhất của trình duyệt web mã nguồn mở phổ biến, được phát hành chính thức.
Tham khảo
Tháng mười một
Năm 2005
|
22462
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%93%20Thang%20Hen
|
Hồ Thang Hen
|
Hồ Thang Hen là một hồ nước ngọt tại xã Quốc Toản, huyện Quảng Hòa, tỉnh Cao Bằng, Việt Nam. Nó nằm ở độ cao trên 1000 mét so với mực nước biển, về phía Bắc thành phố Cao Bằng, cách cây số 34 trên đường từ thành phố Cao Bằng về thị trấn Trà Lĩnh khoảng 5-7 km, Hồ nằm gần địa giới giữa huyện Quảng Hòa và Huyện Hòa An
Tên của hồ theo nghĩa tiếng Tày là "đuôi ong", bởi vì từ trên cao nhìn xuống thì hồ có hình tựa như đuôi con ong. Hồ có chiều rộng chừng 100–300 m, chiều dài 500-1.000 m, tùy theo mực nước.
Hồ là một bể nước kín tự nhiên, có các dòng sông suối ngầm đổ về, và cũng có nhiều dòng suối ngầm chảy đi theo một hệ thống sông suối ngầm nằm sâu trong lòng những rặng núi đá, Nguồn cung cấp nước chính là sông Trà Lĩnh. Hiện tượng này trong ngành địa chất gọi là Carxtơ. Nước hồ Thang Hen hàng ngày vẫn có 2 đợt thủy triều lên xuống. Độ chênh lệch của mực nước lớn và nhỏ trong hồ - giữa mùa mưa và mùa khô - có thể tới độ 15 hoặc 20 m. Vào mùa lũ lớn, do có cả nước bề mặt đổ về nên nước chảy đi không xuể, làm cho hồ tràn sang các thung lũng liên kết tạo thành một chuỗi có tới 36 hồ nước xanh ngắt. Một trong các hồ bên cạnh Thang Hen là hồ Thăng Luông. Vào mùa khô hạn lớn thì hồ có thể trơ đáy, chỉ còn ít nước tại hồ chính Thang Hen với mức nước thấp nhất 10 m, và các sông suối ngầm đều chảy ngầm hoàn toàn. Khi hồ cạn, có thể quan sát trên bờ bùn dốc ngược có những hố lớn mà dưới lòng phễu của chúng là những thân cây, củi gỗ xếp xoay như được xoắn hút xuống; đó là những cửa ngầm thoát nước vào mùa nước lên.
Thượng nguồn của hồ là hang Thang Hen. Một trong các suối bắt nguồn từ hồ là Suối Củn, chảy lộ thiên bắt đầu từ một miệng nguồn trên một dãy núi đá vôi bao quanh hồ, có đỉnh cao tới 2000 mét do với mực nước biển, tới thị xã Cao Bằng thì nhập vào sông Bằng. Năm 2000 tại nguồn của suối đã xuất hiện một "giếng sụt" có đường kính gần 100 m, tụt sâu 50–70 m; sinh ra bởi hiện tượng ăn mòn đá vôi do dòng chảy ngầm (hiện tượng Carxtơ).
Khu vực hồ Thang Hen có bờ vực đá dựng đứng sâu từ 5 cho tới 20–30 m và động cao 20 m thông lên phía triền núi. Trên núi đá có các giống cây quý như cây nghiến để lấy gỗ làm nhà, cây báng với thân cây có thể ủ men, rồi nấu thành rượu báng. Tại đây cũng có rừng trám trắng và trám đen.
Làng Lũng Táo nằm cách hồ khoảng 2 km. Làng gồm toàn nhà sàn, lợp ngói máng và làm toàn bằng gỗ nghiến. Bản trù phú và đông dân nhất ở cùng trong một triền thung lũng với hồ và cách hồ khoảng 2–3 km. Đối với vùng lân cận, hồ Thang Hen có khả năng điều hòa vi khí hậu: nhiệt độ vào những đêm mùa hè có thể lạnh bất thường.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Du lịch Cao Bằng
Cao Bằng - Điểm hẹn
Thang Hen
Du lịch Cao Bằng
|
22477
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/RSA%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
RSA (định hướng)
|
Theo tiếng Anh, RSA có thể chỉ đến:
Bộ Đạo luật Cập nhật Chú thích New Hampshire (Revised Statutes Annotated) của tiểu bang New Hampshire
Cộng hòa Nam Phi (Republic of South Africa)
Hội Nghệ thuật Hoàng gia (Royal Society of Arts, tên đầy đủ là Royal Society for the encouragement of Arts, Manufactures and Commerce), hội từ thiện được thành lập vào năm 1754.
Trường Pháo binh Hoàng gia (Royal School of Artillery) của Quân đội Anh
Học viện Hoàng gia Scotland (Royal Scottish Academy), học viện mỹ thuật nổi tiếng ở Edinburgh cũng có nhà trưng bày mở cho người thường
Cơ quan Phục vụ Cựu binh New Zealand (Royal New Zealand Returned and Services' Association)
Cơ quan Vũ trụ Nga (Russian Space Agency, cũng được viết tắt là RKA)
Hệ mật mã khóa RSA, một thuật toán Hệ mật mã khóa công khai, đặt tên theo ba người sáng chế Rivest, Shamir và Adleman.
Bán rượu hợp lý (Responsible Service of Alcohol)
RSA Security hoặc RSA Laboratories, công ty chuyên môn về an ninh trên mạng
Ridley Scott Associates, công ty sản phẩm quảng cáo trên TV được thành lập vào năm 1968 bởi Ridley Scott và Tony Scott
Khu vực phục vụ nông thôn (Rural Service Area), khu vực nông thôn có phục vụ điện thoại cầm tay, thuật ngữ này được sửa dụng trong ngành viễn thông
Thu hút theo dãy ngẫu nhiên (Random Sequential Absorption), mô hình thu hút các hạt khỏi mặt
Số RSA
Từ viết tắt từ chữ đầu
Danh sách các từ kết hợp từ ba chữ cái
|
22480
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%8Ba%20v%E1%BA%ADt%20l%C3%BD
|
Địa vật lý
|
Địa vật lý là một ngành của khoa học Trái Đất nghiên cứu về các quá trình vật lý, tính chất vật lý của Trái Đất và môi trường xung quanh nó. Phạm trù địa vật lý đôi khi chỉ đề cập đến các ứng dụng của nó: hình dạng Trái Đất, trường từ và trường trọng lực của quả đất, thành phần và cấu trúc bên trong của nó, các quá trình động lực học và biểu hiện trên bề mặt của chúng trong kiến tạo mảng, sự hình thành của magma, núi lửa và các thành tạo đá. Tuy nhiên, các tổ chức địa vật lý hiện đại sử dụng một định nghĩa rộng hơn bao gồm chu kỳ tuần hoàn của nước (xét đến cả băng và tuyết), các quá trình động lực của chất lỏng trong đại dương và khí quyển, điện tích và từ tính trong quyển ion, quyển từ của Trái Đất, và các vấn đề khác thường liên quan đến Mặt trăng và các hành tinh khác.
Khảo sát địa vật lý nghiên cứu một loạt các hiện tượng tự nhiên, bao gồm cả hình dạng, sự vận động trong lòng Trái Đất, và các quá trình trong thạch quyển, thủy quyển và khí quyển.
Địa vật lý có hai hướng nghiên cứu là Vật lý Địa cầu nghiên cứu cơ bản về Trái Đất và môi trường xung quanh, và Địa vật lý Thăm dò. Địa vật lý thăm dò bao gồm việc ứng dụng lý thuyết địa vật lý và thiết bị vào mục đích tìm kiếm thăm dò tài nguyên hay khảo sát môi trường trong phạm vi lớp vỏ ngoài Trái Đất.
Bên cạnh đó, các phương pháp nghiên cứu của địa vật lý cũng được ứng dụng vào nghiên cứu các thiên thể trong vũ trụ.
Tổng quan
Theo truyền thống, Địa vật lý đôi khi được coi là một nhánh độc lập của các ngành khoa học tự nhiên, khác biệt với địa chất và vật lý đơn thuần, mặc dù có sự nhấn mạnh đến tính liên ngành. Liên đoàn Trắc địa và Địa vật lý Quốc tế (IUGG) đại diện cho địa vật lý trong Hội đồng Khoa học Quốc tế (International Science Council, ISC) ở mức độ tương tự như sinh học, hóa học, vật lý và toán học. Nhiều trường đại học có khoa Địa vật lý riêng biệt, và có một hệ thống độc lập của hiệp hội địa vật lý, các ấn phẩm, và các hội nghị.
Địa vật lý được áp dụng cho các nhu cầu xã hội, chẳng hạn như tìm tài nguyên khoáng sản, bảo vệ môi trường và giảm nhẹ thiên tai. Dữ liệu Khảo sát địa vật lý được sử dụng để phân tích tiềm năng chứa dầu khí, khoáng sản, tìm nước ngầm, tìm di vật khảo cổ học, tìm vật chưa nổ (UXO), xác định độ dày của băng hà và đất, và đánh giá tính chất đất đá tại các vị trí xây dựng để xử lý môi trường và kỹ thuật xây dựng,...
Lịch sử
Địa vật lý được công nhận là một lĩnh vực khoa học riêng biệt từ thế kỷ 19, tuy vậy nguồn gốc của nó đã có từ thời cổ đại.
La bàn từ tính đầu tiên đã được chế từ đá nam châm (Lodestone), và sau đó la bàn từ tính đóng vai trò quan trọng trong hàng hải. Các dụng cụ quan sát địa chấn đầu tiên được chế từ năm 132 TCN ở Trung Hoa.
Isaac Newton áp dụng lý thuyết tương tác hấp dẫn của ông để giải thích về cơ chế thủy triều. Sau đó các công cụ được phát triển để đo hình dạng, mật độ và trọng trường Trái Đất, cũng như các thành phần trong vòng tuần hoàn nước.
Trong thế kỷ 20, các phương pháp địa vật lý đã được phát triển cho thăm dò thạch quyển và thủy quyển Trái Đất. Địa vật lý cũng đóng một vai trò thiết yếu trong sự phát triển của lý thuyết kiến tạo mảng.
Các hiện tượng vật lý
Địa vật lý đề cao tính liên ngành, đóng góp vào mọi lĩnh vực của vật lý và các khoa học Trái Đất. Để cung cấp một ý tưởng rõ ràng hơn về những gì cấu thành địa vật lý, phần này mô tả hiện tượng được nghiên cứu trong vật lý và cách chúng liên quan đến Trái Đất và môi trường xung quanh của nó.
Trọng lực
Lực hấp dẫn cùng với lực ly tâm do sự tự xoay của Trái Đất tạo ra trọng trường Trái Đất, tác động lên các vật thể.
Mặt đẳng thế của trọng trường ứng với mực nước biển trung bình yên tĩnh, được gọi là Geoid và là một trong các định nghĩa về hình dạng của Trái Đất.
Các lực hấp dẫn của mặt trăng và mặt trời làm xuất hiện thủy triều.
Các phép đo gia tốc trọng trường và thế hấp dẫn trên bề mặt Trái Đất để xác định dị thường trọng lực, là nội dung của thăm dò trọng lực, được sử dụng để tìm kiếm các mỏ khoáng sản, cũng như cung cấp thông tin về sự dịch chuyển của các mảng kiến tạo.
Dòng nhiệt
Trái Đất hình thành và nguội dần, dẫn đến xuất hiện lớp vỏ ngoài rắn, làm giảm bớt quá trình thoát nhiệt. Phần nhiệt lượng trong lòng Trái Đất làm cho vật chất ở một phần lõi là thể lỏng. Các dòng nhiệt dẫn đến những chuyển động ở lõi lỏng, tạo ra từ trường Trái Đất theo thuyết geodynamo, còn vận động đối lưu manti dẫn đến chuyển động của các mảng kiến tạo nêu trong thuyết kiến tạo mảng . Các nguồn nhiệt chính gồm có nhiệt nguyên thủy và phân rã phóng xạ, và đóng góp nhỏ của chuyển đổi pha vật chất (như sự kết tinh).
Nhiệt chủ yếu được vận chuyển đến bề mặt bằng đối lưu nhiệt (Thermal convection). Tuy nhiên có hai lớp ranh giới nhiệt, là ranh giới lõi - quyển manti (core-mantle) hay Điểm gián đoạn Gutenberg, và thạch quyển (lithosphere), tại đó là dẫn nhiệt. Một phần nhiệt được đưa lên từ đáy quyển manti bởi các chùm manti.
Các dòng nhiệt lên bề mặt của Trái Đất là khoảng 4,2 × 1013 W, và nó là một nguồn tiềm năng của năng lượng địa nhiệt.
Địa chấn
Sóng địa chấn (Seismic wave) là rung động truyền qua lòng Trái Đất hoặc dọc theo bề mặt của nó. Toàn bộ Trái Đất cũng có thể dao động ở dạng gọi là chế độ bình thường (normal mode) hay dao động tự do của Trái Đất. Chuyển động mặt đất do sóng địa chấn hoặc chế độ bình thường được đo bằng địa chấn kế. Nếu các sóng đến từ một nguồn cục bộ như một trận động đất, vụ nổ, các phép đo tại nhiều địa điểm khác nhau cho phép xác định vị trí nguồn. Vị trí của trận động đất cung cấp thông tin về kiến tạo mảng và đối lưu manti.
Quan sát các sóng địa chấn là nguồn thông tin về các khu vực mà sóng đi qua. Nếu mật độ hoặc thành phần đá thay đổi đột ngột thì xảy ra sóng phản xạ. Phản xạ có thể cung cấp thông tin về cấu trúc gần bề mặt. Những thay đổi trong hướng đi, gọi là khúc xạ, được sử dụng để suy ra các cấu trúc sâu của Trái Đất.
Sử dụng sóng địa chấn với nguồn sóng tự nhiên hay nhân tạo để nghiên cứu cấu trúc thạch quyển và thủy quyển, là nội dung các phương pháp thăm dò địa chấn. Phương pháp này được áp dụng rộng rãi trong cả vật lý địa cầu và địa vật lý thăm dò.
Động đất gây nguy hiểm cho con người. Hiểu được cơ chế của nó, tùy thuộc vào loại động đất (ví dụ, nội mảng kiến tạo hoặc tiêu điểm sâu), có thể dẫn đến các ước tính tốt hơn về nguy cơ động đất và cải tiến trong kỹ thuật công trình chịu động đất (Earthquake engineering).
Điện
Hiện tượng điện được thấy đầu tiên là sét trong mưa giông. Trái Đất là thể rắn, khí quyển bao quanh bị bắn phá bởi các bức xạ vũ trụ nên có điện tích dương. Nó tạo ra một điện trường gần mặt đất, trung bình là 120 V/m, và dòng điện khoảng 1800 A chạy trong mạch toàn cầu. Các dòng này thể hiện bởi sét bên dưới những đám mây.
Trong đất đá thì các quá trình điện hóa tạo ra điện thế thiên nhiên. Ngoài ra, nếu phát nguồn điện nhân tạo phát vào đất đá, thì tính chất điện khác nhau của các đất đá khác nhau sẽ cho ra phản ứng khác nhau. Nghiên cứu các quá trình này là cơ sở cho một loạt các phương pháp thăm dò điện, để nghiên cứu thạch quyển và thủy quyển với nhiều chủ đích.
Điện từ
Sóng điện từ xảy ra trong tầng điện ly, từ quyển và ở lõi ngoài Trái Đất. Đồng ca bình minh (Dawn chorus) được cho là gây ra bởi các điện tử năng lượng cao bị mắc kẹt trong vành đai bức xạ Van Allen. Ngoài ra sét đánh trong khí quyển, các nguồn phát sóng tần thấp (300 Hz – 10 kHz) từ các lò plasma trong tầng điện ly, trong từ quyển,... tạo ra sóng điện từ kiểu “tiếng huýt gió”. Sóng điện từ cũng có thể được tạo ra bởi động đất (xem Seismo-electromagnetics).Các cảm ứng điện từ trong thạch quyển và thủy quyển, gọi là dòng tellur, có nguồn gốc từ nhiễu động trong tầng điện ly, nhiễu từ trường, hoặc do chuyển động của các khối nước.
Tại lõi ngoài Trái Đất, dòng điện trong sắt lỏng có độ dẫn điện tạo ra từ trường bằng cảm ứng điện từ theo thuyết geodynamo. Sóng Alfvén là sóng từ thủy động lực trong từ quyển hoặc lõi Trái Đất. Trong lõi, chúng có thể có hiệu ứng rất nhỏ để quan sát được trong từ trường Trái Đất, nhưng sóng chậm như sóng từ Rossby (Magnetic Rossby waves) có thể là một trong các nguồn gốc của sự biến đổi từ trường Trái Đất theo thời gian.
Phương pháp điện từ được sử dụng trong khảo sát địa vật lý bao gồm Thăm dò điện từ Tellur (Magnetotellurics) và điện từ miền thời gian (Transient Electromagnetics, TDEM).
Từ trường
Từ trường Trái Đất đã được biết đến từ lâu, và đã được sử dụng để định hướng bằng la bàn. Ngày nay ta biết từ trường lái các hạt tích điện của gió mặt trời ra xa Trái Đất, bảo vệ sinh giới trên Trái Đất. Một phần nhỏ các hạt tích điện này xâm nhập được thượng tầng khí quyển và dẫn đến cực quang.
Từ trường Trái Đất được giải thích bằng thuyết geodynamo, coi rằng có nguồn gốc từ sự chuyển động của chất lỏng là sắt ở lõi ngoài Trái Đất.
Từ trường Trái Đất có dạng như một lưỡng cực nghiêng, và nó thay đổi theo thời gian, gọi là biến thiên thế kỷ. Các cực địa từ nằm gần các cực địa lý, nhưng trong khoảng thời gian ngẫu nhiên, trung bình 440.000 đến một triệu năm hoặc lâu hơn, cực tính của Từ trường Trái Đất đảo ngược. Những nghiên cứu Cổ địa từ, tập hợp và phân tích trong Đảo cực địa từ (Geomagnetic Polarity Time Scale), xác định có 184 đảo cực trong 83 triệu năm qua.
Sự đảo cực quan sát rõ trong địa tầng gần đây nhất, xảy ra vào giữa kỷ Đệ tứ, 781000 năm trước, là Đảo ngược Brunhes-Matuyama (Brunhes–Matuyama reversal). Sự đảo cực ngắn gần đây nhất là sự kiện Laschamp xảy ra 41.000 năm trước, trong thời kỳ băng hà cuối cùng, trong đó thời gian đảo cực dài cỡ 440 năm.
Các nhà địa chất quan sát đảo cực địa từ ghi lại trong đá núi lửa thông qua hiện tượng từ hóa dư tự nhiên, và lập ra tương quan Địa tầng từ tính (Magnetostratigraphy). Các dấu vết của chúng thể hiện rõ ở sự song song tuyến tính của các sọc dị thường từ ở đáy đại dương. Những sọc này cung cấp thông tin định lượng về sự lan rộng đáy đại dương, một phần quan trọng của thuyết kiến tạo mảng. Chúng là cơ sở của Địa tầng từ tính, dựng tương quan giữa đảo cực địa từ với các môn địa tầng học khác để xây dựng thang thời gian địa chất.
Từ hóa của các khoáng vật trong các loại đất đá được sử dụng để đo chuyển động của các lục địa. Nó cũng là cơ sở của thăm dò từ, thông qua đo đạc và xác định dị thường từ để giải đoán ra cấu trúc, thành phần, tính chất, trạng thái của đất đá trong thạch quyển, phục vụ nghiên cứu địa chất, môi trường và tìm kiếm khoáng sản.
Phóng xạ
Phân rã phóng xạ cấp khoảng 80% của nội nhiệt Trái Đất, tạo năng lượng cho geodynamo và kiến tạo mảng. Các nguồn cấp nhiệt chính có các đồng vị Kali K40, Urani U238, U235 và Thori Th232.
Nguyên tố phóng xạ được sử dụng trong định tuổi bằng đồng vị phóng xạ, là phương pháp chính để thiết lập khoảng thời gian tuyệt đối trong Địa thời học.
Đo phóng xạ, gồm đo gamma tổng và đo phổ gamma, đo khí Radon, sẽ xác định phân bố của các đồng vị phóng xạ gần bề mặt Trái Đất, phục vụ cho lập bản đồ thạch học, tìm quặng phóng xạ, xác định mức độ hoạt động của đứt gãy, xác định ô nhiễm phóng xạ của môi trường tự nhiên.
Thủy động lực học
Chuyển động chất lỏng xảy ra trong từ quyển, khí quyển, đại dương, quyển manti và lõi Trái Đất. Ngay cả trong lớp phủ rắn mặc dù có một độ nhớt rất lớn, vẫn có sự chảy giống như một chất lỏng nếu xem xét trong khoảng thời gian dài (xem Địa động lực).
Địa vật lý Thủy động lực học là một công cụ chính trong vật lý hải dương học và khí tượng học. Sự quay của Trái Đất có ảnh hưởng sâu sắc đến thủy động lực học của Trái Đất, thường là do hiệu ứng Coriolis. Trong bầu không khí nó làm phát sinh chuỗi dòng xoáy quy mô lớn như sóng Rossby (Rossby waves) và xác định các mô hình lưu thông cơ bản của các cơn bão. Trong đại dương nó định hướng các lưu thông xoáy quy mô lớn như sóng Kelvin (Kelvin wave) và xoắn ốc Ekman (Ekman spirals) ở bề mặt đại dương.
Trong lõi Trái Đất, sự lưu thông xoáy của sắt nóng chảy được cấu trúc bởi các cột Taylor (Taylor column).
Sóng và những hiện tượng khác trong từ quyển có thể được mô phỏng bằng Từ thủy động lực học.
Đặc điểm của Trái Đất
Kích thước và hình dạng của Trái Đất
Ở dạng khái quát cao nhất, thì coi Trái Đất có dạng hình cầu.
Sự quay quanh trục dẫn đến lực ly tâm, làm nó phình ra về phía xích đạo. Vì vậy nó được khái quát có hình dạng của một ellipsoid có bề mặt là xấp xỉ của Geoid trên đại dương. Nó được gọi là Ellipsoid quy chiếu (Reference ellipsoid), là nền tảng trong môn Trắc địa để lập ra hệ tọa độ địa lý gồm vĩ độ (latitude), kinh độ (longitude), cao độ (elevation), lập ra khung chiếu (Projection) cho thành lập Bản đồ địa hình trên Trái Đất. Tuy nhiên các quốc gia chọn cách xấp xỉ với Geoid và chọn điểm mốc kinh tuyến gốc khác nhau, nên hiện có nhiều Hệ tọa độ địa lý.
Trong số đó hệ WGS84 (World Geodetic System 1984) có xuất phát từ Hoa Kỳ và được gọi là Hệ thống trắc địa thế giới, đang là cơ sở của Hệ thống định vị toàn cầu GPS, được dùng phổ biến nhất. Hệ WGS84 sử dụng mô hình geoid EGM96 (Earth Gravitational Model 1996) hiệu đính năm 2004, với bán kính tại xích đạo a = 6378137 m và tại địa cực b = 6356752.3142 m, độ dẹt f = 1/298.257223563.
Các chi tiết hình dạng Trái Đất thì bị ảnh hưởng bởi sự phân bố của các lục địa và bồn đại dương, và trong chừng mực nào bởi sự di động của các mảng kiến tạo.
Hình dạng Trái Đất đầy đủ nhất, là bề mặt vật lý gồm đất liền và vùng nước, tức địa hình với độ cao so với bề mặt của ellipsoid quy chiếu, và biểu diễn trên Bản đồ địa hình. Trên bản đồ các vùng nước được biều diễn bằng mực nước trung bình, ví dụ mặt Biển Chết là -429 m, mặt hồ Ba Bể ở Việt Nam là +145 m, tuy nhiên các vùng phủ băng vĩnh cửu thường bị bỏ trống.
Cấu trúc bên trong
Các bằng chứng địa chấn học, dòng nhiệt bề mặt, và vật lý khoáng vật được kết hợp với khối lượng và lực quán tính của Trái Đất để suy ra các mô hình bên trong Trái Đất - thành phần, mật độ, nhiệt độ, áp suất của nó.
Ví dụ, về trung bình của Trái Đất có khối lượng riêng (5,515) cao hơn rất nhiều so với các loại đá trên bề mặt (2,7-3,3). Nó cho thấy rằng các vật chất ở sâu hơn là dày đặc hơn. Mô men quán tính của Trái Đất thấp, 0.33 MR2, so với một khối tương đương có mật độ không đổi là 0,4 MR2. Đương nhiên có sự gia tăng mật độ nén dưới áp suất rất lớn trong lòng đất, tuy nhiên các ảnh hưởng của áp suất có thể được tính toán bằng cách sử dụng phương trình Adams-Williamson (Adams–Williamson equation). Kết luận là chỉ riêng áp suất không thể giải thích cho sự gia tăng mật độ. Thay vào đó, chúng ta biết rằng lõi của Trái Đất bao gồm hợp kim của sắt và các chất khác.
Việc tái hiện các sóng địa chấn ở bên trong Trái Đất cho thấy không có sóng ngang S truyền qua lõi ngoài. Vì chất lỏng không truyền sóng ngang, nên lõi ngoài là dạng lỏng, và chuyển động của chất lỏng có độ dẫn điện này tạo ra từ trường Trái Đất theo thuyết geodynamo. Tuy nhiên lõi trong là rắn do áp suất rất lớn.
Tái hiện phản xạ địa chấn ở phần sâu bên trong cho thấy một số gián đoạn lớn trong tốc độ truyền sóng địa chấn, phân chia ranh giới các vùng chính của Trái Đất: lõi trong, lớp lõi ngoài, quyển manti (Mantle), thạch quyển và lớp vỏ (Crust).
Quyển manti được chia thành các manti trên, vùng chuyển tiếp, manti dưới và lớp D". Giữa quyển manti trên và lớp vỏ ngoài cùng là Bề mặt Mohorovičić (Mohorovičić discontinuity).
Từ quyển
Khi từ trường của hành tinh đủ mạnh, nó tương tác với gió mặt trời tạo thành một Từ quyển. Đo trên phi thuyền không gian đã vẽ được kích cỡ của từ trường Trái Đất. Nó kéo dài về phía Mặt trời khoảng 10 lần bán kính Trái Đất.
Luồng hạt mang điện tích do mặt trời phóng ra, gọi là gió mặt trời, tương tác với từ trường Trái Đất, dẫn đến đuôi từ quyển kéo dài hàng trăm lần bán kính Trái Đất về hướng đối diện. Từ quyển và khí quyển chặn các hạt này, bảo vệ sự sống trên Trái Đất.
Bên trong từ quyển, có những vùng tương đối dày đặc của các hạt gió mặt trời được gọi là vành đai bức xạ Van Allen.
Vật lý khoáng vật
Các loại đất đá, khoáng vật, đối tượng nghiên cứu khác nhau có tính chất vật lý khác nhau. Sự khác biệt về tính chất vật lý giữa đối tượng nghiên cứu và môi trường xung quanh nó tạo ra các dị thường địa vật lý có thể quan sát được nhờ các thiết bị đo ghi các hiện tượng vật lý.
Các tính chất vật lý của khoáng vật được nghiên cứu để từ những nguồn thông tin đo ghi được như: địa chấn, các gradient địa nhiệt,điện, từ, trọng lực, phóng xạ..., các nhà địa vật lý có thể suy ra các thành phần bên trong Trái Đất (phát hiện khoáng sản, dầu khí, nước ngầm...), cũng như những vận động có thể xảy ra.
Chịu ảnh hưởng nhiệt độ và áp suất cao, các đặc tính khoáng vật thay đổi về pha vật chất, điểm nóng chảy, các đặc tính lưu biến, hoặc khả năng chảy, độ nhớt,... thay đổi. Nó tác động đến mức độ các mảng kiến tạo di chuyển.
Nước là một chất rất phức tạp và tính độc đáo của nó là rất cần thiết cho cuộc sống. Tính chất vật lý của nó hình thành thủy quyển và là phần thiết yếu của vòng tuần hoàn nước và khí hậu. Tính chất nhiệt động của nước quyết định sự bốc hơi và gây ra gradient nhiệt trong khí quyển. Các loại mưa liên quan đến một hỗn hợp phức tạp các quá trình như sự kết dính, siêu lạnh và quá bão hòa. Một phần nước thấm xuống đất trở thành nước ngầm, và dòng chảy nước ngầm dẫn đến những hiện tượng như thấm lọc, tăng độ dẫn điện của nước, làm cho phương pháp địa vật lý điện và điện từ hữu ích cho việc theo dõi lưu lượng nước ngầm.
Trong đại dương thì độ mặn có ảnh hưởng tới tính chất vật lý của nước, và tới chuyển động của nó.
Nhiều giai đoạn của băng được hình thành ra quyển băng và có mặt các dạng như tảng băng, sông băng, biển băng, băng nước ngọt, tuyết và tầng đất đóng băng vĩnh cửu. Chúng là đối tượng nghiên cứu của Băng quyển học.
Các phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp thăm dò
Các phương pháp thăm dò điện: Điện trở, điện trường thiên nhiên, phân cực kích thích, điện từ Tellur, điện từ miền thời gian (trường chuyển), Radar xuyên đất (GPR)
Phương pháp địa chấn: khúc xạ, phản xạ, Địa chấn nông phân giải cao, mặt cắt thẳng đứng, chiếu sóng
Phương pháp từ
Phương pháp trọng lực
Phương pháp phóng xạ
Phương pháp địa nhiệt
Phương pháp địa vật lý giếng khoan
Các phương pháp địa vật lý có thể được tiến hành trên mặt đất, trong giếng khoan, trên không (máy bay), trên biển (tàu), và cả trong không gian.
Nghiên cứu trong vũ trụ
Thăm dò trong không gian cho phép quan sát ở các vùng phổ khác nhau của sóng điện từ và ánh sáng kể cả vùng không nhìn thấy, cũng như sự thay đổi trọng trường và từ trường. Đo sự thay đổi trọng trường và từ trường bằng tàu vũ trụ trên quỹ đạo cho phép xác định các chi tiết tinh tế của trường ở hành tinh được quan sát. Ví dụ, trong năm 1970, các nhiễu động trọng trường trên biển của Mặt trăng (Lunar maria) đã được đo lường thông qua tàu vũ trụ mặt trăng, dẫn đến việc phát hiện sự tập trung mật độ (mascons), bên dưới các bồn trũng Imbrium, Crisium, Nectaris và Humorum.
Đối tượng nghiên cứu
Thạch quyển
Thủy quyển
Khí quyển
Trái Đất
Hành tinh
Tìm kiếm, thăm dò dầu khí, khoáng sản, nước ngầm...
Khảo sát nền móng địa chất công trình (hầm, hào, sụt lún)
Nghiên cứu, đánh giá môi trường
Tham khảo
Xem thêm
Khảo sát địa vật lý
Địa vật lý thăm dò
Liên đoàn Trắc địa và Địa vật lý Quốc tế (IUGG)
Thuyết geodynamo (Dynamo theory)
Bồn đại dương (Oceanic basin)
Ellipsoid Trái Đất (Earth ellipsoid)
Liên kết ngoài
A reference manual for near-surface geophysics techniques and applications
Commission on Geophysical Risk and Sustainability (GeoRisk), International Union of Geodesy and Geophysics (IUGG)
Study of the Earth's Deep Interior, a Committee of IUGG
Union Commissions (IUGG)
USGS Geomagnetism Program
Career crate: Seismic processor
SEG, the Society of Exploration Geophysicists
Bộ môn Địa vật lý, Trường Đại học Mỏ - Địa chất
Vật lý học
Khoa học Trái Đất
Khoa học hành tinh
|
22484
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%9Bp%20v%E1%BB%8F%20%28%C4%91%E1%BB%8Ba%20ch%E1%BA%A5t%29
|
Lớp vỏ (địa chất)
|
Trong địa chất học, lớp vỏ là một phần của thạch quyển và là lớp ngoài cùng của hành tinh. Nói chung, lớp vỏ các hành tinh là hỗn hợp của các chất ít đậm đặc hơn so với các lớp sâu bên trong của chúng. Lớp vỏ Trái Đất là hỗn hợp chủ yếu của đá bazan và granit. Nó nguội và cứng hơn so với các lớp ở sâu hơn của lớp phủ và lõi.
Cấu trúc
Trên các hành tinh nóng chảy một phần, chẳng hạn như Trái Đất, thạch quyển trôi nổi trên các lớp lỏng bên trong. Do phần bên trên của lớp phủ là nóng chảy một phần (quyển astheno), nên thạch quyển có thể bị chia cắt ra thành nhiều mảng kiến tạko dkeeo có sự dịch chuyển theo thời gian. Lớp vỏ của đáy biển là khác biệt đáng kể với lớp vỏ của lục địa.
Vỏ của Trái Đất thì chia ra hai phần tách biệt:
Lớp vỏ đại dương (quyển sima) dày từ 5 tới 10 km và chủ yếu là đá bazan nặng và sẫm màu.
Lớp vỏ lục địa (quyển sial) dày từ 20 tới 50 km và chủ yếu chứa các loại đá nhẹ hơn.
Thể tích lớp vỏ Trái Đất nhỏ hơn 1% thể tích Trái Đất. Nhiệt độ lớp vỏ nằm trong khoảng từ nhiệt độ không khí bề mặt tới khoảng 1000 °C ở gần phần trên lớp phủ.
Thành phần lớp vỏ Trái Đất
Các thành phần đá của lớp vỏ Trái Đất gần như tất cả là các oxide. Các thành phần như clo, lưu huỳnh và flo là các ngoại lệ quan trọng duy nhất đối với thành phần này và tổng khối lượng của chúng trong bất kỳ loại đá nào thông thường đều nhỏ hơn 1%. F. W. Clarke đã tính toán rằng gần 47% khối lượng lớp vỏ Trái Đất là oxy. Nguyên tố này có mặt trong các oxide, chủ yếu là của silic, nhôm, sắt, calci, magiê, kali và natri. Silica là thành phần quan trọng chính của lớp vỏ, có mặt trong các khoáng vật silicat, là khoáng vật phổ biến nhất trong các loại đá mácma và đá biến chất. Từ tính toán dựa trên 1.672 phân tích các loại đá, Clarke đưa ra thành phần phần trăm trung bình theo khối lượng như sau:
Tất cả các thành phần khác chỉ có rất ít và chúng chiếm không tới 1%.
Tham khảo
Xem thêm
Cấu trúc Trái Đất
Trôi dạt lục địa
Kiến tạo địa tầng
Địa động lực
Liên kết ngoài
Bản đồ độ dày lớp vỏ Trái Đất tại USGS
Cấu trúc Trái Đất
Kiến tạo mảng
|
22494
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BB%87nh%20m%C3%A0ng%20trong
|
Bệnh màng trong
|
Dịch tễ
Bệnh màng trong (HMD: Hyaline Membrane Disease) hay còn gọi hội chứng suy hô hấp sơ sinh (Neonatal Respiratory Distress Syndrome) có thể gặp ở 1% tất cả trẻ sơ sinh, vào khoảng 10% tất cả trẻ sơ sinh đẻ non, đặc biệt có thể lên đến 50% ở trẻ đẻ non trước 30 tuần thai. Trong những năm vừa qua, tỷ lệ mắc bệnh màng trong có giảm xuống nhờ những biện pháp phòng ngừa, tuy nhiên bệnh này vẫn còn là nguyên nhân của 1/3 tổng số tử vong trong diện sơ sinh.
Bệnh sinh và yếu tố thuận lợi
Phổi được xem như một túi khí lớn trong đó có một số lượng khổng lồ các túi khí cực nhỏ gọi là phế nang. Phế nang là đơn vị chức năng quan trọng nhất của phổi. Tại đây sự trao đổi khí giữa cơ thể và môi trường bên ngoài được diễn ra. Khí oxy sẽ từ môi trường đi vào mạch máu để được vận chuyển đến các tế bào. Khí carbonic được sinh ra trong quá trình chuyển hóa của cơ thể sẽ được thải ra ngoài. Theo hệ quả của định luật Laplace thì những phế nang nhỏ của phổi sẽ có khuynh hướng xẹp lại; trong khi đó những phế nang có kích thước lớn hơn sẽ gia tăng kích thước và đôi khi bị vỡ ra. Đó là do tác động của một lực vật lý gọi là sức căng bề mặt.
Bình thường phổi không bị xẹp theo quy luật vật lý này là nhờ có chất làm điều hòa sức căng bề mặt ở các phế nang có kích thước khác nhau. Đó là chất diện hoạt. Chất diện hoạt hay surfactant trong phổi có tác dụng làm giảm sức căng bề mặt của lớp bề mặt ngăn cách khí - dịch, ở đây là màng của phế nang, qua đó ngăn ngừa tình trạng xẹp phế nang trong thời kỳ thở ra. Sự thiếu hụt về lượng hoặc khiếm khuyết về chất của surfactant làm cho các phế nang trở nên kém ổn định và đây là yếu tố quyết định sự phát sinh của bệnh màng trong.
Thành phần chính của chất surfactant là Dipalmitoyl-Phosphatidylcholin (Leucithin). Ngoài ra còn có chất khác là Phosphatidylglycerol. Sự thiếu hụt của thành phần chính là nguyên nhân thường gặp của bệnh màng trong. Tuy nhiên bệnh cũng có thể xuất hiện nếu có sự thiếu hụt hay rối loạn của thành phần phụ cũng như một số các apoprotein đặc hiệu.
Ở trẻ đẻ non, hệ thống emzyme xúc tác sự tổng hợp surfactant bởi các phế bào tuýp II (tế bào bụi) chưa hoàn chỉnh. Hệ thống men này chỉ hoạt động tốt khi thai đã được 34 đến 35 tuần. Do vậy những trẻ đẻ non thường có nguy cơ cao phát sinh bệnh này. Các nguyên nhân làm phổi chậm trưởng thành khác như trẻ sinh ra từ mẹ bị bệnh đái tháo đường không được kiểm soát tốt trong thai kỳ, bệnh tăng nguyên hồng cầu. Các yếu tố có thể làm phổi trưởng thành sớm là các stress mạn tính đối với thai nhi như nhiễm trùng ối-màng ối, mẹ hút thuốc lá, suy nhau thai...
Sinh lý bệnh
Nguyên nhân tiên phát là sự thiếu hụt về lượng và/hoặc về chất của surfactant ở trẻ đẻ non. Sự thiếu hụt này gây nên các hậu quả sinh lý bệnh như sau:
Dãn suất (C: Compliance) của phổi giảm.Dãn suất phổi là chỉ số biểu diễn khả năng thay đổi thể tích của phổi dưới tác dụng của áp lực. Dãn suất tăng là tình trạng phổi có thể thay đổi dung tích tốt dưới áp lực (phổi mềm dẻo). Dãn suất giảm là tình trạng phổi ít thay đổi thể tích dưới tác dụng của áp lực (phổi cứng). Một chiếc bong bóng đồ chơi của trẻ em có dãn suất cao hơn ruột của một quả bóng đá (thổi phồng bong bóng dễ dàng hơn thổi ruột quả bóng đá).
Các phế nang không được thông khí bình thường hay còn gọi là tình trạng xẹp phổi vi thể. Vùng phổi bị xẹp sẽ không tham gia trao đổi khí và tăng shunt trong phổi. Để mở lại các phế nang bị xẹp cần phải có một lực mở rất lớn, lớn hơn nhiều so với việc thay đổi cùng một thể tích ở một phế nang đã mở.
Giảm dung tích cặn chức năng (FRC: Functional Residual Capacity) của phổi. Giảm dung tích cặn chức năng của phổi làm phổi xẹp lại trong kỳ thở ra do vậy sự trao đổi khí chỉ diễn ra trong thời kỳ thở vào. Bình thường trao đổi khí diễn ra liên tục cả trong thời kỳ thở ra. Giảm dung tích cặn chức năng của phổi cũng làm trẻ phải sử dụng công thở rất cao trong mỗi lần thở vào để làm mở các phế nang bị xẹp. Tăng công làm việc trong điều kiện trẻ sơ sinh chưa có nguồn dự trữ năng lượng đầy đủ, cũng như trong tình trạng thiếu oxy sẽ gây nên tình trạng kiệt sức nhanh chóng và nhiễm toan chuyển hóa.
Tăng luồng máu chảy tắt (shunt) trong phổi. Ở đây máu đen chứa ít oxy và nhiều carbonic được tim phải đưa lên phổi nhưng không tham gia trao đổi khí (nhận oxy, thải carbonic) mà lại đổ về tim trái để từ đó lại tiếp tục đi đến các cơ quan.
Tạo shunt từ tim phải qua tim trái (thông qua lỗ bầu dục, ống động mạch). Tương tự như trên nhưng máu đen ở đây không lên phổi như bình thường mà "đi tắt" qua tim trái. Bình thường lỗ bầu dục và ống động mạch đóng lại sau khi sinh, không cho máu đen đi qua.
Giảm tưới máu mao mạch phổi gây nên sự thiếu oxy và chất dinh dưỡng ngay tại các tế bào của phổi. Điều này làm nhiễm toan cục bộ gây tăng áp động mạh phổi và tăng tính thấm thành mạch, tạo điều kiện để các thành phần của máu đi vào nhu mô phổi.
Những biến đổi kể trên gây nên sự giảm thu nhận oxy vào trong cơ thể, tăng chênh lệch nồng độ oxy và carbonic giữa không khí và mao máu trong phổi (oxy trong phổi cao nhưng trong máu cự thấp, trong khi đó carbonic trong máu cực kỳ cao nhưng trong không khí lại thấp). Tình trạng hạ oxy máu và nhiễm toan lại làm xấu đi những điều kiện cần thiết để tổng hợp surfactant. Càng thiếu surfactant thì tình trạng nhiễm toan và hạ oxy máu lại càng thêm nặng nề. Tình trạng này được gọi là vòng luẩn quẩn bệnh lý của bệnh màng trong. Do hậu quả quả của quá trình bệnh lý này mà tình trạng tưới máu phổi giảm xuống, tính thấm mao mạch phổi tăng lên, phổi rơi vào trạng thái tương tự như trong sốc. Do tăng tính thấm thành mạch mà các thành phần huyết tương của máu sẽ thoát quản ra khỏi mạch máu đi vào khoang tổ chức giữa mạch máu và bề mặt phế nang. Trên tiêu bản giải phẫu bệnh lý những trẻ tử vong do bệnh màng trong thấy xuất hiện một lớp màng trong suốt (hyaline membrane). Đầu tiên khi nghiên cứu về bệnh này, các nhà bệnh lý học đã thấy lớp màng trong này và cho đó là nguyên nhân gây bệnh. Do vậy bệnh được đặt tên là bệnh màng trong. Thực ra đây chỉ là hậu quả bệnh lý cuối cùng của tình trạng thiếu surfactant. Tuy nhiên bệnh vẫn được gọi theo tên cũ để ghi nhớ công lao của những thầy thuốc đầu tiên phát hiện bệnh này.
Lâm sàng và chẩn đoán
Các triệu chứng bệnh thường biểu hiện ngay sau lúc sinh ra hoặc trong 6 giờ đầu tiên:
Thở nhanh trên 60 lần/phút.
cánh mũi phập phồng. Đôi khi không thấy dấu hiệu này mà chỉ thấy cánh mũi trẻ nở thường xuyên.
Rút lõm hõm ức hoặc khoảng liên sườn.
Rên thời kỳ thở ra.
Nghe phổi phát hiện thông khí phổi giảm.
Da màu xanh tái.
Tím có thể ở đầu chi (tím ngoại biên), nếu nặng có thể tím trung tâm (tím cả niêm mạc môi miệng.
Bệnh lên đến đỉnh điểm vài ngày thứ hai hoặc ba. Trẻ thường tử vong trong giai đoạn này. Nếu qua khỏi, các triệu chứng giảm dần. Theo dõi bệnh cần phải dựa vào lâm sàng nhưng quan trọng nhất vẫn là khí máu.
Chẩn đoán thường dựa vào chụp phim x-quang lồng ngực.
Chẩn đoán giai đoạn bệnh theo X-quang:
Giai đoạn I: nhu mô phổi có các hạt mịn biểu hiện xẹp phổi vi thể.
Giai đoạn II: Biểu hiện của giai đoạn I cộng với hình ảnh ứ khí cây phế quản, bờ tim còn phân biệt rõ với nhu mô phổi.
Giai đoạn III: Bóng tim không còn rõ hình dạng so với xung quanh, bờ tim bị xóa một phần.
Giai đoạn IV Phim phổi là một hình mờ trắng xóa, không thể phân biệt tim với phổi.
Sự phân giai đoạn hay phân độ bệnh màng trong thường chỉ thực hiện chính xác sau giờ thứ sáu của đời sống. Trong những giờ đầu tiên, khi lượng dịch còn lại trong phổi sơ sinh chưa được hấp thu hết có thể gây nhầm với bệnh màng trong hoặc chính lượng dịch này làm bệnh bệnh màng trong được phân độ nặng hơn thực tế. Ngược lại, khi chụp X-quang sớm, một số trường hợp không nhìn thấy được biểu hiện xẹp phổi.
Khi trẻ được thở máy áp lực cao hoặc dùng surfactant thay thế thì hình ảnh X-quang có cải thiện hơn.
Chẩn đoán phân biệt
Bệnh màng trong cần được chẩn đoán phân biệt với các nguyên nhân gây suy hô hấp khác.
Nguyên nhân từ đường thở
Tật lưỡi bị tụt ra sau.
Hẹp lỗ mũi sau.
Kén thanh quản
U mạch máu cùng thanh quản.
Màng ngăn thanh quản.
Hẹp khí quản.
Nhuyễn sụn thanh quản.
Nguyên nhân do màng phổi
Tràn khí màng phổi.
Tràn dịch màng phổi.
Nguyên nhân từ màng ngoài tim
Tràn máu màng ngoài tim.
Tràn dịch màng ngoài tim.
Nguyên nhân do tuần hoàn
Sốc mất máu.
Sốc tim.
Sốc nhiễm trùng.
Tăng áp động mạch phổi tồn tại.
Bệnh tim bẩm simnh.
Đa hồng cầu sơ sinh.
Thiếu máu.
Nguyên nhân do thần kinh trung ương
Ngưng thở do trung tâm hô hấp chưa trưởng thành.
Tổn thương thần kinh (chảy máu não).
Tác dụng của thuốc phiện (mẹ bị nghiện, đẻ bằng phương pháp gây mê).
Rối loạn hô hấp nhẹ sau ngạt.
Thiểu sản phổi
Thoát vị hoành.
Phổi thiểu sản do các nguyên nhân khác.
Nguyên nhân do các bệnh khác ở phổi
Viêm phổi bẩm sinh.
Hội chứng suy hô hấp thoáng qua do chậm hấp thu dịch phổi.
Hội chứng hít phân su.
Xuất huyết phổi cấp tính.
Lưu ý
Chụp X-quang phổi là động tác không thể thiếu đối với bất kỳ trẻ sơ sinh nào bị suy hô hấp.
Trẻ sơ sinh đủ tháng thường rất hiếm bị bệnh màng trong và nên chẩn đoán loại trừ.
Tình trạng nhiễm trùng huyết do liên cầu nhóm B (group B Streptococus) có thể xảy ra ở trẻ sơ sinh đẻ non và có biểu hiện lâm sàng cũng như X-quang rất giống với bệnh màng trong.
Điều trị triệu chứng
Hạn chế tác động vào trẻ
Cần tìm cách hạn chế tối đa các động tác chăm sóc tác động lên bệnh nhân. Biện pháp thích hợp nhất là có kế hoạch tập trung các động tác cùng lúc lên bệnh nhân nhằm mục đích tránh cho bệnh nhân không bị tác động quá nhiều lần trong thời gian kéo dài. Bất kỳ những kích thích nào làm trẻ khóc điều có thể làm tăng shunt từ phải sang trái và làm suy hô hấp thêm. Hạn chế tác động vào trẻ là một điều cần thiết nhưng trên thực tế trẻ vẫn phải chịu nhiều tác động bắt buộc.
Theo dõi sát tiến triển
Nghe phổi định kỳ, đo huyết áp mỗi một giờ trong những giờ đầu tiên. Đảm bảo huyết áp tâm thu trên 45 mmHg. Nếu hạ huyết áp thì cần được điều trị bằng truyền albumin người hoặc truyền máu, truyền huyết tương.
Kiểm soát nhiệt độ
Thường xuyên kiểm tra nhiệt độ của trẻ, nhiệt độ lồng ấp, nhiệt độ của không khí thở vào. Mục tiêu là giữ được tình trạng bình nhiệt. Hạ thân nhiệt thường xảy ra nếu không chú ý theo dõi sát.
Theo dõi khí máu
Theo dõi qua monitor, qua máy đo ô bão hòa oxy qua mạch nảy (pulse oxymeter). Khí máu mao mạch có thể thực hiện mỗi nửa giờ trong những giờ đầu. Sau đó tăng khoảng cách. Đánh giá khí máu luôn phải liên hệ với lâm sàng và các thông số của máy thở. Điều chỉnh các thông số máy thở phải dựa vào kết quả khí máu.
Cung cấp oxy
Thường cung cấp qua hệ thống CPAP hoặc qua máy thở. Cần nhanh chóng và cẩn thận giảm nồng độ oxy đưa vào khi áp lực riêng phần oxy trong máu động mạch > 70 mmHg. Nồng độ oxy trong khí thở vào cao và kéo dài có thể gây nên những tổn thương oxy hóa cho phổi, gây xuất huyết võng mạc mắt...Tuy nhiên nếu hại đột ngột, trẻ có thể bị tím lại đột ngột do co mạch phổi cũng như shunt phải-trái.
Thở CPAP qua đường mũi
Ngay sau khi trẻ cần thở oxy với nồng độ trên 0,4 (tỷ lệ thể tích) thì cần chio thở CPAP ngay. CPAP (Continous Positive Airway Pressure) là một phương pháp đưa vào đường thở một áp lực dương liên tục, ngay cả trong khi trẻ thở ra. Mục đích là duy trì độ mở của các phế nang có khuynh hướng xẹp và mở các phế nang bị xẹp. Tác dụng sinh lý là làm tăng dung tích cặn chức năng. CPAP có thể đưa qua ống nội khí quản, qua ống sonde mũi, qua dụng cụ hai ngạnh (kính mũi), hoặc cho qua mặt nạ. Tuy nhiên phương pháp hiện nay thường dùng nhất là qua kính mũi. Hệ thống CPAP có thể có cấu tạo đơn giản với bẫy nước hoặc có cấu tạo phức tạp như hệ thống Infant-Flow. CPAP có tác dụng ngăn ngừa xẹp phổi tiếp tục, tái huy động phế nang bị xẹp, tăng dung tích cặn chức năng, giảm công thở, là bước chuẩn bị cho điều trị surfactant thay thế, rút ngắn thời gian bị bệnh, giảm biến chứng.
Thông khí nhân tạo
Chỉ định khi phân suất oxy trong khí thở vào phải trên 0,6 hoặc khí áp lực riêng phần carbonic trong máu động mạch > 50 - 60 mmHg. Hoặc khi thất bại với CPAP. Đây là một kỹ thuật hồi sức phức tạp cần phải có bác sĩ chuyên khoa hồi sức sơ sinh thực hiện. Các phương thức thông khí thường được sử dụng trong điều trị bệnh màng trong là:
Thông khí bắt buộc ngắt quãng đồng bộ hóa (SIMV: Synchronous intermittent mandatory ventilation).
Thông khí kiểm soát-hỗ trợ (ACV: Assist-control ventilation).
Thông khí hỗ trợ áp lực (PSV: pressure-support ventilation).
Thông khí tần số cao (HFV: High-frequency ventilation)
Dao động tần số cao (HFO: High-frequency Oscilation)
Dùng kháng sinh
Kháng sinh dùng khi nghi ngờ nhiễm trùng hoặc khi không loại được khả năng nhiễm trùng. Kháng sinh thường dùng là ampicillin kết hợp gentamycin.
Cung cấp protein thay thế
Cung cấp protein 0,5-1 g/kc/24 giờ chia làm 4 lần. Chế phẩm dùng là albumin người vì tình trạng thoát quản hình thành màng trong có thể gây mất protein trong máu.
Cân bằng nước-điện giải
Lượng dịch trong ngày đầu tiên thường là 70ml/kg thể trọng. Tuy nhiên lượng dịch và điện giải cần điều chỉnh tùy theo tình trạng lâm sàng cũng như xét nghiệm. Thừa dịch sẽ gây mở ống động mạch. Thiếu dịch gây hạ huyết áp, suy thận, nhiễm toan chuyển hóa, tăng natri máu...
Điều chỉnh toan
Điều chỉnh thăng bằng toan bằng dung dịch natri bicarbonate 8,4% là một biện pháp cần cân nhắc cẩn thận vì có thể làm tăng natri máu, xuất huyết não, đôi khi làm trầm trọng thêm tình trạng suy hô hấp. Tình trạng nhiễm toan được điều chỉnh tốt nhất thông qua việc duy trì thân nhiệt, thống khí thích hợp, cung cấp đủ oxy, chống sốc hiệu quả.
Điều trị còn ống động mạch
Thường là hậu quả của suy hô hấp đặc biệt ở trẻ có cân nặng lúc sinh thấp hơn 1500 gram. cần nghĩ đến bệnh này khi tình trạng hô hấp của trẻ vẫn xấu sau 3 ngày, trẻ khó cai máy thở sau 5 ngày, hoặc khi suy hô hấp đã tiến triển tốt rồi lại diễn biến xấu đi, nghe tim có tiếng thổi, siêu âm doppler mạch máu não có luồng trào ngược trong kỳ tâm trương. Chẩn đoán xác định bằng siêu âm tim. Điều trị bằng dùng thuốc indomethacin hoặc ibuprofen để đóng ống động mạch.
Theo dõi các chỉ số xét nghiệm khác
Kiểm tra đường máu 3 lần/ngày.
Hematocrit 1 lần/ngày.
Điện giải đồ 1 lần/ngày nếu không có bất thường.
Nồng độ Protein máu 1 lần/ngày.
Công thức máu 1 lần/ngày.
Nước tiểu 1 lần/ngày (pH, điện giải đồ, áp lực thẩm thấu, tỉ trọng)
Điều trị nguyên nhân: Liệu pháp thay thế Surfactant
Trong thập kỷ vừa qua, tử vong vong ở trẻ sơ sinh mắc bệnh màng trong đã giảm đi 50% nhờ liệu pháp thay thế surfactant. Ngoài ra liệu pháp thay thế surfactant còn có thể làm giảm tỷ lệ mắc hội chứng loạn sản phổi - phế quản (bronchopulmonary dysplasia) và giảm biến chứng tràn khí màng phổi ở trẻ sơ sinh bị bệnh màng trong.
Các chế phẩm surfactant dùng trong điều trị có thể có nguồn gốc tự nhiên từ phổi bò (Survanta, Alveofact), từ phổi lợn (Curosurf) hoặc được tổng hợp (Exosurf, Surfaxan, ALEC). Hiện nay đang có những thử nghiệm lâm sàng đối với chế phẩm surfactant chiết xuất từ nước ối người. Các chế phẩm này khác nhau về thành phần phospholipid và các apoprotein.
Chỉ định
Điều trị bệnh màng trong khi có chẩn đoán xác định.
Dự phòng bệnh màng trong ở những trẻ sơ sinh cực non: chỉ định này còn đang là vấn đề bàn cãi vì không phải tất cả các trẻ sơ sinh đẻ non đều bị bệnh màng trong. Nên nhớ surfactant có giá rất đắt đỏ: giá một liều trình điều trị thường vào khoảng 800 đến 1500 USD và một trẻ có thể cần 1, trung bình là 2, thậm chí có trẻ cần 4 liệu trình như vậy.
Liều lượng
Liều surfactant có nguồn gốc tự nhiên thường vào khoảng 50 – 200 mg/Kg cân nặng. Trên lâm sàng thường dùng liều 100 mg/kg tương đương 4ml/kg.
Surfactant được đưa vào phổi qua đường nội khí quản. Trẻ bắt buộc phải được đặt nội khí quản, thở máy. Dùng một ống sond đưa vào trong lòng nội khí quản để bơm surfactant vào trong phổi bệnh nhi.
Tác dụng không mong muốn của surfactant
Tắc ống nội khí quản.
Hạ huyết áp thoáng qua.
Ức chế hoạt động tế bào não thể hiện trên điện não đồ thoáng qua.
Thay đổi tốc độ dòng máu trong tuần hoàn não.
Đôi khi gây xuất huyết phổi cấp tính.
Biến chứng của bệnh màng trong
Biến chứng cấp tính
Vỡ phế nang gây tràn khó màng phổi, suy hô hấp nặng nề.
Nhiễm trùng: trẻ thương chịu những điều trị có tính xâm nhập nên tăng nguy cơ nhiễm trùng bệnh viện như nhiễm trùng huyết do tụ cầu, nhiễm nấm Candida...
Xuất huyết não và nhuyễn hóa chất trắng quanh não thất thường gặp ở trẻ sơ sinh đẻ non mắc bệnh màng trong.
Tồn tại ống động mạch: bệnh màng trong là yếu tố làm dễ cho sự tồn tại của ống động mạch. Ngược lại, tồn tại ống động mạch làm cho diễn biến của bệnh màng trong thêm phức tạp.
Xuất huyết phổi cũng thường xảy ra ở trẻ bị bệnh màng trong hơn so với nhóm trẻ khác.
Tăng nguy cơ viêm ruột hoại tử và thủng ruột.
Cơn ngừng thở ở trẻ sơ sinh đẻ non.
Biến chứng mạn tính
Loạn sản phổi-phế quản: đây là biến chứng có thể gặp ở trẻ bị bệnh màng trong. Trẻ mắc bệnh này thường phụ thuộc dài ngày vào oxy. Việc nuôi dưỡng cũng gặp nhièu khó khăn vì trẻ đòi hỏi một nguồn năng lượng cao hơn nhiều trong khi không thể dung nạp được một lượng thức ăn giống như bình thường.
Bệnh màng trong dường như cũng làm tăng nguy cơ bị chứng trào ngược dạ dày-thực quản và hội chứng đột tử ở nhũ nhi (SIDS: Sudden Infant Death Syndrome).
Bệnh lý võng mạc ở trẻ đẻ non (ROP: Retinopathy of Prematurity): thường gặp ở trẻ đẻ non trước 34 tuần và bị suy hô hấp, phụ thuộc vào oxy liều cao dài ngày. Trẻ càng non càng có nguy cơ mắc bệnh này. Do vậy những đối tượng nguy cơ cao kể trên cần được khám mắt sớm và định kỳ để phát hiện bệnh. Điều trị bằng laser hoặc liệu pháp lạnh (cryotherapy) nhằm ngăn ngừa biến chứng bong võng mạc gây mù.
Thương tổn thần kinh: thường là do hậu quả của xuất huyết não, nhuyễn hóa chất trắng quanh não thất, do thiếu oxy não, do nhiễm trùng...
Những vấn đề tâm lý trong gia dình: trẻ thường hay phải điều trị dài ngày trong các trung tâm sơ sinh do đó sự tiếp xúc ngay từ những giây phút đầu đời với bố mẹ bị gián đoạn. Một cuộc sinh non cũng có thể là một chấn thương tâmn lý đối với bố mẹ. Trẻ thường có nguy cơ bị ngược đãi sau này.
Phòng ngừa
Những thai phụ có dấu hiệu dọa đẻ non cần được điều trị dự phòng bằng Dexamethason hoặc betamethason trước khi sinh từ 24 đến 48 giờ. Điều trị dự phòng này có thể làm giảm tần suất cũng như độ nặng của bệnh màng trong ở trẻ sơ sinh.
Tiên lượng
Nhờ vào liệu pháp thay thế surfactant cũng như tiến bộ trong hồi sức và chăm sóc sơ sinh mà những trẻ sơ sinh đẻ non từ 27 đến 30 tuần thai bị bệnh màng trong có tỉ lệ sống đến 80%. Tuy nhiên khoảng 20% trong số này lại bị các biến chứng lâu dài của tình trạng sinh non như bệnh loạn sản phổi-phế quản hoặc xuất huyết não. Hy vọng trong tương lai, cùng với việc đưa vào lâm sàng những chế phẩm surfactant mới cũng như các phương pháp điều trị ưu việt sẽ cải thiện hơn nữa tiên lượng của trẻ.
Tài liệu tham khảo chính
Peter McClure. Hyaline Membrane Disease. http://www.emedicine.com/radio/topic350.htm.
Arun Pramanik. Respiratory Distress Syndrome. http://www.emedicine.com/ped/topic1993.htm.
Speer. C P. Neonatales Atemnotsydrom. Therapie der Krankheiten im Kindes- und Jugendalter. 7. Auflage. Springer. S: 14 - 22.
Obladen. M. Pulmonale Erkrankungen. Neugeborenenintensivpflege, Grundlage und Richtlinie. 5. völlig überarbeitete Auflage. Springer. S: 187 - 197.
Tham khảo
Nhi khoa
Cấp cứu y khoa
Sơ sinh học
Chu sinh học
Hô hấp
Công nghệ ô tô
|
22498
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Dung%20d%E1%BB%8Bch%20r%E1%BA%AFn
|
Dung dịch rắn
|
Dung dịch rắn (nha) là những pha tinh thể có thành phần bao gồm thêm các nguyên tử của nguyên tố chất hòa tan, phân bố ở trong mạng tinh thể dung môi. Các nguyên tử của chất hòa tan thay thế các nguyên tử ở các nút mạng hay xen kẽ vào chỗ trống giữa các nút mạng. Trong trường hợp đầu tiên người ta gọi các tinh thể là các dung dịch rắn thay thế còn trong trường hợp thứ hai là dung dịch rắn xen kẽ.
Nói một cách khác, dung dịch rắn là một thể rắn đồng nhất hình thành từ các pha rắn của dung dịch.
Đặc tính của dung dịch rắn
Về mặt cấu trúc dung dịch rắn của hợp kim có kiểu mạng tinh thể vẫn là kiểu mạng của kim loại dung môi. Đặc tính cơ bản này quyết định các đặc trưng cơ lý hóa tính của dung dịch rắn, về cơ bản vẫn giữ được các tính chất cơ bản của kim loại chủ hay nền. Như vậy dung dịch rắn trong hợp kim có các đặc tính cụ thể như sau:
Liên kết vẫn là liên kết kim loại, do vậy dung dịch rắn vẫn giữ được tính dẻo giống như kim loại nguyên chất
Thành phần hoá học thay đổi theo phạm vi nhất định mà không làm thay đổi kiểu mạng.
Tính chất biến đổi nhiều: Độ dẻo, độ dai, hệ số nhiệt độ điện trở giảm, điện trở độ bền, độ cứng tăng lên.
Do các đặc tính trên nên dung dịch rắn là cơ sở của hợp kim kết cấu dùng trong cơ khí. Trong hợp kim này pha cơ bản là dung dịch rắn, nó chiếm xấp xỉ đến 90% có trường hợp đến 100%.
Dung dịch rắn thay thế
Ở các dung dịch rắn thay thế, các nguyên tử của chất tan thông thường được phân bố thống kê trong mạng dung môi. Mạng không gian xung quanh nguyên tử chất tan xuất hiện những sai lệch cục bộ. Những sai lệch này dẫn tới sự thay đổi tính chất và sự thay đổi thông số mạng trung bình. Sự hình thành các dung dịch rắn luôn luôn kèm theo việc tăng điện trở và giảm hệ số nhiệt điện trở. Các kim loại ở dạng dung dịch rắn thường kém dẻo, luôn luôn cứng hơn và bền hơn so với các kim loại nguyên chất.
Dung dịch rắn xâm nhập
Trong kim loại, các dung dịch rắn loại này xuất hiện khi hợp kim hóa các kim loại chuyển tiếp bằng các á kim có bán kính nguyên tử nhỏ như H, N, C, B. Những xô lệch mạng xuất hiện khi tạo thành dung dịch rắn xen kẽ vượt quá những xô lệch mạng khi tạo thành dung dịch rắn thay thế, do vậy các tính chất cũng thay đổi mạnh hơn. Theo mức độ tăng nồng độ của nguyên tố hòa tan trong dung dịch rắn mà điện trở, lực kháng từ, độ cứng và độ bền tăng, nhưng độ dẻo và độ dai giảm đi rõ rệt.
Giải phóng
Khi dung dịch rắn trở nên không bền — ví dụ như khi ở nhiệt độ thấp — hiện tượng giải phóng xảy ra và hai pha bị tách rời nhau thành những mảng mỏng nhỏ li ti. Hiện tượng này xảy ra chủ yếu bởi khác biệt trong kích cỡ của các cation. Các cation có khác biệt kích thước nhiều khó bị thay thế bởi nguyên tử của chất hòa tan.
Tham khảo
Vật liệu học, B.N.Arzamaxov, Nhà xuất bản Giáo dục, 2000.
Xem thêm
Hệ keo
Dung dịch lỏng (khái niệm thường dùng)
Khoa học vật liệu
Trạng thái vật chất
R
Khoáng vật học
|
22501
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n%20V%C4%83n%20An
|
Nguyễn Văn An
|
Nguyễn Văn An (sinh ngày 1 tháng 10 năm 1937) là một chính trị gia Việt Nam. Ông nguyên là Ủy viên Bộ Chính trị khóa VIII, IX, Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ ngày 27 tháng 6 năm 2001 đến ngày 24 tháng 6 năm 2006.
Tiểu sử
Ông sinh ngày 1 tháng 10 năm 1937 tại xã Mỹ Tân, Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định.
Quá trình công tác
1954-1960: Công nhân điện Nhà máy điện Hà Nội.
1961-1967: Đi học thoát ly trong nước 2 năm, rồi học về điện tại Trường đại học Bách khoa Donetsk (Liên Xô cũ, nay thuộc Ukraina) 5 năm.
1967-1969: Về nước công tác ở công trường 8438 thuộc Công ty điện lực Hà Nội.
1970-1972: Công tác ở Sở Điện III (Nam Định).
Tỉnh Nam Hà
1972-1973: Phó Giám đốc kỹ thuật Công ty điện Nam Hà, Tỉnh ủy viên dự khuyết của tỉnh ủy Nam Hà.
1974-1976: Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng ban Tuyên huấn Tỉnh ủy tỉnh Nam Hà. Học ở trường đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc khóa VII.
Tỉnh Hà Nam Ninh
Tháng 8/1976-1980: Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Nam Ninh, phụ trách công nghiệp, sau làm Bí thư Thành ủy Nam Định.
Tháng 11/1980: Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Hà Nam Ninh.
Tháng 4/1981: được bầu làm Đại biểu Quốc hội khoá VII, Ủy viên Ủy ban Kinh tế Kế hoạch và Ngân sách của Quốc hội.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V (tháng 3 năm 1982) ông được bầu làm Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Bí thư Tỉnh ủy Hà Nam Ninh (1982-1987).
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12 năm 1986) được bầu Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Ban Tổ chức Trung ương
Tháng 9/1987: Phó Trưởng ban Tổ chức Trung ương Đảng. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (tháng 6 năm 1991) được bầu là Ủy viên BCHTƯ Đảng, tiếp tục làm Phó Trưởng ban Tổ chức Trung ương.
Tháng 7/1996: Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII được bầu vào BCHTƯ, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tổ chức Trung ương.
Tháng 4/2001: tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, được bầu vào BCHTƯ, được Trung ương bầu vào Bộ Chính trị và Ban Bí thư Trung ương Đảng.
Chủ tịch Quốc hội (2001-2006)
Ngày 27 tháng 6 năm 2001: tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá X, được Quốc hội bầu làm Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Ngày 26 tháng 6 năm 2006, ông thôi giữ chức Chủ tịch Quốc hội, bàn giao chức vụ dành cho Nguyễn Phú Trọng và nghỉ hưu theo chế độ.
Giải thưởng
Tháng 6 năm 2008, Nguyễn Văn An được tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh.
Chiều ngày 12 tháng 9 năm 2019, Nguyễn Văn An được trao tặng Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Tóm tắt tiểu sử đại biểu khóa XI trên trang web chính thức của Quốc hội Việt Nam
Sinh năm 1937
Nhân vật còn sống
Chủ tịch Quốc hội Việt Nam
Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
Người Nam Định
Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Nam Ninh
Bí thư Tỉnh ủy Hà Nam Ninh
Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa VII
Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa VIII
Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa IX
Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X
Kỹ sư Việt Nam
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam
Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng Cộng sản Việt Nam
Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
|
22516
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BA%A3i%20chi%E1%BA%BFn%20Ho%C3%A0ng%20Sa%201974
|
Hải chiến Hoàng Sa 1974
|
Hải chiến Hoàng Sa là một trận hải chiến giữa Hải quân Việt Nam Cộng hòa và Hải quân Trung Quốc xảy ra vào ngày 19 tháng 1 năm 1974 trên quần đảo Hoàng Sa. Cả hai phía đều tuyên bố có chủ quyền ở quần đảo này, trong khi Liên Hợp Quốc không xác nhận chủ quyền của bất kỳ nước nào ở Hoàng Sa, dẫn tới các tranh chấp về chủ quyền, cuối cùng tạo ra xung đột.
Sau khi Pháp rút khỏi Đông Dương theo Hiệp định Genève 1954, toàn bộ phần lãnh hải phía nam vĩ tuyến 17 của Việt Nam do quân đội Pháp kiểm soát sẽ được chuyển giao cho Quân đội Quốc gia Việt Nam, bao gồm cả quần đảo Hoàng Sa. Sau khi chính phủ Việt Nam Cộng hòa được thành lập dựa trên cơ sở kế thừa Quốc gia Việt Nam thì quần đảo này thuộc quyền quản lý hành chính của Việt Nam Cộng hòa. Trong thời gian chuyển giao giữa Pháp và Quốc gia Việt Nam vào năm 1956, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã chiếm nửa phía đông quần đảo Hoàng Sa và Trung Hoa Dân quốc đã chiếm đảo Ba Bình (thuộc quần đảo Trường Sa). Sau các căng thẳng ngoại giao, đến năm 1974 thì cuộc hải chiến xảy ra. Dù có tàu chiến mạnh hơn nhiều lần cả về kích thước lẫn hỏa lực nhưng Hải quân Việt Nam Cộng hòa đã nhanh chóng thất bại, và Trung Quốc coi đây là một chiến thắng đầy kỳ tích của hải quân nước này
Bối cảnh
Tuyên bố chủ quyền của các bên
Theo quan điểm của Trung Quốc, họ tuyên bố có chủ quyền từ suốt 2.000 năm qua đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa:
Quần đảo Hoàng Sa kể từ khi bắt đầu thời kỳ nhà Hán (năm 206 trước công nguyên) đã được ghi nhận vào lãnh thổ Trung Quốc, các triều đại về sau vẫn có các hoạt động phát triển, các lực lượng hải quân Trung Quốc từ thời nhà Tống (năm 960-1279) đã gửi quân kiểm tra thường xuyên quần đảo này, kéo dài cho đến những năm cuối triều đại nhà Thanh (tức năm 1910).
Có một số di tích văn hóa Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa có niên đại từ thời kỳ nhà Đường và nhà Tống và có một số bằng chứng về nơi cư trú của người Trung Quốc trên các đảo trong giai đoạn này Trong cuốn sách Võ công thông bảo được xuất bản trong triều nhà Tống năm 1044, có ghi nhận lãnh thổ Trung Hoa bao gồm các quần đảo trong khu vực tuần tra của Hải quân nhà Tống.
Trung Quốc đã gửi lực lượng hải quân tới các đảo vào năm 1902 và 1907, đặt cờ và đánh dấu trên các đảo. Nhà nước kế tiếp triều đại nhà Thanh là Trung Hoa Dân quốc đã tuyên bố quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa thuộc thẩm quyền của quận Hải Nam.
Năm 1933, nhân lúc Trung Quốc bị suy yếu do nội chiến, Pháp đã chiếm đóng 9 hòn đảo ở quần đảo Trường Sa. Đến Thế chiến 2, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã bị xâm chiếm bởi Nhật Bản, rồi sau khi Nhật Bản thua trận thì lại thuộc về Pháp. Chính phủ Trung Hoa Dân quốc tuyên bố có chủ quyền không thể xâm phạm ở 2 quần đảo và lên án sự chiếm đóng trái phép của Pháp và Nhật Chính phủ kế tục là Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (thành lập năm 1949) tiếp tục duy trì lập trường này.
Theo quan điểm của Việt Nam, từ thế kỷ 17, trên các bản đồ và các tài liệu lịch sử Việt Nam đã khẳng định nước này có chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa:
Vào thế kỷ 17, các chúa Nguyễn đã cử các hải đội ra khảo sát, khai thác hải sản tại khu vực quần đảo.
Năm 1816, vua Gia Long sai quân lính ra quần đảo Hoàng Sa để cắm cờ.
Năm 1933, Pháp tách quần đảo Hoàng Sa ra khỏi tỉnh Nam Nghĩa và đặt vào tỉnh Thừa Thiên và cho một đơn vị đóng quân ở đó.
Sau khi trở lại Đông Dương, Pháp đã yêu cầu quân Trung Hoa Dân quốc rút khỏi các đảo mà họ đã chiếm giữ năm 1946 và Pháp đã cho quân thay thế quân Trung Quốc, xây dựng lại trạm khí tượng, đài vô tuyến.
Năm 1956, Hải quân Trung Quốc chiếm nhóm đảo phía Đông quần đảo Hoàng Sa (nhóm An Vĩnh) trong đó có đảo Phú Lâm (Woody Island) và đảo Linh Côn. Cho đến khi trận hải chiến diễn ra, mỗi bên giữ một phần quần đảo và đều tuyên bố có chủ quyền trên toàn bộ quần đảo.
Các tranh chấp
Quần đảo Hoàng Sa gồm hai nhóm đảo. Nhóm đảo mà Việt Nam Cộng hòa kiểm soát là nhóm Nguyệt Thiềm hay Trăng Khuyết, Lưỡi Liềm (Crescent Group) nằm ở phía Tây của quần đảo (gần đất liền Việt Nam); nhóm còn lại là nhóm An Vĩnh hay nhóm Bắc đảo (Amphitrite Group) (bấy giờ quen gọi là "Tuyên Đức" - tên Trung Quốc của nhóm An Vĩnh).
Năm 1951, tại Hội nghị San Francisco về Hiệp ước Hòa bình với Nhật Bản, Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Quốc gia Việt Nam Trần Văn Hữu tuyên bố cả hai quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa đều thuộc lãnh thổ Việt Nam, và không gặp phải kháng nghị hay bảo lưu nào từ 51 nước tham dự hội nghị. Tuy nhiên, hội nghị xét thấy không nước nào có đủ chứng cứ pháp lý nên quyết định không công nhận chủ quyền của bất kỳ nước nào ở quần đảo Hoàng Sa, quần đảo được xem là vô chủ. Năm 1954, Pháp rút khỏi Việt Nam, trao lại quyền kiểm soát 2 quần đảo cho Quốc gia Việt Nam. Tại quần đảo khi đó đã có đài khí tượng trên đảo Hoàng Sa do Pháp xây, trực thuộc Ty Khí tượng Đà Nẵng và được bảo vệ bởi một tiểu đoàn thủy quân lục chiến.
Năm 1956, Hải quân Trung Quốc chiếm nhóm đảo phía Đông quần đảo Hoàng Sa (nhóm An Vĩnh) trong đó có đảo Phú Lâm (Woody Island) và đảo Linh Côn. Phía Việt Nam Cộng hòa không có hành động đáp trả quân sự. Trung Quốc cho là Thứ trưởng Ngoại giao Ung Văn Khiêm của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã nói: "Theo dữ liệu của Việt Nam, quần đảo Tây sa và quần đảo Nam Sa về mặt lịch sử là một phần lãnh thổ của Trung Quốc", trong khi tiếp đại diện lâm thời của Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam Lý Chí Dân vào ngày 15/6/1956.
Năm 1958, Trung Quốc cho công bố bản Tuyên ngôn Lãnh hải 4 điểm về việc mở rộng vùng lãnh hải lên 12 hải lý, tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc đối với các quần đảo và phạm vi 12 lãnh hải biển tương ứng với các đảo này, bao gồm Nam Sa (tức Trường Sa), Đài Loan, Tây Sa (tức Hoàng Sa), Trung Sa (tức bãi Macclesfield), quần đảo Bành Hồ (Pescadores). Ngày 22 tháng 9 năm 1958, báo Nhân dân đăng công hàm của Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng gửi Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc, ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của chính phủ Trung Quốc "quyết định về hải phận 12 hải lý" của Trung Quốc.
Năm 1961, chính phủ Việt Nam Cộng hòa ban hành sắc lệnh tuyên bố chủ quyền Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam của Việt Nam Cộng hòa. Trong khi đó, Đài Loan (tức chính phủ Trung Hoa Dân quốc) và Trung Quốc (tức chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa) đều không chấp nhận chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo, cả hai chính phủ này đều có chung lập trường rằng Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc chủ quyền của người Trung Hoa.
Trong thời gian 1964-1970, Hải quân Trung Quốc và Hải quân Việt Nam Cộng hòa chạm súng liên tục trên hải phận Hoàng Sa, nhưng không đưa đến thương vong. Trong thời điểm đó, Việt Nam Cộng hòa cũng thiết lập một sân bay nhỏ tại đảo Hoàng Sa.
Theo giáo sư Lý Hiểu Binh (Xiaobing Li), Đại học Central Oklahoma trong bài viết gửi BBC cho rằng vào tháng 3/1969, Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc bắt đầu rút khỏi lãnh thổ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, giảm dần từ 16 sư đoàn, gồm 150 nghìn quân xuống không còn đơn vị nào vào tháng 7/1970, đồng thời Trung Quốc cắt giảm viện trợ quân sự và dân sự cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Liên Xô thay thế Trung Quốc trở thành quốc gia hỗ trợ kinh tế, quân sự nhiều nhất cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Quan hệ giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Trung Quốc ngày càng lạnh nhạt, thay vào đó Việt Nam Dân chủ Cộng hòa xem Liên Xô là đồng minh quan trọng nhất. Cùng thời điểm này, mối quan hệ giữa Liên Xô và Trung Quốc xấu đi. Từ đầu tháng 3/1969 bắt đầu có nhiều cuộc xung đột quân sự quy mô nhỏ dọc biên giới Trung – Xô, cả hai nước ở tình trạng chiến tranh có thể nổ ra bất cứ lúc nào. Sang đầu năm 1970, Liên Xô triển khai 48 sư đoàn, tương đương gần một triệu quân dọc biên giới Trung Quốc. Còn Trung Quốc tập trung sáu triệu quân tại biên giới với Liên Xô. Thậm chí còn có nguồn tin cho rằng lãnh đạo Liên Xô đã tính đến việc dùng vũ khí nguyên tử tấn công Trung Quốc nếu cần. Mâu thuẫn với Liên Xô đã thúc đẩy lãnh đạo Trung Quốc bình thường hóa quan hệ Mỹ – Trung vào năm 1973.
Năm 1970, Hoa Kỳ và Nhật Bản ký Hiệp ước trao trả Okinawa (Okinawa Reversion Treaty) trao trả quần đảo Senkaku (Sento Shosho hay Senkaku Retto của Nhật Bản) về dưới chủ quyền của Nhật Bản với sự phản đối của Đài Loan và Trung Quốc; và cùng năm Đô đốc Elmo Zumwalt, cựu Tham mưu trưởng Hải quân Hoa Kỳ họp báo tuyên bố tại Guam rằng Hoàng Sa và Trường Sa không nằm trong chiến lược triển khai các hải đảo tiền đồn của Đệ thất Hạm đội Hoa Kỳ. Theo nhận định của Hải quân Việt Nam Cộng hòa thì đây là sự kiện trao đổi giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, và là nguy cơ cho Việt Nam Cộng hòa trong việc bảo vệ Hoàng Sa.
Năm 1971, Hải quân Trung Quốc và Hải quân Việt Nam Cộng hòa tiếp tục chạm súng trên hải phận Hoàng Sa. Những năm cuối của cuộc Chiến tranh Việt Nam, vì nhu cầu chiến trường, tiểu đoàn thủy quân lục chiến của Việt Nam Cộng hòa đóng tại Hoàng Sa được đưa vào đất liền, chỉ còn một trung đội địa phương quân trấn giữ nhóm Nguyệt Thiềm (Lưỡi Liềm). Sau này, ông Hoàng Đức Nhã giải thích việc Việt Nam Cộng hòa không chú trọng bảo vệ Hoàng Sa là do lúc đó chính phủ này ưu tiên chống đỡ sự tấn công của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hơn là bảo vệ Hoàng Sa.
Tháng 2 năm 1972, Tổng thống Mỹ Richard Nixon tới Trung Quốc hội kiến Mao Trạch Đông. Mỹ và Trung Quốc đưa ra tuyên bố chung là Thông cáo Thượng Hải, trong đó phản đối "bá quyền" tại châu Á và Thái Bình Dương. Cũng từ năm 1972, Trung Quốc chấm dứt viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đổi lại Mỹ công nhận chính sách "Một Trung Quốc", theo đó họ bỏ phiếu loại Đài Loan ra khỏi Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc để Trung Quốc thay thế. Năm 1973, Trung Quốc và Mỹ mở văn phòng liên lạc ở thủ đô mỗi nước, mở đầu cho việc bình thường hóa quan hệ giữa hai nước.
Năm 1973, với Hiệp định Paris, Hoa Kỳ và Hạm đội 7 rút quân và thiết bị của Hoa Kỳ ra khỏi khu vực quần đảo Hoàng Sa. Như vậy Hoa Kỳ đã xem tranh chấp tại quần đảo này không phải là việc của họ. Việc Mỹ rút quân và kết làm đồng minh đã giúp Trung Quốc có thể điều quân đánh chiếm Hoàng Sa mà không lo ngại sẽ xảy ra xung đột với Mỹ.
Cuối năm 1973, Trung Quốc lên án hải quân Việt Nam Cộng hòa đã có những hành động bạo lực tàn nhẫn nhằm vào ngư dân Trung Quốc đánh cá ở vùng biển quần đảo Tây Sa, bắt giữ ngư dân Trung Quốc, và tra tấn để buộc họ phải thừa nhận quần đảo Tây Sa là lãnh thổ của Việt Nam.
Ngày 11/1/1974 Bộ Ngoại giao Trung Quốc ra tuyên bố Hoàng Sa, Trường Sa là lãnh thổ của Trung Quốc và tố cáo Việt Nam Cộng hòa chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Sau đó, Việt Nam Cộng hòa ra tuyên bố khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa là lãnh thổ của Việt Nam và bác bỏ những cáo buộc của Trung Quốc.
Trước tình hình đó, Bộ Tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng hòa quyết định thiết lập một phi trường trên đảo Hoàng Sa có khả năng chuyên chở vận tải cơ hạng nặng C-7 Caribou để chuyển quân nhanh ra nhóm Nguyệt Thiềm. Ngày 16 tháng 1 năm 1974, khi một phái đoàn của Quân lực Việt Nam Cộng hòa thăm dò một số đảo ở quần đảo Hoàng Sa trong việc chuẩn bị thiết lập phi trường nói trên thì khám phá ra sự hiện diện của Hải quân Trung Quốc, và giao tranh xảy ra sau đó.
Tương quan lực lượng
Phía Việt Nam Cộng hòa có 4 chiến hạm là Khu trục hạm Lý Thường Kiệt (HQ-16), Hộ tống hạm Nhật Tảo (HQ-10), Khu trục hạm Trần Bình Trọng (HQ-5), Khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ-4), 1 đại đội hải kích thuộc Hải quân Việt Nam Cộng hòa, một số biệt hải (biệt kích hải quân) và 1 trung đội địa phương quân đang trú phòng tại đảo Hoàng Sa.
Phía Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có 4 chiến hạm trực tiếp tham gia trận chiến là: 02 tàu chống ngầm hạng nhẹ lớp 6604 (nhái theo lớp Krondstadt của Liên Xô) mang số hiệu 274 và 271, 02 tàu quét thủy lôi lớp Type 010 (nhái theo tàu lớp T-43 của Liên Xô) mang số hiệu 389 và 396. Ngoài ra, có 2 ngư thuyền ngụy trang số 402 và 407 làm nhiệm vụ chở lính. Về lực lượng đổ bộ lên đảo, phía Trung Quốc còn có lực lượng thuộc Trung đoàn 10 Hải quân Lục chiến, trinh sát (khoảng 500 binh sĩ). Sau khi trận chiến đã kết thúc, thì tàu chống ngầm số 282, tàu chống ngầm số 281 mới đến tăng viện, coi như không tham chiến.
Về vũ khí trên các tàu, phía Việt Nam Cộng hòa có:
HQ-05 Trần Bình Trọng: nguyên là Tàu khu trục lớp Barnegat. Choán nước 2.800 tấn, vận tốc tối đa: 18 knots (33,7 km/h). 1 pháo mũi cỡ 127mm, 10 nòng pháo 40mm bắn nhanh, gồm 4 khẩu 2 nòng quanh đài chỉ huy và 2 khẩu hai bên sau. Ngoài ra còn có thêm 6 pháo 20mm bắn liên thanh.
HQ-16 Lý Thường Kiệt: nguyên là Tàu khu trục lớp Barnegat. Choán nước 2.800 tấn, vận tốc tối đa: 18 knots (33,7 km/h). Trang bị 1 pháo 127mm, 6 pháo 40mm bắn liên thanh, 4 pháo 20mm bắn liên thanh, 2 súng cối đa năng 81mm.
HQ-04 Trần Khánh Dư: Tàu khu trục lớp Edsall, choán nước 1.590 tấn, vận tốc tối đa 21 knots (39 km/h). Tầu có 3 tháp pháo, mỗi tháp pháo có 1 pháo 76,2mm nạp đạn tự động nên bắn rất nhanh (20 phát/phút). Ngoài ra tàu có 2 pháo 40mm và 8 pháo 20mm, đều bắn liên thanh. HQ-4 được trang bị radar trinh sát (DER - Destroyer Escort Radar) kết nối với 3 khẩu đại pháo 76,2mm nạp đạn tự động và có radar điều khiển (radar control) với khả năng tự dò tìm góc độ và tầm xa để "khóa chặt" (lock on) mục tiêu, đây là công nghệ khá hiện đại thời bấy giờ.
HQ-10 Nhật Tảo: Choán nước 650 tấn, vận tốc tối đa 14 knots (27,4 km/h). Trang bị 1 pháo 76mm, 4 pháo 40mm bắn liên thanh, 6 pháo 20mm bắn liên thanh.
Trong khi đó, phía Trung Quốc có:
2 tàu tàu săn ngầm lớp 6604 (nhái theo kiểu tàu chống ngầm lớp Krondstadt của Liên Xô đầu thập niên 1950). Mỗi tàu có choán nước chỉ khoảng 320 tấn, trang bị 1 pháo 85mm và 2 pháo 37mm, tất cả đều là kiểu pháo có từ thế chiến thứ hai, việc điều khiển, ngắm bắn và nạp đạn đều thủ công bằng tay.
2 tàu rà mìn T-43 có choán nước 560 tấn, trang bị 2 pháo đôi 37mm, 2 pháo đôi 25mm, cũng chỉ điều khiển, ngắm bắn và nạp đạn bằng tay.
Trung Quốc thời đó đang khó khăn kinh tế nên Hạm đội Nam Hải của họ chỉ có lực lượng rất yếu, tình trạng của các tàu Trung Quốc đều khá cũ kỹ và lạc hậu. Tài liệu của Trung Quốc ghi rằng
Tàu săn ngầm lớp 6604, với thiết kế "nhái y chang" theo mẫu tàu săn ngầm lớp Kronshtadt do Liên Xô sản xuất từ sau Thế chiến 2... Qua thời gian sử dụng, tới năm 1974, tốc độ nhanh nhất của các tàu này chỉ còn 12 knots (21 km/giờ)... Năm 1974, lực lượng của hạm đội Nam Hải còn rất mỏng, tới mức có thể coi là nghèo nàn. 6 tàu săn ngầm lớp 6604 lúc bấy giờ đang chuẩn bị "về hưu", chỉ được giữ lại để luyện tập. Trước trận đánh, Hải quân Trung Quốc đã lựa ra 2 chiếc tàu 6604 có tình trạng tốt nhất, dồn hết thiết bị còn tốt lại rồi ráp vào hai tàu mang số hiệu 271 và 274 để tới tham gia trận đánh tại Hoàng Sa.
Sau này, Đại tá Hà Văn Ngạc, chỉ huy Việt Nam Cộng hòa trong trận đánh đã mô tả: phía Trung Quốc có tới 11 tàu chiến, bao gồm cả những tàu Osa mang tên lửa chống hạm, đồng thời Trung Quốc huy động cả bốn phi cơ MiG-21 và MiG-23 để oanh tạc Hoàng Sa. Tuy nhiên, đối chiếu với các tài liệu thì cho thấy mô tả của Việt Nam Cộng hòa là phóng đại: Phía Trung Quốc chỉ có 4 tàu tham chiến, cả bốn tàu đều không có tên lửa, và cũng không có máy bay nào của Trung Quốc tham gia trận đánh (Trung Quốc khi đó chỉ có MiG-21 chứ không có MiG-23, và MiG-21 thì không đủ nhiên liệu để bay ra Hoàng Sa). Theo lời kể của trung tá Lê Văn Thự (thuyền trưởng HQ-16), sau trận đánh, Bộ Tư lệnh Hải quân đã phái người tới hỏi ông Thự vì sao ông nói với báo chí là không thấy máy bay phản lực Trung Quốc tham chiến. Ông Thự nghĩ rằng Bộ Tư lệnh Hải quân muốn ông trả lời phỏng vấn cho phù hợp với "kịch bản" mà Đại tá Hà Văn Ngạc đã mô tả
Như vậy, xét tương quan lực lượng:
Về số lượng, mỗi bên đều có 4 chiến hạm trực tiếp tham chiến.
Về chất lượng và kích cỡ tàu chiến, Việt Nam Cộng hòa có ưu thế vượt trội, các chiến hạm của họ lớn và hiện đại hơn. 2 tàu lớn nhất là HQ-05 và HQ-16 đều có kích thước lớn gấp 6 lần tàu Trung Quốc (riêng mỗi chiếc HQ-05, HQ-16 đã có lượng choán nước lớn hơn cả bốn tàu Trung Quốc cộng lại), tàu nhỏ nhất là HQ-10 cũng lớn gấp đôi tàu Trung Quốc. 4 tàu của Việt Nam Cộng hòa có tổng lượng choán nước là 7.840 tấn, gấp 4 lần rưỡi so với phía Trung Quốc.
Về vận tốc, các tàu của Việt Nam Cộng hòa đều có vận tốc cao hơn so với tàu của Trung Quốc (chậm nhất là HQ-10 Nhật Tảo cũng chạy được 27,4 km/h, trong khi tàu của Trung Quốc chỉ chạy được 21 km/h là tối đa).
Về thiết bị, tàu chiến của Việt Nam Cộng hòa được trang bị radar, có thể tự động phát hiện mục tiêu kể cả trong sương mù hoặc đêm tối. Tàu Trung Quốc không có radar, chỉ có thể tìm kiếm mục tiêu bằng ống nhòm và mắt thường.
Về hỏa lực, các tàu của Việt Nam Cộng hòa được trang bị số lượng pháo nhiều gấp 3 lần. Các khẩu pháo cũng lớn hơn, bắn nhanh hơn và chính xác hơn. Xét riêng về pháo cỡ lớn, Việt Nam Cộng hòa có tổng cộng 2 khẩu pháo 127mm và 4 khẩu pháo 76mm, được nạp đạn và ngắm bắn tự động, điều khiển bằng radar (công nghệ khá hiện đại thời bấy giờ), có thể bắn chính xác tàu đối phương từ cự ly 14 km kể cả trong đêm tối. Phía Trung Quốc thì chỉ có 2 khẩu pháo 85mm, đều ngắm bắn và nạp đạn thủ công, không thể bắn chính xác ở cự ly quá 3 km. Pháo cỡ 127mm có thể đánh chìm các tàu chiến cỡ 500 tấn của Trung Quốc chỉ với 1-2 phát đạn trúng đích, trong khi pháo 85mm của Trung Quốc cần hàng chục phát đạn trúng đích mới có thể đánh chìm khu trục hạm 2.800 tấn của Việt Nam Cộng hòa.
Ngoài ra, tàu chiến Việt Nam Cộng hòa có thêm ưu thế bất ngờ: họ là bên khai hỏa trước trong trận đánh. Chỉ cần tàu chiến Việt Nam Cộng hòa bắn chính xác trong các loạt đạn đầu là có thể hạ gục toàn bộ tàu Trung Quốc.
Tài liệu Trung Quốc nhận định:
"Tương quan sức mạnh của hai bên có sự chênh lệch quá lớn, là hiếm thấy trong lịch sử chiến tranh hải quân. Hải quân Việt Nam Cộng hòa được đánh giá là có sức mạnh nằm trong Top 10 thế giới, trong khi các máy bay chiến đấu của Trung Quốc thì không có đủ tầm bay để tới Tây Sa (Hoàng Sa), hạm đội Nam Hải phải gánh vác trọng trách lớn nhất trong trận đánh. Nhưng các tàu chiến Việt Nam Cộng hòa có tính linh hoạt kém, và nhất là các thủy thủ sợ phải chiến đấu hy sinh, điểm yếu mà họ không thể khắc phục. Mặc dù hải quân Trung Quốc kém hơn về trang bị, nhưng binh sĩ có lòng can đảm và tinh thần chiến đấu tốt, cùng với kinh nghiệm nhiều năm hoạt động ở eo biển Đài Loan, đã dũng cảm đối mặt với ưu thế áp đảo của hải quân đối phương mà không hề e ngại".
Theo Đại tá Hà Văn Ngạc, xét về thông số, lực lượng tàu chiến của Việt Nam Cộng hòa có thể dễ dàng đánh bại hải quân Trung Quốc nhờ vào ưu thế về trang bị. Tuy nhiên, kết quả trận đánh lại là một thất bại nhanh chóng cho Việt Nam Cộng hòa vì những lý do sau:
Các chỉ huy Việt Nam Cộng hòa đã không lập sẵn kế hoạch cơ động tác chiến nếu có nổ súng, dẫn đến việc tác chiến bị động: Trong trận đánh, Phân đoàn I (gồm 2 tàu hiện đại nhất là HQ-4 và HQ-5) chỉ ở bên ngoài "nhìn và đợi", và vì quá lo sợ Trung Quốc, HQ-5 chỉ bắn vào lòng chảo 5 - 7 phát trước khi cùng HQ-4 rút lui. Mấy phát đạn này của HQ-5 thì lại bắn trúng vào tàu HQ-16, gây thiệt hại nặng cho chiến hạm này. Vậy là chỉ sau ít phút tham chiến, quân Việt Nam Cộng hòa mất 1 tàu do hỏa lực của chính đồng đội, 2 tàu khác thì quay đầu rút chạy. Chỉ còn lại HQ-10 nhưng đây là tàu nhỏ yếu nhất, khi hạm trưởng HQ-10 bị thương thì một số thủy thủ nhát gan cũng bỏ tàu nhảy xuống biển chứ không lo chiến đấu tiếp. Trận hải chiến vì vậy mà thất bại.
Khi lính Trung Quốc đổ bộ lên đảo, binh lính Việt Nam Cộng hòa đã không tổ chức bắn trả mà bỏ chạy vào khu bụi cây giữa đảo, sau đó thì buông súng đầu hàng. Chỉ từ 10 giờ sáng tới xế trưa, lính Trung Quốc đã bắt được 49 tù binh trên các đảo mà không cần nổ súng, hoàn tất chiếm các đảo một cách nhanh chóng.
Lực lượng không quân của Việt Nam Cộng hòa ở sân bay Đà Nẵng khá mạnh (bao gồm 120 máy bay phản lực Northrop F-5) nhưng lại không được phép cất cánh để tham chiến. Theo Nguyễn Thành Trung việc sử dụng máy bay không thể diễn ra do Mỹ cảnh báo Tổng thống Thiệu không được hành động vì Mỹ đã làm lành với Trung Quốc và chấp nhận làm ngơ để Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa.
Nhìn chung, tương quan lực lượng và kết quả trận đánh có những nét rất giống với Hải chiến Hoàng Hải (1894), nơi mà lực lượng trang bị tàu chiến mạnh hơn lại thất bại nặng nề do những điểm yếu nội tại: các sĩ quan chỉ huy thiếu chuẩn bị, tinh thần chiến đấu kém của binh sỹ, một số tàu đã tự ý rời đội hình để bỏ chạy khỏi trận đánh...
Diễn biến
Phát hiện hải quân Trung Quốc và đổ quân lên các đảo
Ngày 16 tháng 1 năm 1974, Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt (HQ-16) sau khi đưa một phái đoàn công binh Quân đoàn I Quân lực Việt Nam Cộng hòa do Thiếu tá Hồng dẫn đầu (trong đó có một cố vấn người Mỹ tên Kosh thuộc Văn phòng Tùy viên Quân sự Hoa Kỳ tại Đà Nẵng) đi thăm dò một số đảo ở quần đảo Hoàng Sa để thiết lập một phi đạo ngắn thì phát hiện hai ngư thuyền ngụy trang số 402 và số 407 của Hải quân Trung Quốc gần đảo Hữu Nhật (còn được gọi không chính xác là "đảo Cam Tuyền"), đồng thời phát hiện quân Trung Quốc chiếm đóng đảo Quang Hòa và cắm cờ Trung Quốc tại các đảo Hữu Nhật, Duy Mộng, Quang Ảnh (còn được gọi không chính xác là "đảo Vĩnh Lạc").
Sau khi cấp báo về Bộ Tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải tại Đà Nẵng, HQ-16 dùng đèn hiệu yêu cầu các chiến hạm Trung Quốc rời khỏi lãnh hải Việt Nam. Các chiến hạm Trung Quốc không chấp thuận yêu cầu, và cũng dùng đèn hiệu yêu cầu phía Việt Nam Cộng hòa rời khỏi lãnh hải Trung Quốc.
Ngay sau đó, trong ngày 16 tháng 1 năm 1974, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa Vương Văn Bắc tổ chức họp báo tố cáo tàu chiến Cộng hòa Nhân dân Trung hoa xâm phạm lãnh hải quanh các đảo Hữu Nhật, Quang Ảnh, Quang Hòa, Duy Mộng và đổ quân lên các đảo này.
Ngày 17 tháng 1 năm 1974, Khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ-4) đến Hoàng Sa chở theo một toán người nhái (biệt hải) và một đội hải kích đổ bộ xuống Hữu Nhật, Duy Mộng, Quang Ảnh để nhổ cờ Trung Quốc, dựng cờ Việt Nam Cộng hòa. Sau đó lính Việt Nam Cộng hòa rút trở lên tàu. Theo Hạm trưởng HQ-16, Trung tá Lê Văn Thự, toán biệt hải rời HQ-4 bằng xuồng cao su để lên HQ-16. Cùng trong ngày, hai tàu chống ngầm loại Kronstadt số 274 và 271 của Trung Quốc xuất hiện.
Sự chuẩn bị của Trung Quốc
Đêm 17 tháng 1 năm 1974, Chu Ân Lai nhận báo cáo tình hình Hoàng Sa từ Trường Lý Lực, Cục phó Cục Tác chiến Bộ Tổng tham mưu Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Sau đó Chu Ân Lai cùng với Diệp Kiếm Anh viết báo cáo gửi Mao Trạch Đông đề nghị phái quân ra quần đảo Hoàng Sa.
Mao Trạch Đông phê vào bản báo cáo của Chu Ân Lai, Diệp Kiếm Anh: "Đồng ý!" và nói rằng, "trận này không thể không đánh". Mao Trạch Đông giao cho Diệp Kiếm Anh và Đặng Tiểu Bình trực tiếp chỉ huy trận đánh tại quần đảo Hoàng Sa. Đây là trận đánh đầu tiên của Đặng Tiểu Bình khi mới được phục chức sau 7 năm đi "cải tạo".
Ngày 18/1/1974, Chu Ân Lai triệu tập cuộc họp Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc để thảo luận về tình hình Hoàng Sa và lập ra ban chuyên trách năm người để đối phó với các diễn biến có thể xảy ra tại Hoàng Sa. Ban chuyên trách gồm: Diệp Kiếm Anh (chủ nhiệm ban chuyên trách), Vương Hồng Văn, Trương Xuân Kiều, Đặng Tiểu Bình và Trần Tích Liên. Ban chuyên trách nghe Phó Tư lệnh Hải quân Trung Quốc Tô Chấn Hoa báo cáo sau đó quyết định tấn công hạm đội Việt Nam Cộng hòa. Đồng thời, ban chuyên trách công bố bản hướng dẫn nhằm đánh lại các Tuần dương hạm của Việt Nam Cộng hòa. Căn cứ vào bản hướng dẫn này, Hải quân Trung Quốc lập kế hoạch chuẩn bị cho chiến dịch.
Theo ông Hoàng Đức Nhã (bí thư báo chí của Việt Nam Cộng hòa), quần đảo Hoàng Sa nằm khá gần các căn cứ hải quân và không quân Mỹ tại Philippines, việc Trung Quốc phái quân ra Hoàng Sa chắc chắn là không thoát khỏi sự phát hiện và theo dõi của Hải quân Mỹ. Ông tin rằng việc các lãnh đạo Trung Quốc quyết định phái tàu ra Hoàng Sa mà không lo ngại sẽ dẫn tới xung đột với Mỹ, chứng tỏ rằng lãnh đạo cấp cao Mỹ - Trung Quốc đã ngầm có sự tán đồng với nhau trong việc Trung Quốc sẽ chiếm giữ Hoàng Sa, rằng khi nào Trung Quốc điều tàu thì hải quân Mỹ sẽ làm ngơ, coi như không biết chuyện đó. Theo Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh thì tới năm 1974, Mỹ biết rằng họ sẽ thất bại ở Việt Nam nên đã ngầm giao Hoàng Sa lại cho Trung Quốc, nhằm mượn tay Trung Quốc ngăn cản hạm đội Liên Xô hoạt động ở vùng biển Đông.
Thành lập lực lượng đối phó với Trung Quốc
Ngày 18 tháng 1 năm 1974, Phó Đề đốc Lâm Ngươn Tánh, Tư lệnh phó Hải quân Việt Nam Cộng hòa bay ra Bộ Tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải tại Đà Nẵng để chỉ huy toàn bộ lực lượng tham chiến tại Hoàng Sa. Cũng trong sáng ngày 18 tháng 1 năm 1974, lực lượng tăng cường cho Hoàng Sa bao gồm Tuần dương hạm Trần Bình Trọng (HQ-5) và Hộ tống hạm Nhật Tảo (HQ-10) có mặt tại trận địa. Do hải hành lâu ngày chưa kịp tu bổ, HQ-10 tham chiến với một máy không dùng được, chỉ còn một máy hoạt động, radar bị hư hỏng. HQ-5, do Trung tá Phạm Trọng Quỳnh chỉ huy, là soái hạm của Hải đoàn đặc nhiệm bao gồm 4 chiến hạm là HQ-4, HQ-5, HQ-10, HQ-16. Đại tá Hải quân Hà Văn Ngạc ở trên HQ-5 là người trực tiếp chỉ huy Hải đoàn.
Vào khoảng xế trưa ngày 18 tháng 1, Đại tá Ngạc quyết định hải đoàn sẽ phô trương lực lượng bằng một cuộc thao diễn chiến thuật để tiến về phía đảo Quang Hòa với hy vọng có thể đổ bộ chiếm lại đảo một cách hòa bình như đã làm trước đây. Bốn chiến hạm theo đội hình hàng dọc, dẫn đầu là khu trục hạm HQ-4, theo sau là tuần dương hạm HQ-5 trương hiệu kỳ hải đội, thứ ba là tuần dương hạm HQ-16 và sau cùng là hộ tống hạm HQ-10, khởi hành từ nam đảo Hoàng Sa để tiến về đảo Quang Hòa, tốc độ chừng 6 gút. Khoảng cách giữa các chiến hạm là hai lần khoảng cách tiêu chuẩn (1000 yard). Trên đường đến đảo Quang Hòa, Hải đoàn bị 2 tàu chống ngầm hạng nhẹ lớp Kronstad của Trung Quốc mang số hiệu 271 và 274 chặn đường. Hai chiếc chiến hạm khác nhỏ hơn mang số 389 và 396 vẫn ở sát bờ bắc đảo Quang Hòa. Chiến hạm 271 của Trung Quốc và soái hạm HQ-5 trao đổi với nhau bằng quang hiệu. Cả hai đều khẳng định đây là lãnh thổ của mình và yêu cầu đối phương rút lui. Để tránh đụng tàu đại tá Ngạc đưa Hải đoàn trở về phía nam đảo Hoàng Sa để theo dõi các chiến hạm Trung Quốc khi đó quay về đóng tại phía bắc và tây bắc đảo Quang Hòa.
Đổ bộ thất bại
Theo Hạm trưởng HQ-16, Trung tá Lê Văn Thự, khoảng 10 giờ sáng ngày 18 tháng 1, Đại tá Hà Văn Ngạc ra lệnh cho ông đưa viên cố vấn Mỹ lên đảo Hoàng Sa sau đó cho toán biệt hải đổ bộ lên đảo Quang Hòa và một toán của HQ-16 lên giữ đảo Quang Ảnh. Sau khi đưa viên cố vấn Mỹ lên đảo Hoàng Sa, HQ-16 tiến đến gần đảo Quang Hòa đổ bộ toán biệt hải lên đảo thì một tàu Trung Quốc xuất hiện, cản trước mũi, không cho HQ-16 tiến gần đến đảo. Hai tàu cọ vào nhau làm tàu Trung Quốc hư hại nhẹ. Theo Trung tá Thự, tàu Trung Quốc mang số hiệu 271, dài chừng 70 mét, có súng tương đương với súng 76.2 ly, 40 ly, 20 ly và đại liên 12,7 ly của HQ-16. HQ-16 chuyển hướng sau đó cho biệt hải dùng xuồng cao su tấn công từ mặt Nam của đảo Quang Hòa từ khoảng cách 1-2 hải lý. Cuộc đổ bộ thất bại. Một thiếu úy biệt hải bị bắn chết. Toán biệt hải trở về HQ-16. Chiều ngày 18 tháng 1, khoảng 6 giờ, Đại tá Ngạc gọi máy cho Trung tá Lê Văn Thự và ra lệnh cho ông chỉ huy HQ-10, bằng mọi giá phải đổ bộ cho được toán biệt hải lên đảo Quang Hòa. Sau khi nhận lệnh này, HQ-16 không còn liên lạc được với đại tá Ngạc trên soái hạm HQ-5, tàu HQ-4 hay Bộ Tư lệnh Hải quân Vùng I Duyên Hải do máy liên lạc âm thoại giai tần đơn bị Trung Quốc phá sóng. HQ-16 chỉ còn liên lạc được với HQ-10. Những ngày sau đó do bị thương khi hải chiến với tàu Trung Quốc, HQ-16 không thể chấp hành lệnh đổ bộ của Đại tá Ngạc.
Vào khoảng 23 giờ ngày 18 tháng 1, Đề đốc Lâm Ngươn Tánh ban hành Lệnh Hành quân Hoàng Sa 1 nhằm chiếm lại một cách hòa bình các đảo Hữu Nhật, Quang Hòa, Duy Mộng, Quang Ảnh. Đại tá Hà Văn Ngạc chia lực lượng tham chiến thành hai phân đoàn đặc nhiệm: Phân đoàn I là chủ lực gồm Khu trục hạm HQ-4 và Tuần dương hạm HQ-5 do Hạm trưởng Khu trục hạm HQ-4 chỉ huy; Phân đoàn II có nhiệm vụ yểm trợ gồm Tuần dương hạm HQ-16 và Hộ tống hạm HQ-10 do Hạm trưởng Tuần dương hạm HQ-16 chỉ huy.
Theo tài liệu của Tổng cục Chiến tranh Chính trị và tường thuật của Đại tá Hà Văn Ngạc, 8 giờ 30 ngày 19 tháng 1, hai nhóm Biệt hải của Việt Nam Cộng hòa gồm 74 người do Đại úy Nguyễn Minh Cảnh chỉ huy tiếp tục đổ quân vào đảo Quang Hòa. Đại tá Ngạc chỉ thị lực lượng này không được nổ súng trước và có nhiệm vụ yêu cầu toán quân Trung Quốc rời đảo. Trên đảo đang có một đại đội của Hải quân Trung Quốc trấn giữ. Theo báo cáo của Biệt đội trưởng, chiến sĩ Đỗ Văn Long là người đầu tiên tiến vào đảo và vừa nổ súng vừa tiến vào trong nên đã bị hỏa lực trong bờ bắn tử thương ngay tại bãi biển. Sau đó Trung úy Lê Văn Đơn cũng tử thương. Việc đổ bộ thất bại. Hai toán Biệt hải được lệnh rút về HQ-5. Tổng số thương vong của Hải quân Việt Nam Cộng hòa gồm 2 người chết và 2 bị thương.
Theo ông Lê Văn Thự, việc đổ quân thất bại là do kế hoạch quá sơ sài. Muốn đánh bại quân Trung Quốc trên đảo mà chỉ đổ bộ một toán người nhái 9, 10 người thì khó mà thành công, lại thiếu tiếp tế lương thực, nước uống và vật dụng thì cũng khó mà giữ đảo.
Hải quân Việt Nam Cộng hòa khai chiến
Việc đổ bộ thất bại được báo cáo ngay về Bộ Tư lệnh Hải quân Vùng I Duyên hải. Chừng ít phút sau đó (vào khoảng 9 giờ 30 sáng) Phó Đô đốc Hải quân Việt Nam Cộng hòa Hồ Văn Kỳ Thoại theo chỉ thị của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra khẩu lệnh vắn tắt "khai hỏa" cho Đại tá Ngạc trên băng siêu tần số SSB (single side band) và không có chi tiết gì khác hơn.
Ban đầu Đại tá Ngạc dự định cho hạm đội bắn pháo lên đảo để dọn đường cho lính thủy đổ bộ. Sau đó do các Hạm trưởng khác phản đối, Đại tá Ngạc quyết định tiêu diệt các tàu Trung Quốc trước. Lúc 10 giờ 22 cùng ngày, 2 chiến hạm của phía Việt Nam Cộng hòa là HQ-16 và HQ-10 tiến vào lòng chảo Hoàng Sa theo thế gọng kìm, nổ súng trước vào các tàu chiến Trung Quốc đang neo đậu trong khu vực này. Các tàu Trung Quốc tích cực di chuyển và phản kích dữ dội. Hai chiến hạm còn lại của Việt Nam Cộng hòa là HQ-4 và HQ-5 cũng tiến vào lòng chảo, tham chiến từ phía tây nam. Vì tầm quan sát rất hạn chế, nên từ Tuần dương hạm HQ-5 không quan sát được Tuần dương hạm HQ-16 và Hộ tống hạm HQ-10. Do máy liên lạc âm thoại giai tần đơn bị Trung Quốc phá sóng nên Soái hạm chỉ có thể liên lạc với các chiến hạm còn lại bằng máy PRC 25 nên việc liên lạc giữa các chiến hạm không liên tục và ổn định.
Tình hình chiến sự
Sau vài phút hải chiến HQ-4 chỉ bị thiệt hại nhẹ nhưng do "trở ngại tác xạ", không phát huy được hỏa lực, nên tàu này lùi ra xa và không tham chiến tiếp, sau đó thì rút chạy luôn. Sau khoảng 15 phút giao chiến, HQ-10 bị hư khẩu pháo chính 76 li trước mũi tàu, tàu bị bắn xối xả, bốc cháy tại chỗ; Hạm trưởng là Ngụy Văn Thà tử trận vì bị mảnh đạn phạt ngang cổ, Đại úy Hạm phó Trí bị thương nặng vẫn cố điều khiển HQ-10 húc vào tàu đối phương, ngay sau đó thì Đại úy Trí ra lệnh thủy thủ bỏ tàu nhảy xuống biển. HQ-16 trúng đạn pháo 127 ly của HQ-5 bắn nhầm, viên đạn xuyên thủng hầm máy khiến tàu bị nghiêng trên 10 độ, tàu mất khả năng chiến đấu và phải rút lui về phía tây. Theo trưởng khối hành quân của HQ-5 là Bùi Ngọc Nở, thì sau 15 phút chiến đấu, tàu HQ-5 bị trúng đạn pháo của địch khiến các khẩu pháo 127 ly và (10 nòng pháo) 40 ly bị vô hiệu hoá. Nhưng Hạm trưởng HQ-16 là Lê Văn Thự thì cho rằng tàu HQ-5 không hề bị hư hại gì trong trận đánh, việc ông Bùi Ngọc Nở nói tàu bị hư hại nặng chỉ là để biện hộ cho việc HQ-5 rút chạy sớm khỏi trận đánh.
Tài liệu Trung Quốc thì ghi nhận: các chỉ huy Trung Quốc nhận thức rõ sự yếu thế về trang bị và vũ khí so với đối phương (tàu vừa nhỏ vừa cũ kỹ, công nghệ lạc hậu), nên họ đã có sự chuẩn bị kỹ về chiến thuật và tinh thần. Ngay sau khi nổ ra giao chiến, các tàu Trung Quốc lập tức cơ động, áp sát tàu địch càng gần càng tốt để hạn chế ưu thế về radar và pháo cỡ lớn của đối phương. Có những lúc, tàu chiến của họ chỉ cách chiếc HQ-10 khoảng 300 mét. Dù tàu nhỏ hơn nhưng các thủy thủ Trung Quốc đã dũng cảm không rời vị trí, họ dùng cả súng bộ binh và súng phóng lựu để nã vào tàu đối phương. Nỗ lực của Trung Quốc đã có kết quả: tàu HQ-10 bị trúng đạn vào đài chỉ huy, Hạm trưởng bị thương và hỏa lực trên tàu bị vô hiệu hóa, thủy thủ trên HQ-10 thì bỏ tàu nhảy xuống biển Tài liệu Trung Quốc mô tả:
Lúc 10:22, tất cả các tàu của đối phương khai hỏa, các tàu Trung Quốc liền bắn trả. Do những phát pháo đầu tiên của cả hai bên được ngắm bắn từ trước, tất cả những phát đạn đều bắn chính xác. 8 tàu chiến của cả hai bên đều bị bắn trúng, và tàu 274 của Trung Quốc bị bắn trúng vào buồng lái, Chính ủy và thuyền phó hy sinh. Ban chỉ huy Trung Quốc ra lệnh tiếp tục tiếp cận kẻ thù ở tốc độ cao và chiến đấu bằng các phương pháp cận chiến... Các tàu của hai bên nhanh chóng áp sát nhau. Tàu Trung Quốc lắp đặt pháo đôi cỡ nòng 25mm, 37mm và pháo cỡ nòng nhỏ khác ở mũi và phía sau. Với tốc độ bắn nhanh, chúng trút cơn mưa đạn lên tàu địch và đội hình của hải quân đối phương nhanh chóng bị phá vỡ.
Theo kế hoạch đã được thiết lập, các tàu 271 và 274 của Trung Quốc đã được dành riêng để đấu với tàu HQ-4, chiếc HQ-4 nhanh chóng tung khói mù và vội vã bỏ chạy. Tàu HQ-5 đã ngay lập tức bắn chặn vào tàu 274 đang đuổi theo và tàu 274 bị bắn trúng. Hai tàu quét mìn khác của Trung Quốc là 389 và 396 cũng đánh cận chiến với tàu HQ-10 và HQ-16, chúng nhanh chóng bốc cháy. Buồng chỉ huy của tàu 389 cũng bị đạn pháo địch phá hủy, gây thương vong nặng nề. Do sự cố của thiết bị lái, tàu 389 đã lao vào giữa hai tàu Việt Nam và bị tấn công bằng hỏa lực. Một quả đạn trúng giữa hai động cơ chính và phát nổ. May mắn thay, đám cháy đã được dập tắt kịp thời. Để sửa chữa máy phát điện bị hư hỏng, cả năm binh sĩ đã chết trong phòng máy, nơi chứa đầy khói thuốc súng và thiếu oxy trầm trọng.
Lúc này, pháo của cả hai bên đều vô dụng, và Đại úy chỉ huy tàu 389 đã nảy ra sáng kiến: ném lựu đạn! Vào thời điểm đó, một số hộp lựu đạn đã được chất lên tàu. Vì vậy, các thủy thủ Trung Quốc đã ném một loạt lựu đạn vào tàu HQ-10, một số người nhặt súng tiểu liên và bắn vào tàu HQ-10, thậm chí có người cầm một khẩu bazooka chống tăng để bắn tàu địch! Đến nỗi sau chiến tranh, quân Nam Việt Nam đã thông báo với báo chí rằng "tàu chiến Trung Quốc đã sử dụng tên lửa". Thuyền trưởng HQ-10 bị bắn chết tại chỗ, tàu 389 bị nghiêng nghiêm trọng. Sau khi tàu 396 rút khỏi trận chiến, nó phải tự mắc cạn với sự hỗ trợ của tàu cá Trung Quốc để tránh bị chìm. 3 tàu khác cũng bị hư hại ở các mức độ khác nhau và không còn nhiều đạn.
Việc các tàu Trung Quốc dùng chiến thuật đánh cận chiến với HQ-10, HQ-16 cũng tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao: các tàu Trung Quốc sẽ bị hở sườn và phơi mình trước hỏa lực mạnh trên hai tàu HQ-4, HQ-5 đang khai hỏa từ một hướng khác. Các tàu Trung Quốc đang tập trung đánh HQ-10 và HQ-16, nên HQ-4 và HQ-5 không lo bị bắn, các tàu này chỉ cần ung dung bật radar ngắm bắn tự động và nã pháo từ xa, chỉ cần 1 phát đạn pháo 127mm bắn trúng đích là đủ để đánh chìm hoặc làm hỏng nặng 1 tàu Trung Quốc. Nhưng điều bất ngờ là HQ-4, HQ-5 chỉ khai hỏa chút ít rồi quay đầu rút chạy, bỏ mặc 2 tàu đồng đội đang phải chống đỡ tàu Trung Quốc áp sát.
Theo lời kể của Lê Văn Thự, chỉ huy tàu HQ-16 thì: Phân đoàn II (gồm HQ-16 và HQ-10) là cánh tham chiến chủ yếu, còn Phân đoàn I (gồm HQ-4 và HQ-5) chỉ ở bên ngoài "nhìn và đợi". Và vì quá lo sợ Trung Quốc nên tin chắc thế nào Phân đoàn II cũng bị đánh chìm, Đại tá Hà Văn Ngạc đã ra lệnh HQ-5 bắn vào lòng chảo 5 - 7 phát trước khi rút lui. Mấy phát đạn này lại bắn trúng vào đồng đội là chiếc HQ-16, khiến tàu HQ-16 bị hỏng nặng Cũng theo Lê Văn Thự thì:
Chừng khoảng phút thứ 20 hay 30, tôi thấy một tàu Trung Quốc bốc khói, một tàu khác có lẽ bị trúng đạn làm hư hệ thống tay lái nên tàu cứ xoay quanh như gà trống chạy lòng vòng trước khi đạp mái.
Tiếp đến HQ-10 báo cáo Hạm trưởng bị thương. Tôi ra lệnh Hạm phó lên thay quyền chỉ huy, đồng thời đặt ống nhòm nhìn sang HQ-10 tôi thấy một ngọn lửa nhỏ cháy ở đài chỉ huy có thể dập tắt được bằng bình CO2 mà sao không ai làm. Quan sát phía sau lái HQ-10 tôi thấy bốn, năm cái đầu nhấp nhô trên mặt biển. Tôi không biết chuyện gì xảy ra trên HQ-10 vì không nghe báo cáo gì thêm. Tôi đoán chừng vì Hạm trưởng bị thương nặng nên HQ-10 như rắn mất đầu. Một số thủy thủ nhát gan sợ tàu cháy hay trúng đạn nổ nên đã bỏ tàu nhảy xuống biển. Nhưng HQ-10 vẫn nổi bình thường, thăng bằng, không nghiêng một chút nào cả.
Trận chiến Hoàng Sa rất giản dị, chẳng có chiến thuật gì rắc rối, phức tạp cả. Tôi chỉ khai thác sơ hở của ba chiến hạm Trung Quốc tập trung một chỗ trong lòng chảo để tấn công. Nếu thủy thủ đoàn HQ-16 và HQ-10 có kinh nghiệm tác xạ, HQ-16 không bị trúng đạn của đồng đội (HQ-5) và Hạm trưởng HQ-10 không bị thương thì chắc chắn ba tàu Trung Quốc phải bị đánh chìm. Tôi còn nghi vấn về Hạm trưởng HQ-10 bị thương là do đạn của Trung Quốc hay cũng bị trúng đạn của đồng đội là HQ-4, HQ-5.
Khoảng 11 giờ 25, sau khi nhận được tin HQ-16 trúng đạn và mất liên lạc với HQ-10, Đại tá Ngạc ra lệnh cho HQ-4 và HQ-5 rút lui về phía đông nam, hướng về vịnh Subic, Philippines. Sau này, Đại tá Ngạc giải thích rằng ông đã phát hiện một chiến hạm của Trung Quốc có trang bị mỗi bên 1 dàn phóng hỏa tiễn chống hạm, cách xa chừng 8 đến 10 hải lý đang tiến vào vùng giao tranh với một tốc độ cao. Ông nghĩ rằng Hải đội không thể để bị thiệt hại một Khu trục hạm trong khi Hải quân Việt Nam Cộng hòa chỉ có tổng cộng 2 chiếc. Nhưng theo Trung tá Lê Văn Thự, Đại tá Ngạc ra lệnh rút lui vì "lo sợ cả phản lực cơ và Tiềm thủy đĩnh Trung Quốc nên không còn tinh thần để chiến đấu nữa". Lê Văn Thự cho rằng chuyện phía đông xuất hiện một chiến hạm Trung Quốc có trang bị hỏa tiễn chỉ là tưởng tượng của ông Ngạc vì "cách xa chừng 8 đến 10 hải lý (khoảng 18 km) khó mà thấy được mỗi bên một giàn phóng hỏa tiễn". Nhận định của Lê Văn Thự là phù hợp với các tài liệu Trung Quốc (trong trận này, các tàu của Trung Quốc đều là tàu săn ngầm cỡ nhỏ, không được trang bị hỏa tiễn, cái gọi là "hỏa tiễn" thực ra chỉ là đạn súng chống tăng vác vai).
Theo tài liệu Trung Quốc, đến thời điểm 11h20, cả bốn tàu của họ đều bị hư hại (một tàu phải ủi bãi, một tàu bốc cháy), đạn dược cũng sắp hết. Nếu trận hải chiến kéo dài hơn thì khó có thể nói trước ai sẽ chiến thắng. Tuy nhiên, đúng lúc này thì đội tàu của Việt Nam Cộng hòa quay đầu tháo lui, bỏ lại HQ-10 đang bị hỏng nặng. Một lúc sau, 2 tàu chống ngầm số hiệu 281 và 282 của Trung Quốc đến nơi khi trận đánh đã kết thúc. 2 tàu này đánh chìm HQ-10 (lúc này đã hư hại hoàn toàn) bằng 2 loạt đạn.
Việt Nam Cộng hòa rút lui
Trong thời gian xảy ra chiến sự, Bộ Tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng hòa nhận được thông báo của Văn phòng Tùy viên Quân sự Hoa Kỳ (DAO) tại Sài Gòn, cho biết radar Đệ thất Hạm đội ghi nhận một số tàu chiến và chiến đấu cơ từ Hải Nam đang tiến về phía Hoàng Sa. Số tàu chiến chi viện của Trung Quốc vẫn chưa được xác định chính xác nhưng có thể bao gồm 2 tàu chống ngầm số hiệu 281 và 282 thuộc lớp tàu Hải Nam. Phó Đô đốc Hải quân Việt Nam Cộng hòa Hồ Văn Kỳ Thoại cho biết họ phải quyết định rút lui khi cố vấn Hoa Kỳ cho biết 17 chiến hạm của Trung Quốc trong đó có 4 tàu ngầm đang trên đường tới khu vực và khả năng là sẽ có phi cơ phản lực tới từ đảo Hải Nam nếu Việt Nam Cộng hòa quyết định tăng viện 2 chiến hạm cho Hoàng Sa, nhưng phía Việt Nam Cộng hòa chỉ có phi cơ khu trục F-5 thuộc Sư đoàn 1 Không quân tuy đang sẵn sàng hỗ trợ cho hải đội tại Hoàng Sa nhưng lại không đủ sức hoạt động lâu tại đây.
Bộ Tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng hòa sau đó yêu cầu Hạm đội 7 trợ giúp, nhưng phía Mỹ từ chối, thậm chí Hạm đội 7 từ chối cả việc cứu những thủy thủ của tàu HQ-10 đang trôi dạt trên biển. Sau khi Bộ Tư lệnh cân nhắc tương quan lực lượng, các chiến hạm Việt Nam Cộng hòa được lệnh rút bỏ quần đảo Hoàng Sa.
Sau trận đánh, đội hình của Việt Nam Cộng hòa bị tan rã:
HQ-10 chìm tại trận
HQ-16 bị hỏng nặng, quay đầu chạy về Đà Nẵng. Trên đường rút lui, HQ-16 đưa 8 quân nhân lên giữ đảo Hoàng Sa.
HQ-4 còn nguyên vẹn, còn HQ-5 thì không rõ tình trạng, 2 tàu này tìm cách vòng qua Hoàng Sa để chạy sang Phillipines. Khoảng 14 giờ 30 ngày 19/01/1974, khi ngang qua đảo Tri Tôn thì HQ-5 được lệnh của Tư lệnh Hải quân từ Đà Nẵng: "HQ-4 và HQ-5 phải quay trở lại Hoàng Sa, nếu cần thì ủi bãi". Nhưng các tàu này không hề quay lại và không lâu sau đó có một lệnh tiếp theo từ Đà Nẵng, lệnh cho HQ-4 và HQ-5 trở về Đà Nẵng.
Đêm hôm đó, 3 chiến hạm Việt Nam Cộng hòa bị hư hại rút về tới căn cứ. Về đến Đà Nẵng, khi kiểm tra thì mới biết HQ-16 trúng một viên đạn 127mm bắn cầu vồng từ HQ-5 rơi xuống nước gặp sức cản của nước bị lệch hướng rồi đâm vào lườn tàu HQ-16 dưới mặt nước. Theo tường thuật của Trung tá Lê Văn Thự: "Viên đạn xước qua một góc máy điện, xuyên đứt cánh tay Trung sĩ Điện khí Xuân kế đó rồi chui vào kho điện khí ở một góc hầm máy và nằm ở đó". Trung tá Lê Văn Thự nói rằng HQ-16 đã gặp may, vì nếu viên đạn 127mm mà nổ thì HQ-16 sẽ chìm tại chỗ, và cũng chẳng còn chứng cứ nào để bóc trần việc HQ-5 đã bắn vào đồng đội.
Hộ tống hạm HQ-10 bị trúng đạn, hư hại nặng và chìm. Trung tá Lê Văn Thự còn tỏ ý nghi ngờ rằng HQ-10 cũng đã bị tàu đồng đội là HQ-4, HQ-5 bắn vào chứ không chỉ bị trúng đạn của Trung Quốc
HQ-4 rút lui ngay từ đầu do "trở ngại tác xạ" nên chỉ bị thiệt hại nhẹ. Về tàu HQ-5 thì lời kể có nhiều mâu thuẫn. Theo sĩ quan Bùi Ngọc Nở thì HQ-5 thiệt hại rất nặng: "đếm được tất cả là 102 lỗ đạn đại bác 100 ly, còn đạn đại bác 37 ly lỗ nhỏ hơn và nhiều không đếm được, riêng đài chỉ huy trúng mười mấy trái đại bác 100 ly nhưng may mắn là nhờ hai lớp thép bảo vệ nên khi xuyên qua hai lớp thép này thì hết tầm" (thực ra tàu Trung Quốc không có pháo 100mm mà chỉ có pháo 85mm). Tuy nhiên, theo Hạm trưởng HQ-16 là Lê Văn Thự thì "Sự thật HQ-4 và HQ-5 chẳng bị trầy một mảnh sơn nào cả. Cả Hải quân đều biết. Vì thế cho nên chỉ một mình HQ-16 được tiếp đón ở Sài Gòn và gắn huy chương chứ không có Đại tá Ngạc hay HQ-4 và HQ-5".
Trung Quốc chiếm toàn bộ Hoàng Sa
Trong khi chiến sự đang diễn ra tại Hoàng Sa, Diệp Kiếm Anh, Đặng Tiểu Bình và Tô Chấn Hoa báo cáo lên Mao Trạch Đông đề nghị cho phép quân đội Trung Quốc chiếm tất cả các đảo do Việt Nam Cộng hòa kiểm soát. Mao đã chấp thuận đề nghị này. Khi hải chiến Hoàng Sa kết thúc, sau khi nghe báo cáo, Đặng Tiểu Bình đã chỉ thị cho Quân khu Quảng Châu tiếp tục đánh chiếm các đảo Hoàng Sa, Hữu Nhật và Quang Ảnh.
Ngày 20 tháng 1, tàu Trung Quốc bắn pháo vào các đảo Hữu Nhật, Quang Ảnh và Hoàng Sa. Trung Quốc pháo kích vào các đảo suốt 1 giờ, nhưng điều kỳ lạ là các phát bắn không trúng bất cứ công trình nào, cũng không gây ra bất cứ thương vong nào. Có thể vì Trung Quốc e ngại có người Mỹ trên đảo, nếu gây sát thương cho người Mỹ thì sẽ gặp rắc rối ngoại giao, nên tàu Trung Quốc chỉ bắn để hăm dọa chứ không nhằm tiêu diệt đối phương trên đảo.
Tiếp đó, quân Trung Quốc đổ bộ tấn công các đơn vị đồn trú của Việt Nam Cộng hòa trên các đảo này. Sau 20 phút, lực lượng của Việt Nam Cộng hòa trên các đảo bị mất liên lạc với đất liền.
Hải quân Trung Quốc thời đó chưa có tàu đổ bộ chuyên dụng, tất cả binh sỹ của họ được đưa ra Hoàng Sa bằng các tàu đánh cá. Theo bản tường trình của cố vấn Gerald Kosh (hiện nay đã được công bố), phía Trung Quốc chỉ có xuồng cao su nên chỉ chở được bộ binh trang bị ở mức cơ bản: AK-47 hoặc súng Carbin, họ không sử dụng vũ khí hạng nặng (đại liên, súng cối), cũng không có xe tăng lội nước hoặc xe thiết giáp yểm trợ. Do trang bị đổ bộ thiếu thốn nên Trung Quốc dự tính thương vong khi đổ bộ sẽ khá cao nếu bị quân Việt Nam Cộng hòa bắn trả. Để bù đắp việc thiếu hụt trang bị, Trung Quốc đã huy động số quân đổ bộ khá lớn: khoảng 500 lính Trung Quốc được huy động cho chiến dịch đổ bộ
Lực lượng của Việt Nam Cộng hòa trên các đảo bao gồm 1 trung đội (khoảng 48 lính và sĩ quan), có thêm 1 cố vấn Mỹ là Gerald Kosh. Trang bị của đơn vị này gồm: mỗi lính đều có một khẩu súng trường M16 và nhiều băng đạn, ngoài ra còn có 1 súng cối 60mm và 1 súng đại liên. Với trang bị tốt cộng thêm công sự phòng ngự, lực lượng này có thể chặn đứng quân Trung Quốc đổ bộ đông gấp nhiều lần, cầm cự chờ chi viện từ đất liền.
Tuy nhiên, diễn biến cuộc đổ bộ thuận lợi đến bất ngờ cho phía Trung Quốc: quân Việt Nam Cộng hòa không bắn trả nên quân Trung Quốc không chịu bất kỳ thương vong nào. Quân Trung Quốc nhanh chóng chiếm các đảo vì quân Việt Nam Cộng hòa đóng trên các đảo đã bỏ vị trí chiến đấu, chạy vào khu lùm cây giữa đảo rồi buông súng đầu hàng ở đó. Đến trưa thì lính Trung Quốc đã bắt được 49 tù binh gồm 1 người Mỹ, 23 lính địa phương quân, 6 sĩ quan Quân đoàn 1, 5 nhân viên khí tượng, 1 sĩ quan và 14 quân nhân hải quân.
Theo lời binh nhì Nguyễn Đức, từng đóng ở Hoàng Sa khi trận đánh diễn ra, thì quân Việt Nam Cộng hòa đóng ở trên đồi, ngồi trong lô cốt, cơ số đạn trang bị có thể tiêu diệt số lượng quân gấp mười lần số lính Trung Quốc đang đổ bộ. Nhưng rồi tất cả đã đầu hàng mà không chống trả:
"Ông cố vấn người Mỹ nói sao đó với chỉ huy trưởng, sau đó có lệnh đầu hàng, chúng tôi phải cởi áo trắng cắm làm cờ và chạy lên phía rừng, thả súng chờ quân Trung Quốc tới bắt. Cuối cùng bị bắt sang Trung Quốc, chuyện là vậy, ông cố vấn Mỹ khi sang Trung Quốc thì không thấy đâu nữa, chỉ có chúng tôi gồm 43 người, kể cả chỉ huy. Nói chung là cho đến bây giờ tôi cũng không hiểu vì sao lại có chuyện tự dưng đang thắng lại chuyển sang bại, đang đánh lại đầu hàng và vì sao chúng tôi được đối xử không tệ trong nhà tù?"
Sau trận đánh, nhà viết kịch Lục Trụ Quốc đã được giao nhiệm vụ đi phỏng vấn tại đảo để đưa trận hải chiến lên điện ảnh. Điều khôi hài nhất mà ông biết được qua phỏng vấn là khi quân Việt Nam Cộng hòa đầu hàng, họ không có cờ trắng nên đã vẫy những chiếc quần đùi trắng để đầu hàng.
Theo bản tường trình của cố vấn Gerald Kosh, phía Trung Quốc đối xử khá tốt với tù binh, có lẽ vì thấy quân Việt Nam Cộng hòa không chống trả gì. Ban đầu, một số nhỏ tù binh bị trói tay bằng những sợi dây nhỏ, nhưng đến khi củng cố xong, tất cả tù binh đều được cởi trói. 48 tù binh được canh chừng bởi khoảng từ 35 đến 40 lính Trung Quốc, mỗi tù binh được cho uống nước và được mời hút thuốc lá, họ chỉ không được phép nói chuyện riêng. Sau khi khám xét, lính Trung Quốc trả lại cho họ đồ dùng cá nhân không liên quan đến quân sự (kể cả tiền bạc). Nhiếp ảnh viên Trung Quốc sử dụng máy ảnh Leica chụp rất nhiều hình tù binh, có vài bức hình chụp cả nhóm tù binh đứng chung với sỹ quan Trung Quốc. Sau này, khi được thả về nước, mỗi tù binh còn được Trung Quốc tặng quà, bao gồm cả những bức tranh vẽ gấu trúc khá đẹp
Theo tiến sĩ Balazs Szalontai - một nhà nghiên cứu độc lập ở Hungary, Trung Quốc quyết định chiếm quần đảo Hoàng Sa trước khi Việt Nam Cộng hòa sụp đổ - nghĩa là trước khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có thể chiếm quần đảo.
Kết quả
Theo tài liệu của Việt Nam Cộng hòa thì tàu HQ-10 trúng đạn vào pháo tháp và bị chìm sau đó. HQ-16 bị hư hại nặng, nghiêng trên 10 độ, HQ-4 thì chỉ bị hư nhẹ. Về HQ-5, có nhân chứng nói tàu chỉ hư nhẹ trong khi nhân chứng khác nói tàu hư nặng.
Hải quân Việt Nam Cộng hòa có 75 binh sĩ tử vong, trong đó riêng HQ-10 có 63 người chết bao gồm Hạm trưởng Ngụy Văn Thà. HQ-4 có ba người chết, HQ-5 có 3 quân nhân tử vong và 16 bị thương, HQ-16 có hai người chết, lực lượng người nhái có bốn người chết.
Sau trận hải chiến, ngày 20 tháng 1, tàu chở dầu Hòa Lan "Kopionella" vớt được 23 người thuộc thủy thủ đoàn của HQ-10 đang trôi dạt trên biển. Đến mười ngày sau, ngày 29 tháng 1, ngư dân Việt Nam vớt được một toán quân nhân Việt Nam Cộng hòa gần Mũi Yến (Qui Nhơn), gồm 1 sĩ quan, 2 hạ sĩ quan và 12 quân nhân thuộc lực lượng đổ bộ lên đảo Quang Hòa, đã dùng bè vượt thoát đảo sau trận hải chiến.
Theo tài liệu của Trung Quốc thì các tàu 274, 271, 389, 396 đều trúng đạn và bị hư hại nhưng không có tàu nào chìm, phía Việt Nam Cộng Hòa có HQ-10 bị chìm tại trận. Trung Quốc bắt giữ một sĩ quan chỉ huy hàng đầu ở đảo (bị bắt ở trong rừng) tên là Phạm Văn Hồng, 47 tù binh khác, cộng với một người Mỹ là liên lạc ở Lãnh sự quán Mỹ tại Đà Nẵng. Trung Quốc có trao trả tù binh sau đó ngày 27 tháng 2 tại Hồng Kông qua Hội Chữ thập đỏ. Một tài liệu khác của Trung Quốc thì cho là họ đã đánh chìm 1 tàu khu trục, làm hư hại 3 tàu khu trục khác, làm chết và bị thương hơn 100 lính của Việt Nam Cộng hòa, bên phía Trung Quốc 1 tàu chiến nhỏ bị hư hại, 18 binh lính chết và 67 binh lính bị thương.
Phía Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có 18 binh sĩ thiệt mạng, 67 binh sĩ bị thương và 3 người bị xây xát nhẹ. Một trong những binh sĩ trở về từ cuộc chiến là Ngô Tiên Phong đã được nhà nước và quân đội Trung Quốc phong làm anh hùng quân đội và được tặng huân chương hạng nhất.
Ông Nguyễn Hữu Hạnh, nguyên là Chuẩn tướng, phụ tá Tổng Tham mưu trưởng quân đội Sài Gòn năm 1975, kể lại:
Phía Sài Gòn, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu rình rang tổ chức "mừng chiến thắng" ở Hoàng Sa. Tôi lúc đó cảm thấy tức giận vô cùng, không hiểu được người ta ăn mừng cái gì: Tàu chìm, lính bị bắt, đất thì mất... mà hô hào chiến thắng? Tôi cất công đến thăm người bạn là phó Đề đốc Tánh (Tư lệnh phó Hải quân) để nắm tình hình... Tôi cũng không hiểu được vì sao hai nước giao tranh, người ta lại có thể thả tù binh một cách êm thấm như vậy? Không hiểu sao người ta lại tổ chức ăn mừng và Tổng thống Thiệu thì lên đài tuyên bố vài câu huênh hoang nào đó. Cuối cùng, những thông tin tình báo và tâm lý chiến cho tôi hay: Hạm đội 7 của Mỹ ở ngoài khơi đã rút khỏi miền Nam, tình hình chính trị giữa Liên Xô và Trung Quốc không êm thấm và Mỹ muốn giao Hoàng Sa lại cho Trung Quốc để chặn đường vào Bắc Việt Nam của hạm đội Liên Xô…
Theo Bill Hayton, đánh giá một cách khách quan thì trận chiến là một thất bại nặng cho Việt Nam Cộng hòa. Tuy vậy, họ vẫn tổ chức mừng chiến tích, truyền thông Việt Nam Cộng hòa thì kể rằng đội tàu của họ đã đánh chìm được hai tàu và ngăn cản được hạm đội Trung Quốc lớn hơn nhiều lần. Trận chiến được Việt Nam Cộng hòa thêu dệt ly kì như huyền thoại vào đúng dịp Tết, dù trên thực tế, đó là một thất bại tai hại.
Trung Quốc chiếm đóng toàn phần quần đảo Hoàng Sa từ thời điểm này cho đến tận ngày nay. Nhà nước Việt Nam cho tới nay vẫn khẳng định chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và coi hành động của Trung Quốc là sự chiếm đóng trái phép lãnh thổ.
Kế hoạch tái chiếm Hoàng Sa bị hủy bỏ
Sau khi chiếm được Hoàng Sa, hải quân Trung Quốc cho tập trung 43 tàu các loại tại quần đảo này để đề phòng Việt Nam Cộng hòa phản công tái chiếm.
Tuy Trung Quốc đã chiến thắng trong trận hải chiến và nhanh chóng chiếm được toàn quần đảo, nhưng kết quả đó vẫn khó giữ vững. Trung Quốc có bất lợi rất lớn là không có máy bay chiến đấu yểm trợ (khi đó Trung Quốc chỉ có MiG-21, loại máy bay hạng nhẹ này không thể bay tới Hoàng Sa). Tàu của Trung Quốc thì toàn là loại nhỏ, có hỏa lực phòng không yếu, nếu bị không quân đối phương tấn công thì khó mà chống đỡ được. Nếu đội tàu của Trung Quốc bị không quân đối phương đánh chìm, thì lực lượng bộ binh trên các đảo ở Hoàng Sa cũng sẽ buộc phải đầu hàng khi hết lương thực và nước uống. Không lực Việt Nam Cộng hòa khi đó là lực lượng không quân mạnh thứ 5 thế giới với toàn bộ máy bay do Hoa Kỳ cung cấp, gồm hàng trăm máy bay cường kích có thể bay ra Hoàng Sa, nên việc phản công chiếm lại đảo là hoàn toàn khả thi.
Hải quân Việt Nam Cộng hòa cho thành lập một Hải đoàn đặc nhiệm mới để chuẩn bị tái chiếm Hoàng Sa. Hải đoàn này bao gồm tàu HQ-6, HQ-17 điều động từ Trường Sa và HQ-5 từng tham chiến tại Hoàng Sa trước đó. Đại tá Hà Văn Ngạc tiếp tục được chỉ định làm chỉ huy Hải đoàn này. Hải đoàn thực hiện một cuộc thao dượt chiến thuật và thực tập tác xạ trong một ngày tại một đảo nhỏ nằm về phía bắc vùng cù lao Chàm phía đông nam Đà Nẵng. Nhưng cuối cùng việc tái chiếm Hoàng Sa bị hủy bỏ. Đại tá Ngạc cho rằng "cuộc phản kích tái chiếm sẽ thất bại ngoại trừ đó là một chiến thuật thí quân nằm trong một chiến lược cao hơn". Ông Ngạc cho rằng các tàu chiến của Việt Nam Cộng hoà là các tuần dương hạm (WHEC) sử dụng trong lực lượng phòng vệ duyên hải Mỹ (US Coast guard) từ lâu, chúng thích hợp cho công tác tuần tiễu hơn là chiến đấu, nên khó chống trả lại với đội chiến hạm của Trung Quốc có số lượng đông hơn. Loại này chỉ có một hải pháo 127 ly, còn 2 pháo 40 ly đã được Hải quân Việt Nam Cộng hòa đặt thêm vào lái tàu là nơi đã được dùng làm sàn đáp trực thăng. Tuy nhiên, Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại khi được hỏi về kế hoạch tái chiếm Hoàng Sa thì lại cho biết "Riêng tôi thì tôi không được biết. Những gì trao đổi ở Sài Gòn, nếu có xảy ra, thì không được thông báo... tôi không được nghe biết và tôi cũng không nhớ rằng tôi có nghe những kế hoạch nào từ trong Sài Gòn dùng không quân để tái chiếm lại Hoàng Sa. Quyết định đó có thể có và cũng có thể không".
Theo ông Hoàng Đức Nhã, Bí thư kiêm Tham vụ Báo chí, Thư ký của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và các tướng lĩnh đã có một số kế hoạch tái chiếm Hoàng Sa nhưng không được thực hiện do ưu tiên lúc đó không phải là tái chiếm Hoàng Sa mà là phòng thủ trước sự tấn công của quân Giải phóng miền Nam. Việt Nam Cộng hoà muốn bảo toàn lực lượng hải quân để chống lại quân Giải phóng "đang tập trung lực lượng chuẩn bị tiêu diệt Việt Nam Cộng hòa". Việc tái chiếm Hoàng Sa tạm gác lại để ưu tiên cho các mục tiêu trước mắt quan trọng hơn. Sau khi các mục tiêu này được giải quyết, Việt Nam Cộng hòa "sẽ dùng các biện pháp quân sự kết hợp ngoại giao thu hồi Hoàng Sa". Ông Nhã cho rằng Việt Nam Cộng hòa đã không có liên hệ nào nhằm phối hợp với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trên phương diện ngoại giao cũng như quân sự nhằm tái chiếm Hoàng Sa do Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có thái độ im lặng khi Trung Quốc chiếm Hoàng Sa. Mặt khác, ông Nhã nói Nguyễn Văn Thiệu đã tìm hiểu lập trường của Mỹ qua điện thoại, nhưng chỉ nhận được lời trả lời "khó tin" rằng người Mỹ đã "không hề hay biết gì". Dùng từ ngữ "dối trá chính trị", ông Nhã khẳng định Hoa Kỳ đã có sự thông đồng với chính quyền Bắc Kinh khi đó và đã làm ngơ trước hành động của Trung Quốc.
40 năm sau, theo ông Nguyễn Thành Trung - khi đó là Trung úy phi công Không lực Việt Nam Cộng hòa, ngày 19/1/1974, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu điều 5 phi đoàn phản lực F-5 bao gồm 120 máy bay và 150 phi công (mỗi phi đoàn có 24 máy bay), 4 phi đoàn ở sân bay Biên Hoà, 1 ở sân bay Đà Nẵng, ra Đà Nẵng chuẩn bị tái chiếm quần đảo Hoàng Sa. Theo đánh giá của Nguyễn Thành Trung thì việc tái chiếm Hoàng Sa là hoàn toàn khả thi với sức mạnh áp đảo của không quân bao gồm 120 chiếc F-5 đang chờ lệnh ở Đà Nẵng. Thời điểm năm 1974, không quân Trung Quốc chỉ có MiG-21 là loại máy bay hạng nhẹ có tầm hoạt động ngắn, không thể bay tới Hoàng Sa. Còn hải quân Trung Quốc ở Hoàng Sa chỉ có khoảng 40 tàu cỡ nhỏ chứ không có tàu lớn, và các tàu này đều chỉ có khả năng phòng không rất yếu (phần lớn chỉ có súng máy 12,7mm, tối đa cũng chỉ có pháo cao xạ 37mm điều khiển thủ công). Trong khi đó, mỗi máy bay F-5 đủ sức tác chiến tại Hoàng Sa trong 20 phút, mỗi chiếc mang được tới 3 tấn bom. Như vậy, nếu cứ 3 máy bay đánh 1 tàu thì chỉ cần sau nửa ngày là có thể đánh chìm toàn bộ 40 tàu Trung Quốc. Ông Trung tin rằng "phần thắng là chắc chắn 100%, vì tàu Trung Quốc không thể chạy thoát nổi (do máy bay có vận tốc nhanh hơn rất nhiều), mỗi tàu chỉ cần trúng 1 quả bom là xong... Trung Quốc đi ra Hoàng Sa là bằng tàu thôi, nếu mà diệt hạm đội này là họ cụt ngòi". Các phi công lúc bấy giờ cũng cho rằng chiến dịch khá dễ dàng, chỉ trong vòng 12 giờ là 40 tàu Trung Quốc sẽ chìm hết.
Nhưng cuối cùng, lực lượng không quân Việt Nam Cộng hòa đã nhận được lệnh không được cất cánh. Cũng theo lời thuật của Nguyễn Thành Trung, kế hoạch này cuối cùng đã không được thực hiện do "Mỹ đã cảnh báo Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu không được hành động". Ông cho rằng "Nếu ngày đó chiến dịch diễn ra đúng kế hoạch thì bây giờ và các thế hệ con cháu đỡ biết bao nhiêu. Bây giờ Trung Quốc đã chiếm đóng bất hợp pháp ở Hoàng Sa rồi, cái di sản, cái gánh nặng để lại cho các thế hệ con cháu Việt Nam thật là quá nặng nề".
Phản ứng ngoại giao và nhận xét
Trung Quốc
Trung Quốc tuyên bố họ có chủ quyền hợp pháp tại quần đảo Hoàng Sa, do đó trận hải chiến là cuộc phản kích tự vệ trước việc Quân lực VNCH chiếm đóng trái phép các đảo tại Hoàng Sa và tấn công các tàu đánh cá Trung Quốc. Tờ Nhân dân Nhật báo của Đảng Cộng sản Trung Quốc vào ngày 20/1/1974 đã thuật lại sự kiện, tóm lược như sau: "Từ ngày 15.1.1974 chính quyền Sài Gòn đã dùng quân hạm và phi cơ liên tục xâm phạm lãnh hải và vùng trời quần đảo Tây Sa. Ngư dân và tàu biển của ta bất đắc dĩ phải phản kich tự vệ. Sáng 19/1, tàu của Nam Việt Nam chiếm đảo Thám Hàng, giết và làm bị thương nhiều ngư dân. Quân đội Sài Gòn còn bắn vào tàu tuần trên biển của ta, tàu của ta phải phản kích tự vệ,..."
Tại thành phố Tam Á tỉnh Hải Nam, vào năm 1975, Trung Quốc xây "Tây Sa hải chiến liệt sĩ lăng viên" (ở Hoàng Sa họ cũng xây một khu tương tự) để tưởng niệm 18 binh sĩ Trung Quốc tử trận. Trong Lăng viên ở Hải Nam, tháp kỷ niệm, có khắc hàng chữ:
"Những liệt sĩ hy sinh vinh quang trong trận chiến phản kích tự vệ ở quần đảo Vĩnh Lạc Tây Sa".- "Ngày 19.1.1974, tại quần đảo Vĩnh Lạc Tây Sa, tàu hải quân của chính quyền Sài Gòn tại Nam Việt Nam xâm nhập các đảo và hải vực của Trung Quốc, hạm đội Nam Hải của chúng ta đã anh hùng phản kích, đánh chìm một chiến tàu hộ vệ và đại phá 3 chiếc khu trục hạm của địch. Thừa thắng, hải quân ta đã thu hồi được các đảo Sách Hồ, Cam Tuyền, và Kim Ngân mà chính quyền Saigon đã chiếm bất hợp pháp. Ta đã đại thắng trong cuộc chiến phản kích tự vệ ở hải vực Tây Sa, giữ được lợi ích trên biển và chủ quyền lãnh thổ của tổ quốc... trong cuộc hải chiến ác liệt, 18 đồng chí đã vì bảo vệ sự tôn nghiêm của tổ quốc mà không sợ hy sinh, đã anh hùng chiến đấu. Họ đã hiến sinh mệnh cao quý cho nhân dân, cho tổ quốc. Sự tích anh hùng của họ sẽ sáng ngời theo năm tháng, và sông mãi với đất trời. Những liệt sĩ cách mạng sẽ bất diệt"
Trang web của Bộ Quốc phòng Trung Quốc năm 2014 viết rằng:
Từ năm 1990, Trung Quốc chính thức đưa ra chủ trương "gác lại tranh chấp, cùng nhau phát triển" về vấn đề Nam Sa (Trường Sa), đồng thời tăng cường hơn nữa mối quan hệ hợp tác kinh tế giữa hai bên, tuy nhiên thực tế vẫn chưa phát triển một cách thân thiện. Sự xích mích chưa bao giờ ngừng. Trong những năm qua, Việt Nam đã khai thác hơn 100 triệu tấn dầu và 1,5 nghìn tỷ mét khối khí tự nhiên từ mỏ dầu ở Nam Sa, với lợi nhuận hơn 25 tỷ đô la Mỹ. Sản lượng khai thác dầu hàng năm của Biển Đông vào khoảng 50 triệu đến 60 triệu tấn, trong khi vùng biển tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam có sản lượng khai thác dầu hàng năm là 8 triệu tấn, chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng số 30 triệu tấn dầu hàng năm do Việt Nam sản xuất. Giữa các quốc gia, không có bạn bè vĩnh cửu, chỉ có lợi ích vĩnh cửu. Trước tình hình phức tạp và gay gắt trên Biển Đông, một Trung Quốc trỗi dậy hòa bình sẽ có những lựa chọn khó khăn như thế nào?
Việt Nam Cộng hòa
Từ sau trận chiến cho đến sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, Việt Nam Cộng hòa đã ra nhiều tuyên bố phản đối hành động của Trung Quốc như:
"Tuyên cáo của Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Cộng Hòa về những hành động gây hấn của Trung Quốc trong khu vực đảo Hoàng Sa" số 015/BNG/TTBC/TT ngày 19/1/1974.
"Tuyên cáo của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa về chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa trên những đảo ở ngoài khơi bờ biển Việt Nam Cộng Hòa" ngày 14/2/1974.
Tài liệu "Thế giới lên án Trung Cộng xâm lăng Hoàng Sa của Việt Nam Cộng hòa", Tổng cục Chiến tranh Chính trị, Cục Tâm lý chiến, Quân lực Việt Nam Cộng hòa, 1974.
"Sách trắng về quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa", Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa, 1975.
Việt Nam Cộng hòa cũng tổ chức nhiều cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa, phản đối hành động của Trung Quốc trước Liên Hợp Quốc, đề nghị các quốc gia đồng minh đưa vấn đề Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa ra Hội đồng Bảo an Liên hiệp Quốc. Việt Nam Cộng hòa tuyên bố họ không bao giờ thừa nhận Hoàng Sa thuộc về Trung Quốc bằng hành động vũ lực đánh chiếm lãnh thổ
Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam
Ngày 20/1/1974 Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ra bản Tuyên bố phản đối hành động này của phía Trung Quốc.
Sau ngày tiếp quản miền Nam (30/4/1975), Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã nhiều lần tuyên bố khẳng định Hoàng Sa là của Việt Nam. Vào ngày 5/6/1976, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã lên tiếng khẳng định hai quần đảo này là thuộc chủ quyền Việt Nam, từ trước đến nay đều do người Việt Nam quản lý.
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Theo tiến sĩ Balazs Szalontai ở Hungary, vào tháng 1 năm 1974, khi hải quân của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đánh chiếm Hoàng Sa, ban lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không hề có phát ngôn công khai, dù là ủng hộ hay phản đối. Báo chí Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không đề cập gì đến việc Trung Quốc chiếm Hoàng Sa. Nhà sử học Nguyễn Đình Đầu nhận định về phản ứng của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước việc Trung Quốc chiếm Hoàng Sa: "Một điều lạ, là trong khi dư luận phản ứng như thế ở miền Nam, mà Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không có phản ứng gì". Theo tiến sĩ Balazs Szalontai "sự im lặng của miền Bắc chủ yếu là do cân nhắc chiến thuật ngắn hạn của Hà Nội, chứ không phải vì sự đồng ý về pháp lý giữa Trung Quốc và Việt Nam". Đây là vấn đề của cả hai miền Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẽ họp với Trung Quốc để làm rõ vấn đề. Theo ông Dương Danh Dy "Việc không nói để không ảnh hưởng tới sự nghiệp thống nhất đất nước thì rõ rồi. Nhưng việc không nói còn làm cho Ban Lãnh đạo Trung Quốc chủ quan, nghĩ rằng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa coi nhẹ vấn đề biển đảo mà không tìm cách đánh chiếm luôn quần đảo Trường Sa nữa".
Về mặt bán chính thức, ngày 21 tháng 1 năm 1974, 2 ngày sau khi trận chiến diễn ra, đại diện ngoại giao của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khi trả lời hãng tin AFP đã khẳng định: "Việc bảo vệ chủ quyền của mọi quốc gia là một điều hết sức thiêng liêng. Các vấn đề về lãnh thổ và biên giới giữa các quốc gia láng giềng thường là những tranh cãi phức tạp, cần phải có những kiến giải thận trọng. Các quốc gia liên quan cần thương lượng dựa trên sự bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, dựa trên tinh thần hữu nghị và láng giềng thân thiện để giải quyết tranh chấp". Bên cạnh đó, trong cuộc trao đổi với Đại sứ Hungary tại Hà Nội khi đó, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch đã tuyên bố: "Có rất nhiều hồ sơ và tài liệu cho thấy quần đảo đang tranh cãi (tức quần đảo Hoàng Sa) là của Việt Nam".
Ngay sau khi Trung Quốc chiếm Hoàng Sa, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bắt đầu đề phòng, họ gây khó khăn cho Hoa kiều khi muốn thăm thân nhân ở Trung Quốc, và cũng không cho nhiều người Trung Quốc sang miền Bắc Việt Nam thăm người thân.
Theo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, hành động của Trung Quốc là có tính toán từ trước và nhận được sự làm ngơ của Mỹ. Vì vậy, khi đó đại sứ Mỹ Graham Martin ở Sài Gòn đã bác bỏ yêu cầu cứu viện của Việt Nam Cộng hòa và hạm đội Mỹ ở Thái Bình Dương đã được lệnh tránh xa quần đảo Hoàng Sa. Đặc biệt, hành động của Trung Quốc diễn ra chỉ một ngày sau khi họ chấp nhận đàm phán với phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về vấn đề vịnh Bắc Bộ, trong đó Trung Quốc yêu cầu được đặc quyền thăm dò trong một khu vực rộng 20.000 km² trong vịnh Bắc Bộ do họ tự ý định ra (yêu cầu này sau đó bị Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bác bỏ và đàm phán lâm vào bế tắc). Bởi một chuỗi các sự kiện trên, năm 1975, khi Quân đội Nhân dân Việt Nam đã hỗ trợ Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam mở chiến dịch Trường Sa và các đảo trên Biển Đông để thu hồi Trường Sa, họ đã ra công điện chỉ thị phải tiến hành khẩn trương để đề phòng "quân đội nước ngoài" có ý định chiếm quần đảo.
Sau khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc, Việt Nam đã tuyên bố chủ quyền đối với cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tháng 9 năm 1975, Tổng Bí thư Đảng Lao động Việt Nam Lê Duẩn nêu vấn đề Hoàng Sa trong chuyến thăm Trung Quốc. Phản ứng không nhượng bộ của Trung Quốc làm lãnh đạo Việt Nam khó chịu. Ngày 15 tháng 3 năm 1979, Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố Bị vong lục về vấn đề biên giới Việt -Trung, trong đó lên án việc Trung Quốc đánh chiếm trái phép quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Ngày 28 tháng 9 năm 1979, Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố Sách trắng, giới thiệu 19 tài liệu chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa.
Việc này đã khiến Trung Quốc bất bình và bắt đầu một thời kỳ quan hệ căng thẳng giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc. Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam hiện nay vẫn khẳng định chủ quyền đối với toàn bộ quần đảo Hoàng Sa và vùng lãnh hải liên quan trên Biển Đông.
Hoa Kỳ
Chính phủ Mỹ không có tuyên bố ngoại giao nào lên án việc Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa mà chỉ tỏ thái độ thông cảm với Việt Nam Cộng hòa. Hoa Kỳ cũng từ chối yêu cầu của Việt Nam Cộng hòa giúp đưa vấn đề này ra thảo luận tại Liên Hợp Quốc.
Ông Hoàng Đức Nhã, cựu Bí thư kiêm Tham vụ Báo chí của Việt Nam Cộng hòa, đã gọi điện cho đại sứ Hoa Kỳ để hỏi vì sao Hoa Kỳ không thông báo việc Trung Quốc điều quân đến Hoàng Sa để chủ động đối phó, đại sứ Graham Martin trả lời rằng họ "không hề biết gì". Ông Nhã liền chất vấn Đại sứ Martin rằng chuyện cả một hạm đội di chuyển mà quân đội Mỹ "không biết" thì quả là khó tin. Chính phủ Mỹ giải thích rằng Quốc hội Mỹ đã ra luật cấm Chính phủ tiếp tục hỗ trợ quân sự cho Việt Nam Cộng hòa nên họ không thể nào giúp Việt Nam Cộng hòa bảo vệ Hoàng Sa trước sự tấn công của Trung Quốc. Các tài liệu giải mật sau này cho thấy: trái với lời giải thích của đại sứ Mỹ, cơ quan tình báo CIA của Mỹ đã theo dõi sát tất cả diễn biến tại quần đảo Hoàng Sa ngay từ lúc Trung Quốc đưa quân đến Hoàng Sa cho đến lúc Trung Quốc chiếm toàn bộ quần đảo này để báo cáo cho Tổng thống Mỹ nhưng Mỹ quyết định không can thiệp vào Hoàng Sa. Sau này, ông Nhã gọi đây là sự "dối trá chính trị" và khẳng định Hoa Kỳ đã có sự thông đồng với Trung Quốc từ trước
Trong tài liệu mang mã số 1974STATE012641_b của Chính phủ Mỹ, đề ngày 19/1/1974 có ghi "Chính phủ Hoa Kỳ không đứng về phe nào trong các cuộc tranh chấp xung đột về quần đảo Hoàng Sa", và tòa đại sứ Mỹ tại Sài Gòn được lệnh thông báo, yêu cầu Việt Nam Cộng hòa phải "cố gắng tối đa tránh những đụng độ trực tiếp nữa với lực lượng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa..."
Ngày 23 tháng 1, Trung Quốc và Mỹ đã tổ chức hội đàm tại Washington. Mỹ đã gửi Ngoại trưởng Henry Kissinger tham gia, Kissinger đã bày tỏ quan điểm của chính phủ Mỹ về tranh chấp chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa, theo đó "Hoa Kỳ không ủng hộ các tuyên bố về chủ quyền hải đảo của Việt Nam Cộng hòa", cũng không ủng hộ việc đưa vấn đề này ra thảo luận tại các tổ chức quốc tế. Tóm lại, về ngoại giao, Hoa Kỳ sẽ không làm gì để giúp Việt Nam Cộng hòa.
Đến ngày 28/1/1974, Bộ Ngoại giao Mỹ chỉ thị Đại sứ quán Mỹ tại Sài Gòn bày tỏ "lo lắng sâu sắc về rủi ro phía Việt Nam Cộng hòa bày tỏ giận dữ về Hoàng Sa bằng hành động quân sự phi lý với Trung Quốc"" và yêu cầu Đại sứ Mỹ "kiềm chế" chính phủ Việt Nam Cộng hòa (tức là phải ngăn cản Việt Nam Cộng hòa nếu họ có ý định đánh chiếm lại Hoàng Sa)
Đánh giá
Chiến thuật
Trả lời câu hỏi của các sĩ quan khác về Hải chiến Hoàng Sa tại Khóa Chỉ huy Tham mưu đặc biệt tại Long Bình, Đại tá Hà Văn Ngạc, chỉ huy trận Hải chiến Hoàng Sa, nhận định Hoàng Sa cũng gần tương tự trận Ấp Bắc là nơi quân lực Việt Nam Cộng hòa đã "bị bất ngờ về chiến thuật của địch, có sự sai lầm về ước tính tình báo và nhầm lẫn về chiến thuật điều quân".
Trung tá Lê Văn Thự, chỉ huy chiến hạm HQ-16, nhận định về trận hải chiến như sau:
Trong trận Hải chiến Hoàng Sa, Việt Nam Cộng hòa không có loại tàu thích hợp cho trận chiến. HQ-5, HQ-16, HQ-10 không có vũ khí kiểu mới, pháo quay bằng tay nên theo dõi mục tiêu khó khăn cũng như nhịp bắn chậm. Chỉ có HQ-4 là có vũ khí tối tân, các súng đều điều khiển bằng điện, tốc độ bắn nhanh, radar có tầm xa, vận tốc chiến hạm cao. Nhưng HQ-4 lại gặp "trở ngại kỹ thuật" nên rút lui ngay từ đầu (ông Thự còn nghi ngờ HQ-4 rút lui vì sợ tham chiến chứ không phải vì trục trặc).
Hải đội của Việt Nam Cộng hòa tham chiến trận Hoàng Sa không có kế hoạch tác chiến. Chỉ huy HQ-16 chỉ nhận được một lệnh duy nhất từ Đại tá Ngạc đổ quân lên đảo Quang Hòa bằng bất cứ giá nào, ngoài ra ông không biết gì về hoạt động của HQ-4 và HQ-5 cũng như nhiệm vụ của họ. Khi trận chiến diễn ra, ông cũng không biết Đại tá Ngạc đã chia Hải đoàn thành 2 phân đoàn: phân đoàn I gồm HQ-4 và HQ-5, phân đoàn 2 gồm HQ-10 và HQ-16. Vì không có kế hoạch tác chiến nên khi máy truyền tin bị Trung Quốc phá sóng không liên lạc được thì không có tần số dự trù thay thế, nên hạm đội phải dùng máy PRC-25 liên lạc với nhau vì thế việc liên lạc không được liên tục, ổn định.
Phân đoàn I được phân công là chủ lực nhưng không tích cực chiến đấu mà chỉ ở bên ngoài chờ đợi rồi "bắn vào lòng chảo 5 - 7 phát trước khi rút lui". Chỉ có phân đoàn II mang vai trò yểm trợ lại phải giao chiến với 4 tàu Trung Quốc nên thiệt hại nặng.
Số quân HQ-16 đổ bộ để giành lại đảo Quang Hòa và giữ đảo Hoàng Sa quá ít, không có kinh nghiệm tác chiến trên bộ, lại không được tiếp tế đạn dược, lương thực, nước uống và vật dụng.
Không có bác sĩ trên chiến hạm, chỉ có y tá không kinh nghiệm cứu thương cũng như ngoài khả năng của họ nên ai bị thương thì khó mà sống sót.
Theo Trung tá Lê Văn Thự, sau trận chiến, Bộ Tư lệnh Hải quân đã không tổ chức thảo luận giữa chỉ huy các đơn vị tham chiến để rút kinh nghiệm học hỏi mà để "mọi chuyện đều cho trôi xuôi luôn".
Trong trận hải chiến Hoàng Sa, hải quân Việt Nam Cộng hoà gặp bất lợi lớn là hai khẩu hải pháo 76 ly tự động trên khu trục hạm HQ-4 bị "trở ngại kỹ thuật" nên HQ-4 phải rút lui ngay từ đầu. HQ-5 chỉ bắn vài phát đạn thì thuyền trưởng ra lệnh rút lui. HQ-16 chiến đấu một thời gian ngắn thì bị trúng đạn pháo 127 ly của tàu đồng đội là HQ-5 bắn nhầm, xuyên thủng hầm máy do đó bị loại ra khỏi trận chiến. Điều này cho thấy hải quân Việt Nam Cộng hòa chiến đấu trong thế bị động, không có kế hoạch tác chiến nên việc phối hợp giữa các chiến hạm kém dẫn đến HQ-5 bắn trúng HQ-16. Chỉ có HQ-10 là chiến đấu từ đầu đến cuối, nhưng đây lại là tàu nhỏ nhất đội hình, dễ bị hải quân Trung Quốc vô hiệu hóa. Như vậy hải quân Việt Nam Cộng hòa thiếu sự phối hợp giữa các chiến hạm và mất ưu thế về hoả lực ngay từ đầu trận chiến, trong khi Trung Quốc đã lên kế hoạch chu đáo ở cấp cao nhất là Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc cho việc chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa.
Theo nhà nghiên cứu Toshi Yoshihara (người Nhật), trận đánh này hải quân Việt Nam Cộng hòa thất bại vì 3 nguyên nhân chính, đến từ cả hai phía:
Lính hải quân Trung Quốc tỏ rõ sự kỷ luật và dũng cảm, biết dùng lối đánh áp sát để hạn chế ưu thế của tàu địch;
Tàu của Việt Nam Cộng hòa to và hỏa lực mạnh hơn nhiều, nhưng chiến thuật thì sai lầm: tách đội hình thành 2 phân đội nhưng lại thiếu sự phối hợp, nên 2 phân đội không ứng cứu được cho nhau, thậm chí còn bắn nhầm vào nhau;
Chỉ huy của Việt Nam Cộng hòa không biết sử dụng ưu thế về hỏa lực để đánh từ xa mà lại để tàu địch áp sát đánh gần, như vậy là tự vứt bỏ ưu thế tàu to - pháo lớn của mình.
Chiến lược
Đại tá Hà Văn Ngạc nhận định dù Hải quân Việt Nam Cộng hòa có thắng được trận đầu thì cũng khó lường trước được tổn thất khi đối đầu với lực lượng tiếp viện của Trung Quốc nếu còn ở lại cố thủ tại Hoàng Sa. Vào thời điểm đó Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đang tập trung quân tại miền Nam, Hải quân Việt Nam Cộng hòa phải dồn lực lượng chống lại nên không thể chi viện tối đa cho Hoàng Sa. Theo Đại tá Ngạc, Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã kiềm chế không tiếp tục mở rộng chiến sự tại Hoàng Sa vì sợ châm ngòi cho một cuộc chiến mới giữa Việt Nam Cộng hòa và Trung Quốc. Tuy nhiên, theo nhận định của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, trong cả năm 1973 và đầu 1974 - thời điểm sự kiện ở Hoàng Sa nổ ra - ở trên bộ, chính quyền Sài Gòn vẫn hoàn toàn chiếm ưu thế về không quân và quân số. Lực lượng vũ trang và bán vũ trang của Việt Nam Cộng hòa liên tục vi phạm Hiệp định Paris, lúc này Quân Giải phóng vẫn đang ở thế phòng thủ và chống đỡ. Theo phi công Nguyễn Thành Trung trả lời báo Thanh niên ngày 06/07/2014, không quân Việt Nam Cộng hòa lúc đó hoàn toàn đủ sức để tập kích Hoàng Sa. Tại Đà Nẵng, có 5 phi đoàn của Không quân Việt Nam Cộng hòa với khoảng 100 máy bay chiến đấu các loại. Theo ông Trung, Không quân Trung Quốc thời đó chỉ có MiG-21, chỉ đủ nhiên liệu bay nửa đường đến Hoàng Sa nên không thể tham chiến được, còn tàu chiến Trung Quốc thì chỉ toàn là tàu cỡ nhỏ, khả năng phòng không yếu. Trong khi đó, máy bay chiến đấu của Việt Nam Cộng hòa ngoài thời gian di chuyển từ Đà Nẵng ra Hoàng Sa vẫn còn khoảng 30 phút để tiến hành không kích, có thể đánh chìm các tàu chiến Trung Quốc một cách dễ dàng. Nhưng kế hoạch dùng không quân để đánh trả đã bị Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đình chỉ do Hoa Kỳ đã yêu cầu Việt Nam Cộng hòa không được phản kháng.
Theo ông Nguyễn Hữu Hạnh, Chuẩn tướng, phụ tá Tổng Tham mưu trưởng quân đội Việt Nam Cộng hòa năm 1975, Mỹ muốn lợi dụng mâu thuẫn giữa Trung Quốc và Liên Xô nên nhân sự kiện này để ngầm giao Hoàng Sa lại cho Trung Quốc, nhằm chặn đường vào miền Bắc Việt Nam của hạm đội Liên Xô.
Theo tờ Nhà Ngoại giao (The Diplomat), Hải chiến Hoàng sa 1974 cũng đã để lại cho Việt Nam những bài học nhất định:
Biện pháp ngoại giao là ưu tiên số 1 nhưng không phải là biện pháp duy nhất do chẳng có hiệp định khu vực và quốc tế nào có thể bảo vệ các nước nhỏ một cách hoàn hảo trước các hành động đơn phương sử dụng vũ lực của một nước lớn.
Các cường quốc có thể sẽ không bảo vệ đồng minh của mình và đứng ngoài xung đột do vấn đề họ quan tâm là duy trì quyền tự do hàng hải và các lợi ích chiến lược toàn cầu khác, chứ không phải lợi ích của các nước nhỏ khi lợi ích đó ảnh hưởng tới lợi ích toàn cầu của nước lớn.
Một lực lượng quân sự đủ mạnh để kiểm soát một vùng biển hẹp nhưng có tính chiến lược là rất cần thiết, trong đó phải phong tỏa không cho đối phương tiếp cận vùng do mình kiểm soát, củng cố năng lực phòng thủ đảo, khả năng cảnh báo sớm và khả năng vận chuyển lực lượng từ trong bờ ra đảo trên phạm vi rộng để đổ bộ lên đảo một cách nhanh chóng và vững chắc.
Xem thêm
Quần đảo Hoàng Sa
Công hàm năm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng
Chiến tranh biên giới Việt-Trung, 1979
Hải chiến Trường Sa 1988
Nam Hải phong vân, phim Trung Quốc về trận chiến này
Chú thích
Tham khảo
Liên kết ngoài
Video: Nhân chứng sống kể về Hải Chiến Hoàng Sa 1974
Tài liệu Tổng cục Chiến tranh Chính trị, Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa về hải chiến Hoàng Sa
Trận hải chiến Hoàng Sa Cựu phó đề đốc Hải quân Việt Nam Cộng hòa Hồ Văn Kỳ Thoại kể về Hải chiến Hoàng Sa 1974. BBC Cập nhật 12h46 GMT 15 Tháng 12 2007
Hải chiến Hoàng Sa - 40 năm nhìn lại Châu Minh Linh, báo Thanh Niên 05:30 AM - 06/01/2014
Đọc cuốn "Trận hải chiến Hoàng Sa", Trần Bình Nam, VietWeekly, 19/11/2013
Sách trắng về quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Bộ ngoại giao Việt Nam Cộng hòa, 1975
Tuyên bố của Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà ngày 14 tháng 2 năm 1974
Tuyên Cáo của Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng Hòa về hành động Gây hấn của Trung Cộng ngày 19 tháng 1 năm 1974
Ký ức Tết trên đảo Hoàng Sa, VnExpress, 25/1/2012
Quần đảo Hoàng Sa
Trận đánh liên quan tới Việt Nam
Châu Á năm 1974
Xung đột năm 1974
Lịch sử Biển Đông
Hải quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc
Chiến tranh bán đảo Đông Dương
|
22522
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%E1%BA%ADt%20%C4%91en
|
Vật đen
|
Trong vật lý học, vật đen tuyệt đối, hay ngắn gọn là vật đen, là vật hấp thụ hoàn toàn tất cả các bức xạ điện từ chiếu đến nó, bất kể bước sóng nào. Điều này có nghĩa là sẽ không có hiện tượng phản xạ hay tán xạ trên vật đó, cũng như không có dòng bức xạ điện từ nào đi xuyên qua vật.
Ý nghĩa vật lý về khả năng hấp thụ 100% bức xạ điện từ chiếu vào mang đến cái tên "đen" cho vật thể. Tuy nhiên, các vật thể này không đen, mà chúng luôn bức xạ trở lại môi trường xung quanh các bức xạ điện từ, tạo nên quang phổ đặc trưng cho nhiệt độ của vật, gọi là bức xạ vật đen. Quang phổ của vật đen là quang phổ liên tục và chỉ phụ thuộc vào nhiệt độ của vật đen.
Khi nhiệt độ của một vật không thay đổi, theo định luật bảo toàn năng lượng:
F0 = Fht + Fpx + Ftq = Fbxn
Ở đây:
F0 là thông lượng bức xạ điện từ chiếu vào vật
Fht là phần thông lượng bức xạ điện từ chiếu vào bị hấp thụ
Fpx là phần thông lượng bức xạ điện từ chiếu vào bị phản xạ (hay tán xạ)
Ftq là phần thông lượng bức xạ điện từ chiếu vào bị truyền qua
Fbxn là thông lượng bức xạ điện từ mà vật đen bức xạ trở lại môi trường
Ở trường hợp giới hạn lý tưởng, khi không có sự phản xạ, tán xạ hay truyền qua của các bức xạ điện từ chiếu đến vật, vật là một vật đen tuyệt đối (Fpx = 0, Ftq = 0):
F0 = Fht = Fbxn
Vật đen định nghĩa như trên là một vật lý tưởng, không tồn tại trong thực tế, có đặc tính biến tất cả năng lượng nhận được thành năng lượng bức xạ đặc trưng cho nhiệt độ của vật, với bất kỳ trị số nào của bước sóng. Mô hình vật đen là một mô hình lý tưởng trong vật lý, nhưng có thể áp dụng gần đúng cho nhiều vật thể thực tế. Các vật thể thực đôi khi được mô tả chính xác hơn bởi khái niệm vật xám. Vật thể trên thực tế gần đúng với khái niệm vật đen nhất là lỗ đen, là vật có lực hấp dẫn mạnh đến nỗi hút gần như tất cả các vật chất (hạt, sóng bức xạ) nào ở gần nó.
Chú ý là một vật màu đen không hẳn là một vật đen. Thí dụ: chiếc tàu lặn sơn đen đi trong đêm tối. Tuy chúng ta không thấy nó, nhưng nó vẫn bị phát hiện bởi radar, có nghĩa là nó vẫn phản xạ các tia đó với độ dài sóng radar.
Xem thêm
Vật xám
Bức xạ vật đen
Định luật Planck
Định luật Stefan-Boltzmann
Định luật Wien
Lỗ đen
Vật chất tối
Tinh vân tối
Vantablack
Tham khảo
Liên kết ngoài
Vật đen tuyệt đối và nền vi ba vũ trụ
Nhiệt động lực học
Sóng điện từ
Truyền nhiệt
Vật lý thiên văn
Tia hồng ngoại
Vật chất tối
|
22525
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%E1%BB%91i%20Th%E1%BB%8Bnh%20v%C6%B0%E1%BB%A3ng%20chung
|
Khối Thịnh vượng chung
|
Khối Thịnh vượng chung Các Quốc gia (, thường gọi là Khối Thịnh vượng chung Anh; trước đây là Khối Thịnh vượng chung Các quốc gia của Anh - British Commonwealth of Nations), là một tổ chức liên chính phủ của 54 quốc gia thành viên hầu hết từng là lãnh thổ của cựu Đế quốc Anh. Thịnh vượng chung hoạt động theo sự nhất trí liên chính phủ của các quốc gia thành viên được tổ chức thông qua Ban thư ký Thịnh vượng chung và các tổ chức phi chính phủ được tổ chức thông qua Quỹ Thịnh vượng chung.
Thịnh vượng chung bắt nguồn từ giữa thế kỷ XX với sự phi thuộc địa hóa của Đế quốc Anh thông qua tăng quyền tự quản cho các lãnh thổ.Tổ chức chính thức thành lập bằng Tuyên ngôn Luân Đôn năm 1949, trong đó xác định các quốc gia thành viên là "tự do và bình đẳng". Biểu tượng của liên kết tự do này là Quốc vương Charles III, ông là nguyên thủ của Thịnh vượng chung. Quốc vương cũng là quân chủ của 15 thành viên trong Khối Thịnh vượng chung, được gọi là "các vương quốc Thịnh vượng chung". Các thành viên khác trong Thịnh vượng chung có những nhân vật khác nắm giữ vị thế nguyên thủ quốc gia: 32 thành viên theo chế độ cộng hòa và năm thành viên có chế độ quân chủ lập hiến là một nhân vật khác.
Các quốc gia thành viên không có nghĩa vụ pháp lý với nhau. Thay vào đó, họ liên hiệp thông qua ngôn ngữ, lịch sử, văn hóa, và chia sẻ những giá trị về dân chủ, nhân quyền và pháp trị. Những giá trị này được ghi trong Hiến chương Thịnh vượng chung và được xúc tiến thông qua Đại hội thể thao Thịnh vượng chung.
Thịnh vượng chung bao phủ hơn , gần một phần tư diện tích đất liền thế giới, và trải trên mọi lục địa. Với dân số ước tính là 2,328 tỷ vào năm 2013, gần một phần ba dân số thế giới, Thịnh vượng chung vào năm 2014 có GDP danh nghĩa là 10.450 tỷ USD, chiếm 14% GDP danh nghĩa toàn cầu.
Lịch sử
Trong khi công du Úc vào năm 1884, Bá tước Archibald Primrose mô tả Đế quốc Anh đang biến hóa là một "Thịnh vượng chung của các quốc gia", trong khi một số thuộc địa trở nên độc lập hơn. Những hội nghị của các thủ tướng Anh Quốc và thuộc địa diễn ra định kỳ kể từ lần đầu tiên vào năm 1887, dẫn đến thiết lập các Hội nghị Đế quốc vào năm 1911.
Thịnh vượng chung phát triển từ các hội nghị đế quốc. Jan Smuts trình một đề xuất cụ thể vào năm 1917 khi ông đặt ra thuật ngữ "Thịnh vượng chung Anh của các quốc gia" và hình dung "các quan hệ hiến pháp tương lai và điều chỉnh về bản chất" tại Hội nghị Versailles năm 1919 bởi các đại biểu đến từ các quốc gia tự trị cũng như Anh Quốc. Thuật ngữ lần đầu được công nhận pháp lý tầm đế quốc trong Hiệp định Anh-Ireland năm 1921, khi "Thịnh vượng chung Anh của các quốc gia" thay thế cho "Đế quốc Anh" trong lời tuyên thệ của các thành viên nghị viện Quốc gia Tự do Ireland.
Theo Tuyên ngôn Balfour tại Hội nghị Đế quốc năm 1926, Anh Quốc và các quốc gia tự trị đồng ý rằng họ "bình đẳng về vị thế, quyết không lệ thuộc một bên vào bên khác trong bất kỳ phương diện đối nội và đối ngoại, tuy nhiên liên hiệp bằng lòng trung thành chung với quân chủ, và liên kết tự do với vị thế các thành viên của Thịnh vượng chung Anh của các quốc gia." Những phương diện về quan hệ được chính thức hóa theo Pháp lệnh Westminster năm 1931, áp dụng cho Canada không cần phê chuẩn, song Úc, New Zealand, và Newfoundland buộc phải phê chuẩn để nó có hiệu lực. Newfoundland chưa từng thực hiện điều này, do vào ngày 16 tháng 2 năm 1934, chính phủ Newfoundland tự nguyện kết thúc và nhiệm vụ cai trị trở lại dưới quyền kiểm soát trực tiếp từ Luân Đôn. Newfoundland sau đó gia nhập Canada với vị thế một tỉnh vào năm 1949. Úc và New Zealand lần lượt phê chuẩn Pháp lệnh vào năm 1942 và 1947.
Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Đế quốc Anh dần tan vỡ cho đến khi Anh Quốc còn lại 14 lãnh thổ hải ngoại. Trong tháng 4 năm 1949, sau Tuyên ngôn Luân Đôn, từ "Anh" bị bỏ khỏi danh hiệu của Thịnh vượng chung nhằm phản ánh biến hóa về bản chất của nó. Myanmar (1948) và Aden (1967) là những quốc gia duy nhất là thuộc địa của Anh trong Thế Chiến song không gia nhập Thịnh vượng chung khi độc lập. Những lãnh thổ bảo hộ và được ủy thác cũ của Anh song không trở thành thành viên của Thịnh vượng chung là Ai Cập (độc lập năm 1922), Iraq (1932), Transjordan (1946), Palestine thuộc Anh (bộ phận trở thành quốc gia Israel năm 1948), Sudan (1956), Somaliland thuộc Anh (thống nhất với Somaliland thuộc Ý cũ vào năm 1960 để hình thành Cộng hòa Somali), Kuwait (1961), Bahrain (1971), Oman (1971), Qatar (1971), và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (1971).
Ngày 18 tháng 4 năm 1949, Ireland chính thức trở thành một nước cộng hòa theo Đạo luật Cộng hòa Ireland năm 1948, do vậy tự động loại trừ khỏi Thịnh vượng chung. Trong khi Ireland không tích cực tham dự trong Thịnh vượng chung kể từ đầu thập niên 1930 và sẵn lòng rời Thịnh vượng chung, thì các quốc gia tự trị khác mong muốn trở thành các nước cộng hòa mà không mất liên kết Thịnh vượng chung. Vấn đề lên đến đỉnh điểm vào tháng 4 năm 1949 trong một hội nghị các thủ tướng Thịnh vượng chung tại Luân Đôn. Theo Tuyên ngôn Luân Đôn, Ấn Độ chấp thuận rằng khi họ trở thành một nước cộng hòa trong tháng 1 năm 1950, họ sẽ chấp thuận quân chủ Anh như một "biểu trưng của liên kết tự do của các quốc gia thành viên độc lập trong Khối và bởi thế là nguyên thủ của Thịnh vượng chung. Khi nghe về điều này, Quốc vương George VI nói với chính trị gia người Ấn Độ Krishna Menon: "Thế là tôi thành 'bởi thế'". Các quốc gia Thịnh vượng chung khác công nhận Ấn Độ duy trì tư cách thành viên của tổ chức. Do Pakistan kiên trì, Ấn Độ không được nhìn nhận là một trường hợp đặc biệt và các quốc gia khác sẽ được đối xử tương tự như Ấn Độ.
Tuyên ngôn Luân Đôn thường được nhận định là sự khởi đầu của Thịnh vượng chung hiện đại. Sau tiền lệ của Ấn Độ, các quốc gia khác trở thành nước cộng hòa, hoặc quân chủ lập hiến với quân chủ của mình, trong khi một số quốc gia duy trì quân chủ tương tự Anh Quốc, trong chế độ quân chủ của họ phát triển khác biệt và ngay sau đó trở nên hoàn toàn độc lập với chế độ quân chủ Anh Quốc.
Nguyên thủ
Tham khảo
Liên kết ngoài
Văn phòng Khối Thịnh vượng chung
Viện Khối Thịnh vượng chung, Luân Đôn
Hội Khối Thịnh vượng chung Hoàng gia
Hội Khối Thịnh vượng chung Hoàng gia (của Canada)
Hội Đại học Khối Thịnh vượng chung
Tổ chức quốc tế có trụ sở tại Vương quốc Liên hiệp Anh
Lịch sử chính trị Canada
Lịch sử chính trị Úc
Bài cơ bản sơ khai
Tổ chức chính trị quốc tế
Lịch sử chính trị Vương quốc Liên hiệp Anh
Khởi đầu năm 1949
|
22534
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BA%A1ch%20quy%E1%BB%83n
|
Thạch quyển
|
Thạch quyển là lớp vỏ cứng ngoài cùng nhất của các hành tinh có đất đá. Trên Trái Đất, thạch quyển bao gồm lớp vỏ và tầng trên cùng nhất của lớp phủ (lớp phủ trên hoặc thạch quyển dưới), được kết nối với lớp vỏ. Thạch quyển bị chia nhỏ ra thành các mảng khác nhau như trên hình.
Đặc trưng phân biệt của thạch quyển không phải là thành phần của nó mà là các thuộc tính về sự trôi dạt của nó. Dưới ảnh hưởng của các ứng suất dài hạn và cường độ thấp gây ra các chuyển động kiến tạo địa tầng, thạch quyển phản ứng về cơ bản như là lớp vỏ cứng, trong khi quyển astheno có tác động như là một lớp chất lỏng có độ nhớt nhẹ. Cả lớp vỏ và tầng trên của lớp phủ trôi trên quyển astheno có "độ dẻo" cao hơn. Lớp vỏ được phân biệt với lớp phủ và như vậy là tầng trên của lớp phủ bằng sự thay đổi trong thành phần hóa học tại khu vực của điểm gián đoạn Mohorovičić.
Độ dày của thạch quyển dao động từ khoảng 1,6 Km (1 dặm) ở các sống lưng giữa đại dương tới khoảng 130 km (80 dặm) gần lớp vỏ đại dương cổ. Độ dày của mảng thạch quyển lục địa là khoảng 150 km (93 dặm).
Do lớp bề mặt đang nguội đi trong hệ thống đối lưu của Trái Đất, độ dày của thạch quyển tăng dần lên theo thời gian. Nó bị chia cắt ra thành các mảng tương đối lớn, được gọi là các mảng kiến tạo và chúng chuyển động tương đối độc lập với nhau. Chuyển động này của các mảng thạch quyển được miêu tả như là kiến tạo địa tầng. Có hai dạng của thạch quyển là:
Vỏ đại dương.
Vỏ lục địa.
Thạch quyển Trái Đất
Thạch quyển của Trái Đất bao gồm lớp vỏ và lớp phủ trên cùng, tạo thành lớp ngoài cứng và cứng của Trái Đất. Các thạch quyển được chia thành các mảng kiến tạo. Phần trên cùng của thạch quyển phản ứng hóa học với khí quyển, thủy quyển và sinh quyển thông qua quá trình hình thành đất được gọi là tầng sinh quyển. Các thạch quyển được bảo vệ bởi thiên thạch là phần yếu hơn, nóng hơn và sâu hơn của lớp phủ trên. Các ranh giới Thạch quyển-Quyển được xác định bởi sự khác biệt trong ứng phó với ứng suất: thạch quyển vẫn cứng trong thời gian địa chất rất dài, trong đó nó biến dạng đàn hồi và thông qua sự cố giòn, trong khi astheno biến dạng một cách nhớt và chịu được biến dạng do biến dạng dẻo.
Lịch sử của khái niệm
Khái niệm về thạch quyển như lớp ngoài mạnh mẽ của Trái Đất được mô tả bởi AEH Love trong chuyên khảo "Một số vấn đề về Địa chất học" và được phát triển thêm bởi Joseph Barrell, người đã viết một loạt bài báo về khái niệm này và giới thiệu thuật ngữ "thạch quyển". Khái niệm này dựa trên sự hiện diện của dị thường trọng lực đáng kể trên lớp vỏ lục địa, từ đó ông suy luận rằng phải tồn tại một lớp trên mạnh mẽ, vững chắc (mà ông gọi là thạch quyển) phía trên lớp yếu hơn có thể chảy (mà ông gọi là asthenosphere). Những ý tưởng này đã được Reginald Aldworth Daly mở rộng vào năm 1940 với công trình bán kết "Sức mạnh và cấu trúc của Trái Đất".Chúng đã được chấp nhận rộng rãi bởi các nhà địa chất và địa vật lý. Những khái niệm về một thạch quyển mạnh nằm trên một astheno yếu là rất cần thiết cho lý thuyết về kiến tạo mảng.
Các loại
Các loại thạch quyển khác nhau
Có hai loại thạch quyển:
Thạch quyển đại dương, liên kết với lớp vỏ đại dương và tồn tại trong các lưu vực đại dương (mật độ trung bình khoảng 2,9 gram trên mỗi cm khối)
Thạch quyển lục địa, liên kết với lớp vỏ lục địa (mật độ trung bình khoảng 2,7 gram trên mỗi cm khối)
Độ dày của thạch quyển được coi là độ sâu của đường đẳng nhiệt liên quan đến sự chuyển đổi giữa hành vi giòn và nhớt. Nhiệt độ tại đó olivine bắt đầu biến dạng nhớt (~ 1000 °C) thường được sử dụng để thiết lập đường đẳng nhiệt này vì olivine thường là khoáng chất yếu nhất ở lớp phủ trên. Thạch quyển đại dương thường dày khoảng 50 trận 140 km (nhưng bên dưới các dải núi giữa đại dương không dày hơn lớp vỏ), trong khi thạch quyển lục địa có phạm vi độ dày từ khoảng 40 km đến khoảng 280 km; phần trên ~ 30 đến ~ 50 km của thạch quyển lục địa điển hình là lớp vỏ. Phần lớp phủ của thạch quyển bao gồm phần lớn peridotit. Lớp vỏ được phân biệt với lớp phủ trên bởi sự thay đổi thành phần hóa học diễn ra tại sự gián đoạn Moho.
Thạch quyển đại dương
Thạch quyển đại dương bao gồm chủ yếu là mafic lớp vỏ và siêu mafic manti (peridotit) và nặng hơn thạch quyển lục địa, mà lớp vỏ được kết hợp với lớp vỏ làm bằng felsic đá. Thạch quyển đại dương dày lên khi nó già đi và di chuyển ra khỏi sườn núi giữa đại dương. Sự dày lên này xảy ra bằng cách làm mát dẫn điện, biến đổi tầng khí quyển nóng thành lớp phủ thạch quyển và làm cho thạch quyển đại dương ngày càng dày và dày đặc theo tuổi tác. Trong thực tế, thạch quyển đại dương là một lớp ranh giới nhiệt cho sự đối lưu trong lớp phủ. Độ dày của phần lớp phủ của thạch quyển đại dương có thể được xấp xỉ là một lớp ranh giới nhiệt dày lên như căn bậc hai của thời gian.
Thạch quyển đại dương ít đậm đặc hơn asthenosphere trong vài chục triệu năm nhưng sau đó nó trở nên ngày càng dày đặc hơn asthenosphere. Điều này là do lớp vỏ đại dương khác biệt hóa học nhẹ hơn so với astheno, nhưng sự co lại nhiệt của thạch quyển lớp phủ làm cho nó dày đặc hơn so với astheno. Sự mất ổn định hấp dẫn của thạch quyển đại dương trưởng thành có tác động tại các khu vực hút chìm, thạch quyển đại dương luôn luôn chìm xuống bên dưới thạch quyển đè lên, có thể là đại dương hoặc lục địa. Thạch quyển đại dương mới liên tục được sản xuất tại các rặng giữa đại dương và được tái chế trở lại lớp phủ tại các khu vực hút chìm. Kết quả là, thạch quyển đại dương trẻ hơn nhiều so với thạch quyển lục địa: thạch quyển đại dương lâu đời nhất khoảng 170 triệu năm tuổi, trong khi các phần của thạch quyển lục địa là hàng tỷ năm tuổi. Các phần lâu đời nhất của thạch quyển lục địa nằm dưới các cratons, và thạch quyển lớp phủ ở đó dày hơn và ít đậm đặc hơn so với điển hình; mật độ tương đối thấp của "rễ cây" như vậy giúp ổn định các khu vực này.
Thạch quyển chìm
Các nghiên cứu địa vật lý vào đầu thế kỷ 21 cho thấy các mảnh lớn của thạch quyển đã bị hút vào lớp phủ sâu tới 2900 km đến gần ranh giới lớp phủ lõi, trong khi các phần khác "trôi nổi" ở lớp phủ trên, trong khi một số dính xuống lớp phủ xa tới 400 km nhưng vẫn "gắn" với mảng lục địa phía trên, tương tự như phạm vi của "kiến tạo" do Jordan đề xuất năm 1988.
Đá xenolith
Các nhà địa chất học có thể trực tiếp nghiên cứu bản chất của lớp phủ lục địa bằng cách kiểm tra xenolit lớp phủ đưa lên trong kimberlite, lamproite và các ống núi lửa khác. Lịch sử của các xenolith này đã được nghiên cứu bằng nhiều phương pháp, bao gồm các phân tích về sự phong phú của các đồng vị của osmium và rhenium. Các nghiên cứu như vậy đã xác nhận rằng các lớp phủ thạch quyển bên dưới một số craton đã tồn tại trong thời gian hơn 3 tỷ năm, mặc dù dòng chảy lớp phủ đi kèm với kiến tạo mảng.
Tham khảo
Lớp vỏ, thạch quyển và quyển astheno của Trái Đất
Lớp vỏ và thạch quyển
Xem thêm
Quyển astheno
Khí quyển Trái Đất
Sinh quyển
Băng quyển
Thủy quyển
Địa quyển
Kiến tạo địa tầng
Kiến tạo mảng
Cấu trúc Trái Đất
Sinh thái học hệ thống
Địa lý học tự nhiên
|
22537
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Quy%E1%BB%83n%20m%E1%BB%81m
|
Quyển mềm
|
Quyển astheno (từ tiếng Hy Lạp a + ''sthenos có nghĩa là "không có lực") là khu vực của Trái Đất nằm ở độ sâu từ 100-200 km dưới bề mặt—nhưng có thể mở rộng tới độ sâu 400 km—đây là khu vực yếu hay "mềm" thuộc tầng trên cùng của lớp phủ. Nó nằm ngay phía dưới thạch quyển và là tác nhân tham gia vào các chuyển động địa tầng và các điều chỉnh đẳng tĩnh. Mặc dù tại đây có nhiệt độ cao nhưng áp suất cao đã giữ cho lớp này ở dạng dẻo và nó có tỷ trọng tương đối thấp. Các sóng địa chấn, (vận tốc lan truyền của nó giảm theo độ mềm của môi trường) truyền tương đối chậm trong quyển astheno các tín hiệu cảnh báo cho các nhà địa chấn học về sự hiện diện của nó; vì thế nó được các nhà địa chấn học đặt tên là khu vực vận tốc chậm.
Dưới đáy các mảng đại dương tương đối mỏng thì quyển astheno thông thường nằm gần đáy biển và tại các sống đại dương thì nó chỉ cách đáy biển vài kilômét.
Phần trên của quyển astheno được cho là khu vực mà các mảng lớn của lớp vỏ Trái Đất bằng đá cứng và dễ vỡ chuyển động trên nó. Do các điều kiện về nhiệt độ và áp suất tại quyển astheno, đá trở nên mềm dẻo và chảy với tốc độ khoảng vài cm/năm trên một khoảng cách thẳng tới hàng nghìn kilômét. Bằng cách này, nó "chảy" tương tự như các dòng đối lưu, bức xạ nhiệt từ trong lòng Trái Đất ra ngoài. Phía trên quyển astheno, với cùng vận tốc biến dạng, đá phản ứng giống như một chất dẻo và dễ vỡ, có thể đứt gãy và sinh ra các đứt gãy địa chất (các phay địa chất). Thạch quyển cứng được coi là "trôi" hay chuyển động trên quyển astheno có dòng chảy chậm, tạo ra chuyển động của các mảng vỏ Trái Đất được mô tả trong thuyết kiến tạo địa tầng.
Mặc dù sự tồn tại của quyển astheno đã được đưa ra từ năm 1926, nhưng sự tồn tại này chỉ được công nhận nhờ các phân tích sóng động đất từ trận động đất lớn ở Chile diễn ra vào ngày 22 tháng 5 năm 1960.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Đại học San Diego, "Nhiệt năng và cấu trúc bên trong của Trái Đất"
Kiến tạo mảng
Cấu trúc Trái Đất
|
22539
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BB%81%20m%E1%BA%B7t%20Mohorovi%C4%8Di%C4%87
|
Bề mặt Mohorovičić
|
Điểm gián đoạn Mohorovičić, thông thường được nói đến như là Moho, là ranh giới giữa lớp vỏ và lớp phủ của Trái Đất. Điểm gián đoạn Mohorovičić được Andrija Mohorovičić, một nhà địa chấn học người Croatia, xác định lần đầu tiên năm 1909, khi ông quan sát thấy sự gia tăng đột ngột của vận tốc lan truyền các sóng động đất (đặc biệt là các sóng P) tại điểm này.
Vị trí của điểm gián đoạn Mohorovičić dao động từ khoảng 5 km ở gần các sống núi đại dương tới khoảng 75 km ở gần lớp vỏ lục địa.
Trong thời gian những năm cuối thập niên 1950 và đầu thập niên 1960 đã có đề xuất được đưa ra tại Ủy ban điều hành của Quỹ khoa học quốc gia Hoa Kỳ (NSF) để khoan lỗ dọc theo đáy đại dương để đạt tới ranh giới này. Tuy nhiên, công việc này, có tên gọi là Dự án Mohole, chưa bao giờ nhận được sự ủng hộ cần thiết và đề xuất đã bị Quốc hội Hoa Kỳ hủy bỏ vào năm 1967.
Xem thêm
Điểm gián đoạn Gutenberg
Điểm gián đoạn Lehmann
Tham khảo
Harris, P., 1972, 'The composition of the earth', in Gass, I.G., Smith, P.J. và Wilson, R.C.L. (eds), Understanding the Earth: A Reader in the Earth Sciences. The Open University Press.
Bảng chú giải thuật ngữ của Schlumberger Oilfield
Liên kết ngoài
Khoan lỗ tới đáy của lớp vỏ Trái Đất (2005)
Dự án Mohole, 1958-1966
Kiến tạo mảng
Cấu trúc Trái Đất
|
22541
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90i%E1%BB%83m%20gi%C3%A1n%20%C4%91o%E1%BA%A1n%20Lehmann
|
Điểm gián đoạn Lehmann
|
Điểm gián đoạn Lehmann, được lấy theo tên của nhà địa chấn học Inge Lehmann, là lớp ranh giới nằm giữa lớp lõi lỏng bên ngoài và lớp lõi rắn bên trong của Trái Đất, nó nằm ở độ sâu khoảng 5.150 km dưới bề mặt Trái Đất. Tuy nhiên, đôi khi nó cũng được sử dụng để nói tới điểm giám đoạn ở độ sâu 220 km, mặc dù điều này còn gây tranh cãi. Trong trường hợp này, điểm gián đoạn tại lớp lõi thông thường được nói đến như là ranh giới lõi trong (tiếng Anh: inner-core boundary, viết tắt: ICB).
Xem thêm
Điểm gián đoạn Mohorovičić
Điểm gián đoạn Gutenberg
Tham khảo
ICB tại geology.about.com
ICB tại www.physics.ucla.edu
Địa chất học
Địa vật lý
Cấu trúc Trái Đất
|
22542
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90i%E1%BB%83m%20gi%C3%A1n%20%C4%91o%E1%BA%A1n%20Gutenberg
|
Điểm gián đoạn Gutenberg
|
Điểm gián đoạn Gutenberg, hay ranh giới lớp lõi – lớp phủ, nằm giữa lớp phủ bằng các silicat và lớp lõi bằng sắt-niken của Trái Đất. Ranh giới này nằm ở độ sâu khoảng 2.900 km tính từ bề mặt Trái Đất. Ranh giới này được công nhận như là khu vực gián đoạn về vận tốc của sóng địa chấn và nó được giải thích là do sự thay đổi cơ bản và rõ ràng về tỷ trọng tại độ sâu này. Có điều này là do sự thay đổi về thành phần hóa học từ các dạng khoáng chất silicat sang thành sắt-niken. Các chứng cứ gần đây cho rằng lớp ranh giới được thể hiện bằng sự thay đổi cấu trúc trong khoáng chất perovskit của đáy lớp phủ. Các nghiên cứu chụp X quang địa chấn chỉ ra sự không đồng đều đáng kể trong lớp ranh giới và là gợi ý về khả năng tồn tại của cấu trúc có tổ chức và có quan hệ với các chùm đá nóng của lớp phủ.
Khu vực ranh giới cũng được nói đến như là D″ ("D phẩy phẩy" hay "D phẩy kép"). Tên gọi này có nguồn gốc từ việc đặt tên cho các lớp của Trái Đất bởi nhà toán học Keith Bullen. Trong hệ thống của mình, ông đã đánh dấu mỗi lớp theo bảng chữ cái Latinh từ A đến G, với lớp vỏ là A và lớp lõi là G. Trong lần xuất bản mô hình của ông năm 1942, toàn bộ lớp phủ dưới cùng gọi là lớp D. Trong lần xuất bản năm 1950, Bullen phát hiện ra rằng lớp D của ông trên thực tế có thể là hai lớp khác nhau. Phần phía trên của lớp D, dày khoảng 1.800 km, được đổi tên thành D’ (D phẩy) và phần phía dưới, dày khoảng 200 km, được đặt tên là D″.
Xem thêm
Điểm gián đoạn Mohorovičić
Điểm gián đoạn Lehmann
Tham khảo
Liên kết ngoài
Lớp phủ gặp lớp lõi
Ranh giới lớp lõi – lớp phủ Trái Đất có khu vực lõi cứng
Geotimes – Định nghĩa lại ranh giới lớp lõi-lớp phủ
Sự thay đổi pha khoáng chất tại ranh giới
Các siêu chùm đá nóng tại ranh giới
Bài tại About.com về tên gọi D″
Địa chất học
Địa vật lý
Cấu trúc Trái Đất
|
22543
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/HTML%20%C4%91%E1%BB%99ng
|
HTML động
|
HTML động hay DHTML (viết tắt tiếng Anh: Dynamic HTML) là một thể hiện của việc tạo ra một trang web bằng cách kết hợp các thành phần: ngôn ngữ đánh dấu HTML tĩnh, ngôn ngữ kịch bản máy khách (như là Javascript), và ngôn ngữ định dạng trình diễn Cascading Style Sheets và Document Object Model (DOM).
DHTML có thể được sử dụng để tạo ra 1 ứng dụng trên trình duyệt web: ví dụ như dễ dàng điều hướng, tạo một đơn web tương tác với người dùng hoặc tạo ra một bài tập sử dụng cho e-learning.
Cấu trúc của một trang web
Đặc trưng của một trang web sử dụng DHTML được cấu thành như sau:
<!doctype html>
<html lang="en">
<head>
<meta charset="utf-8">
<title>DHTML example</title>
</head>
<body>
<div id="navigation"></div>
<script>
var init = function () {
myObj = document.getElementById("navigation");
//... manipulate myObj
};
window.onload = init;
</script>
</body>
</html>
Thường thì mã JavaScript được lưu giữ trong một tập tin riêng, được nạp vào trang web bằng liên kết đến tập tin chứa mã JavaScript:
<script src="script.js"></script>
Ví dụ: Hiển thị một đoạn văn bản được thêm vào
Đoạn mã dưới đây minh họa một chức năng thường được sử dụng. Phần thêm vào của trang web sẽ chỉ được hiển thị nếu người dùng yêu cầu nó. Như trong e-learning chức năng này sử dụng để hiển thị gợi ý được thêm vào.
<!doctype html>
<html lang="en">
<head>
<meta charset="utf-8">
<title>Ví dụ</title>
<style>
a {background-color:#eee;}
a:hover {background:#ff0;}
#toggleMe {background:#cfc; display:none; margin:30px 0; padding:1em;}
</style>
</head>
<body>
<h1>Ví dụ</h1>
<h2><a id="showhide" href="#">Hiển thị ví dụ</a></h2>
<p id="toggleMe">Đây là ví dụ: văn bản chỉ hiển thị khi bấm chuột vào
liên kết.</p>
<p>Thêm văn bản thường...</p>
<script>
changeDisplayState = function (id) {
var d = document.getElementById('showhide'),
e = document.getElementById(id);
if (e.style.display === 'none' || e.style.display === '') {
e.style.display = 'block';
d.innerHTML = 'Dấu ví dụ';
}
else {
e.style.display = 'none';
d.innerHTML = 'Hiển thị ví dụ';
}
};
document.getElementById('showhide').onclick = function () {
changeDisplayState('toggleMe');
return false;
};
</script>
</body>
</html>
Định dạng tập tin XHTML chứa một slideshow có thể xem được trên chế độ projector theo từng slide một (có thể. Định dạng sẽ được thực hiện bởi CSS.
Liên kết bên ngoài
QuirksMode, một trang web toàn diện với các ví dụ và hướng dẫn làm thế nào để viết mã DHML có thể hoạt động trên một số trình duyệt
Mahjongg Solitaire, Một trang web trờ chơi được viết bởi DHTML
DHTML Lemmings , một trò chơi kinh điển
DHTML Central, một trang web với thư viện DHML và một số thành phần của JavaScript để tạo các thực đơn, cây, và một thư viện giúp bạn đơn giản hóa việc lập trình DHTML.
Ví dụ DHTML
DHTML games
Tham khảo HTML & DHTML trên MSDN
Tham khảo
HTML
JavaScript
DOM
|
22562
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BA%AFc%20ma
|
Mắc ma
|
Bài này nói về magma như là một dạng của đá nóng chảy. Các nghĩa khác của mắc ma, xem Mắc ma (định hướng).
Mắc ma hay magma là đá nóng chảy, thông thường nằm bên trong các lò magma gần bề mặt Trái Đất .
Mắc ma là hỗn hợp của silicat lỏng ở nhiệt độ và áp suất cao và là nguồn ban đầu của tất cả các loại đá mắc ma. Nó có khả năng xâm nhập vào các lớp đá thuộc phần vỏ cạnh kề hay phun trào ra ngoài bề mặt. Mắc ma tồn tại ở khoảng nhiệt độ từ 650 tới 1.200 °C. Mắc ma chịu áp suất cao trong lòng đất và khi phun trào lên bề mặt đất qua các miệng núi lửa ở dạng dung nham và chất phun trào nham tầng . Các sản phẩm phun trào của núi lửa thông thường chứa các chất lỏng, các tinh thể và các khí không hòa tan mà trước đó chưa bao giờ ra đến mặt Trái Đất. Mắc ma tập trung thành nhiều lò magma riêng rẽ trong lớp vỏ Trái Đất và có thành phần khác nhau một cách đáng kể tại các khu vực khác nhau, nó có thể được tìm thấy ở các đới hút chìm, đứt gãy hay sống núi giữa đại dương hoặc trên các điểm nóng chứa các chùm đá nóng của lớp phủ. Sự hình thành mắc ma chỉ có thể diễn ra theo một số điều kiện đặc biệt tại quyển astheno của Trái Đất.
Hình thành
Sự suy giảm đột ngột của áp suất có thể tạo ra sự nóng chảy do giảm áp. Điều này có thể diễn ra do các chuyển động kiến tạo hoặc do đá nóng chảy chuyển động làm phá hủy các đá xung quanh khi nó di chuyển lên các độ sâu thấp hơn trong lớp vỏ Trái Đất. Gradient địa nhiệt trung bình khoảng 25 °C/km với khoảng rộng từ thấp ở mức 5-10 °C/km trong phạm vi các rãnh đại dương và các khu vực sút giảm tới cao ở mức 30-50 °C/km dưới các sống núi giữa đại dương và các cung núi lửa. Tổ hợp của nhiệt độ cao và áp suất thấp gần môi trường bề mặt là điều kiện thuận lợi nhất để diễn ra sự nóng chảy do áp suất suy giảm.
Mắc ma cũng có thể được tạo thành do sự bổ sung của các chất dễ bay hơi vào đá bị nung nóng. Các chất dễ bay hơi (nước và khí) được giải phóng từ các mảng hút chìm của các lớp vỏ đại dương, các chất này xâm nhập vào các lớp đá nằm phía trên và kích thích sự nóng chảy. Chúng có thể phá vỡ các liên kết khoáng vật bên trong đá nóng chảy và làm cho nhiệt độ nóng chảy giảm xuống tạo thành mắc ma.
Sự hình thành của mắc ma cũng có thể là kết quả của sự làm nóng chảy đá thuộc lớp vỏ bởi mắc ma đã tồn tại trước đó do mắc ma này có nhiệt độ cao hơn đến mức nó làm nóng chảy luôn cả đá của lớp vỏ khi nó dâng lên, điều này tạo ra nhiều mắc ma hơn nữa.
Mắc ma dâng lên chủ yếu là do khi đá nóng chảy có tỷ trọng thấp hơn so với đá rắn, nó bị đẩy lên trên qua thạch quyển bởi sức nổi (theo cách thức giống như tấm gỗ có tỷ trọng thấp bị đẩy lên trên và trôi nổi trong nước nặng hơn). Quá trình này tạo ra các lò magma và cuối cùng là núi lửa, mắc ma phun lên trên theo mọi hướng ra bề mặt Trái Đất trong các hoạt động phun trào núi lửa.
Thành phần
Thành phần của magma thay đổi phụ thuộc vào thành phần của đá nằm trên bị nóng chảy khi magma thâm nhập vào lớp vỏ Trái Đất và bị phun trào ra trong dạng của dung nham. Có ba dạng cơ bản của magma: mafic, andesit (hay trung gian) và felsic. Magma là hỗn hợp chủ yếu của silica; các chất kiềm và kiềm thổ (natri, kali, calci, magiê) và sắt. Nói chung, magma càng có tính chất mafic nhiều hơn thì sự phun trào càng êm ả hơn. Có điều này là do hàm lượng silica cao làm cho các chất dễ bay hơi được tích lũy và có thể tạo ra các vụ phun nổ thường gặp ở các núi lửa phức hợp.
Các đặc trưng của các loại magma khác nhau như sau:
Ghi chú
Tham khảo
Xem thêm
Dung nham
Liên kết ngoài
Thạch luận
Đá mácma
Các dạng phun trào núi lửa
Hoạt động núi lửa
|
22564
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Moho
|
Moho
|
Trong tiếng Việt, Moho có thể là:
Điểm gián đoạn Mohorovičić, ranh giới giữa lớp vỏ và lớp phủ của Trái Đất.
Thành phố Moho, miền Puno, Peru.
Phần mềm hình ảnh động 2D của Lost Marble.
Moho, một chi chim thuộc họ Meliphagidae
|
22566
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%B4ng%20l%C6%B0%E1%BB%A3ng
|
Thông lượng
|
Thông lượng của một dòng chảy qua một bề mặt là đại lượng chỉ lượng chảy qua bề mặt vuông góc với hướng chảy trong một đơn vị thời gian.
Trong thực tế, dòng chảy là một trường vector, các vector thành phần có thể có các hướng khác nhau đối với bề mặt dòng chảy đi qua. Nếu gọi bề mặt đi qua là S, trường vector là a, n là vector đơn vị pháp tuyến ngoài của S, thì thông lượng dòng chảy được tính bằng tích phân các vectơ trên vi phân diện tích dS, vuông góc với vectơ trên một đơn vị thời gian.
Một số ví dụ:
thông lượng của dòng nước có thể đo bằng thể tích m3.s−1 hay khối lượng kg3.s−1,
nếu dòng chảy là bức xạ điện từ, thông lượng có thể đo bằng số hạt photon, trong trường hợp bức xạ đơn sắc, hay năng lượng trên đơn vị thời gian,
với dòng các hạt ánh sáng, thông lượng của chùm ánh sáng được gọi là quang thông,
với dòng là các hạt điện tích, thông lượng còn được gọi là cường độ dòng điện.
Mật độ thông lượng
Mật độ thông lượng là thông lượng của dòng chảy tính trên một đơn vị diện tích vuông góc với dòng chảy. Ví dụ: Mật độ thông lượng của dòng điện gọi là mật độ dòng điện.
Tham khảo
Đại lượng vật lý
Giải tích vectơ
Tĩnh điện học
|
22567
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Quang%20th%C3%B4ng
|
Quang thông
|
Trong ngành đo lường quang học, quang thông là đại lượng trắc quang cho biết công suất bức xạ của chùm ánh sáng phát ra từ một nguồn sáng, hoặc định nghĩa khác của quang thông là lượng ánh sáng phát ra từ một nguồn sáng theo mọi hướng trong một giây.
Đơn vị
Quang thông có ký hiệu là φ, hay .
Đơn vị của quang thông trong các hệ đơn vị SI, CGS là lumen, ký hiệu lm.. 1 lumen được định nghĩa bằng quang thông tạo ra bởi một nguồn sáng mà phát ra cường độ sáng (luminous intensity) 1 candela trên một góc khối có giá trị bằng 1 steradian.
Sử dụng
Quang thông được sử dụng để đo lượng sáng phát ra bởi một đèn điện, nó không tính theo một hướng phát sáng cụ thể nào và giá trị này thường được ghi trên các sản phẩm đèn chiếu sáng.
Liên hệ với cường độ sáng
Quang thông (đơn vị lumen) là giá trị đo tổng lượng ánh sáng phát ra từ một đèn. Cường độ sáng (đơn vị candela) là giá trị đo độ sáng của đèn chiếu sáng (cũng như bộ phản xạ) theo một phương nhất định (biểu thị chùm tia sáng). Nếu một đèn có quang thông 1 lumen và bộ phản xạ của đèn (hay còn gọi chóa tản quang) tập trung ánh sáng đều đặn trong chùm có giá trị góc khối bằng 1 steradian, thì chùm tia sáng có cường độ sáng bằng 1 candela. Nếu thay đổi bộ phản xạ để tập trung chùm trong 1/2 steradian thì tia sáng có cường độ sáng bằng 2 candela. Chùm tia thu được hẹp hơn và sáng hơn, tuy nhiên quang thông vẫn có giá trị bằng 1 lumen.
trong đó (đơn vị lm.s) là tổng năng lượng sáng của một nguồn sáng.
trong đó là cường độ sáng, và ký hiệu góc khối.
Tham khảo
Quang học
Đại lượng vật lý
|
22569
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BB%A9c%20x%E1%BA%A1%20nhi%E1%BB%87t
|
Bức xạ nhiệt
|
Bức xạ nhiệt là bức xạ điện từ được tạo ra bởi chuyển động nhiệt của các hạt điện tích trong vật chất. Tất cả các vật chất với nhiệt độ lớn hơn độ không tuyệt đối đều phát ra bức xạ nhiệt. Khi nhiệt độ của vật lớn hơn độ không tuyệt đối thì sự va chạm giữa các nguyên tử hoạt động làm thay đổi động năng của các nguyên tử hoặc phân tử. Điều này dẫn đến làm tăng tốc điện tích và/hoặc gây dao động lưỡng cực, từ đó sản sinh ra bức xạ điện từ và độ rộng phổ của bức xạ tương ứng với độ rộng phổ của năng lượng và gia tốc ở một nhiệt độ nhất định.
Nếu một vật phát ra bức xạ đáp ứng các đặc tính vật lý của vật đen ở trạng thái cân bằng nhiệt động lực học, các bức xạ được gọi là bức xạ vật đen. Định luật Planck mô tả quang phổ của bức xạ vật đen chỉ phụ thuộc vào nhiệt độ của vật.
Chú thích
Liên kết ngoài
Black Body Emission Calculator
Heat Transfer
Thermal Radiation
Atmospheric Radiation
Infrared Temperature Calibration 101
Sóng điện từ
Truyền nhiệt
Nhiệt động lực học
|
22574
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%A1%20Quang%20B%E1%BB%ADu
|
Tạ Quang Bửu
|
Tạ Quang Bửu (1910–1986) là giáo sư, nhà khoa học Việt Nam, người đặt nền móng cho lĩnh vực khoa học kỹ thuật và công nghệ quân sự Việt Nam, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Bộ Đại học và Trung học Chuyên nghiệp của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đại biểu Quốc hội từ khóa I đến khóa VI (1946–1981). Giáo sư Tạ Quang Bửu là một trong những nhà trí thức tài giỏi của Việt Nam từ khi giành độc lập năm 1945. Ông đã cống hiến rất nhiều cho sự nghiệp cách mạng và giải phóng dân tộc cũng như nền khoa học nước nhà và góp phần không nhỏ trong sự nghiệp phát triển giáo dục Việt Nam.
Tiểu sử
Các cống hiến của ông về lĩnh vực khoa học - kỹ thuật
Tạ Quang Bửu sinh ngày 23 tháng 7 năm 1910, trong một gia đình nhà giáo tại thôn Hoành Sơn, xã Nam Hoành (nay là xã Khánh Sơn), huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Năm 1917 tại Tam Kỳ - Quảng Nam, trong kỳ thi về chữ Hán ngữ - Văn hóa Việt - Toán được tổ chức cho các em học sinh lên bảy, ông đã đỗ rất cao và từ đó trở nên nổi tiếng vì học tập xuất sắc.
Năm 1922, ông thi vào trường Quốc học Huế và đỗ thứ hạng 11. Sau đó ông ra Hà Nội học trường Bưởi.
Năm 1929, sau khi đỗ đầu tú tài Việt và đỗ đầu tú tài Tây ban Toán, ông nhận được học bổng của Hội Như Tây Du học của Nguyễn Hữu Bài và sang Pháp học. Ông thi đỗ vào Trường Centrale (A) Paris năm 1930, học Toán ở các trường Đại học Paris, Bordeaux (Pháp) và Oxford (Anh) từ 1930 đến 1934.
Tại Pháp, năm 1929, ông đăng ký học lớp toán đặc biệt của trường Louis le Grand về toán học và vật lý lý thuyết, đăng ký học cử nhân toán ở Viện Henri Poincaré. Ông đã đến nghe giảng ở cả giảng đường Hermite (dành cho cử nhân) lẫn tham dự các buổi xê-mi-na ở giảng đường Darboux (dành cho những người học trên đại học). Tại đây, ông đã tiếp xúc với nhiều nhà toán học trẻ của nước Pháp, bí mật tham gia nhóm Nicolas Bourbaki. Đó là cơ sở để năm 1961, ông cho ra đời tác phẩm Về cấu trúc của Bourbaki.
Ông thi đỗ vào trường Centrale Paris năm 1930, theo học chương trình cử nhân khoa học ở Đại học Sorbonne, học toán ở các Đại học Paris, Đại học Bordeaux (Pháp) từ 1930 đến 1934 và được trường Bordeaux trao đổi sang Đại học Oxford (Anh) trong một thời gian ngắn. Tại đây ông học thêm vật lý lượng tử.
Trở về nước năm 1934, ông không ra làm quan mà đi dạy toán và tiếng Anh tại trường tư, ban đầu là trường Phú Xuân, sau là trường dòng Providence (Trường Thiên Hựu) ở Huế. Ngoài tiếng Anh và toán, lý, hóa ông còn dạy các môn khoa học tự nhiên khác theo yêu cầu của nhà trường. Các môn này (động vật, thực vật, khoáng vật) ông tự nghiên cứu trong sách chuyên ngành cao hơn nhiều so với chương trình trung học rồi lên lớp với những mẫu hiện vật tự sưu tầm.
Bên cạnh đó, ông cũng chơi tốt thể thao và truyền đạt kinh nghiệm luyện tập cho các học sinh như: đánh bóng bàn theo kiểu Barma (đương kim vô địch thế giới về bóng bàn, người Hungary), tập điền kinh theo phương pháp khoa học nhất, bơi sải (crawl)...
Từ 1942 đến 1945, ông đi làm công cho hãng Điện-Nước SIPEA, được cử phụ trách nghiên cứu. Ông đã thiết kế nhiều bộ phận cho các nhà máy điện, tái sinh dầu nhờn cho Quy Nhơn. Ông đã khước từ Huân chương Bắc đẩu do Pháp trao vì thiết kế đường dây điện cao thế cho nhà máy vôi Long Thọ. Ngoài ra ông vẫn tranh thủ học thêm và nghiên cứu cơ học lượng tử và phương trình vi phân.
Từ 1942 đến 1945, ông là Vụ trưởng Vụ nghiên cứu điện – nước Trung kì. Tháng 4/1943, ông tham gia đàm phán ở Đà Lạt.
Tháng 8/1945, ông cùng luật sư Phan Anh ra Hà Nội tham gia cách mạng. Từ tháng 9/1945 đến tháng 1/1946, ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh cử làm Tham nghị trưởng Bộ Ngoại giao trong chính phủ lâm thời, phụ trách giao thiệp với Mỹ và Anh.
Từ 11/1945 đến ngày Toàn quốc kháng chiến, ông vừa tham gia các công việc của Chính phủ, vừa giảng dạy Vật lý tại Trường Đại học Hà Nội. Từ 3/1946, ông được Quốc hội cử giữ chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng.
Tháng 6/1946, ông tham gia đoàn đàm phán ở Fontainebleau, được đồng chí Phạm Văn Đồng cử sang Thụy Sĩ dự kỉ niệm 200 năm Hội Khoa học Thụy Sĩ và tìm hiểu mua vũ khí. Những ngày toàn quốc kháng chiến, ông được giao nhiệm vụ đảm bảo vận chuyển cơ sở vật chất - kĩ thuật quân sự lên chiến khu.
Tháng 7/1947, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ 8/1947 đến 8/1948, ông là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, ủy viên Hội đồng Quốc phòng tối cao. Tháng 12/1947, ông là Ủy viên Quân sự ủy viên hội.
Từ 9/1948 đến 1961, ông là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng và kiêm nhiệm nhiều cương vị khác.
Năm 1954, ông tham gia đoàn đàm phán của chính phủ ở Genève và thay mặt Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký Hiệp định Genève.
Từ 1956 đến 1961, ông làm Hiệu trưởng Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội.
Từ 1957 đến 1959, ông nhận thêm nhiệm vụ nghiên cứu xây dựng tổ chức Khoa học Việt .
Từ 1965 đến 1976, ông được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp.
Ông còn là đại biểu Quốc hội liên tục từ khoá I đến khoá VI, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Bảo vệ hoà bình thế giới của Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt – Xô.
Với công lao cống hiến của mình, ông được Đảng, Quốc hội, Nhà nước ta tặng thưởng:
Huân chương Độc lập hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huân chương Chiến thắng hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhất, Huân chương Chiến công hạng Nhất, Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Ba, Huy chương Quân kì quyết thắng.
Do tuổi cao sức yếu, Giáo sư Tạ Quang Bửu qua đời ngày 21 tháng 8 năm 1986 tại Bệnh viện Hữu nghị Việt – Xô, thọ 76 tuổi.
Năm 1996, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh (đợt 1) về khoa học công nghệ với “Tập hợp các công trình giới thiệu khoa học kĩ thuật hiện đại (sau 1945), chỉ đạo các nhiệm vụ kĩ thuật quan trọng trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước”.
Ông là một trong những người tiên phong của Việt Nam dự trại Tráng sĩ của tổ chức Hướng đạo Việt Nam. Thi đỗ ông được cấp bằng trại trưởng và là đại diện huấn luyện cho toàn Đông Dương. Ông được bầu làm Huynh trưởng Hướng đạo sinh Trung Kỳ.
Giai đoạn 1945-1954: Hoạt động trong Chính phủ kháng chiến
Tháng 8 năm 1945, ông tham gia Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội. Từ tháng 9 năm 1945 đến tháng 1 năm 1946, ông đã đảm nhận chức vụ Tham nghị trưởng Bộ Ngoại giao trong Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, rồi Thứ trưởng Bộ Quốc phòng.
Năm 1946 ông tham gia đoàn đại biểu chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa dự Hội nghị trù bị Đà Lạt, rồi Hội nghị Fontainebleau (Pháp) đàm phán với Pháp và nhân đó sang Zurich dự lễ kỷ niệm 200 năm thành lập Hội các nhà khoa học tự nhiên Thụy Sĩ vào tháng 7 năm đó.
Tháng 7 năm 1947, ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Tháng 8, ông làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam, sau đó một năm trở lại cương vị Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Tạ Quang Bửu đã chỉ đạo và biên soạn cuốn sách "Bắn máy bay bằng súng trường tập trung" phổ biến rộng rãi khắp nơi và sau đó, khiến máy bay Pháp phải dè chừng trên vùng trời Việt Nam. Kinh nghiệm này cũng được áp dụng cho dân quân Việt Nam dùng súng trường bộ binh bắn máy bay trong Chiến tranh chống Mỹ.
Tháng 8 năm 1948 ông là ủy viên Hội đồng Quốc phòng Tối cao vừa được thành lập, sau đó còn làm Chánh văn phòng Quân ủy Trung ương.
Tuy kiêm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng khác nhau, ông vẫn dành thời gian truyền thụ kiến thức của mình cho các thế hệ học trò. Ngay trong những ngày Cách mạng mới thành công, ông vừa tham gia các công việc của chính phủ vừa giảng dạy môn vật lý tại Đại học Hà Nội.
Năm 1954, ông tham gia đoàn đại biểu chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa dự Hội nghị Geneva về Việt Nam trên cương vị Thứ trưởng Bộ Quốc phòng và là người đại diện cho Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam ký văn bản Hiệp nghị đình chỉ chiến sự tại Việt Nam và Lào, thường được biết đến dưới cái tên Hiệp định Genève về Việt Nam.
Sau 1954: Tiếp tục hoạt động giáo dục và nghiên cứu
Ngay sau khi miền Bắc hòa bình, ông chuyển sang công tác lĩnh vực khoa học giáo dục, được cử làm Hiệu trưởng Đại học Bách khoa Hà Nội (1956-1961) đồng thời là Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học Nhà nước (1958 - 1965) kiêm Tổng Thư ký. Là lãnh đạo Uỷ ban Khoa học Nhà nước, ông trực tiếp làm trưởng ban Sinh vật - Địa học. Các bài giảng của ông về sinh học hiện đại có các giáo sư đầu ngành đến dự. Ông cũng tham gia sáng lập Hội Vật lý Việt Nam vào năm 1966.
Ông là Bộ trưởng đầu tiên của Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp (1965-1976). Bộ trưởng Tạ Quang Bửu đã đề xuất cải tiến nội dung giảng dạy những điều "cơ bản nhất, hiện đại nhất và sát hợp với điều kiện Việt Nam nhất". Theo sự chỉ đạo của ông, hệ thống các ban thư ký các bộ môn và các ngành đào tạo được thành lập để cải tiến chương trình đào tạo đồng thời các cán bộ có trình độ cao và kinh nghiệm giảng dạy cũng được tập hợp để biên soạn các giáo trình... Những năm đầu của thập niên 1970, ông đã tổ chức một loạt các cuộc hội thảo về phương pháp giảng dạy đại học. Chủ trương mở rộng quy mô đào tạo bằng việc lập nhiều trường chuyên ngành đã được phối hợp chặt chẽ với chính sách tuyển chọn mỗi năm hàng trăm sinh viên, cán bộ ưu tú để gửi đi đào tạo tại các nước xã hội chủ nghĩa.
Năm 1966, ông đã đề xuất với Chính phủ cho thành lập Phân hiệu II Đại học Bách khoa (nay là Học viện Kỹ thuật Quân sự) với quy chế riêng, được Bộ Đại học Trung học chuyên nghiệp và Bộ Quốc phòng trực tiếp chỉ đạo về nội dung, chương trình.
Ngoài công tác giáo dục, ông vẫn tham gia hoạt động trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật quân sự. Mùa hè năm 1972, Tổng thống Mỹ Richard Nixon ra lệnh thả thủy lôi trên sông biển và phong toả cảng Hải Phòng. Ông đã trực tiếp chỉ đạo một tổ nghiên cứu thiết kế, chế tạo khí tài phá thủy lôi (mật danh GK1) để chống lại thủy lôi chiến lược MK 52 của Mỹ, khí tài phá bom từ trường (mật danh GK2) do Tiến sĩ Vũ Đình Cự làm tổ trưởng.
Khi giặc Mỹ dùng bom TN (từ trường) nổ chậm phong toả các tuyến vận tải ở khu IV, đường Trường Sơn, Giáo sư Tạ Quang Bửu đã cùng các nhà khoa học Trường Đại học Kỹ thuật Quân sự tìm ra nhiều cách phá nổ vô hiệu hoá bom TN để thông tuyến cho người, xe ra mặt trận.
Đêm 14 tháng 8 năm 1986, ông đột ngột ngưng làm việc do tai biến máu não và qua đời ngày 21 tháng 8 năm 1986, thọ 76 tuổi. An táng tại Nghĩa trang Mai Dịch, Hà Nội
Vợ ông là bà Hoàng Kim Oanh, con gái cụ Hoàng Đạo Thúy, kết hôn năm 1942 và có 6 người con. Con trai ông là Thiếu tướng Tạ Quang Chính.
Tặng thưởng
Ông đã được Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam tặng thưởng nhiều huân chương:
Huân chương độc lập hạng Nhất truy thăng Huân chương Hồ Chí Minh.
Huân chương Kháng chiến hạng Nhất.
Huân chương Chiến thắng hạng Nhất.
Huân chương Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước hạng Nhất.
Huân chương Chiến công hạng Nhất.
Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Ba.
Năm 1996, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I về khoa học công nghệ với "Tập hợp các công trình giới thiệu khoa học kĩ thuật hiện đại (sau năm 1945), chỉ đạo các nhiệm vụ quan trọng trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước". Các công trình của ông được đánh giá là đã định hướng phát triển một số ngành khoa học cơ bản; chỉ đạo kỹ thuật việc rà phá bom mìn phong toả Vịnh Bắc Bộ, Hải Phòng và chỉ đạo những nhiệm vụ kỹ thuật quan trọng khác trong cuộc chiến chống Mỹ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Ghi nhận đóng góp
Ông được đặt tên cho các đường phố ở quận Hai Bà Trưng - Hà Nội, quận 8 - thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Đồng Hới (phường Nam Lý), thành phố Huế, thành phố Đà Nẵng, thành phố Hạ Long, thư viện lớn nhất của Đại học Bách khoa Hà Nội, Hội trường Đại học Thăng Long, giải thưởng Tạ Quang Bửu cho các nhà khoa học ở Việt Nam.
Tác phẩm
Thống kê thường thức.
Vật lý cương yếu.
Nguyên tử – hạt nhân – vũ trụ tuyến.
Sống.
Đại số các toán tử (1961).
Các mức điều chỉnh trong lý thuyết hệ thống (1981).
Viết thêm về các mức điều chỉnh trong lý thuyết hệ thống (1985).
Hạt cơ bản (1987).
Tham khảo
Nguyễn Văn Đạo (chủ biên), "Giáo sư Tạ Quang Bửu - Con người và sự nghiệp", Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2000.
Hội Khoa học Lich sử Việt Nam (chủ biên), "Tạ Quang Bửu - Nhà trí thức yêu nước và cách mạng".
Phạm Viết Hoàng, "Thầy Bửu dạy bắn súng bắc cầu...", trong cuốn "Tài trí Việt Nam", Nhà xuất bản Thanh niên và Tạp chí Thế giới mới, Hà Nội, 1997.
Nguyễn Văn Đạo (2006), "Ba nhà khoa học kiệt xuất (Trần Đại Nghĩa, Tạ Quang Bửu, Lê Văn Thiêm)", Nhà xuất bản Lao động, 2006.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Tạ Quang Bửu trên trang mạng diễn đàn toán học
Tạ Quang Bửu trên trang mạng của Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Tạ Quang Bửu
Thế hệ sáng lập Hướng đạo Việt Nam
Nhà toán học Việt Nam
Nhà vật lý Việt Nam
Kỹ sư Việt Nam
Nhà khoa học kỹ thuật Việt Nam
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam
Bộ trưởng Bộ Giáo dục Việt Nam
Người nhận giải thưởng Hồ Chí Minh
Giáo sư Việt Nam
Người Nghệ An
Học sinh trường Bưởi
Học sinh Quốc học Huế
Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I
Huân chương Độc lập
Huân chương Kháng chiến
Huân chương Chiến công
Người họ Tạ tại Việt Nam
Hiệu trưởng Đại học Bách khoa Hà Nội
|
22581
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Adam%20Smith
|
Adam Smith
|
Adam Smith, (5 tháng 6 năm 1723; 17 tháng 7 năm 1790) là một nhà kinh tế học người Scotland; nhà triết học cũng như là một nhà triết học đạo đức, một người mở đường của kinh tế chính trị, và là một nhân vật then chốt trong thời kỳ Khai sáng Schottish, cũng được biết như là Cha đẻ của Kinh tế học hoặc Cha đẻ của Chủ nghĩa tư bản. Smith đã viết hai tác phẩm cổ điển, The Theory of Moral Sentiments (Lý thuyết về Tình cảm Đạo đức) (1759) và Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of Nations Tìm hiểu về bản chất và nguồn gốc của cải của các quốc gia (1776). Cuốn Tìm hiểu về bản chất và nguồn gốc của cải của các quốc gia về sau thường được gọi tắt là Sự Giàu có của các Quốc gia - dịch ra tiếng Việt là Của cải của các dân tộc. Được xem như kiệt tác của ông và tác phẩm hiện đại đầu tiên của kinh tế học. Trong tác phẩm, Adam Smith đã giới thiệu lý thuyết lợi thế tuyệt đối (absolute advantage) của ông.
Smith đã nghiên cứu triết học xã hội tại Đại học Glasgow và tại Cao đẳng Balliol, Oxford, nơi ông là một trong những sinh viên hưởng lợi từ học bổng thành lập bởi bạn học người Scot là John Snell. Sau khi tốt nghiệp, ông đã thực hiện một loạt các buổi thuyết trình công cộng thành công tại Đại học Edinburgh, dẫn tới sự cộng tác của ông với David Hume trong suốt thời kỳ Khai sáng Scottish. Smith đã đạt được chức giáo sư tại Glasgow, dạy triết học đạo đức và trong thời gian này, đã viết và xuất bản Lý thuyết về Tình cảm Đạo đức. Trong cuối cuộc đời, ông đã làm gia sư, điều này đã cho phép ông đi khắp châu Âu, nơi ông đã gặp nhiều nhà tri thức hàng đầu.
Smith đã đặt nền tảng cho lý thuyết kinh tế thị trường tự do cổ điển. Sự Giàu có của các Quốc gia là tiền thân của môn học học thuật hiện đại của kinh tế học. Trong tác phẩm này và các tác phẩm khác, ông đã phát triển khái niệm của phân công lao động và trình bày chi tiết tại sao lợi ích cá nhân hợp lý và cạnh tranh rất có thể dẫn tới thịnh vượng kinh tế. Smith đã gây tranh cãi trong thời ông và cách tiếp cận chung của ông và phong cách viết thường bị châm biếm bởi các nhà văn, như Horace Walpole.
Tiểu sử
Những năm đầu đời
Smith được sinh ra tại thị trấn Kirkcaldy, thành phố Fife, Scotland. Cha của ông, cũng tên Adam Smith, một thành viên của hội luật sư Scotland (The Society of Writers to Her Majesty’s Signet), luật sư và công tố viên và cũng là một nhân viên kiểm soát thuế quan ở Kirkcaldy. Mẹ của Smith là Margaret Douglas, con gái của một chủ đất tên Robert Douglas vùng Strathendry, cũng ở trong Fife; bà đã cưới cha của Smith năm 1720. Hai tháng trước khi Smith được sinh, cha ông đã chết, để lại người vợ góa phụ. Ngày rửa tội của Smith ở nhà thờ Scotland tại Kirkcaldy vào ngày 5 tháng Sáu 1723 và ngày đó cũng được xem như ngày sinh của ông, do không ai biết chính xác ngày sinh của ông
Mặc dù một vài sự kiện những năm đầu đời của Smith đã được biết, nhà báo Scotlan John Rae, người viết tiểu sử của Smith, đã ghi lại rằng Smith đã bị bắt cóc bởi người Ru-ma-ni lúc lên ba tuổi và được giải thoát khi những người khác đã giải cứu ông. Smith rất gần gũi với mẹ ông, người có thể đã khuyến khích ông theo đuổi hoài bão học thuật của ông. Ông đã gia nhập trường Burgh tại Kirkcaldy, được Rae mô tả như "một trong những trường trung học tốt nhất của Scotland tại thời điểm đó."_từ năm 1729 tới 1737, ông đã học tiếng Latinh, toán học, lịch sử và văn học.
Giáo dục chính quy
Smith đã nhập học Đại học Glasgow khi ông 14 tuổi và đã nghiên cứu triết học đạo đức chịu ảnh hưởng của Francis Hutcheson. Tại đây, ông đã phát triển niềm đam mê của ông về tự do, lý trí, và tự do ngôn luận. Năm 1740, ông là sinh viên tốt nghiệp được nhận học bổng và giới thiệu để làm các nghiên cứu tại Đại học Balliol, Oxford, với học bổng Snell Exhibition.
Smith đã coi việc giảng dạy tại Glasgow là trội hơn tại Oxford, nơi ông đã nhận thấy không khí tri thức ngột ngạt. Trong Quyển V, chương II của Của cải của các quốc gia, ông đã viết. Giảng dạy tại đại học này có giáo sư Francis Hutcheson nổi danh về ngành triết học luân lý, là người đầu tiên dạy sinh viên bằng tiếng Anh chứ không phải tiếng Latin. Các quan điểm về kinh tế và triết học của Hutcheson đã ảnh hưởng rất mạnh tới Adam Smith sau này. Trong một bức thư viết 15 năm sau, Adam Smith đã nói rằng "không bao giờ có thể quên được tiến sĩ Hutcheson". Tốt nghiệp năm 1740, Adam Smith nhận được một học bổng, theo học trường Balliol thuộc Đại học Oxford. Trong thời gian sáu năm tại trường đại học này, các sinh viên học tập cách tự học để quán triệt các tư tưởng triết học cổ điển và đương thời. Họ phải đọc các tác phẩm của các tác giả Hy Lạp và La Mã, cùng với các công trình của các giáo sư đại học thời đó.
Khi trở lại Glasgow, Adam Smith đi tìm việc làm. Nhờ các quan hệ của gia đình bên mẹ, nhờ sự trợ giúp của nhà luật học và triết học Lord Henry Kames, Adam Smith được nhận làm giảng sư tại Đại học Edinburgh với nhiệm vụ phụ trách các buổi thuyết trình công (public lecture), đây là một hình thức giáo dục với tinh thần "cải tiến" được các nhà trí thức thời đó ưa chuộng. Các bài thuyết trình công này gồm nhiều đề tài từ môn tu từ học tới ngành kinh tế chính trị. Trong bài điếu văn viết về Adam Smith nhiều năm về sau, Tạp chí Gentleman's Magazine đã bình luận rằng "cách phát âm và thể văn của ông Adam Smith đã hơn hẳn những thứ đang dùng tại xứ Scotland".
Trình độ hiểu biết của Adam Smith đã khiến cho ông được mời làm giáo sư Lý luận (professor of logic) tại Đại học Glasgow vào năm 1751 ở tuổi 27, rồi năm sau, trở thành giáo sư môn triết học luân lý, một môn học bao gồm các ngành thần học tự nhiên, đạo đức học, luật học và kinh tế chính trị học.
Thời gian đảm nhận chức vụ giáo sư tại Đại học Glasgow là "thời kỳ sung sướng nhất và danh dự nhất của đời tôi", theo như lời Adam Smith mô tả về sau. Mỗi ngày trong tuần lễ, ông Adam thuyết giảng từ 7:30 tới 8:30 sáng trước lớp học tối đa 90 sinh viên tuổi từ 14 tới 16, còn đợt giảng bài từ 11 giờ tới 12 giờ trưa được thực hiện 3 lần một tuần lễ. Vào buổi chiều, ông lo công việc của trường đại học khiến cho vào năm 1758, Adam Smith được bầu làm trưởng khoa. Các bạn và người quen của Adam Smith trong thời gian này gồm một số nhà quý tộc, nhiều người nắm giữ các chức vụ cao cấp của chính quyền. Các nhà trí thức và khoa học gồm có Joseph Black, một người tiền phong về ngành hóa học, James Watt là nhà phát minh ra máy hơi nước, Robert Foulis là nhà sáng lập ra Viện hàn lâm Kiểu mẫu Anh quốc (The British Academy of Design), David Hume là nhà triết học danh tiếng. Adam Smith còn quen thân với Andrew Cochran, một nhà buôn, nguyên viện phó của Đại học Glasgow, người sáng lập ra Câu lạc bộ Kinh tế chính trị (Political Economy Club). Nhờ đó, Adam Smith thu thập được nhiều hiểu biết của thế giới thương mại để rồi về sau viết ra tác phẩm Tìm hiểu về bản chất và nguồn gốc của cải của các quốc gia.
Vào năm 1767, ông được bầu vào Hàn lâm viện Hoàng gia (The Royal Society) và nhờ vậy, làm quen với các nhân tài như Edmund Burke, Samuel Johnson, Edward Gibbson và có lẽ cả với Benjamin Franklin. Tới cuối năm 1767, Adam Smith trở lại Kirkcaldy và trong vòng 6 năm tại đây, ông đã sửa chữa tác phẩm Tìm hiểu về bản chất và nguồn gốc của cải của các quốc gia rồi sau ba năm sống nơi thành phố London, tác phẩm kể trên mới được hoàn thành và xuất bản vào năm 1776.
Adam Smith mất ngày 17 tháng 7 năm 1790 tại Edinburgh, Scotland; cả đời không kết hôn và cũng không có con.
Triết gia đạo đức
Tác phẩm đầu tiên của Adam Smith là cuốn "Lý thuyết về các tình cảm luân lý" (The Theory of Moral Sentiments) xuất bản vào năm 1759, được viết ra với thể văn hào nhoáng, chải chuốt, chứa đựng nhiều giai thoại, mang tính chất phân tích và tác phẩm này đã tạo nên thứ ấn tượng sâu xa.
Adam Smith đã mô tả qua tác phẩm các nguyên tắc về "bản chất con người" và đặt vấn đề về nguồn gốc của khả năng tạo ra các phán xét luân lý, kể cả cách phán xét các hành vi của chính mình trong việc tư lợi và tự bảo tồn. Adam Smith đã cho rằng trong mỗi người chúng ta có một "con người bên trong" (an inner man) đóng vai trò một người khách quan không thiên vị, thường chấp nhận hay lên án các hành động của chính ta và của các người khác. Qua tác phẩm Các tình cảm luân lý, Adam Smith đã có nhận xét quan trọng như sau mà sau này ông lặp lại trong tác phẩm Tìm hiểu về bản chất và nguồn gốc của cải của các quốc gia: "con người tự tìm kiếm mình thường bị dẫn dắt bởi một bàn tay vô hình... mà không hay biết, không do chủ đích, để làm thăng tiến các lợi ích của xã hội. Các cá nhân được xã hội hóa để trở nên các thành viên ràng buộc bởi giai cấp và theo khuynh hướng thị trường nhờ đó hệ thống kinh tế vận chuyển".
Tác phẩm Lý thuyết về các tình cảm luân lý (*) đã sớm mang lại danh tiếng cho Adam Smith. Nhiều người từ xa đã tới nghe ông diễn thuyết kể cả hai sinh viên từ Moskva. James Boswell cũng xác nhận lý thuyết của Adam Smith là quan trọng và Charles Townshend đã phải chú ý đến lý thuyết này. Ông Townshend là một nhà trí thức kiêm kinh tế học tài tử, một chính khách nhiều ảnh hưởng và về sau là Bộ trưởng Thương mại (Chancellor of the Exchequer) tức là nhân vật chịu trách nhiệm về các chính sách thuế vụ của nước Anh mà hậu quả là cuộc Cách mạng Hoa Kỳ. Ông Townshend mới lập gia đình và đang tìm kiếm một gia sư cho đứa con riêng của bà vợ, tức Hầu tước Buccleuch trẻ. Do sự thán phục tác phẩm kể trên và cũng do lời khuyên của David Hume, Charles Townshend đề nghị với Adam Smith một số thù lao khó từ chối: lương 500 bảng Anh một năm cộng với phí tổn du lịch và một số tiền hưu tương đương, tất cả lớn gấp hai lợi tức của chức vụ giáo sư trong khi thứ lợi tức này tùy thuộc vào học phí thu được của sinh viên.
Nhà kinh tế học
Adam Smith không phải là người đầu tiên nghiên cứu lý luận kinh tế, nhiều tư tưởng nổi tiếng cũng không phải do một mình ông tìm ra. Nhưng ông là người đầu tiên hoàn chỉnh, hệ thống hóa lý luận, đồng thời đặt nền móng vững chắc cho sự phát triển của kinh tế học. Tác phẩm Tìm hiểu về bản chất và nguồn gốc của cải của các quốc gia là điểm khởi đầu của nghiên cứu chính trị kinh tế học hiện đại. Đây là tác phẩm quan trọng của kinh tế học cổ điển và chủ nghĩa tự do. Tác phẩm này có ảnh hưởng lớn đến nhiều nhà kinh tế học, nhà tư tưởng và các chính trị gia từ lúc nó được xuất bản đến nay.
Tư tưởng kinh tế của Adam Smith chịu ảnh hưởng lớn của chủ nghĩa trọng thương và chủ nghĩa trọng nông. Nhưng ông vượt lên và phê phán họ.
Giữa thế kỷ 18, giới quý tộc địa chủ đã nắm giữ chính quyền, nhưng hai giai cấp mới đi lên là giới thương nhân và giới kỹ nghệ gia đã đòi hỏi và nhận được các đặc quyền. Họ chủ trương chỉ xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu bằng thuế quan cao, không cho tiền tệ ra khỏi xứ, tiền công lao động phải được duy trì ở mức thấp và giờ lao động phải dài,... Tất cả các áp lực này đã được biến thành các đạo luật do Nghị viện Anh đặt ra. Nước Pháp và một số quốc gia lớn tại châu Âu cũng theo hệ thống kinh tế này, được gọi là chủ nghĩa trọng thương. Các nhà "trọng thương" chủ trương rằng tài sản và quyền lực của quốc gia được đo lường bằng mức độ tích lũy vàng và bạc. Muốn có hai kim loại quý này, quốc gia phải đi chiếm đoạt các thuộc địa. Họ không coi trọng mức sống của người dân hay các thước đo lường kinh tế khác. Họ tin tưởng rằng tài nguyên của thế giới thì có giới hạn, nên một quốc gia giàu lên thì các quốc gia khác phải nghèo khó đi. Các nhà trọng thương cũng tin rằng quốc gia phải xuất khẩu nhiều sản phẩm chế tạo, nhập khẩu nguyên liệu rẻ từ các thuộc địa và đây là các thị trường tiêu thụ. Adam Smith cho rằng các đường lối kinh tế của chủ nghĩa trọng thương là sai lầm và có hại.
Vào năm 1763 Adam Smith từ chức khỏi Đại học Glasgow rồi cùng vị Hầu tước Buccleuch trẻ sang Pháp. Họ cư ngụ phần lớn thời gian tại Toulouse và trong hoàn cảnh buồn tẻ này, Adam Smith bắt đầu viết tác phẩm "Tài sản của các quốc gia". Sau 18 tháng rảnh rỗi là hai tháng sống tại Genève và Adam Smith đã được gặp Voltaire là nhân vật mà ông kính trọng. Sau đó Adam Smith đi tới thành phố Paris. Vào thời gian này, David Hume là đại sứ Anh tại nước Pháp. Adam Smith được giới thiệu với các câu lạc bộ văn học danh tiếng của phong trào Khai sáng Pháp (French Enlightenment) và nhờ vậy ông làm quen với nhóm các nhà lý thuyết và cải cách xã hội, được gọi là các nhà kinh tế (les économistes), đứng đầu nhóm là Francois Quesnay. Đây là phong trào tìm kiếm phương pháp canh tân nền nông nghiệp của nước Pháp bằng đường lối cải cách hệ thống thuế (chủ nghĩa trọng nông) và Quesnay đã phân tích lý thuyết về công việc tiêu dùng đã được vận chuyển ra sao trong chu kỳ kinh tế để sinh ra tài sản và sự tăng trưởng kinh tế. Adam Smith đã không đồng ý với Quesnay về niềm tin rằng chỉ có các nông dân lao động trực tiếp với thiên nhiên hay đất đai mới thực sự làm ra tài sản, thế nhưng ảnh hưởng của ông Quesnay đối với Adam Smith rất lớn lao, nhất là ông đã tiếp thu tư tưởng về tự do kinh doanh của chủ nghĩa trọng nông.
Sau rất nhiều lần duyệt xét, có thể sau lần thảo luận với Benjamin Franklin, Adam Smith mới đưa bản thảo tác phẩm Tìm hiểu về bản chất và nguồn gốc của cải của các quốc gia cho nhà in rồi vào ngày 9 tháng 3 năm 1776, cuốn sách này được xuất bản.
Lý thuyết về kinh tế của Adam Smith rất phức tạp, khó hiểu đối với người đọc ngay cả 200 năm về sau. Trong cuốn sách Lịch sử của nền văn minh, Henry Thomas Buckle đã nhận định rằng Tài sản của các quốc gia có lẽ là tác phẩm quan trọng nhất đã từng được viết ra nếu xét về tư tưởng căn bản chứa đựng hay về các ảnh hưởng thực tế.
Adam Smith hiện diện giữa hai thời đại lịch sử và ông đã biện hộ cho nền kinh tế tự do. Trong khi cuộc cách mạng công nghiệp đang tiến hành, các chính trị gia người Anh vì nhận thức được giá trị của các lý thuyết của Adam Smith, đã bãi bỏ các hàng rào thuế quan và đặc quyền mà các nhà kinh tế học theo trường phái trọng thương ủng hộ. Nhờ đó, trong thế kỷ 19, nước Anh phát triển trở thành quốc gia giàu có nhất thế giới. Các tư tưởng kinh tế của Adam Smith cũng ảnh hưởng tới các quốc gia mậu dịch khác và Adam Smith xứng đáng được gọi là "Người cha của nền kinh tế mới".
Những tác phẩm chính của Adam Smith
"Lectures on Rhetoric and Belles Lettres," 1748.
"The Theory of Moral Sentiments," 1759. (copies (1), (2), (3)) *
"Lectures on Rhetoric and Belles Lettres" (1762-1763; in 1958)
"Lectures on Jurisprudence," 1766.
"An Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of Nations," 1776. (Copy (1), (2), (3), (4), (5), French transl. - Vol. 1, Vol. 2)
"Account of the Life and Writings of David Hume", 1777.
"Thoughts on the State of the Contest with America", 1778.
"Essays on Philosophical Subjects", 1795 - gồm
"The Principles which Lead and Direct Philosophical Enquiries illustrated by the History of Astronomy"
The Principles which Lead and Direct Philosophical Enquiries illustrated by the History of the Ancient Physics"
The Principles which Lead and Direct Philosophical Enquiries illustrated by the History of the Ancient Logic and Metaphysics"
"Of the External Senses"
"Of the Nature of that Imitation which takes place in what are called the Imitative Arts"
"Of the Affinity between certain English and Italian Verses"
"Review of Johnson's Dictionary", 1755, Edinburgh Review
"Letter to the Authors", 1756, Edinburgh Review
"Preface and Dedication to William Hamilton's Poems on Several Occasions", 1748, 1758
"Account of the Life and Writings of Adam Smith LL.D." by Dugald Stewart, 1793, Transactions of the Royal Society of Edinburgh
" invisible hand, ". 1776
Chú thích
Nhà kinh tế học Scotland
Triết gia thời kỳ Khai sáng
Bài cơ bản dài trung bình
Mất năm 1790
Sinh năm 1723
Triết gia thế kỷ 18
Hội viên Hội Hoàng gia
Nhà triết học Scotland
|
22600
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Himno%20Nacional%20Mexicano
|
Himno Nacional Mexicano
|
"Himno Nacional Mexicano" (viết bằng tiếng Tây Ban Nha) là tác phẩm âm nhạc đã được chọn làm quốc ca cho México vào năm 1943. Lời của bài quốc ca nói về tính ác liệt của cuộc chiến bảo vệ tổ quốc và cơ ngợi những chiến thắng được viết bởi nhà thơ Francisco González Bocanegra vào năm 1853, trong khi ông bị hôn thê nhốt trong phòng. Năm 1854, Jaime Nunó biên soạn phần nhạc cho bài thơ của González. Bài quốc ca gồm 10 đoạn và 1 điệp khúc, được dùng lần đầu tiên ngày 16 tháng 9 năm 1854. Từ 1854 đến khi được sử dụng chính thức, lời nhạc đã qua vài lần sửa đổi do những biến động chính trị ở Mexico. Bài quốc ca còn có một tên không chính thức là "Mexicanos, al grito de guerra" (trong tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là "Những người Mexico đối mặt với chiến tranh"), đó chính là câu đầu tiên của phần điệp khúc.
Việc biên soạn
Lời nhạc
Ngày 12 tháng 11 năm 1853 Tổng thống Mexico lúc bấy giờ, Antonio López de Santa Anna, đã mở cuộc thi viết một bài thơ nói về Mexico. Cuộc thi sẽ trao giải cho tác phẩm diễn đạt những tư tưởng yêu nước một cách hùng hồn nhất. Trong khi đó Francisco González Bocanegra là một nhà thơ tài năng nhưng hoàn toàn không có hứng thú với cuộc thi. Ông cho rằng viết thơ tình cần những kĩ năng khác với việc viết lời cho một bài quốc ca. Hôn thê của ông Guadalupe González del Pino (hay còn gọi là Pili), một người có lòng tin sâu đậm vào tài năng của ông, không hài lòng về việc ông không tham gia cuộc thi mặc dù bà và bạn bè của ông đã dùng mọi cách để thuyết phục ông. Cuối cùng, bà buộc phải ép ông tham gia. Bà đã dụ ông vào một phòng ngủ kín ở nhà cha mẹ mình, nhốt ông trong phòng và không cho ông ra trừ phi ông chịu viết một tác phẩm để tham dự cuộc thi. Trong căn phòng bà đã bố trí sẵn một vài hình ảnh minh họa những sự kiện đã diễn ra trong lịch sử Mexico nhằm giúp ông làm việc. Sau 4 giờ miệt mài với nhiều cảm hứng (cộng thêm phần bị ép buộc), Francisco đã được "trả tự do" sau khi chuyền 10 đoạn của bài thơ qua dưới khe cửa. Sau khi được sự đồng ý của hôn thê và cha mẹ, ông đã gửi tác phẩm của mình đi thi và đạt được hiến thắng tuyệt đối. González được tuyên bố là người chiến thắng trong Bản tin chính thức của Liên bang (Diario Oficial de la Federación) ngày 3 tháng 2 năm 1854.
Âm nhạc
Trong cùng khoảng thời gian với lời nhạc, một cuộc thi sáng tác nhạc cũng diễn ra. Người chiến thắng là Juan Bottesini, nhưng tác phẩm của ông không được ưa chuộng vì không đạt tiêu chuẩn mỹ học. Do đó phải có một cuộc thi thứ hai để tìm nhạc cho lời. Kết quả của cuộc thi thức hai: Bản nhạc của Jaime Nunó được chọn. Ông là nhóm trưởng trong một nhóm nhạc gốc Tây Ban Nha. Khi cuộc thi thứ hai diễn ra, Nunó đã là trưởng nhóm của vài ban nhạc quân đội. Ông đã gặp thủ tướng Mexico Santa Anna ở Cuba trước đó và đã được mời đến dẫn dắt những ban nhạc này. Khi đến Mexico để nhậm chức, thủ tưởng đang tổ chức cuộc thi sáng tác quốc ca cho Mexico. Trong số ít tác phẩm dự thi, tác phẩm của Nunó, tựa là "Chúa và tự do" (Dios y libertad) đã được chọn vào ngày 12 tháng 8 năm 1854. Bài quốc ca này chính thức được sử dụng vào ngày Quốc khánh (Grito de Dolores), 16 tháng 9 cùng năm. Dàn nhạc điều khiển bởi Juan Bottesini, giọng ca: soprano Claudia Florenti và tenor Lorenzo Salvi, trình diễn ở Nhà hát Santa Anna (Nhà hát quốc gia Mexico ngày nay).
Lời bài quốc ca
Từ năm 1943, phiên bản chính thức của bài hát bao gồm phần điệp khúc, khổ đầu tiên, thứ năm, thứ sáu và thứ mười. Những sửa đổi về lời ca được thực hiện theo lệnh của tổng thống Manuel Avila Camacho qua một sắc lệnh trong Diario Oficial de la Federación. Khi cử quốc ca ở những đại hội thể thao như Thế vận hội, chỉ có điệp khúc và khổ đầu tiên là được sử dụng. Khi bắt đầu và kết thúc phát sóng của truyền hình và truyền thanh, các đài phát sóng sử dụng một phiên bản khác gồm điệp khúc, khổ đầu tiên và khổ thứ mười.
Ghi chú: Từ "Patria" trong tiếng Tây Ban Nha là danh từ giống cái của "Tổ quốc".
Tình hình bản quyền
Có một giả thyuết cho rằng gia đình của Nunó đã bán quyền sử dụng phần nhạc của bài hát cho một công ty Đức có tên là Wagner House. Đúng ra Nunó đã phải trao cho quốc gia quyền sử dụng bản nhạc khi nhận giải, nhưng theo giả thuyết nói trên, quyền sử dụng đã được sang tay thêm một lần nữa. Người sở hữu là Nunó và hai người Mỹ Harry Henneman và Phil Hill.
Thực sự, điều này không hoàn toàn đúng. Nunó, Henneman và Hill quả thật đã đăng ký bản nhạc với BMI (BMI Work #568879), chọn công ty Edward B. Marks Music là nơi xuất bản cho bài quốc ca. Đây có thể là lý do làm một số người tin rằng bài nhạc đã có bản quyền ở nước Mỹ Tuy nhiên, luật tác quyền của Mỹ quy định rằng quốc ca Mexico là công cộng, không được bảo vệ bản quyền (public domain) trên nước Mỹ, vì cả lời nhạc và âm nhạc đều được xuất bản trước năm 1909. Hơn nữa, trong luật tác quyền Mexico, Điều 155 quy định chính quyền giữ quyền về tinh thần nhưng không sở hữu các biểu tượng quốc gia, trong đó có quốc ca, quốc huy và quốc kỳ.
Phiên bản trong ngôn ngữ khác
Mặc dù ngôn ngữ chính thức của Mexico là tiếng Tây Ban Nha, vẫn có nhiều người chỉ nói được những ngôn ngữ bản địa. Ngày 8 tháng 12 năm 2005 Điều 39 của luật về những biểu tượng quốc gia có hiệu lực, cho phép dịch lời nhạc sang những ngôn ngữ bản địa. Bản dịch chính thức được thực hiện bởi Viện ngôn ngữ quốc gia (Instituto Nacional de Lenguas Indígenas)..
Bài quốc ca được chính thức dịch sang 5 ngôn ngữ bản địa: Chinanteco, Hña Hñu, Mixteco, Maya, Nahuatl và Tenek. Những nhóm ngôn ngữ khác cũng đã trình bản dịch trong ngôn ngữ của mình lên nhưng chưa được chính quyền chấp thuận.
Ảnh hưởng văn hóa
Khi bài quốc ca được viết, Mexico vẫn đang phải gánh chịu hậu quả đau đớn sau khi bị đánh bại trong cuộc Chiến tranh Hoa Kỳ–Mexico vài năm trước và phần lớn lãnh thổ bắc Mexico đã bị sáp nhập vào Hoa Kỳ, và quốc gia này đã gần như rệu rã cả về chính trị và tinh thần. Theo sử gia Javier Garciadiego trong buổi kỷ niệm 150 năm ngày quốc ca Mexico ra đời năm 2004, bài quốc ca đã trở thành biểu tượng thống nhất trước những âm mưu phân rã xã hội Mexico. Bài quốc ca cũng được coi là một biểu tượng của "nguồn gốc Mexico" và đã từng có trường hợp người không hát quốc ca chính xác/quên lời phải đối mặt với những hình phạt nghiêm khắc từ Chính phủ Mexico hoặc chế giễu bởi công luận. Nó cũng được sử dụng để phát hiện những "người Mexico giả", chủ yếu là những người tới từ các nước nói tiếng Tây Ban Nha khác nhưng tự nhận mình là người Mexico.
Bản ghi nốt nhạc
Chú thích
Liên kết ngoài
[Tài liệu bằng tiếng Tây Ban Nha] trang của SEGOB nói về ngày kỷ niệm 150 năm bài quốc ca này ra đời
[Tài liệu bằng tiếng Tây Ban Nha] bản ghi MP3 của quốc ca
[Tài liệu bằng tiếng Tây Ban Nha] Ghi chú của tổng thống Mexico6 về bài quốc ca
Tóm tắt lịch sử quốc ca (danh cho trẻ em)
[Tài liệu bằng tiếng Tây Ban Nha] Lời quốc ca (định dạng PDF)
[Tài liệu bằng tiếng Tây Ban Nha] Điệp khúc được dịch ra 10 thứ tiếng
México
Quốc ca
Bài hát tiếng Tây Ban Nha
Âm nhạc México
Bài hát năm 1854
|
22606
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BA%AFc%20%C3%ADn
|
Hắc ín
|
Hắc ín, còn gọi là dầu hắc, là một chất lỏng nhớt màu đen thu được từ chưng cất có tính phá hủy cấu trúc của các chất hữu cơ. Phần lớn hắc ín thu được từ than như là sản phẩm phụ của việc sản xuất than cốc, nhưng nó cũng có thể được sản xuất từ dầu mỏ, than bùn hay gỗ. Các "mỏ hắc ín" tự nhiên (ví dụ mỏ hắc ín La Brea ở Los Angeles) trên thực tế là nhựa đường (asphalt), chứ không phải hắc ín, và nếu chính xác hơn phải gọi là mỏ nhựa đường. Trong tiếng Anh và tiếng Pháp, "hắc ín" mang nghĩa chủ yếu là các sản phẩm thu được từ than, nhưng ở Bắc Âu, nó chủ yếu là để gọi sản phẩm thu được từ chưng cất gỗ, được sử dụng để tạo mùi cho kẹo (cùng với một số hương liệu khác).
Hắc ín là thành phần quan trọng trong các loại đường được trải nhựa đầu tiên nhất. Nó cũng được sử dụng như là chất gắn cho các ván ốp trần và để xảm thân tàu thủy và thuyền. Nó cũng được sử dụng để chống thấm nước cho thuyền buồm, nhưng ngày nay các loại thuyền buồm được làm từ các chất tổng hợp có khả năng chống thấm nước tự nhiên đã làm mất đi nhu cầu xảm thuyền. Hắc ín, trong đó đáng ngạc nhiên là hắc ín từ dầu mỏ, là một trong các chất hiệu quả nhất được sử dụng trong điều trị bệnh vẩy nến. Hắc ín là một chất tẩy trùng và cũng được sử dụng với công dụng như vậy.
Hiện nay, hắc ín được chia thành 2 loại chính, bao gồm:
- Hắc ín Rangoon: Là loại dầu hắc ín tự nhiên thu được ở Rangoon - Myanmar bằng cách đào các giếng với độ sâu khoảng 18m xuống dưới lòng đất.
- Hắc ín gỗ: Là loại hắc in thu được từ quá trình sản xuất gỗ.
Hắc ín Rangoon là dầu hắc ín tự nhiên thu được ở Rangoon bằng cách đào các giếng sâu khoảng 18 m (60 ft) xuống dưới lòng đất. Các giếng này cung cấp khoảng 412.000 bơrin (khoảng 98 triệu lít) chất lỏng này mỗi năm.
Hắc ín từ gỗ vẫn còn được sử dụng để làm chất xảm các loại thuyền gỗ truyền thống và mái bằng ván ốp của các nhà thờ cũ. Hắc ín gỗ cũng có sẵn ở dạng hòa tan và gọi là nước hắc ín, nó được sử dụng để:
Tạo hương vị cho các loại kẹo (ví dụ Terva Leijona) và rượu (Terva Viina)
Dầu thơm cho các nhà tắm hơi
Chất chống gàu trong dầu gội đầu
Thành phần trong một số mỹ phẩm
Xem thêm
Bitum
Dầu hắc ín
Thực nghiệm nhỏ giọt dầu hắc ín
Nhựa đường
Nguồn
The Popular Encyclopedia or Conversation Lexicon’ Blackie & Son c 1890
Tham khảo
Dầu mỏ
Hóa dầu
Vật liệu xây dựng
Phụ gia thực phẩm
Polyme
Vật liệu
Hỗn hợp hóa học
|
22608
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ll%C3%ADvia
|
Llívia
|
Llívia () là một thành phố nằm ở vùng Cerdanya, tỉnh Girona, Tây Ban Nha, một phần lãnh thổ của Tây Ban Nha được bao bọc hoàn toàn bởi lãnh thổ Pháp (tỉnh Pyrénées-Orientales). Thành phố tự trị Llívia có dân số khoảng 1252 (2005).
Llivia là một phần bị chia tách khỏi Tây Ban Nha bởi một hành lang rộng chừng 2 km gồm hai thị trấn của Pháp là Ur và Bourg-Madame.
Tham khảo
Panareda Clopés, Josep Maria; Rios Calvet, Jaume; Rabella Vives, Josep Maria (1989). Guia de Catalunya, Barcelona:Caixa de Catalunya. ISBN 84-87135-01-3 (Spanish). ISBN 84-87135-02-1
Liên kết ngoài
Trang chủ của Llívia
Biên giới Pháp-Tây Ban Nha
Đô thị ở Girona
Khu dân cư ở tỉnh Girona
|
22613
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%E1%BB%B1a%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng
|
Nhựa đường
|
Nhựa đường (, ) là một chất lỏng hay chất bán rắn có độ nhớt cao và có màu đen, nó có mặt trong phần lớn các loại dầu thô và trong một số trầm tích tự nhiên. Thành phần chủ yếu của nhựa đường là bitum. Vẫn tồn tại một số bất đồng trong số các nhà hóa học liên quan đến cấu trúc của nhựa đường, tuy nhiên phổ biến nhất là nó được giả lập mô hình như là một chất keo.
Nhựa đường đôi khi bị nhầm lẫn với hắc ín do nó cũng là sản phẩm chứa bitum, nhưng hắc ín là loại vật liệu nhân tạo được sản xuất bằng phương pháp chưng cất phá hủy các chất hữu cơ. Tuy cùng là sản phẩm chứa bitum nhưng thông thường hàm lượng bitum trong hắc ín thấp hơn của nhựa đường. Hắc ín và nhựa đường có các thuộc tính cơ lý rất khác nhau.
Nhựa đường có thể được tách ra từ các thành phần khác của dầu thô (chẳng hạn naphtha, xăng và dầu điêzen) bằng quy trình chưng cất phân đoạn, thông thường dưới các điều kiện chân không. Việc chia tách tốt hơn nữa có thể đạt được bằng cách xử lý tiếp các phần nặng nhất của dầu mỏ trong các khối khử nhựa đường sử dụng prôpan hoặc butan trong pha siêu tới hạn để hòa tan các phân tử nhẹ hơn và sau đó được tách ra. Có thể xử lý tiếp bằng cách "thổi" sản phẩm: cụ thể là bằng cách cho nó phản ứng với oxy. Phương pháp này làm cho sản phẩm cứng và nhớt hơn.
Các trầm tích tự nhiên chứa nhựa đường bao gồm các hồ nhựa đường (chủ yếu khai thác từ hồ Trinidad ở Trinidad, hồ Bermudez ở Venezuela), gilsonit, biển Chết ở Israel và các loại cát hắc ín.
Nhựa đường là đủ cứng để vận chuyển theo các đống rời (nó chỉ mềm đi khi bị nóng quá) vì thế đôi khi nó được trộn lẫn với dầu điêzenl hay dầu lửa cho dễ vận chuyển. Vào lúc giao hàng, các chất nhẹ hơn này sẽ được tách ra khỏi hỗn hợp. Hỗn hợp này thông thường được gọi là bitum nguyên liệu (BFS).
Ứng dụng lớn nhất của nhựa đường là sản xuất bê tông atphan để rải đường, nó chiếm khoảng 80% toàn bộ lượng nhựa đường thương phẩm được tiêu thụ ở Hoa Kỳ. Việc gắn kết các ván ốp chiếm chủ yếu phần còn lại. Các ứng dụng khác còn có: làm thuốc xịt cho động vật, xử lý cột hàng rào và chống thấm nước cho công trình xây dựng.
Ở Trung Đông cổ đại các trầm tích tự nhiên chứa nhựa đường đã được sử dụng để làm vữa để gắn kết gạch và đá, xảm tàu và chống thấm nước. Từ để chỉ nhựa đường trong tiếng Ba Tư là mumiya, có lẽ là nguồn gốc cho từ "mummy" (xác ướp) trong tiếng Anh.
Nguồn gốc
Phần lớn lượng nhựa đường có nguồn gốc từ dầu mỏ. Tuy nhiên, một lượng lớn nhựa đường cũng tồn tại ở dạng tập trung trong tự nhiên. Các mỏ nhựa đường tự nhiên được hình thành từ tàn tích của các loài tảo siêu nhỏ cổ đại (tảo silic) và các sinh vật đã từng tồn tại. Quá trình hình thành diễn ra trong Kỷ Than đá, khi những cánh rừng đầm lầy khổng lồ bao phủ nhiều khu vực trên Trái đất. Lúc này, các sinh vật chết đi và bị chôn vùi dưới lớp bùn dưới đáy đại dương hoặc hồ nước. Dưới tác động của nhiệt độ (trên 50 °C) và áp suất khi bị chôn vùi sâu trong lòng đất, phần còn lại của sinh vật được chuyển hóa thành các vật chất như nhựa đường, kerogen hoặc dầu mỏ.
Các mỏ nhựa đường tự nhiên tồn tại dưới dạng các hồ nhựa đường như Pitch Lake ở Trinidad và Tobago, hồ Bermudez ở Venezuela. Ngoài ra, còn có các mạch nhựa đường tự nhiên xuất hiện ở La Brea Tar Pits và McKittrick Tar Pits tại California và ở Biển Chết.
Nhựa đường cũng xuất hiện trong các loại đá sa thạch không kết dính được gọi là "cát dầu" ở Alberta, Canada, và "cát hắc ín" tương tự ở Utah, Hoa Kỳ. Tỉnh Alberta của Canada sở hữu phần lớn trữ lượng dầu mỏ thế giới, tập trung trong ba mỏ khổng lồ với diện tích lên đến 142.000 km vuông (55.000 dặm vuông Anh), rộng lớn hơn cả nước Anh hay tiểu bang New York.
Miền Bắc Alberta, Canada sở hữu mỏ nhựa đường tự nhiên lớn nhất thế giới. Nằm trong Hệ tầng McMurray, mỏ Athabasca hình thành từ đầu kỷ Phấn trắng, với cấu tạo độc đáo gồm nhiều thấu kính cát chứa dầu, có hàm lượng lên đến 20%. Các nghiên cứu đồng vị cho thấy mỏ dầu này có niên đại khoảng 110 triệu năm.
Utah, Hoa Kỳ cũng sở hữu những mỏ dầu nặng hoặc nhựa đường với quy mô nhỏ hơn, điển hình là mỏ Tar Sand Triangle, nơi trữ lượng nhựa đường chiếm khoảng 6%.
Nhựa đường có thể xuất hiện trong các mạch nhiệt dịch. Lưu vực Uinta tại Utah, Hoa Kỳ là một ví dụ điển hình với sự hiện diện của mạng lưới các mạch trải rộng theo cả chiều ngang và chiều dọc. Nổi bật trong cấu tạo của các mạch này là Gilsonite - một loại hydrocarbon rắn.
Lịch sử
Thời kỳ đồ đá cũ
Nhựa đường được sử dụng từ rất sớm, ước tính khoảng 40.000 năm trước, vào thời kỳ đồ đá cũ. Vào thời điểm này, con người đã sử dụng nhựa đường để gắn kết các dụng cụ đá sơ khai với phần cán cầm.
Việc kiểm tra lại các hiện vật khai quật năm 1908 tại di chỉ Le Moustier (Pháp) xác định các công cụ đá thời kỳ Mousterian được gắn vào tay cầm làm từ hỗn hợp đất son và nhựa đường. Hỗn hợp này gồm 55% bột goethit và 45% nhựa đường dạng lỏng nấu chín, tạo thành chất dẻo để đúc cán cầm và cứng lại sau đó. Do các cuộc khai quật trước đây tại Le Moustier chưa xác định chính xác văn hóa khảo cổ và niên đại, nhưng phong cách đồ đá Mousterian cho thấy những công cụ này có liên quan đến người Neanderthals vào cuối thời kỳ Đồ đá cũ Giữa, khoảng từ 60.000 đến 35.000 năm trước. Đây là bằng chứng sớm nhất về việc sử dụng chất kết dính hỗn hợp ở châu Âu.
Thời cổ đại
Việc sử dụng nhựa đường tự nhiên để chống thấm và làm chất kết dính có từ ít nhất thiên niên kỷ thứ 5 trước Công nguyên. Tại Mehrgarh, thuộc nền văn minh Thung lũng Indus, người ta đã tìm thấy một chiếc giỏ lưu trữ lương thực được lót bằng nhựa đường. Đến thiên niên kỷ thứ 3 trước Công nguyên, nhựa đường tinh chế đã được sử dụng phổ biến trong khu vực.
Người Sumer ở vùng Cận Đông cổ đại đã sử dụng nhựa đường tự nhiên cho nhiều mục đích khác nhau. Nhà sử học Hy Lạp, Herodotus từng ghi nhận việc sử dụng nhựa đường nóng làm vữa xây dựng tường thành Babylon.
Theo ghi chép, đường hầm Euphrates dài 1 kilômét (0,62 dặm) nằm bên dưới sông Euphrates tại Babylon, được xây dựng vào thời Nữ hoàng Semiramis (khoảng năm 800 TCN) sử dụng gạch nung phủ nhựa đường làm chất chống thấm.
Tại Bắc Mỹ, các cuộc khai quật khảo cổ đã phát hiện ra việc sử dụng nhựa đường để gắn mũi tên đá vào trục gỗ. Nhựa đường rỉ ra từ bờ sông Athabasca và các con sông khác được người thổ dân Canada sử dụng để chống thấm cho những chiếc ca nô bằng vỏ cây bạch dương. Họ cũng đun nóng nhựa đường trong những chiếc chậu bẩn để xua đuổi muỗi vào mùa hè. Trước thời thuộc địa, các dân tộc bản địa ở miền nam California cũng sử dụng nhựa đường để chống thấm cho xuồng gỗ ván.
Kinh tế
Nhựa đường tuy chỉ chiếm khoảng 4 đến 5% (theo trọng lượng) trong hỗn hợp lát đường. Tuy nhiên, với vai trò là chất kết dính, nhựa đường lại là thành phần đắt đỏ nhất trong chi phí vật liệu xây đường.
Vào giai đoạn đầu ứng dụng nhựa đường cho việc lát đường hiện đại, các nhà máy lọc dầu thường cung cấp miễn phí loại vật liệu này. Tuy nhiên, ngày nay, nhựa đường đã trở thành một mặt hàng được giao dịch rộng rãi. Giá thành của nó tăng đáng kể vào đầu thế kỷ 21. Theo một báo cáo của chính phủ Mỹ:
"Năm 2002, giá nhựa đường chỉ xấp xỉ 160 USD/tấn. Đến cuối năm 2006, giá đã tăng gấp đôi, lên khoảng 320 USD/tấn. Tiếp theo, vào năm 2012, giá lại gần như tăng gấp đôi một lần nữa, đạt mức xấp xỉ 610 USD/tấn."
Theo báo cáo, một đoạn đường cao tốc "trung bình" dài 1 dặm (1,6 km) với bốn làn xe sẽ sử dụng khoảng 300 tấn nhựa đường. Năm 2002, chi phí cho lượng nhựa đường này ước tính khoảng $48,000. Đến năm 2006, chi phí tăng lên $96,000 và đến năm 2012 lên tới $183,000. Như vậy, chỉ trong 10 năm, chi phí cho nhựa đường tăng khoảng $135,000 cho mỗi dặm đường cao tốc.
Tái chế
Nhựa đường là vật liệu được ứng dụng rộng rãi trong ngành xây dựng và thường được tái chế để tiết kiệm tài nguyên và bảo vệ môi trường. Hai loại vật liệu tái chế phổ biến nhất có chứa nhựa đường là mặt đường nhựa tái chế (RAP) và tấm lợp nhựa đường tái chế (RAS). Mặt đường nhựa tái chế (RAP) được tái sử dụng với tỷ lệ cao hơn bất kỳ vật liệu nào khác tại Hoa Kỳ do tính linh hoạt và hiệu quả. Loại vật liệu này thường chứa khoảng 5-6% chất kết dính nhựa đường, giúp đảm bảo độ bền và khả năng kết dính cho mặt đường.
Nhựa đường theo thời gian sẽ tự nhiên trở nên cứng hơn do các yếu tố như oxy hóa, bay hơi, rỉ nhựa và thay đổi cấu trúc. Do đó, để phục hồi các đặc tính vật lý và hóa học của nhựa đường tái chế, người ta thường kết hợp nó với nhựa đường nguyên chất, các chất làm mềm và/hoặc phụ gia trẻ hóa.
An toàn lao động
Nhựa đường có thể xâm nhập vào cơ thể con người trong môi trường làm việc. Con người có thể hít phải hơi nhựa đường hoặc tiếp xúc trực tiếp qua da. Viện An toàn và Sức khỏe Nghề nghiệp Quốc gia Hoa Kỳ (NIOSH) khuyến nghị giới hạn phơi nhiễm nhựa đường là 5 mg/m3 trong khoảng thời gian 15 phút.
Nhựa đường vốn dĩ là một vật liệu trơ. Do đó, để sử dụng cho việc sản xuất vật liệu lát đường, lợp mái và nhiều ứng dụng khác, người ta cần làm nóng hoặc pha loãng nhựa đường đến độ mềm dẻo nhất định. Cơ quan Nghiên cứu Ung thư Quốc tế (IARC) đã tiến hành đánh giá các nguy cơ sức khỏe tiềm ẩn liên quan đến nhựa đường. Qua đó, IARC xác định rằng các thông số ứng dụng, chủ yếu là nhiệt độ, ảnh hưởng trực tiếp đến mức độ phơi nhiễm trong công việc và nguy cơ gây ung thư của lượng nhựa đường thải ra môi trường. Nhiệt độ càng cao, nguy cơ phơi nhiễm với nhựa đường càng lớn. Điều này đã được chứng minh qua việc so sánh mức độ phơi nhiễm khi đun nóng nhựa đường ở nhiệt độ trên 199 °C (390 °F) và nhiệt độ thấp hơn, thường được sử dụng trong sản xuất và thi công hỗn hợp nhựa đường. Cơ quan Nghiên cứu Ung thư Quốc tế (IARC) đã phân loại khói nhựa đường lát đường là chất gây ung thư loại 2B. Điều này có nghĩa là hiện nay vẫn chưa có đủ bằng chứng để khẳng định khói nhựa đường gây ung thư ở người, nhưng cũng không thể loại trừ khả năng này.
Năm 2020, các nhà khoa học đã đưa ra báo cáo về vấn đề ô nhiễm không khí. Theo báo cáo này, nhựa đường hiện đang là một nguồn gây ô nhiễm đáng kể và thường bị bỏ qua tại các khu vực đô thị, đặc biệt là trong những giai đoạn thời tiết nắng nóng.
Shilajit là một chất tương tự nhựa đường được tìm thấy ở dãy Himalaya. Chất này đôi khi được sử dụng trong Y học Cổ truyền Ấn Độ (Ayurveda). Tuy nhiên, Shilajit thực tế không phải là hắc ín, nhựa cây hay nhựa đường.
Xem thêm
Bitum
Hắc ín
Chú thích
Liên kết ngoài
Vật liệu đen
Pavement Interactive - Asphalt
Asphalt Magazine
CSU Sacramento, The World Famous Asphalt Museum!
National Institute for Occupational Safety and Health - Asphalt Fumes
Dầu mỏ
Vật liệu xây dựng
Đường bộ
Chất cách điện
|
22615
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%ADn%20B%E1%BA%A1ch%20%C4%90%E1%BA%B1ng
|
Trận Bạch Đằng
|
Có ba trận Bạch Đằng trong lịch sử chống ngoại xâm của Việt Nam:
Trận Bạch Đằng năm 938, Ngô Quyền chống quân Nam Hán.
Trận Bạch Đằng năm 981, nhà Tiền Lê chống quân Tống.
Trận Bạch Đằng năm 1288, nhà Trần chống quân Nguyên.
Khác
"Trận Bạch Đằng giang trên sông Hiếu", QDNDVN chống quân Mỹ.
Trận đánh liên quan tới Việt Nam
|
22616
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A7n%20B%E1%BA%A1ch%20%C4%90%E1%BA%B1ng
|
Trần Bạch Đằng
|
Trần Bạch Đằng (15 tháng 7 năm 1926 — 16 tháng 4 năm 2007) là một nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà báo Việt Nam. Ông còn là một nhà chính trị lão thành của Việt Nam, nguyên Phó trưởng ban Dân vận Trung ương, nguyên Bí thư Thành Ủy Sài Gòn. Ông cũng là tác giả của quyển tiểu thuyết Ván bài lật ngửa viết về một nhân vật tình báo trong Chiến tranh Việt Nam: Đại tá Phạm Ngọc Thảo, với bút danh Nguyễn Trương Thiên Lý.
Tiểu sử
Ông tên thật là Trương Gia Triều, sinh ngày 15 tháng 7 năm 1926 tại xã Hòa Thuận, Giồng Riềng, tỉnh Rạch Giá (nay là tỉnh Kiên Giang). Ông là cháu nội nhà chí sĩ yêu nước Trương Gia Mô (còn gọi là cụ Nghè Mô). Ông là một trong những học sinh thời kỳ đầu của Trường Trung học Petrus Trương Vĩnh Ký (nay là Trường Trung học phổ thông chuyên Lê Hồng Phong, Thành phố Hồ Chí Minh).
Về sự nghiệp chính trị, ông tham gia cách mạng từ khi mới 17 tuổi. Năm 1946, ông đã được giao phụ trách tờ Chống xâm lăng của Thành ủy Sài Gòn. Năm 1951 làm tổng biên tập báo Nhân dân Miền Nam của Trung ương Cục. Trong suốt Chiến tranh Việt Nam, ông lần lượt đảm trách nhiều cương vị quan trọng như Bí thư Thành ủy Sài Gòn, phụ trách Ban tuyên huấn Trung ương Cục, Ủy viên Đoàn chủ tịch Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.
Năm 1976, ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Từ năm 1978, ông là Phó ban Ban Dân vận Trung ương. Năm 1981, ông công tác ở Ban Tuyên huấn Trung ương; năm 1982 là chuyên gia công tác tư tưởng văn hóa, viết báo, văn, nghiên cứu khoa học xã hội, giúp trung ương và Chính phủ Việt Nam một số vấn đề về chiến lược tư tưởng, kinh tế - xã hội.
Về sự nghiệp văn chương, do ảnh hưởng của gia đình, lòng ham thích văn chương hình thành trong ông rất sớm. Năm 1943, ông đã có những bài thơ đầu tay như: Trên bờ Đồng Nai, Dấu cũ, Chiếu rách mưa đêm, Dạy học lậu,...
Trong sự nghiệp của mình, ông có nhiều bút hiệu như: Hưởng Triều, Nguyễn Hiểu Trường, Nguyễn Trương Thiên Lý, Trần Quang,... và tham gia ở nhiều thể loại khác nhau.
Trần Bạch Đằng qua đời vào ngày 16 tháng 4 năm 2007 tại bệnh viện Chợ Rẫy vì căn bệnh ung thư phổi, ông hưởng thọ 80 tuổi.
Đánh giá
Trần Bạch Đằng được đánh giá là một nhà báo có tài. Không phải vì ông đã "dính" với nghiệp báo hơn 60 năm, đã là nhà báo lão thành. Thâm niên trong nghề báo chỉ là một phần, nhiều khi khá nhỏ, quyết định bản lĩnh cũng như sự sắc sảo của một cây bút "nhật trình".
Trước khi là nhà báo (chuyên nghiệp) Trần Bạch Đằng là một nhà chính trị, một người lãnh đạo. Không biết điều đó có giúp gì cho ông với tư cách một nhà báo hay không, hoặc có ảnh hưởng gì tới quan điểm báo chí của ông không. Nhưng ngay sau khi rời khỏi vị trí lãnh đạo, ông lập tức trở lại với nghề báo; và lập tức trở thành một cây viết rất quen thuộc của rất nhiều tờ báo lớn.
Sau nhiều năm, tên ông thường xuất hiện trên các báo như: Sài Gòn Giải Phóng, Tuổi Trẻ, Thanh Niên, Phụ Nữ. Nhưng không chỉ báo lớn, nhiều khi cái tên "Trần Bạch Đằng" ký dưới bài viết còn xuất hiện ở rất nhiều tờ báo "nhỏ". Những lĩnh vực mà ngòi bút báo chí Trần Bạch Đằng "xới" tới khá rộng, từ chính trị tới xã hội, văn hóa, từ chống tham nhũng tới việc xây dựng một xã hội pháp quyền.
Không cực đoan nhưng luôn thẳng thắn trong quan điểm, luôn có "lửa" trong ngòi bút, những bài báo của Trần Bạch Đằng đã được đông đảo người đọc đón nhận một cách tích cực. Ngay cả trong những bài viết phân tích những vấn đề chính trị hay xã hội từ quan điểm của một nhà lãnh đạo (cựu lãnh đạo), ông vẫn đứng về phía người dân thường hay đứng, hay nghĩ, hay cảm.
Ông còn có rất nhiều tham gia tích cực, nhiều khi là can đảm không ngại đụng chạm để sự thật được nói lên. Một số bài báo của Trần Bạch Đằng đã thực sự là chỗ dựa công luận cho người dân. Một số bài báo khác đã thực sự tiếp thêm dũng khí cho người trung thực trong cuộc đấu tranh vì sự trong sạch của guồng máy công quyền, vì sự công bằng xã hội.
Qua những bài báo của ông có thể nhận thấy ông luôn giữ lý tưởng từ những ngày đầu Cách mạng tháng Tám ở miền Nam Việt Nam, khi ông là một thủ lĩnh của tổ chức Thanh niên Tiền phong. Đó là làm sao để "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, và văn minh".
Vinh danh
Tên ông được đặt cho tên đường tại các thành phố Đà Nẵng, Cần Thơ, Rạch Giá. Năm 2021, Thành phố Hồ Chí Minh cũng đặt tên đường Trần Bạch Đằng cho đại lộ vòng cung thuộc Khu đô thị mới Thủ Thiêm.
Tác phẩm
Về văn xuôi, ông có nhiều tác phẩm mang tính thời sự như:
Bác Sáu Rồng (1975) truyện vừa
Một ngày của bí thư tỉnh ủy (1985)
Chân dung một quản đốc (1978) tiểu thuyết
Ngày về của ngoại (1985)
Về kịch nói, ông có:
Trần Hưng Đạo bình Nguyên (1951)
Nửa tuần trăng kỳ lạ (1984)
Tình yêu và lời đáp (1985)
Một mùa hè oi ả (1986), Một mối tình (1987)
Về lĩnh vực điện ảnh, ông cũng tham gia nhiều kịch bản phim được đánh giá cao như:
Ông Hai Cũ (2 tập, 1985-1987)
Dòng sông không quên (1989)
Ván bài lật ngửa (8 tập, 1982-1988)
Ông cũng tham gia biên soạn hoặc làm chủ biên nhiều công trình khoa học như:
Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh
Địa chí Đồng Tháp Mười
Địa chí Sông Bé
Lịch sử Nam Bộ kháng chiến...
Về thể loại báo chí, ông được xem là một cây bút tích cực phê phán tiêu cực và có nhiều kiến nghị sâu sắc về việc đổi mới của Việt Nam. Nổi bật nhất có Đổi mới - Đi lên từ thực tế (Nhà xuất bản Trẻ, 2000) gồm 112 bài tuyển chọn từ 1975-2000, với 3 phần: Thôi thúc của đổi mới (1975-1985), Gian nan những bước đầu (1986-1991), Chín năm cho một cuộc hồi sinh (1992-2000).
Tuy nhiên, ông gắn bó lâu dài với thể loại thơ hơn cả với các tập thơ:
Con đường miền Nam (1962) tập thơ, ký
Bài ca khởi nghĩa (1970)
Hành trình (1972) trường ca
Theo sóng Đồng Nai (1975)
Đất nước lại vào xuân (1978)
Những cái tên đồng bằng (1986)
Tuyển tập Hưởng Triều (1997)
Chú thích
Nhà báo Việt Nam
Nhà văn Việt Nam
T
Bí thư Thành ủy Sài Gòn
Người Kiên Giang
Nhà sử học Việt Nam
Nhà thơ Việt Nam thời kỳ 1945–1975
Nhà thơ Việt Nam thời kỳ từ 1976
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam
Nhân vật trong chiến tranh Việt Nam
|
22619
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Java%20EE
|
Java EE
|
Java 2 Platform, Enterprise Edition (Nền tảng Java, phiên bản 2 - phiên bản công nghiệp là công nghệ của Sun Microsystems) hay Java EE (gọi tắt là J2EE) là một nền lập trình dành cho việc phát triển ứng dụng phân tán kiến trúc đa tầng, chủ yếu dựa vào các thành phần môđun chạy trên các máy chủ ứng dụng. Java EE còn được xem như là một ngôn ngữ hay một tiêu chuẩn vì để có thể công bố là sản phẩm của họ tương thích với Java EE, các nhà cung cấp phải tuân thủ một số yêu cầu đã đặt ra; mặc dù chúng không phải là các tiêu chuẩn của ISO (International Standard Organization) hay của Hiệp hội nhà sản xuất máy tính châu Âu (European Computer Manufacturers Association - gọi tắt là ECMA).
Java EE bao gồm một số đặc tả kĩ thuật API, như JDBC (Cơ cấu liên nối với cơ sở dữ liệu), RMI (thi hành phương pháp từ xa), thư điện tử (e-mail), JMS (Java Message Service - Dịch vụ thông điệp của Java), Dịch vụ mạng (Web services), XML vân vân, và đồng thời nó còn định nghĩa cấu trúc liên nối giữa những kĩ thuật này với nhau. J2EE còn bao gồm một số đặc tả chỉ tồn tại trong các thành phần của nó. Những thành phần này bao gồm Enterprise JavaBean (chủ thể Bean dùng trong kinh doanh), servlet, portlet, JSP và một số các kĩ thuật về dịch vụ mạng (web service). Điều này cho phép nhà phát triển tạo ra một chương trình ứng dụng kinh doanh (enterprise application) không những chỉ có thể sử dụng trên các nền tảng khác nhau, mà còn có thể khuếch trương thành những quy mô lớn hơn và tích hợp với những công nghệ kế thừa từ trước đây. Trình chủ của Java EE có thể quán xuyến các giao dịch (transactions), nhiệm vụ bảo an (security), chức năng đa biến số bất định lượng (arity), tính quy mô hóa (scalability), sự tương tranh (concurrency) và quản lý các thành phần đã được triển khai trong môi trường của nó. Điều này có nghĩa là các nhà phát triển có thể tập trung vào các lôgic thương mại của các thành phần thay vì phải quan tâm đến cơ sở hạ tầng và các nhiệm vụ tích hợp khác.
API chung
Các API của Java EE chứa đựng một số kỹ thuật được mở rộng thêm từ những chức năng trong các API của Java SE.
javax.ejb.*
API về chủ thể cấp kinh doanh (Enterprise Java Beans - hay EJB) cung cấp một tập các hàm API mà một khung chứa đối tượng phân tán (distributed object container) phải hỗ trợ để có thể cung cấp tính bền bỉ (persistence), khả năng liên lạc từ xa (dùng RMI), khả năng khống chế tương tranh (concurrency control) và điều khiển truy cập (access control) cho các đối tượng phân tán (distributed objects).
javax.servlet
API về Servlets cung cấp một tập các hàm API giữa một khung chứa mạng (web container) và một servlet nhằm đảm nhiệm việc xử lý các yêu cầu và hồi âm các phản ứng.
javax.servlet.jsp
Các gói javax.servlet.jsp và javax.servlet.jsp.tagext cung cấp các hàm API về JSP.
javax.naming
Các gói javax.naming, javax.naming.directory, javax.naming.event, javax.naming.ldap và javax.naming.spi định nghĩa các hàm API đối với các giao tiếp (Interface) sử dụng tên trong khi truy cập đối tượng và thư mục (Java Naming and Directory Interface - JNDI).
java.sql, javax.sql
Các gói java.sql và javax.sql cung cấp các hàm liên nối với cơ sở dữ liệu (Java Database Connectivity - JDBC).
java.transaction.*
Các gói này cung cấp các API để quản lý việc giao dịch giữa các nguồn tài nguyên khác nhau (Java Transaction API - JTA).
javax.xml.*
Các gói này cung cấp các hàm API để xử lý các tài liệu XML (Java API for XML Processing - JAXP).
javax.jms.*
Các gói này cung cấp các hàm API sử dụng trong dịch vụ thông điệp của Java (Java Message Service - JMS).
Phát triển với chi phí thấp
Một trong những lợi điểm của việc sử dụng nền tảng Java EE là nó cho phép chúng ta khởi công mà tốn rất ít công sức. Chúng ta có thể tải bản thực thi Java EE từ Sun miễn phí. Đồng thời cũng có rất nhiều các công cụ mã nguồn mở hữu ích cho phép mở rộng nền tảng hay đơn giản hóa quá trình phát triển.
Một số ví dụ về các công cụ phát triển Java mã nguồn mở của các hãng bên ngoài (thứ ba):
NetBeans IDE, môi trường phát triển tích hợp dựa trên Java
Nền Eclipse, môi trường phát triển tích hợp dựa trên Java
Jedit, công cụ biên tập văn bản nguồn dựa trên Java mã nguồn mở
Jakarta Tomcat, một khung chứa JSP trong ứng dụng mạng (Servlet/JSP web container)
Jakarta JMeter, công cụ kiểm thử chất lượng dòng tải cho các máy chủ web
Apache (Apache Software Foundation - Sáng hội phần mềm Apache) Ant (Apache Ant), công cụ xây dựng phần mềm (build) tự động
JUnit, một khung hình kiểm thử đơn vị (unit tests) tự động
Jasper Reports, công cụ viết báo cáo (report writer)
JBoss, trình chủ mã nguồn mở (application server)
GlassFish, trình chủ mã nguồn mở của công ty Sun Microsystems.
Geronimo, an open-source application server
JOnAS, một trình chủ mã nguồn mở
exteNd một bộ phần mềm giúp việc tạo dựng các chương trình ứng dụng mạng của Novell. Đã gián đoạn từ năm 2005.
Jetty, một trình chủ HTTP (HTTP Server) sử dụng Java và một khung chứa Servlet (Servlet Container)
Struts, một khung hình dành cho việc tạo các trình ứng dụng mạng sử dụng JavaEE
Resin (Resin application server - trình chủ Resin), một trình chủ có hỗ trợ XML (integrated XML support)
Java EE vs..NET
Những đánh giá xoay quanh Java EE vs. Microsoft's.NET. Một ý kiến chung ("consensus") cho rằng Java EE tốt hơn cả cho kiến trúc đa nền, trong khi .NET nên dùng giới hạn cho nền Microsoft (và không thể tích hợp với các nền không phải của Microsoft).
Ấn bản
Paul J. Perrone, Krishna Chaganti: J2EE Developer's Handbook, Sam's Publishing, ISBN 0-672-32348-6
The J2EE Tutorial, Addison-Wesley, ISBN 0-321-24575-X
Solveig Haugland, Mark Cade, Anthony Orapallo: J2EE 1.4: The Big Picture, Prentice Hall, ISBN 0-13-148010-3
Alan Monnox: Rapid J2EE Development: An Adaptive Foundation for Enterprise Applications, Prentice Hall, ISBN 0-13-147220-8
Renaud Pawlak, Lionel Seinturier, Jean-Philippe Retaillé: Foundations of AOP for J2EE Development, ISBN 1-59059-507-6
Christopher Judd, Hakeem Shittu: Pro Eclipse JST: Plug-ins for J2EE Development, ISBN 1-59059-493-2
Xem thêm
J2EE Modeling Language
LAMP
Ruby on Rails
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sun's J2EE page - official documentation
J2EE Interview Questions
JavaRSS.com A Java portal of Java websites rich in Java & J2EE News, Articles, Blogs, Groups and Forums.
Leading Adapter Provider - Librados Adapters
Javalobby.org - popular Java, JSP & J2EE developer forums
EJB Certification
TheServerSide.com - popular discussion site for J2EE developers
Microsoft.NET vs. J2EE: How Do They Stack Up?
Jim Farley 08/01/2000. (O'Reilly 2004.)
JavaToolbox List of the available development tools and libraries for Java/J2EE
Java BluePrints - Sun's best practices for Java 2, Enterprise Edition application development.
Các ví dụ về Java EE application servers bao gồm:
Pramati Server (http://www.pramati.com)
JBoss Application Server (http://www.jboss.org/products/jbossas )
JRun by Macromedia (http://www.macromedia.com/software/jrun/)
JOnAS by ObjectWeb consortium (Java Open Application Server, http://jonas.objectweb.org )
Geronimo Application Server by Apache Software Foundation (http://geronimo.apache.org)
Sun Java System Application Server (http://www.sun.com/software/products/appsrvr/home_appsrvr.xml )
BEA WebLogic (http://bea.com/framework.jsp?CNT=index.htm&FP=/content/products/server )
WebSphere Application Server by IBM (http://www-306.ibm.com/software/webservers/appserv/was/features)
Borland Enterprise Server (http://www.borland.com/bes/appserver )
Orion Application Server by IronFlare (http://www.orionserver.com)
Oracle Application Server (http://www.oracle.com/appserver)
J2EE Architects Handbook (http://www.dvtpress.com/javaarch )
CAS OnceAS (http://www.once.com.cn/)
More: Certified J2EE servers list (http://java.sun.com/j2ee/compatibility.html)
Resin application server (http://www.caucho.com/)
Công nghệ Java
Ngôn ngữ lập trình
Nền tảng máy tính
Nền tảng Java
|
22622
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Portlet
|
Portlet
|
Portlets là các thành phần Web dùng lại được với mục đích hiển thị thông tin liên quan cho người dùng cổng điện tử. Các ứng dụng cho portlets bao gồm việc hiển thị Thư điện tử, các báo cáo thời tiết, các diễn đàn thảo luận, và tin tức.
Các chuẩn Portlet nhằm cho phép các nhà phát triển phần mềm tạo ra các portlets mà có thể "cắm" vào bất cứ cổng điện tử nào có hỗ trợ các chuẩn đó.
Mục đích của các interface của Dịch vụ Web cho Portlets từ xa là cung cấp một chuẩn dịch vụ web mà cho phép khả năng "plug-n-play" của các cổng điện tử, hoặc làm trung gian cho các ứng dụng web mà kết hợp nội dung, và các ứng dụng từ nhiều nguồn khác nhau.
Bản miêu tả chi tiết kĩ thuật của cổng điện tử cho phép tương tác qua lại giữa các portlets và Cổng điện tử Web. Bản mô tả chi tiết kĩ thuật này định ra một tập các API cho phép lập trình cổng điện tử có thể đánh địa chỉ các cùng aggregation, personalization, presentation và security.
Tham khảo
Liên kết ngoài
JSR-168, the Java Portlet API
JSR-168, mvnForum portlet edition: forum / discussion board / collaboration
Apache Pluto, the JSR-168 Reference Implementation
JBoss Portal
Apache Jetspeed
Liferay: JSR-168 compliant open source portal
eXo Platform: open source portal
WSRP specification
Introducing the Portlet Specification
JavaServer Faces
jPortlet - implementation of a Portlet Container
Portlets Development for Java Portals
Portlets Community at Yahoogroups
Open source Portlet Community at java.net
Portlet FAQ
Portlets news and articles
uPortal: JSR-168 compliant open source portal
Website
|
22624
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BB%87nh%20Basedow
|
Bệnh Basedow
|
Bệnh Basedow hay còn gọi là bệnh Graves, bệnh Parry, bướu giáp độc lan tỏa, bệnh cường giáp tự miễn là một bệnh tự miễn thường ảnh hưởng đến tuyến giáp, làm phì đại tuyến giáp lên gấp 2 lần hoặc nhiều hơn (bướu cổ), gây cường giáp (tăng năng tuyến giáp; tuyến giáp hoạt động quá mức), với các triệu chứng liên quan như tăng nhịp tim, yếu cơ, mất ngủ hoặc khó ngủ, và tính tình dễ bị kích thích. Nó cũng có thể ảnh hưởng đến mắt, gây ra lồi mắt và ảnh hưởng đến các hệ cơ quan khác, bao gồm da, tim, tuần hoàn và thần kinh.
Có khoảng 2% nữ giới bị mắc bệnh Basedow, đôi khi xuất hiện sau khi sinh con, với tỷ lệ mắc bệnh nữ:nam là 7:1 đến 8:1. Yếu tố di truyền là yếu tố nguy cơ chính của khả năng mắc bệnh Basedow, với 79% nguyên nhân mắc bệnh là do di truyền.
Chẩn đoán thường được thực hiện trên cơ sở từ các triệu chứng, mặc dù các xét nghiệm nội tiết tố tuyến giáp cũng có thể hữu ích, đặc biệt là trong quá trình theo dõi điều trị.
Dấu hiệu và triệu chứng
Các dấu hiệu và triệu chứng của Basedow hầu hết là kết quả của sự ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp của cường giáp, với trường hợp ngoại lệ bệnh mắt do Graves (Graves' ophthalmopathy), bướu cổ, và phù niêm trước xương chày (phù trước xương cẳng chân; pretibial myxedema; gây ra bởi các quá trình tự miễn dịch của bệnh). Các triệu chứng của cường giáp chủ yếu là mất ngủ, run tay, hiếu động thái quá, rụng tóc, mồ hôi ra nhiều, ngứa, sợ nóng, giảm cân mặc dù tăng sự thèm ăn, tiêu chảy, đại tiện thường xuyên, đánh trống ngực, yếu cơ, da ấm và ẩm. Hơn nữa dấu hiệu có thể được nhìn thấy trên khám lâm sàng thường là thấy tuyến giáp lan rộng (thường là đối xứng) và cứng (nontender), mi mắt chậm chạp (lid lag), chảy nước mắt nhiều do bệnh mắt Graves, rối loạn nhịp tim, chẳng hạn như tim nhịp nhanh xoang (sinus tachycardia), rung tâm nhĩ (strial fibrillation), ngoại tâm thu thất (premature ventricular contraction) và cao huyết áp. Những người bị cường giáp có thể bị thay đổi hành vi và nhân cách, bao gồm: rối loạn tâm thần, hưng cảm, lo âu, kích động, và trầm cảm..Triệu chứng run tay, mắt lồi nếu phát hiện bệnh vào thì muộn.
Chú thích
Liên kết ngoài
Basedow
Basedow
|
22630
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Si%C3%AAu%20v%C4%83n%20b%E1%BA%A3n
|
Siêu văn bản
|
Siêu văn bản (tiếng Anh: hypertext) là loại văn bản tích hợp nhiều dạng dữ liệu khác nhau như: văn bản, âm thanh, hình ảnh, video,... và các siêu liên kết đến các siêu văn bản khác. Siêu văn bản là văn bản của một tài liệu có thể được truy tìm không theo tuần tự. Người đọc có thể tự do đuổi theo các dấu vết liên quan qua suốt tài liệu đó bằng các mối liên kết xác định sẵn do người sử dụng tự lập nên.
Trong một môi trường ứng dụng siêu văn bản thực sự, người đọc có thể trỏ vào chỗ tô sáng (highlight) bất kì từ nào của tài liệu và tức khắc nhảy đến những tài liệu khác có văn bản liên quan đến nó. Cũng có những lệnh cho phép người đọc tự tạo cho riêng mình những dấu vết kết hợp qua suốt tài liệu. Các trình ứng dụng dùng siêu văn bản rất hữu ích trong trường hợp phải phải làm việc với số lượng văn bản lớn, như các bộ từ điển bách khoa và các bộ sách nhiều tập.
Một số ngôn ngữ siêu văn bản tiêu biểu
HTML (Hypertext Markup Language) - Ngôn ngữ đánh dấu siêu văn bản
HTML là loại ngôn ngữ dùng để định dạng dữ liệu. Tất cả các trang web bạn đang duyệt đều được tạo nên từ các thẻ HTML. Dù website của bạn được lập trình bằng ngôn ngữ nào đi nữa, thì khi được trả về trình duyệt web, bạn sẽ chỉ nhận được các mã HTML. Ví dụ để định dạng một đoạn văn bản bạn sử dụng cặp thẻ , để xuống dòng bạn sử dụng thẻ </br>. HTML cùng với HTTP tạo nên nền móng của một loại dịch vụ mà chúng ta gọi là web như ngày nay.
XML (Extensible Markup Language) - Ngôn ngữ đánh dấu có thể mở rộng
Khác với HTML, XML không định nghĩa bất cứ thẻ nào cả. Tất cả các thẻ và ý nghĩa của chúng đều do bạn tạo ra. XML được tạo ra để xác định dữ liệu và do đó được dùng như một công cụ để truyền tải dữ liệu có cấu trúc giữa các ứng dụng, đặc biệt là ứng dụng web.
Tham khảo
Giao diện máy tính
Internet
Phát minh của Hoa Kỳ
|
22637
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Toronto
|
Toronto
|
Toronto (phát âm tiếng Anh: , ) là thành phố đông dân nhất tại Canada và là tỉnh lỵ của tỉnh Ontario. Thành phố nằm ở miền Nam Ontario, tại bờ phía tây bắc của hồ Ontario. Lịch sử Toronto bắt đầu vào cuối thế kỷ 18 khi Vương thất Anh Quốc mua đất từ người bản địa. Khu định cư được thiết lập tại đây mang tên là York, và được Phó Thống đốc John Graves Simcoe chọn làm thủ đô của Thượng Canada. Thành phố bị cướp phá trong Chiến tranh Hoa Kỳ - Anh Quốc năm 1812. Năm 1834, York trở thành một thành phố và đổi tên sang Toronto. Thành phố bị thiệt hại do hai đại hỏa hoạn vào năm 1849 và 1904. Từ năm 1954, thành phố có những đợt mở rộng ranh giới thông qua sáp nhập các đô thị xung quanh, lần gần đây nhất là vào năm 1998.
Theo điều tra nhân khẩu Canada năm 2011, thành phố có 2,6 triệu dân cư, là thành phố đông dân thứ năm tại Bắc Mỹ. Tuy nhiên, đến năm 2012, chính quyền thành phố công bố ước tính dân số là 2.791.140, khiến truyền thông tường thuật rằng Toronto là thành phố đông dân thứ tư tại Bắc Mỹ và là thành phố Vùng Ngũ Đại Hồ đông dân nhất, vượt qua Chicago. Khu vực đại đô thị thống kê (CMA) có dân số là 5.583.064, và khu vực Đại Toronto (GTA) có dân số là 6.054.191 theo điều tra nhân khẩu năm 2011. Toronto nằm tại trung tâm của khu vực Đại Toronto, và của khu vực dân cư đông đúc Golden Horseshoe tại miền Nam Ontario. Dân cư thế giới và quốc tế của thành phố phản ánh vai trò của Toronto là một điểm đến quan trọng của những người nhập cư tới Canada. Toronto là một trong những thành phố đa dạng nhất trên thế giới về tỷ lệ dân cư không sinh tại địa phương, với khoảng 49% dân số sinh bên ngoài Canada.
Toronto là thủ đô thương nghiệp của Canada, là nơi đặt trụ sở của sở giao dịch chứng khoán Toronto và năm ngân hàng lớn nhất toàn quốc. Những khu vực kinh tế hàng đầu trong thành phố là tài chính, dịch vụ doanh nghiệp, viễn thông, hàng không vũ trụ, giao thông, truyền thông, nghệ thuật, xuất bản, sản xuất phần mềm, nghiên cứu y tế, giáo dục, du lịch và, và kỹ thuật. Toronto được GaWC xếp hạng là một thành phố toàn cầu hạng alpha và đứng hàng đầu thế giới về Chỉ số trung tâm tài chính toàn cầu. Toronto cũng luôn được xếp là một trong những thành phố dễ sống nhất theo xếp hạng của Đơn vị tin tức kinh tế học và Điều tra chất lượng sinh hoạt Mercer.
Lịch sử
Khi những người châu Âu lần đầu đến địa điểm mà nay là Toronto, người Iroquois cư trú tại khu vực lân cận, lúc đó người Iroquois đã thay thế người Wyandot vốn chiếm giữ khu vực trong hàng thế kỷ trước khoảng 1500. Tên gọi Toronto có bắt nguồn từ tkaronto trong tiếng Iroquois, nghĩa là "nơi những cái cây mọc trong nước". Điều này ám chỉ đến phần cực bắc của nơi mà hiện là hồ Simcoe, nơi người Huron trồng cây nhỏ để quây cá. Một tuyến đường chuyển tải từ hồ Ontario đến hồ Huron chạy qua điểm này, khiến tên gọi được sử dụng phổ biến. Trong thập niên 1660, người Iroquois thiết lập hai làng trong khu vực mà nay là Toronto, Ganatsekwyagon bên bờ sông Rouge và Teiaiagon bên bờ sông Humber. Đến năm 1701, người Mississauga thay thế người Iroquois, người Iroquois từ bỏ khu vực Toronto vào cuối Các cuộc chiến tranh Hải ly.
Năm 1750, các thương nhân người Pháp lập nên pháo đài Rouillé tại nơi mà nay là khu vực Triển Lãm, song từ bỏ vào năm 1759. Trong Cách mạng Mỹ, khu vực tiếp nhận một dòng người Anh định cư trung thành với Đế quốc chạy đến các vùng đất hoang ở phía bắc hồ Ontario. Năm 1787, Anh Quốc dàn xếp mua đất với người Mississauga, do đó củng cố trên một phần tư triệu acres (1000 km²) đất tại khu vực Toronto.
Năm 1793, Thống đốc John Graves Simcoe thiết lập đô thị York trên khu định cư sẵn có, đặt tên theo Vương tử Frederick, Công tước xứ York và Albany. Simcoe chọn York để thay thế Newark trong vai trò thủ đô của Thượng Canada, tin rằng địa điểm mới sẽ có khả năng phòng thủ tốt hơn trước khả năng bị Hoa Kỳ tiến công. Pháo đài York được xây dựng tại lối vào cảng tự nhiên của thị trấn, được một bán đảo bãi cát dài bảo vệ.
Năm 1813, trong khuôn khổ Chiến tranh Hoa Kỳ - Anh Quốc, trận York kết thúc với kết quả lực lượng Hoa Kỳ chiếm và cướp bóc thị trấn. Binh sĩ Hoa Kỳ phá hủy hầu hết phái đài York và phóng hỏa tòa nhà nghị viện trong thời gian chiếm đóng. Việc Hoa Kỳ cướp phá York là một động cơ chính khiến quân Anh đốt cháy Washington sau đó. York được hợp nhất tổ chức thành thành phố Toronto vào ngày 6 tháng 3 năm 1834.
Dân số Toronto đương thời chỉ có 9.000, trong đó có những nô lệ da đen chạy trốn, một số người trong số đó do những người trung thành với Đế quốc đưa đến. Chế độ nô lệ bị cấm hoàn toàn tại Thượng Canada vào năm 1834. Chính trị gia cải lương William Lyon Mackenzie trở thành thị trưởng đầu tiên của Toronto và lãnh đạo Nổi dậy Thượng Canada vào năm 1837 nhằm chống chính phủ thực dân Anh Quốc song không thành công. Thành phố phát triển nhanh chóng suốt thời gan còn lại của thế kỷ 19, với vị thế là một điểm đến chính của những người nhập cư tới Canada. Dòng dân nhập cư đáng kể đầu tiên xuất hiện khi nạn đói khoai tây Ireland đưa một lượng lớn người Ireland đến thành phố, một số người trong đó chỉ cư trú tạm thời tại Toronto và hầu hết họ là tín đồ Công giáo La Mã. Đến năm 1851, dân cư sinh tại Ireland trở thành dân tộc đơn lẻ lớn nhất trong thành phố. Những người Ireland nhập cư theo Tin Lành có số lượng ít hơn, cộng đồng này được dân cư người Scotland và Anh cư trú từ trước hoan nghênh, khiến Orange Order có ảnh hưởng đáng kể và kéo dài đối với xã hội Toronto.
Toronto từng hai lần là thủ đô của tỉnh Canada thống nhất: lần đầu từ năm 1849 đến năm 1852 sau bất ổn tại Montréal, và trong giai đoạn 1856–1858. Do là thủ đô của Thượng Canada từ năm 1793, Toronto trở thành tỉnh lị của tỉnh Ontario sau khi tỉnh này được hình thành chính thức vào năm 1867. Do có vị thế là tỉnh lị, thành phố là nơi đặt tòa nhà chính phủ, dinh thự của phó vương đại diện cho quyền lực của vương thất tại Ontario.
Trong thế kỷ 19, một hệ thống cống quy mô lớn được xây dựng, và các phố được chiếu sáng thường xuyên bằng đèn khí. Các tuyến đường sắt đường dài được xây dựng, trong đó một tuyến được hoàn thành vào năm 1854 liên kết Toronto với các hồ thượng trong Ngũ Đại Hồ. Đường sắt xuất hiện làm tăng mạnh số người nhập cư đến, thương nghiệp và công nghiệp, cùng với các thuyền hơi nước và thuyền hai buồm hồ Ontario cập cảng từ trước góp phần biến Toronto trở thành một cửa ngõ lớn kết nối thế giới với vùng nội địa của lục địa Bắc Mỹ. Toronto trở thành trung tâm cất rượu cồn lớn nhất tại Bắc Mỹ; nhà máy cất rượu Gooderham and Worts trở thành nhà máy whiskey lớn nhất thế giới vào thập niên 1860. Phát triển hạ tầng cảng và đường sắt tạo thuận lợi cho xuất khẩu gỗ và nhập khẩu than Pennsylvania. Đại hỏa hoạn năm 1904 phá hủy một phần lớn khu trung tâm Toronto, song thành phố nhanh chóng tái thiết. Đại hỏa hoạn khiến các luật an toàn cháy nổi thêm nghiêm ngặt và phát triển sở cứu hỏa của thành phố.
Bắt đầu từ cuối thế kỷ 19 cho đến đầu thế kỷ 20, thành phố tiếp nhận các nhóm nhập cư mới, đặc biệt là người Đức, người Pháp, người Ý, và người Do Thái đến từ Đông Ấu. Tiếp nối ngay sau họ là những người Hoa, người Nga, người Ba Lan, và những người nhập cư Đông Âu khác. Giống như người Ireland đến từ trước, nhiều người nhập cư sống trong những khu vực tồi tàn đông đúc. Mặc dù có tốc độ tăng trưởng nhanh chóng, song cho đến thập niên 1920, dân số và tầm quan trọng kinh tế của Toronto tại Canada vẫn đứng thứ hai sau Montréal. Tuy nhiên, đến năm 1934 thì sở giao dịch chứng khoán Toronto trở thành sở giao dịch chứng khoán lớn nhất toàn quốc.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, những người tị nạn hậu quả chiến tranh từ châu Âu và Trung Quốc đến Toronto để tìm kiếm công việc, cũng như các lao động xây dựng, chủ yếu là từ Ý và Bồ Đào Nha. Sau khi bãi bỏ những chính sách nhập cư dựa trên chủng tộc vào cuối thập niên 1960, người nhập cư đến Toronto từ khắp nơi trên thế giới. Dân số Toronto tăng lên trên một triệu vào năm 1951 khi ngoại ô hóa quy mô lớn bắt đầu, và tăng gấp đôi lên hai triệu vào năm 1971. Đến thập niên 1980, Toronto vượt qua Montréal để trở thành thành phố đông dân nhất và trung tâm kinh tế chủ yếu của Canada. Trong thời gian này, một phần là do tính chất bất xác định chính trị do sự nổi lên của phong trào chủ quyền Québec, nhiều công ty quốc gia và đa quốc gia chuyển trụ sở chính của họ ra khỏi Montréal đến Toronto và các thành phố ở miền Tây Canada.
Năm 1954, thành phố Toronto và 12 đô thị xung quanh liên hiệp thành một chính quyền khu vực được gọi là Metropolitan Toronto. Bùng nổ kinh tế hậu chiến dẫn đến phát triển ngoại ô nhanh chóng, và người ta cho là một chiến lược sử dụng đất phối hợp và chia sẻ các dịch vụ sẽ tạo ra hiệu quả lớn hơn cho khu vực. Chính quyền khu vực đô thị bắt đầu quản lý những dịch vụ vượt qua ranh giới các đô thị, trong đó có xa lộ, cảnh sát, nước và giao thông công cộng. Một nửa thế kỷ sau đại hỏa hoạn năm 1904, thành phố lại chịu tai họa khi bão Hazel đem theo gió mạnh và lũ quét. Trong khu vực Toronto có 81 người thiệt mạng và gần 1.900 gia đình bị mất nhà, bão gây thiệt hại kinh tế 25 triệu $.
Năm 1967, bảy đô thị nhỏ nhất của Metropolitan Toronto được hợp nhất với các đô thị lân cận lớn hơn, tạo ra một kết cấu gồm sáu đô thị: đô thị cũ Toronto, East York, Etobicoke, North York, Scarborough, và York. Năm 1998, chính phủ tỉnh Ontario giải thể chính quyền đại đô thị, toàn bộ sáu đô thị được hợp nhất thành một đô thị đơn nhất, hình thành thành phố Toronto hiện nay. Toronto dự kiến tổ chức Đại hội Thể thao liên châu Mỹ vào năm 2015.
Địa lý
Toronto có diện tích , khoảng cách bắc-nam tối đa là và khoảng cách đông-tây tối đa là . Thành phố có bờ hồ Ontario. Quần đảo Toronto và Port Lands kéo dài vào trong hồ, che chắn phần nào cho cảng Toronto ở phía nam lõi trung tâm đô thị. Ranh giới của Toronto giới hạn bởi là hồ Ontario ở phía nam, sông Etobicoke và tỉnh lộ 427 ở phía tây, đại lộ Steeles ở phía bắc và sông Rouge cùng đường Scarborough-Pickering Townline ở phía đông.
Thành phố bị ba sông cùng nhiều chi lưu của chúng cắt ngang: sông Humber ở cực tây và sông Don ở phía đông khu trung tâm gần cảng Toronto, và sông Rouge tạo thành ranh giới phía đông của thành phố. Cảng Toronto được hình thành một cách tự nhiên nhờ trầm tích tích tụ từ các dòng nước trong hồ tạo nên quần đảo Toronto. Nhiều sông suối chảy từ phía bắc hướng đến hồ bào mòn địa hình thành những vùng khe núi lớn có cây cối rậm rạp, tạo ra các địa điểm lý tưởng để hình thành những công viên và đường tản bộ tiêu khiển. Tuy nhiên, các khe núi cũng gây trở ngại cho thiết kế ô vuông của thành phố, dẫn đến việc nhiều đại lộ kết thúc ở một bên khe núi và tiếp tục ở bên khác. Những khe núi sâu tỏ ra hữu dụng trong việc thoát nước khi có mưa lớn.
Trong kỷ băng hà cuối, phần hạ của Toronto ở bên dưới hồ băng Iroquois. Ngày nay, một loạt vách đứng đánh dấu ranh giới cũ của hồ. Mặc dù có những khe núi sâu, Toronto không có địa hình đối núi đáng kể, song độ cao tăng dần khi ra xa hồ. Độ cao biến đổi từ trên mực nước biển tại bờ hồ Ontario đến trên mực nước biển gần Đại học York ở phần cực bắc của thành phố tại nơi giao cắt giữa phố Keele và đại lộ Steeles. Phần lớn diện tích đất liền bờ hồ hiện nay đối diện với cảng Toronto được lấp đất nhân tạo vào cuối thế kỷ 19, phần lớn Port Lands nằm lân cận cũng là do lấp đất. Quần đảo Toronto nguyên là một mũi đất song một cơn bão vào năm 1858 đã cắt đứt kết nối của nó với đại lục, tạo ra một kênh mà sau này được các tàu sử dụng để tiếp cận bến tàu.
Toronto có khí hậu lục địa ẩm (Köppen: Dfa/Dfb), với mùa hè ấm và ẩm và mùa đông lạnh. Thành phố trải qua bốn mùa riêng biệt, chênh lệch nhiệt độ giữa các ngày là đáng kể, đặc biệt là khi thời tiết lạnh. Do đô thị hóa và nằm sát hồ, Toronto có chênh lệch nhiệt độ ngày đêm khá thấp. Không gian đô thị đông đúc khiến cho ban đêm ấm hơn quanh năm và trong mùa đông không lạnh như khu vực xung quanh (đặc biệt là ở phía bắc của thành phố); tuy nhiên, thành phố có thể mát hơn đáng kể vào nhiều chiều mùa xuân và đầu hè do ảnh hưởng của gió thổi từ hồ. Những ảnh hưởng thủy vực quy mô nhỏ khác lên khí hậu Toronto gồm có tuyết hiệu ứng hồ, sương mù, và trễ mùa.
Trong mùa đông, Toronto đôi khi bất chợt có nhiệt độ dưới , thường khiến cảm thấy lạnh hơn do phong hàn. Bão tuyết, thỉnh thoảng kèm với đóng băng và mưa, có thể phá hỏng lịch trình làm việc và lữ hành, tuyết rơi thành đống có thể xuất hiện từ tháng 11 đến giữa tháng 4. Tuy nhiên, cũng có thể xuất hiện những khoản thời gian thời tiết ôn hòa trong hầu hết mùa đông, làm tan những đóng tuyết. Những tháng mùa hè có đặc trưng là thời tiết ẩm kéo dài, nhiệt độ thường dao động trong khoảng , nhiệt độ ban ngày thỉnh thoảng vượt quá kèm theo độ ẩm cao khiến cảm thấy ngột ngạt. Mùa xuân và mùa thu thường có nhiệt độ ôn hòa hoặc mát, các giai đoạn khô và ẩm xen kẽ.
Toronto có lượng mưa phân bố kha đều trong năm, song mùa hè thường là mùa mưa nhiều nhất, nhất là trong các cơn dông. Có những giai đoạn thời tiết khô, song tình hình hiếm khi giống như hạn hán. Lượng giáng thủy trung bình năm là khoảng , với lượng tuyết trung bình năm là khoảng . Toronto có trung bình 2.066 giờ nắng mỗi năm, hay 45% số giờ ban ngày, biến động giữa 28% trong tháng 12 đến 60% trong tháng 7.
Kinh tế
Toronto là một trung tâm quốc tế về kinh doanh và tài chính, thường được xem là thủ đô tài chính của Canada. Các ngân hàng và các hãng môi giới tập trung cao độ tại Bay Street, tại Financial District. Sở giao dịch chứng khoán Toronto là sở giao dịch chứng khoán lớn thứ bảy trên thế giới theo tư bản hóa thị trường (2006). Năm thể chế tài chính lớn nhất của Canada, được gọi chung là Big Five, có các văn phòng quốc gia tại Toronto.
Thành phố là một trung tâm quan trọng đối với truyền thông, xuất bản, viễn thông, công nghệ thông tin và sản xuất phim; là nơi đặt trụ sở của Bell Media, Rogers Communications, và Torstar. Các công ty nổi bật khác của Canada trong khu vực Đại Toronto gồm có Magna International, Celestica, Manulife Financial, Sun Life Financial, và Hudson's Bay Company, và các công ty và hãng điều hành khách sạn lớn như Four Seasons Hotels và Fairmont Hotels and Resorts.
Mặc dù phần lớn các hoạt động sản xuất trong khu vực diễn ra bên ngoài giới hạn của thành phố, song Toronto thiếp tục là một điểm bán buôn và phân phối của khu vực công nghiệp. Vị trí chiến lược của thành phố khi nằm dọc theo Hành lang thành phố Quebec-Windsor và có các liên kết đường bộ và đường sắt hỗ trợ cho các ngành sản xuất xe mô tô, gang, thép, thực phẩm, máy móc, hóa chất và giấy. Việc hoàn tất hải đạo Saint Lawrence vào năm 1959 khiến các tàu có thể tiếp cận Ngũ Đại Hồ từ Đại Tây Dương.
Nhân khẩu
Dân số thành phố tăng trưởng 4% (96.073) từ năm 1996 đến 2001, 1% (21.787) từ năm 2001 đến 2006, và 4,3% (111.779) từ năm 2006 đến 2011. Người từ 14 tuổi trở xuống chiếm 17,5% dân số, người từ 65 trở lên chiếm 13,6%. Độ tuổi trung bình của dân cư Toronto là 36,9 năm. Người sinh tại ngoại quốc chiếm 49,9% dân số. Tỷ lệ giới tính của thành phố là 48% nam giới và 52% nữ giới. Số lượng nữ giới cao hơn nam giới trong mọi nhóm tuổi trên 20. Năm 2011, 49,1% dân cư Toronto thuộc một nhóm thiểu số rõ rệt, và các dân tộc thiểu số rõ rệt được dự tính sẽ chiếm đa số tại khu vực đại đô thị thống kê Toronto vào năm 2017. Năm 1981, dân số thiểu số rõ rệt của Toronto chiếm tỷ lệ 13,6%.
Theo Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc, Toronto là thành phố có tỷ lệ dân số sinh tại ngoại quốc cao thứ nhì trên thế giới, sau Miami, Florida. Không có dân tộc hay văn hóa riêng lẻ này chiếm ưu thế trong dân số nhập cư của Toronto, khiến nó nằm trong số những thành phố đa dạng nhất trên thế giới. Mỗi năm có trên 100.000 người nhập cư đến khu vực Đại Toronto.
Trong điều tra nhân khẩu Canada năm 2001, nguồn gốc dân tộc phổ biến nhất trong thành phố Toronto như sau:
Nguồn: 2011 NHS Profile
Toronto là một thành phố đa dạng về chủng tộc, thành phần chủng tộc như sau:
50,2% người Da trắng
12,7% người Đông Á; 10,8% người Hoa, 1,4% người Hàn, 0,5% người Nhật
12,3% người Nam Á
8,5% người Da đen
7,0% người Đông Nam Á; 5,1% người Philippines
2,8% người Mỹ Latinh
2,0% người Tây Á
1,1% người Ả Rập
0,7% người nguyên trú, trong đó 0,5% là các dân tộc trước tiên và 0,2% là người Metis
1,5% người đa chủng; 1,7% kể cả Metis
1,3% khác
Sự đa dạng này được phản ánh qua các khu phố dân tộc của Toronto, trong đó có phố Trung Hoa, phố Corso Italia, phố Hy Lạp, Kensington Market, phố Hàn, Tiểu Ấn Độ, Tiểu Ý, Tiểu Jamaica, Tiểu Bồ Đào Nha và Roncesvalles.
Năm 2011, tôn giáo được tường trình phổ biến nhất tại Toronto là Cơ Đốc giáo, 54,1% dân số thành phố gắn bó với nhóm tôn giáo này. 28,2% dân số là tín đồ Công giáo La Mã, tiếp đến là Tin Lành (11,9%), Cơ Đốc Chính thống (4,3%), và các giáo phái Cơ Đốc khác (9,7%). Thành phố có một số lượng đáng kể các tín đồ Cơ Đốc Giám Lý, thỉnh thoảng được gọi là Roma của Giám Lý. Các tôn giáo khác hiện diện trong thành phố gồm có Hồi giáo (8,2%), Ấn Độ giáo (5,6%), Do Thái giáo (3,8%), Phật giáo (2,7%), và Tích Khắc giáo (0,8%). Những người không liên kết tôn giáo chiếm 24,2% dân số Toronto.
Tiếng Anh là ngôn ngữ chiếm ưu thế trong dân cư Toronto, song nhiều ngôn ngữ khác có số lượng người nói bản ngữ ở mức đáng kể. Các phương ngôn tiếng Hoa và tiếng Ý là những ngôn ngữ được nói phổ biến thứ nhì và thứ ba trong công việc. Dịch vụ khẩn cấp 9-1-1 của thành phố được trang bị để đáp ứng trên 150 ngôn ngữ.
Giáo dục
Đại học Toronto (UT), thành lập năm 1827, là đại học xưa nhất của tỉnh bang Ontario và là viện nghiên cứu công lập hàng đầu ở đây. UT còn dẫn đầu thế giới về nghiên cứu y sinh và sở hữu hệ thống thư viện lớn thứ ba ở Bắc Mỹ, chỉ sau Đại học Harvard và Đại học Yale. Ngoài ra, Đại học York ở phía bắc Toronto cũng sở hữu một thư viện luật lớn nhất trong Khối Thịnh vượng chung Anh. Thành phố này cũng là quê hương của các Đại học Ryerson, Cao đẳng Mỹ thuật và Thiết kế Ontario và Đại học Guelph-Humber.
Có năm trường cao đẳng cộng đồng có cấp phát văn bằng ở Toronto là: Cao đẳng Seneca, Cao đẳng Humber, Cao đẳng Centennial, Cao đẳng Sheridan và Cao đẳng George Brown. Ở thành phố Oshawa—nằm gần đó, được xem là một phần của Vùng Đại Toronto—có trường Cao đẳng Durham và Đại học Viện Công nghệ Ontario (University of Ontario Institute of Technology).
Thư viện Công cộng Toronto là một hệ thống thư viện lớn nhất Canada, gồm có 99 chi nhánh với hơn 11 triệu mục.
Giao thông
Toronto có các mạng lưới đường bộ, đường sắt và hàng không tập trung ở Nam Ontario. Có nhiều hình thức giao thông trong thành phố Toronto, bao gồm đường cao tốc và giao thông công cộng. Toronto cũng có một mạng lưới đường dành cho xe đạp rộng khắp thành phố.
Giao thông công cộng
Hệ thống giao thông công cộng chính của Toronto được vận hành bởi Ủy ban Giao thông Toronto (TTC). Trụ cột quan trọng của mạng lưới giao thông công cộng là hệ thống tàu điện ngầm Toronto, bao gồm ba tuyến vận chuyển nhanh bằng đường sắt chạy qua thành phố. Tuyến tàu điện ngầm nhẹ cũng tồn tại, phục vụ riêng cho quận phía đông của Scarborough, nhưng một cuộc thảo luận đang được tiến hành để thay thế nó bằng một tuyến đường sắt nặng.
TTC cũng vận hành một mạng lưới xe buýt và xe điện rộng khắp, với tuyến sau phục vụ tại trung tâm thành phố và xe buýt cung cấp dịch vụ cho nhiều nơi trong thành phố không được phục vụ bởi mạng lưới tàu điện ngầm thưa thớt. Xe buýt và xe điện TTC sử dụng cùng một hệ thống giá vé như tàu điện ngầm, và nhiều ga tàu điện ngầm cung cấp một khu vực trả tiền vé để chuyển giữa xe lửa và xe mặt nước.
Đã có nhiều kế hoạch mở rộng tàu điện ngầm và triển khai các tuyến đường sắt nhẹ, nhưng nhiều nỗ lực đã bị cản trở bởi những lo ngại về ngân sách. Kể từ tháng 7 năm 2011, công việc duy nhất liên quan đến tàu điện ngầm là tàu điện ngầm Spadina (tuyến 1) mở rộng về phía bắc của ga Sheppard West (tên trước đây là Downsview) đến Trung tâm Vaughan Metropolitan ở Vaughan, ngoại ô phía bắc Toronto. Đến tháng 11 năm 2011, việc xây dựng trên Tuyến 5 Eglinton bắt đầu. Tuyến 5 dự kiến hoàn thành vào năm 2021. Năm 2015, chính quyền thành phố Ontario hứa sẽ tài trợ cho Tuyến 6 Finch West, dự kiến hoàn thành vào năm 2023.
Sân bay
Được mệnh danh là sân bay bận rộn nhất Canada, Sân bay Quốc tế Toronto Pearson (YYZ) nằm giữa ranh giới phía tây thành phố Toronto với thành phố ngoại ô Mississauga. Sân bay bắt đầu chuyên chở hành khách vào tháng 6 năm 2015.
Tội phạm
Với tỷ lệ tội phạm rất thấp, Toronto là một trong những thành phố an toàn nhất ở Bắc Mỹ. Chẳng hạn, năm 2007, tỷ lệ giết người ở Toronto là 3,3 trên 100.000 người, so với Atlanta (19,7), Boston (10.3), Los Angeles (10.0), Thành phố New York (6.3), Vancouver (3.1) và Montreal (2.6). Tỷ lệ trộm cướp của Toronto cũng ở mức thấp, với 207,1 vụ cướp trên 100.000 dân, so với Los Angeles (348,5), Vancouver (266,2), Thành phố New York (265,9) và Montreal (235,3). Toronto cũng có tỷ lệ trộm cắp xe tương đương với một số thành phố của Hoa Kỳ.
Thành phố kết nghĩa
Các thành phố cộng tác
Chicago, Illinois, Hoa Kỳ (1991)
Trùng Khánh, Trung Quốc (1986)
Frankfurt, Đức (1989)
Milano, Ý (2003)
Các thành phố bằng hữu
Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam (2006)
Kyiv, Ukraina (1992)
Quito, Ecuador (2006)
Rio de Janeiro, Brazil (2015)
Sagamihara, Nhật Bản (1991)
Warsaw, Ba Lan (1990)
Xem thêm
Liên hoan phim quốc tế Toronto
Hội đồng Giáo dục Toronto
Toronto City Hall, tòa thị chính của thành phố#
Bảo tàng Hoàng gia Ontario
Chú thích
Thư mục
Đọc thêm
Also (paperback).
The novel "In the Skin of a Lion" by Michael Ondaatje depicts Toronto in the 1920s, giving prominence to the construction of Toronto landmarks, such as the Prince Edward Viaduct and the R. C. Harris Water Treatment Plant, and focusing on the lives of the immigrant workers.
Liên kết ngoài
Khởi đầu năm 1834 ở Canada
Khu dân cư trên Tuyến hỏa xa ngầm
Toronto
|
22655
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Calgary
|
Calgary
|
Calgary là một thành phố phía nam của tỉnh Alberta, Canada. Đây là thành phố lớn nhất Alberta và lớn thứ ba của Canada tính theo dân số (theo kết quả điều tra dân số năm 2008). Vùng đô thị Calgary bao gồm Thành phố Calgary là vùng đô thị lớn thứ năm của Canada. Những người nói tiếng Anh dùng từ "Calgarian" để chỉ cư dân Calgary. Thành phố Calgary có địa hình đồi núi, cao nguyên, nằm cách dãy Thạch Sơn (Rockies) của Canada khoảng 80 km, cách thủ phủ Edmonton khoảng 299 km về phía nam và cách biên giới Canada - Hoa Kỳ khoảng 240 km về phía bắc.
Thành phố Calgary nổi tiếng ở Canada về các môn thể thao mùa đông và các tour du lịch sinh thái với một số vùng nghỉ mát gần thành phố. Năm 1988, Calgary đã tổ chức thành công Thế vận hội Mùa đông, trở thành thành phố đầu tiên ở Canada giữ cương vị chủ nhà của đại hội thể thao này. Nhân dịp này, một sân trượt băng tốc độ cao đã được xây dựng trong khuôn viên Đại học tổng hợp Calgary. Đây được xem là sân trượt băng trong nhà nhanh nhất thế giới.
Khí hậu
Kinh tế
Nền kinh tế của Calgary chủ yếu tập trung vào ngành công nghiệp dầu khí. Ngoài ra thì các ngành nông nghiệp, du lịch, và các ngành công nghiệp công nghệ cao cũng đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế nhanh chóng của thành phố.
Calgary là nơi tập trung nhiều trụ sở của các công ty lớn ở Canada và thẽ giới, nhất là các công ty năng lượng. Hơn 80% công ty dầu khí và hơn 60% các công ty than hiện đang hoạt động tại Canada đặt tổng trụ sở tại Calgary. Các công ty năng lượng lớn bao gồm BP Canada, Canadian Natural Resources Limited, Cenovus Energy, Encana, Imperial Oil, Suncor Energy, Shell Canada, TransCanada, và Nexen.
Giáo dục
Hệ thống giáo dục đại học và sau đại học của Thành phố rất phát triển với nhiều trường cao đẳng, đại học và dạy nghề. Các cơ sở đạo tào gồm có Đại học tổng hợp Calgary (University of Calgary) thành lập năm 1966, Đại học Mount Royal (Mount Royal University) thành lập năm 1911, Học viện công nghệ Nam Alberta (SAIT - South Alberta Institute of Technology), Trường Bow Valley (Bow Valey's College), Trường nghệ thuật và thiết kế Alberta (ACAD - Alberta College of Art & Design), Trường đại học Ambrose (Ambrose University College) - trường tư thục Cơ-đốc giáo, và Trường đại học Thánh Maria (St. Mary's University College) - trường tư thục Công giáo. Ngoài ra, Thành phố Calgary còn có cơ sở chi nhánh của Đại học tổng hợp Lethbridge (cơ sở chính tại Thành phố Lethbridge, Alberta) và Đại học tổng hợp DeVry (cơ sở chính tại Chicago, bang Michigan, Hoa Kỳ).
Cơ sở hạ tầng
Giao thông
Sân bay quốc tế Calgary (YYC), là sân bay chính tọa lạc khoảng 17 km (11 dặm) về phía đông bắc của trung tâm thành phố Calgary, là trung tâm vận chuyển hàng không và hàng hóa của khu vực trung tâm và miền tây của Canada. Sân bay quốc tế Calgary còn được ghi nhận là một trong số 4 sân bay bận rộn nhất Canada, với nhiều chuyến bay thẳng thường lệ đến các thành phố lớn của Canada, Hoa Kỳ, Châu Âu, Châu Á, Mexico và vùng biển Ca-ri-bê
Lễ hội
Thành phố Calgary có rất nhiều lễ hội thường niên như Calgary Stampede (được mệnh danh là "cuộc trình diễn ngoài trời lớn nhất thế giới" - "the greatest outdoor show on Earth"), Lễ hội âm nhạc dân gian (Folk Music Festival), Lễ hội Tử đinh hương (Lilac Festival), Liên hoan những cây bút quốc tế Banff-Calgary (Banff-Calgary International Writers Festival), Carifest (lễ hội Caribe lớn thứ tư ở Canada).
Vào năm 2007, Tạp chí Forbes công bố danh sách khảo sát Mercer về các thành phố sạch nhất trên thế giới, trong đó Calgary được xếp hạng nhất.
Chú thích
Alberta
Thành phố của Canada
|
22659
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BA%ABu%20thi%E1%BA%BFt%20k%E1%BA%BF
|
Mẫu thiết kế
|
Mẫu thiết kế (tiếng Anh là design pattern) có nhiều nghĩa tùy vào ngữ cảnh khác nhau:
Mẫu thiết kế (kiến trúc), một cách nắm bắt và truyền đạt các ý tưởng thiết kế trong kiến trúc
Mẫu thiết kế (khoa học máy tính), một giải pháp chuẩn cho các vấn đề chung trong thiết kế phần mềm
Design Patterns, tên một cuốn sách bắt đầu cho việc nghiên cứu thiết kế mẫu trong khoa học máy tính
Các mẫu sư phạm (Pedagogical patterns), những phương pháp tốt nhất trong dạy học
Thiết kế kiến trúc
|
22660
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Design%20Patterns
|
Design Patterns
|
Design Patterns (ISBN 0201633612) là cuốn sách khoa học máy tính đưa ra các giải pháp chuẩn và các quy ước đặt tên cho các vấn đề chung trong thiết kế phần mềm. Các tác giả của cuốn sách là Erich Gamma, Richard Helm, Ralph Johnson và John Vlissides, hay còn được biết đến với các tên "Gang of Four" hay đơn giản là "GoF".
Nửa đầu cuốn sách nói về các định nghĩa của các thiết kế mẫu cho phần mềm và phần còn lại đưa ra một danh sách các mẫu thiết kế thực tiễn có thể dùng lại. Nó có kèm thêm các ví dụ viết bằng C++ và Smalltalk. Dưới đây là danh sách:
Các mẫu tạo lập - Creational patterns
Abstract factory pattern
Builder
Factory method pattern
Prototype
Singleton
Các mẫu cấu trúc - Structural patterns
Adapter
Bridge
Composite
Decorator
Facade
Flyweight
Proxy
Các mẫu hành vi - Behavioral patterns
Chain of responsibility
Command
Interpreter
Iterator
Mediator
Memento
Observer
State
Strategy
Template method
Visitor
Để có thêm thông tin về các mẫu thiết kế trong phần mềm nói chung, xem các mẫu thiết kế trong khoa học máy tính, nó sẽ cung cấp một danh sách đầy đủ hơn về các mẫu thiết kế.
Tham khảo
Sách khoa học máy tính
Mẫu thiết kế phần mềm
Sách năm 1994
|
22662
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Facade%20pattern
|
Facade pattern
|
Trong lập trình hướng đối tượng, facade pattern là một mẫu thiết kế phần mềm nhằm cung cấp một giao diện (interface) đơn giản giúp che giấu phần mã cấu trúc phức tạp phía sau, ví dụ như là một thư viện lớp (class library ). Facade pattern có thể:
Cung cấp một giao diện đơn giản cho việc thực thi nhiều hành vi phổ biến trong một hành vi duy nhất.
Giúp cho một ứng dụng trở nên đơn giản hơn trong việc kiểm soát, thay thế hành vi (method) sử dụng và sử dụng các đặt tên phù hợp để làm cho ứng dụng dễ hiểu hơn;
Giảm sự phụ thuộc của các khối mã bên ngoài với các hành vi tính toán phức tạp trong hệ thống nhằm đạt được sự phụ thuộc lỏng lẻo;
Facade thường được sử dụng trong việc thực thi các cuộc gọi từ xa đòi hỏi tiêu tốn nhiều tài nguyên (thời gian và năng lượng tính toán).
Nó cũng được sử dụng trên 1 hệ thống với nhiều triển khai phức tạp nhằm mục đích ẩn đi sự phức tạp đó, giúp lập trình viên tập trung vào mục đích thay vì hành vi của các chức năng.
Ví dụ
Java
Ví dụ sau đây cung cấp một facade đơn giản hơn trên các hành vi phúc tạp:
/* Complex parts */
class CPU {
public void freeze() { ... }
public void jump(long position) { ... }
public void execute() { ... }
}
class Memory {
public void load(long position, byte[] data) { ... }
}
class HardDrive {
public byte[] read(long lba, int size) { ... }
}
/* Facade */
class ComputerFacade {
private CPU processor;
private Memory ram;
private HardDrive hd;
public ComputerFacade() {
this.processor = new CPU();
this.ram = new Memory();
this.hd = new HardDrive();
}
public void start() {
processor.freeze();
ram.load(BOOT_ADDRESS, hd.read(BOOT_SECTOR, SECTOR_SIZE));
processor.jump(BOOT_ADDRESS);
processor.execute();
}
}
/* Client */
class You {
public static void main(String[] args) {
ComputerFacade computer = new ComputerFacade();
computer.start();
}
}
Xem thêm
Adapter pattern
Mediator pattern
Singleton pattern
Liên kết ngoài
Description from the Portland Pattern Repository
Description by Vince Huston
Tham khảo
Mẫu thiết kế phần mềm
|
22663
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C6%B0ng%20c%E1%BA%A5t%20ph%C3%A1%20h%E1%BB%A7y
|
Chưng cất phá hủy
|
Chưng cất phá hủy là một dạng chưng cất nhằm loại ra và thu hồi riêng các khí và các chất còn lại từ một số chất bằng cách nung nóng nó mà không có mặt không khí. Quá trình này phá vỡ cấu trúc và tạo ra một số chất mới. Đôi khi nó còn được gọi là 'cốc hóa' khi nói đến quá trình nung nóng làm biến đổi than có chứa bitum thành than cốc và các phụ phẩm khác như hắc ín (ở nhiệt độ khoảng 1.000 °C).
Các ví dụ về các chất thông thường hay được sử dụng trong chưng cất phá hủy để chiết ra các hóa chất và các vật liệu khác bao gồm:
Gỗ
Than bao gồm than cám, than bùn v.v
Các ví dụ về các chất được chiết ra bao gồm:
Axít axêtíc
Rượu mêtylic hay rượu gỗ (mêtanol)
Khí than
Hắc ín
Các dạng chưng cất khác còn có:
Chưng cất phân đoạn nhằm thu được các chất có điểm sôi khác nhau trong một hỗn hợp mà không có sự thay đổi hay phá vỡ các chất này.
Chưng cất đơn giản nhằm tách một chất ra khỏi dung dịch của nó.
Thông tin liên quan
Các chất dễ bay hơi trong dầu hắc ín là sản phẩm được tạo ra từ chưng cất phá hủy than có chứa bitum. Chúng chứa các hydrocarbon thơm đa vòng (PNA). Các PNA thăng hoa rất nhanh và sinh ra các hợp chất có khả năng gây ung thư trong môi trường làm việc. Các chứng cứ cho thấy công nhân bị phơi nhiễm trước các sản phẩm của sự cháy hay chưng cất than chứa bitum có nguy cơ bị ung thư cao.
Tham khảo
Chưng cất
|
22664
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Adapter%20pattern
|
Adapter pattern
|
Trong công nghệ phần mềm, Adapter pattern(mẫu thiết kế tiếp hợp) là một mẫu thiết kế tiếp hợp cho phép chuyển đổi một interface có sẵn thành một interface khác thích hợp cho lớp đang viết. Một adapter cho phép các lớp làm việc với nhau, mà bình thường là không thể do sự không tương thích về interfaces, bằng cách bao đóng interface của riêng nó cho phù hợp với một lớp có sẵn.
Có hai loại mẫu điều hợp (adapter pattern):
Loại Object Adapter pattern - Trong loại mẫu adapter pattern này thì adapter chứa một thể hiện của lớp mà nó bao đóng. Trong tình huống này thì adapter sẽ thực hiện việc gọi hàm đến đối tượng thể hiện được bao đóng đó để thực hiện tác vụ cần thiết.
Loại Class Adapter pattern - Loại adapter này dùng đa kế thừa để đạt được mục đích này. Đối tượng adapter này được tạo ra bằng cách kế thừa các interfaces từ cả interface mong đợi và interface đã có sẵn. Đối tượng của mẫu Adapter rất hay được dùng ở các ngôn ngữ phổ biến, như Java, không được hỗ trợ đa kế thừa thực vì các nhà thiết kế các ngôn ngữ này cho rằng chúng là những thói quen không tốt.
Mẫu adapter rất hữu ích trong những tình huống khi tồn tại sẵn một lớp cung cấp một số hay toàn bộ dịch vụ mà bạn cần nhưng không có interface mà bạn cần. Một ví dụ tốt trong cuộc sống thực là một adapter chuyển interface của một Document Object Model từ một tài liệu XML thành một cấu trúc cây mà có thể hiển thị. Một liên kết đến một hướng dẫn sử dụng mẫu thiết kế được liệt kê ở bên dưới.
Ví dụ - Class Adaptor1
/**
* Java code sample
*/
interface Stack
{
void push (Object);
Object pop ();
Object top ();
}
/* DoubleLinkedList */
class DList
{
public void insert (DNode pos, Object o) {... }
public void remove (DNode pos, Object o) {... }
public void insertHead (Object o) {... }
public void insertTail (Object o) {... }
public Object removeHead () {... }
public Object removeTail () {... }
public Object getHead () {... }
public Object getTail () {... }
}
/* Adapt DList class to Stack interface */
class DListImpStack extends DList implements Stack
{
public void push (Object o) {
insertTail (o);
}
public Object pop () {
return removeTail ();
}
public Object top () {
return getTail ();
}
}
Ví dụ - Object Adapter
/**
* Java code sample
*/
interface Stack
{
void push (Object o);
Object pop ();
Object top ();
}
/* DoubleLinkedList */
class DList
{
public void insert (DNode pos, Object o) {... }
public void remove (DNode pos, Object o) {... }
public void insertHead (Object o) {... }
public void insertTail (Object o) {... }
public Object removeHead () {... }
public Object removeTail () {... }
public Object getHead () {... }
public Object getTail () {... }
}
/* Adapt DList class to Stack interface */
class DListStack implements Stack
{
private DList _dlist;
public DListStack() { _dlist = new DList(); }
public void push (Object o) {
_dlist.insertTail (o);
}
public Object pop () {
return _dlist.removeTail ();
}
public Object top () {
return _dlist.getTail ();
}
}
Tham khảo
Liên kết ngoài
Description in Portland Pattern Repository's Wiki
Java Tutorial on the Document Object Model (uses the adapter pattern)
Citations from CiteSeer
https://en.wikipedia.org/wiki/Adapter_pattern
Mẫu thiết kế phần mềm
|
22671
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/D%E1%BA%A1ng%20th%E1%BB%A9c%20b%E1%BA%AFc%20c%E1%BA%A7u
|
Dạng thức bắc cầu
|
Dạng thức bắc cầu (bridge pattern) là một dạng thức thiết kế được dùng trong công nghệ phần mềm.
Dạng thức bắc cầu dùng để "tách riêng tính trừu tượng ra khỏi thực thể của nó để cho cả hai có thể thay đổi một cách độc lập" (Gamma et. al.). Dạng thức bắc cầu dùng tính đóng gói, tính kết hợp, và có thể dùng tính kế thừa để tách riêng việc xử lý (trách nhiệm) giao cho từng lớp khác nhau.
Khi mà các lớp thường xuyên bị thay đổi, thì các đặc tính của lập trình hướng đối tượng trở nên rất hữu ích vì sự thay đổi ở các mã lệnh của chương trình có thể được thực hiện dễ dàng với ít công sức nhất trong việc tìm hiểu toàn bộ chương trình. Dạng thức bắc cầu rất hữu ích khi không chỉ bản thân lớp thay đổi thường xuyên mà ngay cả những công việc mà nó thực hiện cũng thay đổi. Bản thân lớp có thể được xem là một sự trừu tượng và những gì mà lớp đó có thể thực hiện là sự hiện thực.
Khi mà sự trừu tượng và sự hiện thực được tách riêng thì sự thay đổi của mỗi cái là không phụ thuộc nhau. Một ví dụ hay của dạng thức thiết kế bắc cầu trong tác phẩm Design Patterns Explained: A New Perspective on Object-Oriented Design của Shalloway và Trott. Giả sử bạn có một sự trừu tượng, đó là một shapes. Bạn muốn có nhiều loại shapes (i.e.: rectangle, triangle, circle...) và mỗi cái có các thuộc tính riêng nhưng có những điểm chung, đó là những điểm mà mọi shapes đều có thể có. Một trong chúng là mọi shapes có thể tự vẽ (draw) chúng. Tuy nhiên, việc vẽ các hình lên màn hình đôi khi phụ thuộc vào các hiện thực đồ họa (hình dáng của mỗi loại shape) khác nhau và hệ điều hành khác nhau. Bạn muốn các shapes của mình có thể thực hiện thao tác vẽ trên nhiều loại hệ thống nhưng nếu để cho shape tự xử lý toàn bộ hay phải chỉnh sửa từng shape class để phù hợp cho từng kiến trúc khác nhau là không thực tiễn. Dạng thức bắc cầu giúp cho bạn tạo ra các lớp mới có thể cung cấp hiện thực các tác vụ vẽ. Lớp trừu tượng, shape, cung cấp các phương thức để lấy các thông tin kích thước và thuộc tính của một shape trong khi lớp hiện thực, vẽ, cung cấp một giao diện cho các tác vụ vẽ. Bây giờ nếu shape mới cần được tạo ra (một hình bông tuyết chẳng hạn) hay nếu muốn có thể vẽ các hĩnh vẽ của bạn bằng các hàm đồ họa API mới thì chỉ việc thêm một lớp mới để xây dựng (implement) các đặc tính bạn cần.
Cấu trúc
Client
Đối tượng cần dùng dạng thức bắc cầu
Abstraction
định ra một abstract interface
quản lý việc tham chiếu đến đối tượng hiện thực cụ thể (Implementor)
Refined Abstraction
Mở rộng interface mà đã được định ra trong Abstraction
Implementor
định ra các interface cho các lớp hiện thực. (Thông thường thì Abstraction interface định ra các tác vụ ở mức cao dựa trên các hiện thực của interface này.)
ConcreteImplementor
hiện thực Implementor interface
Ví dụ
Java
Chương trình Java sau minh hoạ ví dụ "shapes" đã nói ở trên và đưa ra kết quả:
API1.circle at 1.000000:2.000000 radius 7.500000
API2.circle at 5.000000:7.000000 radius 27.500000
/** "Implementor" */
interface DrawingAPI {
public void drawCircle(double x, double y, double radius);
}
/** "ConcreteImplementor" 1/2 */
class DrawingAPI1 implements DrawingAPI {
public void drawCircle(double x, double y, double radius) {
System.out.printf("API1.circle at %f:%f radius %f\n", x, y, radius);
}
}
/** "ConcreteImplementor" 2/2 */
class DrawingAPI2 implements DrawingAPI {
public void drawCircle(double x, double y, double radius) {
System.out.printf("API2.circle at %f:%f radius %f\n", x, y, radius);
}
}
/** "Abstraction" */
interface Shape {
public void draw(); // low-level
public void resizeByPercentage(double pct); // high-level
}
/** "Refined Abstraction" */
class CircleShape implements Shape {
private double x, y, radius;
private DrawingAPI drawingAPI;
public CircleShape(double x, double y, double radius, DrawingAPI drawingAPI) {
this.x = x; this.y = y; this.radius = radius;
this.drawingAPI = drawingAPI;
}
// low-level i.e. Implementation specific
public void draw() {
drawingAPI.drawCircle(x, y, radius);
}
// high-level i.e. Abstraction specific
public void resizeByPercentage(double pct) {
radius *= pct;
}
}
/** "Client" */
class BridgePattern {
public static void main(String[] args) {
Shape[] shapes = new Shape[2];
shapes[0] = new CircleShape(1, 2, 3, new DrawingAPI1());
shapes[1] = new CircleShape(5, 7, 11, new DrawingAPI2());
for (Shape shape: shapes) {
shape.resizeByPercentage(2.5);
shape.draw();
}
}
}
|
Tham khảo
Mẫu thiết kế phần mềm
|
22683
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Flyweight%20pattern
|
Flyweight pattern
|
Flyweight là một mẫu thiết kế phần mềm. Khi nhiều đối tượng (objects) phải được xử lý mà chương trình không thể chịu nổi một lượng dữ liệu khổng lồ, thì cần dùng flyweight.
Trong mẫu flyweight, dữ liệu không có các con trỏ (pointer) đến các phương thức của kiểu dữ liệu đó, vì như thế sẽ tốn rất nhiều bộ nhớ. Thay vào đó, các chương trình con (subroutine) sẽ được gọi trực tiếp. Trong một vài trường hợp, flyweight inheritance được thực hiện bằng cách "shift-in" và "shift-out" các data markers dưới dạng các chu trình tác vụ ở mức cao (higher-level operation cycles) thông qua một mảng các flyweight data.
Một ví dụ cổ điển của mẫu flyweight là các ký tự được lưu trong một bộ xử lý văn bản (word processor). Mỗi ký tự đại diện cho một đối tượng mà có dữ liệu là loại font (font face), kích thước font, và các dữ liệu định dạng khác. Bạn có thể tưởng tượng là, với một tài liệu (document) lơn với cấu trúc dữ liệu như thế này thì sẽ bộ xử lý văn bản sẽ khó mà có thể xử lý được. Hơn nữa, vì hầu hết dữ liệu dạng này là lặp lại, phải có một cách để giảm việc lưu giữ này - đó chính là mẫu Flyweight. Mỗi đối tượng ký tự sẽ chứa một tham khảo đến một đối tượng định dạng riêng rẽ mà chính đối tượng này sẽ chứa các thuộc tính cần thiết. Điều này sẽ giảm một lượng lớn sự lưu giữ bằng cách kết hợp mọi ký tự có định dạng giống nhau trở thành các đối tượng đơn chỉ chứa tham khảo đến cùng một đối tượng đơn chứa định dạng chung đó.
Cũng có một phiên bản của mẫu này dùng cho cấu trúc XML.
Ví dụ
Java
Chương trình Java sau minh hoạ ví dụ ở trên. Nó sẽ đưa ra kết quả như sau:
CharFactory created only 4 objects for 5 characters!
Printing 'H' in 'Arial' at position 0:0.
Printing 'e' in 'Arial' at position 1:0.
Printing 'l' in 'Arial' at position 2:0.
Printing 'l' in 'Arial' at position 3:0.
Printing 'o' in 'Times' at position 4:0.
import java.util.*;
class GraphicChar {
char c;
String fontFace;
public GraphicChar(char c, String fontFace) { this.c = c; this.fontFace = fontFace; }
public void printAtPosition(int x, int y) { System.out.printf("Printing '%c' in '%s' at position %d:%d.\n", c, fontFace, x, y); }
}
class GraphicCharFactory {
HashMap<String, GraphicChar> pool = new HashMap<String, GraphicChar>(); // the Flyweights
public int getNum() { return pool.size(); }
public GraphicChar get(Character c, String fontFace) {
GraphicChar gc;
String key = c.toString() + fontFace;
if ((gc = pool.get(key)) != null) {
return gc;
} else {
gc = new GraphicChar(c, fontFace);
pool.put(key, gc);
return gc;
}
}
}
class FlyWeightExample {
public static void main(String[] args) {
GraphicCharFactory cf = new GraphicCharFactory();
// Compose the text by storing the characters as objects.
ArrayList<GraphicChar> text = new ArrayList<GraphicChar>();
text.add(cf.get('H', "Arial")); // 'H' and "Arial" are called intrinsic information
text.add(cf.get('e', "Arial")); // because it is stored in the object itself.
text.add(cf.get('l', "Arial"));
text.add(cf.get('l', "Arial"));
text.add(cf.get('o', "Times"));
// See how the Flyweight approach is beginning to save space:
System.out.printf("CharFactory created only %d objects for %d characters.\n", cf.getNum(), text.size());
int x=0, y=0;
for (GraphicChar c: text) { // Passing position as extrinsic information to the objects,
c.printAtPosition(x++, y); // as a top-left 'A' is not different to a top-right one.
}
}
}
Tham khảo
Liên kết ngoài
XML Flyweight Design Pattern
Article "Make your apps fly - Implement Flyweight to improve performance " by David Geary
Article "Enhancing Web Application Performance with Caching" by Neal Ford
Article "The Flyweight Pattern " by Alberto Bar-Noy
Sample Chapter "C# Design Patterns: The Flyweight Pattern " by James W. Cooper
Section "Flyweight Text Entry Fields " from the RIDES Reference Manual by Allen Munro và Quentin A. Pizzini
Examples Design Patterns
Description from Portland's Pattern Repository
Overview
Sourdough Design
Use sharing to support large numbers of fine grained objects efficiently
Structural Patterns - Flyweight Pattern
Class::Flyweight - implement the flyweight pattern in OO perl
ASP.NET Code Sample
Citations from CiteSeer
Các mẫu thiết kế phần mềm
|
22686
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/HK
|
HK
|
Trong tiếng Việt, HK có thể viết tắt cho:
Hoàn Kiếm: quận Hoàn Kiếm và hồ Hoàn Kiếm
Hồng Kông
Hoa Kỳ
Hàng không
Học kỳ
Và hK có thể viết tắt cho:
hêctôkelvin, đơn vị nhiệt độ của SI
Từ viết tắt từ chữ đầu
Danh sách các từ kết hợp từ hai chữ cái
|
22710
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Guanin
|
Guanin
|
Guanine (gua-nin) là một trong năm loại nucleobase chính có trong các axit nuclêic (DNA và RNA). Guanine là một dẫn xuất thuộc nhóm purine và là một tautomer. Nucleoside chứa guanine có hai loại tuỳ theo thành phần đường pentôza (đường 5C) mà nó chứa:
- Nếu đường 5C là ribôza, thì nucleoside gọi là guanosine (gu-a-nô-zin).
- Nếu đường 5C là đêoxyribôza, thì nucleoside gọi là deoxyguanosine (đê-oxy gu-a-nô-zin).
Trong cấu trúc xoắn kép ở DNA và đôi khi ở RNA, guanine tạo thành cặp với cytosine nhờ ba liên kết hiđrô hình thành theo nguyên tắc bổ sung.
Guanine còn là tên gọi của một chất vô định hình màu trắng có trong vây của một số loài cá, trong phân các loài chim biển, trong gan và tụy các loài thú. Đúng ra, tên gọi của loại nucleobase này xuất phát từ thuật ngữ guano, vì nó được phân lập lần đầu từ phân chim (thổ ngữ Quechua Nam Mỹ, huanu - nghĩa là phân động vật).
Trong công nghệ mỹ phẩm, guanine tinh thể được dùng như một gia chất trong nhiều sản phẩm (Ví dụ như thuốc gội đầu), để tạo hiệu ứng lấp lánh như ngọc trai. Nó tạo ra độ bóng sáng cho các sản phẩm để vẽ mắt và sơn móng. Nó có thể kích thích mắt. Ngoài ra nó còn dùng để chế tạo ngọc trai nhân tạo, các hạt nhôm và đồng.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Computational Chemistry Wiki
Purine
Hóa chất mỹ phẩm
Hợp chất carbon
|
22711
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cytosine
|
Cytosine
|
Cytosine (đọc là xi-tô-zin, kí hiệu là C hoặc X) là một trong năm loại nucleobase chính dùng để lưu trữ và truyền đạt thông tin di truyền trong tế bào, cụ thể là trong các nucleic acid DNA và RNA. Là một chất dẫn xuất của pyrimidine, cytosine có một vòng thơm dị gắn với hai nhóm thế (một nhóm amine ở vị trí 4 và một nhóm xeton ở vị trí 2). Nucleoside chứa cytosine gọi là cytidine. Trong các cặp base Watson-Crick, nó tạo 3 liên kết hiđrô với guanine.
Cytosine được khám phá năm 1894 trong mô tuyến ức bê. Cấu tạo phân tử được đề xuất năm 1903, sau đó được tổng hợp trong phòng thí nghiệm (và tái khẳng định) cùng năm.
Gần đây, cytosine còn được dùng trong tin học lượng tử. Lần đầu tiên các đặc tính lượng tử được ứng dụng để xử lý thông tin là vào tháng 8 năm 1998 khi các nhà nghiên cứu tại Oxford bổ sung thuật toán David Deutsch vào 2 qubit NMRQC (Nuclear Magnetic Resonance Quantum Computer - máy tính lượng tử cộng hưởng từ nhân) trên nền tảng phân tử cytosine.
Cytosine có thể được tìm thấy như là một phần của DNA, RNA, hoặc như là một phần của một nucleotide. Như cytosine triphosphate (CTP), nó có thể hoạt động như một yếu tố của enzyme, và có thể chuyển một phosphate để chuyển đổi adenosine diphosphate (ADP) để trở thành adenosine triphosphate (ATP).
Trong DNA và RNA, cytosine bắt cặp với guanine. Tuy nhiên, cytosine có thuộc tính không ổn định, và có thể bị chuyển thành uracil (deamination tự phát). Điều này có thể dẫn đến một đột biến điểm nếu không được sửa chữa bởi enzyme sửa chữa DNA.
Cytosine có thể được methyl hóa thành 5-methylcytosine bởi enzymes DNA methyltransferase.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Cytosine MS Spectrum
— 4-amino-3H-pyrimidin-2-one
— 4-aminopyrimidin-2-ol
Computational Chemistry Wiki
Prebiotic cytosine synthesis: A critical analysis and implications for the origin of life
Pyrimidine
Amin
Hợp chất carbon
Gen theo nhiễm sắc thể ở người
|
22719
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A1c%20B%E1%BA%A3n%20Gi%E1%BB%91c
|
Thác Bản Giốc
|
Thác Bản Giốc, Trung Quốc gọi là cặp thác Đức Thiên-Bản Ước (), là một nhóm thác nước nằm trên sông Quây Sơn tại biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc. Nếu nhìn từ phía dưới chân thác, phần thác bên trái và nửa phía tây của thác bên phải thuộc chủ quyền của Việt Nam tại xã Đàm Thủy, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng; nửa phía đông của thác bên phải thuộc chủ quyền của Trung Quốc tại thôn Đức Thiên, trấn Thạc Long, huyện Đại Tân, thành phố Sùng Tả của khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây. Thác nước này cách huyện lỵ Trùng Khánh khoảng 20 km về phía đông bắc, cách thủ phủ Nam Ninh của Quảng Tây khoảng 208 km.
Tổng quan
Theo quan điểm của Trung Quốc thì thác chính và thác phụ là hai thác riêng biệt, thác chính (Đức Thiên) có chiều rộng 100 m, độ sâu 60 m và độ cao là 70 m. Theo quan điểm của phía Việt Nam, thác Bản Giốc bao gồm cả thác chính và phụ với tổng chiều rộng là 208 m. Thác Bản Giốc được chia thành hai phần, phần ở phía Nam gọi là thác Cao, đây là thác phụ vì lượng nước không lớn. Thác Thấp là thác chính nằm ở phía Bắc trên biên giới Việt Trung.
Thác Bản Giốc là thác nước lớn thứ tư thế giới trong các thác nước nằm trên một đường biên giới giữa các quốc gia (Sau thác Iguazu giữa Brasil - Argentina, thác Victoria nằm giữa Zambia - Zimbabwe; và thác Niagara giữa Canada và Hoa Kỳ). Tuy nhiên, theo Tân Hoa xã thì thác Bản Giốc là thác xuyên quốc gia lớn thứ hai trên thế giới. Thác Bản Giốc là thác nước tự nhiên lớn nhất khu vực Đông Nam Á.
Du lịch
Thác Bản Giốc là một thắng cảnh du lịch nổi tiếng, từng được Tạp chí Địa lý Quốc gia Trung Quốc bình chọn là một trong sáu thác nước đẹp nhất Trung Quốc vào năm 2005. Ngoài ra, Nhân dân Nhật báo và Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc cũng đã đánh giá thác Bản Giốc là một trong mười thác nước đẹp nhất Trung Quốc. Thác Bản Giốc cũng đã đi vào nghệ thuật tạo hình với những tác phẩm hội họa và nhiếp ảnh đặc sắc. Ngoài giá trị du lịch và nghệ thuật, thác cũng có tiềm năng thủy điện. Ngoài ra, tại Việt Nam, cũng có nhận định cho rằng thác Bản Giốc là thác nước đẹp nhất của quốc gia. Theo thống kê của Sở Văn hóa - Thể thao - Du lịch của tỉnh Cao Bằng, mỗi năm Việt Nam có khoảng 30.000 người đến thăm Bản Giốc, còn phía Trung Quốc đón gần 1 triệu lượt người.
Thắng cảnh văn hóa
Chùa Phật Tích Trúc Lâm Bản Giốc - ngôi chùa đầu tiên được xây dựng ở nơi biên cương phía Bắc của Tổ quốc được UBND tỉnh Cao Bằng phê duyệt xây dựng. Tháng 6/2013, Chùa Phật Tích Trúc Lâm Bản Giốc được khởi công tại núi Phia Nhằm cách thác Bản Giốc 500m. Các hạng mục của chùa Phật Tích Trúc Lâm Bản Giốc như Tam quan chùa, lầu tượng Bồ Tát, Tam bảo, nhà tổ... được xây dựng theo phong cách kiến trúc Phật giáo truyền thống Việt Nam. Tại đây còn có đền thờ vị anh hùng Nùng Trí Cao - một nhân vật, biểu tượng Văn hoá thế kỷ XI tại Cao Bằng. Công trình được xây dựng trên diện tích 2 ha với kinh phí khoảng 38 tỷ đồng, chủ yếu từ nguồn xã hội hóa do Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam huy động, các tập đoàn và các nhà hảo tâm đóng góp và tài trợ.
Thủy lưu
Thác Bản Giốc nằm trên dòng chảy của sông Quây Sơn (sông Quy Xuân, Quy Xuân hà - 歸春河). Sông này bắt nguồn từ Trung Quốc, chảy về hướng biên giới hai nước rồi vào lãnh thổ Việt Nam tại Pò Peo thuộc xã Ngọc Khê, huyện Trùng Khánh. Từ xã Ngọc Khê, sông chảy qua các xã Đình Phong, Chí Viễn, khi đến xã Đàm Thủy, dòng sông lượn quanh dưới chân núi Cô Muông rồi qua các cánh đồng của Đàm Thủy, qua bãi ngô trên bản Giốc, quay trở lại đường biên giới rồi tách ra thành nhiều nhánh. Lòng sông ở đó đột ngột trụt xuống khoảng 35 m, tạo thành thác Bản Giốc. Sau khi đổ xuống chân thác, sông quay hẳn vào lãnh thổ Trung Quốc.
Giữa thác có một mô đất rộng phủ đầy cây, xẻ dòng sông thành ba luồng nước. Vào những ngày nắng, làn hơi nước bắn ra từ thác tạo thành cầu vồng. Dưới chân thác là mặt sông rộng với hai bên bờ là những thảm cỏ và vạt rừng. Cách thác khoảng hơn 5 km có động Ngườm Ngao, dài 3 km.
Ở giữa thác chính là cột mốc biên giới Việt-Trung. Cột mốc này được xác định qua hiệp ước về biên giới giữa hai nước năm 1999 là cột mốc 53 do Pháp - Thanh xây dựng. Theo hiệp ước 1999, phần thác phụ hoàn toàn thuộc về Việt Nam, phần thác chính chia đôi.
Phía thượng nguồn theo đường sông Quây Sơn cỡ 4,5 km đã xây dựng Thủy điện Bản Rạ , công suất lắp máy 18 MW với 3 tổ máy, hoàn thành tháng 4/2012. Thủy điện chặn dòng ở bản Rạ và trả nước về sông ở bản Gun, bỏ lại chừng 3 km sông mất nước.
Vấn đề chủ quyền
Có dư luận cho rằng toàn bộ hai phần thác Bản Giốc vốn thuộc về Việt Nam và đã bị mất cho Trung Quốc. Về điều này, Thứ trưởng Bộ ngoại giao Việt Nam Vũ Dũng khẳng định rằng thông tin đó hoàn toàn không có cơ sở, vì Công ước Pháp-Thanh 1887 và Hiệp định 1999 đều quy định đường biên giới khu vực này chạy theo trung tuyến dòng chảy sông Quế Sơn (Quây Sơn), lên thác và tới mốc 53 phía trên. Nghĩa là, phần thác phụ hoàn toàn nằm bên phía Việt Nam, phần thác chính có một phần thuộc Trung Quốc.
Trong Biên bản phân giới cắm mốc giữa Pháp và nhà Thanh ngày 31/5/1892 ghi rõ "Từ điểm này, đường biên giới chạy theo chính giữa (trung tuyến) dòng sông cho đến thác Ta Tung". Do cùng căn cứ vào lời văn mô tả này nên khi vẽ đường biên giới chủ trương Việt Nam và Trung Quốc đều vẽ trùng nhau, từ giữa dòng sông Quây Sơn đến chính giữa ngọn thác chính. Hai bên chỉ tranh chấp ở phần phía trên đỉnh thác, nơi có hai dòng chảy ôm lấy cồn Pò Đon (Pò Thoong) mà cả Việt Nam lẫn Trung Quốc đều muốn nhận là lãnh thổ của mình. Nguyên nhân tranh chấp là do trong Công ước Pháp Thanh 1887 và 1895, cùng những biên bản bản đồ kèm theo không mô tả cụ thể khu vực này. Cuối cùng, năm 2008, Việt Nam và Trung Quốc đồng ý đường biên giới từ mốc 53 cũ đi qua cồn Pò Thoong, rồi đi tiếp đến chính giữa mặt thác chính của thác Bản Giốc, sau đó đi theo trung tuyến của dòng chảy chính của sông Quây Sơn. Như vậy, 1/2 thác chính của Bản Giốc cùng toàn bộ phần thác phụ và một 1/4 cồn Pò Thoong thuộc về Việt Nam, trong khi nếu theo nguyên tắc quốc tế thì toàn bộ cồn này phải thuộc về Trung Quốc vì dòng chảy chính nằm về phía Việt Nam.
Nhiều người nghi ngờ Việt Nam nhường thác cho Trung Quốc đã viện dẫn các tư liệu lịch sử, văn học, sách giáo khoa, thậm chí cả Sách Trắng của Bộ Ngoại giao công bố vào những năm 1970 để khẳng định rằng toàn bộ thác Bản Giốc là của Việt Nam. Nhưng những tư liệu mà họ nêu ra lại không phải là bộ phận của Công ước Pháp-Thanh 1887, Công ước Pháp-Thanh 1895 mà Việt Nam và Trung Quốc lấy làm căn cứ pháp lý duy nhất để đàm phán xác lập đường biên giới mới.
Truyền thông
Ngày 22/2/2011 báo Lao động đăng bài "Thác nước Detian - thiên đường chốn hạ giới", ca ngợi vẻ đẹp của thác Bản Giốc, nhưng nói đây là "cảnh quan thiên nhiên" của Trung Quốc, nằm ở "thị trấn Thạc Long, huyện Đại Tân, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc".
Ngày 26/2/2011, Ban Tuyên giáo Trung ương có công văn đề nghị cơ quan chủ quản báo Lao động kiểm điểm, xử lý người sai phạm trong vụ việc trên.
Hình ảnh
Chú thích
Liên kết ngoài
Du lịch Cao Bằng
Hình Chụp Thác Bản Giốc
Thứ trưởng Ngoại giao Vũ Dũng: Hoàn thành phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc là nguyện vọng chung và lợi ích lớn của nhân dân hai nước Bộ Ngoại giao VN
Thác nước Trung Quốc
Du lịch Cao Bằng
Địa lý Cao Bằng
Sùng Tả
Biên giới Việt Nam-Trung Quốc
Địa mạo Quảng Tây
Địa mạo Cao Bằng
Điểm tham quan ở Cao Bằng
Điểm tham quan ở Quảng Tây
|
22720
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Titani
|
Titani
|
Bài này nói về một nguyên tố hóa học. Xem các nghĩa khác, ví dụ như vệ tinh Titan của Sao Thổ, từ titan (định hướng)
Titani hay titanium là một nguyên tố hóa học, một kim loại, có ký hiệu là Ti và số thứ tự trong bảng tuần hoàn là 22. Titani là một kim loại chuyển tiếp có màu trắng bạc, tỉ trọng thấp và độ bền cao. Titani không bị ăn mòn trong nước biển, nước cường toan và chlor.
Titani được William Gregor phát hiện ở Cornwall, Anh năm 1791, và nó được Martin Heinrich Klaproth đặt tên theo tên titan trong thần thoại Hy Lạp. Nguyên tố xuất hiện trong các tích tụ khoáng sản, chủ yếu ở dạng rutil và ilmenit, các khoáng này phân bố rộng khắp trong vỏ Trái Đất và thạch quyển, và nó cũng được tìm thấy trong hầu hết các sinh vật sống, vực nước, đá, và đất. Kim loại được tách ra từ các quặng chính của titani bằng phương pháp Kroll và công nghệ Hunter. Hợp chất phổ biến nhất là titani dioxide là một chất quang xúc tác phổ biến và được sử dụng trong công nghiệp sản xuất chất tạo màu trắng. Các hợp chất khác gồm titani tetrachloride (TiCl4), thành phần của smoke screens and catalysts; và titani trichloride (TiCl3), được dùng làm chất xúc tác trong sản xuất polypropylen.
Titani được dùng trong các hợp kim cứng và nhẹ (đặc biệt là với sắt và nhôm) được ứng dụng trong các động cơ phản lực, tên lửa hành trình, và phi thuyền, quân đội, quy trình công nghiệp (hóa học và hóa dầu, nhà máy lọc nước biển và giấy), hệ tự động, thực phẩm nông nghiệp, bộ phận giả trong y học, cấy chỉnh hình, chân răng nhân tạo (dental implant), thiết bị nội nha, đồ thể thao, trang sức, điện thoại di động, và các ứng dụng khác.
Hai tính chất được ứng dụng nhiều nhất ở dạng kim loại là chống ăn mòn và tỉ lệ độ bền-tỉ trọng cao nhất trong tất cả các nguyên tố kim loại. Ở dạng không tạo hợp kim, titani bền như thép, nhưng nhẹ hơn. titani có dạng thù hình và 5 đồng vị tự nhiên 46Ti đến 50Ti, với 48Ti là loại phổ biến nhất (73,8%). Mặc dù chúng có cùng số electron hóa trị và cùng nhóm trong bảng tuần hoàn, titani và zirconi khác nhau nhiều điểm về tính chất hóa học và vật lý.
Đặc điểm
Vật lý
Titani là kim loại nhẹ, cứng nhất trong hầu như các kim loại, bề mặt bóng láng, chống ăn mòn tốt (giống như platin). Nó có thể chống ăn mòn kể cả với acid, khí clo và với các dung dịch muối thông thường.
Ở trạng thái tinh khiết, titani có thể được kéo sợi dễ dàng (nhất là trong môi trường không có oxy), dễ gia công. Nhiệt độ nóng chảy của titani tương đối cao nên nó được dùng làm kim loại chịu nhiệt. titani cứng như thép nhưng nhẹ hơn 40%, và nó nặng gấp rưỡi nhôm nhưng cứng gấp sáu lần. Những đặc tính này của titani giúp nó chịu đựng được sự mỏi kim loại.
Là nguyên tố kim loại, titani được xem là có tỉ số tỷ trọng-độ bề cao. Nó là kim loại bền có tỉ trọng thấp, khá dẻo (đặc biệt trong môi trường không có oxy), lustrous, and metallic-white in color. Điểm nóng chảy tương đối cao (trên 1.650 °C hay 3.000 °F) nên nó rất hữu ích trong vật liệu chịu lửa và độ dẫn điện và dẫn nhiệt tương đối thấp.
Titani thương mại (tinh khiết 99,2%) có độ bền kéo khoảng 434 MPa tương đương hợp kim thép cấp thấp, nhưng mật độ thấp hơn. titani có mật độ lớn hơn nhôm 60%, nhưng bền gấp đôi so với loại hợp kim nhôm thường được sử dụng là hợp kim nhôm 6061. Các hơp kim titani (như Beta C) có độ bền kéo hơn 1400 MPa (200000 psi).
Tuy nhiên, titani giảm độ bền khi nung trên .
Kim loại này tạo một lớp oxide bảo vệ bên ngoài (nên nó có thể chống ăn mòn) trong không khí ở nhiệt độ cao nhưng ở nhiệt độ phòng nó chống lại sự xỉn màu. Kim loại này khi được đốt ở 610 °C hoặc cao hơn trong không khí sẽ tạo thành titani dioxide, và nó cũng là một trong những kim loại có thể cháy trong khí nitơ tinh khiết (nó cháy ở 800 °C và tạo thành titani nitrit). titani cũng không bị tan trong acid sulfuric và dung dịch acid hydrochloric, cũng như khí chlor, nước chlor và hầu hết acid hữu cơ. Nó cũng thuận từ (ít hấp dẫn bởi nam châm) và ít dẫn điện và dẫn nhiệt.
Thực nghiệm cho thấy titani tự nhiên trở nên có tính phóng xạ sau khi bắn deuteri, phát ra chủ yếu hạt positron và tia gamma. Khi nóng đỏ, nó có thể kết hợp với oxy, và khi đạt tới 550 °C nó có thể kết hợp với chlor. Nó có thể phản ứng với các halogen và hấp thụ hydro.
Xuất hiện trong tự nhiên
Titani kim loại không tìm thấy ở dạng tự do nhưng nó là nguyên tố phổ biến thứ 9 trên vỏ Trái Đất (chiếm 0,63% khối lượng), nó xuất hiện trong hầu hết đá lửa và đá trầm tích. Trong 801 loại đá mácma được phân tích thì có đến 784 loại là chứa titani. Tỷ lệ của nó trong đất khoảng 0,5 đến 1,5%. Nó cũng được phân bố rộng khắp và hiện diện chủ yếu trong khoáng vật anatas, brookit, ilmenit, perovskit, rutil, titanit (hay còn gọi là sphen), cũng như trong nhiều quặng sắt. Trong các loại khoáng vật này, chỉ có ilmenit và rutil có giá trị kinh tế quan trọng, nhưng rất khó tìm với mức độ tập trung cao, theo thứ tự là 6,0 và 0,7 triệu tấn được khai thác trong năm 2011. Các mỏ ilmenit chứa titani đáng kể phân bố ổ tây Úc, Trung Quốc, Ấn Độ, Mozambique, New Zealand, Na Uy, Ukraine và Nam Phi. Khoảng 186.000 tấn titani kim loại được sản xuất năm 2011, chủ yếu ở Trung Quốc (60.000 tấn), Nhật Bản (56.000 tấn), Nga (40,000 tấn), Hoa Kỳ (32.000 tấn) và Kazakhstan (20.700 tấn). Tổng trữ lượng titani ước tính hơn 600 triệu tấn.
Nồng độ Ti khoảng 4 picomolar trong đại dương. Ở 100 °C, nồng độ titani trong nước ước tính khoảng dưới 10−7 M với pH 7. Việc xác định loại titani trong dung dịch vẫn còn chưa sáng tỏ do tính tan của nó thấp và thiếu các phương pháp quang phổ hiển vi nhạy cảm để xác định, mặc dù chỉ trạng thái oxy hóa 4+ là ổn định trong không khí. Không có bằng chứng về vai trò sinh học của titani, mặc hiếm sinh vật được biết là có tích tụ nồng độ cao.
Kim loại này được tìm thấy trong thiên thạch và cũng đã được tìm thấy trong Mặt Trời và trong các ngôi sao loại M, là các sao lạnh nhất với nhiệt độ bề mặt . Đá từ Mặt Trăng do tàu vũ trụ Apollo 17 mang về chứa 12,1% TiO2. titani cũng được tìm thấy trong tro than, cây và cả trong cơ thể con người.
Đồng vị
Trong tự nhiên, titani có 5 đồng vị bền: Ti-46, Ti-47, Ti-48, Ti-49 và Ti-50 với Ti-48 là phổ biến nhất (chiếm 73,8%). 11 đồng vị phóng xạ được nhận biết với Ti-44 là bền nhất với chu kỳ bán rã là 63 năm, Ti-45 với chu kỳ bán rã là 184,8 phút, Ti-51 với chu kỳ bán rã 5,76 phút, và Ti-52 với chu kỳ bán rã 1,7 phút. Tất cả đồng vị phóng xạ còn lại có chu kỳ bán rã dưới 33 giây và có loại ít hơn ½ giây.
Các đồng vị của titani có phân tử lượng 39,99 đơn vị (amu) (Ti-40) tới 57,966 amu (Ti-58). Cơ chế phân rã chủ yếu trước đổng vị bền phổ biến nhất 48Ti, là bắt electron và cơ chế phân rã chủ yếu sau là phát xạ beta. Sản phẩm phân rả chính trước 48Ti là các đồng vị 21 (scandi) và các sản phẩm phân rã sau là các đồng vị 23 (vanadi).
Titani có tính phóng xạ khi bị bắn phá bẳng deuteron, phát ra chủ yếu là positron và các tia gamma mạnh.
Lịch sử
Titani được phát hiện ở dạng bao thể trong một khoáng vật ở Cornwall, Vương quốc Anh, năm 1791 bởi nhà địa chất học và linh mục William Gregor, sau này là Creed. Ông đã nhận ra sự có mặt của nguyên tố mới trong ilmenit (FeTiO3) và đặt tên nó là menachit khi ông thấy cát đen trong một dòng suối ở gần Manaccan và phát hiện rằng loại cát này có thể bị nam châm hút. Khi phân tích cát, ông xác định được sự hiện diện của 2 oxide kim loại là sắt oxide (giải thích cho việc hút nam châm) và 45,25% một oxide kim loại mà ông chưa thể xác định. Nhận thấy rằng oxide chưa xác định được chứa một kim loại mà không thể khớp với bất kỳ nguyên tố nào đã biết, Gregor đã thông báo rằng các phát hiện của ông đến Hiệp hội địa chất hoàng gia Cornwall (Royal Geological Society of Cornwall) và tạp chí khoa học Đức Crell's Annalen.
Cùng khoảng thời gian đó, Franz Joseph Muller cũng tạo ra một chất tương tự, nhưng không thể xác định nó. Nguyên tố được phát hiện lại một cách độc lập nhiều năm sau bởi nhà hóa học người Đức Martin Heinrich Klaproth trong quặng rutil ở Boinik, thuộc Hungary (nay ở Slovakia). Klaproth xác nhận nó là nguyên tố mới vào năm 1795 và đặt tên cho nó là titani. Sau khi nghe về phát hiện trước đó của Gregor, ông đã lấy mẫu manaccanit và xác nhận nó chứa titani.
Titani được lấy từ tên thần titani, các con của Gaia và Uranus.
Kim loại này luôn khó tách ra được từ các quặng của nó. titani kim loại tinh khiết (99,9%) được tách ra lần đầu vào năm 1910 bởi Matthew A. Hunter bằng cách nung TiCl4 với natri trong bom thép ở 700–800 °C bằng quy trình Hunter. titani kim loại chưa được dùng bên ngoài phòng thí nghiệm cho đến năm 1946 khi William Justin Kroll chứng minh là titani có thể sản xuất thương mại bằng cách khử titani tetrachlor với magnesi bằng quy trình Kroll và phương pháp này vẫn còn dùng đến ngày nay.
Trong thập niên 1950–1960, Liên Xô mua hết titani trên thị trường thế giới như là một chiến thuật của Chiến tranh Lạnh nhằm ngăn cản quân đội Mỹ sử dụng nó. Mặc dầu vậy, Mỹ cũng có được một lượng lớn titani khi các công ty châu Âu mở mặt trận cho tình báo Mỹ mua nó.
Sản xuất
Các quy trình sản xuất titani hiện hay được sử dụng:
Quy trình Kroll được phát triển vào năm 1946
Quy trình FFC Cambridge
Quy trình van Arkel deBoer sản xuất lượng nhỏ titani với độ tinh khiết rất cao
titani dioxide được sản xuất thương mại bằng nghiền quặng và trộn với kali carbonat và dung dịch acid hydrofluoric. Kết quả thu được kali florotitaniat (K2TiF6). Nó được tách ra với nước nóng và thủy phân với acid phosphoric
Hợp kim titani thông dụng thường được sản xuất bằng phương pháp khử. Thí dụ: cuprotitanium (rutil và đồng bị khử), ferrocarbon titanium (ilmenit khử với than cốc trong lò nung điện), và manganotitanium (rutil với mangan hoặc mangan oxide bị khử).
Hợp chất
Số oxy hóa +4 chiếm đa số trong các hợp chất của titani, nhưng số oxy hóa +3 cũng khá phổ biến. Vì có số oxy hóa cao, nhiều hợp chất của titani có mức độ cộng hóa trị cao.
Mặc dù titani là kim loại khá hiếm, vì giá thành sản xuất cao, nhưng titani dioxide (còn gọi là titani(IV), titani trắng, hay titania) lại rẻ, không độc, có sẵn nhiều, và được dùng rộng rãi làm thuốc nhuộm trắng trong sơn, men, sơn mài, nhựa và xi măng xây dựng. Bột TiO2 là chất trơ về mặt hóa học, chống mờ trước ánh sáng mặt trời, chắn sáng tốt: nó là thành phần chính của nhựa gia dụng có màu từ trắng tới nâu, xám. Trong tự nhiên hợp chất này được tìm thấy trong các khoáng chất anatas, brookit và rutil.
Sơn được sản xuất từ titani dioxide chịu đựng tốt trong nhiều nhiệt độ, và có khả năng tự làm sạch, và chịu được điều kiện môi trường biển. titani dioxide có độ khúc xạ cao và độ tán sắc lớn hơn kim cương.
Ứng dụng
Khoảng 95% lượng titani được dùng ở dạng titani dioxide (TiO2), một thuốc nhuộm trắng trong sơn, giấy, kem đánh răng và nhựa. Sơn được làm từ titani dioxide phản chiếu tốt bức xạ hồng ngoại nên được dùng rộng rãi trong ngành thiên văn học và các loại sơn bên ngoài. Nó cũng được dùng trong xi măng, đá quý và giấy.
Vì có khả năng kéo dãn tốt (kể cả khi nhiệt độ cao), nhẹ, chống ăn mòn tốt, và khả năng chịu đựng nhiệt độ rất cao, hợp kim titani được dùng chủ yếu trong hàng không, xe bọc thép, tàu hải quân, tàu vũ trụ và tên lửa,áo chống đạn loại mà lính Mỹ được trang bị ở Iraq. Nó được dùng trong hợp kim thép để giảm kích thước và chống oxy hóa; nhưng trong thép không gỉ nó dùng để giảm lượng carbon. titani thường được luyện với nhôm, vanadi, đồng (để tăng độ cứng), sắt, mangan, molypden và với nhiều kim loại khác.
Hợp kim với vanadi được dùng làm vỏ máy bay, vỏ chịu nhiệt, càng đáp, và ống dẫn hơi nước. Báo cáo của titanium Metals Corporation năm 2004 ước đoán lượng titani trong hàng không hiện đại là 58, 43 và 18 tấn cho máy bay Boeing 777, 747 và 737; còn đối với máy bay Airbus là 24, 17 và 12 tấn cho các loại A340, A330 và A320. Nói chung, các loại càng mới thì dùng càng nhiều và các loại thân rộng dùng nhiều nhất. Với các loại máy bay hiện đại nhất, Boeing 787 có thể dùng 91 tấn, và Airbus A380 dùng 77 tấn. Động cơ dùng khoảng 10-11 tấn titani.
Nhiều sản phẩm khác cũng dùng titani để chế tạo như gậy đánh golf, xe đạp, dụng cụ thí nghiệm, nhẫn cưới và máy tính xách tay.
Các công dụng khác:
Do chống ăn mòn tốt với nước biển, titani được dùng làm chân vịt và nơi trao đổi nhiệt trong các máy lọc nước mặn.
Dùng để sản xuất các loại đá quý mềm nhân tạo.
Titani tetrachlor (TiCl4), dung dịch không màu, được dùng làm kính ngũ sắc; nó cũng tạo khói khi gặp không khí ẩm nên được dùng làm chất tạo khói.
Titani dioxide (TiO2) cũng được dùng làm thuốc chống nắng.
Do được xem như trơ về mặt sinh học, nó được dùng làm các khớp giả, các dụng cụ y tế và các ống dẫn trong chế biến thực phẩm.
Hợp kim titani được dùng làm gọng kính. Loại gọng này khá đắt tiền, nhưng nó rất bền. Cả hai loại hợp kim bình thường và hợp kim nhớ vị trí (tiếng Anh shape memory alloy) đều được sử dụng để chế tạo.
titani đôi khi cũng được dùng để xây dựng các công trình. Tượng đài cao 45 m của Yuri Gagarin ở Moskva được làm từ titani. Bảo tàng Guggenheim và thư viện Cerritos là những công trình đầu tiên ở châu Âu và Bắc Mỹ được bao bọc bởi các tấm titani.
Xử lý sinh học
Loài nấm Marasmius oreades và Hypholoma capnoides có thể chuyển đổi sinh học titani trong đất bị nhiễm titani.
Chống chỉ định
Titani không độc hại thậm chí khi ở liều lượng lớn và không có bất cứ vai trò tự nhiên nào trong cơ thể người. Nếu ăn một lượng khoảng 0,8 mg mỗi ngày, chúng hầu hết đi qua mà không hấp thụ trong các tế bào. Tuy nhiên, titani cũng có khuynh hướng tích lũy sinh học trong các mô chứa silic dioxide. Một nghiên cứu chỉ ra rằng có mối liên hệ có thể giữa titani và hội chứng vàng móng tay. Cơ chế chưa rõ trong thực vật có thể sử dụng titani để kích thích việc sản xuất carbohydrat và giúp chúng phát triển. Điều này có thể giải thích tại sao hầu hết thực vật chứa khoảng 1 ppm titani, cây lương thực có khoảng 2 ppm, đuôi ngựa và cây tầm ma chứa tới 80 ppm.
Khi ở dạng bột kim loại, titani có nguy cơ cháy cao, và khi nung nóng trong không khí thì có nguy cơ nổ. Phương pháp chữa cháy bằng nước và carbon dioxide không hiệu quả đối với vụ cháy do titani. Cát, đất, hoặc bột đặc biệt mới có thể dập tắt. Khi sử dụng trong sản xuất hoặc vận chuyển chlor, tránh sự tiếp xúc giữa titani với khí chlor khô vì nó có thể gây cháy titani/chlor. Muối của titani thường được xem như vô hại trừ các loại muối chloride, như TiCl3 và TiCl4, nó được xem như chất ăn mòn.
Titani có thể bắt lửa ở dạng tươi, tức bề mặt không bị oxy hóa khi tiếp xúc với oxy lỏng. Kim loại thường có thể lộ ra khi bề mặt oxy hóa bị trầy xước với vật cứng, hoặc khi bị tác dụng lực gây trầy. Điều này thể hiện sự hạn chế trong việc sử dụng nó trong hệ thống oxy lỏng như trong công nghiệp vũ trụ. Do tính không tinh khiết của các ống titani có thể gây ra các đám cháy khi tiếp xúc với oxy, titani bị cấm sử dụng trong các hệ thống hỗ trợ hô hấp cung cấp khí oxy, ống thép được sử dụng trong hệ thống áp lực cao (3.000 p.s.i.) và ống nhôm cho hệ thống áp lực thấp.
Khai thác titani ở Việt Nam
Việt Nam có trữ lượng quặng phân tách được titani chiếm khoảng 50% thế giới, hiện tại được khai thác ở hai mỏ gồm mỏ Cây Châm thuộc tỉnh Thái Nguyên và vùng ven biển tỉnh Bình Thuận. Dưới sự quản lý lỏng lẻo, việc khai thác quặng đã gây ra nhiều hậu quả môi trường nghiêm trọng cho những vùng xung quanh (đặc biệt là ô nhiễm nguồn nước).
Chú thích
Tham khảo
Los Alamos National Laboratory – titanium
Guide to the Elements – Revised Edition, Albert Stwertka, (Oxford University Press; 1998) ISBN 0-19-508083-1
The History and Use of Our Earth's Chemical Elements: A Reference Guide, Robert E. Krebs (Greenwood Press: Westport, CT, 1998) ISBN 0-313-30123-9
"titanium" Encyclopædia Britannica from Encyclopædia Britannica Premium Service. [Accessed ngày 23 tháng 1 năm 2005].
"titanium" The Columbia Electronic Encyclopedia, 6th ed [Accessed ngày 23 tháng 1 năm 2005]
"titanium," Microsoft Encarta Online Encyclopedia 2005 [Accessed ngày 24 tháng 1 năm 2005]
USGS titanium Statistics and Information
Nature, Vol 407, 21 Sept 2000
Liên kết ngoài
(bằng tiếng Việt)
Sản xuất oxide titani
(bằng tiếng Anh)
WebElements.com – titanium (also used as a reference)
Metallurgy of titanium and its Alloys, Cambridge University
World Production of titanium Concentrates, by Country
Nguyên tố hóa học
Kim loại chuyển tiếp
Vật liệu sinh học
|
22725
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nucleobase
|
Nucleobase
|
''Nucleobase thường được gọi tắt là base, về các nghĩa khác của base, xem thêm ở base (định hướng)
Nucleobase (nuclêôbase) là thành phần cấu tạo nên axit nucleic, còn gọi là base của axit nucleic (nucleic acid base) để phân biệt với các loại base khác.
Trong tiếng Việt, thuật ngữ "nucleobase" thường được gọi là "base nitơ".
Axit nucleic là đa phân tử sinh học, cấu tạo theo nguyên tắc đa phân, trong đó mỗi đơn vị tạo nên nó gọi là nucleotide. Mỗi nucleotide do ba phân tử khác nhau hợp thành:
- nucleobase (base nitơ), thường gặp năm loại kí hiệu là A, G, T, U và X;
- pentôza (đường 5C);
- gốc phôtphat (từ H3PO4).
Trong mỗi phân tử axit nuclêic (DNA và RNA), các nucleobase có thể bắt cặp với nhau từng đôi một theo nguyên tắc bổ sung. Năm loại nucleobase thường gặp nhất là cytosine, guanine, adenine, thymine và uracil (trong đó thymine chỉ có trong DNA còn uracil chỉ có trong RNA).
Uracil thế chỗ của thymine trong RNA. Hai base này gần giống hệt nhau, chỉ khác ở chỗ uracil thiếu nhóm methyl ở vị trí 5'. Adenine và guanine thuộc nhóm các phân tử có vòng đôi gọi là các purine (viết tắt là R). Cytosine, thymine, và uracil cả ba đều là các pyrimidine (viết tắt là Y).
Nucleoside là phân tử gồm một nucleobase liên kết đồng hóa trị vào vị trí cacbon 1' của một ribose hay một deoxyribose, khi nucleoside liên kết với một hay nhiều nhóm phosphate ở vị trí 5', nó tạo ra phân tử nucleotide.
Các nucleotide cũng thường được gọi ngắn gọn là các base.
Xem thêm
Nucleoside
Nucleotide
DNA
RNA
Tham khảo
Liên kết ngoài
Các cặp base trong chuỗi xoắn kép DNA (các liên kết hiđrô đặc hiệu)
DNA
RNA
|
22726
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/VDC
|
VDC
|
VDC, tên đầy đủ là Công ty Điện toán và Truyền số liệu (Vietnam Datacommunication Company) là một công ty hoạt động trong lĩnh vực công nghệ thông tin và viễn thông ở Việt Nam.
Công ty này trực thuộc Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT). Nó có trụ sở tại Nhà Internet, Lô 2A, Làng Quốc tế Thăng Long, phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, Hà Nội, và có ba chi nhánh lớn đặt trên Việt Nam (VDC1 phía Bắc, VDC2 phía Nam và VDC3 ở miền Trung và Tây Nguyên).
VDC là một nhà cung cấp dịch vụ Internet tại Việt Nam.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang chủ của VDC
Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam
Từ viết tắt từ chữ đầu
|
22727
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Base%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
Base (định hướng)
|
Base có thể là:
Khoa học kỹ thuật
base: các chất có đặc tính là nhận proton (H+), hoặc tạo ra OH- trong dung dịch có dung môi nước.
Cực Base hay cực gốc hay cực nền, là một cực của transistor.
Lối nói và viết tắt phổ biến của các nucleobase.
, một phần tử HTML
Văn học nghệ thuật
Ace of Base là một ban nhạc pop đến từ thành phố Göteborg, Thụy Điển.
|
22731
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Adenin
|
Adenin
|
Adenine (a-đê-nin) là một trong hai loại nucleobase thuộc nhóm purine là thành phần tạo nên các nucleotide trong các nucleic acid (DNA và RNA). Trong chuỗi xoắn kép DNA, thì adenine (A) gắn với thymine (T) qua hai liên kết hiđrô theo nguyên tắc bổ sung, nhờ đó giữ ổn định cấu trúc của DNA. Trong RNA, adenine đôi khi gắn với uracil (U), cũng qua hai liên kết hiđrô, theo nguyên tắc bổ sung, vì RNA không có T mà thay bằng U.
Adenine tham gia cấu tạo hai loại nucleoside: nó gắn với ribose tạo thành adenosine, còn khi gắn với deoxyribose, nó tạo ra deoxyadenosine; adenosine triphosphate (ATP), là một nucleotide có 3 nhóm phosphate của adenosine. Adenosine triphosphate được sử dụng trong các hoạt động chuyển hóa tế bào như là một trong những phương pháp cơ bản để chuyển năng lượng giữa các phản ứng.
Trong các tài liệu trước đây, adenine đôi khi được gọi là Vitamin B4. Tuy nhiên bây giờ nó không còn được xem là một vitamin thực thụ nữa (xem thêmVitamin B).
Một số người cho rằng, trong nguồn gốc của sự sống trên Trái Đất, phân tử adenine đầu tiên được tạo ra do sự polymer hóa của 5 phân tử hiđrô cyanide (HCN).
Adenine có thể được hình thành từ ngoài Trái Đất.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Computational Chemistry Wiki
Purine
Vitamin
Hợp chất carbon
|
22732
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thymine
|
Thymine
|
Đối với loại vitamin có tên gọi gần giống, hãy xem Thiamine
Thymine (C5H6N2O2) hay còn gọi là 5-methyluracil, là tên của một nucleobase thuộc nhóm pyrimidine. Trong tiếng Việt phổ thông, thuật ngữ "thymine" đã dùng dưới tên gọi phổ biến là timin. có trong nucleic acid DNA. Trong RNA thymine được thay thế bởi uracil trong hầu hết các trường hợp. Trong DNA, thymine(T) gắn với adenine (A) qua hai liên kết hiđrô giúp cho cấu trúc của DNA được giữ ổn định.
Thymine kết hợp với deoxyribose tạo nên nucleoside deoxythymidine, cũng đồng nghĩa với thuật ngữ thymidine. Thymidine có thể được phosphoryl hóa với một, hai hoặc ba nhóm phosphate, tạo nên lần lượt TMP, TDP và TTP (thymidine mono- di- và triphosphate).
Tham khảo
Liên kết ngoài
Computational Chemistry Wiki
Pyrimidine
Hợp chất carbon
Dị vòng nitơ thơm
Hợp chất dị vòng (1 vòng)
|
22733
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Uracil
|
Uracil
|
Uracil (u-ra-xin) là một trong bốn loại nucleobase trong RNA, thay vì thymine như trong DNA. Tương tự thymine, uracil có thể tạo thành một cặp base với adenine qua hai liên kết hiđrô, tuy nhiên nó kém thua thymine một nhóm methyl. Uracil, so với thymine, dễ bị thoái hóa hơn thành cytosine. Uracil hiếm khi hiện diện trong DNA, chỉ xuất hiện trong RNA. Uracil có thể bị methyl hoá tạo thành thymine.
Sự kết hợp uracil với enzyme uracil-N-glycosilase (Ung) trong phản ứng PCR được dùng như một phương pháp chống tạp nhiễm chéo, quan trọng trong các thử nghiệm lâm sàng.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Computational Chemistry Wiki
Pyrimidine
|
22737
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mi%E1%BB%85n%20d%E1%BB%8Bch%20h%E1%BB%8Dc
|
Miễn dịch học
|
Miễn dịch học là một phân ngành của sinh học và y học chuyên nghiên cứu về hệ miễn dịch ở mọi sinh vật.
Miễn dịch học lập biểu đồ, đánh giá và chuyên môn hóa chức năng sinh lý của hệ miễn dịch ở cả trạng thái sức khỏe và có bệnh; những trục trặc của hệ miễn dịch ở các bệnh rối loạn miễn dịch (chẳng hạn như bệnh tự miễn, quá mẫn, suy giảm miễn dịch và thải ghép); và những đặc tính vật lý, hóa học và sinh lý học của các thành phần thuộc hệ miễn dịch gồm in vitro, in situ và in vivo. Miễn dịch học được ứng dụng ở nhiều phân ngành y học, cụ thể là các khoa ghép tạng, ung thư học, thấp khớp học, virus học, vi khuẩn học, ký sinh học, tâm thần học và da liễu.
Thuật ngữ "Immunology" (tiếng Anh của miễn dịch học) do nhà sinh học người Nga Ilya Ilyich Mechnikov đặt ra. Ông là người nâng tầm nghiên cứu về miễn dịch học và giành giải Nobel Prize nhờ "công trình hợp tác với Paul Ehrlich về miễn dịch học" vào năm 1908. Ông cài những chiếc gai nhỏ vào ấu trùng sao biển và nhận thấy các tế bào khác thường bao quanh những chiếc gai. Đây là phản ứng chủ động của cơ thể nhằm duy trì tính toàn vẹn của nó. Chính Mechnikov là người lần đầu quan sát hiện tượng thực bào - đó là khi cơ thể tự phòng vệ chống vật thể lạ. Ehrlich nuôi và cho chuột ăn các chất độc ricin và abrin. Sau khi cho chúng ăn hàm lượng ricin nhỏ song tăng dần, chúng đã sở hữu tính "kháng ricin". Ehrlich giải thích đây là quá trình tạo miễn dịch và quan sát thấy nó đột ngột khởi phát sau ít ngày và vẫn tồn tại trong nhiều tháng.
Trước khi thống nhất từ miễn dịch, từ gốc thuật ngữ (mà tiếng Latinh là 'miễn trừ'), các bác sĩ thời sơ khai đã mô tả những cơ quan - mà về sau chúng được chứng minh là thành phần thiết yếu của hệ miễn dịch. Những cơ quan lympho quan trọng của hệ miễn dịch là tuyến ức, tủy xương và các mô lympho chính như lách, amidan, mạch bạch huyết, hạch bạch huyết, hạch và gan. Tuy nhiên, nhiều thành phần của hệ miễn dịch có bản chất tế bào và không liên kết với các cơ quan cụ thể, song được gắn hoặc lưu thông ở nhiều mô nằm rải rác khắp cơ thể.
Miễn dịch học cổ điển
Miễn dịch học cổ điển gắn liền với các ngành dịch tễ và y học. Bộ môn nghiên cứu mối quan hệ giữa các hệ cơ thể, mầm bệnh và miễn dịch. Công trình viết tay đầu tiên về miễn dịch có thể xuất phát từ bệnh dịch thành Athens vào năm 430 TCN. Thucydides ghi nhận rằng những người đã khỏi bệnh sau đợt dịch ấy có thể chăm sóc người bệnh khác mà không sợ tái phát lần hai. Nhiều xã hội cổ đại có nhắc đến hiện tượng này, song phải đến thế kỷ 19 và 20 thì khái niệm ấy mới được phát triển thành lý thuyết khoa học.
Việc nghiên cứu các thành phần tế bào và phân tử tạo nên hệ miễn dịch (tức cả chức năng và tương tác của chúng) là trọng tâm khoa học của miễn dịch. Hệ miễn dịch được chia làm hệ miễn dịch tự nhiên nguyên thủy hơn và ở động vật có xương là hệ miễn dịch thu được. Hệ miễn dịch thu được tiếp tục được chia làm các thành phần dịch thể (hay kháng thể) và tế bào.
Hệ miễn dịch có khả năng tự và không tự nhận biết. Kháng nguyên là chất kích thích phản ứng miễn dịch. Những tế bào tham gia nhận diện kháng nguyên là Lympho bào. Khi nhận diện được, chúng tiết ra kháng thể. Kháng thể là những protein làm vô hiệu các vi sinh vật gây bệnh. Kháng thể không trực tiếp tiêu diệt mầm bệnh mà chỉ định kháng nguyên là mục tiêu để cho các tế bào miễn dịch khác tiêu diệt như thực bào hoặc tế bào NK.
Phản ứng (của kháng thể) được định nghĩa là tương tác giữa kháng thể và kháng nguyên. Kháng thể là những protein chuyên biệt được giải phóng từ một lớp tế bào miễn dịch nhất định (được gọi là lympho bào B), còn kháng nguyên được định nghĩa là bất kì chất nào kích thích tạo ra kháng thể (chất sinh kháng thể). Miễn dịch học dựa trên kiến thức về đặc tính của hai thực thể sinh học này và phản ứng tế bào của chúng.
Giờ đây, giới khoa học ngày càng nắm rõ rằng phản ứng miễn dịch góp phần vào phát triển nhiều chứng rối loạn phổ biến mà không được xem dưới lăng kính miễn dịch học truyền thống, kể cả các bệnh chuyển hóa, tim mạch, ung thư và thoái hóa thần kinh như bệnh Alzheimer. Bên cạnh đó, còn có những tác động trực tiếp vào hệ miễn dịch ở những bệnh truyền nhiễm (lao, sốt rét, viêm gan, viêm phổi, kiết lỵ và nhiễm giun sán). Do đó, nghiên cứu trong ngành miễn dịch học là ưu tiên hàng đầu đối với tiến bộ trong các ngành y học hiện đại, nghiên cứu y sinh và công nghệ sinh học.
Miễn dịch học chẩn đoán
Tính đặc hiệu của liên kết giữa kháng thể và kháng nguyên đã trở thành công cụ tuyệt vời để phát hiện các chất bằng một loạt kỹ thuật chẩn đoán. Kháng thể đặc hiệu với kháng nguyên mong muốn có thể kết hợp với dán nhãn đồng vị hoặc dán nhãn huỳnh quang, hoặc bằng enzym tạo màu để nhận diện nó. Tuy nhiên, sự tương đồng giữa một vài kháng nguyên có thể dẫn tới dương tính giả và các lỗi khác trong những bài xét nghiệm như vậy do kháng thể phản ứng chéo với kháng nguyên chưa thực sự ăn khớp.
Miễn dịch học lâm sàng
Miễn dịch học lâm sàng là phân ngành nghiên cứu các bệnh do rối loạn ở hệ miễn dịch gây ra (sự thoái hóa, hoạt động bất thường và sự phát triển ác tính của các thành phần tế bào trong hệ). Ngành cũng liên quan tới các bệnh ở những hệ khác, khi mà phản ứng miễn dịch đóng vai trò nhất định trong các đặc tính lâm sàng và bệnh lý học.
Những bệnh do rối loạn ở hệ miễn dịch gây ra chia làm hai loại lớn:
Suy giảm miễn dịch: các bộ phận của hệ miễn dịch không cung cấp được phản ứng đầy đủ (ví dụ như bệnh u hạt mãn tính và các bệnh miễn dịch nguyên thủy);
Tự miễn dịch: hệ miễn dịch tấn công cơ thể vật chủ của chính nó (ví dụ như lupus ban đỏ hệ thống, viêm khớp dạng thấp, bệnh Hashimoto và bệnh nhược cơ).
Những rối loạn khác ở hệ miễn dịch gồm nhiều chứng quá mẫn (ví dụ như ở hen phế quản và các dị ứng khác) phản ứng không hợp với các hợp chất vô hại khác.
Căn bệnh nổi tiếng nhất tác động đến chính hệ miễn dịch là AIDS - một bệnh suy giảm miễn dịch đặc trưng bởi sự ức chế CD4+ Tế bào T ("hỗ trợ"), tế bào tua và đại thực bào do virus gây suy giảm miễn dịch ở người (HIV).
Các nhà miễn dịch học lâm sàng còn nghiên cứu cách để ngăn hệ miễn dịch hủy hoại dị ghép (thải ghép).
Miễn dịch học và dị ứng thường là chuyên ngành của nội khoa hoặc nhi khoa. Những nghiên cứu sinh của miễn dịch học lâm sàng thường được tiếp xúc với nhiều khía cạnh khác nhau của chuyên ngành và chữa trị các tình trạng dị ứng, suy giảm miễn dịch nguyên thủy, tự miễn dịch và tự viêm hệ thống. Là một phần trong chương trình đào tạo, các nghiên cứu sinh có thể làm việc luân phiên thêm ở các khoa thấp khớp, khoa hô hấp, khoa tai mũi họng, khoa da liễu và phòng thí nghiệm miễn dịch.
Miễn dịch học lý thuyết
Miễn dịch học mang nặng tính thực nghiệm hàng ngày song còn có tính lý thuyết xuyên suốt. Nhiều học thuyết đã được đưa ra ở miễn dịch học từ cuối thế kỷ 19 cho tới ngày nay. Cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 chứng kiến cuộc chiến giữa thuyết miễn dịch "tế bào" và "dịch thể". Theo thuyết miễn dịch tế bào (mà đại diện cụ thể là Elie Metchnikoff), thì tế bào – hay chính xác hơn là thực bào – chịu trách nhiệm cho phản ứng miễn dịch. Ngược lại, thuyết miễn dịch dịch thể (của Robert Koch và Emil von Behring, cùng một số nhà khoa học khác) cho rằng tác nhân miễn dịch hoạt động là các thành phần (phân tử) hòa tan có ở dịch thể, thay vì tế bào của sinh vật.
Ở giữa thập niên 1950, nhờ cảm hứng từ đề xuất của Niels Jerne, Macfarlane Burnet đã xây dựng thuyết chọn lọc dòng (CST) của miễn dịch. Trên cơ sở của CST, Burnet phát triển một học thuyết về cách mà phản ứng miễn dịch được kích hoạt theo dấu hiệu riêng/không riêng: các thành phần "riêng" (thành phần của cơ thể) không kích hoạt phản ứng miễn dịch tiêu diệt, còn thực thể "không riêng" (ví dụ như mầm bệnh, dị ghép) kích hoạt phản ứng miễn dịch tiêu diệt. Về sau học thuyết được điều chỉnh để phản ánh những khám phá mới liên quan đến tương hợp mô hoặc kích hoạt "hai tín hiệu" phức tạp của tế bào T. Thuyết riêng/không riêng của miễn dịch và từ vựng riêng/không riêng đã bị phê phán, song vẫn giàu sức ảnh hưởng.
Gần đây hơn, một số khung lý thuyết đã được đề xuất trong giới miễn dịch học, kể cả góc nhìn "tự sinh" (autopoietic), góc nhìn "miễn dịch nhận thức" (cognitive immune), "mô hình nguy hiểm" (danger model) và thuyết "gián đoạn". Mô hình nguy hiểm (do Polly Matzinger và các đồng nghiệp đề xuất) cực kỳ giàu ảnh hưởng, dấy lên nhiều bình luận và tranh luận.
Miễn dịch học phát triển
Khả năng phản ứng của cơ thể với kháng nguyên phụ thuộc tuổi tác của người, loại kháng nguyên, yếu tố sinh đẻ và khu vực mà kháng nguyên hiện diện. Trẻ sơ sinh được cho là ở trạng thái suy giảm miễn dịch sinh lý, vì cả phản ứng miễn dịch tự nhiên lẫn thu được của chúng đều cực kỳ bị ức chế. Một khi chào đời, hệ miễn dịch của trẻ phản ứng tốt với kháng nguyên protein, song lại không phản ứng tốt với glycoprotein và polysaccharide. Thực tế, nhiều bệnh viêm nhiễm ở trẻ sơ sinh là do các sinh vật có tính độc thấp như tụ cầu khuẩn và Pseudomonas gây nên. Ở trẻ sơ sinh, hoạt độ opsonin và khả năng kích hoạt bổ thể rất hạn chế. Ví dụ, mức độ trung bình của C3 ở trẻ sơ sinh vào khoảng 65% so với mức độ ở người lớn. Hoạt độ thực bào cũng bị suy giảm đáng kể ở trẻ sơ sinh. Đây là do hoạt độ opsonin thấp, cũng như tiết chế tăng cường điều chỉnh (upregulation) của thụ thể integrin và selectin, làm hạn chế khả năng bạch cầu hạt trung tính tương tác với phân tử liên kết ở tế bào nội mô. Bạch cầu đơn nhân thì chậm và sản xuất ATP bị tụt giảm, cũng làm hạn chế hoạt độ thực bào của trẻ sơ sinh. Mặc dù, số lượng tổng lympho bào tăng đáng kể hơn ở người trưởng thành, song miễn dịch tế bào và dịch thể lại bị thoái hóa. Tế bào trình diện kháng nguyên ở trẻ sơ sinh có thể kích hoạt tế bào T bị tụt giảm. Đồng thời, tế bào T của trẻ sơ sinh tăng sinh kém và tạo ra hàm lượng rất nhỏ cytokine như IL-2, IL-4, IL-5, IL-12 và IFN-g, làm hạn chế khả năng chúng kích hoạt phản ứng dịch thể cũng như hoạt độ thực bào của đại thực bào. Tế bào B phát triển sớm trong giai đoạn thai kỳ song chưa hoàn toàn hoạt động.
Yếu tố sinh đẻ đóng một vai trò trong phản ứng miễn dịch của cơ thể. Khi chào đời, đa phần globulin miễn dịch là IgG sinh đẻ. Những kháng thể này được vận chuyển từ nhau thai sang bào thai nhờ sử dụng FcRn (thụ thể Fc sơ sinh). Vì IgM, IgD, IgE và IgA không qua nhau thai, nên chúng gần như không thể nhìn thấy ở trẻ sơ sinh. Một vài IgA do sữa mẹ cung cấp. Những kháng thể thu được thụ động này có thể bảo vệ trẻ sơ sinh tới mười tám tháng, song phản ứng của chúng thường ngắn hạn và có ái lực thấp. Những kháng thể này có thể tạo ra phản ứng tiêu cực. Nếu trẻ tiếp xúc với kháng thể của một kháng nguyên cụ thể trước khi tiếp xúc với chính kháng nguyên ấy thì đứa trẻ sẽ sinh ra phản ứng yếu ớt. Kháng thể sinh đẻ thu được thụ động có thể làm ức chế phản ứng của kháng thể với miễn dịch chủ động. Tương tự, phản ứng của tế bào T với tiêm chủng ở trẻ nhỏ khác với người lớn, và những vắc-xin gây phản ứng Th1 ở người thì không dễ tạo ra những phản ứng tương tự ở trẻ sơ sinh. Từ sáu đến chín tháng tuổi, hệ miễn dịch của trẻ bắt đầu phản ứng mạnh hơn với glycoprotein, song thường không cải thiện rõ rệt ở phản ứng với polysaccharide cho đến khi chúng ít nhất được một tuổi. Đây có thể là nguyên do cho các khung thời gian riêng biệt trong lịch tiêm chủng.
Ở thời niên thiếu, cơ thể người trải qua nhiều thay đổi về mặt hình thể, sinh lý và miễn dịch do các hormone kích hoạt và làm trung gian; loại hormone nổi bật nhất ở nữ là 17-β-estradiol (một estrogen) và ở nam là testosterone. Estradiol thường bắt đầu hoạt động vào khoảng mười tuổi 10 còn testosterone thì chậm hơn vài tháng. Có bằng chứng cho thấy những steroid này không chỉ tác động trực tiếp lên đặc điểm giới tính sơ cấp và thứ cấp mà còn tác động lên sự phát triển và điều hòa của hệ miễn dịch, kể cả tăng nguy cơ phát triển tự miễn dịch ở tuổi dậy thì và hậu dậy thì. Còn có những bằng chứng cho thấy thụ thể mặt tế bào trên tế bào B và đại thực bào có thể phát hiện các hormone giới tính trong hệ.
Hormone giới tính nữ 17-β-estradiol được chứng minh là điều chỉnh mức độ phản ứng miễn dịch, còn một vài androgen ở nam như testosterone dường như ngăn ngừa phản ứng căng thăng với viêm nhiễm. Tuy nhiên, các androgen khác như DHEA lại làm tăng phản ứng miễn dịch. Giống như ở nữ, hormone ở nam giới dường kiểm soát hệ miễn dịch nhiều hơn ở giai đoạn dậy thì và hậu dậy thì so với những giai đoạn khác trong cuộc đời trưởng thành của nam giới.
Những thay đổi hình thể trong dậy thì như co tuyến ức cũng tác động đến phản ứng miễn dịch.
Chú thích
Liên kết ngoài
Hiệp hội nhà miễn dịch học Hoa Kỳ
Hội miễn dịch học Anh Quốc
Liên đoàn hội miễn dịch học lâm sàng
Miễn dịch học
|
22747
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%A2n%20v%E1%BA%ADn%20%C4%91%E1%BB%99ng%20Qu%E1%BB%91c%20gia%20M%E1%BB%B9%20%C4%90%C3%ACnh
|
Sân vận động Quốc gia Mỹ Đình
|
Sân vận động Quốc gia Mỹ Đình (hay đơn giản là Sân Mỹ Đình) là một sân vận động đa năng ở quận Nam Từ Liêm, Hà Nội, Việt Nam. Sân có sức chứa 40.192 chỗ ngồi và là trung tâm của Khu liên hợp thể thao quốc gia Việt Nam. Sân chính thức được khánh thành vào tháng 9 năm 2003 và là địa điểm chính của Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2003 vào cuối năm đó, bao gồm tổ chức lễ khai mạc, bế mạc cũng như các nội dung thi đấu môn điền kinh và các trận đấu môn bóng đá nam. Đây là sân nhà chính của đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam từ năm 2003. Sân thường tổ chức các trận thi đấu hoặc giao hữu quốc tế khi có đội tuyển tham gia.
Nằm cách trung tâm Hà Nội 10 km về phía tây bắc, đây là sân vận động có sức chứa lớn nhất trong cả nước. Sân được xây dựng với chi phí 1.300 tỷ đồng (~53 triệu USD, tỷ giá năm 2003). Mái che cong bao phủ các khán đài ở phía đông và phía tây của sân vận động, che phủ cho một nửa số ghế. Bên cạnh sân vận động có hai sân tập bóng đá, cung cấp cơ sở vật chất tập luyện cho các đội bóng.
Kể từ năm 2021, sân vận động đã trở thành tâm điểm chỉ trích của các cổ động viên Việt Nam và nước ngoài với việc chất lượng mặt sân và cơ sở vật chất xung quanh bị phản ánh là xuống cấp nghiêm trọng, gây ra nhiều sự cố khi tổ chức các trận bóng đá.
Lịch sử
Ý tưởng về một sân vận động quốc gia mới ở Việt Nam đã được đưa ra vào năm 1998, khi chính phủ tiến hành nghiên cứu khả năng xây dựng một khu liên hợp thể thao quốc gia mới. Vào tháng 7 năm 2000, Thủ tướng Việt Nam Phan Văn Khải đã phê duyệt dự án xây dựng sân vận động ở trung tâm của Khu liên hợp thể thao quốc gia Việt Nam để chuẩn bị cho việc tổ chức Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2003. Bốn công ty, cụ thể là Hanoi International Group (HISG - Trung Quốc), Philipp Holzmann (Đức), Bouygues (Pháp) và Lemna-Keystone (Hoa Kỳ), đã tham gia đấu thầu xây dựng sân vận động. Quá trình này đã gây tranh cãi do vi phạm các yêu cầu kỹ thuật và tài chính trong hồ sơ đấu thầu của HISG và Holzmann (Holzmann thậm chí đã nộp đơn xin phá sản trước đó vào năm 1999), các cáo buộc tham nhũng đối với khoản tài trợ của Bouygues, cũng như phía Lemna-Keystone nghi ngờ sự minh bạch trong việc đưa ra quyết định của hội đồng chấm thầu. Cuối cùng, HISG đã thắng thầu và ký hợp đồng cam kết vào ngày 14 tháng 8 năm 2001.
Công việc xây dựng sân vận động được bắt đầu vào năm 2002. Trong giai đoạn xây dựng, sân được gọi là Sân vận động Trung tâm. Sân đã hoàn thiện về mặt kiến trúc vào tháng 6 năm 2003. Vào tháng 8 năm 2003, sân vận động được đặt tên chính thức là Sân vận động Quốc gia Mỹ Đình, lấy theo tên của khu vực xã mà sân vận động này được xây dựng ở đó. Sân được khánh thành vào ngày 2 tháng 9 năm 2003, trùng với ngày Quốc khánh của Việt Nam.
Bên trong sân vận động
Khán đài sân vận động Mỹ Đình
Sân vận động Quốc gia Mỹ Đình có 4 khán đài. Các khán đài A và B (tương ứng là khán đài phía đông và phía tây) được che phủ bởi mái che nặng 2.300 tấn ở mỗi khán đài. Hai khán đài này cao hai tầng và cao , trong khi khán đài C và D (tương ứng là khán đài phía nam và phía bắc) cao một tầng và cao . Tổng cộng, sân vận động này có sức chứa 40.192 chỗ ngồi, bao gồm 450 ghế VIP và 160 ghế cho các nhà báo.
Mặt sân
Mặt sân cỏ có kích thước 105 x 68 m, bao quanh là đường chạy điền kinh 8 làn và các cơ sở thể thao khác.
Sự kiện
Sự kiện thể thao
Sân vận động chính thức được khánh thành vào ngày 2 tháng 9 năm 2003 với trận đấu giao hữu mở màn giữa U-23 Việt Nam và câu lạc bộ bóng đá Thân Hoa Thượng Hải thuộc Giải bóng đá ngoại hạng Trung Quốc.
Sân đã tổ chức Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2003 (lễ khai mạc, bóng đá và điền kinh, lễ bế mạc) và Đại hội Thể thao Người khuyết tật Đông Nam Á 2003.
Vào tháng 7 năm 2007, tại Asian Cup 2007, Sân vận động Mỹ Đình đã tổ chức các trận đấu bảng B cùng với Sân vận động Quân khu 7 (Thành phố Hồ Chí Minh), trận tứ kết (Nhật Bản vs Úc) và trận bán kết (Nhật Bản vs Ả Rập Xê Út).
Sân vận động Mỹ Đình đã tổ chức lễ khai mạc Đại hội Thể thao Trong nhà châu Á 2009 diễn ra từ ngày 30 tháng 10 đến ngày 8 tháng 11 năm 2009.
Vào tháng 12 năm 2010, sân đã tổ chức các trận đấu bảng B của AFF Suzuki Cup 2010 từ ngày 2 tháng 12 đến ngày 8 tháng 12.
Sân vận động này cũng là nơi tổ chức Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2021 (lễ khai mạc, bóng đá và điền kinh).
Ngoài ra, sân vận động này còn tổ chức nhiều giải đấu bóng đá trong nước và quốc tế:
AFC Champions League 2008 (Nam Định đã chọn sân vận động này vì Sân vận động Thiên Trường của đội không đáp ứng tiêu chuẩn của AFC).
Giao hữu quốc tế: Việt Nam 0-2 Olympic Brasil (2008).
VFF Cup 2010.
V-League 2011 (trận đấu vòng 25 giữa Hà Nội ACB và Sông Lam Nghệ An).
VFF Cup 2011.
Vòng loại bóng đá nam Thế vận hội Mùa hè 2012 khu vực châu Á (vòng play-off). Ba đội đứng thứ hai của các bảng đấu ở vòng ba đã thi đấu vòng tròn một lượt tại một địa điểm trung lập vào ngày 25, 27 và 29 tháng 3 năm 2012. Việt Nam đã được Ủy ban thi đấu AFC chọn làm địa điểm trung lập, với các trận đấu diễn ra tại sân vận động Mỹ Đình của Hà Nội.
Giao hữu quốc tế: Việt Nam 1–7 Arsenal (Vào ngày 17 tháng 7 năm 2013).
Giao hữu quốc tế: Việt Nam 1–8 Manchester City (27 tháng 7 năm 2015)..
Vào ngày 7 tháng 9 năm 2021, sân vận động đã lần đầu tiên tổ chức một trận đấu vòng 3 tại vòng loại World Cup 2022 khu vực châu Á giữa Việt Nam và Australia (Australia thắng 1-0). Đây cũng là lần đầu tiên VAR và Goal-line được áp dụng tại Việt Nam (do Hawk-Eye Innovations Ltd thực hiện). Trong bối cảnh Đại dịch COVID-19, trận đấu này không đón khán giả.
Giao hữu quốc tế: Việt Nam 2–1 Borussia Dortmund (30 tháng 11 năm 2022).
V-League 2023 (trận đấu vòng 7 - nhóm A GĐ2 giữa Hà Nội và Viettel)
AFC Champions League 2023–24 (Hà Nội đã chọn sân vận động này vì Sân vận động Hàng Đẫy của đội không đáp ứng tiêu chuẩn của AFC).
Sự kiện giải trí
Sân vận động Quốc gia Mỹ Đình đã tổ chức nhiều sự kiện giải trí. Mỹ Tâm là ca sĩ Việt Nam đầu tiên và duy nhất tổ chức buổi diễn trực tiếp tại đây với sức chứa hơn 10.000 khán giả cho liveshow Ngày ấy & bây giờ (2004) và hơn 30.000 khán giả cho liveshow Tri âm (2022).
Vào ngày 27 tháng 3 năm 2010, một buổi hòa nhạc của MTV Exit đã được tổ chức tại đây, trong đó có sự góp mặt của nhóm nhạc nam Hàn Quốc Super Junior, ca sĩ người Úc Kate Miller-Heidke cùng với nhiều ca sĩ Việt Nam. Vào ngày 26 tháng 3 năm 2011, nhóm nhạc nam Mỹ Backstreet Boys đã biểu diễn tại đây như một phần của chuyến lưu diễn This Is Us Tour của nhóm. Vào ngày 1 tháng 10 năm 2011, nhóm nhạc nam Ireland Westlife đã biểu diễn tại đây trong khuôn khổ chuyến lưu diễn Gravity Tour của nhóm; khoảng 11.000 người đã tham dự buổi hòa nhạc. Sân vận động cũng là điểm khởi đầu của chương trình Cuộc đua kỳ thú 2012. Vào ngày 26 tháng 5 năm 2012, MTV Exit đã tổ chức một buổi hòa nhạc tại sân vận động với sự góp mặt của ban nhạc pop punk Canada Simple Plan nhằm nâng cao nhận thức về nạn buôn người và nô lệ hiện đại.
Sân vận động cũng là nơi tổ chức nhiều buổi hòa nhạc K-pop. Đây là nơi diễn ra buổi hòa nhạc đặc biệt Music Core của MBC vào ngày 8 tháng 12 năm 2012, Music Bank World Tour của KBS vào ngày 28 tháng 3 năm 2015.
Vào ngày 26 tháng 11 năm 2019, sân vận động đã tổ chức lễ trao giải Asia Artist Awards.
Vào ngày 29 và 30 tháng 7 năm 2023, nhóm nhạc Blackpink tổ chức hai buổi diễn trong khuôn khổ chuyến lưu diễn Born Pink World Tour với 67.443 khán giả tham dự và đạt doanh thu $13.660.064
Các buổi hòa nhạc
Các trận đấu bóng đá lớn
Sân vận động đã tổ chức một số trận đấu quốc tế của FIFA. Dưới đây là các trận đấu quốc tế quan trọng nhất được tổ chức tại Sân vận động Mỹ Đình.
Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2003
Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á 2004
Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á 2007
Cúp bóng đá châu Á 2007
Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á 2008
Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á 2010
Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á 2014
Vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới 2018 khu vực châu Á
Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á 2016
Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á 2018
Vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới 2022 khu vực châu Á
Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2021
Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á 2022
Sự cố, bê bối và tranh cãi
Nổ pháo hoa năm 2010
Khoảng 11 giờ 40 phút (UTC+07:00) ngày 6 tháng 10 năm 2010 xảy ra vụ nổ tại Sân vận động Quốc gia Mỹ Đình. Nguyên nhân được xác nhận bắt nguồn từ hai container chứa pháo hoa nổ do sơ suất khi lắp đặt trận địa pháo; đây là buổi tổng duyệt cho chương trình Đêm hội văn hóa nghệ thuật kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội dự kiến tổ chức chính thức vào ngày 10 tháng 10 năm 2010. Hậu quả khiến bốn nạn nhân tử vong (2 người Đức, 1 người Singapore, 1 người Việt Nam) và ba nạn nhân bị thương, các nạn nhân bao gồm người Đức và người Singapore cùng người Việt.
Chất lượng mặt sân và trang thiết bị xuống cấp
Năm 2021 và SEA Games 31
Từ nửa cuối năm 2021, dư luận đã có nhiều chỉ trích liên quan đến chất lượng sân cỏ và cơ sở vật chất của sân vận động. Làn sóng chỉ trích bắt đầu vào đầu tháng 9 năm 2021, khi tuyển Việt Nam tiếp đón Australia tại vòng loại thứ ba World Cup 2022; truyền thông và người hâm mộ Australia thời điểm đó đã so sánh mặt sân Mỹ Đình với "bãi cỏ chăn bò". Theo Lao Động, mặt cỏ sân Mỹ Đình đã không hề được thay mới trong gần 10 năm, chủ yếu vẫn là chăm sóc trên nền đất cũ và loại cỏ cũ, nên chỉ cần thời tiết thay đổi bất thường là lập tức có vấn đề về thẩm mỹ và chất lượng. Ngoài ra, một số khu vực và phòng chức năng tại sân Mỹ Đình đã xuống cấp nghiêm trọng do thời gian dài không được sửa chữa. Để lý giải sự xuống cấp này, vấn đề nguồn kinh phí đã được các bên liên quan đặt ra. Sau khi Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) yêu cầu cải thiện mặt sân Mỹ Đình và các phòng chức năng, sân vận động đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam cải tạo lớn để tổ chức các trận đấu tiếp theo tại vòng loại World Cup và cũng để chuẩn bị cho Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2021 vào tháng 5 năm 2022. Trước SEA Games 31, Chính phủ cấp cho Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch hơn 400 tỉ đồng để sửa chữa Khu liên hợp thể thao quốc gia. Dù vậy, việc thay mặt cỏ sân Mỹ Đình đã không được tiến hành. Đến trước trận tranh hạng ba và chung kết môn bóng đá nam SEA Games 31, mặt cỏ sân Mỹ Đình tiếp tục bị hư hại nghiêm trọng do hệ quả của việc lắp đặt sân khấu cho lễ khai mạc SEA Games mới tổ chức trước đó, khiến cỏ bị héo úa và chết khá nhiều.
Sự cố trận giao hữu giữa Việt Nam và Borussia Dortmund
Vào ngày 30 tháng 11 năm 2022, trong trận đấu giao hữu giữa Việt Nam và Borussia Dortmund, tại phút thứ 86 của trận đấu, xà ngang khung thành của phía Dortmund đã bị bật ra khiến trận đấu bị gián đoạn 5 phút. Ngoài ra, trong thời gian nghỉ giữa hai hiệp, khu vực kỹ thuật của hai đội bóng và khu vực trọng tài bàn đã bị gió thổi đổ rất nhiều lần.
AFF Cup 2022
Tại thời điểm này, chất lượng sân Mỹ Đình đã trở nên xuống cấp trầm trọng. Tình trạng của sân đấu được các trang báo trong nước mô tả là "nóng hơn cả tuyển Việt Nam", "hình ảnh xấu xí", "nhếch nhác", "sân đất nện", "như đá bóng ngoài ruộng".
Trước khi AFF Cup 2022 diễn ra, Liên đoàn Bóng đá Việt Nam (VFF) đã ký hợp đồng với Khu liên hợp thể thao quốc gia để thuê sân Mỹ Đình làm sân nhà của đội tuyển Việt Nam. Giá thuê sân cho mỗi trận đấu của tuyển Việt Nam là 800 triệu đồng, nhiều nhất trong lịch sử của sân vận động này. Tuy vậy, mặt cỏ của sân vận động được mô tả là già, úa, xấu. Ghế bạc màu, ố bẩn do toàn bộ 40.000 ghế ngồi được lắp đặt từ năm 2003 chưa thay lần nào. Ngoài ra, theo Cục Thuế Hà Nội, cho đến năm 2023, Khu liên hợp thể thao quốc gia nợ 855 tỉ đồng tiền thuế.
Lý giải hiện tượng này, Tổng cục trưởng Tổng cục Thể dục Thể thao, ông Đặng Hà Việt cho biết, nguyên nhân không phải do thiếu kinh phí mà vì "quên bảo dưỡng". Theo ông Việt, việc bảo dưỡng và chăm sóc trong một tháng qua vẫn được tiến hành đều đặn nhưng thời tiết Hà Nội khắc nghiệt, nắng ít làm cho mặt cỏ không xanh như mong đợi. Hơn nữa, AFC đã đánh giá mặt sân Mỹ Đình vẫn đủ điều kiện để thi đấu. Tuy vậy, việc lý giải mặt sân xuống cấp do thời tiết bị nhiều cổ động viên cho là không có cơ sở, bởi trước đó khi đội tuyển Việt Nam tiếp đón Trung Quốc tại vòng loại thứ 3 World Cup 2022 hồi đầu năm, mặt cỏ của sân Mỹ Đình vẫn rất đẹp và xanh. Điều này cho thấy mặt cỏ của Mỹ Đình hiện tại bị xuống cấp là vì không được chăm sóc kỹ càng.Tình trạng nhếch nhác tại sân vận động đã trở thành tâm điểm chỉ trích của các cổ động viên Việt Nam và nước ngoài.
Ngày 4 tháng 1 năm 2023, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhắc đến tình trạng của sân vận động quốc gia Mỹ Đình. Ông nhấn mạnh và đặt câu hỏi về việc không khai thác được sân vận động mà chỉ trông chờ vào tiền nhà nước.Để xử lý tình trạng xuống cấp trước trận Việt Nam gặp Indonesia (thi đấu ngày 9 tháng 1), tối ngày 6 tháng 1, Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch Việt Nam Nguyễn Văn Hùng yêu cầu hiệu trưởng Trường đại học Thể dục thể thao Bắc Ninh chỉ đạo lực lượng Đoàn thanh niên, sinh viên nhà trường tổ chức hoạt động tình nguyện để hỗ trợ làm vệ sinh môi trường cảnh quan cho sân Mỹ Đình.
Xem thêm
Danh sách sân vận động theo sức chứa
Tham khảo
Liên kết ngoài
SÂN VẬN ĐỘNG QUỐC GIA MỸ ĐÌNH (MY DINH NATIONAL STADIUM)
Địa điểm thể thao hoàn thành năm 2003
Mỹ Đình
Sân vận động Cúp bóng đá châu Á
Địa điểm điền kinh Việt Nam
Sân vận động Hà Nội
Việt Nam
Khởi đầu năm 2003 ở Việt Nam
Sân vận động đa năng Việt Nam
Thể thao Hà Nội
|
22924
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A1%20voi%20xanh
|
Cá voi xanh
|
Cá voi xanh (Balaenoptera musculus), còn gọi là cá ông là một loài cá voi thuộc về phân bộ Mysticeti (cá voi tấm sừng hàm). Dài và nặng hay thậm chí hơn nữa, nó là động vật lớn nhất từng tồn tại và nặng nhất từng tồn tại.
Cơ thể cá voi xanh dài và thon, có thể có màu hơi xanh-xám ở mặt lưng và sáng màu hơn ở mặt bụng. Có ít nhất 3 phân loài cá voi xanh: B. m. musculus sống ở vùng biển bắc Đại Tây Dương và bắc Thái Bình Dương, B. m. intermedia sống ở Nam Băng Dương và B. m. brevicauda (cá voi xanh lùn) sống ở Ấn Độ Dương và nam Thái Bình Dương. Giống như các loài cá voi khác, thức ăn của chúng chủ yếu là sinh vật phù du và giáp xác nhỏ.
Trước thế kỉ 20, cá voi xanh tồn tại với số lượng cá thể lớn ở hầu hết các đại dương trên thế giới. Nhưng hơn 100 năm qua, chúng bị săn bắn đến mức gần như tuyệt chủng cho đến khi được bảo vệ bởi luật pháp quốc tế vào năm 1966. Theo một báo cáo vào năm 2002, có xấp xỉ 5.000 - 12.000 cá thể sống trên toàn thế giới, bao gồm ít nhất 5 nhóm. Trước khi bị săn bắt ráo riết, quần thể cá voi xanh lớn nhất ở vùng biển Nam cực có khoảng 239.000 cá thể (từ 202.000 tới 311.000). Các quần thể nhỏ hơn khác (khoảng 2000 cá thể) tập trung ở các vùng biển Đông bắc Thái Bình Dương, Nam Cực. Có 2 quần thể khác ở Bắc Đại Tây Dương và ít nhất 2 quần thể nữa ở Nam Bán Cầu. Năm 2014, số lượng cá voi xanh tại California đã phục hồi đến mức gần như trước thời kì săn bắt.
Phân loại
Cá voi xanh thuộc về họ Balaenopteridae, họ này bao gồm cá voi lưng gù, cá voi vây, cá voi Bryde, cá voi Sei và cá voi Minke. Balaenopteridae được tin rằng đã tách ra từ các họ khác của phân bộ Mysticeti khoảng giữa thế Oligocene (28 triệu năm trước).
Cá voi xanh thường được phân loại như một trong tám loài của chi Balaenoptera; một tác giả đặt nó trong một chi đơn loài riêng biệt, Sibbaldus, nhưng không được thừa nhận. Phân tích DNA cho thấy cá voi xanh là họ hàng gần của cá voi Sei (Balaenoptera borealis) và cá voi Bryde (Balaenoptera brydei) hơn các loài Balaenoptera khác, và gần với cá voi lưng gù (Megaptera) và cá voi xám (Eschrichtius) hơn là cá voi Minke (Balaenoptera acutorostrata và Balaenoptera bonaerensis).
Có tài liệu về ít nhất 11 trường hợp lai tự nhiên giữa cá voi xanh/cá voi vây. Arnason và Gullberg miêu tả khoảng cách di truyền giữa cá voi xanh và cá voi vây giống khoảng cách giữa người và khỉ đột. Các nhà nghiên cứu ở Fiji tin rằng họ đã chụp được hình một con cá voi lưng gù/cá voi xanh lai.
Miên tả đầu tiên về cá voi xanh đến từ Phalainologia Nova của Robert Sibbald (1694). Vào tháng 9 năm 1692, Sibbald tìm thấy một con cá voi bị mắc cạn ở Firth of Forth—một con đực dài .
Các tác giả chia loài này thành ba phân loài: B. m. musculus, quần thể bắc Đại Tây Dương và bắc Thái Bình Dương, B. m. intermedia, ở Nam Băng Dương, B. m. brevicauda, cá voi xanh lùn được tìm thấy ở Ấn Độ Dương và nam Thái Bình Dương, và B. m. indica, đây là phân loài còn nhiều vấn đề, cũng được tìm thấy ở Ấn Độ Dương, mặc dù B. m. indica được miêu tả sớm hơn, nó có thể đồng nghĩa với B. m. brevicauda.
Miêu tả và tập tính
Kích thước
Cá voi xanh là loài động vật lớn nhất được biết từ trước đến nay trong lịch sử quả đất. Một trong những chi khủng long lớn nhất trong Đại Trung Sinh là Argentinosaurus chỉ nặng có 90 tấn, bằng với một con cá voi xanh trung bình.
Cá voi xanh có một thân hình to lớn, dài và thon giúp chúng dễ dàng rẽ nước khi di chuyển. Chúng có bộ dạ trơn màu xanh xám và phần bụng có màu sáng hơn kèm theo đó là một loạt nếp gấp trên cổ có thể dãn ra gấp bốn lần khi chúng ăn. Đuôi của Cá voi xanh thẳng và chia ra thành hai mái chèo giúp đẩy thân hình độ sộ của chúng dưới áp lực của dòng nước.
Cá voi xanh thuộc họ cá voi " không răng ", có nghĩa là thay vì dùng răng, chúng có khoảng 395 tấm sừng mọc ở hàm trên và được dùng để lọc thức ăn từ nước. Như những họ hàng của mình, cá voi xanh cũng có hai lỗ trên lưng, được dùng để đẩy không khí cũ và nước biển ra khỏi phổi khi chúng trồi lên để hô hấp.
Trong vòng 7 tháng đầu sau sinh, con cá voi xanh con uống khoảng sữa mỗi ngày, nên khối lượng nó tăng lên rất nhanh vào khoảng mỗi 24 giờ. Thậm chí lúc mới sinh nó đã nặng —bằng khối lượng một con hà mã (hippopotamus) trưởng thành. Cá voi xanh có bộ não tương đối nhỏ (), chỉ bằng khoảng 0,007% khối lượng cơ thể của nó. Dương vật của nó cũng lớn nhất trong tất cả các sinh vật sống và cũng giữ kỷ lục Guinness thế giới là có dương vật dài nhất. Chiều dài trung bình của dương vật thay đổi nhưng thường vào khoảng đến .
Thức ăn
Cá voi xanh hầu như chỉ ăn moi lân, với một lượng nhỏ là động vật chân chèo. Các loài động vật phù du cá voi ăn tùy vào vùng biển mà nó sống. Ở Bắc Đại Tây Dương là Meganyctiphanes norvegica, Thysanoessa raschii, Thysanoessa inermis và Thysanoessa longicaudata; ở Bắc Thái Bình Dương là Euphausia pacifica, Thysanoessa inermis, Thysanoessa longipes, Thysanoessa spinifera, Nyctiphanes symplex và Nematoscelis megalops; còn tại Nam Bán Cầu là Euphausia superba, Euphausia crystallorophias, Euphausia valentini, và Nyctiphanes australis.
Dù không sở hữu bộ răng thực sự, nhưng Cá voi xanh vẫn bị xếp vào nhóm động vật ăn thịt. Chúng sống dựa trên một chế độ ăn uống mà chủ yếu bao gồm các nhuyễn thể, giáp xác nhỏ và đôi khi là những loài cá nhỏ. Cá voi xanh ăn bằng cách bơi về phía bầy con mồi và những nếp gấp trên cổ cho phép cổ họng của chúng mở rộng, hớp lấy một ngụm nước khổng lồ vào túi chứa thức ăn được tạo ở hàm dưới và khép miệng chúng lại. Sau đó, nước được đẩy ra ngoài nhưng hàng ngàn sinh vật nhỏ bé được giữ lại bởi các tấm sừng hàm lọc thức ăn của chúng và sau đó các sinh vật ấy sẽ bị nuốt vào.
Cá voi xanh có thể tiêu thụ lên đến 40 tấn con mồi hàng ngày trong suốt những tháng mùa hè ở vùng biển lạnh và giàu thức ăn. Mặc dù Cá voi xanh ăn một lượng thức ăn khổng lồ vào mùa hè, nhưng chúng hầu như không ăn gì khi di chuyển đến vùng nước ấm vào mùa đông.
Một con cá voi xanh trưởng thành có thể tiêu thụ tới 40 triệu con moi lân một ngày. Chúng luôn kiếm ăn trong những vùng có mật độ moi lân nhiều nhất, thỉnh thoảng tiêu thụ đến moi lân chỉ trong vòng một ngày. Nhu cầu năng lượng cho một cá thể cá voi xanh trưởng thành là khoảng 1,5 triệu kilocalo. Mức tiêu thụ thức ăn của cá voi xanh biến động theo mùa. Chúng thường phải tiêu thụ một lượng lớn moi lân ở vùng nước lạnh giàu thức ăn ở vùng biển Châu Nam cực trước khi di chuyển tới các vùng biển ấm hơn gần xích đạo để sinh sản.
Cá voi xanh thường lặn xuống tới 100 m (330 ft) để kiếm ăn vào ban ngày trong khi vào ban đêm, hoạt động này chủ yếu diễn ra ở gần mặt nước. Thông thường chúng có thể săn mồi liên tục mà không cần trở lên mặt nước trong 10 phút, tuy nhiên, có ghi nhận về các trường hợp lặn liên tục tới 21 phút. Cá voi xanh thường vô tình ăn cả những loài cá nhỏ, mực và các loài giáp xác nhỏ khác do cách thức săn mồi của chúng.
Tiếng kêu
Cá voi xanh được mệnh danh là những ca sĩ lãng du khắp các đại dương. Vì cá voi xanh có thể phát ra âm thanh siêu trầm ở tần số 14 Hz.Và nó cũng phát ra thứ âm thanh lớn nhất trên thế giới, lớn hơn cả tiếng rít của máy bay phản lực với cường độ 200 decibel. Nếu so sánh với tiếng hét của loài người ở 70 decibel, âm thanh cao hơn 120 decibel gây nguy hiểm cho tai người.
Người ta không rõ mục đích của những tiếng kêu này là gì. Richardson (1995) nêu ra một số lý do có thể:
Giữ khoảng cách giữa các cá nhân
Nhận biết loài và cá nhân trong loài
Truyền đạt thông tin (ăn, báo động, tán tỉnh)
Giữ tổ chức xã hội (ví dụ như các tiếng kêu giữa con đực và con cái)
Location of topographic features
Đánh dấu vị trí nguồn thức ăn
Số lượng và nạn săn bắt
Thời kì bị săn bắt
Cá voi xanh rất khỏe và nhanh, do đó rất khó để bắt/giết. Do đó thời gian đầu người ta thường săn cá nhà táng hoặc cá voi Eubalaena, chứ hiếm khi nào săn cá voi xanh. Mọi chuyện bắt đầu thay đổi khi Svend Foyn, một người Na Uy, thử săn cá voi cỡ lớn vào năm 1864 trên một con tàu hơi nước với một khẩu súng phóng lao được thiết kế đặc biệt. Dù lúc đầu khẩu súng này khá cồng kềnh và có xác suất thành công thấp, Foyn đã cố gắng hoàn thiện nó và chẳng mấy chốc một vài trạm săn cá voi bắt đầu mọc lên dọc theo bờ biển Finnmark ở phía Bắc Na Uy. Vì những xung đột với ngư dân địa phương, các trạm này bị đóng cửa, với trạm cuối hoạt động vào năm 1904.
Việc săn cá voi xanh nhanh chóng lan đến Iceland (1883), Faroe Islands (1894), Newfoundland (1898), và Spitsbergen (1903). Năm 1904-05, cá voi lần đầu tiên bị giết tại South Georgia, và tới năm 1925, với sự xuất hiện của máng trượt đằng sau tàu (để kéo cá voi lên dễ dàng) và việc sử dụng phổ biến động cơ hơi nước, số lượng cá voi xanh nói riêng và cá voi tấm sừng hàm nói chung tại Nam Cực và các vùng xung quanh sụt giảm thảm hại. Vào mùa săn năm 1930–31, chỉ tính riêng tại Nam Cực, 29.400 con cá voi xanh đã bị giết. Khi Thế chiến thứ II kết thúc, Trái Đất dường như đã hết sạch cá voi xanh. Năm 1946, lần đầu tiên một hạn mức quốc tế về săn bắt cá voi được đặt ra, nhưng hiệu quả thì không là bao, vì những loài quý hiếm vẫn có thể được săn theo cùng 'hạn mức' với các loài vẫn còn tương đối nhiều.
Arthur C. Clarke là trí thức lớn đầu tiên đứng lên kêu gọi cộng đồng quan tâm hơn đến tình cảnh khốn cùng của loài này, trong quyển sách năm 1962 tựa "Profiles of the Future" của mình. Ông nói "chúng ta không biết được bản chất thật của thực thể mà chúng ta đang hủy diệt" - ám chỉ đến bộ não lớn của cá voi xanh.<ref>Clarke, Arthur C. Profiles of the Future; an Inquiry into the Limits of the Possible". New York: Harper & Row, 1962</ref>
Toàn bộ các loài cá voi truyền thống ở châu Á đã gần như bị tuyệt chủng bởi các hoạt động săn bắt công nghiệp của Nhật Bản, đặc biệt là những nhóm cá voi di cư từ phía Bắc Nhật Bản xuống Biển Hoa Đông. Những con cuối cùng trong nhóm này bị bắt tại Amami Oshima trong khoảng thời gian từ 1910 đến 1939.. Hoạt động đánh bắt ráo riết này diễn ra cho tới năm 1965 với các trạm săn cá voi chủ yếu đặt dọc bờ biển Hokkaido và Sanriku.
Việc săn cá voi cuối cùng cũng bị Hiệp hội Nghề đánh cá voi Quốc tế cấm vào năm 1966, và những hoạt động săn bắt trái phép tại Liên Xô cuối cùng cũng chấm dứt vào thập niên 1970. Cho tới lúc đấy, đã có tổng cộng 330.000 con cá voi xanh bị giết tại Nam Cực, 33.000 con tại các phần còn lại của Bán Cầu Nam, 8.200 con ở Bắc Thái Bình Dương và 7.000 con ở Bắc Đại Tây Dương. Cộng đồng cá voi xanh lớn nhất, ở Nam Cực, đã bị rút xuống chỉ còn 0,15% số lượng ban đầu.
Tình hình hiện nay
Kể từ khi luật cấm săn bắt cá voi được ban hành, người ta đã thực hiện nhiều nghiên cứu nhằm xem các quần thể cá voi xanh hiện nay tăng trưởng về số lượng hay là đang ổn định. Tại Nam Cực, ước tính khả quan nhất cho thấy tốc độ tăng trưởng là 7,3% một năm kể từ lúc việc săn trộm tại Liên Xô chấm dứt, nhưng tổng số cá voi xanh ở đây vẫn không vượt quá 1% vào thời điểm trước khi bị săn. Quần thể tại California hồi phục nhanh hơn, với nghiên cứu năm 2014 cho thấy quần thể này đã đạt 97% số lượng ban đầu.
Số lượng cá voi xanh trên toàn thế giới năm 2002 được ước tính vào khoảng từ 5.000 đến 12.000 con. Tuy nhiên, ở rất nhiều vùng, người ta chỉ có thể suy đoán một cách không chắc chắn.
Cá voi xanh được liệt kê là một trong những loài loài nguy cấp trong Sách đỏ IUCN ngay khi sách này được công bố. Tại Mỹ, Cục Nghề cá Quốc gia đã đặt cá voi xanh dưới sự bảo vệ của Luật Loài Nguy cấp. Quần thể cá voi xanh lớn nhất, gồm khoảng 2.800 con thuộc phân loài B. m. muculus, sinh sống tại Đông Bắc Thái Bình Dương từ Alaska đến Costa Rica. Vào mùa hè người ta có thể thấy chúng tại California. Lâu lâu quần thể này cũng bơi tới Tây Bắc Thái Bình Dương vùng giữa Kamchatka và cực bắc Nhật Bản.
Bắc Đại Tây Dương
Phía Bắc Đại Tây Dương có 2 quần thể B. m. musculus sinh sống. Quần thể thứ nhất được tìm thấy ở Greenland, Newfoundland, Nova Scotia và vịnh Saint Lawrence, gồm khoảng 500 con. Quần thể thứ hai phân bố lệch về phía đông, di chuyển từ Azores vào mùa xuân đến Iceland vào tháng 7 và tháng 8; người ta nghĩ rằng chúng bơi theo đường sống núi giữa Đại Tây Dương nằm giữa 2 vùng đảo núi lửa. Ngoài Iceland, cá voi xanh còn được quan sát thấy tít phía Bắc tận Spitsbergen và Jan Mayen. Tuy nhiên các lần quan sát kể trên khá là hiếm. Các nhà khoa học không biết những con cá voi xanh này sống ở đâu vào mùa đông. Tổng số cá voi xanh tại Bắc Đại Tây Dương được ước tính vào khoảng 600 đến 1,500. Tại bờ biển Ireland, các quan sát thấy loài này được ghi nhận lần đầu tiên vào năm 2008., Kể từ đó vùng Porcupine Seabight đã được xem là nơi phát triển tốt cho cá voi xanh và cá voi vây.
Bắc Thái Bình Dương
Cá voi xanh đã từng bị săn bắt rất dữ tại Nhật Bản, với các hoạt động giết chóc diễn ra chủ yếu tại biển Kumanonada giáp thành phố Wakayama, vịnh Tosa và biển Hyūga. Vì chúng bị săn quá ráo riết, một số nhà khoa học từng nghĩ cá voi xanh đã biến mất hoàn toàn khỏi đây, với các ghi nhận cá voi mắc cạn lần cuối được thu thập vào thập niên 1950. Ngày nay, các cá thể còn sót lại của quần thể phía đông và ven biển ngày xưa có thể được quan sát tại Kushiro, dù điều này là rất hiếm. Người ta cũng thấy cá voi xanh, dù hiếm nhưng đều đặn, bơi ở bán đảo Triều Tiên hoặc ven bờ biển Nhật Bản (là một vùng biển rìa). Điều này khá là thú vị vì thường thì cá voi xanh không bơi vào biển rìa (như biển Okhotsk) trong khi di cư. Trước đây cá voi xanh từng được biết hay di cư xa lên phía Bắc, tới Đông Kamchatka, vịnh Anadyr (Nga) và quần đảo Commander (Nga). Ngày nay, tại quần đảo Commander, hơn 80 năm qua cá voi xanh chưa bao giờ được thấy lại, và từ năm 1994 đến năm 2004, chỉ có 3 lần loài này được thấy tại Nga. Một số vùng như quần đảo Hawaii, quần đảo Bắc Mariana, quần đảo Ogasawara, quần đảo Ryukyu, ven bờ Philippines, Đài Loan, Chu San, và biển Đông như vịnh Daya, bán đảo Lôi Châu, đảo Hải Nam, phía Nam quần đảo Hoàng Sa.v.v... đã từng là nơi trú đông của cá voi xanh. Các dấu chỉ khảo cổ học cho thấy cá voi xanh cũng đã từng di cư đến Hoàng Hải và Bột Hải. Trong các chuyến khảo sát động vật biển có vú gần đây dọc theo eo biển Tsushima, cảnh sát biển Nhật Bản đã thấy vài cá thể cá voi khổng lồ dài hơn 20m. Tuy nhiên, người ta không biết chắc chúng thuộc loài nào. Năm 2005, tại Vạn Ninh đã xảy ra một vụ cá voi mắc cạn. Về tình hình các loài động vật biển tại biển Trung Quốc và Triều Tiên, xin xem Động vật hoa dã tại Trung Quốc.
Nam Bán Cầu
Nam Bán Cầu có 2 phân loài cá voi xanh, B. m. intermedia ở Nam Cực và B. m. brevicauda, một giống cá voi xanh lùn ít được nghiên cứu, ở Ấn Độ Dương. Các khảo sát gần đây nhất (khoảng giữa năm 1998) cho thấy có khoảng 2280 con cá voi xanh tại Nam Cực, hầu hết là B. m. intermedia, chứ B. m. brevicauda chiếm chưa đến 1%. Năm 1996, một khảo sát khác ở Ấn Độ Dương cho thấy chỉ trong một phạm vi nhỏ hẹp tại Nam Madagascar đã có tới 424 con cá voi xanh lùn tại đây, do đó, tổng số cá voi xanh sống ở Ấn Độ Dương có thể lên đến hàng ngàn. Nếu điều này là đúng thì số lượng cá voi xanh trên toàn thế giới sẽ nhiều hơn rất nhiều so với ước tính hiện tại.
Tại châu Đại Dương, cá voi xanh thường tụ tập ở hẻm núi Perth gần đảo Rottnest, vịnh Đại Úc phần giáp với Portland, và vịnh Nam Taranaki. Cả hai giống cá voi xanh phía Nam và cá voi xanh lùn đều sinh sản và di trú tại phần biển giáp Tây Úc, đảo Bắc của New Zealand, từ vùng Northland như vịnh Đảo, vịnh Hauraki ở phía Bắc tới vịnh Plenty phía Nam (rất gần với bờ biển). Ít nhất có các quần thể phía Nam và phía Tây Úc cùng một số quần thể khác được biết di cư đến vùng biển nhiệt đới của Indonesia, Philippines, và Đông Timor (cá voi xanh đến Philippines có thể cũng thuộc quần thể di cư từ Bắc Thái Bình Dương do người ta hay thấy chúng tại Bohol, phía bắc Xích đạo).
Các mối đe dọa khác ngoài săn bắt
Vì kích thước khổng lồ, sức mạnh và tốc độ của mình, cá voi xanh hầu như không có thiên địch trong tự nhiên. Có một lần tạp chí National Geographic'' đã đưa tin về một con cá voi xanh bị tấn công bởi một đàn cá voi sát thủ tại bán đảo Baja California. Mặc dù bầy cá voi sát thủ không thể giết được con cá voi xanh này, nó bị thương nặng và chết không lâu sau đó. Gần 1/4 cá voi xanh tại Baja mang những vết sẹo do bị cá voi sát thủ cắn.
Cá voi xanh có thể bị thương, thậm chí chết, do va chạm với tàu bè hay bị vướng vào lưới đánh cá.
Việc sử dụng ngày càng nhiều sonar trong kĩ thuật hàng hải đã làm nhiễu những bài hát của cá voi, khiến chúng gặp khó khăn trong giao tiếp. Cá voi xanh ngừng phát ra tiếng kêu D khi một sóng sonar tần số trung được bật, mặc dù tần số này (1–8 kHz) nằm ngoài ngưỡng giọng của chúng (25–100 Hz). Việc thải polychlorinated biphenyl (PCB) ra tự nhiên - một chất gây ảnh hưởng nghiêm trọng lên sức khỏe động vật - cũng đe dọa đến sự phục hồi của cá voi xanh.
Có quan ngại rằng nếu các sông băng và băng vĩnh cửu tan quá nhanh vì sự ấm lên toàn cầu, một lượng lớn nước ngọt chảy ra đền một mức nào đó sẽ làm ngưng sự luân chuyển thủy nhiệt. Cá voi xanh dựa trên sự luân chuyển này, tức là sự dịch chuyển của dòng biển nóng và lạnh, để di cư. Chúng kiếm ăn tại các vùng nước mát giàu nhuyễn thể ở vĩ độ cao vào mùa hè, và trú đông cũng như đẻ con ở các vùng nước ấm thuộc vĩ độ thấp hơn vào mùa đông. Nếu như cơ chế chuyển dịch dòng biển này bị ngưng thì cá voi xanh có thể sẽ gặp nhiều vấn đề khó khăn.
Sự thay đổi nhiệt độ nước biển cũng ảnh hưởng đến nguồn thức ăn của cá voi xanh. Nhiệt độ tăng trong khi nồng độ muối lại đi xuống sẽ làm thay đổi sự phân bố cũng như giảm đáng kể số lượng moi lân mà cá voi xanh ăn.
Bảo tàng
Bảo tàng Lịch sử Tự Nhiên, London có trưng bày 2 hiện vật rất nổi tiếng về cá voi xanh, đặt song song với nhau. Hiện vật thứ nhất là một mô hình cá voi xanh kích cỡ thực; hiện vật thứ hai là bộ xương hoàn chỉnh của một cá thể cá voi xanh. Cả hai hiện vật đều thuộc loại đầu tiên trên thế giới.
Bảo tàng Melbourne và bảo tàng New Zealand Te Papa Tongarewa có bộ xương của cá voi xanh lùn.
Bảo tàng Khoa học Tự nhiên North Carolina tại Raleigh, North Carolina có một bộ xương cá voi xanh mà du khách có thể xem từ tầng một và tầng hai.
Phía trước Bảo tàng Quốc gia Tokyo tại Công viên Ueno có trưng bày một mô hình cá voi xanh kích cỡ thực.
Xem thêm
Chú thích
Ghi chú
Đọc thêm
pp. 89–93.
Blue Whale (Balaenoptera musculus) - Office of Protected Resources - NOAA Fisheries Sinh học cá voi xanh và tình trạng hiện nay
The Chilean Blue Whale (Balaenoptera musculus chilensis Khalaf, 2020): A New Subspecies from Chile. By: Prof. Dr. Norman Ali Bassam Khalaf-Prinz Sakerfalke von Jaffa. Gazelle: The Palestinian Biological Bulletin, ISSN 0178-6288, Volume 38, Number 185, May 2020, pp. 40-63.
Liên kết ngoài
Blue whale trên Encyclopædia Britannica
Blue whale videos, photos and facts - Balaenoptera musculus | ARKive Hình ảnh và phim từ ARKive
Bài hát của cá voi xanh – Phòng thí nghiệm Điểu cầm học và âm học sinh vật Cornell
Great whales: Blue whale BBC News ngày 23 tháng 7 năm 2010 Last updated at 10:07 – Cá voi lớn
Blue whale Video clip và tin tức về cá voi xanh từ BBC – BBC Wildlife Finder
Balaenoptera musculus
Giọng nói của Biển cả - Âm thanh cá voi xanh
Cá Voi Xanh - Thông tin khoa học về cá voi xanh.
Động vật có vú Bắc Cực
M
Động vật Ấn Độ Dương
Động vật Đại Tây Dương
Động vật Thái Bình Dương
Cá voi châu Úc
Động vật được mô tả năm 1758
Động vật Bắc Băng Dương
Bảo tồn động vật có vú
|
22934
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/PNG
|
PNG
|
Một hình ảnh PNG với lớp 8-bit trong suốt (trên), được chèn vào hình nền là các ô vuông (dưới).
PNG (từ viết tắt trong tiếng Anh của Portable Network Graphics; chính thức đọc như "pinh") là một dạng hình ảnh sử dụng phương pháp nén dữ liệu mới - không làm mất đi dữ liệu gốc. PNG được tạo ra nhằm cải thiện và thay thế định dạng ảnh GIF với một định dạng hình ảnh không đòi hỏi phải có giấy phép sáng chế khi sử dụng. PNG được hỗ trợ bởi thư viện tham chiếu libpng, một thư viện nền tảng độc lập bao gồm các hàm của C để quản lý các hình ảnh PNG.
Những tập tin PNG thường có phần mở rộng là PNG và png đã được gán kiểu chuẩn MIME là image/png (được công nhận vào ngày 14 tháng 10 năm 1996).
Lịch sử và phát triển
Động cơ thúc đẩy cho việc tạo ra định dạng PNG bắt đầu vào khoảng đầu năm 1995, sau khi Unisys công bố họ sẽ áp dụng bằng sáng chế vào thuật toán nén dữ liệu LZW- được sử dụng trong định dạng GIF. Thuật toán được bảo vệ bởi bằng công nhận độc quyền sáng tạo ở trong nước Mỹ và tất cả các nước trên thế giới. Tuy nhiên, cũng đã có một số vấn đề với định dạng GIF khi cần có một số thay đổi trên hình ảnh, nhất giới hạn của nó là 256 màu trong thời điểm máy tính có khả năng hiển thị nhiều hơn 256 màu đang trở nên phổ biến. Mặc dù định dạng GIF có thể thể hiện các hình ảnh động, song PNG vẫn được quyết định là định dạng hình ảnh đơn (chỉ có một hình duy nhất). Một người "anh em" của nó là MNG đã được tạo ra để giải quyết vấn đề ảnh động. PNG lại tăng thêm sự phổ biến của nó vào tháng 8 năm 1999, sau khi hãng Unisys huỷ bỏ giấy phép của họ đối với các lập trình viên phần mềm miễn phí, và phi thương mại.
Phiên bản 1.0 của đặc tả PNG được phát hành vào ngày 1 tháng 7 năm 1996, và sau đó xuất hiện vơi tư cách RFC 2083. Nó được tổ chức W3C khuyến nghị vào ngày 1 tháng 10 năm 1996.
Phiên bản 1.1, với một số thay đổi nhỏ và thêm vào 3 thành phần mới, được phát hành vào ngày 31 tháng 12 năm 1998.
Phiên bản 1.2, thêm vào một thành phần mở rộng, được phát hành vào ngày 11 tháng 8 năm 1999.
PNG giờ đây là một chuẩn quốc tế (ISO/IEC 15948:2003), và cũng được công bố như một khuyến nghị của W3C vào ngày 10 tháng 11 năm 2003. Phiên bản hiện tại của PNG chỉ khác chút ít so với phiên bản 1.2 và không có thêm thành phần mới nào.
Thông tin kỹ thuật
Phần đầu của tập tin
Một tập tin PNG bao gồm 8-byte ký hiệu (89 50 4E 47 0D 0A 1A 0A được viết trong hệ thống có cơ số 16, chứa các chữ "PNG" và 2 dấu xuống dòng , ở giữa là sắp xếp theo số lượng của các thành phần, mỗi thành phần đều chứa thông tin về hình ảnh. Cấu trúc dựa trên các thành phần được thiết kế cho phép định dạng PNG có thể tương thích với các phiên bản cũ khi sử dụng.
Các "thành phần" trong tập tin
PNG là cấu trúc như một chuỗi các thành phần, mỗi thành phần chứa kích thước, kiểu, dữ liệu, và mã sửa lỗi CRC ngay trong nó.
Chuỗi được gán tên bằng 4 chữ cái phân biệt chữ hoa chữ thường. Sự phân biệt này giúp bộ giải mã phát hiện bản chất của chuỗi khi nó không nhận dạng được.
Với chữ cái đầu, viết hoa thể hiện chuỗi này là thiết yếu, nếu không thì ít cần thiết hơn ancillary. Chuỗi thiết yếu chứa thông tin cần thiết để đọc được tệp và nếu bộ giải mã không nhận dạng được chuỗi thiết yếu, việc đọc tệp phải được hủy.
Thành phần cơ bản
Một bộ giải mã (decoder) phải có thể thông dịch để đọc và hiển thị một tệp PNG.
IHDR phải là thành phần đầu tiên, nó chứa đựng header
PLTE chứa đựng bảng màu (danh sách các màu)
IDAT chứa đựng ảnh. Ảnh này có thể được chia nhỏ chứa trong nhiều phần IDAT. Điều này làm tăng kích cỡ của tệp lên một ít nhưng nó làm cho việc phát sinh ảnh PNG mượt hơn (streaming manner).
IEND đánh dấu điểm kết thúc của ảnh.
Ảnh động
PNG không hỗ trợ ảnh động. Nhưng một định dạng khác phức tạp hơn dựa trên ý tưởng và các chunk của PNG là MNG được thiết kế cho ảnh động, tuy nhiên định dạng này không cho phép 'tương thích lùi' tức là hiển thị một ảnh trong trường hợp hệ thống không hỗ trợ được hình động. Một định dạng khác là APNG cũng dựa trên PNG hỗ trợ ảnh động và tương thích lùi, nhưng đơn giản hơn MNG. Tuy nhiên, đến thời điểm 2005 những định dạng này vẫn chưa được hỗ trợ rộng rãi
Tham khảo
Liên kết ngoài
libpng.org
PNG Home Site
libpng Home Page
PNG-supporting browsers - overview of PNG status in different web browsers. First Windows IE support in 4.0b1; Netscape 4.04 .
The Story of PNG by Greg Roelofs
PNG: The Definitive Guide (Online Version) by Greg Roelofs
W3C
PNG Specification (Second Edition), W3C Recommendation ngày 10 tháng 11 năm 2003
Test inline PNG images
Các trang khác
RFC 2083
PNG transparency test
Transparent PNG Generator
The GD-library to generate dynamic PNG-files with PHP
A guide to PNG optimization
PNG as a future proof format
PNG Adam7 interlacing
List of PNG-related resources, libraries and papers
PNG Files Do Not Show Transparency in Internet Explorer
The PNG problem in Windows Internet Explorer
png transparency in IE
Định dạng tập tin hình ảnh
Chuẩn ISO
Định dạng mở
Tiêu chuẩn của W3C
Tiêu chuẩn ISO
|
22999
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BB%95%20sinh%20v%E1%BA%ADt%20h%E1%BB%8Dc
|
Cổ sinh vật học
|
Cổ sinh vật học là một ngành khoa học nghiên cứu lịch sử phát triển của sự sống trên Trái Đất, về các loài động vật và thực vật cổ xưa, dựa vào các hóa thạch tìm được, là các chứng cứ về sự tồn tại của chúng được bảo tồn trong đá. Các nghiên cứu về hình dáng dựa theo các bộ xương hóa thạch, các dấu vết, các hang động, thành phần thức ăn, dựa vào phân ("phân hóa đá") đã hóa thạch, và thành phần hóa học còn lại của nó.
Tổng quan
Cổ sinh vật học hiện đại nghiên cứu sự sống cổ xưa dưới quan điểm của nó, bằng việc nghiên cứu những sự thay đổi lâu dài về mặt vật lý của địa lý ("cổ địa lý học") và khí hậu ("cổ khí hậu học") toàn cầu có ảnh hưởng như thế nào đến sự tiến hóa của sự sống, các hệ sinh thái có những phản ứng như thế nào đối với những sự thay đổi đó và những thay đổi đó đã ảnh hưởng như thế nào đối với môi trường của hành tinh chúng ta, và những tác động qua lại đó đã ảnh hưởng như thế nào đến sự đa dạng sinh học ngày nay. Với một phạm vi nghiên cứu rộng lớn như vậy cổ sinh vật học bao trùm rất nhiều các ngành khoa học khác như: địa chất học, với những nghiên cứu về lĩnh vực đá và thành phần của đá, thực vật học, sinh vật học, động vật học, và sinh thái học, là các lĩnh vực nghiên cứu việc hình thành sự sống và các mối quan hệ giữa các lĩnh vực đó với nhau.
Các lĩnh vực chính của cổ sinh vật học bao gồm cổ động vật học về các loài động vật cổ đại, cổ thực vật học về các loài thực vật cổ đại, và cổ vi sinh vật học về các loài về các hóa thạch của các loài vi sinh vật. Các nhà cổ sinh vật học có thể đi theo các hướng nghiên cứu khác nhau dựa vào lĩnh vực mà họ nghiên cứu như các nhà cổ sinh vật học nghiên cứu các loại động vật không xương sống (cổ sinh vật không xương sống, các nhà cổ sinh vật học nghiên cứu các loại động vật có xương sống (cổ sinh vật có xương sống, bao gồm cả các hóa thạch của loài người (cổ nhân chủng học). Các nhà cổ vi sinh học nghiên cứu các loại hóa thạch của các loài vi sinh vật, bao gồm việc nghiên cứu các hóa thạch được bao bọc trong các chất hữu cơ khác ví dụ như hổ phách...được gọi là phấn hoa học.
Có rất nhiều các lĩnh vực đặc trưng như cổ sinh thái học, cổ thực vật học, khoa học nghiên cứu dấu phân hóa thạch..., tất cả các nghiên cứu đó để làm sáng tỏ những vấn đề mà con người hiện đại chưa biết đến sau khi các loài sinh vật đó biến mất khỏi sự sống.
Các lĩnh vực chính của việc nghiên cứu cổ sinh vật học liên quan đến các vấn đề như tầng đá với niên đại địa chất của chúng và việc nghiên cứu đến sự tiến hóa của sự sống. Cổ sinh vật học sử dụng cùng một hệ thống danh pháp kép cổ điển được nghĩ ra cho sinh học của nhà sinh vật học người Thụy Điển Carolus Linnaeus vào giữa thế kỷ 18 và việc nghiên cứu cổ sinh vật học tiếp tục thêm vào các loài mới vào trong cây phả hệ của sự sống trên Trái Đất và so sánh mức độ quan hệ giữa các loài này bằng "kỹ thuật" còn nhiều mâu thuẫn là phân loại và miêu tả theo nhánh.
Lợi ích kinh tế cơ bản mà cổ sinh vật học mang lại đó là dựa vào kết quả nghiên cứu cổ sinh vật học người ta có thể xác định được niên đại của các lớp đất đá bao quanh các hóa thạch đó hoặc các lớp đất đá ở phía trên hoặc dưới nó. Những thông tin đó là rất quan trọng đối với ngành công nghiệp khai khoáng và đặc biệt là đối với ngành công nghiệp dầu mỏ.
Người tiền sử cũng đã biết đến các hóa thạch và đôi khi họ đã xác định chính xác chúng là các tàn tích của các dạng sống cổ đại. Việc nghiên cứu có tổ chức của cổ sinh vật học được bắt đầu vào cuối thế kỷ 18.
Các nhà cổ sinh học nổi tiếng
Các nhà cổ sinh vật học thuộc típ những người màu mè và lập dị trong lịch sử khoa học. Những nhân vật quan trọng bao gồm William Smith người Anh là người đầu tiên thông báo rằng các chuỗi hóa thạch tương tự nhau đã được tìm thấy theo khu vực và Georges Cuvier là người đầu tiên nghiên cứu các động vật cổ đại dựa trên các động vật còn đang sinh sống. Nổi tiếng nhất trong số các người Mỹ là Edward Drinker Cope, Othniel Charles Marsh, Paul Sereno, Henry Fairfield Osborn, Louis Agassiz, Charles Walcott và Roy Chapman Andrews. Các nhà cổ sinh vật học nổi tiếng ở châu Âu có Björn Kurtén (người Phần Lan gốc Thụy Điển), nhà cổ côn trùng học người Czech Jarmila Kukalova-Peck. Franz Nopcsa von Felsö-Szilvás thông thường được coi là người sáng lập ra bộ môn cổ sinh học, một lĩnh vực cần thiết phải làm việc với các chức năng sinh học và sinh thái học được suy ra từ các hóa thạch.
Ngoài ra còn một số các nhà cổ sinh vật học nổi tiếng khác. Charles Darwin đã thu thập các mẫu hóa thạch động vật có vú ở Nam Mỹ trong chuyến công du của mình tới Beagle và đã kiểm tra các cánh rừng hóa đá ở Patagonia. Thomas Jefferson có một sự ham mê với các bộ xương voi ma mút. Bằng việc quan sát răng động vật có vú và đào bới nghiên cứu về chim cánh cụt, George Gaylord Simpson đã đóng một vai trò quan trọng chủ yếu trong việc đem các ý tưởng từ sinh học, cổ sinh vật học và di truyền học lại với nhau để góp phần tạo ra "sự tổng hợp hiện đại" của sinh học tiến hóa, cuốn sách "Tempo and Mode" của ông là cổ điển trong lĩnh vực này. Các tên tuổi nổi tiếng trong cổ sinh vật học động vật không xương sống có Steven Stanley, Stephen Jay Gould, David Raup, Geerat Vermeij và Jack Sepkoski là những người đã làm rất nhiều để mở rộng kho tàng kiến thức của chúng ta về các mô hình dài hạn trong sự tiến hóa sự sống trên Trái Đất. Tương tự là trường hợp của nhà khoa học người Croatia Dragutin Gorjanovic-Kramberger và phát hiện của ông về "Người Krapina".
Các nhà cổ sinh vật học khác còn có Yves Coppens. Các nhà khoa học hiện đại trong lĩnh vực cổ sinh vật học bao gồm John Ostrom, Bob Bakker, David B. Weishampel và Jack Horner.
Nghiên cứu
Các công việc trong lĩnh vực cổ sinh vật học có thể chia ra thành điều tra ngoài trời, khai quật, bảo quản hóa thạch và xử lý trong phòng thí nghiệm, phân loại và thu thập các dữ liệu khác, miêu tả hệ thống các loài mới và quản lý các mẫu sưu tập.
Xem thêm
Thời gian biểu của địa lý, cổ sinh vật học, sinh học
Các ấn phẩm quan trọng trong cổ sinh vật học
Tham khảo
Liên kết ngoài
Tin mới về khủng long -Một website được ngưỡng mộ, với các tin tức quốc tế mới nhất về khủng long.
Meganeura Website về tiến hóa của côn trùng và các mẫu hóa thạch.
Website cổ sinh học của Smithsonia
Viện bảo tàng cổ sinh vật học trường đại học tổng hợp California- Các câu hỏi thường gặp về cổ sinh vật học
Người Krapina
Nơi cung cấp nhiều thông tin về Khủng long, thông tin và hình ảnh sơ lược về các thời kì trong lịch sử tự nhiên và về hơn 300 loại khủng long đã được biết đến
Động vật học
Địa chất học
Khoa học Trái Đất
Hóa thạch
Địa chất lịch sử
Sinh học tiến hóa
|
23200
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%BD%20thuy%E1%BA%BFt%20h%E1%BB%97n%20lo%E1%BA%A1n
|
Lý thuyết hỗn loạn
|
Thuyết hỗn loạn hay thuyết hỗn mang (chaos theory) là một lĩnh vực nghiên cứu trong toán học và được ứng dụng vào các ngành khoa học khác như vật lý, cơ khí, kinh tế, sinh học, triết học...
Thuyết hỗn loạn nghiên cứu hành vi của các hệ thống động lực (dynamical system) nhạy cảm với điều kiện ban đầu, chúng là những hệ thống phi tuyến tính (non-linear) hoặc có số chiều không gian không giới hạn. Những hệ thống này được đặc trưng bởi tính chất "hỗn loạn" và sự nhạy cảm của các hệ thống đó thường được nhắc đến như là hiệu ứng cánh bướm (butterfly effect) - một hiện tượng được tìm ra bởi Edward Lorenz. Với đặc tính này, những biến đổi quan sát được của các hệ thống vật lý có biểu hiện hỗn loạn trông có vẻ ngẫu nhiên, dù mô hình mô tả của hệ thống là 'xác định' theo nghĩa là được định nghĩa chính xác và không chứa những tham số ngẫu nhiên. Những biến đổi này có thể được dự đoán trước bằng những phương trình tất định đơn giản (simple deterministic equation).
Về mặt ngữ nghĩa, từ "hỗn loạn" (chaos từ tiếng Hy Lập χάους) trong ngữ cảnh khoa học mang nghĩa khác với thông thường được sử dụng là trạng thái lộn xộn, thiếu trật tự. Từ hỗn loạn trong thuyết hỗn loạn ám chỉ một hệ thống có vẻ như không có trật tự nào hết nhưng lại tuân theo một quy luật hoặc nguyên tắc nào đó.
Một vài ví dụ của những hệ thống nhạy cảm với điều kiện ban đầu là khí quyển Trái Đất, hệ mặt trời, kiến tạo học, đối lưu chất lỏng, kinh tế, tăng trưởng dân số...
Mô tả về thuyết hỗn loạn
Định nghĩa
Một hệ thống động lực là hỗn loạn nếu như tồn tại một hàm bất biến trên tập , nghĩa là và , thì . Hàm phải thỏa mãn các tính chất sau:
nhạy cảm với điều kiện các ban đầu của
là hàm chuyển trạng thái topo trên thỏa mãn điều kiện:Giả sử có các tập mở (open set) với , tồn tại một sao cho .
Các quỹ đạo tuần hoàn của là trù mật trên
Hoặc bằng cách diễn giải thông thường, ta nói một hệ thống động lực là hỗn loạn nếu nó mang các tính chất sau đây:
nhạy cảm với điều kiện ban đầu (hay phải đáp ứng được hiệu ứng cánh bướm);
quỹ đạo chuyển động tuần hoàn của hệ thống phải trù mật (dense);
hòa lẫn nhau theo nghĩa topo (topologically mixing).
Sự vận động mỏ hỗ
Sự nhạy cảm với các điều kiện ban đầu nghĩa là hai điểm trong một hệ như vậy có thể di chuyển trên những quỹ đạo hoàn toàn khác biệt nhau trong không gian pha của chúng ngay cả nếu như sự khác nhau trong cấu hình ban đầu của chúng là rất nhỏ. Hệ này hành xử hoàn toàn giống nhau nếu như cấu hình ban đầu của chúng là giống nhau một cách chính xác. Một ví dụ về độ nhạy cảm như vậy là hiện tượng gọi là "hiệu ứng bướm", khi mà vẫy cánh của một con bướm được tưởng tượng là tạo ra những thay đổi nhỏ trong khí quyển mà sau một quãng thời gian đủ lớn sẽ tạo nên những thay đổi lớn như là một cơn bão có thể xảy ra. Cái vẫy cánh của con bướm biểu diễn một thay đổi nhỏ trong trạng thái ban đầu của hệ tạo ra một chuỗi các sự kiện để dẫn đến những hiện tượng ở phạm vi rộng lớn hơn như là một cơn bão. Nếu như một con bướm đã không vẫy cánh, quỹ đạo của hệ có thể rất khác xa. Các ví dụ phổ biến khác của các chuyển động hỗn loạn là sự pha trộn của thuốc nhuộm và các dòng khí chuyển động hỗn loạn.
Sự nhạy cảm đối với điều kiện ban đầu liên quan đến hàm mũ Lyapunov.
Hòa trộn topo
Hòa trộn topo (topological mixing) hay chuyển trạng thái topo (topological transitivity) nghĩa là khi ta áp dụng phép biến đổi lên bất kì một đoạn bất kì sẽ làm nó mở rộng ra cho đến khi đó chồng lên với một đoạn cho trước bất kì .
Tính hòa lẫn nhau, các điểm tuần hoàn trù mật, và sự nhạy cảm đối với điều kiện ban đầu có thể mở rộng ra bất kì không gian metric nào.
Vùng thu hút
Một cách để nhìn thấy các chuyển động hỗn loạn, hay bất kì một thứ chuyển động nào, là vẽ sơ đồ pha của chuyển động đó. Trong một sơ đồ như vậy thời gian không được biểu diễn và mỗi trục đại diện cho một chiều của trạng thái. Chẳng hạn, ta có thể vẽ vị trí của một con lắc so với vận tốc của nó. Con lắc ở điểm dừng sẽ được vẽ bằng 1 điểm và một con lắc tuần hoàn lắc lư qua lại sẽ được vẽ bằng một đường cong khép kín. Khi một sơ đồ làm thành một đường cong khép kín, đường cong đó được gọi là một quỹ đạo. Con lắc của chúng ta có vô số quỹ đạo, tạo thành một vết các hình ellip lồng vào nhau xung quanh gốc tọa độ.
Thông thường thì các sơ đồ pha sẽ cho thấy rằng đa số các quỹ đạo trạng thái sẽ quấn quanh và tiến đến một giới hạn chung nào đó. Hệ thống này cuối cùng sẽ có một chuyển động giống nhau cho tất cả các trạng thái ban đầu trong một vùng xung quanh chuyển động, như thể như là hệ thống bị hút vào đó. Một chuyển động thu hút như vậy được gọi là một vùng thu hút của hệ thống và rất phổ biến cho các hệ thống có lực tiêu tán dần.
Phạm vi của các sự hấp dẫn
Lịch sử
Lý thuyết toán học
Các nhà toán học đã tìm ra nhiều cách bổ sung để đưa ra các phát biểu định lượng về lý thuyết hỗn loạn, trong đó bao gồm:
Kích thước fractal của điểm hấp dẫn
Số mũ Lyapunov
Biểu đồ lặp lại
Bản đồ Poincaré
Sơ đồ chia đôi
Toán tử chuyển đổi
Cực tiểu sự phức tạp của một hệ thống hỗn loạn
Nhiều hệ đơn giản có thể tạo ra sự hỗn loạn mà không phụ thuộc vào các phương trình vi phân, ví dụ như bản đồ Logistic, là một phương trình sai phân tuyến tính có liên hệ lặp lại, mô tả sự gia tăng dân số theo thời gian
Ngay cả với hệ thống rời rạc như là ô tô tự động, có thể phụ thuộc nhiều vào những điều kiện ban đầu. Stephen Wolfram đã nghiên cứu một ô tô tự động với các tính chất này, được ông gọi là "Quy tắc 30"
Các ví dụ khác về các hệ thống hỗn loạn
Double pendulum
Logistic map
Hénon map
Lorenz model
Smale horseshoe
Dynamical billiards
Xem thêm
Anosov diffeomorphism
Bifurcation theory
Complexity
Hệ thống phi tuyến
Hệ thống động lực
Phân dạng
Benoit Mandelbrot
Tập Mandelbrot
Tập Julia
Edge of chaos
Mitchell Feigenbaum
Predictability
Sensitive dependency on initial conditions
Tham khảo
Sách tham khảo có tính kỹ thuật
"Wave Propagation in Ray-Chaotic Enclosures: Paradigms, Oddities and Examples", Vincenzo Galdi, et. al., IEEE Antennas and Propagation Magazine, tháng 2 năm 2005, p. 62
Các sách phổ thông ít có tính kỹ thuật
The Beauty of Fractals, by H.-O. Peitgen and P.H. Richter
Chance and Chaos, by David Ruelle
Computers, Pattern, Chaos, and Beauty, by Clifford A. Pickover
Fractals, by Hans Lauwerier
Fractals Everywhere, by Michael Barnsley
Order Out of Chaos, by Ilya Prigogine and Isabelle Stengers
Chaos and Life, by Richard J Bird
Does God Play Dice?, by Ian Stewart
The Science of Fractal Images, by Heinz-Otto Peitgen and Dietmar Saupe, Eds.
Explaining Chaos, by Peter Smith
Chaos, by James Gleick
Complexity, by M. Mitchell Waldrop
Chaos, Fractals and Self-organisation, by Arvind Kumar
Chaotic Evolution and Strange Attractors, by David Ruelle
Sync: The emerging science of spontaneous order, by Steven Strogatz
The Essence of Chaos, by Edward Lorenz
Deep Simplicity, by John Gribbin
Phim ảnh
Ian Malcolm, a character from the movie and book Jurassic Park, was a chaos theory mathematician.
Liên kết ngoài
http://www.nbi.dk/ChaosBook/
Chaos Theory and Education
Chaos Theory: A Brief Introduction
Linear and Nonlinear Dynamics and Vibrations Laboratory at the University of Illinois
The Chaos Hypertextbook. An introductory primer on chaos and fractals.
Chaos Theory in the Social Sciences, edited by L Douglas Kiel, Euel W Elliott.
Emergence of Chaos
Xác suất và thống kê
Hệ phi tuyến tính
|
23214
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A2y%20quy%E1%BA%BFt%20%C4%91%E1%BB%8Bnh
|
Cây quyết định
|
Trong lý thuyết quyết định (chẳng hạn quản lý rủi ro), một cây quyết định (tiếng Anh: decision tree) là một đồ thị của các quyết định và các hậu quả có thể của nó (bao gồm rủi ro và hao phí tài nguyên). Cây quyết định được sử dụng để xây dựng một kế hoạch nhằm đạt được mục tiêu mong muốn. Các cây quyết định được dùng để hỗ trợ quá trình ra quyết định. Cây quyết định là một dạng đặc biệt của cấu trúc cây.
Giới thiệu chung
Trong lĩnh vực máy học, cây quyết định là một kiểu mô hình dự báo (predictive model), nghĩa là một ánh xạ từ các quan sát về một sự vật/hiện tượng tới các kết luận về giá trị mục tiêu của sự vật/hiện tượng. Mỗi một nút trong (internal node) tương ứng với một biến; đường nối giữa nó với nút con của nó thể hiện một giá trị cụ thể cho biến đó. Mỗi nút lá đại diện cho giá trị dự đoán của biến mục tiêu, cho trước các giá trị của các biến được biểu diễn bởi đường đi từ nút gốc tới nút lá đó.
Kỹ thuật học máy dùng trong cây quyết định được gọi là học bằng cây quyết định, hay chỉ gọi với cái tên ngắn gọn là cây quyết định.
Học bằng cây quyết định cũng là một phương pháp thông dụng trong khai phá dữ liệu. Khi đó, cây quyết định mô tả một cấu trúc cây, trong đó, các lá đại diện cho các phân loại còn cành đại diện cho các kết hợp của các thuộc tính dẫn tới phân loại đó[1]. Một cây quyết định có thể được học bằng cách chia tập hợp nguồn thành các tập con dựa theo một kiểm tra giá trị thuộc tính [1]. Quá trình này được lặp lại một cách đệ quy cho mỗi tập con dẫn xuất. Quá trình đệ quy hoàn thành khi không thể tiếp tục thực hiện việc chia tách được nữa, hay khi một phân loại đơn có thể áp dụng cho từng phần tử của tập con dẫn xuất. Một bộ phân loại rừng ngẫu nhiên (random forest) sử dụng một số cây quyết định để có thể cải thiện tỉ lệ phân loại.
Cây quyết định cũng là một phương tiện có tính mô tả dành cho việc tính toán các xác suất có điều kiện.
Cây quyết định có thể được mô tả như là sự kết hợp của các kỹ thuật toán học và tính toán nhằm hỗ trợ việc mô tả, phân loại và tổng quát hóa một tập dữ liệu cho trước.
Dữ liệu được cho dưới dạng các bản ghi có dạng:
(x, y) = (x1, x2, x3..., xk, y)
Biến phụ thuộc (dependant variable) y là biến mà chúng ta cần tìm hiểu, phân loại hay tổng quát hóa.
x1, x2, x3... là các biến sẽ giúp ta thực hiện công việc đó
Các kiểu cây quyết định
Cây quyết định còn có hai tên khác:
Cây hồi quy (Regression tree) ước lượng các hàm giá có giá trị là số thực thay vì được sử dụng cho các nhiệm vụ phân loại. (ví dụ: ước tính giá một ngôi nhà hoặc khoảng thời gian một bệnh nhân nằm viện)
Cây phân loại (Classification tree), nếu y là một biến phân loại như: giới tính (nam hay nữ), kết quả của một trận đấu (thắng hay thua).
Ví dụ thực hành
Ta sẽ dùng một ví dụ để giải thích về cây quyết định:
David là quản lý của một câu lạc bộ đánh golf nổi tiếng. Anh ta đang có rắc rối chuyện các thành viên đến hay không đến. Có ngày ai cũng muốn chơi golf nhưng số nhân viên câu lạc bộ lại không đủ phục vụ. Có hôm, không hiểu vì lý do gì mà chẳng ai đến chơi, và câu lạc bộ lại thừa nhân viên.
Mục tiêu của David là tối ưu hóa số nhân viên phục vụ mỗi ngày bằng cách dựa theo thông tin dự báo thời tiết để đoán xem khi nào người ta sẽ đến chơi golf. Để thực hiện điều đó, anh cần hiểu được tại sao khách hàng quyết định chơi và tìm hiểu xem có cách giải thích nào cho việc đó hay không.
Vậy là trong hai tuần, anh ta thu thập thông tin về:
Trời (outlook) (nắng (sunny),
Và tất nhiên là số người đến chơi golf vào hôm đó.
David thu được một bộ dữ liệu gồm 14 dòng và 5 cột.
Sau đó, để giải quyết bài toán của David, người ta đã đưa ra một mô hình cây quyết định.
Nhóm người chơi golf khi trời nắng, nhóm chơi khi trời nhiều mây, và nhóm chơi khi trời mưa.
Kết luận thứ nhất: nếu trời nhiều mây, người ta luôn luôn chơi golf. Và có một số người ham mê đến mức chơi golf cả khi trời mưa.
Tiếp theo, ta lại chia nhóm trời nắng thành hai nhóm con. Ta thấy rằng khách hàng không muốn chơi golf nếu độ ẩm lên quá 70%.
Cuối cùng, ta chia nhóm trời mưa thành hai và thấy rằng khách hàng sẽ không chơi golf nếu trời nhiều gió.
Và đây là lời giải ngắn gọn cho bài toán mô tả bởi cây phân loại. David cho phần lớn nhân viên nghỉ vào những ngày trời nắng và ẩm, hoặc những ngày mưa gió. Vì hầu như sẽ chẳng có ai chơi golf trong những ngày đó. Vào những hôm khác, khi nhiều người sẽ đến chơi golf, anh ta có thể thuê thêm nhân viên thời vụ để phụ giúp công việc.
Kết luận là cây quyết định giúp ta biến một biểu diễn dữ liệu phức tạp thành một cấu trúc đơn giản hơn rất nhiều.
Các công thức
Gini impurity
Dùng trong thuật toán CART (Classification and Regression Trees).
Nó dựa vào việc bình phương các xác suất thành viên cho mỗi thể loại đích trong nút. Giá trị của nó tiến đến cực tiểu (bằng 0) khi mọi trường hợp trong nút rơi vào một thể loại đích duy nhất.
Giả sử y nhận các giá trị trong {1, 2,..., m} và gọi f(i,j) là tần suất của giá trị j trong nút i. Nghĩa là f(i,j) là tỷ lệ các bản ghi với y=j được xếp vào nhóm i.
Entropy
Dùng trong các thuật toán sinh cây ID3, C4.5 và C5.0.
Số đo này dựa trên khái niệm entropy trong lý thuyết thông tin (information theory).
Ưu điểm của cây quyết định
So với các phương pháp khai phá dữ liệu khác, cây quyết định là phương pháp có một số ưu điểm:
Cây quyết định dễ hiểu. Người ta có thể hiểu mô hình cây quyết định sau khi được giải thích ngắn.
Việc chuẩn bị dữ liệu cho một cây quyết định là cơ bản hoặc không cần thiết. Các kỹ thuật khác thường đòi hỏi chuẩn hóa dữ liệu, cần tạo các biến phụ (dummy variable) và loại bỏ các giá trị rỗng.
Cây quyết định có thể xử lý cả dữ liệu có giá trị bằng số và dữ liệu có giá trị là tên thể loại. Các kỹ thuật khác thường chuyên để phân tích các bộ dữ liệu chỉ gồm một loại biến. Chẳng hạn, các luật quan hệ chỉ có thể dùng cho các biến tên, trong khi mạng nơ-ron chỉ có thể dùng cho các biến có giá trị bằng số.
Cây quyết định là một mô hình hộp trắng. Nếu có thể quan sát một tình huống cho trước trong một mô hình, thì có thể dễ dàng giải thích điều kiện đó bằng logic Boolean. Mạng nơ-ron là một ví dụ về mô hình hộp đen, do lời giải thích cho kết quả quá phức tạp để có thể hiểu được.
Có thể thẩm định một mô hình bằng các kiểm tra thống kê. Điều này làm cho ta có thể tin tưởng vào mô hình.
Cây quyết định có thể xử lý tốt một lượng dữ liệu lớn trong thời gian ngắn. Có thể dùng máy tính cá nhân để phân tích các lượng dữ liệu lớn trong một thời gian đủ ngắn để cho phép các nhà chiến lược đưa ra quyết định dựa trên phân tích của cây quyết định.
== nhược điểm của cây quyết định
- khó giải quyết được những vấn đề có dữ liệu phụ thuộc thời gian liên tục
- dễ xảy ra lỗi khi có quá nhiều lớp
chi phí tính toán để xây dựng mô hình cây quyết định CAO
Mở rộng cây quyết định thành đồ thị quyết định
Trong cây quyết định, mọi đường đi từ nút gốc đến nút lá được tiến hành bằng các phép hội (AND).
Trong đồ thị quyết định, có thể dùng các phép tuyển (OR) để kết nối ghép hai hay nhiều đường lại với nhau.
Phần bù của cây quyết định là phân tích hình thái học (Morphological Analysis).
Các nguồn tài nguyên khác
[1] T. Menzies, Y. Hu, Data Mining For Very Busy People. IEEE Computer, tháng 10 năm 2003, pgs. 18-25.
Decision Tree Analysis mindtools.com
J.W. Comley and D.L. Dowe, "Minimum Message Length, MDL and Generalised Bayesian Networks with Asymmetric Languages", chapter 11 (pp265–294) in P. Grunwald, M.A. Pitt and I.J. Myung (eds)., Advances in Minimum Description Length: Theory and Applications , M.I.T. Press, tháng 4 năm 2005, ISBN 0262072629. (Bài báo này xem xét cây quyết định trong các nốt bên trong của mạng Bayes dùng Minimum Message Length (MML). Phiên bản trước tại Comley and Dowe (2003), .)
P.J. Tan and D.L. Dowe (2004), MML Inference of Oblique Decision Trees, Lecture Notes in Artificial Intelligence (LNAI) 3339, Springer-Verlag, pp1082-1088. (Bào báo này dùng Minimum Message Length.)
Eruditionhome Site thư mục lớn nhất chứa các nguồn tài nguyên trong khai phá dữ liệu
Tham khảo
Cây (cấu trúc)
Lý thuyết quyết định
Giải thuật phân loại
Khai thác dữ liệu
|
23245
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%A1
|
Đá
|
Đá hay nham thạch là tổ hợp có quy luật của các loại khoáng vật, có thể là một thể địa chất có lịch sử hình thành riêng biệt. Cách phân loại tổng quát nhất dựa trên nguồn gốc thành tạo gồm đá macma, đá trầm tích và đá biến chất. Đôi khi thiên thạch được xem là một nhóm đá riêng có nguồn gốc từ vũ trụ. Nham thạch là một từ Hán Việt dùng để chỉ đá theo thiên hướng học thuật hoặc một cách chung chung, trong đó nham (岩) chỉ đá tảng, đá núi và thạch (石) chỉ đá hòn, đá sỏi.
Với thời gian đời người đá không có sự biến đổi nhưng chúng có thể bị biến đổi bởi các quá trình địa chất diễn ra trong thời gian rất dài. Chu trình thạch học mô tả các giai đoạn mà các loại đá được hình thành và biến chuyển từ dạng này sang dạng khác. Đá magma hình thành khi dung nham đông nguội trên bề mặt hoặc kết tinh ở dưới sâu. Các đá trầm tích được hình thành từ quá trình lắng đọng vật liệu, rồi nén ép thành đá. Trong khi đá biến chất có thể hình thành từ các loại đá magma, đá trầm tích hay các loại đá biến chất có trước dưới tác động của nhiệt độ và áp suất.
Đá là một loại vật liệu gắn liền với lịch sử phát triển của loài người. Từ thời đại đồ đá con người đã biết dùng đá để làm vũ khí tự vệ, săn bắn, công cụ sản xuất. Đặc biệt, đá được dùng trong xây dựng những công trình mà ngày nay chúng trở nên nổi tiếng như Kim tự tháp, Angkor Wat, thành Babylon, El-Djem, Colisée, Bourgogne, Épidayre.
Chu trình đá
Chu trình thạch học hay còn gọi là vòng tuần hoàn của đá nằm ở lớp thạch quyển thuộc vỏ Trái Đất. Cũng giống như nước hay nhiều loại hợp chất khác, chúng biến đổi tuần tự theo một chu trình xác định và quay vòng một cách có hệ thống tạo nên vòng tuần hoàn khép kín.
Các đá magma được kết tinh bên dưới lớp vỏ từ magma nóng hoặc được đưa lên trên mặt để hình thành đá núi lửa. Các quá trình bóc mòn, phong hóa diễn ra trên bề mặt làm đá vỡ ra được mang đi nơi khác lắng đọng lại ở những môi trường có năng lượng thấp như hồ, biển, vv... Sau khi lắng đọng thường do áp lực của chính bản thân vật liệu làm các vật liệu trầm tích bị cố kết để hình thành nên đá trầm tích. Một khi các đá trầm tích hoặc magma chịu tác động của môi trường có nhiệt độ hoặc áp suất cao hoặc cả hai yếu tố trên làm cho chúng bị biến đổi về cả thành phần và cấu trúc để tạo ra các đá biến chất. Cả ba loại đá này đều có thể bị hút chìm vào bên trong manti ở các đới hút chìm và tan chảy thành magma lỏng, và cứ thế quá trình tiếp tục tuần hoàn.
Các đá cũng như thế, chúng cũng biến đổi tuần tự theo những chu trình xác định dưới những điều kiện tác động về hóa lý khác nhau từ môi trường như bị phong hóa, lắng đọng, nóng chảy, kết tinh, đông kết..vv. Ta có thể khởi đầu vòng tuần hoàn từ vật liệu magma có trong lòng đất.
(1) Magma → Đá magma phun trào → Trầm tích → Đá trầm tích → Đá biến chất → magma
(2) Magma → Đá magma xâm nhập → Trầm tích → Đá trầm tích → Đá biến chất → magma
Đây có thể coi là hai vòng tuần hoàn lớn vì ngoài ra còn có các vòng tuần hoàn nhỏ hơn cũng xuất phát từ vật liệu ban đầu là magma. Nhưng những vòng tuần hoàn nhỏ này có đường đi ngắn hơn, bỏ qua một số đá nào đó.
(3) Đá magma → Đá magma phun trào → Đá biến chất → magma
(4) Đá magma → Đá magma xâm nhập → Đá biến chất → magma
(5) Đá biến chất (có thể xuất phát từ thiên thạch)→ Trầm tích → Đá trầm tích → Đá biến chất → magma
(6) Đá trầm tích (có thể xuất phát từ thiên thạch)→ Trầm tích → Đá trầm tích → Đá biến chất → magma
Đá magma
Đá magma được hình thành từ kết quả nguội lạnh, đông cứng của dung dịch silicat nóng chảy (dung dịch macma) và được chia (theo nguồn gốc thành tạo) làm hai loại macma chính: macma xâm nhập và macma phun trào. Macma này có thể có nguồn gốc từ manti của Trái Đất hoặc từ các loại đá đã tồn tại trước đó bị nóng chảy do các thay đổi nhiệt độ áp suất cực cao. Khoảng 64,7% thể trích vỏ Trái Đất được cấu tạo bởi các đá magma, trong đó, 66% là basalt và gabro, 16% là granit, và 17% granodiorit và diorit. Chỉ có 0,6% là syenit và 0,3% peridotit và dunit. Vỏ đại dương là 99% basalt, một loại đá có thành phần mafic. Granit và các đá tương tự cấu tạo nên phần lớn vỏ lục địa. Trên 700 loại đá magma đã được miêu tả lại, phần lớn trong chúng được tạo ra gần bề mặt lớp vỏ Trái Đất. Các loại đá magma chiếm khoảng 95% toàn bộ phần phía trên của lớp vỏ Trái Đất, nhưng chúng phân bố phổ biến hơn ở bên dưới lớp đá trầm tích và đá biến chất tương đối mỏng nhưng phân bố rộng.
Thành phần hóa học & khoáng vật
Người ta dựa vào thần phần hóa học của đá magma, đặc biệt là silic dioxide (SiO2) để phân ra thành các đá base, trung tính và axit. Ngoài ra, việc phân loại theo thành phần hóa có thể gồm siêu mafic, mafic (tương đương với base) hay đá sẫm màu, trung tính và felsic (tương đương với axit) hay đá sáng màu. Xu hướng ngày nay người ta dùng cách gọi mafic, felsic để tránh nhầm lẫn với tính chất axit, base trong hóa học. Thuật ngữ felsic được hình thành khi ghép các từ fel của fenspat (tiếng Anh là Felspar) và si của silic. Từ mafic cũng hình thành theo cách tương tự: ma của magiê và f của ferrum (chỉ sắt) trong tiếng Latinh. Các đá felsic là các đá sáng màu do chứa nhiều natri và kali hơn so với các đá mafic. Các đá felsic có nhiệt độ nóng chảy thấp hơn nhưng bền hơn trong điều kiện phong hóa so với đá mafic.
Chuỗi phản ứng Bowen miên tả quá trình magma nguội lạnh và trình tự kết tinh các khoáng vật để hình thành các loại đá. Chuỗi phản ứng của Boween gồm hai nhánh, nhánh bên phải được gọi là chuỗi phản ứng không liên tục, còn nhánh bên trái được gọi là chuỗi phản ứng liên tục. Nhánh không liên tục bắt đầu kết tinh ở 1200 độ C đứng đầu là olivin - một khoáng vật rất giàu sắt và magnesi, tiếp theo là pyroxen, amphibol, và biotit. Quá trình kết tinh này làm hàm lượng SiO2 trong phần còn lại của magma tăng cao. Trong khi đó, nhánh liên tục bên phải bắt đầu là plagioclase giàu calci có tên gọi là anorthit, từ đây, thành phần calci của khoáng vật này bị thay thế liên tục bằng natri để tạo ra plagioclase giàu natri-anbit. Tiếp theo muscovit và fenspat giàu SiO2 được kết tinh ở nhiệt độ thấp hơn. Thạch anh là sản phẩm kết tinh cuối cùng trong chuỗi phản ứng trên ở nhiệt độ 750 độ C.
Kiến trúc
Đá magma có các kiến trúc khác nhau tùy theo môi trường mà chúng thành tạo. Các đá có hạt thô đồng đều là do quá trình nguội lạnh từ từ khi đó các khoáng vật có thời gian để hình thành những tinh thể, loại kiến trúc này được gọi là hiển tinh. Các đá có kiến trúc hiển tinh thường đặc trưng cho môi trường thành tạo dưới mặt đất, như granit, diorit hoặc gabro. Còn các đá nguội lạnh nhanh, các khoáng vật không có thời gian kết tinh như đá núi lửa thường có các kiến trúc ban tinh, vi tinh, ẩn tinh hoặc thủy tinh như ryolit, andesit hay bazan. Đối với các đá có kiến trúc ban tinh, sự xuất hiện các hạt tinh thể to là do chúng được hình thành từ trước dưới sâu và được mang lên trên bề mặt qua quá trình phun trào. Một số loại đá phun trào hình thành nên cấu trúc lỗ hổng hoặc cấu trúc bọt, các cấu trúc này đặc trưng cho các dung nham có chứa nhiều chất bốc (hơi nước, CO2) ở áp suất cao, khi lên đến bề mặt áp suất bị giảm nên pha khí tách ra khỏi pha lỏng, và kết quả là để lại những lỗ rỗng trong khối đá.
Các loại đá magma
Đá magma chia theo thành phần SiO2 và theo môi trường thành tạo được miêu tả trong bảng bên dưới.
Đá magma xâm nhập
Đá magma xâm nhập được thành tạo khi dung dịch macma nguội đi và các tinh thể khoáng vật kết tinh chậm bên trong vỏ Trái Đất. Các tinh thể kết tinh rõ ràng, các đá loại này thường có cấu tạo đặc sít. Sự kết tinh của dung dịch magma trong giai đoạn sau có môi trường thuận lợi để hình thành loại đá có kích thước hạt rất to như pegmatit. Các đá xâm nhập có mặt trong các dãy núi cổ và hiện đại, tuy nhiên chúng chỉ có trên các lục địa.
Đá mạch
Đá mạch là các loại đá xâm nhập khi magma đi lên theo các khe nứt kiến tạo, đứt gãy hoặc các đá có trước bị yếu đi do các yếu tố kiến tạo. Các quá trình hình thành loại đá này có thể xảy ra trên cạn hoặc dưới đáy biển. Quá trình kết tinh có thể xảy ra ở các cấp áp suất và nhiệt độ đa dạng tùy thuộc vào vị trí và thế nằm của chúng. Chúng được chia như sau:
Thể bất chỉnh hợp: Đá thể tường (dike).
Thể chỉnh hợp: Đá thể bàn hay đá thể bảng (sill), đá thể nấm (laccolith) và đá thể bồn (lopolith).
Đá magma phun trào
Đá magma phun trào được thành tạo khi dung dịch magma phun trào lên trên bề mặt đất; có sự giải phóng các chất khí có trong dung dịch macma một cách mãnh liệt, các đá macma phún xuất thường có cấu tạo rỗng xốp.
Trên mặt đất, do nguội lạnh nhanh, macma không kịp kết tinh, hoặc chỉ kết tinh được một bộ phận với kích thước tinh thể rất nhỏ, chưa hoàn chỉnh, còn đại bộ phận tồn tại ở dạng vô đình hình, trong đá có lẫn nhiều bọt khí (do đang sôi và bị nguội lạnh nhanh): đó là dạng macma phún xuất chặt chẽ. Ví dụ Đá diabase, bazan, andezit. Có tính chất rỗng nhẹ, cứng và rất giòn. Sử dụng làm cốt liệu cho bê tông nhẹ, dụng làm phụ gia hoạt tính cho bê tông và xi măng…
Khi macma đang sủi bọt, gặp lạnh đông lại nên rất xốp và nhẹ, hoặc phần macma bị phun lên cao, bay xa, nguội nhanh, hơi nước, khí thoát ra nhiều nên có kết cấu rỗng vụn, lỗ nhỏ: đó là dạng macma phún xuất rời rạc. Ví dụ Tro, túp núi lửa, túp dung nham. Tính chất nhẹ. Dùng làm phụ gia trơ cho bê tông và xi măng. Ngoài các núi lửa trên đất liền, một lượng lớn đá này hình thành một cách liên tục ở các sống núi giữa đại dương.
Thế nằm của đá
Những yếu tố ảnh hưởng đến dạng nằm của đá magma
Hoạt tính của magma: Hoạt tính của magma liên quan tới tác dụng hóa học của magma. Nó được thể hiện thông qua hàm lượng chất bốc, độ nhớt, trọng lực, áp suất thủy tĩnh... Hoạt tính còn liên quan đến:
Trọng lực do sự chênh lệch tỷ trọng giữa đá magma và đá vây quanh: khiến cho magma di chuyển vào đá vây quanh khi có điều kiện thuận lợi.
Áp suất thủy tĩnh (là áp suất của các khối đá trên đè xuống các khối đá dưới) do đó mà magma ở dưới độ sâu càng lớn thì có áp suất thủy tĩnh càng lớn và lò magma luôn có xu hướng dâng lên các tầng trên của Vỏ Trái Đất để tạo nên các thể xâm nhập dạng vỉa, nấm...
Sự phá huỷ các cân bằng tướng khí lỏng của magma, magma có áp suất khí cao khi dâng lên phần nông của Vỏ Trái Đất, áp suất mái giảm đi có thể gây nổ và tạo các ống nổ.
Độ nhớt của magma và độ nhớt này ảnh hưởng đến hình dạng của thể đá magma: độ nhớt của magma phụ thuộc vào thành phần hóa học của magma, magma có độ nhớt càng thấp thì càng dễ chảy tràn và ngược lại (magma base có độ nhớt thấp thì khi đưa lên bề mặt thường chảy tràn còn magma axit có độ nhớt cao thì thường tạo khối).
Chất bốc (khí trong magma): Những magma giàu chất bốc sẽ xuất hiện các lực đưa magma xuyên vào đá vây quanh dễ dàng hơn magma nghèo chất bốc.
Yếu tố ngoại sinh bao gồm:
Hoạt động kiến tạo: Các hoạt động kiến tạo mức độ khác nhau sẽ tạo các đường dẫn khác nhau, từ đó sẽ dẫn đến hình dạng khác nhau của các thể đá magma.
Đặc điểm địa hình và đá vây quanh.
Dạng nằm của các đá magma xâm nhập
Thể nền (batolit): bất chỉnh hợp với đá vây quanh, phình ra ở phía dưới và không có đáy. Kích thước thường rất lớn, tới hàng ngàn km2.
Thể cán: giống thể nền, chỉ khác kích thước nhỏ hơn, diện tích lộ không quá 100-200km2.
Thể vỉa: do magma có áp lực xuyên vào khoảng giữa hai lớp đá, nó có hai mặt tiếp xúc song song, đường đưa magma lên là những khe nứt, đứt gãy. Kích thước rất khác nhau, bề dày từ vài chục mét đến hàng trăm mét. Chỉnh hợp với đá vây quanh
Thể nấm: giống hình cái nấm hoặc bánh dày, phân biệt với thể vỉa do kích thước tương đối (chiều dày:chiều rộng>1:8), ngoài rìa mỏng dần so với phần trung tâm. Thường là các thể xâm nhập nông, nằm chỉnh hợp với đá vây quanh.
Thể thấu kính, thể chậu: thường nằm kẹp giữa các nếp uốn, do khối nhỏ magma xuyên vào vỏ Trái Đất rồi bị cuốn theo chuyển động dẻo, chúng thường không có rễ, chỉnh hợp với đá vây quanh.
Thể tường: nằm dốc đứng bất chỉnh hợp với đá vây quanh, kích thước từ vài chục mét đến hàng trăm km.
Dạng nằm của đá magma phun trào
Dạng dòng dung nham.
Dạng lớp phủ.
Dạng vòm, kim, tháp.
Đá trầm tích
Phần lớn lớp vỏ Trái Đất được cấu tạo bởi các đá magma và đá biến chất, ước tính chúng chiếm khoảng 90-95% trong 16 km tính từ bề mặt Trái Đất. Dù vậy, hầu hết bề mặt trái Đất được bao phủ bởi trầm tích. Về cơ bản tất cả đáy biển được phủ bởi trầm tích, và 70-80% các lục địa được bao phủ bởi các đá trầm tích. Hầu hết các hóa thạch được phát hiện trong trầm tích, đá trầm tích và đá biến chất từ đá trầm tích, chúng là các dấu hiện quan trọng cho việc tìm hiểu các điều kiện môi trường mà trước đây từng tồn tại trên bề mặt Trái Đất. Các nguồn năng lượng như dầu mỏ, khí thiên nhiên, than đá và urani được chiết tách từ đá trầm tích.
Đá trầm tích được tạo ra từ sự lắng đọng của các mảnh vụn hoặc các chất hữu cơ, hay các chất kết tủa hóa học (các chất còn lại sau quá trình bay hơi), được nối tiếp bằng sự kết đặc của các chất cụ thể và quá trình xi măng hóa. Quá trình xi măng hóa có thể diễn ra tại hoặc gần bề mặt Trái Đất, đặc biệt là đối với các loại trầm tích giàu cacbonat.
Đặc điểm
Do được hình thành trong các điều kiện môi trường năng lượng thấp nên đá trầm tích có các đặc điểm chung là:
Có tính phân lớp rõ rệt, chiều dày, màu sắc, thành phần, độ lớn của hạt, độ cứng... của các lớp cũng khác nhau.
Cường độ nén theo phương vuông góc với các lớp luôn luôn cao hơn cường độ nén theo phương song song với thớ.
Đá trầm tích không đặc, chắc bằng đá magma (do các chất keo kết thiên nhiên không chèn đầy giữa các hạt hoặc do bản thân các chất keo kết co lại). Vì thế cường độ của đá trầm tích thấp hơn, độ hút nước cao hơn. Một số loại đá trầm tích khi bị hút nước, cường độ giảm đi rõ rệt, có khi bị tan rã trong nước. Đá trầm tích rất phổ biến, dễ gia công nên được sử dụng khá rộng rãi.
Phân loại
Do sự tích tụ, lắng đọng hay kết tủa trong nước của các khoáng chất, của đất đá bị phong hóa, vỡ vụn tích lũy thành khối mà thành. Dựa vào nguồn gốc hình thành có ba loại:
Đá trầm tích mảnh vụn
Đá trầm tích mảnh vụn hay trầm tích cơ học được hình thành từ các sản phẩm vụn nát sinh ra trong quá trình phong hóa các loại đá có trước tích tụ lại mà thành. Về cấu tạo, đá mảnh vụn gồm hai hợp phần là các mảnh vụn và xi măng gắn kết các mảnh vụn đó lại. Phần mảnh vụn là các hạt có nhiều kích thước khác nhau, và thành phần khác nhau; còn xi măng là các hạt có kích thước nhỏ hơn cỡ hạt sét như xi măng sét, xi măng vôi hoặc xi măng silic. Một số đá trầm tích mảnh vụn thường gặp như dăm kết, cuội kết, sa thạch.
Đá trầm tích hóa học
Đá trầm tích hóa học tạo thành do các khoáng chất hòa tan trong nước lắng đọng, kết tủa lại, như đá vôi dolomit. thạch cao, anhydride, tup đá vôi…
Đá vôi chiếm khoảng 10-15% của các loại đá trầm tích của Trái Đất. Cacbonat calci, CaCO3, có tồn tại ở hai loại khoáng vật là canxit và aragonit. Đá vôi có thể được hình thành trong nhiều cách khác nhau, calci cacbonat có thể được kết tủa từ nước biển bão hòa, hoặc sinh học, động vật có vỏ đá vôi để lại vỏ. Có cả động vật hình thành khung xương aragonit và động vật hình thành khung xương calcit, và tùy thuộc vào loại động vật sinh sống ở một hốc đá vôi có thể khác nhau đáng kể giữa các địa điểm.
Loại phổ biến nhất của các loại đá kết tủa hóa học là evaporit, được hình thành khi nước giàu muối hòa tan bị bốc hơi. Khi bay hơi nồng độ muối tăng cho đến khi nước được bão hòa và muối bắt đầu kết tủa. Một lượng lớn các đá evaporit hình thành khi biển bốc hơi trong khu vực Địa Trung Hải trong suốt thế Miocene và dọc theo bờ Biển Chết ngày nay. Các loại khoáng evaporit gồm thạch cao (CaSO4·2H2O), thạch cao khan (CaSO4) và halit (NaCl).
Đá trầm tích hữu cơ
Trầm tích hữu cơ tạo thành do sự tích tụ xác động vật, thực vật như đá vôi, đá vôi vỏ sò, đá phấn, đá diatomit, trepen… Trầm tích hữu cơ thường bị các vi sinh vật tiêu thụ oxy phá hủy. Tuy nhiên, nếu lượng oxy không đủ, vi sinh vật không thể phá hủy toàn bộ nguyên liệu, và nó có thể tạo thành một tảng đá hữu cơ. Các loại đá này có thể được hình thành cả trên các lục địa và đại dương. Ví dụ về một môi trường lục địa là than và biển là đá phiến dầu. Thành phần của hợp chất carbon và carbon có thể lên tới 25% và hàm lượng lưu huỳnh có thể lên tới 12%.
Đá trầm tích núi lửa
Đá hình thành do mảnh vụn của núi lửa lắng đọng và nén ép thành đá như tuff.
Đá biến chất
Đá biến chất được tạo ra từ sự thay đổi của bất kỳ loại đá nào (bao gồm cả đá biến chất đã hình thành trước đó) đối với các điều kiện thay đổi của môi trường như nhiệt độ và áp suất so với các điều kiện nguyên thủy mà các loại đá đó được hình thành. Các điều kiện nhiệt độ và áp suất này luôn luôn cao hơn so với các chỉ số của chúng ở bề mặt Trái Đất, và phải đủ cao để có thể thay đổi các khoáng chất nguyên thủy thành các dạng khoáng chất khác hoặc thành các dạng khác của cùng một khoáng chất (ví dụ bằng sự tái kết tinh).
Mức độ biến chất của đá có thể được miêu tả qua một số tướng, mỗi tướng đặc trưng bởi một số loại đá có khoáng sản đi kèm trong một giới hạn nhiệt độ và áp suất nhất định. Lý thuyết về tướng biến chất được nhà địa chất Phần Lan, Pentti Eskola đưa ra năm 1915, lý thuyết này là sự phát triển tiếp theo của công trình phiến biến chất được Viktor M. Goldschmidts đưa ra từ thập niên 1900.
Trong trường hợp nhiệt độ là yếu tố chính thì biến chất xảy ra theo đường màu xanh lá cây (hình bên) tạo ra đá biến chất tướng amphibolit và granulit. Trong trường hợp va mảng mà yếu tố chi phối là áp lực thì tạo nên tướng đá phiến lam và eclogit.
Môi trường biến chất
Biến chất khu vực xảy ra trong khu vực rộng lớn, chẳng hạn như các dãy núi. Khi các mảng kiến tạo hội tụ và các tầng trên của các lớp gấp lại và ép xuống làm những lớp đá hình thành trước bị lún sâu hơn, bên trên là những lớp trầm tích mới tích tụ dần gây nên áp lực và nhiệt độ gia tăng. Điều này dẫn đến cả hai quá trình tái kết tinh và thay đổi cấu trúc. Loại đá này có tính phân phiến (lớp mỏng) nên tính chất cơ học kém hơn đá magma. Ví dụ Đá gơnai (do đá granit tái kết tinh), phiến sét (do sự biến chất của đất sét dươi áp lực cao).
Biến chất tiếp xúc xảy ra khi đá nằm bên cạnh một khối magma bị ảnh hưởng bởi nhiệt từ magma. Kích thước của magma ảnh hưởng đến khoảng cách mà khối đá có trước bị biến chất. Trong một thể magma lớn, giống như một thể batolit lớn có thể đến vài km, thì lớp biến chất tiếp xúc có thể chỉ vài cm. Biến chất tiếp xúc xảy ra ở tất cả các độ sâu trong lớp vỏ, nhưng là rõ ràng nhất khi nó xảy ra gần bề mặt, bởi vì áp lực thấp, và độ lệch nhiệt độ quá lớn. Vì biến chất tiếp xúc không liên quan đến bất kỳ áp lực nào tác động lên nên các tinh thể không định hướng theo bất kỳ hướng nào. Ví dụ đá hoa (do tái kết tinh đá vôi và đá đôlômit dưới tác dụng của nhiệt độ và áp suất cao mà thành), thạch anh (biến chất từ cát)…
Biến chất nhiệt dịch xảy ra khi dòng nhiệt dịch nóng xen vào trong các khe nứt làm ảnh hưởng đến khối đá có trước. Điều này thường xảy ra trong các khe nứt của các hoạt động lửa, vì điều này góp phần ra nhiệt cần thiết.
Biến chất va chạm xảy ra khi thiên thạch va chạm bề mặt đất, do động năng rất lớn của thiên thạch được chuyển thành nhiệt và áp suất trong đá bị va chạm. Trong một số trường hợp, những tác động này tạo thành các coesit, một loại silica mật độ lớn, và thậm chí hình thành các hạt kim cương nhỏ. Sự hiện diện của các khoáng chất như trên cho thấy rằng ít nhất là thiên thạch đã tạo ra áp lực và nhiệt độ gây biến đổi phần trên cùng, nơi mà các khoáng vật thường được hình thành.
Cấu tạo
Cấu tạo đặc trưng của đá biến chất là phân phiến, đó là sự sắp xếp có định hướng của các khoáng vật dưới tác động của áp suất chính trong quá trình hình thành đá biến chất, ví dụ như đá gneiss, đá phiến lam, đá phiến lục. Phương áp lực sẽ vuông góc với mặt phẳng chứa các phiến. Dựa vào đặc điểm này, người ta có thể tái hiện môi trường kiến tạo vào lúc mà đá đó được hình thành. Tuy nhiên, không phải đá biến chất nào cũng có cấu tạo phân phiến. Các đá không có cấu tạo phân phiến như quartzit, đá hoa, đá sừng.
Thiên thạch
Thiên thạch là một loại đá có nguồn gốc trong không gian chứ không phải hình thành trên Trái Đất. Một số thiên thạch có thể là dấu tích còn sót lại từ sự hình thành hệ Mặt Trời cách nay hơn 4,6 tỷ năm. Thiên thạch thường bao gồm khoáng vật silicat (95%) và rất nhiều hợp kim sắt - nickel, hoặc sự kết hợp cả hai (5%).
Thiên thạch sắt bao gồm hợp kim sắt-nickel và chiếm khoảng 3,8% của tất cả thiên thạch. Chúng được cho là bao gồm các vật liệu từ lõi của các tiểu hành tinh bị gián đoạn. Thiên thạch sắt rơi vào ba nhóm tùy thuộc vào thành phần nickel/sắt và cấu trúc tinh thể; hexahedriter chứa 4-6% nickel, octahedriter chứa 6-12% nickel và ataxiter chứa nhiều hơn 12% nickel. Cấu trúc tinh thể của hexahedriter giống như một hình chữ nhật, octahedriter có mô hình lục giác và ataxiter không có cấu trúc tinh thể khác nhau.
Thiên thạch sắt đá bao gồm một hỗn hợp xấp xỉ bằng hợp kim sắt-nickel và khoáng chất silicat và tương ứng với khoảng 0,5% của tất cả các thiên thạch được biết đến. Chúng được cho là thành tạo từ vật liệu từ khu vực tiếp giáp giữa lõi thiên thể và lớp vỏ của nó.
Sử dụng
Đá là một loại vật liệu gắn liền với lịch sử phát triển của loài người. Thời tiền sử, bắt đầu thời đại đồ đá con người đã biết dùng đá để làm vũ khí tự vệ, săn bắn, công cụ sản xuất. Những công trình bằng đá nổi tiếng như kim tự tháp, Angkor Wat, thành Babylon, El-Djem (Tuynizi), Colisée (Ý), Bourgogne (Pháp), Épidayre (Hy Lạp), vv.
Làm vật liệu xây dựng
Là sản phẩm sản xuất từ đá thiên nhiên bằng phương pháp gia công cơ học hoặc do phong hóa tự nhiên như: đá hộc, đá tấm (phiến), đá dăm, cát...
Từ đá thiên nhiên có thể chế tạo một số chất kết dính như xi măng (đá vôi+ đất sét+ nung + clinker, nghiền +PG XM), vôi (nung đá vôi CaCO3), thạch cao xd CaSO4.0.5H2O (nung đá thạch cao CaSO4.2H2O) …
Vật liệu đá xây dựng được sử dụng rộng rãi nhờ có những ưu điểm sau:
Cường độ chịu nén cao, Rn cao.
Bền vững trong môi trường sử dụng.
Dùng để trang trí như đá hoa, đá granit (hay đá hoa cương), đá gabro, đá biến chất tái kết tinh và một số loại đá phiến.
Giá thành thấp, tận dụng được nguồn nguyên liệu địa phương.
Bên cạnh đó còn có một số nhược điểm: khối lượng thể tích lớn, quá trình gia công phức tạp, vận chuyển và thi công khó khăn.
Tính chất các đá làm vật liệu xây dựng bao gồm trọng lượng thể tích và cường độ ở trạng thái khô, như các loại nhẹ (trọng lượng < 1800 kg/m3 và có mác tương ứng 5, 10, 15, 75, 100, 150 kG/cm2) thường dùng xây tường cho nhà cần cách nhiệt; loại nặng (> 1800 kg/m3 và có mác tương ứng 100, 150, 200, 400, 600, 800, 1000 kG/cm2) dùng trong các công trình chịu lực, công trình thủy công để xây móng, tường chắn, lớp phủ bờ kè, ốp lát…
Theo hệ số mềm, các đá được chia thành 4 cấp:? 0.6; 0.6 - 0.75; 0.75 - 0.9;và? 0.9.
Theo yêu cầu sử dụng và mức độ gia công
Đá hộc: gia công theo phương pháp nổ mìn. Dùng để xây móng nhà, tường chắn, trụ cầu,
Đá đẽo thô, vừa, kỹ tùy theo yêu cầu sử dụng của công trình.
Đá kiểu: được chọn lọc kỹ, chất lượng cao, dùng để trang trí cho các công trình.
Đá phiến: để ốp lát, trang trí.
Đá dăm: làm cốt liệu trộn bê tông.
Xem thêm
Địa chất học
Thạch học
Danh sách khoáng vật
Danh sách các loại đá
Khai thác đá
Thạch luận
Cự thạch (Megalith)
Kè đá
Cân bằng đá (Môn nghệ thuật)
Ghi chú
Chú thích
Tham khảo
Liên kết ngoài
Vật liệu
Bài cơ bản dài
Thạch luận
|
23269
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BB%B1%20th%E1%BA%A1ch
|
Cự thạch
|
Cự thạch (tiếng Anh: megalith) là các tảng đá lớn được sử dụng để xây dựng các kết cấu hay các di tích, hoặc là đứng một mình hoặc là cùng với các tảng đá khác. Trong ngôn ngữ một số nước châu Âu, người ta dùng từ megalith để chỉ cự thạch. Nó có nghĩa là làm từ những tảng đá như vậy, nhưng sử dụng cơ chế tự khóa mà không sử dụng vữa hay các chất kết dính nào khác. Từ megalith có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp cổ megas nghĩa là lớn và lithos nghĩa là đá.
Sự phân bố của các cự thạch
Thuật ngữ này có thể sử dụng để miêu tả các công trình xây dựng được con người ở nhiều khu vực trên thế giới và thuộc nhiều thời kỳ khác nhau dựng lên. Đầu thế kỷ 20, một số học giả cho rằng tất cả mọi cự thạch đều thuộc về một "nền văn minh cự thạch" toàn cầu (những người theo chủ nghĩa siêu phổ biến, ví dụ Grafton Elliot Smith và William James Perry), nhưng điều này đã bị bác bỏ từ lâu nhờ các phương pháp xác định niên đại hiện đại.
Nabta Playa
Nabta Playa đã từng là một hồ lớn trong sa mạc Nubia, nằm ở khu vực cách 500 dặm về phía nam Cairo ngày nay (xem Nubia). Vào thiên niên kỷ 5 TCN những người sống ở Nabta Playa đã xây dựng thiết bị thiên văn học sớm nhất thế giới mà ngày nay còn biết tới, nó sớm hơn 1.000 năm, nhưng có thể so sánh với Stonehenge xem ở đây .
Các nghiên cứu chỉ ra rằng nó là một loại lịch tiền sử dùng để đánh dấu chính xác thời điểm diễn ra hạ chí xem ở đây . Các vật tìm thấy chỉ ra rằng khu vực này chỉ có thể sử dụng theo mùa vụ, có lẽ chỉ được trong mùa hè khi hồ này có nước đủ để cỏ phát triển cho việc chăn thả bò xem Nabta , xem thêm .
Các cự thạch ở Tây Âu
Ở Tây Âu và khu vực ven Địa Trung Hải, các cự thạch nói chung được xây dựng trong thời kỳ đồ đá mới hoặc cuối thời kỳ đồ đá và thời kỳ đồng-đá hoặc thời kỳ đồ đồng (khoảng những năm 4500 – 1500 TCN). Có lẽ cự thạch nổi tiếng nhất ở châu Âu là cự thạch nằm ở Stonehenge, Anh, mặc dù còn rất nhiều cự thạch khác cũng được biết đến trên toàn thế giới.
Comte de Caylus (1692–1765) là người đầu tiên miêu tả các di tích ở Carnac. Legrand d'Aussy đã đưa ra các thuật ngữ menhir (cột đá) và dolmen (mộ đá), cả hai đều có nguồn gốc từ tiếng Breton, thành các thuật ngữ về các khối cấu trúc xây dựng bằng đá thời cổ đại. Ông diễn giải các cự thạch như là các mồ mả của người Gôloa.
Tại Anh, các nhà sưu tầm đồ cổ như Aubrey và Stukeley đã chỉ đạo các tìm kiếm sớm nhất đối với cự thạch. Năm 1805, Jacques Cambry đã xuất bản cuốn sách có tên gọi Monuments celtiques, ou recherches sur le culte des Pierres, précédées d'une notice sur les Celtes et sur les Druides, et suivies d'Etymologie celtiques, trong đó ông đề xuất ý tưởng về sự thờ cúng đá của người Celt. Điều này là sự liên kết hoàn toàn vô căn cứ giữa các thầy tu (druid) và các cự thạch và nó đã ám ảnh trí tưởng tượng cộng đồng kể từ đó.
Các dạng cấu trúc cự thạch
Các cấu trúc cự thạch khác nhau bao gồm:
Mộ đá (dolmen hay cromlech trong ngôn ngữ của người Welsh): Đây là các hốc đứng độc lập bao gồm các tảng đá dựng đứng được che phủ bởi một tảng đá phía trên giống như cái nắp đậy. Chúng được sử dụng để mai táng và được che phủ bởi các gò đất đá.
Cột đá (Menhir): Đây là tảng đá dài dựng thẳng đứng.
Phiến đá thẳng (Orthostat): Đây là các phiến đá đứng thẳng tạo thành một phần của các cấu trúc lớn hơn.
Vòng tròn đá
Các hàng đá
Tàu đá
Taula: Đây là cột đá đứng thẳng, ở phía đỉnh chụp thêm tảng đá khác tạo ra hình chữ 'T'.
Trilithon: Kiến trúc bao gồm hai tảng đá dài dựng đứng để đỡ một tảng đá nằm ngang (gọi là lanh tô) ở trên đỉnh của chúng, ví dụ các tảng đá ở Stonehenge.
Mồ mả cự thạch
Nhiều di tích cự thạch cổ đã là các gò đống chôn cất được sử dụng bởi nhiều thế hệ người khác nhau. Các ụ đá hình tháp có khoang riêng là dạng phổ biến của các mồ mả tập thể. Một số trong chúng là các mồ mả có lối đi – nói chung được xây dựng mà vật liệu xây tường không cần hồ vữa và/hoặc có các cự thạch, thông thường với khoang chôn cất hình tròn trong các gò đống tròn và có lối đi thẳng dẫn ra ngoài. Mồ mả có hành lang có các khoang cự thạch dài với các bên song song thông thường ở các gò đống dài và có lối vào ở một đầu.
Thiên văn
Nhiều cự thạch được coi là có mục đích để xác định các sự kiện quan trọng trong thiên văn như các ngày diễn ra hạ chí, đông chí, xuân phân và thu phân (xem thêm cổ thiên văn học). Các dấu đánh trên các cự thạch được một số người coi là đại diện cho các ngôi sao và vì thế để chỉ hướng các chòm sao tại các điểm xây dựng cự thạch.
Các cự thạch thời hiện đại
Có một số các công trình xây dựng kiểu cự thạch thời hiện đại. Coral Castle là một công trình bằng đá kỳ dị được xây dựng những năm thập niên 1920 ở Homestead, Florida bởi Edward Leedskalnin.
Các ví dụ về cự thạch
Các cự thạch khác còn có:
Mộ cự thạch ở Việt Nam
Tổ hợp đá vòng (cromlech) Almendres, Alentejo, Bồ Đào Nha
Ales stenar ở Scania, Thụy Điển
Carnac, Bretagne, Pháp
Đảo Easter
Filitosa, Corse, Pháp
Ġgantija, Gozo, Malta, cấu trúc đá đứng độc lập cổ nhất còn được biết.
Ħaġar Qim, Malta
Mnajdra, Malta
Newgrange, Ireland
Skara Brae, Orkney, Scotland
Stanton Drew, Somerset, UK
Tarxien, Malta
Cloghanmore, hạt Donegal, Ireland
Talayot, Quần đảo Baleares, Tây Ban Nha
Xem thêm
Nghệ thuật tiền sử
Đá nguyên khối (monolith)
Tham khảo
Liên kết ngoài
Cổng và bản đồ điện tử về cự thạch
Dolmen Path - Các cự thạch ở Nga
the_modern_antiquarian.com
Dólmenes y megalitos del mundo Dolmenes y megalitos de todo el mundo.
Di tích cự thạch
Thời đại đồ đá
Đài tưởng niệm và nghĩa trang liệt sĩ
|
23276
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%87%20th%E1%BB%91ng%20ch%E1%BB%91ng%20b%C3%B3%20phanh
|
Hệ thống chống bó phanh
|
Hệ thống chống thắng trượt (ABS, viết tắt của anti-lock braking system được dịch từ tiếng Đức Antiblockiersystem) là một hệ thống trên xe hơi và xe máy, giúp cho bánh xe của phương tiện không bị bó cứng trong lúc thắng (phanh trượt), chống lại việc bánh xe bị trượt dài trên mặt đường
Hệ thống ABS được phát minh bởi hãng Robert Bosch GmbH và hiện nay là một hệ thống bắt buộc của xe ở nhiều nước.
Lịch sử
Hãng Bosch của Đức đã có ý tưởng và phát triển hệ thống này từ thập niên 1930, sau đó đến năm 1978 lần đầu tiên sản xuất được hệ thống ABS điện. Hệ thống ABS áp dụng lần đầu tiên trên xe ô tô là dòng xe S-serie của Mercedes-Benz vào năm 1978 sau đấy thì được áp dụng trên cả những phương tiện khác kể cả mô tô nhưng dựa trên loại má phanh có tính ăn mềm (ăn từ từ, chậm dần)
Cấu tạo
Hệ thống thắng ABS có các bộ phận chính sau đây:
ECU điều khiển trượt: Bộ phận này xác định mức trượt giữa bánh xe và mặt đường dựa vào các tín hiệu từ các cảm biến và điều khiển bộ chấp hành của thắng. Gần đây, một số kiểu xe có ECU điều khiển trượt lắp trong bộ chấp hành của thắng.
Công tắc thắng: báo cho ECU biết khi nào người lái đạp thắng và dừng đạp thắng
Bộ chấp hành của thắng: Bộ chấp hành của thắng điều khiển áp suất thủy lực của các xilanh ở bánh xe bằng tín hiệu ra của ECU điều khiển trượt.
Cảm biến tốc độ: Cảm biến tốc độ phát hiện tốc độ của từng bánh xe và truyền tín hiệu đến ECU điều khiển trượt.
Ngoài ra, trên tá-blô điều khiển còn có:
Đèn báo tá-blô: Đèn báo của ABS, khi ECU phát hiện thấy sự trục trặc ở ABS hoặc hệ thống hỗ trợ thắng, đèn này bật sáng để báo cho người lái. Đèn báo hệ thống thắng, khi đèn này sáng lên đồng thời với đèn báo của ABS, nó báo cho người lái biết rằng có trục trặc ở hệ thống ABS và EBD.
Công tắc đèn thắng: Công tắc này phát hiện bàn đạp thắng đã được đạp xuống và truyền tín hiệu đến ECU điều khiển trượt. ABS sử dụng tín hiệu của công tắc đèn thắng. Tuy nhiên dù không có tín hiệu công tắc đèn thắng vì công tắc đèn thắng bị hư, việc điều khiển ABS vẫn được thực hiện khi các bố thắng bị bó cứng. Trong trường hợp này, việc điều khiển bắt đầu khi hệ số trượt đã trở nên cao hơn (các bánh xe có xu hướng khoá cứng) so với khi công tắc đèn thắng hoạt động bình thường.
Cảm biến giảm tốc: Chỉ có ở một số loại xe. Cảm biến giảm tốc cảm nhận mức giảm tốc của xe và truyền tín hiệu đến ECU điều khiển trượt. Bộ ECU đánh giá chính xác các điều kiện của mặt đường bằng các tín hiệu này và sẽ thực hiện các biện pháp điều khiển thích hợp.
Nguyên lý hoạt động
Đây là một hệ thống sử dụng các cảm biến điện tử để nhận biết một hoặc nhiều bánh bị bó cứng trong quá trình thắng của xe. Hệ thống này giám sát tốc độ của các bánh khi thắng. Khi một hoặc nhiều bố có hiện tượng bó cứng, hệ thống này sẽ điều chỉnh áp lực thắng cho từng bánh, ngăn ngừa vỏ xe trượt - duy trì khả năng điều khiển xe. Thông thường hệ thống máy tính trên xe có trang bị ABS sẽ thay đổi áp lực thắng khoảng 30 lần/giây, giảm áp lực tối đa lên một bánh xe đến khi áp lực bằng 0.
Các thiết bị chống bó cứng thắng ABS hiện đại gồm có : một máy tính, 4 cảm biến tốc độ tại mỗi bánh và các van dầu thắng . Khi CPU nhận thấy một hay nhiều bánh có tốc độ quay chậm hơn mức quy định nào đó so với các bánh còn lại, nó sẽ tự động giảm áp suất tác động lên thắng. Tương tự, nếu một trong các bánh quay quá nhanh, Chíp điện tử cũng tự động tác động lực trở lại, đồng thời tạo độ rung ở bàn đạp thắng để báo cho người lái biết ABS đang hoạt động. Khi hoạt động, ABS nhả - nhấn piston khoảng 15 lần mỗi giây. Nhờ đó trong các tình huống khẩn cấp hệ thống ABS sẽ giúp người lái có thể kiểm soát quá trình chuyển động trong suốt quá trình thắng xe.
Tham khảo
Xem thêm
Công nghệ ô tô
Xe hơi
An toàn đường bộ
Kiểm soát cơ năng
Công nghệ mô tô
|
23282
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%C6%B0%20%C4%91o%C3%A0n%201%20B%E1%BB%99%20binh%20Qu%C3%A2n%20l%E1%BB%B1c%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a
|
Sư đoàn 1 Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa
|
Sư đoàn 1 Bộ Binh, là một trong 3 đơn vị chủ lực thuộc Quân đoàn I và Quân khu 1 của Quân Lực Việt Nam Cộng hòa, được thành lập năm 1955 và tan hàng vào tháng 3 năm 1975. Đây là một đơn vị quân đội lớn, từng tham dự nhiều trận đánh quan trọng trong Chiến tranh Việt Nam, cũng là Sư đoàn bộ binh hàng đầu trong Quân Lực Việt Nam Cộng hòa. Ngoài ra Đại đội Hắc Báo (với chức năng Trinh sát và Viễn thám) nổi tiếng thiện chiến với quân số 260 tay súng cũng trực thuộc Sư đoàn. Do lập được nhiều thành tích nên đây là Sư đoàn Bộ binh đầu tiên mà tất cả quân nhân được mang dây biểu chương ba màu Tam Hợp Bảo quốc Huân chương. Đặc biệt, Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 1 của Sư đoàn là đơn vị duy nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng hòa nhận Presdential Unit Citation của Hoa Kỳ vì thành tích chiến đấu dũng cảm. Trong Chiến tranh Việt Nam sư đoàn đã nhiều lần mở các cuộc hành quân, giao chiến ác liệt ở vùng hỏa tuyến vĩ tuyến 17 dọc theo sông Bến Hải với những địa danh như Quốc lộ 9, Cồn Thiên, Khe Sanh, Tchépone, Lao Bảo, Cam Lộ, Ba Lòng, Tà Bạt, Làng Vây, A Shầu, A Lưới, Đông Hà.
Bộ Tư lệnh Sư đoàn đặt tại Căn cứ Giạ Lê.
Bộ Tư lệnh Tiền phương đặt tại Mang Cá.
Bài ca chính thức: Sư đoàn 1 Bộ binh hành khúc.
Lịch sử hình thành
Sư đoàn 1 Bộ Binh được thành lập vào ngày 1 tháng 1 năm 1955 tại Huế, với danh xưng ban đầu là Sư đoàn 21 Bộ binh (Nghị định số 012-QP/NĐ ngày 17 tháng 1 năm 1955 và Sự vụ văn thư số 474/TTM/1/1/SC ngày 27 tháng 1 năm 1955) do Trung tá Lê Văn Nghiêm làm Tư lệnh đầu tiên.
Ngày 1 tháng 8 năm 1955, Sư đoàn 21 Bộ binh đổi tên là Sư đoàn 21 Dã Chiến, ngày 1 tháng 10 năm 1955 lại đổi thành Sư đoàn 1 Dã chiến (Sự vụ văn thư số 3975/TTM/1/1/SC ngày 17 tháng 9 năm 1955)
Cuối năm 1958, Bộ Tổng tham mưu Quân Lực Việt Nam Cộng hòa tái tổ chức các Sư đoàn Dã chiến 1, 2, 3, 4 và 6, các Sư đoàn Khinh chiến 11, 12, 13, 14, 15, 16 thuộc Quân đội Quốc gia thành 7 Sư đoàn Bộ binh, gồm Sư đoàn 1, Sư đoàn 2, Sư đoàn 5, Sư đoàn 7, Sư đoàn 21, Sư đoàn 22 và Sư đoàn 23. Mỗi sư đoàn với quân số 10.500 quân nhân.
Ngày 1/12/1958, Sư đoàn 1 Dã chiến chính thức với tên gọi Sư đoàn 1 Bộ binh gồm các Trung đoàn trực thuôc: 1, 2 và 3.
Ngày 16 tháng 7 năm 1966, sau khi xác nhận các đơn vị và quân số của đối phương, Liên quân Việt-Mỹ mở cuộc hành quân Lam Sơn 289 hay chiến dịch Hastings gồm 5 Tiểu đoàn Bộ binh thuộc Sư đoàn 1 Quân Lực Việt Nam Cộng hòa, 5 Tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 3 Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ, 1 Tiểu đoàn đổ bộ Đặc biệt thuộc Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ tại khu vực tây nam sông Bến Hải. Tổng lực lượng có quân số lên đến 16.000 quân tham chiến trên mặt đất, cùng hàng trăm trực thăng và máy bay hỗ trợ. Tất cả lực lượng Quân Lực Việt Nam Cộng hòa tham chiến lẫn yểm trợ đều đặt dưới sự điều động của Quân đoàn I Việt Nam Cộng hòa do Thiếu tướng Hoàng Xuân Lãm chỉ huy. Đại tướng Westmoreland chỉ huy quân Mỹ cung cấp toàn bộ hỏa lực pháo binh, hỏa lực hải quân và không quân tại Quảng Trị cho chiến dịch này. Đây là cuộc hành quân quy mô lớn đầu tiên tại chiến trường Quảng Trị.
Ngày 21/7/1966, Quân đội Nhân dân Việt Nam điều động Sư đoàn 324B cùng với Lữ đoàn Giới Tuyến vượt sông Bến Hải tăng viện cho các đơn vị đang tham chiến chống lại cuộc hành quân của QLViệt Nam Cộng hòa và Quân lực Hoa Kỳ đang tấn công các Tiểu đoàn Quân đội Nhân dân Việt Nam cố thủ tại các vị trí. Ngày 30/6/1966, 30 phi tuần B-52 xuất phát từ đảo Guam ném bom dọc khu Phi Quân sự (DMZ), liên tục ném hàng trăm tấn bom vào đội hình phòng ngự của quân đối phương, gây thương vong lớn. Sau 19 ngày chiến đấu từ 16/7 đến 3/8/1966, cuộc hành quân kết thúc. Phía Hoa Kỳ tuyên bố có khoảng 700 quân đối phương tử trận, 17 bị bắt, 142 vũ khí cá nhân và vũ khí cộng đồng bị tịch thu, phía Liên quân Mỹ-Quân Lực Việt Nam Cộng hòa tổn thất 147 tử trận và khoảng 600 bị thương.
Ngày 14/9/1966, TQLC Hoa Kỳ phối hợp với Sư đoàn 1 Bộ binh mở chiến dịch Prairie nhằm thanh tảo toàn bộ khu vực Phi Quân sự, 1 ngày sau, Bộ Tư lệnh Đặc nhiệm số 3 Hoa Kỳ huy động 12.000 lính Thủy quân lục chiến khởi động chiến dịch Deck House Quage phối hợp với 11.000 quân Mỹ-Việt Nam Cộng hòa đang thực hiện chiến dịch Prairie, truy quét các lực lượng đối phương từ Cửa Việt đến tây nam sông Bến Hải, buộc các đơn vị đối phương phải rút qua phía bên kia khu vực vĩ tuyến 17. Phía nam sông Bến Hải, toàn tuyến phòng thủ trước ngày 16/7 được khôi phục hoàn toàn.
Từ tháng 9 đến tháng 11 năm 1967, Trung đoàn 2 Bộ binh cùng với TQLC Hoa Kỳ tham gia một loạt các trận đánh lớn ở vùng Phi Quân sự (DMZ) phản công lại cuộc tiến quân vượt qua vĩ tuyến 17 của Sư đoàn 304 và Sư đoàn 325 của Quân đội Nhân dân Việt Nam được sự yểm trợ của pháo tầm xa đặt ở Vĩnh Linh, phía Bắc vĩ tuyến 17. Tại các khu vực Gio Linh, Cồn Thiện, Cồn Tiên, Trung Lương chứng kiến những trận chiến ác liệt giữa 2 phe tham chiến. Các đơn vị tham chiến đã gây thiệt hại lớn cho quân tấn công nhờ sự yểm trợ hùng hậu của pháo binh mặt đất trong đó có các pháo đội 175 ly đặt ở Cam Lộ và Đông Hà, hải pháo và máy bay ném bom chiến lược B-52 của Mỹ.
Tết Mậu Thân năm 1968, Trung đoàn 3 cùng với các Tiểu đoàn 1/1, 2/1, 2/2, 4/2, Đại đội Hắc Báo và các Chi đoàn 2 và 3 của Thiết đoàn 7 Thiết giáp trực thuộc Sư đoàn và Chiến đoàn 1 Nhảy Dù gồm các Tiểu đoàn 2, 7 và 9 giữ vững Bộ Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh tại đồn Mang Cá và các khu vực lân cận xung quanh. Sau đó Trung đoàn 3 cùng với Chiến đoàn A Thủy quân Lục chiến Việt Nam Cộng hòa, 2 Tiểu đoàn Biệt động quân 21 và 39, Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ giải tỏa thành công Cố đô Huế và truy quét quân của đối phương. Tháng 4/1968, Sư đoàn cùng với Sư đoàn 101 Không vận Hoa Kỳ mở một loạt chiến dịch truy quét phía tây Thừa Thiên, vùng thung lũng A Shầu.
Ngày 7/2/1969, Tiểu đoàn 2 phối hợp với Tiểu đoàn 3 của Trung đoàn 3 chạm súng nặng với một Trung đoàn chủ lực của Quân đội Nhân dân Việt Nam không rõ phiên hiệu tại tây bắc Thừa Thiên. Trung đoàn 3 tuyên bố đã gây tổn thất nặng cho trung đoàn đối phương với 247 tử trận và 11 tù binh, tịch thu được 109 vũ khí trong đó có 18 vũ khí cộng đồng, phía Việt Nam Cộng hòa thương vong 57 tử trận và khoảng 200 bị thương.
Ngày 6/4/1969, Tiểu đoàn 1 thuộc Trung đoàn 2 phục kích một Tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 304 Quân đội Nhân dân Việt Nam đang tìm cách xâm nhập vào Gio Linh, gây thiệt hại cho đơn vị này với 55 chết và 7 tù binh, tịch thu 23 vũ khí cá nhân. Phía QLViệt Nam Cộng hòa có 18 tử trận và 41 bị thương.
Tháng 5 năm 1969, Trung đoàn 3 cùng với Tiểu đoàn 2 và 4 của Trung đoàn 1 tham gia chiến dịch Apache Snow nằm trong 1 loạt các trận đánh ở các Cao điểm 900, 916, 935, 937, 991, đỉnh núi A Bia tại vùng thung lũng mắt xích A Shầu cùng với Sư đoàn 101 Không vận Hoa Kỳ. Tiểu đoàn 2 và 4 tham gia hỗ trợ bảo vệ 2 căn cứ hỏa lực yểm trợ trực tiếp cho chiến dịch của Lữ đoàn 3 Nhảy dù Hoa Kỳ, còn Tiểu đoàn 2 của Trung đoàn 3 Bộ binh Việt Nam Cộng hòa tham gia cuộc đột kích cuối cùng để chiếm ở Cao điểm 937 hay còn gọi là "Đồi thịt băm". Tiểu đoàn đã cùng lính dù Mỹ chiếm thành công đỉnh đồi 937 và cắm cờ lúc 10 giờ sáng ngày 20 tháng 5 năm 1969 trước khi bàn giao cho Tiểu đoàn 3 của Lữ đoàn 3 Nhảy dù Hoa Kỳ lúc 17 giờ chiều cùng ngày sau khi đánh bật đối phương khỏi ngọn đồi này.
Ngày 11/10/1969, Tiểu đoàn 4 thuộc Trung đoàn 3 Bộ binh Việt Nam Cộng hòa tham gia giải vây 1 trại Lực lượng Đặc biệt tại tây bắc Thừa Thiên.
Ngày 24/11/1969, Tiểu đoàn 3 của Trung đoàn 1 mở cuộc đột kích binh trạm 92, tuy nhiên lại chạm súng nặng nề với lực lượng bảo vệ binh trạm này, buộc phải rút lui mà không đạt được mục tiêu là phá hủy binh trạm này. Tuy nhiên tiểu đoàn 3 tuyên bố đã gây thương vong cho đối phương là 38 chết và 18 bị thương còn phía Việt Nam Cộng hòa thương vong 8 chết và 11 bị thương.
Năm 1970, Sư đoàn tiếp nhận thêm Trung đoàn 54 Bộ binh biệt lập và trở thành trung đoàn thứ tư của Sư đoàn.
Năm 1971, Sư đoàn tham gia chiến dịch Lam Sơn 719 với 3 Trung đoàn 1, 2 và 3 (Trung đoàn 54 không tham gia trận này mà ở lại bảo vệ vùng hậu cứ Thừa Thiên) với mục tiêu là phá hủy đường mòn Hồ Chí Minh nhằm triệt tiêu con đường tiếp vận khổng lồ của Quân đội Nhân dân Việt Nam vào chiến trường miền Nam với nhiều vũ khí tối tân đủ loại. Cùng tham gia chiến dịch còn có các Sư đoàn Nhảy dù, Thủy Quân Lục Chiến và Liên đoàn 1 Biệt động quân thuộc Quân đoàn I. Tiểu đoàn 2/2 do Trung tá Trần Ngọc Huế, sỹ quan có nhiều thành tích trong Tết Mậu Thân 1968 cùng với tiểu đoàn 4/2 được 120 trực thăng UH-1 Huey mang 1.200 quân không vận nhảy vào thị xã Tchépone để phá hủy các kho tàng chứa lương thực và vũ khí đủ loại của đối phương. Sau đó Sư đoàn chạm súng nặng nề với các Sư đoàn 2, 304, 308, 324B và các đơn vị tăng cường của đối phương với quân số lên đến hơn 40.000 quân đang tiến hành bao vây Sư đoàn. Trung đoàn 1 Bộ binh do Đại tá Nguyễn Văn Điềm chỉ huy bị vây khốn ở bãi đáp Lolo. Sau 10 ngày chiến đấu ác liệt trong điều kiện bị vây hãm và dưới dàn hỏa lực pháo binh khủng khiếp của phía quân đối phương, Trung đoàn 1 được di tản khẩn cấp bằng trực thăng UH-1 Huey và CH-47 Chinook. Tiểu đoàn 4/1 do Trung tá Lê Huấn chỉ huy nhận lãnh trách nhiệm đoạn hậu cho Trung đoàn rút lui, Tiểu đoàn 4/1 chịu tổn thất nặng nề khi chỉ còn 63/600 tay súng về tới Việt Nam, nhiều trực thăng của Lục quân Hoa Kỳ cũng bị bắn hạ do lưới lửa từ các dàn pháo phòng không đủ tầm bao vây xung quanh khu vực. Cũng trong trận chiến này, Trung tá Huấn, viên tiểu đoàn trưởng của Trung đoàn 1 Bộ binh đã tử trận bên cạnh Tiểu đoàn phó và các sĩ quan, binh sĩ dưới quyền khác.
Sau khi về Việt Nam, Sư đoàn đã tham gia ngay hai cuộc hành quân Lam Sơn 720 và 810 cùng với Thủy quân Lục chiến Việt Nam giải tỏa Động A Tây do Trung đoàn 6 Quân đội Nhân dân Việt Nam chiếm đóng trước đó. Cuộc tái chiếm diễn ra ác liệt, sau 5 ngày chiến đấu, Động A Tây hoàn toàn được giải tỏa, phía Việt Nam Cộng hòa thu hồi được hơn 100 thi hài quân đồng đội, tổn thất 116 tử trận và khoảng 300 bị thương, và tuyên bố phía đối phương có 402 tử trận (đếm xác) và 22 bị bắt làm tù binh, tịch thu 293 vũ khí cá nhân và 47 vũ khí cộng đồng. Ngày 26/6/1971, Đại đội Hắc Báo trực thuộc Sư đoàn tiến hành tấn công chớp nhoáng Binh trạm 106 tại thung lũng A Shầu, phá hủy các kho tàng chứa vũ khí và lương thực, tiêu diệt nhóm bảo vệ binh trạm này và rút ra thành công mà không phải chịu tổn thất nào. Cũng trong năm này, các đơn vị thuộc Sư đoàn 1 Bộ binh liên tiếp thực hiện các cuộc tấn công khác ở vùng hỏa tuyến.
Ngày 1/10/1971, Sư đoàn 3 Bộ Binh Việt Nam Cộng hòa được thành lập, nhận lãnh trách nhiệm trấn đóng vùng địa đầu giới tuyến Quảng Trị thay thế cho Sư đoàn 1 Bộ binh lui về phòng thủ tiểu khu Thừa Thiên, Sư đoàn 1 nhận lệnh chuyển Trung đoàn 2 Bộ Binh đang trấn đóng ở giới tuyến làm nòng cốt của Sư đoàn 3 Bộ Binh.
Năm 1972, Sư đoàn tham gia Chiến dịch Mùa Hè Đỏ Lửa, lúc này Trung đoàn 51 Bộ binh biệt lập đang hoạt động ở vùng Quảng Đà (Quảng Nam-Đà Nẵng) được lệnh sáp nhập vào Sư đoàn, Sư đoàn chính thức có 4 trung đoàn trực thuộc gồm trung đoàn 1, 3, 51, 54 cho đến khi tan hàng năm 1975. Sư đoàn tham gia các chiến dịch tái chiếm một loạt cứ điểm, các điểm cao và thung lũng có thể quan sát toàn bộ tuyến chuyển vận huyết mạch của Quân đội Nhân dân Việt Nam vào miền Nam, những trận đánh đẫm máu không kém hai Sư đoàn đang hoạt động ở phía bắc là Nhảy dù và Thủy quân Lục chiến đang tiến lên tái chiếm Cổ thành Quảng Trị.
Đơn vị trực thuộc và phối thuộc
Bộ Tư lệnh Sư đoàn và Chỉ huy Trung đoàn tháng 3/1975
Các trận đánh tiêu biểu
Chiến dịch Pegasus (1968)
Trận chiến bảo vệ Cố Đô Huế trong Tết Mậu Thân tại Huế và Quảng Trị (1968)
Cuộc hành quân Lam Sơn 719 (1971)
Các trận chiến lớn tại Tây Thừa Thiên trong Mùa Hè Đỏ Lửa (1972)
Chiến dịch Huế-Đà Nẵng (1975)
Năm 1975
Tháng 3 năm 1975, Sư đoàn 1 Bộ binh cùng Liên đoàn 15 Biệt động quân, chịu trách nhiệm bảo vệ hướng Tây và hướng nam tỉnh Thừa Thiên. Trong lúc hành quân, Sư đoàn được lệnh rút về cửa Tư Hiền để thực hiện lệnh tái phối trí Quân đoàn I. Theo kế hoạch rút quân, Sư đoàn 1 Bộ binh cùng các đơn vị trực thuộc tăng phái sẽ tập hợp tại cửa Tư Hiền, vượt đầm Cầu Hai, qua đèo Hải Vân rồi theo Quốc lộ 1 về Đà Nẵng. Kế hoạch này không tiến hành như dự kiến, vì ngày 21 tháng 3 năm 1975, Sư đoàn 324B và Sư đoàn 325 cùng Trung đoàn Trị Thiên của Quân Giải phóng miền Nam đồng loạt tấn công dọc theo tuyến phòng thủ sông Bồ kéo dài đến Phú Lộc. Tại các trận tuyến Mõ Tàu, núi Bông và các cao điểm nơi có mặt Trung đoàn 1, 51, 54 thuộc Sư đoàn 1 Bộ binh, giao tranh xảy ra quyết liệt và Sư đoàn 1 đã gây nhiều thiệt hại cho các đơn vị tấn công. Khi các đơn vị Sư đoàn 1 Bộ binh về đến cửa Tư Hiền, Duyên đoàn 13 Hải quân Việt Nam Cộng hòa chịu trách nhiệm đưa quân qua sông gặp khó khăn do biển động mạnh và sóng quá lớn khiến Duyên đoàn không thể làm tròn trọng trách đó. Sư đoàn 1 Bộ binh không thể rút quân và đã tan rã tại đây, và chỉ có khoảng 4.000 quân nhân về được đến Đà Nẵng. Đến ngày 1/4/1975, sau khi đánh 1 loạt trận chiến cuối cùng xung quanh và trong thành phố Đà Nẵng, Sư đoàn 1 Bộ binh đã tan hàng tại Đà Nẵng sau hơn 20 năm chiến đấu tại vùng địa đầu giới tuyến của miền Nam Việt Nam.
Chú thích
Tham khảo
Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011). Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Liên kết
The 1st ARVN Division, 1st Lt. Robert Gorman, Rendezvous With Destiny Magazine, L Company, 75th Ranger Group, U.S. Army, Winter 1969
"Chiến tranh Việt Nam Toàn tập," TS Nguyễn Đức Phương, Nhà xuất bản Làng Văn, Toronto, 2001, trang 821.
TS Nguyễn Đức Phương, sđd., trang 845
"Airgram from American Embassy Saigon to Department of State, ngày 6 tháng 2 năm 1973, Subject: Command Histories and Historical Sketches of RVANF Divisions."
TS Nguyễn Đức Phương, sđd., trang 755
Vietnam from Cease-Fire to Capitulation, William E LeGro, GPO, Washington 1981, ch 16
"Bắc hải Vân Xuân 1975", Xuân Thiều, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 1977
1 bộ binh
Đơn vị quân sự thành lập năm 1955
Đơn vị quân sự giải thể năm 1975
|
23286
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n%20T%C6%B0%E1%BB%9Dng%20V%C3%A2n
|
Nguyễn Tường Vân
|
Nguyễn Tường Vân (17 tháng 8 năm 1980 – 2 tháng 12 năm 2005) là người Úc gốc Việt bị kết án buôn lậu ma túy theo luật Singapore. Nguyễn Tường Vân đã chịu án tử hình dưới hình thức bị treo cổ theo Đạo luật Lạm dụng Ma túy, mặc dù có sự can thiệp tích cực của chính quyền Úc cũng như của một số cá nhân và tổ chức.
Bản án được thi hành tại Nhà tù Changi của Singapore.
Xuất thân
Nguyễn Tường Vân và em trai sinh đôi Nguyễn Đăng Khoa ra đời tại một trại tị nạn ở Songkhla, Thái Lan trong gia đình bố mẹ là người Việt. Anh không biết cha mình cho đến năm 2001 khi anh đi từ Hoa Kỳ đến Úc. Mẹ của anh, Kim, định cư ở Úc ngay sau khi sinh hai anh em. Theo thông tin của Vân, năm 1987, mẹ anh kết hôn với một người Úc gốc Việt và thường xuyên đánh đập họ.
Vân học tại Trường St Ignatius tại Richmond, Trường tiểu học St Joseph ở Springvale và Trường trung học Mount Waverley. Sau khi rời trường năm 18 tuổi, anh dự định học tại Đại học Deakin, nhưng khó khăn tài chính khiến anh phải làm nhân viên cửa hàng, nhân viên bán hàng, nhân viên bán hàng máy tính và nghiên cứu tiếp thị.
Vân bắt đầu kinh doanh máy tính của riêng mình vào năm 1999. Sau khi anh trai Khoa gặp rắc rối về pháp lý, Vân đã lên kế hoạch kinh doanh. Sau đó, anh ta đã tìm được một công việc bán hàng, nghiên cứu và tiếp thị và kiếm được từ 1.500 đến 2.500 đô la Úc một tháng (tùy thuộc vào số tiền hoa hồng anh ta nhận được). Sau đó, anh ta đã nghỉ phép từ tháng 6 đến tháng 12 năm 2002. Trong lời thú nhận của mình, anh ta tuyên bố rằng anh ta đang dùng "thuốc trị mụn cần 4 tháng."
Vụ án
Tháng 11 năm 2002, Vân móc nối một số người tại Úc và được đề nghị vận chuyển hàng từ Campuchia đến Melbourne và có thể là đến Sydney. Chuyến rời Úc đầu tiên này của Vân đưa anh qua Singapore và Thành phố Hồ Chí Minh.
Sau khi trở về Singapore từ Thành phố Hồ Chí Minh, Vân được hướng dẫn tán bạch phiến, quấn quanh người. Vân bị bắt ở sân bay Changi khi làm thủ tục bay về Melbourne.
Tại phiên toà, Vân thú nhận đã vận chuyển bạch phiến với mục đích kiếm tiền trả các món nợ cũng như các phí tổn pháp lý cho Khoa - người em song sinh đã từng bị ra toà vì tội sử dụng ma tuý và ẩu đả. Số bạch phiến vận chuyển là 396,2 gram, nhiều gấp 25 lần số lượng phải chịu tử hình theo Đạo Luật Chống Sử Dụng Ma Tuý của Singapore là 15 gram.
Toà Thượng thẩm đã tuyên phạt Vân tử hình vào ngày 20 tháng 3 năm 2004. Đơn kháng án của Vân bị bác bỏ. Ngày 17 tháng 11 năm 2005, gia đình Vân được thông báo án tử hình được thi hành ngày 2 tháng 12 năm 2005.
Thủ tướng Úc John Howard có gửi thỉnh cầu cuối cùng đến Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long xin ân xá cho Vân nhưng không có kết quả.
Bản thăm dò ý kiến (Morgan Poll) được đưa ra tháng 11 năm 2005 cho thấy rằng 47% dân Úc tin Vân phải bị tử hình, 46% nói rằng không nên thi hành án tử hình và 7% không có ý kiến.
Thỉnh cầu khoan hồng
Lời kêu gọi khoan hồng của Chính phủ Úc đã bị từ chối vào tháng 10 năm 2005. Các thành viên của quốc hội liên bang và tiểu bang đã kháng cáo quyết định xem xét lại và khoan hồng để được cấp. Việc treo cổ của anh ta là vụ xử tử đầu tiên của một công dân Úc ở Đông Nam Á kể từ năm 1993, khi Michael McAuliffe bị treo cổ tại Malaysia vì buôn bán ma túy. Chín năm trước, Barlow and Chambers đã được gửi tới giá treo cổ vì tham gia vào một vụ buôn lậu ma túy.
Vào ngày 21 tháng 11 năm 2005, Chính phủ Úc đang xem xét yêu cầu của các luật sư của Vân để nộp đơn xin xét xử tại Tòa án Công lý Quốc tế yêu cầu chính phủ Singapore đồng ý với thẩm quyền của mình. Tuy nhiên, Bộ trưởng Ngoại giao Downer cho rằng không có khả năng chính phủ Singapore sẽ đồng ý. Vào ngày 24 tháng 11 năm 2005, Tổng chưởng lý bang Victoria Rob Hulls đã gặp Bộ trưởng Bộ Luật và Nội vụ Singapore Ho Peng Kee để báo cáo vụ kiện vì sự khoan hồng nhưng không thành công. Vào ngày 28 tháng 11 năm 2005 Ủy viên Nhân quyền Úc, Sev Ozdowski, cho biết Úc phải tiếp tục gây sức ép để Singapore từ bỏ án tử hình, ngay cả khi điều đó chứng minh quá muộn cho Vân.
Sau khi tuyên án vào tháng 3 năm 2004, các nhà vận động chống án tử hình đã được báo cáo là tràn ngập các email từ người Úc đề nghị hỗ trợ cho Vân. Các chính khách và các nhân vật tôn giáo đã đưa ra lời cầu xin khoan hồng, nhưng những điều này đã bị chính phủ Singapore từ chối.
Một ngày trước khi Vân bị treo cổ, một luật sư đã đưa ra một chiến thuật pháp lý cuối cùng, buộc tội Vân với các tội liên quan đến ma túy tại Tòa án sơ thẩm ở Melbourne, mà anh ta hy vọng sẽ cho phép Chính phủ Liên bang Úc dẫn độ Vân. Tuy nhiên, Bộ trưởng Tư pháp Chris Ellison đã bác bỏ dẫn độ, nói rằng Giám đốc Công tố Liên bang sẽ không cố gắng truy tố Vân tại Úc.
Tham khảo
Người Úc gốc Việt
Người buôn lậu ma túy
Người bị treo cổ
Tội phạm ở Singapore
Người phạm tội từ Melbourne
Người sinh đôi từ Úc
|
23296
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BA%A3o%20qu%E1%BB%91c%20Hu%C3%A2n%20ch%C6%B0%C6%A1ng
|
Bảo quốc Huân chương
|
Bảo quốc Huân chương là huân chương cao quý nhất của Quốc gia Việt Nam, được Việt Nam Cộng hòa kế thừa, dành tưởng thưởng cho các quân nhân trong tất cả binh chủng hay thường dân bên hành chính dân sự đã có "chiến tích xuất sắc trong công cuộc giữ gìn bờ cõi hoặc có cống hiến lớn cho quốc gia".
Lịch sử
Thời thuộc địa, từ năm 1886, nhà Nguyễn đã đặt ra quy chế Đại Nam Long tinh, phỏng theo Bắc Đẩu Bội tinh của Pháp, để hình thành cơ chế phong thưởng cao nhất cho triều thần nhà Nguyễn và người Pháp tại Bắc và Trung kỳ. Năm 1896, Đại Nam Long tinh được chính quyền Pháp công nhận là một trong bảy loại huân chương của thuộc địa. Tuy nhiên, từ năm 1945, khi chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập và hoàng đế Bảo Đại thoái vị, cơ chế Đại Nam Long tinh viện cũng bị bãi bỏ.
Đến năm 1950, Quốc gia Việt Nam thành lập dưới sự thỏa hiệp giữa chính phủ Pháp và cựu hoàng Bảo Đại. Một mặt, quốc trưởng Bảo Đại tái lập Đại Nam Long tinh Viện để phong tặng cho các quan lại cũ trên danh nghĩa Hoàng đế. Mặt khác, ông cho thành lập Bảo quốc Huân chương theo đúng mô hình của Đại Nam Long tinh để ban thưởng với danh nghĩa Quốc trưởng. Hai hệ thống huân chương này cùng tồn tại song song cho đến năm 1955, khi quốc trưởng Bảo Đại bị thủ tướng Ngô Đình Diệm phế truất và chính thể Việt Nam Cộng hòa được thành lập. Cơ chế Đại Nam Long tinh hoàn toàn bị bãi bỏ, nhưng Bảo quốc Huân chương vẫn được kế thừa và tồn tại cho đến năm 1975 thì ngừng hoạt động vĩnh viễn khi chính thể Việt Nam Cộng hòa chấm dứt tồn tại.
Mô tả
Bảo quốc Huân chương có hình ngũ giác gần như tròn với đỉnh nhọn trên cùng. Chính giữa có hình tròn, ở diềm có 5 tia mạ vàng tỏa ra hơi giống hình ngôi sao. Trong lòng hình tròn, khảm bằng men ngọc đỏ và khắc nổi bốn chữ "Tổ quốc tri ân". Quanh mé ngoài hình tròn có khảm một đường men màu xanh; bên mé trong, mé ngoài đường men có viền bằng 2 sợi chỉ vàng. Giữa các tia sao, khắc nổi các hoa văn trang trí tráng men xanh lục. Riêng ở vị trí phía dưới, khắc nổi hình rồng. Phía trên đỉnh ngũ giác, khắc mặt rồng với hai bên đối xứng, làm chỗ nối dây đeo.
Ở các hạng Đệ nhất đẳng và Đệ nhị đẳng còn có thêm một bài đeo lớn, có hình dạng gần tương tự huân chương.
Kèm theo huân chương còn có văn bằng. Trên văn bằng ghi rõ tên họ người được cấp và hạng cấp của Bảo quốc Huân chương.
Hệ thống cấp bậc
Như đã nêu trên, Bảo quốc Huân chương gần như được sao chép từ Đại Nam Long tinh của nhà Nguyễn, mà nguồn gốc xa hơn là hệ thống Légion d'honneur của Pháp, vì vậy hệ thống cấp bậc cũng như cách sử dụng của chúng gần như tương đồng hoàn toàn.
Hệ thống cấp bậc so sánh giữa chúng như sau (theo thứ tự từ cao xuống thấp)
<center>
{| class="wikitable sortable"
! Cấp bậc !! Bắc Đẩu bội tinh !! Đại Nam Long tinh !! Bảo quốc Huân chương !! Ghi chú
|-
|<center>1|| Grand-croix || Đệ nhất hạng || Đệ nhất đẳng ||
|-
|<center>2|| Grand officier || Đệ nhị hạng || Đệ nhị đẳng ||
|-
|<center>3 || Commandeur || Đệ tam hạng || Đệ tam đẳng ||
|-
|<center>4 || Officier || Đệ tứ hạng || Đệ tứ đẳng ||
|-
|5 || Chevalier || Đệ ngũ hạng || Đệ ngũ đẳng ||
|}
Cách sử dụng
Cách sử dụng của Bảo quốc Huân chương cũng gần tương tự với Đại Nam Long tinh và Bắc Đẩu bội tinh. Vị trí đeo của Bảo quốc Huân chương là vị trí danh dự cao hơn trên tất cả các huân, huy chương khác. Mỗi hạng có cách đeo khác nhau như:
Đệ nhất đẳng: được đeo bằng dây choàng trên vai phải và một bài tròn Bảo quốc mạ vàng trên ngực trái
Đệ nhị đẳng: được đeo bằng ruy-băng (ribbon) màu đỏ viền vàng với một nơ Bảo quốc hình tròn trên ngực trái và một bài tròn Bảo quốc mạ bạc trên ngực phải
Đệ tam đẳng: được đeo bằng dây choàng dài trên cổ
Đệ tứ đẳng: được đeo bằng ruy-băng và một nơ Bảo quốc hình tròn trên ngực trái
Đệ ngũ đẳng: được đeo bằng ruy-băng trên ngực trái.
Trong trường hợp tối giản, các cuống Bảo quốc Huân chương được quy định như sau:
Dây biểu chương
Chú thích
Tham khảo
John Sylvester, Frank Foster, The Decorations and Medals of the Republic of Vietnam, MOA Press 1995.
Military Orders, Decorations, and Medals of the Republic of Vietnam
Christopher Buyers: Orders & decorations of Wietnam. W: Royal and Ruling Houses of Africa, Asia, Oceania and the Americas [on-line].
Marc Champenois: Ordre du Dragon d'Annam. W: Les décorations Francaises [on-line]. france-phaleristique.com.
Huân chương và Huy chương Việt Nam Cộng Hòa
http://www.vietnam-on-line.com/hph/Suutap/Huanchuong/Huanhuychuong.htm
Huân chương và huy chương Việt Nam Cộng hòa
Huân huy chương Quốc gia Việt Nam
Bảo quốc Huân chương
Việt Nam Cộng hòa
Huân chương và huy chương Việt Nam
Chiến tranh Việt Nam
|
23304
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Karst
|
Karst
|
Karst (tiếng Đức: Karst, tiếng Việt: Các-xtơ) là hiện tượng phong hóa đặc trưng của những miền núi đá vôi bị nước chảy xói mòn. Sự xói mòn không phải do cơ chế lực cơ học, mà chủ yếu là do khí carbon dioxide trong không khí hòa tan vào nước, cộng với các ion dương của hydro (H+) tạo thành acid carbonic. Acid carbonic là nguyên nhân chính của quá trình ăn mòn đá vôi. Sản phẩm tự nhiên của quá trình phong hóa karst là các hang động với các nhũ đá, măng đá, sông suối ngầm,...
Từ Karst là tên gọi cho Kras, một khu vực ở Slovenia dọc theo bờ biển Adriatic và nằm trên một cao nguyên đá vôi.
Địa hình karst
Địa hình karst là địa hình của các kiểu phân rã đặc trưng thông thường được đánh dấu bởi các hệ thống thoát nước theo hang động ngầm dưới đất. Đây là các khu vực mà ở đó nền đá có lớp bị hòa tan hoặc các lớp, thông thường (nhưng không phải luôn luôn) là đá carbonat chẳng hạn như đá vôi hay dolomit. Trong những chỗ như thế có rất ít hoặc thậm chí không có hệ thống thoát nước trên bề mặt. Một số khu vực có địa hình karst, chẳng hạn khu vực ở miền nam Missouri và miền bắc Arkansas tại Hoa Kỳ, có chứa hàng nghìn hang động.
Phản ứng hóa học trong địa hình karst
Sự tạo thành của địa hình karst nói chung là kết quả của nước mưa có chứa lượng carbonic hòa tan (hay còn gọi là mưa acid nhẹ), tác động lên nền đá vôi hay dolomit và hòa tan một phần các chất chứa trong các loại đá này theo thời gian. Quá trình hòa tan dưới bề mặt đá sẽ diễn ra nhanh hơn nếu đá có nhiều khe nứt và tạo ra địa hình với các đặc trưng đặc biệt, bao gồm các hố sụt hay thung lũng (các lòng chảo khép kín), các đường thông thẳng đứng, các dòng suối đột ngột biến mất. Sau một thời gian đủ lớn, các hệ thống thoát nước ngầm phức tạp này (chẳng hạn các tầng ngậm nước karst) và các hệ thống hang động có phạm vi rộng có thể được tạo ra.
Acid carbonic tham gia vào quá trình này được tạo ra khi các hạt mưa đi qua khí quyển đã lôi theo khí CO2 và hòa tan nó trong nước. Khi mưa rơi xuống mặt đất, nó ngấm qua các lớp đất, thu thập thêm CO2 để tạo ra dung dịch acid carbonic yếu:
H2O + CO2 → H2CO3
CaCO3 → Ca2+ + CO32–
CO32– + H2CO3 → 2 HCO3–
CaCO3 + H2CO3 → Ca2+ + 2 HCO3–
Nước có tính acid yếu này bắt đầu hòa tan đá từ vị trí các khe nứt và các lớp đá trong các tầng đá vôi. Theo thời gian các khe nứt này mở rộng dần và nền đá vẫn tiếp tục bị hòa tan. Các khoảng rỗng trong các lớp đá tăng dần về kích thước và bắt đầu phát triển hệ thống thoát nước ngầm, cho nhiều nước hơn đi qua và làm tăng tốc độ hình thành các đặc trưng karst ngầm.
Sự hình thành karst
Sự phát triển của karst xuất hiện khi nước có thành phần acid phản ứng với bề mặt của các khe nứt trong đá hoặc bề mặt lớp đá trầm tích. Khi đó đá gốc (thường là đá vôi hoặc dolomit) sẽ tiếp tục bị ăn mòn và các khe nứt ngày càng rộng hơn. Theo thời gian, các khu nứt này sẽ tiếp tục mở rộng, và tạo thành một mạng lưới thoát nước có thể chảy ngầm bên dưới mặt đất. Nếu mạng lưới ngầm này phát triển, nó sẽ thúc đẩy nhanh việc hình thành karst.
Calci carbonat bị hòa tan bởi nước chứa acid nhẹ có thể tích tụ lại ở bất kỳ chỗ nào. Trong các hang, các nhũ đá và các măng đá được hình thành nhờ sự tích tụ của calci carbonat và các khoáng chất bị hòa tan khác khi nước nhỏ giọt từ phía trên xuống. Một ví dụ là hang Gruta Rei do Mato tại Sete Lagoas, Brasil với nhũ đá dài tới 20 mét.
Các sự hình thành khác bao gồm các tấm đệm (trong đó dòng chảy là từ các vết nứt chứ không phải là từ các điểm), và lớp cặn calci xuất hiện khi dòng chảy của nước giàu calcit bị cản trở và calcit lắng xuống theo dòng chảy. Helictit là sự hình thành có dạng vòng xoắn gắn liền với mái và tường của hang. Các dạng hình thành dạng dòng chảy lớn hơn là các vũng nước tù đọng, chúng có dạng như bồn tắm và có thể chứa nhiều tinh thể calcit hoặc aragonit lớn hơn như là kết quả của sự bay hơi chậm. Các con sông hiện ra từ các hang đá vôi cũng có thể tạo ra các địa hình tufa, chứa các lớp trầm tích calcit theo thời gian khi nước thoát khỏi môi trường hang động giàu CO2.
Thoát nước và các vấn đề
Trồng trọt trong khu vực karst cần phải tính toán đến sự mất nước. Đất có thể đủ màu mỡ và lượng mưa là vừa phải nhưng nước mưa nhanh chóng chui xuống các đường nứt vào trong đất, đôi khi làm cho mặt đất bị khô nẻ trong khoảng thời gian giữa các trận mưa.
Việc cung cấp nước từ các giếng trong khu vực có địa hình karst là khá nguy hiểm, do nước giếng có thể là nước chảy ra từ các chỗ đất sụt trong các bãi chăn thả gia súc thông qua các hang động và tới giếng mà không có sự tinh lọc thông thường diễn ra trong các tầng đất xốp ngậm nước.
Nước ngầm trong khu vực karst rất dễ bị ô nhiễm như là nước bề mặt. Thông thường các chỗ đất sụt được sử dụng để lập trang trại hay thậm chí là chỗ đổ rác cho cộng đồng. Trong các khu vực karst mà các hố phân tự hoại là hệ thống xử lý chất thải chủ yếu thì sự quá tải hay sự trục trặc của hệ thống sẽ thải các chất thải còn tươi vào trong các kênh nước ngầm.
Địa hình karst tự nó cũng gây ra một số khó khăn cho sự cư trú của con người. Các chỗ đất sụt có thể phát triển dần dần cho đến khi các lỗ hổng bề mặt đủ lớn, nhưng sự xói mòn ngầm là hoàn toàn không biết trước được và mái của các hang động ngầm có thể sập bất thình lình. Những sự kiện như thế gây ra tổn thất cho nhà cửa, gia súc, xe cộ, máy móc, và thậm chí là con người.
Giả karst
Giả karst diễn ra ở xnhững nơi mà nguyên nhân gây xói mòn chính không phải là nước mưa, nhưng ở đó cũng có hệ thống thoát nước ngầm. Nó có thể diễn ra ở vùng đá bazan, trong đó hệ thống thoát nước là xuyên qua các hang động dung nham, hoặc nằm trong các ngọn đồi có cấu tạo là đá granit (ví dụ hang Labertouche ở Victoria, Úc).
Một phần danh sách các khu vực karst
Khu vực hang Mammoth và khu vực Bluegrass ở Kentucky
Cao nguyên Ozark ở Missouri và Arkansas
Bán đảo Florida
Khu vực Dalmatia, Lika, Gorski Kotar, Kvarner và các quần đảo khác ở Croatia
Khu vực Carniola ở Slovenia
Cenote ở bán đảo Yucatan
Rừng Karst ở Puerto Rico
Kras, đông bắc Italy và tây nam Slovenia
Moravian Karst
Burren (Co.Clare, Ireland)
Rừng đá (tỉnh Vân Nam, Trung Quốc)
Cao nguyên đá Đồng Văn, Hà Giang, Việt Nam
Khu vực xung quanh Quế Lâm ở Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, Trung Quốc
Công viên quốc gia Gunung Mulu, Malaysia
Khu vực vịnh Phangnga, nam Thái Lan
Vịnh Hạ Long, Quảng Ninh, Việt Nam
Hang động Tràng An, Tam Cốc - Bích Động, Ninh Bình, Việt Nam
Phong Nha-Kẻ Bàng, Quảng Bình, Việt Nam
Khu bảo tồn quốc gia Nahanni ở Northwest Territories, Canada
Malham Cove, Anh
Xem thêm
Hang động Việt Nam
Proteus anguinus
Tham khảo
Địa mạo
Địa chất hang động
Địa mạo học
|
23309
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C6%B0%E1%BB%9Dng%20k%C3%ADnh%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
Đường kính (định hướng)
|
Đường kính có hai nghĩa:
Trong toán học, đường kính là khoảng cách lớn nhất giữa hai điểm trên đường tròn.
Trong đời thường, đường kính là đường ăn, ở dạng tinh thể.
|
23310
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%A1ng
|
Báng
|
Cây báng (các tên gọi khác: đác, co pảng, quang lang, bụng báng, búng báng, báng búng, Cây Tà vạt, Cây rượu trời, Cây dừa núi), danh pháp khoa học Arenga pinnata, là giống cây lâu năm thuộc họ Cau, có nguồn gốc khu vực nhiệt đới châu Á, từ đông Ấn Độ về phía đông tới Malaysia, Indonesia, và Philippines. Ở Việt Nam, cây báng mọc nhiều ở chân núi ẩm (Cao Bằng, Lạng Sơn), chân núi đá vôi, trong rừng thứ sinh.
Mô tả
Ở tuổi trưởng thành cây có đường kính khoảng 40–50 cm (gốc và ngọn tương đương) và cao chừng 8-20 mét. Lá xẻ lông chim to trông như lá dừa, mặt dưới màu trắng, dài 6-12 mét và rộng khoảng 1,5 mét, với các lá chét mọc thành 1–6 hàng, dài 40–70 cm và rộng 5 cm. Cuống và bẹ lá có nhiều sợi dài có thể bện thừng. Bông mo phân nhánh nhiều, cong. Hoa đực có 70-80 nhị, hoa cái có ba lá đài còn lại trên quả. Cuống hoa chứa nhiều nước ngọt, có thể nấu thành đường hoặc cho lên men rượu. Quả hình gần cầu, đường kính 7 cm, vỏ màu xanh chuyển thành đen khi chín. Lõi thân chứa nhiều tinh bột, ăn được. Thân đục ra làm máng nước. Ruột cây báng đặc, có cấu trúc sợi trải thưa dọc theo chiều thân cây, là chất liệu màu trắng, mềm.
Sử dụng
Bột trong lõi cây có thể dùng làm lương thực. Cho đến giữa thế kỉ 20, người Rục ở miền tây Quảng Bình còn lấy bột báng làm lương thực chính.
Hiện nay ở Trung Quốc họ sử dụng bột báng rất nhiều để làm đồ uống mát bổ có lợi cho sức khỏe, bột báng còn là chất phụ gia không thể thiếu trong ẩm thực và làm bánh kẹo.
Lõi của trái trên cây là hạt đác, rất được ưa chuộng ở Indonesia (được gọi là kolang-kaling or buah tap) hay Philippines (được gọi là kaong). Ở Việt Nam, loại hạt này là đặc sản của vùng Nam Trung Bộ như những tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa.
Nhiều người trồng báng làm cảnh vì có dáng đẹp.
Rượu báng
Dân miền núi thường lấy ruột cây để ủ men nấu rượu. Được nấu từ ruột cây báng sau khi đã ủ men rượu. Rượu báng là đặc sản của dân miền núi đá cao.
Hiện nay ở một số xã của tỉnh Cao Bằng người dân vẫn làm rượu từ cây báng, nhưng phải mất khá nhiều thời gian để ủ và lên men (4 tháng) mới có thể cất rượu được
Lưu ý
Từ bột báng ngoài nghĩa là bột lấy từ thân cây báng còn là tên gọi của loại bột làm từ củ của cây sắn.
Ngoài ra từ Báng (Báng Cổ trướng) còn dùng để chỉ một tình trạng tích tụ dịch bệnh lý trong khoang phúc mạc
Chú thích
Tham khảo
P
|
23313
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BA%ABu%20thi%E1%BA%BFt%20k%E1%BA%BF%20ph%E1%BA%A7n%20m%E1%BB%81m
|
Mẫu thiết kế phần mềm
|
Trong công nghệ phần mềm, một mẫu thiết kế (tiếng Anh: design pattern) là một giải pháp tổng thể cho các vấn đề chung trong thiết kế phần mềm. Một mẫu thiết kế không phải là một thiết kế hoàn thiện để mà có thể được chuyển đổi trực tiếp thành mã; nó chỉ là một mô tả hay là sườn (template) mô tả cách giải quyết một vấn đề mà có thể được dùng trong nhiều tình huống khác nhau. Các mẫu thiết kế hướng đối tượng thường cho thấy mối quan hệ và sự tương tác giữa các lớp hay các đối tượng, mà không cần chỉ rõ các lớp hay đối tượng của từng ứng dụng cụ thể. Các giải thuật không được xem là các mẫu thiết kế, vì chúng giải quyết các vấn đề về tính toán hơn là các vấn đề về thiết kế.
Lịch sử
Các mẫu xuất phát từ một ý niệm kiến trúc đưa ra bởi Christopher Alexander. Vào năm 1987, Kent Beck và Ward Cunningham bắt đầu thử nghiệm ý tưởng áp dụng các mẫu vào lập trình và đưa ra các kết quả của chúng tại hội thảo OOPSLA vào năm đó. Vào các năm tiếp theo, Beck, Cunningham và những người khác vẫn tiếp tục với công việc này.
Các mẫu thiết kế đã trở nên phổ biến trong khoa học máy tính sau khi cuốn sách Design Patterns: Elements of Reusable Object-Oriented Software được ấn hành vào năm 1994 bởi các tác giả được biết đến với tên "Gang of Four"(Gamma et al) gọi tắt là "GoF". Vào cùng năm đó, cuộc hội thảo đầu tiên về Các ngôn ngữ mẫu cho các chương trình đã được tổ chức và vào năm sau, Kho dự trữ các mẫu Portland (Portland Pattern Repository) đã được thiết lập để lưu trữ văn bản về các mẫu thiết kế.
Cách sử dụng
Các mẫu thiết kế có thể giúp tăng tốc quá trình phát triển phần mềm bằng cách cung cấp các mẫu hình (paradigms) phát triển đã được chứng thực và kiểm chứng. Để thiết kế phần mềm hiệu quả đòi hỏi phải xem xét các yếu tố mà chỉ trở nên rõ ràng sau khi hiện thực. Xác định được chúng, thông qua các mẫu thiết kế, chúng ta sẽ thoát khỏi chúng vì chúng có thể dẫn đến những rắc rối lớn và cải tiến khả năng dễ đọc của mã cho người viết mã và các nhà kiến trúc sẽ cảm thấy quen thuộc với các mẫu.
Thông thường, mọi người chỉ biết cách áp dụng một số kĩ thuật thiết kế phần mềm nào đó vào một vài vấn đề cụ thể nào đó. Những kĩ thuật này khó áp dụng mở rộng cho các vấn đề khác. Các mẫu thiết kế cung cấp các giải pháp chung, được viết tài liệu dưới một định dạng mà không gắn liền với một vấn đề cụ thể nào cả.
Các mẫu cho phép các nhà phát triển giao tiếp với nhau dùng các tên dễ hiểu, được dùng rộng rãi để đặt cho các tương tác của phần mềm. Các mẫu thiết kế chung có thể được cải tiến qua thời gian, để trở nên ổn định hơn là thiết kế tùy biến (ad-hoc designs).
Phân loại
Các mẫu thiết kế có thể được phân loại dựa vào nhiều tiêu chí, chung nhất là dựa vào vấn đề cơ bản mà chúng giải quyết. Theo tiêu chuẩn này, các mẫu thiết kế có thể được phân loại thành nhiều lớp, một số trong chúng là:
Mẫu cơ sở (Fundamental pattern)
Các mẫu tạo lập (Creational pattern)
Các mẫu cấu trúc (Structural pattern)
Các mẫu hành vi (Behavioral pattern)
Các mẫu đồng thời (Concurrency pattern)
Các mẫu xử lý sự kiện (Event handling pattern)
Các mẫu kiến trúc (Architectural pattern)
Viết tài liệu
Việc viết tài liệu cho một mẫu thiết kế nên chứa đựng đủ thông tin về vấn đề mà mẫu đề cập, ngữ cảnh trong đó nó được sử dụng và giải pháp được đề nghị. Tuy vậy, các tác giả mẫu thường sử dụng các dạng trình bày mẫu riêng của mình để trình bày các mẫu thiết kế, và các dạng trình bày mẫu thường tương tự với các phần cần thiết đã nêu. Các tác giả thường bao gồm thêm một số đoạn để cung cấp nhiều thông tin hơn và tổ chức các phần cần thiết trong những đoạn khác nhau có thể có với những tên khác nhau.
Một dạng chung thường được sử dụng là dạng được sử dụng bởi "Bộ tứ" (Các tác giả của Mẫu Thiết Kế). Nó bao gồm các đoạn:
Tên mẫu và sự phân loại: Mỗi mẫu nên có một tên mô tả và là duy nhất để danh định và tham khảo đến. Thêm vào đó, một mẫu nên được phân loại theo một cách đã được mô tả trước đó. Việc phân loại giúp việc định ra việc sử dụng mẫu.
Dự định: Đoạn này nên mô tả mục tiêu của mẫu và các lập luận cho việc sử dụng mẫu. Nó như phần vấn đề của mẫu.
Tên gọi khác: Một mẫu có thể có nhiều hơn một tên. Những tên này nên được viết trong đọan này.
Động cơ: Đoạn này cung cấp một kịch bản bao gồm một vấn đề và một ngữ cảnh trong đó mẫu có thể được sử dụng. Với mối quan hệ vấn đề và ngữ cảnh, đoạn này chỉ ra khi nào mẫu được sử dụng.
Có thể áp dụng: Đoạn này mô tả các tình huống trong đó mẫu có thể áp dụng. Nó biểu diễn phần ngữ cảnh của mẫu.
Cấu trúc: Một biểu diễn đồ thị của mẫu.Sơ đồ lớp và Sơ đồ tương tác có thể được sử dụng cho cho mục đích này.
Thành phần tham gia: Danh sách các lớp và đối tượng được sử dụng trong mẫu này và vai trò của chúng trong thiết kế.
Sự cộng tác: Mô tả cách các lớp và các đối tượng được sử dụng trong mẫu tương tác với các đối tượng khác.
Các kết quả: Đoạn này mô tả các kết quả, ảnh hưởng và các thỏa hiệp gây ra khi sử dụng mẫu.
Sự hiện thực: Đoạn này mô tả sự hiện thực mẫu và biểu diễn phần giải pháp của mẫu. Nó cung cấp các kỹ thuật được sử dụng trong việc hiện thực mẫu, và đề nghị các cách cho sự hiện thực này.
Mã mẫu: Một minh họa cách mẫu này được sử dụng trong một ngôn ngữ lập trình.
Các sử dụng được biết: Đoạn này bao gồm các ví dụ sử dụng thực sự của mẫu.
Các mẫu liên quan: Đoạn này bao gồm các mẫu khác có một số quan hệ với mẫu ví thế chúng có thể được sử dụng cùng với mẫu hoặc thay thế cho mẫu. Nó cũng bao gồm các sự khác nhau của mẫu với các mẫu tương tự khác.
Xem thêm
Anti-pattern
Khai thác mẫu (Pattern mining)
Pedagogical patterns
Portland Pattern Repository
Programming practice
Refactoring
Kỹ nghệ phần mềm và Danh sách các chủ đề kỹ nghệ phần mềm
Tham khảo
Beck, Kent, Ward Cunningham. Using Pattern Languages for Object-Oriented Programs. Presented at the Workshop on the Specification and Design for Object-Oriented Programming at OOPSLA '87.
Fowler, Martin. Patterns [software patterns] Software, IEEE, Volume: 20, Issue: 2, March-April 2003. Pages: 56 – 57.
Liên kết ngoài
Java J2EE pattern catalog
Design Patterns in Java
Microsoft patterns & practices catalog
Patterns Catalog
The PatternShare community - community site for sharing patterns.
TechBookReport - reviews of books on design
Many design patterns are described in mgrand's book patterns and software methodologies
The list of design patterns'' is entirely based on a wiki page http://c2.com/cgi/wiki?CategoryPattern.
Phát triển phần mềm
|
23315
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20Ireland
|
Cộng hòa Ireland
|
Ireland (phiên âm: "Ai-len"; phát âm tiếng Anh: ; ), hay còn được gọi chi tiết là Cộng hòa Ireland (, ), là một quốc gia ở tây bắc châu Âu, chiếm khoảng 5/6 diện tích đảo Ireland về phía nam. Thủ đô và thành phố lớn nhất Cộng hòa Ireland là Dublin, thành phố nằm trên phần phía đông của đảo, có dân số vùng đô thị chiếm khoảng một phần ba trong số 4,75 triệu dân toàn quốc. Quốc gia có chủ quyền này có biên giới trên bộ duy nhất với Bắc Ireland thuộc Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland. Bao quanh Cộng hòa Ireland là Đại Tây Dương, trong đó biển Celtic nằm về phía nam, eo biển Saint George nằm về phía đông nam, và biển Ireland nằm về phía đông. Đây là một nước cộng hòa nhất thể, theo thể chế nghị viện.
Nhà nước Tự do Ireland được hình thành vào năm 1922 do kết quả từ Hiệp định Anh-Ireland, khiến khoảng 5/6 diện tích đảo Ireland về phía nam tách ra và độc lập khỏi Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland. Ireland có vị thế quốc gia tự trị cho đến khi thông qua hiến pháp mới vào năm 1937, theo đó quốc hiệu là "Ireland" và thực tế trở thành một nước cộng hòa, có một tổng thống dân cử đóng vai trò là nguyên thủ quốc gia. Ireland chính thức được tuyên bố là một nước cộng hòa vào năm 1949. Ireland trở thành một thành viên của Liên Hợp Quốc vào tháng 12 năm 1955, gia nhập Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EEC) vào năm 1973. Cộng hòa Ireland không có quan hệ chính thức với Bắc Ireland trong hầu hết thời gian của thế kỷ XX, song vào thập niên 1980 và 1990 hai chính phủ Anh Quốc và Ireland làm việc với các phái Bắc Ireland nhằm tìm giải pháp cho xung đột vũ trang tại Bắc Ireland. Kể từ khi ký kết Hiệp định Thứ Sáu Tốt lành vào năm 1998, chính phủ Ireland và cơ quan hành pháp Bắc Ireland hợp tác trong một số lĩnh vực chính sách trong khuôn khổ Hội đồng Bộ trưởng Bắc-Nam.
Ireland được xếp vào hàng 25 quốc gia thịnh vượng nhất thế giới theo GDP bình quân, và là quốc gia thịnh vượng thứ mười thế giới theo một xếp hạng vào năm 2015. Sau khi gia nhập EEC, Ireland ban hành một loạt chính sách kinh tế tự do, kết quả là tăng trưởng nhanh chóng. Quốc gia đạt được thịnh vượng đáng kể trong giai đoạn "Con hổ Celtic" 1995-2007. Giai đoạn này bị ngưng lại do khủng hoảng tài chính bắt đầu vào năm 2008, kết hợp với khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, Ireland có nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất Liên minh châu Âu trong năm 2015, và nhanh chóng trở lại đứng hàng đầu trong các xếp hạng về của cải và phồn vinh quốc tế. Năm 2015, Ireland được xếp đồng hạng sáu (cùng Đức) theo chỉ số phát triển con người của Liên Hợp Quốc. Ireland cũng đạt thành tích tốt trong một số thước đo như tự do báo chí, tự do kinh tế và tự do dân sự. Ireland là một thành viên của Liên minh châu Âu và là thành viên sáng lập của Ủy hội châu Âu và OECD. Chính phủ Ireland theo chính sách trung lập về quân sự thông qua không liên kết, chính sách này có từ ngay trước Chiến tranh thế giới thứ hai, và Ireland sau đó không gia nhập NATO, song là một thành viên trong chương trình Quan hệ đối tác vì Hòa bình của NATO.
Tên gọi
Tên gọi Ireland bắt nguồn từ tiếng Ireland cổ Eriu. Từ này lại có nguồn gốc từ tiếng Celt nguyên thủy *Iveriu (tương đương với Iwerddon trong tiếng Wales), nó cũng là nguồn gốc của từ Hibernia trong tiếng La Tinh. Iveriu bắt nguồn từ một gốc từ nghĩa là "béo, thịnh vượng."
Hiến pháp Ireland quy định rằng "tên nước là Éire, hoặc Ireland trong tiếng Anh, ". Theo luật thành văn Ireland, Cộng hòa Ireland (hay Poblacht na hÉireann) là "sự miêu tả quốc gia" song không phải là tên gọi chính thức. Miêu tả chính thức này được đề ra trong Đạo luật Cộng hòa Ireland 1948, theo đó chuyển những nhiệm vụ còn lại của quân chủ cho một tổng thống được bầu cử. Tuy nhiên, tên nước trong tiếng Anh vẫn là Ireland. Một thay đổi về tên nước cần phải có một sửa đổi hiến pháp. Tuy nhiên, tại Anh Quốc, Đạo luật Ireland 1949 quy định rằng Cộng hòa Ireland có thể được sử dụng để chỉ nhà nước Ireland.
Mặc dù ban đầu được chính phủ Anh Quốc chấp thuận, song tên gọi Ireland trở thành một nguồn gây tranh chấp giữa hai chính phủ Anh Quốc và Ireland. Những lo ngại này phát sinh do một bộ phận của đảo Ireland thuộc về Anh Quốc và do đó chính phủ Anh Quốc nhận định rằng tên gọi này không thích hợp. Trong một vụ tố tụng vào năm 1989, một đa số trong Tòa án Tối cao Ireland biểu thị quan điểm rằng nhà cầm quyền Ireland không cần phải thi hành trát dẫn độ khi nó đề cập đến quốc gia bằng một tên gọi khác ngoài Ireland (trong trường hợp này các trát đã sử dụng tên gọi Éire). Trong Hiệp định Thứ sáu Tốt lành 1998, chính phủ Ireland từ bỏ yêu sách quyền tài phán với toàn đảo Ireland. Sau hiệp định, Anh Quốc chấp thuận và sử dụng tên gọi Ireland.
Các thuật ngữ Republic of Ireland, the Republic, Southern Ireland hay the South thường được sử dụng khi cần thiết phải phân biệt quốc gia này với đảo hoặc khi thảo luận về Bắc Ireland (the North). Nhiều người Ireland theo chủ nghĩa cộng hòa, và những người khác phản đối phân chia đảo, tránh gọi là quốc gia là Ireland. Họ cho rằng điều đó củng cố phân chia và thúc đẩy nhận thức rằng 'Ireland' và 'tính chất Ireland' bị giới hạn trong nước cộng hòa. Thay vào đó, họ thường gọi quốc gia là "26 hạt" (còn Bắc Ireland là Sáu hạt) hoặc đôi khi là Quốc gia Tự do (ám chỉ quốc gia trước 1937).
Lịch sử
Phong trào tự quản
Từ khi Đạo luật Liên hiệp có hiệu lực vào ngày 1 tháng 1 năm 1801, cho đến ngày 6 tháng 12 năm 1922, đảo Ireland là bộ phận của Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland. Trong nạn đói lớn từ năm 1845 đến năm 1849, dân số đảo giảm 30% từ mức trên 8 triệu người. Trong đó, một triệu người Ireland thiệt mạng do thiếu ăn và/hoặc dịch bệnh và có thêm 1,5 triệu người khác di cư, hầu hết là đến Hoa Kỳ. Sự kiện này định ra mô hình xuất cư trong một thế kỷ sau, khiến dân số suy giảm liên tục cho đến thập niên 1960.
Từ năm 1874, và đặc biệt là dưới quyền Charles Stewart Parnell từ năm 1880, Đảng Nghị viện Ireland trở nên nổi bật. Trước tiên là thông qua kích động về ruộng đất với kết quả là cải cách ruộng đất cho người thuê, và thứ hai là thông qua các nỗ lực nhằm đạt được tự quản thông qua hai dự luật song bất thành. Điều này dẫn đến "thường dân" kiểm soát quốc sự theo Đạo luật Chính quyền địa phương 1898, dù trước đó nằm trong tay các bồi thẩm đoàn Tin Lành chủ yếu là địa chủ.
Quyền tự quản dường như là chắc chắn khi Đạo luật Nghị viện 1911 bãi bỏ quyền phủ quyết của Quý tộc viện, và John Redmond đạt được đạo luật tự quản thứ ba vào năm 1914. Tuy nhiên, phong trào liên hiệp phát triển từ năm 1886 trong cộng đồng Tin Lành Ireland thì lo ngại kỳ thị và mất đi các đặc quyền kinh tế và xã hội nếu người Công giáo Ireland giành được quyền lực chính trị thực sự. Vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa liên hiệp đặc biệt mạnh tại nhiều nơi thuộc Ulster, là nơi công nghiệp hóa cao hơn phần còn lại của đảo. Tồn tại lo ngại rằng bất kỳ hàng rào thuế quan nào cũng sẽ tác động nặng nề đến khu vực. Ngoài ra, cư dân Tin Lành chiếm ưu thế hơn tại Ulster, ở thế đa số tại bốn hạt. Những người liên hiệp trở thành chiến sĩ nhằm phản đối "áp bức Ulster". Sau khi dự luật tự quản được nghị viện thông qua vào tháng 5 năm 1914, nhằm tránh khởi nghĩa tại Ulster, Thủ tướng Anh H. H. Asquith đưa ra một dự luật sửa đổi, theo đó tạm thời loại trừ Ulster khỏi hiệu lực của dự luật trong thời gian sáu năm.
Cách mạng và các bước đi đến độc lập
Việc thi hành đạo luật tự quản bị đình chỉ cho đến sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, làm dịu nguy cơ nội chiến tại Ireland. Với hy vọng đảm bảo thi hành đạo luật khi đại chiến kết thúc bằng cách Ireland tham gia chiến tranh, Redmond và Quân tình nguyện Ireland hỗ trợ Anh và các Đồng Minh. 175.000 người tham gia các trung đoàn Ireland.
Phần còn lại trong Quân tình nguyện Ireland phản đối bất kỳ hỗ trợ nào cho Anh, họ phát động khởi nghĩa vũ trang chống Anh cai trị vào dịp Phục sinh năm 1916, cùng với Quân đội Công dân Ireland. Khởi nghĩa bắt đầu vào ngày 24 tháng 4 năm 1916 với tuyên ngôn độc lập. Sau một tuần giao tranh ác liệt chủ yếu tại Dublin, các phiến quân sống sót buộc phải đầu hàng. Đa số bị cầm tù song có 15 tù nhân (gồm hầu hết thủ lĩnh) bị hành quyết vì tội phản quốc đối với Anh. Các sự kiện này cùng với khủng hoảng quân dịch năm 1918 gây tác động sâu sắc, làm thay đổi quan điểm công chúng tại Ireland.
Trong tháng 1 năm 1919, các thành viên Sinn Féin thắng đa số ghế sau tổng tuyển cử tháng 12 năm 1918 song từ chối nhậm chức tại Thứ dân viện. Thay vào đó, họ lập ra một nghị viện Ireland và đặt tên cho nó là Dáil Éireann. Dáil khóa I này vào tháng 1 năm 1919 ban hành tuyên ngôn độc lập và công bố Cộng hòa Ireland. Tuyên ngôn này chủ yếu là lặp lại tuyên ngôn năm 1916, có thêm điều khoản là Ireland không còn là bộ phận của Anh Quốc. Cộng hòa Ireland mới thành lập này chỉ được công nhận quốc tế từ nước Nga Xô viết. Nội các của Cộng hòa Ireland cử một phái đoàn đến Hội nghị hòa bình Paris năm 1919, song không được thừa nhận.
Sau chiến tranh độc lập và đình chiến vào tháng 7 năm 1921, các đại biểu của chính phủ Anh và đoàn đại biểu thương lượng Ireland dưới quyền lãnh đạo của Arthur Griffith, Robert Barton và Michael Collins, đàm phán Hiệp định Anh-Ireland tại Luân Đôn từ ngày 11 tháng 10 đến ngày 6 tháng 12 năm 1921. Dáil Éireann khóa II thông qua hiệp định với chênh lệch phiếu thấp. Theo hiệp định, vào ngày 6 tháng 12 năm 1922, toàn đảo Ireland trở thành một quốc gia tự trị mang tên Nhà nước Tự do Ireland (Saorstát Éireann). Chiểu theo Hiến pháp Nhà nước Tự do Ireland, Nghị viện Bắc Ireland lựa chọn rời Nhà nước Tự do Ireland một tháng sau đó và trở về Anh Quốc. Nhà nước Tự do Ireland theo chế độ quân chủ lập hiến, có cùng quân chủ với Anh Quốc và các quốc gia tự trị khác trong Thịnh vượng chung Anh. Quốc gia này có một toàn quyền đại diện cho quân chủ, một nghị viện có hai viện, một nội các mang tên "hội đồng hành pháp", và một thủ tướng gọi là "chủ tịch hội đồng hành pháp".
Nội chiến Ireland
Nội chiến Ireland là hậu quả từ việc thành lập Nhà nước Tự do Ireland. Lực lượng chống đối hiệp định do Éamon de Valera lãnh đạo phản đối việc chấp thuận hiệp định khiến bãi bỏ Cộng hòa Ireland năm 1919 mà họ từng tuyên thệ trung thành. Họ bác bỏ hầu hết việc quốc gia vẫn là bộ phận của Đế quốc Anh và các thành viên của nghị viện phải tuyên thệ điều mà họ cho là tuyên thệ trung thành với quốc vương của Anh. Lực lượng ủng hộ hiệp định do Michael Collins lãnh đạo, lập luận rằng hiệp định không phải là tự do cuối cùng, song là tự do để đạt được nó.
Vào lúc đầu chiến tranh, Quân đội Cộng hòa Ireland (IRA) tách thành hai phái đối lập: IRA ủng hộ hiệp định và IRA phản đối hiệp định. IRA ủng hộ hiệp định giải tán và tham gia Quân đội Quốc gia mới thành lập. Tuy nhiên, do phái IRA phản đối hiệp định thiếu cấu trúc chỉ huy hiệu quả và do lực lượng ủng hộ hiệp ước có chiến thuật phòng thủ trong suốt chiến tranh, Michael Collins và lực lượng của mình có thể gây dựng quân đội gồm hàng chục nghìn cựu chiến binh Thế chiến I, có năng lực áp đảo phái phản đối hiệp định. Anh Quốc cung cấp vũ khí cho phái ủng hộ hiệp định, và đe dọa đưa quân trở lại Nhà nước Tự do Ireland. Do lực lượng phản đối hiệp định thiếu sự ủng hộ quần chúng, và do chính phủ quyết tâm chiến thắng nên lực lượng này thất bại.
Hiến pháp 1937
Sau trưng cầu dân ý năm vào ngày 29 tháng 12 năm 1937, Hiến pháp Ireland có hiệu lực. Nó thay thế Hiến pháp Nhà nước Tự do Ireland và định quốc hiệu là Ireland, hay Éire trong tiếng Ireland. Điều 2 và 3 trong hiến pháp khẳng định yêu sách lãnh thổ danh nghĩa đối với toàn đảo, nhìn nhận việc phân chia Ireland theo Hiệp định Anh-Ireland năm 1922 là bất hợp pháp. Chính phủ Nhà nước Tự do Ireland cũng tiến hành các bước nhằm bãi bỏ chức vụ toàn quyền vài tháng trước khi hiến pháp mới có hiệu lực. Mặc dù hiến pháp thiết lập chức vụ tổng thống Ireland, song vấn đề Ireland là một quốc gia cộng hòa vẫn còn bỏ ngỏ. Các nhà ngoại giao được ủy nhiệm của quốc vương, song tổng thống thi hành các chức năng nội bộ với vị thế nguyên thủ quốc gia. Chẳng hạn, tổng thống phê chuần các luật mới theo quyền hạn của mình mà không phải chuyển đến Quốc vương George VI.
Ireland duy trì trung lập trong Chiến tranh thế giới thứ hai - là thành viên duy nhất trong Khối Thịnh vượng chung không tham chiến. Liên kết giữa Ireland và Thịnh vượng chung kết thúc khi thông qua Đạo luật Cộng hòa Ireland năm 1948, có hiệu lực từ ngày 18 tháng 4 năm 1949 và tuyên bố rằng nhà nước là một cộng hòa. Ireland không tái gia nhập Thịnh vượng chung khi tổ chức này sau đó cho phép các nước cộng hòa gia nhập.
Lịch sử gần đây
Ireland trở thành một thành viên của Liên Hợp Quốc vào tháng 12 năm 1955, sau khi từng bị từ chối do có lập trường trung lập và không hỗ trợ Đồng Minh trong Thế chiến II. Vào thời điểm đó, gia nhập Liên Hợp Quốc liên quan đến cam kết sử dụng vũ lực để ngăn cản xâm lược của một quốc gia chống lại quốc gia khác nếu Liên Hợp Quốc cho là cần thiết.
Người Ireland gia tăng quan tâm đến quyền thành viên của Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EEC) trong thập niên 1950, và cân chắc cũng làm thành viên của Khu vực Mậu dịch tự do châu Âu. Do Anh Quốc dự định là thành viên của EEC, Ireland nộp đơn làm thành viên vào tháng 7 năm 1961 do có liên kết kinh tế lớn với Anh Quốc. Tuy nhiên, các thành viên sáng lập của EEC vẫn hoài nghi về năng lực kinh tế, tính trung tập, và chính sách bảo hộ ít hấp dẫn của Ireland. Nhiều nhà kinh tế học và chính trị gia Ireland nhận thấy cần cải cách chính sách kinh tế. Triển vọng làm thành viên EEC trở nên không chắc chắn vào năm 1963 khi Tổng thống Pháp Charles de Gaulle phát biểu rằng Pháp phản đối Anh gia nhập, đồng nghĩa ngừng đàm phán với mọi ứng cử viên khác. Tuy nhiên, đến năm 1969 người kế nhiệm ông ta là Georges Pompidou không phản đối tư cách thành viên cho Anh và Ireland. Các cuộc đàm phán bắt đầu và Ireland cuối cùng gia nhập EEC vào năm 1973.
Khủng hoảng kinh tế vào cuối thập niên 1970 bắt nguồn từ ngân sách chính phủ của đảng Fianna Fáil, bãi bỏ thuế xe, vay mượn quá mức, và bất ổn kinh tế toàn cầu như khủng hoảng dầu mỏ năm 1979. Có các thay đổi đáng kể về chính sách kể từ năm 1989, với cải cách kinh tế, giảm thuế, cải cách phúc lợi, gia tăng cạnh tranh, và cấm chỉ vay mượn để cung cấp cho chi tiêu hiện tại. Chính sách này bắt đầu vào năm 1989–1992 dưới quyền chính phủ Fianna Fáil/Dân chủ Tiến bộ, và tiếp tục dưới thời chính phủ Fianna Fáil/Công đảng và Fine Gael/Công đảng/Dân chủ cánh Tả. Ireland trở thành một trong các nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất thế giới vào cuối thập niên 1990 và kéo dài cho đến khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2008, giai đoạn này được gọi là Con hổ Celtic. Và kể từ năm 2014, Ireland lại đạt được tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ.
Trong vấn đề Bắc Ireland, hai chính phủ Anh và Ireland bắt đầu tìm kiếm một giải pháp hòa bình đối với xung đột bạo lực. Một dàn xếp hòa bình cho Bắc Ireland mang tên Hiệp định Thứ sáu Tốt lành được phê chuẩn vào năm 1998 trong các cuộc trưng cầu dân ý trên hai phần của đảo. Theo dàn xếp này, yêu sách lãnh thổ đối với Bắc Ireland trong Hiến pháp Ireland bị loại bỏ.
Địa lý
Cộng hòa Ireland có diện tích , chiếm khoảng 5/6 diện tích đảo Ireland (), phần còn lại của đảo là Bắc Ireland. Phía bắc và phía tây của đảo Ireland là Đại Tây Dương, phía đông bắc là eo biển Bắc. Về phía đông, biển Ireland liên kết với Đại Tây Dương qua eo biển St George và biển Celtic về phía tây nam.
Cảnh quan phía tây chủ yếu gồm các vách đá, đồi núi gồ ghề. Vùng đất thấp trung tâm được bao phủ bằng các lớp trầm tích băng hà gồm sét và cát, và còn có các khu vực đầm lầy rộng cùng một số hồ. Đỉnh cao nhất là Carrauntoohil (), nằm trên dãy Macgillycuddy's Reeks thuộc miền tây nam. Sông Shannon bắt nguồn từ vùng đất thấp trung tâm và là sông dài nhất tại Ireland với . Bờ biển phía tây gồ ghề hơn so với phía đông, và có nhiều đảo, bán đảo, mũi đất và vịnh.
Trước khi những người định cư đầu tiên đến đảo vào khoảng 9.000 năm trước, đất đai trên đảo phần lớn có rừng bao phủ với các loại cây như sồi, tần bì, đu, phỉ, thủy tùng. Nguyên nhân chính khiến rừng bị mất đi trong các thế kỷ tiếp theo được cho là do đầm lầy phát triển và phát quang đất rừng quy mô lớn để thuận tiện cho nông nghiệp. Hiện nay, khoảng 12% diện tích Ireland có rừng bao phủ, đa số đáng kể gồm các đồn điền chủ yếu trồng tùng bách phi bản địa nhằm mục đích thương mại. Điều kiện đất lý tưởng, lượng mưa lớn và khí hậu ôn hòa khiến Ireland có tốc độ phát triển rừng cao nhất tại châu Âu. Các hàng rào bằng cây là nơi thay thế quan trọng cho môi trường sống đất rừng, cung cấp nơi ẩn náu cho các loài thực vật hoang dã bản địa và nhiều loài côn trùng, chim và thú.
Đất nông nghiệp chiếm khoảng 64% tổng diện tích đất. Điều này dẫn đến hạn chế về đất để bảo tồn môi trường sống tự nhiên, đặc biệt là cho các loài thú hoang cỡ lớn có nhu cầu lãnh thổ rộng. Lịch sử sản xuất nông nghiệp lâu dài đi cùng với phương thức nông nghiệp hiện đại, như sử dụng thuốc trừ sâu và phân bón, tạo áp lực lên đa dạng sinh học.
Đại Tây Dương và ảnh hưởng ấm từ Hải lưu Gulf Stream tác động đến mô hình khí hậu tại Ireland. Nhiệt độ khác biệt theo vùng, các vùng miền trung và miền đông có xu hướng cực đoan hơn. Tuy nhiên, do có khí hậu đại dương ôn hòa, nhiệt độ hiếm khi thấp dưới vào mùa đông và cao hơn vào mùa hè. Nhiệt độ cao kỷ lục tại Ireland là vào năm 1887 tại Lâu đài Kilkenny thuộc Kilkenny, trong khi nhiệt độ thấp kỷ lục là tại Lâu đài Markree thuộc Sligo. Mưa phổ biến hơn vào mùa đông và ít xuất hiện hơn vào các tháng đầu mùa hè. Khu vực tây nam có mưa nhiều nhất do ảnh hưởng từ gió tây nam, trong khi Dublin có ít mưa nhất. Thời gian nắng nhiều nhất là tại miền đông nam của Ireland. Cực bắc và tây của đảo Ireland là hai trong số các khu vực nhiều gió nhất tại châu Âu, có tiềm năng lớn về năng lượng gió.
Ireland thường có từ 1.100 đến 1.600 giờ nắng mỗi năm, hầu hết các khu vực có trung bình 3,25 đến 3,75 giờ nắng mỗi ngày. Các tháng nhiều nắng nhất là tháng 5 và tháng 6, có trung bình từ 5 đến 6,5 giờ nắng mỗi ngày tại hầu khắp đất nước. Cực đông nam là nơi có nhiều nắng nhất, trung bình có trên 7 giờ nắng mỗi ngày vào đầu mùa hè. Tháng 12 là tháng âm u nhất, có số giờ nắng trung bình dao động từ khoảng 1 giờ ở phía bắc đến gần hai giờ ở cực đông nam. Mùa hè nóng nhất trong 100 năm từ 1881 đến 1980 là năm 1887; 1980 là năm âm u nhất.
Chính trị
Ireland là một nước cộng hòa lập hiến, có hệ thống chính phủ nghị viện. là quốc hội lưỡng viện, bao gồm tổng thống và hai viện: (thượng viện) và (hạ viện). Áras an Uachtaráin là dinh thự chính thức của tổng thống Ireland, còn nơi họp của Oireachtas là Tòa nhà Leinster tại Dublin.
Tổng thống có vai trò là nguyên thủ quốc gia, được bầu ra với nhiệm kỳ bảy năm và có thể tái cử một lần. Tổng thống chủ yếu là nhân vật mang tính tượng trưng, song được giao cho một số quyền lực hiến pháp nhất định theo khuyến nghị của Hội đồng Nhà nước. Chức vụ này có quyền quyết định tuyệt đối trên một số lĩnh vực, như trình một dự luật lên Tòa án Tối cao để phân xử về tính hợp hiến. Michael D. Higgins trở thành tổng thống thứ chín của Ireland vào ngày 11 tháng 11 năm 2011.
(thủ tướng) có vai trò là người đứng đầu chính phủ, do tổng thống bổ nhiệm theo đề cử của hạ viện. Hầu hết là thủ lĩnh của chính đảng giành nhiều ghế nhất trong tổng tuyển cử. Việc các liên minh thành lập chính phủ đã trở thành điều thông thường, do không có chính phủ một đảng nào kể từ năm 1989.
gồm có 60 thành viên, 11 người trong đó do chỉ định, sáu người do hai đại học bầu ra, và 43 người do các đại biểu cộng đồng bầu ra dựa theo cơ sở nghề nghiệp. có 158 thành viên () được bầu ra để đại diện cho các khu vực bầu cử nhiều đại biểu theo hệ thống đại diện tỷ lệ và phương thức lá phiếu khả nhượng đơn.
Chính phủ bị hạn chế trong 15 thành viên theo quy định trong hiến pháp. Trong đó, không có hơn hai thành viên được chọn từ , và , (phó thủ tướng) và bộ trưởng tài chính cần phải là thành viên của . Dáil phải bị giải thể trong vòng 5 năm kể từ phiên họp đầu tiên sau cuộc bầu cử trước đó, và tổng tuyển cử các thành viên của Dáil cần phải được tiến hành không chậm hơn 30 ngày sau khi giải thể. Theo Hiến pháp Ireland, các cuộc bầu cử nghị viện cần phải tổ chức ít nhất bảy năm một lần, song các luật có thể áp đặt hạn chế thấp hơn.
Ireland là một quốc gia thành viên Liên minh châu Âu từ năm 1973, song lựa chọn duy trì bên ngoài khu vực Schengen. Công dân Anh Quốc có thể tự do nhập cảnh Cộng hòa Ireland mà không cần hộ chiếu do hai bên có biên giới mở. Tuy nhiên, có một số yêu cầu nhận dạng tại sân bay và hải cảng.
Chính quyền địa phương
Đạo luật Chính quyền địa phương 1898 là văn kiện hình thành hệ thống chính quyền địa phương hiện nay, trong khi Tu chính án 23 Hiến pháp vào năm 1999 công nhận hiến pháp đối với đạo luật. 26 hạt truyền thống của Ireland không phải luôn cùng ranh giới với các đơn vị hành chính song về tổng thể chúng được cư dân Ireland sử dụng để làm khung tham chiếu địa lý. Đạo luật Cải cách chính quyền địa phương năm 2014 tạo ra một hệ thống 31 chính quyền địa phương, gồm 26 hội đồng hạt, hai hội đồng thành phố-hạt, ba hội đồng thành phố.
Chính quyền địa phương chịu trách nhiệm về các vấn đề như quy hoạch, đường cấp địa phương, vệ sinh và thư viện. Các khu vực bầu cử Dáil tuân theo ranh giới hạt nhiều nhất có thể. Các hạt có dân số lớn có nhiều khu vực bầu cử, song thường không vượt qua ranh giới hạt. Các hạt được nhóm lại thánh tám khu vực, mỗi khu vực có một cơ quan gồm thành viên được ủy nhiệm từ các hội đồng hạt và thành phố trong khu vực. Các khu vực không có bất kỳ vai trò hành pháp trực tiếp nào, song chúng phục vụ mục đích kế hoạch, hợp tác và thống kê.
Pháp luật
Ireland có hệ thống pháp luật thông luật, có một hiến pháp thành văn quy định chế độ dân chủ nghị viện. Hệ thống tòa án gồm có tòa án tối cao, tòa án phúc thẩm, tòa án cấp cao, tòa án lưu động và tòa án khu vực, toàn bộ đều áp dụng pháp luật Ireland. Các vụ án nghiêm trọng theo thường lệ cần phải được tổ chức trước một bồi thẩm đoàn. Tòa án cấp cao và tòa án tối cao có thẩm quyền quyết định tính phù hợp của pháp luật và các hoạt động của các thể chế nhà nước khác so với hiến pháp và pháp luật. Ngoại trừ các trường hợp đặc biệt, các phiên tòa phải công khai. Tòa án Hình sự Tư pháp là tòa nhà chính của các phiên tòa hình sự.
Garda Síochána na hÉireann (Những người bảo vệ hòa bình của Ireland), thường gọi là Gardaí, là lực lượng cảnh sát dân sự của Cộng hòa Ireland. Lực lượng này chịu trách nhiệm về toàn bộ các khía cạnh kiểm soát dân sự, cả về lãnh thổ và hạ tầng. Hầu hết các thành viên mặc đồng phục thường không mang vũ khí, việc khống chế tiêu chuẩn theo truyền thống được tiến hành chỉ với dùi cui và bình xịt hơi cay.
Quân cảnh là một quân đoàn của Lục quân Ireland, chịu trách nhiệm cung cấp nhân viên phục vụ cưỡng chế và cung cấp hiện diện quân cảnh cho các lực lượng khi diễn tập và triển khai. Trong thời chiến, các nhiệm vụ bổ sung bao gồm kiểm soát giao thông để cho đội ngũ quân sự di chuyển nhanh chóng đến khu vực làm nhiệm vụ. Các vai trò thời chiến khác bao gồm kiểm soát tù binh chiến tranh và nạn dân.
Pháp luật công dân của Ireland liên quan đến "đảo Ireland", bao gồm đảo và các vùng biển, do đó mở rộng phạm vi đến Bắc Ireland. Vì thế, bất kỳ ai sinh tại Bắc Ireland và đáp ứng các điều kiện để trở thành công dân Ireland, như có một cha/mẹ là công dân Ireland hoặc Anh hoặc một cha/mẹ được phép cư trú tại Bắc Ireland hoặc Cộng hòa Ireland, có thể thực hiện quyền có quốc tịch Ireland, như có hộ chiếu Ireland.
Quan hệ đối ngoại
Quan hệ đối ngoại chịu tác động lớn từ tư cách thành viên của Ireland trong Liên minh châu Âu, song các quan hệ song phương với Anh Quốc và Hoa Kỳ cũng quan trọng. Ireland hướng tới độc lập trong chính sách đối ngoại, do đó quốc gia này không phải là thành viên của NATO và có chính sách trung lập quân sự kéo dài. Chính sách này giúp Lực lượng vũ trang Ireland thành công trong các đóng góp về gìn giữ hòa bình trong khuôn khổ Liên Hợp Quốc từ năm 1960, như trong Xung đột Congo, tại Síp, Liban và Bosnia và Herzegovina.
Mặc dù trung lập trong Chiến tranh thế giới thứ hai, song Ireland có hơn 50.000 người tham chiến khi họ đăng lính trong quân đội của Anh. Trong Chiến tranh Lạnh, chính sách quân sự của Ireland tuy bề ngoài là cân bằng song thiên về NATO. Trong Khủng hoảng tên lửa Cuba, Thủ tướng Seán Lemass cho phép khám xét máy bay Cuba và Tiệp Khắc bay qua Shannon và truyền thông tin cho CIA. Hạ tầng hàng không của Ireland được Quân đội Mỹ sử dụng để chuyển quân nhân tham gia xâm chiếm Iraq năm 2003, thông qua sân bay Shannon. Trước đó, sân bay này được sử dụng cho cuộc xâm chiếm Afghanistan năm 2001, cũng như Chiến tranh vùng Vịnh.
Từ năm 1999, Ireland là một thành viên trong chương trình Quan hệ đối tác vì Hòa bình của NATO và Hội đồng Quan hệ đối tác châu Âu-Đại Tây Dương của NATO, có mục tiêu tạo sự tin tưởng giữa NATO và các quốc gia khác tại châu Âu và Liên Xô cũ.
Quân sự
Quân đội Ireland gồm có lục quân, hải quân, không quân và lực lượng dự bị; với quy mô nhỏ song được trang bị tốt với gần 10.000 quân nhân chuyên nghiệp và trên 2.000 quân dự bị. Ireland là một quốc gia trung lập, và có quy tắc "ba nấc khóa" trong việc binh sĩ Ireland tham gia tại các vùng xung đột, đó là cần được Liên Hợp Quốc, hạ viện và chính phủ phê chuẩn. Triển khai thường nhật của lực lượng vũ trang bao gồm hỗ trợ quyền lực dân sự, bảo vệ và tuần tra lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế của Ireland, và các sứ mệnh của Liên Hợp Quốc, Liên minh châu Âu, và Đối tác vì Hòa bình. Đến năm 1996, có hơn 40.000 nhân viên Ireland từng phục vụ trong các sứ mệnh duy trì hòa bình quốc tế của Liên Hợp Quốc. Tổng thống là tư lệnh tối cao trên danh nghĩa của các lực lượng vũ trang, song trên thực tế họ theo lệnh Chính phủ thông qua Bộ Quốc phòng.
Kinh tế
Phát triển
Kinh tế Ireland chuyển đổi kể từ thập niên 1980, từ một nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp trở thành một nền kinh tế trí thức hiện đại tập trung vào các ngành công nghiệp công nghệ cao và dịch vụ. Ireland sử dụng tiền euro vào năm 2002 cùng nhiều quốc gia khác là thành viên Liên minh châu Âu. Quốc gia này dựa nhiều vào đầu tư trực tiếp nước ngoài và thu hút một số tập đoàn đa quốc gia do có lực lượng lao động được giáo dục cao và có mức thuế doanh nghiệp thấp. Các công ty như Intel đầu tư tại Ireland vào cuối thập niên 1980, theo sau là Microsoft và Google. Ireland được xếp hạng 8 trong số các nền kinh tế tự do nhất thế giới theo Chỉ số tự do kinh tế (2016). Xét theo GDP bình quân, Ireland là một trong các quốc gia thịnh vượng nhất của OECD và EU. Tuy nhiên, Ireland xếp hạng dưới trung bình OECD về GNP bình quân. GDP lớn hơn đáng kể so với GNP vì có nhiều công ty đa quốc gia đặt trụ sở tại Ireland.
Từ đầu thập niên 1990, Cộng hòa Ireland trải qua tăng trưởng kinh tế chưa từng thấy do gia tăng mạnh mẽ trong tiêu dùng, xây dựng và đầu tư, được gọi là giai đoạn Con hổ Celtic. Nhịp độ tăng trưởng chậm lại vào năm 2007 và dẫn đến nổ tung bong bóng bất động sản quy mô lớn vốn đã phát triển trong nhiều năm. Sụt giảm đột ngột giá bất động sản phơi bày tập trung quá độ của nền kinh tế vào xây dựng và góp phần dẫn đến khủng hoảng ngân hàng Ireland. Ireland chính thức bước vào suy thoái trong năm 2008. GNP suy giảm đến 11,3% chỉ trong năm 2009, mức giảm GNP lớn nhất hàng năm kể từ 1950.
Ireland chính thức thoát khỏi suy thoái vào năm 2010 nhờ tăng trưởng mạnh mẽ trong xuất khẩu. Tuy nhiên, do gia tăng đáng kể chi phí vay nợ công vì chính phủ đảm bảo nợ ngân hàng tư nhân, chính phủ Ireland chấp thuận một chương trình trợ giúp 85 tỷ euro từ EU, IMF và các khoản vay song phương từ Anh, Thụy Điển và Đan Mạch. Sau ba năm suy thoái, kinh tế tăng trưởng 0,7% trong năm 2011 và 0,9% trong năm 2012. Tỷ lệ thất nghiệp đạt 14,7% vào năm 2012, bao gồm 18,5% trong các tân di dân. Đến tháng 3 năm 2016, tỷ lệ thất nghiệp được ghi nhận là 8,6%, giảm từ mức kỷ lục là 15,1% trong tháng 2 năm 2012. Di cư ròng từ Ireland từ năm 2008 đến năm 2013 là 120.100 người, tức khoảng 2,6% tổng dân số theo điều tra năm 2011. Một phần ba số người xuất cư trong độ tuổi 15-24. Năm 2013, Ireland được Forbes mệnh danh là "quốc gia tốt nhất để kinh doanh". Ireland ra khỏi chương trình cứu trợ tài chính của EU-IMF vào ngày 15 tháng 12 năm 2013.
Mậu dịch
Mặc dù các công ty đa quốc gia chi phối lĩnh vực xuất khẩu của Ireland, song xuất khẩu từ các nguồn khác cũng đóng góp đáng kể vào thu nhập quốc dân. Hoạt động của các công ty đa quốc gia đặt tại Ireland khiến nước này nằm vào hàng đứng đầu về xuất khẩu dược phẩm, thiết bị y tế và hàng hóa cùng dịch vụ liên quan đến phần mềm. Xuất khẩu của Ireland cũng có đóng góp từ các công ty quốc nội lớn (như Ryanair, Kerry Group và Smurfit Kappa Group) và xuất khẩu tài nguyên khoáng sản: Ireland là nước sản xuất kẽm cô lớn thứ bảy, và đứng thứ 12 về chì cô. Ireland cũng có trữ lượng đáng kể về thạch cao, đá vôi, và trên mức độ thấp hơn là đồng, bạc, vàng, barit và dolomit.
Các mặt hàng xuất khẩu khác bao gồm nông sản và nhôm. Các mặt hàng nhập khẩu lớn của Ireland gồm thiết bị xử lý dữ liệu, hóa chất, dầu hỏa và sản phẩm dầu hỏa, hàng dệt và quần áo. Dịch vụ tài chính của các công ty đa quốc gia đặt tại Trung tâm Dịch vụ Tài chính Ireland cũng đóng góp cho xuất khẩu của Ireland. Khác biệt giữa xuất khẩu (€89,4 tỷ) và nhập khẩu (€45,5 tỷ) tạo ra thặng dư mậu dịch €43,9 tỷ trong năm 2010, mức thặng dư mậu dịch cao nhất so với GDP trong các thành viên EU.
EU là đối tác mậu dịch lớn nhất của Ireland, chiếm 57,9% xuất khẩu và 60,7% nhập khẩu. Anh Quốc là đối tác mậu dịch quan trọng nhất trong EU, chiếm 15,4% xuất khẩu và 32,1% nhập khẩu. Bên ngoài EU, Hoa Kỳ chiếm 23,2% xuất khẩu và 14,1% nhập khẩu vào năm 2010.
Năng lượng
ESB, Ervia và Airtricity là ba nhà cung cấp điện và khí đốt chính tại Ireland. Ireland có 19,82 triệu m³ trữ lượng khí đốt được chứng minh. khai thác khí đốt tự nhiên trước đây diễn ra tại Kinsale Head đến khi mỏ cạn kiệt. Mỏ khí đốt Corrib đi vào hoạt động năm 2013/14. Năm 2012, mỏ Barryroe được xác nhận có trữ lượng 1,6 tỷ thùng khí, với từ 160 đến 600 triệu thùng có thể khai thác. Mỏ có thể cung cấp cho toàn bộ nhu cầu năng lượng của Ireland trong đến 13 năm khi nó được phát triển vào năm 2015/16. Diễn ra các nỗ lực đáng kể nhằm tăng cường sử dụng các dạng năng lượng tái tạo và bền vững tại Ireland, đặc biệt là năng lượng gió, với các trang trại gió 3.000 MW, một số trong đó có mục đích để xuất khẩu. SEAI ước tính rằng 6,5% nhu cầu năng lượng năm 2011 của Ireland được lấy từ các nguồn tái tạo. SEAI cũng báo cáo về gia tăng tính hiệu quả năng lượng tại Ireland khi giảm được 28% khí thải carbon của mỗi hộ gia đình trong giai đoạn 2005-2013.
Giao thông
Ba cảng hàng không chính của Cộng hòa Ireland là Dublin, Shannon và Cork. Đường bay giữa Luân Đôn và Dublin là đường bay quốc tế nhộn nhịp thứ nhì tại châu Âu, với 3,6 triệu lượt người qua lại vào năm 2013 song giảm so với 4,4 triệu lượt người vào năm 2003. Aer Lingus là hãng hàng không quốc gia của Ireland, song Ryanair là hãng hàng không lớn nhất nước. Ryanair là hàng hàng không giá rẻ lớn nhất châu Âu, và lớn thứ hai về lượng hành khách, và lớn nhất thế giới về số lượng hành khách quốc tế (2007).
Dịch vụ đường sắt do Iarnród Éireann cung cấp, hãng này vận hành toàn bộ các tuyến đường sắt liên thành thị, đô thị và chở hàng trong nước. Dublin là trung tâm của mạng lưới với hai ga lớn là Heuston và Connolly, liên kết tới các thành thị trong nước. Dịch vụ Enterprise liên kết Dublin với Belfast và do hãng này và Đường sắt Bắc Ireland cùng điều hành. Mạng lưới đường sắt chính của toàn đảo Ireland hoạt động trên khổ 1,6 mét, đây là một điểm độc đáo tại châu Âu. Dublin đang dần cải thiện mạng lưới vận chuyển công cộng, bao gồm DART, Luas, Dublin Bus và dublinbikes.
Xa lộ, các quốc lộ chính và quốc lộ phụ nằm dưới quyền quản lý của Cơ quan Đường bộ Quốc gia, còn các đường khu vực và địa phương do nhà đương cục địa phương quản lý. Mạng lưới đường bộ chủ yếu tập trung tại thủ đô, song các xa lộ được kéo dài đến các thành phố khác theo chương trình đầu tư Transport 21, nhờ đó các xa lộ được hoàn thiện liên kết Dublin và một số thành phố lớn khác của Ireland như Cork, Limerick, Waterford và Galway.
Nhân khẩu
Nghiên cứu di truyền học cho thấy những người định cư ban đầu tại Ireland đã di cư từ bán đảo Iberia sau kỷ băng hà gần đây nhất. Sau thời kỳ đồ đá giữa, đồ đá mới, và đồ đồng, các di dân đưa ngôn ngữ và văn hóa Celt đến đảo. Các di dân trong hai thời kỳ sau vẫn được đại diện trong di sản di truyền học của hầu hết người Ireland. Người Ireland được kết hợp từ các nguồn gốc Gael, Norse, Anh-Norman, Pháp và Anh Quốc.
Dân số Ireland đạt 4.588.252 vào năm 2011, tăng trưởng 8,2% so với năm 2006. , Ireland có mức sinh cao nhất trong Liên minh châu Âu (16 ca sinh/1.000 người). Năm 2014, 36,3% số ca sinh là của các bà mẹ chưa kết hôn. Mức tăng dân số hàng năm vượt quá 2% trong giai đoạn 2002-2006, do có tỷ lệ cao trong gia tăng tự nhiên và nhập cư. Mức này giảm sút phần nào trong giai đoạn 2006-2011, với mức tăng trung bình hàng năm là 1,6%.
Vào thời điểm điều tra nhân khẩu năm 2011, số lượng ngoại kiều được ghi nhận là 544.357, chiếm 12% tổng dân số. Con số này gấp gần 2,5 lần so với số ngoại kiều ghi nhận trong điều tra nhân khẩu năm 2002 (224.261), khi lần đầu có câu hỏi về quốc tịch. Năm nhóm ngoại kiều đông đảo nhất lần lượt là người Ba Lan (122.585), Anh Quốc (112.259), Litva (36.683), Latvia (20.593) và Nigeria (17.642).
Ngôn ngữ
Hiến pháp mô tả tiếng Ireland là "ngôn ngữ quốc gia", song tiếng Anh là ngôn ngữ chiếm ưu thế. Trong điều tra nhân khẩu năm 2006, có 39% cư dân tự nhận có đủ trình độ tiếng Ireland. Tiếng Ireland chỉ giữ vai trò là ngôn ngữ cộng đồng tại một lượng nhỏ các khu vực nông thôn và hầu hết là tại miền tây và miền nam đất nước, gọi chung là Gaeltacht. Ngoại trừ các khu vực Gaeltacht, các biển hiệu giao thông thường ghi song ngữ. Hầu hết thông cáo công cộng và truyền thông in ấn chỉ viết bằng tiếng Anh. Dù nhà nước Ireland về chính thức là song ngữ, song các công dân có thể thường gặp phải khó khăn trong việc tiếp cận dịch vụ công bằng tiếng Ireland và hầu hết xuất bản phẩm của chính phủ không hiện hữu trong cả hai ngôn ngữ. Truyền thông tiếng Ireland bao gồm kênh truyền hình TG4, đài phát thanh RTÉ Raidió na Gaeltachta và báo điện tử Tuairisc.ie. Trong Các lực lượng vũ trang Ireland, toàn bộ các lệnh luyện tập bộ binh và vũ khí đều bằng tiếng Ireland.
Do nhập cư nên tiếng Ba Lan trở thành ngôn ngữ được nói phổ biến thứ nhì tại Cộng hòa Ireland sau tiếng Anh, trong khi tiếng Ireland xếp thứ ba. Một vài ngôn ngữ Trung Âu khác (Séc, Hungary và Slovak), và các ngôn ngữ Balt (Litva và Latvia) cũng được nói thường ngày. Các ngôn ngữ khác được nói tại Ireland gồm có tiếng Shelta của người Ireland du cư, và một phương ngữ tiếng Scot được nói bởi một số người Scot Ulster tại Donegal. Hầu hết học sinh trung học lựa chọn học một hoặc hai ngoại ngữ, ngôn ngữ dành cho bằng sơ cấp (Junior Certificate) và bằng tốt nghiệp (Leaving Certificate) gồm có tiếng Pháp, Đức, Ý và Tây Ban Nha; học sinh muốn lấy bằng tốt nghiệp trung học cũng có thể học tiếng Ả Rập, Nhật và Nga. Một số trường trung học có dạy tiếng Hy Lạp cổ đại, Hebrew và Latinh. Học tập tiếng Ireland là điều bắt buộc đối với các học sinh muốn đạt bằng tốt nghiệp, song một số người có thể đủ điều kiện được miễn trong một số hoàn cảnh, như trở ngại học tập hoặc nhập cảnh sau tuổi 11.
Y tế
Ireland sở hữu một trong các hệ thống y tế phát triển nhất thế giới và các chuyên gia y tế được đào tạo với trình độ cao. Y tế tại Ireland được cung cấp từ cả khu vực công và tư. Bộ Y tế chịu trách nhiệm cho việc lập chính sách dịch vụ y tế tổng thể. Mỗi cư dân Ireland có quyền nhận được chăm sóc y tế thông qua hệ thống chăm sóc y tế công cộng, được cấp kinh phí từ tiền thuế. Mỗi cá nhân có thể phải trả một khoản phụ phí cho các chăm sóc y tế nhất định; nó tùy thuộc vào thu nhập, độ tuổi, bệnh tật hoặc tàn tật. Toàn bộ dịch vụ thai sản được cung cấp miễn phí, và cũng áp dụng miễn phí cho trẻ từ 6 tháng tuổi trở xuống. Chăm sóc cấp cứu phục vụ cho bệnh nhân hiện diện tại bệnh viện thuộc Cơ quan Cấp cứu, tuy nhiên, khách đến trong tình trạng không khẩn cấp và không được bác sĩ giới thiệu có thể phải trả phí.
Bất kỳ ai sở hữu thẻ bảo hiểm y tế châu Âu đều có quyền điều dưỡng và trị bệnh miễn phí trong các giường bệnh công thuộc Cơ quan Dịch vụ Y tế và các bệnh viện tình nguyện. Dịch vụ bệnh nhân ngoại trú cũng được cung cấp miễn phí. Tuy nhiên, đa số bệnh nhân có thu nhập từ trung bình trở lên được yêu cầu trả phí trợ cấp bệnh viện. Bảo hiểm y tế tư nhân hiện hữu đối với người muốn tận dụng nó.
Tuổi thọ dự tính trung bình tại Ireland vào năm 2012 là 81 năm (trung bình của OECD vào năm 2012 là 80 năm), với 78,2 năm đối với nam giới và 83,6 năm đối với nữ giới. Ireland có tỷ suất sinh cao nhất EU (16,8 ca sinh trên 1.000 cư dân, so với 10,7 của EU) và có tỷ suất tử vong trẻ sơ sinh rất thấp (3,5 trên 1.000 trẻ). Hệ thống y tế Ireland xếp hạng 13 trong số 34 quốc gia châu Âu vào năm 2012 theo Health Consumer Powerhouse.
Giáo dục
Ireland có ba cấp giáo dục: tiểu học, trung học và đại học. Hệ thống giáo dục phần lớn nằm dưới chỉ đạo của Chính phủ thông qua Bộ Giáo dục và Kỹ năng. Các trường tiểu học và trung học được công nhận cần phải tuân theo chương trình giảng dạy do các cơ quan hữu quan lập ra. Giáo dục là điều bắt buộc đối với trẻ từ 6 đến 15 tuổi, và toàn bộ trẻ đến tuổi 18 cần phải hoàn thành ba năm đầu trung học, bao gồm một lần kiểm tra chứng chỉ sơ cấp (Junior Certificate).
Ireland có khoảng 3.300 trường tiểu học. Đại đa số (92%) nằm dưới sự bảo trợ của Giáo hội Công giáo. Trường học do các tổ chức tôn giáo điều hành, song nhận được kinh phí và được công nhận, và không thể kỳ thị học sinh dựa trên tôn giáo. Tồn tại một hệ thống ưu đãi được phê chuẩn, tại đó học sinh của một tôn giáo cụ thể có thể được ưu tiên tiếp nhận so với học sinh không chia sẻ đặc điểm chung của trường, trong trường hợp chỉ tiêu của trường đã đủ.
Bằng tốt nghiệp đạt được sau hai năm học, vào kỳ khảo thí cuối cùng trong hệ thống trung học. Những người có mục đích học tập bậc đại học thường tham gia kỳ thi này, theo đó việc tuyển sinh bậc đại học thường dựa vào kết quả đạt được từ sáu môn có kết quả tốt nhất, dựa trên cơ sở cạnh tranh.
Chương trình đánh giá học sinh quốc tế (PISA) hợp tác với OECD xếp học sinh Ireland là có điểm đọc hiểu cao thứ tư, điểm khoa học cao thứ chín và điểm toán học cao thứ 13 trong số các quốc gia OECD, theo đánh giá năm 2012 của họ Năm 2012, học sinh Ireland 15 tuổi xếp thứ hai về đọc hiểu trong EU. Giáo dục bậc tiểu học, trung học và đại học tại Ireland miễn phí đối với mọi công dân EU. Tổng cộng, 37% dân số Ireland có bằng đại học hoặc cao đẳng, nằm vào hàng cao nhất trên thế giới (năm 2012).
Tôn giáo
Tự do tôn giáo được quy định trong hiến pháp tại Ireland. Cơ Đốc giáo là tôn giáo chiếm ưu thế, và mặc dù Ireland vẫn là một quốc gia do Công giáo La Mã chi phối, song tỷ lệ người tự nhận là tín đồ giáo phái này giảm nhiều từ mức 84,2% theo điều tra vào năm 2011 xuống còn 78,3% theo điều tra vào năm 2016. Các kết quả khác trong điều tra năm 2016 là: 4,2% là tín đồ Tin Lành, 1,3% là tín đồ Hồi giáo, và 9,8% không theo tôn giáo. Theo một nghiên cứu của Đại học Georgetown, trước năm 2000 Ireland nằm vào hàng quốc gia có tỷ lệ tham dự Thánh lễ thường lệ cao nhất trong thế giới phương Tây. Tỷ lệ tham dự hàng ngày là 13% vào năm 2006, còn tỷ lệ tham gia hàng tuần giảm từ 81% vào năm 1990 xuống 48% vào năm 2006, song sự suy giảm được tường thuật là ổn định. Năm 2011, theo tường thuật tỷ lệ tham dự Thánh lễ hàng tuần tại Dublin là dưới 18%, và còn thấp hơn nữa trong thế hệ trẻ.
Giáo hội Ireland thuộc Anh giáo là giáo phái Cơ Đốc lớn thứ nhì, thành viên của giáo phái này suy giảm trong suốt thế kỷ XX, song lại tăng lên vào đầu thế kỷ XXI. Các giáo phái Tin Lành đáng kể khác là Giáo hội Trưởng Lão và Giáo hội Giám Lý. Các di dân góp phần vào tăng trưởng tín đồ Ấn Độ giáo và Hồi giáo. Xét theo tỷ lệ, Chính Thống giáo và Hồi giáo là các tôn giáo phát triển nhanh nhất.
Các thánh bảo trợ của Ireland là Thánh Patrick, Thánh Bridget và Thánh Columba, trong đó chỉ có Thánh Patrick được công nhận phổ biến. Ngày Thánh Patrick được tổ chức vào 17 tháng 3 tại Ireland và hải ngoại với tư cách ngày quốc khánh Ireland, có các cuộc diễu hành và kỷ niệm khác.
Văn hóa
Văn hóa Ireland trong nhiều thế kỷ chủ yếu là văn hóa Gael, và duy trì là một trong sáu quốc gia Celt chính. Sau khi người Anh-Norman xâm chiếm vào thế kỷ XII, tiếp đến là công cuộc chinh phục và thuộc địa hóa của người Anh, Ireland chịu ảnh hưởng từ văn hóa Anh và Scotland. sau đó văn hóa Ireland dù có khác biệt về nhiều mặt song chia sẻ các đặc điểm với khối Anh ngữ, châu Âu Công giáo, và các khu vực Celt khác. Cộng đồng người Ireland hải ngoại là một trong các cộng đồng tha hương lớn nhất và phân tán nhất thế giới, họ có đóng góp trong việc toàn cầu hóa văn hóa Ireland, sản sinh nhiều nhân vật nổi bật trong nghệ thuật, âm nhạc và khoa học.
Nhà nước Ireland chia sẻ nhiều biểu trưng với đảo Ireland, bao gồm các màu lục và lam, các động vật như chó săn Ireland và hươu, các kiến trúc như tháp tròn và thánh giá Celt, các thiết kế như trang trí dây bện Celt và xoắn ốc. Shamrock là một loại cỏ ba lá trở thành biểu trưng quốc gia cho Ireland từ thế kỷ XVII khi việc mang theo nó là một tượng trưng của ngày Thánh Patrick. Các biểu trưng này được các thể chế nhà nước và tư nhân sử dụng.
Văn học
Ireland có đóng góp đáng kể cho văn học thế giới bằng cả tiếng Anh và Ireland. Tiểu thuyết Ireland hiện đại bắt đầu khi phát hành tác phẩm Gulliver du kí của Jonathan Swift vào năm 1726. Các nhà văn quan trọng khác trong thế kỷ XVIII gồm Laurence Sterne với The Life and Opinions of Tristram Shandy, Gentleman và Oliver Goldsmith với The Vicar of Wakefield. Một số tiểu thuyết gia Ireland nổi tiếng trong thế kỷ XIX là Maria Edgeworth, John Banim, Gerald Griffin, Charles Kickham, William Carleton, George Moore, và Somerville cùng Ross. Bram Stoker được biết đến nhiều nhất với tiểu thuyết Dracula năm 1897.
James Joyce phát hành tác phẩm nổi tiếng nhất của mình là Ulysses vào năm 1922 tại Dublin. Edith Somerville tiếp tục sáng tác sau khi đối tác của bà là Martin Ross từ trần vào năm 1915. Annie M. P. Smithson nằm trong số vài tác giả phục vụ cho người hâm mộ tiểu thuyết lãng mạn trong thập niên 1920 và 1930. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, các tiểu thuyết nổi tiếng thuộc về một số tác giả như Brian O'Nolan với bút danh Flann O'Brien, Elizabeth Bowen, và Kate O'Brien. Trong những thập niên cuối của thế kỷ XX, Edna O'Brien, John McGahern, Maeve Binchy, Joseph O'Connor, Roddy Doyle, Colm Tóibín và John Banville trở thành các tiểu thuyết gia tiên phong.
Patricia Lynch có nhiều tác phẩm dành cho thiếu nhi, còn Eoin Colfer đặc biệt thành công về thể loại này trong những năm gần đây. Truyện ngắn là thể loại được nhiều nhà văn Ireland ưa chuộng, các nhân vật nổi tiếng nhất bao gồm Seán Ó Faoláin, Frank O'Connor và William Trevor. Các nhà thơ Ireland có tên tuổi bao gồm Patrick Kavanagh, Thomas McCarthy, Dermot Bolger, William Butler Yeats và Seamus Heaney. Các nhà văn nổi bật viết bằng tiếng Ireland là Pádraic Ó Conaire, Máirtín Ó Cadhain, Séamus Ó Grianna và Nuala Ní Dhomhnaill.
Lịch sử sân khấu Ireland bắt đầu khi người Anh mở rộng quyền cai trị tại Dublin vào đầu thế kỷ XVII, và kể từ đó Ireland có đóng góp đáng kể cho nghệ thuật kịch Anh. Vào lúc ban đầu, tác phẩm sân khấu tại Ireland có khuynh hướng phục vụ mục đích chính trị, song khi có thêm nhiều sân khấu khánh thành và khán giả phổ thông tăng lên thì sân khấu trở nên đa dạng hơn. Nhiều sân khấu tại Dublin liên kết với đồng nghiệp tại Luân Đôn, và các tác phẩm của Anh thường xuyên xuất hiện trên sân khấu Ireland. Tuy nhiên, hầu hết nhà soạn kịch Ireland ra nước ngoài để khẳng định bản thân. Trong thế kỷ XVIII, Oliver Goldsmith và Richard Brinsley Sheridan là hai trong số các nhà soạn kịch thành công nhất trên sân khấu Luân Đôn. Vào lúc khởi đầu thế kỷ XX, bắt đầu xuất hiện các công ty sân khấu dành riêng cho biểu diễn các vở kịch Ireland và phát triển các nhà văn, đạo diễn và diễn viên, tạo điều kiện cho nhiều nhà soạn kịch Ireland trau dồi nghề nghiệp và khẳng định danh tiếng tại Ireland thay vì tại Anh hay Mỹ. Tiếp bước các soạn giả được tôn vinh như Oscar Wilde, George Bernard Shaw (1925), Samuel Beckett (1969), các nhà soạn kịch Seán O'Casey, Brian Friel, Sebastian Barry, Brendan Behan, Conor McPherson và Billy Roche đạt được thành công đại chúng. Trong số các nhà soạn kịch Ireland khác trong thế kỷ XX, còn phải kể đến Denis Johnston, Thomas Kilroy, Tom Murphy, Hugh Leonard, Frank McGuinness, và John B. Keane.
Âm nhạc và vũ đạo
Âm nhạc truyền thống Ireland vẫn đầy sinh lực, bất chấp thế lực văn hóa toàn cầu hóa, và duy trì nhiều khía cạnh truyền thống. Nó gây ảnh hưởng đến nhiều thể loại âm nhạc như nhạc đồng quê Mỹ, và trên mức độ nhất định là đến rock hiện đại. Nó đôi khi được pha trộn với các phong cách như rock and roll và punk rock. Ireland cũng sản sinh các nghệ sĩ nổi tiếng quốc tế trong các thể loại khác, như rock, pop, jazz, và blues.
Tồn tại một số đoàn nhạc cổ điển khắp Ireland, như RTÉ Performing Groups. Ireland còn có ba tổ chức opera. Opera Ireland sản xuất các vở nhạc kịch quy mô lớn tại Dublin, Opera Theatre Company lưu diễn nhạc kịch phong cách thính phòng khắp đất nước, và Lễ hội Opera Wexford thường niên được tổ chức vào tháng 10 và 11.
Ireland tham gia cuộc thi ca hát Eurovision từ năm 1965. Ireland lần đầu giành chiến thắng vào năm 1970, khi Dana đoạt giải nhất với bài All Kinds of Everything. Ireland sau đó còn chiến thắng thêm nhiều lần nữa, và là quốc gia chiến thắng nhiều lần nhất. Riverdance bắt nguồn từ một màn trình diễn cắt quãng trong cuộc thi năm 1994.
Vũ đạo Ireland có thể phân chia một cách đại thể thành vũ đạo xã giao và vũ đạo trình diễn. Vũ đạo xã giao Ireland có thể phân thành céilí và nhảy nhóm. Nhảy nhóm kiểu Ireland có bốn cặp xếp theo hình vuông, còn nhảy céilí tạo hình của các cặp từ 2 đến 16 người. Tồn tại nhiều khác biệt về phong cách giữa hai thể loại. Vũ đạo xã giao Ireland là một truyền thống sống động, có các điệu nhảy khác nhau trên khắp đất nước. Tại một số nơi vũ đạo được cố ý cải biên và các vũ đạo mới được sáng tạo. Vũ đạo trình diễn được gọi theo truyền thống là stepdance. Stepdance Ireland phổ biến nhờ biểu diễn Riverdance, nổi tiếng vì di chuyển chân nhanh, còn thân và tay phần lớn là giữ yên. Stepdance đơn có đặc điểm chung là kiểm soát song không cứng nhắc phần thân trên, tay thẳng và có các động tác bàn chân nhanh và chính xác. Vũ đạo đơn có thể dùng "giày mềm" hoặc "giày cứng".
Kiến trúc
Ireland có nhiều công trình kiến trúc, tồn tại dưới nhiều tình trạng bảo tồn từ thời đồ đá mới, như mộ đá Poulnabrone, đá Castlestrange, đá Turoe, và vòng đá Drombeg. Do người La Mã chưa từng chinh phục Ireland, nên kiến trúc có nguồn gốc Hy-La cực kỳ hiếm. Thay vào đó, quốc gia này có một giai đoạn kéo dài của kiến trúc thời kỳ đồ sắt. Các tháp tròn Ireland bắt đầu vào thời sơ kỳ Trung Cổ.
Cơ Đốc giáo đưa đến các tòa nhà tu viện đơn giản, như Clonmacnoise, Skellig Michael và Scattery Island. Có một điểm tương đồng đáng chú ý về phong cách giữa các tu viện kép này với các tu viện phái Copt của Ai Cập. Các quốc vương và quý tộc Gael ở trong các pháo đài hình tròn hoặc crannóg. Các cải cách giáo hội trong thế kỷ XII thông qua Dòng Xitô thúc đẩy ảnh hưởng từ châu Âu lục địa, với các tu viện theo phong cách kiến trúc Roman như Mellifont, Boyle và Tintern. Các khu định cư Gael hạn chế trong các đô thị nguyên thủy kiểu tu viện như Kells. Các khu định cư đô thị quy mô đáng kể chỉ phát triển sau thời kỳ người Viking xâm chiếm.
Người Anh-Norman xây lên các lâu đài vào cuối thế kỷ XII, như Lâu đài Dublin và Lâu đài Kilkenny, và đem tới khái niệm về đô thị mậu dịch có tường bao được quy hoạch, các đô thị này đạt được vị thế pháp lý và một số quyền lợi theo hiến chương. Các hiến chương này quản lý cụ thể thiết kế các đô thị. Hai làn sóng hình thành các đô thị có quy hoạch diễn ra sau đó, lần đầu là các đô thị đồn điền vào thế kỷ XVI và XVII nhằm phục vụ quốc vương của Anh đàn áp khởi nghĩa địa phương, tiếp đến là các đô thị địa chủ thế kỷ XVIII. Các đô thị quy hoạch do người Norman lập nên còn tồn tại đến nay là Drogheda và Youghal; các đô thị đồn điền có Portlaoise và Portarlington; các đô thị quy hoạch trong thế kỷ XVIII được bảo tồn tốt gồm có Westport và Ballinasloe.
Các nhà thờ lớn theo kiến trúc Gothic như St Patrick là do người Norman đem tới. Dòng Phan Sinh chi phối trong chỉ đạo các tu viện cho đến hậu kỳ Trung Cổ, trong khi các tòa tháp thanh lịch như Lâu đài Bunratty được quý tộc Gael và Norman xây dựng. Nhiều tòa nhà tôn giáo bị đổ nát khi Quốc vương Henry VIII cho giải thể các tu viện. Sau khi chế độ quân chủ khôi phục tại Anh, kiến trúc Palladio và rococo xuất hiện khắp Ireland, đặc biệt là biệt thự thôn quê, trong đó Tòa nhà Nghị viện là quan trọng nhất.
Các phong cách tân cổ điển và George phồn thịnh tại Ireland, đặc biệt là tại Dublin với các công trình như The Custom House, Four Courts, General Post Office và King's Inns. Các nhà phố kiểu George sản sinh các con phố có nét độc đáo, đặc biệt là tại Dublin, Limerick và Cork. Sau khi triều đình Anh giải phóng cho Công giáo, xuất hiện các nhà thờ chịu ảnh hưởng của kiến trúc Phục hưng Gothic của Pháp như St Colman và St Finbarre. Nhà mái tranh tồn tại từ lâu tại Ireland, và hiện nay chúng được cho là có vẻ đẹp kỳ lạ.
Khởi đầu với nhà thờ theo phong cách Art Deco tại Turner's Cross vào năm 1927, kiến trúc Ireland từ đó đi theo xu hướng quốc tế hướng đến các phong cách tòa nhà hiện đại và bóng mượt. Các phát triển kiến trúc gần đây bao gồm cải tạo khu Ballymun và mở rộng đô thị Dublin tại Adamstown. Từ khi thành lập Cơ quan phát triển Dublin Docklands vào năm 1997, Dublin Docklands trải qua tái thiết quy mô lớn, bao gồm xây dựng Trung tâm Hội nghị Dublin và Nhà hát Grand Canal. Tháp The Elysian tại Cork hoàn thành vào năm 2008, là tòa nhà tầng có chiều cao lớn nhất tại Cộng hòa Ireland với . Viện Hoàng gia về Kiến trúc Ireland quy định thực tiễn kiến trúc tại Cộng hòa Ireland.
Truyền thông
Raidió Teilifís Éireann (RTÉ) là cơ quan phát sóng công cộng của Ireland, lấy kinh phí từ phí giấy phép truyền hình và quảng cáo. RTÉ vận hành hai kênh truyền hình quốc gia là RTÉ One và RTÉ Two. Các kênh truyền hình quốc gia độc lập khác là TV3, 3e, UTV Ireland và TG4, trong đó TG4 phát sóng bằng tiếng Ireland. Toàn bộ các kênh này hiện diện trên dịch vụ kỹ thuật số mặt đất miễn phí quốc gia mang tên Saorview. Ngoài ra, còn có các kênh như RTÉ News Now, RTÉjr, và RTÉ One +1. Các nhà cung cấp truyền hình trả tiền hoạt động tại Ireland bao gồm Virgin Media và Sky.
Được Ban Điện ảnh Ireland giúp đỡ, công nghiệp điện ảnh Ireland phát triển đáng kể từ thập niên 1990, với việc xúc tiến các phim bản địa cũng như thu hút các tác phẩm quốc tế như Trái tim dũng cảm và Giải cứu binh nhì Ryan.
Một lượng lớn đài phát thanh khu vực và địa phương tồn tại ở vùng thôn quê. Một nghiên cứu cho thấy rằng 85% người trưởng thành nghe hỗn hợp các đài quốc gia, khu vực và địa phương ở mức độ hàng ngày. RTÉ Radio vận hành bốn kênh phát thanh quốc gia là Radio 1, 2fm, Lyric fm, và RnaG. Đài cũng điều hành bốn kênh phát thanh DAB quốc gia. Ngoài ra, còn có hai đài phát thanh quốc gia độc lập là Today FM và Newstalk.
Ireland có ngành truyền thông xuất bản có tính cạnh tranh từ xưa, gồm các nhật báo quốc gia và tuần báo khu vực, cũng như các phiên bản Chủ Nhật quốc gia. Sức mạnh của truyền thông Anh Quốc là một điểm đặc trưng của nền truyền thông xuất bản Ireland do có thể lựa chọn đọc nhiều báo chí của Anh.
Eurostat tường thuật rằng 82% hộ gia đình Ireland truy cập internet vào năm 2013, trong khi mức bình quân của EU là 79%.
Ẩm thực
Ẩm thực Ireland theo truyền thống dựa trên sản phẩm thịt và bơ sữa, bổ sung rau và hải sản. Một số món ăn Ireland nổi tiếng là boxty, colcannon, coddle, stew, thịt muối cải bắp. Ireland nổi tiếng vì bữa sáng đầy đủ gồm thịt muối, trứng, xúc xích, pudding, và cà chua chiên. Ngoài ảnh hưởng đáng kể từ các món ăn châu Âu và quốc tế, gần đây còn nổi lên một nền ẩm thực Ireland mới dựa trên các nguyên liệu truyền thống được xử lý theo nhiều cách. Nền ẩm thực này dựa trên rau tươi, cá, hàu, trai, và các loài sò ốc khác, và các loại pho mát thủ công đa dạng nay được sản xuất khắp đất nước. Các loài sò ốc ngày càng phổ biến, đặc biệt là do tại duyên hải có các loại sò ốc chất lượng cao. Loại cá phổ biến nhất là cá hồi và cá tuyết. Loại bánh mì truyền thống là bánh mì soda, còn barmbrack là một loại bánh mì lên men có thêm nho.
Các loại đồ uống hàng ngày phổ biến của người Ireland là trà và cà phê. Các đồ uống có cồn có liên hệ đến Ireland gồm có Poitín và Guinness nổi tiếng thế giới, một loại rượu nâu nặng khởi nguồn từ nhà máy bia của Arthur Guinness tại Dublin. Whiskey Ireland cũng phổ biến khắp đất nước, và có nhiều dạng như mạch nha đơn, ngũ cốc đơn, và pha trộn.
Thể thao
Bóng đá Gael và hurling là các môn thể thao truyền thống của Ireland, và cũng là các môn có khán giả đông nhất. Chúng chịu sự quản lý từ Hiệp hội Thể thao Gael có thẩm quyền trên toàn đảo. Các môn thể thao Gael khác cũng chịu sự quản lý của hiệp hội là bóng ném Gael và rounders.
Bóng đá là môn có khán giả đông thứ ba và là môn có mức độ tham gia cao nhất. Mặc dù Giải Liên đoàn Ireland là giải đấu quốc gia, song Giải Ngoại hạng Anh là giải đấu phổ biến nhất đối với công chúng. Đội tuyển bóng đá quốc gia Cộng hòa Ireland nằm dưới quyền quản lý của Hiệp hội bóng đá Ireland.
Liên đoàn bóng rugby Ireland là thể chế quản lý môn rugby liên hiệp, tại cấp địa phương và quốc tế trên cơ sở toàn đảo Ireland, và sản sinh các cầu thủ như Brian O'Driscoll và Ronan O'Gara, họ cùng đội tuyển giành được Grand Slam vào năm 2009. Rugby liên minh nằm dưới quyền quản lý của Liên đoàn rugby Ireland trên cơ sở toàn đảo Ireland. Ireland từng vào đến tứ kết giải vô địch rugby liên minh thế giới năm 2000 vào đến bán kết tại giải này vào năm 2008.
Thành công của Đội tuyển cricket Ireland tại giải vô địch thế giới năm 2007 khiến công chúng gia tăng quan tâm đến môn thể thao này, môn này nằm dưới quyền quản lý của Cricket Ireland trên cơ sở toàn đảo Ireland.
Golf cũng là môn thể thao phổ biến tại Ireland, với trên 300 sân tại vùng thôn quê. Quốc gia này sản sinh nhiều vận động viên golf thành công quốc tế như Pádraig Harrington và Paul McGinley.
Đua ngựa có mức độ hiện diện rất lớn tại Ireland, có hoạt động gây giống và thi đấu vào hàng có ảnh hưởng nhất. Đua ngựa diễn ra tại Trường đua The Curragh tại hạt Kildare và tại Trường đua Leopardstown. Quyền Anh là môn thể thao thành công nhất của Ireland ở cấp độ Thế vận hội, nằm dưới quyền quản lý của Hiệp hội quyền Anh nghiệp dư Ireland trên cơ sở toàn đảo Ireland. Môn thể thao này được phổ biến nhờ thành công quốc tế của các vận động viên như Bernard Dunne, Andy Lee và Katie Taylor.
Một số vận động viên điền kinh Ireland đạt thành tích cao từng tham dự Thế vận hội là Eamonn Coghlan và Sonia O'Sullivan. Giải Marathon Dublin và Marathon nữ ngắn Dublin được tổ chức thường niên, là hai trong số các sự kiện điền kinh phổ biến nhất nước.
Tham khảo
Thư mục
Liên kết ngoài
Chính phủ
Irish State – Trang điện tử chính phủ
– Trang điện tử tổng thống
Taoiseach – Trang điện tử thủ tướng
Thông tin chung
Ireland thông tin từ Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ
từ Thư viện Quốc hội Mỹ (lưu trữ trên WayBackMachine)
Ireland tại UCB Libraries GovPubs
Hồ sơ Ireland từ BBC News
Key Development Forecasts for Ireland từ International Futures
Cộng hòa
Vùng cấp một Liên minh châu Âu
Quốc gia thành viên Ủy hội châu Âu
Quốc gia và vùng lãnh thổ nói tiếng Anh
Quốc gia châu Âu
Đảo quốc
Quốc gia thành viên Liên minh châu Âu
Quốc gia Tây Âu
Quốc gia thành viên của Liên Hợp Quốc
|
23317
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A3o%20Anh
|
Đảo Anh
|
Đảo Anh hay Đại Anh () nằm ở phía tây bắc của châu Âu đại lục. Đây là hòn đảo lớn thứ 9 thế giới, và là đảo lớn nhất quần đảo Anh cũng như châu Âu. Với dân số khoảng 60,0 triệu người vào giữa năm 2009, đây là đảo đông dân thứ ba trên thế giới, chỉ sau Java và Honshu. Đảo Anh có trên 1.000 đảo nhỏ hơn bao quanh. Đảo Ireland nằm ở phía tây của đảo Anh. Về mặt chính trị, "Great Britain" trong tiếng Anh cũng có thể đề cập tới đảo Anh cùng các đảo lân cận hợp thành các xứ Anh, Scotland và Wales.
Toàn bộ đảo Anh là lãnh thổ của quốc gia có chủ quyền Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, và hầu hết lãnh thổ của nước Anh là đảo Anh. Hầu hết lãnh thổ của các xứ Anh, Scotland, và Wales nằm trên đảo Anh, và thủ phủ của các xứ cũng nằm trên đảo: tương ứng là Luân Đôn, Edinburgh, và Cardiff.
Vương quốc Anh (Kingdom of Great Britain) là kết quả của sự liên hiệp chính trị giữa Vương quốc Anh (Kingdom of England) và Vương quốc Scotland theo Đạo luật Liên hiệp 1707 vào ngày 1 tháng 5 năm 1707 dưới sự trị vì của Nữ vương Anne I. Năm 1801, theo Đạo luật Liên hiệp 1800, vương quốc này sáp nhập với Vương quốc Ireland để tại thành Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland. Sau Chiến tranh Độc lập Ireland, hầu hết phía nam đảo Ireland ly khai khỏi liên hiệp và trở thành Cộng hoà Ireland. Còn vương quốc trở thành Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland (United Kingdom of Great Britain and Northern Ireland).
Sự đa dạng về hệ động thực vật trên đảo Anh tương đối hạn chế do kích thước của đảo và do thực tế rằng động vật hoang dã đã có ít cơ hội để phát triển từ thời kỳ băng hà cuối. Mức độ đô thị hóa cao đã góp phần vào việc đảo Anh có một tỉ lệ tuyệt chủng loài cao hơn 100 lần so với tỷ lệ tuyệt chủng chung của Trái Đất.
Định nghĩa chính trị
Đảo Anh là hòn đảo lớn nhất của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland. Về mặt chính trị, đảo Anh (Great Britain) là sự kết hợp của ba xứ England, Scotland và Wales, và không bao gồm Bắc Ireland nằm ở đảo Ireland; Great Britain cũng bao gồm một số hòn đảo ngoài khơi các xứ Anh, Scotland và Wales như đảo Wight, Anglesey, quần đảo Scilly, quần đảo Hebride, và các nhóm đảo Orkney và Shetland. Great Britain không bao gồm đảo Man và Quần đảo Eo Biển và chúng cũng không phải là một phần của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland mà là các lãnh thổ phụ thuộc tự trị với hệ thống luật pháp và thuế riêng.
Liên hiệp chính trị giữa hai vương quốc Anh (Kingdom of England) và Scotland đã diễn ra vào năm 1707 khi Đạo luật Liên hiệp 1707 đã thông qua Hiệp ước Liên hiệp năm 1706 và hợp nhất nghị viện của hai nước, tạo thành Vương quốc Anh (Kingdom of Great Britain), bao trùm toàn bộ hòn đảo. Trước đó, một liên minh cá nhân đã tồn tại giữa hai nước kể từ Liên hiệp các vua (Union of the Crowns) dưới thời hai nước có chung một người trị vì là James VI của Scotland và James I của Anh.
Định nghĩa địa lý
Đảo Anh nằm trong vùng thềm lục địa của châu Âu và nằm ở phía tây bắc của châu Âu đại lục và ở phía đông của đảo Ireland. Đảo Anh tách biệt với lục địa châu Âu qua biển Bắc và eo biển Manche, eo biển này chỉ rộng tại eo Dover. Hòn đảo trải dài trên 10 vĩ độ, có trục bắc-nam, với diện tích nếu không tính tất cả các đảo nhỏ xung quanh. eo biển Bắc, biển Ireland, eo biển St George và biển Celtic phân tách đảo Anh với đảo Ireland ở phía tây. Hòn đảo kết nối về mặt tự nhiên với đại lục châu Âu qua Đường hầm eo biển Manche, đường hầm tàu hỏa dưới biển dài nhất trên thế giới và được hoàn thành vào năm 1993. Về mặt địa lý, hòn đảo có các miền đồng quê thấp và lượn sóng ở phía đông và nam, còn các đồi và núi thì thống trị ở các vùng phía tây và phía bắc. Đảo có trên 1.000 đảo nhỏ hơn bao quanh. Khoảng cách lớn nhất giữa hai điểm trên đảo là 968 km (601,5 mi) (giữa Land's End, Cornwall và John O'Groats, Caithness), hay 1.349 km (838 mi) nếu đi theo mạng lưới xa lộ quốc gia.
Xem thêm
Vương quốc Anh
Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland
Tham khảo
Liên kết ngoài
Quần đảo Anh
Anh
|
23318
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A3o%20Ireland
|
Đảo Ireland
|
Ireland (phiên âm: "Ai-len", tiếng Anh: ; ; Ulster-Scots: ) là một hòn đảo tại Bắc Đại Tây Dương. Đảo này tách biệt với Đảo Anh ở phía đông qua Eo biển Bắc, Biển Ireland và Eo biển St George. Ireland là đảo lớn thứ nhì trong Quần đảo Anh, lớn thứ ba tại châu Âu và lớn thứ 20 trên thế giới.
Về mặt chính trị, Đảo Ireland được chia tách thành Cộng hoà Ireland (được đặt tên chính thức là Ireland) chiếm 5/6 diện tích đảo, và Bắc Ireland, thuộc Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland. Năm 2011, dân số Ireland đạt khoảng 6,4 triệu, là đảo đông dân thứ nhì tại châu Âu sau Đảo Anh. Trong đó, có gần 4,6 triệu người sống tại Cộng hòa Ireland và hơn 1,8 triệu người sống tại Bắc Ireland.
Về mặt khu vực địa lý, đảo có các dãy núi tương đối thấp bao quanh một đồng bằng trung tâm, với một số dòng sông mà tàu thuyền có thể đi được kéo dài vào nội địa. Đảo có thảm thực vật tươi tốt do có khí hậu ôn hòa nhưng dễ thay đổi, không chịu sự khắc nghiệt của nhiệt độ. Rừng rậm từng bao phủ đảo cho đến thời kỳ Trung Cổ. Đến năm 2013, 11% diện tích đảo có rừng bao phủ, trong khi mức trung bình của châu Âu là 33%, và hầu hết là các đồn điền trồng cây lá kim không có nguồn gốc bản địa. Có hai mươi sáu loài động vật có vú sống trên cạn có nguồn gốc bản địa Ireland. Khí hậu Ireland chịu ảnh hưởng của Đại Tây Dương và do đó rất ôn hoà, và mùa đông ôn hòa hơn so với một khu vực phía bắc như vậy, mặc dù mùa hè khí hậu mát hơn so với lục địa châu Âu. Lượng mưa và mây che phủ rất nhiều.
Bằng chứng sớm nhất về việc con người hiện diện tại Ireland có niên đại từ 10.500 TCN. Trật tự Ireland Gael xuất hiện từ thế kỷ I. Cư dân đảo cải đạo sang Cơ Đốc giáo từ thế kỷ V trở đi. Sau khi người Norman xâm chiếm đảo vào thế kỷ XII, Anh yêu sách chủ quyền đối với Ireland. Tuy nhiên, quyền cai trị của Anh không bành trướng được đến toàn đảo cho đến cuộc chinh phục dưới thời Triều đại Tudor trong thế kỷ XVI-XVII, cuộc chinh phục này kéo theo những người di cư đến từ Đảo Anh. Trong thập niên 1690, một hệ thống cai trị theo dòng Tin Lành của người Anh được định ra nhằm gây bất lợi cho tín hứu Công giáo La Mã chiếm đa số cùng với những người biệt giáo với Tin Lành, và hệ thống được mở rộng trong thế kỷ XVIII. Theo Đạo luật Liên hiệp năm 1801, Ireland trở thành một bộ phận của Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland. Một cuộc chiến tranh giành độc lập vào đầu thế kỷ XX diễn ra được kế tiếp bằng sự phân chia hòn đảo, thành lập Nhà nước Tự do Ireland, thực thể dần tăng cường chủ quyền trong các thập niên tiếp theo, và Bắc Ireland, vốn duy trì là bộ phận của Vương quốc Anh. Bắc Ireland đã chứng kiến nhiều bất ổn dân sự từ cuối những năm 1960 cho đến những năm 1990. Tình hình dần lắng xuống sau một hiệp định chính trị vào năm 1998. Năm 1973, Cộng hòa Ireland và Vương quốc Anh, bao gồm Bắc Ireland, gia nhập Cộng đồng Kinh tế châu Âu.
Văn hoá Ireland có ảnh hưởng đáng kể đến các nền văn hoá khác, đặc biệt là trong lĩnh vực văn học. Cùng với văn hóa phương Tây chủ lưu, văn hoá bản địa mạnh mẽ vẫn hiện diện trên đảo, được thể hiện thông qua các trò chơi Gael, âm nhạc Ireland, và ngôn ngữ Ireland. Văn hoá trên đảo cũng chia sẻ nhiều đặc điểm với văn hoá Anh, trong đó có ngôn ngữ Anh và các môn thể thao như bóng đá, rugby, đua ngựa và golf.
Danh xưng
Tên gọi Ireland bắt nguồn từ tiếng Ireland cổ Eriu. Từ này lại có nguồn gốc từ tiếng Celt nguyên thủy *Iveriu (tương đương với Iwerddon trong tiếng Wales), nó cũng là nguồn gốc của từ Hibernia trong tiếng La Tinh. Iveriu bắt nguồn từ một gốc từ nghĩa là "béo, thịnh vượng."
Lịch sử
Thời tiền sử
Hầu hết đảo Ireland bị băng bao phủ trong hầu hết thời gian thuộc thời kỳ băng hà cuối cùng, kéo dài cho đến khoảng 9.000 năm trước. Mực nước biển thấp và Ireland cùng với đảo Anh là bộ phận của châu Âu lục địa. Đến năm 12.000 TCN, mực nước biển dâng lên do băng tan khiến Ireland tách khỏi đảo Anh. Đến khoảng năm 5.600 TCN thì đảo Anh cũng tách khỏi châu Âu lục địa. Bằng chứng sớm nhất về việc con người hiện diện tại Ireland có niên đại từ 10.500 TCN. Cho đến gần đây, bằng chứng sớm nhất về loài người tại Ireland cho đến nay là về người thuộc thời kỳ đồ đá giữa, họ đến bằng thuyền từ đảo Anh vào từ năm 8.000 TCN đến năm 7.000 TCN.
Từ khoảng năm 4.500 TCN, những người định cư thuộc thời kỳ đồ đá mới đến đảo và mang theo các giống cây lương thực có hạt, một văn hóa ngựa (tương tự như tại Scotland cùng thời kỳ) và các tượng đá. Một nền nông nghiệp tiến bộ hơn phát triển tại Céide Fields, được bảo tồn bên dưới lớp than bùn. Một hệ thống cánh đồng rộng lớn, được cho là cổ nhất trên thế giới, gồm các phần nhỏ được tách biệt qua các bức tường xếp đá. Các cánh đồng được canh tác trong vài thế kỷ từ 3.500 TCN đến 3.000 TCN. Lúa mì và lúa mạch là các cây trồng chủ đạo, được đưa đến từ bán đảo Iberia.
Thời kỳ đồ đồng bắt đầu vào khoảng năm 2.500 TCN, lúc này kỹ thuật thay đổi sinh hoạt thường nhật của dân chúng thông qua các phát minh như bánh xe, sử dụng bò trong sản xuất, dệt vải, làm đồ uống có cồn, gia công kim loại tinh xảo tạo ra các vũ khí và công cụ mới, cùng các đồ trang sức bằng vàng và kim cương tinh tế. Theo một số nguồn, Ireland vào cuối thời kỳ đồ đồng là bộ phận của một văn hóa mạng lưới giao dịch hàng hải tên là Thời kỳ đồ đồng Đại Tây Dương, cùng với Anh Quốc, miền tây Pháp và Iberia, là những nơi ngôn ngữ Celt phát triển. Điều này tương phản với quan điểm truyền thống rằng nguồn gốc chúng là tại châu Âu lục địa cùng với văn hoá Hallstatt.
Sự xuất hiện của người Celt ở Ireland
Trong thời kỳ đồ sắt, một ngôn ngữ và văn hóa Celt xuất hiện tại Ireland. Cách thức và thời điểm đảo Ireland bị Celt hoá là đề tài tranh luận. Một quan điểm truyền thống có từ lâu là ngôn ngữ Celt, chữ viết Ogham và văn hoá Celt được đưa đến Ireland theo các làn sóng người Celt xâm chiếm hoặc di cư từ châu Âu lục địa. Thuyết này dựa theo Lebor Gabála Érenn, một tác phẩm giả sử học Cơ Đốc giáo Trung Cổ của Ireland, cùng với sự hiện diện của văn hóa, ngôn ngữ và đồ tạo tác Celt phát hiện được trên đảo. Theo thuyết này, có 4 cuộc xâm chiếm của người Celt tại Ireland. Đầu tiên được cho là là người Priteni, tiếp theo là người Belgae từ miền bắc Gaul và đảo Anh. Tiếp đó, các bộ lạc Laighin từ Armorica (nay là Bretagne của Pháp) được cho là xâm chiếm đảo Ireland và đảo Anh gần như đồng thời. Cuối cùng, người Milesia (người Gael) được cho là đến Ireland từ miền bắc Iberia hoặc miền nam Gaul.
Một thuyết gần đây hơn cho rằng văn hóa và ngôn ngữ Celt đến Ireland là kết quả của truyền bá văn hóa, theo đó Celt hóa Ireland có thể là đỉnh điểm của một quá trình tác động văn hóa và kinh tế lâu dài giữa đảo Ireland, đảo Anh và các khu vực lân cận của châu Âu lục địa. Thuyết này được thúc đẩy một phần là do thiếu các chứng cứ khảo cổ học về nhập cư Celt quy mô lớn, song nó chấp thuận rằng những chuyển động như vậy rất khó để xác định. Một số người đề xướng thuyết này cho rằng có thể có các nhóm nhỏ người Celt di cư đến Ireland, song không phải là nguyên nhân cơ bản khiến đảo bị Celt hóa. Các nhà ngôn ngữ học lịch sử hoài nghi về việc đây là cách thức duy nhất giải thích cho việc hấp thu ngôn ngữ Celt. Nghiên cứu di truyền phát hiện rằng không có khác biệt đáng kể trong DNA ty thể giữa Ireland và các khu vực lớn tại châu Âu lục địa, tương phản với một phần mô hình nhiễm sắc thể Y. Một nghiên cứu gần đây kết luận rằng người nói tiếng Celt hiện đại tại Ireland có thể được cho là "người Celt Đại Tây Dương" châu Âu có tổ tiên chung trên khắp khu vực Đại Tây Dương từ miền bắc Iberia đến miền tây Scandinavia chứ không phải về cơ bản là Trung Âu.
Thời kỳ cuối cổ đại và đầu trung đại
Bản ghi chép sớm nhất về Ireland đến từ các nhà địa lý học Hy Lạp-La Mã cổ điển. Ptolemy trong Almagest gọi đảo Ireland là Mikra Brettania (đảo Anh nhỏ) và ông gọi đảo Anh là Megale Brettania (đảo Anh lớn). Trong tác phẩm Geography sau đó, Ptolemy gọi đảo Ireland là Iouernia và gọi đảo Anh là Albion. Các tên mới này có vẻ là tên địa phương của các đảo khi đó. Các tên gọi sớm hơn có vẻ được đặt ra trước khi có tiếp xúc trực tiếp với dân chúng địa phương.
Người La Mã sau đó gọi Ireland bằng tên gọi này theo dạng La Tinh hoá là Hibernia, hoặc Scotia. Ptolemy ghi lại 16 quốc gia tại mỗi bộ phận của Ireland vào năm 100. Không rõ về quan hệ giữa đế quốc La Mã và các vương quốc tại Ireland, tuy nhiên phát hiện được một số tiền xu La Mã trên đảo.
Đảo Ireland tiếp tục là nơi có các vương quốc kình địch nhau, từ thế kỷ VII khái niệm về vương quyền dân tộc dần trở nên rõ ràng thông qua khai niệm về "thượng vương Ireland". Văn học Ireland trung đại phác họa một loạt thượng vương hầu như không gián đoạn trong hàng nghìn năm, song các sử gia hiện đại cho rằng điều này được dựng nên trong thế kỷ VIII nhằm biện minh cho vị thế của các nhóm chính trị quyền lực. Toàn bộ các vương quốc trên đảo Ireland có quốc vương riêng song trên danh nghĩa lệ thuộc thượng vương. Thượng vương xuất thân từ các quốc vương và quân chủ địa phương, có thủ đô nghi lễ trên đồi Tara. Khái niệm không trở thành một hiện thực chính trị cho đến thời kỳ Viking và thậm chí sau đó cũng không nhất quán. Ireland có quy chế pháp luật thống nhất về văn hoá: hệ thống tư pháp thành văn sơ khởi là Luật Brehon, do một tầng lớp luật gia chuyên nghiệp gọi là brehons thi hành.
Biên niên sử Ireland viết rằng vào năm 431, Giám mục Palladius đến Ireland theo lệnh Giáo hoàng Celestine I để giúp người Ireland "vững tin vào Chúa". Tác phẩm này còn ghi rằng Thánh Patrick bảo trợ cho Ireland đến đảo trong cùng năm. Tiếp tục tồn tại tranh luận về các sứ mệnh của Palladius và Patrick, song đồng thuận rằng chúng diễn ra và rằng truyền thống druid trước đó bị tan vỡ khi đối diện với tôn giáo mới. Các học giả Cơ Đốc giáo Ireland xuất sắc trong học tập kiến thức La Tinh và Hy Lạp và thần học Cơ Đốc giáo. Trong văn hoá tu viện sau khi Ireland bị Cơ Đốc giáo hoá, kiến thức La Tinh và Hy Lạp được bảo tồn tại Ireland trong sơ kỳ Trung Cổ.
Năm 563, một tu sĩ Ireland là Columba thành lập một hội truyền giáo trên đảo Iona (nay thuộc Scotland), bắt đầu truyền thống hội truyền giáo Ireland hoạt động nhằm truyền bá Cơ Đốc giáo Celt và kiến thức đến Scotland, Anh và đế quốc Frank tại châu Âu lục địa sau khi La Mã sụp đổ. Các hội truyền giáo này tiếp tục cho đến hậu kỳ Trung Cổ, họ lập ra các tu viện và trung tâm kiến thức, sản sinh các học giả như Sedulius Scottus và Johannes Eriugena và gây nhiều ảnh hưởng tại châu Âu. Từ thế kỷ IX, các làn sóng hải tặc Viking tiến hành cướp bóc các tu viện và thị trấn Ireland. Người Viking cũng tham gia thành lập hầu hết các khu định cư duyên hải lớn tại Ireland: Dublin, Limerick, Cork, Wexford, Waterford và các khu định cư nhỏ khác.
Người Norman và Anh xâm chiếm
Ngày 1 tháng 5 năm 1169, một đội viễn chinh gồm các hiệp sĩ Cambria-Norman với khoảng 600 người đổ bộ lên bờ biển Bannow nay thuộc hạt Wexford. Đội quân do Richard de Clare chỉ huy. Cuộc xâm chiếm trùng hợp với một giai đoạn người Norman khôi phục bành trướng, và diễn ra theo lời mời của Quốc vương Leinster Dermot Mac Murrough. Năm 1166, Mac Murrough đào thoát đến Anjou, Pháp sau chiến tranh với Breifne và tìm kiếm viện trợ từ quốc vương Angevin (cai trị Anh và một nửa nước Pháp ngày nay) là Henry II để tái chiếm Leinster. Năm 1171, Henry đến Ireland nhằm khảo sát tiến trình tổng thể cuộc viễn chinh. Henry thành công trong việc tái áp đặt quyền uy đối với Richard de Clare và các quân phiệt Cambria-Norman, thuyết phục nhiều quốc vương Ireland chấp thuận mình là chúa tể, dàn xếp này được xác nhận theo Hiệp định Windsor năm 1175.
Cuộc xâm chiếm được hợp pháp hóa theo các điều khoản trong chiếu thư Laudabiliter của Giáo hoàng Adrianus IV vào năm 1155. Chiếu thư khuyến khích Henry nắm quyền kiểm soát Ireland nhằm giám sát tái tổ thức tài chính và hành chính của Giáo hội Ireland và tích hợp họ vào hệ thống Giáo hội La Mã. Một số bước tái cơ cấu đã được bắt đầu ở cấp giáo hội sau hội nghị tại Kells vào năm 1152. Tồn tại tranh luận đáng kể về tính xác thực của Laudabiliter
Năm 1172, tân giáo hoàng là Alexander III khuyến khích Henry hơn nữa trong việc thúc đẩy hợp nhất Giáo hội Ireland với Giáo hội La Mã. Đổi lại, Henry nhận tước hiệu "Chúa Ireland" và ông trao nó cho con trai là John Lackland vào năm 1185. Sự kiện này xác định nhà nước Ireland với vị thế Lãnh địa Ireland. Năm 1199, John kế thừa vương vị Anh và giữ lại tước chúa của Ireland.
Trong thế kỷ tiếp theo, luật phong kiến Norman dần thay thế Luật Brehon Gael, đến cuối thế kỷ XIII người Norman tại Ireland lập ra một hệ thống phong kiến trên phần lớn đảo. Các khu định cư của người Norman có đặc điểm là lập ra lãnh địa nam tước, thái ấp, đô thị và hạt, giống hệ thống hạt hiện đại. Một phiên bản của Magna Carta (Đại hiến chương Ireland), thay thế Dublin cho London và Giáo hội Ireland cho Giáo hội Anh, được phát hành vào năm 1216 và Nghị viện Ireland được thành lập vào năm 1297.
Từ giữa thế kỷ XIV, sau Cái chết Đen, các khu định cư Norman tại Ireland lâm vào một giai đoạn suy thoái. Những người cai trị Norman và tầng lớp tinh hoa Ireland Gael liên hôn và các khu vực do người Norman cai trị bị Gael hóa. Tại một số nơi, xuất hiện văn hóa lai tạp Ireland-Norman. Nhằm phản ứng, Nghị viện Ireland thông qua Quy chế Kilkenny vào năm 1367, đây là một bộ luật nhằm ngăn chặn đồng hóa người Norman vào xã hội Ireland bằng cách yêu cầu các thần dân Anh tại Ireland nói tiếng Anh, tuân theo phong tục Anh và pháp luật Anh.
Đến cuối thế kỷ XV, quyền lực trung ương Anh tại Ireland gần như biến mất và văn hoá cùng ngôn ngữ Ireland hồi sinh lại chiếm ưu thế, dù có ảnh hưởng của Norman. Quyền kiểm soát của quân chủ Anh vẫn tương đối vững chắc trong một khu vực không được định rõ bao quanh Dublin gọi là The Pale, và theo các điều khoản trong Luật Poynings vào năm 1494, luật pháp do Nghị viện Ireland ban hành cần được Nghị viện Anh phê chuẩn.
Vương quốc Ireland
Tước hiệu quốc vương Ireland được Quốc vương Anh Henry VIII tái lập vào năm 1542. Pháp quyền Anh được củng cố và mở rộng tại Ireland trong thời gian cuối của thế kỷ XVI, dẫn đến triều đình Tudor chinh phục Ireland. Cuộc chinh phục gần như hoàn tất khi bước sang thế kỷ XVII.
Quyền kiểm soát này càng được củng cố trong các cuộc chiến và xung đột vào thế kỷ XVII, cùng với đó là việc người Anh và người Scotland thực dân hóa các đồn điền tại Ireland, chiến tranh Ba Vương quốc và chiến tranh giữa hai phe ủng hộ James II và William III. Theo ước tính, tổn thất của Ireland trong chiến tranh Ba Vương quốc là 20.000 người thiệt mạng trên chiến trường. Cũng theo ước tính, có 200.000 thường dân thiệt mạng do kết hợp từ nạn đói do chiến tranh, di tán, hoạt động du kích và dịch bệnh trong thời gian chiến tranh. Có thêm 50.000 người bị đưa đi lao dịch có khế ước tại Tây Ấn. Một số sử gia ước tính có đến một nửa dân số Ireland thời tiền chiến đã thiệt mạng do hậu quả của xung đột.
Các cuộc đấu tranh tôn giáo trong thế kỷ XVII để lại phân chia tông phái sâu sắc tại Ireland. Lòng trung thành tôn giáo theo pháp luật giờ đây sẽ quyết định nhận thức về lòng trung thành với quốc vương và nghị viện của Ireland. Sau khi thông qua Đạo luật Test năm 1672, cùng với chiến thắng của lực lượng William-Mary trước phái Jacob, người Công giáo La Mã và người Tin Lành bất đồng không phù hợp đều bị ngăn cấm làm nghị viên Ireland. Theo luật hình sự mới xuất hiện, người Công giáo La Mã và người Tin Lành bất đồng tại Ireland ngày càng bị tước đoạt các quyền dân sự khác nhau, thậm chí là quyền sở hữu tài sản thừa kế. Các đạo luật trừng phạt bổ sung có hồi tố được ban hành vào các năm 1703, 1709 và 1728. Điều này hoàn thành một nỗ lực toàn diện có hệ thống nhằm gây bất lợi lớn cho người Công giáo La Mã và Tin Lành bất đồng, trong khi làm lợi thêm cho tầng lớp cai trị mới gồm các tín đồ Anh giáo phục tùng.
Một đột biến khí hậu gọi là "Sương giá lớn" tác động đến Ireland và phần còn lại của châu Âu từ tháng 12 năm 1739 đến tháng 9 năm 1741. Mùa đông tàn phá loại các cây trồng chủ đạo có thể tích trữ như khoai tây còn mùa hè yếu tàn phá nghiêm trọng thu hoạch. Điều này dẫn đến nạn đói năm 1740, có ước tính cho rằng 250.000 nghìn người (khoảng 1/8 dân số) thiệt mạng do nhiễm trùng và dịch bệnh. Sau nạn đói, sản xuất công nghiệp và mậu dịch gia tăng tạo ra các đợt bùng nổ xây dựng kế tiếp nhau. Dân số tăng cao vào cuối thế kỷ này và di sản kiến trúc George Ireland được tạo dựng. Năm 1782, Luật Poynings bị bãi bỏ, trao cho Ireland quyền lập pháp độc lập với Anh lần đầu tiên kể từ năm 1495. Tuy nhiên, Chính phủ Anh duy trì quyền bổ nhiệm Chính phủ Ireland mà không cần nghị viện Ireland tán thành.
Liên hiệp với Anh
Năm 1798, các thành viên Tin Lành bất đồng truyền thống (chủ yếu là Trưởng Lão) và người Công giáo La Mã tiến hành một cuộc khởi nghĩa cộng hòa do Hội người Ireland Liên hiệp lãnh đạo, mục tiêu là Ireland độc lập. Dù có viện trợ của Pháp, cuộc khởi nghĩa vẫn bị đàn áp. Năm 1800, nghị viện của Anh và Ireland đều thông qua Đạo luật Liên hiệp có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 1801, theo đó hợp nhất Vương quốc Ireland và Vương quốc Anh để hình thành Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland. Việc thông qua đạo luật tại Nghị viện Ireland cuối cùng đạt được đa số đáng kể, sau khi từng thất bại vào năm 1799. Theo các văn kiện đương đại và phân tích lịch sử, điều này đạt được nhờ hối lộ ở mức độ đáng kể, cùng các tặng thưởng khác. Theo đạo luật, nghị viện của Ireland bị bãi bỏ và thay thế nó là nghị viện liên hiệp tại Westminster, Luân Đôn, song kháng cự vẫn tồn tại chẳng hạn như khởi nghĩa Ireland năm 1803.
Ngoại trừ ngành vải lanh thì Ireland phần lớn bị cách mạng công nghiệp bỏ qua, một phần là do đảo thiếu tài nguyên than đá và sắt và một phần là do tác động từ việc liên hiệp đột ngột với một nước Anh vốn có kết cấu kinh tế ưu việt, Anh nhìn nhận Ireland là một nguồn cung nông sản và tư bản.
Nạn đói lớn 1845–1851 tàn phá Ireland, trong những năm này dân số Ireland giảm một phần ba. Có trên một triệu người thiệt mạng do đói và dịch bệnh, hai triệu người khác di cư, hầu hết là đến Hoa Kỳ và Canada. Tiếp sau nạn đói này là một giai đoạn bất ổn dân sự kéo dài đến cuối thế kỷ XIX, được gọi là chiến tranh đất đai. Di cư hàng loạt trở nên phổ biến và khiến dân số tiếp tục giảm cho đến giữa thế kỷ XX. Ngay trước nạn đói, dân số được ghi nhận là 8,2 triệu theo điều tra nhân khẩu năm 1841, kể từ đó chưa từng quay lại được mức này.
Trong thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa dân tộc Ireland hiện đại dâng cao, chủ yếu là trong cộng đồng Công giáo La Mã. Daniel O'Connell là nhân vật chính trị ưu tú người Ireland sau khi liên hiệp với Anh. Ông đắc cử nghị viên thuộc đơn vị Ennis gây ra bất ngờ song ông không thể nhậm chức do là người Công giáo La Mã. O'Connell xung kích trong một chiến dịch nhận được ủng hộ của thủ tướng là Công tước Wellington, một người sinh tại Ireland. Đạo luật Cứu trợ Công giáo được Quốc vương George IV ký thành luật, dù phụ vương của ông là George III từng phản đối một dự luật như vậy vào năm 1801 do lo ngại việc giải phóng cho Công giáo sẽ xung khắc với Đạo luật Định cư 1701.
Daniel O'Connell sau đó lãnh đạo một chiến dịch yêu cầu bãi bỏ Đạo luật Liên hiệp, song thất bại. Cũng trong thế kỷ này, Charles Stewart Parnell và những người khác vận động giành quyền tự trị trong Liên hiệp. Những người theo phái liên hiệp phản đối mạnh mẽ tự trị, đặc biệt là người khu vực Ulster, vì họ cho rằng nó sẽ bị các lợi ích của Công giáo chi phối. Sau vài nỗ lực nhằm thông qua một dự luật tự trị tại nghị viện, tình hình có vẻ chắc chắn rằng một dự luật rốt cuộc sẽ được thông qua vào năm 1914. Nhằm ngăn chặn khả năng này, Quân Tình nguyện Ulster được thành lập vào năm 1913 dưới quyền lãnh đạo của Edward Carson.
Đến năm 1914, Quân Tình nguyện Ireland được thành lập với mục tiêu là đảm bảo rằng Dự luật Tự trị địa phương được thông qua. Đạo luật này được thông qua song "tạm thời" loại trừ 6 hạt của Ulster mà sau này trở thành Bắc Ireland. Tuy nhiên, đạo luật bị đình chỉ trước khi thi hành trong thời gian chiến tranh thế giới thứ nhất. Quân Tình nguyện Ireland bị phân làm hai nhóm. Đa số với khoảng 175.000 người nằm dưới quyền của John Redmond, lấy tên là Quân Tình nguyện Dân tộc và ủng hộ Ireland tham gia đại chiến. Thiểu số với khoảng 13.000 người vẫn lấy tên gọi Quân Tình nguyện Ireland và phản đối Ireland tham gia đại chiến. Nhóm thiểu số này tiến hành khởi nghĩa Phục Sinh năm 1916 cùng với một nhóm dân quân xã hội nhỏ là Quân đội Công dân Ireland. Người Anh cho hành quyết 15 thủ lĩnh khởi nghĩa và tống giam hơn một nghìn người, khiến tâm trạng dân chúng chuyển sang ủng hộ phiến quân. Sự ủng hộ dành cho chủ nghĩa cộng hoà Ireland tăng lên hơn nữa do chiến tranh tiếp diễn tại châu Âu, cũng như khủng hoảng quân dịch năm 1918.
Đảng ủng hộ độc lập là Sinn Féin giành được ủng hộ mạnh mẽ trong tổng tuyển cử năm 1918, đến 1919 họ tuyên bố thành lập một nước Cộng hoà Ireland, lập nghị viện và chính phủ riêng. Đồng thời quân tình nguyện nay gọi là Quân đội Cộng hoà Ireland (IRA) phát động chiến tranh du kích kéo dài trong ba năm, kết thúc bằng một hòa ước vào tháng 7 năm 1921 (song bạo lực tiếp tục cho đến tháng 6 năm 1922, hầu hết là tại Bắc Ireland).
Phân chia
Tháng 12 năm 1921, Hiệp định Anh-Ireland được ký kết giữa Chính phủ Anh và các đại biểu của nghị viện Ireland khoá II. Hiệp định trao cho Ireland độc lập hoàn toàn trong nội vụ và độc lập thực tế trong chính sách ngoại giao, song có một điều khoản lựa chọn không tham gia, cho phép Bắc Ireland duy trì là bộ phận của Vương quốc Liên hiệp. Ngoài ra, nó còn yêu cầu tuyên thệ trung thành với quốc vương. Bất đồng về các điều khoản này dẫn đến phân liệt trong phong trào dân tộc và sau đó là nội chiến giữa tân chính phủ của Nhà nước Tự do Ireland và phái phản đối hiệp định do Éamon de Valera lãnh đạo. Nội chiến kết thúc vào tháng 5 năm 1923 khi Éamon de Valera ban hành lệnh đình chiến.
Ireland độc lập
Trong thập niên đầu tiên, Nhà nước Tự do Ireland mới thành lập nằm dưới quyền cai quản của những người chiến thắng trong nội chiến. Đến khi Éamon de Valera lên nắm quyền, ông tận dụng Pháp lệnh Westminster và tình thế chính trị để xây dựng nền móng cho chủ quyền cao hơn. Việc tuyên thệ trung thành với quốc vương bị bãi bỏ vào năm 1937 khi hiến pháp mới được thông qua. Điều này hoàn tất một quá trình dần ly khai khỏi đế quốc Anh được chính phủ theo đuổi từ khi độc lập. Tuy nhiên, đến năm 1949, thì nhà nước mới chính thức trở thành Cộng hoà Ireland.
Ireland trung lập trong chiến tranh thế giới thứ hai, song cung cấp viện trợ bí mật cho Đồng Minh, đặc biệt là năng lực phòng thủ của Bắc Ireland. Dù trung lập, song có khoảng 50.000 quân tình nguyện từ nước Ireland độc lập gia nhập lực lượng Anh trong chiến tranh.
Xuất cư quy mô lớn diễn ra trong hầu hết giai đoạn hậu chiến (đặc biệt là trong thập niên 1950 và 1980), song kinh tế được cải thiện từ năm 1987, trong thập niên 1990 bắt đầu có tăng trưởng kinh tế đáng kể. Giai đoạn tăng trưởng này được gọi là Con hổ Celtic. Tăng trưởng GDP thực tế của Cộng hoà Ireland đạt trung bình 9,6% mỗi năm từ 1995 đến 1999, đến năm 1999 nước này gia nhập khu vực sử dụng đồng euro. Năm 2000, Ireland là quốc gia giàu có thứ sáu trên thế giới xét theo GDP bình quân.
Biến đổi xã hội cũng diễn ra trong thời gian này, rõ ràng nhất là suy thoái quyền thế của Giáo hội Công giáo. Khủng hoảng tài chính bắt đầu vào năm 2008 làm kết thúc đột ngột giai đoạn bùng nổ kinh tế của Ireland. GDP giảm 3% vào năm 2008 và 7,1% vào năm 2009, là năm tệ hại nhất từ khi có tính toán. Cộng hoà Ireland từ đó trải qua suy thoái sâu sắc, với tỷ lệ thất nghiệp duy trì trên 14% vào năm 2012.
Bắc Ireland
Bắc Ireland được lập ra với vị thế một đơn vị của Anh theo Đạo luật Chính phủ Ireland năm 1920 và có quyền hạn tự trị bên trong Anh với nghị viện và thủ tướng riêng cho đến năm 1972. Bắc Ireland do là bộ phận của Anh nên không trung lập trong Chiến tranh thế giới thứ hai và thủ đô Belfast bị 4 trận oanh tạc vào năm 1941. Chế độ quân dịch không mở rộng đến Bắc Ireland và số quân tình nguyện từ Bắc Ireland gần như bằng số quân tình nguyện đến từ Ireland độc lập.
Dù Bắc Ireland phần lớn tránh được xung đột trong nội chiến Ireland, song vào các thập niên sau khi phân chia đã xảy ra xung đột lẻ tẻ giữa các cộng đồng. Những người dân tộc chủ nghĩa chủ yếu là tín đồ Công giáo La Mã, họ muốn thống nhất đảo Ireland thành một nước cộng hòa, trong khi những người liên hiệp chủ nghĩa chủ yếu theo Tin Lành và muốn Bắc Ireland duy trì là bộ phận của Anh. Các cộng đồng Tin Lành và Công giáo La Mã tại Bắc Ireland phần lớn bỏ phiếu theo làn ranh giáo phái, đồng nghĩa với việc Chính phủ Bắc Ireland (bầu theo thể thức đa số) do Đảng Liên hiệp Ulster kiểm soát. Theo thời gian, cộng đồng Công giáo La Mã thiểu số ngày càng cảm thấy bị xa lánh cùng với gia tăng bất mãn do sắp xếp khu vực bầu cử gây bất lợi cho họ, hay họ bị kì thị trong nhà ở và công việc.
Đến cuối thập niên 1960, bất bình của phái dân tộc chủ nghĩa bộc lộ công khai trong các cuộc kháng nghị dân quyền đại chúng, song thường phải đương đầu với các cuộc phản kháng của phái trung thành. Phản ứng của chính phủ được cho là một chiều và mạnh tay theo hướng ủng hộ phái Liên hiệp. Pháp luật và trật tự bị phá vỡ khi náo loạn và bạo lực giữa các cộng đồng tăng lên. Chính phủ Bắc Ireland yêu cầu Lục quân Anh viện trợ cảnh sát. Năm 1969, Quân đội Cộng hoà Ireland Lâm thời bán quân sự xuất hiện do tách ra từ Quân đội Cộng hoà Ireland, họ ủng hộ thành lập một Ireland thống nhất, và bắt đầu tiến hành một chiến dịch chống lại điều mà họ gọi là "sự chiếm đóng của Anh tại sáu hạt".
Các nhóm khác thuộc cả bên phía liên hiệp và dân tộc cũng tham gia vào bạo lực, một thời kỳ được gọi là the Troubles bắt đầu. Có trên 3.600 người thiệt mạng trong ba thập niên xung đột. Do bất ổn dân sự, Chính phủ Anh đình chỉ tự trị vào năm 1972 và áp đặt cai trị trực tiếp đối với Bắc Ireland. Năm 1998, sau một lệnh đình chiến của Quân đội Cộng hoà Ireland Lâm thời và đàm phán nhiều bên, Hiệp nghị Thứ sáu Tốt lành được ký kết giữa chính phủ Anh và Ireland, bổ sung văn bản nhất trí trong đàm phán nhiều bên.
Nội dung của hiệp nghị sau đó được tán thành thông qua trưng cầu dân ý tại cả hai bộ phận của đảo Ireland. Hiệp nghị khôi phục tự trị cho Bắc Ireland trên cơ sở chia sẻ quyền lực trong hành pháp giữa các đảng lớn trong Nghị hội Bắc Ireland. Cơ quan hành pháp cùng nằm dưới quyền của một bộ trưởng thứ nhất và thứ trưởng thứ nhất đến từ các đảng liên hiệp và dân tộc. Bạo lực giảm mạnh sau khi đình chiến vào năm 1994 và đến năm 2005 Quân đội Cộng hoà Ireland Lâm thời tuyên bố kết thúc chiến dịch vũ trang của họ, một ủy ban độc lập giám sát giải trừ quân bị của lực lượng này và các tổ chức dân quân dân tộc và liên hiệp khác.
Nghị hội và cơ quan hành pháp chia sẻ quyền lực bị đình chỉ vài lần song lại được khôi phục vào năm 2007. Trong năm này, Chính phủ Anh chính thức kết thúc hỗ trợ quân sự cho cảnh sát Bắc Ireland và bắt đầu triệt thoái binh sĩ.
Chính trị
Về chính trị, đảo Ireland bị phân chia giữa Cộng hoà Ireland độc lập và Bắc Ireland thuộc Vương quốc Liên hiệp Anh. Hai thực thể có biên giới mở và đều nằm trong Khu vực đi lại chung. Cộng hoà Ireland và Anh Quốc đều là thành viên của Liên minh châu Âu, do đó tồn tại tự do di chuyển về con người, hàng hoá, dịch vụ và vốn qua biên giới.
Cộng hoà Ireland là một quốc gia dân chủ đại nghị dựa theo mô hình Anh, có hiến pháp thành văn và một tổng thống do dân chúng bầu ra, song tổng thống có quyền lực hầu như mang tính nghi lễ. Người đứng đầu chính phủ là thủ tướng (Taoiseach), do tổng thống bổ nhiệm theo đề cử của hạ nghị viện (Dáil). Các thành viên trong chính phủ do hạ nghị viện và thượng nghị viện (Seanad) lựa chọn. Thủ đô của Cộng hòa Ireland là Dublin.
Bắc Ireland có cơ quan hành pháp và lập pháp địa phương, thi hành quyền lực được Anh phân quyền. Đứng đầu cơ quan hành pháp là bộ trưởng thứ nhất và thứ trưởng thứ nhất, còn các bộ trưởng được phân bổ theo tỷ lệ đại biểu của mỗi đảng trong nghị hội. Thủ đô Bắc Ireland là Belfast. Quyền lực chính trị tối hậu thuộc về Chính phủ Anh, Chính phủ Anh từng có các giai đoạn cai trị trực tiếp Bắc Ireland. Bắc Ireland được phân 18 ghế trong số 650 ghế của Hạ nghị viện Anh. Quốc vụ khanh về Bắc Ireland là một chức vụ cấp nội các trong chính phủ của Anh. Bắc Ireland tạo thành một trong ba khu vực phạm vi quyền hạn tư pháp riêng biệt của Anh, song Tòa án Tối cao Anh là tòa án tối cao.
Theo Hiệp nghị Thứ sáu Tốt lành, hai chính phủ Anh và Ireland chấp thuận thành lập các thể chế toàn đảo và các lĩnh vực hợp tác. Hội đồng Bộ trưởng Bắc/Nam là một thể chế gồm bộ trưởng trong chính phủ của Ireland và cơ quan hành pháp của Bắc Ireland, nhằm đồng thuận về các chính sách toàn đảo. Hội nghị liên chính phủ Anh-Ireland cung cấp hợp tác giữa chính phủ Anh và Ireland trên toàn bộ các vấn đề cùng quan tâm, đặc biệt là Bắc Ireland. Trong bối cảnh Cộng hoà Ireland quan tâm đặc biệt về cai quản Bắc Ireland, các phiên họp "định kỳ và thường lệ" dưới sự đồng chủ trì của Bộ trưởng Ngoại giao Ireland và Quốc vụ khanh về Bắc Ireland của Anh, liên quan đến các vấn đề không được phân quyền cho Bắc Ireland và các vấn đề toàn Ireland không được phân quyền. Hiệp hội Liên nghị viện Bắc/Nam là một diễn đàn cho toàn đảo, thể chế này không có quyền lực chính thức song hoạt động nhằm thảo luận các vấn đề cùng quan tâm giữa các cơ quan lập pháp tương ứng.
Địa lý
Đảo Ireland nằm tại phía tây bắc của châu Âu, giữa vĩ tuyến 51° và 56° Bắc, giữa kinh tuyến 11° và 5° Tây. Đảo Ireland tách biệt với đảo Anh qua biển Ireland và eo biển Bắc có chiều rộng hẹp nhất là 23 km. Phía tây đảo là Đại Tây Dương, phía nam đảo là biển Celtic. Đảo Ireland có tổng diện tích là 84.421 km².. Đảo Ireland và đảo Anh cùng nhiều đảo nhỏ xung quanh được gọi chung là quần đảo Anh.
Một vành đai các dãy núi duyên hải bao quanh các đồng bằng thấp tại trung tâm của đảo. Đỉnh núi cao nhất trong số đó là Carrauntoohil thuộc hạt Kerry với độ cao 1.038 m trên mực nước biển. Vùng đất thích hợp nhất cho canh tác nằm tại tỉnh Leinster. Khu vực phía tây có nhiều địa hình đồi núi và lắm đá với tầm nhìn toàn cảnh xanh tươi. Sông Shannon là sông dài nhất trên đảo Ireland với 386 km, khởi nguồn tại hạt Cavan thuộc miền tây bắc và chảy 113 km đến thành phố Limerick thuộc miền trung tây.
Đảo gồm có nhiều miền địa chất. Tại cực tây, quanh hạt Galway và hạt Donegal là một tổ hợp đá biến chất và hỏa sinh bậc trung và cao thuộc hệ Caledonia, tương tự Cao địa Scotland. Quanh đông nam Ulster và kéo dài về phía tây nam đến Longford và phía nam đến Navan là miền đá Ordovic và Silur, tương tự Cao địa Miền Nam của Scotland. Xa về phía nam, dọc duyên hải của hạt Wexford, là một khu vực xâm nhập granite vào đá có tính Ordovic và Silur cao, tương tự Wales.
Tại phía tây nam, dọc vịnh Bantry và dãy núi Macgillicuddy's Reeks, là một khu vực biến dạng đáng kể, song chỉ là đá biến dạng nhẹ thuộc kỷ Devon. Vành đai địa chất "đá cứng" cục bộ này được bao phủ bằng một lớp đá vôi kỷ Cácbon tại trung tâm đảo, làm gia tăng tăng cảnh quan tương đối phì nhiêu và tươi tốt. Khu vực duyên hải phía tây Burren quanh Lisdoonvarna có đặc điểm karst phát triển mạnh.
Thăm dò hydrocarbon đang được tiến hành sau khi có phát hiện lớn đầu tiên tại mỏ khí đốt Kinsale Head ngoài khơi Cork vào giữa thập niên 1970. Năm 1999, có phát hiện khí đốt đáng kể về kinh tế tại mỏ khí Corrib ngoài khơi hạt Mayo. Điều này làm gia tăng hoạt động tại ngoài khơi duyên hải phía tây song song với phát triển "Tây Shetland". Mỏ dầu Helvick ước tính chứa dầu theo một khám phá khác.
Khí hậu
Thảm thực vật tươi tốt trên đảo là do khí hậu ôn hòa và thường xuyên có mưa. Về tổng thể, Ireland có khí hậu đại dương ôn hòa song dễ thay đổi với ít cực độ. Khí hậu mang đặc trưng hải đảo và điều độ, tránh được các cực độ về nhiệt độ như nhiều khu vực cùng vĩ độ trên thế giới. Đây là kết quả của gió ẩm điều hòa thường xuất hiện từ Đại Tây Dương.
Mưa rơi suốt năm song về tổng thể là thấp, đặc biệt là tại miền đông. Miền tây có xu hướng mưa nhiều hơn về trung bình và hay gặp bão Đại Tây Dương, đặc biệt là vào cuối thu và đông. Chúng thỉnh thoảng đưa đến các trận gió có tính tàn phá và tổng lượng mưa cao hơn đến các khu vực này, cũng như đôi khi là tuyết và mưa đá. Khu vực phía bắc hạt Galway và phía đông hạt Mayo xảy ra nhiều sét nhất trên đảo, xuất hiện khoảng từ năm đến mười ngày mỗi năm. Munster tại phía nam có ít tuyết rơi nhất, còn Ulster tại phía bắc có tuyết rơi nhiều nhất.
Khu vực nội địa ấm hơn vào mùa hè và lạnh hơn vào mùa đông. Tại các trạm khí hậu nội địa thường có khoảng 40 ngày trong năm có nhiệt độ dưới mức đóng băng 0 °C, trong khi tại các trạm duyên hải có mười ngày. Ireland đôi khi chịu tác động từ các sóng nhiệt, gần đây là vào năm 1995, 2003, 2006 và 2013. Cùng với phần còn lại của châu Âu, Ireland trải qua thời tiết thường xuyên giá lạnh trong mùa đông 2009/10. Nhiệt độ xuống thấp đến −17,2 °C tại hạt Mayo vào ngày 20 tháng 12 và tuyết rơi dày đến một mét tại các vùng núi.
Động thực vật
Do Ireland trở nên biệt lập với châu Âu lục địa trước khi kỷ băng hà cuối hoàn toàn kết thúc, đảo có ít loài động thực vật hơn so với đảo Anh vốn tách khỏi lục địa sau đó. Đảo Ireland có 55 loài thú, và trong đó chỉ có 26 loài thú cạn được cho là loài bản địa của Ireland. Một số loài như cáo đỏ, nhím gai và lửng rất phổ biến, trong khi những loài như thỏ Ireland, hươu đỏ, chồn thông thì hiếm gặp. Động vật hoang dã dưới nước, như rùa biển, cá mập, hải cẩu, cá voi và cá heo phổ biến tại ngoài khơi. Có khoảng 400 loài chim được ghi nhận tại Ireland, nhiều loài trong đó là chim di cư.
Trên đảo có một số loại môi trường sống khác nhau, gồm đất nông nghiệp, đất rừng mở, rừng lá rộng và hỗn hợp ôn đới, đồn điền thông, bãi lầy than bùn và các môi trường duyên hải khác nhau. Tuy nhiên, nông nghiệp chiếm ưu thế trong sử dụng đất trên đảo, hạn chế bảo tồn môi trường tự nhiên, đặc biệt là cho các loài thú hoang cỡ lớn cần lãnh thổ rộng. Do không có động vật ăn thịt đầu bảng cỡ lớn trên đảo ngoại trừ người và chó, nên không thể kiểm soát bằng tự nhiên số lượng các loài động vật như hươu bán hoang dã, mà phải dùng cách tiêu hủy mỗi năm.
Trên đảo không có rắn, loài bò sát bản địa duy nhất trên đảo là thằn lằn thông thường. Nai sừng tấm Ireland, an ca lớn và chó sói là các loài đã tuyệt chủng trên đảo. Một số loài tuyệt chủng từ trước trên đảo như đại bàng vàng được đưa lại đến đảo sau nhiều thập niên. Cho đến thời kỳ Trung Cổ, Ireland có rừng bao phủ nhiều với các loài sồi, thông, bạch dương. Hiện nay, rừng bao phủ khoảng 12,6% diện tích của đảo Ireland, trong đó 4.450 km² thuộc quyền sở hữu của cơ quan lâm nghiệp Ireland.
Tính đến năm 2012, Cộng hoà Ireland là một trong số những nước có tỷ lệ che phủ rừng thấp nhất tại châu Âu. Hầu hết đất đai nay là đồng cỏ và có nhiều loài hoa dại. Cây kim tước (Ulex europaeus) mọc nhiều trên vùng đất cao còn dương xỉ có nhiều tại các khu vực ẩm ướt hơn, đặc biệt là các phần phía tây. Đảo có hàng trăm loài thực vật, trong đó có một số loài đặc hữu bị một số loại cây thân cỏ xâm lấn như cỏ biển Spartina.
Tác động của nông nghiệp
Do có lịch sử sản xuất nông nghiệp lâu dài, cộng thêm phương thức nông nghiệp thâm canh hiện đại như sử dụng thuốc trừ sâu và phân bón rồi để chất ô nhiễm chảy vào dòng chảy, sông hồ, nên gây tác động lên hệ sinh thái nước ngọt và gây áp lực đến đa dạng sinh học tại Ireland.
Đất dành cho trồng trọt và chăn nuôi làm hạn chế không gian của các loài hoang dã bản địa. Tuy nhiên, các hàng rào cây từ xưa được sử dụng để giữ và phân giới đất trở thành một nơi nương tựa cho các thực vật hoang dã bản địa. Hệ sinh thái này trải dài khắp vùng thôn quê và đóng vai trò là một mạng liên kết các tàn dư vẫn được bảo tồn của hệ sinh thái từng bao phủ đảo. Các khoản trợ cấp theo Đạo luật Nông nghiệp Cộng đồng hỗ trợ tiến hành nông nghiệp theo cách bảo tồn môi trường hàng rào cây và đang được cải cách. Chính sách này trong quá khứ từng trợ cấp cho hoạt động nông nghiệp có khả năng tàn phá, nhưng không hạn chế sử dụng bừa bãi thuốc trừ sâu và phân bón; song các cải cách dần đưa ra các yêu cầu môi trường và yêu cầu khác.
Rừng bao phủ khoảng 12,6% diện tích đảo, hầu hết được xác định cho sản xuất thương mại. Diện tích rừng đặc trưng là gồm các đồn điền độc canh các loài phi bản địa, có thể dẫn đến môi trường sống không phù hợp cho các loài bản địa. Tàn dư của rừng bản địa nằm rải rác quanh đảo, đặc biệt là trong vườn quốc gia Killarney. Các khu vực tự nhiên cần phải có hàng rào để ngăn hươu và cừu nuôi tràn sang. Việc chăn thả quá độ là một trong những yếu tố chính ngăn chặn rừng tái sinh tự nhiên tại nhiều khu vực.
Kinh tế
Dù hai chính thể trên đảo sử dụng hai đơn vị tiền tệ khác nhau (euro và bảng Anh), song hoạt động thương mại ngày càng gia tăng trên nền tảng toàn Ireland. Điều này được tạo thuận tiện do hai chính thể cùng là thành viên của Liên minh châu Âu có các yêu cầu trong giới kinh doanh và hoạch định chính sách về hình thành một "kinh tế toàn Ireland" để tận dụng lợi thế kinh tế quy mô và nâng cao tính cạnh tranh.
Bên dưới là so sánh GDP khu vực trên đảo Ireland.
Du lịch
Ireland có 3 di sản thế giới: Brú na Bóinne, Skellig Michael và Giant's Causeway. Một số địa điểm khác có trong danh sách đề cử là Burren, Ceide Fields.
Một số địa điểm có nhiều khách đến thăm nhất tại Ireland là Thành Bunratty, Rock of Cashel, Vách đá Moher, Tu viện Holy Cross và Thành Blarney. Các di tích tu viện có tầm quan trọng lịch sử là Glendalough và Clonmacnoise, chúng là các công trình kỷ niệm quốc gia tại Cộng hoà Ireland.
Dublin là khu vực có đông du khách nhất và có một vài điểm thu hút nhiều du khách như Nhà kho Guinness và Phúc Âm Kells. Phía tây và tây nam có nhóm hồ Killarney và bán đảo Dingle thuộc hạt Kerry và Connemara cùng quần đảo Aran thuộc hạt Galway, là các điểm du khách nổi tiếng.
Đảo Achill nằm ngoài khơi hạt Mayo và là đảo lớn nhất Ireland nếu không tính đảo chính. Đây là điểm du lịch nổi tiếng đối với môn lướt sóng và có 5 bãi biển đạt chứng nhận Blue Flag, còn Croaghaun là một trong các vách núi biển cao nhất thế giới. Những ngôi nhà trang nghiêm kiểu Anh được xây dựng trong các thế kỷ XVII, XVIII và XIX tại Palladian theo phong cách tân cổ điển và tân Gothic, như Castle Ward, Castletown House, Bantry House, Thành Glenveagh cũng được du khách quan tâm. Một số được chuyển đổi thành khách sạn, chẳng hạn Thành Ashford, Thành Leslie và Thành Dromoland.
Năng lượng
Ireland có một ngành cổ xưa là dựa vào than bùn để làm nguồn năng lượng cho các gia đình sử dụng. Nguồn nhiệt này là một dạng năng lượng sinh khối và vẫn được sử dụng rộng rãi tại các khu vực nông thôn. Tuy nhiên, do tầm quan trọng của đất than bùn đối với lưu giữ cacbon và do nó hiếm có, Liên minh châu Âu có nỗ lực nhằm bảo tồn môi trường sống này bằng cách phạt Ireland nếu đào chúng lên. Trong các thành phố, nhiệt thường được cung cấp bằng dầu đốt lò, song một số nhà cung cấp phân phối "đất mặt than bùn" làm "nhiên liệu không khói".
Đảo Ireland có một thị trường điện đơn nhất. Trong phần lớn thời gian, mạng lưới điện của Cộng hoà Ireland và Bắc Ireland hoàn toàn tách biệt. Tuy nhiên, trong thời gian qua chúng được liên kết bằng ba tuyến và cũng được liên kết qua đảo Anh đến châu Âu lục địa. Tình hình tại Bắc Ireland phức tạp do các công ty tư nhân không cung ứng đủ điện năng cho Điện lực Bắc Ireland (NIE). Tại Cộng hoà Ireland, ESB thất bại trong việc hiện đại hoá các trạm điện và năng suất của các nhà máy điện ở mức tệ hại so với Tây Âu. EirGrid xây dựng một tuyến truyền tải dòng một chiều cao áp giữa đảo Ireland và đảo Anh với công suất 500 MW.
Mạng phân phối khí đốt cũng liên kết toàn đảo, có đường ống nối Gormanston thuộc hạt Meath, và Ballyclare thuộc hạt Antrim hoàn thành vào năm 2007. Hầu hết khí đốt của Ireland đến từ liên kết giữa Twynholm tại Scotland và Ballylumford thuộc hạt Antrim và Loughshinny thuộc hạt Dublin. Nguồn cung giảm đi từ mỏ khí đốt Kinsale ngoài khơi hạt Cork và mỏ khí Corrib ngoài khơi hạt Mayo vẫn chưa có đường ống.
Cộng hoà Ireland biểu thị cam kết mạnh mẽ đối với năng lượng tái tạo, xếp hạng nhất trong 10 thị trường đầu tư công nghệ sạch theo chỉ số kinh tế xanh toàn cầu năm 2014.
Nhân khẩu
Tôn giáo lớn nhất trên đảo Ireland là Cơ Đốc giáo, giáo phái lớn nhất là Công giáo do có trên 73% cư dân trên đảo tin theo (khoảng 87% cư dân Cộng hoà Ireland). Hầu hết các cư dân còn lại là thành viên của các giáo phái Tin Lành (khoảng 48% cư dân Bắc Ireland). Giáo phái Tin Lành lớn nhất là Giáo hội Ireland của Anh giáo. Cộng đồng Hồi giáo đang phát triển tại Ireland, hầu hết là do nhập cư gần đây, với tỷ lệ tăng trưởng 50% tại Cộng hoà Ireland trong giai đoạn 2006-2011. Khoảng 4% dân số Cộng hoà Ireland và khoảng 14% dân số Bắc Ireland tự nhận là không theo tôn giáo. Trong một nghiên cứu vào năm 2010, 32% số người trả lời nói rằng họ tới buổi lễ tôn giáo trên một lần mỗi tuần.
Dân số Ireland gia tăng nhanh chóng từ thế kỷ XVI cho đến giữa thế kỷ XIX, bị gián đoạn một thời gian ngắn do nạn đói năm 1740-41 khiến gần 2/3 dân số trên đảo thiệt mạng. Dân số khôi phục và tăng cấp số nhân trong thế kỷ sau, song nạn đói trong thập niên 1840 khiến một triệu người thiệt mạng và buộc hơn một triệu người di cư ngay lập tức. Trong thế kỷ sau đó, dân số giảm còn hơn một nửa, trong khi vào thời gian này xu hướng chung của các quốc gia châu Âu là dân số tăng trung bình ba lần.
Phân chia và định cư
Theo truyền thống, đảo Ireland được phân thành bốn tỉnh: Connacht (tây), Leinster (đông), Munster (nam) và Ulster (bắc). Theo một hệ thống được phát triển từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XVII, Ireland có 32 hạt truyền thống. 26 hạt trong số đó thuộc Cộng hòa Ireland và 6 hạt thuộc Bắc Ireland. Sáu hạt truyền thống thuộc Bắc Ireland đều thuộc tỉnh Ulster (tỉnh này có 9 hạt truyền thống). Do đó, Ulster thường được sử dụng đồng nghĩa với Bắc Ireland, song hai địa danh không có chung ranh giới.
Tại Cộng hoà Ireland, các hạt tạo thành cơ sở cho hệ thống chính quyền địa phương. Các hạt Dublin, Cork, Limerick, Galway, Waterford và Tipperary bị tách thành các khu vực hành chính nhỏ hơn. Tuy nhiên, chúng vẫn được xem như hạt vì mục đích văn hóa và các mục đích chính thức khác, như bưu chính và đo đạc địa hình. Các hạt tại Bắc Ireland không còn được sử dụng cho mục đích chính quyền địa phương, song ranh giới truyền thống của chúng vẫn được sử dụng cho các mục đích phi chính thức như giải đấu thể thao và trong văn hóa hay du lịch.
Vị thế thành phố tại đảo Ireland được xác định theo pháp luật hoặc chiếu chỉ. Đại Dublin có trên một triệu cư dân, là thành phố lớn nhất trên đảo. Belfast có 579.726 cư dân, là thành phố lớn nhất tại Bắc Ireland. Vị thế thành phố không tương xứng trực tiếp với quy mô dân số, chẳng hạn Armagh có 14.590 dân song có hội sở của Giáo hội Ireland theo Anh giáo và Tổng giám mục Toàn Ireland theo Công giáo và được tái xác định là thành phố vào năm 1914. Tại Cộng hoà Ireland, Kilkenny từng là trị sở của gia tộc Butler, dù không còn là thành phố trong mục đích hành chính, song theo luật vẫn được sở dụng nó để mô tả.
Di cư
Dân số đảo Ireland sụt giảm đáng kể trong nửa cuối thế kỷ XIX. Dân số đạt trên 8 triệu vào năm 1841 song giảm còn hơn 4 triệu vào năm 1921. Dân số giảm một phần là do có nhiều người thiệt mạng trong nạn đói lớn từ năm 1845 đến năm 1852, với con số 1 triệu. Tuy nhiên, nguyên nhân lớn hơn khiến dân số suy giảm là tình trạng kinh tế tệ hại trên đảo, khiến cho văn hoá di cư ăn sâu cho đến cuối thế kỷ XX.
Di cư từ Ireland trong thế kỷ XIX góp phần làm gia tăng dân số tại Anh, Hoa Kỳ, Canada và Úc, tại những nơi này có cộng đồng người Ireland tha hương quy mô lớn. , 4,3 triệu người Canada, tức 14% dân số, có tổ tiên Ireland. , tổng cộng 34,5 triệu người Mỹ tự nhận có tổ tiên Ireland.
Do kinh tế ngày càng thịnh vượng vào cuối thế kỷ XX, Ireland trở thành một điểm đến cho những người nhập cư. Kể từ khi Liên minh châu Âu mở rộng bao gồm Ba Lan vào năm 2004, người Ba Lan chiếm số lượng di dân lớn nhất (trên 150.000 người) đến từ Trung Âu. Ngoài ra, cón có số lượng đáng kể di dân đến từ Litva, Séc và Latvia.
Cộng hoà Ireland trải qua nhập cư quy mô lớn, có 420.000 ngoại kiều vào năm 2006, chiếm khoảng 10% dân số. Một phần tư số ca sinh (24 %) trong năm 2009 là từ các bà mẹ sinh ra bên ngoài Ireland. người Hoa, người Nigeria và các quốc gia châu Phi khác chiếm một tỷ lệ lớn di dân ngoài Liên minh châu Âu tại Ireland. Có đến 50.000 công nhân nhập cư từ Đông và Trung Âu rời khỏi Cộng hoà Ireland khi nước này lâm vào khủng hoảng tài chính.
Ngôn ngữ
Hai ngôn ngữ chính tại Ireland là tiếng Ireland và tiếng Anh, chúng đều có đóng góp lớn cho văn học. Tiếng Ireland nay là ngôn ngữ thiểu số song vẫn có địa vị chính thức tại Cộng hoà Ireland, đây là tiếng mẹ đẻ của cư dân Ireland trong hơn hai nghìn năm. Ngôn ngữ Ireland có chữ viết sau khi đảo được Cơ Đốc giáo hóa vào thế kỷ V, ngôn ngữ này còn được truyền bá đến Scotland và đảo Man rồi tiến hóa thành tiếng Gael Scotland và tiếng Man. Tiếng Ireland bị suy thoái dưới thời Anh cai trị song vẫn là ngôn ngữ đa số cho đến đầu thế kỷ XIX và kể từ đó trở thành ngôn ngữ thiểu số, song các nỗ lực phục hồi đang tiếp tục trên toàn đảo.
Gaeltacht là các khu vực nói tiếng Ireland, tại những nơi này vẫn xảy ra hiện tượng suy thoái ngôn ngữ. Các khu vực Gaeltacht chính nằm về phía tây của đảo, tại Donegal, Mayo, Galway và Kerry cùng các khu vực Gaeltacht nhỏ gần Dungarvan thuộc Waterford, Navan, tại Meath. Tiếng Ireland là một môn học bắt buộc trong hệ thống giáo dục công tại Cộng hòa Ireland, và nhiều trường giảng dạy bằng tiếng Ireland được thành lập tại cả hai phần của đảo.
Tiếng Anh được đưa đến Ireland lần đầu tiên khi người Norman xâm chiếm. Khi đó, nó là ngôn ngữ của số ít nông dân và thương nhân đến từ Anh và phần lớn bị tiếng Ireland thay thế trước khi triều Tudor chinh phục Ireland. Nó trở thành ngôn ngữ chính thức sau các cuộc chinh phục của triều Tudor và Cromwell. Các đồn điền Ulster khiến tiếng Anh có chỗ đứng vững chắc tại Ulster và nó duy trì là ngôn ngữ chính thức; thượng lưu tại nơi khác, các tù trưởng và quý tộc nói tiếng Ireland bị hạ bệ. Chuyển đổi ngôn ngữ trong thế kỷ XIX thay thế tiếng Ireland bằng tiếng Anh khi đại đa số cư dân trên đảo có ngôn ngữ thứ nhất là tiếng Anh.
Ngày nay, dưới 10% cư dân Cộng hoà Ireland nói tiếng Ireland thường xuyên ngoài hệ thống giáo dục và 38% những người trên 15 tuổi được phân loại là "người nói tiếng Ireland". Tại Bắc Ireland, tiếng Ireland được công nhận chính thức, có các biện pháp bảo hộ cụ thể, còn các phương ngữ Scot Ulster có vị thế bảo hộ thấp hơn. Kể từ thập niên 1960, do nhập cư gia tăng, có nhiều ngôn ngữ được đưa tới đảo, đặc biệt là từ châu Á và Đông Âu.
Tiếng Shelta là ngôn ngữ của người Ireland du cư, là một ngôn ngữ bản địa của Ireland.
Văn hoá
Văn hoá Ireland bao gồm yếu tố của văn hóa của các dân tộc cổ đại, ảnh hưởng văn hóa của di dân về sau và của truyền thông (chủ yếu là văn hóa Gael, Anh hoá, Mỹ hóa và các khía cạnh của văn hóa châu Âu rộng hơn). Về tổng quát, Ireland được nhìn nhận là một trong số các quốc gia Celt, cùng với Scotland, Wales, Cornwall, đảo Man và Bretagne. Sự kết hợp các ảnh hưởng văn hóa này có thể thấy được trong các thiết kế phức tạp có tên là đan xen kiểu Ireland hay trang trí dây bện Celt. Có thể trông thấy chúng trong cách trang trí các công trình Trung Cổ và thế tục. Phong cách này hiện vẫn phổ biến trong nghệ thuật kim cương và tạo hình, cũng như là phong cách đặc trưng trong âm nhạc và vũ đạo truyền thống Ireland, và trở thành chỉ dấu của văn hoá "Celt" hiện đại nói chung.
Tôn giáo giữ vai trò đáng kể trong sinh hoạt văn hóa trên đảo kể từ thời cổ đại (và từ khi xuất hiện các đồn điền trong thế kỷ XVII thì tập trung vào bản sắc và phân chia chính trị trên đảo). Di sản tiền Cơ Đốc của Ireland kết hợp cùng Giáo hội Celt sau khi có các đoàn truyền giáo của Thánh Patrick trong thế kỷ V. Các đoàn truyền giáo Ireland-Scotland có khởi đầu là tu sĩ người Ireland Columba, chúng giúp truyền bá mô hình Cơ Đốc giáo Ireland đến Anh và Francia ngoại giáo. Các đoàn truyền giáo này đưa ngôn ngữ thành văn đến cộng đồng mù chữ tại châu Âu trong Thời kỳ Đen tối sau khi La Mã sụp đổ, khiến Ireland giành được biệt hiệu là "đảo của các thánh và học giả".
Nghệ thuật
Ireland có đóng góp lớn cho văn học thế giới trong tất cả các thể loại, đặc biệt là văn học Anh ngữ. Thơ tiếng Ireland nằm trong số thơ tiếng bản địa cổ nhất tại châu Âu, có các mẫu vật sớm nhất có niên đại từ thế kỷ VI. Trong văn học Anh ngữ, Jonathan Swift là một nhà văn trào phúng lỗi lạc, rất nổi tiếng trong thời gian của ông với các tác phẩm như Gulliver du kí và A Modest Proposal, còn Oscar Wilde hầu như nổi tiếng nhờ các lời nhận xét tế nhị của ông.
Trong thế kỷ XX, Ireland có bốn người đoạt giải Nobel văn học là George Bernard Shaw, William Butler Yeats, Samuel Beckett và Seamus Heaney. Dù không được giải Nobel, song James Joyce được nhìn nhận phổ biến là một trong các nhà văn quan trọng nhất của thế kỷ XX. Tiểu thuyết Ulysses vào năm 1922 của ông được cho là một trong số các tác phẩm quan trọng nhất của văn học hiện đại chủ nghĩa và cuộc đời ông được kỷ niệm thường niên vào ngày 16 tháng 6 tại Dublin với tên gọi "Bloomsday". Văn học Ireland hiện đại thường liên kết với di sản nông thôn trên đảo thông qua các nhà văn như John McGahern và các nhà thơ như Seamus Heaney.
Có bằng chứng về âm nhạc hiện diện tại Ireland từ thời tiền sử. Mặc dù trong sơ kỳ Trung Cổ giáo hội "hầu như không tương đồng với đối tác của họ tại châu Âu lục địa", song tồn tại trao đổi đáng kể giữa các khu tu sĩ tại Ireland và phần còn lại của châu Âu, đóng góp cho thể loại được gọi là bình ca Gregoriano. Bên ngoài cơ sở tôn giáo, Ireland Gel thời kỳ đầu gồm bộ ba thể loại nhạc khóc (goltraige), nhạc cười (geantraige) và nhạc ngủ (suantraige). Âm nhạc thanh âm và nhạc cụ được truyền bá bằng cách truyền khẩu, song đàn hạc Ireland quan trọng đến mức trở thành biểu trưng quốc gia của Ireland. Âm nhạc cổ điển theo mô hình châu Âu phát triển sớm nhất tại các khu vực đô thị, trong các cơ sở nằm dưới quyền cai trị của người Ireland gốc Anh như Lâu đài Dublin, Nhà thờ Lớn St Patrick's và Christ Church, và Messiah (1742) của Handel nằm trong số tác phẩm nổi bật của thời kỳ baroque. Trong thế kỷ XIX, các buổi hoà nhạc công cộng khiến âm nhạc cổ điển đến với mọi tầng lớp xã hội, song vì nguyên nhân chính trị và tài chính nên những nhà soạn nhạc người Ireland nổi tiếng khi đó là những người di cư khỏi đảo.
Âm nhạc và vũ đạo truyền thống Ireland trở nên nổi tiếng toàn cầu kể từ thập niên 1960. Vào những năm giữa thế kỷ XX, xã hội Ireland trải qua hiện đại hóa, âm nhạc truyền thống không còn được ưa chuộng, đặc biệt là tại các khu vực đô thị. Tuy nhiên trong thập niên 1960, diễn ra phong trào khôi phục quan tâm đến âm nhạc truyền thống Ireland với các ban nhạc tiên phong là The Dubliners, The Chieftains, The Wolfe Tones, Clancy Brothers, Sweeney's Men và các cá nhân như Seán Ó Riada và Christy Moore. Các nhóm nhạc và nhạc sĩ như Horslips, Van Morrison và Thin Lizzy kết hợp các yếu tố trong âm nhạc truyền thống Ireland vào nhạc rock đương đại, và trong thập niên 1970 và 1980 khác biệt giữa nhạc sĩ truyền thống và rock trở nên mờ nhạt. Có thể nhận thấy xu hướng này gần đây hơn trong tác phẩm của các nghệ sĩ như Enya, The Saw Doctors, The Corrs, Sinéad O'Connor, Clannad, The Cranberries và The Pogues.
Nghệ thuật tạo hình và điêu khắc sớm nhất được biết đến tại Ireland là các chạm khắc thời kỳ đồ đá mới tại các di chỉ như Newgrange và có vết tích qua các đồ tạo tác thời kỳ đồ đồng và các chạm khắc tôn giáo và các thủ bản chiếu sáng thời Trung Cổ. Trong thế kỷ XIX và XX, có một truyền thống mạnh về hội họa xuất hiện, với các nhân vật như John Butler Yeats, William Orpen, Jack Yeats và Louis le Brocquy. Các nghệ sĩ thị giác Ireland đương đại nổi tiếng gồm có Sean Scully, Kevin Abosch, và Alice Maher.
Khoa học
Nhà triết học và thần học người Ireland Johannes Scotus Eriugena được cho là nằm trong số trí thức hàng đầu vào sơ kỳ Trung Cổ. Nhà thám hiểm người Ireland Ernest Henry Shackleton là một trong các nhân vật chính thám hiểm châu Nam Cực. Ông cùng đoàn thám hiểm của mình là những người đầu tiên tiếp cận núi Erebus và khám phá địa điểm gần đúng của Cực Nam từ. Robert Boyle là một trong những người sáng lập hóa học hiện đại và nổi tiếng vì xây dựng định luật Boyle. Nhà vật lý học thế kỷ XIX John Tyndall phát hiện hiệu ứng Tyndall. Nicholas Callan phát minh cuộn cảm, biến áp, và phương thức ban đầu của mạ điện vào thế kỷ XIX.
Nhà vật lý học người Ireland Ernest Walton giành giải Nobel vật lý năm 1951. Ông cùng với John Cockcroft là người đầu tiên phân tách hạt nhân nguyên tử bằng phương pháp nhân tạo và có đóng góp cho phát triển một thuyết mới về phương trình sóng. Nam tước xứ Kelvin là William Thomson là người được lấy danh để đặt cho đơn vị nhiệt độ tuyệt đối Kelvin. Joseph Larmor tạo ra các phát kiến trong hiểu biết về điện học, động lực học, nhiệt động lực học và thuyết điện tử về vật chất. Tác phẩm có ảnh hưởng nhất của ông là Aether and Matter, một cuốn sách về vật lý lý thuyết phát hành vào năm 1900.
George Johnstone Stoney giới thuật thuật ngữ electron vào năm 1891. John Stewart Bell là người tạo ra định lý Bell và một bài viết liên quan đến phát hiện tính dị thường Bell-Jackiw-Adler. Các nhà toán học đáng chú ý gồm có William Rowan Hamilton, nổi tiếng với công trình về cơ học cổ điển và phát minh bộ bốn quaternion. Francis Ysidro Edgeworth có đóng góp trong hộp Edgeworth và nó vẫn duy trì ảnh hưởng trong thuyết kinh tế vi mô tân cổ điển cho đến nay; trong khi Richard Cantillon truyền cảm hứng cho Adam Smith và những người khác. John B. Cosgrave là một chuyên gia trong lý thuyết số và phát hiện một số nguyên tố 2000 số vào năm 1999 và một hợp số Fermat kỷ lục vào năm 2003. John Lighton Synge đóng góp vào phát triển của nhiều lĩnh vực khoa học, bao gồm cơ học và phương pháp hình học trong thuyết tương đối rộng. Kathleen Lonsdale sinh tại Ireland và nổi tiếng vì công trình của bà về tinh thể học.
Thể thao
Trong hầu hết các môn thể thao, có một đội tuyển quốc tế duy nhất đại diện toàn đảo Ireland. Ngoại lệ đáng chú ý là bóng đá, song trước thập niên 1950 thì hai hiệp hội bóng đá vẫn tổ chức các đội tuyển quốc tế với tên gọi "Ireland". Bóng đá Gaelic là môn thể thao phồ biến nhất tại Ireland xét theo số khán giả theo dõi thi đấu và quy mô tham gia của cộng đồng, với khoảng 2.600 câu lạc bộ trên đảo. Năm 2003, bóng đá Gaelic chiếm 34% tổng số khán giả thể thao, tiếp đến là hurling với 23%, bóng đá với 16% và rugby với 8% và chung kết bóng đá Gaelic toàn Ireland là sự kiện được theo dõi nhiều nhất vào mỗi mùa thể thao. Bóng đá là môn thể thao đội tuyển được chơi phổ biến nhất tại Bắc Ireland. Bơi, golf, aerobic, bóng đá, đi xe đạp, bóng đá Gaelic và billiards/snooker là các hoạt động thể thao có mức độ tham gia cao nhất.
Bóng đá Gaelic, hurling và bóng ném Gaelic là các môn thể thao truyền thống Ireland được phổ biến nhất, chúng được gọi chung là thể thao Gaelic. Các môn thể thao Gaelic chủ yếu nằm dưới quyền quản lý của Hiệp hội Thể thao Gaelic (GAA). Trụ sở của hiệp hội (và sân vận động chính trên đảo) là sân Croke Park có sức chứa 82.500 người tại phía bắc Dublin. Mọi vận động viên thuộc hiệp hội đều là nghiệp dư, dù có thi đấu ở cấp cao nhất, họ không nhận lương song được phép nhận một lượng thu nhập hạn chế liên quan đến thể thao đến từ các nhà tài trợ thương mại.
Hiệp hội Bóng đá Ireland (IFA) ban đầu là thể chế quản lý bóng đá trên toàn đảo. Bóng đá được chơi theo cách có tổ chức tại Ireland kể từ thập niên 1870, Cliftonville F.C. tại Belfast là câu lạc bộ bóng đá lâu năm nhất tại Ireland. Bóng đá trở thành môn thể thao phổ biến nhất quanh Belfast và tại Ulster, đặc biệt là trong các thập niên đầu. Năm 1921, các câu lạc bộ có trụ sở tại Dublin tách ra để thành lập Hiệp hội Bóng đá Nhà nước Ireland Tự do. Hiện nay, hiệp hội miền nam đảo mang tên Hiệp hội Bóng đá Ireland (FAI). FAI được FIFA công nhận vào năm 1923, song IFA và FAI tiếp tục tuyển chọn thành viên đội tuyển từ toàn đảo Ireland, một số cầu thủ thi đấu quốc tế cho cả hai đội tuyển. Năm 1950, FIFA chỉ đạo các hiệp hội chỉ tuyển chọn cầu thủ trong lãnh thổ tương ứng của họ, và đến năm 1953 thì chỉ đạo rằng đội tuyển của FAI được gọi là "Cộng hòa Ireland" và đội tuyển của IFA được gọi là "Bắc Ireland". Bắc Ireland giành quyền tham gia vòng chung kết Giải vô địch bóng đá thế giới vào các năm 1958, 1982 và 1986. Cộng hòa Ireland cũng giành quyền tham gia vòng chung kết giải đấu này vào các năm 1990, 1994, 2002. Trên toàn đảo Ireland, có sự quan tâm đáng kể đến giải Ngoại hạng Anh, và trên mức độ thấp hơn là Ngoại hạng Scotland.
Ireland có một đội tuyển quốc gia chung trong môn bóng bầu dục và có hiệp hội chung là Liên đoàn Bóng bầu dục Ireland (IRFU). Đội tuyển bóng bầu dục Ireland thi đấu tại tất cả các mùa giải vô địch thế giới, từng nhiều lần vào đến tứ kết. Ireland từng đăng cai giải vô địch bóng bầu dục thế giới trong các năm 1991 và 1999. Bóng bầu dục Ireland ngày càng tăng tính cạnh tranh ở cả cấp quốc tế và địa phương từ khi môn thể thao này được chuyên nghiệp hoá vào năm 1994. Ngoài ra, Ireland ngày càng thành công tại giải vô địch bóng bầu dục sáu quốc gia châu Âu.
Ẩm thực
Ẩm thực Ireland chịu ảnh hưởng từ cây trồng và vật nuôi trong khí hậu ôn hoà trên đảo, và từ hoàn cảnh xã hội-chính trị trong lịch sử. Chẳng hạn, từ thời kỳ Trung Cổ cho đến khi du nhập khoai tây vào thế kỷ XVI thì đặc điểm chi phối của kinh tế Ireland là chăn nuôi gia súc, số lượng gia súc mà một người sở hữu tương đương với địa vị xã hội của họ. Do đó, những người chăn nuôi tránh giết bò sữa. Vì thế, thịt lợn và thịt trắng phổ biến hơn thịt bò, và thịt muối cùng bơ muối là trung tâm trong bữa ăn tại Ireland kể từ thời Trung Cổ. Kể từ khi khoai tây được đưa đến vào nửa cuối thế kỷ XVI, nó có ảnh hưởng lớn đến ẩm thực trên đảo. Bần cùng khiến người dân sử dụng khoai tây và đến giữa thế kỷ XIX đại đa số cư dân có bữa ăn là khoai tây và sữa. Một gia đình điển hình gồm vợ chồng và bốn con ăn hết khoai tây mỗi tuần. Do đó, các món ăn được cho là món ăn dân tộc có cách thức nấu không tinh tế, như món hầm Ireland, thịt muối và cải bắp, bánh kếp khoai tây boxty, món colcannon gồm khoai tây nghiền cùng với cải xoăn hoặc cải bắp.
Kể từ một phần tư cuối của thế kỷ XX, khi Ireland trở nên thịnh vượng, văn hóa ẩm thực Ireland mới dựa trên các nguyên liệu truyền thống kết hợp các ảnh hưởng quốc tế đã xuất hiện. Nền ẩm thực này dựa trên rau cá tươi (đặc biệt là cá hồi, cá hồi chấm, hàu, trai), cũng như các loại bánh mì soda truyền thống và các loại pho mát thủ công đa dạng được sản xuất khắp nơi. Một ví dụ về nền ẩm thực mới này là "Dublin Lawyer": tôm hùm nấu trong whiskey và kem. Tuy nhiên, khoai tây vẫn là một đặc điểm cơ bản trong nền ẩm thực này và Ireland vẫn là nơi tiêu thụ khoai tây bình quân cao nhất tại châu Âu.
Ireland từng chi phối thị trường whiskey thế giới khi sản xuất 90% lượng whiskey vào lúc đầu thế kỷ XX. Tuy nhiên, do hậu quả từ hành vi bán rượu lậu khi Hoa Kỳ cấm rượu (họ bán whiskey chất lượng kém với nhãn hiệu giống như của Ireland khiến dân chúng mất đi niềm tin vào nhãn hiệu Ireland) và thuế quan đối với whiskey của Ireland trên khắp Đế quốc Anh trong Chiến tranh Mậu dịch Anh-Ireland thập niên 1930, thị phần của whiskey Ireland trên thế giới giảm chỉ còn 2% vào giữa thế kỷ XX.
Bia nâu nặng, đặc biệt là Guinness, có liên kết tiêu biểu với Ireland, dù về lịch sử nó có liên hệ mật thiết hơn với Luân Đôn. Bia nâu nặng vẫn rất phổ biến, song từ giữa thế kỷ XX nó để mất thị phần về tay bia nhẹ kiểu Đức. Rượu táo cũng là một loại đồ uống phổ biến. Nước chanh đỏ là một loại nước ngọt, được tiêu thụ bằng cách uống trực tiếp, hoặc pha với đồ uống khác như whiskey.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Government of Ireland
Northern Ireland Executive
Quần đảo Anh
Vùng phân chia
Quốc gia Celt
Đảo quốc tế
|
23336
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%E1%BB%87t%20Nam%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20%C4%90%C3%B4ng%20Nam%20%C3%81%201989
|
Việt Nam tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 1989
|
Việt Nam đánh dấu sự trở lại đấu trường thể thao trong khu vực vào năm 1989 khi tham dự Đại hội Thể thao Đông Nam Á thứ 15 được tổ chức tại Kuala Lumpur, Malaysia. Đoàn gồm với 43 vận động viên, dưới sự dẫn dắt của hai trưởng đoàn là ông Trịnh Ngọc Chữ và ông Hoàng Vĩnh Giang tranh tài ở 8 môn thi đấu, đã giành được vị trí thứ 7 toàn đoàn trong tổng số 9 đoàn tham dự.
Bảng huy chương
Dưới đây là bảng tổng sắp huy chương của đoàn Việt Nam tại SEA Games 15:
Vàng
Bắn súng
Đồng đội nam súng ngắn bắn nhanh (Nguyễn Quốc Cường, Lê Tuấn Đồng, Nguyễn Đức Uýnh) – 1702 điểm
Súng trường tiêu chuẩn nữ: Ngô Ngân Hà - 583 điểm
Đồng đội nữ súng trường tiêu chuẩn (Ngô Ngân Hà, Đặng Thị Đông, Nguyễn Bùi Thiết) – 1736 điểm
Bạc
Bắn súng
Súng ngắn bắn chậm: Lê Quốc Đống – 540 điểm
Súng ngắn bắn nhanh: Nguyễn Quốc Cường – 580 điểm
Súng trường nằm bắn: Nguyễn Tiến Trung – 585 điểm
Súng trường tiêu chuẩn ba tư thế: Đặng Thị Đông - 557 điểm
Đồng đội nữ - Súng trường tiêu chuẩn ba tư thế (Đặng Thị Đông, Ngô Ngân Hà, Nguyễn Bùi Thiết) – 1634 điểm
Đồng đội nam – Súng ngắn tiêu chuẩn – 1670 điểm
Đồng đội nam – Súng ngắn bắn chậm 60 viên – 1579 điểm
Đồng đội nam – Súng trường nằm bắn – 1748 điểm
Bóng bàn
Đồng đội nam (Trần Tuấn Anh, Lê Xuân Phong, Nguyễn Minh Hiền, Nguyễn Đức Long)
Đồng đội nữ (Nguyễn Thị Tuyết, Nhan Vị Quân, Vũ Thị Noen)
Đôi nam nữ phối hợp (Trần Tuấn Anh – Nhan Vị Quân)
Đồng
Bắn súng
Đồng đội nam súng trường ba tư thế - 3388 điểm
Súng trường tự chọn 3 tư thế: Nguyễn Tấn Nam - 1115 điểm
Súng ngắn tiêu chuẩn: Nguyễn Quốc Cường – 560 điểm
Quyền Anh
48 kg nam: Đặng Hiếu Hiền
54 kg nam: Tạ Quang
Tham khảo
Liên kết ngoài
Thể thao Việt Nam: 20 năm ra biển lớn.... Thể thao VietNamNet, ngày 27 tháng 3 năm 2008
1989
Đại hội Thể thao Đông Nam Á 1989
Thể thao Việt Nam năm 1989
|
23393
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%8Bch%20Gregorius%20%C4%91%C3%B3n%20tr%C6%B0%E1%BB%9Bc
|
Lịch Gregorius đón trước
|
Lịch Gregorius đón trước được tạo ra bằng cách mở rộng lịch Gregorius tới những ngày trước khi có sự sử dụng chính thức của lịch này vào năm 1582.
Bede và các nhà lịch sử sau này không sử dụng cách viết số 0 trong tiếng Latinh, nulla, như là năm, vì thế năm trước năm 1 là năm 1 TCN. Trong hệ thống này năm 1 TCN là năm nhuận (tương tự như trong lịch Julius đón trước).
Về mặt tiếng Việt, nó là thuận tiện hơn để chuyển sang năm 0 và thể hiện các năm sớm hơn như là các năm âm. Sự chuyển đổi này được sử dụng trong hệ thống đánh số năm thiên văn và trong tiêu chuẩn quốc tế ISO 8601 về hệ thống ngày tháng năm. Trong các hệ thống này, năm 0 là năm nhuận.
Cũng lưu ý rằng lịch Julius thực sự trên thực tế chỉ được sử dụng từ năm 4, cho đến năm 1582 hoặc muộn hơn (xem thêm Từ Julius sang Gregorius trong bài về Lịch Julius), vì thế các nhà sử học và thiên văn học thích sử dụng lịch Julius thực sự trong giai đoạn đó. Tương tự, lịch Julius đón trước được sử dụng cho những ngày cụ thể trước năm 4, là năm nhuận cứ bốn năm một lần đầu tiên của lịch này (các năm nhuận giữa năm 45 TCN và năm 4 là không theo quy luật, xem thêm Sai số năm nhuận trong lịch Julius). Nhưng khi các ngày theo mùa là quan trọng thì lịch Gregorius đón trước đôi khi cũng được sử dụng, đặc biệt khi thảo luận về các nền văn hóa không sử dụng lịch Julius.
Tham khảo
Lịch Gregorius
|
23395
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%8Bch%20Julius%20%C4%91%C3%B3n%20tr%C6%B0%E1%BB%9Bc
|
Lịch Julius đón trước
|
Lịch Julius đón trước được tạo ra bằng cách mở rộng lịch Julius tới những ngày trước khi có sự sử dụng chính thức của lịch này vào năm 45 TCN.
Lịch thu được bằng cách mở rộng sớm hơn về thời gian so với sự phát minh hoặc hoàn thiện bổ sung được gọi là phiên bản "đón trước" của lịch, và vì vậy người ta thu được lịch Julius đón trước. Tương tự, lịch Gregory đón trước thỉnh thoảng cũng được sử dụng để chỉ rõ các ngày trước khi có sự sử dụng chính thức của nó vào năm 1582 (hoặc muộn hơn, tùy theo từng quốc gia và khu vực). Do lịch Julius thực tế đã được sử dụng trước thời gian này, người ta cần thông báo rõ ràng là ngày đã cho nào đó là theo lịch Gregory đón trước khi ngày đó được sử dụng.
Chữ AD hay A.D mà người ta vẫn dùng để chỉ các năm công nguyên là viết tắt của "Anno Domini" hay đầy đủ hơn là " Anno Domini Nostri Iesu Christi" trong tiếng La tinh- tức "Trong năm của Chúa tôi"/"Trong năm của Chúa tôi Đấng Cứu thế Giê-su" còn BC là từ viết tắt của tiếng Anh "Before Christ" tức "trước khi chúa Giê-su ra đời", phiên bản tương đương trong tiếng La tinh là a.C.n (viết tắt của "Ante Christum Natum", tức "trước khi Đấng Cứu thế ra đời").
Các nhà sử học kể từ Bede có truyền thống biểu diễn các năm trước năm AD 1 là "1 BC" (tức năm 1 TCN), "2 BC" (tức năm 2 TCN), v.v. Bede và những người sau này không dùng 0 trong tiếng Latinh nulla, giữa các năm BC (năm trước công nguyên) và AD (năm công nguyên). Trong hệ thống này, năm 1 TCN phải là năm nhuận (mặc dù các năm nhuận thực tế trong khoảng từ năm 46 TCN và năm 4 là thất thường: xem bài lịch Julius để có thêm chi tiết). Để xác định khoảng cách về thời gian giữa các năm dọc theo ranh giới BC/AD, thuận tiện hơn là thêm khái niệm năm 0 và biểu diễn các năm sớm hơn như là các năm âm. Sự chuyển đổi này được sử dụng trong hệ thống "lịch Julius thiên văn". Trong hệ thống này, năm 0 là tương đương với năm 1 TCN và nó là năm nhuận.
Chú thích
Tham khảo
Trích dẫn từ: Các lịch Julius và Gregory được Hermetic Systems cung cấp
Xem thêm
Ngày Julius
Lịch Julius
|
23418
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Eratosthenes
|
Eratosthenes
|
Eratosthenes (tiếng Hy Lạp: Ερατοσθένης và phiên âm tiếng Việt: Ơ-ra-tô-xten; 276 TCN – 194 TCN) là một nhà toán học, địa lý và thiên văn người Hy Lạp. Những người đương thời gọi ông là "Beta" do ông là người nổi tiếng thứ hai trên thế giới vào thời đó trong nhiều lĩnh vực, sau người đồng nghiệp và bạn thân Archimedes.
Cuộc đời
Ông sinh ra tại Cyrene (ngày nay thuộc Libya), nhưng dành hầu hết cuộc đời và sự nghiệp tại Alexandria (Ai Cập) thời kỳ Ptolemaios. Ông được nhắc tới vì đã phát kiến ra hệ thống kinh độ và vĩ độ cũng như tính toán gần chính xác kích thước của Trái Đất.
Eratosthenes nghiên cứu tại Alexandria và một số năm tại Athena (Hy Lạp). Năm 236 TCN, ông được vua Ptolemaios III Euergetes bổ nhiệm làm thủ thư tại Thư viện Alexandria. Ông đã có một số cống hiến cho toán học và khoa học và là một người bạn thân của nhà bác học lừng danh người Syracuse là Archimedes. Khoảng năm 255 TCN, ông đã phát minh ra hỗn thiên nghi, là thiết bị được sử dụng rộng rãi trong gần 2.000 năm sau đó, khi phát minh mô hình vũ trụ ra đời vào thế kỷ 18.
Trong tác phẩm Trong các chuyển động tròn của các thiên thể, Cleomedes cho rằng ông đã tính toán chính xác chu vi Trái Đất vào khoảng năm 240 TCN, bằng sử dụng các phương pháp lượng giác và kiến thức về góc lên của Mặt Trời vào giữa trưa tại Alexandria và Syene (ngày nay là Aswan, Ai Cập).
Đo đạc Trái Đất
Eratosthenes đã biết rằng tại thời điểm hạ chí vào giữa trưa tại khu vực ở trên đường bắc chí tuyến thì Mặt Trời phải xuất hiện ở thiên đỉnh, ngay phía trên đầu người quan sát — mặc dù trên thực tế, Syene nằm ở phía bắc và rất sát với đường chí tuyến này.
Từ các kết quả đo đạc, ông cũng biết rằng tại thành phố Alexandria thì góc lên của Mặt Trời là khoảng 7° về phía nam của thiên đỉnh vào cùng một thời điểm. Eratosthenes đặt giả thiết rằng Alexandria nằm ở phía bắc của Syene, mặc dù Alexandria trên thực tế nằm nghiêng nhiều hơn về phía tây, từ đó ông đã kết luận rằng khoảng cách từ Alexandria tới Syene khoảng 7/360 của chu vi Trái Đất.
Khoảng cách giữa hai thành phố đã được biết từ các chuyến đi của các đoàn lữ hành là khoảng 5.000 stadion.
Thực tế vẫn có một ít sai số trong tính toán này, bởi vì Syene không nằm chính xác trên bắc chí tuyến và cũng không thẳng về phía nam của Alexandria; đồng thời Mặt Trời không cách xa Trái Đất vô cùng lớn. (Eratosthenes đã biết điều này, nhưng chúng ta không biết rõ ông ấy đã điều chỉnh hay chưa). Nghiêm túc hơn nữa thì các góc trong thời cổ đại chỉ có thể đo chính xác đến mức của độ hoặc 1/4 độ và việc đo đạc khoảng cách trên mặt đất thì còn kém hơn nữa. Ông đã xác định giá trị cuối cùng là 700 stadion trên một độ, điều này hàm ý chu vi Trái Đất là khoảng 252.000 stadion. Độ lớn chính xác của stadion mà ông đã sử dụng thì ngày nay người ta không biết chính xác (stadion phổ biến của người Attike là khoảng 185 m), nhưng nói chung người ta tin rằng giá trị mà Eratosthenes đưa ra tương ứng với khoảng 39.690 km- 46.620 km. Chu vi của Trái Đất dọc theo các cực ngày nay đo được là khoảng 40.008 km. 150 năm sau đó, phương pháp của Eratosthenes đã được Posidonius sử dụng.
Khoảng năm 200 TCN, Eratosthenes cũng được coi là người đã nghĩ ra/chấp nhận sử dụng từ γηγραφειν hay γειαγραφειν tức địa lý, là khoa học mô tả Trái Đất.
Các cống hiến khác của Eratosthenes còn có:
Sàng Eratosthenes là cách thức tìm các số nguyên tố.
Đo đạc khoảng cách Mặt Trời-Trái Đất, ngày nay gọi là đơn vị thiên văn (1 AU≈804.000.000 stadion).
Đo đạc khoảng cách tới Mặt Trăng (780.000 stadion).
Đo đạc độ nghiêng của mặt phẳng hoàng đạo với sai số góc 7'.
Biên soạn một danh mục sao chứa 675 ngôi sao, danh mục này nay không còn.
Bản đồ đường chảy của sông Nil xa đến tận Khartoum.
Bản đồ về toàn bộ phần đã biết của thế giới vào thời đó, từ quần đảo Anh tới Ceylon và từ biển Caspi tới Ethiopia. Chỉ có Hipparchus, Strabo và Ptolemy là có khả năng tạo ra các bản đồ chính xác hơn trong thế giới cổ điển và hậu cổ điển.
Eratosthenes còn được biết đến với tên gọi ''Beta'' (β), vì ông tự nhận bản thân là thứ hai trên thế giới trong nhiều lĩnh vực. Ông cũng được biết đến vì tính kiêu căng. Năm 195 TCN, Erastosthenes bị mù, dẫn đến mất khả năng đọc và quan sát tự nhiên. Có lẽ vì quá tuyệt vọng nên ông bắt đầu tuyệt thực, và qua đời một năm sau đó, hưởng thọ 82 tuổi.
Tập hợp chắp vá các huyền thoại về bầu trời của người Hellen được gọi là Catasterismi (Katasterismoi) đã được coi là của Eratosthenes, tên của một người đáng nể, để tăng thêm sự tin tưởng vào nó.
Các tên gọi theo Eratosthenes
Sàng Eratosthenes để tìm các số nguyên tố.
Miệng núi lửa Eratosthenes trên Mặt Trăng.
Kỷ Eratosthenes trong niên đại địa chất của Mặt Trăng.
Núi ngầm Eratosthenes ở phía đông Địa Trung Hải
Tham khảo
Liên kết ngoài
Tiểu sử tại lưu trữ của MacTutor
Đo đạc Trái Đất
Nhà thiên văn Hy Lạp
Nhà thiên văn La Mã
Nhà toán học Hy Lạp cổ đại
Nhà lý thuyết số
Nhà địa lý
Nhà thơ Hy Lạp cổ
Sinh năm 276 TCN
Tọa độ không có sẵn trên Wikidata
Mất thập niên 190 TCN
Năm 194 TCN
Năm 276 TCN
Nhà thiên văn học Hy Lạp cổ đại
Chết vì đói khát
|
23426
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%B9a%20Tr%C4%83m%20Gian%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
Chùa Trăm Gian (định hướng)
|
Chùa Trăm Gian là cách gọi dân dã của một số ngôi chùa ở miền bắc Việt Nam. Nó có thể là:
Tên gọi khác của Chùa Cảm Ứng ở tỉnh Bắc Ninh.
Tên gọi khác của Chùa Quảng Nghiêm ở huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội.
Tên gọi khác của Chùa Láng ở làng Láng, quận Đống Đa, Hà Nội.
Tên gọi khác của Chùa An Ninh ở huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương
và có thể còn ở các địa phương khác nữa.
Trang định hướng
|
23432
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C6%B0%E1%BB%9Dng%20k%C3%ADnh
|
Đường kính
|
Trong hình học phẳng, đường kính của một đường tròn là khoảng cách lớn nhất giữa hai điểm bất kỳ trên đường tròn đó. Đường kính là trường hợp đặc biệt của dây cung đi qua tâm đường tròn.Đường kính luôn đi qua tâm của hình tròn. Đường kính là dây cung lớn nhất.Đường kính của một hình cầu là đường kính của vòng tròn lớn của hình cầu đó.
Độ dài của đường kính của một đường tròn bằng 2 lần bán kính của đường tròn đó.
Tổng quát
Trong không gian mêtric, đường kính của một tập là cận trên đúng của tất cả các khoảng cách giữa hai điểm bất kỳ thuộc tập hợp đó.
Ví dụ:
Đường chéo trong hình chữ nhật
Đường chéo nối hai đỉnh đối diện xa nhất trong một hình bình hành
Cạnh lớn nhất của một tam giác
Đường chéo nối hai đỉnh trong khối lập phương
Tham khảo
Liên kết ngoài
Mặt cắt hình nón
Hình học mêtric
Hình học sơ cấp
Đường tròn
|
23444
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%8Bnh%20l%C3%BD%20Gelfond%E2%80%93Schneider
|
Định lý Gelfond–Schneider
|
Định lý Gelfond-Schneider mang tên của nhà toán học người Nga Alexander Osipovich Gelfond (1906-1968) và của nhà toán học Theodor Schneider (1911-1988), hai người cùng độc lập chứng minh trong lý thuyết số định lý này trong năm 1934.
Phát biểu
Cho một số đại số a khác 1 và khác 0, và một số vô tỉ đại số b, thì số ab là số siêu việt.
Ví dụ
Các số sau đây là siêu việt:
Nếu không có điều kiện a và b là các số đại số, định lý nói chung không đúng. Ví dụ,
ở đây, a là , là một số siêu việt. Tương tự, nếu và là một số siêu việt, thì là một số đại số.
Phân tích
Định lý này được tổng quát hóa thành định lý Baker, bởi nhà toán học người Anh Alan Baker (1939- ) chứng minh năm 1966, như sau:
Nếu a1,a2,..., an là các số khác không sao cho log a1, log a2,..., log an là độc lập tuyến tính trên trường số hữu tỉ, thì 1, log a1, log a2,..., log an cũng độc lập tuyến tính trên mọi trường số đại số.
Định lý này cũng cung cấp một lời giải cho vấn đề thứ 7 của Các bài toán Hilbert.
Lưu ý
Quy ước log lấy trên cơ số tự nhiên e (đôi khi còn được viết là ln).
Tham khảo
Thư mục
Sách
Báo
Aleksandr Gelfond (1934). "Sur le septième Problème de Hilbert". Bulletin de l'Académie des Sciences de l'URSS. Classe des sciences mathématiques et na. VII (4): 623–634.
Liên kết ngoài
Lý thuyết số
Gelfond-Schneider
Gelfond-Schneider, Định lý
Số siêu việt
|
23445
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%8Bnh%20l%C3%BD%20Banach-Steinhause
|
Định lý Banach-Steinhause
|
Định lý Banach-Steinhause mang tên hai nhà toán học Ba Lan Stefan Banach (1892-1945) và Hugo Steinhause (1887-1972). Định lý này được tìm ra năm 1927. Nó còn được gọi là Nguyên lý cơ bản của tính bị chặn đều dùng trong giải tích hàm.
Phát biểu
''Một họ bị chặn từng điểm của các phép toán liên tục tuyến tính từ một không gian Banach đến một không gian tuyến tính chuẩn thì bị chặn đều.
Tham khảo
Banach-Steinhause
Giải tích hàm
Banach-Steinhause
|
23446
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ngh%E1%BB%8Bch%20l%C3%BD%20Banach%E2%80%93Tarski
|
Nghịch lý Banach–Tarski
|
Nghịch lý Banach-Tarski nổi tiếng về kết quả "phi trực giác" của nó và thường được dùng để nhấn mạnh về sự bẻ gãy các ý kiến của con người trên một thể tích. Nghịch lý này được phát biểu bởi hai nhà toán học người Ba Lan Stefan Banach (1892-1945) và Alfred Tarski (1901-1983) vào năm 1924.
Trong trương hợp đặc biệt, nó chỉ ra rằng:
Một hình cầu đặc trong không gian Euclide 3 chiều có thể bị chia nhỏ ra làm một số hữu hạn các phần nhỏ mà sau đó lại được chuyển dịch để cấu trúc thành hai hình cầu có cùng một kích thước với hình cầu nguyên thủy.
Tham khảo
Banach-Tarski
Hình học
Banach-Tarski
Các nghịch lý toán học
Lý thuyết nhóm
Lý thuyết độ đo
|
23447
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%8Bnh%20l%C3%BD%20c%C6%A1%20s%E1%BB%9F%20%28%C4%91%E1%BA%A1i%20s%E1%BB%91%20tuy%E1%BA%BFn%20t%C3%ADnh%29
|
Định lý cơ sở (đại số tuyến tính)
|
Phát biểu
Mọi không gian vector đều có một cơ sở. Nghĩa là, tồn tại một tập hợp các vector độc lập tuyến tính sao cho mọi vector trong không gian này đều có thể được biểu thị như là một tổ hợp tuyến tính của các vector trong tập họp này
Phân tích
Một cơ sở có thể hiểu như là một bộ các "nguyên tử" mà từ đó người ta có thể dụng lên thành không gian.
Một không gian (vector) có thể có nhiều cơ sở nhưng lực lượng của các cơ sở này là bằng nhau.
Xem thêm
Bổ đề Zorn
Định lý Hilbert
Tham khảo
Đại số tuyến tính
Cơ sở
|
23448
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%8Bnh%20%C4%91%E1%BB%81%20Bertrand
|
Định đề Bertrand
|
Định đề Bertrand là một định lý phát biểu rằng với bất kỳ số nguyên , luôn tồn tại ít nhất một số nguyên tố sao cho
Một công thức khác đẹp hơn tuy không chặt bằng: với mỗi số tự nhiên luôn tồn tại ít nhất một số nguyên tố sao cho
Một công thức khác, với là số nguyên tố thứ n, thì với
Joseph Bertrand (1822–1900) lần đầu đưa ra phỏng đoán trên năm 1845. Chính ông đã xác nhận phát biểu này đúng cho tất cả các số nằm trong khoảng
Giả thuyết của ông được chứng minh bởi Chebyshev (1821–1894) năm 1852 vậy nên định đề này đôi khi được gọi là định lý Bertrand–Chebyshev hay định lý Chebyshev. Định lý Chebyshev cũng có thể phát biểu sử dụng , với là hàm đếm số nguyên tố (số các số nguyên tố không vượt quá ):
với mọi
Định lý số nguyên tố
Định lý số nguyên tố chỉ ra rằng số các số nguyên tố không vượt quá x xấp xỉ bằng x/ln(x), do đó khi thay x bằng 2x thì số các số nguyên tố không vượt quá 2x tiệm cận gấp đôi số các số nguyên tố không quá x (hạng tử ln(2x) và ln(x) tiệm cận bằng nhau). Do đó số các số nguyên tố giữa n và 2n xấp xỉ bằng n/ln(n) khi n lớn, vì thế thực sự có nhiều số nguyên tố trong khoảng này hơn kết quả định đề Bertrand. Vậy nên định đề Bertrand yếu hơn nhiều so với định lý số nguyên tố. Tuy nhiên định lý số nguyên tố là một định lý chuyên sâu, trong khi định đề Bertrand có thể được phát biểu một cách dễ nhớ và chứng minh đơn giản hơn, đồng thời vẫn đúng với những giá trị nhỏ của n. (Thêm vào đó, định lý Chebyshev được chứng minh trước định lý số nguyên tố nên nhận được nhiều sự chú ý.)
Một vấn đề liên quan, giả thuyết Legendre hỏi rằng với mỗi n > 1, liệu có số nguyên tố p sao cho n2 < p < (n + 1)2 hay không. Lần này ta phỏng đoán sẽ có nhiều số nguyên tố nằm giữa n2 và (n + 1)2, nhưng trong trường hợp này định lý số nguyên tố không có tác dụng: số các số nguyên tố không quá x2 tiệm cận x2/ln(x2) còn số các số nguyên tố không quá (x + 1)2 tiệm cận (x + 1)2/ln((x + 1)2), tức lại tiệm cận x2/ln(x2). Vậy nên khác với trường hợp x và 2x ta không chứng minh được giả thuyết Legendre thậm chí với n lớn. Xấp xỉ sai số trên định lý số nguyên tố không đủ để chứng minh có ít nhất một số nguyên tố trong khoảng này.
Tổng quát
Năm 1919, Ramanujan (1887–1920) sử dụng tính chất của hàm gamma đưa ra chứng minh đơn giản hơn. Bài báo gồm một tổng quát của định đề mà từ đó làm nền tảng cho khái niệm số nguyên tố Ramanujan. Tổng quát khác của số nguyên tố Ramanujan cũng xuất hiện, ví dụ như một chứng minh rằng
trong đó pk là số nguyên tố thứ k và Rn là số nguyên tố Ramanujan thứ n.
Những mở rộng khác của định đề Bertrand cũng xuất hiện sử dụng những phương pháp cơ bản. (Từ đây về sau, n là một số nguyên dương.) Năm 2006, Mohamed El Bachraoui chứng minh rằng 2n và 3n. Năm 2011, Andy Loo chứng minh rằng tồn tại một số nguyên tố giữa 3n và 4n. Hơn thế nữa, ông chứng minh rằng khi n tiến tới vô hạn, số các số nguyên tố giữa 3n và 4n cũng tiến tới vô hạn, từ đó tổng quát những kết quả của Erdős và Ramanujan (xem định lý Erdős ở dưới). Kết quả đầu tiên sử dụng những phương pháp cơ bản. Kết quả thứ hai dựa trên giới hạn giải tích của hàm giai thừa.
Định lý Sylvester
Định đề Bertrand được cho là có thể áp dụng vào các nhóm hoán vị. Sylvester (1814–1897) tổng quát phát biểu yếu hơn như sau: tích của k số tự nhiên liên tiếp lớn hơn k chia hết cho một số nguyên tố lớn hơn k. Định đề Bertrand (yếu) có thể suy ra từ phát biểu trên với k = n và xét k số n + 1, n + 2, lên đến n + k = 2n với n > 1. Theo tổng quát của Sylvester, một trong những số này có một ước nguyên tố lớn hơn k. Do tất cả các số này đều nhỏ hơn 2(k + 1), số mà chứa ước nguyên tố lớn hơn k chỉ có một ước nguyên tố, tức nó là một số nguyên tố. Chú ý rằng 2n không phải số nguyên tố, do đó tồn tại một số nguyên tố p với n < p < 2n.
Định lý Erdős
Năm 1932, Erdős (1913–1996) xuất bản một chứng minh đơn giản hơn sử dụng hệ số nhị thức và hàm Chebyshev ϑ, được định nghĩa như sau:
với p ≤ x chạy trên tập các số nguyên tố. Xem chứng minh của định đề Bertrand để thêm chi tiết.
Năm 1934, Erdős chứng minh rằng với bất kỳ số nguyên dương k, tồn tại một số tự nhiên N sao cho với mợi n > N, có ít nhất k số nguyên tố nằm giữa n và 2n. Một phát biểu tương đương đã được chứng minh năm 1919 bởi Ramanujan (xem Số nguyên tố Ramanujan).
Kết quả chặt chẽ hơn
Từ định lý số nguyên tố suy ra rằng với bất kỳ số thực có một số sao cho với mọi có một số nguyên tố thỏa mãn . Ví dụ như:
đồng nghĩa với tiến tới vô hạn (và lớn hơn 1 với giá trị đủ lớn của ).
Giới hạn không tiệm cận cũng đã được chứng minh. Năm 1952, Jitsuro Nagura chứng minh rằng với n ≥ 25, luôn có một số nguyên tố giữa n và .
Năm 1976, Lowell Schoenfeld chỉ ra rằng với n ≥ 2010760, luôn có một số nguyên tố giữa n và .
Năm 1998, Pierre Dusart cải thiện kết quả trên trong luận án tiến sĩ rằng với k ≥ 463, , và với x ≥ 3275, tồn tại một số nguyên tố giữa x và .
Năm 2010 Pierre Dusart chứng minh rằng với x ≥ 396738 có ít nhất một số nguyên tố giữa x và .
Năm 2016 Pierre Dusart cải thiện kết quả năm 2010 của mình, chỉ ra rằng với x ≥ 468991632 có ít nhất một số nguyên tố giữa x và .
Baker, Harman và Pintz chứng minh rằng có một số nguyên tố trong khoảng với giá trị lớn của .
Hệ quả
Dãy các số nguyên tố, cùng với 1 là một dãy số hoàn chỉnh; bất kỳ một số tự nhiên nào cũng viết được dưới dạng tổng của các số nguyên tố (và 1) sử dụng mỗi hạng tử nhiều nhất 1 lần.
1 là số điều hòa nguyên duy nhất.
Xem thêm
Giả thuyết Oppermann
Chú thích
Tham khảo
Bertrand
Lý thuyết số
|
23454
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%8Bnh%20l%C3%BD%20Bolzano
|
Định lý Bolzano
|
Định lý giá trị trung gian, còn có tên là định lý Bolzano (đặt theo tên nhà toán học Tiệp Khắc Bernhard Bolzano (1781-1848)). là định lý cơ bản trong giải tích, liên quan đến các hàm số liên tục trên một khoảng. Định lí phát biểu rằng:
"Nếu hàm số liên tục trên đoạn và thì với mọi giá trị nằm giữa và , tồn tại ít nhất một giá trị sao cho ."
Người ta áp dụng định lý này để chỉ ra sự tồn tại của nghiệm phương trình và tìm nghiệm một cách gần đúng.
Phát biểu
Cho hàm số thực xác định và liên tục trên một khoảng , thì cũng là một khoảng Phát biểu tương đương
Với mọi hàm số f xác định và liên tục trên [a, b] → ℝ, và với mọi u nằm giữa f(a) và f(b),
luôn tồn tại ít nhất một giá trị c nằm trong khoảng [a,b] sao cho f(c)=u
Trường hợp đặc biệt
Nếu f(a) và f(b) không cùng dấu, thì luôn tồn tại ít nhất một giá trị c nằm giữa a và b sao cho f(c) = 0
Tham khảo
Bolzano
Giải tích toán học
Định lý trong tính toán
Định lý trong giải tích thực
|
23459
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%E1%BB%A6y%20ban%20Ch%E1%BB%AF%20th%E1%BA%ADp%20%C4%91%E1%BB%8F%20qu%E1%BB%91c%20t%E1%BA%BF
|
Ủy ban Chữ thập đỏ quốc tế
|
(viết tắt là ICRC theo tiếng Anh Internationally Committee of the Red Cross hoặc CICR theo tiếng Pháp Comité international de la Croix-Rouge) là một phần của Phong trào Chữ thập đỏ – Trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế với tổng hành dinh ở Genève.
Được thành lập năm 1863, tổ chức hoạt động trên toàn thế giới để cung cấp trợ giúp nhân đạo cho những người bị ảnh hưởng bởi xung đột và bạo lực vũ trang và thúc đẩy pháp luật bảo vệ nạn nhân của chiến tranh. Một tổ chức độc lập và trung lập, nhiệm vụ của họ bắt nguồn chủ yếu từ các Công ước Geneva năm 1949.Có trụ sở tại Geneva, Thụy Sĩ, có khoảng 12.000 thành viên tại 80 quốc gia, chủ yếu được tài trợ bởi sự đóng góp tự nguyện từ các chính phủ và từ các quốc gia hội Chữ thập đỏ và Trăng lưỡi liềm đỏ. Mục đích duy nhất của họ là nhân đạo, dựa trên các nguyên tắc căn bản vô tư. Kể từ khi thành lập vào năm 1863,
mục tiêu duy nhất của ICRC là đảm bảo, bảo vệ và hỗ trợ cho các nạn nhân của các cuộc xung đột vũ trang. Thông qua hành động trực tiếp của nó trên toàn thế giới, cũng như bằng cách khuyến khích sự phát triển của luật nhân đạo quốc tế) và thúc đẩy sự tôn trọng cho các chính phủ và tất cả các người mang vũ khí.
Là tổ chức nhân đạo chủ nghĩa lớn nhất trên thế giới hoạt động với mục đích bảo vệ sự sống và sức khỏe con người, giúp đỡ những người bị thương trong các cuộc xung đột vũ trang, không phân biệt quốc tịch,dân tộc, tôn giáo tín ngưỡng, giai cấp hay quan điểm chính trị
Lịch sử
Solferino, Henry Dunant and sự ra đời của ICRC
Cho đến giữa thế kỷ thứ 19, không có hệ thống điều dưỡng quân đội có tổ chức và được thiết lập tốt cho thương vong cũng như không có các cơ sở an toàn và được bảo vệ để tiếp nhận và điều trị những người bị thương trên chiến trường. Vào tháng 6 năm 1859, doanh nhân Thụy Sĩ Henry Dunant đến Ý để gặp hoàng đế Pháp Napoléon III với ý định thảo luận về những khó khăn trong việc tiến hành kinh doanh ở Algeria, lúc đó đang bị Pháp chiếm đóng. Khi đến thị trấn Solferino nhỏ của Ý vào tối ngày 24 tháng 6, anh đã chứng kiến hậu quả của Trận Solferino, một cuộc giao tranh trong Chiến tranh giành độc lập của Ý lần thứ hai. Chỉ trong một ngày, khoảng 40.000 binh sĩ của cả hai bên đã chết hoặc bị thương trên chiến trường. Henry Dunant đã bị sốc bởi hậu quả khủng khiếp của trận chiến, sự đau khổ của những người lính bị thương, và gần như hoàn toàn không có sự tham gia y tế và chăm sóc cơ bản. Anh ấy hoàn toàn từ bỏ ý định ban đầu của chuyến đi và trong nhiều ngày, anh ấy đã dành hết sức mình để giúp chữa trị và chăm sóc những người bị thương. Ông đã thành công trong việc tổ chức một mức độ hỗ trợ cứu trợ vượt trội bằng cách thúc đẩy người dân địa phương viện trợ mà không phân biệt đối xử. Trở về nhà của mình ở Geneva, ông quyết định viết một cuốn sách mang tên Ký ức về Solferino mà ông đã xuất bản bằng tiền của mình vào năm 1862. Ông đã gửi các bản sao của cuốn sách cho các nhân vật chính trị và quân sự hàng đầu trên khắp châu Âu. Ngoài việc viết một mô tả sống động về những trải nghiệm của mình ở Solferino năm 1859, ông còn chủ trương rõ ràng việc thành lập các tổ chức cứu trợ tình nguyện quốc gia để giúp đỡ các thương binh trong trường hợp chiến tranh. Ngoài ra, ông kêu gọi xây dựng các điều ước quốc tế để đảm bảo tính trung lập và bảo vệ những người bị thương trên chiến trường cũng như các bác sĩ và bệnh viện dã chiến.
Liên kết ngoài
Ủy ban Chữ thập đỏ quốc tế
Phong trào Chữ thập đỏ – Trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế
Chú thích
Chữ thập đỏ
Tổ chức quốc tế
Tổ chức cứu tế
Tổ chức đoạt giải Nobel Hòa bình
Người Thụy Sĩ đoạt giải Nobel
Quan sát viên Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc
Danh sách tổ chức
Hậu chiến tranh
|
23485
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20l%C3%A3nh%20t%E1%BB%A5%20Li%C3%AAn%20X%C3%B4
|
Danh sách lãnh tụ Liên Xô
|
Đây là danh sách lãnh tụ Liên Xô, gồm những người từng nắm quyền lực tối cao ở Liên Xô. Thực tế đó là những người đứng đầu Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô.
Cơ cấu quyền lực ở Liên Xô có ba nhánh chính, dẫn đến 3 vị trí cao nhất.
Đứng đầu nhánh hành pháp (chính phủ) là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (Thủ tướng). Thời Lenin chức vụ này, lúc đó gọi là Chủ tịch Hội đồng Dân uỷ, là vị trí số 1 vì thực chất Lenin (Chủ tịch Hội đồng dân ủy) là lãnh tụ đảng Bolshevik từ khởi thủy.
Chức vụ Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô được lập ra tháng 4 năm 1922 nhưng sau khi Lenin qua đời mới trở thành quan trọng nhất. (Trong khoảng từ 1952 đến tháng 4 năm 1966, chức vụ này được gọi là Bí thư thứ nhất.) Vị trí đó đã tạo điều kiện cho Stalin tiêu diệt "đội cận vệ già", trục xuất Lev Davidovich Trotsky (Лев Давидович Троцкий) và thâu tóm quyền lực vô hạn. Về sau ông được xưng tụng là "lãnh tụ dân tộc" thì thậm chí không dùng danh hiệu Tổng bí thư nữa . Về mặt chính quyền, Stalin giữ chức Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, vì thế khi Stalin chết, Malenkov thay ông ở chức vụ này, lúc đầu được xem là lãnh tụ mới. Malenkov giữ chức này đến tận 1955, nhưng thực tế từ tháng 9 năm 1953 thực quyền về tay Khruschov. Trước đó Lavrenty Pavlovich Beria (Лаврентий Павлович Берия, bộ trưởng nội vụ do Stalin cất nhắc) cố gắng tập trung quyền lực trong đảng, nhưng Khruschov cầm đầu phe chống lại, bắt giữ Beria (tháng 6 năm 1953), và do đó nắm được quyền lãnh đạo tối cao, khẳng định vị trí số 1 của chức vụ Bí thư thứ nhất. Chức vụ Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng không còn là quan trọng nhất nữa, mặc dù từ tháng 3 năm 1958 Khruschev cũng kiêm luôn chức này.
Về mặt pháp lý thì nguyên thủ quốc gia do Chủ tịch Đoàn chủ tịch Xô viết Tối cao Liên Xô đảm nhiệm, sau là Chủ tịch Xô viết Tối cao Liên Xô (phương Tây gọi một cách không chính thức là Chủ tịch Liên Xô). Trên lý thuyết đó là vị trí cao nhất, do lẽ Xô viết Tối cao là quốc hội, tức cơ quan quyền lực cao nhất của nhân dân, theo Hiến pháp Liên Xô. Từ Brezhnev trở đi, các Tổng bí thư kiêm chức vụ này, tức vừa có thực quyền số 1, vừa là nguyên thủ chính thức.
Ngày 14 tháng 3 năm 1990, Đại hội Đại biểu Nhân dân (mới bầu ra năm 1989) bỏ phiếu chấm dứt sự kiểm soát của Đảng Cộng sản trên chính quyền và bầu Gorbachov làm Tổng thống Liên Xô. Chức vụ này trở thành nguyên thủ, từ đó Chủ tịch Xô viết Tối cao chỉ còn là chủ tịch quốc hội, đứng đầu nhánh lập pháp.
Việc lãnh tụ Đảng Cộng sản thường kiêm giữ một vị trí khác khiến phương Tây hay nhầm lẫn về nhân vật số 1 của Liên Xô: Lenin, Stalin, Malenkov và Khrushchov kiêm chức thủ tướng, còn Brezhnev và những người kế nhiệm kiêm chức chủ tịch.
Stalin không dùng danh hiệu Tổng bí thư nữa mà chỉ ký "I. Stalin, bí thư", tỏ ra rằng tên của ông có sức nặng hơn tính từ "tổng".
Trước kia, Xô viết Tối cao Liên Xô họp xuân thu nhị kỳ (gần như Quốc hội Việt Nam bây giờ), Đoàn chủ tịch Xô viết Tối cao họp thường xuyên (như Ủy ban Thường vụ Quốc hội VN). Năm 1989, Liên Xô bầu quốc hội gọi là Đại hội Đại biểu Nhân dân thì Xô viết Tối cao đóng vai trò như Đoàn chủ tịch hồi trước (bỏ Đoàn chủ tịch).
Năm 1922 mới thành lập Liên bang Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết. Từ 1918 đến 1922 tiền thân của nó là Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga (sau năm 1922 CHXHCNXVLB Nga là một trong 15 nước cộng hoà trong Liên bang Xô viết). Từ Cách mạng tháng Hai năm 1917 quốc gia này là nước Cộng hoà Nga, nhưng sau Cách mạng tháng Mười thì thường được gọi là nước Nga Xô viết.
Lãnh tụ các quốc gia hậu-Xô viết
Về lãnh tụ của 15 quốc gia độc lập tách ra từ Liên bang Xô viết, xin xem các mục từ sau:
Armenia - Tổng thống Armenia
Azerbaijan - Tổng thống Azerbaijan
Belarus - Tổng thống Belarus
Estonia - Tổng thống Estonia
Gruzia - Tổng thống Gruzia
Kazakhstan - Tổng thống Kazakhstan
Kyrgyzstan - Tổng thống Kyrgyzstan
Latvia - Tổng thống Latvia
Litva - Tổng thống Litva
Moldova - Tổng thống Moldova
Nga - Tổng thống Nga
Tajikistan - Tổng thống Tajikistan
Turkmenistan - Tổng thống Turkmenistan
Ukraina - Tổng thống Ukraina
Uzbekistan - Tổng thống Uzbekistan
Xem thêm
Danh sách lãnh tụ Nga
Liên Xô
Tham khảo
Liên kết ngoài
Heads of State and Government of the Soviet Union (1922-1991)
Sovetika.ru - site about Soviet era
Lãnh tụ Liên Xô
|
23493
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%B4ng%20%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Gen%C3%A8ve
|
Công ước Genève
|
Các Công ước Genève (Giơ-ne-vơ) gồm có bốn công ước được viết ở Genève (Thụy Sĩ) đặt tiêu chuẩn luật pháp quốc tế về vấn đề nhân đạo. Những hiệp định này do những đóng góp của Henri Dunant, người đã chứng kiến sự khủng khiếp của chiến tranh ở trận Solferino năm 1859.
Theo điều khoản 49, 50, 129, và 146 của Công ước Genève I, II, III, và IV, riêng từng cái một, các quốc gia ký Công ước phải thông qua đủ luật pháp để làm những sự vi phạm Công ước Genève thành tội ác phải được trừng phạt.
Tuy nhiên, "Công ước Genève" thực sự chỉ đến một số văn kiện khác:
Công ước Genève thứ nhất "để cải tiến tình trạng của những người bị thương và những người ốm của quân lực tại chiến trường" (được chấp nhận lần đầu tiên năm 1864; được sửa lại lần cuối năm 1949)
Công ước Genève thứ 2 "để cải tiến tình trạng của những người bị thương, những người ốm, và những người bị đắm tàu của quân lực trên biển" (được chấp nhận lần đầu tiên năm 1949, tiếp theo Đoạn X của Hiệp định La Hay năm 1907)
Công ước Genève thứ 3 "về cách đối xử với tù binh" (được chấp nhận lần đầu tiên năm 1929; được sửa lại lần cuối năm 1949)
Công ước Genève thứ 4 "về sự bảo vệ thường dân vào thời chiến" (được chấp nhận lần đầu tiên năm 1949, dựa trên một số phần trong Đoạn IV của Hiệp định La Hay năm 1907)
Ngoài ra, cũng có ba nghị định phụ vào Công ước Genève:
Nghị định I (1977): "Nghị định phụ vào Công ước Genève ngày 12 tháng 8 năm 1949, và nhằm bảo vệ những nạn nhân của xung đột vũ trang quốc tế"
Nghị định II (1977): "Nghị định phụ vào Công ước Genève ngày 12 tháng 8 năm 1949, và nhằm bảo vệ những nạn nhân của xung đột vũ trang không quốc tế"
Nghị định III (2005): "Nghị định phụ vào Công ước Genève ngày 12 tháng 8 năm 1949, và nhằm chấp nhận biểu trưng đặc biệt phụ vào"
Công ước thứ nhất được chấp nhận sau khi Phong trào Chữ thập đỏ và Trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế được thành lập năm 1863.
Cả bốn công ước được sửa lần cuối và thông qua năm 1949, dựa trên các sửa đổi trước và dựa trên một số Hiệp định La Hay năm 1907; bộ luật tất cả được gọi là Công ước Genève năm 1949. Những hội nghị sau đã cộng vào một số điều khoản cấm sử dụng một số phương pháp chiến tranh và giải quyết vấn đề nội chiến. Gần 200 quốc gia trên thế giới đã ký hiệp định, bởi vì họ đã thông qua các hiệp định rồi.
Xem thêm
Các nghị quyết của Hội nghị Quốc tế Genève
Hiệp định về quyền lãnh thổ trên biển và khu vực đối diện [Genève]
Tham khảo
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.